Saturday, October 30, 2010

SƠN TRUNG * MA CHIẾN HỮU



SƠN TRUNG * MA CHIẾN HỮU

Truyện "Ma Chiến Hữu" của nhà văn Trung Quốc là Mạc Ngôn do Dân Tộc xuất bản năm 2004, Trần Văn Hỷ dịch ra Việt văn, do Văn Học chi nhánh phía Nam kết hợp với công ty Phương Nam ấn hành đầu quý I/2008, dày 198 trang, tái bản vào tháng 1/2009, dày 214 trang .Mặc Ngôn là một nhà văn nổi tiếng đã có bảy tác phẩm. Tác phẩm này ở Việt Nam đã gây nên một cuộc tranh luận và sách bán rất chạy. Nội dung viết về cuộc chiến tranh Việt Hoa năm 1979.





Trước đây, người Trung Quốc đã viết về chuyện ma quái, thần tiên như Tây Du Ký,Phong Thần, Liêu Trai Chí Dị. Sau Mao Trạch Đông lên cầm quyền giở giọng Mac xit khoa học, bài phong phản đế, cấm loại văn chương ma quái và lãng mạn.Việt Nam cũng theo đuôi ông thầy Trung Quốc vĩ đại. Ấy thế mà gần đây Bảo Ninh đã viết về truyện ma trong quân đội và Mạc Ngôn cũng vậy.

Truyện này là truyện ma, là cuộc gặp gỡ và chuyện trò giữa hồn ma và người sống. Hồn ma cho biết hồn và 1207 đồng chí trú ngụ tại nghĩa trang liệt sĩ Ma Pha ở Vân Nam. Hồn thuật lại đời sống của hồn lúc sinh tiền và sau khi chết đi.

Mở đầu là một cảnh lụt ở miền Nam Trung Quốc. Triệu Kim là người thuật chuyện định băng qua cầu đang ngập nước để về nhà nhưng có tiếng kêu gọi Triệu Kim trở lại, khuyên Triệu Kim đừng qua cầu vì nước sẽ cuốn trôi cầu. Triệu Kim nghe lời, leo lên cây nói chuyện với người kia. Triệu Kim nhìn thấy người đối thoại là Tiền Anh Hào, bạn đồng đội đã cùng chiến đấu tại chiến trường biên giới và cũng là bạn đồng hương đã quen nhau từ nhỏ. Tiền Anh Hào đã chết trong ngày đầu tiên cuộc chiến, sau 13 năm, hai bên âm dương mới gặp lại nhau.

Đúng như tên truyện theo nguyên tác " Chiến Hữu Trùng Phùng", đây là cuộc tái ngộ của các chiến hữu. Tác phẩm hé mở cho ta thấy con người và đất nước của Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình.

I.CUỘC ĐỜI VÔ NGHĨA.

1.Sống vô nghĩa.

Tiền Anh Hào là một chiến sĩ giỏi, môn cận chiến, ném lưu đạn, xạ kích, gài bộc phá môn nào cũng khá, đã đạt thành tích phá kỷ lục toàn quân về môn ném lưu đạn (tr.16).Tiền Anh Hào là người lanh lợi thế mà không được đề bạt làm tiểu đội trưởng và kết nạp đảng mà cũng không được phục viên bởi vì có đánh giặc ở phía nam ( tr.16, 17). Tiền Anh Hào như cái tên cha mẹ đặt ra là ôm giấc mộng trở thành anh hùng như Đổng Tồn Thụy , và anh cũng rât xứng đáng làm anh hào nhưng tiếc thay vận hậu chẳng ra gì (35). Khi ra trận, anh chưa lập được công trạng gì thì đã chết một cách lãng xẹt vì anh bạn đồng đội La Nhị Hổ phía trước nhổm đít lên cao làm lộ mục tiêu.(28)

2. Chết cũng vô nghĩa.

Hồn nói về sinh hoạt ở cõi âm. Tiền Anh Hào nói rằng cái chết của anh là vô nghĩa:
Triệu Kim à, cậu có thấy tớ chết oan không? Vừa vào chiến trường, một phát súng chưa kịp bắn ra, một quả lựu đạn chưa kịp ném đi mà người ta lại hồ đồ. Giấy chứng nhận liệt sĩ bố tớ đã có, nhưng thực tế tớ chết chẳng ra gì…” (tr. 28).

Triệu Kim cũng cho rằng cái chết của Tiền Anh Hào là vô nghĩa:
" Tớ đau khổ nhưng không phải vì cậu chết mà vì cái chết của cậu chẳng có ý vị hùng tráng nào".

Cuộc đời, nhất là cuộc đời nhà binh mất tự do, xuống cõi âm, các hồn ma cũng mất tự do, vẫn là một trại lính: "Nói cho cậu hay, đừng bao giờ nghĩ rằng bọn tớ đã chết là hoàn toàn tự do. Không có chút tự do nào hết(27).
Họ vẫn ở trong quân ngũ, vẫn vào ra trình giấy tờ, điểm danh, tập họp, quay trái, quay phải, bước đều (40). Họ vẫn sinh hoạt văn nghệ, vẫn có những trò ma mảnh lường gạt nhau, hoặc những trò ngốc nghếch đưa những đưá ngu dốt ,khờ dại làm cấp chỉ huy (28).

Chúng tớ lập thành một trung đoàn. Trung đoàn trường vốn là một trung đoàn trưởng khi còn sống , sau khi chết vẫn được đề bạt làm trung đoàn trưởng (27).
Chết rồi mà vẫn tổ chức binh bị để làm gì? Phải chăng Mạc Ngôn muốn nói cái chết chỉ là cuộc sống nối dài đầy đau khổ và vô nghĩa. Danh từ giải thoát của nhà Phật là vô nghĩa, là không bao giờ có.

II. CHIẾN TRANH VÔ NGHĨA

Mục đích chính của Mạc Ngôn là nói về chiến tranh Hoa Việt. Mạc Ngôn cho rằng đây là một cuộc chiến tranh phi lý.
Cái phi lý thứ nhất là hai bên đều là cộng sản. Họ có thời liên hệ mật thiết, đã gọi nhau là "đồng chí anh em" trong phong trào " quốc tế vô sản", chứ không phải là đấu tranh giai cấp giữa tư bản và cộng sản. Tại Việt Nam, Nguyễn Duy đã nói:
AQ
túm tóc Chí Phèo/ để hai bác lính nhà nghèo đều thua."


Đấy không phải là cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giải phóng nhân loại khỏi áp bức, bóc lột mà là một cuộc chiến tranh giữa hai ông lãnh chúa, cuộc chiến tranh giữa nước lớn và nước nhỏ.
Cái phi lý thứ hai là giả dối. Vì quyền lợi, vì tham vọng, vì sự tức giận cá nhân, hai bên xua quân đánh nhau bất chấp sinh mạng binh sĩ và nhân dân. Chiến tranh Trung Xô , chiến tranh Trung Việt và chiến tranh Miên Việt chỉ là cuộc tranh chấp của các đại vương muốn tỏ ra mình mạnh. Họ là những kẻ hiếu chiến thế mà luôn nói hòa bình thế giới và tự do, dân chủ.

Bọn lãnh đạo đảng và chỉ huy quân đội luôn lên tiếng dạy dỗ binh sĩ, giáo dục nhân dân, tỏ ra vì dân vì đảng, nhưng thật ra là vì tham vọng của họ. Họ giết dân, khủng bố dân, không thực thi dân chủ, bắt nhân dân và binh sĩ phải tuyệt đối phục tòng:

- Đồng chí này, tư tưởng của cậu có vấn đề rồi đó… Trên thế giới này không hề có tình bạn vĩnh viễn cũng không hề có một kẻ thù vĩnh viễn. Quan hệ giữa con người và con người là như vậy, quan hệ giữa nước này và nước khác cũng như vậy. Mâu thuẫn tích lũy đến một mức độ nhất định nào đó tất sẽ đánh nhau, đánh nhau thì tất sẽ có dừng. Không đánh nhau ắt không có ngày hòa bình hôm nay, cậu có hiểu không?
- Không hiểu! – Hoa Quang Trung lắc đầu nói.
- Không hiểu cũng chẳng sao, chuyện quốc gia đại sự không cần dân đen lo lắng, cũng chẳng cần người chết phải bận tâm”(56).

Con người luôn giả dối. Họ đề cao lòng yêu nước, tính anh hùng của quân nhân. Họ đã bắt lính học chính trị, họ đã mở tiệc tiễn quân ra trận.Họ bày nhiều trò, nào là cắt máu viết lời thề (17, 32). Họ nói những lời rất đẹp : Chúc đồng chí lập nhiều công, giết nhiều địch để làm rạng danh quan đội anh hùng (17).. .Cá nhân phải phục tùng tổ chức, thiểu số phục tùng đa số, tăng cường tính kỷ luật, cách mạng mới có thể thắng lợi…” (19)

Một số binh sĩ đã nghe lời họ. Tiền Anh Hào, Quách Kim Khố, La Nhị Hổ và bao anh lính nông dân khi ra trận vẫn ôm mộng thành anh hùng quân giải phóng, làm những Đổng Tồn Thụy, Hoàng Kế Quang, Khâu Thiếu Vân như trong các phim ảnh tuyên truyền của Trung Cộng(tr.33) . Cái trò này cũng đã do Mao Trạch Đông truyền qua Việt Nam mà có những Lê Văn Tám, La Văn Cầu, Nguyễn Văn Trỗi! Cái danh hão một thời làm con người trở nên cuồng tín, mù quáng.

Người lính Trung Quốc đã tuân theo lời lãnh tụ và cấp chỉ huy lăn xả vào quân địch mà chết. " Cậu đeo trên người 18 quả lựu đạn, một khẩu liên thanh với 180 viên đạn nhưng chưa kịp bắn một viên đạn, chưa kịp ném một quả lựu đạn nào mà đã chết, tiếc ơi là tiếc!"... . Lại một loạt pháo nữa nổ vang kinh động cả đất trời. Một phát súng lệnh nổ lên , tất cả cùng gào lên, cùng chồm dậy, cùng vất súng và lao về phía trước (33).

Cách đánh của Trung Quốc rất lạ. và cũng rất giản dị. Họ dùng chiến thuật biển người. Khi cấp trên ra lệnh xung phong, không cần cầm súng, binh sĩ cứ xông vào. Địch bắn hết đạn, hoặc súng đỏ lòng lên, rốt cuộc phải bỏ chạy. Tại Việt Nam người ta cũng làm vậy. Tất cả phải lăn vào cõi chết. Ai không xông lên là bị cấp chỉ huy ở đàng sau xử tử. Ai đào ngũ bị xử tử. Người ta còn xích người lính vào đại bác và xe tăng. Người lính không thể chạy đi đâu mà chỉ có thể "hy sinh anh dũng" để thành những liệt sĩ cho đảng quang vinh!

+Cuộc chiến tranh này mang tính cách bi hài vì cả hai đều dùng chung một loại vũ khí, cùng chung một kỹ thuật chiến tranh và cùng theo chủ nghĩa Mác:
Một tiểu đoàn thiện chiến của địch chiếm cứ cao điểm Không tên, với những vũ khí là súng tiểu liên xung kích, trung liên và pháo cối. Tất cả đều là súng do Trung Quốc chế tạo. Vũ khí Trung Quốc đối đầu với vũ khí Trung Quốc thắng hay bại đều do con người quyết định (31).

+Các lãnh tụ, các tướng tá sống trong nhung lụa, không biết nỗi đau của chiến sĩ như hồn một liệt sĩ đã làm thơ gửi mẹ:
Ai da! Đau quá! Đau quá, mẹ ơi! Đau quá,
Thân hình con đã bị đạn xuyên qua.
Viên đạn xuyên qua đập vào thân cây con đang tựa,
Nó cũng bị thương rồi kêu lên thê thảm: Mẹ ơi!
Tiếng kêu thương ấy vẫn văng vẳng bên tai con,
Tôi chẳng tội tình gì sao bắn vỡ đầu tôi
Nó ngăn trở giòng máu trong tôi, tôi sắp chết
Vĩnh biệt mẹ, mẹ yêu, vĩnh biệt!
(41)

Không phải một vài linh hồn hồn bất mãn mà hàng ngàn, hàng vạn, hàng triệu tử sĩ đã khóc vì chiến tranh phi lý và phi nghĩa:
Hoa Trung Quang… cúi đầu lặng lẽ khóc. Tiếng khóc rất dễ lây lan, nhiều chiến sĩ cũng bật lên nức nở. Tiếng khóc to dần, phát triển thành đợt cao trào. Có những tiếng khóc rất nhọn sắc như cố ý ngẩng cao cổ lên để phát ra tiếng khóc quái dị” (tr. 171).

Năm tháng họ sẽ bị quên lãng khi nắm xương tàn của họ cũng đã mục nát.Đặng Trần Côn đã viết hàng mấy thế kỷ trước:
Chinh phu, tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn.

Người Trung Hoa có câu" Nhất tướng công thành vạn cốt khô"( Phơi xương trăm họ nên công một người). Bọn lãnh tụ hưởng hết những công lao động của công nông và thành tích của chiến sĩ để thành những bí thư, tỉnh ủy, trung ương ủy viên, bộ chính trị, còn trong chiến tranh Việt Hoa, chiến sĩ chết đi thì thành ma, còn người sống cũng thành quỷ. Quách Kim Khố là một chiến binh tiêu biểu cho hàng ngàn, hàng vạn thương bệnh binh trong cuộc chiến Việt Hoa. Anh nói:
“- Tai tớ bị đạn làm cho điếc rồi… Miệng tớ cũng bị lửa đạn thiêu cho cháy sém… nhưng cái gì chờ tớ nào? Phục viên! Đ. mẹ nhân gian sao mà bất công!” (tr. 131); “Bây giờ thì bộ dạng tớ thế này, có ra thể thống gì đâu, trắng tay hoàn tay trắng… sống không bằng chết” (tr.137).

+Năm tháng trôi qua lạnh lùng. Hết đánh nhau người ta lại sống chung hòa bình với 16 chữ vàng. Nhân dân hai nước và hồn các tử sĩ đều bất mãn cho những hy sinh vô nghĩa trước đây. Hồn Hoa Trung Quang tiêu biểu cho nhân dân và quân đội Trung Quốc bất mãn về mối liên hệ Việt Trung. Anh nói: Tôi càng nghĩ càng cảm thấy mình chết thật là oan uổng (56).

Bọn lãnh tụ cũng biết nhân dân và chiến sĩ oán hận. Chúng ra sức thuyết phục mong xóa tan bất mãn của nhân dân:

Trong thời gian gần đây , chung quanh vấn đề mở cửa biên giới, nhân dân hai nước nối lại tình hữu nghị truyền thống, có một số người cảm thấy trong lòng có chút uất ức, có người còn bình luận không mấy tốt về vấn đề này, nào là "máu của chúng ta đổ vô ích", nào là hy sinh của chúng ta chẳng có giá trị gì". . . Các đồng chí! Những suy nghĩ này vô cùng nguy hiểm.Các đồng chí! Chúng ta là quân nhân, thiên chức của chúng ta là phục tùng mệnh lệnh. Cấp trên bảo chúng ta đánh tới đâu, chúng ta phải xông lên tới đó. Tình hình thế giới không ngừng thay đổi. Quan hệ giữa các nước với nhau cũng không ngừng thay đổi ( 171).


III.XÃ HỘI NGHÈO ĐÓI, BẤT CÔNG VÀ THAM NHŨNG

Trung Quốc và một số học giả ngoại quốc ca tụng Trung Quốc giàu mạnh, nhưng dưới mắt Mạc Ngôn, Trung Quốc là một nước vô cùng bi đát.

1. Trung Quốc nghèo đói thê thảm:
Mao và Đặng huyên hoang đảng cộng sản Trung Quốc là đảng của nông dân, tranh đấu cho nông dân, nhưng nông dân có lợi gì? Nông dân khổ bằng hay khổ hơn thời quân chủ? Bố mẹ, vợ con của những binh sĩ này có hơn AQ của Lỗ Tấn không?

Ta hãy nghe Khương Bảo Châu, người lính Trung Quốc kể lể về bố mẹ mình và vợ con mình:
Bố mình mắc bệnh lao, chỉ cần cử động mạnh là thở không ra hơi. Chẳng biết làm gì để có cái ăn. Chính quyền đã có chính sách hỗ trợ nhưng chỉ dựa vào khoản trợ cấp này thì liệu có sống được không? Do vậy mà phải cắm cúi ngoài đồng. Ai làm việc nặng nhọc nhất. Chỉ dựa vào mẹ mình thôi . . . Vợ mình quá khổ. Một mình chăn sóc và trồng đến hàng mẫu bông, mang gùi trên lưng cả cả ngày ngoài đồng hái lá thuốc, bỏ đứa con chỉ mới đầy tháng ở nhà. Con bé nửa tuổi của mình chỉ mặc một chiếc áo ngắn che đến rốn, còn thân dưới thì hoàn toàn trần truồng, mình sờ tay vào mông nó thấy lạnh căm căm (49).

Trung Quốc thu về hàng chục tỷ, hàng trăm tỷ mỗi năm, vậy đảng công nông của Mao, Đặng có chia cho nông dân vài đồng nguyên không?

Gia đình người lính như thế, bối cảnh xung quanh cũng thế. Không có tiện nghi , không có nồi niêu, không có phích nước, và không có nước để uống:
Ngay cả nước sôi cũng chẳng có, mẹ mình vét mấy hạt cơm dưới đáy nồi bỏ vào phích nước đã hỏng…, lát sau mở ra đã ngửi thấy một thứ mùi quái dị xông lên. Con mình uống cái thứ nước ấy” (tr. 47)

Đa số thanh niên không muốn đi lính nhưng trong chế độ cộng sản, một số thanh niên thích đi lính vì đi lính có cơm ăn, áo mặc còn ở nhà thì hoàn toàn đói rét.
Chúng mình trong bộ đội được ăn cơm trắng bánh mì thơm, con cái ở nhà, ngụm nước sôi cũng không có. Bạn biết rồi đó, nguồn nước vùng mình vừa có phèn, vừa mặn, mùi vị còn khó uống hơn cả mùi thuốc bắc, con bé làm sao có thể uống (49).

Tình trạng những người dân, người lính Trung Quốc này giống tình trạng người dân, người thanh niên miền Trung Việt Nam. Những dân miền Trung sỏi đá, có nơi quanh năm ăn khoai sắn, bắp, thỉnh thoảng mới được ăn cơm, quanh năm đói rét nên thích đi lính, thích làm công an và vào đảng để đổi đời! Ông bố chiến sĩ Trung Quốc quan niệm đi lính là lên thiên đàng:
Hai năm rời khỏi nhà, ăn được hai năm cơm ngon, mặc được hai năm áo mới, coi như chẳng uổng phí một đời (52).

2. Trung Quốc tham nhũng và bất công xã hội

Mạc Ngôn không nói nhiều nhưng qua câu chuyện của hai ông bố chiến sĩ thôn quê, ta có thể thấy hết cái nghèo và tệ tham nhũng của chế độ Mao và Đặng.

Cứ xem là nhà tôi đã khá. Thằng con tôi trước đây cũng đã từng làm công việc tẹp nhẹp trên huyện, cúi đầu xếp vó trước người ta. Tôi đã khích lệ nó, bán một con lợn to đùng, chặt ba cây ngô đồng, tất tần tật được ba trăm đồng mua đủ loại rượu và thuốc lá đi thăm tất cả lãnh đạo ở huyện rồi yên tâm mà chờ đến đợt cải tổ nhân sự, ngay lập tức con tôi được đề bạt lên chức cục trưởng, quản lý đến mấy nghìn người. Bây giờ nó ngồi xe con bóng lộn, thuốc lá thơm ngoại nhập, uống rượu hảo hạng, bữa ăn nào cũng bảy, tám món, ăn một mà nhìn đến hai ba phần, trong nhà nuôi con chó béc giê chỉ biết ăn thịt ăn cá, ăn đến nỗi lông bóng mượt, không sủa gâu gâu mà sủa oang oang, chẳng giống chó mà xem ra giống hổ hơn. Vợ con nó cứ ngồi hưởng phúc, phúc còn cao hơn cả núi, sâu hơn cả biển (52- 53).


Người ta cho rằng quân Tàu Ô của Tưởng Giới Thạch nghèo đói, bệ rạc, và quan lại Tưởng Giới Thạch tham nhũng nên Mỹ phải rút lui. Thật ra quân Mao Trạch Đông cũng nghèo đói, tham nhũng và thêm vào đó là tàn ác.Việt Nam và Trung Quốc là hai ông đồng bệnh! Cả hai đã theo Mác, cả hai đã đi xuống tận cùng của XHCN, cả hai đã trở lại tư bản chủ nghĩa và cả hai đã bóc lột nhân dân , cướp tài sản nhân dân.

Những người ngây thơ, phải chăng trong đó có Marx, tin rằng sau khi cướp tài sản tư bản, giết và bỏ tù tư sản thì không còn ai bóc lột, không còn bất công xã hội, thế giới hoà bình. Họ đều lầm. Con người vốn có lòng tham. Anh thanh niên trong tác phẩm " Sống và Chết ở Thượng Hải," lúc theo Mao, lúc theo Giang Thanh và bọn bốn tên, lúc hăng say học Anh văn để làm tôi tớ cho tư bản, hành vi khác nhau nhưng tất cả đều cùng một mục đích vị lợi. Ông Hồ viết "Sưả Đổi Lề Lối Làm Việc", chống quan liêu, tham ô, lãng phí, nhưng ngay từ buổi đầu trường kỳ kháng chiến gian khổ, chân tay thân tín của ông, Trần Dụ Châu là một đại tham nhũng. Ông Hồ ra lệnh giết Trần Dụ Châu là giết thật hay giết giả?

Cái tâm lý làm quan không phải chỉ ở trong thời quân chủ mà thời CHXHCN cũng có mà còn có mạnh hơn. Cái tâm lý ưa giàu sang thể hiện ở các câu ca dao, tục ngữ như tâm lý thích 4Đ là Dảng, Đổng, Đài, Đạp :Vào đảng, đeo dồng hồ, mang radio, và đi xe đạp là biểu hiệu của giàu sang, quyền thế ở nông thôn Việt Nam khoảng 1950-1960.
Sau 1975, thì tham vọng đó tiến lên cao hơn:
Ti vi, tủ lạnh, Honda,
Không ba thứ ấy, không ra con người!

Cái tham nhũng là do lòng tham. Cách mạng là chỉ giết người để cướp tài sản địa vị. Không bao giờ hết đấu tranh giai cấp vì giai cấp bị trị cướp chính quyền là trở thành giai cấp thống trị, lại ăn trên, ngồi trước, còn tệ hơn hạng người trước. Cách mạng chỉ là giết người, không cải tạo được xã hội và không giáo dục được con người tốt hơn. Đấu tranh giai cấp, phân biệt bạn và thù là xô con người đi vào bất nhân, tàn ác. Đạo đức cách mạng, bãi bỏ tư hữu là chuyện dối trá.

Chỉ có bậc thánh là không tham lam, là diệt hết dục, là yêu hết mọi chúng sinh. Cộng sản thực ra còn tàn ác hơn bọn cướp. Cái mầm tham nhũng nó nằm ngay trong lòng người dân nghèo. Tiền Anh Hào, Quách Kim Khố, La Nhị Hổ và bao nông dân đều muốn từ binh nhất leo lên quan, lên làm anh hùng. Bà mẹ Khương Bảo Châu cũng nuôi mộng ước con mình ra đi sẽ trở thành quan chức vinh quang:
Chỉ mong anh rời khỏi nhà để có thể kiếm một chức tước gì đấy. Chuyện kiếm tiền ít nhiều thì không kể. chỉ muốn anh làm cho bố mẹ được mở mặt mở mày với mọi người ( 50 ).
Ông bạn của bố của Khương Bảo Châu quả là thành thực và khôn ngoan, hiểu rõ nhân tình thế thái và con đường đi lên của những kẻ hèn kém. Ông già Ba Tri này đã thành thật khuyên bạn và con bạn:

Bảo bố anh bỏ ra tí máu mua một ít quà cáp ở quê mang về đơn vị biếu cho tiểu đoàn trưởng, chính trị viên, nhất định sẽ có chỗ tốt… Bố ho sù sụ, nói: “Làm gì còn máu mà chích nữa hả ông?... Dùng mũi giáo mà đâm xuyên qua người tôi cũng chẳng có giọt máu nào chảy ra đâu. . . . Cứ tin lời tôi, lần này Bảo Châu về đơn vi, ông hãy bỏ ra khoảng ba trăm mà lo liệu, chờ cho đến khi Bảo Châu làm quan quân đội, nó sẽ thu về, ông chẳng lỗ vốn đâu mà sợ. . . Con người muốn sống phải xông về phía trước, bay lên cao . . . Không thả mồi thì không bắt được sói, không móc châu chấu thì cá chẳng cắn câu (52-53).


3. Quân đội thối nát

Trong quân đội một số chỉ huy bất tài làm cho binh sĩ bất phục. Tiền Anh Hào là người giỏi nhưng không được đề bạt làm tiểu đội trưởng và kết nạp đảng. Tên chính trị viên là kẻ lưu manh, gian ác, chính y đã đè nén Tiền Anh Hào, ác cảm với Tiền Anh Hào. Tên tiểu đội trưởng họ La luôn lên giọng cấp trên bắt bẻ, hành hạ Tiền Anh Hào về những việc nhỏ mọn như gập chăn không vuông vắn. Ngày xuất quân, tên chính trị viên đến bên Tiền Anh Hào nhưng bị anh mắng cho:
“Đừng quấy rầy tôi, đồ giả tình giả nghĩa. . .chớ có diễn vở kịch thối như cứt mèo ấy làm gì” (tr. 17-18).
Một số tin tưởng các chính trị viên, các tiểu đội trưởng, trung đội trưởng ; một số bu lại nịnh hót, nhưng đa số bộ đội ghét những tay chính trị viên, và các cấp chỉ huy nói xạo và nói như con vẹt, Triệu Kim đã nói với tiểu đội trưởng La Nhị Hổ người Tứ Xuyên như sau:
Đúng, đúng… trình độ lý luận chính trị của anh còn cao hơn cả Tư lệnh Trung tâm Quân dự bị… Bái phục! Bái phục!”..
-“Cao quái gì… Toàn là những lời giáo huấn nhắc đi nhắc lại thôi” (tr.19).

La Nhị Hổ sau khi chết được đề bạt làm tiểu đoàn trưởng. Y là một chỉ huy tồi tệ.Lúc bình thường thì to miệng, luôn lên giọng chính trị cao, giọng Mac xit, nhưng lúc ra trận thì chân nhũn ra, tay ôm lấy đầu, ném lựu đạn thì quên rút chốt, đánh bộc phá thì chẳng giật nụ xòe , khi tấn công vào một điểm cao vô danh, nếu hắn không giơ cái mông quá cao làm lộ mục tiêu để mời hai quả pháo ập đến thì hắn đâu đến nỗi phải chết” (tr.28).

Một số binh sĩ được đề cao, phong là anh hùng nhưng sự thật không phải thế. Đó là trường hợp Trương Tư Quốc:
“Cậu ta trong tiểu đội phá mìn… cậu ta bị thương… ở phía sau đều trông thấy rõ ràng cậu ta bò lên trên sườn dốc cao rồi lăn lông lốc xuống… sau đó tiếng mìn nổ vang rền… Lúc ấy ai cũng nghĩ rằng cậu ta dùng thân thể kích thích cho mìn nổ, mở đường cho thắng lợi… người ta ghi công cậu ấy… chuẩn bị tài liệu báo với Quân uỷ Trung ương phong danh hiệu “anh hùng phá mìn”… Nhưng cái cậu này … nói với hai chuyên viên Cục Chính trị rằng: Tôi không hề phá mìn, ở chỗ đó chẳng có quả mìn nào cả, trời lại đang mưa, khi bị thương vào chân tôi đã bò lên sườn đồi, chiếc chân bị thương không có sức nên bị trượt xuống, lúc ấy có hai tiếng nổ vang lên. Tôi là chuyên gia phá mìn, viêc gì phải lấy thân mình kích nổ mìn, làm như thế không phải là tự tìm cái chết sao?” (tr.193).

IV. TÍNH CHẤT

1. Ma quái:

Truyện có tính cách ma quái. Từ đầu đến cuối đều có tính cách ma quái. Tác giả đã tả các ma hội họp, than khóc trong nghĩa trang và tả Tiền Anh Hào rất huyền hoặc.
“Bộ quân phục của anh ta đã mục nát, tôi vừa chộp tay vào là nó đã rách toác trông như một loại giấy bồi bị thấm nước… Gương mặt đầy mụn sần sùi màu đỏ bầm đã kề sát mặt tôi (13).

2.Châm biếm

Ngọn bút của Mạc Ngôn nhiều khi châm biếm kín đáo như châm biếm Tiền Anh Hào là một chiến sĩ cấp trung đoàn nhưng chưa bắn phát đạn nào đã chết; việc Trương Tư Quốc suýt được báo cáo lên Quân ủy trung ương.
Chuyện các hồn ma vừa là phê phán vừa là châm biếm nhẹ nhàng của hài hước. Cái nhìn phê phán của Mạc Ngôn với cuộc chiến tranh Việt Hoa thật ra đã có từ lâu, ít nhất cũng khoảng 1977. Cuộc chiến này đã được tác giả nói lên qua tâm trạng đau xót của một ngàn hai trăm linh bảy hồn ma lính Trung Quốc tử trận. Đó là nỗi đau về thể xác, như lời bài thơ của một thi sĩ - tử sĩ trong quân đội Trung Quốc đã nói ở trên.

3. Hiện thực

Nghệ thuật của Mạc Ngôn rất cao. Truyện của Mạc Ngôn là những búc tranh hiện thực và linh động. Đoạn tả cảnh khổ của nông dân trên cánh đồng, và đời sống của các bô lão, phụ nữ và trẻ con rất linh hoạt. Đoạn tả mối tình của cô Ngưu Lệ Phương và Triệu Kim rất linh động, rất hiện thực khi họ tán tỉnh và làm tình gần hố xí (111- 173). Đoạn tả cuộc biểu diễn ném hạt đậu của hai bộ đôi cũng rất sống động.

Đoạn tả việc Triệu Kim đến thăm cựu chiến hữu Quách Kim Khố rất hay. Quách Kim Khố bảo vợ thiết đãi khi cựu chiến hữu Triệu Kim đến thăm:
- Mẹ nó à, chiến hữu của tôi là Thượng úy Triệu Kim đến thăm, mau đun nước pha trà đi!
Cô ta nhấp nháy đôi mắt chửi:
-Coi cái bộ mặt say đến nhừ tử nhà ông kia!
-Mau đun nước pha trà, Quach Kim Khố ra lệnh:
- Cỏ không có một cọng, trà không có một cánh, vậy đốt bằng lông… bố ông, pha bằng lông… mẹ ông à…

Người đàn bà nói như súng liên thanh với những lời cực kỳ ngoa ngoắt. Nói xong cô ta lận từ lưng quần ra một củ cải cắn một đoạn to rồi nhai rau ráu.
- Cả đời của tao đã chịu bao điều xúi quẩy với con mụ thối tha nhà mày, bữa nay
cả hai thanh toán cho sòng phẳng đây. Tao sẽ giết mày!
Người đàn bà ưỡn cái bụng thè lè ra… - … Nhằm vào đây mà đánh cho văng cái đồ chết dẫm này ra ngoài để mai mốt bà đây tái giá khỏi phải lôi theo.(137)

Mạc Ngôn đã vẽ ra hai người đàn bà khác nhau. Vợ Quách Kim Khố thì chua ngoa, đanh đá còn vợ Khương Bảo Châu thì mệt mỏi, lạnh lùng. Khương Bảo Châu thuật lại buổi gặp lại vợ sau bao năm xa cách:
Đến khuya vợ mình mới về. Cô ấy vứt cái bao đầy bông nặng trình trịch trên vai xuống, lạnh lẽo gật đầu chào mình, chẳng quan tâm gì đến chuyện ăn một miếng cơm, ôm lấy con bé (54).


Tác phẩm Ma Chiến Hữu rất đặc sắc. Mạc Ngôn có nghĩa là không nói nhưng trong tác phẩm Ma Chiến Hữu, ông đã nói rất nhiều. Đó là tiếng nói phản đối chiến tranh Hoa Việt năm 1979. Tác phẩm của ông rất có giá trị về tư tưởng, lịch sử và nghệ thuật. Chính quyền Trung Quốc tỏ ra rộng lượng khi cho ấn hành tác phẩm Chiến Hữu Trùng Phùng, một tác phẩm dám chống đối đường lối hiếu chiến của Đặng Tiểu Bình.

Trong khi đó, tại Việt Nam, có một tác phẩm cùng đề tài, nhưng bị chính quyền Việt Cộng bóp chết. Đó là tập truyện"Rồng Đá" của hai nhà văn Vũ Ngọc Tiến và Lê Mai do nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành bị thu hồi vì một số truyện lấy bối cảnh chiến tranh biên giới 1979. Tại sao vậy? Vì quan chức xuất bản Việt Nam sợ bị bọn Nông Đức Mạnh trừng trị và sợ thiên triều quở phạt.

Trong tập Rồng Đá có truyện Chú Mìn Phủ và Tôi viết về cuộc chiến Việt Trung 1979. Tác phẩm Ma Chiến Hữu không tả trận đánh giữa hai bên, còn Rồng Đá thì viết rất rõ về cái dã man và phi lý của hai bên.

Ba người chúng tôi được lệnh băng rừng đến ngay quả đồi nằm trên trục đường từ Thanh Vân đi cửa Nghĩa Thuận, dẫn giải tù binh về để khai thác tình hình quân địch. Vừa đến nơi, một cảnh tượng kinh hoàng hiện ra trước mắt nhóm trinh sát.


Có dăm người dân quân địa phương ngồi quanh đống lửa uống rượu ngô và ba xác chết trần truồng, thi thể bầm dập nằm lăn lóc trên bãi cỏ, hai trai, một gái. Xác người con gái nằm ngửa, không bị đánh đập, nhưng hai đùi bị banh ra, cột chặt vào hai cái cọc được đóng sâu xuống đất, cửa mình vẫn còn củ sắn to bự cắm vào, máu lênh láng chảy ướt đầm mặt cỏ. Hai xác người đàn ông to vật vã, đầy những vết đánh thâm tím, bộ phận sinh dục bị cắt rời nguyên cả cụm, ném vào đống lửa, bốc lên mùi thịt nướng…


Mùi thịt người và cái dương vật xém vàng, nứt vỡ, xèo xèo trong lửa làm tôi nôn ọe, ghê tởm đến cùng cực. Người tôi run lên, mắt cay xè, hàm răng lập bập, chĩa súng vào đám dân quân hỏi: “Sao chúng mày ác thế, có còn là giống người nữa không?” Họ thản nhiên đáp: “Mày thì biết gì. Chúng nó còn ác hơn nữa kia. Chúng tao vây bắt, chúng nó chạy ngược vào bản đốt nhà để lừa cho mọi người mải dập lửa, chúng nó thừa cơ chạy trốn vào rừng.

Nhiều lần như thế lắm rồi. Người, ngựa chết và ngô, thóc cháy rụi, ai thương cho dân bản? Mày ư? Thương cái xương chúng tao có lúc chẳng còn.” Lúc này Chù Mìn Phủ đứng gần tôi, từ từ khụy xuống, nằm úp mặt vào đất, gào rống lên: “Giời ơi! Quả báo sắp đến rồi... Chúng mình sang bên kia cũng có khác gì họ đâu.” Anh lăn lộn giữa ba cái xác người nức nở khóc than, khiến Thào A Máy cũng ôm lấy anh khóc theo.

Trong đám dân quân lao xao bàn cãi. Có lẽ tiếng khóc của hai người làm họ tỉnh rượu, có phần ân hận và lo sợ sẽ bị tôi trừng phạt. Tôi chỉ nghe lõm bõm tiếng Mông lẫn tiếng Dao, nhưng cũng lơ mơ hiểu. Họ được lệnh giải tù binh ra quả đồi chờ giao cho bộ đội, vừa ngồi chờ họ vừa nướng sắn uống với rượu ngô.


Hơi men ngà ngà, họ quay sang tranh cãi với tù binh. Một bên chửi Việt Nam vô ơn, giở mặt theo đuôi bọn xét lại Nga Xô. Một bên chửi quân “bành trướng” Trung Quốc, vô cớ đánh bạn láng giềng “môi hở răng lạnh”. Toàn là những lời lẽ của mấy ông cán bộ tuyên huấn hai bên, chứ họ nào hiếu gì đâu cơ chứ. Thế là hơi men, sự cuồng tín và nỗi căm tức vì mất nhà, mất người thân đã xui khiến đám dân quân hò nhau xông vào lột hết quần áo, đánh đập hai người đàn ông cho đến chết.

Lúc đầu họ không nỡ đánh đàn bà, định sẽ giao nộp cho bộ đội, nhưng rồi cũng tại hơi men và cả tại máu của hai xác người đàn ông đã đánh thức bản năng thú vật của những con đực. Họ thay nhau hãm hiếp cô chưa đủ, sẵn có củ sắn mang theo, một gã thuận tay tống mạnh vào cửa mình còn đang ướt nhóet của cô cho hả giận rồi cả đám cười lên man rợ…Tôi đang bàng hoàng đau xót, không biết nên giận hay nên thương những gã trai miền sơn cước rách rưới, gầy nhom, đen nhẻm kia đã bị cuộc chiến biến thành bầy thú dữ, chợt tiếng kêu thất thanh của Thào A Máy làm tôi càng thêm kinh hãi.

Cô nhận ra xác người con gái chính là đứa bạn cùng xóm, lấy chồng bên kia biên giới. Hai người thân nhau từ nhỏ, mới xa cách nhau vài năm, giờ đã ra nông nỗi này. Chù Mìn Phủ vừa mới nguôi ngoai đôi chút, thấy vậy lại hộc lên những tiếng kêu rên: “Giời ơi! Ác giả ác báo, quả báo sắp đến rồi. Giời ơi là giời ơi!...” Đến nước này thì cả tôi cũng thành điên dại. Nhóm trinh sát ba đứa chỉ còn biết ôm nhau mà khóc đến khàn hơi, kiệt sức. Khi tôi và Chù Mìn Phủ cố hết sức dìu được Thào A Máy về đơn vị thì cả ba đứa cùng mê man thiếp đi suốt mấy ngày đêm, người hầm hập sốt. Tỉnh dậy, Thào A Máy hóa điên thực sự. Những ngày đầu, cô chỉ gào thét, đập phá, bới đất, nhai cỏ.




Nếu so sánh Ma Chiến Hữu và Rồng Đá, ta thấy Ma Chiến Hữu trừu tượng hơn, bóng bảy, nhẹ nhàng hơn còn Rồng Đá thì hiện thực hơn. Cả hai tác giả đều là những người có ý thức về thiện ác giữa bao kẻ hăng say gào thét đấu tranh giai cấp, ca tụng đảng quang vinh và bảo vệ quốc hòa bình để giết người, cướp của.


Xin đọc:

Machienhuu.pdf

www.mediafire.com/?yyymltwwnnd

Rồng Đá .Việt Nam Thư quán





No comments: