RỒI SẼ MỘT NGÀY
TÔI RẤTSỢ
RỒI SẼ MỘTNGÀY
Tôi rất sợ
rồi sẽ một ngày
hình Mao Trạch Đông rất to
đóng khung thật đẹp
treo ở nơi trang trọng nhất trong nhà
Những lá cờ
nền đỏ, 5 ngôi sao vàng
một lớn, bốn nhỏ
phần phật tung bay khắp phố
Những con đường
Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Trưng Vương
gợi những trang sử hào hùng, bất khuất
thay bằng những cái tên Tàu lạ hoắc.
Tôi rất sợ
rồi sẽ một ngày
cầm trong tay tấm Chứng Minh Nhân Dân
tên của mình được phiên âm
đọc lên như người nói ngọng
Những đứa trẻ Việt Nam đến trường
xì xồ tiếng Quảng Đông, Quan Thoại
đọc Ngũ Kinh, Tứ Thư
Truyện Kiều của Nguyễn Du
vứt vào sọt rác
Và tôi cũng rất sợ
rồi sẽ một ngày
trên bản đồ thế giới
mảnh đất hình chữ S
với cái tên Việt Nam thân thiết
thành Khu Tự Trị Ngoại Biên (1)
không còn nằm trong Liên Hiệp Quốc
vì đã mất tư cách thành viên
Tuổi trẻ Việt Nam
trong cơn tủi nhục, hận thù, cuồng nộ
sẽ đào mồ cuốc mả Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng
phanh thây Đỗ Mười (2)
bằm nát thi thể Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, NguyễnTấn Dũng
đổ vào hố xí
Nhưng có làm được việc ấy cũng quá trễ
không thể lật ngược thế cờ
dân tộc Việt Nam vĩnh viễn mất tự do
vĩnh viễn làm nô lệ
Hỡi tất cả 90 triệu người Việt Nam!
Hỡi toàn thể cộng đồng người Việt hải ngoại!
không còn là chuyện viển vông
cái ngày đáng sợ ấy
đang sờ sờ trước mắt
bằng Hội Nghị Thành Đô (3)
Đảng Cộng Sản đã cam tâm bán nước
Ngay bây giờ
Chúng ta hãy noi gương người Miến Điện (4)
cùng cất tiếng nói
đồng loạt đứng lên
đất nước đang thậm chí nguy nan
nếucứ “lửng lơ con cá vàng”
cáingày đáng sợ ấy … sẽ đến.
Sài Gòn ngày 22 tháng 11 năm 2015
Một thầy giáo dậy Văn yêu nước
LHD
LHD
CHÚ THÍCH:
1/ Trong tài liệu tuyệt mật liênquan tới Việt nam này của mình, Wikileaks khẳng định thông tin dưới đây nằmtrong số 3.100 các bức điện đánh đi từ Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh củacơ quan ngoại giao Hoa kỳ tại Việt nam gửi chính phủ Hoa kỳ, tài liệu này có đoạnghi rõ “… Vì sựtồn tại của sự nghiệp xây dựng thành công CNCS, Đảng CSVN và nhà nước Việt namđề nghị phía Trung quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việtnam xin làm hết mình để vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai đảng vànhân dân hai nước do Chủ tịch Mao trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh dày côngxây đắp trong quá khứ và Việt nam bảy tỏ mong muốn đồng ý sẵn sàng chấp nhận vàđề nghị phía Trung quốc để Việt nam được hưởng quy chế Khu tự trị trực thuộcchính quyền Trung ương tại Bắc kinh như Trung quốc đã từng dành cho Nội Mông,Tây Tạng, Quảng tây…. Phía Trung quốc đã đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên,cho thời hạn phía Việt nam trong thời hạn 30 năm (1990-2020)để Đảng CSVN giảiquyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộcTrung quốc”. (http://www.vantholacviet.org/news-2259/5/Tin-quo%CC%81c-ngoa%CC%A3i/Wikileaks--TQ-cho-Viet-nam-duoc-huong-quy-che-Khu-tu-tri-truc-thuoc-CQ-Trung-uong-tai-Bac-kinh.html)
2/ Tham dựHội Nghị Thành Đô về phía VN có: Nguyễn Văn Linh (TBT đảng CSVN) làm trưởng đoàn,Phạm Văn Đồng (Cựu Thủ Tướng) làm cố vấn, Đỗ Mười (Thủ Tướng) là thành viên.NVL và PVĐ đã chết, Đỗ Mười (98 tuổi) vẫn còn sống. Phía TQ có Giang Trạch Dân(TBT) và Lý Bằng (Thủ Tướng).
3/ Nhóm họptrong 2 ngày tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên TQ.
4/ Đảng LiênMinh Quốc Gia Vì Dân Chủ (NLD) Miến Điện của bà Aung San Suu Kyi đã thắng cử vàgiành được quyền thành lập chính phủ trong cuộc bầu cử tự do đầu tiên vào đầutháng 11/2015 sau 25 năm dưới chế độ độc tài, quân phiệt. (theo VOA và BBC)
Tuesday, November 24, 2015
VĂN QUANG THIÊN HẠ SỰ
Trộm cắp từ sân bay đến thành phố
(VienDongDaily.Com - 20/11/2015)
Vậy xin hỏi các quan ở sân bay Tân Sơn Nhất từ bao năm nay, các ông đã điều tra được những vụ tham nhũng và nhũng nhiễu khách hàng nào? Chẳng thấy các ông báo cáo cho nhân dân được biết.
Văn Quang - Viết từ Sài Gòn
Có hai nguyên nhân “đáng sợ” nhất của thời đại kinh tế suy thoái và đạo đức băng hoại cùng bọn quan lại tham nhũng, đó là nạn mại dâm và trộm cướp hoành hành ở khắp nơi. Kỳ trước tôi đã tường thuật với bạn đọc về tệ nạn mại dâm ở TP Sài Gòn. Kỳ này tôi tường thuật về nạn trộm cắp ngay tại Sân bay Tân Sơn Nhất và giữa Sài Gòn.
Đã hơn một lần tôi kể với bạn đọc về những điều trái tai gai mắt ở sân bay Tân Sơn Nhất, một sân bay lớn nhất nước và lưu ý du khách nào đến Sài Gòn cũng phải đề phòng tệ nạn này. Nhất là chuyện tham nhũng, chuyện vòi tiền của các “quan chức” làm việc trực tiếp với khách. Thế nhưng vở kịch nhơ bẩn đó vẫn cứ diễn ra hàng ngày, hàng giờ trước mắt thiên hạ, rồi đến chuyện ăn cắp hành lý của khách đi máy bay.
Cho đến nay cũng chẳng thay đổi được gì. Cho nên sân bay này, năm nay vẫn được “vinh dự” xếp vào loại Tệ Nhất Châu Á.
Theo bảng xếp hạng năm 2015 của trang web The Guide to Sleeping in Airports, Tân Sơn Nhất được xếp hạng đứng thứ tư trong danh sách sân bay tệ nhất châu Á. Năm 2014, sân bay này cũng bị liệt vào danh sách tệ nhất do trang web trên bình chọn. Tức là hai năm liền đều tệ như nhau.
Ngoài ra, hành khách còn phàn nàn tín hiệu wifi kém, phòng vệ sinh bẩn và hạn chế lựa chọn trong các nhà hàng.
Lời khuyên được trang web đưa ra là “Nếu ghé qua Tân Sơn Nhất, hành khách nên cẩn thận giữ tài sản có giá trị và cầm một số tiền nhỏ trên tay.”
Người VN nào chẳng xấu hổ khi đọc bản tin này được loan truyền khắp thế giới.
Thật ra đã nhiều lần từ ông Bộ Trưởng Bộ Giao Thông Vận Tải họp các quan chức đầu ngành tại sân bay để “dằn mặt” và điều chỉnh tình trạng này. Quan nào cũng nhận một tí khuyết điểm, xin cấp tốc chấn chỉnh ngay.
Lần này cũng vậy, khi nhận được bản tin đáng xấu hổ kia, Giám đốc Cảng Hàng Không Quốc Tế Tân Sơn Nhất Đặng Tuấn Tú thừa nhận một số đánh giá của website về chất lượng phục vụ ở sân bay này là đúng, chẳng hạn như chất lượng wifi, đặc biệt là ở ga quốc tế. Ông hứa: "Chúng tôi sẽ chọn nhà cung cấp khác và chắc chắn từ đây đến cuối năm vấn đề này sẽ được khắc phục."
8 năm nữa mới khắc phục được
Ngoài ra, Giám đốc Cảng Hàng Không Quốc Tế Tân Sơn Nhất cũng thừa nhận một số dịch vụ tại sân bay còn chưa tốt như: dịch vụ taxi vẫn còn lộn xộn; bãi giữ xe máy nhiều lúc phải ngưng nhận; thái độ của nhân viên sân bay, nhân viên các hãng chưa đúng mực.
Ông Tú cũng cho biết thêm, từ đầu năm đến nay sân bay Tân Sơn Nhấtđã đón hơn 21.7 triệu lượt hành khách. Dự tính đến cuối năm, số lượt khách đạt 26 triệu lượt, vượt quá quy hoạch của nhà ga. Với tốc độ tăng trưởng này, chỉ hai năm nữa Tân Sơn Nhất sẽ đón trên 30 triệu lượt khách. Ông nói:
"Sẽ phải tiếp tục chịu đựng cảnh quá tải này ít nhất tám năm nữa trước khi sân bay Long Thành đưa vào sử dụng. Với điều kiện như thế này, chúng tôi cố gắng duy trì chất lượng dịch vụ ở mức có thể đáp ứng nhu cầu. Ưu tiên hàng đầu là bảo đảm an ninh an toàn, dành những tiện ích cộng cộng theo tiêu chí cho phép."
Về nạn tham nhũng, phiền hà hành khách để kiếm tiền cũng vậy. Mười năm trước đã đặt ra và các quan cũng hứa khắc phục. Nhưng mọi chuyện vẫn êm ru bà rù, bởi tệ nạn này có cả một đường dây từ dưới lên trên, ai “khắc phục” ai đây?! Lại cái bài ca muôn thuở ở đâu cũng gặp “chúng tôi sẽ cho điều tra và xử lý nghiêm, không dung túng cho tiếu cực.”
Vậy xin hỏi các quan ở sân bay Tân Sơn Nhất từ bao năm nay, các ông đã điều tra được những vụ tham nhũng và nhũng nhiễu khách hàng nào? Chẳng thấy các ông báo cáo cho nhân dân được biết.
Ngay trong thành phố tình trạng trộm cướp càng trầm trọng
Cũng đã hơn một lần tôi tường thuật những vu “Cướp Sài Gòn.” Nhưng cho đến nay tình trạng cướp giật trở nên tinh vi và liều lĩnh hơn. Thậm chí tiền của cất trong két sắt cũng bị kẻ trộm phá két lấy hết. Nhất là các vụ trộm cướp ngày nay lại có những đứa trẻ mới 12, 13 tuổi và có cả những ông bà già sáu bảy chục tuổi cũng dàn cảnh để ăn cướp. Tình hình quả thật đáng báo động đỏ khiến người dân khiếp sợ. Ở đâu cũng mất an ninh. Tính mạng và tài sản có thể mất bất cứ lúc nào.
Băng cướp 10-15 tuổi sẵn sàng đâm, chém du khách ở trung tâm Sài Gòn
Nhóm cướp quy tụ gần chục người, có tuổi đời chỉ từ 10 đến 15 tuổi, gồm: H.H.L (14 tuổi), P.N.T (13 tuổi), N.H.T (12 tuổi), N.C.T, V.T.K, L.V.T.H (đều 15 tuổi). Ngoài ra, còn có các tên “nhí” khác đã bỏ trốn và đang bị công an truy lùng.
Trong băng cướp nhí này, tỏ ra “số má, lì lợm” nhất đám là N.H.T. Nghi can này nói với phóng viên khi đang bị giữ ở trụ sở công an rằng “có sức chơi thì có sức chịu chứ sợ gì”!
Nhóm cướp này bị Công an Q.1 bắt quả tang vào rạng sáng 27-10 khi vừa dùng dao tấn công một cặp tình nhân đang ngồi hóng mát ở khu vực bờ kè kênh Tàu Hủ trên đại lộ Võ Văn Kiệt, P. Nguyễn Thái Bình, Q. 1 để cướp một điện thoại di động và 2 triệu đồng. Công an Q. 1 cho biết thêm:
Đây cũng là nhóm cướp đã chém trọng thương một du khách người Đức, anh Sepastian Gretz tại bờ kè kênh Tàu Hủ, P. Nguyễn Thái Bình, Q.1, cướp 600.000 đồng, một ĐTDĐ và một ống kính máy ảnh vào rạng 19/10. May mà công an điều tra ra, trả lại tiền tài vật dụng cho du khách.
Ra tay tàn bạo, không hề sợ hãi
Công an cho biết thêm chi tiết rợn người: Anh Sepastian Gretz bị nhóm cướp đâm chém gần chục nhát chưa kể phải chịu thêm nhiều cú đập chí mạng bằng gậy và gạch ở đầu.
Anh này sau đó được người dân và công an chuyển vào bệnh viện cấp cứu kịp thời, hiện đã xuất viện.
Kẻ ra tay tàn bạo nhất trong vụ này cũng chính là N.H.T. mới 12 tuổi khai nhận chính mình là kẻ trực tiếp dùng dao kề vào cổ của nam du khách, sau đó đâm nạn nhân gần chục nhát trước khi đồng bọn bồi thêm những khúc cây, cục gạch vào đầu cho đến khi anh Sepastian Gretz bất tỉnh mới buông tay.
Khi cả nhóm bị bắt vào buồng giam, chúng không hề sợ hãi. Buổi ngày 28/10 phóng viên báo Thanh Niên ghé trụ sở công an P. Nguyễn Thái Bình - nơi đang giữ các nghi can trong băng cướp nhí. Anh kể: Tại đây, chúng tôi nhìn thấy có sáu thiếu niên, trong đó có một bé gái hơn 10 tuổi liên quan đến sự việc cũng bị giữ để lấy lời khai.
Cả sáu em, đứa nằm dưới nền nhà, đứa ngồi tựa lưng vào tường trong căn phòng chừng 10 mét vuông đã được chốt chặt bởi một ổ khoá. Trông mặt mày các em hốc hác nhưng tất cả đều vui vẻ, cười nói chuyện trò rôm rả. Cả băng vô tư cười nói huyên thuyên và chẳng màng để ý đến mọi thứ xung quanh hay có chút biểu hiện gì bày tỏ sự ăn năn, sợ sệt về tội lỗi mà chính mình gây ra cách đó vài giờ.
Cả sáu em cho biết tất cả đều đã nghỉ học, trong đó có hai em học đến lớp 5, một em học lớp 4, một em học lớp 3 và số còn lại chưa một lần được đến trường. Các em cho biết trước khi đi cướp, cả chúng lang bạt khắp nơi và làm đủ mọi việc để kiếm sống nhưng không có được nhiều tiền lại vất vả nên quy tụ bạn bè thành lập băng nhóm chuyển sang “nghề cướp.”
Vợ chồng già 70 tuổi dàn cảnh ăn vạ chàng trai đi xe SH
Một bạn đọc kể lại câu chuyện hi hữu giữa thành phố:
Những chiêu lừa ngoạn mục mà tôi gặp ở thành phố này không hiếm, nhưng có những điều nếu không chứng kiến, có lẽ bạn sẽ chẳng bao giờ tin là nó có thật. Câu chuyện tôi kể ra đây có lẽ sẽ khiến các bạn lắc đầu ngao ngán vì không ngờ, bất kể tuổi tác nào người ta cũng đều có những thủ đoạn lừa đảo khác nhau.
Hôm ấy, khoảng 7 giờ tối tôi mới đi làm về. Trên đoạn đường Nguyễn Hữu Thọ (đoạn siêu thị Lotte, Quận 7), trời hơi mưa lất phất, người cũng thưa thớt hơn, tôi đã chứng kiến một cảnh tượng khiến tôi thật sự cảm thấy xấu hổ, xấu hổ thay cho họ - những con người đáng lẽ ra phải được người khác tôn trọng về bề dày tuổi tác.
Đi phía trước tôi là một anh chàng chạy chiếc xe SH khá sành điệu, bảnh trai. Không như những cậu thanh niên choai choai phóng nhanh, rú ga, nẹt pô âm ĩ, anh ta đi rất từ tốn và luôn đi sát vào trong lề đường.
Đi cách anh chàng kia không xa là một đôi vợ chồng già chạy chiếc xe honda Dream. Nhìn qua, tôi nghĩ họ khoảng tầm chưa tới 70 tuổi, họ đi rất nhanh và luôn cố vượt mặt tôi để leo đến gần vị trí chiếc xe SH kia.
Thủ đoạn ăn vạ bất ngờ
Thế rồi, cứ thế cụ ông lao lên phía trên. Ông quay lại dặn cụ bà rằng: "Ôm cho chặt.” Vừa dứt lời, cụ ông tông vào đuôi chiếc SH kia, loạng choạng, họ ngã nhào xuống đất. Ngay lập tức, cụ bà la lối om sòm, cụ ông hét toáng lên: "Ối bà con ơi, tôi bị xe tông gần chết rồi.”
Chứng kiến cảnh ấy, tôi biết ngay là dàn cảnh anh vạ. Rõ ràng, cú va chạm kia, người đi xe SH không hề có lỗi, anh ta đi trước rất từ tốn, hai vợ chồng cụ ông kia cố tình đâm vào đuôi xe của anh ta.
Khi họ vừa ngã xuống, một người đàn ông đi chiếc Sirius vượt lên, dừng xe lại túm cổ áo anh chàng đi xe SH kia định đánh và bắt anh ta đền tiền vì gây tai nạn. Anh chàng kia không kịp nói gì đã bị anh ta chặn họng, cụ ông cụ bà kia thì cứ rên la như thể nặng lắm. Thấy vậy, anh chàng kia đành phải đưa cho cặp vợ chồng già kia một số tiền, tôi không biết bao nhiêu, tuy nhiên, tôi vừa lên tiếng định nói thì ngay lập tức đằng sau có kẻ đánh mạnh vào xe tôi và nói: "Đi đi, giang hồ đấy, lo chuyện bao đồng nó đánh cho.” Tên túm cổ anh SH kia chỉ vào mặt tôi và dằn mặt, đồng thời mấy kẻ khác cố đẩy tôi đi thật nhanh.
Thật không ngờ, một cặp vợ chồng đã vào cái tuổi gần 70 lại có thể nghĩ ra những kiểu ăn vạ, đòi tiền trắng trợn một cách đáng xấu hổ như vậy. Đúng là cuộc sống này thật khó lường, chuyện lừa đảo nào cũng có thể xảy ra và có lẽ ra đường bây giờ trở thành nỗi ám ảnh với nhiều người chúng ta.
Những cảnh ăn cắp vặt
Tôi chỉ tường thuật vài chuyện lớn, còn ăn cắp, ăn cướp vặt diễn ra hàng ngày hàng giờ trên tất cả các các đường phố, dù là phố đông người. Chẳng thiếu gì những cô gái đang phóng xe gắn máy bị bọn cướp bám theo xà vào cướp dây chuyền, cướp điện thoại, cướp bất cứ thứ gì đeo trên xe.
Ngay ở cổng bệnh viện giữa quận 5, một bà cũng bị 10 tên dàn cảnh cướp mất chiếc dây chuyền bạch kim, trị giá khoảng 5 triệu đồng. Còn ở ngay giữa TP Hà Nội, bạn hãy nhìn bất kỳ cái gì để trước cửa cũng phải khóa chặt, ngay cả tấm sắt nhỏ dùng làm lối dẫn xe máy lên hiên cũng phải khóa, tấm bảng hiệu của nhà nước cũng được khóa cẩn thận.
Bạn đã thấy tình hình an ninh ở VN ngày nay như thế nào.
Hết thuốc chữa!
Văn Quang (20-11-2015)
Có hai nguyên nhân “đáng sợ” nhất của thời đại kinh tế suy thoái và đạo đức băng hoại cùng bọn quan lại tham nhũng, đó là nạn mại dâm và trộm cướp hoành hành ở khắp nơi. Kỳ trước tôi đã tường thuật với bạn đọc về tệ nạn mại dâm ở TP Sài Gòn. Kỳ này tôi tường thuật về nạn trộm cắp ngay tại Sân bay Tân Sơn Nhất và giữa Sài Gòn.
Đã hơn một lần tôi kể với bạn đọc về những điều trái tai gai mắt ở sân bay Tân Sơn Nhất, một sân bay lớn nhất nước và lưu ý du khách nào đến Sài Gòn cũng phải đề phòng tệ nạn này. Nhất là chuyện tham nhũng, chuyện vòi tiền của các “quan chức” làm việc trực tiếp với khách. Thế nhưng vở kịch nhơ bẩn đó vẫn cứ diễn ra hàng ngày, hàng giờ trước mắt thiên hạ, rồi đến chuyện ăn cắp hành lý của khách đi máy bay.
Cho đến nay cũng chẳng thay đổi được gì. Cho nên sân bay này, năm nay vẫn được “vinh dự” xếp vào loại Tệ Nhất Châu Á.
Sân bay Tân Sơn Nhất đã được nâng cấp cuối năm 2014 song vẫn bị xếp hạng tệ nhất châu Á.
Khi đến sân bay TSN phải cẩn thận giữ tài sản có giá trịTheo bảng xếp hạng năm 2015 của trang web The Guide to Sleeping in Airports, Tân Sơn Nhất được xếp hạng đứng thứ tư trong danh sách sân bay tệ nhất châu Á. Năm 2014, sân bay này cũng bị liệt vào danh sách tệ nhất do trang web trên bình chọn. Tức là hai năm liền đều tệ như nhau.
Ngoài ra, hành khách còn phàn nàn tín hiệu wifi kém, phòng vệ sinh bẩn và hạn chế lựa chọn trong các nhà hàng.
Lời khuyên được trang web đưa ra là “Nếu ghé qua Tân Sơn Nhất, hành khách nên cẩn thận giữ tài sản có giá trị và cầm một số tiền nhỏ trên tay.”
Người VN nào chẳng xấu hổ khi đọc bản tin này được loan truyền khắp thế giới.
Thật ra đã nhiều lần từ ông Bộ Trưởng Bộ Giao Thông Vận Tải họp các quan chức đầu ngành tại sân bay để “dằn mặt” và điều chỉnh tình trạng này. Quan nào cũng nhận một tí khuyết điểm, xin cấp tốc chấn chỉnh ngay.
Lần này cũng vậy, khi nhận được bản tin đáng xấu hổ kia, Giám đốc Cảng Hàng Không Quốc Tế Tân Sơn Nhất Đặng Tuấn Tú thừa nhận một số đánh giá của website về chất lượng phục vụ ở sân bay này là đúng, chẳng hạn như chất lượng wifi, đặc biệt là ở ga quốc tế. Ông hứa: "Chúng tôi sẽ chọn nhà cung cấp khác và chắc chắn từ đây đến cuối năm vấn đề này sẽ được khắc phục."
8 năm nữa mới khắc phục được
Ngoài ra, Giám đốc Cảng Hàng Không Quốc Tế Tân Sơn Nhất cũng thừa nhận một số dịch vụ tại sân bay còn chưa tốt như: dịch vụ taxi vẫn còn lộn xộn; bãi giữ xe máy nhiều lúc phải ngưng nhận; thái độ của nhân viên sân bay, nhân viên các hãng chưa đúng mực.
Ông Tú cũng cho biết thêm, từ đầu năm đến nay sân bay Tân Sơn Nhấtđã đón hơn 21.7 triệu lượt hành khách. Dự tính đến cuối năm, số lượt khách đạt 26 triệu lượt, vượt quá quy hoạch của nhà ga. Với tốc độ tăng trưởng này, chỉ hai năm nữa Tân Sơn Nhất sẽ đón trên 30 triệu lượt khách. Ông nói:
"Sẽ phải tiếp tục chịu đựng cảnh quá tải này ít nhất tám năm nữa trước khi sân bay Long Thành đưa vào sử dụng. Với điều kiện như thế này, chúng tôi cố gắng duy trì chất lượng dịch vụ ở mức có thể đáp ứng nhu cầu. Ưu tiên hàng đầu là bảo đảm an ninh an toàn, dành những tiện ích cộng cộng theo tiêu chí cho phép."
Về nạn tham nhũng, phiền hà hành khách để kiếm tiền cũng vậy. Mười năm trước đã đặt ra và các quan cũng hứa khắc phục. Nhưng mọi chuyện vẫn êm ru bà rù, bởi tệ nạn này có cả một đường dây từ dưới lên trên, ai “khắc phục” ai đây?! Lại cái bài ca muôn thuở ở đâu cũng gặp “chúng tôi sẽ cho điều tra và xử lý nghiêm, không dung túng cho tiếu cực.”
Vậy xin hỏi các quan ở sân bay Tân Sơn Nhất từ bao năm nay, các ông đã điều tra được những vụ tham nhũng và nhũng nhiễu khách hàng nào? Chẳng thấy các ông báo cáo cho nhân dân được biết.
Ngay trong thành phố tình trạng trộm cướp càng trầm trọng
Cũng đã hơn một lần tôi tường thuật những vu “Cướp Sài Gòn.” Nhưng cho đến nay tình trạng cướp giật trở nên tinh vi và liều lĩnh hơn. Thậm chí tiền của cất trong két sắt cũng bị kẻ trộm phá két lấy hết. Nhất là các vụ trộm cướp ngày nay lại có những đứa trẻ mới 12, 13 tuổi và có cả những ông bà già sáu bảy chục tuổi cũng dàn cảnh để ăn cướp. Tình hình quả thật đáng báo động đỏ khiến người dân khiếp sợ. Ở đâu cũng mất an ninh. Tính mạng và tài sản có thể mất bất cứ lúc nào.
Băng cướp 10-15 tuổi sẵn sàng đâm, chém du khách ở trung tâm Sài Gòn
Nhóm cướp quy tụ gần chục người, có tuổi đời chỉ từ 10 đến 15 tuổi, gồm: H.H.L (14 tuổi), P.N.T (13 tuổi), N.H.T (12 tuổi), N.C.T, V.T.K, L.V.T.H (đều 15 tuổi). Ngoài ra, còn có các tên “nhí” khác đã bỏ trốn và đang bị công an truy lùng.
Trong băng cướp nhí này, tỏ ra “số má, lì lợm” nhất đám là N.H.T. Nghi can này nói với phóng viên khi đang bị giữ ở trụ sở công an rằng “có sức chơi thì có sức chịu chứ sợ gì”!
Nhóm cướp này bị Công an Q.1 bắt quả tang vào rạng sáng 27-10 khi vừa dùng dao tấn công một cặp tình nhân đang ngồi hóng mát ở khu vực bờ kè kênh Tàu Hủ trên đại lộ Võ Văn Kiệt, P. Nguyễn Thái Bình, Q. 1 để cướp một điện thoại di động và 2 triệu đồng. Công an Q. 1 cho biết thêm:
Đây cũng là nhóm cướp đã chém trọng thương một du khách người Đức, anh Sepastian Gretz tại bờ kè kênh Tàu Hủ, P. Nguyễn Thái Bình, Q.1, cướp 600.000 đồng, một ĐTDĐ và một ống kính máy ảnh vào rạng 19/10. May mà công an điều tra ra, trả lại tiền tài vật dụng cho du khách.
Ra tay tàn bạo, không hề sợ hãi
Công an cho biết thêm chi tiết rợn người: Anh Sepastian Gretz bị nhóm cướp đâm chém gần chục nhát chưa kể phải chịu thêm nhiều cú đập chí mạng bằng gậy và gạch ở đầu.
Anh này sau đó được người dân và công an chuyển vào bệnh viện cấp cứu kịp thời, hiện đã xuất viện.
Kẻ ra tay tàn bạo nhất trong vụ này cũng chính là N.H.T. mới 12 tuổi khai nhận chính mình là kẻ trực tiếp dùng dao kề vào cổ của nam du khách, sau đó đâm nạn nhân gần chục nhát trước khi đồng bọn bồi thêm những khúc cây, cục gạch vào đầu cho đến khi anh Sepastian Gretz bất tỉnh mới buông tay.
Khi cả nhóm bị bắt vào buồng giam, chúng không hề sợ hãi. Buổi ngày 28/10 phóng viên báo Thanh Niên ghé trụ sở công an P. Nguyễn Thái Bình - nơi đang giữ các nghi can trong băng cướp nhí. Anh kể: Tại đây, chúng tôi nhìn thấy có sáu thiếu niên, trong đó có một bé gái hơn 10 tuổi liên quan đến sự việc cũng bị giữ để lấy lời khai.
Cả sáu em, đứa nằm dưới nền nhà, đứa ngồi tựa lưng vào tường trong căn phòng chừng 10 mét vuông đã được chốt chặt bởi một ổ khoá. Trông mặt mày các em hốc hác nhưng tất cả đều vui vẻ, cười nói chuyện trò rôm rả. Cả băng vô tư cười nói huyên thuyên và chẳng màng để ý đến mọi thứ xung quanh hay có chút biểu hiện gì bày tỏ sự ăn năn, sợ sệt về tội lỗi mà chính mình gây ra cách đó vài giờ.
Cả sáu em cho biết tất cả đều đã nghỉ học, trong đó có hai em học đến lớp 5, một em học lớp 4, một em học lớp 3 và số còn lại chưa một lần được đến trường. Các em cho biết trước khi đi cướp, cả chúng lang bạt khắp nơi và làm đủ mọi việc để kiếm sống nhưng không có được nhiều tiền lại vất vả nên quy tụ bạn bè thành lập băng nhóm chuyển sang “nghề cướp.”
Vợ chồng già 70 tuổi dàn cảnh ăn vạ chàng trai đi xe SH
Một bạn đọc kể lại câu chuyện hi hữu giữa thành phố:
Những chiêu lừa ngoạn mục mà tôi gặp ở thành phố này không hiếm, nhưng có những điều nếu không chứng kiến, có lẽ bạn sẽ chẳng bao giờ tin là nó có thật. Câu chuyện tôi kể ra đây có lẽ sẽ khiến các bạn lắc đầu ngao ngán vì không ngờ, bất kể tuổi tác nào người ta cũng đều có những thủ đoạn lừa đảo khác nhau.
Hôm ấy, khoảng 7 giờ tối tôi mới đi làm về. Trên đoạn đường Nguyễn Hữu Thọ (đoạn siêu thị Lotte, Quận 7), trời hơi mưa lất phất, người cũng thưa thớt hơn, tôi đã chứng kiến một cảnh tượng khiến tôi thật sự cảm thấy xấu hổ, xấu hổ thay cho họ - những con người đáng lẽ ra phải được người khác tôn trọng về bề dày tuổi tác.
Đi phía trước tôi là một anh chàng chạy chiếc xe SH khá sành điệu, bảnh trai. Không như những cậu thanh niên choai choai phóng nhanh, rú ga, nẹt pô âm ĩ, anh ta đi rất từ tốn và luôn đi sát vào trong lề đường.
Đi cách anh chàng kia không xa là một đôi vợ chồng già chạy chiếc xe honda Dream. Nhìn qua, tôi nghĩ họ khoảng tầm chưa tới 70 tuổi, họ đi rất nhanh và luôn cố vượt mặt tôi để leo đến gần vị trí chiếc xe SH kia.
Thủ đoạn ăn vạ bất ngờ
Thế rồi, cứ thế cụ ông lao lên phía trên. Ông quay lại dặn cụ bà rằng: "Ôm cho chặt.” Vừa dứt lời, cụ ông tông vào đuôi chiếc SH kia, loạng choạng, họ ngã nhào xuống đất. Ngay lập tức, cụ bà la lối om sòm, cụ ông hét toáng lên: "Ối bà con ơi, tôi bị xe tông gần chết rồi.”
Chứng kiến cảnh ấy, tôi biết ngay là dàn cảnh anh vạ. Rõ ràng, cú va chạm kia, người đi xe SH không hề có lỗi, anh ta đi trước rất từ tốn, hai vợ chồng cụ ông kia cố tình đâm vào đuôi xe của anh ta.
Khi họ vừa ngã xuống, một người đàn ông đi chiếc Sirius vượt lên, dừng xe lại túm cổ áo anh chàng đi xe SH kia định đánh và bắt anh ta đền tiền vì gây tai nạn. Anh chàng kia không kịp nói gì đã bị anh ta chặn họng, cụ ông cụ bà kia thì cứ rên la như thể nặng lắm. Thấy vậy, anh chàng kia đành phải đưa cho cặp vợ chồng già kia một số tiền, tôi không biết bao nhiêu, tuy nhiên, tôi vừa lên tiếng định nói thì ngay lập tức đằng sau có kẻ đánh mạnh vào xe tôi và nói: "Đi đi, giang hồ đấy, lo chuyện bao đồng nó đánh cho.” Tên túm cổ anh SH kia chỉ vào mặt tôi và dằn mặt, đồng thời mấy kẻ khác cố đẩy tôi đi thật nhanh.
Thật không ngờ, một cặp vợ chồng đã vào cái tuổi gần 70 lại có thể nghĩ ra những kiểu ăn vạ, đòi tiền trắng trợn một cách đáng xấu hổ như vậy. Đúng là cuộc sống này thật khó lường, chuyện lừa đảo nào cũng có thể xảy ra và có lẽ ra đường bây giờ trở thành nỗi ám ảnh với nhiều người chúng ta.
Những cảnh ăn cắp vặt
Tôi chỉ tường thuật vài chuyện lớn, còn ăn cắp, ăn cướp vặt diễn ra hàng ngày hàng giờ trên tất cả các các đường phố, dù là phố đông người. Chẳng thiếu gì những cô gái đang phóng xe gắn máy bị bọn cướp bám theo xà vào cướp dây chuyền, cướp điện thoại, cướp bất cứ thứ gì đeo trên xe.
Ngay ở cổng bệnh viện giữa quận 5, một bà cũng bị 10 tên dàn cảnh cướp mất chiếc dây chuyền bạch kim, trị giá khoảng 5 triệu đồng. Còn ở ngay giữa TP Hà Nội, bạn hãy nhìn bất kỳ cái gì để trước cửa cũng phải khóa chặt, ngay cả tấm sắt nhỏ dùng làm lối dẫn xe máy lên hiên cũng phải khóa, tấm bảng hiệu của nhà nước cũng được khóa cẩn thận.
Bạn đã thấy tình hình an ninh ở VN ngày nay như thế nào.
Hết thuốc chữa!
Văn Quang (20-11-2015)
Nguồn: http://www.viendongdaily.com/trom-cap-tu-san-bay-den-thanh-pho-M8P5gfcu.html
HOANG THANH TRUC * CỘNG SẢN PHI NHÂN
CS-XHCN và mất hết tính người
Hoàng Thanh Trúc (Danlambao) - Sáng sớm chủ nhật, thay cho tập thể dục tôi đi bộ một mạch 2 cây số lên nhà ông Bác ruột mà tôi biết thường ngày giờ này ông vẫn hay ngồi uống trà lướt tin tức trên laptop sau khi tưới mấy giò lan trước sân. Đúng vậy, nhìn qua cửa cổng Bác tôi ngồi một mình vừa lắc đầu vừa cười tủm tỉm với cái màn hình máy tính. Như người nhà, lòn tay mở cổng bước vào, sà xuống ghế đá ngồi kề bên tôi nhìn ké laptop, trên màn hình thấy có mấy tấm ảnh một người đàn ông trẻ đứng thẳng 2 chân và cụt một chân ngồi xin ăn như người hành khất nhưng lại nhe răng cười rất tươi. Vừa rót tách trà cho tôi, chép miệng lắc đầu ngao ngán Bác nói: “Sống gần hết đời người (87 tuổi) từ thời thực dân qua thời ông Diệm (TT/Ngô Đình Diệm) chưa bao giờ thấy cái cảnh “mất hết tính người” như thời xã hội chủ nghĩa này”…
Đẩy tách trà về phía tôi giọng nói Bác não nề: “Thanh niên lưng dài vai rộng lành lặn tay chân mặt mày sáng sủa nhưng không lo làm ăn lương thiện như thiên hạ lại bày trò lừa bịp dối trá giả người tàn tật để mọi người rủ lòng thương hại bố thí, khi bị phát hiện vạch mặt đã không biết xấu hổ lại còn đưa mặt ra cười tươi rói như hãnh diện với việc làm hạ cấp của mình… thiệt là hèn mạt nhục nhã, không hiểu là con người hay con gì, sao thời đại văn minh nhưng xã hội XHCN chúng ta lại phát sinh ra những loại người mà không còn chút “tính người” như thế này…”
Đóng kịch tàn tật bên cái máy Cassette hỗ trợ
Gã “cái bang” này vừa bị lật tẩy - chỉ cần 5 phút hóa trang là biến hình từ thanh niên khỏe mạnh lành lặn thành bị cụt chân... để ngồi xin ăn.
Nghe Bác nói tôi chú ý lướt qua dòng tin kèm theo mấy tấm ảnh…
Qua một thời gian theo dõi thủ đoạn, 9 giờ sáng 19-11, đội CSGT (Công an TP Phan Thiết) bắt giữ và giao cho Công an xã
tạm giam chờ xử lý đối tượng Trần Văn Lượm (SN 1991, ngụ thôn Hà Giang, xã Vinh Hà, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế) vì hành vi lừa đảo, hóa trang giả người tàn tật lường gạt mọi người để ăn xin. Thủ đoạn của Lượm là sử dụng quần áo rộng, rách nát, sau đó ngồi bệt gập một chân vào trong lấy mông đè lên, giả bị cụt chân do tai nạn rồi lê lết tại các chợ, nơi đông người, dùng cái máy Cassette để kế bên phát ra lời kể lể van xin để xin tiền. Trung bình mỗi ngày, đối tượng này kiếm được 300 - 400 ngàn đồng từ những người đi chợ cả tin và khách qua đường mềm lòng thương hại, ngồi chỉ hơn 1 giờ (sáng 19-11) Lượm đã kiếm được 270 ngàn đồng tiền lẻ bỏ trong xô.
Có điều dù bị Công an bắt giữ thay vì phản xạ ăn năn hối lỗi thì hắn vẫn cười rất tươi dưới ống kính!? Một kiểu cười tự tin với mình và ngạo mạn với xã hội xem như “trò ảo thuật” lợi dụng lòng tốt của mọi người để kiếm tiền này là bình thường, rất phản cảm, tôi nhìn thật kỷ gương mặt “dị nhân” rồi cũng lắc đầu… Bác tôi hớp ngụm trà hỏi tôi qua tròng kính lão: Con nghĩ sao?
Tôi xin phép Bác, vừa lướt ngón tay trên bàn phím vừa cười buồn trả lời: Cũng không lạ gì đâu Bác! Đây là hệ lụy tất nhiên từ “nhân quả” thôi…
Click Enter, tôi chỉ vào laptop hỏi: Bác Hai biết “nhân vật” này không? Bác tôi sửa lại gọng kính nhìn rồi bật cười phá lên: Còn ai nữa? Đây là nhân vật huyền thoại “Thạch Sanh Lê Văn Tám chém chằn tinh” bằng thân mình bốc lửa mà nhà nước “đảng mình” sáng tác giúp nhân dân giải trí chớ ai…
Tôi cũng bật cười nói với Bác: Bác nhìn xem cái bảng tên đường ở Hà Nội rất hài hước…
Nhân vật kháng chiến?
Khác với con thú (thú vật) - Nhân vật bắt buộc phải là con người, nhất là “nhân vật kháng chiến” càng phải là người mới được được “tổ chức” huấn luyện kháng chiến, mà tổ chức đảng CSVN thì không bao giờ thâu nhận một kẻ bá vơ trôi sông lạc chợ, không biết rõ bất cứ chi tiết nào về nhân thân lai lịch tông tích ở đâu lại đưa vào tổ chức mình. Dấu chấm? (trên cái bảng này) vô hình trung xác định con người này là không thể có thật, nhưng lại khẳng định là một “nhân vật kháng chiến”(!?) và được vinh dự ngang hàng với tên nhiều “nhân vật” anh hùng tiền nhân lịch sử khả kính có thật khác trên những con đường. Thâm chí sự lừa bịp dối trá này vẫn điềm nhiên dù công luận xã hội đã nghiêm túc lên tiếng xác nhận cảnh báo là “nhân vật” này không có thật…
Giáo sư Phan Huy Lê một trong những chuyên gia hàng đầu về Lịch Sử Việt Nam - Nguyên Chủ tịch Hội Khoa Học Lịch Sử
“Theo quan điểm của tôi, mọi biểu tượng hay tượng đài lịch sử chỉ có sức sống bền bỉ trong lịch sử và trong lòng dân khi nó được xây dựng trên cơ sở khách quan, chân thực” - Giáo sư Phan Huy Lê
Điều căn dặn của GS Trần Huy Liệu (tác giả câu chuyện Lê văn Tám) là: “Sau này khi đất nước yên ổn, các anh là nhà sử học, nên nói lại (cải chính) giùm tôi, lỡ khi đó tôi không còn nữa, vì biết đâu sau này có người lại cất công đi tìm tung tích nhân vật Lê Văn Tám hay có người lại tự nhận là hậu duệ của gia đình, họ hàng người anh hùng này (vố dĩ không có thật). Đây chính là điều lắng đọng sâu nhất trong tâm trí mà tôi coi là trách nhiệm đối với GS Trần Huy Liệu đã quá cố và đối với lịch sử.” GS Phan Huy Lê nhấn mạnh sau khi giải thích về hình tượng nhân vật Lê Văn Tám do GS Trần Huy Liệu phác họa trên cái nền một chuyện kể lại chứ không hề có thật.
Thêm nữa, một cậu bé (trên dưới 10 tuổi) tẩm xăng vào người rồi tự đốt cháy thì sẽ gục ngay tại chỗ, hay nhiều lắm là chỉ lảo đảo được mấy bước, không thể chạy được qua cánh cổng kho xăng có lính gác nghiêm ngặt với khoảng cách mấy chục mét để làm cháy nổ kho xăng. GS Trần Huy Liệu đã tự trách mình là thiếu cân nhắc về khoa học nên hư cấu (bịa chuyện) có chỗ chưa hợp lý. Đây là ý kiến của GS Trần Huy Liệu mà sau này có trao đổi với vài bác sĩ để xác nhận thêm (về phản xạ của thiếu niên khi cơ thể bị đốt cháy) - GS Phan Huy Lê: Trả lại sự thật hình tượng Lê Văn Tám (*)
Riêng Bác Hai tôi còn nói thêm, thập niên 1945-1955 Bác tôi đang là một trong số ít học sinh trường Lê Quý Đôn thời Jean Jacques Rousseau (Quartier indigène) Sài Gòn lúc ấy như trong lòng bàn tay, phố Catinat (Đồng Khởi) là bộ mặt sinh hoạt của thực dân Pháp vùng Viễn Đông, lúc nào cũng có “nhật trình” (báo chí) thân cánh tả hay hữu trong xã hội nước Pháp bày bán cho giới thượng lưu thì nếu có “Một gương hi sinh vô cùng dũng cảm. Một chiến sĩ ta tẩm dầu vào mình tự làm mồi lửa đã đốt được kho dầu Simon Piétri, lửa cháy luôn hai đêm hai ngày.” Như lập luận của tuyên giáo “đảng Ta” thì ắt phải có đăng tin trên các nhật trình của mẫu quốc Pháp, cánh hữu hoặc tả (thời điểm đó) mà Tàng Thư văn khố Đông Dương tại Pháp có tiếng là nơi lưu trữ không sót một “hạt bụi” quá khứ nào thì tại sao mấy nhà “sử học” CSVN không qua đó mà sao lục hay photo để mang về dẫn chứng cho “Thạch Sanh Lê Văn Tám”? Nói chung là loại trí thức cuồng tín CS/XHCN theo đóm ăn tàng chỉ tưởng tượng bịa chuyện viết láo theo đơn đặt hàng vì cơm áo, không có nhân cách… Bác tôi chiêu ngụm trà rồi cười hề hề…
Tôi chỉ cho Bác xem thêm mấy tấm hình liên quan Lê Văn Tám và ngán ngẩm: Một kẻ vô lại hèn mạt như “nhân vật” lừa bịp mọi người, ăn xin lòng từ tâm của thiên hạ nói trên thì bán rẻ chỉ nhân cách của chính hắn ta thôi. Còn một đảng phái, chế độ mà mang sự lừa bịp dối trá ra ca ngợi biểu dương và nhân lên việc xấu xa thiếu trung thực ấy vào giáo dục thì không chỉ một mà có thêm nhiều kẻ hạ đẳng nhân cách dối trá để trục lợi như trên là hệ lụy “nhân quả” nhãn tiền trong xã hội là tất nhiên.
Lừa Bịp đi vào Giáo Dục
Lừa Bịp được quảng cáo
Lừa Bịp được ngợi ca
Rau nào thì sâu nấy. Như chọn vai diễn cho từng bộ phim, một nhân vật không có thật thì nó mới phù hợp với một chủ nghĩa xã hội cộng sản không hề có thật.
23/11/2015
LÊ NGUYỄN * HÔ CHÍ MINH
Tại sao tôi viết sự thật Hồ Chí Minh?
Le Nguyen (Danlambao) - Những ai sống trong nước độc tài toàn trị cộng sản Việt Nam can đảm viết hoặc vượt qua sợ hãi nói lên, phổ biến sự thật Hồ Chí Minh đều trải nghiệm sự phản ứng đủ kiểu, đủ trò của các tên phò đảng, thần tượng Hồ, với sự hổ trợ tích cực của lực lượng công an mạng (CAM) thay nhau “xa luân chiến” tấn công nhiều hướng nhằm làm cho nản chí để không thể tiếp tục cất tiếng nói lên sự thật Hồ Chí Minh. Cụ thể là thấy không thể lung lay ý chí, không thể đánh gục người nói lên sự thật Hồ Chí Minh trên mặt lý luận thì các tên chịu trách nhiệm làm công tác “tư tưởng” trên mạng xã hội Facebook, trên các trang báo lề dân đổi chiến thuật cho côn an vào cuộc khủng bố tinh thần, bao vây kinh tế, gây khó khăn về mặt cư trú...
Cuối cùng nếu các biện pháp cứng rắn kể cả việc giả dạng côn đồ hành hung tét đầu chảy máu vẫn không bịt được miệng những người dám vạch trần đạo đức giả, bộ mặt gớm ghiếc thật của Hồ Chí Minh thì những tên cộng sản tôn thờ chủ nghĩa tam vô, đổi chiến thuật chơi trò tâm lý xuống nước nhỏ rao giảng đạo lý truyền thống dân tộc thay cho “đạo đức cách mạng” của gian hùng Hồ chí Minh truyền dạy.
Nói đến đạo lý dân tộc những tên côn an tư tưởng thường hay nói đến lời dạy “nghĩa tử là nghĩa tận” theo truyền thống dân tộc Việt Nam. Nghĩa tử là nghĩa tận theo quan niệm của người xưa có nghĩa là người chết là hết, là dứt nợ trần gian, mọi oán giận, thù ghét trong lúc sống do họ làm sai, gây tội ác đều nên tha thứ bỏ qua và cần ứng xử có tình có nghĩa bời là con người không ai là không có lỗi lầm nên khi họ trở về với cát bụi thì người sống cần mở lòng bao dung tha thứ cầu mong cho họ ra đi thanh thản, thôi vướng bận bụi trần.
Quan niệm nghĩa tử là nghĩa tận của tổ tiên nòi Việt nghìn đời truyền lại thực sự là “tài sản quý báu”, là hoàn toàn đúng đắn, không việc chi để bàn cãi. Nó không phải như tài sản “ghê sợ” của Mao-Hồ để lại cho cộng sản Việt Nam - những đứa con hoang của Tàu vẫn cứ ra rả đòi bảo vệ, phát huy? Thiết nghĩ cần hiểu rõ là những tên cán bộ, quan chức cộng sản “rao giảng” nghĩa tử là nghĩa tận, có thực tâm làm theo lời rao giảng hay không - hay nghĩa tử là nghĩa tận trong đầu của chúng chỉ là công cụ nhằm che dấu bản chất gian manh, dối trá, vô đạo đức của người cộng sản vốn có?
Quan sát thực tiễn đời sống xã hội chủ nghĩa không khó để thấy, các quan chức cộng sản hô hào “lời hay ý đẹp” ca tụng dàn dựng “người tốt việc tốt” chỉ để phục vụ công tác tuyên truyền dối trá, phục vụ mục tiêu chính trị chứ chúng không hề tôn trọng lời khuyên dạy truyền đời như quan niệm nghĩa tử là nghĩa tận theo đạo lý truyền đời của truyền thống Việt Nam.
Cụ thể là lãnh đạo đảng, nhà nước, các cán bộ, đảng viên cộng sản thường ca bài ca con cá “nghĩa tử là nghĩa tận” chỉ khi nào thấy ai đó nói lên sự thật vô đạo đức, gian manh, độc ác của Hồ Chí Minh với dẫn chứng không thể chối cãi làm chúng bất lực không thể phản bác, không thể bịt mồm được.
Thực chất nghĩa tử là nghĩa tận trong ý nghĩ của những tên cộng sản vô đạo là xúi giục, cắt cử côn đồ cướp diễn đàn, ngăn chận bằng hữu đọc điếu văn chia buồn, giằng xé các băng tang trên các vòng hoa phúng điếu, gây rối trật tư như đã từng diễn ra trong đám tang của công thần chế độ - những người có công dựng nên chế độ cộng sản, gồm có tang lễ của tướng Trần Độ nguyên phó chủ nhiệm tổng cục chính trị, Hoàng Minh Chính nguyên viện trưởng viện triết học Marx-Lênin, luật gia Lê Hiếu Đằng có 45 năm tuổi đảng, giữ nhiều chức vụ cao trong đảng, nhà nước...
Việc rình rập cướp băng rôn, ngăn chận bạn bè, thân hữu đến chia buồn đưa tang cho người quá cố của đám côn đồ làm theo lệnh trên giao còn diễn ra thô bạo, hung ác hơn đối với đám tang của bà Đặng Kim Liên mẹ của blogger Tạ Phong Tần, của mẹ Lợi mẹ của blogger Phạm Thanh Nghiên...và kinh khủng hơn nữa cho cái gọi là nghĩa tử là nghĩa tận của quan chức cộng sản, là có một số vụ việc chúng đánh chết người trong lúc tạm giam, tạm giữ rồi cướp xe tang, cướp quyền cử hành tang lễ, tự quyết định chọn nơi chôn cất của gia đình nạn nhân... là sự thật đã đang xảy ra trong cái gọi là nhà nước dân chủ pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ai cũng thấy. Thế mà đám cháu ngoan các loại của bác vẫn mồm loa mép vãi, nghĩa tử là nghĩa tận không biết ngượng mồm.
Đáng sợ hơn nữa là việc các tên cháu ngoan lưu manh, phi nhân tính do Hồ nuôi trồng trong chuồng hoa cứt lợn. Chúng hò hét, hô hào nghĩa tử là nghĩa tận nhưng chúng không để yên cho Hồ yên giấc nghìn thu. Chúng cãi lời, không hỏa thiêu xác Hồ như lời Hồ dặn trong di chúc khi đi gặp cụ tổ Mác-Lê trong lúc sống. Hồ chết chúng mổ bụng moi gan... phơi thây bác của chúng ở quảng trường Ba Đình để buôn bán mưu cầu lợi danh nhằm lừa gạt một bộ phận không nhỏ “đồng chí” mù đảng, cuồng Hồ ngây thơ tưởng nhầm là chúng kính trọng, tôn thờ Hồ. Thật ra là lũ cháu ma đầu, lưu manh ra sức đánh bóng, lợi dụng xác Hồ cho mục tiêu kinh doanh quyền, lợi, danh...của chúng. Chỉ cần với cái đầu tỉnh táo thì sẽ không khó để nhận ra ý đồ đen tối của đám lãnh đạo ma đầu, lưu manh không còn tính người này.
Có lẽ những ai sống trong thời bao cấp đói meo hẳn còn nhớ, là nếu giả vờ kính yêu, xếp hàng ở đầu vào thăm “lăng bác” thì đầu ra sẽ có bánh mì bỏ vào cái bụng trống rỗng của mình, là sự thật của đoàn người rồng rắn vào lăng “bác Hồ”. Chuyện giở trò để người dân vào “lăng bác” để phục vụ tuyên truyền cho mục tiêu chính trị thời nay có chút thay đổi, có chút tinh vi nhưng cũng không thể che dấu, lộ ra xảo thuật của tuyên giáo làm cơ sở tuyên truyền, là hằng ngày đoàn người lũ lượt vào lăng bác thể hiện tấm lòng yêu kính bác(?)
Sự thật số đông người vào thăm “lăng bác” là thuộc tổ chức, đoàn thể, công ty quốc doanh trực thuộc đảng, nhà nưóc được xếp đặt, ban thưởng đi viếng “lăng bác” do ngoan ngoãn như đàn cừu của họ. Một số khác “xếp hàng”vào lăng bác khá đông đảo là do các tour du lịch đến Hà Nội đều được “chỉ đạo” phải có hạng mục viếng “lăng bác” để tạo ảo giác, để lừa gạt người nước ngoài lẫn Việt kiều về thăm quê hương đi du lịch, thấy giòng người xếp hàng rồng rắn vào “lăng bác” ngộ nhận tưởng là người vào lăng bày tỏ lòng tôn kính Hồ Chí Minh để những đứa lãnh đạo lưu manh phục vụ mục đích kinh doanh trên xác chết của Hồ!
Đảng cộng sản độc quyền cai trị đất nước Việt Nam với đám lãnh đạo lưu manh, không những sử dụng xảo thuật dàn dựng tuyên truyền cho chuyện thăm lăng Hồ để phục vu mục tiêu mị dân mà còn xây dựng hình tượng Hồ Chí Minh như là thần thánh, là vĩ nhân.
Để biến tên tội đồ Hồ thành vĩ nhân, thành thánh cộng sản Việt Nam bỏ ra hàng núi tiền, hàng rừng người để tuyên truyền “Hồ là ông tiên hiền dịu thánh thiện, không biết đến mùi đàn bà, một lòng vì dân, vì nước...” nhằm tạo hào quang giả tạo cho hình tượng Hồ chí Minh và đưa hình ảnh Hồ vào chương trình giáo dục cưỡng bức, nhồi sọ, tẩy não trẻ con từ mầm non cho đến lúc trưởng thành. Song song với việc cưỡng bức giáo dục là chúng gia tốc, ráo riết xây tượng đài, dựng đền thờ miếu mạo và đưa tượng Hồ Chí Minh vào đình chùa, ngồi ngang hàng cùng Phật, Thánh - có cả mổ trâu lấy máu làm phép hô thần nhập tượng, với cả bầy sư sãi gõ mõ, tụng kinh đầy màu sắc mê tín dị đoan, có hàng đoàn quan chức lũ lượt đến bái lạy ra vẻ thành khẩn, sùng kính Hồ...
Với việc xây tượng đài tràn lan cho tội đồ Hồ Chí Minh. Với chương trình giáo dục cưỡng bức bịp bợm tâng bốc tư tưởng, đạo đức không hề có của Hồ để kinh doanh thu lợi từ xác chết Hồ Chí Minh của đám lãnh đạo lưu manh đương quyền càng làm cho những phẫn uất dồn nén của người dân vào tội ác do Hồ gây ra trong lòng nhân dân Việt Nam càng bộc phát mạnh mẽ, gay gắt, quyết liệt, quyết tâm tố cáo, vạch trần sư thật Hồ Chí Minh hơn.
Thế thì những việc làm của đám lãnh đạo ma đầu, của đám cháu ngoan lưu manh có phải là thực hiện quan niệm nghĩa tử là nghĩa tận đối với Hồ Chí Minh hay làm thế là nhắc nhớ, chọc ghẹo cho người dân Việt Nam, nạn nhân của Hồ không thể quên quá khứ, đào mồ cuốc mả dựng đầu Hồ lên mắng chửi cho hả giận? Lỗi đó do ai tạo ra? chắc chắn không phải do dân mà là do cháu ngoan các loại khơi dậy vết thương sắp lành mặt của tội đồ Hồ Chí Minh gây ra.
Thật ra nếu không có đám lãnh đạo lưu manh lôi kéo xác Hồ làm “sản phẩm kinh doanh” thì người dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam giàu truyền thống bao dung tha thứ, thấm nhuần lời dạy nghĩa tử là nghĩa tận của người xưa đã tha tội, đã quên tội ác Hồ Chí Minh lâu rồi. Người dân gay gắt với tội ác của Hồ cũng là do cái bọn cháu mang danh hiệu “cháu ngoan bác Hồ” nhưng cực kỳ lưu manh của Hồ, cứ dựng đầu Hồ dậy đặt ở đầu đường xó chợ, ở hang cùng ngõ hẻm, ngó đâu cũng thấy như trêu ngươi để mưu cầu lợi danh, tư túi bằng tiền thuế của dân, trong lúc một bộ phận không nhỏ người dân còn nghèo đói cơm không đủ ăn áo không đủ mặc, trẻ con thì phải đu dây qua sông đi học và sống như loài thú hoang.
Vậy những ai viết lên, phổ biến sự thật Hồ Chí Minh có phải là đi ngược lại quan niệm nghĩa tử là nghĩa tận của truyền thống tổ tiên nòi Việt?
Không, hoàn toàn không! Hồ chết là hết, viết lên sự thật Hồ Chí Minh là làm theo quan niệm sống bao dung tha thứ của tổ tiên nòi Việt ngàn đời, là muốn đám cháu ngoan lưu manh của Hồ hãy để yên cho Hồ, đừng lợi dụng xác Hồ, đừng kinh doanh quyền lực, quyền lợi trên xác chết Hồ nữa. Viết về sự thật Hồ Chí Minh để những đứa cháu ngoan mù đảng, mê muội Hồ tôn kính Hồ, thần tượng Hồ như vĩ nhân, như thần thánh phải tỏ thái độ, phải lên tiếng ngăn chận đám cháu ngoan lưu manh thôi làm điều vô đạo, đừng kinh doanh xác Hồ nữa, hãy để cho Hồ an giấc nghìn thu, như là cách cho đám mê muội Hồ tỏ lòng hiếu kính tôn thờ Hồ.
Vẫn biết Hồ Chí Minh là tội đồ của dân tộc Việt Nam, là tội phạm chống nhân loại nhưng khi đặt bút viết sự thật Hồ Chí Minh, tâm tôi an bình, trí tôi trong sáng và lòng không gợn chút hận thù Hồ Chí Minh theo đúng tinh thần bao dung tha thứ nghĩa tử là nghĩa tận của tổ tiên nòi Việt. Viết lên sự thật Hồ Chí Minh chỉ mong rằng các cháu ngoan bác hồ các loại hãy buông tha cho Hồ, đừng bắt Hồ làm “thánh” phục vụ tâm địa xấu xa ích kỷ của mình nữa và hãy trả Hồ về đúng vị trí lịch sử như Hồ vốn có. Viết sự thật Hồ Chí Minh là tôi không muốn vướng bận những trang sử đen tối do Hồ vấy bẩn, là muốn lật sang trang mới để viết lên những dòng tươi đẹp hào hùng, bất khuất cho lịch sử Việt Nam tương lai như tổ tiên đã từng làm rạng danh nòi Việt trong hơn bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước, mở nước, cứu nước của dân tộc Việt Nam.
NGUYỄN TRỌNG DÂN * KINHTẾ TRUNG CỘNG
Kinh tế quốc doanh của Trung Cộng phá sản!
Nguyễn Trọng Dân (Danlambao) - Theo chân tập đoàn quốc doanh sắt thép Sinosteel rung rinh vỡ nợ vì không trả nổi đúng hạn 135 triệu Mỹ kim tiền lời từ nợ công phiếu là đến tập đoàn quốc doanh sản xuất xi-măng lớn nhất Trung Cộng có tên là Shanshui Cement Group hồi thứ ba tuần qua cũng đành tuyên bố không thể trả nổi 500 triệu Mỹ Kim nợ tiền lời từ nợ công phiếu do chính phủ bán ra. Đây là một vụ default, tức là một vụ thất tín trả nợ lớn nhất trong lịch sử của Trung Cộng.
Việc cả hai đại công ty quốc doanh này, Sinosteel và Shanshui cùng nhau lần lượt vỡ nợ mở màn một giai đoạn vỡ nợ liên tục cho các tập đoàn kinh tế quốc doanh, vốn được coi là đầu tàu cho nền kinh tế của Trung Cộng.
Thật ra, cho rằng hai tập đoàn quốc doanh này mở màn cho sự sụp đổ của nền kinh tế quốc doanh Trung Cộng là quá lạc quan bởi sự sụp đổ này không phải một sớm một chiều mà có, mà đã được báo trước bằng sự sụp đổ vỡ nợ liên tục của các công ty quốc doanh khác trước cả hai tập đoàn này.
Trước đó, tháng Ba năm 2014, tập đoàn Shanghai Chaori Solar Energy Science & Technology Co. bị default; tháng Giêng năm nay, tập đoàn địa ốc Kaisa Group Holdings Ltd bị default; tháng Tư, tập đoàn sản xuất thiết bị năng lượng Baoding Tianwei Group bị default.
Riêng về Sinosteel và Shanshui đã khánh kiệt về tài chánh trước đó và được Bắc Kinh vung tiền cứu vãn thông qua công khố phiếu. Sinosteel có được 20 tỷ Nhân Dân tệ từ Bắc Kinh do chính phủ bán công phiếu và nay đại công ty quốc doanh này không thể trả nổi tiền lời từ công phiếu chính phủ. Đại công ty Shanshui cũng chung số phận như Sinosteel báo hiệu nền kinh tế quốc doanh chỉ đạo từ trung ương của Trung Cộng đang mỗi lúc mỗi tiến gần hơn đến bờ vực của phá sản.
Riêng về Sinosteel và Shanshui đã khánh kiệt về tài chánh trước đó và được Bắc Kinh vung tiền cứu vãn thông qua công khố phiếu. Sinosteel có được 20 tỷ Nhân Dân tệ từ Bắc Kinh do chính phủ bán công phiếu và nay đại công ty quốc doanh này không thể trả nổi tiền lời từ công phiếu chính phủ. Đại công ty Shanshui cũng chung số phận như Sinosteel báo hiệu nền kinh tế quốc doanh chỉ đạo từ trung ương của Trung Cộng đang mỗi lúc mỗi tiến gần hơn đến bờ vực của phá sản.
Theo nhận định của các nhà kinh tế, Bắc Kinh chưa từng có kinh nghiệm điều hành đất nước khi kinh tế suy thoái nên hành động và tính toán của Bắc Kinh hết sức cưỡng ép, điên rồ và chỉ làm cho tình hình kinh tế thêm tồi tệ.
Lãnh vực sản xuất của đất nước đang bị thu hẹp mà Bắc Kinh cứ tiếp tục đầu tư cưỡng ép vào sản xuất thì tránh sao không khỏi lao xuống hố nhanh hơn dự tính. Khi sản xuất thu hẹp, đầu tư phải nhiều hơn cho các cải cách an sinh xã hội, trong đó có việc gia tăng thu nhập của giới tiêu thụ lao động trong nước, cải thiện giáo dục và hỗ trợ các ngành kinh tế dịch vụ để tạo thêm công ăn việc làm với thu nhập khá hơn so với lãnh vực sản xuất lắp ráp. Có như thế, nhu cầu nội địa sẽ gia tăng đủ sức bù lại nhu cầu xuất khẩu đang bị hạn hẹp, kích thích sản xuất bùng phát trở lại để phục vụ thị trường nội địa.
Đằng này Bắc Kinh lại tiếp tục chèn ép lương bổng lao động làm sức mua nội địa tiếp tục suy giảm, cố cưỡng ép đầu tư sản xuất và tìm đủ cách đẩy mạnh xuất khẩu cũng như gia tăng các đề án xây dựng điên rồ nhằm kích cầu nhưng tạo ra hoang phí cho tài lực đất nước vì những công trình xây dựng chẳng giúp ích gì cho dân sinh và phục hưng kinh tế.
Vào giữa năm 2014, giới tài chánh thế giới đã lên tiếng báo động cho Bắc Kinh nhìn thấy nợ của các tập đoàn kinh tế quốc doanh độc quyền của Trung Cộng chiếm gần 125 % GDP nhưng Bắc Kinh vốn ngoan cố, không chịu sửa đổi sách tài chánh khiến qua năm 2015 thì tình hình càng trở nên tệ hại.
Dựa trên báo cáo của McKinsey Global Institute vào quý Hai năm 2014, thống kê chi tiết nợ nần của Trung Cộng như sau:
Bản thống kê trên cho thấy chính các đại công ty quốc doanh là gánh nặng nợ nần lớn nhất của nền kinh tế Trung Cộng và sẽ kéo cả nước đi xuống hố khủng hoảng vỡ nợ trong nay mai không thể tránh khỏi nếu không nhanh chóng cải tổ hủy bỏ kinh tế quốc doanh. Càng cố chấp duy trì hệ thống kinh tế quốc doanh thì thảm họa đổ vỡ kinh tế càng nặng nề mà thôi.
Tuy nhiên, không thấy có dấu hiệu Bắc Kinh chịu từ bỏ đường lối kinh tế độc tài đảng trị của mình dù biết rõ thảm họa đổ vỡ sẽ xảy ra.
Chủ nghĩa Cộng sản độc tài toàn trị, bất luận là ở quốc gia nào, bất luận là có thực thị kinh tế tư bản hay không thực thi kinh tế tư bản, thì trước hay sau gì cũng đều đem đến thảm họa tan nát cho kinh tế xã hội và môi trường của đất nước mà thôi, không hề có ngoại lệ.
17/11/2015
Nguồn tham khảo:
HỒI KÝ PHẠM VĂN LIỄU
Phạm Văn Liễu
Lưới người, kẻ gian tà có thể thoát,
Nhưng lưới Trời, không thể nào thoát nổi.
Từ sau ngày 29 tháng 12 năm 1984, Hoàng Cơ Minh, với tư cách Chủ tịch Mặt Trận, (không do ai bầu hoặc đề cử ) đồng thời cũng là Chủ tịch Hội Đồng Kháng Chiến Toàn Quốc (chưa bao giờ được thành lập) ký quyết định số 037/ HĐKCTQ giải nhiệm ông Trần Trung Sơn (Phạm văn Liễu), Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hải Ngoại, Minh mất hết sự tin yêu của mọi giới đồng bào, lẩn trốn chiến hữu, lẩn trốn đồng bào, lẩn trốn dư luận, một thời đã kỳ vọng ông như một lãnh tụ sáng giá tại hải ngoại.
Minh thường sống tại Hawaii hay Nhật Bản.
Do sự bầy mưu, hiến kế của cặp bài trùng Nguyễn Xuân Nghĩa và Hoàng Cơ Định, Minh trở lại Thái Lan, cố làm sao tạo ra một tiếng vang, chứng tỏ cho dư luận thấy là Minh vẫn chỉ huy chiến đấu ở quốc nội. Phải tạo được tiếng vang dội ngược về hải ngoại thì Hoàng Cơ Định mới có lý do tiếp tục moi hầu bao của chiến hữu và đồng bào.
Vì áp lực của Tòa đại sứ Cộng Sản VN ở Vọng các (Bangkok), Bộ Tổng Tư Lệnh quân đội Thái Lan có ý định giải tán căn cứ của ông Minh, tại tỉnh Ubon Ratchathani, có khoảng từ 40 tới 50 người, vũ khí phần lớn là súng trường M1, một ít lựu đạn, do Tướng hồi hưu Sutsai cung cấp với giá cắt cổ.
Ông Minh chạy đôn chạy đáo tìm mọi cách liên lạc, bắt mối với các Tướng lãnh Thái, đặc biệt là Tướng phụ trách biên thùy miền Nam và Tướng quân khu Ubon. Tháng 7 năm 1987, Bộ Tổng Tư Lệnh quân lực Thái ra quyết định dời căn cứ của ông Minh lên vùng Bắc, trấn đóng tại Mukdahan, giữa Ubon Ratchathani và Nakhon Phanom. Từ Nakhon Phanom đi lên hướng Bắc, theo dọc biên giới sẽ tới thị trấn Nong Khai, bên kia sông Mékong là Vien tiane (Vạn Tượng) của vương quốc Lào. Từ Nong Khai theo lộ 13 xuống phía Nam dẫn tới thị trấn Udon Thani.
Tháng 8 năm 1987, ông Minh cho lệnh chuyển trại lên miền Bắc, lộ trình bám sát biên giới Thái Lào. Thời gian này, không còn những cấp chỉ huy nhiều kinh nghiệm chiến trường rừng núi, như đại tá Dương văn Tư, trung tá Lê Hồng. Chung quanh ông Minh toàn những thuộc hạ thân tín chưa bao giờ tham dự chiến trận trong rừng như Nguyễn trọng Hùng, sĩ quan phòng 7, Trần thiện Khải, sĩ quan hải quân, Võ Hoàng, một thanh niên hăng say, nhiệt huyết, nhưng chỉ biết cầm bút, chưa lần nào cầm súng.
Ngô Chí Dũng, con chim đầu đàn của tổ chức Người Việt Tư Do cũng không còn nữa.
Hoàng Cơ Minh có tật thích được tôn sùng cá nhân và có tính hiếu sát, đã từng hạ lệnh xử tử 18 kháng chiến quân Mặt Trận tại khu chiến.
Trong chuyến dời căn cứ lên miền Bắc, đích thân ông cựu phó đề đốc hải quân chỉ huy cuộc hành quân chuyển trại, xuyên qua rừng núi biên thùy Thái Lào. Không biết ông Minh có lưu tâm đề phòng trong số kháng chiến quân đi theo ông có nhiều người bất mãn vì ông đã hạ sát anh em, bằng hữu của họ. Manh nha trả thù cho anh em, bằng hữu và lo ngại cho chính bản thân họ, mấy người này trốn khỏi hàng ngũ, đi báo cho quân Pathet Lào trấn đóng trong vùng. Quân Pathet Lào tuy không tinh nhuệ, nhưng được trang bị vũ khí, đạn dược đầy đủ, quen thuộc vùng chúng trấn đóng, bao vây toán quân do ông cựu Tư lệnh lực lượng thủy bộ chỉ huy.
Cuộc nổ súng giữa hai bên xẩy ra, vang dội núi rừng. Kháng chiến quân lần lượt ngã gục, ông Minh và mấy người thân cận cũng không thoát khỏi cái chết. Một số kháng chiến quân bị địch bắt hay đầu hàng. Tất cả người chết về phía Mặt Trận được chôn vùi sơ sài ngay tại chỗ. Quân Pathet Lào không hay biết là trong số người chết có chủ tịch Hoàng Cơ Minh, lãnh tụ kháng chiến Việt Nam. Pathet Lào báo cáo cho CSVN về cuộc chạm súng ở Hạ Lào và giao những tù hàng binh cho CSVN. Sau khi khai thác tù hàng binh Mặt Trận, CSVN mới biết là Chủ tịch Hoàng Cơ Minh đã tử trận, xác được chôn chung với kháng chiến quân chết trận. Chúng bắt tù hàng binh quay lại chiến trường chỉ nơi chôn xác Hoàmg Cơ Minh. Vì xác đã được chôn cả tháng trước đây, nên khi bới lên để chụp hình, một bên mặt đã bị nát.
Tháng 10, 1987, đài phát thanh và báo chí Lào loan tải bản tin chiến sự là đã tiêu diệt lực lượng Hoàng Cơ Minh. Tháng 12, 1987, báo Nhân Dân của đảng CSVN và báo Quân Đội Nhân Dân chính thức loan tin về phiên tòa xử các kháng chiến quân bị bắt trong cuộc chạm súng tại Nam Lào và loan tải chi tiết về cái chết của chủ tịch Mặt Trận Hoàng Cơ Minh kèm theo hình ảnh.
Hai tờ báo, một của đảng, một của Quân đội Nhân dân đã ra liền 3 số báo, tường thuật chi tiết, rõ ràng trận đánh ở Nam Lào, cái chết của Hoàng Cơ Minh.
Tuy nhiên, ở hải ngoại, bọn đầu lĩnh kế thừa Mặt Trận nhất quyết không nhìn nhận là Hoàng Cơ Minh đã chết.
Dư luận ở hải ngoại rất nôn nao khi được tin Phó đề đốc Hoàng Cơ Minh và nhiều chiến sĩ thân thương đã hy sinh trên chiến trường Lào cho chính nghĩa. Tất cả đều mong đợi Tổng vụ hải ngoại chính thức công bố tin này, sẽ làm lễ truy điệu và vinh danh những người con yêu đã nằm xuống cho công cuộc giải phóng Việt Nam. Nhưng viện vào lý do không công bố tổn thất nhân sự có ảnh hưởng tới tinh thần toàn bộ cơ sở của Mặt Trận, bọn đầu lĩnh nhất quyết tuyên bố :
- “Chủ tịch Hoàng Cơ Minh vẫn còn sống và vẫn lãnh đạo công cuộc kháng chiến tại quốc nội.”.
Thậm chí, trong những số báo Kháng Chiến ra hàng tháng, ông vụ trưởng vụ Tuyên Vận vẫn còn viết và cho đăng những tin tức tưởng tượng như là lực lượng kháng chiến dưới quyền lãnh đạo của chiến hữu Hoàng Cơ Minh đã chiếm hết xã này tới quận nọ, nơi nào cũng đặt ủy ban kháng quản, sau khi tiêu diệt hết các ủy ban xã, ủy ban quận của Cộng Sản.
Đồng bào hải ngoại đọc những loại tin “tức mình” này, rất khâm phục cặp bài trùng Hoàng Cơ Định - Nguyễn Xuân Nghĩa với hai bộ óc có trí tưởng tượng tuyệt vời của một tiến sĩ hóa học tốt nghiệp tại Pháp và một chuyên viên kinh tài tốt nghiệp trường Cao Đẳng Thương Mại tại Paris.
Không xác nhận hay phủ nhận mọi tin tức đưa ra từ kẻ thù để bảo mật thực lực. Đây là bài học 4 không bắt đoàn viên học thuộc lòng:
- “Không nghe, không thấy, không biết và không nói “cóp nhặt của cộng sản.
Dư luận thương cho ông Minh đã anh dũng hy sinh trên chiến trường Nam Lào, dư luận sẵn sàng bỏ qua những lỗi lầm của ông Minh đã không có tín nghĩa, đã gian tham tiền bạc, đã lừa dối chiến hữu, đã lường gạt đồng bào.
Trường hợp, chính những người anh em ruột thịt và những tay chân thủ túc của ông Minh ở hải ngoại lên tiếng về cái chết thảm khốc của ông Minh, đồng bào và nhất là các chiến sĩ hải quân sẽ làm lễ truy điệu, vinh danh cựu phó đề đốc và các kháng chiến quân đã vị quốc vong thân.
Mặt Trận và gia đình giòng họ Hoàng Cơ sẽ lấy lại được uy tín một dạo đã lên tới tuyệt đỉnh và đã tắt lịm vì những tai tiếng xấu xa.
Trường hợp ông Minh thật quả chưa chết mà báo chí đảng và quân đội nhân dân bịa ra cái chết của ông Minh đăng liên tiếp trong 3 ngày, trường hợp không ra hải ngoại như đi chợ thời trước đây, ông Minh tìm cách lên tiếng với những phương tiện truyền thông hiện đại (như kiểu thâu tiếng và hình vào băng video của tên trùm khủng bố OSAMA BIN LADEN xứ A Phú Hãn bây giờ) , thì đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam chỉ còn cách bôi tro trát trấu lên mặt, đâu còn dám tòi mặt mo ra với thế giới bên ngoài. Nhưng ông Minh không làm được vì ông đã thực sự chết ở Nam Lào.
Dư luận thương cho ông Minh, nhưng thấy thái độ úp mở, dối trá, bất nhân của những đầu lĩnh Mặt Trận, dư luận phê phán những tên này cố tình che dấu tin tức để tẩu tán tài sản, nếu tuyên bố thực sự ông Minh và toàn bộ kháng chiến quân đã chết, bị bắt hay đầu hàng, tức là Mặt Trận quốc nội không còn ai nữa làm sao mà tiếp tục quyên tiền.
SỰ THỰC VỀ CÁI CHẾT CỦA PHÓ ĐỀ ĐỐC HOÀNG CƠ MINH.
Tháng 2 năm 1999, các ông Bùi Bỉnh Bân và Hồ Anh Tuấn tố giác với dư luận Nam California, Mặt Trận là Mafia, khống chế các đoàn thể, tìm mọi cách xen lấn vào các cộng đồng người Việt hải ngoại để phá hoại, đưa người của Mặt Trận vào các vị thế lãnh đạo, dùng tiền bạc mua chuộc và thao túng. Mặt Trận giật giây giới trẻ, dụ dỗ giới trẻ hăng say và đầy nhiệt huyết vào một tổ chức ngoại vi lấy tên là Đoàn Thanh Niên Phan Bội Châu.
Cũng do sáng kiến của Nguyễn Xuân Nghĩa, Mặt Trận lập ra hai tổ chức ngoại vi :
1/ Tổ chức Liên Minh Việt Nam Tự Do trao cho ông Nguyễn Tư Mô, giáo sư đại học Nha Khoa làm chủ tịch. Giáo sư Mô là người mà ông Hoàng Cơ Minh đã nhiều lần tính đem thay thế cụ Phạm Ngọc Lũy trong vai trò chủ tịch PTQGYTKC.
2/ Hội Chuyên Gia Việt Nam, lôi cuốn những chuyên viên trẻ nhẹ dạ, trao cho kỹ sư Vũ Quý Kỳ, cư ngụ tại Atlanta, Georgia, chạy theo ông Minh cuối tháng 12 năm 1984. Rất nhiều bạn trẻ đã tham gia hoạt động tích cực với hoài bão đem tuổi thanh xuân hiến dâng cho quê hương. Lý tưởng của họ rất cao đẹp, suy tư của họ rất trong sáng, thẳng thắn, tinh thần của họ rất mãnh liệt. Nhưng đáng tiếc họ đã bị lừa, và bị lừa một cách hèn hạ, nhục nhã. Dư luận cho là hầu hết các thành viên của “Hội Chuyên Gia Việt Nam” đâu có biết rõ thân thế của vị chủ tịch của họ, ông Vũ Quý Kỳ, người đã từng là tay chân thân tín trong nhiều năm trời của ông Tướng tham nhũng, trùm buôn lậu, cánh tay đắc lực của Tonton Nguyễn văn Thiệu. Họ có biết đâu họ đang bị khai thác nhiệt huyết và năng lực quý giá nhằm phục vụ quyền lợi riêng tư của Mặt Trận . Các bạn trẻ trong “Hội Chuyên Gia Việt Nam” bị bọn người tham tàn, xảo quyệt mượn danh nghĩa các bạn, các chuyên viên trẻ và tài năng, để xây dựng đất nước. . .với cộng sản, để nói với cộng sản Hà nội rằng có chúng tôi đây, có Mặt Trận đây! Chúng tôi sẵn sàng xóa bỏ hận thù để cùng quý ông bắt tay xây dựng đất nước, phục vụ đồng bào, đưa đất nước theo kịp đà văn minh của thế giới.
Thời gian này, anh em Hoàng Cơ Long, Hoàng Cơ Định rút vào bóng tối, đưa các cháu gọi bằng cậu, con ông bà Đỗ Thúc Vịnh, Hoàng Thị An (chị ruột của Minh, Long,Định ) như Đỗ Hoàng Ý, Đỗ Hoàng Phiệt ở Houston, Texas, Đỗ Hoàng Điềm đại diện Măït Trận tại miền Nam California.
Cũng trong thời gian này, Nguyễn Xuân Nghĩa cóp nhặt theo đường lối của đảng cộng sản, đảng là nòng cốt, tuyển chọn những người chỉ biết có đảng, đảng là trên hết, vòng ngoài là Mặt Trận, như Mặt Trận Việt Minh. Nghĩa thành lập đảng Việt Tân làm nòng cốt cho MTQGTNGPVN. Hành động này làm cho nhiều đoàn viên Mặt Trận bất mãn vì không được tuyển chọn vào đảng Việt Tân với hai thủ lãnh mới là Hoàng Cơ Định và Nguyễn Xuân Nghĩa.
Giữa tháng 4 năm 1999, luật sư trẻ tuổi Hoàng Duy Hùng cư ngụ tại Houston, Texas phổ biến tài liệu: “Sự thật về cái chết của Phó đề đốc Hoàng cơ Minh”. Luật sư Hoàng Duy Hùng cả quyết là ông Hoàng Cơ Minh đã chết tại Nam Lào vào tháng 8 năm 1987. Luật sư Hùng chỉ trích nặng nề Mặt Trận mưu toan những ý đồ đen tối, khi vẫn nhất quyết ông Hoàng Cơ Minh còn sống và vẫn lãnh đạo kháng chiến trong quốc nội. Luật sư Hùng còn cáo buộc Mặt Trận là một tổ chức buôn lậu, “buôn xương bán máu “ các chiến sĩ, tội đồ của dân tộc. Mặt Trận trong nước đã hoàn toàn tan rã sau cái chết của ông Hoàng Cơ Minh, lãnh đạo Mặt Trận ở hải ngoại là những con người bất xứng.
Năm 1987, luật sư Hoàng Duy Hùng gia nhập Đại Việt Cách Mạng của ông Hà Thúc Ký, năm 1991, về nước hoạt động bị Việt cộng bắt. Nhờ chính phủ Hoa Kỳ can thiệp, năm 1993, ông được chính quyền cộng sản trả tự do.
Trong thời gian bị giam giữ, ông Hùng đã được những bạn đồng tù nguyên là các tù hàng binh của Mặt Trận kể cho ông nghe về cái chết của ông Hoàng Cơ Minh.
Luật sư Hoàng Duy Hùng được sự liên kết của nhóm ông Nguyên Khôi, bà Đoan Trang ở San José, Bắc California, nhóm ông Hồ Anh Tuấn ở Orange County, Nam California, nhóm cựu đại tá Trương như Phùng ở Houston, Texas, lập ra “diễn đàn công luận” thách thức Mặt Trận đối chất. Dĩ nhiên là Mặt Trận tránh né việc công khai đối chất này, vì biết rõ là phần thua sẽ về phía mình, thủ lãnh Hoàng Cơ Minh đã thực sự bỏ thây tại Nam Lào.
Luật sư Hùng xuất bản một cuốn sách về cái chết của Phó đề đốc Hoàng Cơ Minh, tựa đề “Lột mặt nạ MTQGTNGPVN” phổ biến rộng rãi trong khối người Việt tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại, làm sáng tỏ dư luận về sự dối trá, gian giảo, lừa bịp của bọn đầu lĩnh Mặt Trận.
Nhân dịp Tết Trung Thu, Cộng Đồng Việt Nam ở Houston tổ chức cuộc rước đèn cho các em thiếu nhi. Bọn đầu mục Mặt Trận lợi dụng cơ hội, tới phát không lồng đèn “thiếu nhi đi chân đất, đội nón cối, với ngôi sao dẫn đầu” cùng khẩu hiệu “vì các cháu thiếu nhi, toàn dân ta kháng chiến”. Mặt Trận tuyên bố, câu nói đó là của chủ tịch Hoàng Cơ Minh. Nhưng các đoàn thể và người Việt tại Houston thì cho câu nói đó của Hồ Chí Minh, lên tiếng phản đối, tố cáo trước dư luận Mặt Trận làm tay sai cho cộng sản và phá thối cộng đồng, làm nhục cả đến trẻ em.
Báo chí ở Houston dã viết:
- “Cái Nghiệp của ông Hoàng Cơ Minh thật là nặng. Đã chết thảm, chết không toàn thây, chết mất xác, chết thật đau đớn, và sau khi chết hương hồn vẫn không yên. Nhà Phật thường dùng chữ Nghiệp để giải thích cho những điều bất hạnh gặp trong đời. Một bầy đầu lĩnh bất tài, vô tướng, có tiền trong tay cũng chỉ múa may quay cuồng, bắng nhắng như một lũ phường tuồng, đi thực hiện lồng đèn nêu cao chính nghĩa cộng sản thay vì chính nghĩa quốc gia. Thật là tiền ngập đến cổ, muốn nuốt cho trôi cũng phải có một khả năng tối thiểu. Khả năng này, nhóm lãnh đạo Mặt Trận hiện nay, thật là thiếu vắng.
Trăm, bia đá cũng mòn,
Ngàn năm, bia miệng vẫn còn trơ trơ.
Không hiểu vì nguyên do nào mãi đến giữa năm 2001, bọn đầu lĩnh Mặt Trận chính thức khai tử cho phó đề đốc Hoàng Cơ Minh cùng số kháng chiến quân đã tử trận.
Nhà báo Nguyên Thanh bên Úc Đại Lợi, trong bài Chuyện Dông Dài với tựa đề :
Việt Cộng cứu Mặt Trận
Hay
Mặt Trận cứu Việt Cộng
Bài viết mở đầu bằng hai câu thơ:
Anh linh Liệt Sĩ hỏi Hoàng Cơ . . .
Định bịp dân ta tới bao giờ ?
Băng nhóm Tội Đồ Dân Tộc Mặt Trận Hoàng Cơ Định sau khi trình diễn một màn xác nhận “Muộn màng sau mười bốn năm gian dối để rửa tiền” sự tử trận của Phó đề đốc Hoàng Cơ Minh cùng vài Liệt sĩ, đã bị mọi người nguyền rủa thậm tệ.
Ông bác sĩ “chiến hữu” Đặng Vũ Chấn là một cán bộ cao cấp trong “Băng Đảng” được cử qua Úc để thanh minh thanh nga, cứu nguy băng đảng.
Nhà báo Nguyên Thanh viết:
- Chúng tôi không thắc mắc về chuyện có kháng chiến hay không có kháng chiến. Chúng tôi chỉ thắc mắc về những nghĩa binh còn đang bị nhốt trong lao tù cộng sản, về mấy ngôi mộ không tên trong chiến khu, về cái chết không minh bạch của Trung Tá Lê Hồng, về sự mất tích của kháng chiến quân thứ thiệt Ngô Chí Dũng.
Đừng dùng sự lừa bịp để che đậy điều gian dối.
Sự bưng bít về cái chết của thủ lãnh, của chính anh ruột của mình từ năm 1987 mà mãi cho tới năm nay, 2001, mới “ậm ừ truy điệu” cho qua chuyện, là một thái độ hết sức Tắc Trách và Vô Lương Tâm. Sự gian dối này kéo dài 14 năm. Năm nào cũng vậy, cứ vào dịp Tết Âm lịch, báo Kháng chiến lại có Thư chúc Tết đồng bào của chủ tịch Hoàng Cơ Minh (bản văn giả mạo này, dư luận biết rất rõ là thiên tài Tuyên Vận đã sáng tạo ra). Hành động ấy, liệu có thể gọi là Hành Động Lường Gạt Đại Quy Mô trải rộng toàn cầu không? Hành Động khinh khi sự hiểu biết của người dân Việt hải ngoại không? Nếu không gọi là Lường Gạt thì gọi bằng chữ nghĩa gì? Ngây thơ ư ???
Vậy sau khi chính thức công nhận cái chết của người lãnh đạo tối cao của tổ chức, Mặt Trận nghĩ gì về câu hỏi:
- “Ai là tác giả của các lá thư chúc Tết đồng bào ??????”.
Ma quỷ đâu có viết được, phải là người, vậy người đó là ai ??????
Với chính sách bốn không, (không biết, không nghe, không thấy, không nói), Mặt Trận cứ câm miệng hến, theo đúng câu ngạn ngữ :
Lời nói là bạc, Im lặng là vàng.
Mặt Trận chỉ thích vàng thôi !!!
Đây là chủ trương của nhóm đầu lĩnh Mặt Trận hiện nay, trường kỳ, bất di bất dịch.
VỤ ÁN TRỐN THUẾ CỦA CÔNG TY NAKAMURA.
Ngày 22 tháng 4 năm 1991, cảnh sát thành phố San José, Bắc California đã câu lưu Hoàng cơ Định, vợ Định, (Phan Thị Hà) cùng ba bộ hạ Nguyễn Kim Hườn, Nguyễn Tấn Bính và Phan Duy Cần. Năm bị cáo trên sẽ bị xét xử 26 điều khoản về các tội âm mưu (conspiracy), khai gian thuế (false statement on tax return), trốn thuế (tax evasion), và không khai thuế (failure to file tax return).
Bản cáo trạng do một Đại Bồi Thẩm Đoàn (Grand Jury) biểu quyết nhằm truy tố :
1/ Định Cơ Hoàng, aka Dean Nakamura, Vu Quang, Phan vu Quang,
2/ Hà Phan Hoang,
3/ Binh Tan Nguyen, aka Le van Nam,
4/ Huon Kim Nguyen, aka Steven Nakashima,
5/ Can duy Phan, aka James Masuda,
về các tội danh: âm mưu (conspiracy), khai gian thuế (false statement on tax return), trốn thuế (tax evasion), không khai thuế (failure to file tax return).
Tổng cộng là 26 tội danh.
Với số tiền bạc lường gạt được của chiến hữu và đồng bào cùng tiền lợi tức của các cơ sở kinh tài, bọn đầu lãnh Mặt Trận đem ra bảo lãnh số tiền thế chân rất cao, lo việc tại ngoại cho những kẻ bị bắt giữ trong vụ án trốn thuế. Tuy nhiên, theo thông luật, tòa án đã bắt bọn người này phải nộp sổ thông hành, để không trốn đi ra nước ngoài được, nhất là Nhật Bản, vì mấy người này đều lấy tên Nhật. Gian manh nữa là Hoàng Cơ Định, trong thời gian tại ngoại lập ra Quỹ Công Lý, kêu gọi chiến hữu và đồng bào đóng góp tài chánh trang trải tiền thuê mướn luật sư biện hộ. Dư luận nặng nề chỉ trích Hoàng Cơ Định là con người vô liêm sỉ, đã gian tham, lại trốn thuế, nay lại lập ra quỹ công lý để moi tiền những người nhẹ dạ hay bị đe dọa. Thành thử, cũng không thâu được bao nhiêu.
Đồng tiền đâm toạc tờ giấy, án lệnh truy tố bọn người gian dối được hủy bỏ ngày 15 tháng sáu năm 1966.
Tuy nhiên, tòa án lương tâm và công luận còn tồn tại mãi mãi. Hình ảnh 5 nhà lãnh tụ Mặt Trận bị còng tay và đẩy lên xe cây, đồng bào San José khó có thể quên.
VỤ MẶT TRẬN KIỆN BÁO CHÍ.
Đầu năm 1994, tôi nhận được điện thoại của anh Vũ Ngự Chiêu, tức nhà văn Nguyên Vũ, giám đốc nhà xuất bản và phát hành Văn Hóa, yêu cầu tôi ra làm chứng cho vụ ba đầu lĩnh Mặt Trận, Hoàng Cơ Định, Nguyễn Xuân Nghĩa và Trần Xuân Ninh kiện nhà văn Nguyên Vũ, giám đốc nhà xuất bản Đa Nguyên, đã cho in và phát hành cuốn hồi ký chính trị Mặt Trận, những sự thực chưa hề được kể của nhà văn Cao Thế Dung năm 1992. Suy nghĩ một lúc, tôi nhận lời, anh Vũ Ngự Chiêu là bạn tôi, tình thân như ruột thịt, Nguyên Vũ hay Chính Đạo là nhà văn có nhiều tác phẩm và bài phân tách chính trị, tôi ưa thích .
Những ngày kế tiếp, tôi nhận được điện thoại của ông Cao Thế Dung, tác giả cuốn hồi ký chính trị Mặt Trận, những bí mật chưa hề tiết lộ về Mặt Trận Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh và đặc biệt là tổ chức K 9, cũng yêu cầu tôi ra làm chứng cho vụ ông bị nhóm ba đầu lĩnh Mặt Trận kiện .
Tôi đã nhận lời ra làm chứng cho nhà văn Nguyên Vũ, tôi không chần chừ nhận lời. Ông Cao thế Dung, tôi đã biết từ ngày ở Saigon, qua Hoa Kỳ, ông là chiến hữu trong Mặt Trận. Thêm nữa, ông là nhà văn và nhà báo can đảm, không sợ bạo lực, viết lên những sai trái, nhem nhuốc, gian giảo của Mặt Trận.
Ông Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng, chủ báo Văn Nghệ Tiền Phong (VNTP) cũng gọi cho tôi yêu cầu tôi ra làm chứng về vụ ông bị ba người đầu lĩnh Mặt Trận thưa ra tòa, vì báo VNTP đã cho đăng tải những bài viết của Lê Kính Dân “Ai giết vợ chồng ký giả Lê Triết”, Lê Bằng Phong và Chu Tri Lục viết khen tặng và phụ họa bài của Lê kính Dân.
Tôi nhận lời yêu cầu của ông Nguyễn Thanh Hoàng, ông Hoàng với tôi quen biết nhau từ ngày tôi theo học trên trường Võ Bị Dalat năm 1952, và những ngày sau khi ông làm chủ những tờ báo Ngôn Luận, Văn Nghệ Tiền Phong ở Saigon, kể cả thời gian tỵ nạn qua Hoa Kỳ, ông Hoàng với tôi vẫn là bạn có giao hảo tốt.
Ngoài sự quen biết và tình bằng hữu, tôi nhận lời yêu cầu của cả ba người, ra làm chứng là vì chính nghĩa, vì công đạo, vì công lý, tôi không muốn thấy nhóm đầu lĩnh Mặt Trận hiện nay mang tiền bạc phi nghĩa ra, định làm hại ba người trong giới văn bút, báo chí.
Ngày 13 tháng 5 năm 1994, Luật sư Kleven, thầy cãi cho phe nguyên đơn, có Hoàng Cơ Định đi theo đến Austin, Texax, lấy lời khai của tôi, nhân chứng cho phía bị cáo.
Tôi trưng ra những tài liệu chứng minh Hoàng Cơ Định là một con người sảo trá, gian manh, bạo tàn. Trước đó, tôi tra cứu tự điển dịch mấy chữ nhận xét về anh em họ Hoàng Cơ, như bịp bợm, dối trá, lường gạt, phản bội, v.v. . .ra tiếng Anh cho đúng. Tưởng tôi có tài liệu thành văn, luật sư Kleven đòi xem và ghi vào biên bản.
Ông Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng cho biết đã nhờ một luật sư Mỹ biện hộ, tên là Richard D. Givens ở Redwood City. Nhà văn Nguyên Vũ cho biết đã nhờ được luật sư Nguyễn Tâm có văn phòng tại San Jose, biện hộ, chỉ có ông Cao Thế Dung lấy lý do nghèo nàn, không có tiền thuê mướn luật sư, được tòa cho tự biện hộ.
Phiên tòa chính thức bắt đầu từ ngày 5 tháng 12 năm 1994 tại tòa Thượng Thẩm hạt Santa Clara ngay trung tâm thành phố San José.
Ngày 12 tháng 12 năm 1994, tôi đáp máy bay qua San José, tới phi trường được Nguyên Vũ và cựu chiến hữu Vũ hữu Dũng đã chờ sẵn, đưa tôi về nhà anh Dũng. Chiêu cũng ở đó, sau này có thêm Cao Thế Dung tới. Tội nghiệp anh chị Dũng đã phải thu xếp việc ăn ngủ cho ba chúng tôi, lại phải lo la-de (beer) cho nhà văn Cao Thế Dung.
Nguyên Vũ trình bầy là giai đoạn đầu của phiên tòa hộ. Phiên tòa do ông Thẩm phán Joseph F. Biafore, Jr. điều hợp. Nguyên Vũ cười nói:
- “Anh biết không, việc xét xử vai trò xã hội của các nguyên đơn mới thật quan trọng, vì nó quyết định phần nào kết quả vụ án. Trong các vụ án hộ hay dân sự (civil), luật pháp Mỹ có những điều khoản khác nhau tùy theo “vai trò xã hội” của nguyên đơn . Nếu nguyên đơn là thường dân (private citizen) họ được luật pháp bảo vệ rất kỹ. Nhưng nếu phe nguyên đơn là người của đám đông hay nhân vật cộng đồng (pubic figures), họ phải chấp nhận sự chỉ trích của giới báo chí và dư luận. Ngày 7 tháng 12, 1994, sau nhiều ngày tranh cãi của hai phía luật sư, thẩm phán Biafore phán quyết các nguyên đơn là người của đám đông. Ngược lại, phía bị cáo không được nhắc nhở gì đến vụ án trốn thuế của vợ chồng Hoàng Cơ Định và thuộc hạ. Tiếp đến là việc lựa chọn 12 vị bồi thẩm chính thức và 2 dự khuyết cũng thật gay cấn, phải mất 2, 3 ngày mới xong.”.
Tuy nhiên, Nguyên Vũ khẳng định, thế nào phía bị cáo cũng thắng kiện.
Nguyên Vũ và tôi hàn huyên đủ mọi chuyện về phiên tòa, phe nguyên đơn, phe bị cáo, điểm mạnh, điểm yếu của hai phe. Nguyên Vũ nhấn mạnh về trường hợp Cao Thế Dung. Điểm yếu nhất của ông Dung là không có luật sư, phải tự biện hộ, Anh ngữ giới hạn, phải dùng thông dịch viên. Ông Dung ăn nói lưu loát, nhưng nhiều khi đi quá trớn vì hăng say, tuy nhiên khiêm tốn, nhã nhặn, gây được cảm tình của Bồi thẩm đoàn. Luật sư Nguyễn Hữu Liêm được phe bị cáo mời biện hộ cho ông Dung, nhưng luật sư Liêm chỉ nhận sẽ thủ vai trò “cố vấn”.
Phe nguyên đơn, Hoàng Cơ Định nhất thời tưởng là mạnh. Thái độ kiêu căng, ngạo mạn, mặt trơ, trán bóng, lúc nào cũng vênh lên, cậu ấm con quan, kẻ cả ta đây, tốt nghiệp tiến sĩ từ bên Pháp, lắm tiền nhiều bạc, dù tiền bạc toàn là thứ phi nghĩa, tham lam, gian giảo, làm mất cảm tình của Bồi thẩm đoàn.
Tôi lắng nghe Nguyên Vũ trình bầy, tôi có ý kiến:
- “Ba bị cáo, Cao Thế Dung, Nguyễn Thanh Hoàng và Nguyên Vũ như ba tay chèo trên một con thuyền nhỏ trong cơn sóng gió, không những phải vững tay chèo, không sợ sệt, không rối trí, không nản lòng, mà còn phải liên kết chặt chẽ, chung sức, ba người như một. Nếu có một người nhảy ra khỏi thuyền, thuyền sẽ đắm, cả ba người sẽ đắm theo thuyền. Vậy phải liệu trông nhau, bảo nhau, giúp nhau, bình tĩnh, chịu đựng, trí óc lúc nào cũng giữ cho tỉnh táo, sáng suốt. Anh nghĩ Nguyên Vũ thừa biết những điều anh vừa nói, anh tin vào Nguyên Vũ thừa nghị lực và khả năng để thực hiện việc giữ cho con thuyền khỏi đắm.”.
Tôi cũng có ý kiến về sự thông cảm, kết hợp giữa hai luật sư, Richard Givens và Nguyễn Tâm. Hai vị luật sư, một Mỹ, một Việt, phải hướng dẫn khéo léo các bị đơn, các nhân chứng, cung khai ở tòa, kẻ nâng, người đỡ, né chỗ mạnh, tìm chỗ yếu, chỗ sơ hở của phe nguyên đơn mà khai thác triệt để.
Nói tóm lại, việc thắng bại cho phiên tòa là do ở sự đoàn kết một lòng của ba bị cáo và sư liên kết, phối hợp giữa hai luật sư.
Tôi đề nghị Nguyên Vũ bàn với luật sư Nguyễn Tâm triệu tập một phiên họp đông đủ có mặt cả bị cáo, chứng nhân và luật sư vào ngày chủ nhật ngay tại văn phòng luật sư Tâm, để thông qua những điểm cốt yếu, vai trò của từng người, chiến lược và chiến thuật áp dụng để đi tới toàn thắng. Trong buổi họp, tôi đề nghị, sau mỗi buổi tòa, ba bị cáo tới nhà anh Vũ Hữu Dũng họp, để khai thác những ưu khuyết điểm của từng người phía mình và những ưu khuyết điểm phía nguyên đơn, ngày hôm sau, ra đòn cho thật đúng.
Bên phía nguyên đơn đưa ra hai nhân chứng, An Nguyễn tức Nguyễn Kiển Thiện Ân, hồi còn ở Saigon, làm Thứ Trưởng của chính phủ Nguyễn Văn Lộc (1967-1968), qua Hoa Kỳ làm thông dịch viên các tòa án hạt Santa Clara. Ông Nguyễn Ngọc Bích, khai trước tòa, du học tại Mỹ năm 1956, tốt nghiệp đại học Princeton, về nước làm viện trưởng đại học Mékong từ 1972-1975.
Cá nhân tôi biết ông Bích nhiều, cùng với anh em ông là các ông Nguyễn Ngọc Linh, Nguyễn ngọc Phách, Nguyễn Ngọc Nhạ, v.v. . .Tôi không hiểu tại sao ông Bích lại nhận lời ra làm chứng cho phía nguyên đơn.
Bên bị đơn, thoạt đầu, Nguyễn Thanh Hoàng mời ông Hoàng Xuân Yên, tức ký giả Hoàng Xuyên, nhưng ông Yên từ chối không nhận. Ông Nguyễn Đạt Thịnh từ Hawaii bay qua San José làm nhân chứng theo lời mời của nhà văn Nguyên Vũ, nhưng sau Nguyên Vũ quyết định chỉ đưa ông chủ báo Diều Hâu lên bục nhân chứng nếu cần.
Rốt cuộc, có Vũ Hữu Dũng, cựu trung tá Nguyễn Xuân Phác, (một thời làm chủ báo Dân Tộc, Dân Việt và rồi Người Việt Bắc Cali. Ông là người đầu tiên đã công bố những gian lận, tham tàn của Hoàng Cơ Minh và anh em, giòng họ) và tôi là nhân chứng của phía bị đơn.
Tôi không thể nêu ra đây, trong cuốn sách này, tất cả chi tiết phiên tòa, như cuốn “Một ngày có. . . 26 giờ “, bút ký của Nguyên Vũ về vụ án lịch sử Báo Chí Hạ Đo Ván Mật Trận. . . Kháng Chiến William Nakamura, dầy 300 trang, và cuốn “Mặt Trận kiện Báo Chí”, tường thuật của Trần Củng Sơn diễn tiến từng ngày về phiên tòa Mặt Trận Kiện Báo Chí vào cuối năm 1994, dầy hơn 200 trang, vì đây chỉ là một chương, trong tập 3 cuốn hồi ký Trả Ta Sông Núi khoảng 30 trang giấy. Tôi chỉ viết những chuyện “ái, ố, hỷ, nộ” đã xẩy ra trong phiên tòa.
Người đặc biệt trong số 3 bị đơn, nhà văn Cao Thế Dung đã là một minh tinh sáng chói trong suốt phiên tòa:
1/ Ông Dung đã trình diện trước thẩm phán và các bồi thẩm hình ảnh một nhà văn trên 60 tuổi, nghèo đến độ không có tiền mướn luật sư, khiêm tốn và lịch sự, nhưng đủ can đảm đương đầu với thứ móng vuốt vô hình của bạo lực, gian trá và lươn lẹo, đương đầu với mãnh lực của kim ngân.
2/ Ông Dung nổi bật với hai điểm trong bài diễn văn, ông nói với giọng từ tốn, khiêm cung, nhưng rất đanh thép, cao giọng, khi hai lần chỉ thẳng vào ba nguyên đơn “Mặt Trận là ba người này, ba người này là Mặt Trận.”.
Hay nhất là mỗi lần đến lượt ông được kêu lên trả lời hoặc cung khai, ông bước ra vái ông thẩm phán, vái bồi thẩm đoàn, vái luôn cả các bạn bè, thân hữu ngồi dưới ghế thính giả. Thái độ của ông Dung gây xúc động và cảm tình của bồi thẩm đoàn.
3/ Phía nguyên đơn, luật sư Kleven, dụng tâm đánh mạnh vào điểm nghi ngờ ông Dung không có bằng tiến sĩ (PhD hay được gọi là Doctor) mà dám nói là có.
Ông Dung trả lời về điểm này rất vui, ông nói thưở nhỏ, nhà nghèo, không đủ tiền cho ông đi học, ông phải đi chăn trâu độ nhật, tối về tự học dưới ánh trăng hay ánh lửa bếp. Ông cố học đỗ bằng tiểu học. Luật sư Kleven đánh tiếp:
- “Ông Dung, ông cho chúng tôi biết, ông có bằng trung học không?”.
Họ Cao không trả lời thẳng vào câu hỏi, nói:
- “Sau khi tôi đỗ tiểu học, bố mẹ tôi lần lượt qua đời, tôi phải qua ở nhờ bà cô tôi. Bà bảo tôi, cháu đã có bằng tiểu học, cháu nên cố học lấy bằng thành chung (trung học), cô sẽ cố làm nuôi cháu ăn học. Tôi học trung học ở trường phủ (nhà quê).
Cứ mỗi lần ông nói về việc học hành của ông trong sự nghèo nàn của gia đình, ông lại chỉ vào mặt Hoàng Cơ Định và Hoàng Cơ Long nói :
- “Tôi đâu có được học hành ở những trường to lớn trên thành phố như những người này. Ông cha chúng trước kia làm quan tham nhũng, hối lộ, giúp giặc Pháp dẹp những phong trào kháng chiến, nhiều tiền bạc nuôi chúng ăn học trong sự cao sang, giầu có, trường to, trường tốt.”.
Luật sư Kleven nhiều lần giơ tay “objection !” (phản đối), nhưng quan tòa vẫn cho tiếp tục.
Ông Dung tiếp tục kể :
- “Tôi cố gắng học, đỗ cả hai bằng tú tài. Bà cô tôi bảo, cháu học được lắm, người ta học đỗ cử nhân, cháu nên cố gắng học lấy bằng cử nhân.”.
Nghe lời bà cô, tôi học tiếp cũng trong sự nghèo nàn, chật vật về cuộc sống nương tựa bà cô tôi. Tôi đỗ bằng cử nhân. Ông lại quay về phía anh em họ Hoàng Cơ, nói gay gắt như ở trên. Luật sư Kleven giơ tay “objection”, ông tòa cho tiếp tục. (Tôi nghĩ ông thẩm phán muốn tìm hiểu vấn đề giáo dục của Việt Nam như thế nào, nên mỗi lần luật sư nguyên đơn giơ tay “objection”, ông vẫn tiếp tục cho ông Dung nói tiếp.)
Luật sư Kleven hỏi:
- “Ông Dung, ông cho chúng tôi biết, ông có bằng tiến sĩ không?, Trường nào và năm nào?”.
Ông Dung không trả lời thẳng vào câu hỏi, ông nói vòng quanh:
- “Sau khi tôi đậu bằng cử nhân, tôi vừa đi dậy học vừa tiếp tục học lấy tiến sĩ. Tôi đâu có cha ông làm quan, tham nhũng, vơ vét tiền bạc của dân nghèo, thăng quan tiến chức vì làm bầy tôi hữu hiệu cho giặc Pháp xâm chiếm và cai trị nước Việt Nam, để được gửi đi học tận bên Pháp như bọn người này”.
Ông Dung vừa nói vừa chỉ vào Hoàng Cơ Định. Luật sư Kleven giơ tay “objection”, ông tòa vẫn cho ông Dung tiếp tục.
Luật sư Kleven:
- “Ông Dung, ông không trả lời câu hỏi của tôi, chúng tôi muốn biết, ông có bằng tiến sĩ không? Trường nào cấp bằng cho ông ? “.
Họ Cao vòng vo tam quốc, trả lời:
- “Tôi có đậu bằng tiến sĩ, tôi không theo học trường đại học nào ở Hoa Kỳ, tôi cũng không học ở bên Pháp như tên này”, ông lại chỉ vào Hoàng Cơ Định Luật sư Kleven không nén được sự sốt ruột, lên tiếng:
- “Ông Dung (Mr. Dung, đáng lẽ phải kêu ông Dung là Dr. Cao), ông nói, ông có bằng tiến sĩ bên Pháp, ông cho biết trường nào?”.
Ông Dung lại vòng vo trả lời:
- “Tôi học bên Pháp, nhưng tôi không qua Pháp như tên này (lại chỉ vào Hoàng Cơ Định), tôi học par correspondant (hàm thụ). Anh em, thân hữu ngồi dưới ghế thính giả lo quá, không hiểu ông Dung trả lời ra sao. Luật sư Kleven:
- “Ông Dung, tôi chỉ hỏi ông tốt nghiệp tiến sĩ trường nào?”.
Họ Cao trả lời vẫn với giọng ẫm ờ :
- “À, tôi tốt ngiệp tiến sĩ tại một trường ở Paris, trường “Ecole Universelle de Paris “. Vì tôi học hàm thụ, nên nhà trường gửi bằng qua đường bưu điện tới cho tôi. Tôi nhận được bằng, nghĩ đến công ơn của bà cô tôi, đã mất, tôi đem tấm bằng ra mộ bà cô tôi, cúng vái, khấn khứa xong, tôi bật lửa đốt tấm bằng cho cô tôi ở dưới suối vàng biết là tôi đã đậu tiến sĩ.”.
Cả tòa, kể cả ông thẩm phán, các bồi thẩm và thính giả, như coi một cuốn phim hay, nín cười không nổi.
Buổi tối, tôi bàn với Vũ hữu Dũng và Nguyên Vũ, trêu chọc Cao Thế Dung một tí cho vui. Khi chị Dũng dọn cơm ra, tôi yêu cầu chị lấy hai lon la de Budweiser để thưởng ông Dung, bữa nay diễn xuất quá hay ở tòa. Tôi lại nói:
- “Kỳ này về, tôi sẽ làm một cuốn phim bộ, ông Dung thủ vai chính, như một hiệp sĩ, mặc quần áo toàn mầu trắng, đầu chít khăn tang trắng, trên lưng đeo thanh bảo kiếm, tay mặt cầm tấm bằng, vai trái đeo một bị lon Budweiser. Khi ra tới mộ bà cô, hiệp sĩ họ Cao để các thứ đeo trên người xuống trước ngôi mộ, đoạn lấy lửa đốt tấm bằng, miệng khấn vái, hôm nay cháu ra thăm mộ cô, cháu đốt mảnh bằng tiến sĩ, để dưới suối vàng cô biết là cháu đã đỗ bằng tiến sĩ, như lúc sanh tiền cô vẫn mong đợi. Khấn vái xong, Cao tráng sĩ rút thanh kiếm ra khỏi vỏ, múa mấy đường kiếm, vừa múa vừa ca :
- “Ta tráng sĩ họ Cao hề, gặp thời nhiễu nhương hề. Ta không sợ bạo lực hề, ta không sợ mãnh lực kim ngân hề. Ta tráng sĩ họ Cao hề. Quyết dẹp tan bọn gian tà hề. Quét sạch nhiễu nhương trong cộng đồng hề. Cho đồng bào sống yên vui hề.
Múa xong bài kiếm, ca hết bài ca, tráng sĩ họ Cao ngồi xếp vòng tròn trước mộ bà cô, lấy ra một miếng thịt bò khô, mở la de ra nhậu.
Khi uống xong sáu lon la de, tráng sĩ họ Cao lại đeo bảo kiếm trên vai, đứng lên vái mấy vái, rồi lên đường hành hiệp.”.
Vũ Hữu Dũng và Nguyên Vũ vỗ tay tán thưởng, phàn nàn không được đóng chung với Cao Thế Dung trong cuốn phim. Còn họ Cao tuy vui trong bụng, nhưng nhăn mặt lắc đầu nói:
- “Anh Bảy trêu đàn em quá, em khai là ra mộ bà cô đốt bằng là có chủ đích, em muốn bảo chúng nó rằng “bằng cái mả mẹ tụi bay”.
Luật sư Kleven bên nguyên đơn, hết truy ông Cao Thế Dung về bằng cấp không được, ông truy qua là ông Dung có tham gia Mặt Trận hay không? (theo phía nguyên đơn khẳng định với ông là ông Dung chưa bao giờ tham gia Mặt Trận, ông Dung có mặt trong các buổi họp của Ban Chấp Hành TVHN là do ông Tổng vụ Trưởng dẫn đến.)
Một buổi tòa, luật sư Kleven chất vấn :
- “Ông Dung, ông cho chúng tôi biết ông có tham gia Mặt Trận không?”. (lưu ý là luật sư Kleven luôn kêu ông Dung là Mr. Cao, không lần nào ông kêu là Dr. Cao). Ông Dung được anh em căn dặn là khi luật sư hỏi, cứ bình tĩnh suy nghĩ cho kỹ càng rồi hãy trả lời, không nên hấp tấp, vội vàng.
Chúng tôi nghĩ tiếng Anh của ông đủ để nghe biết luật sư chất vấn gì cũng như trả lời, nhưng ông Dung đã yêu cầu được một thông dịch viên giúp. Bà Tô Hà là thông dịch viên hữu thệ được tòa mời tới giúp ông Dung. Khi thấy luật sư Kleven hỏi về việc ông Dung có là thành viên của Mặt Trận hay không, anh em mừng quá, ông Dung chỉ việc xuất trình tờ quyết định của Tổng vụ Trưởng Trần Trung Sơn ký và đóng dấu, cho ông Dung làm Chủ nhiệm Ủy Ban Chính Trị của Tổng vụ hải ngoại là bên nguyên đơn trắng mắt. Không hiểu ông Dung nghe bà Tô Hà dịch sao, ông ngẩn mặt suy nghĩ, và trả lời dõng dạc “không” (no). Anh em ngồi dưới hàng ghế thính giả nhăn mặt, lắc đầu, không hiểu sao ông Dung lại trả lời “không”.
May là đúng lúc đó ông Thẩm phán ra hiệu nghỉ trưa, chiều họp tiếp.
Trong bữa cơm trưa, anh em hỏi ông Dung, ông nghĩ sao, mà lại trả lời “không”.
Ông Dung nhăn nhó nói :
- “Tôi nghĩ họ đặt bẫy tôi, tôi nghe bà thông dịch viên dịch lại, tôi tưởng họ hỏi tôi là tôi có tham gia Mặt Trận Giải Phóng không, (Mặt Trận Giải Phóng do cộng sản Hànội lập ra), vì vậy tôi trả lời không.
Giận quá, tôi nói :
- “Thế tiếng Anh của ông cũng không nghe hiểu là họ hỏi gì sao?.”.
Buổi chiều, ông Dung xin được xuất trình bản quyết định và xin sửa lại cho đúng.
Thế là hai điểm mà luật sư Kleven xoáy vào ông Dung để chứng minh là ông Dung nói dối, man trá trước tòa, nếu như vậy thì cuốn Mặt Trận và những bài viết trên báo VNTP, ông Dung cũng đã dối trá, viết không có chứng cớ, gieo vạ cho ba nguyên đơn. Chỉ cần hạ một ông Dung là kéo theo cả ba bị đơn thua kiện.
Cả hai điểm, ông Dung đều qua được.
Bây giờ, đến lượt những chuyện hỷ, nộ phía nguyên đơn.
Khi luật sư Richard Givens hỏi Hoàng Cơ Định:
Hỏi : Mặt trận có vào sổ bộ (tức đăng ký, register) không?
Đáp : Không !
Hỏi : Mặt trận có giữ sổ sách quyên góp tiền không ?
Đáp : Không !
Hỏi : Mặt trận có đóng thuế không ?
Đáp : Không !
Phản ứng của Bồi thẩm đoàn, một bồi thẩm đoàn hầu như chưa biết gì về Mạt Trận và sinh hoạt cộng đồng Việt Nam, sau mấy câu đối đáp này rõ ràng bất lợi cho Hoàng Cơ Định và phía nguyên đơn.
Ba tiếng trả lời “No” khô gọn, chẳng một chút ngại ngùng, ngượng ngập của Hoàng Cơ Định bộc lộ bản chất con người bạo ngược, tham tàn và sự lường gạt có tính toán của anh em họ Hoàng Cơ.
Một buổi tòa khác, khi luật sư Nguyễn Tâm xin trình tòa chứng liệu (exhibit) một xấp hình, trong đó có một tấm hình chụp mấy ngày sau khi Hoàng Cơ Minh chết ở Hạ Lào hơn 7 năm trước.
Luật sư Tâm từ tốn yêu cầu Hoàng Cơ Định lật tới hình thi hài của ông Minh, cao giọng hỏi:
- “Ông Hoàng Cơ Định, ông có nhận ra ai trong hình đó không?”.
Hoàng Cơ Định chỉ liếc mắt qua tấm hình, thản nhiên đáp:
- “Không”.
Thật là bất nhân, bất nghĩa, táng tận lương tâm, một người vẫn cho mình là con giòng, cháu giống, được nuôi ăn học, đỗ đạt đến cấp tiến sĩ Pháp, nỡ đang tâm không nhìn nhận tấm hình thi hài của chính người anh ruột mình.
Luật sư Tâm không chịu tha, ông hỏi Hoàng Cơ Định về cái chết của Hoàng Cơ Minh :
Định trả lời :
- “Tôi tin rằng anh tôi vẫn còn sống.”.
Nguyên đơn thứ hai, y sĩ Trần xuân Ninh, sinh ngày 4-10-1936 tại Hànội, tốt nghiệp y khoa vào năm 1963. Sau khi miền Nam mất, ông Ninh đi cải tạo 2 năm, qua Hoa-Kỳ năm 1979, tạm cư tại Hayward, Bắc California, hành nghề tại Chicago. Theo ông Ninh, người con trai độc nhất của vợ chồng ông bị chết thảm trên đường vượt biển tìm tự do, lý do đó, ông rất thâm thù cộng sản. Ông gia nhập Mặt Trận năm 1984.
Qua sự hướng dẫn của luật sư Kleven, với lối trình bày lưu loát, hoạt bát, ông Ninh đã tự tạo cho mình hình ảnh một vị y sĩ tận tâm về chức nghiệp, yêu thương đồng bào, nòi giống, quyết tâm lật đổ bạo quyền cộng sản, mưu cầu hạnh phúc cho toàn dân. Cách diễn xuất của ông Ninh cùng với sự nể vì đối với giới y sĩ, ông Ninh phần nào đã gây được thiện cảm của Bồi thẩm đoàn. Ông Ninh chủ trương chiến dịch chống kinh tài cộng sản và cấm du lịch Việt Nam. Dư luận trên Chicago cho rằng y sĩ Ninh đã cho đàn em đốt nhà một người Việt tên Lâm Tôn chống lại lệnh cấm, đã về thăm quê hương.
Luật sư Givens hỏi :
Hỏi : Ông Ninh, ông biết chuyện gì xẩy ra cho ông Lâm Tôn sau chuyến đi về Việt Nam không?
Đáp : Ông ta bị vợ ly dị.
Hỏi : Ông biết việc có người đốt nhà ông Lâm Tôn không?
Đáp : Tôi chỉ biết nhà ông Lâm Tôn bị cháy.
Luật sư Nguyễn Tâm chất vấn ông Ninh về cái chết của Hoàng Cơ Minh. Bằng chứng của phía bị đơn số 258, tức hồ sơ hình ảnh về Mặt Trận được trao cho ông Ninh. Chỉ vào tấm hình chụp thi hài ông Minh, luật sư Tâm hỏi :
Hỏi : Y sĩ Ninh, xin cho biết ông có nhận ra ai trong tấm hình đó không ?
Đáp : Không.
Hỏi : Theo ông, ông Hoàng Cơ Minh còn sống hay đã chết ?
Đáp : Tôi nghĩ rằng ông Minh còn sống. (ông Ninh không dám quả quyết mà nói tôi nghĩ rằng).
Nguyên đơn thứ ba được mời lên bục nhân chứng là ông Nguyễn Xuân Nghĩa, tức Nguyễn Đông Sơn. Dư luận toàn thể người Việt tỵ nạn cộng sản kết tội ông là nằm vùng cho cộng sản, được gài vào Mặt Trận để phá hoại. Nhiều người còn cho là chính ông Nghĩa đã mật báo cho cộng sản biết đường lối chuyển trại của ông Minh, phục kích để tiêu diệt ông Minh và các kháng chiến quân. Ông Nghĩa đã rời Mặt Trận trước khi xẩy ra vụ án thuế khóa, ông đã cộng tác với cơ quan an ninh của Hoa-Kỳ, nên đã không bị câu lưu cùng với năm đầu lĩnh của Mặt Trãn tại hải ngoại.
Ông Nghĩa giữ thái độ hòa nhã với phía bị đơn.
Dưới sự hướng dẫn của luật sư Kleven, ông Nghĩa khai, sinh ngày 11-11-1944 tại Hànội. Cha là Nguyễn văn Hiếu, kỹ sư công chánh, anh em thúc bá ruột với Nguyễn Văn Linh tức Mười Cúc, Tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam từ 1986 tới 1991.
Ông Nghĩa tốt nghiệp trường Cao đẳng thương mại tại Paris, với bằng HEC (Hautes Etudes Commerciales).
Ra hải ngoại ông Nghĩa tham gia Mặt Trận từ tháng 6 1984 với chức Vụ Trưởng vụ Tuyên Vận. Luật sư Nguyễn Tâm chất vấn ông Nghĩa về việc tại sao không phải đi cải tạo như các công chức cao cấp khác trong chính quyền miền Nam. Ai là tác giả bài viết ký tên Nguyễn Xuân Nghĩa trên một tạp chí cộng sản chiến dịch chống kinh tài cộng sản và du lịch Việt Nam.
Luật sư Tâm lại xoáy vào việc sống, chết của Hoàng Cơ Minh. Nhìn vào tấm hình Hoàng Cơ Minh một lúc, ông Nghĩa ấp úng nói:
- “Tôi không biết ai trong tấm hình.”.
Trả lời câu hỏi, Hoàng Cơ Minh còn sống hay đã chết, ông Nghĩa đáp:
- “Tôi không biết .” (I don’t know).
Khi luật sư Tâm vặn hỏi, tại sao trước đây ông tuyên bố ông Hoàng Cơ Minh còn sống. Ông Nghĩa đáp:
- “Vì ngày ấy, tôi còn ở trong Mặt Trận.”.
Không biết ông Nghĩa có dụng ý gì khi trả lời như trên. Câu nói này chứng tỏ sự gian dối của các đầu lĩnh Mặt Trận. Sự kiện này khiến Hoàng Cơ Định và Trần Xuân Ninh không dấu được sự bất mãn. Phía bị đơn cũng không che dấu được sự vui mừng, tin tưởng sẽ nắm phần thắng.
Phải nhìn nhận là những nhân chứng phe bị đơn, từ Vũ hữu Dũng, tới tôi và Nguyễn Xuân Phác đã làm tròn trách nhiệm. Nhất là anh Nguyễn Xuân Phác đã nhấn mạnh y sĩ Ninh là con người có hai bộ mặt, y sĩ Ninh giống hệt như y sĩ Jekyll và ông Hyde trong một cuốn phim. Có lúc ông ta rất dễ thương, là một y sĩ tài giỏi. Nhưng có lúc ông ta lạnh lùng, tính toán, cực đoan, có khả năng làm bất cứ gì để đạt mục tiêu.
Ông Phác cũng khai trước tòa, sau những loạt bài chỉ trích Mặt Trận, tòa báo của ông bị đập phá, cá nhân ông bi đe dọa. Với sự hướng dẫn của luật sư Tâm, ông Phác khai thêm là tờ báo Dân Việt của ông phải đóng cửa vì các cơ sở thương mại sợ móng vuốt của Mặt Trận, rút hết quảng cáo.
BẠO LỰC ĐI VÀO TÒA.
Buổi tòa nào cũng có hai ba nhân viên FBI và thám tử Zwemke tới tham dự . Ngày 21 –12- 1994, tòa vẫn họp như thường lệ. Hôm nay, có lẽ Hoàng Cơ Định nghĩ là phía nguyên đơn nắm chắc phần thắng vụ kiện nên động viên đại lực lượng đến tòa để làm áp lực và biểu dương khí thế đấu tranh. Đoàn viên Mặt Trận ngồi kín cả phía bên nguyên đơn, tràn qua cả phía bị đơn.
Phiên tòa buổi sáng vừa tan, Bồi thẩm đoàn còn đang lục tục rời phòng xử, nhân viên FBI và cảnh sát vừa bước ra khỏi hành lang, ông Cao thế Dung rời chỗ ngồi bước về phía tôi. Nhanh như cắt, Đoàn trọng Thê, K 9, chạy lao tới phía tôi đang đứng, dơ tay dí vào ngực tôi, dáng điệu hung bạo và sừng sộ, gằn giọng nói với tôi:
- “Sao anh không mang theo Nguyễn Bích Mạc mà anh mang mấy con dogs này tới đây?
Tôi điềm nhiên, dịu dàng trả lời Thê ngắn gọn, kẻ cả. Trực giác thấy điều gì bất thường, bị đơn Cao Thế Dung nhìn nhanh về phía Hoàng Cơ Định thì bắt gặp đôi mắt đầy căm thù, còn Hoàng Cơ Long đôi mắt long lên sòng sọc.
Vì đây là trong Tòa, tôn trọng luật pháp, tôi kêu cảnh sát can thiệp, Thê, Long bước nhanh ra khỏi phòng xử. Định chối cãi không có ra lệnh. Bà Thụy Giao, chủ báo Xây Dựng đã mô tả rất đầy đủ trên mặt báo về cái trò vũ phu, bạo lực, coi thường pháp luật, của Mặt Trận, đã đặt tên cho họ qua tựa đề “Chứng nào tật ấy.”.
Ngày cuối của phiên tòa kéo dài đằng đẳng 14 ngày. Phía nguyên đơn kéo nhau đến tòa đông, thật đông. Cả hai phía, đơn và bị sẽ đọc bài biện hộ cuối cùng.
Luật sư Givens, Cao thế Dung (tự biện hộ), và luật sư Nguyễn Tâm, lần lượt đọc bài biện hộ cuối cùng. Luật sư Givens khẳng định trên thực tế, cả ba nguyên đơn không có danh thơm gì mà mất, họ chỉ là những kẻ xấu, gây ra đủ mọi tội ác trong cộng đồng người Việt, họ chỉ có xú danh.
Các bị đơn cũng không hề “cẩu thả” hay “ác ý” mà thực sự tin tưởng những điều đã viết hay phổ biến. Cao thế Dung, Nguyễn Thanh Hoàng không hề viết sai sự thực.
Luật sư Givens đòi bên nguyên đơn phải đưa ra bằng chứng, phải chứng minh vì ba bài báo viết sai, cố tình vu oan, phỉ báng, khiến các nguyên đơn bị mất danh tiếng, đau ốm, sầu khổ. Thế nhưng, không những các nguyên đơn không trưng ra được bằng chứng là ba bài báo hoàn toàn sai, là cố tình vu oan, giáng họa làm hại nguyên đơn, cả ba nguyên đơn đâu có đau ốm, sầu khổ, vì không trưng ra được một giấy tờ hay hóa đơn đi khám bác sĩ. Nữ ký giả Thụy Giao tường thuật rất trung thực y như bản văn (transcript) của Tòa.
Ông Cao thế Dung, trong bài biện hộ, có câu nói đi vào lịch sử cộng đồng hải ngoại, “Sự thực là người biện hộ cho tôi, công lý là quan tòa của tôi”. (Truth is my defense, justice is my judge). Ông Dung kết thúc bằng một câu làm cho không khí phòng xử bớt căng thẳng: “Merry Christmas and Happy New Year “.
Bài diễn văn biện hộ của luật sư Nguyễn Tâm rất xuất sắc. Ông ôn tồn trình bày thảm cảnh của cộng đồng người Việt phải sống dưới móng vuốt, áp lực đen của Mặt Trận, như đám mây đen che phủ kín, không thấy ánh mặt Trời. Các bị đơn là những người can đảm đứng lên dùng bút mực xuyên thủng đám mây đen đó.
Ông Tâm mong rằng Bồi thẩm đoàn có một biểu quyết lịch sử, xác định các bị đơn không phạm lỗi gì.
Gần 5 giờ chiều, thẩm phán Biafore yêu cầu các vị Bồi thẩm vào phòng kín. Bản phán quyết (verdict) được thẩm phán Biafore trao cho bà Lục sự.
Bà lục sự cao giọng tuyên đọc:
- “Các bị đơn, Cao thế Dung, Nguyễn Thanh Hoàng và Nguyên Vũ đều được xác định là “không hề có một lời nào sai trái”. (did not make any false statement) về phe nguyên đơn.
Bà lục sự hắng giọng đọc to: “Số phiếu là 11 trên 1.”.
Như vậy, phiên tòa kết thúc với kết quả như mọi người mong đợi, đó là thế tất thắng của công lý, chính nghĩa thắng hung tàn.
Nhưng còn những cái chết đầy nghi vấn của ký giả Đạm Phong ở Houston, của một nhân viên tòa báo VNTP trong vùng Virginia, cuộc ám sát hụt ông Cao Thế Dung ở Maryland, và luật sư Nguyễn văn Chức ở Houston, tiếp là vụ thảm sát vợ chồng ký giả Lê Triết, mà cơ quan an ninh đang ráo riết truy tầm thủ phạm, với đầy đủ bằng chứng rõ rệt, truy tố về hình tội. Dư luận cộng đồng người Việt hải ngoại cầu mong Lưới Trời Lồng Lộng không cho bọn hèn hạ, tham tàn trốn thoát, làm sạch sẽ, quang đãng khí Trời cộng đồng.
Trên máy bay về lại Austin, Texas, tôi nghĩ đến ông Hoàng Cơ Minh, tôi thấy ái ngại, thương tâm.
Mở cuốn 2, Hồi Ký Một Đời Người của cụ Phạm Ngọc Lũy, tôi mang theo để coi lại những điều giữa ông Hoàng Cơ Minh và cụ Lũy, có thể dùng trong phiên tòa, tôi mở đến đoạn cụ Lũy phỏng vấn ông Trần Minh Công, sau sự sụp đổ của Mặt Trận.
Ông Công đã kết luận cuộc phỏng vấn :
1/ Làm việc nước mà đầu óc và lòng dạ không lớn, sẽ không làm được.
2/ Cho dù một tổ chức có to lớn và thành công đến đâu mà lãnh đạo dở cũng sẽ thất bại.
Tôi cho rằng đó là một bài học tốt cho các bạn trẻ sau này. Bài học này cũng đã gây cho tôi nhiều cay đắng và phiền muộn.
Tôi rất thông cảm với ý kiến của anh Trần Minh Công, tôi cám ơn anh Công đã nêu lên những ý kiến xác đáng, thâm tâm tôi cũng nghĩ đúng như anh.
Quay lại chuyện ông Hoàng cơ Minh, cựu phó đề đốc Hải Quân, tôi mường tượng ra một hình ảnh: Ông cựu phó đề đốc đã tạo ra một con tầu ma, con tầu bằng giấy mà những gia đình đặt ở hàng mã, cúng rồi đem đốt. Con tầu ma không bao giờ được hạ ïthủy. Trên con tầu, ông Minh có khoảng 40 - 50 tay chèo, toàn là những thanh niên, trai tráng nhiệt thành. Con tầu ma, khi được những tay chèo hay thủy thủ đoàn khiêng đến một nơi khác, gặp lửa, chiếc tầu bị cháy, hạm trưởng tới thủy thủ đoàn đều bị chết gần hết, ngoài những người nhanh chân nhẩy ra ngoài, nhưng cũng bị phỏng nặng .
“Cửu long giang, chưa qua mà vĩnh biệt
Chốn biên thùy, ấp ủ nỗi lòng đau.”
. . .
Phạm Văn Liễu
Hồi ký Trả Ta Sông Núi
TỪ MẶT TRẬN Ðến ÐẢNG VIỆT TÂN
PHUNG NGOC SA
Mặt trận nói trên là Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam, hay Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, thường gọi tắt là Mặt Trận (MT); Ðảng Việt Tân, do tiếng ghép của những chữ Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Ðảng.
I- / Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam.
Nhờ sưu tầm, chúng tôi được biết có nhiều sách báo viết về MT, nhưng có lẽ quyển hồi ký “Trả Ta sông Núi 3” phát hành tại Hoa Kỳ trong năm 2004 của cựu đại tá Phạm Văn Liễu, nguyên Tổng vụ trưởng Tổng vụ Hải Ngoại của MT, (kể từ khi thành lập năm 1981 cho đến ngày “tan vỡ” vào cuối năm 1984) là một tài liệu chứa đựng nhiều chi tiết khả tín và có tính cách thuyết phục. Lý do: Ông là nhân vật đóng vai chính trong việc tổ chức và sáng lập MT viết.
Khi công khai hoạt động, theo hệ thống tổ chức và phân nhiệm, MT được chia ra làm 2 bộ phận:
- Trong nước: Do Tổng vụ Quốc Nội: Nhiệm vụ là trực tiếp chiến đấu để lật đổ bạo quyền cộng sản, người lãnh đạo là phó đề đốc Hoàng Cơ Minh.
- Tại ngoại quốc: Do Tổng vụ Hải Ngoại: Ðặc trách xây dựng và phát triễn cơ sở hậu cần, vận động với cộng đồng người Việt trên thế giới, góp công góp của, giúp kháng chiến trong nước; người đứng đầu là cựu đại tá Phạm Văn Liễu.
Hoạt động song hành với MT còn có Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến do ông Phạm Ngọc Lũy, hội trưởng Hội Trường Xuân (1), một người đạo đức và rất được tín nhiệm của đồng
một người đạo đức và rất được tín nhiệm của đồng hương Việt Nam lúc bấy giờ làm Chủ tịch; ông Lũy phụ trách kêu gọi đồng bào Việt Nam khắp thế giới đặc biệt là những người có cảm tình vì từng chịu ân của ông tích cực tham gia ủng hộ tổ chức kháng chiến trong nước.
Xin sơ lược qua về đại tá Phạm Văn Liễu, tác giả 3 quyển hồi ký “trả ta sông núi”, đặc biệt trong quyển 3 có ghi rõ nhiều sự kiện liên quan tới MT.
Ðược biết, cựu đại tá Phạm Văn Liễu, nguyên Tổng vụ trưởng Tổng vụ Hải Ngoại của MT là người đã từng đãm nhận chức vụ Tổng giám đốc Cảnh Sát Quốc Gia dưới thời nội các của bác sĩ Phan Huy Quát vào những năm 1965-1966.
- Trước đó, vào những năm 1945-1946, ông Liễu là một thanh niên yêu nước đã tình nguyện đứng vào hàng ngũ Mặt Trận Quốc Dân Ðảng để chống nhau với Mặt Trận Việt Minh cộng sản. Oạng được cử theo học khóa huấn luyện quân sự tại trường Lục Quân Yên Báy, trung tâm nầy do các giáo quan Nhật Bản trực tiếp đào tạo và giảng dạy. Bị thất bại trong cuộc chiến đấu chốạng bọn Việt Minh cộng sản nên ông phải lưu lạc sang Tàu. Trở về nước, ông theo học và tốt nghiệp khóa 5 trường Võ Bị Liên Quân Ðà Lạt năm 1952. (Người viết tốt nghiệp khóa 8 -1953).
- Là sĩ quan theo học khoá I Sĩ Quan Hải Quân Việt Nam. Kế đó được giao phó nhiệm vụ thành lập và là Tư Lệnh đầu tiên của Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.Thất bại trong cuộc đảo chính chốạng chế độ Ngô Ðình Diệm năm 1960, ông phải lưu vong tị nạn chính trị tại Cao Miên.
- Sau năm 1975, đại tá Liễu may mắn thoát nạn cộng sản và định cư tại Hoa Kỳ. Mặc dù tuổi tác đã cao, gia đình tuy mới tạm ổn định, nhưng vốn mang dòng máu tự hào cách mạng, ông đã kết nghĩa với phó đề đốc Hoàng Cơ Minh và cả hai cùng nhau thề nguyện mang hết ý chí, khả năng vận động kết hợp tất cả chiến hữu thành một khối để thành lập một mặt trận tiêu diệt chế độ CSVN. Tiếc thay, ông bị thất bại, “Họa hổ bất thành khuyển” (Vẽ con cọp thành con chó). Công cuộc giải phóng quốc gia tới đâu thì không thấy, nhưng chính ông đã vô tình giúp một số người vì quyền lợi phe nhóm làm mất chính nghĩa của MT. Ngoài ra, do những việc thu nhập tiền bất chính, cộng thêm các hành vi lừa gạt đã làm cho bầu không khí chính trị tại hải ngoại bị vẩn đục, tập thể người Việt tị nạn phân tán chia rẽ. Mất niềm tin và nghi ngờ lẫn nhau.
Theo giới thông hiểu nội tình, thì không phải vì ông Liễu cùng ban tham mưu của ông thiếu hiểu biết về các nhân vật mà họ liên kết khi thành lập MT nên làm hỏng đại sự, mà thực ra do ông vì quá tự tin, nghĩ mình là một pháp sư cao tay ấn, có khả năng tạo ra âm binh, thì cũng đũ bản lãnh để điều khiển chúng. Tiếc thay, trong vai phù thủy, ông đã không đũ sức hô phong hoán vũ điều khiễn âm binh, lại thiếu đề phòng nên bị chúng quật lại diệt luôn phù thủy và khiến ông trở thành một kẻ tòng phạm.
Tuy nhiên, điều đáng khâm phục là trước khi bước vào hoàng hôn cuộc đời, tác giả còn có can đảm nói lên sự thật, vạch ra những lỗi lầm của MT và nhờ tài liệu đó, chúng ta biết được là MT đã phản lại sự nghiệp chống cộng giải phóng quê hương. Việc làm của tác giả là một hành động xám hối và là một tiếng chuông cảnh tĩnh cho những ai dễ tin, đặc biệt là tuổi trẻ rút kinh nghiệm mà xa lánh tổ chức nầy.
Trước đây, lúc còn sinh hoạt và đặc trách bộ phận An Ninh trong một chính đảng; do sự giúp đở của các đồng chí và một số nhân vật từng tham gia MT. Chúng tôi đã thu thập được nhiều tin tức liên quan đến MT. Ðem đối chiếu nó với các tài liệu ghi trong sách của ông Cao Thế Dung, hồi ký Trả Ta Sông Núi 3 (Trtsn) của đại tá Phạm Văn Liễu, chúng tôi biết được là trong quá trình 23 năm hoạt động, kể từ khi thành lập năm 1981 cho đến lúc tuyên bố giải tán để cho ra đời đảng Việt Tân vào ngày 19-9-04, MT chưa lập được một thành tích gì khả dĩ giúp dân cứu nước, mà chỉ thành công trong kế hoạch kinh tài có lợi cho phe nhóm, và xây dựng được một hệ thống bán phở. Vì thế, người đời mới chế diễu, đổi tên MT đáng lẽ là một công cụ đấu tranh chống cộng thành ra”Mặt Trận Phở Bò”. Phần còn lại MT chỉ tạo cho mình một hình ảnh không mấy tốt đẹp là: - Dối trá lừa gạt - Hù dọa làm tiền và sử dụng bạo lực..
* Dối trá lừa gạt: Từ hình thức lẫn nội dung. Xin trưng dẫn một vài vụ điển hình:
1- Ngay từ lúc khởi sự, người đứng đầu quốc nội đã mưu đồ buôn bán kháng chiến dưới hình thức lập chiến khu giả để câu khách kiếm tiền. Ý định đó bị phản đối, MT lại đi thuê đất ở Thái Lan lập căn cứ địa chiến đấu. Theo hồi ký “trả ta sông núi” (trtsn) ở trang 195 ông Liễu viết, khu chiến của ông Hoàng Cơ Minh, là một mảnh đất rừng mà ông ta đã thuê lại của tướng Thái Lan tên Sutsai.Thử hỏi, lập khu chiến mà phải thuê đất của một tướng Thái, là một bọn được coi lưu manh, tham nhũng bậc nhất thì làm sao tiến hành tổ chức kháng chiến được: Với bọn Thái nầy, khi vòi được tiền, chúng tạm để yên, nhưng khi CSVN ngả giá cao hơn, là bọn tướng tá Thái trở mặt và bán đứng ta ngay. Kinh nghiệm cụ thể: Một chiến hữu của chúng tôi nhờ quen biết với đại tá Sauvageot, (tên Việt là Nguyễn Hữu Hai) đặc trách công tác tìm M.I.A (Người Mỹ mất tích) tại sứ quán Hoa Kỳ, Bangkok, Thái Lan. Trước kia, ông là một cố vấn tại Trung Tâm Huấn Luyện Xây Dựng Nông Vũng Tàu mà tôi thường xuyên liên lạc. Là một người Mỹ sành tiếng Việt, thuộc lòng quyển Kiều; bạn tôi được đại tá Sauvageot thuận cho tham gia công tác tìm MIA. Nhưng chiến hữu nầy vì không đồng ý để bọn Thái Lan hướng dẫn lộ trình nên bị chúng kiếm cớ trục xuất ra khỏi đất Thái trong vòng 24 giờ.
Thuê đất của bọn Thái lập chiến khu, mướn thường dân Lào làm lính đóng kịch, giả làm kháng chiến quân (trtsn 200-204) để trang trí cho buổi lễ ra mắt Khu Chiến và tuyên bố Cương Lĩnh Chính Trị của MT đã là một hành động lừa dối, nhưng có thể tha thứ được, vì dù sao buổi đầu cũng cần đánh bóng thổi phồng để huyên truyền có lợi cho đại cuộc. Nhưng ông Hoàng Cơ Minh, (HCM) Tổng Vụ Trưởng Quốc Nội (TVQN) chỉ quanh quẩn trên đất Thái, Nhật hoặc Hawaii thế mà ông dám phịa ra là đã quy tụ được 36 tổ chức trong nước, và đã có trên 10.000 tay súng (trtsn 320) thì quá đáng.
- Làm cò mồi, đòi Cách Mạng, tức vận dụng tầng lớp chống cộng hãy lật đổ bạo quyền, đòi tự do dân chủ. Với chiêu bài nầy tung ra thì ai chẳng thích, mọi người đều muốn, chắc chắn số tiền buôn bán hai chữ Tự Do ắt sẽ thâu vôạ nhiều hơn kháng Chiến trước.
Người viết cảm thấy quá kinh sợ trước âm mưu nầy, và xin thông báo với quý vị: Trước đây, chúng ta từng lên án CSVN dùng vũ khí của khối cộng sản cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hòa; đặt ách thống trị, chà đạp nhân quyền, bóp chết tự do. Nay, đảng VT hậu thân của MT, một tổ chức từng kiếm được nhiều tiền, sẵn phương tiện họ sẽ tìm cách “gom bi”, cài người nắm các tổ chức, đoàn thể tại hải ngoại, đợi lúc mà bọn VC vì xu thế thời đại, buộc chúng phải chấp nhận dân chủ, (dân chủ giả hiệu) thì lớp người đó sẵn sàng đứng ra làm đối lập cuội, bắt tay với bạo quyền trong nước tiến hành dân chủ qua giải pháp “Mỗi người dân một lá phiều”, ắt lúc đó chúng ta sẽ bị thua cộng sản một cách thê thảm, và keo nầy còn thua đậm hơn bị đầu hàng vào ngày 30-4-75. Lý do: CSVN nắm đa số, vẫn giữ quyền lực; ta chỉ là một thiểu số vừa là đối lập cuội. Chính hành động nầy chúng ta đã tạo chính nghĩa cho CSVN và giúp chúng tiếp tục thống trị dân tộc Việt Nam.
PNS.
LƯỚI TRỜI LỒNG LỘNG
Lưới người, kẻ gian tà có thể thoát,
Nhưng lưới Trời, không thể nào thoát nổi.
Từ sau ngày 29 tháng 12 năm 1984, Hoàng Cơ Minh, với tư cách Chủ tịch Mặt Trận, (không do ai bầu hoặc đề cử ) đồng thời cũng là Chủ tịch Hội Đồng Kháng Chiến Toàn Quốc (chưa bao giờ được thành lập) ký quyết định số 037/ HĐKCTQ giải nhiệm ông Trần Trung Sơn (Phạm văn Liễu), Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hải Ngoại, Minh mất hết sự tin yêu của mọi giới đồng bào, lẩn trốn chiến hữu, lẩn trốn đồng bào, lẩn trốn dư luận, một thời đã kỳ vọng ông như một lãnh tụ sáng giá tại hải ngoại.
Minh thường sống tại Hawaii hay Nhật Bản.
Do sự bầy mưu, hiến kế của cặp bài trùng Nguyễn Xuân Nghĩa và Hoàng Cơ Định, Minh trở lại Thái Lan, cố làm sao tạo ra một tiếng vang, chứng tỏ cho dư luận thấy là Minh vẫn chỉ huy chiến đấu ở quốc nội. Phải tạo được tiếng vang dội ngược về hải ngoại thì Hoàng Cơ Định mới có lý do tiếp tục moi hầu bao của chiến hữu và đồng bào.
Vì áp lực của Tòa đại sứ Cộng Sản VN ở Vọng các (Bangkok), Bộ Tổng Tư Lệnh quân đội Thái Lan có ý định giải tán căn cứ của ông Minh, tại tỉnh Ubon Ratchathani, có khoảng từ 40 tới 50 người, vũ khí phần lớn là súng trường M1, một ít lựu đạn, do Tướng hồi hưu Sutsai cung cấp với giá cắt cổ.
Ông Minh chạy đôn chạy đáo tìm mọi cách liên lạc, bắt mối với các Tướng lãnh Thái, đặc biệt là Tướng phụ trách biên thùy miền Nam và Tướng quân khu Ubon. Tháng 7 năm 1987, Bộ Tổng Tư Lệnh quân lực Thái ra quyết định dời căn cứ của ông Minh lên vùng Bắc, trấn đóng tại Mukdahan, giữa Ubon Ratchathani và Nakhon Phanom. Từ Nakhon Phanom đi lên hướng Bắc, theo dọc biên giới sẽ tới thị trấn Nong Khai, bên kia sông Mékong là Vien tiane (Vạn Tượng) của vương quốc Lào. Từ Nong Khai theo lộ 13 xuống phía Nam dẫn tới thị trấn Udon Thani.
Tháng 8 năm 1987, ông Minh cho lệnh chuyển trại lên miền Bắc, lộ trình bám sát biên giới Thái Lào. Thời gian này, không còn những cấp chỉ huy nhiều kinh nghiệm chiến trường rừng núi, như đại tá Dương văn Tư, trung tá Lê Hồng. Chung quanh ông Minh toàn những thuộc hạ thân tín chưa bao giờ tham dự chiến trận trong rừng như Nguyễn trọng Hùng, sĩ quan phòng 7, Trần thiện Khải, sĩ quan hải quân, Võ Hoàng, một thanh niên hăng say, nhiệt huyết, nhưng chỉ biết cầm bút, chưa lần nào cầm súng.
Ngô Chí Dũng, con chim đầu đàn của tổ chức Người Việt Tư Do cũng không còn nữa.
Hoàng Cơ Minh có tật thích được tôn sùng cá nhân và có tính hiếu sát, đã từng hạ lệnh xử tử 18 kháng chiến quân Mặt Trận tại khu chiến.
Trong chuyến dời căn cứ lên miền Bắc, đích thân ông cựu phó đề đốc hải quân chỉ huy cuộc hành quân chuyển trại, xuyên qua rừng núi biên thùy Thái Lào. Không biết ông Minh có lưu tâm đề phòng trong số kháng chiến quân đi theo ông có nhiều người bất mãn vì ông đã hạ sát anh em, bằng hữu của họ. Manh nha trả thù cho anh em, bằng hữu và lo ngại cho chính bản thân họ, mấy người này trốn khỏi hàng ngũ, đi báo cho quân Pathet Lào trấn đóng trong vùng. Quân Pathet Lào tuy không tinh nhuệ, nhưng được trang bị vũ khí, đạn dược đầy đủ, quen thuộc vùng chúng trấn đóng, bao vây toán quân do ông cựu Tư lệnh lực lượng thủy bộ chỉ huy.
Cuộc nổ súng giữa hai bên xẩy ra, vang dội núi rừng. Kháng chiến quân lần lượt ngã gục, ông Minh và mấy người thân cận cũng không thoát khỏi cái chết. Một số kháng chiến quân bị địch bắt hay đầu hàng. Tất cả người chết về phía Mặt Trận được chôn vùi sơ sài ngay tại chỗ. Quân Pathet Lào không hay biết là trong số người chết có chủ tịch Hoàng Cơ Minh, lãnh tụ kháng chiến Việt Nam. Pathet Lào báo cáo cho CSVN về cuộc chạm súng ở Hạ Lào và giao những tù hàng binh cho CSVN. Sau khi khai thác tù hàng binh Mặt Trận, CSVN mới biết là Chủ tịch Hoàng Cơ Minh đã tử trận, xác được chôn chung với kháng chiến quân chết trận. Chúng bắt tù hàng binh quay lại chiến trường chỉ nơi chôn xác Hoàmg Cơ Minh. Vì xác đã được chôn cả tháng trước đây, nên khi bới lên để chụp hình, một bên mặt đã bị nát.
Tháng 10, 1987, đài phát thanh và báo chí Lào loan tải bản tin chiến sự là đã tiêu diệt lực lượng Hoàng Cơ Minh. Tháng 12, 1987, báo Nhân Dân của đảng CSVN và báo Quân Đội Nhân Dân chính thức loan tin về phiên tòa xử các kháng chiến quân bị bắt trong cuộc chạm súng tại Nam Lào và loan tải chi tiết về cái chết của chủ tịch Mặt Trận Hoàng Cơ Minh kèm theo hình ảnh.
Hai tờ báo, một của đảng, một của Quân đội Nhân dân đã ra liền 3 số báo, tường thuật chi tiết, rõ ràng trận đánh ở Nam Lào, cái chết của Hoàng Cơ Minh.
Tuy nhiên, ở hải ngoại, bọn đầu lĩnh kế thừa Mặt Trận nhất quyết không nhìn nhận là Hoàng Cơ Minh đã chết.
Dư luận ở hải ngoại rất nôn nao khi được tin Phó đề đốc Hoàng Cơ Minh và nhiều chiến sĩ thân thương đã hy sinh trên chiến trường Lào cho chính nghĩa. Tất cả đều mong đợi Tổng vụ hải ngoại chính thức công bố tin này, sẽ làm lễ truy điệu và vinh danh những người con yêu đã nằm xuống cho công cuộc giải phóng Việt Nam. Nhưng viện vào lý do không công bố tổn thất nhân sự có ảnh hưởng tới tinh thần toàn bộ cơ sở của Mặt Trận, bọn đầu lĩnh nhất quyết tuyên bố :
- “Chủ tịch Hoàng Cơ Minh vẫn còn sống và vẫn lãnh đạo công cuộc kháng chiến tại quốc nội.”.
Thậm chí, trong những số báo Kháng Chiến ra hàng tháng, ông vụ trưởng vụ Tuyên Vận vẫn còn viết và cho đăng những tin tức tưởng tượng như là lực lượng kháng chiến dưới quyền lãnh đạo của chiến hữu Hoàng Cơ Minh đã chiếm hết xã này tới quận nọ, nơi nào cũng đặt ủy ban kháng quản, sau khi tiêu diệt hết các ủy ban xã, ủy ban quận của Cộng Sản.
Đồng bào hải ngoại đọc những loại tin “tức mình” này, rất khâm phục cặp bài trùng Hoàng Cơ Định - Nguyễn Xuân Nghĩa với hai bộ óc có trí tưởng tượng tuyệt vời của một tiến sĩ hóa học tốt nghiệp tại Pháp và một chuyên viên kinh tài tốt nghiệp trường Cao Đẳng Thương Mại tại Paris.
Không xác nhận hay phủ nhận mọi tin tức đưa ra từ kẻ thù để bảo mật thực lực. Đây là bài học 4 không bắt đoàn viên học thuộc lòng:
- “Không nghe, không thấy, không biết và không nói “cóp nhặt của cộng sản.
Dư luận thương cho ông Minh đã anh dũng hy sinh trên chiến trường Nam Lào, dư luận sẵn sàng bỏ qua những lỗi lầm của ông Minh đã không có tín nghĩa, đã gian tham tiền bạc, đã lừa dối chiến hữu, đã lường gạt đồng bào.
Trường hợp, chính những người anh em ruột thịt và những tay chân thủ túc của ông Minh ở hải ngoại lên tiếng về cái chết thảm khốc của ông Minh, đồng bào và nhất là các chiến sĩ hải quân sẽ làm lễ truy điệu, vinh danh cựu phó đề đốc và các kháng chiến quân đã vị quốc vong thân.
Mặt Trận và gia đình giòng họ Hoàng Cơ sẽ lấy lại được uy tín một dạo đã lên tới tuyệt đỉnh và đã tắt lịm vì những tai tiếng xấu xa.
Trường hợp ông Minh thật quả chưa chết mà báo chí đảng và quân đội nhân dân bịa ra cái chết của ông Minh đăng liên tiếp trong 3 ngày, trường hợp không ra hải ngoại như đi chợ thời trước đây, ông Minh tìm cách lên tiếng với những phương tiện truyền thông hiện đại (như kiểu thâu tiếng và hình vào băng video của tên trùm khủng bố OSAMA BIN LADEN xứ A Phú Hãn bây giờ) , thì đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam chỉ còn cách bôi tro trát trấu lên mặt, đâu còn dám tòi mặt mo ra với thế giới bên ngoài. Nhưng ông Minh không làm được vì ông đã thực sự chết ở Nam Lào.
Dư luận thương cho ông Minh, nhưng thấy thái độ úp mở, dối trá, bất nhân của những đầu lĩnh Mặt Trận, dư luận phê phán những tên này cố tình che dấu tin tức để tẩu tán tài sản, nếu tuyên bố thực sự ông Minh và toàn bộ kháng chiến quân đã chết, bị bắt hay đầu hàng, tức là Mặt Trận quốc nội không còn ai nữa làm sao mà tiếp tục quyên tiền.
SỰ THỰC VỀ CÁI CHẾT CỦA PHÓ ĐỀ ĐỐC HOÀNG CƠ MINH.
Tháng 2 năm 1999, các ông Bùi Bỉnh Bân và Hồ Anh Tuấn tố giác với dư luận Nam California, Mặt Trận là Mafia, khống chế các đoàn thể, tìm mọi cách xen lấn vào các cộng đồng người Việt hải ngoại để phá hoại, đưa người của Mặt Trận vào các vị thế lãnh đạo, dùng tiền bạc mua chuộc và thao túng. Mặt Trận giật giây giới trẻ, dụ dỗ giới trẻ hăng say và đầy nhiệt huyết vào một tổ chức ngoại vi lấy tên là Đoàn Thanh Niên Phan Bội Châu.
Cũng do sáng kiến của Nguyễn Xuân Nghĩa, Mặt Trận lập ra hai tổ chức ngoại vi :
1/ Tổ chức Liên Minh Việt Nam Tự Do trao cho ông Nguyễn Tư Mô, giáo sư đại học Nha Khoa làm chủ tịch. Giáo sư Mô là người mà ông Hoàng Cơ Minh đã nhiều lần tính đem thay thế cụ Phạm Ngọc Lũy trong vai trò chủ tịch PTQGYTKC.
2/ Hội Chuyên Gia Việt Nam, lôi cuốn những chuyên viên trẻ nhẹ dạ, trao cho kỹ sư Vũ Quý Kỳ, cư ngụ tại Atlanta, Georgia, chạy theo ông Minh cuối tháng 12 năm 1984. Rất nhiều bạn trẻ đã tham gia hoạt động tích cực với hoài bão đem tuổi thanh xuân hiến dâng cho quê hương. Lý tưởng của họ rất cao đẹp, suy tư của họ rất trong sáng, thẳng thắn, tinh thần của họ rất mãnh liệt. Nhưng đáng tiếc họ đã bị lừa, và bị lừa một cách hèn hạ, nhục nhã. Dư luận cho là hầu hết các thành viên của “Hội Chuyên Gia Việt Nam” đâu có biết rõ thân thế của vị chủ tịch của họ, ông Vũ Quý Kỳ, người đã từng là tay chân thân tín trong nhiều năm trời của ông Tướng tham nhũng, trùm buôn lậu, cánh tay đắc lực của Tonton Nguyễn văn Thiệu. Họ có biết đâu họ đang bị khai thác nhiệt huyết và năng lực quý giá nhằm phục vụ quyền lợi riêng tư của Mặt Trận . Các bạn trẻ trong “Hội Chuyên Gia Việt Nam” bị bọn người tham tàn, xảo quyệt mượn danh nghĩa các bạn, các chuyên viên trẻ và tài năng, để xây dựng đất nước. . .với cộng sản, để nói với cộng sản Hà nội rằng có chúng tôi đây, có Mặt Trận đây! Chúng tôi sẵn sàng xóa bỏ hận thù để cùng quý ông bắt tay xây dựng đất nước, phục vụ đồng bào, đưa đất nước theo kịp đà văn minh của thế giới.
Thời gian này, anh em Hoàng Cơ Long, Hoàng Cơ Định rút vào bóng tối, đưa các cháu gọi bằng cậu, con ông bà Đỗ Thúc Vịnh, Hoàng Thị An (chị ruột của Minh, Long,Định ) như Đỗ Hoàng Ý, Đỗ Hoàng Phiệt ở Houston, Texas, Đỗ Hoàng Điềm đại diện Măït Trận tại miền Nam California.
Cũng trong thời gian này, Nguyễn Xuân Nghĩa cóp nhặt theo đường lối của đảng cộng sản, đảng là nòng cốt, tuyển chọn những người chỉ biết có đảng, đảng là trên hết, vòng ngoài là Mặt Trận, như Mặt Trận Việt Minh. Nghĩa thành lập đảng Việt Tân làm nòng cốt cho MTQGTNGPVN. Hành động này làm cho nhiều đoàn viên Mặt Trận bất mãn vì không được tuyển chọn vào đảng Việt Tân với hai thủ lãnh mới là Hoàng Cơ Định và Nguyễn Xuân Nghĩa.
Giữa tháng 4 năm 1999, luật sư trẻ tuổi Hoàng Duy Hùng cư ngụ tại Houston, Texas phổ biến tài liệu: “Sự thật về cái chết của Phó đề đốc Hoàng cơ Minh”. Luật sư Hoàng Duy Hùng cả quyết là ông Hoàng Cơ Minh đã chết tại Nam Lào vào tháng 8 năm 1987. Luật sư Hùng chỉ trích nặng nề Mặt Trận mưu toan những ý đồ đen tối, khi vẫn nhất quyết ông Hoàng Cơ Minh còn sống và vẫn lãnh đạo kháng chiến trong quốc nội. Luật sư Hùng còn cáo buộc Mặt Trận là một tổ chức buôn lậu, “buôn xương bán máu “ các chiến sĩ, tội đồ của dân tộc. Mặt Trận trong nước đã hoàn toàn tan rã sau cái chết của ông Hoàng Cơ Minh, lãnh đạo Mặt Trận ở hải ngoại là những con người bất xứng.
Năm 1987, luật sư Hoàng Duy Hùng gia nhập Đại Việt Cách Mạng của ông Hà Thúc Ký, năm 1991, về nước hoạt động bị Việt cộng bắt. Nhờ chính phủ Hoa Kỳ can thiệp, năm 1993, ông được chính quyền cộng sản trả tự do.
Trong thời gian bị giam giữ, ông Hùng đã được những bạn đồng tù nguyên là các tù hàng binh của Mặt Trận kể cho ông nghe về cái chết của ông Hoàng Cơ Minh.
Luật sư Hoàng Duy Hùng được sự liên kết của nhóm ông Nguyên Khôi, bà Đoan Trang ở San José, Bắc California, nhóm ông Hồ Anh Tuấn ở Orange County, Nam California, nhóm cựu đại tá Trương như Phùng ở Houston, Texas, lập ra “diễn đàn công luận” thách thức Mặt Trận đối chất. Dĩ nhiên là Mặt Trận tránh né việc công khai đối chất này, vì biết rõ là phần thua sẽ về phía mình, thủ lãnh Hoàng Cơ Minh đã thực sự bỏ thây tại Nam Lào.
Luật sư Hùng xuất bản một cuốn sách về cái chết của Phó đề đốc Hoàng Cơ Minh, tựa đề “Lột mặt nạ MTQGTNGPVN” phổ biến rộng rãi trong khối người Việt tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại, làm sáng tỏ dư luận về sự dối trá, gian giảo, lừa bịp của bọn đầu lĩnh Mặt Trận.
Nhân dịp Tết Trung Thu, Cộng Đồng Việt Nam ở Houston tổ chức cuộc rước đèn cho các em thiếu nhi. Bọn đầu mục Mặt Trận lợi dụng cơ hội, tới phát không lồng đèn “thiếu nhi đi chân đất, đội nón cối, với ngôi sao dẫn đầu” cùng khẩu hiệu “vì các cháu thiếu nhi, toàn dân ta kháng chiến”. Mặt Trận tuyên bố, câu nói đó là của chủ tịch Hoàng Cơ Minh. Nhưng các đoàn thể và người Việt tại Houston thì cho câu nói đó của Hồ Chí Minh, lên tiếng phản đối, tố cáo trước dư luận Mặt Trận làm tay sai cho cộng sản và phá thối cộng đồng, làm nhục cả đến trẻ em.
Báo chí ở Houston dã viết:
- “Cái Nghiệp của ông Hoàng Cơ Minh thật là nặng. Đã chết thảm, chết không toàn thây, chết mất xác, chết thật đau đớn, và sau khi chết hương hồn vẫn không yên. Nhà Phật thường dùng chữ Nghiệp để giải thích cho những điều bất hạnh gặp trong đời. Một bầy đầu lĩnh bất tài, vô tướng, có tiền trong tay cũng chỉ múa may quay cuồng, bắng nhắng như một lũ phường tuồng, đi thực hiện lồng đèn nêu cao chính nghĩa cộng sản thay vì chính nghĩa quốc gia. Thật là tiền ngập đến cổ, muốn nuốt cho trôi cũng phải có một khả năng tối thiểu. Khả năng này, nhóm lãnh đạo Mặt Trận hiện nay, thật là thiếu vắng.
Trăm, bia đá cũng mòn,
Ngàn năm, bia miệng vẫn còn trơ trơ.
Không hiểu vì nguyên do nào mãi đến giữa năm 2001, bọn đầu lĩnh Mặt Trận chính thức khai tử cho phó đề đốc Hoàng Cơ Minh cùng số kháng chiến quân đã tử trận.
Nhà báo Nguyên Thanh bên Úc Đại Lợi, trong bài Chuyện Dông Dài với tựa đề :
Việt Cộng cứu Mặt Trận
Hay
Mặt Trận cứu Việt Cộng
Bài viết mở đầu bằng hai câu thơ:
Anh linh Liệt Sĩ hỏi Hoàng Cơ . . .
Định bịp dân ta tới bao giờ ?
Băng nhóm Tội Đồ Dân Tộc Mặt Trận Hoàng Cơ Định sau khi trình diễn một màn xác nhận “Muộn màng sau mười bốn năm gian dối để rửa tiền” sự tử trận của Phó đề đốc Hoàng Cơ Minh cùng vài Liệt sĩ, đã bị mọi người nguyền rủa thậm tệ.
Ông bác sĩ “chiến hữu” Đặng Vũ Chấn là một cán bộ cao cấp trong “Băng Đảng” được cử qua Úc để thanh minh thanh nga, cứu nguy băng đảng.
Nhà báo Nguyên Thanh viết:
- Chúng tôi không thắc mắc về chuyện có kháng chiến hay không có kháng chiến. Chúng tôi chỉ thắc mắc về những nghĩa binh còn đang bị nhốt trong lao tù cộng sản, về mấy ngôi mộ không tên trong chiến khu, về cái chết không minh bạch của Trung Tá Lê Hồng, về sự mất tích của kháng chiến quân thứ thiệt Ngô Chí Dũng.
Đừng dùng sự lừa bịp để che đậy điều gian dối.
Sự bưng bít về cái chết của thủ lãnh, của chính anh ruột của mình từ năm 1987 mà mãi cho tới năm nay, 2001, mới “ậm ừ truy điệu” cho qua chuyện, là một thái độ hết sức Tắc Trách và Vô Lương Tâm. Sự gian dối này kéo dài 14 năm. Năm nào cũng vậy, cứ vào dịp Tết Âm lịch, báo Kháng chiến lại có Thư chúc Tết đồng bào của chủ tịch Hoàng Cơ Minh (bản văn giả mạo này, dư luận biết rất rõ là thiên tài Tuyên Vận đã sáng tạo ra). Hành động ấy, liệu có thể gọi là Hành Động Lường Gạt Đại Quy Mô trải rộng toàn cầu không? Hành Động khinh khi sự hiểu biết của người dân Việt hải ngoại không? Nếu không gọi là Lường Gạt thì gọi bằng chữ nghĩa gì? Ngây thơ ư ???
Vậy sau khi chính thức công nhận cái chết của người lãnh đạo tối cao của tổ chức, Mặt Trận nghĩ gì về câu hỏi:
- “Ai là tác giả của các lá thư chúc Tết đồng bào ??????”.
Ma quỷ đâu có viết được, phải là người, vậy người đó là ai ??????
Với chính sách bốn không, (không biết, không nghe, không thấy, không nói), Mặt Trận cứ câm miệng hến, theo đúng câu ngạn ngữ :
Lời nói là bạc, Im lặng là vàng.
Mặt Trận chỉ thích vàng thôi !!!
Đây là chủ trương của nhóm đầu lĩnh Mặt Trận hiện nay, trường kỳ, bất di bất dịch.
VỤ ÁN TRỐN THUẾ CỦA CÔNG TY NAKAMURA.
Ngày 22 tháng 4 năm 1991, cảnh sát thành phố San José, Bắc California đã câu lưu Hoàng cơ Định, vợ Định, (Phan Thị Hà) cùng ba bộ hạ Nguyễn Kim Hườn, Nguyễn Tấn Bính và Phan Duy Cần. Năm bị cáo trên sẽ bị xét xử 26 điều khoản về các tội âm mưu (conspiracy), khai gian thuế (false statement on tax return), trốn thuế (tax evasion), và không khai thuế (failure to file tax return).
Bản cáo trạng do một Đại Bồi Thẩm Đoàn (Grand Jury) biểu quyết nhằm truy tố :
1/ Định Cơ Hoàng, aka Dean Nakamura, Vu Quang, Phan vu Quang,
2/ Hà Phan Hoang,
3/ Binh Tan Nguyen, aka Le van Nam,
4/ Huon Kim Nguyen, aka Steven Nakashima,
5/ Can duy Phan, aka James Masuda,
về các tội danh: âm mưu (conspiracy), khai gian thuế (false statement on tax return), trốn thuế (tax evasion), không khai thuế (failure to file tax return).
Tổng cộng là 26 tội danh.
Với số tiền bạc lường gạt được của chiến hữu và đồng bào cùng tiền lợi tức của các cơ sở kinh tài, bọn đầu lãnh Mặt Trận đem ra bảo lãnh số tiền thế chân rất cao, lo việc tại ngoại cho những kẻ bị bắt giữ trong vụ án trốn thuế. Tuy nhiên, theo thông luật, tòa án đã bắt bọn người này phải nộp sổ thông hành, để không trốn đi ra nước ngoài được, nhất là Nhật Bản, vì mấy người này đều lấy tên Nhật. Gian manh nữa là Hoàng Cơ Định, trong thời gian tại ngoại lập ra Quỹ Công Lý, kêu gọi chiến hữu và đồng bào đóng góp tài chánh trang trải tiền thuê mướn luật sư biện hộ. Dư luận nặng nề chỉ trích Hoàng Cơ Định là con người vô liêm sỉ, đã gian tham, lại trốn thuế, nay lại lập ra quỹ công lý để moi tiền những người nhẹ dạ hay bị đe dọa. Thành thử, cũng không thâu được bao nhiêu.
Đồng tiền đâm toạc tờ giấy, án lệnh truy tố bọn người gian dối được hủy bỏ ngày 15 tháng sáu năm 1966.
Tuy nhiên, tòa án lương tâm và công luận còn tồn tại mãi mãi. Hình ảnh 5 nhà lãnh tụ Mặt Trận bị còng tay và đẩy lên xe cây, đồng bào San José khó có thể quên.
VỤ MẶT TRẬN KIỆN BÁO CHÍ.
Đầu năm 1994, tôi nhận được điện thoại của anh Vũ Ngự Chiêu, tức nhà văn Nguyên Vũ, giám đốc nhà xuất bản và phát hành Văn Hóa, yêu cầu tôi ra làm chứng cho vụ ba đầu lĩnh Mặt Trận, Hoàng Cơ Định, Nguyễn Xuân Nghĩa và Trần Xuân Ninh kiện nhà văn Nguyên Vũ, giám đốc nhà xuất bản Đa Nguyên, đã cho in và phát hành cuốn hồi ký chính trị Mặt Trận, những sự thực chưa hề được kể của nhà văn Cao Thế Dung năm 1992. Suy nghĩ một lúc, tôi nhận lời, anh Vũ Ngự Chiêu là bạn tôi, tình thân như ruột thịt, Nguyên Vũ hay Chính Đạo là nhà văn có nhiều tác phẩm và bài phân tách chính trị, tôi ưa thích .
Những ngày kế tiếp, tôi nhận được điện thoại của ông Cao Thế Dung, tác giả cuốn hồi ký chính trị Mặt Trận, những bí mật chưa hề tiết lộ về Mặt Trận Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh và đặc biệt là tổ chức K 9, cũng yêu cầu tôi ra làm chứng cho vụ ông bị nhóm ba đầu lĩnh Mặt Trận kiện .
Tôi đã nhận lời ra làm chứng cho nhà văn Nguyên Vũ, tôi không chần chừ nhận lời. Ông Cao thế Dung, tôi đã biết từ ngày ở Saigon, qua Hoa Kỳ, ông là chiến hữu trong Mặt Trận. Thêm nữa, ông là nhà văn và nhà báo can đảm, không sợ bạo lực, viết lên những sai trái, nhem nhuốc, gian giảo của Mặt Trận.
Ông Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng, chủ báo Văn Nghệ Tiền Phong (VNTP) cũng gọi cho tôi yêu cầu tôi ra làm chứng về vụ ông bị ba người đầu lĩnh Mặt Trận thưa ra tòa, vì báo VNTP đã cho đăng tải những bài viết của Lê Kính Dân “Ai giết vợ chồng ký giả Lê Triết”, Lê Bằng Phong và Chu Tri Lục viết khen tặng và phụ họa bài của Lê kính Dân.
Tôi nhận lời yêu cầu của ông Nguyễn Thanh Hoàng, ông Hoàng với tôi quen biết nhau từ ngày tôi theo học trên trường Võ Bị Dalat năm 1952, và những ngày sau khi ông làm chủ những tờ báo Ngôn Luận, Văn Nghệ Tiền Phong ở Saigon, kể cả thời gian tỵ nạn qua Hoa Kỳ, ông Hoàng với tôi vẫn là bạn có giao hảo tốt.
Ngoài sự quen biết và tình bằng hữu, tôi nhận lời yêu cầu của cả ba người, ra làm chứng là vì chính nghĩa, vì công đạo, vì công lý, tôi không muốn thấy nhóm đầu lĩnh Mặt Trận hiện nay mang tiền bạc phi nghĩa ra, định làm hại ba người trong giới văn bút, báo chí.
Ngày 13 tháng 5 năm 1994, Luật sư Kleven, thầy cãi cho phe nguyên đơn, có Hoàng Cơ Định đi theo đến Austin, Texax, lấy lời khai của tôi, nhân chứng cho phía bị cáo.
Tôi trưng ra những tài liệu chứng minh Hoàng Cơ Định là một con người sảo trá, gian manh, bạo tàn. Trước đó, tôi tra cứu tự điển dịch mấy chữ nhận xét về anh em họ Hoàng Cơ, như bịp bợm, dối trá, lường gạt, phản bội, v.v. . .ra tiếng Anh cho đúng. Tưởng tôi có tài liệu thành văn, luật sư Kleven đòi xem và ghi vào biên bản.
Ông Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng cho biết đã nhờ một luật sư Mỹ biện hộ, tên là Richard D. Givens ở Redwood City. Nhà văn Nguyên Vũ cho biết đã nhờ được luật sư Nguyễn Tâm có văn phòng tại San Jose, biện hộ, chỉ có ông Cao Thế Dung lấy lý do nghèo nàn, không có tiền thuê mướn luật sư, được tòa cho tự biện hộ.
Phiên tòa chính thức bắt đầu từ ngày 5 tháng 12 năm 1994 tại tòa Thượng Thẩm hạt Santa Clara ngay trung tâm thành phố San José.
Ngày 12 tháng 12 năm 1994, tôi đáp máy bay qua San José, tới phi trường được Nguyên Vũ và cựu chiến hữu Vũ hữu Dũng đã chờ sẵn, đưa tôi về nhà anh Dũng. Chiêu cũng ở đó, sau này có thêm Cao Thế Dung tới. Tội nghiệp anh chị Dũng đã phải thu xếp việc ăn ngủ cho ba chúng tôi, lại phải lo la-de (beer) cho nhà văn Cao Thế Dung.
Nguyên Vũ trình bầy là giai đoạn đầu của phiên tòa hộ. Phiên tòa do ông Thẩm phán Joseph F. Biafore, Jr. điều hợp. Nguyên Vũ cười nói:
- “Anh biết không, việc xét xử vai trò xã hội của các nguyên đơn mới thật quan trọng, vì nó quyết định phần nào kết quả vụ án. Trong các vụ án hộ hay dân sự (civil), luật pháp Mỹ có những điều khoản khác nhau tùy theo “vai trò xã hội” của nguyên đơn . Nếu nguyên đơn là thường dân (private citizen) họ được luật pháp bảo vệ rất kỹ. Nhưng nếu phe nguyên đơn là người của đám đông hay nhân vật cộng đồng (pubic figures), họ phải chấp nhận sự chỉ trích của giới báo chí và dư luận. Ngày 7 tháng 12, 1994, sau nhiều ngày tranh cãi của hai phía luật sư, thẩm phán Biafore phán quyết các nguyên đơn là người của đám đông. Ngược lại, phía bị cáo không được nhắc nhở gì đến vụ án trốn thuế của vợ chồng Hoàng Cơ Định và thuộc hạ. Tiếp đến là việc lựa chọn 12 vị bồi thẩm chính thức và 2 dự khuyết cũng thật gay cấn, phải mất 2, 3 ngày mới xong.”.
Tuy nhiên, Nguyên Vũ khẳng định, thế nào phía bị cáo cũng thắng kiện.
Nguyên Vũ và tôi hàn huyên đủ mọi chuyện về phiên tòa, phe nguyên đơn, phe bị cáo, điểm mạnh, điểm yếu của hai phe. Nguyên Vũ nhấn mạnh về trường hợp Cao Thế Dung. Điểm yếu nhất của ông Dung là không có luật sư, phải tự biện hộ, Anh ngữ giới hạn, phải dùng thông dịch viên. Ông Dung ăn nói lưu loát, nhưng nhiều khi đi quá trớn vì hăng say, tuy nhiên khiêm tốn, nhã nhặn, gây được cảm tình của Bồi thẩm đoàn. Luật sư Nguyễn Hữu Liêm được phe bị cáo mời biện hộ cho ông Dung, nhưng luật sư Liêm chỉ nhận sẽ thủ vai trò “cố vấn”.
Phe nguyên đơn, Hoàng Cơ Định nhất thời tưởng là mạnh. Thái độ kiêu căng, ngạo mạn, mặt trơ, trán bóng, lúc nào cũng vênh lên, cậu ấm con quan, kẻ cả ta đây, tốt nghiệp tiến sĩ từ bên Pháp, lắm tiền nhiều bạc, dù tiền bạc toàn là thứ phi nghĩa, tham lam, gian giảo, làm mất cảm tình của Bồi thẩm đoàn.
Tôi lắng nghe Nguyên Vũ trình bầy, tôi có ý kiến:
- “Ba bị cáo, Cao Thế Dung, Nguyễn Thanh Hoàng và Nguyên Vũ như ba tay chèo trên một con thuyền nhỏ trong cơn sóng gió, không những phải vững tay chèo, không sợ sệt, không rối trí, không nản lòng, mà còn phải liên kết chặt chẽ, chung sức, ba người như một. Nếu có một người nhảy ra khỏi thuyền, thuyền sẽ đắm, cả ba người sẽ đắm theo thuyền. Vậy phải liệu trông nhau, bảo nhau, giúp nhau, bình tĩnh, chịu đựng, trí óc lúc nào cũng giữ cho tỉnh táo, sáng suốt. Anh nghĩ Nguyên Vũ thừa biết những điều anh vừa nói, anh tin vào Nguyên Vũ thừa nghị lực và khả năng để thực hiện việc giữ cho con thuyền khỏi đắm.”.
Tôi cũng có ý kiến về sự thông cảm, kết hợp giữa hai luật sư, Richard Givens và Nguyễn Tâm. Hai vị luật sư, một Mỹ, một Việt, phải hướng dẫn khéo léo các bị đơn, các nhân chứng, cung khai ở tòa, kẻ nâng, người đỡ, né chỗ mạnh, tìm chỗ yếu, chỗ sơ hở của phe nguyên đơn mà khai thác triệt để.
Nói tóm lại, việc thắng bại cho phiên tòa là do ở sự đoàn kết một lòng của ba bị cáo và sư liên kết, phối hợp giữa hai luật sư.
Tôi đề nghị Nguyên Vũ bàn với luật sư Nguyễn Tâm triệu tập một phiên họp đông đủ có mặt cả bị cáo, chứng nhân và luật sư vào ngày chủ nhật ngay tại văn phòng luật sư Tâm, để thông qua những điểm cốt yếu, vai trò của từng người, chiến lược và chiến thuật áp dụng để đi tới toàn thắng. Trong buổi họp, tôi đề nghị, sau mỗi buổi tòa, ba bị cáo tới nhà anh Vũ Hữu Dũng họp, để khai thác những ưu khuyết điểm của từng người phía mình và những ưu khuyết điểm phía nguyên đơn, ngày hôm sau, ra đòn cho thật đúng.
Bên phía nguyên đơn đưa ra hai nhân chứng, An Nguyễn tức Nguyễn Kiển Thiện Ân, hồi còn ở Saigon, làm Thứ Trưởng của chính phủ Nguyễn Văn Lộc (1967-1968), qua Hoa Kỳ làm thông dịch viên các tòa án hạt Santa Clara. Ông Nguyễn Ngọc Bích, khai trước tòa, du học tại Mỹ năm 1956, tốt nghiệp đại học Princeton, về nước làm viện trưởng đại học Mékong từ 1972-1975.
Cá nhân tôi biết ông Bích nhiều, cùng với anh em ông là các ông Nguyễn Ngọc Linh, Nguyễn ngọc Phách, Nguyễn Ngọc Nhạ, v.v. . .Tôi không hiểu tại sao ông Bích lại nhận lời ra làm chứng cho phía nguyên đơn.
Bên bị đơn, thoạt đầu, Nguyễn Thanh Hoàng mời ông Hoàng Xuân Yên, tức ký giả Hoàng Xuyên, nhưng ông Yên từ chối không nhận. Ông Nguyễn Đạt Thịnh từ Hawaii bay qua San José làm nhân chứng theo lời mời của nhà văn Nguyên Vũ, nhưng sau Nguyên Vũ quyết định chỉ đưa ông chủ báo Diều Hâu lên bục nhân chứng nếu cần.
Rốt cuộc, có Vũ Hữu Dũng, cựu trung tá Nguyễn Xuân Phác, (một thời làm chủ báo Dân Tộc, Dân Việt và rồi Người Việt Bắc Cali. Ông là người đầu tiên đã công bố những gian lận, tham tàn của Hoàng Cơ Minh và anh em, giòng họ) và tôi là nhân chứng của phía bị đơn.
Tôi không thể nêu ra đây, trong cuốn sách này, tất cả chi tiết phiên tòa, như cuốn “Một ngày có. . . 26 giờ “, bút ký của Nguyên Vũ về vụ án lịch sử Báo Chí Hạ Đo Ván Mật Trận. . . Kháng Chiến William Nakamura, dầy 300 trang, và cuốn “Mặt Trận kiện Báo Chí”, tường thuật của Trần Củng Sơn diễn tiến từng ngày về phiên tòa Mặt Trận Kiện Báo Chí vào cuối năm 1994, dầy hơn 200 trang, vì đây chỉ là một chương, trong tập 3 cuốn hồi ký Trả Ta Sông Núi khoảng 30 trang giấy. Tôi chỉ viết những chuyện “ái, ố, hỷ, nộ” đã xẩy ra trong phiên tòa.
Người đặc biệt trong số 3 bị đơn, nhà văn Cao Thế Dung đã là một minh tinh sáng chói trong suốt phiên tòa:
1/ Ông Dung đã trình diện trước thẩm phán và các bồi thẩm hình ảnh một nhà văn trên 60 tuổi, nghèo đến độ không có tiền mướn luật sư, khiêm tốn và lịch sự, nhưng đủ can đảm đương đầu với thứ móng vuốt vô hình của bạo lực, gian trá và lươn lẹo, đương đầu với mãnh lực của kim ngân.
2/ Ông Dung nổi bật với hai điểm trong bài diễn văn, ông nói với giọng từ tốn, khiêm cung, nhưng rất đanh thép, cao giọng, khi hai lần chỉ thẳng vào ba nguyên đơn “Mặt Trận là ba người này, ba người này là Mặt Trận.”.
Hay nhất là mỗi lần đến lượt ông được kêu lên trả lời hoặc cung khai, ông bước ra vái ông thẩm phán, vái bồi thẩm đoàn, vái luôn cả các bạn bè, thân hữu ngồi dưới ghế thính giả. Thái độ của ông Dung gây xúc động và cảm tình của bồi thẩm đoàn.
3/ Phía nguyên đơn, luật sư Kleven, dụng tâm đánh mạnh vào điểm nghi ngờ ông Dung không có bằng tiến sĩ (PhD hay được gọi là Doctor) mà dám nói là có.
Ông Dung trả lời về điểm này rất vui, ông nói thưở nhỏ, nhà nghèo, không đủ tiền cho ông đi học, ông phải đi chăn trâu độ nhật, tối về tự học dưới ánh trăng hay ánh lửa bếp. Ông cố học đỗ bằng tiểu học. Luật sư Kleven đánh tiếp:
- “Ông Dung, ông cho chúng tôi biết, ông có bằng trung học không?”.
Họ Cao không trả lời thẳng vào câu hỏi, nói:
- “Sau khi tôi đỗ tiểu học, bố mẹ tôi lần lượt qua đời, tôi phải qua ở nhờ bà cô tôi. Bà bảo tôi, cháu đã có bằng tiểu học, cháu nên cố học lấy bằng thành chung (trung học), cô sẽ cố làm nuôi cháu ăn học. Tôi học trung học ở trường phủ (nhà quê).
Cứ mỗi lần ông nói về việc học hành của ông trong sự nghèo nàn của gia đình, ông lại chỉ vào mặt Hoàng Cơ Định và Hoàng Cơ Long nói :
- “Tôi đâu có được học hành ở những trường to lớn trên thành phố như những người này. Ông cha chúng trước kia làm quan tham nhũng, hối lộ, giúp giặc Pháp dẹp những phong trào kháng chiến, nhiều tiền bạc nuôi chúng ăn học trong sự cao sang, giầu có, trường to, trường tốt.”.
Luật sư Kleven nhiều lần giơ tay “objection !” (phản đối), nhưng quan tòa vẫn cho tiếp tục.
Ông Dung tiếp tục kể :
- “Tôi cố gắng học, đỗ cả hai bằng tú tài. Bà cô tôi bảo, cháu học được lắm, người ta học đỗ cử nhân, cháu nên cố gắng học lấy bằng cử nhân.”.
Nghe lời bà cô, tôi học tiếp cũng trong sự nghèo nàn, chật vật về cuộc sống nương tựa bà cô tôi. Tôi đỗ bằng cử nhân. Ông lại quay về phía anh em họ Hoàng Cơ, nói gay gắt như ở trên. Luật sư Kleven giơ tay “objection”, ông tòa cho tiếp tục. (Tôi nghĩ ông thẩm phán muốn tìm hiểu vấn đề giáo dục của Việt Nam như thế nào, nên mỗi lần luật sư nguyên đơn giơ tay “objection”, ông vẫn tiếp tục cho ông Dung nói tiếp.)
Luật sư Kleven hỏi:
- “Ông Dung, ông cho chúng tôi biết, ông có bằng tiến sĩ không?, Trường nào và năm nào?”.
Ông Dung không trả lời thẳng vào câu hỏi, ông nói vòng quanh:
- “Sau khi tôi đậu bằng cử nhân, tôi vừa đi dậy học vừa tiếp tục học lấy tiến sĩ. Tôi đâu có cha ông làm quan, tham nhũng, vơ vét tiền bạc của dân nghèo, thăng quan tiến chức vì làm bầy tôi hữu hiệu cho giặc Pháp xâm chiếm và cai trị nước Việt Nam, để được gửi đi học tận bên Pháp như bọn người này”.
Ông Dung vừa nói vừa chỉ vào Hoàng Cơ Định. Luật sư Kleven giơ tay “objection”, ông tòa vẫn cho ông Dung tiếp tục.
Luật sư Kleven:
- “Ông Dung, ông không trả lời câu hỏi của tôi, chúng tôi muốn biết, ông có bằng tiến sĩ không? Trường nào cấp bằng cho ông ? “.
Họ Cao vòng vo tam quốc, trả lời:
- “Tôi có đậu bằng tiến sĩ, tôi không theo học trường đại học nào ở Hoa Kỳ, tôi cũng không học ở bên Pháp như tên này”, ông lại chỉ vào Hoàng Cơ Định Luật sư Kleven không nén được sự sốt ruột, lên tiếng:
- “Ông Dung (Mr. Dung, đáng lẽ phải kêu ông Dung là Dr. Cao), ông nói, ông có bằng tiến sĩ bên Pháp, ông cho biết trường nào?”.
Ông Dung lại vòng vo trả lời:
- “Tôi học bên Pháp, nhưng tôi không qua Pháp như tên này (lại chỉ vào Hoàng Cơ Định), tôi học par correspondant (hàm thụ). Anh em, thân hữu ngồi dưới ghế thính giả lo quá, không hiểu ông Dung trả lời ra sao. Luật sư Kleven:
- “Ông Dung, tôi chỉ hỏi ông tốt nghiệp tiến sĩ trường nào?”.
Họ Cao trả lời vẫn với giọng ẫm ờ :
- “À, tôi tốt ngiệp tiến sĩ tại một trường ở Paris, trường “Ecole Universelle de Paris “. Vì tôi học hàm thụ, nên nhà trường gửi bằng qua đường bưu điện tới cho tôi. Tôi nhận được bằng, nghĩ đến công ơn của bà cô tôi, đã mất, tôi đem tấm bằng ra mộ bà cô tôi, cúng vái, khấn khứa xong, tôi bật lửa đốt tấm bằng cho cô tôi ở dưới suối vàng biết là tôi đã đậu tiến sĩ.”.
Cả tòa, kể cả ông thẩm phán, các bồi thẩm và thính giả, như coi một cuốn phim hay, nín cười không nổi.
Buổi tối, tôi bàn với Vũ hữu Dũng và Nguyên Vũ, trêu chọc Cao Thế Dung một tí cho vui. Khi chị Dũng dọn cơm ra, tôi yêu cầu chị lấy hai lon la de Budweiser để thưởng ông Dung, bữa nay diễn xuất quá hay ở tòa. Tôi lại nói:
- “Kỳ này về, tôi sẽ làm một cuốn phim bộ, ông Dung thủ vai chính, như một hiệp sĩ, mặc quần áo toàn mầu trắng, đầu chít khăn tang trắng, trên lưng đeo thanh bảo kiếm, tay mặt cầm tấm bằng, vai trái đeo một bị lon Budweiser. Khi ra tới mộ bà cô, hiệp sĩ họ Cao để các thứ đeo trên người xuống trước ngôi mộ, đoạn lấy lửa đốt tấm bằng, miệng khấn vái, hôm nay cháu ra thăm mộ cô, cháu đốt mảnh bằng tiến sĩ, để dưới suối vàng cô biết là cháu đã đỗ bằng tiến sĩ, như lúc sanh tiền cô vẫn mong đợi. Khấn vái xong, Cao tráng sĩ rút thanh kiếm ra khỏi vỏ, múa mấy đường kiếm, vừa múa vừa ca :
- “Ta tráng sĩ họ Cao hề, gặp thời nhiễu nhương hề. Ta không sợ bạo lực hề, ta không sợ mãnh lực kim ngân hề. Ta tráng sĩ họ Cao hề. Quyết dẹp tan bọn gian tà hề. Quét sạch nhiễu nhương trong cộng đồng hề. Cho đồng bào sống yên vui hề.
Múa xong bài kiếm, ca hết bài ca, tráng sĩ họ Cao ngồi xếp vòng tròn trước mộ bà cô, lấy ra một miếng thịt bò khô, mở la de ra nhậu.
Khi uống xong sáu lon la de, tráng sĩ họ Cao lại đeo bảo kiếm trên vai, đứng lên vái mấy vái, rồi lên đường hành hiệp.”.
Vũ Hữu Dũng và Nguyên Vũ vỗ tay tán thưởng, phàn nàn không được đóng chung với Cao Thế Dung trong cuốn phim. Còn họ Cao tuy vui trong bụng, nhưng nhăn mặt lắc đầu nói:
- “Anh Bảy trêu đàn em quá, em khai là ra mộ bà cô đốt bằng là có chủ đích, em muốn bảo chúng nó rằng “bằng cái mả mẹ tụi bay”.
Luật sư Kleven bên nguyên đơn, hết truy ông Cao Thế Dung về bằng cấp không được, ông truy qua là ông Dung có tham gia Mặt Trận hay không? (theo phía nguyên đơn khẳng định với ông là ông Dung chưa bao giờ tham gia Mặt Trận, ông Dung có mặt trong các buổi họp của Ban Chấp Hành TVHN là do ông Tổng vụ Trưởng dẫn đến.)
Một buổi tòa, luật sư Kleven chất vấn :
- “Ông Dung, ông cho chúng tôi biết ông có tham gia Mặt Trận không?”. (lưu ý là luật sư Kleven luôn kêu ông Dung là Mr. Cao, không lần nào ông kêu là Dr. Cao). Ông Dung được anh em căn dặn là khi luật sư hỏi, cứ bình tĩnh suy nghĩ cho kỹ càng rồi hãy trả lời, không nên hấp tấp, vội vàng.
Chúng tôi nghĩ tiếng Anh của ông đủ để nghe biết luật sư chất vấn gì cũng như trả lời, nhưng ông Dung đã yêu cầu được một thông dịch viên giúp. Bà Tô Hà là thông dịch viên hữu thệ được tòa mời tới giúp ông Dung. Khi thấy luật sư Kleven hỏi về việc ông Dung có là thành viên của Mặt Trận hay không, anh em mừng quá, ông Dung chỉ việc xuất trình tờ quyết định của Tổng vụ Trưởng Trần Trung Sơn ký và đóng dấu, cho ông Dung làm Chủ nhiệm Ủy Ban Chính Trị của Tổng vụ hải ngoại là bên nguyên đơn trắng mắt. Không hiểu ông Dung nghe bà Tô Hà dịch sao, ông ngẩn mặt suy nghĩ, và trả lời dõng dạc “không” (no). Anh em ngồi dưới hàng ghế thính giả nhăn mặt, lắc đầu, không hiểu sao ông Dung lại trả lời “không”.
May là đúng lúc đó ông Thẩm phán ra hiệu nghỉ trưa, chiều họp tiếp.
Trong bữa cơm trưa, anh em hỏi ông Dung, ông nghĩ sao, mà lại trả lời “không”.
Ông Dung nhăn nhó nói :
- “Tôi nghĩ họ đặt bẫy tôi, tôi nghe bà thông dịch viên dịch lại, tôi tưởng họ hỏi tôi là tôi có tham gia Mặt Trận Giải Phóng không, (Mặt Trận Giải Phóng do cộng sản Hànội lập ra), vì vậy tôi trả lời không.
Giận quá, tôi nói :
- “Thế tiếng Anh của ông cũng không nghe hiểu là họ hỏi gì sao?.”.
Buổi chiều, ông Dung xin được xuất trình bản quyết định và xin sửa lại cho đúng.
Thế là hai điểm mà luật sư Kleven xoáy vào ông Dung để chứng minh là ông Dung nói dối, man trá trước tòa, nếu như vậy thì cuốn Mặt Trận và những bài viết trên báo VNTP, ông Dung cũng đã dối trá, viết không có chứng cớ, gieo vạ cho ba nguyên đơn. Chỉ cần hạ một ông Dung là kéo theo cả ba bị đơn thua kiện.
Cả hai điểm, ông Dung đều qua được.
Bây giờ, đến lượt những chuyện hỷ, nộ phía nguyên đơn.
Khi luật sư Richard Givens hỏi Hoàng Cơ Định:
Hỏi : Mặt trận có vào sổ bộ (tức đăng ký, register) không?
Đáp : Không !
Hỏi : Mặt trận có giữ sổ sách quyên góp tiền không ?
Đáp : Không !
Hỏi : Mặt trận có đóng thuế không ?
Đáp : Không !
Phản ứng của Bồi thẩm đoàn, một bồi thẩm đoàn hầu như chưa biết gì về Mạt Trận và sinh hoạt cộng đồng Việt Nam, sau mấy câu đối đáp này rõ ràng bất lợi cho Hoàng Cơ Định và phía nguyên đơn.
Ba tiếng trả lời “No” khô gọn, chẳng một chút ngại ngùng, ngượng ngập của Hoàng Cơ Định bộc lộ bản chất con người bạo ngược, tham tàn và sự lường gạt có tính toán của anh em họ Hoàng Cơ.
Một buổi tòa khác, khi luật sư Nguyễn Tâm xin trình tòa chứng liệu (exhibit) một xấp hình, trong đó có một tấm hình chụp mấy ngày sau khi Hoàng Cơ Minh chết ở Hạ Lào hơn 7 năm trước.
Luật sư Tâm từ tốn yêu cầu Hoàng Cơ Định lật tới hình thi hài của ông Minh, cao giọng hỏi:
- “Ông Hoàng Cơ Định, ông có nhận ra ai trong hình đó không?”.
Hoàng Cơ Định chỉ liếc mắt qua tấm hình, thản nhiên đáp:
- “Không”.
Thật là bất nhân, bất nghĩa, táng tận lương tâm, một người vẫn cho mình là con giòng, cháu giống, được nuôi ăn học, đỗ đạt đến cấp tiến sĩ Pháp, nỡ đang tâm không nhìn nhận tấm hình thi hài của chính người anh ruột mình.
Luật sư Tâm không chịu tha, ông hỏi Hoàng Cơ Định về cái chết của Hoàng Cơ Minh :
Định trả lời :
- “Tôi tin rằng anh tôi vẫn còn sống.”.
Nguyên đơn thứ hai, y sĩ Trần xuân Ninh, sinh ngày 4-10-1936 tại Hànội, tốt nghiệp y khoa vào năm 1963. Sau khi miền Nam mất, ông Ninh đi cải tạo 2 năm, qua Hoa-Kỳ năm 1979, tạm cư tại Hayward, Bắc California, hành nghề tại Chicago. Theo ông Ninh, người con trai độc nhất của vợ chồng ông bị chết thảm trên đường vượt biển tìm tự do, lý do đó, ông rất thâm thù cộng sản. Ông gia nhập Mặt Trận năm 1984.
Qua sự hướng dẫn của luật sư Kleven, với lối trình bày lưu loát, hoạt bát, ông Ninh đã tự tạo cho mình hình ảnh một vị y sĩ tận tâm về chức nghiệp, yêu thương đồng bào, nòi giống, quyết tâm lật đổ bạo quyền cộng sản, mưu cầu hạnh phúc cho toàn dân. Cách diễn xuất của ông Ninh cùng với sự nể vì đối với giới y sĩ, ông Ninh phần nào đã gây được thiện cảm của Bồi thẩm đoàn. Ông Ninh chủ trương chiến dịch chống kinh tài cộng sản và cấm du lịch Việt Nam. Dư luận trên Chicago cho rằng y sĩ Ninh đã cho đàn em đốt nhà một người Việt tên Lâm Tôn chống lại lệnh cấm, đã về thăm quê hương.
Luật sư Givens hỏi :
Hỏi : Ông Ninh, ông biết chuyện gì xẩy ra cho ông Lâm Tôn sau chuyến đi về Việt Nam không?
Đáp : Ông ta bị vợ ly dị.
Hỏi : Ông biết việc có người đốt nhà ông Lâm Tôn không?
Đáp : Tôi chỉ biết nhà ông Lâm Tôn bị cháy.
Luật sư Nguyễn Tâm chất vấn ông Ninh về cái chết của Hoàng Cơ Minh. Bằng chứng của phía bị đơn số 258, tức hồ sơ hình ảnh về Mặt Trận được trao cho ông Ninh. Chỉ vào tấm hình chụp thi hài ông Minh, luật sư Tâm hỏi :
Hỏi : Y sĩ Ninh, xin cho biết ông có nhận ra ai trong tấm hình đó không ?
Đáp : Không.
Hỏi : Theo ông, ông Hoàng Cơ Minh còn sống hay đã chết ?
Đáp : Tôi nghĩ rằng ông Minh còn sống. (ông Ninh không dám quả quyết mà nói tôi nghĩ rằng).
Nguyên đơn thứ ba được mời lên bục nhân chứng là ông Nguyễn Xuân Nghĩa, tức Nguyễn Đông Sơn. Dư luận toàn thể người Việt tỵ nạn cộng sản kết tội ông là nằm vùng cho cộng sản, được gài vào Mặt Trận để phá hoại. Nhiều người còn cho là chính ông Nghĩa đã mật báo cho cộng sản biết đường lối chuyển trại của ông Minh, phục kích để tiêu diệt ông Minh và các kháng chiến quân. Ông Nghĩa đã rời Mặt Trận trước khi xẩy ra vụ án thuế khóa, ông đã cộng tác với cơ quan an ninh của Hoa-Kỳ, nên đã không bị câu lưu cùng với năm đầu lĩnh của Mặt Trãn tại hải ngoại.
Ông Nghĩa giữ thái độ hòa nhã với phía bị đơn.
Dưới sự hướng dẫn của luật sư Kleven, ông Nghĩa khai, sinh ngày 11-11-1944 tại Hànội. Cha là Nguyễn văn Hiếu, kỹ sư công chánh, anh em thúc bá ruột với Nguyễn Văn Linh tức Mười Cúc, Tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam từ 1986 tới 1991.
Ông Nghĩa tốt nghiệp trường Cao đẳng thương mại tại Paris, với bằng HEC (Hautes Etudes Commerciales).
Ra hải ngoại ông Nghĩa tham gia Mặt Trận từ tháng 6 1984 với chức Vụ Trưởng vụ Tuyên Vận. Luật sư Nguyễn Tâm chất vấn ông Nghĩa về việc tại sao không phải đi cải tạo như các công chức cao cấp khác trong chính quyền miền Nam. Ai là tác giả bài viết ký tên Nguyễn Xuân Nghĩa trên một tạp chí cộng sản chiến dịch chống kinh tài cộng sản và du lịch Việt Nam.
Luật sư Tâm lại xoáy vào việc sống, chết của Hoàng Cơ Minh. Nhìn vào tấm hình Hoàng Cơ Minh một lúc, ông Nghĩa ấp úng nói:
- “Tôi không biết ai trong tấm hình.”.
Trả lời câu hỏi, Hoàng Cơ Minh còn sống hay đã chết, ông Nghĩa đáp:
- “Tôi không biết .” (I don’t know).
Khi luật sư Tâm vặn hỏi, tại sao trước đây ông tuyên bố ông Hoàng Cơ Minh còn sống. Ông Nghĩa đáp:
- “Vì ngày ấy, tôi còn ở trong Mặt Trận.”.
Không biết ông Nghĩa có dụng ý gì khi trả lời như trên. Câu nói này chứng tỏ sự gian dối của các đầu lĩnh Mặt Trận. Sự kiện này khiến Hoàng Cơ Định và Trần Xuân Ninh không dấu được sự bất mãn. Phía bị đơn cũng không che dấu được sự vui mừng, tin tưởng sẽ nắm phần thắng.
Phải nhìn nhận là những nhân chứng phe bị đơn, từ Vũ hữu Dũng, tới tôi và Nguyễn Xuân Phác đã làm tròn trách nhiệm. Nhất là anh Nguyễn Xuân Phác đã nhấn mạnh y sĩ Ninh là con người có hai bộ mặt, y sĩ Ninh giống hệt như y sĩ Jekyll và ông Hyde trong một cuốn phim. Có lúc ông ta rất dễ thương, là một y sĩ tài giỏi. Nhưng có lúc ông ta lạnh lùng, tính toán, cực đoan, có khả năng làm bất cứ gì để đạt mục tiêu.
Ông Phác cũng khai trước tòa, sau những loạt bài chỉ trích Mặt Trận, tòa báo của ông bị đập phá, cá nhân ông bi đe dọa. Với sự hướng dẫn của luật sư Tâm, ông Phác khai thêm là tờ báo Dân Việt của ông phải đóng cửa vì các cơ sở thương mại sợ móng vuốt của Mặt Trận, rút hết quảng cáo.
BẠO LỰC ĐI VÀO TÒA.
Buổi tòa nào cũng có hai ba nhân viên FBI và thám tử Zwemke tới tham dự . Ngày 21 –12- 1994, tòa vẫn họp như thường lệ. Hôm nay, có lẽ Hoàng Cơ Định nghĩ là phía nguyên đơn nắm chắc phần thắng vụ kiện nên động viên đại lực lượng đến tòa để làm áp lực và biểu dương khí thế đấu tranh. Đoàn viên Mặt Trận ngồi kín cả phía bên nguyên đơn, tràn qua cả phía bị đơn.
Phiên tòa buổi sáng vừa tan, Bồi thẩm đoàn còn đang lục tục rời phòng xử, nhân viên FBI và cảnh sát vừa bước ra khỏi hành lang, ông Cao thế Dung rời chỗ ngồi bước về phía tôi. Nhanh như cắt, Đoàn trọng Thê, K 9, chạy lao tới phía tôi đang đứng, dơ tay dí vào ngực tôi, dáng điệu hung bạo và sừng sộ, gằn giọng nói với tôi:
- “Sao anh không mang theo Nguyễn Bích Mạc mà anh mang mấy con dogs này tới đây?
Tôi điềm nhiên, dịu dàng trả lời Thê ngắn gọn, kẻ cả. Trực giác thấy điều gì bất thường, bị đơn Cao Thế Dung nhìn nhanh về phía Hoàng Cơ Định thì bắt gặp đôi mắt đầy căm thù, còn Hoàng Cơ Long đôi mắt long lên sòng sọc.
Vì đây là trong Tòa, tôn trọng luật pháp, tôi kêu cảnh sát can thiệp, Thê, Long bước nhanh ra khỏi phòng xử. Định chối cãi không có ra lệnh. Bà Thụy Giao, chủ báo Xây Dựng đã mô tả rất đầy đủ trên mặt báo về cái trò vũ phu, bạo lực, coi thường pháp luật, của Mặt Trận, đã đặt tên cho họ qua tựa đề “Chứng nào tật ấy.”.
Ngày cuối của phiên tòa kéo dài đằng đẳng 14 ngày. Phía nguyên đơn kéo nhau đến tòa đông, thật đông. Cả hai phía, đơn và bị sẽ đọc bài biện hộ cuối cùng.
Luật sư Givens, Cao thế Dung (tự biện hộ), và luật sư Nguyễn Tâm, lần lượt đọc bài biện hộ cuối cùng. Luật sư Givens khẳng định trên thực tế, cả ba nguyên đơn không có danh thơm gì mà mất, họ chỉ là những kẻ xấu, gây ra đủ mọi tội ác trong cộng đồng người Việt, họ chỉ có xú danh.
Các bị đơn cũng không hề “cẩu thả” hay “ác ý” mà thực sự tin tưởng những điều đã viết hay phổ biến. Cao thế Dung, Nguyễn Thanh Hoàng không hề viết sai sự thực.
Luật sư Givens đòi bên nguyên đơn phải đưa ra bằng chứng, phải chứng minh vì ba bài báo viết sai, cố tình vu oan, phỉ báng, khiến các nguyên đơn bị mất danh tiếng, đau ốm, sầu khổ. Thế nhưng, không những các nguyên đơn không trưng ra được bằng chứng là ba bài báo hoàn toàn sai, là cố tình vu oan, giáng họa làm hại nguyên đơn, cả ba nguyên đơn đâu có đau ốm, sầu khổ, vì không trưng ra được một giấy tờ hay hóa đơn đi khám bác sĩ. Nữ ký giả Thụy Giao tường thuật rất trung thực y như bản văn (transcript) của Tòa.
Ông Cao thế Dung, trong bài biện hộ, có câu nói đi vào lịch sử cộng đồng hải ngoại, “Sự thực là người biện hộ cho tôi, công lý là quan tòa của tôi”. (Truth is my defense, justice is my judge). Ông Dung kết thúc bằng một câu làm cho không khí phòng xử bớt căng thẳng: “Merry Christmas and Happy New Year “.
Bài diễn văn biện hộ của luật sư Nguyễn Tâm rất xuất sắc. Ông ôn tồn trình bày thảm cảnh của cộng đồng người Việt phải sống dưới móng vuốt, áp lực đen của Mặt Trận, như đám mây đen che phủ kín, không thấy ánh mặt Trời. Các bị đơn là những người can đảm đứng lên dùng bút mực xuyên thủng đám mây đen đó.
Ông Tâm mong rằng Bồi thẩm đoàn có một biểu quyết lịch sử, xác định các bị đơn không phạm lỗi gì.
Gần 5 giờ chiều, thẩm phán Biafore yêu cầu các vị Bồi thẩm vào phòng kín. Bản phán quyết (verdict) được thẩm phán Biafore trao cho bà Lục sự.
Bà lục sự cao giọng tuyên đọc:
- “Các bị đơn, Cao thế Dung, Nguyễn Thanh Hoàng và Nguyên Vũ đều được xác định là “không hề có một lời nào sai trái”. (did not make any false statement) về phe nguyên đơn.
Bà lục sự hắng giọng đọc to: “Số phiếu là 11 trên 1.”.
Như vậy, phiên tòa kết thúc với kết quả như mọi người mong đợi, đó là thế tất thắng của công lý, chính nghĩa thắng hung tàn.
Nhưng còn những cái chết đầy nghi vấn của ký giả Đạm Phong ở Houston, của một nhân viên tòa báo VNTP trong vùng Virginia, cuộc ám sát hụt ông Cao Thế Dung ở Maryland, và luật sư Nguyễn văn Chức ở Houston, tiếp là vụ thảm sát vợ chồng ký giả Lê Triết, mà cơ quan an ninh đang ráo riết truy tầm thủ phạm, với đầy đủ bằng chứng rõ rệt, truy tố về hình tội. Dư luận cộng đồng người Việt hải ngoại cầu mong Lưới Trời Lồng Lộng không cho bọn hèn hạ, tham tàn trốn thoát, làm sạch sẽ, quang đãng khí Trời cộng đồng.
Trên máy bay về lại Austin, Texas, tôi nghĩ đến ông Hoàng Cơ Minh, tôi thấy ái ngại, thương tâm.
Mở cuốn 2, Hồi Ký Một Đời Người của cụ Phạm Ngọc Lũy, tôi mang theo để coi lại những điều giữa ông Hoàng Cơ Minh và cụ Lũy, có thể dùng trong phiên tòa, tôi mở đến đoạn cụ Lũy phỏng vấn ông Trần Minh Công, sau sự sụp đổ của Mặt Trận.
Ông Công đã kết luận cuộc phỏng vấn :
1/ Làm việc nước mà đầu óc và lòng dạ không lớn, sẽ không làm được.
2/ Cho dù một tổ chức có to lớn và thành công đến đâu mà lãnh đạo dở cũng sẽ thất bại.
Tôi cho rằng đó là một bài học tốt cho các bạn trẻ sau này. Bài học này cũng đã gây cho tôi nhiều cay đắng và phiền muộn.
Tôi rất thông cảm với ý kiến của anh Trần Minh Công, tôi cám ơn anh Công đã nêu lên những ý kiến xác đáng, thâm tâm tôi cũng nghĩ đúng như anh.
Quay lại chuyện ông Hoàng cơ Minh, cựu phó đề đốc Hải Quân, tôi mường tượng ra một hình ảnh: Ông cựu phó đề đốc đã tạo ra một con tầu ma, con tầu bằng giấy mà những gia đình đặt ở hàng mã, cúng rồi đem đốt. Con tầu ma không bao giờ được hạ ïthủy. Trên con tầu, ông Minh có khoảng 40 - 50 tay chèo, toàn là những thanh niên, trai tráng nhiệt thành. Con tầu ma, khi được những tay chèo hay thủy thủ đoàn khiêng đến một nơi khác, gặp lửa, chiếc tầu bị cháy, hạm trưởng tới thủy thủ đoàn đều bị chết gần hết, ngoài những người nhanh chân nhẩy ra ngoài, nhưng cũng bị phỏng nặng .
“Cửu long giang, chưa qua mà vĩnh biệt
Chốn biên thùy, ấp ủ nỗi lòng đau.”
. . .
Phạm Văn Liễu
Hồi ký Trả Ta Sông Núi
TỪ MẶT TRẬN Ðến ÐẢNG VIỆT TÂN
PHUNG NGOC SA
Mặt trận nói trên là Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam, hay Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, thường gọi tắt là Mặt Trận (MT); Ðảng Việt Tân, do tiếng ghép của những chữ Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Ðảng.
I- / Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam.
Nhờ sưu tầm, chúng tôi được biết có nhiều sách báo viết về MT, nhưng có lẽ quyển hồi ký “Trả Ta sông Núi 3” phát hành tại Hoa Kỳ trong năm 2004 của cựu đại tá Phạm Văn Liễu, nguyên Tổng vụ trưởng Tổng vụ Hải Ngoại của MT, (kể từ khi thành lập năm 1981 cho đến ngày “tan vỡ” vào cuối năm 1984) là một tài liệu chứa đựng nhiều chi tiết khả tín và có tính cách thuyết phục. Lý do: Ông là nhân vật đóng vai chính trong việc tổ chức và sáng lập MT viết.
Khi công khai hoạt động, theo hệ thống tổ chức và phân nhiệm, MT được chia ra làm 2 bộ phận:
- Trong nước: Do Tổng vụ Quốc Nội: Nhiệm vụ là trực tiếp chiến đấu để lật đổ bạo quyền cộng sản, người lãnh đạo là phó đề đốc Hoàng Cơ Minh.
- Tại ngoại quốc: Do Tổng vụ Hải Ngoại: Ðặc trách xây dựng và phát triễn cơ sở hậu cần, vận động với cộng đồng người Việt trên thế giới, góp công góp của, giúp kháng chiến trong nước; người đứng đầu là cựu đại tá Phạm Văn Liễu.
Hoạt động song hành với MT còn có Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến do ông Phạm Ngọc Lũy, hội trưởng Hội Trường Xuân (1), một người đạo đức và rất được tín nhiệm của đồng
một người đạo đức và rất được tín nhiệm của đồng hương Việt Nam lúc bấy giờ làm Chủ tịch; ông Lũy phụ trách kêu gọi đồng bào Việt Nam khắp thế giới đặc biệt là những người có cảm tình vì từng chịu ân của ông tích cực tham gia ủng hộ tổ chức kháng chiến trong nước.
Xin sơ lược qua về đại tá Phạm Văn Liễu, tác giả 3 quyển hồi ký “trả ta sông núi”, đặc biệt trong quyển 3 có ghi rõ nhiều sự kiện liên quan tới MT.
Ðược biết, cựu đại tá Phạm Văn Liễu, nguyên Tổng vụ trưởng Tổng vụ Hải Ngoại của MT là người đã từng đãm nhận chức vụ Tổng giám đốc Cảnh Sát Quốc Gia dưới thời nội các của bác sĩ Phan Huy Quát vào những năm 1965-1966.
- Trước đó, vào những năm 1945-1946, ông Liễu là một thanh niên yêu nước đã tình nguyện đứng vào hàng ngũ Mặt Trận Quốc Dân Ðảng để chống nhau với Mặt Trận Việt Minh cộng sản. Oạng được cử theo học khóa huấn luyện quân sự tại trường Lục Quân Yên Báy, trung tâm nầy do các giáo quan Nhật Bản trực tiếp đào tạo và giảng dạy. Bị thất bại trong cuộc chiến đấu chốạng bọn Việt Minh cộng sản nên ông phải lưu lạc sang Tàu. Trở về nước, ông theo học và tốt nghiệp khóa 5 trường Võ Bị Liên Quân Ðà Lạt năm 1952. (Người viết tốt nghiệp khóa 8 -1953).
- Là sĩ quan theo học khoá I Sĩ Quan Hải Quân Việt Nam. Kế đó được giao phó nhiệm vụ thành lập và là Tư Lệnh đầu tiên của Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.Thất bại trong cuộc đảo chính chốạng chế độ Ngô Ðình Diệm năm 1960, ông phải lưu vong tị nạn chính trị tại Cao Miên.
- Sau năm 1975, đại tá Liễu may mắn thoát nạn cộng sản và định cư tại Hoa Kỳ. Mặc dù tuổi tác đã cao, gia đình tuy mới tạm ổn định, nhưng vốn mang dòng máu tự hào cách mạng, ông đã kết nghĩa với phó đề đốc Hoàng Cơ Minh và cả hai cùng nhau thề nguyện mang hết ý chí, khả năng vận động kết hợp tất cả chiến hữu thành một khối để thành lập một mặt trận tiêu diệt chế độ CSVN. Tiếc thay, ông bị thất bại, “Họa hổ bất thành khuyển” (Vẽ con cọp thành con chó). Công cuộc giải phóng quốc gia tới đâu thì không thấy, nhưng chính ông đã vô tình giúp một số người vì quyền lợi phe nhóm làm mất chính nghĩa của MT. Ngoài ra, do những việc thu nhập tiền bất chính, cộng thêm các hành vi lừa gạt đã làm cho bầu không khí chính trị tại hải ngoại bị vẩn đục, tập thể người Việt tị nạn phân tán chia rẽ. Mất niềm tin và nghi ngờ lẫn nhau.
Theo giới thông hiểu nội tình, thì không phải vì ông Liễu cùng ban tham mưu của ông thiếu hiểu biết về các nhân vật mà họ liên kết khi thành lập MT nên làm hỏng đại sự, mà thực ra do ông vì quá tự tin, nghĩ mình là một pháp sư cao tay ấn, có khả năng tạo ra âm binh, thì cũng đũ bản lãnh để điều khiển chúng. Tiếc thay, trong vai phù thủy, ông đã không đũ sức hô phong hoán vũ điều khiễn âm binh, lại thiếu đề phòng nên bị chúng quật lại diệt luôn phù thủy và khiến ông trở thành một kẻ tòng phạm.
Tuy nhiên, điều đáng khâm phục là trước khi bước vào hoàng hôn cuộc đời, tác giả còn có can đảm nói lên sự thật, vạch ra những lỗi lầm của MT và nhờ tài liệu đó, chúng ta biết được là MT đã phản lại sự nghiệp chống cộng giải phóng quê hương. Việc làm của tác giả là một hành động xám hối và là một tiếng chuông cảnh tĩnh cho những ai dễ tin, đặc biệt là tuổi trẻ rút kinh nghiệm mà xa lánh tổ chức nầy.
Trước đây, lúc còn sinh hoạt và đặc trách bộ phận An Ninh trong một chính đảng; do sự giúp đở của các đồng chí và một số nhân vật từng tham gia MT. Chúng tôi đã thu thập được nhiều tin tức liên quan đến MT. Ðem đối chiếu nó với các tài liệu ghi trong sách của ông Cao Thế Dung, hồi ký Trả Ta Sông Núi 3 (Trtsn) của đại tá Phạm Văn Liễu, chúng tôi biết được là trong quá trình 23 năm hoạt động, kể từ khi thành lập năm 1981 cho đến lúc tuyên bố giải tán để cho ra đời đảng Việt Tân vào ngày 19-9-04, MT chưa lập được một thành tích gì khả dĩ giúp dân cứu nước, mà chỉ thành công trong kế hoạch kinh tài có lợi cho phe nhóm, và xây dựng được một hệ thống bán phở. Vì thế, người đời mới chế diễu, đổi tên MT đáng lẽ là một công cụ đấu tranh chống cộng thành ra”Mặt Trận Phở Bò”. Phần còn lại MT chỉ tạo cho mình một hình ảnh không mấy tốt đẹp là: - Dối trá lừa gạt - Hù dọa làm tiền và sử dụng bạo lực..
* Dối trá lừa gạt: Từ hình thức lẫn nội dung. Xin trưng dẫn một vài vụ điển hình:
1- Ngay từ lúc khởi sự, người đứng đầu quốc nội đã mưu đồ buôn bán kháng chiến dưới hình thức lập chiến khu giả để câu khách kiếm tiền. Ý định đó bị phản đối, MT lại đi thuê đất ở Thái Lan lập căn cứ địa chiến đấu. Theo hồi ký “trả ta sông núi” (trtsn) ở trang 195 ông Liễu viết, khu chiến của ông Hoàng Cơ Minh, là một mảnh đất rừng mà ông ta đã thuê lại của tướng Thái Lan tên Sutsai.Thử hỏi, lập khu chiến mà phải thuê đất của một tướng Thái, là một bọn được coi lưu manh, tham nhũng bậc nhất thì làm sao tiến hành tổ chức kháng chiến được: Với bọn Thái nầy, khi vòi được tiền, chúng tạm để yên, nhưng khi CSVN ngả giá cao hơn, là bọn tướng tá Thái trở mặt và bán đứng ta ngay. Kinh nghiệm cụ thể: Một chiến hữu của chúng tôi nhờ quen biết với đại tá Sauvageot, (tên Việt là Nguyễn Hữu Hai) đặc trách công tác tìm M.I.A (Người Mỹ mất tích) tại sứ quán Hoa Kỳ, Bangkok, Thái Lan. Trước kia, ông là một cố vấn tại Trung Tâm Huấn Luyện Xây Dựng Nông Vũng Tàu mà tôi thường xuyên liên lạc. Là một người Mỹ sành tiếng Việt, thuộc lòng quyển Kiều; bạn tôi được đại tá Sauvageot thuận cho tham gia công tác tìm MIA. Nhưng chiến hữu nầy vì không đồng ý để bọn Thái Lan hướng dẫn lộ trình nên bị chúng kiếm cớ trục xuất ra khỏi đất Thái trong vòng 24 giờ.
Thuê đất của bọn Thái lập chiến khu, mướn thường dân Lào làm lính đóng kịch, giả làm kháng chiến quân (trtsn 200-204) để trang trí cho buổi lễ ra mắt Khu Chiến và tuyên bố Cương Lĩnh Chính Trị của MT đã là một hành động lừa dối, nhưng có thể tha thứ được, vì dù sao buổi đầu cũng cần đánh bóng thổi phồng để huyên truyền có lợi cho đại cuộc. Nhưng ông Hoàng Cơ Minh, (HCM) Tổng Vụ Trưởng Quốc Nội (TVQN) chỉ quanh quẩn trên đất Thái, Nhật hoặc Hawaii thế mà ông dám phịa ra là đã quy tụ được 36 tổ chức trong nước, và đã có trên 10.000 tay súng (trtsn 320) thì quá đáng.
2- Chủ trương lừa gạt ngay cả trong nội bộ: Khi ông Liễu dẫn phái đoàn hải ngoại từ Hoa Kỳ đến thăm khu chiến còn được gọi là căn cứ số 9 (trtsn 209); ông HCM đã giàn dựng cho mọi người tưởng là khu chiến nằm sâu tận trong lãnh thổ Ai Lao, chứ không nằm trên đất Thái, nên mới bố trí cho phái đoàn hải ngoại của ông Liễu nếạm mùi gian khổ: từ đường cái vào khu chiến phải vượt rừng, lội suối, ngược giốc, phơi nắng tới 2 ngày và một đêm; đó là chưa nói đường đi trơn trợt quanh co, vất vả gian nan lắm mới tới chiến khu. Thế mà khi trở ra thì chưa đầy 3 tiếng đồng hồ đã tới đường cái, có xe chờ sẵn. Ðặc biệt, ông Hoàng cơ Minh rời chiến khu sau, nhưng khi phái đoàn về tới Bangkok thì ông Minh đã quần áo tươm tất chờ sẵn.. Dấu đầu bị hở đuôi.
3- Dối trá trong việc dấu nhẹm cái chết của ông Hoàng Cơ Minh:
Lúc bị giam ở trại “cải tạo” cũng như thời gian còn kẹt trong nước, nguồn an ủi và hy vọng độc nhất của chúng tôi là nhờ vào các tin tức liên quan đến phong trào Kháng Chiến, hoặc Hoa Kỳ sẽ cứu ra khỏi tù và được”Tống xuất”.
Khi được thả ra từ trại tù nhỏ về sống vất vưởng trong nhà tù lớn, thì nguồn hy vọng nói trên đã tăng gấp bội.Mặc dù bị quản chế chặt chẻ, bị bưng bít nhưng ít nhiều vẫn tiếp nhận được tin tức kháng chiến chống cộng, và nhờ thế cuộc sống có phần dễ thở. Khốn thay, lúc được trả quyền công dân vào năm 1987, việc di chuyển dễ dãi đôi chút, hơn nữa vì sinh kế phải giao thiệp biếu xén bọn công an, nhờ thế mới biết được lãnh tụ kháng chiến HCM đã hy sinh. Mặc dầu thấy bọn công an đem cái chết của ông Minh ra triển lãm và bêu rếu, phần lớn anh em chúng tôi vẫn cho đó là một vụ ngụy tạo và nói láo của cộng sản. Ðến lúc thu thập đủ bằng chứng xác thực ông HCM đã chết, thì kể như trời sập! Bao nhiêu hy vọng đều sụp đổ tiêu tan, bỏ ăn, mất ngủ. Ấy vậy mà lúc được qua Mỹ theo chương trình H.O vào năm 1991, và tiếp mãi nhiều năm về sau, cán bộ MT vẫn nói là lãnh tụ HCM hãy còn sống, vẫn lãnh đạo kháng chiến; chiến trường chống cộng vẫn sôi động: hôm nay thì đơn vị VC nầy bị phục kích, bữa khác kho đạn của chúng bị quân kháng chiến phá hoại v.v. Chưa hết, sẽ có thư chúc Tết của lãnh tụ HCM, cố đón chờ.
Quả thật, không có gì đáng buồn bằng lấy cái chết một người được tôn phong làm anh hùng, đã từng hy sinh tất cả, kể cả mạng sống để đổi lấy một số lợi lộc nào đó. Theo đánh giá, sở dĩ MT cố bưng bít dấu nhẹm cái chết của ông HCM, vì họ chủ trương càng giữ kín và kéo dài lâu, thì số tiền buôn bán kháng chiến càng thâu được thêm nhiều. Lý do đó, nên mới có chuyện ông HCM bị hy sinh vào cuối năm 1987 mà mãi cho đến năm 2001, nghĩa là 14 năm sau, MT mới chính thức khai tử ông. Và đến lúc cần phải giải thích, thì họ lại ngụy biện: Trong một buổi hội luận trên đài Tiếng Nước Tôi giữa ông Lê Thành Tùng và bác sĩ Ðặng Vũ Chấn, một khuôn mặt không những hoàn toàn xa lạ với chính giới Việt Nam mà xa lạ ngay cả trong hàng ngũ lãnh đạo MT, như bác sĩ Trần Xuân Ninh, ông Hoàng Cơ Ðịnh, Hoàng Cơ Long, Nguyễn Kim Hườn v.v. Dịp nầy, ông Ðặng Vũ Chấn đã nói: Tin lãnh tụ HCM bị hy sinh là do bọn VC nó tung ra, thì làm sao có thể tin, vì thế phải cần nhiều thời giờ để kiểm chứng, lý do đó nên mới có sự chậm trễ trong việc loan báo.
Ô hay! Phải chăng ông Ðặng Vũ Chấn quá coi thường dư luận, xem thính giả và đồng bào trong nước cũng như hải ngoại chỉ là một lũ khờ khạo, nói sao nghe vậy không cần lý luận phải trái. Ôạng HCM, là tư lệnh một Khu Chiến, ngoài chiến hữu trực tiếp chiến đấu, còn có hệ thống liên lạc; bên cạnh còn đảng Việt Tân hoạt động bí mật từ năm 1982. Thế mà không một ai có trách nhiệm kiểm nhận và thông báo cái chết của lãnh tụ, thì quả là một sự kiện quá vô lý.
Có lẽ khi ngẩu hứng giải thích với thính giả về cái chết của ông HCM, ông Ðặng Vũ Chấn quên không nghĩ đến hoạt động phản gián và tuyên truyền của bọn VC. Nếu CSVN muốn cố tình đánh phá MT, chúng đã ồ ạt tung cán bộ và phương tiện trưng dẫn bằng cớ chứng minh là ông HCM đã chết thì MT sẽ vô phương chống đở. Nhưng không, bọn cộng sản lại ma quái, áp dụng kế hoạch “chim tu hú mượn ổ sáo sậu” để gài cán bộ vào hàng ngũ MT.
Dân gian ai cũng biết loại chim tu hú vốn tinh ranh, không làm tổ, chỉ chiếm tổ sáo sậu trước là xơi trứng rồi phi tang vỏ; kế đóÔ mượn ổ đẻ trứng. Sáo sậu nhà ta khi về tổ tưởng là trứng của mình, lo thu hết công sức ấp trứng của tu hú. Ðến khi trứng nở, tu hú con bay theo mẹ.. CSVN đã sao cóp y nguyên bản. Chúng biết rõ MT muốn dấu nhẹm cái chết của ông Minh, bọn chúng tương kế tựu kế áp dụng màn “Tu hú mượn ổ sáo sậu”. Do đó trong nước, cộng sản chỉ qua loa tuyên truyền là đảng thẳng tay tiêu diệt bọn kháng chiến phản động, còn tại hải ngoại thì chúng áng binh bất động, mượn cơ sở sẵn có, gài cán bộ vào tổ chức MT. Phải chăng 14 năm là thời gian cần và đũ để phản gián VC xâm nhập và cấy “sinh tử phù” vào một tổ chức có tiếng chống cộng tại hải ngoại.
*- Hù dọa để thu tiền.
Áp dụng bạo lực.
- Hồi ký Trả Ta Sông Núi 3 của cựu đại tá Phạm Văn Liễu tố cáo MT chủ trương bằng mọi giá, kể cả hăm dọa để “tận thu”tiền bạc. Cụ thể trong thư từ Thái Lan viết cho ông Liễu ngày 09-02-1982, HCM dưới tên Nhật là Komori C Masaaki đã thúc giục hải ngoại phải đóng góp nhiều hơn nữa, nếu cần thì phải “hù dọa” (Trtsn 399). Lý do đó mà MT đã áp dụng nhiều thủ đoạn thu các nguồn tiền, từ: Nguyệt liễm; đóng góp của đồng bào; hàng vạn “lon kháng chiến” đặt tại phòng mạch bác sĩ, nha sĩ, nhà hàng; tiền của các đoàn viên tình nguyện bỏ công sức làm cuối tuần như : cắt cỏ, dựng hàng rào, xây tường gạch v.v. (Trtsn 355) Tất cả số tiền thu được đều chui thẳng vào túi không đáy của Vụ trưởng Vụ Tài Chánh Hoàng Cơ Ðịnh (em ruột của HCM) một cách không phân minh; không kế toán sổ sách. Do hành động bất hợp pháp đó mà vào ngày 22-4-1991, một số đầu lĩnh của MT bị bắt, bị còng tay và đẩy lên xe cây vì các tội danh âm mưu khai gian thuế, trốn thuế, và không khai thuế .( Trtsn 450)
- Có nhiều dư luận cho rằng vợ chồng anh Lê Triết cũng như nhà văn Duyên Anh sở dĩ bị thảm sát vì phê bình những sai trái của MT. Nhưng vì thiếu chứng cớ, vụ án được xếp lại. Tuy nhiên, bản thân người viết cũng xin đưa ra vài bằng chứng cụ thể, MT đã bắt chước CSVN áp dụng bạo lực với tất cả những ai không đồng ý với họ. Xin trưng dẫn 2 sự kiện dưới đây:
1-/ Vào dịp lễ Giổ Quốc Tổ năm 1994, lúc đó chúng tôi vừa mới tới định cư tại Hoa Kỳ.Vì chưa nắm vững tình hình nên đã bộc trực lên tiếng phản đối Ban tổ chức treo khẩu hiệu “Lể Giổ Quốc Tổ, Mừng Ngày Quốc Khánh”. Sau đó, qua một bài viết, tôi đã phản bác và giải thích: Giổ Quốc Tổ là một nghi lễ truyền thống; Quốc Khánh là ngày lễ dùng để đánh dấu một giai đoạn lịch sử. Lịch sử Việt Nam cận đại đã có tới 3 ngày Quốc Khánh: Ngày 3-8-1949, kỷ niệm ngày Pháp trao trả độc lập cho Việt Nam; ngày 26-10-1956, tuyên bố nềạn Cộng Hòa và 1-11-1963 là ngày Cách Mạng, quân đội lật đổ Ðệ I Cộng Hòa. Hơn nữa, chúng tôi đề nghị, khi chưa có quyết định của toàn dân, thì không một ai được quyền áp đặt. Hậu quả của bài báo: Ngày đêm nhà tôi bị quấy nhiểu; trong vòng 2 tuần, mặc dù bánh mới vẫn bị đâm lũng làm xẹp tới 3 lần; lúc vắng nhà đồ đạt bị đập phá, vô số cú điện thoại chủi mắng. Sau cùng, một người nói thẳng mặt tôi:“Anh đã chống lại Mặt Trận khi phản đối việc đổi lễ Quốc Tổ thành Quốc Khánh .” Vụ việc tôi đã trình cơ quan công lực và mãi mấy năm sau mới tạm lắng. Tuy vậy, một người đã thông báo cho biết là tên đã bị ghi vào “sổ đen” của MT.
2-/ Trung tuần tháng 8 năm 2004. Sau khi thu nhận tin tức từ các đài phát thanh, ngoài ra, nhờ một số chiến hữu khác lấy tài liệu từ internet thì biết được là một nhóm người chủ trương lấy ngày 30-4-05 làm Ngày Tự Do Cho Việt Nam. Sau khi phối kiểm, thấy rõ đây là một mưu đồ, nên viết để báo động: Ngoài việc tung lên các hệ thống internet, bài viết còn đăng trên nhiều tờ báo để phổ biến. Hậu quả, một người quen bất thình lình đến tận nhà hăm dọa: “Anh chống Mặt Trận, chống Tập thể Chiến Sĩ của Lê Minh Ðảo, họ không giết anh nhưng sẽ đánh anh què tay không còn bưng cơm mà ăn, đừng nói chi viết.” Tôi đã thông báo vụ trực tiếp hăm dọa này cho cơ quan công lực và nhiều người quen. Riêng Cảnh sát họ chỉ cười và nói: “Bộ người khùng hay sao mà trực tiếp hăm dọa, tức là đã phạm vào điều 422 của Bộ Hình Luật California.”( Penal Code of California, sec 422). Tiếp đó, đài Tiếng Nước Tôi (TNT) đả kích người viết bài, và đổi lại “Ngày Ðòi Tự Do Cho Việt Nam” hoặc “Ngày Tranh Ðấu Tự Do Cho Việt Nam”. Ðài TNT liên tục “mớm” cho thính giả tưởng lầm là chúng tôi đã “khùng” nên chống lại việc làm chính đáng của họ (sau khi đã lại đổi tên). Xin xem tuần báo Lập Trường số 530 trang 12, phát hành ngày 23-9-04, quý vị thấy được phản ứng của độc giả khắp nơi về việc chủ trương đổi ngày 30-4 thành Ngày Tự Do Cho Việt Nam. Và chắc quý vị cũng không quên trước đây MT từng tự ý đổi ngày Giổ Quốc Tổ thành Quốc Khánh; 30-4 thành Ngày Báo Hiếu Mẹ Cha; Tháng Tư Ðen thành Tháng Tư Xanh. Và thắc mắc, tại sao 364 ngày còn lại trong năm không chọn, mà buộc phải chọn 30-4. Ý đồ gì đây? Sau loạt bài nầy, chắc MT và đài TNT sẽ ra tay, và chúng tôi sẵn sàng “ứng chiến”.
II - / Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Ðảng, gọi tắt đảng Việt Tân (VT).
Theo xác nhận trong Diễn Văn Khai Mạc của bác sĩ Trần Ðức Tường, trưởng ban tổ chức Lễ Ra Mắt vào ngày 19-9-04 tại Berlin, Ðức quốc, thì đảng Việt Tân là hậu thân của MT. Mặt khác, khi giải thích “Lý Do Công Khai Hóa Ðảng Việt Tân”, ông Nguyễn Kim, chủ tịch đảng cũng xác định là đảng tuy mới công khai hoạt động nhưng đã có mặt trên hai thập niên đấu tranh và chính do Chủ tịch Hoàng Cơ Minh thành lập từ trong chiến khu. Và cũng theo lời tuyên bố nói trên thì “mặc dầu lãnh đạo của đảng VT và MT là một, nhưng MT là một trận tuyến quy tụ nhiều đoàn thể phối hợp đấu tranh.” Xin hỏi ông Nguyễn Kim, theo tài liệu thu thập được, khi MT “tan vỡ” vào cuối năm 1984 (Trtsn 369-378), ngoài hệ thống tiệm phở và một số cơ sở kinh tài, thì còn tổ chức khác nào nữa mà ông nói MT là nơi quy tụ nhiều đoàn thể đấu tranh. Phải chăng ông muốn nói đó là tổ chức Liên Minh Việt Nam Tự Do, Hội Chuyên Gia Việt Nam và Ðoàn Thanh Niên Phan Bội Châu v.v.. Theo giới am hiểu thì các tổ chức đó chỉ để trang trí, chẳng gây được một thành tích nào đáng kể; ngoài ra, thấy không còn ăn khách và trước bờ đổ vỡ tàn lụi, MT đành phải thay lông, đổi lốt để trở thành đảng VT.
Theo tranh hý họa và bài viết đăng trên Bán Nguyệt San Ngày Nay số 535 ngày 1-10-04 thì việc đảng VT ra đời để thay MT chỉ là chuyện “rượu cũ, bình mới”. Bài báo còn viết, trong quá khứ MT đã làm mất lòng tin của đồng bào hải ngoại, do đó trước khi giải thể, MT phải bạch hóa hồ sơ về số tiền đã “tận thu”của đồng bào và cũng nên giải thích việc thủ tiêu các đoàn viên nòng cốt của MT.
Ðảng Việt Tân như xác định là hậu thân của MT và do ông HCM tổ chức, mà theo tố cáo của đại tá Phạm Văn Liễu trong hồi kýTrả Ta sông Núi 3, ông HCM là một nhân vật từng tạo nhiều thành tích không mấy tốt đẹp tỉ như: dối trá, buôn bán kháng chiến, hiếu sát, từng ra lệnh xử tử 18 kháng chiến quân tại chiến khu (trtsn 447) thì làm sao ông ta có thể đào tạo được nhiều cán bộ dày dặn kinh nghiệm, có đạo đức cách mạng như lời phát biểu của ông Ðặng Vũ Chấn. Ngoài ra, đảng Việt Tân là nòng cốt, MT là tổ chức ngoại vi, mà MT thì đã để lại quá nhiều tì vết xấu xa thì làm sao đảng VT có thể trở thành một công cụ đấu tranh có chính nghĩa được.
Nội cái danh xưng Việt Tân thôi, cũng đã không ổn mà còn gây nhiều thắc mắc: Triết học Ðông phương đã đưa ra một hệ luận về thuyết Chính Danh:“Danh Bất Chính;Ngôn Bất Thuận, Lý Bất Thông”(Tên không đúng, nói không xuôi thì lý lẽ không trôi chảy). Lý lẽ không trôi chảy thì không hành động đúng. Dưới đây là ý nghĩa 2 chữ Canh Tân Cách Mạng:
- Canh Tân, cải cách, tức chủ trương sửa đổi cho thích nghi với thời đại. Tỉ như: Giáo Hội Canh Tân, (EÔglise de Réforme) để sửa đổi những điều được cho là sai lầm của Giáo Hội Công Giáo Roma. Nhưng tín điều về Thiên Chúa giáo vẫn giữ nguyên vẹn.
- Cách Mạng, là triệt để, hoàn toàn đổi mới, bứng tận gốc và bốc tận rể. Ðã triệt để, thìợ không có chuyện nữa vời. Cải cách thì không thể chấp nhận cách mạng.
Luận về chữ, thì danh xưng Cách Tân Cách Mạng đã tự mẩu thuẫn với nhau, nó không hề có trong tự điển khoa học chính trị. Ðiều nầy, chắc chắn các vị khoa bảng trong MT đã biết. Nhưng phải chăng do chi thị nào đó buộc phải đặt tên như vậy để lập lờ đánh lận con đen? Nên nhớ, cộng sản chủ trương phải “triệt để” nên thường lên án hàng ngũ quốc gia, tầng lớp tư sản là bọn cải lương, tức là bọn làm cách mạng nữa vời, không dám lật đổ và không dám triệt để khai phá, chúng chính là bọn phản động. Tướng VC Trần Ðộ và một số nhà đòi cải cách trong nước bị khủng bố, bị hãm hại vì muốn sửa đổi (canh tân) để làm tốt giúp đảng trường tồn, chứ đâu họ muốn giựt sập đảng (cách mạng), thế mà bọn chóp bu cộng sản cũng không chấp nhận nên bị chúng khủng bố cho đến chết.
Trong hoàn cảnh hiện tại, lúc chủ nghĩa cộng sản đang thoái trào, CSVN bị lúng túng vụ tranh chấp nội bộ, đấu đá cấu xé nhau cơ hồ muốn sụp đổ; mặc khác, tạo cơ hội thuận lợi giúp đảng thi hành nghị quyết 36 thì không gì hay bằng chủ trương: hai bên cùng có lợi, giao cho một tổ chức nào đó đấu thầu làm đối lập cuội tiến hành:
- Hô hào Canh Tân, tức chỉ sửa đổi đôi chút để bảo vệ chế độ (cộng sản). Phải chăng đây là tín hiệu báo cho Hà Nội biết: Các anh hãy yên tâm.Chúng tôi chỉ xin hợp tác làm ăn chớ không đụng tới sợi lông nào đâu mà lo ngại.
- Làm cò mồi, đòi Cách Mạng, tức vận dụng tầng lớp chống cộng hãy lật đổ bạo quyền, đòi tự do dân chủ. Với chiêu bài nầy tung ra thì ai chẳng thích, mọi người đều muốn, chắc chắn số tiền buôn bán hai chữ Tự Do ắt sẽ thâu vôạ nhiều hơn kháng Chiến trước.
Người viết cảm thấy quá kinh sợ trước âm mưu nầy, và xin thông báo với quý vị: Trước đây, chúng ta từng lên án CSVN dùng vũ khí của khối cộng sản cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hòa; đặt ách thống trị, chà đạp nhân quyền, bóp chết tự do. Nay, đảng VT hậu thân của MT, một tổ chức từng kiếm được nhiều tiền, sẵn phương tiện họ sẽ tìm cách “gom bi”, cài người nắm các tổ chức, đoàn thể tại hải ngoại, đợi lúc mà bọn VC vì xu thế thời đại, buộc chúng phải chấp nhận dân chủ, (dân chủ giả hiệu) thì lớp người đó sẵn sàng đứng ra làm đối lập cuội, bắt tay với bạo quyền trong nước tiến hành dân chủ qua giải pháp “Mỗi người dân một lá phiều”, ắt lúc đó chúng ta sẽ bị thua cộng sản một cách thê thảm, và keo nầy còn thua đậm hơn bị đầu hàng vào ngày 30-4-75. Lý do: CSVN nắm đa số, vẫn giữ quyền lực; ta chỉ là một thiểu số vừa là đối lập cuội. Chính hành động nầy chúng ta đã tạo chính nghĩa cho CSVN và giúp chúng tiếp tục thống trị dân tộc Việt Nam.
PNS.
HOÀNG CƠ MINH = VIỆT CỘNG=
TÂN DÂN * MẶT TRẬN HOÀNG CƠ MINH
“Mặt Trận Kháng chiến Hoàng Cơ Minh” bịp hay không? Sự thật ngay trong “Khu Chiến” những ngày đầu. Phỏng vấn ông Hoàng Xuyên về “Chiến khu Hoàng Cơ Minh”.
Hỏi: - Thưa bác Hoàng Xuyên, bác là nhà báo đầu tiên được về thăm Khu Chiến của “Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam” mà người ta thường nôm na gọi là Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, tuy nay đã rõ rệt đen trắng nhưng vẫn còn là đề tài để đồng hương tranh luận. Có nhiều người đến nay vẫn còn mù quáng hoạt động cho Mặt Trận ấy, nhưng hầu hết đều kết tội bọn chủ chốt anh em Hoàng Cơ Minh, Hoàng Cơ Long, Hoàng Cơ Ðịnh đều là những tên đại bịp mà các ông Phạm Văn Liễu, Phạm Ngọc Lũy, Trần Minh Công vì thơ ngây nhẹ dạ nên cũng bị mang tiếng lây. Bác không phải là đoàn viên Mặt Trận, chỉ là một nhà báo duy nhất được mục kích cái Khu Chiến giả tạo và tham dự “Lễ Tuyên Bố Bản Cương Lĩnh Chính Trị”, tiếng nói của bác chắc chắn trung thực để gióng lên một tiếng chuông vô tư theo sự tai nghe mắt thấy hầu làm sáng tỏ thêm vấn đề. Trước hết xin hỏi tại sao không là một người khác, mà bác lại có cái may mắn được mời về thăm Khu Chiến?
Hỏi: - Thưa bác Hoàng Xuyên, bác là nhà báo đầu tiên được về thăm Khu Chiến của “Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam” mà người ta thường nôm na gọi là Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, tuy nay đã rõ rệt đen trắng nhưng vẫn còn là đề tài để đồng hương tranh luận. Có nhiều người đến nay vẫn còn mù quáng hoạt động cho Mặt Trận ấy, nhưng hầu hết đều kết tội bọn chủ chốt anh em Hoàng Cơ Minh, Hoàng Cơ Long, Hoàng Cơ Ðịnh đều là những tên đại bịp mà các ông Phạm Văn Liễu, Phạm Ngọc Lũy, Trần Minh Công vì thơ ngây nhẹ dạ nên cũng bị mang tiếng lây. Bác không phải là đoàn viên Mặt Trận, chỉ là một nhà báo duy nhất được mục kích cái Khu Chiến giả tạo và tham dự “Lễ Tuyên Bố Bản Cương Lĩnh Chính Trị”, tiếng nói của bác chắc chắn trung thực để gióng lên một tiếng chuông vô tư theo sự tai nghe mắt thấy hầu làm sáng tỏ thêm vấn đề. Trước hết xin hỏi tại sao không là một người khác, mà bác lại có cái may mắn được mời về thăm Khu Chiến?
Ðáp: - Tôi xin đính chính ngay, đó là một “đại bất hạnh”, một “sai lầm to lớn” chớ không phải là may mắn khi tôi nhận lời đại diện tờ Văn Nghệ Tiền Phong đi về cái Khu Chiến “dởm” đó để cũng bị mang tiếng lây! Chuyện Mặt Trận Hoàng Cơ Minh cũ rích rồi, bươi ra làm gì nữa để đồng hương phải lợm giọng?
Hỏi: - Xin bác cứ vui lòng cho biết ý kiến.
Ðáp: - Tôi quen ông Phạm Văn Liễu từ khi còn ở Sài Gòn. Năm 1975 sang tị nạn tại Hoa Kỳ, ông Liễu thường liên lạc với tôi, tâm tình cho tôi biết sơ qua về dự định thành lập “Mặt Trận” với nguyên trung tướng Nguyễn Chánh Thi, rồi sau với cựu phó đề đốc Hải Quân VNCH Hoàng Cơ Minh. Dĩ nhiên tôi hết sức khuyến khích.
Tháng 7 năm 1983 ông Liễu từ miền Nam Cali điện thoại cho biết hôm sau sẽ cùng với 4 người nữa đến nhà tôi ở Milpitas và yêu cầu “tiện nội” tôi sửa soạn cho một bữa cơm trưa 5 người ăn. Khoảng 2 giờ chiều, Liễu đến giới thiệu với tôi những khuôn mặt mà tôi chưa gặp lần nào như Hoàng Cơ Minh, luật sư Vũ Ngọc Tuyền, luật sư Nguyễn Tường Bá và Phạm Ngọc Lũy. Tôi được mời dự thính hội nghị bàn tròn để nghe Hoàng Cơ Minh phân tích về tình hình thế giới liên quan đến “cái thế” xuống dốc của Cộng Sản Việt Nam và sự cần thiết khẩn cấp có một lực lượng võ trang của người Việt hải ngoại bắn một tiếng súng khai hỏa là các tổ chức cách mạng bí mật chống Cộng trong nước sẽ đồng loạt nổi dậy thì “cái thế tất thắng” (Minh thường dùng cụm từ này) của chúng ta chắc chắn rõ rệt như hai cộng hai là bốn. Cuối cùng, Minh cho biết hai tuần sau sẽ có một số cán bộ nòng cốt từ Hoa Kỳ về Khu Chiến. Trong lúc ăn cơm Liễu cho biết Phạm Ngọc Lũy đã nhận lời giữ vai hề “Chủ tịch Ủy Ban Yểm Trợ Kháng Chiến Trung Ương” và yêu cầu luật sư Vũ Ngọc Tuyền nhận chức Ủy Trưởng Tài Chánh và tôi làm Phụ tá. Ông Tuyền và tôi đều giữ yên lặng không nhận lời mà cũng không từ chối. Tin buổi họp này bị tiết lộ nên một vài báo Việt ngữ địa phương đã đăng rằng nhà con trai tôi là địa điểm của một buổi họp kín lịch sử. Ít hôm sau, tôi điện thoại hỏi luật sư Vũ Ngọc Tuyền về vai tuồng được mời thì ông cười trả lời: “Ðó là các ông ấy đề nghị chứ tôi đã nhận lời đâu!” Tôi trả lời cũng cùng quan điểm.
11 giờ đêm ngày 10/12/1981, Liễu điện thoại từ Sacramento rủ tôi về Khu Chiến. Trong lúc ngái ngủ, tôi hỏi không suy nghĩ:
“Khu Chiến nào?” Liễu cười chê tôi là anh cả quỷnh rồi nói: “Ngoài MTQGTNGPVN thì làm gì còn có Mặt Trận nào để rủ về Chiến Khu?” Tôi hỏi lại tại sao lại rủ một anh già yếu như tôi, thì Liễu cho biết Ðài Truyền Hình CBS đã cử cameraman Nguyễn Ngọc Ấn. Liễu biết tôi có một ít kinh nghiệm về nhiếp ảnh nên yêu cầu tôi cùng đi, để phụ trách thu vào ống kính những bức ảnh lịch sử mà anh vững tâm tôi có thừa điều kiện làm tròn việc đó.
Hỏi: - Bác nhận lời?
Ðáp: - Không, tôi từ chối! Tôi nhắc cho Liễu biết tôi đã 64 tuổi (năm 1981) sức đâu mà băng rừng, lội suối, trèo non, thì Liễu thuyết phục rằng, phụ nữ người ta còn đi về như đi chợ, tại sao một “lão gân” như tôi lại không đi được? Rồi anh cho biết, đến biên giới sẽ có các anh em chiến sĩ võ trang đón hướng dẫn vào Chiến Khu, họ sẽ mang hết hành lý, máy ảnh, máy quay phim, mình chỉ chống gậy thơ thới hân hoan đi, khi nào mệt thì dừng lại nghỉ. Liễu cũng cho biết hành trình từ biên giới vào Chiến Khu mất hai ngày. Tôi hỏi biên giới nào, thì Liễu trả lời: Bí mật quân sự đến nơi sẽ biết! Tôi yêu cầu để tôi suy nghĩ và bàn với tiện nội nếu đi được sẽ trả lời, thì Liễu muốn tôi nhận lời ngay bằng cách cho tôi biết là có cả Phạm Ngọc Lũy, Hồ Anh, chủ nhiệm báo Văn Nghệ Tiền Phong và một kỹ sư trẻ tuổi ở Oregon cũng cùng đi. Ðến Bangkok sẽ có “phái đoàn Nhật Bổn” gồm một giáo sư người Nhật tên Tonoko và một số sinh viên Việt Nam trong nhóm Người Việt Tự Do sống lâu năm ở Nhật, trong đó có Ngô Trí Dũng, Nguyễn Văn Ðoàn vân vân... sẽ cùng nhập bọn đi Chiến Khu. Tôi vẫn không dứt khoát nhận lời.
Còn hai tuần lễ trước ngày lên đường thì Liễu điện thoại cho biết Hồ Anh và Phạm Ngọc Lũy bị bệnh không đi được. Ðể tôi trả lời dứt khoát nếu không sẽ tìm người khác, Liễu cho biết Hồ Anh đề nghị sẽ trả tiền vé máy bay khứ hồi cho cả Liễu và tôi với điều kiện tôi nhận lời viết bài tường thuật cho báo Văn Nghệ Tiền Phong. Tôi điện thoại cho Hồ Anh để sáng tỏ vấn đề, đồng thời tôi vẫn bảo Hồ Anh nên cố đi để viết theo đường lối của tờ báo, thì anh ta thuyết phục tôi rằng cứ việc ghi đầy đủ tất cả những gì tai nghe mắt thấy rồi về viết lại. Nếu cần anh ta sẽ hiệu chính sau. Sau cùng Hồ Anh bảo tôi cứ viết như những bài tôi đã viết cho VNTP trong năm năm qua mà Lê Triết đã có lần “cho điểm” là văn viết vững, rất pro! Thật ra, trước năm 1975, tôi đã từng là thông tín viên chiến trường cho NBC, KTLA Los Angeles, British Commonwealth International News Agency và thông tín viên tự do (free lancer) cho UPI, AP và tuần báo Newsweek, vân vân trong 13 năm, với những biến cố sôi động xảy ra hàng ngày tại Nam Việt Nam, tôi đã viết hàng ngàn bài tường thuật bằng Anh văn. Vậy thì một bài tường thuật tầm thường dù là “du ký về Khu Chiến” có gì mà tôi không viết nổi. Tôi dè dặt là vì chơi với Hồ Anh từ lâu, biết tính anh ta trở mặt như trở bàn tay, khi nào muốn lợi dụng ai thì nói như xẻ cửa xẻ nhà, nhưng khi nào vì mục đích “mị độc giả”, anh sẽ dùng tờ “lá cải” của anh đặt điều vu khống - như vẫn làm-để bôi bẩn bất cứ ai kể cả bạn thân. Tôi sẽ nói thêm về bài báo đăng trong VNTP số 475 ngày 15/10/1995 Hồ Anh “bôi bẩn” tôi chỉ vì tôi từ chối không làm chứng trong vụ Mặt Trận kiện Hồ Anh, Cao Thế Dung và Nguyên Vũ hồi tháng 11 năm 1994 tại San Jose.
Hỏi: - Ðã biết thế, sao bác lại nhận lời đi Khu Chiến để viết bài cho VNTP?
Ðáp: - Vì Hồ Anh than rằng hắn thật sự bị bệnh và quá bận, năn nỉ tôi cố gắng giúp hắn, hắn đã đưa tiền cho Liễu để mua vé máy bay khứ hồi cho Liễu và tôi rồi. Vốn có máu giang hồ cộng với lòng tò mò muốn biết sự thật có kháng chiến hay không, sau khi bàn sơ qua với tiện nội, một giờ sau khi tôi điện thoại dứt khoát nhận lời đại diện tờ VNTP đi Khu Chiến.
Theo lời yêu cầu của Liễu từ hai hôm trước, mọi người phải có mặt trước 5 giờ chiều Chủ Nhật 22/2/82 tại nhà Nguyễn Văn N., một đoàn viên của Mặt Trận ở Oakland để cùng ra phi trường San Francisco. Ðến nơi, tôi thấy cả Phạm Ngọc Lũy và Hồ Anh, không ai có dáng điệu gì đau ốm cả. Tôi hỏi thì Liễu nói nhỏ vào tai tôi: “Họ là những con thỏ gan to bằng... con kiến. Thoiạ đừng hỏi nữa!” Sau bữa cơm do các anh chị em đoàn viên Mặt Trận khu Oakland khoản đãi để chúc chúng tôi... một ra đi sẽ trở về! Phái đoàn Hoa Kỳ chính thức lên đường gồm có Phạm Văn Liễu, bí danh Trần Trung Sơn, trưởng đoàn, tôi, đại diện bất đắc dĩ tờ lá cải VNTP, Nguyễn Văn Ấn, quay phim cho CBS, kỹ sư trẻ tuổi Trường Sơn Bổn Tài từ Oregon tới. Chúng tôi được khoảng 20 đoàn viên Mặt Trận đưa tiễn tại phi trường San Francisco. Mọi người vui vẻ đứng chụp hình lưu niệm với phái đoàn, dĩ nhiên không ảnh nào thiếu mặt hai con “thỏ đế”! Lợi dụng lúc nhân viên đài truyền hình CBS phỏng vấn Phạm Văn Liễu trước khi lên phi cơ, Hồ Anh kéo tôi ra một nơi dặn dò tôi nhớ ghi mọi chi tiết những gì tai nghe mắt thấy để về viết bài và chụp nhiều ảnh. Tôi riễu “biết rồi, khổ lắm, nói mãi!” 11 giờ đêm, chúng tôi vui vẻ bước lên phi cơ và sau 15 giờ bay, chúng tôi đến phi trường quốc tế Vọng Các. Ra đón tại phi trường có Nguyễn Kim Hườn, bí danh Nguyễn Kim (hiện giữ chức Tổng Vụ Hải Ngoại sau khi Phạm Văn Liễu bị anh em Hoàng Cơ Minh hạ bệ). Rồi ông bà Nguyễn Chí Trung, bí danh Phan Thái Hòa (hồi còn mồ ma VNCH, ông Trung được bác sĩ Trần Kim Tuyến cử sang làm tình báo tại Tòa Ðại Sứ VNCH tại Bangkok; khi miền Nam VN sụp đổ, ông Trung ở lại và trở thành công dân Thái. Ông bà Trung rất thạo Thái ngữ nên đã thành công trong công tác môi giới trung gian với giới chức thẩm quyền Thái Lan để thuê đất rừng làm Khu Chiến cho Mặt Trận). Phái đoàn Nhật Bản gồm năm thanh niên cũng ra đón tại phi trường để cùng nhập bọn với chúng tôi đi Khu Chiến.
Hỏi: - Bác có thể “bật mí” cho biết đích xác Khu Chiến nằm ở đâu không?
Ðáp: - Trong loạt bài du ký của tôi chỉ có một đoạn bắt buộc tôi phải viết sai vị trí của Mật Khu, vì cả Hoàng Cơ Minh lẫn Phạm Văn Liễu đều nhiều lần nhắc nhở mọi người, nếu muốn CSVN đem máy bay đến tàn sát thì hãy tiết lộ địa điểm Mật Khu cho mọi người biết. Chúng tôi nghĩ vấn đề quan trọng là họ có thật sự chiến đấu hay không, còn vấn đề giữ bí mầt địa điểm Mật Khu là điều họ không cần dặn chúng tôi cũng có ý thức bảo mật điều đó. Ít năm sau, mặt nạ bịp bợm của Mặt Trận bị phơi bày, tôi đã viết một bài trần tình coi như “viên đạn ơn huệ” (coup de grace) đăng trong VNTP số 233 kể rõ tất cả những bịp bợm và nói rõ địa điểm Khu Chiến nằm sâu trên lãnh thổ Thái Lan, thuộc tỉnh Ubon, làng Bultarit, cách biên giới Cao Miên khoảng 15 cây số.
Tôi xin kể tiếp là sau khi chúng tôi ra khỏi phi trường Bangkok thì ông bà Nguyễn Chí Trung hướng dẫn mọi người lên hai chiếc xe Toyota minivan đi đến làng Ubon, cách Bangkok khoảng 500 kilômét về phía Ðông Bắc, ngừng tại một tiệm ăn nhỏ để dùng bữa. Thái Lan có khoảng 500 ông đại tướng, mỗi ông chia nhau làm chủ một cơ sở thương mại; ông thì làm chủ một số nhà tắm hơi, ông thì cai quản một số sòng bạc, ông thì có một số ổ mãi dâm, vân vân... Ðại tướng Sud Sai làm vua vùng Ubon để khai thác gỗ, đồng thời cho thuê một số đất rừng hoang để tổ chức chiến khu như loại Chiến Khu Hoàng Cơ Minh, Nguyễn Văn Chức (Công Binh) vân vân... Có lần ông Nguyễn Chí Trung hỏi tôi nếu tôi muốn có mấy mẫu đất để làm “chiến khu”, chỉ cần chi cho tướng Sud Sai 20.000 mỹ-kim tiền vào cửa là xong ngay, ngoài ra chỉ phải trả mỗi tháng 3.000 mỹ kim tiền thuê.
Cơm nước xong, mọi người lại lên xe, chạy thêm khoảng 30 cây số thì đến một làng hẻo lánh có tên là Bultarit nằm ngay bên cạnh một khu rừng già. Xe đến một con đường mòn độc đạo, có một khúc cây dài (barrière) chắn ngang do hai anh lính địa phương canh gác. Ông Trung xuống xe đưa cho hai người lính xem giấy phép do thủ tướng Thái Lan ký. Anh lính xem xong, chạy vào trình một sĩ quan cấp trên. Viên sĩ quan trẻ tuổi đi ra nói với ông Trung rằng anh không biết Thủ Tướng là ai, chỉ được lệnh Ðại Tướng không cho ai vào nếu không có giấy phép do chính đại tướng ký. Thì ra câu “quan thì xa, bản nha thì gần” được áp dụng khắp mọi nơi. Ông Trung cố thuyết phục viên sĩ quan trẻ tuổi nhưng vô hiệu, đành phải cho xe lui đến một phòng ngủ rẻ tiền gần đó, mọi người xuống để ông bà Trung lái xe trở về Bangkok vận động. Chúng tôi ăn trực nằm chờ ở Bultarit 12 ngày. Ông bà Trung trở lại với giấy phép của tướng Sud Sai sau khi đã nộp 2.000 mỹ-kim tiền mãi lộ. Sáng ngày 7/3/1982 chúng tôi rời phòng ngủ, lại lên xe vượt qua gác canh để vào đường mòn dẫn đến một cánh rừng rậm, xuất hiện 5 người ăn mặc quần áo đen, tay cầm súng. Nhạc sĩ Trần Thiện Khải, bí danh Trần Khánh, tươi cười tiến đến cho biết anh được lệnh dẫn một tiểu đội đến đây đón chào chúng tôi và hướng dẫn mọi người vào Khu Chiến. Anh phát cho mỗi người một bộ bà ba đen, một đôi dép râu “Bình Trị Thiên”, một khăn rằn ri và một chiếc mũ bằng vải đen, rồi yêu cầu mọi người vào gốc cây hay bụi rậm gần đó để thay quần áo. Mười phút sau, chúng tôi đã thật sự “lột xác” thành những dị nhân... nửa người nửa ngợm thì Trần Khánh yêu cầu mọi người tập họp để anh thuyết trình. Anh lập lại lời đã nói: “Tôi được lệnh chiến hữu Chủ Tịch ra đây đón chào chiến hữu Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hải Ngoại (Phạm Văn Liễu) và quý vị trong phái đoàn Hoa Kỳ và Nhật Bổ và mời quý vị theo tôi vào Mật Khu của chúng ta. Ðường vào Mật Khu có hơi vất vả, nhưng các anh em chiến sĩ chúng tôi vừa có bổn phận hộ tống, vừa mang hành lý dùm quý vị. Ngoài ra, xin quý vị cứ an tâm, suốt lộ trình vào Mật Khu đều có binh sĩ võ trang của ta đóng rải rác. Ðường đi sẽ phải mất hai ngày, chúng ta sẽ phải ngủ lại đêm nay tại một trạm giao liên”.
Phải nói rằng Hoàng Cơ Minh và đồng bọn đã mất khá nhiều ngày giờ để soạn thảo một vụ bịp có quy củ, mặc dù đôi khi tréo cẳng ngỗng vì ông nói gà, bà nói vịt! Ði được một đoạn đường khá xa, đến một cái đồi dưới ánh nắng khó chịu vùng nhiệt đới thì Khải cho biết có một phụ nữ vào thăm Khu Chiến đến đây bị sỉu nên các anh em chiến sĩ đặt địa danh cho nơi đây là “đồi Bà Sỉu”. Rồi đến một khu đầy dây leo chằng chịt thì cũng có tên là “đồi Tarzan”, rồi “suối Yamamoto” để kỷ niệm một thân hữu Nhật Bổn đã vào Khu Chiến đến đây vì nóng bức quá phải xuống tắm. Quá trưa, mọi người ngừng dưới một khu rừng rậm, bóng mát dầy đặc, trên nhiều cây cổ thụ có những cụm lan rừng nở đầy hoa. Gần đó là vài vũng nước đọng trên vài khối đá to bằng cánh phản đầy rêu và cung quăng bơi lội. Khải nói địa danh này là “hồ Xuân Hương”. Ăn trưa xong, mọi người lại khăn gói bị gậy lên đường đi một quãng qua “Suối Mơ”, vì cách đó khoảng 500 mét có một cái thác nhỏ. Vất vả nhất là lúc băng qua một vùng cát trơ trụi không cây cối dài khoảng 4 cây số. Nắng trên trời chiếu xuống hắt hơi nóng dưới cát lên khiến mọi người vô cùng khó chịu, nơi này cũng được đặt tên là “sa mạc Kháng Chiến”. Khi mặt trời đã lặn, chúng tôi đến một nơi có sẵn một nhà sàn, mái tranh, vách lá còn khá mới mà Khải nói đó là “trạm giao liên”. Các anh em “chiến sĩ” chia nhau công tác, người thì đem thức ăn ra (sôi nếp, muối vừng, cá khô, lạp xưởng...), người lo chụm lửa nấu nước, người lo trải báo làm nơi bày thức ăn. Các anh em khác vác súng chia nhau mỗi người một góc để bảo vệ an ninh cho mọi người. Ðêm hôm đó, chúng tôi được nằm trên căn nhà sàn ọp ẹp, còn các anh em “chiến sĩ” thì mắc võng nằm chung quanh.
Sáng hôm sau, mặt trời vừa hừng sáng, mọi người lại chuẩn bị lên đường. Từ đây đường đi phần nhiều dưới bóng mát và ít phải leo trèo nên đỡ mệt. Khoảng quá ngọ, chúng tôi được hướng dẫn leo lên một ngọn đồi đầy tre già mọc chi chít. Ðến một ven đồi, Khải chỉ cho mọi ngườithấy xa xa phía dưới khoảng 5 cây số đường chim bay, có đường mòn và rải rác vài căn nhà tranh mà Khải nói đó là “khu vực của Việt Cộng”, rồi y phịa ra những chuyện giật gân rằng khoảng nửa năm về trước, hai chiến sĩ của ta đã phục kích chỗ gần bản doanh của địch, phá hủy một xe Jeep, giết chết hai tên Việt Cộng, nhưng một trong hai “chiến sĩ anh dũng” của ta đã đền nợ nước. Cái đặc biệt là tuy chết nhưng chiến sĩ can trường của ta vẫn ôm trong người khẩu tiểu liên! Mỗi người tìm một chỗ dưới rặng tre để ngồi nghỉ trong khi Khải ra lệnh cho ba chiến sĩ trong “đội thám báo” đi trước thám thính xem có an toàn hay không. Nửa giờ sau, Khải cho biết các chiến sĩ đã trở về và cho biết tình hình tương đối an toàn nên mọi người âm thầm luồn lách qua những rặng tre để đi thêm khoảng 30 phút thì trong bụi rậm nhô ra “chiến hữu chủ tịch” và “bộ tham mưu” của ông. Sau này tôi đoán 3 anh “thám báo” chỉ là “đóng kịch” cho có vẻ quan trọng, thật ra họ đi trước báo cho Hoàng Cơ Minh biết chúng tôi đã đến nơi để ra đón.
Hỏi: - Ngày giờ... “lịch sử” ấy là ngày nào?
Ðáp: - Khoảng 2 giờ chiều (giờ địa phương) ngày 7/3/1982. Hoàng Cơ Minh gầy gò, mảnh khảnh trong bộ bà ba đen, râu ria cũng gần giống ... già Hồ! Ðầu tiên, “ông Chín” (bí danh của Minh) tiến đến ôm chặt, bắt tay Phạm Văn Liễu và tươi cười nói:
“Ðây là Chiến Khu của chúng ta, xin mời tất cả các chiến hữu đi theo tôi”. Rồi ông ôm từng người và giới thiệu các chiến hữu trong Bộ Tham Mưu gồm có thiếu tướng Tư Lệnh Lê Hồng, bí danh Ðặng Quốc Hiền, Nguyễn Trọng Hùng, Trần Văn Lộc, Hoàng Nhật, v.v... Ði khoảng 100 mét thì đến “đại bản doanh” (sic!) của Mặt Trận. Ðây là một khu đất rừng khoảng hơn một mẫu tây, cây nhỏ và cỏ tranh được dọn sạch, chỉ còn rải rác một số cây cổ thụ. Mọi người được dẫn vào “hội trường” là một căn nhà mái tranh, vách tre dài khoảng 15 mét, rộng 5 mét. Cuối nhà là một bàn thờ Tổ Quốc làm bằng cây rừng cao khoảng 1 mét 30, trên tường có hình bản đồ Việt Nam đè lên lá quốc kỳ Việt Nam màu vàng ba sọc đỏ. Trên bàn thờ ở giữa là một lư hương lớn bằng đồng khói hương nghi ngút, hai bên có hai cây cắm nến (chandeliers) cũng bằng đồng, một bên là đĩa trái cây, một bên là một bình bông cắm các loại hoa rừng. Dọc theo chiều dài của các bức tường, treo rải rác những cụm hoa lan (orchids) đủ màu sắc. Ðầu bên này căn nhà, đối diện với bàn thờ là lá quốc kỳ VNCH được ghim chặt vào tường. Giữa căn nhà, theo chiều dài là một bàn dài làm bằng thân cây rừng, hai bên có hai dẫy ghế dài cũng làm bằng thân cây còn cả vỏ. Ðầu bàn hướng về phía trên bàn thờ là một ghế cá nhân có dựa tay cũng bằng cây rừng. Vào đến “hội trường”, Hoàng Cơ Minh ngồi trên chiếc ghế chủ tọa và mời tất cả các “đồng chí” an tọa hai bên. Ngồi cạnh Minh bên tay mặt là Liễu, bên trái dành cho tôi, người lớn tuổi nhất trong đám. Sau những lời chào sáo ngữ, Minh lại “vở cũ soạn lại” kể lể và phân tích những khó khăn Việt Cộng đương gặp phải nhất là vấn đề kinh tế lụn bại, mức sống của người dân sau 7 năm độc lập, thống nhất vẫn đói khổ, Việt Nam được xếp hạng là một quốc gia nghèo nhất thế giới nên dân tình oán trách, những phong trào cách mạng trong nước bí mật thành hình chỉ chờ hải ngoại “bắn súng lệnh” là họ sẽ nhất loạt đứng lên tiêu diệt bọn Cộng Sản khát máu. Ðến phần phát biểu ý khiến, tôi hỏi vấn đề lương thực có đủ cho các anh em chiến sĩ thì Minh đáp: “Nhờ tinh thần vượt mọi khó khăn, quyết tâm diệt Cộng giải phóng quê hương nên các chiến hữu cũng như cá nhân tôi, cơm thì ngày được ăn với cá khô, một tuần phải xen kẽ một vài bữa cháo hoa với trứng vịt muối, đau ốm thì chỉ có aspirin và tylenol. Nói đến đây, Minh vén ống quần lên cho tôi thấy từ đầu gối xuống đến mắt cá chân có nhiều mụn nhọt to bằng vẩy cá hay đồng quarter, rồi nói tiếp: “Chính bản thân tôi bị ghẻ lở như thế này mà cũng không dám bỏ tiền đi khám bác sĩ.” Hít một hơi thuốc lá, Minh lại nói: “Quần áo không ai đủ mặc, nhưng ai cũng vui vẻ hăng hái làm nhiệm vụ.” Tôi lại hỏi: “Sao không sắm lấy ít chiếc nỏ để anh em chiến sĩ săn hươi nai, cáo chồn... tưởng cũng giải quyết được phần nào vấn đề lương thực.” Minh cười: “Có chứ, thỉnh thoảng cũng hạ được hoặc heo rừng hoặc mang mễn, nhưng hàng ngày thì có hai đồng chí có kinh nghiệm cao về “bẫy chuột”. Vì sợ chuột nghe thấy nói đến tên mình sẽ không vào bẫy nên các anh em cứ phải nói trệch hỏi nhau”hôm nay được mấy ông chí, chứ không dám dùng danh từ “chuột”! Tôi lại hỏi có được sự trợ giúp trực tiếp hay gián tiếp của Hoa Kỳ không, thì Minh trả lời: “Hoàn toàn không. Trước hết chúng ta phải tự cứu và phải làm được những gì cụ thể tốt đẹp mới mong người ngoài trông thấy rồi trợ giúp chúng ta.” Rồi ông phịa ra câu chuyện: “Nếu có tiền thì công cuộc giải phóng quê hương rất nhanh, vì cách đây không lâu có một tiểu đoàn địch, khoảng 300 người, liên lạc cho biết muốn đem cả vũ khí chạy về với chúng ta. Nhưng chúng tôi không dám nhận vì tiền đâu mà nuôi họ ăn hàng ngày. Người nào không có quần áo, vũ khí thì tiền trang bị vũ khí, quần áo mỗi người cũng phải tốn khoảng 200 mỹ-kim.” Rồi Minh kết luận: “Công cuộc giải phóng quê hương là nhiệm vụ chung của mọi người Việt Quốc Gia, tôi yêu cầu các chiến hữu khi trở lại Hoa Kỳ hãy dùng cơ quan ngôn luận kêu gọi đồng hương khắp nơi trên thế giới tiếp tay cùng chúng tôi thì chắc chắn quê hương chúng ta sẽ được giải phóng một ngày không xa.” Sau khoảng 2 giờ trao đổi ý kiến mà đúng ra là để nghe “ông Chín” phịa ra những chuyện trên trời dưới biển, mọi người được mời tham quan một vài nơi như nhà bếp, sân tập dượt quân sự, ngôi nhà tranh nhỏ nơi “ông Chín” làm việc và ngủ, rồi ông dẫn đến một cái suối nước chảy rất yếu, cách “đại bản doanh” khoảng 100 mét, được gọi là “Suối Thiên Phù”, vì - theo lời Minh - ở một khu rừng thiêng nước độc như thế này, bỗng có một ngọn suối nằm ngay bên cạnh Mật Khu thì quả là thượng đế thương mà phù hộ cho những người chiến đấu vì quê hương. Khi mặt trời đã bắt đầu lặn, chim chóc đã xào xạc bay về tổ, mọi người được mời đến một góc rừng, dưới mấy cây cổ thụ có một bàn dài làm bằng thân cây rừng. Ngay gần đó là một lều tranh dùng làm nhà bếp. Ông Chín ngồi đầu bàn, mọi người ngồi hai bên. Ông Chín cho biết bữa cơm hôm nay là “đại tiệc” vì được ăn rau, cá khô, lạp xường và ruốc thịt heo.
Sau bữa “đại tiệc”, tôi được một chiến hữu dẫn đến một căn lều nhỏ chỉ vừa một người nằm, giữa đám cỏ tranh cao ngất. Vì có muỗi và đêm lạnh nên anh chiến sĩ mắc cho tôi chiếc mùng cá nhân màu cứt ngựa và một mền đơn cũng của nhà binh. Suốt hai ngày đi đường mệt nhọc, tôi nằm xuống là ngủ như chết. Khoảng 5 giờ sáng hôm sau, Liễu đến chòi tôi ngủ, ngồi bên cạnh và cho tôi biết hôm nay, tại buổi lễ tuyên bố Bản Cương Lĩnh Chính Trị, lúc đến phần đại diện các đoàn thể phát biểu ý kiến thì tôi là người lớn tuổi hơn cả trong phái đoàn Hoa Kỳ sẽ được mời ra phát biểu đầu tiên. Sau những lời ca tụng sự hy sinh và can trường của các anh em chiến sĩ, Liễu dặn tôi đừng quên tuyên bố lớn rằng tôi sẽ “ủng hộ Mặt Trận 2.000 mỹ-kim để mua vũ khí”. Tôi ngồi nhỏm dậy bảo Liễu: “Tôi đem theo 2.000 mỹ-kim, nhưng nằm “valise” 12 ngày ở làng Bultarit, phần nhiều ăn uống tôi phải bỏ tiền ra trả, cộng thêm tiền mua rượu, quà tặng các anh em chiến sĩ, tôi làm gì còn đủ hai ngàn mà tặng ai?” Liễu cười bảo tôi: “Vì có gần 30 người ở Thái và Lào đến dự nên anh (tức tôi) chỉ làm cử chỉ cò mồi chứ đâu có phải bỏ tiền ra mà sợ.”
Sau khi rửa mặt, tôi được một “chiến hữu” đem hành trang của tôi gồm hai máy ảnh cùng nhiều phim ảnh và cuốn sổ đựng trong hai bao da đen, hướng dẫn tôi đến địa điểm hành lễ là một khu bằng phẳng nằm bên cạnh đồi, phía trong là một phiến đá thiên nhiên mặt bằng phẳng như một bức tường cao khoảng hơn 10 mét, rộng 5 mét. Một lá quốc kỳ VNCH màu vàng ba sọc đỏ vĩ đại được căng thẳng trên mặt tường đá. Phía dưới có ba hàng ghế dài để Chủ Tịch và Ban Tham Mưu ngồi hàng ghế trước, còn các đồng bào và phái đoàn các nước ngồi hai hàng ghế sau. Những khẩu hiệu dài nền vàng chữ đỏ được giăng từ cây cổ thụ này sang cổ thụ kia kín cả khu hành lễ. Dưới mỗi khẩu hiệu là những lá quốc kỳ VNCH treo dầy đặc như một rừng cờ. Ðến địa điểm hành lễ khoảng 8 giờ, tôi thấy ông Minh và mọi người trong Bộ Tham Mưu đã có mặt đầy đủ. Ông Minh, Liễu và Lê Hồng ra đứng nơi chiếc cổng duy nhất để đón các đơn vị võ trang vào tham dự buổi lễ. Loa phóng thanh bắt đầu hô to: “Ðây là tiểu đoàn Pháo Binh 27 vào khu hành lễ” thì khoảng 20 anh chị em chiến sĩ vũ trang đủ loại súng săn cổ lỗ sĩ, mousquetons, tiểu liên AK..., đi đầu là chiến hữu chỉ huy đơn vị vừa đeo súng vừa vác hành lý, cùng đi hàng một qua chiếc cổng được “chiến hữu Chủ Tịch” tươi cười vỗ tay đón chào. Rồi đại đội “Thám Báo 36”, trung đoàn “Xung Kích 45”, “trung đội Cảm Tử 72”, vân vân và vân vân... Ðiều đáng chú ý là số của mỗi đơn vị, nếu cộng lại đều thành số hên “9 nút”. Khoảng gần 200 chiến sĩ vừa đực vừa cái lần lượt vào đứng chung quanh khu hành lễ. Tôi đứng chụp hình khi họ đi qua khiến tôi lại nhớ đến cái đoàn quân “Tàu phù ô hợp” của Lư Hán khi sang miền Bắc nước ta tước võ khí quân đội Nhật năm 1945. Có những chiến sĩ lối phục sức. mặt mày, tóc tai khá kỳ dị! Trong lúc hành lễ, lợi dụng đệ tứ quyền của một nhà báo tôi len lỏi đi vào những nơi các binh sĩ đứng để chụp ảnh và phỏng vấn một số chiến sĩ đứng phía sau thì không ai thèm trả lời! Ðến một nơi khác, tôi lại hỏi thì một chiến sĩ người Việt bảo tôi: “Họ là người Lèo, đâu có biết tiếng Việt mà bác hỏi!” Thì ra, Bộ Tham Mưu Mặt Trận đã thuê khoảng 3/4 số người Lèo giả là binh sĩ đứng phía sau với mục đích “mập mờ đánh lận con đen” để chúng tôi chụp hình quay phim quảng cáo với đồng hương rằng lực lượng của Mặt Trận có nhiều, rất nhiều, nhưng chỉ có một số tối thiểu từ các mặt trận gần về tham dự mà thôi. Thật ra thì thực lực quân số của Mặt Trận vỏn vẹn có khoảng không hơn 40 thanh niên ốm yếu lấy từ các trại tị nạn ra.
Buổi lễ khởi sự bằng nghi lễ thông thường: chào quốc kỳ, phút mặc niệm, đến diễn văn khai mạc của ông Phan Thái Hòa, lời hiệu triệu chiến sĩ của tướng Ðặng Quốc Hiền (Lê Hồng), diễn văn của Trần Trung Sơn (Phạm Văn Liễu) rồi kế tiếp là “hịch” của chủ tịch Hoàng Cơ Minh; sau đó Bản Cương Lĩnh được đọc to, mọi người đồng loạt giơ quả đấm lên cao hô to “Việt Nam Ðộc Lập Muôn Năm! Ðả Ðảo Cộng Sản!” Sau đó một số chiến sĩ được tuyên dương công trạng và được gắn huy chương trong đó có bà Cao Thị Phượng Loan (vợ Nguyễn Chí Trung), Trần Văn Lộc là hai người có công tiếp tế đều đều cho Mặt Trận. Chiến sĩ Hoàng Nhật được khen thưởng vì đã chỉ huy mặt trận tả ngạn sông Cửu Long đánh nhiều trận làm đối phương thiệt hại lớn về nhân mạng và vũ khí (sic!). Cuối cùng là phần phát biểu của đại diện các phái đoàn và đoàn thể. Tôi được mời đầu tiên.
Hỏi: - Bác vẫn nhớ lời Liễu dặn đấy chứ?
Ðáp: - Nhớ lắm chứ! Ðó là “nghề của chàng mà”! Năm 1945 tham gia “Mặt Trận Kháng Chiến Nam Bộ” tôi bị thực dân bắt cùng Huỳnh Tấn Phát nhốt trong Khám Lớn Sài Gòn 18 tháng. Ở trong tù tôi đã tham dự một lớp huấn luyện về tài hùng biện trước công chúng nên sau khi lớn tiếng ca ngợi “lòng hy sinh dũng cảm vô biên của các chiến sĩ, con yêu của tổ quốc Việt Nam đã vì đại cuộc mà hy sinh cả gia đình hạnh phúc, lẫn cuộc sống đầy tiện nghi tại các quốc gia văn minh về đây hăng say làm lại lịch sử. Ðể tỏ lòng ngưỡng mộ sâu xa đó tôi xin ủng hộ Mặt Trận số tiền hai ngàn mỹ-kim để mua thêm súng đạn diệt thù. Tôi mong rằng hiện diện tại đây cũng có nhiều vị mạnh thường quân yêu nước sẽ nhiệt liệt ủng hộ không những tinh thần mà cả vật chất để các anh em chiến sĩ có thêm phương tiện làm tròn sứ mạng”. Sau khi tôi dứt lời, tiếng vỗ tay vang dội cả khu rừng.
Khoảng 12 giờ thì buổi lễ bế mạc, sau khi tiễn phái đoàn Việt kiều ở các nước lân bang ra về, ông Chín vui mừng hướng dẫn chúng tôi đi tham quan một số cơ sở kể cả việc dẫn vào một hang đá trong đó có một máy điện nhỏ cũ rích và một số dụng cụ mà ông Chín nói đó là để thiết lập đài phát thanh. “Vì không có tiền”, ông Chín nói tiếp, “nên cứ phải mua dần dần mà chỉ dÔám mua đồ cũ chớ tiền đâu mà mua dụng cụ mới! Chỉ trong một thời gian ngắn chờ một số máy móc ở Nhật gửi về đài phát thanh sẽ có thể hoạt động, chắc chắn vùng Ðông Nam Á, nhất là Việt Nam có thể nghe rất rõ tiếng nói của Mặt Trận!”
Chiều hôm đó, ông Chín dành cho tôi và chú Nguyễn Ngọc Aãn của Ðài CBS lần lượt phỏng vấn. Trong lúc phỏng vấn, ông Minh nhắc đi nhắc lại rằng chú Ấn và tôi phải giữ tuyệt đối bí mật địa danh của Mật Khu và khi trở về Hoa Kỳ tôi phải dùng mọi phương tiện thông tin để thuyết phục đồng hương Việt Nam khắp thế giới hãy yểm trợ “tất cả cho Mặt Trận” thì đại sự mới mau thành công. Ông nói ông và các chiến hữu của ông đã uống máu ăn thề rằng con đường độc đạo họ phải đi là con đường “Ðông Tiến” hướng về quê hương Việt Nam, kẻ nào đi giật lùi kể cả ông Minh, những người phía sau có quyền xả súng. Ông và các chiến hữu của ông cũng đã quyết liệt nói với vợ con rằng chỉ sau khi Việt Nam được thật sự giải phóng khỏi ách thống trị của Cộng Sản thì họ mới trở lại với gia đình; ngược lại hãy coi họ như đã đền nợ nước. Sau cuộc phỏng vấn, tôi ngỏ ý cho Minh biết hôm sau chú Ấn và tôi sẽ quay phim, chụp ảnh đời sống của các anh em chiến sĩ đồng thời phỏng vấn họ thì Minh nói ngay rằng các chiến sĩ, sau buổi lễ đã trở về đơn vị tác chiến hết, chỉ còn vài chiến hữu ở lại canh gác, không còn ai mà phỏng vấn. Minh cho biết, sáng sớm hôm sau, điểm tâm xong thì tất cả các chiến hữu trong hai phái đoàn Hoa Kỳ và Nhật cùng ra về. Tôi ngạc nhiên hỏi tại sao không cho chúng tôi ở thêm một ngày nữa để nghỉ ngơi và có dịp quan sát doanh trại thì Minh nhanh trí trả lời: “Trước khi các chiến hữu vào thì chúng tôi mong từng giờ từng phút, nhưng sau khi hành lễ xong thì chúng tôi lại mong quý chiến hữu rời nơi này càng sớm càng tốt, sợ số người từ các quốc gia khác đến tham dự buổi lễ có Cộng Sản trà trộn, họ về từ chiều hôm qua có đủ thì giờ báo cho địch biết đem máy bay đến bỏ bom tàn sát, trách nhiệm đó ai chịu? Tôi mong các chiến hữu thông cảm.” Tôi đi lang thang gặp một số cán bộ hỏi dò: “Mặt Trận có bao nhiêu chiến khu?” người thì nói rất nhiều, người thì nói năm sáu chiến khu. Về quân số thì họ “tiết lộ” rằng có nhiều ngàn người rải rác trên các mặt trận, kể cả tại quê nhà vùng giáp ranh Việt Lèo. Có chiến hữu cho tôi biết đây là Ðại Bản Doanh số 7, nhưng mươi phút sau hỏi một chiến hữu khác trong Bộ Tham Mưu thì lại xác nhận đây là Bản Doanh số 9. Hỏi một binh sĩ thì anh này “tân binh” nên nói thật: “Cháu vào đây gần 3 tháng, nhưng có đánh đấm gì đâu.” Lúc chúng tôi rời Mật Khu, ông Chín đứng chặn lối ra bảo tôi: “Bác Hoàng Xuyên là người lớn tuổi hơn cả, yêu cầu bác nói với tất cả các anh em trong hai phái đoàn Nhật và Hoa Kỳ chụp được bao nhiêu cuốn phim, xin đưa cho tôi, tôi sẽ giao cho hai chiến hữu võ trang đi theo. Khi đến Bangkok sẽ trả lại đầy đủ cho các chiến hữu, vì sợ đến chỗ đồn canh, lính Thái xét tịch thu hết thì không lẽ chúng ta lại tổ chức lại buổi lễ để chụp hình quay phim hay sao?” Tôi làm theo lời Minh yêu cầu, thu tất cả phim đưa cho Minh, nhưng riêng tôi, có hai cuốn mỗi cuốn 36 kiểu chụp hết rồi nhưng tôi ngại lấy ra cứ để trong máy, nhờ đó mà sau này còn có một số ảnh phổ biến.
Hỏi: - Cũng có khá nhiều ảnh Chiến Khu được phổ biến trên các báo, nhất là trên tờ VNTP, vậy ảnh ấy của ai?
Ðáp: - Tôi đã nói tôi còn hai cuốn phim, mỗi cuốn 36 kiểu nằm trong hai máy ảnh, là phim tôi chụp buổi lễ, tôi không đưa ông Minh nên mới có ảnh mà in lên các báo. Một điều tự tố cáo cái mưu mô xảo quyệt của Mặt Trận là lúc vào làng Bultarit đến Chiến Khu thời gian đi mất hai ngày, nhưng khi trở ra bằng đường tắt bằng phẳng dễ đi, lại chỉ mất có hơn hai giờ.
Hỏi: - Bịp bợm như thế với mục đích gì?
Ðáp: - Tôi đoán, có lẽ lúc đầu họ bàn với nhau dẫn phái đoàn đi vòng vo trong rừng để họ nói láo rằng Mật Khu nằm trên lãnh thổ Cao Miên. Nhưng sau, họ đổi ý dẫn về bằng đường tắt cho chính họ đỡ vất vả.
Hỏi: - Lúc đi vào “mật khu”, bác và mọi người không biết họ dẫn đi vòng vo tam quốc hay sao?
Ðáp: - Làm sao định hướng được, nhất là họ dẫn vào những khu rừng già dầy đặc, tối om, có chỗ người hướng dẫn phải dùng dao chặt những cây nhỏ để có lối đi. Lấy một thí dụ, chúng ta được dẫn đến một khu phố đông đúc ở bất cứ thành phố nào rồi bảo ta tìm đường về khách sạn, ta có làm được không? Chiến hữu Chủ Tịch rời Chiến Khu sau chúng tôi, thế mà khi chúng tôi đến khách sạn ở Bangkok đã thấy chiến hữu chủ tịch có mặt ở khách sạn, tắm rửa, thay quần áo sạch sẽ rồi. Chiến hữu chủ tịch tìm tôi và gặp ở chân cầu thang, câu đầu tiên chiến hữu chủ tịch hỏi: “Bác Hoàng Xuyên hứa ủng hộ Mặt Trận 2.000 dollars, một số anh em chiến sĩ chờ bác đưa tiền để họ đi mua súng đạn ngay!” Tôi ngạc nhiên hỏi lại Minh: “Thế anh Liễu không nói gì với anh à?” Minh lắc đầu. Tôi yêu cầu Minh cho tôi vài phút để gặp Liễu rồi sẽ nói chuyện lại. Gặp Liễu, tôi cằn nhằn thì Liễu cười nham nhở xin lỗi vì nhiều việc nên quên chưa nói cho Minh biết và Liễu hứa sẽ tìm ngay Minh để nói rõ vấn đề. Sau khi gặp Liễu, chỉ năm phút sau gặp lại tôi, Minh đổi ngay thái độ thờ ơ, mặt lạnh như tiền! Tôi hơi khó chịu, nhưng vẫn hỏi về những cuộn phim thì Minh bảo tôi hỏi một chiến hữu khác, tồi chiến hữu khác lại chỉ cho một chiến hữu thứ ba, rốt cuộc không ai biết ai là người giữ mấy chục cuộn phim! Rứa là... hòa cả làng
Hỏi: - Lạ nhỉ! Sao họ lại muốn giữ độc quyền, không muốn để các người thông tin có tài liệu phổ biến những cái họ muốn quảng bá? Phái đoàn Hoa Kỳ sau khi rời Bangkok thì đi đâu, có chuyện gì xảy ra không?
Ðáp: - Câu trả lời này xin nhường cho các “quan” có thẩm quyền trong Mặt Trận. Trên đường trở về Hoa Kỳ, chúng tôi theo Liễu ghé Tokyo một tuần lễ để Liễu họp các anh em trong nhóm “Người Việt Tự Do”. Chúng tôi được thong thả nên rủ Tài đi Atami thăm ông bạn đồng tuế Lê Văn Quý, một nhà bác học Việt Nam nổi tiếng đã từng bán trên 200 bằng sáng chế (inventions) cho Chính Phủ Nhật. Ngồi trên xe lửa tốc hành, tôi nói cho Tài biết những cái “tréo cẳng ngỗng” trong Mật Khu, tôi nghi đây lại là một trò bịp mà nếu chúng tôi không khéo sẽ bị vạ lây. Tôi nhắc lại số lượng các chiến sĩ tham dự buổi lễ phần đông là người Lèo, số các đơn vị chiến đấu đều “9 nút”, những lời tuyên bố trái ngược nhau, tại sao lại dẫn đường đi vòng vo trong rừng đến hai ngày trong khi chỉ cần vài giờ. Tại sao lại lừa dối để chiếm mấy chục cuộn phim, thái độ lạnh nhạt của Minh về số tiền 2.000 dollars, vân vân. Tôi nói khi trở lại Hoa Kỳ có lẽ tôi sẽ không viết lách gì cả. Lập tức Trường Sơn Bổn Tài nổi khùng liền lên lớp tôi: “Cháu nghĩ rằng bác là tay sai Cộng Sản thì hãy có ý nghĩ bất hợp tác như thế! Bác nên nhớ khi Hồ Chí Minh thành lập đảng Cộng Sản Ðông Dương trong hang Pac Bó chỉ có ba người. Thế mà, sau khi được quần chúng tích cực tham gia ủng hộ, họ đã giành được độc lập trong tay thực dân Pháp và làm cho Mỹ phải bỏ chạy khỏi Ðông Dương. Vạn sự khởi đầu nan, bác phải để cho người ta có cơ hội, có đà vươn lên đại sự mới thành công được. Chưa gì bác đa định phá hoại ngay thì chỉ có địch mới có những hành động vô trách nhiệm như thế!” Ðể tránh một cuộc tranh luận với một người trẻ đương đầy nhiệt huyết, tôi cáo lỗi rời chỗ đó đi về phía phòng vệ sinh.
Hỏi: - Tại sao bác viết cho VNTP?
Ðáp: - Về đến nhà hai tuần lễ, tôi vẫn ở trong tình trạng bất động trong khi Hồ Anh hàng ngày hai ba lần điện thoại hối thúc tôi viết bài, sợ để lâu tin tức sẽ thiu (stale news). Tôi nói rõ tất cả cho Hồ Anh biết những uẩn khúc, nghi kỵ tai nghe mắt thấy của tôi, kể cả việc Minh và Liễu dặn chú Ấn (CBS) và tôi đánh lạc hướng đường vào Mật Khu, thì Hồ Anh nói việc ấy không quan trọng. Cuối cùng Hồ Anh bảo tôi cứ viết lại đầy đủ để anh ta định liệu. Loạt bài du ký “Về Thăm Chiến Khu Vùng Giải Phóng” được đăng trên VNTP từ số 151 (ngày 1/5/1982) đến số 156 (ngày 16/7/1982). Sau loạt bài của tôi thì hầu như, trừ những người cố hữu chống đối Mặt Trận vì lý do này hay lý do khác, tất cả người Việt hải ngoại đều thật sự lên cơn sốt, ai cũng phải công nhận từ trước đến giờ chưa có một phong trào đấu tranh nào được hầu hết mọi người cuồng nhiệt ủng hộ như Mặt Trận HCM. Những “Phong Trào Yểm Trợ Kháng Chiến” được mọc lên khắp đó đây trong một thời gian kỷ lục. Riêng ở Hoa Kỳ tại bang Cali, ngoài “Ủy Ban Yểm Trợ Kháng Chiến” địa phương, người ta còn thành lập ở các công tư xưởng, hãng buôn những nhóm “yểm trợ kháng chiến” riêng rẽ do một người được anh chị em bầu lên làm “Trưởng ban” có nhiệm vụ thâu tiền yểm trợ hàng tháng của mọi người trong nhóm không cần biết người đó có ưng thuận đóng góp hay không. Nơi thì họ ấn định tiền yểm trợ tính theo bách phân (percentage) của tiền lương mỗi cá nhân. Tại các siêu thị, các phòng mạch bác sĩ, nha sĩ, bệnh viện, rạp hát, rạp chiếu bóng và cả tư gia cũng có những “Hộp Kháng Chiến” để mọi người có dịp tham gia tỏ lòng yêu nước. Ngoài ra, người ta còn thường xuyên tổ chức, tại những đô thị lớn trên khắp thế giới những nơi có đông người Việt cư ngụ, những đêm liên hoan, văn nghệ có chiếu phim Kháng Chiến với giá vé cắt cổ, vậy mà những rạp hát chứa năm sáu ngàn người không còn chỗ trống.
Hỏi: - Thời gian đó nhiệm vụ của bác làm gì?
Ðáp: - Người ta yêu cầu tôi đóng vai “nhân chứng sống” phải khoác vào người bộ áo bà ba đen, đi giép râu, quàng khăn rằn ri đến các nơi tổ chức văn nghệ để ba hoa chích chòe kể lể cuộc hành trình đầy... gian khổ vào Mật Khu! Cũng có những nơi như Sacramento, Oregon mời cá nhân tôi đem cuốn phim đến chiếu và nói chuyện tại một rạp hát cho hàng ngàn người nghe. Tôi cũng khá bận rộn vì các báo, đài truyền hình Mỹ đến phỏng vấn. Ðiều lạ lùng nữa là, tôi không là cái quái gì trong Mặt Trận, thế mà mỗi buổi tối khách vào ra nườm nượp!
Hỏi: - Bác có nghĩ rằng bác cũng chịu một phần trách nhiệm về sự lừa bịp của Mặt Trận không?
Ðáp: - Nào có ai nghĩ đến chữ “ngờ”, nhất là trước đó các báo đã không ngớt lời ca tụng ông Minh là một tướng sạch, đứng đắn và ông Liễu là một chuyên viên đảo chánh nặng lòng với quê hương đất nước, tin cậy được. Ai cũng tưởng các ông ấy kháng chiến thật chớ nếu biết họ bịp bợm thì riêng tôi, được ăn cái “dải rút” gì đâu mà mất công ủng hộ các ông ấy! Nếu kết tội tôi thì những người khác cũng có tội “ngây thơ” nên bị bịp lừa như tôi.Tóm lại, anh em Hoàng Cơ Minh biết lợi dụng đúng lúc, đúng thời điểm lòng căm thù Cộng Sản của người Việt bỏ nước ra đi đã lên đến tột độ, tổ chức kháng chiến để tha hồ móc túi đồng hương một cách công khai vô tội vạ. Cũng có thể, lúc mới đầu Hoàng Cơ Minh định dấn thân thật sự kháng chiến giải phóng quê hương, nhưng sau thấy đường về Việt Nam dài quá, vạn triệu khó khăn nguy hiểm không khác gì đường lên Hỏa tinh trong khi tiền yểm trợ ồ ạt vào như nước, lòng yêu nước bị lòng tham chi phối, Minh lơ là để mấy ông em, nhất là Hoàng Cơ Ðịnh, một người trẻ tuổi đầy tham vọng, tha hồ thao túng bằng cách dựa trên uy thế và tiền tài của Mặt Trận, dùng sắt máu thẳng tay đàn áp những người dám chống đối Mặt Trận.
Hỏi: - Theo sự xét đoán của bác thì Mặt Trận có ai về được Việt Nam chưa?
Ðáp: - Tôi tin chắc 100% rằng chưa, mặc dù tờ báo Kháng Chiến của Mặt Trận thường đăng những tin giật gân tưởng tượng nào là quân du kích của Mặt Trận vẫn tung lựu đạn vào xe quân sự của địch, đặt bom phá hủy nhiều cơ sở địch ngay tại Sàigon Chợlớn hoặc các chiến sĩ Mặt Trận đã phục kích đoàn xe quân sự địch trên đường Sàigòn Ðàlạt đốt nhiều xe và giết nhiều địch, vân vân. Nếu quả những biến cố này thật sự xảy ra thì không thể nào bưng bít được bọn phóng viên quốc te. Ngoài ra, thời gian đó, nhiều đồng hương được gia đình bảo lãnh đi thẳng từ Sàigòn sang Hoa Kỳ bằng máy bay, rất ngạc nhiên về những tin thất thiệt của tờ Kháng Chiến. Họ nói ở Sàigòn vẫn yên tĩnh, không hề nghe thấy báo chí hay ai nói đến những “chiến công” mà tờ báo Kháng Chiến đã trắng trợn tưởng tượng phịa ra. Thật là chuyện “đêm giữa ban ngày”!
Hỏi: - Thời điểm nào bác ngưng hoạt động cho Kháng Chiến?
Ðáp: - Ngày 16/4/1982 Hoàng Cơ Minh đến Santa Ana mà các báo chí loan tin bịp rằng “Phái đoàn Mặt Trận do chiến hữu Chủ Tịch Hoàng Cơ Minh cầm đầu từ quốc nội (sic) đến thăm đồng hương hải ngoại. Một cuộc meeting khoảng trên 5.000 người tụ tập lại tại một rạp hát để đón Chủ Tịch Hoàng Cơ Minh đến có xe máy dầu cảnh sát Mỹ hộ tống. Người ta coi Chủ Tịch Hoàng Cơ Minh như một vị cứu tinh dân tộc. Khi ông Minh bước ra khỏi xe thì tiếng hoan hô vang dội, người ta xúm lại công kênh ông Minh lên cao như công kênh một cầu thủ túc cầu đã đá lọt lưới đối phương nhiều bàn.”
Ngày 17/4/1982 Minh chủ tọa một cuộc họp báo có Trần Minh Công ngồi bên. Dưới hàng ghế ký giả có tôi. Khi nghe Minh lớn tiếng tuyên bố “Mặt Trận hiện có 10.000 chiến sĩ võ trang đầy đủ đương chiến đấu rải rác tại nhiều nơi ở quê nhà”, tôi vô cùng sửng sốt vì một câu tuyên bố quá láo khoét thốt ra từ cửa miệng một người lãnh đạo. Bởi vì, nếu quả thật Mặt Trận có đến 10.000 người võ trang đầy đủ thì chắc chắn đã xảy ra nhiều cuộc đụng độ, mà đã có đụng độ thì không tài nào giấu nhẹm được bọn phóng viên quốc tế. Thật sự lực lượng Mặt Trận có khoảng không đầy 50 người. Nếu nói phét thổi phồng thành 500 đã là quá, còn có thể nghe được. Cho ra con số 10.000 là khinh thường dư luận quốc tế, khinh thường đồng hương và là một điều vô ý thức, nếu không muốn nói là ngu xuẩn! Tôi lập tức ra khỏi phòng họp báo và gọi ngay điện thoại cho Liễu biết kể từ giờ phút đó, tôi không còn dính líu đến Mặt Trận, và dù vé máy bay đã mua rồi tôi cũng sẽ không dự “Ðại Hội Chính Nghĩa” tại Hoa Thịnh Ðốn được tổ chức vào tháng sau. Không tham dự đại hội này để làm trò hề, Liễu giận tôi lắm. Hai năm sau có một sự nứt rạn giữa Hoàng Cơ Minh và Phạm Văn Liễu. Vì sợ mọi trách nhiệm về tiền bạc sẽ đổ lên đầu mình, Liễu quyết liệt bằng những văn thư chính thức yêu cầu Phan Vụ Quang (tức Hoàng Cơ Ðịnh) phải trình cho Liễu xem sổ sách kế toán, thì lập tức Hoàng Cơ Minh dùng quyền của mình thẳng tay cách chức Liễu cho Nguyễn Kim Hườn thay thế. Nhờ hai bên tố nhau, những bí mật bịp bợm của Mặt Trận được bật mí cho công chúng biết. Tôi rất mừng đã dứt khoát lánh xa Mặt Trận.
Tiện đây tôi cũng nói phớt qua về cụ Phạm Ngọc Lũy, đối với tôi không hề có “ân oán giang hồ”, tôi vẫn kính mến mặc dù cụ ít tuổi hơn tôi. Một vài thân hữu tỏ vẻ tiếc tiền vì đã mua lầm hai cuốn hồi ký mà cụ không hề nói lên được điểm nào mà mọi người trông đợi về cái bịp bợm của Mặt Trận mà cụ là chủ tịch ủy ban yểm trợ trung ương khiến đã có lần tờ VNTP đưa nghi vấn là cụ cũng có chia “verbe”. Trọn hai cuốn hồi ký cụ chỉ kể lể “cái thằng tôi đáng ghét” lẫy lừng của cụ. Họ cũng cho biết có khoảng một dòng rưỡi viết về tôi (Hoàng Xuyên) thì cụ lại dùng ngôn từ hằn học, thiếu vô tư, ngụ ý bênh Hoàng Cơ Minh và trách cứ về việc tôi bỏ phòng họp báo để chống đối lời nói khoác lác quá trớn của Hoàng Cơ Minh.
Hỏi: - Theo bác, thì Hoàng Cơ Minh có thật đã bị giết chết ngày 26/8/1987 mà các báo đã đăng tải?
Ðáp: - Lúc ở trong “Mật Khu”, tôi đã chụp chân dung Hoàng Cơ Minh nhiều khía cạnh để sau này có tài liệu đắp tượng ông ta là vị... “anh hùng dân tộc”, nên khi tấm ảnh ông Minh nằm chết đăng trên báo thì đem những tấm hình đã chụp ra so sánh, tôi xác nhận đó là Hoàng Cơ Minh.
Hỏi: - Vì sao người ta lại cố giấu nhẹm việc Hoàng Cơ Minh chết?
Ðáp: - Tôi phân tách theo ngu ý của tôi, nếu Mặt Trận tuyên bố Hoàng Cơ Minh chết thì ai là người kế vị? Hoàng Cơ Long, bí danh Lý Thái Hùng, người lùn thấp, hình dáng kỳ dị, không thể thay Minh được; Hoàng Cơ Ðịnh trẻ quá, hiếu thắng, thiếu chín chắn, làm lãnh tụ sẽ không ai theo; Nguyễn Kim Hườn, bí danh Nguyễn Kim, một cựu thiếu tá lái trực thăng của Không Lực VNCH, là một thanh niên cowboy sở trường về ăn chơi hơn là đấu tranh. Vấn đề quan trọng là nếu loan tin Minh chết, tất cả cái “chaine” hàng trăm hiệu Phở Hòa ở Hoa Kỳ và các nơi trên thế giới sẽ không ai chịu đóng “hụi chết” hàng tháng cho Mặt Trận nữa. Những cơ sở thương mại khác cũng sẽ ra mây gió. Vấn đề yểm trợ cũng sẽ tan rã ngay. Trong tam thập lục kế thì “kế ngậm miệng” là thượng sách để kéo dài thời gian móc túi đồng hương thêm được đồng nào hay đồng nấy, rồi mai hậu trước việc đã rồi, ai muốn hiểu ra sao thì hiểu.
Hỏi: - Tin Hoàng Cơ Minh chết đã hơn 10 năm qua, ai cũng biết là ông ta thật sự chết rồi, sao đến nay vẫn có người hăng say làm việc cho Mặt Trận?
Ðáp: - Những cơ sở kinh tài vẫn làm ra tiền thì khi đã sẵn đồng tiền trong tay, thiếu gì kẻ lạy lục để xin việc làm, vừa được tra lương tháng hậu hĩnh vừa được tiếng ra cái điều ta cũng đấu tranh chống Cộng.
Hỏi: - Bác có biết vì sao Hoàng Cơ Minh bị giết không?
Ðáp: - Năm 1993, tôi về Việt Nam ghé Bangkok chơi một tuần, người ta kể cái chết của ông Minh như sau, xin kể lại đúng nguyên văn, còn đúng hay sai tôi hoàn toàn không có ý kiến! Họ nói rằng khi nhiều “chiến khu” của người Việt được tổ chức trên lãnh thổ Thái Lan thì Chính phủ Cộng Sản Việt Nam gởi công hàm chính thức trách Chính phủ Thái Lan đã dung túng những phần tử chống đối họ, lập chién khu trên đất Thái để mưu đồ lật đổ Chính phủ Cộng Sản Việt Nam. Họ yêu cầu Chính phủ Thái dẹp ngay những “chiến khu” ấy đi, nếu không họ sẽ đem xe thiết giáp vượt biên giới tàn sát tất cả. Tưởng là CSVN chỉ đe dọa suông thôi nên giới chức địa phương Thái Lan chỉ “cảnh cáo” những người sống trong các “chiến khu” kia nên kín đáo hơn, chớ không có biện pháp cương qưyết, vì còn muốn kéo dài để thu tiền thuê hàng tháng. Thấy chính phủ Thái lơ là, CSVN liền gởi tối hậu thư (ultimatum) cho Chính phủ Thái cho hạn ba tháng nếu những “chiến khu” nêu trên chưa dẹp thì CSVN sẽ đem quân đội và xe bọc sắt vượt biên giới xan bằng tất cả khu đó, mọi thiệt hại về vật chất và nhân mạng Chính phủ Thái hoàn toàn chịu trách nhiệm. Lần này Chính phủ Thái triệu tập phiên họp bất thường tại Quốc Hội để bàn về việc CSVN khiếu nại và quyết định cấm không ký chiếu khán nhập nội (entry visa) cho Hoàng Cơ Minh. Các chiến hữu trong Mặt Trận lúc đó mới thật sự lo lắng, một mặt báo cáo cho Hoàng Cơ Minh biết, một mặt tìm địa điểm rời Chiến Khu về phía Tây Bắc. Khi tìm được địa điểm rồi, họ vận động xin Chính phủ Thái cho phép Hoàng Cơ Minh đến Thái Lan lần chót để dọn Chiến Khu sang đất Lào, nhưng sự thực vẫn nằm trên lãnh thổ Thái, sát với biên giới Lào. Chính phủ Thái ưng thuận. Minh đến Thái Lan vào Mật Khu họp tất cả mọi người để dùng ba tấc lưỡi trấn an các chiến hữu. Khi nói chuyện xong thì có ba chiến hữu trẻ tuổi tuyển mộ từ các trại tị nạn đứng lên xin phát biểu. Họ nói họ sống trong chiến khu đã hơn hai năm mà không thấy đánh đấm gì cả trong khi hàng ngày tinh thần họ vô cùng bị căng thẳng vì sự đe dọa của quân đội CSVN sẽ tràn sang tàn sát bất cứ giá nào.Minh dùng mọi lời lẽ để thuyết phục, nhưng một anh chàng khăng khăng nhất định xin ra khỏi Mật Khu để trở về trại Tị Nạn.
Sáng hôm sau hai người còn lại thấy bạn mình bị mất tích một cách bí mật trong đêm vừa qua nên hết sức sợ hãi về số phận củamình. Họ kín đáo ra vẻ vui lòng ở lại, rồi chờ ít ngày sau trong lúc thuận tiện cả hai đều vượt Mật Khu và dặn một người bạn thân ở lại báo tin cho họ biết đích xác ngày dọn chiến khu. Họ quyết tâm trả thù cho người bạn xấu số bằng cách mật báo cho quân Pathet Lào biết quân số, võ khí của Hoàng Cơ Minh. Ðúng ngày đã định, đoàn quân vỏn vẹn không quá 50 người, kẻ khiêng, người vác lương thực và một số ít ỏi vũ khí. Khi đến một khu rừng già thì quân Pathet Lào đông gấp 5 lần phục kích bao vây tứ phía giết trên 20 mạng, bắt sống 19 người đem về giao cho CSVN. Vài ngày sau, lấy khẩu cung những tù binh đều khai trong số những người bị bắn chết có Hoàng Cơ Minh. CSVN lại cho người trở lại nơi phục kích thì tìm thấy xác Hoàng Cơ Minh nên chụp ảnh rồi loan báo cho các báo chí biết.
Ngày 25/4/1998 vừa qua đi hành hương tại chùa Tây Tạng ở Quận Pomona, California, tình cờ gặp Lê Tấn K đã giữ một vai trò quan trọng của Mặt Trận trong lúc phôi thai, quả quyết với tôi rằng Hoàng Cơ Minh chỉ mới chết hồi tháng 10 năm 1997. Tôi hỏi tin Hoàng Cơ Minh chết rất bất lợi cho Mặt Trận tại sao lại để đến hơn 10 năm vẫn không cải chính mà cải chính thì khó khăn gì, Hoàng Cơ Minh chỉ cần tìm một anh ký giả tầm thường nào chụp chung một tấm ảnh để họ loan tin, thế là đủ cải chính mọi tin tức sai lầm từ trước và đưa uy tín Mặt Trận trở lại. Nếu còn sống sao hồi cuối năm 1994 khi Mặt Trận kiện Cao Thế Dung, Hồ Anh và Nguyên Vũ đã vu khống Mặt Trận thuê người giết vợ chồng ký giả Lê Triết, được xử tại tòa án San Jose trong 21 ngày có tôi tham dự. Luật sư Nguyễn Tâm, biện hộ cho bên bị, đã thẳng thắn chỉ vào mặt Hoàng Cơ Ðịnh tức Phan Vụ Quang nói rằng: “Các ông là những người chuyên môn bịp bợm, chuyên môn nói láo. Nếu các ông vẫn nói láo rằng Hoàng Cơ Minh hiện nay còn sống thì xin cho biết hiện ông ta ở đâu?” Bị đưa vào chỗ bí, Ðịnh trả lời “ấm ớ hội tề” rằng Minh di chuyển thường xuyên nên không nhất định ở đâu! Một lãnh tụ lớn của một phong trào mà đi đâu, ở đâu lại không liên lạc cho những yếu nhân trong Bộ Tham Mưu biết thì điều đó nói với con nít chúng cũng không tin! Ðén đây Lê Tấn K trả lời cù nhầy rằng nếu muốn biết sự thật về cái chết của Hoàng Cơ Minh, xin hỏi bà Châu nào đó là người làm bảo hiểm cho Minh.
Hỏi: - Bác nói vì trong vụ Mặt Trận kiện Hồ Anh và báo VNTP năm 1994, bác từ chối không nhận làm chứng theo lời yêu cầu của luật sư nên Hồ Anh đã trở mặt “bôi bẩn” bác trên báo VNTP, xin cho biết thêm chi tiết.
Ðáp: - Trong 21 ngày đến San Jose hầu tòa, Hồ Anh đến ăn ở nhà tôi. Hàng ngày tôi lấy xe chở anh ta đến Tòa để cùng tham dự rồi tan giờ lại chở hắn về. Trước ngày xử, luật sư Tâm, biện hộ cho Hồ Anh yêu cầu tôi nhận làm chứng cho Hồ Anh bằng cách “lật tẩy” những trò bịp bợm trong chiến khu. Tôi từ chối vì lớn tuổi không muốn gây ân oán giang hồ với ai nữa. Thế là Hồ Anh tỏ vẻ khó chịu với tôi, y bắt tôi phải lái xe phạm luật lưu thông khiến đã có lúc tôi định ngưng xe giữa đường đuổi hắn xuống tìm taxi mà đi. Tôi về kể lại chuyện cho tiện nội nghe, thì bà vợ tôi khuyên nên cố gắng nhẫn nhục giữ hòa khí, vì chỉ còn ít hôm nữa tòa xử xong, hắn sẽ cút.
Hỏi: - Bác đã dự 21 ngày Tòa xử, vì yếu tố nào đã làm Mặt Trận thua kiện?
Ðáp: - 90% nhờ bài trần tình dài hấp dẫn của Phạm Văn Liễu, rồi nhân chứng Nguyễn Xuân Phát, với một lối hành văn vững vàng bằng Anh ngữ phơi bày tội ác của Mặt Trận khiến 19 trong số 20 người trong Bồi Thẩm Ðoàn biểu quyết các bị cáo Hồ Anh, Cao Thế Dung và Nguyên Vũ vô tội.
Hỏi: - Sao đã có lần bị Hồ Anh nói xấu trên báo mà Phạm Văn Liễu lại ra Tòa cứu kẻ nói xấu mình?
Ðáp: - Xin cám ơn đã đặt câu hỏi này , để một lần nữa thấy Hồ Anh không buông tha bất cứ ai. Sau khi Tòa tuyên bố Mặt Trận thua kiện, tôi hỏi Liễu câu hỏi như trên thì Liễu cười chua chát: “Giữa hai thằng đáng ghét, dĩ nhiên mình phải hạ thằng đáng ghét nhiều hơn trước. Còn thằng kia, để nó có cơ hội ăn năn hối cải về những hành động ngu xuẩn của mình”.
Hỏi: - Hồ Anh đã viết gì để “bôi bẩn” bác?
Ðáp: - Hắn viết rằng tôi “không phải là ký giả” và đã nhầm lẫn nhờ tôi để viết bậy bạ về cái chiến khu của Mặt Trận, nay hắn xin lỗi đồng hương(!).
Hỏi: - Chính Hồ Anh năn nỉ bác đi “chiến khu”, năn nỉ bác viết bài, rồi những bài bác viết mà Hồ Anh, một người nhiều kinh nghiệm về nghề làm báo, đã đọc và có đủ thì giờ cân nhắc trước khi cho đăng lên báo kia mà?
Ðáp: - Thì VNTP nổi tiếng là tờ báo “trẻ không tha, già không thương”, chuyên đả phá không từ một người nào, từ Ðức Giáo Hoàng đến các cha cố, thượng tọa, tăng ni, cựu công chức cao cấp, tướng tá VNCH đến các nhân sĩ tên tuổi, đồng nghiệp, thân hữu, vân vân. Có lần Hồ Anh sang miền Tây đi chơi với tôi hai tuần thăm mấy tiểu bang miền Tây Bắc Hoa Kỳ và Vancouver, trong lúc ngồi xe hơi Hồ Anh cho biết sẽ có ngày y hỏi thăm sức khỏe cụ Chử Ngọc Liễn là vị cao niên khả kính gần 100 tuổi lúc nào cũng “tròn như hòn bi” không làm mích lòng ai và ông Nguyễn Tấn Ðời là người đồng bệnh ung thư với Hồ Anh thường điện thoại cho tôi hỏi thăm và nhờ tôi nói cho Hồ Anh biết những thuốc nào dùng công hiệu chữa ung thư hay tên bác sĩ chuyên về bệnh hiểm nghèo này. Tôi khuyên Hồ Anh không nên gây thêm oán thù nữa nhất là những người không hề chạm dến quyền lợi của y thì Hồ Anh lớn tiếng bảo tôi: “Anh còn phải dạy tôi làm báo nữa à? Báo mà chỉ có tin tức không thì người ta xem tivi hay đọc báo Mỹ chứ mua báo của mình làm gì?” Thì ra đó là đó là đường lối của một cơ quan ngôn luận có nhiều độc giả mà người ta lại cứ tưởng chủ trương của một tờ “lá cải” do một tên hạ cấp làm chủ. Tôi cười xin rút lui ý kiến. Tôi điện thoại kể cho cụ Chử Ngọc Liễn, nghe xong cụ la làng: “Ối giời ơi! Ối cha mẹ ôi! Tôi có làm điều gì xằng bậy, có trêu trọc ai đâu mà định bêu xấu tôi? Tuy hay đả phá, trêu chọc gây sự với mọi người, nhưng Hồ Anh lại là một tên hèn nhát nhất!
Ði chơi với tôi, đến đâu y cũng sợ như lúc nào cũng có người theo dõi để hạ sát. Việc Hồ Anh viết trong báo nói tôi không phải là “ký giả” để bôi bẩn thì trước hết tôi chưa bao giờ vỗ ngực tự nhận là “ký giả”, lý do dễ hiểu là tôi không sống bằng nghề viết báo thì “ký giả” hay “ký thiệt” đối với tôi không là cái đếch gì cả. Vả chăng, “ký giả” là cái quái gì? Chữ Hán định nghĩa “ký” là ghi chép, “giả” là người. Vậy thế nào mới là ký giả? Nếu sợ có người cưỡng đoạt cái chức cao quý ấy sao hắn không đăng ký trình tòa để giữ độc quyền? Loạt bài “du ký thăm chiến khu” của tôi đăng trong 6 kỳ báo VNTP thì có ba số Hồ Anh đã mở đầu, tự động giói thiệu tôi là ký giả đại diện cho tờ báo lá cải của y. Ngoài ra, nếu tôi không phải là “ký giả” thì sao không hỏi tôi, y tự động gi tên Hoàng Xuyên vào trang đầu của tờ VNTP cùng với bút hiệu những người trong Ban Biên Tập liên tục trong 20 năm? Những bài viết về “chiến khu” gởi cho y, tôi đã nói rõ mọi uẩn khúc để tùy y định liệu. Y là nhà báo chuyên nghiệp, “ký giả” thứ thiệt, sau khi đọc xong phải biết những bài tôi viết dở hoặc không có lợi thì y cho đăng lên báo làm gì? Vì cái “bệnh kinh niên” chuyên bêu xấu người khác, dù người đó là tôi, ngoài tình bạn ra, tôi còn là ân nhân giúp đỡ hắn rất nhiều, kể cả Anh văn y gần như “i-tờ-rít” nên năm 1976 bị một nhà in người Việt bắt nạt làm khó dễ, tôi phải tìm giúp y một nhà in khác rẻ hơn để y in báo liên tục 15 năm, rồi thỉnh thoảng y lại nhờ tôi tìm giúp người làm ở Cali gởi sang, mặc dù không ai làm được lâu vì bị bóc lột sức lao động quá đáng. Nay hắn nói xấu tôi, tôi không bận tâm, không cho điều đó là xấu, vì “ngậm máu phun người, miệng mình bẩn trước”. Hắn thuộc loại vô liêm sỉ “vừa nhổ xong lại có thể cúi xuống liếm sạch ngay”. Rồi sẽ có một ngày vì quyền lợi tờ báo, vì muốn mị độc giả, ta không ngạc nhiên thấy hắn bá ngọ cả những bậc sinh thành ra hắn!
Hỏi: - Nghe nói nhờ loạt bài của bác mà số phát hành tờ VNTP vọt lên một cách kinh khủng?
Ðáp: - Vì quảng cáo từ mấy số trước nên ngay số khởi đăng loạt bài du ký của tôi, báo VNTP gởi bán các nơi đều hết sạch, độc giả nhôn nhao tìm đọc, các đại lý gọi điện thoại về Tòa soạn yêu cầu gởi thêm báo. Tôi điệnthoại hỏi thì Hồ Anh tỉnh bơ trả lời: “Ðâu có tăng được số nào, thụt đi thì có. Trong cuốn Mặt Trận, Cao Thế Dung cũng xác nhận tờ VNTP lúc thường phát hành 3.000 số mỗi kỳ là con số kỷ lục ở hải ngoại, nhưng khi loạt bài du ký của Hoàng Xuyên bắt đầu đăng thì số phát hành vọt lên 6.000 rồi 10.000, rồi 15.000. Nhờ thế mà chỉ trong hai năm Hồ Anh đã tậu thêm một ngôi nhà và một miếng đất ở Virginia, đó là chưa kể xe nọ xe kia. Nhưng nay, vì chuyện chửi bới người khác quá nhàm, bài vở quá tầm thường, không ai đọc. Tờ “lá cải” dường như không ai thèm nhắc tới.
Hỏi: - Những bài bác viết, Hồ Anh trả tiền nhuận bút có hậu hĩnh không?
Ðáp: - Hậu lắm lắm! Ai đã từng viết cho VNTP đều than bị bóc lột tim óc và mồ hôi, sức lao động, vì số tiền nhuận bút ốm đói. Hồ Anh gởi check trả tôi... “rất sòng phẳng” mỗi bài 20 dollars, vị chi 6 bài được 120 dollars.
* Cuộc phỏng vấn đến đây cũng quá đầy đủ, xin thành thật cảm ơn bác Hoàng Xuyên đã cho chúng tôi những tài liệu thật quý báu.
Tân Dân
VÕ THỊ TRUC GIANG * CỘNG SẢN DỐI TRÁ
Nguồn tin tráo trở/ Medienmanipulation
Hồi xưa, còn ở dưới quê, nông thôn miền nam VN thì hẻo lánh, dù cách Sài Gòn, thủ đô chỉ 80 cây số mà thôi, vậy mà tuổi thơ của tôi lớn lên chỉ là nắng mưa ong bướm cây cỏ, sông rạch phù sa, song song với đạn bom của khủng bố kinh hoàng, chết chóc của cuộc chiến tranh Nam Bắc. Nguồn tin tức qua báo chí, đài Radio, truyền hình còn bé thì tôi nào có thiết tha theo dõi, tuổi thơ của tôi chỉ biết rằng Việt cộng là quân mặt trận giải phóng miền nam, còn con trai miền Nam phải đi lính để giữ gìn bờ cõi chống lại giặc thù. Rồi năm 1975 miền Nam thua trận, tôi là đứa con gái mới lớn, buồn vì vận nước nỗi trôi. Gia đình ly tán. Nghèo.
Ngày tôi được nhận vào trường Cao Đẳng Sư Phạm Tiền Giang, tôi học làm cô giáo vì tôi yêu nghề này. Dưới thời Xã hội Chủ Nghĩa Cộng sản VN thì giáo sinh chúng tôi phải thuộc nằm lòng lý thuyết cộng sản, phải học thuộc và nói như con vẹt, thế mới là học tập tốt, được kết nạp vào đoàn, vào đảng nếu có thêm gia đình là “cách mạng”.
Thi nhiệm kỳ I, gặp giờ thi môn Sử, gần hai giờ trôi qua tôi vẫn còn ngồi đờ người trước trang giấy trắng. Môn sử tôi bị “không điểm”, vì không có chữ nào, thầy Hiểu trưởng trường sư phạm "ưu tiên" cho tôi thi lại đợt hai. Chính ông là người gát thi, xem tôi làm bài. Trong phòng chỉ có tôi và ông ta! Tôi không biết mình đã tiếp thu, hoặc cố nuốt cho trôi nổi không những chủ thuyết Karl Marx, Lenin, Hồ Chí Minh...Tôi nguệch ngoạc viết vài chữ cho có lệ, đợt thi môn Sử lần hai này tôi cũng trợt tuốt, may mà có những bộ môn khoa học tự nhiên, toán, lý hóa, sinh vật, đã kéo qua cho tôi đủ điểm trung bình. Tôi được lên lớp không phải ngồi học lại.
Bị cộng sản trấn áp tinh thần quá nên tôi đã trốn đi. Sang đây, trưởng thành theo thời gian, đam mê theo dõi thời sự quốc tế. Buổi sáng thì nghe radio ra rả tin thế giới, trưa thì đọc báo trên internet, tối thì xem tin tức của đài truyền hình. Qua truyền thông đã thu thế giới lại thật nhỏ, qua màn ảnh nhỏ bé tôi có thể biết hết mọi sự kiện xảy ra.
Tôi thấy dường như óc suy nghĩ của mình có xu hướng ngã theo đà của tuyên truyền, qua làn sóng truyền thông ảnh hưởng khá nhiều. Có nên tin tưởng tuyệt đối những nguồn tin tới tai thính giả ? Xứ tự do đời nào nhà nước họ ra lệnh kiểm duyệt ngăn chận tin xác thực ! Nhưng đặc biệt tin tức về VN thì đài ARD, đài ARTE, họ tường trình khác hẳn những gì chứng nhân như tôi trải nghiệm qua trong quá khứ! Dường như sau màn ảnh có bàn tay lông lá nào đó mua chuộc để phóng viên nhà báo thao túng, làm công cụ tuyên truyền, có lợi một chiều cho họ!
Nhờ mạng lưới Internet, nhờ đọc nhiều bài báo khác nhau, ý kiến khác nhau, những điều mà chúng ta không nghe, không thấy phổ biến trên đài, dần dần những ý kiến, tư tưởng khác nhau đó ung đúc thành ý tưởng của riêng mình. Tôi trở thành nhà văn vì tôi muốn gióng tiếng nói của mình thay cho những ai nghĩ mà không có cơ hội nói. Nhiệm vụ của nhà văn là phải vạch trần những gì của Sự Thật, phải trả Sự Thật lại cho Lịch sử.
Vậy, đừng tin vội vàng những nguồn tin mà bạn nghe, đọc trên báo, trên đài, trên Internet, mà hãy dùng thời gian, kiến thức, cẩn thận kiểm chứng bằng nhiều nguồn tin khác nhau, bạn sẽ tìm ra một luồng sáng mới. Đó là óc nhận xét riêng.
Thật đấy!!
Võ Thị Trúc Giang Lúa 9
25.Nov 2015
TRẦN GIA PHỤNG * CỘNG SẢN KHỦNG BỐ
Bảy mươi năm khủng bố
Khi CSVN cai trị đất nước theo luật rừng, CS sử dụng khủng bố để trấn áp quần chúng, bảo vệ quyền lực. Cộng sản dùng tất cả các phương tiện để khủng bố, kể cả việc thiết lập và nuôi dưỡng các băng đảng lưu manh côn đồ làm tay sai để khủng bố dân chúng, không khác gì những tổ chức cướp bóc phi pháp, mà nổi tiếng nhất là MAFIA...
3824325_13270" style="font-size: small; text-align: justify;"> Vào giữa tháng 11-2015, cả thế giới xúc động về tin khủng bố tối Thứ Sáu 13-11-2015 tại các địa điểm giải trí ở Paris. Trong toàn cảnh Âu Châu thanh bình từ khi thế chiến thứ hai chấm dứt năm 1945 cho đến nay, tin tức và hình ảnh khủng bố dồn dập trên truyền hình, gây xôn xao dư luận khắp nơi, kể cả ở Bắc Mỹ vì Bắc Mỹ cũng là một trong những mục tiêu mà khủng bố đã từng nhắm tới.
Xem cảnh khủng bố trên truyền hình, những người Việt Nam lớn tuổi liên tưởng ngay đến những chuyện khủng bố ở quê nhà trước đây. Thảm cảnh khủng bố diễn ra khắp nơi ở Việt Nam cũng từ năm 1945; qua nhiều hình thức khác nhau, hoặc ám sát, hoặc thủ tiêu, hoặc đặt chất nổ, hoặc quăng lựu đạn, hoặc pháo kích, hoặc phá đường, giựt sập cầu cống, phá đường “rầy” xe lửa, hăm dọa tống tiền...
Khủng bố ở Việt Nam và khủng bố Âu Mỹ đều nhắm gây sợ hãi trong quần chúng nơi bị khủng bố, quấy phá đời sống xã hội, nhưng hai bên có những điểm khác nhau khá rõ rệt.
Khủng bố nội địa
Các cuộc khủng bố ở Âu Mỹ đều do những phần tử Hồi giáo cực đoan chủ trương, được sự hỗ trợ của những tổ chức Hồi giáo quá khích giàu có ở Trung Đông, chính yếu nhờ tài nguyên dầu hỏa. Như thế, những cuộc khủng bố ở Âu Mỹ do người nước ngoài thực hiện, đa số đến từ các nước vùng Trung Đông, hoạt động khủng bố ở những vùng, những nước không phải là quê hương của họ và dân chúng không phải là đồng bào ruột thịt của họ. Khủng bố chỉ tấn công những nước mà họ xem là địch thủ, muốn đe dọa hay trả thù như Hoa Kỳ (vụ 11-9-2001), Pháp (vụ 13-11-2015)…
Khủng bố ở Việt Nam từ năm 1945 cho đến nay, hoàn toàn do đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) và chế độ CSVN thực hiện. Các chế độ CS trên thế giới chủ trương đấu tranh giai cấp, tranh cướp chính quyền, vận dụng mọi nguồn tài lực chiến đấu giữ vững thành quả cách mạng, tiêu diệt tất cả những thành phần bị xem là nguy hại cho chế độ CS.
Riêng tại Việt Nam, CSVN từ khi cướp được chính quyền ngày 2-9-1945 cho đến ngày nay, thường xuyên tổ chức, chỉ huy những cuộc khủng bố, ám sát chính trị, giết hại dân chúng, đồng bào trên quê hương mình. Như thế có nghĩa là chính một thành phần người Việt theo chủ nghĩa CS, khủng bố toàn dân Việt, để phát triển chủ nghĩa CS hoặc để bảo vệ chế độ CS.
Đây là một loại khủng bố nội địa hiếm thấy trên thế giới. Cộng sản Việt Nam không từ bỏ bất cứ hành động dã man nào khủng bố người đồng chủng, nên CSVN cũng chính là những kẻ diệt chủng. Một nhà báo Pháp, Jean Lacouture cho rằng những chế độ độc tài bóc lột dân mình như là những nước thực dân ngoại lai, nên gọi đó là “autocolonisation”, tạm dịch là “thực dân nội địa” hay “tự thực dân”. Chế độ CSVN được sắp vào loại nầy. Nay CSVN lại thêm thành tích là “khủng bố nội địa” đối với dân Việt.
Mục đích khủng bố
Mục đích khủng bố nhắm phá hoại đời sống, gây sợ hãi, đe dọa các đối tượng mà khủng bố nhắm đến. Quân Hồi giáo quá khích đại đa số là người Ả rập, khủng bố nhắm mục đích trả thù những điều mà họ cho rằng khiêu khích tôn giáo (như vụ báo Charlie Hebdo ở Paris ngày 7-1-2015), hoặc trả thù những điều mà họ cho là những vụ án bất công đối với những người Hồi giáo, hoặc vỉ các căn cứ Hồi giáo hay các nước Hồi giáo ở Trung Đông bị tấn công. Quân khủng bố quá khích Hồi giáo còn tin rằng khi khủng bố tự sát là họ hy sinh để được đấng Allah cứu rỗi, lên thiên đường. Nói cách khác, quân Hồi giáo cực đoan khủng bố theo niềm tin tôn giáo, hy sinh cho một cuộc thánh chiến, hoặc hy sinh vì lý tưởng quốc gia Hồi giáo mà họ mong muốn xây dựng. Niềm tin tôn giáo dựa trên Hồi giáo, một tôn giáo, xuất hiện từ thế kỷ thứ 7 ở Saudi Arabia, là nền tảng văn hóa của người Ả-rập ở Trung Đông. Từ nhiều thế kỷ trước, do những mâu thuẫn về chính trị, văn hóa và tôn giáo giữa người Ả-rập và người Tây phương với niềm tin Ky-tô giáo, phát sinh những tranh chấp và chiến tranh qua lại, tạo nên hận thù “truyền kiếp”, mà cho đến nay vẫn còn tồn đọng lại ở những thành phần Hồi giáo Ả-rập cực đoan.
Trong khi người Ả-rập cực đoan chiến đấu, khủng bố các nước khác vì lý tưởng Ả-rập, vì tôn giáo Ả-rập, thì khủng bố ở Việt Nam do CSVN chủ trương, chỉ khủng bố, giết hại người Việt Nam vì chủ nghĩa Mác-xít ngoại lai. Chủ nghĩa Mác-xít phát xuất từ Âu Châu, là nền tảng tư tưởng của các chế độ CS ở Liên Xô và ở Trung Cộng, hoàn toàn ngược lại với văn hóa dân tộc Việt Nam. Chủ trương của các chế độ CS là độc tài toàn trị, chỉ nhắm mục đích bành trướng chủ nghĩa, thâu tóm quyền lực. Hồ Chí Minh do Liên Xô huấn luyện và tài trợ để lập đảng CS, và nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Cộng, cướp chính quyền ngày 2-9-1945. Từ đó, HCM và đảng CS luôn luôn làm tay sai cho Liên Xô và cho Trung Cộng, hành động theo mệnh lệnh của Liên Xô và Trung Cộng. Quân khủng bố CSVN hoạt động theo mệnh lệnh của đảng CSVN, vì quyền lợi của đảng CSVN và CS quốc tế mà thôi.
Chuyện khủng bố ở Pháp hay ở Âu Mỹ khá hiếm hoi, lâu lâu mới xảy ra, nên khi xảy ra, liền làm cho mọi người kinh hoàng. Người Việt Nam chạm mặt hằng ngày với khủng bố từ khi đảng Cộng Sản Đông Dương, mặt trận Việt Minh (VM) do Hồ Chí Minh lãnh đạo, cướp được chính quyền ngày 2-9-1945. Khủng bố xảy ra thường xuyên “như cơm bữa”, liên tục và dày đặc khắp nước, từ năm 1945, xuyên suốt qua hai cuộc chiến 1946-1954 và 1960-1975, sau đó tiếp diễn cho đến ngày nay.
Mức độ tàn ác
Nói chung, khủng bố bạo lực, gây thương tích, giết người, cướp sự sống của người khác đều là tàn ác. Khủng bố nào cũng tàn ác. Tuy nhiên mức độ tàn ác khủng bố của các tổ chức ở Trung Đông khác với khủng bố CSVN.
Ví dụ rõ nét nhứt là trong chiến tranh, khủng bố Hồi giáo quá khích thi hành án tử hình nạn nhân bằng cách chặt đầu, làm cho nạn nhân nhanh chóng chết liền tại chỗ. Trái lại, trong hoàn cảnh không có chiến tranh, chỉ do Cải cách ruộng đất, CSVN chôn nạn nhân xuống tận cổ, chừa cái đầu ở trên mặt đất, rồi buộc nông dân kéo bừa qua lại, răng bừa móc miệng, móc mắt, móc đầu nạn nhân đau đớn cho đến chết. Hoặc CSVN cho dìm nước nạn nhân, sặc sụa rồi kéo lên, cho tỉnh lại, xong rồi dìm xuống nước trở lại. Sau nhiều lần chết đi sống lại, nạn nhân mới chết. Thảm cảnh CCRĐ không sách vở nào tả hết được.
Sau những cái chết bi thảm vì khủng bố thời Cải cách ruộng đất, đến thời kỳ Mậu Thân Huế đầu năm 1968. Cộng sản tùng xẻo nạn nhân Từ Tôn Kháng cho đến chết ở Gia Hội. (Nguyễn Lý Tưởng, “Mậu Thân ở Huế”, đăng trong tuyển tập Thảm sát Mậu Thân ở Huế, Phong Trào Giáo Dân Hải Ngoại, California 1998, tr. 89.) Còn chuyện chôn sống là chuyện rõ ràng trong biến cố Mậu Thân ở Huế, không cần chứng minh.
Trước Mậu Thân hơn 20 năm, tại Quảng Ngãi cũng xảy ra chuyện CS tùng xẻo, chôn sống năm 1945 mà lúc đó ít người biết. Riêng trong ba tuần lễ kể từ 19-8-1945 tại Quảng Ngãi, VM giết hại 2,791 người vừa chức sắc, chức việc, tín hữu đạo Cao Đài, kể cả phụ nữ, trẻ em và giết bằng nhiều cách như chém đầu, chôn sống, thả biển, và tùng xẻo như thời Trung cổ. (Theo Bạch thư Cao Đài Giáo ngày 9-9-1999, do vị đại diện đạo Cao Đài là Ngọc Sách Thanh, từ San Bernadino, California, gởi cho Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc và Ủy Ban Quốc tế Nhân Quyền.)
Phải nói rằng CSVN khát máu và giết hại người Việt đồng chủng một cách tàn bạo, dã man không thể tưởng tượng nổi. Mức độ khủng bố tàn ác khiếp đảm đến nỗi, có lần nhà văn Nguyễn Tuân vừa khóc, vừa tâm sự với anh em văn nghệ sĩ: “Tao còn sống đến bây giờ là còn biết sợ.” (Nhiều tác giả, tuyển tập Trăm hoa vẫn nở trên quê hương, Nxb. Lê Trần, California, 1990, tr. 79.)
Hãy nghe Tố Hữu, một nhân vật cộng sản cấp Bộ chính trị trung ương đảng, kêu gọi cán bộ CS:
“Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng.
Thờ Mao chủ tịch, thờ Xít-ta-lin bất diệt.”
“Giết, giết nữa bàn tay không phút nghỉ”, thật khát máu còn hơn lời kêu gọi của các lãnh tụ Hồi giáo khủng bố hô hào trong các video do quân khủng bố phát tán. Hơn nữa, giết đồng bào Việt Nam không gớm tay chỉ để “Thờ Mao chủ tịch, thờ Xít-ta-lin bất diệt.” Thật là hết nước nói!
Mục tiêu khủng bố
Những cuộc đánh bom, đặt chất nổ của nhóm quá khích Hồi giáo nhắm mục đích trả thù hoặc gây sợ hãi nơi các nước địch thủ, không có chủ đích giết riêng một người nào, nhất là trẻ em và phụ nữ. Ngược lại, CSVN có chủ đích rõ ràng theo từng giai đoạn khi khủng bố.
Lúc mới nắm được quyền lực năm 1945, CSVN tìm giết những lãnh tụ chính trị trên toàn quốc không theo CS, khiến những lãnh tụ khác sợ hãi phải trốn tránh hoặc bỏ ra nước ngoài, để CSVN độc quyền chính trị. Ở các địa phương từ tỉnh, xuống huyện, xã, CS khủng bố và giết hại một cách bừa bãi và dễ dàng tất cả mọi người, chỉ cần quy chụp là Việt gian, tay sai thực dân Pháp là giết ngay. Rất nhiều chuyện khủng bố ngoài trí tưởng tượng của người đời nay, kể lại có thể có người không tin. Số người bị CS khủng bố giết lúc đó tổng cộng trên toàn quốc lúc đó có thể lên đến trên 200,000 người.
Sau năm 1954, cai trị đất Bắc, CS khủng bố bằng những kế hoạch đổi tiền, công tư hợp doanh ở thành phố, và Cải cách ruộng đất ở nông thôn. Cuộc CCRĐ lần nầy giết hại khoảng 172,000 người, chưa kể thảm cảnh của gia đình nạn nhân. Sau cuộc CCRĐ, nông thôn Bắc Việt Nam hoàn toàn bình lặng và thần phục mệnh lệnh của CSVN, để CSVN tấn công Nam Việt Nam.
Ở Nam Việt Nam, sau năm 1954, CSVN tiếp tục ứng dụng các phương pháp khủng bố giống thời kỳ trước năm 1954, như ám sát, đặt chất nổ, phá đường, đắp mô, giựt sập cầu cống, quăng lựu đạn, tấn công các đồn bót nhỏ lẻ tẻ, bắn sẻ và đặc biệt có một loại khủng bố mới là pháo kích vào các thành phố.
Trong chiến tranh, pháo kích và đặt chất nổ tấn công địch thủ là chuyện thường xảy ra. Cộng sản pháo kích và đặt chất nổ các căn cứ quân sự Hoa Kỳ cũng là chuyện bình thường, nhưng ít hơn các cuộc khủng bố dân Việt. Hầu như tất cả các thành phố Nam Việt Nam đều bị pháo kích và hầu như người dân Nam Việt Nam nào cũng từng có lần nghe tiếng đạn pháo kích vào thành phố. Ngoài các các căn cứ quân sự, các nơi đóng quân, CSVN còn cố tình pháo kích vào các bệnh viện, các trường học, các khu dân cư để đe dọa dân chúng.
Tháng 1-1972, CSVN đặt chất đổ tại Trại họp bạn đầu năm của học sinh các trường Quy Nhơn tại Sân vận động thành phố, giết hại nhiều giáo sư và học sinh tập họp vui chơi đón Tết. Rồi tháng 3-1974, CSVN pháo kích Trường Tiểu học Cai Lậy vào buổi sáng, trong giờ học, giết hại 33 học sinh và làm bị thương 55 học sinh. Đặt chất nổ trong lúc học sinh cắm trại trong sân vận động, hoặc pháo kích ban ngày vào trường học trong giờ học, không thể nói là lầm lẫn mà rõ ràng là một vụ khủng bố cố ý đánh vào học sinh. Những học sinh non trẻ tội tình gì mà CS khủng bố, giết hại?
Khủng bố Trường Tiểu học Cai Lậy ngày 9-3-1974
Người Việt Nam, nhất là người miền Trung không bao giờ quên chuyện CSVN khủng bố thường dân trong Tết Mậu Thân ở Huế, tùng xẻo người sống ở Gia Hội, bắt giết các tu sĩ, các giáo sư bác sĩ ngoại quốc đến dạy Đại học Y khoa Huế, chôn sống nạn nhân trong các nấm mồ tập thể...
Do hoàn cảnh chính trị thế giới, cuối cùng chiến tranh chấm dứt ngày 30-4-1975, nghiêng thắng lợi về phía CSVN, mà một thượng nghị sĩ Mỹ, ông John Mc Cain (đảng Cộng Hòa, Arizona), đã phát biểu tại Sài Gòn ngày 29-4-2000 rằng “những kẻ xấu đã thắng cuộc chiến Việt Nam”. (Nguyên văn: "wrong guys" had won the Vietnam War...) (Los Angeles Times, April 29, 2000, David Lamb, Times Staff Writer, “'Wrong Guys' Won War, McCain Tells His Stunned Vietnamese Hosts”.)
Khủng bố tập thể
Sau năm 1975, dân chúng Việt Nam tưởng rằng nạn khủng bố đã qua, nay có thể sống một cách thanh bình, thoải mái làm ăn sinh sống. Tuy nhiên, chế độ CS vẫn không để yên, tiếp tục chính sách khủng bố, mà lần nầy xuất hiện một hình thức khủng bố mới là “khủng bố tập thể”, tức không chỉ khủng bố cá nhân như trước, mà khủng bố thường trực toàn bộ dân chúng miền Nam Việt Nam.
Đầu tiên, nhà nước CS phỉnh phờ những công chức, sĩ quan chế độ cũ đi học tập cải tạo từ một tuần đến một tháng, nhưng rồi bắt giam vô thời hạn trong các trại tập trung trên rừng thiêng nước độc, không biết ngày về. Cộng sản vừa muốn giải tán hệ thống tổ chức của chế độ cũ, vừa khủng bố nặng nề tinh thần công chức, sĩ quan chế độ cũ, và khủng bố tinh thần gia đình công chức và sĩ quan, răn đe mọi người hãy ở yên, không được vọng động, phải thi hành mệnh lệnh của nhà cầm quyền CS, thì thân nhân mới được sớm về đoàn tụ gia đình, nếu không thân nhân sẽ đi học tập vô thời hạn. Giam người trong tù chẳng những để khủng bố tù nhân mà còn để khủng bố thân nhân.
Cách khủng bố tập thể thứ hai của CSVN là khủng bố kinh tế bằng các chiến dịch đánh tư sản mại bản (comprador) là những nhà kinh doanh lớn buôn bán với ngước ngoài (xuất nhập cảng), rồi đánh tư sản dân tộc, đến tiểu tư sản, tịch thu tài sản, nhà cửa. Song song với việc đánh tư sản, CSVN ra lệnh đổi tiền ngày 22-9-2975, 500 đồng Việt Nam Cộng Hòa đổi được 1 đồng mới, và mỗi gia đình chỉ đổi được 200 đồng mới. Cũng là một hình thức khủng bố tài chánh. (Sau đó, CSVN đổi tiền lần thứ hai ngày 3-5-1978, và lần thứ ba ngày 14-9-1985.)
Trong khi đó, CS đưa ra chương trình kinh tế mới, buộc gia đình có thân nhân học tập cải tạo đi kinh tế mới với lời hứa hẹn là đi kinh tế mới thì thân nhân sẽ về đoàn tụ gia đình sớm. Vì thương con, thương chồng, nhiều gia đình phải bỏ nhà cửa ở thành phố, đến lập nghiệp ở những vùng hoang dã, tự lo sản xuất để sinh sống, trong khi CS cướp nhà của họ ở thành phố.
Kế hoạch khủng bố tập thể còn được thực hiện dưới chủ trương chính sách kinh tế chỉ huy, ngăn sông cấm chợ, ai ở đâu chỉ được mua bán tại chỗ và tất cả đều phải vào Hợp tác xã do nhà nước quản lý và phân phối hàng hóa bằng tem phiếu. Bất cứ cá nhân nào muốn mua gì đều phải xin tem phiếu của nhà cầm quyền mới được mua. Trong đời sống, cứ vài ngày, công an khu vực đến thăm nhà dân một lần, dò hỏi đủ thứ việc, kể cả chuyện ăn uống trong gia đình để dò xem mức độ giàu có của mỗi gia đình. Công an khu vực thường xuyên dòm ngó gây phiền hà và làm cho dân chúng lo ngại không ít, là một thứ khủng bố tinh thần mới xảy ra với người Việt khi CS cầm quyền.
Cuộc khủng bố tập thể trên đây đã làm cho Việt Nam suy sụp, đưa đến nguy cơ chính đảng CSVN cũng bị sụp đổ, nên sau 10 năm khủng bố, CSVN thay đổi sách lược, bắt đầu cởi trói kinh tế, quay lại chính sách kinh tế thị trường, nhưng theo “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Tuy nhiên, CSVN vẫn không từ bỏ chủ trương khủng bố để bảo vệ chế độ đảng trị toàn trị.
Khủng bố lòng yêu nước
Trong thời gian chiến tranh, Hồ Chí Minh và CSVN cầu khẩn Trung Cộng viện trợ. Sau năm 1975, CSVN muốn trốn nợ Trung Cộng và thân thiện hơn với Liên Xô. Tuy nhiên, khối Đông Âu và Liên Xô sụp đổ vào năm 1991, CSVN phải quay qua cầu cứu Trung Cộng và càng ngày càng lệ thuộc Bắc Kinh.
Dân tộc Việt Nam vốn yêu nước và có tinh thần chống ngoại xâm, rất lo ngại một thời kỳ Hán thuộc mới trên đất nước chúng ta. Những cuộc mít-tinh hay biểu tình chống Trung Cộng bắt đầu diễn ra, và đều bị nhà cầm quyền CS chận đứng.
Nhà nước CSVN bắt giam ngay tất cả những ai biểu lộ thái độ chống Trung Cộng, mở đầu là luật sư Lê Chí Quang. Tháng 10-2001, luật sư Quang phổ biến bài viết “Hãy cảnh giác với Bắc triều”, chỉ trích nhà nước CS nhượng bộ Trung Cộng trong các hiệp ước về biên giới và lãnh hải, liền bị bị bắt ngày 21-2-2002 vì bị vu cáo tội “tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam”, và bị tuyên án 4 năm tù giam, 3 năm quản thúc.
Từ đây, càng ngày càng diễn ra nhiều cuộc biểu tình chống đối Trung Cộng. Tất cả cuộc tập họp lớn nhỏ, tất cả những ai viết báo, viết blog, dù hoạt động ôn hòa, bất bạo động, mà tỏ ý chống Trung Cộng, đều bị CSVN hành hung và bắt giam ngay.
Nổi tiếng trong nhóm nầy là vụ nhà báo Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày) bị bắt năm 2008, blogger Tạ Phong Tần, chủ blog “Công lý và Sự thật”, bị bắt năm 2011. Điều đáng nói thêm ở đây là thân mẫu bà Tạ Phong Tần là Đặng Thị Kim Liêng đã tự thiêu ngày 30-7-2012 để phản đối nhà nước CSVN đã bắt giam trái phép con bà.
Trước và sau Điếu Cày, Tạ Phong Tần còn nhiều vụ đối kháng chống nhà cầm quyền CSVN làm tay sai cho Trung Cộng. Danh sách đưa ra sẽ khá dài. Ở đây chỉ xin nhắc lại vụ sinh viên Nguyễn Thị Phương Uyên bị kết án tại phiên tòa Long An ngày 16-5-2013 chỉ vì sinh viên trẻ tuổi nầy đã dùng máu của mình viết hai câu khẩu hiệu nổi tiếng: “Tàu khựa cút khỏi Biển Đông” và “Đảng cộng sản chết đi”. Ngoài ra cũng không thể quên một cuộc biểu tình rầm rộ trên toàn quốc vào tháng 5-2014, đã bị đàn áp mạnh mẽ vì gây thiệt hại nặng cho các công ty Trung Cộng và một số công ty bị hiểu lầm là của Trung Cộng.
Như thế, chỉ vì muốn chạy theo Trung Cộng để bảo vệ quyền lực, CSVN quyết tâm tiêu diệt lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam. Tiêu diệt lòng yêu nước là một tội khủng bố phản quốc chưa bao giờ xảy ra trong quá khứ. Hãy thử tưởng tượng, một dân tộc không còn lòng yêu nước sẽ chắc chắn là một dân tộc bạc nhược, mất gốc và dần dần tiêu vong!
Khủng bố những hoạt động bất bạo động
Việt Nam là một nước tham nhũng nổi tiếng trên thế giới. Tham nhũng trong tất cả các ngành nghề, và đặc biệt có một loại tham nhũng gây ồn áo nhứt là chuyện cướp đất, cướp nhà thường xuyên xảy ra khắp nước. Dân oan bị cướp nhà cướp đất đi khiếu nại kiện tụng (khiếu kiện), chẳng những không được nhà cầm quyền CS xét xử, mà còn bị CS khủng bố bằng nhiều cách, nhất là cho côn đồ tấn lưu manh công đánh đập những người khiếu kiện.
Trước tình cảnh nầy, nhiều người cảm thấy nhân quyền và dân quyền bị xúc phạm nặng nề liền lên tiếng trình bày sự thật trên các blog, trên facbook, trên Internet, và từ đó đòi hỏi công lý, tự do, dân chủ, cũng bị khủng bố tiếp. Danh sách những nhà hoạt động dân chủ bất bạo động bị đàn áp càng ngày càng nhiều, và điều đặc biệt là càng bị khủng bố đàn áp, thì càng có nhiều người tham gia hoạt động bất bạo động đòi hỏi dân chủ tự do. Hoạt động bất bạo động bị khủng bố đến độ những công tác từ thiện, cứu trợ cho dân nghèo bị lụt lội, bão tố cũng bị đàn áp luôn.
Nhà cầm quyền CS khủng bố càng ngày càng nặng tay, đánh đập những người bị bắt tạm giam đưa đến nhiều cái chết thương tâm. Có tài liệu ghi nhận rằng trong các năm gần đây, có trên 20 trường hợp bị bắt vào đồn công an thì “vào sinh ra tử” (vào sống ra chết).
Trường hợp mới nhất lại càng đặc biệt hơn nữa là trường hợp em Đỗ Đăng Dư, 17 tuổi bị công an huyện Chương Mỹ, Hà Nội bắt giam vì nghi ngờ trộm cắp khoảng 1,5 triệu đồng Việt Nam (khoảng 70 USD). Em bị giữ ở trại giam số 3 và bị đánh đến chết ngày 10-10-2015. Đặc biệt là vì ngày 3-11-2015, hai luật sư Lê Văn Luân và Trần Thu Nam đến nhà mẹ của nạn nhân là bà Đô Thị Mai ở xã Đông Phương Yên, huyện Chương Mỹ (Hà Nội) để thảo luận về việc bảo vệ quyền lợi cho gia đình nạn nhân. Khi ra về, hai luật sư bị 8 tên côn đồ chận đường, hành hung, gây thương tích khá nặng. Điều nầy chứng tỏ nhà nước CS không đủ khả năng giải quyết nên phải nhờ bọn du côn lưu manh hành hung ngăn cản luật sư.
Kết luận
So sánh khủng bố của nhóm cực đoan Hồi giáo và khủng bố của CSVN, khác biệt căn bản là: một bên là khủng bố quốc tế và một bên là khủng bố nội địa. Khủng bố quốc tế tấn công ở những nước mà họ cho là thù nghịch; trong khi khủng bố nội địa lại giết hại những người đồng chủng ở trong nước.
Chế độ CSVN là một chế độ độc tài toàn trị, là một thứ tự thực dân trên quê hương Việt Nam. Người Việt liên tục đứng lên đòi hỏi công lý, tự do dân chủ, chống lại chuyện làm tay sai cho ngoại bang. Chế độ CSVN có hiến pháp, có pháp luật, nhưng điều 4 Hiến pháp 1992, quy định rằng đảng CSVN là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”; nghĩa là đảng CSVN không cai trị theo hiến pháp và pháp luật mà cai trị theo nghị quyết của đảng CS, theo ý muốn từng giai đoạn của đảng, tức CS đánh võ tự do trong luật pháp, hay đánh võ rừng, theo luật rừng.
Khi CSVN cai trị đất nước theo luật rừng, CS sử dụng khủng bố để trấn áp quần chúng, bảo vệ quyền lực. Cộng sản dùng tất cả các phương tiện để khủng bố, kể cả việc thiết lập và nuôi dưỡng các băng đảng lưu manh côn đồ làm tay sai để khủng bố dân chúng, không khác gì những tổ chức cướp bóc phi pháp, mà nổi tiếng nhất là MAFIA.
Vì chỉ khủng bố nội địa, người Việt khủng bố người Việt, nên khủng bố CSVN ít bị quốc tế chú ý hay lên án, vì chẳng liên quan đến họ hay đến quyền lợi của họ. Và cứ thế, tính đến nay, người Việt Nam trải qua 70 năm trường kỳ khủng bố (1945-2015). Chưa hết đâu, Việt Nam còn CS thì chắc chắn còn khủng bố.
(Toronto, 22-11-2015)Trần Gia Phụng
--
TRUYỆN TÙ & VƯỢT BIÊN = TRUNG CỘNG = VIỆT CỘNG
Thursday, November 26, 2015
NGUYÊN HẠNH * NỮ TÙ NHÂN
Đã quá lâu chúng tôi không đi xe hơi đường xa, xe Molotova này do tài xế công an CS lái thả giàn, mặc cho chúng tôi ngồi sau thùng xe lắc lư nghiêng ngả, nhất là khi xe rẽ vào đường rừng vừa dốc vừa nhiều ổ gà, quanh co, khúc khuỷu, xe chạy như lăn lộn, ngoằn ngoèo làm cho chúng tôi ngất ngư, choáng váng.
Xe dừng lại khoảng giữa trưa trong một khoảng sân rộng, hai tên công an đàng trước nhảy ra gọi chúng tôi xuống xe, chuyền nhau những giỏ xách xuống theo. Trời nắng gắt, chúng tôi tìm bóng mát trước một gian nhà lợp tranh dài và cao, ngồi bệt xuống đất, dựa vào nền nhà, trong lúc chờ đợi tên công an trưởng xa chạy đi đâu đó, có lẽ đi báo cho văn phòng trưởng trại biết chúng tôi đã đến.
Đang đưa mắt nhìn quang cảnh chung quanh, một bầu trời rộng lớn bao trùm một doanh trại xa lạ, có nhiều dãy nhà tranh ngang dọc, phên là những thân tre đóng sát vào nhau, bỗng nghe trong nhà có những tiếng gọi khẽ tên mỗi chúng tôi. Giật mình xoay vào nhà chúng tôi thấy qua các khe hở lấp lánh những ánh mắt nhìn ra, không thấy được toàn mặt nên không biết là những ai trong đó. Hình như họ đang giới thiệu chúng tôi với nhau. Một toán công an theo nhau xuống nhận chúng tôi. Bọn công an gay gắt và hỗn xược hơn bên bộ đội. Việc đầu tiên là điểm danh, sau đó là lục soát "hành lý" cá nhân chúng tôi đem theo.
- Các chị bày đồ đạc ra để khám xét!
- Ai cho các chị dùng dao găm? Các chị đem theo để làm gì đây?
- Đó là những con dao rỉ sét chúng tôi lượm được ở hố rác các trại cũ dùng để làm cỏ.
- Không được! Ở đây cấm dùng. Để riêng những đồ bằng nhôm, sắt, tôn, thép ra một bên.
Chúng tôi nhìn một cách tiếc rẻ những đồ đạc bị tịch thu, những đồ đạc nghèo nàn thân thuộc đã theo chúng tôi hơn ba năm qua, đã giúp chúng tôi rất nhiều trong lao động ở năm trại trước.
- Các chị nào có dao, kéo, đồng hồ tự giác bỏ ra hết đây, khi nào chuyển trại chúng tôi sẽ trả lại.
Chúng tôi nghe mà rụng rời, thất vọng. Tại sao lại "chuyển trại" nữa mà không nói là "khi nào về"? Mới đến đây, thật là thân gái dặm trường, chẳng biết những gì sẽ chờ đợi chúng tôi, sẽ xảy đến ở nơi khỉ ho cò gáy này...
Lại những câu đón tiếp khô khan, dằn mặt thường lệ:
- Các chị đến đây phải tuyệt đối tuân theo nội quy trại, lao động tích cực, không được có những hành động chống đối, trốn trại sẽ có những biện pháp cứng rắn đối với các chị, v.v... và v.v...
Có tiếng mở khóa và tiếng dây xích rổn rảng ở đầu nhà. Họ chỉ cho chúng tôi đến đàng kia để vào nhà bằng một khung cửa hẹp. Trong nhà có hai tầng sạp toàn bằng tre, một lớp chúng tôi nằm ở sàn trên, một lớp nằm ở dưới. Rất đông người, trong số đó, toán nữ sĩ quan Cảnh Sát VNCH đi trước đều ở đây, gặp lại nhau rất mừng rỡ, lăng xăng lo lắng cho chúng tôi. Các chị sắp chỗ cho chúng tôi để đồ đạc sắp ở đầu nằm và treo lủng lẳng trước mặt móc vào phía dưới của sạp trên. Tôi thiếp đi một lúc lâu, khi tỉnh dậy, tôi mơ màng nghe chung quanh nói chuyện lao xao:
- Chị ấy rất yếu, mỗi lần chuyển trại phải di chuyển bằng xe là chị đều bị ngất xỉu.
- Khuấy cho chị ấy một ly nước chanh đi!
Trên đời có những chuyện rất nhỏ, như ly nước chanh chẳng hạn, mà chúng ta nhớ suốt đời, vì đó là một niềm an ủi thân thương trong những ngày hoạn nạn...
Tôi ngồi dậy cùng với các chị, kể cho nhau nghe về trại cũ, trại mới. Bây giờ mới biết là mình đã được chuyển đến một trại giam có phiên hiệu Z30D cạnh ngọn núi Mây Tào thuộc địa phận Hàm Tân.
Trong nhà này chúng tôi còn ở chung với nhiều chị thuộc thành phần khác, những chị nữ dân biểu, công chức cao cấp của VNCH, các chị vượt biên bị bắt, các chị mang tội phản động, có hành động chống đối, âm mưu lật đổ "Chính Quyền Cách Mạng," và cả các nữ cán bộ, đảng viên CS bị khép tội bội phản hoặc thâm lạm của công... Các chị em phản động là những phụ nữ từng làm những việc rất có lý tưởng, thường tiếp tế vào rừng cho anh em kháng chiến sau 1975, mở quán cà phê chiêu gọi thanh niên tham gia hoạt động trong các mật khu.
Về các chị em cán bộ CS thì thật là buồn cười. Họ đã từng là các mẹ, các chị của "chiến sĩ CS," nuôi ăn, che giấu, làm giao liên, trà trộn trong dân, nằm vùng ở thôn quê, ở thành thị. Trước năm 1975 bị VNCH bắt, túng quá phải khai sự thật, chỉ điểm, làm cho các tên CS bị lùng bắt. Nay "giải phóng" thành công, các con, các em biết được nên bắt các mẹ các chị vào tù lãnh án 10 năm, 15 năm.
Sau 1975, có chị được CS chiếu cố, phân công, cho lên xe Jeep VNCH để lại, oai phong lẫm liệt đến tiếp thu các quận, các tiểu khu, nào ngờ khi giở các hồ sơ còn lưu lại của chế độ cũ, thấy những tờ giấy cam kết do các chị ký tên, chứng tỏ các chị đã được chiêu hồi và hứa hẹn sẽ làm việc cho cả hai phía để cung cấp tin tức của CS, thế là các chị lãnh án vào ở chung với chúng tôi. Bây giờ họ đã mở mắt ra để thấy rõ thế nào là CS nên rất quý mến chúng tôi.
Ba năm trước đây, chúng tôi do bộ đội CS quản lý, nhà giam trống trải vì cửa bị gỡ hết, tuy gió lùa, mưa tạt, nhưng chúng tôi được đi lui đi tới trong khuôn viên trại thoải mái hơn, tuy chung quanh trại đều có vòng đai kẽm gai rất kiên cố.
Nay, lần đầu tiên ở trong nhà tù có cửa khóa, thế là kể từ đây chúng tôi chính thức ở trong chế độ giam cầm của công an CS, tù đày thật sự. Vậy mà sau đó, đến kỳ cho viết thư về nhà, tôi có câu: "Đã mấy tháng nay rồi không nhìn thấy trăng sao, mặc dầu bị tù túng nhưng vẫn cố gắng lao động tốt để được mau về.". Thư đó đã bị giữ lại, và tôi bị gọi lên Ban Chỉ Huy nghe xài xể:
- Nhà Nước nuôi các chị như vậy mà các chị gọi là ở tù à? Giữ các chị để các chị học tập trở thành con người tốt, con người mới Xã Hội Chũ Nghĩa để sống cho hợp với nếp sống văn minh, văn hóa mới mà chị cho là ở tù. Cúp thư kỳ này!"
Tất cả ở Z30D này đều quá mới lạ một cách hãi hùng đối với chúng tôi.
Trong trại không có nước, không có giếng, không có bể nước. Tắm giặt đều ở các khu suối thật xa sau giờ lao động trên đường về. Vì vậy, muốn có nước dùng để rửa mặt đánh răng, vệ sinh, chúng tôi phải đi lao động mỗi ngày, xách theo xô để lấy nước về mà dùng. Những ai bệnh hoạn không đi ra ngoài được, mấy chị em khác về chia xẻ cho một phần nhỏ nước. Chúng tôi có một cách tắm ở nhà rất ư là hà tiện, dùng một cái ly thật nhỏ để dội từng giọt.
Số nữ tù nhân "chính trị" chúng tôi ở đây có 64 người chia làm hai đội để sinh hoạt và lao động. Mỗi sáng, đến giờ kẻng đánh, hai đội nữ sắp hàng hai ra bãi ngồi xổm xuống để đội trưởng điểm danh, báo cáo số hiện diện, số người bệnh, rồi nghe gọi tên đội để lần lượt nối đuôi nhau ra khỏi cổng trại, chia đi các phía rừng để lao động.
Bãi tập hợp rộng bao la, anh em tù từ tứ phía đến hội tụ cả hàng ngàn người. Từ trên một chòi canh cao, một tên cán bộ đứng gọi loa tên từng đội. Gió lồng lộng thổi. Cảnh tượng thật bi hùng. Cả một lực lượng đáng kể tụ họp đây kia, trong chốn đọa đày lao khổ này! Nhìn các đội nam thất thểu đi ra cổng, từng hàng đôi rách rưới, áo quần vá chằng và đụp, người đi những đôi dép mòn, kẻ chân không, đội nón rách bươm, hoặc nón vải bạc thếch, hoặc đầu trần, chúng tôi liên tưởng đến các "Cái Bang"!... Những con người đó trước đây đã từng là các cấp chỉ huy ưu tú, các chiến sĩ từng xông pha chiến trận thật anh dũng hào hùng... Họ đã dâng hiến tuổi thanh xuân cho tổ quốc, cho quê hương, để đồng bào được sống yên lành trong tự do, no ấm.
Có những người tuổi đã cao, tóc đã bạc muối tiêu, thân thể gầy còm đi thất thểu trong các toán, đôi mắt không còn nét tinh anh!
Về phía chúng tôi, nào có hơn gì! Chắc chắn các anh nhìn chúng tôi cũng có những cảm nghĩ tương tự...
Từ bãi tập họp ra đến bãi lao động phải đi vào rừng sâu, cách nhà giam vài ba cây số. Chúng tôi lại cuốc đất, làm cỏ, đánh vồng trồng khoai, bắp, đậu, mồ hôi nhễ nhại. Chúng tôi lao động giáp ranh với đội nam, do đó lén nghe thì thầm nhiều tin tức mới lạ.
Đặc biệt nhất với chúng tôi là phải tắm suối. Sau giờ lao động, dọn dẹp cuốc xẻng cất vào "nhà lô" để trở về, chúng tôi được dẫn đến một bờ suối để tắm. Đi kèm chúng tôi lúc nào cũng có một nữ quản giáo và một nam cán bộ võ trang. Đến suối, tên võ trang đứng xa hơn, nữ quản giáo đứng trên bờ nhìn xuống chúng tôi để canh giữ. Chúng tôi không được bơi ra xa vì bên kia bờ suối là một gò đất có nhiều bụi cây rậm mà trước đây đã có hai cô trốn trại bơi qua đó, băng vào rừng, nhưng sau đó bị bắt lại.
Lần đầu tiên, cảnh chúng tôi tắm suối thật kinh hãi, không thể tưởng tượng nổi có ngày phải như thế! Toán chị em đã về đây từ trước nhanh nhẹn cởi quần áo để trên bờ đá, trần truồng nhảy xuống thật tự nhiên. Chúng tôi khiếp sợ! Làm sao như vậy được?! Khó quá! Chúng tôi để nguyên quần áo đi xuống nước. Thấy chúng tôi ngần ngại, các chị kêu lên:
- Cởi đại ra đi! Không kịp đâu! Chỉ có mười lăm phút vừa tắm vừa giặt. Lần đầu tụi em cũng như mấy chị, nhưng sau quen đi, không thể làm khác được.
Trời cao trong xanh, những làn mây chiều nhẹ trôi. Suối nước rất đẹp. Có những phiến đá để áo quần. Chúng tôi lúng túng. Thật xấu hổ không chịu được! Phụ nữ VN xưa nay vốn kín đáo, e ấp, thẹn thùng. Thẹn với cả trời, đất, cỏ, cây!...
- Các chị kia nhanh lên, hết giờ rồi, đi về!
Cởi dần ra dưới nước... Ngày đầu tiên tắm và giặt đều không sạch vì chậm chạp quá. Ngày thứ hai thôi đành cởi áo trước để đi xuống nước vậy, nhưng cũng không kịp. Và ngày thứ ba trở đi phải đánh liều, hễ đến suối là phải lo cởi gấp hết, nhảy ùa xuống, vừa tắm vừa giặt gấp rút mới kịp giờ. Chúng tôi có cảm tưởng như một bầy tiên nữ từ trên trời xuống trần gian bị lấy thu mất đôi cánh, như trong thời tiền sử... Thật đáng thương, thật tủi nhục không thể nào chấp nhận được! Càng tệ hại hơn, có đôi khi tắm chưa xong, chợt nhìn lên bờ cao, thấy thấp thoáng người đầu tiên của đám tù nam trên đường về sắp tới.
- Nam, nam! Các chị em la lên.
Thế là nhanh như cắt, chúng tôi nhảy lên bờ vơ vội áo quần để mặc đi về, mặt ai nấy đỏ như gấc.
Đã xong đâu! Trên đường về, đi ngang qua chiếc cầu tre, từ xa đã thấy một toán nam đang tắm dưới cầu, thế là chúng tôi phải ngẩng mặt lên nhìn trời mà đi..
Ôi! Chúng tôi đã đi lui về thời kỳ ăn lông ở lỗ...
Họ đã đối xử với chúng tôi như thế!
Có lần nữ quản giáo bệnh nghỉ, chỉ có tên võ trang đưa đi để canh gác chúng tôi lao động. Khi về đến suối để tắm, tên kia cứ đứng trên bờ cao trân trân nhìn xuống. Làm sao chúng tôi tắm được!
- Anh đi ra xa, đứng vậy làm sao chúng tôi tắm!
- Không! Các chị tắm nhanh lên!
- Thôi chúng tôi không tắm nữa, đi về!
- Có gì đâu mà không tắm? Ngày bữa gì!
- Nhất định chúng tôi không tắm.
- Thế nhỡ các chị trốn đi thì sao?
- Bảo đảm chúng tôi không trốn. Biết đường nào mà trốn?
- Không tin được!
- Đi về! Nhất định phải đi về thôi!
Chúng tôi hăng hái toan bước lên bờ đường. Tên kia nhượng bộ:
- Thôi được rồi, tôi nhìn qua phía kia. Các chị xuống tắm đi!
Tên công an võ trang ngồi xổm xuống nhìn ra phía khác.
Nhỡ anh ta quay lại thì sao?!
Đành phải xuống tắm thật nhanh mà mắt cứ phải coi chừng tên kia quay lại.
Những công việc lao động cực nhọc đến đâu, chúng tôi cũng ráng chịu được, cũng không làm chúng tôi đau khổ, bị chà đạp phẩm giá bằng cách phải đi tắm suối ở Hàm Tân (Z30D).
Thời cuộc đã làm cho chúng tôi là những kẻ sa cơ, gánh chịu vô vàn khổ nhục, nhưng vẫn tin tưởng rằng mọi hoàn cảnh đều sẽ có một lối thoát, nếu ta giữ vững được lòng tin.
Ở mỗi trại tù, mỗi sự hành hạ khác nhau. Và còn biết bao nhiêu mẩu chuyện, giai thoại về những người "Tù Cải Tạo," như những chuyện "Nghìn Lẻ Một Đêm," kể sao cho hết được!
THAI NC * THẰNG BÉ TỴ NẠN
Chuyện Thằng Bé Tỵ Nạn Bất Đắc Dĩ | |
---|---|
| Contributed by: phuochung | Views: 6.603 ThaiNC Tùng khẽ nhếch vai để cái túi đi học đeo sau lưng trở lại tư thế gọn gàng. Nó ngoái cổ ra sau kiểm tra lần cuối cẩn thận, và đẩy cửa, giữ vẻ thản nhiên bước vô nhà.
Nó kinh ngạc khi thấy "Dad" John của nó đăm chiêu đi qua đi lại trong phòng khách. "Ủa, sao hôm nay ổng về sớm vậy cà?" Tùng nghĩ thầm. Thấy Tùng đi vào, ông mừng rỡ chạy lại ôm nó.
-Ồ, con đã về! Con đi đâu làm ta lo quá!
-Con đi học về, Dad!
Đang hoan hỉ, ông John bỗng xịu xuống, trở nên nghiêm khắc. Ông buông Tùng ra, đứng lên lạnh lùng:
-Con nói dối. Hôm nay nhà trường điện thoại cho "Mom" nói con không đi học khiến ta phải bỏ làm về kiếm con cả ngày nay.
Thằng Tùng sợ đến rụng rời tay chân. Trời ơi, vậy là lộ tẩy rồi! Nó mới nghỉ học có một ngày, đã gọi về nhà? Cái trường chi quái ác. nó vẫn cố chống chế:
-Con đi học thiệt mà Dad.
-Đừng dối ta, đó là một thói xấu. Hãy cho ta biết chuyện gì xảy ra, và con đã làm gì vì ta đã gọi cảnh sát, tí nữa ta và mom phải báo cáo với họ.
Nghe hai chữ "cảnh sát", Tùng càng hoảng. Câu chuyện không nhỏ như nó nghĩ. Hồi còn ở quê nhà, thỉnh thoảng nó cũng trốn học mấy lần đi tắm sông với tụi bạn, có ai hay đâu. Qua đây mới lần đầu tiên đã bị bắt tại trận. Tùng cảm thấy vừa lo vừa ngượng ngùng vì lỡ nói dối bố mẹ nuôi nó. Nó đỏ mặt ngượng nghịu cúi đầu, không dám nhìn ông John.
Giữa lúc Tùng chưa biết trả lời như thế nào thì cánh cửa bật mở. Bà Linda, "Mom" của nó hớt hải đi vào, nói không ra hơi:
-Kiếm khắp nơi mà vẫn không...
Bà ta ngưng lại khi thấy Tùng đứng đó. Bà trợn xòe mắt như không tin ở chính mình, kêu lên, "Lạy chúa tôi!", quên hết cơn mệt chạy lại ôm choàng Tùng.
-Con đi đâu cả ngày?
Vừa nói, bà Linda vừa nhìn thằng bé từ đầu đến chân xem nó có bị xây xát trầy trụa chỗ nào không. Thái độ đầy quan tâm của "mom" làm Tùng thêm bối rối, cúi gầm mặt. Sau khi xem xét và thấy Tùng vẫn lành lặn, bà Linda yên tâm nắm tay nó kéo vào bếp.
-Tội nghiệp con tôi, chắc nó đói rồi, vào đây mẹ lấy pizza cho ăn.
Nhưng ông John đã cản lại:
-Khoan đã, tí nữa rồi ăn. Tùng phải nói chuyện gì khiến con nghỉ học không xin phép hôm nay. Lát nữa cảnh sát sẽ lại đây đó.
-Ông sao gấp quá, để cho con ăn xong rồi hỏi cũng được mà.
-Bà thương nó quá không được. Nên nhớ nó mới qua và chưa rành luật lệ. Tôi phải biết nó đã làm gì để trả lời với họ chứ.
Nghe ông John nói, bà Linda không biết làm sao hơn, cúi xuống dỗ Tùng:
-Cũng được. Tùng nói cho mom biết tại sao con không tới trường hôm nay đi. Nếu con chỉ đi chơi mà không làm gì bậy, mom sẽ tha. Lần sau đừng như vậy nữa.
-Con, con...
Thằng Tùng ấp úng, nó biết nói sao bây giờ? Đã đành nó trốn học và nói dối là hai lỗi lớn. Nhưng nào phải nó đi chơi hay làm gì bậy đâu.
-Con đi... shopping.
-Shopping ư? Con mua gì ở đó? Hai ông bà ngạc nhiên.
Tùng tháo cái túi đi học trên lưng xuống. Lúc này, ông bà John và Linda mới chú ý đến cái túi gồ ghề hơn mọi ngày trên lưng thằng bé. Nó cẩn thận lấy ra một gói giấy: cái xe lửa chạy bằng pin.
Ông John thảng thốt:
-Con lớn rồi sao còn chơi cái đồ này?
-Tiền đâu con mua nó? Bà Linda tiếp.
-Con đi bỏ báo mua cái này cho em con ở Việt Nam.
Thằng Tùng bỗng bật khóc. Nó như được cởi mở tấm lòng.
Hai ông bà John và Linda nhìn nhau. Họ linh cảm đứa con nuôi trước mặt đang mang một tâm sự chồng chất mà nó giấu kín. Nguyên nhân sự nghỉ học của nó hôm nay có lẽ bắt nguồn từ đó...
Tâm sự của thằng Tùng: Nó là một thuyền nhân bất đắc dĩ.
Nói ra thì có vẻ hi hữu, nhưng trên đời có nhiều chuyện xảy ra một cách kỳ cục không ai có thể liệu định được. Và một trong những cái “ kỳ cục” đó đã xảy ra với Tùng hơn một năm trước đây, khi nó vẫn còn mang giỏ mía ghim lang thang trên bến đò Kiên Lương mỗi buổi chiều kiếm thêm chút tiền giúp đỡ gia đình.
Đúng ra nhà thằng Tùng cũng không nghèo lắm. Trước ngày giải phóng, ba nó là Trung Úy Pháo binh đóng ở Cà Mau, má nó làm cô giáo tiẻu học. Nhưng tai họa đã giáng xuống gia đình Tùng sau ngày 30/4 năm đó. Ba nó phải đi học tập cải tạo. Tưởng chỉ có 10 ngày là xong, ai ngờ đến 6 năm sau, khi Tùng rời quê nhà vẫn chưa gặp lại ba. Má nó bị cho nghỉ dạy vì là "vợ sĩ quan Ngụy". Gia đình Tùng khốn đốn từ đó. Đã mất việc, lại thêm phải nuôi ba nó trong tù, má Tùng phải tất tả làm đủ mọi việc để nuôi bốn miệng ăn. Ban ngày bà ra chợ trời, buôn đi bán lại, tối về bà phải nhận may vá thêm cho anh em Tùng đủ điều kiện cắp sách đến trường.
Cuộc sống mỗi ngày mỗi khó khăn. Tính, em nó, còn nhỏ chưa biết gì nhiều, nhưng Tùng đã lớn, dù nó chỉ học lớp Sáu. Sự nghèo khổ và nhọc nhằn đã khiến Tùng khôn trước tuổi để thấy những sợi tóc bạc ngày càng rậm trên nét mặt khắc khổ của má. Những lần bà phải đôn đáo vay mượn trong mỗi dịp gửi đồ tiếp tế cho ba nó trong tù...đã đẩy Tùng ra ngoài xã hội.
Mỗi chiều sau khi đi học về, Tùng đi bán mía ở bến đò Kiên Lương. Nó vô vườn mua rẻ mấy cụm mía về lóc vỏ, và chặt thành từng khúc nhỏ khoảng bằng đốt ngón tay. Xong rồi nó đi kiếm tre, gọt thành những cây nhỏ, mỗi đầu cây tẻ thành sáu nhánh nhỏ khác, vót nhọn, và gắn mía vào, vậy là thành một ghim. Mía ghim.
Nó không bán ở chợ vì ở đó đã có nhiều thằng nhỏ khác bán. Ra nghề sau nên Tùng phải chịu khó lặn lội ra tận bến đò. Tại đây cũng tấp nập không kém chi ở chợ, nhất là vào buổi chiều. Ghe thuyền là một trong những phương tiện giao thông chính của xứ Rạch Giá đầy mương rạch này. Khách hàng của Tùng phần đông là mấy bác xích lô, hay xe ba gác, hoặc những người từ thôn xóm chung quanh khi tan chợ trở về. Ngồi trên ghe gió chiều hiu hiu, có ghim mía nhai đỡ buồn miệng, khỏi phải lóc vỏ, bỏ cùi, mà giá lại rẻ mạt: có 50 xu. Nhai xong nhổ bã xuống rạch là xong, thật tiện.
Công việc làm ăn của Tùng tiến hành suông sẻ. Mỗi ngày nó kiếm được ít tiền đưa cho má để dành mua quà nuôi ba nó. Cuộc đời bán mía ghim của Tùng không biết sẽ kéo dài bao lâu, nếu một ngày nọ...
Hôm đó Tùng ế hàng. Bán từ chiều đến gần tối mịt rồi mà rổ mía vẫn còn vơi nửa. Điệu này hôm nay nó huề vốn là may. Đáng lẽ Tùng về nhà, nhưng nó vẫn ráng kiên nhẫn ở lại. Biết đâu còn nhiều người về bến đò trễ cũng nên. Đang thơ thẩn tìm khách, nó nghe gọi:
-Mía.
Tùng mừng húm thấy một thanh niên từ chiếc ghe lớn nãy giờ đậu im lìm dưới chân cầu đi ra.
-Mía bao nhiêu một xâu?
-Dạ 50 xu.
-Mày còn mấy xâu?
-Để coi. 1,2,3... 32 xâu.
-Tao mua hết, vị chi là 16 đồng phải không?
Đang mừng nghe nói được mua hết, Tùng khựng lại khi thấy anh thanh niên đưa tờ 100 còn mới toanh. Tiền đâu mà thối? Nãy giờ nó mới bán được có hai mươi mấy đồng, thêm mười đồng tiền lẻ má nó đưa để thối lại, cộng chung cũng chưa đến bốn chục. Tùng lúng túng:
-Anh có tiền lẻ cho em xin, em không có đủ tiền thối.
Hơi ngần ngừ một chút, anh thanh niên nói:
-Thôi cho mày luôn đó nhỏ.
Tùng tưởng mình nghe lầm, nó trợn mắt nhìn anh thanh niên, ông khách rộng lượng nhất trong cuộc đời bán mía mà nó đã gặp. Bỗng nhiên nó nhận thấy cái anh này sao lạ quá, nhứt định không phải là dân ở đây. Nhất là ảnh ốm và trắng, không giống dân bản xứ ở đây ai cũng nở nang và đen sạm. Nó chợt nghĩ đến những tin đồn mà nó đã nghe, không dằn được, buột miệng hỏi:
-Có phải anh ở Sài gòn xuống đây vượt biên không?
Người thanh niên tái mặt, anh quăng hết mấy xâu mía xuống sông và chụp lấy thằng Tùng, bụm miệng nó lại. Diễn biến xảy ra quá đột ngột nên Tùng không kịp phản ứng, chống cự một cách vô vọng, và bị người thanh niên vác xuống thuyền.
Tùng cố vùng vẫy thật kịch liệt, chân nó đạp tùm lum làm văng luôn một chiếc dép xuống sông. "Trời ơi, cha này định làm gì đây? Vượt biên thì cứ vượt biên. Tui có đi báo công an đâu mà bắt tui?" Nhưng nó chỉ ú ớ không thành lời.
Đem Tùng xuống khoang tàu và đóng cửa lại, người thanh niên cầm một cây sắt dí trước mặt Tùng, "ngồi im, làm ồn tao đập chết thả xuống sông". Tùng hoảng sợ thôi vùng vẫy. Thanh niên đè nó xuống sàn, và thả tay ra. Bây giờ Tùng mới hơi hoàn hồn chút đỉnh và đưa mắt nhìn quanh. Trời đất ơi! Cái khoang thuyền bé xíu mà đầy những người là người, già trẻ lớn bé, đàn ông lẫn đàn bà, hầu hết đều lạ hoắc từ đâu tới.
Một người đàn bà ngồi gần cất giọng hỏi:
-Thằng nhỏ nào vậy? Sao tự nhiên bắt nó?
Hùng, người thanh nhiên phân trần:
-Tui định mua ít mía mang theo, ai ngờ thằng này biết mình sắp "đi" nên phải đem nó xuống đây đó chứ, lỡ nó đi la tùm lum là bể hết, tù rã đám.
Tùng mếu máo:
-Em đâu biết gì đâu, thả em về đi anh ơi, hu hu!
Đám người vượt biên ngơ ngác nhìn nhau. Hùng lại lên tiếng:
-Mày không biết thực không?
-Thiệt mà, cho em về đi.
Anh Hùng quay sang nói với mấy người trong ghe:
-Coi bộ thằng này chỉ tình cờ thôi, nhưng vì an toàn, khi nào mình khởi hành mới thả nó ra được.
-Hu hu! Em về trễ má em đi kiếm.
Một người đàn bà khác lại dỗ nó:
-Thôi em chịu khó ngồi đây chút xíu, tí nữa anh Hùng cho em về nhà...Đây chị cho em một trăm mang về cho má.
Bà nhét vào túi áo nó tờ giấy bạc. Nếu ngày thường, có lẽ Tùng đã la lên su
ng sướng, bữa nay nó phát tài rồi. Nhưng không hiểu sao nó chỉ cảm thấy lo lắng, linh cảm điều gì bất thường.
Điều bất thường đã đến. Đang im lặng bỗng có tiếng gấp rút gõ cửa.
-Ai đó? Hùng hỏi.
-Tui, Tư đây Hùng, mở cửa mau.
Một người đàn ông ló đầu vào thở hổn hển:
-Lộ rồi, đám kia bị bắt hết và tụi du kích sắp đến đây đó, nhổ neo dông liền đi.
Cả khoang thuyền rúng động nghe tin dữ. Từng khuôn mặt hốt hoảng. "Chết cha, làm sao bây giờ?". "Lên bờ trốn". "Khổ thân tôi"... Mỗi người một câu, không ai còn nhớ đến Tùng đang ngồi một góc. Nó cũng lo lắng không kém. Lỡ tụi du kích tới đây thấy nó cùng đám vượt biên này thì mười cái miệng nói cũng không xuôi. Nó mà đi tù thì chỉ khổ cho má nó.
Anh Hùng hồi nãy cũng la lên:
-Bà con bình tĩnh. Bây giờ ai mà lên bờ là bị chôp liền. Đằng nào ghe cũng chuẩn bị rồi, ta đi luôn.
Vài tiếng hô lên đồng ý.
-Anh Hùng nói đúng, mình đi luôn may ra kịp.
-Một liều ba bảy cũng liều.
-Nhưng thằng em tui chưa tới mà?
-Thân ông lo chưa xong, còn lo ai? Muốn đi tù chung cho vui hả?
-...
-Vậy thì mình đi, Hùng lên tiếng. Ai lên phụ tôi kéo cái neo sau, còn anh Tư chuẩn bị lái.
Mọi người đã đồng lòng, chia nhau công việc để ghe có thể rời bến.
Lúc này thằng Tùng muốn trốn lên cũng không ai buồn để ý. Nhưng, có lẽ số phận đã an bài, cái số của nó phải sống xa gia đình nên Tùng cứ nằm yên run rẩy, nó cũng sợ đám du kích sắp đến như mấy người trên ghe. Tùng cảm thấy vừa mệt vừa đói, đầu óc choáng váng. Nó cảm thấy cái ghe chuyển động, tiếng lâm râm cầu nguyện của những người đàn bà trong khoang...và thiếp đi lúc nào không biết.
Thế là chiều hôm đó, trên chuyến tàu vượt biên vội vàng đã mang theo một hành khách không mong đợi: thằng bán mía ghim ở bến đò Kiên Lương.
Tàu đi được bốn ngày thì được tàu Mỹ vớt đưa vào bờ Mã Lai, và đến Pulau Bidong sau đó. Mọi người trên đảo ai nghe câu chuyện của Tùng cũng đều gật gù cho là...số mệnh, không ai có thể vượt biển một cách kỳ cục như thằng Tùng.
Hôm đó sau khi tỉnh dậy, nó cảm thấy khát đến khô cả cổ, bèn mò dậy kiếm nước uống. Anh Hùng thấy nó trước tiên trên boong.
-Cha chả, thằng bán mía, sao mày còn ở đây?
-Cho em miếng nước.
Hùng đưa cho nó ly nước. Uống xong, Tùng bắt đầu tỉnh trí và nhớ lại mọi việc.
-Trời ơi, mấy anh cho em về nhà chớ đi đâu đây?
Nó hốt hoảng nhìn chung quanh. Trời đã tối lắm rồi, có lẽ tàu chạy xuôi xẻ cũng được mấy tiếng và đang tiến dần ra cửa biển.Bốn bề chỉ thấy nước mênh mông. Xa xa một vài ánh đèn chập chờn từ những tàu đánh cá hay một trạm gác nào đó, leo lét. Thỉnh thoảng lại thấy vài cụm sậy thấp thoáng trong bóng đêm dày đặc.
Ba bốn người từ dưới khoang đi lên, họ cũng chợt nhớ ra thằng Tùng. Một bà ái ngại hỏi anh Tư lái tàu:
-Mình đi xa chưa? Hay là tấp lại chỗ nào cho thằng nhỏ lên rồi đi tiếp?
-Trời đất, bộ giỡn sao chớ? Tối um vầy biết đâu mà vô. Rồi lại tụi du kích nghe tiếng ra túm hết cả tàu thì bà tính sao đây?
-Nhưng mà cũng phải cho thằng nhỏ về nhà chứ.
Tùng thút thít năn nỉ:
-Không sao đâu chú ơi, chú cho tàu chạy vào gần bờ rồi cháu nhảy xuống bơi vô được mà.
-Nói thiệt với mày nghe nhỏ, không phải tao ác hay là gì hết. Nhưng mày là dân ở đây thì cũng biết, đằng kia toàn là rừng sậy không hà, mày bơi chưa tới là đã lún sình ngủm củ tẻo rồi. Mà tao cho ghe vô gần hơn thì cũng lún luôn, chết cả đám. Thôi mày đi theo tụi tao luôn đi. Được đi Mỹ "chùa" không tốn một cắc mà còn than gì nữa? Tao sợ má mày hay tin mày đi rồi bả còn mừng nữa à.
Thằng Tùng thất vọng nhìn chung quanh. Nó biết chú Tư nói thiệt. Nó bơi như rái cũng khó qua nổi mấy vũng lầy trước khi vào đất liền. Tùng ngồi xuống ôm mặt tấm tức, tự xỉ vả mình ham tiền ở lại trễ tại bến đò làm chi cho bị... tai bay vạ gió như vầy...
Vậy mà trong ghe, Tùng lại được đi định cư sớm nhất. Nó ở đâu có 3,4 tháng thì được hội nhà thờ bảo lãnh sang làm con nuôi của ông bà John và Linda, một cặp vợ chồng Mỹ không con cái.
Mấy tuần đầu ở đảo, Tùng nhớ nhà, nhớ ba má, nhớ thằng Tính em nó và khóc hoài. Nó giận tất cả mọi người trong ghe đã ép uổng nó đi theo.
Chuyến ghe nó đi thật thuận buồm xuôi gió, không hải tặc, không đói khát. Mấy người lớn tuổi nói trong ghe có "quí nhân" đi theo nên được tai qua nạn khỏi. Và họ bảo nhau quí nhân đó chính là thằng Tùng. Đâu có ai vượt biên một cách bất ngờ như nó đâu. Hồi đó hải tặc lộng hành, ít có ghe tị nạn nào thoát khỏi, vậy mà ghe nó đi êm ru. Vì vậy ai cũng thương và tử tế với nó, họ chia nhau an ủi và nuôi nấng Tùng trong suốt thời gian ở trại vì nó không có ai thân nhân ở nước ngoài cả.
Đêm trước khi Tùng lên đường, mọi người mở tiệc tiễn "quí nhân". Mỗi người một lời khuyên nhủ làm Tùng cảm động quên hết giận hờn. họ nói riết, Tùng cũng tin là tại số phận của nó phải như vậy. Đây là ý của Trời Phật muốn giúp nó ra nước ngoài ăn học để một mai thành tài giúp đỡ cha mẹ lúc tuổi già. Cuộc sống bon chen lúc còn bán mía ở bến đò Kiên Lương và biến cố vừa qua đã làm cho trí óc Tùng tiến một bước dài.
Trước khi từ giã, anh Hùng, người đã bắt nó xuống tàu hôm nọ nắm tay nó xem bói. Anh vỗ tay xuống bàn, la lên:
-Trời ơi, bà con coi bàn tay thằng này nè. Cái đường xuất ngoại của nó dài và rõ như vầy thì đúng là số của nó phải đi du học rồi. Nói thiệt, nếu hôm dó tui không nắm cổ nó kéo xuống ghe thì cũng có người khác làm mờ.
***
Bốn tháng sau khi đến Mỹ, Tùng nhận được lá thư đầu tiên của má nó từ Việt nam gởi sang. Còn gì mừng hơn được nhìn lại nét chữ của người mẹ thân thương từ quê nhà. Nó ngấu nghiến đọc đến thuộc lòng cả lá thư mà vẫn cứ đọc. Lại có cả thư của thằng Tính nữa chứ, em nó viết: "Em là Tính em của anh nè anh Tùng, anh còn nhớ em hôn? “ Tùng đang khóc cũng suýt bật cười đọc dòng chữ ngây thơ trên. "...Ba có viết thơ về nói bị đau bao tử mà má không có tiền mua thuốc. Em muốn đi bán mía như anh nhưng má không cho, má sợ em cũng bị bắt đi Mỹ luôn má ở nhà một mình buồn. Anh ráng đi làm như anh con Hà rồi gởi thuốc về cho ba nghe. Mà anh cũng nhớ mua cho em cái xe lửa điện như của con Hà vậy nghe, em ở nhà một mình buồn quá. Nhớ nhe anh Tùng..."
Dòng chữ ngây thơ của em nó làm Tùng khắc khoải. Ba nó đang bệnh trong tù, mà thuốc Tây ở chợ trời thì Tùng dư biết là mắc lắm, làm sao mua nổi? Chưa kể má nó thiệt thà có khi còn mua nhầm thuốc giả nữa. Còn cái xe lửa điện. Tùng nhớ hồi ở Rạch giá mỗi lần nhìn chị em con Hà gần nhà chơi cái xe lửa điện của anh tụi nó từ ngoại quốc gởi về mà mơ ước cũng có một cái, nhất là thằng Tính, mê cái xe lửa kinh khủng. Tùng chìu em, vác cuốc đi đào đủ một lon sữa bò đầy giun để con Hà cho gà ăn thì nó mới cho chơi chung. Đến bây giờ em nó vẫn còn mơ ước cái xe lửa.
Tùng muốn xin tiền bố mẹ nuôi để nó mua đồ, nhưng lại không dám. Ông bà John và Linda thương nó như con ruột, chăm lo cho nó ăn học đầy đủ, nên nó không muốn xin thêm điều gì làm phiền ông bà. Tùng quyết định đi làm để tự mình kiếm tiền. Mà làm gì bây giờ nhỉ? Bán mía như ở Việt Nam ư? Mỹ họ đâu có ăn mía ghim. Mía họ đóng hộp để lạnh, khi nào ăn thì khui ra là xong. Tùng đâu thấy thằng Mỹ con nào bán mía ngoài đường.
May sao thằng Tâm bạn chung lớp chỉ nó gia nhập làng bán báo. Gì chứ bán báo ở Mỹ dễ ợt, người ta đặt mua hàng tháng, bọn nó chỉ đem bỏ từng nhà là xong. Và Tùng đi bỏ báo.
Hôm qua mới được lãnh lương nên sáng nay nó và thằng Tâm rủ nhau nghỉ học để mua đồ. Đã lỡ giấu bố mẹ nuôi từ đầu nên Tùng phải nhờ thằng Tâm chỉ dẫn. Thằng này qua đây đã lâu mà lại thường theo anh chị nó sắm đồ nên rất rành đường xá. Đầu tiên, hai thằng đến tiệm thuốc tây Việt Nam có bán loại thùng thuốc đóng sẵn. Tùng nhờ người bán hàng chỉ loại thùng có thuốc trị bao tử để gởi về. Xong xuôi cả hai lại đáp xe bus tới mấy tiệm bán đồ chơi để Tùng tìm mua cái xe lửa điện cho em nó. Lang thang mãi rồi Tùng cũng kiếm được cái vừa ý, và nhất là hợp với túi tiền nhỏ nhoi của nó.
Có điều thằng Tùng chưa rõ là nhà trường Mỹ không giống như ở Việt Nam. Trước kia nó có trốn học đi coi đá banh, hay tắm sông với bạn bè mấy ngày cũng không ai để ý. Nhưng ở Mỹ, con nít thường được chú ý, cho nên khi cô giáo buổi sáng thấy Tùng vắng mặt không xin phép đã gọi điện thoại về nhà. Câu chuyện đổ bể...
Ông John và bà Linda im lặng nhìn nhau. Họ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Đứa con nuôi của họ chỉ mười mấy tuổi đầu đã trải qua bao lận đận, và cuộc đời của nó thật hi hữu. Đây hẳn là ý Chúa. Chúa đã mang thằng nhỏ đầy tình nghĩa trong trái tim son trẻ kia về đặt trong sự thương yêu của hai người để giúp nó được lớn lên trong một xã hội tự do, bác ái, và để cho nó có cơ hội giúp đỡ cha mẹ nó tận bên kia Thái Bình Dương.
Bà Linda ôm Tùng trong lòng, bà cũng khóc tự hồi nào.
-Ôi, con yêu dấu của mẹ. Cha mẹ không trách con nữa. Con thật là một đứa con ngoan.
***
Lúc bà nội Tùng còn sống, nó thường nghe bà kể chuyện ông lão ăn mày nghèo khổ, một đêm trong miếu cổ nằm mộng thấy mình trở thành quan Tể tướng, giàu sang quyền quí, sống cuộc đời cực kỳ hạnh phúc. Giật mình tỉnh dậy trời chưa sáng, tất cả đều hết, ông lại là kẻ ăn mày nghèo khó giữa đêm tối âm u...
Tùng mong mình cũng như lão ăn mày nọ. Tất cả chỉ là một giấc mơ. Nó ước ao một sáng thức dậy, thấy mình vẫn còn nằm trên chiếc giường tre ở quê nhà, nghe tiếng gà gáy, tiếng lục đục của má nó sửa soạn ra chợ. Thấy chân thằng Tính gác trên bụng và hơi thở phì phò trên má... Cho đến khi cảm giác êm ái của chiếc giường nệm và cái lạnh cuối năm của xứ người đưa nó về thực tại. Có những đêm Tùng nằm mơ thấy mình trở về Rạch Giá, lang thang trên bến đò với rổ mía, gặp lại ba má, bạn bè, để rồi tỉnh dậy trong tiếc nuối ngẩn ngơ.
Đêm nay Tùng lại nằm mơ thấy mình về Việt Nam. Giấc mơ kỳ lạ. Nó thấy "Dad" John lái xe chở nó và "Mom" Linda chạy trên xa lộ Mỹ, vậy mà khi ổng quẹo vào exit là đã tới...Rạch Giá môt cách ngon lành. Tùng vào nhà gặp má nó, thằng Tính, và điều mừng rỡ nhất là có cả ba nó nữa. Ông hết ở tù rồi. Tùng khệ nệ khiêng thùng quà mà nó dành dụm từ mấy tháng nay vào cho má nó. Nào vải, nào thuốc... và dĩ nhiên có cả cái xe lửa điện cho thằng Tính nữa. Rồi trong khi má nó và "Mom" làm cá rô kho tiêu trong bếp, "Dad" John và ba nó ngồi nhậu thật tương đắc. Ngoài sân, thằng Tính lui cui chơi cái xe lửa, thỉnh thoảng khoái chí cười nắc nẻ.
Tùng cảm thấy mình thật hạnh phúc. Nó đã có ba má, rồi lại có cả "Dad" và "Mom" nữa, tất cả đều yêu thương nó. Ô hay, ai nói Việt Nam và Mỹ xa lắm cả một đại dương chứ với Tùng, nó thấy thật gần gũi, nhất là trong những giấc mơ như vầy.
ThaiNC
|
ANH QUỐC -TRUNG CỘNG
Anh và TQ 'xây đắp quan hệ vàng'
- 21 tháng 9 2015
Bộ trưởng Tài chính Anh, ông George Osborne sang thăm Trung Quốc trong vòng 5 ngày và nêu ra tiêu chí xây đắp 'quan hệ vàng' hai bên.
Chuyến thăm đến Bắc Kinh, Thượng Hải, Thành Đô và Urumqi, thủ phủ của khu tự trị Tân Cương của ông Osborne, còn có mục tiêu chuẩn bị cho chuyến thăm Anh của Chủ tịch Tập Cận Bình sắp tới.Trong bài viết trên trang The Guardian trước khi sang Bắc Kinh, ông Osborne, nhân vật cao cấp thứ nhì trong chính phủ Anh, ca ngợi bang giao với Trung Quốc là 'quan hệ vàng' (golden relationship).
Ông cũng bác bỏ lo ngại về biến động thị trường chứng khoán ở Trung Quốc vừa qua và cho rằng giới quan sát kinh tế cần nhìn sự tăng trưởng của Trung Quốc trong dài hạn.
Tại Bắc Kinh hôm 21/9, Bộ trưởng George Osborne đã có cuộc gặp với Phó Thủ tướng Trung Quốc Mã Khải để xúc tiến trao đổi thương mại và văn hóa giữa hai nước.
Hai ông cũng đi xem kịch cùng nhau và ông Osborne còn công bố lập quỹ 7 triệu bảng Anh nhằm giúp Trung Quốc quảng bá văn hóa tại Anh Quốc và để trưng bày các tác phẩm như bút tích của William Shakespeare và Arthur Conan Doyle ở Trung Quốc.
Khoản tiền này cũng giúp cho Nhà hát Opera Hoàng gia có chương trình huấn luyện cho sinh viên Trung Quốc và để tổ chức Liên hoan tình yêu Trung Quốc (Love China Festival) ở London trong ba năm.
Cùng thời gian diễn ra chuyến thăm, Anh và Trung Quốc đã đạt được thỏa thuận đầu tư xây dựngnhà máy điện hạt nhân trên 24 tỷ bảng ở Anh, dự kiến vận hành trong 60 năm.
Vào tháng 10 năm nay, Chủ tịch Tập Cận Bình sẽ sang thăm Anh Quốc.
http://www.bbc.com/vietnamese/world/2015/09/150921_osborne_china_golden_relatioship
Dùng Mao tuyển chỉ trích cắt giảm chi tiêu
- 26 tháng 11 2015
Người phụ trách tài chính của đảng Lao động đối lập, ông John McDonnell, cáo buộc Bộ trưởng Tài chính, ông George Osborne, là “mù chữ tuyệt đối về kinh tế” trong bài phát biểu về Ngân sách Chi tiêu, trong đó ông trích dẫn Chủ tịch Mao của Trung Quốc.
Ông cũng tấn công chính sách thắt lưng buộc bụng và nói đảng Lao động đã thắng trong vấn đề cắt giảm cảnh sát.
Ông Osborne nói đảng Lao động là “mối đe dọa nguy hiểm chết người cho nền kinh tế”.
Bộ trưởng Tài chính gác kế hoạch cắt giảm các khoản tín dụng thuế và cam kết bảo vệ ngân sách cảnh sát trong tuyên bố về Ngân sách Chi tiêu mùa thu của ông, nhờ những khoản tiền từ ngân sách công được dôi ra nhiều hơn so với dự kiến.
Các tài liệu về Ngân sách Chi tiêu cũng cho thấy kinh phí cho các đảng chính trị đối lập sẽ bị cắt giảm – và nó sẽ khiến đảng Lao động mất hơn một triệu bảng mỗi năm.
Trong bài phát biểu quan trọng nhất của ông tại Hạ viện kể từ khi trở thành người phụ trách tài chính của Đảng đối lập, ông McDonnell nói chính phủ đã không đạt mục tiêu giảm thâm hụt ngân sách và mô tả việc quay ngược hẳn lại trong vấn đề tín dụng thuế là một “thất bại”.
Ông nói Bộ trưởng Tài chính nói thắt lưng buộc bụng sẽ chỉ kéo dài năm năm, và mọi người sẽ “cảm thấy thực sự bị phản bội” bởi bị thêm các cắt giảm chi tiêu.
Sau khi đề cập mối quan hệ giữa Vương Quốc Anh và chính phủ Trung Quốc, ông McDonnell nói: “Để hỗ trợ đồng chí Osborne làm việc với những người đồng chí mới của ông, tôi mang tới cho ông cuốn Sách Đỏ của Chủ tịch Mao.”
‘Quan hệ mới’
Sau khi Chủ tịch Hạ viện, ông John Bercow, lên tiếng ổn định các dân biểu đảng Bảo Thủ, ông McDonnell đã trích dẫn từ cuốn Mao tuyển: “Chúng ta phải học cách làm kinh tế từ tất cả những người biết làm.“Bất kể họ là ai, chúng ta phải quý trọng họ như thầy cô, học hỏi từ họ một cách trân trọng và tận tâm. Tuy nhiên chúng ta không được giả vờ biết những điều chúng ta không biết.”
Lẳng cuốn Mao tuyển sang phía ông Osborne, ông McDonnell nói thêm: “Tôi nghĩ cuốn Mao tuyển sẽ hữu ích cho ông trong mối quan hệ mới lập được của ông.”
Nhặt quyển Mao tuyển lên, Bộ trưởng Tài chính nói đây là “bản sao có chữ kí cá nhân” của ông McDonnell.
Sau đó, thư kí phụ trách tài chính của đảng Lao động đối lập, bà Seema Malhotra, nói với BBC News rằng ông McDonnel đã nhấn mạnh thực tế rằng “ông George Osborne không nên bán tài sản của chúng ta cho chính phủ nước ngoài khi ông chính không đầu tư vào đất nước này.”
Chris Leslie, người tiền nhiệm của ông McDonnell, nói việc giơ cuốn Mao tuyển ra là “việc làm sai lầm”.
“Tôi không nghĩ rằng nó đạt được điều mà John muốn, tuy nhiên John có thể giải thích câu đùa của ông cho những người không hiểu nó”, ông Leslie nói thêm.
http://www.bbc.com/vietnamese/world/2015/11/151126_uk_spending_review_mao_red_book
Phiên xử Biển Đông: Anh bị TQ 'giật dây'?
- 26 tháng 11 2015
Anh đã chính thức yêu cầu là “nhà quan sát trung lập” trong vụ xử Philippines kiện Trung Quốc về đường chín đoạn tại phiên tòa ở The Hague.
Bộ Ngoại giao Anh nói động thái ngoại giao này là can dự thông thường đối với sự vụ hàng hải quốc tế.Tuy nhiên, thời điểm Bộ Ngoại giao Anh quan tâm tới tranh chấp lãnh thổ Trường Sa cho thấy có khả năng bị Trung Quốc chi phối, theo báo The Guardian tại Anh.
“Thời điểm đưa ra yêu cầu này có thể xem là Bắc Kinh đề nghị London tham gia với tư cách bên trung gian trong bối cảnh có căng thẳng về quân sự giữa Trung Quốc, Philippines, các nước châu Á và thậm chí cả Hoa Kỳ.
"Động thái của Anh khiến Philippines ngạc nhiên, tạo đồn đoán tằng việc London tham gia là có sự phối hợp với Bắc Kinh sau chuyến thăm Anh của Chủ tịch Tập Cận Bình vào tháng trước," bài của báo này bình luận.
Anh bấy lâu nay nay không thể hiện lập trường đứng về bên nào trong tranh chấp chủ quyền tại các đảo và bãi đá tại Biển Đông.
Ngày 24/11, Tòa trọng tài Thường trực (PCA) ở The Hague, Hà Lan, đã bắt đầu phiên đầu tiên sau khi thụ lý đơn của Philippines kiện Trung Quốc về yêu sách chủ quyền đường 9 đoạn của Bắc Kinh tại Biển Đông.
Phiên điều trần kín dự kiến kéo dài đến 30/11 với sự tham gia của các quan sát viên từ Nhật Bản, Singapore, Úc, Indonesia, Thái Lan và Việt Nam.
Báo The Guardian nói họ tin là Hoa Kỳ đã khước từ yêu cầu của Anh đề nghị được quan sát phiên xử vì Anh không có dính líu gì tới chủ quyền lãnh thổ tại khu vực này.
Hiện chưa rõ Bộ Ngoại giao Anh định quan sát toàn bộ phiên xử hay không.
Hồi tháng Tám năm nay Ngoại trưởng Anh kêu gọi tự do hàng hải và hàng không tại khu vực có tranh chấp ở Biển Đông nhưng không chỉ trích Trung Quốc.
Ông Philip Hammond nói rằng Anh quan tâm rất nhiều tới sự ổn định tại Biển Đông và không đứng về bên nào trong các tranh chấp chủ quyền.
"Chúng tôi muốn việc tuyên bố chủ quyền được giải quyết bằng các biện pháp thông qua luật lệ chứ không phải sức mạnh, theo cách phù hợp với ổn định và hòa bình lâu dài cho khu vực, tự do đi lại trên biển và trên không, và phù hợp với luật pháp quốc tế," ông Hammond nói trước cử tọa là sinh viên tại Bắc Kinh.
Hồi giữa năm 2014, Bộ Ngoại giao Anh tiết lộ đã nói chuyện với Trung Quốc để nêu quan ngại về việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD-981 trên Biển Đông.
Quốc vụ Khanh của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Hugo Swire khi đó ra tuyên bố nói việc hạ đặt giàn khoan ở “vùng biển tranh chấp” đã dẫn tới “căng thẳng gia tăng” trên biển và rằng Anh đã “nêu vấn đề với chính phủ Trung Quốc ở cấp bộ”.
Trong chuyến thăm Anh hồi đầu năm 2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói với Thủ tướng David Cameron rằng Việt Nam muốn tăng cường hợp tác với Anh trong các lĩnh vực quốc phòng và an ninh.
Về vấn đề tranh chấp trên Biển Đông, Tuyên bố chung của hai bên chỉ lặp lại những lập trường quen thuộc như ‘đảm bảo tự do hàng hải’ và ‘giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế’.
http://www.bbc.com/vietnamese/world/2015/11/151126_anh_muon_tham_du_phien_xu_bien_dong
Trung Quốc đầu tư vào điện hạt nhân ở Anh
- 21 tháng 9 2015
Theo một thỏa thuận mới ký, Trung Quốc sẽ đầu tư vào dự án nhà máy điện hạt nhân Hinkley Point ở Anh, trong đó chính phủ Anh đóng góp 2 tỷ bảng.
Bộ trưởng Tài chính Anh George Osborne hiện đang thăm Trung Quốc.Ông nói thỏa thuận mới đạt được với nước chủ nhà sẽ thúc đẩy dự án mà công ty năng lượng Pháp EDF làm chủ đầu tư nhưng bị chậm trễ lâu nay.
Ông bộ trưởng cũng cho rằng nó sẽ giúp hợp tác ngày càng sâu rộng giữa Anh quốc và Trung Quốc trong việc xây dựng các nhà máy điện nguyên tử.
EDF hoan nghênh thỏa thuận nhưng chưa nói bao giờ sẽ tái khởi động dự án.
Hồi đầu tháng công ty này thừa nhận dự án ở Hinkley, Somerset, đáng ra phải bắt đầu sản xuất điện vào năm 2023, sẽ bị chậm trễ.
Hồi tháng Hai công ty này nói chưa quyết định có đầu tư vào nhà máy này hay không.
Dự án đầu trong 20 năm
Dự án nhà máy điện hạt nhân tổng trị giá 24,5 tỷ bảng Anh là dự án điện hạt nhân đầu tiên của Anh quốc trong 20 năm nay và dự tính sẽ hoạt động trong khoảng 60 năm.Khoản 2 tỷ bảng mà chính phủ cam kết sẽ được lấy từ nguồn Chương trình phát triển hạ tầng của nhà nước, vốn có nhiệm vụ cung cấp tài chính cho các dự án khó huy động vốn tư nhân.
EDF mãi không tìm được đầu tư cho dự án Hinkley, mà theo chính phủ sẽ cung cấp 7% nhu cầu năng lượng của Anh quốc bắt đầu từ 2023.
Vincent de Rivaz, giám đốc điều hành công ty EDF Energy, nói thông báo của ông bộ trưởng tài chính là "tiến bộ nhằm đạt quyết định đầu tư cuối cùng" vào dự án.
Thế nhưng giám đốc khoa học của tổ chức môi trường Greenpeace, Tiến sỹ Doug Parr thì nói khoản cam kết của ông George Osborne đồng nghĩa với ký kết thảm họa về lâu về dài.
Ông nói: "Thay vì buộc hai thế hệ người tiêu dùng Anh phải trả hàng tỷ bảng cho các công ty của chính phủ nước ngoài, ông Osborne cần đầu tư vào một hệ thống năng lượng mềm dẻo, thông minh và sạch, đủ cung cấp điện năng cho nước Anh trong thế kỷ 21 mà không để lại cả núi chất thải phóng xạ".
Bộ trưởng Năng lượng Anh Amber Rudd nói với báo Financial Times bà muốn Bắc Kinh nắm vai trò chủ đạo trong việc xây các nhà máy điện nguyên tử mới ở Anh.
Bà Rudd cũng cho hay Trung Quốc sẽ chỉ đạo xây dựng một nhà máy điện do nước này thiết kế ở Bradwell, Essex.
Công đoàn Unite hoan nghênh việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân của chính phủ nhưng cho rằng không nên cho phép Trung Quốc xây dựng nhà máy ở Anh vì công nghệ hạt nhân của nước này "chưa được kiểm chứng".
http://www.bbc.com/vietnamese/world/2015/09/150921_uk_china_nuclear_plant
Bạn vàng: Khi tư bản cần tiền cộng sản
- 21 tháng 10 2015
Nhìn từ góc độ sự kiện và báo chí, ngày đầu của chuyến thăm cấp nhà nước đưa ông Tập Cận Bình và phu nhân Bành Lệ Viện tới Anh là ngày trời đẹp khác thường.
Hôm qua thứ Ba, tiết thu ở London có chút nắng chứ không mưa ào ạt như hôm nay.Nhờ thế mà đoàn xe ngựa sơn son thiếp vàng của Hoàng gia Anh chở vị thượng khách Trung Quốc vào Điện Buckingham long lanh hẳn lên.
Báo Anh cũng nhìn ngắm trang phục của bà Bành Lệ Viện, ca sỹ mang quân hàm cấp tướng Quân Giải phóng, và so sánh với bộ áo đỏ thắm của Kate, Nữ Công tước xứ Cambridge, phu nhân của Hoàng tử William.
Bà Bành thay mấy bộ đồ nhưng đều là màu kem, màu sáng, còn cô Kate mặc màu đỏ trong bữa quốc yến.
Có tờ báo chạy tựa 'Kate's little red look' (xem trên trang The Sun ở dưới).
Câu này ngoài nghĩa đen là 'váy đỏ' còn ám chỉ giới quý phái Anh 'liếc duyên với nước Trung Hoa Đỏ'.
Nhưng khi bước vào lâu đài Westminster, ông Tập không nói 'Đảng ta, nhân dân ta' mà nhắc đến câu "dân vi quý" của Trung Hoa cổ đại để tỏ ra không lép vế trước một nền dân chủ lâu đời, uy nghi.
Bài phát biểu của ông bằng tiếng Trung toát lên vẻ nhã nhặn và nếu có chút gì tỏ ra uy quyền thì đã bị lời dịch của một phụ nữ Anh làm mềm hẳn đi.
Nét mặt ông David Cameron khi ngồi nghe không được thoải mái, tự nhiên.
Chủ tịch Quốc hội Anh, ông John Bercow khi đón chào ông Tập đã nhắc khéo "vị khách châu Á trước ngài được mời phát biểu tại đây là bà Aung San Suu Kyi".
Ông Tập không nói được tiếng Anh nên có vẻ giữ ý trong các tình thế bắt tay, chào và chụp ảnh chung.
Bên cần tiền...
Sang ngày thứ Tư, London đổ mưa và tin về vụ hãng thép vốn Ấn Độ, Tata Group sa thải vài nghìn nhân viên tại Anh sau khi đổ lỗi cho "hàng rẻ nhập về từ Trung Quốc" đã chiếm lĩnh báo chí, truyền hình.
Nói cho công bằng, cảnh "tư bản đi cầu cạnh cộng sản" để nhận tiền đầu tư không phải chỉ xảy ra với Anh.
Theo báo The Guardian, trước Anh thì Pháp và Đức cũng đã mong có được "quan hệ đặc biệt" để nhận đầu tư, đơn đặ̣t hàng từ quốc gia hơn một tỷ dân do 80 triệu đảng viên cộng sản làm chủ.
Trang Telegraph điểm ra các công trình hợp tác Anh - Trung, từ xe bus chạy điện đến công viên giải trí Paramount Pictures, nhà máy điện hạt nhân Hinkley Point...tổng cộng trên 46 tỷ USD.
Trung Quốc đã đầu tư ra khắp nơi và chuyện vào Anh xem ra không lạ.
Nhìn vào sức mạnh Trung Quốc, có lẽ ta nên biết ơn hàng trăm triệu người dân còng lưng trong hàng vạn công xưởng mỗi ngày để kéo đoàn tàu kinh tế toàn cầu chạy không ngừng.
Ô nhiễm và lãng phí thì có thật đấy nhưng cỗ máy đó ngưng chạy thì nhiều nước khốn đốn.
Anh thoát suy thoái kinh tế nhưng các vấn đề cơ bản vẫn còn.
Như sự mất cân đối Nam - Bắc về kinh tế.
Bộ trưởng Tài chính George Osborne hy vọng đưa hỏa xa cao tốc của Trung Quốc vào nối khu đô thị phía Bắc nước Anh, nơi các ngành truyền thống như dệt may, khai khoáng, điện than sa sút từ hàng chục năm qua.
Ông Osborne đã bị giới thức giả phê là "đặt cược vào Bắc Kinh nhiều quá" khi mà kinh tế Trung Quốc đang có các dấu hiệu nguy hiểm.
Hiện điều gây tranh cãi nhất là quyết định cho Trung Quốc tham gia dự án điện hạt nhân Hinkley ở Somerset, miền nam nước Anh.
Nhưng nhìn vào các hình ảnh đăng tải, ai cũng thấy, Hinkley đã quá cũ kỹ vì dùng công nghệ của thập niên 1960.
Kế hoạch hiện đại hóa cơ sở này bao năm nay bàn mãi mà không xong vì cả Anh và đối tác Pháp đều thiếu tiền.
Nay, Trung Quốc sẽ tham gia chừng 1/3 vốn, gây ra quan ngại về an ninh năng lượng.
Về mặt truyền thông, chuyến đi gây ngạc nhiên nhưng cũng là dịp để báo giới Anh nêu ra các chủ đề nhân quyền, tự do tôn giáo ở Trung Quốc.
Đài BBC trong ngày đã chạy một phóng sự của John Sudworth, phóng viên từ Thượng Hải, không rõ bằng cách nào mà đến được một tu viện của các nhà sư Tây Tạng ủng hộ Dalai Lama để nêu chuyện cấm đoán tôn giáo.
Trong khi báo chí Hong Kong viết về chuyến thăm của ông Tập sang Anh, BBC Tiếng Trung lấy bình luận từ cả những thanh niên trong phong trào Ô Vàng.
Có lẽ cảm thấy báo chí Anh không 'tâm phục khẩu phục' trang Hoàn Cầu cảnh báo đừng trông đợi quan hệ 'bạn vàng' (golden friendship) biến thành 'cuộc tình nở rộ' (full-blown love affair) giữa Trung Quốc và Anh.
Vì có vẻ như chuyến đi hiện ra nhu cầu thực dụng quá rõ của hai bên.
Chưa kể, như Willy Lam bình luận từ Hong Kong, Trung Quốc rất mong chuyến thăm của ông Tập 'thành công' sau chuyến thăm sang Hoa Kỳ bị cho là không ra sao.
...bên cần hào nhoáng
Nhưng dù sao thì nhu cầu cần Trung Quốc là có thật ở Anh.Vì Anh có trình độ công nghệ nhưng thiếu cả tiền và nhân lực (bởi lao động bản địa già đi) để làm các dự án lớn.
Mà đối tác có hai thứ đó là Trung Quốc.
Nếu không nhanh chân thì dân Trung Quốc cũng lão hóa, sức sản xuất giảm.
Phái mời mọc đầu tư từ Trung Quốc có lẽ đã nghĩ vậy nên hơi vồn vã quá, khiến một phần dư luận thấy lố.
Còn về các giá trị của cuộc sống thì phần vốn nhỉnh hơn vẫn đang thuộc về Anh và một số nước châu Âu.
Cũng không phải từ bây giờ giới giàu có từ Nga, Trung Đông và Trung Quốc mới thích sang Anh làm ăn, sinh sống.
Ngoài môi trường sống còn khá sạch, có trật tự, nhân quyền, pháp luật, Anh vẫn giữ các nghi lễ cổ kính tạo ra cho người giàu cảm giác được làm sang.
Ở Nga và Trung Quốc vốn đã diệt hết hoàng gia thì nhu cầu hoài cổ này lại còn cao hơn nữa.
Nhớ lại Hoàng đế Phổ Nghi đã từng bị bắt cho đi cải tạo rồi buộc phải vào Đảng để chứng tỏ nước Trung Hoa Mới ưu việt.
Nên chăng ta cứ coi như họ chỉ muốn có thêm một trải nghiệm thú vị như đi thăm bảo tàng hay trường quay Hollywood mà thôi.
Vì thế giới này sau một thời nháo nhào thì các thứ tân và cựu hóa ra lại bổ sung cho nhau, đôi khi nghịch cảnh, đôi khi hài hòa.
Đằng sau đó thì luôn luôn là chuyện đồng tiền đi liền quan hệ mà thời nào cũng thế.
http://www.bbc.com/vietnamese/forum/2015/10/151021_uk_china_pomp_and_money
VIỆT NAM CHÙM KHẾ ĐỘC
Mới đây, ca sĩ Mỹ Kyo York đã chia sẻ trên trang cá nhân của mình về chuyện "dở khóc dở cười" khi đi máy bay ở VN thu hút sự chú ý của cư dân mạng.
Mới đây, trên trang facebook cá nhân, nam ca sĩ Mỹ Kyo York vừa chia sẻ câu chuyện về những thói hư, tật xấu của người Việt Nam khi đi máy bay. Đây là những sự việc diễn ra thường ngày được Kyo York ghi chép sau mỗi hành trình bay của mình. Ngay sau khi đăng tải, status đã nhận được gần 30 ngàn lượt like và hàng ngàn comment bình luận.
Xếp hàng chỉ dành cho những ai không đủ trình “giành hàng, giật lối”… đôi khi còn bị cho là “những kẻ thích thể hiện văn hóa, vì ai mà không vội” thế là chẳng bao giờ có một hàng thẳng.
Mang dao kéo, chất lỏng, gà vịt bị chặn tại hải quan, nhưng không hiểu sao cua biển bò lóc nhóc trên máy bay khi đã cất cánh trên bầu trời, chưa kể mùi cá mắm và các mùi lạ mà không ai biết phải xử lý thế nào.
Sợ nhất cái cảnh, mấy ông bụng thì bự mà khoái cởi trần trùng trục trên máy bay, ngồi gần đã sợ mà còn nói to, văng vãi ướt đầy đầu…
Sợ hơn là mấy ông không thể ý thức được rằng đôi vớ và đôi chân đầy đầu…
Sợ hơn là mấy ông không thể ý thức được rằng đôi vớ và đôi chân mình có "mùi hương" lấn át hơn cả mùi của hãng nước hoa “chờ - nel” nên vẫn vô tư gác lên phía trước hoặc vắt đôi vớ (tất) lên giữa kẻ ghế của người ngồi trước như ở nhà riêng.
Sợ hơn là mấy ông không thể ý thức được rằng đôi vớ và đôi chân mình có "mùi hương" lấn át hơn cả mùi của hãng nước hoa “chờ - nel” nên vẫn vô tư gác lên phía trước hoặc vắt đôi vớ (tất) lên giữa kẻ ghế của người ngồi trước như ở nhà riêng.
Mắc cười nhất là khi tiếp viên thông báo: “Xin quý khách vui lòng đừng đi lại trong lúc này” thì có người đứng lên đi lại rồi mạnh miệng bảo “mắc vệ sinh không cho đi, đi ở ghế cho chúng mày dọn à?”
Nguy hiểm nhất là mấy bác tò mò ngồi cạnh cửa thoát hiểm, máy bay đang o o trên không trung, bỗng nhiên nổi hứng muốn ngắm trăng sao gió mát gì đó tự nhiên thò tay mở cửa, may là phát hiện kịp… (hú hồn hú vía).
Trường hợp máy bay vừa hạ cánh, Cơ trưởng thông báo xin vui lòng không sử dụng điện thoại cho đến khi tín hiệu máy bay dừng hẳn và đèn bật sáng… Thì các cặp tình nhân: kẻ trong khoang, người ngoài đứng đón cứ vô tư mở điện thoại tám “Em mới đáp, mới đáp… Anh đợi em chút xíu nha”, “Anh mới xuống phi trường, em ở đâu…” Làm như họ kiềm chế đợi nhau 1,2 phút là bật ngửa ra xỉu vậy… hoặc trường hợp ngược lại cũng vậy máy bay đang cất cánh: “ Alo, vậy thôi nha, có gì em về mình gặp nhau, giờ em lên bầu trời rồi chút nữa là mất sóng điện thoại không nói được đâu, nhớ anh quá à… chụt”.
Tội nhất là ai ngồi gần mấy người say rượu mà còn không biết điều, hà hơi, ói mửa, dựa ngủ mà còn chửi thề với người bên cạnh…
Có trường hợp thấy thương hơn là trách, khi máy bay vô vùng thời tiết xấu, giật giật mới mấy cái, có chị nhảy dựng lên khóc lóc “cho em xuống, cho em xuống đi… em không muốn chết…” – Bộ mấy trăm hành khách muốn chết lắm hay sao chị. Bình tĩnh chút đi… mấy đứa con nít đi cùng nhìn phản ứng của chị mà khóc ré lên …
Người ta đã thông báo dặn dò không được lấy áo phao bên dưới ghế ngồi khi chưa có tín hiệu cho phép, thì cứ vô tư thò tay xuống dưới lấy, khi bị nhắc nhở thì đối đáp “kiểm tra xem có không, lỡ quên để chỗ của tôi, xảy ra tay nạn ai chịu trách nhiệm” – Rồi! bó tay.
Sợ nhất là đi máy bay mà lọt vô một nhóm người thiếu lịch sự, lên máy bay như nhà của mình, nói chuyện như một cái chợ, chuyến bay ngắn 1,2 tiếng mà tưởng như dài hàng thế kỷ vì bị tra tấn bởi câu chuyện của ông này bà kia, tám um xùm từ khi cất cách cho đến lúc đón taxi về nhà.
Ngồi nhầm số ghế là cố ý - vì muôn ngàn lý do: thích ngắm cảnh, muốn ngồi gần bạn, gần người đẹp, đơn giản vì thích ngồi không đúng số ghế…
Điều tối kỵ lên máy bay mà toàn nói chuyện thảm họa, tai nạn về máy bay như trong phim một cách vô tư đối với một số nước có thể bị xử phạt và cấm bay.
Còn hàng ngàn tình huống khác như: đeo phone trong lúc máy bay cất cánh - bị nhắc nhở thì chửi lại tiếp viên, trường hợp cự cãi, đánh nhau , chửi lộn, đánh ghen, xách nhằm hành lý, trộm cắp cũng có chứ không phải không … Những trường hợp Kyo tôi nói không loại trừ hãng hàng không nào, vì tất cả đều có thể xảy ra…
Liệt kê ở đây để cho quý vị đã từng bay, chưa từng bay hoặc mơ ước được bay… nếu có dịp bay thì biết mà hạn chế những tình huống xấu ảnh hưởng đến mọi người xung quanh nếu mình từng gây ra mà chính mình cũng không biết.
Mọi hành vi của bạn sẽ nói lên giá trị của con người bạn, vì vàng bạc kim cương, vải vóc,… chỉ là thứ ngụy trang cho đến khi bạn thể hiện hành vi của mình.
Ngay sau khi đăng tải, các chia sẻ của Kyo York đã nhận được nhiều phản hồi tích cực của cư dân mạng. Đại đa số ý kiến cho rằng những tình trạng này rất hay thường xuyên xảy ra ở Việt Nam và ý thức đi máy bay của người Việt Nam vô cùng kém.
Bạn Hoàng Anh cho rằng: "Là người Việt Nam khi đọc được những dòng này của Kyo York tôi cảm thấy rất xấu hổ. Chuyện đi máy bay đã thể hiện tính cách "bần nông", thiếu văn minh của người Việt. Hi vọng chúng ta sẽ có ý thức tốt hơn để không tiếp tục tái diễn những điều này nữa".
Cùng chung quan điểm, bạn Ngọc Lan cho rằng: "Còn rất nhiều lí do khác ngoài những lí do Kyo York đã kể. Thực sự ý thức đi các phương tiện giao thông công cộng của người Việt Nam vô cùng tồi tệ, cảnh chen lấn, xô đẩy, tư lợi cá nhân xảy ra thường ngày. Cảm ơn anh vì những dòng chia sẻ rất thẳng thắn và tâm huyết trên".
Chàng ca sĩ người Mỹ Kyo York là một con người rất yêu quê hương đất nước Việt Nam, khi đến dải đất hình chữ S công tác và du lịch, anh đã cảm mến và ở lại đây nhiều năm. Ngoài việc tham gia các hoạt động trong showbiz, Kyo York đã tham gia rất nhiều dự án từ thiện để giúp đỡ bà con, người dân khó khăn ở những cao, vùng dân tộc thiểu số. Các dự án của anh hướng đến việc xây dựng các trường học từ thiện, cung cấp các nhu cầu yếu phẩm cho người dân, cung cấp giống và cây trồng để người dân phát triển kinh tế.
Du khách đến VN được khuyên "phải biết tự bảo vệ tính mạng"
(VienDongDaily.Com - 27/10/2015)
Xấu hổ vì thói xấu đi máy bay của một số người Việt
Nói chuyện điện thoại, nói to, để con la hét, khóc lóc mà không dỗ, hút thuốc... trên máy bay là những tật xấu của nhiều người Việt khi đi máy bay.
A lô, đang hạ cánh nhé!
Theo quy định, hành khách chỉ được sử dụng điện thoại sau khi máy bay dừng hẳn nhưng khi vừa đáp xuống sân bay và máy bay còn lăn bánh trên đường băng thì hầu hết hành khách người Việt đều mở điện thoại và nhắn tin, gọi điện cho người thân để thông báo mình đã hạ cánh.
A lô, đang hạ cánh nhé!
Theo quy định, hành khách chỉ được sử dụng điện thoại sau khi máy bay dừng hẳn nhưng khi vừa đáp xuống sân bay và máy bay còn lăn bánh trên đường băng thì hầu hết hành khách người Việt đều mở điện thoại và nhắn tin, gọi điện cho người thân để thông báo mình đã hạ cánh.
Nhiều người thản nhiên dùng điện thoại khi máy bay đang bay, hay gọi điện oang oang khi máy bay đang cất, hạ cánh.
Một cư dân mạng tên Tuấn Linh chia sẻ: Cách đây 2 hôm mình bay từ TP.HCM ra HN, máy bay bay tới HN do thời tiết xấu, bay mấy vòng trên bầu trời rồi trở lại Huế, lúc máy bay chuẩn bị hạ cánh, cái cô bé bên cạnh dáng người mẫu, mặt diễn viên nhận được điện thoại, chuông đổ liên hồi. Cô ấy không nghe. Bên cạnh mình là cái cô người Mỹ nhìn cô mặt diễn viên kia không thiện cảm. Lúc sau tiếng chuông điện thoại lại đổ, cô kia nghe máy, bảo là đang hạ cánh ở Huế bla bla... Thế là cái cô Mỹ cạnh mình nhoài người sang định giựt điện thoại cô kia và nói: "Ọp phôn ..ọp phôn".
Cô Mỹ phàn nàn với tiếp viên, cô tiếp viên xinh đẹp nhắc nhở. Cô kia tức quá bảo, chị có giỏi thì tắt hộ em cái, rồi đưa cái máy lên, hoá ra cái máy hỏng màn hình đen thui... Cô Mỹ lắc đầu vẻ không hài lòng. Máy bay vừa hạ cánh một cái tức là chưa dừng hẳn thì đằng sau hàng loạt chuông điện thoại reo lên. Mấy bạn Tây bên cạnh xì xồ đủ kiểu, cái cô người Mỹ bên cạnh mình mặt đần ra chả hiểu chuyện gì, mình cũng vậy mặt cũng thộn hết cả lên...
Trước đó, một hành khách tên Kim Ngân kể, một lần cô đi du lịch, có một bác ngồi gần cô không hề tắt điện thoại trong suốt cả chuyến bay. Khi cô nhẹ nhàng nhắc thì bác cự cãi: “Bác để trong túi chứ có mở ra đâu”.\
Một cư dân mạng có nick K.Vchia sẻ: Một lần chị bay đi công tác, ngồi bên cạnh là một anh chàng cao to. Từ khi lên máy bay là miệng anh ấy điện thoại không ngừng với đối tác về một sân golf rất đẹp ở Sóc Sơn. "Thế rồi, anh quay sang em mời em cùng đi với anh ấy. Rồi chưa kịp chờ em nói gì, anh đã điện thoại cho một đối tác khác, giọng oang oang vang vọng cả khoang... Từ khi đặt bờ mông xuống ghế, anh đã gọi khoảng 10 cuộc, may quá, máy bay đã chạy taxi, anh dừng lại. Có lẽ do quá mệt, anh bèn nằm dang hai chân hai tay ra, em thề là cái ghế to thế mà anh đạp cả vào chân em, miệng gào xin một cái mền. Anh kể về tài sản của anh... Rồi anh ngả ghế ra cái rầm, ô hay máy bay vừa cất cánh thôi mà, chưa ổn định độ cao. Và anh lăn ra ngủ, tiếng anh ngáy yêu không chịu được. Rồi tiếp viên phục vụ món ăn, anh vẫn ngủ nên không chỉnh ghế và tiếp viên cũng ngại không nhắc. Anh chợt tỉnh dậy, quơ lấy cái khăn ăn đeo vào cổ và ăn tất tần tật những gì dọn ra, xỉa răng tanh tách, miệng ngậm tăm và vẫn tán tỉnh em. Rồi anh dùng khăn lau mặt, lau cổ, lau gáy, lau lưng như mới tắm xong rồi anh lại ngủ ngáy o o hồn nhiên".
Một hành khách khác tên Mỹ Uyên kể, trong một chuyến du lịch, bay cùng cô từ TP.HCM ra Phú Quốc có một cô gái rất xinh, dáng đẹp, da trắng, ăn mặc rất sành điệu. Khi máy bay đang trên không, cô gái này vô tư mở điện thoại rồi nói rất to: “Alo, em đang bay. Đang bay qua biển anh nhé”. Ngay lập tức, tất cả hành khách trên máy bay quay lại nhìn cô như người ngoài hành tinh, nhiều người bấm bụng cười.
Hút thuốc
Hiện nay, hầu như tất cả các chuyến bay của một số hãng hàng không đều là chuyến bay không hút thuốc, kể cả thuốc lá điện tử. Tuy nhiên một số hành khách vẫn "phớt lờ" quy định này và trốn vào buồng vệ sinh để hút thuốc. Chị T.Y, 22 tuổi, một tiếp viên hàng không, cho biết dù đã phát loa thông báo nhưng nhiều người vẫn không bỏ được cơn ghiền thuốc dù chuyến bay chỉ trong vòng 2 giờ đồng hồ. ;Người ngoại quốc nói ban đêm Việt Nam không có chỗ đi chơi an toàn, còn ban ngày thì đi đâu cũng sợ.<
SÀI GÒN - Trước tình trạng giật đồ, chém người cướp của diễn ra như cơm bữa mỗi ngày khiến du khách nước ngoài e ngại, các công ty tổ chức du lịch và các cơ quan công lực đang tăng cường khuyến cáo nhằm giúp du khách chủ động hơn trong bảo vệ tài sản và tính mạng. Nói chung thì du khách được khuyên không nên đi riêng lẻ, rất nguy hiểm. Một phó thủ tướng cũng đã nêu ra sáu điều gây lo sợ cho người ngoại quốc khi đặt chân đến Việt Nam.
Trong mấy ngày qua, chỉ tại Sài Gòn và liên quan đến người ngoại quốc, người ta được biết có một tên cướp phóng xe như bay, giật túi xách của hai du khách người Mã Lai Á ở quận 3; một du khách Đức bị chém và cướp tiền vào rạng sáng. Còn du khách gốc Việt bị cướp là chuyện hiển nhiên. Tin tức về những vụ cướp này đang khiến người ngoại quốc rất ngần ngại khi đến Việt Nam.
Vào chiều thứ Hai, công an phường 6, quận 3 bắt Dương Thiện Tính, 29 tuổi, vì tội cướp một cặp nam nữ người Mã Lai Á đang đi bộ trên lề đường và có mang túi xách. Tính đã áp sát và ra tay giật túi xách của nữ du khách rồi bỏ chạy. Nhờ có cảnh sát phát hiện và rượt theo, cuối cùng Tính bị đạp ngã xe và bị còng tay. Chiếc túi xách bên trong có một điện thoại iPhone 5 và 100 đô Singapore được trao trả lại cho nạn nhân.
Ông Lã Quốc Khánh, Phó Giám Đốc Sở Du Lịch, cho biết trong chín tháng từ đầu năm nay, tại thành phố Sài Gòn không thôi đã xảy ra 124 vụ cướp giật, xâm phạm tài sản liên quan đến du khách ngoại quốc, điều này khiến họ có tâm lý bất an khi du lịch. Đó chưa kể những du khách bị cướp tài sản nhưng không đủ thời gian trình báo, hoặc ngại việc bất đồng ngôn ngữ và rồi lại gặp phiền toái với công an.
"Chúng tôi đang triển khai các trạm thông tin về những điểm đến, thực trạng an ninh tại các khu vực cho du khách," ông Khánh nói với báo chí trong nước hôm thứ Hai vừa qua. "Ngoài các khách đi theo tour có hướng dẫn viên, khách đi lẻ cũng phải được cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết để họ tự bảo vệ mình."
Các hãng lữ hành cũng đưa ra khuyến cáo cho những du khách đi chơi đêm. Ông Phan Huê, giám đốc công ty du lịch Vòng Tròn Việt cho biết, nhiều du khách đến Việt Nam phàn nàn ngoài việc không có chỗ chơi đêm thì ra đường là điều làm họ cảm thấy mất an toàn. Họ sợ gặp phải những tình huống chèo kéo, đeo bám, móc túi, cướp giật.
Hôm 19/10, hai du khách người Đức khi đang ngồi hóng mát ở khu vực bờ kè kênh Tàu Hủ đã bị một nhóm thanh niên dùng dao chém thương tích rồi cướp tiền và tài sản chấn động dư luận.
"Tôi khuyến cáo du khách khi ra đường không mang theo tài sản quý giá, túi xách, nữ trang, máy ảnh, để tránh những rủi ro," ông Huê khuyên.
Bà Đặng Linh Chi, giám đốc công ty du lịch Sắc Việt, cho biết, khi đặt tour, các khách nước ngoài cũng thường hỏi bà về tình hình an ninh trật tự ở mỗi vùng miền có trong lịch trình. Bà cho biết khách Tây Phương rất chú trọng đến vấn đề an toàn và họ sẽ e ngại nếu cảm thấy tình hình không tốt.
Mỗi khi khách hỏi như vậy, bà đều giải thích ở mỗi nơi ngoài những khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp thì cũng tồn tại tệ nạn. Theo bà Linh Chi, điều quan trọng là du khách nắm được thông tin, biết tự bảo vệ tính mạng và tài sản của mình bằng cách tuân thủ các quy định của nước sở tại, không đi chơi quá khuya, nên đi theo nhóm.
Ông Lã Quốc Khánh cho rằng vấn đề an ninh cho du khách không chỉ một ngành làm được mà cần sự vào cuộc của nhiều cơ quan chức năng. Trong số các khuyến cáo được nhiều nước sử dụng cho du khách, việc tránh đi quá khuya một mình cũng thường được đề cập.
Trong mùa hè năm nay, Phó Thủ Tướng CSVN Vũ Đức Đam từng nhìn nhận với báo chí rằng du khách có ít nhất sáu nỗi sợ khi đến Việt Nam. Đó là:
- Tình trạng ăn xin bám theo du khách và ăn cắp vặt
- Thức ăn thiếu vệ sinh và thiếu an toàn
- Nhiều rác rưởi, thiếu nhà vệ sinh sạch
- Và bất lịch sự trong lời nói, cử chỉ.
Sau khi nên sáu điều trên, ông Đam nhận xét về tình trạng thiếu văn hóa của người Việt như sau, “Chúng ta có thể nghèo nhưng nếu làm những điều đó tốt thì không chỉ đưa du lịch lên mà còn đưa văn hóa lên, giúp đất nước phát triển.”
Trung Quốc thì vừa ô nhiễm vừa lo bị nổ hóa chất, Thái Lan thì sợ nổ bom, Campuchia thì sợ chính trị bất ổn dễ bạo động, rốt cuộc Việt Nam, luôn được quảng cáo là một đất nước thân thiện, nhiều điểm du lịch hấp dẫn và ẩm thực phong phú trở thành điểm đến lý tưởng.
Tuy nhiên điều đó chỉ đúng ở ban ngày.
Đến hẹn lại ra… vỉa hè uống bia
Còn sau 12 giờ đêm, hàng quán đóng cửa, các điểm vui chơi tắt hết đèn, mọi con đường chìm vào bóng tối, chỉ còn lưa thưa những quán café, quán nhậu và bia vỉa hè còn hoạt động. Điều đó với người Việt Nam thì có vẻ bình thường, nhưng với khách du lịch nước ngoài – những người vốn đã quen với những hoạt động vui chơi về đêm thì họ thật sự “không có nơi nào để tiêu tiền.” Không ít người than phiền rằng cứ đến đêm họ không biết đi đâu ngoài việc đến quán cafe hoặc... ra vỉa hè uống bia cỏ.
Thực tế những chỗ giải trí mở cửa qua 12h cũng có, nhưng theo không ít du khách thì đó thường là những quán bar lớn nằm trong các khách sạn 5 sao với chi phí đắt đỏ, bởi vậy nó "nằm ngoài tầm với" của các du khách đi du lịch theo tour hoặc du lịch "bụi".
Đó không phải là vấn đề của riêng nhóm bạn của Roberto, mà là sự bất cập trong công tác khai thác du lịch tại các thành phố lớn ở Việt Nam. Phát biểu trên tờ Thanh niên, ông Trần Vĩnh Lộc – Giám đốc Công ty du lịch Lạc Hồng - cho biết các du khách nước ngoài ở Việt Nam 5 ngày mà thường chỉ tiêu khoảng 100 USD (không kể phí tham quan vì nằm trong giá tour) để mua vài đồ lưu niệm rẻ tiền. Còn ban đêm, họ chẳng có gì để tiêu tiền, mặc dù ở nước ngoài đó là khoảng thời gian họ tiêu nhiều tiền nhất trong ngày.
Không có gì chơi, lấy đâu ra chỗ tiêu tiền?
Nguyễn Quốc Kỳ, Tổng Giám đốc Công ty du lịch Viettravel, mỗi ngày một khách quốc tế đến Việt Nam “tiêu không quá 50 USD, trong khi đó người Việt đến Thái Lan có thể tiêu đến 100 USD/ngày và đến Hàn Quốc, Nhật Bản thì có thể tiêu đến 120-150 USD/ngày.” - Ông nhận xét trong cuộc phỏng vấn của báo Thanh Niên.
Vậy vấn đề là gì? – Theo ông Kỳ, hiện du lịch Việt Nam mới chỉ khai thác du lịch theo tour, còn các khoản thu ngoài xã hội thì chưa tốt, các hoạt động vui chơi giải trí ban đêm ở Việt Nam chưa nhiều, nếu có thì cũng chưa phù hợp với đại đa số du khách. Ngoài ra, việc khống chế thời gian vui chơi về đêm với các quán bar, vũ trường và các quán café cũng khiến không chỉ du khách mà cả những người Việt Nam sau ca làm tối không có nơi để “xả stress”.
Xã hội có người làm ca 3 (ca tối và đêm), thì chẳng nhẽ họ không được phục vụ sao? Tại sao một thành phố lại để nó chết vào ban đêm như thế?” – trích lời ông Đoàn Kỳ Thanh, sáng lập viên khu Zone 9 từng rất nổi tiếng tại Hà Nội - trả lời trên Thanh Niên.
Nghịch lý thay khi Việt Nam luôn muốn thu hút nhiều du khách nước ngoài nhưng lại đặt ra hàng loạt rào cản với các dịch vụ giải trí. Tại các thành phố du lịch nổi tiếng, cuộc sống về đêm luôn có sức sống rất đặc biệt, dù Tp. HCM và Hà Nội không thể tạo ra một sức sống như vậy thì ít ra cũng nên tạo không gian để cuộc sống về đêm được phát triển. Điều này sẽ tạo ra nguồn doanh thu còn lớn hơn rất nhiều tiền bán tour hay phí tham quan.
Theo Thanh Niên
Thanh Thanh (Depplus.vn/MASK)
Không có chỗ chơi đêm, du khách nước ngoài buộc phải… đi ngủ sớm
14:00 | 25/08/2015
Sau 12 giờ đêm, khi tất cả những điểm vui chơi ngoài trời đều tắt đèn, khách du lịch nước ngoài chỉ có duy nhất một lựa chọn: Uống bia rồi về nhà ngủ.
Trung Quốc thì vừa ô nhiễm vừa lo bị nổ hóa chất, Thái Lan thì sợ nổ bom, Campuchia thì sợ chính trị bất ổn dễ bạo động, rốt cuộc Việt Nam, luôn được quảng cáo là một đất nước thân thiện, nhiều điểm du lịch hấp dẫn và ẩm thực phong phú trở thành điểm đến lý tưởng.
Tuy nhiên điều đó chỉ đúng ở ban ngày.
Đến hẹn lại ra… vỉa hè uống bia
Còn sau 12 giờ đêm, hàng quán đóng cửa, các điểm vui chơi tắt hết đèn, mọi con đường chìm vào bóng tối, chỉ còn lưa thưa những quán café, quán nhậu và bia vỉa hè còn hoạt động. Điều đó với người Việt Nam thì có vẻ bình thường, nhưng với khách du lịch nước ngoài – những người vốn đã quen với những hoạt động vui chơi về đêm thì họ thật sự “không có nơi nào để tiêu tiền.” Không ít người than phiền rằng cứ đến đêm họ không biết đi đâu ngoài việc đến quán cafe hoặc... ra vỉa hè uống bia cỏ.
Không có chỗ chơi ban đêm, du khách nước ngoài chủ yếu chỉ uống bia rồi đi ngủ sớm (Ảnh: VOV)
Thực tế những chỗ giải trí mở cửa qua 12h cũng có, nhưng theo không ít du khách thì đó thường là những quán bar lớn nằm trong các khách sạn 5 sao với chi phí đắt đỏ, bởi vậy nó "nằm ngoài tầm với" của các du khách đi du lịch theo tour hoặc du lịch "bụi".
Đó không phải là vấn đề của riêng nhóm bạn của Roberto, mà là sự bất cập trong công tác khai thác du lịch tại các thành phố lớn ở Việt Nam. Phát biểu trên tờ Thanh niên, ông Trần Vĩnh Lộc – Giám đốc Công ty du lịch Lạc Hồng - cho biết các du khách nước ngoài ở Việt Nam 5 ngày mà thường chỉ tiêu khoảng 100 USD (không kể phí tham quan vì nằm trong giá tour) để mua vài đồ lưu niệm rẻ tiền. Còn ban đêm, họ chẳng có gì để tiêu tiền, mặc dù ở nước ngoài đó là khoảng thời gian họ tiêu nhiều tiền nhất trong ngày.
Không có gì chơi, lấy đâu ra chỗ tiêu tiền?
Nguyễn Quốc Kỳ, Tổng Giám đốc Công ty du lịch Viettravel, mỗi ngày một khách quốc tế đến Việt Nam “tiêu không quá 50 USD, trong khi đó người Việt đến Thái Lan có thể tiêu đến 100 USD/ngày và đến Hàn Quốc, Nhật Bản thì có thể tiêu đến 120-150 USD/ngày.” - Ông nhận xét trong cuộc phỏng vấn của báo Thanh Niên.
Vậy vấn đề là gì? – Theo ông Kỳ, hiện du lịch Việt Nam mới chỉ khai thác du lịch theo tour, còn các khoản thu ngoài xã hội thì chưa tốt, các hoạt động vui chơi giải trí ban đêm ở Việt Nam chưa nhiều, nếu có thì cũng chưa phù hợp với đại đa số du khách. Ngoài ra, việc khống chế thời gian vui chơi về đêm với các quán bar, vũ trường và các quán café cũng khiến không chỉ du khách mà cả những người Việt Nam sau ca làm tối không có nơi để “xả stress”.
Zone 9 - Một trong những "chốn ăn chơi" rất hút khách trước kia ở Hà Nội. (Ảnh: VNEconomy)
“Xã hội có người làm ca 3 (ca tối và đêm), thì chẳng nhẽ họ không được phục vụ sao? Tại sao một thành phố lại để nó chết vào ban đêm như thế?” – trích lời ông Đoàn Kỳ Thanh, sáng lập viên khu Zone 9 từng rất nổi tiếng tại Hà Nội - trả lời trên Thanh Niên.
Nghịch lý thay khi Việt Nam luôn muốn thu hút nhiều du khách nước ngoài nhưng lại đặt ra hàng loạt rào cản với các dịch vụ giải trí. Tại các thành phố du lịch nổi tiếng, cuộc sống về đêm luôn có sức sống rất đặc biệt, dù Tp. HCM và Hà Nội không thể tạo ra một sức sống như vậy thì ít ra cũng nên tạo không gian để cuộc sống về đêm được phát triển. Điều này sẽ tạo ra nguồn doanh thu còn lớn hơn rất nhiều tiền bán tour hay phí tham quan.
Theo Thanh Niên
Thanh Thanh (Depplus.vn/MASK)