Tuesday, January 3, 2012

HỒ NAM *THƯ VIỆT NAM



THƯ VIỆT NAM
HỒ NAM
LTS
Tình cờ tìm thấy trên Viễn Tượng Việt Nam có bài này của Hồ Nam viết từ 2005. Xin phép ông Hồ Nam cho chúng tôi được đăng lại bài này, và xin giới thiệu cùng độc giả

Bạn quí mến,
Được bạn cho biết nhà văn Nguyễn Sĩ Tế quí mến của chúng ta đã rời cõi thế này về cõi vĩnh hằng hưởng thọ 83 tuổi sau hơn mười năm làm người tỵ nạn ở Mỹ viết tiểu thuyết và làm thơ đươc khá nhiều thơ. Nguyễn Sĩ Tế là cây bút chủ chốt của nhóm Sáng Tạo trong những thập niên 50, 60, 70 của thế kỷ trước và là một trí thức dấn thân với chế độ nào thấy bất bình ông cũng lên tiếng phản đối và bị bắt giam vô cớ và ở tù lâu nhất là trong chế độ Cộng Sản Việt Nam.

Nguyễn Sĩ Tế thực ra chỉ là một ‘’văn nhược’’ một thầy giáo chiền từ một nhà thơ ít nói một nhà văn ghét sự ồn ào viết không nhiều nhưng đâu ra đó. Khi Nguyễn Sĩ Tế làm chủ bút tờ báo Lửa Việt của Đòan sinh viên Hanội di cư vào Saigon ông đã khám phá ra thiên tài Mai Thảo, chính ông là ngưòi viết lời giới thiệu truyện ngắn đầu tay Đêm gĩa từ Hànội của Mai Thảo và cũng chính ông là lý thuyết gia của phong trào thơ tự do bên cạnh thiên tài Thanh Tâm Tuyền.Cuộc đời tám mươi ba năm của Nguyễn Sĩ Tế viết nhiều nhất là những năm cuối đời những năm sức khỏe suy sụp vì những trại tù Gia Trung, Hàm Tân.

Về văn học nghệ thuật Nguyễn Sĩ Tế đã đi vào lịch sử bằng cửa lớn. Về làm người Nguyễn Sĩ Tế đã xứng đáng là một kẻ sĩ luôn bất khuất sẵn sàng dấn thân dám nói thẳng nói thật trước những kẻ cầm quyền ngang ngược.Việc Nguyễn Sĩ Tế không còn hiện diện nơi cõi thế này nữa là một tổn thất khá lớn cho nền văn học nghệ thuật Việt Nam vì trước khi qua đời Nguyễn Sĩ Tế đang viết dở dang một bộ trường giang tiểu thuyết mà ông rất tâm đắc.

Cùng với thời gian Nguyễn Sĩ Tế ra đi về cõi vĩnh hằng làng cách mạng làng chính trị û Việt Nam cũng mất một nữ chiến sĩ cách mạng xuất sắc đó là bà Đức Thu nhũ danh Đặng Thị Hòan người đã từng sát cánh với những lãnh tụ cách mạng Lý Đông A, Trương Tử Anh phất những ngọn cờ Dân Tộc Sinh Tồn,Duy Dân Thắng Nghĩa rồi cùng Đức hộ pháp Phạm công Tắc phất ngọn cờ Thống nhất Tòan Lực quốc gia người mà nhà cách mạng Nguyễn Thế Truyền gọi là ‘’nữ anh kiệt’’. Suốt thời gian tại thế 93 năm bà Đức Thụ luôn là chất men tác động phong trào cách mạng Việt Nam tiến tới nhất là những lúc thóai trào.

Bà Đức Thụ là một phụ nữ nhan sắc và đảm đang nhưng luôn sống vì người khác khi cách mạng tiến trào bà không chịu nhận một địa vị nào khi cách mạng thóai trào bà luôn làm công việc’’thiên hạ’’ bằng tiền túi của mình không một lời than van ngắn dài nào cả,chỉ với một mục đích duy nhất làm sao dân tộc mở mày mở mặt đất nước đưng lên giầu mạnh thịnh vượng và chỉ thế thôi.

Khi sống lưu vong tại Mỹ dầu đã lớn tuổi nhưng bà Đức Thụ vẫn hăng hái làm việc nước bà đi khắp nơi kêu gọi anh em cách mạng ngồi lại với nhau nói chuyện với nhau tìm giải pháp cho đấtnước thóat nghèo đói lạc hậu thóat chế độ tòan trị để dân có quyền dân người có quyền người và mọi ngừời được bình đẳng về cơ hội phát triển những tiếng nói khác nhau được tôn trọng.

Bà Đức Thu mất đi làng cách mạng làng chính trị Việt Nam mất một chiến sĩ cách mạng hết lòng vì nghĩa lớn không mảy may tư lợi,một chính khách dấn thân không vì mục đích nào khác hơn là đem lại tự do dân chủ và phúc lợi cho người Việt Nam Phụ nữ Việt Nam lớn tuổi ở trong nước cũng như ở hải ngọai chắc chỉ có bà Trùng Quang là có thể sánh được với bà Đức Thụ thôi.

Trong khi hải ngọai mất hai nhân vật thì quốc nội Giản Chi Nguyễn Hữu Văn cũng ra đi về cõi vĩnh hằng ở tuổi 102. Giản Chi là một chiến sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng cùng thời với Nguyễn Thái Học người được bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ rất tin tưởng,những năm giữa thập niên 50 Giản Chi còn ở tầng hầm nhà bưu điện Saigon chúa nhật nào bác sĩ Nguyễn xuân Chữ và kẻ viết những dòng này cũng gặp nhau tại nhà Giản Chi bàn chuyện thời thế.

Giản Chi là người quốc gia nhưng lại mê văn chương Mac xít của mấy nhà văn thiên ta người Tầu như Lỗ Tấn Lão Xá. Thời gian này Giản Chi đã cùng tôi và Đông Xuyên chủ trương tuần báo Cải Tiến, Giản Chi dich Người Phu Xe của Lão Xá và bị bác sĩ Trân Kim Tuyến làm rắc rối sai trung úy ‘’mật vu’’ Lê Phưong Chi tới mở cuộc điều tra và sau đó áp lực Cải Tiến phải ngưng xuất bản.

Giản Chi bắt đầu viết sách triết học Trung Quốc và ông mời Trương Văn Chính (Trình Quốc Quang) hợp tác vì phục Trưong Văn Chính cùng là dân bưu điện giỏi hơn Giản Chi có danh hơn Giản Chi nhưng Trương Văn Chính chỉ hợp tác một thời gian thì lại giới thiệu Nguyễn Hiến Lê thay thế.

Từ khi Giản Chi có Nguyễn Hiến Lê bên cạnh thì ông bắt đầu nổi. Theo Giản Chi nói với tôi thì ông chỉ là người tự học làm sao chữ Hán sánh được với những người như ông ’’nghè’’ Nguyễn Sĩ Gíác hay ‘’thầy khóa’’ Á Nam Trần Tuấn Khải những người có cắp sách đến nơi cửa Khổng sân Trình nên ‘’bí’’ cái gì ông phải đi ‘’Chợ lớn’’ gặp ông Sầm hỏi ông Sầm là một chiến sỉ Quốc Dân Đảng lưu vong được Giản Chi coi như cuốn tự điển ‘’sống’’ ông sống ở gần cầu Chà Và và thú vui duy nhất cuối đời là uống trà ngon. Chính cái nhân vật tên Sầm đã giúp Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê viết những bộ sách đồ sộ ’’ẵm’’được những giải thưởng văn chương.

Đời Giản Chi có điều ân hận lớn là vì mê văn chương Mác xít đã cản cậu con trai duy nhất người di tản từ Đà Lạt về Saigon không di tản sang Mỹ khiến con phải đi tù ‘’cải tạo’’. Cuối đời Giản Chi sống cô đơn một mình dù ông có tới hai giòng con ông nói tại số tử vi của ông như vậy biết làm sao lúc này ông hết mê văn chương Mác xít ‘’mê’’ Phật Gíáo dịch thơ’’Phật’’ của Vương Duy.

Tôi với nhà thơ Thanh Vân Nguyễn Duy Nhường thấy thương ông quá đã bỏ công sức và tiền bạc ra in tập thơ Nỗi Lòng cho ông rồi tổ chức kỷ niệm sinh nhật lần thứ 90 cho ông. Đau cho Giản Chi là khi ông qua đời không có người con nào bên cạnh và mấy con ‘’kên kên’’đã đem xác ông vào nhà tang lễ của chúng nó để ‘’ăn có’’.


Trung tuần tháng 11 vừa rồi đạo Cao Đài đã kỷ niệm 81 năm khai đạo một tôn giáo có tính cách hòa đồng tôn giáo và là một phát kiến bằng ‘’cơ bút’’ của những nhà trí thức ở miền Nam Việt Nam dịp này tôi có trao đổi với ‘’thừa sử’’Lê Quang Tấn một chức sắc Hiệp Thiên Đài người mà Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đã làm di chúc nói rằng Thừa Sử Lê Quang Tấn có thiên mạng mạng dìn giữ giềng mối cũng như phát triển đạo Cao Đài tòa thánh Tây Ninh.

Thừa sử Lê Quang Tấn cho tôi biết năm 2000 ông đã thuyết trình qua mạng Internet tại Đại hội Thượng Đỉnh Tôn Gíáo Hòa Bình Thế Giới họp tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở Nữu Ứơc (Mỹ) giải trình về đạo Cao Đài. Bản thuyết trình đươc dịch ra tiếng Anh và tiếng Pháp đã nêu rõ ’’Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (Đạo Cao Đài) do Đức Cao Đài Thượng Đế dùng huyền diệu Cơ Bút khai sáng tại nước Việt Nam từ năm Bính Dần(1926),’độ dẫn’’ một số tín hữu là năm triệu người Tổ Đình thờ Đức Chí Tôn và đền thờ Đức Phật Mẫu được lập thành tại Thánh Địa Tòa Thánh Tây Ninh.

Đức Cao Đài Thượng Đế dùng huyền diệu Cơ Bút lập thành Luật Pháp của Đai Đao là Tân Luật và Pháp Chánh Truyền để làm qui củ chuẩn thắng cho Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh truyền giáo. Với chủ trương diệt trừ mê tín dị đoan bất nạp bóng chằng phù thủy-Bổn đạo chung hòa mọi tín ngưỡng và tùy khả năng tiến hóa của mỗi hạng người và phong tục của mỗi địa phương mà phổ độ. Tôn chỉ của Đại ĐạoTam Kỳ Phổ Độ là dìu dẫn quần sanh trên con đừong xử thế lấy luân lý và triết lý làm yếu tố.

Luân lý thì dạy Con người giữ Đạo Nhơn Luân, làm tròn bổn phận mình,đối với mình đối với bản thân mình,đối với gia đình,đối với xã hội-là gia đình rộng lớn,đối với tòan cả thiên hạ là Đại Đồng Huynh Đệ. Triết lý thì cấm xa hoa phung phí tránh bả lợi danh trọng duy tâm hơn duy vật, xả phú cầu bần xả thân cầu Đạo đặng giữ cho tâm thần được thơ thới nhẹ nhàng. Gíáo lý của đạo Cao Đài là chuyên về tín ngưỡng và tu trì, dìu dắt quần sanh trên con đường xuất thế.

Tín ngưỡng thì dạy thờ Đấng Tạo Đoan là Trời là Ngọc Hòang Thượng Đế,Chúa Tể Càn Vũ Trụ sùng thượng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đã dày công giáng trần độ thế. Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cũng như các tôn giáo nhìn nhận linh hồn bất diệt và tồn tại mãi theo định luật quả báo,có vay có trả phải chuyển kiếp luân hồi đền nợ tiền khiên đặng lần bước trên con đường sáng suốt cho tới cõi Hư Linh Hằng Sống. Cửa Đại Đạo luôn rộng mở tiếp rước bá tánh thập phương không phân biệt sang hèn nghèo giầu.


Nền đạo Cao Đài là như vậy nhưng chức sắc cao cấp như Thừa sử Lê Quang Tấn người từng sát cánh với Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa phò Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc’’lưu vong’’ sang Căm bốt đấu tranh cho tòan nhân lọai Hòa Bình Chung Sống, cho một Việt Nam Trung Lập. Chủ trương này từng được Hồ Chí Minh rồi Tôn Đức Thắng hết lời ca ngợi nhưng chiến tranh Việt Nam vừa kết thúc thì Thừa Sử Lê Quang Tấn bị đi tù ‘’cải tạo’’ nhiều năm ở những trại tử tù rồi ông trở về bi làm khó dễ trăm bề khi được Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc mời đi dự Đại Hội Thượng Đỉnh Tôn Gíao Hòa Bình Thế Giới tại trụ sở Liên Hiệp Quốc đã không được chính quyền tòan tri ở VN từ chối cấp hộ chiếu xuất cảnh Hàng ngày Thừa sử Lê Quang Tấn làm công việc gìn giữ và phát triển giềng mối đạo Cao Đài tòa thánh Tây Ninh ở thánh thất Cao Đài Saigon nằm trên đường Trần Hưng Đao quận năm.


Gặp ông mỗi tuần tôi thường hỏi tình hình phat triển đạo Cao Đài trên hành tinh này thế nào. Ôâng cho tôi biết’’cái họa cộng sản ‘’đã làm cho nhiều chức sắc Cao Đài khốn khổ nhưng lại là dịp cho Đạo Cao Đài phát triển mạnh trên hành tinh trái đất này vì người Cao Đài vượt biên đi tỵ nạn cộng sản đã đem đạo đi khắp nơi trên hành tinh trái đất.

Thánh thất Cao Đài của Đạo Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh ở nước ngòai trước năm 1975 chỉ có ù ở Pháp ở Nhật ở Căm Bốt nay thì hầu như khắp hành tinh trái đất này đều có thánh thất Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh và tín hữu không phải chỉ có người Việt Nam mà có cả người Mỹ người Nga người Pháp người Đức người Nhật người Trung Quốc người Úc đại lợi người Ấn Độ người da vàng da đỏ da nâu da trắng da đen đủ cả theo thống kê mới nhất thì số tín hữu Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh người nước ngòai đã lên tới cả triệu và còn đông thêm nữa vì Đạo Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh là Tôn giáo ’’mở’’ thờ Phật thờ Chúa thờ Thần thờ Thánh thờ Tiên và không bài xích bất cứ tín ngưỡng nào.

Hơn bất cứ tôn giáo nào trên hành tinh trái đất này Đạo Cao Đài có hẳn một cơ quan là Bát Qúai Đài chuyên làm công việc cầu’’cơ bút ‘’ tiếp xúc với các đấng bậc ‘’khai đạo’’ như Lý giao tông như Cao Đài Tiên Ông để giữ gìn giềng mối đạo cũng như phát triển Đạo. Năm xưa không tiền không kiến trúc sư không công trình sư chỉ nhờ ‘’cơ bút’’ mà Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đã xây dưng được Tòa Thánh Tây Ninh đồ sộ. Ngày nay trước sóng gió thời đại’’cơ bút’’ bi người cộng sản công khai cấm nhưng ‘’cơ bút’’ vẫn tồn tại và tiếp tục tồn tại để hiện đại hóa Đạo Cao Đài vì lấy’’ tự nhiên ‘’chống ‘’siêu nhiên’’ lấy cái nhất thời chống cái muôn đời thì chỉ có thua thôi.

Mỗi khi ngồi nói chuyện với Thừa Sử Lê Quang Tấn là tôi lại nhớ tới Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc một nhân vật lúc nào cũng xưng là bần đạo. Tôi nhớ 51 năm trước nhà cách mạng Nguyễn Thế Truyền người bạn tù Mã Đảo của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc dẫn tôi và thi sĩ Nguyễn Vỹ đi tham quan Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh sau đó vào yết kiến Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc được ngài tiếp khá trọng thị và trong trao đổi tôi và thi sĩ Nguyễn Vỹ tỏ ra khâm phục Đức Hộ Pháp.

Ngài hỏi chúng tôi có thể đại diện Cao Đài làm bộ trửơng được không chúng tôi đã trả lời không thích làm bộ trưởng chỉ thích viết văn viết báo Đức Hộ Pháp cười và vỗ vai nhà cách mạng Nguyễn Thế Truyền rồi phán rằng’’ ông chọn bạn vong niên hay lắm’’ ông không thích danh lợi đã đành bạn ông cũng vậy Đạo Cao Đài có được những tín đồ như ông và bạn ông chắc sẽ phát triển mạnh nhà cách mạng Nguyễn Thế Truyền cười và nâng ly rượu Rhum Saint James pha nước mía tươi và nước đá làm một hơi rồi nói Cao Đài hay lắm nhưng chắc kiếp sau mình mới ‘’tu’’ được kiếp này mình bận viết lách và làm cách mạng.

Hồ Nam
12.2005

Trich Viễn Tượng Viet Nam số tháng 12-2005


VẠN MỘC CƯ SĨ
bình luận


Bài này ,ông Hồ Nam viết năm 2005, nay tình cờ tìm thấy trên Tạp Chí Viễn Tượng Việt Nam của Đoàn Viết Hoạt. Ông Hồ Nam ở Việt Nam đã gửi bài cho ông Đoàn Viết Hoạt kết quả ông bị Cộng sản bắt giam một thời gian dài theo như tờ báo An Ninh Thế giới của Công An Việt Cộng. Bài viết của Hồ Nam cho tôi vài tia sáng về một vài nhân vật Miền Nam mà tôi đã gặp. Tôi xin trình bày cùng chư độc giả.

1. Về ông Giản Chi

Trong bài trước, viết về ông NGUYỄN DUY CẦN, tôi có nói đến một ông già trên 70 được Việt Cộng cho về nghỉ, ông ta còn cầu xin ở lại để được học tập tiến bộ, ông luôn luôn chạy theo Lý Chánh Trung hy vọng được ở laị dạy Văn Khoa, sau này thành Tổng Hợp. Người đó chính là cụ Giản Chi.

Xưa nay tôi cứ tưởng ông viết Nho, Lão, Phật thì chắc là lễ nghĩa liêm sỉ đầy mình nhưng mà sau khi Việt Cộng vào thì rõ mặt nịnh hót hèn hạ. So với Nguyễn Duy Cần thì ông không bằng cái gót chân của Thu Giang. Nay đọc bài của Hồ Nam mới biết là ông ta đã yêu Marx từ lâu , đã " thờ Mao Chủ tịch và Stalin bất diệt" như lời Tố Hữu chứ không phải là nịnh hót. Ông theo Marx tâm phục khẩu phục, kính lạy tụi quân quản và tụi nằm vùng thật sự chứ không giả dối như Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khải! Tại sao ông không vào cục R mà làm bộ trưởng như Trương Như Tảng, như Nguyễn Văn Kiết! Tiếc quá trời ơi! Ông ta quả là một chiến sĩ vô sản đầy mình cho nên khi nhắm mắt được tụi Saigon cúng tế! Nguyễn Hiến Lê là một tay nằm vùng . Ai không tin thì đọc Hồi Ký của ông ta thì rõ! Người tây phương có câu:"Hãy cho tôi biết ông chơi với ai thì tôi sẽ nói cho ông biết ông là người thế nào ". Ông chơi với Nguyễn Hiến Lê thành thử ông trở thành đỏ.! Cũng có thể hai ông là đồng chí với nhau từ lâu, đúng là " ngưu tầm ngưu, mã tầm mã"!
Sau 1975, nhiều tay Việt Cộng trong trường được điều đi công tác nơi khác. Một vài tay múa may quay cuồng bên cạnh Lý Chánh Trung. Một vài ông không phải nằm vùng cũng đeo băng đỏ quân quản lượn qua lượn lại " hồ hởi phấn khởi" trong đó có một vị tu hành. Nhưng vài ngày sau đám tự động đeo băng đỏ không còn đeo băng đỏ nữa, và các linh mục, thượng tọa được trả về cho tôn giáo. Có một vài kẻ nằm vùng được ban quân quản chọn làm tổ trưởng, tổ phó cai quản đám giáo sư ngụy. Không biết đàng sau họ ăn nói như thế nào chứ trước mặt chúng tôi, một vài kẻ kín đáo, im lặng. Cái ông lưu manh và khôn ngoan này sau cũng sang ở Califorina như ai! Cụ Giản Chi không có tước vị gì, không được giao trọng trách gì. Cụ im lặng như cái bóng bên cạnh Lý Chánh Trung., mặt có vẻ hơi buồn, và thái độ có vẻ " rụt rè gà phải cáo" chứ không hiên ngang, anh hùng như Lý Chánh Trung, Nguyễn Trọng Văn, Lê Tử Thành! Phải chăng cụ nhớ ông trung tá con trai cụ và những lời thống thiết của con ông trước khi ra đi và trong trại tù gửi về?

2. Thừa sử Lê Quang Tấn


Trước đây trong bài NGƯỜI CỘNG SẢN TIẾN BỘ?, tôi kể chuyện trước 1975:

Lúc bấy giờ, chúng tôi đi dạy Hòa Hảo, Cao Đài và Cần Thơ thường bằng xe Van của các Viện. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng đi Hòa Hảo, Cần Thơ bằng máy bay. Tôi còn nhớ ấn tượng một ngày trước 1975, tôi lên dạy tại Đại Học Cao Đài. Khi về, xe của Viện Đại Học đi trong buổi chiều gần hoàng hôn qua vùng hoang vắng. Tôi nói:
"Lúc này vắng vẻ quá, coi chừng cọp ra chận đường!"


Trên xe lúc bấy giờ có vài giáo sư, vài vị chức sắc, và ngài Viện Trưởng Luật sư Nguyễn Văn Lộc nguyên Thủ tướng thời Nguyễn Cao Kỳ. Ngài chức sắc trấn an tôi với giọng điệu tin tưởng: "Cụ Hồ rất trọng Ngài Hộ Pháp. Thấy cờ và xe của Đạo là họ tránh xa." (Chắc là hai bên có mật ước!)


Ngài Viện trưởng nói:" Cộng sản bây giờ tiến bộ lắm, không phải như hồi 1945!"
Nghe các Ngài nói vậy, ai cũng im lặng nghe. Và tôi cũng không dám có ý kiến tiếp nhưng lòng ngao ngán vì Ngài Viện Trưởng là một tiểu thuyết gia, một luật sư và một thủ tướng chính phủ quốc gia mà trình độ chính trị như vậy! Lời của hai ông đều sai về phương diện lý luận và thực tế. Nếu có tiến bộ thì không phải tất cả đảng viên cộng sản, và đảng cộng sản đều tiến bộ. Nếu đọc Marx hay nghe Mao nói thì phải biết cộng sản coi khinh tôn giáo và trí thức. Dưới con mắt của Marx, Mao, Hồ, tất cả triết lý Đông Tây kim cổ đều lạc hậu, phản động, chỉ có thuyết của Marx là khoa học, tiến bộ, bênh vực hữu hiệu cho giai cấp vô sản. Và ngoài Marx, Lenin, Stalin, Mao, Hồ tất cả đều là kẻ thù của giai cấp, , đáng bỏ tù hoặc chém giết. Những ai không theo cộng sản đều là phản động, kẻ thù của nhân dân. Huỳnh giáo chủ, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm bị giết thì sao Hồ Chí Minh lại tôn trọng Hộ pháp Phạm Công Tắc?
Như chúng ta, trừ những đồng chí nằm vùng, ở Miền Nam là mang tội theo Mỹ ngụy, tổ tiên làm quan hay làm việc cho Pháp là phạm tội phong kiến, tay sai thực dân là có nợ máu với nhân dân. Nếu có học hành chút đỉnh là tội tiểu tư sản. Nếu ai có cửa hàng, có ruộng đất là thuộc giai cấp tư sản, địa chủ bóc lột. Ai theo tôn giáo là mê tín dị đoan, là phản động. Ngài Hộ Pháp có thoát được những tội trên không mà tin rằng Hồ Chí Minh kính trọng? Đó chỉ là lời phỉnh phờ, hơn nữa là kế " mượn dao giết người" của cộng sản. Kẻ trí đọc Tam Quốc Chí là hiểu mưu thâm của cộng sản. Nhất là bậc chân tu có huệ nhãn thì phải biết đâu là chân , đâu là giả chứ, và phải khiêm tốn sao lại tự hào là được ông Hồ kính trọng?

Sau 1975, mỗi người mỗi ngả, tôi không còn gặp lại hai ông, nhưng tôi biết hai ông Viện trưởng và vị chức sắc kia đều có dịp bóc lịch vài năm trong trại tù cộng sản để suy gẫm về đề tài cộng sản tiến bộ hay không và tiến bộ cỡ nào! Cộng sản có yêu tôn giáo không? Hồ Chí Minh có thực tâm kính trọng ngài Hộ Pháp không ?


Vị chức sắc ngồi cạnh tôi nếu tôi không lầm thì là Ngài Lê Quang Tấn. Tôi còn nhớ quý vị trong xe giới thiệu Ngài phẩm vị lúc đó là Truyền Trạng. (Tôi có lầm với vị nào khác chăng vì tôi chỉ gặp Ngài một lần mà thôi). Tôi cứ tưởng mấy ông này vì bị Ngô Đình Diệm kiềm chế nên sinh ra có cảm tình với cộng sản, hoặc là họ là người Miền Nam chưa nếm mùi cộng sản cho nên sung sướng khi nghe bọn Việt Cộng nịnh hót, tán dương để chúng lợi dụng. Nay đọc bài của Hồ Nam viết, mới biết rằng quý ông Cao Đài có chương trình lớn hơn tôi tưởng. Đó là chương trình Trung lập hóa Việt Nam của Ngài Phạm Công Tắc, Lê Quang Tấn được Hồ Chí Minh và Tôn Đức Thắng ca tụng!

Đọc Hồ Nam, tôi mới thấy mấy tay nhà báo ngày trước giỏi thiệt, tin gì cũng biết, việc gì cũng hay. Tuy vậy, tôi vẫn nghi ngờ không biết Hồ Nam có sai lầm không. Tôi phải lục tài liệu tìm tiểu sử của Ngài do Cao Đài viết thì thấy quả ngài chủ trương sống chung hòa bình:

Sau Hiệp Định Genève ngày 20-7-1954, nước VN bị phân chia thành hai miền Nam Bắc, lấy sông Bến Hải làm ranh giới. Miền Bắc chịu ảnh hưởng của khối thế lực Cộng sản, Miền Nam chịu ảnh hưởng của khối thế lực Tư bản.

Đức Phạm Hộ Pháp thấy rõ sẽ có cuộc nội chiến tương tàn tương sát giữa hai miền Nam Bắc, nên Đức Ngài đưa ra chánh sách Hòa bình Chung sống, hòa giải hai miền, thống nhứt với nhau bằng thương thuyết tương nhượng, nhưng không được chánh phủ hai miền ủng hộ, nhứt là Ngô Đình Diệm ở miền Nam dựa thế lực của nước Mỹ nhứt định đánh Cộng sản. Do đó, Ngô Đình Diệm tìm mọi cách khủng bố Đức Phạm Hộ Pháp và trấn áp Đạo Cao Đài.

http://caodaism.org/CaoDaiTuDien/h/h4-112b.htm#18.%20Duc%20Pham%20Ho%20Phap%20luu%20vong%20Cao%20Mien

Té ra Ngài cũng như ông đạo Dừa chủ trương "mèo chuột sống chung hòa bình" . Trong di chúc của Ngài có đoạn::


"Bần đạo qui Thiên, tạm gởi thể xác nơi đất Cao Miên một thời gian. Ngày nào nước nhà độc lập thống nhất hoặc thực hiện đúng theo đường lối Hòa bình Trung lập, sẽ di liên đài về Tòa Thánh Tây Ninh."(Wikipedia)


Nếu thích trung lập sao ngài không chạy qua một nước khác như Thụy Sĩ mới thật là một nước trung lập, Cao Miên không phải là một quốc gia trung lập.Ngài không biết và không thấy Cao Miên thực tế lúc đó và sau này là theo cộng sản sao? Trước 1975, nếu Việt Nam không nhờ Mỹ thì nhờ ai để chống Liên Xô, Trung Cộng? Lúc đó chống Mỹ nghĩa là dọn đường cho cộng sản xâm chiếm miền nam, và tiến lên xâm lược Thái Lan, Singapore. Chủ trương trung lập chống Mỹ là muốn làm tôi tớ cho chủ nghĩa cộng sản và Liên Xô, Trung Cộng, và như thế không phải là trung lập! Không có lực lượng Pháp, Mỹ và quốc gia thì Cộng sản đã nuốt chững miền Nam sau 1945. Và từ đó, Ngài Hộ pháp, chức sắc Cao Đài và các hòa thượng, linh mục và "ngụy quân nguy quyền" đã chém tre đẵn gỗ ở Thái Nguyên, Hoàng Liên Sơn, Bắc Giang, Bắc Kạn.. . chứ không phải chờ đến 1975. Nếu theo đúng di chỉ của Ngài, nắm xương tàn của Ngài phải gửi lại Cao Miên không biết bao giờ về Việt Nam bởi vì Việt Nam nằm cạnh Trung Cộng thì phải theo Trung Cộng, làm tay sai Trung Cộng hoặc chống lại Trung Cộng. Nay Trung Cộng xâm lược , Việt Nam yếu làm sao chống Trung Cộng? Trước mắt phải liên minh với Mỹ, Ấn, Nhật và Đông Nam Á vì ngoài liên minh này không ai đủ sức chống Trung Cộng. Chúng ta là người miền Nam, bị Cộng sản gán cho tội theo Mỹ ngụy, làm CIA, làm tay sai đế quốc Mỹ, nhưng Cù Huy Hà Vũ và nhiều ông cộng sản bây giờ cũng muốn liên minh với Mỹ chống Trung Cộng! Theo Trung cộng hay theo Mỹ phải chọn một trong hai, như thế thì không thể nào Trung Lập.Cao Miên cũng là nước yếu, không thể trung lập được. Ngài Hộ Pháp muốn trung lập mà nào có được đâu! Đây là một vấn đề quốc tế to lớn, Ngài Hộ Pháp và Cao Đài giáo làm sao có thể giải quyết đuợc mâu thuẫn quốc tế gay go như vậy mà nhảy vào? Quý vị có thấy lúc đó các phái Thiên Chúa, Tin Lành, Bàhai, Ấn Độ giáo.. im lặng chứ có tuyên bố gì đâu! Bởi vì họ mặc cho bên chính trị quân sự muốn làm sao thì làm, họ chỉ thủ phận tôn giáo.Còn Hồi giáo xưa nay vẫn chống Âu Mỹ và thân Liên Xô, Trung Cộng, như vậy là họ thân Cộng sản, chống Âu Mỹ, không phải là trung lập. Cộng sản muốn giải phóng thế giới, Tư bản Mỹ muốn đổ quân vào Triều Tiên, Việt Nam, Cao Đài giáo có sức ngăn chận máy bay và xe tăng của tư bản và công sản. không ? Nếu mình chỉ nói suông, tuyên bố văn hoa thì có ích gì, chỉ hại bản thân quý vị lãnh đạo và gây khó khăn cho giáo chúng mà thôi! Mình yếu mà chạy theo Trung Lập thì cũng như Nerhu, Sihanouk một là bị đánh hai là bị lợi dụng ! Ôi, chiến tranh nồi da xáo thịt đã xảy ra từ 1945 chứ nào phải mới xảy ra sau 1954. Cao Đài giáo trong thời Pháp thuộc đã khôn khéo mà lập đạo, tại sao sau 1954 lại không khôn ngoan để giữ đạo? Thiên cơ dạy thế hay ai xui khiến thế? Dẫu sao, đứng về phương diện quốc gia và Đạo, lập trường của ngài Hộ Pháp chỉ có lợi cho cộng sản và gây trở ngại cho việc phát triển Đạo, giúp kẻ ác thực hiện cảnh tương tàn!.


Trước đây trên Bên Kia Bờ Đại Dương số 192 trong bài TRUNG LẬP VIỆT NAM , tôi có nói rằng Trung Lập là một thuyết rất hay. Mặc kệ thiên hạ đánh nhau, mình không theo ai cả. Nhưng thực tế nước ta yếu, nhỏ, bên cạnh anh khổng lồ Trung Quốc, và bị các cường quốc khác xâm lược, khó mà trung lập. Ta muốn trung lập, nhưng người nước ta có kẻ theo Trung Quốc, theo Nga, theo Nhật, theo Pháp, theo Mỹ thì làm sao Trung lập? Nếu có một chinh phủ trung lập thì sớm muộn cũng bị một trong hai phe hoặc cả hai phe thanh toán, và như vậy mình ở vào thế " lưỡng đầu thọ địch" như Sihanouk và Cao Miên! Ngài Hộ Pháp, ông Hồ Hữu Tường, và nay ông Vũ Quốc Thúc muốn trung lập hóa nhưng Việt Nam có quyền gì mà đòi như thế?Trung Cộng tất không chịu. Việt Cộng phe thân Trung Cộng tất không chịu. Trung lập chống Mỹ , sống chung hòa bình với 16 chữ vàng tức là làm nô lệ Trung Cộng., điều này tất nhân dân ta không đồng ý. Vã lại chủ trương trung lập, mèo chuột sống chung thì chỉ có mèo là có quyền tuyên bố như thế dù đó chỉ là giả dối. Sống chung hay ăn thịt là quyền của mèo . Còn chuột làm sao mở miệng chuột mèo sống chung, trừ những con chuột ăn tiền của mèo. Dù hoàn cảnh nào đi nữa, chủ trương chuột mèo sống chung làm cho chuột lo lắng còn mèo thì sung sướng! Ngài Hộ Pháp, ông Hồ Hữu Tường và Vũ Quốc Thúc không biết mang lông mèo hay lông chuột mà nói trung lập? Ông đạo Dừa chủ trương Mèo chuột sống chung thì sau 1975 mất tích, không còn ngồi ở tịnh xá để rao giảng Mèo chuột sống chung! Người thì bảo ông đi học đại học cao cấp, hoặc được đảng cho đi mò tôm ở cù lao Rồng rồi! Người thì bảo ông truớc 1975 ra Hà Nội thường xuyên, và nay công tác hoàn tất, có lẽ ngài đang được bồi dưỡng tại một biệt thự ở Champa hay Đà Lạt, tha hồ ăn mặn và giải trí với các em chân dài cho bõ những ngày uống nước dừa và ngồi giữa nắng Sàigon như lửa cháy! Có nhiều kẻ có bằng cấp, lên giọng độc lập tự do về chính trị, bảo rằng ta phải tự quyết, tự tìm lối thoát cho mình. Mình nước nhỏ, không bị nước này thì cũng bị nước khác chi phối thì làm sao có quyền tự chủ. Từ khi Pháp thuộc đến nay, nước ta đều bị ngoại bang thống trị cho nên người Việt bên kia theo lệnh Nga, Tàu, bên này phải theo Pháp Mỹ, không còn đừơng nào khác. Ai nói độc lập, tự do trong thời kỳ này là nói láo! Chúng ta có quyền mơ ước độc lập tư do chứ chưa thực sự độc lập tự do. Dẫu sao, với Pháp, Mỹ dân ta còn có một số độc lập, tư do tương đối hơn là sống với cộng sản..


Khoảng thập niên 60, một số nước không cộng sản như Ấn Độ, Ai Cập, Cao Miên, gần 100 nước chủ trương trung lập, nhưng sự thực họ thân Liên Xô, Trung Cộng mà chống Mỹ. Ấn Độ thân Liên Xô, Sihanouk ăn nằm bên Trung Quốc thế mà xưng là trung lập! Đó là một tổ chức thiên cộng chứ không phải Trung lập thật sự. Pháp sau 1954 quay ra chống Mỹ và đi theo đám trung lập này. Đức Hộ Pháp cùng một số chức sắc Cao Đài cũng theo chủ trương này và được cộng sản hoan hô!

Sau đệ nhị thế chiến, Pháp yếu phải từ bỏ các thuộc địa nhưng vẫn muốn trở lại với chính sách thực dân mới. Khoảng 1960, Hoa Kỳ bất mãn với chính phủ Ngô Đình Diệm nên hai ông Diệm Nhu đã muốn bỏ Mỹ theo Pháp và Pháp hứa viện trợ Việt Nam. Nhiều tài liệu cho biết ông Nhu đã mật đàm với Cộng sản. Phải chăng ông Diệm muốn trung lập theo Pháp hay chung sống hòa bình với cộng sản? Nếu chủ trương này thành công thì Việt Nam đã thống nhất mười năm trước 1975 và ông Diệm, Nhu, bà Trần Lệ Xuân đã được Hồ Chí Minh, Lê Duẩn bắt tay chào đồng chí và ôm hôn thắm thiết. Kết quả , hai ông Diệm Nhu đã chết
thảm thương khiến cho nhiều người trong đó có trung tá kiêm lãnh tụ Cần Lao Nguyễn Văn Châu thương tiếc một nền hòa bình dang dở! Sau 1963, những người từ Pháp về Việt Nam vận động trung lập, và Dương Văn Minh bị Nguyễn Khánh tố cáo là theo trung lập! . Ngày 30-4-1975, người Pháp cũng muốn gỡ gạc với chính sách Trung lập nên đã đặc phái đại tướng Vanuxem sang thực hiện sự vụ này nhưng thất bại. Nhưng Pháp yếu nên bắt tay với Trung Cộng để trung lập Đông Dương. Năm 1985, ngài Hồ Tấn Khoa, Hồ Văn Bạch các đạo hữu Cao Đài không được thiên cơ báo trước hay sao mà phải bị thất bại ? Và thiên cơ không báo trước cuộc nổidậy này là do Pháp và Trung Cộng lãnh đạo ở đàng sau? Nếu cuộc nổi dậy này thành công thì Việt nam lại rơi vào tay Pháp và Trung Cộng, có lợi gì đâu!


Nhưng trung lập hay không thì nay đã rõ. Ấn Độ. Miên, Việt phải đối diện với Trung Quốc xâm lược. Trong hoàn cảnh này, chúng ta có thể hô hào Trung Lập không?


Cao Đài chủ trương cơ bút. Tôi tin có thần thánh, có phép màu, có tiên tri. Tôn giáo nào khởi đầu cũng có việc tiên tri. Nhưng biết ai là bậc tiên tri? Ai là kẻ điên khùng hoặc giả mạo? Cơ bút có thật sự linh ứng không? Nếu cơ bút linh ứng thì tại sao cơ bút không báo trước sự phản bội của Nguyễn Thành Phương và đức Hộ Pháp phải liều thân chạy qua Cao Miên? Tôi thắc mắc là Ngài Thượng tọa Thiện Minh có nói đến bài sấm truyền của Phạm Công Tắc có đoạn

Khi Cộng sản đúng thời đúng buổi

Chiếm Nam Quan cho đến mũi Cà Mau

Lúc bấy giờ Hội Thánh phải nói sao?

Khi đã lở lâm vào trong thế khó

Khi Cộng Sản chiếm quyền hành trong lúc đó

Biết bao nhà tôn giáo phải suy vi

Cấp lãnh đạo và các phẩm chỉ huy

Đứng không vững cho nên vấp ngã

Làm tên tuổi lợi danh tiêu mất cả

Cộng ngày sau sẽ tan rã không còn

Nếu cơ bút cho biết Cộng sản tàn ác thì sao Ngài còn chủ trương trung lập? và các chức sắc Cao Đài một số tin tưởng Cộng sản? Di chúc Ngài Hộ Pháp dặn khi nào Việt Nam trung lập hòa bình mới đưa Ngài về Việt Nam nhưng năm 2006, Việt Cộng đã đưa di hài Ngài về Việt Nam, một Việt Nam làm tay sai Trung Cộng, và đang ở trên bờ vực chiến tranh, nghĩa là không phải một Việt Nam hòa bình, trung lập như Ngài mong muốn.. Thiên cơ không cho Ngài biết điều này hay sao? Ngài có biết là di chúc Hồ Chí Minh còn bị đàn em quăng vào sọt rác thì di chúc Ngài đâu có được Việt Cộng tôn trọng. Ngài có "tiên tri" điều này không? Thượng Tọa Thiện Minh hay Ngài Hộ Pháp có lầm lẫn gì chăng?

No comments: