Monday, November 28, 2016

TRẬN MẬU THÂN *BÍ MẬT THÀNH ĐÔ *SƠN TÙNG *




VAI TRÒ CỦA HỒ CHÍ MINH VÀ VÕ NGUYÊN GIÁP TRONG TRẬN MẬU THÂN – Bùi Anh Trinh

2Trích sách “Giải Mã Những Bí Ẩn Trong Chiến tranh Việt Nam” của Bùi Anh Trinh.
Theo bài tùy bút “Bác Hồ với tết Mậu Thân năm ấy” của Vũ Kỳ, Bí thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đăng trên báo Văn Nghệ, số báo tết Mậu Dần 1998:
Ngày 21-12-1967 ( Trước trận Mậu Thân 1 tháng 10 ngày ) : Văn phòng Trung ương điện sang mời Bác trở về dự hội nghị sẽ khai mạc vào sáng ngày 28-12-1967 ( Lúc này HCM đang “nghỉ dưỡng bệnh” ở Bắc Kinh ).
Ngày 23-12-1967 :  Máy bay đưa Bác đến vùng trời Hà Nội… Trước khi đi ngủ Bác gọi điện sang Văn phòng Quân ủy, hỏi sức khỏe của đồng chí Võ Nguyên Giáp – Lúc này đang nghỉ ở Hung Ga Ri – và nhắc gửi thiếp và quà cho vợ chồng chú Văn (VNG).  Bác nói : – Dịp nô-en và Tết dương lịch bên ấy như Tết ta ở bên mình. Tâm lý những người xa quê hương rất mong có một món quà của Tổ quốc.
Ngày 25-12-1967, Bác sang Hội trường Ba Đình chủ tọa cuộc gặp chúc mừng năm mới của đoàn ngoại giao Hà Nội.
Ngày 28-12-1967, Bộ chính trị họp phiên đặc biệt ngay bên nhà Bác Hồ.
Ngày 29-12-1967, Bác Hồ mời Bác Tôn đến cùng ăn cơm.
Ngày 30-12-1967, Bác lại dự họp Bộ chính trị.
Ngày 31-12-1967, Bác Hồ ra Phủ chủ tịch để thu thanh sẵn lời chúc mừng năm mới Mậu Thân ( Sẽ phát đi đúng 1 tháng sau ).
Ngày 1-1-1968, Năm mới, Bác đi thăm một số nơi bị máy bay Mỹ bắn phá tại Hà Nội…Buổi chiều Bác lên đường sang Trung Quốc.
Ngày 20-1-1968, đồng chí Lê Đức Thọ sang nói chuyện với Bác ( Tại Bắc Kinh ).
Ngày 25-1-1968, đồng chí Võ Nguyên Giáp đến trực tiếp báo cáo với Bác ( Tại Bắc Kinh, trên đường về nước ).  Sau này hồi ký của Tướng Giáp cho rằng ông trở về nước theo lệnh của HCM.  Nhưng sự thực ông về nước hay không là lệnh của Lê Duẩn chứ thời đó HCM cũng bị đày đi chữa bệnh tại Bắc Kinh giống như VNG.
Ngày 29-1-1968, lúc 12 giờ, tại Bắc Kinh.  Tiếng pháo nổ ran…cùng lúc từ chiếc đài bán dẫn, tiếng Bác Hồ vang lên sang sảng : “Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua…”…  Trong căn phòng vắng chỉ có 2 người ( HCM và Vũ Kỳ, hai bác cháu ngồi nghe lời chúc tết được thu trước đó 1 tháng )…!
Sự thật về Võ Nguyên Giáp trong trận Mậu Thân là như vậy, nhưng rất đáng tiếc là cho tới năm 2001, giáo sư Stephen Young viết ra quyển sách Lost Victory sau khi tham khảo các tài liệu của CIA và của Ngũ Giác Đài.  Ông đã viết về vai trò của Võ Nguyên Giáp như sau:
“ Vào mùa hè 1967, khi kế hoạch tổng công kích vào dịp tết đã được đặt ra, chiến lược gia hàng đầu của Hà Nội là Võ Nguyên Giáp đã tiên liệu, nỗ lực mà Lyndon Johnson để ứng phó vào cuộc chiến đã lên đến tột đỉnh.  Bổ túc cho nhận định này, Giáp viết thêm, Hoa Kỳ đã cạn khả năng để leo thang chiến tranh.  Xuất phát từ nhận định đó, Hà Nội cho rằng thời điểm đã chín mùi để họ giải quyết cuộc chiến Việt Nam”( Bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng, trang 177).
Giáo sư Stephen Young đã cho biết xuất xứ bài viết của Võ Nguyên Giáp : “Đầu tháng 10 năm 1967 Bunker gọi cho Tổng thống Johnson lưu ý về một tiểu luận do viên tướng Hà Nội là Võ Nguyên Giáp vừa mới in ra” (trang 176).
Chắc có lẽ giáo sư Stephen Young sẽ đau lòng lắm lắm khi ông biết được sự thực rằng không bao giờ các tướng lãnh hay chính trị gia CSVN phơi bày chiến lược hay sách lược của họ lên báo!  Không đời nào !  Trái lại tất cả những gì họ viết trên báo hoàn toàn là để đánh lừa dân ngu của họ.  Nhưng nếu các chiến lược gia Hoa Kỳ tin rằng đó là gan ruột của các nhà lãnh đạo CSVN thì các chiến lựơc gia này còn ngu hơn là dân ngu của CSVN.
Tiểu luận mà CIA và Ngũ Giác Đài đặt kính lúp vào soi mói là bài viết mang tựa đề “Chiến thắng vĩ đại, trách vụ to lớn” được đọc trên đài phát thanh Hà Nội liên tiếp trong 3 ngày 15,16,17 tháng 9 năm 1967.  Đây là bài viết do Lê Duẩn bắt Võ Nguyên Giáp viết lên để đánh lừa Ngũ Giác Đài trước khi Võ Nguyên Giáp cùng với vợ lên đường đi nghỉ mát dài hạn tại Hungaria ngay sau đám tang của Nguyễn Chí Thanh.  Lê Duẩn cho tung tin Võ Nguyên Giáp bị sốc vì cái chết của NCT nên phải đi nghỉ dưỡng sức. Mãi tới ngày 29-1-1968, tức là 2 ngày  trước khi trận Mậu Thân nổ ra mới cho về.
Khi tung bài viết đó lên đài phát thanh Lê Duẩn chỉ mong xí gạt được các bình luận gia báo chí của Hoa Kỳ chứ ông không hề mong CIA hay Ngũ Giác đài coi đó là chiến lược chiến thuật của các nhà lãnh đạo CSVN.  Thế mà chuyện đó đã xảy ra thật, có nằm mơ Lê Duẩn cũng không tưởng tượng ra nổi.
  Sở dĩ Lê Duẩn cho VNG và vợ đi nghỉ mát Tại Hung Ga Ri là để đánh lừa tình báo Hoa Kỳ.  Một khi Tướng Giáp và vợ ăn tết lại Châu Âu thì có nghĩa là chiến trường miền Nam chẳng có gì sôi động.  Trong khi đó Hà Nội tuyên bố hưu chiến trong 7 ngày tết.  Rõ ràng là chiến trường Miền Nam sẽ được yên lắng ít ra là trong mấy ngày tết.  Nhưng rồi Lê Duẩn kêu Võ Nguyên Giáp trở lại Hà Nội là để tháu cáy các chuyên gia HK:
Việc Tướng Giáp bất thần xuất hiện tại Hà Nội trong mấy ngày Tết khiến cho tình báo HK lại tin rằng chuyện đi nghĩ mát tại Hung chỉ là động tác giả, giờ đây thì động tác thật của ông ta là chỉ huy chiến trường Miền Nam.  Lần này Tòa Bạch Ốc và Ngũ Giác Đài càng mất hồn hơn nữa.  Đến nỗi ông trùm CIA tại Sài Gòn là Komer đã bị khủng hoảng thần kinh, Đại sứ Bunker buộc ông phải về Mỹ nghỉ ngơi trong 2 tuần.  Sau đó Tổng thống Jhonson đưa Komer đi làm đại sứ Hoa Kỳ tại Thổ Nhĩ Kỳ.  Trong khi trước kia Komer là Cố vấn an ninh Quốc gia Hoa Kỳ, một chức vụ rất quan trọng mà sau này Kissinger từng đảm nhiệm.
Sau năm 1975, Trung tâm Quân sử của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã mời Đại tá Hoàng Ngọc Lung, Trưởng phòng tình báo của Bộ tổng tham mưu QLVNCH viết về những điều mà ông rút ra được trong cuộc chiến.  Đại tá Lung đã viết quyển “The General Offensives 1968-1969”.  Trong đó ông thú nhận : Bài viết “Chiến thắng vĩ đại, trách vụ to lớn” của Võ Nguyên Giáp cũng góp phần vào sự sai lầm nghiêm trọng cho những chuyên viên phân tích tình báo của chúng ta.  Cái sai lầm nhất là tưởng rằng Giáp sẽ theo đuổi một cuộc chiến kéo dài trong nhiều năm nữa.  Với ý tưởng này, các chuyên viên của chúng ta kết luận rằng không thể có một cuộc tổng tấn công trong một thời gian gần được (Bản dịch của Kiều Công Cự).
Sau này hồi ký “Đại Thắng Mùa Xuân” của Tướng CSVN Văn Tiến Dũng, hồi ký “Mùa Xuân Toàn Thắng” của Tướng Võ Nguyên Giáp, hồi ký “Những Năm Tháng Quyết Định” của Đại tướng Tổng tham mưu trưởng CSVN Hoàng Văn Thái, tự truyện của Chủ tịch nước CSVN Lê Đức Anh và hồi ký “Những Kỷ Niệm Về Tổng Bí Thư Lê Duẩn” của Phó thủ tướng Trần Quỳnh đều xác nhận Tướng Giáp chỉ đứng bên lề của Bộ chính trị CSVN từ tháng 11 năm 1960 cho tới tháng 2 năm 1975.
Và đến năm 1976 Trung tâm Quân sử của Hoa Kỳ đã phổ biến tài liệu của Đại tá Hoàng Ngọc Lung, Trưởng phòng tình báo của BTTM/VNCH, xác nhận rằng không nên lấy các bài viết của ông Võ Nguyên Giáp hay quan điểm cá nhân của ông Võ Nguyên Giáp để làm căn bản khi nghiên cứu về cuộc chiến Việt Nam.
 Thế nhưng buồn cười là cho đến nay, và không biết đến bao giờ, mọi tài liệu sử học của Hoa Kỳ đều dựa trên căn bản Đại tướng Võ Nguyên Giáp là linh hồn của cuộc chiến chống Mỹ tại Miền Nam.
Nói cho cùng, nếu kéo Võ Nguyên Giáp vào thì sự thua của Mỹ đỡ nhục hơn bởi vì dầu sao Tướng Giáp cũng nổi tiếng thế giới nhờ “trận chiến Điện Biên Phủ”, một trận chiến do Tướng Vi Quốc Thanh của Trung Quốc chỉ huy ( Hồi ký “Điện Biên Phủ, Điểm Hẹn Lịch Sử” của Tướng Võ Nguyên Giáp ).
BÙI ANH TRINH

SƠN TÙNG KỂ CHUYỆN HỒ CHÍ MINH


Sơn Tùng kể chuyện Hồ Chí Minh




DANH NHÂN VIỆT. Ngày 27/4/2001, tại Trường Cán bộ Quản lý Giáo dục Đào tạo, nhà văn Sơn Tùng có buổi nói chuyện về chủ tịch Hồ Chí Minh với tựa đề "Theo con đường Bác Hồ". Nội dung buổi nói chuyện đã được lược ghi và tôi có thông tin từ ba nguồn. Bài viết dưới đây là từ nguồn blog Ba Sàm , tôi lưu lại làm tư liệu mà chưa có điều kiện đối chiếu so sánh (HK).


THEO CON ĐƯỜNG BÁC HỒ

Sơn Tùng kể


Xin giới thiệu, bác Sơn Tùng là nhà văn mà nhiều người đã biết đến, qua các tác phẩm của bác. Trong buổi nói chuyện hôm nay, bác sẽ cung cấp cho chúng ta những thông tin rất bổ ích. Mặc dù bác đang mệt, nhưng rất nhiệt tình với chúng ta, bác vẫn nhận lời nói chuyện với trường chúng ta hôm nay. Bây giờ tôi xin nhường lời cho bác Sơn Tùng.Kính thưa thầy Hiệu Trưởng
 
Kính thưa các thầy, các cô giáo


Trường cán bộ quản lý giáo dục đào tạo của cơ quan giáo dục, bất luận thời nào đi nữa, thì giáo dục vẫn là nền tảng quan trọng. Vì, không tôn sư thì không thể có Đạo được. Dù phong kiến, đế quốc, tư bản, xã hội chủ nghĩa đi nữa…nếu không trọng thầy, không yêu thầy học (muốn con hay chữ, phải yêu lấy thầy), là không phải đạo. Vì vậy, nói đến giáo dục, đã không có thì đành vậy, còn đã là có chữ thì phải biết ơn thầy. Làm đến ông vương, ông tướng cũng phải qua thầy học, làm nhà văn đi nữa thì trước hết phải yêu từ cô giáo vỡ lòng dạy mình từ buổi thiếu niên đến thầy dạy tiểu học, rồi phổ thông lại lên đại học…
Vừa qua thời tiết chuyển đổi đột ngột, ít khi nào sang tháng tư, qua tháng ba, thanh minh rồi, mà Hà Nội thời tiết 16 độ, cái thời tiết nó rất găng, như ngày hôm qua tôi tưởng không đến được nhưng vì đã nhận lời thầy Huấn từ mấy tuần trước. Sáng nay thầy Huấn đến cũng biết tôi đang nằm ngoạ thiền chứ không tọa thiền thì sáng nào tôi cũng làm, 2h sáng tôi ngồi thiền, 3h rưỡi sáng tắm nước nóng, dậy đọc sách, đến 5h nằm thiền điều trị vết thương sọ não.
Hai hôm nay tôi không ăn, hôm qua, do thời tiết đã đành, lại nữa có mấy cái hội nghị 11, 11b, rồi 12… mới bế mạc hôm qua. Thế thì những vấn đề này nó gắn liền với sự tồn tại, sự sống còn của đất nước. Vì Đảng ta là Đảng lãnh đạo đất nước từ năm 1930, làm nên những sự nghiệp rất lớn, trước hết là sự nghiệp cứu nước. Ba mươi năm chiến tranh, không ai muốn điều ấy làm gì. Người ta muốn làm nhà khoa học, làm nhà giáo… không ai muốn làm người anh hùng trong chiến tranh. Làm người anh hùng trong chiến tranh thì hàng nghìn, hàng vạn người ngã xuống. Đó là cái bất đắc dĩ của dân tộc.
Nhưng từ một phần tư thế kỷ nay, Đảng ta sa sút xuống đến mức không tưởng tượng nổi so với trước đây, nhân cách nhiều người cộng sản không còn. Nhân cách không còn, vì tham nhũng đến mức không thể chấp nhận.
Tuy nhiên, sự nghiệp của Đảng ta vẫn chói lọi thôi; nhân dân thì vĩ đại, nhưng những người có trách nhiệm trước Đảng, trước Nhân dân không giữ được nhân cách. Họ đem cái tham nhũng làm hại cho toàn Đảng, cho nhân dân ta. Mặc dù vậy, vị thế của dân tộc Việt Nam vẫn đứng ở vị trí lớn. Dù nó là nước nhỏ, nước nghèo, còn sự thực thì dân tộc ta, nhân dân ta, cái hưởng thụ về văn hoá, về tinh thần của dân ta so với các nước Đông Nam Á, với khu vực của ta, là cao. Vì ngay bây giờ ở Đại học Tổng hợp có cả đoàn sinh viên do ba giáo sư nổi tiếng ở Washington dẫn đầu sang ta để nghiêm cứu về Bác Hồ. Đoàn ở đây độ ba tháng, nay mới được tháng rưỡi, đã đi Tân Trào, Pắc Bó về. Đoàn gồm những sinh viên xuất sắc về sử Việt Nam và ba giáo sư đem theo cả gia đình con cái. Họ có mời tôi cùng đi nhưng vì sức khoẻ tôi không đi được.
Vấn đề trong mấy hội nghị trên là phe phái, phe cánh, mất đoàn kết trong lãnh đạo cao nhất. Như trước đây tôi có dịp nói được một phần sự hình thành nhân cách của Bác Hồ. Nói đến cái đó là trong cái nội gia đình của Bác. Nhân cách của con người ra đời, trước hết phải là gia đình, bước vào đời phát triển như thế nào bao giờ cũng bắt đầu từ gia đình, trường học. Nói trường học là có cả xã hội, có làng xóm quê hương. Tôi cố gắng nói một ý như vậy, ngắn hay dài tuỳ thuộc vào sức khoẻ. Nhưng trước hết tôi dành một số thời gian để nói về Đại hội 9 sắp tới đây.
Ngày 19 tháng 4 nay, ra Đại hội chỉ để quay phim, chụp ảnh, chứ mọi việc nó đã như bước một ở hội nghị Trung ương 12, hôm nay Trung ương nghỉ.
Tôi viết về đề tài Bác Hồ và danh nhân cách mạng rất quan tâm đến vấn đề từng con người có trách nhiệm đến vận mệnh quốc gia, từng sự kiện của đất nước thì Đại hội Đảng là một sự kiện lớn.
Ít nhiều thì tôi vẫn nhớ đến cái đại hội Đảng IV cuối năm 1976, hôm nay nhắc đến Đại hội IV năm 1976. Đại hội kết thúc chiến tranh 30 năm với nhiều hy vọng và chờ đợi bao nhiêu năm sau khi đuổi được đế quốc rồi, nhân dân sẽ trở lại cuộc sống yên bình, dù đói cơm rách áo đi nữa, thì cái vinh quang là của những con người chiến đấu vì dân tộc suốt bao nhiêu năm. Nhân dân có thể vẫn còn đói vì phải khôi phục kinh tế, khó mà no được, nhưng thể hiện được Nam, Bắc một nhà, hoà hợp dân tộc. Thắng là thắng đế quốc thắng ngoại xâm, chứ không có chuyện Bắc thắng Nam, Nam thắng Bắc. Một bà mẹ thờ cả hai sắc lính của hai con vì đất nước chia hai miền. Có cuộc xung đột ấy thì bà mẹ miền Nam thờ con là lính giải phóng và thờ cả người con ngã xuống nếu là lính quốc gia đi nữa, thì đó là cái nhất thời trong cái biến cố của dân tộc. Còn lòng mẹ cụ thể trong nhà phải có như bất cứ người Việt Nam nào trong hoàn cảnh đó.
Ông cha ta xưa đã có như vậy. Đánh xong giặc Nguyên thì Trần Nhân Tông đốt tất cả các văn bản là những gì có liên quan đến con người chia rẽ. Đốt để phục hồi lại cái hoà hợp dân tộc. Ai đã từng ra gươm chống lại dân tộc đến giờ phút ấy bỏ …Trần Hưng Đạo về Kiếp Bạc, vua Trần Nhân Tông lên núi Yên Tử đi tu, giao lại tất cả cho lớp người trẻ. Đội quân vinh quang trong chống xâm lăng sự nghiệp đến đó xong chỉ để lại người con rể của Hoàng triều là Phạm Ngũ Lão giúp vua giữ lấy cái truyền thống nề nếp từ trước. Nếu để Trần Hưng Đạo lại, vậy Trần Quang Khải thì sao, để ông con rể nhà Trần thì tiệu hơn, không có con ông này, con ông kia. Ông cha ta xưa đã làm như thế.
Nhưng ở đại hội 4 của ta thì khác đi, mười năm sai lầm làm kinh tế, không có áo may ô mà mặc. Họp chi bộ đem ra bình ai bắt thăm áo may ô hay săm xe đạp…Có khó khăn sau chiến tranh là dễ hiểu, nhưng người lãnh đạo phải nhìn thấy vấn đề. Tất cả vì Tổ quốc vì nhân dân, sau bao nhiêu năm kiệt quệ như thế này thì đoàn kết một lòng, kêu gọi sự giúp đỡ của các nước bạn và thế giới. Và mỗi người lãnh đạo phải sống như nhân dân, có trách nhiệm trước nhân dân. Đây lại không như thế, chúng tôi là những người chiến đấu ở miền Nam, tôi ngã xuống ở miền Đông Nam bộ, ở gần ông Nguyễn Hữu Thọ.
Ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt trận, đi dưới lá cờ nửa đỏ nửa xanh, lá cờ mặt trận nhưng nó vẫn mang cái hồn Tổ quốc bị chia cắt, chia đôi. Tấm gương của ông Nguyễn Hữu Thọ lớn lắm, một trí thức lớn. Và những người như Huỳnh Tấn Phát, nhà giáo Nguyễn Văn Đoá… chúng tôi đề nghị những người đó vào Trung ương. Trung ương Đảng ta là Đảng trí tuệ thì đưa những người trí tuệ ấy vào là xứng đáng. Nguyện vọng như vậy nhưng không được. Rồi đề nghị đưa lá cờ nửa đỏ nửa xanh vào bảo tàng thiêng liêng, bảo tàng lịch sử, nhưng cái bài học lịch sử ở Đại hội 9 này bây giờ nó mới vỡ ra. Họ chen vào Trung ương, để mà phá, xin lỗi, là những người vô học vào nắm chức quyền cao để mê hoặc nhân dân.
Năm 1960 kỷ niệm đảng ta 30 năm, Bác Hồ nói giữa nhà Hát lớn: Đảng ta là Đảng trí tuệ, Đảng văn minh rồi. Nói như thế tức là Đảng đã thấy rất dễ đi vào “giai cấp” hẹp hòi. Bây giờ họ sai lầm đến mức nói đi theo con đường Bác Hồ đã lựa chọn, có đi theo Bác đâu, Bác Hồ là: Đảng lao động, lao động trí óc, lao động chân tay, Nước ta là: nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Trước hết là Dân Chủ, còn xã hội chủ nghĩa là ước mơ, còn lâu lắm. Đức phật là: đưa con người trở về với sự công bằng, sự nhân ái mà đến nay đã 2600 năm chưa thực hiện được. Vậy mà làm sao hôm nay bỗng chốc trong vòng năm bảy chục năm đưa lại cái xã hội Cộng Sản có ngay được (?). Đó là lý tưởng, là ước mơ…Loài người đi hàng vạn năm rồi, làm sao lại có một thể chế có thể thay đổi tất cả chỉ trong vòng mấy chục năm thôi! Không phải.
Thế rồi, từ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà lại đổi thành Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa, rồi Đảng Lao Động thành Đảng Cộng Sản…những cái mà Bác Hồ đã đặt ra thì người ta xoá bỏ. Và năm đó họ định sau Đại hội 5 sẽ rời thủ đô vào Đắc Lắc. Dự kiến đó là của ông Lê Duẩn đã nói ở Vũng Tàu trong cuộc họp các cán bộ mở rộng. Nếu chuyện đó đã rồi thì ngày nay làm gì có kỉ niệm 1.000 năm Thăng Long sắp tới. Có phải cứ muốn chọn chỗ cho đế đô ở đâu thì chọn. Không phải ! Nó là cả bao nhiêu yếu tố hợp thành, hội tụ lại. Từ trong hang động Hoa Lư chuyển ra giữa đồng bằng sông Hồng này, đất Thăng Long này, là cả một hình thành, trưởng thành của dân tộc. Từ chỗ vua ở hang động, vua Lý Thái Tổ chuyển ra giữa thanh thiên bạch nhật, trên cái thế “Voi quỳ Hổ đứng”, cả cái Tam Đảo, cả cái Ba Vì chầu về đất thiêng, từ đông bắc Côn Sơn đều quay về đây cả. Thế mà định dời bỏ cái Hà Nội, cái Thăng Long như không. Không được! Rồi bỏ luôn quốc ca, may sao dân đấu tranh mãi mới giữ được cái Quốc ca. Người ta nói Quốc ca cũ không đủ tầm vóc Xã hội chủ nghĩa thì bỏ. Quốc ca là của hàng triệu con người. Thi mãi và chi rất tốn tiền mà chọn được 17 bài nhưng hát không ai chịu nghe cả. Cuối cùng lại trở lại bài “Tiến quân ca” của Văn Cao. Hồi đó người ta hiểu lầm, có lẽ ông Văn Cao “Nhân văn Giai phẩm” nên họ bỏ quốc ca, không phải! Ông Văn Cao không phải là cái lí do, mà vấn đề là ở chỗ họ muốn làm lãnh tụ, muốn đưa ra học thuyết, muốn vượt lên tất cả…Cụ Hồ là lạc hậu, là nho giáo, cỗ xe nho giáo ấy đã hết thời, miệng ông lãnh đạo nói thế.
Từ ông Tổng tư lệnh, Đại tướng phong ngày 28-5-1948 tại rừng Tuyên Quang, mà cả Quốc hội, Chính phủ phong Đại tướng đầu tiên cho một người trí thức, cử nhân luật, cử nhân kinh tế giỏi, là Chủ tịch Hội nhà báo năm 1937 là Võ Nguyên Giáp…đến phong trung tướng cho một ông giang hồ tứ chiêng, giang hồ tứ chiêng là lấy của nhà giàu chia cho người nghèo. Cái giang hồ của ông Nguyễn Phương Thảo tức Nguyễn Bình là thế, mà Bác Hồ giao nhiệm vụ cho ông Nguyễn Bình vào Nam lúc đó chưa phải là đảng viên, ông Bình xúc động quá nói:
- Thưa Bác, tôi chưa phải là đảng viên cộng sản, tôi vốn là đảng viên Quốc dân đảng, đi ra Côn Đảo bị giam chung với Trần Huy Liệu rồi chuyển sang và đi theo đường lối của Nguyễn Ái Quốc. Bác giao cho tôi vào phụ trách quân sự toàn miền Nam mà tôi chưa phải là đảng viên.
Bác Hồ nói với Nguyễn Bình:
- Tổ quốc trên hết! đảng viên ư? Tổ quốc trên hết. Đất lửa miền Nam chỉ có chú vào phụ trách quân sự toàn miền Nam mới tập hợp được các giáo phái.
Bấy giờ Nguyễn Bình vào Nam làm liên khu trưởng, Quân khu trưởng nhưng chưa phải đảng viên. Cho đến ngày 28-5-1948 ông được phong Trung tướng.
Bác sử dụng người có tài vào địa hạt nào, công tác nào là phát huy được cái đó. Nguyễn Bình tập hợp được nhiều giáo phái, thì đến hết năm 1947, Bác đánh một cái điện cho Bảy Viễn, tướng Bình Xuyên. Thế là Bảy Viễn kéo tất cả quân của ông ta ở rừng Sác đi theo Nguyễn Bình, nhập vào đại quân. Sau đó “có người” phá, chia rẽ giữa Bảy Viễn với Nguyễn Bình nên Bảy Viễn quay vào Sài Gòn nhận thiếu tướng của quân đội Pháp và tuyên bố: Nhận thiếu tướng nhưng không bao giờ đi đánh trận nữa mà ra làm khai thác gỗ. Những người đàn em của Bảy Viễn hỏi ông là: Không đi đánh nữa thì đàn em bao giờ được lên? Bảy Viễn nói: ta lỡ bước, ta đã hiểu Cụ Hồ nhưng không đi trọn được con đường của Cụ Hồ là vì “cán bộ” họ chia rẽ ta với Nguyễn Bình. Và ông ở vậy cho đến thời Ngô Đình Diệm lên diệt giáo phái thì ông mới sang Pháp. Tức là con đường Bác Hồ là con đường thu vén tất cả dân tộc vào, chứ không có giai cấp, không đặt giai cấp lên trên dân tộc, xã hội có giai cấp nhưng không đặt giai cấp lên trên dân tộc.
Đầu tiên khi về Pắc Bó, Bác nói với ông Đồng, ông Giáp, ông Lê Quảng Ba, ông Chu Văn Tấn, lúc đó, các ông gần gũi Bác, và cả ông Trường Chinh nữa, là “Gác cái khẩu hiệu giai cấp lại, bây giờ là vấn đề dân tộc, dân tộc không giải phóng được thì ngàn đời không thể giải phóng được giai cấp. Nhân dân ta là một khi Tổ Quốc lâm nguy thì ông địa chủ đến người cố nông, đều một lòng chống giặc, vì thế là vấn đề dân tộc giải phóng”. Thế nhưng Đại hội 4 chúng ta, thì nó trật từ cái này. Nếu nói là làm theo di chúc của Bác, không nói cái gì xa, Di chúc Bác để lại là phải chuẩn bị khi giải phóng Miền Nam. Cho nên trong Di chúc của Bác có câu:
- Cuộc kháng chiến chỗng Mỹ có thể còn kéo dài mấy năm nữa.
Các ông ấy lại đem bỏ cụm từ “mấy năm nữa” đi, cho là “còn kéo dài”. Lúc đó, trong bộ chính trị tất nhiên có người đưa ra, nhưng được Bộ chính trị thông qua: – Có khi Bác chủ quan. “mấy năm nữa” chắc gì?
Năm 1941, khi Bác về Pắc Bó có bài ca lịch sử kể từ đời Hồng Bàng đến các vua Hùng cho đến các đời vua… và cuối cùng nói “năm 1945 thì cách mạng hoàn thành”. Lúc đó có người tưởng Bác nói thế để động viên, không phải. Đến năm 1960 Bác ghi là “15 năm nữa sự nghiệp thống nhất hoàn thành”, vậy nên khi viết Di chúc Bác nói: -“Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài mấy năm nữa”, và thực tiễn xảy ra đúng là “mấy năm nữa”, nhưng lúc đó Bộ chính trị bỏ cụm từ: “mấy năm nữa”?!
Trong Nam thì phải lo kinh tế từ bây giờ, tức là lo công ăn việc làm, ngoài Bắc này thế nào trong ấy cũng phải như thế. Trước hết, sau khi kết thúc chiến tranh, việc đầu tiên là khôi phục kinh tế, tranh thủ sự viện trợ của bạn bè, nâng cao từng bước, chưa vội làm ăn lớn. Nhưng ta lại đề ra 15 năm nữa phải đuổi kịp Liên Xô, 20 năm năm nữa đuổi kịp Mỹ. Kịp cái gì? Nói cho oai thôi chứ một dân tộc 30 năm bao nhiêu lực lượng trẻ, khoẻ ra mặt trận, bao làng mạc, thành phố bị san bằng mà làm sao đề ra 15 năm vượt Liên Xô, 20 năm đuổi kịp Mỹ…thì xa lạ quá…
Mà Bác Hồ đã dặn rồi:- Ta đánh Mỹ là cái thế phải đánh, bởi vì Mỹ không từ bỏ ý chí xâm lược, ta phải đánh, đánh xong thì bắt tay với họ. Bác cố tránh để không xảy ra cuộc chiến tranh với Mỹ. Bác cho người viết thư cho Ngô Đinh Diệm. Lúc đó có hội nghị ba nước Đông Dương ở Phnôm Pênh, Bác định đến đó…có thể gặp Ngô Đình Diệm nhưng lúc đó Cabốtlốt thấy tình hình đó nó đảo chính ngay, diệt hai anh em Ngô Đình Diệm. Bây giờ nhiều đồng chí ở Miền Bắc còn nhớ Bác nói: – ông Diệm có cách yêu nước của ông ấy, đừng có gọi bằng thằng, người ta có tuổi rồi. Cách nhìn của Bác như vậy, sau này có học trò của Bác lầm tưởng rằng Bác nho giáo dĩ hoà vi quí, đâu có phải! Truyền thống của dân tộc ta là như vậy.
Trong Đại Hội 4 hạ tên nước, thay tên Đảng, nêu lên trong 5 năm nữa thì có tivi, có tủ lạnh cho nông dân. Những năm đầu tiên thấy được đời sống có nâng lên nhưng không …(đoạn này bị mất) 500 huyện là 500 pháo đài kinh tế, quân sự, dồn làng lại…Lúc đó cũng có nhiều đồng chí kiến nghị, đề nghị gặp Tổng bí thư Lê Duẩn, nói:
- Thưa đồng chí, xóm làng Việt Nam hình thành những cái làng văn hoá có từ hàng nghìn năm, có làng ít thì 300, 500 năm mà nay xoá những cái làng văn hoá cổ như thế thì mất hết. Văn hoá Việt Nam là văn hoá làng xã.
Xin lỗi, ông Lê Duẩn nói: Ngu, Ngu.
Thế là giáo sư Lê Văn Thiêm lủi thủi ra về. Còn giáo sư Trần Đức Thảo mắt thì cận, cả đời ông không đi đâu. Ông là nhà triết học, cả nhà toàn sách là sách, ông viết được cái gì thì đưa cho cụ Đồng đưa ra đăng báo ở nước ngoài (ông chỉ nói được thôi chứ không viết được bằng tiếng Việt nên công trình của ông là bằng tiếng Pháp). Ông được ông Duẩn mời lên để hỏi ý kiến, ông nói thẳng, nói thật ý kiến của ông, thì đuổi ông. Một ông mắt cận (là Trần Đức Thảo) ra đứng giữa đường Hoàng Diệu mà không biết đi đường nào là Phan Đình Phùng hay đi Điện Biên Phủ.
Nói lại (những chuyện này) để các thầy các cô biết và nhắc lại cái bài học lịch sử khi người đứng đầu mà sai lầm thì nguy lắm, sai một ly đi một dặm. Sai của ta nó ở trong trường thôi; sai của người đứng đầu của dân tộc thì nó sẽ đẩy lùi phải mất mười năm. Từ 1976 đến 1986. Đấy ! Phải đi đến Đại Hội đổi mới, bước đi phải thế nào, thế nào… sau Đại hội 6 thì đổi mới đấy nhưng chưa giải quyết được vấn đề. Vấn đề là con người lãnh đạo. Hôm nay thì nó như thế nào…xin thông tin cho các thầy các cô biết, sau ngày 19,20, Đại hội 9 công khai rồi ta cũng biết thôi, nhưng biết thì ta cũng chỉ biết vậy, còn bên trong của nó thì chưa nói hết được.
Hội nghị Trung ương 11,11b, gần đây 12 mới xong hôm qua, diễn ra sôi động quá.
Ở hội nghị 11a thì các cố vấn quyết định thi hành kỷ luật Tổng bí thư và kiên quyết cách chức trước thềm Đại hội 9. Về phía Tổng bí thư thì kiên quyết phản công lại cố vấn. Đó là nguy cơ chứ! Hôm nay thì giải toả được rồi, nhưng nay nó lại như thế thì con cái nó sợ vô cùng chứ!. Sợ vì đất nước đang đứng trong một tình thế bất ổn, trong khi Tây Nguyên thì như vậy.
Nhưng trước hết ta “Tiên trách kỷ…”. Cửa ngõ Tây Nguyên như vậy, sau khi giải phóng miền Nam thì ông nào cũng trở về ở thành phố, thỉnh thoảng lên nói vài câu rồi vội vàng về để tắm bình nước nóng lạnh, chứ có ai ở với đồng bào đóng khố, khổ…nên không ai ở đó với họ. Rồi đi lấy đất đai của họ bán cho các nhà kinh doanh, mua rẻ đất của họ, bán đắt cho các nhà kinh doanh lậpôtrang trại. Như vậy, họ thấy đất đai của cha ông họ mất dần đi, không còn như thời chống Mỹ.
Vừa rồi ông Nguyên Ngọc, tác giả “Đất nước đứng lên”. Ông có làm một công trình điều tra cơ bản về Tây Nguyên, mà ông làm từ 1999, 16 trang, một tiếng kêu về Tây Nguyên. Có những nhà văn họ nghiêm cứu đi thẳng vào một vấn đề lớn như vậy mà không nghe. Bây giờ xảy ra rồi mới hỏi: -À, ông Nguyên Ngọc nói hay, thì còn gì nữa? Khi thấy hay thì việc đã rồi. Tất nhiên có bàn tay bên ngoài, nhưng không kín trên thì không bền dưới, trong không ấm thì ngoài không êm. Tôi đã nói câu này với ông Đỗ Mười, có cả ông Nguyễn Đức Bình là giáo sư (tuy gọi là giáo sư đó, nhưng người ta nói giáo sư gì mà chẳng có công trình nào cả, nhưng ông Nguyễn Đức Bình là uỷ viên Bộ chính trị…). tối nói tại số 4 Nguyễn Cảnh Chân, văn phòng tổng bí thư ngày 14/12/1994. Tôi nói rằng:
Tổng bí thư mà để người ta “đánh” tôi, người ta bảo tôi là người xuyên tạc Bác Hồ. Tôi xin với Trung ương cho tranh luận công khai trên báo Nhân Dân và các phương tiện thông tin. Tôi đưa tư liệu của tôi, tôi nói Bác Hồ sinh ra trong một gia đình nhà quan, tôi đưa tư liệu nhà quan. Còn các nhà nghiêm cứu Hồ Chí Minh học thì nói Bác Hồ sinh ra trong gia đình bần cố nông, thì đưa tư liệu bần cố nông ra, để người đọc phân định. Nói tôi lợi dụng đề tài Bác Hồ để hạ thấp Bác Hồ, nói Bác Hồ có người yêu là hạ thấp Bác Hồ, nói Bác Hồ thành phần bóc lột sinh trong nhà quan là hạ thấp Bác Hồ, Bác Hồ là người của giai cấp…
Ông tổng bí thư mời tôi lên ngày 14/12/1994, tôi đề nghị một phương án là cho đăng công khai lên báo bằng văn bản, bằng tư liệu, chứ đừng lý luận chung chung. Ông nói cụ Hồ thế này…tôi bảo cụ Hồ thế này…tất nhiên bây giờ ta phải tôn trọng cái hiện tại nhưng đứng về góc độ nghiêm cứu vĩ nhân thì ta nên xem xét lại. Sự thật tôi đưa ra ngày (sinh của Bác) này là tôi có lá số Tử vi, các cụ để lại giấy thời đó, mực thời đó. Bây giờ mà cứ ép tôi là buộc tôi phải đưa ra nước ngoài. Tôi không phải loại người dùng nước ngoài để ép bên trong. Không. Tôi không phải là loại người đó. Bố mẹ con cái có việc gì thì nói trong nhà, chứ không phải chạy sang hàng xóm chửi đổng về. Tôi không thích cái đó. Nhân lúc đó tôi mới nói với đồng chí Đỗ Mười là phải “kín trên bền dưới”. Tôi đã nói ở trường Chí Linh (Hải Dương) ngày 20/11/1990, ngày nhà giáo, là trong Bộ chính trị ta chỉ có vài người đếm trên đầu ngón tay là không đụng đến đồng tiền bát gạo của dân, mà tôi nói trước Đại Hội 7, còn tất cả là tham nhũng hết. Có người đề nghị bắt tôi, tôi nói bắt cũng được, không sao cả, tôi nói vì sự sống còn của dân tộc, của Đảng. Tôi nói là có căn cứ, có tài liệu, không vu khống ai cả, nếu vu khống thì lôi vào tù. Tôi nói “trong ấm ngoài êm” đây không phải là chuyện gia đình nữa, mà là chuyện đất nước, trong không ấm thì ngoài không êm. Nội bộ trong vương triều mà lục đục thì nổi lửa biên cương ngay.
Ví dụ như trong chúng ta đây này, bọn tham nhũng, bọn cơ hội thì Trung ương bợ đỡ, còn anh em trí thức, các nhà khoa học thì đồng lương thấp đến như thế này…đối xử như thế này…Tôi có bảng thống kê đây, tôi là nhà văn, hiện nay những nhà văn cơ hội thì được sống sướng thế này…còn nhà văn này…nhà văn này…bốn thế hệ ở trong một cái buồng 18m vuông, như là nhà văn Siêu Hải, nhà văn Mạc Phi, nhà văn Minh Giang…hàng loạt, họ toàn tham gia đi trước cách mạng và kháng chiến cả, toàn trí thức cả, học Albert Sarraut có, học trường Bưởi có mà bây giờ như thế này…bốn thế hệ ở trong một cái nhà như thế…Nhưng sau đó, nói đáng tội thì nhà văn Siêu Hải, được phân nhà. 

Ông năm nay cũng gần 80 tuổi rồi, ông ở 66 Hàng Chiếu có 18m vuông mà ở gác ba, 9 người, một ông đại tá pháo binh. Lúc đó ông Đỗ Mười mới nói với với ông Lê Khả Phiêu (bấy giờ thường trực Bộ chính trị) giải quyết cho ông cái nhà ở Nghĩa Tân. Còn ông Mạc Phi, chuyên gia Tây Bắc, chưa kịp giải quyết cái nhà cho ông thì ông đã chết mất rồi. Ngày 19 tháng 5 này là giỗ 5 năm ông Mạc Phi. Ông bị quy là “Nhân văn giai phẩm” bị đầy lên Tây Bắc rồi không về nữa, ở lại trên đó nghiêm cứu về văn hoá Thái, viết tiểu thuyết. Ông thì “nghiện” tiếng pháp nên đọc toàn bằng tiếng Pháp, ở dưới này gửi báo Europe lên cho ông đọc thì theo dõi ông và nghi ông là việt gian thực sự rồi. Đến khi Bác Hồ lên thăm Tây Bắc, có Đại Tướng tư lệnh Võ Nguyên Giáp lên, thì ở cơ quan “phân công” ông lên Mường Tè. Ông nghe đài đưa tin Bác lên thăm Tây Bắc, ông phàn nàn ông không được ở nhà để đón Bác.
Có ông anh em cọc chèo với ông mới nói nhỏ cho ông biết Bác lên thăm Tây Bắc, để đảm bảo “an toàn” (cho Bác) người ta điều chú lên đó. Bác về rồi mới cho ông trở lại. Tất nhiên sau này ông cũng được giải oan nhưng có những sai lầm đến như vậy.
Tôi nói từ Đại hội 4, sau kết thúc chiến tranh ta sai về đướng lối dẫn đến tình trạng này kéo dài cho đến Đại hội 6. Đại hội 6 lúc đó ông Lê Đức Thọ muốn làm tổng bí thư, không ai nói, nhưng tất cả mọi người đều biết rõ ông ấy là ai. Lúc đó, cụ Trường Chinh đi Liên Xô về rồi, ông Lê Đức Thọ gọi ông Vũ Quang (lúc đó là trưởng ban đối ngoại trung ương, nguyên bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn), nói:
Báo cáo lại tình hình ông Trường Chinh trao đổi với bên kia thế nào?
Ông Vũ Quang nói:
- Tôi là thành viên của đoàn, đi phục vụ Tổng bí thư, báo cáo cái gì với ai phải được Tổng bí thư cho phép. Đồng chí là Uỷ viên Bộ chính trị phụ trách tổ chức thì các đồng chí làm việc với nhau, tôi là thành viên của đoàn, chỉ là uỷ viên Trung ương phụ trách đối ngoại, báo cáo như thế này là phạm kỷ luật.
Ông Thọ lại gọi đến Nguyễn Khánh, lúc đó Nguyễn Khánh là Chánh văn phòng trung ương Đảng. Khi đồng chí Trường Chinh xem danh sách dự kiến bầu Trung ương thì thấy gạt Vũ Quang ra. Ông nói:
- Đảng chủ trương trẻ hoá lãnh đạo, tại sao Vũ Quang trẻ như thế này lại gạt ra?
Ông Thọ nói: – Vũ Quang có vấn đề, người ta đang tố cáo!!!
Trước tình hình lúc này, cụ Trường Chinh ở lại làm Tổng Bí thư, ông Duẩn mất rồi. Mà đồng chí Trường Chinh làm Tổng bí thư, thì cụ Đồng làm chủ tịch nước, Đại tướng Võ Nguyên Giáp sẽ làm Thủ tướng. Ông Thọ rất sợ lộ cả quá trình của ông âm mưu. Nói để ta biết, hậu quả của nó đến cả Đại hội 9 này đã ra văn bản rồi.
Ai cũng biết ông Giáp, cử nhân luật kinh tế, năm kết thúc chiến tranh ông mới 64,65 tuổi thôi. Ông đã từng chỉ huy trong chiến tranh, đã tổ chức lực lượng. Ông biết thế nào là “mũi nhọn”, thì ông bị bịt lại. Lúc bấygiờ ông Tạ Quang Bửu còn sống, ông có viết bài báo Tổ quốc “Những mũi nhọn là đồng chí Võ Nguyên Giáp, phó thủ tướng phụ trách khoa học kỹ thuật. Viết bài đó là hơi sớm, thì tất nhiên cuối cùng ông Bửu bị (ông Thọ) gạt đi. Thế là đồng chí Võ Nguyên Giáp, đồng chí Phạm Văn Đồng, các ông làm sao mà biết được ý đồ của họ? Từ đó dẫn đến chuyện “cố vấn”. Trong điều lệ Đảng chưa bao giờ có chuyện cố vấn. Đại hội 6 này, ông Thọ biết ông không được nữa rồi, ông mới đặt ra chức cố vấn. Các đồng chí đọc cuốn “Những kỷ niệm về Lê Đức Thọ”, mới xuất bản nhân dịp giỗ ông ấy, đồng chí Nguyễn Đức Tâm viết bài trong cuốn này. Ông tâm viết :- Tại sao trong Đại hội 6 lại chọn ông Nguyễn Văn Linh lúc đó chưa là Uỷ viên Bộ chính trị (ông là uỷ viên Bộ chính trị từ Đại hội 4 nhưng mà bị gạt ra), còn khi được chọn làm Tổng bí thư thì ông chỉ là Uỷ viên Trung ương. Ông Nguyễn Đức Tâm nói công khai trong sách đó. Tức là Thọ biết mình không được nữa thì chọn một người mà ai cũng chấp nhận được là ông Linh. Thế là ông ấy đặt ra chức “cố vấn” để ông ấy cùng được ở trong với ông Trường Chinh và ông Phạm Văn Đồng. Và họ đưa ra cái văn bản Võ Nguyên Giáp là con nuôi chánh mật thám Pháp ở Đông Dương…ghê gớm quá!
Một ông Tổng tư lệnh đánh xong giặc rồi, hiện nay đất nước thanh bình lại tạo dựng là con nuôi mật thám! Họ làm như thế thì lòng tin nào còn? Ông Giáp đâu có phải như thế! Ông thống soái toàn bộ tướng lĩnh, làm việc với toàn những người sống bằng lương tâm, sống bằng danh dự chứ, sao lại con nuôi mật thám được. Đâu có phải cái chức nhỏ, đây là Tổng tư lệnh đánh thắng ba tên đế quốc. Ông Maxim, một trong những người trong toán “Con nai”, đội quân Việt – Mỹ năm 1945, ở với Bác Hồ, năm nay ông đã 89 tuổi rồi. Ông xin trở lại Tân Trào trước khi chết. Đưa đoàn này đi là bà Trần Thị Minh Châu, đại tá cựu chiến binh Kim Son, ông Giáp cũng trực tiếp cchỉ đạo đội quân ấy. Đánh xong Nhật, rồi Pháp, rồi Mỹ, nay lại dựng lên chuyện ông Giáp là con nuôi mật thám Tây, lại bảo:
- Con nuôi mật thám nên mới học trường Albert Sarraut, chứ con nhà nghèo ở tận Quảng Bình làm sao vào được trường Albert Sarraut?
Ông Giáp lúc đó học Albert Sarraut, nói chuẩn bị chọn ông sang Pháp vì ông học giỏi quá. Nhưng ông đi làm cách mạng từ 14,15 tuổi. Vợ ông Giáp là tiến sỹ Nguyễn Thị Quang Thái, bị tra tấn chết ở nhà tù Hoả Lò. Chị vợ là Nguyễn Thị Minh Khai, bị chém ở Hóc Môn. Thân sinh Đại tướng Võ Nguyên Giáp là cụ Võ Quang Nghiêm bị Pháp tra tấn chết ở nhà lao Phủ Thừa, thi hài cụ bị vứt ra ngoài, một ông Hoàng, cháu nội vua Thành Thái là Mệ Hiền lượm thi hài cụ Võ Quang Nghiêm đi chôn, đánh dấu lại để giữ mộ thân sinh Võ Nguyên Giáp, cho đến giải phóng miền Nam gia đình mới đi tìm mộ được.
…(đoạn này nghe không rõ) Ban chấp hành Trung ương tán thành đều bị bác bỏ. Đó là tháng 10-1930, một hội nghị cán bộ lấy dự thảo luận cương chính trị của đồng chí Trần Phú làm đường lối (Hội nghị này chưa thông qua được luận cương). Bác Hồ bị đẩy lùi vào bên trong. Năm 1935, Đại hội Đảng lần thứ nhất họp ở Ma – Cao, một lần nữa Hà-Huy-Tập là Tổng bí thư, xoá tư tưởng, xoá đường lối của Nguyễn Ái Quốc. Mãi đến năm 1941, Bác Hồ về nước cho đến năm 1951 Đại hội 2 lại bị cái “thiểu số phục tùng đa số”, lấy “tư tưởng Mao” vào điều lệ nên đến năm 1951 cụ Hồ lại bị “khoá”. Bởi vì Hồ Chủ tịch chỉ còn là Chủ tịch Ban chấp hành chứ không còn là Chủ tịch Đảng. Bác quyết điều gì không còn nữa mà phải được Ban chấp hành thông qua.
Quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh được mở ra từ năm 1941 khi cụ về Pắc Bó, thành lập mặt trận Việt Minh, làm được cách mạng tháng Tám, tuyên bố giải tán Đảng ngày ngày 11-10-1945, giải tán Đảng cộng sản Đông Dương , sau này thành lập Đảng lao động thì Lào trả về Lào, Miên trả về Miên, không có liên bang gì ở chỗ này. Mỗi dân tộc có quá trình hình thành riêng của nó, còn viện trợ quốc tế với nhau thì bình đẳng, chứ để nước lớn trùm lên Lào, Miên là sinh chuyện. Ngay từ lúc đó, cụ Hồ đã nhìn thấy vấn đề như thế, bây giờ nhìn vào tình hình nào là sắc tộc, nào là tôn giáo…cụ Hồ không có đặt vấn đề liên bang, Miên là Miên, Lào là Lào, Ta là Ta. Đến năm 1951, cụ Hồ chỉ còn là Chủ tịch ban chấp hành, mới nghe qua thì không thấy rõ, trước cụ Hồ là chủ tịch Đảng, mà chủ tịch Đảng thì khác Chủ tịch Ban chấp hành. Ví dụ trong việc Bác ký hiệp ước sơ bộ 6-3-1946 không cần triệu tập Ban chấp hành, Bác quyết định ký. Lúc đó, Bác chỉ sửa đổi hai chữ. Một bên, Bác là “Việt Nam độc lập” một bên Saiterny (là đại diện CH Pháp) là “Việt Nam tự trị”. Cuối cùng nửa đêm mùng 5 tháng 3 Bác đánh thức Bí thư là ông Vũ Đình Huỳnh dậy, bảo là đã tìm được lối thoát, đi báo ông Hoàng Minh Giám chuẩn bị để ký. Bác chọn được một chữ mà hai bên đều chấp nhận được, đó là “Nước Việt Nam tự do”. Pháp rất sợ “độc lập” vì cả châu Phi họ sẽ đòi độc lập, cho nên nó chỉ muốn “Việt Nam tự trị” thôi. Bác bảo Tự trị là không được, độc lập thì Pháp không chịu nên chọn “Nước Việt Nam tự do” (Có chính phủ riêng, có quân đội riêng, có ngoại giao riêng, có tài chính riêng) nhưng tên nước là “Việt Nam tự do” thế thì Sain Terny ký ngay ngày 6 tháng 3 (1946). Trước tình hình ấy mà chờ triệu tập Ban chấp hành để quyết định thì chết, bao giờ mới triệu tập kịp, mỗi người một nơi.
Cho đến năm 1951 đưa “tư tưởng Mao” vào điều lệ, ghi là “Học thuyết Mác Lênin, chiến lược Stalin, tư tưởng Mao Trạch Đông, tác phong Hồ Chí Minh; thì bác Hồ nói:
-Thôi, các ông ấy là đủ cả rồi, Mác – Lênin – Stalin – Mao Trạch Đông…là đủ rồi, còn cái “tác phong Hồ Chí Minh” thì miễn cho…
Chả lẽ lúc đó Bác lại nói “Tôi không có tư tưởng à”. Lúc đó cũng chưa có nói đạo đức, mà chỉ nói Bác là “tác phong cần kiệm liêm chính”, giản dị thế thôi, chứ Bác không có lý luận.
Điều lệ ghi: “Thiểu số phục tùng đa số”. Bác Hồ ra họp chấp hành thì suốt đời bao giờ cũng “thiểu số”, mà thiểu số thì phải “phục tùng đa số” đó là “cái khoá”. Vậy là Bác Hồ chỉ được làm những cái mà Ban chấp hành chủ trương, chứ Bác không có chủ trương nữa, Về cải cách ruộng đất thì Bác Hồ không chấp nhận cái cải cách ruộng đất kiểu này, mà Bác đã cho ra Sắc lệnh giảm tô, giảm tức 25% từ năm 1949. Tất cả các đồng chí lúc đó lòng dạ ai cũng yêu quý Bác Hồ, nhưng lại tôn sùng ông Mao là “nhà lý luận Trung Quốc”, là cái mẫu của Châu Á” đem bê vào (điều lệ). Các đồng chí với lấy cái “mẫu” của Trung Quốc vào nên mới đưa ra đưa vào điều lệ Đảng như thế, và phải làm “thổ cải”. Bác Hồ không tán thành cải cách ruộng đất, Bác chỉ “trưng thu, trưng mua, hiến điền” chứ không chủ trương đấu tố. Lúc đó mấy đồng chí trong Bộ chính trị, đặc biệt là đồng chí Trương Chinh (tấm lòng đồng chí trong sáng, là người có nhân cách lớn, phải nói thế) nhưng quan điểm của đồng chí Trường Chinh là: -Không phát động nông dân thì nông dân cứ chịu ơn địa chủ suốt đời, phải cho nông dân đấu tố để nông dân vùng lên. Khi ra biểu quyết thì Bác Hồ chỉ có 3 phiếu, nhưng cũng là “thiểu số”. Cụ Vũ Đình Huỳnh kiên quyết bảo vệ quan điểm của Bác là hiến điền trưng thu, trưng mua rộng đất chia cho nông dân…
Xin nói về một bài của một đồng chí ký là “HT”, viết về những nỗi đau của Hồ Chủ Tịch, hiện nay lưu hành ở Hà Nội, cách đây mấy tháng rồi. Đầu bài ông đề là “10 nỗi đau của Hồ Chủ Tịch” nhưng trong bài đó ông (HT) giấu đi 2 cái đau, chỉ viết 8 cái thôi. Ông HT là trong Ban Bí thư trung ương Đảng, là nhà lý luận, là Trưởng ban Tuyên huấn, là Tổng biên tập báo Nhân dân lâu nhất, Chủ tịch Hội nhà báo. Có một thời ông cũng lầm rằng: anh Ba (Duẩn) mới là nhà lý luận, còn Bác Hồ chỉ là yêu nước thôi. Cho đến bây giờ ông mới tỉnh ra. Trước đây ông viết cuốn “Từ tư duy văn hoá truyền thống đến tư tưởng Hồ Chí Minh”, in xong thì bị tịch thu không tuyên bố nhưng sách bị tịch thu, bị đốt hết. Anh (HT) có đem đến cho tôi một cuốn, anh nói: sách của tôi bị đốt, sách của anh viết lại tái bản lần thứ 8, là may đó. Khi tôi ra cuốn này bị thu mất rồi, còn giữ được một cuốn đem cho ông…Ông là người hiểu biết như thế, lý luận như thế và một thời ông cũng là ghê lắm chứ, vậy mà có lúc ông nói:
-Thôi, cắt cái “mũ phớt” đi được rồi, (tức là ông Giáp đứng trước hàng quân đội cái mũ phớt).
Có thời ông chỉ thị các báo không được đăng ảnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vì “trên” chỉ thị như thế cho nên ông nói “cắt cái mũ phớt đi”. Có lúc ông cũng lầm, nhưng lúc tỉnh ngộ ra thấy được sự thật thì ông kể ra 10 nỗi đau của cụ Hồ, những chỉ viết có 8 cái, còn hai cái không thấy đưa ra. Dân ta thì không biết, nay ông kể ra thì ông cũng ngoài 80 tuổi rồi. Ông nào cũng viết để lại, không in được thì cũng để lại cho các nhà nghiêm cứu lịch sử sau này làm tư liệu nghiên cứu về những sự thật được nói ra từ trong tim người ta.
Trong bài viết của ông Vũ Kỳ mà ta đọc báo ta không để ý ông viết kín đáo để đăng báo Văn Nghệ, báo Tiền phong, báo Nghệ An số tết 1998, hồi đó ông chủ trương đăng trên ba tờ báo đó. Nội dung bài báo là: năm 1967 Bộ chính trị mời Bác Hồ đang chữa bệnh ở Trung Quốc về để thông qua việc tổng tiến công 1968. Khi họp lần thứ nhất Bác đã không đồng ý chủ trương tổng tiến công nổi dậy, Bác chỉ đồng ý tập kích chiến lược rồi rút ngay. Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng chủ trương như vậy, nhưng bị thiểu số nên đành đi chữa bệnh ở Hungari. Nhưng sắp đến tết (Mậu Thân) rồi nên phải thông qua chủ trương đó để đi vào cái tết, nên phải mời Bác về. Ông Vũ Kỳ viết bài báo như sau:
Trên máy bay chỉ có Bác, ông Vũ Kỳ và người lái máy bay chuyên cơ của Bác từ Trung Quốc về. Lúc đó đã báo cho bộ đội phòng không từ giờ này…đến giờ này…trên bầu trời ta từ hướng này…phương vị này…tuyệt đối là không nổ súng. Thời đó là đang chiến tranh, vào giờ đó xuất hiện máy bay của ta. Khi máy bay về tới vùng trời Hà Nội, sân bay Nội Bài khi đó là sân bay quân sự nên máy bay xuống sân bay Gia Lâm. Người lái báo cáo với anh Vũ Kỳ ngồi bên cạnh, (Bác ngồi sau hút thuốc):
- Thưa anh, tín hiệu đường băng lệch 15 độ, bây giờ làm sao đây ạ?
- Quan sát lại đi. Ông Vũ Kỳ nói.
- Em là người lái mà, lái máy bay cho Bác thì em nhìn sai sao được, người lái nói.
Máy bay lượn 2 vòng không dám xuống, xăng hết rồi, giờ quy định cũng đã hết rồi, phòng không họ bắn chết, mà xuống theo tín hiệu thì không an toàn…
Cuối cùng xuống theo trí nhớ (của người lái) chứ không xuống theo đèn tín hiệu, vì trên máy bay báo đi báo lại nhưng, dưới sân bay vẫn không thay đổi, đèn “tín hiệu chệch”, dưới vẫn cứ để thế, không sửa. Vòng một vòng và máy bay chạm đất an toàn, thở đánh phào một cái, Bác vẫn ngồi tĩnh tại hút thuốc, ở dưới sân bay vẫn yên tĩnh.
An toàn rồi, anh ơi (Mừng quá – Nói to lắm nhưng Bác làm như không nghe thấy)
Ra khỏi máy bay (ông Vũ Kỳ tả) thì thấy đồng chí Lê Duẩn, Lê Đức Thọ ra đón, một lúc thủ tướng Phạm Văn Đồng, chỉ có thế thôi, còn không ai đón Bác cả.
Về tới nhà thì tết rồi, việc đầu tiên Bác gọi điện sang Bộ quốc phòng hỏi:
Tục lệ người Việt Nam ta ngày tết hay nhớ nhà, thế thì các đồng chí ở nhà đã gửi quà chúc tết đồng chí Võ Nguyên Giáp đang chữa bệnh ở Hungari chưa?
Anh em mình thường trao đổi cái tin này đã đưa ra được chưa? Tôi cho rằng đưa được, đến năm 98 rồi, nên đưa ra (tin này) vì sắp hết thế kỷ (20) rồi, ai hiểu thế nào thì hiểu, còn thì nên đưa ra nhưng đừng bình gì cả. Đừng đưa đăng một tờ báo mà phải đưa tin trên ba tờ báo, vì một tờ sẽ bị “đánh chết” ngay. Đúng thế! Khi cả ba tờ báo đăng bài đó, thì các ông trong Bộ Chính trị mời ông Vũ Kỳ lên hỏi:
Anh Kỳ nói: Tôi chỉ kể chuyện đi của Bác mà hồi ký của tôi viết về Bác.
Thế rồi “họ” cũng thôi. Cái khung cảnh đất nước ta mấy năm nay là thế đấy.
Bác Hồ là người cô đơn, đây là cô đơn trên quan điểm. Tôi hiện nay đang viết cuốn “Bác Hồ là người cô đơn nhưng không cô độc”. Năm 2001 tôi viết cuốn này, chủ yếu là nói quan điểm của Bác bị “cô đơn” từ Quốc tế cho đến khi Bác qua đời, quan điểm của Bác luôn luôn thiểu số. Diễn ra trong tình hình hiện nay là vấn đề dân tộc, vấn đề tôn giáo. Quan điểm của Hồ Chí Minh từ đầu chí cuối là vấn đề dân tộc, chứ không phải là đấu tranh giai cấp chuyên chính vô sản, cái “thiểu số” ấy đi suốt cuộc đời Bác. Đến được ngày hôm nay quan điểm đó của Bác càng ngày càng rõ ra là rất mừng. Điều đó nói rằng mọi khoa học nó ra đời không bao giờ dễ dàng dù là khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội. …(Đoạn này nghe không rõ) Nói ra như thế để thấy rằng Bác Hồ càng ngày càng sáng ra, sáng cả con người cùng quá trình Bác cô đơn. Nhưng lúc nào “người ta” thấy “lợi” thì “người ta” nói là của Bác Hồ chứ “người ta” không làm theo Bác Hồ.
Khi Tổng thống Putin đến thăm khi di tích nhà ở của Bác Hồ, mấy ông phụ trách khu di tích đưa lên một chồng sách Mác-Lênin đặt lên giường bệnh của Bác, nói trước khi qua đời Bác đọc những sách này. Người ta tưởng làm như thế là trọng Bác Hồ và để ông bạn Nga này quý Bác Hồ, không phải! dòng di sản Bác Hồ chất Mác-Lênin có mức độ thôi. Người thường nói những câu của dân gian, của dân tộc, cho nên có người bảo Bác Hồ không có lý luận. Bác toàn nói ca dao, tục ngữ, trích Kiều, trích Chinh phụ ngâm, trích những câu của Mạnh Tử, Khổng Tử, Lão tử mà còn giá trị với thời đại. Trích câu của Phật, của Giêsu chứ không nói Mác. Khi ông Putin đến thăm nơi Bác ở sinh thời thì người ta đem một chồng sách như thế, nhưng ông Putin ghi sổ (lưu niệm lại) không nói gì đến chuyện này, mà nói:
-Hồ Chí Minh, người thầy của dân tộc Việt Nam (mà không nói Chủ tịch nước). Người đã để lại trong trí nhớ nhân loại, rất vinh dự cho tôi hôm nay được làm quen với cuộc sống của người.
Tại sao ông Putin lại nói “làm quen với cuộc sống cửa Người”? Vì trên vị trí (Tổng thống) này nhìn tấm gương của Hồ Chí Minh lên đỉnh cao như vậy mà sống không xa cách dân, sống giản dị, Mà chính ông nói là khôi phục lại một nước Nga, một nước Nga yêu nước, truyền thống văn hoá. Ta nên nhớ rằng Liên Xô ngày xưa những người ấy không phải không có tấm lòng, nhưng đem xoá sạch đi thì đó là người không có đầu óc. Đáng lẽ ra làm cách khác, ta đưa sách khác, sách đích thực Bác đọc trước khi lâm chung, đây lại làm một chồng sách “toàn Lênin”. Cụ nằm trên giường bệnh ốm thì làm sao đọc được các sách đó. Nếu để một cuốn Kiều thì không ai cãi được, hoặc để một tập thơ của Puskin, sách của L. Tônxtoi, của Victor Huygo, Sếch-pia, vì Bác thuộc thơ Puskin, và thuộc thơ tiếng Nga. Bác có lúc nói bây giờ còn thuộc Victor Huygo, tôi là học trò nhỏ của Leptônstôi…Bác Hồ của chúng ta ngày nay bị nhiễu nhiều thứ như thế, muốn nhận ra Bác thì phải nghiêm cứu lại các sự thực của lịch sử.Trước đây, tôi đã nói về cái nôi sinh thành của Bác, hôm nay tôi nói một số giai đoạn, một số sự kiện có ảnh hưởng lớn đến Bác mà không nói có hệ thống vì thời gian cũng không có nhiều.
Ta đọc sách, ta đọc lịch sử, ta biết Bác Hồ sinh ở làng Chùa, quê ở làng Sen, sau vào Huế học. Tôi nghiên cứu, tôi thấy thế này: nếu Bác Hồ không đi vào Huế từ thủa thiếu thời thì con người ấy cũng bị hạn chế, hạn chế về mặt văn hoá cội nguồn và thanh lịch ở đất kinh đô.
Huế là trung tâm văn hoá của cả nước ta vào thế kỷ 19, Bác Hồ vào Huế cuối thế kỷ 19, lúc đó Huế là trung tâm của cả nước. Ở Nam Bộ, cụ Phan Thanh Giản đi thi phải ra Huế, còn khúc ruột miền Trung từ Bình Thuận trở ra đến Quảng Nam, thi hương là phải ra Huế. Đầu thế kỷ 20 mới có trường thi hương ở Bình Định. Ở Bắc thì Lạng Sơn trở vào cũng phải vào Huế để thi Hội. Diện mạo các nhà trí thức, các nhân sỹ, các ông quan (xin nói thực có một thời kỳ cực đoan, đã nói “quan” là phong kiến, quan là xấu, ở Chí Linh tôi nói thế mà suýt bị bắt).
Nói các quan “xấu” như thế sao lại truyền giòng nối dõi văn hoá Việt Nam mấy nghìn năm được!? Cố nông thì làm sao giữ được văn hoá vật chất của dân tộc? Chúng ta vô cùng quý trọng cố nông, người thợ nhưng nói đến diện mạo văn hoá là phải nói đến trí thức. Các gia đình khoa bảng, gia đình nhà quan truyền từ đời này qua đời khác-các ông quan tham nhũng thì cá biệt thôi. Tất cả tham nhũng thì còn gì là văn hoá Việt Nam, bản lĩnh, bản sắc Việt Nam. Không có Nguyễn Trãi thì ta làm gì có văn hoá thế kỷ 17, thế kỷ 18 sang thế kỷ 19 cũng vâỵ. Ở nhà cái ông giàu nhất nước, mà xưa nay chưa có nhà nào mà cha con đồng triều là tể tướng, là thân sinh Nguyễn Du và Nguyễn Du. Bác Hồ của chúng ta chính là con người nối tiếp những cái (văn hoá cội ngồn) này chứ.
Thế kỷ 19, Bác Hồ sinh ra năm 1891, tôi nói đây là nói nghiêm cứu từ gốc. Bây giờ nói Bác sinh năm 1890, nhưng tôi nghiêm cứu tử vi của Bác thì Bác sinh năm 1891. Bác đi làm cách mạng, Bác khai 1890, nhiều người chúng ta khi đi học, đi hoạt động cũng khai bớt hoặc thêm tuổi như thế. Bác sinh năm 1891. 1895 Bác vào huế, tuổi ta là 5 tuổi, tuổi bắt đầu có trí nhớ, tuổi mà người ta dễ nhớ nhất là tuổi này, tuổi lên 5 đến lên 10. Bác 5 tuổi đi theo cha mẹ vào Huế khi ông Nguyễn Sinh Khiêm đưa cho tôicuốn “Tất Đạt tự ngôn” là tháng 6-1950. Sau đó ít tháng thì cụ qua đời. Trong “Tất Đạt tự ngôn” thì cụ có ghi ba bài thơ về thời niên thiếu của em trai mình, tức Bác Hồ.
Ba bài thơ này cũng hấp dẫn tôi. Thời đó tôi là một anh thanh niên học sinh, mới đi hoạt động Đoàn thanh niên cứu quốc (chưa phải Đoàn thanh niên Hồ Chí Minh). Cụ đưa cho tôi đọc bài thơ hay quá đi, thấy tôi ngỡ ngàng không tin, thì cụ nói thế này:
Cháu ạ, bây giờ nhớ gì ghi nấy. Bọn Tây nó “thuốc” bác bằng rượu khi bác đi tù. Bác vào nhà tù 1914, sau bác chống lại thì 1918 nó đày vào cực Nam Trung Bộ. Bác vốn không phải là người nghiện rượu, nhưng sau này thì không có rượu là bác không chịu được và trí nhớ của bác mất dần đi. Bạn học của bác đi thi vào năm 1904 đỗ cử nhân, đó là ông Đào Nhữ Tuyên, con trai cụ Đào Tấn. Anh em bác học vào loại giỏi nhưng không đi thi. Bây giờ bác không còn được như xưa, nhớ cái gì thì bác ghi vào đây, chứ không có hệ thống. Cháu là người có tấm lòng muốn tìm hiểu gia cảnh nhà bác thì bác đưa cho cháu cuốn ghi chép này, thấy có ích thì cháu dùng, khai thác, không nữa thì đốt, đừng giao..cho ai, vì trong này bác ghi nhiều cái không tiện nói ra. Trong đó bác có ghi họ Hồ là thế nào…về họ Nguyễn thì thế nào…và ngày chú Thành mở nước độc lập thì là Hồ Chí Minh, chứ không lấy họ Nguyễn là vì sao? Trong cuốn này cũng nêu ra bài thơ đó là: Trên dèo ngang hai bài thơ 1895, còn bài nữa là “Ba ông phỗng” năm 1903.
Cụ Khiêm kể lại: Hôm đó cả nhà bác chuẩn bị đi vào Huế, bác ngủ với bà ngoại, em Thành ngủ với mẹ, còn chị Thanh thì ngủ với dì An. Đêm đêm bác thấy bà khóc, ngày bà vui, đêm nào cũng nghe thấy bà khóc. Sáng hôm sau thấy bà đi xin mo cau cả làng (xưa dân ta lấy mo cau làm gàu múc nước). Bác với chú Thành mới lấy mo cau cắt thành cái thuyền đem thả ao trước nhà, bà không cho, bà bảo đây là dép của các cháu, cha mẹ cháu để đi vào kinh đô, thời đó chưa có nhiều dầy dép như bây giờ. Bác thấy bà ngoại đo chân cha mẹ, đo chân cho 2 em bác.
(Bây giờ mới thấy các cụ ta ngày xưa đi tìm cái chữ ở kinh đô Huế, đi trên những phương tiện như vậy, không dép săm bô như ta bây giờ, ngày ấy có đôi dép da bò đã quý rồi)
Bác hỏi:- Mẹ, tại sao đêm bà lại khóc?
Về sau mới biết tâm sự của bà thế này: lúc đầu cha mẹ bác tưởng bà khóc vì bán ruộng cho con rể vào kinh đô học: bán mất 5 sào. Bà ngoại đêm nằm buồn mà khóc, không phải tiếc bán 5 sào ruộng cho con rể vào kinh đô học, vì “chữ nó sẽ đẻ ra ruộng, chứ ruộng không đẻ ra chữ” bán ruộng cho con đi học, có chữ về thì cái chữ nó lại đẻ ra ruộng. Còn cái ruộng bán đi đánh bạc thì mới mất, nên không có gì mà khóc cả. Khóc là vì bà không có con trai. Ông tú thì mất rồi, con rể coi như con trai, con gái là chỗ dựa, bây giờ cả nhà kéo đi vào Huế, bà ở nhà cô đơn một mình, hai cháu trai và cháu gái cũng đi, (vì thế nên cha mẹ bác chỉ cho hai anh em đi vào huế, còn chị Thanh phải ở lại quê với bà, để sớm hôm có bà có cháu).
Như vậy cha mẹ bác quyết định vào Huế không phải là để làm ăn sinh sống trở thành người Huế đâu, mà muốn cho anh em bác vào Huế để học. Cha bác vào đó để làm bạn với các nhà khoa bảng ở kinh đô. Các ông qua thời đó đều là Tiến sĩ, là Hoàng giáp, là Đình nguyên, ít ra là Cử nhân. Đúng là cha bác vào trong Huế đã tạo ra được một cái “chiếu văn”, các ông quản trong triều thường đến đó bình văn, bình thơ cùng với các cụ đồ ở kinh đô.
Ông Khiêm kể tiếp: Khi đi dép mo cau, một lúc là rách phải thay cái khác, còn chú Thành thì được cha cõng trên lưng. Trên cao chú quan sát hỏi hết chuyện này đến chuyện khác: núi này là núi gì mà cao thế? Bà ngoại hay ví “trèo truông mới biết truông cao” là nghĩa nó ra làm sao? Có được bao nhiêu nước để gọi là biển. Chú ấy hỏi nhiều chuyện. Còn bác thì chân nó đau, đi mấy ngày liền, có khi bác khóc. Mẹ bác lại động viên: “Em nó vui vẻ hỏi chuyện này chuyện khác con là anh mà chẳng vui chi cả”. Chú thì được cha cõng, đến đường bằng thì chạy tung tăng, hỏi nhiều thứ, còn lạ mắt cho nên mẹ bác nói em thông minh hơn anh. Rồi cụ Khiêm nói: mà chú ấy thông minh hơn bác thật…?
Lúc đến chân Đèo Ngang, đường lúc đó có đoạn sát với biển, không như đường ô tô bây giờ. Đến chân Đèo Ngang, có bãi cỏ rất bằng, mẹ bác mới đặt gánh xuống, cha bác xếp ô lại bảo: chỗ này phằng phiu, nghỉ lại đây ăn cơm nắm, để rồi leo đèo, Bác ngồi xuống thì ôm bàn chân rộp, còn chú Thành thì nhảy chơi, mới hỏi cha:
-Thưa cha, cái gì ở trên kia mà đỏ, lại ngoằn ngèo như rứa? Cha bác nói:
Đó là con đường mòn vắt qua đèo, tí nữa ta phải đi leo trèo lên đó, lên cái đường mòn đó.
Thế rồi chú Thành mới ứng khẩu luôn một bài thơ. Sau này bác ghi lại trong cuốn sách “Tất Đại tự ngôn” này:
“Núi cõng con đường mòn
Cha thì cõng theo con
Núi nằm ì một chỗ
Cha đi cúi lom khom
Đường bám lì lưng núi
Con tập chạy lon ton
Cha siêng hơn hòn núi
Con đường lười hơn con”
Nói về văn, thơ, tôi là anh thanh niên năm 1950 tiếp xúc với bài thơ này trong cuốn “Tất Đại tự ngôn” của người anh ruột Bác Hồ viết lúc 5 tuổi thì tôi hơi sững sờ. Ông Khiêm nói tiếp:
Lúc đó, cha bác mới mở cái ví vải lấy lá số tử vi của con ra xem, bác mới biết cha đã lấy tử vi cho các con. Cha bác nói với mẹ:
Với thiên tư này, thằng bé sẽ khó nuôi, có lẽ, quan Đào Tấn với ông ngoại đã nói như thế không nhầm.
Rồi bác Khiêm lại nói:- Lúc đó bác cũng chẳng có bụng dạ gì, vì chân phỏng rộp đau. Ăn cơm nắm uống nước đựng trong quả bầu khô xong, cả nhà lại leo núi, chú Thành lại được cha cõng trên lưng. Cụ Khiêm nói, anh em bác ở làng Sen chỉ biết ao, biết sông, biết hồ, biết núi, chứ biển chưa thấy. Hôm đó, đến đỉnh đèo thì dừng lại nghỉ, bác lại ngồi ôm chân, chú Thành lại chạy nhảy, rồi nói:
Cha ơi, cái ao ở đây sao lớn thế? Cha bác nói:
Không phải ao đâu con ơi, đó là biển đấy chứ.
Lúc đó, đứng trên đèo Ngang là nhìn thấy biển, ở đây thì xuống là đến Ròn tức là Cảnh Dương của Quảng Bình. Lần đầu tiên thấy biển lại cứ gọi là ao, cha bác phải nói là biển. Chú ấy lại hỏi:
Cha ơi, tại sao bò nó lại lội trên biển? Cha bác cười bảo:
Không phải bò đâu con ơi, đó là cánh buồm, thuyền nó chạy trên biển đó.
Chú ấy ứng khẩu đọc bài thơ.
“Biển là ao lớn
Thuyền là con bò
Bò ăn gió no
Lội trên mặt nước
Em nhìn thấy trước
Anh trông thấy sau
Ta lớn mau mau
Vượt qua ao lớn”
Cụ Khiêm nói một câu tâm sự, mà cũng là tâm trạng: – Cháu ạ, con người ta có số mệnh. Số mệnh có khi nó xuất ra thành ý. Cái thông thường, cái lẽ thường anh là phải nhìn thấy trước chứ vì anh ra đời, khôn hơn. Nhưng đây lại nói là “em nhìn thấy trước anh, anh trông thấy sau”, cái khẩu khí đó cũng là cái ứng mệnh. Bác là anh, bác đau chân, bác không còn nhìn những gì ở xung quanh, nhưng chú ấy quan sát, chú ấy lại ứng khẩu được cái đó “ta lớn mau mau, vượt qua áo lớn”. Cái khẩu khí ấy là cái “ứng mệnh” nên suốt cuộc đời chú Thành phải đi hết nơi này nơi khác, năm châu bốn biển, còn bác chả thấy gì, bác cứ yên vị, bác sống trong xó quê như thế này!…
Cụ Khiêm nói với tôi điều đó năm 1950, sau này tôi công bố hai bài thơ ấy trên báo Văn nghệ số Tết năm 1980, lúc đó là chuẩn bị Đại hội 5. “Búp sen xanh” chưa ra, tôi mới đưa hai bài thơ này và viết lại cái đoạn gặp cụ Nguyễn Sinh Khiêm. Khi đó nhà văn Nguyễn Văn Bổng là Tổng biên tập báo Văn nghệ trước khi đăng mới đến hỏi tôi:
Có chính xác không anh? Mới 5 tuổi mà làm hai bài thơ, trẻ con thì trẻ con thật nhưng rất trí tuệ; – Tôi nói:
Anh cứ đăng đi, có chi tôi chịu trách nhiệm.
Đến khi báo ra thì người đến gặp tôi là bác Khương Hữu Dụng, nhà thơ nổi tiếng về thơ Đường, bác rất giỏi, bác năm nay 95 tuổi đang sống (Tôi cho rằng ở Quảng Nam ta có bác Khương Hữu Dụng, một nhân cách nhà thơ, nhà giáo, bác dạy học suốt thời tuổi trẻ, sau cách mạng Tháng 8 bác mới thôi dạy học. Xưa bác viết báo Tiếng Dân chủ cụ Hùnh Thúc Kháng). Cụ hỏi tôi:
Tôi mới được đọc hai bài thơ của Bác Hồ thời thơ ấu hay quá mà mình cũng nghi quá, ông có thêm chữ nào vào đây không?
- Chết, ai lại làm cái việc này thưa bác? – Tôi nói.
(Ta phạm sai lầm là khi viết cái điển hình chăn nuôi để phong anh hùng, chiến sĩ thi đua thì thường mượn lợn hàng xóm thả vào chuồng, mời nhà báo đến, toàn “tạo” thêm thành tích ba lăng nhăng. Còn đây là viết về vĩ nhân, đây là viết về Bác Hồ, mình thêm là mình có tội. Còn nếu của tôi thì tôi thành tác giả, việc gì mà nói là của Cụ Hồ). Cụ Dụng lại cười tươi, nói:
-Đọc xong mình sợ quá. Trần Đăng Khoa nó giỏi nhưng thời nay nó khác, nó có thông tin báo chí tuyên truyền nhanh, có hệ thống, thời đó thì không có mấy, thời đó làm gì có báo chí như vậy. Thông minh như Trần Đăng Khoa tưởng tượng “cành lá dừa như cái lược chải trên trời”, “quả na chín là quả na mở mắt”, “gà gọi mặt trời lên”… Bên này hai bài thơ Bác hồi nhỏ mà tầm tư tưởng lớn quá.
Sau này đưa vào cuốn “Búp Sen Xanh” thì Thủ tướng Phạm Văn Đồng có mời tôi lên làm việc, Thủ tướng có hỏi về hai bài thơ. Thủ tướng mời tôi ngày 10-4-1982, lúc đó đã kết thúc Đại hội 5, bác Phạm Văn Đồng nói như thế này:
Tôi có mấy điều để nói với đồng chí, có những điều Bác Hồ kể với tôi, vì tôi sống có một mình… thỉnh thoảng ăn cơm với Bác, sau khi ăn xong hai người thường ngồi bên ao cá kể chuyện thời nhỏ của Bác. Nhưng lần này tôi thấy đồng chí lại biết khai thác được những chuyện như thế này. Tôi không hiểu tại sao đồng chí lại biết những chuyện này? Đồng chí cũng không phải là thư ký của Bác, đồng chí là nhà báo, thỉnh thoảng có đi với Bác nhưng chắc không bao giờ Bác kể chuyện này, trong đó có trường hợp cô út Huệ là người tiễn Bác xuống tàu. Trong sách có ba bài thơ, bài thơ thứ ba không nói, còn bài thơ Đèo Ngang tại sao đồng chí lại tìm được?
Bác Đồng mời tôi lên thì bao giờ tôi cũng có cái “thủ thân”, được khen thì tốt, nhưng khi bị hỏi thì sẵn sàng có cái “thủ thân” mà chìa ra. Tôi mang cả cuốn “Tất Đạt tự ngôn” đi theo, tôi nói:
-Cụ Khiên giao cho tôi tháng 6-1950 thì tháng 9 cụ qua đời. Cụ có ghi trong sách hai bài thơ này, (tôi chìa ra thì bác Đồng bảo tôi), đồng chí đã lấy tư liệu chu đáo như thế này, vì không ai hiểu Bác Hồ bằng anh chị ruột của Bác. Đồng chí lại có cái duyên may được gặp các anh chị Bác Hồ, lại được các cụ tin cậy giao cho cuốn sách ghi chép của cụ cuối đời và kể lại thế này. Các cụ nhà nho khi về già thường kỹ tính lắm, không dễ nói ra đâu.
Sau tôi phải nói thật với bác Đồng: ông Bùi Xuân Phong xưa là bạn của cụ Hoàng Xuân Hành (chú ruột, mẹ Bác Hồ), cùng đi với cụ Hành, không phải tự nhiên các cụ kể cho biết đâu. Cụ Bùi Xuân Phong hy sinh ở Nhã Nam thời cụ Hoàng Hoa Thám nay vẫn chưa tìm thấy mộ cụ tú Bùi. Nói điều đó là để bác (Đồng) tin được. Bác Đồng lại nói:
- Tôi hỏi đồng chí như thế vì đọc trong cuốn sách có nhiều điều xúc động, nhưng có hai bài thơ ở Đèo Ngang tôi cứ bâng khuâng, giá mà biết trước cái này thì Bác còn sống mà nhắc lại chắc lý thú lắm. Nhưng Bác “đi mất rồi”! Có khi nào mà cái tuổi lên 5 mà cấu trúc được bài thơ ngắn, cấu trúc ấy lại tạo ra được giữa cái “tĩnh” với cái “động”, tư duy này tư duy “Dịch lý”.
Bác Đồng là người giỏi Dịch lý, con quan mà. Các đồng chí để ý ngày bác Đồng mất, họ chiếu cái phim về Thủ tướng Phạm Văn Đồng, có đoạn quay cái nhà thờ của gia đình bác Đồng ở Quảng Ngãi, thì người ta quay xa xa, không quay cận cảnh bàn thờ vì toàn là những ông đội mũ cánh chuồn. Gia đình bác Đồng nhiều người làm quan, như thế “họ” sợ mất lập trường nên không dám quay rõ. Bác Đồng là con quan, học giỏi, học hành kỹ lưỡng nên mới thấu hiểu được “cái động”, “cái tĩnh” trong bài thơ của Bác Hồ.
Rõ ràng cái gì thuộc về thiên nhiên tạo đều “tĩnh”, cái gì thuộc về con người là “động”. “Núi cõng con đường mòn”, Cha thì cõng theo con”, “Đường bám lỳ lưng núi” là tĩnh, “con tập chạy lon ton” là động. Thơ có thể là chưa hay nhưng nó có cái thần, cái lời ngộ nghĩnh của đứa trẻ, điều đó dễ hiểu, đó là vấn đề tư tưởng, tầm nhìn này hơi lạ, Rồi còn bài lên đỉnh đèo, tại sao biển như thế vẫn gọi là cái ao, mặc dù cha nói đó là biển, mà vẫn cứ: “Ta lớn mau mau, vượt qua ao lớn”. Thế thì có lý trí gì không? Không chỉ là xúc cảm xuất thần của một đứa bé. Sau này Bác đi năm châu bốn biển: Lịch sử nay đã cho thấy Bác Hồ đi bốn biển thì thấy, năm châu thì chưa thấy. Đến bây giờ không biết Bác có thăm Úc không. Ta thường nói Bác Hồ đi năm châu bốn biển, theo lịch sử ghi thì Bác mới chỉ đến bốn châu thôi. Tôi nói:
Thưa, Bác Hồ đến Sitnây tháng 11-1913, đi với cụ Đào Nhật Vinh, hiện nay cụ Vinh ở số nhà 13 đường Nguyễn An Ninh, gần chợ Bến Thành.
Tôi nói với Bác Đồng năm đó cụ Đào Nhật Vinh đang sống. Sau giải phóng miền Nam, tôi vào Sài Gòn sưu tầm tài liệu về Bác Hồ thì Dược sư Hồ Thị Tường Vân, con gái cụ Hồ Tá Bang giới thiệu gặp cụ Đào Nhật Vinh, người ở huyện Trực Ninh, Nam Định, xuống tàu năm 1912 (Bác Hồ năm 1911), cụ Đào Nhật Vinh gặp Bác Hồ ở tận Nam Mỹ, Achentina, sau này gặp (Bác) ở Đaka, Sênêgan, đến đầu năm 1917 gặp lại Nguyễn Tất Thành cuối đại chiến thứ nhất, Vì sau đó ông không đi tàu nữa mà lên Boócđô, lấy vợ đầm,… Sau này ông lại lấy một bà Việt Nam. Nếu cụ (Vinh) kể không thì không ổn, không đủ để tin số ảnh cụ chụp với Bác Hồ năm 1946 ở Pari khi Bác là thượng khách thăm chính thức nước Pháp (lúc đó cụ đang ở Pháp mở Hotel ở Boócđô).
Gặp cụ Vinh tôi mới cung cấp một số tư liệu với bác Đồng. Bởi vì viết về Bác Hồ, chúng ta chẳng có mấy ai nghiên cứu về Bác đi đến tận nơi tận chốn Bác sống, hoạt động để tìm tòi tra cứu cả, báo chí nước ngoài họ viết thế nào thì ta chép lại, Đảng ta chưa bao giờ bỏ ra một số tiền cung cấp cho những người có tâm huyết thật sự đi lần theo dấu viết Bác. Đã có ông nhà báo Mạnh Việt ở báo Tiền Phong thành tâm xung phong đi, nhà nước chỉ cấp cho một cái giấy phép thôi, còn đi đến đâu ông nhờ đồng bào, mà đến nay vẫn chưa có chuyến đi nào cả. Ngay cả việc quan hệ giữa nhà nước ta với nhà nước khác cũng chỉ trao đổi công văn đi lại, cũng chưa có người đến. Chỉ đến khi anh Hồng Hà lúc đó là phóng viên Báo Nhân Dân đi sang hội nghị Pari với Lê Đức Thọ, nhân tiện ở đó nghiên cứu (về Bác) ở Pháp, rồi sanh Anh, thế thôi; chứ thực sự để hẳn người nghiên cứu về Bác Hồ thì không có. Vì vậy, nó cứ thất thoát đi. Bên ngoài người ta cứ tiếp tục gửi về rất nhiều (tư liệu).
Hai bài thơ ấy giúp bác Đồng hiểu thêm về Bác Hồ, về sự manh nha của một thiên tài. Thiên tài không phải tự nhiên xuất hiện, mà cả một quá trình, mà đây là giai đoạn manh nha. Cuối buổi gặp bác Đồng mới nói về ý định của bác.
-Tôi nghe đồng chí bị thương ở mặt trận bề, khó khăn lắm!? Anh em xuống nhà (anh) nói đồng chí ở chật chội lắm! Tôi có trao đổi với anh em để lo cho đồng chí một chỗ ở, để đồng chí đỡ vất vả…
-Thưa Thủ tướng, cảm ơn Thủ tướng. Bây giờ Thủ tướng cho tôi căn hộ, Thủ tướng mang tiếng, tôi cũng mang tiếng. Bởi lẽ tôi trẻ trung làm được công việc đột xuất mà Thủ tướng thưởng thì không ai nói. Thủ tướng là người lãnh trọng trách lo cho cả đất nước. Một người đột xuất như Đặng Thái Sơn chẳng hạn, làm cái việc được giải thưởng Sôpanh, người châu Á đầu tiên được giải, thì Thủ tướng cho một căn hộ, để Đặng Thái Sơn đón bố là Đặng Đình Hưng về ở, anh Hưng bị cái án “Nhân Vân Giai phẩm”, bây giờ khổ quá, nay con ông làm được cái việc vinh quang đó. Thủ tướng cho một căn nhà. Ai cũng quý cả, quý tấm lòng của Thủ tướng, quý lòng hiếu thảo của người con đối với cha, như thế là đẹp.
Tôi là người tham gia cách mạng sớm, ra đi vào chiến trường B, trả lại căn hộ tiện nghi ở số nhà 58 Nam Đồng cho phòng quản lý nhà đất quận Đống Đa. Nay trở về, đòi không được. Thuê một chỗ khác cũng không được. Tôi biết cái nhà đó…thì to tiền lắm. Bây giờ họ bán đồ điện. Nhà tôi đòi không được, giờ tôi lại lên đây, tôi không xin (nhà) mà Thủ tướng cho một xuất ở thì tôi mang tiếng, Thủ tướng cũng mang tiếng: Thủ tướng Phạm Văn Đồng thì mang tiếng “ban phát” cho cá nhân người này người kia: còn tôi thì mang tiếng: tưởng ông này thế nào, hoá ra đi nghiên cứu cụ Hồ, viết sách cụ Hồ xong rồi “để xin nhà”. Dân ta thường nói “Ăn mày nhà quan không sang hơn ăn mày ở chợ”. Tôi cũng nói thực lòng với bác Đồng như thế nên bác rất quý. (Nay thấy anh Trần Tam Giáp, thư ký bác Đồng viết bài để đăng báo Nhân dân ngày giỗ năm Cụ “ra đi”, anh có nhắc đến chi tiết này).
Như thế là đến như bác Phạm Văn Đồng ở gần Bác, một trong những người gần gũi nhất của Bác Hồ như bác Võ Nguyên Giáp, bác Trường Chinh…xưa người ta nói “Tứ trụ” là vậy! Nhưng thời niên thiếu của Bác thì không có điều kiện để tìm hiểu để biết được. Còn tôi có duyên may trong quá trình đi khai khác để sau này viết, trước chỉ nghĩ ghi lại để cung cấp cho đời sau, nhưng sau khi đã có cái “vốn” mới nghĩ đến chuyện “đi buôn xa buôn gần” viết cái này cái khác.
Như thế là tuổi nhỏ Bác Hồ đã được khai tâm chữ nho rồi. Trong nhà bà ngoại và mẹ khai tâm cho Bác lúc 3 tuổi; 5 tuổi thực sự học chữ nho. Có người nói Bác học ít là ngộ nhận, không phải. Vào đến Huế, ông Nguyễn Sinh Sắc tạo ra một cái “chiếu” trí thức, gọi là các văn nhân thời đó, từ Đào Tấn đến Nguyễn Thượng Hiền, Đặng Nguyên Cẩn…đều đến nhà này. Sau này là Phan Văn San tức Phan Bội Châu, vào Huế gặp cái “chiếu” của ông Nguyễn Sinh Sắc ở trong ngõ Đông Ba. Tại sao viết về Bác người ta lại “ngại” viết về cái này lắm ? vì toàn là các gương mặt phong kiến, quan lại cả. “Họ” tưởng rằng Bác Hồ sinh ra từ cái “chiếu Mác Lênin”, thực ra Bác Hồ sinh ra từ cái “chiếu quan trường” như thế này thì “giảm” mất cái giá trị nháy nháy của Bác đi. Cái này các giới nghiên cứu Việt Nam cần làm rõ Bác Hồ là con đẻ của Việt Nam, còn Mác Lênin có đến với Bác là một cái vô cùng quan trọng , nhưng là một mảng cấu thành thứ hai, không thể nào là “nền tảng” được, nền tảng là “Văn hoá Đại Việt”, văn hoá Việt Nam đi từ nàng Âu Cơ. Âu Cơ đẻ ra bọc trăm trứng, trăm con, có miền ngược miền xuôi…Còn Mác là sản phẩm của thế kỷ 18,19 dưới ánh sáng của Châu Âu ông vĩ đại ở thời đó, nhưng vĩ đại đến mức nào đó…chứ cái này năm 1924 Bác đã viết rất rõ:
Học thuyết Mác là học thuyết của Châu Âu mà Châu Âu chưa phải là cả thế giới. Vì Mác không có điều kiện để nghiên cứu văn hoá phương Đông và lịch sử phương Đông, chúng ta có quyền bổ sung cho học thuyết Mác bằng văn hoá và lịch sử phương Đông
Đây là tôi nói lại ý của Bác. Những điều ấy Bác viết từ năm 1924 lại cho là “hỗn”, là “đại xét lại” rồi còn gì nữa! Mác thì nói về giai cấp vô sản và tư bản, còn Bác thì Bác đi tìm vấn đề giải phóng dân tộc. Còn đây là vấn đề của Châu Âu phát triển chủ nghĩa tư bản thì phải đánh đổ tư bản để giải phóng vô sản. Bác thì khác, có vấn đề giai cấp đấy, nhưng không phải giai cấp như ở châu Âu. Văn hoá của Bác không được đưa ra suốt bao nhiêu năm, bây giờ đã được đưa vào “Toàn tập” rồi (in lần thứ 2)
Con người có tư tưởng như vậy thì cái nôi phải như thế nào? Hồi nhỏ Bác đã gặp và chịu ảnh hưởng những gương sáng nào, diện mạo nào?
Trên “chiếu văn” của Nguyễn Sinh Sắc nào là Đào Tấn, tổng đốc An Tĩnh sau về làm thượng thư Bộ Công, rồi thượng thư Bộ Hình, rồi đến Nguyễn Thượng Hiền. Nếu quên nói vị hiền tài này là tôi có lỗi với Bác, là không đầy đủ sự hình thành nhân cách của Bác. Rồi cụ Cao Xuân Dục – một ân nhân của ông Sắc, cụ Đặng Nguyên Cẩn đốc học, thân sinh cụ Đặng Thai Mai, cụ Ngô Đức Kế…Cái “chiếu” của Nguyễn Sinh Sắc năm 1896, 1897, 1898, 1899…từng ấy năm là nơi hội tụ khá đầy đủ các nhà khoa bảng lớn ở đất nước ta, trong đó có tiến sĩ Trần Đình Phong người Yên Mã, huyện Yên Thành, Nghệ An (đỗ cùng khoa với Phan Đình Phùng)
Những người đó đi đến “chiếu” của Nguyễn Sinh Sắc thì cậu bé Nguyễn Sinh Cung (còn gọi là Côn) hầu trà hầu nước cha tiếp những vị khách này thì chịu ảnh hưởng khá lớn, lại chứng kiến việc vua Thành Thái bị đi đày. Ông Khiêm có kể lại câu chuyện mà sau tôi dựng lại trong phim “Hẹn gặp lại Sài Gòn”, viết trong “Búp sen Xanh” tái hiện lại.
——-
(Tác giả chú thích cho đoạn trên)“Cụ nguyễn Thượng Hiền là hoàng giáp tiến sĩ, người Liên Bạt, Hà Đông, đỗ đầu khoa 1895, vừa đỗ xong thì có chính biến: vua Hàm Nghi “xuất bôn” đánh đồn Mang Cá thất bại thì Tôn Thất Thuyết đưa vua đi, sau đó ông Đồng Khánh lên không thừa nhận khoa thi này, tổ chức thi lại, ông lại đỗ hoàng giáp tiến sĩ lần thứ hai. Lúc này cụ ở Quốc Tử Giám (trong Huế) là Biên tu Quốc sứ quán.
Trần Đình Phong dạy học, học trò là những nhà khoa bảng như Nguyễn Sinh Sắc, Phan Bội Châu, Đặng Nguyên Cần…khi ông vào nam làm đốc học ở xứ Quảng học trò của ông là Huỳnh Thúc Kháng, Phan Chu Trinh, Phạm Liệu, Trần Quý Cáp. Một ông tiến sĩ mà dạy học trò tạo nên những nhà khoa học lớn như vậy. Chúng ta chỉ nhớ Chu Văn An thôi mà quên mất Trần Đình Phong cũng đỗ tiến sĩ với Phan Đình Phùng năm 1878.
Phim làm xong rồi, trong giới điện ảnh họ “đánh nhau”, tôi ở giữa là người viết kịch bản, tác giả kịch bản 4.558.000đ, đạo diễn chính 4 triệu, diễn viên chính Thu Hà đóng vai út Huệ 2 triệu. Tiến Hợi đóng vai Bác Hồ 2 triệu, ông Tuấn quay phim chính 2 triệu. Làm xong phim rồi, ký hợp đồng rồi, mỗi tỉnh mua mấy bản, bên Pháp mua mấy bản, tính toán cả rồi. Bộ chính trị duyệt rồi đưa lên FAFIM. Cục Điện ảnh “đánh nhau”, “đánh” đến nỗi mà tiền tráng phim này ở Băng Cốc (lúc đó ta chưa tráng được phim màu) chỉ lấy được mấy bản để chiếu, còn vẫn để ở bên Băng cốc. Nói thế để thấy rằng phim Bác Hồ gian truân lắm. Diệp Minh Châu tạo một tượng Bác Hồ bằng đá nguyên khối và đã tạc xong rồi, định dựng tượng Bác Hồ với mấy đứa trẻ nhỏ thế thôi. Không hiểu nổi công trình làm về Bác tại sao lại khó đến thế.
——
Căn cứ vào lời kể của ông Khiêm , bà Thanh, (tôi) tra lại cái gốc vấn đề. Biết bao nhiêu người kể cho tôi nghe, sau khi vừa giải phóng xong, đi đến đâu …(mất một đoạn ngắn nghe không rõ) chỉ đưa cái thần của nó thôi:
Nhân dân nô lệ từng đàn
Vui chi bệ ngọc ngai vàng riêng ta?
Thế là các anh phê ngay:- Tại sao lại đề cao Thành Thái như thế này? Thành Thái ngồi trên ngai vua làm chi có chuyện thương dân như thế này?
Khi chìa bản gốc ra, tôi nói: – Nếu thực sự yêu ông cha, quý trọng ông cha thì những bài thơ này (còn) phải đưa vào dạy trong trường nữa chứ!
Từ đó tôi không đưa bài thơ này ra nữa vì có người còn nói thơ này của Triều tiên, có người lại nói bài thơ này thơ Đường chứ đâu phải thơ của Thành Thái. Vừa rồi trường Quốc học Huế đã công bố chính thức bài thơ đó của vua Thành Thái. Còn khi tôi đưa ra thì người ta nói ông Sơn Tùng mượn bài thơ nổi tiếng bên Hàn Quốc (ông nói là Hàn Quốc chứ không nói Triều tiên), khổ thế!
Ông Khiêm kể tiếp: – Buổi sáng hôm đó cha bác ngồi trước linh sàng khói hương nghi ngút không vào Đại nội để chầu. Mọi khi ăn sáng một bát cháo hoa rồi vào nhà Tả Vu chầu vua, nhưng hôm đó đi ra đi vào không thấy cha chầu, chú Thành mới hỏi:
Thưa cha, hôm nay cha không vào tả Vu để chầu?
Lúc đó ông Sắc làm thừa biên Bộ lễ, thì “người ta” nói: – Tại sao cha Bác Hồ lại làm thừa biên Bộ Lễ của triều Nguyễn bán nước thế này (hồi đó không được nói, còn bây giờ thì nói thoải mái).
Nồi cháo, ba cha con ăn sáng, vẫn để đó, cha cứ ngồi thắp hương, hỏi thì cha nói:
- Vua đã bị bắt giam ở nhà Thái y rồi. Ông Khiêm mới hỏi:
- Thế có biến trong triều hở cha? Cha nói:
- Không có biến chi cả, toà Khâm sứ nó bắt vua:
—–
(Tác giả chú thích)“Ông vua Thành Thái, con vua Dục Đức, lên ngôi mới có 10 tuổi. Ông lên ngôi 1889, khi ra Bắc Hà 1902 lúc đó mới vượt tuổi thiếu niên. Đi trên cái long xa, lần đầu tiên rời khỏi kinh đô Huế ra Bắc Hà dự lễ khánh thánh cầu Doumer (cầu Long Biên). Đi dọc đường thấy dân chết đói, ăn xin mà cảm xúc làm bài thơ ấy.
——
Thế thì bây giờ ta đọc lại bài thơ của vua Thành Thái làm khi ra Bắc mà bác Khiêm thuộc từ đó được bác chép lại, chữ của Bác, Bác mất đi rồi thì cháu còn bút tích. Bút tích của cụ Khiêm chữ nho rất đẹp. Khi phát ngôn nhân của đoàn ta ở hội nghị Pari nghe được bài thơ này thì giật mình: Mình là dòng dõi Tôn nhất mà không biết (đó là ông Nguyễn Minh Vỹ).
Hôm ở Câu lạc bộ Thăng Long, tôi nói vui: – Thưa các bác, đây toàn là “quan đại thần” cả, nào là Bộ Chính trị, nào là Bộ trưởng…nhưng tôi hỏi bây giờ ai trong lãnh đạo Đảng còn nhớ thương dân bằng ông vua này?
Võ võ văn văn ý cẩm bào
Trẫm vi thiên tử độc gian lao
Tam bôi hoàng tửu quần lê huyết
Sổ trản thanh trà bách tính cao
(Quan võ, quan văn họ chỉ sung sướng với bộ cẩm bào, lấy làm hãnh diện sang trọng với bộ áo. Ta đây làm vua ở ngôi thiên tử mà cô đơn, không ai hiểu ta. Uống ba chén rượu trong hoàng cung như uống máu quần chúng nhân dân. Uống một chén trà tiến vào cung vua như uống mồ hôi trăm họ).
Một ông vua ngồi trong cung ăn ngon, mặc đẹp mà thấy đau xót vì dân cực khổ, nói nôm na như vậy, thế thì ta không học vị vua yêu nước, thương dân này thì học ai? Học cha ông học ngay đây này, thanh liêm thì học ở đây, ở thế kỷ 20 này.
Thiên lệ lạc thời dân lệ lạc
Ca thanh cao xứ khốc thanh cao
(Nước mưa trên trời kia phải chăng nước mắt của trời cũng như nước mắt của trăm họ rơi xuống. Tiếng hát trong hoàng cung cao bao nhiêu thì tiếng khóc ngoài đời càng cao bấy nhiêu)…Ghê gớm quá! Thấy trời mưa mà như thấy nước mắt của dân đổ xuống! Bây giờ bọn tham nhũng không còn biết xấu hổ với cha ông.
Can qua thử hội hưu đàm luận
Lân tuất thương sinh phó nhỉ tào
(Cái việc mất nước nguyên nhân thế nào lúc này ta thôi bàn, phải bàn cái chỗ này: tìm con người cứu nước thì ai đây, phó cho ai đây!)
Vậy Nguyễn Tất Thành không ảnh hưởng ở những người này thì ảnh hướng ở đâu?
Cha làm quan trong triều, buổi sáng đó không ăn sáng mà ngồi trước nén hương, vì thấy vua bị bắt, chánh khâm sứ Trung kỳ nó bắt. Lệnh bên kia tố cáo đó là “có âm ưu lật đổ” do Trương Như Cương là ông cậu, em mẹ vua, tố cáo. Nỗi đau như thế mà ta không đem cho anh em đồng chí đồng bào biết để mà học. Đây là nhân cách làm vua, nhân cách làm tướng, nhân cách làm thầy. Học là học ở đấy chứ đâu. Tôi cho rằng ta rời bỏ cha ông, rời bỏ cái văn hoá dân tộc là không đúng, tất nhiên ta không dân tộc hẹp hòi, phải học cái tinh hoa của nhân loài, của dân tộc khác, nhưng học cái tinh hoa thôi, cái gì hợp thì ta học. Chính Bác Hồ là con đẻ của văn hoá dân tộc, đi ra thiên hạ, nằm gai nếm mật, đến nơi này nơi kia để khảo sát.
Về điều này tôi nói với đồng chí Tố Hữu lúc đó là Trưởng ban tuyên giáo, Uỷ viên Bộ chính trị…khi duyệt kịch bản phim của tôi ông bảo cái phim “Hẹn gặp lại Sài Gòn” lúc bấy giờ lấy tên là “Con đường năm ấy” là để khẳng định con đường của Bác Hồ, tôi nói:
- Bác Hồ là hệ quả của văn hoá dân tộc, là truyền thống yêu nước, chứ không phải là Mác Lênin. Mác Lênin nền tảng từ đầu, mà là một mảng phần sau. Ông Tố Hữu nói:
- Không, không, giai đoạn này tôi không thích ca ngợi, giai đoạn Nguyễn Tất Thành chẳng là cái gì cả, giai cấp vô sản giác ngộ thì mới đến được chủ nghiã Mác Lênin, đó là lượng thành chất…
Hôm đó cả anh Hà Xuân Trường, Thứ trưởng Bộ văn hoá, Chủ tịch Hội đồng nghệ thuật quốc gia, đã duyệt (phim) rồi lên xin ý kiến ông Tố Hữu; anh Vũ Năng An giám đốc xưởng phim truyện, anh Hải Ninh là đạo diễn; anh Đào Xuân Tùng, đồng tác giả kịch bản “Con đường năm ấy” và nhà văn Hoàng Tích Chí ngồi nghe anh Lành nói thế…
Ông Tố Hữu còn nhấn từng tiếng:
- Phải sang Pháp, giai đoạn ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc nhờ giai cấp vô sản Pháp giáo dục cho mới trưởng thành. Chỉ có Nguyễn Ái Quốc, chứ còn Phan Chu Trinh ở bên ấy bao nhiêu năm có biết gì đâu? Rồi Phan Văn Trường cũng ở Pháp rất lâu mà có biết gì đâu? Chỉ có giai cấp vô sản Pháp giáo dục cho (Nguyễn Ái Quốc)…còn giai đoạn Nguyễn Tất Thành chưa là cái gì cả!
- Kính thưa anh – tôi nói: – một thanh niên 20 tuổi đẹp trai như thế, con quan thừa biện Bộ lễ, nho học có, tây học có, học troisieme annéc Quốc học Huế, học chữ nho người ta gọi là “kiêm bị”, có thể đi thi được, nếu lấy cô vợ đẹp được quá đi chứ! Tại sao Nguyễn Tất Thành bỏ tất cả để ra đi? Bài học ấy lớn quá. Ngay trong tâm hồn Nguyễn Ái Quốc có cả sự hoàn chỉnh nhân cách phương Đông để đi đối thoại với phương Tây. Nếu không biết gì khi sang bên kia thấy gì cũng vơ cả, như thế thì hỏng. Nguyễn Tất Thành ra đi thì cô út Huệ ở lại, cô là con quan Bộ Công Lê Quang Hưng, Nguyễn Tất Thành bỏ cả cái tình cảm, tình yêu này mà đi vào nghĩa lớn, thì đó là bài học.
Khó là như thế, bây giờ tìm hiểu Bác Hồ, lịch sử của Bác là con đẻ của dân tộc này, kết hợp với mọi cái, tìm lượm được mọi cái hay ở bên ngoài. Ở bên Mỹ hiện nay có mấy cuốn sách viết về Bác, nay người ta vẫn tiếp tục nghiên cứu, nhất là Lady Borton, bà hiện đang ở Khách sạn La Thành, bà nói tiếng Việt như anh em mình, bà chuyên nghiêm cứu Bác Hồ thời ở Mỹ.
Như vậy, Bác Hồ vào Huế là để học thêm được cái gì ở Huế ở tuổi thơ ấy? Đó là cái nôi văn hoá của dân tộc hội tụ ở Huế. Huế là văn hoá bản địa của kinh đô, đặc biệt các diện mạo đại khoa vào trong Huế. Một con người như cụ Cao Xuân Dục, (đến nay hai lần tôi đề nghị với Nghệ An mà chưa đặt cái tên đường cho cụ), tất cả các bộ sách Sử và văn hoá ở triều đình Huế có đến bây giờ được sắp thành văn bản là do ông. Cụ Cao Xuân Dục là ông quan từng làm tổng đốc Sơn-Hưng-Tuyên, sau xuống dưới này, cùng Hoàng Cao Khải.
Dân ta công bằng lạ lùng, đây không phải là quy định trong sách đâu. Ông Hoàng Cao Khải lúc đó phải điều cả cụ Cao Xuân Dục đi dẹp Bãi Sậy.
Cả hai ông cùng đi dẹp Bãi Sậy nhưng cụ Cao Xuân Dục không bị mang tiếng là Việt gian mà Hoàng Cao Khải mang tiếng đại Việt gian. Làm quan nhân nghĩa rất khó, nhất là ẩn tại triều.
Những bài học của ông cha ta lớn như thế mà nó còn có quan hệ xung quanh diện mạo Hồ Chí Minh đều ảnh hưởng từ những cái này. Ông Đào Tấn cũng vậy, làm tống đốc An Tĩnh mà khởi nghĩa Phan Đình Phùng, phong trào Phan Bội Châu mà ông cũng không mang tiếng đàn áp khởi nghĩa Phan Đình Phùng, đàn áp phong trào Phan Bội Châu mà ông cũng không mang tiếng đàn áp, trái lại còn dựng được vở tuồng “Hộ thành” ca ngợi Phan Đình Phùng, ông ngầm giúp đỡ khở nghĩa Phan Đình Phùng, ngầm giúp đỡ phong trào Phan Bội Châu. Cao Xuân Dục cũng vậy, ông xuống Bãi Sậy mà không đàn áp, nên ông không mang tiếng đàn áp mà trở thành một nhà văn hoá.
Tất cả sách Sử từ xưa để lại đều là ở cụ Tổng tài Quốc sử quán, cụ đỗ cử nhân, đồng khoa với cụ Phan Đình Phùng, nhưng đại khoa cụ không đỗ. Đầu thế kỷ (20) này cụ vừa là Tổng tài Quốc sử Quán vừa là thượng thư Bộ Học, vừa là tế tửu Quốc tử giám, vừa là Đông các Đại Học sĩ tứ trụ triều đình. Cụ về hưu năm 1923 nhưng vẫn là nhà văn hoá, con của cụ là Cao Xuân Tiếu, cháu nội Cao Xuân Huy nhà lão học lớn nhất nước ta hiện nay, nhất là Cao Xuân Hạo. Một gia thế như thế đều có quan hệ với gia đình cụ Sắc.
——-
(Tác giả chú thích)“Cụ Hoàng cao Khải lúc đó là ông quan lớn nhất nước ta, được phong phó vương ở Bắc cụ Cao Xuân Dục làm tờ Thiên vô nhị thật, quốc vô nhị vương, trời chỉ có một mặt trời, nước chỉ có 1 vua, chứ sao lại hai vua. Sau khi áp Bãi Sậy Hoàng Cao Khải được vương Quân công.”
——–
Nguyễn Sinh Sắc được học là nhờ hồi đó được hưởng một suất khuyến học. Cụ Cao Xuân Dục để ra một số ruộng khá lớn để lấy hoa lợi giúp cho học sinh nghèo. Ông Sắc được nhận số tiền khích lệ đó, đồng thời được vào Quốc Tử Giám cũng là nhờ cụ Cao Xuân Dục. Nếu nghiên cứu Bác Hồ mà không nghiên cứu những khía cạnh này thì nó mất cội nguồn nhân nghĩa. Cội nguồn nhân nghĩa ở gia đình Bác Hồ đứng được ở Huế, sống được ở Huế và tiếp cận được những vấn đề văn hoá…đều là nhờ cụ Cao Xuân Dục, cụ có những ân nghĩa đối với thân sinh Bác Hồ.
Như vậy (nghiên cứu) lịch sử phải công bằng, phải đi tìm những cái từ cội nguồn. Nói như thế để các thầy các cô sau này nghiên cứu về Bác Hồ cần nghiên cứu bổ sung thêm, hoàn chỉnh thêm. Con người anh hùng dân tộc được sự nuôi dưỡng qua nhiều bước đường, qua nhiều thời kỳ mới nên con người đó, chứ không phải tự dưng nó đến. Thế thì ông Cao Xuân Tiếu mua ngôi nhà của lính “khố vàng” cho ông Nguyễn Sinh Sắc để ông Sắc đưa vợ con vào ở. Đó là điều quan trọng thứ nhất. Thứ hai là: khi bà Sắc chết rồi ông Sắc chưa đỗ đại khoa (đến 1901 khoa Tân Sửu ông mới đỗ). Trong khi còn tang vợ vừa mới qua đời, con trai út vừa mới chết, ông Sắc cùng ông Phan Chu Trinh cả hai ông đều bị đánh hỏng trong khoa thi này. May sao cụ Cao Xuân Dục là Chánh chủ khảo Hội đồng khảo thí khoa Tân Sửu (1901), khi phúc khảo lại toàn bộ thì thấy có hai bài của hai ông Phan Chu Trinh và Nguyễn Sinh Huy (lúc này ông Sắc đổi tên là Huy). Cụ Cao Xuân Dục nói:
- Chết, những bài này mà đánh hỏng thì hậu thế người ta nói thi cử không công bằng.
Ông làm tờ trình lên Bộ học và lúc đó cụ Đào Tấn cũng góp phần tâu lên vua Thành Thái xét lại hai vị sĩ tử này. Hai sĩ tử này xét về văn bài phải là hàng đầu bảng mà bây giờ đánh hỏng là không được. Lúc bấy giờ có hai phái: – phái Nguyễn Thân muốn đánh hỏng, nói là hai ông này phê phán nhà Nguyễn đầu hàng Pháp, là “khinh ngôn”. – phái nữa là Đào Tấn nhận xét thi cử là để chọn những hiền tài, đánh hỏng những người thế này thì hậu thế người ta khinh lại. Sau cả hai phái đều lấy lại nhưng dung hoà là không lấy tiến sĩ nữa mà lấy phó bảng, nên hai ông đều là phó bảng. Đời vua Thành Thái, khoa thi này có 9 tiến sĩ, 11 phó bảng, lấy thêm 2 phó bảng thì cụ Phan Chu Trinh bị đội bảng thứ 13, cụ Sắc thứ 11.
——-
(Tác giả chú thích)“Vào học Quốc Tử Giám là quan đại thần, mà ông Sắc chỉ là con một người bình thường. Cụ Cao Xuân Dục phải nhận cho vì lúc đó cụ đang là thượng thư Bộ Học và là Tế tửu Quốc Tử Giám.
Khi vào Huế cụ Sắc túng thiếu. Con trai cụ Cao Xuân Dục là Cao Xuân Tiếu (đi thi cùng khoa với cụ Sắc) đỗ cử nhân, sau đó đỗ phó bảng, cụ Sắc không đậu, khoá sau mới đỗ. Hai người là bạn học của nhau, cụ Cao Xuân Tiếu mới mua một ngôi nhà ở ngõ Đông ba của một lính “khố vàng” về hưu ở An cựu để ông Sắc đưa vợ con vào đây. (Búp Sen Xanh tôi không đưa đoạn này vào, sợ mang ơn triều Nguyễn quá nặng, chỉ cho tôi nói là nhà ông lính “khố vàng” thôi)
——-
Nói như thế thấy rằng cụ Cao Xuân Dục có mối liên quan hệ tình cảm sâu sắc với gia đình Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, rất nhiều tình tiết như thế. Sau khi đỗ đại khoa thì vua Thành Thái ban “ân tứ vinh quy”, ban áo mão để đi dự tiệc vườn Thượng uyển được “kén vợ”, chọn một cô nào thì tuỳ ý. Nguyễn Sinh Sắc được cụ Cao Xuân Dục định gả con gái yêu của cụ là Cao Thị Trâm làm vợ kế để giúp cho các cháu đang thơ như thế này, mà đứa nào cũng học giỏi, ngoan, nên cụ mời Nguyễn Sinh Sắc đến tư dinh, ông nói trước để khi ông Sắc chọn (vợ) sẽ lấy Cao Thị Trâm, con quan đại thần. Cụ nói: – Tôi muốn giúp anh người hiền đức mà “thất nội trợ…”
Ông Sắc bèn phủ phục xuống nói: – Con xin tạ ơn Cụ lớn và xin Cụ lớn miễn cho con việc này, là vì con được như hôm nay là nhờ cha mẹ vợ, gia đình vợ, bây giờ vợ mất rồi, con rể đỗ đại khoa, vinh quy bái tổ mà lại nằm trên cáng và một võng người con gái khác cùng về theo thì điều này đau đớn cho mẹ vợ của con. Vậy xin quan lớn, miễn cho con, chứ không phải con chê , chê là không phải, là xúc phạm… nên con xin tạ cái ơn hải hà này.
Đó là nhân cách một quan đại thần, nhất phẩm triều đình muốn chọn người tài để gả con gái cho, mà con gái thì mới 18 tuổi, trong khi ông tân khoa đã 3 con rồi, có tài, để giúp “nâng khăn sửa túi” cho ông (Sắc) này, giúp ông nuôi con, dựng nghiệp. Tôi nói phụ thêm về điều này. Cụ Cao Xuân Dục gả con gái cho vị Hoàng giáp Tiến sĩ Đặng Văn Thuỵ (cụ Đặng Văn Thuỵ là thân phụ của hai phó bảng Đặng Văn Oánh, Đặng Văn Hướng), gả con gái cho phó bảng Hoàng Tăng Bí, thân sinh ông Hoàng Minh Giám; gả con gái cho phó bảng Lê Xuân Mai làng Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An…
Khi tôi tìm vào nhà cụ Hồ Tá Bang (người sáng lập trường Dục Thanh), nhiều người kể lại, Nguyễn Tất Thành ngày xưa còn trai trẻ mà đã để được trong trí nhớ mọi người đương thời những ấn tượng tốt đẹp, không dễ đâu. Chứ không phải lên đến lãnh tụ người ta mới quý. Người ta quý Bác Hồ đi cứu nước, cứu dân là bước sau này, còn trước hết, khi Bác còn là một cậu học trò đã có nhân cách học trò, làm thày giáo có đức độ người thày. Là cậu bé khi làm thơ đã có cái gì manh nha biểu hiện ở con người ấy, đứa bé ấy đã biểu hiện những đức tính đẹp, đức tính đẹp đó cũng biểu hiện những truyền thống nho gia trong gia đình, trong quê hương, trong thầy học vv… đã tác thành từ buổi ban đầu của những con người thời còn trẻ như Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Khiêm, nhất là Nguyễn Tất Thành.
Tôi “đi tìm” Bác Hồ là tìm ở những khía cạnh này, không phải “tìm” Bác Hồ trên con đường Mác Lê nin, cái đó là sau, đó là bước quan trọng nhưng là thứ hai. Cái cốt cách con người sau trở thành diện mạo tiêu biểu cho nên văn hoá dân tộc là chính cái ấy, là ở những khía cạnh này, trong gia đình, trong bạn bè của cha, của người thầy…tất cả giai đoạn ở Huế này rất quan trọng. Và chính điều ấy lại biểu hiện một khía cạnh nữa là sau khi ông Sắc trở về quê, chăm sóc mẹ vợ, thì có “trát” của Đô sát viện (như Ban tổ chức bây giờ, các quan được cử đi đâu là do Đô sát viên cử) mời Nguyễn Sinh Sắc vào làm quan ở Bộ Lễ. Vì mẹ vợ không có con trai, nuôi con rể ăn học, nay ở một mình, nên ông xin ở lại chăm sóc mẹ vợ. Ông Sắc đưa các con đi khắp nơi, các vùng quê có dấu ấn sâu đậm vừa xẩy ra ở cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, những nơi thực dân Pháp tàn sát trong các cuộc khởi nghĩa Cần Vương, Văn Thân, Đông Du…Thế thì Bác Hồ hồi nhỏ được cụ Sắc đưa đi khắp vùng Nghệ Tĩnh, ra đến tận Quỳnh Đôi, đất gốc của họ Hồ.
Ông Khiêm kể chuyện như sau:
- Cha Bác ở xóm Du Đồng mấy tháng, gần dinh cụ Thượng, sau gọi là cụ Quận (tức quận công Hoàng Cao Khải, như ấp Thái Hà) và tôi có đến gặp cụ Lê Thước, hỏi thì cụ Thước kể:
- Hôm đến dinh Hoàng Cao Khải để ăn mừng khánh thành cái dinh thự của cụ Quận công, có mời các quan sở tại đầu tỉnh cho đến các quan huyện. Trên cái sân lớn, ngoài có tường hoa, đám trẻ con cứ nhìn qua khe tường thấy các quan trong sân toàn uống rượu tây, thì cái đám học trò, cái đám trẻ đó (như cụ Khiêm kể lại – trẻ nhưng toàn học trò chữ nho, nào là Phạm Gia Cần, Lê Thước, Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Khiêm), thấy các quan trong đó đọc thơ, bình thơ để mừng quan Quận công mới xây dựng xong dinh thự. Đặc biệt có một cái bể cạn rất lớn trong đó có núi non bộ, cây si tính đến trăm tuổi, có ba ông lão nho nhỏ. Các quan bình thơ trong sân, đám học trò đứng ngoài nói to một câu “Các quan làm thơ dở quá!”
Nghe thế, ông Hoàng Trọng Phu ra quát lũ trẻ, thì một số bỏ chạy (cụ Khiêm, cụ Thước, cụ Cần đều kể như thế), chú Thành chạy nhưng chậm thôi. Lúc đó cụ Hoàng Cao Khải mới ra, nói:
- Thôi, đừng doạ nạt các cháu, nhà mình đang có chuyện vui lớn, các cháu đến mà đuổi thì dân làng người ta cười. Các cháu nói gì thì nói, nhà mình có tiệc mà nạt các cháu không được. Rồi cụ nói tiếp: – Cháu nào khi nãy chê thơ của các quan thì bây giờ đọc cho các quan nghe một bài thơ, ông thưởng.
(Ông Hoàng Trọng Phu trẻ thì nạt, còn cụ Hoàng Cao Khải già thì mời các cháu vào) Đám trẻ độ chục đứa mới quay lại, Cụ Hoàng nói tiếp.
Cháu nào khi nãy chê thơ các quan, bây giờ vào đọc bài thơ, dù có dở ông cũng thưởng, vào đây.
—-
(Tác giả chú thích) Ấp Thái Hà lấy cái tên Hà Tĩnh đặt cho ấp ở Hà Nội. Ông Hoàng Cao Khải có xây dựng một dinh thự ở quê giống cái ấp ở Thái Hà ở Hà Nội.
Cụ Lê Thước đỗ giải nguyên Hán học khoa cuối cùng 1918, sau học Cao đẳng sư phạm là thầy học của lớp người như Tôn Quang Phiệt là bạn học cùng tuổi với Bác Hồ, sau cụ Thước về Viện Văn học.
Cụ Hoàng Cao Khải là tuần phủ Hưng Yên. Hoàng Trọng Phu là con Hoàng Cao Khải, lúc đó ở Tây mới về, cùng trường thuộc địa với Thân Trọng Huế, Lê Văn Miến, ba người này là ba con quan đại thần được chọn đi học trường thuộc địa ở bên Pháp, học xong thì Lê Văn Miến ở lại học thêm hội hoạ, còn Thâu Trọng Huế về. Sau này H.T.Phu là tổng đốc Hà Đông (Đại sứ quán Trung Quốc hiện nay là nhà của ông Hoàng Trọng Phu, còn trường Tuyên giáo bây giờ là ấp cụ Hoàng Cao Khải).
Các quan thấy đám trẻ thì cũng chạy ra. Nguyễn Tất Thành nhìn thấy ba ông phỗng ở trên núi non bộ, nói:
Thưa cụ, cháu đọc bài thơ ứng khẩu này, nếu có sai thì cụ đừng phạt cháu.
Cụ Quận nói: Cháu cứ đọc đi, ông không phạt cháu đâu
Kìa ba ông lão bé con con
(Mọi người cười, “ba ông lão” lại “bé con con” thế mới ngộ nghĩnh)
Biết có tình gì với nước non
(Các quan cũng chưa thấy gì cả, nghe xong hai câu thơ không ai nói với ai, tất cả đều im lặng)
Trương mắt làm chi ngồi mãi đó
Hỏi xem non nước mất hay còn ?
Ông Hoàng Trọng Phu nói: – Thằng này hỗn, con ai đấy?
Cụ Hoàng Cao Khải mới hỏi: – Thế cháu con ai?
Nguyễn Tất Thành chưa kịp trả lời, thì Lê Thước nói:
Bẩm Cụ Quận, đây là con thầy Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc bên Ngệ An sang đây.
Cụ Hoàng Cao Khải đỗ cử nhân, còn cụ Nguyễn Sinh Sắc đỗ đại khoa cùng với cụ Nghè Ngô Đức Kế, cụ Khải mới nói: – “Hổ phụ sinh hổ tử”, rồi cụ chống gậy đi vào. Còn Hoàng Trọng Phu thì nói: Cái tay này nó lớn lên nó sẽ làm loạn (chuyện này cụ Khiêm kể cho tôi nghe năm 1950, sau ngày giải phóng miền Bắc, năm 1957 tôi đi gặp cụ Lê Thước, cụ Phạm Gia Cần để đối chiếu).
Khi có bài thơ trong tay rồi, tôi thấy trong bài đó có cái gì hơi hướng tứ thơ của cụ Tam Nguyên Yên Đổ. Khi đó tôi đang công tác ở Đại học Nhân dân, đem trao đổi với các thầy cô tôi nói cái này như thơ Nguyễn Khuyến. Thời bấy giờ người nghiên cứu thơ Nguyễn Khuyến nhiều để đi nói chuyện là nhà thơ Xuân Diệu. Tôi đến hỏi thì Xuân Diệu nói cụ Nguyễn Khuyến có một bài thơ “ba ông phỗng” nhưng hoàn toàn khác. Cụ Nguyễn Khuyến đỗ tam nguyên nhưng cụ bất hợp tác với Pháp. Cụ chỉ nhận làm quan Toản tu Quốc sứ quán rồi cáo quan về làng. Triều đình mời cụ ra làm Tổng đốc Sơn-Hưng-Tuyên. Cụ từ chối. Nhưng sợ mang tiếng không hợp tác với Pháp nên cụ nhận làm “gia sư” cho gia đình cụ Hoàng Cao Khải ở ấp Thái Hà. Cụ Hoàng Cao Khải cũng muốn mời được ông Tam nguyên về dạy học cho con cháu mình thì cũng sang.
—–
(Tác giả chú thích) Cụ Lê Thước nói cái gậy mà cụ Hoàng Cao Khải chống, hội chợ Pari có 3 cái thì toàn quyền Pasquier mua cái gậy tặng cho Hoàng Cao Khải sau khi dẹp cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy Nguyễn Thiện Thuật, trên đầu con rắn ở cái gậy có gắn viên kim cương.
——
Cụ Nguyễn Khuyến ở trong nhà một thời gian thì cũng yên tâm, sau đó về cái đất Bình Lục (Hà Nam) của mình cũng đỡ bị chúng theo dõi. Bấy giờ cụ Hoàng Cao Khải muốn có một bài thơ tức cảnh hoặc tự sự của cụ Nguyễn Khuyến để làm kỷ niệm và cũng là cái sang được cụ Tam Nguyên tặng thơ.
Ông đứng là chi đó hỡi ông
Trơ trơ như đá vững như đồng
Đêm ngày gìn giữ cho ai vậy
Non nước đầy vơi có biết không
Cũng bốn câu, cũng ba ông phỗng và cái núi non bộ ngoài này với trong kia là một mẫu hình làm ra. Sau khi sưu tầm hai bài thơ đó, thì thấy đúng thơ là người, mà con người của thời đại nào ra thời đại ấy, có khác. Đây ta nói về những nhân cách. Cụ Tam Nguyên có cái nỗi đau buồn của cụ là mất nước, nhưng thế hệ của mình là bất lực “trơ trơ như đá vững như đồng”, nhìn cái thế lực thực dân lúc đó như cái trụ đá rất cao lớn, toàn đá tảng…sự tồn tại, sự bền vững xây trước dinh Hoàng Cao Khải. Còn Nguyễn Tất Thành thì đặt ra câu hỏi:
Kìa ba ông lão bé con con
Biết có tình gì với nước non
Trương mắt làm chi ngồi mãi đó
Hỏi xem non nước mất hay còn ?
Nó khác, nó có hùng khí: “Trương mắt làm chi ngồi mãi đó! Hỏi xem non nước mất hay còn?
Tôi nói vui với các đồng chí lãnh đạo của ta, 65 tuổi là nên về đi thôi, anh sẽ bất lực trước các hiện thực, sự sôi động của thời đại, cái tuổi 70, 60 khi suy nghĩ mạnh thì huyết áp bốc lên có làm gì được nữa đâu, rồi ba cái thầy quân sư quạt mo nó nói dài dài thì vâng, cứ gật… Thôi tuổi 70 thì lực bất tòng tâm, trừ trường hợp đặc biệt rèn luyện lắm thì mới được như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, năm nay 90 tuổi mà vẫn thông minh đến thế, minh mẫn đến thế, cái kết luận trong buổi bế mạc hội nghị trung ương 11 của đồng chí Lê Khả Phiêu là trong thư của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Thư của đồng chí Nguyễn Đức Tâm như thế… thư của ba vị tướng như thế… thư của nhóm các ông tướng Chu Huy Mẫn, Nguyễn Quyết làm như thế thì ông Giáp viết rất chiến lược, rất sát. Thư của ông (Giáp) như thế này; tôi đọc gần như nguyên văn:
“Kính thưa Bộ Chính trị, Trung ương Đảng và các đồng chí cố vấn.
Tôi bị dị ứng thời tiết cho nên phải vào Nam (chữa dị ứng theo tôi tự hiểu hai nghĩa, một là dị ứng thời tiết bị rôm sảy, còn “dị ứng” nữa ngoài này nó nhiều chuyện bầy hầy; rồi người này người nọ chạy đến hỏi này khác rồi lợi dụng tiếng cụ nói nó sinh phiền, cho nên cụ vào Sài Gòn cụ ở). Nhưng thấy tình hình không bình thường, vô cùng nguy hiểm là sự chia rẽ của cấp cao Trung ương ta. Sinh thời, Hồ Chí Minh, Người luôn luôn nhắc một điều là phải đoàn kết, muốn đoàn kết thì phải phê bình tự phê bình thật mạnh. Và đứng trước nguy cơ tham nhũng như thế này, tình hình bên ngoài thế này mà mất đoàn kết, mỗi đồng chí có trách nhiệm không tự phê bình một cách kiên quyết, trong sáng, mà phê bình trên tình anh em đồng chí…
Tết vừa rồi, đồng chí Đỗ Mười có đến thăm tôi. Đồng chí Đỗ Mười có nói tình hình sức khoẻ, muốn nghỉ cố vấn. Tôi hoàn toàn nhất trí vì Đảng ta đã trưởng thành và các đồng chí lãnh đạo kế nghiệp đã trưởng thành không cần cố vấn, thì đồng chí Đỗ Mười lại nói có đọc ở Lênin một vấn đề là Đảng nên có một Ban kiểm soát bên cạnh Ban chấp hành trung ương do Đại hội bầu ra để giám sát. Tôi nói với đồng chí Đỗ Mười thế này: Đảng ta không cần bầu ra một Ban giám sát như vậy. Nếu như thế, Đảng sẽ có hai đầu thì nguy hiểm. Trung ương là cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ Đại hội, như thế là rất sáng suốt.
Đó là vấn đề thứ nhất. Vấn đề thứ hai tôi xem các hoạt động vừa đây như là khuynh đảo của một cá nhân, hoạt động như là đảo chính trong Đảng, tôi đề nghị Trung ương phải kiểm điểm thật nghiêm khắc và làm rõ vấn đề này.
Xuống đoạn dưới viết: “Đại hội 9 này là Đại hội gì? Đề nghị Trung ương “Dân chủ” là trên hết, “trí tuệ” thứ hai, “đổi mới” thứ ba, “đoàn kết” thứ tư, bốn điểm…
Hôm nay thấy thông báo bế mạc hội nghị lấy bốn điểm này.
Không dân chủ thì làm sao mà đấu tranh vạch ra được cái lỗi này, có dân chủ thì mới đấu tranh chống tham nhũng, chỉnh đốn Đảng mới ra trò chứ, không dân chủ thì cũng không đưa trí tuệ vào được. Dân chủ, trí tuệ… muốn trí thì phải đưa người có học hành vào, thời buổi internet mà không biết tiếng Anh thì làm sao được. Ai đời người lãnh đạo vào phòng máy vi tính lại hỏi: “làm gì mà nhiều vô tuyến thế này”. Đau khổ cho người lãnh đạo thế chứ. Như thế thì làm sao tiếp nhận tất cả trí tuệ ở internet vào được? Mà cách đây mấy năm Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhắc Đảng ta phải lo ngay việc giáo dục đào tạo tin học. Năm em đi thi tin học quốc tế ở Thổ Nhĩ Kỳ về mang lại vinh quang cho đất nước, nước mình đi vào tin học muộn màng như vậy mà các em nó giỏi như thế thì không ai nói đến. Bộ giáo dục không nói, Tổng bí thư không nói, bóng đá thì rùm beng lên, bóng đá vinh quang, đón tiếp đề cao… nhưng tại sao tin học các cháu nó đem vinh quang về như thế mà…gọi điện thoại cho Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, cho cái xe đón 5 cháu… Thời nay không có trí tuệ thì làm gì được. Bây giờ phải biết nhiều sinh ngữ tiếp nhận được cái bên ngoài, họ có nói bằng tiếng Việt đâu mà nghe? Vậy là Dân chủ, trí tuệ, Đổi mới, Đoàn kết…90 tuổi mà sáng suốt như thế. Nay cụ ra đây rồi, vì đại hội sắp khai mạc, ra rồi nhưng cụ nằm ở viện, ở nhà thì người ta đến, đến thì sinh chuyện. Thế mà “người ta” đã tung đồng chi Võ Nguyên Giáp đã tổ chức một cuộc họp Quân uỷ Trung ương phê phán cái này cái khác. Không! Ông có còn làm việc gì ở Quân uỷ Trung ương đâu! Quân uỷ trung ương có phải của Ông (Giáp) như trước nữa đâu, nhưng họ lấy đó làm cái cớ, để làm cái bảo chứng, cái độ tin cậy. Ông đã bị người ta dựng ra bao nhiêu chuyện rồi, ở Đại hội VII người ta dựng ra cả một bộ hồ sơ mà đồng chí Nguyễn Đức Tâm đọc trên 30 trang “đồng chí Giáp hoạt động lật đổ…
Như vậy, là thấy chuyện đấu tranh trong Đảng ta mấy chục năm qua là như vậy. Bác Hồ chúng ta đi trên con đường từ thuỷ chung là Nước được độc lập. Dân thì ai cũng có cơm ăn áo mặc, được no ấm, còn tất cả mọi thứ chỉ là phương tiện, chứ còn mục đích của Bác Hồ là nước độc lập, Dân thì hạnh phúc ấm no, cho nên trong Di chúc Bác nói mong muốn suốt đời tôi ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, như vậy là suốt đời không có gì quý hơn Độc lập tự do. Nước độc lập mà Dân không có cơm ăn áo mặc thì Độc lập ấy cũng là vô nghĩa.
…(Bị mất một đoạn ngắn) Khi Cụ Hồ về tới Pác-Bó thì nói với đồng chí Nguyễn Lương Bằng là tìm cho báo Thanh Nghị. Thế mà sau Đại hội III có người nói “có triết học Mác-Lê-Nin” không cần bộ tư pháp, bỏ Bộ Tư pháp. Mới rồi khôi phục lại Bộ Tư pháp đó chứ. Cái gì Cụ Hồ đề ra thì bị xoá gần hết. Nhà trí thức lớn không bao giờ kêu ca gì. Còn có người nói ông Nguyễn Khắc Viện là tay sai của Pháp về, ai như ông Viện? Hôm xét giải thưởng cho ông Trần Đức Thảo, cả hội Khoa học không ai đọc được cái gì của ông Thảo vì ông viết bằng tiếng Pháp. Bấy giờ giáo sư Phan Ngọc đọc bài giải trình về Thầy Đào Duy Anh, Giáo sư Trần Đức Thảo. Khi đọc xong, cả hội trường đứng dậy, bấy giờ nhiều người mới hiểu ông Trần Đức Thảo lớn đến thế. Nhưng bài ông Ngọc có câu làm cho một số nhà lãnh đạo bực mình “Việc Nhà nước trao giải thưởng Hồ Chí Minh cho Giáo sư Trần Đức Thảo, nó cũng làm sang cho cái giải thưởng này, nếu còn người đứng lên nhận thì cái giải thưởng ấy thêm giá trị, nhưng tôi thấy một nỗi rằng: có giải thưởng vậy ai là người nhận đây? Không có ai cả, vì ông đã nằm dưới mồ rồi. “Nó gần giống như thế kỷ 15, khi đức Lê Thánh Tông khôi phục cho Nguyễn Trãi, làm cái lễ trở về Nhị Khê gần Quán Gánh để minh oan cho Nguyễn Trãi trước dân làng, khi ông Thượng thư Bộ Lễ đọc xong chiếu giải oan thì nói thêm một câu rằng: minh oan được cho họ Nguyễn, nỗi oan khốc này đối với quan Hành khiển đã một thời “Lê Lợi vi quân Nguyễn Trãi vi thần” bây giờ quay mặt lại thì không còn ai để nhận cái chiếu vua giải oan này nữa, vì tru di tam tộc mất rồi. Mong sao lịch sử đừng bao giờ lặp lại! Nỗi đau trong lịch sử nó ghê gớm thế. Suýt nữa thì ta lại phạm lại lần nữa đối với ông Tổng Tư lệnh, ai lại nói con nuôi mật thám mà lại chui vào làm Tổng Tư lệnh của một quân đội dẹp xong mấy đế quốc siêu cường. Trước đó đã chuẩn bị một cái đảo để đi đầy! Việc đó suýt diễn ra trong thập kỷ 60. May sao, lúc đó Cụ Hồ còn sống; cụ nói: “Tôi còn sống, không ai thay được Tổng Tư Lệnh Võ Nguyên Giáp! Họ gán cho ông Giáp là “trùm xét lại”. Việc động trời này nhiều người đã biết.
Đọc 10 nỗi đau của Bác Hồ, trong đó đồng chí Hoàng Tùng viết về cải cách ruộng đất bắn bà Nguyễn Thị Năm như thể bắn vào quan điểm Cụ Hồ, vì Cụ Hồ không chủ trương cải cách ruộng đất bằng lối đó. Mỗi nước có cái đặc thù thì đánh như thế nào? chứ không thể đánh như Tàu được. Vì khi cách mạng mới thành công, cả Trung đoàn ăn cơm trong nhà bà Nguyễn Thị Năm. Con trai bà là chỉ huy Trung đoàn. Thế mà ông cán bộ của ta đi Trung Quốc mang “tư tưởng Mao” về, chủ trương bắn ngay bà Nguyễn Thị Năm. Bác Hồ nói: Cách mạng này nó bạc bẽo quá, gia đình này đã bỏ thóc gạo nuôi hàng Trung đoàn từ thời cách mạng còn hàn vi. Nay cách mạng đã lớn mạnh lại bắn người ta thì bạc bẽo quá. Bát cơm siếu mẫu ở đâu? Sau đó còn nghe cố vấn nước bạn lập ra một danh sách 200 cán bộ cấp cao trong quân đội gồm phần lớn trí thức tiểu tư sản trong đó có hàng tướng lĩnh để chỉnh đốn tổ chức.
Bác Hồ bảo: phải đốt ngay. Đem xử trí chừng này cán bộ thì còn đâu để lên Điện Biên bây giờ. Lúc đó CCRD như thế, đưa ra xử chừng ấy cán bộ trong quân đội thì trời đất nào? Nói như thế để ta thấy nỗi đau của Bác Hồ. Ta phải thấy trong cái bể sản xuất nhỏ, trong một nước chủ yếu là sản xuất nông nghiệp thì nó dễ cực đoan lắm. Không lấy cái văn hoá dân tộc, tinh thần đân tộc làm nhãn quan mà lấy giai cấp, lấy cái thù hận làm nhãn quan để đánh đổ người này, người kia thì nguy. Ông Hoàng Tùng viết, kể lại có lúc Bác Hồ khóc vì lúc bấy giờ ông phụ trách tuyên huấn, phụ trách báo Nhân dân nên rất gần Bác Hồ, ông H.T kể lại Bác Hồ hỏi sao CCRD lại bắn vào người đàn bà? Người đàn bà Việt Nam khác với đàn bà Trung Quốc. Người đàn bà Việt Nam thì cứu nước như Bà Trưng, Bà Triệu, nuôi chồng nuôi con để tham gia kháng chiến cứu nước. Có người lại nói: Hổ cái hay hổ đực cũng là hổ ăn người. Cho nông dân đấu tố để vùng lên, nếu không thì nông dân hàm ơn địa chủ suốt đời! Cho nên nghiên cứu về Bác Hồ thì thấy Bác Hồ có nỗi cô đơn về quan điểm “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Trước mặt mình đang có kẻ thù xâm lược như thế này. Độc lập dân tộc là cái bất biến, cho nên phải ứng biến. Kẻ thù chính bây giờ là đế quốc xâm lược cho nên có những vấn đề phải lùi một chút. Trong Di chúc Bác có nói khi kết thúc chiến tranh việc đầu tiên là phải chỉnh đốn lại Đảng chứ không phải để đến 30 năm mới làm. Trước khi viết Di chúc, 


