Việc ông Tập Cận Bình sang Việt Nam có lẽ sẽ không ầm ĩ như thế nếu không có vụ khu trục hạm Lassen tuần tra trong vùng biển mà Trung Quốc bồi đắp trái phép. Tập sang Việt Nam trước đại hội Đảng cũng là điều lập lại như từ hơn hai mươi năm qua Bắc Kinh vẫn làm: xác định vị thế chiến lược của Trung Quốc ngay tại tâm điểm quyền lực: Ban chấp hành Trung ương đảng Việt Nam.
Nhưng lần này thì khác, ông sang Hà Nội để mang thông điệp tới cho Việt Nam: Trường Sa, Hoàng Sa là của Trung Quốc. Và thông điệp ấy sẽ được đọc trước Quốc hội Việt Nam như báo chí Việt Nam loan tin hai ngày trước đây.
Ông Tập Cận Bình đã từng tuyên bố điều này trước mặt Tổng thống Barak Obama của Mỹ rằng Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc từ thời cổ đại. Ông Obama ngẩn ngơ vì nó đâu phải chuyện của nước Mỹ mà phải biết ngày nào Trung Quốc nó chiếm Biển Đông? Rất lịch sự, Tổng thống Mỹ nhắc nhở ông Tập: Hoa Kỳ không can thiệp vào các tranh chấp và không đứng về nước nào, Hoa Kỳ quan tâm vấn đề tự do hàng hải và đường hàng không (vì vậy Bắc Kinh không nên tự cho mình là có quyền khống chế toàn bộ khu vực).
Nhưng khác với Mỹ, Việt Nam biết rõ ông Tập nói láo. Hà Nội luôn tuyên bố Việt Nam có đầy đủ minh chứng về chủ quyền của mình tại Hoàng Sa, Trường Sa. Không những có giấy tờ mà còn có máu nữa. Những giọt máu đổ ra đỏ thẫm cả một vùng biển rộng lớn. Đổ ra từ trước Hội nghị Thành Đô đã đành, bây giờ vẫn tiếp tục đổ. Không phải máu lính, máu bộ đội mà là máu ngư dân, những tấm lưng trần vấy máu Hoàng Sa vẫn sờ sờ ra đó và Bộ Ngoại giao đâu cần phải tìm kiếm gì xa xôi.
Hà Nội cho mình là khôn ngoan hơn khi công khai mời người cướp phá đất nước Việt Nam ra trước Quốc Hội để trả lời những điều mà Bắc Kinh đã làm trong bao nhiêu năm qua trên chủ quyền “không thể tranh cãi” của Việt Nam. Hà Nội tin rằng mối tình hữu nghị giữa hai Đảng sẽ khiến Tập Cận Bình nói tốt hơn ở những nơi khác. Trước gần 500 cái đầu “sành sõi” của các đại biểu không lẽ họ Tập dám vọng động hay sao?
Giấc mơ này sắp thành hiện thực vì chỉ còn vài ngày nữa thôi thì Chủ tịch Tập Cận Bình sẽ cho nhân dân Việt Nam thấy sự thông minh, vĩ đại của Đảng ta. Lúc đó từ trên chiếc bục của Quốc Hội, Tập Cận Bình sẽ có bài phát biểu đậm tình hai nước anh em vả thế lực phản động sẽ không còn cơ hội chống phá nữa.
Trên lý thuyết thì như vậy nhưng thực tế e rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã tính sai một nước cờ, từ một nước cờ thôi, cả bàn cờ có thể sẽ bị xóa trắng.
Nếu các nhà hoạch định chính sách của Đảng kỳ vọng vào lịch sự tối thiểu của một nguyên thủ quốc gia thì có thể Việt Nam sẽ trả giá rất đắt. Tập Cận Bình không có thói quen nhã nhặn và lịch thiệp. Mỗi khi tới đâu ông ta và đoàn tùy tùng mang theo hàng bó tiền để lấp miệng những tập đoàn cá mập của nước ấy. Chính phủ nước nào cũng cần tiền và vì vậy chính sách “đồng bạc đâm toạc tờ giấy” của Trung Quốc luôn hiệu quả ở khắp nơi, ngoại trừ nước Mỹ.
Không phải vì giàu mà Mỹ không thể mua chuộc được mà bởi Mỹ có một quốc hội dân chủ thật sự nên không ai có thể khống chế ý muốn của người dân.
Tập Cận Bình sang Mỹ và biết người Mỹ đối phó với ông ta như thế nào, trong khi đó không cần sang Việt Nam ông ta cũng biết người anh em của Bắc Kinh cần gì và do đó không cần phải đối phó.
Cái mà Tập cần đối phó là nhân dân Việt Nam, những kẻ cứng đầu truyền kiếp.
Nhân dân được Quốc Hội đại diện và lần này ông Tập sẽ có cơ hội cho nhân dân biết một cách chính thức quan điểm và chủ trương của nước ông, cho dù trong lời lẽ đôi khi có làm cho người nghe phật ý.
Ông nói gì? Không cần thông minh mới suy đoán được, cả nước Việt Nam sẽ được nghe nội dung như sau:
“Hai nước chúng ta từng có nhiều thời kỳ nồng ấm và Trung Quốc đã làm hết sức chứng tỏ sự quan tâm đối với cách mạng Việt Nam. Những cuộc cách mạng ấy đều có sự đóng góp của Trung Quốc và mặc dù từng có thời kỳ va chạm nhưng Trung Quốc chủ trương sống chung hòa bình với Việt Nam như tấm gương Hồ Chủ tịch từng theo đuổi.
Chúng ta có những va chạm về chủ quyền thì đó cũng là điều bình thường, vấn đề là phải giải quyết như thế nào thì hai đảng anh em vẫn tiếp tục thương thảo. Ngoại trừ những nơi mà Trung Quốc đã có chủ quyền từ thời xa xưa, còn lại những nơi đang có tranh chấp chúng ta sẽ nói chuyện với nhau trong tinh thần tương kính. Chúng ta sẽ có những cuộc đàm phán song phương bình đẳng và hữu nghị. Trung Quốc luôn luôn trợ giúp cho Việt Nam từ thời chiến tranh và bây giờ cũng không ngoại lệ, sự phát triển kinh tế của Việt Nam là ưu tư hàng đầu của Đảng cộng sản Trung Quốc.”
Sau bài phát biểu này thì Quốc hội Việt Nam sẽ làm gì?
Vỗ tay trời ạ!
Ông Tập nói những gì Trung Quốc từng nói hàng chục năm qua mà có thấy ai chống đối đâu? Ngay cả Quốc hội, nơi được xem là diễn đàn cao nhất của người dân cũng nói theo lời của Đảng, mà Đảng Cộng sản Việt Nam là con ngựa mang cái hàm thiết chỉ chạy theo sợi dây do Đảng Cộng sản Trung Quốc điều khiển. Con ngựa ấy thuần thục và dễ mến đến độ thằng nài cũng khinh bỉ vì không dám một chút bất kham cho nài có cơ hội trổ tài huấn luyện.
Người dân chỉ còn hy vọng bài bản “cúp điện” sẽ được mang ra sử dụng như công an từng sử dụng trong đêm sinh nhật của No U tại Hà Nội.
Nhưng cũng không chắc vì trợ lý ông Tập nào phải tay mơ, một cái loa cầm tay sẽ được mang theo để cho ông nói hết những điều muốn nói.
Chỉ tội nghiệp cho vài ông đại biểu bất kham trong cái nhà lồng ấy là bực tức vì không hỏi được câu mình muốn hỏi. Các ông cũng tự biết sẽ không có cơ hội nói năng gì đâu khi ông chủ tịch ngồi lom lom với cây búa trên tay cùng với cái nút bấm re re mỗi lần “cấm nói”.
Mà hỏi cái gì khi cả nước đã có sẵn câu trả lời rồi: Chúng đang diễn và diễn rất tốt bởi người dân là một đám khán giả được trang bị thứ kiến thức của lá cải và lá gan sợ hãi của loài sứa.
Cám ơn ông Tập đã cho nhân dân chúng tôi bừng tỉnh trước chính sách hai mang “đưa người cửa trước, rước người của sau”của Đảng. Chỉ thiệt hại cho nhân dân khi những đám người được đưa được rước ấy ra về thì cả cái khố nhỏ xíu của chúng tôi cũng bay đâu mất nói chi tới biển đảo ngoài kia?
Chế Mân mang hai châu Ô và Lý dâng cho nhà Trần để được lấy Huyền Trân Công chúa, ông được gì? Cái mà ông được là gái đẹp (nhưng chưa chắc gái đẹp đã xem ông là trai khôn!) và đất nước còn lại nhỏ hẹp, cuối cùng là một quốc gia bị diệt vong. Chuyện lịch sử, dài dòng, xin miễn bàn đúng sai. Nhưng ở đây, vấn đề cái giá phải trả là vấn đề cần bàn. Việt Nam hiện tại, nói theo cách gì thì đảng cầm quyền cũng đã dâng cho Trung Cộng cả Hoàng Sa và Trường Sa. Cái giá của việc này sẽ đến đâu?
Xét về địa hình thì có khác, Chế Mân dâng hai châu Ô, Lý là đất liền, còn Hoàng Sa, Trường Sa là hải đảo, biển khơi. Nhưng đó là chuyện địa hình. Trong thực tế, hiện tại, biển đảo lại quan trọng hơn đất liền rất nhiều, thời đại kĩ thuật đã tiến bộ đến độ tối tân thì đất liền không còn là tài sản quí nhất mà người ta tiến ra biển, chủ quyền trên biển thể hiện sức mạnh của một quốc gia (trừ những quốc gia không có bờ biển). Việc dâng Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Cộng còn nguy hiểm hơn cả Chế Mân dâng hai châu Ô Lý.
Vì sao lại nói là nguy hiểm hơn? Và vì sao lại nói rằng nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam đã dâng Hoàng Sa và Trường Sa?
Ở câu hỏi thứ nhất, thời xưa, kĩ thuật còn chưa phát triển, vấn đề khai thác tài nguyên biển và quản lý cửa ngõ quốc gia trên biển chưa phải là vấn đề quan trọng. Ranh giới giữa các quốc gia là những con sông. Chế Mân đã dâng hai châu, ranh giới nằm từ phía Nam sông Gianh, Quảng Bình vào đến phía Bắc sông Câu Lâu, Quảng Nam. Và biên giới giữa quân đội nhà Trần với kinh đô Shimhapura Trà Kiệu chỉ cách nhau một con sông Thu Bồn. Với địa hình một bên là đầu não quốc gia, bên kia là những đồn trú bí mật, thật khó để lường thử bao giờ thì các đồn trú đối phương nổi lửa xua quân chiếm kinh đô.
Và bài học bằng máu này đã đổi cả tự do, độc lập và chủ quyền của một quốc gia hùng cường như Chăm Pa thuở bấy giờ để đi đến diệt vong. Tên của vương quốc Chăm Pa bị mất dấu trên bản đồ thế giới. Cái giá mà Chế Mân phải trả chính là tiếng dơ muôn thuở, tội đồ đã hiến đất của tổ tổng vì một người đàn bà và ông đã cẩu thả khi làm việc này bởi vì không ai được phép mang giang sơn đi đổi bất kì thứ gì. Chính chế độ phong kiến trung ương tập quyền đã cho Chế Mân cái quyền vớ vẩn đó và kết quả là dân tộc Chăm phải trả giá cho việc này bằng máu chảy đầu rơi, tuyệt vong.
Trong khi đó, hiện tại, khi mà mọi vấn đề trên đất liền không phải là chuyện cần bàn cãi theo kiểu sau một lần mang quân đi chinh phạt thì thành của mình nữa, chuyện này rất khó, bởi hệ thống luật quốc tế hiện tại cũng như một số liên kết quân sự không cho phép điều đó. Vấn đề biển đảo, lãnh hải cũng chẳng có gì khác đất liền, người ta căn cứ trên các dữ kiện lịch sử và các công ước quốc tế về biển để hành xử, xác định lãnh hải, lãnh thổ.
Các dữ kiện lịch sử của Việt Nam đang có đều chứng minh Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Tòa án quốc tế cũng lên tiếng tuyên bố nếu Việt Nam khởi kiện vụ Trường Sa, Hoàng Sa thì họ sẽ thụ lý hồ sơ. Nhìn chung, mọi vấn đề về tranh chấp biển Đông đều có vẻ thuận tiện cho Việt Nam. Đặc biệt, người dân Việt Nam mong mỏi lấy lại Hoàng Sa, Trường Sa, nơi mà ông cha đã thấm máu để có được. Nhưng nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam đã làm gì? Họ tuyên bố đây là vấn đề cần thương thuyết đôi bên nhằm ổn định hòa bình!
Thương thuyết gì? Hoàn toàn không có gì để thương thuyết mà vấn đề là cần phải đấu tranh, bảo vệ Trường Sa, Hoàng Sa, phải đưa vụ việc ra tòa án quốc tế. Bởi không có bất kì lý do nào để thương thuyết với kẻ đã gây hấn, đã bắn giết chiến sĩ giữ đảo, đã cướp đảo, đã hành hạ, giết hại ngư dân Việt Nam trên mọi nghĩa và chưa bao giờ tỏ ra nhượng bộ, chưa bao giờ thấy họ sai. Vậy thì thương thuyết kiểu gì?
Thuơng thuyết là để hàng hóa Trung Quốc tràn ngập đất nước? Thương thuyết là để người Trung Quốc thỏa sức khai thác tài nguyên Việt Nam? Thương thuyết là chấp nhận để các tiểu khu, đặc khu của Trung Quốc ngày càng dày đặc trên đất nước Việt Nam? Thương thuyết là nhận viên trợ, nhận vay để rồi Trung Quốc đưa nhà thầu sang lừa bịp giống như đường Cát Linh – Hà Nội? Thương thuyết gì mà không hề nghe nhắc đến Trường Sa, Hoàng Sa trong cuộc gặp mặt với Tập Cận Bình, chỉ nghe nói toàn chuyện Trung Quốc hứa viện trợ cho Việt Nam khoản tiền tương đương một tỉ nhân dân tệ để “thiết chặt tình anh em…”?
Mọi vấn đề căng thẳng biển Đông bị dẹp ngang một bên để nói chuyện vay tiền, nói chuyện viện trợ. Thế giới lên tiếng ủng hộ, Mỹ đưa USS Lassen sang khu vực đảo nhân tạo của Trung Quốc để tuần tra thì tuyên bố hãy để cho mọi chuyện được thu xếp trong hòa bình, ổn định… Như vậy thì quá rõ âm mưu thỏa hiệp, bán đứng lãnh thổ, lãnh hải quốc gia cho giặc và rước giặc vào ngồi ghế trên rồi chứ còn gì nữa?
Đó là chưa muốn nói đến chuyện hàng loạt đài phát thanh, truyền hình địa phương đã đọc câu chào theo kiểu Trung Quốc với địa bàn đứng trước, đơn vị hành chính đứng sau. Chuyện này chỉ mới xảy ra đúng đêm ngày 4 tháng 11 chứ trước đây luôn đọc đơn vị hành chính trước, tên địa phương sau theo kiểu Việt Nam. Ví dụ như “Đây là đài phát thanh truyền hình A, B, C thị xã” thay vì “Đây là đài phát thanh truyền hình thị xã A., B, C…” như trước đây. Và đài VTV, thay vì đọc “Chủ tịch nước, Tổng bí thư đảng Cộng sản Trung Quốc đã nói…” thì chỉ đọc “Chủ tịch nước, Tổng bí thư đã nói…” khi truyền lại những lời phát biểu của Tập Cận Bình. Người nghe cứ ngỡ Tập Cận Bình là chủ tịch nước, tổng bí thư của Việt Nam chứ không phải của Trung Quốc.
Dường như đã có một sự thông đồng từ trên xuống dưới và đã có sự nhất quán giữa cơ quan trung ương và cơ quan địa phương trong vấn đề mặc nhiên thừa nhận Trung Cộng là đàn anh, là kẻ bề trên và chuyện họ Tập sang thăm Việt Nam là một sự kiện chính trị quan trọng nhằm mang lại một cơ hội nào đó cho hệ thống đảng Cộng sản Việt Nam.
Chuyện này cũng dễ hiểu thôi. Bởi hơn ai hết, Tập Cận Bình và bộ sậu trung ương đảng Cộng sản Việt Nam thừa hiểu là họ đã quá lạc hậu, những thứ chủ trương, đường lối của họ chỉ nhân rộng tham nhũng, nhân rộng dốt nát và bạo lực, nhân rộng mọi tệ nạn và nghèo đói, nhân rộng tài sản của những đảng viên gộc và nhân rộng cả những cuộc thanh trừng nội bộ. Chính vì vậy, muốn tồn tại, đảng Cộng sản Việt Nam phải chấp nhận sáp nhập trở thành một bộ phận của đảng Cộng sản Trung Quốc, hay nói cách khác, muốn giữ được độc tài, chỉ còn cách duy nhất là quì gối vong nô cho Trung Cộng và để Việt Nam thành một tỉnh nhỏ của Trung Quốc. Ngược lại, Cộng sản Trung Quốc muốn tồn tại thì phải bằng mọi giá biến Việt nam thành một tỉnh nằm tiền đồn của Cộng sản Trung Quốc.
Rõ ràng họ Tập sang Việt Nam với hai mục đích rất cụ thể: Nhắc nợ để làm cho đối phương mất hết nhuệ khí mà không dám nhắc chuyện biển Đông nhằm giảm căng thằng trong quá trình xây dựng các đảo nhân tạo, khi các đảo nhân tạo xây xong, có đầy đủ lực lượng trên đó thì có nhắc cũng bằng không; Tiếp tục cho đối phương ăn bả bằng cách viện trợ để đứng bề trên điều khiển hệ thống chính trị của đối phương, đặt để một số chức danh trong bộ sậu trung ương đảng nhằm cắm tình báo vào đó để dễ bề ra tay. Vì hiện tại là thời điểm nhạy cảm để đi đến đại hội 12 của đảng Cộng sản Việt Nam, họ Tập đã chọn đúng điểm rơi. Và thăm Việt Nam cũng đồng nghĩa với kế hoạch hoãn binh trên biển Đông để khi hệ thống quân sự đủ mạnh, đủ đe dọa từ biển Đông, Việt Nam nghiễm nhiên thành một tỉnh của Trung Quốc nếu Trung Quốc dàn cảnh, nã vài phát pháo vào bờ.
Mặc nhiên để Hoàng Sa và Trường Sa rơi vào tay Trung Quốc là một bước khởi sự cho chiêu bài sáp nhập Việt Nam vào Trung Quốc. Bởi hiện tại, ngư dân trên biển Đông muốn đánh bắt phải mua phiếu thông hành của Trung Cộng, và tiếng kêu trực tiếp từ biển Đông chính là tiếng kêu của ngư dân. Với chiêu bài đang sử dụng, với thứ lý luận khi Việt Nam thành một tỉnh của Trung Quốc sẽ hưởng được những đặc ân của chính phủ Trung Quốc từ kinh tế đến chính trị, văn hóa… Được du lịch sang Trung Quốc miễn thị thực, được đánh bắt mà không cần phiếu thông hành, được nhận phúc lợi xã hội từ chính phủ Trung Quốc… Bởi đã sống trong hỗn độn quá lâu, người dân sẽ tin vào thứ lý luận này để được sống yên thân.
Và người dân mãi mãi không bao giờ hiểu được rằng chẳng bao lâu sau cái sự yên thân giả dối đó sẽ là những cuộc diệt chủng âm thầm, giết dần giết mòn người Việt, nước Việt sẽ mất dấu trên bản đồ thế giới như Chăm Pa đã từng. Thật là khó lường được thủ đoạn của những người Cộng sản! Và đó là cái giá của bán nước, cái giá của diệt vong và tuyệt chủng!
Việt Nam : độc lập gắn liền với dân chủ hóa
Fri, 11/06/2015 - 16:55 — nguyenthituhuy
Phân tích chính trị Việt Nam hiện thời là một việc rất khó, khó ngay cả đối với những người có kiến thức về chính trị. Bởi vì, sân khấu chính trị Việt Nam diễn ra ở hai lớp, khi tấm màn nhung đỏ kéo lên và các hoạt cảnh diễn ra cho công chúng thì đó là màn kịch tương ứng với cái mà Hannah Arendt gọi là «façade » ( mặt tiền), đó chỉ là thứ để trình diễn mà thôi, để che dấu những thứ khác ; vở kịch thực sự diễn ra sau tấm màn sắt đen và dày, mà ngày nay có khi được ngôn ngữ hóa bằng cụm từ « bí mật quốc gia ».
Mặc dù như vậy, đôi khi ta cũng phải cố xuyên qua phông màn, ánh sáng, trang phục, phấn son, đạo cụ, lời thoại… những thứ được dùng làm « mặt tiền » trên sân khấu để cố hiểu ý nghĩa thực sự của vở kịch chính trị.
Hai ngày vừa qua sân khấu Việt Nam tưng bừng ngập tràn cờ hoa trong màn tiếp đón trọng thể Tập Cận Bình. Sân khấu Quốc Hội được bao bọc trong tình hữu nghị Việt-Trung thắm thiết. Và cùng lúc trên đường phố máu của người dân Việt phải đổ ra như là bằng chứng không thể thiếu cho tình hữu nghị ấy của hai đảng, về phía Việt Nam. Còn về phía Trung Quốc, ông Chủ tịch nước Trung Hoa mang theo sau ông ta oan hồn của bao ngư dân Việt bị ông ta ra lệnh giết chết, và những hòn đảo, những tài nguyên, khoáng sản mà Trung Hoa đã lấy từ Việt Nam, như là bằng chứng cho tình hữu nghị Việt-Trung.
Đến đây xin chấm dứt ngôn ngữ văn chương để chuyển sang phân tích một yếu tố chính trị được bày ra ở mặt tiền sân khấu.
10.Trong thời gian chuyến thăm, hai bên đã ký các văn kiện hợp tác: “Kế hoạch hợp tác đào tạo cán bộ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc giai đoạn 2016-2020”.
Trong một thể chế dân chủ, việc hợp tác đào tạo cán bộ giữa hai đảng có lẽ không phải là một vấn đề quá quan trọng. Trong một đất nước có nhiều chính đảng cùng hoạt động và người dân có quyền chọn lãnh đạo của mình, thì việc một đảng này hay đảng kia cử người đi học ở đâu, điều đó không mang tính quyết định.
Tuy nhiên, trong một thể chế độc tài như thể chế Việt Nam hiện nay, khi đảng cộng sản hiến định quyền lãnh đạo tuyệt đối và vĩnh viễn của mình trong Hiến pháp, khi nhân sự lãnh đạo hoàn toàn do đảng quyết định, thì việc ký kết văn kiện trên đây có thể bao hàm những nguy cơ to lớn và thậm chí có thể ảnh hưởng tới sự tồn vong của cả dân tộc.
Tại sao có thể nói như vậy ?
Bởi vì lô-gic là : cán bộ đảng của Việt Nam do Trung Quốc đào tạo, và lãnh đạo của Việt Nam là do đảng chọn, và phải là cán bộ đảng thì mới được chọn. Như vậy, bộ máy lãnh đạo Việt Nam có thể đi trọn vào quỹ đạo Trung Quốc.
Nếu những cán bộ đảng được đào tạo ở Trung Quốc chịu ơn huệ của Trung Quốc dẫn tới hậu quả là chịu sự chi phối của Trung Quốc, thì có thể sẽ xảy ra việc : Trung Quốc sẽ điều khiển Việt Nam thông qua bộ máy lãnh đạo.
Dĩ nhiên, tất cả những phân tích ở đây đều mang tính giả định. Nhưng những giả định này hoàn toàn cũng có thể xảy ra trên thực tế.
Người Trung Quốc, với tầm nhìn chiến lược của họ, từ lâu đã hiểu rằng, nhân sự quyết định tất cả. Ký kết về kế hoạch đào tạo cán bộ đảng trên đây cho thấy người Trung Quốc biết rõ muốn kiểm soát Việt Nam thì đi bằng con đường nhân sự là nhanh nhất và hiệu quả nhất, chắc chắn nhất và họ đã đi thẳng trên con đường đó.
Người Trung Quốc cũng hiểu rằng một kế hoạch kiểm soát thông qua hệ thống nhân sự lãnh đạo như vậy chỉ có thể thực hiện khi Việt Nam bị duy trì trong thế chế chính trị độc đảng hiện nay. Một thể chế chính trị dân chủ và đa đảng, trong đó người dân có quyền chọn lãnh đạo, không cho phép Trung Quốc thực hiện kế sách này. Vì thế, có thể thấy mọi nỗ lực của Trung Quốc đều nhằm vào việc duy trì thể chế hiện tại của Việt Nam.
Vấn đề của chúng ta là : bao nhiêu người Việt Nam hiểu được điều đó ?
Đa số người dân Việt Nam hiện nay chưa hiểu được điều này, và không thể trách họ, khi toàn bộ nền truyền thông với tất cả mọi phương tiện đều chỉ thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền toàn trị. Chúng ta không thể trách nhân dân Việt Nam.
Rất nhiều người thuộc tầng lớp có học, thậm chí được đào tạo ở nước ngoài, dù có tinh thần dân tộc, có trách nhiệm xã hội, có lương tri, nhưng cũng không hiểu được điều này, cũng không nhìn thấy điều mà người Trung Quốc đã nhìn thấy từ lâu và đang thực hiện để đưa Việt Nam vào quỹ đạo của họ. Có thể lấy một dẫn chứng là nhóm « Cùng viết hiến pháp », khi nhóm này đưa ra đề nghị giữ nguyên điều 4 của Hiến Pháp sửa đổi.
Và tầm quan trọng của nhân sự, điều mà người Trung Quốc hiểu rõ, thì ngay cả những người đang đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam hiện nay dường như cũng chưa hiểu rõ. Những nhược điểm của giới dân chủ hiện nay : tình trạng manh mún, thiếu tổ chức, thiếu hiệu quả, chưa có tác động rộng rãi trong dân chúng… tất cả đều có cùng một nguyên nhân : những người đấu tranh chưa hiểu được tầm quan trọng của nhân sự. Vì thế các nhóm và các tổ chức không hướng tới việc chuẩn bị nhân sự. Nghĩa là phải đào tạo những người có khả năng hoạt động dân chủ một cách chuyên nghiệp, hiểu rõ công việc của mình, hiểu rõ thế nào là dân chủ.
Việt Nam muốn dân chủ hóa cần có nhiều người được đào tạo ở các lĩnh vực : khoa học chính trị, luật, hành chính công, quản trị… tất nhiên được đào tạo trong một nền giáo dục dân chủ, và được đào tạo với ý thức là để phục vụ cho quá trình dân chủ hóa ở Việt Nam.
Việt Nam, nếu không dân chủ hóa, thì việc lệ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc có thể sẽ xảy ra ở một tương lai không xa.
Cuộc viếng thăm 2 ngày của ngài Chủ tịch Trung Quốc đang tạo nên một bối cảnh khá lạ lùng ở Việt Nam. Bên ngoài những cái bắt tay và nụ cười ngoại giao giả tạo của các nhà lãnh đạo hai bên, là hừng hực chuyện biển đảo của người Việt Nam đang mất dần, lãnh hải, lãnh thổ thu hẹp dần. Và hơn nữa là nhân dân thì sôi sục với trái tim yêu nước, dõi nhìn xem kẻ cướp đang được đón vào quê hương, mang theo những âm mưu gì.
Bất kỳ ai có chút quan tâm thời sự, cũng đều nhận ra việc họ Tập đến Việt Nam lúc này, cũng chỉ nhằm tạo hòa hoãn, với mục đích cuối cùng là làm chủ vùng biển có nhiều thương thuyền mang hàng hóa qua lại, trị giá đến 5 ngàn tỷ USD mỗi năm. Và với tương lai của một quốc gia đói khát năng lượng như Trung Quốc, trữ lượng tiềm năng ở biển Đông đến khoảng 11 tỷ thùng dầu và hơn 100 ngàn tỷ mét khối khí đốt, đủ sức làm bừng cháy tham vọng sở hữu của Bắc Kinh.
Thường thì một nhà lãnh đạo công du, họ đến để bắt tay với chính quyền sở tại, đồng thời bắt tay với người dân ở đất nước mà họ đến. Trong trường hợp Tập Cận Bình, lúc này, ông ta chỉ có được những cái bắt tay từ chính quyền, còn với người dân tích cực với đất nước Việt Nam, ông đang chỉ nhận được những lời chất vấn và xua đuổi, ghẻ lạnh.
Trong lịch sử ngoại giao của Việt Nam, từ sau 1975 đến nay, không có một lãnh đạo nào của Bắc Kinh đến Việt Nam được thật sự chào đón, ngoài những sự xếp đặt mang tính mị nhau, qua lại, cấp Bộ, cấp chính phủ. Rất khác với các lãnh tụ từ các nước phương Tây, luôn được người dân chờ đón, xin được bắt tay đầy thân thiện. Thậm chí tháng 11/2000, khi đương kim tổng thống Mỹ Bill Clinton đến, người Sài Gòn tự mình từng xếp hàng dài nhiều cây số để vẫy chào. Ở Hà Nội, người dân vây quanh ông, náo nhiệt, với sự hâm mộ không khác dành cho những nghệ sĩ nổi tiếng nhất.
Lịch sử hơn 400 năm của Trung Hoa, qua sách Đông Chu Liệt Quốc, cũng cho thấy âm mưu xâm chiếm nhau, hãm hại nhau của các tay lãnh đạo từ đời nhà Chu đến nhà Tần là vô số kể, đặc biệt luôn được che lấp bằng nụ cười hữu nghị và những món lợi tức thì trước mắt. Hầu hết mưu kế đều nhắm vào việc bắt tay với những kẻ lãnh đạo ươn hèn, sẳn sàng vị lợi phụ quốc, sẳn sàng bán nước cầu vinh.
Sách lược truyền đời từ thời nhà Tần thống nhất đất nước, đối với bên ngoài là viễn giao cận công, vẫn được nhiều đời của các nhà lãnh đạo cộng sản Trung Quốc nối tiếp. Trung Quốc có thể hòa hoãn với Mỹ, hòa hoãn với Úc, với Anh… trong bối cảnh chưa thuận lợi, nhưng họ sẽ không bao giờ từ bỏ âm mưu thôn tính các quốc gia lân cận. Thống trị Việt Nam làm bàn đạp, và có được toàn bộ biển Đông là điều mà Tập Cận Bình không bao giờ từ bỏ. Chỉ khác rằng đối sách hôm nay của Tập Cận Bình rất mới mẻ, là tiến công bằng 16 chữ vàng hữu nghị. Tiến công bằng tình huynh đệ cộng sản được xây lên từ những nấm mồ Việt Nam, của các liệt sĩ chống xâm lược từ phương Bắc và ngư dân vô tội.
Nhiều ngày nay, tin tức cho thấy nhân dân Việt Nam không chào đón Tập. Hàng triệu người chắc vẫn còn y nguyên nỗi đau Hoàng Sa, cuộc chiến 1979, xâm lược đảo Gạc Ma, cắm dàn khoan vào lãnh hải, bắt cóc và đâm giết ngư dân... Theo tổng kết của báo Lao Động, mỗi tháng có 4 tàu cá và hơn 50 ngư dân bị tàu Trung Quốc cố ý tấn công. Thật khó mà đưa tay chào đón họ Tập lúc này mà không cảm thấy hổ thẹn vì là con dân Việt.
Rõ ràng, Tập Cận Bình không đến để gặp nhân dân Việt Nam - người chủ đất nước - như đảng cộng sản Việt Nam vẫn tuyên bố. Lời mời của đảng cộng sản Việt Nam với Tập Cận Bình lúc này, trở thành riêng tư và mới thật cô đơn làm sao. Quả là đang có rất nhiều khác biệt về “ý đảng – lòng dân” trong việc đối diện với kẻ xâm lược vào lúc này.
Sự xuất hiện của họ Tập chỉ có một giá trị: khiến cho những người Việt yêu nước mình tập hợp lại, gần nhau hơn, lớn mạnh hơn, và khác biệt hơn.
Năm 1998, khi Đức giáo hoàng John Paul II đến Cuba và hội đàm trực tiếp trên truyền hình với Fidel Castro, ngài đã trao cho nhà lãnh đạo độc tài này một danh sách hơn 200 tù nhân chính trị, và nói rằng mình mong mỏi được nhìn thấy họ sớm được tự do. Nhưng đến tận tháng 12/2014, Cuba mới thả hết đợt tù nhân chính trị cuối cùng của mình. Quả là một thời gian rất dài cho mục đích vì con người.
Đợt viếng thăm này của họ Tập, ai trong hàng ngũ lãnh đạo Hà Nội sẽ dám lên tiếng khước từ các gói quà kinh tế, các chính sách hữu nghị riêng cho chế độ, và nói thẳng rằng Bắc Kinh nên dừng xâm lấn, âm mưu và giết hại ngư dân Việt trên biển? Một gợi ý nhỏ của Đức Giáo Hoàng John Paul II đã mất gần 20 năm mới thành hiện thực, nếu hôm nay các nhà lãnh đạo ở Hà Nội không trực diện tuyên bố, nhân danh tổ quốc, nhân dân, danh dự, trách nhiệm… thì bao lâu nữa, người Việt mới hết bỏ xác trên biển?
Họ Tập sẽ gặp và nói trước Quốc hội Việt Nam, chắc chắn là bằng giọng điệu của tên nhà giàu nhiều vũ khí, để trấn áp và thuyết phục một cuộc quy hàng không văn bản. Quy hàng nhân danh hòa bình, ổn định, hữu nghị, kể cả tặng kèm theo vị ươn hèn và nhục nhã trên đầu lưỡi của những kẻ cúi đầu. Liệu Quốc hội Việt Nam, vốn hay ngủ gật và giải tán vể sớm vì thờ ơ trước tình hình đất nước, có thật sự bừng tình vì vai trò là người đại diện cho nhân dân, để nói lên sự thật, sự tức giận trước kẻ xâm lược không? Xin hãy để lịch sử ghi lại và phán xét.
Among the roughly 2 million Myanmar workers, 300,000 Cambodians and 50,000 Vietnamese in Thailand, many are working illegally… THE NATION July 3, 2014
Bữa trước, Tuấn Khanh đặt ra một câu hỏi khá bất ngờ và ngỗ nghĩnh: “Người Việt cố giàu lên, để làm gì?” Tiếc có điều là câu trả lời (cũng của chính ông) lại không được bất ngờ hay thú vị gì cho lắm: họ cần có nhiều tiền chỉ để tìm cách cho mình hay con em rời xa quê hương!
Coi: ở một xứ sở mà tới cái cột đèn cũng chịu không nổi, và còn nhấp nhổm muốn đi thì ai mà không lo kiếm đường để chạy – hả Trời?
Nghe vậy, ông nhạc sĩ (nghe) dám giận lắm à nha. Thì tui cũng nói (cho vui) vậy thôi, chớ chuyện “cột đèn có chân” nay đã xưa rồi. Ghi nhận của Tuấn Khanh về cung cách “lặng lẽ gói ghém ra đi thật xa” của dân Việt (e) cũng không hoàn toàn đúng nữa, ít nhất thì cũng không đúng đối với người dân ở Hoà Vang/Đà Nẵng – theo tường thuật của hai ông Lê Minh & Hữu Trung, trên tờ Vietnamnet, vào hôm 4 tháng 10 năm 2015:
“Trong số hàng chục nhà tầng, biệt thự được xây gần đây, to lớn và lộng lẫy nhất huyện Hòa Vang (Đà Nẵng) phải kể đến ngôi biệt thự của ông Nguyễn Bảy – ông chủ thầu xây dựng nổi tiếng của làng trên đất Lào. Đó là một khối nhà 3 tầng, đồ sộ giữa không gian làng quê yên bình. Nơi cổng vào được ông Bảy cho xây dựng hàng rào cách điệu rất quy mô.
Biệt thự ở Hoà Vang. Ảnh: Vietnamnet
Câu chuyện về làng giàu và những nông dân đi chân đất, cưỡi ô tô sang lấy vợ ngoại về làng xây biệt thự như ông Bảy không hiếm. Bí thư chi bộ thôn 5, ông Trương Văn Phẩm, nhẩm tính trong thôn có cả chục người như ông Bảy. Phần lớn họ đi lên từ đôi bàn tay trắng, vài người qua Lào làm ăn rồi cưới luôn vợ Lào và chung sống khá hạnh phúc.
Nhờ đó, bộ mặt làng quê thay đổi hẳn. Đường bê tông được xây dựng. Nhiều người đi Lào đứng ra đóng góp tiền làm đường, kéo điện thắp sáng, góp sức đưa thôn 5 đạt đủ 19 tiêu chí nông thôn mới trong năm 2014 vừa qua.”
Té ra đâu có cần phải bôn ba, xa xôi làm chi (cho má nó khi) chỉ cần nhích chân qua Lào là đủ mát trời ông Địa rồi. Thiệt là một tin vui (“giữa giờ tuyệt vọng”) cho vô số người dân Việt, trừ cái ông Bộ Trưởng Giao Thông Vận Tải. Ai đi về cũng sắm vài cái “xe sang” thì sớm muộn gì Hoà Vang (nói riêng) và Quảng Nam/Đà Nẵng (nói chung) cũng sẽ bị … nạn kẹt xe thôi!
Sao xứ Lào giàu có và làm ăn dễ dàng (dữ) vậy cà? Bên Miên, bên Miến (chắc) cũng như vậy luôn quá. Chỉ riêng ở đất Thái là chuyện mưu sinh, xem chừng, hơi bị khó khăn chút xíu – theo như tiểu luận (Những Cơ Hội & Thách Đố Cho Lao Động Di Dân Việt Nam Tại Thái Lan) của Linh Mục Antôn Lê Ngọc Đức, SVD: Lao động di dân Việt Nam tại Thái Lan có những đặc điểm chung sau đây. Thứ nhất, hầu hết đến từ các tỉnh miền bắc và miền trung, trong đó Hà Tĩnh và Nghệ An chiếm phần đa số. Ngoại trừ một số trường hợp, hầu hết xuất thân từ những gia đình nông thôn. Tuy nhiên với vùng đất hẹp hòi ở khu vực miền trung cộng thêm khí hậu khắc nghiệt nên việc mưu sinh trên mảnh đất quê hương không dễ dàng đối với họ... Tính chất của một số công việc mà các lao động di dân Việt Nam làm tại Thái Lan lệ thuộc phần nào về tuổi tác và giới tính. Những công việc như xây dựng (cọ xang), trông bãi xe (rắp rốt), tẩm quất trong phòng vệ sinh nam (nuad hong nám) chỉ dành cho lao động nam. Các công việc giúp việc nhà (mae ban), chăm sóc người già trẻ con trong gia đình chủ thuê, bán hoa hồng dạo…thường dành cho lao động nữ. Ngoài ra những công việc như may quần áo (yep pha), bán dạo (kem, trái cây, nước giải khát), mở quầy hàng (áo quần, thức ăn, hoa quả…), bán hàng trong các cửa tiệm bán lẻ… thì cả lao động nam và nữ đều tham gia.
Nếu bước sâu vào trong bếp của một quán ăn Việt Nam ở California, bạn có thể nhìn thấy một người đàn ông Mễ (to béo, nhễ nhại mồ hôi) đang rửa chén, lau chùi, hay quét dọn gì đó ... Ông ta là người phải làm những công việc nặng nhọc nhất nơi đây, và cũng là kẻ nhận đồng lương thấp nhất – thấp dưới mức qui định (tối thiểu) của nhà nước Mỹ. Lý do, giản dị, chỉ vì đương sự nhập cư bất hợp pháp và không có quyền làm việc tại Hoa Kỳ nên phải chịu thiệt thòi.
Tương tự, bạn cũng rất dễ tìm thấy một bà Việt Nam (nhỏ thó, gầy gò, và cũng nhễ nhại mồ hôi) đang tất bật lau chùi, dọn dẹp chén đĩa ... trong một quán ăn đông khách ở Bangkok. Hoàn cảnh của người phụ nữ này, ở Thái Lan, cũng giống y như ông bạn đồng nghiệp Mexican ở U.S.A vậy.
Và bởi vậy, cả hai đều phải làm chui. Chỉ khác có điều là ông Mễ có thể lãnh cả 100 dollar tiền tươi mỗi ngày, còn bà Việt thì chỉ được trả độ 2/10 khoản đó là hết mức.
Tôi biết rõ mấy chuyện này vì ba mươi năm qua tôi sống tại California, và ba tuần qua thì tôi ở thủ đô Bangkok. Nói cho chính xác hơn là tôi đang trọ trong một cái “guest house,” gần khu Đèn Đỏ Nana (Nana Red Light District, trên đường Sukhumvit 4). Viết và đọc theo âm tiếng Việt là “Nana Soi Xì” thì ông tài xế taxi, hay xe ôm nào cũng biết.
Từ ban công của cái nhà trọ rẻ tiền này, mỗi sáng, tôi đều nhìn thấy những người đồng hương của mình lặng lẽ đi qua. Thường thì bà bán cà rem đến trước, cùng với tiếng chuông leng keng khe khẽ (nghe) hơi có vẻ rụt rè và xen lẫn một chút ý tứ. Cứ y như thể là ngay chính cái chuông bé nhỏ này đã mang sẵn chút mặc cảm là nó đang làm phiền thiên hạ vậy.
Ảnh chụp vào mùa mưa năm 2015
Bán kem thì có thể lân la, chậm rãi, và dừng lại ở bất cứ nơi đâu (vào bao lâu) cũng được. Chả ai phiền hà gì ráo vì người dân địa phương không ai làm cái nghề này. Đây gần như là “thương trường” độc quyền của “thương nhân” Việt Nam ở Thái Lan.
Những người bán trái cây hay bán nước dừa thì khác. Họ luôn luôn giáo giác, và gấp gáp. Ngay cả khi có khách gọi mua hàng thì bán xong họ cũng quầy quả đi ngay, nếu trên vỉa hè đã có một cái xe trái cây của một công dân Thái đậu sẵn gần đâu đó.
Đây là luật hè phố của Bangkok. Chỉ có người Thái mới được đặt xe ở một nơi cố định, còn đám dân bán chui thì chỉ được phép đi lướt qua thôi. Dừng lại quá lâu để chia bớt khách hàng tuy không phạm luật nhưng chạm lệ.
Va chạm kiểu này tuy không lôi thôi lớn nhưng cũng lôi thôi lắm. Nhẹ ra thì đôi lời chửi rủa, cảnh cáo. Nặng hơn, không chừng, dám một trận đòn. Đời vẫn vốn không nương người thất thế mà!
Đến tầm 8/9 giờ khuya trở đi thì chỉ còn xe kem hay xe nước dừa, hết xe trái cây rồi. Cái nghề này bắt buộc người ta phải về sớm vì phải thức dậy rất sớm để mua hàng, và chuẩn bị làm hàng để đủ bán cả ngày.
Bán kem thì khoẻ hơn nhiều. Khỏi phải làm gì ráo. Cũng chả lỗ lã chi cả. Bán ít lời ít, bán nhiều lời nhiều nên cũng cái xe kem đó, vợ đẩy ban ngày, chồng đẩy ban đêm (hay ngược lại) cho tới khi ... gần sáng!
May là ở những khu đèn đỏ, và những khu phố Tây Ba Lô những cô gái ăn sương lấy ngày làm đêm nên khách lúc nào cũng có – chỉ tội là rất ít người thích ăn kem tối.
Tôi về hưu (non) từ năm ngoái, ở nhà hoài cũng ớn chè đậu nên hay đi giang hồ (vặt) cho nó qua ngày. Bỗng dưng trở thành một ông “tỉ phú thời gian” nên tôi sốt sắn “tháp tùng” những xe trái cây, và những xe kem của đồng bào mình đi quanh Bangkok – bất kể đêm ngày.
Ảnh chụp vào mùa mưa năm 2015
Nếu là một nhà văn hay nhà báo thì chắc chắn tôi sẽ viết được vài bài phóng sự ngăn ngắn – kiểu như tôi đi bán kem, bán nước dừa, hay bán trái cây... gì đó. Tiếc thay, tôi lại là một thường dân nên chỉ có thể ghi lại được vài mẩu tâm sự (vụn) của những người đồng hương đang tha phương cầu thực thôi:
Cháu đi cả đêm như rứa mà không buồn ngủ sao?
Dạ, ban ngày khi vợ đẩy xe cháu đã ngủ rồi.
Từ đây tới gần sáng thì cháu kiếm được bao nhiêu tiền lời?
Ba hay bốn trăm baht, tùy bữa, nếu trời không mưa.
Vậy thì cũng chỉ chừng hơn 10 đô la chứ mấy. Vợ cháu cũng kiếm cỡ đó, phải không?
Dạ hơn chớ, ngày dễ bán hơn đêm. Nó lại chịu khó nài khách nên cũng nhiều người mua hơn.
Sao cháu không “nài” như nó?
Có nói được tiếng Thái mô mà nài!
Dù cháu không “nài” thì hai vợ chồng cũng kiếm được cỡ bẩy/ tám trăm baht mỗi ngày, cộng lại ít nhất cũng 600/700 Mỹ Kim mỗi tháng, đúng không?
Dạ, đúng?
Sống đủ không?
Dạ, đủ và còn dư được chút xíu nữa.
Sao mà dư được?
Tiền “lo” cho cảnh sát của hai đứa mỗi tháng 100 đô. Tiền “lo” visa và tiền phòng 150 nữa. Ăn chừng 150 đổ lại thôi.
Sao ăn ít rứa?
Mỗi tháng phải gửi về Nghệ An cho ông bà ngoại và ông bà nội mỗi nhà 100.
Để dành à?
Dạ không, ông bà nuôi dùm mấy đứa con nhỏ mà.
Như rứa là hết gần sạch rồi thì tội chi mà phải qua tuốt bên nây, ngó cơ cực quá?
Chớ ở nhà thì vợ chồng cháu biết làm chi ra vài trăm để nuôi con và nuôi cha mẹ.
!!!
Bán trái cây chắc lời hơn?
Hơn chớ nhưng tụi cháu chưa có vốn, đang để dành?
Dự tính sắm xe, ngó bộ, cũng còn xa vời dữ. Và “ước mơ xa vời” này của người đồng hương đang đi bên cạnh khiến tôi chợt nhớ đến bài báo thượng dẫn (“Làng Tỷ phú: Xuất Ngoại Sắm Xe Sang, Lấy Vợ Nước Ngoài”) trên Vietnamnet:
“Hơn chục năm trước thôn 5, xã Hòa Khương là một trong những làng khó nghèo nhất nhì xã. Bây giờ, làng nghèo đã thay da đổi thịt. Nhà lầu, biệt thự, xe sang lũ lượt kéo nhau về làng mỗi khi Tết đến.”
Bộ có thiệt vậy sao, mấy cha?
Theo Thông Tấn Xã Vàng Anh thì diễn văn khai mạc cũng như bế mạc Hội Nghị 12 của ban chấp hành trung ương Đảng CSVNTổng bí thư Đảng CSVN ông Nguyễn Phú Trọng đã”lờ” đi không nhắc một chữ nào tới chủ nghĩa xã hội nữa.TTXVA cho rằng sau hội nghị 12 có khả năng Đảng CSVN quên luôn chủ nghĩa xã hội.Ôi TTXVA thật nhiều chuyện,lãnh tụ cộng sản VN ông nào cũng tỷ tỷ phú nói chủ nghĩa xã hội cho vui miệng thôi chứ các ông ấy chỉ biết có tiền ,làm sao có thật nhiều tiền gửi ở nước ngoài.Hiện ở Mỹ đã có một khu vưc toàn những nhà cửa lộng lẫy,do con cái các lãnh tụ cộng sản VN đang định cư đấy,toàn những nhà trị giá trên triệu usd cả.
Tương lai Đảng CSVN
Theo tin tức Lão Hủ nhận đươc thì tới nay phe Ba Dũng trong Đảng CSVN gần như toàn thắng dù còn hai hội nghị13 và 14 họp vào đầu và cuối tháng 12 quyết định dứt khoát vấn đề nhân sự,nhưng tứ trụ chỉ xê xích chút đỉnh,ông Ba Dũng Tổng bí thư,thủ tướng sẽ là ông Vũ Văn Ninh hay ông Trần Đai Quang chứ không phải ông Phạm Bình Minh,dù ông Minh vô được bộ chánh trị nhưng bị Bắc Kinh chống quyết liệt quá nên phải thay bằng ông Vũ văn Ninh và nếu ông Ninh Bắc Kinh vẫn chống thì đành để ông Trần Đại Quang,người Bắc Kinh ủng hộ.Vấn đề thứ hai là đổi mới chánh trị,hai hội nghị 13,14 sẽ chốt phương án đổi mới của ông Ba Dũng là chấp nhận xã hội dân sự,để mở rộng dân chủ hay phương án của tổng bí thư Nguyễn phú Trọng là chưa chấp nhận xã hội dân sự,từ từ mở rộng dân chủ.Vì còn những lấn cấn nên có thể đai hội 12 sẽ diễn ra đầu quí 2 năm 2016 chứ không phải trong quí 1 và ông Nguyễn Thiện Nhân sẽ lên ngôi chủ tịch nước bà Kim Ngân sẽ làm chủ tich quốc hội
NhậtTuấn kể chuyện nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm ăn vụng cá kho đổ thừa cho mèo
Trang Văn Việt của Văn Đoàn ĐộcLập vừa đăng lại bài viết của cố nhà văn Nhật Tuấn viết chân dung nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cho biết lúc bé Nguyễn Khoa Điềm ăn vụng cá kho lập hiện trường giả “đổ thừa “cho mèo, lớn lên vô Bộ Chánh Trị Đảng CSVN làm trưởng ban Vănhóa Tư Tưởng đã tịch thu cuốn tiểu thuyết của cố nhà văn Bùi NgọcTấn đó là cuốn Chuện kể năm 2000 và cuốn tiểu thuyết của nhà văn Đỗ Ban đó là cuốn Những đứa con của đất.Theo Nhật Tuấn thời kỳ Nguyễn Khoa Điềm lãnh đao văn hóa văn nghệ là thời kỳ nghẹt thở nhất.
Con ông cháu cha
Ông Nguyễn Thanh Nghị con trai ông ủy viên bộ chánh trị thủ tướng chánh phủ Nguyễn Tấn Dũng vừa đươc bầu làm bí thư tỉnh ủy tỉnh Kiên Giang,quê hương ông Nguyễn Tấn Dũng
Ông Nguyễn Xuân Anh con ông Nguyễn Văn Chi nguyên ủy viên bộ chính trị Đảng CSVN vừa đươc bầu làm bí thư Thành phố Đà Nẵng ly kỳ là cả hai ông Nghị và Anh đều 39 tuổi là những bí thư thành ủy tỉnh ủy trẻ nhất từ trước tới giờ,đúng là con ông cháu cha thì quan lộ phải thong dong
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng còn có cậu con út mới 25 tuổi tên Nguyễn Minh Triết vừa được bầu làm bí thư tỉnh đoàn Thanh Niên Cộng Sản H CM tỉnh Bình Định và cũng đắc cử vào ban chấp hành tỉnh ủy Bình Định.
Phan Huyền Thư bị tố cáo cầm nhầm thơ Du Tử Lê thơ Phan Ngọc Thường Đoan, văn Đăng Tiến Bùi Bảo Trúc
Trang Thằng phải gió của nhà văn Thế Phong đăng bài cho biết nhà thơ Phan Huyền Thư hội viện Hội Nhà văn cầm các bị tố cáo cầm nhầm thơ Du Tử Lê,Phan Ngọc Thường Đoan sau khi bị tố cáo cầm nhầm văn Đặng Tiến và Bùi Bảo Trúc.Hội viên Hội nhà văn cầm các có ông chủ tịch Hữu Thỉnh từng bị tố cáo cầm nhầm thơ dịch của nhà thơ Đức thì Phan Huyền Thư bị tố cáo cầm nhầm thơ văn âu cũng là truyền thống của hội ta có gì đáng quan tâm đâu nhỉ
Cuối cùng thì Hội Nhà Văn Hà nội do nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên làm chủ tịch đã phải ra thông cáo thu hồi giải thưởng vừa trao cho tập thơSẹo độc lập của nhà thơ Phan Huyền Thư tập thơ có những bài thơ cần nhầm.
Hun sen học sách VN
Ông Hun Sen thủ tướng nước Cao Mên nhân vật nổi tiếng thân Hà nội có hai con trai là Hun Manet sinh năm 1977 và Hun Manith sinh năm 1982
Con lớn của Hun Sen đươc bố cho sang Mỹ học trường quân sự danh tiếng West point về nước làm tới tướng ba sao
Con nhỏ của Hun Sen,Hun Manith cũng đươc bố cho ra nước ngoài hết học ở Mỹ lại Úc về phụ trách thanh niên rồi thành nghị sĩ quốc hội lại vừa đươc bố cho phụ trách ngành tình báo của quân đội nữa.Các con của Hun Sen đều nói nước Cao Mên là nước đa nguyên chính trị quốc hội có nhiều dân biểu đối lập,không phải ai muốn làm gì cũng được, họ làm việc nước trong khuôn khổ luật pháp.
Trái bom Bùi QuangVinh
Quốc hội VN họp ở Hà nội đang khí thế thì ông Bùi Quang Vinh tác giả câu nói”làm quái gì có kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” mà đi tìm vừa bỏ một trái bom tuyên bố trước quốc hội ,nợ công nước ta đang ở mức báo động ngân sách cạn kiệt phải đi vay ngân hàng nhà nước ngân hàng ngoại thương để tiêu,không mau thay đổi thể chế sẽ vỡ nợ đến nơi.
Lời vàng ngọc
Bà Nguyễn Thị QuyếtTâm tân phó bí thư Thành ủy Đảng CSVNTPHCM vừa tuyên bố mộ câu xanh rờn mà báo chí lề phải gọi là lời vàng ngọc”con lãnh đạo làm lãnh đạo là hạnh phúc của dân tộc không có gì phải nghi ngại cả”.
Tướng công an về hưu Võ Viết Thanh lên tiếng
Tướng công an về hưu Võ Viết Thanh người từng từ chối không làm tay sai phe Lê Đức Thọ đi bôi nhọ Võ Nguyên Giáp vừa lên tiếng trên báo Tuổi Trẻ rằng thì là Đảng CSVN chỉ còn một lối thoát duy nhất là đổi mới chánh tri,làm dân chủ từ trong Đảng ra tới dân không thì “đi đoong”
Thiền sư Nhất Hạnh đươc giải Pacem in terries award 2015
Thiền sư Nhất Hạnh người đứng đầu tăng thân Làng Mai và Phật giáo tiếp hiện ở Pháp vừa được giải thưởng Pacem in terries award 2015 của giáo hội thiên chúa giáo La Mã.Giải này đươc lập năm 1964 bởi giáo hòang John XXIII với mục tiêu vinh danh các nhân vật tạo được những thành tựu về Hòa Bình+công lý không chỉ riêng cho đất nước họ mà còn cho toàn thế giới”
Mục sư Luther King và mẹ Theresa từng được giải nàyTin mới nhất Thiền sư Nhất Hạnh đang hôn mêvì xuất huyết não
Đảng Công An coi bộ lên đời
Đại hội 12 chưa diễn ra Đảng Công An đã họp khá là khí thế, đảng trưởng Nguyễn Tấn Dũng các đảng phó Lê Hồng Anh ,Trần Đại Quang,với râu ria Nguyễn Hòa Bình,Trương Hòa Bình,múa may quay cuồng.Thế là một lô tướng công an đăc cử bí thư tỉnh ủy ngon lành.
Ông Ban Ki Moon tổng thư ký LHQ nhận là hậu duệ họ Phan ở VN
Cả thế giới kinh ngạc khi truyền thông VN loan tin ôngBan Ki Moon đương kim tổng thư ký Liên Hiệp,công dân Hàn Quốc từng là ngoại trưởng Hàn Quốc bỗng nhiên tới nhà thờ danh nhân văn hóa Phan Huy Chú ở xã Sài Sơn huyện Quốc Oai Hà nội thắp nhang nhận là hậu duệ của Phan huy Chú tên Phan Cơ Văn và viết lưu bút nguyên văn bằng tiếng Anh kèm chữ Hán đươc dịch ra tiếng Việt như sau:”cảm ơn dòng họ đã giữ gìn và bảo quản ngôi nhà thờ này.Là một người con của dòng họ Phan giờ giữ chức Tổng thư ký của Liên Hiệp Quốc.Tôi tự hứa với bản thân sẽ cố gắng làm theo những lới dạy củatổ tiên”
Đúng là áo gấm về làng,uống nước nhớ nguồn chứ không ăn cháo đá bát như nhiều đấng bậc ở VN.
Thỏa ước Thành Đô
Nhân dịp ông Tập Cận Bình vua Tầu tới Hà nội,thông tấn xã vỉa hè TTXVAcho công bố lại cái thỏa ước nhục nhã mà Đảng CSVN ký với Đảng Cộng Sản Tầu ở Thành Đô thế kỷ trước hẹn năm 2022 thì VN trở thành một khu tự trị của Tầu,để Tầu cho rút khỏi Miên và bang giao lại với Hà nội.Báo Tầu nhất là báo Hoàn Cầu hàng ngày nhai đi nhai lại cái thỏa ươc bán nước này, nay TTXVA nhắc lại chắc các ông lớn Ba Đình nhột lắm đây
Nhà văn Võ Phiến mất ngày 28 tháng 9 -2015 tại Santa Ana, Nam California, hưởng thọ 90 tuổi. Tang lễ của ông đã được cử hành ngày 4-10-2015.
Trong dịp này đã có không biết nhiêu là lời ca ngợi dành cho nhà văn vừa quá cố. Như nhật báo Người Việt thì trích thuật lời của học giả Nguyễn Hiến Lê : “nổi tiếng nhất là nhà văn Võ Phiến” hay “ Đông Hồ khen là nhất miền Nam”. Cả hai ông này sau 1975 đều chưa ra hải ngoại và đều đã mất nên không có dịp đọc công trình đồ sộ, bộ Văn Học Miền Nam của Võ Phiến mà nhà phê bình non trẻ Nguyễn Hưng Quốc đánh giá là : “Nói chung đó không những là thành tựu lớn nhất của Võ Phiến sau 1975 mà thậm chí đó là thành tựu lớn nhất của cả hải ngoại nói chung về văn học miền Nam trước 75. Cho tới bây giờ chưa có người nào viết về văn học miền Nam một cách đầy đủ, sắc sảo, tinh tế đến như vậy …..”
Còn trên Việt Báo on-line ngày 3-10-2015 thì ông Chủ bút Phan Tấn Hải hết lòng ca tụng Võ Phiến như sau:
“Với tôi, văn nghiệp của ông là những cánh đồng xanh, nơi đó ông dẫn độc giả qua các vườn kỳ hoa dị thảo, và khi đọc ông, chúng ta có thể đọc đi đọc lại một trang, thậm chí một đoạn văn mà vẫn thấy ưa thích và nhận ra có điều để học. Với tôi, văn nghiệp Võ Phiến cũng là một ngọn núi, nơi nhiều nhà văn có thể ngước lên nhìn và tự nhủ, sao cứ mãi thấy bóng mát của ông lẩn khuất trong ngòi bút của mình.”
Đã thế, ông Hải còn sợ có người không có cơ duyên độc đầy đủ về Võ Phiến để có thể đưa ra những cái nhìn “phiến diện” “bất toàn”, nên ông còn gặng thêm :
“Trong nhiệm vụ một nhà báo, tôi vẫn quan sát tin tức về nhà văn tiền bối này. Và tôi vui khi được nghe kể về những khoảnh khắc an lạc cuối đờì của ông. Và tôi quan ngại, khi thấy có ai ở xa tận quê nhà không có cơ duyên đọc đầy đủ về ông và đưa ra các nhận định phiến diện. Rồi tôi nghĩ, dĩ nhiên, Võ Phiến là một ngọn núi, và rồi cái nhìn nào cũng có thể chỉ là cái nhìn phần mảnh, bất toàn.” (vietbao.com/p112a243693/vo-phien-nghin-nam-may-trang-le-the)
Thêm nữa, ông Phạm Phú Minh (báo Thế Kỷ 21) thì phát biểu trên đài Á Châu Tự Do ngày 3-10-2015 rằng :
“Sản phẩm đầy công sức ấy mang tên Văn học Miền Nam Tổng quan được ông viết sau khi ông sang Mỹ định cư một thời gian ngắn. Nền văn học miền Nam gần như hồi sinh sau khi Văn học Miền Nam Tổng quan ra đời. Từng trang sách, từng tác giả xuất hiện trong đó làm người đọc hiểu thêm giá trị văn học sau khi nó vĩnh viễn bị mất đi. Về lĩnh vực này công đầu thuộc về Võ Phiến mà không ai tranh cãi.”
Còn nhà thơ Du Tử Lê thì nêu nhận xét:
“Tinh thần kẻ sĩ trong con người nhà văn Võ Phiến là một trong những nét son lớn trong sự nghiệp văn chương đồ sộ nhiều mặt mà ông đã tận hiến cho dân tộc, đất nước”.
Chỉ cần nêu ra vài thí dụ kể trên ta cũng có thể thấy sự vinh danh nhà văn Võ Phiến đến thế nào sau khi ông tạ thế.
Nhưng di sản tinh thần của Võ Phiến để lại có hoàn toàn tốt đẹp như vậy không ?
Và những nhà văn nhà thơ dầy công đóng góp cho Văn Học Miền Nam đã từng bị Võ Phiến bêu riếu, nhục mạ trong bộ sách phê bình của ông thì có đáng bị phê phán như Võ Phiến đã phê phán họ không ? (Xin coi phần trình bầy ở dưới).
Cho nên cần phải làm sáng tỏ cái ác tâm của Võ Phiến khi viết về Văn Học Miền Nam cùng là rọi thêm nhiều sự thật vào những lời vinh danh ồn ào nhân tang lễ của ông để trả lại sự công bằng cho các nhà văn từng bị Võ Phiến miệt thị nói riêng và cho Văn Học Miền Nam nói chung.
Xin hãy đọc những lời do chính Võ Phiến viết ra khi ông nhận định, phê bình một số nhà văn miền Nam (hầu hết là từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954). Tạm thời liệt kê như sau : (Phần chữ đậm là cốt để nhấn mạnh cho rõ thêm)
- Nguyễn đình Toàn :
……"...Đây đó có người bảo Nguyễn đình Toàn chuyên về thứ tình ái tiểu thuyết hiện sinh; lại loáng thoáng có người bảo văn chương Nguyễn đình Toàn là thứ văn chương son phấn, viết cho đàn bà con gái.
(Võ Phiến - Truyện Miền Nam II, trang 988).
Thủ thuật “có người bảo”, nghe “loáng thoáng” hay viện dẫn lời của các nhà phê bình khác như Uyên Thao, Cao Huy Khanh, cô Phương Thảo (tức nhà văn nằm vùng Vũ Hạnh)…để gián tiếp bầy tỏ ý kiến của mình, vốn là sở trường của Võ Phiến viết phê bình trong bộ Văn Học Miền Nam.
- Dương Nghiễm Mậu :
……"...Kỹ thuật độc đáo ấy làm cho không khí trong tác phẩm Dương Nghiễm Mậu thật náo nhiệt. Mọi nhân vật đều là “tôi”. Tôi này xỉ vả tôi nọ tưng bừng, các tôi nguyền rủa thời đại inh ỏi. Không có tác giả nào theo kịp nhân vật mình. Dương Nghiễm Mậu khôn ngoan lánh mặt, đứng phía sau, cười cười, hiền lành.
(Võ Phiến - Truyện Miền Nam I( trang 717).
- Mai Thảo :
……''... Ai nấy đều dễ dàng nhận thấy văn viết truyện của Mai Thảo không giống lời văn ở hầu hết các truyện ngắn, truyện dài của….thiên hạ.
Văn tiểu thuyết dù không đến nỗi vô ngã, nó cũng không phải là thứ văn cầu kỳ trau chuốt. Tiểu thuyết không phải là chỗ chơi …văn. Ai muốn trổ tài văn chương hãy đi chỗ khác mà phô. Hãy làm thơ, làm phú; hãy đi viết tùy bút chẳng hạn.
(Võ Phiến - Truyện Miền Nam I - trang 894).
- Hà Thúc Sinh :
Trước 1975, Hà Thúc Sinh là một Sĩ quan Hải quân, đã in tác phẩm “Dạo núi mình ta” (Sài Gòn 1972). Dù là một Sĩ Quan, khi làm thơ và đặt một tựa đề như thế thì ông đâu có vi phạm gì đến quân phong, quân kỷ. Ấy thế mà cũng bị Võ Phiến mang ra nhiếc móc :
...“ ... Ủa, Hà Thúc Sinh là một sĩ quan, sao ông lại khoái lơn tơn dạo núi một mình. Sách ra đời năm 1972, giữa lúc cuộc chiến đến hồi cực độ gay cấn, tình hình nước nhà rất đỗi rối ren. Quân nhân ham dạo núi một mình, vậy đồn bót bỏ ai trông ?”
(Võ Phiến – Văn Học Miền Nam THƠ- trang 2885)
…….
Đọc Thơ mà thắc mắc như thế thì quả là giết thơ. Thật hết nước nói. Chưa hết, Võ Phiến còn xuyên tạc ý thơ của Hà Thúc Sinh bằng thủ thuật trích đoạn nửa vời để chê trách tác giả thân thiết với bộ đội C.S. :
....“ ... Trước 1975, có lúc người quân nhân là ông, tỉ tê thân thiết với bộ đội cộng sản, cứ ta ta chú chú:
“Ta cũng người như chú….
…Vì nói thật cùng chú…
…Chú cứ ăn cho đủ”..vv..
(nghinh địch hành)..."...
(Võ Phiến – Văn Học Miền Nam THƠ- trang 2887)
Nguyên văn bài thơ “nghinh địch hành” của Hà Thúc Sinh như sau :
Giao thừa đâu mà vội
Hãy khoan đã chú mày
Cứ đóng xa vài dặm
Mà ăn uống cho say
Ta cũng người như chú
Cũng nhỏ bé trong đời
Có núi sông trong bụng
Mà bất lực hôm nay
Chiến chinh trời cũng sợ
Chỉ còn lại hai bên
Vội vàng chi cho cực
Cứ thong thả nghỉ đêm
Ta nói thật cùng chú
Trăm năm có là bao
Binh đao sao biết được
Sinh tử ở nơi nào
Nếu chú có cha mẹ
Ta chẳng những người thân
Còn mang thêm lắm nợ
Với rượu và gió trăng
Chú cứ ăn cho đủ
Mai chết sẽ chết no
Ta cũng cần đêm cuối
Từ giã gió trăng xưa.
Một bài thơ hào sảng, đầy nhân bản với giọng đàn anh như thế (gọi bộ đội là chú mày) mà chỉ bình vài câu với vỏn vẹn trích 3 dòng ngắn ngủn, chắp nối như trên thì đủ hiểu cái ác tâm của Võ Phiến đối với tác giả đến thế nào.
- Nhật Tiến:
..."... Riêng về một chuyện thiếu tranh đấu, chuyện ấy đã khiến cô Phương Thảo độ nào nặng lời với Nhật Tiến. Năm 1963, cuốn Ánh sáng công viên ra đời do nhà Ngày Nay xuất bản. Đó là một tập gồm tám truyện ngắn. Trong truyện “Mắt lưới”, một văn sĩ nghèo là Tân gian díu với một cô gái nghèo, cô Nhân….
Phương Thảo mắng : “ Cô Nhân ở trong Mắt lưới sinh một đứa con với Tân, rồi phải bán mình nuôi con, thế mà vẫn giữ được bộ mặt bình tĩnh khi gặp lại kẻ Sở Khanh đã lợi dụng mình, một sự bình tĩnh mất cả nhân tính ở một con người như vậy”
(Tạp chí Tin Sách, Sài Gòn, số 18, tháng 12- 1963, trang 22).
“Cô Nhân mất nhân tính, cô Nhân bậy, không phải bậy cách tình cờ. E bậy từ... gốc. Nghĩa là tác giả. Bởi vì các nhân vật khác do ông dựng lên cũng bậy luôn.
“ Nói một cách khác, nhân vật Nhật Tiến, dù là người nghèo,cũng không mang cái âu lo sinh kế bằng cái lo âu tình cảm, cũng không hành động bằng những tính toán hợp lý mà bằng xúc động xuẩn động”
( Tin Sách trang 22).
Cuối cùng, cô Phương Thảo lo cho một số độc giả trẻ tuổi có thể là nạn nhân của “những suy nghiệm chủ quan" của Nhật Tiến, theo cô : ...“ ...nếu họ (tức số độc giả trẻ tuổi nói trên) có tiếp xúc với đời họ thấy không chỉ có một vấn đề tình cảm mà còn vấn đề sinh kế, không chỉ có sự đau khổ mà còn có sự bất bình, không chỉ có sự sa đọa mà còn có sự vươn lên, có sự gắn bó, có sự đấu tranh, gian khổ cay đắng nhưng đầy hi sinh cao quí, đầy những nỗ lực lớn lao, với những ý chí sáng suốt khác thường
(trang 23-Tin Sách)"
Nhật Tiến giống cô Nhân nhiều quá: lắm tình cảm mà thiếu ý thức về "sinh kế," tức về quyền lợi, thiếu cả sự bất bình, cả ý chí đấu tranh. Như vậy có mất luôn cả nhân tính, cả sáng suốt, cả cao quý chăng ?
(Võ Phiến - Truyện Miền Nam II- trang 1273-1274).
Những nhà văn kể trên đều là những ngòi bút trẻ ở miền Bắc, đã vào Nam do cuộc di cư 1954. Bọn họ hầu hết đều bị Võ Phiến bôi bác với giọng văn cười cợt, thiếu nghiêm chỉnh đối với một đề tài quan trọng là “Văn Học Miền Nam”.
Có thể tóm tắt sự khinh miệt này của Võ Phiến bằng đoạn văn như sau :
- “...Hãy tưởng tượng những nhân vật như vậy xúm xít nhau ở Hà Nội: làm thơ, làm thiếc, làm kịch làm cọt, cà-phê cà pháo, đấu qua tán lại v.v..
Ít lâu, Hà Nội mất. Họ kéo nhau vào Sài Gòn xúm xít nhau ngày ngày làm thơ, làm thiếc, làm kịch làm cọt, cà-phê cà pháo, tán qua đấu lại v.v..[,,,]
Những nhân vật thông minh như thế, xinh xắn như thế, tài hoa như thế, lành như thế và vô tích sự như thế, rốt cuộc họ khổ cực điêu đứng. Tội nghiệp quá chừng. Thương ơi là thương.....” ...
(Võ Phiến, Văn học Miền Nam-Kịch & Tuỳ bút, “Nguyễn Đình Toàn”, trang 2504)
****
Vậy thế còn những ngòi bút lão thành cũng từ miền Bắc di cư vào Nam thì có thoát khỏi dã tâm triệt hạ của Võ Phiến không?
Xin hãy liệt kê vài vị được Võ Phiến đưa vào bộ sách của mình:
- Mặc Đỗ :
Trích:
..."... Nhân vật trong truyện Mặc Đỗ đích là trí thức. Riêng trong cuốn Bốn Mươì thì là đại trí thức: ai nấy đều du học bên Tây về cả, đều đậu đạt cao chót vót cả. Và các bậc trí thức ấy lợi tức họ cao, dinh cơ của họ lớn, trong nhà có những người giúp việc gọi là tiểu đồng, là thằng bộc, là ả xẩm... Trong xã hội Việt Nam các nhân vật này là một số rất ít, thuộc tầng lớp thuợng đẳng. Những người may mắn này, thành phần được ưu đãi nhất của tiểu tư sản này, họ sống ra sao, họ làm những gì trước sự trông cậy của những ai cùng một chiến tuyến? Họ sống nhiều hơn làm. Trong cái "sống" của họ có rất nhiều bữa ăn, nhiều rượu tây, nhiều nhà hàng, có cả nhà hát cô đầu nữa. Còn làm thì, trong cuốn Bốn Mươi, ấy là tổ chức một bữa tiệc tứ tuần đại khánh; trong pho tiểu thuyết Siu cô nương là "chơi một tối kịch" trước khi bỏ Hà Nội rút chạy; trong thiên truyện ngắn "Trăng đỏ”, là uống thật đẹp một ly bourbon với đá cục; trong thiên truyện ngắn “Buổi trưa trên đảo san hô" là một đêm chung chạ với người tình xưa... Đại khái thế. Có "làm" gì mấy đâu. Nhất là làm trong tư cách trí thức tiểu tư sản, tầng lớp đang đứng ra nhận lãnh trách nhiệm chính trị trước lịch sử. (ngưng trích)
(Võ Phiến, Văn học Miền Nam-Truyện I – trang 922)
***
- Đinh Hùng :
...“...Ai sao ông vậy, đã làm văn nghệ sĩ phải ra văn nghệ sĩ : say sưa rượu chè, lang thang đàng đúm, gái-ghiếc, thuốc phiện, nhẩy nhót, huyênh hoang khoác lác…”...
(Võ Phiến, Văn học Miền Nam-Thơ - trang 2837)
***
Vũ Hoàng Chương : (trích)
..." … Vũ Hoàng Chương không những già, lại còn xưa. Hoài Thanh ngờ rằng "Vũ Hoàng Chương định nối cái nghiệp những thi hào xưa của Đông Á.” Lại nghĩ rằng: "trụy lạc hay say sưa đều mang theo một niềm ngao ngán. Niềm ngao ngán ấy ta vốn đã gặp trong thơ xưa. Duy ở đây nó có cái vị chua chát, hằn học và bi đát riêng."Trụy lạc hay không trụy lạc, say sưa hay không say sưa, ngao ngán hay không ngao ngán, Vũ Hoàng Chương đều có thể xưa. Ngay trong yêu đương, ca hát, ông cũng có cốt cách một người xưa. Xưa trước ông chừng hai nghìn năm chẳng hạn. Mất Kiều Thu, chàng thanh niên trong tuổi đôi mươi ngồi vỗ chậu hát nghêu ngao hệt Trang Tử! Chàng hát hổng ra sao? Do ré mi fa sol chăng? Không. Chàng hát xế xừ cống xự xang v.v...Chàng mơ gái Tầm Dương, nhắc tích Tây sương, chàng kể chuyện sông Tương, Kinh Kha, Tần Thủy Hoàng ..v.v.. Giữa chừng câu ca thỉnh thoảng chàng nện xuống một tiếng "hề" (Thơ Việt Nam có độ lổn nhổn rất nhiều "hề"; tôi có cảm tưởng là phong trào "hề" thịnh hành từ sau ông Vũ?) -ngưng trích-
(Võ Phiến, Văn học Miền Nam-Thơ - trang 3180-3181)
***.
- Vũ Khắc Khoan :
(trích)
..."... Người lúc nào cũng sôi nổi hơn thần (nhất là nữ thần) cho nên một lần khác "Khoan tôi" không ngần ngại xuất hiện, tự nhận là một trí thức tiểu tư sản, đối thoại trực tiếp với một đảng viên cộng sản, và buông lời kết thúc dứt khoát: "Sáng rồi. Chúng ta có thể từ giã nhau, như những nhân vật chính của một tấn kịch ba màn có hậu. Ông về Hà Nội. Còn tôi, tôi phải lên đường. Ông đã giữ phần chủ động trong suốt màn hai. Giờ đây màn ba khai diễn. Màn ba là của tôi, của chúng tôi." Cũng được, màn ba của ông cũng được đi. Tiếc thay, màn tư là một màn thảm hại và trong các vở kịch của ông Vũ, từ Thành Cát Tư Hãn về sau, đều một giọng hư vô, tuyệt chẳng còn chút tin tưởng vào cái gì nữa. Vào trí thức, không; vào giai cấp tiểu tư sản, không; vào chính nghĩa, vào thắng lợi, cũng không, thậm chí vào cuộc đời cũng không luôn. Không có cuộc sống nào đáng sống hết. Ông cợt nhả cả với Trời . (ngưng trích)
( Võ Phiến, Văn học Miền Nam-Tổng Quan, trang 262)
***
Nhà phê bình Thụy Khuê cũng nhắc đến những cung cách phê bình của Võ Phiến :
(trích)
..."... “Về văn của Vũ Khắc Khoan, ông đánh giá: "Nó phảng phất lối viết văn của Nhất Linh thời "Hồng nương! Hồng Nương!"" và ông mượn lời của Uyên Thao để xác nhận "Mai Thảo và Vũ Khắc Khoan là những tay văn chương ưỡn ẹo".
Về kịch Thành Cát Tư Hãn của Vũ Khắc Khoan, ông dẫn lời Cao Huy Khanh:
"Ông Vũ giống hệt Thành Cát Tư Hãn" rồi ông lại dẫn lời Vũ Khắc Khoan mô tả Thành Cát Tư Hãn "sừng sững, lầm lì, khốc liệt và hầu như vô giác"
để đi đến kết luận của Võ Phiến:
"Ôi! Hãi quá! Người sao mà khủng khiếp quá thể."(Văn Học miền Nam, sđd, trang 1748).
Tóm lại là ông ít đưa ra ý kiến của riêng ông mà hay dùng những ý kiến của người này, người kia để chế giễu, châm biếm những đối tượng văn học mà ông không thích.”
Ở Bình Nguyên Lộc, ông cho Bình Nguyên Lộc là một "tác giả tốt bụng, có hảo ý muốn làm vui người đọc" và còn thêm: "hảo ý không thuộc về nghệ thuật", ông mượn lời Cao Huy Khanh để nói cuốn Ðò Dọc là "sự thành công duy nhất và quá hiếm hoi của Bình Nguyên Lộc".
Ở Nhật Tiến, ông mượn lời Nhật Tiến trả lời phỏng vấn "tôi chỉ là nhà giáo hơn là một nhà văn" để xác định: Nhật Tiến nói đúng, ông chỉ là nhà giáo.
Lối viết châm biếm, mỉa mai (đời), ưu điểm của tùy bút nơi ông, lại trở thành châm biếm, mỉa mai (cá nhân), điều tối kỵ trong phê bình văn học. Một cách phê bình như thế, không những không giúp gì cho sự tìm hiểu văn học miền Nam, mà lại còn có hại cho sự nghiệp văn học của Võ Phiến. (ngưng trích)
(Thụy Khuê,Vấn đề đoạn tuyệt với quá khứ để lên đường, http://thuykhue.free.fr/thumucindex.html)
*****
Ấy vậy mà Nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc đã trầm trồ khi nhắc đến Võ Phiến trên đài Á Châu Tự Do nhân trả lời Mặc Lâm sau ngày Võ Phiến mất :
“ Cho tới bây giờ chưa có người nào viết về văn học miền Nam một cách đầy đủ, sắc sảo, tinh tế đến như vậy …..”
Có thể nào ông Nguyễn Hưng Quốc tuy được tiếng là “Phê bình gia”, nhưng không đọc hết bộ Văn Học Miền Nam của Võ Phiến mà cứ nhắm mắt khen bừa chăng ?
Hay là ông “trả lễ” Võ Phiến khi ông được nhà văn này ưu ái như chính ông đã khoe ầm ĩ cũng ở trên đài Á Châu Tự Do nhân cuộc phỏng vấn của Mặc Lâm :
……. "...“Mỗi lần tôi ra một cuốn sách hay viết một bài báo nào đó mà ông đọc được thì ông trầm trồ khen ngợi bằng những bức thư dài 3, 4 trang để bình luận về một bài báo của tôi. Tôi nghĩ là ở Võ Phiến ngoài cái tài của ông thì điều mà người ta không thể phủ nhận được còn cái tâm của ông đối với giới viết lách, văn chương. Tôi nghĩ hiếm có người nào mà vừa say mê văn chương lại vừa rộng lượng với người khác như Võ Phiến....”...
Nói về "... cái tâm của ông (Võ Phiến) đối với giới viết lách, văn chương" thì sau khi đọc phần trên, chúng ta đã thấy. Đối với những cây viết kể trên thì ông dùng "cái tâm" có thể nói là ác, nhưng với Nguyễn Hưng Quốc thì ông lại có cái tâm khác, cái tâm biết "trầm trồ khen ngợi bằng những bức thư dài 3, 4 trang để bình luận về một bài báo của tôi".
Cho nên khi Nguyễn Hưng Quốc viết "Tôi nghĩ hiếm có người nào mà vừa say mê văn chương lại vừa rộng lượng với người khác như Võ Phiến" thì sự kiện ông Quốc "rộng lượng" lại với Võ Phiến cũng chẳng có gì lạ.
Điều này người ta vẫn gọi là “văn nghệ thù tạc”, "mặc áo thụng vái nhau", hay là “đọc thì không kỹ, có khi cũng chẳng đọc, chỉ "nghe đồn" đã mụ mị lên, mà vẫn cứ xen vô với những lời ca tụng hào phóng, coi những lời khen tặng là quà miễn phí, một loại của riêng trong nhà lôi ra thù tạc trả lễ qua lại lẫn nhau.
Cái trò này tưởng đã hết thời rồi, vậy mà nó vẫn còn sống dai dẳng gớm !
Ông bà đi một tháng thăm mấy cậu dì học xa. Kinh nghiệm những lần trước nhà thiếu bà như quân thiếu tướng, bừa bãi chồng lên nhau một tí, bẩn quệt lên nhau một tí, không lâu trong nhà ngoài vườn thừa điều kiện đón bà về bằng nỗi bàng hoàng. Lần này bà dặn vợ chàng, “Mẹ đi cuối tuần chị chịu khó ghé xem trong ngoài hộ mẹ.” Cậu em cười, Chưa chi mẹ lo cái vườn đấy.” Bà gắt, “Liệu mà lo cơm nước cho bà cố.” Chàng bảo vợ, “Dưới vòm trời đâu có mẹ có vườn đó có chút quê hương.” Mấy đứa cháu nhỏ bà gom về hết. “Các anh các chị bận đi làm,” bà bảo, “hè cứ đem hết về đây cho bà trị.” Thằng út chàng nằm trong số gom quân. Dì út nghiễm nhiên xử lý thường vụ chức tư lệnh. Bảng phân công gắn trên tủ lạnh. Lính tráng tuân lệnh răm rắp. Cuối tuần ghé, nó cầm vòi tưới, khoe, “Con phải làm thôi. Thằng Khôi to con lo cắt cỏ. Cái Vân tưới dối, chết cây bà.” Chàng hỏi, “Thế tưới sao mới thật?” Nó bảo, “Thọc hết ngón tay xuống vẫn ướt mới đủ.” Vợ chàng nói, “Bà bảo không sai. Thằng này tóc quăn, sau lại khổ.” Chàng nói, “Cỡ bố nó là cùng.” Vợ chàng cười, “Tóc anh hết quăn rồi.” Chàng thở ra, “Hói còn quăn vào đâu!”
Tưới đều thế mà mấy gốc dưa gang, nhất là mấy luống cà bát cà pháo chưa ra hoa. Bà cố ra vườn bảo, “Năm nay dám mất mùa cà. Giờ chưa ra hoa mát trời sợ hỏng.” Chàng nói, “Chắc do thời khí, hai năm trước cũng vậy đó bà.” Bà cố hỏi, “Thế hai năm trước cũng mất mùa à? Bà chẳng nhớ đâu đấy.” Chàng chỉ con, cười, “Quên gì bà hỏi thằng này. Nó nhớ dai lắm. Mê món cà bung nó nhớ hết.” Bà cố quay vào, lẩm bẩm, “Té ra ở Mỹ đáng quên là con gà đáng nhớ là quả cà, lạ đấy nhỉ!”
Chàng nói với cậu em sắp lấy vợ đang ngồi sang lại mớ băng chuột mèo, “Nhớ lấy, mai mốt bảo mợ ấy trồng cà.” Cậu em cười tít mắt dúi mũi vào máy. Chàng nghĩ cậu này sẽ không nhớ chuyện cà nhưng rồi cũng khổ. Cậu đang cố lưu giữ loại hoạt hoạ nay không còn trình chiếu phổ thông, ý để cho lũ con tương lai hưởng được tiếng cười thời các cháu cậu đã hưởng. Vợ chàng cự nự, “Cậu ấm ớ.” Chàng không can thiệp nhưng nghĩ đàn bà không hiểu với đàn ông dĩ vãng chẳng riêng đẹp còn cần. Cậu em đang sốt sắng giữ một dĩ vãng gần. Thế hệ chàng nôn nả với dĩ vãng xa.
Xưa còn sống mẹ chàng hay ăn cơm với trám muối, nhất là dưa muối xổi. Cha chàng lại thích cà. Quanh năm nhà có những vại cà nén. Mỗi khi gắp miếng cà lên cụ thường bảo, “Trong như miếng hổ phách thế này mới ngon.” Trải bao loạn lạc, bồng bế nhau vào Nam, ê răng, cụ thôi ăn cà nén xoay sang ăn cà pháo ngâm tương. Cụ thường muối lấy, ngâm lấy; và khi gắp quả cà lên vẫn lời xưa ý cũ: “Trong như miếng hổ phách thế này mới ngon.” Mấy chú mấy cô sau lập gia đình ở riêng, thấy cũng muối cũng ngâm cà kiểu ấy, nói câu ấy.
Ở Mỹ có đủ thứ nhưng đâu phải nhất nhất tìm ra miếng hổ phách để giải thích cho lũ trẻ miếng cà ngon phải như thế nào. Vả giải thích ích gì khi chúng nhai dưa chuột muối rau ráu, chép miệng chơi cũng hết lọ ô-liu, có khuyến khích nhai thử quả cà chỉ ngao ngán đưa nhận xét “vừa dai vừa chẳng mùi vị gì bố ạ.” Chàng kiên nhẫn bảo, “Cà Thái đóng lọ nó thế. Phải trong như…” Mới đây vợ chàng bật cười cắt ngang, “Cuối tuần này chắc khỏi về bà.” Chàng hỏi, “Sao thế?” Nàng đáp, “Kẹt chị Kim hẹn đem nhẫn lên cho xem. Năm ly thôi. Em phải lo trước. Cứ để cậu ấy loay hoay phút cuối thiếu nhẫn cô dâu thì chết.” Chàng nhớ đến bà bạn già vui tính. “Từ San Diego lên à?” Chàng hỏi. “Dặn chị ấy đi xa đừng mang nhiều món, cướp bóc như rươi.” Như chưa thoát khỏi từ trường mấy chiếc nhẫn, vợ chàng kể, “Kỳ trước em xuống chị ấy cho xem toàn hột nước trắng, dầu hoả thích hơn.” Chàng cười, “Cứ nước này nước nọ, chẳng hiểu gì.” Vợ chàng dấm dẳng, “Đàn ông!” Đứa lớn như từ lâu đợi bố lọt ổ phục kích, cười chen, “Kim cương với bố như cà với con, cứ hổ phách hổ phách con cũng chẳng hiểu gì.”
Khi không chàng buồn hụt hẫng.
Đầu tháng chín ông bà về tới. Mấy đứa bé như có chỗ trút một gánh nặng. TV thoải mái, game thoải mái. Dì út tíu tít khoe thành quả tề gia nội trợ. Cậu em tạm rời giàn máy hát, nằm võng sau nhà nghiền ngẫm quyển “Yêu Con Như Một Người Cha Lớn” của một tác giả Á châu nào đó. Bà cố vẫn thủng thẳng ra vào, độc thoại, “Ở thì nhớ mồ mả, về thì nhớ cháu con, chẳng biết định sao nữa.” Ông thì trở lại với những giáo trình soạn dở. Chỉ bà xắn tay lao tiếp vào những công việc quen thuộc mà giá có thọ trăm tuổi tưởng vẫn thiếu thì giờ hoàn tất. Thấy vợ chồng chàng lên, bà hỏi, “Sao dạo này anh gầy thế?” Chàng tính đáp “con mất ngủ quá” nhưng vợ chàng đã nhanh nhẩu đáp, “Có chịu ăn đâu mẹ. Gàn lắm. Cứ bảo gốc nông dân, toàn mơ cua đồng mồng tơi rau đay mướp hương và cà… và phải trong như miếng hổ phách cơ!” Bà nhìn vườn cười bảo, “Thoại được việc, hy vọng có ít quả ăn ghém.”
Rồi cả nhà rộ lên chuyện cô dâu chú rể trong mâm cơm rôm rả tiếng cười. Chàng ăn xong ra vườn đứng hút thuốc. Gió như bước chân mùa thu khẽ tới. Hoa lá co cụm lời thủ thỉ vĩnh biệt nhau. Chàng không biết chia với ai mối lo xương thịt. Mấy ngày trước điện thoại về Việt Nam chàng hay tin cụ vào bệnh viện. Chú em trấn an, “Cậu vẫn gắt, nói nhạt miệng thèm cơm cà, vậy vẫn khoẻ anh cứ yên tâm.” Chàng tính nhắc “quả cà bằng ba chén thuốc” nhưng lan man chuyện khác, quên mất. Nhớ tuần trước nữa được nói chuyện với cụ, chàng nói sẽ về thăm, cụ lặng giây lâu, giọng thều thào, “Nghe nói lại phải xin xỏ, cam kết, quỵ luỵ…” Cụ ngừng, còn chàng thì bâng khuâng mãi. Phải đó là thứ sau cùng ở mỗi người cha mà thời gian không thể làm tiều tuỵ?
Trời trùng hẳn. Gió thổi mây xoắn xít. Và lòng chàng cũng xoắn xít một nỗi thương nhớ lộn màu thấm thía lo âu.
Nhớ hôm ấy chàng về tới nhà đã chạng vạng. Mấy đứa lớn hết hè trở lại các trường phương xa từ tuần trước. Vợ chàng và thằng út nán lại nhà ông bà bàn thêm chuyện cưới hỏi.
Chàng đứng ngoài ban-công nghe tiếng quạ kêu trên mấy ngọn cọ, bất ổn. Mai mình sẽ hỏi một hãng du lịch xem sao, mua vé về tưới chuyện gì hậu xét. Tưới cho mấy chậu ớt ít nước chàng mới mở cửa. Đang khi loay hoay xỏ chìa khoá chàng thấy trên cửa gắn miếng giấy nhỏ. Miếng giấy mang chữ ký người anh họ viết vội: “Gọi mãi không ai bắt phone. Anh chị đến cũng không gặp. Báo chú biết cậu mất rồi.” Khi không chàng không biết mình đang đứng bên mặt nào của cánh cửa; hồn tênh hênh, nhẹ hẫng, trong như miếng hổ phách. Cũng khá lâu chàng thấy bầu trời nhá nhem thoắt đổi thành màu hoa cà mênh mang, rười rượi, trễ tràng. Chàng bấm ba lần mới gọi trúng số nhà cha mẹ vợ.
Chín giờ sáng hôm sau chàng mới choàng dậy, ngửi thấy mùi hương nến phòng ngoài, lòng hoang mang không hiểu sao lại có thứ giấc ngủ bất nhân. Tối qua quên chàng đâu uống thuốc. Nắng lách màn gió đặt một dải tang trên bàn.
Con chàng khẽ mở cửa, mắt bối rối, một lát nói nhỏ:
“Mẹ đi mua hoa. Ông bà gọi lúc bố còn ngủ. Tối qua bà bảo bói mãi mới được mấy quả, đem hết về cho bố. Bói là gì bố?”
Chàng cay mắt nhìn con, bất giác thấy có gì xông lên mũi, hăng hăng, mặn mòi, tựa mùi dưa cà mắm muối.
www.HoPhap.Net -- Hoa Sen dâng kính cúng dường Giác Linh
NHÀ SƯ CỦA TÔIHoàng Ngọc Liên
Tưởng niệm Thượng Tọa Thích Thanh Long
Nhớ nhau, xin nhớ tình dân tộc, Lẳng lặng mà xem đá nở hoa.
Thượng Tọa Thích Thanh Long
Lần chót tôi đến chùa Giác Ngạn là vào một buổi sáng Chúa Nhựt, sau khi dự thánh lễ tại nhà thờ Ba Chuông. Cũng nằm bên phải trên đường Trương Minh Giảng về hướng Lăng Cha Cả, chùa Giác Ngạn, nơi Thượng Tọa Thích Thanh Long trụ trì, ở sâu trong một con đường nhỏ chừng một trăm mét.
Tôi là một trong những người “mê tín” cụ Thanh Long, nhất là trong thời gian ở trại “cải tạo" Thanh Phong, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa vào những năm đầu của thập niên 80. Vì là người đồng hương Ninh Bình, nên ngay sau khi cụ Thanh Long đảm nhiệm chức vụ Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo QLVNCH thay thế Thượng Tọa Thích Tâm Giác, tôi đã tới chúc mừng cụ. Lần nào đến Nha TUPG, tôi cũng được cụ cho uống trà và kể lại những kỷ niệm tại quê cũ. Nhưng phải đợi đến khi gặp lại cụ ở trại “cải tạo” Yên Hạ, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La, rồi sau này trại Thanh Phong, tôi mới có dịp sống chung với cụ và hiểu hơn về con người của cụ.
Đó làmột ông già “nhà quê” bình dị, một “đại sư” - như anh Đoàn Bội Trân và tôi thường nói về cụ - đã khiến một người theo Thiên Chúa Giáo như tôi “mê tín”.
Trongmột bài báo dành riêng để tưởng niệm cụ trong ngày giỗ cụ đầu năm 1994 , anh bạn tôi, Ký Giả Lô Răng đã xúc động ghi lại nhiều kỷ niệm về cụ, ở đây tôi chỉ xin nhắc những “diễn biến hòa bình” mà cụ và tôi thường tâm đắc. Bao giờ cụ cũng có những "mắm muối” pha thêm vào câu chuyện cho đậm đà, vui vẻ và thoải mải.
Cụ kêu tôi bằng ông và hỏi tôi:
- Ông biết tại sao tôi kêu ông là Ông mà ông Hùng lớn tuổi hơn ông, tôi lại kêu bằng... anh không ?
Thấy tôi chưa “nắm” được vấn đề, cụ giải thích ngay:
- Đó là gọi theo tên hoặc theo họ, người mình cũng đôi khi gọi theo họ, như người Trung Hoa và tùy theo để xưng hô là Cụ, là Bác, là Ông, là Anh.
Ví dụ ông họ Hoàng thì tôi kêu bằng Ông Hoàng. Ông Nguyễn Huy Hùng thì tôi kêu bằng tên, là Anh Hùng.
Cũng như vậy, ông Tống Tấn Sỹ thì tôi kêu bằng tên, là Bác Sỹ...
Rồi cụ cười:
- Cho vui vậy mà!
Tôi cười theo:
- Hèn chi anh Tú chưa đến sáu mươi mà đã được Đại Sư kêu là Cụ Tú, còn anh Thông là Thầy Thông !
Bây giờ noi theo Đại Sư, ai cũng gọi anh Thông là Thầy Thông, mặc dù ảnh đâu phải là... Đại Đức!
Trong số những bồ ruột của cụ ở trại Thanh Phong, còn có ông cha Nghiêu, cựu Tuyên Úy Công Giáo.
Nhìn hai người ngồi chồm hổm ngoài sân nấu nước pha trà, ông cha Trâm - Tuyên Úy BĐQ - bảo tôi:
- Ông coi, thật là một bức tranh hòa đồng tôn giáo tuyệt vời. Tiếc rằng không có máy ảnh...
Sau này, lúc linh mục Nghiêu yên nghỉ trên đồi cây Thanh Phong, cụ Thanh Long ngậm ngùi nói:
- Thế là “Đức Vua băng” rồi! Ông Hoàng phải đọc kinh cầu nguyện cho linh hồn Ngài.
Còn tôi thì làm công quả hồi hướng cho Ngài. Ngài “về” với Chúa như vậy cũng đỡ nhức đầu!
Cụ vui vẻ khi gọi ông Cha Nghiêu, cũng như Linh Mục Đinh Cao Thuấn, cựu Giám Đốc Nha Tuyên Úy Công Giáo là “Đức Vua”!
Cụ hay nói: “Cho vui vậy mà!”
Trong lúc mọi “trại viên” - danh xưng bịp của Công An coi tù đặt cho chúng tôi - “thương” cụ Thanh Long như vậy, thì bọn “chèo” lại không ưa cụ.
Chúng luôn tìm cách “hành” cụ, hoặc bắt cụ... cuốc thêm, phạt cụ ăn 12 kg, dọa sẽ cắt thăm nuôi...
Cụ Thanh Long thường bảo chúng tôi cái gì cũng... từ từ, mình còn tù trường kỳ, đâu có gì gấp. Ngờ đâu chủ trương “từ từ” của cụ rồi cũng đến tai... chèo!
Tên cán bộ trực trại hỏi cụ:
- Tại sao trong lúc phải tranh thủ đi nhanh ra hiện trường để thi đua làm sắn, anh cứ rề rề lùi lại phía sau. Có trại viên đứng lại chờ anh, anh lại nói: “Cứ từ từ”! Anh chống đối lao động hả?
Cụ cười:
- Nào tôi có chống đối bao giờ đâu. Cái chân tôi bị thấp khớp đi nhanh không được.
- Nhưng anh lại xui người khác từ từ...?
- Từ từ là tôi từ từ thôi...
- Anh về làm kiểm điểm cho tôi. Bắt đầu từ ngày mai, anh ăn mười hai kí!
Chiếc bánh bột mì luộc bằng lòng bàn tay là tiêu chuẩn thường lệ của mỗi người, hôm sau lúc phát cho cụ đã bị cắt một miếng. Miếng bánh được cát ra đó đem đặt vào tiêu chuẩn của anh Đinh Công Chất vì Chất “làm cho quên đời” được ăn mười tám kg. Tên “chèo” thưởng cho một người ăn thêm, nhưng trại không mất thêm chút nào. Nó cắt xén một người đang từ tiêu chuẩn 15kg xuống 12kg, để thưởng cho một người từ 15 kg lên 18 kg !
Do vậy, mà khi hiểu âm mưu “chèo”, anh Chất đã cầm mẩu bánh đem trả vào chiếc bánh mới bị cắt ra của cụ Thanh Long, rồi anh lấy chiếc bánh đó ăn và để chiếc bánh còn nguyên vẹn của mình cho cụ. Dĩ nhiên việc này không cho "chèo" biết và càng không để cụ hay được.
Vì cụ chẳng bao giờ quan tâm đến chuyện ăn uống, nên việc "chèo" có hạ tiêu chuẩn ăn hay không, cụ cũng không để ý nữa.
Trở lại câu chuyện đồng hương, bữa chúng tôi chuyển trại vào Thanh, lúc chiếc xe Ba Đình chở tù đi qua Thị Xã Ninh Bình, cụ chỉ tay vào bảng chỉ đường bảo tôi:
- Từ đây về phủ Kim Sơn chỉ còn hai mươi ba cây số, Phát Diệm hai mươi bảy cây. Ngày xưa có một dạo tôi ở chùa Đồng Đắc, cũng gần làng ông.
- Thưa Cụ, những năm cuối thập niên 30, ông già tôi thường xuống chùa Đồng Đắc lễ Phật.
Cụ Thanh Long ngạc nhiên:
- Nghe nói ông cụ có người anh ruột làm linh mục bên địa phận Bùi Chu?
- Dạ đúng, nhưng ông già tôi lại hay xướng họa thơ chữ Hán với quý vị lãnh đạo tinh thần bên Phật Giáo.
Cụ Thanh Long cười:
- Thảo nào ông thân với mấy ông sư. Thầy Thích Minh Thuần, Tuyên Uý Phật Giáo Sư Đoàn Dù, hồi sinh tiền vẫn nói với tôi là ông thường vô vãng cảnh chùa Hưng Pháp.
Xe đi qua cầu Hàm Rồng thì một hòn đá từ đâu liệng trúng vào tấm kiếng sát chỗ cụ ngồi.
Cụ hỏi tôi:
- Ông có biết tại sao họ ném đá vào xe mình không?
Tôi đoán chừng:
- Tôi chắc là đồng bào được nghe cán bộ tuyên truyền là sĩ quan “ngụy” ăn thịt người, nên xui họ tỏ thái độ...
Cụ Thanh Long vẫn cười, nhưng đầu cụ lắc lắc:
- Lần này ông... sai rồi! Đó là những năm trước khi chúng mình mới ra Bắc. Bây giờ thì đồng bào hiểu rồi.
- Vậy lần này...
Cụ chậm rãi:
- Lần này đồng bào bị lừa!
Tôi trố mắt:
- Đại sư nói đồng bào bị lừa?
Cụ gật gù:
- Lúc xe dừng lại bên này cầu Long Biên. Tôi được một anh tài xế xe Ba Đình cho hay trước, là anh ta nghe “chèo” nói với nhau lần này rỉ tai đồng bào dàn chào xe chở bọn tù binh “bành trướng Trung Quốc” mà “ta” bắt được trong trận chiến trên sáu tỉnh biên giới phía Bắc vừa qua. Tuyên truyền như vậy mới khích động căm thù trong dân chúng, vì Thanh Hóa cũng như các tỉnh, đều có bộ đội, dân công hy sinh trong những ngày Tầu “vượt biên”... xâm lược !
Tôi nói thêm:
- Và cũng để chúng ta hiểu lầm đồng bào còn căm thù mình... Tin tức nóng hổi như vậy mà Đại Sư cũng có sớm. Cụ thiệt thần thông quảng đại !
Cụ lại cười:
- Thần thông gì đâu? Có duyên may nên được biết, nên cũng... thông cảm với đồng bào.
Lúc đến Trại Thanh Phong, tôi may mắn ở cùng đội với cụ Thanh Long. Đội trưởng là anh Võ Văn Hổ. Chúng tôi gọi anh là... Cọp cho gọn. Cọp rất khéo léo, vừa không để “chèo” bắt bí, vừa không để anh em phải làm những việc mà tự bọn “chèo” nghĩ ra bắt tù phải làm, như một đội khác. Đối với cụ, Cọp một niềm trọng kính. Việc gì coi bộ quá nặng so với thể lực của mấy ông già, nhất là khi trong số những người phải làm lại có cụ Thanh Long, Cọp thường tiếp tay làm cho mau xong.
Cụ thường khen:
- Cọp khỏe và dễ thương lắm, lại hay giúp mấy ông già. Nếu “tự quản” nào cũng như Cọp thì anh em tù cũng đỡ khổ.
Chẳng những anh em quốc gia bị tù đỡ khổ mà cả mấy đứa con nít bên tù hình sự cũng đỡ đói.
Câu chuyện này về sau kể lại cho nhà thơ Thái Duy Đức nghe, thi sĩ rất tán thưởng:
- Thế là hơn mười năm trước, các anh em tù chính trị đã làm “diễn biến hòa bình” rồi !
Câu chuyện thật giản dị, chúng tôi làm vì tình người, không cần biết bọn trẻ đang bị cầm tù mất dạy như thế nào. Chỉ thấy chúng đang đói, đang lạnh. Chúng tôi cũng đói, cũng lạnh, nhưng so với tù hình sự, chúng tôi hạnh phúc hơn nhiều. Từ 1979, tù chính trị đã được thăm nuôi, hoặc được phép nhận quà ba kg, về Thanh Phong gói quà gia đình đã lên năm kg, cho nên mỗi khi có “thăm nuôi”, chúng tôi lại chuyển phần bo bo qua cho mấy đứa trẻ bên tù hình sự. Nói chuyển qua thì dễ, nhưng chuyển qua trót lọt, tránh được bao nhiêu con mắt cú vọ của đám “chèo”, của “ăng ten”... thì cũng phải tốn công phu. Thường thường một vài anh em trẻ, có sức liệng xa khiến chiếc túi ni lông có mấy “tiêu chuẩn” bo bo rơi đúng... vị trí. Còn cụ Thanh Long và tôi đứng hai đầu nhà canh chừng để nếu thấy đúng thời cơ, mới ra hiệu cho anh em liệng bịch ni lông bo bo qua bên kia hàng rào giây kẽm gai cho mấy đửa nhỏ đang chờ sẵn.
