HẠNH DƯỢNG * NGUYỄN TẤN DŨNG
KHAI BÚT ĐẦU XUÂN: TBT NGUYỄN PHÚ TRỌNG CẤM THỦ TƯỚNG NGUYỄN TẤN DŨNG KHÔNG ĐƯỢC ĐI MỸ HỌP VỚI TT BARACK OBAMA VÀO NGÀY 14-15/2/2016
Sunday, February 07, 2016
Tbt Nguyễn Phú Trọng cấm không cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đi Mỹ họp với TT Barack Obama ngày 14 và 15/2/2016 tại Hội nghị Thượng định Sunnylands với Lãnh đạo Khối ASEAN như dự trù |
Nguyễn Phú Trọng: Đã bảo mà, không phải là người Miền Bắc thì không thể làm Tổng bí thư được! |
Trong ngày Mồng 1 Tết năm Bính Thân 2016 tại Việt Nam, nhằm ngày Thứ Hai 08/2/2016 ở Hà Nội, ông tân Tổng Bí Thư đảng csVN Nguyễn Phú Trọng mới được “thừa kế” chức vụ Tổng bí thư cũ của ông Trọng Lú, đã ban hành một quyết định quan trọng là chỉ thị cấm Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không được đi qua Mỹ họp với Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama vào hai ngày 14 và 15-2-2016 tại Sunnylands Nam California theo lời mời của TT Barack Obama triệu tập 10 Nhà lãnh đạo của các quốc gia vùng Khối ASEAN họp với Hoa Kỳ để thảo luận các bước triển khai quan trọng cho kế hoạch thi hành Hiệp Định Đối tác Thương mại Xuyên Thái Bình Dương TPP và tổ chức Cộng đồng Kinh tế các Quốc gia Khối ASEAN gọi tắt là AEC.
Ông bà chủ nhân Sunnylands đón tiếp Nữ hoàng Anh và Hoàng Tế Philip, Duke of Edinburg |
Năm ngoái vào ngày 21-22/11/2015, Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đã tham dự Hội nghị Thượng đĩnh của các Quốc gia vùng Á Châu – Thái Bình Dương tổ chức tại Kuala Lumpur, Malaysia để thảo luận về các vấn đề thương mãi, kinh tế, nạn khủng bố cũng như các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông do Trung Quốc cố tình tạo bất an khu vực. Hội nghị Thượng đĩnh nầy có sự hiện diện của 18 lãnh đạo các quốc gia Á Châu – Thái Bình Dương và Mỹ, Nga.
Hội nghị Thượng đĩnh nầy đã thành lập và chấp thuận một tổ chức gọi tên là “Cộng đồng Kinh tế các Quốc gia Khối
ASEAN” (ASEAN Economic Community – viết tắt là AEC) là chương trình kết hợp phát triễn nền kinh tế của 10 Quốc gia thuộc Khối ASEAN (Association of Southeast Asian Nations – Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á châu) với thị trường khổng lồ đến USD2.56 Nghìn Tỷ (Trillion) có hơn 622 Triệu dân số. Trong năm 2014, AEC đã chiếm vị thế thứ 3 về kinh tế tại Á Châu và hạng thứ 7 trên toàn thế giới.
Khu Resort Sunnylands ở Palm Springs Nam California nơi sẽ tổ chức Hội Nghị giữa các lãnh đạoASEAN và TT Barack Obama ngày 14-15/2/2016 về TPP, AEC |
Các chính sách và phương hướng hoạt động của AEC từ năm 2016 đến 2025 gọi là AEC Blueprint đã được lãnh đạo 10 Quốc gia ASEAN ký phê chuẩn. Dịp nầy, TT Barack Obama mời lãnh đạo các Quốc gia ASEAN họp với Tổng thống Barack Obama vào hai ngày 14 và 15/2/2016 tại khu trang trại du lịch Sunnylands ở Palm Springs, Nam California, nơi mà vào mùa hè năm 2013 TT Barack Obama đã tiếp Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình lần đầu đến Hoa Kỳ không chính thức .
HỘI NGHỊ THƯỢNG ĐĨNH SUNNYLANDS 14-14/2/2016:
Sau khi đắc cử Tổng thống thứ 44 Hoa Kỳ vào ngày 04-11-2008 và nhận chức vụ tại Tòa Bạch Ốc từ ngày 20-1-2009, Tổng thống Barack Obama ngay sau đó tuyên bố chuyển trục về Á Châu – Thái Bình Dương; theo đó Mỹ sẽ điều động 60% sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ về Á Châu – Thái Bình Dương trước năm 2020 mà mục đích để đối phó với sự bành trướng quân sự của Trung Quốc. Thời điểm 2020 là mốc cuối cùng của thời hạn đảng csVN cam kết sẽ sát nhập Việt Nam vào làm khu Tự trị của Trung Quốc theo mật ước của Hội Nghị Thành Đô giữa lãnh đạo hai đảng và hai chính phủ csVN và Cộng sản Trung Quốc (csTQ) trong hai ngày 3-4 Tháng 9, 1990, tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc (https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%99i_ngh%E1%BB%8B_Th%C3%A0nh_%C4%90%C3%B4 và Bút ký của Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng:http://hoquang.org/2015/05/30/ly-bang-tiet-lo-hoi-nghi-thanh-do-1990/).
Nguyễn Phú Trọng đồng chí "4 Tốt và 16 Chữ vàng" của Tập Cận Bình |
Nguyễn Phú Trọng được Tập Cận Bình trải thảm đỏ thổi kèm đón rước, trong khi Obama chỉ cho gặp 30 phút tối đa nên đi theo Trung Quốc cho sướng cái thân, còn dân VN kệ mẹ chúng nó! |
Trong khi đó, về chiến thuật ngăn chặn bành trướng kinh tế của Trung Quốc, TT Barack Obama đưa ra kế hoạch lập liên minh khu tự do mậu dịch dành cho 12 quốc gia thành viên của Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương TPP (Trans-Pacific Partnership) vừa được ký kết vào ngày 04/2/2016 tại Auckland thuộc nước New Zealand sau 7 năm đàm phán, gồm các nước: Mỹ, Nhật, Malaysia, Việt Nam, Singapore, Brunei, Úc, New Zealand, Canada, Mexico, Chile và Peru. Các nước thành viên TPP sẽ hưởng những quy chế tự do kinh doanh, miễn giảm thuế và loại trừ kinh doanh hay đầu tư của Trung Quốc. Thị trường của 12 quốc gia thành viên TPP chiếm 40% tổng số nền kinh tế thế giới (Xem tin VietPress USA: http://www.vietpressusa.com/2016/02/12-nuoc-thanh-vien-ky-hiep-inh-xuyen.html).
Trước khi chấm dứt nhiệm kỳ vào cuối năm 2016 nầy, TT Barack Obama đã mời lãnh đạo 12 Quốc gia thành viên TPP về Sunnylands ở Nam California để họp trong 2 ngày 14 và 15/2/2016 sắp tới.
Nguyễn Phú Trọng bắn một mũi tên giết cả 2 tên Nam Bộ |
Tòa Bạch Ốc thông báo rằng vào ngày 11/2/2016, TT Barack Obama sẽ đến dự phiên họp của Đảng Dân Chủ tổ chức tại San Jose và tại Los Angeles, sau đó ngày 12/2/2016 thì TT Obama sẽ đến Palm Springs để dự Hội nghị Thượng đĩnh Sunnylands với các nhà lãnh đạo các quốc gia thành viên TPP mà tất cả đã chính thức đáp lại lời mời của TT Barack Obama. Hội nghị Trung ương 14 của đảng csVN vừa qua cũng đã thông qua việc chấp thuận phê duyệt TPP là một cần thiết cho Việt Nam phát triển.
Theo Website của CSIS (Center for Strategic & International Studies - Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế) (http://csis.org/publication/sunnylands-summit-provides-opportunity-bolster-us-southeast-asia-ties) thì ngoài vấn đề thảo luận TPP, Hội nghị Thượng đĩnh Sunnylands 2016 sẽ đặt vấn đề chiến lược tại Biển Đông nhằm đối phó với sự bành trướng quân sự của Trung Quốc, gây tranh chấp nghiêm trong với một số quốc gia thành viên ASEAN gồm Phillipines, Malaysia, Vietnam, Brunei và một đồng minh của Mỹ là Đài Loan.
Tòa án Quốc tế La Hague dự kiến sẽ công bố một bản án về trường hợp Trung Quốc vi phạm chủ quyền trên biển đảo của Philippines theo khiếu nại của Manila vào giữa năm nay. Do đó TT Barack Obama dự định dùng Hội nghị Thượng đĩnh Sunnylands nầy để thảo luận về sự cần thiết cho một mặt trận thống nhất trong Khối ASEAN sau khi tòa án Quốc tế đưa ra phán quyết Trung Quốc vi phạm biển đảo của Philippines. Có thể vì quyền lợi của một số quốc gia trong ASEAN không muốn mất lòng Trung Quốc; nhưng ít ra sự đồng lòng của các Quốc gia ASEAN trong một bản tuyên bố hậu thuẩn phán quyết của Tòa án Quốc tế La Hague cũng sẽ là một cần thiết để các bên theo đuổi biện pháp pháp lý và hòa bình trong việc tìm kiếm một giải pháp cho vấn đề tranh chấp trên Biển Đông mà Trung Quốc gọi là Biển Hoa Nam (South China Sea).
Putin ơi, Sang thèm nút lưỡi quá nè ! |
Tại Hội nghị Đối thoại Shangri-La vào tháng 5-2015, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Ashton Carter đã đưa đề nghị Hoa Kỳ viện trợ USD250 Triệu để giúp tang cường an ninh duyên hải cho Indonesia, Philippines, Malaysia và Việt Nam. Quốc Hội Hoa Kỳ cũng thông qua Đạo luật Ủy Quyền Quốc phòng Quốc gia năm 2015 (2015 National Defense Authorization Act – NDAA) cho phép chính phủ Hoa Kỳ được hỗ trợ Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Vietnam, Đài-Loan, Singapore để bảo đảm an ninh hàng hải và tăng cường các cảnh báo về hàng hải của họ trên Biển Đông. Hoa Kỳ muốn nhân Hội nghị Thượng đĩnh Sunnylands để thảo luận cụ thể với lãnh đạo các quốc gia khối ASEAN cũng như thành viên TPP về biện pháp liên minh an ninh, hợp tác an ninh hàng hải trong khu vực.
Pắt tay li, Sang xắp nàm Tổng pí thư zồi! |
Chuẩn bị cho Hội nghị Thượng đĩnh Sunnylands về các biện pháp đối phó với Trung Quốc trên Biển Đông, hôm Thứ Bảy 30-1-2016, Hải quân Hoa Kỳ đã đưa chiến hạm nguyên tử USS Curtis Wilbur đi thẳng vào vùng 12 Hải lý mà Trung Quốc tự nhận chủ quyền trên đạo Hoàng Sa nhằm thách thức và bác bỏ sự công bố chủ quyền hầu hết vùng trời, vùng Biển quốc tế ở Biển Đông (http://www.vietpressusa.com/2016/01/phu-nhan-chu-quyen-cua-trung-quoc-my-ua.html). Tiếp theo bà Marise Payne, Bộ trưởng Quốc phòng của Australia cũng tuyên bố sẽ cho chiến hạm Hải quân Úc đi vào vùng 12 hải lý mà Trung Quốc tự nhận vì đó là hải lộ quốc tế dành cho tự do hàng hải và hàng không (http://viettimes.vn/dia-chinh-tri/uc-len-tieng-ung-ho-tau-my-tuan-tra-o-hoang-sa-trung-quoc-tuc-toi-36651.html).
Hôm 4/2, website VOV của Đài Tiếng nói Việt Nam tường thuật Bộ trưởng Công Thương Việt Nam Vũ Huy Hoàng, người dẫn đầu phái đoàn Việt Nam tại lễ ký kết TPP ở Auckland, New Zealand, cho biết: “Việc ký kết TPP có thể coi là cột mốc lớn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, bởi đây là lần đầu tiên Việt Nam đàm phán và ký một hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, tiêu chuẩn cao như TPP. TPP sẽ đem lại cơ hội lớn cho kinh tế đất nước, góp phần thực hiện thắng lợi đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước trong quá trình hội nhập quốc tế, trong đó hội nhập kinh tế là trọng tâm. TPP sẽ giúp xuất khẩu Việt Nam tăng thêm được 68 tỷ USD năm 2025 nhờ cơ hội mở rộng thị phần với các thị trường lớn như Mỹ, Canada, Nhật Bản… khi thuế nhập khẩu được hạ về mức 0%”, báo này viết.
PHẠM BÌNH MINH THAY NGUYỄN TẤN DŨNG:
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao csVN Phạm Bình Minh đi họp thay Nguyễn Tấn Dũng |
Thế nhưng, vào hôm Thứ Hai 08-2-2016 nhằm Ngày Mồng 1 Tết Bính Thân 2016, ông Tổng bí thư đảng csVN Nguyễn Phú Trọng trong lập trường thân Bắc Kinh và chủ trương lãnh đạo chia rẽ cầm quyền phải là người “Miền Bắc”, đã chính thức ra lệnh cấm Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không được đi Mỹ họp với TT Barack Obama cùng các nhà Lãnh đạo ASEAN khác vào hai ngày 14-15/2/2016 tại Sunnylands, miền Nam California như đã dự trù.
Tin từ Hoa Kỳ cho VietPress USA biết rằng, Tbt Nguyễn Phú Trọng đã chỉ định Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh sẽ đi thay thế Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị Thượng đĩnh Sunnylands nầy.
Ông Phạm Bình Minh sinh ngày 26/3/1959 tại xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, Miền Bắc. Ông là con trai của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch và nhờ vậy được đưa vào Bộ Ngoại giao để tiến thân từ từ qua nhiều giai đoạn làm Thứ trưởng Ngoại giao kể từ tháng 1-2009 cho đến tháng 8-2011 thì được đưa lên làm Bộ trưởng Ngoại giao csVN.
Ông Phạm Bình Minh từng làm tùy viên Đại sứ quán VN tại Anh quốc năm 1982; rồi năm 1986 về nước làm chuyên viên Vụ các Vấn đề chung ở Bộ Ngoại Giao. Khi Trung Quốc và đảng csVN họp Hội nghị Thành Đô ngày 3-4/9/1990, thành phần hai bên gồm:
- Phía Việt Nam có: Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, và Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng Phạm Văn Đồng,
- Phía Trung Quốc có: Giang Trạch Dân, Tổng bí thư đảng cộng sản Trung Quốc cùng với Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc.
Tân Thủ tướng csVN Nguyễn Xuân Phúc |
Trung Quốc cho rằng Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch có tư tưởng thân Liên-Xô và chống Trung Quốc nên không cho Nguyễn Cơ Thạch tham dự và sau đó áp lực Hà Nội cho Nguyễn Cơ Thạch nghỉ hưu năm 1991. Vào năm bố ông mất chức thì Phạm Bình Minh được thăng làm Phó Vụ trưởng Vụ các Tổ chức Quốc tế, Bộ Ngoại giao. Năm 1999, ông được bổ nhiệm làm Đại sứ, Phó trưởng phái đoàn đại diện thường trực Việt Nam bên cạnh Liên Hiệp Quốc. Từ năm 2001 đến tháng 1 năm 2003, ông được bổ nhiệm làm Công sứ, Phó Đại sứ của Đại sứ quán Việt Nam tại Hoa Kỳ. Tháng 3-2003, ông được triệu hồi về nước và được bổ nhiệm làm Quyền Vụ trưởng Vụ Các Tổ chức Quốc tế. Đến tháng 8-2003 được bổ nhiệm chính thức làm Vụ trưởng.
Tháng 4-2006, tại Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X, Phạm Bình Minh được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá X. Đến tháng 9=2006 ông được bổ nhiệm làm Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao cho Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm nay vừa được phê chuẩn kiêm nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Tháng 8-2007, Phạm Bình Minh được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Ngoại giao và đến tháng 11 cùng năm ông được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao csVN. Tại Hội nghị Lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương khóa X, ông được chuyển từ Ủy viên dự khuyết thành Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá X từ ngày 13 tháng 1 năm 2009.
Tân Chủ tịch nước Trần Đại Quang, Đại tướng Công an |
Ngày 29/3/2010, Phạm Bình Minh được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bổ nhiệm kiêm chức Phó Chủ tịch Ủy ban Sông Mê Công Việt Nam. Tháng 1-2011, Đại hội Đảng csVN lần XI bầu Phạm Bình Minh làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XI. Tháng 8-2011, tại Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa XIII, ông đã được phê chuẩn làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao thay cho ông Phạm Gia Khiêm. Ngày 13/11/2013, ông Phạm Bình Minh được Quốc hội phê chuẩn làm Phó thủ tướng kiêm nhiệm chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Và vừa qua, Đại hội đảng csVN lần XII họp từ 21 đến 28/1/2016 ở Hà Nội, Phạm Bình Minh được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng csVN và cùng lúc được Trung ương Đảng csVN bầu vào Bộ Chính trị. Ông Phạm Bình Minh là con trai của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch là người bị Trung Quốc áp lực loại trừ vì chống Trung Quốc; nhưng nay lại được Trung Quốc tin dùng chỉ vì ông rút kinh nghiệm về tình cảnh của người cha ruột nên thề trung thành với lập trường thân Trung Quốc của phe nhóm Tbt Nguyễn Phú Trọng.
Khi đưa Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đi Mỹ họp Hội nghị Thượng đĩnh Sunnylands thay cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, các tin tức cao cấp trong nội bộ đảng csVN tiết lộ cho hay rằng ông Tbt Nguyễn Phú Trọng nói "Người xưa nói "Nhổ cỏ thì nhổ cho sạch gốc"; nhưng đối với tụi Miền Nam ngày nay trong đảng csVN thì "Bứt dây phải bứt cho hết không chừa dây nào!"
CHỦ TỊCH TRƯƠNG TẤN SANG VÀ ĐÀN EM NGUYỄN CÔNG KHẾ TRONG VÁN BÀI CỦA TBT NGUYỄN PHÚ TRỌNG:
Tân Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Thĩ Kim Ngân |
Sau khi lên làm TBT đảng csVN từ Đại hội Đảng lần XI, ông Nguyễn Phú Trọng biết ông Trương Tấn Sang không mấy thích chức vụ Chủ Tịch Nước, mà là muốn nắm chức vụ Thủ tướng Chính phủ nhưng đã thất bại chua cay trước ông Nguyễn Tấn Dũng. Vì vậy Tbt Nguyễn Phú Trọng đã đưa lời đề nghị họp tác với ông Trương Tấn Sang tìm mọi cách hạ bệ ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bằng các đòn tố cáo tham nhũng. Tại Hội nghị 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ở Hà Nội, ông Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tbt Nguyễn Phú Trọng đưa Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ra để kết tội rồi tìm cách hạ bệ; nhưng không thành công vì các phiếu tín nhiệm ông Nguyễn Tấn Dũng vẫn rất cao nên Tbt Nguyễn Phú Trọng đành công bố trên BBC rằng "Bộ Chính trị đã thống nhất 100% đề nghị Ban Chấp hành Trung ương cho được nhận một hình thức kỷ luật và xem xét kỷ luật đối với một đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị."
Tin của BBC loan thêm rằng, sau đó trên VTV1 ở Hà Nội, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã phát biểu rằng "Chỉ có cân nhắc tình hình hiện nay, cân nhắc lợi hại thì quyết nghị là không thi hành kỷ luật. Như vậy không có nghĩa là Bộ Chính trị không có lỗi, không phải là cá nhân đồng chí ‘X’ không có lỗi.". Chủ tịch Trương Tấn Sang nói thêm: "Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận rất kỹ, cân nhắc toàn diện các mặt ở thời điểm hiện nay và đi đến quyết định không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị; và yêu cầu Bộ Chính trị có biện pháp tích cực khắc phục, sửa chữa khuyết điểm; không để các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá." (http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2012/10/121017_truongtansang_voters.shtml).
Nguyễn Công Khế (áo đen) và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (áo sọc ngang) trong buổi nhậu |
Từ đó, Tbt Nguyễn Phú Trọng hứa hẹn rằng khi hết nhiệm kỳ và với số tuổi cao, ông Nguyễn Phú Trọng sẽ rút lui và sẽ vận động đưa ông Trương Tấn Sang lên làm Tổng Bí Thư đảng csVN trong khóa họp Đại hội Đảng lần XII vào tháng 1-2016. Thế nên ông Trương Tấn Sang đinh ninh sẽ là Chủ tịch Đảng và lại hứa hẹn với một đàn em thân tín là ông Nguyễn Công Khế, Tổng biên tập Báo Thanh Niên tại Việt Nam để mở ra các mặt trận Truyền thông Báo chí, Bloggers tấn công đối thủ là "đồng chí X" Nguyễn Tấn Dũng và những người mà chủ yếu là phe phái csVN tại Miền Nam để lấy lòng ông Tbt Nguyễn Phú Trọng thuộc phe csVN Miền Bắc!
Ông Trương Tấn Sang sinh ngày 21/1/1949 tại xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An (Miền Nam), còn biệt danh là Tư Sang, là Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng csVN, nguyên Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng. Vào ngày 25/7/2011 ông được Quốc Hội khóa XIII bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thay cho ông Nguyễn Minh Triết hết nhiệm kỳ. Chức vụ nầy ông không muốn vì ông nhắm vào chức Thủ Tướng Chính phủ nhưng ông đã thua ông Nguyễn Tấn Dũng có nhiều tiền bạc và thế lực hơn.
Trương Tấn Sang hứa hẹn với các đàn em là sẽ cho làm lớn khi Sang lên Tổng bí thư đảng csVN |
Thế nên khi Trương Tấn Sang được Tbt Nguyễn Phú Trọng hứa hẹn đưa lên làm Tổng bí thư Đảng csVN khóa Đại hội XII họp tháng 1-2016 thì Trương Tấn Sang hứa hẹn sẽ đưa Nguyễn Công Khế vào Ủy viên Trung Ương Đảng, Bộ Chính Trị và giữ chức Bí Thư thành ủy Tp.HCM tức Saigon hay ít ra là làm Thường Trực Ban Bí Thư Trung ương Đảng.
Ông Nguyễn Công Khế sinh năm 1954 tại Quảng Nam, là nhà báo, đồng sáng lập báo Thanh Niên và làm Tổng Biên tập Báo Thanh Niên từ năm 1988 đến năm 2008. Ông từng là Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam, được huy chương vì sự nghiệp báo chí, hiện là Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Tập đoàn Truyền thông Thanh Niên. Trước 1975 ông hoạt động trong phong trào sinh viên, học sinh tại Đà Nẵng và Sài Gòn chống chính quyền VNCH. Sau 1975 ông công tác tại Thành đoàn TP Hồ Chí Minh, sau đó chuyển sang làm tại báo Phụ nữ Việt Nam. Năm 1986 ông cùng Huỳnh Tấn Mẫm sáng lập báo Thanh Niên là diễn đàn của Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam và ông đã lập mưu chước cướp chức Tổng Biên Tập báo Thanh Niên của kẻ sáng lập là Huỳnh Tấn Mẩm (http://www.nguyencongkhe.com/2012/12/nguyen-cong-khe-dung-tieu-xao-chiem-ghe.html).
Từ 1988 đến nay ông làm Tổng biên tập báo này, được coi là tổng biên tập thâm niên nhất trong làng báo Việt Nam. Ông có công lớn trong việc đưa báo Thanh niên từ một báo nhỏ xuất bản một kỳ/tuần trở thành một trong những báo lớn nhất và có nhiều độc giả nhất tại Việt Nam hiện nay. Ngoài công tác báo chí, ông hiện là Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam và tham gia nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Ông là Trưởng ban Giám khảo nhiều cuộc thi như: Siêu mẫu Việt Nam, Hoa hậu hoàn vũ Việt Nam 2008 và là thành viên Ban Giám khảo Miss Universe, 2008 vừa qua. Tuy nhiên điều tai tiếng nhất là ông đã bị đưa lên dư luận là người đứng tên đăng ký thành lập Công ty Cổ phần Tập đoàn Truyền thông Thanh Niên và ông nay đã chiếm đoạt tất cả cô phần của Công ty nầy làm của riêng ho ông và gia đình ông (https://anhbasam.wordpress.com/2015/12/09/6079-nguyen-cong-khe-da-chiem-doat-tap-doan-thanh-nien-nhu-the-nao/ và tại Link: http://kenh13.info/tin-nog-mxh-thu-doan-cuop-tien-doanh-nghiep-cua-tncorp-va-nguyen-cong-khe-thong-qua-chieu-bai-truyen-thong.html)
Trương Tấn Sang và Nguyễn Công Khế thường xuyên nhậu nhẹt để bàn các kế hoạch tấn công phe cs Nam Bộ |
Vụ đấu đá giữa Tbt Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch nước Tư Sang đã đẻ ra cả một mặt trận báo chí đánh nhau té lửa tại Việt Nam. Các Blog "Dân Làm Báo" (http://danlambaovn.blogspot.fr/) rồi "Quan Làm Báo"(http://quanlambao.blogspot.com/), đến "Chân Dung Quyền Lực" (http://chandungquyenluc.blogspot.com/), "Tư Sang Nham Hiểm" (http://rbomtm.blogspot.com/2013/04/trang-web-moi-tusangnhamhiem-au-moi.html) đã đưa ra những điều tồi tệ nhất trong chốn cung đình csVN tại Trung ương Hà Nội. Người ta thấy rằng trước hội nghị 6 là "Quan Làm Báo" tấn công Thù tướng Nguyễn Tấn Dũng; rồi trước hội nghị 7 là xuất hiện Blog "tusangnhamhiem" đã tấn công Trương Tấn Sang.
Cuộc chiến giữa Tư Sang và Anh Ba Y Tá tỏ ra ngang ngữa nhau; nhưng Trương Tấn Sang trong thời gian qua có sự hỗ trợ tích cực của Tổng biên tập báo Thanh Niên Nguyễn Công Khế nên Nguyễn Tấn Dũng nhiều phen muốn đứt đèn! Nhưng rồi Nguyễn Tấn Dũng cũng phản pháo mãnh liệt và trước Đại hội Đảng lần XII ai cũng nghĩa rằng cuộc đấu đá sẽ là màn tay đôi giữa Tư Sang và Đồng chí X. Nhưng rồi Nguyễn Phú Trọng và Tô Huy Rứa đã công bố tại Hội nghĩ thứ 12 rằng việc chuẩn bị nhân sự cho Đại hội Đảng XII làm rất cẩn thận và tốt đẹp. Chủ tịch Trương Tấn Sang vẫn đinh ninh sẽ là tân Tổng bí thư Đảng csVN thay thế Nguyễn Phú Trọng 72 tuổi sẽ cáo chung về vườn. Và bất chợt Blog hậu "Quan Làm Báo" sau thời gian chết lặng, đã lại xông pha đánh Tư Sang tới tấp và ai cũng nghĩ đó là do Đồng chí X nay đã tạo được ảnh hưởng với "Quan Làm Báo" thời hậu kỳ; nhưng ít ai nghĩ rằng đó là ván bài mới của Tbt Nguyễn Phú Trọng ném đá dấu tay để diệt Trương Tấn Sang vào phút chót trước khi vào Hội nghị Trung ương thứ 12 và sau đó là Hội nghị thứ 13, 14 quyết định chỉ có Tbt Nguyễn Phú Trọng được độc quyền tái cử còn Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng đều bị loại.
LỜI HỨA CỦA TBT NGUYỄN PHÚ TRỌNG VỚI 16 LÃNH ĐẠO CS MIỀN NAM:
Khi vào Hội nghị Trung ương 12 thì Trương Tấn Sang mới té ngữa biết rằng đã bị Nguyễn Phú Trọng cho ăn bánh vẽ trong bao năm qua! Nguyễn Tấn Dũng vào phút chót cũng không hề biết mình bị hất văng hết mọi khả năng tồn tại.
Nguyễn Phú Trọng đề phòng các phản ứng tiêu cực của Nguyễn Tấn Dũng có thể có, bằng cách là chấp thuận cho hai con trai của Nguyễn Tấn Dũng vào giữ các chức vụ cao cấp trong Đảng csVN tại các địa phương gồm:
1. Con trai lớn của Nguyễn Tấn Dũng là Nguyễn Thanh Nghị sinh ngày 12/8/1976 được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Kiên Giang từ hôm 16/10/2015 tại cuộc bầu cử Ban chấp hành Đảng bộ khóa X gồm 56 người. Báo Tuổi Trẻ nói Nguyễn Thanh Nghị là Bí thư Tỉnh Úy trẻ nhất nước. Ông Nguyễn Thanh Nghị là Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Đảng và được vào Ủy viên Trung ương chính thức tại Đại hội Đảng toàn quốc 2016.
Nguyễn Công Khế và các người đẹp chân dài |
2. Con trai thứ của Nguyễn Tấn Dũng là Nguyễn Minh Triết, 25 tuổi, tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Định nhiệm kỳ 2015-2020. Ông Triết cũng là người trẻ nhất trong số 55 tỉnh ủy viên Bình Định và cũng được một vé đi họp Đại hội Đảng csVN lần XII.
Tbt Nguyễn Phú Trọng để cho đối thủ Nguyễn Tấn Dũng có càm tưởng ông vẫn đầy quyền lực và sẽ được đa số thành viên trong Đại Hội Đảng bầu thì ông sẽ thắng giống như kỳ Hội nghị Trung ương 6 năm 2012 luận tội Nguyễn Tấn Dũng nhưng vẫn không làm được gì vì Ba Dũng lúc đó có nhiều đàn em trong phe nhóm bỏ phiếu tín nhiệm cao.
Nhưng khi đến Hội nghị Trung ương 12 vào ngày 05/10/2015 thì hoàn toàn cuộc chơi và luật chơi bị thay đổi: Ông Nguyễn Phú Trọng đưa ra Quyết định 244 ngày 09-6-2014 để áp dụng trong việc đề cử người ra tranh vào các chức "Tứ Trụ" phải được từ cơ sở giới thiệu và được Bộ Chính Trị chấp thuận mới đưa ra cho Ban Chấp Hành Trung ương biểu quyết. Những ai không được Bộ Chính trị chấp thuận thì cho dù được Ban Chấp Hành Trung Ương đề cử cũng phải rút lui. Rồi qua đến Hội Nghị Trung Ương 13, Ông Nguyễn Phú Trọng đã nói rõ chỉ có người Miền Bắc mới được ra tranh cử hay tái cử chức Tổng bí thư. Điều nầy là loại trực tiếp Nguyễn Tấn Dũng và Trương Tấn Sang. Điều thứ hai là những ai ra tranh cử hay tái ứng cử phải được Bộ Chính Trị chấp thuận trong danh sách mới được đưa ra Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng bầu phiếu. Những người ngoài danh sách sẽ không có giá trị. Nếu ai không có tên trong danh sách mà được đa số thành viên trong Đại hội đề cử thì cũng phải rút tên..
Để chắc chắn là các người Miền Nam như Trương Tấn Sang và Nguyễn Tấn Dũng đã không có tên trong danh sách do Bộ Chính Trị chọn lựa; nhưng sẽ không có ai trong Đại hội tín nhiệm đề cử.. Ông Nguyễn Phú Trọng đã gặp tất cả 16 các lãnh đạo Đảng cao cấp thuộc các Tỉnh, thành lớn của Miền Nam và đưa đề nghị không được bỏ phiếu cho Nguyễn Tấn Dũng hoặc Trương Tấn Sang; đổi lại 16 Ủy Viên Trung Ương Đảng thuộc người Miền Nam nầy sẽ được giữ các chức vụ cao cấp sau khi Đại Hội Đảng XII kết thúc tốt đẹp với kiểu tái cử độc quyền theo cách "thừa Kế" của Tbt Nguyễn Phú Trọng "thừa kế" chính ông ta!
Nhưng sự thật đau lòng, sau khi ông Nguyễn Phú Trọng lên ngôi Tổng bí thư Đảng csVN qua Đại Hội XII từ 21 đên 28/1/2016, tất cả 16 Ủy viên đảng csVN cao cấp của Miền Nam đều bị gạt bỏ và cuộc thanh trừng "Bứt dây Miền Nam" của Tbt Nguyễn Phú Trọng đang bắt đầu.
Ngày 05-2-2016, Tbt Nguyễn Phú Trọng bất ngờ bổ nhiệm Bộ Trưởng Giao Thông Vận Tải Đinh La Thăng sinh ngày 10/9/1960[ tại xã Yên Bình, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định (Miền Bắc) vào nắm chức Bí Thư Đảng Ủy Saigon (Tp.HCM) thay thế ông Lê Thanh Hải, sinh ngày 20/2/1950 tại xã Tam Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang) là người Miền Nam bị mất chức.
Nguyễn Công Khế hơi lùn một chút nhưng bù lại có tiền của các cán bộ nhân viên Công ty Thanh Niên lấy xài tạm |
Cùng ngày, Tbt Nguyễn Phú Trọng cũng đưa Phó Thủ Tướng Hoàng Trung Hải sinh ngày 27/9/1959 tại xã Quỳnh Giao, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình (Miền Bắc) làm Bí Thư Đảng Ủy thủ đô Hà Nội (http://www.vietpressusa.com/2016/02/tbt-nguyen-phu-trong-loai-tru-hau-het.html).
Đại tướng Công an Trần Đại Quang sinh 12/10/1956 tại xã Quang Thiện, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình (Miền Bắc) nay là Chủ Tịch nước.
Nhóm "Tứ Trụ" mới còn có ông Nguyễn Xuân Phúc sinh ngày 20/7/1954 tại xã Quế Phú, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam, dân Miền Trung, là Phó Thủ Tướng nay được Tbt Nguyễn Phú Trọng đưa lên làm Thủ Tướng. Ông Nguyễn Xuân Phúc thân với Tình báo Trung Nam Hải của Trung Quốc và các dư luận cũng như người nhà ông Nguyễn Bá Thanh cáo giác rằng ông Nguyễn Xuân Phúc đã dùng tay của Tình báo Trung Quốc hạ độc ông Nguyễn Bá Thanh để ông giữ thế "hùm xám duy nhất của Đảng csVN tại Miền Trung" (https://anhbasam.wordpress.com/2015/02/25/3452-ai-giet-ong-nguyen-ba-thanh/).
Trong sự nghiệp kế thừa của Tbt Nguyễn Phú Trọng sau Đại hội Đảng csVN lần thứ XII, chỉ có một con nhạn gốc Miền Nam là bà Nguyễn Thị Kim-Ngân là Phó Chủ tịch Quốc Hội nay lên làm Chủ tịch Quốc Hội mà thôi.
Như vậy toàn thể đảng viên cốt cán của thế hệ Cộng sản Miền Nam được ông Võ Văn Kiệt gầy dựng lại sau khi thế hệ trước là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã bị hạ sát, thủ tiêu tập thể không còn một mạng sau khi Cộng sản Bắc Việt đã chiếm Miền Nam VN vào ngày 30-4-1975.
Việc Tbt Nguyễn Phú Trọng nay ra lệnh cấm Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đi Mỹ họp với TT Barack Obama đã cho thấy ngày tàn của phe các "đồng chí ruột thịt Miền Nam" sẽ không còn cơ hội tồn tại. Tbt Nguyễn Phú Trọng không cho Nguyễn Tấn Dũng đi Mỹ vì không muốn phe cánh cs Miền Nam còn thêm chút uy tín nào trước buổi hoàng hôn. Thứ hai là Tbt Nguyễn Phú Trọng đang nhắm vào một cách phát phần thưởng cho Nguyễn Tấn Dũng và nhóm cs Miền Nam như kết quả Nguyễn Bá Thanh từng được hưởng phúc bình yên..
Báo chí Trung Quốc từng cho rằng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng theo Mỹ; trong khi thực tế Mỹ biết rõ rằng ông Nguyễn Tấn Dũng là người nhiều thủ đoạn cho quyền lợi của ông và gia đình ông chứ không theo Mỹ hay theo Tàu. Ông sẵn sàng truyên bố một vài câu như chống Tàu để cho một số người trẻ nông nổi chống Tàu rồi để ông cho bệnh bắt bớ, tù đày và lập thành tích với Trung Quốc. Ông làm Thủ tướng nhưng chưa hề có thái độ nào chống lại Trung Quốc trong các vụ cướp giết Tàu đánh cá của Ngư dân Việt Nam. Các vụ bán đất cho Trung Quốc vào khai thác Bauxit hay đầu tư lâu dài vào Việt Nam đều do ông Nguyễn Tấn Dũng với tư cách Thủ Tướng đã cho ký kết thực hiện. Ngày 30-4-2015 khi kỷ niệm csBV chiếm Saigon, ông Nguyễn Tấn Dũng đã mạnh mẽ lên án Đế Quốc Mỹ để lấy lòng Trung Quốc.
Nhưng dù sao, ông Nguyễn Tấn Dũng cũng tạo được một khí thế cho phe csVN thuộc Miền Nam để quân bằng với phe Miền Bắc. Cho đến nay thì chính Trương Tấn Sang và đàn em Nguyễn Công Khế thật sự là những kẻ đã đào ra sẵn hố chôn phe Cộng sản Miền Nam mà chắc chắn sắp tới đây, Tbt Nguyễn Phú Trọng sẽ "bứt dây là bứt hết không chừa sợi dây nào" bằng một cuộc thanh trừng tham nhũng rộng lớn đối với phe phái cs Miền Nam theo cách mà ông Tập Cận Bình đang thanh trừng tham nhũng tại Trung Quốc thuộc phe Giang Trạch Dân! Kết quả bi thảm của lớp đi trước là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã bị tận diệt sau ngày 30-4-1975 thì nay sẽ chắc chắn lập lại với các đảng viên Cộng sản Miền Nam sau khi Tbt Nguyễn Phú Trọng của Cộng sản Miền Bắc dùng bàn tay của Trương Tấn Sang và đàn em Nguyễn Công Khế đánh cho tả tơi khiến Nguyễn Tấn Dũng bại trận đang chờ lên thớt! Trong khi Nguyễn Công Khế đang đầu tư tại Hoa Kỳ. Các con của Nguyễn Công Khế trước đây làm việc cho một công ty xử lý rác thải, sau đó làm cho một cơ quan Truyền thông ở San Jose. Nay thì đầu tư vào một tổ chức Tivi trên Internet..
Hạnh Dương, tổng hợp.
NGUYỄN QUÝ ĐẠI * TƯỞNG NIỆM TẢN ĐÀ
TƯỞNG NIỆM TẢN ĐÀ (1888-2009) Nguyễn Quý Đại
Tiểu sử |
Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu sinh ngày 8 tháng 5 năm 1888 (năm Mậu Tý), và mất ngày 7 tháng 6 năm 1939 (năm Kỷ Mão), tại nhà thuê số 71 đường Cầu Mới, ngày nay 47 Nguyễn Trãi Hà Nội, hưởng thọ 51 tuổi (1). Quê ông làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, Sơn Tây cũ nay là huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây. Thân phụ Tản Đà là ông Nguyễn Danh Kế thi đỗ cử nhân, làm quan cho triều Nguyễn đến chức Ngự sử trong Kinh, giữ việc án lý, nổi tiếng là người có tài văn án trong triều. Ông Kế vốn là người phong lưu thích thơ nhạc, thường lui tới chốn bình khang và quen với bà Lưu Thị Hiền (Nhữ Thị Nghiêm) là một đào hát tài sắc ở Hàng Thao. Ông Nguyễn Danh Kế cưới bà làm vợ thứ khi ông làm tri phủ Xuân Trường. Bà là người hát hay, có tài làm thơ Nôm. Tản Đà là con trai út trong bốn người con của đời sau. Tản Đà lên 3 tuổi thì thân phụ từ trần, đời sống gia đình khó khăn, thêm sự bất hoà với gia đình chồng, bà Nghiêm bỏ nhà trở lại nghề xưa. Tản Đà cùng anh Nguyễn Mạn và 2 chị phải về ở với anh cùng cha khác mẹ là ông Nguyễn Tài Tích (sinh năm 1864 nối nghiệp cha thi đỗ Phó bảng) và Nguyễn Cổn. Tản Đà sống theo anh đi các nơi vì ông Tích được bổ nhiệm làm Đốc học các tỉnh miền Bắc .
Thời thơ ấu Tản Đà hấp thụ nền Nho giáo, 5 tuổi ông học Tam tự Kinh Ấu học ngũ ngôn thi, Dương tiết,... 6 tuổi học Luận Ngữ, kinh, truyện và chữ Quốc Ngữ, 10 tuổi biết làm câu đối, 11 tuổi làm thơ văn. Ông rất thích thơ văn, được người anh hết lòng chỉ dẫn nên 14 tuổi đã thạo các lối văn chương, thi, phú. Lúc còn học ở trường Quy thức là trường học thực nghiệm cải cách của Pháp ở Hà Nội, ông viết bài "Âu Á nhị châu hiện thế" được các báo ở Hong Kong đăng trong mục xã thuyết. Năm 15 tuổi, ông đã nổi tiếng là thần đồng của tỉnh Sơn Tây.
Tản Đà không thành đạt trên đường khoa bảng, thất bại trong tình yêu đã làm ảnh hưởng suốt cuộc đời của thi nhân, đôi khi ông sống với mộng tưởng, phẫn uất chua cay, tư tưởng ngông cuồng và yếm thế... Về đường văn học Tản Đà là nhà thơ thuộc phái cựu học như Phan Khôi, nhưng Phan Khôi với " Tình Già" đã mở màn cho phong trào thơ mới lãng mạn, sáng tạo và mạnh dạn vượt ra ngoài khuôn sáo cũ, đó là thời điểm quốc ngữ còn phôi thai, bắt đầu chuyển mình thay đổi nhanh chóng phổ biến rộng rải trên báo chí bằng thơ và văn xuôi. Tản Đà giữ một điạ vị quan trọng là nhịp cầu nối liền giữa hai nền văn học cổ điển và hiện đại đóng góp cho nền văn học quốc ngữ Việt Nam phát triển mạnh. (về thơ mới trên Đông Dương Tạp Chí số 40 năm 1914 Nguyễn Văn Vĩnh dịch thơ ngụ ngôn "Con ve sầu và Con kiến" của La Fontaine không theo cách của lối thơ cũ, nhưng phải chờ tới Phan Khôi, thơ mới dần dần lớn mạnh)
Con đường sư nghiệp |
Ông thất tình chán nản bỏ về Hòa Bình vào dãy Hương Sơn trên ngọn Chùa Tiên, đêm ngày uống rượu, làm thơ, đọc sách, thưởng trăng, sống theo lối "tịch cốc". Trong thời gian nầy ông đọc Tân thư, sách của K�ang yu Wei/ Khang Hữu Vi (1858-1927) và Liang Ch�i ch�ao/ Lương Khải Siêu 1873-1929) về cuộc Cách mạng Tân Hợi năm 1911 do Tôn Dật Tiên/ Sun Yat-Sen (1886-1925) khởi xướng lật đổ triều đại Mãn Thanh. Tản Đà còn được người anh rể Nguyễn Thiện Kế dìu dắt vào con đường văn chương. Nguyễn Thiện Kế từng làm tri huyện Tùng Thiện và Phúc Thọ của xứ Đoài, vốn là một nhà thơ trào phúng nổi tiếng đương thời, lại là người chịu ảnh hưởng sâu sắc của phong trào yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ 20, thường làm thơ đả kích táo bạo bọn quan lại tay sai cho thực dân Pháp.
Năm 1913, anh cả Nguyễn Tài Tích qua đời. Tản Đà về Vĩnh Phú làm nghề báo, đầu tiên ông cộng tác với Đông Dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) phụ trách mục "Một lối văn nôm". Đến năm 1915, ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Tùng, con gái một tri huyện ở Hà Đông. Cũng năm này ông có tác phẩm hay, đăng trên "Đông dương tạp chí", nhanh chóng có được tiếng vang trên văn đàn. Đông dương tạp chí phát hành từ năm (1913-1916) do Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút, nhằm truyền bá nền giáo dục bách khoa phổ thông theo văn minh Tây phương, phát triển chữ quốc ngữ nâng cao dân trí... số đầu tiên xuất bản vào ngày thứ 5 ngày 15.05.1913 hoạt động được 4 năm. Năm 1916 Nguyễn Khắc Hiếu lấy bút hiệu Tản Đà là tên ghép giữa núi Tản, sông Đà, và chính thức chọn con đường của một người viết văn, làm báo chuyên nghiệp dùng ngòi bút mưu sinh.
Phận nam nhi tang bồng là chí,Cuộc đời Tản Đà với những mối tình đầu trong trắng đam mê một thời, đã vỗ cánh bay cao, để lại Tản Đà những thương tiếc bâng quơ. Từ sự tan vỡ đó đã mang lại cho ông đau khổ khôn nguôi, cảm xúc đã làm nên những vần thơ trữ tình
Chữ trượng phu ý khí nhường ai.
Non sông thề với hai vai,
Quyết đem bút sắt mà mài lòng son.
Vì ai cho tớ phải lênh đênhMùa thu là mùa của thi ca lãng mạn, các thi nhân thường chọn mùa thu làm thơ soạn nhạc, mùa thu là một xúc tác cho họ trở về với đời sống thiên nhiên, ca ngợi và vẽ thành những bức tranh tuyệt mỹ...
Nặng lắm ai ơi, một gánh tình" Mình ơi có nhớ ta chăng?
Nhớ mình đứng tựa ánh trăng ta sầu.
Duyên hồ thắm bổng dưng phai lạt,
Mối tơ vương đứt nát tan tành,
Tấm riêng, riêng những thẹn mình,
Giữa đường buôn đứt gánh tình như không!
Suối tuôn róc rách ngang đèo,
Gió thu bay lá bóng chiều về tây
Chung quanh những lá cùng cây,
Biết người tri kỷ đâu đây mà tìm...
(Vô đề)
Làn cây khuất bóng trăng tà,Bàn tay con người làm sao giữ được thời gian, thời gian trôi qua lặng lẽ như một giấc mơ. Để rồi tất cả trở thành một quá khứ xa khơi, ngỡ ngàng vụt mất. Ông sáng tác rất nhiều thơ với nhiều thể loại, thường diễn tả cảm giác say sưa, chán ngán cuộc đời...đắm chìm trong cõi mộng với mối tình cùng người tri kỷ năm xưa.
Đêm thu một khắc quan hà mấy mươi
Nhớ ai đất khách quê người,
Nhớ ai góc bể bên trời bơ vơ.
(Nhớ ai)
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!Những mối tình chắp cánh cuả Thi Nhân đã để lại cho chúng ta một thi tài Tản Đà, mở màn cho trào lưu lãng mạn sau này (phong trào thơ mới), với những bài thơ ghi dấu sự chuyển giao giữa hai thời đại.
Trần thế em nay chán nửa rồi... Trận gió thu phong rụng lá vàng
Lá rơi hàng xóm, lá bay sang
Vàng bay mấy lá năm già nửa
Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng?
Giấc mộng mười năm đã tỉnh rồi.Tản Đà ảnh hưởng Nho học từ thuở ấu thơ, nhưng thơ cuả ông ít dùng điển tích. văn chương của Tản Đà trong sáng giàu khả năng gợi cảm, ông có biệt tài dùng các hư từ điệp từ, âm điệu tiết tấu rất gợi cảm. Bài Tống biệt hành: nào lá đào rải thảm đường đi, suối tiễn, oanh đưa, ngậm ngùi, bước trần ai, đá mòn, rêu nhạt, nước chảy bao trùm cả không gian và thời gian... nổi bật tràn đầy tình cảm trong sáng, phối hợp âm sắc, tiết tấu diễn tả bước chân ngập ngừng của cảnh trần tục và tiên cảnh chia ly
Tỉnh rồi lại muốn mộng mà chơi.
Nghĩ đời lắm nỗi không bằng mộng.
Tiếc mộng bao nhiêu lại ngán đời.
Những lúc canh gà ba cốc rượu.
Vài khi cánh điệp bốn phương trời.
Tìm đâu cho thấy người trong mộng.
Mộng cũ mê đường biết hỏi ai?
(Giấc mộng con).
Lá đào rơi rắc lối Thiên thai.Cuộc đời Tản Đà thất bại về công danh và tình yêu, nên bản tính trở thành ngông, yếm thế. Nghèo nhưng lúc có tiền thì thích phong lưu ăn nhậu, say sưa dù cái say vì nhân thế, vì cảnh đời. Nhưng đã nói say thì không thể kềm chế được tư cách con người.
Suối tiễn oanh đưa những ngậm ngùi.
Nửa năm tiên cảnh.
Một bước trần ai.
Ước cũ duyên thừa, có thế thôi!.
Đá mòn, rêu nhạt.
Nước chảy, huê trôi.
Cái hạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ nay xa cách mãi.
Cửa động,
Đầu non,
Đường lối cũ,
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi
(Tống biệt hành)
Cảnh đời gió gió, mưa mưa,Tản Đà hờ hững với công danh, chấp nhận số phận sống với đời trong niềm vui thơ và rượu, hai thứ đó có thể là một giải thoát con người ra khỏi vòng tục lụy?
Buồn trông ta phải say sưa đỡ buồn
Rượu say ta lại khơi nguồn
Nên thơ rượu cũng thêm ngon giọng tình
Rượu thơ mình lại với mình,
Khi say quên cả cái đỉnh phù du
Trăm năm thi sĩ tửu đồ là ai?
(Thơ rượu).
Say sưa nghĩ cũng hư đời,Nếu con người sống theo chủ nghiã khoái lạc, ăn uống nhậu nhẹt say sưa suốt đời sẽ không giúp ích được gì cho xã hội, bị người ta chán ghét khinh rẽ, nhưng Tản Đà say rượu với thơ văn, giọng châm biếm chua cay, tố giác bọn quan lại tham nhũng hối lộ của dân nghèo. Cảm đề của Tản Đà thời ấy với ngày nay vẩn còn giá trị đối với văn học và lịch sử. Thế kỷ 21 nhưng vấn nạn tham nhũng, hối lộ, bán nước chưa chấm dứt ...
Hư thì hư vậy, say thì cứ say.
Đất say đất cũng lăn quay,
Trời say mặt cũng đỏ gay, ai cười?
Say chẳng biết phen này là mấy,
Nhìn non xanh chẳng thấy lại là say
Quái! Say sao? Say mãi thế nầy?
Say suốt cả đêm ngày như bất tỉnh,
Thê ngôn túy tửu chân vô ích.
Ngã dục tiêu sầu thả tự do.
Việc trần ai, ai tỉnh, ai lo,
Say lúy túy nhỏ to đều bất kể.
Trời đấy nhỉ! Cái say là sướng thế!
Vợ khuyên chồng, ai dễ đã chừa ngay,
Muốn say lại cứ mà say.
(Lại say)
Hơi đồng đã sạch mồm ông lớnTổ tiên của dân tộc Việt Nam đã bỏ xương máu, dựng nước và giữ nước, mở mang bờ cõi qua các triều đại Đinh-Lê-Lý-Trần-Nguyễn chống lại các triều đại phong kiến Trung Hoa giành độc lập sau một ngàn năm Bắc thuộc, nhưng không thoát khỏi cảnh gần 100 năm bị thực dân Pháp đô hộ. Tản Đà cũng như mọi người đau lòng trước hoàn cảnh đất nước mất chủ quyền, dù sống trên giang sơn gấm vóc Việt Nam nhưng làm người dân nô lệ. Vịnh Bức Dư Đồ Rách in lần đầu năm 1921, trong tập thơ Còn Chơi. Đến năm 1925 được tuyển chọn in trong tập Thơ Tản Đà, nói lên tâm trạng, hoàn cảnh nước nhà trong giai đoạn suy vong, cương thường đạo nghĩa nghìn xưa đảo lộn, bọn tay sai tiếp tay với thực dân ăn hại của dân.
Mặt sắt còn bia miệng thế gian
Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn
Cho nên quan nó dễ làm quan
Cũng phường dối nước quân ăn cắp
Cũng lũ tàn dân giống hại dân
Lạnh lẻo hơi sương tòa Tạp chí
Lệ ai giàn giuạ với giang sơn
(Cảm đề)
Nọ bức dư đồ thử đứng coi,Đất nước Việt Nam độc lập, nhưng bị bọn bành trướng Trung cộng xâm chiếm biên giới, lãnh hải. Ngư dân bị bọn cướp biển Trung quốc bắn giết, bắt bớ giam cầm, tịch thu ghe lưới, tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam. Cũng như dư luận ồn ào trong và ngoài nước về vấn đề khai thác Bauxite ở Tây nguyên làm ảnh hưởng môi trường và an ninh quốc gia... Bức dư đồ nầy ai sẽ chịu trách nhiệm bồi lại? Tựa đề truyện Thề non nước của Tản Đà diễn tả một phần tâm sự của mình trong thời gian đất nước bị nô lệ, Tản Đà đã tế nhị lồng ý nghĩ trung thành với giang sơn gấm vóc, là một bài thơ dài có tính tiêu biểu cho lòng yêu nước tha thiết nhưng không ước lệ, lời thơ óng ả điêu luyện, chân thật và thanh thoát.
Sông sông núi núi khéo bia cười,
Biết bao lúc mới công vờn vẽ,
Sao đến bây giờ rách tả tơi?
Ấy trước ông cha mua để lại,
Mà sau con cháu lấy làm chơi!
Thôi thôi có trách chi đàn trẻ,
Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi!
Nước Non nặng một lời thềTrong sự nghiệp sáng tác thơ văn Tản Đà, ông còn là một thiên tài dịch thơ Đường. Những bài thơ lục bát không bị gò bó mà chuyển tải cả tâm hồn mình vào thơ, được nhiều nhà phê bình văn học như Phạm Văn Diêu cho là hay hơn các bản dịch khác Hai câu kết của bài Hoàng hạc lâu :
Nước đi, đi mãi không về cùng non
Nhớ lời nguyện Nước cùng non
Nước đi chưa lại non còn đứng không
Non cao những ngón cùng trông
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày
Xương mai một nắm hao gầy
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương
Trời tây bong ngả tà dương
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha,
Non cao tuổi vẫn chưa già,
Non thề nhớ Nước, Nước còn quên Non
(Thề non nước)
Nhật mộ hương quan hà xứ thịTản Đà không dịch chữ sử nghiã là "xui khiến", nhưng dịch là "cho" rất hay
Yên ba giang thượng sử nhân sâu
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,Tản Đà ảnh hưởng bà Chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
Ngồi buồn nhớ chị Xuân HươngHay vịnh cảnh đi chơi chùa
Hồn thơ còn hãy như nhường trêu ai....
Đã trót hở hang khôn khép lại
Lại còn e nỗi chị em ghen
(Hoa sen nở trong đầm)
Nước tuôn ngòi biếc trong trong vắt
Đá hỏm hang đen tối tối mò
Chốn ấy muốn chơi con mỏi gối
Phàm trần chưa biết nhắn nhe cho
(Chơi chùa Hương Tích)
Làm báo |
Tội nặng nhất trần gianTản Đà vào Gia định viết cho báo Thần chung và Đông Pháp thời báo của ông Diệp văn Kỳ. Giấc mộng lớn, nhỏ đều bay vào hư không, nên Tản Đà phải sống với nghề dịch thơ Đường cho báo Ngày nay, chú thích truyện Kiều, dịch Liêu trai chí dị cho nhà xuất bản Tân Dân. Năm 1931-1932 Tản Đà bút chiến với nhà văn Phan Khôi (1887-1960) về luận lý Tống Nho, ông đòi đem Phan Khôi ra Văn Miếu quất roi vào đít. Đối với phong trào thơ mới đang lên, các tờ báo mới như Phong Hoá của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, đem Tản Đà ra phê bình gây nhiều tranh cãi giữa phe cựu học và tân học. Vào giai đoạn cựu học lùi vào bóng tối lãng quên, Tản Đà mở trường dạy chữ Hán không có người theo học, mở phòng xem bói cũng vắng khách, đời sống vất vả, không đủ tiền trả tiền thuê nhà. Ông phải tự trách mình
Là bắt anh Khắc Hiếu
Làm tạp chí "An Nam"
Khi làm chủ báo, lúc viết mướnhay
Hai chục năm dư cảnh khôn cùng
Trần gian thước đất vẫn không có
Bút sắt chẳng hơn gì bút long
Ngày xuân như ngựa, đầu xanh bạc
Chán cả giang hồ hết cả ngông
(Tiễn ông công lên trời)
Trời sinh ra bác Tản ĐàCuộc đời không phải luôn bình yên hay đẹp như mộng, Tản Đà trải qua nhiều giai đoạn khó khăn từ tinh thần đến vật chất. Theo lời kể lại người con trưởng của Tản Đà là Nguyễn Khắc Xương ở Phú thọ nay đã hơn 85 tuổi, đã tập hợp biên soạn những tác phẩm của thân phụ: "lúc ông 17 tuổi thì nhà thơ Tản Đà mất, để lại 7 người con 4 trai và 3 gái với cảnh nghèo trong nhà không đầy 2 kilo gạo và 10$ lẻ! " Nhưng đến lúc xuôi tay về bên kia thế giới, thì những người trước đây phê bình chỉ trích Tản Đà rất nặng lời đã viết những loạt bài tưởng niệm và thương tiếc nhưng đã muộn màng !! Qua những bài học của người xưa chúng ta thấy điều quan trọng nhất con người sống với nhau cần phải có cái TƯØ TÂM, nên đối xử với nhau tốt đẹp, vì theo luật tạo hoá tất cả sẽ trở về với cát bụi hư vô.
Quê hương thời có cửa nhà thi không
Nửa đời nam, bắc, tây, đông
Bạn bè sum họp vợ chồng biệt ly
Túi thơ đeo khắp ba kỳ
Lạ chi rừng biển, thiếu gì gío trăng..
(thú ăn chơi) Tết đến năm nay nghĩ cũng buồn
Tiền thì không có nợ đòi luôn
(Tết than việc nhà)
Tác phẩm của Tản Đà được xuất bản, tiểu thuyết và luận thuyết
Thề non nước
Trần ai tri kỷ (1932)
Giấc mộng lớn. Giấc mộng con (1916)
Giấc mộng con II (1932)
Tản Đà luận văn, Tản Đà văn tập (1932)
Tản Đà xuân sắc (1934)
Khối tình con (1918)
Giáo khoa: Lên sáu(1919), Lên tám(1920), Đài gương truyện, Quốc sử huấn mông,(1924) Đàn bà Tàu (dịch liệt nữ truyện) , Còn chơi (1921)
Tuồng chèo: Tây Thi, Tỳ bà Hành, Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai
Dịch thuật. Đại học, Đường Thi, Liêu Trai Chí Dị
Khảo cứu Truyện Kiều chú giải ....
Thơ văn Tản Đà trước 1975 đã đưa vào chương trình giáo dục Đại Học văn khoa và Trung học của miền Nam tự do. Tản Đà đã đóng góp vào kho tàng văn chương Việt Nam thật phong phú, thơ Tản Đà phác họa cái đẹp lãng mạn đa tình, hoà hợp giữa thiên nhiên màu sắc, âm thanh và cảm xúc, là những đóa hoa rực rỡ hương sắc, dù thời gian trôi qua không dừng lại nhưng hương sắc thơ Tản Đà không bao giờ phai tàn trong văn học Việt Nam. Thơ Tản Đà luôn bày tỏ nỗi niềm ưu ái đối với quốc gia và dân tộc.
Tài liệu tham khảo |
Tự điển Nhân vật lịch sử Việt Nam của Nguyễn Quyết Thắng NXB Văn hoá
Thơ Tản Đà những lời bình luận NXB văn hoá Thông tin 2003
1/ Ngày sinh của Tản Đà nhiều tài liệu khác viết ông sinh năm 1889 (?)
Trong bài viết "uống rượu với Tản-Đà" của nhà văn Trương-Tửu, tác giả cũng xác nhận Tản Đà sinh vào ngày 27 tháng 4 năm Thành Thái nguyên niên 1889
SẤM TRẠNG
Hào 4, lục tứ: Hồng tiệm vu mộc, hoặc đắc kì giốc, vô cửu (Chim hồng nhảy lên trên cây,
quyền lực (Nói điều nầy không đồng nghĩa với ý thụ động và vô vô cảm mà phải hành động
cương quyết nhưng ôn hòa, hợp với thời vị …Cũng có nghĩa là phải từng bước, trước tiên cần
loại bỏ nội thù mới trừ được ngoại xâm. Đến hôm nay điều này không khó vì dân đã bị dồn vào
thế cùng nên không sợ CS nữa)
III. KẾT LUẬN
Tất cả đều bị/được gài thế! Nhưng ai đã gài thế ? Dưới cái nhìn chiến lược của tây
phương dựa vào vị thế địa dư, cái thế đó là thế gài do địa dư tính nên cần có con đường phải
chọn để hành động chính trị cho phù hợp, người ta gọi con đường chính trị đó là Địa Chính Trị
(geopolitics). Đông phương cũng dựa vào “núi sông thiên định đặt bày” (Cụ Trạng NBK), gọi
10
là cái “hồn thiên sông núi” của địa dư, lại còn dựa vào Đạo học, Dịch học nữa để thấy thế gài và
con đường tốt nhất để giải trừ: Con Đường Đạo học là hướng đi tra cứu Lẽ Biến Dịch của
chính sự vật trong trời đất (Càn Khôn) được con Lý Số Càn (___), Khôn (_ _) chưng ra.
4Các Đạo gia tiên khởi đã lấy cái tượng Càn Khôn Trời Đất, là các dấu chỉ của signs và
symbols, như Càn (___), Khôn (_ _) hay nòng (0), nọc (1)… được ấn ký trong sự vật, và mô
phỏng theo đó để lập ra các con Lý Số (reason numbers) và các đồ hình của Dịch (Yin Yang
Road Maps), gọi là cái “Thiên Thư Định Phận” (Lý Thường Kiệt: Định phận tại Thiên Thư). Cái
Thiên Thư nầy huyền thoại Việt gọi là Sách Ước không chữ (Sách Ước Trinh Nguyên: “Sách
Ước trinh nguyên không một chữ…”)
Các ‘Thiên Thư’ chưng ra Đạo Biến Dịch, nên các Đạo gia hay những người thông Dịch
thấy được Đạo Lý, nên có khả năng tiên tri. Chính cụ Trạng nói rằng ông viết Sấm Truyền nhờ
Đồ Thư và ông đã toán việc (tính việc dựa trên những con lý số) như thần! Ông đã thấy việc 500
năm trước và 500 năm sau… trong đó có lời tiên tri về sự kiện biển Đông hôm nay: Ông nói,
“kình ngư hải ngoại huyết lưu hồng”. Và, theo đó, hải ngoại không mang nghĩa là ngoài biển
mà là biển ngoài: chiến tranh không xảy ra khu vực hải nội (Hải chiến không xảy ra ở biển
Việt Nam (biển Đông) mà xảy ra ở biển ngoài, biển Nhật Bản (hải ngoại)! Thế nên mới có câu
Sấm tiếp theo của Ngài nữa là “Bất chiến tự nhiên thành” để xác định VN không đánh cũng
thành công (đương nhiên là Nhật phải đánh, như đã viết ở phần Sơn Phong Cổ).
Tất cả nằm trong thế cài, thế cài nầy nảy sinh từ “núi sông thiên thiên định đặt bày”(5) và
muốn rõ, hãy tra cứu trên Đồ Thư Sách Ước: “Đồ thư một quyển xem ngay mới rành” (6).
Ngày nay, trong lãnh vực chính trị liên quốc gia, mọi hành động nhằm gỡ ra thế cài đó,
như là cái thế thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Tàu: “Thế chiến quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế,
phải thế”! (7)
Toán việc chính trị dựa trên sông núi thiên nhiên đặt bày, cùng dựa vào Việt Lý, Việt
Dịch Dịch, tôi tạm gọi cái chính trị đó là: PHONG THỦY CHÍNH TRỊ.
Qua cái nhìn phong thùy chính trị nầy tôi xin khẳng định: Hải chiến Nhật Tàu tất phải
xảy ra: Tàu sẽ thua, Nhật dưới sự yểm trợ của đồng minh, sẽ thắng để Thế giới sẽ bước vào
kỷ nguyên mới của hòa bình, phát triển và phồn thịnh trong nhiều trăm năm.
Riêng VN, nhiệm vụ con dân Việt là cần sớm cúng cố nội lực mà văn hóa là trọng tâm,
loại bỏ CS là nhiệm vụ trước mắt, để sớm hướng đến xây dựng Dân Chủ, Dân Quyền, Nhân
Quyền và Nhân Bản với Nhân Vị là Người đứng giữa Trời Đất “Trung lập nhi bất ỷ cường chi
kiểu” (Đứng giữa Trời Đất mà không cậy vào, cách đứng như vậy hùng mạnh thay!). Lối hướng
đến đó chẳng những cho VN mà cho cả CON NGƯỜI hay nhân loại nói chung!
San Jose, ngày 7 tháng 11, 2013.
Cước Chú:
(1): Jung: Carl G. Jung: Nhà phân tâm học người Đức đã cùng cộng tác cùng ông Richard Wilhelm (lấy
tên tiếng Hán là Vệ Lễ Hiền), đã bắt nhịp cầu cho hai cõi Đông Tây. Hai ông rất mê Kinh Dịch (Book of
Changes) và tin tưởng vào bói Dịch, hai ông đã có công rất lớn trong việc đem Dịch của phương Đông
truyền bá sang Tây phương.
(2): Trạng Trình Nguyễn Bính Khiêm (1491 _ 1585), tên húy là Nguyễn Văn Đạt, tự là Hanh Phủ, hiệu là
Bạch Vân Cư Sĩ. Ông đã dựa vào hai hình Đồ Thư (Hà Đồ, Lạc Thư) mà viết ra Sấm Trạng để đời:
“Nước Nam từ thuở Hồng Bàng
Đổi thay cuộc thế, gian san chuyển vần
11
Đinh, Lê, Lý Trần thuở trước
Đã bao lần vận nước đổi thay
Núi sông thiên định đặt bày
Đồ Thư một quyển, xem ngay mới rành”…
(3): “Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại Thiên Thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khang thủ bại hư” Lý Thường Kiệt
(4): “Chưa từng thấy ai không thông Dịch mà thông Sự Lý Sự Vật, muốn thong Sự Lý Sự vật phải thông
Dịch” Nguyễn Duy Cần (1907 _ 1998) tại làng Điều Hoà, tổng Thuận Trị, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho
(nay thuộc thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang). Ông là một học giả lớn của Nam Việt Nam trước 75,
chẳng những nhiều tác phẩm mà còn có chiều sâu về ảnh hưởng trên phương diện học thuật.
(5), (6): Trạng Trình NBK.
(7): Ngô Thời Nhậm (NTN), tự là Hy Doãn, hiệu là Đạt Hiên, con của Ngô Thời Sĩ, đậu tiến sĩ
năm 1775, đầu Ngyễn Huệ và được phong làm Tả thị Lang Bộ lại. Bởi có mối tư thù với Đặng
Trần Thường (ĐTT) dưới trướng của Gia Long, nên khi nhà Tây Sơn suy vong, NTN bị ĐTT
đánh roi có tẩm thuốc độc mà chết. Giữa hai Ông Nhậm và Thường có 2 câu đối rất hay:
NTN thất thế bị bắt ông nói: “Thế chiến quốc, thế xuân thu, gặp thời thế, thế thời, phải thế”!
Cậy ở vào thế thắng ĐTT đáp: “Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai, ai dễ, biết ai”!
Cái hay là đối đáp rất chỉnh với lại cái lối chơi chữ ở đây nữa
(*): Các lời giải thoán từ và hào từ hầu hết phỏng theo Nguyễn Hiến Lê _ Kinh Dịch Đạo của
Người Quân Tử _ NXB Văn Học 1994
12
may tìm được cành thẳng mà đậu, không có lỗi).
Hào 4 nằm ngoại quái, chim hồng đã bay ra ngoài (chỉ nười Việt hải ngoại), vẫn được yên
ổn ởtrên vị thế cao (cành thẳng), điều đó không gì là lỗi nhưng bởi chim hồng là giống sống
dưới nước chứ không phải trên cây nên không mấy hợp (người Việt hải ngoại vẫn là người Việt),
không chịu trở về với (h.1 nội quái) là đất nước và dân chúng, đó mới là cái lỗi.
Hào 5, cửu ngũ: Hồng tiệm vu lăng, phu tam tuế bất dựng, chung mạc chi thắng, cát
(Chiêm hồng lên gò cao, vợ ba năm không sinh đẻ, nhưng cuối cùng không gì thắng nổi chính
đáng, tốt) Hào 5 dương, trung chính, nhưng trong thời quái tiệm (từ từ không thể nhanh được) nên
sự kết hợp hào 5 với hào 2 (như việc vợ chồng) tuy hợp nhưng không thể nhanh, cũng gặp nhiều
trở lực (bị h.4 âm, chỉ kẻ xấu, ngăn cản) nhưng dù gì đi nữa, cuối cùng vẫn tốt vì có trung chính.
Liên hệ thực tế VN, sự xung đột người Việt quốc nội và hải ngại, cũng như VN và các
nước phương Tây (h.5 và h.2 đều trung chính) gặp nhiều trở ngại nhưng cuối cùng sẽ giải
quyết tốt. Điều nầy cũng dễ hiểu, cái trở lực ngăn cản 2 và 5, với quái Tiệm, là h. 4 dương
(không trung , không chính), đối với hiện thực là bị TC cản mũi kì đà, nhưng những trở lực sẽ
không còn nữa khi Trung Nhật đụng độ và TC thua như đã bàn trong quái Sơn Phong Cổ.
Hào 6, thượng cửu: Hồng tiệm vu quì, kì vũ khả dụng vi nghi, cát (Hào thượng trên
cùng, dương: Chim hồng bay bổng đường mây, lông (rớt) có thể lấy trang điểm, tốt)
Đối chiếu với VN, cuối thời kỳ Tiệm, VN tuy không chiến (bất chiến), cũng thành công
(tự nhiên thành) do đã có cuộc chiến Nhật Trung giải quyết xong và sẽ đưa ra quốc tế để giải
quyết v/đ biển đảo.
VN sau đó sẽ phát triển tốt đẹp (như chim hồng bay bổng đường mây), có thể làm khuôn
mẫu cho nhiều nước (khả dụng vi nghi)
@ ĐỐI CHIẾU QUÁI PHONG SƠN TIỆM VỚI HIỆN THỰC VN
Trên hiện thực, từ khi có đảng CSVN làm công cụ tay sai của Tàu, lên nắm quyền điều hành
đất nước (Điều 4 HP giành quyền lãnh đạo cho đảng), VN bị cột chặt trong vòng kìm tỏa rất
thâm độc và tinh vi của Tàu, khiến không tìm ra được lối thoát. Trong hoàn cảnh đó, Việt Nam
mất chủ quyền từ đó, cuộc sống người dân rất cơ cực, khổ đau, kêu than nhưng lại không lỗi, vì
trong thời Tiệm và trong hoàn cảnh đó chẳng làm gì hơn được nên quẻ nói là “vô cửu” (không
lỗi). Và, không lỗi nữa là trong thời tiệm (tiến chậm), người dân đã kiên trì chịu đựng mà không
nổi loạn quật cường, dễ bị đàn áp như ở Thiên An Môn bên Tàu, như thế là hợp với hào 1 của
quái Tiệm, hợp với “bất chiến tự nhiên thành”, hợp với thời quẻ và hợp với sự sắp xếp của siêu
quyền lực (Nói điều nầy không đồng nghĩa với ý thụ động và vô vô cảm mà phải hành động
cương quyết nhưng ôn hòa, hợp với thời vị …Cũng có nghĩa là phải từng bước, trước tiên cần
loại bỏ nội thù mới trừ được ngoại xâm. Đến hôm nay điều này không khó vì dân đã bị dồn vào
thế cùng nên không sợ CS nữa)
III. KẾT LUẬN
Tất cả đều bị/được gài thế! Nhưng ai đã gài thế ? Dưới cái nhìn chiến lược của tây
phương dựa vào vị thế địa dư, cái thế đó là thế gài do địa dư tính nên cần có con đường phải
chọn để hành động chính trị cho phù hợp, người ta gọi con đường chính trị đó là Địa Chính Trị
(geopolitics). Đông phương cũng dựa vào “núi sông thiên định đặt bày” (Cụ Trạng NBK), gọi
10
là cái “hồn thiên sông núi” của địa dư, lại còn dựa vào Đạo học, Dịch học nữa để thấy thế gài và
con đường tốt nhất để giải trừ: Con Đường Đạo học là hướng đi tra cứu Lẽ Biến Dịch của
chính sự vật trong trời đất (Càn Khôn) được con Lý Số Càn (___), Khôn (_ _) chưng ra.
4Các Đạo gia tiên khởi đã lấy cái tượng Càn Khôn Trời Đất, là các dấu chỉ của signs và
symbols, như Càn (___), Khôn (_ _) hay nòng (0), nọc (1)… được ấn ký trong sự vật, và mô
phỏng theo đó để lập ra các con Lý Số (reason numbers) và các đồ hình của Dịch (Yin Yang
Road Maps), gọi là cái “Thiên Thư Định Phận” (Lý Thường Kiệt: Định phận tại Thiên Thư). Cái
Thiên Thư nầy huyền thoại Việt gọi là Sách Ước không chữ (Sách Ước Trinh Nguyên: “Sách
Ước trinh nguyên không một chữ…”)
Các ‘Thiên Thư’ chưng ra Đạo Biến Dịch, nên các Đạo gia hay những người thông Dịch
thấy được Đạo Lý, nên có khả năng tiên tri. Chính cụ Trạng nói rằng ông viết Sấm Truyền nhờ
Đồ Thư và ông đã toán việc (tính việc dựa trên những con lý số) như thần! Ông đã thấy việc 500
năm trước và 500 năm sau… trong đó có lời tiên tri về sự kiện biển Đông hôm nay: Ông nói,
“kình ngư hải ngoại huyết lưu hồng”. Và, theo đó, hải ngoại không mang nghĩa là ngoài biển
mà là biển ngoài: chiến tranh không xảy ra khu vực hải nội (Hải chiến không xảy ra ở biển
Việt Nam (biển Đông) mà xảy ra ở biển ngoài, biển Nhật Bản (hải ngoại)! Thế nên mới có câu
Sấm tiếp theo của Ngài nữa là “Bất chiến tự nhiên thành” để xác định VN không đánh cũng
thành công (đương nhiên là Nhật phải đánh, như đã viết ở phần Sơn Phong Cổ).
Tất cả nằm trong thế cài, thế cài nầy nảy sinh từ “núi sông thiên thiên định đặt bày”(5) và
muốn rõ, hãy tra cứu trên Đồ Thư Sách Ước: “Đồ thư một quyển xem ngay mới rành” (6).
Ngày nay, trong lãnh vực chính trị liên quốc gia, mọi hành động nhằm gỡ ra thế cài đó,
như là cái thế thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Tàu: “Thế chiến quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế,
phải thế”! (7)
Toán việc chính trị dựa trên sông núi thiên nhiên đặt bày, cùng dựa vào Việt Lý, Việt
Dịch Dịch, tôi tạm gọi cái chính trị đó là: PHONG THỦY CHÍNH TRỊ.
Qua cái nhìn phong thùy chính trị nầy tôi xin khẳng định: Hải chiến Nhật Tàu tất phải
xảy ra: Tàu sẽ thua, Nhật dưới sự yểm trợ của đồng minh, sẽ thắng để Thế giới sẽ bước vào
kỷ nguyên mới của hòa bình, phát triển và phồn thịnh trong nhiều trăm năm.
Riêng VN, nhiệm vụ con dân Việt là cần sớm cúng cố nội lực mà văn hóa là trọng tâm,
loại bỏ CS là nhiệm vụ trước mắt, để sớm hướng đến xây dựng Dân Chủ, Dân Quyền, Nhân
Quyền và Nhân Bản với Nhân Vị là Người đứng giữa Trời Đất “Trung lập nhi bất ỷ cường chi
kiểu” (Đứng giữa Trời Đất mà không cậy vào, cách đứng như vậy hùng mạnh thay!). Lối hướng
đến đó chẳng những cho VN mà cho cả CON NGƯỜI hay nhân loại nói chung!
San Jose, ngày 7 tháng 11, 2013.
Cước Chú:
(1): Jung: Carl G. Jung: Nhà phân tâm học người Đức đã cùng cộng tác cùng ông Richard Wilhelm (lấy
tên tiếng Hán là Vệ Lễ Hiền), đã bắt nhịp cầu cho hai cõi Đông Tây. Hai ông rất mê Kinh Dịch (Book of
Changes) và tin tưởng vào bói Dịch, hai ông đã có công rất lớn trong việc đem Dịch của phương Đông
truyền bá sang Tây phương.
(2): Trạng Trình Nguyễn Bính Khiêm (1491 _ 1585), tên húy là Nguyễn Văn Đạt, tự là Hanh Phủ, hiệu là
Bạch Vân Cư Sĩ. Ông đã dựa vào hai hình Đồ Thư (Hà Đồ, Lạc Thư) mà viết ra Sấm Trạng để đời:
“Nước Nam từ thuở Hồng Bàng
Đổi thay cuộc thế, gian san chuyển vần
11
Đinh, Lê, Lý Trần thuở trước
Đã bao lần vận nước đổi thay
Núi sông thiên định đặt bày
Đồ Thư một quyển, xem ngay mới rành”…
(3): “Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại Thiên Thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khang thủ bại hư” Lý Thường Kiệt
(4): “Chưa từng thấy ai không thông Dịch mà thông Sự Lý Sự Vật, muốn thong Sự Lý Sự vật phải thông
Dịch” Nguyễn Duy Cần (1907 _ 1998) tại làng Điều Hoà, tổng Thuận Trị, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho
(nay thuộc thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang). Ông là một học giả lớn của Nam Việt Nam trước 75,
chẳng những nhiều tác phẩm mà còn có chiều sâu về ảnh hưởng trên phương diện học thuật.
(5), (6): Trạng Trình NBK.
(7): Ngô Thời Nhậm (NTN), tự là Hy Doãn, hiệu là Đạt Hiên, con của Ngô Thời Sĩ, đậu tiến sĩ
năm 1775, đầu Ngyễn Huệ và được phong làm Tả thị Lang Bộ lại. Bởi có mối tư thù với Đặng
Trần Thường (ĐTT) dưới trướng của Gia Long, nên khi nhà Tây Sơn suy vong, NTN bị ĐTT
đánh roi có tẩm thuốc độc mà chết. Giữa hai Ông Nhậm và Thường có 2 câu đối rất hay:
NTN thất thế bị bắt ông nói: “Thế chiến quốc, thế xuân thu, gặp thời thế, thế thời, phải thế”!
Cậy ở vào thế thắng ĐTT đáp: “Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai, ai dễ, biết ai”!
Cái hay là đối đáp rất chỉnh với lại cái lối chơi chữ ở đây nữa
(*): Các lời giải thoán từ và hào từ hầu hết phỏng theo Nguyễn Hiến Lê _ Kinh Dịch Đạo của
Người Quân Tử _ NXB Văn Học 1994
12
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 402
THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM =TẢN ĐÀ
NGUYỄN THIÊN THỤ * THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM
NGUYỄN THIÊN THỤ
A.PHẦN THỨ NHẤT: CÁC BẢN DỊCH "THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM"
I. BẢN NGÔ ĐIỀNBản này được in trong bộ Văn Đàn Bảo Giám của Trần Trung Viên.Bộ này Trần Trung Viên viết lời tựa năm ât sửu (1926), Dương Bá Trạc năm bính dần (1927), và Tản Đà đề tựa 1934. Nam Ký xuất bản 1932, Mặc Lâm Sai gon tái bản năm 1968. Theo Trần Trung Viên, dịch giả bài thu Dạ Lữ Hoài Ngâm này là Ngô Điền.Theo Trần Trung Viên, ông quê Nam Định, thi đậu Hoàng giáp đời vua Tự Đức. Trứơc làm quan trong nội các, sau thuyện đi nhậm ở một tỉnh xa xôi. Do vậy,lâu không được về quê nên có viết tập Thư Dạ Lữ Hoài Ngâm để than thở niềm tư gia ở nơi đất khách (VĐBG .Tiểu sử các bậc thi hào ViệtNam).
Theo phả hệ họ Ngô làng Tả Thanh Oai, Ngô Điền , thuộc dòng Ngô Thời Sĩ, Ngô Thời Nhậm, người Tả Thanh Oai huyện Thanh Trì , tỉnh Hà Đông , đỗ Hoàng giáp năm 1841.
http://www.phahe.vn/FamilyTree/Pages/ViewFunctionContent.aspx?FamilyTreeID=772&id=391
Theo Đăng Khoa lục, Ngô Thạc 吳 碩 sinh năm giáp tuất ( 1814 ) quán xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Nội, đỗ cử nhân khoa canh tí (1840), đỗ hoàng giáp khoa tân sửu ( 1841) đời Thiệu Trị nguyên niên, làm tri phủ bị cách.
Ngô Thạc là Ngô Điền vì khi đi thi, ông đổi tên. Việc đổi tên ngày xưa là chuyện bình thường và dễ dàng. Như vậy, Ngô Điền là người cùng tuổi với Đinh Nhật Thận, và là người đồng thời với Đinh Nhật Thận, Nguyễn Hàm Ninh, Cao Bá Quát và Tùng Thiện vương.
Còn việc nói ông viết Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm thì e không đúng, ông chỉ dịch bản Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm của Đinh Nhật Thận mà thôi.Trong 99 Chóp Núi, ông Đẩu Tiếp có nhắc đến bản Trần Trung Viên, bản Xuân Lan và bản của Nguyễn Văn Trác, nhưng không đề cập đến Ngô Điền,. Ngoài Trần Trung Viên cũng không ai nói đến Ngô Điền và Thư Dạ Lữ Hoài Ngâm.\
THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM
Đêm thu lặng, bóng giời thấp thoáng
Cách rèm thưa rót chén kim bôi.
Gẫm xem thời sự sụt sùi,
Cõi phù mấy thuở làm vui cho đời.
Người ngắm cảnh, trăng soi hoa nở
Cảnh trêu người ngọn gió rung cây
Nỗi niềm mấy kẻ tỏ hay ?
Cùng ai trăng gió đêm ngày với thu
Thơ nhã ái bốn câu ba vận
Rượu ly hoài vài chén làm khuây
Trước đèn trong chốn thư trai
Não lòng đất khách, ngậm ngùi người xưa.
Ngoài Hương thủy tiếng ngư văng vẳng
Thuyền ở đâu chèo thẳng bên dương ?
Bồi hồi đêm nguyệt trời sương
Non hàn thuyền khách trông nhường như bay.
Khúc ngư thủy nhớ ngày Đại Đỗ
Buộc con thuyền lòng cũ bơ vơ
Mấy thu để tám bài thơ
Xui người đất khách ngẩn ngơ tình làng
Xưa ta đi liễu đang thanh tế
Chim hoàng anh mới kể ba câu.
Bằng nay cúc đã hoa thâu
Liễu kia cũng nghĩ âu sầu vì ve
Khi ta đi đào khoe tiếu kiểm
Ngọn đông phong mới điểm ba hàng
Bằng nay lan đã rỏ (1) sương
Đào non nghĩ cũng võ vàng vì thu
Làm chi vậy buồn rù (2) đất khách
Nhật quán đồng mượn thích làm khuây
Có đêm nương bóng hồi tây
Ba tiêu khóc lệ, hơi may ngâm trùng.
Làm chi vậy dở dang quán lữ.
Năm sương yên kế nửa vừa rồi
Có khi ngồi nhẫn thư trai
Gió lay bên trúc, nguyệt cài trên lương
Nào có phải như chàng ném bút
Vì vua mà đồng mác (3) cho cam
Luống đem thân thế cát lầm
Khóc ngồi hổ mặt, nghe nằm thẹn tai
Nào có phải như ai vâng hịch
Vì thân mà xa cách cho xong
Bỗng không khách địa binh bồng.
Trông mây lại nhớ, xem bông lại phiền.
Ngày nay đứng trông miền bể rộng
Một cánh lá buồm thẳng gióng Giang Lăng.
Lòng quê đâu đã bâng khuâng,
Phút theo buồm nhẹ tếch chừng bể khơi.
Ngày nay đứng trông nơi non thẳm,
Một làn mây sớm ngắm trên không.
Lòng quê đâu đã rối bong.
Phút theo mây kéo mấy trùng non xa
Trông tin nhạn biết là đâu tá,
Tâm tình này ai tả cho nên.
Chuông chùa Diệu đế khua rền
Trống vang cửa bể súng rên thành vàng
Lòng quanh quéo sông càng quanh quéo.
Cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu.
Lữ du ai chẳng tiêu điều,
Tiếng chày trong xóm tiếng chèo ngoài sông.
Than đất khách não nùng tâm sự,
Thương người quê tình tự bây giờ.
Đèn khuya cơn tỏ cơn mờ,
Ngậm tình che quạt luống chờ bóng trăng.
Canh khuya những mơ mòng trên gối,
Mảnh tình riêng biết nói cùng ai.
Thương thay đêm vắng im người,
Ngủ mơ giấc bướm tỉnh rồi gà kêu.
Hoặc có lúc ban chiều trong khổn,
Bước ra thềm lại muốn lên lầu .
Phút nghe con én kêu sầu,
Lược rầu tóc chải gương rầu mặt soi.
Hoặc có lúc gieo thoi đêm tối,
Gọi con đồng vừa tới điểm đăng.
Phút nghe tiếng nhạn khơi chừng,
Máy rời chân đạp thoi ngừng tay đưa.
Thương thay có đêm chờ nửa gối,
Đêm gần qua chẳng thấy thư về.
Gác thoi (4) ra đứng bên hè
Đầu thềm con dế rù rì khóc sương.
Trông chẳng thấy chán chường than thở,
Đoái phòng khuê muốn trở (5) gót giầy.
Gà ai eo óc hồi tây,
Gẫm tình tựa gối liền tay khêu đèn
Thương thay những ngóng tin sớm ấy,
Ngày gần hôm chẳng thấy thư về
Bó xiêm lửng thửng bên hè,
Mày sầu khóm liễu dì dì khóc ve.
Trông chẳng thấy lại về đứng đợi,
Đoài cầm hiên muốn gợi tay đàn.
Bướm đâu trêu cợt bình lơn,
Buồn thôi xỏ dép ra vườn bẻ hoa.
Nay hẳn bảo trời đà mát mẻ,
Lương nhân ta có dễ gần về.
Biết đâu đường thế khắt khe
Dặm ngàn hồ dễ đi về cho năng.
Này hẳn bảo ta chừng lâu ở,
Ôm khâm trù hay đã có người.
Phong lưu tính đã quen rồi,
Phồn hoa lịch sự lại người Tràng An.
Ví chẳng thể bàn hoàn chi mãi,
Hết xuân rồi hạ lại sang thu.
Lầu hồng cung cấm ấy ru
Anh hùng lại với trượng phu ai từ.?
Như thế ấy bây giờ ai biết,
Trông yên ba khôn xiết dạ sâu.
Há còn trai trẻ chi đâu,
Phong lưu thói cũ giang hồ thời xưa.
Cảnh du lữ câu thơ thổn thức,
Bóng hương khuê xa khuất dặm trường
Giang hồ dù có biết thương
Thiết tình lại nhớ những đường dặm khơi.
Tuy rằng nói đã người tần tảo,
Trên tôn đường trong đạo tề gia.
Rau khe nước suối cũng là,
Mình xa chẳng biết ở nhà làm sao.
Mừng cho trẻ đứa nào đứa ấy,
Gia đình thời đều thấy yên vui.
Lúc đi trẻ mới hay cười,
Tóc răng nay đã ra người lớn khôn.
Vài thằng cháu nhờ ơn cũng khá,
Tuổi năm nay chừng đã trưởng thành.
Phúc nhà mừng trộm cho anh,
Năm nay đã có học hành cùng ai.
Bạn đèn sách một hai tri thức
Mùi lan chi thơm nức một nhà.
Từ phen chén rựợu quan hà,
Vị thành lúc ấy rồi mà dương quan.
Sau chẳng biết ngoài miền Bắc động,
Hai anh ta có chóng hồi trang ?
Mới hay đồng bệnh cùng thương,
Kẻ Tần người lại Tiêu tương một trời.
Đến bao giờ cùng ngồi kể chuyện,
Kể hương tình cho đến khách trung.
Bằng nay nào nguyệt nào phong,
Nào thi nào tửu biết cùng ai hay.
Cảnh li biệt lệ đầy hai mắt,
Bóng hương khuê xa khuất dặm ngàn.
Rượu rồi ngồi tựa lan can
Chiêm bao thấy giấc canh tàn về thu.
(Văn Đàn Bảo Giám III,107-111)Lầu hồng cung cấm ấy ru
Anh hùng lại với trượng phu ai từ.?
Như thế ấy bây giờ ai biết,
Trông yên ba khôn xiết dạ sâu.
Há còn trai trẻ chi đâu,
Phong lưu thói cũ giang hồ thời xưa.
Cảnh du lữ câu thơ thổn thức,
Bóng hương khuê xa khuất dặm trường
Giang hồ dù có biết thương
Thiết tình lại nhớ những đường dặm khơi.
Tuy rằng nói đã người tần tảo,
Trên tôn đường trong đạo tề gia.
Rau khe nước suối cũng là,
Mình xa chẳng biết ở nhà làm sao.
Mừng cho trẻ đứa nào đứa ấy,
Gia đình thời đều thấy yên vui.
Lúc đi trẻ mới hay cười,
Tóc răng nay đã ra người lớn khôn.
Vài thằng cháu nhờ ơn cũng khá,
Tuổi năm nay chừng đã trưởng thành.
Phúc nhà mừng trộm cho anh,
Năm nay đã có học hành cùng ai.
Bạn đèn sách một hai tri thức
Mùi lan chi thơm nức một nhà.
Từ phen chén rựợu quan hà,
Vị thành lúc ấy rồi mà dương quan.
Sau chẳng biết ngoài miền Bắc động,
Hai anh ta có chóng hồi trang ?
Mới hay đồng bệnh cùng thương,
Kẻ Tần người lại Tiêu tương một trời.
Đến bao giờ cùng ngồi kể chuyện,
Kể hương tình cho đến khách trung.
Bằng nay nào nguyệt nào phong,
Nào thi nào tửu biết cùng ai hay.
Cảnh li biệt lệ đầy hai mắt,
Bóng hương khuê xa khuất dặm ngàn.
Rượu rồi ngồi tựa lan can
Chiêm bao thấy giấc canh tàn về thu.
____
1. VĐBG ghi là rõ. Phải là rỏ, nhỏ giọt
2. Buồn rù: buồn rầu. Không hiểu là do tiếng địa phương, do ép vận, hoặc theo quy định của Bội Văn Vận phủ vần âu đọc U.
3.VĐBG và bản Nguyễn Tài Chất ghi là đồng bác trong khi các bản khác ghi là đòng mác. Mác là cây dao nhọn dài, đòng là loại giáo, mũi nhọn có cán dài
4.VĐBG ghi gác toi, chắc là lỗi ấn công, các bản khác ghi là gác thoi.
5. VDBG ghi là dở, các bản khác ghi là trở.Giở hay trở chỉ là giọng Bắc Trung khác nhau, cũng là quay.
BẢN II.G. CORDIER
"Thu dạ lữ hoài ngâm - Plainte de l’exilé par une nuit d’autume " xuất bản năm 1925.
Thu dạ lữ hoài
Thơ nhã ái bốn câu ba vận
Rượu ly hoài vài chén làm khuây
Trước đèn trong chốn thư trai
Não lòng đất khách, ngậm ngùi người xưa.
Ngoài Hương thủy tiếng ngư văng vẳng
Thuyền ở đâu chèo thẳng biên giương ?
Bồi hồi đêm nguyệt trời sương
Non hàn thuyền khách trông chừng như bay.
Khúc ngư thủy nhớ ngày đại đỗ
Buộc con thuyền lòng cũ bơ vơ
Mấy thu để tám bài thơ
Xui người đất khách ngẩn ngơ tình làng
Khi ta đi liễu đang xanh tốt
Chim hoàng anh mới hót ba câu.
Bằng nay cúc đã ngậm thâu
Liễu kia cũng nghĩ âu sầu vì ve
Khi ta đi đào khoe tiếu kiểm
Gió Đông phong mới điểm ba hàng
Bằng nay lan đã rò sương
Đào non nghĩ cũng võ vàng vì thu
Làm chi vậy buồn dù (1) đất khách
Nhật quan đồng mượn thích làm khuây
Có đêm nương gối phòng tây
Ba tiêu khóc lệ hơi bay ngâm trùng
Làm chi vậy giở dương (2) quán lữ.
Năm sương yên kể nửa vừa rồi
Có khi ngỗi nhẫn thư trai
Gió lay bên trúc, nguyệt cái trên lương
Nào có phải như chàng ném bút
Vì vua mà đồng bác cho cam
Luống đem thân thế cát lầm
Khóc ngồi hổ mắt, nghe nằm thẹn tai
Nào có phải như ai vâng hịch
Vì thân mà xa cách cho xong
Bỗng không cách địa bình bồng.
Trông mây lại nhớ xem bông lại phiền
Ngày nay đứng trông miền bể rộng
Một cánh buồm gióng thẳng Giang lăng
Lòng quê luống những bâng khuâng
Phút theo buồm nhẹ tếch chừng bể khơi.
Ngày nay đứng trông nơi non thẳm,
Một áng mây sớm ngắm trên không.
Lòng quê đâu đã rối bồng.
Phút theo mây kéo trùng trùng non xa
Trông tin nhạn biết là đâu tá,
Tâm tình này ai tả cho nên.
Chuông chùa Diệu đế cho rền
Trống vang cửa bể súng ran thành vàng
Lòng quạnh quẽ sông càng cạnh quẽ,
Cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu.
Lữ du ai chẳng tiêu điều,
Tiếng chày trong xóm tiếng chèo ngoài sông.
Thân đất khách não lòng tâm sự,
Thương người quê tình tự bây giờ.
Đèn khuya cơn tỏ cơn mờ,
Ngậm tình che quạt luống chờ bóng trăng.
Canh khuya những mơ màng trên gối,
Mảnh tình riêng biết nói cùng ai.
Thương thay đêm vắng im người,
Ngủ mơ giấc bướm tỉnh rồi gà kêu.
Hoặc có lúc ban chiều trong khổn,
Bước ra thềm lại muốn lên lầu .
Phút nghe con yến kêu sầu,
Lược rầu tóc chải gương rầu mặt soi.
Hoặc có lúc gieo thoi đêm tối,
Gọi con đồng vừa mới điểm đăng.
Phút nghe tiếng nhạn khơi chừng,
Máy rời chân đạp thoi dừng tay đưa.
Thương thay có đêm chờ nửa gối,
Đêm gần qua chẳng thấy thư về.
Gác thoi ra đứng bên hè
Đầu thềm con dế rù rì khóc sương.
Trông chẳng thấy chán chường than thở,
Đoái phòng khuê muốn giở gót giầy.
Gà ai eo óc hồi tây,
Gẫm tình tựa gối liền tay khêu đèn
Thương thay những ngóng tin sớm ấy,
Ngày gần hôm chẳng thấy thư về
Bỏ xiêm lững thững bên hè,
Mây sầu khóm liễu dì dì khóc ve.
Trông chẳng thấy lại về đứng đợi,
Đoài cầm hiên muốn gợi tay đàn.
Bướm đâu trêu cợt bình lơn,
Buồn thôi xỏ dép ra vườn bẻ hoa.
Thơ nhã ái bốn câu ba vận
Rượu ly hoài vài chén làm khuây
Trước đèn trong chốn thư trai
Não lòng đất khách, ngậm ngùi người xưa.
Ngoài Hương thủy tiếng ngư văng vẳng
Thuyền ở đâu chèo thẳng biên giương ?
Bồi hồi đêm nguyệt trời sương
Non hàn thuyền khách trông chừng như bay.
Khúc ngư thủy nhớ ngày đại đỗ
Buộc con thuyền lòng cũ bơ vơ
Mấy thu để tám bài thơ
Xui người đất khách ngẩn ngơ tình làng
Khi ta đi liễu đang xanh tốt
Chim hoàng anh mới hót ba câu.
Bằng nay cúc đã ngậm thâu
Liễu kia cũng nghĩ âu sầu vì ve
Khi ta đi đào khoe tiếu kiểm
Gió Đông phong mới điểm ba hàng
Bằng nay lan đã rò sương
Đào non nghĩ cũng võ vàng vì thu
Làm chi vậy buồn dù (1) đất khách
Nhật quan đồng mượn thích làm khuây
Có đêm nương gối phòng tây
Ba tiêu khóc lệ hơi bay ngâm trùng
Làm chi vậy giở dương (2) quán lữ.
Năm sương yên kể nửa vừa rồi
Có khi ngỗi nhẫn thư trai
Gió lay bên trúc, nguyệt cái trên lương
Nào có phải như chàng ném bút
Vì vua mà đồng bác cho cam
Luống đem thân thế cát lầm
Khóc ngồi hổ mắt, nghe nằm thẹn tai
Nào có phải như ai vâng hịch
Vì thân mà xa cách cho xong
Bỗng không cách địa bình bồng.
Trông mây lại nhớ xem bông lại phiền
Ngày nay đứng trông miền bể rộng
Một cánh buồm gióng thẳng Giang lăng
Lòng quê luống những bâng khuâng
Phút theo buồm nhẹ tếch chừng bể khơi.
Ngày nay đứng trông nơi non thẳm,
Một áng mây sớm ngắm trên không.
Lòng quê đâu đã rối bồng.
Phút theo mây kéo trùng trùng non xa
Trông tin nhạn biết là đâu tá,
Tâm tình này ai tả cho nên.
Chuông chùa Diệu đế cho rền
Trống vang cửa bể súng ran thành vàng
Lòng quạnh quẽ sông càng cạnh quẽ,
Cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu.
Lữ du ai chẳng tiêu điều,
Tiếng chày trong xóm tiếng chèo ngoài sông.
Thân đất khách não lòng tâm sự,
Thương người quê tình tự bây giờ.
Đèn khuya cơn tỏ cơn mờ,
Ngậm tình che quạt luống chờ bóng trăng.
Canh khuya những mơ màng trên gối,
Mảnh tình riêng biết nói cùng ai.
Thương thay đêm vắng im người,
Ngủ mơ giấc bướm tỉnh rồi gà kêu.
Hoặc có lúc ban chiều trong khổn,
Bước ra thềm lại muốn lên lầu .
Phút nghe con yến kêu sầu,
Lược rầu tóc chải gương rầu mặt soi.
Hoặc có lúc gieo thoi đêm tối,
Gọi con đồng vừa mới điểm đăng.
Phút nghe tiếng nhạn khơi chừng,
Máy rời chân đạp thoi dừng tay đưa.
Thương thay có đêm chờ nửa gối,
Đêm gần qua chẳng thấy thư về.
Gác thoi ra đứng bên hè
Đầu thềm con dế rù rì khóc sương.
Trông chẳng thấy chán chường than thở,
Đoái phòng khuê muốn giở gót giầy.
Gà ai eo óc hồi tây,
Gẫm tình tựa gối liền tay khêu đèn
Thương thay những ngóng tin sớm ấy,
Ngày gần hôm chẳng thấy thư về
Bỏ xiêm lững thững bên hè,
Mây sầu khóm liễu dì dì khóc ve.
Trông chẳng thấy lại về đứng đợi,
Đoài cầm hiên muốn gợi tay đàn.
Bướm đâu trêu cợt bình lơn,
Buồn thôi xỏ dép ra vườn bẻ hoa.
Nay hẳn bảo trời đà mát mẻ,
Lương nhân ta có dễ gần về.
Biết đâu đường sá khắt khe,
Dặm ngìn hồ dễ đi về cho năng.
Nay hẳn bảo ta chừng lâu ở,
Ôm khâm trù hay đã có người.
Phong lưu vốn đã quen rồi,
Phồn hoa lịch sự lại mùi Trường An.
Ví chẳng thể bàn hoàn chi mãi,
Hết xuân rồi hạ lại sang thu.
Lầu hồng cung cấm ấy du,
Anh hùng kia mấy trượng phu ai từ.
Như thế ấy bây giờ ai biết,
Trông yên hoa khôn xiết dạ sầu.
Há còn tuổi trẻ chi đâu,
Phong lưu tính cũ giang hồ thói xưa.
Cảnh du lữ câu thơ thổn thức,
Bóng hương khuê xa khuất dặm nghìn.
Giang hồ dù có biết thương,
Thiết tình lại nhớ những đường rậm khơi.
Tuy rằng nói đã người tần tảo,
Trên tôn đường trọng đạo tề gia.
Rau khe nước suối cũng là,
Mình xa chẳng biết ở nhà làm sao.
Mừng cho trẻ đứa nào đứa ấy,
Gia đình thời đều thấy yên vui.
Lúc đi trẻ mới hay cười,
Tóc răng nay đã ra người lớn khôn.
Và thằng cháu nhờ trời cũng khá,
Tuổi năm nay chừng đã trưởng thành.
Phúc nhà mừng hộ cho anh,
Năm nay biết có học hành cùng ai.
Bạn đèn sách một hai tri kỉ,
Mùi lan chi thêm nức một nhà.
Từ phen chuốc chén quan hà,
Vị thành lúc ấy rồi mà dương quan.
Sau chẳng biết ngoài miền Bắc động,
Hai anh ta có chóng hồi chăng ?
Mới hay cùng bệnh thêm thương,
Kẻ Tần người lại Tiêu Tương một giời.
Đến bao giờ cùng ngồi kể chuyện,
Kể hương tình cho đến khách trung.
Bằng nay nào nguyệt nào phong,
Nào thi nào tửu biết cùng ai hay.
Cảnh li biệt lệ đầy nước mắt,
Bóng hương khuê xa cách dặm ngìn.
Rượu rồi ngồi tựa câu lơn,
Chiêm bao thấy giấc canh tàn về thu.
___
(1). Dù: VĐBG ghi buồn rù, Tiếng Bắc rù với dù đọc giống nhau hoặc khác nhau nhưng cùng nghĩa.
(2). Dở dương: VĐBG ghi " dở dang". Dang hay dương chữ nôm và nghĩa cũng là một.
III.BẢN NGUYỄN TÀI CẨN
"Khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận" dựa trên bản bản thảo của anh trai là Nguyễn Tài Chất, xuất bản năm 2008.Bản này có khả năng gần với nguyên tác nhất là bản chép tay do người cháu đích tôn của Đinh Nhật Thận tặng lại cho ông Nguyễn Tài Chất. Đây là văn bản hiện được ông Nguyễn Tài Cẩn lưu giữ và dùng làm cơ sở để so sánh, đối chiếu với các văn bản khác. Đó là các bản 1902 ( tức bản Trường Thịnh Đường in mộc bản mùa đông năm Nhâm Dần đời Thành Thái) và bản Nguyễn Văn Đề được công bố ở cuốn "Trong 99 Chóp Núi" do Hà Xuân Tề đề tựa ngày 4 tháng 7 năm 1941, tại Huế.
THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM
Đêm thu lặng, bóng giời thấp thoáng
Cách rèm thưa chuốc chén gượng nguôi
“Thiên thời nhân sự tương thôi”
Kiếp chiêm bao dễ mấy hồi người ta ?
Người đối cảnh, trước hoa trăng tỏ
Cảnh trêu người ngọn gió rung cây
Nỗi niềm ai kẻ tỏ hay ?
Cùng ai trăng gió đêm này với thu
Thơ nhã ái bốn câu buông vận
Rượu ly hoài ba chén làm khuây
Trước đèn trong chốn thư trai
Chạnh lòng đất khách, nhớ người đời xưa.
Ngoài Hương thủy tiếng ngư văng vẳng
Thuyền từ đâu chèo thẳng biên giang ?
Lờ mờ đêm nguyệt trời sương
Thuyền ai tưởng khách Non, lại không !
.
Khúc ngư thủy nhớ ông Đại Đỗ
Buộc con thuyền lòng cũ bơ vơ
Hứng thu để tám bài thơ
Xui người đất khách ngẩn ngơ tình làng
Xưa ta đi liễu đang thanh tế
Chim hoàng anh mới kể ba câu.
Bằng nay cúc đã hoa thâu
Liễu kia cũng nghĩ âu sầu vì ve
Khi ta đi đào khoe tiếu kiểm
Gió đông phong mới điểm ba hàng
Bằng nay lan đã chồi sương
Đào non nghĩ cũng võ vàng vì thu
Làm chi vậy buồn rầu đất khách
Ngày quán đồng mượn thích làm khuây
Có đêm nương bóng hồi tây
Tiếng sương khóc lá hơi bay gọi trùng
Làm chi vậy lạnh lùng quán lữ.
Năm, sương yên hết nửa đi rồi
Có đêm ngồi nhẫn thư trai
Gió lay bên trúc, nguyệt cái trên lương
Nào có phải như chàng ném bút
Vì vua mà đồng mác cho cam
Luống đem thân thế cát lầm
Thấy ngồi hổ mắt, nghe nằm thẹn tai
Nào có phải như ai vâng hịch
Vì thân mà xa cách cho xong
Bỗng không cách địa binh bồng.
Trông mây lại nhớ, xem bông lại buồn
Ngày nay đứng trông miền bể rộng
Một cánh lá buồm gióng thẳng về Cồn.
Lòng quê đâu đã cuồn cuồn
Phút theo buồm vượt máy ngàn sóng khơi.
Ngày nay đứng trông nơi non thẳm,
Một làn mây sớm ngắm trên không.
Lòng quê đâu đã bồng bồng.
Phút theo mây kéo mấy trùng non xa
Trông tin nhạn biết là đâu tá,
Tâm tình này ai tả cho nên.
Chuông chùa Diệu đế cho rền
Trống vang cửa bể súng rên thành vàng
Sông quạnh quẽ ruột càng quằn quại
Cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu.
Lữ du ai chẳng tiêu điều,
Tiếng chày trong xóm tiếng chèo ngoài sông.
Than đất khách não nùng tâm sự,
Thương người quê tình tự bây giờ.
Đèn khuya cơn tỏ cơn mờ,
Gẫm tình che quạt luống chờ bóng trăng.
Năm canh những mơ màng trên gối,
Mảnh tình riêng biết nói cùng ai.
Thương thay đêm vắng không người,
Ngủ thời bướm báo dậy thời gà kêu.
Hoặc có lúc ban chiều trong khổn,
Bước xuốn thềm lại muốn lên lầu .
Phút nghe con én kêu sầu,
Lược rầu tóc chải gương rầu mặt soi.
Hoặc có lúc đưa thoi đêm tối,
Gọi con tì vừa tới điểm đăng.
Phút nghe tiếng nhạn khơi chừng,
Máy rời chân đạp thoi ngừng tay đưa.
Thương thay có đêm chờ nửa gối,
Đêm gần qua chẳng thấy thư về.
Gác thoi ra đứng bên hè
Tai nghe tiếng dế rè rè khóc sương.
Trông chẳng thấy chán chường than thở,
Đoái phòng khuê muốn trở gót giầy.
Gà ai eo óc hồi tây,
Gẫm tình tựa gối liền tay khêu đèn
Thương thay có ngày nhìn sáu khắc
Ngày gần tàn chẳng thấy thư sang
Xuống thềm ra đứng bên đàng
Mày sầu lá liễu hàng hàng khóc ve.
Trông chẳng thấy lại về đứng đợi,
Đoài cầm hiên tay gợi ngón đàn.
Bướm đâu trêu cợt bình lơn,
Buồn tình mang dép ra vườn hái hoa.
Rày hẳn bảo giời đà mát mẻ,
Lương nhân ta có dễ gần về.
Biết đâu đường thế nhiêu khê
Dặm ngàn hồ dễ đi về cho năng.
Rày hẳn nói mình chừng lâu ở,
Ôm khâm trù hay đã có người.
Phong lưu vốn đã quen rồi,
Phồn hoa lịch sự lại mùi Tràng An.
Nếu chẳng thể bàn hoàn chi mãi,
Hết xuân rồi hạ lại sang thu.
Lầu hồng cung cấm ấy ru
Anh hùng lại với trượng phu ai từ.?
Như thế ấy bây giờ ai biết,
Trông yên ba khôn xiết dạ sâu.
Há còn trai trẻ chi đâu,
Phong lưu thói cũ giang hồ lối xưa.
Cảnh du lữ câu thơ thổn thức,
Bóng hương quan trước mắt mơ màng
Non sông khách có biết chăng
Vẫn tình thì nhớ nhưng đường thì khơi.
Tuy rằng nói đã người tần tảo,
Trên tôn đường trọng đạo tề gia.
Rau khe nước suối cũng là,
Mình xa chẳng biết ở nhà làm sao.
Duy cho trẻ đứa nào đứa ấy,
Trong gia đình đều thấy yên vui.
Lúc đi trẻ mới hay cười,
Tóc răng nay đã ra người lớn khôn.
Và thằng cháu giời thương cũng khá,
Tuổi năm nay chừng đã trưởng thành.
Phúc nhà mừng trộm cho anh,
Năm nay biết đã học hành cùng ai.
Bạn đèn sách một hai tri thức
Mùi lan chi sực nức một nhà.
Từ phen chuốc chén quan hà,
Vị thành lúc ấy rồi mà dương quan.
Sau chẳng biết ngoài miền Bắc động,
Hai anh ta có chóng hồi hương ?
Thương ôi đồng bệnh cùng thương,
Một Tần lại một Tiêu tương một trời.
Đến bao giờ cùng ngồi kể chuyện,
Kể hương tình cho đến khách trung.
Mà nay nào nguyệt nào phong,
Nào thi nào tửu biết cùng ai hay.
Sầu li biệt tuôn đầy hai mắt,
Bóng hương quan xa khuất dặm ngàn.
Rượu rồi ngồi dựa lan can
Chiêm bao tỉnh giấc đêm tàn về thu.
Hết xuân rồi hạ lại sang thu.
Lầu hồng cung cấm ấy ru
Anh hùng lại với trượng phu ai từ.?
Như thế ấy bây giờ ai biết,
Trông yên ba khôn xiết dạ sâu.
Há còn trai trẻ chi đâu,
Phong lưu thói cũ giang hồ lối xưa.
Cảnh du lữ câu thơ thổn thức,
Bóng hương quan trước mắt mơ màng
Non sông khách có biết chăng
Vẫn tình thì nhớ nhưng đường thì khơi.
Tuy rằng nói đã người tần tảo,
Trên tôn đường trọng đạo tề gia.
Rau khe nước suối cũng là,
Mình xa chẳng biết ở nhà làm sao.
Duy cho trẻ đứa nào đứa ấy,
Trong gia đình đều thấy yên vui.
Lúc đi trẻ mới hay cười,
Tóc răng nay đã ra người lớn khôn.
Và thằng cháu giời thương cũng khá,
Tuổi năm nay chừng đã trưởng thành.
Phúc nhà mừng trộm cho anh,
Năm nay biết đã học hành cùng ai.
Bạn đèn sách một hai tri thức
Mùi lan chi sực nức một nhà.
Từ phen chuốc chén quan hà,
Vị thành lúc ấy rồi mà dương quan.
Sau chẳng biết ngoài miền Bắc động,
Hai anh ta có chóng hồi hương ?
Thương ôi đồng bệnh cùng thương,
Một Tần lại một Tiêu tương một trời.
Đến bao giờ cùng ngồi kể chuyện,
Kể hương tình cho đến khách trung.
Mà nay nào nguyệt nào phong,
Nào thi nào tửu biết cùng ai hay.
Sầu li biệt tuôn đầy hai mắt,
Bóng hương quan xa khuất dặm ngàn.
Rượu rồi ngồi dựa lan can
Chiêm bao tỉnh giấc đêm tàn về thu.
Đêm thu lặng, bóng giời thấp thoáng
Cách rèm thưa chuốc chén gượng nguôi
“Thiên thời nhân sự tương thôi”
Kiếp chiêm bao dễ mấy hồi người ta ?
Người đối cảnh, trước hoa trăng tỏ
Cảnh trêu người ngọn gió rung cây
Nỗi niềm ai kẻ tỏ hay ?
Cùng ai trăng gió đêm này với thu
Cách rèm thưa chuốc chén gượng nguôi
“Thiên thời nhân sự tương thôi”
Kiếp chiêm bao dễ mấy hồi người ta ?
Người đối cảnh, trước hoa trăng tỏ
Cảnh trêu người ngọn gió rung cây
Nỗi niềm ai kẻ tỏ hay ?
Cùng ai trăng gió đêm này với thu
+Có nhiều bản dịch nhưng sự sai biệt giữa các bản rất ít. Có thể do một dịch giả sau các người khác chỉ sửa chữa vài chữ, hoặc một hai câu.
+Theo Nguyễn Tài Cẩn, bản của Nguyễn Tài Chất và bản của Đẩu Tiếp là gần với nguyên bản của Đinh Nhật Thận.
BẢN4. KỲ ĐỒNG (1875 - 1929)
Một tác giả khác là Kỳ Đồng cũng có một bài thơ Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm cũng viết bằng chữ Hán theo lối song thất lục bát nhưng nội dung là lòng yêu nước, trong khi Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm của Đinh Nhật Thận là nói về nỗi nhớ nhà.
Kỳ Đồng tên thật là Nguyễn Văn Cầm, rất thông minh, mới 10 tuổi đã đi thi hạch. Quan trường thấy lạ, làm sớ về kinh, vua sắc cho 2 chữ "Kỳ Đồng" mới lấy làm tên. Mấy năm sau, họp bạn đứng ra chống Pháp, bị Pháp bắt rồi đày qua Angeria. Ở đây, ông đi học, đổ tú tài khoa học và văn chương. Sau đó Pháp cho ông về Yên Thế. Nhưng năm 1898, vì sợ ông liên lạc với Đề Thám, Pháp lại đày ông đi Tahiti và ông tạ thế ở đó vào năm 1929, hưởng dương 55 tuổi. Bài "Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm" này ông sáng tác và dịch quốc âm lúc chưa bị đày, đang sục sôi chí tranh đấu chống Pháp.(Nay chưa tìm thấy bản bản Hán văn)
THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM
Thiên khí nhập trung thu chi dạ
Tiêu điều kinh tứ tọa sương hàn
Tiên gia biệt chiếm thanh nhàn
Đả tàn kỳ trận, ẩm tàn cúc bôi
Cửu thiên ngoại, lâu đài ca quản
Bích khê liên mãn giản đào hoa
Phương tôn nhất cảm tuế hoa
Du nhiên bất giác thị hà càn khôn
Hào đỗ vũ thiên thôn tịch mịch
Tức trùng thanh tứ bích thê lương
Khả lân tư cổ chiến trường
Đài phong kim thốc ô nhương cô hồn.
Quần hùng trục lộc bôn chi lộc
Tứ hải chiêm chỉ ốc chi ô
Thiên tâm vị yếm Hồ sô
Thủy thâm hỏa nhiệt lai tô giả thùy
Quỳ hoắc hữu tâm nhi hướng nhật
Tàm oanh hà vật khước tri thu
Tây thiên đường bệ giao phu
Hoa cừu cạnh sắc chiên hồ đồng chương
Thiên tầm bách kinh sương bất biến
Song nam kim bách luyện di cương
Cẩu năng thiết thạch can trường
Lưu danh trúc gian lưu phương báo bì.
Y thị nhật nghĩa kỳ xướng xuất
Tương trung tâm thủ nhật ngu uyên
Tẩy thanh cựu quốc sơn xuyên
A đồng khí khái nhất thiên cao hoành
Cái trung nghĩa thanh thiên bạch nhật
Nhi vinh hoa vân bạch cẩu thương
Lập thân sở quý cương thường
Hưu tương nhất mộng hoàng lương tráng hoài
Nhân thế hãn phùng khai khẩu tiếu
Si nhi diệc vị liễu công gia
Khả liên lục đại hào hoa
Du mi Lương quán đề nha Tống đài
DỊCH:
Đêm trung thu trời mây trong trẻo,
Sương đầm đầm lạnh lẽo bốn bên.
Thanh nhàn riêng một cảnh tiên,
Mảng vui cờ thánh rượu hiền tiêu dao!
Ngoài chính cõi đài cao đàn địch,
Suối liền khe nước biếc đào hồng.
Ngày dài thưởng chén rượu nồng,
Càn khôn nào biết là trong hay ngoài !
Tiếng quyên bỗng một trời khắc khoải,
Lại bốn bề dế gọi đau thương.
Buồn thay cảnh cũ chiến trường,
Cô hồn quạ cúng, tên vàng bám rêu!
Hươu một con, ùa theo bao kẻ
Quạ một bầy, bốn bể đều trông!
Giặc Hồ trời hãy còn dong
Nước sâu lửa đỏ dễ hòng kêu ai?
Lòng quỳ hoắc, theo trời mà hướng,
Tiếng oanh già vất vưởng hồn thu.
Lầu Tây chủ khách gật gù
Hoa cừu rạng rỡ, chiên hồ nghênh ngang
Bách ngàn trượng mặc sương với gió,
Vàng trăm rèn càng tỏ thức son!
Cang trường sắt đá chẳng sờn,
Dấu thơm ghi để nước non sau này!
Ngày khởi nghĩa cờ bay rực rỡ,
Tấm lòng trung nào sợ bóng chiều !
Giang sơn cố quốc sạch màu,
Đồng vang vang tiết trời lầu lầu xanh.
Áng trung nghĩa rõ hình nhật nguyệt
Bả vinh hoa mây biếc chó mờ
Cương thường gốc cũ ngàn xưa,
Kê vàng giấc mộng buồn mơ sá gì !
Người đời ít gặp khi cười hả,
Trẻ nhọc nhằn vất vả nào vui.
Sáu đời thịnh trị ai ơi
Lương đình hươu nhởn, Tống đài quạ kêu.
VIETKIẾM FORUM
http://www.vietkiem.com/forums/index.php?showtopic=12626
B. PHẦN THỨ HAI: CÁC BÀI VIẾT VỀ ĐINH NHẬT THẬN
I. ĐINH NHẬT THẬN NIÊN BIỂU (1814- 1855)
Nguyễn Thiên Thụ -Đăng Khoa Lục ghi ông sinh năm giáp tuất (1814) tại làng Thanh Liêu, Tổng Cát Ngạn nay là xã Thanh Tiên, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.
- Đinh Dậu (1837) thi hương, đỗ cử nhân, thuộc hạng gia ân.
-Mậu Tuất (1838) niên hiệu Minh Mệnh thứ 19, 25 tuổi, đỗ đầu hàng tam giáp đồng tiến sĩ . Bổ tri phủ. Sau phạm lỗi, bị điều đi hiệu lực.
Năm 1843, được hồi phục, nhưng cáo bệnh, sống ẩn dật, đi ngao du và làm thuốc.
-Năm 1854, Cao Bá Quát theo Lê Duy Cự chống triều đình.
-Khoảng 1855, ông bị giam vì liên quan đến Cao Bá Quát.
-Khoảng 1855, viết Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm. It lâu được thả.
-Mất 1856, hưởng dương 52 tuổi.
II. TIỂU SỬ
"Thật trời đã khéo tày vị mà dành riêng cho cụ một khối óc thông minh, một lá gan hào hùng, có lẽ chung đúc lại bởi khí thiêng của sông Lam núi Hồng là nơi cụ sinh trưởng. Lấy văn chương và phẩm hạnh, cụ đã làm Thái Sơn, Bắc Đẩu cho cả một vùng Hoan - Ái là đất tài ba văn vật có tiếng xưa nay"
Đinh Nhật Thận
Đinh Nhật Thận, tự Tử Úy, hiệu Bạch Mao Am, sinh năm Ất Hợi 1815 tại xóm Xuân Vinh, làng Thanh Liêu, Tổng Cát Ngạn nay là xã Thanh Tiên, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.
Ông nội là Đinh Trọng Mưu mất sớm, thân phụ là Đinh Trọng Miễn con rể của quan tri huyện Thừng. Vốn trước đó Đinh Trọng Miễn là học trò của quan tri huyện sau được gả con gái lớn. Đinh Nhật Thận là con trai thứ hai.
Vốn sáng dạ và có trí nhớ tốt, ngoài việc thông làu kinh sử, Nhật Thận còn tinh thông về y học, dược tính, rất giỏi thơ Nôm, viết văn không cần thảo trước. Sách “Đăng Khoa Lục” chép rằng:
“Ông nổi tiếng có tài nhớ sách, đọc qua một lượt là nhớ … Khi ông làm quan ở Kinh kì, có người muốn thử tài ông, đưa cho ông một cuốn từ điển. Ông nhận sách đọc, ngày hôm sau trả lại mặc cho người kia muốn hỏi gì thì hỏi, ông đều nhớ hết và nói rất rành mạch”
Mặc dù tài cao nhưng không phải cứ thi ngay là đỗ. Khoa thi hương năm Đinh Dậu (1837) ông chỉ đỗ cử nhân, lại thuộc dạng lấy thêm.
Khoa thi hội năm Mậu Tuất (1838) niên hiệu Minh Mệnh thứ 19, không có Bảng nhãn, không có Thám hoa, Đinh Nhật Thận đỗ đầu hàng tam giáp đồng tiến sĩ và là người trẻ tuổi nhất trong bạn đồng khoa. Đứng trước ông có hai Hoàng Giáp là Nguyễn Cửu Trường và Nguyễn Văn Nghị.
Sau khi đỗ đại khoa, Nhật Thận được triều đinh bổ làm tri phủ, ngoài ra còn được làng cấp cho 5 mẫu học điền ở cánh đồng Gia Hội. Tuy nhiên phần lớn ruộng này ông để cho bà con trong thôn cày mà không thu hoa lợi. Ông còn tổ chức khai khẩn thêm đất và chiêu mộ người các nơi đến lập thành làng Gia Hội. Làm quan tri phủ được một thời gian thì ông bị cách chức không rõ nguyên nhân.
Năm 1843 được phục chức nhưng ông cáo bệnh không nhận. Tính tình ông phóng khoáng, thích làm thuốc, làm thơ giao du đây đó lấy việc kết thân bạn hữu gần xa làm trọng. Ông là bạn chí thân của Cao Bá Quát (Bắc Ninh) và Nguyễn Hàm Ninh (Quảng Bình). Sau này Cao lãnh đạo khởi nghĩa nông dân làm loạn khiến ông cũng liên lụy và bị kiềm chế gắt gao.
Vua Tự Đức biết ông là người học rộng tài cao nên quyết giữ ông lại trong cung, trước là để kiềm tỏa giữ chân ông, sau là nhờ ông dạy cho các hoàng tôn.
Sống cuộc sống gò bó, ông đâm ra chán chường trong lòng lúc nào cũng mang nặng nỗi lòng với cố hương. Vào một đêm Thu thanh vắng, độc ẩm tức cảnh sinh tình, ông viết một mạch khúc ngâm nổi tiếng “Thu dạ lữ hoài”. Tất cả những tâm tư tình cảm với gia đình, với quê hương xứ sở được ông thể hiện qua khúc ngâm này. Tuyệt phẩm này được truyền tụng và lọt đến tai vua, vì mến phục tài đức của một nhân cách cao thượng, Tự Đức đã xuống chỉ tha cho ông.
Ông trở về chốn cũ, vui thú điền viên ở Gia Hội. Ông qua đời sớm, tuổi 52. Vùng Cát Ngạn vẫn còn câu ca về ông, rằng:
Non sông Giăng
Nước sông Giăng
Trời sông Giăng
Nhớ chăng
Em
“Thu dạ lữ hoài”
Lừng danh Đinh Nhật Thận một đời tài hoa.
Trích: 39 giai thoại văn chương - Lê Thương
Tham khảo:
1. Đinh Nhật Thận. - Bài viết của tác giả Chu Trọng Huyến.
2. Thanh Chương đất và người. - Nhiều tác giả.
3. Trong 99 chóp núi. - Nguyễn Văn Để.
4. Khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận. - Nguyễn Tài Chất, Nguyễn Tài Cẩn
http://tcnao.net/showthread.php?t=43
Sống cuộc sống gò bó, ông đâm ra chán chường trong lòng lúc nào cũng mang nặng nỗi lòng với cố hương. Vào một đêm Thu thanh vắng, độc ẩm tức cảnh sinh tình, ông viết một mạch khúc ngâm nổi tiếng “Thu dạ lữ hoài”. Tất cả những tâm tư tình cảm với gia đình, với quê hương xứ sở được ông thể hiện qua khúc ngâm này. Tuyệt phẩm này được truyền tụng và lọt đến tai vua, vì mến phục tài đức của một nhân cách cao thượng, Tự Đức đã xuống chỉ tha cho ông.
Ông trở về chốn cũ, vui thú điền viên ở Gia Hội. Ông qua đời sớm, tuổi 52. Vùng Cát Ngạn vẫn còn câu ca về ông, rằng:
Non sông Giăng
Nước sông Giăng
Trời sông Giăng
Nhớ chăng
Em
“Thu dạ lữ hoài”
Lừng danh Đinh Nhật Thận một đời tài hoa.
Trích: 39 giai thoại văn chương - Lê Thương
Tham khảo:
1. Đinh Nhật Thận. - Bài viết của tác giả Chu Trọng Huyến.
2. Thanh Chương đất và người. - Nhiều tác giả.
3. Trong 99 chóp núi. - Nguyễn Văn Để.
4. Khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận. - Nguyễn Tài Chất, Nguyễn Tài Cẩn
http://tcnao.net/showthread.php?t=43
II.GIAI THOẠI VỀ ĐINH NHẬTHẬN
Nói láo với nhà Vua qua thi phú:
Nói láo với nhà Vua qua thi phú:
“Nói láo” là đặt điều, là bịa ra mà nói, là nói điều không đúng sự thực, và nói láo là một sự xấu.
Ngày xưa, bầy tôi nói láo với vua là mang trọng tội. Chiếu theo luật pháp của các triều đại phong kiến, nói láo với vua là mang tội “khi quân” có thể bị xử trảm. Thế nhưng trong kho tàng văn chương ta có kẻ dám nói láo với vua và chẳng những không bị tội mà còn được nhà vua ban thưởng:
Đinh Nhật Thận thi đỗ Đình Nguyên Khoa Mậu Tuất năm Minh Mạng thứ 19, tức vào năm 1838 dương lịch. Được bổ làm quan ít lâu thì chán cảnh hoạn trường nên cáo quan về sinh sống bằng nghề dạy học và bốc thuốc.
Là bạn thân của nhà thơ “ngông” Cao Bá Quát, vì thế đến đời vua Tự Đức ông bị bắt giải về kinh vì bị tình nghi có nhúng tay vào vụ Cao Bá Quát khởi loạn. Nhưng vì không có bằng chứng nên được tha. Vua Tự Đức mến tài ông nên giữ ông ở lại kinh đô để dạy cho các tôn thất học.
Ngày xưa, bầy tôi nói láo với vua là mang trọng tội. Chiếu theo luật pháp của các triều đại phong kiến, nói láo với vua là mang tội “khi quân” có thể bị xử trảm. Thế nhưng trong kho tàng văn chương ta có kẻ dám nói láo với vua và chẳng những không bị tội mà còn được nhà vua ban thưởng:
Đinh Nhật Thận thi đỗ Đình Nguyên Khoa Mậu Tuất năm Minh Mạng thứ 19, tức vào năm 1838 dương lịch. Được bổ làm quan ít lâu thì chán cảnh hoạn trường nên cáo quan về sinh sống bằng nghề dạy học và bốc thuốc.
Là bạn thân của nhà thơ “ngông” Cao Bá Quát, vì thế đến đời vua Tự Đức ông bị bắt giải về kinh vì bị tình nghi có nhúng tay vào vụ Cao Bá Quát khởi loạn. Nhưng vì không có bằng chứng nên được tha. Vua Tự Đức mến tài ông nên giữ ông ở lại kinh đô để dạy cho các tôn thất học.
Khi ở kinh thành, một hôm ông cùng các quan đại thần được theo ngự thuyền ngoạn cảnh trên sông Hương, nhân dịp lúc vua và các quan đàm luận về đạo đức thánh hiền, ông có nhắc đến câu:
”Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ xử tử tử, tử bất tử bất hiếu”
(Vua khiến tôi chết, tôi không chết không trung, cha khiến con chết, con không chết không hiếu) và cho đó là một câu chí lý mà mọi người phải theo.
Nghe ông nói vậy, vua Tự Đức mới phán:
- Thế bây giờ trẫm truyền cho khanh nhảy xuống sông này mà chết đi, khanh có làm không ?
Nghe nhà vua phán, các quan ai nấy đều lo cho số phận của ông vì không nhảy thì mang tội bất trung còn nhảy thì chết một cách oan uổng. Thế nhưng ông vẫn bình tĩnh, lạy tạ nhà vua xong rồi lao mình xuống sông Hương. Giòng nước bắn tung tóe, mọi người đều nghĩ đây là nơi an giấc nghìn thu của ông Đinh Nhật Thận. Thế là kết liễu một đời tài hoa không tội lỗi...
Nhưng chỉ giây lát sau, hết dưỡng khí, bị ngộp thở, ông ngoi đầu lên bơi đến bám vào ngự thuyền. Vua Tự Đức thấy vậy bèn hỏi:
- Sao khanh không ở dưới đó mà chết đi còn trở lên đây ?
Ông đáp:
- Thần định ở nhưng vừa xuống tới đáy sông thì gặp ông Khuất Nguyên, ông ấy đuổi thần lên và mắng thần bằng hai câu thơ như sau:
“Ngã phùng ám chúa hàm oan nhẫn!
Nhữ ngộ minh quân nịch tử hà?”
(Ta gặp vua ngu phải chịu chết oan đã đành,
Còn người gặp vị vua sáng suốt sao phải chết đuối?)
Thần nghe ông ấy mắng đúng lắm nên phải lên đây tâu bệ hạ rõ.
Vua Tự Đức nghe qua cả cười, sai thị vệ đón ông lên ngự thuyền, lấy quần áo cho thay, rồi đích thân rót một chén rượu để khen thưởng. Thưởng cho cái tài ứng phó mẫn tiệp mặc dù biết đó là một câu chuyện hoàn toàn bịa đặt, tức là nói láo.
Đó là nói láo đấy, nhưng nói láo mà nhà vua phải khen, các quan phải phục và người đời sau ca tụng mãi mãi. Lối nói láo đó không làm hại gì ai mà trái lại còn tô điểm cho kho tàng văn học thêm phong phú. Ở đời đã mấy ai không nói láo, nhưng đã có mấy ai nói láo có nghệ thuật để thiên hạ biết mình nói láo mà vẫn nghe, vẫn phục và vẫn có thiện cảm!
Người Thanh Chương.
Trích: 39 giai thoại văn chương - Lê Thương .
http://tcnao.net/showthread.php?t=43
Nhưng chỉ giây lát sau, hết dưỡng khí, bị ngộp thở, ông ngoi đầu lên bơi đến bám vào ngự thuyền. Vua Tự Đức thấy vậy bèn hỏi:
- Sao khanh không ở dưới đó mà chết đi còn trở lên đây ?
Ông đáp:
- Thần định ở nhưng vừa xuống tới đáy sông thì gặp ông Khuất Nguyên, ông ấy đuổi thần lên và mắng thần bằng hai câu thơ như sau:
“Ngã phùng ám chúa hàm oan nhẫn!
Nhữ ngộ minh quân nịch tử hà?”
(Ta gặp vua ngu phải chịu chết oan đã đành,
Còn người gặp vị vua sáng suốt sao phải chết đuối?)
Thần nghe ông ấy mắng đúng lắm nên phải lên đây tâu bệ hạ rõ.
Vua Tự Đức nghe qua cả cười, sai thị vệ đón ông lên ngự thuyền, lấy quần áo cho thay, rồi đích thân rót một chén rượu để khen thưởng. Thưởng cho cái tài ứng phó mẫn tiệp mặc dù biết đó là một câu chuyện hoàn toàn bịa đặt, tức là nói láo.
Đó là nói láo đấy, nhưng nói láo mà nhà vua phải khen, các quan phải phục và người đời sau ca tụng mãi mãi. Lối nói láo đó không làm hại gì ai mà trái lại còn tô điểm cho kho tàng văn học thêm phong phú. Ở đời đã mấy ai không nói láo, nhưng đã có mấy ai nói láo có nghệ thuật để thiên hạ biết mình nói láo mà vẫn nghe, vẫn phục và vẫn có thiện cảm!
Người Thanh Chương.
Trích: 39 giai thoại văn chương - Lê Thương .
http://tcnao.net/showthread.php?t=43
III.PHÊ BÌNH
VÀI SUY NGHĨ VỀ VAI TRÒ CỦA NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI VỚI NGHIÊN CỨU THƠ CA và đóng góp mới của Nguyễn Tài Cẩn qua"Khảo sát về thơ Định Thận qua Thu dạ lữ hoài ngâm "(1) ( in trong Tạp chí Ngôn ngữ, số 11/2008Hữu Đạt.
1. Cuộc đột phá của ngôn ngữ học vào lĩnh vực thơ ca
Từ cuối thế ký XIX về trước, việc nghiên cứu thơ ca ở hầu khắp các nước trên thế giới chủ yếu mới chỉ dừng lại ở truyền thống: nghiên cứu tác phẩm văn học theo khuynh hướng xã hội lịch sử . Theo phương pháp nghiên cứu của khuynh hướng này, tác phẩm văn học được coi là sự phản ánh lịch sử trong mỗi một giai đoạn cụ thể. Vì vậy, việc phân tích và đánh giá tác phẩm văn học nói chung đều lấy việc phân tích nội dung trong mối tương quan của nó với xã hội- tức bối cảnh làm nên tác phẩm làm trọng.
Từ cuối thế ký XIX về trước, việc nghiên cứu thơ ca ở hầu khắp các nước trên thế giới chủ yếu mới chỉ dừng lại ở truyền thống: nghiên cứu tác phẩm văn học theo khuynh hướng xã hội lịch sử . Theo phương pháp nghiên cứu của khuynh hướng này, tác phẩm văn học được coi là sự phản ánh lịch sử trong mỗi một giai đoạn cụ thể. Vì vậy, việc phân tích và đánh giá tác phẩm văn học nói chung đều lấy việc phân tích nội dung trong mối tương quan của nó với xã hội- tức bối cảnh làm nên tác phẩm làm trọng.
Phương pháp nghiên cứu này, trên thực tế, đã đạt được những thành tựu rất đáng ghi nhận và nó đã ngự trị trong suốt một thời gian dài từ Aristote cho đến cuối thế kỷ XIX. Tuy nhiên, nếu chỉ nghiên cứu tác phẩm văn học từ góc độ này thì bản chất nghệ thuật của tác phẩm không được đánh giá một cách đúng mức. Đó là chưa kể việc áp đặt chủ quan của nhà nghiên cứu, một tác phẩm có thể bị xem xét lệch lạc theo cách của xã hội học dung tục. Để khắc phục tình trạng trên, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, một nhóm các nhà lý luận văn học Nga và các nhà nghiên cứu thuộc nhóm các nhà ngôn ngữ học trẻ Moskva đã thành lập ra một Hội nghiên cứu riêng, gọi là Hội nghiên cứu thơ ca.
Những thành viên tích cực của Hội nghiên cứu này là các nhân vật nổi tiếng như Jakubinski, O. Brik, V. Novikov, B Tomashevski, B. Eikhenbaum, V.Shklovski, Jacovson.. Cương lĩnh của Hội nghiên cứu này chủ trương dùng phương pháp phân tích hình thức đối với tác phẩm văn học nghệ thuật thay thế cho phương pháp nghiên cứu truyền thống theo hướng xã hội lịch sử. Trong đó, lần đầu tiên, ngôn ngữ được coi là một đối tượng nghiên cứu vô cùng quan trọng đối với một tác phẩm nghệ thuật. Bằng phương pháp nghiên cứu mới này, Hội nghiên cứu thơ ca Nga đã tạo nên một trường phái nổi tiếng toàn thế giới, có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều nước và là nguyên nhân hình thành nên nhiều trường phái thi pháp học hiện đại. Những lý thuyết quan trọng của nó đã tạo nên một học thuyết có sức hấp dẫn mạnh mẽ với nhiều ngành khoa học, trong đó có các khoa học như ngôn ngữ học, văn học...Lý thuyết của trường phái này được gọi là lý thuyết của chủ nghĩa hình thức.
Những thành viên tích cực của Hội nghiên cứu này là các nhân vật nổi tiếng như Jakubinski, O. Brik, V. Novikov, B Tomashevski, B. Eikhenbaum, V.Shklovski, Jacovson.. Cương lĩnh của Hội nghiên cứu này chủ trương dùng phương pháp phân tích hình thức đối với tác phẩm văn học nghệ thuật thay thế cho phương pháp nghiên cứu truyền thống theo hướng xã hội lịch sử. Trong đó, lần đầu tiên, ngôn ngữ được coi là một đối tượng nghiên cứu vô cùng quan trọng đối với một tác phẩm nghệ thuật. Bằng phương pháp nghiên cứu mới này, Hội nghiên cứu thơ ca Nga đã tạo nên một trường phái nổi tiếng toàn thế giới, có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều nước và là nguyên nhân hình thành nên nhiều trường phái thi pháp học hiện đại. Những lý thuyết quan trọng của nó đã tạo nên một học thuyết có sức hấp dẫn mạnh mẽ với nhiều ngành khoa học, trong đó có các khoa học như ngôn ngữ học, văn học...Lý thuyết của trường phái này được gọi là lý thuyết của chủ nghĩa hình thức.
Có thể nói, việc hành thành chủ nghĩa hình thức Nga là một bước tiến bộ vượt bậc trong nghiên cứu thơ ca nói riêng và nghiên cứu tác phẩm văn học nói chung. Nó mở ra một chân trời mới cho việc áp dụng các thành tựu của ngôn ngữ học vào nghiên cứu nghệ thuật. Bởi vậy, ngay từ những khởi động đầu tiên, các tácgiả nổi tiếng của chủ nghĩa hình thức Nga đã vận dụng các kết quả nghiên cứu ngôn ngữ học của Baudouin de Courtenay và Sherba, cụ thể là đã vận dụng các tri thức về ngữ âm học vào việc nghiên cứu thi pháp học. Một loạt các vấn đề như: lý thuyết về chủ âm, hệ chủ đề ( được hình thành qua thủ pháp ngôn ngữ), chức năng thi học của ngôn ngữ, hình ảnh của từ... đã được đặt ra trong các công trình thi pháp học của Jacovson, Tomashevski...Ngoài ra, những thành tựu nghiên cứu về ngôn ngữ học tâm lý của nhà ngôn ngữ nổi tiếng Potebnia cũng bắt đầu được vận dụng vào việc phân tích các yếu tố ngôn ngữ trong văn bản nghệ thuật.
Những đóng góp của các nhà chủ nghĩa hình thức Nga có ý nghĩa cực kỳ to lớn cả lý thuyết lẫn thực tiễn đối với việc nghiên cứu nghệ thuật nói riêng và văn học nói chung. Chính vì thế, nhà nghiên cứu nổi tiếng người Pháp Jean Tardie đánh giá " Chủ nghĩa hình thức Nga là trường phái cách tân nhất thế kỷ" ( [13], tr12). Có thể nói, các thành tựu nghiên cứu của ngôn ngữ học vào giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã làm thay đổi hẳn một số khuynh hướng nghiên cứu văn học. Đặc biệt, sau khi lý thuyết ngôn ngữ học đại cương của F.de. Saussure ra đời thì nhiều vấn đề như: phương pháp so sánh lịch sử, phương pháp so sánh loại hình, đặc điểm tín hiệu, tính hệ thống của ngôn ngữ... ngày càng được nghiên cứu sâu. Giờ đây, việc vận dụng các thành tựu nghiên cứu của ngôn ngữ học vào nghiên cứu thơ ca không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực ngữ âm nữa.
Nó đã được mở rộng sang nhiều lĩnh vực khác và thậm chí cả một số vấn đề của phương pháp luận. Chính vì thế, ở Việt Nam có một số nhà ngôn ngữ học còn dùng chính các phương pháp nghiên cứu vốn quen được dùng trong ngôn ngữ học ( như phương pháp miêu tả, phương pháp cải biến, phương pháp so sánh, đối chiếu...) để nghiên cứu thơ ca nói riêng và văn học nói chung. Đó là các tác giả như Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Phan Cảnh, Hữu Đạt, Mai Ngọc Chừ.... Tính ưu việt của cách nhìn ngôn ngữ học đối với thơ ca là ở chỗ, nó đưa đến cho ta một kiểu tư duy hoàn toàn mới về cách tiếp cận tác phẩm văn học. Còn việc áp dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học này đối với văn học sẽ cho ta những luận cứ khách quan để giải thích các hiện tượng phức tạp của văn chương mà nếu phân tích theo hướng lý luận, phê bình sẽ gặp những bế tắc không giải quyết nổi.
Nhất là những trường hợp, khi một tác phẩm có nhiều dị bản thì việc truy tìm nguyên tác càng không thể dựa vào cách nghiên cứu văn học theo con đường truyền thống. Bởi, đời sống hiện thực, xét cho cùng chỉ là môi trường mà nhà nghệ sĩ thâm nhập vào đó để tái tạo lại bóng hình của nó theo con đường sáng tạo riêng của mình. Còn ngôn ngữ mới đích thị là sản phẩm của anh ta. Nó là cái bề mặt của tác phẩm, là cái để biểu thị nên tư tưởng và các giá trị hình tượng. Nếu không thông qua thao tác làm việc của ngôn ngữ học, thì việc phân tích văn chương nói chung và thơ ca nói riêng sẽ không thoát khỏi tình trạng cảm tính, thậm chí mơ hồ. Đó là chưa nói đến các tình trạng thẩm định sai dẫn đến chỗ bình tán tùy tiện làm cho hình tượng tác phẩm bị méo mó không đúng với bản chất của nó.
Nhất là những trường hợp, khi một tác phẩm có nhiều dị bản thì việc truy tìm nguyên tác càng không thể dựa vào cách nghiên cứu văn học theo con đường truyền thống. Bởi, đời sống hiện thực, xét cho cùng chỉ là môi trường mà nhà nghệ sĩ thâm nhập vào đó để tái tạo lại bóng hình của nó theo con đường sáng tạo riêng của mình. Còn ngôn ngữ mới đích thị là sản phẩm của anh ta. Nó là cái bề mặt của tác phẩm, là cái để biểu thị nên tư tưởng và các giá trị hình tượng. Nếu không thông qua thao tác làm việc của ngôn ngữ học, thì việc phân tích văn chương nói chung và thơ ca nói riêng sẽ không thoát khỏi tình trạng cảm tính, thậm chí mơ hồ. Đó là chưa nói đến các tình trạng thẩm định sai dẫn đến chỗ bình tán tùy tiện làm cho hình tượng tác phẩm bị méo mó không đúng với bản chất của nó.
Trong các thể loại của văn học, thơ là một thể loại rất độc đáo trong sử dụng ngôn ngữ. Có không ít bài thơ, nếu ta chỉ tiếp cận bằng con đường nghiên cứu theo truyền thống cũ sẽ không phát hiện được ra điều gì. Nhưng nếu tiếp cận bằng con đường ngôn ngữ học, tình hình sẽ khác hẳn. Chẳng hạn, với một số bài thơ như " Chùa Đọi" của Nguyễn Khuyến, " Nhớ đồng" của Tố Hữu...việc phân tích bằng con đường ngôn ngữ học đã làm sáng tỏ những nhầm lẫn mà lý luận phê bình văn học mắc phải hàng trăm năm và nửa thế kỷ nay.
Có không ít người đã nhầm tưởng rằng, nói tới việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học vào văn học là chỉ tới nói việc thống kê hay giải thích từ ngữ trong tác phẩm. Thực ra, đó là một cách hiểu quá đơn thuần vì vai trò của ngôn ngữ học đối với nghiên cứu văn học không chỉ dừng lại ở đó. Nó có phạm vi hoạt động rộng lớn hơn nhiều. Một mặt, nó cung cấp cho ta những cơ sở khoa học để lý giải các quá trình hình thành nên nghĩa hình tượng của tác phẩm. Mặt khác, nó còn tạo ra những khả năng đặc biệt mà bộ môn lý luận, phê bình khó có thể vươn tới được. Đó là việc vạch ra những nét đặc trưng về phong cách trong mỗi nhà văn, nhà thơ; thậm chí cao hơn, việc nghiên cứu ngôn ngữ học đối với văn học còn chỉ ra được những nét đặc trưng của phong cách thời đại hoặc phong cách của mỗi trào lưu văn học cụ thể.
Có không ít người đã nhầm tưởng rằng, nói tới việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học vào văn học là chỉ tới nói việc thống kê hay giải thích từ ngữ trong tác phẩm. Thực ra, đó là một cách hiểu quá đơn thuần vì vai trò của ngôn ngữ học đối với nghiên cứu văn học không chỉ dừng lại ở đó. Nó có phạm vi hoạt động rộng lớn hơn nhiều. Một mặt, nó cung cấp cho ta những cơ sở khoa học để lý giải các quá trình hình thành nên nghĩa hình tượng của tác phẩm. Mặt khác, nó còn tạo ra những khả năng đặc biệt mà bộ môn lý luận, phê bình khó có thể vươn tới được. Đó là việc vạch ra những nét đặc trưng về phong cách trong mỗi nhà văn, nhà thơ; thậm chí cao hơn, việc nghiên cứu ngôn ngữ học đối với văn học còn chỉ ra được những nét đặc trưng của phong cách thời đại hoặc phong cách của mỗi trào lưu văn học cụ thể.
Đặc biệt, với các tác phẩm thơ ca có sử dụng biện pháp chơi chữ ( như thơ Hồ Xuân Hương, thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Dương Quảng Hàm...), nếu không dùng phương pháp phân tích ngôn ngữ học thì không thể nào phát hiện ra được sự độc đáo trong cách dùng ngôn ngữ của nhà thơ cũng như tính độc đáo của tiếng Việt. Chẳng những thế, một số kết quả nghiên cứu thơ ca theo hướng này còn góp phần bổ sung, giải thích sâu hơn về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy, về đặc điểm loại hình ngôn ngữ cũng như về văn hóa ngôn từ của người Việt. Như thế, thực chất,dù trực tiếp hay gián tiếp nó đã làm phong phú thêm nhiều cho lý thuyết về phương pháp nghiên cứu liên ngành đối với nghiên cứu văn học.2. Việc nghiên cứu thơ ca cổ-trung đại Việt Nam
Từ trước đến nay hầu như mới chỉ dừng lại ở phương pháp nghiên cứu truyền thống ( theo hướng xã hội lịch sử). Bởi thế, có khá nhiều hiện tượng văn học, nhà nghiên cứu vấp phải tình trạng bế tắc, không có khả năng giải quyết. Chẳng hạn, với bài thơ " Vũ trung sơn thủy" của Thiệu Trị, nếu chỉ khảo sát theo phương pháp của lý luận, phê bình văn học thì mới chỉ phát hiện được một phần rất nhỏ tài năng và phong cách thơ ca của vị vua hay chữ này.
Nhưng khi sử dụng phương pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học vào để khảo sát nó, nhà ngôn ngữ học Nguyễn Tài Cẩn đã đưa ra một kết quả độc đáo khiến ai cũng phải sững sờ. Hóa ra, về hình thức đó chỉ là một bài thất ngôn bát cú, nhưng bên trong nó lại chứa đựng một chiều sâu thăm thẳm của tư duy. Một bài thơ, nhưng có tới 128 cách đọc, tức 128 bài thơ khác nhau, với rất nhiều cách gieo vần khác nhau. Sự độc đáo này có lẽ chỉ tìm thấy ở một ngôn ngữ đơn lập điển hình kiểu như tiếng Việt chứ không thể có ở các ngôn ngữ biến hình, lập khuôn hay chắp dính...
Từ trước đến nay hầu như mới chỉ dừng lại ở phương pháp nghiên cứu truyền thống ( theo hướng xã hội lịch sử). Bởi thế, có khá nhiều hiện tượng văn học, nhà nghiên cứu vấp phải tình trạng bế tắc, không có khả năng giải quyết. Chẳng hạn, với bài thơ " Vũ trung sơn thủy" của Thiệu Trị, nếu chỉ khảo sát theo phương pháp của lý luận, phê bình văn học thì mới chỉ phát hiện được một phần rất nhỏ tài năng và phong cách thơ ca của vị vua hay chữ này.
Nhưng khi sử dụng phương pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học vào để khảo sát nó, nhà ngôn ngữ học Nguyễn Tài Cẩn đã đưa ra một kết quả độc đáo khiến ai cũng phải sững sờ. Hóa ra, về hình thức đó chỉ là một bài thất ngôn bát cú, nhưng bên trong nó lại chứa đựng một chiều sâu thăm thẳm của tư duy. Một bài thơ, nhưng có tới 128 cách đọc, tức 128 bài thơ khác nhau, với rất nhiều cách gieo vần khác nhau. Sự độc đáo này có lẽ chỉ tìm thấy ở một ngôn ngữ đơn lập điển hình kiểu như tiếng Việt chứ không thể có ở các ngôn ngữ biến hình, lập khuôn hay chắp dính...
Trước tình hình như đã nói, việc sử dụng phương pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học để nghiên cứu văn học là một đòi hỏi cấp bách. Có thể nói, giáo sư Nguyễn Tài Cẩn là một trong các nhà ngôn ngữ học đầu tiên đã đáp ứng được đòi hỏi này. Như ta đã biết, do bối cảnh thời gian và hoàn cảnh lịch sử, cho đến nay nhiều tác phẩm văn học cổ Việt Nam ( đặc biệt là thơ chữ Hán và chữ Nôm) vẫn còn ẩn chứa rất nhiều vấn đề mà nếu nghiên cứu theo phương pháp lý luận và phê bình văn học sẽ không thể đụng chạm tới. Thứ nhất, chữ Hán và chữ Nôm vốn là loại văn tự khối vuông, có nhiều nét phức tạp.
Mỗi nét, mỗi dấu của nó đều có những ý nghĩa riêng, bởi vậy nếu chỉ mất một nét hay dấu nào, hoặc mờ một chút thì có thể gây ra những biến dạng khác nhau, dễ làm nên hiện tượng đa nghĩa hoặc mơ hồ về nghĩa. Đó chính là lý do khi sao chép lại các văn bản gốc, người viết có thể tự ý nhuận sắc lại bản thảo theo cái cách riêng của mình. Thứ hai, văn cổ Việt Nam ra đời trong hoàn cảnh kỹ thuật in ấn của ta chưa hình thành hoặc hình thành rồi thì mới ở giai đoạn sơ khai ( khắc in trên gỗ). Việc sao chép văn bản được coi là phương thức chủ yếu để lưu truyền và phổ biến trong dân chúng. Việc sao chép văn bản, như đã nói, thường gây ra nhiều dị bản khác nhau đối với cùng một tác phẩm văn học.
Thời gian trôi qua, đến nay, việc xác định lại xem đâu là văn bản gốc quả không phải là chuyện dễ dàng. Nếu chỉ nghiên cứu tác phẩm văn học theo phương pháp của lý luận và phê bình văn học thì tình hình không tránh khỏi những bế tắc không thể giải quyết. Điều này chúng ta đã gặp nhiều hiện tượng như khi khảo cứu "Truyện Kiều" của Nguyên Du, "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn- Đoàn Thị Điểm, "Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều, thơ chữ Hán và chữ Nôm của Nguyễn Trãi, thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, thơ Nguyễn Trung Ngạn...
Trong bức tranh phức tạp như đã nói, việc vận dụng các thành tựu nghiên cứu của ngôn ngữ học vào nghiên cứu thơ ca cổ có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Một mặt, nó cho ta một cách nhìn mới về các văn bản nghệ thuật vốn là một kho tàng quí báu của văn hóa truyền thống và tiếng nói dân tộc.
Mặt khác, những miêu tả và phân tích theo hướng này sẽ mở ra một con đường đáng tin cậy trong cách tiếp cận văn bản. Hiệu quả tích cực của nó là, đối với các văn bản có nhiều biến thể, việc phục nguyên lại nguyên tác sẽ có những cơ sở khoa học có sức thuyết phục. Đối với các trường hợp còn nghi vấn đối với văn bản về dùng từ hay cách giải thích nghĩa, việc vận dụng các thao tác và thủ pháp phân tích ngôn ngữ học sẽ cung cấp cho ta những luận cứ xác thực để chứng minh và lý giải các hiện tượng nói trên. Đây là trường hợp Nguyễn Tài Cẩn phân tích hiện tượng độc đáo trong cách đọc bài thơ "Vũ trung sơn thủy" của Thiệu Trị [4, 340] hoặc, thơ Nguyễn Trung Ngạn {4,304], hoặc bàn lại một số câu, số chữ trong Truyện Kiều [3,37-54].... Chẳng hạn, câu 1019,1020, các bản Kiều đời Tự Đức ( 1871, 1872, 1875, 1879, 1884) đều ghi:
Mỗi nét, mỗi dấu của nó đều có những ý nghĩa riêng, bởi vậy nếu chỉ mất một nét hay dấu nào, hoặc mờ một chút thì có thể gây ra những biến dạng khác nhau, dễ làm nên hiện tượng đa nghĩa hoặc mơ hồ về nghĩa. Đó chính là lý do khi sao chép lại các văn bản gốc, người viết có thể tự ý nhuận sắc lại bản thảo theo cái cách riêng của mình. Thứ hai, văn cổ Việt Nam ra đời trong hoàn cảnh kỹ thuật in ấn của ta chưa hình thành hoặc hình thành rồi thì mới ở giai đoạn sơ khai ( khắc in trên gỗ). Việc sao chép văn bản được coi là phương thức chủ yếu để lưu truyền và phổ biến trong dân chúng. Việc sao chép văn bản, như đã nói, thường gây ra nhiều dị bản khác nhau đối với cùng một tác phẩm văn học.
Thời gian trôi qua, đến nay, việc xác định lại xem đâu là văn bản gốc quả không phải là chuyện dễ dàng. Nếu chỉ nghiên cứu tác phẩm văn học theo phương pháp của lý luận và phê bình văn học thì tình hình không tránh khỏi những bế tắc không thể giải quyết. Điều này chúng ta đã gặp nhiều hiện tượng như khi khảo cứu "Truyện Kiều" của Nguyên Du, "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn- Đoàn Thị Điểm, "Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều, thơ chữ Hán và chữ Nôm của Nguyễn Trãi, thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, thơ Nguyễn Trung Ngạn...
Trong bức tranh phức tạp như đã nói, việc vận dụng các thành tựu nghiên cứu của ngôn ngữ học vào nghiên cứu thơ ca cổ có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Một mặt, nó cho ta một cách nhìn mới về các văn bản nghệ thuật vốn là một kho tàng quí báu của văn hóa truyền thống và tiếng nói dân tộc.
Mặt khác, những miêu tả và phân tích theo hướng này sẽ mở ra một con đường đáng tin cậy trong cách tiếp cận văn bản. Hiệu quả tích cực của nó là, đối với các văn bản có nhiều biến thể, việc phục nguyên lại nguyên tác sẽ có những cơ sở khoa học có sức thuyết phục. Đối với các trường hợp còn nghi vấn đối với văn bản về dùng từ hay cách giải thích nghĩa, việc vận dụng các thao tác và thủ pháp phân tích ngôn ngữ học sẽ cung cấp cho ta những luận cứ xác thực để chứng minh và lý giải các hiện tượng nói trên. Đây là trường hợp Nguyễn Tài Cẩn phân tích hiện tượng độc đáo trong cách đọc bài thơ "Vũ trung sơn thủy" của Thiệu Trị [4, 340] hoặc, thơ Nguyễn Trung Ngạn {4,304], hoặc bàn lại một số câu, số chữ trong Truyện Kiều [3,37-54].... Chẳng hạn, câu 1019,1020, các bản Kiều đời Tự Đức ( 1871, 1872, 1875, 1879, 1884) đều ghi:
Kiếp này nợ giả chưa xong /Làm chi thì cũng một chồng kiếp sau
Nhưng Nguyễn Tài Cẩn sau khi phân tích những diễn biến cú pháp của nó lại cho rằng, đây là một chữ viết tắt, có thể do mờ mà người chép không nhận ra hoặc do người chép đùa nghich mà chữ "nợ" lại được đổi thành chữ "một". Bởi thế nên hiểu câu này là:Kiếp này nợ giả chưa xong
Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau. [3,45].
Cũng bằng phương pháp so sánh và đối chiếu, Nguyễn Tài Cẩn đã đi đến giải thích đúng đắn chữ "lạt" và chữ "nhàm" trong câu 1089,1090.
Thấy nàng lạt phấn nhàm son
Mừng thầm được Thóp bán buôn có lời.
cần được hiểu là Bạc Bà thấy Kiều đẹp đến nỗi phấn son phải nhạt đi mới chính xác. Nếu hiểu theo tinh thần như vậy thì cũng không lấy làm lạ khi có một số bản Kiều khác nhau lại thay chữ "nhàm" bằng chữ "bạt" [3, 46-47].
Sử dụng các thành tựu nghiên cứu và phương pháp của ngôn ngữ học rõ ràng là một vấn đề vô cùng quan trọng đối với nghiên cứu văn bản nghệ thuật, đặc biệt là nghiên cứu thơ ca cổ. Nhiều kết quả nghiên cứu bằng con đường này còn khắc phục được những sai sót của quá trình dịch từ chữ Hán hoặc chữ Nôm sang chữ quốc ngữ hoặc cách hiểu chưa đúng hình tượng của từ và hình tượng tác phẩm. Chẳng hạn, Hữu Đạt trong công trình [8] đã chứng minh, chữ "nen" trong Truyện Kiều ở câu 48 không phải là động từ "nêm" hay "nen" ( chen) với nghĩa là "chen chúc" như trong cách hiểu của Từ điển Đào Duy Anh[1, 263] và như nhiều người thường nghĩ bấy lâu nay.
Theo tác giả, đây là một danh từ được dùng theo tiếng địa phương Nghệ Tĩnh là "cánh con cào cào châu chấu"[8, 144]. Còn chữ "ngài" trong câu thơ tả ThúyVân (câu 20) không phải là chữ "ngài" theo cách hiểu của Đào Duy Anh. Nó là chữ "người". Vì vậy, "nét ngài' ở đây không thể được hiểu là "lông mày" mà phải hiểu là "co người" mới đúng. Qua phân tích, ông còn chứng minh thêm, chữ "ngài" ở câu 2167 tả Từ Hải dứt khoát không phải là chữ "ngài" theo cách giải thích của cụ Đào Duy Anh với nghĩa " thứ bướm do con tằm hóa ra; cũng chỉ con tằm, tỷ dụ lông mày" [1,274] mà là chữ "đồi" ( mày của con chim đồi- một loài chim trong họ chim phượng hoàng[9, 231]. Với cách nhìn văn bản thơ từ góc độ ngôn ngữ học, tác giả Hữu Đạt đã nêu ra kết luận, trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du có ba chữ "ngài" hoàn toàn khác nhau. Đó là ba chữ đồng âm, nhưng khác nghĩa [9, 227-232].
Nhưng Nguyễn Tài Cẩn sau khi phân tích những diễn biến cú pháp của nó lại cho rằng, đây là một chữ viết tắt, có thể do mờ mà người chép không nhận ra hoặc do người chép đùa nghich mà chữ "nợ" lại được đổi thành chữ "một". Bởi thế nên hiểu câu này là:Kiếp này nợ giả chưa xong
Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau. [3,45].
Cũng bằng phương pháp so sánh và đối chiếu, Nguyễn Tài Cẩn đã đi đến giải thích đúng đắn chữ "lạt" và chữ "nhàm" trong câu 1089,1090.
Thấy nàng lạt phấn nhàm son
Mừng thầm được Thóp bán buôn có lời.
cần được hiểu là Bạc Bà thấy Kiều đẹp đến nỗi phấn son phải nhạt đi mới chính xác. Nếu hiểu theo tinh thần như vậy thì cũng không lấy làm lạ khi có một số bản Kiều khác nhau lại thay chữ "nhàm" bằng chữ "bạt" [3, 46-47].
Sử dụng các thành tựu nghiên cứu và phương pháp của ngôn ngữ học rõ ràng là một vấn đề vô cùng quan trọng đối với nghiên cứu văn bản nghệ thuật, đặc biệt là nghiên cứu thơ ca cổ. Nhiều kết quả nghiên cứu bằng con đường này còn khắc phục được những sai sót của quá trình dịch từ chữ Hán hoặc chữ Nôm sang chữ quốc ngữ hoặc cách hiểu chưa đúng hình tượng của từ và hình tượng tác phẩm. Chẳng hạn, Hữu Đạt trong công trình [8] đã chứng minh, chữ "nen" trong Truyện Kiều ở câu 48 không phải là động từ "nêm" hay "nen" ( chen) với nghĩa là "chen chúc" như trong cách hiểu của Từ điển Đào Duy Anh[1, 263] và như nhiều người thường nghĩ bấy lâu nay.
Theo tác giả, đây là một danh từ được dùng theo tiếng địa phương Nghệ Tĩnh là "cánh con cào cào châu chấu"[8, 144]. Còn chữ "ngài" trong câu thơ tả ThúyVân (câu 20) không phải là chữ "ngài" theo cách hiểu của Đào Duy Anh. Nó là chữ "người". Vì vậy, "nét ngài' ở đây không thể được hiểu là "lông mày" mà phải hiểu là "co người" mới đúng. Qua phân tích, ông còn chứng minh thêm, chữ "ngài" ở câu 2167 tả Từ Hải dứt khoát không phải là chữ "ngài" theo cách giải thích của cụ Đào Duy Anh với nghĩa " thứ bướm do con tằm hóa ra; cũng chỉ con tằm, tỷ dụ lông mày" [1,274] mà là chữ "đồi" ( mày của con chim đồi- một loài chim trong họ chim phượng hoàng[9, 231]. Với cách nhìn văn bản thơ từ góc độ ngôn ngữ học, tác giả Hữu Đạt đã nêu ra kết luận, trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du có ba chữ "ngài" hoàn toàn khác nhau. Đó là ba chữ đồng âm, nhưng khác nghĩa [9, 227-232].
Qua một vài ví dụ vừa nêu, ta có thể thấy tính ưu việt của phương pháp phân tích ngôn ngữ học đối với văn bản nghệ thuật. Nó càng trở nên quan trọng hơn khi đi sâu vào nghiên cứu các loại văn bản có nhiều dị bản để xác minh hoặc phục nguyên lại văn bản gốc. Khi tiến hành khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận qua Thu dạ lữ hoài ngâm, Nguyễn Tài Cẩn có ý thực hiện mục tiêu này.
Trước hết cần nói rằng, Đinh Nhật Thận là một danh nhân của xứ Nghệ, một vùng đất có truyền thống hiếu học và khoa cử. Ông là người đậu đầu bảng tiến sĩ thời Minh Mạng thứ 19 và là người trẻ nhất trong kỳ thi này. Với tài năng xuất chúng, nhưng sinh ra không hợp thời, Đinh Nhật Thận gặp khá nhiều trắc trở trong con đường công danh. Chỉ vì tài làm thơ mà trong thời nhiễu loạn, ông bị hiểu lầm là tay chân của Cao Bá Quát, có mưu đồ chống lại triều đình. Cuối cùng ông bị bắt giam.
"Thu dạ lữ hoài ngâm" là một tác phẩm thơ được ông sáng tác trong lúc bị giam lỏng ở kinh đô. Tác phẩm thơ này phản ánh nỗi buồn xa quê của một người có nhiều tâm sự, đồng thời cũng là bức tranh thủy mạc về cảnh đẹp của đất nước chốn Bình sơn hương thủy. Ngoài giá trị về văn học, nó còn là một cứ liệu sống động về các hiện tượng ngôn ngữ của tiếng Việt giai đoạn thế kỷ XIX. Vì thế, công trình " Khảo sát về thơ Đinh Nhật thận qua thu dạ lữ hoài ngâm"(2) là một công trình có đóng góp quan trọng cả đối với nghiên cứu thơ cổ trung đại Việt Nam và cả về phương diện ngôn ngữ học trong khuôn khổ tìm hiểu một số vấn đề về lịch sử phát triển tiếng Việt.
Trước hết cần nói rằng, Đinh Nhật Thận là một danh nhân của xứ Nghệ, một vùng đất có truyền thống hiếu học và khoa cử. Ông là người đậu đầu bảng tiến sĩ thời Minh Mạng thứ 19 và là người trẻ nhất trong kỳ thi này. Với tài năng xuất chúng, nhưng sinh ra không hợp thời, Đinh Nhật Thận gặp khá nhiều trắc trở trong con đường công danh. Chỉ vì tài làm thơ mà trong thời nhiễu loạn, ông bị hiểu lầm là tay chân của Cao Bá Quát, có mưu đồ chống lại triều đình. Cuối cùng ông bị bắt giam.
"Thu dạ lữ hoài ngâm" là một tác phẩm thơ được ông sáng tác trong lúc bị giam lỏng ở kinh đô. Tác phẩm thơ này phản ánh nỗi buồn xa quê của một người có nhiều tâm sự, đồng thời cũng là bức tranh thủy mạc về cảnh đẹp của đất nước chốn Bình sơn hương thủy. Ngoài giá trị về văn học, nó còn là một cứ liệu sống động về các hiện tượng ngôn ngữ của tiếng Việt giai đoạn thế kỷ XIX. Vì thế, công trình " Khảo sát về thơ Đinh Nhật thận qua thu dạ lữ hoài ngâm"(2) là một công trình có đóng góp quan trọng cả đối với nghiên cứu thơ cổ trung đại Việt Nam và cả về phương diện ngôn ngữ học trong khuôn khổ tìm hiểu một số vấn đề về lịch sử phát triển tiếng Việt.
2.1. Đóng góp về phương diện văn bản học
Nhờ có việc công bố cuốn sách, nay bạn đọc có thể xác định được cái văn bản có khả năng gần với nguyên tác nhất là bản chép tay do người cháu đích tôn của Đinh Nhật Thận tặng lại cho ông Nguyễn Tài Chất. Đây là văn bản hiện được ông Nguyễn Tài Cẩn lưu giữ và dùng làm cơ sở để so sánh, đối chiếu với các văn bản khác. Đó là các bản 1902 ( tức bản Trường Thịnh Đường in mộc bản mùa đông năm Nhâm Dần đời Thành Thái) và bản Nguyễn Văn Đề được công bố ở cuốn "Trong 99 chóp núi" do Hà Xuân Tề đề tựa ngày 4 tháng 7 năm 1941, tại Huế. Trước hết cần khẳng định, đây là một đóng góp hết sức quí về mặt tư liệu của anh em Nguyễn Tài Chất và Nguyễn Tài Cẩn đối với việc bảo vệ và giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Nó không chỉ đơn thuần là một tài liệu có giá trị về mặt ngữ văn mà còn là một tài liệu quí về phương diện sử học.2.2. Những đóng góp của Nguyễn Tài Cẩn về mặt ngôn ngữ học
Trong công trình này, Nguyễn Tài Cẩn chủ yếu phương pháp thống kê, so sánh và đối chiếu để phân tích văn bản. Ngoài ra, trong một số trường hợp cần thiết, ông còn dùng phương pháp thay thế, giả định để chứng minh những chữ, những từ đáng nghi vấn kết hợp với việc phẩm bình văn chương từ góc độ cảm thụ ở một chừng mức vừa đủ nhằm làm sáng rõ các luận cứ trình bày. Trên đại thể, có thể coi đây là một phương pháp nghiên cứu tổng hợp, lấy góc độ nghiên cứu ngôn ngữ học làm cơ sở. Với một bản văn học cổ, nếu việc phiên bản không chính xác tất sẽ dẫn đến tình trạng xộc xệch, thậm chí mâu thuẫn giữa hình thức văn tự và nội dung biểu đạt của nó. Chỉ riêng việc thống kê ra những trường hợp có những hiện tượng khả nghiVới một bản văn học cổ, nếu việc phiên bản không chính xác tất sẽ dẫn đến tình trạng xộc xệch, thậm chí mâu thuẫn giữa hình thức văn tự và nội dung biểu đạt của nó. Chỉ riêng việc thống kê ra những trường hợp có những hiện tượng khả nghi về sự sai sót hay nhầm lẫn cũng đã là một việc hết sức công phu, đòi hỏi ngoài sự kiên trì còn phải có khả năng tinh tế trong thụ cảm ngôn ngữ. Nhờ có vốn uyên thâm về Hán học, lại thêm tri thức hiện đại về ngôn ngữ học, nhà nghiên cứu Nguyễn Tài Cẩn đã chọn lọc và tách ra được rất nhiều hiện tượng liên quan đến sự thiếu nhất quán trong cách sử dụng ngôn ngữ của ba loại văn bản hiện có.
Với một sự lao động cần mẫn, tỉ mỉ và thật sự khoa học, ông đã cung cấp cho người đọc nhiều điều vô cùng thú vị về những biến đổi trong quá trình hành chức của các đơn vị ngôn ngữ ở mỗi cấp độ khác nhau. Trong toàn bộ phần nghiên cứu cơ bản ( tập trung ở chương II phần I ), ông đã cố gắng đứng ở vị trí thật khách quan khoa học để lý giải những chỗ còn nghi vấn từng câu thơ, đoạn thơ và trong toàn bộ tác phẩm. Thao tác nghiên cứu mà ông thực hiện tập trung nhất là luôn luôn hướng vào việc so sánh ba bản chép tay và khắc in, sau đó đối chiếu từng đoạn, từng câu, thậm chí từng từ trong bản của Nguyễn Tài Chất và hai bản còn lại.
Chính vì thế, ông đã đưa ra những nhận xét rất đáng tin cậy. Cụ thể, sau khi khảo sát 980 chữ của toàn bộ bài thơ, ông đã tìm ra 85 trường hợp được dùng với các dị bản khác nhau ( tr 18). Đây quả là một con số không nhỏ. Nó cảnh báo cho ta những lưu ý cần thiết khi tiếp cận không chỉ với "Thu dạ lữ hoài ngâm" mà còn cả với các tác phẩm thơ cổ điển khác nữa. Còn riêng trong công trình này, Nguyễn Tài Cẩn đã tổng kết một số sai sót tạo thành qui luật. Cụ thể, với bản của Nguyễn Văn Đề, ông lưu ý một số trường hợp:
Nhờ có việc công bố cuốn sách, nay bạn đọc có thể xác định được cái văn bản có khả năng gần với nguyên tác nhất là bản chép tay do người cháu đích tôn của Đinh Nhật Thận tặng lại cho ông Nguyễn Tài Chất. Đây là văn bản hiện được ông Nguyễn Tài Cẩn lưu giữ và dùng làm cơ sở để so sánh, đối chiếu với các văn bản khác. Đó là các bản 1902 ( tức bản Trường Thịnh Đường in mộc bản mùa đông năm Nhâm Dần đời Thành Thái) và bản Nguyễn Văn Đề được công bố ở cuốn "Trong 99 chóp núi" do Hà Xuân Tề đề tựa ngày 4 tháng 7 năm 1941, tại Huế. Trước hết cần khẳng định, đây là một đóng góp hết sức quí về mặt tư liệu của anh em Nguyễn Tài Chất và Nguyễn Tài Cẩn đối với việc bảo vệ và giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Nó không chỉ đơn thuần là một tài liệu có giá trị về mặt ngữ văn mà còn là một tài liệu quí về phương diện sử học.2.2. Những đóng góp của Nguyễn Tài Cẩn về mặt ngôn ngữ học
Trong công trình này, Nguyễn Tài Cẩn chủ yếu phương pháp thống kê, so sánh và đối chiếu để phân tích văn bản. Ngoài ra, trong một số trường hợp cần thiết, ông còn dùng phương pháp thay thế, giả định để chứng minh những chữ, những từ đáng nghi vấn kết hợp với việc phẩm bình văn chương từ góc độ cảm thụ ở một chừng mức vừa đủ nhằm làm sáng rõ các luận cứ trình bày. Trên đại thể, có thể coi đây là một phương pháp nghiên cứu tổng hợp, lấy góc độ nghiên cứu ngôn ngữ học làm cơ sở. Với một bản văn học cổ, nếu việc phiên bản không chính xác tất sẽ dẫn đến tình trạng xộc xệch, thậm chí mâu thuẫn giữa hình thức văn tự và nội dung biểu đạt của nó. Chỉ riêng việc thống kê ra những trường hợp có những hiện tượng khả nghiVới một bản văn học cổ, nếu việc phiên bản không chính xác tất sẽ dẫn đến tình trạng xộc xệch, thậm chí mâu thuẫn giữa hình thức văn tự và nội dung biểu đạt của nó. Chỉ riêng việc thống kê ra những trường hợp có những hiện tượng khả nghi về sự sai sót hay nhầm lẫn cũng đã là một việc hết sức công phu, đòi hỏi ngoài sự kiên trì còn phải có khả năng tinh tế trong thụ cảm ngôn ngữ. Nhờ có vốn uyên thâm về Hán học, lại thêm tri thức hiện đại về ngôn ngữ học, nhà nghiên cứu Nguyễn Tài Cẩn đã chọn lọc và tách ra được rất nhiều hiện tượng liên quan đến sự thiếu nhất quán trong cách sử dụng ngôn ngữ của ba loại văn bản hiện có.
Với một sự lao động cần mẫn, tỉ mỉ và thật sự khoa học, ông đã cung cấp cho người đọc nhiều điều vô cùng thú vị về những biến đổi trong quá trình hành chức của các đơn vị ngôn ngữ ở mỗi cấp độ khác nhau. Trong toàn bộ phần nghiên cứu cơ bản ( tập trung ở chương II phần I ), ông đã cố gắng đứng ở vị trí thật khách quan khoa học để lý giải những chỗ còn nghi vấn từng câu thơ, đoạn thơ và trong toàn bộ tác phẩm. Thao tác nghiên cứu mà ông thực hiện tập trung nhất là luôn luôn hướng vào việc so sánh ba bản chép tay và khắc in, sau đó đối chiếu từng đoạn, từng câu, thậm chí từng từ trong bản của Nguyễn Tài Chất và hai bản còn lại.
Chính vì thế, ông đã đưa ra những nhận xét rất đáng tin cậy. Cụ thể, sau khi khảo sát 980 chữ của toàn bộ bài thơ, ông đã tìm ra 85 trường hợp được dùng với các dị bản khác nhau ( tr 18). Đây quả là một con số không nhỏ. Nó cảnh báo cho ta những lưu ý cần thiết khi tiếp cận không chỉ với "Thu dạ lữ hoài ngâm" mà còn cả với các tác phẩm thơ cổ điển khác nữa. Còn riêng trong công trình này, Nguyễn Tài Cẩn đã tổng kết một số sai sót tạo thành qui luật. Cụ thể, với bản của Nguyễn Văn Đề, ông lưu ý một số trường hợp:
+Cách viết mâu thuẫn với cách đọc.
Ví dụ: đọc là "tiêu điều" thì lại khắc là "vạn điều"(câu 59), đọc là "thùy" lại in là "thính"( câu 83)...
+Cách đọc không nhất trí với các từ điển Hán Việt. Ví dụ: "Diệt" được đọc thành "duyệt" ( câu 63), "ngọ mị" được đọc thành "mụ mị" ( câu 65)...
+ Viết sai so với chữ Hán bình thường. Ví dụ: Chữ "di" ở câu 9, chữ "tăng" ở câu 47... Với bản của Nguyễn Tài Chất, ông cũng cho rằng có nhiều chỗ sai do nhớ nhầm. Chẳng hạn, đổi "sơ liêm" thành "rèm thưa" (câu 2), "lưỡng tam thanh" lại chép thành"lưỡng tam chi"... Qua đối chiếu từng câu, từng chữ trong mỗi dị bản, Nguyễn Tài Cẩn đã phát hiện trong bản 1902 có nhiều sai sót hơn cả ( tr 16-17). Đó chính là lý do ngôn ngữ học để ông nhận định, trong ba bản nói trên thì bản của Nguyễn Tài Chất và bản của Nguyễn Văn Đề gần với nguyên tác hơn. Tất nhiên, để nêu lên được những nhận định và kết luận có tính khái quát như vậy, Nguyễn Tài Cẩn đã phải vận dụng cách tư duy ngôn ngữ học để miêu tả và phân tích các hiện tượng. Đây là phần nghiên cứu công phu nhất. Chẳng hạn, khi phân tích câu 35 và câu 36:
Ví dụ: đọc là "tiêu điều" thì lại khắc là "vạn điều"(câu 59), đọc là "thùy" lại in là "thính"( câu 83)...
+Cách đọc không nhất trí với các từ điển Hán Việt. Ví dụ: "Diệt" được đọc thành "duyệt" ( câu 63), "ngọ mị" được đọc thành "mụ mị" ( câu 65)...
+ Viết sai so với chữ Hán bình thường. Ví dụ: Chữ "di" ở câu 9, chữ "tăng" ở câu 47... Với bản của Nguyễn Tài Chất, ông cũng cho rằng có nhiều chỗ sai do nhớ nhầm. Chẳng hạn, đổi "sơ liêm" thành "rèm thưa" (câu 2), "lưỡng tam thanh" lại chép thành"lưỡng tam chi"... Qua đối chiếu từng câu, từng chữ trong mỗi dị bản, Nguyễn Tài Cẩn đã phát hiện trong bản 1902 có nhiều sai sót hơn cả ( tr 16-17). Đó chính là lý do ngôn ngữ học để ông nhận định, trong ba bản nói trên thì bản của Nguyễn Tài Chất và bản của Nguyễn Văn Đề gần với nguyên tác hơn. Tất nhiên, để nêu lên được những nhận định và kết luận có tính khái quát như vậy, Nguyễn Tài Cẩn đã phải vận dụng cách tư duy ngôn ngữ học để miêu tả và phân tích các hiện tượng. Đây là phần nghiên cứu công phu nhất. Chẳng hạn, khi phân tích câu 35 và câu 36:
An năng mộ mộ......................... hiên
Phong dao đình trúc, nguyệt huyền ốc lương"
ông cho rằng không nên dùng "tây hiên" mà phải dùng "thư hiên" như trong bản của Nguyễn Tài Chất mới hợp lý. Bởi, " rõ ràng chỉ ở trong THƯ HIÊN thì chuyện "thấy được trăng treo trên tường nhà" mới có giá trị [5, 20].
Nếu phương pháp so sánh và đối chiếu giúp ông có thể phát hiện ra được những sai sót, nhầm lẫn của từng văn bản thì biện pháp phân tích theo cách nhìn hệ thống lại giúp cho ông có được cách nhìn bao quát để đánh giá việc hợp lý trong cách sử dụng các biến thể. Nói một cách khác, đó chính là việc lựa chọn các khả năng có thể có ở cùng một vị trí kết hợp để tìm ra một từ/một chữ có nghĩa nét nhất trong việc xây dựng hình tượng đồng thời đảm bảo tính liên kết hệ thống của văn bản.
Chẳng hạn, khi phân tích câu 121, ông cho rằng, việc dùng chữ "kì huynh" như bản 1902 và bản của Nguyễn Văn Đề " Kì huynh diệc viết hạnh tai" là chưa đạt vì chữ "kỳ" mơ hồ, không rõ nghĩa. Trong khi đó, bản của Nguyễn Văn Chất lại dùng chữ "ngô" (= ta) thì lại ăn khớp với chữ "ngô" trong câu 123 sau đó [5, 20].
Nói đến hoạt động của ngôn ngữ thơ ca không thể không nói tới thao tác lựa chọn. Nhà ngôn ngữ học đồng thời là nhà nghiên cứu thi pháp học nổi tiếng Jacovson đã từng nhấn mạnh, nguyên tắc hoạt động của ngôn ngữ thơ là "chức năng thi ca đem nguyên lý tương đương của trục tuyển lựa chiếu lên trục kết hợp [14,56]. Việc lựa chọn một yếu tố nào đấy trên trục tương đương/ trục hệ hình hoàn toàn không có tính ngẫu nhiên mà nó được qui định bởi văn cảnh. Do vậy, với câu thơ 129 và 130, theo các tư liệu mà Nguyễn Tài Cẩn đưa ra so sánh có thể cho phép ta nhận định, ở câu 129 thì nên dùng từ"sau" thay cho từ "nhà" như bản Nguyễn Văn Đề và Nguyễn Tài Chất, còn ở câu 130 thì nên dùng"hồi hương" như bản Nguyễn Văn Đề chứ không dùng "hồi trang" như bản của Nguyễn Tài Chất và bản 1902. Bởi, dùng từ "sau" thì câu 129 mới liên kết chặt chẽ với câu 127 theo quan hệ tiếp nối thời gian. Còn dùng từ "hồi trang" thì câu 129 không tạo thành vần thông với câu thơ tiếp theo đó ( câu 131). Cụ thể, đoạn thơ này sẽ là như sau: Từ phen cất chén quan hà
Sau chẳng biết ngoài miền Bắc động
Hai anh ta có chóng hồi hương
Thương ôi đồng bệnh cùng thương
Một Tần lại một Tiêu tương một thời.
Ngoài việc vận dụng các thao tác phân tích ngôn ngữ học, Nguyễn Tài Cẩn còn hết sức quan tâm đến quan hệ tiếp xúc ngôn ngữ và văn hóa giữa tiếng Hán và tiếng Việt để bổ sung thêm một số căn cứ khoa học giúp cho việc nhận diện các hiện tượng còn tồn nghi hoặc chưa có kiến giải rõ ràng. Bởi vậy, có thể xem chương III của Phần I là chương củng cố các lập luận được trình bày trong phần khảo sát văn bản thuộc chương II. Tại chương này, tác giả đã phân tích những ảnh hưởng của thơ chữ Hán đối với thơ Việt làm theo thể Đường luật, nhưng cũng nhấn mạnh đến những điểm khác biệt do quá trình diễn biến lịch sử.
Cụ thể, ông nhấn mạnh đến ảnh hưởng xấu của cách gieo vần không hài hòa trong thơ Hán Việt vào thơ ngũ ngôn, thất ngôn thuần Nôm [5,109]. Ngoài ra, ông còn lưu ý độc giả quá trình diễn biến của cách đọc HánViệt đến lúc này đã xa so với tiếng Hán thời Quảng Vận, cho nên văn bản thơ đang khảo sát khó bảo lưu được 100% sự đồng vận theo qui tắc của thơ tiếng Hán. Chính vì thế, ông kết luận "hiện tượng gieo vần mất hài hòa là một hiện tượng các nhà thơ Việt bắt buộc phải chấp nhận. Và khi đã quen chấp nhận trong thơ Hán Việt thì dần dần họ cũng áp dụng sang cả thơ Nôm" [5, 120].
Cụ thể, ông nhấn mạnh đến ảnh hưởng xấu của cách gieo vần không hài hòa trong thơ Hán Việt vào thơ ngũ ngôn, thất ngôn thuần Nôm [5,109]. Ngoài ra, ông còn lưu ý độc giả quá trình diễn biến của cách đọc HánViệt đến lúc này đã xa so với tiếng Hán thời Quảng Vận, cho nên văn bản thơ đang khảo sát khó bảo lưu được 100% sự đồng vận theo qui tắc của thơ tiếng Hán. Chính vì thế, ông kết luận "hiện tượng gieo vần mất hài hòa là một hiện tượng các nhà thơ Việt bắt buộc phải chấp nhận. Và khi đã quen chấp nhận trong thơ Hán Việt thì dần dần họ cũng áp dụng sang cả thơ Nôm" [5, 120].
Những kết quả nghiên cứu rất có giá trị của công trình " Khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận qua Thu dạ lữ hoài ngâm ", một lần nữa lại cho thấy vai trò quan trọng của việc vận dụng các phương pháp nghiên cứu và các thao tác phân tích ngôn ngữ học đối với thơ ca, đặc biệt là đối với thơ cổ trung đại Việt Nam. Đó cũng là một công trình có đóng góp không nhỏ vào việc hình thành môn thi pháp ngôn ngữ học trong nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật.
____
Chú:
(1) Nxb ĐHQG Hà Nội năm 2008.
(2) Đinh Nhật Thận, tự là Từ Úy, hiệu Bạch Mao Am, sinh năm Ất Hợi 1815 tại xóm Xuân Vinh, làng Thanh Liêu, Tổng Cát Ngạn nay là xã Thanh Tiên, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.Theo nhà nghiên cứu Đinh Xuân Vịnh, ông là chắt nội của Hấu đốc Lĩnh Đinh Nho Côn. mất năm Bính Dần (1866) tại quê nhà.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH.
(1) Nxb ĐHQG Hà Nội năm 2008.
(2) Đinh Nhật Thận, tự là Từ Úy, hiệu Bạch Mao Am, sinh năm Ất Hợi 1815 tại xóm Xuân Vinh, làng Thanh Liêu, Tổng Cát Ngạn nay là xã Thanh Tiên, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.Theo nhà nghiên cứu Đinh Xuân Vịnh, ông là chắt nội của Hấu đốc Lĩnh Đinh Nho Côn. mất năm Bính Dần (1866) tại quê nhà.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH.
Đào Duy Anh.1974. Từ điển Truyện Kiều. Nxb KHXH.
Nguyễn Tài Cẩn.2001. Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hóa. Nxb ĐHQG Hà Nội. Nguyễn Tài Cẩn.2002.Tư liệu Truyện Kiều Bản Duy Minh Trị 1872. Nxb ĐHQG Hà Nội.
Nguyễn Tài Cẩn.2001. Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hóa. Nxb ĐHQG Hà Nội. Nguyễn Tài Cẩn.2008.Khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận qua Thu dạ lữ hoài ngâm. Nxb ĐHQG Hà Nội.
Nguyễn Phan Cảnh.1988. Ngôn ngữ thơ. Nxb ĐH&THCN.
Mai Ngọc Chừ. 2005 . Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng của ngôn ngữ học. Nxb VHTT.
Hữu Đạt. 1993. Jazưk kak Vietnamskoi poezii. Rossiiskaja Akademija nauk. Institut Jazưkoznanija. Moskva
Hữu Đạt. 1996. Đặc điểm của ngôn ngữ thơ và ca dao nhìn từ góc độ giao tiếp. Tạp chí Ngôn ngữ, số 4.
Hữu Đạt. 2000. Ngôn ngữ thơ Việt Nam. Nxb KHXH.
Hữu Đạt. 2007. "Đất nước"- một hình tượng đặc sắc về Tổ quốc và sự cách tân trong ngôn ngữ thơ. Tạp chí Thơ, số 6.
Hữu Đạt. 2007. Nghĩa biểu vật, biểu niệm của từ và việc phân tích chúng trong quá trình tiếp cận hình tượng thơ. Tạp chí Ngôn ngữ, số 11. Nghệ thuật như là thủ pháp. 2001. Nxb Hội Nhà văn.
Roman Jacovson.2001. Ngôn ngữ học và thi học. Tạp chí Ngôn ngữ, số 14.
Hữu Đạt
http://huudat.net/%28A%28rER8ecj3ygEkAAAAYjllNjQzZjUtZWU5Ny00MzcwLWE3YzYtYWUyOGEzYzk3MjIxXLFrxK6mKjNQ4thM2wGQlnLcD7o1%29S%28npifypy2cwskvc55wergwnvy%29%29/ShowArticle.aspx?ID=31
Nguyễn Tài Cẩn.2001. Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hóa. Nxb ĐHQG Hà Nội. Nguyễn Tài Cẩn.2002.Tư liệu Truyện Kiều Bản Duy Minh Trị 1872. Nxb ĐHQG Hà Nội.
Nguyễn Tài Cẩn.2001. Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hóa. Nxb ĐHQG Hà Nội. Nguyễn Tài Cẩn.2008.Khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận qua Thu dạ lữ hoài ngâm. Nxb ĐHQG Hà Nội.
Nguyễn Phan Cảnh.1988. Ngôn ngữ thơ. Nxb ĐH&THCN.
Mai Ngọc Chừ. 2005 . Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng của ngôn ngữ học. Nxb VHTT.
Hữu Đạt. 1993. Jazưk kak Vietnamskoi poezii. Rossiiskaja Akademija nauk. Institut Jazưkoznanija. Moskva
Hữu Đạt. 1996. Đặc điểm của ngôn ngữ thơ và ca dao nhìn từ góc độ giao tiếp. Tạp chí Ngôn ngữ, số 4.
Hữu Đạt. 2000. Ngôn ngữ thơ Việt Nam. Nxb KHXH.
Hữu Đạt. 2007. "Đất nước"- một hình tượng đặc sắc về Tổ quốc và sự cách tân trong ngôn ngữ thơ. Tạp chí Thơ, số 6.
Hữu Đạt. 2007. Nghĩa biểu vật, biểu niệm của từ và việc phân tích chúng trong quá trình tiếp cận hình tượng thơ. Tạp chí Ngôn ngữ, số 11. Nghệ thuật như là thủ pháp. 2001. Nxb Hội Nhà văn.
Roman Jacovson.2001. Ngôn ngữ học và thi học. Tạp chí Ngôn ngữ, số 14.
Hữu Đạt
http://huudat.net/%28A%28rER8ecj3ygEkAAAAYjllNjQzZjUtZWU5Ny00MzcwLWE3YzYtYWUyOGEzYzk3MjIxXLFrxK6mKjNQ4thM2wGQlnLcD7o1%29S%28npifypy2cwskvc55wergwnvy%29%29/ShowArticle.aspx?ID=31
Hoàn tất ngày 20-3-2010.
Sơn Trung Thư Trang.
Nguyễn Thiên Thụ
TRẦN VĂN TOÀN * TẢN ĐÀ
Tản Đà - nhà thơ giao thời với cái tôi sầu mộng.
I. Tiểu sử và con người
Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu sinh ngày 25-5-1889 (20 tháng 4 năm Kỷ sửu, Thành Thái nguyên niên) tại làng Khê thượng, huyện Bất bạt, tỉnh Sơn tây nay là thôn Khê thượng, xã Sơn đà, huyện Ba vì - Hà tây. Nguyên quán của Tản Đà ở làng Lủ (tức Kim Lũ) huyện Thanh trì - Hà Nội.
Dòng họ của Tản Đà có truyền thống khoa bảng. Thân phụ của ông -Nguyễn Danh Kế đỗ cử nhân, làm quan đến chức Án sát Ninh bình. Anh ruột (cùng cha khác mẹ) với Tản Đà là Nguyễn Tái Tích đỗ phó bảng, làm tri huyện sau đổi sang ngạch Học quan giữ chức Giáo thụ.
Mẹ Tản Đà là Nhữ Thị Nghiêm, một đào hát tài sắc Nam định, lấy lẽ Nguyễn Danh Kế khi ông làm tri phủ Xuân Trường. Bà là người hát hay và có tài làm thơ Nôm. Tản Đà là con trái út của cuộc lương duyên giữa tài tử và giai nhân này.
Cuộc đời của Tản Đà trải nhiều khóc cười. Lên 3 tuổi, bố mất. Năm sau, vì bất hòa với gia đình chồng, bà Nhữ Thị Nghiêm bỏ đi, trở lại nghề ca xướng. Mặc dù ngay từ khi 15 tuổi đã nổi tiếng là thần đồng của tỉnh Sơn tây nhưng Tản Đà liên tiếp trượt cả hai kỳ thi hương 1909 và 1912. Cũng mùa xuân năm 1912, ông không qua được kỳ thi vào trường Hậu bổ vì trượt môn vấn đáp tiếng Pháp. Thất bại trong khoa cử gắn liền với đổ vỡ trong tình duyên đã khiến cuộc đời Tản Đà rẽ sang một ngả khác.
Năm 1915, Tản Đà có tác phẩm đăng trên Đông dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh và nhanh chóng có được tiếng vang trên văn đàn. Năm 1916, ông lấy bút danh Tản Đà và chính thức chọn con đường của một người viết văn, làm báo chuyên nghiệp. Từ 1916 đến 1926 là những năm tháng đắc ý nhất của Tản Đà. Ông liên tiếp cho xuất bản các tác phẩm: Khối tình con I(1916), Giấc mộng con I (1917), Khối tình con II (1918), Đài gương, Đàn bà Tầu, Thần tiền, Lên sáu (1919), Lên tám (1920), Còn chơi (1921), Tản Đà tùng văn (1922), Thề non nước (1922), Truyện thế gian I và II (1923), nhuận sắc Truyện Tỳ bà (tuồng) của Đoàn Tự Thuật và dịch Đại học (1922), Kinh thi (1924).
Từ năm 1926 đến 1933 ngoài việc xuất bản một số tác phẩm: Giấc mộng con II, Giấc mộng lớn (1932) và in lại thơ văn cũ Tản Đà bỏ hết tâm sức vào việc làm báo với kỳ vọng vào một sự nghiệp văn chương “có bóng mây hơi nước đến dân xã”. Sự lạc điệu của nhà Nho Tản Đà với môi trường đô thị bắt đầu bộc lộ rõ rệt. Tờ An nam tạp chí, bất chấp những tâm huyết của ông chủ báo ngất ngưởng, liên tục bị đình bản vì lý do tài chính và đến năm 1933 (sau 6 lần tái bản rồi đình bản) thì đình bản hẳn. Lần vấp ngã này khiến Tản Đà thực sự chán nản và sự nghiệp của ông cũng đi vào giai đoạn thoái trào. Từ 1933 cho đến những ngày cuối đời Tản Đà làm trợ bút cho các báo, dịch thơ Đường cho tờ Ngày nay, dịch Liêu trai, quảng cáo chữa văn, xem số Hà lạc...Cũng vì sinh kế mà Tản Đà phải trôi dạt nhiều nơi: vào Nam, ra Hà nội, về quê, ra Quảng Yên rồi lại về Hà Đông. Ông mất tại Ngã tư Sở, ngày 7 tháng 6 năm 1939, trong cảnh bần bách, để lại vợ và đàn con mà theo lời thuật của Nguyễn Tuân “vừa yếu lại vừa đuối”.
Cuộc đời của Tản Đà, như thế, dù có những năm tháng đắc ý nhưng nhìn chung là bất như ý và nhiều đổ vỡ. Điều này khiến Tản Đà (vốn đầy tự tín, ngông nghênh) phải đối diện với một cảm nhận không ít mệt mỏi, chua xót: “Mỗi một phen ra đời lại một phen thất bại; mỗi một phen thất bại, đầu tóc lại bạc thêm” (Giấc mộng lớn). Nỗi sầu bàng bạc trong thơ văn Tản Đà một phần đến từ những trải nghiệm rất thực này.
Tuy nhiên, dù phân nửa cuộc đời sau này gắn bó với môi trường đô thị và tập nhiễm không ít lối sống thị dân thì về cơ bản cốt cách của một nhà Nho tài tử vẫn rất đậm nét trong con người Tản Đà. Trong một xã hội mà người ta đã học và làm quen được với sự sùng bái đồng tiền Tản Đà trước sau vẫn chọn lối ứng xử của một khách chơi, một bậc trượng phu đầy hào sảng, phóng túng: Thơ lưng chất nặng, tay buồn rỗi / Bán áo mà mua giấy viết ngông (Dạm bán áo đoạn), Bạc tiền gió thoảng thơ đầy túi / Danh lợi bèo trôi, rượu nặng nai (Tự vịnh). Hoàn toàn không có sự khác biệt giữa hình ảnh Tản Đà trong những câu thơ trên và Tản Đà ngoài đời. Sự thống nhất ấy đã khiến Tản Đà, trong mắt của người đương thời và đặc biệt của những kẻ hậu sinh, trở thành bậc trích tiên. Vô số những giai thoại về Tản Đà đều xoay quanh cái cốt cách khác thường này của ông. Cùng với thơ ca, con người thực của Tản Đà thực sự là một niềm say mê, ngưỡng mộ của nhiều thế hệ. Thậm chí ngay cả khi những sáng tác của ông không còn sự hấp dẫn như buổi đầu xuất hiện thì sự hấp dẫn đến từ con người thực của Tản Đà vẫn không hề giảm sút. Cá tính độc đáo của Tản Đà còn tiếp tục vang bóng trong những giai thoại về Nguyễn Tuân (người bạn vong niên mà sinh thời Tản Đà vốn có biệt nhãn) và nó khiến cho Lưu Trọng Lư dù có lúc không ưa gì cái Tôi kềnh càng của Tản Đà trong đời thực vẫn phải thừa nhận: “con người Nguyễn Khắc Hiếu chính là cái tác phẩm tuyệt xảo, một bài thơ hay nhất trong sự nghiệp của Tản Đà”.
II. Kiểu nhà thơ giao thời: từ nhà Nho trở thành người sáng tác chuyên nghiệp và quan niệm về văn học của Tản Đà.
1/1.1 Thừa hưởng truyền thống của gia đình, Tản Đà ngay từ nhỏ, đã được rèn cặp theo lối học cử tử mà người thầy cũng đồng thời là người anh ruột - phó bảng Nguyễn Tái Tích. Ảnh hưởng của Nho giáo với Tản Đà, như thế, là một ảnh hưởng từ rất sớm và cũng rất tự nhiên như một nét của gia phong. Chính vì thế, Tản Đà vào đời theo một lộ trình đã định trước và cũng khá quen thuộc với một nhà Nho: học hành - đi thi - làm quan (trước để nối nghiệp nhà và với Tản Đà còn có thêm một mục đích rất dễ thương: có được người đẹp trong mộng). Chuyện trở thành nhà văn nhà báo chuyên nghiệp sau này trong cảm nhận của Tản Đà là một sự lỡ dở: Chữ nghĩa Tây Tàu trót dở dang / Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng (Đề “Khối tình con” thứ nhất.
Thực tế này lý giải vì sao: trước năm 1913 không thấy phát lộ một khả năng cũng như thiên hướng đặc biệt nào của Tản Đà về lĩnh vực sáng tác văn chương nghệ thuật. Vốn liếng của Tản Đà thời kỳ này dù có xuất sắc hơn người thì chủ yếu vẫn chỉ là chuyện chữ nghĩa đóng khung trong sách vở thánh hiền.
Hiểu thế, mới có thể lý giải được vì sao việc hỏng thi Hương năm 1912 lại khiến Tản Đà chán nản, bi phẫn đến như thế. Ở thời gian này, lối học thi cử truyền thống đã đến hồi kết. Ba năm sau, năm 1915, sẽ là khoa thi chữ Hán cuối cùng ở miền Bắc. Trước Tản Đà không lâu, dù cay cú, dù than thở thì Tú Xương vẫn có thể trọn đời theo nghiệp khoa cử. Đến Tản Đà, sự phá sản của lối vào đời truyền thống ấy đã trở thành hiện thực nhãn tiền. Nhà Nho Tản Đà không còn đủ tự tin, cơ bản hơn, cũng không còn đủ cơ hội để đánh cược vào khoa cử. Bị trượt ra khỏi quỹ đạo truyền thống, hoàn toàn mất phương hướng trong hành xử đấy mới chính là nguyên nhân sâu xa gây ra sự chán nản đến độ “quyết mong tịch cốc để từ trần” ở Tản Đà - mà sự kiện “ý trung nhân xuất giá” chỉ là một giọt nước tràn ly.
1.2 Chính ở thời điểm này, sáng tác văn chương xuất hiện như một phương thức để giải tỏa. Những sáng tác này sau đó sẽ được in ở hai quyển Khối tình và Khối tình con thứ nhất nhưng như Tản Đà đã thuật lại rất rõ: “trong khi đương viết ở Cổ đằng, thực chưa có bụng nào viết văn để in vậy”. Tản Đà chỉ thực sự lựa chọn con đường của một người kiếm sống bằng ngòi bút vào năm 1916. Đây là năm ông lấy bút hiệu Tản Đà. Đặc biệt cũng trong năm này ông từ chối lời mời vào học mà không phải qua thi tuyển của E.Vayrac giám đốc trường Hậu bổ. Ở điểm xuất phát không được chuẩn bị và cũng không hề có ý định để trở thành nhà văn chuyên nghiệp, đến với nghề văn khá muộn nhưng lại rất cương quyết và triệt để trong toàn bộ quãng đời còn lại. Những nguyên nhân nào đã làm nên sự biến đổi đặc biệt quan trọng này ở nhà Nho Tản Đà?
Trong nhận thức mang tính tiên nghiệm của nhà Nho có ba điều cũng là ba lĩnh vực để có thể lưu danh thiên cổ (tam bất hủ): lập đức, lập công và lập ngôn. Mãi cho đến cuối đời, Phan Bội Châu vẫn nhắc lại tiên đề này. Sự tán thưởng với quan điểm lập thân này cũng được Tản Đà công khai bày tỏ: “Đã gọi là thằng người phải có một cái hơn con vật. Hoặc là cái đức hay, hoặc là cái việc hay, hoặc là câu nói hay” (An nam tạp chí - số 8). Cốt cách tài tử lại thêm những pha tạp của lối sống thị dân khiến Tản Đà không bị hấp dẫn bởi những khuôn mẫu của một nhà đạo đức. Ở vào một thời đại mà văn minh phương Tây đã chứng tỏ sự ưu việt hơn hẳn của nó thì ngả rẽ kỳ vọng vào một sự nghiệp kinh bang tế thế cũng trở nên mù mịt đối với một nhà Nho phải “phá nghiệp kiếm ăn xoàng” như Tản Đà. Chỉ còn một mảnh đất cuối cùng: mảnh đất của “lời nói hay” (lập ngôn) để Tản Đà có thể thi thố với đời. Có không ít những nguyên cớ chủ quan và khách quan khuyến khích Tản Đà theo ngả rẽ này. Từ sau những năm 1910, trên cơ sở của môi trường đô thị hiện đại, viết văn làm báo đã trở thành một nghề. Tiếp sau những tờ công báo là sự ra đời của báo chí tư nhân đáp ứng những nhu cầu và thị hiếu mới của tầng lớp thị dân đang ngày một trở nên đông đảo. Danh phận của người viết văn làm báo được thừa nhận và xem trọng. Đây là cơ sở để Phạm Quỳnh có thể tự tin và hào hứng tuyên truyền cho luận điểm: “Các nước Âu Mỹ trọng các nhà văn sĩ hơn các bậc đế vương vì cái công nghiệp tinh thần còn có giá trị quý báu và ảnh hưởng sâu xa hơn là những sự nghiệp nhất thời về mặt chính trị” . Cái không khí mới mẻ của thời cuộc ấy không phải là không có sức hấp dẫn. Thêm nữa, ngay từ bài tản văn đầu tiên của mình in trên Đông dương tạp chí, Tản Đà đã được tán thưởng đặc biệt đến mức ông chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh - với tất cả sự nhạy bén về thị trường của một nhà báo chuyên nghiệp - đã phải mở và dành riêng một mục cho Nguyễn Khắc Hiếu lấy tên là Một lối văn Nôm. Một loạt những bài tản văn tiếp theo như: Cái chứa trong bụng người, Giá ngày, Giá người, Giải sầu đưa lại cho Nguyễn Khắc Hiếu một địa vị danh tiếng trong văn đàn. Những nguyên cớ trên lý giải vì sao Tản Đà đã mạnh dạn để đến với văn học chuyên nghiệp một cách quyết liệt và triệt để đến thế - một lựa chọn mà ngay cả những nhà văn ở giai đoạn 1932-1945 sau này không phải ai cũng có được.
Thực tế này đã đem lại những nét thật sự mới mẻ trong quan niệm về văn học của Tản Đà. Ngay từ năm 1916, trong lời đề tựa cho tập Khối tình con thứ nhất, người ta đã bắt gặp một chân dung và một tuyên ngôn cho sự tồn tại của một loại hình nhà văn mà rồi đây sẽ chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống văn học:
Còn non còn nước còn trăng gió
Còn có thơ ca bán phố phường
Trong quan niệm truyền thống, văn học là một thứ quà tặng để thù tạc. Điều này giải thích vì sao trong văn học trung đại bất chấp một khối lượng lớn những tác phẩm được sáng tác thì trong đời sống vẫn không có khái niệm thi sĩ, khái niệm nhà văn. Người ta gọi Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến...theo phẩm hàm, học vị. Những danh hiệu đó dường như tôn quý hơn và cũng rộng lớn hơn danh hiệu thi sĩ. Làm thơ không phải là một nghề, nó là một phần (được đề cao nhưng không bắt buộc phải có) trong hoạt động sống của một ông quan, của một nhà khoa bảng. Trong sự đối sánh ấy, cái tuyên ngôn về “thơ ca bán phố phường” của Tản Đà là một sự khai sinh cho một danh phận mới: nhà văn chuyên nghiệp, cũng đồng thời nó đem đến cho văn học một thuộc tính mới: thuộc tính hàng hóa. Từ quan niệm mới mẻ về văn học này, Tản Đà sẽ tổng kết cuộc đời mình với tư cách của một người: Khi làm chủ báo lúc viết mướn (Tiễn ông Công lên chầu trời). Chỉ từ Tản Đà người ta mới bắt gặp những trải nghiệm thật mới mẻ của một người viết văn với những điều kiện khắc nghiệt của thị trường: Bao nhiêu củi nước mới thành văn/Được bán văn ra chết mấy lần/Ông chủ nhà in in đã đắt/Lại ông hàng sách mấy mươi phân (Lo văn ế)
Với những mới mẻ trong cách thế hành nghề cũng như trong tầng sâu quan niệm văn học như trên Tản Đà xứng đáng được xem là người tiên phong trên con đường vận động từ lối viết văn làm thơ của nhà Nho sang lối viết văn làm thơ của một nhà văn chuyên nghiệp.
2. Tuy nhiên con đường trở thành nhà văn chuyên nghiệp của Tản Đà càng về sau càng trở nên quanh co và chung cuộc trở thành dang dở.
2.1 Nhà văn chuyên nghiệp và văn chương trở thành hàng hóa - những quan niệm mới mẻ này kéo theo nó một loạt những hệ quả mà quan trọng nhất là tác động của người đọc đến sáng tác của nhà văn. Tự nhìn nhận mình với chức phận: đem “thơ ca bán phố phường” một cách tự nhiên những nhu cầu, thị hiếu của tầng lớp thị dân đã có những tác động không nhỏ đến thực tế sáng tác của Tản Đà. Những tác phẩm xoay quanh đề tài du ký, những câu chuyện tình ái với hình bóng của các giai nhân trong hầu hết những sáng tác của ông cũng như những sầu muộn vẩn vơ trong các tập Khối tình con...- một phần là xuất phát từ cá tính sáng tạo của Tản Đà nhưng mặt khác cũng có sự gợi ý và kích thích từ phía môi trường của độc giả những thập kỷ hai mươi trong môi trường đô thị. Dễ dàng nhìn thấy những tương đồng (ở những mức độ đậm nhạt khác nhau) trong các đề tài và mô- tip nghệ thuật nói trên giữa Tản Đà và một loạt những cây bút đương thời như: Nguyễn Bá Trác, Đoàn Như Khuê, Phạm Quỳnh và muộn hơn một chút là Đông Hồ, Tương Phố, Hoàng Ngọc Phách... Những tương đồng này cho thấy rất rõ đằng sau những sáng tác văn học là những nhu cầu và thị hiếu mới của thời đại mà những người cầm bút một khi đã đi vào con đường một nhà văn chuyên nghiệp ít nhiều đều chịu sự tác động và định hướng của chúng.
2.2 Tuy nhiên, người ta còn bắt gặp một cách hệ thống những quan niệm văn học của nhà Nho truyền thống - đóng vai trò như một khung khổ định trước trong tư duy về văn học của Tản Đà.
Tản Đà là người tự tín và thành thật. Ông tự khen thơ mình nhiều lần và tỏ ra đặc biệt tự hào về thi tài của mình. Nhưng còn có một niềm tự hào khác - cũng là một chức phận mà Tản Đà rất mực đề cao, xem đó như mục đích tối thượng cho hoạt động sáng tác của mình: truyền bá thiên lương cho nhân loại (Hầu trời). Chức phận này Tản Đà suốt đời chẳng bao giờ nguôi quên: Hai chữ “thiên lương” thằng Hiếu nhớ/Dám mong không phụ Trời trông mong (Tiễn ông Công lên chầu Trời). Quan điểm đem văn chương phục vụ cho nhiệm vụ truyền bá thiên lương này, một lần khác, được Tản Đà trình bày một cách khúc chiết và có lập luận chặt chẽ hơn qua lời của Chu Kiều Oanh: “Văn chương có trọng giá, không phải là một sự đùa vui trong ý thú, không phải là một sự đua vui trong phẩm bình, mà phải có bóng mây hơi nước đến dân xã...Sao cho nhân tâm, phong tục được thuần chính, dân trí tư tưởng được khai minh, là chức trách của ngòi bút đại văn gia”. Với cách hiểu này văn chương được đề cao rất mực nhưng cái làm nên giá trị của văn chương không phải ở tự thân văn chương mà ở chức năng giáo huấn, ở khả năng khai minh, chính tâm cho xã hội - một sự tái hiện trọn vẹn cho mệnh đề “văn dĩ tải đạo” quen thuộc của Nho gia.
Giai đoạn giao thời là sự đan xen của hai hệ thống thể loại cũ - mới. Bên cạnh văn - thơ - phú - lục của truyền thống còn là những thể loại mới có nguồn gốc từ phương Tây: truyện ngắn, tiểu thuyết... Vấn đề không chỉ là sự phức tạp trong hệ thống thể loại, cơ bản hơn, còn là sự phức tạp trong cách thức phân loại. Trong bài báo Chữ Nho với chữ Quốc ngữ (1918), Phạm Quỳnh đề xuất quan điểm: “Văn có nhiều lối đã đành, mà văn cũng có nhiều hạng”. Nhiều lối là sự khác biệt về thể loại, phong cách. Nhiều hạng lại là sự phân biệt về tôn ty: cao - thấp, trên - dưới, khinh - trọng. Phân chia các thể loại theo cả hai tiêu chí: nhiều lối và nhiều hạng cũng là đặc điểm nổi bật trong quan niệm thể loại của Tản Đà mà tiêu biểu nhất là trong bài Hầu Trời (1921):
Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lý lại văn chơi
..................
Hai quyển Khối tình văn thuyết lý
Thần tiên, Giấc mộng văn tiểu thuyết
Đài gương, Lên sáu văn vị đời
Trong một loạt những cách gọi tên trên thấy có sự phân loại theo lối: văn vần và văn xuôi nhưng sự đối lập giữa văn thuyết lý và văn chơi, văn vị đời và văn chơi là phân loại theo thứ hạng. Mặc dù thành danh với Giấc mộng con nhưng trong quan niệm của mình Tản Đà không xem trọng tiểu thuyết như tản văn. Sau này khi giới thiệu Giấc mộng lớn, Tản Đà cũng giữ quan điểm này: “chẳng qua là một cuốn văn chơi (TVT nhấn mạnh), tưởng cũng không quan hệ đến những lời phẩm bình của các bậc đại nhã cao nhân vậy”. Văn vị đời - có bóng mây hơi nước đến dân xã - mới là thể loại mà Tản Đà xem trọng. Ông khẳng định: “Văn chương mà không được như các văn Lư Thoa, Lương Khải Siêu thời sự nghiệp có đáng giá là mấy”. Đặt tâm tư học lực của mình vào tản văn chính là một kỳ vọng của Tản Đà vào một sự nghiệp văn chương của Khang, Lương, Lư Thoa - những hình mẫu cho hạng văn vị đời của ông.
Với những quan niệm về tính chất và thể loại văn học như trên dễ hiểu là vì sao từ 1926 trở đi Tản Đà bỏ hẳn những sáng tác thuộc hệ thống thể loại văn chơi để chuyển sang viết báo tuyên truyền cho thuyết thiên lương, kỳ vọng vào một sự nghiệp văn chương giáo hóa, chính nhân tâm, thuần phong tục. Oái oăm thay, lựa chọn này đã khiến ông xa rời quỹ đạo của một nhà văn chuyên nghiệp để trở về với kiểu văn học nhà Nho truyền thống. Áp lực từ phía thị hiếu của độc giả bị thay thế bởi những hành xử quen thuộc trong sáng tác văn học truyền thống. Sự “lại giống” này (chữ dùng của GS Trần Đình Hượu), như thực tế cho thấy, chẳng những khiến Tản Đà đánh mất độc giả mà, cơ bản hơn, nó đồng thời làm mất đi nhu cầu và khả năng (vốn dĩ rất dồi dào) tìm tòi đổi mới văn học theo hướng hiện đại trong những sáng tác ở giai đoạn trước đó của ông. Là một trong những đại diện đầu tiên ở vào thời điểm phôi thai của nền văn học mới cùng với không ít những hăm hở “phá cách vứt điệu luật” nhưng hấp lực từ quan niệm văn học truyền thống đã khiến Tản Đà càng đi càng trở nên bối rối, chậm bước để rồi trở lại với điểm xuất phát ban đầu. Quả thực, không phải cứ có một quan niệm mới là có ngay những tác phẩm có giá trị nhưng nếu không được định hướng từ một quan niệm văn học thực sự mới mẻ thì ngay cả với một tài năng cỡ Tản Đà cũng khó có được khả năng và một xung lực cần thiết cho những cách tân nghệ thuật đích thực.
III.Sầu - Mộng và sự hiện diện của cái Tôi cá nhân
Vấn đề cái Tôi cá nhân trong văn học cho đến nay vẫn là một đề tài mở, cho phép song song tồn tại những cách lý giải và quan niệm khác nhau.
Từ góc độ triết học, có thể nhận thấy: con người ở bất kỳ thời đại nào cũng có chung những nhu cầu cơ bản. Một trong những nhu cầu cơ bản đó là nhu cầu được sống với chính mình. Tuy nhiên, khả năng nhận biết những phương thức để đáp ứng những nhu cầu này ở mỗi nền văn hóa, ở mỗi thời đại là khác nhau. Chính vì thế cái Tôi cá nhân nói chung và cái Tôi cá nhân trong văn học nói riêng là một hiện tượng cần được nhận thức trong những tồn tại lịch sử cụ thể.
Văn học nghệ thuật thời trung đại, một mặt, chịu ảnh hưởng của Nho giáo (thi dĩ ngôn chí, văn dĩ tải đạo); mặt khác, với tư cách là tiếng nói của tinh thần của thế giới tâm hồn văn học nghệ thuật còn là mảnh đất để cái Tôi cá nhân hiện diện. Điều này là cần thiết không phải chỉ bởi đặc thù của hoạt động sáng tạo nghệ thuật: luôn gắn liền với vấn đề phong cách, cá tính sáng tạo, gắn liền với những trải nghiệm của cá nhân người cầm bút. Cơ bản hơn, sự hiện diện của cái Tôi cá nhân trong văn học nghệ thuật còn là một nhu cầu để cân bằng cho đời sống tinh thần của con người, giúp anh ta được sống với chính mình, tạm gác bỏ những ràng buộc, những giới hạn của con người chức phận luân thường. Cách đặt vấn đề như trên giúp chúng ta nhìn nhận về cái Tôi cá nhân không chỉ như một phương diện của nội dung tác phẩm mà còn có vai trò như một tiêu chí để phân biệt hai loại văn chương trong văn học trung đại: văn chương chức năng và văn chương nghệ thuật.
Dấu vết của loại hình văn chương chức năng vẫn tồn tại ở Tản Đà một cách khá rõ nét (chủ yếu ở những tác phẩm thuộc loại văn vị đời) nhưng những sáng tác có ý nghĩa văn học sử quan trọng nhất của ông lại thuộc về loại hình văn chương nghệ thuật. Chính ở những tác phẩm thuộc loại này mà cái Tôi cá nhân bắt đầu hiện diện như một tiêu điểm thẩm mỹ trong những sáng tác của Tản Đà qua hai phạm trù thẩm mỹ chính: Sầu - Mộng
1. Không phải đến Tản Đà văn học Việt Nam mới biết đến chữ sầu. Trong văn học truyền thống sầu là một phạm trù thẩm mỹ và ý nghĩa của nó không chỉ là một tầng vỉa nội dung mà, như trên đã nói, còn là một tiêu chí quan trọng để phân biệt giữa văn học mang tính nghệ thuật phân biệt với bộ phận văn học chức năng. Trong bộ phận văn học chức năng con người chức phận đóng vai trò chủ đạo. Tư thế quan phương là tư thế đã được quy định từ trước trong các tác phẩm loại này. Một cách tự nhiên, cái Sầu cũng như những cảm xúc tự nhiên khác của con người cá nhân không có lý do để hiện diện. Nhưng trong những tác phẩm nghệ thuật thì khác. Ở đó con người được sống với cái Tôi riêng tư của mình với những hoài vọng những day dứt, nỗi đam mê và sự khổ đau, những dự phóng và cả những bất thành, dang dở. Dễ hiểu vì sao cái Sầu luôn bàng bạc trong những tác phẩm mà ở đó tư thế quan phương được thay thế bằng tư thế của một cá nhân với những nếm trải chân thực trong cuộc đời. Sầu, vì thế, là một ô cửa sổ để nhìn vào thế giới của cái Tôi trong văn học trung đại.
1.1 Mạch sầu của Tản Đà, trước tiên, bắt nguồn từ mạch sầu truyền thống. Đấy, thường bắt gặp một cách phổ biến, là cái sầu về kiếp người ngắn ngủi. Tản Đà chấp nhận bi kịch này như một tất yếu của kiếp người, không còn dằn dỗi ông chỉ ngậm ngùi than thở:
Ấy ai quay tít địa cầu
Đầu ai nửa trắng nửa pha mầu xuân xanh
Trông gương mình lại ngợ mình
Phải chăng vẫn giống đa tình ngày xưa
( Bài hát xuân tình).
Càng về sau này, cảm giác về sự hữu hạn của kiếp người càng giày vò nhà thơ. Nó khiến ông bâng khuâng trước cảnh tượng của bông hoa: Đương ở trên cành bỗng chốc rơi (Hoa rụng); chạnh lòng trước ngôi mả cũ ven đường; ngao ngán, thậm chí, hoảng sợ khi phải đối diện với thực cảnh: Tuyết nhuộm đầu xanh, tóc bạc phơ (Thơ thẩn)... Nhận biết đó là một quy luật chẳng thể đổi khác, Tản Đà thể hiện nỗi tiếc đời bằng lời van xin thời gian chậm bước:
Thương thay! xuân chẳng đợi chờ
Tiếc thay! xưa những hững hờ với xuân
Trăm nghìn gửi lại Đông quân
Hãy khoan khoan tới, hãy dần dần lui
(Xuân cảm)
Ý niệm về kiếp người ngắn ngủi mài sắc cảm nhận về thời gian khiến Tản Đà ngay cả khi khai thác những đề tài rất quen thuộc trong truyền thống vẫn có được những nét riêng của mình trong cách khai triển tứ thơ và phô diễn cảm xúc. Cái làm nên không khi bâng khuâng đặc biệt trong Tống biệt không gì khác là những cảm giác về thời gian được cài suốt mạch bài thơ:
-Nửa năm tiên cảnh
Một bước trần ai
-Trời đất từ đây xa cách mãi
-Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi.
Cũng như thế với Thu khuê oán - một đề tài không thể truyền thống hơn được nữa nếu không muốn nói là rất dễ rơi vào sáo cũ và trên thực tế là Tản Đà đã có những câu thơ rất sáo - thì chỗ thoát sáo của ông đấy là điểm nhấn trong cảm nhận về thời gian ở khổ cuối:
Ngày tháng đi chóng, năm canh trường
Lác đác sao tàn lấp lánh gương
Trên trời Chức nữ cùng Ngưu lang
Một giải sông Ngân lệ mấy hàng.
Hệ thống ngôn từ và thi liệu vẫn là của truyền thống nhưng những cảm nhận thời gian trong một loạt những trích dẫn trên dường như là sự báo trước những tứ thơ chất đầy ám ảnh thời gian trong thơ Mới sau này.
1.2 Cái sầu về kiếp người ngắn ngủi là cái sầu của nhân sinh phổ quát. Với Tản Đà, mạch sầu này của ông được phô diễn một cách thấm thía hơn khi nó gắn với cái sầu về thân thế sự nghiệp - nỗi sầu được chắt ra từ những trải nghiệm rất riêng của cuộc đời Tản Đà. Là người ôm ấp nhiều cao vọng nhưng thực tế cuộc đời lại khiến Tản Đà nhiều phen phải đối diện với sự lỡ dở, thất bại. Nếu để ý kỹ, càng về cuối đời - khi mà cảm nhận về quỹ thời gian của đời người cất tiếng ngày một riết róng - thì thơ văn của Tản Đà (hơn bao giờ hết) càng ngậm ngùi nỗi buồn của một kẻ trắng tay với cuộc đời. Mỗi độ năm tận, xuân về lại khiến Tản Đà thêm se sắt bởi nó nhắc nhở ông về những gì dang dở, bất thành. Một năm trước khi mất, trong ngày Tết ông Công, kiểm định cuộc đời mình, Tản Đà viết những dòng thành thực nhất cũng là chua xót nhất:
Khi làm chủ báo lúc viết mướn
Hai chục năm dư cảnh không cùng
Trần gian thước đất vẫn không có
Bút sắt chẳng hơn gì bút lông
Ngày xanh như ngựa đầu xanh bạc
Chán cả giang hồ hết cả ngông
(Tiễn ông Công lên chầu trời).
Cũng chính mạch sầu này trở thành cái nhìn nghệ thuật để Tản Đà viết Giấc mộng lớn -cuốn tự truyện về cuộc đời mình. Nhịp chính trong mạch trần thuật của Giấc mộng lớn là những đổ vỡ trong cuộc đời của Tản Đà. Những sự kiện khác chỉ được kể có tính chất điểm xuyết. Cứ sau mỗi lần thất bại, vấp ngã lại thấy Tản Đà thêm một lần chùng xuống mệt mỏi. Kết thúc tác phẩm, thật thấm thía nhưng cũng thật chẳng thanh thản chút nào khi Tản Đà phải đối diện với chân dung tự họa của mình qua đôi câu đối có ý nghĩa như một tổng kết:
Hơn mười năm bút sắt, bút lông, hao giấy mực chẳng ích gì cho xã hội
Trải ba xứ đường xe đường bể, trụi râu mày còn thẹn với giang san
Khép lại cuốn sách là hình ảnh một kẻ không nhà - một khách giang hồ ngoài ý muốn, mỏi mệt trong mọi ước vọng. Một kết thúc mở, nhưng là cho những bi kịch mà ở điểm mút của nó là một cái chết bất thường trong cảnh túng quẫn. Chung cuộc, kinh nghiệm cuộc đời mà Tản Đà thấm thía hơn cả là một trải nghiệm : “ở đời, chỉ những sự buồn mới là thật” (Xuân như mộng). Ta sẽ còn đề cập đến ý nghĩa mỹ học của hiện tượng này ở phần sau trong sự đối sánh với cõi mộng. Ở đây chỉ xin lưu ý: việc những chất liệu có tính chất tiểu sử của Tản Đà đi vào tác phẩm văn học qua cửa ngõ của cái sầu như trên cho thấy sầu là một phương tiện để cái Tôi thân thế của Tản Đà xuất hiện với tư cách là một phương diện của cái Tôi cá nhân được ý thức.
1.3 Cô đơn là một âm giai khác của nỗi sầu mà qua đó cái Tôi cá nhân trong những sáng tác của Tản Đà hiện diện. Nhà Nho trong truyền thống do ý thức về phận vị đặc tuyển của mình, do tinh thần tự nhiệm nên những nỗi “tiên ưu” (Nguyến Trãi), những cảnh ngộ “ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ” (ta có tấc lòng không biết nói cùng ai - Nguyễn Du) khiến họ không ít phen phải đối diện với nỗi cô đơn. Mạch khác của nỗi cô đơn được khơi nguồn từ cảm hứng thương thân, xót thân ở Hồ Xuân Hương, nàng chinh phụ, người cung nữ... Sự đa dạng là hiển nhiên nhưng vẫn có một mẫu số chung cho những sầu muộn cô đơn trong truyền thống: chúng thuộc phạm trù cái bi. Đấy là cái cô đơn bi phẫn, ưu uất. Đến Tản Đà, cái cô đơn đã bắt đầu có những nét mới lạ trong cách phô diễn, trong diện mạo. Diễn tả cái cô đơn, ngay cả khi bi lụy nhất, Tản Đà cũng thiên về cái réo rắt, buông lơi. Tâm sự cô đơn vì thế không nén lại, u uẩn mà thường chỉ như một hơi thở nhẹ thoát, bảng lảng: Chiều quá khách chơi về đã vãn/Gốc cây thơ thẩn một mình ngồi (Chơi trại hàng hoa), Mạch sầu canh vắng như tuôn/Nhớ ai nước nước non non bạn tình (Đêm đông hoài cảm), Những ai mặt biển chân giời/Nghe mưa ai có nhớ nhời nước non (Mưa thu đất khách)
Bắt gặp nhiều hơn ở Tản Đà là cái cô đơn trong điệu sầu man mác và không hiếm khi nó được vờn vẽ trong một khung cảnh thiên nhiên đầy gợi cảm: Con đường vô hạn khách đông tây/Ta nhớ ai mà đứng mãi đây (Quê nhà chơi mát cảm hứng), Suối tuôn róc rách ngang đèo/Gió thu bay lá bóng chiều về tây/Chung quang những lá cùng cây/Biết người tri kỉ đâu đây mà tìm (Vô đề)
Cái cô đơn ở đây rõ ràng không còn thích thú với cung bậc bi thương, chất chứa vẫn thường bắt gặp trong thơ cổ điển mà bắt đầu hướng tới cái du dương, êm ái thi vị đầy mới mẻ. Dường như bắt gặp ở đây một xu hướng mỹ lệ hóa cái cô đơn và đồng nhất nó với những cảm giác bâng khuâng mơ hồ, thậm chí là mơ mộng trong thế giới nội cảm của nhân vật trữ tình. Những nỗi sầu và cô đơn như thế khiến người ta thích thú nếm trải và khám phá. Cái Tôi cá nhân trong bước khởi đầu tìm kiếm chính mình đã hiện ra trong thơ Tản Đà với gương mặt của những nỗi cô đơn duyên dáng và tình tứ như thế. Nó báo trước cho cái tôi - cảm xúc và sự say mê đặc biệt với những cô đơn, sầu khổ của thơ ca giai đoạn tiếp theo.
2/ 2.1 Cùng với sầu là mộng. Ngay từ rất sớm, trong lời tựa cho cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình: Giấc mộng con, Tản Đà đã tự gọi mình là người mộng. Chỉ cần nhìn vào nhan đề của các tác phẩm (Giấc mộng con I và II, Giấc mộng lớn, Xuân như mộng, Nhớ mộng...) cũng có thể dễ dàng nhận thấy: cõi mộng là không gian nghệ thuật đặc trưng cho thế giới nghệ thuật của Tản Đà. Không ít lần ông bàn luận và triết lý về nó. Trong quan niệm của Tản Đà, con người sống trong hai thế giới. Thế giới thứ nhất là thế giới của những gì đã trải biết. Ông gọi đó là “cảnh ngộ ở đời”. Nhưng còn có một thế giới khác, thế giới của những cảnh ngộ: “thân thể chưa trải biết mà ý thức đã đi trước” - những trải nghiệm thuần túy chỉ có trong tưởng tượng. Đây chính là thế giới của mộng. Được gợi ý từ nhãn quan “tề vật luận” của Trang tử, Tản Đà phân biệt: “mộng là cái mộng con, đời là cái mộng nhớn”. Quan điểm về cõi mộng, một lần khác, được thể hiện đầy đủ và hệ thống hơn qua lời của Chu Kiều Oanh:
“Con người ta ở trong vũ trụ, hình thể có giới hạn mà tinh thần không có giới hạn. Cho nên lấy hình thể mà nói thời ngoài các sự vật hiện tại ở trước mắt, đều là không có; lấy tinh thần mà nói thời phàm cảm giác còn đi tới, tức không phải giả mà là chân”
Mộng trong quan niệm của Tản Đà ở đây có hai điểm đặc biệt quan trọng. Thứ nhất: mộng thuộc về cõi tinh thần, mà cõi tinh thần là “không có giới hạn”. Vậy nên, thế giới của mộng là không có giới hạn, không bị ước thúc bởi những quy tắc của thế giới hiện thực. Thứ hai: mặc dù không thuộc về thế giới hiện thực ở đời nhưng những trải nghiệm trong cõi mộng cũng là một hiện thực - nó “không phải giả mà là chân”.
Điều gì đã khiến Tản Đà quan tâm đến cõi mộng đến độ phải tường giải, thuyết minh về nó một cách trực tiếp và có hệ thống đến như thế trong tác phẩm của mình? Không thể trả lời thấu đáo câu hỏi này nếu không gắn nó với ý thức về cái Tôi. Trong tản văn của mình, Tản Đà nhiều lần triết lý về cái gọi là “thằng người”. Ông nhận thấy đó là một danh xưng cao quý và vì thế công khai giữ một thái độ khinh bạc với sự tồn tại vô nghĩa của những kẻ: “chỉ từ lúc biết ăn cơm, mỗi năm mỗi nhớn lên; lấy một, hai vợ; đẻ ba, bốn con; sống năm, sáu, bảy mươi tuổi; rồi chết, thời nghĩ hơn con lợn kia bao nhiêu?” (Thằng người). Khó chịu đến mức ác cảm với những tồn - tại - vô - nhân - xưng như thế nên dễ hiểu là Tản Đà chủ trương: con người sống ở đời phải quan tâm đến việc: “nuôi cái tài sức, theo cái ý thú, để làm xong cái phận sự mình”. Nhân vật Nguyễn Khắc Hiếu trong Giấc mộng conI khẳng định: “Nếu không có riêng một ý thú, không định được một đích hạn, thời như đội chiếc thuyền nan ra đứng trông cửa bể”. Cái ý thú, cái đích hạn ấy, Tản Đà khao khát có được nó trong cuộc đời thực. Nhưng trong khi chưa được thỏa nguyện, ông có thể tìm thấy nó, được sống với nó một cách thật thỏa nguyện trong cõi mộng. Hai thuộc tính của cõi mộng nói trên: chân thực và không có giới hạn giúp ông được sống với những gì mà mình ao ước, với những gì mà ông cảm thấy có ý nghĩa trong cuộc đời. Mộng với Tản Đà, do thế, không gì khác là những thể nghiệm bằng tưởng tượng. Không bị ràng buộc bởi những giới hạn trong cuộc đời thực, mộng là môi trường để cái Tôi cá nhân hiện diện với những dự phóng để chiếm lĩnh thế giới lý tưởng, qua đó mà nếm trải khám phá những kích thước, những chân trời mới mẻ.
2.2 Trong và bằng thơ văn, Tản Đà theo đuổi những cuộc chơi cũng là những giấc mộng của riêng mình. Ông tuyên ngôn về nó một cách tự tín và ngông ngạo: Chơi cho biết mặt sơn hà / Cho sơn hà biết ai là mặt chơi (Chơi Huế). Những cuộc chơi của Tản Đà thật đa dạng và khoái hoạt . Có cái chơi của thơ rượu đầy ngất ngưởng: Trời đất sinh ta rượu với thơ/Không thơ không rượu sống như thừa (Thơ rượu). Có cái chơi trong thú giang hồ xê dịch - ở đó cái Tôi của ông tìm thấy mình trong cảnh sắc non nước: Chơi Hòa Bình, Chơi Huế, Nhớ cảnh cầu Hàm rồng...Cái mới mẻ trong những bài thơ nói trên (dù chưa thật nhiều về số lượng) là tư thế của Tản Đà khi đến với thiên nhiên như một khách du để tìm kiếm và thưởng ngoạn cái đẹp. Cảm quan nghệ sĩ này bộc lộ rõ nhất trong những trang du ký bằng tưởng tượng của Tản Đà trong Giấc mộng con I. Những địa điểm như hồ Erié, thác nước Niagara, những chiếc quạt nước ở miền thượng lưu sông Madison...là những nơi mà Tản Đà chỉ biết đến qua sách vở. Tuy nhiên chính khao khát phiêu du để kiếm tìm và thưởng ngoạn những điều mới lạ đã khiến những trang viết của Tản Đà tràn đầy một cảm quan nghệ sĩ với những rung động mãnh liệt. Nhờ vào đó cảnh vật phương xa hiện lên sống động trong những màu sắc, âm thanh đầy quyến rũ. Phương xa hiện lên ở đây như một chân trời đầy hấp dẫn, một tiếng gọi đầy quyến rũ đối với chủ thể. Nhu cầu nhận biết về cái mới lạ đã trở thành dấu hiệu định tính của cái Tôi. Điều này khiến cho thiên nhiên trong những trang mộng ký của Tản Đà tỏ ra còn hấp dẫn và sinh động hơn cả những ghi chép theo lối kỷ thực về xứ lạ của Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác - những người dù đã trực tiếp mắt thấy tai nghe về cảnh sắc phương xa nhưng lại thiếu một cảm nhận từ lăng kính của một tâm hồn nghệ sĩ đích thực.
Hấp dẫn và say mê Tản Đà hơn cả là giấc mộng tình ái. Có cái tình bông lơn chòng ghẹo của khách đa tình trong những bài thơ Đường luật hóm hỉnh như: Nhớ chị hàng cau, Đùa cô sư, Bóp vú đau tay...Có cái tình thoảng qua trong cuộc đời bèo trôi nước chảy không ràng buộc, không trách nhiệm của người khách với Vân Anh (Thề non nước). Có cả cái tình luyến ái ngoài hôn nhân mà thanh tịnh của người tri kỷ giữa Nguyễn Khắc Hiếu và Chu Kiều Oanh (Giấc mộng con). Nét đa tình hiện lên rõ nhất trong Giấc mộng con II, ở đó bên cạnh Nguyễn Khắc Hiếu không chỉ có Chu Kiều Oanh mà còn có rất nhiều những giai nhân khác. Cùng với những mỹ nhân ấy, Nguyễn Khắc Hiếu uống rượu, theo “mệnh lệnh của mỹ nhân” mà làm thơ, nghe “Chiêu quân đánh tỳ bà, Dương Quý Phi say rượu đứng dậy múa. Tây Thi hát”. Tham lam hơn (và vì thế mà cũng thật đáng yêu) khi ông dựng nên những cảnh “Dự tiệc có hơn trăm người mà chỉ có một mình mình không phải là mỹ nhân”. Những cảnh yêu đương trong cõi mộng như trên làm phát lộ cái Tôi đa tình, tục lụy nơi Tản Đà. Con người này lên tiên không phải để thoát tục, để tìm thuốc trường sinh mà để tìm giai nhân, tìm vui, tìm ý thú của chính mình.
Tất cả những miêu tả ở trên cho thấy cõi mộng là không gian ở đó cái Tôi của Tản Đà phơi trải những dự phóng, sở thích của mình. Mộng như thế là phương tiện để thám hiểm những chân trời mới lạ trong thế giới tinh thần của cái Tôi. Đây chính là ý nghĩa mỹ học mới mẻ của thế giới ảo mộng mà Tản Đà đem đến cho văn học thời kỳ này. Bên cạnh đó thế giới mộng còn đảm nhận một chức năng khác. Theo Nguyễn Khắc Xương, Chu Kiều Oanh là hình bóng của cô gái trong mối tình đầu (cũng tên là Oanh) của Tản Đà. Cuộc tình trong đời thực, như chính Tản Đà thuật lại trong Giấc mộng lớn, đã có một kết thúc thật ngang trái. Không có được giai nhân của mình trong đời thực, cõi mộng là nơi để Tản Đà được sống và nếm trải những hương sắc ngọt ngào của thế giới tình yêu. Những mất mát trong đời thực được bù đắp, nhân vật được sống với tất cả những gì mình khao khát, mơ ước kiếm tìm. Sau này trên Nam Phong khi phê bình Giấc mộng con, Phạm Quỳnh nhận xét về Tản Đà: “thân chẳng bằng mộng nên mộng cho cam thân”. Lời lẽ không hẳn đã có sự cảm thông, đồng tình nhưng quả thật đã nói đúng một chức năng đặc biệt trong cõi mộng của Tản Đà.
3. Đâu là mối quan hệ giữa hai phạm trù sầu và mộng trong thế giới nghệ thuật của Tản Đà? Quan trọng hơn mối quan hệ này đem lại những khám phá mới mẻ nào về cái Tôi cá nhân trong những sáng tác của Tản Đà?
3.1. Trên những nét lớn, sầu và mộng là sự triển khai những cảm nhận và khám phá về chính mình của cái Tôi trong hai thế giới: hiện thực và lý tưởng hay nói theo ngôn ngữ của chính Tản Đà: trong giấc mộng lớn và giấc mộng con. Việc đặt cạnh nhau của hai thế giới này ngay lập tức cho thấy một sự tương phản gay gắt, một xung đột không thể hòa giải. Cái Tôi trong thế giới của giấc mộng con khoái hoạt, buông phóng, hăm hở, kỳ vọng bao nhiêu thì lại u uất, chán nản bấy nhiêu trong môi trường của giấc mộng lớn. Sự di chuyển giữa hai thế giới này luôn đem đến cho Tản Đà những hẫng hụt, xáo động đầy bất an bởi giữa chúng là vô vàn cách biệt. Cứ mỗi lần tỉnh giấc mộng con để trở về với giấc mộng lớn Tản Đà lại thêm một lần nuối tiếc. Nó làm nên nỗi Nhớ mộng rất đặc trưng cho Tản Đà:
Giấc mộng mười năm đã tỉnh rồi
Tỉnh rồi lại muốn mộng mà chơi
Nghĩ đời lắm nỗi không bằng mộng
Tiếc mộng bao nhiêu lại ngán đời.
Cái dư vị ngậm ngùi, bàng bạc những tiếc nuối trong Tống biệt, về bản chất, cũng xuất phát từ cảnh huống tỉnh mộng và nhớ mộng này. Đặc điểm trên khiến cho cái Tôi trong những sáng tác của Tản Đà không còn là một gương mặt thuần nhất. Nó là cái Tôi ngơ ngác đi tìm mình trong sự bất hòa giữa thế giới hiện thực và lý tưởng. Tình trạng này biến nó thành một tồn tại cô đơn, nhiều ẩn khuất. Dễ hiểu là vì sao từ sau Tản Đà cái Tôi sẽ trở nên cực kỳ nhạy cảm với trạng thái cô đơn và sầu khổ trở thành nỗi đam mê đặc biệt trong văn học. Không gì khác đó chính là dung môi để cái Tôi bộc lộ mình một cách trọn vẹn nhất. Lẽ tự nhiên những khái quát trên được nhìn thấy rõ nhất trong các tác phẩm của văn học lãng mạn nhưng cũng không nên quên rằng cả trong những tác phẩm hiên thực sự mâu thuẫn giữa hiện thực và lý tưởng sẽ tiếp tục được đi sâu và thể nghiệm trong những khám phá về cái Tôi cá nhân. Thậm chí, sự thể nghiệm này không chỉ đóng khung trong lĩnh vực văn chương. Sau này, trước cái chết của Tản Đà, tất cả giới cầm bút lúc đó đều bộc lộ một sự xúc động chân thành. Người ta ngưỡng mộ một tài năng, ngậm ngùi về một đấng “trích tiên” cuối cùng nơi dương thế nhưng trong đó không phải không có ít nhiều tâm sự của những kẻ “đồng bệnh tương liên”. Bằng chính cuộc đời của mình họ thấm thía bi kịch của Tản Đà: bi kịch về sự thất thế của những giá trị đẹp đẽ trong một xã hội tư sản hào nhoáng nhưng cũng thật tàn nhẫn lạnh lùng. Khi cái Tôi ý thức về mình thì nó cũng đồng thời nhận diện một cách đầy đủ nhất những giới hạn của mình trong đời sống hiện thực.
3.2. Đâu là điểm thống nhất của cái Tôi giữa tất cả những đối lập sầu - mộng nói trên?
Trong lời tựa cho tiểu thuyết Giấc mộng lớn, Tản Đà công khai bộc lộ quan điểm: “...nghĩ như người ta sinh ra trong đời, không ai dễ có mấy thân, cho nên mình yêu mình là cái tình chung của nhân loại. Một cái yêu mình đó, không cứ đẹp hay xấu, hay hay dở, mà yêu thời cứ yêu”. Ba chữ “mình yêu mình” chính là điểm thống nhất của ngòi bút Tản Đà khi viết về cái Tôi của mình trong mọi biểu hiện. Ngay từ cuốn tiểu thuyết đầu tay Tản Đà đã lấy tên khai sinh của mình làm tên nhân vật chính. Cả trong Giấc mộng lớn và Giấc mộng con dù khi viết về kỷ niệm tuổi thơ, thói quen ẩm thực hay những phiêu lưu trong ảo mộng... cái Tôi của Tản Đà luôn xuất hiện với những chi tiết, những sở thích rất riêng tư, đôi khi vụn vặt nhưng bao giờ cũng được thuật lại một cách đầy hứng khởi, say mê. Mọi cảnh huống trong tác phẩm của Tản Đà chỉ là cái cớ để ông giới thiệu, phô diễn về cái Tôi của mình. Thú vị nhất là hư cấu của Tản Đà về Chu Kiều Oanh. Thực chất nhân vật này là một hóa thân của chính Tản Đà trong hình hài của một giai nhân. Tình yêu, sự tán thưởng, kỳ vọng của Chu Kiều Oanh dành cho Nguyễn Khắc Hiếu là một cách để Tản Đà bộc lộ sự say mê của ông đối với chính bản thân mình. Có thể nói đến một Narcissism trong những sáng tác của Tản Đà. Nhà văn công khai bộc lộ sự say mê đối với bản thân mình, lấy cái Tôi của mình làm chất liệu cho mọi khám phá và miêu tả nghệ thuật. Sự tôn thờ và say mê cái Tôi khiến cho Tản Đà và các tác phẩm của ông trở nên đặc biệt khác lạ. Sự ngông nghênh của nó khiến người ta tán thưởng nhưng cũng có không ít những dè dặt, thậm chí là khó chịu trong tiếp nhận. Trên Nam Phong, Phạm Quỳnh bình luận một cách phẫn nộ: “người ta phi cuồng thì không ai trần truồng đi ngoài phố. Nhà làm sách cũng vây, không ai đem thân thế mình mà làm truyện cho người đời xem, nhất là tự mình tán tụng cho mình thì lại càng khó nghe lắm nữa”. Tuy nhiên, chính cái đặc điểm mà Phạm Quỳnh cực lực lên án nói trên lại là đóng góp mới mẻ nhất, quan trọng nhất mà Tản Đà đã đem đến cho văn học: cái Tôi - đến Tản Đà - đã trở thành đối tượng thẩm mỹ trực tiếp và duy nhất cho sự quan sát và miêu tả của nghệ thuật.
Mặt khác, với quan niệm: “không cứ đẹp hay xấu, hay hay dở, mà yêu thời cứ yêu” đã khiến sự say mê cái Tôi ở Tản Đà gắn liền với sự thành thực khi quan sát và mô tả bản thân. Như ta đã thấy ở trên, Tản Đà không hề tô vẽ, ngượng ngập khi nói về mình ở những khía cạnh riêng tư nhất. Đây là lý do giải thích vì sao cái Tôi của Tản Đà như hiện lên trực tiếp trong tác phẩm với những chi tiết thuần túy tiểu sử. Sự thành thực khiến cho cái Tôi hiện lên khi thì bông lơn, tự trào khi lại ngộ nhận một cách hồn nhiên, đa tình mà cũng rất đa đoan với những nỗi riêng, những tâm sự. Cái Tôi vì thế hiện lên với rất nhiều những màu sắc, rất đa dạng và cũng rất sinh động, có hồn. Đây là cơ sở để cái Tôi bắt đầu xuất hiện trong khuôn khổ đời thường, được xét đoán bình giá bằng thước đo của con người bình thường. Người ta thích thú phát hiện ở nhân vật những nét đồng dạng với mình, thích thú được trải nghiệm cùng với những kinh nghiệm sống của nhân vật trong cuộc sống thường ngày. Chính vì thế, những thói tật của cái Tôi nếu có, cũng dễ được cảm thông chia sẻ. Thậm chí nó còn xuất hiện dưới dáng vẻ đáng yêu nữa. Một mặt bằng mới trong nhận thức, quan niệm về con người, trong tiếp nhận văn học đã xuất hiện mà sự thành thực khi quan sát và miêu tả cái Tôi trong những sáng tác của Tản Đà là sự mở đầu đầy ý nghĩa.
Trần Văn Toàn
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 402
TRUYỆN PHAN NI TẤN, SƠN TRUNG = MẬU THÂN HUẾ
PHAN NI TẤN * BÁNH TÉT NÚI
Phan Ni Tấn
Trong màn đêm lành lạnh ướt sương của miền sơn cước, tuổi thơ tôi trùm mền nằm co ro trên nền đất bên cạnh nồi bánh tét đang sôi lục ục. Không có gì thích thú cho bằng nấu bánh tét ở ngoài trời từ lúc chạng vạng tối cho đến rạng sáng ngày hôm sau. Những ngày cuối năm trên cao nguyên đêm xuống rất nhanh. Đêm càng sâu không gian càng tịch mịch, gió hiu hiu càng thêm gai lạnh. Trong ánh lửa bập bùng từ nồi bánh tét sau hè và sự yên tĩnh của trời đất làm cho tâm hồn trong veo của tôi có cảm tưởng như con phố đang gối đầu lên thế giới bình an vô sự.
Năm nào cũng vậy, những ngày cuối năm sắp Tết, nội và má tôi vẫn thường gói bánh tét cúng Phật đầu năm, cầu cho thế giới hòa bình, cho muôn loài yên ổn, cho gia đạo bằng an, cho con cái nên người…
Ngoài bánh tét, đôi tay khéo léo của hai bà còn ra công ngào mứt dừa, mứt bí, mứt khoai, mứt me nguyên trái (chua chua ngòn ngọt), mứt gừng nguyên củ (cay hít hà)… để tăng thêm vẻ đẹp văn hóa và làm giàu thêm ẩm thực dân gian cạnh mâm ngũ quả trong ba ngày Tết cổ truyền. Nhớ hồi nhỏ tôi rất thích ăn bánh tét nội chiên với dưa món củ kiệu má làm. Ăn ngon miệng nên tôi nhõng nhẽo đòi hoài.
Rồi năm tháng trôi đi như nước chảy qua cầu. Sáu mươi năm sau, ở cái tuổi 70 về chiều, trời xui đất khiến tôi lại dính vào cái công việc bếp núc lọ lem, lui cui giúp nội tướng tôi nấu bánh tét y hệt như cái thuở ấu thời. Chỉ khác một điều là ngày xưa nấu bánh bằng một tâm hồn trong veo, nay thì đầu óc có quá nhiều tạp niệm nên mỗi lần đụng phải vấn đề gì đơn giản hay phức tạp tôi đều băn khoăn, như đụng phải bánh tét chẳng hạn, tôi cứ nhởn nhơ trước một câu hỏi riết rồi kẹt luôn giữa hai động từ “tét” và “cắt”.
Làm sao để “tét”hay “cắt” một đòn bánh tét?
Dùng dao thì chỉ “cắt” ngang đòn bánh thành từng khoanh chớ không thể “tét” theo chiều dọc từ trên xuống.
Dùng dây lạc cột bánh hoặc sợi chỉ quấn quanh đòn bánh để cắt hay tét thành từng lát nên gọi là “bánh tét”
Có điều dù “tét” hay “cắt” thì cái tên “bánh tét” cũng đã thành tên từ cái thời xửa thời xưa. Cái tên dân dã như bánh ít, bánh ú nghe sao mà hiền lành, mộc mạc, dễ thương. Nó gần gũi, thân quen như cái tên thằng cu, thằng tí, thằng tèo. Tuổi thơ tôi lớn lên theo đòn bánh tét đơn sơ, nẫu nẹt, quê mùa.
Tôi cuộn tuổi thơ tôi trên đòn bánh tét
Để nghe nó reo ngoài ngõ xuân về
Nó gánh xuân đi cong đòn kẽo kẹt
Lặc lè lặc lẹo làm trẹo cả hồn quê.
Phan Ni Tấn
Nguồn: Tác giả gửi
Trong màn đêm lành lạnh ướt sương của miền sơn cước, tuổi thơ tôi trùm mền nằm co ro trên nền đất bên cạnh nồi bánh tét đang sôi lục ục. Không có gì thích thú cho bằng nấu bánh tét ở ngoài trời từ lúc chạng vạng tối cho đến rạng sáng ngày hôm sau. Những ngày cuối năm trên cao nguyên đêm xuống rất nhanh. Đêm càng sâu không gian càng tịch mịch, gió hiu hiu càng thêm gai lạnh. Trong ánh lửa bập bùng từ nồi bánh tét sau hè và sự yên tĩnh của trời đất làm cho tâm hồn trong veo của tôi có cảm tưởng như con phố đang gối đầu lên thế giới bình an vô sự.
Năm nào cũng vậy, những ngày cuối năm sắp Tết, nội và má tôi vẫn thường gói bánh tét cúng Phật đầu năm, cầu cho thế giới hòa bình, cho muôn loài yên ổn, cho gia đạo bằng an, cho con cái nên người…
Ngoài bánh tét, đôi tay khéo léo của hai bà còn ra công ngào mứt dừa, mứt bí, mứt khoai, mứt me nguyên trái (chua chua ngòn ngọt), mứt gừng nguyên củ (cay hít hà)… để tăng thêm vẻ đẹp văn hóa và làm giàu thêm ẩm thực dân gian cạnh mâm ngũ quả trong ba ngày Tết cổ truyền. Nhớ hồi nhỏ tôi rất thích ăn bánh tét nội chiên với dưa món củ kiệu má làm. Ăn ngon miệng nên tôi nhõng nhẽo đòi hoài.
Rồi năm tháng trôi đi như nước chảy qua cầu. Sáu mươi năm sau, ở cái tuổi 70 về chiều, trời xui đất khiến tôi lại dính vào cái công việc bếp núc lọ lem, lui cui giúp nội tướng tôi nấu bánh tét y hệt như cái thuở ấu thời. Chỉ khác một điều là ngày xưa nấu bánh bằng một tâm hồn trong veo, nay thì đầu óc có quá nhiều tạp niệm nên mỗi lần đụng phải vấn đề gì đơn giản hay phức tạp tôi đều băn khoăn, như đụng phải bánh tét chẳng hạn, tôi cứ nhởn nhơ trước một câu hỏi riết rồi kẹt luôn giữa hai động từ “tét” và “cắt”.
Làm sao để “tét”hay “cắt” một đòn bánh tét?
Dùng dao thì chỉ “cắt” ngang đòn bánh thành từng khoanh chớ không thể “tét” theo chiều dọc từ trên xuống.
Dùng dây lạc cột bánh hoặc sợi chỉ quấn quanh đòn bánh để cắt hay tét thành từng lát nên gọi là “bánh tét”
Có điều dù “tét” hay “cắt” thì cái tên “bánh tét” cũng đã thành tên từ cái thời xửa thời xưa. Cái tên dân dã như bánh ít, bánh ú nghe sao mà hiền lành, mộc mạc, dễ thương. Nó gần gũi, thân quen như cái tên thằng cu, thằng tí, thằng tèo. Tuổi thơ tôi lớn lên theo đòn bánh tét đơn sơ, nẫu nẹt, quê mùa.
Tôi cuộn tuổi thơ tôi trên đòn bánh tét
Để nghe nó reo ngoài ngõ xuân về
Nó gánh xuân đi cong đòn kẽo kẹt
Lặc lè lặc lẹo làm trẹo cả hồn quê.
Phan Ni Tấn
Nguồn: Tác giả gửi
SƠN TRUNG * CHÙM KHẾ NGỌT
SƠN TRUNG
CHÙM KHẾ NGỌT
Trương Thế Phát là một thương gia trẻ ở kinh đô Thăng Long. Ông có tàu bè chở hàng đi buôn bán ờ trong và ngoài nước. Khi quân Pháp tiến đánh thành Hà Nội, và chiếm Bắc Ninh, Thái Nguyên, ông lên tàu đem gia đình ra ngoại quốc. Sau bao ngày lênh đênh trên biển cả, gia đình ông đến Xiêm La, rồi định cư tại đây. Nhờ có tàu bè, ông mang theo một mớ gia sản nên khi qua Xiêm ông đã có sẵn một gia tài. Với tài kinh doanh, ông đã gây dựng một sự nghiệp khá lớn, gồm các cửa tiệm kim hoàn, cửa tiệm vải vóc lụa là, và trà thất Mây Tần.
Là một nhà kinh doanh, công việc bận rộn, nhưng òng luôn thương nhớ quê hương . Ông nhớ Hà Nội ba mươi sáu phố phường, với năm cửa Ô xưa. Ôi! Những cô gái hàng Đào, hàng Bạc . .. má đỏ, môi hồng, quần điều, áo lụa trắng, đeo xà tích bạc. Ông nhớ cốm Vòng, nhớ phở , nhớ xôi và bánh cuốn Hà Nội. Ông nhớ Hồ Gươm, hồ Tây, chùa Trấn Quốc, chùa Một Cột. . . Xiêm La có nhiều chùa lớn và nhiều lễ hội nhưng không đâu bằng hội chùa Hương.. . Ông nhớ những bài hát ru, những điệu quan họ. Xiêm La có nhiều trái cây nhưng không bằng nhãn, vải, cam, quít. . . Hà Nội. Ở Xiêm La ông có nhiều bạn mới, nhưng lòng ông vẫn nhớ nhung các bạn Hà Nội và những kỷ niệm thời ấu thơ. Nhất là buổi đầu, ngôn ngữ bất đồng, phong tục xa lạ, thực phẩm khác mùi vị làm cho ông chao đảo như con thuyền không lái.
Lúc bấy giờ nhiều người trong nước cũng bỏ nước ra đi. Họ ra đi mang theo một bầu nhiệt huyết , một lý tưởng cao siêu là khôi phục đất nước, giải phóng dân tộc. Có nhiều nhóm hoạt động. Họ từ trong nước ra. Họ cũng từ Trung Quốc, Nhật Bản sang Xiêm hoạt động. Họ ở lại Xiêm mà cũng có người đi qua , đi lại. Tuy là nhiều tổ chức khác nhau, tựu trong có hai nhóm. Một nhóm thuộc phe quốc gia, một phái thuộc phe quốc tế .
Trà thất Mây Tần do con trai của ông là Trương Thế Đạt trông coi, còn các tiệm khác thì do phu nhân, con trai thứ và các con gái ông quản lý. It lâu sau, Trương Thế Phát mất, cơ nghiệp truyền lại cho phu nhân và các con. Trương Thế Đạt tiếp tục kinh doanh trà thất Mây Tần .
Trà thất Mây Tần ở thủ đô Bangkok là một nơi trai thanh gái lịch lui tới tấp nập. Không những người Xiêm La mà người Cao Miên, Lào, Trung Quốc, Ấn Độ đều thường xuyên tới uống trà, và thưởng thức ca vũ nhạc. Một hôm, có mấy người khách Á Đông tới trà thất Mây Tần uống trà, uống rưọu , Trương Thế Đạt nhận ra có một số khách là người Việt Nam. Ông bèn tới chào hỏi, mới biết họ quả là người Việt Nam. Nghe giọng nói của họ, ông nhận ra họ là người Bắc, người Trung, và người Nam.
Ông hỏi thăm họ thì họ cho biết họ qua đây lập nghiệp. Trương Thế Đạt rất vui mừng khi gặp lại đồng bào Việt Nam. Tâm trạng hai bên thật vui vẻ như câu thơ “ Thiên lý tha hương ngộ cố tri ”. Họ hỏi ông tại sao đặt tên trà thất là Mây Tần.
Ông nói ông rất yêu quê hương, lòng luôn nhớ băm sáu phố phường Hà Nội. “Hồn quê theo ngọn Mây Tần xa xa” Dần dần, hai bên quen nhau, Trương Thế Đạt mời họ về nhà chơi. Kể từ đó hai bên liên lạc thân mật. Sau một thời gian, khách hiểu rõ gia đình Trương là một gia đình yêu nước, vì không cam tâm làm tôi tớ bọn ngoại xâm mà bỏ nước ra đi. Vì quen thân, họ cũng cho biết họ thuộc đảng cách mạng tiến bộ Việt Nam, được thế lực quốc tế như Liên Xô, Trung Quốc yểm trợ, thế lực rất mạnh, bám rễ trong và ngoài nước, có mục đích bài phong đả thực, xây dựng một xã hội công bằng tự do, người không bóc lột người.
Đảng có Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hùynh Thúc Kháng tham gia, và có khoảng mười triệu đảng viên. Lực lượng đảng trong nước đã vùng lên như Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Thái Học, Hoàng Hoa Thám đã chiếm được nhiều tỉnh trong nước, giết vô số thực dân Pháp. Trương Thế Đạt nghe họ nói vậy cũng tin tưởng, ủng hộ cho họ một số vàng để làm quỹ hoạt động cứu quốc. Trương Thế Đạt mất, con trai là Trương Thế Vinh nối nghiệp cha kinh doanh trong ngoài, và ông cũng giữ mối liên lạc với tổ chức quốc tế, và cũng đóng góp vàng bạc cho họ. Trà thất Mây Tần và nhà của Trương Thế Vinh trở thành nơi ẩn náu và hoạt động của đảng cách mệnh.
Ông được chi bộ đảng khen ngợi là “ nhân sĩ yêu nước”, và những Việt kiều ở Thái Lan theo cộng sản được gọi là “ Việt kiều yêu nước”. Gia đình Trương Thế Vinh đã được chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa gửi giấy ban khen là gia đình yêu nước, đã có công với cách mạng.
Sau 1945, đệ nhị thế chiến chấm dứt, Việt Minh cướp chính quyền. Một số dân chúng vì nạn đói, vì sợ cộng sản và thực dân Pháp nên đã bỏ nước sang Lào, Miên, Xiêm La, hoặc Pháp. Những người Việt Nam sinh sống tại Xiêm La ngày càng đông, và những người theo phe cộng sản càng mạnh. Năm 1954, hiệp định Geneve chia đôi Việt Nam.
Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa giao thương với Xiêm La tức Thái Lan, và đặt tòa đại sứ tại Bangkok. Những đảng viên cộng sản Việt Nam ra mặt công khai hoạt động. Họ ra sức vận động Việt kiều tại Thái Lan về xây dựng đất nước. Chính sách này cũng được phát triển nhiều nơi như Pháp, Lào, Miên. . .Họ bảo đất nước ngày nay cần nhiều bàn tay đóng góp. Việt Nam nay đã tiến lên xã hội chủ nghĩa, nông dân có ruộng cày, thoát khỏi cảnh làm nô lệ cho bọn phú nông địa chủ; xã hội bây giờ không còn nạn người bóc lột người.
Sinh viên học sinh được tự do học hành, không phài đóng học phí mà còn được chính phủ nuôi ăn học, cấp sách vở cho đến khi thành tài. Trong nước ai cũng có công ăn việc làm, không ai thất nghiệp. Họ gửi tặng ông nhiều sách báo, có nhiều thơ ca, âm nhạc và tiểu thuyết ca ngợi sự lãnh đạo tài ba của đảng và chính phủ. Trần Thế Vinh tuy sinh tại Thái Lan, nhưng được nghe cha ông ca tụng về con người và đất nước Việt Nam, nay lại được nghe thêm những lời tuyên truyền của cộng sản nên càng thêm yêu nước, và càng nhớ quê hương. Ông luôn luôn mở đài Hà Nội, và và những bài thơ, bản nhạc đã gieo vào lòng ông tình yêu quê hương, tổ quốc.
Quê hương là chùm khế ngọt. ..
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học,
Con về rợp bướm vàng bay
. . . . . . . .
Quê hương là cầu tre nhỏ,
Mẹ về nón lá nghiêng che.
Là hương hoa đồng cỏ nội,
Bay trong giấc ngủ đêm hè. . .
Lúc bấy giờ công việc buôn bán ngày càng khó khăn khiến Trương Thế Vinh chán nản. Nay được cán bộ cộng sản kêu gọi và khuyến khích, vì vậy ông quyết định trở về góp sức xây dựng quê hương. Ông nay được ban khen là gia đình có công với cách mạng. Nếu về Việt Nam chắc ông sẽ được đảng và nhà nước quý trọng. Con đường tương lai rộng mở trước mắt ông.
Ta về ta tắm ao ta!
Ông muốn trở về tắm ao ta, về làm người hùng cứu nước, còn hơn là sống ở quê người, dù là triệu phú cũng có mặc cảm là kẻ tha phương cầu thực, kẻ lưu đày, là công dân bậc hai !
Ôi! Nước ta nay đã độc lập, không còn bọn thực dân Pháp xâm chiếm quê hương. Vì thực dân Pháp mà nhân dân ta khốn khổ điêu tàn . Vì thực dân Pháp mà tổ phụ ông phải bỏ quê hương mà đi. Nay là một dịp để ông trở về quê hương, về 36 phố phường Hà Nội và năm cửa Ô xưa! Tình yêu quê hương không còn là một mớ tình cảm bâng khuâng mà đã biến thảnh sự thực. Ông lo bán nhà cửa, hàng hóa và các cơ sở kinh doanh thu được năm trăm lượng vàng và mười ngàn đô la Mỹ. Sau khi đã thanh toán mọi thứ, ông đã đến tòa đại sứ Việt Nam tại Vọng Các (Bangkok) ghi tên hồi hương. Toà đại sứ Việt Nam tại Thái Lan đã lo mọi sự. Tất cả Việt kiều tại Thái Lan sẽ cùng nhau về Việt Nam bằng đường hàng không sang Cambodge rồi từ đó sẽ đi xe ô tô hay máy bay về Việt Nam.
Sau khi đoàn Việt kiều Thái Lan về đến Cambodge, họ được chuyển ngay lên xe ô tô Liên Xô là loại xe bốn bề kín mít chở ngay về Quảng Bình Việt Nam. Khi về đến biên giới Việt Nam, cả đám được cán bộ cộng sản đeo súng yêu cầu xuống xe để vào một trung tâm, bốn bề rào kín và có lính gác.
Họ bảo các Việt kiều tạm ở lại đây một thời gian để học tập đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước. Họ ra lệnh các Việt kiều tập họp lại, gia đình nào theo gia đình đó.Họ bảo mọi người không được ra khỏi trung tâm nếu không được trung tâm cho phép. Họ đưa mọi người vào hội trường. Viên thủ trưởng tỏ ra rất lịch sự. Ông nói:
Chào các đồng bào và các đồng chí,
Hôm nay tôi xin thay mặt mặt đảng và chính phủ chào mừng những người con yêu trở về tổ quốc.
Ông vừa dứt lời, mọi người vui vẻ hoan hô, tiếng vỗ tay nghe vang như tiếng pháo.
Tiếp theo, ông nói:
Thưa các đồng chí và đồng bào,
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, những người ngoại quốc đã ước mơ trong một đêm được trở thành người Việt Nam. Các đồng bào và đồng chí nay đã thành người nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.Trước tiên, yêu cầu mọi người giao nộp thẻ căn cước, thẻ quốc tịch và khai sinh ngoại quốc để Nhà nước làm thủ tục hành chánh.
Ông nói xong thì lui bước, để cho một đại biểu khác lên tiếng yêu cầu đồng bào làm bản tự khai hồ sơ, lý lịch, nhất là phải kê khai vàng bạc, kim cương, hạt xoàn và đô la. Trong khi mọi người tập trung ở hội trường, cán bộ cộng sản đã vào phòng khám xét hành lý của Việt kiều. Những ai có chìa khóa va ly hay khóa các hộp kín, họ đến bảo nhỏ giao nộp chìa khóa cho họ làm thủ tục kiểm tra. Ngay hôm đó, họ bắt mọi người giao nộp vàng, kim cương, nữ trang và đô la.
Ông cán bộ nói:
Đảng phải giữ tài sản cho đồng bào vì sợ bọn biệt kích Mỹ ngụy cướp của giết người.. Cứ yên tâm đưa chính phủ giữ dùm, rồi chính phủ sẽ trả lại cho các gia đình sau khi tình hình đã được ổn định.
Các gia đình Việt kiều được cán bộ rút sổ tay, xé giấy viết biên nhận bằng những tờ giấy vàng úa xấu xí với những giòng chữ nghệch ngoạc, không rõ chữ viết và con số, và cũng không ghi ngày tháng, tên chủ nhân tài sản cũng như chữ ký và tên người nhận:
Đã nhận 300 miếng kim loại bề ngoài màu vàng. . . Đã nhận một ngàn tiền nước ngoài. . . Đã nhận hai mươi viên đá nhỏ óng ánh. . .
Tiếp theo, mọi người làm thủ tục y tế. Mọi người phải vào phòng kín, cởi hết áo quần để y sĩ khám xét. Không thử máu, không nghe tim mạch, mà chỉ khám tổng quát. Thủ tục này thì cũng nhanh thôi, ngoại trừ những ai còn cất giấu tài sản trong người là bị tịch thu và bị phê bình, kiểm thảo.
Đến đây thì các Việt kiều đã biết mình đã lầm, đã mắc gian kế. Họ cũng như Thúy Kiều trong ngày đầu gặp Mã giám sinh đã kêu lên:
Xem gương trong bấy nhiêu ngày,
Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già!.
Vài ngày sau, các Việt kiều được phân phối về các thôn xóm ở miền Bắc. Gia đình Trương Thế Minh được phân phối về một làng ở Quảng Bình. Ông chất vấn cán bộ :
-Chúng tôi xin về Hà Nội là quê hương của tôi và đã được tòa đại sứ Việt Nam ở Bangkok chấp thuận. Nay sao các ông lại bắt tôi về Quảng Bình?
Tên cán bộ trong ban Việt kiều yêu nước nói:
- Nay chúng ta đang xây dựng Hà Nội thành một thủ đô to lớn và văn minh hơn mười, hơn trăm lần xưa. Hà Nội tương lai sẽ có những tòa cao 100, 200 tầng, vĩ đại hơn Mỹ. Vi là xây cất chưa xong, nên chưa có nhà cho đồng bào ở. Vậy ông tạm ở lại Quảng Bình một thời gian, rồi sẽ đưa gia đình về Hà Nội sau.
Biết rằng phản đối cũng vô ích cho nên gia đình ông phải lên xe về Quảng Bình. Gia đình ông được đổ xuống quốc lộ I, rồi được công an dẫn bộ tới một làng nhỏ, cách quốc lộ vài cây số. Làng này cho ông một miếng đất ven sông để ở và canh tác. Nơi ông ở là bãi sông vắng, cách xa xóm làng vài cây số. Ông là một kẻ ngụ cư. Hơn nữa, ông là một kẻ nguy hiểm. Dân làng không ai dám giao thiệp cùng gia đình ông vì họ coi gia đình ông như một những kẻ gián điệp từ ngoại quốc về để phá hoại xã hội chủ nghĩa. Tiền của mất sạch, gia đình ông trở thành kẻ bần cùng nhất nước, cô đơn nhất nước. Thư ông gửi đi không có hồi âm. Ông không nhận được lá thư nào từ Thái Lan hay Hà Nội.
Ở Thái Lan, ông có tài sản, bạn bè, nhưng về đây, quê hương Việt Nam,Trương Thế Vinh và gia đình bị lưu đày và cấm cố. Gia đình ông vì yêu nước mà trở về nay lại bị coi là kẻ thù của dân tộc. Sống ở Thái Lan, ông tự coi là người xa lạ, nay về Việt Nam, ông lại trở thành người xa lạ trên quê hương mình. Ông suy nghĩ xa gần mà lòng đau như cắt. Ông trách ông ngu dại. Nước Thái Lan đã cho ông nương tựa, giúp ông làm giàu, con cái ông học hành thành tựu, thế mà ông bỏ Thái Lan mà về Việt Nam, về quê mẹ, nhưng quê mẹ đã giết gia đình ông, cướp đoạt tài sản và hy vọng của ông! Kẻ sát nhân cướp bóc chính là những kẻ mà ông đã nuôi nấng, kẻ đã rao giảng tự do, nhân đạo và bình đẳng! Ông đã bỏ mồi bắt bóng! Ông là người ngu xuẩn nghe theo những lời phỉnh nịnh để rồi làm hại mình và con cháu!
Vài năm sau, chiến tranh Việt Mỹ bùng nổ, miền Bắc bắt thanh niên nam nữ “sinh bắc tử nam”. Trương Thế Minh có một trai, một gái. Con trai ông phải vào bộ đội rồi tử thương tại chiến trường miền Nam. Con gái ông phải đi thanh niên xung phong, lâm bệnh rồi chết trên Trường Sơn. Hai vợ chồng cắng đắng nhau. Bà trách ông nhẹ dạ tin lời kẻ cướp. Bà không chịu nổi đời sống kham khổ và nỗi uất hận về bị lường gạt nên mắc bệnh, không thuốc men mà chết. Còn ông, trong cơn đau khổ, uống rượu say rồi chửi cộng sản. Kết cuộc ông bị công an bắt bỏ tù rồi chết trong trại tù Thái Nguyên.
PHẠM TRẦN * NHỚ MẬU THÂN
Tết Bính Thân không quên Mậu Thân Huế
Phạm Trần (Danlambao) - Cách nay 48 năm, truyền thống Tết của Dân tộc Việt Nam đã bị người Cộng sản nhuộm máu đỏ khắp lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa với cuộc tấn công quân sự từ đêm Giao thừa (31/1/1968), sau đó biến thành chiến dịch quân sự kéo dài đến hết năm 1968.
Người Cộng sản gọi đó là “cuộc tiến công nổi dậy và vận động quần chúng nổi dậy chiếm chính quyền”, nhưng không hề có cuộc nổi dậy nào của người dân miền Nam. Cũng không có bất cứ thị trấn hay thành phố nào của miền Nam bị quân Cộng sản chiếm đóng vĩnh viễn.
Quan trọng hơn, không có nhóm dân Việt Nam Cộng hòa (VNCH) nào đã bỏ đất, bỏ nhà để chạy về phía Cộng sản mỗi khi quân Cộng sản tràn đến.
Thương vong đôi bên, kể cả của Quân đồng Đồng minh của VNCH gồm Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Thái Lan, Úc, New Zealand, đã nằm yên trong quá khứ. Những con số không thể kiểm chứng chính xác cũng đã mục nát trong lòng đất.
Nhưng mỗi khi Tết đến, không người dân nào của VNCH lại không nhớ đến nỗi kinh hoàng của các vụ lính Cộng sản thảm sát và chôn tập thể người dân Huế, diễn ra từ sáng sớm ngày 31/01/1968. Sau đó tiếp tục kéo dài trong 26 ngày giao tranh giành quyền làm chủ Huế với Quân đội VNCH và Hoa Kỳ.
Cho đến năm 2012, qua 12 Tập phim “Mậu Thân 1968” của Đạo diễn (Bà) Lê Phong Lan, quá khứ tội ác chiến tranh ở Huế của người Cộng sản đã được che đậy cẩu thả để đạt mục tiêu duy nhất là: đổ tội cho phía VNCH và Hoa Kỳ đã gây ra phần lớn chết chóc cho dân lành.
Nhưng bộ phim được gọi là lịch sử lệch lạc này dù, khởi đầu do Lan bỏ tiền ra thực hiện, nhưng sau khi hoàn tất lại được Đài Truyền Hình Việt Nam mua chiếu độc quyền nhằm bạch hóa trách nhiệm cho quân Cộng sản là chính.
Vì vậy báo đài của Nhà nước đã nhanh chóng kết luận: “Cái gọi là "cuộc thảm sát đẫm máu” chỉ là đòn tâm lý chiến mà Mỹ dựng lên, thực tế Huế đã bị bom Mỹ phá hủy làm nhiều thường dân chết cùng với quân giải phóng và lính Mỹ.”
Sự thật còn đó
Chuyên Mậu Thân 1968, trong nhiều năm được xếp vào loại “nhạy cảm” đối với nhân dân miền Bắc và phe Cộng sản trong Nam, thường gọi quen thuộc là Việt Cộng (Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam).
Nhưng tại sao lại cho là “nhạy cảm”? Mời Độc giả đọc lại những gì tôi (Phạm Trần) viết Tháng 01 năm 2013:
“Lê Phong Lan nói: “Vì sao mọi người phía ta tránh nhắc đến Mậu Thân, đó là vì sự tổn thất của quân đội nhân dân Việt Nam ở sự kiện này quá nhiều. Tâm sự với tôi khi trả lời phỏng vấn, nhiều chỉ huy các sư đoàn dạn dày chiến trận còn khóc nức lên vì thương lính. Đó là lý do duy nhất”.
Quả nhiên về phương diện quân sự thì cả quân miền Bắc và du kích trong Nam đã thiệt hại rất nặng. Theo các ước tính quân sự thì trong cuộc tấn công Mậu Thân, CSVN đã vận động từ 323,000 đến 595,000 quân chính quy và địa phương trong Nam để thực hiện kế hoạch chống lại khoảng 1 triệu 200 quân VNCH và Hoa Kỳ với dự kiến chiếm đóng nhiều vùng lãnh thổ của VNCH.
Tuy nhiên kế hoạch hồ hởi của Hà Nội đã bị quân và dân VNCH được sự yểm trợ của quân đội Hoa Kỳ đánh bại. Khoảng từ 85,000 đến 100,000 quân Cộng sản bị loai khỏi vòng chiến, so với thiệt hại của đồng minh có trên 6,000 tử thương, ngót 30,000 bị thương và trên 1,000 quân bị mất tích.
Thương vong thường dân, tính riêng tại Huế cũng đã có từ 5,000 đến 6,000 người chết và mất tích, đa số bị quân Cộng sản thảm sát bằng nhiều hình thức, kể cả chôn sống hay đập đầu cho chết vì muốn tiết kiệm đạn để chiến đấu.
Nhưng phía Cộng sản đã liên tiếp phủ nhận trách nhiệm và đổ lỗi cho bom đạn của Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hòa gây ra.
Vì vậy, theo tường thuật của báo chí Việt Nam thì bà Lê Phong Lan cho rằng: “Thấy trên mạng có quá nhiều thông tin sai lệch về sự kiện lịch sử này, tới nỗi các thế hệ sinh sau 1975 không còn biết đâu là thông tin sai, đâu là thông tin đúng vì vậy lại càng quyết tâm để làm phim.”
Báo Công an TP HCM ngày 25-01-013 cho biết: “Để hoàn tất bộ phim có đề tài khó này, đạo diễn đã gặp, phỏng vấn tại VN và Mỹ đến 200 nhân chứng cả ba phía Quân đội nhân dân VN, quân đội Mỹ và những người trong bộ máy chính quyền Việt Nam Cộng hòa để tìm ra sự thật. Ra mắt đúng vào dịp kỷ niệm 45 năm cuộc tổng tấn công Mậu Thân.”
Rồi bà Lê Phong Lan còn lý giải thêm rằng: “12 tập phim, tôi chỉ muốn tập trung đi tìm câu trả lời cho câu hỏi tại sao Mỹ - một cường quốc, lại can dự vào công việc của một nước nhỏ bé bằng cách phân tích bối cảnh, tình hình, lật lại hồ sơ tư liệu, tìm hiểu ý nghĩa thật sự của Mậu Thân 1968.” (Đài Truyền hình Việt Nam)
“Tôi đã gặp những nhà báo Mỹ, những người lính bên kia chiến tuyến, họ đã nói, tất cả những thông tin về vụ thảm sát năm 1968 tại Huế chỉ là sự vu cáo của Mỹ và chính quyền Việt Nam cộng hòa đổ lên đầu Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Để khỏa lấp cho sự thất bại nặng nề, phía Mỹ và Việt Nam cộng hòa đã phát động những tin đồn nhảm gây nhiễu loạn như một cuộc chiến tranh tâm lý, và nó đã kéo dài trong một thời gian. Nhưng sự thật là sự thật. Chiến dịch Mậu Thân trải qua thời gian càng khẳng định là bản anh hùng ca vĩ đại của quân dân Việt Nam.”
Vẫn theo người đạo diễn này thì: “Nhiều câu chuyện lịch sử ít người biết được lật lại. Một trong số đó là sự kiện 26 ngày đêm tại Huế từng bị cho là "cuộc thảm sát đẫm máu” được mô tả trong cuốn sách Dải khăn sô cho Huế của nhà văn chế độ cũ - Nhã Ca.”
Báo Dân Việt (23-01-2013) trích lời bà này viết rằng: “Chị nói, nhiều người đã dựa vào cuốn sách “Vành khăn xô cho Huế” của tác giả Nhã Ca để dựng nên những chuyện vô cùng sai lệch về Mậu Thân 1968, làm oan uổng cho rất nhiều người. (Chú thích: Tên đúng là “Giải Khăn Sô Cho Huế”-Phạm Trần)
Trong cuốn sách đó, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường bị vu oan là dẫn đầu một cánh quân đi thảm sát các nhân viên công quyền và người dân Huế, thực tế, trong thời điểm ấy, ông Tường vẫn ở trên chiến khu. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cũng chịu một nỗi oan tương tự, ông chỉ dẫn đầu một toán học sinh, sinh viên nhưng Nhã Ca cũng viết ông dẫn quân đi thảm sát. Tất cả các nhân chứng mà đạo diễn Phong Lan gặp, trong đó có nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã khẳng định không có một vụ thảm sát nào. Các nhà báo quốc tế yêu cầu được tiếp cận với những hố chôn người tập thể như cáo buộc của chính quyền Việt Nam cộng hòa nhưng họ cũng bị từ chối. Một nhân chứng đạo diễn Phong Lan đã gặp và phỏng vấn là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cho biết, quân đội Bắc Việt Nam vô cùng nghiêm túc, kỷ luật, không hề có chuyện thảm sát.”
Tuy nhiên cũng chính Hoàng Phủ Ngọc Tường lại nói với Nhà văn Thụy Khuê trong cuộc phỏng vấn cho chương trình tiếng Việt đài Phát thanh Quốc tế Pháp (Radio France International, RFI) ngày 12/07/1977 rằng: “Trong cuốn Giải Khăn Sô Cho Huế, của Nhã Ca in sau biến cố Mậu Thân, tác giả cũng nói rằng: Phủ (tức là tôi), không về Huế, và nếu có về thì chắc cũng không giết người. Tôi thành thật cảm ơn chị Nhã Ca đã dành cho tôi điều nhìn nhận khách quan rất quan trọng này, dù trong cảnh tượng máu lửa hỗn quan hỗn quân của Huế Mậu Thân.
Đã không có mặt ở Huế thì làm sao tôi -Hoàng Phủ Ngọc Tường- lại có thể làm cái việc ghê gớm gọi là "đồ tể" Mậu Thân ở Huế được?”
Như vậy thì bà đạo diễn Lê Phong Lan có nói và làm phim đúng không?
Cũng trong cuộc phỏng vấn này, Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, thành viên của Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ Và Hòa Bình Thành Phố Huế đi theo Cộng sản trong vụ Mậu Thân, còn đối đáp như sau :
Thụy Khuê: Nhìn từ phía những dữ kiện lịch sử mà anh nắm bắt được, diễn biến Mậu Thân đã xảy ra trong một trình tự như thế nào?
HPNT: Huế Mậu Thân đã xảy ra cách đây gần 30 năm. Sách vở, tài liệu đã được công bố từ nhiều phía của cuộc chiến, khá đầy đủ, có thể làm cơ sở cho những phân tích khoa học để giải phẫu một cuộc chiến mà thật ra, không thể đơn giản tách riêng ra trong biến cố Mậu Thân. Điều quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng.
Nhưng tôi tin rằng đây là một sai lầm có tính cục bộ, từ phía những người lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế, chứ không phải một chính sách toàn cục của cách mạng. Bởi vì tình trạng giết chóc bừa bãi như vậy, đã không xẩy ra ở những địa phương khác trong Mậu Thân, ngay cả trên một địa bàn rộng lớn với tình trạng xen kẽ giữa những lực lượng đối địch rất phức tạp như ở Sài Gòn thời ấy.
Thụy Khuê: Vậy, theo anh, ai trách nhiệm những thảm sát ở Huế?
HPNT: “Tôi không đủ thẩm quyền để phán xét bất cứ cá nhân nào. Xin trích dẫn theo trí nhớ một ý tưởng trong hồi ký của chính ông Lê Minh, tư lệnh chiến dịch Huế Mậu Thân: Dù bởi lý do nào đi nữa, thì trách nhiệm vẫn thuộc về những người lãnh đạo mặt trận Mậu Thân, trước hết là trách nhiệm của tôi. Qua bài hồi ký tâm huyết này, đã được công bố trên tạp chí Sông Hương, Huế, và sau đó, nếu tôi không nhớ lầm, đã được dịch và in toàn bộ trên báo Mỹ Newsweek, tác giả, Lê Minh (lúc đó đã nghỉ hưu), còn nhắc nhở rằng, điều quan trọng có thể làm, và phải làm bây giờ, là những người lãnh đạo kế nhiệm ở Huế, phải thi hành chính sách minh oan cho những gia đình nạn nhân Mậu Thân, trả lại công bằng trong sáng và những quyền công dân chính đáng cho thân nhân của họ.”
Những tiếng nói khác
Ông Đinh Lâm Thanh, trong Bài thuyết trình trong dịp tưởng Niệm 40 năm biến cố Mậu Thân tổ chức tại Paris ngày 02.03.2008, nói: “Tại Huế, CS lùng bắt thành phần quân-cán-chính, tập trung dân để tổ chức đấu tố, bắn giết, chôn sống tại chỗ một số và dẫn những người còn lại theo làm tù dân - tôi nói tù dân, vì tù là những người dân vô tội - trước rút lui tháo chạy trước sức tấn công mãnh liệt của QLVNCH và Đồng Minh.
Nếu tính nạn nhân tại Huế, ngoài số quân nhân, cảnh sát, nhân viên cán bộ hành chánh về nghỉ Tết cũng như những người sống tại địa phương làm việc cho chính quyền Sài Gòn bị Cộng sản bắn ngay tại chỗ là 1.892 người. Ngoài ra người ta còn tìm được 2326 tử thi thường dân trong 22 hố chôn tập thể tại những địa điểm như Trường Gia Hội, Chùa Theravada, Bãi Dâu, Cồn Hến, Tiểu Chủng viện, Quận tả ngạn, Phía đông Huế, Lăng Tự Đức, Lăng Đồng Khánh, Cầu An Ninh, Cửa Đông Ba, Trường An, Ninh Hạ, Trường Vân Chí, Chợ Thông, Chùa Từ Quang, Chùa Từ Đàm, Lăng Gia Long, Đồng Di, Vịnh Thái, Phú Lương, Phú Xuân, Thượng Hòa, Thủy Thanh, Vĩnh Hưng và Khe Đá Mài.
Mỗi hố chôn tập thể từ 5, 7 người đến trên 400 nạn nhân như ở Khe Đá Mài. Những nạn nhân nầy bị thảm sát một cách dã man như: Cột chùm nạn nhân lại với nhau và đốt cháy bằng xăng, bắt ngồi trên mìn rồi cho nổ tan xác, chặt đầu, bắn vào ót, đập chết bằng bá súng, đóng cọc từ dưới bàn tọa lên đến cổ, trói tay chân thành từng chùm rồi xô xuống hố chôn sống. Nạn nhân là thường dân vô tội tuổi từ 15 trở lên, gồm có sinh viên học sinh, 6 linh mục là các cha Bửu Đồng, Hoàng Ngọc Bang, Lê Văn Hộ, cha Guy và cha Urbain (dòng Thiên An), và cha Cressonnier (Hội Thừa sai Paris), 5 thầy dòng gồm 3 sư huynh dòng Thánh Tâm là thầy Hec-Man, thầy Mai Thịnh và thầy Bá Long, 2 sư huynh dòng Lasan là thầy Agribert và thầy Sylvestre. Hai thầy dòng Lasan bị bắt và bị chôn sống chung một hố với linh mục Bửu Đồng tại Sư Lỗ, quận Phú Thứ. Ngoài ra Cộng sản còn giết các giáo sư đại học người nước ngoài trong lúc họ đang dạy ở đại học Y khoa Huế và thân nhân họ hàng của những người phục vụ dưới chế độ VNCH. Người ta ước lượng tại thành phố Huế có gần 5.000 người bị Cộng sản giết trong vòng mấy tuần lễ.
Những người lớn tuổi còn sống tại Huế là những nhân chứng sống. Trong đó có hai thanh niên nguyên là học sinh trung học, nay đã 56 tuổi, trả lời phỏng vấn của các nhà báo ngoại quốc. Người thứ nhất tên Tuấn cùng với những học sinh khác đã bị CSBV bắt đào lỗ chôn sống 5 người tại Gia Hội ngay trong ngày đầu tiên khi CS vừa chiếm Huế. Học sinh thứ hai, xin giấu tên, ở Phủ Cam bị bắt đi theo đoàn tù dân đưa chôn sống ở Khe Đá Mài. Cả hai học sinh nầy nhờ một phép nhiệm mầu nào đó họ đã thoát được và sống sót đến ngày hôm nay.” (Khối 8406Tự do Dân chủ cho Việt Nam, 01-2009)
Hai Linh mục Phan Văn Lợi và Nguyễn Hữu Giải hiện còn sống ở Việt Nam kể lại như sau:
“…tại núi Ba Tầng (núi Bân), phía Nam thành phố Huế. Ngôi mộ này lưu giữ hơn 400 bộ hài cốt chủ yếu bốc từ Khe Đá Mài nhưng đã bị chính quyền cộng sản phá đổ trụ bia và để cho hoang phế suốt 32 năm trời…
“Trong toàn bộ biến cố Tết Mậu Thân, có lẽ những gì xảy ra tại Huế là đau thương và đánh động hơn cả, có lẽ cuộc thảm sát tại Khe Đá Mài là rùng rợn, dã man và thê thảm nhất. Tiếc thay, theo sự am hiểu của chúng tôi, hình như người ta chỉ biết đến kết cục của nó là hàng trăm bộ hài cốt dồn lại một đống dưới khe sau khi thịt thối rữa bị nước cuốn đi lâu ngày, từ đó suy diễn ra sự việc hơn là biết rõ diễn tiến của toàn bộ sự việc kể từ lúc nạn nhân bắt đầu bị dẫn đi đến chỗ hành quyết”. (Đối Thoại online, 17-01-2008)
Hai linh mục Lợi và Giải cho biết họ họ gặp một nhân chứng sống lúc bấy giờ ông ta mới 17 tuổi cũng bị bắt theo đoàn người bị đưa đi giết ở Khe Đá Mài nhưng may mắn lợi dụng lúc đêm tối nên ông đã trốn thoát và hiện còn sống ở trong nước đã kể lại:
“Hồi ấy, tôi mới 17 tuổi, đang là học sinh trung học đệ nhị cấp. Vì tình hình bất an, gia đình tôi đã từ quê chạy về thành phố, cư ngụ tại giáo xứ Phủ Cam, thôn Phước Quả, xã Thủy Phước, tỉnh Thừa Thiên (nay gọi là phường Phước Vĩnh, thành phố Huế) từ mấy năm trước... Khuya mùng Một rạng mùng Hai Tết, tôi nghe tiếng súng nổ khắp nơi và được tin Việt Cộng đã chiếm nhiều nơi trong thành phố Huế... Cả gia đình tôi cũng như nhiều giáo dân ở Phủ Cam đều chạy đến ẩn núp trong nhà thờ để tránh bom đạn. Lính Nghĩa quân của xã và một số quân nhân về phép chiến đấu bên ngoài để bảo vệ đồng bào. Sau mấy ngày, không có tiếp viện nên chiều mùng 5 Tết (3 tháng 2 / 1968) phải rút chạy... Khuya mùng 5 Tết, Việt Cộng tràn vào nhà thờ bắt những người từ 15 tuổi đến ngoài 50 tuổi bất kể là học sinh hay thường dân... và tuyên bố ‘cho đi học tập trong vòng 3 ngày sẽ trở về’ trong đó có tôi... Sáng hôm sau, chúng tôi bị dẫn đi theo đường xe lửa từ Phủ Cam ra Bến Ngự và đến chùa Từ Đàm... Tại đây tôi thấy Việt Cộng rất đông vừa du kích địa phương vừa bộ đội miền Bắc... Ngôi nhà 5 gian thì 4 gian đã đầy người bị bắt từ mấy ngày trước, còn một gian để giam giữ những người mới bị bắt... Tôi gặp những người quen như ông Tín (thợ chụp ảnh), ông Hồ (thợ hớt tóc), anh Trị (con ông Ngọc người đánh đàn trong nhà thờ), ông Hoàng (Đông y sĩ ở Chợ Xép), hai người con trai ông Thắng (làm nghề nấu rượu nuôi heo), hai người con trai ông Vang (nhạc sĩ thổi kèn đồng), anh Thịnh (con ông Năm), hai anh em Bình và Minh (con ông Thục), anh Minh (16 tuổi, con ông Danh nhân viên Công Ty Thủy Điện Huế) đều là học sinh... Chúng tôi ngồi tại chùa Từ Đàm suốt cả một ngày từ sáng tới tối không được ăn uống gì cả... Họ đưa cho chúng tôi mỗi người một tờ giấy để viết bản ‘khai lý lịch’ tên, nghề nghiệp, tên cha mẹ, sinh quán ở đâu... Ai khai gian sẽ bị đem ra bắn... Tôi thấy một số người bị trói vào gốc cây bồ đề và bị đem ra bắn chôn ngay trong sân chùa, trong đó có anh Hoàng Sự (Cảnh Sát) mà tôi biết tên. Họ cho một vài người về nhắn với gia đình tiếp thế lương thực và quần áo, thuốc men cho những người đang bị giam giữ... Khi trời sẩm tối, họ bắt chúng tôi ra ngồi xếp hàng giữa sân chùa. Một anh cán bộ tuyên bố:
- Anh em yên tâm, Cách Mạng sẽ đưa anh em đi học tập trong 3 ngày rồi sẽ cho về với gia đình! Bây giờ chúng ta lên đường!.
Rồi họ dùng dây điện thoại trói tay chúng tôi ra phía sau lưng từng người một, rồi dùng dây kẽm gai nối 20 người làm một toán. Tôi đếm được trên 25 toán như thế (tất cả 500 người). Một người địa phương đi nhìn mặt anh em chúng tôi và nói với nhau:
- Không thấy Trọng Hê và Phú Rỗ trong số giáo dân Phủ Cam ở đây.
(Anh Trọng con ông Hê và anh Phú là hai thanh niên ở Phủ Cam có võ nghệ mà giới du đãng ở Huế biết tiếng. Hai anh đã chạy theo lính Nghĩa Quân xã rút lui khi Việt Cộng vào nhà thờ! Những người bị bắt đến đây đều là dân lành vô tội).
Họ dẫn chúng tôi đi vào đường bên trái Đàn Nam Giao, vòng qua Dòng Thiên An, đến lăng Khải Định, vòng phía sau trụ sở Quận Nam Hòa, ra đến bờ sông Tả Trạch (Thượng nguồn sông Hương)... Đến bờ sông, Việt Cộng cho chặt cây lồ ô (nứa) làm bè để tất cả đoàn người vượt qua sông (khu vực lăng Gia Long), thuộc vùng núi Đình Môn, Kim Ngọc (vùng núi tranh). Từ đó, chúng tôi bắt đầu đi sâu vào rừng, ban đêm, trời lạnh lắm, khi lên đồi, lúc xuống lũng, lúc lội qua khe... Khoảng 30 bộ đội miền Bắc dẫn chúng tôi đi, họ dùng đèn pin hay đuốc để soi đường, chúng tôi đi trong rừng tre nứa và cây cổ thụ dày đặc... Khoảng nửa đêm, chúng tôi được dừng lại để nghỉ và mỗi người nhận được một vắt cơm. Chúng tôi đoán đã đi được trên 10 cây số rồi! Chúng tôi ngồi gục đầu dưới cơn mưa, cố gắng ngủ một chút để lấy sức còn phải đi tiếp... Bỗng như có linh tính báo trước, người tôi run lên bần bật... Tôi nghe hai tên bộ đội nói nhỏ với nhau:
- Trong vòng 15-20 phút nữa sẽ thủ tiêu hết bọn nầy!
Tôi liền ghé miệng vào tai thằng bạn bị trói ngay trước mặt:
- Tụi mình ráng mở dây trốn đi! Mười lăm phút nữa là bị bắn chết hết đó!
Trời mưa, dây điện trơn trợt, lát sau, chúng tôi mở được giây nhưng vẫn ngồi yên sợ chúng biết. Tôi nói nhỏ:
- Hễ tao vỗ nhẹ sau lưng là tụi mình chạy nghe!
Bọn Việt Cộng đánh thức chúng tôi dậy, một tên nói lớn cho mọi người nghe:
- Chúng ta sắp đến trại học tập rồi. Ai có vàng, tiền, đồng hồ, bật lửa... thì đem nộp, không được giữ trong người... Học tập xong sẽ được trả lại...”
Thế là bọn chúng lột sạch và cho tất cả vào mấy cái ba lô vải. Tên bộ đội đứng gần chúng tôi còn mang trên vai cả chục cái radio mà chúng đã cướp được của dân ở thành phố... Một tay mang súng, một tay mang các thứ vừa cướp được, hắn đi chậm lại cách xa mấy tên kia một quãng... Chúng tôi bắt đầu xuống dốc, nghe tiếng nước chảy róc rách... Tôi vỗ nhẹ vai thằng bạn và cả hai chúng tôi vung tay và nhanh nhẹn phóng ra khỏi hàng. Tôi đá mạnh và tên bộ đội mang nhiều radio... Hắn ngã nhào! Hai chúng tôi lao vào rừng...
Trời tối, rừng già chúng không giám đuổi theo... Khi nghe tiếng đoàn người đi khá xa, chúng tôi mới bò ra khỏi chỗ ẩn núp và đi ngược trở lại... Chừng 15-20 phút sau, chúng tôi bỗng nghe từ phía dưới vọng lên tiếng súng AK, rồi lựu đạn nổ vang rền... Một góc rừng rực sáng! Chen vào đó tiếng khóc la khủng khiếp... không hiểu sao lúc đó, tai tôi nghe rất rõ ràng... Lúc đó khoảng 12-12 giờ 30 khuya... đầu ngày 8 Tết (6/2/1968). Về sau tôi mới biết chỗ đó là Khe Đá Mài...” (Bài thuyết trình của cựu Dân biểu VNCH Nguyễn Lý Tưởng tại cuộc hội thảo về chiến tranh Việt Nam tổ chức tại Việt Nam Center (Lubbock, Texas) từ ngày 13 đến 15/3/2008)
Đối diện sự thật
Ông Võ Văn Bằng, Trưởng Ban Cải táng Nạn nhân Cộng sản Tết Mậu Thân nói với đài Á Châu Tự Do (RFA) năm 2008: “Các hố cách khoảng nhau. Một hố vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các hố, người thì đứng, nào là nằm, nào là ngồi, lộn xộn. Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã rã ra. Trên thi hài còn thấy những dây lạc trói lại, cả dây điện thoại nữa, trói thành chùm với nhau. Có lẽ, họ bị xô vào hố thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do bắn, vỡ là do cuốc xẻng…”
Vẫn theo RFA thì Nhà báo Vũ Ánh, nguyên phóng viên mặt trận hệ thống Truyền thanh quốc gia VNCH, đã có mặt tại Huế từ ngày 5 đến 29 Mậu Thân và đi theo nhiều nhóm tìm hầm chôn tập thể kể lại cảm giác của ông: “Vùng nhiều nhất là quận Phú Thứ và Dạ Lê Thượng có nhiều hầm chôn xác tập thể. Cảm giác của tôi lúc ấy rất lạ, như là bị tê liệt khi nhìn các hình ảnh đó…
“Ngay ở hầm Phú Thứ, chắc khoảng gần 1.000 người. Khui lên, đầu của họ phía sau sọ bị bể hết. Những thi hài bị nối nhau bằng dây điện thoại. Có những người không có vết thương, chứng tỏ bị chôn sống”. (RFA online ngày 1-2-2008)
Trong bài nói chuyện tại buổi 40 năm Tưởng niệm Tết Mậu Thân, Việt Báo Gallery, thứ Bảy 29-3-2008, Nhà văn Nhã Ca tác giả “Giải Khăn Sô Cho Huế” nói:
“Bốn mươi năm trước đây, đúng vào giờ trưa mùng Hai Tết, tại Cửa Đông Ba Huế, chỉ mấy tiếng đồng hồ sau khi đột nhập, cộng sản khai diễn cuộc tàn sát. Toán nạn nhân đầu tiên gồm 5 thường dân-không hề có người lính Cộng Hòa nào. Tất cả bị trói, bắt đứng quay lưng vào tường thành. Dân chúng đứng coi. Súng AK nổ. Từng người gục chết. Sau cuộc hành hình, thân nhân những người bị bắn nhào ra muốn ôm xác. Họ bị đánh, bị đá, bị đuổi. Xác người bị phơi ngày phơi đêm. Nắng. Máu. Ròi bọ…
“Và cuộc tàn sát tiếp tục. Không bằng súng đạn mà bằng cách chôn sống. Những nạn nhân bị cột trói bằng dây điện dính chùm xếp hàng bên hố. Một vài người bị đập đầu. Cả dây người đang sống bị đạp xuống hố đè lên nhau. Cái đầu nào ngóc lên bị đập bằng cuốc. Cứ thế mà chôn hàng ngàn người. Bạn tôi, chị Tâm Túy cũng đã bị chôn sống. Khi xác đào lên, thấy hai tay chị vói lên như đang cố cào bới đất. Móng tay, móng chân mọc dài hơn. Tóc mọc dài hơn…Bạn tôi bị chôn sống khi còn đầy sức sống..”
“Huế Tết Mậu Thân. Hàng ngàn người đã bị chôn sống như thế”. (Việt Báo ngày 31-3-2008)
Cư sĩ Trí Lực, người đã chôn cất những xác chết nằm lại sau biến cố Mậu Thân kể lại với RFA về nỗi kinh hoàng của ông:
“Hai mươi sáu ngày sau, sau khi Cố đô Huế bình định trở lại thì tôi tận mắt chứng kiến những hầm chôn tập thể được khai quật lên từ vùng Bãi Dâu Gia Hội, những người xấu số đã bị trói quật lại sau lưng và có những mảnh xương sọ bị vỡ nát. Cảnh kinh hoàng là cộng sản đã chon sống bao nhiêu người dân vô tội.
“Nhà văn Đinh Lâm Thanh, hiện sống ở Pháp, cũng là chứng nhân của biến cố Mậu Thân kể:
“Gia đình của tôi vùng Phủ Cam là một, vùng An Vân Thượng là hai, Gia Hội là ba. Bà con xa bà con gần của bên họ ngoại của tôi gồm cả thảy 12 người. Trong 12 người đó, có người bị chôn sống, có người bị bắn tại chỗ, có người bị chặt đầu, có người bị mổ bụng”. (RFA online ngày 7-2-2012)
Ông Nguyễn Lý Tưởng, cựu Dân biểu khu vực Thừa Thiên Huế kể lại trong“cuộc hội thảo về chiến tranh Việt Nam tổ chức tại Việt Nam Center (Lubbock, Texas) từ ngày 13 đến 15/3/2008”: “Mồ chôn tập thể: Các nạn nhân bị thảm sát tại Huế và Thừa Thiên được tìm thấy tại trường tiểu học Gia Hội, chùa Therevada, Bãi dâu, Cồn Hến, Tiểu Chủng Viện, khu vực phía Tây Huế gần lăng Tự Đức và lăng Đồng Khánh, cầu An Ninh Thượng, cửa Đông Ba, trường An Ninh Hạ, trường Văn Chí, Chợ Thông, Lang Xá Cồn, gần lăng Gia Long, gần chùa Tường Vân, Đông Gi (Di), Vinh Thái, Thủy Thanh, Lương Viện, Phù Lương, Phú Xuân (Phú Thứ), Thượng Hòa, Vinh Hưng, Khe Đá Mài... tất cả 23 địa điểm tại tổng cộng 2326 xác chết (sọ người). Còn khoảng trên 3,000 nạn nhân thuộc tỉnh Thừa Thiên và Huế đã được thân nhân xác nhận là chết hoặc bị bắt đi thủ tiêu, mất tích... không biết họ đã bị giết chết và chôn xác ở đâu?!
Dã man nhất là tại Khe Đá Mài (thuộc vùng núi Đình Môn, Kim Ngọc, quận Nam Hòa, tỉnh Thừa Thiên) Việt Cộng đã dùng súng trung liên, đại liên, lựu đạn và mìn giết tập thể các nạn nhân, vất xác xuống dưới khe, lâu ngày thịt thối rữa bị nước cuốn đi, chỉ còn 428 sọ người, xương người dồn lại một đống. Người ta đã dựa vào các dấu vết còn lại của nạn nhân như áo len, tượng ảnh, giấy căn cước bọc nhựa (ID)... để biết được thân nhân của mình đã chết ở trong đống sọ và xương lẫn lộn đó. Đa số những nạn nhân nầy là giáo dân bị bắt ở nhà thờ Phủ Cam vào đêm mùng 5 Tết (3 tháng 2/1968) Người ta cũng tìm thấy vết tích của hai ông Lê Hữu Bôi (chủ tịch sinh viên Phật tử năm 1963) và Lê Hữu Bá (sĩ quan Quân Cảnh) tại Khe Đá Mài. Các em học sinh như Bùi Kha (16 tuổi), Phan Minh (16 tuổi), Nguyễn Duyệt (17 tuổi) và nhiều bạn trẻ khác thuộc giáo xứ Phủ Cam cũng bị VC giết hại tại đây...”
Lê Phong Lan nói thật không?
Trái với những lời kể này, Bà Lê Phong Lan cho biết bà đã phỏng vấn ông Lê Khả Phiêu - người chỉ huy một trung đội trong sự kiện Mậu Thân 1968 tại Huế; lãnh đạo Thanh niên phật tử tranh đấu ở Huế theo Cộng sản nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân; nhà báo Mỹ Stanley Karnow, cựu phóng viên tờ Washington Post Don Lux; GS sử học Larry Berman, và cả những người lính từ hai phía.
Bà nói: “Những dẫn chứng lịch sử cho thấy thông tin bị làm méo mó. Vào thời điểm đó, một số hãng thông tấn nước ngoài và các nhà báo độc lập đã tìm hiểu và xác định không tìm thấy hố chôn người tập thể như phía Việt Nam Cộng hòa đưa ra. Câu chuyện của những nhân chứng có thẩm quyền đã làm sáng rõ: cái gọi là "cuộc thảm sát đẫm máu” chỉ là đòn tâm lý chiến mà Mỹ dựng lên, thực tế Huế đã bị bom Mỹ phá hủy làm nhiều thường dân chết cùng với quân giải phóng và lính Mỹ.”
Nhưng, “ông Trương Như Tảng (cựu Bộ trưởng Tư pháp Cộng hòa miền Nam Việt Nam, về sau ly khai chính phủ và vượt biên sang sống lưu vong ở Pháp), thì trong cuộc chiếm đóng Huế, một số lớn người đã bị xử tử vì thuộc thành phần phục vụ cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa (viên chức, cảnh sát, sĩ quan, chính trị gia, địa phương quân...) nhưng cũng có người bị giết mặc dù không tham gia chiến trận. Ông dẫn lời một người bạn rằng do kỷ luật kém ở một số đơn vị, một số thường dân cũng nhân dịp hỗn loạn để trả thù nhau nên đã có những vụ giết hại vô cớ. Một bản báo cáo của Mặt trận Dân tộc Giải phóng bắt được ngày 25 tháng 4 năm 1968 ghi nhận, họ đã "diệt 1.892 nhân viên hành chánh, 38 cảnh sát, 790 tên ác ôn, sáu đại úy, 1 trung úy, 20 thiếu úy và nhiều sĩ quan trừ bị…" trong cuộc chiếm đóng Huế.” (Tài liệu trích theo Hồi ký của ông Trương Như Tảng trên Internet)
Ngoài ra, báo cáo chính thức sau Mậu Thân ở Huế còn cho biết: “Một vụ thảm sát gây phẫn nộ dư luận quốc tế là vụ giết 4 bác sĩ người Đức sang giảng dạy và làm việc tại trường Đại Học Y Khoa Huế. Trong bài viết “The Vietcong Massacre at Hue,” xuất bản năm 1976, một bác sĩ có tên Elje Vannema, kể rằng ông bà bác sĩ Horst Gunther Krainick và hai bác sĩ Raymund Discher cùng Alterkoster đã bị giết trong tháng Hai năm 1968 tại chùa Tường Vân hoặc một vùng đất nhiều cây cối cách chùa chừng nửa dặm, nơi người ta tìm thấy thi hài của các nạn nhân. Bác sĩ người Pháp, có tên Le Hir khám nghiệm tử thi các nạn nhân cho biết có dấu vết đạn xuyên qua đầu và ót.”
Như vậy thì Đạo diễn Lê Phong Lan đã biết gì về Mậu Thân ở Huê?
Bài báo năm 2013 của tôi kết luận: “Chẳng nhẽ những người sống sót và nhân chứng đã bịa đặt ra chuyện thảm sát để vu oan cho quân Cộng sản hay bà Lê Phong Lan đã cố tình làm phim để chạy tội cho quân Cộng sản?
Dù cho thế nào thì cũng sẽ có ngày vụ giết thường dân vô tội ở Huế trong vụ Mậu Thân 1968 sẽ được bạch hóa vì lịch sử và những nạn nhân, hay con cháu của những người bị lính Cộng sản tàn sát ở Huế vẫn còn đó. Ngay cả những oan hồn do họng súng, dao găm, búa rìu hay dây nhợ cột vào thân nối nhau bị đẩy xuống hố vẫn còn vất vưởng ở khắp thành phố Huế và vùng phụ cận.
Từ bao nhiêu năm qua, người dân ở Huế đã cố quên đi nỗi đau buồn khi mỗi dịp Xuân về, nhưng năm nay thì bà Lê Phong Lan thay vì đem đến cho họ món quà Tết thì bà lại cố tình lấy dao cắt vào thớ thịt của mỗi người bằng bộ phim “Mậu Thân 1968” để nhắc cho dân Cố Đô biết rằng máu vẫn chưa khô trên thành phố Huế."(hết trích)
Và Tết Bính Thân năm nay (2016) , tôi vẫn hình dung được máu của những người dân vô tội xứ Huế sẽ lại hiện lên. Bởi vì, trong khi sự thật vẫn đang ở trước mắt thì các sách giáo khoa Lịch Sử của Bộ Giáo dục Việt Nam, cho đến bây giờ, vẫn không dám nói đến
thảm sát ở Cố Đô. -/-
(Tết Bính Thân)
BĂC KỲ CAI TRỊ NAM KỲ
Miền Nam tiếp tục bị Bắc thuộc
K’tem (Danlambao) - Đại hội thứ 12 của đảng CSVN đã kết thúc. Trong khi theo dõi ĐH, người dân biết trong hai phe tranh giành, phe nào thắng thể cũng vẫn đảng CS là lực lượng tối cao cầm quyền. Biết thế người dân vẫn mong một nhân vật mới trong vai trò lãnh đạo. Không phải người ta trông cậy gì ở gương mặt mới này nhưng người ta mong thế vì người ta mong muốn có sự thay đổi. Thêm nữa, qua những màn tung tin bôi xấu, hạ gục nhau để tranh chức trong những ngày ĐH, người ta mong sự tranh giành quyền lực đạt đến cực điểm, để qua cuộc tranh giành tế bào đảng bị phá vỡ, để sự thay đổi đến nhanh hơn. Nhưng sau ĐH, mọi người thất vọng. Triển vọng thay đổi không đến, ít ra là năm nữa, và không chừng có thể triền miên.
Nhưng bên cạnh triển vọng thay đổi không còn, sau ĐH thứ 12, người dân chợt nhận ra ý nghĩa của sự mất cân bằng có tính địa phương trong việc định đoạt nhân sự đảng. Điều này đến từ tiêu chí dành cho chức TBT và tỷ số nhân sự trong bộ phận cấp cao của đảng.
Người dân VN vốn hiền hòa, nhất là người miền Nam, bản tính dễ dãi, người ta không chú trọng lắm về con người vùng nào miền nào, miễn là mọi người sống và san sẻ cơ hội sống hài hòa với nhau. Nhưng từ ĐH này ý niệm phân biệt vùng miền được khơi lại bởi chính TBT đảng CS Nguyễn Phú Trọng, người tiếp tục lãnh đạo đảng CS và cai tri đất nước ít ra là năm năm nữa.
Người ta không quên trong cuộc vận động nhân sự cho ĐH thứ 12 vừa rồi. Chính phe Nguyễn Phú Trọng khẳng định tiêu chí cho chức TBT: “Một, phải là người miền Bắc; hai, phải là người có lý luận; ba, không có tham vọng quyền lực”.
Một người có lý luận, không có tham vọng quyền lực, và có đủ tính chất của người lãnh đạo mà không phải là người miền Bắc thì sao? Hắn không được làm lãnh đạo?
Yếu tố miền Bắc được nêu ra ở đây biểu lộ tính cách đố kỵ, tỵ hiềm và tính chất muốn ngồi trên. Tinh thần muốn ngồi trên làm kẻ thống trị không chỉ biểu lộ lúc này ở giai đoạn ĐH thứ 12 này mà nó tiềm tàng đã lâu, trong suốt cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam. Ở giai đoạn đó, bộ phận tuyên truyền của đảng CS luôn tạo vai trò “bề trên” của miền Bắc bằng cách tạo ấn tượng là miền Bắc hy sinh mọi thứ từ tiền bạc, lương thực, nhân mạng dành cho cuộc chiến giải phóng miền Nam, giải phóng con dân miền Nam. Chính vì hành vi “hy sinh cho miền Nam” này mà sau khi miền Nam bị giải phóng, những cán bộ, quân nhân miền Bắc bước vào miền Nam với thái độ của kẻ thống trị. Thái độ thống trị đặt lên phần đất miền Nam hơn 40 năm qua chưa đủ. Lần này, qua ĐH thứ 12, tư thế lãnh đạo cả nước của yếu tố miền Bắc lại được khẳng định lần nữa.
Nếu để ý dò lại danh sách của ủy viên ở những bộ phận cấp cao của đảng CSVN, số người gốc miền Bắc vẫn cao hơn số người gốc miền Nam (từ vĩ tuyền 17 trở vào). Trong danh sách ủy viên Bộ Chính trị mới có hết 13 người gốc miền Bắc, 2 người gốc miền Trung và 4 người gốc miền Nam. Cùng với tỷ lệ tương tự, trong danh sách ủy viên Ban Chấp hành Trung ương 70% là người có gốc miền Bắc. Tỷ lệ này khiến người ta chú ý đến yếu tố “cân bằng nhân sự” trong mọi hoạt động của đảng. Cuốn sách ‘Bên Thắng Cuộc’ của Huy Đức cũng hé lộ sự lưu ý của lãnh đạo đảng về nhân sự vùng miền.
Làm gì làm đảng vẫn nhớ đến đòi hỏi của đại biểu gốc miền Nam để cho Võ Văn Kiệt tham gia vào việc tranh ghế Thủ tướng với Đỗ Mười. Làm gì làm đảng vẫn nhớ đến hành động “xé rào” của Võ Văn Kiệt, một nhân vật miền Nam, mở ra cho miền Nam hưởng một chính sách kinh tế thực dụng phản giáo điều, từ đó kích thích tiềm lực kinh tế của miền Nam từ lâu đã bị đánh sập. Dù sự xé rào giúp người dân dễ sống hơn để người dân cung phụng “cơm ăn áo mặc” cho đảng, nhưng đặc tính miền Nam này vẫn làm đảng khó chịu và cảnh giác.
Sự khó chịu và cảnh giác vừa rồi, qua ĐH thứ 12, được tập trung vào một nhân vật miền Nam khác. Đó là Nguyễn Tấn Dũng. Nguyễn Phú Trọng lo ngại nếu Nguyễn Tấn Dũng nắm chức vụ tối cao, NTDũng sẽ đẩy đất nước đi chệch hướng khỏi con đường Xã hội chủ nghĩa.
Mới đây nhà báo Atsushi Tomiyama đã viết một bài với tựa đề rất nóng ‘How Southern roots, and perhaps China, dashed Dung’s hopes’ (Gốc gác miền Nam, và có lẽ TC, đã làm tiêu tan hy vọng của (NT) Dũng như thế nào) trên Nikkei Asian Review (1).
Theo Atsushi Tomiyama: “Many party members are also reluctant to accept a top leader from the south. All eight general secretaries, going back to founding father Ho Chi Minh, came from the northern or central regions.”
(Nhiều đảng viên không sẵn lòng chấp nhận người đến từ miền Nam trong vai trò lãnh đạo cao nhất. Cả tám đời Tổng Bí thư, kể từ thời sáng lập của cha già Hồ Chí Minh, đều là người từ miền Bắc hay Trung.)
Atshushi Tomiyama có thể đúng khi cho rằng chính gốc gác miền Nam đã hại NTDũng.
Trong đảng đã từng có nhiều đánh giá về đảng viên gốc miền Nam qua tính chất khoán đạt, cởi mở, ngạo nghễ, thích làm anh hùng và ít chịu vâng lời của vùng miền mà họ xuất thân. Cả bộ máy đảng và cả nước thừa hưởng cuộc “xé rào” và sự trỗi dậy của tiềm lực kinh tế Sài Gòn - Chợ Lớn. Đảng sẵn sàng thừa hưởng sự phát triển mà miền Nam mang lại nhưng họ không chấp nhận tính chất miền Nam.
Xa hơn nữa bóng ma ‘Câu lạc bộ những người kháng chiến cũ’ của Nam bộ vẫn còn lảng vàng.
Cũng liên quan đến vùng miền Atsushi Tomiyama viết: “There is a widespread notion that North Vietnam liberated South Vietnam. Many Vietnamese think the country owes its current prosperity to northern forces. And it is widely accepted that the offspring of those who served in the North Vietnamese Army should get preferential treatment when it comes to educational and employment opportunities.”
(Đã có quan niệm rộng khắp cho rằng miền Bắc VN đã giải phóng miền Nam VN. Nhiều người cho rằng sự giàu mạnh hiện nay là do công lao của lực lượng miền Bắc. Và cũng có sự chấp nhận rộng rãi rằng con em của những người phục vụ trong quân đội miền Bắc nên được đãi ngộ với cơ hội học hành và việc làm.)
Có lẽ địa bàn tác nghiệp của Atsushi Tomiyama ở tại Hà nội khiến ông ta có nhận xét như vậy. Và sự tiếp xúc của ông cũng quanh quẩn trong địa bàn này cho phép ông viết như thế. Nhưng những nhận xét này khơi dậy vết thương nhức nhối khác. Không người miền Nam nào chấp nhận con em của những người phục vụ trong quân đội miền Bắc lấy hết cơ hội học hành và làm ăn.
Hiện nay, hầu hết tại miền Nam, giả dụ những người gốc Bắc vào Nam, nắm các vai trò trong chính quyền hay làm ăn sinh sống hay canh tác đất đai mọi nơi, nói một thứ tiếng khác thì chắc chắn đó là THỰC DÂN. Và không cần giả dụ những người mới vào sau ngày 30 tháng 04 năm 1975 với một thứ tiếng Việt khác âm sắc cũng không khác gì thực dân. Thực dân Pháp đến đất này cũng nắm chính quyền, cũng làm ăn sinh sống, cũng canh tác đất đai nhưng họ đến và thiết lập. Còn những lực lượng CS từ miền Bắc mà Atsushi Tomiyama cho là “giải phóng” đến bằng sự chiếm lấy và đuổi người khác ra để họ vào, và, quan trọng hơn, tiêu diệt hết những tiềm lực kinh tế mà miền Nam đang có.
Lãnh đạo đảng CSVN và bộ máy đảng luôn nhắc nhở toàn dân cả nước về cái ơn thống nhất, qua đó một bộ phận người miền Bắc vào dự phần đời sống ở miền Nam. Và lãnh đạo đảng cùng bộ máy đảng luôn nhắc nhở toàn dân miền Nam cái ơn được giải phóng để người miền Nam trải nghiệm cuộc sống mà dân miền Bắc phải sống, và đồng thới mất đi tiềm lực kinh tế mà sau này “chính sách cởi trói” cho phép nền kinh tế này chạy lại. Và từ cái ơn này mà chức TBT cùng với quyền cai trị được đảng mặc định phải là “người miền Bắc”. Và sự mặc định này đi liền với ý niệm thực dân mà người miền Nam nhận ra sau ngày 30 tháng Tư năm 1975.
Trong lịch sử đã có nhiều lần “Bắc Thuộc”. Những cuộc Bắc Thuộc đó đến từ các chế độ phong kiến Tàu. Nhưng lần Bắc Thuộc này đến từ miền Bắc qua sự mặc định của đảng. Và nếu nói thêm một chút lần Bắc Thuộc này dân Sài Gòn có một Bí thư Thành ủy là Đinh La Thăng từ Nam Định.
______________________________________
Chú thích:
PAULUS LÊ SƠN * THOÁT CỘNG SẢN
Thoát khỏi cộng sản là niềm vui lớn lao nhất của đời tôi
Paulus Lê Sơn - Trong mấy ngày tết vừa qua, nhiều người đặt vấn đề với tôi về nhiều câu chuyện trong bối cảnh xã hội và chính trị Việt Nam trong năm mới và nhiệm kỳ mới của đảng cộng sản. Tôi xin ghi lại một số câu chuyện ra đây cho mọi người tư vấn thêm cho tôi.
- Điều gì làm anh vui sướng nhất trong cuộc đời?
- Năm nay tôi 31 tuổi, tôi cảm thấy rằng điều hạnh phúc lớn lao nhất của tôi là bản thân tôi, người thân của tôi, dân tộc và đất nước Việt Nam thân yêu của tôi thoát ách cộng sản là tôi vui sướng, hạnh phúc nhất rồi.
- Vậy anh không sợ những điều xấu nhất sẽ xảy đến với mình khi nói lên quan điểm, chính kiến của mình ư?
- Thưa, tôi thấy cuộc đời mình cần phải làm gì đó thật có ý nghĩa. Trước đây tôi nói với nhiều người câu nói ''hãy biết mình là ai trong cuộc đời này'' Biết mình là ai để mà sống sao cho thật có ý nghĩa. Thân phận tro bụi thì trở về cho bụi. Khi đang sống thì hãy sống cho đến chết, chứ đừng chết khi còn đang sống, đó chính là phương châm sống của đời tôi.
- Đất nước Việt Nam sẽ ra sao trong năm mới này?
- Tôi nghĩ mọi sự đều là ý trời, nhưng mỗi người hãy cố gắng tập nói lên tiếng nói và hành động vì tình yêu với chính mình, tha nhân và đất nước. Lên án cái xấu và đổi thay cái xấu. Chúng ta nếu không sợ thì chắc chắn đất nước chúng ta sẽ phát triển và thay đổi. Từ cổ chí kim, đất nước đã phải trải qua biết bao biến cố đau thương và có những sự hi sinh mất mát to lớn để đổi thay từ những chế độ ngu muội, dốt nát và tàn ác. Nếu ngày nào còn những chế độ đó thì Việt Nam còn có những con người dám đứng lên để thay đổi và tôi tin rằng năm mới, Việt Nam chúng ta sẽ đổi mới.
- Gần đây có nhiều người không thuộc đảng cộng sản tự ứng cử vào đại biểu quốc, anh thấy thế nào?
- Rất tốt, điều đó là tuyệt vời, trước hết chúng ta hãy phân định rạch ròi các giá trị cốt lõi, đừng nên đánh đồng chúng. Những người tự ứng cử đại biểu quốc hội là những người mạnh mẽ lên tiếng đòi thực thi đa nguyên về chính trị, góp phần xóa nhòa và dần phá bỏ một cái định chế của đảng cộng sản ''đảng cử dân bầu''. Tuy nhiên, như chúng ta có thể nhìn nhận trong bối cảnh sinh hoạt chính trị độc tài tại Việt Nam do cộng sản nắm quyền thì những người tự ứng cử ít có cửa lọt. Nhưng, tôi thấy họ là những chìa khóa và sức bật để dần dần mở cánh cửa chính trị tại Việt Nam rộng mở hơn. Và dù muốn hay không thì đảng cộng sản cũng thấy những tác động đó đang làm cho thế và lực của họ trở nên mỏng manh hơn so với trước đây.
- Anh có thể nhận thấy cộng sản sẽ đàn áp phong trào dân chủ Việt Nam trong nhiệm kỳ mới này của họ không?
- Đàn áp tiếng nói đối lập là bản chất của họ, và họ đã, đang và sẽ tiếp tục đàn áp. Nhưng thời thế đã dần rộng mở hơn. Người dân họ quen với sự đàn áp, họ sẽ hết sợ hãi hơn, khi họ vượt ngưỡng sợ hãi họ sẽ bung lên, đó là tác dụng ngược của đảng cộng sản khi dùng súng đạn và nhà tù. Hơn nữa, với thế giới phẳng như ngày hôm nay, muốn tồn tại đảng cộng sản phải tham dự sâu rộng hơn với quốc tế. Đó cũng là một thách thức lớn đối với họ trong những năm tới trong vấn đề dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam.
Năm mới mong sao đất nước đổi thay và thoát ách cộng sản là tôi mừng.
THÔNG TIN & BÌNH LUẬN QUỐC TẾ
'Hơn 170 người Thượng ở Campuchia không phải là người tị nạn'
12.02.2016
Những người Thượng đang xin tị nạn ở Campuchia không đủ điều kiện để xin tị nạn và sẽ bị trả về lại Việt Nam, phát ngôn viên Bộ Nội vụ Campuchia cho biết.
Tờ Cambodia Daily hôm thứ Năm dẫn lời Tướng Khieu Sopheak, người phát ngôn Bộ Nội vụ Campuchia, nói: “Chúng tôi đã phỏng vấn họ, và nếu họ rớt phỏng vấn, chúng tôi sẽ trả họ về Việt Nam. Cho tới nay, chúng tôi biết là hầu hết họ đều bị rớt bởi vì họ nhập cảnh bất hợp pháp”.
Tướng Khieu Sopheak nói thêm:
“Họ đã đi bằng đường rừng và những kẻ buôn người đã đưa họ sang đây”.
Người phát ngôn Bộ Nội vụ Campuchia cho biết toàn bộ nhóm người này sẽ sớm bị trả về Việt Nam.
Trước đó, hôm 20/1, sau cuộc họp với giữa Bộ trưởng Nội vụ Campuchia Sar Kheng với người đại diện khu vực của Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR), ông James Lynch, chính phủ Campuchia đưa ra thông báo nói hơn 170 người Thượng xin tị nạn sẽ bắt đầu làm thủ tục, sau nhiều tháng bị ngăn cản.
Cambodia Daily xác nhận với các giới chức của UNHCR và Tổ chức giúp đỡ người tị nạn của Dòng Tên hôm thứ Tư cho biết thủ tục ghi danh, làm hồ sơ thậm chí còn chưa bắt đầu.
Làn sóng mới của người Thượng tị nạn trốn sang Campuchia bắt đầu từ hồi tháng 10/2014.
Hầu hết đều cho biết họ là nạn nhân của những vụ đàn áp tôn giáo ở Việt Nam và nói họ sẽ bị trừng phạt nếu bị trả về, nhưng nhiều giới chức Campuchia không chịu thừa nhận là những người này có lý do chính đáng để lo sợ sẽ bị bách hại khi về Việt Nam.
Tờ Cambodia Daily hôm thứ Năm dẫn lời Tướng Khieu Sopheak, người phát ngôn Bộ Nội vụ Campuchia, nói: “Chúng tôi đã phỏng vấn họ, và nếu họ rớt phỏng vấn, chúng tôi sẽ trả họ về Việt Nam. Cho tới nay, chúng tôi biết là hầu hết họ đều bị rớt bởi vì họ nhập cảnh bất hợp pháp”.
Tướng Khieu Sopheak nói thêm:
“Họ đã đi bằng đường rừng và những kẻ buôn người đã đưa họ sang đây”.
Người phát ngôn Bộ Nội vụ Campuchia cho biết toàn bộ nhóm người này sẽ sớm bị trả về Việt Nam.
Trước đó, hôm 20/1, sau cuộc họp với giữa Bộ trưởng Nội vụ Campuchia Sar Kheng với người đại diện khu vực của Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR), ông James Lynch, chính phủ Campuchia đưa ra thông báo nói hơn 170 người Thượng xin tị nạn sẽ bắt đầu làm thủ tục, sau nhiều tháng bị ngăn cản.
Cambodia Daily xác nhận với các giới chức của UNHCR và Tổ chức giúp đỡ người tị nạn của Dòng Tên hôm thứ Tư cho biết thủ tục ghi danh, làm hồ sơ thậm chí còn chưa bắt đầu.
Làn sóng mới của người Thượng tị nạn trốn sang Campuchia bắt đầu từ hồi tháng 10/2014.
Hầu hết đều cho biết họ là nạn nhân của những vụ đàn áp tôn giáo ở Việt Nam và nói họ sẽ bị trừng phạt nếu bị trả về, nhưng nhiều giới chức Campuchia không chịu thừa nhận là những người này có lý do chính đáng để lo sợ sẽ bị bách hại khi về Việt Nam.
Theo Cambodia Daily, Shanghai Daily
Chia rẽ Bắc-Nam trong lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam?
Tại Đại hội Đảng 12, ông Nguyễn Phú Trọng được bầu tiếp tục vị trí tổng bí thư, sau khi ông Nguyễn Tấn Dũng rút lui khỏi cuộc đua.
11.02.2016
Một tờ báo có tiếng của Nhật nhận định rằng gốc gác miền nam cũng như yếu tố Trung Quốc có thể là lý do khiến Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng “trượt” chức Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam vừa qua.
Mở đầu bài phân tích có tựa đề “Gốc gác miền nam, và có thể là Trung Quốc, đã làm tan nát hy vọng của ông Dũng như thế nào”, tờ Nikkei Asian Review viết rằng “chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt 41 năm qua, nhưng cuộc tranh giành quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản vừa qua cho thấy chia rẽ nam – bắc vẫn là một yếu tố chính trên chính trường” Việt Nam.
Tại Đại hội Đảng 12 cuối tháng trước, ông Nguyễn Phú Trọng được bầu tiếp tục vị trí tổng bí thư, sau khi ông Dũng rút lui khỏi cuộc đua.
Tại Đại hội Đảng 12 cuối tháng trước, ông Nguyễn Phú Trọng được bầu tiếp tục vị trí tổng bí thư, sau khi ông Dũng rút lui khỏi cuộc đua.
Tờ báo thuộc sở hữu của một trong những tập đoàn truyền thông lớn nhất của Nhật Bản bình luận rằng “nếu ông Dũng là biểu tượng của miền nam có định hướng kinh tế, thì ông Trọng là đại diện cho cộng sản miền bắc”, và rằng “đại hội đảng vẫn nắm chắc quyền lực chính trị”.
Nhiều người nói rằng Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng thân Trung Quốc và chống Mỹ chẳng hạn, nhưng qua quan sát gần đây thì có vẻ không phải như vậy. Bây giờ, trong nội bộ đảng, nhất là quan chức cấp cao, không ai muốn mang tiếng thân Trung Quốc cả.
Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore, nói.
Tờ báo dẫn lời một nguồn tin giấu tên nói rằng các chính trị gia miền nam đã tìm cách để ông Dũng được tham gia cuộc đua vào chức tổng bí thư.
Tuy nhiên, theo Nikkei, nhiều đảng viên miễn cưỡng, không muốn chấp nhận người đứng đầu đảng từ miền nam. Tờ báo viết rằng từ thời ông Hồ Chí Minh, tất cả 8 tổng bí thư đều xuất thân từ miền bắc hoặc miền Trung.
Tuy nhiên, theo Nikkei, nhiều đảng viên miễn cưỡng, không muốn chấp nhận người đứng đầu đảng từ miền nam. Tờ báo viết rằng từ thời ông Hồ Chí Minh, tất cả 8 tổng bí thư đều xuất thân từ miền bắc hoặc miền Trung.
Tờ báo của Nhật Bản nhận xét rằng theo “luật bất thành văn, một quan chức từ miền nam không thể đứng đầu đảng, và đó là trở ngại không chỉ riêng đối với ông Dũng”.
Nikkei viết thêm: “Quan điểm chung cho rằng Bắc Việt đã giải phóng miền nam Việt Nam nên nhiều người Việt nghĩ rằng sự thịnh vượng hiện nay là nhờ các lực lượng miền bắc”.
Ngoài ra, theo tờ báo, nhiều người cũng chấp nhận rằng “con cái của những ai chiến đấu trong quân đội miền bắc phải nhận được nhiều đãi ngộ hơn về các cơ hội giáo dục cũng như việc làm”.
Nhà quan sát tình hình chính trị ở trong nước, ông Nguyễn Thanh Giang, nhận định với VOA Việt Ngữ rằng “các khóa gần đây, đặc biệt là khóa 11, sự phân biệt vùng miền không lộ liễu”. Ông nói thêm:
“Đặc biệt sang khóa 12 này, thành phần miền nam trong trung ương và trong Bộ Chính trị co nhỏ lại một cách rất là thảm hại. Đấy là do thủ đoạn của ông Nguyễn Phú Trọng. Trong nhận thức không chỉ của nhân dân mà còn trong đảng nữa, không có chuyện kỳ thị miền nam, và thậm chí bây giờ người ta cũng thừa nhận rằng dân miền nam năng động, có tinh thần công nghiệp và có sáng kiến tổ chức xã hội”.
Tờ báo Nhật Bản nhận định rằng gốc gác miền nam cũng như yếu tố Trung Quốc có thể là lý do khiến Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng “trượt” chức Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam vừa qua.
Trong số 19 tân ủy viên Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội 12, có 13 người gốc miền bắc; miền nam có 4 người và miền trung có 2 người.
Các trang mạng tiếng Việt “lề trái” thời gian qua lan truyền một câu phát biểu được cho là của ông Nguyễn Phú Trọng tại một cuộc họp bàn nhân sự, nói rằng “tổng bí thư phải là người có lý luận và phải là người miền bắc”.
Tuy nhiên, trên các trang báo do nhà nước quản lý không thấy trích dẫn câu nói này của ông Trọng. VOA Việt Ngữ không thể liên lạc được với nhà lãnh đạo đảng của Việt Nam để phỏng vấn về câu nói gây tranh cãi, bị coi là gây chia rẽ vùng miền này.
Nhà bất đồng chính kiến Nguyễn Thanh Giang nhận định thêm rằng, trong những năm sắp tới, tình hình kinh tế - xã hội ở Việt Nam “vẫn trì trệ, do người cầm đầu, do tổng bí thư giáo điều và cổ hủ”.
Nhà bất đồng chính kiến Nguyễn Thanh Giang nhận định thêm rằng, trong những năm sắp tới, tình hình kinh tế - xã hội ở Việt Nam “vẫn trì trệ, do người cầm đầu, do tổng bí thư giáo điều và cổ hủ”.
Trong nhận thức không chỉ của nhân dân mà còn trong đảng nữa, không có chuyện kỳ thị miền nam, và thậm chí bây giờ người ta cũng thừa nhận rằng dân miền nam năng động, có tinh thần công nghiệp và có sáng kiến tổ chức xã hội...
Nhà quan sát tình hình chính trị Việt Nam Nguyễn Thanh Giang nhận xét.
Chính vì điều đó, ông Giang cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam bị Trung Quốc kiềm chế”, và “đất nước Việt Nam phải lệ thuộc vào Trung Quốc”.
Trong khi đó, tiến sĩ Lê Hồng Hiệp, nghiên cứu viên tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore, cho rằng “việc gán cho một nhóm nào đấy trong nội bộ của đảng là thân Trung Quốc hay thân Mỹ hơi phiến diện và không chính xác”. Học giả trẻ này nói thêm:
"Theo quan sát của tôi, nhìn tổng thể, khi nói về chủ quyền và quan hệ với Trung Quốc, tôi nghĩ có một sự đồng thuận ở một mức độ nào đấy. Nhiều người nói rằng Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng thân Trung Quốc và chống Mỹ chẳng hạn, nhưng qua quan sát gần đây thì có vẻ không phải như vậy. Bây giờ, trong nội bộ đảng, nhất là quan chức cấp cao, không ai muốn mang tiếng thân Trung Quốc cả. Trong bối cảnh biển Đông đang nóng lên, và chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam cũng dâng cao như vậy, không ai muốn bị coi là thân Trung Quốc vì nó ảnh hưởng tới sự nghiệp chính trị của họ.”
Bình luận về quan hệ Hà Nội – Bắc Kinh, tờ Nikkei viết rằng “ở phía sau hậu trường [chính trị Việt Nam] lẩn quất bóng dáng của Trung Quốc, và dù nước này không gây tác động trực tiếp, nhưng rõ ràng có ảnh hưởng”.
Tờ báo của Nhật cũng nói tới chuyến công du của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng tới Trung Quốc gặp Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình hôm 23/12, trước đại hội đảng, rồi cho rằng “các chuyên gia ngờ rằng họ cũng nói tới việc tái bổ nhiệm ông Trọng làm tổng bí thư”.
Tờ báo viết thêm rằng “không có bằng chứng về việc Bắc Kinh can thiệp vào cuộc đua lãnh đạo ở Hà Nội, nhưng chính quyền này có ảnh hưởng lớn đối với chính trị Việt Nam”.
Theo Nikkei, Thủ tướng Dũng “rõ ràng không phải là ứng viên ưa thích của Bắc Kinh” vì từng có các tuyên bố cứng rắn về biển Đông, nhất là phát biểu rằng “không đánh đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông”.
Tuy nhiên, trước khi diễn ra kỳ họp quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam cuối năm ngoái, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Đinh Thế Huynh từng khẳng định rằng “Trung Quốc không thể tác động vào Đại hội 12”.
VN: 21.000 người đi cấp cứu vì tai nạn, đánh nhau, ngộ độc trong dịp Tết
11.02.2016
Báo chí Việt Nam trong các ngày 10 và 11 tháng 2 trích dẫn các con số chính thức của các Bộ Y tế và Công an cho hay trong 3 ngày Tết số người phải cấp cứu vì tai nạn giao thông là 17.000, vì đánh nhau là 2.000 và vì ngộ độc thức ăn hoặc say rượu là 2.000. Bộ Y tế nói tổng số người vào viện khám cấp cứu trên cả nước là gần 90.000 ca.
Riêng về tai nạn giao thông, các con số của Bộ Công an và Ủy ban An toàn giao thông quốc gia cho thấy từ ngày 29 Tết đến hết ngày 3 Tết có 101 người thiệt mạng trong các vụ tai nạn.
Điều đáng chú ý là vào ngày mùng 3 Tết (tức 10 tháng 2), số vụ tai nạn tăng mạnh so với các ngày 29 và mùng 1 Tết, với 57 vụ tai nạn, làm chết 37 người, 65 người bị thương.
Nếu không tính ngày mùng 3 Tết, Ủy ban An toàn giao thông cho biết, trong 3 ngày từ 29 Tết đến mùng 2 Tết, tai nạn giao thông lại giảm mạnh so với cùng kỳ Tết Nguyên đán năm 2015. Cụ thể, số vụ giảm từ 182 xuống 104, và giảm từ 107 người chết xuống 64.
Về nguyên nhân, báo chí Việt Nam dựa vào báo cáo và số liệu của Bộ Y tế đưa ra nhận định rằng nhiều tai nạn giao thông xảy ra do vào dịp Tết cổ truyền người dân sử dụng rượu bia nhiều.
Riêng về tai nạn giao thông, các con số của Bộ Công an và Ủy ban An toàn giao thông quốc gia cho thấy từ ngày 29 Tết đến hết ngày 3 Tết có 101 người thiệt mạng trong các vụ tai nạn.
Điều đáng chú ý là vào ngày mùng 3 Tết (tức 10 tháng 2), số vụ tai nạn tăng mạnh so với các ngày 29 và mùng 1 Tết, với 57 vụ tai nạn, làm chết 37 người, 65 người bị thương.
Nếu không tính ngày mùng 3 Tết, Ủy ban An toàn giao thông cho biết, trong 3 ngày từ 29 Tết đến mùng 2 Tết, tai nạn giao thông lại giảm mạnh so với cùng kỳ Tết Nguyên đán năm 2015. Cụ thể, số vụ giảm từ 182 xuống 104, và giảm từ 107 người chết xuống 64.
Về nguyên nhân, báo chí Việt Nam dựa vào báo cáo và số liệu của Bộ Y tế đưa ra nhận định rằng nhiều tai nạn giao thông xảy ra do vào dịp Tết cổ truyền người dân sử dụng rượu bia nhiều.
Lạm dụng rượu bia trong những ngày Tết không chỉ dẫn đến nhiều tai nạn giao thông mà cũng là nguyên nhân trực tiếp của nạn đánh nhau.
Theo Ủy ban An toàn Giao thông quốc gia, tại một số tỉnh và thành phố, trong đó có Hà Nội, Thanh Hoá, TP. HCM, tình trạng người đi mô tô, xe máy không đội mũ bảo hiểm, chở 3, chở 4, lạng lách đánh võng, đi ngược chiều, vượt đèn đỏ vẫn diễn ra. Thậm chí, nhiều cha mẹ chở con trên đường không đội mũ bảo hiểm cho con. Những trường hợp lái xe ra đường sau khi uống rượu bia diễn ra khá phổ biến tại nông thôn.
Tại thủ đô Hà Nội, trang tin tức Dân Trí nhận xét “trong những ngày Tết, luật giao thông đường bộ dường như có cũng như không”. Một phóng sự ảnh với hơn 30 bức ảnh của trang tin cho thấy người dân thản nhiên đi 3 đến 4 người trên 1 xe máy, không đội mũ bảo hiểm, đi ngược chiều, dàn hàng ngang, vừa lái xe vừa nhắn tin, gọi điện thoại, thậm chí thản nhiên vi phạm luật kể cả nhìn thấy Cảnh sát Giao thông ở các ngã 3 ngã tư.
Lạm dụng rượu bia trong những ngày Tết không chỉ dẫn đến nhiều tai nạn giao thông mà cũng là nguyên nhân trực tiếp của nạn đánh nhau trong một số ngày gần đây, báo chí Việt Nam cho hay, trích dẫn thông tin của Bộ Y tế. Bộ này cho biết 3 ngày Tết có gần 2.000 ca khám, cấp cứu do đánh nhau khiến 10 người tử vong. Bộ so sánh rằng tổng số ca cấp cứu giảm đến 83% so với 3 ngày Tết năm ngoái nhưng số người tử vong lại tăng lên. Năm 2015, cả nước có 4 trường hợp tử vong trong các vụ đánh nhau.
Lạm dụng rượu bia trong những ngày Tết không chỉ dẫn đến nhiều tai nạn giao thông mà cũng là nguyên nhân trực tiếp của nạn đánh nhau trong một số ngày gần đây, báo chí Việt Nam cho hay, trích dẫn thông tin của Bộ Y tế. Bộ này cho biết 3 ngày Tết có gần 2.000 ca khám, cấp cứu do đánh nhau khiến 10 người tử vong. Bộ so sánh rằng tổng số ca cấp cứu giảm đến 83% so với 3 ngày Tết năm ngoái nhưng số người tử vong lại tăng lên. Năm 2015, cả nước có 4 trường hợp tử vong trong các vụ đánh nhau.
Ngoài những người tới bệnh viện do tai nạn và đánh nhau, gần 2.000 người khác phải cấp cứu mà một phần trong số đó cũng do say rượu, số còn lại do ngộ độc thức ăn, rối loạn tiêu hóa, thông tin của Bộ Y tế cho hay. Họ cũng nói chưa có báo cáo về vụ ngộ độc thực phẩm hàng loạt nào.
Theo Thanh Nien, Suckhoedoisong, Dan Tri, Nguoi Lao dong.
http://www.voatiengviet.com/content/so-nguoi-nhap-vien-vi-tai-nan-danh-nhau-ngo-doc-tang-trong-dip-tet/3186619.htmlGiàu nghèo ở Việt Nam ‘phân cực rõ’, triệu phú tăng nhanh
11.02.2016
Có tình trạng “người ăn không hết, kẻ lần không ra” trong 20 năm tiến hành đổi mới vừa qua ở Việt Nam, trong khi có nhận định rằng người siêu giàu ở Việt Nam sẽ tăng nhanh nhất thế giới trong 10 năm tới.
Theo báo cáo mới công bố có tên “Xu hướng bất bình đẳng về mức sống ở Việt Nam trong 20 năm đổi mới”, tiến sỹ Đỗ Thiên Kính của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam cho biết rằng “sự phân hóa giàu nghèo hiện nay ở Việt Nam có xu hướng phân thành hai cực rõ rệt”.
Khái niệm “mức sống” trong cuộc nghiên cứu kéo dài từ đầu những năm 90 cho tới năm 2012 được đo lường qua các dữ liệu về: thu nhập, chi tiêu ngoài ăn uống và giá trị tài sản nơi ở chính.
Theo ông Kính, nếu thể hiện bằng biểu đồ, hệ thống phân tầng xã hội ở Việt Nam có hình kim tự tháp với tầng lớp cao (phần chóp) theo thứ tự từ trên xuống bao gồm lãnh đạo, quản lý; doanh nhân và chuyên gia có chuyên môn cao. Tầng lớp giữa gồm nhân viên, công nhân, buôn bán dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp. Tầng lớp thấp bao gồm lao động giản đơn và nông dân.
Về khoảng cách giàu nghèo ở Việt Nam hiện nay, kinh tế gia Lê Đăng Doanh nhận định với VOA Việt Ngữ:
“Khoảng cách giàu nghèo ở Việt Nam đang tăng lên một cách đáng lo ngại và là sự quan tâm của công luận. Khoảng cách giàu nghèo đó không được thể hiện một cách đầy đủ qua các con số bởi vì ở Việt Nam có một khối lượng tiền lớn vẫn được sử dụng bằng tiền mặt, cho nên việc kiểm soát thu nhập thực của người ta rất khó khăn. Đã có những hiện tượng mà báo chí đã nêu lên rằng một số quan chức có thu nhập quá cao với rất nhiều nhà đất và con cái tiêu xài một cách xa hoa, lãng phí. Đấy là điều đáng lo ngại của Việt Nam, trong khi một số người dân, nhất là trẻ em ở những vùng sâu và hẻo lánh hiện nay thiếu cả quần áo ấm để mặc, cũng như có cuộc sống rất là khó khăn. Tôi hy vọng rằng điều đó sẽ được chú ý và sẽ được cải thiện trong thời gian sắp tới đây, khi mà Việt Nam có những bước cải cách thể chế và sẽ công khai, minh bạch hơn quá trình kiểm soát thu nhập của người dân.”
Trong khi đó, theo dự báo của hãng tư vấn bất động sản toàn cầu Knight Frank, số người siêu giàu ở Việt Nam sẽ “tăng nhanh nhất thế giới trong một thập kỷ tới”.
Theo công ty tư vấn có trụ sở ở London, trong 10 năm tới, số người có tài sản từ 30 triệu đôla trở lên ở quốc gia Đông Nam Á này sẽ tăng hơn gấp đôi, lên con số 300 người với tỷ lệ tăng hơn 150%.
Thống kê mới nhất của Knight Frank cho biết rằng hiện Việt Nam có 116 người siêu giàu, và cho tới năm 2024, Việt Nam sẽ có 3 tỷ phú đôla.
Tiến sỹ Doanh nhận định với VOA Việt Ngữ rằng người siêu giàu ở Việt Nam “do có những mối quan hệ và có thể tiếp cận được với các tài nguyên, họ vẫn tiếp tục giàu lên một cách nhanh chóng”.
Kinh tế gia này nói thêm rằng họ là những người “không có đóng góp gì mới về khoa học và công nghệ”.
Hồi năm 2013, ông Phạm Nhật Vượng, Chủ tịch tập đoàn Vingroup, được tạp chí Forbes đánh giá là tỷ phú đôla đầu tiên của Việt Nam
http://www.voatiengviet.com/content/giau-ngheo-o-vietnam-phan-cuc-ro-trieu-phu-tang-nhan/3186541.html
http://www.voatiengviet.com/content/ong-dinh-la-thang-se-la-nguyen-ba-thanh-cua-saigon/3183104.html
Bộ trưởng Nội vụ Nguyễn Thái Bình được báo chí Việt Nam trích lời nói sai phạm kinh tế phát hiện ra được trong giai đoạn 2011-2015 lên tới số tiền tương đương 9,3 tỷ USD.
Phát biểu trong một cuộc họp trước Tết Nguyên đán, ông Nguyễn Thái Bình cho biết, giai đoạn 2011 – 2015, Thanh tra Chính phủ đã triển khai 37.390 cuộc thanh tra hành chính và trên 783.000 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành.
"Qua thanh tra, kiểm tra đã chấn chỉnh những sai phạm trong quản lý... phát hiện nhiều vi phạm về kinh tế với số tiền là 208.540 tỷ đồng."
Đây là khoản tiền 9,3 tỷ USD, nếu tính vào thời giá tháng 2/2016.
Tuy nhiên, ông Nguyễn Thái Bình cũng được báo chí trích lời nói Thanh tra Chính phủ "đã kiến nghị thu hồi gần 119.400 tỷ đồng".
Ngoài ra cơ quan này cũng kiến nghị thu hồi "19.230 héc-ta đất; kiến nghị xử lý kỷ luật 6.460 tập thể, 22.700 cá nhân, chuyển cơ quan điều tra 297 vụ, 355 người".
Ông Nguyễn Thái Bình xác nhận:
"Tình trạng vi phạm kỷ luật, kỷ cương hành chính vẫn còn xảy ra ở không ít địa phương."
Ngoài ra, Bộ trưởng Nội vụ cũng nói:
"Năng lực, trình độ, kỹ năng quản lý hành chính nhà nước của một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ; tình trạng tham nhũng, cửa quyền, sách nhiễu vẫn chưa được khắc phục."
"Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, đánh giá và sử dụng cán bộ, công chức, viên chức còn hạn chế, nhiều địa phương đang thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao."
Hồi cuối năm 2015, chính Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Nguyễn Phú Trọng cũng nói "chống tham nhũng khó là ở chỗ lợi ích nhóm, liên quan chằng chịt giữa kinh tế và chính trị, giữa doanh nhân với những người có chức, có quyền, ngoắt ngoéo với nhau".
Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International) trong báo cáo năm 2015 đã đặt Việt Nam vào hạng 112/168 về tham nhũng trên toàn cầu.
Bảng xếp hạng của tổ chức có trụ sở tại Berlin công bố hôm 27/1/2016 đánh giá cảm nhận về tham nhũng từ người làm doanh nghiệp và các chuyên gia trước nạn tham nhũng ở 168 quốc gia.
http://www.bbc.com/vietnamese/business/2016/02/160209_vn_economic_mismanagement
http://www.voatiengviet.com/content/trung-quoc-canh-cao-giua-luc-my-an-can-nhac-tuan-tra-bien-dong/3187074.html
Theo báo cáo mới công bố có tên “Xu hướng bất bình đẳng về mức sống ở Việt Nam trong 20 năm đổi mới”, tiến sỹ Đỗ Thiên Kính của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam cho biết rằng “sự phân hóa giàu nghèo hiện nay ở Việt Nam có xu hướng phân thành hai cực rõ rệt”.
Khái niệm “mức sống” trong cuộc nghiên cứu kéo dài từ đầu những năm 90 cho tới năm 2012 được đo lường qua các dữ liệu về: thu nhập, chi tiêu ngoài ăn uống và giá trị tài sản nơi ở chính.
Đã có những hiện tượng báo chí đã nêu lên rằng một số quan chức có thu nhập quá cao với rất nhiều nhà đất và con cái tiêu xài một cách xa hoa, lãng phí. Đấy là điều đáng lo ngại của Việt Nam, trong khi một số người dân, nhất là trẻ em ở những vùng sâu và hẻo lánh hiện nay thiếu cả quần áo ấm để mặc...
Tiến sỹ Lê Đăng Doanh nói.
Về khoảng cách giàu nghèo ở Việt Nam hiện nay, kinh tế gia Lê Đăng Doanh nhận định với VOA Việt Ngữ:
“Khoảng cách giàu nghèo ở Việt Nam đang tăng lên một cách đáng lo ngại và là sự quan tâm của công luận. Khoảng cách giàu nghèo đó không được thể hiện một cách đầy đủ qua các con số bởi vì ở Việt Nam có một khối lượng tiền lớn vẫn được sử dụng bằng tiền mặt, cho nên việc kiểm soát thu nhập thực của người ta rất khó khăn. Đã có những hiện tượng mà báo chí đã nêu lên rằng một số quan chức có thu nhập quá cao với rất nhiều nhà đất và con cái tiêu xài một cách xa hoa, lãng phí. Đấy là điều đáng lo ngại của Việt Nam, trong khi một số người dân, nhất là trẻ em ở những vùng sâu và hẻo lánh hiện nay thiếu cả quần áo ấm để mặc, cũng như có cuộc sống rất là khó khăn. Tôi hy vọng rằng điều đó sẽ được chú ý và sẽ được cải thiện trong thời gian sắp tới đây, khi mà Việt Nam có những bước cải cách thể chế và sẽ công khai, minh bạch hơn quá trình kiểm soát thu nhập của người dân.”
Trong khi đó, theo dự báo của hãng tư vấn bất động sản toàn cầu Knight Frank, số người siêu giàu ở Việt Nam sẽ “tăng nhanh nhất thế giới trong một thập kỷ tới”.
Khoảng cách giàu nghèo ở Việt Nam đang tăng lên một cách đáng lo ngại và là sự quan tâm của công luận. Khoảng cách giàu nghèo đó không được thể hiện một cách đầy đủ qua các con số bởi vì ở Việt Nam có một khối lượng tiền lớn vẫn được sử dụng bằng tiền mặt, cho nên việc kiểm soát thu nhập thực của người ta rất khó khăn.
Kinh tế gia Lê Đăng Doanh nhận định.
Thống kê mới nhất của Knight Frank cho biết rằng hiện Việt Nam có 116 người siêu giàu, và cho tới năm 2024, Việt Nam sẽ có 3 tỷ phú đôla.
Tiến sỹ Doanh nhận định với VOA Việt Ngữ rằng người siêu giàu ở Việt Nam “do có những mối quan hệ và có thể tiếp cận được với các tài nguyên, họ vẫn tiếp tục giàu lên một cách nhanh chóng”.
Kinh tế gia này nói thêm rằng họ là những người “không có đóng góp gì mới về khoa học và công nghệ”.
Hồi năm 2013, ông Phạm Nhật Vượng, Chủ tịch tập đoàn Vingroup, được tạp chí Forbes đánh giá là tỷ phú đôla đầu tiên của Việt Nam
http://www.voatiengviet.com/content/giau-ngheo-o-vietnam-phan-cuc-ro-trieu-phu-tang-nhan/3186541.html
Ông Đinh La Thăng sẽ là ‘Nguyễn Bá Thanh của Sài Gòn’?
09.02.2016
Với nhiều tuyên bố hùng hồn như “bộ trưởng là tư lệnh ngành, phải cho tôi toàn quyền”, nhiều người kỳ vọng rằng ông Đinh La Thăng sẽ “quyết liệt” trên cương vị tân Bí thư thành ủy Sài Gòn.
Cùng với ông Hoàng Trung Hải, Bí thư thành ủy Hà Nội, cựu Bộ trưởng Giao thông Vận Tải có nhiều phát ngôn thẳng thừng mới được Bộ Chính trị giao nhiệm vụ dẫn đắt đảng bộ ở thành phố từng được coi là “Hòn ngọc Viễn Đông”.
5 năm lãnh đạo Bộ Giao thông Vận tải, ông Thăng đã có nhiều tuyên bố làm tốn giấy mực của báo chí như “bộ trưởng là tư lệnh ngành, phải cho tôi toàn quyền”.
Trả lời báo giới hồi năm 2011, sau khi được phe chuẩn chức Bộ trưởng, ông Thăng nói: "Tư lệnh ra chiến trường phải được toàn quyền quyết định chiến đấu, tiến hay lùi, nếu chờ xin phép thủ trưởng ở nhà thì sẽ lỡ cơ hội".
Với những tuyên bố không kiêng nể, tân Bí thư thành ủy được nhiều người coi là một “Nguyễn Bá Thanh của Sài Gòn”.
Ông Thanh từng làm Bí thư thành ủy Đà Nẵng và cũng từng có những phát ngôn mà truyền thông trong nước cho là “ấn tượng” như “cán bộ bây giờ phải biết xấu hổ” hay “phải biến Đà Nẵng thành đô thị đáng sống chứ không phải chán sống”.
Người qua đời vì bệnh ung thư hồi đầu năm ngoái còn tuyên bố không khoan nhượng với tham nhũng với phát ngôn rằng “sắp tới tôi sẽ rà một số cái, cho hốt liền không nói nhiều”.
Dù được nhiều người đặt kỳ vọng vào một “Nguyễn Bá Thanh mới”, ông Trần Bang, một người dân sinh sống ở Sài Gòn, nói với VOA Việt Ngữ rằng việc so sánh giữa ông Thanh và ông Thăng “hơi khập khiễng”. Cựu chiến binh này nói thêm:
“Ông Nguyễn Bá Thanh là người Quảng Nam mà thành phố Đà Nẵng tách ra từ Quảng Nam, sát Quảng Nam nên ông Thanh hiểu dân Đà Nẵng hơn. Với tính cách dứt khoát, và với hiểu biết của ông ấy thì ông ấy có thể làm được ở Đà Nẵng, tạo ra một thành phố sạch đẹp, quy củ so với các thành phố khác ở Việt Nam, dù nó còn nhiều vấn đề như vụ Cồn Dầu hay các bất công khác còn chưa giải quyết được. Còn ông Đinh La Thăng, tôi cho rằng Sài Gòn này nó khác. Tôi không dám chắc là ông ấy sẽ làm được như cái thời ông làm được ở Bộ Giao thông Vận Tải. Văn hóa thành phố Sài Gòn, người dân ở đây, những người dưới quyền hoặc nguồn cán bộ mà ông có thể sử dụng được ở Sài Gòn nó khác các nơi khác. Tôi không thể nghĩ rằng ông ấy sẽ làm được như ông Nguyễn Bá Thanh ở Đà Nẵng.”
Ông Bang nói thêm rằng “quản lý thành phố thì không phải như quản lý một bộ chuyên sâu về một lĩnh vực”, và ông cho rằng thách thức lớn nhất mà ông Thăng phải đối mặt đó là vấn đề nhân sự do khác biệt về “vùng miền”.
Cuối tháng trước, ông Thăng đã được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu làm một trong số gần 20 ủy viên của Bộ Chính trị đầy quyền lực ở Việt Nam.
Sau đó, hôm 5/2, ngay sau khi được giao nhiệm vụ mới là Bí thư thành ủy TP HCM, ông Thăng nói rằng áp lực lớn nhất của ông lúc này là phải nhận trách nhiệm lãnh đạo một trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ, đầu tàu có sức hút và lan tỏa lớn của khu vực phía nam, là đầu mối giao lưu hội nhập quốc tế…”
Khi thông tin ông Thăng về Sài Gòn được đăng tải, một bạn đọc tên Sang viết trên một diễn đàn rằng “với bản lĩnh của người dám nói dám làm tôi chúc ông bí thư sẽ là người dẫn dắt TP HCM là thành phố số một của khu vực ASEAN”.
Trong khi đó, bà Dương Thị Tân, một người dân TP HCM, nói với VOA Việt Ngữ rằng bà “không kỳ vọng gì nhiều”:
“Khi ông ấy vào đây, đương nhiên ông ấy phải đối diện với nhiều cái có thể không thuộc chuyên môn của ông ấy. Suy đoán theo tác phong của ông Đinh La Thăng, thì ông ấy có vẻ là một người kiên quyết, có thể làm cái này, có thể làm cái kia. Tôi nghĩ rằng dù làm một công việc gì đi chăng nữa, ông ấy cũng tuân thủ, quán triệt ý đảng. Ai thì tôi không biết, nhưng bản thân tôi không kỳ vọng gì nhiều ở những người cũng hay hô lớn lắm nhưng chưa biết làm được cái gì. Trừ khi ông ấy làm được một việc gì đấy thì tôi tin, ông ấy làm được, còn bây giờ để nói trước những việc ông ấy sẽ làm thì chúng tôi không kỳ vọng gì nhiều.”
Mới đây nhất, ông Thăng đã yêu cầu cách chức ông Nguyễn Viết Hiệp, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Vận tải đường sắt Hà Nội, cũng như kỷ luật nghiêm những cán bộ có liên quan tới đề xuất mua hơn 160 toa xe cũ của Trung Quốc.
Năm ngoái, sau khi xảy ra hại sự cố làm một người chết và ba người bị thương tại dự án Đường sắt trên cao Cát Linh - Hà Đông có sử dụng vốn và nhà thầu của Trung Quốc, ông Thăng đã gay gắt chỉ trích đối tác từ quốc gia láng giềng và tuyên bố rằng "không thể đánh đổi quyền lợi của người Việt Nam, tính mạng của người Việt Nam để vay vốn" của Trung Quốc.
Sau đó, ông Thăng bị Hoàn cầu Thời báo, một tờ báo có tư tưởng dân tộc chủ nghĩa ở Trung Quốc, cáo buộc là “tìm cách nhen nhóm tinh thần bài Trung Quốc”.
Cùng với ông Hoàng Trung Hải, Bí thư thành ủy Hà Nội, cựu Bộ trưởng Giao thông Vận Tải có nhiều phát ngôn thẳng thừng mới được Bộ Chính trị giao nhiệm vụ dẫn đắt đảng bộ ở thành phố từng được coi là “Hòn ngọc Viễn Đông”.
5 năm lãnh đạo Bộ Giao thông Vận tải, ông Thăng đã có nhiều tuyên bố làm tốn giấy mực của báo chí như “bộ trưởng là tư lệnh ngành, phải cho tôi toàn quyền”.
Trả lời báo giới hồi năm 2011, sau khi được phe chuẩn chức Bộ trưởng, ông Thăng nói: "Tư lệnh ra chiến trường phải được toàn quyền quyết định chiến đấu, tiến hay lùi, nếu chờ xin phép thủ trưởng ở nhà thì sẽ lỡ cơ hội".
Sài Gòn này nó khác. Tôi không dám chắc là ông ấy [Đinh La Thăng] sẽ làm được như thời ông làm được ở Bộ Giao thông Vận Tải. Văn hóa thành phố Sài Gòn, người dân ở đây, những người dưới quyền hoặc nguồn cán bộ mà ông có thể sử dụng được ở Sài Gòn nó khác các nơi khác. Tôi không thể nghĩ rằng ông ấy sẽ làm được như ông Nguyễn Bá Thanh ở Đà Nẵng.
Cựu chiến binh Trần Bang nói.
Ông Thanh từng làm Bí thư thành ủy Đà Nẵng và cũng từng có những phát ngôn mà truyền thông trong nước cho là “ấn tượng” như “cán bộ bây giờ phải biết xấu hổ” hay “phải biến Đà Nẵng thành đô thị đáng sống chứ không phải chán sống”.
Người qua đời vì bệnh ung thư hồi đầu năm ngoái còn tuyên bố không khoan nhượng với tham nhũng với phát ngôn rằng “sắp tới tôi sẽ rà một số cái, cho hốt liền không nói nhiều”.
Dù được nhiều người đặt kỳ vọng vào một “Nguyễn Bá Thanh mới”, ông Trần Bang, một người dân sinh sống ở Sài Gòn, nói với VOA Việt Ngữ rằng việc so sánh giữa ông Thanh và ông Thăng “hơi khập khiễng”. Cựu chiến binh này nói thêm:
“Ông Nguyễn Bá Thanh là người Quảng Nam mà thành phố Đà Nẵng tách ra từ Quảng Nam, sát Quảng Nam nên ông Thanh hiểu dân Đà Nẵng hơn. Với tính cách dứt khoát, và với hiểu biết của ông ấy thì ông ấy có thể làm được ở Đà Nẵng, tạo ra một thành phố sạch đẹp, quy củ so với các thành phố khác ở Việt Nam, dù nó còn nhiều vấn đề như vụ Cồn Dầu hay các bất công khác còn chưa giải quyết được. Còn ông Đinh La Thăng, tôi cho rằng Sài Gòn này nó khác. Tôi không dám chắc là ông ấy sẽ làm được như cái thời ông làm được ở Bộ Giao thông Vận Tải. Văn hóa thành phố Sài Gòn, người dân ở đây, những người dưới quyền hoặc nguồn cán bộ mà ông có thể sử dụng được ở Sài Gòn nó khác các nơi khác. Tôi không thể nghĩ rằng ông ấy sẽ làm được như ông Nguyễn Bá Thanh ở Đà Nẵng.”
Ông Bang nói thêm rằng “quản lý thành phố thì không phải như quản lý một bộ chuyên sâu về một lĩnh vực”, và ông cho rằng thách thức lớn nhất mà ông Thăng phải đối mặt đó là vấn đề nhân sự do khác biệt về “vùng miền”.
Cuối tháng trước, ông Thăng đã được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu làm một trong số gần 20 ủy viên của Bộ Chính trị đầy quyền lực ở Việt Nam.
Suy đoán theo tác phong của ông Đinh La Thăng, thì ông ấy có vẻ là một người kiên quyết, có thể làm cái này, có thể làm cái kia. Tôi nghĩ rằng dù làm một công việc gì đi chăng nữa, ông ấy cũng tuân thủ, quán triệt ý đảng. Ai thì tôi không biết, nhưng bản thân tôi không kỳ vọng gì nhiều ở những người cũng hay hô lớn lắm nhưng chưa biết làm được cái gì.
Bà Dương Thị Tân, cư dân Saigon, nói.
Khi thông tin ông Thăng về Sài Gòn được đăng tải, một bạn đọc tên Sang viết trên một diễn đàn rằng “với bản lĩnh của người dám nói dám làm tôi chúc ông bí thư sẽ là người dẫn dắt TP HCM là thành phố số một của khu vực ASEAN”.
Trong khi đó, bà Dương Thị Tân, một người dân TP HCM, nói với VOA Việt Ngữ rằng bà “không kỳ vọng gì nhiều”:
“Khi ông ấy vào đây, đương nhiên ông ấy phải đối diện với nhiều cái có thể không thuộc chuyên môn của ông ấy. Suy đoán theo tác phong của ông Đinh La Thăng, thì ông ấy có vẻ là một người kiên quyết, có thể làm cái này, có thể làm cái kia. Tôi nghĩ rằng dù làm một công việc gì đi chăng nữa, ông ấy cũng tuân thủ, quán triệt ý đảng. Ai thì tôi không biết, nhưng bản thân tôi không kỳ vọng gì nhiều ở những người cũng hay hô lớn lắm nhưng chưa biết làm được cái gì. Trừ khi ông ấy làm được một việc gì đấy thì tôi tin, ông ấy làm được, còn bây giờ để nói trước những việc ông ấy sẽ làm thì chúng tôi không kỳ vọng gì nhiều.”
Mới đây nhất, ông Thăng đã yêu cầu cách chức ông Nguyễn Viết Hiệp, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Vận tải đường sắt Hà Nội, cũng như kỷ luật nghiêm những cán bộ có liên quan tới đề xuất mua hơn 160 toa xe cũ của Trung Quốc.
Năm ngoái, sau khi xảy ra hại sự cố làm một người chết và ba người bị thương tại dự án Đường sắt trên cao Cát Linh - Hà Đông có sử dụng vốn và nhà thầu của Trung Quốc, ông Thăng đã gay gắt chỉ trích đối tác từ quốc gia láng giềng và tuyên bố rằng "không thể đánh đổi quyền lợi của người Việt Nam, tính mạng của người Việt Nam để vay vốn" của Trung Quốc.
Sau đó, ông Thăng bị Hoàn cầu Thời báo, một tờ báo có tư tưởng dân tộc chủ nghĩa ở Trung Quốc, cáo buộc là “tìm cách nhen nhóm tinh thần bài Trung Quốc”.
VN phát hiện 'sai phạm kinh tế 9 tỷ đô'
- 9 tháng 2 2016
Bộ trưởng Nội vụ Nguyễn Thái Bình được báo chí Việt Nam trích lời nói sai phạm kinh tế phát hiện ra được trong giai đoạn 2011-2015 lên tới số tiền tương đương 9,3 tỷ USD.
Phát biểu trong một cuộc họp trước Tết Nguyên đán, ông Nguyễn Thái Bình cho biết, giai đoạn 2011 – 2015, Thanh tra Chính phủ đã triển khai 37.390 cuộc thanh tra hành chính và trên 783.000 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành.
"Qua thanh tra, kiểm tra đã chấn chỉnh những sai phạm trong quản lý... phát hiện nhiều vi phạm về kinh tế với số tiền là 208.540 tỷ đồng."
Đây là khoản tiền 9,3 tỷ USD, nếu tính vào thời giá tháng 2/2016.
Tuy nhiên, ông Nguyễn Thái Bình cũng được báo chí trích lời nói Thanh tra Chính phủ "đã kiến nghị thu hồi gần 119.400 tỷ đồng".
Ngoài ra cơ quan này cũng kiến nghị thu hồi "19.230 héc-ta đất; kiến nghị xử lý kỷ luật 6.460 tập thể, 22.700 cá nhân, chuyển cơ quan điều tra 297 vụ, 355 người".
'Vi phạm kỷ cương'
Có vẻ như các phát hiện trên xảy ra ở địa phương vì phát biểu của ông Nguyễn Thái Bình được nêu ra tại Hội nghị toàn quốc về hoạt động của Hội đồng nhân dân và UBND tại Quốc hội hôm 02/2.Ông Nguyễn Thái Bình xác nhận:
"Tình trạng vi phạm kỷ luật, kỷ cương hành chính vẫn còn xảy ra ở không ít địa phương."
Ngoài ra, Bộ trưởng Nội vụ cũng nói:
"Năng lực, trình độ, kỹ năng quản lý hành chính nhà nước của một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ; tình trạng tham nhũng, cửa quyền, sách nhiễu vẫn chưa được khắc phục."
"Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, đánh giá và sử dụng cán bộ, công chức, viên chức còn hạn chế, nhiều địa phương đang thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao."
Hồi cuối năm 2015, chính Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Nguyễn Phú Trọng cũng nói "chống tham nhũng khó là ở chỗ lợi ích nhóm, liên quan chằng chịt giữa kinh tế và chính trị, giữa doanh nhân với những người có chức, có quyền, ngoắt ngoéo với nhau".
Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International) trong báo cáo năm 2015 đã đặt Việt Nam vào hạng 112/168 về tham nhũng trên toàn cầu.
Bảng xếp hạng của tổ chức có trụ sở tại Berlin công bố hôm 27/1/2016 đánh giá cảm nhận về tham nhũng từ người làm doanh nghiệp và các chuyên gia trước nạn tham nhũng ở 168 quốc gia.
http://www.bbc.com/vietnamese/business/2016/02/160209_vn_economic_mismanagement
TQ cảnh cáo giữa lúc Mỹ, Ấn cân nhắc tuần tra chung ở Biển Đông
12.02.2016
Trung Quốc hôm thứ Năm cảnh báo rằng sự can thiệp từ những nước bên ngoài đe dọa hòa bình và ổn định ở Biển Đông, đáp lại tin tức cho hay Mỹ và Ấn Độ đang thảo luận về những cuộc tuần tra hải quân chung ở vùng biển đang tranh chấp này.
"Sự hợp tác giữa bất kỳ nước nào không được nhắm vào bên thứ ba," phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi hồi đáp email của Reuters về bản tin mà hãng thông tấn này loan tải hôm thứ Tư.
"Những nước bên ngoài khu vực phải ngưng thúc đẩy việc quân sự hóa ở Nam Hải (tức Biển Đông), chấm dứt đe dọa chủ quyền và an ninh quốc gia của của những nước ven biển nhân danh 'tự do hàng hải' làm tổn hại đến hòa bình và ổn định của khu vực."
Mỹ muốn những đồng minh trong vùng của mình và những nước châu Á khác có lập trường thống nhất chống lại Trung Quốc ở Biển Đông, nơi mà căng thẳng đã gia tăng kể từ khi Trung Quốc xây dựng bảy hòn đảo ở quần đảo Trường Sa.
Ông Hồng cũng kêu gọi các bên thận trọng và tránh để bị thao túng để rồi cuối cùng gây tổn hại đến lợi ích riêng của chính mình.
Một quan chức quốc phòng Mỹ nói với Reuters trong tuần này rằng, Mỹ và Ấn Độ đã tổ chức những cuộc hội đàm về những cuộc tuần tra hải quân chung mà có thể bao gồm ở Biển Đông. Hải quân Ấn Độ chưa bao giờ tuần tra chung với những nước khác và một phát ngôn viên của hải quân nước này nói với Reuters rằng không có sự thay đổi trong chính sách của chính phủ là chỉ tham gia một nỗ lực quân sự quốc tế dưới lá cờ của Liên Hiệp Quốc.
Ấn Độ có tranh chấp biên giới đất liền từ lâu với với Trung Quốc, và đã tăng cường sự hiện diện hải quân vượt xa Ấn Độ Dương trong những năm gần đây. Một chỉ huy của hải quân Ấn Độ cho biết Ấn Độ điều tàu chiến tới Biển Đông gần như thường xuyên.
"Sự hợp tác giữa bất kỳ nước nào không được nhắm vào bên thứ ba," phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi hồi đáp email của Reuters về bản tin mà hãng thông tấn này loan tải hôm thứ Tư.
"Những nước bên ngoài khu vực phải ngưng thúc đẩy việc quân sự hóa ở Nam Hải (tức Biển Đông), chấm dứt đe dọa chủ quyền và an ninh quốc gia của của những nước ven biển nhân danh 'tự do hàng hải' làm tổn hại đến hòa bình và ổn định của khu vực."
Mỹ muốn những đồng minh trong vùng của mình và những nước châu Á khác có lập trường thống nhất chống lại Trung Quốc ở Biển Đông, nơi mà căng thẳng đã gia tăng kể từ khi Trung Quốc xây dựng bảy hòn đảo ở quần đảo Trường Sa.
Ông Hồng cũng kêu gọi các bên thận trọng và tránh để bị thao túng để rồi cuối cùng gây tổn hại đến lợi ích riêng của chính mình.
Một quan chức quốc phòng Mỹ nói với Reuters trong tuần này rằng, Mỹ và Ấn Độ đã tổ chức những cuộc hội đàm về những cuộc tuần tra hải quân chung mà có thể bao gồm ở Biển Đông. Hải quân Ấn Độ chưa bao giờ tuần tra chung với những nước khác và một phát ngôn viên của hải quân nước này nói với Reuters rằng không có sự thay đổi trong chính sách của chính phủ là chỉ tham gia một nỗ lực quân sự quốc tế dưới lá cờ của Liên Hiệp Quốc.
Ấn Độ có tranh chấp biên giới đất liền từ lâu với với Trung Quốc, và đã tăng cường sự hiện diện hải quân vượt xa Ấn Độ Dương trong những năm gần đây. Một chỉ huy của hải quân Ấn Độ cho biết Ấn Độ điều tàu chiến tới Biển Đông gần như thường xuyên.
Mỹ cải chính : Tuần tra chung với Ấn Độ chưa bao gồm Biển Đông
C
hiến hạm INS Satpura của Ấn Độ.Wikipédia
Sau một loạt thông tin báo chí theo đó giới chức quốc phòng Mỹ-Ấn Độ đã thảo luận về khả năng Hải Quân hai nước tuần tra chung tại nhiều khu vực, kể cả Biển Đông, bộ Quốc Phòng Mỹ hôm qua 10/02/2016 đã vội vàng cải chính. Theo Lầu Năm Góc, hai bên đã mở đàm phán « không chính thức » về việc tuần tra chung, nhưng vùng Biển Đông đã không được thảo luận.
Một quan chức quốc phòng Mỹ xin giấu tên đã tuyên bố : « Tôi có thể xác nhận rằng một số cuộc thảo luận không chính thức về khả năng hai nước mở những cuộc tuần tra chung đã diễn ra ». Tuy nhiên, quan chức này khẳng định tiếp : « Chúng tôi không biết gì về bất kỳ một cuộc thảo luận nào về việc gộp Biển Đông vào các khu vực tuần tra chung ».
Theo hãng tin Ấn Độ PTI, các cuộc thảo luận không chính thức gần đây chủ yếu tập trung vào khả năng hai nước cùng nhau tuần tra trong Ấn Độ Dương rộng lớn, cho phép hai nước kiểm soát được tuyến đường biển chiến lược này.
Còn theo Reuters, trích dẫn một nguồn tin từ chính quyền New Delhi, vấn đề tuần tra chung Mỹ-Ấn đã được nêu lên vào tháng 12/2015 vừa qua khi bộ trưởng Quốc Phòng Ấn Độ Manohar Parrikar ghé thăm bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương của Mỹ tại Hawaii.
Dù rất thận trọng trong quan hệ với Trung Quốc, trước các động thái lấn lướt của Bắc Kinh, nhiều khi không cần kiêng nể New Delhi, Ấn Độ đã ngày càng tăng cường sự hiện diện hải quân của mình tại Biển Đông, liên tục phái chiến hạm ghé thăm các cảng ở vùng Đông Nam Á, một điều rất ít khi xẩy ra một vài năm trước đây.
Theo một sĩ quan chỉ huy của Hải Quân Ấn Độ, điểm đến của đa số tàu chiến Ấn Độ được phái đến Biển Đông là Việt Nam, một đất nước nhanh chóng tăng cường năng lực quân sự để sẵn sàng đối phó với khả năng nổ ra xung đột với Trung Quốc tại Biển Đông.
Ấn Độ cũng đã cấp cho Việt Nam 100 triệu đô la tín dụng để mua tàu tuần tra và đang đào tạo thủy thủ tàu ngầm Việt Nam tại căn cứ của mình ở Ấn Độ. Dù vậy, theo Reuters, khả năng Ấn Độ cùng Mỹ tuần tra ở Biển Đông là một điều trước mắt chưa thể xẩy ra.
http://vi.rfi.fr/chau-a/20160211-tuan-tra-my-an-bd-qt-qs Theo hãng tin Ấn Độ PTI, các cuộc thảo luận không chính thức gần đây chủ yếu tập trung vào khả năng hai nước cùng nhau tuần tra trong Ấn Độ Dương rộng lớn, cho phép hai nước kiểm soát được tuyến đường biển chiến lược này.
Còn theo Reuters, trích dẫn một nguồn tin từ chính quyền New Delhi, vấn đề tuần tra chung Mỹ-Ấn đã được nêu lên vào tháng 12/2015 vừa qua khi bộ trưởng Quốc Phòng Ấn Độ Manohar Parrikar ghé thăm bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương của Mỹ tại Hawaii.
Dù rất thận trọng trong quan hệ với Trung Quốc, trước các động thái lấn lướt của Bắc Kinh, nhiều khi không cần kiêng nể New Delhi, Ấn Độ đã ngày càng tăng cường sự hiện diện hải quân của mình tại Biển Đông, liên tục phái chiến hạm ghé thăm các cảng ở vùng Đông Nam Á, một điều rất ít khi xẩy ra một vài năm trước đây.
Theo một sĩ quan chỉ huy của Hải Quân Ấn Độ, điểm đến của đa số tàu chiến Ấn Độ được phái đến Biển Đông là Việt Nam, một đất nước nhanh chóng tăng cường năng lực quân sự để sẵn sàng đối phó với khả năng nổ ra xung đột với Trung Quốc tại Biển Đông.
Ấn Độ cũng đã cấp cho Việt Nam 100 triệu đô la tín dụng để mua tàu tuần tra và đang đào tạo thủy thủ tàu ngầm Việt Nam tại căn cứ của mình ở Ấn Độ. Dù vậy, theo Reuters, khả năng Ấn Độ cùng Mỹ tuần tra ở Biển Đông là một điều trước mắt chưa thể xẩy ra.
Bất bình Bắc Kinh, Mỹ đưa lá chắn đến Hàn Quốc
Một góc căn cứ huấn luyện ở Pha Châu - Paju, Hàn Quốc (Ảnh chụp ngày 08/02/2016)REUTERS
Mỹ- Hàn Quốc thảo luận bố trí hệ thống lá chắn THAAD tối tân tại Hàn Quốc là điều tối kỵ đối với Trung Quốc. Sự kiện này làm nổi bật bất đồng sâu rộng giữa Washington và Bắc Kinh trong việc đối phó với tham vọng trang bị vũ khí hạt nhân và tên lửa đạn đạo của Bình Nhưỡng với nhiều hệ quả bất lợi cho Bắc Kinh.
Vài giờ sau khi Bắc Tiều Tiên loan báo đưa một vệ tinh vào quỹ đạo hôm Chủ nhật 07/02/2016, quân đội Mỹ và Hàn Quốc thông báo mở đàm phán để trang bị cho Seoul hệ thống lá chắn đánh chận tên lửa từ trên không trung THAAD ( Terminal High Altitude Area Defense) .
Theo thứ trưởng bộ Quốc Phòng Hàn Quốc Yoo Jeh Seung, mục đích chính của THAAD là « mối de dọa càng ngày càng tăng của Bắc Triều Tiên » buộc Seoul phải tăng cường khả năng phòng thủ.
Theo các chuyên gia quốc tế thì không thể nào phủ nhận lập luận của Hàn Quốc sau khi Bắc Triều Tiên thử nghiệm đến lần thứ tư một quả bom hạt nhân vào ngày 16/01 và ba tuần sau lại phóng tên lửa đạn đạo ngụy trang dưới hình thức hỏa tiễn mang vệ tinh.
Ben Goodlad, chuyên gia quốc phòng của viện nghiên cứu IHS Aerospace, Defence and Security nhận định, Seoul có nhu cầu tự vệ phải cải tiến hệ thống vũ khí quốc phòng với hệ thống lá chắn THAAD.
Một công hai việc : bắc cự Kim Jong Un, tây kềm Tập Cận Bình ?
Tuy nhiên, bên cạnh nhu cầu chiến lược còn có một lý do khác thúc đẩy Mỹ ủng hộ yêu cầu của Hàn Quốc trang bị lá chắn THAAD mà từ trước đến giờ chỉ được đặt ở đảo Guam cách vùng duyên hải Trung Quốc đến 3000 km. Theo AFP, thông điệp của Mỹ là nhắm vào Trung Quốc.
Vì Trung Quốc là kẻ bảo trợ, là đồng minh của chế độ Bình Nhưỡng cho nên Washington và Seoul gây áp lực để Bắc Kinh phải có thái độ cứng rắn hơn thay vì chỉ « tỏ ý quan ngại » rồi thôi .
Vấn đề là Trung Quốc cũng có lý do, cũng không muốn phản ứng mạnh vì sợ Bắc Triều Tiên sụp đổ, bán đảo Triều Tiên thống nhất trong chế độ thân Tây phương. Do vậy, Hoa Kỳ không thể nào thuyết phục được Trung Quốc, trong thể chế chính trị hiện nay, chận đứng tham vọng chế tạo vũ khí hạt nhân mà Bình Nhưỡng xem là « lá chắn » bảo vệ triều đại họ Kim.
Theo nhận định của chuyên gia Joe Wit, do thất vọng vì thái độ của Trung Quốc, Mỹ và đồng minh Hàn Quốc nảy sinh ý định đem hệ thống chống hỏa tiễn THAAD đến phía nam vĩ tuyến 38. Thông điệp này mang ý nghĩa cảnh báo giới lãnh đạo Trung Quốc là quyền lợi an ninh của chính họ đang bị tác động vì thái độ thiếu hợp tác.
Trung Quốc lập tức phản ứng. Một mặt họ « lấy làm tiếc » vụ tên lửa của Kim Jong Un , mặt khác họ tuyên bố « rất bận tâm » vì hệ thống lá chắn của Mỹ. Theo phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh thì việc bố trí THAAD tại Hàn Quốc chỉ làm « căng thẳng nghiêm trọng thêm » và « tác hại đến nỗ lực chống chương trình hạt nhân của Bình Nhưỡng ».
Trên thực tế, Bắc Kinh sợ THAAD sẽ là « tai mắt » của Mỹ, theo dõi nhất cử nhất động của hệ thống tên lửa chiến lược của Trung Quốc cho đến tận vùng Tây An ở tây bắc xa xôi.
Hiện nay, Hàn Quốc dựa trên hai lá chắn : hệ thống tên lửa chống tên lửa Patriot của Mỹ cung cấp và vũ khí phòng không do chính Hàn Quốc chế tạo chận đánh tên lửa tầm ngắn và tầm trung.
Song song với nỗ lực an ninh quốc phòng, tổng thống Park Geun Hye cũng tìm cách cải thiện quan hệ với Trung Quốc mà thí dụ điển hình là, vào tháng 8/2015, bà đích thân sang Bắc Kinh dự lễ kỷ niệm Thế chiến thứ hai kết thúc bất chấp khuyến cáo của Washington.
Qua hệ Trung Quốc - Hàn Quốc cải thiện, nhưng Bắc Kinh vẫn giữ lập trường bất di bất dịch trong hồ sơ hạt nhân của Bình Nhưỡng, làm Hàn Quốc thất vọng.
Seoul buộc phải phát tín hiệu bất bình : Nếu Trung Quốc không « quản lý » được đồng minh của mình thì Mỹ-Hàn Quốc sẽ có cách.
Theo AFP, tình hình rõ ràng là nguy hiểm. Nếu Trung Quốc và Hoa Kỳ không thống nhất một lập trường chung với Bắc Triều Tiên thì tình hình căng thẳng hiện nay sẽ xấu thêm.
Một đồng minh khác của Mỹ là Nhật Bản cũng đang tính chuyện trang bị THAAD. Hoa Kỳ sẽ bị áp lực của các đồng minh châu Á xin được bảo vệ. Thay vì ngăn chận tham vọng hạt nhân của Bình Nhưỡng, một cuộc chạy đua vũ trang sẽ gây bất ổn toàn khu vực.
Theo thứ trưởng bộ Quốc Phòng Hàn Quốc Yoo Jeh Seung, mục đích chính của THAAD là « mối de dọa càng ngày càng tăng của Bắc Triều Tiên » buộc Seoul phải tăng cường khả năng phòng thủ.
Theo các chuyên gia quốc tế thì không thể nào phủ nhận lập luận của Hàn Quốc sau khi Bắc Triều Tiên thử nghiệm đến lần thứ tư một quả bom hạt nhân vào ngày 16/01 và ba tuần sau lại phóng tên lửa đạn đạo ngụy trang dưới hình thức hỏa tiễn mang vệ tinh.
Ben Goodlad, chuyên gia quốc phòng của viện nghiên cứu IHS Aerospace, Defence and Security nhận định, Seoul có nhu cầu tự vệ phải cải tiến hệ thống vũ khí quốc phòng với hệ thống lá chắn THAAD.
Một công hai việc : bắc cự Kim Jong Un, tây kềm Tập Cận Bình ?
Tuy nhiên, bên cạnh nhu cầu chiến lược còn có một lý do khác thúc đẩy Mỹ ủng hộ yêu cầu của Hàn Quốc trang bị lá chắn THAAD mà từ trước đến giờ chỉ được đặt ở đảo Guam cách vùng duyên hải Trung Quốc đến 3000 km. Theo AFP, thông điệp của Mỹ là nhắm vào Trung Quốc.
Vì Trung Quốc là kẻ bảo trợ, là đồng minh của chế độ Bình Nhưỡng cho nên Washington và Seoul gây áp lực để Bắc Kinh phải có thái độ cứng rắn hơn thay vì chỉ « tỏ ý quan ngại » rồi thôi .
Vấn đề là Trung Quốc cũng có lý do, cũng không muốn phản ứng mạnh vì sợ Bắc Triều Tiên sụp đổ, bán đảo Triều Tiên thống nhất trong chế độ thân Tây phương. Do vậy, Hoa Kỳ không thể nào thuyết phục được Trung Quốc, trong thể chế chính trị hiện nay, chận đứng tham vọng chế tạo vũ khí hạt nhân mà Bình Nhưỡng xem là « lá chắn » bảo vệ triều đại họ Kim.
Theo nhận định của chuyên gia Joe Wit, do thất vọng vì thái độ của Trung Quốc, Mỹ và đồng minh Hàn Quốc nảy sinh ý định đem hệ thống chống hỏa tiễn THAAD đến phía nam vĩ tuyến 38. Thông điệp này mang ý nghĩa cảnh báo giới lãnh đạo Trung Quốc là quyền lợi an ninh của chính họ đang bị tác động vì thái độ thiếu hợp tác.
Trung Quốc lập tức phản ứng. Một mặt họ « lấy làm tiếc » vụ tên lửa của Kim Jong Un , mặt khác họ tuyên bố « rất bận tâm » vì hệ thống lá chắn của Mỹ. Theo phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh thì việc bố trí THAAD tại Hàn Quốc chỉ làm « căng thẳng nghiêm trọng thêm » và « tác hại đến nỗ lực chống chương trình hạt nhân của Bình Nhưỡng ».
Trên thực tế, Bắc Kinh sợ THAAD sẽ là « tai mắt » của Mỹ, theo dõi nhất cử nhất động của hệ thống tên lửa chiến lược của Trung Quốc cho đến tận vùng Tây An ở tây bắc xa xôi.
Hiện nay, Hàn Quốc dựa trên hai lá chắn : hệ thống tên lửa chống tên lửa Patriot của Mỹ cung cấp và vũ khí phòng không do chính Hàn Quốc chế tạo chận đánh tên lửa tầm ngắn và tầm trung.
Song song với nỗ lực an ninh quốc phòng, tổng thống Park Geun Hye cũng tìm cách cải thiện quan hệ với Trung Quốc mà thí dụ điển hình là, vào tháng 8/2015, bà đích thân sang Bắc Kinh dự lễ kỷ niệm Thế chiến thứ hai kết thúc bất chấp khuyến cáo của Washington.
Qua hệ Trung Quốc - Hàn Quốc cải thiện, nhưng Bắc Kinh vẫn giữ lập trường bất di bất dịch trong hồ sơ hạt nhân của Bình Nhưỡng, làm Hàn Quốc thất vọng.
Seoul buộc phải phát tín hiệu bất bình : Nếu Trung Quốc không « quản lý » được đồng minh của mình thì Mỹ-Hàn Quốc sẽ có cách.
Theo AFP, tình hình rõ ràng là nguy hiểm. Nếu Trung Quốc và Hoa Kỳ không thống nhất một lập trường chung với Bắc Triều Tiên thì tình hình căng thẳng hiện nay sẽ xấu thêm.
Một đồng minh khác của Mỹ là Nhật Bản cũng đang tính chuyện trang bị THAAD. Hoa Kỳ sẽ bị áp lực của các đồng minh châu Á xin được bảo vệ. Thay vì ngăn chận tham vọng hạt nhân của Bình Nhưỡng, một cuộc chạy đua vũ trang sẽ gây bất ổn toàn khu vực.
http://vi.rfi.fr/chau-a/20160208-bat-binh-bac-kinh-my-dua-la-chan-den-sat-nach-trung-quoc
Bắc Triều Tiên hành quyết tổng tham mưu trưởng quân đội
Tổng tham mưu trưởng quân đội Bắc Triều Tiên Ri Yong-Gil đọc diễn văn trong một hội nghị tại Bình Nhưỡng, ngày 24/08/2014 (Ảnh chụp lại từ video do Bắc Triều Tiên công bố)REUTERS
Hãng thông tấn Hàn Quốc Yonhap hôm nay 10/02/2016 đưa tin, tổng tham mưu trưởng quân đội Bắc Triều Tiên Ri Yong-Gil đã bị xử tử đầu tháng Hai này vì tội lập một phe phái chính trị và tham nhũng. Đây là vụ mới nhất trong một loạt các vụ thanh trừng các quan chức cao cấp kể từ khi Kim Jong-Un lên cầm quyền
Tướng Ri Yong-Gil thường được nhìn thấy tháp tùng lãnh tụ chế độ Bình Nhưỡng trong các chuyến đi thanh tra, nhưng báo chí Nhà nước Bắc Triều Tiên đã không còn nhắc đến tên của ông khi tường thuật về một cuộc họp quan trọng của Đảng hoặc về lễ ăn mừng vụ phóng tên lửa hôm Chủ nhật vừa qua.
Yonhap trích dẫn một nguồn tin thông thạo về tình hình Bắc Triều Tiên nói rằng vụ xử tử tổng tham mưu trưởng cho thấy Kim Jong-Un vẫn chưa cảm thấy an tâm về sự kiểm soát của ông đối với quân đội Bắc Triều Tiên, vốn có thế lực rất mạnh.
Hiện giờ cơ quan tình báo quốc gia Hàn Quốc chưa có bình luận gì về thông tin nói trên. Tháng 5 năm ngoái, chính cơ quan này đã loan tin về vụ xử tử bộ trưởng Quốc Phòng Bắc Triều Tiên Hyon Yong-Chol bằng súng phòng không. Bình Nhưỡng chưa hề xác nhận tin này, nhưng kể từ đó ông Hyon Yong-Chol không còn được nhìn thấy hay được nhắc tới.
Yonhap trích dẫn một nguồn tin thông thạo về tình hình Bắc Triều Tiên nói rằng vụ xử tử tổng tham mưu trưởng cho thấy Kim Jong-Un vẫn chưa cảm thấy an tâm về sự kiểm soát của ông đối với quân đội Bắc Triều Tiên, vốn có thế lực rất mạnh.
Hiện giờ cơ quan tình báo quốc gia Hàn Quốc chưa có bình luận gì về thông tin nói trên. Tháng 5 năm ngoái, chính cơ quan này đã loan tin về vụ xử tử bộ trưởng Quốc Phòng Bắc Triều Tiên Hyon Yong-Chol bằng súng phòng không. Bình Nhưỡng chưa hề xác nhận tin này, nhưng kể từ đó ông Hyon Yong-Chol không còn được nhìn thấy hay được nhắc tới.
http://vi.rfi.fr/chau-a/20160210-bac-trieu-tien-hanh-quyet-tong-tham-muu-truong-quan-doi
Nhật không cấm đốt pháo như VN và TQ
11 tháng 2 2016 Cập nhật lúc 12:30 ICT
11 tháng 2 2016 Cập nhật lúc 12:30 ICT
Cũng ở châu Á nhưng Nhật Bản không cấm đốt pháo như Việt Nam và Trung Quốc.
Tại các lễ hội quanh năm, người Nhật vẫn thường đốt pháo và người lớn dạy trẻ em cách đốt pháo sao cho an toàn.
Hình ảnh do phóng viên BBC tiếng Việt tại Nhật Bản ghi lại hồi mùa thu năm 2015 tại tỉnh Aichi, miền trung nước này.
http://www.bbc.com/vietnamese/multimedia/2016/02/160211_firecracker_japan
Hình ảnh do phóng viên BBC tiếng Việt tại Nhật Bản ghi lại hồi mùa thu năm 2015 tại tỉnh Aichi, miền trung nước này.
http://www.bbc.com/vietnamese/multimedia/2016/02/160211_firecracker_japan
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 402
No comments:
Post a Comment