Bác xuống Côn Sơn, đọc bia Nguyễn Trãi, Người nghiêng đầu vào bia, ôm lấy cái bia Nguyễn Trãi. Điều đó đủ nói lên Bác với nỗi đau Nguyễn Trãi! Các nhà nghiên cứu giỏi, bắt cái thần vào ảnh này, tại sao ngày rằm tháng 1 năm 1965 Bác Hồ đọc bia Nguyễn Trãi vì Nguyễn Trãi để lại nỗi oan 500 năm trước, coi chừng khi kết thúc chiến tranh này đừng để lặp lại nỗi oan này! Trong chiến tranh thì cái mâu thuẫn trong nội bộ dân tộc phải lùi lại. Rồi ngày 10/5/1956, Bác bắt đầu viết Di chúc, đầu năm thì ôm lấy bia Nguyễn Trãi ở Côn Sơn rồi lên động Thanh Hư để nhận cảm cái khí thiêng của dân tộc. Cái nguyên khí của đất trời con người ấy đã cảm thấy cái chuyển động trong cơ thể không còn có thể sống lâu được nữa. Rồi người sang Trung Quốc, đúng ngày 19/5/1965 Bác về quê hương Khổng Tử giữa lúc Mao đang phê Lâm, phê Khổng, giữa lúc Trung Quốc đang làm đại cách mạng văn hoá, đập cả trường Đại học Thanh Hoa. Vậy mà, Bác Hồ cùng với cụ Đổng Tất Vũ, phó chủ tịch nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (người ngoài Đảng như cụ Phan Kế Toại của ta) đi lên quê hương Khổng Tử, nằm ngủ tại đây một đêm, thắp hương cho Khổng Tử. Các nhà lý luận không giải thích xem tại sao cụ không sang Liên Xô, sang Đức để thắp hương mộ cụ Mác mà lại đến thắp hương cho Khổng Tử? Giữa lúc Trung Quốc đang đánh đổ Khổng Tử. Cái triết học phương Đông, đặc biệt là Việt Nam nó thâm thúy thế đấy.
Cụ Hồ của chúng ta là vậy không trích đoạn này đoạn khác của các triết gia mà nói dễ hiểu, cái tầng ngữ nghĩa thì luận nó ra. Cụ về thì có làm bài thơ để thắp hương cho ông Khổng Tử 1965. Di chúc Bác trích một mẫu đăng báo 1969 khi Người ra đi, thì đến năm 1989 tức là 20 năm sau thấy không ai đả động gì đến Di chúc của Bác cả. Đồng chí Vũ Kỳ mới chép ra trong hồi ký: “Bác Hồ viết Di chúc”. Đặc biệt là Bác dặn vấn đề chỉnh đốn Đảng, miễn thuế cho nông dân và vấn đề hoả táng cho Bác để giải thoát cho Người về với trời đất chứ giữ lại trong lăng là ngoài ý nghĩ của Bác. Việt Nam ta không để lăng tẩm lại đế đô, vua băng hà thì đưa về quê như 8 vua Lý thì về Bắc Ninh, các vua Lê thì về Lam Kinh, vua Trần về Tức Mạc và Đông Bắc Tổ Quốc. Bác Hồ không dặn để lại ở Ba Đình. Bác khai sinh VNDCCH tại Ba Đình, Bác hoá thân cũng đúng vào cái ngày ấy nhưng Di chúc thì hoả táng, sau này có nhiều điện thì điện táng để giữ vệ sinh, tiết kiệm đất cho nông dân. Còn tro cốt phân chia ra làm 3 cho Bắc, Trung, Nam bà con để một nơi nào đó để tiện việc trồng cây lưu niệm, Bác đã xem mộ cho Bác rồi, tức là Đá Chông, dưới chân núi Tản Viên. Núi Tản Viên là một trong 4 ông thánh “tứ bất tử”. Bây giờ có ông nào đó lại chủ trương xây một cái đền thờ bằng đá rất đẹp trên đó để thờ Bác. Lập đền thờ Bác trên núi Tản Viên là sai ý Bác. Dân sẽ có ý kiến là Cụ Hồ không khiêm tốn làm đền trên núi Cha, núi Mẹ là núi Mẫu ở bến này. Chính nơi Bác đã tìm là cái hang ở Đá Chông, dưới chân núi Đức Tản Viên. Thời chiến tranh Bác làm việc ở đây, Bác còn dặn là lấy thép không rỉ để chống rết, chống rắn nó vào, sau khi hoả táng thì lấy một phần tro cốt về đây. Chỗ này ta có thể để một hướng cho người đến viếng Bác thì thắp hương rồi trồng cây lưu niệm. Thế là Di chúc để lại cũng không được thực hiện. Thế gian có chuyện cha để lại Di chúc cho các con thì các con không những không thực hiện mà đánh nhau để chia của…Thế mà hôm nay, Di chúc dặn phải “giữ đoàn kết như giữ gìn con ngươi của mắt người” thì học trò – còn gọi là học trò xuất sắc cả, mà phe cánh cả. Nguyện vọng của Bác là Việt Nam Hoà bình như vậy. Hoà bình là muôn đời. Cái trong Bình Ngô Đại cáo như các thầy, các cô đã giảng bài như vậy. Nước Hoà bình, Độc lập, Thống nhất Độc lập đi đôi với dân chủ và giàu mạnh chứ không dặn là XHCN. Xã hội chủ nghĩa là cái mơ ước. Hồi đó có đồng chí trong Thường vụ Trung ương muốn Bác sửa: Việt Nam Hoà bình, Thống nhất Độc Lập, Dân chủ, Phú cường, Bác bảo phú cường là từ Hán Việt. Nên nói giàu mạnh, tức là dân giàu nước mạnh.
Năm 1947, Bác Hồ vào Thanh Hoá có gặp cụ Lê Thước, GS. Cao Xuân Huy, G S. Nguyễn Mạnh Tường, GS. Đào Duy Anh lúc đó tản cư theo trường về Thanh Hoá. Bác vào Thanh Hoá ngày 20/2/1947, phê bình Tỉnh uỷ Thanh Hoá mất đoàn kết, cách mạng chưa gì đã tranh công tranh phần. Họp Tỉnh uỷ, Uỷ ban xong thì tiếp đó Bác gặp các trí thức. Cụ Lê Thước thay mặt anh em đứng dậy nói: Thưa Bác…Bác Hồ nói ngay: Chúng ta đồng lứa, Bác để cho thanh niên gọi. Giáo sư Lê Thước đồng tuổi, lại cùng quê với Bác, bèn nói: Thưa cụ, anh em chúng tôi đây xin Cụ giải thích cho một điều: Chế độ CHDC, XHCN, Dân chủ mới, vậy chế độ gọi là gì cho đúng?
Bác cười và nói: Xin các Cụ chúng ta đừng lệ thuộc gì vào mấy cái danh từ. Ta hãy coi đây là nước Dân chủ mới. Vì bên Tây đã có Dân chủ từ năm 1789 rồi, 1776 bên Mỹ, bên Anh còn trước nữa nhưng đến bây giờ chưa thực sự có một xã hội dân chủ có công bằng. Cụ thể là nước ta bây giờ là nước Dân chủ kiểu mới, tôi nói thí dụ như Thanh Hoá đây là đất văn vật mà hiện nay ở miền xuôi 80 đến 85 phần trăm, miền núi đến 95 phần trăm dân mù chữ. Đấy, cách mạng ta tiếp thu một cái gia tài kiệt quệ sau 80 năm bị Pháp đô hộ thế thì bây giờ chúng ta làm sao cho ai cũng biết đọc, biết viết và trung học, đại học trên cái nền của toàn dân biết chữ. Còn nhà bị đói nghèo thì xoá được đói nghèo, để có ăn, nhà có ăn rồi thì đến no đủ, nhà no đủ rồi thì đến giàu có, nhà giàu có rồi giàu nữa. Còn nói XHCN hay CSCN ta chưa quan tâm. Nội dung của chế độ ta phấn đấu bằng được như trên. Bây giờ ta lại nói 10,15 năm nữa bằng Liên Xô, bằng Mỹ thì sao bằng được. Ảo tưởng như thế, hão huyền như thế không thể thực hiện được thì đổ vỡ chứ! Khi đuổi giặc xong, hy sinh hàng triệu người mà cuối cùng không có cái bát ăn, trong khi đó một số nước trong khu vực không đánh giặc như ta mà có độc lập, có người suy ra cái này. Họ quên một điều rằng nếu như không có người đi hàng đầu trong việc chống đế quốc thực dân, làm tà cái ý chí xâm lược, làm bá chủ thế giới của nó. Muốn có bình đẳng cho các dân tộc thì có dân tộc phải hy sinh. Hồi chiến tranh, ở miền Nam cứ đến chiều thì sợ nhất cái dàn pháo Tân Tây Lan, tức là cấp tập đại pháo của Tân Tây Lan, Thái Lan, Nam Triều Tiên. Tất cả các nước hùa vào với Mỹ. Các nước đó được Mỹ dùng làm hậu cần tại chỗ, đợt đầu thì nó đưa từ bên Mỹ (Honolulu) sang, sau này tất cả sản xuất phục vụ chiến tranh là các nước khu vực này. Năm rồi tôi có bài viết Bác Hồ có 7 thư gửi Tổng thống Truman để công nhận cho độc lập của nước ta, để tránh một cuộc chiến tranh, thế mà có người không hiểu gì cả lại nói Cụ Hồ thích được dân tộc anh hùng, để cho dân mình khổ, nói vậy là không phải. Khi Cụ ở Luân Đôn, Cụ ra nghĩa trang Hây – ghết đặt một bó hoa lên mộ cụ Mác, chiêm ngưỡng một thiên tài có một chủ nghĩa cứu cánh để tham khảo, giải quyết vấn đề độc lập dân tộc của nước mình, chứ không phải là quyết định. Thế cho nên những năm Cụ ở Quốc Tế Cộng sản rất cô đơn, đưa ra mấy cái luận điểm về giải phóng dân tộc thì bị cô lập. Khi đầu định giao về Phương Đông từ Mạc Tư Khoa mà sang Trung Quốc chỉ được cấp kinh phí đi đường một chuyến sang Quảng Châu năm 1924, đấy là lần duy nhất. 