Được các bác, các chú miền Nam chi viện, bọn trẻ rất cảm động. Có đứa đã khóc. Ngoài rẫy làm mùa, chúng tôi được bọn trẻ biết ơn, kiếm giùm cho bó củi, bó rau. Dĩ nhiên chúng cũng mong được cho đồ ăn, cho quần áo, nhưng điều làm cụ Thanh Long và chúng tôi được an ủi là bọn trẻ mất dạy đã có lễ phép, biết nói cám ơn và nhất là chúng thấy rõ những điều được “giáo dục” căm thù quân “ngụy” của Công An coi tù là láo khoét.
Đó cũng là phần thưởng tinh thần cho chúng tôi và là những kỷ niệm khó quên trong thời gian chung sống với cụ Thanh Long.
Tiếc rằng cụ viên tịch trước khi tôi chuyển lời thăm của Cọp đến cụ. Vì cái lần chót mà tôi đến chùa Giác Ngạn - như trên đã viết - là để tiễn cụ về nơi yên nghỉ.
Tôi thắp hương lạy trước quan tài, như một Phật tử ngoan đạo và nói với cụ:
- Tôi thật có lỗi vì cả tháng nay lu bu ba cái giấy tờ chưa đến thăm Đại Sư được, bữa nay đến thì chỉ còn đưa tiễn Đại Sư.
Thứ năm vừa qua, Cọp đi Mỹ. Tôi ra sân bay Tân Sơn Nhất với Cọp. Cọp nói: “Ông già có đến chùa Giác Ngạn cho tôi gửi lời thăm Thầy Thanh Long.”
Mong Đại Sư sớm về cõi Đức Phật A Di Đà!
Lạy Đại Sư.
Cả rừng người đổ xô về chùa Giác Ngạn, trong đó dĩ nhiên có vợ chồng người Công Giáo từng đi thăm nuôi cụ, để vĩnh biệt “Nhà Sư của tôi.”
Để Tưởng niệm “Nhà Sư Của Tôi”
Cầu chúc Ngài sớm siêu thăng Lạc Quốc.
Hoàng Ngọc Liên
Source: http://hoangngoclien1.tripod.com/
Phòng Tuyên Uý -- E-Temple: HoPhap.Net CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
Trở lại Sacto vì chuyện nhà, và luôn dịp thăm ông bà nhà văn Trần Văn, tác giả cuốn sách dày 600 trang, với những bản cáo trạng biện minh cho trường hợp cựu trung tướng Việt Nam Cộng Hòa bị dư luận cô lập tình người mấy chục năm nay:
Đặng Văn Quang
Vinh Quang và Đau Khổ
Cựu trụng tướng đã được Chúa gọi về năm ngoái.
Và thăm nhà văn, thi sĩ Hoàng Ngọc Liên, cựu trung tá binh chủng Dù Việt Nam Cộng Hòa, đã lão lai, hiện cư ngụ tại một khu nhà già, sống với bộ computer lâu nay, không thân nhân ở cạnh, hiếm bạn vàng đối ẩm, khiến ông cứ độc thoại trước máy điện toán hồn nhiên, tinh vi, bí ẩn.
Nhưng bạn tri âm, tri kỷ computer lại rất ư là hiểu rõ từng chân tơ, kẽ tóc của ông, thi, văn sĩ Hoàng Ngọc Liên, sẵn sàng chia sẻ với ông những vui, buồn thời đại cùng riêng tư thầm kín, đến nỗi hôm nào, nó, máy điện toán kia, bị đau bất ngờ, tức hư gì đó, nhà thơ họ Hoàng, mà tôi tạm đặt là Hoàng Lão Tà, quay quắt bực mình, khổ sở không chịu được.
Tôi phone tới Hoàng Lão Tà:
- Đại huynh đó à, Cao tiểu muội đã từ thành Thiên Thần, tức Los Angeles tới Sac LôTô, chẳng hay đại huynh có tiếp?
Hoàng thi sĩ, tên Ngọc Liên, như phương danh một thiền viện, cười ha hả:
- Làm sao gặp được, ta lỡ ở một loại chung cư cao cấp, mà từ bề cây cao bóng cả sát cành nhau, bám sát một vòng rào sắt sơn đen như tất cả các khu apartment ở Mỹ, muốn tới ta, phải mở 2 lần cửa khóa: cửa sắt vòng rào và cửa gỗ unit cô liêu của ta.
- Dài dòng, đón hay không thì bảo, "bản chức" đã đứng trước sào huyệt phượng hoàng.
Nói thế, nhưng xe của ông bà nhà văn nhà báo Trần Văn, nguyên giám đốc cơ sở xuất bản Tiếng Vang ở Sacto, còn phải chạy thêm 5 dặm nữa mới tới. Từ xa, phu nhân nhà văn Trần Văn đã nói nho nhỏ:
- Kìa anh ấy đã đi đi, lại lại trước cửa chung cư.
Tôi thấy ông phục sức phần nào giống thi sĩ Bùi Giáng ở đô thành Saigon sau 30-4-1975. Tức là nhiều lớp áo, mà lớp trong thường dài hơn lớp ngoài. Buổi trưa không khí Sacto thành, mấy hôm nay gần hoặc hơn 90 độ, tôi là người... sốt rét kinh niên, mà cuối mùa xuân, sang đầu mùa hạ, đã đang mặc áo ngắn tay, ông lại... đón thu về quá sớm.
Chúng tôi kính cẩn chào niên trưởng trong đại tộc Kaki của... tôi, nhà thơ cười móm mém:
- Ở xa quá mà, lên chơi hay có việc gì?
- Việc nhà, nhưng cũng phải diện kiến đại huynh chứ.
Có một tầng lâu thôi, mà vẫn phải dùng thang máy, vì tuổi tác chúng ta mệt quá rồi, chẳng còn hơi sức leo hàng chục nấc thang.
Cửa phòng mở toang, rồi đóng lại, để giữ cho khu apartment... không có một tiếng động dù lỡ có bật cười.
Khi chủ nhà và 3 người khách đã an tọa, tôi bắt đầu "mở máy mồm":
- Anh đọc sơ thời khóa biểu hàng ngày.
- Sáng thức dậy, độc ẩm sơ sài chút cà phê, nước trà, loại uống liền. Sau đó ngồi trước bàn computer internet, xem email gần xa. Rồi tin tức, âm nhạc. Trưa ăn cơm xong, nghỉ, ngủ độ vài giờ. Tỉnh giấc trưa, tưởng như đã xế, lại computer internet, phone, fax khi cần, đôi khi cũng thú vị lắm, cười bò ra vì lão bạn vàng kể lể chuyện tới hospital vv... Tất nhiên lại cơm tối, và còn gì khác hơn, là chờ giấc ngủ "miên trường" mà nhà thơ Bùi Giáng lúc sinh thời hay đề cập đến, nhưng giờ tôi thì không nghĩ "miên trường"...
- Vâng, đoạn trường ai có qua cầu sinh, lão, bệnh... mới hay.
- Cô này nói đúng quá chứ.
- Thì em cũng đang đứng giữa nhịp cầu sinh, lão, bệnh ấy. Ước mơ của tuổi già... em bây giờ, là được khỏe mạnh thôi.
Có nghĩa tôi vẫn còn... yêu đời quá, chưa chịu dọn mình chuẩn bị đi xa. Ôi, đi hay ở với mọi người chúng ta, thất thập cổ lai hy trở lên đặt trong tay Chúa chứ. Song, đôi bàn tay Chúa mở ra thế kia, lại cũng có nghĩa là Ngài cho phép thế nhân tự quyết định vận mệnh mình, khôn nhờ, dại chịu đấy ạ.
- Cô nhỏ này (tức là ông nghĩ về tôi cách đây cả nửa thế kỷ, có khi hơn nữa rồi) vẫn ranh quá chứ. Đúng đấy, bình an, khỏe mạnh là hoài bão của người già.
- Anh cho biết, bây giờ bạn già nào hay tới thăm anh, bạn văn thơ, bạn quân cán, bạn tù đầy, bạn tị nạn, quả mỗi người chúng ta đều rất nhiều bạn xưa nay mà.
Ông cười dòn tan, trở lại tư duy Hoàng Lão Tà. Đứa con tinh thần đầu tiên của ông, khoảng cuối thập niên 50 thế kỷ trước, là Hình Ảnh Những Mùa Trăng, văn suôi, ghi ngày in 25 tháng 3 năm đó.
Đứa con tinh thần út ít, có lẽ là tập truyện sau cùng ở hải ngoại này:
Viên Đạn Cuối Cùng.
Còn những đứa con tinh thần ở giữa, thú thật tôi không nhớ hết.
Tôi nói:
- Anh phải đọc 2 cuốn sách anh Năm Voi tức Mười Ngà đây mới phát hành, hay lắm:
Theo Chân Binh Đoàn 692.
Đặng Văn Quang - Vinh Quang và Đau Khổ mới thấy phấn khởi, hòa đồng ý nghĩa của Tình Người, vì tác giả, nhà văn, nhà báo Trần Văn quan niệm: làm được gì và giúp được gì cho ai, ông bà ấy sẽ làm ngay.
Anh nên đọc, vì anh là chiến hữu HO, anh sẽ thấy bạn bè anh và anh ở trong đó. Mà anh ở trong đó thực, vì tên anh, cựu tù, trung tá Dù Hoàng Ngọc Liên, Trần Văn viết về quý bạn Kaki rất là trân trọng đấy.
Dễ có mấy năm nhị vị Trần Văn và Hoàng Ngọc Liên không gặp nhau vì nhiều lý do như mưu sinh, phương tiện đi lại, hay một vài chi tiết khác. Bạn già ở hải ngoại mà không có giới trẻ hỗ trợ, thì cũng khó có cơ hội hàn huyên. Ngoại trừ một số ít ông già, bà cả biết email hay năng điện thoại, còn như tôi phone, fax, email đều lười, muốn viếng thăm nhau là phải kết hợp 3, 4 chuyện mới thực hiện được.
Tường vách chung cư thường màu vàng sậm, đã trong cảnh hoàng hôn còn thêm quan tái, chưa kể những căn chung cư thích khiêm tốn, không muốn vươn cánh cửa sổ ra, sao mà não nề, buồn bã thế.
Tôi trao tặng thi sĩ niên trưởng Hoàng Ngọc Liên bài thơ mới viết Phiên Sầu Sacto, ông nhanh nhẹn mở computer, đánh máy cái rụp rồi in ra mấy bản:
- Đây, muốn... biếu ai thì biếu, để thơ cô trong máy được rồi, thời đại vi tính, giữ bản giấy chật nhà.
Chỉ thăm ông được một lần, điện thoại vài lần ngắn gọn, vì người nghe phải nghe tiếng lớn, và kẻ nói lại sợ hết phút phone tay, tiêu chuẩn có mấy trăm phút phù du, mà thao thao bất tuyệt nửa thời gian già được con cái chia cho rồi.
Trên đường về, không phải "nhớ đầy" như lời thơ Hồ Dzếnh xưa, dù chiều Sacto cũng đang "đưa chân ngày" như nội dung bài thơ Chiều của người thi sĩ Tàu lai đương nêu, đã được phổ nhạc từ hơn nửa thế kỷ nay, thành ra làm thơ hay, không định nổi tiếng, ông Hồ Dzếnh đã nổi tiếng mau chóng từ bao giờ bởi âm hưởng Chiều.
Hoàng NGọc Liên với "Viên Đạn Cuối Cùng" sau chót, và Trần Văn với "Đặng Văn Quang - Vinh Quang và Đau Khổ" mới đây, đã xóa đi lằn ranh... nổi tiếng trước hay sau, bây giờ quý ông đều viết lách, đều lão lai, hãy tìm đến bên nhau chia sẻ vui buồn đời tị nạn là ý nghĩa nhất, từ đó an tâm khoảnh khắc còn lại hắt hiu ở xứ người.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình phát biểu trước Quốc hội Việt Nam ở Hà Nội vào sáng ngày 6/11/2015.
AFP
“VN-TQ, tiền đồ vận mệnh tương quan”
Nhân vật quyền lực nhất Trung Quốc Tập Cận Bình đến Việt Nam ngày 5/11/2015 với một thông điệp rõ ràng: “Việt Nam-Trung Quốc, tiền đồ vận mệnh tương quan”. Họ Tập đến Hà Nội và được tiếp đón với nghi thức trọng thể nhất và trên báo chí Việt Nam thể hiện hai hình ảnh tương phản, lễ nghi hoành tráng bên cạnh thông tin lũ miền Trung đang lên nhanh nhiều người chết và mất tích.
Đọc bài tường thuật của Thanh Niên Online và nhiều báo điện tử khác, người đọc báo hiểu rằng, ông Tập Cận Bình ngay sau khi bước xuống sân bay Nội Bài trưa 5/11/2015 đã lập tức có bài phát biểu đầu tiên mà không chờ tới lễ đón chính thức sau đó ở Phủ Chủ tịch. Bài phát biểu sớm này có nhiều câu chữ đáng chú ý, mà báo Thanh Niên đã dùng đặt tựa bài của mình. Đó là “Việt Nam - Trung Quốc, tiền đồ vận mệnh tương quan.” Có những ý kiến cho rằng, nhà lãnh đạo Trung Quốc không bỏ lỡ cơ hội về điều gọi là xiết chặt thòng lọng chính trị đối với Đảng và Nhà nước Cộng sản Việt Nam. Phát biểu của ông Tập có ý nghĩa rất rõ ràng.
Tôi cũng cảm có một cái gì bất ngờ, không bình thường, không hiểu người ta nghĩ thế nào mà người ta để ông Tập Cận Bình nói chuyện trước Quốc hội. Đó là một phong cách hiếm khi thấy các nước Xã hội chủ nghĩa làm và những việc nói trước Quốc hội thường là những việc của các nước dân chủ. Đó là 1 việc làm cho tôi hơi bất ngờ.
-LS Trần Quốc Thuận
Tất nhiên truyền thông báo chí chính thức đã không đề cập gì tới các hoạt động phản đối chuyến thăm Việt Nam của ông Tập Cận Bình diễn ra ở Hà Nội và Saigon từ vài ngày trước. Đặc biệt là cuộc biểu tình tuần hành ở hai thành phố lớn nhất nước ngay trong ngày 5/11. Tin và hình ảnh ghi nhận từ truyền thông xã hội, cho thấy một số người biểu tình bị đánh đập đổ máu và tạm giữ ở Hà Nội cũng như Saigon. Trên Youtube truyền tải hình ảnh cuộc tuần hành ở công trường Hồ Con Rùa và khu vực tiếp cận Tổng lãnh sự quán Trung Quốc tại TP.HCM. Một nhóm vài chục người biểu tình bị lực lượng an ninh giải tán bằng dùi cui, gậy gộc. Đặc biệt hình ảnh được phổ biến nhiều nhất là khuôn mặt đẫm máu của Kỹ sư Trần Bang, một cựu binh trận chiến biên giới phía Bắc 1979. Ông Trần Bang hét to rằng ông chết để đuổi Tập Cận Bình ra khỏi Việt Nam.
Cuộc biểu tình chống ông Tập Cận Bình sáng 5/11 trước Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội cũng bị giải tán mau lẹ. Blogger Nguyễn Hữu Vinh có mặt trong đoàn tuần hành đã trả lời Đài ACTD khi bị lực lượng an ninh hốt lên xe.
“Sáng nay 5/11 có một số người tập trung trước vườn hoa đối diện Đại sứ quán Trung Quốc để phản đối chuyến thăm của Tập Cận Bình. Khi chúng tôi ở đó thì bị lùa lên xe và đang đi trên đường. Chúng tôi biết họ chở về số 6 Quang Trung, Hà Đông là trụ sở Công an Hà Nội. Chúng tôi không biết vì lý do gì mà chúng tôi phải đi về trên chiếc xe buýt này.”
Truyền thông nhà nước đưa tin lễ đón chính thức Chủ tịch Tập Cận Bình và Phu nhân diễn ra vào lúc 15g30 chiều 5/11 tại Phủ Chủ tịch với nghi thức cao nhất, hình ảnh duyệt hàng quân danh dự nhiều màu sắc và 21 phát đại bác chào mừng. Theo tường thuật của Thanh Niên Online, thì trong cuộc hội đàm sau đó giữa hai vị Tổng Bí thư hai đảng cộng sản, ông Nguyễn Phú Trọng đã đề nghị Trung Quốc không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, gây căng thẳng tình hình Biển Đông. Đặc biệt ông Nguyễn Phú Trọng đề nghị Trung Quốc và Việt Nam cùng duy trì nguyên trạng và không theo đuổi mục tiêu quân sự hóa. Tuy vậy ông Trọng cũng đề nghị hai bên tăng cường xây dựng lòng tin để triển khai thuận lợi các dự án hợp tác trên biển mà hai bên đã nhất trí.
Biểu tình chống ông Tập Cận Bình tại Sài Gòn hôm 5/11/2015.
Có ý kiến cho rằng nhà báo ưu tiên chọn vấn đề tranh chấp Biển Đông để tường thuật cuộc hội đàm giữa hai nhà lãnh đạo Việt Trung là một chọn lựa khôn ngoan, giữa bối cảnh công luận Việt Nam sôi sục về việc Bắc Kinh nói một đàng làm một nẻo, không những lấn chiếm biển đảo mà còn ngang ngược bách hại ngư dân Việt Nam trên biển, cản trở cuộc mưu sinh của ngư dân. Theo tin các báo thì không thấy hai ông Tổng Bí thư hai Đảng đề cập gì tới việc Hoa Kỳ thực thi quyền tự do hàng hàng hải hàng không ở Trường Sa, đặc biệt áp sát các đảo nhân tạo mà Trung Quốc xây dựng và đang quân sự hóa.
16 chữ vàng và 4 tốt
Theo dõi truyền thông báo chí chính thức đưa tin về cuộc hội đàm giữa hai Tổng Bí thư chiều 5/11 ở Hà Nội, thì không thấy Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nói gì về vấn đề Biển Đông mà ông Nguyễn Phú Trọng đề nghị. Họ Tập vẫn hành xử như tất cả các lãnh đạo Trung Quốc khác, lập lại phương châm 16 chữ vàng và 4 tốt vốn được khai sinh từ sau Hội nghị Thành Đô 1990, một thập niên sau trận chiến tranh biên giới 1979 mà kẻ thù xâm lăng chính là Trung Quốc. Ngày 5/11/2015, ông Tập Cận Bình một lần nữa nhắc lại quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Trung-Việt theo phương châm gọi là “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “ láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.
Phương châm 16 chữ vàng và và tinh thần 4 tốt trong quan hệ Việt Trung được các học giả trí thức Việt Nam mô tả là một sự mỉa mai đối với thực tế đã diễn ra trên biển đông từ nhiều năm nay. Tuy vậy ông Tập Cận Bình trong lần tới Việt Nam này, cũng mang theo một món quà cho Đảng và Nhà nước Việt Nam, đó là khoản viện trợ 1 tỷ nhân dân tệ trong 5 năm tới, trợ giúp Việt Nam xây dựng các công trình cải thiện dân sinh như trường học, bệnh viện. Ngoài ra còn có hai khoản vay ưu đãi tổng cộng 550 triệu USD. Cũng là một sự kiện trớ trêu, một trong hai khoản vay là bổ sung 250 triệu USD cho Dự án đường sắt đô thị Cát Linh-Hà Đông. Được biết dự án này bị chậm trễ, gây nhiều tai nạn lao động và đội vốn là do trách nhiệm của nhà thầu Trung Quốc mà Việt Nam không được quyền thay thế.
Sáng nay 5/11 có một số người tập trung trước vườn hoa đối diện Đại sứ quán Trung Quốc để phản đối chuyến thăm của Tập Cận Bình. Khi chúng tôi ở đó thì bị lùa lên xe và đang đi trên đường. Chúng tôi biết họ chở về số 6 Quang Trung, Hà Đông là trụ sở Công an Hà Nội. Chúng tôi không biết vì lý do gì mà chúng tôi phải đi về trên chiếc xe buýt này.
-Blogger Nguyễn Hữu Vinh
Báo chí chính thức cũng đưa tin, cùng trong buổi chiều ngày đầu tiên viếng thăm Việt Nam, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã hội kiến với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ở Trụ sở Chính phủ Việt Nam. Ông Dũng đã không có phát biểu nào đáng chú ý, có phần nói năng êm dịu hơn ông Nguyễn Phú Trọng, theo thông tin chính thức được phổ biến.
Cùng ngày 5/11 báo chí Việt Nam cũng đưa thêm tin về việc Chủ tịch Tập Cận Bình vào sáng 6/11 có bài phát biểu tại Quốc hội Việt Nam. VTC News trích lời ông Nguyễn Hạnh Phúc, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội tiết lộ một điều khá thú vị. Theo đó chính phía Trung Quốc đề nghị để ông Tập Cận Bình phát biểu trước Quốc hội Việt Nam.
Được biết, theo thông lệ quốc tế đọc diễn văn trước Quốc Hội một quốc gia là hoạt động đặc biệt quan trọng đối với quốc khách và phải được chính Chủ tịch Quốc hội của quốc gia đó gởi lời mời. Việc phía Trung Quốc đề nghị để ông Tập Cận Bình phát biểu trước Quốc Hội là không bình thường mà một chuyên gia nói đùa là như kiểu trong nhà bảo nhau.
Trả lời Cát Linh Đài ACTD hôm 2/11 Luật Sư Trần Quốc Thuận nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội hiện nghỉ hưu ở Saigon đã nhận định.
“Tôi nghe tin này thì tôi cũng cảm có một cái gì bất ngờ, không bình thường, không hiểu người ta nghĩ thế nào mà người ta để ông Tập Cận Bình nói chuyện trước Quốc hội. Đó là một phong cách hiếm khi thấy các nước Xã hội chủ nghĩa làm và những việc nói trước Quốc hội thường là những việc của các nước dân chủ. Đó là 1 việc làm cho tôi hơi bất ngờ.”
Đúng như lịch trình, trưa ngày 6/11/2015, Tổng bí thư Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã có bài phát biểu tại Hội trường Quốc hội, báo chí không được dự mà phải theo dõi trên màn hình ở phòng bên cạnh và khi ông Tập phát biểu bằng tiếng Hoa nhà báo không được phiên dịch. Người Lao Động Online trích lời Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của QH, ông Lê Như Tiến cho biết theo nguyên văn: “Bài phát biểu của ông Tập Cận Bình tập trung nói đến cảm hứng hữu nghị, láng giềng hữu nghị, còn những vấn đề “nhạy cảm, khó nói” thì ông Tập Cận Bình không nhắc đến trong bài phát biểu như vấn đề tranh chấp Biển Đông.”
Tờ báo còn trích lời Luật sư Trương Trọng Nghĩa, đại biểu QH Đoàn TP HCM, nói rằng: “Trong bài phát biểu của mình trước QH, ông Tập Cận Bình không đưa ra một cam kết, hứa hẹn gì về việc tôn trọng chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa”.
Bên cạnh chuyến viếng thăm cấp nhà nước của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, báo chí cũng đưa tin về một cuộc viếng thăm khác cùng thời gian của Bộ trưởng Quốc Phòng Nhật Bản ông Gen Nakatani. Các chuyên gia mô tả sự có mặt của ông Nakatani từ ngày 5-7/11 mang một ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Theo VietnamNet và Zing News, sáng 5/11/2015, Bộ trưởng Quốc Phòng Nhật Bản ông Gen Nakatani đã trung chuyển ở Tân Sơn Nhất trước khi đáp may bay đến sân bay Cam Ranh. Ông Nakatani đã viếng thăm Quân cảng Cam Ranh để quan sát hoạt động tiếp vận và phương tiện ở vịnh sâu kín gió này. Trước đó báo Nikkei của Nhật Bản đưa tin kể từ năm tài khóa 2016 bắt đầu 1/4/2016 Tokyo có kế hoạch sử dụng Cam Ranh để các tàu chiến của Nhật được tiếp vận nhiên liệu, thực phẩm và hàng tiếp liệu phẩm khác trong khi hoạt động ở biển Nam Trung Hoa, tức Biển Đông Việt Nam cụ thể là vùng Trường Sa.
Tin chính thức ghi nhận chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Quốc Phòng Nhật Bản ông Gen Nakatani kéo dài từ 5-7/11/2015 theo lời mời của Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh. Cụ thể ngày 6/11 ông Nakatani sẽ đến Hà Nội và hội đàm với ông Phùng Quang Thanh, nhiều khả năng hai bên sẽ ký kết văn kiện liên quan tới việc tàu Nhật được phép ra vào quân cảng Cam Ranh.
Kể cũng là một sự trùng hợp lý thú, Bộ trưởng Quốc Phòng Nhật Bản ông Gen Nakatani có mặt ở Hà Nội cùng lúc với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Quan điểm của Nhật Bản là ủng hộ Hoa Kỳ xoay trục về châu Á và hoan nghênh việc thực thi tự do hàng hải và hàng không, như sự kiện khu trục hạm Lassen có máy bay hộ tống áp sát các đảo nhân tạo mà Trung Quốc bồi đắp ở Trường Sa.
Phát biểu chiều thứ Năm 5/11, ngày đầu trong chuyến thăm Việt Nam, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nói: "nguyện cùng Việt Nam nhìn về đại cục, hướng về lâu dài, tôn trọng lẫn nhau".
Hãng thông tấn Reuters mô tả chuyến thăm là “ấm áp”: “Dù Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình không được đón bằng cỗ xe mạ vàng hay mời bia trong quán pub của thủ tướng khi đến Việt Nam, nhưng một màn đón tiếp ấm áp đã sẵn sàng bởi cả hai bên đều tìm kiếm một cách sửa chữa mối quan hệ sau một căng thẳng năm ngoái”
“Với nhiều hồ nghi, các chuyên gia nói chuyến thăm Việt Nam của ông Tập,” cho ông ta cơ hội hàn gắn các vết thương và nhắc nhở các lãnh đạo Đảng rằng Bắc Kinh có rất nhiều thứ dành cho họ.”
“Đằng sau những nụ cười sắp đặt và những cái bắt tay nồng ấm, nhiều thứ còn phụ thuộc vào chuyến thăm của ông Tập trong bối cảnh phải cạnh tranh với Washington và chưa rõ ai sẽ trở thành lãnh đạo của Việt Nam sau kỳ đại hội Đảng này,” Reuters bình luận.
Trong khi đó hãng tin AFP nói về các cuộc biểu tình chống ông Tập đến Việt Nam diễn ra tại TP.HCM và Hà Nội:
“Biểu tình hiếm khi diễn ra trong chế độ độc đảng ở Việt Nam nhưng trong những năm gần đây nhà cầm quyền cũng đã chấp nhận một số ít các cuộc biểu tình chống lại đồng lại đồng minh Trung Quốc của mình. ”
Tân Hoa Xã nhận định chuyến thăm của ông Tập là “chuyến thăm cao cấp trong các trao đổi ngoại giao thường lệ, vì hai nước đã cùng thấy một mối quan hệ gần gũi hơn sau khi quan hệ rơi xuống thấp điểm năm ngoái vì sự kiện ở Nam Hải (Biển Đông).”
Hãng tin này cũng nói, chuyến thăm nhằm "hạ nhiệt những xung đột trong vùng dựa trên nguyên tắc" hai nước láng giềng có khả năng và ý chí để tôn trọng sự khác biệt" và họ không nên để thế giới bên ngoài can thiệp vào.”
Một bài bình luận trên Tân Hoa Xã viết: "Bắc Kinh và Hà Nội không bao giờ nên đánh mất tự tin khi phải đối mặt với những gáo nước lạnh hay để bùn vấy bẩn mối quan hệ này. Họ cũng không nên cho phép các quan điểm hạn hẹp và ý đồ xấu làm lầm lạc đám đông dẫn đến vực thẳm đối đầu không lường trước được."
Tờ China Daily gọi việc đàm phán giữa Việt Nam và Trung Quốc là "cách tiếp cận đúng". Tờ này cũng miêu tả ông Nguyễn Phú Trọng "nhấn mạnh rằng tình bạn hai nước đã phát triển nhiều năm và đồng ý kiểm soát hiệu quả những tranh chấp với Trung Quốc".
Trang tin này cũng cho biết sau cuộc gặp, lãnh đạo hai nước cùng chứng kiến nhiều thỏa thuận thương mại được ký kết. Trong đó, Bắc Kinh và Hà Nội sẽ triển khai một hệ thống đường sắt nối Hà Nội với Lào Cai - một tỉnh biên giới với Trung Quốc, và ở Hải Phòng. Tuyến đường sắt dài khoảng 381km, với vốn đầu tư 4,4 triệu USD.
Báo Japan Times của Nhật dẫn lời giới quan sát nói chuyến thăm hai ngày của ông Tập nhiều khả năng không đạt được nhiều tiến bộ trong căng thẳng chủ quyền lãnh thổ.
“Cá nhân tôi nghĩ khó giải quyết được các tranh chấp chủ quyền khi Việt Nam và Trung Quốc vẫn duy trì lập trường của họ,” ông Dương Danh Dy, cựu Tổng Lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu nói.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nói với Quốc hội trước giờ ông Tập Cận Bình đến thăm và phát biểu trước Quốc hội Việt Nam hôm 6/11:
"Tôi mong dù còn có ý kiến khác nhau nhất định nào đó nhưng đón khách đến nhà chúng ta cần tỏ thái độ hiếu khách và ứng xử văn hóa".
"Đề nghị các đại biểu Quốc hội đón tiếp khách đến nhà với tinh thần như thế. Chúng ta trao đổi rất nghiêm túc, thẳng thắn về các vấn đề nhưng rất thiện chí," ông Hùng nói.
Dường như Đài truyền hình Việt Nam không truyền trực tiếp sự kiện này
Qua chuyến thăm của Tập Cận Bình - Hiện rõ bức tranh đối lập giữa nhân dân và nhà nước cộng sản!
Thất Lĩnh (Danlambao) - Sau chuyến viếng thăm của Tập Cận Bình, Cộng sản Việt Nam và Trung cộng đã ra nhiều tuyên bố chung. Trong đó, có một yếu tố khiến nhiều người nghĩ đến kịch bản Việt Nam trở thành thuộc địa Trung cộng vào năm 2020, đúng như giao ước Thành Đô, đó là tạo điều kiện để Trung cộng mở tổng lãnh sự quán tại Đà Nẵng!
Với diện tích quốc gia như Việt Nam, việc đặt đại sứ quán tại Hà Nội và tổng lãnh sự tại Sài Gòn xem như quá đủ để thực hiện công tác ngoại giao. Như vậy, Trung cộng muốn mở tổng lãnh sự quán tại Đà Nẵng để làm gì? Thực chất những ai hiểu về chính trị, đại sứ quán và lãnh sự quán ngoài nhiệm vụ ngoại giao giữa hai quốc gia, còn kiêm thêm chức năng hoạt động tình báo và gián điệp.
Trong khi đó, từ Đà Nẵng đi ra Hoàng Sa và kể cả Trường Sa rất gần. Nếu tổng lãnh sự Trung cộng được thành lập thì trong đất liền có một cơ quan liên lạc và gián điệp, còn ngoài đảo Hoàng Sa - Trường Sa quân đội Trung cộng luôn ở tư thế sẵn sàng. Trên biển tàu quân sự Trung cộng cũng luôn trong tư thế chuẩn bị. Phải chăng tổng lãnh sự này là một mưu tính để đặt cơ quan điều khiển cho tất cả hoạt động của Trung cộng tại vùng biển miền Trung Việt Nam nhằm thực hiện mưu đồ tấn công Việt Nam từ phía biển? Đối với Trung cộng câu hỏi này không bao giờ thừa.
Thế mà cộng sản Việt Nam sẵn sàng tạo mọi điều kiện thuận lợi để bọn bành trướng Bắc Kinh có điều kiện mở tổng lãnh sự tại nơi này. Nếu xét về yếu tố kinh tế, nhập siêu của Việt Nam từ Trung cộng là một con số rất khủng. Xét về quan hệ ngoại giao Việt Nam luôn bị Trung Quốc đè đầu cỡi cổ kiểu bề trên. Bằng chứng là HD 981 đặt vào vùng biển Việt Nam một cách ngang nhiên. Đảo Hoàng Sa - Trường Sa của Việt Nam bị Trung cộng vùng vũ lực chiếm đóng. Ngư dân Việt Nam đánh bắt cá trong vùng biển Việt Nam cũng bị Trung cộng bắt giữ. Xét trong cả hai yếu tố kinh tế và chính trị Việt Nam đều bất lợi. Thế thì việc đặt tổng lãnh sự quán Trung cộng tại Việt Nam để làm lợi cho ai???
Theo báo chí lề đảng, đại biểu quốc hội Dương Trọng Nghĩa của Sài Gòn khẳng định phát biểu và tuyên bố của Tập Cận Bình trong chuyến thăm vừa qua không hề có ý giải quyết xung đột, mâu thuẫn đang tồn tại giữa Việt Nam và Trung Quốc. Tất cả chỉ là những ngôn từ chung chung hướng tới tương lai tốt đẹp viễn vông nào đấy. Điều này cho thấy Tập Cận Bình mang một tâm thế nước lớn, ngang tàng đến Việt Nam để chỉ đạo chứ không hề thể hiện tinh thần hòa hiếu như hắn nói rằng chữ “hòa” ăn sâu vào zen người Trung Quốc.
Trên tinh thần láo xược đó, đảng cộng sản Việt Nam vẫn long trọng chào đón. Tất cả các bức hình chụp các quan chức cao cấp Việt Nam đều ở tư thế cúi đầu trước Tập Cận Bình. Hình thức bên ngoài biểu hiện một sự nể sợ của một kẻ lệ thuộc trước mặt ông chủ. Trong khi đó, những người xuống đường biểu tình chống chuyến viếng thăm của tên trùm giặc cướp nước Tập Cận Bình thì bị đánh đập đổ máu và bắt bớ một cách vô lý. Hệ thống tuyên truyền của đảng cộng sản ra rả về tình hữu nghị keo sơn giữa hai đảng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam. Điều này gợi liên tưởng đến kịch bản 2020 đất nước Việt Nam sẽ được cộng sản Việt Nam dâng cho Trung cộng theo đúng giao ước
Trung Quốc tảng lờ chuyện Biển Đông với lãnh đạo và Quốc Hội CSVN
Phạm Trần (Danlambao) - Tổng Bí thư đảng, Chủ tịch Nhà nước Tập Cận Bình đã làm cho Lãnh đạo CSVN điên đầu với 4 thông điệp khó hiểu ngay trong ngày đầu tiên đặt chân đến thủ đô Hà Nội, 5/11/2015.
Ông Tập và phu nhân Bành Lệ Viên đi cùng phái đoàn cao cấp Trung Quốc thăm Việt Nam đến hết ngày 6/11 để đánh dấu 65 năm quan hệ ngoại giao giữa hai nước láng giềng nhưng chưa bao giờ được cơm lành canh ngọt vĩnh viễn.
Lần này ông Tập đến Hà Nội trong bối cảnh đảng CSVN chuẩn bị bầu lãnh đạo mới vào đầu năm 2016 và những bất đồng về chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông giữa hai nước tiếp tục căng thẳng, sau hai năm Trung Quốc cải biến và tân tạo 7 đá và đảo chiếm của Việt Nam ở Trường Sa năm 1988 để xây căn cứ quân sự và bến cảng.
Trước ngày họ Tập đến Hà Nội, cả Việt Nam lẫn Trung Quốc đều cố gắng giảm nhiệt bằng cách hạ thấp mức nghiêm trọng của xung đột Biển Đông để tập trung vào hợp tác kinh tế và thương mại.
Tuy nhiên, ông Tập đã gây bất ngờ cho nhiều giới Việt Nam với 4 thông điệp chứa đựng ít nhiều trái ngược nhau.
Thông điệp ở Nội Bài
Tại sân bay Nội Bài, ông Tập Cận Bình nói: “Tôi rất vui mừng sang thăm cấp nhà nước tới nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Nhân dịp này, tôi xin gửi tới toàn thể đảng viên Đảng CSVN và nhân dân Việt Nam anh em lời thăm hỏi chân thành và lời chúc tốt đẹp...”
“...Trung Quốc và Việt Nam là láng giềng hữu nghị núi sông liền một dãi, chế độ chính trị giống nhau, con đường phát triển tương đồng, tiền đồ vận mệnh tương quan. Sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao 65 năm, nội hàm quan hệ Trung-Việt ngày càng phong phú. Bước vào thế kỷ mới, quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện hai nước không ngừng đi sâu, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước, đóng góp quan trọng vào sự hòa bình, ổn định và phồn vinh của khu vực...”
“...Hiện nay, những nhận thức chung mà lãnh đạo hai đảng hai nước đã đạt được đang từng bước được thực hiện, quan hệ song phương đang không ngừng phát triển theo hướng xây dựng cộng đồng chung vận mệnh Trung Quốc và Việt Nam.
Phía Trung Quốc hết sức coi trọng mối tình hữu nghị truyền thống giữa Trung Quốc với Việt Nam, kiên trì coi quan hệ Trung-Việt từ tầm cao chiến lược và góc độ lâu dài, nguyện cùng với phía Việt Nam nhìn về đại cục, hướng về lâu dài, tôn trọng lẫn nhau, hiệp thương hữu nghị, cùng nhau thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện phát triển ổn định, lành mạnh và lâu dài.”
“...Tôi hy vọng thông qua chuyến thăm lần này, củng cố mối tình hữu nghị truyền thống, quy hoạch sự phát triển tương lai, thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Trung-Việt lên một tầm cao mới.
Chúc đất nước Việt Nam phồn vinh thịnh vượng, nhân dân hạnh phúc mạnh khỏe, chúc mối tình hữu nghị Trung-Việt mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững.” (Thông tấn xã Việt Nam, TTXVN)
Quả là một thái độ hòa nhã, không mảy may hé lộ những bất đồng vẫn tiềm ẩn giữa hai đảng và hai nhà nước. Nói từ tốn như ông thì ai dám nghi ngờ lòng dạ trong sáng của người láng giềng thường coi nhau“vừa là đồng chí vừa là anh em”!?
Thông điệp trên báo Nhân Dân
Trong thông điệp thứ hai của ông Tập có nhan đề "Tay trong tay mở ra tương lai tươi đẹp cho quan hệ Trung-Việt" được phổ biến trên báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận chính thức của đảng CSVN.
Ông Tập viết: “Tôi lần này đến thăm Việt Nam đúng vào dịp kỷ niệm 65 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước Trung-Việt. Là hai nước có niềm tin và lý tưởng tương đồng, có tương lai và vận mệnh tương quan, hai nước Trung-Việt giúp đỡ và ủng hộ lẫn nhau trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, nội hàm quan hệ song phương ngày càng phong phú, lợi ích chung ngày càng rộng rãi, hợp tác thiết thực giành được thành quả rực rỡ.
Điều đáng quý hơn là hai nước Trung-Việt đã giải quyết vấn đề hoạch định đường biên giới trên đất liền và vịnh Bắc Bộ thông qua hiệp thương hữu nghị, đặt cơ sở vững chắc cho ổn định, an ninh và phát triển chung ở vùng biên giới hai nước.”
Tuy nhiên sau đó lãnh đạo Trung Quốc lại đóng vai thầy đồ khi nói với độc giả của Nhân Dân về 4 kiên trì:
1) Chúng ta phải kiên trì xuất phát từ toàn cục, nhìn về lâu dài, nắm bắt định hướng đúng đắn phát triển quan hệ Trung-Việt.
2) Chúng ta phải kiên trì học tập lẫn nhau, tăng cường hợp tác, thực hiện phát triển và phồn thịnh chung.
3) Chúng ta phải kiên trì mở rộng giao lưu, tăng cường hiểu biết, củng cố cơ sở dân ý trong quan hệ hai nước.
4) Chúng ta phải kiên trì thông cảm lẫn nhau, hiệp thương hữu nghị, xử lý ổn thỏa vấn đề tồn tại.
Chủ tịch Tập Cận Bình còn “bày tỏ tin tưởng miễn là hai nước Trung-Việt tay trong tay cùng tiến lên, tăng cường hợp tác, tất sẽ mở ra tương lai tươi đẹp hơn cho quan hệ Trung-Việt, thực hiện sự phát triển và phồn thịnh chung của hai nước Trung-Việt.” (theo báo Quân đội Nhân dân).
Ngôn ngữ gọi là “kiên trì” của người Trung Hoa không dễ hiểu vì lịch sử quan hệ Việt-Trung từ sau năm 1975 đã chứng minh họ chỉ muốn người khác chịu khó nhẫn nhục làm theo đòi hỏi của họ, nếu không thì họ sẽ dùng võ lực để dành phần thắng cho mình.
Bằng chứng này đã xảy ra cho đảng CSVN từ 2 cuộc chiến tranh Biên giới phía bắc từ 1979 đến 1987 và cuộc chiến Trường Sa năm 1988.
Trung Hoa luôn luôn cổ võ lấy “đại cục”, hay vì quyền lợi chung của hai nước, hai dân tộc láng giềng có lịch sử chính trị, văn hóa và kinh tế tương đồng để nhân nhượng nhau khi giải quyết bất đồng, nhưng lại không muốn nhượng bộ để “cùng có lợi” như họ nói.
Tỷ dụ như cuộc xung đột ở Biển Đông đã cho thấy Trung Hoa luôn luôn coi các đá, đảo ở Biển Đông mà họ gọi là Biển Nam Trung Hoa là của tổ tiên họ để lại, nhưng không có tài liệu lịch sử chứng minh.
Họ chiếm quần đảo Hoàng Sa từ tay Quân lực Việt Nam Cộng hòa tháng 1/1974 và đánh chiếm 7 bãi đá, đảo khác ở Trường Sa năm 1988 mà cứ cãi là họ có quyền “lấy lại” vì phía Việt Nam đã đóng quân trái phép ở đó.
Thế rồi họ lại đòi “gác tranh chấp để cùng phát triển” trên Biển Đông, nhưng không quên nói rằng đó là “biển của ta”, tạm xếp lại chuyện tranh chấp để cùng khai thác rồi tính sau trong khi thực tế Trung Quốc chỉ muốn nhảy vào khai thác tài nguyên, dầu khí và khoáng sản của nhà người khác.
Thông điệp với đảng CSVN
Tại cuộc họp dài hơn 1 giờ với đoàn đảng CSVN do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cầm đầu diễn ra tại Phủ Chủ tịch, hãng tin Tân Hoa Xã (Xinhua) của Trung Quốc viết: “Hai bên nhất trí đồng ý thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Trung-Việt phát triển lành mạnh, ổn định, bền vững thể theo phương châm hợp tác láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai và tinh thần láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt.
Tổng Bí thư, Chủ tịch Tập Cận Bình nhấn mạnh, hai nước Trung-Việt núi sông liền một dãi, như môi với răng, Trung-Việt là cộng đồng vận mệnh mang ý nghĩa chiến lược. Tổng Bí thư, Chủ tịch Tập Cận Bình đã nêu ra kiến nghị 7 điểm về phát triển quan hệ hai Đảng, hai nước Trung-Việt.
- Một là, tăng cường định hướng chính trị, duy trì tiếp xúc cấp cao truyền thống.
- Hai là, sâu sắc giao lưu và hợp tác chính đảng.
- Ba là, kết nối chiến lược phát triển.
- Bốn là, tăng cường hợp tác trong mọi lĩnh vực.
- Năm là, tăng cường tình cảm hữu nghị, tăng cường giao lưu nhân văn.
- Sáu là, thúc đẩy hợp tác trên biển.
- Bảy là, tăng cường điều phối quốc tế.
Xinhua viết tiếp: “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bày tỏ, Đảng và Chính phủ Việt Nam chân thành chúc mừng những thành tựu giành được trong sự nghiệp phát triển đất nước của Đảng và Chính phủ Trung Quốc. Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam luôn quý trọng quan hệ Việt-Trung, sẽ kiên trì thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt-Trung phát triển sâu sắc thể theo phương châm 16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt, mở rộng hợp tác cùng có lợi, kiểm soát hữu hiệu sự bất đồng.”
Như vậy có phải ông Trọng đã đồng ý hoàn toàn với yêu cầu của họ Tập không?
Cũng ngạc nhiên là phía báo chí Trung Hoa đã không nói gì đến 3 Đề xuất của ông Trọng đưa ra với phái đòan Tập Cận Bình, trong đó Đề xuất thứ 3 quan trọng nhất vì liên quan đến vấn đề Biển Đông.
Nguyên văn: “Kiểm soát tốt bất đồng, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông, không để vấn đề này ảnh hưởng đến quan hệ hai nước. Đề nghị hai bên phối hợp chặt chẽ để kiểm soát hiệu quả tình hình trên biển; tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau; thực hiện nghiêm túc các nhận thức chung và thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước; duy trì nguyên trạng, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, gây căng thẳng tình hình.
Đề nghị Trung Quốc cùng Việt Nam đi đầu trong việc thực hiện nghiêm túc, đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và sớm xây dựng hiệu quả Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC); không theo đuổi mục tiêu quân sự hóa ở Biển Đông; tăng cường xây dựng lòng tin để triển khai thuận lợi các dự án hợp tác trên biển mà hai bên đã nhất trí. Đề nghị hai bên triển khai hiệu quả, thực chất các cơ chế đàm phán về vấn đề trên biển, tích cực trao đổi tìm kiếm biện pháp cơ bản, lâu dài hai bên đều chấp nhận được. Việt Nam có thái độ tích cực đối với vấn đề hợp tác cùng phát triển trên biển tại khu vực thực sự có tranh chấp theo luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982.” (Đài Tiếng nói Việt Nam, VOV-Voice of Vietnam)
Tin VOV cũng cho biết: “Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình bày tỏ tán thành những phương hướng và biện pháp lớn nhằm phát triển quan hệ hai Đảng, hai nước do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề xuất; cho rằng, hai bên cần tích cực nghiên cứu và thực hiện kết nối chiến lược phát triển và năng lực sản xuất, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển của mỗi nước, thúc đẩy hợp tác và kết nối kinh tế ở khu vực; khẳng định Trung Quốc không theo đuổi xuất siêu sang Việt Nam, sẵn sàng thúc đẩy cán cân thương mại song phương phát triển cân bằng, bền vững; sẽ khuyến khích doanh nghiệp Trung Quốc tăng cường hợp tác về thương mại và mở rộng đầu tư tại Việt Nam; nỗ lực cùng Việt Nam kiểm soát tốt bất đồng trên biển, duy trì đại cục quan hệ Trung - Việt và hòa bình, ổn định ở Biển Đông.”
“Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đề nghị, hai bên tăng cường phối hợp tại các cơ chế đa phương như Liên Hợp Quốc, APEC, ASEM, Trung Quốc - ASEAN; Trung Quốc và các nước ASEAN sẽ nỗ lực thúc đẩy đàm phán, xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC), góp phần duy trì hòa bình, thịnh vượng và phát triển của khu vực và thế giới...”
Trả lời như thế thì rõ ràng phiá Tập Cận Bình đã không có ý kiến gì về đề nghị “không quân sự hóa Biển Đông” của phiá Việt Nam, và cũng không bình luận gì với yêu cầu “duy trì nguyên trạng, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, gây căng thẳng tình hình” của ông Trọng, mặc dù đề nghị này đã được Việt Nam đưa ra nhiều lần với Trung Quốc, nhưng Bắc Kinh vẫn bồi đắp, tân tạo các vùng biển đảo ở Trường Sa.
Thông điệp với Nguyễn Tấn Dũng
Sau cùng là Thông điệp hợp tác, theo kiểu Trung Hoa của họ Tập nói với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Đó là:
“- Về chính trị hai bên cần tăng cường gặp gỡ cấp cao, trao đổi chiến lược.
- Về hợp tác kinh tế, hai bên cần thúc đẩy hợp tác thiết thực, kết nối chiến lược phát triển;
- Hợp tác về năng lực sản xuất giữa hai nước trong các lĩnh vực; thúc đẩy các lĩnh vực hợp tác trọng điểm và các dự án có tích chất tiêu biểu, cùng nhau tháo gỡ khó khăn để nâng cao hiệu quả của một số dự án hợp tác như Nhà máy Gang thép Thái Nguyên, Nhà máy Đạm Ninh Bình...;
- Tăng cường hợp tác biên giới; tích cực giải quyết mất cân đối thương mại giữa hai bên; đi sâu hợp tác tiền tệ, đẩy mạnh tự do hóa thương mại, đầu tư song phương.
- Tăng cường phối hợp tại các diễn đàn đa phương.
Về vấn đề trên biển Tổng bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình cho rằng hai bên cần kiểm soát tốt các bất đồng; thông qua hiệp thương để duy trì, giữ gìn ổn định trên biển.” (Tin Bộ Ngoại Giao Việt Nam)
Tuy nhiên, cũng giống như trong phiên họp với ông Trọng, họ Tập không trả lời yêu cầu chi tiết của ông Dũng về Biển Đông. Quan trọng nhất là chuyện toán tính “quân sự hoá” Biển Đông của Trung Quốc, và các vụ tầu đánh cá của Việt Nam liên tục bị lính Trung Quốc tấn công, cướp của và đánh người ở vùng biển Hoàng Sa.
Bản tin Bộ Ngọai giao Việt Nam viết: “Về vấn đề trên biển, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh, hai bên cần nghiêm túc thực hiện các thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao về vấn đề trên biển; nhất là “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc” bằng các hành động thực tế, nhất quán; sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt - Trung, kiên trì thông qua hiệp thương và đàm phán hữu nghị, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được. Duy trì hòa bình, ổn định và kiểm soát bất đồng trên biển; chân thành và thẳng thắn trao đổi, nghiên cứu vấn đề phi quân sự hóa ở Biển Đông; bảo đảm an ninh, an toàn hàng hải và hàng không ở Biển Đông; bảo đảm an toàn cho các hoạt động đánh bắt hải sản trên biển của ngư dân; tích cực đàm phán phân định đi đôi với hợp tác cùng phát triển ở khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, sớm đạt kết quả thực chất; nghiêm túc thực hiện đầy đủ, hiệu quả Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), thúc đẩy đàm phán thực chất để xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC).”
Nên biết từ 4 năm qua, Trung Quốc luôn luôn tìm cách mua chuộc vài thành viên của ASEAN, Hiệp hội các nước Đông Nam Á, đặc biệt như Cao Miên và Lào để phá vỡ đòan kết của ASEAN nên không bao giờ ASEAN đạt được sự đồng thuận khi nói chuyện với Trung Quốc.
Mặc dù Bắc Kinh luôn luôn nói sẵn sàng nói chuyện COC với ASEAN nhưng lại đòi phải có sự đồng thuận chung 10 nước trong ASEAN thì mới chịu thảo luận nghiêm chỉnh.
Vì vậy mánh lới “chia để trị” ASEAN của Trung Quốc đã làm cho việc thương thuyết lâm vào ngõ bí.
Tuyên bố chung
Lập trường của Trung Quốc về Biển Đông, thêm lần nữa đã thể hiện trong Điểm 7 của Tuyên Bố Chung 11 Điểm, kết thúc chuyến thăm Việt Nam của Tập Cận Bình ngày 06/11/2015.
Nguyên văn: “Hai bên đã trao đổi chân thành, thẳng thắn về vấn đề trên biển, nhấn mạnh nghiêm túc tuân thủ những nhận thức chung quan trọng đạt được giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước; nghiêm túc thực hiện “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc”, sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt - Trung, kiên trì thông qua hiệp thương và đàm phán hữu nghị, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, tích cực bàn bạc các giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, bao gồm tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển.
Hai bên tuyên bố khởi động hoạt động khảo sát chung trên thực địa tại khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ vào trung tuần tháng 12 năm 2015, cho rằng đây là bước khởi đầu quan trọng cho việc hai bên triển khai hợp tác trên biển; thúc đẩy vững chắc đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này; nhất trí gia tăng cường độ đàm phán Nhóm công tác cấp chuyên viên về vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, tiếp tục thúc đẩy công việc của Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển, tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm, tuyên bố khởi động dự án hợp tác nghiên cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocenne khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang.
Hai bên nhất trí cùng nhau kiểm soát tốt bất đồng trên biển, thực hiện đầy đủ và có hiệu quả “Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC), thúc đẩy sớm đạt được “Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông” (COC) trên cơ sở hiệp thương thống nhất, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp; xử lý kịp thời, thỏa đáng vấn đề nảy sinh, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông và quan hệ Việt - Trung.”
Nội dung này không phản ảnh 2 đề nghị mới và thiết thực của ông Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói với Tập Cận Bình liên quan đến “không theo đuổi mục tiêu quân sự hóa ở Biển Đông” và “bảo đảm an toàn cho các hoạt động đánh bắt hải sản trên biển của ngư dân”.
Quốc Hội - Trương Tấn Sang
Thái độ “gỉa điếc làm ngơ” yêu cầu mới của Việt Nam còn được Tập Cận Bình biểu diễn trong Diễn văn dài 20 phút trước 500 Đại biểu Quốc Hội CSVN sáng 06/11 (2015).
Họ Tập đã kể lể dông dài lịch sử về quan hệ gắn bó mật thiết, giúp đỡ lẫn nhau giữa hai đảng, nhà nước và hai dân tộc được xây dựng và không ngừng bồi đắp từ thời Mao Trạch Đông-Hồ Chí Minh, nhưng không nói, dù một chữ, đến Biển Đông, (hay Biển Nam Trung Hoa) trong diễn văn.
Ông Tập nói: “Hai nước Trung Quốc - Việt Nam núi sông liền một dải, nhân dân hai nước có truyền thống hữu nghị lâu đời; cùng nhau kề vai, sát cánh trong cuộc đấu tranh giành độc lập và giải phóng dân tộc, xây dựng nên tình hữu nghị thắm thiết. Trong công cuộc xây dựng CNXH mang đặc sắc của mỗi nước, hai bên cũng không ngừng học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau để giành được những thành quả tốt đẹp. Quan hệ hai nước đã vượt qua quan hệ song phương bình thường, có ý nghĩa chiến lược cực kỳ quan trọng.”
Nhìn thẳng vào các Đại biểu, ông Tập nhấn mạnh: “Chữ tín là nền tảng để làm bạn... là hai quốc gia có lợi ích chung rộng rãi, hợp tác hữu nghị là trào lưu chính, hai bên cần kiên trì lấy đại cục hữu nghị Việt-Trung và đại cục phát triển của hai nước làm trọng, tôn trọng lẫn nhau, hiệp thương hữu nghị, xử lý thỏa đáng các bất đồng... Trung Quốc hết sức coi trọng phát triển quan hệ với Việt Nam, nguyện cùng với phía Việt Nam kiên trì phương châm láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai với tinh thần láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt, thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt-Trung tiếp tục phát triển ổn định và lành mạnh, mang lại lợi ích to lớn hơn nữa cho nhân dân hai nước.”
Như bắt mạch được sự khó chịu của Quốc Hội VN, ông Tập Cận Bình an ủi: “Láng giềng thì khó tránh xảy ra va chạm, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình đề nghị hai bên cần kiên trì, lấy đại cục quan hệ hai nước làm trọng, thông qua hiệp thương hữu nghị và hòa bình, kiểm soát và xử lý bất đồng một cách thỏa đáng. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình nói, khi đại sự được coi trọng thì tiểu sự sẽ không khó giải quyết.” (Trích Đài Tiếng Nói Việt Nam, VOV-Voice of Vietnam).
Trong tất cả các cuộc tiếp xúc giữa Tập Cận Bình và lãnh đạo CSVN, ngoài chuyện 2 ông Trọng-Dũng đã bày tỏ lập trường mới của Việt Nam về xung đột ở Biển Đông thì Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã nói thẳng ra sự bất bình của nhân dân Việt Nam trước hành động của đảng và nhà nước Trung Quốc.
Ông Sang nói với họ Tập trong cuộc họp sáng 6/11 (2015): “Những năm gần đây, lòng tin về quan hệ hai Đảng, hai nước trong một bộ phận quần chúng nhân dân, cán bộ, đảng viên đã bị suy giảm bởi những tranh chấp, bất đồng giữa hai nước về vấn đề trên biển cũng như việc một số thỏa thuận hợp tác giữa hai nước không được thực hiện đầy đủ.”
Do đó, theo báo diện tử Đảng CSVN thì ông Sang đã: “Đề nghị hai bên cần tăng cường xây dựng tin cậy chính trị, thúc đẩy hợp tác, tích cực tìm cách giải quyết thỏa đáng những vấn đề tồn tại. Bất đồng giữa hai nước về vấn đề Biển Đông là thực tế, nhưng quan trọng nhất là hai bên phải tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, kiểm soát tốt tình hình, phải thực hiện nghiêm túc những thỏa thuận và nhận thức chung của Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước; thông qua đàm phán giải quyết các mâu thuẫn một cách thỏa đáng, không có hành động làm phức tạp và mở rộng tranh chấp, không theo đuổi mục tiêu quân sự hóa ở Biển Đông; đảm bảo an toàn hàng hải, hàng không và các hoạt động đánh bắt hải sản bình thường của ngư dân; cùng nhau tạo dựng và gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định phục vụ mục tiêu phát triển của cả hai nước và của khu vực. Hai bên có thể triển khai thúc đẩy các lĩnh vực, dự án hợp tác trên biển, phù hợp với luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, tuân thủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), sớm ký Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).”
Vậy ông Tập trả lời ra sao?
Báo ĐCSVN viết: “Về vấn đề trên biển Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình cho rằng, hai bên cần nỗ lực kiểm soát các bất đồng thông qua hiệp thương để duy trì hòa bình, ổn định trên biển; cùng với việc đẩy mạnh các lĩnh vực hợp tác khác, tin tưởng rằng những nhận thức chung đạt được giữa hai nước trong chuyến thăm này sẽ mở ra tương lai rộng lớn, tạo nền móng để hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước phát triển hữu nghị, hợp tác ổn định, lâu dài.”
Lối nói xã giao cho qua đường của họ Tập hẳn đã thấm sâu trong não trạng của ông Sang.
Lợi ích kinh tế hay lệ thuộc?
Trong thời gian chuyến thăm, theo Tuyên Bố Chung: “Hai bên đã ký các văn kiện hợp tác: “Kế hoạch hợp tác đào tạo cán bộ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc giai đoạn 2016 - 2020”, “Hiệp định về tàu thuyền đi lại tại khu vực tàu thuyền đi lại tự do ở cửa sông Bắc Luân giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”, “Hiệp định hợp tác bảo vệ và khai thác tài nguyên du lịch thác Bản Giốc giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”, “Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về việc thành lập Trung tâm Văn hóa nước này tại nước kia”, “Công hàm trao đổi giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về việc khả thi tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng”, “Bản ghi nhớ về việc thúc đẩy hợp tác năng lực sản xuất giữa Bộ Công Thương nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Ủy ban Phát triển và Cải cách Quốc gia nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”, “Bản ghi nhớ về việc ưu hóa thiết kế dự án Cung Hữu nghị Việt - Trung giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Thương mại nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”, “Bản thỏa thuận giữa Tỉnh ủy Quảng Ninh, Đảng Cộng sản Việt Nam với Khu ủy Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Đảng Cộng sản Trung Quốc về thiết lập giao lưu hữu nghị giữa các tổ chức cơ sở Đảng địa phương”, “Thỏa thuận triển khai giao lưu hữu nghị Đảng bộ địa phương giữa Tỉnh ủy Lào Cai, Đảng Cộng sản Việt Nam và Tỉnh ủy Vân Nam, Đảng Cộng sản Trung Quốc”...
Theo TTXVN, hai bên còn ký: “Bản ghi nhớ về việc hợp tác giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam và Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng; Hợp đồng khoản vay 200 triệu USD giữa Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam là bên vay và Ngân hàng Phát triển Trung Quốc là bên cho vay; Biên bản ghi nhớ về tài trợ vốn cho các dự án nhà máy nhiệt điện giữa Tập đoàn Công nghiệp Than-khoáng sản Việt Nam và Ngân hàng Phát triển Trung Quốc; Bản ghi nhớ về thỏa thuận đầu tư và thu xếp tài chính cho dự án Nhà máy Nhiệt điện BOT Vĩnh Tân 3 giữa Công ty Cổ phần Năng lượng Vĩnh Tân 3 (Việt Nam) và Ngân hàng Phát triển Trung Quốc.”
Như vậy, với 4 Thông điệp gây hoang mang của ông Tập Cận Bình đã đưa ra ở Việt Nam, cộng thêm với thái độ làm ngơ chuyện xung đột Biển Đông trước Quốc Hội thì những thỏa hiệp hợp tác kinh tế mới sẽ đưa Việt Nam đi đâu, nếu không là tiếp tục sa lầy vào đường lối cũ tuy có lợi về kinh tế, nhưng bị lệ thuộc Trung Quốc mãi mãi.
Đại tướng Trần Đại Quang, Bộ trưởng Bộ Công an Việt Nam, có thể đảm nhận chức Chủ Tịch Nước
AFP photo
Những nguồn tin phát xuất từ Hà Nội cho biết Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam đã giải quyết xong danh sách các ứng viên chính thức cho 4 chức vụ hàng đầu, là chức tổng bí thư, chức Chủ Tịch Nước, thủ tướng và chủ tịch quốc hội.
Nguồn tin riêng chưa thể kiểm chứng được cho đài chúng tôi biết đương kim Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng sẽ ở lại thêm nửa nhiệm kỳ trong lúc chờ đợi Đại Hội XII chọn người thay thế. Chức Chủ Tịch Nước được trao cho người đang nắm giữ Bộ Công An Đại Tường Trần Đại Quang. Vai trò thủ tướng sẽ do ông Nguyễn Xuân Phúc đảm nhiệm, và bà Nguyễn Thị Kim Ngân lãnh trách nhiệm của chủ tịch quốc hội.
Một nguồn tin khác nói rằng ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng là người được nhiều phiếu ủng hộ nhất, trong khi Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng lại là người được ít phiếu nhất. Điều này trái ngược với dư luận Đài Á Châu Tự Do chúng tôi ghi nhận được trong những tuần lễ vừa qua, cho rằng trong 4 nhân vật lãnh đạo chủ chốt hiện nay, Thủ tướng đương nhiệm Nguyễn Tấn Dũng nhận được phần lớn sự ủng hộ của người dân, nếu ông Dũng được đề cử trong danh sách nhân sự ra tái cử trong khóa XII.
Ngay chính các nhà quan sát chính trị Việt Nam cũng đưa ra nhận định tương tự, cho rằng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là ứng viên sáng giá nhất cho vai trò Tổng Bí thư.
Hội nghị thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI khai mạc ngày hôm nay tại Hà Nội, sẽ kéo dài đến ngày 13 tháng 1 năm 2016.
Phát biểu khai mạc Hội nghị Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng thời gian họp tuy không dài nhưng Hội nghị lần thứ 14 đặc biệt quan trọng với 2 nội dung chính cần được thảo luận bao gồm Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương-TPP và đề cử danh sách nhân sự lãnh đạo chủ chốt khóa XII.
Về việc Việt Nam tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương-TPP, Hội nghị thứ 14 tập trung thảo luận thời cơ và thuận lợi cũng như khó khăn và thách thức khi Việt Nam gia nhập TPP, những tác động chính trị và an ninh quốc gia, đồng thời xem xét điều chỉnh chính sách theo đúng quy định pháp luật cho việc chính thức ký kết Hiệp định này.
Về việc chuẩn bị danh sách nhân sự chủ chốt khóa XII, ông Nguyễn Phú Trọng có nhấn mạnh đến việc xem xét và đề cử các trường hợp Ủy viên Trung ương “đặc biệt” khóa XI tái cử trong khóa XII.
Ông Nguyễn Xuân Phúc, người được đồn đoán sẽ đảm nhiệm vai trò thủ tướng thay ông Nguyễn Tấn Dũng.
AFP photo
Cuộc đua tranh quyền lực trước Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 12, bước vào giai đoạn cuối với Hội nghị Trung ương 14 khai mạc sáng 11/1 và kéo dài 3 ngày, sau đó là Hội nghị Trù bị ngày 20 và qua ngày 21 thì khai mạc Đại hội Đảng.
Phe thân Trung Quốc thắng thế
Đến chiều tối ngày thứ hai 11/1/2016 thì những tin tức được bật mí từ Hà Nội đã nhanh chóng loan truyền trên mạng cả trong và ngoài nước. Theo đó Bộ Chính trị đã chốt danh sách đề cử Tứ Trụ và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ ngồi lại nửa nhiệm kỳ, hoặc ít nhất 1 năm. Đại tướng Trần Đại Quang Bộ trưởng Công an vào chức vụ Chủ tịch Nước, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc giữ chức Thủ tướng và Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân được đôn lên làm Chủ tịch Quốc hội.
Mặc dù tin rò rỉ như vừa nêu khó thể kiểm chứng, nhưng nó có vẻ khớp với những lời đồn đoán là phe bảo thủ thân Trung Quốc đã thắng thế vào giai đoạn cuối.
Mặc dù không muốn bình luận về một danh sách tứ trụ chưa được loan báo chính thức, nhưng TS Nguyễn Quang A nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS, nhà hoạt động xã hội dân sự cổ vũ thực thi dân quyền đã từ Hà Nội phát biểu với Đài Á châu Tự do:
“Thực sự là không muốn nhận xét gì, tôi cũng có nghe phỏng đoán như anh vừa nói không phải ngày hôm nay (11/1) mà mấy hôm trước rồi. Tôi nghĩ rằng, nếu mà nó như thế thì có thể chẳng có thay đổi gì cả. Bởi vì cũng vẫn là những gương mặt ấy, vẫn là cái ông đảng trưởng ấy, một cái ông vô cùng trung thành với chủ nghĩa Mác-Lê Nin. Ông ấy vẫn nói là cương lĩnh của Đảng ông ấy là còn trên cả Hiến pháp thì tôi nghĩ là không có kỳ vọng gì cả. Chỉ có cách là người dân phải quên các ông ấy đi, phải quyền của mình thì mình cứ thế mình làm, bất luận ông ấy muốn làm gì hay muốn áp đặt gì.”
Và đường lối của Đại hội 6 của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra là không đi với một nước này để chống một nước khác...thì sẽ giữ được môi trường hòa bình và ổn định của khu vực này... - Học giả Đinh Kim Phúc
Cùng ngày 11/1/2016 Hội nghị Trung ương 14 khai mạc, TS Nguyễn Quang có bài viết trên trang Facebook, khuyên thành phần dân chúng không phải đảng viên cộng sản, hay cảm tình viên của đảng, không nên bị cuốn vào vòng tranh chấp phe đảng ủng hộ ông này người kia và thậm chí còn mạt sát nhau.
Theo TS Nguyễn Quang A, thái độ mà người dân có thể bày tỏ là không thể ủng hộ những thành phần thể hiện thái độ và việc làm nhằm duy trì chế độ độc tài, làm tay sai bán nước; đồng thời cũng không thể ủng hộ thành phần tham nhũng, trục lợi.
TS Nguyễn Quang A khuyên người dân nên làm những việc có thể làm, trong khả năng của mình để tiến tới dân chủ hóa một cách hòa bình. Mục đích tối thượng là chuyển đổi chế độ mà ông gọi là độc tài và ngày càng cảnh sát hóa sang chế độ dân chủ thực sự một cách ôn hòa. TS Nguyễn Quang A giải thích:
"Thí dụ Hiến pháp của Việt Nam qui định là người dân có quyền lập hội, thế thì người dân cứ thế mà lập hội, không phải đợi ông nào cho phép cả. Việc nhà nước chưa có luật để tạo điều kiện cho người dân thực hiện quyền lập hội của mình một cách văn mình, thì đấy là lỗi của các ông ấy, lỗi của Quốc hội, không phải lỗi của dân và người dân cứ thế mà thực thi. Hiến pháp qui định người dân có quyền bầu cử ứng cử, thế thì người dân cứ ra ứng cử và phản đối kịch liệt việc ông ấy nhân danh Tổng Bí thư Đàng Cộng sản để bảo phải chọn như thế này, thế kia, thế là ông ấy cướp quyền của dân, phải phản đối kịch liệt điều này.
Đấy là những việc lớn, còn những nhỏ hàng ngày ở ngoài đường ở Tổ dân phố và trong công việc làm ăn, bao nhiêu quyền nữa mà người dân chứ biết và cứ thế mà thực hiện. Người ta bảo có quyền xuất bản, tôi có tác phẩm thì tôi cứ xuất bản còn luật kiểm duyệt của ông là một chuyện khác…”
Liệu có thay đổi chính sách?
Trước khi Hội nghị Trung ương 14 diễn ra, chúng tôi có nêu câu hỏi với học giả Đinh Kim Phúc, một nhà nghiên cứu Biển Đông hiện sống và làm việc tại Saigon về kỳ vọng một Ban Lãnh đạo Đảng Cộng sản sắp tới có khả năng thiết lập lập quan hệ cân bằng với Trung Quốc, thay vì bị lép vế như hiện nay. Học giả Đinh Kim Phúc phát biểu:
“Tôi không phải đảng viên, không phải thành phần đại biểu đi dự Đại hội Đảng nên rất khó trả lời. Nhưng có thể nói là đối với những người trong nước theo dõi tình hình chính trị trong nước cũng như những mối quan hệ quốc tế, tôi có thể nói thẳng khi Việt Nam năm 1986 thực hiện chính sách đổi mới, tôi đánh giá rất cao vấn đề đổi mới tư duy chính trị, nhìn mối quan hệ quốc tế nó khác với thời kỳ chiến tranh lạnh.
Và đường lối của Đại hội 6 của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra là không đi với một nước này để chống một nước khác, mà không bao giờ để các siêu cường trên thế giới mất quyền lợi ở Đông Nam Á thì sẽ giữ được môi trường hòa bình và ổn định của khu vực này, trong đó có phần của Việt Nam. Tôi mong Ban Lãnh đạo mới của Việt Nam đừng nêu ra cái gì mới chỉ thực hiện đổi mới tư duy chính trị quốc tế như Đại hội 6 của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra, thì tôi nghĩ rằng sẽ có biện pháp để đối phó với Trung Quốc.”
Nếu như những người ngoài Đảng như TS Nguyễn Quang A, Học giả Đinh Kim Phúc có cách nhìn của những nhà quan sát thời cuộc, thì TS Trần Công Trục, Đảng viên Đảng Cộng sản nguyên Trưởng Ban Biên giới của Chính phủ Việt Nam, lại vẫn đặt kỳ vọng vào Ban Lãnh đạo mới của Đảng Cộng sản sau Đại hội 12 sẽ bảo vệ được chủ quyền biển đảo của Việt Nam, dù theo lời ông người láng giềng phương Bắc lúc này lúc khác đẩy Việt Nam vào thực tế khó khăn. TS Trần Công Trục phát biểu:
Chỉ có cách là người dân phải quên các ông ấy đi, phải quyền của mình thì mình cứ thế mình làm, bất luận ông ấy muốn làm gì hay muốn áp đặt gì. - TS Nguyễn Quang A
“Tôi rất kỳ vọng tin tưởng rằng sau Đại hội này, Việt nam chúng tôi sẽ có một đội ngũ lãnh đạo mới và đội ngũ đó vẫn phải phát huy được truyền thống yêu nước, truyền thống đấu tranh bất khuất kiên cường của ông cha người Việt Nam chúng tôi từ trước đến nay, đặc biệt trong việc giữ vững chủ quyền thiêng liêng và sự toàn vẹn lãnh thổ mà các thế hệ Việt Nam chúng tôi đã đổ máu, đổ mồ hôi nước mắt để giữ gìn. Tôi vẫn kỳ vọng điều đó, những thế hệ của chúng tôi và thế hệ tiếp nối sau này nữa có thể tiếp tục con đường đó.”
Được biết Việt Nam có trên 3 triệu đảng viên cộng sản, gia đình họ hàng bạn bè của họ có thể chịu ảnh hưởng nhất định về quyền lợi của chế độ. Như thế số lượng cảm tình viên Đảng Cộng sản không nhỏ so với dân số.
Mặc dù khuynh hướng tích cực hiện nay cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam khó thay đổi đường lối chính trị của mình, nhưng trên thế giới cũng đã có những nhà lãnh đạo đảng Cộng sản có ảnh hưởng nhất định về cải cách dân chủ và vô hình chung giúp vào tiến trình thay đổi thể chế độc đảng ở nước họ. Đại hội Đảng Cộng sản VN lần thứ 12 bầu chọn thế hệ lãnh đạo tương lai như thế nào, là câu hỏi sẽ sớm có câu trả lời.
Chủ tịch VN Trương Tấn Sang. Theo Gs. Zachary Abuza, việc ông Sang ra đi là một tổn thất cho Việt Nam.
AFP photo
Đại hội 12 đảng cộng sản Việt Nam sắp diễn ra vào tuần tới với nhiều những dự đoán liên quan đến nhân sự cũng như đường lối chính sách sắp tới mà Việt Nam sẽ theo đuổi trong bối cảnh căng thẳng gia tăng ở biển Đông và quan hệ sâu hơn với Hoa Kỳ. Những diễn tiến gần đây trên thế giới ảnh hưởng tới đại hội lần này ra sao và chuyên gia nước ngoài đánh giá thế nào về những dự đoán cho các chức vụ chủ chốt của đảng cộng sản Việt Nam 5 năm tới? Việt Hà có bài phỏng vấn Giáo sư Zachary Abuza thuộc trường đại học chiến tranh của Hoa Kỳ, chuyên gia về Việt Nam. Trước hết nói về những trông đợi liên quan đến những thay đổi có thể trong đường lối chính sách của Việt Nam sau đại hội đảng lần này, giáo sư Abuza cho biết:
Tôi không trông đợi những thay đổi lớn dù lãnh đạo mới là ai đi chăng nữa đơn giản là vì lãnh đạo Việt Nam thường rất thận trọng và họ không muốn có những thay đổi lớn đột ngột trong chính sách. Nhưng quan trọng hơn cả là trong những năm qua, họ rõ ràng đã đặt mình vào con đường đổi mới và khó có thể quay lại. Họ đã cam kết vào TPP. Khi Tổng Bí thư Đảng cộng sản sang thăm Hoa Kỳ vào tháng 7 năm ngoái, đến Nhà Trắng, thuyết phục Tổng thống Hoa Kỳ công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường thì điều này rõ ràng cho thấy là tranh luận xung quanh chính sách kinh tế trong suốt hai thập kỷ qua nhìn chung là đã kết thúc.
Việt Hà:Theo ông thì những căng thẳng gần đây trên biển Đông có ảnh hưởng thế nào tới đại hội lần này, đặc biệt là việc chọn nhân sự lãnh đạo?
Gs. Zachary Abuza: Không chỉ trong một vài ngày gần đây mà vài năm gần đây chúng ta đã thấy Trung Quốc trở nên khá hung hăng trên biển Đông, từ việc đặt giàn khoan dầu vào vùng thềm lục địa của Việt Nam, đến việc xây lấp đảo nhân tạo, rồi đâm chìm tàu cá Việt Nam…. Cho nên những hành động này đã trở thành sức ép toàn diện lên Việt Nam và người ta có thể trông đợi là Ban chấp hành Trung ương Đảng sẽ muốn có những lãnh đạo sẵn sàng kháng cự lại các sức ép từ Trung Quốc. Nhưng điều này không hẳn đã diễn ra như mong muốn.
Trương Tấn Sang đã luôn là một chủ tịch nước tốt, theo tôi nhận xét. Ông ta là người thận trọng. Việc ông ta ra đi là một tổn thất cho Việt Nam. -Gs. Zachary Abuza
Việt Hà: Vậy quan hệ với Hoa Kỳ có ảnh hưởng ra sao tới đại hội lần này?
Gs. Zachary Abuza: Quan hệ của Việt nam với Hoa Kỳ đang rất tốt đẹp. Trong vòng 1 năm rưỡi qua, 8 trong số 16 ủy viên bộ chính trị đã sang thăm Mỹ. Mối quan hệ đã khăng khít hơn ở mức độ làm việc, và hai nước không còn cần phải có sự can thiệp cao hơn về chính trị để có thể khiến công việc được thực hiện. Hoa Kỳ đánh giá cao lãnh đạo Việt Nam trong khối ASEAN và hiệp định TPP chỉ khiến quan hệ kinh tế hai nước sâu thêm. Tôi không nhìn thấy những thay đổi cơ bản trong quan hệ hai nước sau đại hội này.
Chúng ta sẽ tiếp tục thấy sự phát triển trong quan hệ quân sự giữa hai nước, quan hệ kinh tế sâu thêm. Đặc biệt quan hệ kinh tế với Trung Quốc đang rất bất lợi cho Việt Nam. Năm ngoái, thâm hụt thương mại giữa Việt nam với Trung Quốc tăng thêm 12,5%, tức là hơn 32 tỷ đô la một năm, cho nên thương mại với Trung Quốc không chỉ là không cân bằng, dẫn đến thâm hụt cán cân thương mại mà xu hướng là các sản phẩm của Trung Quốc được đổ sang Việt nam và đổi lại thì Việt Nam xuất những sản phẩm nguyên liệu thô sang Trung Quốc. Thực tế là đầu tư của Mỹ vào Việt Nam trở nên quan trọng hơn cho tương lai kinh tế của Việt Nam. Chúng ta nói đến công nghệ, sản phẩm chế tạo công nghiệp….
Việt Hà:Ông có dự đoán gì vào lãnh đạo đảng sau đại hội đảng lần này?
Gs. Zachary Abuza: Khi nhìn vào bộ chính trị hiện tại, chỉ có 6 ủy viên là có đủ điều kiện để được tái ứng cử cho nhiệm kỳ mới. Điều này khá là bất thường đối với Việt Nam vì thường thì họ không muốn có quá nhiều người ra đi và vào mới trong hàng ngũ lãnh đạo. Cho nên khi nhìn vào danh sách các ủy viên thì chúng ta có thể trông đợi là sẽ có một số trường hợp được bỏ qua về quy định độ tuổi. Nhưng sẽ có nhiều cuộc đấu tranh nội bộ, sẽ có nhiều những quyền lợi đến từ những áp lực từ các tỉnh thành đòi hỏi các đổi mới về kinh tế và tránh tập trung hóa trong cuộc đấu nội bộ, rồi những người bảo thủ thì lo ngại là đảng đã đi quá xa và đã trao quá nhiều quyền lực cho các nhóm kỹ trị. Tôi đã có trông đợi nhiều là Việt Nam sẽ tiếp tục quá trình đổi mới kinh tế tiếp theo sau đại hội lần này nhưng bây giờ tôi không còn nhiều lạc quan như thế nữa sau khi biết được về sự lựa chọn nhân sự mới.
Việt Hà: Theo tin mà đài Á châu tự do có được sau ngày đầu tiên của hội nghị trung ương 14 thì dường như Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ ở lại chức thêm 2,5 nữa. Ông đánh giá thế nào về điều này nếu đúng là ông Trọng sẽ tiếp tục giữ chức Tổng Bí thư nhiệm kỳ tới?
Gs. Zachary Abuza: Đây là một bước lùi. Ông ta sẽ không thúc đẩy việc đổi mới doanh nghiệp nhà nước hoặc tư hữu hóa. Nhưng mặt khác ông ta đã đi một đoạn đường khá xa sau khi được bầu là Tổng Bí thư vào đại hội đảng thứ 11. Nhưng rõ ràng đây là một bước lùi cho những người đang trông đợi một sự đổi mới về kinh tế sâu hơn.
Vấn đề chống tham nhũng
Việt Hà: Trong nhiệm kỳ vừa qua thì Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn kêu gọi phải đấu tranh chống tham nhũng, theo ông thì khi ở lại thêm nhiệm kỳ nữa, công cuộc đấu tranh này của ông Trọng sẽ có hiệu quả hay không?
TBT ĐCS VN Nguyễn Phú Trọng. AFP photo
Gs. Zachary Abuza: Theo tôi nhìn chung, cuộc chiến chống tham nhũng ở Việt Nam sẽ tiếp tục rất yếu kém dưới quyền lãnh đạo của ông Trọng. Có những giới hạn đối với việc người lãnh đạo có thể đấu tranh chống tham nhũng khi mà họ không sẵn sàng cởi trói cho báo chí, cho phép tự do báo chí, và họ không sẵn sàng tư hữu hóa doanh nghiệp nhà nước… Nếu ông Trọng vẫn là Tổng bí thư, các bạn sẽ thấy rất nhiều lời hô hào miệng về chống tham nhũng rằng tham nhũng đang đe dọa sự tồn vong của Đảng cộng sản, nhưng trên thức tế họ sẽ không thực hiện được gì mấy khi mà báo chí không được tự do, và sự tham gia mạnh mẽ của xã hội dân sự, và tư hữu hóa doanh nghiệp nhà nước, đập bỏ bức tường của đảng trong nền kinh tế. Việt Hà:Cũng theo tin của đài Á châu tự do có được thì Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc sẽ làm Thủ tướng nhiệm kỳ tới. Trong dự đoán mà ông đưa ra vào tháng 10 năm ngoái ông cũng nói tới điều này. Ông nhận xét gì về vai trò của ông Nguyễn xuân Phúc? Gs. Zachary Abuza: Ông ta đã làm tốt việc điều hành nền kinh tế. Ông ta là người thuộc giới kỹ trị. Ông ta ít nổi tiếng hơn đối với mọi người nếu so với những lãnh đạo khác và ông ta theo tôi đánh giá là người thuộc giới kỹ trị có khả năng. Ông ta sẽ tiếp tục việc lãnh đạo nền kinh tế. Tôi rất chú ý đến việc những ai sẽ là các phó thủ tướng trong chỉnh phủ của ông. Việt Hà:Về phần bộ quốc phòng, ông đã có những thông tin gì và đánh giá thế nào về những thay đổi sau đại hội lần này?
Theo tôi nhìn chung, cuộc chiến chống tham nhũng ở Việt Nam sẽ tiếp tục rất yếu kém dưới quyền lãnh đạo của ông Trọng. - Gs. Zachary Abuza
Gs. Zachary Abuza: Những gì tôi đọc được vào sáng nay về hội nghị trung ương 14 thì Bộ trưởng Quốc phòng sắp tới sẽ là Ngô Xuân Lịch, người hiện là Chủ nhiệm tổng cục chính trị. Đây rõ rang là một bước lùi. Đã rất lâu rồi từ thời Lê Khả Phiêu, giờ Việt Nam lại có một người thuộc chính trị viên quân đội nằm trong bộ chính trị. Quốc phòng Việt Nam đã được hiện đại hóa rất nhiều trong thập niên qua. Không một nước nào ở khu vực Đông Nam Á đã mua nhiều hơn các vũ khí hiện đại so với Việt Nam. Bây giờ họ đặt một người có xu hướng chính trị viên theo truyền thống làm lãnh đạo một tổ chức đang có những đổi mới thay vì chọn một người có kinh nghiệm về điều hành quân đội, đối với tôi là đáng ngại. Việt Hà: Theo ông, việc bổ nhiệm này nói lên điều gì?
Gs. Zachary Abuza: Nếu đi ngược lại quá khứ thời chiến tranh thì chúng ta có thể nói là họ chọn người đỏ hơn là một chuyên gia, tức là họ chọn người có lý luận chính trị hơn là một người có kinh nghiệm và kiến thức quân sự. Khi quân đội Việt Nam trải qua một giai đoạn hiện đại hóa mạnh trong suốt một thập niên qua, mà bây giờ lại chứng kiến một người cả cuộc đời là một một chính trị viên thì điều này nói lên rất nhiều. Sẽ có ý kiến cho là đây là do áp lực từ Trung Quốc, rằng họ không muốn người có kinh nghiệm chiến đấu mà thay vào đó là một người chú trọng đến quan hệ xã hội chủ nghĩa, tình đoàn kết. Điều này sẽ nhanh chóng xuất hiện trên các trang blog.
Việt Hà:Đã có nhiều đồn đoán về việc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ là Tổng Bí thư sắp tới. Ông đánh giá thế nào về ông Dũng khi còn làm Thủ tướng?
Gs. Zachary Abuza: Ông ta luôn là một nhân vật gây nhiều tranh cãi đơn giản là vì những cáo buộc tham nhũng liên quan đến cá nhân ông, việc lạm dụng quyền lực để làm lợi cho gia đình người thân của mình. Ông ta đã không có được số phiếu tín nhiệm cao ở quốc hội trước kia. Tuy nhiên ông ta lại có số phiếu tín nhiệm khá trong quốc hội vào năm ngoái. Điều này theo tôi không nhất thiết là do ông làm tốt công việc của mình hay vì ông ta là người duy nhất trong Bộ chính trị dám lên tiếng phản đối Trung Quốc sau vụ giàn khoan dầu. Theo tôi ông đã nhận được nhiều ủng hộ sau những việc đó. Nhưng ông luôn là một nhân vật gây chia rẽ bởi một phần ông đã lobby rất mạnh để trở thành Tổng Bí Thư và điều này là điều chúng ta chưa thấy ở Việt Nam.
Việt Hà:Theo ông thì Chủ tịch Trương Tấn Sang đã làm được gì khi ông là Chủ tịch nước?
Gs. Zachary Abuza: Trương Tấn Sang đã luôn là một chủ tịch nước tốt, theo tôi nhận xét. Ông ta là người thận trọng. Ông tham gia giám sát quá trình hiện đại hóa quân sự của Việt Nam. Mặc dù ông ta không được xem là người đổi mới cho nền kinh tế nhưng ông ta ủng hộ những đổi mới quan trọng trong nền kinh tế trong 5 năm qua. Ông ta đóng vai trò quan trọng trong đàm phán TPP. Ông ta khác hẳn Nguyễn Tấn Dũng và không có những cáo buộc tham nhũng như tương tự. Ông ta luôn được xem là một nhân vật khá là chính trực. Việc ông ta ra đi là một tổn thất cho Việt Nam.
Việt Hà: Xin cảm ơn ông đã dành cho chúng tôi buổi phỏng vấn.
Đại tá quân đội VN, ông Bùi Văn Bồng, nguyên Trưởng Đại diện Báo Quân đội Nhân dân ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, bình luận về chuẩn bị cho kỳ Đại hội lần thứ 12 của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ông cho rằng Đại hội lần này 'chuẩn bị rất vất vả' và đặt ra một số vấn đề về việc diễn tập bảo vệ Đại hội. Ông nói với BBC hôm 10/01/2016: "Người ta cho rằng một là đối phó với một cái gì đó, hay có một âm mưu nào chống phá ghê gớm mà phải điều lực lực lưuợng cỡ đó để chuẩn bị sẵn sàng? "Cái thứ hai nữa, người ta nói là như vậy nghĩa là đối phó với nhân dân? Thì Đảng không tin nhân dân à?
Đổi mới được bao nhiêu?
"Đảng không tin nhân dân, Đảng nghi ngờ nhân dân hay Đảng sợ nhân dân mà phải làm việc đó? "Thì hai cái đó nó cộm lên để cho người ta đánh dấu hỏi là cái Đại hội tới liệu nó sẽ đổi mới được bao nhiêu? "Với lại nhân sự có được lòng dân hay không? "Rồi đường lối trong xu hướng hội nhập toàn cầu, TPP, rồi đi theo xu hướng thời đại của thế giới, nhất là vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo và bảo đảm nền dân chủ trong nước, đồng thời phát triển mạnh mẽ hơn kinh tế - xã hội...? "Thì người ta đánh dấu hỏi vậy đổi mới sắp tới có được cái gì không? Nhưng mà thấy trong chuẩn bị Đại hội thì trước Đại hội có hai nổi cộm đó mà nhân dân rất quan tâm," Đại tá Bùi Văn Bồng nói với BBC.
Một nhà bình luận và quan sát thời sự chính trị Việt Nam đặt dấu hỏi về việc Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức cho các lực lượng vũ trang 'diễn tập' bảo vệ Đại hội Đảng lần thứ 12 với quy mô được cho là 'rùm beng, phô trương'.
Trao đổi với BBC hôm 10/01/2016, một ngày sau khi các lực lượng bảo vệ này chính thức làm lễ 'xuất quân' sau khi đã có các diễn tập từ trước vài ngày, Đại tá quân đội của Việt Nam, ông Bùi Văn Bồng, nguyên trưởng Đại diện báo Quân đội Nhân dân ở Đồng bằng Sông Cửu Long, nói:
"Gần đây hôm 09 tháng Một, công an và mấy đơn vị quân đội ra quân như là một sự diễn tập, tập dượt để bảo vệ Đại hội Đảng. "Thì người ta thấy làm như thế nó hơi rùm beng, như là phô trương lực lượng... Mười một kỳ Đại hội trước có đâu đến nỗi như thế này? "Nhưng lần này thấy tập trung lực lượng lại như thế cũng gây ra trong nhân dân những dấu hỏi là tại sao mình (Đảng CSVN) lại đến mức như thế?
"Đối phó với ai? Rồi tình huống diễn ra như thế nào mà để bảo vệ Đại hội Đảng mà phải ghê gớm vậy? "Cho nên có người nói là làm như thế càng chứng tỏ là anh không ổn định chính trị, mặc dù trong Nghị quyết nói là an ninh trật tự, an ninh chính trị, trật tự - an toàn xã hội được giữ vững, ổn định xã hội, bảo đảm được ổn định chính trị, ổn định được xã hội. "Nhưng mà riêng việc đưa lực lượng công an, ngoài ra một số đơn vị quân đội diễn tập rồi làm rùm beng như thế, thế thì cũng gây xôn xao dư luận."
Đảng sợ nhân dân?
Tiếp tục phân tích về động thái được cho là khá 'lạ' của Đảng Cộng sản nhằm bảo vệ cho kỳ Đại hội sắp diễn chỉ trong vòng một chục ngày nữa, Đại tá Bùi Văn Bồng nhấn mạnh: "Người ta cho rằng một là đối phó với một cái gì đó, hay có một âm mưu nào chống phá ghê gớm mà phải điều lực lực lưuợng cỡ đó để chuẩn bị sẵn sàng? "Cái thứ hai nữa, người ta nói là như vậy nghĩa là đối phó với nhân dân? Thì Đảng không tin nhân dân à? "Đảng không tin nhân dân, Đảng nghi ngờ nhân dân hay Đảng sợ nhân dân mà phải làm việc đó? "Thì hai cái đó nó cộm lên để cho người ta đánh dấu hỏi là cái Đại hội tới liệu nó sẽ đổi mới được bao nhiêu?
"Với lại nhân sự có được lòng dân hay không? "Rồi đường lối trong xu hướng hội nhập toàn cầu, TPP, rồi đi theo xu hướng thời đại của thế giới, nhất là vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo và bảo đảm nền dân chủ trong nước, đồng thời phát triển mạnh mẽ hơn kinh tế - xã hội...? "Thì người ta đánh dấu hỏi vậy đổi mới sắp tới có được cái gì không? Nhưng mà thấy trong chuẩn bị Đại hội thì trước Đại hội có hai nổi cộm đó mà nhân dân rất quan tâm," Đại tá Bùi Văn Bồng nói với BBC từ Việt Nam. Tin cho hay, trong lần diễn tập bảo vệ an ninh cho Đại hội Đảng tại Hà Nội, hàng ngàn sỹ quan, binh sỹ công an, an ninh và quân đội, được trang bị vũ khí, khí tài hiện đại, trong đó có nhiều loại vũ khí, thiết bị, xe đặc chủng lợi hại thường được sử dụng trong các tình huống khẩn cấp đối phó bạo loạn, khủng bố vũ trang v.v... đã được huy động. http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2016/01/160110_buivanbong_congress_question
Chính phủ Nhật Bản muốn một chuyên gia Liên Hiệp Quốc phải rút lại lời nói cho rằng 13% nữ sinh Nhật Bản dính đến 'hẹn họ có bù đắp', là mối quan hệ có thể kèm cả quan hệ tình dục.
Bộ Ngoại giao Nhật nói rằng lời nhận xét của Maud de Boer-Buquicchio là "không thích hợp" và "đáng tiếc".
Nhưng đặc phái viên lập báo cáo về tình trạng mại dâm vị thành niên nói rằng bà đề cập tới các ước tính được nêu trên các nguồn tin ngỏ, nhằm làm rõ một hiện tượng cần phải được xử lý.
Trong quan hệ 'hẹn hò có bù đắp', người đàn ông cho tiền, quà để đổi lấy việc các cô gái cặp kè cùng mình.
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ hồi năm ngoái cảnh báo rằng mối quan hệ kiểu này, được gọi là "enjo kosai" trong tiếng Nhật, "tiếp tục tạo môi trường cho hoạt động mại dâm ở trẻ em Nhật Bản".
'Khuynh hướng đáng lo'
Vào cuối chuyến thăm Nhật Bản hôm 26/10, bà de Boer-Buquicchio nói rằng bà đã phát hiện ra "các hình thức khác nhau trong đó việc khai thác tình dục ở trẻ em đã được phát triển và thể hiện rõ rệt" ở nước này.
"Tôi nhắc tới cụ thể là hiện tượng 'enjo kosai', chuyện đang trở thành khuynh hướng trong các nữ sinh. Chừng 13% nữ sinh tại Nhật có dính tới kiểu hoạt động này," bà được trích lời khi nói tại một cuộc họp báo do Bộ Ngoại giao Nhật tổ chức.
Bộ Ngoại giao đã yêu cầu LHQ cho biết nguồn gốc con số thống kê trên, và hôm 2/11 bà de Boer-Buquicchio ra văn bản giải thích trong đó nói bà đã "nhận được số thống kê không chính thức" về phạm vi hoạt động của loại hình quan hệ 'hẹn hò có bù đắp'.
Hôm thứ Hai, Bộ Ngoại giao đòi bà phải rút lại tuyên bố của mình, và nói việc một chuyên gia LHQ dẫn chứng "thông tin không đáng tin cậy" mà không nêu nguồn trích dẫn là điều "không thể chấp nhận".
Bà Maud de Boer-Buquicchio, báo cáo viên của LHQ : « Khoảng 13% nữ sinh Nhật tham gia loại hoạt động "enjo kosai", có thể là lúc bắt đầu thì tương đối chưa ý thức »Wikipedia
Chính phủ Nhật Bản hôm nay 10/11/2015 yêu cầu một đại diện Liên Hiệp Quốc phải rút lại rời tuyên bố là 13% nữ sinh trung học Nhật chấp nhận các cuộc hẹn hò có thù lao, trong đó có cả quan hệ tình dục.
Bộ Ngoại giao Nhật cho biết đã nói với văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc rằng các phát biểu tại Tokyo tháng trước là « không thích hợp và vô cùng đáng tiếc ». Trong thông cáo tối qua, Bộ này cho rằng « không thể chấp nhận được » việc một đại diện Liên Hiệp Quốc lại nêu ra « các thông tin không đáng tin cậy », không dẫn nguồn.
Hồi tháng 10, bà Maud De Boer-Buquicchio, báo cáo viên đặc biệt của Liên Hiệp Quốc về nạn buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và khiêu dâm có liên quan đến trẻ vị thành niên, đã đề cập đến thói tục "enjo kosai", đó là việc các em gái đi chơi với những người đàn ông và nhận thù lao.
Bà tuyên bố : « Khoảng 13% nữ sinh Nhật tham gia loại hoạt động này, có thể là lúc bắt đầu thì tương đối chưa ý thức ».
Vụ tranh cãi này đã đưa ra ánh sáng một hiện tượng xuất hiện từ thập niên 90 ở Nhật Bản, đất nước mà hình ảnh các thiếu nữ trên báo chí thường được đưa một cách rất khêu gợi. Với "enjo kosai", những người đàn ông trả tiền cho các em gái cùng đi chơi, có thể dẫn đến quan hệ tình dục. Từ viết tắt "JK" tức "nữ sinh" liên quan đến các hoạt động có tổ chức hơn, qua đó các nữ« "enjo kosai" tiếp tục tạo điều kiện cho mại dâm trẻ em ở Nhật ». sinh nhỏ tuổi có thể mát-xa, nằm bên cạnh một người đàn ông hoặc đi dạo với ông ta. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ trong một báo cáo năm ngoái khẳng định
Đáp lại phản đối của Bộ Ngoại giao Nhật Bản, bà De Boer-Buquicchio tuyên bố « không nhận được các số thống kê chính thức về tầm cỡ của thị trường JK tại Nhật » trong lúc bà đến đây. « Tuy nhiên, nhiều người đã cho chúng tôi biết đây là một xu hướng đáng lo ngại, có thể dễ dàng dẫn đến nạn bóc lột tình dục nơi trẻ vị thành niên liên quan đến thị trường làm ăn béo bở này. Trong cuộc họp báo, tôi đã nêu ra những ước đoán nhằm đưa ra ánh sáng một hiện tượng cần phải khẩn cấp xử lý ».
Nhà văn, nhà bất đồng chính kiến người Nga Alexander Solzhenitsyn ký tên lên cuốn sách "Quần đảo Ngục tù" của ông, ngày 30/5/1994. Ông là người có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến triết gia người Pháp André Glucksmann.
Triết gia người Pháp André Glucksmann, người trở nên nổi tiếng trong thập niên 1970 sau khi hỗ trợ thuyền nhân Việt Nam chạy trốn chế độ cộng sản, đã qua đời, thọ 78 tuổi.
Nhà tư tưởng chính trị nổi lên trong những năm thập niên 70 cùng với Bernard-Henri Levy là hai trong những “triết gia mới” của Pháp, người đã cắt đứt với chủ nghĩa Mác sau các cuộc biểu tình đưa đất nước đến bờ vực của cuộc cách mạng năm 1968.
Ông Glucksmann chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ nhà bất đồng chính kiến người Nga Alexander Solzhenitsyn khi ông này kể về thời gian làm tù nhân chính trị, bị giam ở Quần đảo Ngục tù (The Gulag Archipelago) năm 1975. Ông chống lại chế độ độc tài Xô Viết trong cuốn sách "The Cook and the Cannibal", đưa ông đến xung đột với phe trí thức cánh tả hiện sinh do Jean-Paul Sartre dẫn đầu.
Một người bạn của triết gia André Glucksmann, nhà văn và nhà triết học Pascal Bruckner, người cũng đã đi theo con đường chính trị từ cánh tả sang cánh hữu, nói với đài phát thanh Pháp rằng, ông Glucksmann sẽ được ghi nhớ vì đã “giáng cú đánh mạnh vào tư tưởng cộng sản ở Pháp”.
Nhà trí thức người Pháp Bernard-Henri Lévy cho biết ông bị chấn động bởi tin tức triết gia Glucksmann qua đời. Ông Lévy nói: “Ông ấy là người duy nhất trong số những người đương thời mà tôi cảm thấy có thể chia sẻ nỗi sợ hãi chung về thế giới”.
Cái chết của triết gia André Glucksmann được con trai của ông, Raphael, loan báo trên Facebook: “Người bạn đầu tiên và tốt nhất của tôi đã không còn nữa”. Raphael mô tả bố của anh là “một người đàn ông tốt và tuyệt vời”.
Làng cổ Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỉ 15, gần với thời gian mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng"[1]. Lúc đầu làng có tên gọi là Phúc Giang như mong muốn một vùng gần sông nước nhiều phúc lộc. Trong Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, làng Phúc Giang bên bờ sông Ô Lâu thuộc tỉnh Hương Trà[2]. Đến thời Tây Sơn, Phúc Giang được đổi thành Hoàng Giang, để nhớ đến dòng họ khai canh lập làng (Hoàng là tên dòng họ khai canh, Giang là vùng gần với sông nước). Đến đời Gia Long, làng được đổi tên thành Phước Tích, như là mong muốn của người dân được tích lũy phúc đức cho con cháu. Với ước mong đó, các thế hệ dân cư của làng đã tiếp nối truyền thống ông cha lao động sáng tạo xây dựng cho mình một làng quê tươi đẹp với những nét văn hóa cổ kính, như cảnh quan kiến trúc của làng mang đậm triết lí phương Đông, như văn hóa làng nghề, dòng họ, xóm, phe và đặc biệt là hệ thống đình, chùa, đền, miếu, nhà rường cổ. Theo sử sách và gia phả các dòng họ còn lưu lại, làng Phước Tích được thành lập từ năm 1470 vào những năm đầu trong đợt di dân thứ 2 vào vùng Thuận Quảng, sau cuộc bình Chiêm năm 1471 dưới triều vua Lê Thánh Tông. Cách đây khoảng trên 500 năm, vùng nay được gọi là xứ Cồn Dương, được bao bọc bởi dòng sông Ô Lâu uốn cong hình móng ngựa. Làng Phước Tích đến nay vẫn còn lưu giữ những di sản vật thể vô giá vừa cổ kính, vừa đồ sộ. Trong tổng số 117 nóc nhà của làng, hiện còn tới 27 ngôi nhà cổ, đa số là nhà rường 3 gian hai chái và 10 nhà thờ họ cổ. Trong đó có 12 nhà rường của các gia đình được xếp vào loại có giá trị đặc biệt. Điều lí thú là các ngôi nhà rường cổ ở Phước Tích liên kết với nhau, chỉ cách nhau một khu vườn rộng với những hàng chè tàu xanh, thẳng. Theo nhận xét của KTS Hoàng Đạo Kính thì: "Cấu trúc và tổ chức không gian làng Phước Tích có thể được coi là điển hình cho mô hình cư trú nơi thôn quê của người Việt ở vùng Bắc Trung Bộ. Đó là cấu trúc mở với những căn nhà trong vườn, nhà vườn. Ở Phước Tích, quỹ kiến trúc cổ và cũ, song cảnh quan và vườn được bao quanh thì lại rất trẻ và tràn đầy sức sống".
Nghề gốm
Gốm Phước Tích được gây dựng và phát triển hơn 500 năm qua và đã trở lại vào festival Huế năm 2006 qua tour Hương xưa làng cổ. Xét một cách tổng thể, các làng nghề thủ công truyền thống đang đứng trước nhiều khó khăn bởi sự xâm nhập ồ ạt của các mặt hàng sản xuất hàng loạt và nghề gốm Phước Tích đã không còn hoạt động gần 20 năm nay. Sức sống của nghề gốm, do vậy, chủ yếu tồn tại trong ký ức của người già. Dĩ nhiên, từ ngữ nghề nghiệp chính là phương tiện để họ hệ thống hoá từng mảng tri thức đó. Nói cách khác, từ ngữ nghề gốm Phước Tích là một hệ thống ký hiệu, một "bản mã" tường thuật tri thức, kinh nghiệm nghề nghiệp và những khía cạnh thuộc về đời sống vật chất cũng như tinh thần. Gốm Phước Tích là một trong những di sản văn hoá cần được gìn giữ.[3]
Chú thích
^Gia phả họ Hoàng lưu tại nhà bác Hoàng Bang ở Làng Phước Tích.
Làng Phước Tích thôn Phước Phú, xã Phong Hòa, huyện Hương Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế là ngôi làng cổ thứ hai được nhà nước xếp hạng “di tích quốc gia” sau làng cổ Đường Lâm.
Ở làng Phước Tích còn lưu giữ những di sản vật thể vô giá, trong tổng số 117 nóc nhà của làng, hiện tại còn tới 27 ngôi nhà cổ, đa số là nhà rường ba gian hai chái và 10 nhà thờ họ cổ.
Tên gọi đầu tiên của làng là Phúc Giang, như mong muốn một vùng gần sông nước nhiều phúc lộc. Đến thời Tây Sơn, Phúc Giang được đổi thành Hoàng Giang, để nhớ đến dòng họ khai canh lập làng. Đến đời Gia Long, làng được đổi tên thành Phước Tích, như là mong muốn của người dân được tích lũy phúc đức cho con cháu.
Tuy nhiên, làng Phước Tích nổi tiếng khắp cả nước bởi nghề làm gốm. Gốm ở Phước Tích nổi tiếng bởi độ bền, bón mịn và tinh xảo. Tất cả các sản phẩm gốm cổ đều được làm bằng tay, và đun bằng củi trong các lò sấp, lò ngửa.
Bác Lê Trọng Diễn, chủ nhân ngôi nhà rường, nơi lưu giữ gần như đầy đủ các mẫu gốm cổ của làng Phước Tích tự hào cho biết :“Trong làng không có lấy một tấc đất để trồng ruộng. Dân làng chỉ biết bám nghề gốm để sinh sống. Có thời kỳ nghề gốm Phước Tích nổi tiếng khắp miền Trung. Thời kỳ ấy trong làng có tới hơn chục lò gốm chẳng bao giờ tắt lửa. Thời kỳ hưng thịnh, Gốm Phước Tích còn được chọn để tiến Vua – đặc biệt là chiếc “om ngự” để Vua ăn cơm này”. Nghề gốm đã nuôi sống bao thế hệ con cháu làng Phước Tích.
Ngôi nhà trưng bày gốm cổ “có một không hai” ở Phước Tích của bác Lê Trọng Diễn. Xuất phát từ tình yêu dành cho nghề gốm từ thời ông, cha để lại bác sưu tầm gần như đầy đủ các mẫu gốm cổ. Năm 1900 tới năm 1968 lò gốm ở Phước Tích tạm thời dừng hoạt động do chiến tranh. Nhưng kể từ sau năm 1975, sự xuất hiện của đồ gốm tạp với nhiều mẫu mã bắt mắt và đồ nhựa đã khiến gốm cổ Phước Tích không còn khả năng cạnh tranh. Và tới năm 1989, gốm Phước Tích chính thức tắt lửa.
Một nét đặc trưng khác ở Phước Tích là cấu trúc nhà vườn được ngăn cách bởi những hàng chè tàu xanh, thẳng tắp, gọn gàng. Người Phước Tích chồng tàu xanh để ngăn cách giữa các ngôi nhà vườn cổ với nhau, nhưng hàng rào chỉ cao tới hông người lớn, nhà này có thể nhìn sang được nhà bên. Người Phước Tích vẫn hay nói đùa là hàng rào “ngăn mà không cách”. Đa phần người làng Phước Tích bây giờ làm nghề bác sĩ và giáo viên. Với hơn 300 nhân khẩu mà trong làng có tới hơn 40 giáo viên.
Theo nhận xét của Kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính thì: "Cấu trúc và tổ chức không gian làng Phước Tích có thể được coi là điển hình cho mô hình cư trú nơi thôn quê của người Việt ở vùng Bắc Trung Bộ. Đó là cấu trúc mở với những căn nhà trong vườn, nhà vườn. Ở Phước Tích, quỹ kiến trúc cổ và cũ, song cảnh quan và vườn được bao quanh thì lại rất trẻ và tràn đầy sức sống".
Một nét độc đáo khác nữa trong kiến trúc nhà vườn ở Phước Tích là gia đình nào cũng có một bể chứa nước trong sân và hai chiếc gầu múc nước dựng gần đấy. Tìm hiểu ra mới biết, do ngày xưa nhà nào cũng có lò nung gốm, mà nhà rường thời trước lợp mái lá nên hay xảy ra hỏa hoạn. Công dụng của bể nước và gầu dùng để phòng khi có hỏa hoạn chủ nhà có thể tự chữa cháy.
Bước đi trên con đường vắng người được lát gạch ở Phước Tích bạn sẽ thấy trong lòng bình yên đến kỳ lạ. Cách quốc lộ 1A ồn ào chỉ 1km, không thể tưởng tượng được lại có một không gian cổ kính, yên tĩnh đến thế. Nếu có lần đi qua Hương Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế bạn đừng quên ghé thăm ngôi làng nhỏ bé này, chắc chắn bạn sẽ không thất vọng về quyết định của mình.
Trần Việt Anh
Làng cổ Phước Tích Huế
Làng cổ Phước Tích - Thừa Thiên Huế. Ngôi làng cổ thứ hai của Việt Nam. Nếu như làng Việt cổ ở Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội) mang dáng dấp đặc trưng của vùng quê đồng bằng Bắc Bộ, thì làng Phước Tích xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, Thừa Thiên Huế lại còn khá nguyên vẹn những yếu tố gốc của làng cổ vùng văn hóa Huế và miền Trung. Đây là ngôi làng thứ 2 của Việt Nam được Bộ VH-TT&DL xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Lễ công bố quyết định quan trọng này diễn ra song song với "Festival nghề truyền thống Huế - 2009" (ngày 13/06), mở ra cơ hội phát triển mới cho làng cổ Phước Tích.
Tọa lạc trên ranh giới tỉnh hiện nay giữa Quảng Trị và Thừa Thiên, nằm cách trung tâm Huế khoảng chừng 45 cây số, làng Phước Tích nép mình bên dòng Ô Lâu hiền hoà bốn mùa trong xanh. Vị thế ngôi làng đã là gợi ý cho nhiều hình ảnh ví von sống động, mà “chiếc túi rút” hay “cái hầu bao” là một trong những hình ảnh để nói lên sự giàu có của ngôi làng này trong một thời kỳ lịch sử. Khác với những ngôi làng khác ở vùng miền Trung gió Lào cát trắng, cái làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của Phước Tích chính là vẻ đẹp hiền hoà, bình yên của những ngôi nhà cổ đã trên trăm năm tuổi và nghề làm gốm vốn đã trở thành thương hiệu của mảnh đất này.
Hiện nay làng Phước Tích có 117 nóc nhà và 452 nhân khẩu. Nét đặc trưng chủ yếu và cũng là nét đặc sắc nhất của làng là quy hoạch không gian kiến trúc, được tổ hợp bằng các nhà vườn truyền thống, bố cục theo ba xóm gắn bó với nhau. Hệ thống đường sá, cây xanh nối liền với nhau một cách tự nhiên và sinh động của một vùng sinh thái độc đáo, kết hợp hài hòa giữa trời, đất và con người.
Giữa các khuôn viên của ngôi nhà không ngăn cách bằng hàng rào kín (bằng gạch xây hoặc gạch mộc hay tường trình) và có cổng, mà bằng các hàng rào hở bằng cây chè tàu, uốn lượn theo trục đường làng, ngõ xóm và lối đi vào từng nhà. Tất cả tạo nên sự hấp dẫn kỳ lạ đối với môi trường sinh sống làm cho con người gắn bó với cảnh quan thiên nhiên.Ðiều đó vừa chứa đựng triết lý nhân bản sâu sắc vừa mang tính sáng tạo độc đáo của con người, nhằm tổ chức một không gian sống lý tưởng cho cộng đồng cư dân từ thời xa xưa còn tồn tại đến ngày nay.
Với cấu trúc và tổ chức không gian được coi là điển hình cho mô hình cư trú nơi thôn quê của người Việt ở vùng Bắc Trung Bộ, làng Phước Tích đang ngày càng thu hút nhiều dự án đầu tư trong và ngoài nước. GS GS Hiromichi Tomoda - người phụ trách dự án “Hỗ trợ phát huy vai trò của cộng đồng trong phát triển bền vững ở VN thông qua du lịch di sản” - dự án điều tra tổng hợp về làng cổ Phước Tích, cho biết: làng Phước Tích hiện còn 24 ngôi nhà cổ có giá trị, trong đó nhà cổ nhất dựng năm 1850, kế đến là nhà dựng năm 1870. Tất cả đều xây dựng trên khu vực cao 3,5m so với mực nước biển, độ cao vừa đủ để ít chịu ảnh hưởng bởi các trận lụt hằng năm. Mọi ngôi nhà cổ đều nằm trong một khu vườn rộng xanh mướt bao quanh. Đây chính là những giá trị tiềm ẩn cần được đầu tư khai thác nhằm phát triển thế mạnh du lịch của vùng đất này.
Làng cổ Phước Tích còn được biết đến với sản phẩm gốm cổ truyền vốn từ lâu đã trở thành thương hiệuTrước đây, gốm Phước Tích còn trở thành một sản phẩm đặc biệt cống nạp cho các triều đại nhà Nguyễn để nấu cơm cho vua ăn. Ngày nay, Trải qua nhiều thời kỳ, sản phẩm gốm Phước Tích đã có mặt trong cuộc sống của người dân quê hương cũng như ở khắp các vùng của miền đất Thuận Hóa.
Mới đây, Nhằm giới thiệu, quảng bá nét hương xưa ở ngôi làng cổ độc đáo này, Tổ chức JICA phối hợp với Đại học Nữ Chiêu Hòa (Nhật Bản) đã hỗ trợ và đào tạo nghề cho 20 người dân Phước Tích duy trì nghề gốm bằng cách sản xuất các sản phẩm, mẫu mã mới dựa trên kỹ thuật truyền thống để giới thiệu tại Festival Huế 2012.
Ngoài ra còn có hàng chục các đình, chùa, miếu, đền thờ, như đình làng Trung, chùa Phước Bửu, miếu Cây Thị, miếu Ðôi, miếu Quang Tế (thờ Yoni va Linga của người Chăm) và các miếu Âm hồn, Con Cọp, Bà Giang (người Chăm), đền Văn Thánh... Miếu Ðôi thờ người khai canh Hoàng Minh Hùng được phong làm Thần Hoàng của làng. Tất cả mang đậm nét tâm linh của cư dân làng cổ tiêu biểu của Việt Nam.
Mặt khác, do ở cạnh làng mộc cổ truyền Mỹ Xuyên, nên Phước Tích được thừa hưởng nghệ thuật độc đáo của điêu khắc kiến trúc, chạm trổ trên các bộ khung gỗ của ngôi nhà, càng làm đậm nét tính chất dân gian mang đầy đủ bản sắc.
Nằm ở ranh giới giữa Huế và Quảng Trị, nơi có con sông Ô Lâu xanh ngắt hiền hòa, Phước Tích là điểm dừng chân yên bình cho du khách thập phương tại Festival Huế 2012. Theo tin từ Trung tâm Festival Huế, làng cổ Phước Tích, thuộc xã Phong Hòa, huyện Phong Điền là một trong những điểm đến của tour du lịch "Hương xưa làng cổ" tại Festival Huế 2012.
Sản phẩm gốm của làng cổ Phước Tích
Bản đồ về Làng Phước Tích Huế
Làng cổ Phước Tích nằm giáp ranh với Quảng Trị, dọc theo dòng sông Ô Lâu hiền hòa ...
Dòng sông Ô Lâu hiền hòa
Hai hàng chè ven ngõ dẫn vào một ngôi nhà rường, nét đặc trưng ở Phước Tích.
Đình làng Phước Tích
Theo lời báo chí nhan nhãn khắp internet đồn đại rằng: " Làng cổ Phước Tích thành lập từ năm 1470 dưới thời Lê Thánh Tông, được đánh giá vào hàng vẹn nguyên, quý giá không chỉ ở miền Trung mà còn của cả nước. Kết quả điều tra bước đầu cho biết trong số 117 ngôi nhà của làng Phước Tích hiện còn 27 ngôi nhà rường - vườn truyền thống, trong đó có 12 ngôi nhà có giá trị đặc biệt về mặt kỹ thuật và thẩm mỹ.
Không những vậy, làng còn có hàng loạt hệ giá trị văn hóa được xem là đầy đủ, độc đáo và hiếm hoi. Cụ thể như: hệ thống thiết chế kiến trúc văn hóa tín ngưỡng như đình, chùa; hệ thống nhà thờ họ, đền, miếu, am...; cảnh quan thiên nhiên và cảnh quan xóm làng nhuần nhị, xanh tươi ngút ngàn; đặc biệt là không gian và văn hóa sống cộng đồng đặc trưng, thuần khiết của làng quê Việt còn được tiếp tục bảo tồn, duy trì tại làng... "
Những ngôi nhà này nằm rải rác khắp làng, đặc biệt là đều hướng về phía sông
Một trong số các bến dọc đường đi
Tại mỗi bến đều được tạc lại số năm xây dựng. Nghe đồn mấy cái bến này rất linh thiêng và đều có đền thờ. Người dân ở đây thường ra đây để làm lễ cúng, bái. Ngoài nhà rường cổ ra, ở đây có rất nhiều nhà thờ họ, tộc
Lò gốm cũng được đặt cạnh sông, gió thổi mát lồng lộng ... một khung cảnh rất hài hòa, bình yên:
Lò nung gốm
Một trong những sản phẩm Gốm từ làng cổ Phước Tích - Huế
Cái bàn để làm gốm cổ xưa, bây giờ người ta toàn dùng điện, không xoay như lúc trước nữa Thường ngày ở đây luôn có thầy để hướng dẫn cho những ai muốn học hỏi cách làm gốm, rất nhộn nhịp và thú vị.
Một lò Gốm củ
Theo lời các học trò gốm ở đây, nghề gốm có rất nhiều điều hay ho, ko chỉ là một nghề, một loại nghê thuật mà còn là một liệu pháp tốt để thư giãn. Con người một khi đã đắm mình cho một tác phẩm nào đó, thì có nghĩa là họ đang phiêu thật sự trong thế giới của nghệ thuật tạo hình.
LÀNG PHƯỚC TICH BS. HỒ VĂN CHÂM
Báo chí trong nước gần đây (tháng sáu năm 2003), ở cả Hà Nội lẫn Sài Gòn, và đài Truyền hình Huế, có đăng bài và chiếu băng hình phóng sự về một ngôi làng nằm trên bờ nam sông Ô Lâu, thuộc miền Trung Trung Bộ, cách Huế chừng 40 kilômét về phía bắc. Đó là làng Phước Tích, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế.
Trọng tâm của các bài viết và băng hình phóng sự xoay quanh vấn đề làm sao bảo trì những ngôi nhà cổ trong làng, có cái gần 200 năm tuổi, mà Hội Kiến trúc sư Việt Nam qua khảo sát buổi đầu đã đánh giá là di sản văn hóa rất đáng trân trọng. Nổi ưu tư của các nhà văn hóa không phải là sự lo sợ các ngôi nhà rường bị thay thế bằng những ngôi nhà bê tông cốt sắt, mà là viễn tượng rành rành trước mắt làng Phước Tích đang dần dà đi vào dĩ vãng. Thật vậy, dân làng bây giờ còn rất ít, chỉ có khoảng 300 người, mà hầu hết là ông già bà lão. Thanh niên không mấy người ở lại làng, mà trẻ em cũng rất ít. Cả làng chỉ có chừng 15-20 đứa trẻ. Lớp người thuộc lứa tuổi lao động, nam cũng như nữ, đều đã bỏ làng đi xa kiếm sống, phần đông đã an cư lạc nghiệp nơi quê hương mới, không còn tính đến việc trở về làng cũ. Người làng Phước Tích ngày nay làm ăn sinh sống khắp nơi trong nước, ở Huế, ở Đà Nẵng, trên Tây nguyên, trong Nam, ngoài Bắc, từ chổ núi rừng u tịch như A Lưới, Dầu Tiếng, đến nơi đô hội phồn hoa như Hà Nội, Sài Gòn. Số người thiên di ra nước ngoài cũng không phải là ít, và họ có mặt khắp nơi, Tây Âu, Bắc Mỹ, Úc Châu. Không một ai có ý định trở về làng sinh sống, bởi một lẽ giản đơn là về làng sinh sống thì khó có thể kiếm được việc gì làm khả dĩ kiếm đủ lợi tức mà sống qua ngày. Bởi vậy dân làng ngày nay chỉ toàn là người già. Họ sống một phần nhờ vào sự trợ cấp của con cháu đang đi làm ăn xa, và một phần nhờ vào hoa lợi thu hoạch từ khu vườn cây ăn trái bao quanh nhà.
Tác giả các bài báo cũng như Kiến Trúc sư Hoàng Đạo Kính trong băng hình phóng sự đưa ra nhận xét là những khu vườn này không khác gì những khu vườn ở Huế, cũng bình phong bể cạn trước sân, cũng hàng chè tàu xanh bao quanh nhà, cũng những dây trầu quấn quanh gốc cau, cũng những hàng cây ăn trái đủ loại mà có phóng viên cho là còn phong phú và quý hiếm hơn cả các khu vườn trong Huế, như bồ quân, trần bì. Ngoài ra, nhà nào cũng trồng hoa, hoa thân thảo như tường vi, tỷ muội, hồng bạch, thiên lý, leo dọc thừa ly (1) hay bò trên giàn, hoa thân mộc như mai, lựu, hàm tiếu, hải đường, bích đào, hoàng lan, ngọc lan, trồng rải rác ven sân và ở đầu hồi, bốn mùa thi đua nhau khoe hương, khoe sắc, khiến cho toàn bộ ngôi làng chìm ngập trong một không gian màu xanh lục tươi mát. Trong một làng ít người, không quá 300 dân, mà 80% là ông già bà lão, hội Kiến Trúc sư Việt Nam đã kiểm kê sơ khởi được 27 ngôi nhà cổ, cái trẻ nhất cũng đã hơn trăm năm, cái già nhất thì đã 180 năm tuổi đời. Những ngôi nhà cổ này là loại nhà rường, giàn trò làm bằng gỗ nguyên cây, cột kèo, xuyên trính, bản khoa, vách đố, rầm thượng rầm hạ, tất cả được nối ráp với nhau bằng mộng, chứ không dùng đinh hoặc bù lon. Má kèo, đuôi trính, liễn ba, đòn lương, cửa buồng, tất cả đều được chạm trổ tinh tế. Sự tươi tốt mượt mà của cây trái, hoa cỏ ngoài vườn tương phản rõ rệt với vẻ củ kỹ tàn tạ của ngôi nhà và nhất là với nét già nua khô héo của chủ nhà. Điều này cho thấy làng Phước Tích đang dần dà tàn lụi. Vườn cây lá mỗi ngày một xanh nhưng mái đầu chủ nhân tóc mỗi ngày một bạc. Rồi đây họ nằm xuống, không còn người thay thế trông nom nhà cửa vườn tược, những ngôi nhà cổ in đậm dấu ấn một thời vàng son này sẽ ra sao?
Nhưng nỗi ưu tư đó là việc của các nhà văn hóa muốn bảo lưu di sản dân tộc. Đối với chúng ta, vấn đề được đặt ra là thử tìm hiểu tại sao giữa một vùng thôn ấp miền Trung nghèo khó, nắng lữa mưa dầu, ruộng vườn cạn kiệt nước tưới mùa khô và ngập úng nước lụt mùa lũ, người dân vất vã một nắng hai sương cày sâu cuốc bẩm mà cơm ăn không đủ no, áo mặc không đủ ấm, lại đã từng phát sinh một ngôi làng giàu có và văn vật nhường ấy. Cứ nhìn những ngôi nhà vườn kiểu Huế ở Phước Tích thì hình dung được ngay dân cư làng này ngày trước đã từng có cuộc sống phong túc đến mức độ nào. Khơi dậy tro tàn quá khứ để tìm hiểu họ đã làm ăn sinh sống ra sao, cách nghĩ cách làm của họ có gì khác biệt với dân cư các làng khác trong vùng, là có thể thu lượm được một số nhận thức thực tiễn để phác họa những nét đại lược cho sách lược phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội miền Trung đất mẹ cày lên sỏi đá.
Làng Phước Tích tọa lạc ở xứ Cồn Dương, trước là đất quận Nhật Nam của Giao Châu, từ đời Đường về sau là châu Ô của Chiêm Thành, đời Trần đổi làm châu Thuận. Khi vùng đất này được chuyển giao cho Đại Việt, thổ dân đều bỏ đi, hoặc vào Amaravati (Quảng Nam ngày nay), hoặc lên miền núi. Đời Hồ và Lê sơ, trong vùng lác đác đã có một số làng mạc người Việt được thành lập : Phò Trạch, Ưu Đàm (Ưu Điềm), Đường Long (Chí Long), nhưng xứ Cồn Dương vẫn chưa có người ở. Năm 1470, quân Chiêm Thành xâm phạm Hóa Châu, vua Lê Thánh Tông sai quan quân đi đánh dẹp. Năm sau, 1471, niên hiệu Hồng Đức thứ 2, nhà vua ngự giá thân chinh, tiến chiếm kinh đô Chà Bàn (Vijaya), cắt đất Chiêm Thành lập Thừa Tuyên Quảng Nam. Trong đạo vương sư chinh phạt Chiêm Thành có người họ Hoàng tên Minh Hùng, người huyện Quỳnh Lưu xứ Nghệ An, giữ chức Thượng Tướng quân Cẩm Y vệ Đô Chỉ Huy sứ Quản trị Phó Tướng. Vì có quân công, Hoàng Minh Hùng được vua phong quan tước là Hùng Minh Hầu đặc tấn Phụ Quốc Thượng Tướng quân, và ban cho xứ Cồn Dương làm thái ấp. Hoàng Minh Hùng cùng với 11 thuộc tướng, tất cả đều là người Quỳnh Lưu, chung nhau khai khẩn xứ Cồn Dương, lập ra làng Cảm Quyết, còn được gọi là Dũng Quyết, thuộc huyện Kim Trà, phủ Triệu Phong, Thừa Tuyên Thuận Hóa. Đời Nguyễn, Hoàng Minh Hùng được sắc phong Khai Canh, các thuộc tướng được sắc phong Hậu Khai Khẩn, tất cả 12 người đều được phong Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù Chi Thần.
Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, mang theo một số dân Thanh Hoa và Bắc Hà. Vì làng Cảm Quyết quá rộng, cư dân chỉ quần tụ ở vùng cồn cao giữa làng, chung quanh có sông Ô Lâu uốn khúc, nên các vùng đất trống bên ngoài bị chính quyền đương thời trưng dụng để định cư đám dân mới đến, lập nên các làng Mỹ Xuyên, Mỹ Can, Hội Kỳ, Mỹ Chánh. Do đó mà ngày nay miếu thờ Khai Canh tọa lạc ngay trong làng Phước Tích còn lăng mộ Khai Canh lại ở mãi tận làng Mỹ Xuyên. Sau khi các chúa Nguyễn cát cứ Nam Hà, Thừa tuyên Thuận Hóa được chia ra làm Cựu Dinh và Chính Dinh. Huyện Kim Trà được đổi tên thành huyện Hương Trà và huyện Đan Điền thành huyện Quảng Điền. Cảm Dũng Quyết cũng được đổi tên là Phước Giang, thuộc huyện Hương Trà, Chính Dinh. Đời Tây Sơn, Phước Giang được đổi làm Hoàng Giang. Đây chính là trạm Hoàng Giang nơi Thái sư Bùi Đắc Tuyên đày Trung Thư lệnh Trần Văn Kỷ ra chăn ngựa cắt cỏ nói trong sách Hoàng Lê Nhất Thống chí. Đầu đời Nguyễn, vua Gia Long lấy đất Phú Xuân xây Kinh thành Huế, cho dân Phú Xuân thấy nơi nào đất bỏ trống là có quyền cắm mốc lập làng. Một bộ phận dân Phú Xuân thấy cồn đất bồi trồng thuốc lá của Hoàng Giang có vẻ là nơi đất lành chim đậu nên đứng đơn xin chính quyền sở tại chiếu mệnh vua buộc dân Hoàng Giang cắt đất để lập làng mới Phú Xuân. Niên hiệu Minh Mạng thứ 15 (1835), huyện Phong Điền được thiết lập do đất của hai huyện Quảng Điền và Hương Trà cắt tách ra. Hoàng Giang được đổi lại là Phước Tích, thuộc tổng Phò Trạch, huyện Phong Điền, phủ Thừa Thiên, thuộc về Kinh Sư. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, chính quyền bỏ tổng lập xã, làng Phước Tích thuộc xã Phong Lâu, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Thời Việt Nam Cộng Hòa, Phước Tích hợp với Phú Xuân thành ấp Phước Phú, thuộc xã Phong Hòa, quận Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1975, các quận Phong Điền, Quảng Điền, Hương Điền, Hương Trà hợp nhất thành huyện Hương Điền; các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên hợp nhất thành tỉnh Bình Trị Thiên; ấp được đổi thành thôn; do đó thôn Phước Phú thuộc xã Phong Hòa, huyện Hương Điền, tỉnh Bình Trị Thiên. Ngày nay, các tỉnh và huyện cũ được tái lập, thôn Phước Phú lại thuộc xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế.
Từ đầu năm 1947 trở về sau, vì tình hình chiến tranh giằng co giữa Pháp và Việt Minh trong vùng huyện Phong Đíền, dân cư Phước Tích lâm vào cái thế một cổ hai tròng. Ban ngày quân Pháp từ đồn Mỹ Chánh bên kia sông Ô Lâu kéo qua ruồng bố, bắt bớ những người bị nghi là Việt Minh. Ban đêm Việt Minh từ chiến khu Hòa Mỹ kéo về đốt nhà và dùng mã tấu chém chết những người bị kết tội là Việt gian. Thế là cuộc di tản âm thầm của cư dân làng Phước Tích bắt đầu. Một số lén lút chạy về các thành phố, chủ yếu là vào Huế. Một số di chuyển lên các mật khu dọc Trường sơn hay xuống vùng duyên hải an toàn mà báo chí đương thời đặt tên là con đường buồn thiu (2). Đến năm 1950, Tướng Lebris, Tư lệnh quân viễn chinh Pháp tại Trung Việt, tổng tấn công an toàn khu con đường buồn thiu và bình định vùng bắc Phong Điền. Những người Phước Tích theo Việt Minh rút sâu vào các chiến khu Trường sơn hoặc tập kết ra Nghệ Tịnh. Những người Phước Tích khác, bấy lâu bị cầm chân trong vùng quê Phong Điền, nay nhân dịp vỡ mặt trận, rần rần kéo toàn bộ gia đình chạy vào Huế. Tiếng là đã được bình định, không còn là vùng xôi đậu nữa, nhưng Phước Tích vẫn không phải là nơi tuyệt đối an toàn. Đối với lớp người thuộc lứa tuổi lao động, nhất là giới thanh niên nam nữ, muốn cho tính mạng khỏi bị đe dọa thì tốt nhất là nên bỏ làng ra đi. Ở lại làng chỉ còn các ông già bà lão.
Trong số những người bỏ làng ra đi, sau này không có mấy người trở về quê cũ sinh sống. Năm 1954, hòa bình lập lại, nhưng đất nước chia đôi, những người Phước Tích theo Việt Minh, bấy lâu lẫn lút trong vùng mật khu, nay phải tập kết ra bắc đã đành, mà những người Phước Tích theo phía quốc gia cũng không thấy có ai trở lại sinh sống ở làng. Đến năm 1975, đất nước thống nhất, những người Phước Tích thuộc phe chiến thắng từ miền bắc trở về thăm làng thì có chứ trở về sinh sống ở làng thì cũng không thấy một ai. Sự kiện này có vẻ kỳ lạ đối với khách bàng quan, nhưng đối với cư dân làng Phước Tích thì là điều dễ hiểu : về sống ở làng thì khó có thể kiếm được việc làm để nuôi thân. Nhưng tại sao trước năm 1945 làng Phước Tích lại giàu có phồn thịnh, mà bằng cớ rành rành là trong làng vẫn còn những khu vườn kiểu Huế và những ngôi nhà rường cũ kỹ trên dưới 150 năm tuổi đời, chạm trổ tinh vi, tuy con cháu không có khả năng và phương tiện bảo trì đúng mức, nhưng vẫn trơ gan cùng năm tháng tồn tại mãi đến ngày nay. Những người Phước Tích giàu có thuở trước đã làm ăn như thế nào, theo đuổi những nghiệp vụ gì, áp dụng những phương thức kinh doanh đặc biệt gì mà ngày nay làng nước thanh bình trở lại mà con cháu lại không có đủ khả năng hoặc không có điều kiện kế tục sự nghiệp, để đến nổi không thể trở về quê cũ làm ăn mà phải tiếp tục tứ tán ly hương tìm đất mới sinh sống?
Từ năm 1945 trở về trước, nghề nghiệp căn bản của dân Phước Tích là nghề gốm. Gốm Phước Tích làm bằng đất sét nung già lửa, không tráng men. Phước Tích không sản xuất gốm mỹ thuật, không sản xuất lu mái, mà chỉ sản xuất những loại vật dụng trong nhà như vại, thạp, ghè (đột), hủ, âu, chậu, nồi, om, trách, và gạch ngói. Hiện trong làng còn miếu Đào Nghệ (dạy nghề), thờ người dạy dân làng kỷ thuật làm gốm. Tên họ của ngài không ai biết. Dân làng chỉ truyền tụng với nhau tên tục của ngài là Nồi (3), bởi thế, người Phước Tích kiêng tên húy của ngài nên gọi cái nồi là cái nghẹ. Nghề gốm tạo nên những thành phần nghiệp vụ khác nhau về nhiều mặt : giới chủ lò nung, tức là những người xuất vốn sản xuất; giới thợ đất chuyên đi lấy đất sét chở về làng bằng thuyền; giới thợ rừng lên núi đốn cây kết bè thả trôi sông đưa về nung lò; giới thợ xên chuốt nhào nặn đất sét thành vật dụng ở dạng gốm sống; giới nung đột xếp gốm sống vào lò rồi đốt lửa nung chín; và cuối cùng là giới phân phối đưa gốm thành phẩm ra thị trường tiêu thụ. Trong các thành phần trên thì hai giới chủ lò nung và phân phối gốm thành phẩm là hưởng lợi nhiều nhất. Họ có những cửa hàng gốm ở khắp các chợ lớn nhỏ trong vùng, từ Đông Ba An Cựu ở Huế đến chợ Sòng chợ Sãi ngoài Quảng Trị. Họ chở gốm thành phẩm (hàng đột) đến nơi tiêu thụ bằng thuyền lớn gọi là nôốt nên làng Phước Tích có tên nôm là Kẻ Đột và dân Phước Tích có biệt danh là dân nôốt đột. Họ làm ăn bận bịu quanh năm :
Sáng chợ Cần, chợ Kệ,
Tối Thủ Lễ, Hạ Lang.
Ba mươi Tết anh ở chợ ra về,
Rạng ngày mồng một anh còn lề mề trên phá Tam Giang.
Hiếu trung chi bên anh, anh cũng phải bỏ, huống chi bênnàng, nàng ơi!
Nghề nghiệp căn bản thứ hai của dân Phước Tích là đi học và thi đậu để ra làm việc nhà nước, tức là làm quan và làm công chức hay làm thầy cô giáo. Việc học rất được xem trọng. Trong lúc còn có những tỉnh chưa có miếu thờ Khổng Tử thì làng Phước Tích, ngoài Đình thờ Thành Hoàng và Chùa thờ Phật, lại có cả Văn chỉ thờ Vạn Thế Sư Biểu. Những người học hành đỗ đạt ra làm việc nhà nước hầu hết cưới vợ người làng. Cho dù thuyên chuyển đi các tỉnh xa hay làm việc ngay tại Huế, họ đều để vợ con ở nhà, và dành dụm tạo mãi nhà cửa ở làng. Do thói quen phong nhã của những người theo học chữ nho thường thích chơi cây cảnh và ưa ngâm hoa vịnh nguyệt, cũng như do địa thế cao ráo và có sông uốn khúc bọc quanh rất thuận lợi cho việc lập vườn trồng cây ăn trái mà làng Phước Tích có những khu vườn kiểu Huế sum sê tươi tốt và những ngôi nhà rường chạm trổ với bể cạn bình phong còn tồn tại mãi tới ngày nay. Với bản tính cần kiệm, người dân Phước Tích ra làm việc nhà nước, cho dù là đường quan thuộc quan hay thừa phái lại mục, là tham tá phán sự hay ký lục thông ngôn, là đốc học đốc trường hay trợ giáo hương sư, vị nào cũng chỉ để ra một khoản tiền khiêm tốn dành cho việc ăn ở, lương bổng còn lại bao nhiêu đều chắt chiu gửi về làng để vợ mua ruộng cho thuê tá canh, hay làm vốn buôn bán hàng nằm.
Làng Phước Tích là làng vườn, không có ruộng, nhưng dân Phước Tích đứng tên sở hữu rất nhiều ruộng ở các làng trong vùng thuộc huyện Phong Điền và phủ Hải Lăng. Các địa chủ Phước Tích không trực tiếp canh tác mà cho nông dân sở tại thuê tá canh, đến mùa thu hoạch thì đóng tô bằng lúa. Thành phần địa chủ có nhiều gốc gác khác nhau, từ quan lại và viên chức nhà nuớc, chủ lò nung và chủ cửa hàng gốm, chủ các cơ sở buôn hàng nằm và chế biến nông sản dự trử, đến các ông con nhà giàu thừa hưởng ruộng đất cha mẹ để lại. Cho dù là địa chủ chuyên nghiệp hay địa chủ tài tử, họ giống nhau ở một điểm là nhà cửa cao ráo rộng rãi để tiện việc cất giữ lúa. Một khu dinh cơ địa chủ điển hình gồm có nhà chính để ở, để tiếp khách và thờ tự, nhà ngang để sinh hoạt gia đình, nhà lẫm (nhà lậm) để cất giữ lúa, nhà bếp để nấu ăn, nhà cối để xay lúa giả gạo. Ngoài ra còn có nhà cầu nối liền nhà chính với nhà ngang và nhà lẫm, chuồng heo chuồng gà xây sát nhà bếp, và đụn rơm đằng sau vườn. Trước nhà chính là sân rộng lát gạch hay bằng đất nện để phơi lúa và nông sản các loại. Ngoài nhà lẫm, lúa còn được cất giữ ở nhà chính và nhà ngang, trên rầm thượng sát nóc nhà (dân Phước Tích gọi là cái tra), và trong các gian buồng có lót rầm hạ đã được cải biến thành vựa quây bằng những tấm cót tre. Ngoài lợi tức thu tô tá canh, các địa chủ còn hưởng tiền lời quy ra lúa trong dịch vụ cho nông dân mượn tiền và vay lúa để làm mùa và ăn giáp hạt.
Trong các nghề làm ăn mang tính chất đặc thù và phổ biến rộng rãi của dân Phước Tích trước nhất phải kể đến nghề buôn hàng nằm. Hàng nằm là hàng hóa được tích trử. Buôn hàng nằm là bỏ vốn mua hàng lúc giá rẻ rồi tích trử lại đợi lúc khan hiếm bán ra với giá cao. Nhưng buôn hàng nằm của dân Phước Tích không mang ý đồ xấu xa của gian thương đầu cơ tích trử. Ngược lại, nghề buôn hàng nằm của dân Phước Tích vừa làm giàu cho dân Phước Tích, vừa giúp cho dân quê lân cận suốt bốn mùa trong năm có đủ nhu yếu phẩm sinh hoạt. Thật vậy, dân quê quanh vùng, lúa gạo còn không biết cất giữ để ăn cho giáp hạt, còn nói chi đến chuyện muối đường cá mắm. Tích trử hàng nằm đi đôi với kỷ thuật chế biến và bảo quản. Ớt đậu, khoai sắn, hồ tiêu, cau tươi, thuốc lá v.v., đương mùa thu hoạch, nếu không có dân Phước Tích mua về phơi phong, sàn sãy, hoặc chế biến thành ớt bột, khoai khô, sắn lát, tiêu hột, cau khô, thuốc bánh, rồi tích trử trong những cái hủ gốm cao cổ nút kín, hay trong những lu mái đằng đậy kỹ càng bằng giấy báo và con cúi rơm, thì nhất thời không tiêu thụ hết sẽ ung thối mốc meo phải đổ bỏ đi. Muối, đường, cá khô, mắm ruốc, do ghe mành Quảng Ngãi, Bình Định, nhân mùa gió thuận, chở ra bán cho dân Phước Tích nguyên cả ghe, nếu không có dân Phước Tích thông thạo kỷ thuật bảo quản trong những lu mái và những cái kiệu khổng lồ cao quá đầu người, thì đến mùa mưa bão, dân quanh vùng tìm đâu ra các nhu yếu phẩm đó cho sinh hoạt hàng ngày. Bởi vậy, buôn hàng nằm của dân Phước Tích khác với đầu cơ của gian thương. Đầu cơ của gian thương là dìm giá, ép giá, tạo giá mua vào bán ra để trục lợi. Buôn hàng nằm của dân Phước Tích, ngược lại, thuận theo quy luật cung cầu của thị trường, mua vào lúc dân quê cần bán ra, và bán ra lúc dân quê cónhucầutiêudùngquacáchìnhthức mua sắm bằng tiền,
đổi chác lấy lúa, hoặc vay mượn quy ra lúa.
Cũng như nghề gốm, nghề buôn hàng nằm tạo ra nhiều thành phần nghiệp vụ phụ thuộc. Ngoài thành phần chủ cơ sở hàng nằm là những người có vốn, có phương tiện chế biến, và có kho vựa lu mái tích trử, đội ngũ chủ yếu của nghề buôn hàng nằm là các gánh hàng bày bán ở các chợ và các gánh hàng đi đổi lấy lúa vào các ngày mùa. Hình thức đổi hàng lấy lúa này quả tình rất là đặc biệt. Vào những ngày dân quê các làng lân cận thu hoặch lúa, đàn bà con gái Phước Tích từ sáng tinh mơ gánh hàng nhu yếu vượt mươi mười lăm cây số đường trường đến tận các sân đạp lúa đổi hàng lấy lúa. Họ chịu khó đi hết nhà này đến nhà khác, từ làng này đến làng khác. Chiều tối, họ cho lúa đổi được vào bao đệm đem gửi ở nhà quen. Liên tiếp chừng tuần lễ, lúa đổi được đã khá nhiều, họ thuê thuyền đi chở lúa về. Trong dịch vụ đổi chác này, mặt hàng đắt khách nhất là đường, muối, vải vóc, guơng lược. Sẵn lúa mới gặt về đầy sân, người dân quê hào phóng đổi lấy đường nấu chè cùng bầu bạn ăn tại chổ, và mua sắm cho vợ con không một chút đắn đo dè dặt.
Nét sinh hoạt đặc thù khác của cư dân Phước Tích là lập vườn trồng cây ăn trái. Thật ra đây không hẳn là nghề làm ăn mà là một thú vui tiêu khiển có phát sinh hoa lợi. Vườn tược ở Phước Tích không rộng, trung bình chỉ chừng dăm ba sào (sào Bắc bộ và Trung bộ = 360 mét vuông). Rất hiếm có những khu vườn trên một mẫu. Vườn không rộng nhưng canh tác theo lối mật thận. Gia dĩ, đất thịt gò đồi cao ráo, lại có sông uốn khúc bọc quanh, nên cây cối trong vườn cành lá tươi tốt, hoa quả sum sê. Vườn nào cũng có trồng cau trầu. Chung quanh gốc cau, người ta đắp đất thành bồn tròn, bên trong bón phân chuồng và cắm 4 dây trầu. Các cây ăn trái thông thường là mãn cầu, cam, quýt, chanh, ổi, vã, khế, chuối, bưởi, trồng rải rác khắp vườn. Dọc hàng rào quanh vườn là mít và chung quanh gốc mít là thơm (dứa). Chỉ những khu vườn thật rộng mới trồng một vài cây có tán rộng như nhãn, dâu gia, hồng quân, giáng châu (măng cụt), trần bì, chùm kết, và trồng tre bao quanh vườn. Các cây hoa thân mộc thì trồng quanh sân và đầu hồi. Cây cối trong vườn mỗi năm được bón phân chuồng một lần, được tưới nước gánh từ dưới sông lên khi trời làm khô hạn, và mùa hè các gốc cây được tủ bổi (cành lá sim) để che nắng và giữ hơi ẩm. Các chủ vườn thường chỉ lo việc chăm bón các khóm hoa, luống cải, bụi trầu, còn mọi công việc nặng nhọc như rào dậu, tủ bổi, ra phân, ủ phân, đào lỗ trồng cây, đều thuê người làm.
Các phương thức làm ăn kể trên đây không chuyên biệt dành cho giới nào hay cho gia đình nào. Chỉ riêng nghiệp vụ làm gốm mới có những gia đình chuyên ngành, còn lại thì trong bất kỳ gia đình nào người cha có thể là quan lại kiêm địa chủ, người mẹ buôn hàng nằm, con trai lớn làm thầy giáo, con trai thứ làm công chức, con dâu bán hàng xén, con gái ngày mùa gánh hàng nhu yếu phẩm đi đổi lúa và ngày thường thu hoạch hoa lợi trong vườn đem bán ở chợ làng bên. Gặp lúc công việc dồn dập, tất cả mọi người xúm lại, mỗi người một tay: thu góp lúa, cất muối, cất đường, chế biến nông sản, bửa cau khô, làm mắm cá v.v. Rộn rịp nhất trong năm là vào mùa hè. Đó là mùa thu hoạch lúa và các loại nông sản, và là mùa các ghe Quảng chở muối, chở đường ra bán. Đó cũng là mùa nắng nóng rất thuận tiện cho việc phơi phong để tích trử nhưng lại hay có mưa giông vào buổi xế chiều. Hàng hóa đang phơi mà trời chuyển giông là cả nhà náo nhiệt hẳn lên, rầm rập chạy mưa, chớp mắt lúa đã vào vựa, khoai đã vào bồ, đường đã vào mái, ớt đã vào hủ để ngày hôm sau lại được đưa ra sân phơi tiếp. Im vắng nhất trong năm là vào mùa đông, mùa mưa dầm gió bấc. Dăm bảy ngày mới có một buổi bạn hàng mua sỉ đến lấy hàng hóa, mươi bữa nửa tháng mới có một vài nông dân các làng bên đến vay lúa ăn giáp hạt hay mượn tiền làm mùa. Kỳ dư thì vô cùng rỗi rãi. Có những ngày mưa lớn quá, chợ không họp, cả nhà đóng sòng ngồi nhìn mưa và chờ ăn. Được cái là người Phước Tích rất giỏi chế biến và bảo quản thực phẩm, nên dù thời tiết thất thường mấy ngày liền không có chợ búa, suốt mùa mưa gíó họ vẫn có đầy đủ thức ăn dự trữ từ mùa hè, béo bổ và ngon lành.
Từ sau năm 1945, cuộc sống của cư dân Phước Tích bắt đầu khó khăn. Trừ nghề gốm và làm vườn, các phương thức kinh doanh buôn bán khác đều không phù hợp với đường lối chính trị của chính quyền cách mạng. Quan lại cũ của Nam triều là phong kiến phản động. Công chức cũ của Bảo hộ là Việt gian bán nước. Chủ ruộng cho nông dân tá canh là địa chủ bóc lột. Nhà giàu cho nông dân vay mượn là phú nông cho vay nặng lãi. Người buôn hàng nằm là gian thương đầu cơ tích trử. Đa số đàn ông con trai Phước Tích có học lực từ trung bình trở lên. Ngoại trừ những người được tuyển chọn vào Vệ quốc đoàn, vào Thanh niên cứu quốc, vào văn phòng các Ủy ban hành chánh Xã và Huyện, những người trẻ tuổi khác đều bị theo dõi vì là trí thức chao đảo không được tin cậy. Đầu năm 1947, quân trú phòng Pháp ở Huế được tăng viện, đánh bung ra, đến đóng đồn ở Mỹ Chánh bên kia sông. Ngay tối hôm đó, rất nhiều trí phú địa hào Phước Tích bị trói ké đưa ra các đồi cát làng Mỹ Xuyên chém chết với tội danh toan tính chạy theo Tây. Mấy hôm sau, nguyên Lý trưởng làng Phước Tích (4) bị đốt nhà, bản thân và con trai nhanh chân trốn chạy nên thoát chết trong đường tơ kẻ tóc, trong lúc con gái bị chém chết, vợ bị chém cụt tay, vợ hầu bị bắt dẫn đi mất tích. Sáng sớm hôm sau, viên Lý trưởng dẫn lính Tây đến thẳng một nhà trong làng, lùa mọi người ra ngoài rồi châm lửa thiêu rụi ngôi nhà. Được cái là ông ta biết rõ ai là đầu sỏ gây ra tai vạ hôm qua cho gia đình mình, nhưng nay kẻ kia đã cao chạy xa bay rồi, ông ta chỉ đốt nhà trả đủa chứ không nhẫn tâm giết hại người nhà của hắn để trả thù. Thế là từ đó, ban ngày lính Tây đi bố ráp, bắt người, đốt nhà, ban đêm Việt Minh cũng đi lùng sục, chém người, đốt nhà. Để tránh tai họa, người Phước Tích âm thầm bỏ làng ra đi. Ở lại làng chỉ còn một số ông già bà lão, điếc không sợ súng, hoặc là dù muốn đi cũng không biết đi đâu, đành liều mạng tra (già) ở lại giữ nhà.
Từ đó, đã bao nhiêu nước chảy qua cầu, nhiều chế độ chính trị liên tiếp đã cai trị làng Phước Tích, nhưng dân làng không bao giờ tìm lại được cuộc sống vàng son ngày trước. Những người dân đã bỏ làng ra đi, không có mấy người trở lại làng sinh sống. Những nghề nghiệp ngày xưa đã từng làm giàu cho cha ông họ, ngày nay không còn hợp thời hợp cảnh. Ruộng đất đã bị truất hữu, chế độ tá canh không còn, nên thành phần địa chủ đương nhiên biến mất. Những người làm việc nhà nước quen với nếp sống tiện nghi ở thành thị, ngày nay không ai lại để vợ con sinh sống ở làng. Gia dĩ, luơng bổng chỉ vừa đủ ăn tiêu, không còn dư dã để dành dụm làm nguồn cung cấp tư bản cho việc kinh doanh như trước năm 1945. Các bà các cô buôn bán đổi chác hàng nằm ngày trước, nay con cháu muốn nối nghiệp thì có thể kinh doanh tại chỗ cư trú, không cần phải trở lại làng. Huống hồ thương nghiệp là độc quyền nhà nước, buôn bán nhỏ cũng bị ngăn trở, nói chi đến chuyện đầu cơ tích trử. Ngay cả nghề gốm, dù không liên can gì đến các biến cố chính trị, cũng tàn tạ không thể phục hồi. Thật vậy, gốm sành nung chín của Phước Tích tuy bền nhưng nặng nề, thô kệch, không cạnh tranh nổi với vật dụng đun nấu bằng nhôm và vật dụng chứa đựng bằng nhựa của Sài Gòn, hoặc với om trách Quảng Nam tuy cũng bằng đất nung nhưng mỏng và nhẹ. Từ thời cộng hòa, việc chuyển hướng sang sản xuất gạch ngói vại khạp cũng không thành công vì vướng mắc chuyện an ninh và nạn sách nhiễu đóng thuế chui, lên rừng lấy củi hay xuống vùng dưới lấy đất sét là đụng đầu với Việt Cộng. Thời hiện tại thì gặp khó khăn với các vấn đề công đoàn và hợp tác hóa. Cũng đã có những nổ lực gửi người vào Biên Hòa và ra Hải Dương học hỏi bí quyết làm gốm tráng men, nhưng nguyên liệu sở tại không thích hợp với kỷ thuật tráng men đang áp dụng tại các nơi đó. Rút cục, chỉ còn nghề làm vườn là còn thoi thóp. Thoi thóp vì lẽ làm vườn trước đây là thú tiêu khiển, là nghề làm chơi, ngày nayvớinghềlàmvườntàitửnhưvậy thìlàmsaothư thả
kiếm sống được, nói chi đến chuyện làm giàu?
Xuyên qua việc phân tích các phương thức làm ăn của dân làng Phước Tích trước năm 1945, chúng ta có thể rút ra nhận xét tổng quát là : mặc dầu ở vị trí địa lý thuộc miền Trung Trung Bộ, đất đai cằn cỗi, khí hậu khắc nghiệt, nhưng dân làng Phước Tích giàu có, văn vật, chứ không nghèo khổ, vất vả như dân các làng khác trong vùng, là vì dân làng Phước Tích không có ruộng nên không chú trọng nông nghiệp, ngược lại chuyên tâm vào công nghiệp sản xuất đồ gốm, vào công nghiệp chế biến nông sản, vào thương nghiệp mua bán, tích trử, đổi chác nhu yếu phẩm và một số mặt hàng tiêu dùng. Mặt khác, dân làng Phước Tích xem trọng việc học hành, cung cấp dịch vụ hành chánh và giáo dục cho nhà nước, để đổi lấy đồng lương, chắt chiu dành dụm gửi về làng cho người nhà làm vốn. Lương bổng thời đó rất hậu, lương tri huyện, tham tá, 80 đồng, lương phán sự, trợ giáo, 25 đồng, trong lúc giá một lượng vàng chỉ có 5 đồng. Vì vậy, đi làm việc nhà nước và để dành tiền gửi về cho vợ làm vốn là một nguồn cung cấp tư bản dồi dào và đều đặn. Còn việc địa chủ thu tô và cho nông dân vay mượn không phải là hoạt động nông nghiệp mà có thể được xem như là những hình thức đầu tư tư bản và vật tư sản xuất.
Sau năm 1945, dân làng Phước Tích gặp khó khăn, trở nên nghèo khổ, vất vả có phần hơn cả dân các làng lân cận, là vì dân làng Phước Tích ở tại làng không còn có điều kiện hoạt động công nghiệp, thương nghiệp, cung cấp dịch vụ trí tuệ, đầu tư tư bản và vật tư sản xuất như trước đây. Mặt khác, cùng với tình trạng thiếu thốn lao động vì người trẻ bỏ làng ra đi, người già ở lại cũng thất nghiệp chỉ biết sống nhờ vào một ngành nông nghiệp vốn dĩ là một hoạt động nghiệp dư là nghề làm vườn. Nhưng nghĩ cho cùng thì cuộc sống sa sút của cư dân Phước Tích sau năm 1945 không phải đơn thuần do các yếu tố khách quan chiến tranh và cách mạng xã hội chủ nghĩa gây nên, mà còn do một số nguyên nhân nội tại tiềm tàng trong cách nghĩ cách làm của chính bản thân cư dân Phước Tích. Thật vậy, nói rằng dân Phước Tích hiếu học, nhưng lại là thứ hiếu học từ chương, học để thi đậu ra làm việc nhà nước, cung cấp dịch vụ trí tuệ để đổi lấy lương bổng, chứ không phải là cái học thực dụng để mưu cầu kiến thức thực tế liên hệ với cuộc sống hàng ngày. Đáng lẽ dân Phước Tích phải có người đi tìm học những tinh hoa nghề nghiệp của ngành gốm, cải tiến mẫu mã, kỷ thuật tráng men, thị hiếu khách hàng, quy luật thị trường v.v. Đáng lẽ dân Phước Tích phải có người nghĩ đến việc áp dụng bài học hóa học hữu cơ lớp 9 về sự thủy phân đa đường saccharốt thành đơn đường glucốt để chế biến tinh bột khoai sắn (khoai lang và khoai mì) thành đường maltốt dùng làm kẹo theo quy trình công nghiệp, thay vì cứ đời này qua đời khác, chế biến khoai sắn thì chỉ có thái lát phơi khô. Sông Ô Lâu uốn khúc bọc quanh làng, những đoạn vành cung của giòng sông, bên lở nước sâu thăm thẳm, rất thích hợp với việc nuôi cá bè, đáng lẽ dân Phước Tích phải cho con cái theo học ngành ngư nghiệp, gia tâm nghiên cứu cách ép cá, cách sản xuất cá bột, cách nuôi dưỡng cá, cách tuyển chọn giống cá v.v. Dân Phước Tích có nghề làm đậu tương gia truyền rất ngon, sản xuất thứ nước tương còn nguyên hột đậu, tức là loại tương Nam Đàn rất khác biệt với tương Bắc và tương Huế, đáng lẽ dân Phước Tích phải biết khai thác nguyên liệu tại chỗ để đưa vào sản xuất đại trà, gửi ngưòi đi nghiên cứu kỷ thuật đóng chai, quảng cáo chiêu hàng, để tung ra thị trường bên ngoài, thay vì chỉ sản xuất theo quy mô gia dụng. Đằng này cha dạy con, anh khuyên em cố gắng học hành theo lối từ chương để thi đậu làm ông phủ ông huyện, ông tham ông phán, hay ít ra thì cũng đi dạy học, làm ông đốc trường, ông trợ giáo. Lại nữa, dân Phước Tích chỉ cho con trai đi học, còn con gái từ nhỏ đã phải theo mẹ học việc bán buôn. Cũng có một số đàn bà con gái đỗ đạt, nhưng rồi cũng đi làm cô giáo, không có người nào đem sở học phục vụ lãnh vực kinh doanh.
Kiểm điểm lại cung cách làm ăn và lề lối sinh hoạt của cư dân làng Phước Tích trước và sau năm 1945, xuyên qua các thời kỳ phát triển thịnh vượng và suy thoái nghèo khó, chúng ta đã có thể thu lượm được một số nhận thức thực tiễn giúp chúng ta phác thảo những nét đại lược về sách lược phát triển vùng Phước Tích nói riêng và miền Trung Bộ nói chung. Đứng về phương diện kinh tế mà xét, tương quan giữa Phước Tích với các làng chung quanh cũng na ná như miền Trung Bộ với hai miền Bắc, Nam kế cận. Phước Tích không có ruộng, trong lúc các làng chung quanh có nhiều ruộng tốt, cũng như Trung Bộ đất đai khô cằn, trong lúc hai miền Bắc Bộ và Nam Bộ đất đai mầu mỡ, ruộng đồng cò bay thẳng cánh. Trước đây dân làng Phước Tích đã không theo đuổi nghề nông mà chuyên tâm vào công nghiệp và thương nghiệp nên đã phát triển và thịnh vượng hơn các làng khác trong vùng. Còn Trung Bộ, trước kia cũng như ngày nay, ngày đêm than vãn “quê em nghèo lắm ai ơi, mùa đông thiếu áo mùa hè thiếu cơm”, là bởi cứ lạch bạch chạy theo hai miền Bắc, Nam, lễ mễ ôm cứng lấy khối đá nông nghiệp. Sở dĩ gọi là khối đá nông nghiệp bởi lẽ đối với miền Trung, nông nghiệp quả tình là một gánh nặng. Đất hẹp người đông, ruộng nương đã xấu mà khí hậu lại khắc nghiệt, mưa nắng bất thường, nay lụt mai bão, đời sống người nông dân thật là cơ cực. Huống hồ nông nghiệp miền Trung xưa nay chủ yếu là nông nghiệp trồng cây lương thực, có được mảnh đất nào là gieo lúa gieo bắp, trồng đậu trồng khoai, chỉ lo có cái ăn, quần quật quanh năm mà tay làm không đủ cho hàm nhai! Người miền Trung trước đây hầu như không nghĩ đến trồng cây công nghiệp. Trà, cà phê, cao su, chỉ từ thời Pháp thuộc mới thấy trồng ở các đồn điền của người Pháp. Với các đồn điền trồng cây công nghiệp, người dân miền Trung cũng chỉ làm công việc người phu đồn điền, ăn nhẹ vác nặng, hay cùng lắm là sắm vai tiểu chủ cung cấp nguyên liệu mà giá cả hoàn toàn nằm trong tay người mua, tuyệt nhiên không có lấy một người xung phong len lỏi vào lãnh vực chế biến nguyên liệu và phân phối thành phẩm ra thị trường. Bao nhiêu mối lợi lọt hết vào tay người nước ngoài.
Miền Trung khư khư giữ chặt nếp sống nông nghiệp đã đành là do dân ta bảo thủ, nhưng chủ trương chính sách của nhà cầm quyền không phải là không dự phần chủ yếu. Chẳng hạn, nghị quyết 9 của đảng Cộng sản vào đầu thập niên 70 của thế kỷ 20 nhấn mạnh phương hướng hoạt động “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”, và vạch rõ chỉ tiêu thực hiện là “ mỗi huyện là một đơn vị quốc phòng có thể tự lực chiến đãu, mỗi tỉnh là một đơn vị kinh tế có thể tự túc lương thực”. Do đó mà các phân hạt hành chánh được tổ chức lại, nhiều huyện được gom thành một huyện mới, hai ba tỉnh cũng được sát nhập lại thành một tỉnh lớn hơn. Sau tháng tư 1975, miền nam nước ta thống nhất với miền bắc, nên Phước Tích trước đây thuộc huyện Phong Điền, nay thì 4 huyện Phong Điền, Quảng Điền, Hương Điền, Hương Trà gộp lại thành một huyện thôi gọi là huyện Hương Điền, và 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên và thành phố Huế gộp lại thành tỉnh Bình Trị Thiên. Theo tinh thần nghị quyết 9, huyện Hương Điền (mới) là một đơn vị quốc phòng, tỉnh Bình Trị Thiên là một đơn vị kinh tế. Vì không còn chiến tranh nên huyện Hương Điền không có cơ hội thể nghiệm khả năng tự lực chiến đãu, trong lúc đó thì tỉnh Bình Trị Thiên bắt buộc phải gồng mình để thực hiện chỉ tiêu nuôi ăn cho dân trong tỉnh mà không cần nhập lương thực từ bên ngoài. Bình Trị Thiên rất ít ruộng trồng được lúa nước, còn thì chỉ có thể trồng sắn và cây công nghiệp ở miền ven Trường sơn, và trồng khoai và cây ăn trái ở miền ven biển. Cây công nghiệp và cây ăn trái mang lại những mối lợi lớn nhưng không thể quy ra thóc. Khoai sắn nếu chế biến thành tapioca xuất khảu cho Tây nấu xúp, hoặc thành đường maltốt chở vào Đà Nẵng hoặc Sài Gòn làm kẹo công nghiệp, thì cũng thu được những mối lợi lớn, nhưng lại không thể quy ra thóc. Thành thử, đất đỏ basalt mầu mỡ là thế, đáng lẽ trồng cà phê xuất khẩu thì chỉ được trồng sắn để thái lát phơi khô; các bãi cát Đại Trường sa, Tiểu Trường sa, mênh mông là thế, nếu được cải tạo với đất sét Thái Mỹ chở từ trong nam ra thì sẽ trở thành những vườn cây ăn trái bất tận, nhưng cũng chỉ được trồng khoai để thái lát phơi khô mà thôi! Phải trồng khoai trồng sắn, bởi lẽ khoai sắn thái lát phơi khô mới được quy ra thóc. Có vậy nghị quyết 9 mới được thi hành, chỉ tiêu tự túc lương thực mới được thực hiện, đảng ta lập thêm thành tích vẻ vang, mặc cho dân chúng quanh năm ăn độn khoai sắn, và ngày càng thêm nghèo thêm khổ.
Như vậy, người dân miền Trung, nếu muốn có đủ cơm áo, gạo tiền, sống cho ra sống, thì đừng theo đuôi hai miền Nam Bắc mà cứ khư khư ôm cứng khối đá nghìn cân là nền nông nghiệp truyền thống trồng cây lương thực. Muốn được ăn no và ăn ngon thì cần có nhiều tiền, chứ không phải cần có đủ lúa trong vựa, đủ khoai sắn trong bồ. Hãy khai thác hợp lý các thế mạnh của miền Trung để có tiền, có thật nhiều tiền, đổi lấy thóc gạo, thịt cá, và hàng tiêu dùng. Đất đai và khí hậu miền Trung rất thích hợp với một số cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao. Đừng dừng lại ở khâu cung cấp nguyên liệu mà nhất thiết phải phát triển công nghiệp chế biến ra thành phẩm tiêu thụ song hành với việc kiện toàn khâu phân phối xuyên qua việc phát triển thương nghiệp cả trong nước lẫn ngoài nước. Miền Trung có bờ biển dài, nhiều vũng sâu, nhiều vịnh kín gió, rất thuận lợi cho vìệc hải hành, cho việc vận chuyển trao đổi hàng hóa. Sắn Quảng Trị chế biến thành kẹo, mía Quảng Ngãi chế biến thành rượu, chở vào trong Nam đổi lấy gạo. Đất sét Thái Mỹ trong Nam chở ra Nghệ Tịnh, Bình Trị Thiên, cải tạo các đồi cát ven biển thành vườn mãn cầu (quả na), đem ra ngoài Bắc đổi lấy hàng công nghiệp tiêu dùng. Phải chú trọng phát triển ngành đánh cá xa bờ, song hành với việc phát triển công nghiệp chế biến và đóng gói hải sản xuất khẩu. Đã tới lúc tiến hành việc thử nghiệm nuôi cá nuôi tôm nước ngọt, nước lợ, nước mặn trong các bè, các ao vũng, đầm phá ở miền Trung. Cũng đã tới lúc khuếch trương việc nuôi dê nuôi cừu ở Quảng Trị, Phan Rang, nuôi bò nuôi trâu ở Nghệ An, Ban Mê Thuột thành phong trào chăn nuôi đại trà, trên quy mô công nghiệp.
Nói tóm lại, muốn khỏi đói khỏi nghèo, miền Trung trước mắt phải lập tức chuyển hướng cách nghĩ cách làm trong lãnh vực nông ngư nghiệp đi kèm với việc cải tiến công nghiệp chế biến nông hải sản, chú trọng sử dụng các phương tiện vận chuyển đường biển để phát triển thương nghiệp trong nước nhằm mục đích trao đổi sản phẩm, và khuyếch trương ngoại thương với các quốc gia láng giềng cũng như với các quốc gia thân hữu khác để bước đầu chen chân xâm nhập thị trường thế giới. Thực hiện thành công những bước đi đầu tiên đó, nhiên hậu mới tính đến việc khai thác những thế mạnh khác của miền Trung trong các lĩnh vực công nghiệp và thương nghiệp liên hệ đến các tài vụ phức tạp mang tính chất đa quốc gia như công nghiệp hóa dầu, công nghiệp luyện kim, khai thác khoáng sản, dịch vụ du lịch, sản xuất vật liệu xây cất (nhất là xi măng với vĩa đá vôi khổng lồ Bình Trị Thiên kéo dài từ Long Thọ ra Kẻ Bàng lan qua Hạ Lào). Nhưng bao trùm lên tất cả những chương trình đó là việc cải cách chính sách giáo dục, nhẹ về chiều hướng từ chương mà nặng về chiều hướng thực dụng, và việc thay đổi chính sách kinh tế trên cơ sở tôn trọng quyền sở hữu cá nhân và khuyến khích tinh thần tự do cạnh tranh trong kinh doanh.
Cải cách giáo dục không chỉ giản đơn thu gọn trong việc tăng gia mức độ đầu tư vào lãnh vực giáo dục, mà chủ yếu là việc tập trung công sức vào việc áp dụng tất cả các biện pháp cứng rắn nhằm mục tiêu thay đổi triệt để tư duy và hành động của các giới giáo chức, phụ huynh, học sinh và sinh viên các cấp các ngành. Phải bài xích việc giáo sư soạn thảo và giảng dạy theo giáo án khuôn mẫu. Phải chấm dứt việc giáo sư đọc bài giảng cho học sinh sinh viên chép đem về nhà học thuộc lòng. Phải tẩy xóa đầu óc ham chuộng hư danh và bằng cấp trong quần chúng. Vì lòng ham chuộng không đúng chỗ này mà các bậc phụ huynh ngày trước cũng như hôm nay cứ mong muốn và ép buộc con em theo học nghề bác sĩ. Cũng vì lòng ham chuộng tai hại này mà thời Pháp thuộc câu nói cửa miệng “phi cao đẳng bất thành phu phụ” có giá trị quyết định đến nỗi các cậu ấm, con quan, nhà giàu, nhưng học không giỏi, phải phát minh ra cái bằng cấp candidat au Bac (Bac là baccalauréat, là bằng tú tài). Tinh thần ham chuộng hư danh và tôn trọng bằng cấp đó ngày nay vẫn tồn tại, vẫn phổ biến, nên rất nhiều sinh viên Việt Nam tại hải ngoại lận đận nghiệp sách đèn bèn theo gương các đàn anh ngày trước mà tự phong là Ph.D. candidate, hoặc bỏ tiền ra mua bằng Ph.D. giả mạo của một số trường ma giáo để loè bịp thiên hạ. Cuối cùng việc cải cách giáo dục nói ở đây chủ yếu có nghĩa là cần tìm mọi cách tiêm nhiễm vào đầu óc sinh viên học sinh tinh thần phát huy sáng kiến, ham chuộng học hỏi tìm tòi sự mới lạ, để đưa vào thực tế đời sống, nghĩa là có thể áp dụng vào cuộc sinh hoạt hàng ngày của chính bản thân mình và của những người chung quanh mình.
Việc thay đổi đường lối kinh tế trên cơ sở tôn trọng quyền tư hữu cá nhân và tinh thần tự do cạnh tranh trong kinh doanh đòi hỏi những đổi mới về đường lối chính trị, về tổ chức hành chánh và phối trí lãnh thổ, và về mức độ tương quan quyền hành và trách nhiệm giữa trung ương và địa phương. Những chương trình chính yếu trong sách lược phát triển miền Trung nhằm mục đích xóa đói giảm nghèo phác họa trên đây không thể nào thực hiện được với chính sách hiện hành là chính sách kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là kinh tế 5 thành phần trong đó các công ty quốc doanh là thành phần chủ yếu. Các công ty quốc doanh là gánh nặng cho xã hội, có còn tiền bạc lời lãi gì mà mong góp phần vào việc xóa đói giảm nghèo cho dân chúng miền Trung. Như vậy, nhất thiết phải thay đổi chính sách kinh tế hiện hành sang kinh tế tự do cạnh tranh, nghĩa là phải thay đổi định chế chính trị hiện thời thành một định chế chính trị xây dựng trên cơ sở dân chủ pháp trị. Lại nữa, muốn phát triển kinh tế thì phải cho địa phương tự trị rộng rãi. Địa phương biết rõ nhu cầu và khả năng của mình, vì vậy phải cho địa phương có đủ quyền hành để tự mình hoạh định và thực hiện kế hoạch phát triển. Lấy thí dụ miền Trung nguyên Trung phần thời cộng hòa, hàng ngoại nhập phải qua cửa khẩu Sài Gòn nên tại thị trường Đà Nẵng giá cao hơn ở Sài Gòn. Từ 1971 trở đi, bộ Kinh Tế VNCH cho hàng ngoại vào miền Trung được nhập thẳng qua cảng Đà Nẵng, nhờ đó mà giá cả bằng với giá cả trong Nam, đời sống dân chúng miền Trung bớt khổ được nhiều phần. Như vậy, tản quyền cho địa phương là yếu tố quyết định trong kế sách phát triển kinh tế. Tuy nhiên, vẫn có những ý kiến phản bác, sợ rằng tản quyền rộng rãi về địa phương sẽ đưa đến tệ nạn địa phương phân cát. Do đó, cần phải đặt lại vấn đề tái phối trí lãnh thổ, theo chiều hướng vùng hành chánh kinh tế tự trị không được quá rộng như các miền Trung, Nam, Bắc để có thể tách riêng ra độc lập, nhưng nhất thiết không được quá nhỏ như các tỉnh hiện nay, vì không đủ tài nguyên nhân lực để thực hiện các chương trình tự túc phát triển kinh tế, cải tiến dân sinh. Trong tinh thần đó, các vùng hành chánh kinh tế tự trị có thể có quy mô như các quân khu trước đây, miền Bắc 3 vùng, miền Trung 3 vùng, miền Nam 2 vùng.
Nhân chuyện mấy ngôi nhà cổ ở làng Phước Tích mà tìm hiểu cái lẽ thịnh suy bĩ thái của dân làng này suốt năm trăm năm qua, để rồi nghiền ngẫm về thân phận đói nghèo cố hữu của dân chúng miền Trung, cái thân phận bất hạnh mà họ có thể tránh khòi nếu họ được tự do tìm một lối đi riêng, dứt khoát không đi theo con đường mòn có sẵn. Trong hai thế kỷ 17 và 18, Đàng Trong phát triển thịnh vượng hơn Đàng Ngoài, vì tranh thủ được độc lập với miền Bắc nên tự do mở tung cửa nhìn xa ra thế giới bên ngoài, bớt chú trọng nông nghiệp mà chuyên tâm vào việc chấn hưng công nghiệp và khuyếch trương thương nghiệp. Từ thế kỷ 19 trở đi, đất nước thống nhất, tuy miền Trung vẫn là trung tâm quyền lực của cả nước, nhưng từ chính quyền cho đến dân chúng lại quay về nề nếp suy nghĩ xưa cũ phát xuất từ miền Bắc, khiến cho bánh xe tiến hóa của đất nước cứ luẫn quẫn mãi trong vòng thành xã hội phong kiến nông nghiệp, không theo kịp bước chân thế giới bên ngoài.
Tóm lại, tất cả cốt lõi của sách lược phát triển miền Trung là sự thay đổi toàn diện cách nghĩ cách làm, từ cả phía chính quyền lẫn phía dân chúng.
Tháng mười, 2003
Minh Vũ Hồ Văn Châm
Chú thích:
1.Thừa ly, danh từ gốc Hán, đúng ra là sơ ly, là hàng rào bằng tre chẻ nhỏ dựng quanh sân trước nhà
2.Con đường buồn thiu (la route sans joie) là danh từ báo chí đương thời gọi đoạn đường từ Diên Sanh trên Quốc lộ 1 đi về Kế Môn, Đại Lược, Thế Chí, bên kia bờ phá Tam Giang, thuộc huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Vùng này, thời kháng chiến chống Pháp là khu an toàn dưỡng quân của Việt Minh.
3.Nồi, biến âm của Lồi, là tiếng dân ta gọi người Chăm.
4.Viên Lý Trưởng này con nhà giàu, có học, bản thân là địa chủ, anh em đều làm quan, mặc Âu phục rất thời thượng, giày golf và nón kết gửi mua tận bên Pháp, có việc xuống huyện hầu quan là vào thẳng bàn giấy bắt tay quan huyện và nói chuyện với quan toàn bằng tiếng Pháp, trong lúc Lý Trưởng các làng khác khăn đóng áo dài phải chầu chực, khúm núm trước mặt quan.
No comments:
Post a Comment