TP - Tân Nam tử Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) chủ bút báo Đăng Cổ tùng báo có ba bà vợ với 15 người con. Nhưng gắn bó với ông suốt 36 năm, chịu đựng biết bao khốn khó, chia sẻ với ông những niềm vui và tủi cực… chỉ có bà. Sách vở viết về ông rất nhiều, nhưng hầu như không có mấy dòng viết về bà.
Học giả Nguyễn Văn Vĩnh
Học giả Nguyễn Văn Vĩnh.
Ông như con ngựa (tuổi Nhâm Ngọ), phi trên thảo nguyên, tung hoành, ngang dọc. Còn bà giữ bếp lửa trong chiếc lều phía sau…
Bà Đinh Thị Tính, quê quán làng Phượng Dực, Phú Xuyên, (nay thuộc Hà Nội) là người vợ tao khang, tấm cám của học giả Nguyễn Văn Vĩnh. Lớn hơn chồng một tuổi, bà tuổi Tân Tỵ. Tử vi phán: nữ mạng Tân tỵ cuộc đời tân toan âu lo, không được sung túc vào trung vận. Tình duyên buồn bực, lao đao.
Tử vi cũng báo hậu vận an nhàn, hợp duyên với Nhâm Ngọ… Chẳng biết hư thực ra sao, nhưng lớn lên, năm 1900, vào tuổi 19, bà lấy chồng.
Chồng bà làm thông phán. Cưới xong, hai vợ chồng về Hải Phòng sinh sống. Một căn nhà nhỏ gọn ghẽ ở phố Cầu Đất là tổ ấm của cặp vợ chồng công chức.
Năm 1901 sinh con trai đầu lòng, đặt tên là Hải. Mấy năm sau, Nguyễn Văn Vĩnh chuyển về tòa công sứ Bắc Giang, bà lại đi theo. Tại đây, năm 1904 lại thêm con trai thứ hai, đặt tên Nguyễn Giang để kỷ niệm nơi lấy giấy khai sinh.
Chồng bà là người thông minh, siêng năng công việc, rất có thiện cảm với thượng cấp, được sủng ái. Nên khi Công sứ Bắc Giang Hauser được bổ nhiệm làm Đốc lý Hà Nội, ông đã đưa cả vợ chồng bà Vĩnh về Hà Nội.
Sau nhiều năm tần tảo, dành dụm từ Hải Phòng, Bắc Giang được ít tiền, bà Vĩnh đã mua được một ngôi nhà nhỏ ở số nhà 39 phố Mã Mây. Nhà có hai tầng, bên dưới dùng làm nơi sinh hoạt cho gia đình. Tầng trên là phòng làm việc ông Vĩnh. Một gian gác nhỏ để tiếp khách
Ngôi nhà phố Mã Mây đã gắn bó với ông bà Vĩnh 15 năm, kể từ khi ông được theo Công sứ Bắc Giang về Hà Nội. Cũng ngôi nhà này, đã chứng kiến bao nhiêu niềm vui, mỗi khi bà Vĩnh khai hoa. Và theo lẽ tự nhiên vốn có tạo hoá ban phát cho con người, những người con của ông bà nối tiếp nhau ra đời:
Nguyễn Thị Loan, sinh năm 1907
Nguyễn Thị Nội , sinh năm 1910
Nguyễn Thị Vân, sinh năm 1913
Nguyễn Dương , sinh năm 1914
Nguyễn Phổ, sinh 1917
Nguyễn Kỳ, sinh 1918
Nguyễn Thị Mười, 1919
Nguyễn Dực, 1921
Nguyễn Hồ, sinh 1923.
Ông bà Vĩnh và các con
Ông bà Vĩnh và các con.
Những người con của bà, đều là nam thanh nữ tú. Trong đó Nguyễn Thị Vân xinh đẹp có năng khiếu âm nhạc, chơi dương cầm tài năng, đến nỗi có lần người Pháp đánh tiếng mai mối cho Vĩnh Thụy (tức Bảo Đại sau này).
Nguyễn Giang vừa là nhà thơ, vừa là họa sĩ, điêu khắc, có tên tuổi trong cuốn Thi nhân Việt Nam. Nguyễn Dực, có công lắp đặt hệ thống âm thanh cho Lễ tuyên ngôn Độc lập 2-9-1945 tại Ba Đình, rồi thành một trong những người mở đầu ngành phát thanh đất nước. Đặc biệt Nguyễn Phổ từng làm công tác tình báo, từng chịu đa truân…
Trọn 36 năm làm vợ của một công chức, rồi làm chủ những tờ báo, bà Vĩnh đã trải qua những niềm vui hãnh diện, tự hào. Nhưng thật trớ trêu, cuộc đời mang đến cho bà những khổ đau, vò xé và có những khi không tài nào đứng dậy được. Bà phụng thờ nhà chồng, trọn đạo làm vợ, làm mẹ.
Hơn hai chục năm, sinh nở 12 bận, nuôi con mình, con chồng, lần lượt tất cả hơn chục đứa, đứng mũi chịu sào, chèo chống, nuốt nhịn những nỗi cay đắng âm thầm. Ấy là hai lần ông Vĩnh lấy thêm vợ bé. Mà những người đến sau, đều tài năng trẻ đẹp hơn hẳn mình.
Ba trong bốn tố nữ của bà Vĩnh
Ba trong bốn tố nữ của bà Vĩnh.
Bà vẫn tìm được cách để sống chung, để không làm lỡ sự nghiệp của chồng. Ngần ấy năm, bà lẽo đẽo theo chồng đồng cam cộng khổ. Lúc ra Hải Phòng buôn bán, khi lên Bắc Giang heo hút gió rừng. Tất cả là vì chồng, vì sự nghiệp của ông mà bà đứng đằng sau làm hậu thuẫn.
Năm ông Vĩnh mất, bà vào tuổi 55, chẳng còn trẻ nhưng cũng chưa thể già. Lại một mình đưa con thuyền đi lên phía trước, khi bánh lái đã gãy!
Rồi cái đận, ông Vĩnh và các con Nguyễn Thị Nội, Nguyễn Thị Vân, Nguyễn Ngược Pháp (tức nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp, con riêng của chồng), Nguyễn Thị Loan nối tiếp nhau bỏ bà tìm về nơi vĩnh viễn, bà tan nát cõi lòng.
Trọn 10 năm (1932-1942), bà Vĩnh 5 lần chít khăn tang, một lần tang chồng, bốn lần tang con. Những vành khăn trắng buốt lạnh cứ chồng đè lên nhau, quặn thắt trên đầu người đàn bà khổ hạnh.
Kinh hoàng nhất là những ngày tháng năm 1936. Đúng là họa vô đơn chí. Đám tang ông Vĩnh ngày 8-5, thì chỉ 4 tháng sau, (tháng 9 năm 1936), giữa lúc mồ chưa xanh cỏ, đất chưa khép liền… thì người mua được số tài sản phát mại, đòi quyền sử dụng đất và ép gia đình bà phải chuyển ngay mộ đi, trả lại khuôn đất.
Đã đến lúc sa cơ thất thế, chẳng còn đường nào khác. Con cháu đành phải đào mộ lên để chuyển về quê. Mỗi nhát cuốc bập xuống mồ, như mũi dao khía vào trái tim bà.
Nhìn những bàn tay nhợt nhạt, run rẩy chuyển thi hài ông từ chiếc quan tài bằng kẽm, sang chiếc quan tài gỗ, bà như đứt từng khúc ruột, bởi như thế có khác chi ông Vĩnh bị chết hai lần?
Đất làng Phượng Dực thuộc vùng chiêm trũng. Ngôi mộ lúc mới hung táng, còn nằm trên mảnh đất khô khan. Mùa mưa úng lụt đã biến thành cái hồ mênh mông nước. Ông Vĩnh nằm chìm trong dòng nước của quê mình. Những ngày ấy, bạn hữu, gia đình có muốn thắp cho ông nén hương, cũng đành đứng từ xa bái vọng.
Câu ca “Sống ngâm da, chết ngâm xương” chỉ những vùng chiêm trũng, bây giờ vận vào ông… Hình ảnh ấy bà Vĩnh còn chôn chặt trong lòng….
Bà cũng chưa thể cắt nghĩa tại sao cuộc đời ông lại rất gần với nước? Ngày đầu tiên mua ngôi nhà Mã Mây, rất gần sóng nước sông Hồng. Lần chuyển đến ở số 25 Nguyễn Gia Thiều, thì lưng nhà quay về hồ Thiền Quang ngày đêm thì thầm tiếng sóng. Rồi chuyển đến nhà 13-15 Thụy Khuê, hướng bốn mùa sóng nước Tây Hồ. Cho đến lúc ông chết, là chết trên sông, chứ không phải một cái túp lều nào trên đất.
Cuối cùng khi về với cố hương, ông Vĩnh vẫn cứ chìm trong nước. Hóa ra số ông sống chết với nước?
Những tưởng đến ngày hòa bình, là yên hàn, gia đình được đoàn tụ. Ai ngờ hoàn cảnh thận phận mỗi người lại tạo nên cảnh chia lìa. Nguyễn Dương, Nguyễn Hải và mẹ con bà ba Suzanne và Nguyễn Hiến vào Nam, Nguyễn Phùng thì ở Pháp, kẻ đông người tây, tan đàn xẻ nghé.
Rồi 2 cú sét quất xuống gia đình năm 1955 cải cách ruộng đất: Nguyễn Dực con trai bà bị bắt suýt nữa bị tử hình, may được cứu thoát. Còn Nguyễn Phổ thì bị đi tù, với lời thị phi làm gián điệp nằm vùng phá hoại miền Bắc… Bà Vĩnh đã vào tuổi 74 xưa nay hiếm.
Bấy giờ ngoài Bắc chỉ có 4 người: Nguyễn Giang đã về nước, sống bằng vẽ tranh, Nguyễn Kỳ 37 tuổi, Nguyễn Thị Mười 36 tuổi, Nguyễn Hồ 32… mỗi người có thân phận riêng. Họ sống co mình lại. Bà Vĩnh như con chim sợ cây cong, lúc nào cũng thon thót giật mình.
Khốn khổ nhất là cái lần con trai Nguyễn Phổ bị đi tù, liên can đến vụ cháy nhà máy in Tiến Bộ năm 1955 (mà sau 23 năm, Nguyễn Phổ mới được giải oan, được trả lại quyền lợi, được phân nhà và tặng thưởng Huân chương kháng chiến).
Ngôi nhà số 25 Nguyễn Gia Thiều bị tịch thu, bà phải về ở nhà con trai Nguyễn Giang số 59 - Trần Quốc Toản. Sống chung với vợ chồng con trai được vừa 8 năm (1955-1963), thì tự nhiên nhà chức trách yêu cầu thu lại, vì ngôi nhà không đủ cơ sở pháp lý. Cũng may họ đổi cho hai căn hộ khác.
Một là căn hộ rộng 24m2 ở số 34 phố Lê Đại Hành, và một nhà khác ở 119 phố Triệu Việt Vương, có 2 buồng, rộng 36m2. Bà cụ già goá bụa, lúc ấy 82 tuổi, không thể sống một mình ở căn nhà 24m2, càng không thể về sống chung với vợ chồng Nguyễn Giang, bởi quá chật chội. Các con trai bà lại bàn nhau đưa mẹ về nhà Nguyễn Dực ở 43 Hàng Bài.
Khổ thay, ngôi nhà này lại là của bố vợ Nguyễn Dực cho con gái và con rể ở nhờ!
Năm 1964. Tiếng máy bay Mỹ bắt đầu gầm rú ở Vịnh Hạ Long, dư âm của một cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của Đế quốc Mỹ phát động, đang đến gần. Đâu đó người ta rục rịch bàn nhau câu chuyện sắp đi sơ tán.
Trong bối cảnh ấy, người vợ cả của học giả Nguyễn Văn Vĩnh, đành phải chia tay các con cháu, bỏ lại phía sau đất Hà thành, từng gắn bó bao nhiêu kỷ niệm, cả niềm vui và cay đắng, cả thiên đường và địa ngục, trở về quê chồng Phượng Dực (Hà Đông cũ) sinh sống, thoát khỏi những ánh mắt nhìn ghẻ lạnh của người đời.
Bà về đây sống với người con nuôi của chú ruột chồng, tên là Nguyễn Văn Vần. Đây là đất hương hoả từ đời các cụ để lại. Ông Vần đã giữ gìn, để bây giờ bà quả phụ học giả Nguyễn Văn Vĩnh mới có chốn nương thân.
Bà Vĩnh sống âm thầm như thế, đến năm 1965 thì qua đời, hưởng thọ 84 tuổi, không dám nghĩ tới ngày gặp lại người con bị oan sai mà tù tội. Bà Vĩnh cũng chẳng ngờ rằng, người con dâu của bà (vợ Nguyễn Phổ) phải vào tận miền nam sinh sống, rồi đến tuổi 62 còn xuống tóc tu ở tịnh xá Tòng Lâm, Sài Gòn, với pháp danh Trí Tuệ, tới chức Tỳ kheo.
Lúc còn sống bà từng chịu quá nhiều đàm tiếu. Người ta đồn thổi rằng Nguyễn Văn Vĩnh không làm tay sai cho Tây, làm sao có nhiều tiền tài, sản nghiệp lớn đến vậy? Ý nói ngôi nhà số 13-15 Thụy Khuê bên cạnh hồ Tây…
Thực ra ông Schneider, một công chức Pháp, từng công tác với Nguyễn Văn Vĩnh về làm báo. Sau 38 năm làm việc ở Việt Nam, năm 1918 ông đến tuổi về hưu. Vì cảm phục, yêu mến Nguyễn Văn Vĩnh, mà trước khi về Pháp, Schneider đã nhượng lại cho ông Vĩnh toàn bộ nhà in, cơ sở thiết bị và hai tờ báo (Trung Bắc tân văn và Học báo - tức Đông Dương tạp chí đã bị Toàn quyền Sarraut đóng cửa). Ông trở thành chủ nhà in, chủ nhiệm hai tờ báo nói trên.
Nhờ có vốn, ông Vĩnh tậu ngôi nhà 13 và 15 ở Thụy Khuê, hướng gió mát Tây hồ để cho vợ con sinh sống. Nhưng đến năm 1935 thì bị ngân hàng phát mại, hóa giá.
Bãi bể nương dâu, thời vận xoay vòng, cuối cùng nhà của ông chủ báo Đăng Cổ tùng báo, Đông Dương tạp chí… sau nay vẫn được chọn làm Tòa soạn một tờ báo ngành của nước ta.


Câu chuyện 18 năm trước của năm người con của Học giả Nguyễn Văn Vĩnh

Ngày 31/1/1995 tại Hà Nội, nhân dịp đón xuân mới, năm anh em ruột cùng nhau ngồi tâm sự, hồi tưởng lại những người anh ruột quá cố của mình là bác sỹ Nguyễn Hải; nhà thơ, nhà báo, nhà dịch thuật và là họa sỹ Nguyễn Giang. BBT chúng tôi xin được biên tập lại những ghi chép của buổi gặp tâm sự này, vừa để giới thiệu với các quý vị độc giả một cách khái quát về hai người con trai đầu của học giả Nguyễn Văn Vĩnh, vừa để tưởng nhớ đến những người đã khuất trong số năm con người của buổi tâm sự này. Đây cũng là một lối hành sử theo tập quán và đạo lý của người Việt từ lâu đời. Thường cứ đến cuối năm, giáp Tết, người ta hay hồi tưởng, nhớ đến những người thân đã mất. Cầu cho vong linh của các bậc tiên liệt, luôn được mát mẻ và linh thiêng!
130128_130128_5anhem
Năm người em của Nguyễn Giang chụp trong buổi gặp mặt năm 1995.

Thứ tự từ trái sang phải: Bùi Tường Trác (em rể, chồng của bà Nguyễn Thị Mười),

Nguyễn Kỳ, Nguyễn Phổ, Nguyễn Hồ và Nguyễn Dực.
Ông Nguyễn Giang sinh ngày 4/8/1904 tại tỉnh Bắc Giang, là con trai thứ hai của học giả Nguyễn Văn Vĩnh và cụ bà Đinh Thị Tính, năm đó cụ Vĩnh làm việc tại Tòa xứ Bắc Giang. Cũng như người con đầu, cụ Vĩnh lấy tên địa danh nơi mình đang sống và làm việc để đặt tên con. Năm 1901, cụ làm việc cho Tòa xứ Hải Phòng, nên người con đầu có tên là Nguyễn Hải (1901-1938). Năm 1906, cụ Vĩnh được chuyển về làm việc tại Tòa Đốc lý Hà Nội. Cụ bà Vĩnh lặn lội thu vén, mua được một ngôi nhà nhỏ trên phố Mã Mây. Tại đây, hai anh em Nguyễn Hải và Nguyễn Giang đã cùng nhau đi học vỡ lòng ở trường Trí Tri số 37 phố Hàng Quạt.
Cho đến năm 1923, Nguyễn Hải và Nguyễn Giang có thêm 8 người em nữa cùng ở tại ngôi nhà 34 (39)(1)phố Mã Mây. Từ năm 1918 đến năm 1921, hai anh em cùng nhau học tại trường Lít-xê Anbe-Sarô (Lycéc Albert Sarraut).
130128_130128_nguyenpho
Nguyễn Giang vẽ bút chì năm 1935. Bức họa người em trai Nguyễn Phổ.
Năm 1920, sau khi Nguyễn Văn Vĩnh dịch thành công một loạt các câu truyện hài kịch của Môlie (Molière) từ Pháp văn sang chữ Quốc ngữ, như: “Trưởng giả học làm sang”, “Người biển lận”, “Người bệnh tưởng”… Cụ thấm nhuần triết lý sống của các nhà văn hóa khai sáng châu Âu. Cụ bất bình sâu sắc với lối sống trưởng giả, hợm mình của loại người coi vật chất là nhất, coi danh vị là nhất, và cụ muốn quảng bá lối tư duy tiến bộ của các bậc thánh hiền. Nguyễn Văn Vĩnh đã quyết định tổ chức đóng và diễn để trình bày nội dung của các tác phẩm này trước công chúng, đồng thời quảng bá một loại hình nghệ thuật mới của Âu châu trước người dân Việt, đó là kịch nói. Cho đến lúc đó, đối với người Việt Nam cả hai nội dung là truyện hài kịch và kịch nói đều mới lạ.
Thật đáng tiếc, vì để thực hiện công việc này, cụ Vĩnh đã động viên các con trai lớn của mình cùng bố tham gia đóng các vai trong vở kịch để thể hiện tác phẩm, đồng thời mời thêm một vài người quen cùng tham gia. Anh Nguyễn Hải lúc này đã mười chín, đôi mươi, cụ Vĩnh đặt vào vai Cléonte trong vở kịch “Trưởng giả học làm sang”. Sắm vai nữ, cụ Vĩnh đã mượn một người con gái có tên Tửu.
Ảnh Nguyễn Hải chụp tại Paris năm 1930
Vở kịch được trình diễn ngay trên sân khấu Nhà hát lớn Hà Nội, một sân khấu quá sang trọng và dễ làm các diễn viên xúc động. Thật không ngờ, anh Nguyễn Hải và cô đào Tửu đã phải lòng nhau và yêu nhau thật. Mọi chuyện trở nên phiền toái và nan giải… Để thoát khỏi sự việc ngoài mong muốn này, hai cụ quyết định dồn tiền và đưa cả hai anh em Nguyễn Hải và Nguyễn Giang đi học xa… sang Pháp.    
Nguyễn Giang đã nhờ anh mà được đến Paris diễm lệ, mảnh đất, nơi đã làm thay đổi bao nhiêu bậc danh tài trong lịch sử…
Hai anh em Nguyễn Hải và Nguyễn Giang đều đỗ tú tài toàn phần. Nguyễn Hải đã thi và đỗ vào học tại Đại học Y khoa ở Paris. Riêng Nguyễn Giang, vì học ban A nên đã được học cả tiếng Latin và Hy Lạp, hình như anh Giang đã say mê văn chương từ đây. Nguyễn Giang quyết định theo học tự do và sống luôn tại “xóm” Mông-Mác (Mont Matre), vốn là nơi quy tụ nhiều sinh viên, học sinh du học của các nước khác nhau. Trong số những người bạn thân nổi tiếng của anh Giang, có họa sỹ  Anđrê Mácsan (André Marchand) người Pháp và Komatsu Kiyoshi người Nhật Bản(2). Nguyễn Giang đã sống và chịu ảnh hưởng lớn của môi trường này, sau này anh trở thành họa sỹ thực thụ. Trong gia đình đã chứng kiến: suốt cuộc đời họa sỹ của Nguyễn Giang, anh đã vẽ và có đến hàng trăm tác phẩm, cả bút sắt và cả tranh sơn dầu.
Năm 1930, khi Chính phủ thuộc địa đã thực sự mâu thuẫn và tìm cách loại trừ con người và ảnh hưởng của Nguyễn Văn Vĩnh ra khỏi đời sống chính trị xã hội, họ đã tịch thu cơ sở vật chất, bắt đóng cửa các tòa báo do cụ là chủ bút, các cơ sở xuất bản, cùng với giới tài phiệt Thực dân, họ dựng lên sự kiện vỡ nợ… Tất cả đều vì Nguyễn Văn Vĩnh đã không chấp nhận những chính sách và đường lối cai trị của Chính quyền Thực dân. Chính lúc này, cũng là lúc anh Nguyễn Hải đỗ bác sỹ và trở về Việt Nam. Việc trở về Việt Nam trong bối cảnh những khó khăn của gia đình ngày càng chồng chất, đã cản trở không ít những ước vọng của bác sỹ Nguyễn Hải trong việc hành nghề. Anh đã phải chấp nhận làm tạm tại một bệnh viện ở tỉnh Ninh Bình. Một năm sau, anh trở về Hà Nội và mở phòng khám tư tại số 6 phố Nam Ngư. Sau giai đoạn này, anh mắc bệnh lao. Đó là quãng thời gian vô cùng khó khăn đối với y học khi chưa có thuốc kháng sinh. Anh quyết định vào miền Nam với hy vọng được tĩnh dưỡng. Nhưng căn bệnh hiểm nghèo càng ngày càng hành hạ anh và anh đã qua đời tại Rạch Giá khi mới có 37 tuổi.
Cũng những khó khăn như người anh cả đã trải qua, anh Nguyễn Giang không còn hy vọng được sự trợ giúp của thày mẹ. Tuy vẫn ở lại Paris nhưng lại chưa có được mảnh bằng nào. Cụ bà Vĩnh đã gồng mình, khuyên con và cam kết sẽ trợ giúp tài chính cho anh Giang ở lại Pháp thêm 3 năm nữa, mục đích là để học và lấy được bằng cấp, khỏi lãng phí cả chục năm trời đã qua. Vốn bản tính khoáng đạt, thông minh không thiếu, chỉ trong ba năm, Nguyễn Giang đã đỗ cử nhân luật tại Paris.
Năm 1933, anh Nguyễn Giang trở lại Việt Nam. Gia đình lúc này đã dần rơi vào cảnh khánh kiệt. Cụ Vĩnh đang vật lộn với sự o ép điên cuồng của Chính quyền Thực dân. Liên tiếp các cuộc mặc cả về chính trị giữa Chính phủ và Nguyễn Văn Vĩnh kéo dài hết năm này sang năm khác. Những miếng ngon nức nở dành cho Nguyễn Văn Vĩnh cũng không làm lay chuyển được lập trường chính trị của cụ. Nào ghế Thượng thư, nào Bắc đẩu Bội tinh, nào sẽ được tháo nợ… Cụ bà Vĩnh vẫn với bản chất của người đàn bà hàng phố, vừa nghiến răng chịu đựng, vừa lao vào việc buôn bán kiếm từng hào, vẫn kiên cường nuôi dạy cả đàn con có đến quá cả tiểu đội.
Thật lạ, với hoàn cảnh nguy cấp như trên, nhưng anh Giang vẫn luôn lạc quan. Anh lạc quan đến mức kéo cả nhà hưởng ứng theo, nào vẽ tranh, nào làm thơ, nào tổ chức triển lãm… Năm 1934, anh Nguyễn Giang đã chọn trong cả trăm bức vẽ của mình ra 30 bức. Anh đóng khung trang trọng, anh xin phép cả nhà để mời khách đến giới thiệu và thưởng lãm. Không khí cả nhà tưng bừng, khách khen ngợi, đánh giá và tán thưởng hết lời… Làm cho không khí trong gia đình bớt được sự ngột ngạt, căng thẳng do Chính quyền gây ra. Họa sỹ Tô Ngọc Vân đã viết bài nhận xét Nguyễn Giang và đăng trên báo Nước Nam mới ngày 16/5/1935 (BBT.chúng tôi sẽ cho đăng bài viết này trong thời gian sớm nhất).
Cũng vào năm tháng cơ cực này của gia đình học giả Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Giang, lần đầu tiên, với sự giúp đỡ của người em ruột là Nguyễn Dương (1914-1967) đã cho xuất bản tập thơ “Trời xanh thẳm”. Tập thơ bao gồm các bài thơ do anh sáng tác theo thể Đường luật khi còn ở Pháp. Cuốn sách được minh họa bằng tranh vẽ của người bạn Pháp là họa sỹ André Marchand. Quan điểm của Nguyễn Giang là: vẽ tranh và làm thơ đều có những nguyên tắc giống nhau. Cả hai công việc này đều cần sự rung động của tâm hồn, đều cần không gian và những tiêu chí cụ thể. Hỡi ôi, Nguyễn Giang biết rất rõ rằng, tranh vẽ không nuôi được họa sỹ và thơ làm ra cũng chẳng nuôi nổi thi sỹ. Những năm tháng này anh vẫn phải sống nhờ mẹ nên cũng chưa dám lập gia đình!
Ngày 1/5/1936, ngày đại họa của gia đình học giả Nguyễn Văn Vĩnh. Suốt một thời gian dài, Chính quyền Thực dân đã mặc cả đi mặc cả lại với Nguyễn Văn Vĩnh. Họ muốn gì? Họ muốn Nguyễn Văn Vĩnh phải chấm dứt việc viết bài, chỉ cần chấm dứt việc viết bài là sẽ triệt tiêu được ảnh hưởng mang tính tư tưởng của Nguyễn Văn Vĩnh đối với xã hội, đối với những khuynh hướng đòi cải cách, đòi tự do, dân chủ và bình đẳng. Bất chấp những “phần thưởng”, những ưu ái của chính thể, cuối cùng, Nguyễn Văn Vĩnh đã chọn con đường sang Lào tìm vàng (theo sự “dàn xếp” của Chính phủ Thuộc địa). Cụ chọn con đường này, vì không muốn phản bội lại lý tưởng mình đã theo đuổi. Cụ Vĩnh từ biệt vợ, các con, cháu để đi vào nơi thâm sơn cùng cốc, đến với một loại hình “công việc” hoàn toàn xa lạ, nhưng trong lòng cụ vẫn hy vọng sẽ gặp may (Thông qua loạt bài phóng sự cuối cùng của ông viết từ Sê Pôn gửi về) và… sẽ được trở về để vẫn sẽ được cầm bút!
Sau cái đêm mưa gió não nùng trên dòng sông Sê Băng Hiêng ở miền Nam nước Lào, cụ đã không bao giờ trở lại. Sáng ngày 2 tháng 5 năm 1936, người ta tìm thấy Nguyễn Văn Vĩnh, một thân một mình, trên một con thuyền độc mộc lênh đênh giữa dòng nước, toàn thân đã tím đen… “Người ta” thông báo: “Ông chết vì sốt rét và kiết lỵ…!”
Nguyễn Văn Vĩnh ra đi trong cảnh nhà sa sút, sự nghiệp bị nghiền nát, tai tiếng về chuyện “vỡ nợ” làm cho những người thân không ngửng đầu lên được. Cụ bà Vĩnh quyết định, cử người sang Sê Pôn (Tchépone) để làm tang cho cụ ông, sau 3 năm sẽ cho cải táng và đưa cốt về quê là làng Phượng Vũ, xã Phượng Dực, huyện Thường Tín, phủ Hà Đông (nay là Phú Xuyên Hà Nội).
Vào cái ngày bi thương ấy, khi gia đình Nguyễn Văn Vĩnh đang lúng túng trước cái tin sét đánh, người em rể của học giả Nguyễn Văn Vĩnh là bác sỹ Trần Văn Lai (1894-1975)(3) đã đứng ra đề nghị xin được gánh vác việc tang lễ cho người anh vợ của mình. Bác sỹ Trần Văn Lai đã tìm đến Hội Tam điểm(4) và Hội Nhân quyền Hà Nội(5) kết hợp với Nhà tang lễ Louis Chức đưa ba người trong gia đình cụ Vĩnh sang Sê Pôn rước thi thể Nguyễn Văn Vĩnh về quàn tại trụ sở Hội Tam điểm ở 117 đường Gambeta (nay là phố Trần Hưng Đạo) Hà Nội. Cùng với bà Suzan Vĩnh, anh Giang đã đi “đón” bố về… Vậy nhưng sự kiện cay đắng này, đã làm thay đổi cuộc đời của thi sỹ Nguyễn Giang.
Cho đến lúc đó, Chính quyền Đông Dương cũng như Thực dân Pháp đã hoàn thành mục đích tàn ác, hạ gục con người bất khuất Nguyễn Văn Vĩnh, con người đã làm khuynh đảo cả guồng máy chính trị, đe dọa sự tồn vong của chế độ thực dân ở Đông Dương. Cũng chính Nguyễn Văn Vĩnh là người Việt Nam hiếm hoi hiểu được sâu sắc nguồn gốc, bản chất, tính cách của dân tộc Pháp và cả sự ám muội trong chủ trương bóp nghẹt dân tộc An Nam của những người Pháp thực dân. Nguyễn Văn Vĩnh đã hiểu người Pháp đến mức họ không còn bình tĩnh mỗi khi nghe đến tên mình. Không phải chỉ một vài ai đó giật mình khi chứng kiến ba ngày tang lễ tiễn đưa Nguyễn Văn Vĩnh (từ 6 đến 8/5/1936) đã minh chứng sự quý trọng vô bờ của các tầng lớp dân chúng thủ đô, của các nhân sỹ hàng đầu Việt Nam, của chính các thành viên tiến bộ trong bộ máy cai trị là người Pháp. Họ không phải chỉ đến tiễn đưa Nguyễn Văn Vĩnh bằng việc ngả mũ chào vĩnh biệt, mà còn cả bằng những bài điếu văn lắng đọng với giấy trắng mực đen, ca ngợi, kính trọng và tiếc thương con người được vinh danh là Người công dân vĩ đại.
Dù bản chất của Chính quyền là nham hiểm nhưng họ vẫn bị giày vò… bởi lẽ bản thân Chính quyền Thực dân, bản thân những người Pháp đến Đông Dương đô hộ cũng không thể phủ nhận được sự xuất chúng, tài năng thiên phú và con người nhân ái của Nguyễn Văn Vĩnh cùng với những đóng góp xuất sắc, tiêu biểu cho nền văn hóa Pháp Việt, là cây cầu nối của hai nền văn hóa Đông-Tây, nên họ đã lập tức nghĩ ngay đến việc“đền bù”, đúng hơn là sám hối trước nước cờ đã rồi.
Ngay trong những ngày tang lễ đau thương của gia đình Nguyễn Văn Vĩnh, nhà thơ Nguyễn Giang đã nhận được thông báo của ngài (Đại biện) Toàn quyền Đông Dương là Giăng Luiz Renơ Rôbin (Jean Louis Rene Robin) nhờ bác sỹ Trần Văn Lai chuyển tới ý kiến rằng: muốn giúp đỡ Nguyễn Giang để kế tục sự nghiệp và vai trò của cha. Đặc biệt là phụ trách tờ Đông Dương tạp chí và Trung tâm sách Âu Tây tư tưởng!
Đúng 10 ngày sau, để phản hồi ý kiến của ngài Toàn quyền, Nguyễn Giang đã đặt bút viết loạt bài “Món nợ văn chương” (La dette poetique) đăng liên tục trong gần 20 số trên tờ báo Nước Nam mới – L’Annam nouveau. Xin được chứng minh nhận định nêu trên bằng chính bài điếu văn của một người Pháp tiến bộ là nhà báo Henri Tirard đọc trong đám tang Nguyễn Văn Vĩnh ngày 8/5/1936 như sau: “Rất tiếc là ông Nguyễn Văn Vĩnh, một trí thức An Nam và Pháp đã phải đấu tranh chống lại bọn tài phiệt thuộc địa, chính nó đã buộc ông phải rời bỏ con đẻ của ông, tờ báo Nước Nam mới. Nó cũng đã buộc ông phải trở thành một kẻ đi tìm vàng, một loại hình công việc mà Nguyễn Văn Vĩnh không được chuẩn bị, và điều đó đã giết chết ông…”.
 Sau 1945, anh Giang đi kháng chiến, đóng tại Thái Nguyên. Năm 1947, sau khi diễn ra vụ nhẩy dù của lính Pháp tại Bắc Cạn, cơ quan nơi ông tham gia làm việc tan tác, anh chị Nguyễn Giang bỏ về tản cư ở Phúc Yên và bị Ủy ban Kháng chiến bắt giữ. Sau khi được tha, năm 1948, anh Giang trở lại Hà Nội làm Giám đốc Đại chúng Học vụ và làm việc cho Nhà Xuất bản Hoành Sơn.
Nguyễn Giang vẽ bút chì năm 1935. Bức vẽ cô Nghiêm Thị Kim Thanh, sau đó Nguyễn Giang cưới làm vợ năm 1938.
130128_vochongnguyenhai
  Ảnh chụp ông bà Nguyễn Giang năm 1953 tại Hà Nội.
Từ năm 1955 đến 1961 là Phó Hiệu trưởng trường Albert Sarraut Hà Nội.
Ngày 10/4/1969, anh Nguyễn Giang qua đời tại Hà Nội sau một thời gian đau màng não.
Từ cõi lòng sâu thẳm, Nguyễn Giang cũng muốn theo gót người cha của mình trong nghiệp làm văn hóa. Xin khái quát một số những sản phẩm, tác phẩm đã được xuất bản mà anh đã để lại để chúng ta cùng biết:
Sách dịch:
Tác giả Sếc xpia (Shakespeare) có: Kịch Giấc mộng đêm hè.
Macbet.
Hamlet.
Racine có: Andromarque
Victor Hugo có: Hernanie
Chuyện cổ Grim
Hômmerơ (Homère) có: Iliat và Ôđixê ( Iliade et L’Odyssée)
Etsyle có: Quân Ba Tư, Prômêtê bị xích
Xôphôclơ có: Antigon, Vua Ơđíp, Êlectrơ
Một số bi kịch của Ơripit và hài kịch của Arixtophan
Danh nhân Âu Mỹ
Tập thơ “Trời xanh thẳm”
Sách dạy tiếng Việt “cách đặt câu”
130128_cuonsachcopy
Cuốn sách của Nguyễn Giang.
Những ngày cuối năm, ngẫm lại chuyện xưa, năm anh em chúng tôi không thể không bùi ngùi, cay đắng nghĩ về những mất mát của thầy mẹ mình, của các anh chị mình. Chúng tôi ghi lại những dòng này, vừa để chia sẻ với những người thân, vừa để con cháu đừng quên quá khứ xót xa của các bậc sinh thành để coi đó là những điều nhắc nhở, đừng sống thiển cận và ích kỷ!
Nhân dịp Tết Ất Hợi, chúng tôi mừng cho nhau một mùa Xuân mới luôn luôn khỏe mạnh và đón Tết vui vẻ.
Tết Ất Hợi
            Ngày 31/1/1995         Năm người em ruột của các anh
                                              Nguyễn Hải, Nguyễn Giang,
                                          Nguyễn Dương và Nguyễn Nhược Pháp.
Ghi chú:
Khi gặp nhau tại buổi tâm tình này, năm anh em chúng tôi gồm:
Nguyễn Phổ 79 tuổi, Nguyễn Kỳ 77 tuổi, Nguyễn Thị Mười 75 tuổi,  Nguyễn Dực 74 tuổi và Nguyễn Hồ 72 tuổi.
Người ghi chép: Nguyễn Kỳ
Hiệu đính và chú thích: Nguyễn Lân Bình     
Chú thích:
(1) Trong gia đình, đều nói số nhà là 34 phố Mã Mây. Nhà văn Nguyễn Vỹ và một vài người cùng thời lại khẳng định là 39.
(2) Mời xem bài:  “Komatsu Kiyoshi và Cuộc tái ngộ”.
(3) Bác sỹ Trần Văn Lai là Thị Trưởng đầu tiên của Hà Nội trong giai đoạn Chính phủ Trần Trọng Kim. Thị Trưởng Trần Văn Lai là người đã quyết định đổi tên các phố mang tên Pháp sang tên Việt.
Sau 1954 là Thứ Trưởng Bộ Thương binh Xã hội.
Năm 1964 là Đại biểu Quốc hội nước VNDCCH.
Năm 2011 đã đặt tên phố Trần Văn Lai tại khu đô thị Mỹ Đình – HN.
(4) Hội Tam điểm: tiếng Pháp: Franc-maçonnerie tiếng Anh: Freemasonry. Hiểu theo tiếng Việt là Nền tảng tự do.
Là Hội đoàn có xuất xứ từ thế kỷ 17 ở nước Anh, lúc đầu bao gồm các công nhân xây dựng tiến bộ hoạt động kín (Tam điểm chính là mật hiệu chỉ ba góc của chiếc êke – giải thích của nhà sử học Nguyễn Đình Đầu). Tôn chỉ của hội là hành động vì sự tiến bộ của nhân loại.
Nguyễn Văn Vĩnh gia nhập chi hội Conficius năm 1925. Chi hội có 8 người, trong đó có 5 người Việt và 3 người Pháp.
(5) Hội Nhân quyền: Nguyễn Văn Vĩnh là người Việt Nam đầu tiên ra nhập Hội Nhân quyền Pháp năm 1906, nhân chuyến đi dự Hội chợ Thuộc địa ở Mác