Thời sinh viên ở Sài Gòn
Trần
Trung Đạo
- Các anh các chị,
có thể không phải là thủ phạm nhưng không thể phủ nhận là những người đã góp
phần gây ra những điêu tàn đổ nát hôm nay. Xin đừng im lặng nữa. Nếu không đủ
sức để hành động, hãy viết, hãy nói, hãy kể lại cho các thế hệ trẻ những bài học
dù thất bại, những ước mơ dù bị phản bội, những kinh nghiệm dù được đổi bằng
xương máu của mình. Là những người có lương tâm, hôm nay, không có tòa án nào
kết án các anh chị nặng bằng tòa án lương tâm của chính các anh chị. Là những
người vốn nặng tình cảm, hôm nay, không có tình cảm nào cấu xé các anh chị bằng
tình cảm các anh chị đã từng dành cho đất nước. Xã hội Việt Nam băng hoại, trụy
lạc, tha hóa ngày nay là chiếc gương, các anh chị hãy soi vào đó để thấy lại
chính mình...
*
Nhân dịp đọc bài viết của
Hoàng Thanh Trúc trên Dân Làm Báo
và qua đó đọc thêm các bài viết khác Không hổ thẹn về một thời trai trẻ của một nhóm tác giả và Cuộc họp mặt “có một không hai”
của Huỳnh Tấn Mẫm trên báo Tuổi Trẻ sau buổi hội thảo “tầm vóc và ý nghĩa của
phong trào đấu tranh của sinh viên – học sinh trí thức, văn nghệ sĩ… tại các đô
thị miền Nam giai đoạn 1954-1975” được tổ chức tại Đại học Duy Tân (Đà Nẵng)
trong hai ngày 19 và 20-5-2012, tôi chợt nhớ lại một bài thơ tôi viết từ lâu lắm
cũng có nhắc đến các anh chị này.
Bài thơ Đêm cuối đi qua trường
Luật viết ra trong những ngày mới đến Mỹ nhưng bắt nguồn từ những ý hiện lên
trong một đêm mưa tháng Sáu 1981 ở Sài Gòn. Tôi không ghi lại ngày tháng viết
bài thơ nhưng có in trong tập thơ đầu tay ở Mỹ năm 1991. Bài thơ khá dài, dưới
đây là một đoạn có liên quan đến bài viết này:
Trời Sài Gòn tháng Sáu mưa
đêm
Như từng nhát dao chém xuống
đời vội vã
Tôi ra đi dặn lòng quên tất
cả
Những hẹn thề toan tính thuở
hoa niên
Bốn phương trời lưu lạc một bầy
chim
Đã lạc lối về sông Dương
Tử
Tổ quốc Việt
Nam
Bốn nghìn năm lịch
sử
Còn lại hôm nay là những tang
thương
Tôi nhìn qua bên góc kia
đường
Tấm bảng Hội Liên Hiệp Sinh
Viên
Vẫn còn đong đưa trên
vách
Chợt nhớ ra tên các chị các
anh
Những Huỳnh Tấn Mẫm, Trịnh Đình
Ban
Những Nguyễn Hoàng Trúc, Võ Như
Lanh
Các anh, các
chị
Giờ nầy chắc vẫn còn đang
thức
Để viết xong bài tự kiểm trước
nhân dân
Nhớ viết thật nhiều về những
chiến công
Đã đốt bao nhiêu xe Mỹ
Ngụy
Đã bán đứng bao nhiêu bè bạn
anh em
Đã cắm được bao nhiêu cờ mặt
trận
Tôi không hề trách các
anh
Vì chẳng bao giờ ai
trách
Những tên cầm cờ, khiêng
kiệu
Hãy cố cong lưng và thu mình
thật nhỏ
Hãy biết dại khờ và biết ngây
ngô
“Độc lập, Hòa Bình, Thống Nhất,
Tự Do”
Phải nhớ luôn luôn là tất
yếu
Kể cả chuyện tình yêu trai
gái
Cũng phải học thuộc
lòng
Định nghĩa mới hôm
nay
Đừng bao giờ nhắc những chuyện
không may
Như những Ủy Ban Đòi Quyền
Sống
Những Phong Trào Dân Chủ Tự
Do
Dân Việt Nam bây
giờ
Không có gì đáng để
lo
Hơn những chuyện cháo rau,
khoai sắn
Và không có một chút
quyền
Dù chỉ là quyền để than thân
trách phận.
