KHỦNG BỐ IS
Nhà nước Hồi giáo đe dọa tấn công thủ đô Hoa Kỳ
Video của Nhà nước Hồi giáo đe dọa tấn công thủ đô Hoa Kỳ. Hiện chưa thể xác nhận được tính xác thực của đoạn video này.
17.11.2015
Nhà nước Hồi giáo (IS) hôm nay tuyên bố rằng các nước tham gia vào các cuộc không kích ở Syria sẽ chịu chung số phận như Pháp, đồng thời đe dọa tấn công thủ đô Washington của Hoa Kỳ.
Đoạn video, xuất hiện trên một trang web thường được IS sử dụng để truyền tải các thông điệp của tổ chức này, bắt đầu bằng các hình ảnh về vụ tấn công khủng bố ở Paris hôm thứ Sáu tuần trước làm ít nhất 129 người chết.
Thông điệp gửi tới các quốc gia liên quan tới điều được gọi là “chiến dịch của kẻ thập tự chinh’ được một người đàn ông mặc quần áo rằn ri và đội khăn xếp được xác định là Al Ghareeb, công dân Algeria.
“Ta muốn nói với các nước tham gia chiến dịch thập tự chinh rằng, với sự chứng giám của Thượng đế, rồi sẽ đến lượt các người, theo ý của Thượng đế, sẽ giống như Pháp, và với sự chứng giám của Thượng đế, ta đã đánh vào trung tâm nước Pháp ở Paris, và ta thề sẽ đánh vào trung tâm của Hoa Kỳ ở Washington”, người đàn ông trong đoạn video nói.
“Al Ghareeb” còn cảnh báo Châu Âu rằng sẽ xảy ra thêm các vụ tấn công khác nữa.
“Ta muốn nói với các nước Châu Âu rằng ta sẽ tới, mang theo bom mìn và thuốc nổ, đai đeo gài thuốc nổ, súng giảm thanh và các người sẽ không thể ngăn chặn ta vì ta mạnh hơn trước,” hắn ta nói.
Hiện chưa thể ngay lập tức kiểm chứng tính xác thực của đoạn video được coi là sản phẩm của các chiến binh Nhà nước Hồi giáo ở tỉnh Salhuddine của Iraq, nằm ở phía bắc Baghdad.
Trong khi đó, chính phủ Pháp coi các vụ tấn công ở Paris là một hành động gây chiến, và tuyên bố sẽ không ngưng các cuộc không kích vào Nhà nước Hồi giáo ở Syria và Iraq.
Hiện chưa thể xác nhận được tính xác thực của đoạn video này.
Nhà nước Hồi giáo hôm 14/11 đã tuyên bố nhận trách nhiệm gây ra các vụ tấn công làm hơn 120 người thiệt mạng ở Paris.
Trong một tuyên bố chính thức, tổ chức này nói rằng các chiến binh được trang bị súng máy và mang theo thuốc nổ đã thực hiện các vụ tấn công tại nhiều địa điểm đã được nghiên cứu kỹ lưỡng ở trung tâm Paris.
Theo IS, các vụ tấn công nhằm mục đích cho Pháp thấy rằng nước này vẫn là một mục tiêu hàng đầu nếu tiếp tục các chính sách hiện thời.
Tuyên bố nhận trách nhiệm được đăng trên mạng bằng tiếng Ả-rập và tiếng Pháp và được phổ biến bởi các ủng hộ viên của tổ chức khủng bố này.
Tuyên bố của Nhà nước Hồi giáo không cho biết quốc tịch của những kẻ tấn công, nhưng các hãng thông tấn dẫn lời các quan chức cảnh sát Pháp cho biết một hộ chiếu Syria đã được tìm thấy trên thi thể của một trong những kẻ đánh bom tự sát nhắm vào sân vận động quốc gia Pháp.
Theo Reuters, VOA
http://www.voatiengviet.com/content/nha-nuoc-hoi-giao-doa-tan-cong-thu-do-hoa-ky/3060218.html
Đoạn video, xuất hiện trên một trang web thường được IS sử dụng để truyền tải các thông điệp của tổ chức này, bắt đầu bằng các hình ảnh về vụ tấn công khủng bố ở Paris hôm thứ Sáu tuần trước làm ít nhất 129 người chết.
Thông điệp gửi tới các quốc gia liên quan tới điều được gọi là “chiến dịch của kẻ thập tự chinh’ được một người đàn ông mặc quần áo rằn ri và đội khăn xếp được xác định là Al Ghareeb, công dân Algeria.
“Ta muốn nói với các nước tham gia chiến dịch thập tự chinh rằng, với sự chứng giám của Thượng đế, rồi sẽ đến lượt các người, theo ý của Thượng đế, sẽ giống như Pháp, và với sự chứng giám của Thượng đế, ta đã đánh vào trung tâm nước Pháp ở Paris, và ta thề sẽ đánh vào trung tâm của Hoa Kỳ ở Washington”, người đàn ông trong đoạn video nói.
“Al Ghareeb” còn cảnh báo Châu Âu rằng sẽ xảy ra thêm các vụ tấn công khác nữa.
“Ta muốn nói với các nước Châu Âu rằng ta sẽ tới, mang theo bom mìn và thuốc nổ, đai đeo gài thuốc nổ, súng giảm thanh và các người sẽ không thể ngăn chặn ta vì ta mạnh hơn trước,” hắn ta nói.
Hiện chưa thể ngay lập tức kiểm chứng tính xác thực của đoạn video được coi là sản phẩm của các chiến binh Nhà nước Hồi giáo ở tỉnh Salhuddine của Iraq, nằm ở phía bắc Baghdad.
Trong khi đó, chính phủ Pháp coi các vụ tấn công ở Paris là một hành động gây chiến, và tuyên bố sẽ không ngưng các cuộc không kích vào Nhà nước Hồi giáo ở Syria và Iraq.
Hiện chưa thể xác nhận được tính xác thực của đoạn video này.
Nhà nước Hồi giáo hôm 14/11 đã tuyên bố nhận trách nhiệm gây ra các vụ tấn công làm hơn 120 người thiệt mạng ở Paris.
Trong một tuyên bố chính thức, tổ chức này nói rằng các chiến binh được trang bị súng máy và mang theo thuốc nổ đã thực hiện các vụ tấn công tại nhiều địa điểm đã được nghiên cứu kỹ lưỡng ở trung tâm Paris.
Theo IS, các vụ tấn công nhằm mục đích cho Pháp thấy rằng nước này vẫn là một mục tiêu hàng đầu nếu tiếp tục các chính sách hiện thời.
Tuyên bố nhận trách nhiệm được đăng trên mạng bằng tiếng Ả-rập và tiếng Pháp và được phổ biến bởi các ủng hộ viên của tổ chức khủng bố này.
Tuyên bố của Nhà nước Hồi giáo không cho biết quốc tịch của những kẻ tấn công, nhưng các hãng thông tấn dẫn lời các quan chức cảnh sát Pháp cho biết một hộ chiếu Syria đã được tìm thấy trên thi thể của một trong những kẻ đánh bom tự sát nhắm vào sân vận động quốc gia Pháp.
Theo Reuters, VOA
http://www.voatiengviet.com/content/nha-nuoc-hoi-giao-doa-tan-cong-thu-do-hoa-ky/3060218.html
Các thành phố Mỹ tăng cường an ninh sau vụ tấn công Paris
16.11.2015
Thế giới đang choáng váng vì những vụ tấn công khủng bố dã man tại Paris, và Nhà nước Hồi Giáo tuyên bố là vụ tàn sát thứ Sáu tuần trước chỉ là bắt đầu chiến dịch khủng bố của tổ chức này. An ninh được tăng cường tại các nước có thể trở thành mục tiêu kế tiếp của Nhà nước Hồi Giáo giữa lúc giới hữu trách đang truy lùng những kẻ đồng loã trong vụ tấn công khủng bố tại Paris. Theo tường thuật của thông tín viên Zlatica Hoke, Hoa Kỳ đã tăng cường an ninh tại những nơi công cộng trọng yếu trong đó có phi trường, bến cảng, các vận động trường và các nơi hòa nhạc.
Tối ngày thứ Bảy, nhiều nhân viên cảnh sát, các thám tử tư và chó được điều động đến tuần tra tại sân vận động Rose Bowl của Đại học California ở Los Angeles, giữa lúc hàng ngàn người rủ nhau đến xem một trận đấu bóng bầu dục. Những biện pháp an ninh nghiêm ngặt hiện được áp dụng đối với những sự kiện thể thao trên toàn nước Mỹ. Phi trường, thương xá, viện bảo tàng và những nơi thu hút đông đảo người đến xem cũng đã thực hiện thêm nhiều biện pháp như lục sóat túi xách, khám người từ trên xuống dưới và máy dò kim loại.
Thị trưởng Los Angeles Eric Garcetti nói thành phố đã điều động tất cả các nhân viên cần thiết để đảm bảo an toàn cho những nơi công cộng.
“Tôi đã nói chuyện bằng điện thoại với Bộ trưởng An ninh Nội địa Jeh Johnson và chúng tôi phối hợp tất cả những tin tức tình báo. Chúng tôi phải đề cao cảnh giác.”
Ông Garcetti nói đề cao cảnh giác là thiết yếu vì rất khó tiên liệu mọi mối đe dọa, như kinh nghiệm Paris cho thấy.
Thương xá lớn nhất nước Mỹ, tại tiểu bang Minnesota, đã nhận được lời đe dọa rõ ràng vào tháng Hai năm nay và đã ban hành nhiều biện pháp an ninh nghiêm nhặt kể từ đó.
Cựu Cảnh sát trưởng lâu năm của thành phố New York Ray Kelly nói có một giới hạn trong việc chúng ta có thể làm gì thêm.
“Những mục tiêu dân sự có ở khắp mọi nơi. Tuy nhiên chúng ta cần phải làm hết sức mình và triển khai lực lượng một cách hữu hiệu nhất.”
Dù có những lo ngại, phần đông người Mỹ tin tưởng vào lực lượng an ninh địa phương sẽ giúp họ an toàn, và dự trù vẫn tiếp tục các sinh hoạt như thường lệ. Các cổ động viên khúc côn cầu trên băng ngày thứ Bảy đổ xô đến Sân Bridgestone vừa mới được trang bị máy dò kim loại.
Cô Charity Swift, một cư dân Nashville, bang Tennessee nói:
“Tôi tin chắc là thành phố của chúng tôi sẽ lo liệu cho chúng tôi, và tôi cảm thấy chúng tôi sẽ an toàn.”
Một điều người dân tại Mỹ và nhiều nước trên thế giới học được là thích ứng với một cách sống mà những biện pháp an ninh được áp dụng mỗi lúc một nhiều.
http://www.voatiengviet.com/content/cac-thanh-pho-o-my-tang-cuong-an-ninh-sau-vu-tan-cong-paris/3059930.html
Tối ngày thứ Bảy, nhiều nhân viên cảnh sát, các thám tử tư và chó được điều động đến tuần tra tại sân vận động Rose Bowl của Đại học California ở Los Angeles, giữa lúc hàng ngàn người rủ nhau đến xem một trận đấu bóng bầu dục. Những biện pháp an ninh nghiêm ngặt hiện được áp dụng đối với những sự kiện thể thao trên toàn nước Mỹ. Phi trường, thương xá, viện bảo tàng và những nơi thu hút đông đảo người đến xem cũng đã thực hiện thêm nhiều biện pháp như lục sóat túi xách, khám người từ trên xuống dưới và máy dò kim loại.
Thị trưởng Los Angeles Eric Garcetti nói thành phố đã điều động tất cả các nhân viên cần thiết để đảm bảo an toàn cho những nơi công cộng.
“Tôi đã nói chuyện bằng điện thoại với Bộ trưởng An ninh Nội địa Jeh Johnson và chúng tôi phối hợp tất cả những tin tức tình báo. Chúng tôi phải đề cao cảnh giác.”
Ông Garcetti nói đề cao cảnh giác là thiết yếu vì rất khó tiên liệu mọi mối đe dọa, như kinh nghiệm Paris cho thấy.
Thương xá lớn nhất nước Mỹ, tại tiểu bang Minnesota, đã nhận được lời đe dọa rõ ràng vào tháng Hai năm nay và đã ban hành nhiều biện pháp an ninh nghiêm nhặt kể từ đó.
Cựu Cảnh sát trưởng lâu năm của thành phố New York Ray Kelly nói có một giới hạn trong việc chúng ta có thể làm gì thêm.
“Những mục tiêu dân sự có ở khắp mọi nơi. Tuy nhiên chúng ta cần phải làm hết sức mình và triển khai lực lượng một cách hữu hiệu nhất.”
Dù có những lo ngại, phần đông người Mỹ tin tưởng vào lực lượng an ninh địa phương sẽ giúp họ an toàn, và dự trù vẫn tiếp tục các sinh hoạt như thường lệ. Các cổ động viên khúc côn cầu trên băng ngày thứ Bảy đổ xô đến Sân Bridgestone vừa mới được trang bị máy dò kim loại.
Cô Charity Swift, một cư dân Nashville, bang Tennessee nói:
“Tôi tin chắc là thành phố của chúng tôi sẽ lo liệu cho chúng tôi, và tôi cảm thấy chúng tôi sẽ an toàn.”
Một điều người dân tại Mỹ và nhiều nước trên thế giới học được là thích ứng với một cách sống mà những biện pháp an ninh được áp dụng mỗi lúc một nhiều.
http://www.voatiengviet.com/content/cac-thanh-pho-o-my-tang-cuong-an-ninh-sau-vu-tan-cong-paris/3059930.html
IS là gì và nguy hiểm tới đâu?
- 16 tháng 11 2015
Sau vụ tấn công liên hoàn ở Paris của gần 10 tay súng và kẻ đánh bom liều chết mà Nhà nước Hồi giáo (IS) nhận là người của họ, nhiều tiếng nói tại châu Âu và Hoa Kỳ đề nghị đánh giá lại tổ chức này và thực lực của họ.
Đây chỉ là một 'tổ chức khủng bố' hay đã là thực thể như quốc gia vì có dân, quân và lãnh thổ, hay còn là một giáo phái tận thế?
Câu hỏi 'IS có phải Hồi giáo?', 'theo gì trong Hồi giáo? hay 'hoàn toàn không phải đạo Islam?' cũng được nêu ra.
IS muốn gì?
Vào tháng 6/2014, tổ chức này chính thức xưng danh là Vương quốc Hồi giáo - 'caliphate (khalifah) - một nhà nước được cai trị hoàn toàn bằng luật Hồi giáo (Sharia) và do vị giáo chủ (caliph) là người tuân lệnh Thượng Đế trên Trái Đất.
Ibrahim Awad Ibrahim al-Badri al-Samarrai, còn có tên là Abu Bakr al-Baghdadi ra lệnh cho mọi người Hồi giáo toàn cầu phải thần phục ông ta và buộc họ dọn về vùng đất IS làm chủ để sống.
IS cũng bắt các nhóm Thánh chiến (jihadist groups) trên cả thế giới phục tùng mình.
Ý thức hệ của IS là "xóa bỏ cản trở trước quyền lực Thượng Đế, bảo vệ cộng đồng Hồi giáo (umma) toàn cầu, mở cuộc chiến chống lại mọi kẻ phản đạo (apostates) và dị giáo (infidel -kafir).
Sự tàn bạo của IS, từ chặt đầu, đóng người lên cây thập ác, xử bắn hàng loạt có mục tiêu khủng bố đối thủ.
Nhưng thành viên IS biện hộ cho các hành động này, trích ra Kinh Koran và các điển tích Hồi giáo Hadith, dù người Hồi giáo bác bỏ điều đó.
Theo một số nhà quan sát, IS áp dụng việc hiếp tập thể phụ nữ và bắt tù binh làm nô lệ là diễn giải nguyên văn của một số tín điều trong các cuộc chiến thời trung cổ.
IS có bao nhiêu tiền và tay súng?
Bộ Tài chính Mỹ ước tính hồi 2014 rằng IS có thể thu về vài triệu USD mỗi tuần, và đã có thể có 100 triệu USD từ bán dầu thô, dầu đã lọc cho các nhóm trung gian chuyển qua biên giới bán lậu sang Thổ Nhĩ Kỳ, Iran hoặc chính chính quyền Syria.
Tuy nhiên, sau khi Phương Tây oanh kích các mục tiêu tại vùng IS kiểm soát, nguồn thu này có thể sụt giảm.
Vào tháng 1/2015, tình báo Hoa Kỳ qua lời ông James Clapper ước tính IS có từ 20 nghìn đến 32 nghìn tay súng tại Iraq và Syria.
Nhưng ông Clapper cũng nói từ khi có các cuộc oanh kích bắt đầu vào tháng 8/2014, con số quân IS bị giết cũng khá nhiều.
Đến tháng 6/2015, Thứ trưởng ngoại giao Mỹ Antony Blinken nói hơn 10 nghìn chiến binh IS bị giết.
Có thể để bổ sung quân ở Trung Đông, IS nay chuyển hướng chiêu bộ ra nơi khác, gồm cả cưỡng bức dân các vùng chiếm đóng vào quân đội.
Chuyên gia Iraq Hisham al-Hashimi tin rằng chỉ có 30% số chiến binh thực sự là tin vào ý thức hệ IS, còn lại bị bắt lính.
Nhưng chính những kẻ từ bên ngoài gia nhập đội quân của IS có vai trò đáng kể.
Tháng 10/2015, Giám đốc cơ quan chống khủng bố của Hoa Kỳ, ông Nicholas Rasmussen nói với Quốc hội rằng IS thu hút chừng 28 nghìn chiến binh từ ngoại quốc, trong số có 5000 người Phương Tây, gồm cả 250 người Mỹ.
Các báo tiếng Anh đã có nhiều bài nói về vai trò của những người gốc Âu Mỹ hay Úc cải đạo theo Hồi giáo (white converts) trong hoạt động của IS.
Một số dùng tiếng Anh là tiếng mẹ đẻ để rao giảng, tuyển bộ chiến binh cho IS ở Phương Tây.
Nhưng các lo ngại nay hướng về những dòng vũ khí từ Balkans đưa vào Tây Âu mà các 'chi bộ bí mật' của IS mua tại thị trường chợ đen để tấn công các mục tiêu dân sự.
Giới an ninh châu Âu cũng chú ý đến những kẻ sinh ra và lớn lên tại châu Âu nhưng được thuyết phục đi theo IS và tình nguyện thực hiện các vụ tấn công chỉ đạo từ Syria.
Frank Gardner viết trên BBC rằng "Trong bối cảnh phải hứng chịu không kích hàng ngày của liên quân do Mỹ dẫn đầu, IS ngày càng nhắm đến việc chỉ đạo hoặc gợi hứng cho các vụ tấn công ở xa", và đây là mối đe dọa mới cho châu Âu.
IS chờ ngày tận thế?
IS thu thuế, quản lý nhân khẩu và điều hành bệnh viện nhưng Ngày Tận Thế là điểm nổi bật trong tuyên truyền của họ.
Nếu như Osama Bin Laden ít nói về Ngày Tận Thế thì theo Will McCants từ Viện Brookings, tác giả một cuốn sách về IS, ý tưởng về ngày thế giới chấm dứt nằm ở vị trí trọng tâm trong tư duy lãnh đạo IS.
BBC Monitoring ghi nhận tạp chí tuyên truyền bằng tiếng Anh của IS lấy tên là Dabiq, một thị trấn nghèo nàn, có chừng 3000 dân ở Syria, cách biên giới Thổ Nhĩ Kỳ chừng 10 km.
Dabiq từng xuất hiện trong các lời thánh tích đạo Hồi.
Người ta tin rằng Đấng Tiên tri Muhammad từng nói "Hồi giáo phá tan quân La Mã tại Dabiq hay Al-A'maq", báo hiệu giờ Tận Thế sắp điểm.
Quân Hồi giáo sau đó sẽ tiến lên chiếm Constantinople (nay là Istanbul).
IS nay tìm cách tạo ra cuộc chiến 'sinh tử với Phương Tây' ở Dabiq qua cách 'dụ dỗ' liên quân quốc tế tiến vào.
Khi nghe tin (nhầm) có lính Mỹ xuất hiện ở Dabiq, các trang mạng của IS "rộ lên cơn sung sướng chưa từng có" vì tin là sắp tới ngày phán xử.
Dabiq cũng là nơi IS chặt đầu con tin người Mỹ, ông Peter Kassig (người đã cải đạo theo Hồi giáo và có tên là Abdul-Rahman Kassig).
IS mong chờ việc lặp lại cuộc Thánh Chiến chống 'Quân Thập tự chinh' mà theo họ nay là quân Mỹ.
Viễn cảnh làm 'trong sạch nhân loại', chờ ngày phán xử cuối cùng cũng tạo ra sức hút với giới trẻ một số nước.
IS và Hồi giáo
Graeme Wood viết trên TheAtlantic.com:
"Thực tế là Nhà nước Hồi giáo hoàn toàn là theo Hồi giáo (Islamic). Rất Hồi giáo là khác."
"Đúng là nó thu hút cả bọn tâm thần, những kẻ ưa phiêu lưu, một nhóm đông những người bất mãn ở Trung Đông và châu Âu."
"Nhưng tôn giáo mà các tín đồ IS rao giảng xuất phát từ những diễn giải tổng thể và đầy kiến thức về đạo Islam."
"Mọi quyết định lớn, mọi luật do IS công bố đều hướng tới điều IS gọi là 'phương pháp luận Tiên tri' (Prophetic methodology), theo nghĩa đi đúng với lời Tiên tri Muhammad, về từng chi tiết. "
"Người Hồi giáo có thể bác bỏ IS và gần như tất cả đều làm thế. Nhưng vì giả vờ không nhận ra rằng đây là một tổ chức tôn giáo tận thế, thần quyền, mà Hoa Kỳ đã coi thường IS và ủng hộ cho nhiều mưu kế dốt nát nhằm chống lại IS," Graeme Wood viết.
Tuy thế, nhiều ý kiến khác bác bỏ quan điểm rằng ý thức hệ của IS là Hồi giáo.
Thủ tướng Najib Razak của Malaysia, nước Hồi giáo lớn thứ nhì tại Đông Nam Á, nói hôm 16/11, sau vụ Paris bị tấn công:
"Chúng ta phải hiểu để không chấp nhận làm nạn nhân và đồng ý với ý thức hệ của Isis."
"Islam là tôn giáo hòa bình, ôn hòa, không chấp nhận chuyện giết người vô tội, không chấp nhận tự sát."
Ông Najib trích điển tích Hồi giáo (dòng 32 trong Surah Al-Maidah) về một người đánh nhau với Đấng Tiên tri và bị thương nên muốn tự sát. Nhưng Đấng Tiên tri nói người đó sẽ không lên thiên đàng được nếu tự sát.
Bà Hillary Clinton, cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ cũng nói: "Chúng ta không lâm chiến với Hồi giáo mà với những kẻ Thánh chiến."
Dù nhìn nhận IS ra sao từ góc độ tôn giáo, các chính phủ vẫn phải cố gắng làm tất cả để đảm bảo an ninh cho xã hội sau vụ tấn công táo bạo, thảm khốc tại Paris hôm 13/11 vừa qua, nhất là khi IS đang chuyển sang các mục tiêu ngoài Trung Đông.
Nhà nước Hồi giáo thay đổi chiến thuật
Frank Gardner Phóng viên an ninh BBC
- 15 tháng 11 2015
Các vụ tấn công ở Paris đánh dấu cột mốc mới và đáng sợ trong đợt sóng gia tăng đều đặn các vụ tấn công bị quy cho hoặc do Nhà nước Hồi giáo (IS) tự nhận.
Trong phần lớn của năm 2014 và nhiều tháng năm nay, IS chỉ tập trung vào việc chiếm và cầm giữ lãnh thổ ở Trung Đông. Với các lãnh đạo IS ở Raqqa và Mosul, đây vẫn là ưu tiên.
Nhưng dân quân biết rằng họ còn có sức thu hút xuyên quốc gia ở châu Âu và những nơi khác.
Trong bối cảnh phải hứng chịu không kích hàng ngày của liên quân do Mỹ dẫn đầu, IS ngày càng nhắm đến việc chỉ đạo hoặc gợi hứng cho các vụ tấn công ở xa.
Lên kế hoạch cẩn thận
Hồi tháng Sáu , IS tự nhận đã gây ra vụ bắn ở khu nghỉ mát biển ở Sousse, Tunisia, giết 38 du khách, trong đó có 30 người Anh.
Đến tháng 10, Thổ Nhĩ Kỳ nói một vụ tấn công tự sát làm chết 102 người ở Ankara là do IS. Cũng tháng đó, nhánh IS ở Sinai tự nhận đã đánh rơi máy bay Nga, giết toàn bộ 224 người.
Ngày 12/11, IS tuyên bố là thủ phạm đánh bom ở căn cứ của phe Hezbollah miền nam Beirut, làm chết 44 người.
Và rồi là Paris, với ít nhất 120 người chết, hơn 300 người bị thương.
Đây không phải là những vụ tấn công đơn độc, tự phát.
Mặc dù không hẳn khó để thực hiện, chúng vẫn cần lên kế hoạch, chuẩn bị, đào tạo, tìm vũ khí, chất nổ, tuyển mộ “tử sĩ”.
Điều này gợi nhắc cách thức hoạt động của al-Qaeda đầu thập niên 2000: tham vọng có các vụ tấn công điểm nhấn, nhiều thương vong, gây ra tin tức toàn thế giới.
Giới chức chống khủng bố Tây phương gần đây cho rằng mặc dù vẫn còn những người muốn đạt được các vụ tấn công to như vậy, nhưng đe dọa chính lại là từ những kẻ “tự phát”, giống những kẻ đã giết người lính Anh Lee Rigby ở Woolwich gần London năm 2013.
Nhưng sau những gì xảy ra ở Paris và các nơi, có thể họ đang đánh giá lại.
Còn một yếu tố nữa. Biên giới Thổ Nhĩ Kỳ - Syria từng là nơi xâm nhập dễ dàng cho hàng ngàn người mơ thánh chiến từ châu Âu muốn gia nhập IS.
Nhưng nay phần lớn đường biên giới phía Syria nằm trong sự kiểm soát của dân quân người Kurd chống IS.
Vì thế, cánh cửa cho các tay tuyển mộ mới đã thu hẹp.
Iraq không phải là tuyến đường dễ để họ đến Syria. Biên giới Jordan đã đóng, và có nguy cơ bị an ninh bắt ở Lebanon.
Kết quả là những kẻ tuyển mộ trên mạng của IS gần đây khuyến khích người ủng hộ ở lại quê nhà và tấn công, thay vì rủi ro đi đến Syria.
Ít nhất về ngắn hạn, nó sẽ tạo ra rủi ro khủng bố lớn hơn tại châu Âu.
Khủng Bố IS và Sự Đối Phó Của Hoa Kỳ
Lê Thành Quang
Thứ Sáu 13 tháng 11 năm 2015 tại Paris, thủ đô nước Pháp, nhiều cuộc tấn công khủng bố đã xảy ra tại ít nhất 6 trọng điểm, do tổ chức khủng bố Nhà nước Hồi giáo (IS) làm 129 người thiệt mạng, gần 400 bị thương (gần 100 trong tình trạng nguy kịch).
Hai ngày sau, Pháp đã sử dụng 10 máy bay chiến đấu thả 20 quả bom nhắm vào những sào huyệt của Nhà nước Hồi giáo như là bước khởi đầu trong quyết tâm tận diệt kẻ thù của quốc gia này nói riêng và của nhân loại nói chung.
IS – ISI - ISIS là những chữ tắt của Islamic State (Vương Quốc Islam Giáo), Islamic State of Iraq (Quốc Gia Hồi Giáo Iraq) và Islamic State of Iraq and Syria). Tiến trình hình thành của Nhà Nước Hồi Giáo này là một tiến trình phức tạp đầy màu sắc tôn giáo cuồng tín của nhiều sắc dân vùng Trung Đông. Trong hiện tại, IS là tên đơn giản để chỉ nhóm khủng bố Hồi giáo này.
Có nguồn tin cho rằng IS là do chính phủ Hoa Kỳ bí mật xây dựng để gây bất ổn ở Trung Đông, bắt nguồn từ hãng tin Sputnik (Nga) dẫn lời của nhà nghiên cứu lịch sử người Mỹ, ông Webster Tarpley, cho rằng thủ lĩnh của IS, Abu Bark al-Baghdadi là người có quan hệ thân cận với Thượng nghị sĩ John McCain. Ông Tarpley là chuyên gia lịch sử từng gây tranh cãi khi xuất bản một quyển sách về vụ khủng bố 11/9, với nội dung nhấn mạnh những tổ chức khủng bố trên toàn thế giới đều do chính phủ Mỹ đứng sau hỗ trợ. Đài Press TV (Iran) cũng từng phỏng vấn ông Tarpley về những lý do mà ông cho rằng chính phủ Mỹ góp phần tạo nên IS.
Nguồn tin này đã nhanh chóng đi vào quên lãng.
Thượng tuần tháng 1 năm 2015, IS đã mở đầu chiến dịch khủng bố nhắm vào nước Pháp bằng hành động bắn chết 12 nhà báo, họa sĩ của tạp chí trào phúng Charlie Hebdo với lời tuyên bố “chúng đang trả thù tạp chí này vì nhiều lần đăng tải các phiếm họa về nhà tiên tri”.
Tháng 9 năm 2015, trong cuộc phỏng vấn của tờ Paris Match, thẩm phán Trévidic đã cho biết nguy cơ nước Pháp bị tấn công khủng bố ở mức độ cao và chưa từng có tiền lệ “Nước Pháp đã trở thành kẻ thù số một của IS, là đích ngắm của một đội quân khủng bố với đủ loại hình thức” và rất bất ngờ, chỉ 2 tháng sau, dự đoán này đã chính xác 100%.
Qua hai sự kiện khủng bố xảy ra ở Pháp, chúng ta có thể thấy năng lực phòng chống khủng bố ở Pháp nói chung đang gặp vấn đề: không nắm được thông tin tình báo, không có được các giải pháp phòng ngừa hiệu quả...
Pháp quốc chỉ ĐỐI ĐẦU mà chưa ĐỐI PHÓ.
Đối Đầu là kình chống, đương đầu ra mặt chống lại, không phục, trong khi Đối Phó là ứng phó, đáp ứng tình trạng tự nhiên hay do một tổ chức, cá nhân gây ra nhưđối phó với tình thế; đối phó với bất kỳ ai muốn gây sự.
Rút kinh nghiệm chống khủng bố từ biến cố ngày 11 tháng 9 năm 2001 tại Hoa Kỳ (New York, Washington D.C. và Pennsylvania) hơn 14 năm, Hoa kỳ đã không để xảy ra tình trạng bị tấn công trầm trọng nào khác. Nhóm khủng bố Hồi Giáo đã âm mưu và toan tính nhiều kế hoạch tinh vi khác nhau nhưng không thể thực hiện được. Hoa Kỳ đã cải tổ toàn diện xã hội để “Đối Phó“ với tình hình do nhóm khủng bố Hồi giáo chủ trương.
Với đầu óc thực tiễn, “ta làm những gì ta có thể làm , không nên làm những gì ta muốn”, chính phủ Hoa Kỳ không mất thời giờ đi năn nỉ hay ”giáo dục“ những kẻ cuồng tín lúc nào cũng nghĩ Hoa Kỳ và người da trắng Âu châu là “bọn bạch quỷ” cần phải tiêu diệt, chính phủ đã có những vũ khí hiện đại để bắn hạ những kẻ thù đến gần, đồng thời cũng có những phương cách “bẻ chân, bẻ tay, làm mù mắt, chọc thủng tai” của bọn khủng bố Hồi Giáo khiến bọn chúng không thể đột nhập vào Hoa Kỳ thực hiện giết người.
1. Với “ Patriot Act ” (do Giáo Sư Luật Khoa Đinh Đồng Phụng Việt soạn thảo) chính quyền Hoa Kỳ được phép nghe lén điện thoại, xâm nhập email, trang cá nhân website… của bất cứ thành phần nào mà không cần án lệnh của tòa án. Nhờ việc nghe lén này mà giới chức an ninh tình báo của Hoa Kỳ đã phá vỡ biết bao âm mưu phá hoại ngay từ trong trứng nước.
2. Nhận biết được, bọn khủng bố vào được Hoa Kỳ rồi khủng bố tự sát là do kẽ hở trong 2 nguyên tắc làm việc của FBI và CIA: CIA là cơ quan Trung Ương Tình Báo phụ trách bên ngoài Hoa Kỳ, trong khi FBI là cơ quan Điều Tra của Liên Bang trách nhiệm trong nội địa Hoa Kỳ và FBI chỉ bắt giữ khi có chứng cớ gây ra hay phạm tội hiển nhiên. Chính phủ Hoa Kỳ đặt ra Bộ An Ninh, đặt tất cả những cơ quan an ninh, tình báo …của nhiều cơ quan, dưới sự Quản trị và Giám sát của Bộ này.
3. Tất cả những cá nhân hay cơ quan hội đoàn giúp đỡ tán trợ bọn khủng bố đều bị “freeze” các chương mục ngân hàng. Tương tự như “rút máu” của một cơ thể con người, chắc chắn con người đó, sinh vật vật đó…”phải chết ngay lập tức”.
Sau biến cố tháng 9 ngày 11 năm 2001, một số người African – American hí hửng tưởng rằng Hồi Giáo trên đà chiến thắng nên ra tòa án xin đổi tên họ ra những là Mohammad , Ali, Saddam, … nhưng đồng thời họ cũng nhận ra những credit card của họ bị “invalid”. Khi họ khiếu nại, trung tâm Customer Service của ngân hàng trả lời là “quyền cấp phát thẻ tín dụng là quyền ưu tiên của Ngân Hàng chứ không phải là quyền của khách hàng”. Và “Ngân Hàng không muốn cho các thánh tử vì đạo vay dollars vì Ngân Hàng sẽ chẳng bao giờ đòi được nợ”.
4. Tất cả những Visa và Passport cũ đều bị hủy bỏ, thay vào đó là những thẻ ID, những VISA, những PASSPORT mới có gắn chip điện tử nên chỉ cần mở ra là nhân viên Bộ An Ninh biết ngay công dân Hoa Kỳ đang ở quốc gia nào trên thế giới. Đây chính là những bằng chứng để bắt giữ, đưa vào nhà tù với tội danh “Phản Bội” thuộc hình sự đặc biệt những phần tử Hồi Giáo tại Hoa Kỳ trốn lén qua những xứ Hồi Giáo thụ huấn phương cách khủng bố phá hoại. Hoặc là những phần tử xin đi du lịch Thổ Nhĩ Kỳ hay Arab Seoud dự tính trốn sang Syria đều bị bắt trước khi lên phi cơ rời khỏi nước Mỹ.
Nước Pháp không có kỹ thuật tân tiến như Hoa Kỳ, cho nên những tên khủng bố bị hạ sát trong đêm 13 tháng 11 vừa qua có một số tên gốc gác từ Syria hay công dân Pháp đã có lần đến Syria! Một thí dụ khác là một số người VN lãnh trợ cấp SSI trở về VN du lịch quá 28 ngày, khi trở lại Hoa Kỳ bị Sở Xã Hội cắt trợ cấp phải “xin tái trợ cấp”, tỏ ra rất ngạc nhiên không hiểu tại sao Social Worker lại biết chuyện về VN của họ: Social Worker ngồi tại văn phòng chỉ cần mở data base của Passport là biết ngay, không cần người lãnh trợ cấp “tự giác” báo cáo!
5. Cơ quan NSA (dường như viết tắt của National Security Agency) của Bộ An Ninh có khoảng 15,000 đến 20,000 kỹ sư phục vụ chuyên nghe lén và đọc lén tất cả các cú gọi điện thoại và đọc lén tất cả những phương tiện internet trên toàn thế giới. Chuyến máy bay Air Bus của Nga bị rớt ở khu nghỉ mát trong bán đảo Sinai gần đây, trước khi phái đoàn các nước đến hiện trường điều tra, Ngoại trưởng Anh đã tuyên bố là cơ quan tình báo của Anh đã nghe lén được là bọn khủng bố đặt bom vào máy bay và quả bom nổ từ kho chứa hành lý. Trong khi Tổng Thống Putin của Nga, nguyên là xếp của cơ quan KGB, vẫn còn chưa có thông tin gì cả.
Các Kỹ sư Computer đã mã hóa những thứ tiếng Arab bằng barcode nên khi nghe lén, máy computer tự động chuyển dịch sang Anh Văn không cần Thông dịch viên nên rất nhanh chóng có được những tin tức chính xác. Mới đây một đao phủ thủ có tên là John Jihad bị máy bay không người lái của Hoa Kỳ hạ sát vì chỉ cần nghe giọng nói của tên này trên youtube khi bọn khủng bố hạ sát ký giả Bailey, cơ quan tình báo Anh đã xác định được lý lịch của kẻ có bí danh John Jihad.
5. Người viết bài này chắc chắn là nước Pháp không thể có hệ thống Security Cameras dày đặc như Hoa Kỳ nên công việc truy tầm các tên khủng bố không thể hữu hiệu và nhanh chóng như của Hoa Kỳ. Điều này ứng vào 2 anh em người Mỹ gốc Nga đặt bom khủng bố giết hại người dân Hoa Kỳ trong cuộc chạy đua Marathon ở Boston 2 năm trước, chỉ trong vòng ½ giờ sau khi nổ bom , nhờ hệ thống security cameras , cảnh sát Boston đã biết những kẻ khủng bố là ai và họ đã đi vây bắt ngay. Anh trai của thủ phạm đã bị bắn chết và thủ phạm đã ra tòa lãnh án tử hình.
6. Năm 2008, trên các nhật báo lớn của Hoa Kỳ, trang Technology có loan tin mà ít người chú ý: Chính phủ Hoa Kỳ ra lệnh cho tất cả các hãng chế tạo máy truyền hình bán vào Hoa Kỳ phải gắn một con chip điện tử hoạt động như một Camera thu hình tất cả những người ngồi xem trước máy (với góc quét hình gần 180 độ) rồi truyền ngược về Trung tâm Kiểm soát của Cảnh Sát. Thí dụ một đứa trẻ bị bắt cóc, bố mẹ đưa hình đứa bé cho Cảnh Sát nhờ truy tìm. Cảnh Sát Down Load hình vào Trung tâm Kiểm soát. Nếu đứa trẻ bị bắt cóc ngồi trong nhà hay trong khách sạn mở TV ra xem hay mở TV để chơi game thì Cảnh Sát sẽ tìm ra địa chỉ của đứa bé ngay lập tức. Cũng phương cách này, Cảnh Sát cũng sẽ mau chóng tìm ra địa chỉ ẩn trốn của những kẻ khủng bố. Chúng tôi cũng không rõ là hệ thống TV của Âu Châu nói chung và nước Pháp nói riêng có trang bị hệ thống này như của Hoa Kỳ hay không?
7. Cách đây 6 tháng, cũng trên trang Technology, một nhóm Kỹ sư của Hoa Kỳ phát minh được một kỹ thuật mới, họ cũng tìm ra một con chip điện tử hoạt động như một Camera thu hình gắn luôn vào trong bóng đèn chiếu sáng trên các đường phố. Dĩ nhiên là giá thành rất rẻ nếu so sánh với hệ thống Security Cameras hiện nay.
Trên đây chỉ là những gì chúng tôi được biết, dĩ nhiên còn những phát minh mới hơn cũng sẽ được kiểm nghiệm sử dụng. Tuy vậy, tất cả cũng chỉ là những phương tiện của “phương pháp phòng thủ thụ động” mà chính phủ Hoa Kỳ đã thực hiện và thi hành.
Một phương thức tối ưu trong việc “Đối Phó” với Nhà Nược Khủng Bố Hồi Giáo IS cần đề cập, đó chính là mạng lưới “tình báo nhân dân” tức là yếu tố con người, tương quan chặt chẻ với chính phủ, đã được Tổng Thống Abraham Lincoln nhấn mạnh trong bài diễn văn năm 1864: Một chính phủ BỞI DÂN , DO DÂN và VÌ DÂN sẽ luôn luôn được nhân dân ủng hộ để sát cánh trong công cuộc BẢO VỆ AN NINH và TOÀN VẸN LÃNH THỔ cho quốc gia Hoa Kỳ.
Chu toàn trách nhiệm của một công dân trên đất nước tự do Hoa Kỳ, đi bầu – quan sát và phát hiện những hiện tượng khác lạ chung quanh – nghe ngóng – tự xem là một phần tử trong mạng lưới tình báo nhân dân, chính là những đóng góp tích cực để giúp chính phủ đối phó với Nhà Nước Khủng Bố Hồi Giáo IS vậy.
LÊ THÀNH QUANG
Philadelphia, Thứ Hai 16 tháng 11 năm 2015.
Lê Thành Quang
Thứ Sáu 13 tháng 11 năm 2015 tại Paris, thủ đô nước Pháp, nhiều cuộc tấn công khủng bố đã xảy ra tại ít nhất 6 trọng điểm, do tổ chức khủng bố Nhà nước Hồi giáo (IS) làm 129 người thiệt mạng, gần 400 bị thương (gần 100 trong tình trạng nguy kịch).
Hai ngày sau, Pháp đã sử dụng 10 máy bay chiến đấu thả 20 quả bom nhắm vào những sào huyệt của Nhà nước Hồi giáo như là bước khởi đầu trong quyết tâm tận diệt kẻ thù của quốc gia này nói riêng và của nhân loại nói chung.
IS – ISI - ISIS là những chữ tắt của Islamic State (Vương Quốc Islam Giáo), Islamic State of Iraq (Quốc Gia Hồi Giáo Iraq) và Islamic State of Iraq and Syria). Tiến trình hình thành của Nhà Nước Hồi Giáo này là một tiến trình phức tạp đầy màu sắc tôn giáo cuồng tín của nhiều sắc dân vùng Trung Đông. Trong hiện tại, IS là tên đơn giản để chỉ nhóm khủng bố Hồi giáo này.
Có nguồn tin cho rằng IS là do chính phủ Hoa Kỳ bí mật xây dựng để gây bất ổn ở Trung Đông, bắt nguồn từ hãng tin Sputnik (Nga) dẫn lời của nhà nghiên cứu lịch sử người Mỹ, ông Webster Tarpley, cho rằng thủ lĩnh của IS, Abu Bark al-Baghdadi là người có quan hệ thân cận với Thượng nghị sĩ John McCain. Ông Tarpley là chuyên gia lịch sử từng gây tranh cãi khi xuất bản một quyển sách về vụ khủng bố 11/9, với nội dung nhấn mạnh những tổ chức khủng bố trên toàn thế giới đều do chính phủ Mỹ đứng sau hỗ trợ. Đài Press TV (Iran) cũng từng phỏng vấn ông Tarpley về những lý do mà ông cho rằng chính phủ Mỹ góp phần tạo nên IS.
Nguồn tin này đã nhanh chóng đi vào quên lãng.
Thượng tuần tháng 1 năm 2015, IS đã mở đầu chiến dịch khủng bố nhắm vào nước Pháp bằng hành động bắn chết 12 nhà báo, họa sĩ của tạp chí trào phúng Charlie Hebdo với lời tuyên bố “chúng đang trả thù tạp chí này vì nhiều lần đăng tải các phiếm họa về nhà tiên tri”.
Tháng 9 năm 2015, trong cuộc phỏng vấn của tờ Paris Match, thẩm phán Trévidic đã cho biết nguy cơ nước Pháp bị tấn công khủng bố ở mức độ cao và chưa từng có tiền lệ “Nước Pháp đã trở thành kẻ thù số một của IS, là đích ngắm của một đội quân khủng bố với đủ loại hình thức” và rất bất ngờ, chỉ 2 tháng sau, dự đoán này đã chính xác 100%.
Qua hai sự kiện khủng bố xảy ra ở Pháp, chúng ta có thể thấy năng lực phòng chống khủng bố ở Pháp nói chung đang gặp vấn đề: không nắm được thông tin tình báo, không có được các giải pháp phòng ngừa hiệu quả...
Pháp quốc chỉ ĐỐI ĐẦU mà chưa ĐỐI PHÓ.
Đối Đầu là kình chống, đương đầu ra mặt chống lại, không phục, trong khi Đối Phó là ứng phó, đáp ứng tình trạng tự nhiên hay do một tổ chức, cá nhân gây ra nhưđối phó với tình thế; đối phó với bất kỳ ai muốn gây sự.
Rút kinh nghiệm chống khủng bố từ biến cố ngày 11 tháng 9 năm 2001 tại Hoa Kỳ (New York, Washington D.C. và Pennsylvania) hơn 14 năm, Hoa kỳ đã không để xảy ra tình trạng bị tấn công trầm trọng nào khác. Nhóm khủng bố Hồi Giáo đã âm mưu và toan tính nhiều kế hoạch tinh vi khác nhau nhưng không thể thực hiện được. Hoa Kỳ đã cải tổ toàn diện xã hội để “Đối Phó“ với tình hình do nhóm khủng bố Hồi giáo chủ trương.
Với đầu óc thực tiễn, “ta làm những gì ta có thể làm , không nên làm những gì ta muốn”, chính phủ Hoa Kỳ không mất thời giờ đi năn nỉ hay ”giáo dục“ những kẻ cuồng tín lúc nào cũng nghĩ Hoa Kỳ và người da trắng Âu châu là “bọn bạch quỷ” cần phải tiêu diệt, chính phủ đã có những vũ khí hiện đại để bắn hạ những kẻ thù đến gần, đồng thời cũng có những phương cách “bẻ chân, bẻ tay, làm mù mắt, chọc thủng tai” của bọn khủng bố Hồi Giáo khiến bọn chúng không thể đột nhập vào Hoa Kỳ thực hiện giết người.
1. Với “ Patriot Act ” (do Giáo Sư Luật Khoa Đinh Đồng Phụng Việt soạn thảo) chính quyền Hoa Kỳ được phép nghe lén điện thoại, xâm nhập email, trang cá nhân website… của bất cứ thành phần nào mà không cần án lệnh của tòa án. Nhờ việc nghe lén này mà giới chức an ninh tình báo của Hoa Kỳ đã phá vỡ biết bao âm mưu phá hoại ngay từ trong trứng nước.
2. Nhận biết được, bọn khủng bố vào được Hoa Kỳ rồi khủng bố tự sát là do kẽ hở trong 2 nguyên tắc làm việc của FBI và CIA: CIA là cơ quan Trung Ương Tình Báo phụ trách bên ngoài Hoa Kỳ, trong khi FBI là cơ quan Điều Tra của Liên Bang trách nhiệm trong nội địa Hoa Kỳ và FBI chỉ bắt giữ khi có chứng cớ gây ra hay phạm tội hiển nhiên. Chính phủ Hoa Kỳ đặt ra Bộ An Ninh, đặt tất cả những cơ quan an ninh, tình báo …của nhiều cơ quan, dưới sự Quản trị và Giám sát của Bộ này.
3. Tất cả những cá nhân hay cơ quan hội đoàn giúp đỡ tán trợ bọn khủng bố đều bị “freeze” các chương mục ngân hàng. Tương tự như “rút máu” của một cơ thể con người, chắc chắn con người đó, sinh vật vật đó…”phải chết ngay lập tức”.
Sau biến cố tháng 9 ngày 11 năm 2001, một số người African – American hí hửng tưởng rằng Hồi Giáo trên đà chiến thắng nên ra tòa án xin đổi tên họ ra những là Mohammad , Ali, Saddam, … nhưng đồng thời họ cũng nhận ra những credit card của họ bị “invalid”. Khi họ khiếu nại, trung tâm Customer Service của ngân hàng trả lời là “quyền cấp phát thẻ tín dụng là quyền ưu tiên của Ngân Hàng chứ không phải là quyền của khách hàng”. Và “Ngân Hàng không muốn cho các thánh tử vì đạo vay dollars vì Ngân Hàng sẽ chẳng bao giờ đòi được nợ”.
4. Tất cả những Visa và Passport cũ đều bị hủy bỏ, thay vào đó là những thẻ ID, những VISA, những PASSPORT mới có gắn chip điện tử nên chỉ cần mở ra là nhân viên Bộ An Ninh biết ngay công dân Hoa Kỳ đang ở quốc gia nào trên thế giới. Đây chính là những bằng chứng để bắt giữ, đưa vào nhà tù với tội danh “Phản Bội” thuộc hình sự đặc biệt những phần tử Hồi Giáo tại Hoa Kỳ trốn lén qua những xứ Hồi Giáo thụ huấn phương cách khủng bố phá hoại. Hoặc là những phần tử xin đi du lịch Thổ Nhĩ Kỳ hay Arab Seoud dự tính trốn sang Syria đều bị bắt trước khi lên phi cơ rời khỏi nước Mỹ.
Nước Pháp không có kỹ thuật tân tiến như Hoa Kỳ, cho nên những tên khủng bố bị hạ sát trong đêm 13 tháng 11 vừa qua có một số tên gốc gác từ Syria hay công dân Pháp đã có lần đến Syria! Một thí dụ khác là một số người VN lãnh trợ cấp SSI trở về VN du lịch quá 28 ngày, khi trở lại Hoa Kỳ bị Sở Xã Hội cắt trợ cấp phải “xin tái trợ cấp”, tỏ ra rất ngạc nhiên không hiểu tại sao Social Worker lại biết chuyện về VN của họ: Social Worker ngồi tại văn phòng chỉ cần mở data base của Passport là biết ngay, không cần người lãnh trợ cấp “tự giác” báo cáo!
5. Cơ quan NSA (dường như viết tắt của National Security Agency) của Bộ An Ninh có khoảng 15,000 đến 20,000 kỹ sư phục vụ chuyên nghe lén và đọc lén tất cả các cú gọi điện thoại và đọc lén tất cả những phương tiện internet trên toàn thế giới. Chuyến máy bay Air Bus của Nga bị rớt ở khu nghỉ mát trong bán đảo Sinai gần đây, trước khi phái đoàn các nước đến hiện trường điều tra, Ngoại trưởng Anh đã tuyên bố là cơ quan tình báo của Anh đã nghe lén được là bọn khủng bố đặt bom vào máy bay và quả bom nổ từ kho chứa hành lý. Trong khi Tổng Thống Putin của Nga, nguyên là xếp của cơ quan KGB, vẫn còn chưa có thông tin gì cả.
Các Kỹ sư Computer đã mã hóa những thứ tiếng Arab bằng barcode nên khi nghe lén, máy computer tự động chuyển dịch sang Anh Văn không cần Thông dịch viên nên rất nhanh chóng có được những tin tức chính xác. Mới đây một đao phủ thủ có tên là John Jihad bị máy bay không người lái của Hoa Kỳ hạ sát vì chỉ cần nghe giọng nói của tên này trên youtube khi bọn khủng bố hạ sát ký giả Bailey, cơ quan tình báo Anh đã xác định được lý lịch của kẻ có bí danh John Jihad.
5. Người viết bài này chắc chắn là nước Pháp không thể có hệ thống Security Cameras dày đặc như Hoa Kỳ nên công việc truy tầm các tên khủng bố không thể hữu hiệu và nhanh chóng như của Hoa Kỳ. Điều này ứng vào 2 anh em người Mỹ gốc Nga đặt bom khủng bố giết hại người dân Hoa Kỳ trong cuộc chạy đua Marathon ở Boston 2 năm trước, chỉ trong vòng ½ giờ sau khi nổ bom , nhờ hệ thống security cameras , cảnh sát Boston đã biết những kẻ khủng bố là ai và họ đã đi vây bắt ngay. Anh trai của thủ phạm đã bị bắn chết và thủ phạm đã ra tòa lãnh án tử hình.
6. Năm 2008, trên các nhật báo lớn của Hoa Kỳ, trang Technology có loan tin mà ít người chú ý: Chính phủ Hoa Kỳ ra lệnh cho tất cả các hãng chế tạo máy truyền hình bán vào Hoa Kỳ phải gắn một con chip điện tử hoạt động như một Camera thu hình tất cả những người ngồi xem trước máy (với góc quét hình gần 180 độ) rồi truyền ngược về Trung tâm Kiểm soát của Cảnh Sát. Thí dụ một đứa trẻ bị bắt cóc, bố mẹ đưa hình đứa bé cho Cảnh Sát nhờ truy tìm. Cảnh Sát Down Load hình vào Trung tâm Kiểm soát. Nếu đứa trẻ bị bắt cóc ngồi trong nhà hay trong khách sạn mở TV ra xem hay mở TV để chơi game thì Cảnh Sát sẽ tìm ra địa chỉ của đứa bé ngay lập tức. Cũng phương cách này, Cảnh Sát cũng sẽ mau chóng tìm ra địa chỉ ẩn trốn của những kẻ khủng bố. Chúng tôi cũng không rõ là hệ thống TV của Âu Châu nói chung và nước Pháp nói riêng có trang bị hệ thống này như của Hoa Kỳ hay không?
7. Cách đây 6 tháng, cũng trên trang Technology, một nhóm Kỹ sư của Hoa Kỳ phát minh được một kỹ thuật mới, họ cũng tìm ra một con chip điện tử hoạt động như một Camera thu hình gắn luôn vào trong bóng đèn chiếu sáng trên các đường phố. Dĩ nhiên là giá thành rất rẻ nếu so sánh với hệ thống Security Cameras hiện nay.
Trên đây chỉ là những gì chúng tôi được biết, dĩ nhiên còn những phát minh mới hơn cũng sẽ được kiểm nghiệm sử dụng. Tuy vậy, tất cả cũng chỉ là những phương tiện của “phương pháp phòng thủ thụ động” mà chính phủ Hoa Kỳ đã thực hiện và thi hành.
Một phương thức tối ưu trong việc “Đối Phó” với Nhà Nược Khủng Bố Hồi Giáo IS cần đề cập, đó chính là mạng lưới “tình báo nhân dân” tức là yếu tố con người, tương quan chặt chẻ với chính phủ, đã được Tổng Thống Abraham Lincoln nhấn mạnh trong bài diễn văn năm 1864: Một chính phủ BỞI DÂN , DO DÂN và VÌ DÂN sẽ luôn luôn được nhân dân ủng hộ để sát cánh trong công cuộc BẢO VỆ AN NINH và TOÀN VẸN LÃNH THỔ cho quốc gia Hoa Kỳ.
Chu toàn trách nhiệm của một công dân trên đất nước tự do Hoa Kỳ, đi bầu – quan sát và phát hiện những hiện tượng khác lạ chung quanh – nghe ngóng – tự xem là một phần tử trong mạng lưới tình báo nhân dân, chính là những đóng góp tích cực để giúp chính phủ đối phó với Nhà Nước Khủng Bố Hồi Giáo IS vậy.
LÊ THÀNH QUANG
Philadelphia, Thứ Hai 16 tháng 11 năm 2015.
Sunday, November 15, 2015
TRẦN QUÝ CAO * THỜI CƠ THUẬN LỢI
16/11/2015
CÁC SỰ KIỆN PHỐI HỢP VỚI NHAU TẠO THỜI CƠ THUẬN LỢI CHƯA TỪNG CÓ!
Trần Quí Cao
15-11-15
Các biến chuyển trên thế giới có liên quan tới Việt Nam ngày càng dồn dập, lôi cuốn, thúc đẩy nước này tiến lên con đường văn minh và phát triển bền vững.
Quan sát các biến chuyển ấy trong những ngày gần đây, người viết nhận thấy thời cơ ngày càng thuận lợi, có tác động thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa đất nước, tự chủ hoá nền kinh tế để, trên cơ sở đó, phát triển mạnh mẽ.
Các sự kiện ấy độc lập với nhau, được vạch ra và tiến hành bởi các tổ chức, chính quyền độc lập với nhau. Vậy mà, thú vị thay, may mắn thay, và cũng đúng thời thế thay, tất cả tạo nên hợp lực khó cưỡng lại lôi cuốn nước Việt Nam vào khúc quanh lịch sử. Khúc quanh lịch sử đó là thoát độc tài và thoát toàn trị.
CÁC SỰ KIỆN GÌ?
Chúng tôi chỉ xin nói đến những sự kiện xuất phát từ ba quốc gia, xảy ra trong vòng vài tháng nay.
1) Trung Hoa: Chủ tịch Tập Cận Bình thăm Việt Nam
a) Trước chuyến thăm:
Đại đa số dân Việt Nam căm ghét Trung Cộng. Những trận chiến Trung Cộng đánh vào đất liền và biển đảo của Việt Nam còn tươi màu máu trong ký ức dân Việt. Khoảng một trăm ngàn quân và dân Việt Nam bị tàn sát thảm khốc, và Trung Cộng hiện vẫn còn đang chiếm giữ biển đảo quan trọng của Việt Nam. Họ đã xây trên đó những hạ tầng vững chắc có thể dùng cho mục đích quân sự uy hiếp toàn bộ Biển Đông và đất liền của Việt Nam. Họ cướp đoạt ngư trường truyền thống, đánh đuổi và giết hại ngư dân Việt. Do đó dân chúng Việt Nam không muốn thấy ông Tập trên đất nước mình. Đối với họ, ông Tập là bạn của đảng CSVN nhưng là kẻ thù của dân tộc.
b) Trong chuyến thăm:
Dân chúng biểu thị hòa bình ý muốn phản đối ông Tập và Trung Cộng. Chính quyền dùng bạo lực của công an và xã hội đen cấm đoán, đàn áp dân chúng trong khi dùng nghi lễ 21 phát đại bác với hoa hồng rải đường đón ông Tập.
Sự kiện Trung Cộng chiếm đóng lãnh thổ Việt Nam và chủ quyền Hoàng Sa Trường Sa không được đề cập tới trong các buổi hội kiến và trong phát biểu của ông Tập trước Quốc hội Việt Nam. Chỉ có tung hô tình hữu nghị và thề thốt cùng nhau xây dựng chủ nghĩa xã hội độc đảng, độc tài và toàn trị tại Việt Nam, điều mà dân Việt cực kỳ chán ghét và căm hận.
c) Sau chuyến thăm:
Sự chia rẽ giữa dân chúng và đảng CSVN càng rõ nét, sâu sắc.
Dân chúng đã nhìn thấy đảng CSVN (thực chất là thế lực đang khuynh đảo đảng CSVN và nhờ Trung Quốc bảo vệ sự thống trị của mình) đã hoàn toàn quay lưng với dân tộc, với tổ quốc. Họ bỏ mặc dân chúng bị Trung Quốc giết hại và bỏ mặc những phần lãnh thổ bị Trung Quốc chiếm cướp. Họ cười rạng rỡ và xun xoe chào đón ông Tập trong niềm hi vọng hân hoan rằng ngôi vị thống trị của họ sẽ còn tồn tại dù lòng dân đã phế bỏ.
Dân chúng đã hiểu rằng, đối với thế lực này, nước Việt cần có thái độ và hành động dứt khoát chống lại nếu muốn bảo vệ nền tự chủ và giàu mạnh của tổ quốc. Đại đa số dân chúng và đa số đảng viên đã có sự đồng cảm và đồng lòng với nhau về điều này.
2) Hoa Kỳ: Các động thái về Biển Đông và hiệp định TPP
a) Các nhân vật lãnh đạo cao cấp nhất của Hoa Kỳ trong chính quyền cũng như trong hệ thống quân sự phê phán những việc làm chà đạp luật pháp quốc tế của Trung Quốc như hung hăng áp đặt đường lưỡi bò, thay đổi hiện trạng Biển Đông bằng cách bồi đắp bãi chìm thành đảo nổi, áp đặt các đòi hỏi chủ quyền và lãnh hải vô lý…
b) Hoa Kỳ đã quyết định tuần tra Biển Đông trong vùng 12 hải lý mà Trung Quốc cho rằng thuộc về lãnh hải của họ. Đặc biệt, trong khi ông Tập có mặt tại Hà Nội, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ đã mời người đồng cấp Mã Lai cùng thị sát Biển Đông trên chiến hạm Mỹ. Đây là những động thái quyết đoán của Hoa Kỳ phủ nhận các đòi hỏi vô lý của Trung Quốc tại Biển Đông.
c) TPP đã được ký kết. Ai cũng biết độ lớn kinh tế và diện tích lãnh thổ TPP bao phủ. Hơn nữa, TPP không chỉ có giá trị kinh tế, mà còn có các ý nghĩa chính trị tiếp theo. Riêng đối với Việt Nam, nếu biết tận dụng, lợi ích kinh tế mà hiệp định này sẽ mang lại thực vô cùng to lớn: gia tăng độ lớn nền kinh tế, và, rất quan trọng, tạo cơ hội để Việt Nam tự chủ về kinh tế thoát khỏi lệ thuộc vào Trung Quốc. Hoa Kỳ đã rất nỗ lực để TPP được ký kết trong năm 2015.
3) Myanmar: Cuộc bầu cử đa đảng và dân chủ thành công
Cuộc bầu cử tự do dân chủ đầu trên trên đất nước này sau 50 năm dưới chế độ độc tài quân đội đã được tiến hành. Đảng đối lập đã thắng lợi với tỉ lệ áp đảo. Đảng cầm quyền tuyên bố thua, chúc mừng đảng đối lập, và hứa sẽ cộng tác để bàn giao chính quyền.
Những cuộc bầu cử được tổ chức một cách công bằng và dân chủ, được người dân và các đảng phái chính trị chấp nhận trong tinh thần công bằng và dân chủ như thế này đã là thông lệ tại các nước dân chủ truyền thống như Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Đức, Nhật, Úc… Tuy nhiên, đối với Myanmar, cuộc bầu cử được tổ chức bởi nhà cầm quyền mới hôm qua còn độc tài lại kết thúc êm đẹp, minh bạch và chan hòa tinh thần dân chủ như vậy thực là một thành công vang dội. Cả thế giới chúc mừng và khâm phục. Dân chúng Myanmar hạnh phúc cùng hướng về tương lai tươi sáng trong tinh thần hòa hợp, hòa giải.
KHÚC QUANH LỊCH SỬ CỦA VIỆT NAM
Rất đáng tiếc cho Việt Nam là sau khi giành độc lập từ Pháp lại tự phá hủy sinh lực của mình bằng cuộc nội chiến tàn khốc. Xã hội Việt Nam dần đánh mất các điều hay của nhân loại mà Việt Nam tiếp thu từ phương Tây như cách tổ chức xã hội, tinh thần khoa học, các giá trị sống mới mẻ và văn minh (tự do, dân chủ, bình đẳng, khoa học khách quan)… Chế độ độc đảng và toàn trị bao trùm đất nước khiến nguồn lực dồi dào của Việt Nam bị phung phí và lập trường kiên định chủ nghĩa xã hội khiến Việt Nam ngày càng lệ thuộc vào Trung Cộng.
Bốn mươi năm đất nước thống nhất dưới sự lãnh đạo toàn diện của đảng CSVN đem lại một nước Việt Nam thụt lùi mọi mặt và nền tự chủ bị xâm phạm và uy hiếp nặng nề bởi Trung Cộng. Không lập tức và tích cực thoát khỏi tình trạng bế tắc này, tương lai của Việt Nam sẽ rất tối tăm và bi thảm. Người dân Việt Nam, qua lịch sử ngàn năm, đã biết lệ thuộc vào Trung Quốc bành trướng thì cuộc sống tối tăm và bi thảm dường nào!
Việt Nam cần dứt khoát bước vào khúc quanh lịch sử thoát độc tài và thoát toàn trị. Thoát độc tài và thoát toàn trị, Việt Nam sẽ thoát khỏi bầu không khí u ám, nặng nề, ngu tối của chế độ cộng sản, của đói nghèo, của lệ thuộc Trung Cộng. Thoát độc tài toàn trị là khúc quanh quan trọng nhất, quyết định tất cả.
Đại đa số dân chúng mong muốn và sẵn sàng góp sức vào sự nghiệp này. Chưa bao giờ lòng dân đồng thuận cao tới vậy, nếu xét trên số phần trăm ủng hộ hướng đi này thì con số tối thiểu chắc cũng phải trên 80%, theo như vài khảo sát gián tiếp.
LẬP LUẬN CỦA ĐẢNG CSVN và CÁC SỰ KIỆN NÓI TRÊN PHẢN BÁC RA SAO?
Trái lại, các thế lực muốn duy trì nền thống trị độc đảng cho đảng CSVN lập luận thế nào? Họ cho rằng có 3 lý do chính khiến Việt Nam không nên và không thể bước vào khúc quanh lịch sử nói trên được:
1) Lý do thứ nhất: Vì chủ nghĩa xã hội là con đường tốt đẹp nhất mà Việt Nam không được rời xa và phải nỗ lực xây dựng. Để xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công, phải giữ đại cục liên minh với Trung Cộng, với đảng Cộng Sản Trung Quốc.
2) Lý do thứ hai: Vì điều này có nguy cơ kéo theo các hệ quả đối đầu và có thể có xung đột với Trung Quốc. Trung Quốc có thể chiếm các đảo mà Việt Nam còn giữ trên Biển Đông. Trung Cộng có thể áp lực kinh tế gây khủng hoảng cho Việt Nam vốn đang rất lệ thuộc họ.
3) Lý do thứ ba: Vì trình độ dân trí Việt Nam còn thấp, chưa biết cách sử dụng các quyền tự do và chưa biết cách hành xử dân chủ, và do đó đa đảng và tự do sẽ gây hỗn loạn xã hội…
Ngoài những nhân vật có hiểu biết nhưng vì quyền lợi và tiền của cho cá nhân mà nấp sau lập luận nêu trên, thì vẫn còn một số đảng viên và dân chúng còn tin tưởng vào lập luận đó. Thực ra, với đại đa số những người Việt Nam quan tâm tới thời sự chính trị và tương lai tổ quốc, ba lý do nói trên chỉ là lập luận càn của kẻ cùng đường cạn lý. Các sự kiện trong đời sống thực phản bác dứt khoát lập luận đó.
Tính cùng đường cạn lý của lý do thứ nhất
Liên kết giữa 2 nước và hai đảng Việt-Trung chỉ là liên kết giữa hai đảng cầm quyền rất phản động, phản động theo ý nghĩa là ngoan cố đi ngược chiều tiến của toàn nhân loại về hướng tự do, dân chủ, đi ngược ước vọng của đại đa số dân chúng trong mỗi nước. Liên kết này dựa trên chủ nghĩa xã hội, một chủ nghĩa mà đại đa số các nước từng đi theo đã vứt bỏ vì sự tai hại cuả nó.
Sự kiện ông Tập thăm Việt Nam với các tuyên bố không thật lòng về truyền thống láng giềng tốt đẹp, với các khuyến dụ hai nước hỗ trợ nhau xây dựng chủ nghĩa xã hội, chấp nhận giữ nguyên hiện trạng về việc Trung Quốc cướp biển đảo Việt Nam đã càng khiến dân Việt thấy rõ lý do thứ nhất chỉ là trò phỉnh dụ, là trò hề. Không hề có chủ nghĩa xã hội tốt đẹp, chỉ có chiêu bài của Trung Cộng giữ Việt Nam trong vòng chư hầu lệ thuộc, giữ êm thấm nước Việt Nam trong khi Trung Cộng củng cố pháp lý và công trình quân sự trên các đảo đó, và chiêu bài của giới cầm quyền cộng sản Việt Nam muốn “buông” biển đảo cho Trung Cộng để giữ nền thống trị bóc lột của đảng trên nước Việt Nam.
Tính cùng đường cạn lý của lý do thứ hai
Nhiều nhà quan sát quốc tế và Việt Nam cho rằng Trung Cộng rất sợ xảy ra chiến tranh chính thức với Việt Nam.
Nếu Trung Cộng gây ra cuộc chiến này: a) Trung Cộng không có đồng minh, cũng không có người ủng hộ trên thế giới, b) Nền kinh tế Trung Cộng bị ảnh hưởng rất tai hại: con đường vận chuyển nhiên liệu, nguyên liệu và hàng hóa bị cắt đứt. Đó là chưa kể các lệnh cấm vận vì hành vi gây cuộc chiến phi nghĩa, c) Kinh tế quốc gia khủng hoảng vì cuộc chiến phi nghĩa, Trung Cộng sẽ đại loạn do các đại bất mãn tích tụ quá lâu dài trong dân chúng thừa cơ bùng phát. Loạn sắc tộc, loạn chính trị, loạn xã hội…
Tác hại của cuộc chiến đối với Trung Cộng sẽ to lớn và khó sửa chữa hơn là tác hại đối với Việt Nam. Trung Cộng sợ cuộc chiến nổ ra hơn Việt Nam. Nói vậy không có nghĩa là người viết ủng hộ chiến tranh, chỉ là muốn nêu một cái nhìn toàn cục về thế mạnh và yếu giữa hai bên để chính quyền Việt Nam không vì ươn hèn và ích kỷ mà thêm một lần nữa uốn gối Thành Đô di hại quá lớn về sau.
Hơn nữa, Việt Nam không tấn công ai, chỉ thay đổi nền chính trị của riêng mình. Sẽ không có một Trung Cộng nào đủ lý lẽ để dám gây chiến!
Trung Cộng không có lợi khi gây chiến, nhưng sẽ có lợi nếu trong khi Việt Nam đồng ý giữ “đại cục bang giao Việt-Trung” và chấp nhận hiện trạng đã bị mất một số đảo, Trung Cộng lại lấn chiếm thêm các đảo khác của Việt Nam. Dân chúng Việt Nam đã biết rõ điều này, rằng khi chấp nhận “đại cục bang giao Việt –Trung”, đảng CSVN đã câu giờ trước dân tộc để nhượng thêm lãnh thổ cho kẻ xâm lăng truyền kiếp.
Sự kiện hải quân Hoa Kỳ tuần tra Biển Đông 8 lần/năm là một răn đe có hiệu quả mà Trung Cộng không thể không e dè. Việt Nam, cùng với quyết tâm không để mất một tấc lãnh thổ nào nữa, có thể dùng thời cơ thuận lợi do sự kiện này mang lại để bảo vệ lãnh thổ mà vẫn bảo vệ được hòa bình. Ngoài ra, cùng với việc Phi Luật Tân kiện Trung Cộng, Indonesia đã thách thức Trung Cộng về đường lưỡi bò phi lý. Hợp lực của các sự kiện thế giới và khu vực không cho phép Trung Cộng lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam hơn nữa. Việt Nam cần tận dụng thời cơ này để dân chủ hóa đất nước, phục hưng và nâng cao nội lực dân tộc. Chỉ cần hai thập niên năm năm cả nước đồng lòng, không một thế lực hiếu chiến và bành trướng nào dám coi thường Việt Nam. Chúng ta sẽ là một thế lực rất đáng nể để bảo vệ hòa bình và sự phát triển của chúng ta.
Quả thật là sau 40 năm toàn trị Việt Nam, đảng CSVN đã khiến nền kinh tế đất nước phụ thuộc nặng nề vào Trung Cộng về nhiều mặt. Sự kiện TPP đã được ký kết và sẽ được thực thi chính là cơ hội quá tốt để nền kinh tế Việt Nam dần tự chủ hơn. Chỉ cần hai thập niên quyết tâm tìm sự tự chủ đó, Việt Nam có thể tự tin ở mức độ thoát Trung về kinh tế để không còn phải sợ Trung Cộng dùng kinh tế uy hiếp nữa.
Vậy nên, lý do thứ hai đảng CSVN nêu ra để không cho Việt Nam rời bỏ độc tài và toàn trị chỉ là sự thổi phồng các nguy cơ hoàn toàn có thể ngăn cản được. Lý do này có mục đích thuyết phục dân Việt chấp nhận kéo dài chính thể độc tài của đảng CSVN, chấp nhận mất biển đảo cho Trung Cộng. Thay vì có đối sách kêu gọi hùng tâm dũng khí, phát huy truyền thống tự chủ của dân tộc để bảo vệ và phát triển đất nước, và sau đó đòi lại biển đảo đã bị cướp mất, đảng CSVN lại dùng con ngáo ộp Trung Cộng vuốt ve lòng sợ hãi ươn hèn của dân chúng để dìm đất nước trong vòng lệ thuộc Trung Cộng và vòng trị độc tài của đảng!
Tính cùng đường cạn lý của lý do thứ ba
Đã biết bao túi khôn chính trị nhân loại, đã biết bao bài học thực tiễn trên thế giới từ mấy trăm năm qua, dạy rằng: chính thể tự do mới phát huy được sức mạnh dân chúng, xây dựng cuộc sống ấm no và nền tự chủ đất nước, chính thể độc tài thì ngày càng làm xã hội suy thoái và quốc gia mất tự chủ.
Dân chúng Việt Nam, trước năm 1945, dù dưới chế độ thực dân Pháp, so sánh với các nước trong vùng, đã có trình độ tự do dân chủ tương đối cao. Hãy nhớ lại các quyền tự do báo chí, tự do lập hội, các cuộc biểu tình vài chục, vài trăm ngàn người gần trăm năm trước chống chính quyền thuộc địa, bênh vực Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu… để biết mức độ dân chủ thực sự của Việt Nam lúc đó so với bây giờ. Sau năm 1956, miền Nam xây dựng chế độ dân chủ tiến bộ hơn, thực chất là một nền dân chủ hiện đại bảo đảm tất cả các quyền tự do căn bản của người dân dù đang bị miền Bắc tiến công tàn khốc…
Ngoài ra cần nhớ rằng, trước 1975, nền dân chủ của miền Nam tương đương của Hàn Quốc. Đảng CSVN đã đánh phá và lật đổ nền dân chủ của miền Nam, chiếm quyền cai trị đất nước 40 năm, mỗi ngày mỗi tàn phá thêm các nền tảng dân chủ đó, để tới hôm nay Việt Nam được thế giới xếp hạng là một trong những nước thiếu dân chủ nhất! Đảng CSVN có thể dễ dàng phủi tay với trách nhiệm này sao? Dân chúng Việt có thể mong đợi gì ở đảng CSVN để nâng cao trình độ dân trí cho tới lúc, theo ý đảng, đủ sức hưởng tự do?
Sự kiện cuộc bầu cử đa đảng và dân chủ thành công ở Myanmar là lập luận thực tiễn bác bỏ lý do thứ ba này. Lập luận rằng đa đảng và tự do sẽ gây hỗn loạn xã hội trở nên lố bịch. Lập luận rằng trình độ dân trí Việt Nam còn thấp trở nên khôi hài. Sự kiện cuộc bầu cử đa đảng và dân chủ thành công ở Myanmar càng chứng tỏ rõ tính cùng đường của lập luận này và lật tung tính lấp liếm, giả dối của người lập luận.
KẾT LUẬN
Các điều vạch ra trên đây thật ra không mới mẻ gì, người viết chỉ tổng hợp lại mà thôi. Còn bao nhiêu phần trăm dân chúng và bao nhiêu phần trăm đảng viên chưa thấy các điều này?
Người viết tin rằng số phần trăm đó rất nhỏ. Do vậy, xác suất để Việt Nam tiến vào khúc quanh lịch sử thoát độc tài, thoát toàn trị là rất lớn. Khi đã thoát độc tài, toàn trị thì thoát Cộng, thoát Trung sẽ là các hệ quả tất nhiên.
Thời cơ trước mắt cho dân tộc lớn lắm, phần thưởng cũng lớn lắm. Cái đỉnh độc tài toàn trị đã rất nghiêng rồi, cố gắng thêm, kiên nhẫn thêm, những người đấu tranh cho tự do dân chủ sẽ lật được nó.
Cùng nhau nhìn lên cao, cùng nhau nhìn rộng ra thế giới. Đoàn kết, kiên nhẫn, quyết tâm, khiêm tốn, bao dung, xây dựng nhu cầu phát triển tổ quốc trong mỗi người dân và tổ chức liên kết với các người cùng nhu cầu đó. Mục tiêu quá tốt đẹp, lành mạnh, thời cơ quá thuận lợi, bằng tình đồng bào chúng ta sẽ thuyết phục được mọi người cho dù có khuynh hướng chính trị nào. Bởi vì không có tình tự nào quyến rũ hơn tình tự dân tộc và lập luận nào thuyết phục hơn lập luận của tổ quốc.
Tôi tin rằng rồi đảng CSVN cũng sẽ phải thay đổi. Một ngày không xa!
T.Q.C
Tác giả gửi BVN
ĐÔNG BÌNH * MỸ BAO VÂY TRUNG CỘNG
16/11/2015
Mỹ xây dựng mạng lưới bao vây, cô lập Trung Quốc ở Biển Đông
Đông Bình
15-11-2015
(GDVN) - Ngoại giao “hợp tung” của Mỹ lấy Indonesia, Malaysia làm trọng điểm, làm cho yêu sách Biển Đông của Trung Quốc rơi vào cô lập.
Mỹ tìm cách bao vây, cô lập
Tờ “Phượng Hoàng” Hồng Kông ngày 13 tháng 11 cho biết, thông qua một loạt hoạt động ngoại giao tàu chiến sẽ không khó phát hiện, Mỹ đang quán triệt chiến lược phòng ngừa, thông qua lấy vũ lực có hạn làm hậu thuẫn, hỗ trợ cho một số nước chủ trương chủ quyền mạnh dạn kiềm chế Trung Quốc.
Ngày 27 tháng 10 năm 2015, tàu khu trục USS Lassen DDG-82 Hải quân Mỹ tiến hành tuần tra vùng biển 12 hải lý của đảo nhân tạo trên Biển Đông. Tàu này đã xuất phát từ cảng biển của Malaysia.
Ở Biển Đông, Mỹ thông qua ngoại giao “hợp tung” (liên minh, liên kết), gia tăng chiến lược liên minh với các nước mới nổi, tiến hành răn đe và bảo vệ thực sự về mặt quân sự đối với Trung Quốc, hóa giải ảnh hưởng tiêu cực có thể gây ra đối với Mỹ từ sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Biểu hiện cụ thể là tàu khu trục USS Lassen Mỹ đã xuất phát từ cảng của Malaysia rồi mới đi tuần tra vùng biển 12 hải lý của đá ngầm trên Biển Đông (ngày 27 tháng 10), 1 tuần sau Bộ trưởng Quốc phòng Malaysia lại lên tham quan tàu sân bay Mỹ.
Từ lâu, các nước Đông Nam Á như Malaysia có quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc về kinh tế, dựa vào Mỹ và Nga về quân sự, tự do (linh hoạt) về ngoại giao.
Ngoại giao “hợp tung” lần này của Mỹ lấy Indonesia, Malaysia có quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc làm trọng điểm, làm cho yêu sách Biển Đông của Trung Quốc rơi vào cô lập.
Ngày 5 tháng 11 năm 2015, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton B. Carter và Bộ trưởng Quốc phòng Malaysia Hishammuddin Hussein lên tàu sân bay USS Theodore Roosevelt trên Biển Đông
Không lâu trước, Indonesia tuyên bố kiện Trung Quốc do “tranh chấp” vùng đặc quyền kinh tế quần đảo Natuna. Indonesia – nước hữu nghị nhất và không tồn tại tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Trung Quốc đã đột ngột “trở mặt” thực sự đã làm cho Trung Quốc trở tay không kịp.
Trung Quốc sẽ giãy giụa thế nào?
Theo tờ “Phượng Hoàng”, hiện nay, sự chuẩn bị về tâm lý và quân sự của Trung Quốc còn chưa đủ. Mặc dù ngoại giao “hợp tung” của Mỹ đã lôi kéo được một số nước Đông Nam Á, nhưng tranh chấp Biển Đông không phải là vấn đề ngắn hạn có thể giải quyết nhanh chóng.
Vì vậy, bài báo cho rằng, “dứt khoát đáp trả” hành động của Quân đội Mỹ mới là căn bản để hóa giải tình hình khó khăn của Trung Quốc ở Biển Đông.
Bài báo này xúi giục Trung Quốc tiếp tục hoạt động xây dựng các công trình quân sự bất hợp pháp ở các đảo đá trên Biển Đông, để những đảo đá đó có đủ năng lực trinh sát, theo dõi, phòng không, chống hạm cùng năng lực “thực thi pháp luật” khi áp đặt Vùng nhận dạng phòng không, từ đó gây khó khăn lớn hơn cho việc đi lại trên Biển Đông của Mỹ trong tương lai.
Tàu sân bay USS Theodore Roosevelt và tàu khu trục tên lửa USS Lassen Hải quân Mỹ trên Biển Đông (nguồn mạng sina Trung Quốc)
Theo bài báo, trong ngắn hạn, nếu Quân đội Trung Quốc không đáp trả “cứng đối cứng” (ăn miếng trả miếng) thì bất cứ hành động nào của Quân đội Mỹ đều có thể kích thích “dây thần kinh nhạy cảm” của Trung Quốc (giới bành trướng Trung Quốc đau đầu, căng thẳng), từ đó làm cho Trung Quốc mệt mỏi đối phó và rơi vào cái bẫy, vũng bùn đã được dàn dựng sẵn.
Bài báo cho rằng, vấn đề Biển Đông thách thức năng lực ứng biến tổng hợp như ngoại giao, quân sự của Trung Quốc, đòi hỏi phải có “tầm nhìn xa chiến lược”, có “quyết tâm kiên định và hành động thực tế bảo vệ chủ quyền lãnh thổ” - thực chất là tìm mọi cách để hiện thực hóa yêu sách bành trướng “đường lưỡi bò” ở Biển Đông.
Đ.B
TÙY NGHI TIẾN * TRUNG QUỐC
Cạm bẫy tiềm tàng thứ 4 của Trung Quốc: Các lực lượng ly khai
Tùy Nghi Tiến (Danlambao) dịch - Sau khi phát triển nhanh chóng trong gần suốt 40 năm, Trung Quốc hiện ở một điểm ngoặt của sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Trong loạt bài này, Tiến sĩ Xue Li sẽ xem xét năm thách đố then chốt nhất và các cạm bẫy tiềm tàng mà Trung Quốc đối đầu ngày hôm nay.
Rắc rối của Trung Quốc với các lực lượng ly khai liên quan tới các giá trị tinh thần nòng cốt, nhưng nó không hẳn là tương tự. Trung Quốc có hai loại lực lượng ly khai: các lực lượng ly khai ngay trên Hoa Lục (những người cổ xúy cho “độc lập của Tân Cương” và “độc lập của Tây Tạng"), và lực lượng ly khai Đài Loan (độc lập của Đài Loan). Chúng ta sẽ bình luận khái quát về mỗi lực lượng ly khai này.
Mỗi khi đề cập tới vấn đề “độc lập của Tây Tạng”, có lẽ chúng ta lập tức nghĩ ngay tới các cuộc đàm phán với Đức Đạt Lai Lạt Ma. Đây là một lợi thế của nhà cầm quyền Trung cộng bởi vì Đức Đạt Lai Lạt Ma và Bắc Kinh đã có một lịch sử tác động qua lại với nhau khá lâu dài, trải qua nhiều thập niên. Họ hiểu khá rõ đối phương. Các quan điểm của Đức Đạt Lai Lạt Ma tương đối ôn hòa nếu so với thế hệ trẻ sau này. Ví dụ, Đức Đạt Lai Lạt Ma không hề công khai ủng hộ sự độc lập. Nhưng ngài vốn đã 80 tuổi và vì vậy đang hết thời giờ.
Vấn đề Tân Cương phức tạp hơn. Trong nhiều năm, chính phủ Trung cộng đã chọn một biện pháp đa phương để giải quyết vấn đề “độc lập của Tân Cương”. Nhà cầm quyền Bắc Kinh kiên quyết tấn công các lực lượng “độc lập Tân Cương”. Họ đã khai triển một “sự phòng thủ nhóm và giải pháp nhóm” nhằm hủy diệt những mầm móng ly khai ngay từ trong trứng nước. Chính phủ Trung Quốc đã tăng cường kiểm soát biên giới nhằm ngăn chặn việc các lực lượng “độc lập Tân Cương” lẩn trốn ngang qua biên giới, đồng thời tạo điều kiện dễ dàng cho sự xuất nhập cảnh của những người thường dân. Chính phủ đã đầu tư vào việc phát triển kinh tế của Tân Cương nhằm vô hiệu hóa sự trỗi dậy của “ba lực lượng” – cực đoan tôn giáo, ly khai sắc tộc và khủng bố bạo động
Rắc rối mà chúng ta đương đầu ngày hôm nay là “ba lực lượng” nêu trên đang bành trướng tới các tỉnh khác ngoài Tân Cương và thậm chí vượt qua khỏi biên giới Trung Quốc. Tuy nhiên, mối đe dọa thực sự tới sự ổn định và phát triển lâu dài của Tân Cương là hành động cực đoan tôn giáo. Các phần tử cực đoan tôn giáo thâm nhập vào nền văn hóa sắc tộc của người Duy Ngô Nhĩ, từ đó gây ảnh hưởng tới đời sống thường nhật và thế giới quan của thường dân. Họ dùng cách này để làm suy yếu chính quyền sở tại.
Cuối cùng, “độc lập của Đài Loan” hẳn nhiên là một thách đố. Trong giai đoạn cầm quyền của Tổng thống Mã Anh Cửu, bang giao ngang eo biển tương đối ổn định và các mối quan hệ kinh tế được củng cố. Tuy nhiên, người kế nhiệm ông rất có thể sẽ là bà Thái Anh Văn. Lãnh tụ tinh thần của bà Thái là cựu Tổng thống Lý Đăng Huy, người có danh tiếng là cổ xúy cho “độc lập của Đài Loan”. Hồi năm 1999, ông Lý thậm chí còn đề nghị thiết lập mối bang giao “quốc gia với quốc gia” ngõ hầu quản trị các mối quan hệ xuyên eo biển. Bà Thái, với tư cách nghị viên hội đồng, đã đóng góp tích cực vào việc hoạch định thành lập Hội đồng An ninh Quốc gia và Hội đồng Tái Thống nhất Quốc gia. Sau đó, vào năm 2002, cựu Tổng thống Trần Thủy Biển đề xuất khái niệm “một quốc gia trên mỗi bên Eo biển Đài Loan” và bà Thái, với tư cách chủ tịch Hội đồng Đại lục Sự vụ, đã đóng góp nhiều ý kiến quan trọng.
Bà Thái là một người hiểu biết, một nhà tư tưởng chiến lược tin tưởng vào “sự độc lập của Đài Loan”, và những thành tích hoạt động chính trị từ trước tới nay cho thấy là bà sẽ không thua kém tài năng, bản lãnh của các nam đồng nghiệp. Chúng ta không nên giả định rằng bà đã thay đổi lập trường chính trị vì những ngôn từ mà bà phát biểu trong cuộc vận động tranh cử tổng thống.
Bất kỳ một cuộc vận động nào cho sự độc lập của Đài Loan cũng đều sẽ vượt qua lằn mức chấp nhận của Đại lục và có thể châm ngòi cho một cuộc chiến tranh, điều này sẽ phương hại nghiêm trọng tới ngoại thương và hoàn cảnh kinh tế của Trung Quốc.
* Cạm bẫy tiềm tàng thứ 5 của Trung Quốc: Hoa Kỳ
15/11/2015
danlambaovn.blogspot.com
________________________________________
- Cạm bẫy tiềm tàng thứ 3 của Trung Quốc: Các giá trị tinh thần nòng cốt
http://danlambaovn.blogspot.com/2015/11/cam-bay-tiem-tang-thu-3-cua-trung-quoc.html
________________________________________
Bài đã đăng:
- Cạm bẫy tiềm tàng thứ 1 của Trung Quốc: Môi sinh
http://danlambaovn.blogspot.com/2015/11/cam-bay-tiem-tang-thu-1-cua-trung-quoc.html#comment-2357434262
- Cạm bẫy tiềm tàng thứ 2 của Trung Quốc: Các hạn chế trong mô hình chính trị và kinh tế
- Cạm bẫy tiềm tàng thứ 2 của Trung Quốc: Các hạn chế trong mô hình chính trị và kinh tế
http://danlambaovn.blogspot.com/2015/11/cam-bay-tiem-tang-thu-3-cua-trung-quoc.html
LÊ XUÂN NHUẬN * YẾU-TỐ HOA-KỲ TRONG VAI TRÒ THỦ-TƯỚNG & TỔNG-THỐNG CỦA ÔNG NGÔ ĐÌNH DIỆM
YẾU-TỐ HOA-KỲ
TRONG VAI TRÒ THỦ-TƯỚNG & TỔNG-THỐNG CỦA ÔNG NGÔ ĐÌNH DIỆM
LÊ XUÂN NHUẬN
Có người cố ý bác-bỏ vai trò của Mỹ trong việc ông Ngô Đình Diệm về nước nhậm-chức Thủ-Tướng, xem như ông ấy là người của Trời, tự-nhiên mà lên, không được (mà cũng không cần) hậu-thuẫn gì của Hoa Kỳ.
Thế nhưng:
Theo tiến-sĩ PHẠM VĂN LƯU:
“Sau khi thảo luận với Ông Foster Dulles (Ngoại-Trưởng Hoa Kỳ), để ông ta biết ý định ấy, tôi (Bảo Đại) cho vời Ngô Đình Diệm và bảo ông ta: ... Ông cần phải lãnh đạo Chính Phủ... (trích hồi ký “Con Rồng Việt Nam” của Bảo Đại).
“Đến ngày 24 và 25 tháng 5 (năm 1954), theo chỉ thị của Hoa Thịnh Đốn, Đại Sứ Mỹ tại Ba Lê là Dillon và một số viên chức khác đã đến gặp Ông Diệm để bàn về việc ông nhận chức vụ Thủ Tướng....” (trước khi ông Diệm về nước vào khoảng 25-6-1954 và nhậm-chức vào ngày 7-7-1954)
(Trích từ cuốn sách “Biến Cố Chính Trị Việt Nam Hiện Đại – Ngô Đình Diệm và Bang Giao Việt-Mỹ 1954-1963” của Phạm Văn Lưu, do "Centre for Vietnamese Studies" ở Melbourne, Bang Victoria, Australia, xuất-bản năm 1994 (trang 57)
Theo ông CHÍNH ĐẠO\ tức Nguyên Vũ, Vũ Ngự Chiêu):
“14/6/1954: PARIS: Diệm gặp Đại sứ Mỹ Douglas Dillon, báo tin sắp được làm Thủ Tướng... Diệm muốn Mỹ viện trợ nhiều hơn để bảo vệ châu thổ sông Hồng (FRUS, 1952-1954, XIII:2:1695-6).”
(Trích từ cuốn sách “Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 (Tập B: 1947-1954)” của Chính Đạo, do Văn Hóa, Houston, TX, USA, xuất bản năm 1997, trang 392)
Theo ký-giả TÚ GÀN:
VẤN ĐỀ CHỦ QUYỀN QUỐC GIA
Với một vài nét đại cương chúng tôi vừa trình bày trên, độc giả cũng có thể nhận thấy rằng người Mỹ đã tốn khá nhiều công sức và tiền của để xây dựng nên chế độ Ngô Đình Diệm: Từ việc truất phế Bảo Đại, bầu cử quốc hội, soạn thảo và ban hành hiến pháp, cải cách ruộng đất... đến việc thành lập một chế độ độc đảng (Cần Lao Nhân Vị Đảng) và cơ quan mật vụ (Sở Nghiên Cứu Chính Trị)... để có một chính quyền mạnh có thể đương đầu với cộng sản, các chuyên Hoa Kỳ đã làm việc rất vất vã với chính phủ Ngô Đình Diệm...
(Xem thêm các mục "Chủ Nghĩa Nhân Vị", "Đảng Cần Lao", v.v...)
Việc thành lập cơ quan mật vụ cho chính phủ Ngô Đình Diệm cũng do Mỹ đề xướng. Ông Trần Kim Tuyến cho biết chính ông McCarthy, Trưởng trạm CIA của Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn đã soạn thảo sẵn văn kiện tổ chức rồi đưa cho ông Nhu và ông Nhu chuyển cho Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống để làm Sắc Lệnh thành lập “Sở Nghiên Cứu Chính Trị và Xã Hội”... Người đầu tiên làm Giám Đốc là Đốc Phủ Sứ Vũ Tiến Huân, sau đó mới đến ông Trần Kim Tuyến...
(Trích từ bài viết “Trả lại sự thật cho lịch sử” của Tú Gàn - Saigon Nhỏ ngày 26.10.2007)
Theo ông Thomas L. Ahern, Jr.
(tác-giả “CIA and the House of Ngo: Covert Action in South Vietnam, 1954-1963” do CIA xuất-bản):
“Qua tài liệu này, lần đầu tiên chúng ta biết được, từ năm 1950 cho đến năm 1956, CIA có hai Sở tình báo ở Sài Gòn: một Sở CIA Saigon Station nằm dưới sự điều khiển thông thường từ bản doanh CIA ở Langley, Virginia; Sở kia, có tên là Saigon Military Mission, làm việc trực tiếp, và chỉ trả lời cho Giám Đốc Trung Ương Tình Báo. Saigon Military Mission, theo Tài Liệu Ngũ Giác Đài (The Pentagon Papers) được giải mật trước đây, do đại tá Edward G. Lansdale chỉ huy. Lansdale đến Sài Gòn tháng 6-1954 (ông Ngô Đình Diệm về nước vào cuối tháng 6.1954) với hai nhiệm vụ: huấn luyện những toán tình báo Việt Nam để gài lại ở miền Bắc trước ngày di cư và tập kết hết hạn; và, dùng mọi phương tiện ngầm (covert action) để giúp tân thủ tướng Ngô Đình Diệm (nhậm chức từ 7-7-1954). Theo tác giả Thomas L. Aherns, chính Giám Đốc CIA Allen Dulles chỉ định đại tá Lansdale cho điệp vụ ở Sài Gòn và cũng ra lệnh Lansdale làm việc trực tiếp cho ông. Tác giả Ahern viết, CIA có mặt từ năm 1950 để giúp đỡ quân đội Pháp xâm nhập và thu thập tin tức tình báo. Nhưng từ cuối năm 1953, khi thấy tình hình quân sự nguy ngập của Pháp, Hoa Thịnh Đốn thay đổi nhiệm vụ của CIA Saigon Station: Liên lạc và thu thập tình báo những thành phần quốc gia để lập một chánh thể chống cộng trong trường hợp Hoa Kỳ thay thế Pháp. Cùng lúc Hoa Thịnh Đốn gởi thêm một toán CIA để lo về quân sự, Saigon Military Mission...
CIA and the House of Ngo tiết lộ một số chi tiết ly kỳ như, CIA liên lạc và làm thân với ông Ngô Đình Nhu từ năm 1951, rất lâu trước khi Hoa Kỳ liên lạc với ông Diệm. Đầu năm 1954, khi có tin Hoa Kỳ chuẩn bị đề nghị quốc trưởng Bảo Đại và chánh phủ Pháp giải nhiệm hoàng thân Bửu Lộc và thay bằng ông Diệm, thì ông Nhu là người đầu tiên CIA gặp để bàn về liên hệ của Hoa Kỳ đối với thủ tướng tương lai Ngô Đình Diệm.
Tháng 4-1954, một nữ nhân viên Mỹ làm việc ở CIA Saigon Station, thông thạo tiếng Pháp, quen biết và liên lạc thân thiện với Bà Ngô Đình Nhu. Từ nữ nhân viên Virginia Spence này, Sở CIA Saigon bắt được nhiều liên lạc với hầu hết những người thân trong gia đình, hoặc thân cận với Nhà Ngô. Tháng 4-1954, CIA ở Hoa Thịnh Đốn gởi Paul Harwood sang làm cố vấn riêng cho ông Nhu. Tuy là nhân viên CIA, nhưng Harwood đóng vai một nhân viên Bộ Ngoại Giao, làm việc từ Tòa Đại Sứ. Trong hai năm, Hardwood cố vấn là làm việc với ông Nhu để xâm nhập và ảnh hưởng đường lối ngoại giao quân sự của nền đệ nhất VNCH với tổng thống Diệm. Paul Hardwood thân thiện với gia đình ông bà Nhu đến độ ông ta là người đỡ đầu cho Ngô Đình Lệ Thủy, ái nữ của ông bà Nhu...”
(Trích từ "CIA and the House of Ngo: Covert Action in South Vietnam, 1954-1963" [Tài liệu mật của CIA về gia đình họ Ngô] của Thomas L. Ahern, Jr. do Center for the Study of Intelligence (CIA) ấn hành, Nguyễn Kỳ Phong lược dịch)
Saturday, November 14, 2015
HUỲNH VĂN LANG * ĐỆ NHẤT CỘNG HÒA
ĐỆ NHỨT CỘNG HÒA của Miền Nam (1955-1963)
Huỳnh Văn Lang
(Bài nói chuyện ở Hội Tác giả VN Hải ngoại, ngày 08-11-2009)
Huỳnh văn Lang
Huỳnh Văn Lang
(Bài nói chuyện ở Hội Tác giả VN Hải ngoại, ngày 08-11-2009)
Nội dung của bài nói chuyện hôm nay là những sự kiện hay những biến cố quan trọng nhứt đã đưa đến sự hình thành ra Đệ nhứt Công hòa của miền Nam VN (1956-1963), mà cái ID của nó là Hiến Pháp năm 1956, cũng là phần kết của bài nầy.
Hưởng ứng lời kêu gọi của thủ tuớng Ngô đình Diệm (NĐD) về giúp nước, từ Chicago, Illinois, tôi về đến Sài gòn ngày 24 tháng 8, 1954 và liền sau đó vì thời cuộc đưa đẩy, thủ tướng NĐD đã đặt để tôi vào những địa vị, nếu gọi được là địa vị hay đúng hơn là cương vị, để tôi thành ra chứng nhân cho những sự kiện tôi muốn ghi lại ra đây. Những sự kiện tôi trình bày sau đây có ba giá trị khác nhau: là chứng nhân, không chứng nhân nhưng biết thật chắc chắn và một ít chuyện không biết chắc, quí vị sẽ phân biệt được 3 giá trị khác nhau đó.
1.- Cương vị thứ nhứt. (Phụ tá Bí thư của thủ tướng NĐD)
Đầu tiên tôi tạm thời thay thế anh Võ văn Hải là bí thư của Thủ tướng, để anh tạm thời giữ chức Chánh văn phòng, thình lình bỏ trống. Ba ngày đầu tôi ăn ngủ trong dinh Gia long, sau được đưa ra ngủ nghỉ ở khách sạn Kinh hoa, Chợ lớn, nhưng luôn luôn về dinh Thủ tướng ăn cơm trưa và tối cho đến khi Thủ tướng cho lệnh bộ Tài chánh cấp cho villa số 140, đường Hai bà Trưng, SG. Cho nên tôi may mắn làm việc bên Thủ tướng cho đến ngày 10 hay 11 tháng 10, 1954. Chính trong thời gian ngắn ngủi 45 ngày nầy đã xảy ra biến cố Nguyễn văn Hinh, Tổng tham mưu quân đội Quốc gia VN muốn đảo chánh.
Để dễ hiểu rõ biến cố nầy thiết nghĩ cũng nên nhắc lại, trước đó, ngày 16, tháng 6, ông Ngô đình Diệm được Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm làm thủ tướng, lập nội các VN thay thế chánh phủ hoàng thân Bửu Lộc. Thiết nghĩ khi bổ nhiệm NĐD, Quốc trưởng Bảo Đại (BĐ) có hội kiến với bộ Ngoại giao Mỹ và cũng có thể với chánh phủ Pháp nữa, vì Pháp dù có thua trận ở Điện biên phủ trong tháng 5 rồi, nhưng vẫn còn nắm quyền Ngoại giao và Quốc phòng ở VN với một đạo quân viễn chinh dù đã thua trận nhưng vẫn còn hùng hổ, đang khi anh em NĐD lại có tiếng là chống Pháp.
Cũng chắc chắn là chánh phủ Hoa kỳ không có liên quan trực tiếp gì đến chuyện bổ nhiệm nầy, vì dù ông Diệm có bôn ba ở Hoa kỳ gấn 3 năm đi nữa, ông có quen thân với nhiều nhận vật có tiếng nói trong chánh trường Hoa kỳ, nhưng thật ra Hoa kỳ chưa nghĩ đến chuyện thay thế Pháp ở Đông dương, cho đến khi chạm mặt với Nga/Tàu ở hội nghị Genève trong tháng 7, 1954.
Sau khi được bổ nhiệm, bất chấp lời can gián của ông Ngô đình Luyện ở Pháp và ông Ngô đình Nhu ở VN, Thủ tướng NĐD về Sài gòn ngày 26, cùng tháng 6, 1954. Tổng liên đoàn Lao công VN cổ động đón tiếp, nhưng số người đến phi trường TSN chưa đến 500. Bốn ngày sau Thù tướng bay ra Hà nội để xem xét tình hình và tiếp xúc chánh khách ngoài Bắc, để rồi trở về Sài gòn thành lập Nội các, ra mắt ngày 7 tháng 7, 1954: Thủ tướng kiêm bộ Quôc phòng và Nội vụ. Chánh phủ chưa kịp làm gì thì ngày 20 cùng tháng Hiệp định Genève ký kết giữa Pháp và Việt minh (VM) thoạt đến, toàn dân dở khóc dở cười, có hòa bình hay đúng hơn chì là đình chiến giữa hai phe, nhưng đất nuớc lại bị chia đôi. (1)
(1) Ngày 21-07-54, đang khi Tồng thống Eisenhower họp báo để giải thích hiệp định Genève cho quốc dân Mỹ, thì ngoài đường có một nhóm sinh viên VN biểu tình lên án các cường quốc chia đôi đất nước của họ. Hôm sau ở trước trụ sở Liên hiệp quốc (UN), New-york, cũng có một nhóm sinh viên VN biểu tình, đông hơn. Cả hai cuộc biểu tình đều do ĐVL, ĐTC & HVL tổ chức, hình HVL có lên báo, lên T. 55 năm sau nhìn lại…
Bao nhiêu vấn đề chánh trị xã hội cả văn hóa…đổ dồn về miền Nam với 36,000 quân viễn chinh Pháp và trào lưu Bắc kỳ di cư chạy giặc CS bắt đầu, người Pháp dự đóan là khoảng 60,000 người, Thủ tướng NĐD hy vọng 100, 000… không dè trào lưu chạy giặc CS bộc phát như thác lũ, quá sự tuởng tượng của mọi người, nghĩa là trong vòng 300 ngày do Hiệp định Genève qui định số người Bắc kỳ di cư lên trên 860,000. Thủ tướng vui bao nhiêu thì càng lo nhiều hơn nữa…
Khi về đến VN, tôi cảm thấy rõ ràng tình trạng quá yếu kém của chánh phủ NĐD cũng như uy tín của tân Thủ tướng quá thấp. Không thấy chánh phủ Bửu Lộc bàn giao lại cái gì, ngoài cái dinh Gia long và sở Nội dịch với năm bảy chiếc xe cũ kỹ, không có một tiểu đội canh gác. Thủ tướng kiêm bộ Quôc phòng, mà không có quân đội, bộ Nội vụ không có Công an Cảnh sát, trong lúc đô thành Sài gòn – Chợ lớn là Bình xuyên, miền Tây Nam kỳ lục tỉnh là Hòa hảo, miền Đông là Cao đài, quần chúng người Nam nghe nói đến NĐD, nhưng không biết NĐD là ai. Ngoài ra sau lưng tướng Ely, Cao ủy Pháp là cả một tập đoàn thực dân đang hôi quyền thế, hôi cả tài sản như buổi chợ chiều. Trong lúc người Mỹ mới nhảy vào chánh trường VN chưa có một chủ trương rõ ràng… Tắt một lời, xã hội miền Nam đang ở trong một tình trạng vô cùng hỗn mang gần như tuyệt vọng, vô phương cứu vãn. Dư luận Quốc tế cho chánh phủ NĐD không thọ quá 6 tháng.
Ưu tư số 1 của Thủ tuớng NĐD là phải nắm lấy quyền hành, là thủ tướng kiêm Quốc phòng, cho nên đầu tiên ông phải nắm quân đội. Tham mưu trưởng Nguyễn văn Hinh (vợ đầm tức nhiên là dân Pháp), cần phải thay thế. Và chính tướng Hinh lại khai chiến trước, ngày 09-09-54 chỉ trích Thủ tướng trên đài phát thanh Pháp Á do anh Phan cao Phái (anh của chị Minh Châu bạn của người viết) quản lý và đòi cải tổ chánh phủ. Thủ tướng Diệm phản pháo ngay, ngày 11-09-54 chỉ thị tướng Hinh phải đi Pháp trong vòng 24 tiếng, gọi là để khảo sát tổ chức quân đội Pháp trong vòng 6 tuần. Tướng Hinh từ chối và vận dụng quân đội trong tay mình để làm loạn, muốn đảo chánh, cho 1 tiểu đội thiết giáp chạy chung quanh dinh Độc lập (mới được Cao ủy Ely giao trả tuần trước) vửa hăm dọa, vừa chửi bới, cùng một lúc cho đài phát thanh quân đội ra rả tố cáo chánh phủ nào là độc tài, nào là tham nhũng v,.v. (Những đêm đó tôi ngủ trong dinh Thủ tướng, sẵn sàng để Thủ tướng xử dụng như một thông dịch viên và đi đêm với CIA Mỹ, khi đại tá Landsdale từ Manila qua VN, đóng đô ở hộp đêm Ma Cabane, trước cửa vườn Tao đàn, cách dinh Thủ tướng một con đường. Đại tá Lansdale có nhiệm vụ giúp chánh phủ NĐD ổn định tính hình).
Nội các NĐD sắp sụp đổ đến nơi, vì ngày 20-09-54, 9 trên 18 bộ trưởng yếu bóng vía đệ đơn từ chức. Nên lưu ý là cuộc khủng hỏang nầy xảy ra đúng lúc cuộc Bắc kỳ di cư bộc phát như lũ lụt sông Hồng, CS Hà nội chận đường, đe dọa, bắt cóc, thủ tiêu…vẫn không be nổi.
Nhưng với sự hợp tác chặt chẽ giữa CIA và tòa Đại sứ Mỹ, Thủ tuớng NĐD giải quyết được cuộc khủng hoảng do tướng Nguyễn văn Hinh gây ra, nhưng không phải là không đổ mồ hôi hột: đại sứ Heath cho tướng Hinh biết là nếu có đảo chánh trong tình thế nầy thì Mỹ sẽ cúp viện trợ quân sự ngay, đang khi đại tá Lansdale tìm cách tách tuớng Hinh ra khỏi tham mưu của ông ta là 2 nhơn viên phòng nhì của Pháp, Lansdale biếu hai sĩ quan nầy hai vé máy bay đi Manila du hí năm ngày.
Qua tháng sau, 1954 thủ tướng NĐD cất chức tướng Hinh và bổ nhiệm tướng Lê văn Tỵ lên thay. (Cũng là lúc thủ tướng NĐD gửi tôi qua bộ Tài chánh có công tác khác, nên những chuyện sau đây tôi không phải là chứng nhân, nhưng biết được rõ ràng.)
Đại sứ Heath và tướng O’Daniel, trưởng đoàn cố vấn quân sự Mỹ, lại yêu cầu thủ tướng Diệm nên giữ tướng Hinh lại trong quân đội. Ông Diệm từ chối. Trước sự cứng rắn của Thủ tướng, đại sứ Heath thay đổi thái độ, từ bạn ra thù ngay và gửi điện tín về Washington, tố cáo thủ tướng là bất tài, không có khả năng dung hợp…cần phải thay đổi.
Nhưng lúc bấy giờ tổng thống Eisenhower và Hội đồng an ninh Quốc gia, cả đa số Lưỡng viện Quốc hội lại nhận thấy Thủ tướng Diệm có thể lãnh đạo mặt trân chống Cộng ở Đông nam Á châu, nên hoàn toàn bác bỏ đề nghị của đại sứ Heath và Tông thống Eisenhower gửi đặc sứ qua thay thế là tướng Collins, bạn thân tin của ông. Đặc sứ Collins đến Sài Gòn mang theo bức thơ của Tổng thống Mỹ xác nhận ủng hộ một mình Thủ tướng NĐD và muốn thảo luận với Thủ tướng một chương trình viện trợ kinh tế quân sự qui mô hơn.
Nhưng lại không dè tướng Collins và tướng Ely là huynh đệ chi binh từ Đệ nhị Thế chiến. Tai hại là đặc sứ Mỹ bị Cao ủy Pháp chi phối hoàn toàn, ngày một ngày hai tuớng Collins thay đổi thái độ đối với Thủ tướng NĐD, có nghĩa là ủng hộ mưu đồ “Diệm must go’’ mà thực dân Pháp đã dàn dựng từ 4, 5 tháng nay.
Ngày 08-12-1954, hai tướng Collins và Ely vào dinh Độc lập chính thức đề nghị với Thủ tướng NĐD nên bổ nhiệm Phan huy Quát làm bộ trưởng Quốc phòng và Bảy Viễn làm bộ trưởng Nội vụ. Tất nhiên Thủ tướng NĐD từ chối và phải từ chối, vì nếu ông chấp nhận thì chẳng hóa ra ông chịu thua và mất gần hết quyền hành – Quốc phòng và Nội vụ là hai bộ quan trọng nhứt của chánh phủ nên ông đã kiêm nhiệm – để cho người Mỹ, qua ông Quát, Đại việt và người Pháp, qua Bảy Viễn, tướng cướp tha hồ giựt dây.
Thế là lại khủng hoảng! Collins còn cực đoan hơn nữa. là đề nghị với Washington: Nên đưa Bảo Đại về, đem Phan huy Quát lên làm thủ tướng thay thế NĐD và ban hành tình trạng khẩn trương, tập hợp các lực lượng quốc gia để thống nhứt hành động. Nếu không thực hiện giải pháp nầy được, thì tốt hơn Mỹ nên rút ra khỏi VN.
Không dè tướng Collins lại dứt khoát đến thế. Trong quan hệ giữa Collins và Ely, làm như có bóng một người đàn bà, tôi không rõ lắm nên không nói ra đây. Tuy nhiên trong khủng hoảng nầy tôi biết rõ một việc, ai là người đã giúp chánh phủ Mỹ khỏi sai lầm trầm trọng, đó là Thương nghị sĩ Mansfield. Nhận được phúc trình và đề nghị dứt khoát, nếu không nói là cực đoan hay ngu xuẩn của đặc sứ Collins, TT Eisenhower, Hội đống An ninh Quôc gia và Foster Dulles, bộ ngoại giao, hội nhau lại, hết sức hoang mang, như bị một búa bổ vào đầu, tóa hỏa tam tinh, nên phải kêu gọi đến ý kiến của bên Dân chủ đối lập, mà người có thớ nhứt là Thương nghị sĩ Mansfield: TNS Mansfield đến tòa Bạch ốc góp ý: Ông Diệm là một tích sản mình vừa thu nhận, dù có nhỏ bé cách mấy đi nữa thì cũng là một tích sản, tại sao mình phải phiêu lưu đi đổi với những giá trị khác, mà mình mù tịt không hiểu biết hay chưa hiểu biết mảy may gì hết.
Thế là Thủ tướng NĐD lại thắng, tất cả chánh phủ Mỹ đều chấp nhận ý kiến của TNS Mansfield vì là khôn ngoan nhứt và ngày 14-12-54 chánh phủ Hoa kỳ chỉ thị cho tướng Collins: Trong tình thế hiện nay, không có một chọn lựa nào khác hơn là tiếp tục viện trợ cho VN và ủng hộ Thủ tướng Diệm.
Nhưng chưa hết, tướng Collins với thực dân Pháp còn quậy nữa, mà năng nổ quyết liệt nhứt là bảy Viễn, Bình Xuyên.
2.- Cương vị thứ hai. ( Công cán ủy viên bộ Tài chánh)
(a) Tiền.
Cuộc khủng hoảng Nguyễn văn Hinh giải quyết chưa xong hay gần xong (10-10-54) thì thủ tướng NĐD gửi tôi qua bộ Tài chánh để giúp bộ trưởng Trần hữu Phuơng, cũng là bạn thân của tôi từ khi còn ở Paris, làm Công cán ủy viên, để hằng ngày theo dõi diễn tiến Hiệp định Paris, mới hợp lại để thay thế Hiệp ước Pau, cũng có nghĩa là phủ định tất cả những ký kết của Hiệp ước nầy. Nhờ đường lối dứt khoát của thủ tướng Mendès-France như ở Hội nghị Genève (20-07-1954) , trong một thời gian kỷ lục hôi nghị Paris kết thúc, ký kết giữa 4 nước đêm 30 tháng 12, 1954: Pháp nhìn nhận toàn vẹn chủ quyền tài chánh và tiền tệ (hối đoái) của 3 nước Việt-Miên-Lào và cho thi hành việc bàn giao ngay trong vòng 3 ngày, tức là ngày 02-01-1955.
Từ rày viện trợ quân sự, kinh tế, nhân đạo của Mỹ và các nước sẽ đi thẳng vào tay VN, không phải qua tay Pháp nữa. Nhờ theo dõi diễn tiến của hội nghị Paris rất sát– ngày 23 hay 24 tháng 12-54, bộ Tài chánh nhận được điện tín của phái đoàn VN do ông Duơng tấn Tài cầm đầu, đại khái “hoàn toàn thắng lợi và sẽ kết thúc trong vòng 7 ngày’’, và ông bộ trưởng Tài chánh dành cho tôi cái danh dự được mang điện tín nầy vào trình Thủ tướng, cùng giải thích cho tThủ tướng biết rõ những kết quả tốt đẹp của Hiệp định Tài chánh & Tiền tệ ở Paris) – nên trước đó năm bảy ngày bộ Tài chánh, do đề nghị của tôi đã giữ lại đuợc một ngân phiếu 15 triệu đô của bộ Ngọai giao Mỹ viện trợ chuơng trình di cư Bắc kỳ, chờ qua mươi ngày sau bỏ vào trương mục VN ở một ngân hàng Mỹ bộ Tài chánh tự do chọn lấy, hơn là phải bỏ vào trương mục VN ở Pháp quốc Ngân hàng (Banque de France) như trước kia.. Độc lập tài chánh và nhứt là tiền tệ (hối đoái) là từ đây. Từ đây chánh phủ VN được toàn quyền tổ chức cũng như quản lý tài chánh và tiền tệ của mình.
Trước đây Pháp đã viện trợ cho các giáo phái xây dựng lực lượng quân sự tất cả trên dưới 20 ngàn quân, không phải chỉ có khí giới thôi mà còn có một số tiền mặt khá quan trọng khác nữa. Từ đầu năm 1955, Pháp sẽ ngưng viện trợ và các giáo phái cần viện trợ phải đến với chánh phủ NĐD. Chính yếu tố tiền ở đây, dù không phải là yếu tố duy nhứt, nhưng là yếu tố quan trọng nhứt đã định đoạt lấy thái độ các giáo phái đối với chánh phủ NĐD và giúp chánh phủ NĐD thống nhứt quân đội quốc gia VN, chấm dứt tình trạng sứ quân do thực dân Pháp cấu tạo từ 9 năm qua.(2)
(2) Ngày 14-01, đại tá Ng văn Huệ, tham mưu truởng của tuớng Trần văn Sóai, Hòa hảo đem 3,500 về với quân đội quốc gia. Ngày 13-02-55 tuớng Trinh minh Thế, Lực lượng Kháng chiến Liên Minh Quốc gia Cao đài dẫn 5,000 quân về với thủ tướng NĐD. Ngày 10-03-55 Thiếu tá Nguyễn văn Đầy, Lực lượng Hòa hảo Quốc gia đem 5,000 quân và ngày 31 cùng tháng tướng Nguyễn thành Phuơng, Tổng tư lệnh Quân đội Cao đài đem toàn quân lực của mình về theo thủ tướng NĐD. Tướng Nguyễn giác Ngộ, Lưc lượng Dân xã Hòa hảo, từ 23 tháng 2 đã hứa đem 8,000 quân về, nhưng phải đợi qua thág 5, khi thủ tướng NĐD dẹp xong lực lượng BX mới chịu thi hành lời hứa.
\
(b) Tiền
Trên đây là hậu quả tích cực xây dựng uy tín và củng cố quyền hành của Thủ tướng. Thủ tưởng NĐD khởi sự được các giáo phái ủng hộ, mà sau lưng các Giáo phái là cả một khối dân chúng miền Nam. Để rồi qua ngày 01-01-55, Thủ tướng ký nghị định chấm dứt đặc quyền Đại thế giới (cờ bạc) và Bình khang (đĩ điếm) của Bình xuyên, tức là trực tiếp phá vỡ ngay nguồn tài chánh khổng lồ, nếu không nói là duy nhứt của lực lượng Bình xuyên. Gián tiếp nguồn tài chánh của Quốc trưởng BĐ ngày một ngày hai phải cạn kiệt: trước đây mỗi ngày BX phải đóng hụi chết cho Quốc trưởng BĐ đúng 1 triệu đồng, theo hối xuất thời đó là trên 28,500 Mỹ kim. (Từ lâu Quốc trưởng BĐ đã có một đời sống vuơng giả kiêm Playboy tại lâu đài Thorenc ở Cannes; Nam phương Hoàng hậu có tàu (Yatch), BĐ có mấy xe Sport hiệu Ý.)
Có phải đây là một yếu tố trong nhiều yếu tố tiêu cực bắt buộc Quốc trưởng BĐ nghĩ đến chuyện cất chức NĐD, để cho bảy Viễn lên thay, thử hỏi?
(Nói về tiền, tôi muốn nhắc đến một trường hợp ghê gớm hơn. Sau tuần lễ vàng (1945), HCM dùng một số vàng lớn, dưới mọi hình thức, để mua chuộc hai tướng Tàu là Lư Hán và Tiêu Văn – do Thống chế Tưởng giới Thạch sai qua VN để giải giới quân Nhựt cùng một lúc hậu thuẩn các lực lượng quốc gia như VNQD đảng, Đại việt Cách mạng…- để hoàn toàn bỏ rơi các đảng phái quốc gia, cho Việt minh lấy thế thượng phong và sát hại các đảng phái quốc gia, cướp lấy chính nghĩa giải phóng dân tộc, độc quyền yêu nước, độc quyền kháng Pháp).
3.- Cương vị thứ ba. (Bí thư Liên kỳ bộ Cần lao Nhân vị CM đảng)
Sau khi giải quyết khủng hoảng tướng Hinh xong và được tin tranh thủ thắng lợi giành được Chủ quyền tài chánh và tiền tệ, Thủ tướng NĐD mừng lễ Giáng sinh rất vui vẻ và lạc quan hơn. Tôi được Thủ tướng gọi đến tham dự lễ Giáng sinh, nửa đêm ngày 24 tháng 12, năm 1954, được tổ chức ngoài sân sau dinh Độc lập. Và nhứt là vinh dự được Thủ tướng đich thân chỉ định tôi ngồi hàng ghế đầu, ngay sau lưng của ông. Sau đó còn cho riêng tôi một món quà Giáng sinh đáng giá nữa. Biết đâu ông đã nghĩ đến chuyện giao cho tôi quyền điều hành Viện hối đoái Quốc gia (VHĐ) từ giữa đêm hôm đó ?
Trong 4 tháng đầu năm 1955, ngoài VHĐ, phần lớn tôi để thì giờ và tâm trí vào công trình văn hóa của anh em chúng tôi, là trường Bách khoa Bình dân, khai giảng ngày 15, tháng 11,1954. Vửa điều hành một trường sở có trên 1,200 học sinh, vừa giảng dạy 2 lớp tối, từ 6 giờ 30 đến 9,00 giờ, tôi không trực tiếp liên hệ với những biến cố hay sự kiện lịch sử xảy ra cho VN lúc đó nữa. Tuy nhiên, dù không chứng kiến, tôi vẫn theo dõi luôn và đuợc biết rõ những chuyện sau đây.
– Ngày 12-01-55 thuơng cảng Sài Gòn được giao trả cho chánh phủ NĐD.
– Cùng ngày 12-01-55, tướng Agostini Pháp bàn giao toàn quyền quản lý quân đội VN cho tướng Lê văn Tỵ.
Đến đây thì Thủ tướng NĐD xuất hiện rõ ràng như là một nhận vật có đủ khả năng tranh thủ độc lập toàn vẹn cho Quốc gia. Nhưng thực dân Pháp và tay sai chưa chịu bỏ cuộc. Bất hạnh là chính Quốc trưởng BĐ lại để cho chúng lợi dụng, nếu không nói là đồng lõa với chúng.
Nên BĐ và Pháp thúc đẩy Mặt trận Thống nhứt Toàn lực Quốc gia ra đời, là ngày 03-03-1955: ngòai Cao đài, Hòa hảo, Bình xuyên còn có Bs Nguyên tôn Hoàn, Đại việt miền Nam, Phan quang Đán, đảng Dân chủ, Hồ hữu Tường… Hộ pháp Phạm công Tắc được BĐ mời lãnh đạo Mặt trận..
Phản ứng của Hoa thịnh đốn: Không thể Mỹ chi tiền mà để Pháp thao túng chánh truờng VN, nên ngày 08-03-55 TT Eisenhower tái xác nhận ủng hộ NĐD và bản sao gửi BĐ, gián tiếp khuyến cáo đừng thọt gậy bánh xe, gây khó khăn cho NĐD nữa và khuyên Thủ tướng NĐD chống lại đòi hỏi của Mặt trận và bảo các các giáo phái nên rút khỏi Mặt trân. Nhưng bị áp lực của Bình xuyên và BĐ các giáo phái không nghe theo liền.
Ngày 21-03-55 Mặt trận gửi tối hậu thơ cho Thủ tướng NĐD: trong vòng 5 ngày, phải cải tổ nội các theo mô hình nhân sự của Mặt trận. Thủ tướng NĐD mời vào hội với ông, nhưng ông dứt khoát từ chối.
Mà sáu ngày sau (27-03-55) ông còn cho lệnh đại tá Đỗ cao Trí đánh chiếm bộ chỉ huy Công an Cảnh sát do BX nắm giữ.
Thế là chiến tranh giữa thủ tuớng NĐD có quân lực Quốc gia ủng hộ và BX có Pháp hậu thuẫn đã khởi sự và hai bên có cả một tháng để chuẩn bị đánh lớn, cũng gọi là hưu chiến.
Cũng là lúc, ngoài cái nợ văn hóa (trường Bách khoa Bình dân) và cái nợ chuyên môn (Viện Hối đoái Quôc gia) tôi mang thêm cái nợ chánh trị nữa. Đầu tháng 04, 1955, ông Ngô đình Nhu, Tổng bí thư Cần lao Nhân vị Cách mạng đảng (CLNVCM) đã giao hay là nhờ tôi đứng ra phát triển đảng CL (Cần lao) trong Nam và tôi đã nhận lãnh, một cách tự nguyện, nhưng hết lòng theo truyền thống của gia đình “là làm cái gì phải làm đến nơi đến chốn, không làm thì thôi’’ và tôi đã khởi sự ngay, là thành lập Liên kỳ bộ Nam Bắc việt, bí thư là Chí nguyện,
Đến lúc cuộc khủng hỏang Bình xuyên đến hồi gây cấn nhứt, nghĩa là có đánh nhau, có đổ máu… là cơ hội thử lửa (Baptême du Feu) cho Liên kỳ bộ Nam Bắc việt vừa mới thành lập với một tiểu tổ cơ bản và đầu não, gổm 8 thành viên. Nhưng với bao nhiêu đó Liên kỳ đã tích cực ủng hộ chiến dịch đánh Bình xuyên, bất chấp thiết quân luật Liên kỳ đã đi rải khắp các nẻo đừơng Sài Gòn/ Chợ lớn và Gia định cả ngàn tờ ‘’hịch’’ tố cáo tội ác của Bình xuyên trong 8 năm qua. (Toàn là sự thật, không một chút tuyên truyền láo).
Và như chúng ta biết, biến cố Bình Xuyên lại kéo theo sau sự kiện Truất phế Quốc truởng Bảo Đại. Lại thêm một cơ hội nữa cho Liên kỳ tập sự nhún tay vào chánh trị, là giúp củng cố chánh quyền NĐD và giúp công xây dựng nền móng cho tòa nhà Đệ nhứt Công hòa của miền Nam VN, luôn luôn không quên những cán bộ CS để lại miền Nam. (Vì thế mà Liên kỳ vội bỏ đô thành Sài Gòn/Cholon để trọng tâm vào các tỉnh miền Tây).
Trên đây là hai biến cố hết sức quan trọng mà với sự hạn hẹp của một con người, cá nhân tôi ở cương vị bí thư Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt, dù muốn dù không cũng đã trở thành chứng nhân như nhiều nhân chứng khác, nếu không nói là trực tiếp tham gia vào những biến cố lịch sử VN trong khoảng thời gian đó.
Tiếp tục chủ trương triệt hạ quyền lực Bình xuyên, sau khi cải tổ Nội các (24-04-1955) có sự tham gia của Hòa hảo (Trung tướng Trấn văn Soái và ông Lương trọng Tường) và Cao đài (Thiếu tướng Nguyền thành Phương), ngày 25 tháng 4, 1955 Thủ tướng NĐD ra sắc lệnh cách chức Lai văn Sang, Tổng giam đốc CS Quốc gia. Như thế tức là tấn Bình xuyên vào vách tường. Cũng là lúc đặc sứ Collins vì quá bất mãn với Thủ tuớng NĐD nên đi về Washington để ráo riết vận động cho cả Chánh phủ Mỹ chuyển hướng 180 độ, tức là ‘’Diệm must go’’ cho kỳ được, và lần nầy ông thành công. Rõ ràng tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn đứng về phe Thực dân Pháp là tướng Ely, Bảy Viễn…hơn là phe Quốc gia của Thủ tướng NĐD.
Ba ngày sau là ngày 28-04-55, BX a) khai chiến, pháo kích vào dinh Đôc lập. Cùng một lúc, BĐ gửi điện tín b) triệu ông Diệm và tướng Tỵ qua Pháp để tường trình về tình hình trong nuớc và c) bổ nhiệm Thiếu tướng Nguyễn văn Vỹ, tư lệnh Ngự lâm quân Đalat làm Tổng tư lệnh quân đội Quốc gia VN thay thế tướng Nguyễn văn Hinh, được toàn quyền sử dụng mọi phuơng tiện cần thiết để giải quyết cuộc tranh chấp giữa thủ tướng Diệm và các giáo phái. Lưu ý: Ba sự kiên a,b, c ghi trên hoàn toàn ăn khớp với nhau. Cùng ăn khớp với vận động thành công của tướng Collins ở Wahington, ‘’Diệm must go’’.
Đặc biệt lưu ý đến chi tiết nầy: Thay thế tướng Hinh, tức là hoàn toàn phủ nhận quyền hành của Thủ tướng, coi chuyện Thủ tướng NĐD bổ nhiệm tướng Tỵ như ‘’ne pas’’. Như thế chẳng hóa ra là cất chức Thủ tướng rồi còn gì nữa? Chuyện triệu Thủ tướng qua Pháp, không với ai khác mà là với tướng Tỵ, vừa được thủ tướng bổ nhiệm Tổng tham mưu Quân đội Quôc gia VN. Đúng là một tiểu xảo chánh trị bất xứng.
Được lệnh của Quốc trưởng BĐ, Thủ tưởng Diệm đã khôn ngoan, tìm được một lực lượng vô song để đương đầu với Quốc trưởng, không còn là Quốc truởng của một nuớc, của Quôc dân nữa mà là đại diện cho một tâp đoàn Thưc dân rất hùng hậu. Lực lượng vô song nói ở đây là Quốc dân.
Một điều cần nói ở đây là khi Thủ tướng đi tìm một lực lượng vô song đó không phải là không có cố vấn của CLNVCM đảng, lúc đó là ai? Là Ngô đình Nhu, là Trần quốc Bữu, Trần trung Dung, Trần chánh Thành, có cả BS Bùi kiện Tín và ai ai nữa…cả nhóm Tinh thần, trong đó có Bs Huỳnh kim Hữu. Biết rằng tất cả những nhân vật nầy không một ai gia nhập Cần lao, nhưng đều chấp nhận chủ trương của ông Ngô đình Nhu và do ông Nhu chi phối theo đường hướng Cần lao của ông..
Vì đó mà Thủ tường NĐD cấp tốc triệu tập các Chánh đảng và Nhân sĩ Quốc gia, ngày hôm sau là ngày 29-04-1955, để xin ý kiến: Nên tuân lệnh Quốc trưởng BĐ triệu qua Pháp hay không? Như thế tức là muốn đặt Hội nghị trước một sự chọn lựa dứt khoát: Bảo Đại hay là Ngô đình Diệm ?
Ở đây tôi muốn nói đến tính cách đại diện bao quát của Hôi nghị, chưa bao giờ miền Nam có một Hôi nghị gồm đại diện của những 18 đoàn thể nếu không nói là chính đảng và có những 34 nhân sỉ tên tuổi. (3)
(3) 18 chánh đảng là: – Mặt trận Quốc gia Kháng chiến VN – VN Phục quốc hội – Thanh niên Quôc dân Xã VN –VN Dân chủ Xã hội – Phong trào tranh thủ Độc lập VN –Phụ nữ Quốc dân xã VN – VN Cần lao Nhân vị Cách mạng đảng – Tịnh độ Phật giáo đồ VN – Tổng Liên đoàn Lao công VN – Phong trào Dân chúng Liên hiệp VN – Phong trào Cách mạng Quốc gia – Tập đoàn Công dân – Nhóm Tinh thần – Xã hội Công giáo – Thanh niên Dân chủ VN –Cựu Chiến sĩ Kháng chiến VN – Nghiệp đoàn Ký giả VN – Hội tương trợ Đồng bào Nghệ Tỉnh /Bình. Rất tiếc là không còn đâu có danh sách 29 nhân sĩ. Trong số những nhân sĩ nầy tôi quen thân với BS Huỳnh kim Hữu và ông Huỳnh minh Y, bố vợ anh Huỳnh sanh Thông và anh Dư phước Long và năm ba nhân sĩ nữa, toàn là người Nam kỳ.
Như thế có thể khẳng định tính cách đại diện bao quát của dân miền Nam. Dù biết rằng có những đảng chánh trị chỉ có vài ba chục đảng viên và không có một cây súng trong tay để đánh Pháp và chống CS Việt minh. Tuy nhiên cũng được cả năm bảy đoàn thể chánh trị có thực lực, nghĩa là có cả ngàn nếu không nói là mấy chục ngàn đảng viên và có năm bảy ngàn cây súng. Đó là VN Dân xã đảng Hòa hảo do bí thư Nguyễn bảo Toàn (Nguyễn giác Ngộ) đại diện, VN Phục quốc hội Cao đài do đại tá Hồ hán Sơn (Nguyễn thành Phưong) đại diện và Mặt trân Quốc gia Kháng chiến VN do Nhị Lang (Trình minh Thế) đại diện và Tịnh độ cư sĩ do Đoàn trung Còn đại diện. Đặc biệt là có những đoàn thể thanh niên, phụ nữ và trí thức. Nói được là gần toàn dân miền Nam có đại diện chánh thức đến phó hội. Cũng có vài gương mặt Bắc kỳ di cư, nhưng thiết nghĩ không có đại diện cho di cư Bắc kỳ vì khi đó Bắc kỳ di cư chưa định cư. .
Ngày 29-04-1955, đúng10 giờ hôi nghị gồm đúng 52 đại diện cho 18 đảng phái và 34 nhân sĩ khai mạc tại phòng khánh tiết dinh Độc lập. Thủ tướng NĐD từ trên lầu đi xuống và có mấy lời: Cám ơn và nêu lý do mời đến hội, để rồi xin rút lui để tất cả hôi viên tự do thảo luận. Nói xong vài câu Thủ tướng NĐD bỏ lên lầu, không muốn ở lại, e có thể gây ảnh hưởng thế nầy hay thế nọ.
Hôi nghị bắt đầu làm việc ngay là bầu:
Chủ tọa đoàn: ông Nguyễn bảo Toàn, bí thư Dân xã đảng, Hòa hảo.
Thư ký: ông Phạm việt Tuyền, nhà báo.
Và họ đã nghiêm chỉnh làm việc.
(Sáng ngày hôm đó còn có 3 trái pháo kích BX bắn vào dinh Đôc lập, có một trái nổ ngay đúng lúc Hôi nghị bắt đầu làm việc)
Nhưng đang khi các hội viên yên lặng chăm chú đọc chương trình nghị sự, thì ông Nhi Lang đứng lên tuyên bố:
“Thưa quí vị, tôi được chỉ thị đòan thể chúng tôi là Mặt trận Quôc gia Kháng chiến VN đến đây gặp quí vị không phải đề nói chuyện về việc Thủ tuớng NĐD có bổn phận hay không bổn phận thi hành lệnh của Bảo Đại. Mà là trái lại, tôi xin thẳng thắn đặt vấn đề là đã đến lúc chúng ta cần trút bỏ quyền hành của ông Quốc trưởng vô dụng kia đi. Là vì ông ta đang làm một việc trái với nguyên tắc lãnh đạo quốc gia. Thử hỏi, thành phố Sài Gòn đang có biến, dân chúng đang xôn xao lo sợ, tại sao ông BĐ lại chọn ngay lúc nầy để bắt buộc Thú tướng phải bỏ nước sang bên Pháp xa xôi kia, để ‘’tham khảo ý kiến?’’ Tham khảo cái gỉ? Phải chăng đây là mưu kế để nhắm lật đổ Chánh phủ nầy? Vậy tôi xin tuyên bố dứt khoát, nếu quí vị bằng lòng thảo luận việc truất phế Bảo đại ngay bây giờ,thì tôi ở lại. Bằng không, tôi xin phép ra khỏi phòng hội nầy ngay!’’.
Lúc bấy giờ cả cử tọa sửng sốt hay bàng hoàng trước đề nghị quá táo bạo của Nhi Lang, cũng vừa lúc đại tá Hồ hán Sơn, đại diện tướng Cao đài Nguyễn thành Phương đứng lên và tuyên bố tiếp:
“Nhân danh Việt Nam Phục Quốc hội, chúng tôi đồng ý với mặt trận Quốc gia kháng chiến, yêu cầu quí vị đừng bận tâm tới lệnh triệu thỉnh vô lý của Bảo đại nữa, mà hãy đồng tâm làm một cuộc cách mạng, chấm dứt ngay vai trò của ông Quốc trưởng BĐ kia đi cho xong. Nếu ý kiến nầy không được hưởng ứng, tôi cũng xin rút lui ngay tức khắc!’’
Đến đây thì tòan thể cử tọa không còn rụt rè nữa, nhứt là khi chủ tọa đoàn Nguyễn bảo Toàn cũng đứng lên tuyên bố hoàn toàn ủng hộ sáng kiến của hai ông Nhị Lang và Hồ hán Sơn, nên đều hoan hô lên, trăm người như một, có người còn la lên đã đảo Bảo Đại và có người cởi giày ném vào mặt bức hình BĐ treo cao giữa phòng. Ông Vũ văn Mẫu, một giáo sư Bắc kỳ, với một nhân sĩ nữa chạy lại cồng kền Nhị lang lên vai và bảo đứng lên gỡ bức ảnh đi. Ông Nhị lang cực khổ lắm mới hạ đuợc bức ảnh đồ sộ của Quốc trưởng và ném xuống đất.
Sau mươi phút sôi nổi, ồn ào… hôi nghị ngồi lại để bầu ra một Ủy ban Cách mạng Quốc gia, gồm 3 nhân vật đầu não là Nguyễn bảo Toàn, Chủ tịch, Hồ hán Sơn, Phó chủ tich, Nhị lang làm Tổng thư ký.
Với sự đóng góp của nhiều cố vấn, một giờ sau Ủy ban đã thảo xong một bản Kiến nghị.
Và sau khi nghe Chủ tịch Nguyễn bảo Toàn đọc hai lần, tât cả hội viên là 52 người đều chấp nhận và ký tên.
Xong rồi thì các hôi viên yêu cầu Chủ tịch đi lên lầu mời Thủ tướng NĐD xuống để nghe kết quả của nghị hội.
Thủ tuớng NĐD xuống lầu, tất cả mọi người đều đứng lên, ông đứng trước cử tọa, mặt xẩm xuống, vẻ buồn buồn hơn là lo âu, bầu không khí bỗng chốc trở nên yên lặng lạ thường…
Chủ tịch Ủy ban vừa cảm động vừa quả quyết đọc lớn cho mọi người đều nghe:
Thay mặt cho toàn thể Hôi nghị, tôi xin trình Thủ tướng kết quả của Hôi nghị là bản Kiến nghị gồm 3 điểm nầy:
Kiến nghị:
1.- Truất phế Quôc trưởng Bảo đại
2.- Giải tán Chánh phủ Ngô đình Diệm
3.- Ủy nhiêm chi sĩ Ngô đình Diệm thành lập chánh phủ mới để trừng trị bọn phiến loạn Bình xuyên, thu hồi chủ quyền quốc gia, yêu cầu triệt thoái quân đội viễn chinh Pháp và tổ chức bầu cử quốc dân đại hội.
Làm ngày 29, tháng 04, 1955
Đại diện 18 chánh đảng và đoàn thể cùng 34 nhân sĩ ký tên:
Vừa nghe Truất phế Quốc trưởng BĐ, mọi người đều thấy mặt Thủ tướng đỏ lên rồi lần lần biến sắc. Ông hoàn toàn bị cú sốc. Nghe xong thấy ông lặng người, tay nhận lấy bản kiến nghị và cố gắng lấy lại bình tỉnh, hết sức chẫm rãi trả lời gần như từng chữ một: Xin quí ngài cho tôi… được có thì giờ… suy nghĩ kỹ… về vấn đề trọng đại nầy! Xin cám ơn quí ngài!
Sau đó các hội viên lần lượt êm lặng đến bắt tay từ giã Thủ tướng, thấy vẻ mặt ông âu lo rõ ràng…. lúc đó là 5 giờ chiều. Hôi nghị đã kết thúc và giải tán.
Đến đây thì cuộc Cách mạng kể như là xong và Thủ tướng Diệm bị đặt trước một sự đã rồi. Vốn Thủ tuớng NĐD chỉ muốn dẫn vào nhà một con tuấn mã để nhờ giúp qua suối, không dè nhìn lại là một con bạch hổ, ông không cỡi thì nó sẽ thịt ông, nhưng nếu ông dám leo lên lưng nó, thì chỉ một cái nhảy vọt nó đưa ông lên tới đĩnh núi cao vời vợi. Thật ra khi đến giai đoạn nầy Thủ tướng NĐD vẫn còn nghĩ đến một chế độ Quân chủ lập hiến, chưa nghĩ đến một chế độ Công hòa, cái đó là chắc. Thành ra khi biết chuyện Truất phế là sự đã rồi, ông không tái mặt làm sao được!
Chiều tối lại, lúc 8 giờ đài phát thanh Sài Gòn đưa tin cho toàn quốc và Thế giới biết ở miền Nam VN đã xẩy ra cuộc cách mạng Truất phế Quốc trưởng Bảo đại. Cùng một lúc Ủy ban Cách mạng Quốc gia kêu mời các nhân sĩ và đồng bào ngày hôm sau đến hội tại tòa Đô chánh Sài Gòn để nghe Ủy ban thuyết trình về biến cố lịch sử vừa xảy ra.
Và ngày hôm sau, từ sớm các giới nhân sĩ, các đại diện các chánh đảng, thanh niên sinh viên phụ nữ, báo chí.. phấn khởi tụ tập đầy nghẹt phòng khánh tiết tòa Đô chánh Sài Gòn. Ông Nguyễn bảo Toàn, Hồ hán Sơn và Nhị lang thuyết trình về Cuôc Cách mạng Truất phế BĐ ngày hôm trươc, tất cả cử tọa đều nhiệt liệt hoan hô, triệt để ủng hộ. Và thêm một màn hạ bệ Bảo Đại một lần nữa, có người bắt thang leo lên gỡ bức ảnh to tướng hình Quốc trưởng BĐ treo trước cửa tòa nhà và ném xuống đất, rồi có những thanh niên nhảy lên dậm đạp cho nát bét (Tôi đã chứng kiến màn hạ bệ do anh bạn ĐTC điều khiển). Đang khi đó ba tướng Nguyễn giác Ngộ (Hòa hảo), Nguyển thành Phuơng (Cao đài) và Trịnh minh Thế (Mặt trận Quốc gia Kháng chiến) được Ủy ban Cách mạng giới thiệu, đứng ra trình diện để công chúng hoan hô, như là những anh hùng đã tạo ra thời thế. Và chúng tôi đã nghĩ vậy, vì sau lưng của Ủy ban Cách mạng đã có ba tướng nầy cho ý kiến, nếu không nói là cho chỉ thị, nên ba ông đại diện Nguyển bảo Toàn, Hồ hán Sơn và Nhị Lang đã hành động, đã lên tiếng hết sức đồng nhịp với nhau (synchronized) và nhờ vậy mà lôi kéo tất cả Hội nghị một cách dễ dàng, nhứt là khi các thành phần hôi nghị đã sẵn có tiềm thức phản hoàng rồi.(5)
(5) Vốn cái ý phức phản hoàng nầy có trong Nam từ thời vua Tự Đức tức là gần cuối thế kỷ 19 khi vua Tự Đức nhượng cho Thực dân Pháp 3 tỉnh miền Đông, rồi 3 tình miền Tây Nam kỳ lục tỉnh một cách dễ dàng quá. Rồi đến khi phong trào Kháng Pháp trong Nam, như của Thủ khoa Huân, của Trương công Định, của Thiện hộ Dương, của Cố quản Trần văn Thành… lại bị triều đình nhà Nguyễn bỏ rơi gần như hoàn toàn. Đề rồi qua đầu thế kỷ 20, phong trào Tây học, như các nhà cách mạng Đệ tứ Nguyễn an Ninh, Nguyễn văn Nguyễn, Tạ thu Thâu, Hồ hữu Tường và nhứt là Phan chu Trinh đã gieo rắc trong Nam nhứt là trong giới trí thức ý thức phản hoàng hay Cộng hòa. Ngoài ra chế độ thuộc địa Pháp là chế độ thuộc địa có văn hóa cộng hòa hơn là quân chủ, cho dù nó phát xuất từ thời Napoleon III.…
Đến đây thì cuộc Cách mạng đã được chánh thức hóa bằng một văn kiện có rất nhiều chữ ký rất nặng giá vì đại diện cho nhiều đoàn thể chánh trị hay quần chúng và công khai hóa bằng đài phát thanh, bằng sự xác nhận trước công chúng của thủ đô Sài Gòn/ Chợ lớn. Như thế phải nhìn nhận là cuộc Cach mạng nầy đã thành tựu một cách tuyệt đối rồi. (Period, Point final). Và theo tôi cuộc Cách mạng nầy là biến cố lịch sử quan trọng nhứt từ ngày Việt Minh cướp chánh quyền trên tay Chánh phủ Bảo đại/ Trần trọng Kim tại Sài Gòn ngày 23-08-45 (ở Hà nội là ngày 19 tháng 8, 1945) 10 năm truớc, vì nó có tính cách quyết định, dù chỉ là đập đổ, san bằng. Nhưng muốn xây dựng cái gì thì phải đập đổ và san bằng trước cái đã. Đó là một lẽ tất nhiên. Còn chuyện xây dựng là chuyện của hồi sau.
Cuôc Cách mạng Truất phế Quốc trưởng Bảo đại nầy là tác động của dân miền Nam nói chung, trong đó quần chúng Nam kỳ lục tỉnh qua các đại diện của họ đã đóng một vai trò chủ động, không ai có thể chối cải điều đó. Dù là tiêu cực hay là đập đổ và san bằng, nhưng tích cực là nó đã dọn đường cho sự hình thành ra Đệ nhứt Công hòa, vì ngay lúc đó chính Thủ tướng NĐD còn nghĩ tới chế độ Quân chủ lập hiến.. Nhưng tai hại vô cùng, chỉ năm năm sau cũng chính quần chúng Nam kỳ lục tỉnh (không quơ đũa cả nắm) qua Mặt trận Giải phóng Miền nam đã đóng một vai trò qua ư quan trọng, dù không phải là chủ động đã khởi sự tàn phá, không phải chì Đệ nhứt CH mà cả Đệ nhị CH nữa. Sau 15 năm dọn đường, đúng hơn là làm cổ sẵn cho CS Miền Bắc thôn tính hoàn toàn, đúng hơn là thuộc địa hóa miền Nam, cho đến bao giờ? Truất phế BĐ là một tác động Cách mạng sáng suốt hợp tình hợp lý bao nhiêu, thì tác động gọi là Mặt trận Giải phóng miền Nam, là một cái sai lầm ghê gớm, nếu không nói là ngu xuẫn tày đình bấy nhiêu, như lịch sử 34 năm qua đã chứng minh quá hùng hồn, vì hệ lụy tai hại vô cùng, cho quyền lợi, cho cả quyền làm người của dân miền Nam nói chung và dân Nam kỳ lục tỉnh nói riêng.. Tuy nhiên, tôi còn hy vọng, dù mong manh đi nữa, sẽ có ngày quần chúng miền Nam nói chung và Nam ky lục tỉnh nói riệng sẽ đứng lên làm một cuốc Cách mạng nữa. Và lần nầy là một cuộc Cách mạng vô cùng thiết yếu cho sự sống còn của cả một dân tộc VN, không riêng gì cho miền Nam hay Nam kỳ lục tỉnh. Đó là sứ mạng của lịch sử giao phó cho dân miền Nam, không riêng gì người trong nước hay ở hải ngoại.
(Ơ đây cũng nên nhắc lại những biến cố rất quan trọng sau đây, nhưng tôi kể là bên lề vì nó không có tính cách quyệt định, nó như là mấy màn của một tấn bi hài kịch lịch sử mà các diển viên, từ những tên lưu manh hạng nặng, những nhà ngoại giao ngu ngơ, cho đến những chánh trị gia lổi lạc phi thường, những anh hùng rất thông minh và can trường… mà vai nào cũng đặc sắc cả, đặc sắc ở đây không có nghĩa là vai trò nào cũng tốt đẹp đáng vỗ tay.
Đầu tiên là chuyện của một ông tướng Nguyễn văn Vỹ, tư lênh Ngự lâm quân, Đà Lạt, được Quốc trưởng BĐ bổ nhiệm ngày 28, tháng 04 – cùng một lúc triệu Thủ tướng Diệm và Tổng Tham mưu Lê văn Tỵ qua Pháp – làm Tổng tham mưu quân đội Quôc gia VN thay thế tướng Hinh được toàn quyền hành động. Được bổ nhiệm xong, tướng Vỹ vội kéo Ngự lâm quân về ngay Tổng tham mưu bắt tướng Tỵ, kéo vào dinh Gia long toan lật đổ chánh phủ NĐD. Lúc đó là 6 giờ chiều. Nhưng ngẫu nhiên Ủy ban Cách mạng, sau khi trình diện ở tòa Đô chánh đã đổi tên là Hội Đồng Nhân dân Cách mạng Quốc gia kéo nhau vào dinh Độc lập và một lần nữa Nhị lang lại là người táo bạo nhứt dám dùng một khẩu súng tay (chưa chắc đã lên đạn), bắt tướng Vỹ phải đưa tay lên đầu hàng, nghĩa là cuộc phản đảo chánh cùa tướng Vỹ bỗng chốc hóa ra mây khói.. Đến đây đúng là trò hề, vì mới năm phút trước tướng Vỹ áp lực Thủ tuớng NĐD từ chức, bây giờ ông phải nhờ Thủ trướng che chở cho ông khỏi mất mạng. Để rồi đầu hàng Cách mạng, ký cả hai tay giấy cam kết trở lại hợp tác với Thủ tướng. Nhưng hai ba giờ sau lại phản phé, muốn lật ngược lại thế cờ. Song đến chừng đó thì không còn một ma nào coi ông có chút gì nghiêm chỉnh cả, nên mọi người đều bỏ rơi ông, bắt buộc ông phải cuốn gói rút quân chạy về Đà lat, lúc đó đã 3 giờ sáng.
Chuyên thứ hai là chuyện của một ông đặc sứ Collins của TT Eisenhower. Sau khi không chinh phục được Thủ tuớng Diệm theo đề nghị ngu ngơ cải tổ chánh phủ của mình, ông tự cho mình bị khinh bạc, mất mặt với bạn bè chi binh, biết đâu lại không có miệng lưỡi của một mụ đàn bà xúi bậy vào…ông vội bỏ VN trở về Mỹ chính hai ngày trước khi BX khởi chiến. Ông về Mỹ ráo riết vận động với Quốc hội, với bộ Ngoại giao, với hội đồng An ninh Quồc gia và triệt để khai thác tình tự bạn chi binh với chính TT Eisewhower. Sau 5 ngày vận động không ngừng nghỉ, ông thành công: TT Eisenhower gửi tối hậu thư tuyên bố “Diệm must go’’ để ông Đặc sứ mang về Sài Gòn, phổ biến cho các đảng phái liên hệ, cũng có thể như là món quà đáng giá triệu đô cho bạn chi binh của ông là tướng Ely và nhứt là cho Bảy Viễn.
Nhưng không ai dè, chính trong thời gian ông ở Mỹ thủ tướng NDD đã ký sắc lệnh mở chiến dịch Hoàng Diệu do đại tá Duơng văn Minh làm tư lệnh, để phản công Bình Xuyên và ngày một ngày hai quân đội Quốc gia VN đã đánh bật hai trung đoàn BX ra khỏi địa bàn Sài Gòn/Chợ lớn, tàn quân BX rút chạy vào Rừng Sát, hoàn toàn tan rã và chiến dịch đã kết thúc trong vòng mươi ngày và ngày mùng 8 tháng 5 đại tá Dương văn Minh kéo quân khải hoàn về. Quân đội Quốc gia tổn thất vài mươi sinh mạng. Chẳng may lại mất một tướng tài, cũng là một nhà chánh trị đầy hứa hẹn. Sáng ngày 02-05-1955 tướng Trinh minh Thế kéo quân qua cầu Tân thuận để truy kich quân binh BX, một người lính Pháp trong tàn quân BX bắn sẻ từ bên kia cầu, tướng Thế chết ngay trên “command car’’. (Sau nầy người Pháp có bắn tin là đã trả được thù cho tướng Chanson và Thái lập Thành, tay chơn của Pháp, vì hai nhân vật nầy đã bị quân của tuớng Thế ám sát chết ở Sadec năm bảy năm trước.)
Sau khi thành công xoay chuyển Wahington hơn 180 độ, tướng Collins hớn hở bay về VN. Trên con đường bay về Sài Gòn thì Washington được tin thủ tướng NĐD với quân đội Quốc gia trung thành, như vũ như bão phản công BX mà chiến thắng ở trong tầm tay của Thủ tướng rõ ràng. Đánh BX để chứng minh Thủ tướng có đủ bản lãnh và tài ba để ổn định tình thế, bất chấp những mưu mô lươn lẹo của thực dân Pháp và cố chấp ngu ngơ của tướng Collins. Cho nên Washington lập tức phải trở lại ủng hộ thủ tướng NĐD còn hơn trước (statu quo ante) và đã vội vả đánh một diện văn khác để thủ tiêu bức thơ của Collins đang cầm tay. Cho nên khi ông Đặc sứ vừa xuống phi trường TSN thì cũng vừa lúc một nhân viên tòa đại sứ chạy đến trình cho ông một diện văn hỏa tốc. Ông phải mở ra xem liền, tôi không thấy gương mặt của ông đặc sứ Collins lúc bấy giờ, nhưng tôi chắc là ông phải đổ mồ hôi hột, dù trời Sài Gòn tháng 5 không nóng lắm, nhưng có thể ông cảm tưởng là đã tới tháng 8 rồi! Tôi nghiệp cho ông Đặc sứ, quá nhiều ego (tự ái), làm mất sáng suốt!)
Đến đây thì phải nhìn nhận là trên thực tế chế độ quân chủ của nhà Nguyễn với 13 triều đại (1802-1954) đã thật sự cáo chung, sau một thời gian 9 năm (1945-1954) hấp hối. Vốn độc lập của VN do quân đội Nhựt ban cho (09-03-1045) , không do tranh đấu, do hi sinh mà được, tất nhiên không giá trị bao nhiêu, nên Nguyên thủ quốc gia phung phí một cách vô ý thức là phải.Tuy nhiên trong mấy tháng độc lập quốc gia (09-03 đến 24-08-1945), chánh phủ Trần trọng Kim cũng làm được một việc cho quốc dân là Cải tổ hệ thống giáo dục quốc gia theo định hướng dân tộc. Nhưng cùng một lúc làm một việc vô cùng tai hại cho quốc dân nhứt là ở miền Nam kỳ lục tỉnh. Vốn ngày 02-05-1945, Hoàng đế Bảo đại đã ký sắc luật phóng thích tất cả tù nhân chánh trị, mà trong đó 90% là cán bộ CS, bị Pháp giam giữ ở Côn đão từ phong trào Soviết-Nghệ tỉnh (1929-30) và cuộc nổi dậy trong Nam (1939-1940) của Đệ tam Quôc tế, mà tổng số lên đến trên 10,000. Nhờ đó mà ngày một ngày hai (tháng 6, tháng 7, 1945) cả mấy ngàn cán bộ CS, (trong đó có Lê Duẫn, Tôn đức Thắng, Phạm Hùng, Lê văn Lương…toàn là cán bộ cao cấp), sau nhiều năm tôi luyện vừa lý thuyết vừa kỹ thuật hành động được đón tiếp nhiệt liệt trở về Cấn thơ, Sóc trăng, Trà vinh…để rồi làm ung thúi chánh trường miến Nam, đưa VM nắm lấy thế thuợng phong, đàn áp các Giáo phái, giết hại các nhà ái quốc chân chính, cướp lấy chánh nghĩa quốc gia, thầu công cuộc kháng Pháp cho đến Điện biên phủ, tháng 5, 1954.
4.- Cương vị thứ tư là một cương vị hỗn hợp.
Khi tôi vừa điều khiển VHD, các trường BKBD và Hội Văn hóa Bình dân, với chức vụ Bí thư Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt, tôi đã trở thành một cố vấn đa dạng (tiện tệ, văn hoá và an ninh) của Thủ tướng NĐD. Ơ đây tôi không nói tôi đã làm nhửng gì, tôi chỉ nói đến những gì tôi thấy tôi nghe, cũng là chứng nhân cho những biến cố lịch sử kể ra sau đây.
Thật ra từ đây vai trò của CLNVCM đảng càng ngày càng trở nên quan trọng và rõ ràng hơn. Nói đến Cần lao trong giai đọan nầy, ngoài lý thuyết Nhân vị, không phải chỉ là những thành viên đầu não của nó là Ngô đình Nhu, Trần quôc Bửu, Trấn chánh Thành, Trần trung Dung… , và trong chừng mực hạn hẹp của nó là Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt, (thành lập từ đầu tháng 04, 1955 và giải tán đầu năm 1958), mà còn phải kể những đoàn thế do Cần lao lãnh đạo, như Tập đòan Công dân, Phong trào Cách mạng Quốc giai… Tất cả đều nhìn nhận Thủ tướng sau là Tổng thống NĐD làm lãnh tụ tối cao, biểu tượng cho chính nghĩa Quốc gia hay Dân tộc, chống lại HCM, biểu tượng cho chủ nghĩa Quôc tế Mac-lêninit (4)
(4) (Cũng lạ là trong những cuộc khủng hoảng vừa kể trên những người cận kề bên ông Diệm nhứt toàn là người Trung hay người Bắc, chỉ có một mình tôi là người Nam, mà cuôc Cách mạng Truất phế BĐ lại hoàn toàn là do tác động của người miền Nam. Có phải vì thế mà thủ tướng Diệm phải suy nghĩ cả 2 tháng mới khởi sự hành động một cách dứt khoát với BĐ.)
