PHAN LẠC TIẾP = TƯỢNG PHẬT DƯÓI ĐÁY BIỂN INDONESIA - BÙI BẢO TRÚC
Monday, November 9, 2015
NHỮNG TIẾNG NÓI Từ Nền ĐỆ-NHỊ VIỆT-NAM CỘNG-HÒA
Sách Mới:
NHỮNG TIẾNG NÓI
Từ Nền
ĐỆ-NHỊ VIỆT-NAM CỘNG-HÒA
Giáo-Sư Keith W. Taylor, tác-giả nhiều sách và bài-viết về lịch-sử và văn-học Việt-Nam, dạy Khoa Hán- và Việt-Học tại Viện Đại-Học Cornell, đã viết về sách này:
“Việt-Nam Cộng-Hòa (Nam Việt-Nam) thông-thường được xem là một thực-thể thống-nhất xuyên suốt qua hai thập-niên (từ 1955 đến 1975) trong đó Hoa-Kỳ là đồng-minh chính-yếu của mình. Tuy nhiên, chính-trị quốc-nội trong thời-kỳ ấy đã diễn-biến theo một quỹ-đạo động, từ một giai-đoạn độc-đoán đến một giai-đoạn hỗn-loạn, rồi đến một giai-đoạn thử-nghiệm dân-chủ đại-nghị tương-đối ổn-định. Ấn-tượng sâu-sắc về Nam Việt-Nam biểu-lộ trong đa-số các tác-phẩm, cả kinh-viện lẫn đại-chúng, tập-trung vào hai giai-đoạn đầu tiên, để miêu-tả một bức tranh biếm-họa về tệ-nạn độc-tài tham-nhũng bất-ổn, mà ít nói đến những gì đã đạt được trong giai-đoạn tám năm sau cùng. Các bài tiểu-luận trong cuốn NhỮng TiẾng Nói tỪ NỀN ĐỆ-NhỊ ViỆt-Nam CỘng-Hòa (1967-75) này, là của các nhân-vật đã ra sức xây-dựng một cơ-cấu hiến-định cho chính-thể đại-nghị trong một cuộc chiến để sống-còn chống lại một nhà-nước chuyên-chế. Những người đã cam-kết thực-hiện một tương-lai cho Việt-Nam không-cộng-sản đã đặt tất cả hy-vọng của họ vào nền Đệ-Nhị Việt-Nam Cộng-Hòa, đấu-tranh cho nó, và hành-động cho sự thành-công của nó. Cuốn sách này là một bước đầu, để đưa các tình-tiết sự-việc của họ đến được với cộng-đồng, vì các thành-tựu tích-cực của họ không đáng bị lãng quên.”
Tiến-Sĩ Charles Keith, sử-gia chuyên về lịch-sử cận-đại của Việt-Nam, tại Viện Đại-Học Michigan, đã phát-biểu:
“Tập sách này được ân-cần tiếp-nhận làm một phụ-bản cho kho sách sử uyên-thâm ngày càng phát-triển về Nam Việt-Nam. Các chứng-cớ của người-trong-cuộc cung-cấp cho chúng ta những chi-tiết chủ-yếu, không những về chính-sử và quân-sử của quốc-gia liên-hệ, mà còn về các bối-cảnh và thế-giới-quan phức-tạp của các nhà cầm quyền ở đó. Đây là hồ-sơ về các niềm hy-vọng và gian-khổ của một nhóm công-dân Nam Việt-Nam đã mưu-cầu kiến-tạo một xã-hội ổn-định, thịnh-vượng, trong thời-buổi phi-thực-dân-hóa và chiến-tranh lạnh.”
*
Các tác-giả:
Bùi Diễm, cựu Đại-Sứ tại Hoa-Kỳ, Đặc-Sứ tại Hòa-Hội Paris, Đại-Sứ Lưu-Động của VNCH.
Phan Công Tâm, cựu Giám-Đốc Kế-Hoạch và Phụ-Tá Công-Tác Đặc-Biệt cho Đặc-Ủy-Trưởng tại Phủ Đặc-Ùy Trung-Ương Tình-Báo VNCH.
Nguyễn Ngọc Bích, cụu Tổng-Giám-Đốc Thông-Tấn-Xã VNCH.
Trần Quang Minh, cựu Thứ-Trưởng Bộ Nông-Nghiệp & Tổng-Giám-Đốc chương-trình Lương-Thực Quốc-Gia VNCH.
Nguyễn Đức Cường, cựu Bộ-Trưởng Bộ Thương-Nghiệp & Công-Nghiệp VNCH.
Phan Quang Tuệ, cựu Phó Đổng-Lý Văn-Phòng của Chánh-Thẩm Tối-Cao Pháp-Viện VNCH.
Trần Văn Sơn, cựu Dân-Biểu VNCH.
Mã Xái, cựu Dân-Biểu VNCH.
Hồ Văn Kỳ Thoại, cựu Phó Đề-Đốc Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải VNCH.
Lữ Lan, cựu Trung-Tướng Tổng-Thanh-Tra, Bộ Tổng-Tham-Mưu QLVNCH.
*
Sách tiếng Anh, nhan đề VOICES FROM THE SECOND REPUBLIC OF SOUTH VIETNAM (1967-75) dày 172 trang, in trên giấy trắng, khổ 7"x10", với bìa do nghệ-sĩ Kat Dalton trình-bày, trong Tủ Sách Đông-Nam-Á do Viện Đại-Học Cornell, New York, USA, xuất-bản.
Info:
judgePhan@gmail.com
TIẾNG NÓI ĐỆ-NHỊ VIỆT-NAM CỘNG-HÒA PHAN LẠC TIẾP * THƯ GỬI BẠN
Phan Lạc Tiếp
Thư Gửi Bạn Bè:
Thưa các bạn Bảo-Bình,
Đơn vị đầu tiên của tôi sau khi ra trường là HQ-09, cùng với các bạn Thiệu, Đăng, Cẩm, Thiện. Tôi ở đơn vị này khá lâu, 18 tháng, đảm nhận từ chức vụ Sĩ Quan Ẩm Thực rồi lần lượt xử lý Hạm Phó. Rời HQ-09, về Phòng Tổng Quản Trị mấy tháng, rồi đổi xuống Giang-Đoàn 21, tại Mỹ Tho. Tại đây có các bạn Đặng Diệm, Trần Hữu Khánh và Vũ Hữu San tại GĐ-27, cũng đóng tại Mỹ-Tho. Rời Mỹ Tho sau một năm hoạt động, chạm mặt với nhiều nguy nan, tôi được gọi về làm Trưởng Đoàn Tâm Lý Chiến Lưu Động, đến hầu như hết các đơn vị HQ. Sau đó được biệt phái đi tầu biển của Nha Hỏa Xa, 2 năm. Trở lại HQ, Trung Tá Hoàng Cơ Minh xin tôi về làm việc tại BTL/HQ, nhưng lại được Đại Tá Nguyễn Văn Ánh xin BTL/HQ cho tôi xuống Vùng 4 Sông Ngòi làm trưởng khối CTCT. Ở đây một năm tôi đi Mỹ lãnh HQ-504, do Thiếu Tá Phan Phi Phụng làm Hạm Trưởng. Tại đây, bạn cùng khóa có Đinh Mạnh Hùng (tức Hùng Mèo), làm Hạm Phó. Hùng đổi đi, tôi làm Hạm Phó, đi 16 chuyến chở đạn dược và vũ khí cho Nam Vang, và chở kiều bào bị nạn cáp-duồn từ Cam Bốt về. Sửa soạn lấy tầu dầu thì được công điện của Văn Phòng Tư Lệnh Hải Quân: "Gửi ngay HQ Đại Úy Phan Lạc Tiếp về trình diện tân đáo BTL/HQ. Lý do cho biết sau." Trình diện Tư Lệnh HQ hôm mồng 4 Tết năm 1971, và được chỉ định làm Trưởng Phòng Tâm Lý Chiến BTL/HQ. Ở đây 2 năm, rất bận rộn và nhiều phiền phức, tôi xin đi học lớp Tham Mưu Trung Cấp. Sau khóa học được đổi xuống làm Hạm Trưởng HQ-601, 18 tháng, quá dài, và giao tầu cho HQ Đại Úy Trần Văn Chánh, trưởng nam của Đề Đốc Trần Văn Chơn, Tư Lệnh HQ vào cuối năm 1974. Theo đề-nghị của Phòng Tổng Quản Trị, tôi sẽ đổi xuống làm Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ HQ Năm Căn "cho phù hợp với cấp bậc Trung Tá thực thụ mà đương sự sẽ lên theo danh sách thường niên trong năm 1975", nhưng Tư lệnh HQ đã giữ tôi lại Sài-Gòn "để cho tiện, khi cần viết lách gì…". Do đó tôi được thuyên chuyển về Khối Thanh Tra. Nhờ đó, vì không có trách nhiệm gì cụ thể như một Đơn Vị Trưởng, tôi đem được vợ con di tản trên tầu HQ-502 của anh Nguyễn Văn Tánh, một con tầu hư hỏng, chỉ còn một máy, đang sửa chữa, với hơn 5000 người.
Tại hải ngoại tôi đã cùng gia đình anh Nguyễn Văn Tánh, gia-đình Nguyễn Kim Khánh, gia-đình Vũ Hữu San và gia-đình anh Lê Văn Quí, các bạn cùng khóa, định cư tại Salt Lake City, Utah. Ở đây đúng một năm, gia đình tôi dọn về San Diego, cho gần thân nhân bên bà xã tôi, và bắt đầu lao vào cuộc sống để nuôi gia-đình. Tôi đã làm rất nhiều nghề, lúc thì cổ xanh, lúc thì cổ trắng, viết ra thì sẽ dài lắm. Có lúc tôi làm trong hãng đóng tầu Nassco tại San Diego, là salaried Foreman, lương khá cao. Nhằm khi xem hệ thống ống, bàn tay trái của tôi bị miệng ống sắt kẹp vào thành tầu, làm đứt 2 ngón tay. Tôi nằm nhà trên 3 năm để điều trị, chờ 2 ngón tay liền lại với 70% lương. Một cách tình cờ, đây là lúc mà Ủy Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển, hợp tác với các tổ chức quốc-tế, như Medecins du Monde, Cap Anamur và sự hỗ trợ của nhà tỷ-phú Andre Gills, đem tầu ra biển vớt thuyền nhân. Tổ chức này do Giáo Sư Nguyễn Hữu Xương làm chủ tịch, tôi đã đem chút hiểu biết của Hải Quân, và khả năng thông tin, báo chí vào công tác này. Những tin tức về cảnh huống của thuyền nhân do tôi viết và phổ biến, đã được cộng đồng Việt Nam đáp ứng mạnh mẽ và nồng nhiệt hỗ trợ. Nhờ đó đã có 3103 đồng bào được cứu vớt giữa biển khơi, do các con tầu được bảo trợ, hợp tác của ủy ban này. Những thuyền nhân này đã được các quốc gia đệ tam tại Âu Châu đón nhận và vinh danh là những Chiến Sĩ của Tự Do.
Riêng về hoàn cảnh gia-đình, bà xã tôi mở một tiêm mạng quần áo (Reweaving), một nghề đòi hỏi sự cẩn thận, tinh vi, nên lợi nhuận đều hòa cho gia đình là do bà xã tôi kiếm được. Bốn đứa con tôi, một trai 3 gái, học hành bình thường, xong đại học, mỗi đứa đều có một nghề vững vàng. Hai cháu đầu đã có gia-đình, cháu thứ ba đương sửa soạn làm đám cưới. Chúng tôi mới có một cháu ngoại, 7 tuổi. Tôi đã đến tuổi về hưu, nhưng sợ ở nhà buồn, dễ đau ốm, nên vẫn đi làm. Sở làm gần nhà nên cũng nhàn nhã, thuận tiện.
Bên cạnh những nét chính yếu trên, ở bất cứ hoàn cảnh nào, tôi đều ghi và viết lại những kinh nghiệm về cuộc sống của mình. Nhờ đó tôi đã xuất bản được 4 cuốn sách, đa số là Bút Ký. Cuốn 'Bờ Sông Lá Mục', viết về những ngày hoạt động ở trong sông, cuốn 'Nỗi Nhớ' viết về nỗi khó khăn, bi thảm của con tầu Thi-Nại, HQ-502, do anh Tánh làm Hạm-Trưởng, và những ngày ở trại tỵ-nạn. Cuốn 'Cánh Vạc Lưng Trời' (cuốn này là truyện), ghi lại cảnh huống của người Việt trên đường vượt biển, và trong thời gian chúng ta còn bơ vơ xa lạ trên đất tạm dung. Cuốn 'Quê Nhà 40 Năm Trở Lại', như tên gọi, tôi đã ghi lại những cảm xúc của mình trước những điều tôi đã thấy sau 40 năm về thăm lại quê hương miền Bắc vào năm 1994. Những cuốn sách của tôi, như đã nói, thuộc thể Ký, viết về những người thực, việc thực mà tôi đã gập, đã trải qua. Như tất cả chúng ta, dù muốn hay không, chúng ta đã lớn lên và bị cuốn hút vào chiến tranh. Xã hội chúng ta, đất nước chúng ta, theo tôi, là nạn nhân của thời cuộc, với tất cả những oan trái, tang thương, chia lìa, khốn khổ. Bởi thế, những cuốn sách của tôi, tuy viết về hoàn cảnh của mình, nhưng đồng thời cũng đã phản ảnh một phần nào xã hội mà chúng ta đã sống. Có lẽ vì thế mà cuốn bút ký 'Bờ Sông Lá Mục' tìm thấy trong Thư Viện Quốc Hội Hoa-Kỳ, được xếp vào loại tài liệu chiến tranh. Trong cuốn 'Tổng Quan 20 Năm Văn Học Miền Nam' của nhà văn Võ Phiến cũng đề cập tới cuốn sách nhỏ này của tôi và in lại một bài tiêu biểu. Giáo-sư Nguyễn Đình Hòa đã giới thiệu cuốn 'Cánh Vạc Lưng Trời' (bài viết bằng Anh Ngữ) trong tập san của Đại Học Oklahoma số mùa thu năm 1993. Các cuốn khác của tôi cũng được giáo-sư Tiến Sĩ Phạm Cao Dương dùng làn tài liệu tham khảo giảng huấn về văn chương và chiến tranh Việt Nam (The Vietnamese American Experience) tại Đại Học UCLA và UCI. Riêng cuốn 'Quê Nhà 40 Năm Trở Lại' được đón nhận rộng rãi nhất. Nhiều báo chí và các vị thức giả đã nói đến cuốn này (trong đó có bạn Cẩm). Nhiều báo chí tại hải ngoại đã lần lượt in lại. Mới đây, từ giữa tháng 11 tới đầu tháng 12 năm 2000 (trùng hợp với lúc Tổng Thống Clinton viếng thăm VN), đài Tiếng Nói Hoa Kỳ đã liên tục phát thanh về VN ba chương trình phỏng vấn tôi về cuốn sách này. Mỗi chương trình phát 2 lần, tổng cộng là 6 lần trong khoảng 2 tuần lễ.
Tôi được sinh ra và lớn lên tại miền quê, tỉnh Sơn Tây, thuộc trung-du Bắc Việt. Hình ảnh Ông Giáo Làng là mộng ước của tôi hồi nhỏ. Song vì thời cuộc , vì chiến tranh đã khiến tôi phải rời bỏ làng quê để ra Hà-Nội sống. Với nhiều dang dở, tôi vừa đi làm vừa học. Khi biết mình có đôi chút khả năng về văn-chương và triết học, tôi muốn trở thành Giáo Sư Trung Học. Ở Sài-Gòn tôi theo học Văn Khoa, nhưng cũng ghi tên bên Luật-Khoa (hàng ngày ngồi học bên cạnh Trung Tá Trần Văn Chơn, tức Đề Đốc Trần Văn Chơn sau này). Sau tôi bỏ Luật, chỉ học bên Văn Khoa mà thôi. Chứng chỉ Dự Bị tôi đỗ với số điểm khá cao. Mộng là nhà giáo của tôi đã gần, nhưng chiến tranh đã kéo tôi vào đường quân ngũ mà tôi rất chán, dù tôi rất thương sót và cảm phục những hy-sinh to lớn của người lính. Nhưng cuộc chiến mỗi lúc mỗi thêm khốc liệt. Hoàn cảnh mỗi lúc mỗi thêm khó khăn. Tuổi đời mỗi lúc mỗi nhiều, lại vợ con một gánh, tôi không có cơ hội hoàn tất văn bằng Cử Nhân Văn Khoa. Rồi cuộc chiến tàn với bao nỗi ê chề đau đớn. Rời VN tôi là một người dang dở, bắt đầu lại cuộc đời bằng con số KHÔNG đúng nghĩa.
Giờ đây, dù có chèo kéo, tự lừa dối cách gì, tôi cũng như các bạn, chắc chắn chúng ta đã không còn trẻ nữa. Thôi thì hãy bằng lòng với những gì mình có. Nhưng phải công bằng mà nói, dù không ưa đời quân ngũ, lại là người "hoạn lộ kém thênh thang", nhưng tôi rất cám ơn quân đội, cám ơn Hải Quân. Đặc biệt nhờ HQ, tôi và gia-đình tôi đã thoát được một đoạn đời, nếu kẹt lại ở VN, chắc là chúng tôi đã vô cùng khốn khổ. Hiện tại gia-đình tôi sống ở thành phố San Diego, Hoa-Kỳ, có một cuộc sống bình-an. Mùa Giáng Sinh năm 2000 vừa qua, các con tôi, trong lặng lẽ đã làm một cử chỉ có ý nghĩa, được ghi lại trong lá thư gửi cho Họ Đạo St. Michael, Poway, họ đạo đã bảo trợ gia-đình tôi 25 năm trước, có đoạn như sau: "… We have each progressed at our own pace, but this millennial year marks the first time that four of us have become firmly established in our careers. To mark this event, in lieu of exchanging gifts to one another, we have decided to contribute what we would have spent on each other to St. Micheal's. This contribution is not a repayment for the gifts that we received in the past, for no repayment would be adequate. It is in memory and honor of the spirit that was extended to us during those fagile times." Lá thư đã đăng trên tờ Tin Tức của nhà thờ. Tôi nghĩ rằng các con tôi thực sự đã trưởng thành.
Cách đây trên 10 năm, do cơ duyên đưa đẩy, vợ chồng tôi cùng một số bạn đạo, tham dự những buổi Tu Thiền. Nhân một khóa tu trên núi, giữa rừng cây, được nghe giảng về sự tương quan giữa con người và vạn pháp trong tinh thần của kinh Bát Nhã, tôi cãm xúc làm một bài thơ như sau:
Thiền Hành Ban Mai và Rừng
Buổi sáng ở trong rừng
Thức cùng chim mời gọi
Buổi sáng ở trong rừng
Lòng trong như gió núi
Hơi mát ủ ngàn cây
Trời xanh mầu lá mới
Nhẹ đặt bước đầu ngày
Trên đá xanh ngàn tuổi
Đóa hoa nào bên suối
Lặng lẽ một niềm vui
Chào một ngày chẳng đợi
Lóng lánh hạt sương rơi
Bước đi mà chẳng vội
Ngày tháng như mây trôi
Ta và rừng một tuổi
Con rắn trong hốc cây
Ngủ vùi mà chẳng dậy
Nhẹ đặt bước đầu ngày
Nắng lên trời xanh cao.
Bài thơ này đã được một đạo hữu phổ nhạc, hát trong các buổi tu-thiền. Cũng trong tinh thần ấy, nhân buổi lễ Bông Hồng Cài Áo, tổ chức tại Malibu, California, năm 1990, do yêu cầu, tôi đã viết một bài nói về tình cha, nhan đề 'Cái Áo Của Thầy Tôi'. (Bài nói về nghĩa mẹ do thầy Nhất Hạnh viết). Trong buổi lễ này có anh chị Nguyễn Ngọc Luân tham dự. 'Cái Áo Của Thầy Tôi' là một chuyện thật. Tôi đã bồi hồi khi viết bài này. Các con tôi đọc đã xúc động nên con gái tôi là Ngân Hà, cùng con trai tôi là Tường Huân đã dịch sang Anh Ngữ. Các đài phát thanh ở San Jose, Santa Ana cũng như ở Houston đã nhiều lần đọc bài này với nhạc đệm như một chủ đề đặc biệt nhân ngày Vu Lan. Do đó tôi gửi cả phần Việt và Anh Ngữ của bài này, như một đóng góp cụ thể và tích cực của gia-đình tôi bên cạnh các gia-đình Bảo-Bình khác.
Như đa số các bạn kết thúc bài viết bằng ước vọng của mình. Ở tuổi mà như các cụ nói đó là "ngày Tiên, tháng Phật", tôi cũng có một ước vọng nhỏ bé, tầm thường: Mong được có sức khỏe, đừng đau ốm, để trong nhàn rỗi tôi có thể viết tiếp những cuốn sách mà tôi còn bỏ dở như 'Một Mảnh Trời Hà-Nội', cuốn sách tiếp theo cuốn 'Quê Nhà 40 Năm Trở Lại' … 'Vớt Người Biển Đông', viết lại những cảnh huống bi thương của đồng bào vượt biển, cũng như những sự kiện suốt 11 năm hoạt động của Ủy Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển mà từ khởi đầu tôi và Giáo Sư Nguyễn Hữu Xương là người thành lập và trực tiếp điều hành. Một tập thơ, thu góp những bài mà tôi đã làm từ ngày trai trẻ. Và ngay bây giờ, như trên tôi đã nói, để trả ơn Hải Quân, để vinh danh những đồng đội đã chiến đấu, đã hy sinh, tôi vẫn tiếp tục thu thập các dữ kiện để mong nói lên một phần nào những đóng góp cụ thể của HQ/VNCH trong hơn 20 năm chiến đấu và những gắn bó đầy tình nghĩa giữa những người cùng mầu áo với nhau, cũng như với đồng bào ruột thịt trên đường đi tìm Tự Do.
Trên đây là những nét tổng quát về tôi, về gia đình tôi, thân gửi tới các bạn. Chúc các bạn và gia đình đạt được mọi điều vui.
Phan Lạc Tiếp
San Diego ngày 10 tháng Giêng năm 2001.
Gia-Đình Phan Lạc Tiếp:
Cái Áo Của Thầy Tôi
Phan Lạc Tiếp
Mẹ tôi mất năm tôi mới trên 10 tuổi. Từ đó lúc nào tôi cũng quanh quẩn bên cạnh thầy tôi. Buổi sáng tôi xách nước cho thầy tôi tưới những luống rau ở mảnh vườn trước nhà. Buổi tối khi thầy tôi tụng kinh, tôi nằm bên cạnh. Giọng đọc kinh của thầy tôi đều hòa êm ả như những lời ru, khiến tôi ngủ vùi hồi nào tôi không biết, cho đến khi được gọi dậy để lên giường đi ngủ, toàn thân tôi đã được đáp kín bằng chính cái áo dạ của thầy tôi. Cái áo dạ dài ấm lắm. Mấy năm sau đó tôi lớn hơn, cái áo dạ đã không phủ kín toàn thân tôi nữa, và tôi biết rằng anh em tôi mồ côi mẹ thật là bơ vơ. Có người khuyên thầy tôi nên tục huyền, thầy tôi chỉ lặng lẽ cười không nói, và vẫn sống trong cảnh gà trống nuôi con.
Những ngày sắp tết, thầy tôi thường sai tôi dọn dẹp bàn thờ gia tiên, thay cát trong bát hương, rồi theo thầy tôi đi tảo mộ. Thầy tôi vác cái cuốc, còn tôi, tôi đem theo một bó hương to. Hai cha con tôi đi từ rất sớm, khắp cánh đồng làng. Bao giò thầy tôi cũng đến thăm mộ của cụ tổ họ trước tiên, rồi mới đến các ngôi mộ khác. Tại mỗi ngôi mộ, thầy tôi rẫy cỏ, đắp đất, lau các mộ bia, thắp hương và đứng khấn rất nhỏ. Thầy tôi nói cho tôi biết đây là mộ của ai, mất ngày nào. Người quá cố đã sinh ra những ai, con cháu hiện là những người nào, liên hệ với gia đình tôi ra sao. Thầy tôi không bao giờ quên nhắc lại những việc tốt lành mà người quá cố đã làm cho gia-đình, con cháu, làng nước. Thầy tôi thường nói: "Nhờ phúc ấm của các cụ nên giòng họ nhà ta mới được như ngày hôm nay. Các con phải cố noi theo gương của các cụ mà làm nhưng điều lành …"
Tại ngôi mộ của mẹ tôi, vì chưa được xây cất như các ngôi mộ của các cụ, nên thầy tôi thường cuốc đất xung quanh, đắp cho cao ráo, vuông vắn, rẫy một khoảng cỏ trên chóp mộ và cắm vào đó ba nén hương. Thầy tôi đứng khấn rất lâu, rồi lặng lẽ bước quanh ngôi mộ. Thầy tôi nói: "Con vào lễ mẹ đi, xin mẹ phù hộ cho các con được sức khỏe dồi dào, học hành tấn tới. Con cũng đừng quên mời mẹ về ăn tết với cả nhà".
Trên đường đi, thầy tôi cũng hay dừng lại đắp đất vào những hố chân trâu trên các ngôi mộ hoang, thắp hương lên đó nữa. Thầy tôi bảo các ngôi mộ này thày tôi biết là của ai, nhưng nay con cháu đi làm ăn xa, phiêu tán nơi nào, lâu quá không thấy về. Cả những ngôi mộ nằm bên vệ đường, nơi an nghỉ của những kẻ bần cùng, bơ vơ lạc bước, thầy tôi cũng dừng lại. Ông sai tôi đốt hết các nén hương còn lại, đem cắm lên các mộ đất. Lúc ấy thường trời chiều đã muộn, gió đã lạnh. Nhìn những đốm hương từng đợt lóe lên, tôi có cảm tưởng như những oan hồn, uổng tử đang lởn vởn quanh đây và tôi sợ. Tôi sợ và tôi thương cho số kiếp mong manh của con người.
Khi cái áo dạ của thầy tôi, tôi đã mặc gần vừa, tôi đã lớn, cũng là lúc cuộc chiến tranh tàn khốc từ đâu đó đổ về, lan cả đến thôn xóm của làng tôi. Thầy tôi bị Tây bắt. Khi được thả về ông gầy còm, ốm yếu lắm. Chưa được mấy hôm, một đêm có những người từ trên núi xuống, bắt thầy tôi đi, nói rằng sẽ đưa thầy tôi qua vùng giải phóng. Lúc chia tay, tôi vội đưa cái áo dạ cho thầy tôi, nước mắt tôi chan hòa. Thầy tôi ngoảnh lại nói: "Lớn rồi, can đảm lên con". Khi họ thả thầy tôi về, vẫn mặc tấm áo dạ cũ, nay đã có nhiều chỗ mòn, rách thầy tôi run rẩy không còn đứng vững được nữa. Tôi biết thầy tôi sẽ chẳng còn sống được bao lâu nữa. Tôi bỏ học để ở nhà bên cạnh thầy tôi. Lúc sắp mất thầy tôi nói với anh em tôi rằng: "Thầy không ân hận gì. Các con hãy để cho thầy nằm bên mộ của mẹ con, đắp chung thành một ngôi mộ cho to, cho dễ nhận. Vì các con sẽ đi xa lắm, còn lâu mới về". Tấm áo dạ sờn, rách cuốn tròn thi hài héo úa của thầy tôi. Lúc bấy giờ là một giờ đêm ngày hai mươi mốt tháng chạp ta, chỉ còn mấy ngày nữa là tết.
Từ đó đến nay thấm thoát đã bốn mươi năm. Theo vận nước nổi trôi, tôi đã bỏ miền Bắc vào Nam, mỗi khi sắp tết, tôi lại nhớ lại hết. Tôi nhớ như in lời thầy tôi trăn trối, tôi nhớ cả hơi ấm trong tấm áo dạ của thầy tôi. Trên trần thế, thầy mẹ tôi sống với nhau không quá hai mươi lăm năm. Nhưng kể từ khi thầy tôi mất tới nay, thầy mẹ tôi đã nằm cạnh nhau trong lòng đất, đã bốn mươi năm. Bốn mươi năm với lời trăn trối, chờ đợi các con về. Bốn mươi năm đó gió mưa nào đã đổ trên cánh đồng kia, những tang thương nào đã tràn tới quê hương ấy. Suốt cả thời gian dài rộng đó, mặc dù vô cùng mong muốn, tôi chưa trở lại thăm mộ thầy mẹ tôi được một lần. Nay sống xa quê nhà cả nửa vòng trái đất, cách cả một đại dương, nỗi mong mỏi của tôi càng trở nên mạnh mẽ. Tôi rất muốn trở về. Thể nào tôi cũng về. Tôi tin rằng đất nước sẽ có những đổi thay, lúc ấy tôi sẽ về. Tôi sẽ về để anh em đoàn tụ, để họ hàng, làng xóm lại đùm bọc, thương mến nhau như xưa. Lúc ấy tôi sẽ về. Tôi sẽ đi lại trên những con đường cũ, thăm các cánh đồng xưa. Tôi sẽ thăm mộ thầy mẹ tôi. Tôi sẽ thắp những nén hương, cắm trên đầu mộ và tôi sẽ nói: "Thưa thầy mẹ, con đã về. Chúng con đã về". Và chắc rằng tôi không thể nào không khóc. Tôi sẽ khóc như những ngày xưa thơ dại.
My Father's Coat
Witten by Phan Lac Tiep
(translated from Vietnamese by Ha & Huan Phan)
My mother passed away when I'd just turned 10. From that point on, I've always been close to my father. Every morning, I carried water for my father to water the vegetable patch in the small yard up front. In the evening, I would lay next to my father and listen to him chant. The rhythm of my father's voice chanting is regular and calming, like sounds from a lullaby, lulling me to sleep. When waken to get into bed, my body had been entirely covered in my father's coat. I remember, the coat was long and very warm. Years later, when the coat could no longer cover me from head to toe, I realize then, that life without a mother is a forsaken one.
During the days before Tet, my father would tell me to tidy up the ancestor altar, change the sand in the incense burner, then follow him to visit the graves. My father would carry a hoe with him, and I -- I would carry along a large bundle of incense. We two would begin the day very early, crossing all the rice fields of the village. My father would always visit the burial site of our eldest ancestor first, before the others. At each tomb, my father would weed, pile the earth up high, wipe the tombstone clean, light incense, and murmur a soft prayer. He would also tell me whose gravesite it was, when the person died, how many children the deceased left behind, who are the descendants, and how they are related to our family. My father never forgot to remind me of the good deeds the deceased has done for the family, his or her descendants, and our village. He often said, "Our family is what it is today, thanks to the good karma of our forefathers."
Because my mother's gravesite had not yet been contructed with a marker like our forefathers', my father would hoe the earth around the gravesite, stack the dirt up high, squaring it off, and place three sticks of incense there. He would tell me, "Ask your mother for her blessing -- so that you'll have good health and excell in your studies... and don't forget to ask her to come home for Tet."
On our way home, my father would often stop at the deserted gravesites and fill the holes left behind by the hooves of water buffaloes, then place a stick of incense there. He'd say that he knew whose grave this was, but now the descendants have left to work far away, drifted elsewhere, and long since have not returned. My father would even stop at the burials on the side of the roads, the final resting place of desolate indigents. He'd ask me to light the remaining incense and place them on the soft earth. By then, the evening light had begun to descend, and the wind was already cold. Looking at the sparks of incense, each flashing a red glow in the twilight, I felt as if those wasted lives, those lost souls were lingering somewhere around me and I was afraid. I was afraid and I grieved for the fragile fates of people.
When I could almost fit into my father's coat - it was the same time when the atrocious war had spread to my village and home - my father was captured by the French. When he came home, my father was already haggard and weak. Only a few days had passed since his release, whilst one night a few men from the mountains came down and seized him, claiming they must take him to the land of revolution. At the time we parted, I quickly gave my father his coat, my tears overflowed. He turned to me and said, "You're grown now. Be brave." When they finally sent my father home, he was still wearing that same coat, now with many worn and torn spots. He was shaking and could no longer stand. I knew then that my father could not live much longer, and I left school to be with him. Before my father died, he said, "I have no regrets. Let me lay next to your mother, pile the earth up high, so that it becomes one large tomb, easy to identify. Because you children will go very far. It will be a long time before you return." That torn, tattered, ridiculous coat of my father's, now lay rolled-up in a pile. It was 1:00 a.m., the 21st day of the twelve lunar month, only a few days til Tet.
Forty years have since escaped. Following the stormy fate of our country, I have since left the North and move to the South. Yet, every year before New Year's Day, I would remember it all. I remember my father's last words as if they are imprinted on my conciousness. I can almost inhale the warmth of my father's old coat. In life, my parents lived with each other no more than twenty five years. But since the day my father passed away, my parents have lain next to one another in the womb of the earth for forty years. Forty years since those last words, forty years of waiting for their children to return home. In those forty years, what have the wind and rain poured onto that rice field, what miseries have flooded our native homeland. During that expansive time, despite my desires, I've not once been able to visit my parents resting place. Now that I live half the world away, separated by a vast ocean, my desire to return grows stronger. I truly want to return home. Eventually I must. I believe there will be changes within my homeland, then I will return. I will return so that brothers and sisters can reunite, so that kinfolks will bond and cherish each other as they did those years ago. I will walk on the old roads, pad across those ancient fields. I will visit my parents' gravesite. I will light incense, place them atop the grave, and I will say, "Mother and Father, I have returned. Your children have returned." And I know that I cannot keep myself from crying. I will cry as I did during those years of my childhood.
TRUYỆN DỊCH * XEM XIẾC CÙNG CHA
Lúc còn là một thiếu niên, một lần, tôi được cha dẫn đi xem xiếc. Khi nhập vào hàng người đang xếp dài trước quầy vé, tôi chú ý đến một gia đình đứng ngay trước chúng tôi. Họ có đến những 8 đứa trẻ mà đứa lớn nhất có lẽ chưa đến 12 tuổi. Nhìn dáng vẻ những đứa bé ấy có thể đoán được gia đình chúng không giàu có.
Quần áo chúng không phải loại đắt tiền nhưng sạch sẽ và tươm tất. Và đó là những đứa trẻ biết cách cư xử. Cứ nhìn cái cách từng 2 đứa một nắm tay nhau xếp hàng sau bố mẹ chúng thì rõ. Chúng nói huyên thuyên một cách đầy phấn khích về những chú hề, những con voi và những trò xiếc khác mà chúng sẽ được xem tối nay. Rõ ràng chúng chưa từng đến rạp xiếc bao giờ. Buổi tối ngày hôm nay thật sự rất đặc biệt với cả 8 đứa trẻ ấy.
Cha mẹ chúng đang đứng ở đầu hàng với vẻ mặt hãnh diện nhất mà họ có thể. Người phụ nữ nắm lấy tay chồng, nhìn ông một cách dịu dàng. Ngay lúc ấy, người bán vé ngẩng lên và hỏi người đàn ông số vé ông ta cần. Người đàn ông trả lời đầy hứng khởi: "Cho tôi 8 vé trẻ con, 2 vé người lớn để tôi có thể dẫn cả nhà mình vào xem xiếc."
Nhưng, khi người bán vé báo giá của 10 chiếc vé, bàn tay người vợ đột ngột rời khỏi tay chồng, đầu bà ta gục xuống. Mặt người đàn ông hơi tái đi. Ông ta tiến lại quầy vé gần hơn và hỏi : "Anh nói giá bao nhiêu?"
Người bán vé bình thản lập lại giá của 10 chiếc vé, nhưng người đàn ông không có đủ tiền. Làm sao ông ta có thể quay lại và bảo với 8 đứa con của mình rằng ông ấy không đủ tiền để dẫn chúng vào xem xiếc?
Chứng kiến tất cả những gì xảy ra, cha tôi lặng lẽ lấy từ trong túi ra tờ 20 đô và thả xuống đất. Sau đó, ông cuối xuống nhặt lên và vỗ vai người đàn ông, nói rất tự nhiên: "Xin lỗi, thưa ông, cái này vừa rơi ra từ túi ông".
Người đàn ông hiểu những gì đang diễn ra. Ông không cầu xin của bố thí nhưng rõ ràng ông có thể đoán đây là sự giúp đỡ trong một tình huống ngặt nghèo.
Bối rối trong giây lát rồi ông ấy nhìn thẳng vào mắt cha tôi, chụp lấy tay cha bằng cả hai bàn tay như muốn vắt kiệt tờ 20 đô, một giọt nước mắt rơi lặng lẽ xuống má, đôi môi mấp máy một cách khó khăn: "Cảm ơn, cảm ơn ông rất nhiều. Điều này thật sự ý nghĩa với gia đình tôi lúc này".
Sau khi nhìn cả gia đình người đàn ông khuất sau cánh cổng rạp xiếc, tôi và cha đón xe buýt về nhà, đơn giản bởi vì số tiền còn lại trong túi cha không đủ để mua vé cho hai cha con. Thật sự thì chúng tôi cũng chẳng dư dả gì! Nhưng tôi không hề giận cha. Những gì cha đã làm lúc đó đáng giá hơn cả ngàn buổi xem xiếc.
Theo The Secrets of Life
ĐỀN THỜ PHẬT TUYỆT ĐẸP DƯỚI ĐÁY BIỂN INDONESIA
ĐỀN THỜ PHẬT TUYỆT ĐẸP DƯỚI ĐÁY BIỂN INDONESIA
Buddha Statue Under Water
(Nguồn Internet)
Published on Jan 20, 2014: Trong thời gian lặn biển, chúng tôi thấy một tượng Phật ngã xuống và đã chuyển dịch ra xa hơn điểm thực mới đầu. Chúng tôi dừng lại và di chuyển tượng về vị trí cũ của tượng. Hy vọng Đức Phật sẽ ban phước lành cho tất cả các thợ lặn ở vùng Coral Garden (Bali). Cảm ơn Okta, bạn là một người bảo vệ rất tốt và là vị sư lặn tuyệt vời.Published on Nov 10, 2013: Trong khi kỳ nghỉ hè ở Nusa Lembongan, một hòn đảo nhỏ gần Bali (Indonesia), chúng tôi đã lặn biển nửa ngày. Nhà tôi Fiona và con gái lớn Hannah đã khám phá ra cảnh tượng Phật tuyệt vời này.
Một tượng Phật ngồi cao 2 mét rưỡi bao quanh bởi nhiều tượng nhỏ và trụ đá tựa như hình chuông, kiến trúc này tương tự như kiến trúc quần thể đền Phật Giáo Borobudu. Tượng Phật hướng về phía Bắc và nằm ở lối vào kênh Ceningan.
Chúng tôi không biết chắc những ngôi tượng này đã ở đây được bao lâu, nhưng nhìn vào lượng hải sinh tăng trưởng xung quanh tượng thì có lẽ ít hơn một năm. Người hướng dẫn cuộc lặn biển này cho biết là họ không hề biết nó đã ở đó và chúng tôi có nói chuyện với một số người dân địa phương ở đây, họ đều không biết về cảnh vật này. Tôi không thể tìm thấy bất kỳ một thông tin trực tuyến nào về điều chúng tôi đã thấy, nếu có ai biết về việc này xin vui lòng cho chúng tôi biết.
Cảnh tượng chúng tôi thấy gần giống như như một loại cảnh tưởng niệm như là điều nghi ngờ cái cánh của một chiếc máy bay nhỏ. Bạn có thể thấy điều này ở phần cuối của video.
Có một vầng hào quang kỳ diệu khi chúng tôi ở đó và tôi đã cố gắng mô tả điều này trong đoạn video..UnderWater Temple Garden Pemuteran Bali
Đất nước Indonesia nổi tiếng với ngôi đền thờ Phật giáo độc đáo nhất thế giới, Borobudur (hay còn gọi là Candi Borobudur theo tiếng địa phương), nhưng đất nước này hiện vẫn còn ẩn giấu một ngôi đền thờ Phật tuyệt đẹp khác đang chìm dưới đáy biển. Vẻ nguy nga tráng lệ và trang nghiêm của di tích đền thờ Phật này không hề thua kém gì so với Borobudur, đủ để làm rung động cả thế giới.
Vậy, ngôi đền thờ Phật chìm dưới đáy biển này là di tích của thời kỳ nào? Kỳ thực vẫn chưa tìm được đáp án chính xác cho câu hỏi này. Nhưng nếu căn cứ vào hình dạng kiến trúc và kiểu dáng của nó thì khả năng lớn là nó có cùng niên đại với đền thờ Borobudur tức là vào thế kỷ 7-8 sau công nguyên. Bởi vì vào thời kỳ Phật giáo phát triển hưng thịnh ở quốc gia Srivijaya (thế kỷ 7-8) này, việc kiến tạo đền bằng đá đã trở thành một trào lưu mạnh mẽ ở nơi đây và Borobudur là một ví dụ.
Theo thông tin hiện có, di tích đền thờ Phật này nằm ở vùng biển cách không xa so với Borobudur. Indonesia nằm ở khu vực núi lửa hoạt động mạnh từ xưa đến nay, những vụ núi lửa lớn nhỏ hoạt động đã khiến nơi đây xảy ra nhiều tai nạn thiên nhiên, cũng làm thay đổi vỏ trái đất. Đền chùa được kiến tạo bằng đá mặc dù dễ bảo tồn, nhưng muốn ngăn cản sự ảnh hưởng của sự vận động của vỏ trái đất thì cũng không phải việc dễ dàng. Vì vậy, trong lịch sử Borobudur đã từng bị chôn vùi bởi núi lửa và di tích đền thờ Phật đang chìm dưới đáy biển này có thể cũng đã gặp phải cảnh ngộ này. Còn có một số đền thờ Phật có kiến trúc tương tự đã vì sự biến đổi tự nhiên mà bị thay đổi hình dạng và vị trí địa lý.
\
CÔNG AN VIỆT CỘNG LÀM BẬY Ở ĐẠI HÀN
Hình minh họa: Một Quan Lớn Công An Cộng Sản VN đã bóp vú một cô gái trẻ Hàn Quốc 21 tuổi trong thang máy tại một khách sạn nên đã bị bắt giữ. Tin nầy đăng lên báo chí Nam Hàn, được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới làm vẽ vang ngành Công An CsVN và nêu uy danh Cờ Đỏ Sao Vàng của XHCNVN trên trường quốc tế bên cạnh cách vụ ăn cắp nỗi danh của công dân XHCNVN tại Nhật, Anh, Thụy sĩ.
VietPress USA (06-11-2015): Bản tin trên báo chí Nam Hàn Korea News tại Link http://news.joins.com/article/19003008 vừa loan tin rằng Cảnh Sát Bucheon đã bắt giữ một “Đồng chí” Lãnh Đạo Cao cấp Công An Nhân Dân nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam vì đã bóp vú một cô gái trẻ Hàn Quốc khi đi chung trong thang máy tại một Khách sạn.
Bác cháu ta cùng Bóp Vú!
Tin của Cảnh Sát cuộc Hàn Quốc cho hay vào khoảng 9:30pm ngày 30/10/2015, tại thang máy của 1 khách sạn thuộc quận Wonmi-gu, Thành phố Bucheon, Gyeonggi-do, một cô gái trẻ Nam Hàn 21 tuổi đang đi thang máy chung với một người đàn ông Việt Nam 51 tuổi thì bất ngờ bị ông nầy bóp vú tới tấp. Cô gái Hàn Quốc cố gắng chống cự nhưng đã bị người đàn ông dùng sức mạnh của cả hai tay càng bóp vú cô liên tục.
Khi thang máy dừng lại thì người đàn ông kia vội vàng tẩu thoát về phòng ngủ của Khách sạn. Cô gái Hàn Quốc là nhân viên làm việc tại khách sạn nơi người đàn ông tạm trú nên cô gái đã báo cho Ban Giám Đốc Khách Sạn và mời Cảnh Sát quận Wonmi đến.
Khi Cảnh Sát quận Wonmi đến thì người đàn ông nầy chối phăng là không hề sàm sở làm chuyện tồi bại như vậy. Nhưng Cảnh Sát Hàn Quốc đã lấy băng thu hình an ninh của Khách sạn ra xem thì thấy rõ chính người đàn ông Việt Nam nầy đã dùng cả hai bàn tay bóp vú cô gái trẻ Hàn Quốc trong thang máy của khách sạn.
Hý họa trên Internet "Làm theo gương Bác... Bóp!"
Người đàn ông bóp vú sàm sở đã bị còng tay bắt về giam giữ tại Cảnh Sát cuộc của Hàn Quốc. Ông ta khai tên và đưa giấy tờ cho thấy là một Cán bộ Cao Cấp ngành Công An Nhân Dân csVN được phái đi công tác nhập cảnh Hàn Quốc từ ngày 25-10-2015 theo diện tu nghiệp nghiên cứu thực hiện Thư Viện Điện Tử cho Học Viện Cảnh Sát Nhân Dân nước CHXHCNVN. Thời hạn ông Cán bộ cao cấp ngành Công An Nhân Dân nầy thuê phòng tại Khách sạn là 8 ngày 7 đêm; nhưng ông chỉ mới ở được 5 ngày thì tay ông bị chứng ngứa xã hội chủ nghĩa nên ông bóp vú cô gái trẻ Nam Hàn.
Cảnh Sát Nam Hàn liên lạc với Tòa Đại sứ csVN tại Seoul và phía Việt Nam xin tạm thời dấu tên Cán bộ cao cấp Lãnh đạo Công An Nhân Dân nầy. Do đó trong bản tin công bố trên Korea News, Cán bộ Lãnh Đạo Công An bóp vú 51 tuổi được đặt tên là ông A. Theo bản tin công bố, cô gái Nam Hàn cũng được dấu tên và gọi là cô B. để bảo vệ danh dự cho cô đã bị bàn tay tham nhũng, bốc hốt quen thói của người Lãnh đạo Công An Nhân Dân nước CHXHCNVN vấy bẩn lên thân thể của cô gái trẻ Hàn Quốc nầy.
Có tin cho hay “Lãnh đạo Công An bóp vú” nầy đang chờ Bộ Nội vụ csVN cử đại diện Công An Nhân Dân từ Việt Nam qua Hàn Quốc ký nhận và dẫn độ về nước để khỏi bị đưa ra tóa án Hàn Quốc. Thế nhưng trên các mạng xã hội và Diễn đàn Internet nói rằng "Bóp Vú" không bị phạt tội tại nước CHXHCNVN vì đó là "Học tập làm theo gương Bác Hồ vĩ đại". Nhiều hình ảnh tài liệu cho thấy Bác "bóp vú" công khai (xem hình đính kèm ở trên). Nhiều cơ quan nhà nước csVN có câu "Làm việc kêu bằng Chú, bóp vú gọi bằng Anh, góp ý đấu tranh xưng là Đồng Chí".
Đau tay
Bùi Bảo Trúc
Ông Tản Đà, trong tập Khối Tình Con (1913) và Tản Đà Văn Tập, có hai bài thơ thất ngôn bát cú chỉ khác nhau có 4 câu đầu còn 4 câu sau thì giống hệt. Hai bài có hai cái tựa khác nhau nhưng đều nói về chuyện một ông thầy đồ nham nhở bị một phụ nữ tặng cho bàn tay thích đi lang thang của ông một gậy đau gần chết.
Hành động ưa phiêu lưu của ông được mô tả rất rõ trong tựa của bài thơ in trong tập Khối Tình Con: “Bóp Vú Đau Tay.” Bài thơ ấy nguyên văn như sau:
Hàng xứ đồn lên lắm chuyện hay
Con người như thế hóa non tay
Gớm cho cô bé nhiều gan tệ
Chết nỗi làng chơi phải miếng cay
Hùm đã biết tay sao cứ mó?
Chim chưa vỡ bọng dễ mà bay
Từ đây buộc chỉ chừa thôi nhé
Đừng có chơi dao liệu có ngày
Có lẽ cái tựa “Bóp Vú Đau Tay” vào thời ấy (1913) nghe sỗ sàng quá nên Tản Đà sau đó đổi lại là “Thầy Đồ Ve Gái Phải Đánh Đau Tay” và viết lại 4 câu đầu của bài thơ thành:
Em mới nghe đồn lắm sự hay
Đồn rằng bác mới phải đau tay
Gớm ghê cô bé già gan tệ
Lẩy bẩy thầy nho mắc miếng cay
Còn 4 câu sau thì giống hệt 4 câu của bài trước. Đọc cả hai bài thì thấy người bị đánh đau tay là một ông thầy đồ chắc đã có tuổi (lẩy bẩy) bề ngoài đạo mạo chữ nghĩa thánh hiền một bụng, nhưng lúc vắng người thì thầy ma mãnh hơn bất cứ ai, những trò nhí nhắt (mà Nguyễn Khuyến kể trong bài Lựu: ...ông già ông khác người ta/những cái nhí nhắt ông ma bằng mười ) thầy chẳng hề thua người nào. Cho đến khi thầy bị người phụ nữ (mà thầy nham nhở) cho bàn tay của thầy một đòn đau nhớ đời. Chuyện được truyền miệng khắp Hà thành, đến tai Tản Đà nên bị ông già núi Tản sông Đà cho một bài thơ lên báo. Chắc ông thầy đồ cũng là chỗ quen biết, lại là vai vế đàn anh của Tản Đà nên Tản Đà mới xưng “em” và gọi ông thầy đồ bằng “bác.”
Thực ra chuyện nham nhở, cho bàn tay lang thang một chút thì cũng thế gian thường tình, nhưng chuyện mới xảy ra gần đây tại Hàn Quốc thì lại là chuyện không nhỏ chút nào.
Một tờ báo ở Bucheon, một thị trấn gần thủ đô Hán Thành, tuần trước cho biết một cán bộ lãnh đạo công an Việt Nam đã bị cảnh sát Hàn Quốc bắt về tội có hành vi sàm sỡ với một phụ nữ làm việc cho một khách sạn nơi người này đang tạm lưu trú.
Người đàn ông này đã có những hành vi nham nhở với người phụ nữ 21 tuổi trong thang máy, bị cự tuyệt, chàng ra khỏi thang máy chạy về phòng làm như không có gì xảy ra. Nhưng máy thu hình đặt trong thang máy đã thu được tất cả nội vụ. Người phụ nữ ngay sau đó đã trình báo với cảnh sát nên người công an mất nết này đã bị bắt giữ ngay sau đó. Chàng chối bay chối biến làm như còn ở Việt Nam không bằng. Nhưng camera trong thang máy thì không ăn gian nói dối như công an cảnh sát Việt Nam.
Hình ảnh camera thu lại rất rõ hành vi mất dậy của viên công an cao cấp này. Được biết chàng được cử đi Hàn Quốc để tham dự một khóa tu nghiệp trau dồi nghiệp vụ. Vậy là mới sang đất nước người ta được 5 ngày, chàng đã giở trò khốn nạn ngay với một phụ nữ Hàn Quốc. Báo chí ở Bucheon không nêu đích danh chàng mà chỉ cho biết tên tắt của chàng là A. năm nay 51 tuổi.
Chưa biết cảnh sát Hàn Quốc sẽ giải quyết vụ này ra sao. Có thể chàng sẽ tống xuất về nước và sẽ được thăng thưởng vì không ăn cắp trong siêu thị như nhiều người Việt khác ở Hàn Quốc và Nhật không chừng!
Khốn nạn hết chỗ nói!
Trong khi đó, báo chí trong nước hồi tuần trước loan tin hồi tháng 5 năm nay, ông Ban Ki Moon, tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đã đến thăm nhà thờ họ Phan Huy ở Sài Sơn nhận là có liên hệ họ tộc với dòng Phan Huy ở Việt Nam. Ông Ban Ki Moon đã viết trong sổ lưu niệm của nhà thờ tên Việt Nam của ông là Phan Cơ Văn và hứa sẽ hành sử sao không hổ danh dòng họ Phan Huy của ông.
Đặt hai chuyện bên nhau mà thấy buồn. Một người trở về đem vinh dự cho dòng họ Phan. Một thằng khốn nạn làm nhục nhã người Việt vì một cái bóp vú người phụ nữ Hàn Quốc.
Chỉ vì chủ nghĩa Cộng Sản khốn nạn ở Hà Nội.
NGUYỄN ĐẠT THỊNH * PHẠM HUẤN
Phạm Huấn - Nhà Báo Quân Ðội
Phạm Huấn là một nhà báo quân đội và trong “Bộ Biên Tập Diều Hâu”.
Thành viên Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên và 2 Bên, đặc trách về Báo Chí, khi Hiệp Định Paris 1973 được ký kết.
Chủ tịch Hội Phóng Viên Chiến Tranh Việt Nam, 1972-1975.
Chủ tịch Hội Phóng Viên Chiến Tranh Việt Nam, 1972-1975.
Tác giả đã theo học Trường Võ bị Đà Lạt năm 1956, Trường Đại Học Quân Sự năm 1963.
Và cá Trường Quân sự tại Hoa Kỳ: Infantry School (Fort Benning, GA, 1958), Civil Affairs School (Fort Gordon, GA) và Special Warfare School (Fort Braggs, NC, 1965).…
Trong nghề phòng viên chiến tranh, Phạm Huấn có một chỗ đứng riêng biệt, dù đi chung với những phóng viên nổi tiếng hàng đầu của thế giới như Moshe Dayan, Dickey Chapel… hay chỉ đi có một mình, bao giờ anh cũng được đón nhận nồng nhiệt của mọi chiến hữu ở ngoài mặt trận.Năm tháng sau cùng của chiến tranh Việt Nam, anh bỏ bàn hội nghị với Cộng Sản tại Saigon, theo Tướng Phạm Văn Phú lên Pleiku, chắc chắn không phải là một sự ngẫu nhiên. Những ghì mà Phạm Huấn biết được trong cái nôi của mọi khởi biến trọng đại ấy, đã là những chứng liệu quí báu, giúp chúng ta nhìn rõ hơn tình huống lúc bấy giờ.
Với tôi chỉ là một câu hỏi thừa thãi: Tại sao, bây giờ, sau nhiều năm, Phạm Huấn mới chịu công bố những sự kiện trên? Sự kiện càng đắt giá bao nhiêu, câu hỏi thừa thãi càng nở lớn bấy nhiêu. Tại sao? Tôi không chờ đợi một cây trả lời chiếu lệ, khỏa lấp. Phạm Huấn có quyền giữ cho riêng Anh những điều bí ẩn ấy.
Tác giả Phạm Huấn, trong những lời cuối của cuốn bút ký chiến trường lịch sử “Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975” đã bày tỏ: “Tôi đã viết ra tất cả những bí mật, những cái lệnh của các tướng lãnh, lãnh đạo đất nước và quân đội, và mọi diễn biến xảy ra trong “Cuộc rút bỏ Cao Nguyên tháng 3,1975”, dưa đến sự sụp đổ tinh thần, làm tan rã QLVNCH, và mất nước sau đó. Những tiết lộ trong cuốn sách này, ngoài đoạn viết về “quyết định Cam Ranh 14.3” của năm tướng Thiệu, Khiêm, Viên, Quang, Phú; tất cả là sự thật và có chứng tích.
Về “Quyết định Cam Ranh 14.3”, tôi đã viết đi viết lại nhiều lần, và đây là lần tôi ưng ý nhất. Tôi có mặt tại “tòa Bạnh Dinh” Cam Rang sáng ngày 14.3.1975, nhưng tôi không được tham dự buổi họp này
Tôi viết những tiết lộ của Tướng Phú, bằng những diễn biến sau đó của cuộc rút quân, bằng sự suy diễn của một nhà báo đã nghiên cứu về Chiến Trường Cao Nguyên, và hiểu biết một phần nào “cuộc đời chính trị và quân sự” của các tướng lãnh hiện diện trong phiên họp.
Giữa năm 1986, trước khi hoàn thành cuốn sách, mới mong ước tập tài liệu đặc biệt này có một giá trị tuyệt đối, tôi đã bỏ ra một tháng trời tại miền Đông Hoa Kỳ, bằng mọi cố gắng xin gặp Đại Tướng Cao Văn Viên, cựu Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH. Tôi muốn được nghe một “tiếng nói thứ hai” về Quyết Định Cam Ranh ngày 14.3.1975, vì Đại Tướng Viên là một nhân vật rất quan trọng trong cuộc họp lịch sử nàyLúc đầu, Đại tướng Viên từ chối không tiếp tôi, với 2 lý do:
- Đất Nước mất đã hơn 11 năm, Ông không muốn nhắc lại chuyện cũ, gây nên hiểu lầm, làm buồn lòng những anh em đã chết. Hiện tại, dù đã trên 60 tuổi, ông vẫn phải làm việc rất vất vả, cực khổ để sinh sống, và ít khi có mặt ở nhà. Tuy nhiên, với sự khẩn khoản yêu cầu của tôi, Đại Tướng Viên đồng ý cho tôi phỏng vấn trên điện thoại. Nhưng thật bất ngờ, sau đó, không biết vì lý do gì, tôi đã gọi khoảng 30 cú điện thoại viễn liên, mà không lần nào gặp ông. Tôi chỉ được nói chuyện rất nhiều lần với bà đại tướng Cao Văn Viên. Tuy vậy, tôi vẫn chưa thất vọng. Tôi tin rằng trong tương lai, có dịp được diện kiến với Tướng Viên, chắc chắn, ông sẽ nói cho tôi biết những điều đúng, những điều sai về “quyết định Cam Ranh 14.3.1975” mà tôi đã viết ra. Và nếu có những điều sai, tôi sẵn sàng viết lại thêm một lần nữa và “Quyết Định” có tính cách lịch sử này.Tôi xin chịu trách nhiệm về những điều tôi viết trong cuốn sách. Tôi cũng xin sẵn sàng chấp nhận mọi sự phê phán, mọi chuyện xảy ra, bất cứ từ đâu tới. Đây là việc làm tôi đã suy nghĩ trong một thời gian khá lâu, trước khi quyết định phổ biến mọi bí mật mà tôi biết về “Cuộc rút quân Cao Nguyên”, và những ngày cuối cùng trên Chiến Trường Quân Đoàn II.Trong cái nhục của một người quân nhân bại trận, hèn nhát trốn chạy sang đây, tôi đã muốn quên đi tất cả. Nhưng, những hình ảnh của trận chiến sau cùng luôn luôn chờn vờn, ẩn hiện trước mắt tôi. Tôi rất đau đớn và vô cùng phẫn nộ, khi phải nghe, phải đọc, hoặc ai nhắc đến câu: “Tan hàng bỏ chạy, chưa đánh đã chạy v.v.”đó là một sỉ nhục chung cả tập thể QLVNCH! Điều đó không đúng. Xin hãy kết tội, phê phán những sai lầm của các tướng lãnh, các cấp chỉ huy lãnh đạo đất nước, chỉ huy quân đội, và kết tội tôi đã làm mất nước, đã thua trận, đã hèn nhát. Nhưng hãy để yên cho những người đã chiến đấu và đã chết trong trận chiến sau cùng được yên nghỉ.Sau khi Phước Long mất, Mặt Trận Ban Mê Thuột bùng nổ đầu tiên, ngày 10.3.1975, trong trận đánh quyết định sau cùng, tinh thần chiến đấu của các đơn vị QLVNCL như thế nào, những trang sách trên đã ghi lại mọi diễn biến, và từng ngày, từng giờ xảy ra. Khi Cộng sản Bắc Việt tấn công Ban Mê Thuột, các đơn vị chủ lực của QLVNCH tại thị xã này gồm Trung Đoàn Bộ Binh, Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân, các đơn vị Pháo Binh 105 ly, và Thiết Vận Xa M113, trong 7 ngày chiến đấu, gần như 100% lực lượng của Trung Đoàn 53 Bộ Binh, và các đơn vị Pháo Binh, Thiết Vận Xa bị thiệt hại, Liên Đoàn 21 Biệt Động quân bị tổn thất khoảng 80% quân số. Các anh hùng phi công của Không Quân Việt Nam đã chiến đấu gan dạ phi thường, để yểm trợ cho những cánh quân bạn dưới đất, và đánh những chiến xa, những dàn đại pháo của địch. Họ bị phòng không Cộng Sản Bắc Việt bắn hạ như mỗi ngày, có ngày 3 phản lực cơ A-37 và 1 trực thăng võ trang bị bắn cháy, bị nổ tung như ngày 13.3.1975.
17 ngày sau cùng trên chiến trường Quân Khu II, kể từ 17.3.1975, song song với cuộc rút quân, các Mặt trận Phước An, Khánh Dương, Bình Định, đều đồng loạt bùng nổ. Tại khắp các Mặt Trận, Cộng sản Bắc Việt với một lực lượng quân chính qui đông hơn gấp từ 5 tới 10 lần, có chiến xa, đại pháo yểm trợ, do đó, chúng đã làm chủ tình hình ngay từ phút đầu. Tuy nhiên, các đơn vị chủ lực còn lại của Quân Đoàn II, và Lữ Đoàn 3 Nhẩy Dù, chỉ buông súng khi bị tràn ngập, hoặc đã bị thiệt hại 70% quân số, và không còn được tiếp tế đạn dược, không còn liên lạc được với quân đoàn. Trước ngày 30.3.1975, 2 trung đoàn 41, 42, 47 của sư đoàn 22 Bộ Binh tại các mặt trận quốc lộ 19, và Bắc Bình Định, sau khi bị thiệt hại ở chiến trường, và trên 30 cây số đường rút quân, xuống tầu tại Quy Nhơn được khoảng 1,000 người. Bị thiệt hại trên 70%. Lữ đoàn 3 Nhẩy Dù tăng phái cho Mặt trận Khánh Dương, buông súng trưa ngày 1.4.1975, sau khi vỡ tuyến, bị tràn ngập, và không còn được tiếp tế, liên lạc được với quân đoàn II. Lữ Đoàn 3 Nhẩy Dù bị tổn thất 70% lực lượng. Đó là thực trạng và tinh thần chiến đấu của các đơn vị chủ lực Quân Đoàn II, và Lữ Đoàn 3 Nhẩy Dù trong những ngày sau cùng trên chiến trường Cao Nguyên.Pleiku, Kontum, Nha Trang: Chưa đánh đã bỏ chạy! Đúng! Cuộc rút bỏ Pleiku, Kontum năm 1975 là một sai lầm nghiêm trọng, một thiệt hại lớn lao nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam. Tất cả lực lượng chiến xa M48, M41, và Pháo Binh nặng, Đại bác 175 ly, 155 ly của quân Đoàn bị hủy diệt. Gần 20 ngàn quân tinh nhuệ bị… thảm sát 7 liên đoàn Biệt Động Quân, Lữ Đoàn 2 thiết Kỵ, Liên Đoàn 6 Công Binh Chiến Đấu, các đơn vị Lôi Hổ, Thám Kích bị thiệt hại từ 70% tới 80%. Tôi dùng chữ “Thảm Sát” ở đây, vì hầu hết bị chết bởi pháo của Cộng Sản Bắc Việt, bom đó do Không Quân thả trúng, mìn bẫy của Đồng Minh và quân ta, gài từ trước trên tỉnh lộ 7. Đó là một quyết định sai lầm về chiến lược. Tâp đoàn Tướng Lãnh lãnh đạo Đất Nước và Quân Đội phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về quyết định rút bỏ Cao Nguyên 1975, đưa đến sự sụp đổ, tan rã QLVNCH, và mất nước. Tổ chức và hệ thống chỉ huy tồi tệ của cuộc rút quân, không phối hợp, vô trách nhiệm, vô kỷ luật: Đó là trách nhiệm của các Tướng Lãnh bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, các Tướng Tham mưu quân Đoàn II.Còn về Nha Trang bỏ chạy, đó là chuyện đương nhiên. Bởi vì, Bình Định, Phú Yên đã mất, tất cả các đơn vị chủ lực Pháo Binh, Thiết Vận Xa của Quân Đoàn II đã bị đánh bại tại 2 mặt trận Phước An và Khánh Dương. Tuyến cuối cùng của Lữ Đoàn 3 Nhẩy Dù trên Đèo M’Drak đã bị vỡ, bị tràn ngập. Kể từ trưa ngày 1.4.1975, Nha Trang chỉ còn được “phòng thủ” bởi các lực lượng Cộng quân không cần đánh, Nha Trang cũng mất!
Tối ngày mồng 4 Tết Ất Dậu, 2005, chúng tôi vào thăm nhà báo Phạm Huấn ở dưỡng đường Mission De La Casa, San Jose. Ông bị tai biến chứng về cột xương sống. Đây là hậu quả khi ông tham dự vào 1 lần tập huấn tại Trung Tâm Luyện Nhẩy Dù, thời đầu thập niên 1960.
Buổi tối San Jose khá lạnh. Chúng tôi nói chuyện với ông về kỷ niệm những ngày ông đã từng đi chung với nữ ký giả chiến tranh Dickey Chapel ở cấp đại đội, tại chiến trường Việt Nam. Sau này bà đã thiệt mạng, trong lần thứ hai trở lại chiến trường này. Còn bây giờ, người phóng viên chiến tranh Phạm Huấn đang ngồi âm thầm bên chiếc bàn nhỏ, trên đó có đĩa bánh chưng rán của người thân mang vào cho ông trong những ngày đầu năm. Ông chỉ ăn được một phần nhỏ, và ông cũng không rõ đã ăn chưa, vì chứng bệnh alzheimer…
Sáng ngày mồng 5 Tết, các nữ ca sĩ Kim Tước, Mai Hương, Quỳnh Giao cũng đã đến thăm ông. Mọi người đều bùi ngùi. Phạm Huấn, phóng viên chiến tranh, tài tử của phim “Ngàn Năm Mây Bay”, người chứng kiến lịch sử đoạn kết của VNCH 1975 bây giờ đang ngồi, mắt xa xăm, trong 1 dưỡng đường ở San Jose, California. Gần đó, cuối dãy, bạn ông, nhà thơ Hoàng Anh Tuấn cũng vừa nhập viện cách đây hơn một tháng…
Mời đọc bài viết của Văn Quang, từ Sài Gòn về 1 người bạn chung:
Phạm Huấn
Phóng viên chiến trường năm xưa đã ra đi
Lẩm cẩm Sài Gòn thiên hạ sự
Số 129 - ngày 24-10- 2005 * Văn Quang
Sáng thứ bảy ở VN, chiều thứ sáu 21-10-2005 ở Santa Ana, tôi nhận được điện thoại của người em dâu ở Mỹ báo tin: Phạm Huấn vừa "về với Chúa".
Thật ra điều này không làm tôi ngạc nhiên, vì từ mấy năm nay bạn bè đã cho tôi biết về bệnh tình Phạm Huấn. Anh nằm trong "nhà an dưỡng" ở San Jose trong một tình trạng rất đáng buồn, các bạn tôi nhìn thấy anh, không ai không mủi lòng. Trong thời gian đó tôi chỉ được coi một tấm hình anh ngồi ngơ ngẩn trên hàng ghế đầu khi trình làng tập thơ của Hoàng Anh Tuấn ngay trong một căn phòng khách của "nhà an dưỡng". Tôi không thể nào hình dung được con người đẹp trai, hào hoa phong nhã ngày nào, bây giờ lại& "thảm" đến như thế được. Chứng bệnh mất trí nhớ hành hạ anh và cả những người thân của anh thường xuyên có mặt bên giường bê.nh.
Phạm Huấn chỉ đóng một phim duy nhất
Hình ảnh hôm nay, khiến tôi càng nhớ tới khi anh đóng phim "Ngàn năm mây bay" do Thái Lai sản xuất dựa trên một truyện dài của tôi xuất bản vào khoảng năm 1962. Và dường như đời anh chỉ đóng có một cuốn phim duy nhất đó, thế nên nó cũng giống như một cuộc vui chơi mà thôị Những lần sau đó, có người mời anh đóng phim, anh đều từ chốị Ngay trong phim Chân Trời Tím, tôi gợi ý anh vào vai một sĩ quan bảnh bao, học giỏi, con nhà giàu, bên cạnh vai chính Hùng Cường và Kim Vui, nhưng anh lắc đầu: "Tao thấy nhân vật đó hơi& kỳ". Và rồi vai nào anh cũng chệ Mặc dầu đạo diễn Hoàng Vĩnh Lộc, đôi khi cũng rủ rê anh "đóng một vai cho vui", cũng như Hoàng Vĩnh Lộc đã từng rủ rê cả Duyên Anh, đóng vai bệnh nhân trong một bệnh viện và Hà Huyền Chi vào vai "người vác quan tài" trong phim "Người tình không chân dung". Gọi là đóng phim chơi cho vui, có tên tuổi của những nhà văn, nhà báo cho thêm xôm tu.. Trong phạm vi đứng đắn của một tác phẩm, vẫn có những "trò nghịch ngầm", vui chơi của anh chị em nghệ sĩ mà chắc khán giả cũng biết. Nhưng nếu có ai gọi Phạm Huấn là tài tử, anh cho rằng người ta "chọc giận" mình. Bởi theo nhận định của tôi, anh thích là một phóng viên chiến trường, một nhà văn, hơn bất cứ thứ gì khác. Cuộc đời trai trẻ của Phạm Huấn sôi nổi nhưng không "giang hồ đến cả hoa kia cỏ này" như ông bạn già Phan Nghị của chúng tôị Một ngày của anh là công việc và lãng du, tình yêu và quân ngũ, những thứ gắn liền với nhau như từ trong máụ
Tôi không nhớ chính xác chúng tôi quen nhau từ năm nào, nhưng gặp nhau là thân ngay, cũng gần nửa thế kỷ rồi đấỵ Nhưng từ 30 năm nay, tôi không một lần gặp lại Phạm Huấn. Nhớ lại lần đầu gặp anh, vào khoảng đầu thập niên 60, khi anh về phục vụ tại Phòng Báo Chí, Cục TLC. Khi ấy anh vừa từ giã chức Đại đội trưởng Đại Đội Văn Nghệ ở vùng 1, đồn trú ở Quảng Ngãị Có lẽ vì yêu cuộc đời phóng viên nên anh xin về làm báo quân độị Anh nói với tôi: "sẵn sàng đi bất cứ chiến trường nào, chứ không muốn ngồi bàn giấy làm biên tập viên".
Cuộc đời phóng viên chiến trường
Ngay thời gian đầu, trong khi còn đang "học việc", anh đã tỏ ra xông xáo và mộng ước của anh là được đi học nhảy dù để khi cần có thể nhảy xuống những chiến trường sôi động trong lửa đạn, cũng như Dương Phục và một số những anh phóng viên trẻ khác đang muốn nâng cao tay nghề của mình. Trên hết vẫn phải nói đến ý chí của họ, là một người lính sống chết với chiến trường như những chiến binh khác ngoài trận tuyến. Một lần nữa Phạm Huấn hoàn thành được tâm nguyện của mình. Từ đó anh thường đi cùng một ê kíp phóng viên có mặt ở hầu hết các chiến trường miền Nam. Một ê kíp phóng viên Quân Đội thường có đủ mặt: phóng viên nhiếp ảnh, phóng viên quay phim truyền hình, phóng viên báo chí, phóng viên phát thanh. Anh nào có cấp bậc lớn hơn làm trưởng toán, bất kể anh ở chuyên môn nàọ
Những năm sau này, chiến trường trải rộng ở khắp các quân khu nên chúng tôi phải lập nhiều toán thường trực mà không thể đáp ứng hết các nhu cầụ Thế nên có những phóng viên vừa ở Quảng Trị về đã phải khăn gói lên ngay Pleiku, Kontum, hoặc chui vào Bình Long& Hầu như họ không còn ngày nghỉ. Nhất là mỗi lần đi công tác đều thiếu tiền. Theo nguyên tắc hồi đó, để tiết kiệm ngân sách và cũng để phòng ngừa những chuyện lợi dụng có thể xảy ra, quân đội chỉ cho lãnh công tác phí tối đa là 15 ngày trong một tháng, mặc dù anh đi công tác cả tháng. Điều đó tất nhiên gây nhiều thiệt thòi cho những anh phóng viên suốt tháng lăn lộn khắp " bốn vùng chiến thuật". Tôi cũng muốn nói điều này để thấy được chúng ta đã phải tiết kiệm như thế nào và sự ngăn ngừa tệ nạn "tiêu cực" ráo riết đến mức nàọ Không phải cứ ở trong quân đội là đầy đủ như một số người đã tưởng tượng rạ
Mỗi lần đi công tác là một lần lo tiền, có những PV phải vay cào vay cấu vài ba chục ngàn làm tiền lộ phí. Đến ngay cả cái xe ra phi trường, đôi khi cũng không có, nhờ bạn đèo xe gắn máy hoặc vẫy cái taxi đi cho kịp giờ. Đến đơn vị nào rảnh rỗi thì có thể được ăn cùng ở cùng, nhưng nếu gặp khi đơn vị nằm ở bìa rừng trong vòng trận mạc thì& ráng tự xoay xở lấỵ Anh trưởng toán lại lo sốt vó. Có điện thoại về cho "trung ương" thì cũng chưa chắc gì đã lo nổi, có khi còn được móc ngay vào một công việc khác: "Nhà hết phóng viên rồi, nhân tiện các anh ở Huế, đi luôn vào Quảng Ngãi làm cái phóng sự ở một quận nào đó vừa có tin chiến trường nóng bỏng". Thế là lại bay vào Quảng Ngãi và còn "tiện thể" đi những đâu nữa thì "hạ hồi phân giải". Miễn là mỗi buổi tối có một bài tường thuật cho phòng tin tức.
Phải cố gắng lắm, chúng tôi mới kiếm ra một chút ngân quỹ để "đền bù" cho những thiệt thòi ấy của các anh phóng viên trẻ "rách hơn cái mền rách". (Nói theo chữ nghĩa bây giờ ở đây là "bồi dưỡng" đúng nghĩa của nó, chứ không phải "bồi dưỡng" theo kiểu hối lộ, chia chác hàng triệu đô la cứ như lấy đồ trong túi). Tuy vậy số tiền bồi dưỡng chỉ có sau khi đi công tác về và chỉ có một giới hạn nhất định, mỗi anh cầm tạm vài ba chục ngàn, chỉ bằng tiền vài bữa cơm ngoài quán "Bà Cả Đọi".
Anh chàng đào hoa quá khiến con gái& sợ
Sau những giây phút căng thẳng đó, Phạm Huấn lại trở về với thành phố Sài Gòn và "rũ áo phong trần, khoác áo hào hoa". Nhìn anh lúc đó chẳng khác gì một thư sinh công tử, không ai nghĩ anh là PV chiến trường vừa thoát chết trên Đại lộ kinh hoàng cùng với Vũ Thanh Thủy và Dương Phục.
Phạm Huấn và tôi có quá nhiều kỷ niệm vào những năm tháng nàỵ Từ công việc trong mấy tờ báo Quân Đội đến cuộc sống ngoài đờị Chiếc xe Taunus 15 như con trâu già của tôi đã được Phạm Huấn lái đi chơi cùng khá nhiều người đẹp.
Trẻ tuổi, đẹp trai, độc thân, đấu ngọt như mía lùi, chơi mạt chược cũng xuất sắc nên luôn vây quanh Huấn là những người đẹp. Tất nhiên đi chơi với Huấn thì phải chấp nhận phần thiệt vẫn về tôị
Có một vài ca sĩ loại "sao đang lên" của Sài Gòn lúc bấy giờ đã từng là "bạn gái" của Huấn. Tôi xin phép không kể tên ra đây vì tôn trọng cuộc sống của từng người hiện còn đang ở đây hay ở nước ngoàị Tôi dùng chữ "bạn gái" vì thật ra đối với Huấn và ngay cả những người đẹp đó, dường như chỉ là một tình cảm đậm đà trên mức bình thường một chút mà thôị Câu mà Huấn thường đùa cợt với bạn bè là "vương vấn, vẩn vơ, vật vờ" cho lên hương cuộc đờị Cũng đẹp lắm chứ. Có thể hiểu được tâm trạng của những người đẹp khá nổi danh nàỵ Thích đấy, vui đấy nhưng lại sơ.. Một anh chàng hào hoa và đào hoa quá thường làm các cô gái e dè, "phòng thủ cẩn mật" hơn là đối với những vị thương gia thường tỏ ra hiền lành, dễ thương và dễ bảo hơn. Còn với Phạm Huấn thì cũng thế, đối với những người nổi tiếng, anh "chờn vờn" chứ không thể hay không dám "đặt cược cuộc đời lâu dài" mình vào đấỵ
Một ngoại lệ
Nhưng có một người đẹp nữ sinh được mệnh danh là "hoa khôi Gia Long" thì khá nặng tình với anh chàng phóng viên hào hoa và đào hoa nàỵ Không biết bao nhiêu lần, chiếc xe của tôi đã đưa hai người đi trên "xa lộ không đèn". Và chẳng lần nào Huấn quên kể cho tôi nghe về những chuyện xảy rạ Chuyện của họ vẫn ở trong vòng lễ giáo và cho tôi cảm tưởng như họ có thiện chí muốn "xây dựng cùng nhau". Hoa khôi Gia Long cũng không hề giấu giếm tôi về những điều nàỵ Bởi thật ra hoa khôi quen biết tôi từ trước khi Phạm Huấn về làm ở Cục TLC. Cô hay vào phòng báo chí như một độc giả, một "người em gái hậu phương" gửi tâm tình ra tiền tuyến. Cô cũng có viết vài ba bài cho báo Quân đội xung quanh đề tài "thời thượng" đó. Và sau này, khi Phạm Huấn không còn ở bên cô nữa, cô thường có những bài thơ đăng rải rác trên một vài tờ tuần báo ở Sài Gòn, nhiều nhất là ở tờ Văn Nghệ Tiền Phong. Không ngần ngại, cô gọi thẳng tên "H. ơi, còn nhớ ngày nào&". Sau năm 75, ở lại Sài Gòn , tôi lại có dịp gặp lại hoa khôi Gia Long. Lúc này đã con cái đùm đề, song vẫn còn đẹp, chúng tôi không nhắc gì tới chuyện cũ, nhưng qua ánh mắt, lại thấy đầy đủ hình ảnh những người xưạ Dường như người em trai của cô sắp đặt buổi gặp gỡ này cũng chỉ vì điều ấỵ
Tao lấy vợ
Đó là những ngày cậu trai rẻ Phạm Huấn khởi nghiệp làm phóng viên và cũng bắt đầu viết văn. Anh có nhiều phóng sự và truyện ngắn đăng trên các báọ Rồi đến khi có một khóa học về báo chí ở Mỹ, Huấn mải đi làm phóng sự không có tên theo học. Anh về đến phòng, biết được tin này, anh lao lên phòng Cục trưởng TLC xin vào gặp. Hồi đó là thiếu tướng Trần Tử Oai làm giám đốc. Một vị tướng khét tiếng nghiêm khắc từ thời còn làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quang Trung. Chánh văn phòng không dám đường đột cho vào, Huấn đạp cửa vào và thản nhiên trình bày ý muốn được đi học lớp nàỵ Không hiểu sao, ông Trần Tử Oai lại "chịu đèn" anh chàng phóng viên ngang ngạnh nàỵ Sau vài câu hỏi, ông ký giấy ngay cho Huấn đi học Mỹ. Việc đó khiến cả phòng báo chí chúng tôi ngạc nhiên.
Tôi không còn nhớ rõ khóa học sẽ kéo dài trong bao lâu, nhưng có một điều tôi nhớ rất rõ là sau khóa học về đến Sài Gòn, Huấn tuyên bố với anh em trong phòng "tao lấy vợ". Và anh kể lại giai thoại anh gặp cô bé xinh xinh, đeo kính cận đang theo học ở Mỹ như thế nàọ Giản dị đến không ngờ, họ chơi bài với nhau cho qua thì giờ rồi yêu nhau lúc nào không biết. Chàng về nước trước, nàng xin phép gia đình về saụ Đám cưới của hai người tôi không dự được vì theo học lớp tham mưu ở Đà Lạt. Tôi gặp họ trong tuần trăng mật ở một ngôi biệt thự rất đẹp ở cuối con đường lối vào Trường Chỉ Huy tham mưụ
Kể từ đó, gia đình Phạm Huấn với tôi càng thân thiết hơn. Những năm sau này, không tuần nào mà chúng tôi không ngồi xoa với nhau cho đến những ngày cuối tháng 4 -1975. Nhà tôi chỉ có một bàn xoa mạt chược, mà bạn bè thì quá đông, nên anh nào cũng phải nhanh chân đến đúng giờ. Điệp, Tuấn, Thủy, Phong, Tài, Hiến, Lệ Thu, NĐToàn, Hồng Dương là những chân thường trực. Còn về khuya thì đôi khi các ông đi chơi chán kéo đến, Hùng Sùi, Hoan Sứt,& ngồi một đống, đấu láo tưng bừng. Các ông này quen chơi lớn, coi bàn chúng tôi là loại "còm", ăn thua vài ba ngàn, nên chỉ đến "chầu rìa, hút thuốc vặt", xem mấy tay mơ đánh loạng quạng cho đỡ buồn. Thỉnh thoảng Phạm Huấn cũng có đến, nhưng chỉ với mục đích ngồi coi ké Điệp đui vui chơị
Một phóng sự để đời
Khi tôi chuyển sang phục vụ ở Đài Phát Thanh Quân Đội, Huấn vẫn ở lại phòng Báo chí. Có một thời anh làm tờ Diều Hâu cùng anh Nguyễn Đạt Thịnh, chúng tôi quá bận rộn nên ít có thì giờ gặp nhaụ Vài năm sau này, Huấn sang làm ở Ủy ban quân sự 4 bên ở Tân Sơn Nhất. Trong thời gian đó, khoảng tháng 2 năm 1973, Phạm Huấn cùng với Phan Nhật Nam, Dương Phục đi theo phái đoàn ra Hà Nội làm phóng sự trao trả tù binh đợt 2 diễn ra tại Phi trường Gia Lâm. Vào thới chiến tranh đó, Hà Nội đối với người dân miền Nam hoàn toàn xa lạ, cho nên được dịp ra Hà Nội là chuyện hầu như không thể xảy rạ Tất nhiên tôi phải đón sẵn Huấn để "vồ" về làm tường thuật trực tiếp trên Đài PT Quân Độị Nhân tối đó có chương trình Nghệ sĩ với chiến sĩ đang thu thanh, Phạm Huấn tường thuật toàn bộ chuyến đi Hà Nội ngay trong chương trình nàỵ
Một phóng sự rất đặc sắc được thính giả đón nhận nồng nhiệt khiến chúng tôi đã phải phát lại đến vài ba lần nữạ Ngay sau đó cuốn sách "Một ngày tại Hà Nội" (1973) của Phạm Huấn được xuất bản kèm theo những hình ảnh sống động mà trên làn sóng điện phát thanh không thể nào có được. Đó cũng là cuốn sách đầu tay của "nhà báo Phạm Huấn" và cũng là cuốn sách duy nhất mà tôi được đọc. Sau này anh sang định cư ở Mỹ viết thêm những cuốn khác:
- Triệt thoái Cao nguyên (1987);
- Những trận đánh lớn trước khi mất miền Nam (1988);
- Điện Biên Phủ 54 - Ban Mê Thuột 75 (1988);
- Trận Hạ Lào (1990), rất tiếc tôi không có để đọc.
Một người đáng được bạn bè tri ân
Năm sau cùng trong quân ngũ, Phạm Huấn lại nổi máu giang hồ, lên Pleiku làm SQ báo chí Quân đoàn 2. Anh đi cùng tướng Phú cho đến giờ phút cuối cùng. Anh điện thoại cho tôi khi "rút" về đến Nha Trang, anh diễn tả lại cảnh "loạn lạc hoang tàn" của thành phố này khi mọi người rời bỏ nó ra đị Vài ngày sau, anh mới về được đến Sài Gòn trong khi gia đình anh đã đi theo tàu ra Phú Quốc. Anh tất tả vào gặp tôi ở Đài QĐ rồi lắc đầu: "Tao cuốn gói".
Anh ra đi lúc nào và bằng cách gì, tôi cũng không biết. Cuộc sống sau này bên xứ người ra sao tôi chỉ biết rất lơ mợ Điều làm tôi ngạc nhiên chính là sự tan vỡ của gia đình anh. Cho đến khi Phạm Hùng trở lại VN cùng Phạm Long đến thăm, tôi mới tin đó là sự thật. Nhưng mọi chuyện cũ qua rồi, những vết thương rồi sẽ lành. Khi biết tin anh nằm ở bệnh viện, bên anh có chị Hà chăm sóc tận tình, tôi thành thật mừng cho anh. Có lẽ người chịu đựng với anh nhiều nhất trong những ngày tháng vừa qua chính là chi.. Ít có người phụ nào chịu đựng giỏi như thế. Tôi chưa quen chị, nhưng là bạn bè của Huấn, tôi phải tri ân một người phụ nữ như chi.. Nhiều người bạn Phạm Huấn cũng từng kể với tôi điều này, và bây giờ chắc họ cũng muốn nói với chị Hà như vậỵ
Từ hôm được tin anh ra đi đến nay, tôi đã nhận được rất nhiều thư từ, điện thoại của các bạn ở khắp nơị Trong số đó tôi nhận được e mail của Điệp báo tin vừa sang San Jose và cậu trưởng nam Phạm Huy Phong cũng có mặt từ trước hôm anh ra đị Gia đình Phạm Hậu người anh cả của anh đã hai lần phải đổi vé máy bay vì cứ tưởng anh đi sớm hơn nữạ Cuộc chơi của người phóng viên quân đội đến bây giờ mới kết thúc trong nỗi nhớ thương của mọi ngườị
Nhưng với 5 tác phẩm của anh để lại, thế hệ sau này sẽ có dịp nhìn được rõ hơn những điều sống động, xác thật đã và đang xảy ra trong lịch sử dân tộc mình. Làm được điều này, cuộc sống của anh đã thật sự có ý nghĩạ Không phải ai cũng làm được như thế. Người phóng viên chiến trường năm xưa đã ra đi, nhưng những gì để lại vẫn còn sống mãị
Phạm Huấn: ‘Triệt Thoái’ Khỏi Cuộc Đời...
Trường Kỳ
Trường Kỳ
- Tôi coi Phạm Huấn như một người anh rất thân thiết. Một người anh văn nghệ hào hoa và rất chịu chơi. Tôi đã bàng hoàng khi nhận được tin chỉ vài giờ sau anh qua đời tại một nhà an dưỡng ở San Jose vào ngày 21 tháng 10 năm 2005, hưởng thọ 68 tuổi. Hình ảnh Phạm Huấn trong trí tưởng tôi luôn là một Phạm Huấn đầy sinh động, hoạt bát, lạc quan và bất cần đời, tức luôn coi cuộc đời như "pha", là câu nói thường xuyên của anh. Nhưng hình ảnh thật sự của Phạm Huấn đã khiến tôi ngỡ ngàng không tránh khỏi xúc động khi nhìn tấm hình Nam Lộc chụp chung với anh khi Lộc đến thăm anh tại nhà an dưỡng vào mùa Đông 2004. Đó là một Phạm Huấn tiều tụy, hốc hác và thê thảm cùng một trí nhớ sa sút. Bài viết ngắn này ghi lại một số kỷ niệm giữa anh và tôi, cũng như giữa anh và phong trào nhạc trẻ Việt Nam để tưởng nhớ đến một người anh đã hết lòng trong việc phát triển phong trào nhạc trẻ và nhất là tạo được cái duyên giữa nhạc trẻ và những người phục vụ trong quân ngũ.
Nói thẳng ra, nếu không có Phạm Huấn, lúc đó là thiếu tá phục vụ tại Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị, cùng nhà thơ Hà Huyền Chi, tức đại úy Đặng Trí Hoàn nhúng tay vào thì Đại Hội Nhạc Trẻ Quốc Tế đầu tiên tại Việt Nam đã không có cơ hội được diễn ra tại sân vận động Hoa Lư vào ngày 29 tháng 5 năm 1971. Kéo theo sau đó là những buổi đại hội nhạc trẻ khác được tổ chức tại Thảo Cầm Viên Sài Gòn với số khán giả tham dự trung bình khoảng 15 ngàn người, gấp ba số khán giả tại các buổi Đại Hội Nhạc Trẻ Taberd tổ chức ngoài sân trường từ giữa thập niên 60. Phạm Huấn "nhúng tay" bằng cách nào ? Dù gặp nhiều chống đối từ phía đối lập thời đó và ngay cả trong nội bộ Cục Tâm Lý Chiến, anh vẫn một mực khích lệ nhóm thực hiện chương trình chúng tôi - gồm Jo Marcel, Trường Kỳ, Nam Lộc, Tùng Giang, Kỳ Phát, vv... - cứ việc "đường ta , ta cứ đi". Không phải sợ cái gì hết ráo. Anh đã dùng tờ tuần báo Diều Hâu của mình để yểm trợ cho Đại Hội Nhạc Trẻ Quốc Tế Hoa Lư mang mục đích cứu trợ gia đình cô nhi, quả phụ những chiến sĩ đã hy sinh hay mất tích trên chiến trường Hạ Lào. Hàng trăm quân nhân thuộc các đơn vị chiến đấu đã được gửi tới tăng cường an ninh cho buổi đại hội lịch sử này, được đặt dưới sự chủ tọa của bà Nguyễn Văn Thiệu. Cuối cùng Ngày Đại Hội Nhạc Trẻ Quốc Tế Ngoài Trời tại sân Hoa Lư đã diễn ra suôn sẻ và đã trở thành buổi trình diễn đáng ghi nhớ nhất của phong trào nhạc trẻ Việt Nam. Và liên tiếp những năm sau, cái duyên giữa nhạc trẻ và quân đội đã dính liền qua những đại hội nhạc trẻ ngoài trời khác nằm trong mục đích Yểm Trợ Cây Mùa Xuân Chiến Sĩ mỗi khi Tết đến. Chưa kể trước đó, cái duyên này đã được nhen nhúm với tướng Trần Văn Trung từ năm 1968 trong đại hội nhạc trẻ tổ chức tại rạp Thống Nhất, Sài Gòn.
Anh Phạm Huấn tìm gặp tôi tại vũ trường Ritz, trong thời gian tôi đang thực hiện những chương trình nhạc trẻ "Hippies À GoGo" tại đây, trong khi Nam Lộc cũng đang tổ chức những chương trình "SoulParty" tại vũ trường Queen Bee. Anh cho biết ý định của mình là tổ chức một buổi đai hội nhạc trẻ ngoài trời có tính cách quốc tế trong thời gian có rất nhiều ban nhạc trẻ ngoại quốc như Hoa Kỳ, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Phi Luât Tân, Nam Dương, Đại Hàn, vv... phục vụ cho những đơn vị quân đội đồng minh đang có mặt tại Việt Nam . Mặt khác anh muốn tạo cơ hội cho những ban nhạc trẻ Việt Nam có cơ hội tranh tài cùng những ban nhạc trẻ quốc tế khác. Nhưng mục đích chính anh cho biết là dùng số tiền thu được để cứu trợ cho gia đình cô nhi, quả phụ những chiến sĩ đã hy sinh trên chiến trường Hạ Lào. Trước mục đích mang nhiều ý nghĩa đó, tôi đã cùng Nam Lộc và các bạn Jo Marcel, Tùng Giang, vv...hội ý để cuối cùng đi đến quyết định chấp thuận lời đề nghị của anh Phạm Huấn. Vì chính anh em chúng tôi cũng đang có những ưu tư và cũng đang muốn kéo giới trẻ tham gia vào các sinh hoạt có tính cách văn hoá truyền thống cũng như xã hội, cộng đồng.
Từ đó trở đi, anh Phạm Huấn và Hà Huyền Chi thường xuyên đến gặp chúng tôi, khi thì ở Ritz, khi thì tại căn phòng được coi như "trung tâm sinh hoạt nhạc trẻ" là căn phòng trên khách sạn Bồng Lai ( giữa phòng trà Kim Sơn và nhà hàng Thanh Thế ) của tôi, hoặc tại phòng báo chí của Cục Tâm Lý Chiến để bàn thảo về việc tổ chức. Địa điểm được ấn định là sân vận động Hoa Lư , nơi có thể qui tụ hàng chục ngàn người tham dự. Và ngày tổ chức sẽ là ngày 29 tháng 5 năm 1971, kéo dài từ sáng đến chiều. Từ khi chúng tôi bắt tay vào việc thì phong trào chống đối cũng bắt đầu nổi lên, đến từ sự tranh chấp chính trị vào thời đó giữa ông Nguyễn Cao Kỳ và tổng thống đương nhiệm Nguyễn Văn Thiệu cùng với nhiều tổ chức thuộc phe đối lập.
Đó là chưa kể đến sự bất đồng ý kiến ngay trong nội bộ Cục Tâm Lý Chiến, giữa hai nhóm có thể gọi là "cấp tiến" và "bảo thủ". Tuy nhiên cuối cùng, anh Phạm Huấn cùng những người ủng hộ anh đã thuyết phục được một số nhân vật thoạt đầu không đồng ý việc tổ chức một buổi Đại Hội Nhạc Trẻ có tầm vóc qui mô như vậy trong thời kỳ chiến tranh đang sôi động.
Nhưng việc chống đội từ bên ngoài đã khiến nhóm thực hiện chương trình chúng tôi lo ngại. Nhưng Phạm Huấn nhất quyết không lùi bước và luôn yểm trợ tinh thần chúng tôi. Anh không tỏ ra có gì lo lắng để hàng tuần vẫn đến gặp chúng tôi vào ngày thứ năm để rủ đi... nhậu thịt dê tại cái quán nhỏ xíu đối diện với tòa đại sứ Cao Miên trên đường Phan Đình Phùng, góc Lê Văn Duyệt ( bây giờ là đường Nguyễn Đình Chiểu, góc Cách Mạng Tháng 8 ) do vợ chồng một ông bà cụ khai thác. Kế hoạch đối phó với những chống đối được bàn luận ngay bên cạnh những đĩa tái dê, dê nướng, vv...thơm phức. Thiếu tá Phạm Huấn những lúc đó càng tỏ ra không một chút nao núng để khuyến khích chúng tôi không nên chùn bước. "Sợ chó gì! Mính làm thì cứ làm chứ!" hoặc "Công việc mình làm ý nghĩa như vậy thì sợ đếch thằng nào, mụ nào! Đứa nào có giỏi nhẩy ra làm một công việc yểm trợ như vậy coi!". Đó là những câu chúng tôi thường được nghe anh phát ngôn một cách rất hăng! Nhưng càng gần đến ngày tổ chức thì phong trào chống đối càng nổi lên rầm rộ. Những bài báo công kích cũng xuất hiện rất nhiều, trong số có loạt bài của linh mục Hoàng Yến, hội trưởng Hội Bảo Vệ Luân Lý, đi trên nhật báo Xây Dựng vào những ngày 9 và 10 tháng 5 năm 1971.
Trong đó, linh mục Hoàng Yến đã cố tình gọi đó là một Đại Hội Hippy và tỏ ý lo ngại trước những tệ đoan do phong trào này gây ra. Trong khi tên gọi chính thức là Ngày Nhạc Trẻ Quốc Tế Ngoài Trời, yểm trợ cho chương trình "Vành Khăn Sô" dành cho gia đình cô nhi, quả phụ những chiến sĩ Hạ Lào. Đối mặt với những bài báo tương tự, Phạm Huấn chỉ cười khẩy để đăng tải đều đặn những bài viết về chương trình đại hội, về mục đích cao đẹp của nó, cũng như luôn đề cao sự đóng góp tích cực của các anh chị em nghệ sĩ thuộc phong trào nhạc trẻ Việt Nam.
Tổ chức "Thanh Niên Trừ Gian" thuộc phe ông Nguyễn Cao Kỳ cũng tỏ ra hoạt động rất tích cực bằng cách cho người đi…...xé bỏ những posters của ngày đại hội!. Nhưng xé đến đâu lại được dán đến đó do sự điều động của Phạm Huấn! Cùng một lúc bà Ngô Bá Thành cũng dọa sẽ huy động một số lượng...ăn mày tới trước cửa sân Hoa Lư để phá đám ngày đại hội. Chưa kể một số hội đoàn thuộc phe đối lập đưa ra lời dọa dẫm sẽ có biểu tình. Nhưng kết qủa sau cùng ra sao, hẳn ai cũng biết! Riêng về mặt an ninh trật tự, Ngày Nhạc Trẻ Quốc Tế Ngoài Trời 29 tháng 5 năm 1971 đã diễn ra hoàn toàn tốt đẹp do tính kiên quyết và điều động chặt chẽ và khéo léo của Phạm Huấn. Cũng nhờ đó mặt nghệ thuật của chương trình đã được ghi nhận là rất thành công trước gần 20 ngàn khán giả! Một "sự cố" duy nhất: một khán giả trẻ đã lên cơn động kinh, có thể vì quá "hưng phấn "khi theo dõi chương trình sống động của Ngày Đại Hội Nhạc Trẻ Quốc Tế Ngoài Trời?
Tác giả Phạm Huấn của "Triệt Thoái Ban Mê Thuột" (và một số tác phẩm có tính cách lịch sử khác ) nay đã thật sự triệt thoái khỏi cuộc đời nhiều thăng trầm của anh sau khi rời Sài Gòn vào tháng 4 năm 75. Khi ra hải ngoại, tôi được em ruột anh là Phạm Long, một bạn thân và là một phóng viên tên tuổi, cho biết có thời gian anh Phạm Huấn hành nghề lái taxi ở Hawaii. Một thời gian sau anh về sống tại San Jose, và tôi đã có dịp gặp lại anh cách đây đã hơn 10 năm ở thành phố này, trong thời gian anh đang ở bên cạnh chị Hà. Và đúng là Phạm Huấn có duyên với nhạc trẻ khi chị Hà chính là chị ruột của Francoise Hằng, một trong những nữ ca sĩ đầu tiên của nhạc trẻ Việt Nam. Hai anh em nghồi đấu láo trước đĩa bánh ngọt và ly cà phê thay cho đĩa thịt dê và ly rượu nếp than và cùng nhau nhắc nhở về những kỷ niệm liên quan tới Ngày Đại Hội Nhạc Trẻ Ngoài Trời tại sân Hoa Lư ngày nào mà tưởng chừng như mới diễn ra. Thật vui và thật cảm động.
Cách đây 6 năm, nhân dịp sang Orange County, nhờ nữ ca sĩ Mai Hương - một người bạn thân của anh - cho số điện thoại mới của anh ở San Jose, tôi đã gọi thăm anh và hẹn sẽ cố gắng lên thăm anh. Nhưng đó là lần cuối cùng tôi nghe được tiếng nói lúc đó vẫn còn sang sảng và vui vẻ của anh Phạm Huấn.
Rồi ngày 21 tháng 10 năm 2005 vừa qua, tôi đột ngột nhận được tin anh mới lìa đời vài tiếng đồng hồ trước đó trong một nhà an dưỡng ở San Jose. Buồn quá anh Huấn ơi! Anh đã "triệt thoái" khỏi cuộc đời này thật rồi! Nhưng cũng mừng anh đã không còn phải sống những ngày cuối cùng buồn thảm như vậy.
Cũng nhân dịp này tôi lại biết thêm một cái duyên khác của Phạm Huấn với nhạc trẻ: nhân viên phụ trách hồ sơ cho nhà an dưỡng này và là người thường xuyên thăm hỏi anh chính là tay trống Hiệp San của một trong những ban nhạc trẻ đầu tiên của Việt Nam là Les Faucons Noirs!
Nam Lộc cũng đã rất xúc động khi nghe tôi báo tin buồn này. Lộc đã tỏ bầy tâm sự của mình về anh Phạm Huấn như sau:"Một trong những điểm quan trọng mà tôi học được ở nơi anh Phạm Huấn là nghị lực và sự cứng rắn cần có từ tâm hồn đến thể xác để sẵn sàng đối phó với mọi nghịch cảnh của cuộc đời. Tôi còn nhớ vào những năm đầu của thập niên 1970, chúng tôi đã gặp biết bao nhiêu là sự kỳ thị, khó khăn và chống đối khi tổ chức những buổi Đại Hội Nhạc Trẻ ngoài trời, mặc dù luôn mang những mục đích xã hội rất cao đẹp. Nếu không có sự khuyến khích và hướng dẫn của Thiếu Tá Phạm Huấn cùng quý anh trong Cục Tâm Lý Chiến VNCH thời bấy giờ, chắc chúng tôi đã bỏ cuộc.
Sự thành công đó đã làm cho anh em chúng tôi cảm thấy tự tin hơn. Và những yếu tố này chính là hành trang cần thiết để chúng tôi bước vào đời với một tinh thần lạc quan và tích cực.
Vĩnh biệt anh Phạm Huấn!"
Tôi cũng vậy, xin vĩnh biệt anh! Thành thật chia buồn cùng chị Huấn, anh Phạm Hậu và các bạn Phạm Long, Phạm Hùng cùng những người thân của anh...
TRƯỜNG KỲ
PHẠM HUẤN, NGƯỜI ÐI KHÔNG TRỞ LẠI Mùa Thu năm 1954, Geneve chia đôi đất nước, có 4 anh em nhà họ Phạm từ giã Hà Nội di cư vào Nam. Phạm Hậu, Phạm Huấn, Phạm Long và Phạm Hùng. Mỗi người một tính nết, mỗi người một con đường, mỗi người một định mệnh. Người anh cả là một nhà thơ và là người lính nhảy dù. Người thứ nhì vừa là lính, vừa là phóng viên tiền tuyến. Những người em đều đi theo con đường của các anh trong ngành báo chí.
Tháng 4-1975, họ Phạm lại di tản lần nữa bỏ lại sau lưng thành phố Sài Gòn. Bốn anh em ở 4 phương trời Mỹ quốc, mỗi người một đời sống, mỗi người một phần số.
Tháng 10-2005, sau 30 năm cách xa Sài Gòn, sau 50 năm cách xa Hà nội. Họ Phạm về gặp nhau ở San Jose miền Bắc California để tiễn đưa người anh thứ nhì. Phạm Huấn 69 tuổi, người đi không trở lại.
Trong đêm tao ngộ giữa Phạm Huấn và bằng hữu, khi đã phát tang và tẩm liệm xong, Kim Tước cất tiếng Ave với lời ca dẫn người đi vào miền vĩnh cữu. Mai Hương khóc than tiễn bạn với Ngàn năm mây bay. Bài ca xưa cũ cũng là tựa cuốn phim có vai Phạm Huấn.
Trong số bốn anh em, biết bao nhiêu bạn bè đủ mọi lứa tuổi, nhưng hoàn cảnh đưa đẩy Phạm Huấn có cơ hội gặp gỡ nhiều bằng hữu trong các giới văn nghệ, báo chí, quân đội trước 75. Tất cả đều đến San Jose tiễn đưa Phạm Huấn khi gió thu lạnh trở về với miền Bắc California.
Cuộc di cư 1954 đã đem từ Bắc vào Nam cả ngàn họ đạo, và các nhân sĩ Bắc Hà để cùng miền Nam xây dựng hai nền Cộng Hòa suốt 21 năm dài.
Nhưng cuộc di cư cũng đem vào miền Nam những thiếu niên và thiếu nữ sau này trở thành các tên tuổi trên truyền hình, báo chí và phim ảnh ở miền Nam.
Cô bé Nguyễn Thị Chinh 16 tuổi đến Tân Sơn Nhất cô đơn một mình, mẹ mất sớm, cha kẹt lại ở Hà Nội. Sau này trở thành Kiều Chinh, đệ nhất minh tinh của điện ảnh Việt Nam.
Cô bé Nguyễn Lệ Mai, 11 tuổi sau này trở thành ca sĩ Khánh Ly, 40 năm làm kiếp ca nhi với cuộc đời trầm luân, tang thương như một nước Việt buồn.
Và 1954, Hà Nội cũng bàn giao cho Sài Gòn một Phạm Huấn 17 tuổi sau này trở thành một sĩ quan phóng viên chiến tranh chính trị đã có cơ hội sống lại một ngày ở Hà Nội vào năm 1973.
Cậu bé ra đi với hiệp định Geneve 54, trở về Hà Nội được một ngày nhờ hiệp định Paris 73, và sau đó là chia tay vĩnh viễn cả Sài Gòn lẫn Hà Nội.
Xuất thân Võ Bị năm 1956, Phạm Huấn đã được huấn luyện để trở thành một sĩ quan hiện dịch và con đường binh nghiệp được đào tạo để sẵn sàng trở thành cấp chỉ huy trong một quân đội trẻ trung đang phát triển.
Tuy nhiên, định mệnh đã đưa ông qua ngành chiến tranh chính trị nên dù sau này lên đến cấp thiếu tá, ông vẫn thủy chung là một phóng viên tiền tuyến.
Năm 1971 với nhiệm vụ phóng viên, Phạm Huấn có dịp theo sát trận Hạ Lào. Các điều mắt thấy tai nghe trên chiến trường Quân khu I đã làm thành tác phẩm để 19 năm sau xuất bản tại San Jose.
Những ngày cuối của tháng 4-1975, thiếu tá Phạm Huấn làm tùy viên báo chí cho tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh quân đoàn 2 nên đã chứng kiến những giây phút lịch sử của quyết định Cam Ranh của cuộc rút quan bi thảm làm xụp đổ cả miền Nam. Những ký ức đau thương của người phóng viên quân đội đã tạo dựng thành hai tác phẩm. Cuộc Triệt Phái Cao Nguyên xuất bản 1987 và Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước xuất bản 1988. Tất cả các tác phẩm của ông đều in trên khổ lớn, bìa cứng tại San Jose là nơi ông đã sống những giờ phút sau cùng.
Năm 2005, chuyến đi không trở lại của ông dù có chút trăn trở khó khăn nhưng vẫn được coi là đã có chuẩn bị chu đáo.
Ngay từ năm 2003, em út của gia đình là Phạm Hùng đã thu xếp công việc từ các quốc gia Á Châu để trở về săn sóc người anh và đồng thời cũng là người bạn thân thiết Phạm Huấn. Anh em đã có nhiều cơ hội gần gũi nhau và người em hiểu rõ bệnh tình và hoàn cảnh của anh rất nhiều.
Ðối mặt với định mệnh như các chiến binh trực diện với chiến trường, anh em đã đi quan sát các dưỡng đường có bệnh nhân nằm bất động và được nuôi bằng các phương tiện y khoa với các ống nối chằng chịt.
Bác Huấn đã di chúc chính thức lại cho chú Hùng là nếu gặp cảnh này thì giao cho em toàn quyền dứt điểm để anh đi. Dứt khoát anh không muốn sống bằng thực phẩm qua ống dẫn vào thực quản. Anh không muốn thở qua ống dẫn vào khí quản. Anh không muốn thấy hình ảnh những người thân yêu mờ dần trong não trạng. Khi cơ thể từ chối vận hành là em để anh đi. Giấy tờ hợp lệ được ủy nhiệm chính thức. Phải nhờ chú em lấy quyết định thay cho cả vợ con và thân quyến. Cứ như là lệnh hành quân đã làm sẵn có ngày D và giờ H. Phạm Hùng đã thi hành hết sức chặt chẽ và chu đáo.
Anh Huấn đã chết trong tay em trai út dù rằng vào một buổi chiều kẹt xe trên xa lộ 680 khi Phạm Hùng được tin báo đã quay đầu xe trở lại kịp thời.
Ðã tính toán để báo tin cho thân quyến bằng hữu bốn phương. Anh em và bè bạn đã lần lượt vào ăn với nhau những miếng cơm cuối cùng, những ly rượu đỏ thấm trên môi người bệnh. Những ánh mắt thay nụ cười.
Ðầu năm 2005, tôi có dịp vào thăm Phạm Huấn. Tuy đi lại khó khăn nhưng đầu óc anh vẫn còn sáng suốt. Chúng tôi có nói chuyện về dự án bảo tàng viện của VNCH. Vốn tính bông đùa cố hữu tôi đã nói những lời tự làm giảm tính cách quan trọng của dự án. Phạm Huấn đã hơi trách cứ. Anh nói rằng chuyện ông làm là việc lớn, xin đừng coi thường, cứ xin hết sức để anh em giữ mãi tấm lòng quý trọng ông.
Tôi ra về mà cứ áy náy mãi về lời Phạm Huấn nói rất chân thành và cảm động.
Thứ Sáu 14 tháng 10-2005, tôi lại có dịp dẫn Phạm Huy Sảnh từ Seattle xuống San Jose với tư cách bạn nhảy dù Sài Gòn vào thăm Phạm Huấn. Anh nằm trên giường, đã yếu lắm rồi, nhưng vẫn còn nhận ra chúng tôi. Phạm Huy Sảnh nhắc đến các kỷ niệm xưa, nhắc đến cả Vũ Thế Quang gửi lời hỏi thăm.
Khi chúng tôi ra về, Phạm Huấn nằm ngó theo. Mắt long lanh, chậm chạp giơ tay chào. Bàn tay gầy guộc treo trên mi mắt. Chúng tôi giật mình dừng lại chào đáp lễ.
Hình ảnh người chiến binh 30 năm trước nằm trên giường. Chung quanh là các tờ giấy lưu ý của Nursing Home báo tin bệnh nhân đang ở vào giai đoạn cuối của cuộc đời. Tất cả đều rõ ràng, công khai minh bạch. Dù biết như vậy, nhưng chúng tôi cũng không thể nghĩ rằng đây là cái chào tay cuối cùng của thiếu tá Phạm Huấn.
Rõ ràng là vào buổi trưa 14 tháng 10-2005, hồn lính đã trở về với Phạm Huấn trọn vẹn ân tình bằng một cái chào tay.
Tháng 10-2005 ở San Jose tập thể chiến binh Cộng Hòa về họp mặt. Phải mà quân đội họp mặt đại hội 30 năm trước ở Sài Gòn thì đã có phóng viên Phạm Huấn đi một bài tường thuật.
Những người khách của San Jose đến tham dự Nghị Hội lần thứ 19 đã ra về. Những cựu chiến binh VNCH đến San Jose dự đại hội lần thứ I cũng đã chia tay lên đường.
Và khi Phạm Huấn đã vĩnh viễn xa rời San Jose vào ngày thứ Sáu thì những người khách bốn phương của anh lại bắt đầu kéo đến. Các học sinh Chu Văn An, các chiến binh nhảy dù, các phóng viên tiền tuyến, các văn nghệ sĩ. Trong tình bằng hữu với chút duyên văn nghệ khách phương xa, đến với người ra đi lần cuối và cũng là dịp hội ngộ hãn hữu với các cố tri ngày xưa vẫn còn lại đến ngày nay.
Ðầy đủ, vắng dần, hay thưa thớt. Rồi ai cũng đến lượt mình. Nhưng quả thực lần ra đi của Phạm Huấn đã có sự chuẩn bị, đối mặt, bình thản. Rồi thì cũng như mọi người, ai cũng sẽ cam chịu, khuất phục với định mệnh một lần cuối cùng.
Ngày xưa đã có những vần thơ tứ tuyệt:
“Mây tụ để rồi tan.
Hoa nở để rồi tàn.
Trăng tròn để rồi khuyết.
Người gần để ly biệt.” Vần thơ giải thích các hiện tượng trong trời đất và thân phận con người.
Cái gì hợp rồi cũng tan.
Dù xa Hà Nội cũng còn trở lại một ngày. Dù xa Sài Gòn cũng còn trở lại. Nhưng đi xa San Jose lần này, thiếu tá Phạm Huấn thân xác nhẹ tênh, sớm phiêu diêu miền vĩnh cữu. Sẽ chẳng bao giờ trở lại. Bởi vì ở đất San Jose bình yên này sẽ chẳng có trận đánh nào để cho người phóng viên chiến trường viết bài tường thuật.
Vào tháng 4-2005 vừa qua, Phạm Hùng, người em út tha hương của họ Phạm đã tổ chức buổi ra mắt sách rất đặc biệt trong Nursing Home ở Tully San Jose. Những bài thơ Hà Nội của Hoàng Anh Tuấn lần đầu in thành tuyển tập.
Hoàng Anh Tuấn và Phạm Huấn là đôi bạn văn nghệ Sài Gòn và bây giờ là hàng xóm láng giềng trong cùng một dưỡng đường. Lần đầu tiên các bằng hữu văn nghệ gặp nhau trong một khung cảnh lạ lùng như thế. Mối duyên đồng hương kéo dài từ Hà Nội ố Sài Gòn đêẩ đến tận San Jose.
Bây giờ Huấn đã ra đi, Hoàng Anh Tuấn nhìn ra ngoài song cửa, chẳng thấy mưa Sài Gòn mưa Hà Nội. Chỉ còn chờ đợi những trận mưa San Jose đến muộn. Ðã gần Thanksgiving mà sao chưa thấy ướt mặt đường.
* * *
Con người dù sống đơn độc hay quảng giao với bằng hữu bốn phương thì so với dòng thời gian vĩnh cữu cũng chỉ là đoản kỳ ngắn hạn. Nhưng các tác phẩm của Phạm Huấn viết về chiến tranh sẽ ở lại lâu dài hơn. Là một phóng viên yêu quê hương, yêu quân đội, tác giả đã trải tấm lòng trong tác phẩm.
Dù rằng phải viết về toàn những cay đắng uất nghẹn của những lần đau thương trận đánh đường số 9 Hạ Lào 1971, cuộc rút lui ở cao nguyên trên quốc lộ số 15 hoang vắng và sau cùng là những trận chiến mất nước 1975 trên quốc lộ 1. Ba tác phẩm ra đời vào cuối thập niên 80, lúc đó các chiến binh huynh đệ tù cải tạo chưa đặt chân đến Hoa Kỳ. Các tin tức hành quân ngày cũ chưa được mở rộng như hôm nay, Phạm Huấn đã mở đường soi sáng lịch sử, dù là những trang sử đau thương của người lính Cộng Hòa.
Những cuối sách của anh lần lượt gửi cho chúng tôi với lời lẽ chân tình ngay từ lúc mới xuất bản 1987, 1988 và 1990.
Tương lai của các tác phẩm của Phạm Huấn sẽ nằm trong thư viện của Bảo Tàng Viện VNCH tại San Jose cùng với bức hình của anh trong trận Hạ Lào 1971.
Ðó là món quà kỷ niệm của phóng viên chiến trường Phạm Huấn gửi gấm cho thế hệ tương lai.
Giao Chỉ - San Jose 2005
Thiếu Tá Phạm Huấn Saturday, November 05, 2005 | |
Tôi sống rất gần và rất lâu với Phạm Huấn; sống trong quân ngũ, sống trên chiến trường, trên trường văn trận bút, và cả trên bờ biển Hawaii thơ mộng nữa. Tôi có thể viết về Huấn như nhắc nhở đến một người bạn thân, nhưng tôi chọn góc cạnh quân ngũ để viết về anh. Ðó là góc cạnh tôi biết anh rõ nhất, và, theo quan điểm của tôi, đó cũng là góc cạnh đẹp nhất của anh. Trong hệ thống quân sự, Huấn là sĩ quan phụ tá giúp tôi thực hiện việc biên tập hai tờ báo của quân đội, tờ Tiền Phong, dành cho sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa, và tờ Chiến Sĩ Cộng Hòa, dành cho binh sĩ. Tôi là chủ bút và Huấn giúp tôi trong mọi địa hạt biên tập, nhưng trên thực tế cả hai chúng tôi là 2 phóng viên chiến trường. Thời gian chúng tôi có mặt ngoài tiền tuyến, bên các đơn vị đụng trận với địch, nhiều hơn thời gian chúng tôi ngồi ở văn phòng. Ða số những bài phóng sự mô tả các trận giao tranh, chúng tôi viết trên những chuyến bay C47, C119, hay C130 chuyên chở thương binh về hậu cứ hay đưa thi hài tử sĩ về nguyên quán. “Chúng mình thấy nhiều người chết trận hơn đa số anh em quân nhân khác,” Huấn thường nói với tôi. Ðiều này cũng dễ hiểu: Mỗi đơn vị trưởng chỉ nhìn thấy số tử sĩ của đơn vị mình và số tử thi của địch bị sát hại trước hàng rào phòng thủ hay trong trận giao tranh với đơn vị. Huấn và tôi thấy nhiều trận giao tranh của nhiều đơn vị, mà trận Lam Sơn 719 là một. Lam Sơn 719 là một trong những trận giao tranh lớn mà hai anh em chúng tôi có nhiều kỷ niệm. Ðây là trận quân ta hành quân sang Hạ Lào. Huấn theo cánh quân của Sư Ðoàn 1 Bộ Binh tiến trên đường số 9 để vào Tchepone, căn cứ chỉ huy tiếp vận của địch; tôi theo cánh quân của Sư Ðoàn Nhảy Dù xuất phát từ Khe Sanh. Lam Sơn 719 là cuộc hành quân đầu tiên do QLVNCH hoàn toàn thực hiện, từ thảo hoạch chiến thuật tới yểm trợ hành quân, từ kế hoạch “khóa vòi nước” Bắc Việt không cho chúng đưa quân vào tăng viện cho bọn Việt Cộng trong Nam, tới mục tiêu cắt đứt hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh, đặt các toán biệt kích mai phục, ngăn cấm không cho địch sử dụng con đường tiếp vận quan trọng này nữa. Nhưng vì LS 719 là cuộc hành quân độc lập đầu tiên của QLVNCH không phối hợp với Mỹ nữa nên anh đồng minh khổng lồ của chúng ta cũng giả ngơ để chúng ta tự lực cánh sinh, với những phương tiện trợ chiến và tiếp vận bằng không lực còn rất yếu kém của chúng ta. Từ Saigon ra, chúng tôi đáp tại phi trường Phú Bài. Trong lúc các tiểu đoàn trưởng tổng trừ bị kiểm điểm quân số, vũ khí và trang cụ của đơn vị, Huấn lại tìm tôi. “Anh nghe đài Hà Nội chưa?” Huấn hỏi tôi, rồi mở cái máy thu thanh nhỏ anh vừa mượn của một quân nhân nhảy dù cho tôi nghe: Hà Nội đang chỉ trích VNCH đem quân sang “xâm chiếm” Vương Quốc Ai Lao. Chúng tôi lo lắng, vì địa điểm hành quân là một yếu tố mật, chính chúng tôi và các tiểu đoàn trưởng tham dự hành quân cũng vẫn chưa được thông báo, mà Hà Nội đã biết rồi. Bí mật đã bị tiết lộ. Nhưng ai bật mí? Chúng tôi không biết; nhưng chắc chắn từ trung tướng Dư Quốc Ðống tư lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù trở xuống không một quân nhân nào phản trắc, hoặc có hoàn cảnh và điều kiện để làm công việc thông đồng với địch, phản quốc. Chỉ có bộ Tổng Tham Mưu, Dinh Ðộc Lập, và Tòa Ðại Sứ Mỹ có điều kiện để thông báo cho địch. Không biết nguồn gốc phản phúc, nhưng chúng tôi biết chắc chắn một điều: Ðịch đã biết trước, và biết rõ hơn chúng tôi biết về cuộc hành quân chúng tôi đang tham dự, đã bố trí, và các đơn vị QLVNCH sẽ phải trả một giá rất đắt. Ðiều chúng tôi lo sợ trở thành sự thật; đồi 31, căn cứ Hồng Hà 2, quốc lộ 9 trở thành những trận địa pháo Việt Cộng chờ sẵn. Trời Hạ Lào xấu, nhiều trần mây chạm đỉnh đồi, không quân Việt Nam chỉ có khả năng trợ chiến trực tiếp: Tấn công vào những mục tiêu nhìn thấy được bằng mắt thường, nhưng không có dụng cụ đánh đêm, mà cũng chưa được huấn luyện để yểm trợ tác chiến bằng phi cụ, nên gần như không giúp đỡ gì được cho người bạn bộ binh bên dưới đang lọt vào phục kích và trận địa pháo của địch. Không yểm Hoa Kỳ = 0 Tình thế nguy hiểm thấy rõ, tôi chia công việc với Huấn: Anh ở lại theo dõi Hạ Lào, tôi trở về Saigon hy vọng tìm một lối thoát, giúp tái lập không yểm Hoa Kỳ. Lối thoát là nghị sĩ Trần Văn Hương, người đã nhiều lần yểm trợ chúng tôi trong những chương trình giúp đỡ cô nhi quả phụ. Không lùi bước trước bất cứ khó khăn nào để giúp người lính tác chiến, nhà ái quốc trọng tuổi Trần Văn Hương đứng ra triệu tập một cuộc họp báo, tố cáo thái độ không trợ chiến của không quân Hoa Kỳ. Ngay ngày hôm sau không yểm được tái lập. Huấn vào Tchepone với Trung Ðoàn 1 Bộ Binh, chứng kiến tổn thất khiếp đảm của những đơn vị tham chiến và trở về Saigon với kế hoạch “Ðại Hội Nhạc Trẻ Sân Hoa Lư.” Anh gởi thơ mời những người lính trẻ Hoa Kỳ thích đàn hát tham dự chương trình nhạc sống ngoài trời, bán vé lấy tiền để giúp cô nhi, quả phụ Hạ Lào. Số tiền thâu được gần 3 triệu bạc trong thời điểm lương sĩ quan trung cấp của chúng tôi chỉ trên dưới $40,000. Huấn trao số tiền này cho bộ tư lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù. TUẦN BÁO DIỀU HÂU là tờ báo thứ ba chúng tôi làm trong cùng một lúc. Hai tờ báo chính thức của quân đội chúng tôi phụ trách không giúp chúng tôi nêu lên những vấn đề thiết thực của quân đội, và không nói lên tiếng nói uất nghẹn của người lính VNCH. Một thí dụ: Chúng tôi không thể tố cáo trên mặt tờ báo chính thức của quân đội tình trạng người lính không được mua đủ khẩu phần quân tiếp vụ của họ, vì nhiều lon dầu ăn, lon paté gan của quân tiếp vụ bị nhẩy dù ra khỏi kho, và đem bầy bán trên lề đường Saigon. Chúng tôi lại càng không thể đề cập đến nhiều hành động tham nhũng của hàng tướng lãnh Việt Nam. Huấn bàn với tôi việc xuất bản tờ tuần báo Diều Hâu như tiếng nói trung thực của người lính. Hai anh em rốc túi được trên $100,000, và đó là số vốn đầu tư mua được cho chúng tôi nhiều phút tranh đấu hào hứng đến đứng tim. Chúng tôi giúp anh em quân nhân giải quyết nhiều bất công thông thường, nhưng lại đứng khựng trước một vụ tham nhũng khổng lồ, lạm dụng quá đáng và vô cùng quy mô: Vụ quỹ Tương Trợ Tiết Kiệm (TTTK). Quỹ TTTK trực tiếp trừ lương mỗi người lính $100 mỗi tháng, một triệu lính $100 triệu; mỗi năm 1 tỷ 2. Lương tháng của chúng tôi khoảng $40,000-400 tờ giấy trăm. Số tiền mang chất tiền lính, tính liền, nên có thiếu một tờ cũng không để ý lắm, nó chỉ bằng một quarter bây giờ. Nhưng 4 năm sau, khi số tiền tiết kiệm lên đến 5 tỉ bạc, thì nó đủ lớn để làm tối mắt nhiều viên chức chính phủ và tướng lãnh quân đội. Họ lập Kỹ Thương Ngân Hàng, tài trợ cho hai giới kỹ nghệ gia và thương gia trong công việc doanh thương, họ mua hãng RMK của Mỹ để làm xa lộ, làm đường sá, họ mua công ty Cogido để làm giấy in sách báo, họ dự trù khui giếng dầu Hồng Hà 2 ngoài thềm lục địa Việt Nam, và làm nhiều dự án vô cùng lớn lao khác nữa. “Tiền tiết kiệm của lính, mà mọi người xúm lại sử dụng vung vít quá,” Huấn bảo tôi. Anh viết bài đặt vấn đề quản trị và trách nhiệm về tài sản tiết kiệm của lính. Trung tướng Ðồng Văn Khuyên, một viên chức trong hội đồng quản trị quỹ TTTK, viết bài trả lời chúng tôi. Ông hỏi chúng tôi những việc làm xa lộ, khui giếng dầu, sản xuất giấy để in sách báo không phải là phục vụ cho nền kinh tế quốc gia hay sao. Chúng tôi đăng nguyên văn thơ và chân dung ông lên báo, rồi viết trả lời ông là tất cả những việc quỹ TTTK làm đều đúng, trừ một điều: Sử dụng số tiền tiết kiệm của chúng tôi. Chúng tôi là trái chủ của trương mục TTTK này, và chúng tôi, người lính VNCH, phải có ưu tiên vay mượn trước mọi người khác. Vay mượn để làm gì? Chúng tôi vạch rõ tình trạng mỗi người lính, với số lương còm cõi, phải đài thọ việc nuôi dưỡng một đại gia đình gồm 5, 7 người thân nhân đến tá túc trong trại gia binh, chung sống với gia đình người lính, vì tình trạng thiếu an ninh tại nông thôn. Do đó số nhân lực thặng dư, cần việc làm trong trại gia binh rất nhiều, và sẽ trở thành đắc dụng nếu quân đội có kế hoạch sử dụng họ và sử dụng số tiền tiết kiệm của những người lính thân nhân họ, cho lính vay lại số tiền tiết kiệm. Huấn và tôi lấy Sư Ðoàn 18 ra làm điển hình để cụ thể thảo luận với hội đồng quản trị quỹ TTTK trên mặt báo Diều Hâu. Sư Ðoàn đóng tại Long Khánh vùng đất đỏ mầu mỡ rất tốt cho việc làm rẫy trồng đậu nành. Nếu sư đoàn tổ chức hợp tác xã dầu ăn, mua máy cày về cầy mướn cho những người lính thành viên hợp tác xã, và cho họ mượn vốn mua hột đậu nành giống, mua phân, mua máy bơm nước để khai thác một hai mẫu đậu nành cấp cho họ thì hợp tác xã đã sử dụng hai phần ba số bà con lính sống thất nghiệp trong trại gia binh, và với tối thiểu 5,000 thành viên, trong số 10,000 quân nhân của sư đoàn, mỗi mùa hợp tác xã đã có thể mua lại hoa mầu của 10,000 mẫu đậu nành, số lượng có thể ép thành hàng chục triệu lít dầu ăn. Lúc đó khẩu phần quân tiếp vụ của binh sĩ là mỗi gia đình được mua 2 lít dầu mỗi tháng. Hợp tác xã sư đoàn 18 không những có khả năng hủy bỏ giới hạn mua dầu ăn, mà còn có khả năng cung cấp thêm cho thị trường bên ngoài. Máy ép dầu? Kỹ sư dầu ăn? Mua dụng cụ và mướn người ngoại quốc nếu chúng ta chưa có đủ chuyên viên. Chúng tôi chọn thêm hai sư đoàn 5 và 25 để thảo luận về việc sản xuất một nhu yếu phẩm khác: Ðường. Hai sư đoàn này đóng ở Củ Chi và Ðức Hòa, vùng trồng mía. Chúng tôi cũng đề nghị sử dụng nhân công thân nhân binh sĩ, sử dụng vốn trong quỹ TTTK để tạo ra hợp tác xã sản xuất đường. Hội đồng quản trị quỹ TTTK đang thảo luận với tuần báo Diều Hâu thì bên trong nội bộ của hội đồng tiết lộ ra nhiều tài liệu tố giác tham nhũng trong việc điều hành quỹ. Cuộc thảo luận về nguyên tắc sử dụng đứng đắn đồng tiền tiết kiệm của người lính biến thành cuộc điều tra của Phủ Phó Tổng Thống đặc trách bài trừ tham nhũng. Trung tướng Nguyễn Văn Vỹ, tổng trưởng quốc phòng và chủ tịch quỹ TTTK bị cất chức, và quỹ bị giải tán. Mỗi người lính chúng tôi được lãnh lại 60 tờ giấy trăm, một số tiền khác cũng mang tính chất tiền lính để bị tính liền trong một bữa ăn cuối tuần. Trong cuộc đấu tranh này tôi nhận ra được bản tính vô cùng can đảm của Huấn trong nhiều đụng chạm với những quân nhân cao cấp và nhiều quyền hạn. Tôi ca ngợi Huấn, anh chỉ cười dễ dãi, rồi huyệch hoạc bảo tôi, “mó dế ngựa, tôi cũng teo lắm.” Kỷ niệm buồn thấm thía giữa Huấn và tôi, mà cả hai chúng tôi cùng không dám nhắc lại là ly rượu chúng tôi uống trong một buổi chiều sơn cước. Sáng hôm đó tôi theo trung đoàn 45 từ đèo Hàm Rồng về Ban Mê Thuột chứng kiến cảnh Ðại tá Quang đưa quân về tiếp cứu trung tá Ân đang tử thủ tại phi trường Phụng Dực. Tôi chứng kiến sức chiến đấu can trường và dũng mãnh của người lính bộ binh chống với đoàn chiến xa của Việt Cộng. Chiều hôm đó tôi trở về Pleiku; Huấn đón tôi tại sân trực thăng Quân Ðoàn 2. Anh không còn là một phóng viên như tôi nữa, mà đã trở thành sĩ quan báo chí của Quân Ðoàn. Anh không chở tôi vào bộ Tư Lệnh để tiếp tục làm việc với những tin tức cuối cùng của Phòng Nhì và Trung Tâm Hành Quân, mà cũng không đưa tôi về cư xá sĩ quan cho tôi nghỉ ngơi trước bữa cơm chiều, mà lái xe thẳng ra phố. Chúng tôi vào một tiệm cơm Tây của Pleiku do một cập vợ chồng Tây thật làm chủ. Huấn gọi hai ly rượu mạnh. Ông Tây già bưng rượu và một dĩa thịt nguội nhỏ ra bảo chúng tôi, “amuse gueul,” (món vui miệng). Thường khi chúng tôi cũng xổ tiếng Tây ra đấu với ông, nhưng lần này Huấn chỉ “merci” một tiếng rồi cụng ly với tôi. Nhìn gương mặt lầm lì của Huấn tôi hỏi, “tình hình tệ lắm hả?” “Lát Thiếu Tướng Phú sẽ nói chuyện với anh,” Huấn nói. Nửa đêm hôm đó quân đội VNCH bỏ cao nguyên, với nhiều uẩn khúc Huấn, tôi và nhiều người khác đã viết lại. Cuộc triệt thoái này đưa người Miền Nam đến chỗ mất nước. Tôi gặp lại Huấn tại San Jose, làm chủ một tiệm cơm Tây lớn hơn nhà hàng chúng tôi ăn lần chót tại Pleiku, và chị Hà, bà xã Huấn, nướng steak cũng ngon hơn ông Tây già Pleiku. Huấn rót cho tôi một ly Cordon Bleu, thứ rượu chúng tôi uống tại Pleiku chiều cuối cùng. Tôi uống cạn, không nhìn Huấn. Huấn ra đi ngày 29, tháng Mười, 2005. Tôi đến thăm Huấn nhiều lần trong những ngày anh dưỡng bệnh và chứng kiến sự chăm sóc chan chứa yêu thương của chị Hà bên giường bệnh. Với tư cách một quân nhân, tôi ngả nón kính phục những nỗ lực tối đa của anh trên đường phục vụ tổ quốc.Nguyễn Ðạt Thịnh |