Tôi từ Đà Nẵng vào Sài Gòn cuối
tháng Tám 1972. Nơi tôi ghi danh học đầu tiên là trường Luật. Có thể nói tôi là
một trong những tân sinh viên nộp đơn vào năm thứ nhất niên khóa 1972-1973 trễ
nhất. Ghi danh vào trường Luật không cần phải thi, chỉ cần trình bằng tốt nghiệp
Tú Tài phần hai là đủ. Phòng ghi danh là một khu nhà lụp xụp phía sau trường
chung một hàng rào với đại học Kiến Trúc. Tôi được phát một thẻ sinh viên tạm.
Số sinh viên của tôi dài tới năm số. Tôi không nhớ chính xác nhưng hai số thứ tự
đầu đã lên đến trên mười ngàn. Trường Luật, được chính thức thành lập dưới thời
Đệ nhất Cộng Hòa, là một trong những trường già nua về cả hình thức lẫn chiều
dài lịch sử, trong số các trường đại học thuộc Viện Đại Học Sài Gòn. Trường
không có nhiều đất trống ngoại trừ khoảng sân không mấy rộng giữa trường. Cổng
trường còn lại những viên ngói đỏ rêu phong từ khi mới thành lập. Giảng đường
chỉ là những phòng học dài nối nhau. So với các trường trung học như Gia Long,
Petrus Ký, trường đại học Luật Khoa Sài Gòn nhỏ hẹp và chật chội hơn nhiều. Vì
số thẻ sinh viên của tôi cao trên mười ngàn nên có lần tôi viết câu thơ mô tả
trường Luật “mười ngàn sinh viên trong giảng đường vài trăm chỗ / học suốt
năm không thấy mặt thầy”.
Công việc đầu tiên của một tân
sinh viên sau khi ghi danh, nhận lớp, là đi mua “cua” tức sách giáo khoa giảng
dạy của các thầy, từ dân luật, hình luật đến cổ luật. Vì hiếm khi gặp mặt thầy,
không có “cua” là rớt. Sau khi ghi danh ở Luật, tôi sang ghi danh Ban Kinh Tế
khoa Khoa Học Xã Hội ở đại học Vạn Hạnh. Khoa Khoa Học Xã Hội ở Vạn Hạnh phải
thi vào nhưng cũng chỉ thi cho đúng thủ tục vì tôi không nghe ai thi rớt vào
khoa Khoa Học Xã Hội ở đại học Vạn Hạnh bao giờ.
Trường Luật chật hẹp mà sinh viên
lại quá đông, chúng tôi thường la cà trong những quán cốc. Nhiều nhất là chung
quanh công trường Quốc Tế, thường gọi là Hồ Con Rùa, bên ngoài trụ sở “Tổng Hội
Sinh Viên” số 4 Duy Tân hay góc Thư Viện Quốc Gia trên đường Gia Long. Các quán
cà phê thường không có tên. Ngoài quán cà phê Bà Vú bên ngoài đại học Vạn Hạnh,
phần lớn các quán chung quanh trường Luật do sinh viên tự đặt tên bằng địa điểm
để dễ hẹn nhau. Số sinh viên ghi danh vào Luật cao nhưng bỏ trường ra đi sớm rất
đông và thi rớt cũng nhiều. Trong số những người bỏ cuộc có tôi. Tôi học cả hai
trường và vì kỳ thi cuối khóa cùng ngày nên tôi không theo đuổi việc học Luật
hết năm thứ nhất. Bạn bè tôi phần đông học Luật nên mỗi tuần tôi đều trở lại
trường. Ở đó, dưới những gốc me, vỉa phố, bên những ly cà phê đen, cà phê sữa,
trên những ghế thấp, cạnh những chiếc bàn vuông, chúng tôi để cho những thao
thức về chiến tranh và số phận đất nước có dịp tuôn trào. Tuổi đời còn rất trẻ
nhưng chiến tranh đã làm chúng tôi già sớm hơn tuổi mười tám của mình.
Khi sang Vạn Hạnh tôi có dịp học
với thầy Trần Văn Tuyên môn Chính Trị Quốc Nội và thầy
Vũ Quốc Thông môn Luật Hiến Pháp Đối Chiếu. Đây là hai môn học tôi
thích nhất. Luật Sư Trần Văn Tuyên không mang theo sách vở hay tài liệu giảng
dạy gì và những bài giảng của thầy là kinh nghiệm sống trong thời hoạt động
chính trị. Vì thầy dạy không theo giáo khoa nên giảng đường lúc nào cũng đông.
Sinh viên phải có mặt để ghi lời thầy giảng. Tôi thường tìm cách gần gũi thầy
Trần Văn Tuyên để hỏi những chuyện đất nước trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm
1954. Thầy Trần Văn Tuyên đơn giản, tóc cắt cao và thường mặc áo sơ-mi trắng
ngắn tay. Thầy Vũ Quốc Thông thì khác, lúc nào cũng đường bệ, chuẩn bị kỹ càng
và luôn đến lớp với một cặp-táp (le cartable) đầy tài liệu giảng dạy. Tôi hay
thắc mắc với thầy Vũ Quốc Thông về cách dùng chữ. Ví dụ thầy dùng chữ “Chủ nghĩa
Tập Sản” thay cho “Chủ nghĩa Cộng Sản”. Tôi cho rằng khái niệm “Chủ nghĩa Tập
Sản” hay “Chủ nghĩa Bình Sản” được nhắc đến nhiều trước năm 1975, chỉ là một
phạm trù thuần kinh tế, nghĩa hẹp nhiều so với chủ nghĩa Cộng Sản vốn là cả một
hệ thống triết học giải thích toàn bộ đời sống con người, xã hội và vũ trụ. Thầy
chăm chú lắng nghe ý kiến nhưng không thay đổi cách gọi “tập sản” của mình. Thầy
Vũ Quốc Thông dạy tận tụy và trích dẫn nhiều từ các sách Pháp, trong đó có cả
Tuyển tập Marx-Engel. Thầy chúng tôi, Giáo sư Trần Văn Tuyên chết trong tù Cộng
Sản năm 1976 và Giáo sư Vũ Quốc Thông chết năm 1987, chỉ một thời gian ngắn sau
khi ra khỏi nhà tù. Tình nghĩa thầy trò ở miền Nam, dù tiểu học, trung học hay
cả đại học đều thắm thiết, thân thương, đáng kính, đáng yêu và đáng nhớ. Tôi cố
gắng rất nhiều nhưng không phải là người tự học. Kiến thức của tôi là của các
thầy cô trao lại. Đứa sinh viên năm thứ nhất ngày xưa không còn trẻ nữa nhưng
mỗi khi nghĩ đến các thầy cô tự nhiên thấy mình nhỏ lại thật nhiều.
Thời gian từ năm 1973 đến năm 1975
là thời gian yên tĩnh. Chương trình bình định đại học khá thành công. Mùa hè năm
1973, một nhóm sinh viên chúng tôi đại diện cho trường tham dự trại hè sinh viên
toàn quốc do Bộ Giáo Dục và Thanh Niên tổ chức ở Trường Thiếu Sinh Quân Vũng
Tàu. Đông sinh viên du học cũng về tham dự trại. Dĩ nhiên không có “lãnh tụ sinh
viên” đường phố nào. Đó là những ngày vui nhất của mùa hè. Không chỉ sinh viên
Sài Gòn, Vạn Hạnh, Minh Đức mà cả Huế, Cần Thơ, Đà Lạt và các trường đại học tư
mới thành lập cũng cử phái đoàn tham dự. Buổi tối chúng tôi quây quần trong sân
cờ của trường Thiếu Sinh Quân trao đổi kinh nghiệm học hành, chuyện đất nước và
hát nhạc Du Ca như có lần tôi đã kể lại trong bài viết Khi bài hát trở về. Ngoại
trừ các nhóm chống chính phủ bốn mùa của các bà Ni Sư Khất Sĩ Huỳnh Liên, Phong
Trào Phụ Nữ Đòi Quyền Sống của bà Ngô Bá Thành, năm 1973, các phong trào sinh
viên tranh đấu ở Sài Gòn do Cộng Sản tổ chức phần lớn đã được dập tắt. Các “lãnh
tụ sinh viên học sinh” mặt nổi như Huỳnh Tấn Mẫm, Trịnh Đình Ban, Trần Thị Lan,
Lê Văn Nuôi, Võ Như Lanh, Nguyễn Xuân Lập v.v... đã bị kết án và vừa được trao
trả tù binh.
Nhắc đến chuyện trao trả tù binh
không thể quên tác phẩm Tù Binh và Hòa Bình của nhà văn Phan Nhật Nam, trong đó
anh dành trọn một chương để viết về những người mà anh gọi là “Những người lỡ
làng”. Hôm đó, buổi chiều ngày 27-3-1973, những “lãnh tụ sinh viên” sắp được
trao trả về phía Cộng Sản đang tụm nhau ngồi trong một chiếc lều để chờ được
nhận. Những bài hát của Phạm Thế Mỹ, Trịnh Công Sơn được cất lên từ chiếc lều
nhỏ. Họ gồm Võ như Lanh, Trịnh đình Ban, Cao thị quế Hương, Trần thị Lan, Trần
thị Huệ, Nguyễn thành Công. Không ai biết họ hát để nung cao khí thế hay hát để
che đi sự lo âu trước tương lai mờ mịt núi rừng đang chờ đợi họ. Trong quan điểm
đấu tranh giai cấp, dù các anh chị là đảng viên Cộng Sản cũng chỉ là đảng viên
thành phố, gốc tiểu tư sản, vừa gia nhập và không được tin tưởng hoàn toàn. Nhà
văn Phan Nhật Nam tả cảnh anh Nguyễn Thành Công khi tiếp xúc với viên Đại Tá
Hungary trong “đôi mắt có vẻ lạc thần, giọng nói đã đượm màu mệt mỏi”. Anh Phan
Nhật Nam viết đoạn đó thật cảm động. Anh không giận hay trách móc những tù binh
gốc sinh viên anh sắp sửa trao trả mà cảm thông cho sự bồng bột tuổi trẻ của họ
nhiều hơn:
“Phải, tôi hiểu rằng nhóm sinh
viên đang ngồi ở dưới tàn cây cao su, đang gảy nên những âm thanh trầm lắng với
tiếng hát nhiệt thành trong sáng kia quả tình không thể nào là những người cộng
sản được. Họ không thể nào là những người cộng sản chuyên chính, dù cho họ đã
vào khu học tập, dù đã là cán bộ nội thành làm nhiệm vụ sinh viên vận theo đường
lối và kỹ thuật đấu tranh phát xuất từ Cục R, kiểm soát và điều hành bởi ủy viên
thanh niên thuộc thành ủy Sài Gòn-Chợ Lớn. Họ cũng không phải là cộng sản dù có
chứng minh thư xác nhận là thành viên của đảng lao động, hoặc thành viên của
đoàn thanh niên trong mặt trận giải phóng… Vì tiếng hát, điệu đàn, nét mặt và
lời nói tất cả vẫn là phản ảnh của một hoài bão, hoài bão bất diệt của tuổi trẻ.
Muốn thoát khỏi hoàn cảnh bít bùng của đời sống hiện tại, đấu tranh và xây dựng
một quê hương rạng rỡ tốt đẹp hơn. Và chính phát xuất từ ý định đẹp đẽ mơ tưởng
này, hoài bão của họ đã được đồng hóa với mục tiêu chiến thuật đoản kỳ của cộng
sản. Và họ trở thành loại cán bộ tiền phong đắc lực thực hiện những mục tiêu hạn
chế trong đường phố Sài Gòn, nơi Giảng Đường, trong lòng cộng đồng tuổi trẻ Việt
Nam.”
Trong bài viết Những người đi tìm tổ quốc trên
talawas năm 2006, tôi cũng viết về các anh chị đó:
“Thời sôi nổi trong giảng đường
đại học, trên đường phố Sài Gòn đã là dĩ vãng, giữa rừng cao su Lộc Ninh họ là
những thanh niên thành phố đang bước vào một cuộc đời mới ở một nơi hoàn toàn xa
lạ. Như những con cá bị vớt khỏi sông và bỏ vào trong chậu, ngơ ngác, rụt rè, sợ
hãi. Họ không còn là bè bạn của nhau, không còn gọi nhau bằng tên, bằng thứ mà
sẽ là đồng chí. Đồng chí cũng đồng nghĩa với nghi ngờ, kiếm soát và dò xét lẫn
nhau. Họ hối hận không? Họ thật sự có phải là Cộng sản không? Họ có phân biệt
được, dù chỉ là căn bản, những điểm khác nhau giữa xã hội mà họ vừa bỏ lại và xã
hội mà họ đang tìm đến không? Không ai hỏi và họ cũng sẽ không trả lời thật với
lòng. Có những tâm sự, sống giữ kín chết mang theo, chứ không bao giờ chia sẻ
với ai. Hồi xưa tôi cũng có cái nhìn khắt khe về những người bỏ đi. Các anh có
quyền biểu tình, có quyền chống độc tài, chống tham nhũng, chống độc diễn nhưng
khi bỏ đi sang hàng ngũ của những người ném lựu đạn vào quán ăn, pháo kích vào
trường học, đặt mìn trên quốc lộ, các anh đã phản bội quyền sống trong hoà bình
của nhân dân miền Nam. Giống như những đứa con lớn lên trong một gia đình nghèo,
có bà mẹ bịnh tật, có người cha say rượu hay đánh đập con cái và còn một bầy em
nhỏ dại. Thay vì khuyên răn người cha, săn sóc người mẹ, che chở cho đám em khờ,
các anh lại bỏ đi, và chẳng những đã bỏ đi mà còn dắt kẻ gian về đốt phá nhà
mình.”
Ngày nay, các tài liệu của Đảng
đều xác nhận hoạt động của các phong trào chống đối chính quyền VNCH chẳng phải
là tự phát chống bất công, độc tài, độc diễn gì mà đều được đặt dưới sự chỉ đạo
trực tiếp của Thành Đoàn Thanh Niên Cộng Sản trực thuộc Thành ủy Sài Gòn Gia
Định nhắm vào mục tiêu duy nhất là đánh sụp chế độ Cộng Hòa non trẻ ở miền Nam
và áp đặt chế độ Cộng Sản độc tài toàn trị trên phạm vi cả nước. Tất cả tổ chức,
phong trào, tôn giáo, đoàn thể đều được Đảng khai thác, vận dụng một cách tinh
vi để phục vụ cho mục đích cuối cùng của đảng Cộng Sản.
Những tên tuổi, hình ảnh được báo
chí đối lập và thân Cộng ở Sài Gòn đánh bóng mà nhà văn Phan Nhật Nam nhắc đến
chỉ là những khuôn mặt đấu tranh công khai trên đường phố Sài Gòn. Họ không biết
những đảng viên Cộng Sản nòng cốt thực sự điều khiển phong trào từ bóng tối là
ai. Những kẻ mài dao giết người thường trốn kỹ trong rừng. Những kẻ trao lựu đạn
cho sinh viên để ném vào nhà hàng, trường học, chợ búa thường giấu mặt. Họ không
gọi nhau bằng tên thật, bằng mày tao thân tình trong quán cà phê bên ngoài khuôn
viên đại học Văn Khoa, Luật Khoa mà gọi bằng bí danh, bằng thứ tự.
Những “anh ba”, “chị năm” đó bây
giờ đang sống trong những biệt thự cao sang, có kẻ hầu người hạ và những chàng
sinh viên một thời bồng bột nay chỉ là những “kẻ lạ của hoàng hôn” “lặng nghe
những dư âm sâu lắng của quá khứ đọng lại, rồi trôi theo những món ăn với một vị
đắng đắng” như anh Hạ Đình Nguyên, một trong những “lãnh tụ phong trào sinh
viên” đã viết trong bài Về một vị đắng sau buổi họp mặt
kỷ niệm “Phong trào Đấu tranh của Thanh niên-Sinh viên-Học sinh Sài gòn” năm
ngoái.
Khi tôi vào năm thứ nhất, nhiều
trong số anh chị tham gia xuống đường vài năm trước vẫn còn học năm thứ ba, thứ
tư, và qua họ tôi biết con số sinh viên tham gia biểu tình không đông như báo
chí thân Cộng mô tả và cũng không mang tầm vóc “quốc tế” chỉ với vài chàng thanh
niên phản chiến Mỹ như bài ký thổi phồng của anh Huỳnh Tấn Mẫm. So với nhiều
chục ngàn sinh viên liên khoa thuộc đại học Sài Gòn và các đại học tư tại miền
Nam thời đó, vài trăm anh chị bị xúi dục xuống đường chỉ là con số nhỏ. Thành
thật mà nói, phần đông những sinh viên đi biểu tình là những người nặng tình cảm
dành cho đất nước nhưng vô cùng nông nỗi. Các anh chị bất mãn trước các bất công
trong xã hội và phẩn uất khi nhìn cảnh điêu tàn đổ nát do cuộc chiến gây ra
nhưng không nhận thức đúng nguyên nhân sâu xa của thực trạng bi thảm đang diễn
ra trên đất nước và không đủ trưởng thành để cân nhắc trước một chọn lựa sinh tử
của đời mình.
Tuổi trẻ ở đâu cũng thế, nhiệt
tình, phản kháng, cương trực, vô tư, nhưng như tôi có lần đã viết, tại Việt Nam
những đặc tính đó của tuổi trẻ bị Đảng Cộng sản lợi dụng tận cùng, không chỉ
tiếng hát lời ca, mà còn cả thịt xương và từng giọt máu.
Bài hát quen thuộc trong giới sinh
viên trước năm 1975 nói lên một mơ ước chân thành của thế hệ trẻ “Rồi hòa
bình sẽ đến, đến cho dân tộc Việt, đôi bồ câu trắng rủ nhau về làng xưa…”,
nhưng sau năm 1975, đàn bồ câu đã biến thành bầy kiến gặm nhấm vết thương dân
tộc đang mưng mủ. Tiếng hát của các anh chị trên đường phố được thay bằng những
tiếng rên của những bà mẹ đang bán máu ở các nhà thương. Lời ca của các anh chị
sau được thay bằng là tiếng khóc của em thơ trên các vùng kinh tế mới. Đất nước
chìm đắm trong độc tài và đói khát. Hàng triệu người phải bỏ nước ra đi, chết
trên biển cả, chết dưới bàn tay hải tặc.
Các anh các chị, có thể không phải
là thủ phạm nhưng không thể phủ nhận là những người đã góp phần gây ra những
điêu tàn đổ nát hôm nay. Xin đừng im lặng nữa. Nếu không đủ sức để hành động,
hãy viết, hãy nói, hãy kể lại cho các thế hệ trẻ những bài học dù thất bại,
những ước mơ dù bị phản bội, những kinh nghiệm dù được đổi bằng xương máu của
mình. Là những người có lương tâm, hôm nay, không có tòa án nào kết án các anh
chị nặng bằng tòa án lương tâm của chính các anh chị. Là những người vốn nặng
tình cảm, hôm nay, không có tình cảm nào cấu xé các anh chị bằng tình cảm các
anh chị đã từng dành cho đất nước. Xã hội Việt Nam băng hoại, trụy lạc, tha hóa
ngày nay là chiếc gương, các anh chị hãy soi vào đó để thấy lại chính mình.
Chế độ dân chủ non trẻ mà các anh
chị góp phần đánh gục, đã quỵ xuống sáng ngày 30-4-1975 nhưng không chết. Và tại
Việt Nam hôm nay, các gía trị dân chủ quý giá đó không chỉ là của miền Nam thôi,
không chỉ là của Việt Nam Cộng Hòa thôi mà đang là tài sản, hành trang và mục
tiêu chung của cả dân tộc.
Dân chủ là khúc khải hoàn ca đang
được nhân loại cất vang trên mọi nơi của quả địa cầu, từ Bắc Phi sang Đông Á
nhưng không có nghĩa chỉ mới bắt đầu vài năm qua mà từ nhiều ngàn năm trước. Có
người bàn về dân chủ như một mục đích đòi hỏi nhiều tiền đề và điều kiện. Điều
đó không đúng. Dân chủ không phải là hải đảo xa xôi phải cần ghe tàu, lương
thực, thời gian mới đạt tới nhưng là một thực tế gần gũi trước mắt và thậm chí
có thể nắm bắt trong tay. Dân chủ không phải món quà của ai ban cho khi đến tuổi
trưởng thành mà là quyền làm người bắt đầu từ trong bụng mẹ.
Quốc gia Mông Cổ, một quốc gia
không có truyền thống dân chủ, là một ví dụ. Nhiều người cho Mông Cổ khó có thể
trở thành một nước dân chủ sau một giai đoạn phong kiến hàng ngàn năm nối tiếp
bằng một chế độ Cộng Sản chuyên chính chư hầu Liên Xô suốt hơn bảy chục năm. Khi
tôi viết bài này, nhân dân Mông Cổ đánh dấu tròn 20 năm được sống dân chủ. Đôi
cánh thiên thần đó đã giúp đưa Mông Cổ từ một quốc gia cô lập, bất ổn cùng hạng
với Afghanistan, Nigeria và Somalia trở thành một trung tâm du lịch an toàn và
đầy hấp lực văn hóa. Hai mươi năm trước đường phố thủ đô Ulaanbaatar gần như
hoang vắng nhưng ngày nay tấp nập và phồn vinh. Theo tạp chí Economist, dù kinh
tế thế giới còn đầy khó khăn, mức phát triển kinh tế của Mông Cổ trong ba tháng
giữa 2011 đã tăng 21% so với cùng thời kỳ trong năm trước đó. Quỹ Tiền Tệ Quốc
Tế dự đoán kinh tế Mông Cổ sẽ tăng trung bình 14% từ 2012 đến 2016. Là một quốc
gia trong vị trí trái độn với vỏn vẹn 2.5 triệu dân và không có chiều dày truyền
thống dân chủ như nhiều quốc gia khác, Mông Cổ sẽ còn gặp nhiều khó khăn nhưng
cơ chế chính trị mới giúp cho người dân sống yên tâm trong tự do, thanh bình, no
ấm và nỗ lực vì một tương lai tươi đẹp cho con cháu họ.
Việt Nam thì khác.
Sau 37 năm, tiếng súng đã vắng đi
trên đất nước Việt Nam, non sông liền một dãi nhưng người dân vẫn sống trong nỗi
bất an lo sợ, hàng trăm ngàn người con gái Việt phải rời bỏ quê hương đi ăn mày,
làm điếm, ở đợ khắp thế giới, phần lớn trong số hơn hai triệu người Việt hải
ngoại vẫn còn bị xem là “thành phần phản động bám theo chân đế quốc”, và trong
nước, những quyền căn bản như ngôn luận, đi lại, thờ phụng của người dân vẫn
chưa có được, hàng ngàn người yêu nước vẫn còn bị tù đày. Đó là sự thật, không
ai tuyên truyền ai, không ai xúi giục ai.
Sau 37 năm, mấy chục ngàn thân xác
thanh niên làm bia đỡ đạn cho đảng CSVN trong chiến tranh biên giới năm 1979,
hàng ngàn xác thanh niên Việt Nam bị đốt cháy thành than trong trận Lão Sơn
1984, hàng trăm xác thanh niên Việt chìm sâu quanh bờ đảo Gạc Ma năm 1988, hàng
trăm ngư dân Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Ngãi bị bắn thủng ngực, hai quần đảo
Hoàng Sa-Trường Sa thân yêu như đôi mắt Việt Nam bị đã bị kim Trung Quốc tẩm
thuốc độc đâm sâu và đang chảy máu. Đó là sự thật, không ai tuyên truyền ai,
không ai xúi giục ai.
Nhìn những gì đang xảy ra trên thế
giới đã làm những người Việt đang quan tâm đến vận mệnh đất nước không khỏi cảm
thấy thẹn thùng. Dù ban ngày vẫn phải sống bằng thái độ tích cực, trả lời phỏng
vấn bằng ngôn ngữ tự tin nhưng ban đêm thế nào cũng gác tay lên trán âm thầm tự
hỏi tại sao Liên Xô, Đông Âu cho tới Bắc Phi, Miến Điện nhưng viễn ảnh một Việt
Nam tự do, dân chủ, hùng mạnh vẫn còn là một mục tiêu chưa đến. Nỗi lo lắng và
niềm đau xót này không phải của riêng ai mà của tất cả người Việt Nam còn biết
xót xa, còn biết hổ thẹn trước sự lạc hậu của Việt Nam so với đà tiến quá nhanh
của nhân loại.
Một câu hát trong bài Tự Nguyện
quen thuộc trong giới sinh viên trước năm 1975 “nếu là hoa, tôi sẽ làm một
đóa Hướng Dương”, chưa bao giờ hơn lúc này Việt Nam cần những người yêu nước
biết vươn cao, đứng thẳng như những cành Hướng Dương Dân Tộc. Con người đến và
đi nhưng lịch sử Việt Nam như dòng sông không ngừng chảy. Đất nước sẽ vượt qua
và lớn lên như đã từng vượt qua và lớn lên sau ngàn năm Bắc Thuộc.
Trần Trung
Đạo
No comments:
Post a Comment