Và thành tích cụ thể và rực rỡ nhứt cùa CL, là cuộc Trưng cầu Dân ý, kéo theo là Quốc hội lập hiến với Hiến pháp 1956 của nó, cũng là cái ID (lai lịch) của Đệ nhứt Công hòa của miến Nam (1956-1963).
a.- Trưng cầu dân ý.
Ngày 22 tháng 10, thủ tuớng NĐD qua hệ thống truyền thanh đã kêu gọi quốc dân ngày hôm sau nên dùng cái quyền tự do của mình, cũng là nhiệm vụ của người công dân, phải đi đầu phiếu để chọn lưa giữa Quốc trưởng BĐ và ông, tức là chọn một thể chế Quân chủ hay Cộng hòa.
Và ngày 23 tháng 10, 1954 quốc dân miền Nam đã nhiệt liệt huởng ứng lời kêu gọi của Thủ tướng NĐD, náo nức kéo nhau đi đầu phiếu và kết quả hết sức tốt đẹp cho thủ tướngNĐD:
5,838,907 cử tri đi bầu.
5.721.735 lá phiếu Truất phế Quôc trưởng BĐ và bầu NĐD lên thay thế, như là Quốc trưởng VN.
Như thế Thủ tướng NĐD thu về cho mình gần 98% số phiếu đi bầu. Thật ra thì Thủ tướng Diệm không cần đến một phân xuất cao đến thế. Vì ai ai cũng đinh ninh ông thắng và thắng lớn.
(Ai nói gì thì nói theo tôi kết quả hay những con số nầy hoàn toàn trung thực với ý người dân, nếu có một hai thùng phiếu không hợp lệ vì nhân viên chánh quyền quá sốt sắng đến chỗ ngu xuẩn, thì chỉ là một con số quá nhỏ, không đáng kể.)
Như thế Quốc dân miền Nam muốn chấm dứt chế độ Quân chủ và ủy nhiện cho ông NĐD nhiệm vụ thiết lập chế độ Công hòa dân chủ. Cho nên cách nầy hay cách nọ Truất phế Quốc trưởng BĐ như là mẹ đẻ ra các Biến cố lịch sử kế tiếp, như là một quá trình tiến hóa chánh trị bất di bất dịch của lịch sử.
Ngày 26 tháng 10, 1955, Thủ tướng NĐD tuyến bố Hiến chương tạm thời, theo đó từ rày VN là một nước Cộng hòa, người lãnh đạo là Quốc trưởng kiêm luôn chức Thủ tướng, tức là Tổng thống nước Việt nam Cộng hòa.
Đến đây thì uy tín của Thủ tướng lên đến tuyệt đỉnh, trong nuớc cũng như trên thế giới, vì tuyệt đại đa số Quốc dân ủng hộ ông. Nhờ đó mà ộng giải quyết tất cả các vấn đề tồn kho với Pháp để hoàn thành độc lập Quốc gia trọn vẹn: a) Pháp phải giao trả lại cho VN hoàn toàn chủ quyền tiền tệ tài chánh (VN không còn phải ở trong khu vực đồng quan Pháp nữa), b) chủ quyền Ngoại giao (Cao ủy Pháp được giải tán, từ rày tướng Ely chi là một đại sứ, bộ Ngoai giao VN giao thiệp thẳng với bộ Ngoại giao Pháp) và c)chủ quyền Quốc phòng, quân đội Pháp lục tục rút quân cho hết trong vòng 6 tháng-
b-Xây dựng chế độ Công hòa.
Ngày 23-01-56 Thủ tướng ký nghị định tổ chức bầu Quôc hội lập hiến.
Ngày 04-03-56, Quốc dân miền Nam nhiệt liệt hứng khởi đi đầu phiếu, bầu 123 dân biểu cho Quốc hội Lập hiến.
Ngày 26-10-56 tân Hiến pháp được công bố.
Nước Việt nam Cộng hòa ra đời, Thủ tướng NĐD được xác nhận là Nguyên thủ Quốc gia, dưới danh xưng là Tổng thống, kiêm chức vụ Thủ tướng, với 2 nhiệm kỳ là tối đa, mỗi nhiệm kỳ là năm năm.
Kết luận.
Hiến pháp 1956 hay là ID của Đệ nhứt Cộng hòa ở miến Nam.
Thử tìm hiểu cái ID nầy xem. Như trên đã nói, từ ngày Hội nghị các chính đảng và các nhân sĩ miền Nam đã làm Cách mạng Truất phế Quốc trưởng BĐ (ngày 29-04-1954), vai trò của CLNVCM đảng càng ngày trở nên hết sức quan trọng, với chủ thuyết Nhân vị cũng như với tổ chức nhân sự của nó. Ảnh hưởng của nó trên những biến cố chánh trị đưa đến kết quả là Hiến pháp VN Cộng hòa 1956 đều luôn luôn có tính cánh quyệt định nếu không nói là chủ động. Và cây nào sanh ra trái nấy là một lẽ tất nhiên.
Ngay trong trang đầu của Hiến pháp có hai từ ngữ Duy linh và Nhân vị. Thiết nghĩ hai từ ngữ nầy cũng đủ để giái thích tất cả bản chất của một Hiến pháp như là bản luật tối cao của một nước, của một Quốc gia hoàn toàn độc lập. Nhưng nội dung với những điều khoản của nó không khác mấy với những Hiến pháp các nước khác, kể cả nước CS, như là định đoạt chủ quyền thuộc về toàn dân, định đọat nhiệm vụ và bảo đảm quyền lợi của nguời dân với đầy đủ những quyền tự do của nó, tự do đi lại, cư ngụ, tự do tư tưởng, tư do ngôn luận, tư do tín nguởng., đủ thứ tự do….
Nhưng lại khác với các hiến pháp khác và hoàn toàn trái ngược với hiến pháp của CHXHCN ở chỗ thi hành hay áp dụng, mà phương châm hành động là Chủ thuyết của Hiến pháp.
Muốn hiểu lập luận nói trên thì nên so sánh Hiến pháp của nước Việt nam Cộng hòa của miền Nam dân chủ và Hiến pháp của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa của miền Bắc CS. Nếu hai chữ Duy linh và Nhân vị đã đủ để giải thích bản chất của Hiến pháp VN Công hòa, thì hai từ ngữ Duy vật (Xã hội Chũ nghĩa) và Đảng ngay trang đầu Hiến Pháp CHXHCN cũng quá đủ để giải thích bản chất của Hiến pháp nầy.
Vốn chủ thuyết Duy linh Nhân vị là một lý thuyết lấy Chân lý lịch sử, lấy Sự thật khoa học làm căn bản để giải thích mọi diễn tiến của xã hội con người, cũng như nhận định con nguời (Nhân vị) như là một giá trị tuyệt đối, ngang hàng với trời đất, tức nhiên Nhân vị của con người thành ra mực thước đo lường các giá trị khác. Tuy nhiên Nhân vị còn phải có trách nhiệm với cộng đồng, để đưa cộng đồng cùng đồng tiến. (Ba ngôi sao biểu hiệu của CLNVCM đảng có nghĩa là nhân vị, cộng đồng và đồng tiến).
Hiến pháp Đê nhứt CH đã bảo đảm cho Quốc dân miền Nam được nhiều năm hết sức an lạc: Kinh tế phát triển tốt đẹp dù phải nhận thêm gần 1 triệu di cư chạy giặc CS từ miền Bắc, Xã hội được an bình, an sinh xã hội được bảo đảm, Giáo dục được tổ chức có qui củ theo định hướng duy linh truyền thống dân tộc. vừa tiến bộ theo trào lưu khoa học của nhân loại, Văn học được nẩy nở tưng bừng…
Đang khi đó thì thuyết duy vật sử quan của CS lại lấy ảo tưởng (thiên đàng XHCN) tức là sai lầm, cũng là gian dối , làm cứu cánh tối hậu cho xã hội, để rồi lấy Đảng làm con đuờng hay Đạo để đưa tới cứu cánh. Tức nhiên Đảng hay Đạo thành ra mực thuớc đo lường Đạo đức của con người, mà người CS gọi là Đạo đức Cách mạng. Cho nên tất cả những hành vi, nhửng hoạt đông của con nguời, từ tiêu thụ đến sản xuất, từ giết nguời cướp của, từ đánh đĩ hảm hiếp, tham nhủng gian lận…đến cả tố khổ cha mẹ, phản bội bạn bè anh em….đến cả bán trăm ngàn đàn bà con gái trẻ con, bán nước, bán biển, miển sao có lợi cho Đảng, miển sao củng cố được quyền lực của Đảng, tất cả, tất cả đều là Đạo đức Cách mạng, đúng theo tư tường của HCM..
Cho nên Hiến pháp của CHXHCN, một bản luật tối cao của một nước hóa ra một dụng cụ để phụng sự Đảng hơn là quốc dân, nếu có sự đối chọi giữa quyền lợi của Quốc dân và quyền lực của Đáng thì bắt buộc Hiến pháp phải luôn luôn đứng về phía của Đảng, bất chấp đến tất cả những tiêu chuẩn công lý, công bằng, phong hóa cao thấp lớn nhỏ hết. Kinh nghiệm điển hình là những vi phạm hiến pháp trắng trợn của Nhà nước như đàn áp tự do ngôn luận, tư do tư tuởng, tự do tin nguỡng…luôn luôn được Tòa án chấp nhận một cách dứt khoát như là hợp Hiến, hợp pháp, như là lẽ phải. Như thế việc chống án là một việc illogic, một việc vô lý, không phải lẽ.
Kết quả tối hậu là một xã hội, một nước chỉ gồm có hai thành phần: Đảng thành là Thiên chúa tối cao và Quốc dân thành ra tín hữu hèn hạ bất đắc dĩ, cũng gọi là nô lệ. Tất cả tài sản hữu hình (đất đai, nhà cửa, cơ xưởng…) và vô hình (trí thức nếu có, dư luận, cả tôn giáo…) lân lần trở thành sở hữu của Đảng.
Hiến pháp của Việt nam Cộng hòa đã trở thành một thế lực bảo đảm sự phát triển xã hội của miền Nam trong cả hai thập niên (1955-1975), dù Hiến pháp của Đệ nhứt Cộng hòa sau 02-11-63 có bị thay đổi đi nữa thì tinh thần của nó vẫn còn tồn tại, chẳng những trong Hiến pháp Đệ nhị Cộng hòa, mà còn dan díu bỏ chạy theo cả triệu thuyền nhân, để rồi thấm nhuần vào tâm hồn của Công đồng người Việt hải ngoại tản mát năm châu bốn bể.
TT Ngô đình Diệm và ông Ngô đình Nhu.
Trên kia tôi có nói đến những biến cố lịch sử đã dọn đường cho sự xuất hiện và thành hình VN Đệ nhứt Cộng hòa, với một ID có bản chất nhân bản rõ ràng. Đó là một diễn tiến chánh trị, đầy gian truân, đầy nghiệt ngã, đúng là một trường hợp mang nặng, rất nặng, đẻ đau và rất đau.
Qua diển tiến của lịch sử, không cần dài dòng, sau những sự kiện hết sức phức tạp ghi trên, quí vị cũng nhận thấy ngay hình ảnh khi ẩn khi hiện, nhưng luôn luôn bất khuất của một người Anh và của một người Em. Và Anh Em Họ phải tài ba thế nào, phải dũng cảm kiên trì làm sao, mới khắc phục bao nhiêu trở ngại khó khăn tày đình,mới phá vở bao nhiêu mưu đồ bát quái, để sau cùng sản sinh ra được một đứa con tinh thần ưu tú, khỏe mạnh, đến thế nào mà xã hội VN của chúng ta mới có được những năm tháng (1956-1963) độc lập, tự đo và hạnh phúc. Tất nhiên không hoàn hảo vì giặc ngoài và nhứt là giặc trong… nhưng vẫn còn để lại được cho dân tộc, không riêng gì ở miền Nam mà còn cho cả nước, một legacy, một di sản chánh tri (độc lập & tư do), văn hóa ( chân lý & phóng khoáng), kinh tế (nhân bàn & công binh). Cái legacy nầy đã nảy sinh ra một cái tinh thần với bản chất quốc gia hay dân tộc, mà người viết có kỳ vọng sẽ là động lực bất khuất để đoàn kết và làm Cách mạng lật đổ một chế độ có bản chất hoàn toàn gian dối và sắt máu Mác-lêninit.
Hôm nay là ngày mùng 8, tháng 11. mới tuần trước đây, hội ‘’Ái hữu người Việt Quôc gia Hải ngoại’’ đã tổ chức Lễ giỗ cho hai người Anh Em, TT Ngô đình Diệm và cố vấn Ngô đình Nhu và quan trọng hơn nữa: Trên 30 Hội đoàn, Đoàn thể đã tập hợp hành lễ Truy điệu hai người Anh Em tại công viên Tự do, Tượng đài Chiến sĩ Việt Mỹ, thành phố Westminster. Trong các sách tôi viết về cái chết của hai nguời Anh Em nầy, luôn luôn tôi có câu kết sau đây: Thương cho Tổng thống Ngô đình Diệm và tiếc cho ông Ngô đình Nhu!
Hôm nay tôi xin lập lại! Thuơng ở đây là thuơng khóc, khóc cho một con nguời đầy đức độ, ái quốc mãnh liệt, cả đời tranh đấu, kiên trì tranh thủ cho Độc lập Quốc gia, cho Tự do Dân tôc, cho Hạnh phúc Đồng bào., đúng là một vị Anh hùng dân tôc, một vĩ nhân của đất nước! Tiếc là thuơng tiếc, thuơng tiếc cho một đầu óc uyên thâm, cho một hòai bảo rộng lớn, cho một viễn kiến cao sâu…mà trong dòng lịch sử, dân tộc VN đã sản sinh ra, nhưng được mấy người, thử hỏi?
Tôi được may mắn và danh dự gần gũi với hai người Anh Em nhiều tháng nhiều năm, từ những lúc gian truân trầy trật. Trước tòa án xét xử của lịch sử, là nhân chứng trong nhiều nhân chứng cho hai người Anh Em, tôi tự cho mình luôn luôn trung thực.
Thành thật cám ơn tất cả quí vị!
Westminster, ngày 08-11-2009Huỳnh văn Lang
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 390
THICH QUẢNG ĐỘ = TẬP CẬN BÌNH = KIM DUNG=
HÒA THƯỢNG THICH QUẢNG ĐỘ
Chủ tịch Quỹ Quốc gia Tài trợ Dân chủ nói về tình trạng của HT Thích Quảng Độ
12 tổ chức Nhân quyền và Dân chủ Quốc tế, với 90 nhân vật trên thế giới, từ những Khôi nguyên Giải Nobel Hòa bình, lãnh đạo tôn giáo, Giáo sư Đại học, nhà tư pháp, nhà văn, nhà báo… đã ký tên vào bức Thư Ngỏ gửi Tổng Thống Hoa Kỳ yêu cầu can thiệp với Nhà cầm quyền Hà Nội trả tự do cho người Tù nhân vì Lương thức lâu năm nhất, là Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ bị giam giữ hơn 30 năm qua. Chúng tôi hỏi thăm một trong 90 người ký tên là ông Carl Gersman, Chủ tịch Quỹ Quốc gia Tài trợ Dân chủ về việc này.
Đứng bên cạnh Hòa thượng Thích Quảng Độ
Ỷ Lan: Thưa Ông Carl Gershman, ông đã ký tên vào Thư Ngỏ gửi Tổng Thống Hoa Kỳ Obama xin can thiệp trả tự do cho Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ. Lý do gì khiến ông tham gia ký tên như thế?Tôi nghĩ rằng Hòa thượng đứng lên tranh đấu không riêng cho Việt Nam, mà cho toàn thể thế giới. Rất, rất quan trọng để chúng ta đứng bên cạnh ngài.Carl Gershman: Tôi nghĩ rằng ngài Thích Quảng Độ không riêng là một hình ảnh dũng cảm tại Việt Nam đã từng bao nhiêu năm tranh đấu cho dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo từ thập niên 60. Hòa thượng đã bị bắt giam từ năm 1963, và từ đó, không ngừng đấu tranh chẳng chút nào do dự. Hòa thượng là tiếng nói cao cả cho tự do tôn giáo, bảo vệ sự độc lập của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) thoát ly sự kiểm soát của nhà cầm quyền. Tôi nghĩ rằng Hòa thượng đứng lên tranh đấu không riêng cho Việt Nam, mà cho toàn thể thế giới. Rất, rất quan trọng để chúng ta đứng bên cạnh ngài. Hòa thượng đã từng được đề cử 9 lần làm ứng viên Giải Nobel Hòa bình, Hòa thượng còn đoạt nhiều giải Nhân quyền nổi danh khác, trong đó có giải “Tôn vinh nhà Dân chủ dũng cảm” của Phong Trào Dân chủ Thế giới. Hòa thượng là một anh hùng, ngài đứng lên bảo vệ các nguyên tắc dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo. Tôi nghĩ rằng chuyện tối khẩn mà Tổng Thống Hoa Kỳ phải nắm lấy cơ hội trong chuyến viếng thăm Châu Á này để đòi trả tự do cho Đức Tăng Thống.
-Ông Carl Gersman
Ỷ Lan: Ông có nghĩ rằng sự liên đới quốc tế qua một lá thư thỉnh cầu mang lại tác động gì chăng?
Carl Gershman: Chắc chắn. Làm như vậy chúng tôi cũng nghĩ đến những tù nhân khác, vì đang có đông đảo tù nhân bị giam cầm trên toàn thế giới vì dám kêu gọi cho nhân quyền. Nhưng chúng ta chẳng bao giờ làm đủ để nhắc nhở tới từng người đang bị giam giữ, những người tù này đang cần giữ vững tinh thần, giữ vững tâm thức mà họ nhận được từ sự liên đới của kẻ khác. Đó là điều gây ra áp lực trên chính quyền. Nếu nhà cầm quyền Việt Nam muốn được thế giới tôn trọng, thì không thể nào còn giam giữ những người như Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ, và cũng là dịp đem lại nguồn hy vọng cho những người như ngài. Cho nên tôi nói: Chắc chắn! Và vô cùng thiết yếu cho chúng ta tiếp cận Tổng Thống Obama và các vị lãnh đạo trên thế giới cất tiếng tác động nhà cầm quyền Việt Nam.
Ỷ Lan: Tòa Bạch Ốc vừa ra lời tuyên bố về chuyến đi của Tổng Thống Hoa Kỳ ứng hợp với chính sách Hoa Kỳ về “Tái cân bằng Châu Á”, và cũng để thắt chặt mối quan hệ với Việt Nam. Ông có nhận định gì về quan hệ Mỹ - Việt cho sự đổi thay tương lai tại Việt Nam?
Carl Gershman: Nhìn kỹ, thì Việt Nam đang muốn quan hệ tốt với Hoa Kỳ, trong khi quan hệ với Trung quốc thì gặp khó khăn. Quan hệ này nhằm phát triển kinh tế. Nhưng Việt Nam không thể nào phát triển kinh tế hoặc có quan hệ tốt với các quốc gia dân chủ, mà lại đồng lúc giam cầm những người như Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ. Thật quá mâu thuẫn với mục tiêu của Việt nam. Cho nên, nếu Việt Nam muốn bước vào tiến trình họ nhắm thì họ phải trả tự do cho Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ, đồng thời với việc cởi nới chính trị.
Ỷ Lan: Xin được hỏi một câu chót. Ông có lời gì gửi tới các nhà hoạt động dân chủ Việt Nam hôm nay không?
Carl Gershman: Như chị biết, tôi muốn nói với họ rằng, dù khó khăn đến thế nào, họ không bao giờ bị bỏ quên. Tổ chức NED của chúng tôi đang hoạt động giúp đỡ các bloggers. Chúng tôi muốn tỏ tình liên đới với những ai đang thấy họ bị hiểm nguy bị bắt giữ. Họ không cô độc đâu, và tôi nghĩ rằng họ nên kỳ vọng vào tương lai. Bởi vì tôi tin rằng dân chủ đang tiến hành tại Đông Nam Á và Đông Á, và rằng với sự phát triển kinh tế đang mang lại những áp lực ngày càng lớn, rất lớn cho việc mở cửa chính trị, mà tôi nghĩ không nên mất niềm hy vọng. Tôi nghĩ rằng lịch sử đang đứng về phía họ, họ đang có tình liên đới của những bằng hữu phương Tây.
Ỷ Lan: Xin cám ơn ông Chủ tịch Carl Gershman.
Ỷ Lan, Phóng viên Đài Á Châu Tự do tại Paris.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/interview-carl-gershman-yl-11202015123221.html
HT Thích Quảng Độ trả lời RFA về thư ngỏ gửi TT Obama
Trước khi Tổng thống Hoa Kỳ Obama lên đường sang Đông Nam Á tham dự các Thượng đỉnh, hôm 12 tháng 11 vừa qua, 12 tổ chức Nhân quyền và Dân chủ Quốc tế, với 90 chữ ký của các nhân vật trên thế giới, từ những Khôi nguyên Giải Nobel Hoà bình, lãnh đạo tôn giáo, Giáo sư Đại học, nhà tư pháp, nhà văn, nhà báo, 23 Dân biểu Quốc hội Châu Âu, Thượng viện Anh quốc, đến các nhà hoạt động bảo vệ nhân quyền, dân chủ, đã ký Thư ngỏ gửi Tổng Thống Hoa Kỳ yêu cầu can thiệp với Nhà cầm quyền Hà Nội trả tự do cho người Tù nhân vì Lương thức lâu năm nhất tại Việt Nam, là Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ bị giam giữ hơn 30 năm qua.
Chuyển lời biết ơn sâu xa
Chúng tôi gọi điện về Thanh Minh Thiền Viện ở Sài Gòn hỏi cảm tưởng Đức Đệ Ngũ Tăng Thích Quảng Độ, được Ngài cho biết như sau:HT Thích Quảng Độ: Trước hết tôi xin Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế chuyển lời biết ơn sâu xa của tôi tới tất cả quý vị, Giải Nobel Hoà bình, tất cả các học giả, các giáo sư đã bao nhiêu năm quan tâm đến vấn đề. Trước hết là vấn đề của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đã, đang, và sẽ còn bị đàn áp, và bản thân tôi, cũng đã bày tỏ quan điểm và bênh vực sự tự do của tôi. Tôi xin cảm tạ tất cả những tấm lòng của quý vị mà tôi đánh giá rất cao. Không những bây giờ mà đã bao nhiêu năm qua đã quan tâm đến trước hết vấn đề tồn vong của GHPGVNTN, mà thứ hai nữa là quan tâm đến Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang và tôi, là những người đã tiếp tục đương đầu với chính quyền Cộng sản để đòi, không riêng gì quyền lợi của Giáo hội, mà cái chính là phải có dân chủ cho toàn dân Việt Nam. Bởi vì trên thế giới hầu hết các dân tộc đã được hưởng tự do, dân chủ và hoà bình. Riêng Việt Nam dưới chế độ Cộng sản suốt từ gần một trăm năm qua cho tới bây giờ vẫn chưa có dân chủ. Vì thế suốt bốn chục năm qua Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đã nỗ lực đòi hỏi chính quyền Cộng sản Việt Nam phải trả lại dân chủ, tự do cho toàn thể dân tộc Việt Nam.
Chúng tôi yêu cầu Nhà nước Cộng sản Việt Nam phải chuyển đổi chính trị từ một chế độ độc tài toàn trị sang một chế độ dân chủ tự do để toàn dân có quyền hưởng nền tự do dân chủ thật sự.Do đó, chúng tôi yêu cầu Nhà nước Cộng sản Việt Nam phải chuyển đổi chính trị từ một chế độ độc tài toàn trị sang một chế độ dân chủ tự do để toàn dân có quyền hưởng nền tự do dân chủ thật sự. Cố Hoà thượng Huyền Quang thì đã tịch rồi, còn tôi cho đến bây giờ, cho đến giờ phút này, tôi vẫn tiếp tục sứ mệnh đó cho đến chừng nào mà dân tộc Việt Nam được hưởng một chế độ tự do thực sự thì chúng tôi, Giáo hội nói chung, và cá nhân tôi nói riêng mới có thể — hợp tác với chính phủ hiện tại. Còn chừng nào mà chính phủ Việt Nam hiện tại mà còn chế độ độc tài toàn trị, chừng đó Giáo hội không thể nào hợp tác với họ được. Đó là đường lối của Giáo hội. Cho nên tóm lại, chừng nào còn chế độ độc tài toàn trị thì Giáo hội còn phải đương đầu, còn phải đòi hỏi cho đến không còn người nào nữa thì mới thôi. Đó là quan điểm của chúng tôi. Đến giờ này thì như thế. Có nghĩa là chúng tôi sẽ tiếp tục đòi hỏi nhà nước này.
-HT Thích Quảng Độ
Bây giờ họ thay đổi kinh tế, họ theo kinh tế thị trường, nhưng họ không chịu thay đổi chính trị. Cho nên họ mới đưa nền kinh tế gọi là kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Chắc là tin tưởng… mà các nhà kinh tế học chưa có nền kinh tế nào gọi là kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường là thị trường, còn định hướng gì nữa.
Nhưng mà họ định hướng Xã hội chủ nghĩa để họ giữ chủ nghĩa Cộng sản. Họ đổi mới kinh tế thì họ tồn tại. Nhưng mà họ không đổi mới chính trị, bởi vì họ đổi mới chính trị tức phải dân chủ. Dân chủ tự do mà toàn dân được hưởng thì họ mất Đảng. Do đó họ rất sợ mất Đảng Cộng sản, nên họ theo kinh tế thị trường, họ tồn tại để giữ cái Đảng.
Cho nên chúng tôi phải đòi hỏi nhân quyền và tự do, chuyển đổi kinh tế thì phải chuyển đổi chính trị. Kinh tế thị trường phải có dân chủ hoá, kinh tế mới phát triển đồng đều. Đó là quan điểm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất từ năm 1975 đến giờ. Quan điểm đó tôi vẫn tiếp tục theo đuổi. Có nghĩa là bao giờ chế độ Cộng sản này chuyển đổi từ một chế độ độc tài toàn trị sang một chế độ tự do dân chủ thật sự thì Giáo hội chúng tôi, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, mới chấm dứt cuộc vận động dân chủ, nhân quyền theo đuổi từ bốn mươi năm qua.
Ỷ Lan: Nếu có một lời gửi tới Tổng Thống Obama, thì Đức Tăng Thống sẽ nói gì?
Thích Quảng Độ: Bây giờ cái chuyện giao thiệp giữa Hoa Kỳ với Việt Nam thì theo tôi Hoa Kỳ họ có giao thiệp với Việt Nam. Nếu họ giúp, chân thành giúp đỡ dân tộc Việt Nam có một nền dân chủ cũng như là Hoa Kỳ chẳng hạn. Trong cuộc giao thiệp ấy mà có đặt ra vấn đề trao đổi kinh tế họ cũng sẽ đề nghị nhà nước này chuyển đổi từ một chế độc độc tài toàn trị sang một chế độ dân chủ tự do. Nếu Hoa Kỳ làm được cái đó thì chúng tôi rất là tin tưởng, mà Hoa Kỳ có khả năng, có thể làm được. Nhất là bây giờ.
Cho nên tôi chỉ muốn đề đạt đến Tổng Thống quan điểm của Giáo hội chúng tôi từ trước đến nay bao nhiêu chục năm qua. Chỉ muốn làm sao cho dân tộc Việt Nam cũng được tự do dân chủ như là dân tộc Hoa Kỳ nói riêng, và toàn thể các dân tộc dân chủ trên thế giới nói chung.
Nhưng cái nguyện vọng của GHPGVNTN từ năm 1975 thế kỷ trước đến bây giờ vẫn tiếp tục cái đường lối như thế, chỉ bao giờ chúng tôi đạt được mục đích dân chủ hóa toàn dân Việt Nam, thì Giáo hội mới chấm dứt hoạt động đòi hỏi. Còn chừng nào mà toàn thể dân tộc Việt Nam chưa có chế độ dân chủ thực sự như vậy, thì chúng tôi vẫn còn tiếp tục, còn người là chúng tôi vẫn tiếp tục, cho đến khi nào dân tộc Việt Nam đạt được tự do dân chủ thực sự thì chúng tôi mới chấm dứt vận động cho mục tiêu đó.
Ỷ Lan: Xin cám ơn Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ.
Ỷ Lan, Phóng viên Đài Á Châu Tự do tại Paris.
Monday, November 16, 2015
TỰ DO NGÔN LUẬN * TẬP CẬN BÌNH
Chuyến Nam du của tên xâm lược!!!
Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận - Tờ The Wall Street Journal hôm 22-09 có đăng bài phỏng vấn Tập Cận Bình khi đang ở Mỹ. Đề cập đến Biển Đông, kẻ đứng đầu cộng đảng và chính phủ Tàu thản nhiên tuyên bố nước y có chủ quyền tại khu vực đó kể từ thời cổ đại! Tiếp đến, trả lời phỏng vấn hãng thông tấn Reuters trước chuyến công du Anh Quốc (từ 19-10), Tập lại ngoác miệng khẳng định: “Các đảo và bãi đá ở biển Nam Trung Hoa là thuộc lãnh thổ Trung Quốc từ lâu đời do tổ tiên người TQ để lại. Nhân dân TQ sẽ không cho phép bất kỳ một ai vi phạm chủ quyền và quyền lợi của mình trong vùng biển này. Hành động của TQ tại vùng biển Nam Trung Hoa là chính đáng để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ”. Y nói thế hiển nhiên là để chống đỡ việc Tàu cộng liên tục bị tố quân sự hóa các đảo nhân tạo thuộc khu vực đang tranh chấp -đúng ra là cướp của VN- ở Trường Sa, với mục đích biến Biển Đông thành của riêng mình và tước đoạt quyền tự do lưu thông tại đó. Nên Bắc Kinh đã tỏ ra hết sức phẫn nộ khi khu trục hạm USS Lassen của Hải quân Mỹ đến gần bãi Xu Bi và Vành Khăn hôm 27-10.
Chính trong bối cảnh đó mà Tập Cận Bình đến Hà Nội ngày 5-6 tháng 11 rồi cùng với vợ y, Bành Lệ Viện, kẻ từng hát động viên quân Tàu trong các trận đánh chiếm VN năm 1979 và 1984, theo lời mời của Việt cộng. Chuyến đi này đã gây ra nhiều thái độ khác nhau tại VN cũng như sẽ dẫn tới nhiều hậu quả cho con Hồng cháu Lạc. Hãy thử điểm lại các thái độ nầy.
Trước hết là thái độ của đảng Việt cộng. Với khuôn mặt rạng ngời, đậm nét xu nịnh, bộ sậu lãnh đạo Ba Đình đã đón tiếp đại ca và đại đồng chí của mình hết sức long trọng: rắc hoa, trải thảm đỏ, bắn đại
bác, giăng cờ xí, mở quốc tiệc… trong lúc những lời tuyên bố lếu láo của y tại Mỹ và Anh còn văng vẳng và ánh sáng hai ngọn hải đăng y vừa cho xây trên các hòn đảo ăn cướp hàng đêm vẫn quét trên vùng biển nước Việt. Bất chấp những gì Tàu cộng đã gây ra cho Dân tộc trong quá khứ (tài trợ “cuộc chiến chống Mỹ” để mở rộng đế quốc đỏ với xương máu dân Việt), hiện tại (xâm lấn biển đảo và xâm nhập đất nước mọi mặt: chính trị, kinh tế, thương mại, công nghiệp, văn hóa, lãnh thổ), tương lai (biến nước Việt thành thuộc quốc của nước Tàu theo Thành Đô mật ước), lãnh đạo Hà Nội vẫn hứa cùng lãnh đạo Bắc Kinh “củng cố tin cậy chính trị; tăng cường hợp tác trên các kênh Đảng, Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc..; thúc đẩy hợp tác kinh tế thương mại, đầu tư phát triển…; mở rộng hợp tác về khoa học công nghệ, giáo dục, văn hóa, du lịch…” (Hội đàm giữa 2 Tổng bí thư). Chưa hết, đối với Biển Đông, Tổng Lú còn thề thốt “duy trì nguyên trạng (nghĩa là chấp nhận những gì Tàu Cộng đã làm từ 1974 đến nay), không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, gây căng thẳng tình hình” (mặc đại ca tiếp tục làm cho tình hình thêm căng thẳng và phức tạp). Nhưng quan trọng nhất là Việt cộng đoan hứa “thực hiện tốt kế hoạch hợp tác giữa hai Đảng… giao lưu giữa các tổ chức Đảng ở Trung ương và địa phương...; thực hiện tốt kế hoạch đào tạo cán bộ hai Đảng giai đoạn 2016-2020” (Tuyên bố chung). Ôi thôi rồi! Trong hiện trạng độc tài độc đảng, như thế là để cho thằng Tàu tiếp tục điều khiển VN qua bộ máy lãnh đạo, kiểm soát VN bằng con đường nhân sự là con đường nhanh chóng nhất và hiệu quả nhất, ngõ hầu duy trì thể chế toàn trị CS ở đất nước ta và tình trạng “thuộc Trung” đầy tai hại.
Đang khi đó thì tại Miến Điện những ngày gần đây, đảng cầm quyền quân phiệt (Đoàn kết Thống nhất và Phát triển) đã tuyên bố thua cuộc trước Liên minh Quốc gia vì Dân chủ của lãnh đạo đối lập Aung San Suu Kyi trong cuộc bầu cử Quốc hội hôm 8-11. Các tướng lãnh từng nắm quyền mấy chục năm qua nay đã biết đặt quyền lợi đất nước trên quyền lợi đảng, chấp nhận thực hiện dân chủ và qua đó cũng thoát Trung một cách đáng khâm phục. Ba Đình có học được bài học ấy chăng? Chẳng lẽ vì là nhược tiểu, có định mệnh sống cạnh đại cường y như Miến Điện, VN phải trở thành chư hầu của Đại Hán? Ý chí ngàn năm của Dân tộc chẳng chứng minh ngược lại sao?
Tiếp đến là thái độ của cái gọi là Quốc hội. Thực thể gia nô này đã để cho Tập Cận Bình đọc diễn văn như y yêu cầu trước 500 đảng biểu. Một diễn văn đầy ngôn từ sáo rỗng, với giọng điệu ru ngủ, mang tính cách tuyên truyền, nhằm mục đích hăm dọa và theo lập trường bành trướng: nào chung chế độ CS, chung con đường XHCN, nào niềm tin và lý tưởng tương đồng, tương lai và vận mệnh tương quan, nào bỏ qua quá khứ, hướng tới mai hậu, trọng đại cục, gác tiểu tiết, nào cùng giải quyết tốt các bất đồng, chân thành thảo luận kiểu song phương, nào nhớ Trung Quốc có gene “hòa”, cùng Trung Quốc giữ chữ “tín”, nào không được để các thế lực thù địch cản trở sự hợp tác giữa hai quốc gia, đánh đổ bức tường bảo vệ hai chế độ… Y như chẳng biết (và đám tôi tớ của đảng lúc ấy cũng cố quên) cuộc chiến tranh biên giới với 20 vạn đồng bào ta bị sát hại, việc quân dân Tàu trên Biển Đông cướp bóc, bắt tù, giết hại ngư dân ta, đoạt lấy nguồn khoáng hải sản của ta. Y lại càng không nói tới việc xâm chiếm Hoàng Trường Sa của ta để làm những căn cứ, đồn bót hầu thôn tính Biển Đông trọn vẹn và việc đạo quân trá hình của y đang tung hoành đất Việt như chỗ không người (mới đây Hà Nội còn nới lỏng quy định cấp visa cho dân Tàu cộng). Vì đối với y, đấy chỉ là tiểu cục. Đang lúc việc mất đảo, mất biển, mất tài nguyên, mất nguồn sống đó mới là đại cục của Dân tộc! Rõ ràng toàn diễn văn là một “cây gậy” bên cạnh “củ cà rốt" một tỷ nhân dân tệ viện trợ và hàng trăm triệu đôla cho vay để đấm mõm và mua lòng tập đoàn lãnh đạo Hà Nội vốn chỉ biết có tiền. Tất cả cho thấy Tàu sẽ chẳng bao giờ chấp nhận việc VN thoát vòng ảnh hưởng của nó, nhất là trong hoàn cảnh nền kinh tế tài chánh VN đang lâm nguy (ngân quỹ quốc gia chỉ còn có 2 tỷ đô Mỹ mà nợ công lại đến 90 tỷ), có thể coi TQ như chiếc phao cứu nạn, để sẽ trở thành chủ ông khốn nạn.
Điều mỉa mai là Tập Cận Bình đã phát biểu trong hội trường mang tên Diên Hồng, cái tên lịch sử toát lên tinh thần quyết tử Sát Thát, kiên cường thoát Trung của Đại Việt. Thế nhưng, trước hậu duệ của giặc Hồ này, mọi bộ mặt mang danh nghĩa “bô lão” và tự nhận “đại diện toàn dân” đã hành xử như một đám nhi đồng, lắng tai câm miệng, sau đó đồng loạt đứng lên vỗ tay. Đúng là thái độ nhận giặc làm thân nhân, nhận kẻ thù làm bạn hữu. Đức Trần Thánh Tông từ nơi chín suối hẳn đã phải đấm ngực kêu trời: “Đồ tặc tử!”. Lúc ấy sao không bỏ đi ra? Nay sao không lên tiếng phê phán diễn văn của tên xâm lược? Chẳng sợ ghi bia miệng ngàn năm à?
Thứ ba là thái độ của Chính phủ. Từ lâu có dư luận cho rằng kẻ đứng đầu định chế này theo lập trường thân Âu Mỹ. Thế nhưng Nguyễn Tấn Dũng đã hồ hởi ký vào Tuyên bố chung 11 điểm ngày 06-11-2015. Phải chăng vì quá sung sướng trước lời mời viếng thăm của Tập, một lời mời hàm ý chuẩn nhận cho Dũng làm tổng bí thư? Chẳng hề hỏi ý nhân dân, Tuyên bố này trước hết nhắc lại tinh thần “16 chữ vàng và 4 tốt”, vòng kim cô siết đầu, ách nặng nề tròng cổ, rồi khẳng định “nắm vững phương hướng đúng đắn của tình hữu nghị Việt-Trung, tăng cường trao đổi chiến lược, củng cố tin cậy chính trị... thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Trung-Việt”. Cụ thể trên các lĩnh vực:
(1) hợp tác giữa hai đảng để cùng đào tạo cán bộ; hợp tác giữa hai Quốc hội, hai Mặt trận, ngõ hầu cả 3 định chế này tiếp tục đè đầu đè cổ nhân dân đôi nước;
(2) hợp tác giữa hai bộ ngoại giao, tham vấn ngoại giao thường niên, bồi dưỡng chung nhân viên hai bộ, ngõ hầu chung lập trường, chung phe cánh trước các vấn đề quốc tế;
(3) hợp tác giữa hai quân đội trong việc đào tạo cán bộ, nghiên cứu học thuật, tuần tra chung vịnh Bắc Bộ (nhưng không can thiệp khi hải tặc Tàu đánh cướp ngư dân Việt, vì đó là tranh chấp dân sự như Nguyễn Chí Vịnh từng tuyên bố); hợp tác bảo đảm an ninh, thực thi pháp luật, phòng chống tội phạm giữa hai bộ công an, ngõ hầu bất cứ biểu hiện chống Tàu nào trên đất Việt đều phải bị bóp chết;
(4) hợp tác phát triển kinh tế giữa hai nước trong khuôn khổ “hai hành lang, một vành đai”, hợp tác sản xuất vật liệu, máy móc, điện lực, năng lượng... để Tàu tiếp tục thắng thầu trong các công trình xây dựng cơ bản, đem kỹ thuật lỗi thời của Tàu ứng dụng tại VN;
(5) hợp tác về giáo dục, văn hóa, du lịch và báo chí v.v... vận hành có hiệu quả học viện Khổng Tử tại Hà Nội; tăng cường giao lưu báo chí đôi bên, gia tăng mức độ tuyên truyền tình hữu nghị Trung-Việt, tổ chức gặp gỡ, liên hoan thanh niên hai nước, để tiếp tục tiêm nhiễm nọc độc “thần phục đại hán” vào đầu óc dân An Nam. Thế nhưng Tuyên bố chung lại không đề cập gì đến quyền tự do lưu thông được quốc tế công nhận, chẳng khẳng định rằng các hành động ở Biển Đông phải phù hợp luật pháp quốc tế, các tranh chấp tại đó phải giải quyết theo công pháp hoàn vũ.
Kiểu hợp tác chiến lược toàn diện như thế chỉ đưa đến sự lệ thuộc ngày càng nặng nề, sự đồng hóa ngày càng lộ liễu. Đối với Tàu, VN càng lúc càng trở nên chư hầu trên mặt chính trị, con rối trên mặt ngoại giao, tôi đòi trên mặt văn hóa, bãi rác trên mặt thương mại, lá dâu tằm trên mặt lãnh thổ. Hậu quả là ngoài TQ, VN không có thân hữu, không là đồng minh với bất cứ quốc gia hùng mạnh nào, cũng chẳng là đối tác quan trọng với ai trên phương diện kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật. Chẳng những thế, VN hiện là một đất nước thường xuyên vi phạm nhân quyền trầm trọng, bị hầu hết mọi quốc gia lên án; một đất nước nghèo nàn lạc hậu, chuyên đi ăn xin không biết ngượng và luôn đội sổ những thống kê về nhiều mặt của thế giới.
Cuối cùng là thái độ của Nhân dân VN. Do thấm thía sự cai trị mù quáng lẫn tàn bạo của Việt cộng và sự xâm lăng đa dạng lẫn trắng trợn của Tàu cộng, nhân dân đã phản ứng một cách đúng đắn, đầy tình yêu nước, trước chuyến “kinh lý” của Tập Cận Bình. Không ít tổ chức đoàn thể hoặc cá nhân trong lẫn ngoài nước đã ra nhiều lời tuyên bố kêu gọi, đã viết nhiều bài bình luận nghiên cứu, đã thực hiện nhiều chiến dịch đả kích tẩy chay. Cận ngày và chính ngày tên xâm lược tới Hà Nội, nhiều nơi trong lẫn ngoài nước -dù bị hăm dọa và đàn áp khốc liệt- đã xuống đường để “dàn chào” y, nhiều cộng đồng người Việt năm châu cũng biểu tình rầm rộ để vạch trần trước quốc dân và quốc tế âm mưu bành trướng của Đại Hán, hiểm họa lớn lao của Tàu cộng, bộ mặt đểu giả của tên xâm lược. Điều đó thật đáng ca ngợi! Tuy nhiên, ai cũng ao ước rằng nhờ tác động của các tổ chức xã hội dân sự độc lập, toàn dân trong nước sẽ ngày càng ý thức quốc nạn, trút bỏ sợ hãi, để xuống đường nhiều nơi hơn, đông đảo hơn, tới cả vạn triệu người; ao ước lực lượng an ninh biết đứng về phía nhân dân để bảo vệ ngọn triều dân tộc ấy, một ngọn triều cần có để quét sạch những gì và tống cổ những ai đang gây tai họa và khổ đau cho đất Việt!
Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 231 (15-11-2015)
Ban biên tập
HOÀNG THANH TRÚC * TRUNG CỘNG
Bắc Kinh: “Bất chiến tự nhiên thành… cô độc”
Hoàng Thanh Trúc (Danlambao) - Chuẩn bị cho chuyến đi của CT/Tập Cận Bình đến Manila tham dự hội nghị thượng đỉnh APEC ngày 18/11- Hình như để phòng xa tránh cảnh ngộ bị chính phủ Philippiens trả đũa lại hành vi của Trung Quốc hồi năm 2013 khi Bắc Kinh (thù hằn Philippines kiện ra tòa án quốc tế) nhỏ mọn vào giờ chót rút lại lời mời Tổng thống Benigno Aquino viếng thăm Trung Quốc mà không nói rõ lý do (Bắc Kinh không tiết lộ) dù trước đó vài tháng TQ đã ngỏ ý mời Philippines gửi một phái đoàn cấp cao như là “quốc gia danh dự” đến Trung Quốc tham dự hội chợ thương mại (Trung quốc - Asean) cuối tháng 8/2013 tại Nam Ninh (1). Cẩn tắc vô áy náy, lần này ngày 10/11 “cáo già” Ngoại giao TQ Vương Nghị phải thân hành đến Philippines “làm việc” trước như trinh sát dọn dẹp gai góc cho chóp bu Tập Cận Bình.
“Cáo già” Vương Nghị tại Philippines ngày 10/11 vừa qua. Ảnh: AP
Có lẽ cũng vì vậy mà phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Philippines Charles Jose sau đó viện dẫn lời Vương Nghị nói rằng, chuyến đi Manila lần này của ông ta là để bảo đảm chuyến thăm của Chủ Tịch Tập sẽ diễn ra “suôn sẻ, an toàn và thành công”, Phát ngôn viên này nói sau khi Vương Nghị có cuộc họp với người đồng cấp ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario tại Manila.
Cũng trong chiều hướng “suôn sẻ, an toàn” cho sự có mặt của Tập Cận Bình “cáo già” ngoại giao Vương Nghị cũng đề nghị Philippines không nêu vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa hai nước trong hội nghị thượng đỉnh Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) lần này tại Manila, Vương Nghị còn thêm rằng Bắc Kinh phản đối bất kỳ nỗ lực nào nhằm đưa những tranh chấp kéo dài (biển Đông) ra diễn đàn quốc tế APEC nơi mà những đối thủ của Bắc Kinh như Washington và đồng minh có thể sử dụng để chỉ trích Bắc Kinh (CNN đưa tin ngày 10/11) .
Theo các nhà phân tích thời sự quốc tế, tránh đề cập vấn đề gai góc biển Đông sẽ giúp Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tự tin trong vị thế “cường quốc” khi dự hội nghị thượng đỉnh APEC, cũng có nghĩa không bị mất mặt trước những chỉ trích về việc Trung Quốc tự ý bồi đắp cải tạo xây dựng một loạt các đảo đá chìm nổi trên biển Đông gây ra căng thẳng mà vốn dĩ đã bị phản ứng dồn dập không ngừng từ các diễn đàn quốc gia khu vực và quốc tế gần đây.
Bắc Kinh tuồng như đã thực sự cảm thấy “ê ẩm mình mẩy” với cái lưỡi bò biển Đông khi khách quan chính họ nhận xét (dù không lộ ra) từ trước đến nay không có bất cứ quốc gia nào (kể cả các quốc gia đ/c CS anh em) đồng thuận rõ ràng với lập luận trong đòi hỏi cũng như việc làm phi lý của TQ trong vấn đề này mà cụ thể là qua hàng trăm cuộc họp, hội thảo, hội nghị chuyên đề trực tiếp hay gián tiếp, thường niên hay định kỳ, khu vực hay thế giới, không nhiều thì ít đều có những cảnh báo hoặc gay gắt chỉ trích Trung Quốc trong vấn đề hành xử của Bắc Kinh trên biển Đông mà gần đây nhất tại ngay “sân nhà” Trung tâm Stanford ở Đại học Bắc Kinh, Trung Quốc ngày 3.11, Khách mời, Đô đốc Harry Harris Tư lệnh lực lượng Mỹ ở Thái Bình Dương (vuốt mặt mà không cần nể mũi) đốp chát thẳng thừng:
“Vùng biển và không phận quốc tế thuộc về tất cả mọi người và không phụ thuộc bất kỳ quốc gia riêng lẻ nào, quân đội chúng tôi đã, đang và sẽ tiếp tục điều tàu và máy bay tuần tra bất cứ khi nào và bất cứ nơi đâu luật pháp quốc tế cho phép mà Biển Đông không phải và sẽ không là một ngoại lệ” Ông Harris còn nhấn mạnh: “tuyên bố chủ quyền mơ hồ” của Trung Quốc, còn được gọi là “đường lưỡi bò” là một thách thức đối với sự tự do hàng không và hàng hải quốc tế.(AFP.)
Hội nghị thượng đỉnh hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) có 21 quốc gia thành viên với khoảng 2,5 tỷ dân; 19.000 tỷ usd GDP giao thương mỗi năm chiếm 47% tỷ trọng thương mại thế giới, trong đó có 2 nền kinh tế số 1 và 2, Mỹ và Trung Quốc (thành viên) thì TT/Obama và CT/Tập Cận Bình khó lòng mà vắng mặt, lần này tổ chức tại thủ đô Manila-Philippines một quốc gia “nhạy cảm” đối với Trung Quốc. Nơi mà ví như mọi nguyên thủ, quan khách tham dự hội nghị ngước mắt nhìn ra là thấy ngay Biển Đông với cái “lưỡi bò” Trung Quốc đang tung hoành dậy sóng.
Thêm nữa tòa Trọng tài thường trực quốc tế ngày 30/10 phán quyết rằng họ có thẩm quyền xét xử vụ kiện của Philippines về yêu sách "đường lưỡi bò" của Trung Quốc, tiếp đến là 6/11 tàu khu trục Mỹ USS Lassen và máy bay B52 Mỹ tiến vào biển Đông tuần tra, rồi ngày 12-11 Indonesia phản ứng tuyên bố rằng sẽ kiện Trung Quốc ra Tòa án Hình sự Quốc Tế (ICC) nếu Trung Quốc không trả lời thỏa đáng vấn đề tranh chấp vùng biển ngoài khơi quần đảo Natuna (nối liền biển Đông) của Indonesia.
Vì vậy không có gì là khó hiểu khi Bắc Kinh biết chắc mình sẽ thêm một lần nữa “cô độc” và “bầm dập” nếu biển Đông lại đưa ra “giải phẫu” trên cái bàn APEC năm nay nên nằng nặc phản đối bất kỳ nỗ lực nào nhằm đưa vấn đề này ra diễn đàn APEC mà “cáo già” ngoại giao TQ Vương Nghị đánh tiếng trước tại Manila ngày 10/11.
Cũng trong ngày này (10/11) tại Washington người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ Mark Toner nói rằng vấn đề tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông chắc chắn sẽ được đưa ra thảo luận bên lề Hội nghị thượng đỉnh Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), dự kiến diễn ra tại Philippines trong ba ngày từ 17 đến 19/11. Liên quan Hội nghị thượng đỉnh APEC, ngày 12/11, Nhà Trắng cho biết vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông sẽ là một chủ đề trọng tâm khi Tổng thống Barack Obama gặp các lãnh đạo châu Á. Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ bà Susan Rice cụ thể rằng, các tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông sẽ là chủ đề nổi bật trong chuyến thăm Philippines và Malaysia của Tổng thống Mỹ. (TTX-Việt Nam).
Nguyên tắc, nước chủ nhà (Philippines) có thể tùy nghi cân nhắc, uy tín cho mình, ưu tiên cho sự thành công của Hội Nghị nên đưa hoặc không vấn đề Biển Đông vào chương trình nghị sự, tuy nhiên bản chất của APEC (Asia-Pacific Economic Cooperation) là tổ chức quốc tế mà mục tiêu không chỉ tăng cường mối quan hệ về kinh tế không thôi còn bao gồm cả vấn đề chính trị, vì vậy bên lề APEC các hội nghị chuyên đề khác (Biển Đông chẳng hạn) cũng có thể diễn ra mà không tùy thuộc vào nước chủ nhà Philippines, đây lại chính là vấn đề quan ngại lớn trong đối ngoại của Bắc Kinh khi thành phần tham dự APEC là “thượng đỉnh” của các quốc gia sừng sỏ nhất.
Điểm lại mốc thời gian 10 năm trước khi nền kinh tế trên đỉnh cao có lúc tăng trưởng quốc gia (GNP) Trung Quốc chồm lên 2 con số với 4 ngàn tỷ usd dự trữ ngoại tệ (lớn nhất thế giới) và manh nha rượt đuổi soán ngôi nền kinh tế số 1 Hoa Kỳ, như lẽ đương nhiên, đồng bộ lớn mạnh với kinh tế là tham vọng, chiến lược quân sự chính trị.
Vị trí địa dư, ba hướng Tây, Nam, Bắc giáp Hoa Lục vốn dĩ chật chội, chỉ có hướng Đông bơi ra Thái Bình Dương là thênh thang, Trung Quốc không muốn quanh quẩn lội trong “ao nhà”, nhưng trước tiên phải làm chủ được 2 cửa biển hướng ra Thái Bình Dương là: biển Hoa Đông (Nhật Bản) và nhất là biển Đông (Việt Nam) . Với chiến thuật cả vú lấp miệng em của kẻ mạnh Bắc Kinh tùy tiện ngang nhiên dùng tàu chiến đặt từng “cục gạch” chủ quyền, (9 cục trên toàn biển Đông) và nhiều cục gạch khác trên các đảo chìm nổi bên trong, rồi dùng áp lực (kinh tế & quân sự) đơn phương tuyên bố khẳng định chủ quyền. Nhưng rồi vấp phải cái gậy “cảnh sát quốc tế” Mỹ ngáng chân và cái xương cá Philippines (kiện ra quốc tế) TQ rất bực tức nhưng cũng đủ tỉnh táo để hiểu đoàn tàu chiến của mình chưa thể sẵn sàng đương đầu với các cơn bão biển thịnh nộ từ các hạm đội hải quân Hoa Kỳ, một khi xảy ra đụng độ.
Lấp vào yếu điểm ấy: “5 năm trở lại đây, Bắc Kinh thay đổi chiến thuật, quay lại dùng một tiểu chiêu của Đại Hán ngày xưa là kế: Không đánh mà thắng (Bất chiến tự nhiên thành) do Quản Trọng thời Xuân thu Chiến quốc vạch ra nhưng biến thái theo kiểu tằm ăn dâu của Bắc Kinh ngày nay là chiến thuật “nhảy cóc” lấn chiếm từng đảo đá một bồi đắp thành các công trình pháo đài quân sự trên toàn vùng biển Đông để tương lai gần áp đảo thế lực quân sự lên toàn vùng, tự ấn định chủ quyền”.Theo Bắc Kinh đây là cách hạn chế khả năng đụng độ trực diện với Mỹ.
Tuy nhiên, khác với thời điểm 5 năm trước, hiện tại Bắc Kinh đang đối mặt với một nền kinh tế “bong bóng” sẽ vỡ tan vào bất cứ lúc nào với những đợt sụt giảm liên tục của thị trường chứng khoán Trung Quốc mùa hè vừa qua và trong ba ngày liên tiếp (11, 12 và 13/8) phá giá đồng nhân dân tệ của Bắc Kinh đã làm chao đảo chấn động thị trường toàn cầu dấy lên lo sợ rằng nền kinh tế lớn thứ nhì thế giới này đang yếu đi nhanh hơn so với ước tính cách đây vài tháng. Người ta buộc lòng phải hỏi: Tại sao một tỷ lệ tăng trưởng ngoạn mục do TQ tuyên bố (mà không một nước nào có được) lại có thể kéo theo sự tuột dốc của thị trường chứng khoán?. Số liệu thống kê tình hình hoạt động tại các nhà máy “con cưng” của Trung Quốc trong tháng 9/2015 cho thấy sức tiêu thụ trong và ngoài nước đều giảm mạnh bất chấp những nỗ lực kích cầu…
Điển hình là quả đấm thép số 1 - Đại công ty quốc doanh độc quyền sắt thép của Trung Quốc Sinosteel dù trước đó đã được Bắc Kinh đã bơm vào tới 2 tỷ USD để bù đắp lỗ lã như hiện nay đã không tìm đâu ra 315 triệu usd để trả số tiền lãi (chưa động tới vốn gốc) trong năm nay từ công khố phiếu bán ra bởi chính phủ?
Công nhân Trung Quốc bên “rừng” ống thép chưa biết sẽ xuất đi đâu.
Điều này cũng có nghĩa là thế giới không còn tin những con số của Bắc Kinh đưa ra nữa và hơn ai hết chóp bu Chủ Tịch Tập Cận Bình, người cầm trịch, giờ đây dù lạc quan đến mấy cũng đã thấy được đó là Trung Quốc chắc chắn sắp lâm vào khủng hoảng mà mức độ nghiêm trọng như thế nào thì một phần không nhỏ của nó sẽ tùy thuộc ảnh hưởng trong chính sách đối ngoại mà cộng đồng thế giới đang ưu tiên thiên về khuynh hướng: “ổn định trật tự hòa bình thế giới” trong khi Bắc Kinh thì đang “cô độc” với những “cục gạch” chủ quyền trái với Luật biển (UNCLOS) gây căng thẳng thường xuyên trên biển Hoa Đông, nhất là biển Đông.
Nếu không muốn đứt giây thì đừng già néo - Nikkei Asia Review - cơ quan truyền thông lớn nhất Nhật bản ngày 12/11 bình luận: Bắc Kinh sẵn sàng “làm mềm lập trường” của Trung Quốc trong vấn đề Senkaku, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình qua chuyến công du Đông Nam Á vừa rồi dường như đã khởi động một chiến dịch hòa hoãn hàn gắn quan hệ với các nước láng giềng đã trở nên căng thẳng sau khi kết thúc chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ trong tháng 9 mà không đạt được kết quả nào, ngược lại vô hình trung gia tăng đối đầu với Tổng thống Barack Obama trong vấn đề bồi lấp, xây dựng và quân sự hóa (bất hợp pháp) các đảo nhân tạo ở Biển Đông. Đối đầu đến mức hai nước Mỹ -Trung không thể đưa ra một tuyên bố chung, việc Hoa Kỳ bắt đầu trực tiếp thách thức các yêu sách bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông là một thực tế không thể tránh khỏi.
Dù rằng chóp bu họ Tập của Trung Quốc vẫn không từ bỏ thủ đoạn làm yếu đi sự đoàn kết trong khối Asean khi lợi dụng chính quyền quân sự Thái Lan hiện nay bị phương Tây chỉ trích mạnh mẽ sau khi đảo chính chiếm quyền tại Bangkok. Ngày 11/11/2015 Trung Quốc cho biết: Không quân Thái Lan và Trung Quốc sẽ có cuộc tập trận chung ngay trong tháng 11 này. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, không quân hai nước tập trận chung. Thông báo được xem là một dấu hiệu mới cho thấy Trung Quốc muốn thay thế một khoảng trống ảnh hưởng phương Tây trong khối Asean để có thể làm lợi cho Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông liên quan đến 4 quốc gia Asean Việt - Phi- Malaysia và Brunei.
Một thành viên lớn, thường trực trong HĐBA/LHQ mà phát biểu: “Biển Đông và các đảo, bãi đá trên đó vốn thuộc về Trung Quốc từ thời cổ đại” (Tập Cận Bình) Nhưng lắc đầu nguầy nguậy từ chối không dám ra tranh luận với một quốc gia nhỏ yếu Philippines kiện mình trước tòa trọng tài quốc tế thì chừng đó thôi (kết thân với CP/Quân Đội Thái Lan) quả là đạm bạc quá không đủ làm cho Bắc Kinh bớt cô đơn trên con đường thâu tóm biển Đông bằng thủ đoạn : “Bất chiến tự nhiên thành… cô độc” như hiện nay với thế giới.
16/11/2015
KIÊM ÁI * MỘT GÓC ĐỘ KHÁC
MỘT GÓC ĐỘ KHÁC
Chuyện Tổng Thống Obama không qua Việt Nam, mặc dù sẽ qua các nước gần Việt Nam, rất tiện đường, nhiều dư luận đoán định như đinh đóng cột vì như thế này, như thế khác, nhà tiên tri Trần Dậu, em Trần Dần cũng đưa ra một lời tiên tri, góp mặt với mọi người, coi như một bản "Cáo tồn" vậy:
Hai ngày đến Việt Nam của Tập Cận Bình, người bàng quan không thấy có biến chuyển nào đáng chú ý, cũng được đón tiếp cách trọng thể như một đại quốc khách, có thảm đỏ, có 21 phát đại bác chào mừng, có diễn văn tại Quốc Hội, có cho quà một tỉ nhân dân tệ, có tái xác định Hoàng Trường Sa là của Trung Cộng từ ngày xưa. Bộ Chính Trị Cộng Sản Việt Nam cố tỏ ra là một đàn em nép mình sau lưng Tập Cận Bình theo kỹ luật Đảng Cộng Sản Đệ ngũ đệ lục gì đó tức là Đệ ... Tập Cận Bình. Nhưng cả khách lẫn chủ cũng chỉ nói nhẹ nhẹ, khẽ khàng hình như sợ "đế quốc Mỹ" nghe được. Thực là đúng thái độ của Cộng Sản.
Tuy nhiên, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã không ngăn cản một cách tàu ráo máng 2 cuộc biểu tình tại Saigon và Hà Nội trước khi Tập Cận Bình đến, chỉ mạnh tay đến đổ máu đồng bào biểu tình chống họ Tập ngay ngày đón Tập Cận Bình tại Hà Nội, nhưng toà Đại Sứ Trung Cộng tại Việt Nam cũng lấy làm nực lắm, sợ rằng nay mai viên Đại Sứ Trung Cộng sẽ bị thay thế chưa chừng, Việt Cộng cũng không dám để "dân chúng sắp hàng hai bên đường để đón Tập Cận Bình", Tập Cận Bình cũng không dám "đi ăn phở" như Bill Clinton năm nào, tắt một điều là Tập Cận Bình biết nếu tiếp xúc với dân chúng có thể sẽ bị dân chúng phản đối, mà với lũ đàn em VC nửa nạc, nửa mỡ không thể nào đàn áp được, hoặc dàn xếp một xó xỉnh nào đó để Tập Cận Bình nhận những nụ cười, những cái bắt tay gọi là "tiếp xúc với dân chúng" của chư hầu như những nguyên thủ Quốc Gia khác. Tập Cận Bình chỉ là "chủ" của Cộng Sản Việt Nam chứ dân chúng Việt Nam thì coi họ Tập "chả ra cái thá gì sất!". Việt
Cộng và dân chúng VN đã phân rẽ làm đôi thấy rõ hơn bao giờ hết.
Mục đích đến Việt Nam hai ngày vừa qua của Tập Cận Bình thì ai cũng biết, một là để xác nhận với thế giới, nhất là Hoa Kỳ rằng Việt Cộng vẫn dưới trướng của Trung Cộng, Hoa Kỳ không thể chen chân vào được, hai là xác nhận với đảng Cộng Sản Việt Nam: Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Cộng, đừng mong "quậy" mất công, châu chấu không thể chống lại xe. Cuộc biểu diễn của một tàu chiến Hoa Kỳ gần những đảo mà Trung Cộng cho là của chúng mà Trung Cộng nín khe rất mất mặt bầu cua, nay họ Tập muốn với vátrằng chuyện đó không ảnh hưởng gì đến chuyện giữa Việt Cộng và Trung Cộng trên biển Đông. Mục đích quan trọng nhất của họ Tập là tranh thủ cho những phần tử đầy tớ cho Tàu Cộng có ưu thế trong sự sắp xếp nhân sự của Đại Hội Đảng vào đầu năm 2016.
Qua việc Tập Cận Bình mời THỦ TƯỚNG NGUYỄN TẤN DŨNG qua thăm Hoa Lục là một đòn tâm lý mà Tập Cận Bình muốn dằn mặt Obama "tên đảng viên Việt Nam nào cũng là của Trung Quốc". Nguyễn Tấn Dũng dù được Hoa Kỳ "chấm", dân chúng cũng nghĩ Nguyễn Tấn Dũng là "người của Hoa Kỳ" thì nay, Tập Cận Bình muốn chứng tỏ ngược lại. Nhưng màn biểu diễn này chỉ giúp cho mọi người thấy Tập Cận Bình hơi... trơ trẽn. Có tin cho rằng Tập Cận Bình sẽ đến Manila, Phi Luật Tân để tham dự hội nghị, mục đích muốn tỏ cho mọi người thấy Trung Cọng đang thu nanh vuốt lại, có thể họ Tập sẽ yêu cầu Phi Luật Tân "bãi nại" để hai bên tương nhượng nhau. Nhưng chắc chắn là Phi Luật Tân không thể chấp nhận, mũi tên đã ra khỏi cung rồi, khó gọi nó trở lại được, và nếu có biểu tình tự phát của dân chúng phản đối họ Tập thì thật là lỗ vốn.
Trước đây, khi thấy Tổng Thống Obama hạ cố mời Nguyễn Phú Trọng qua Hoa Kỳ và được tiếp đãi một cách trang trọng, ai cũng nghĩ rằng sau chuyến đi đó, Việt Cộng đã bị Hoa Kỳ thu phục, trong khi Nguyễn Tấn Dũng thì đã là người của Hoa Kỳ, chắc phen này Việt Cộng sẽ đáp lại một cách rõ ràng, nhưng rồi cũng chẳng có "biểu hiện" gì đáng kể tuy rằng "công trình kể biết mấy mươi" mà cũng không thấy gì, lại tổ chức tiếp đón Tập Cận Bình một cách quá trang trọng, dù cho có tiếp đón Obama "như rứa" cũng thế thôi. Do đó, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy "lịch trình công du của Tổng Thống Obama đã đầy, không thể nhét Việt Nam vào được".
Nói theo luận điệu ngoại giao là vậy, trên thực tế thì Obama đã đổi thái độ, không đến Việt Nam, chứ không phải vì lịch trình đã đầy, ai mà không biết. Cũng nên lưu ý mọi người là Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam thế nào cũng theo dõi cuộc hành trình của Tập Cận Bình rất kỹ và đã báo cáo về Washington đầy đủ. Trong báo cáo này, chắc chắn vấn đề nhân sự Việt Cộng trong Đại Hội Đảng vào đầu năm 2016 cũng được chú ý, con gà nào là của Trung Cộng trong Đại Hội sắp tới, những con gà nào Hoa Kỳ đã chấm nay trở quẻ, và từ nay cho đến ngày Việt Cộng Đại Hội Toàn Đảng, liệu Trung Cộng có cho thêm nhân vật nào qua nữa hay không.
Cũng trong thời gian này, cuộc bầu cử ở Miến Điện cũng là một yếu tố để cho Bộ Chính Trị Việt Cộng rút kinh nghiệm về Trung Cộng, "chó không răng mô", tức là Miến Điện đã nhất quyết theo Dân Chủ Tự Do thì Trung Cộng cũng không dám "sủa" chứ đừng nói cắn càn. Đó là tấm gương tày liếp mà Cộng Sản Việt Nam phải học tập kỹ lưỡng.
Tổng Thống Obama đã bỏ cuộc thăm viếng Việt Nam ảnh hưởng thế nào đến 2 phe theo Tàu và theo Mỹ? Có thể phe theo Mỹ đã lúc lắc trái tim? Phe theo Tàu đã đắc thắng mà tới luôn bác tài? Có phải Hoa Kỳ đã để cho Việt Cộng theo luôn Trung Cộng? Chắc chắn là không, vì lần này vấn đề Việt Nam tức là vấn đề Biển Đông có quan hệ trực tiếp đến quyền lợi của Hoa Kỳ và thế giới chứ không phải chỉ có lợi cho Việt Nam mà thôi đâu.
Tổng Thống Obama đến Việt Nam lúc này chỉ là kẻ đến sau, phải đợi thái độ tiếp theo của Cộng Sản Việt Nam rồi phản hồi mới có lợi hơn, sau đó có đến Việt Nam hay không mới quyết định được. Hơn nữa, cách hành xử của Obama mà nhiều người cho là nhu nhược cũng góp phần lớn trong quyết định này. Ông ta đã săn đón Tập Cận Bình khi hắn ta vừa mới tới Mỹ khiến Tập Cận Bình nghĩ rằng "Obama đã biết sợ" không dám có quyết định quyết liệt trên Biển Đông, nhưng khi không thuyết phục được họ Tập, Obama bèn cho chiến hạm đi tuần qua các đảo Trung Cộng chiếm của Việt Nam, gần đây lại cho 2 chiếc B-52 lượn trên đầu các hòn đảo Trung Cộng cướp được, thực là ngứa mắt, nhưng cũng đành cúi mặt. Thấy quan tài rồi thì phải đổ lệ.
Trong trường hợp Việt Cộng vẫn bị Trung Cộng "gọi dạ bảo vâng" liệu Hoa Kỳ phản ứng ra sao? Có phải Hoa Kỳ chờ hiệp ước TPP được đem thực thi rồi đưa Việt Cộng "vô khuôn"? Trong khi chờ đợi, Hoa Kỳ phải chuẩn bị ra sao? Ở Quốc nội, chắc chắn sẽ có sự khuyến khích dân chúng ý thức trách nhiệm mà chuẩn bị tiến lên. Còn ở Mỹ, Hoa Kỳ cũng phải có thái độ. Trong một bài trước, tôi có trình bày với độc giả là thái độ của Hoa Kỳ đối với người em của Việt Cộng là Việt Tân (Việt Tân là em Việt Cộng) có điều khang khác. Nay thì đã rõ, cuốn phim "Terror in Little Saigon" ra đời mà mọi cuộc điều tra đều hướng mũi dùi về Việt Tân (là thủ phạm) và cả thế giới đã được xem, đã tường thuật, đã phê bình, đã có những đoàn thể nghe theo lời kêu cứu của Việt Tân mà hội họp, gởi thư phản đối, nhưng thái độ của Việt Tân, "nạn nhân" chính trong vụ này lại chỉ núp bóng Cộng Đồng. Chúng ta chờ đợi sự chủ động phản đối của Việt Tân để Cộng đồng "đi theo", nhưng chuyện đó đã không xảy ra. Chuyện Việt Tân sẽ kiện 2 cơ quan sản xuất cuốn phim? Cũng mới nghe nói mà thôi!.
Nhiều người chờ đợi một cuộc họp báo của Việt Tân để ông Đỗ Hoàng Điềm, Lý Thái Hùng, Hoàng Cơ Định, Nguyễn Kim v.v... có dịp thỏa mãn dư luận báo chí 100% cũng đã có rồi, nhưng nghe nói lèo tèo lắm. Cơ khỗ! chẳng bù khi mới bể hai, các cán lớn của Việt Tân đi khắp nơi giải độc tùm lum.
Trước khi khai tử Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, tuy đã có sự chuẩn bị để "thoái trào" kháng chiến giải phóng Việt Nam, như lời bà Trần Diệu Chân lúc còn là phát ngôn viên của Mặt Trận đã nói cạnh, nói khoé là "Tổng Nổi Dậy trong Hòa Bình", nhưng còn "tiếc thay chút nghĩa cũ càng".
Tuy nhiên, đến đầu năm 2005, khi bầu đoàn thê tử Mặt Trận qua trời Âu, công khai tuyên bố Chủ tịch Hoàng Cơ Minh đã chết 14 năm trước và cho Mặt Trận chết ngay tút xuỵt thì nhóm "tàn dư Mặt Trận" công bố cho toàn Đảng viên biết là Đảng Việt Tân ra đời với hai bước làm tôi tận lực cho VC (Xin xem 2 bài "Cứu tôi với, Bớ Cộng Đồng) cho đến năm 2025! Đảng Việt Tân đã quay 180 đường lối chính trị và công khai tách khỏi 3 triệu người Việt Tị nạn Cộng Sản ở Hoa Kỳ và toàn thế giới lại còn ngụy biện rằng đường lối mới theo phò Cộng Sản của họ là hợp với sở thích của người dân trong nước! Một vụ hiếp dâm tàn bạo đồng bào trong nước để chạy theo Việt Cộng. Và một vụ li dị dứt khoát với đồng hương hải ngoại không khoan nhượng.Có phải vì vậy mà cán đảng viên Việt Tân khi được hỏi thì chối đành đạch như đỉa phải vôi, "Không, tôi đâu có Việt Tân, Việt tiếc gì đâu, hoặc tôi ra lâu rồi.
Cuốn phim "Terror in Little Saigon" ra đời trong bối cảnh này, tất cả mũi dùi nghi ngờ đều chỉ về phía Việt Tân - hậu thân của Mặt Trận - là thủ phạm. Cuốn phim này theo nhiều người thì chỉ là phát súng khai hỏa, nghĩa là còn tiếp tục nữa cho đến khi tìm ra thủ phạm. Câu hỏi đặt ra là tại sao cuốn phim lại ra đời trong hoàn cảnh này? Phải chăng sự kiên nhẫn của Obama đã không còn nữa? Cần phải chặt đứt tất cả đầu cầu của Việt Cộng tại Hoa Kỳ trong đó có Việt Tân. Sau đó, nếu VC còn cứng đầu thì đến phiên các cuộc nổi dậy trong nước, các cuộc cách mạng màu xanh, mùa Xuân, mùa Hạ sẽ tiếp theo nhất là thời điểm hiệp ước TPP đang gần kề. "Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết mới sống". Việt Cộng dù có binh vực Việt Tân cũng không được, vì chúng trót phong cho Việt Tân là khủng bố. Cũng có thể những đảng viên Việt Tân nửa công khai nửa bí mật như Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang (giới thiệu Trần Khải Thanh Thủy gia nhập Việt Tân) cũng sẽ được bảng đỏ đề tên.
Thập niên 80, khi Hoa Kỳ chưa bỏ cấm vận, chưa bang giao với Việt Cộng, hoạt động của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh huyênh hoang rằng là "Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam" với 10 ngàn tay súng ở biên thùy Thái Lan - Lào, dù đã làm những chuyện nghịch lý, thiếu tình, Hoa Kỳ vẫn mở một mắt, nhắm một mắt. Khi bỏ cấm vận, có lập bang giao những hồ sơ ám sát các ký giả gốc Việt vẫn nằm im trong ngăn kéo của FBI, CIA v.v... Nay Việt Tân đã lộ mặt cùng phe với Việt Cộng, bỏ đồng hương hải ngoại tị nạn Cộng Sản, cuốn phim Terror in Little Saigon ra đời, Hoa Kỳ gián tiếp nói cho Việt Cộng biết rằng Mỹ đang chặt chân, chặt tay chúng trước khi bật đèn xanh cho
dân chúng Việt Nam chặt đầu Việt Cộng. Thời gian không còn nhiều nữa, đừng tưởng núp bóng Tập Cận Bình mà bóc lột dân chúng. Sau Việt Tân (oan thị Kính hay oan thị Mầu?) có lẽ chuyện rửa tiền từ Việt Nam qua Hoa Kỳ sẽ là đề mục kế tiếp. Việt Cộng muốn theo Tập Cận Bình thì bán gấp bất động sản ở Hoa Kỳ, chuyển tiền về các ngân hàng Hoa Lục. Đây là sự tiên đoán của nhà tiên tri Trần Dậu, em ruột tiên tri Trần Dần, ai muốn tin thì tin, ai không muốn tin thì viết thơ phản đối ACThompson và nhà sản xuất phim Terror in Little Saigon.
CỨU TÔI VỚI, BỚ CỘNG ĐỒNG
Kiêm Ái
2015-11-09
Trong cuộc phỏng vấn do ông Nguyễn Xuân Nam thực hiện, ông Lý Thái Hùng đã cho rằng lực lượng vỏ trang trong rừng Thái Lan chỉ là những người cận vệ, bảo vệ an ninh chứ không phải để đánh VC dù là trong tương lai. Từ cái láo Chủ tịch Hoàng Cơ Minh chết 14 năm mà vẫn cho là còn sống, đến cái luận điệu 10 ngàn quân chỉ để là hộ vệ, ông Lý Thái Hùng có hợp tác với Việt Cộng như lời chiến hữu của ông là ông Nguyễn Việt Khanh hay không thì mọi người đã rõ. Như vậy uy tín của ông đối với c/h của ông, nhất là đối với cộng đồng hải ngoại chỉ là con số không, mặt mũi nào mà ông dám kêu gọi Cộng Đồng phản đối Terror in Little Sagon giúp Việt Tân. Với chủ trương lâu nay của Việt Tân, với hành động mỗi khi Việt Cộng bắt được người nào hoạt động chống Cộng trong nội địa Việt Nam thì lập tức Việt Tân ở hải ngoại lên tiếng "xác nhận" họ là người Việt Tân, để Việt Cộng có cớ chính đáng mà giam cầm, tù đày họ bằng thích, vì Việt Tân đã được VC phong là "khủng bố" dỗm (chất nổ không có ngòi, lại đặt ở ngả ba đường cái xa cơ quan VC cả 200 mét!).
Về 5 ký giả bị ám sát thì bốn trong 5 người đó viết bài phanh phui những việc làm của Mặt Trận cũng là của Việt Tân thì nếu ai khơi lại vết thương này của cộng đồng, thì cộng đồng có bổn phận tiếp tay họ đưa thủ phạm ra ánh sáng.
Lý ra, nếu Việt Tân không dính líu đến mạng sống của 5 người này thì ông Lý Thái Hùng phải kêu gọi đồng hương tiếp tay nhà sản xuất phim Terror in Little Saigon tìm ra thủ phạm càng sớm càng tốt thì cái oan Thị Kính hay Thị Mầu của VT nhờ đó mới giải tỏa, đằng này, ông Lý Thái Hùng lại vội vả xúi dục đồng hương phản đối ký giả A.C Thompson làm cho ai muốn binh vực Việt Tân cũng ngỡ ngàng! Làm đến chức Tổng Bí Thư một đảng chính trị mà có cái khôn, cái bộ não "vĩ đại" như vậy hay sao, ông Lý Thái Hùng?
Kiêm Ái.
-------------------
Ý kiến độc giả: Đừng vì quá ghét đảng Việt Tân mà quên mất kẻ thù của chúng ta. Nếu có một tên gian manh đến đốt nhà của Việt Tân và làm cháy tiêu cả làng mạc của chúng ta thì lẽ nào chúng ta lại hí hửng vui mừng trước tai nạn của Việt Tân mà lại không thèm khóc thương cho số phận của chúng ta ??
Kẻ thù của chúng ta là Việt Cọng và bọn tay sai. Tất cả những nổ lực gây chia rẽ, sụp đổ, đánh mất uy tín của CĐNVTN đều do một trong hai kẻ thù đó gây ra. Kẻ thù đó không cách xa chúng ta nửa vòng trái đất mà chúng đã và đang tiến lại sát bên nách chúng ta, hoặc đã mua chuộc những người hàng xóm của chúng ta để làm hại chúng ta.
Có những điều cần phải khẳng định để chúng ta chỉnh đốn lại tư tưởng:
- Việt Tân đã lừa đảo CĐNVTN, che dấu cái chết của Đề Đốc Hoàng Cơ Minh để moi tiền của NVTN và đánh mất lòng tin của mọi người vào ý chí quang phục quê hương.
- Việt Tân đã công khai ủng hộ chế độ VC hiện tại qua lời tuyên bố của một tay đảng viên có uy tín của chúng là Trúc Hồ, giám đốc Đài SBTN rằng: "Không được lật đổ chế độ CS của nước CHXHCNVN, chủ trương lật đổ là hoàn toàn sai … không được đòi hỏi gì ở chế độ CSVN mà chỉ được phép XIN chứ không có quyền đòi."
Đảng Việt Tân không thể phủ nhận 2 điều phản bội trên, vì thế họ không có tư cách gì để biện giải cho sự quang minh của mình trước CĐNVTN, ngoại trừ họ phải công khai xin lỗi và khai trừ tên Trúc Hồ ra khỏi Đảng. Nếu họ không làm được 2 điều đó thì họ sẽ mãi mãi là một đảng phản bội đang chạy theo ôm chân phe VC bán nước, hoàn toàn đứng ngoài Cộng Đồng NVTN và trở thành địch thù.
Riêng với việc phim "Terror in Little Saigon" đang chà đạp uy tín của CĐNVTN, bọn làm phim đã cố tình ghép chung tội ác của đảng Việt Tân với tinh thần yêu nước của tập thể NVTN để cho rằng cả hai đều là những tập thể có hành vi bất lương đối với luật pháp Hoa Kỳ và đáng bị trừng trị.
Ai là người có uy tín xin hãy lên tiếng minh định để tách rời hai tập thể ra khỏi nhau, vì mục đích của kẻ thù là muốn bôi lọ Cộng Đồng NVTN qua việc tố cáo hành vi phạm pháp của Đảng Việt Tân.
Nếu không dám lên tiếng phản đối bọn làm phim và lực lượng đen tối sau lưng họ thì cũng đừng tỏ vẻ hí hửng trước sự tấn công của bọn làm phim này với Đảng Việt Tân. Mình cũng bị đánh bầm mặt mà còn hí hửng cái nỗi gì !!
Bọn ngụy quân tử đừng giả đạo đức để kết án mọi hành vi khủng bố. Hành vi Khủng bố chỉ đáng bị kết án khi dùng sức mạnh để uy hiếp kẻ hiền hòa và chịu sống cam phận theo pháp luật, nhưng lại đáng khuyến khích để đối phó với bọn phá hoại an ninh của tập thể, bọn tiếp tay cho khối thù địch của thế giới tự do là bọn Cọng Sản, bọn xâm lược, bọn phá rối an ninh của xã hội Hoa Kỳ.
Riêng một dân tộc bị giết hại, bị cướp nước như dân Việt tại hải ngoại thì hành vi phục hồi sự công bằng với những biện pháp tương úng sẽ là chân lý chứ không phải là tội phạm miễn là hành vi của họ nằm ngoài phạm vi của Hoa Kỳ. Người Mỹ tìm cách ghép ông Hoàng Cơ Minh thành tội phạm với lý do ông là công dân Hoa Kỳ mà không tuân theo luật cấm gây chiến với một quốc gia mà Hoa Kỳ không lâm trận, nhưng Hoa Kỳ đã thua lý… vì người thủ lãnh của đoàn quân kháng chiến Việt tại Thái Lan không phải Ông Hoàng Cơ Minh mà là một công dân Mỹ gốc Nhật Bổn mang tên William Nakamura đứng tên để thành lập chiến khu ở Thái gần biên giới Lào-Việt để xâm nhập Việt Nam mong lật đổ được chế độ VC cướp nước.
Bộ Quốc Phòng Mỹ muốn ông Hoàng Cơ Minh nhập tịch Mỹ (có nghĩa là người mang tên Hoàng Cơ Minh không phải là công dân Mỹ) để dẩn độ ông về Mỹ thụ án (theo lời xác nhận của ký giả A.C. Thompson) nhưng họ đã thất bại vì Hoàng Cơ Minh không vi phạm luật pháp Hoa Kỳ.
Ông A.C. Thompson cố thuyết phục khán giả để kết tội Hoàng Cơ Minh và bôi lọ tập thể NVTN bằng những hình ảnh phô trương lực lượng cờ xí, quân trang, vũ khí của Người Việt tại hải ngoại trong các cuộc diển hành, ông ta muốn cho dân Mỹ xem đó như là chiến trường và nghĩ rằng Người Việt Tỵ Nạn tại Mỹ đang muốn gây chiến tranh trở lại với VN. Ý đồ của A.C. Thomson quá xấu xa nhằm phỉnh gạt những kẻ ngây thơ hoặc mang bệnh tâm thần, hễ thấy quân phục và súng đạn thì nghĩ đến chiến tranh bắn giết dù họ nhìn thấy cảnh đó ở nghĩa trang hay ở tại công trường với những dàn chào bồng súng theo nghi lễ. Cả một bọn ngu si, lớn đầu mà không chịu mở não để lớn khôn.
JB Trường Sơn
Cuốn phim "Terror in Little Saigon" vừa mới được chiếu lên làm cho đảng Việt Tân hốt hoảng, lạng quạng, kêu trời không thấu, kêu đất đất không trả lời, bèn kêu cứu cộng đồng người Việt tị nạn Cộng Sản tại Hoa Kỳ phản đối cuốn phim ác nghiệt kia giùm Việt Tân. Thực là không ai khôn hơn Việt Tân.
Theo như lời ông Lý Thái Hùng, Tổng Bí Thư Việt Tân khi trả lời phỏng vấn của ông Nguyễn Xuân Nam, báo và đài truyền thanh truyền hình Calitoday, đã minh định rằng Việt Tân và Mặt Trận tuy không có cùng ngày sinh nhật nhưng theo nhiều người nghĩ thì hai ta, Việt Tân và Mặt Trận tuy hai mà một, tuy một mà hai, y như Đảng và Chính Phủ của Việt Cọng vậy.
Kể ra, trong cuốn phim cũng có đoạn đưa những hình ảnh cựu quân nhân VNCH trong quân phục với những bước đi hùng hồn, những màn trình diễn cái oai hùng của Quân Lực VNCH có ý nói lên ý chí phấn đấu của những kẻ chống Cộng, nhưng không vì thế mà ông Lý Thái Hùng đẩy cái màn này đi trước để Việt Tân của ông đi sau mà ngâm nga: "Ăn cỗ đi trước lội nước đi sau". Ông Lý Thái Hùng chối phắt cái chủ trương vũ trang giải phóng của Mặt Trận, nhưng những tài liệu đăng tải trên báo Kháng Chiến cho đồng hương biết "10 ngàn quân đang sẵn sàng" ở biên giới,
những vụ đón xe đò tuyên truyền (dỗm), những cuộc tuyên thệ rầm rộ giữa núi rừng Thái Lan là những gì Mặt Trận phô bày để đồng hương móc hầu bao tiếp tục. Đối với đồng hương tị nạn Cộng Sản thì có thể quên, nhưng dối với ông ký giả A.C. Thompson chắc là ông ta không quên những tài liệu "10 ngàn quân" trong rừng của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh và Việt Tân, hơn nữa hai chữ "Kháng Chiến" đã nói lên cái gì nhỉ? Ông Lý Thái Hùng nhỉ?. Ông ký giả làm ra cuốn phim có thể quên Phó Đề Đốc đã hy sinh bên Thái Lan 14 năm mới được Đảng Việt Tân "cho chết" khi đảng Việt Tân ra mắt bên trời Âu, cùng lúc mà Việt Tân "chôn" Mặt Trận, nhưng người Việt trong và ngoài nước không quên được.
Tôi cũng không biết vô tình hay hữu ý mà ông Lý Thái Hùng không chú trọng đến cái chết của 5 ký giả mà A.C Thompson và cuốn phim nhắm đến để hình như kết tội Việt Tân đã ám sát họ. Phản ứng của Việt Tân như yêu cầu hãng phim rút xuống hay xóa bỏ không phát tiếp cuốn phim, hay nhờ luật sư đưa hảng phim ra tòa v.v... đó là điều bắt buộc chứ không phải như chuyện Chủ tịch Mặt Trận hy sinh bên Thái Lan mà vì xa xôi có thể hòa hoãn 14 năm sau mới khóc lóc. Những chuyện này là chuyện của Việt Tân cần phải làm:
"Tôi thấy cần làm một cái chi
Dẫu cho kết quả chẳng ra gì"
(Quên tác giả)
Và người Việt tị nạn Cộng Sản ở hải ngoại hôm nay cũng vậy, cũng quên những gì Mặt Trận và Việt Tân đã làm năm xưa, khi Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh chết rồi vẫn phải còn sống theo lệnh của cán bộ Trung Ương Việt Tân những 14 năm. Nhưng chuyện đồng hóa Việt Tân và cộng đồng thì đồng hương không thể quên và không thể không nói lên sự thật để xem hai bên - Việt Tân và Cộng Đồng có cùng quan điểm chính trị hay không, nói trắng ra là quan điểm hợp tác hay chống đối Cộng Sản ở trong nước.
Sau đây là những chủ trương mới tinh, lại do những đảng viên Việt Tân trích đoạn những chỉ thị của ông Lý Thái Hùng và Trung Ương Đảng Việt Tân phát biểu và phát tán cho đảng viên học tập:
Theo như lá thư thứ nhứt viết sau ngày Việt Tân Công Khai Hóa của đảng viên Nguyễn Việt Khanh đề ngày Sunday March 20.2005. 9:12PM kính gởi các c/h (chiến hữu, chú thích của người viết) lãnh đạo và quý c/h Việt Tân thì:
"Do những ưu tư từ những sự việc xảy ra gần đây, tôi đã mở lại những tài liêu nhân dịp CKH (Công khai hóa) mà thú thật là tôi chưa đọc kỹ tuy có những đoạn khó hiểu... bởi vì trong một buổi họp cơ sở đã có một vài c/h cho biết càng đọc thì các chiến hữu đó càng thấy rối mù. Sáng nay khi đọc lại tài liệu CKH đó có một số chi tiết đã khiến cho tôi lo sợ và thấy cần thiết phải viết hỏi các chiến hữu lãnh đạo ngay.
Tôi xin đưa ra các dữ kiện và các câu hỏi liên quan:
1/ Trong cuốn hỏi đáp VT bìa màu tím hoa cà, trang 21, phần mục số 2, tiêu đề: Dự Phóng Tương Lai Việt Nam Năm 2025 đã có đoạn viết như sau "TL (tài liệu) này có mục tiêu trình bày một số nhận định tổng quát về viễn cảnh Thế giới và Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản Việt Nam trong vòng 20 năm tới. Qua đó, VT đưa ra một lời giải cho tương lai Việt Nam với một sách lược phát triển qua 2 bước: 1/ Xây dựng thành công xã hội công dân và 2/ tiến hành phát triển toàn diện bắt đầu từ năm 2005 đến 2025".
Qua đoạn trình bày trên VT tiên đoán trong vòng 20 năm nữa đất nước Việt Nam vẫn ở dưới sự cai trị của đảng CSVN. Và VN sẽ phát triển qua 2 giai đoạn: 1/ Xây dựng thành công xã hội công dân, và 2 tiến hành phát triển toàn diện bắt đầu từ năm 2005 đến 2025 với sách lược Việt Tân.
Câu hỏi:1/ Theo tôi thì có 2 cách để hiểu đoạn văn kể trên:
- Một là, nếu trong 20 năm tới Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục ở dưới chế độ CSVN, và sẽ phát triển toàn diện qua 2 bước theo sách lược VT? (Điều này dĩ nhiên không thể xảy ra, theo suy nghĩ của tôi).
- Hai là, CSVN không thấy sách lược này là một mối nguy cho họ nên đã đồng ý cho phép VT được thực hiện sách lược 2 bước nói trên, giúp cho Việt Nam dưới chế độ hiện tại phát triển. Nếu điều này đúng, câu hỏi được đặt ra là: phải chăng VT (Việt Tân) đã quyết định hợp tác với CSVN?
2/ Qua sự tiên đoán của lãnh đạo VT (Việt Tân), trong 20 năm tới, dưới chế độ CSVN, xã hội VN sẽ trở thành một xã hội công dân và sẽ phát triển đi lên toàn diện. Nói một cách khác là trong vòng 20 tới VN vẫn ở dưới chế độ CSVN. Và dân tộc VN khi đó sẽ có hạnh phúc, đất nước Việt Nam sẽ trở nên phú cường.
Nếu lời giải tương lai VN này xảy ra đúng như dự kiến của tài liệu viết ra, thì mục tiêu đấu tranh chấm dứt chế độ độc tài cho dân tộc VN của đảng VT có còn ý nghĩa và có còn cần thiết nữa hay không? (Những Ưu Tư về Việt Tân chệch Hướng, trang 13).
Trên đây là chủ trương đường lối của đảng Việt Tân đã được in thành sách để đảng viên Việt Tân học tập và thi hành, do chính Tổng Bí Thư Lý Thái Hùng và các chiến hữu lãnh đạo biên soạn.
Cộng đồng Việt Nam tị nạn Cộng Sản trên toàn thế giới nói chung và tại Hoa Kỳ nói riêng có đồng ý sách lược 2 bước nêu trên với đảng Việt Tân do ông Lý Thái Hùng làm Tổng Bí Thư hay không? Chắc chắn là không, vì ngay cả nhiều chiến hữu của ông Lý Thái Hùng cũng công khai không đồng ý với ông và những c/h lãnh đạo cùng ông cũng không đồng ý với ông về 2 bước nói trên và đã tách VT ra làm đôi, cho ông Lý Thái Hùng và những c/h của ông là đã quyết định hợp tác với Cộng Sản Việt Nam (sic). Như vậy thì đảng Việt Tân hiện tại do ông Lý Thái Hùng làm Tổng Bí Thư còn dính dáng gì đến cộng đồng người Việt tị nạn Cộng Sản mà ông kêu gọi chúng tôi phản đối cuốn phim Terror in Little Saigon? Nghèo mà ham!
2015-11-09
Trong cuộc phỏng vấn do ông Nguyễn Xuân Nam thực hiện, ông Lý Thái Hùng đã cho rằng lực lượng vỏ trang trong rừng Thái Lan chỉ là những người cận vệ, bảo vệ an ninh chứ không phải để đánh VC dù là trong tương lai. Từ cái láo Chủ tịch Hoàng Cơ Minh chết 14 năm mà vẫn cho là còn sống, đến cái luận điệu 10 ngàn quân chỉ để là hộ vệ, ông Lý Thái Hùng có hợp tác với Việt Cộng như lời chiến hữu của ông là ông Nguyễn Việt Khanh hay không thì mọi người đã rõ. Như vậy uy tín của ông đối với c/h của ông, nhất là đối với cộng đồng hải ngoại chỉ là con số không, mặt mũi nào mà ông dám kêu gọi Cộng Đồng phản đối Terror in Little Sagon giúp Việt Tân. Với chủ trương lâu nay của Việt Tân, với hành động mỗi khi Việt Cộng bắt được người nào hoạt động chống Cộng trong nội địa Việt Nam thì lập tức Việt Tân ở hải ngoại lên tiếng "xác nhận" họ là người Việt Tân, để Việt Cộng có cớ chính đáng mà giam cầm, tù đày họ bằng thích, vì Việt Tân đã được VC phong là "khủng bố" dỗm (chất nổ không có ngòi, lại đặt ở ngả ba đường cái xa cơ quan VC cả 200 mét!).
Về 5 ký giả bị ám sát thì bốn trong 5 người đó viết bài phanh phui những việc làm của Mặt Trận cũng là của Việt Tân thì nếu ai khơi lại vết thương này của cộng đồng, thì cộng đồng có bổn phận tiếp tay họ đưa thủ phạm ra ánh sáng.
Lý ra, nếu Việt Tân không dính líu đến mạng sống của 5 người này thì ông Lý Thái Hùng phải kêu gọi đồng hương tiếp tay nhà sản xuất phim Terror in Little Saigon tìm ra thủ phạm càng sớm càng tốt thì cái oan Thị Kính hay Thị Mầu của VT nhờ đó mới giải tỏa, đằng này, ông Lý Thái Hùng lại vội vả xúi dục đồng hương phản đối ký giả A.C Thompson làm cho ai muốn binh vực Việt Tân cũng ngỡ ngàng! Làm đến chức Tổng Bí Thư một đảng chính trị mà có cái khôn, cái bộ não "vĩ đại" như vậy hay sao, ông Lý Thái Hùng?
Kiêm Ái.
-------------------
Ý kiến độc giả: Đừng vì quá ghét đảng Việt Tân mà quên mất kẻ thù của chúng ta. Nếu có một tên gian manh đến đốt nhà của Việt Tân và làm cháy tiêu cả làng mạc của chúng ta thì lẽ nào chúng ta lại hí hửng vui mừng trước tai nạn của Việt Tân mà lại không thèm khóc thương cho số phận của chúng ta ??
Kẻ thù của chúng ta là Việt Cọng và bọn tay sai. Tất cả những nổ lực gây chia rẽ, sụp đổ, đánh mất uy tín của CĐNVTN đều do một trong hai kẻ thù đó gây ra. Kẻ thù đó không cách xa chúng ta nửa vòng trái đất mà chúng đã và đang tiến lại sát bên nách chúng ta, hoặc đã mua chuộc những người hàng xóm của chúng ta để làm hại chúng ta.
Có những điều cần phải khẳng định để chúng ta chỉnh đốn lại tư tưởng:
- Việt Tân đã lừa đảo CĐNVTN, che dấu cái chết của Đề Đốc Hoàng Cơ Minh để moi tiền của NVTN và đánh mất lòng tin của mọi người vào ý chí quang phục quê hương.
- Việt Tân đã công khai ủng hộ chế độ VC hiện tại qua lời tuyên bố của một tay đảng viên có uy tín của chúng là Trúc Hồ, giám đốc Đài SBTN rằng: "Không được lật đổ chế độ CS của nước CHXHCNVN, chủ trương lật đổ là hoàn toàn sai … không được đòi hỏi gì ở chế độ CSVN mà chỉ được phép XIN chứ không có quyền đòi."
Đảng Việt Tân không thể phủ nhận 2 điều phản bội trên, vì thế họ không có tư cách gì để biện giải cho sự quang minh của mình trước CĐNVTN, ngoại trừ họ phải công khai xin lỗi và khai trừ tên Trúc Hồ ra khỏi Đảng. Nếu họ không làm được 2 điều đó thì họ sẽ mãi mãi là một đảng phản bội đang chạy theo ôm chân phe VC bán nước, hoàn toàn đứng ngoài Cộng Đồng NVTN và trở thành địch thù.
Riêng với việc phim "Terror in Little Saigon" đang chà đạp uy tín của CĐNVTN, bọn làm phim đã cố tình ghép chung tội ác của đảng Việt Tân với tinh thần yêu nước của tập thể NVTN để cho rằng cả hai đều là những tập thể có hành vi bất lương đối với luật pháp Hoa Kỳ và đáng bị trừng trị.
Ai là người có uy tín xin hãy lên tiếng minh định để tách rời hai tập thể ra khỏi nhau, vì mục đích của kẻ thù là muốn bôi lọ Cộng Đồng NVTN qua việc tố cáo hành vi phạm pháp của Đảng Việt Tân.
Nếu không dám lên tiếng phản đối bọn làm phim và lực lượng đen tối sau lưng họ thì cũng đừng tỏ vẻ hí hửng trước sự tấn công của bọn làm phim này với Đảng Việt Tân. Mình cũng bị đánh bầm mặt mà còn hí hửng cái nỗi gì !!
Bọn ngụy quân tử đừng giả đạo đức để kết án mọi hành vi khủng bố. Hành vi Khủng bố chỉ đáng bị kết án khi dùng sức mạnh để uy hiếp kẻ hiền hòa và chịu sống cam phận theo pháp luật, nhưng lại đáng khuyến khích để đối phó với bọn phá hoại an ninh của tập thể, bọn tiếp tay cho khối thù địch của thế giới tự do là bọn Cọng Sản, bọn xâm lược, bọn phá rối an ninh của xã hội Hoa Kỳ.
Riêng một dân tộc bị giết hại, bị cướp nước như dân Việt tại hải ngoại thì hành vi phục hồi sự công bằng với những biện pháp tương úng sẽ là chân lý chứ không phải là tội phạm miễn là hành vi của họ nằm ngoài phạm vi của Hoa Kỳ. Người Mỹ tìm cách ghép ông Hoàng Cơ Minh thành tội phạm với lý do ông là công dân Hoa Kỳ mà không tuân theo luật cấm gây chiến với một quốc gia mà Hoa Kỳ không lâm trận, nhưng Hoa Kỳ đã thua lý… vì người thủ lãnh của đoàn quân kháng chiến Việt tại Thái Lan không phải Ông Hoàng Cơ Minh mà là một công dân Mỹ gốc Nhật Bổn mang tên William Nakamura đứng tên để thành lập chiến khu ở Thái gần biên giới Lào-Việt để xâm nhập Việt Nam mong lật đổ được chế độ VC cướp nước.
Bộ Quốc Phòng Mỹ muốn ông Hoàng Cơ Minh nhập tịch Mỹ (có nghĩa là người mang tên Hoàng Cơ Minh không phải là công dân Mỹ) để dẩn độ ông về Mỹ thụ án (theo lời xác nhận của ký giả A.C. Thompson) nhưng họ đã thất bại vì Hoàng Cơ Minh không vi phạm luật pháp Hoa Kỳ.
Ông A.C. Thompson cố thuyết phục khán giả để kết tội Hoàng Cơ Minh và bôi lọ tập thể NVTN bằng những hình ảnh phô trương lực lượng cờ xí, quân trang, vũ khí của Người Việt tại hải ngoại trong các cuộc diển hành, ông ta muốn cho dân Mỹ xem đó như là chiến trường và nghĩ rằng Người Việt Tỵ Nạn tại Mỹ đang muốn gây chiến tranh trở lại với VN. Ý đồ của A.C. Thomson quá xấu xa nhằm phỉnh gạt những kẻ ngây thơ hoặc mang bệnh tâm thần, hễ thấy quân phục và súng đạn thì nghĩ đến chiến tranh bắn giết dù họ nhìn thấy cảnh đó ở nghĩa trang hay ở tại công trường với những dàn chào bồng súng theo nghi lễ. Cả một bọn ngu si, lớn đầu mà không chịu mở não để lớn khôn.
JB Trường Sơn
Cuốn phim "Terror in Little Saigon" vừa mới được chiếu lên làm cho đảng Việt Tân hốt hoảng, lạng quạng, kêu trời không thấu, kêu đất đất không trả lời, bèn kêu cứu cộng đồng người Việt tị nạn Cộng Sản tại Hoa Kỳ phản đối cuốn phim ác nghiệt kia giùm Việt Tân. Thực là không ai khôn hơn Việt Tân.
Theo như lời ông Lý Thái Hùng, Tổng Bí Thư Việt Tân khi trả lời phỏng vấn của ông Nguyễn Xuân Nam, báo và đài truyền thanh truyền hình Calitoday, đã minh định rằng Việt Tân và Mặt Trận tuy không có cùng ngày sinh nhật nhưng theo nhiều người nghĩ thì hai ta, Việt Tân và Mặt Trận tuy hai mà một, tuy một mà hai, y như Đảng và Chính Phủ của Việt Cọng vậy.
Kể ra, trong cuốn phim cũng có đoạn đưa những hình ảnh cựu quân nhân VNCH trong quân phục với những bước đi hùng hồn, những màn trình diễn cái oai hùng của Quân Lực VNCH có ý nói lên ý chí phấn đấu của những kẻ chống Cộng, nhưng không vì thế mà ông Lý Thái Hùng đẩy cái màn này đi trước để Việt Tân của ông đi sau mà ngâm nga: "Ăn cỗ đi trước lội nước đi sau". Ông Lý Thái Hùng chối phắt cái chủ trương vũ trang giải phóng của Mặt Trận, nhưng những tài liệu đăng tải trên báo Kháng Chiến cho đồng hương biết "10 ngàn quân đang sẵn sàng" ở biên giới,
những vụ đón xe đò tuyên truyền (dỗm), những cuộc tuyên thệ rầm rộ giữa núi rừng Thái Lan là những gì Mặt Trận phô bày để đồng hương móc hầu bao tiếp tục. Đối với đồng hương tị nạn Cộng Sản thì có thể quên, nhưng dối với ông ký giả A.C. Thompson chắc là ông ta không quên những tài liệu "10 ngàn quân" trong rừng của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh và Việt Tân, hơn nữa hai chữ "Kháng Chiến" đã nói lên cái gì nhỉ? Ông Lý Thái Hùng nhỉ?. Ông ký giả làm ra cuốn phim có thể quên Phó Đề Đốc đã hy sinh bên Thái Lan 14 năm mới được Đảng Việt Tân "cho chết" khi đảng Việt Tân ra mắt bên trời Âu, cùng lúc mà Việt Tân "chôn" Mặt Trận, nhưng người Việt trong và ngoài nước không quên được.
Tôi cũng không biết vô tình hay hữu ý mà ông Lý Thái Hùng không chú trọng đến cái chết của 5 ký giả mà A.C Thompson và cuốn phim nhắm đến để hình như kết tội Việt Tân đã ám sát họ. Phản ứng của Việt Tân như yêu cầu hãng phim rút xuống hay xóa bỏ không phát tiếp cuốn phim, hay nhờ luật sư đưa hảng phim ra tòa v.v... đó là điều bắt buộc chứ không phải như chuyện Chủ tịch Mặt Trận hy sinh bên Thái Lan mà vì xa xôi có thể hòa hoãn 14 năm sau mới khóc lóc. Những chuyện này là chuyện của Việt Tân cần phải làm:
"Tôi thấy cần làm một cái chi
Dẫu cho kết quả chẳng ra gì"
(Quên tác giả)
Và người Việt tị nạn Cộng Sản ở hải ngoại hôm nay cũng vậy, cũng quên những gì Mặt Trận và Việt Tân đã làm năm xưa, khi Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh chết rồi vẫn phải còn sống theo lệnh của cán bộ Trung Ương Việt Tân những 14 năm. Nhưng chuyện đồng hóa Việt Tân và cộng đồng thì đồng hương không thể quên và không thể không nói lên sự thật để xem hai bên - Việt Tân và Cộng Đồng có cùng quan điểm chính trị hay không, nói trắng ra là quan điểm hợp tác hay chống đối Cộng Sản ở trong nước.
Sau đây là những chủ trương mới tinh, lại do những đảng viên Việt Tân trích đoạn những chỉ thị của ông Lý Thái Hùng và Trung Ương Đảng Việt Tân phát biểu và phát tán cho đảng viên học tập:
Theo như lá thư thứ nhứt viết sau ngày Việt Tân Công Khai Hóa của đảng viên Nguyễn Việt Khanh đề ngày Sunday March 20.2005. 9:12PM kính gởi các c/h (chiến hữu, chú thích của người viết) lãnh đạo và quý c/h Việt Tân thì:
"Do những ưu tư từ những sự việc xảy ra gần đây, tôi đã mở lại những tài liêu nhân dịp CKH (Công khai hóa) mà thú thật là tôi chưa đọc kỹ tuy có những đoạn khó hiểu... bởi vì trong một buổi họp cơ sở đã có một vài c/h cho biết càng đọc thì các chiến hữu đó càng thấy rối mù. Sáng nay khi đọc lại tài liệu CKH đó có một số chi tiết đã khiến cho tôi lo sợ và thấy cần thiết phải viết hỏi các chiến hữu lãnh đạo ngay.
Tôi xin đưa ra các dữ kiện và các câu hỏi liên quan:
1/ Trong cuốn hỏi đáp VT bìa màu tím hoa cà, trang 21, phần mục số 2, tiêu đề: Dự Phóng Tương Lai Việt Nam Năm 2025 đã có đoạn viết như sau "TL (tài liệu) này có mục tiêu trình bày một số nhận định tổng quát về viễn cảnh Thế giới và Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản Việt Nam trong vòng 20 năm tới. Qua đó, VT đưa ra một lời giải cho tương lai Việt Nam với một sách lược phát triển qua 2 bước: 1/ Xây dựng thành công xã hội công dân và 2/ tiến hành phát triển toàn diện bắt đầu từ năm 2005 đến 2025".
Qua đoạn trình bày trên VT tiên đoán trong vòng 20 năm nữa đất nước Việt Nam vẫn ở dưới sự cai trị của đảng CSVN. Và VN sẽ phát triển qua 2 giai đoạn: 1/ Xây dựng thành công xã hội công dân, và 2 tiến hành phát triển toàn diện bắt đầu từ năm 2005 đến 2025 với sách lược Việt Tân.
Câu hỏi:1/ Theo tôi thì có 2 cách để hiểu đoạn văn kể trên:
- Một là, nếu trong 20 năm tới Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục ở dưới chế độ CSVN, và sẽ phát triển toàn diện qua 2 bước theo sách lược VT? (Điều này dĩ nhiên không thể xảy ra, theo suy nghĩ của tôi).
- Hai là, CSVN không thấy sách lược này là một mối nguy cho họ nên đã đồng ý cho phép VT được thực hiện sách lược 2 bước nói trên, giúp cho Việt Nam dưới chế độ hiện tại phát triển. Nếu điều này đúng, câu hỏi được đặt ra là: phải chăng VT (Việt Tân) đã quyết định hợp tác với CSVN?
2/ Qua sự tiên đoán của lãnh đạo VT (Việt Tân), trong 20 năm tới, dưới chế độ CSVN, xã hội VN sẽ trở thành một xã hội công dân và sẽ phát triển đi lên toàn diện. Nói một cách khác là trong vòng 20 tới VN vẫn ở dưới chế độ CSVN. Và dân tộc VN khi đó sẽ có hạnh phúc, đất nước Việt Nam sẽ trở nên phú cường.
Nếu lời giải tương lai VN này xảy ra đúng như dự kiến của tài liệu viết ra, thì mục tiêu đấu tranh chấm dứt chế độ độc tài cho dân tộc VN của đảng VT có còn ý nghĩa và có còn cần thiết nữa hay không? (Những Ưu Tư về Việt Tân chệch Hướng, trang 13).
Trên đây là chủ trương đường lối của đảng Việt Tân đã được in thành sách để đảng viên Việt Tân học tập và thi hành, do chính Tổng Bí Thư Lý Thái Hùng và các chiến hữu lãnh đạo biên soạn.
Cộng đồng Việt Nam tị nạn Cộng Sản trên toàn thế giới nói chung và tại Hoa Kỳ nói riêng có đồng ý sách lược 2 bước nêu trên với đảng Việt Tân do ông Lý Thái Hùng làm Tổng Bí Thư hay không? Chắc chắn là không, vì ngay cả nhiều chiến hữu của ông Lý Thái Hùng cũng công khai không đồng ý với ông và những c/h lãnh đạo cùng ông cũng không đồng ý với ông về 2 bước nói trên và đã tách VT ra làm đôi, cho ông Lý Thái Hùng và những c/h của ông là đã quyết định hợp tác với Cộng Sản Việt Nam (sic). Như vậy thì đảng Việt Tân hiện tại do ông Lý Thái Hùng làm Tổng Bí Thư còn dính dáng gì đến cộng đồng người Việt tị nạn Cộng Sản mà ông kêu gọi chúng tôi phản đối cuốn phim Terror in Little Saigon? Nghèo mà ham!
Kể từ khi cuốn phim "Terror in Little Saigon" xuất hiện, Đảng Việt Tân như "nhảy đầm trên lửa", điều đó không có gì là lạ, bởi vì "mọi cuộc điều tra đều hướng về Việt Tân". Đây có thể nói là một dịp may để hồ sơ vụ ám sát 5 ký giả gốc Việt đã bị "cho qua" bấy lâu nay, làm cho những người bị ám sát đã ngậm cay nuốt đắng bên kia thế giới, gia đình các nạn nhân cũng khóc không hết nước mắt vì nỗi oan khiên của người thân không được pháp luật làm sáng tỏ, và Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn Cộng Sản cũng bị mang tiếng có những phần tử khủng bố 'ẩn mình' trong cộng đồng. Nay có ký giả A.C. Thompson khơi lại, mở lại chồng hồ sơ để đem 5 vụ án này ra ánh sáng. Như thế, gia đình nạn nhân, Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn Cộng Sản cần phải giúp đỡ cuộc điều tra này cũng như những cuộc điều tra tiếp theo cho đến khi thủ phạm bị đưa ra ánh sáng, vạch mặt những phần tử 'bất hảo' đang 'ẩn mình' trong Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn cộng sản và những kẻ đó phải đền tội trước pháp luật. Đó là điều chính đáng chúng ta phải làm. Điều đáng lưu ý là ký giả A.C.Thompson cho rằng "mọi cuộc điều tra đều hướng về đảng Việt Tân". Nói cách khác là họ đã tình nghi Việt Tân là thủ phạm, bây giờ họ chỉ cần tìm chứng cớ nữa là có kết luận, nên nhớ trước đây FBI đóng hồ sơ vì 'không đủ yếu tố buộc tội' không có nghĩa là 'VÔ TỘI'!!.
- Trong cuộc phỏng vấn do nhà báo Nguyễn Xuân Nam, chủ nhân hệ thống truyền thông Calitoday thực hiện với ông Lý Thái Hùng, Tổng Bí Thư của Đảng Việt Tân, ông Lý Thái Hùng cho rằng cuốn phim xúc phạm đến Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn Cộng Sản và 'yêu cầu' cộng đồng lên tiếng phản đối cuốn phim này 'giúp họ'.
1) Ký giả A.C.Thompson lật lại 'chuỗi' hồ sơ ám sát trong Cộng Đồng Người Việt tị nạn Cộng Sản, chúng ta không tiếp tay họ thì thôi, không thể phản đối. Nếu chúng ta phản đối, hóa ra chúng ta binh vực 'tội ác', bênh vực thủ phạm hay sao?
2) Tựa đề "Terror in Little Saigon" có gì sai trái? Thực ra, nếu tác giả cuốn phim đặt cho tựa đề là "Terror in Vietnamese Community" cũng không có gì quá đáng, vì quả thực, 5 ký giả bị ám sát đều là người Việt, người thực hiện cuộn phim, ký giả AC Thompson đã tránh không trực tiếp đưa tên Cộng Đồng Việt Nam vào 'tựa đề' như vậy nên thông cảm với ông ta hơn là phản đối.
3) Nếu tìm đúng thủ phạm thì bất kỳ thủ phạm là người nào, thuộc sắc tộc nào, cũng phải bị trừng phạt vì tội ác của họ gây ra. Nếu thủ phạm không phải đảng viên Việt Tân thì càng tốt cho VT, và như vậy VT được minh oan. Nói cách khác là Cộng Đồng người Việt tị nạn Cộng Sản không thể vì lời yêu cầu của Việt Tân mà phản đối cuốn phim. Những cảnh liên quan đến Cộng Đồng, tác giả chỉ muốn chứng tỏ rằng Người Việt Tị Nạn Cộng Sản vì không chấp nhận sống trong chế độ Cộng Sản mà phải rời bỏ quê hương để có mặt tại Hoa Kỳ. Những sinh hoạt kể trên của Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn CS hoàn toàn trong khuôn khổ luật pháp Hoa Kỳ cho phép. Những cuộc biểu tình để cất cao tiếng nói đòi tự do dân chủ tại Việt Nam, vạch mặt tội ác của nhà cầm quyền CS Việt Nam chính là sự yểm trợ lớn lao cho các phong trào đấu tranh của người dân trong nước.
4) Vậy liên hệ thật sự giữa Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn Cộng Sản với Việt Tân như thế nào?
Sau đây là chủ trương của Việt Tân sau ngày Công Khai Hóa, tài liệu của Việt Tân ghi rõ:
"VT tiên đoán trong vòng 20 năm nữa, đất nước Việt Nam vẫn ở dưới sự cai trị của đảng CSVN. Và VN sẽ phát triển qua 2 giai đoạn: 1/ Xây dựng thành công xã hội công dân, và 2 tiến hành phát triển toàn diện bắt đầu từ năm 2005 đến 2025 với sách lược Việt Tân.
Câu hỏi: (của đảng viên VT hỏi ông Lý Thái Hùng:
"1/ Theo tôi thì có 2 cách để hiểu đoạn văn kể trên:
- Một là, nếu trong 20 năm tới Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục ở dưới chế độ CSVN, và sẽ phát triển toàn diện qua 2 bước theo sách lược VT? (Điều này dĩ nhiên không thể xảy ra, theo suy nghĩ của tôi).
Hai là, CSVN không thấy sách lược này là một mối nguy cho họ nên đã đồng ý cho phép VT được thực hiện sách lược 2 bước nói trên, giúp cho Việt Nam dưới chế độ hiện tại phát triển. Nếu điều này đúng, câu hỏi được đặt ra là: phải chăng VT (Việt Tân) đã quyết định hợp tác với CSVN?
(Những Ưu Tư về Việt Tân chệch Hướng, trang 13).
Với 2 bước nói trên, rõ ràng là Việt Tân đã quyết đi theo Việt Cộng. Nếu đi theo Việt Cộng thì Việt Tân với cộng đồng là 2 kẻ đối nghịch, làm sao chúng ta có thể hợp tác với Việt Tân để phản đối những ai muốn tìm ra thủ phạm ám sát 5 ký giả gốc Việt? Vấn đề quá rõ ràng, tuy nhiên, để cho những ai còn mơ màng, mập mờ muốn đánh lận con đen: Việt Tân cũng là phần tử của cộng đồng???? Xin được dẫn chứng tiếp theo tài liệu của chính Việt Tân theo lời của Vụ Trưởng Vụ Chính Huấn của Việt Tân:
"Có thể có lúc chúng ta phải làm một số chuyện mà 3 triệu người Việt hải ngoại họ không thích, nhưng nếu ta tin tưởng r8àng là việc chúng ta làm, 80 tri5êu người trong nước họ thích thì chúng ta phải đặt trên bàn cân thì phải chọn lựa 80 triệu người dân trong nước, và chúng ta phải chấp nhận ngoài này 3 triệu người hải ngoại không thích. Và đó là cái giá mà chúng ta phải trả".
Như vậy: Việt Tân đã chọn đối nghịch với cộng đồng một cách rõ ràng. Nếu có sự liên hệ chăng? Đó là sự đối đầu giữa Việt Tân và Cộng Đồng chứ không có gì khác.
Việt Tân còn cho rằng họ hợp tác với Việt Cộng trong kế hoạch dự phóng 2 bước là hợp với ý chí của 80 triệu người trong nước với sự xác quyết của Vụ Trưởng Vụ Chỉnh Huấn của Việt Tân: "Lực lượng quần chúng trong nước, cái tâm lý quần chúng trong nước, sự chờ đợi của quần chúng trong nước, mới là yếu tố quyết định con đường chúng ta đi chứ chứ không phải là sự chờ đợi của đồng bào hải ngoại".
Ai cũng có thể trả lời được rằng "dự phóng 2 bước" của Việt Tân là phản lại ý chí cũng như tâm lý của đồng bào trong nước, thế mà Việt Tân "cả vú lấp miệng em" cho rằng đồng bào trong nước thích cái "dự phóng 2 bước" của Việt Tân. Nói chính xác là Việt Tân đã "hiếp dâm" toàn thể đồng bào trong nước. Họ nhắm mắt trước các cuộc đấu tranh của đồng bào, họ không nghe những tiếng nói bất khuất, những nỗi cơ cực của đồng bào, họ không thấy máu đồng bào đã đổ ra vì chống Việt Cộng độc tài muốn muôn năm trường trị dân tộc, họ giả đui giả điếc mà cho rằng đồng bào trong nước cũng ủng hộ Việt Cộng như họ.
Tóm lại:
1) Việt Tân có kế hoạch 2 bước chấp nhận cho Việt Cộng cai trị dân tộc ít ra là đến năm 2025 và giúp Việc Cộng với ngụy kế là xây dựng thành công xã hội công dân và tiến hành phát triển toàn diện bắt đầu từ năm 2005 đến 2025 với sách lược Việt Tân. Nếu thực hiện kế hoạch này thì đúng Việt Tân là em Việt Cộng.
2) Lãnh đạo Việt Tân dối gạt đảng viên của họ là kế hoạch của họ được đồng bào trong nước chờ đợi và thích thú.
3) Việt Tân đã bất chấp ý chí của đồng hương hải ngoại, vu vạ cho đồng hương hải ngoại không cùng một ý chí chống Cộng với đồng bào trong nước. Nói cách khác Việt Tân là kẻ đối đầu với đồng hương hải ngoại.
4) Qua những câu trả lời của Lý Thái Hùng với nhà báo Nguyễn Xuân Nam, chúng ta thấy rõ ông này cũng "nói láo như Vẹm" khi cho rằng "10 ngàn quân chỉ để làm bảo vệ" chơi chứ không đánh đấm gì, trong khi đó ai đã đọc báo Kháng Chiến của Mặt Trận đều đọc thấy kháng chiến quân đang nào là chận xe đò tuyên truyền, tổ chức học tập kháng chiến cho đồng bào trong nước, Chủ tịch Hoàng Cơ Minh đang sống ở Việt Nam và đang lãnh đạo cuộc kháng chiến. Hằng năm, khi Hoa Đào Nở là mỗi lần Tết đến thì có thư chúc Tết của Chủ Tịch gởi ra... Hồi đó không biết Lý Thái Hùng đã sinh ra chưa mà không biết. Đã bắt đầu tức là có tiếp tục, có tiếp tục tức là có kết luận.
Đồng hương tị nạn Cộng Sản hãy để cho lời kêu cứu của Việt Tân đi vào quên lãng.
Kiêm Ái
4
CUỘC ĐỜI KIM DUNG
Tình Yêu và Cuộc Đời Kim Dung, Người Viết Tiểu Thuyết Kiếm Hiệp
Khi du lịch Hong Kong, hướng dẫn viên bản địa sẽ giới thiệu với du khách một ngôi biệt thự đồ sộ trên sườn núi Thái Bình, khu nhà ở của bậc tỷ phú Hong Kong, với giọng nói đầy ngưỡng mộ:
“Đây là ngôi nhà của nhà văn Kim Dung”. Rất nhiều người đã nghiên cứu “phong thủy” của ngôi nhà trên, nhằm giải thích nguyên nhân phát tích của “đại hiệp” Kim Dung.
Kim Dung cùng với Cổ Long và Lương Vũ Sinh, được gọi là “Võ hiệp tam đại gia”. Ông đã góp công lớn đưa thể loại văn chương võ hiệp từ tiểu thuyết dân dã bước lên lâu đài của nền văn học Trung Hoa hiện đại, trở thành nhà văn lớn ngang danh Ba Kim, Băng Tâm. Ngoài sự nghiệp văn chương, ít ai biết ông còn có một cuộc tình lãng mạn…
Người đưa tiểu thuyết võ hiệp vào sách giáo khoa
LỮ KHÁCH
Khi du lịch Hong Kong, hướng dẫn viên bản địa sẽ giới thiệu với du khách một ngôi biệt thự đồ sộ trên sườn núi Thái Bình, khu nhà ở của bậc tỷ phú Hong Kong, với giọng nói đầy ngưỡng mộ:
“Đây là ngôi nhà của nhà văn Kim Dung”. Rất nhiều người đã nghiên cứu “phong thủy” của ngôi nhà trên, nhằm giải thích nguyên nhân phát tích của “đại hiệp” Kim Dung.
Kim Dung cùng với Cổ Long và Lương Vũ Sinh, được gọi là “Võ hiệp tam đại gia”. Ông đã góp công lớn đưa thể loại văn chương võ hiệp từ tiểu thuyết dân dã bước lên lâu đài của nền văn học Trung Hoa hiện đại, trở thành nhà văn lớn ngang danh Ba Kim, Băng Tâm. Ngoài sự nghiệp văn chương, ít ai biết ông còn có một cuộc tình lãng mạn…
Người đưa tiểu thuyết võ hiệp vào sách giáo khoa
Kim Dung tên thật là Tra Lương Dung. Bút danh đó là do tên ông chiết từ thành 2 chữ mà ra. Ông sinh năm 1924, trong danh môn vọng tộc ở huyện Hải Ninh, tỉnh Chiết Giang (Trung Quốc). Từ năm 1948, ông định cư và xây dựng sự nghiệp ở Hong Kong.
Ông không viết nhiều như các đồng nghiệp khác. Năm 1955, ông viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên Thư kiếm ân cừu lục, đến năm 1972 viết cuốn Lộc đỉnh ký, rồi gác bút ở tuổi 48. Ông đã lấy 14 chữ đầu tên các cuốn sách của mình đặt thành câu đối như sau:
Phi tuyết liên thiên xạ bạch lộc;
Tiếu thư thần hiệp ỷ bích uyên.
Câu đối trên được khắc sau tượng Kim Dung, dựng trên đảo Đào Hoa, tỉnh Chiết Giang (quê hương “Đông tà” Hoàng Dược Sư trong pho truyện Anh hùng xạ điêu). 14 tác phẩm trên cộng thêm cuốn Việt nữ kiếm, như vậy tổng số tác phẩm Kim Dung là 15 cuốn.
Trích đoạn Tuyết sơn Phi Hồ đã được chọn trong sách giáo khoa ngữ văn trung học phổ thông ở Trung Quốc.
Biệt thự của Kim Dung.
Ngoài tiểu thuyết võ hiệp, Kim Dung còn viết nhiều bài thể loại phóng sự, bình luận, khảo cứu. Ông còn là một học giả uyên thâm, được phong nhiều học vị danh dự. Mặc dù đã được cấp bằng tiến sĩ văn học danh dự nhờ cuốn Lộc đỉnh ký, nhưng ông không thỏa mãn.
Năm 2005, ông lập kỷ lục Guinness đậu bằng tiến sĩ lịch sử thực thụ Trường Đại học Cambridge (Anh) ở tuổi 81 với luận văn “Bàn về chế độ kế thừa ngai vàng thời thịnh Đường”. Năm 1959, ông sáng lập và làm chủ bút tờ Minh Báo, về sau phát triển thành Tập đoàn Minh Báo lên sàn chứng khoán, do ông làm chủ tịch HĐQT. Trong làng văn chương Hoa ngữ, viết văn mà trở thành tỷ phú, có lẽ chỉ có Kim Dung!
“Giấc mộng đêm hè” của đại hiệp Kim Dung
Người đời thường nói: “Đắc ý trên thương trường, thất bại trên tình trường”. Kim đại hiệp ngang dọc giang hồ, nhưng tình yêu vẫn khó trọn vẹn.
Năm 1957, Kim Dung xin vào làm biên kịch cho hãng phim Trường Thành. Lúc đó ông mới 33 tuổi nhưng đã có tên trong danh sách “bốn tài tử Hương Cảng”, danh tiếng nổi như cồn, sao lại chịu khuất mình làm một nhân viên biên kịch? Lý do rất đơn giản: Trường Thành có ngôi sao sáng rực bầu trời – Hạ Mộng.
Hạ Mộng (nghĩa đen: “Giấc mộng đêm hè” , tên một vở hài kịch nổi tiếng của đại văn hào Shakespeare) tên thật là Dương Mông, sinh năm 1934, người Tô Châu, tỉnh Giang Tô, từ nhỏ sống ở Thượng Hải, năm 1947 định cư ở Hong Kong. Năm 15 tuổi, cô đóng vai chính trong vở kịch tiếng Anh Joan of Arc, được đánh giá “không những người đẹp, còn diễn xuất có hồn” và nổi danh từ đó. Cô cao 1,7m, rất hiếm vào thời điểm giữa thế kỷ trước, cộng thêm tố chất văn hóa, nên năm 1953, sau khi tham gia đội ngũ của hãng phim Trường Thành, cô nhanh chóng trở thành diễn viên hàng đầu với biệt danh “công chúa Trường Thành”.
Tả về vẻ đẹp của Hạ Mộng, Kim Dung từng viết: “Sắc đẹp Hạ Mộng trong đời thường đã làm tôi lóa mắt; Hạ Mộng trên màn ảnh còn đẹp hơn, nhìn thấy cô tim tôi đã loạn nhịp, hồn phách cũng bị cô hớp mất”.
Hạ Mộng tuổi học sinh.
Ông cũng từng viết: “Tây Thi đẹp như thế nào, chưa ai thấy, chắc chỉ cỡ Hạ Mộng là cùng!”. Để có cơ hội tiếp cận người tình trong mơ, Kim Dung đã chọn con đường gia nhập Trường Thành.
Về già, ông hồi tưởng lại, đúng như trong truyện dân gian Đường Bá Hổ điểm Thu Hương. Đường Bá Hổ là danh sĩ đời Minh, để tiếp cận người đẹp Thu Hương, ông đã đóng vai người hầu, nhưng khác với Kim Dung, Đường Bá Hổ được toại nguyện.
Để mắt xanh người đẹp để ý tới, ông đã làm việc không mệt mỏi. Chỉ trong vòng 3 năm, ông đã lấy bút danh Lâm Hoan dựng 6 kịch bản: Giai nhân tuyệt thế, Đừng rời xa em, Tiếng đờn lúc nửa đêm… Ông còn học làm đạo diễn, từng hợp tác với bạn, đạo diễn thành công hai bộ phim Ấp ủ tình xuân, Cướp dâu.
Các phim trên đều do Hạ Mộng đóng vai chính, hai người cộng tác rất thành công, nên ông có nhiều cơ hội tiếp cận người đẹp. Ông bày tỏ tình cảm bằng lời nói bóng gió và liếc mắt đưa tình. Cô cũng cảm mến tài đức của ông, nên đã đáp trả bằng “trên mức tình bạn, dưới mức tình yêu”, càng khiến ông thần hồn điên đảo, nhưng không thể vượt qua giới hạn cho phép.
Hạ Mộng (bìa trái) và Kim Dung (bìa phải).
Cuộc hò hẹn lãng mạn
Tất cả đều bắt nguồn từ việc “danh hoa đã có chủ”. Năm 1954, Hạ Mộng đã kết hôn với Lâm Bảo Thành, một thương nhân mê điện ảnh. Ngôi sao màn bạc Á Đông không sống phóng túng như ngôi sao Hollywood, Hạ Mộng không thể phản bội chồng. Đối với vô số người đeo đuổi, cô đều mặt lạnh như tiền, từ chối không thương tiếc, nhưng đối với Kim Dung, cô dành cho sự tôn trọng và thân thiện đặc biệt.
Hạ Mộng đã nhận lời hẹn gặp với Kim Dung một lần duy nhất tại một quán cà-phê đêm. Ánh đèn mở ảo và tiếng nhạc du dương tạo ra một bầu không khí thơ mộng, 2 người không ngừng nâng ly và bốn mắt nhìn nhau. Kim Dung đã mạnh dạn dốc hết bầu tâm sự bấy lâu nay. Nghe xong, cô rơi lệ và thỏ thẻ với ông rằng, cô rất kính trọng nhân phẩm của ông, cũng rất tán thưởng tài hoa của ông, chỉ tiếc ông đã đến chậm một bước, “Hận bất tương phùng vị giá thì” (Thơ Lý Thương Ẩn: Chỉ tiếc không gặp nhau lúc thiếp chưa lấy chồng). Cô đã xin ông tha thứ, kiếp này không toại nguyện xin hẹn kiếp sau!
Năm 1959, mang theo nỗi thương cảm không bờ bến, ông rời Trường Thành cùng nghề biên kịch và đạo diễn, ra sáng lập Minh Báo và chuyên tâm viết truyện võ hiệp.
Tuy chém dứt tơ tình, nhưng hình ảnh Hạ Mộng vẫn dai dẳng bao trùm tâm trí ông. Không lâu sau đó, Hạ Mộng đi du lịch châu Âu dài ngày, ông đã đăng trên Minh Báo 10 số liền “Hạ Mộng du ký”, chính đã thể hiện điều đó.
Hình ảnh Hạ Mộng cũng được tái hiện dưới ngòi bút Kim Dung, như nàng Tiểu Long Nữ trong trắng hồn nhiên (Thần điêu đại hiệp), Hoàng Dung thông minh sắc sảo (Anh hùng xạ điêu), Vương Ngữ Yên đẹp như tiên nữ (Thiên long bát bộ)…
Nhà văn nữ Đài Loàn đã quá cố Tam Mao từng viết: “Tiểu thuyết Kim Dung đặc biệt ở chỗ, viết ra chữ tình có thể khiến con người lên thiên đàng, xuống địa ngục, mà loài người đến nay vẫn chưa hiểu thấu. Nếu không biết được đoạn tình giữa ông và Hạ Mộng, sẽ không hiểu được hai chữ “tình duyên” trong tiểu thuyết của ông.
Sau 26 năm phấn đấu trên phim trường cũng như thương trường, cô đã để lại 42 bộ phim cũng như danh tiếng lẫy lừng trong giới điện ảnh tiếng Hoa. Năm 1976, Hạ Mộng cáo biệt những người hâm mộ Hong Kong, cùng gia đình đi định cư ở Canada.
Kim Dung không những đưa tin tường tận, còn phát biểu xã luận nhan đề “Giấc mộng mùa xuân của Hạ Mộng”. Lúc đó, Minh Báo đã là tờ báo lớn, vì sự ra đi của cô đào điện ảnh mà phát biểu xã luận, là việc chưa từng có; chỉ có người trong cuộc mới hiểu được ngọn ngành “giấc mộng” của ông.
Nhìn lại cuộc tình ngang trái diễn ra khi trai có vợ, gái có chồng (Kim Dung kết hôn lần hai năm 1956), chỉ có thể là tình yêu kiểu Plato không vướng bụi trần, để lại một giai thoại cho văn đàn.
Những cuộc hôn nhân đầy sóng gió
Vợ đầu tiên của Kim Dung là Đỗ Trị Phấn, một cô gái xinh đẹp người Hàng Châu. Sau 1 năm yêu nhau, năm 1948, hai người đã kết hôn. Lúc đó cô mới 17 tuổi và sau đó đã cùng nhau sang Hong Kong. Kim Dung mới khởi nghiệp, bận rộn tứ bề, không có thời gian chăm sóc cô vợ kiêu kỳ.
Với sắc đẹp trời cho, trong vòng vây của các “đại gia” trên đất phồn hoa đô hội, cô đã không chống nổi cám dỗ. Tình cảm 2 người rạn nứt, năm 1953 cô đã bỏ về Đại Lục và làm thủ tục ly hôn, không rõ kết cục cô ra sao.
Ảnh cưới Kim Dung và người vợ đầu tiên Đỗ Trị Phấn.
Ở tuổi 74, khi hồi tưởng lại cuộc hôn nhân bất hạnh này, ông nói: “Mặc dù tôi rất yêu cô ấy, nhưng cô ấy đã phản bội tôi, nên kết cục đó tôi không hề hối tiếc”.
Năm 1956, Kim Dung lấy người vợ thứ 2 kém ông 11 tuổi, cô Châu Mai, tên tiếng Anh là Lucy, một nữ phóng viên sắc sảo, giỏi giang, thạo tiếng Anh, là cánh tay đắc lực khi Kim Dung mới sáng lập Minh Báo.
Cô từng bán hết nữ trang ủng hộ sự nghiệp của Kim Dung, đúng nghĩa người vợ tào khang. Năm 1959, Lucy sinh con trai đầu lòng Tra Truyền Hiệp. Kim Dung có cả thảy 4 người con, 2 trai 2 gái, đều là con cô Lucy.
Cuộc hôn nhân tưởng như mỹ mãn này cũng không được bền lâu, do có người thứ 3 xuất hiện.
Lucy vốn tính cứng rắn, cô giữ chức trưởng ban phóng sự Minh Báo, hay xích mích với các đồng nghiệp.
Trong một lần xô xát với tổng biên tập Wong, ông đã phẫn uất ra đi, kéo theo một số nhân viên đắc lực, khiến Minh Báo phải đình bản vài ngày.
Lucy không những không nhận lỗi, còn đổ hết trách nhiệm cho Kim Dung.
Trong cơn buồn bực, ông đã đến giải sầu tại một quán bar gần trụ sở Minh Báo. Ông đã uống đến say mềm, không về nhà nổi. Quán bar có 3 cô phục vụ, nhưng chỉ có cô Lâm Lạc Di, thường gọi là A May, tận tình chăm sóc ông.
Sau đó, ông hay đến quán bar thư giãn và trò chuyện cùng A May. Một lần bị Lucy bắt gặp, cô đánh ghen vô cớ, khiến Kim Dung bị choáng váng, bệnh tim tái phát phải đưa đi cấp cứu, người trực bên giường bệnh vẫn là A May chứ chẳng phải ai khác.
Ông đã đặt vấn đề yêu đương và xây tổ ấm chung sống với người tình bé bỏng của mình, lúc đó A May mới 17 tuổi, còn ông đã ngoài 50.
Kim Dung và người vợ thứ hai Lucy.
Giọt nước đã làm tràn ly, ông đặt vấn đề ly hôn. Lucy không hề níu kéo, mà chỉ đề ra hai điều kiện khắt khe : Chia nửa gia tài và buộc A May phải tuyệt sản, vì e rằng sau này con anh con tôi, sinh nhiều chuyện rắc rối.
Với điều kiện thứ 2 phi lý như vậy, không ngờ A May đã khảng khái chấp nhận, nói theo lời của cô, là để tập trung chăm sóc cho các con của Kim Dung, sau này cô quả đã làm tốt điều đó.
Không thể kiểm chứng tính xác thực của thông tin này, nhưng A May ở tuổi xuân thì, sống với ông hơn 30 năm nhưng không có con, nên người ta tin giao kèo trên là có thật.
Kim Dung cùng phu nhân A May.
Năm 1976, con cả Kim Dung là Tra Truyền Hiệp mới 18 tuổi, đang du học ở Trường Đại học Columbia Mỹ, sau khi yêu cầu bố mẹ ngừng quyết định ly hôn không thành, đã nhảy từ lầu 21 xuống tự sát.
Khi ly hôn, Lucy được chia một căn nhà lớn cùng 300.000 USD, lúc đó là con số cực lớn, nhưng không hiểu vì tính hoang phí hay không thạo lý tài, nên cô đã nhanh chóng lâm vào cảnh nợ nần chồng chất, bị ngân hàng tịch biên nhà cửa.
Có người còn nhìn thấy cô đứng đường bán túi xách ở khu Trung Hoàn. Năm 1996, cô chết vì bệnh lao phổi, một bệnh của người nghèo, ở tuổi 63.
Cô chết trong cảnh cô đơn lạnh lẽo, chồng cũ và các con đều không ai có mặt, giấy báo tử của bệnh viện cũng không biết phải báo cho ai.
Hình chụp mới nhất của vợ chồng Kim Dung.
Nhìn lại cuộc hôn nhân này, ông từng nói: “Tôi nhập vai người chồng không thành công, tôi mắc lỗi với cô ấy nhiều lắm, nếu được làm lại, tôi sẽ bù đắp cho cô ấy nhiều hơn”. Không thấy ông mảy may có chút hối tiếc về cuộc chia ly này.
Làm sao có thể bỏ người vợ tần tảo, học thức, bản lãnh, cũng không kém phần nhan sắc, đi yêu một cô bé “ăn chưa no, lo chưa tới”, trình độ chưa hết phổ thông, các nhà “Kim Dung học” không giải thích nổi; có lẽ chỉ có chính ông mới hiểu, nhưng trái tim có tiếng nói riêng của nó, dù nhà văn lớn cũng đâu có thể diễn tả rành rọt được.
Có người đến thăm ông lúc đó, mô tả lại thấy A May đang thổi bong bóng cùng các con của Kim Dung, chẳng ra dáng “mẹ kế” chút nào, cũng chẳng phách lối như một bà chủ lớn. Để “tân trang” cho cô vợ bé nhỏ, ông đã cho cô sang Úc du học cùng lời hứa “nếu có mối tình nào ưng ý, cô cứ việc bay nhảy”. Cô đã không phụ tình ông, đã cùng ông đi suốt đường đời dưới bóng tịch dương cho đến ngày nay.
Đánh giá về cuộc hôn nhân này, ông nói: “Cô ấy luôn luôn chiều chuộng và nhường nhịn tôi. Đây không phải cuộc hôn nhân thất bại, cũng chẳng mấy thành công, chỉ là cuộc hôn nhân bình thường”. Quan niệm của ông về cuộc hôn nhân lý tưởng: “Tốt nhất là bị ngay tiếng sét ái tình, rồi kết nghĩa vợ chồng đến lúc đầu bạc răng long, nhưng rất tiếc, đối với tôi đó chỉ là điều mơ ước”.
Ông không viết nhiều như các đồng nghiệp khác. Năm 1955, ông viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên Thư kiếm ân cừu lục, đến năm 1972 viết cuốn Lộc đỉnh ký, rồi gác bút ở tuổi 48. Ông đã lấy 14 chữ đầu tên các cuốn sách của mình đặt thành câu đối như sau:
Phi tuyết liên thiên xạ bạch lộc;
Tiếu thư thần hiệp ỷ bích uyên.
Câu đối trên được khắc sau tượng Kim Dung, dựng trên đảo Đào Hoa, tỉnh Chiết Giang (quê hương “Đông tà” Hoàng Dược Sư trong pho truyện Anh hùng xạ điêu). 14 tác phẩm trên cộng thêm cuốn Việt nữ kiếm, như vậy tổng số tác phẩm Kim Dung là 15 cuốn.
Trích đoạn Tuyết sơn Phi Hồ đã được chọn trong sách giáo khoa ngữ văn trung học phổ thông ở Trung Quốc.
Biệt thự của Kim Dung.
Ngoài tiểu thuyết võ hiệp, Kim Dung còn viết nhiều bài thể loại phóng sự, bình luận, khảo cứu. Ông còn là một học giả uyên thâm, được phong nhiều học vị danh dự. Mặc dù đã được cấp bằng tiến sĩ văn học danh dự nhờ cuốn Lộc đỉnh ký, nhưng ông không thỏa mãn.
Năm 2005, ông lập kỷ lục Guinness đậu bằng tiến sĩ lịch sử thực thụ Trường Đại học Cambridge (Anh) ở tuổi 81 với luận văn “Bàn về chế độ kế thừa ngai vàng thời thịnh Đường”. Năm 1959, ông sáng lập và làm chủ bút tờ Minh Báo, về sau phát triển thành Tập đoàn Minh Báo lên sàn chứng khoán, do ông làm chủ tịch HĐQT. Trong làng văn chương Hoa ngữ, viết văn mà trở thành tỷ phú, có lẽ chỉ có Kim Dung!
“Giấc mộng đêm hè” của đại hiệp Kim Dung
Người đời thường nói: “Đắc ý trên thương trường, thất bại trên tình trường”. Kim đại hiệp ngang dọc giang hồ, nhưng tình yêu vẫn khó trọn vẹn.
Năm 1957, Kim Dung xin vào làm biên kịch cho hãng phim Trường Thành. Lúc đó ông mới 33 tuổi nhưng đã có tên trong danh sách “bốn tài tử Hương Cảng”, danh tiếng nổi như cồn, sao lại chịu khuất mình làm một nhân viên biên kịch? Lý do rất đơn giản: Trường Thành có ngôi sao sáng rực bầu trời – Hạ Mộng.
Hạ Mộng (nghĩa đen: “Giấc mộng đêm hè” , tên một vở hài kịch nổi tiếng của đại văn hào Shakespeare) tên thật là Dương Mông, sinh năm 1934, người Tô Châu, tỉnh Giang Tô, từ nhỏ sống ở Thượng Hải, năm 1947 định cư ở Hong Kong. Năm 15 tuổi, cô đóng vai chính trong vở kịch tiếng Anh Joan of Arc, được đánh giá “không những người đẹp, còn diễn xuất có hồn” và nổi danh từ đó. Cô cao 1,7m, rất hiếm vào thời điểm giữa thế kỷ trước, cộng thêm tố chất văn hóa, nên năm 1953, sau khi tham gia đội ngũ của hãng phim Trường Thành, cô nhanh chóng trở thành diễn viên hàng đầu với biệt danh “công chúa Trường Thành”.
Tả về vẻ đẹp của Hạ Mộng, Kim Dung từng viết: “Sắc đẹp Hạ Mộng trong đời thường đã làm tôi lóa mắt; Hạ Mộng trên màn ảnh còn đẹp hơn, nhìn thấy cô tim tôi đã loạn nhịp, hồn phách cũng bị cô hớp mất”.
Hạ Mộng tuổi học sinh.
Ông cũng từng viết: “Tây Thi đẹp như thế nào, chưa ai thấy, chắc chỉ cỡ Hạ Mộng là cùng!”. Để có cơ hội tiếp cận người tình trong mơ, Kim Dung đã chọn con đường gia nhập Trường Thành.
Về già, ông hồi tưởng lại, đúng như trong truyện dân gian Đường Bá Hổ điểm Thu Hương. Đường Bá Hổ là danh sĩ đời Minh, để tiếp cận người đẹp Thu Hương, ông đã đóng vai người hầu, nhưng khác với Kim Dung, Đường Bá Hổ được toại nguyện.
Để mắt xanh người đẹp để ý tới, ông đã làm việc không mệt mỏi. Chỉ trong vòng 3 năm, ông đã lấy bút danh Lâm Hoan dựng 6 kịch bản: Giai nhân tuyệt thế, Đừng rời xa em, Tiếng đờn lúc nửa đêm… Ông còn học làm đạo diễn, từng hợp tác với bạn, đạo diễn thành công hai bộ phim Ấp ủ tình xuân, Cướp dâu.
Các phim trên đều do Hạ Mộng đóng vai chính, hai người cộng tác rất thành công, nên ông có nhiều cơ hội tiếp cận người đẹp. Ông bày tỏ tình cảm bằng lời nói bóng gió và liếc mắt đưa tình. Cô cũng cảm mến tài đức của ông, nên đã đáp trả bằng “trên mức tình bạn, dưới mức tình yêu”, càng khiến ông thần hồn điên đảo, nhưng không thể vượt qua giới hạn cho phép.
Hạ Mộng (bìa trái) và Kim Dung (bìa phải).
Cuộc hò hẹn lãng mạn
Tất cả đều bắt nguồn từ việc “danh hoa đã có chủ”. Năm 1954, Hạ Mộng đã kết hôn với Lâm Bảo Thành, một thương nhân mê điện ảnh. Ngôi sao màn bạc Á Đông không sống phóng túng như ngôi sao Hollywood, Hạ Mộng không thể phản bội chồng. Đối với vô số người đeo đuổi, cô đều mặt lạnh như tiền, từ chối không thương tiếc, nhưng đối với Kim Dung, cô dành cho sự tôn trọng và thân thiện đặc biệt.
Hạ Mộng đã nhận lời hẹn gặp với Kim Dung một lần duy nhất tại một quán cà-phê đêm. Ánh đèn mở ảo và tiếng nhạc du dương tạo ra một bầu không khí thơ mộng, 2 người không ngừng nâng ly và bốn mắt nhìn nhau. Kim Dung đã mạnh dạn dốc hết bầu tâm sự bấy lâu nay. Nghe xong, cô rơi lệ và thỏ thẻ với ông rằng, cô rất kính trọng nhân phẩm của ông, cũng rất tán thưởng tài hoa của ông, chỉ tiếc ông đã đến chậm một bước, “Hận bất tương phùng vị giá thì” (Thơ Lý Thương Ẩn: Chỉ tiếc không gặp nhau lúc thiếp chưa lấy chồng). Cô đã xin ông tha thứ, kiếp này không toại nguyện xin hẹn kiếp sau!
Năm 1959, mang theo nỗi thương cảm không bờ bến, ông rời Trường Thành cùng nghề biên kịch và đạo diễn, ra sáng lập Minh Báo và chuyên tâm viết truyện võ hiệp.
Tuy chém dứt tơ tình, nhưng hình ảnh Hạ Mộng vẫn dai dẳng bao trùm tâm trí ông. Không lâu sau đó, Hạ Mộng đi du lịch châu Âu dài ngày, ông đã đăng trên Minh Báo 10 số liền “Hạ Mộng du ký”, chính đã thể hiện điều đó.
Hình ảnh Hạ Mộng cũng được tái hiện dưới ngòi bút Kim Dung, như nàng Tiểu Long Nữ trong trắng hồn nhiên (Thần điêu đại hiệp), Hoàng Dung thông minh sắc sảo (Anh hùng xạ điêu), Vương Ngữ Yên đẹp như tiên nữ (Thiên long bát bộ)…
Nhà văn nữ Đài Loàn đã quá cố Tam Mao từng viết: “Tiểu thuyết Kim Dung đặc biệt ở chỗ, viết ra chữ tình có thể khiến con người lên thiên đàng, xuống địa ngục, mà loài người đến nay vẫn chưa hiểu thấu. Nếu không biết được đoạn tình giữa ông và Hạ Mộng, sẽ không hiểu được hai chữ “tình duyên” trong tiểu thuyết của ông.
Sau 26 năm phấn đấu trên phim trường cũng như thương trường, cô đã để lại 42 bộ phim cũng như danh tiếng lẫy lừng trong giới điện ảnh tiếng Hoa. Năm 1976, Hạ Mộng cáo biệt những người hâm mộ Hong Kong, cùng gia đình đi định cư ở Canada.
Kim Dung không những đưa tin tường tận, còn phát biểu xã luận nhan đề “Giấc mộng mùa xuân của Hạ Mộng”. Lúc đó, Minh Báo đã là tờ báo lớn, vì sự ra đi của cô đào điện ảnh mà phát biểu xã luận, là việc chưa từng có; chỉ có người trong cuộc mới hiểu được ngọn ngành “giấc mộng” của ông.
Nhìn lại cuộc tình ngang trái diễn ra khi trai có vợ, gái có chồng (Kim Dung kết hôn lần hai năm 1956), chỉ có thể là tình yêu kiểu Plato không vướng bụi trần, để lại một giai thoại cho văn đàn.
Những cuộc hôn nhân đầy sóng gió
Vợ đầu tiên của Kim Dung là Đỗ Trị Phấn, một cô gái xinh đẹp người Hàng Châu. Sau 1 năm yêu nhau, năm 1948, hai người đã kết hôn. Lúc đó cô mới 17 tuổi và sau đó đã cùng nhau sang Hong Kong. Kim Dung mới khởi nghiệp, bận rộn tứ bề, không có thời gian chăm sóc cô vợ kiêu kỳ.
Với sắc đẹp trời cho, trong vòng vây của các “đại gia” trên đất phồn hoa đô hội, cô đã không chống nổi cám dỗ. Tình cảm 2 người rạn nứt, năm 1953 cô đã bỏ về Đại Lục và làm thủ tục ly hôn, không rõ kết cục cô ra sao.
Ảnh cưới Kim Dung và người vợ đầu tiên Đỗ Trị Phấn.
Ở tuổi 74, khi hồi tưởng lại cuộc hôn nhân bất hạnh này, ông nói: “Mặc dù tôi rất yêu cô ấy, nhưng cô ấy đã phản bội tôi, nên kết cục đó tôi không hề hối tiếc”.
Năm 1956, Kim Dung lấy người vợ thứ 2 kém ông 11 tuổi, cô Châu Mai, tên tiếng Anh là Lucy, một nữ phóng viên sắc sảo, giỏi giang, thạo tiếng Anh, là cánh tay đắc lực khi Kim Dung mới sáng lập Minh Báo.
Cô từng bán hết nữ trang ủng hộ sự nghiệp của Kim Dung, đúng nghĩa người vợ tào khang. Năm 1959, Lucy sinh con trai đầu lòng Tra Truyền Hiệp. Kim Dung có cả thảy 4 người con, 2 trai 2 gái, đều là con cô Lucy.
Cuộc hôn nhân tưởng như mỹ mãn này cũng không được bền lâu, do có người thứ 3 xuất hiện.
Lucy vốn tính cứng rắn, cô giữ chức trưởng ban phóng sự Minh Báo, hay xích mích với các đồng nghiệp.
Trong một lần xô xát với tổng biên tập Wong, ông đã phẫn uất ra đi, kéo theo một số nhân viên đắc lực, khiến Minh Báo phải đình bản vài ngày.
Lucy không những không nhận lỗi, còn đổ hết trách nhiệm cho Kim Dung.
Trong cơn buồn bực, ông đã đến giải sầu tại một quán bar gần trụ sở Minh Báo. Ông đã uống đến say mềm, không về nhà nổi. Quán bar có 3 cô phục vụ, nhưng chỉ có cô Lâm Lạc Di, thường gọi là A May, tận tình chăm sóc ông.
Sau đó, ông hay đến quán bar thư giãn và trò chuyện cùng A May. Một lần bị Lucy bắt gặp, cô đánh ghen vô cớ, khiến Kim Dung bị choáng váng, bệnh tim tái phát phải đưa đi cấp cứu, người trực bên giường bệnh vẫn là A May chứ chẳng phải ai khác.
Ông đã đặt vấn đề yêu đương và xây tổ ấm chung sống với người tình bé bỏng của mình, lúc đó A May mới 17 tuổi, còn ông đã ngoài 50.
Kim Dung và người vợ thứ hai Lucy.
Giọt nước đã làm tràn ly, ông đặt vấn đề ly hôn. Lucy không hề níu kéo, mà chỉ đề ra hai điều kiện khắt khe : Chia nửa gia tài và buộc A May phải tuyệt sản, vì e rằng sau này con anh con tôi, sinh nhiều chuyện rắc rối.
Với điều kiện thứ 2 phi lý như vậy, không ngờ A May đã khảng khái chấp nhận, nói theo lời của cô, là để tập trung chăm sóc cho các con của Kim Dung, sau này cô quả đã làm tốt điều đó.
Không thể kiểm chứng tính xác thực của thông tin này, nhưng A May ở tuổi xuân thì, sống với ông hơn 30 năm nhưng không có con, nên người ta tin giao kèo trên là có thật.
Kim Dung cùng phu nhân A May.
Năm 1976, con cả Kim Dung là Tra Truyền Hiệp mới 18 tuổi, đang du học ở Trường Đại học Columbia Mỹ, sau khi yêu cầu bố mẹ ngừng quyết định ly hôn không thành, đã nhảy từ lầu 21 xuống tự sát.
Khi ly hôn, Lucy được chia một căn nhà lớn cùng 300.000 USD, lúc đó là con số cực lớn, nhưng không hiểu vì tính hoang phí hay không thạo lý tài, nên cô đã nhanh chóng lâm vào cảnh nợ nần chồng chất, bị ngân hàng tịch biên nhà cửa.
Có người còn nhìn thấy cô đứng đường bán túi xách ở khu Trung Hoàn. Năm 1996, cô chết vì bệnh lao phổi, một bệnh của người nghèo, ở tuổi 63.
Cô chết trong cảnh cô đơn lạnh lẽo, chồng cũ và các con đều không ai có mặt, giấy báo tử của bệnh viện cũng không biết phải báo cho ai.
Hình chụp mới nhất của vợ chồng Kim Dung.
Nhìn lại cuộc hôn nhân này, ông từng nói: “Tôi nhập vai người chồng không thành công, tôi mắc lỗi với cô ấy nhiều lắm, nếu được làm lại, tôi sẽ bù đắp cho cô ấy nhiều hơn”. Không thấy ông mảy may có chút hối tiếc về cuộc chia ly này.
Làm sao có thể bỏ người vợ tần tảo, học thức, bản lãnh, cũng không kém phần nhan sắc, đi yêu một cô bé “ăn chưa no, lo chưa tới”, trình độ chưa hết phổ thông, các nhà “Kim Dung học” không giải thích nổi; có lẽ chỉ có chính ông mới hiểu, nhưng trái tim có tiếng nói riêng của nó, dù nhà văn lớn cũng đâu có thể diễn tả rành rọt được.
Có người đến thăm ông lúc đó, mô tả lại thấy A May đang thổi bong bóng cùng các con của Kim Dung, chẳng ra dáng “mẹ kế” chút nào, cũng chẳng phách lối như một bà chủ lớn. Để “tân trang” cho cô vợ bé nhỏ, ông đã cho cô sang Úc du học cùng lời hứa “nếu có mối tình nào ưng ý, cô cứ việc bay nhảy”. Cô đã không phụ tình ông, đã cùng ông đi suốt đường đời dưới bóng tịch dương cho đến ngày nay.
Đánh giá về cuộc hôn nhân này, ông nói: “Cô ấy luôn luôn chiều chuộng và nhường nhịn tôi. Đây không phải cuộc hôn nhân thất bại, cũng chẳng mấy thành công, chỉ là cuộc hôn nhân bình thường”. Quan niệm của ông về cuộc hôn nhân lý tưởng: “Tốt nhất là bị ngay tiếng sét ái tình, rồi kết nghĩa vợ chồng đến lúc đầu bạc răng long, nhưng rất tiếc, đối với tôi đó chỉ là điều mơ ước”.
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 390