Tuesday, January 3, 2012

KÝ NGUYỄN MINH CHÂU


TẾT LẠNH NƠI MIỀN YÊN BÁI

Wednesday, January 26, 2011 4:33:57 AM

Sáng tác: Nguyễn Minh Châu. HỒI KÝ.

(Trích hồi ký : Cuộc Đời Đổi Thay)
- Mũ xanh Nguyễn Minh Châu -
Các chiến hữu và quý vị thân mến,
Hôm nay thời tiết mùa Đông đã đến, chúng ta đang sống cuộc đời tỵ nạn nơi xứ văn minh tiến bộ. Gia đình con cháu chúng mình hưởng được cuộc sống đầy đủ, nhà ở rất tiện nghi, được trang bị đầy đủ máy nước nóng, lò sưỡi ấm mùa đông và máy điều hoà cho mùa hè vv…Chúng ta không bị đói lạnh thân xác, nhưng tâm hồn chúng ta cảm thấy lạnh giá vì nỗi nhớ quê nhà, xa quê cha đất tổ.
Chúng ta luôn mong đợi ngày về quê hương trong cảnh thanh bình và được tự do dân chủ. Nhưng riêng ý nghĩ của tôi đã theo dõi tình hình bên nhà từ hơn 30 năm qua nên lo nghĩ là ngày về với tuổi của tôi và những vị cao niên hơn còn xa :

Bao nhiêu năm ta thở dài trăn trở
Xe lăn mỏi mòn sức lực tàn phai
Nỗi buồn nhớ nhà khắc khoải u hoài
Phải nhận đất nầy làm nơi huyệt mộ !?
(Trích bài thơ U Hoài
Nguyễn Minh Châu TĐ3 Soibien)

Mỗi độ Đông về nơi xứ người, trời mây mù ảm đạm và có nhiều mưa buồn lắm, làm cho người lính già thường hay ngồi ôn nhớ lại những kỷ niệm dĩ vãng của đời binh nghiệp khó quên. Rồi nhớ lại ngày 30 tháng 4 năm 1975 oan nghiệt chấm dứt đời lính của chúng mình trong sự nhục nhã và uất hận, để rồi chúng ta bị đày đoạ trong các trại tù lao động khổ sai. Những ai đã từng bị đày trong các trại tù miền Bắc chắc vẫn còn nhớ tới những ngày mùa Đông lạnh xé da cắt thịt của vùng núi rừng hoang vu miền Yên Bái, Bắc Việt.


Tất cả các trại tù miền Bắc đều được xây cất giống nhau một kiểu mẫu như hình trên đây. Mấy dãy nhà trong trại nơi tôi ở nằm trên hai ngọn đồi thoai thoải. Trên ngọn đồi lớn là mấy dãy nhà của những người có sức khoẻ lao động nặng như vác cây rừng và cây bồ đề, vác chỏm là một loại tre rừng nhưng bọng ruột, cày cuốc để canh tác, gánh phân người tưới rau và chăn trâu bò vv…Trên ngọn đồi nhỏ bên cạnh là một dãy nhà dành cho những người tù bị tàn phế, già cả hoặc bịnh hoạn sức yếu làm việc nhẹ như trồng rau, đập tre, chẻ tre và đan lác.
Tội nghiệp ! tù đã ăn đói mà hai người phải vác một thân cây bồ đề rất nặng. Có vài người bị cụp xương sống tàn phế đến bây giờ như anh Trung tá Khoa bạn của tôi đang sống tại Bắc Cali. Nhưng khổ nỗi là đói không dám than, đau cũng không dám rên siết sợ bọn cộng sản cho là phản động.

Nói đến đây tôi liền nhớ tới cái chết tức tửi của cháu Paul gọi tôi bằng cậu ruột. Cháu Paul là Phân Chi Khu Trưởng tại quận Phù Cát của Thiếu tá Phương TQLC. Cháu bị bắt ngay sau ngày 30-4-1975 và bị giam tại các trại tù cải tạo vùng đèo An Khê. Cháu bị đánh bằng báng súng AK 47 nên bị học máu chết ngay tại chỗ lao động vì cải lịnh của tên bộ độ cộng sản để cứu người bạn bị té xỉu trên đường về trại vì đói và kiệt sức. Tên cộng sản buộc người tù té xỉu phải tự khắc phục và vác tre tiếp, đây là danh từ của bọn cộng sản. Cháu Paul cải lời tên cộng sản và vác thay cho bạn mà ra nông nỗi . Mẹ của cháu Paul là bà Hương cựu hiệu trưởng trường nữ trung học Lê Văn Duyệt trước năm 1975. Điều nầy làm tôi ân hận suốt đời vì ngại mang tiếng là con ông cháu cha nên không xin cháu Paul về quận của tôi sớm hơn. Và hơn nữa, mẹ của cháu Paul đã nuôi tôi ăn học từ khi Mẹ của chúng tôi mất sớm từ lúc tôi chưa lên 5 tuổi.
Thôi, cũng là số kiếp của cháu tôi !

Tết trong tù lạnh và buồn não nề !
Trong thời gian chưa được gia đình tiếp tế, chúng tôi rất mong những ngày Tết và những ngày lễ của ông cha bọn cộng sản của chúng nó để trong ba ngày Tết được ăn một chén cơm đầy không độn bắp cứng như đá hay khoai lang phơi khô, và tù được ăn một miếng thịt trâu bằng hai ngón tay chéo. Một con trâu cho cả trại và ban chỉ huy trại. Được chia làm 3 ngày: ngày đầu ăn thịt, ngày thứ hai ăn canh rau nấu với xương, ngày thứ ba ăn da trâu kho nước mắm. Da trâu kho nhớt nhớt và kẹo lại giống như a-dao trong miền Nam pha với vôi sơn tường nhà cho dính. Tội nhiệp những người không có răng cứ nuốt đại vào cho đỡ thèm. Nhưng những món ngon là phải để dành cho bọn cán bộ.

Tôi cũng còn nhớ nơi trại tôi có Trung tá Tuấn, thiết giáp, chỉ huy trưởng căn cứ Đồng Tâm tại Mỹ Tho do Mỹ giao lại. Trong những lúc ra ngoài lao động ông Tuấn có quen được một gia đình mà người cha là lính Pháp bị đày đi kinh tế mới Yên Bái sau năm 1945 làm ruộng rẫy gần trại. Ngày mùng 2 Tết năm 1978 vài tên bộ đội của trại thấy ông Tuấn vác đòn bánh chưng trên đường về chận lại hỏi và dẫn về trại điều tra mới lòi ra sự việc là gia đình của ông đã lén lút gởi tiền và vàng ra Yên Bái tiếp tế cho ông Tuấn. Trung tá Tuấn bị nhốt cả tháng trời và bị đánh đập kêu trời ầm ĩ trong hầm. Nhưng khi được thả ra chúng tôi nhìn ông còn thất thần và không dám nói một lời là bị chúng đánh dã man tàn bạo đến nỗi phần hạ bộ của ông bị sưng to như cái tô. Việc nầy anh Trung tá Lê Bá Bình TQLC tại San José còn nhớ rõ.

Có một bà vợ của tù cải tạo nơi trại khác được giấy phép thăm chồng ngày mùng 2 Tết. Bà gặp Thiếu tá Vang cùng trại với tôi đang chăn bò trên triền đồi gần đường lộ đất và hỏi thăm rằng : Chú ơi ! chú có biết trại nhốt tù cải tạo số 5 ở đâu không ? Mấy anh bộ đội chỉ lòng vòng tôi đi cả ngày nay khổ quá ! Thiếu tá Vang trả lời : bà hãy đi vào 2 cây số nữa thấy mấy anh bộ đội đi lai vãng hỏi họ sẽ chỉ cho bà, tôi cũng là tù cải tạo của trại 1 gần đây. Bà ấy nhìn thấy hình dáng ốm ròm, gương mặt xanh xao hốc hác bà xúc động liền ngã quỵ. Sau vài phút bà tỉnh dậy rồi hai người vắn tắt trao đổi tin tức. Bà được biết ông nầy là Thiếu tá quận trưởng còn chồng bà cũng là quận trưởng cấp Trung tá. Bà thương cảm cho ông Vang một ổ bánh mì, một ít thịt kho khô và vài mươi đồng bạc tiền mới . Ông Vang ăn ngay nửa ổ bánh và dấu thịt kho và tiền vào bìa rừng cẩn thận để dành ăn 3 này Tết. Vụ nầy chỉ có tôi biết vì ông Vang là bạn học của em vợ tôi và biết vợ chồng tôi rất nhiều. Ông Vang nhìn ra tôi nhờ tấm hình chụp gia đình của vợ tôi gởi ra. Anh em ngủ đối diện đã lâu ngày mà chẳng ai nhận ra ai.

Tôi còn nhớ mãi ngày mùng một Tết, Thiếu tá Nguyễn Nghiêm Trưởng phòng An ninh của Tiểu khu BH có đến dãy nhà tôi ở để chúc Tết tôi. Ông đã nói rằng, năm mới em chúc anh được nhiều sức khỏe để học tập tốt và lao động tốt để cách mạng khoan hồng cho anh về sớm với gia đình. Câu nói nầy luôn luôn ở đầu môi chót lưỡi của bọn quản giáo, tôi chán ghét vô cùng nhưng phải nói y rập khi anh em bạn cùng đơn vị thỉnh thoảng gặp nhau hay là viết thơ về thăm vợ con cũng bấy nhiêu câu dặn dò đó. Anh em chỉ nói lén chưỡi bọn cộng sản cho đỡ tức tối nơi vắng người mà thôi.
Một sự việc làm cho tôi không cầm được nước mắt khi tôi lấy gói kẹo ra mời ông Nghiêm dùng gọi là đãi khách ba ngày Tết. Ông Nghiêm nói rằng em không ăn đâu, anh nên để dành ăn cho đỡ đói vì em cũng có phần như anh vậy.

Mỗi tù thỉnh thoảng được phát cho một nắm thuốc lào, nếu ai không hút thuốc thì bọn chúng cho 10 viên kẹo nhỏ, chỉ nghe mùi đường tán chứ chẳng có mùi vị gì mà trong Nam mình gọi là kẹo local. Nhưng bọn cộng sản khen là kẹo của XHCN ngon đáo để.
Vào dịp Tết, ban nhà bếp gói cho mỗi người tù một cái bánh chưng bằng cái bánh Trung Thu, không thịt, không mỡ chỉ có dầu mỡ trộn vào nếp. Một số anh em chia ra làm bốn để ăn mấy ngày Tết cho đở thèm. Tù cộng sản ăn Tết như thế đấy !

Tù buồn cảnh có vui đâu bao giờ ?
Thật ra cái lạnh nơi xứ mình đâu bằng tiết lạnh bên xứ nầy, nhưng vì hoàn cảnh của tù cải tạo ăn không đủ no, mặc không đủ ấm và phải làm lao động khổ sai, nơi ở lại là những dãy nhà mái tranh, vách làm bằng những tấm phên đan bằng tre không kín đáo, nên mùa đông trong các trại tù ở vùng núi rừng ngoài Yên Bái thật là hãi hùng đối với anh em tù chúng tôi.

Chung quanh trại của chúng tôi là núi non trùng trùng điệp điệp với nhiều cây rừng một màu xanh biếc. Lúc mùa đông các dãy núi thường bị mây mù hay sương mờ che phủ nhìn thật là buồn ảm đạm. Dưới chân đồi là con suối, nước chảy quanh năm là nơi anh em tù chúng tôi lấy nước uống và nấu ăn, tắm rửa và giặt giũ. Vào những đêm sáng trăng, dòng nước suối chiếu lung linh đẹp lắm nhưng buồn, vì tù buồn thì cảnh cũng buồn, tù buồn cảnh có vui đâu bao giờ !

Đêm nay trăng chiếu sáng ngời
Mình ta thơ thẩn giữa đồi ngắm trăng
Suối con lấp lánh trăng vàng
Nửa in bóng nước, nửa kia lững lờ
Hồn tôi nửa tỉnh nửa mơ
Lòng buồn tê tái nhớ về đất Nam.
( Minh Châu )

Mùa đông lạnh lẽo mà anh em tù chỉ được bọn bộ đội cộng sản phát thêm cho một cái mền đỏ lói của Trung Cộng nó mỏng te. Đêm đêm gió lạnh cắt da thổi xuyên qua vách tre và mái tranh, nên đêm ngủ anh em tù trùm mền từ đầu đến chân và nằm hai hàng đỏ lòm trên hai sạp tre đối diện nhau, được soi sáng bởi ánh lửa củi rừng chiếu mập mờ, trông giống như hai hàng thây ma trông cũng dễ sợ lắm và buồn não nề !. Khổ nỗi là chúng tôi phải nằm im không dám cựa quậy, vì mỗi lần cựa quậy là hơi lạnh lọt vào lạnh thấu xương.

Mỗi tuần chúng tôi chỉ dám tắm suối có một lần trưa ngày chủ nhựt nếu nắng ráo và nếu được nghỉ lao động. Nhiều người không có can đảm tắm vì rất sợ cái lạnh của nước suối không khác chi nước đá lạnh. Nằm gần bên tôi có người bạn là Trung tá BĐQ, ông ấy sợ lạnh lắm. Ông ấy đã qua đời sau khi được về với gia đình, vì không muốn gợi nỗi buồn của người quá cố nên tôi không tiện nêu tên ông ấy ra. Suốt mấy tháng mùa Đông ông không bao giờ tắm, ông luôn luôn mặc sáu lớp quần áo mà không bao giờ dám cởi tới lớp thứ ba từ trong người đếm ra, để giặc giũ. Quý vị hãy tưởng tượng mỗi ngày lao động nặng thì bao nhiêu mồ hôi thấm rút vào áo quần nó hôi đến cở nào ? Nhưng ăn ngủ và sống chung nhau lâu ngày mình cũng quen cái mùi khó chịu đó đi. Chính mình cũng chẳng sạch sẽ gì lắm, chỉ ít hôi hơn thôi. Cho nên người ta hay nói ở dơ như tù là thế đó.
Sau khi vượt biển tới Mỹ khoảng một tháng tôi xin được việc làm cố vấn tỵ nạn thì được tin anh ấy đã được thả về vì bịnh nặng. Vợ con tôi qua sau tôi một năm và bà xã may mắn cũng tìm được việc làm sau khi tới Mỹ vài tuần tại sở Y tế Monterey. Chúng tôi cố gắng gởi $50 về giúp đỡ anh phần nào vì hai vợ chồng chúng tôi còn nghèo lắm và sáu con nhỏ còn đi học. Không bao lâu sau anh đã qua đời vì đứt mạch máu não.

Trời đã lạnh mà lại đói tả tơi ! mỗi sáng trước khi lao động tù chỉ ăn 2/3 chén cháo lỏng như nước. Nửa giờ sau đi tiểu là chẳng còn gì, lại càng đói thêm. Bọn cộng sản để chúng tôi đói triền miên, đói đến nỗi chỉ nhớ đến miếng ăn còn hơn nhớ vợ con thân yêu. Sau mấy năm đầu bọn cộng sản thấy tù chết nhiều quá mới cho thăm nuôi.

Lúc chúng tôi được đưa về thành Ông Năm Hóc Môn để làm thủ tục lần cuối cùng trước khi thả, những tù cấp Uý nhìn chúng tôi lắc đầu thương cảm vì chúng tôi chỉ còn da bọc xương. Trong khi mấy anh em rất khoẻ mạnh vì họ ăn đủ nhờ thăm nuôi và lao động nhẹ.

Mưa dầm Yên Bái
Miền núi rừng có vẻ đẹp thiên nhiên và rất thơ mộng của miền sơn cước nếu trời trong mây tạnh và nhứt là vào những đêm trăng sáng. Nhưng mùa mưa phùn nơi miền núi rừng ngoài Yên Bái cũng rất dễ sợ, chẳng đẹp đẽ và thơ mộng như các nhà văn hay thi sĩ thường hay tả cảnh đẹp nên thơ của mưa phùn Đalat hay Pleiku mù sương. Hạt mưa phùn ngoài ấy rất nhỏ phải nhìn qua rặng núi xanh mới thấy mưa rơi. Nhưng lao động ngoài trời vài giờ là nước thấm ướt cả áo quần. Trời mưa ban ngày, mưa cả ban đêm và mưa triền miên suốt tháng trời, gọi là mưa thúi đất vì đất phải nổi sình và lầy lội. Đêm về những tiếng ếch nhái và ểnh ương cất tiếng kêu vang như tiếng ai khóc than và rên siết trong cảnh rừng âm u và tĩnh mịch làm cho người tù buồn thấu tâm can !
Chân tôi đi khập khểnh nên thường hay bị té, mà mỗi lần té là phải thay đồ và giặc quần áo khổ lắm.

Rừng hoang cả tháng mưa dầm
Trại tù Yên Bái lặng trầm trong đêm
Suối reo róc rách êm đềm
Côn trùng rên rỉ càng thêm não nùng.
( Minh Châu )

Có rất nhiều anh em đồng đội bị chết vì nhiều nguyên do như chịu không nỗi cái lạnh, cái đói hoặc bịnh hoạn mà không có thuốc chửa trị. Có những bà vợ đi ngàn dậm ra Bắc tìm thăm chồng và khi ra tới nơi mới hay chồng đã chết vì bọn cộng sản không cho thông báo tin về cho gia đình. Các người tù bất hạnh đó đã bị chôn vùi trên những đồi hoang vu hiu quạnh. Tôi xin ghi vài dòng thơ của vợ tôi thuật lại câu chuyện rất thương tâm của một bà vợ ra thăm chồng ngoài đất Bắc. Khi ra đến trại bà mới được tin là chồng bà đã chết, bà chỉ còn thấy nấm mộ đất của chồng nằm trên triền núi heo hút lạnh câm, do anh em tù cải tạo chỉ báo.

Lẻ Bóng

Xót thương ai đắp mộ chồng
Tóc xanh em cắt đắp mồ người yêu
Âm dương hai ngả anh ơi
Chôn anh đất Bắc, em về miền Nam
Ngày xưa lội khắp bốn vùng
Nhọc nhằn gian khổ, cũng về thăm con
Hy sinh giữ nước giữ bờ
Bây giờ lao lý, xương tan chốn nầy
Nghĩ suy thật quá đau lòng
Anh ơi giờ đã bỏ em thật rồi
Từ đây trở giấc canh khuya
Thèm hơi anh ướm, thiếu chăn tình nồng
Một mình một bóng lẻ loi
Lòng sầu tê tái, tuôn dòng lệ rơi
Bốn phương mưa gió não nề
Cốt hài phương Bắc, bóng hồn theo em
Hiển linh phò trợ mọi điều
Cho em vẹn giữ lời thề năm xưa
Rồi đây dầm dãi nắng mưa
Thay anh nuôi trẻ, không buồn cút côi
Lê la khắp chốn đó đây
Khác chi chim nhạn lẻ bầy kêu sương.

( Tuyết Nga )

Tôi không bao giờ quên một cảnh tượng buồn ảm đạm khi chứng kiến hình ảnh của anh em tù cải tạo với vẻ mặt trầm buồn đẩy xác chết của cố Trung tá Tôn, bạn của tôi và là cựu Phó trưởng phòng Nhì Quân đoàn III ở Biên Hoà. Thân xác ông Tôn được lịm vào một quan tài đóng bằng bốn tấm ván gỗ thô sơ. Anh em tù đẩy quan tài của ông Tôn trên một chiếc xe cải tiến, ( loại nhỏ hơn xe bò ) đi trên con đường dốc lúc chiều sẫm tối và chôn ông trên triền núi khi trời đang lất phất mưa. Cố Trung tá Tôn bị chết tức tưởi sau khi ông bị nhốt vào hầm tối vài ngày vì ông đã trốn trại mấy hôm thì bị nhân dân du kích của cộng sản bắt ông lại. Tôi nghĩ là ông bị bọn bộ đội cộng sản man rợ, ác ôn siết cổ chết rồi lên tiếng là ông Tôn thắt cổ tự sát, vì cái hầm tối mà chúng nhốt tù nhỏ như một cái huyệt đào sâu trên triền đồi. Tù chỉ có bò vào rồi nằm chứ ngồi cũng không đựợc làm sao mà dễ dàng dùng dây treo cổ được.

Những hơi thuốc lo sưỡi ấm lòng tù cải tạo
Tội nghiệp cho những ông tù cao niên, họ ngủ rất ít vì lạnh quá không ngủ được. Giữa đêm khuya các ông thường hay ngồi bên cạnh đóng củi lửa đỏ cháy bập bùng giữa hai hàng sạp tre để sưởi ấm cho tù. Nhưng có thấm vào đâu vì anh em tù ngủ trong những dãy nhà tranh không kín đáo đối với cái lạnh và gió buốt của vùng núi cao suốt đêm thổi lòn qua khe lá. Tôi còn nhớ mãi và sẽ không bao giờ quên được hình dáng của cựu Trung tá Đ…. và vài ông nữa, tuổi bằng cha chú của chúng tôi lúc bấy giờ. Mình các ông quấn mền, đầu trùm khăn và mặt mày che kín mích chỉ còn thấy lộ đôi mắt sâu hỏm để nhìn thấy, còn chừa ra lổ mũi để thở và đôi môi tím ngắt lâu lâu hít vài hơi thuốc lào cho đỡ lạnh. Mỗi lần tôi thức dậy vì cần ra ngoài cho vấn đề cá nhân, tôi trông thấy hình dáng của mấy ông thật là ưu sầu . Nếu tôi là hoạ sĩ tôi sẽ vẽ lại một bức tranh bất hủ của cái cảnh mờ mờ ảo ảo giữa đêm khuya với những hình dáng gầy đét xanh xao thật đáng thương của cảnh tù Yên Bái.

Ngồi bên ánh lửa bập bùng
Lòng tù xao xuyến nhớ con, vợ hiền !
Dưới đồi suối chảy triền miên
Đêm nay mưa nhẹ, gió hiu hắt buồn !
Gió đưa những giọt mưa tuôn
Như dòng nước mắt khóc tù xót xa !
Trăng đầy trăng khuyết trăng tà !
Còn bao lâu nữa về nhà vợ con ?
( Minh Châu )

Nghe đọc báo hoặc kiểm điểm công tác trong ngày
Sau buổi cơm chiều mấy anh tù có nhiệm vụ làm trưởng khối phải lên văn phòng trại gặp tên bộ đội quản giáo của khối để nhận lịnh hay nghe lời kiểm điểm và về nói lại cho tù nghe rồi đọc báo. Đây là lúc mà tôi chán nhứt vì báo của chúng nó chẳng có gì để đáng nghe. Cái gì cũng tốt, nhân dân lao động tốt, sản xuất của cả nước luôn luôn vượt chỉ tiêu về mọi mặt mà dân miền Bắc vẫn đói rách triền miên nói chi đến tù cải tạo. Có đôi khi mệt mỏi và buồn ngủ quá tôi ngồi trên sạp tre, ngủ mê đến ngáy to quá. Anh Trung tá Bùi Văn Huấn BĐQ hay đánh thức tôi dậy và nói mầy ngáy to quá tụi nó báo cáo là mầy chết. Anh Huấn là anh ruột của BS Bùi Văn Rậu. Anh Rậu là y sĩ của TQLC lúc xưa và hai anh em đang sống tại San José. Anh Rậu còn hành nghề lại và cũng thường có mặt trong các lần đại hội TQLC.

Đôi lời với các bạn tù Yên Bái
Sau khi chúng ta đã rời trại tù miền Bắc, những ai vì già yếu bịnh tật được thả sớm hơn, rồi kẻ vượt biên, người thì chờ đi diện HO hay đoàn tụ. Bây giờ chúng ta sống rải rác khắp bốn phương trời và lo làm việc tạo cuộc sống mới nên rất ít khi được gặp lại, một số còn sức khoẻ gia nhập vào các hội đoàn hoạt động trong cộng đồng chống cộng hoặc cứu trợ anh em thương phế binh bên nhà và tham gia nhiều công việc thiện nguyện khác vv…Thỉnh thoảng nghe tin buồn là người nầy đã ra đi một cách đột ngột vì lý do bịnh ngặt nghèo, người thì mắc phải bịnh không thể cứu chửa và nằm nhà hoặc nơi viện dưỡng lão để chờ chết. Tôi đang viết đoạn hồi ký này thì được tin buồn do chị Chiêu vợ của Trung tá Lê Quang Chiêu vừa ra đi vì bịnh già yếu. Ông Chiêu ở cùng chung trại và lớn hơn tôi 10 tuổi.
Còn một số trở thành phế nhân và cố lê lết quãng đời còn lại nơi xứ người buồn thật là buồn !

Nhân mùa Đông đến trời đang mưa lạnh và buồn lắm, tôi vừa viết xong thêm vài trang hồi ký và xin chia xẻ cùng anh em chiến hữu và quý vị vài kỷ niệm hãi hùng trong các trại tù nơi rừng thiêng nước độc của miền núi hoang vu Yên Bái, Bắc Việt. Tôi xin có đôi lời thăm hỏi những bạn tù cùng chung cảnh ngộ còn đang sống cuộc đời tỵ nạn khắp nơi và thân mến chúc nhiều sức khoẻ để vui hưởng với con cháu trong những chuỗi ngày còn lại.

Tôi xin nghiêng mình tưởng niệm những người bạn tù đã bỏ thân nơi đất Bắc. Không có gì khổ và nhục cho bằng đời sống tù với bọn cộng sản. Có câu : « Nhứt nhựt tại tù bằng thiên thu tại ngoại », nhưng tôi nghĩ một ngày tù với cộng sản bằng trăm cái thiên thu !

Vài lời kết luận
Sau cuộc chiến mà đồng minh đã rút quân và bỏ lại một miền Nam đau khổ và chúng tôi, những cựu quân nhân và công chức của chế độ cũ bị đày đọa trong các trại tù khổ sai, mất cả nhân quyền của con người.
Các vị cựu Lãnh đạo của miền Nam, các Chỉ huy Cao cấp trong Quân đội của chúng tôi đã bỏ lại các cấp thuộc quyền đang chiến đấu chống trả bọn cộng sản khắp nơi trong lúc một số cấp lãnh đạo đã di tản ra nước ngoài. Và có lẽ vì bận lo ổn định cuộc sống mới cho gia đình nơi xứ người nên không có thì giờ mà nghĩ đến việc cứu sống sống sinh mạng anh em trong tù. Tôi không dám trách ai, nhưng đây là sự phũ phàng của những đồng đội còn ở lại, nhứt là tù cải tạo.
Nước Mỹ đồng minh và cả thế giới đều bỏ mặc hay quên lãng chúng tôi ? mặc tình cho bọn cộng sản tha hồ đày đoạ. Chúng tôi đã từng ngày mong ngóng và lắng nghe những tiếng nói của các vị đã di tản đi trước và tình hình thế giới bên ngoài với lương tri nhân loại sẽ binh vực và cứu giúp chúng tôi. Nhưng niềm mong đợi của chúng tôi chỉ là sự tuyệt vọng. Tôi tưởng chừng như Việt Nam lúc bấy giờ bị bức màn sắt ly cách với thế giới bên ngoài. Tha hồ cho bọn cộng sản là kẻ chiến thắng mặc tình thao túng. Tôi nghĩ rằng nếu thế cờ chính trị quốc tế đảo ngược, miền Nam thắng cuộc thì miền Bắc sẽ không có những trại tù dã man như thế nầy. Bọn Cộng sản cũng là con người nhưng lòng dạ của chúng thật dã man còn hơn loài súc vật.

Tôi xin tặng một bài thơ đơn giản sau đây diễn tả nỗi lòng u uất của của người sống kiếp người lưu vong :

U Hoài

Ta sẽ về đập quân thù tan vỡ
Từ khi chúng vào phá nước tan tành
Đồng bào khốn khổ bởi lũ gian manh
Nước nhà hỗn loạn như con bão vũ

Nước mắt quê hương như dòng nước lũ
“Anh hùng lỡ vận tuẫn tiết máu đào“
Chết vinh hơn sống nhục đấng anh hào
Giang sơn gấm vóc ngàn năm tang điếu

Ta muốn thét lên muôn ngàn âm điệu
Vang tận trời cao rung cảm thiết tha
Cứu khổ trần gian non nước thái hoà
Cho dân Việt đón mừng mùa Xuân mới

Đã xa quê lâu rồi ta vẫn đợi
Ngày trở về ca hát giữa quê hương
Khúc ca khãi hoàn chan chứa tình thương
Và ta bỏ nắm tro tàn nơi đó ?

Bao nhiêu năm ta thở dài trăn trở
Xe lăn mỏi mòn sức lực tàn phai
Nỗi buồn nhớ nhà khắc khoải u hoài
Phải nhận đất nầy làm nơi huyệt mộ !?

Nguyễn Minh Châu TĐ3 Soibien – Quận Dĩ An

No comments: