Bản Tin Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ
Trong một Đêm Giáng Sinh đầu thập niên 80, từ Genève, trên bờ hồ Léman Thụy Sĩ, một nhà thơ Việt Nam tị nạn Cộng sản, mang theo mảnh đất quê hương thân thiết khi vượt biển, đã "hát với anh chị em Ba Lan, hát với Việt Nam tôi"... Hát với Solidarność, một bài thơ đã được đài Âu châu Tự do (Radio Europe Libre) giới thiệu với nhân dân Ba Lan đang tranh đấu "cho Hy Vọng, Mùa Xuân, Phẩm Giá Con Người". Lúc đó, anh chị em Ba Lan, Công đoàn Solidarność, bị chế độ "phát xít đỏ" do Liên Sô cưỡng đặt đàn áp khốc liệt. Báo mật vụ công an cộng sản Ba Lan đã lên tiếng công kích tác giả bài thơ và buổi phát thanh của đài Âu châu Tự do. Thính giả người Ba Lan đã cắt bài báo đó rồi kín đáo gởi cho đài rồi đài chuyển cho tác giả.
Hát với Solidarność được bà Hoàng Nguyên, một thuyền nhân tị nạn Cộng sản định cư tại Genève Thụy Sĩ, chuyển dịch ra tiếng Pháp. Bài thơ gây nên sự xúc động sâu xa nơi nhiều người đọc, nhứt là cộng đồng Ba Lan lưu vong cùng giới trí thức, nhà văn, nhà thơ Pháp. Cố triết gia Leszek Kolakowski (1927-2009), nguyên phát ngôn nhân Phong trào Dân chủ Đối lập, cố vấn cho Solidarność, dạy tại trường đại học Oxford, cho biết ông đã đọc bài thơ đó giữa mùa đông ở Anh quốc trong lúc quê hương còn bị đọa đày khổ nhục. Tháng 6 năm 1999, ông đã đọc một bài diễn văn quan trọng khai mạc Đại Hội Thế Giới Văn Bút Quốc Tế ở Varsovie, nước Ba Lan hậu cộng sản. Dịp đó là lần đầu tiên ông gặp nhà thơ Việt Nam. Từ Vatican, Đức Giáo Hoàng Jean Paul II gởi lời cám ơn và khích lệ tác giả bài thơ cùng người dịch.
Văn thư bày tỏ xúc động và cảm tình còn đến từ hai nhà văn triết gia Simone de Beauvoir và Raymond Aron, nhà thơ Pierre Emmanuel, hai hội viên Hàn Lâm Viện Pháp, nhà văn Jean d’Ormesson và nhà thơ Léopold Sédar Senghor (cựu tổng thống Sénégal), sử gia Tadeusz Wyrwa, nhà trí thức Paul Thibaud, giám đốc chủ biên tạp chí Esprit, mục sư Eric Fuchs, giáo sư Khoa Thần học đại học Lausanne, v.v. Hai mươi lăm năm sau, Hát với Solidarność được phổ biến để chào mừng Hội Nghị Quốc Tế về Quyền Lao Động Việt Nam diễn ra tại trụ sở Thượng viện giữa thủ đô Warszawa (Varsovie) của nước Ba Lan Tự Do, từ ngày 28 đến 30 tháng 10 năm 2006. Hội Nghị đó được sự đồng tình bảo trợ của nhiều nhà lập pháp Ba Lan, Công đoàn Đoàn Kết Solidarność và Ủy Ban Bảo Vệ Công Nhân Ba Lan.
Phát ngôn nhân đảng Thăng Tiến (bất hợp pháp đối với chế độ CSVN), nữ luật sư Lê Thị Công Nhân được mời tham dự Hội Nghị, dự định sẽ đọc một bài tham luận về cái gọi là ‘’luật lao động’’ của chế độ CS Hà Nội và tình trạng những quyền lợi chính đáng của công nhân Việt Nam không được bảo vệ. Nhưng công an CS đã trắng trợn vi luật và dùng võ lực ngăn chặn bà Lê Thị Công Nhân đáp máy bay để đi Ba Lan. Đầu tháng tư năm 2010, bài thơ ‘’Hát với Solidarność’’ của thi hữu Nguyên Hoàng Bảo Việt được nữ thi sĩ Małgorzata Bąbelek (Gosia Babelek) dịch sang tiếng Ba Lan, cùng với bài thơ ‘’Những Đêm Tháng Mười’’.
Một tuần sau đó, ngày 10 tháng 4, Tổng Thống Ba Lan và phu nhân đã tử nạn khi máy bay rớt xuống gần phi trường Smoleńsk, trên đường đi Katyn dự lễ Tưởng Niệm hai vạn tù binh và tù nhân dân sự Ba Lan bị thảm sát theo lệnh của Staline. Rất đông những người tử nạn máy bay (gần 100 nạn nhân) từng đóng góp hào hiệp đời họ cho công cuộc tranh đấu giành lại độc lập, tự do dân chủ, công bằng xã hội và nhân phẩm. Họ đã một thời, đông đảo ở lứa tuổi thanh xuân, chung góp sức, bẻ gãy được xiềng xích đế quốc cộng sản quốc tế, mà tàn dư vệ tinh hàng đầu là Cộng sản Hà Nội thỏa hiệp với đế quốc Trung Cộng, hiện còn tác động vô cùng khốc hại trên đất nước Việt Nam. Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam và Trung Tâm Nhà Văn Việt Nam Lưu Vong, với sự tán đồng của Ủy Ban Bênh Vực Nhà Văn bị Cầm tù Văn Bút Thụy Sĩ Pháp Thoại, đã ủy nhiệm nhà thơ Nguyên Hoàng Bảo Việt viết điện thư và bưu thư Chia Buồn với chính giới và bạn hữu Ba Lan. Kèm theo mỗi bức thư Chia Buồn là hai bài thơ ‘’Hát với Solidarność’’ và ‘’‘’Những Đêm Tháng Mười’’ (đọc Bản Tin LHNQVN-TS ‘’Tháng Tư Đen Việt Nam chia buồn với Tháng Tư Đen Ba Lan’’).
Chúng tôi xin được giới thiệu cùng quý bạn đọc bài thơ ‘’Hát Với Solidarność’’ với các bản dịch tiếng Ba Lan, tiếng Pháp và tiếng Anh. Bản Tin hôm nay đăng Phần (1), gồm có bài thơ ‘’Hát Với Solidarność’’ và bản dịch tiếng Ba Lan. Phần (2), gồm có bài thơ ‘’Hát Với Solidarność’’ và hai bản dịch tiếng Anh và tiếng Pháp sẽ đăng trong Bản Tin tiếp theo.
‘’Hát Với Solidarność’’, chúng tôi muốn cùng với tác giả bài thơ và bạn đọc hải ngoại gởi về Việt Nam những tín hiệu của niềm Tin chung - tin vào sự tất thắng cuối cùng của Chính nghĩa Dân tộc và Nhân bản. Trên đất nước bất hạnh và giữa lòng Dân tộc bất khuất đó, mỗi ngày càng xuất hiện thêm những người Việt Nam thật lòng yêu nước thương đồng bào. Bất chấp sự leo thang trấn áp cực kỳ tàn bạo của chế độ độc tài cộng sản nhũng lạm từ cuối thế kỷ hai mươi đến đầu thế kỷ hai mươi mốt. Chỉ có tiếng nói và ngòi bút, họ tiếp tục kiên cường tranh đấu cho Nhân Quyền, cho Tự Do và Dân Chủ, cho Hy Vọng Mùa Xuân, Phẩm Giá Con Người. Như những người bạn đa số vô danh hai mươi, ba mươi năm trước ở Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Đông Đức, Liên Sô... với những bàn tay trần quyết tâm ôm lấy sứ mệnh lịch sử cùng đi tới.
Sắp hết năm, với những lời Cầu Nguyện Bình An, tâm tưởng chúng tôi hướng về những tù nhân chính trị, ngôn luận và lương tâm Việt Nam. Hướng về thân nhân, gia đình của tất cả tù nhân nói trên. Hướng về những nhà dân chủ đối kháng độc tài, bênh vực Nhân Quyền - những vị tu sĩ, các từng lớp công nông, giáo chức, sinh viên, văn giới, nhà báo hay luật sư - đang bị hành hạ, làm nhục hoặc lưu đày ngay trên quê hương thân yêu của mình. Hướng về:
Đằng sau những cánh cửa sổ
Khép vội trước mũi súng sát nhân
Sài Gòn đâu đã thất thủ
Thầm thì những lời ru con
Thay cho tiếng nói
Giặc đã cưỡng đoạt
Trên tháp chuông trơ vơ
Thập tự giá phô tấm lòng nhân ái
Dưới mái chùa hiu vắng
Hạnh từ bi nở ngát tòa sen
Bóng đen bầy quạ dữ
Bay vây quanh.
(Chúng) tôi đếm
Bấy nhiêu ngọn nến
Bao nhiêu nhánh mặt trời Tự do
Sẽ mọc lại.
(Chúng) tôi đếm
Bấy nhiêu giọt sương long lanh
Bao nhiêu chuỗi cười ròn rã
Bao nhiêu lớp người nô lệ
Sẽ đứng lên. (Kẻ Sống Sót – Thơ NHBV 1978)
Genève ngày 24 tháng 12 năm 2010 –
Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ
Ligue Vietnamienne des Droits de l’Homme en Suisse
Vietnamese League for Human Rights in Switzerland
Hát Với Solidarność
Một thuyền nhân Việt Nam xin được góp tiếng hát
Với anh chị em Ba Lan đêm Chúa ra đời
Với Popieluszko cùng Solidarność
Hát cho Hy Vọng, mùa Xuân, Phẩm giá con người.
Polska ơi! Polska ơi! Polska ơi! bất khuất
Cảm xúc nào hâm nóng trái tim tôi
Chúng ta từng sống và từng chết
Ngoài chiến trường và trong ngục tù
Giữa trại tập trung cuối trời hoang đảo
Trên điêu tàn đổ nát sáu triệu nấm mồ
Nhú lên lớp lớp những mầm non xanh biếc
Tung cánh ước mơ đến một thế giới thanh bình.
Hố bất công nhờ phù sa khỏa lấp
Lửa bạo hành sẽ tàn lụi dưới cơn mưa
Vườn Nhân ái góp bàn tay vun xới
Người người nhìn quen với nét mặt tin yêu
Chúng ta cũng biết xót thương biết khóc
Dàn trải tâm tình qua điệu múa lời ca
Sống với nhau một đời chân thật.
Sau hơn ba mươi năm áp bức đọa đày
Kiếp trâu ngựa tìm đâu thấy ngày mai
Muốn Tự do không thể van xin mà được
Ai hái trái cây hạnh phúc ta gieo trồng
Đất nước ta cớ sao Liên Sô làm chủ
Ta gặt cho ai lúa chín trên đồng?
Hướng về đâu những chuyến tàu máy móc
Toa xe đầy ắp mồ hôi nước mắt lao công
Nhà ta suốt mùa rét thiếu than để sưởi
Vợ ta buồn đau giấu kín trong lòng
Con ta gầy yếu không đủ sữa đủ thuốc
Đảng họp bàn yến tiệc mặc dân chúng lầm than
Cha mẹ dạy ta giúp người hàm oan cô thế
Đảng hô hào hận thù giai cấp đấu tranh
Đê vỡ trong lòng dân, sóng cuộn lên nỗi bất bình...
Từ ngày đó... từ cuộc nổi dậy ở Poznan
Giặc bố trí hàng vạn phi cơ đại bác
Hỏa tiễn hạch tâm, cả trăm sư đoàn thiết giáp
Chẳng thay đổi được gì cơn ác mộng triền miên
Không bao giờ chúng ngủ được yên
Chúng thảm sát bạn ta ở Berlin, ở Budapest
Ở Prague mùa Xuân, ở Huế Tết Mậu Thân
Không bỏ sót một ai bị nghi ngờ chống đối
Tu sĩ, công nông, giáo chức, sinh viên, văn giới
Từ Vientiane, Phnom Penh, rồi đến Kaboul.
Nuôi ảo tưởng dìm chúng ta xuống bùn đen tủi nhục
Nhưng áp lực nào lay chuyển nổi Ba Lan!
Vì từ ngày đó... từ cuộc nổi dậy ở Poznan
Đã nối tiếp Gdansk, Cracovie, Katowice
Solidarność, mười triệu anh em liên kết
Như gió ngàn, như sóng biển, như trời sao
Trái tim năm châu đập cùng nhịp với nhau
Hòa lẫn tiếng hát ngày đêm vang lên từ hầm mỏ
Từ nhà máy, công trường, bến tàu, góc phố
Đến sân ga, tòa báo, lớp học, giáo đường
Nghe thấy không hỡi người lính trẻ đi tuần đêm?
Hãy nhận rõ hình thù bóng đen đế quốc
Đang giẵm nát những búp hồng Tự do Độc lập
Đang dập tắt những chuỗi cười Hy vọng Tương lai.
Tháng Tư đen, Sài Gòn Việt Nam tôi bị bức tử
Suýt chết giữa biển Đông phép lạ nào giúp tôi hồi sinh?
Tôi đi tới ... hỡi những bạn tù chưa hề biết mặt
Từ Hà Nội đến Bắc Kinh, Bình Nhưỡng đến Lhassa
Từ Belgrade đến Sofia, La Havane đến Bucarest
Tôi đi tới Granada với Federico Garcia Lorca
Santiago với Pablo Neruda, Terezin với Robert Desnos
Tôi đi tới Paris của Victor Hugo và Paul Éluard
Tôi đi tới Nữu Ước của nữ thần Tự do
Mùa giông bão vẫn giơ cao ngọn đuốc
Tôi muốn có mặt mỗi lần nghe gọi tên
Làm tiếng dội lời anh em từ ngục tối.
Polska ơi! Polska ơi! Polska ơi bất khuất!*
Dưới đáy sâu bất hạnh lòng dũng cảm vô biên
Trí nhớ chợt sáng lên hình ảnh những người đã chết
Bị ám sát, mất tích...các liệt sĩ vô danh
Cho tôi sức sống mấy ngàn năm lịch sử
Cho tôi điềm tĩnh viết nốt bài thơ phẫn nộ.
Những ai chưa dám bênh vực tình cảm con người
Hãy xích lại gần, nhìn sự thật hôm nay
Đừng quay lưng nín câm, cúi đầu đồng lõa
Đây tiếng giày Zomo đạp tung từng cánh cửa
Tiếng lục soát bắt người như săn thú giữa rừng hoang
Tiếng roi vọt điên cuồng lẫn tiếng nghiến răng
Tiếng vợ kêu cứu cho chồng, tiếng trẻ thơ khóc ngất
Tiếng giây xích chiến xa lạnh lùng nghiền nát
Ôi những phiến tâm hồn trong suốt thơ ngây!
Tiếng bịt miệng, tiếng giãy giụa la hét mệt nhoài
Tiếng bóp cổ, tiếng cười rú lên thô bạo
Tiếng tuyết rơi nặng nề như trời mưa bão
Tiếng thời gian dừng lại rồi bỗng vắng im.
Tiếng súng xa không ngớt vọng về theo mỗi bước đêm
Đêm Guernica...đêm Oradour...đêm Auschwitz
Sau Tiệp Khắc, đêm Ba Lan khởi đầu từ Munich
Trong chuỗi dài những biến cố không thể nào quên
Ở Wujeck giặc bắn thẳng vào anh em công nhân
Máu lại đổ ở Gdansk vì những viên đạn sô viết.
Mẹ Ba Lan ơi! cho tôi được lau nước mắt
Được đau nơi vết thương giữa trái tim Người
Tôi biết trước một lần nữa tôi sẽ chết
Úp mặt trên vai anh em tôi yêu quý vô cùng
Bằng hữu thủy chung rạng ngời ánh mặt trời chân lý
Sẽ bốc cháy biến thành những hạt muối sương
Làm tan rã lớp máu đen đóng giá trên bờ Baltique
Máu vô tội đêm giới nghiêm phát xít
Phản chiếu lên sắc mặt một dân tộc chịu tang
Nghe thấy không hỡi người lính trẻ Ba Lan?
Chopin đang nhỏ lệ xuống từng nốt nhạc
Lệ nhân ái chứa chan trong lồng ngực
Như tiếng chim lạc bầy gãy cánh kêu thương
Con suối vui quen cũng đổi giọng đau buồn
Lúc chuyến tàu tốc hành đến gần khu hầm mỏ
Tiếng còi mặc niệm thay cho hồi chuông báo tử
Tội ác ngất trời, bè lũ phản bội quê hương!
Em chẳng còn nhớ sao? biết bao tấm gương
Vì Tổ quốc đồng bào hy sinh tuẫn tiết
Varsovie từng đẩy lui hồng quân Bolcheviks*
Tiến đến Vistule, cuối cùng giặc sẽ vỡ tan.
Đêm nay từ hố thẳm địa ngục trần gian
Chúng ta vững tin mai sau đời sẽ nở đẹp
Buổi đoàn viên tay nắm tay liên hoan múa hát
Bông lúa và búp hồng, hương sắc tương lai
Tuổi thơ ơi! em không còn quỳ gối đánh giày
Không còn nữa cuộc đời quên phẩm giá
Tranh Hòa bình không vẽ giữa rào kẽm gai
Không còn trại cải tạo khổ sai, bức tường ô nhục
Nhịp cầu bao dung bắc lại giữa lòng người
Nhà thương điên thôi ám ảnh lương tâm trí thức
Nói lên sự thật về đế quốc và tay sai
Ký giả thi nhân không còn bẻ cong ngòi bút
Ta mài thật sắc khơi thật sâu ý chí này!
Hát với anh em Ba Lan, hát với Việt Nam tôi
Hát với lòng tin cảm thông đổi thay thế giới
Đi với chúng ta còn có ức triệu vì sao
Những ngọn nến tuy mong manh sẽ cháy sáng rất lâu
Những ánh mắt đang tìm gặp nhau để nối tiếp
Giặc có thể tra tấn lưu đày thủ tiêu bắn giết
Đêm vẫn là đêm thù nghịch dối trá bất công
Nhưng tâm hồn dân tộc Ba Lan đã được nhân lên
Với kích thước vũ trụ không gian hùng vĩ
Gom lá chết đau thương đốt ngọn đuốc soi đường
Sau mỗi lần vấp ngã bằng hữu dìu nhau đứng dậy
Đêm đông nào ngăn được cành khô nẫy lộc đâm chồi
Xuân Nhân loại mỉm cười, gót sen thanh thoát...
Cho tôi được góp vào bản hợp ca Hành khúc
Thêm một tiếng Hy Vọng nữa, Polska ơi! bất khuất!
Hát với Solidarność, tôi không hát một mình
Đêm dã man này sẽ lùi bước trước bình minh.
Mùa Giáng Sinh 81
Nguyên Hoàng Bảo Việt
Trích tập thơ Dấu Tích Phượng Hoàng
Bạn Văn Paris xuất bản 2008
* Polska: tên nước Ba Lan.
* Năm 1920, Lénine đã xua đạo quân Bolcheviks vào tận Varsovie. Hồng quân phải rút lui sau khi bị thảm bại trước cuộc kháng chiến anh dũng của dân tộc Ba Lan .
-----------------------------------------------------------
Śpiewać z SOLIDARNOŚCIĄ
Jestem pokornym wietnamskim człowiekiem łodzi
Wraz z moimi polskimi braćmi i siostrami, ludem umęczonym
Wraz z Popiełuszką i Solidarnością
Podnoszę mój głos tej nocy Bożego Narodzenia
Gdy narodził się Chrystus
By głosić Godność człowieka,
Nadzieję, Wiosnę.
O Polsko ! Polsko ! Moja Polsko niepoddana !
Jakie uczucia ogrzewają więc moje serce !
Przeżyliśmy, zniknęliśmy
Na życie i śmierć, zjednoczeni
na polu bitwy
w celach więzień
w obozach zagłady
Odosobnieni w gułagach
Wygnani na sam kraniec dzikich wysepek.
Na pozostałościach grobów sześciu milionów niewinnych
Wschodzą oto niezliczone zielone kiełki
I oto unoszą się ku królestwu pokoju
Rozległe skrzydła Nadziei …
Rowy niesprawiedliwości zostały zasypane ziemią naniesioną przez rzekę
Płomienie lęku wygasły pod deszczem opatrzności
Ogród serca będzie odtąd uprawiany i utrzymywany przez oddane ręce
Natchnione nadzieją i ludzkością
Każdy z nas patrzy na drugiego, a twarz ma rozpromienioną
Chce móc współczuć bliźniemu
I opłakiwać ludzkość.
W braterstwie, okazujemy poprzez śpiewy, tańce, stan naszych dusz
Razem, domagamy się dla samych siebie, życia uczciwego i szczerego
Po blisko trzydziestu latach ucisku i cierpień
Nasz żywot stada zwierząt, poddanych despotycznym rządom
Nie ma przyszłości.
By przyjąć naszą Wolność, nie możemy żebrać
Kto zerwał owoc szczęścia, którego krzew sadziliśmy?
To tutaj jest nasza ziemia ojczysta
Jakim prawem Związek Radziecki nałożył na nią swoje wszechwładztwo?
Dla kogo musimy zbierać złotą pszenicę z tych pól?
Na korzyść którego państwa wprawiamy w ruch maszyny?
Wagony zalane są łzami, potem robotników.
Podczas paraliżującej zimy
Nie wystarcza nam węgla, byśmy się ogrzali
Nasze małżonki, cierpiące, chowają swe troski w ciszy
Nasze dzieci, wychudzone, usychają z niedożywienia
Mleko, ziemniaki – to lekarstwa, których im brak.
Syte przyjemności.
Partia i jej kasta poddanych zbierają się, by rozmawiać o niczym
Oddając się, lekceważąc nędzę ludu,
Radowaniu z wystawnych uczt królewskich.
Rodzice uczą nas dzielenia się i ochrony słabszego
Ofiary niesprawiedliwości
Partia głosi wysoko i donośnie
Nienawiść, zemstę, krwawą walkę klas
Tamy zrywają serca ludu
Fale wirują gniewem
Od tego dnia … od tego buntu Poznania
Mimo ich Sił Powietrznych
Ich ciężkich dział, ich broni nuklearnej,
Ich dywizji czołgów, pojazdów pancernych
Nic nie jest w stanie zmienić ich obsesyjnych koszmarów.
Nigdy nie zdołają zasnąć w pokoju
Zmasakrowali naszych braci w Berlinie, w Budapeszcie
W Pradze, wiosną; w Huê, Têt Mâu Thân,
W Wientianie, w Phnom Penh, w Kabulu
Duchownych, intelektualistów, chłopów, pracowników, studentów,
Nie oszczędzili żadnego z nich.
Karmią się złudzeniami
Wierząc, zdołają zatopić nasz lud w głębi otchłani
Ogłupić nas, przerazić, upokorzyć
Żaden nacisk nie może więc zachwiać wiary Polski
Gdyż po powstaniu w Poznaniu
Nastąpiły Gdańsk, Kraków, Katowice
Solidarność, z dziesięcioma milionami zjednoczonych robotników
Jak cztery wiatry z gór i lasów
Jak ogromne fale oceanów
Jak galaktyki niebios.
Serca naszych braci z pięciu kontynentów Ziemi
Biją w tym samym rytmie co śpiewy
Które wznoszą się, w dzień i w nocy, z kopalni, z pokładów,
Z fabryk, z placów budowy, z portów, z dzielnic miasta,
I rozbrzmiewają na dworcowych peronach,
W redakcjach gazet, na uniwersytetach, w kościołach.
Młody milicjancie na nocnym patrolu, nie słyszysz ich?
Obowiązku odkrycia prawdziwego oblicza imperializmu
Widmo piekieł które miażdży pączki róż
Który tłumi różańce naszych czystych śmiechów
O nasza Wolności! Nasza Niezależności! Nasza Nadziejo !
Czarny kwiecień 1975
Zepchnięte w ruinę
Sajgon i Południowy Wietnam, moja ojczyzna
Są skazane na śmierć
Człowiek łodzi nie zginął na pełnym morzu, jaki cud powrócił mnie do życia?
Przybywam spotkać się z uwięzionymi braćmi w piórze
Od Hanoi do Pekinu. Od Pyongyang do Lhasy.
Od Belgradu do Sofii. Z Hawany do Bukaresztu.
Zmierzam ku Granadzie, do grobu Frederica Garcii Lorca
Do Santiago, zgromadzić cześć pamięci Pabla Nerudy
Do Terezina, pielgrzymując do miejsca deportacji Roberta Desnos.
Idę ku Paryżowi Wiktora Hugo i Paula Eluarda
Idę ku Nowemu Jorkowi, gdzie bogini Wolności
Wytrwała strażniczka, mimo burz, trzyma nieugięcie
Płomień wiary, uniesiony wysoko jej silnym ramieniem
Moi bracia, moje siostry, moi przyjaciele
Pragnę nigdy nie odmawiać waszemu wołaniu
Mógłbym mieć zaszczyt być echem waszych głosów.
O Polsko! Polsko! Moja Polsko niepoddana
Z największej głębi twoich nieszczęść, wierzę w twoje nieskończone męstwo
Wizerunkiem zamordowanych, zaginionych, naszych nieznanych obrońców
Moja pamięć, o czasie, oświetla się
Daje mi siły do życia, tysiące lat historii
Dają mi spokój, by stworzyć niegodny ich wiersz.
Wy, którzy więc nie ośmieliliście się bronić ludzkich uczuć
Podejdźcie ! Podejdźcie jak najbliżej !
Ujrzyjcie prawdę dnia dzisiejszego
Nie milczcie, nie odwracajcie pleców,
Nie spuszczajcie głów, współwinni.
Usłyszcie !
Stukot butów Zomo przeskakuje drzwi
Niepokój pościgu, jak gdyby tropiono zwierzynę,
Uderzenia batów, pałek, we wściekłości
Zgrzytanie zębów. Płacze dzieci
Wołania kobiet o pomoc dla ich mężów
Przenikliwy dźwięk metalicznych gąsienic napierających czołgów
Nieubłagalnie miażdżących.
O krystaliczne otchłanie niewinnych dusz!
Zatykamy gardło. Walczymy. Krzyczymy z całych sił.
Duszą nam gardło. Śmieją się. Grubiaństwo !
Podczas gdy padający śnieg z deszczem
Przytłacza, jak podczas burzy
Czas staje w miejscu. Wszechświat milczy.
Nawet w dali, odgłosy strzałów nie przestają trzeszczeć
Idą w tym samym czasie co noc
Noc w Guernice, Noc w Oradour, Noc w Auschwitz,
Po Czechosłowacji, zdradzonej w Monachium
Następuje noc Polski.
Ze wszystkich tych tragicznych zdarzeń, które łączą się i tworzą daty
Nie możemy pominąć żadnego
W kopalni Wujek, wróg strzelał prosto do naszych braci robotników
W Gdańsku także, radzieckimi kulami, popłynęła krew.
Matko Polsko! Pozwól mi więc wysuszyć twe łzy
Podzielić głęboki ból który rozdziera twe serce
Dobrze wiem, że umrę , jeszcze jeden raz
Z twarzą na ramionach moich ukochanych braci.
Nieustający zapał Braterstwa
Odbija świetlistą aureolę Słońca prawdy
Skrystalizuje się w nalot z soli
Który rozpuści lodowate plamy czarnej krwi
Na brzegu Bałtyku.
Krew niewinnych ofiar czerwonego faszyzmu
Żałobna noc oblężenia, podczas godziny policyjnej
Odbija się wyraz twarzy ludu w żałobie.
Młody polski żołnierzu, nie słyszysz ich?
Kropla do kropli, w każdym dźwięku swoich preludiów
Chopin wylewa swoje gorzkie łzy
Łzy Miłości ludzkiej które wychodzą z jego serca
Jakby krzyk cierpienia zabłąkanego ptaka, złamanego skrzydła!
Tak więc, miły, nieduży, dobrze znany strumień
Czy zmieni swoje szemranie w ton skargi
Gdy Chopin Express zbliży się do obszaru górniczego
Syrena pogrzebowa zastąpi dźwięk dzwonów.
O Niebo! Aż do Ciebie wznoszą się zbrodnicze okrucieństwa
Bandy morderców, zdrajców swojej ojczyzny!
Polski bracie, nie przypominasz sobie?
Jak wiele lśniących luster…
Polska dzieci godnych narodu
Warszawa przypieczętowała upadek Armii bolszewickiej
Na Wiśle, ponownie, zostali pokonani.
Tej nocy, w głębi piekielnej otchłani
Nasze powołanie wzrasta. Życie rozkwitnie, jutro
Powrócimy do niego, ręka w rękę, świętować nasze odnalezienie.
Kłos, róża: zapachy i piękno przyszłości
Młodości, nie zegniesz nigdy więcej swoich kolan
By czyścić woskiem buty
Nie będziemy przeżywać już nigdy życia bez godności
Malowanie Pokoju, nie zrobimy tego już nigdy za drutem kolczastym
Nigdy więcej niesławnych obozów reedukacji, pracy przymusowej,
Ani muru wstydu
Pomiędzy sercami ludzi stworzymy Łuk Tolerancji.
Ośrodki odosobnienia psychiatrycznego
Nie będą zaprzątać już świadomości intelektualistów
Którzy ośmielili się głosić prawdę o imperializmie i jego marionetkowych poddanych.
Poeci, pisarze, dziennikarze
Nie zegniemy już nigdy naszych piór
Tą chęć będziemy ostrzyć, pogłębiać
Nie porzucimy jej.
Śpiewajmy razem z Polską, śpiewajmy z Wietnamem
Śpiewajmy w wierze i komunii
By zmieniać świat.
Miriady gwiazd towarzyszą nam w drodze
Te ślady ognia, słabe ale wieczne, będą jaśnieć długo
Te uważne oczy będą szukać kontaktu z naszymi
Ich niezmiennymi dalekimi odbiciami.
Kaci mogą nas torturować, wygnać, zabić, zamordować.
Obojętna Noc trwa w nienawiści, niesprawiedliwości, kłamstwie
Ale, już, dusza Polski się rozmnożyła
W cudowne rozmiary kosmosu, zbyt imponujące.
Zbierzmy umarłe liście
Cierpiące dowody !
Zapalmy latarnię która oświeci naszą drogę
Po każdym przewrocie
Nasi towarzysze drogi, nasi bracia, nasze siostry, nasi przyjaciele, prostują się
Podtrzymujemy się, zacieśniamy łokcie.
Żadna zima nie zdoła powstrzymać
Wątłych gałęzi pączkujących
Nowymi zielonymi liśćmi
I Wiosny radosnej ludzkości
Która kreśli swoje kroki kwieciem lotosu
Z całym wdziękiem, uleciałych.
Mógłbym mieć szczęście nadać dźwięk Nadziei
Chóralnemu Marszowi zatytułowanemu: Moja Polska niepoddana
Śpiewać z Solidarnością, nie śpiewam sam jeden,
Noc okrutna zakwitnie w obliczu Jutrzenki.
Boże Narodzenie 81
Nguyên Hoàng Bảo Việt
Tłumaczenie: Małgorzata Bąbelek
Fragment ze zbioru wierszy ‘’Piętno Feniksa” Wydawnictwo Ban
No comments:
Post a Comment