LÊ PHÚ KHẢI * ĐẠI HỘI XII
23/12/2015
Trước thềm Đại hội 12
Lê Phú Khải – một người ngoài Đảng
Nhiều người quan tâm đến tình hình đất nước đã hỏi tôi: “Theo ý anh, ai trong Bộ Chính trị hiện nay sẽ làm Tổng bí thư tại Đại hội 12 sắp tới là tốt nhất?”.
Tôi trả lời: “Trong gần bốn triệu đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay, có nhiều người tài giỏi và có đức, yêu nước thực lòng. Nếu để ứng cử tự do và bầu phổ thông đầu phiếu trong toàn Đảng thì sẽ chọn được một Tổng bí thư xứng đáng, dân được nhờ. Nếu chỉ chọn trong Bộ Chính trị, hay Ban Chấp hành Trung ương thì… Bác Hồ sẽ là… người Thanh Hóa!”.
Nhiều người đã rất ngạc nhiên. Nhiều người còn mắng tôi: “Thấy ông là nhà báo mới hỏi, sao lại…?”.
Tôi bèn kể cho họ nghe câu chuyện “Bác Hồ là người Thanh Hóa”. Chuyện như sau: Có bốn anh bộ đội đi chơi với nhau. Một anh quê ở Nghệ An, ba anh kia quê ở Thanh Hóa. Anh quê Nghệ An nói: “Bác Hồ là người quê choa”. Một anh quê Thanh Hóa nói: “Không phải, Bác Hồ là người quê tôi!”.
Thế là cãi nhau. Cuối cùng phải bỏ phiếu. Kết quả: Bác Hồ là người Thanh Hóa, vì ba anh anh Thanh Hóa đều bỏ phiếu Bác là người quê mình. Rõ ràng dân chủ, công khai, minh bạch, thiểu số phục tùng đa số: Bác Hồ vẫn là người Thanh Hóa.
Phương Tây văn minh trải qua những vận động đi lên của lịch sử đã gọi cái đa số trong câu chuyện kể trên là đa số thiểu số (majorité minimal). Nguyên tắc tập trung dân chủ, thực chất là mất dân chủ ngay trong Đảng đã tạo ra cái đa số tối thiểu ấy. Nhiều lần đại hội mất dân chủ, đã dẫn đến nông nỗi này cho Đảng hôm nay… phải họp Trung ương liên tục, họp mãi vẫn chưa tìm được “lãnh tụ” xứng tầm.
Năm 2015, tính ra có đến 6993 cái đại hội trong cả nước. Này nhé, 63 tỉnh thành là 63 cái đại hội tỉnh đảng bộ. Mỗi tỉnh ước tính có 10 huyện thị, vị chi là có 630 cái đại hội huyện đảng bộ, mỗi huyện ước tính có 10 xã. Vậy ước tính cả nước có 6993 cái đại hội. Đó là chưa kể các đại hội của các ngành ở Trung ương. Đại hội nào cũng cờ dong trống mở, chăng đèn kết hoa xanh đỏ tím vàng như sân khấu cải lương chèo tuồng! Cả ăn uống liên hoan nữa. Tất cả đều lấy từ ngân sách nhà nước, từ thuế của dân để chi… Vậy mà vẫn không tìm ra được người tài đức để cứu Đảng cứu nước!
Cái nguyên tắc tập trung dân chủ thật là đáng sợ, thật là đại bi kịch cho đảng cầm quyền.
L. P. K.
Tác giả gửi BVN.
NGUYỄN VŨ BÌNH * FACEBOOK
Những người chối bỏ facebooks
Thu, 12/24/2015 - 03:01 — nguyenvubinh
Trong vài ba năm trở lại đây, mạng xã hội facebooks đã phát triểnvới tốc độ chóng mặt tại Việt Nam. Theo thống kê, hiện đã có hơn 30 triệu tài khoản facebooks tại Việt Nam. Với nhiều tính năng ưu việt được tích hợp, facebooks đã chinh phục được cả những người khó tính nhất. Ngoài nguyên nhân về ưu thế kỹ thuật, như miễn phí, tốc độ lan truyền nhanh...thì ở môi trường Việt nam cũng có những lý do đặc thù khiến facebooks phát triển bùng nổ. Trước hết, xã hội Việt Nam là xã hội cộng sản với đặc trưng là bưng bít thông tin và dối trá, bịp bợm. Chính vì vậy, việc xuất hiện và sử dụng facebooks để chia sẻ, công khai những thông tin trung thực, khách quan là nhu cầu lớn và tất yếu của người dân. Khi những thông tin chính thống và chính thức không bảo đảm độ tin cậy, trung thực và khách quan thì người dân tìm đến những nguồn thông tin khác mà facebooks là điển hình. Mặt khác, xã hội Việt Nam hiện nay không có môi trường và không đủ diễn đàn để người dân thể hiện khả năng, mà facebooks lại là nơi người dân tự thể hiện bản thân dễ dàng và đơn giản nhất. Chính hai lý do quan trọng này, đã khiến cho số lượng tài khoản facebooks ở Việt Nam tăng vọt.
Tuy nhiên, không phải ai cũng tham gia và thích thú với facebooks. Ở Việt Nam, có một số lượng người không nhỏ, đã không tham gia vào sân chơi vô cùng bổ ích và lý thú này. Có nhiều người, đã tham gia, có tài khoản một thời gian thì bỏ, đóng tài khoản. Có người có tài khoản nhưng hầu như không tham gia và ngó ngàng gì tới facebooks nữa. Chỉ có một số ít người thực sự không thích facebooks nên không tham gia. Còn lại, số lớn người từ chối facebooks vì lý do khác, không phải vì bản thân facebooks mà vì những thông tin được chia sẻ trên đó. Người ta từ chối facebooks vì những thông tin, hoặc ảnh hưởng từ những thông tin được chia sẻ và lan truyền trên facebooks. Vì sao lại vậy? Những thông tin đó là những thông tin gì? Vì sao họ lại tránh?
Trước hết, phần lớn những người tránh, từ chối facebooks là những người đang làm việc, đang là cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan, hệ thống và guồng máy của đảng cộng sản và nhà nước Việt nam. Những người này, từ chối facebooks trước hết là họ không muốn tiếp xúc với những thông tin tiêu cực có thật trong xã hội hiện nay. Bản thân họ, trong công việc và cuộc sống hàng ngày đã tiếp xúc với rất nhiều tiêu cực, mặt trái của xã hội, nên họ không muốn lên facebooks để chứng kiến thêm những vấn nạn của xã hội nữa. Nhưng lý do này chỉ là một phần nhỏ, không quan trọng lắm. Điều quan trọng là, khi tiếp xúc với các thông tin tiêu cực trên facebooks, họ lại được biết cách thức lý giải, giải thích khác có nguồn gốc từ chính hệ thống, guồng máy mà họ đang làm việc và phục vụ. Bằng trực giác và nhận thức của bản thân, những người này cũng đã lờ mờ nhận ra nguyên nhân gốc rễ của những vấn nạn, những đau khổ của người dân là do hệ thống chính trị mà họ đang phục vụ, là chế độ độc tài toàn trị cộng sản Việt Nam. Nhưng nếu thừa nhận điều này, họ sẽ bị mâu thuẫn nội tại giằng xé. Một bên là lương tâm, trách nhiệm, đạo lý, đạo đức làm người, khi thấy những tiêu cực, sai trái, bất bình phải tìm hiểu ngọn nguồn, tới gốc rễ. Khi đã tìm hiểu như vậy, khi thấy cái đúng, chân lý phải lên tiếng....một bên là cuộc sống, là tiền lương, là thu nhập. Và phần lớn họ lựa chọn sự an toàn cho bản thân và gia đình, bằng cách quay lưng lại với những nguồn thông tin vô cùng bổ ích, đúng đắn và lý thú. Họ từ bỏ những nguồn thông tin này cũng chính là từ bỏ việc tham gia và sử dụng facebooks, một công cụ vô cùng lý thú và tiện ích đối với mọi người dân.
Nhưng có những khát vọng trong con người, có thể bằng cách này hay cách khác, lúc này hay lúc khác dập tắt hoặc quên đi mà nó vẫn tồn tại. Khát vọng hiểu biết, khát vọng tự thể hiện hay khát vọng tự do sẽ lại lôi kéo thành phần này vào vòng ảnh hưởng của facebooks. Người ta làm sao có thể chối bỏ mãi được những thông tin, những chia sẻ, những kiến thức và muôn vàn điều lý thú đang lướt đi trên hệ thống mạng xã hội hàng ngày hàng giờ. Chúng ta tin rằng, sẽ ngày càng có nhiều người vượt qua nỗi sợ hãi mơ hồ, hoặc thậm chí những rủi ro khi tham gia vào sân chơi facebooks, bởi vì đó là lời mời gọi từ sự kết nối, chia sẻ của nhận thức, của tự do và của cả tình người./.
Hà Nội, ngày 24/12/2015
N.V.BVIETTUSAIGON * ĐÀN ÔNG VIỆT
Đàn ông Việt với quán nhậu, gái gọi và Tân Hiệp Phát
Thu, 12/24/2015 - 11:41 — VietTuSaiGon
Đàn ông Việt Nam (ngoại trừ một số rất ít biết quan tâm đến xã hội, dân tộc, quốc gia) đã làm được gì sau khi đàn bà đã hy sinh quĩ thời gian quí báu, tuổi xuân để mà cán đán việc gia đình, cho người chồng, người con, thậm chí người em, người anh đi ra xã hội? Thật đáng buồn và xấu hổ khi phải nói rằng đại đa số đàn ông Việt Nam chỉ quan tâm đến tiền, quán nhậu và gái gọi! Câu chuyện con ruồi Tân Hiệp Phát là một ví dụ điển hình.
Dựa vào cơ sở nào để nói rằng đại đa số đàn ông Việt Nam chỉ quan tâm đến tiền, quán nhậu và gái gọi? Và câu chuyện con ruồi Tân Hiệp Phát (THP) cũng như vấn đề chính trị, xã hội Việt Nam có liên quan gì đến nhận thức, lựa chọn của đại đa số đàn ông Việt Nam?
Từ quyền chọn lựa, ý thức cá nhân
Để trả lời câu hỏi thứ nhất, phải nói đến một vấn đề khác đáng xấu hổ hơn cho đại đa số đàn ông Việt Nam ăn hàng nhiều hơn đàn bà. Và có vẻ như đàn bà Việt Nam đã thay đổi thói quen, chuyện đi chợ, ghé siêu thị mua thực phẩm về nấu cho cả gia đình cùng thưởng thức đang là chuyện phổ biến của phụ nữ Việt Nam. Đây là dấu hiệu đáng mừng cho phụ nữ Việt nhưng lại đáng xấu hổ cho đàn ông Việt Nam.
Bởi vì Việt Nam tuy là một nước có nền kinh tế èo ọp nhưng lượng bia rượu tiêu thụ mỗi năm nếu chia tổng số lượng tiêu thụ với bình quân đầu người thì có thể nói rằng Việt Nam nhậu thuộc vào hàng sư tổ của thế giới. Vui – nhậu, buồn – nhậu, có bạn mới – nhậu, đầy tháng con – nhậu, tao nôi con – nhậu, chó bị xe cán – nhậu, heo bị dịch – nhậu, con gà bị tai nạn vì chui vào lưới – nhậu, thằng bạn mới sinh được con trai nối dõi – nhậu, vợ thằng bạn mới lành bệnh – nhậu, thằng bạn li dị vợ – nhậu, mừng thằng bạn có vợ mới – nhậu, mừng có bài thơ đăng trên báo văn nghệ thành phố - nhậu, thậm chí giết cả con bò mời cả làng cùng nhậu vì có bài thơ đăng trên báo văn nghệ trung ương… Kính thưa các lý do để nhậu. Nói ra vài câu là thấy “bữa nào rảnh anh em mình cùng nhậu!”.
Hình như chữ nhậu đã gắn sẵn trên vùng ngôn ngữ của đại đa số đàn ông Việt Nam! Và hình như phụ nữ Việt Nam cũng đã quen chịu đựng với việc chồng đi nhậu tùy hứng, thậm chí bỏ bê công việc, nói không chừng, có nhiều trường hợp dù biết chồng nhậu xong rủ nhau đàn đúm gái gú, tìm ca-ve nhưng vẫn làm thinh cho xong chuyện. Bởi nói có khi bị đánh đập hoặc bị cắt “viện trợ” hằng tháng, con cái không có tiền mà ăn học. Và có lẽ cũng chính vì sự bất công này mà đa số các chị em phụ nữ ở chợ lại am hiểu về chính trị hơn cánh đàn ông ở các quán nhậu.
Đi bất cứ khu chợ nào cũng có thể nghe các bà bàn tán về chuyện Trung Quốc xâm lược, các phố Tàu ở Đà Nẵng, Bình Dương, Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Trị, Quảng Nam, Tây Nam Bộ… Hầu hết các câu chuyện này đều là của chị em phụ nữ ngồi “tám” với nhau ở các chợ. Ngược lại, cánh đàn ông, đại đa số nhậu với nhau xong, nếu có yêu nước thì cũng yêu nước trên bàn nhậu, nói dóc năm điều bảy chuyện, bình luận đủ điều về chính trị… Nhưng sau bữa nhậu, vấn đề họ quan tâm là tiền đâu để chiều nay, chiều mai nhậu tiếp, chỗ karaoke Cẩm Tú, Cẩm Li, Cẩm Kì, Cẩm Cọ… có mấy em chân dài bốc lửa, giá cũng được… vân vân và vân vân…!
Và nói về chuyện ăn hàng, có lẽ ít ai ăn hàng như các ông nhậu, chỉ cần nhìn thấy bà bán chả đi ngang qua thì cách gì cũng làm vài cây lót bụng trong lúc chờ mồi, thấy lạc rang đi qua cũng làm một bao ngồi nhâm nhi đưa cay, me xoài cóc ổi bán chạy nhất, được lãi nhiều nhất cũng nằm ở các quán nhậu chứ không phải ở chợ. Nói đến chuyện này thật là ốt dột cho cánh đàn ông, đặc biệt là cánh đàn ông trẻ chưa có sự nghiệp và thừa thời gian, thừa hèn nhát nhưng lại thiếu tri thức, thiếu hiểu biết chính trị và thiếu cả lòng tự trọng cũng như ý thức cá nhân.
Sở dĩ đàn ông Việt, đại đa số ra nông nổi như đang thấy phải nói rằng do họ chưa kịp hoàn hồn sau quá trình kinh tế tập thể, tập trung bao cấp thì lại ngoi ngóp trong cái thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì sao lại nói rằng nguyên nhân của hèn nhát, thiếu hiểu biết chính trị, thiếu tự trọng và thiếu ý thức cá nhân là do nền kinh tế xã hội chủ nghĩa?
Bởi lẽ, chính cái nền kinh tế tập trung bao cấp, không có sở hữu tư nhân một thời rồi sau đó mạnh thằng nào thằng nấy vơ cào, tư túi dưới ánh sáng định hướng xã hội chù nghĩa của một thị trường kinh tế hỗn loạn, cá lớn nuốt cá bé đã lấy mất dũng khí cũng như ý thức tư hữu, quyền cá nhân của đại bộ phận đàn ông, những người chủ chốt trong vấn đề nuôi gia đình. Thậm chí có những thằng đàn ông đổ liều, chấp nhận dùng năng lực dưới lưng quần vợ để nâng cao địa vị, sự nghiệp tổ tiên và xem đó là điều hiển hách. Chuyện này không hiếm trong nền chính trị Việt Nam hiện tại. Và cũng không hiếm những thằng đàn ông moi trộm tiền vợ để đi chơi với gái…!
Đến tính vong thân, vong tộc…
Tất cả những thứ đó đều là biểu hiện của một dân tộc đang đi đến chỗ đánh mất nhân phẩm, đánh mất lòng tự trọng, đánh mất ý thức về bản thân. Và một khi ý thức về bản thân không có thì quyền lựa chọn cá nhân, quyền phát biểu những gì mình đã lựa chọn hoặc quyền khước từ hầu như không còn. Cũng chỉ có Việt Nam mới có câu chuyện THP đã nhiều lần phạm lỗi với khách hàng, có quá nhiều sản phẩm lỗi mà họ vẫn ngang nhiên ‘làm từ thiện’ đánh bóng tên tuổi, ngang nhiên tung sản phẩm và ngang nhiên gài thế đẩy những nạn nhân của họ vào chốn lao lý.
Bởi nếu ở các nước tiến bộ, người tiêu dùng coi trọng bản thân, coi trọng sức khỏe và nhân phẩm của họ thì họ đã khai trừ bất kì hãng sản xuất nào có sản phẩm không đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng. Và họ sẽ kiện đòi bồi thường cho dù chưa dùng sản phẩm mà chỉ mới mua về nhưng phát hiện nguy hiểm. Bởi lẽ, nền pháp lý của những nước đó không những chặt chẽ mà còn đề cao nhân phẩm, giá trị của cá nhân. Chính vì có được hệ thống luật pháp coi trọng và bảo vệ cá nhân nên công dân sẵn sàng đi kiện, sẵn sàng đối mặt với sự thật.
Ngược lại, ở Việt Nam, trong trường hợp này nếu đi kiện thì mất tiền án phí mà có thể mất cả mạng sống bởi xã hội đen hỏi thăm, cuối cùng cũng không được gì. Nếu gọi điện cho công ty bán sản phẩm lỗi thì họ có thể gài bẫy và tống vào tù… Trường hợp con ruồi THP là một điển hình. Và sở dĩ THP có thể cậy quyền cậy thế để làm mưa làm gió bấy lâu nay là vì đa số người Việt, đặc biệt là đàn ông Việt không quan tâm đến pháp luật, chính trị, tình hình thế giới bằng quan tâm đến tình hình các quán nhậu, bia ôm, hớt tóc thanh nữ, các tụ điểm ăn chơi…
Và khi người ta không quan tâm đến bản thân, không quan tâm đến danh dự, không quan tâm đến giá trị cá nhân, giá trị cộng đồng, điều này cũng đồng nghĩa với việc người ta thây kệ ai chết mặc ai, miễn mình chưa chết, còn có cái để ăn chơi, sung sướng là đủ. Cũng chính thứ tâm lý kỳ quái này đã kết tạo thành một sinh quyển xã hội đầy tính vong thân, sợ quyền thế, sợ nói ra điều mình nghĩ. THP tồn tại được với hàng loạt sản phẩm hư hỏng mà vẫn không bị phá sản là nhờ vào thứ tâm lý này. Không riêng gì THP mà bất kì tập đoàn hay công ty ma mãnh nào cũng có thể dùng cái dù quyền thế của họ để đè người tiêu dùng, để nhân danh thứ này thứ nọ.
Ngay cả trong giới trí thức, giới luật sư vẫn không thiếu những luật sư khốn nạn hoặc không thiếu những nhà báo đầu chứa toàn nịnh bợ và sợ sệt. Một bài báo nói rằng “nếu khai trừ THP thì đó là một lựa chọn ngu ngốc” đã xuất hiện.
Điều này cho thấy tâm lý coi thường người tiêu dùng và lấy miếng ăn đe dọa người khác trong giới bồi bút vẫn còn nặng. Họ vẫn nuôi tâm lý khi lấy miếng ăn đe dọa, tỉ như nếu tẩy chay THP thì có hơn 50 ngàn con người sẽ đói khổ, thiếu việc làm… để phân tích. Trong khi đó họ chưa hoặc không bao giờ nghĩ tới chuyện đã bao nhiêu năm nay, có 50 ngàn con người đã sống trong một tập đoàn mà ở đó, sự giả dối, không đảm bảo chất lượng và tính thủ đoạn, đẩy người nghèo vào chỗ lao lý. Điều đó cũng đồng nghĩa với hơn 50 ngàn con người đã được nuôi trong bầu khí quyển tội ác, hưởng lợi trên tội ác. Và khi xóa sổ tội ác, đương nhiên cái thiện được mở cửa tự do trong mỗi người. Không có THP thì họ sẽ làm nơi khác…! Bởi nếu nghĩ được vậy và quyền cá nhân, quyền lựa chọn của người tiêu dùng được đề cao thì sẽ không bao giờ có những bài báo đại loại như thế.
Phong trào tẩy chay THP, nếu nói đúng bản chất, nó phát biểu lên tính coi trọng quyền của người tiêu dùng một cách mạnh mẽ nhất và nó cũng cho thấy nghĩa khí bảo vệ kẻ yếu đã trở lại. Đây là một tín hiệu mừng sau 40 năm ngủ quên của dân tộc.
SỔ TAY TƯỞNG NĂNG TIẾN
Ngã Tư Quốc Tế
Wed, 12/16/2015 - 08:38 — tuongnangtien
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
Tôi thiếu điều muốn tự vận (luôn) vì xấu hổ về đồng bào, đồng loại, và thời đại của mình.
Thỉnh thoảng, tôi vẫn gặp phải một câu hỏi khó:
Trẻ con Bắc Hàn. Nguồn ảnh: VOA
Từ đây, tôi cũng nhìn thấy hàng trăm người đã mang thân mình làm đuốc, với hy vọng gây được sự chú ý của nhân loại về thảm kịch bị mất quyền tự chủ và nguy cơ bị đồng hoá của dân tộc họ.
Bức thư được viết với những dòng chữ tiếng Anh nguệch ngoạc trên một tờ giấy mỏng và người viết nói rằng ông bị giam giữ tại một trại cải tạo lao động ở thị trấn phía Đông Bắc Trung Hoa. Ông cho biết ở đó các tù nhân phải làm việc vất vả bảy ngày một tuần, 15 giờ trong ngày họ bị ám ảnh về sự giám sát ác nghiệt của bọn cai tù tàn bạo.
“Quý vị: Nếu quý vị thỉnh thoảng mua sản phẩm này, xin vui lòng chuyển thư này đến Tổ chức Nhân quyền Thế giới.
Đó là một đọan trong bức thư được nằm giữa hai ngôi mộ đá giả, nó rơi ra khi bà Julie Keith mở chiếc hộp trong phòng khách nhà bà vào tháng 10 năm ngoái. "Hàng ngàn người tù ở đây, những người đang bị nhà cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Cộng hành hạ, sẽ tri ân và nhớ đến quý vị mãi mãi.” (Đằng Sau Tiếng Khóc Kêu Cứu Từ Trại Cải Tạo Lao Động Trung Quốc" - "Behind Cry for Help From China Labor Camp". Như Ngọc chuyển ngữ).
Thư kế tiếp theo xuất hiện trên tờ Belfast Telegraph vào ngày 26 tháng 6 năm 2014. Qua ngày hôm sau trang web của Time đã có bản tin (“Another SOS Note From China Has Been Found In a Piece of Store-Bought Merchandise”) với đầy đủ những chi tiết cần thiết:
Photo: Arthur Edwards
Tôi thiếu điều muốn tự vận (luôn) vì xấu hổ về đồng bào, đồng loại, và thời đại của mình. Cái tốt sao mà nhỏ nhoi, lẻ loi, yếu đuối, cô đơn vậy. Công lý sao mà chậm chạp, nhợt nhạt vậy – hả Trời?
Nguồn: UK Times
Tôi thiếu điều muốn tự vận (luôn) vì xấu hổ về đồng bào, đồng loại, và thời đại của mình.
- Thế những tác giả ngoại quốc ông thường đọc là những ai?
- Gần như chả có ai ngoài Kim Dung và Remarque. Lâu lâu tôi cũng có đọc Ernest Hemingway, Mario Puzo, Boris Pasternak, hay Solzhenitsyn thôi...
- Úy Trời! Sao cũ mèm hết trơn vậy, cha nội?
- Bị hồi đó, ở miền Nam, hầu hết sách của những tác giả này đều được dịch ra tiếng Việt.
- Bộ không đọc được tiếng Anh, tiếng Pháp gì sao?
- Dạ, ráng thì cũng được nhưng ... ngại lắm!
Nói nào ngay thì khi còn trẻ tôi cũng có ráng, với đôi chút làm dáng, khi vào cà phê Tùng với La 25ème Heure hay Of Mice and Men trên tay. Cái thời sung sức, và hơi nặng phần trang sức, này đã qua lâu lắm rồi.
Cũng từ lâu lắm rồi, tôi đã thôi mặc áo quần từ tiệm giặt ủi, thôi soi gương, thôi chải đầu, và gần như chỉ đọc những tác giả đang sống ở Việt Nam: Nguyễn Quang Lập, Đinh Tấn Lực, Huy Đức, Tuấn Khanh, Huỳnh Ngọc Chênh, Cánh Cò, Nguyễn Ngọc Già, Trương Duy Nhất, Võ Thị Hảo, Đoan Trang, Huỳnh Thục Vy ...
Đọc họ rất “khoẻ,” trừ Nguyễn Ngọc Tư. Nhà văn này làm tôi hay bị ... mệt. Đang đọc phải bỏ ngang.
Bà hay đặt những vấn đề gây quá nhiều xúc cảm quá khiến tôi, đôi khi, cảm thấy bị chới với. Riêng bài này (“Có Còn Người Không?”) tôi đọc cho tới dòng chữ cuối vì nó quá ngắn, chưa kịp bỏ xuống thì đã tới câu kết mất rồi:
Câu hỏi đó thằng nhỏ hỏi mỗi ngày mỗi ngày mỗi ngày, khi đói khát, khi bị đánh đập cấu nhéo, khi phơi trần ra dưới nắng mưa. Khi nó nằm trên mặt đường và kêu khóc khản giọng. Nó hỏi vào đám đông lướt qua nó, hỏi ai đó dừng chân cho nó (chính xác là cho những kẻ chăn dắt nó) chút tiền lẻ. Nó hỏi những kẻ bắt nó nằm lăn lóc kêu khóc trên đường để kiếm tiền, để nhởn nhơ ăn mòn tấm thân bé nhỏ non nớt của nó.
Nhưng tôi tưởng tượng thôi, trong lúc ngồi uống một ly cà phê mặn chát. Dường như cả quán hôm đó cũng có cùng cảm giác, sau khi giở tờ báo sáng, và nhìn thấy hình ảnh của thằng bé ăn xin. Nó nhỏ đến mức chỉ biết khóc. Ở truồng và khóc. Ướt và khóc. Bị đánh đau và khóc. Chấp chới giữa dòng người ngược xuôi đông đúc như con vịt con ngơ ngác mà người ta dùng để câu nhắp cá lóc. Em bé – con mồi sống không nói gì hết, mà tôi tưởng như nó hỏi, người ơi, người ở đâu?
Tôi đã nhận được câu hỏi đó bao nhiêu lần trong đời? Không đếm được. Có đứa thậm chí còn không khóc. Nó ngủ mềm oặt, xanh rớt trên tay người đàn ông ngồi ở một góc đường. Một kiểu ngủ mụ mị vì tác dụng của thuốc. Buổi tối tôi đi qua chỗ đó và em lại hỏi bằng vẻ câm lặng im lìm. Như cái chết. Có còn người không?
Đám đông không lên tiếng. Không Lục Vân Tiên nào, đại diện công quyền nào đưa cả hai con người rách rưới về, gạn hỏi coi có thật là cha con như gã đàn ông phân trần, hay chỉ là kẻ chăn dắt với con mồi. Em bé ngủ vì thuốc ngủ hay vì sốt cao? Em cần một mái ấm hay một bệnh viện cho qua cơn đau? Bàn tay mỏng đó không quá khó để người đời nắm lấy. Nhưng dòng người lũ lượt không ai dừng lại.
Chính xác là cũng có người bước tới cho vào cái ca nhựa bạc màu chút tiền lẻ, nghĩ sau đó mình sẽ nhẹ lòng. Tôi cũng vậy, tự lừa mình. Và cái góc đường trước Trung tâm văn hóa thông tin ám ảnh tôi dai dẳng dù em bé chỉ ở lại hai đêm rồi biến mất. Cuộc ra đi gây bất an hơn cả khi xuất hiện, bởi linh cảm em lại vạ vật ở một góc đường khác, bị nhấn chìm trong giấc ngủ khác. Ngủ là một cách hỏi, người đâu mất rồi?
Cũng như những em bé ăn xin mà bất cứ ai cũng có thể gặp một đôi lần trên đất nước này, chúng gọi con người bằng nhiều cách, bằng ánh mắt thất thần, bằng vẻ ngoài trần trụi và lem luốc, bằng tiếng khóc, tiếng hát, bằng bàn tay bẩn thỉu xòe ngửa, bằng những vết thương bầm tím trên da thịt… Ai đó nghe thấy tiếng gọi đó nhưng họ bận rộn, sợ hãi, bất lực, cũng có kẻ không nghe, không cảm nhận gì hết…
Và những đứa trẻ đường phố vẫn tồn tại, như một phép thử.
Thử coi người ta bất lực, rụt rè, ngại khó bao nhiêu? Bao nhiêu người đã từng đi qua, chứng kiến những thân phận nhỏ bé khốn khổ. Dù ngoái lại, dù áy náy, dù thấy thương và bất an… nhưng chậc, mình lại phải đi rồi… Họ không làm gì mà kêu mấy ông nhà nước làm gì đi chớ…
Ảnh: Dân Trí
Tôi không thể đoán được “cái góc đường trước Trung Tâm Văn Hóa Thông Tin” của Nguyễn Ngọc Tư nằm trong cái thành phố nào, ở đất nước mình. Tôi đã đành đoạn quay lưng, bỏ cái quê hương khốn khổ của mình đi biền biệt từ lâu lắm rồi. Người xưa, cảnh cũ đều đã trở thành nhạt nhoà và phai mờ hết ráo.
Tôi hiện đang ở một đất nước khác. Chỗ tôi tạm cư có tên là Silicon Valley (hay còn gọi là Thung Lũng Hoa Vàng) nơi có vài chục sắc dân cùng ở bên nhau, cùng chia sẻ một cuộc sống an bình và phú túc. Những đứa bé ăn xin “trần trụi, lem luốc “với “những vết thương bầm tím trên da thịt” – tất nhiên – không thể hiện hữu ở một chốn văn minh như thế.
Tuy thế, từ cái Ngã Tư Quốc Tế này (hàng ngày) tôi vẫn nhìn thấy “ánh mắt thất thần ...chấp chới giữa dòng người ngược xuôi đông đúc như con vịt con ngơ ngác mà người ta dùng để câu nhắp cá lóc” của vô số trẻ thơ – qua những phương tiện truyền thông.
Trẻ con Bắc Hàn. Nguồn ảnh: VOA
Từ đây, tôi cũng nhìn thấy hàng trăm người đã mang thân mình làm đuốc, với hy vọng gây được sự chú ý của nhân loại về thảm kịch bị mất quyền tự chủ và nguy cơ bị đồng hoá của dân tộc họ.
Và cũng từ cái Ngã Tư Quốc Tế này – thỉnh thoảng – tôi vẫn được xem một cái thư kêu cứu, gửi từ những trại tù của nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa. Nơi còn có tên gọi khác là Trung Quốc Đại Lục, hay Trung Cộng.
Thư sau được đăng tải trên New York Times, vào ngày 11 tháng 6 năm 2013, rồi được phổ biến rộng rãi khắp nơi, kể cả những trang tiếng Việt:
Bức thư được viết với những dòng chữ tiếng Anh nguệch ngoạc trên một tờ giấy mỏng và người viết nói rằng ông bị giam giữ tại một trại cải tạo lao động ở thị trấn phía Đông Bắc Trung Hoa. Ông cho biết ở đó các tù nhân phải làm việc vất vả bảy ngày một tuần, 15 giờ trong ngày họ bị ám ảnh về sự giám sát ác nghiệt của bọn cai tù tàn bạo.
“Quý vị: Nếu quý vị thỉnh thoảng mua sản phẩm này, xin vui lòng chuyển thư này đến Tổ chức Nhân quyền Thế giới.
Đó là một đọan trong bức thư được nằm giữa hai ngôi mộ đá giả, nó rơi ra khi bà Julie Keith mở chiếc hộp trong phòng khách nhà bà vào tháng 10 năm ngoái. "Hàng ngàn người tù ở đây, những người đang bị nhà cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Cộng hành hạ, sẽ tri ân và nhớ đến quý vị mãi mãi.” (Đằng Sau Tiếng Khóc Kêu Cứu Từ Trại Cải Tạo Lao Động Trung Quốc" - "Behind Cry for Help From China Labor Camp". Như Ngọc chuyển ngữ).
Thư kế tiếp theo xuất hiện trên tờ Belfast Telegraph vào ngày 26 tháng 6 năm 2014. Qua ngày hôm sau trang web của Time đã có bản tin (“Another SOS Note From China Has Been Found In a Piece of Store-Bought Merchandise”) với đầy đủ những chi tiết cần thiết:
“SOS! SOS! SOS!... We are prisoners in the Xiang Nan Prison of the Hubei Province in China. Our job inside the prison is to produce fashion clothes for export. We work 15 hours per day and the food we eat wouldn’t even be given to dogs or pigs. We work as hard as oxen in the field.”
(SOS! SOS! SOS!... Chúng tôi là tù nhân tại nhà tù Xiang Nan ở tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Công việc trong tù của chúng tôi là sản xuất quần áo thời trang đem xuất khẩu. Chúng tôi làm việc 15 tiếng một ngày, thực phẩm chúng tôi ăn thì đến chó và lợn cũng không thèm ăn. Chúng tôi phải làm việc nặng nhọc như trâu bò ở ngoài đồng. Dương Long chuyển ngữ).
Những tiếng kêu cứu thảm thiết như trên, tuy được nhanh chóng phổ biến khắp mọi nơi nhưng rồi đều rơi ngay vào quên lãng, tựa như những viên sỏi nhỏ ... rơi tõm xuống một cái ao bèo! Thái độ của cư dân nơi những cái Ngã Tư Quốc Tế, buồn thay, cũng (hờ hững) y như cái đám đông ở góc đường trước Trung Tâm Văn Hóa Thông Tin – gần nhà Nguyễn Ngọc Tư – thôi.
Không Lục Vân Tiên nào, đại diện công quyền nào bận tâm cả. Nhân loại (chắc) cũng có ai đó nghe thấy tiếng gọi đó nhưng họ bận rộn, sợ hãi, bất lực, cũng có kẻ không nghe, không cảm nhận gì hết… ráo!
Đã thế, ở nhiều nơi, những kẻ nhởn nhơ ăn mòn tấm thân của hàng triệu nạn nhân (khốn khổ) còn được long trọng đón tiếp nữa cơ:
-RFA: Chủ tịch Trung Quốc phát biểu trước Quốc hội Việt Nam.
-RFI: Luân Đôn Trải Thảm Đỏ Đón Chủ Tịch Trung Quốc.
--BBC: Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã tới Anh trong chuyến thăm bốn ngày mà Thủ tướng Anh David Cameron gọi là 'kỷ nguyên vàng' trong quan hệ hai nước.
Tôi thiếu điều muốn tự vận (luôn) vì xấu hổ về đồng bào, đồng loại, và thời đại của mình. Cái tốt sao mà nhỏ nhoi, lẻ loi, yếu đuối, cô đơn vậy. Công lý sao mà chậm chạp, nhợt nhạt vậy – hả Trời?
NGUYỄN THIÊN - THỤ * ĐẶC TÍNH VĂN CHƯƠNG TRUYỀN KHẨU HIỆN ĐẠI
ĐẶC TÍNH VĂN CHƯƠNG TRUYỀN KHẨU HIỆN ĐẠI
NGUYỄN THIÊN - THỤ
Văn chương truyền khẩu hiện đại có một sức sống mãnh liệt và mang nhiều màu sắc. Chúng ta thấy có bốn tính chất:
-Tính chiến đấu
-Tính trung thực
- Tính châm biếm
-Tính bi đát.
I. TÍNH CHIẾN ĐẤU
Văn chương truyền khẩu hiện đại là vũ khí của nhân dân bị áp bức chống cộng sản độc tài, tham nhũng và tán ác. Nhân dân ta chỉ trích từ các thần tượng cho đến những cán bộ, công an và các xã viên HTX trong guồng máy cộng sản. Cộng sản ca tụng Marx, Lenin, Stalin nhưng dân Việt Nam kết án họ:
`Cộng sản ở tại nước Nga,
Chính danh thủ phạm tên là Lê nin.
Họ kết tội Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng và bọn Tố Hữu đã làm dân chúng đói khổ:
Ông Hồ, ông Duẩn, ông Chinh
Vì ba ông ấy, dân mình lầm than !
Võ Nguyên Giáp, Tố Hữu, Tôn Đức Thắng, Nguyễn Lương Bằng đều bị điểm mặt chỉ tên:
-Ba muơi năm chinh chiến, Võ đại tướng nay không còn nguyên giáp
Hồ chủ tịch, một cuộc đời cách mạng, giờ hết cả chí minh!
- Bác Nguyễn Lương Bằng, cả nước ít người lương bằng lương bác,
Ông Tôn Đức Thắng, trên đời nhiều kẻ đức thắng đức ông!
.Nhân dân đã chỉ trích các chính sách của cộng sản:
(1)-Cộng sản gây chiến:
Trời sinh cộng sản làm chi,
Bắt dân ta phải ra đi chiến trường.
Tuổi trẻ nát thịt tan xương,
Tuổi già tải đạn, tải lương đêm ngày.
(2)-Cộng sản nịnh hót tư bản:
Ngày xưa chửi Mỹ hơn người,
Ngày nay theo Mỹ chẳng ai bằng mình.
-Ngày xưa chống Mỹ chống Tây
Ngày nay chống cửa rước ngay Mỹ vào!
(3)-Cộng sản bất công, thối nát:
Thằng làm thì đói,
Thằng nói thì no.
Thằng bò thì sướng.
Thằng bướng thì chết,
Thằng bết thì tôn,
Thằng khôn thì đập.
-Nhất thân, nhì thế, tam tiền, tứ chế.
(4)-Chính sách trí thức hóa vô sản:
Cộng sản ghét trí thức bởi vì trí thức hiểu biết, không dễ bị lường gạt. Nhưng chúng vẫn khoái nhãn hiệu trí thức, chúng dán nhãn hiệu này cho chúng và con em chúng. Do đó, họ mở các lớp bổ túc văn hóa, đào tạo tại chức để phong kỹ sư, cử nhân, bác sĩ, phó tiến sĩ và tiến sĩ cho cán bộ và đảng viên nòng cốt. Việc này chỉ là làm hình thức, vì vô sản thất học lại lớn tuổi, đâu có trình độ để học. Ngày nay, tiến sĩ giả xuất hiện đày rẫy trong mọi cơ quan cộng sản. Kết quả nền giáo dục giả dối này, dân chúng nhận định: Dốt như chuyên tu, ngu như tại chức!
II. TÍNH TRUNG THỰC
Văn chương truyền khẩu hiện đại phản chiếu trung thành thực tại xã hội. Có những truyện do nhân dân sáng tạo, và cũng có những truyện rất thực. Dù là sáng tạo nó vẫn nói lên những thực tại đau khổ của nhân dân và hành vi gian ác, sa đọa của cộng sản. Một số truyện nói thẳng, tố cáo thẳng, không nói quanh co, xa gần.
(1)-Nông dân bị bóc lột:
-Một người làm việc bằng ba,
Để cho cán bộ xây nhà, lát sân.
- Một người làm việc bằng tư,
Để cho cán bộ tiền dư thóc thừa.
(2)-Trí thức nghèo khổ:
-Nhà văn, nhà giáo, nhà báo, nhà đài,
Bốn nhà cọng lại bằng hai nhà nghèo.
(3). Bất công, vô pháp luật:
Ăn cắp một đồng,
Thì gông vào cổ
Ăn cắp hàng tỷ,
Xử lý nội bộ.
III. TÍNH CHÂM BIẾM
(1). Cộng sản tham tiền:
Những điều tuyên bố dân chủ, công bằng là xảo trá. Chế độ cộng sản đã đưa người nghèo và vô học lên nắm quyền cho nên lòng tham càng mau chóng phát triển. Xã hội cộng sản suy đồi hơn là xã hội quân chủ và tư bản. Khi chưa nắm quyền, cộng sản đã tô vẽ một thiên đường, nào là công bằng xã hội, cơm áo no đủ, tận diệt nạn người bóc lột người, vàng chỉ để lót cầu tiêu. Ngày nay, cộng sản gộc đã trở thành tư bản đỏ, đồng đô la, vàng đã trở thành mục tiêu phấn đấu của người cộng sản. Từ đảng viên trung ương cho đến địa phương, từ cán bộ cho đến quần chúng đều tôn thờ đồng tiền, chạy theo lợi nhuận:
-Tiền là tiên, là Phật,
Là sức bật tuổi trẻ
Là sức khoẻ tuổi già.
Là cái đà tiến thân,
Là cán cân công lý.
Tiền! Hết ý
- Bảng đỏ sao vàng,
Sang giàu bỏ đảng.
Chuyện Thăm lăng Bác được kể như sau :
Một thương gia ngoại quốc tới Hà Nội để lo việc kinh doanh.Thương gia đó mãi lo các thủ tục giấy tờ, cho đến lúc gần phải lên đường về nước, mà lúc ấy đã năm, sáu giờ chiều, các cơ quan đã đóng cửa, mới nhớ ra mình đã quên một điều khá quan trọng là phải đi thăm lăng Hồ chủ tịch. Ông bèn than thở cùng các nhân viên khách sạn, thì được họ mách nuớc : Đừng lo! Ông cứ dúi cho họ vài đô la là xong '. Ông khách ngoại quốc nghe lời bèn chỉnh tề y phục ra thăm lăng Bác. Đến nơi thì hết giờ du khách thăm viếng, cửa lăng đã đóng. Ông khách bèn gặp người gác cổng và nói :' Tôi rất kính yêu bác Hồ vĩ đại, nay vì quá bận việc nên tới trễ, xin đồng chí vui lòng cho tôi vào thăm bác.' Đồng chí gác cổng mặt sắt đen sì, xua đuổi khách :" Hết giờ làm việc, mai đến! " Ông khách sực nhớ lời khuyên của nhân viên khách sạn, bèn rút ra 5 đô la trao cho đồng chí bảo vệ. Đồng chí bảo vệ liền đổi thái độ hỏi :
"Ông muốn vào trong hay muốn tôi lôi bác ra đây cho ông xem ?"
(2)-Thối nát, bất công, cá lớn nuốt cá bé.
Một công ty xây dựng quốc doanh xây xong một tòa building 5 tầng cho nhân dân và cán bộ ở. Công ty xây xong, bộ xây dựng bèn cử cán bộ đến thanh tra để nghiệm thu. Sau khi xem xét mọi mặt như xi măng, thép, sơn, gỗ ...cán bộ thanh tra rất hài lòng. Nhưng có một điều làm thanh tra khó nghĩ, đó là mọi tầng lầu đều không có cầu tiêu dù là cầu tiêu công cọng. Lẽ nào kiến trúc sư hoặc nhà thầu lại bỏ quên một điều quan trọng như thế? Viên thanh tra bèn mở một cuộc họp yêu cầu công ty xây dựng trả lời.Viên cán bộ đại diện công ty xây dựng bèn giải thích : 'Tòa nhà có 5 tầng lầu. Tầng thứ nhất dành cho học sinh mẫu giáo. Các em mẫu giáo ngồi bô cho nên không cần cầu tiêu.Tầng thứ hai dành cho nông dân, mà nông dân thiếu phân canh tác phải ra đồng ngồi để lấy phân bón cây cho nên không cần cầu tiêu.Tầng thứ ba dành cho công nhân, mà công nhân đã sử dụng cầu tiêu xí nghiệp rồi. Tầng thứ tư dành cho cán bộ trung cấp, mà các đồng chí này thường ăn phân, ăn bẩn cho nên không cần cầu tiêu.Tầng thứ năm dành cho cán bộ cao cấp, mà những đồng chí này thường ị lên đầu đàn em, cho nên cũng không cần cầu tiêu.'
(3). Lãnh đạo cộng sản vô học:
Truyện Người bạn học của Tổng bí thư.
Một hôm, có một vị khách ăn mặc sang trọng, mắt đeo kính trắng gọng vàng, tay xách cặp da, đến văn phòng Tổng bí thư xin gặp mặt. Nhân viên văn phòng hỏi giấy chứng minh nhân dân, thư giới thiệu, rồi hỏi lý do xin gặp mặt Tổng bí thư.
Khách đáp khách là bạn thân của Tổng bí thư, lâu ngày không gặp, nay tới thăm cho thỏa lòng thương nhớ.
Nghe khách nói xong, viên sĩ quan An Ninh ở trong văn phòng liền hô an ninh bắt trói vị khách và tống giam ngay lập tức. Hôm sau, báo Công An, Nhân Dân và Quân Đội đều đưa tin rằng cán bộ An Ninh đảng ta đã bắt được một tên CIA xâm nhập văn phòng để ám sát Tổng bí thư kính yêu của đảng và Nhân dân ta. Các thông tín viên trong và ngoài nước đến phỏng vấn:
-Tại sao đồng chí biết ngay tên ấy là CIA?
-Bọn đế quốc ngu dốt, chẳng biết gì cả. Đồng chí Tổng bí thư ta có đi học ngày nào đâu mà có bạn học!
Về nghệ thuật, phần lớn trình bày theo lối văn chương bóng bảy với ý tưởng sâu xa, kín đáo. Trong tính trào phúng này còn có một chút dâm tính theo truyền thống truyện tiếu lâm Việt Nam. Tại miền Bắc, thời kỳ chiến tranh, cộng sản bắt dân nộp thuế, lại thu mua lúa gạo vẫn chưa đủ, họ còn ép dân phải bán tất cả khoai, sắn, bắp, đậu mà họ gọi là '' nông sản phụ''. Cán bộ đi khắp nơi tuyên truyền chính sách này. Họ vào cả ''xưởng đẻ'' vận động quần chúng. Bọn cán bộ nói ngọng, n và l lẫn lộn. Vì vậy, khi nghe cán bộ nói ba hoa về thu mua '' nông sản phụ'' một bà phát biểu:
-Đảng cần thu mua thì chị em phụ nữ chúng tôi xin tuân lệnh. Chỉ xin dùng kéo đừng nhổ tay đau lắm! ( Theo Truyện Cười Trà Lũ)
Truyện sau đây cũng vậy, dùng tiếu lâm, mang chút tính dục để cười cợt tệ nạn tôn sùng lãnh tụ:
Một cố vấn Liên Xô qua Việt Nam công tác, được đảng và chính phủ Việt Nam cho đi nghỉ mát Đồ Sơn để bồi dưỡng. Đảng cho một nữ cán bộ trợ lý thuộc bộ ngoại giao cùng đi để săn sóc và thông dịch cho đồng chí. Nữ đồng chí từng đi Liên Xô, Đức nên rất thông thạo đường lối ăn chơi Tây phương. Khi vào nhà khách, cả hai thoát y. Đồng chí cố vấn thấy hai bên đùi của nữ đồng chí bên này xâm hình bác Hồ và bên kia xâm hình cụ Mác. Vị cố vấn liền nịnh đầm một phát:
-Đồng chí có nhiều biểu hiện tốt, có lập trường giai cấp, lại có trình độ chính trị cao.
Thấy cố vấn Liên Xô chăm chú nhìn đùi mình, nữ cán bộ đáp:
- Em là đảng viên mà! Bất cứ ở đâu, và lúc nào, em cũng là một đảng viên gương mẫu, luôn theo gương Mác và Hồ Chủ tịch. Vậy đồng chí thích Mác hay bác Hồ?
Đồng chí cố vấn chỉ vào các hình và nói:
- Mác và bác Hồ là hai nhà cách mạng vĩ đại của cộng sản quốc tế, nhưng tôi thích hình đồng chí Fidel Castro ở giữa hơn!\
(4). Chế độ thối nát, phản dân hại nước, chủ nghĩa cộng sản thất bại:
-Một năm ba thước vải thô,
Lấy gì che kín cụ Hồ hỡi em!
-Nhà thơ thì làm kinh tế,
Quan thống chế thì đi nạo thai!
-Ngày xưa đại tướng công đồn,
Bây giờ đại tướng bịt l... chị em!
-Ngày xưa đại tướng cầm quân
Bây giờ đại tướng cầm quần chị em!
-Ngày xưa đại tướng cầm quân,
Bây giờ đại tướng cầm chân đàn bà!
-Lenin ông ở nước Nga,
Cớ sao ông đến vườn hoa xứ này? Ông trợn mắt, ông chỉ tay.
Sự nghiệp quá độ chúng mày còn lâu
-Ông Lê Nin ở nước Nga
Cớ sao lại đứng vườn hoa nước này
Ông vênh mặt, ông chỉ tay:
Tự do hạnh phúc chúng mày còn xa
Kìa xem gương của nước Nga
Bảy mươi năm lẻ có ra đếch gì!
IV. TÍNH BI ĐÁT
Văn chương truyền khẩu nói lên thực trạng bi đát của nhân dân Việt Nam bi tù đày, chém giết và đầy vào chiến tranh phục vụ đế quốc Trung Cộng.
Trên đường Trường Sơn
Một anh chàng Nam Bộ nhỏ con, ốm yếu nhưng lại muốn chứng tỏ mình mạnh khoẻ, hăng hái, và tiên tiến, xứng đáng là đoàn viên Thanh Niên Cộng Sản. Anh xung phong đi B ( vào Nam), và tình nguyện vác một cây trung liên rất nặng, quá sức của anh. Đi được một tuần, anh đuối sức, cứ té lên, té xuống hoài! Vạn bất đắc dĩ, anh trình bày cùng cấp chỉ huy, xin giao cây trung liên cho người khác. Anh trung đội trưởng hỏi khắp trung đội ai có thể vác cây trung liên, nhưng mọi người đều im lặng vì ai phải mang nặng trong khi bị bệnh sốt rét và đau chân. Anh trung đội trưởng đành bảo anh chàng vác trung liên:
-Tại sao đồng chí không liệu sức, vác nặng làm chi cho đến nỗi kiệt sức? Bây giờ lại gây khó khăn cho người khác! Anh em ai cũng mệt và bị bệnh. Thôi, đồng chí cố gắng hoàn thành nhiệm vụ đã hứa với đảng.
Hôm đó mưa như trút, trời tối đen, người đi sau không thấy người đi trước. Đột nhiên, cả đoàn nghe một tiếng bịch rất lớn và một tiếng kêu la thảm thiết. Cả đoàn dừng lại, soi đèn pin thì thấy anh chàng vác trung liên đã quỵ xuống, khẩu trung liên đè lên người, mặt nhăn nhó ra vẻ đau đớn lắm. Hai mắt nhắm nghiền, nước mắt ứa ra. Miệng anh ta thều thào:
Má ơi! Con đã về!
Nói xong, anh buông tay, đầu vẹo một bên và tắt thở! ( Theo Xuân Vũ)
Trăm tội chỉ vì chiếc đồng hồ
Một đám dân chúng và cán bộ, công nhân viên bị giam trong cùng một phòng. Họ hỏi nhau:
- Anh bị tội gì mà vào đây? -Chỉ vì cái đồng hồ.
- Tại sao?
- Tôi lười vặn đồng hồ lên một giờ, cứ xài giờ cũ, nên bị kết tội là chưa dứt khoát với chế độ cũ.
- Còn anh?
Anh thứ hai đáp:
- Cũng tại cái đồng hồ. Nhà tôi hết gạo, tôi phải đi giật đồng hồ, bị bắt quả tang.
Anh thứ ba kể:
- Tôi bị giam cũng vì chíếc đồng hồ. Tôi dùng đồng hồ Liên Xô nên đi trễ mười phút, bị thủ trường cơ quan kết tội ăn cắp giờ nhà nước, phá hoại sản xuất.
Anh thứ tư than:
- Tôi dùng đồng hồ Trung Quốc, chạy nhanh mười phút, nên đến cơ quan sớm mười phút, bị kết tội làm gián điệp và toan tính ăn cắp tài liệu mật và tài sản xã hội chủ nghĩa,
Anh thứ năm thở dài:
-Tôi thì tại dùng đồng hồ Thụy Sĩ tốt quá, nên bị kết tội theo tư bản chủ nghĩa.
Anh thứ sáu thong thả trình bày:
-Tôi làm thợ sửa đồng hồ. Trước cửa tôi vẽ chiếc đồng hồ và ghi hàng chữ:
''Tại đây chuyên sửa đồng hồ hư hỏng''.
Vì bảng nhỏ, tôi viết ''ĐỒNG HỒ HƯ HỎNG'' xuống hàng dưới và viết chữ hoa in. Công an kết tội tôi phỉ báng chủ tịch Hồ Chí Minh, thủ tướng Phạm văn Đồng và chống đảng nên nhốt tôi đã tám năm rồi!
Sinh viên đại học Văn Khoa Sài gòn là Nguyễn Văn Hồng, đẹp trai, thích thể thao, yêu điện ảnh, nghe lời dụ dỗ của Việt cộng bỏ nhà, bỏ học, bỏ người yêu vào mật khu làm anh hùng. Trước đó, anh được cộng sản tuyên truyền rằng trong khu có đường sá xe cộ như Sài Gòn, có thư viện và các trường đại học như trường Văn khoa, Khoa học, Nghệ Thuật, và Điện ảnh. Trước khi vào khu, anh đã đưa ý nguyện là theo phục vụ cách mạng bằng ngành điện ảnh . Họ hứa hẹn đảng sẽ cho anh toại nguyện. Hồng nghe nói mà sướng mê tơi! Theo cộng sản chẳng bao lâu anh sẽ thành tài tử điện ảnh lừng danh quốc tế. Vào khu, không thấy đường sá, xe cộ, trường lớp mà chỉ thấy rừng xanh, anh lấy làm thất vọng. Người ta đưa anh vào trại tân binh. Anh chống đối vì anh đã nói là anh theo ngành điện ảnh chứ không muốn cầm súng! Đảng đưa anh lên gặp chính ủy, và chính ủy giải thích cho anh là làm việc gì cũng phải nhắm phục vụ cách mạng và lợi ích của đảng.
''Đâu cần thì thanh niên có,
Đâu khó thì có thanh niên.'' Thanh niên phải từ bỏ mọi sở thích cá nhân, vị kỷ, thấp hèn, và phải đặt tổ quốc lên trên hết. Song anh vẫn không tuân theo lệnh. Họ bèn đưa anh vào một đơn vị tân binh, nhưng suốt ngày tháng, họ thực hiện việc rút phép thông công, nghĩa là không ai nói chuyện với anh, anh hỏi gì, nói gì thì người ta làm thinh hoặc bỏ đi chỗ khác. Cuối cùng, anh chịu thua, xin ra trận. Nhưng trong chế độ cộng sản, sinh viên, trí thức mới vào lính là phải mang cấp bậc binh nhì. Trong đơn vị, nghe bọn cán bộ i tờ giảng giải, anh bịt miệng cười. Anh bị đem ra phê bình. Anh nghĩ rằng anh giỏi toán, xin đi pháo binh. Thấy anh xin đi pháo binh, họ chấp thuận, cho anh theo bộ binh vác pháo. Công việc nặng nề, anh chịu nhiều cay đắng vì biết mình bị cộng sản lường gạt và hành hạ. Đã thế, bọn cộng sản lại khuyên anh viết thư khuyên anh em vào khu chiến đãu. Anh đã lầm lạc và đau khổ, lẽ nào anh lại đem anh em vào địa ngục. Anh không viết thư cho nên bị phê bình và trừng phạt. Anh uất hận và chết trong một trận đánh ( Theo Kim Nhật, Về R).
Nhiều truyện mang đủ tính chất bốn tính chất trên như truyện sau đây:
Anh Thòong làm việc tại một HTX thuộc tỉnh Quảng Châu ( Trung Quốc), chuyên làm ruộng và chăn nuôi rất tích cực. Anh được vào đoàn viên thanh niên cộng sản, và được chi bộ cho phép kết hôn với một thiếu nữ khá xinh xắn. Đêm động phòng hoa chúc, anh tắt đèn và leo lên giường. Nhưng cô dâu ngăn lại, bắt anh quỳ xuống nâng quyển sách Đỏ của Mao chủ tịch đọc một trang. Chủ tịch dạy:
''Người cộng sản phải đặt nhiệm vụ tổ quốc lên trên hết và gạt mọi tình cảm cá nhân''.
Hai người vâng lời Mao chủ tịch, lên giường nằm ngủ, không nghĩ đến việc ân ái riêng tư. Đêm hôm sau, hai người cũng thử thời vận, cần sách Đỏ lâm râm khấn vái, bốc trúng trang:
Trong thời kỳ xây dựng XHCN, thanh niên nam nữ phải thực hiện chính sách ba khoan:
Lỡ quen nhau thì khoan yêu
Lỡ yêu nhau thì khoan cưới
Lỡ cưới thì khoan có con.
Các đồng chí phải nắm chặt hai điểm trên và nhấn mạnh điểm dưới.
Chị vợ cũng là một đoàn viên, rất tin tưởng Mao chủ tịch. Chị bảo:
-Mao chủ tịch đưa ra chính sách ba khoan, thôi hôm nay chúng ta khoan động phòng.
Anh chồng không chịu, bảo rằng :
-Mao chủ tịch nói phải nắm chặt hai điểm trên và nhấn mạnh điểm dưới, nghĩa là chủ tịch bảo tôi phải động phòng và làm theo kiểu nhân dân nước Mỹ tiến bộ!
Chị vợ cãi lại, cương quyết thực hiện ba khoan, anh chồng đành chịu thua. Đêm sau nữa, hai anh chị cũng mở sách Đỏ, và chủ tịch dạy:
Chúng ta phải tiến nhanh tiến mạnh , tạo ra những bước nhảy vọt lên XHCN.
Vâng lời Mao chủ tịch, hai người vội vàng tiến nhanh tiến mạnh, và thực hiện bước nhảy vọt. Nằm một hồi, người chồng lại mở sách Đỏ, và thấy Mao dạy:
Không được ngưnghỉ, Hãy liên tiếp tấn công như vũ bão để đạt lấy những thắng lợi cuối cùng..
Anh đọc to lời chủ tịch cho vợ nghe và cả hai bèn liên tiếp chiến đãu, giáng cho đối phương những đòn mạnh bạo chưa từng thấy. Nhưng lần cuối sức mõn, anh chẳng làm gì được. Anh lại mở sách Đỏ, thấy hiện ra lời Mao dạy:
Trong cuộc chiến đấu, dù là chiến đấu với địch quân hay giải quyết mâu thuẫn nội bộ, người đảng viên phải cương quyết cắt bỏ không thương tiếc những gì mềm yếu, và thoái hóa của bản thân mình.
Người chồng vội vàng đi ra nhà sau, xuống bếp lấy dao phay cắt ngay của quý quăng ra ao sau nhà!
Nói chung, văn chương truyền khẩu hiện đại rất phong phú, nhiều màu sắc, nhưng chủ yếu là chống cộng với nụ cười trào phúng.