Còn chỉ tự nuôi lấy mình, nuôi lấy đội ngũ cán bộ cách mạng. Cho đến 1927 về lại Mạc Tư Khoa, năm 1928 lại đẩy đi khỏi Mạc Tư Khoa không muốn để Nguyễn Ái Quốc ở lại Mạc Tư Khoa, sợ quan điểm của Nguyễn Ái Quốc sẽ ảnh hưởng đến đại biểu của các dân tộc dự đại hội OTC. Về Thái Lan xây dựng cơ sở cách mạng trong Việt Kiều rồi sang Trung Quốc để hợp nhất 3 đảng cộng sản trong nước thành Đảng cộng sản Việt Nam. Bác chủ trương đoàn kết các giai tầng xã hội, không phân biệt giai cấp. Đó là Đảng Bác Hồ sáng lập ngày 3/2/1930. Nhưng 11/4, Đệ tam quốc tế phái ngay đồng chí Trần Phú về nước, mang theo một bản phác thảo đề cương do ông Míp, Viện trưởng Viện các vấn đề dân tộc của quốc tế cộng sản bằng tiếng Nga để đồng chí Trần Phú bổ sung thêm phần khảo sát phong trào trong nước viết bằng văn bản gọi là luận cương tháng 10 của Trần Phú, bỏ các văn kiện của Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng như: Chính cương vắn tắt, Điều lệ vắn tắt, Chương trình tóm tắt, tên mà Bác Hồ đặt ra lúc thành lập Đảng! Bỏ Bí thư đầu tiên là Trịnh Đình Cửu, còn gọi là Cửu kính trắng, một trí thức ở Hà Nội. Vợ ông là bà Lệ, một lão thành cách mạng hiện nay hơn 95 tuổi, đang sống trong một ngôi nhà ở Hồ Tây. Khi Đảng của Bác Hồ được thành lập bị bỏ, tháng 10 họp không có Nguyễn Ái Quốc, đặt lại tên Đảng là Đảng cộng sản Đông Dương, tất cả mọi người phải đi vô sản hoá. Trong dự thảo Luận cương của đồng chí Trần Phú (chưa được Hội nghị này thông qua) các nhà sĩ phu yêu nước thì gọi là bọn Huỳnh Thúc Kháng, những trí thức yêu nước thì gọi là bọn Nguyễn An Ninh…Tôi không dám nói bịa trước anh linh của một nhà ái quốc, các ý trên đã ghi trong Luận cương của đồng chí Trần Phú. 


Đó là tả khuynh ấu trĩ của một thời sai lầm về quan điểm như vậy. Chúng ta nhìn rõ cái sai, nhưng chúng ta vẫn kính ái đồng chí Trần Phú, một nhà yêu nước của dân tộc ta. Với Bác Hồ thì ngược lại, năm 1945 Bác ôm lấy cụ Huỳnh Thúc Kháng mới từ Quảng Nam ra và nói: Cụ ra đây là “an dân lạc quốc”. Ta lục lại lịch sử như thế để mà thấy cái gì cứ rập khuôn theo nước ngoài là chết, không độc lập là chết, xa rời dân tộc là thất bại, chứ ta không biệt phái. Đây ta không phải biệt phái mà ta nói thế, mà nói cái chỗ anh xa rời dân tộc… Cho đến tháng 8 năm 1935 Đại hội thứ nhất tại Ma Cao, đồng chí Hà huy Tập viết một văn bản đề nghị Đệ tam Quốc Tế thi hành kỷ luật đồng chi Nguyễn Ái Quốc.
Bác Hồ suốt đời chỉ muốn cho dân tộc độc lập, nhân dân no ấm. Khi giành được độc lập rồi thì Bác chỉ mơ ước làm sao cho đất nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Và khi chết rồi (Bác) vẫn để câu này ở trong Di chúc. Nếu đi theo con đường Bác Hồ thì lấy từ cái này, ta đừng vội dăm ba năm, năm mười năm để vượt ai, không nên! Mà làm cho dân nghèo có…ăn rồi no đủ, no đủ rồi giàu có, giàu có rồi giàu nữa…cứ thế mà làm . Mọi người đều trong sạch, dân no đến đâu mình no đến đấy. Bây giờ một cái nhà của cơ quan huyện uỷ mà 700 triệu thì để làm bao nhiêu trường học.
Hôm nay nói với các thầy các cô thì tin rằng Đại hội 9 sẽ mở ra mới hơn, dân chủ trong Đảng, nó đã chỉ ra những con người cơ hội chui vào Đảng khuynh đảo một thời, làm cho Đảng ta lung lạc đi chệch hướng. Từ thời Bác Hồ thành lập Đảng, cũng như bao lớp người đi tìm con đường độc lập cho dân tộc, no ấm cho nhân dân, nước phải độc lập , dân phải no ấm, no ấm rồi thì được học, học ít rồi học nhiều nữa, cả dân tộc đều trí tuệ. Đã có nền văn hoá rồi thì dân tộc phải được học những vấn đề của thời đại. Đến Đại hội 9 này mới thấy, còn các Đại hội trước chưa thấy, bế tắc. Lần đầu tiên dân ta được tham gia ý kiến, dù là thực hiện hay không thực hiện nhưng trên đài, trên báo có đưa ý kiến của dân, của người này người khác, tuy chưa dám đưa hết.
Bên cạnh phòng họp (Đại hội) có phòng tập hợp thư từ tố cáo của đảng viên, cán bộ, nhân viên. Có đồng chí nhận thư tố cáo ôm một ôm không hết. Bây giờ các đồng chí làm chắc chắn là phiên bản ra ngay, của ông nào giao cho ông ấy, còn bản gốc thì lưu lại. Sai đúng thế nào chưa biết, ông này ông nọ có từng cái thư tố cáo thì nhận lấy. Một trăm ông uỷ viên trung ương là được phát cả, còn có phát cho đại biểu Đại hội thì không biết. Trong những thư đó thì chỉ có mấy ông không có tố cáo, có cả danh sách gửi tiền nước ngoài, sợ quá! Còn làm ăn thì phải có nhà một tầng, hai ba tầng khang trang, bằng đồng tiền lao động, bằng trí tuệ làm ra nó khác, bây giờ cứ ăn chặn cái này, ăn chặn cái kia…
Hôm họp Trung ương; một đồng chí cố vấn đứng dậy, bước ra nói: Tôi cũng không ngờ cuộc đời hoạt động đến hôm nay nó lại xảy ra đến mức thảm hại như thế này…(tức là người ta đấu cho). Một trong ba ông cố vấn than vãn như thế. Anh nhận ra thảm hại thì bây giờ đã hơn 80 tuổi rồi. Lời nói tự nó vô nghĩa, nhưng ít ra thì anh cũng thấy, anh tưởng (anh) có quyền, có lực thì có vinh quang…không có! Đó là cái nhục đó. Cái vinh và nhục, nó nhục ngay trên cai “ghế” của vinh; không phải trên cái ghế cao thì nó vinh đâu. Tuỳ ở anh cống hiến cho nhân dân, cho đất nước…To mấy thì to, anh đừng tưởng ngồi cao bao nhiêu thì vinh bấy nhiêu…đâu phải? Anh tưởng (anh) là tổng bí thư, là uỷ viên bộ chính trị là ghê gớm lắm…? Vừa bước ra khỏi cái ghế là cái nhục nó đổ xuống đầu anh ngay. Một người như nhạc sĩ Văn Cao, khi nằm xuống, hàng nghìn vong hoa và trướng, nhân dân cả nước khóc ông, vĩnh biệt ông, bởi lẽ không một người nào lại không hơn một lần đứng nghiêm chào cờ Tổ quốc, hát quốc ca! Biết bao thế hệ hát những ca khúc của Văn Cao: Thiên thai, Suối mơ, Đàn chim Việt; Làng tôi; Sông Lô; Thăng Long; Hành khúc tiến về Hà Nội; ca ngợi Hồ Chủ Tịch…Trong dòng người viếng Ông, đưa Ông về nơi an nghỉ đời đời, có đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, đến người đạp xích lô, người quét rác đường phố Thủ đô Hà Nội. Mộ ông ở Mai Dịch những ngày sau rượu trắng người ta để trên mộ ông.
Vậy “cái quan định luận” nằm xuống thì cái mồ anh thế nào?
Trịnh Công Sơn không có chức tước gì cả, nằm xuống…một nghìn năm trăm vòng hoa trắng (ông không có vợ) cái đó làm ta suy nghĩ chứ. Đến khi bà Khánh Ly, một ca sĩ, vừa khóc vừa nói qua sóng đài BBC:
Ông Trịnh Công Sơn là nửa cuộc đời tôi. Tôi là một ca sĩ không tên tuổi nhưng nhờ nhạc Trịnh Công Sơn mà cả Sài Gòn biết đến tôi và sau này bao nhiêu người biết đến tôi là Khánh Ly.
Trịnh Công Sơn không đi với tôi, người ta cứ tưởng tôi là người yêu, có thể là vợ, nhưng không! Ông Trịnh Công Sơn không của riêng ai cả. Ông là người của quê hương, sinh ra ở quê hương, làm nhạc cho quê hương, hát cho quê hương, và khi đất nước có biến cố người ta nghĩ Trịnh Công Sơn sẽ đi với tôi, nhưng không, Trịnh Công Sơn người của quê hương và ở với quê hương. Có người lầm tưởng ông theo cộng sản sau năm 75. Không, ông không theo ai, ông theo dân tộc, theo quê hương. Vì vậy, khi ông sang Pháp, ông không dám đi đâu cả, ông ở trong một quán Việt Nam ở Pari, vì có kẻ muốn giết ông, coi ông là phản bội. Nhưng tôi biết Trịnh Công Sơn là người của quê hương, không bao giờ ông sang một nước khác nói là quê hương thứ hai của mình. Hôm nay tôi khóc ông là vì nếu không có ông thì cũng không có tôi. Nhưng mà người như tôi cũng không lôi kéo được ông đi. Đến khi ông sang thăm nước Pháp, hai người ngồi với nhau, uống với nhau ly cà phê trong quán Việt Nam, hai người cùng khóc nhớ lại những đêm mưa Sài Gòn, chiến tranh trùm khắp quê hương “hát cho đồng bào nghe”, “dậy mà đi đồng bào ơi”.
Và hôm nay ông nằm xuống trên mảnh đất quê hương, đó là Trịnh Công Sơn của quê hương, ông không có riêng tư gì hết. Một nghệ sĩ, chỉ đi hát mà để niềm thương tiếc trong lòng nhiều người. Nhạc sĩ Trần Long Ẩn đọc điếu văn trước mộ Trịnh Công Sơn.
Nhắc lại 1.500 vòng hoa trắng, người đi tiễn biệt Trịnh Công Sơn toàn đi bằng xe gắn máy, nườm nượp suốt từ thành phố đến nghĩa trang và rất đặc biệt trong đám tang này có Đại tướng Võ Nguyên Giáp tiễn đưa nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Tôi thấm thía một bài học: “Chức tước nó làm lợi ích cho nhân dân người ta quý. Làm người thày thuốc chữa được bệnh cho nhân dân đó là hạnh phúc. Người thầy giáo truyền kiến thức, học vấn cho học trò, người cán bộ hoạt động trên địa hạt công tác của mình…làm được việc có ích, nhà văn viết những trang sách không xu thời, không bóp méo sự thật, không dây bẩn vào tâm hồn người đọc. Những trang sách đó người đời ghi nhận.
Lời cảm ơn của nhà trường:
Thưa nhà văn Sơn Tùng.
Hôm nay là buổi học cuối cùng của khoá 40 lớp “Đào tạo cán bộ quản lý ngành giáo dục” và là buổi sinh hoạt cuối cùng khoá học trên hội trường.
Cũng như người đạo diễn của một vở kịch, màn cuối cùng trước khi màn khép lại bao giờ cũng là màn xúc động nhất, hay nhất và gây ấn tượng.
Hôm nay, để có món quà chia tay các đồng chí trước khi ra về, nhà văn Sơn Tùng, chuyên gia nghiêm cứu về Chủ Tịch Hồ Chí Minh, được mệnh danh “Nhà Hồ Chí Minh Học” đến nói chuyện với chúng ta về “Chân Dung Một Người” mà tên tuổi của Người gắn liền với tinh hoa và khí phách dân tộc. Sự nghiệp của người gắn liền với quá khứ đau thương và lịch sử oai hùng của dân tộc Việt Nam. Đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu, và thực tế ý tưởng của tôi được nhà văn đáp lại bằng những mẩu chuyện của nhà văn hôm nay, tôi xin đưa ra một suy nghĩ:
Đã đến lúc sự thật phải trả về cho Sự Thật, Lịch Sử trả về cho Lịch Sử với giá trị nguyên bản đích thực của nó, dẫu có biết rằng Sự Thật nói ra có sù sì…nhưng vẫn có giá trị hơn rất nhiều so với lời nói nhận định sai lạc, giả dối, giá lạnh, không có hồn, nhưng sự thật đó quang minh chính đại phù hợp lý tưởng con người và đặc biệt Sự Thật do phù hợp với Lương Tâm của chúng ta.
Giờ chia tay với nhà văn SơnTùng đã đến , xin thay mặt anh em thành tâm chúc nhà văn và gia đình mạnh khoẻ, hạnh phúc, sống thanh thản với một cuộc sống vật chất còn nghèo khó.
Mong nhà văn ghi nhận cho một điều, đối với anh em chúng tôi những giá trị tinh thần mà nhà văn đã đem đến cho chúng tôi trong khóa học này luôn khắc sâu trong tâm trí chúng tôi.
Trước khi ra về, một lần nữa xin cảm ơn.
(Thời điểm Đại hội IX sắp khai mạc)
Nói chuyện với đồng chí đại tá Cao Nham:
1. Đầu năm 2001 tôi có dịp gặp và nói chuyện với Đại tá CCB Cao Nham tại Nam Đồng. Trong câu chuyện có một chi tiết tôi không thể quyên, theo lời kể của đ/c Cao Nham về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân năm 1968, ông Lê Duẩn nói với Bác Hồ: Đề nghị Bác để tôi đánh trận này nếu không thắng tôi xin từ chức Tổng bí thư nhưng với điều kiện Bác phải cách chức Võ Nguyên Giáp (? Không nói lý do).
Vào trận đánh kết quả không như ý ông Duẩn. Đến đợt 2 ông Duẩn lại nói với Bác cũng với đề nghị trên, kết quả cũng không đạt như ý ông. Tiếp đến đợt 3, một lần nữa ông Duẩn lại nhắc lại đề nghị trên, nhưng kết quả cũng không hơn gì các đợt trước.
Vậy là cả 3 đợt của Tổng tiến công và Nổi dậy như ông Duẩn chủ trương không đạt theo ý định của ông, đương nhiên là ông phải “từ chức” như ông tự xác định với Bác chứ, “quá tam” mà, nhưng không thấy ông tỏ thái độ nào cả (trong câu chuyện của đồng chí Cao Nham).
Tuy nhiên (có thể theo tôi hiểu) Bác Hồ cũng không muốn có sự xáo trộn nhân sự xảy ra khi sự nghệp giải phóng miền Nam chưa hoàn thành nên Bác bản chú cứ làm Tổng bí thư vì chú có uy tín với đồng bào miền Nam. Còn chú Giáp giỏi quân sự thì cứ để chú ấy làm Bộ trưởng Quốc phòng.
2. Về chủ trương Tổng tiến công và nổi dậy, Bác Hồ và ông Giáp không tán thành, nhưng thiểu số phải phục tùng, phải chấp hành, nhưng vì lợi ích của cách mạng không để tổn thất cho lực lượng ta nên Bác đặt vấn đề hỏi ông Giáp: – Có cách nào làm giảm nhẹ thiệt hại? Ông Giáp nói:- Chỉ còn cách đánh các căn cứ gần giới tuyến để kéo bớt lực lượng địch ra ngoài này.
Vì thế ta mới thấy có các trận đánh ác liệt dọc đường 9: Côn Tiên, Dốc Miếu, Khe Sanh, A Sẩu, A Lưới…Địch phải kéo ra 4 sư đoàn đối phó ở ngoài này, và tổng thống Giôn xơn đã có một câu tuyên bố phải tử thủ với Khe Sanh, chính vào lúc đó.
3. Vậy căn cứ vào đâu mà ông Duẩn dám đề nghị với Bác sự tự khẳng định: Nếu không thắng thì (tôi) xin từ chức?
Câu hỏi này có thể được giải đáp với mẩu chuyện của ông Mười Hương như sau:
Năm 1968, khi tôi còn công tác ở K.68 (Bộ CA) (tôi về Bộ CA tháng 8/1966, sau khi tốt nghiệp Đại học ngoại giao). Ông Mười Hương là Cục trưởng (thay ông Nguyễn Thế Tùng về hưu). Lúc đó cơ quan còn đang ở Quan Nhân, sơ tán cách Hà Nội 30Km, ông Mười Hương nói chuyện với cán bộ P.5 (K.68) có tổ công tác của tôi, ông nói: – ý định của ta trong cuộc TTC-ND Tết Mậu Thân (1968) là: chiếm đài phát thanh Sài Gòn, đánh sứ quán Mỹ bắt Matin, đánh dinh Độc lập bắt Nguyễn Văn Thiệu, để chúng tuyên bố đầu hàng trên đài Phát thanh Sài Gòn.
Nhưng trận đánh diễn ra không suôn sẻ như ý muốn của ông (Duẩn), vì đại sứ Matin khi đó ở cách sứ quán 200m, còn tổng thống Thiệu thì về Cần thơ ăn tết, do không nắm sát tình hình đó nên không bắt được chúng (theo lời kể của ông Mười Hương). Vì thế nên mới có đợt 1, đợt 2, rồi đợt 3 là bởi vì sau khi chiếm được đài phát thanh Sài Gòn từ đợt 1 rồi, nhưng lực lượng ta cứ phải giữ nó đấy chờ bắt hai tên kia nên mới sinh ra có đợt 2 nhưng cũng không tóm được Matin và Thiệu, nên lực lượng chiếm đài phát thanh vẫn cứ phải cố thủ để chờ tiếp đợt 3 (xem sao). Và kết quả thì ai cũng đã biết.
Ông Mười Hương nói tiếp: Năm 1967 Bác có ý vào Nam bằng đi bộ, Bộ chính trị không đồng ý vì tuổi tác sức khoẻ của Bác (có lẽ chỗ này trùng với câu truyện ông Sơn Tùng nói về hội nghị 3 nước Đông Dương họp ở Phnom Pênh lúc bấy giờ). Nên ta cố ý giành thắng lợi trong đợt Mậu Thân 68, chấm dứt chiến tranh để đưa Bác vào Nam theo nguyện vọng của Bác. (Câu chuyện này chính xác đến đâu thì tôi không rõ, nhưng đấy là câu chuyện của ông Mười Hương nói ở P.5 chúng tôi năm đó).
Đến đợt 3 cũng không bắt được Matin và Thiệu thì cơ hội “bất ngờ” không còn nữa và địch phản công lại, thế là chủ trương TTC và ND nhằm mục đích tối thượng không đạt được, tuy nhiên sau đó Mỹ buộc phải chấp nhận đàm phán với ta ở Paris.
4. Về cuộc đàm phán Mỹ – Việt ở Paris ta đã chuẩn bị từ năm 1963, khi tôi còn đang học khoá 3 Khoa đối ngoại của trường Kinh Tài.
Trong buổi nói chuyện với sinh viên ngoại giao khoá đó, sinh viên nêu câu hỏi với Bộ trưởng Xuân Thuỷ về tình hình chiến sự và đàm phán sẽ diễn ra theo hướng nào và triển vọng, thì ông Xuân Thuỷ nói: – Cuộc chiến diễn ra ác liệt thế nào thì ta đã biết, còn về đàm phán thì cũng vì thế mà ta đã xác định thế này, rồi ông đọc hai câu thơ (ông Xuân Thuỷ, Bộ trưởng Ngoại giao, là nhà báo, và cũng là nhà thơ):
Đàm đàm đánh đánh đàm đánh đánh
Đánh đánh đàm đàm đánh đàm đàm
Rồi ông giải thích cuộc đàm phán với Mỹ sẽ diễn ra cù nhầy kiểu như thế, mà đúng là thế thật. Hội nghị Pari kéo dài suốt từ năm sau tết Mậu Thân 1968 cho đến đầu năm 1973 (5 năm).
Để chuẩn bị cho cuộc đàm phán đó, ông Xuân Thuỷ được rút khỏi chức Bộ trưởng ngoại giao để làm trưởng đoàn đàm phán ở Pari. Ông Nguyễn Duy Trinh lên làm Bộ trưởng ngoại giao từ đó.
Dưới đây là mẩu chuyện nhỏ về ông Hà Văn Lâu. Bác Hồ mời ông Hà Văn Lâu đến giao nhiệm vụ. Ông Hà Văn Lâu hỏi Bác về công tác sắp được giao, thì Bác nói:
Tên chú thế nào thì công tác của chú cũng thế.
Đó chính là Hội nghị Pari là nơi ông Hà Văn Lâu công tác lâu năm ở đoàn đàm phán của ông Xuân Thuỷ suốt 5 năm.
Câu chuyện tôi được nghe kể lại:
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Nguyễn Huy Tưởng có hỏi Cụ Hồ:
Bây giờ đạo đức dạy (học) cái gì?
Cụ Hồ nói:
Cần – Kiệm – Liêm – Chính.
Chắc là ông Tưởng nghĩ rằng cách mạng là đổi mới tất cả vì khi đó cũng đang có phong trào vận động xây dựng đời sống mới thì dạy đạo đức cũng phải là “đạo đức mới” (Lúc đó chưa có khái niệm đạo đức xã hội chủ nghĩa như bây giờ), nên ông Tưởng mới nói:
Cái (đạo đức) đó cổ quá.
Thì Cụ Hồ trả lời như thế này với ông Tưởng:
-“Thế thì ngô, lúa có từ bao giờ?”
(mất một đoạn) …có từ cổ xưa rồi, mà đạo đức “Cần – Kiệm – Liêm – Chính” là 4 đức tính thuộc về đạo đức nhân văn đã đưa xã hội tiến bộ và phát triển không ngừng đến ngày nay, và như vậy thì nó cũng không bao giờ cũ, không bao giờ cổ, cũng như ngô, lúa chúng ta ăn có từ thượng cổ đến nay nó đang nuôi chúng ta.
Xã hội loài người mà xa rời 4 đức tính đó thì chắc ai cũng hiểu là thế nào rồi.
Đó là ý nghĩa của một trong những câu thành ngữ cổ xưa “còn giá trị với thời đại” như nhà văn Tùng Sơn nói ở trường đào tạo cán bộ quản lý của ngành giáo dục ngày 11 tháng 4 năm 2001.
Trích một số thư mới đây của CCB Trần Nhật Độ, nguyên Chính uỷ Bộ Tư lệnh Binh chủng Đặc công (Khu tập thể Nam Đồng – Đống Đa – Hà Nội).
Sau khi nhận xét đánh giá công lao cống hiến vào sự nghiệp giải phóng dân tộc thống nhất đất nước nhà của một số đồng chí lãnh đạo kể cả khuyết diểm thiếu sót, thư đã viết.
+ Mậu Thân 1968, mọi người không đồng tình đánh đợt 2,3. Vốn không phải thời cơ phút huy vai trò của chủ lực, lại không còn điều kiện phát triển tiến công mà tổng khởi nghĩa thì ngay từ đầu đã không khuấy lên được.
+ Việc thành lập Quân đoàn, cuối 1970 anh Văn đã đề ra, nhưng bị bác; bị thiểu số. Năm 1971 trong chiến dịch Trị Thiên cũng vậy. Đến năm 1973 (tháng 10) mới có Quân đoàn 1, sau đó là Quân đoàn 2 ở Trị Thiên. Nên nhớ cụm sư đoàn là cấp số cộng, mà Quân đoàn là cấp số nhân.
+ Chiến dịch Trị Thiên năm 1972, nếu giữ nguyên ý kiến anh Văn lấy lại Trị Thiên làm hướng chủ yếu thì sẽ có cánh vu hồi vào Thừa Thiên Huế. Hiệu quả chiến dịch sẽ khác xa…
+ Đánh CPC, anh Văn cho rằng chỉ nên đánh đến Sông Mê Kông, dừng lại và kéo Sihanuk về để cách mạng bạn tự phát triển, tự giải phóng. Ta không mang tiếng, không sa lầy, không bị cô lập…
+ Trong các cuộc nói chuyện với đồng bào, cán bộ, không ít lần đồng chí Lê Duẩn đã có lời phê phán, phản bác Bác Hồ và có ý vượt trội lên. Ví dụ như nói:
“Giáp thì sợ Mỹ. Bác thì sợ Trung Quốc. Bác không sát thực tế, Bác không có điều kiện nghiên cứu lý luận cơ bản. Tôi đây, tôi nghiên cứu rất nhiều lý luận cơ bản. Bác chịu ảnh hưởng nho giáo, Khổng Tử… thậm chí có những lần Bác đã đến hồi lẩm cẩm”.
(mất một đoạn) … “Thời thắng Mỹ” dưới bút danh Thép Mới. Quy hoạch 36 bài sẽ đưa ra kết luận “Thời thắng Mỹ” là thời đại gì? Đã đăng được 16 bài trên báo Nhân dân. Do làn sóng phản ứng của đảng viên, cán bộ nhân dân, buộc phải đình chỉ không được đăng tiếp nữa. Song với 16 bài đã đăng, tác giả và Báo Nhân dân đã kịp chấm dứt và cắt ngang thời đại Hồ Chí Minh vào năm 1954 và hạ bệ Hồ Chí Minh ở đây với hai sai lầm chết người trên hai mục tiêu cơ bản của cách mạng dân tộc dân chủ. Đó là chống phong kiến thì chậm tiến hành cải cách ruộng đất. Đối với chế độ xâm lược thì hiệp định Giơ-ne-vơ là thoả hiệp với địch, là ảo tưởng, là ngăn cản nhân dân Việt Nam, Lào, Camphuchia giành thắng lợi hoàn toàn…
+ Cũng trên báo Nhân dân, bài báo giới thiệu tác phẩm “Bức thư vào Nam” của đồng chí Lê Duẩn, đã tôn xưng đồng chí Lê Duẩn là “tổng công trình sư của đường lối đánh Mỹ và Tổng tư lệnh trên thực tế” chỉ một câu gắn gọn gồm vẻn vẹn 16 từ, bài báo đã đồng thời phủ định hai nhân vật lịch sử trọng yếu là Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp. Hồ Chí Minh là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là đại biểu cho ý chí và khí phách của toàn dân tộc, là người thiết kế đường lối đánh Mỹ đã được manh nha từ chiến thắng Điện Biên Phủ, từ Hộinghị Giơ-ne-vơ. Võ Nguyên Giáp là Bí thư Quân uỷ Trung ương và Tổng tư lệnh không thể là danh nghĩa (có văn bản chính thức của Trug ương) mà là thực quyền chỉ huy chiến đấu và hoạt động…
+ Nghị quyết 15 năm 1959 là do Bộ Chính trị phân công Võ Nguyên Giáp khởi thảo với sự chấp bút của Hoàng Tùng và Trần Quang Huy tại Đồ Sơn…
+ Sau khi nước nhà thống nhất, nếu chấp nhận ý kiến của ông (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) về xây dựng kinh tế là: trước hết phải để thời gian khôi phục rồi mới tính đến phát triển, và phải đặt nông nghiệp là mặt trận hàng đầu; thì chắc chắn là hạn chế được những mất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế quốc dân lúc bấy giờ, dẫn đến khủng hoảng đời sống.
(Một số chuyện kể trong phụ lục này (tuy chưa đầy đủ) để minh chứng rằng nhà văn Sơn Tùng đã nói đúng).
* Nội dung trên đây được Ba Sàm đánh máy lại từ một tài liệu photocopy, đã được đăng trên blog BS hai năm trước, bị tin tặc xóa, nay đăng lại (14/9/2011).

Xem thêm

SƠN TÙNG * HỒ CHÍ MINH

Buổi nói chuyện của nhà văn Sơn Tùng ngày 27.04.2001 tại trường quản lý giáo dục đào tạo


Nhà văn Sơn Tùng
ÐÔI LỜI GIỚI THIỆU
Ðầu xuân năm 1998, ông Vũ Kỳ, người hầu cận của Hồ chí Minh, tung ra bài viết ” Bác Hồ với tết Mậu Thân năm ấy ” trên một số tờ báo như báo Văn Nghệ, Tiền Phong, Nghệ An, trong đó Vũ Kỳ hé mở có chuyện bất thường trong chuyến bay ban đêm ngày 23 tháng 12 năm 1967.
Bài báo có đoạn viết,” Bây giờ tối thứ bảy , ngày 23 tháng 12 ,máy bay đưa Bác đến vùng trời Hà nội . Lượn hai vòng vẫn chưa hạ cánh được vì đèn chỉ huy trên sân bay chệch 15 độ. Ðồng chí lái giàu kinh nghiệm quyết tâm hạ cánh không theo đèn. Rất may là an toàn. Các đồng chí Lê Duẩn, Phạm văn Ðồng, Lê đức Thọ ra đón Bác tại sân bay, đưa Bác về nhà và báo cáo công việc với Bác “
Thật ra đọc đoạn văn trên cũng không ai hình dung ra được một âm mưu giết Hồ chí Minh bằng tai nạn phi cơ đã xảy ra nhưng không thành công.
Sau này có bài nói chuyện của nhà văn Sơn Tùng ngày 27 tháng 4 năm 2001 tại trường Cán bộ quản lý giáo dục đào tạo, trong đó ông Sơn Tùng kể lại chi tiết bí ẩn của chuyến bay trên và người ta có thể đưa đến kết luận là có âm mưu của bọn đàn em muốn dùng tai nạn phi cơ để giết Hồ chí Minh.
Nên nhớ chuyến bay chỉ có 3 người: viên phi công, ông Vũ Kỳ và Hồ chí Minh. Sơn Tùng kể rõ mẫu đối thoại giưã ông Vũ Kỳ và người phi công hốt hoảng khi đèn hiệu trên sân bay chệch hướng 15 độ nên không thể đáp bằng cách nhìn đèn hiệu. Và không thể liên lạc với bên dưới sân bay bằng vô tuyến vì bị cắt đứt. Có lẽ ông Sơn Tùng có dịp nói chuyện với ông Vũ Kỳ và được ông Vũ Kỳ kể lại chi tiết chuyến bay. Vì ông Sơn Tùng chắc cũng không biết người phi công ấy sau này ở đâu và chắc chắn Sơn Tùng cũng không có cơ hội nói chuyện với Hồ chí Minh về chuyến bay khó hiểu này. Xin đọc kỹ bài bên dưới để thấy Sơn Tùng khéo léo tố cáo âm mưu bọn đàn em dùng tai nạn phi cơ để giết Hồ chí Minh.
Một chuyến bay chở Chủ tịch nước như Hồ chí Minh mà người phi công lái phi cơ không liên lạc được vô tuyến với sân bay bên dưới.. Ðèn hiệu sân bay lại đổi nên không dựa theo đèn mà đáp được nên coi như bị mù mắt, đành phải đáp phi cơ theo trí nhớ ! Nói những điều này ra để thấy âm mưu bọn đàn em dùng tai nạn phi cơ để mưu sát Hồ chí Minh coi như đã quá rõ ràng. Số Hồ chí Minh chưa chết trong chuyến bay này vì người phi công quá tài giỏi, đáp phi cơ an toàn dù lái phi cơ bằng trí nhớ !
Vũ Kỳ cũng như Sơn Tùng đều muốn tố cáo ra âm mưu giết Hồ chí Minh bằng tai nạn phi cơ , nhưng vì còn sống trong chế độ Cộng sản , hai ông không thể nói toạc móng heo ra mà chỉ cung cấp chi tiết trục trặc khó hiểu của chuyến bay và dành sự kết luận cho người đọc. Ðó là một cách viết khôn ngoan nhằm chuyển tải bí mật động trời trên báo chí công khai của chế độ Cộng sản Việt Nam.
Sơn Tùng được đánh giá là ” nhà Hồ chí Minh học ” chuyên nghiên cứu về Hồ chí Minh và đã có nhiều mặt sách viết về Hồ chí Minh. Nói là nghiên cứu chứ thật ra Sơn Tùng là một người đi tìm những mẫu chuyện thuộc loại huyền thoại để ” thần thánh hoá ” Hồ chí Minh.
Chuyện Sơn Tùng phỏng vấn cựu Ðại tá Cao Nham nói đến chuyện Lê Duẩn xin Hồ đánh trận Mậu Thân, nếu không thành công thì xin từ chức xem ra không đáng tin lắm. Vì đến thời kỳ Mậu Thân thì Lê Duẩn coi như tước hết quyền lực của Hồ chí Minh rồi, bởi vậy mới có chuyện Lê Duẩn và Lê đức Thọ tống cổ Võ nguyên Giáp sang Hunggary từ năm 1967 ( với lối giải thích ngoại giao là cho Giáp đi chữa bệnh !) và đưa Hồ qua Bắc Kinh ngồi chầu rìa trong tết Mậu Thân. Duẩn coi như nắm hết quyền lực rồi cho nên chuyện xin xỏ Hồ để đánh trận Mậu Thân là chuyện khó có thể xảy ra.
Không giết được Hồ bằng tai nạn phi cơ năm 1967, bọn Lê Duẩn , Lê đức Thọ quyết định dùng thuốc độc giết Hồ năm1969 bằng một kịch bản khéo léo nhằm che mắt thế gian. Ðó là sự tiết lộ của các bác sĩ Hà Nội trong một bài viết nhan đề ” Một nghiên cứu khoa học về Hồ chí Minh” gửi đi từ Hà Nội ra hải ngoại vài tháng trước đây, ( Xin mời vào http://www.nsvietnam..com bấm vào tên Trần viết Ðại Hưng, rồi bấm vào bài số 120) Nhửng bạo chúa bị đàn em giết vào lúc cuối đời ) để đọc bài nghiên cứu giá trị này). Các bác sĩ căn cứ trên những kiến thức y khoa dể đi đến kết luận là Hồ chí Minh bị đầu độc chết chứ không chết vì bệnh hoạn tuổi già.
Phải nói hai nhân vật bị tình nghi tạo dựng kịch bản tai nạn phi cơ cũng như y khoa trị bệnh để giết Hồ chí Minh là Lê Duẩn và Lê đức Thọ vì đã có nhiều chuyện kể lại ghi nhận hai nhân vật này tỏ ra coi thường và khinh bỉ Hồ. Trong khi ba nhân vật Trường Chinh, Phạm văn Ðồng và Võ nguyên Giáp không bị coi là nghi can trong chuyện giết Hồ.
Ðơì đúng là một vở kịch và những người trên sân khấu là những diễn viên . Hãy nhìn Lê Duẩn khóc lóc thảm thiết như cha chết trong đám tang của Hồ chí Minh thì có ai ngờ rằng chính Lê Duẩn là chính phạm trong chuyện giết Hồ chí Minh và Lê đức Thọ là tòng phạm.
Ngày chết của Hồ chí Minh ( 2/9/1969) trùng với ngày quốc khánh có thể không phải là sự ngẫu nhiên. Khi biết bọn đàn em gian ác quyết tâm giết mình bằng thuốc độc nên Hồ chí Minh, bằng một cách nào đó, quyết tâm chết đúng ngày 2 tháng 9 để gây sự bẽ bàng khó xử cho bọn giết ông. Ðây là cú chơi khăm cuối đời nhắm vào những kẻ ám hại ông. Ông đã tiên liệu đúng vì bọn đàn em công bố sai ngày ông qua đời là 3 tháng 9 thay vì 2 tháng 9 bởi chúng lúng túng về việc tổ chức tang lễ cho chủ tịch nước như ông ( quốc tang) vào ngày quốc khánh! Sau này vì có sự lên tiếng của nhiều nhân chứng, chế độ Cộng sản mới ” cho ” Hồ chí Minh chết đúng ngày 2 tháng 9 là ngày chết đích thực của ông.
Sơn Tùng nói đến 10 nỗi đau của Hồ chí Minh do Hoàng Tùng công bố trong cuốn sách của ông nhưng chỉ công bố được có 8 nỗi đau , dấu đi 2 nỗi đau của Hồ. Cũng xin nói thêm là cuốn sách của Hoàng Tùng viết về Hồ chí Minh này mới xuất bản là bị tịch thu ngay. Thật ra muốn biết nỗi đau sâu kín của Hồ thì phải đọc chúc thư thống thiết của Hồ viết ngày 14 tháng 8 năm 1969 và sau đó được báo Con Ong ở Pháp và Thức Tỉnh ở Mỹ công bố vào thập niên 1980. ( Xin vào http://www.nsvietnam.com , bấm vào tên Trần viết Ðại Hưng rồi bấm vào bài số 114) Một cách lý giải về chuyện Hồ chí Minh bị mất quyền lực lúc cuối đời). Nên nhớ đây là di chúc viết tay chứ một bản văn đánh máy cũng khó thuyết phục thiên hạ rằng đó là di chúc của Hồ chí Minh. Những ai còn nghi ngờ xin lấy chữ viết của di chúc này đem tới một văn phòng kiểm tự chuyên nghiệp để so sánh với nét chữ của di chúc Hồ chí Minh để lại cho chế độ Hà nội để tìm ra sự thật.
Ngay cả trong di chúc Hồ chí Minh để lại cho chế độ Cộng sản Việt Nam, ở trang đầu của di chúc có chữ ký của Lê Duẩn chứng nhận giống như lời phê của thầy giáo dành cho học trò. Chỉ một điểm này thôi cũng đủ cho thấy Lê Duẩn hoàn toàn khống chế Hồ chí Minh vào giai đoạn cuối cuộc đời của Hồ.
Lịch sử nghề gián điệp cũng như văn học đã cho thấy chưa có trường hợp nào giả chữ viết thành công. Chuyện giả chữ viết chỉ qua mặt đuợc người thường chứ không qua mặt được nhân viên kiểm tự chuyên nghiệp. Chữ viết cũng như dấu tay, không bao giờ có thể lẫn lộn người này với người khác được. Ðiều đó cho thấy di chúc Hồ chí Minh viết ngày 14/8/ 1969 là di chúc thật. Có đọc bản di chúc này thì mới thấy nỗi đau sâu kín, tức tưởi cuả Hồ. Ai cũng nghĩ rằng ông có quyền lực ghê gớm lắm nhưng ông bị bọn đàn em tước hết quyền hành và cho Bác sĩ Tôn thất Tùng chích thuốc độc từ từ cho chết dần chết mòn một cách thê thảm. Ông cũng nói rõ Lê Duẩn và Trần quốc Hoàn đến gặp ông và yêu cầu ông viết di chúc theo ý của chúng. Sở dĩ ông bị hạ bệ như vậy vì ông phạm tội toan bắt tay với Tổng thống Ngô đình Diệm ở miền Nam năm 1963. Ngô đình Diệm cũng bị giết vì âm mưu bắt tay này với Hồ chí Minh.
Sơn Tùng ca tụng thái độ cầu hiền của Hồ chí Minh khi Hồ chí Minh ôm hôn thắm thiết cụ Huỳnh thúc Kháng từ Trung ra Hà nội hợp tác trong chính phủ Liên Hiệp mà Hồ là chủ tịch và nói, ” Cụ ra đây là an dân lạc quốc” . Ðó là thái độ niềm nở lúc ban đầu gặp gỡ thế thôi chứ sau này Hồ chí Minh để cụ Huỳnh thúc Kháng chầu rià, ngồi chơi xơi nước và không giao công việc gì cụ thể cả. Cái ưu điểm cầu hiền mà Sơn Tùng nêu ra để ca tụng Hồ chí Minh chỉ là cái giả dối trong trường chính trị của Hồ mà thôi chứ Hồ chí Minh không có tốt lòng, tốt bụng chi cả.
Năm 1952 bạo chúa Mao trạch Ðông của Trung Cộng và đồ tể Stalin của Liên xô gọi người học trò nhỏ Hồ chí Minh sang, chỉ thị bắt buộc là phải tiến hành cuộc cải cách ruộng đất. Hồ chí Minh thi hành lệnh của hai quan thầy kính yếu và cuộc cải cách ruộng đất long trời lở đất được tiến hành, giết hại cả trăm ngàn người dân Việt vô tội từ tháng 12/1953 đến tháng 7/1956. Vào giai đoạn cuối của cuộc cải cách thì có sự cố nhân dân nổi loạn ở Quỳnh Lưu , Nghệ Tĩnh để chống lại. Sau dó mới có trò hề khóc lóc xin lỗi của Hồ chí Minh, Ðại tướng Võ nguyên Giáp ra sân vận động Hàng Ðẫy đọc bài xin lỗi nhân dân, Hồ chí Minh đưa Giáp ra đọc lời xin lỗi với dụng ý là lấy cái hào quang chiến thắng Ðiện Biên Phủ để vuốt ve sự phẫn nộ đang dâng trào của toàn dân vì sự giết chóc kinh hoàng . Nước Việt Nam từ thời lập quốc chưa có thời kỳ nào tàn bạo, độc ác như thời kỳ này. Với cương vị chủ tịch nước, chắc chắn bàn tay Hồ chí Minh có nhuốm máu nạn nhân cải cách ruộng đất. Sau này người ta còn tìm được trong thư khố Nga lá thư bằng tiếng Nga Hồ chí Minh gửi cho Stalin báo cáo về tình hình cải cách ruộng đất. Trường Chinh là tổng bí thư trong thời kỳ cải cách ruộng đất và cũng có bàn tay nhuốm máu nạn nhân cải cách. Trường Chinh bị hạ bệ sau cải cách ruộng đất nhưng sau đó được bổ làm chủ tịch quốc hội một thời gian dài. Sau khi Tổng bí thư Lê Duẩn qua đời, Trường Chinh lên làm Tổng bí thư dự khuyết một thời gian và sau đó bị Lê đức Thọ cho người đến nhà giết chết vì ghen tức và tranh giành quyền lực. ( theo sự ghi nhận của nhà văn Vũ thư Hiên trong hồi ký ” Ðêm giữa ban ngày” ). Trường Chinh cũng đã chết một cái chết đau đớn, thảm khốc y như những nạn nhân cải cách ruộng đất do ông lãnh nhiệm vụ thi hành. Âu đó là định luật nhân quả, vay trả của trời đất !
Chuyện Hồ chí Minh khóc lóc xin lỗi có thể vì hối hận đã giết nhiều người vô tội mà cũng có thể là một biện pháp vuốt ve của một nhà chính trị gian hùng bá đạo để làm lắng dịu sự phẫn nộ đang trào dâng của đồng bào có thể đưa đến sự bất ổn chính trị không hay cho chế độ cầm quyền.
Chuyện Sơn Tùng trình bày trong bài viếr mô tả Hồ chí Minh miễn cuỡng không muốn làm cải cách là chuyện bênh vực cho Hồ chí Minh một cách không bằng chứng. Nếu có lòng thương dân sâu xa thì không bao giờ Hồ chí Minh nghe lời hai tên đồ tể ngoại bang Mao và Stalin để tiến hành cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu có một không hai trong lịch sử giết hại hàng trăm ngàn đồng bào ruột thịt của mình. Con người Hồ chí Minh thực sự không thánh thiện , nhân ái như Sơn Tùng cảm nhận. Sơn Tùng rõ ràng không thành công trong chuyện bênh vực tội ác của Hồ chí Minh trong vụ cải cách ruộng đất. Sơn Tùng thuộc loại viết lách ” phong thánh ” cho Hồ chí Minh. Chuyện gì tốt đẹp của Hồ chí Minh thì ca tụng tối đa, chuyện gì độc ác, xấu xa không hay thì tìm đủ lý do bào chữa bao biện cho khuyết điểm cuả ” ông thánh ” Hồ chí Minh, Sơn Tùng không có được phong cách viết sử của những sử gia ở những nuớc tự do” , họ phê phán ưu khuyết điểm của nhân vật lịch sử một cách công minh và công bằng, không thiên vị.
Chuyện hai bài thơ Hồ chí Minh làm lúc 5 tuổi mà Sơn Tùng lấy được từ anh của Hồ chí Minh cũng là một cách ” thần thánh hoá” con người siêu đẳng Hồ chí Minh mà thôi.
Giết người rồi vuốt ve, xin lỗi vốn là ngón nghề sở trường của người Cộng sản mà Hồ chí Minh là bậc tổ sư về ngón nghề tàn nhẫn, độc ác này.
Sơn Tùng nói đến cái đau của Hồ chí Minh khi cố vấn Tàu đem bắn bà địa chủ Nguyễn thị Năm, vốn là một ân nhân của kháng chiến. Với cương vị là chủ tịch Ðảng và chủ tịch nước nhưng hầu như Hồ chí Minh không có quyền gì cả. Ông không đồng ý bắn bà Nguyễn thị Năm nhưng ông không có biện pháp nào ngăn chận cả cho đến khi bà Nguyễn thị Năm bị hành hình. Thế thì bao nhiêu xuơng máu dân đổ ra để giành độc lập nhưng chẳng thấy độc lập ở đâu dù đã đánh thắng Pháp ở Ðiện Biên Phủ. . Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà Hồ chí Minh đành ngồi nhìn cố vấn Tàu đem người ân nhân kháng chiến , con dân nước Việt Nguyễn thị Năm ra bắn mà không can thiệp được gì sao ? Hồ chí Minh thực sự không có quyền hay không muốn can thiệp ? Hồ chí Minh đúng là không phải loại người thần thánh siêu việt, quyền lực tuyệt đối như nhà văn Sơn Tùng vẫn thêu dệt , tưởng tượng . Ngay cả chuyện Hồ chí Minh khóc lóc ân hận sau cải cách ruộng đất cũng chỉ là một huyền thoại vì không ai chứng minh Hồ khóc ở đâu và khóc lúc nào. Có lẽ guồng máy tuyên truyền phổ biến huyền thoại khóc này để xoa dịu sự thù hận đau khổ của các nạn nhân cải cách ruộng đất.
Trí trá, gian ngoan đã trở thành bản chất của con người gian hùng Hồ chí Minh. Những nỗi đau của Hồ chí Minh mà Hoàng Tùng và Sơn Tùng kể ra không biết có thật hay không nữa hay đó chỉ là những thủ đoạn chính trị của tay ma đầu chính trị quỷ quyệt Hồ chí Minh. Thật không thể nào biết rõ đâu là nỗi đau thật , đâu là nỗi đau giả của con người muôn mặt Hồ chí Minh. Ông là một kịch sĩ đại tài nên khó ai biết rõ con người thật của ông. Cần có thêm thời gian và nhân chứng và hy vọng chế độ Cộng sản sẽ sớm sụp đổ ở Việt Nam để có nhiều sự thật về Hồ chí Minh được phơi bày ra trước ánh sáng của thế gian.
Nhà văn Sơn Tùng hình như còn sống ở Việt Nam. Hy vọng Sơn Tùng sẽ còn sống và nhìn thấy thêm những sự thật phũ phàng khác về Hồ chí Minh chứ Hồ chí Minh không thánh thiện , siêu việt như ông đã viết và nói nhiều trong những năm vừa qua.
Los Angeles tháng 4 năm 2010
TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG
* * *
BUỔI NÓI CHUYỆN CỦA NHÀ VĂN SƠN TÙNG NGÀY 27/4/ 2001 TẠI TRƯỜNG QUẢN LÝ GIÁO DỤC ÐÀO TẠO
… ( đoạn này nghe không rõ )… Ban chấp hành Trung ương tán thành đều bị bác bỏ. Ðó là tháng 10- 1930, một hội nghị cán bộ lấy dự thảo luận cương chính trị của đồng chí Trần Phú làm đường lối ( Hội nghị này chưa thông qua được luận cương). Bác Hồ bị đẩy lùi vào bên trong. Năm 1935, Ðại hội Ðảng lần thứ nhất họp tại Ma- Cao, một lần nữa Hà huy Tập là Tổng bí thư, xoá tư tưởng, xoá đường lối của Nguyễn ái Quốc. Mãi đến năm 1941, Bác Hồ về nước cho đến năm 1951 , Ðại hội 2 lại bị cái ” thiểu số phục tùng đa số ” , lấy ” tư tưởng Mao ” vào điều lệ nên đến năm 1951, cụ Hồ lại bị ” khoá ” . Bởi vì Hồ chủ tịch chỉ còn là Chủ tịch ban chấp hành chứ không còn là Chủ tịch Ðảng. Bác quyết định điều gì cũng còn phải được Ban chấp hành thông qua.
Quan điểm tư tưởng Hồ chí Minh được mở ra từ năm 1941 khi cụ về Pắc Bó, thành lập mặt trận Việt Minh, làm được cách mạng tháng Tám, tuyên bố giải tán Ðảng ngày 11- 10 – 1945, giải tán Ðảng Cộng sản Ðông Dương, sau này thành lập Ðảng Lao Ðộng thì Lào trả về Lào, Miên trả về Miên, không còn liên bang gì ở chỗ này. Mỗi dân tộc có quá trình hình thành riêng của nó, còn viện trợ quốc tế với nhau thì bình đẳng, chứ để nước lớn trùm lên Lào, Miên là sinh chuyện. Ngay từ lúc đó cụ Hồ đã nhìn thấy vấn đề như thế, bây giờ nhìn vào tình hình nào là sắc tộc, nào là tôn giáo. Cụ Hồ không có đặt vấn đề liên bang. Miên là Miên, Lào là Lào , ta là ta. Ðến năm 1951, cụ Hồ chỉ còn là Chủ tịch ban chấp hành. Ví dụ trong việc Bác ký Hiệp Ðịnh sơ bộ 6- 3- 1946 không cần triệu tập ban chấp hành, Bác quyết định ký. Lúc đó Bác chỉ sửa đổi hai chữ . Một bên , Bác là ” Việt Nam độc lập ” , một bên Sainteny ( là đại diện Cộng Hòa Pháp ) là ” Việt Nam tự trị ” . Cuối cùng nửa đêm mùng 5 tháng 3 Bác đánh thứ bí thư là ông Vũ đình Huỳnh dậy, bảo là đã tìm được lối thoát, đi báo ông Hoàng minh Giám chuẩn bị để ký. Bác chọn được một chữ mà hai bên đều chấp nhận được, đó là ” nước Việt Nam tự do ” . Pháp rất sợ chữ ” độc lập ” vì cả Châu Phi họ sẽ đòi độc lập, cho nên nó chỉ muốn ” Việt Nam tự trị ” thôi. Bác bảo tự trị là không được , độc lập thì Pháp không chịu nên chọn ” nước Việt Nam tự do ” ( có chính phủ riêng, có quân đội riêng, có ngoại giao riêng, có tài chính riêng) nhưng tên nước là ” Việt Nam tư do “. Thế là Sainteny ký ngay ngày 6 tháng 3 năm 1946. Trước tình hình ấy mà chờ triệu tập Ban chấp hành để quyết định thì chết, bao giờ mới triệu tập kịp, mỗi người một nơi.
Cho đến năm 1951 đưa ” tư tuởng Mao ” vào điều lệ, ghi là ” Học thuyết Mác – Lênin, chiến lược Stalin, tư tưởng Mao trạch Ðông, tác phong Hồ chí Minh” thì Bác Hồ nói,:
” Thôi, các ông ấy là đủ rồi, Mác, Lênin, Stalin, Mao trạch Ðông là đủ rồi, còn cái tác phong ” Hồ chí Minh” thì miễn cho.”
Chả lẽ lúc đó Bác lại nói, ” Tôi không có tư tưởng à” . Lúc đó cũng chưa có nói đạo đức, mà chỉ nói Bác là ” tác phong cần kiệm liêm chính”, giản dị thế thôi, chứ Bác không có lý luận.
Ðiều lệ ghi , ” Thiểu số phục tùng đa số ” . Bác Hồ ra họp ban chấp hành thì suốt đời bao giờ cũng là ” thiểu số ” , mà thiểu số phải phục tùng đa số. Ðó là ‘” cái khoá ” . Vậy là Bác Hồ chỉ được làm những cái mà Ban chấp hành chủ trương, chứ Bác không có chủ trương nữa. Về cải cách ruộng đất thì Bác Hồ không chấp nhận cái cải cách ruộng đất kiểu này, mà Bác đã cho ra Sắc lệnh giảm tô, giảm tức 25% từ năm 1949. Tất cả các đồng chí lúc đó lòng dạ ai cũng yêu quý Bác Hồ, nhưng lại tôn trọng ông Mao là ” nhà lý luận Trung Quốc ” , là cái mẫu của châu Á đem bê vào Ðảng như thế, và phải làm ” thổ cải ” . Bác Hồ không tán thành cải cách ruộng đất, Bác chỉ ” trưng thu, trưng mua, hiến điền ” chứ không chủ trương đấu tố. Lúc đó mấy đồng chí trong bộ chính trị, đặc biệt là đồng chí Trường Chinh( tấm lòng đồng chí trong sáng, là người có nhân cách lớn, phải nói thế ) nhưng quan điểm của đồng chí Trường Chinh là ” Không phát động nhân dân thì nông dân chịu ơn địa chủ suốt đời, phải cho nông dân đấu tố để nông dân vùng lên” , Khi ra biểu quyết thì Bác Hồ chỉ có 3 phiếu, nhưng cũng là ‘ thiểu số ” . Cụ Vũ đình Huỳnh kiên quyết bảo vệ quan điểm của Bác là hiến điền, trưng thu, trưng mua ruộng đất chia cho nông dân.
Xin nói về một bài của một đồng chí ký tên là ” HT ” ( Hoàng Tùng ) viết về những nỗi đau của Hồ Chủ Tịch ” , hiện nay lưu hanh ở Hà nội cách đây mấy tháng. Ðầu bài ông đề là ” 10 nỗi đau của Hồ Chủ Tịch ” nhưng trong bài đó ông Hoàng Tùng dấu đi 2 cái đau, chỉ viết 8 cái thôi. Ông Hoàng Tùng là trong Ban bí thư trung ương Ðảng, là nhà lý luận , là trưởng ban tuyên huấn, là Tổng biên tập báo Nhân Dân lâu nhất, chủ tịch hội nhà báo. Có một thời ông cũng lầm rằng anh Ba Duẩn mới là nhà lý luận, còn Bác Hồ chỉ là yêu nước thôi. Cho đến bây giờ ông mới tỉnh ra. Trước đây ông viết cuốn ” Từ tư duy văn hoá truyền thống đến tư tưởng Hồ chí Minh”. In xong thì bị tịch thu, bị đốt hết dù không có tuyên bố giải thích gì cả. Anh Hoàng Tùng có đem đến cho tôi một cuốn. Anh nói, ” Sách của tôi bị đốt, sách của anh tái bản lần thứ 8 là may đó. Khi tôi ra cuốn này thì bị thu mất rồi, còn giữ được một cuốn đem cho ông .” Ông là người hiểu biết như thế, lý luận như thế và một thời ông cũng là ghê gớm lắm, vậy mà có lúc ông nói,:
” Thôi, cắt cái mũ ” phớt ” đi được rồi( tức ông Giáp đứng trước hàng quân đội cái mũ phớt).
Có thời ông chỉ thị các báo không được đăng ảnh Ðại tướng Võ nguyên Giáp, vì ” trên ” chỉ thị như thế , cho nên ông nói ” cắt cái mũ phớt đi “. Có lúc ông cũng lầm, nhưng lúc tỉnh ngộ ra, thấy được sự thật thì ông kể ra 10 nỗi đau của cụ Hồ, nhưng chỉ viết có 8 cái, còn 2 cái không thấy đưa ra. Dân ta thì không biết, nay ông kể ra thì ông cũng ngoài 80 tuổi rồi. Ông nào cũng viết để lại, không in được thì cũng để lại cho các nhà nghiên cứu lịch sử sau này làm tư liệu nghiên cứu về những sự thật được nói ra từ trong tim người ta.
Trong bài viết của ông Vũ Kỳ mà ta đọc báo ta không để ý ông viết kín đáo để đăng báo Văn Nghệ, báo Tiền phong, Báo Nghệ An số tết 1998. Hồi đó ông chủ trương đăng trên ba tờ báo đó. Nội dung bài báo là : Năm 1967, Bộ chính trị mới Bác Hồ đang chữa bệnh ở Trung Quốc về để thông qua cuộc tổng tiến công 1968. Khi họp lần thứ nhất Bác đã không đồng ý chủ trương tổng tiến công nổi dậy. Bác chỉ đồng ý tập kích chiến lược rồi rút ra ngay. Ðại tướng Võ nguyên Giáp cũng chủ trương như vậy, nhưng vì thiểu số nên đành đi chữa bệnh ở Hungary. Nhưng sắp đến tết Mậu Thân rồi nên phải thông qua chủ trương đó để đi vào cái tết nên phải mới Bác về.
Ông Vũ Kỳ viết bài báo như sau:
Trên máy bay chỉ có Bác, ông Vũ Kỳ và người lái chuyên cơ của Bác từ Trung Quốc về . Lúc đó đã báo cho bộ đội phòng không từ giờ này… đến giờ này .. trên bầu trời ta từ hướng này..phương vị này … tuyệt đối là không nổ súng. Thời đó là đang chiến tranh, vào giờ đó xuất hiện máy bay của ta. Khi máy bay về tới vùng trời Hà nội, sân bay Nội Bài khi đó là sân bay quân sự nên máy bay xuống sân bay Gia Lâm. Người lái báo cáo với anh Vũ Kỳ ngồi bên cạnh, Bác ngồi sau hút thuốc.
Thưa anh, tín hiệu đường băng lệch 15 độ, bây giờ làm sao đây ạ?
Quan sát lại đi –Ông Vũ Kỳ nói
Em là người lái mà, lái máy bay cho Bác thì em nhìn sai sao được – Người lái nói.
Máy bay lượn hai vòng không dám xuống, xăng hết rồi, giờ quy định cũng đã hết rồi, phòng không họ bắn chết, mà xuống theo tín hiệu thì không an toàn..
Cuối cùng xuống theo trí nhớ của người lái, chứ không xuống theo tín hiệu của đèn hiệu, vì trên máy bay báo đi báo lại nhưng dưới sân bay vẫn không thay đổi, đèn ” tín hiệu chệch ” dưới vẫn cứ để thế, không sửa. Vòng một vòng và máy bay chạm đất an toàn, thở đánh phào một cái. Bác vẫn ngồi tĩnh tại hút thuốc, ở dưới sân bay vẫn yên tĩnh.
An toàn rồi , anh ơi , mừng quá – Nói to lắm nhưng Bác làm như không nghe thấy.
Ra khỏi máy bay ( ông Vũ Kỳ tả) thì thấy đồng chí Lê Duẩn, Lê đức Thọ ra đón, một lúc sau có Thủ tướng Phạm văn Ðồng. Chỉ có thế thôi, không còn ai đón Bác cả.
Về tới nhà thì tết rồi, việc đầu tiên Bác gọi điện thoại sang Bộ quốc phòng hỏi:
Tục lệ người Việt Nam ta ngày tết hay nhớ nhà, thế thì các đồng chí ở nhà đã gửi quà chúc tết cho đồng chí Võ nguyên Giáp đang chữa bệnh ở Hungary chưa ?
Anh em mình thường trao đổi tin này xem đã đưa ra được chưa ? Tôi cho rằng đưa được, đến năm 98 rồi, nên đưa ra tin này vì sắp hết thế kỷ 20 rồi, ai hiểu thế nào thì hiểu, còn chuyện đưa ra thì đừng bình gì cả. Ðừng đưa đăng một tờ báo mà phải đưa tin trên ba tờ báo, vì một tờ sẽ bị ” đánh chết ” ngay. Ðúng thế ! Khi cả ba tờ báo đăng bài đó, thì các ông trong Bộ chính trị mời ông Vũ Kỳ lên hỏi.
Anh Kỳ nói, ” Tôi chỉ kể chuyện đi của Bác trong hồi ký của tôi viết về Bác.
Thế rồi ” họ ” cũng thôi. Cái khung cảnh đất nước ta mấy năm nay là thế đấy.
Bác Hồ là người cô đơn, đây là cô đơn trên quan điểm. Tôi hiện nay đang viết cuốn ” Bác Hồ là người cô đơn nhưng không cô độc” Năm 2001 tôi viết cuốn này, chủ yếu là nói quan điểm của Bác bị ” cô đơn ” từ Quốc tế cho đến khi Bác qua đời, quan điểm của Bác luôn ở phe thiểu số. Diễn ra trong tình hình hiện nay là vấn đề dân tộc , vấn đề tôn giáo. Quan điểm của Hồ chí Minh từ đầu chí cuối là vấn đề dân tộc, chứ không phải là đấu tranh giai cấp , chuyên chính vô sản. Cái ” thiểu số ” ấy đi suốt cuộc đời Bác . Ðến được ngày hôm nay quan điểm đó của Bác càng ngày càng rõ ra là rất mừng. Ðiều đó nói rằng mọi khoa học nó ra đời không bao giờ dễ dàng dù là khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội..( Ðoạn này nghe không rõ). Nói ra như thế để thấy Bác Hồ ngày càng sáng ra, sáng cả con người cùng quá trình Bác cô đơn. Nhưng lúc nào ” người ta ” thấy ” lợi ” thì ” người ta ” nói là của Bác Hồ chứ ” người ta ” không làm theo Bác Hồ.
Khi Tổng thống Putin đến thăm khu di tích nhà ở của Bác Hồ, mấy ông phụ trách đưa lên một chồng sách Mác- Lênin đặt trên giường của Bác, nói trước khi qua đời Bác đọc những sách này. Người ta tưởng làm như thế là trọng Bác Hồ và để ông bạn Nga này quý Bác Hồ. Không phải đâu, dòng di sản Bác Hồ chất Mác- Lênin có mức độ thôi. Người thường nói những câu của dân gian, của dân tộc, cho nên có người bảo Bác Hồ không có lý luận. Bác toàn nói ca dao, tục ngữ, trích Kiều, trích Chinh phụ ngâm, trích những câu của Mạnh tử, Khổng tử, Lão tử mà còn giá trị với thời đại. Trích câu của Phật, của Giêsu chứ không nói Mác. Khi ông Putin đến thăm nơi Bác ở sinh thời thì người ta đem một chồng sách để đầu giường Bác như thế , nhưng ông Putin ghi sổ lưu niệm lại không nói gì về chuyện này mà nói:
_ Hồ chí Minh là người thầy của dân tộc Việt Nam ( mà không nói là chủ tịch nước). Người đã để lại trong trí nhớ nhân loại nên rất vinh dự cho tôi hôm nay được làm quen với cuộc sống của người.
Tại sao ông Putin lại nói ” làm quen ” với cuộc sống của người ? Vì trên vị trí tổng thống này nhìn tấm gương của Hồ chí Minh lên đỉnh cao như vậy mà sống không xa cách dân, sống giản dị. Mà chính ông nói là khôi phục lại một nước Nga, một nước Nga yêu nước, truyền thống văn hoá. Ta nên nhớ rằng Liên xô ngày xưa những người ấy không phải không có tấm lòng, nhưng đem xoá sạch đi thì đó là người không có đầu óc. Ðáng lẽ ra làm cách khác, ta đưa cách khác, sách đích thực Bác đọc trước khi lâm chung, đây lại làm một chồng sách ” toàn Lênin” . Cụ nằm trên giường bệnh ốm thì làm sao đọc được các sách đó. Nếu để một cuốn Kiều thì không ai cãi được, hoặc để một tập thơ của Puskin, sách của L. Tônxtoi, của Victor Hugo, Séch- pia, vì Bác thuộc thơ Puskin, và thuộc thơ tiếng Nga. Bác có lúc nói bây giờ còn thuộc Victor Hugo, tôi là học trò nhỏ của Lep Tôn.. Bác Hồ của chúng ta ngày nay bị nhiễu nhiều thứ như thế , muốn nhận ra Bác thì phải nghiên cứu lại các sự thực của lịch sử. Trước đây tôi đã nói cái nôi sinh thành của Bác, hôm nay tôi nói một số giai đoạn, một số sự kiện có ảnh hưởng lớn đến Bác mà không nói có hệ thống vì thời gian cũng không có nhiều.
Ta đọc sách, đọc lịch sử, ta biết Bác Hồ sinh ở làng Chùa, quê ở làng Sen, sau vào Huế học. Tôi nghiên cưú tôi thấy thế này: nếu Bác Hồ không đi vào Huế từ thuở thiếu thời thì con người ấy cũng bị hạn chế , hạn chế về mặt văn hoá cội nguồn và thanh lịch ở đất kinh đô.
Huế là trung tâm văn hoá của cả nước ta vào thế kỷ 19, Bác Hồ vào Huế cuối thế kỷ 19, lúc đó Huế là trung tâm của cả nước. Ở Nam bộ cụ Phan thanh Giản đi thi phải ra Huế, còn khúc ruột miền Trung từ Bình Thuận trở ra đến Quảng Nam, thi Hương là phải ra Huế. Ðầu thế kỷ 20 mới có trường thi Hương ở Bình Ðịnh. Ở Bắc thì Lạng Sơn trở vào cũng phải vào Huế để thi Hội. Diện mạo các nhà trí thức, các nhân sĩ ( xin nói thực có một thời kỳ cực đoan, đã nói ” quan ” là phong kiến, quan là xấu. Ở Chí linh tôi nói thế mà suýt bị bắt).
Nói các quan ” xấu ” như thế sao lại truyền thống nối dõi văn hoá Việt Nam mấy nghìn năm được! ? Cố nông thì làm sao giữ được văn hoá vật chất của dân tộc? Chúng ta vô cùng quý trọng cố nông, người thợ nhưng nói đến diện mạo văn hoá là phải nói đến trí thức. Các gia đình khoa bảng, gia đình nhà quan truyền từ đời này qua đời khác . Các ông quan tham nhũng thì cá biệt thôi. Tất cả tham nhũng thì còn gì là văn hoá Việt Nam, bản lĩnh, bản sắc Việt Nam. Không có Nguyễn Trãi thì ta làm gì có văn hoá thế kỷ 17, thế kỷ 18 sang thế kỷ 19 cũng vậy. Ở nhà cái ông giàu nhất nước , mà xưa nay chưa có nhà nào mà cha con đồng triều là tể tướng như nhà Nguyễn Du ( thân sinh Nguyễn Du là Xuân quận công Nguyễn Nghiễm , làm tể tướng thời Lê mạt. Anh Nguyễn Du là Toản quận công Nguyễn Khản, làm tới Tham tụng, Thái bảo trong triều ). . Bác Hồ của chúng ta chính là con người nối tiếp những cái văn hoá cội nguồn này chứ.
Thế kỷ 19, Bác Hồ sinh ra năm 1891, tôi nói đây là nói nghiên cưú từ gốc. Bây giờ nói Bác sinh 1890, nhưng tôi nghiên cứu tử vi của Bác thì Bác sinh năm 1891. Bác đi làm cách mạng, Bác khai năm sinh là 1890, nhiều người chúng ta khi đi học, đi hoạt động cũng khai bớt hoặc thêm tuổi như thế. Bác sinh năm 1891, năm 1895 Bác vào Huế, tuổi ta là 5 tuổi, tuổi bắt đầu có trí nhớ, tuổi mà người ta dễ nhớ nhất là tuổi này, tuổi lên 5 đến lên mười. Bác 5 tuổi đi theo cha mẹ vào Huế. ông Nguyễn sinh Khiêm có đưa cho tôi cuốn ” Tất Ðạt tự ngôn ” là vào tháng 6 năm 1950. Sau đó ít tháng thì cụ qua đời. Trong ” Tất Ðạt tự ngôn ” thì cụ có ghi ba bài thơ về thời niên thiếu của em trai mình, tức Bác Hồ.
Bài thơ này cũng hấp dẫn tôi. Thời đó tôi là một anh thanh niên học sinh mới đi hoạt động Ðoàn thanh niên cứu quốc ( chưa phải là Ðoàn thanh niên Hồ chí Minh ). Cụ đưa cho tôi đọc bài thơ hay quá đi, thấy tôi ngỡ ngàng không tin thì cụ nói thế này:
_ Cháu ạ, bây giờ nhớ gì ghi nấy. Bọn Tây nó ” thuốc” bác bằng rượu khi bác đi tù. Bác vào nhà tù năm 1914, sau bác chống lại thì nó đày vào cực Nam Trung Bộ. Bác vốn không phải là người nghiện rượu, nhưng sau này thì không có rượu là bác không chịu được và trí nhớ của bác mất dần đi. Bạn học của bác đi thi vào năm 1904 đỗ cử nhân, đó là ông Ðào như Tuyên, con trai cụ Ðào Tấn. Anh em bác học vào loại giỏi nhưng không đi thi. Bây giờ bác không còn được như xưa, nhớ cái gì thì bác ghi vào đây, chứ không có hệ thống. Cháu là người có tấm lòng muốn tìm hiểu gia cảnh nhà bác thì bác đưa cho cháu cuốn ghi chép này, thấy có ích thì cháu dùng, khai thác, không dùng nữa thì đốt, đừng giao…cho ai, vì trong này bác ghi nhiều cái không tiện nói ra. Trong đó bác có ghi họ Hồ là thế nào..về họ Nguyễn là thế nào..vì ngày chú Thành mở nước độc lập thì là Hồ chí Minh, chứ không lấy họ Nguyễn là vì sao ? Trong cuốn này cũng nêu ra bài thơ đó là: Trên đèo Ngang hai bài thơ 1895, còn bài nữa là ” Ba ông phỗng ” năm 1903.
Cụ Khiêm kể lại, ” Hôm đó cả nhà bác chuẩn bị đi vào Huế, bác ngủ với bà ngoại, em Thành ngủ với mẹ, còn chị Thanh thì ngủ với dì An. Ðêm đêm bác thấy bà khóc, ngày bà vui, đêm nào cũng nghe thấy bà khóc. Sáng hôm sau thấy bà đi xin mo cau cả làng ( xưa dân ta lấy mo cau làm gàu múc nước). Bác với chú Thành lấy mo cau cắt thành cái thuyền đem thả ao trước nhà, bà không cho, bà bảo đây là dép của các cháu, cha mẹ cháu để đi vào kinh đô, thời đó chưa có nhiều giày dép như bây giờ. Bác thấy bà ngoại đo chân cha mẹ, đo chân cho 2 anh em bác.
( Bây giờ mới thấy các cụ ta ngày ta ngày xưa đi tìm cái chữ ở kinh đô Huế, đi trên những phương tiện như vậy, không dép săm bô như ta bây giờ, ngày ấy có đôi dép da bò đã quý rồi )
Bác hỏi : ” Mẹ, tại sao đêm bà khóc ?”
Về sau mới biết tâm sự bà thế này, lúc đầu cha mẹ bác tưởng bà khóc vì bán ruộng cho con vào kinh đô học, bán mất 5 sào. Bà ngoại đêm nằm buồn mà khóc, không phải tiếc vì bán 5 sào ruộng cho con rễ vào kinh đô học , vì chữ nó sẽ đẻ ra ruộng, chứ ruộng không đẻ ra chữ . Còn cái ruộng bán đi đánh bạc thì mới mất, nên không có gì mà khóc cả . Khóc là vì bà không có con trai. Ông tú thì mất rồi, con rễ coi như con trai, con gái là chỗ dựa, bây giờ cả nhà kéo đi vào Huế, bà ở nhà cô đơn một mình, hai cháu trai và cháu gái cũng đi. Vì thế nên cha mẹ bác chỉ cho hai anh em đi vào Huế, còn chị Thanh phải ở lại quê với bà, để sớm hôm có bà có cháu.
Như vậy cha mẹ bác quyết định vào Huế không phải là để làm ăn sinh sống để trở thành người Huế đâu, mà muốn cho anh em bác vào Huế để học. Cha bác vào đó để làm bạn với các nhà khoa bảng ở kinh đô. Các ông qua thời đó đều là tiến sĩ, là hoàng giáp , là đình nguyên, ít ra là cử nhân. Ðúng là cha bác vào trong Huế đã tạo ra được một cái ” chiếu văn “, các ông quan trong triều thường đến đó bình văn, bình thơ cùng với các cụ đồ ở kinh đô.
Ông Khiêm kể tiếp, ” Khi đi dép mo cau, một lúc là rách phải thay cái khác, còn chú Thành thì được cha cõng trên lưng. Trên cao chú quan sát hỏi hết chuyện này đến chuyện khác: núi này là núi gì mà cao thế? Bà ngoại hay ví ” trèo truông mới biết truông cao ” là nghĩa nó ra làm sao? Có đuợc bao nhiêu nước để gọi là biển? Chú ấy hỏi nhiều chuyện. Còn bác thì chân nó đau, đi mấy ngày liền, có khi bác khóc. Mẹ bác lại động viên, ” Em nó vui vẻ hỏi chuyện này chuyện khác. Con là anh mà chẳng vui chi cả ” Chú Thành đuợc cha cõng, đến đường bằng thì chạy tung tăng, hỏi nhiều thứ, còn lạ mắt cho nên mẹ bác nói em thông minh hơn anh.
Rồi cụ Khiêm nói, ” Mà chú ấy thông minh hơn bác thật “
Lúc đến chân đèo Ngang, đường lúc đó có đoạn sát với biển, không như đường ô tô bây giờ. Ðến chân đèo Ngang, có bãi cỏ rất bằng, mẹ bác mới đặt gánh xuống, cha bác xếp ô lại bảo : chỗ này phẳng phiu, nghĩ lại đây ăn cơm nắm, để rồi leo đèo. Bác ngồi xuống ôm chân rộp . Còn chú Thành thì nhảy chơi, mới hỏi cha :
_ Thưa cha, cái gì ở trên kia mà đỏ, lại ngoằn ngoèo như rưá?
Cha bác nói , ” Ðó là con đường mòn vắt qua đèo, tí nữa ta phải đi leo trèo lên đó, lên cái đường mòn đó.
Thế rồi chú Thành mới ứng khẩu luôn một bài thơ. Sau này bác ghi lại trong cuốn sách ” Tất Ðạt tự ngôn ” này.
” Núi cõng con đường mòn
Cha thì cõng theo con
Núi nằm ì một chỗ
Cha đi cúi lom khom
Ðường bám lì lưng núi
Con tập chạy lon ton
Cha siêng hơn hòn núi
Con đường lười hơn con “
Nói về văn thơ, tôi là anh thanh niên nam 1950 tiếp xúc với bài thơ này trong cuốn ” Tất Ðạt tự ngôn ” của người anh ruột Bác Hồ viết lúc 5 tuổi thì tôi hơi sững sờ.
Ông Khiêm nói tiếp, ” Lúc đó cha bác mới mở cái ví vải lấy lá số tử vi của con ra xem, bác mới biết cha đã lấy tử vi cho các con. Cha bác nói với mẹ, ” Với thiên tư này, thằng bé sẽ khó nuôi, có lẽ, quan Ðào Tấn với ông ngoại đã nói như thế không nhầm.”
Rồi bác Khiêm lại nói, , ” Lúc đó bác chẳng có bụng dạ gì, vì chân phỏng rộp đau. Ăn cơm nắm uống nước đựng trong quả bầu khô xong, cả nhà lại leo núi, chú Thành lại được cha cõng trên lưng. Anh em bác ở làng Sen chỉ biết ao, biết sông, biết hồ, biết núi, chứ biển chưa thấy. Hôm đó, đến đỉnh đèo thì dừng lại nghỉ, bác lại ngồi ôm chân. Chú Thành lại chạy nhảy rồi nói:
_ Cha ơi, cái ao ở đây sao lớn thế?
Cha bác nói:
_ Không phải ao đâu con, đó là biển đấy chứ
Lúc đó, đứng trên đèo Ngang là nhìn thấy biển, ở đây thì xuống là đến Ròn , tức Cảnh Dương của Quảng Bình. Lần đầu tiên thấy biển lại cứ gọi là ao, cha bác phải nói là biển. Chú ấy lại nói:
_ Cha ơi, tại sao bò nó lại lội trên biển?
Cha bác cười bảo:
_Không phải bò đâu con ơi, đó là cánh buồm, thuyền nó chạy trên biển đó.
Chú ấy ứng khẩu đọc bài thơ:
” Biển là ao lớn
Thuyển là con bò
Bò ăn gió no
Lội trên mặt nước
Em nhìn thấy trước
Anh trông thấy sau
Ta lớn mau mau
Vượt qua ao lớn”
Cụ Khiêm nói một câu tâm sự, mà cũng là tâm trạng, ‘ Cháu ạ, con ngươì ta có số mệnh. Số mệnh có khi nó xuất ra thành ý. Cái thông thường , cái lẽ thường anh là phải nhìn thấy trước vì anh ra đời, khôn hơn. Nhưng đây lại nói là, ” Em nhìn thấy trước anh, anh trông thấy sau”. Cái khẩu khí đó cũng là cái ứng mệnh. Bác là anh, bác đau chân, bác không còn nhìn những gì ở xung quanh, nhưng chú ấy quan sát, chú ấy lại ứng khẩu được cái đó, ” Ta lớn mau mau, vượt qua ao lớn ” . Cái khẩu khí ấy là cái ” ứng mệnh ” nên suốt cuộc đời chú Thành phải đi hết nơi này nơi khác, năm châu bốn biển, còn bác chả thấy gì, bác cứ yên vị, bác sống trong xó quê như thế này! ..
Cụ Khiêm nói với tôi điều đó năm 1950, sau này tôi công bố hai bài thơ ấy trên báo Văn Nghệ số tết năm 1980, lúc đó là chuẩn bị.

CHUYỆN MẬU THÂN

Chép Sử Việt
CHUYỆN MẬU THÂN 68' VÀ CUNG ĐÌNH CỘNG SẢN VN (2)


Chuyên cơ đưa Hồ Chí Minh về do cơ trưởng Nhị, phi công Công Doãn Đường của đoàn bay 99, giàu kinh nghiệm, rất quen thuộc đường bay điều khiển. Tối thứ bảy ngày 23 tháng 12 năm 1967, máy bay đi vào vùng trời của sân bay Gia Lâm Hà Nội. Mùa đông, trời nhanh tối, việc hạ cánh phải dựa vào đèn tín hiệu, khi xuống thấp, quan sát bằng mắt thường, phi công nhận thấy đèn tín hiệu đường băng chệch 15 độ. Không dám hạ xuống, phi công tiếp tục bay vòng và điện xuống hỏi lại để kiểm tra tín hiệu mặt đất.
Sau hai vòng lượn, thấy chỉ báo dưới đất vẫn chệch, phi công trưởng quay sang báo cáo với nhóm hành khách (chỉ có 2 người là thư ký Vũ Kỳ và Hồ Chí Minh). Vũ Kỳ hỏi lại có chắc là đèn báo không chính xác không, phi công khẳng định là tín hiệu chỉ đường sai và thông báo nhiên liệu sắp hết, thời gian cho phép của phòng không cũng sắp hết. Trong hoàn cảnh chiến tranh, hành lang bay và khoảng thời gian bay đã được thông báo cho lực lượng phòng không, không được phép kéo dài thời gian bay quá qui định. Vũ Kỳ hỏi tiếp: có thể hạ cánh trực tiếp bằng mắt thường, không theo đèn không, phi công đáp làm được. Thư kí Vũ Kỳ quyết định hạ lệnh cho tổ lái hạ cánh bằng định hướng bằng mắt mình trong đêm tối, không theo hướng đèn báo. Máy bay đáp xuống đường băng an toàn. Phi công reo lên: “An toàn rồi, anh ơi, mừng quá!”. Hồ Chí Minh ngồi yên lặng hút thuốc như không nghe thấy gì. Ra khỏi sân bay mới thấy Lê Duẩn, Lê Đức Thọ ra đón, một lúc sau có thêm Phạm Văn Đồng xuất hiện (24,25).
Ngay tối trở về nước, mặc dù vừa thoát hiểm trên đường và đã nghe Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Lê Duẩn báo cáo công việc đến khuya, trước khi đi ngủ Hồ Chí Minh gọi điện sang Văn phòng quân ủy hỏi thăm sức khỏe Võ Nguyên Giáp đang ở nước ngoài và nhắc gửi thiếp và quà cho hai vợ chồng Đại tướng đang ở Hungary: “Dịp Noel và Tết dương lịch bên ấy như Tết ta ở bên mình. Tâm lý của người xa quê hương rất mong có một món quà của Tổ quốc.” (26). Đây chắc chắn không phải việc tối quan trọng mà Chủ tịch Đảng phải trực tiếp chỉ đạo quân đội làm vào đêm khuya ngay khi về nước. Đây hoặc là giải pháp kiểm tra sự an toàn của tướng Giáp hoặc là lời nhắn gửi để khẳng định thái độ quan tâm bảo vệ của đích thân Chủ tịch trong hoàn cảnh rất hiểm nghèo lúc đó.
Ngày 28 tháng 12 năm 1967. Bộ Chính trị tiến hành họp tại nhà riêng Hồ Chí Minh khi mọi quyết định cho cuộc Tổng tấn công gần như đã xong, ông ngồi đầu bàn chủ trì họp nhưng Lê Duẩn báo cáo toàn bộ vấn đề và quán xuyến việc thảo luận. Theo lời Vũ Kỳ, cuộc họp diễn ra “kéo dài và căng thẳng”. Sau cuộc họp, Hồ Chí Minh vẫn tỏ ra lo lắng nhưng Bộ Chính trị (không có Võ Nguyên Giáp) đã đề ra “nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên một bước phát triển cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để dành thắng lợi quyết định” (27).
Lê Trọng Nghĩa có mặt tại chỗ kể lại: trong cuộc họp Bộ Chính trị có nội dung chuẩn bị cử Lê Duẩn đi Liên Xô, Trung Quốc tranh thủ ý kiến lãnh đạo các đảng anh em về cuộc tấn công sắp tới. Vào giờ nghỉ giữa giờ, Trung – Chánh Văn phòng Trung ương báo cáo: “Anh Văn (Võ Nguyên Giáp) gửi điện về báo cáo với Bác và Bộ Chính trị tha thiết xin về nước làm việc vì sau vài tháng nghỉ ngơi, sức khoẻ đã tốt, mà công việc ở nhà thì nhiều”. Lê Đức Thọ thủng thẳng nói: “Về làm gì? Mọi việc đã xong cả rồi.” Lê Duẩn khéo léo đề nghị: “Nhân dịp tôi được cử đi làm việc ở Liên Xô, Trung Quốc có lẽ cũng nên cử anh Giáp làm phó đoàn để làm việc với họ. Không có ông Giáp, Liên Xô họ không nói chuyện với tôi đâu”.
Cách đề nghị như vậy vừa kết tội tướng Giáp liên kết với Liên Xô, vừa chính thức duy trì tình trạng cách ly ông này ngoài Việt Nam. Quả thực khi đoàn công tác kết thúc đợt làm việc ở nước ngoài, Lê Duẩn về nước, để lại Võ Nguyên Giáp ở nước ngoài (cũng như Hồ Chí Minh lúc đó), bị cô lập trong lúc cuộc tổng tiến công bắt đầu diễn ra quyết liệt. (28)
Ngay sau khi bị bắt, đại tá Lê Trọng Nghĩa, người nắm mọi bí mật quan trọng nhất của hệ thống tình báo chiến lược yêu cầu được liên lạc với đại tướng Võ Nguyên Giáp, chỉ huy trực tiếp của ông lúc đó đang đi nghỉ. Đại tá Lê Tiên – cục phó Cục Bảo vệ là người trực tiếp tiến hành bắt giữ trả lời: “Ông Giáp đi nghỉ không phải để dưỡng bệnh mà là nghỉ hẳn rồi”(29). Quân ủy Trung ương- cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng trong quân đội đã bị xóa sổ đúng vào lúc chiến dịch quân sự quyết định sắp diễn ra, là giải pháp dứt điểm giành quyền chỉ huy quân sự để hoàn tất việc chuẩn bị cho đợt tổng tấn công và nổi dậy đồng loạt. Tháng 1 năm 1968, Bộ Chính trị ra quyết định loại Nguyễn Văn Vịnh ra khỏi Quân ủy trung ương.
Ngày 14 tháng 11 năm 1968, Bộ Chính trị thành lập “Ban chỉ đạo điều tra” gồm 8 người: Trưởng ban Tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ, Bộ trưởng bộ Công an Trần Quốc Hoàn, Bí thư Trung ương Lê Văn Lương, Tổng cục trưởng Tổng cục Chính trị Song Hào, Trưởng ban Kiểm tra Trung ương Nguyễn Lương Bằng, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao Hoàng Quốc Việt, Thứ trưởng bộ Công an Lê Quốc Thân, Nguyễn Khai. “Ban có nhiệm vụ giúp Bộ Chính trị chỉ đạo điều tra, dự thảo kết luận, đề xuất xử lý các đối tượng” (30 – trang 269). Hợp pháp hóa việc kết tội cho nhóm đối tượng mới, ngày 30 tháng 10, ủy ban Thường vụ Quốc Hội do Chủ tịch Trường Chinh chủ tọa thông qua sắc lệnh qui định hình phạt cho các tội trạng phản quốc, gián điệp, và cung cấp bí mật quốc gia.
Lực lượng tham gia bắt giữ và tra hỏi đối với các đối tượng dân sự do Bộ Công an do Trần Quốc Hoàn chỉ huy với sự tham gia trực tiếp của Cục trưởng Cục Bảo vệ chính trị Bộ – Nguyễn Tài, việc bắt giữ các quân nhân do tướng Song Hào chỉ đạo với sự thực hiện của lực lượng bảo vệ quân đội do đại tá Kinh Chi chỉ huy.
Cuối năm 1967, Lê Đức Thọ đã ban hành trong nội bộ hai báo cáo kết tội những nhóm người bất đồng chính kiến. Bản thông báo thứ nhất được đưa ra sau đợt bắt bớ thứ nhất, thông báo tội trạng của những người bị bắt và được sử dụng ngay để mọi thành viên trong Đảng “tự kiểm điểm”. Giống như bài bản các đợt thanh trừng từng diễn ra ở Liên Xô dưới thời Stalin và ở Trung Quốc trước đây, nội dung các kiểm điểm này được dùng để kết tội và bắt một số người trong đợt đàn áp thứ hai.
Tiếp theo đó, biện pháp tương tự cũng được áp dụng, tội trạng của những người mới bị bắt đợt hai được dùng để “học tập”, “kiểm điểm” trong Đảng và quân đội và những lời phát biểu, nhận xét trong thảo luận lại được dùng làm căn cứ để bắt và kết tội những nạn nhân mới (31).
Cũng theo đúng bài bản các chiến dịch thanh trừng nội bộ diễn ra ở Trung Quốc, các “tài liệu học tập” mặc dù được tuyên truyền rộng rãi trong đảng nhưng văn bản được giữ bí mật tuyệt đối để sau này không thể truy cứu trách nhiệm.
Tài liệu tuyệt mật, ghi chép bài nói chuyện của Lê Đức Thọ với cán bộ cao, trung cấp về tình hình nhóm chống Đảng sau vài tháng diễn ra cuộc đàn áp cho thấy có các ý kiến khác nhau của cán bộ xung quanh chiến dịch này: “Trước đây nhiều anh em chỉ cho đơn giản là do bất đồng quan điểm rồi có quan hệ với nước ngoài (…) Vì có ý kiến cho rằng vấn đề của tụi này mới chỉ là vấn đề nội bộ trong đảng, chưa phải là vi phạm pháp luật của nhà nước. Cho rằng chúng chống đảng nhưng vẫn còn yêu nước. Có anh em thì nói đây là trao đổi tin tức giữa nước bạn với nhau chứ đâu phải là tình báo,..” (32). Lê Đức Thọ nêu ra các tội trạng chính của nhóm chống Đảng là: “phản động, phản tổ quốc” với chứng cớ chính là bản tài liệu “Chủ nghĩa giáo điều của Việt Nam” do Minh Việt chấp bút dầy gần 40 trang đánh máy. Trong đó nêu lên những ý kiến phê phán các chủ trương được coi là giáo điều của Đảng trong chỉ đạo phát triển kinh tế ở miền Bắc và tổ chức chiến đấu ở miền Nam.
Một số phần được ông đọc để dẫn chứng là tài liệu “phản động” như sau: về chiến tranh chống Mỹ, Minh Việt viết: “Chủ nghĩa giáo điều tả khuynh đã dẫn đến việc đánh giá không đúng đắn tương quan lực lượng giữa ta và địch ở Việt Nam cũng như trên trường quốc tế. Đề ra những mục tiêu chiến đấu, phương châm chiến lược thiếu thực tế, bỏ lỏng các cơ hội chấm dứt chiến tranh vào lúc có lợi nhất cho nhân dân Việt Nam, cũng như cho phong trào cách mạng quốc tế, đưa lại cuộc chiến tranh ngày càng đi vào nguy hiểm, và ngày càng đi vào bế tắc, càng không có lợi cho nhân dân Việt Nam… điều này thể hiện trong sự phá sản của các nghị quyết 11, 12 của Trung ương Việt Nam. Nói tóm lại đánh cũng khó mà hòa cũng khó. Thôi thì đành đánh thêm nữa. Đó là cái thế lúng túng của Trung ương Việt Nam trong vấn đề trung tâm, cơ bản nhất, nóng hổi nhất ở Việt Nam”.
Về phát triển kinh tế, tài liệu viết: “Rõ ràng là chúng ta đã phạm sai lầm là đã không coi trọng đúng mức việc xây dựng vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp. Chúng ta đã đặc biệt chú trọng hợp tác hóa trước khi có điều kiện cần thiết cho việc đó. Việc hợp tác hóa không có cơ sở vật chất và kỹ thuật cần thiết cho nó không phải là một sáng tạo, mà là một sai lầm xuyên tạc chủ nghĩa Mác- Lê Nin. Sai lầm đó cộng với sai lầm trong chính sách thu mua, giá cả, cộng với việc quản lý thiếu kinh nghiệm do không đào tạo kịp cán bộ đã tạo cho nông dân thiếu phấn khởi sản xuất,… Đại hội III của chúng ta đã đặt vấn đề phát triển nông nghiệp là tiền đề cho công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đôi quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp ở đây được đặt đầu lộn xuống đất” (33).
Thực sự, các nội dung trong tài liệu này cho thấy sự bất đồng chính kiến trong Đảng chứ không thể minh chứng cho hành động “phản quốc”.
Ghi chép của một sỹ quan chỉ huy quân đội nhân dân Việt Nam do quân Mỹ thu được trên chiến trường cho thấy nội dung của một trong những tài liệu phổ biến về vụ Chống đảng như sau: “Những kẻ phản bội này gieo rắc mối bất hòa trong Đảng và làm suy yếu thống nhất trong quân đội chúng ta. Mục tiêu của những hành động lén lút của chúng rõ ràng là hình thành các phe nhóm chống Đảng ta, Đảng Lao động Việt Nam. Chúng cố ý phân tích sai, phê phán thiên lệch, và đánh giá có hại trong Bộ Chính trị để gây chia rẽ trong Lãnh đạo Đảng. Chúng đã tạo được lòng trung thành của một số cán bộ cao cấp của một số Bộ ngành, kể cả ở nước ngoài… Chúng cố ngăn cản cuộc phản công của chúng ta với quân thù. Chúng cố ngăn cản Đảng bộ Miền Nam triển khai Nghị quyết 9. Chúng cho rằng trong 20 năm qua, đường lối chủ trương của Đảng ta bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa giáo điều và kế hoạch chống Mỹ cứu nước là thiển cận.” (34).
Một tội danh khác mà Lê Đức Thọ kết cho những người trong vụ án này là hoạt động tình báo: “Có thể nói tổ chức tình báo này là một tổ chức chính trị nằm trong Đảng. Người hoạt động cho tổ chức đó lại là một số cán bộ, đảng viên. Nó là một tổ chức phản động, đồng thời lại là một mạng lưới tình báo, hai cái đó gần như không có ranh giới. Mọi tin tức nó đều lấy rất dễ, khác với mọi tình báo của bọn đế quốc (…) Còn đây là một tổ chức chính trị có cơ sở tư tưởng gồm một số là cán bộ, đảng viên nằm trong Đảng nên hoạt động tình báo rất dễ (…) Có thể nói yêu cầu của họ là tìm hiểu toàn bộ tình hình về chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước, tìm hiểu những quan hệ của Đảng ta với Đảng này, Đảng kia. Từ nghị quyết 9 cho đến nghị quyết 13 không còn cái nào là không lọt ra bên ngoài...” (35).
Lời buộc tội này cũng vu vơ từ nội dung đến chứng cớ nhưng trong bầu không khí chiến tranh, các tội danh gián điệp, phản bội, tiết lộ bí mật quân sự là đòn tâm lý quan trọng dồn sự thù hận, nghi ngại của nhân dân để cô lập những người vốn là đồng đội, là cấp trên họ.
Thông báo về vụ án cho biết: “Chúng (nhóm xét lại – chống đảng) tìm cách lấy cắp tài liệu mật của chúng ta. Chúng lợi dụng sự mất cảnh giác của cán bộ ta để thu thập thông tin mật về kế hoạch quân sự, đề án kinh tế, và về viện trợ quốc tế của các nước anh em cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (36).”
Tài liệu “Những hoạt động của một số thế lực phản động và thù địch”, của Trung ương Đảng phổ biến tháng Tư năm 1994 giải thích rằng vào tháng Bảy 1967, Hoàng Minh Chính và những người dính líu đến vụ chống Đảng bị phát hiện là tìm ra cách gửi biên bản mật về một cuộc hội đàm Việt-Trung ra nước ngoài, vì lí do này, bộ phận an ninh bắt Hoàng Minh Chính và ba người khác (37, 38). Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Chủ nhiệm ủy ban Thống nhất TW Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh trong cuộc thảo luận với Đại sứ Liên Xô Secbacob ngày 13/6/1967 cũng bàn về qui mô viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam (39). Nguồn tài liệu từ Đông Đức cho thấy nguồn tin từ Việt Nam đã cho Liên Xô biết về tiến trình đàm phán Trung Quốc – Việt Nam (40).
Trần Quỳnh trợ lý của Lê Duẩn kể về nội tình lúc đó: “Tình báo của Trung Quốc cũng như của Liên Xô đầy dẫy khắp nơi. Ngoài ra nhiều đảng viên không làm tình báo cho Trung Quốc và Liên Xô vô tình, vì tình cảm của mình mà lộ ra cho biết việc nhà của Đảng ta. Mạng lưới tình báo ấy có hiệu quả đến nỗi những cuộc họp của Bộ chính trị ở số 4 Nguyễn Cảnh Chân diễn ra thì trong ngày tin tức về nội dung cuộc họp đã đến tai Liên Xô và Trung Quốc. Nếu là vấn đề quan trọng thì trong ngày trên bàn làm việc của lãnh đạo mỗi nước đều có báo cáo” (41).
Tuy những người quan hệ mật thiết với Trung Quốc ở Việt Nam cũng thường xuyên trao đổi các thông tin về quan hệ Việt Nam Liên Xô cho Trung Quốc nhưng tội trạng này chỉ nhắm vào những người cung cấp thông tin về Trung Quốc cho Liên Xô.
Trong điều kiện Liên Xô đang đẩy mạnh viện trợ quân sự cho Việt Nam, theo báo cáo của sứ quán Liên Xô tại Hà Nội cuối năm 1967, có tới 1.165 chuyên gia quân sự của Liên Xô tại Việt Nam có trách nhiệm bảo trì các loại vũ khí hiện đại. Ngoài việc vận hành máy bay, tên lửa, còn có một nhóm đặc biệt chuyên nghiên cứu và thu thập mẫu vũ khí của Mỹ và đánh giá hiệu quả vũ khí của Liên Xô. Từ tháng 5 năm 1965 đến đầu năm 1967, các tình báo viên kỹ thuật này đã gửi về Liên Xô 700 mẫu trang thiết bị quân sự Mỹ và đưa ra nhiều phương án cải tiến trang bị của Liên Xô cho phù hợp với vũ khí của đối thủ (42).
Các hoạt động trên không thể không dựa trên sự phối hợp chặt chẽ của các đồng nghiệp Việt Nam, nhất là những chuyên gia kỹ thuật, sỹ quan được đào tạo từ Liên Xô. Vì vậy, không khó khăn để thu thập chứng cứ qui kết tội “liên hệ, cung cấp thông tin quân sự bí mật cho nước ngoài” cho các đối tượng này.
Việt Nam phải dựa hẳn vào các nguồn cung cấp từ bên ngoài cho cả hoạt động kinh tế lẫn quốc phòng, việc trao đổi thông tin về tình hình viện trợ với các đồng minh thân cận là điều thực sự bình thường. Ngay cả việc trao đổi thông tin tình báo chiến trường cũng là nghĩa vụ giữa các đồng minh.
Trần Quỳnh kể lại lý do đợt đàn áp này như một chiến dịch chống lại âm mưu của những người thân Liên Xô đang đào tạo tại Liên Xô định thay đổi lãnh đạo của Đảng với mục tiêu đưa Võ Nguyên Giáp lên:
“Không tán thành đường lối chống xét lại của Đảng ta, một số cán bộ cao cấp và trung cấp theo học ở trường Đảng cao cấp Liên Xô và trường quân sự cao cấp Liên Xô bàn kế hoạch chống lại đường lối của Đảng. Họ lập một nhóm vận động thành lập một tổ chức lấy việc thay đổi Bộ chính trị làm mục tiêu. Họ nhắm vào những người không đồng tình với Nghị quyết 9, trước hết là những sĩ quan cao cấp trong quân đội và những ủy viên trong Trung ương. Trong tổ chức đó có Đặng Kim Giang, Lê Liêm. Theo lời khai của Đặng Kim Giang thì linh hồn của tổ chức là Võ Nguyên Giáp. Họ liên lạc với Đại sứ Liên Xô hồi đó là Secbacốp, một sĩ quan tình báo hướng dẫn họ. Khi nghe Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn báo cáo về vai trò của Võ Nguyên Giáp cho tổ chức chống Đảng này, Lê Duẩn nói trước đây Giáp là người không đáng tin cậy lắm tuy được Bác Hồ rất cưng vì khéo nịnh” (43).
Theo lời kể này, thì hai nhân vật tổ chức chiến dịch đàn áp là Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn đã báo cáo với Lê Duẩn nội dung vụ án như sau: kẻ thủ mưu chính là Võ Nguyên Giáp được Hồ Chí Minh che chở, lực lượng lật đổ sẽ từ bên ngòai vào do tình báo Liên Xô xúi dục, thông qua tay trong là cán bộ quân đội cao cấp Việt Nam. Điều đáng chú ý nhất, theo lập luận của Thọ và Hoàn thì mục tiêu chính của âm mưu này là dành quyền hành của Lê Duẩn, do Liên Xô (đồng minh thân cận mà Duẩn muốn dựa vào) hỗ trợ. Liên Xô muốn lật đổ Duẩn thay bằng Giáp. Vì vậy mọi hành động đàn áp của họ đều nhằm bảo vệ quyền lực cho Lê Duẩn. Muốn xử lý vụ này tất phải đánh từ trên đánh xuống, chí ít cũng phải bao vây cô lập sự hỗ trợ của cấp trên và từ bên ngoài.
Lập luận này rất thiếu căn cứ. Tất cả những nhân chứng, vật chứng đều ở nước ngoài, căn cứ chính là các “lời khai” do cán bộ điều tra chuẩn bị sẵn. Tuy nhiên đúng lúc Lê Duẩn đang rối bời trong Chiến dịch Tổng tiến công diễn ra bất lợi, trong tâm lý nghi ngại, bất đồng sẵn có của Lê Duẩn với tư tưởng xét lại của Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp, trong khi biết rằng cả Liên Xô và Trung Quốc không ai thực sự ưa mình, Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn không phải thuyết phục nhiều cũng được Lê Duẩn giao cho toàn quyền hành động. Vũ Thư Hiên trong hồi ký cũng cho rằng Lê Đức Thọ đã lái Lê Duẩn đi chệch hướng với câu chuyện về âm mưu của Liên Xô (44 – trang 297).
(Còn tiếp)
—-
Chú thích:
24. Vũ Kỳ. Bác Hồ với Tết Mậu Thân năm ấy. Văn Nghệ tết Mậu Dần 1998.
25. Bài nói chuyện của nhà văn Sơn Tùng ngày 11/4/2001 tại trường Quản Lý Giáo dục của Bộ Giáo dục – đào tạo.
26. Vũ Kỳ. Bác Hồ với Tết Mậu Thân năm ấy. Văn Nghệ tết Mậu Dần 1998.
27. Vũ Kỳ. Bác Hồ với Tết Mậu Thân năm ấy. Văn Nghệ tết Mậu Dần 1998.
28. Lê Trọng Nghĩa. Hồi kí chưa công bố.
29. Lê Trọng Nghĩa. Hồi kí chưa công bố.
30. Biên niên sự kiện lịch sử lực lượng an ninh nhân dân 1954-1975. NXB Công an Nhân dân. Hà Nội. 1997.
31. Lê Trọng Nghĩa. Hồi kí chưa công bố.
32. Đồng chí Lê Đức Thọ Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Thông báo với cán bộ cao, trung cấp về tình hình nhóm chống Đảng chiều 17/2/1968.
33. Đồng chí Lê Đức Thọ Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Thông báo với cán bộ cao, trung cấp về tình hình nhóm chống Đảng chiều 17/2/1968.
34. “Allegd Coup d’Etat plot in Hanoi: 1967, December 1967” Folder 20, Box 1, DP: Unit 06, VA. Đoạn trích trong so tay của một trung đội trưởne tên là Trường thuộc đại đội 11, tiểu đoàn 30, Trung đoàn Thủ Đô, QĐNDVN, ghi lại nội dung cuộc họp của Trường tại Hà Nội 21/12/.
35. Nicholas V. Riasanovsky, A History of Russia, Oxford: Oxford University Press, 2005, 530-1
36. “Allegd Coup d’Etat plot in Hanoi: 1967, December 1967” Folder 20, Box 1, DP: Unit 06, VA. Đoạn trích trong so tay của một trung đội trưởne tên là Trường thuộc đại đội 11, tiểu đoàn 30, Trung đoàn Thủ Đô, QĐNDVN, ghi lại nội dung cuộc họp của Trường tại Hà Nội 21/12/.
37. Sophie Quinn Judge. The Ideological Debate in the DRV and the Significance of the Anti Party Affair, 1967-1968. Journal of Cold War History 5, issue 4. 11-12/2005. Cuộc đấu tranh hệ tư tưởng ngay trong lòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà & ý nghĩa của vụ chống Đảng 1967- 1968. Duy Tân Trẻ dịch. © Taylor & Francis. Bản tiếng Việt đăng trên talawas.
38. Judy Stowe, “Revisionisme” au Vietnam. Communisme, no. 65-66 2001.
39. Liên Hằng T. Nguyễn. The war politburo: North Vietnam’s Diplomatic and Political Roard to the Tết Offensive.
40. Gossheim, “Revisionism in the Democratic Republic of Vietnam” 451-452.
41. Hồi ký Trần Quỳnh: Những Kỷ niệm về Lê Duẩn (http://danchuonline.multiply.com/journal/item/47).
42. Ilya V. Gaiduk Liên bang Xô Viết và chiến tranh Việt Nam.
43. Hồi ký Trần Quỳnh: Những Kỷ niệm về Lê Duẩn (http://danchuonline.multiply.com/journal/item/47).
44. Vũ Thư Hiên. Đêm giữa ban ngày; hồi ký chính trị của một người không làm chính trị Westminster, CA Văn nghệ 1997.

* Xem: Chuyện Mậu Thân 68′ và cung đình cộng sản VN (1)

CHUYỆN MẬU THÂN

Chép Sử Việt
CHUYỆN MẬU THÂN 68' VÀ CUNG ĐÌNH CỘNG SẢN VN (2)


Chuyên cơ đưa Hồ Chí Minh về do cơ trưởng Nhị, phi công Công Doãn Đường của đoàn bay 99, giàu kinh nghiệm, rất quen thuộc đường bay điều khiển. Tối thứ bảy ngày 23 tháng 12 năm 1967, máy bay đi vào vùng trời của sân bay Gia Lâm Hà Nội. Mùa đông, trời nhanh tối, việc hạ cánh phải dựa vào đèn tín hiệu, khi xuống thấp, quan sát bằng mắt thường, phi công nhận thấy đèn tín hiệu đường băng chệch 15 độ. Không dám hạ xuống, phi công tiếp tục bay vòng và điện xuống hỏi lại để kiểm tra tín hiệu mặt đất.
Sau hai vòng lượn, thấy chỉ báo dưới đất vẫn chệch, phi công trưởng quay sang báo cáo với nhóm hành khách (chỉ có 2 người là thư ký Vũ Kỳ và Hồ Chí Minh). Vũ Kỳ hỏi lại có chắc là đèn báo không chính xác không, phi công khẳng định là tín hiệu chỉ đường sai và thông báo nhiên liệu sắp hết, thời gian cho phép của phòng không cũng sắp hết. Trong hoàn cảnh chiến tranh, hành lang bay và khoảng thời gian bay đã được thông báo cho lực lượng phòng không, không được phép kéo dài thời gian bay quá qui định. Vũ Kỳ hỏi tiếp: có thể hạ cánh trực tiếp bằng mắt thường, không theo đèn không, phi công đáp làm được. Thư kí Vũ Kỳ quyết định hạ lệnh cho tổ lái hạ cánh bằng định hướng bằng mắt mình trong đêm tối, không theo hướng đèn báo. Máy bay đáp xuống đường băng an toàn. Phi công reo lên: “An toàn rồi, anh ơi, mừng quá!”. Hồ Chí Minh ngồi yên lặng hút thuốc như không nghe thấy gì. Ra khỏi sân bay mới thấy Lê Duẩn, Lê Đức Thọ ra đón, một lúc sau có thêm Phạm Văn Đồng xuất hiện (24,25).
Ngay tối trở về nước, mặc dù vừa thoát hiểm trên đường và đã nghe Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Lê Duẩn báo cáo công việc đến khuya, trước khi đi ngủ Hồ Chí Minh gọi điện sang Văn phòng quân ủy hỏi thăm sức khỏe Võ Nguyên Giáp đang ở nước ngoài và nhắc gửi thiếp và quà cho hai vợ chồng Đại tướng đang ở Hungary: “Dịp Noel và Tết dương lịch bên ấy như Tết ta ở bên mình. Tâm lý của người xa quê hương rất mong có một món quà của Tổ quốc.” (26). Đây chắc chắn không phải việc tối quan trọng mà Chủ tịch Đảng phải trực tiếp chỉ đạo quân đội làm vào đêm khuya ngay khi về nước. Đây hoặc là giải pháp kiểm tra sự an toàn của tướng Giáp hoặc là lời nhắn gửi để khẳng định thái độ quan tâm bảo vệ của đích thân Chủ tịch trong hoàn cảnh rất hiểm nghèo lúc đó.
Ngày 28 tháng 12 năm 1967. Bộ Chính trị tiến hành họp tại nhà riêng Hồ Chí Minh khi mọi quyết định cho cuộc Tổng tấn công gần như đã xong, ông ngồi đầu bàn chủ trì họp nhưng Lê Duẩn báo cáo toàn bộ vấn đề và quán xuyến việc thảo luận. Theo lời Vũ Kỳ, cuộc họp diễn ra “kéo dài và căng thẳng”. Sau cuộc họp, Hồ Chí Minh vẫn tỏ ra lo lắng nhưng Bộ Chính trị (không có Võ Nguyên Giáp) đã đề ra “nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên một bước phát triển cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để dành thắng lợi quyết định” (27).
Lê Trọng Nghĩa có mặt tại chỗ kể lại: trong cuộc họp Bộ Chính trị có nội dung chuẩn bị cử Lê Duẩn đi Liên Xô, Trung Quốc tranh thủ ý kiến lãnh đạo các đảng anh em về cuộc tấn công sắp tới. Vào giờ nghỉ giữa giờ, Trung – Chánh Văn phòng Trung ương báo cáo: “Anh Văn (Võ Nguyên Giáp) gửi điện về báo cáo với Bác và Bộ Chính trị tha thiết xin về nước làm việc vì sau vài tháng nghỉ ngơi, sức khoẻ đã tốt, mà công việc ở nhà thì nhiều”. Lê Đức Thọ thủng thẳng nói: “Về làm gì? Mọi việc đã xong cả rồi.” Lê Duẩn khéo léo đề nghị: “Nhân dịp tôi được cử đi làm việc ở Liên Xô, Trung Quốc có lẽ cũng nên cử anh Giáp làm phó đoàn để làm việc với họ. Không có ông Giáp, Liên Xô họ không nói chuyện với tôi đâu”.
Cách đề nghị như vậy vừa kết tội tướng Giáp liên kết với Liên Xô, vừa chính thức duy trì tình trạng cách ly ông này ngoài Việt Nam. Quả thực khi đoàn công tác kết thúc đợt làm việc ở nước ngoài, Lê Duẩn về nước, để lại Võ Nguyên Giáp ở nước ngoài (cũng như Hồ Chí Minh lúc đó), bị cô lập trong lúc cuộc tổng tiến công bắt đầu diễn ra quyết liệt. (28)
Ngay sau khi bị bắt, đại tá Lê Trọng Nghĩa, người nắm mọi bí mật quan trọng nhất của hệ thống tình báo chiến lược yêu cầu được liên lạc với đại tướng Võ Nguyên Giáp, chỉ huy trực tiếp của ông lúc đó đang đi nghỉ. Đại tá Lê Tiên – cục phó Cục Bảo vệ là người trực tiếp tiến hành bắt giữ trả lời: “Ông Giáp đi nghỉ không phải để dưỡng bệnh mà là nghỉ hẳn rồi”(29). Quân ủy Trung ương- cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng trong quân đội đã bị xóa sổ đúng vào lúc chiến dịch quân sự quyết định sắp diễn ra, là giải pháp dứt điểm giành quyền chỉ huy quân sự để hoàn tất việc chuẩn bị cho đợt tổng tấn công và nổi dậy đồng loạt. Tháng 1 năm 1968, Bộ Chính trị ra quyết định loại Nguyễn Văn Vịnh ra khỏi Quân ủy trung ương.
Ngày 14 tháng 11 năm 1968, Bộ Chính trị thành lập “Ban chỉ đạo điều tra” gồm 8 người: Trưởng ban Tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ, Bộ trưởng bộ Công an Trần Quốc Hoàn, Bí thư Trung ương Lê Văn Lương, Tổng cục trưởng Tổng cục Chính trị Song Hào, Trưởng ban Kiểm tra Trung ương Nguyễn Lương Bằng, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao Hoàng Quốc Việt, Thứ trưởng bộ Công an Lê Quốc Thân, Nguyễn Khai. “Ban có nhiệm vụ giúp Bộ Chính trị chỉ đạo điều tra, dự thảo kết luận, đề xuất xử lý các đối tượng” (30 – trang 269). Hợp pháp hóa việc kết tội cho nhóm đối tượng mới, ngày 30 tháng 10, ủy ban Thường vụ Quốc Hội do Chủ tịch Trường Chinh chủ tọa thông qua sắc lệnh qui định hình phạt cho các tội trạng phản quốc, gián điệp, và cung cấp bí mật quốc gia.
Lực lượng tham gia bắt giữ và tra hỏi đối với các đối tượng dân sự do Bộ Công an do Trần Quốc Hoàn chỉ huy với sự tham gia trực tiếp của Cục trưởng Cục Bảo vệ chính trị Bộ – Nguyễn Tài, việc bắt giữ các quân nhân do tướng Song Hào chỉ đạo với sự thực hiện của lực lượng bảo vệ quân đội do đại tá Kinh Chi chỉ huy.
Cuối năm 1967, Lê Đức Thọ đã ban hành trong nội bộ hai báo cáo kết tội những nhóm người bất đồng chính kiến. Bản thông báo thứ nhất được đưa ra sau đợt bắt bớ thứ nhất, thông báo tội trạng của những người bị bắt và được sử dụng ngay để mọi thành viên trong Đảng “tự kiểm điểm”. Giống như bài bản các đợt thanh trừng từng diễn ra ở Liên Xô dưới thời Stalin và ở Trung Quốc trước đây, nội dung các kiểm điểm này được dùng để kết tội và bắt một số người trong đợt đàn áp thứ hai.
Tiếp theo đó, biện pháp tương tự cũng được áp dụng, tội trạng của những người mới bị bắt đợt hai được dùng để “học tập”, “kiểm điểm” trong Đảng và quân đội và những lời phát biểu, nhận xét trong thảo luận lại được dùng làm căn cứ để bắt và kết tội những nạn nhân mới (31).
Cũng theo đúng bài bản các chiến dịch thanh trừng nội bộ diễn ra ở Trung Quốc, các “tài liệu học tập” mặc dù được tuyên truyền rộng rãi trong đảng nhưng văn bản được giữ bí mật tuyệt đối để sau này không thể truy cứu trách nhiệm.
Tài liệu tuyệt mật, ghi chép bài nói chuyện của Lê Đức Thọ với cán bộ cao, trung cấp về tình hình nhóm chống Đảng sau vài tháng diễn ra cuộc đàn áp cho thấy có các ý kiến khác nhau của cán bộ xung quanh chiến dịch này: “Trước đây nhiều anh em chỉ cho đơn giản là do bất đồng quan điểm rồi có quan hệ với nước ngoài (…) Vì có ý kiến cho rằng vấn đề của tụi này mới chỉ là vấn đề nội bộ trong đảng, chưa phải là vi phạm pháp luật của nhà nước. Cho rằng chúng chống đảng nhưng vẫn còn yêu nước. Có anh em thì nói đây là trao đổi tin tức giữa nước bạn với nhau chứ đâu phải là tình báo,..” (32). Lê Đức Thọ nêu ra các tội trạng chính của nhóm chống Đảng là: “phản động, phản tổ quốc” với chứng cớ chính là bản tài liệu “Chủ nghĩa giáo điều của Việt Nam” do Minh Việt chấp bút dầy gần 40 trang đánh máy. Trong đó nêu lên những ý kiến phê phán các chủ trương được coi là giáo điều của Đảng trong chỉ đạo phát triển kinh tế ở miền Bắc và tổ chức chiến đấu ở miền Nam.
Một số phần được ông đọc để dẫn chứng là tài liệu “phản động” như sau: về chiến tranh chống Mỹ, Minh Việt viết: “Chủ nghĩa giáo điều tả khuynh đã dẫn đến việc đánh giá không đúng đắn tương quan lực lượng giữa ta và địch ở Việt Nam cũng như trên trường quốc tế. Đề ra những mục tiêu chiến đấu, phương châm chiến lược thiếu thực tế, bỏ lỏng các cơ hội chấm dứt chiến tranh vào lúc có lợi nhất cho nhân dân Việt Nam, cũng như cho phong trào cách mạng quốc tế, đưa lại cuộc chiến tranh ngày càng đi vào nguy hiểm, và ngày càng đi vào bế tắc, càng không có lợi cho nhân dân Việt Nam… điều này thể hiện trong sự phá sản của các nghị quyết 11, 12 của Trung ương Việt Nam. Nói tóm lại đánh cũng khó mà hòa cũng khó. Thôi thì đành đánh thêm nữa. Đó là cái thế lúng túng của Trung ương Việt Nam trong vấn đề trung tâm, cơ bản nhất, nóng hổi nhất ở Việt Nam”.
Về phát triển kinh tế, tài liệu viết: “Rõ ràng là chúng ta đã phạm sai lầm là đã không coi trọng đúng mức việc xây dựng vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp. Chúng ta đã đặc biệt chú trọng hợp tác hóa trước khi có điều kiện cần thiết cho việc đó. Việc hợp tác hóa không có cơ sở vật chất và kỹ thuật cần thiết cho nó không phải là một sáng tạo, mà là một sai lầm xuyên tạc chủ nghĩa Mác- Lê Nin. Sai lầm đó cộng với sai lầm trong chính sách thu mua, giá cả, cộng với việc quản lý thiếu kinh nghiệm do không đào tạo kịp cán bộ đã tạo cho nông dân thiếu phấn khởi sản xuất,… Đại hội III của chúng ta đã đặt vấn đề phát triển nông nghiệp là tiền đề cho công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đôi quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp ở đây được đặt đầu lộn xuống đất” (33).
Thực sự, các nội dung trong tài liệu này cho thấy sự bất đồng chính kiến trong Đảng chứ không thể minh chứng cho hành động “phản quốc”.
Ghi chép của một sỹ quan chỉ huy quân đội nhân dân Việt Nam do quân Mỹ thu được trên chiến trường cho thấy nội dung của một trong những tài liệu phổ biến về vụ Chống đảng như sau: “Những kẻ phản bội này gieo rắc mối bất hòa trong Đảng và làm suy yếu thống nhất trong quân đội chúng ta. Mục tiêu của những hành động lén lút của chúng rõ ràng là hình thành các phe nhóm chống Đảng ta, Đảng Lao động Việt Nam. Chúng cố ý phân tích sai, phê phán thiên lệch, và đánh giá có hại trong Bộ Chính trị để gây chia rẽ trong Lãnh đạo Đảng. Chúng đã tạo được lòng trung thành của một số cán bộ cao cấp của một số Bộ ngành, kể cả ở nước ngoài… Chúng cố ngăn cản cuộc phản công của chúng ta với quân thù. Chúng cố ngăn cản Đảng bộ Miền Nam triển khai Nghị quyết 9. Chúng cho rằng trong 20 năm qua, đường lối chủ trương của Đảng ta bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa giáo điều và kế hoạch chống Mỹ cứu nước là thiển cận.” (34).
Một tội danh khác mà Lê Đức Thọ kết cho những người trong vụ án này là hoạt động tình báo: “Có thể nói tổ chức tình báo này là một tổ chức chính trị nằm trong Đảng. Người hoạt động cho tổ chức đó lại là một số cán bộ, đảng viên. Nó là một tổ chức phản động, đồng thời lại là một mạng lưới tình báo, hai cái đó gần như không có ranh giới. Mọi tin tức nó đều lấy rất dễ, khác với mọi tình báo của bọn đế quốc (…) Còn đây là một tổ chức chính trị có cơ sở tư tưởng gồm một số là cán bộ, đảng viên nằm trong Đảng nên hoạt động tình báo rất dễ (…) Có thể nói yêu cầu của họ là tìm hiểu toàn bộ tình hình về chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước, tìm hiểu những quan hệ của Đảng ta với Đảng này, Đảng kia. Từ nghị quyết 9 cho đến nghị quyết 13 không còn cái nào là không lọt ra bên ngoài...” (35).
Lời buộc tội này cũng vu vơ từ nội dung đến chứng cớ nhưng trong bầu không khí chiến tranh, các tội danh gián điệp, phản bội, tiết lộ bí mật quân sự là đòn tâm lý quan trọng dồn sự thù hận, nghi ngại của nhân dân để cô lập những người vốn là đồng đội, là cấp trên họ.
Thông báo về vụ án cho biết: “Chúng (nhóm xét lại – chống đảng) tìm cách lấy cắp tài liệu mật của chúng ta. Chúng lợi dụng sự mất cảnh giác của cán bộ ta để thu thập thông tin mật về kế hoạch quân sự, đề án kinh tế, và về viện trợ quốc tế của các nước anh em cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (36).”
Tài liệu “Những hoạt động của một số thế lực phản động và thù địch”, của Trung ương Đảng phổ biến tháng Tư năm 1994 giải thích rằng vào tháng Bảy 1967, Hoàng Minh Chính và những người dính líu đến vụ chống Đảng bị phát hiện là tìm ra cách gửi biên bản mật về một cuộc hội đàm Việt-Trung ra nước ngoài, vì lí do này, bộ phận an ninh bắt Hoàng Minh Chính và ba người khác (37, 38). Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Chủ nhiệm ủy ban Thống nhất TW Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh trong cuộc thảo luận với Đại sứ Liên Xô Secbacob ngày 13/6/1967 cũng bàn về qui mô viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam (39). Nguồn tài liệu từ Đông Đức cho thấy nguồn tin từ Việt Nam đã cho Liên Xô biết về tiến trình đàm phán Trung Quốc – Việt Nam (40).
Trần Quỳnh trợ lý của Lê Duẩn kể về nội tình lúc đó: “Tình báo của Trung Quốc cũng như của Liên Xô đầy dẫy khắp nơi. Ngoài ra nhiều đảng viên không làm tình báo cho Trung Quốc và Liên Xô vô tình, vì tình cảm của mình mà lộ ra cho biết việc nhà của Đảng ta. Mạng lưới tình báo ấy có hiệu quả đến nỗi những cuộc họp của Bộ chính trị ở số 4 Nguyễn Cảnh Chân diễn ra thì trong ngày tin tức về nội dung cuộc họp đã đến tai Liên Xô và Trung Quốc. Nếu là vấn đề quan trọng thì trong ngày trên bàn làm việc của lãnh đạo mỗi nước đều có báo cáo” (41).
Tuy những người quan hệ mật thiết với Trung Quốc ở Việt Nam cũng thường xuyên trao đổi các thông tin về quan hệ Việt Nam Liên Xô cho Trung Quốc nhưng tội trạng này chỉ nhắm vào những người cung cấp thông tin về Trung Quốc cho Liên Xô.
Trong điều kiện Liên Xô đang đẩy mạnh viện trợ quân sự cho Việt Nam, theo báo cáo của sứ quán Liên Xô tại Hà Nội cuối năm 1967, có tới 1.165 chuyên gia quân sự của Liên Xô tại Việt Nam có trách nhiệm bảo trì các loại vũ khí hiện đại. Ngoài việc vận hành máy bay, tên lửa, còn có một nhóm đặc biệt chuyên nghiên cứu và thu thập mẫu vũ khí của Mỹ và đánh giá hiệu quả vũ khí của Liên Xô. Từ tháng 5 năm 1965 đến đầu năm 1967, các tình báo viên kỹ thuật này đã gửi về Liên Xô 700 mẫu trang thiết bị quân sự Mỹ và đưa ra nhiều phương án cải tiến trang bị của Liên Xô cho phù hợp với vũ khí của đối thủ (42).
Các hoạt động trên không thể không dựa trên sự phối hợp chặt chẽ của các đồng nghiệp Việt Nam, nhất là những chuyên gia kỹ thuật, sỹ quan được đào tạo từ Liên Xô. Vì vậy, không khó khăn để thu thập chứng cứ qui kết tội “liên hệ, cung cấp thông tin quân sự bí mật cho nước ngoài” cho các đối tượng này.
Việt Nam phải dựa hẳn vào các nguồn cung cấp từ bên ngoài cho cả hoạt động kinh tế lẫn quốc phòng, việc trao đổi thông tin về tình hình viện trợ với các đồng minh thân cận là điều thực sự bình thường. Ngay cả việc trao đổi thông tin tình báo chiến trường cũng là nghĩa vụ giữa các đồng minh.
Trần Quỳnh kể lại lý do đợt đàn áp này như một chiến dịch chống lại âm mưu của những người thân Liên Xô đang đào tạo tại Liên Xô định thay đổi lãnh đạo của Đảng với mục tiêu đưa Võ Nguyên Giáp lên:
“Không tán thành đường lối chống xét lại của Đảng ta, một số cán bộ cao cấp và trung cấp theo học ở trường Đảng cao cấp Liên Xô và trường quân sự cao cấp Liên Xô bàn kế hoạch chống lại đường lối của Đảng. Họ lập một nhóm vận động thành lập một tổ chức lấy việc thay đổi Bộ chính trị làm mục tiêu. Họ nhắm vào những người không đồng tình với Nghị quyết 9, trước hết là những sĩ quan cao cấp trong quân đội và những ủy viên trong Trung ương. Trong tổ chức đó có Đặng Kim Giang, Lê Liêm. Theo lời khai của Đặng Kim Giang thì linh hồn của tổ chức là Võ Nguyên Giáp. Họ liên lạc với Đại sứ Liên Xô hồi đó là Secbacốp, một sĩ quan tình báo hướng dẫn họ. Khi nghe Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn báo cáo về vai trò của Võ Nguyên Giáp cho tổ chức chống Đảng này, Lê Duẩn nói trước đây Giáp là người không đáng tin cậy lắm tuy được Bác Hồ rất cưng vì khéo nịnh” (43).
Theo lời kể này, thì hai nhân vật tổ chức chiến dịch đàn áp là Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn đã báo cáo với Lê Duẩn nội dung vụ án như sau: kẻ thủ mưu chính là Võ Nguyên Giáp được Hồ Chí Minh che chở, lực lượng lật đổ sẽ từ bên ngòai vào do tình báo Liên Xô xúi dục, thông qua tay trong là cán bộ quân đội cao cấp Việt Nam. Điều đáng chú ý nhất, theo lập luận của Thọ và Hoàn thì mục tiêu chính của âm mưu này là dành quyền hành của Lê Duẩn, do Liên Xô (đồng minh thân cận mà Duẩn muốn dựa vào) hỗ trợ. Liên Xô muốn lật đổ Duẩn thay bằng Giáp. Vì vậy mọi hành động đàn áp của họ đều nhằm bảo vệ quyền lực cho Lê Duẩn. Muốn xử lý vụ này tất phải đánh từ trên đánh xuống, chí ít cũng phải bao vây cô lập sự hỗ trợ của cấp trên và từ bên ngoài.
Lập luận này rất thiếu căn cứ. Tất cả những nhân chứng, vật chứng đều ở nước ngoài, căn cứ chính là các “lời khai” do cán bộ điều tra chuẩn bị sẵn. Tuy nhiên đúng lúc Lê Duẩn đang rối bời trong Chiến dịch Tổng tiến công diễn ra bất lợi, trong tâm lý nghi ngại, bất đồng sẵn có của Lê Duẩn với tư tưởng xét lại của Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp, trong khi biết rằng cả Liên Xô và Trung Quốc không ai thực sự ưa mình, Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn không phải thuyết phục nhiều cũng được Lê Duẩn giao cho toàn quyền hành động. Vũ Thư Hiên trong hồi ký cũng cho rằng Lê Đức Thọ đã lái Lê Duẩn đi chệch hướng với câu chuyện về âm mưu của Liên Xô (44 – trang 297).
(Còn tiếp)
—-
Chú thích:
24. Vũ Kỳ. Bác Hồ với Tết Mậu Thân năm ấy. Văn Nghệ tết Mậu Dần 1998.
25. Bài nói chuyện của nhà văn Sơn Tùng ngày 11/4/2001 tại trường Quản Lý Giáo dục của Bộ Giáo dục – đào tạo.
26. Vũ Kỳ. Bác Hồ với Tết Mậu Thân năm ấy. Văn Nghệ tết Mậu Dần 1998.
27. Vũ Kỳ. Bác Hồ với Tết Mậu Thân năm ấy. Văn Nghệ tết Mậu Dần 1998.
28. Lê Trọng Nghĩa. Hồi kí chưa công bố.
29. Lê Trọng Nghĩa. Hồi kí chưa công bố.
30. Biên niên sự kiện lịch sử lực lượng an ninh nhân dân 1954-1975. NXB Công an Nhân dân. Hà Nội. 1997.
31. Lê Trọng Nghĩa. Hồi kí chưa công bố.
32. Đồng chí Lê Đức Thọ Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Thông báo với cán bộ cao, trung cấp về tình hình nhóm chống Đảng chiều 17/2/1968.
33. Đồng chí Lê Đức Thọ Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Thông báo với cán bộ cao, trung cấp về tình hình nhóm chống Đảng chiều 17/2/1968.
34. “Allegd Coup d’Etat plot in Hanoi: 1967, December 1967” Folder 20, Box 1, DP: Unit 06, VA. Đoạn trích trong so tay của một trung đội trưởne tên là Trường thuộc đại đội 11, tiểu đoàn 30, Trung đoàn Thủ Đô, QĐNDVN, ghi lại nội dung cuộc họp của Trường tại Hà Nội 21/12/.
35. Nicholas V. Riasanovsky, A History of Russia, Oxford: Oxford University Press, 2005, 530-1
36. “Allegd Coup d’Etat plot in Hanoi: 1967, December 1967” Folder 20, Box 1, DP: Unit 06, VA. Đoạn trích trong so tay của một trung đội trưởne tên là Trường thuộc đại đội 11, tiểu đoàn 30, Trung đoàn Thủ Đô, QĐNDVN, ghi lại nội dung cuộc họp của Trường tại Hà Nội 21/12/.
37. Sophie Quinn Judge. The Ideological Debate in the DRV and the Significance of the Anti Party Affair, 1967-1968. Journal of Cold War History 5, issue 4. 11-12/2005. Cuộc đấu tranh hệ tư tưởng ngay trong lòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà & ý nghĩa của vụ chống Đảng 1967- 1968. Duy Tân Trẻ dịch. © Taylor & Francis. Bản tiếng Việt đăng trên talawas.
38. Judy Stowe, “Revisionisme” au Vietnam. Communisme, no. 65-66 2001.
39. Liên Hằng T. Nguyễn. The war politburo: North Vietnam’s Diplomatic and Political Roard to the Tết Offensive.
40. Gossheim, “Revisionism in the Democratic Republic of Vietnam” 451-452.
41. Hồi ký Trần Quỳnh: Những Kỷ niệm về Lê Duẩn (http://danchuonline.multiply.com/journal/item/47).
42. Ilya V. Gaiduk Liên bang Xô Viết và chiến tranh Việt Nam.
43. Hồi ký Trần Quỳnh: Những Kỷ niệm về Lê Duẩn (http://danchuonline.multiply.com/journal/item/47).
44. Vũ Thư Hiên. Đêm giữa ban ngày; hồi ký chính trị của một người không làm chính trị Westminster, CA Văn nghệ 1997.

* Xem: Chuyện Mậu Thân 68′ và cung đình cộng sản VN (1)

MINH VÕ* SƠN TÙNG

SƠN TÙNG và bài nói về Hồ Chí Minh

Ngày 11-4-2001, tại trường Cán Bộ Quản Lý Giáo Dục Hà Nội đã diễn ra một buổi nói chuyện về nhiều vấn đề của đảng cộng sản hiện nay, đặc biệt là về lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Diễn giả là nhà văn cũng là cán bộ đảng, Sơn Tùng, người được mệnh danh là nhà Hồ Chí Minh học theo hàm nghĩa chuyên viên nghiên cứu về Hồ Chí Minh.
Sơn Tùng là tác giả cuốn Búp Sen Xanh trong đó có vài điểm đề cập đến nguồn cỗi của Hồ Chí Minh. Tác phẩm này từng một thời bị nhà cầm quyền Cộng Sản và nhật báo Nhân Dân(1) của Đảng phê phán gay gắt, cho rằng dám ám chỉ xa xôi Hồ Chí Minh đã có một nguồn cỗi không được trong trắng.
Trong câu chuyện dài gần hai tiếng đồng hồ, Sơn Tùng cố chứng minh một điều chủ yếu thuộc con người Hồ Chí Minh là lòng yêu nước. Theo Sơn Tùng, Hồ Chí Minh là người ái quốc hơn là người Cộng Sản.
Diễn giả mở đầu câu chuyện bằng sự đề cập tới tình trạng sa sút phẩm cách của cán bộ đảng viên thuộc hàng ngũ lãnh đạo Đảng: "Từ một phần tư thế kỷ nay, Đảng ta sa sút xuống đến mức không tưởng tượng nổi, so với trước đây nhân cách những người cộng sản không còn, nhân cách không còn vì nó tham nhũng đến như thế.”
Tuy nhiên, Sơn Tùng lập tức xác định: "Đảng thì vẫn sáng chói. Nhất là bác Hồ. Vì ngay bây giờ đây, ở đại học tổng hợp có cả đoàn sinh viên do 3 giáo sư nổi tiếng ở Washington dẫn đầu sang nước ta để nghiên cứu về bác Hồ…đoàn đã đi Tân Trào, Pác Bó về.”
Sơn Tùng không nêu chứng cớ về sự sáng chói của Đảng trong tình trạng sa sút là những điểm nào, nhưng chứng cớ về sự sáng chói của Hồ Chí Minh thì rõ ràng không đủ sức thuyết phục khi chỉ là sự kiện có 3 giáo sư và một số sinh viên Mỹ tới Việt Nam tìm hiểu về nhân vật này.
Diễn giả không trưng dẫn thêm chứng cớ khác mà nhắc lại một ý kiến phê phán đã có đối với những điều diễn giả từng trình bày về lãnh tụ: "Tôi nói bác Hồ sinh ra trong một gia đình nhà quan….(thì người ta) nói tôi lợi dụng bác Hồ để hạ thấp bác Hồ, nói bác Hồ có người yêu là hạ thấp bác Hồ, nói bác Hồ thành phần bóc lột sinh trong nhà quan là hạ thấp bác Hồ…”
Theo diễn giả, chính việc nghiên cứu tận nguồn gốc của lãnh tụ, để đưa ra những sự kiện chính xác như không xuất thân từ giới vô sản hay công nhân mà từ dòng dõi khoa bảng, trí thức đã giúp có một cơ sở vững chắc cho việc tìm hiểu con người và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Dựa trên quan điểm này, diễn giả lui về với những chi tiết từ thuở Hồ Chí Minh mới chào đời và nói năm sinh chính xác của Hồ Chí Minh là 1891 chứ không phải 1890.
Sơn Tùng quả quyết: "Bây giờ nói bác sinh năm 1890, nhưng tôi nghiên cứu tử vi của bác thì bác sinh năm tân mão, tức 1891.” (2)
Diễn giả cho biết vào năm 1950, chính diễn giả được gặp Nguyễn Tất Đạt (tức Nguyễn Sinh Khiêm), anh ruột của Hồ Chí Minh chỉ khoảng mấy tháng trước khi Nguyễn Tất Đạt chết và đã được Nguyễn Tất Đạt giao cho cuốn Tất Đạt Tự Truyện trong đó có ghi 3 bài thơ của người em ruột là Nguyễn Tất Thành sáng tác khi mới năm tuổi.
Diễn giả đã giới thiệu nguyên văn ba bài thơ.
 
Bài I:
Núi cõng con đưòng mòn
Cha thì cõng theo con
Núi nằm ì một chỗ
Cha đi cúi lom khom
Đường bám trên lưng núi
Con tập chạy lon ton
Cha siêng hơn hòn núi
Con đường lười hơn con.
 

Bài II:
Biển là ao lớn
Thuyền là con bò
Bò ăn gió no
Lội trên mặt nước
Em nhìn thấy trưóc
Anh trông thấy sau
Ta lớn mau mau
Vượt qua ao lớn.
 

Bài III:
Kìa ba ông lão bé con con
Biết có tình gì với nước non
Trương mắt làm chi ngồi mãi đó!
 
Diễn giả cho biết Nguyễn Tất Đạt ghi lại những bài thơ này theo trí nhớ nên không dám chắc có hoàn toàn chính xác không. Tuy nhiên, Nguyễn Tất Đạt tâm sự với diễn giả về bài thơ thứ hai như sau: "Cái khẩu khí ấy là cái ứng mệnh nên suốt đời của chú đi hết nơi này nơi khác, năm châu bốn biển, còn bác thì chẳng thấy gì, bác cứ yên vị bác sống trong nước như thế này.”
Về bài thơ thứ ba, Nguyễn Tất Đạt kể lại cho diễn giả nghe về trường hợp được sáng tác.
Bữa đó, Nguyễn Tất Thành theo cha đến chơi nhà Hoàng Cao Khải, đang mang chức Quận Cộng và được triều đình Huế phong Vương vì có công dẹp loạn. Thành thấy các quan làm thơ thì chê dở nên bị Hoàng Cao Khải bắt ứng khẩu vịnh tượng ba ông phỗng đang trưng bày ở đó.
Dĩ nhiên một đứa trẻ mới năm tuổi mà có thể ứng khẩu tức khắc những vần thơ như thế chắc chắn phải là một thần đồng, một thiên tài. Nhưng điểm chủ yếu mà Sơn Tùng muốn nêu lên là nguồn gốc của Hồ Chí Minh và môi trường sống ở tuổi ấu thơ.
Ngoài mấy bài thơ đó, diễn giả còn nêu thêm nhiều sự kiện cho thấy ngay từ nhỏ Hồ Chí Minh đã chịu ảnh hưởng rất nặng của giới sĩ phu Việt Nam theo Nho học và lên tiếng chống lại những đảng viên quá khích vẫn thường kết án các vua chúa triều đình nhà Nguyễn.
Diễn giả nêu mấy câu thơ của vua Thành Thái để bênh vực vị vua này:
Nhân dân nô lệ từng đoàn
Vui chi bệ ngọc ngai vàng riêng ta…
Và:
Võ võ văn văn y cẩm bào
Trẫm vi thiên tử độc giáng lao
Tam bôi hoàng tửu quần lệ huyết
Nhất trản  thanh trà bách tính cao
Sau khi giải nghĩa mấy vần thơ chữ Hán, Sơn Tùng nêu ý kiến: "Một ông vua ngồi trong hoàng cung, ăn ngon mặc đẹp mà thấy cái đau xót vì nhân dân đau khổ, nói nôm na như vậy, thế thì ta không học, thì học ai?”
Sơn Tùng còn kể về tương quan mật thiết giữa phó bảng Nguyễn Sinh Huy tức cha của Hồ Chí Minh với Cao Xuân Dục là một nhân vật nổi tiếng trong giới sĩ phu thuở đó.
Theo diễn giả, Cao Xuân Dục từng giúp đỡ rất nhiều và có ảnh hưởng lớn với gia đình phó bảng Huy. Diễn giả kể thêm một tin đồn cho rằng Cao Xuân Dục với Hoàng Cao Khải là hai anh em cùng cha khác mẹ: "Sở dĩ  họ là Hoàng Cao vì họ Hoàng không có người tài, Cao là (họ) đi "xin giống”. Muốn có người tài, họ Hoàng mời một ông thầy họ Cao về dậy học trong nhà, lại bàn với vợ "xin giống”. Ông thầy họ Cao này chính là bố ông Cao Xuân Dục. Sinh ra Khải mới để họ là Hoàng Cao…Hai anh em cũng biết ngầm với nhau như thế…”
Việc nhắc lại tin đồn này chỉ nhắm đề cao trí thông minh của Cao Xuân Dục là người, theo diễn giả, có tương quan mật thiết với gia đình phó bảng Huy tức là có ảnh hưởng trực tiếp tới tuổi thơ của Nguyễn Tất Thành.
Dựa trên những sự kiện đó, Sơn Tùng xác quyết: "Bác Hồ sinh ra từ cái chiếu quan trường.”
 Xác quyết này chính là điều kiện cần thiết chứng minh cho cái điểm chủ yếu mà diễn giả muốn nêu lên về con người Hồ Chí Minh: “…bác Hồ là con đẻ của Việt Nam, còn Mác-Lênin có đến với Bác là một cái vô cùng quan trọng, nhưng là một mảng cấu thành thứ hai, không thể nào là nền tảng được”.
Sơn Tùng mượn những chuyện được truyền kể trong dân gian hoặc có thể được góp nhặt theo một cách nào đó để chứng minh nguồn cỗi Hồ Chí Minh gắn bó chặt chẽ với truyền thống yêu nước hơn là tinh thần vô sản quốc tế, dù Hồ Chí Minh chọn chủ nghĩa Cộng Sản làm lý tưởng đấu tranh.
Theo hướng góp nhặt này, có lúc, diễn giả còn nói đến chuyện Nguyễn Sinh Huy (tức Nguyễn Sinh Sắc) bị tuyệt tự, vì hai người con trai là Nguyễn Tất Thành (tức Hồ Chí Minh) và Nguyễn Tất Đạt (tức Nguyễn Sinh Khiêm) đều không có con. Còn bà Thanh tức chị ruột Hồ Chí Minh thì diễn giả cho biết "sống bằng nghề bắt mạch kê đơn, bốc thuốc”.
Diễn giả tỏ vẻ khó hiểu về lý do lâm cảnh ngộ này của gia đình Nguyễn Sinh Huy: “Ông Khiêm xem mồ, xem mả, xem hướng làm nhà, tức là thầy địa lý phong thủy mà sống. Cả gia đình này không hiểu vì sao mà thế. Đến bác Hồ thì bác không lấy vợ để giữ cho trọn vẹn cuộc đời của mình cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đến khi giành được độc lập, thì bác trẻ chưa qua, già chưa tới, lấy vợ thì không dám lấy, nên bác không có gia đình”.
Cũng nhân đó, diễn giả đã nhắc tới một tin đồn với hàm ý bác bỏ: “Nhưng bây giờ lại có rất nhiều điều tiếng: Ông Nông Đức Mạnh là con cụ Hồ, tức là con cụ Hồ mang đầy những bi kịch, khủng hoảng thời đại của dân tộc.”
Trong câu chuyện dài gần hai tiếng đồng hồ, Sơn Tùng đã làm một điều lạ thường trong dòng sinh hoạt của Cộng Sản Việt Nam là công khai nhắc lại nhiều tin đồn kể cả những tin đồn thuộc loại cấm ngặt không được nhắc tới.
Sơn Tùng cũng cố gắng vẽ một bức chân dung Hồ Chí Minh với một số màu sắc khác cả về dĩ vãng lẫn xu hướng lý tưởng khi xác quyết chất yêu nước lớn hơn chất Cộng Sản nơi con người Hồ Chí Minh.
Sơn Tùng còn có vẻ muốn gạt Hồ Chí Minh khỏi phạm vi trách nhiệm về mọi tai họa trong đời sống Việt Nam, khi nhắc lại một số sự kiện phản ảnh sinh hoạt nội bộ Đảng từ thập niên 30 tới thập niên 50: "…chính cương vắn tắt của bác Hồ bị bỏ. Tháng 10 năm 1930 trung ương họp lần đầu, (diễn giả nói lầm là họp đại hội I.) lấy luận cương chính trị của Trần Phú làm đường lối. Bác bị đẩy vào bên trong…cho đến 1951, đại hội 2 bác lại bị cái "thiểu số phục tùng đa số", lấy "tư tưởng Mao" vào điều lệ… Đến 1951 cụ Hồ chỉ còn là chủ tịch ban chấp hành. Mà chủ tịch ban chấp hành thì khác chủ tịch đảng.” (3)
Diễn giả còn muốn người nghe ngầm hiểu là đã có lúc Hồ Chí Minh bị người xung quanh mưu toan ám hại bằng cách kéo bí thư riêng của Hồ Chí Minh là Vũ Kỳ ra làm chứng cho diễn giả kể lại một câu chuyện cũ xảy ra nhân dịp Hồ Chí Minh từ Trung Quốc trở về để chuẩn bị tổng tấn công Tết Mậu Thân.
Sơn Tùng kể: "Trên máy bay chỉ có bác, ông Vũ Kỳ và người lái máy bay chuyên cơ từ Trung Quốc về. Lúc đó đã báo cho bộ đội phòng không từ giờ này…đến giờ này…trên bầu trời nước ta từ hướng này…phương vị này…tuyệt đối không nổ súng. Thời đó đang có chiến tranh, vào giờ đó là xuất hiện máy bay của ta. Khi máy bay về tới vùng trời Hà Nội,  sân bay Nội Bài khi đó là sân bay quân sự nên máy bay xuống sân bay Gia Lâm. Người lái báo cáo với anh Vũ Kỳ ngồi bên cạnh (bác ngồi phía sau hút thuốc):
"–Thưa anh, tín hiệu đường băng lệch 15 độ, bây giờ làm sao đây?
"– Quan sát lại đi, ông Vũ Kỳ nói.
"– Em là người lái mà lái máy bay cho bác thì em nhìn sao được?
"Máy bay lượn hai vòng không dám xuống, vì theo ông lái, nếu hạ cánh thì máy bay sẽ chạy đến Phố Nối, thì tan xương chứ.
"– Bây giờ làm thế nào? Quay trở lại không được, hết xăng rồi, phòng không nó bắn chết, mà xuống theo tín hiệu thì không an toàn…
"– Phải xuống theo trí nhớ thôi, cậu có xuống được không? Ông Kỳ nói.
"Cuối cùng xuống theo trí nhớ (của người lái), chứ không xuống theo tín hiệu, vì trên máy bay đã báo đi báo lại, nhưng dưới sân bay vẫn không thay đổi, trên bảo "tín hiệu lệch", dưới vẫn cứ để thế, không sửa.
"Vòng một vòng và máy bay hạ cánh an toàn, thở đánh phào một cái. Bác vẫn ngồi ung dung hút thuốc. Ở dưới sân bay vẫn yên tĩnh.”
Theo Sơn Tùng, lúc đó chỉ có ba người ra đón Hồ Chí Minh là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Phạm Văn Đồng.
Khi bài của Vũ Kỳ xuất hiện trên mấy tờ báo, Bộ Chính Trị gọi Vũ Kỳ lên hỏi. Vũ Kỳ nói: "Tôi chỉ kể chuyến đi của Bác mà hồi ký của tôi viết về Bác.”
Sơn Tùng kết luận: "Thế rồi "họ” cũng thôi. Cái khung cảnh đất nước ta mấy năm nay nó thế đấy. Bác Hồ là người cô đơn, đây là cô đơn trên quan điểm… từ Quốc Tế Cộng Sản cho đến khi bác qua đời, quan điểm của bác luôn bị cô đơn.”
Những chữ thiểu sốcô đơn được Sơn Tùng nhắc lại nhiều lần với hàm ý vì theo dân tộc chủ nghĩa nên Hồ Chí Minh gần như bị bao vây bởi những người xung quanh nặng tinh thần quốc tế chủ nghĩa. Hàm ý trên của Sơn Tùng hiện ra khá rõ trong phần cuối buổi nói chuyện khi Sơn Tùng nhắc lại một vài sự kiện cũ của Đảng.
Sơn Tùng kể trong kỳ đại hội I của Đảng họp năm 1935 tại Macao vắng mặt Hồ Chí Minh, "đồng chí Hà Huy Tập viết một văn bản đề nghị Quốc Tế Cộng Sản thi hành kỷ luật đồng chí Nguyễn Ái Quốc”, rồi Sơn Tùng nhắc một số việc trong kỳ họp ban chấp hành tháng 10-1930 như "bỏ cái tên đảng khi Bác thành lập, (5) bỏ cái điều lệ của Bác, bỏ tổng bí thư đầu tiên khi Bác thành lập đảng (CSVN) … là Trịnh Đình Cửu, một trí thức ở Hà Nội, tục gọi ông Cửu Trắng (vì đeo kính trắng)…”
Nội dung câu chuyện của Sơn Tùng không quan trọng bằng động cơ thúc đẩy và tạo điều kiện cho Sơn Tùng có một buổi nói chuyện mang tính chính thức như vậy.
Tuy nhiên, đó là chuyện nằm ngoài phạm vi tìm hiểu về con người Hồ Chí Minh.
Dừng lại trong phạm vi này, những điểm Sơn Tùng nêu ra về Hồ Chí Minh thực ra cũng không có gì mới lạ ngoài tính chất chứng tỏ đang có một ý hướng làm mới con người Hồ Chí Minh tại Việt Nam. Đó là một Hồ Chí Minh yêu nước thương dân nhưng bị cô đơn giữa một đám đông quá nghiêng theo chủ nghĩa Cộng Sản nên luôn nằm ở thế thiểu số không thể làm đúng theo ý nguyện phụng sự dân tộc của mình.
Nhưng, dụng tâm làm mới sẽ đưa mọi người tới gần sự thực hay lại đẩy sự thực vào một cõi mịt mù hơn?
 
CHÚ THÍCH
CHƯƠNG 34
(01) Khoảng đầu thập kỷ 90, sử gia Trần Quốc Vượng ở Hà Nội trong bài báo Thật mà chưa chắc là thật  nói về ông Hồ Sỹ Tạo hơi khác giáo sư Cao Thế Dung. Trần Quốc Vượng bảo dân ở vùng quê quán Hồ Chí Minh truyền kể rằng Nguyễn Sinh Sắc là con ngoại hôn của Hồ Sỹ Tạo với cô Đèn (Hà Thị Hy). Không thấy nói cha của ông Sắc là Nguyễn Sinh Nhậm có biết chuyện này không. Nhưng Đào Bình Giang trong Phụ Nữ Diễn Đàn số 115, tháng 8-1993, dẫn cuốn sách cổ Quốc Triều Đăng Khoa Lục của Cao Xuân Dục để phủ nhận. Theo sách này, tiến sĩ Hồ Sỹ Tảo, sinh năm 1869, kém Nguyễn Sinh Sắc (sinh năm 1862) bảy tuổi, không thể nào lại là cha của Nguyễn Sinh Sắc được. Cao Thế Dung ghi Hồ Sỹ Tảo còn Trần Quốc Vượng ghi Hồ Sỹ Tạo, nhưng Cao Thế Dung không cho biết là  tiến sĩ  thời nào.
Trong cuốn Chân Tướng Hồ Chí Minh, Cao Thế Dung ghi Hồ Chí Minh sinh năm Tân Mão (1891), có tên thánh là Gio-an Bao Ti Xi Ta, cha là Hồ Sỹ Tảo chứ không phải Nguyễn Sinh Huy. Cao Thế Dung trích các tác giả Hoàng Văn Chí, Hồng Liên Lê Xuân Giáo cho biết Hồ Chí Minh là con ông Hồ Sỹ Tảo (do tư tình hay hãm hiếp trong lúc say rượu ?) với bà Hoàng Thị Loan, vợ ông Cử Sắc. Từ 7, 8 tuổi Hồ Chí Minh đã biết nguồn gốc mình. Phải chăng vì vậy mà ông không có vẻ hiếu với ông cử Sắc và cũng chẳng có tình nghĩa gì với anh chị là ông Nguyễn Tất Đạt hay Nguyễn Sinh Khiêm và bà Nguyễn Thị Thanh?
(02)  Xin đọc Chân Tướng Hồ Chí Minh của Cao Thế Dung.
(03)  Ngụ ý không có quyền như trước kia, khi là Chủ Tịch Đảng.
(04) Khi mới thành lập tên là đảng Cộng Sản Việt Nam, sau QT3 bắt đổi thành ra Đảng Cộng Sản Đông Dương, còn ngày sinh của đảng ban đầu ghi 6-1-30,  QT3 cũng bắt đổi thành 3-2-30.


HỒ CHÍ MINH - Nhận Định Tổng Hợp
* Chương 34*

  

No comments: