TRẦN MẠNH HẢO * PHÊ BÌNH CHỦ NGHĨA MARX
TRẦN MẠNH HẢO PHÊ BÌNH TRIẾT HỌC MARXIMS - Sinh thời, Marx từng lên án tôn giáo đã biến triết học thành đầy tớ của thần học. Đến lượt ông, Marx lại vô tình ( hay cố ý ) biến triết học thành đầy tớ của chính trị. Hãy trả triết học về cho triết học, không được biến triết học thành công cụ cho chính trị tha hồ làm điều tàn ác. Chúng tôi cũng mong được các nhà lý thuyết của đảng cộng sản Việt Nam đọc và phản biện bài viết dưới đây của chúng tôi một cách đàng hoàng tử tế bằng phương pháp luận khoa học, đừng quen thói học phiệt chụp mũ phản động, cũng đừng quen thói trao đổi triết học bằng còng số tám và súng; vì súng và còng số tám mù chữ, chúng không biết triết học là gì. Xin mời quý thân hữu trong gia đình FB đọc bài viết khá dài sau đây của chúng tôi :
BÀN QUA VỀ HỘI CHỨNG TUYỆT ĐỐI TRONG "CHỦ NGHĨA DUY ÁC " CỦA MARX - ENGELS
Trần Mạnh Hảo.
“Cái Tuyệt đối, ấy là thực tính của mi!”
- lời phán của thần Apollon được ghi trong đền Delphes
Trần Mạnh Hảo (Danlambao) - Ngày 14-3-2013 là ngày giỗ lần thứ 130 năm của Karl Marx - ngày giỗ năm chẵn, một ngày giỗ tổ quan trọng nhất của những người cộng sản Việt Nam. Lạ thật, tịnh không thấy báo Nhân Dân, Tạp chí cộng sản, báo Quân đội nhân dân hay Hà Nội mới, Sài Gòn giải phóng, Công an nhân dân, Công an TP.HCM... những tờ báo cuối cùng ở Việt Nam thề quyết bảo vệ chủ nghĩa cộng sản tới chết nhắc tới ngày giỗ tổ của đảng cộng sản Việt Nam.
Chúng tôi đã vào công cụ tìm kiếm google.com đánh mã tìm kiếm: “kỷ niệm 130 năm ngày mất của Karl Marx và 195 ngày sinh của Marx” hiện ra 18 đề mục, chỉ có câu lạc bộ chơi tem Việt Nam (CLB Viet Stamp) nhắc đến hai ngày này bằng con tem có hình Marx mà thôi. Vì sao Đảng cộng sản Việt Nam lại lờ tịt ngày giỗ tổ, không thèm thắp cho cụ cố tổ “thiêng liêng” của mình một nén nhang? Có phải Đảng cộng sản Việt Nam đã chủ động bỏ ngày giỗ tổ, dấu hiệu cho thấy Marx đã bị chính những người cộng sản Việt Nam khai tử? Họ chỉ còn dùng tên ông và chủ nghĩa của ông để làm bình phong giữ đặc quyền đặc lợi mà thôi. Cũng có thể đảng cộng sản Việt Nam thấy đảng cộng sản Trung Quốc trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII ngày 17-12-2012 vừa qua đã im lặng từ bỏ Marx- Lenine- Mao Trạch Đông, không còn nhắc tên ba ông tổ này trong các văn kiện chính thức của đại hội, nên đảng cộng sản Việt Nam cũng a tòng noi theo chăng? Qủa thực, từ năm 1978, đảng cộng Trung Quốc đã chôn sống chủ nghĩa Marx bằng cách xây dựng kinh tế thị trường, tức kinh tế tư bản. Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã chôn chủ nghĩa cộng sản bằng cách xây dựng xã hội tư bản chủ nghĩa vào năm 1986. Bởi, chủ nghĩa Marx về bản chất là một học thuyết kinh tế. Họ bỏ giỗ ông tổ Marx là quá logic.
Nhân ngày giỗ lần thứ 130 năm của Marx 14-3-2013 vừa qua và sắp tới là ngày 5-5-2013, kỷ niệm 195 năm ngày sinh của vĩ nhân trên, chúng tôi viết bài báo này gồm có mấy phần sau:
1. TỪ HI LẠP ĐẾN MARX, TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY LUÔN HƯỚNG VỀ CÁI TUYỆT ĐỐI
2. TÁCH TÂM RA KHỎI VẬT, ÁP ĐẶT Ý ĐỊNH CHỦ QUAN LÊN VẠN VẬT LÀ SỰ KHỐN CÙNG CỦA TRIẾT HỌC TỪ PROTAGORAS TỚI MARX
3. MARX TIẾP THU (LẤY) MỌI HỌC THUYẾT TRƯỚC MÌNH, TRỪ CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO
4. NHỮNG CÁI SAI CĂN BẢN (SAI GỐC) CỦA HỌC THUYẾT MARX
Xin quý độc giả đọc nội dung chính của bài viết:
1. TỪ HI LẠP ĐẾN MARX, TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY LUÔN HƯỚNG VỀ CÁI TUYỆT ĐỐI
Câu thần chú: - Cái Tuyệt đối, ấy là thực tính của mi - được cho là của thần Apollon (tiếng Hy Lạp: Απόλλων Apóllon) là thần ánh sáng, chân lý và nghệ thuật) tuyệt đối hóa cái tuyệt đối trong bản thể vũ trụ ám ảnh nền văn minh Hi Lạp từ buổi bình minh con người, khiến con người suốt cả mấy nghìn năm luôn luôn thao thức đi tìm linh hồn mình trong tuyệt đối Thượng đế, trong tự nhiên và trong chính xã hội mà nó cư trú…
Diogenes Sinope, trong tiếng Hy Lạp cổ Διογένης / Diogenes (Sinope v 413 - Corinth, ca 327 trước Công nguyên), một tông đồ của thần Apollon, mỗi ngày lại mang cây đèn đi khắp hang cùng ngõ hẻm thành Athènes đầy ắp người ta, để tìm một con người tuyệt đối giữa ban ngày nhưng tuyệt nhiên không thấy. Hình như toàn bộ nền triết học Hi Lạp (và cả châu Âu sau này), cũng bị hội chứng đi tìm con người tuyệt đối, xã hội tuyệt đối, thiên đường tuyệt đối trên mặt đất của Diogène làm cho mất ăn mất ngủ...
Protagoras (pron.: / p r oʊ t æ ɡ ə r ə s /; Hy Lạp: Πρωταγόρας, ca 490 TCN - 420 TCN) [1] Nhà triết học Hy Lạp trước Socrates, triết gia duy vật sơ khai, tuyệt đối tự tin đến mức chủ quan, đẩy con người vượt lên cả Thượng đế, kích thích chú bé Hi Lạp ấu thơ hãy vươn lên thành người khổng lồ cai trị vũ trụ: “Con người là thước đo của vạn vật”.
Thalès de Milet gọi là Ta-Lét (tiếng Hy Lạp: Θαλῆς ὁ Μιλήσιος; khoảng 624 TCN – khoảng 546 TCN), triết gia khởi nguồn văn minh Hi Lạp coi nước là tuyệt đối vũ trụ thì Heraclite coi lửa là tuyệt đối của vạn vật. Anaximandros, coi tuyệt đối là cái tuyệt đối không thể tìm thấy trong một vũ trụ tuyệt đối bất định. Democritos lại đi tìm bản nguyên vũ trụ thông qua tuyệt đối-nguyên tử, phần tử nhỏ nhất của vũ trụ tuyệt đối không thể bị chia cắt.
Xenophanes của Colophon (tiếng Hy Lạp: Ξενοφάνης ὁ Κολοφώνιος; 570 - 475 TCN) cho rằng tuyệt đối nằm trong thực tại khách quan chứ không nằm trong tay thần linh với câu nói nổi tiếng: “Nếu con ngựa, con bò biết vẽ, chúng sẽ vẽ thần linh của chúng có hình ngựa, hình bò!”.
Pythagoras (tiếng Hy Lạp: Πυθαγόρας; sinh khoảng năm 580 đến 572 TCN - mất khoảng năm 500 đến 490 TCN) nhà toán học vĩ đại lại đi tìm tuyệt đối trong các con số, trong phép mầu toán học.
Sokrates hay Socrates (Về năm sinh của ông hiện vẫn chưa có sự thống nhất giữa năm 469 hay 470. (469 - 399 TCN), (470 - 399 TCN) - triết gia khởi nguồn túi khôn Hi Lạp đã bị tử hình vì dám đưa tinh thần Hi Lạp từ trong đền thờ Apollon ra xã hội con người, khuyên người ta nên đi tìm cái đẹp linh hồn trong thân xác, để thấy linh hồn đồng nhất với thượng đế tuyệt đối. Ông tuyệt đối hóa vai trò của trí tuệ để đi tìm chân lý tuyệt đối…
Platon (tiếng Hy Lạp: Πλάτων, Platōn, "Vai Rộng"), khoảng 427-347 TCN lại đi tìm một thế giới tuyệt đối ý niệm trong linh hồn bất tử. Ông là người đầu tiên chỉ hướng cho nhân loại đi tìm một xã hội tuyệt đối thiên đường, tuyệt đối hoàn thiện hoàn mỹ là xã hội cộng sản tuyệt đối không còn tư hữu, được sinh ra trong ý niệm duy tâm của ông qua tác phẩm trứ danh “ Cộng Hòa”. Có điều xã hội cộng sản của Platon là một xã hội cộng sản nhân đạo, tuyệt đối cấm giết người. Marx, hơn 2000 năm sau đã lấy ý tưởng này của Platon để xây dựng chủ nghĩa cộng sản bằng “vũ khí duy ác”, bằng phương pháp duy nhất là giết người “ chôn tư bản”, giết tất cả các giai cấp khác trừ giai cấp vô sản. Con đường đi vào thế giới cộng sản của Platon có Thượng Đế và tình thương yêu nhân loại đi kèm, tuy chỉ là một xã hội giả tưởng. Ngược lại, con đường đi lên thế giới đại đồng, đi lên thiên đường cộng sản của Marx là con đường đầy máu và nước mắt với những núi núi sọ người như đã từng xảy ra ở Nga cộng, Tàu cộng, Triều cộng, Cu cộng, Việt cộng... và như hậu duệ cuối cùng của Marx là Pôn-pốt Iêng-xa-ri vừa thực hiện thiên đường cộng sản là những cánh đồng chết với sự tham gia của qủy dữ.
Triết gia hàng đầu của triết học Kinh Viện Thánh Aurielius Augustinus (sinh ngày 13 tháng 11, 354, mất ngày 28 tháng 8, 430) - người đã Platon hóa thần học Thiên Chúa giáo và ngược lại (sau này Thánh Thomas Aquin cũng làm như vậy với Aristote), tìm tuyệt đối trong linh hồn thánh thiện, từng phán: “Làm cho chính mình trở thành chân lý” (Vé rum tacere se ipsum); rằng khi có Chúa tồn tại trong anh em, linh hồn anh em là một với tuyệt đối Thiên Chúa. Sau này, Marx đã lấy câu kinh trên của Thánh Augustinus sau khi xua đuổi Chúa Trời để biến các ảo tưởng duy tâm cực đoan của mình thành chân lý duy nhất, chân lý vĩnh hằng giúp các hậu duệ chân truyền của ông như Lenine, Stalin, Mao Trạch Đông... tiêu diệt những kẻ bất đồng chính kiến bằng gông cùm tù tội bắn giết.
René Descartes (sinh ngày 31 tháng 3 năm 1596 – mất ngày 11 tháng 2 năm 1650) tuyệt đối hóa tư duy, cho tư tưởng con người thể hiện trong khoa học là cái tuyệt đối với hai câu nói nổi tiếng vượt qua những rào cản của thần học, tôn sùng một Thượng đế khác là lý trí: “Tôi tư duy, tôi tồn tại”, hoặc: “Trừ tư tưởng của ta, chẳng có gì tuyệt đối nằm trong tay ta”.
Immanuel Kant, (sinh ngày 22 tháng 4 năm 1724 tại Königsberg; mất ngày 12 tháng 2 năm 1804 tại Königsberg) triết gia vĩ đại nhất của nước Đức và châu Âu, người từng muốn dung hòa hai cực đoan duy vật và duy tâm trong triết học phương Tây bằng sự “phê phán lý trí thuần túy”, hướng con người về thế giới “tiên nghiệm” với thuyết: Lệnh thức tuyệt đối (kategorischer Imperativ) cho rằng tuyệt đối không thể nhận thức được “vật tự nó”. Nhưng từ I. Kant, hình như triết học truy tìm cái tuyệt đối bản thể vũ trụ phương Tây thiếu tự tin, toan tìm một lối rẽ sang phương Đông khi ông tương đối hóa cái toàn thể: Từ “toàn thể”luôn luôn chỉ có nghĩa tương đối...”
Georg Wilhelm Friedrich Hegel (27 tháng 8 năm 1770 - 14 tháng 11 năm 1831) – người đã từng tuyên bố biện chứng pháp của tôi là lấy từ triết gia Heraclitus Êphêsô (Hy Lạp cổ đại Ἡράκλειτος không Ἐφέσιος / Hêrákleitos Ephésios ho) là một nhà triết học Hy Lạp từ cuối thế kỷ thứ sáu trước Công nguyên.). Hegel đã phát triển biện chứng pháp của Héraclite tới mức hoàn thiện, tất nhiên là biện chứng pháp tinh thần theo ý niệm tuyệt đối của ông. Sau này, một người học trò của Hegel là K. Marx đã lật ngược biện chứng pháp tinh thần của Hegel để thành biện chứng pháp duy vật của Marx. Hegel đã tìm ra quy luật chung của phép biện chứng trong tư duy, trong tự nhiên và xã hội với sự hỗ trợ của Thượng Đế. Hegel đã dùng khái niệm Thượng Đế của Spinoza (Benedictus de Spinoza hay Baruch de Spinoza (24/2/1633 - 21/2/1677) là một nhà triết học người Hà Lan gốc Do Thái) để làm một cuộc cách mạng thực sự của thần học có phần nghiêng về thuyết phiếm thần, chỉ bước nửa bước nữa là tới vô thần. Spinoza cho rằng Thượng Đế không phải là một cá thể toàn năng, độc thần, tuyệt đối như quan niệm của Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo và Hồi giáo; mà Thượng Đế chính là toàn thể vũ trụ, toàn thể thế giới tự nhiên trong đó có con người sinh sống. Hegel chỉ ra lịch sử loài người có thể phát triển tới cái tuyệt đối toàn thiện toàn mỹ (một thiên đường dưới thế) với sự hướng dẫn của Thượng Đế theo hướng chỉ đường của tính thiện căn tức chủ nghĩa nhân đạo Thiên Chúa giáo.
Marx từ bỏ đạo đức Thiên Chúa giáo của Hegel, quyết mang thiên đường từ trời xuống thế để tìm cái tuyệt đối nơi trần gian, thánh hóa con người bằng bạo lực, quyết dùng máu của giai cấp tư bản để xây dựng xã hội cộng sản ảo tưởng bằng Ý NIỆM TUYỆT ĐỐI DUY VẬT. Marx, một lần nữa, lặp lại hình ảnh triết gia Diogen của Hi Lạp xa xưa, cầm đèn đi giữa ban ngày để tìm kiếm giấc mơ cộng sản của mình trên mặt đất duy ác.
2. TÁCH TÂM RA KHỎI VẬT, ÁP ĐẶT CHỦ QUAN CON NGƯỜI LÊN VẠN VẬT LÀ SỰ KHỐN CÙNG CỦA TRIẾT HỌC TỪ PROTAGORAS ĐẾN MARX:
Triết học phương Tây từ Hi Lạp tới Marx mắc một căn bệnh trầm kha, đưa tới sự cáo chung của triết học, ấy là căn bệnh tách TÂM (duy tâm) ra khỏi VẬT (duy vật). Bệnh này đưa đến cuộc truy nguyên (tranh cãi) vô hồi kỳ trận trong triết học: TÂM có trước hay VẬT có trước, VẬT sinh TÂM hay TÂM sinh VẬT? Rằng trứng đẻ ra gà hay gà đẻ ra trứng? Rằng con người sinh ra từ con khỉ (Darwin) hay có một Đấng toàn năng nào đó nặn ra con người từ đất sét như Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo đã tin tưởng? Cho đến nay, khoa học thực nghiệm phương Tây vẫn còn ngơ ngác hỏi: vũ trụ này, tồn tại này sinh ra do TẤT ĐỊNH (do Chúa, do Đấng Toàn Năng) hay do NGẪU NHIÊN (do vụ nổ lớn Big Bang) tạo ra? Cho đến nay, câu hỏi của người Sume mở đầu văn minh Lưỡng hà (mở đầu văn minh nhân loại?), sắc dân tìm ra chữ viết để viết trên gốm sớm nhất, rằng: con người từ đâu đến, đến đây làm gì và đi về đâu vẫn chưa được các nền văn minh hậu bối trả lời, kể cả Einstein hay đức Đạt Lai Lạt Ma...
Chỉ biết rằng, cho tới hiện nay, khoa học thực nghiệm phương Tây đã dẫn dắt nhân loại qua những bước tiến khổng lồ về vật chất như tìm được bản đồ gen người, sinh sản vô tính, đưa người lên vũ trụ, dùng kính viễn vọng nhìn ra vũ trụ khôn cùng... Ngược đời thay, khoa học càng ngày càng tiến lên càng thấy mình gần với tôn giáo... Khoa học tò mò hé mắt qua kính viễn vọng thiên văn Hubble, hoặc kính viễn vọng khổng lồ Alma nhìn ra vũ trụ để thấy trái đất này, thái dương hệ này cũng chỉ là kiếp hạt bụi tí con con; hoặc bồi hồi tìm ra hạt Higgs (hạt của Chúa Trời)... chợt sợ hãi nếu đột nhiên mình lại tìm ra hạt của qủy sứ... Nhưng khoa học thực nghiệm chừng như đã bất lực, khi nó lơ mơ cảm thấy rằng hình như vũ trụ này đã được một lực lượng siêu nhiên nào đó lên chương trình từ A tới Z, đã mã hóa mọi hoạt động của con người và tự nhiên từ mở đầu đến kết thúc?
Công cuộc tách TÂM ra khỏi VẬT của nền triết học phương Tây ngót ba nghìn năm nay giờ đã đến lúc nhận lấy một hậu quả kinh hồn: toàn bộ nền văn minh vật chất đã dùng khoa học thực nghiệm đưa con người vượt lên phía trước với tốc độ siêu âm, bỏ lại nền văn minh tinh thần tiến như rùa bò vẫn còn cố níu lấy luân lý và đạo đức thế kỷ ánh sáng thứ 17, tiếc nuối thế kỷ thứ 18 của cách mạng Pháp và tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ hào sảng tính nhân văn? Trong con tàu vũ trụ trái đất bay đến tương lai, dường như tinh thần nhân loại đã bị văn minh vật chất bỏ lại ở rất xa trong quá khứ, có cơ hồn sẽ lìa khỏi xác, một nhân loại DUY VẬT không có DUY TÂM đi kèm, một nhân loại ác không có thiện đi kèm, phải chăng là dấu hiệu của ngày tận thế?
Nhân loại đang tới gần nguy cơ tự hủy diệt khi thân xác bỏ rơi linh hồn, khi khoa học bỏ rơi tôn giáo, khi cái ác bỏ rơi cái thiện, khi VẬT bỏ rơi TÂM, khi loài người sắp đánh mất tuổi thơ, đánh mất tôn giáo và Thượng Đế...?
Tách TÂM ra khỏi VẬT (và ngược lại) thì TÂM ấy không còn là TÂM, VẬT ấy cũng không còn là VẬT nữa? Tách TÂM ra khỏi VẬT (và ngược lại) khác nào tách HỒN ra khỏi XÁC. Một cái xác không hồn, cái xác ấy là một vật chết, quyết không còn là con người nữa. Một cái hồn không có xác để cư trú, cái hồn ấy chỉ có thể là hư vô.
TÂM và VẬT, HỒN và XÁC là quá trình đồng thời, tuyệt nhiên không thể dùng phương pháp phân tích theo kiểu mổ xẻ: trước hết là TÂM hay trước hết là VẬT theo kiểu triết học phương Tây đã quan niệm và cãi nhau chí chết để cùng nhau treo cổ triết học vậy.
Người phương Đông quan niệm TÂM với VẬT là một. Tôi đang bàn về Vật, cũng có nghĩa là tôi đang nói về Tâm đấy. Người phương Đông cho con người là tiểu vũ trụ nên tạo ra một tam vị nhất thể (tam tài) thống nhất THIÊN ĐỊA NHÂN. Người phương Đông coi con người là con đẻ của tự nhiên, từ tự nhiên mà sinh ra, rồi lại quay về với tự nhiên, không bao giờ coi mình cao hơn tự nhiên hay bá chủ tự nhiên như triết học phương tây quan niệm.
Bằng một danh ngôn vĩ đại, triết gia Protagoras đã chỉ hướng cho nền văn minh phương tây tha hồ áp đặt chủ quan của con người lên toàn thể vũ trụ: “Con người là thước đo vạn vật”. Sao lại lấy cái giới hạn làm thước đo cái vô hạn? Con người là tùy thể của vũ trụ hay ngược lại? Con người sinh ra vũ trụ hay ngược lại mà lại lấy con người làm thước đo vũ trụ?
Lấy VẬT phủ nhận TÂM, dùng vật chất phủ nhận mọi giá trị tinh thần con người, áp đặt chủ quan vô cùng duy tâm của mình lên mọi vật rồi gọi là duy vật chủ nghĩa, áp đặt rất nhiều điều phi lý, không tưởng của mình lên con người, lên xã hội và lịch sử con người rồi gọi là duy vật biện chứng, phủ nhận lịch sử nhân loại trước mình rồi gọi là duy vật lịch sử, Marx và Engels đã biến chủ nghĩa hoang tưởng của mình thành đoạn đầu đài để hành hình triết học, để đưa triết học phương tây vào huyệt mộ của bế tắc bằng vũ khí duy nhất là cái ác.
3. MARX TIẾP THU (LẤY) MỌI HỌC THUYẾT TRƯỚC MÌNH, TRỪ CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO
Karl Marx tiếp thu (lấy) hơn 90 % học thuyết Hegel làm học thuyết của mình, trừ Thượng Đế và chủ nghĩa nhân đạo. (Nói đến Marx, cũng có nghĩa là nói đến Engels, vì hai ông là đồng tác giả của chủ nghĩa cộng sản bạo lực. Chúng tôi không bàn đến các đao phủ thủ của chủ nghĩa duy ác là Lenine, Stalin, Mao Trạch Đông và hàng tá các đao phủ thủ tí con con Âu Á cộng sản khác...)
Ngay cả ba phạm trù nổi tiếng của Marx được cho là phương pháp luận khoa học như: lượng biến thành chất, sự phủ định của phủ định và sự đấu tranh giữa các mặt đối lập thống nhất từng là những phát hiện của Héraclite và Hegel.
Karl Marx đã xua đuổi chủ nghĩa nhân đạo ra khỏi thuyết duy vật còn biết thương người của Feuerbach (Ludwig Andreas von Feuerbach (ngày 28 tháng 7 năm 1804 - ngày 13 tháng 9 năm 1872) là một nhà triết học Đức và nhà nhân chủng học) sau khi tiếp thu (lấy) 90% học thuyết duy vật của Feuerbach thể hiện trong tác phẩm “ Hệ tư tưởng Đức” của Marx. Marx đã kết hợp biện chứng Hegel với duy vật Feuerbach để tạo ra duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Marx quét sạch chủ nghĩa nhân văn (nhân đạo) ra khỏi học thuyết cộng sản trong tác phẩm “Cộng Hòa” của Platon (Platon (tiếng Hy Lạp: Πλάτων, Platōn, "Vai Rộng"), khoảng 427-347 TCN, nhà triết học cổ đại Hy Lạp được xem là thiên tài trên nhiều lĩnh vực, có nhiều người coi ông là triết gia vĩ đại nhất mọi thời đại cùng với Socrates (Σωκράτης) là thầy ông) để lấy nguyên mẫu mô hình xã hội cộng sản này của Platon, xin trích:
“PLATON: Lí tưởng cộng sản lần đầu tiên được Platon định danh về mặt lí luận trong các trước tác của mình. Trong tác phẩm Cộng hoà, thông qua Socrates, Platon khẳng định rằng bất hoà và chiến tranh có nguồn gốc từ sở hữu:
“Sự khác nhau như thế thường xảy ra do bất đồng về những từ như ‘của tôi’ và ‘không phải của tôi’, ‘của anh ta’ và ‘không phải của anh ta’… Chả lẽ việc xây dựng một nhà nước, nơi đa số người cùng sử dụng những từ như ‘của tôi’ và ‘không phải của’ đối với cùng một loại đồ vật không phải là cách làm tốt nhất hay sao?”
Trong các phẩm Các qui luật, Platon còn dự báo một xã hội, nơi người ta không những sở hữu chung tất cả, kể cả vợ con mà còn:
“riêng tư và tư hữu bị loại bỏ khỏi đời sống, những thứ về bản chất là riêng, thí dụ như mắt và tay cũng trở thành của chung và ở mức độ nào đó người ta cùng nhìn, cùng nghe và cùng hành động, tất cả mọi người cùng ca tụng hay cùng lên án, cùng vui cùng buồn vì cùng những lí do như nhau”
Aristotle, học trò của Platon, lại ngờ rằng cái Utopia cộng sản đó sẽ không đem lại hoà bình vì một lí do đơn giản là khi cùng sở hữu thì người ta dễ sinh ra cãi cọ hơn là tư hữu. Hơn nữa, ông khẳng định rằng nguồn gốc của các tranh chấp không nằm ở sự tư hữu mà ở ước muốn được sở hữu: “không cần cào bằng sở hữu mà phải san bằng ước muốn của con người”.
(Richard Pipes - Chủ nghĩa cộng sản)- Phạm Minh Ngọc dịch
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10911&rb=08
(hết trích)
Marx cũng tiếp thu (lấy) ý tưởng về một xã hội tuyệt mỹ “ thiên đường cộng sản Thiên Chúa giáo” trong khái niệm Utopia của Thomas More (Sir Thomas More (/ m ɔr / 07 Tháng 2 1478 - 06 Tháng 7 năm 1535), được biết đến với Công giáo La Mã như Thánh Thomas More từ năm 1935)
Thomas More đã sáng tác cuốn tiểu thuyết giả tưởng có tên Utopia, mô tả một xã hội thiên đường cộng sản hữu thần, ai không tin vào Chúa sẽ bị chém đầu.Trong “Utopia xã” với quyền sở hữu đất, sở hữu tư nhân không tồn tại, nam giới và phụ nữ được giáo dục như nhau, một xã hội làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, con người gần như đã biến thành các vị thánh. Marx đã lật ngược xã hội thiên đường cộng sản hữu thần của Thomas More để trở thành xã hội thiên đường cộng sản vô thần của mình, nơi tôn giáo bị triệt tiêu, cá nhân bị triệt tiêu, cái riêng bị triệt tiêu, gia đình bị triệt tiêu, nhà nước bị triệt tiêu, giai cấp bị triệt tiêu, kỷ luật và hiến pháp bị triệt tiêu, tòa án, quân đội, công an, nhà tù, hình phạt bị triệt tiêu, cái ác, cái giả, cái xấu bị triệt tiêu, biện chứng bị triệt tiêu, trần gian bị triệt tiêu …
Cứ đà này, học thuyết Marx có thể sẽ tiến lên một bước là triệt tiêu con người vì Marx (lấy ý của Hegel) nói rằng lúc xã hội loài người phát triển đến mức tuyệt hảo là thiên đường cộng sản thì lịch sử nhân loại dừng lại, không còn sự tiến hóa nào hiện hữu nữa. Lịch sử theo ý Marx đến đây là điểm kết thúc, điểm chết. Mà lịch sử loài người biến mất thì con người sẽ cư trú trong hư vô hay trong cõi chết ư? Thật là hoang đường và phi lý (!)
Marx tiếp thu (lấy) khái niệm đấu tranh giai cấp từ nhiều triết gia trước Marx làm của mình, trong đó có ba vị tiền bối được gọi là ba nhà của chủ nghĩa xã hội không tưởng lớn nhất: Saint Simon, Fourier, Owen rồi đuổi cổ chủ nghĩa nhân đạo ra khỏi khái niệm đấu tranh giai cấp ôn hòa (phi bạo lực) của ba ông thầy này.
Marx đã lấy tư tưởng xã hội chủ nghĩa là một xã hội có nền nền kinh tế thống nhất có kế hoạch trên quy mô một quốc gia và quy mô thế giới, lần đầu tiên do Saint Simon (1760 - 1825) sáng tạo ra để làm của mình, sau khi đã xóa bỏ tính nhân đạo của học thuyết Saint Simon.
Marx đã lấy học thuyết Charles Fourier (1772 - 1837) làm của mình, trong đó có một phát minh quan trọng nhất của bậc tiền bối này, rằng tiến trình lịch sử xã hội loài người trải qua bốn giai đoạn: mông muội, dã man, gia trưởng và văn minh. Văn minh là giai đoạn tư bản chủ nghĩa, gia trưởng là xã hội phong kiến, dã man là xã hội chiếm hữu nô lệ và mông muội là xã hội cộng sản nguyên thủy. Ngay cả ý tưởng công xã (Học thuyết của Fourier về một xã hội mới là hệ thống công nghiệp mới hay chủ nghĩa công nghiệp mới theo cách gọi của ông. Đơn vị cơ sở của xã hội mới ấy bắt đầu từ các phalanges (phalănggiơ - một kiểu công xã) của Fourier) Marx cũng lấy làm của mình. Ý tưởng phải thay thế chế độ tư bản một cách triệt để bằng phương pháp hòa bình của Fourier cũng được Marx trưng thu sau khi đã đuổi chủ nghĩa nhân đạo ra khỏi học thuyết Fourier.
Học thuyết cho rằng chế độ tư hữu là nhân tố chính của sự suy đồi về đạo đức cần phải được tiêu diệt bằng phương pháp hòa bình đã được Marx lấy làm của mình sau khi đã xóa bỏ tình thương con người phi giai cấp của Owen (Robert Owen (1771 - 1858) mà Marx gọi là cải lương, thỏa hiệp, là không triệt để.
Tư tưởng “Xã hội mới đó vận hành hợp lý đó theo nguyên tắc sở hữu chung và lao động chung, kết hợp lao động trí óc và chân tay, sự phát triển toàn diện của cá nhân, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Xã hội không có giai cấp ấy là một liên minh tự do của các công xã tự quản” của Owen cũng được Marx lấy làm của mình sau khi đã từ bỏ phương pháp thiện căn của Owen để dùng bạo lực xây dựng xã hội mới do Marx chủ trương.
Học thuyết kinh tế của Marx là bắt nguồn từ hai nhà kinh tế học lớn nhất của chủ nghĩa tư bản là Adam Smith và David Ricardo.
Adam Smith, FRSE (rửa tội ngày 16 tháng 6 năm 1723, hay 5 tháng 6 năm 1723 trong lịch Julian; mất ngày 17 tháng 7 năm 1790) là nhà kinh tế chính trị học và triết gia đạo đức học lớn người Scotland; là nhân vật mở đường cho phát triển lý luận kinh tế. Bộ sách Bàn về tài sản quốc gia (Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations) đã giúp tạo ra kinh tế học hiện đại và cung cấp một trong những cơ sở hợp lý nổi tiếng nhất của thương mại tự do, chủ nghĩa tư bản, và chủ nghĩa tự do.
http://vi.wikipedia.org/wiki/Adam_Smith
Adam Smith là lý thuyết gia số một đặt nền móng cho kinh tế tư bản chủ nghĩa. Ông sinh trước Marx 95 năm và 28 năm sau khi ông mất, Marx mới ra đời. Trước Adam Smith, kinh tế phương Tây còn mang đặc thù của nền kinh tế phong kiến tuy đã manh nha nền kinh tế thương mại tư bản tư nhân còn nhỏ lẻ.
Trước Adam Smith, chủ nghĩa tư bản sơ khai đã có một số nhà kinh tế bàn đến vấn đề tự do kinh tế và tự do thương mại, bàn về các khế ước xã hội trong mối quan hệ giữa tư bản và lao động. Nhưng chính từ Adam Smith lần đầu tiên các lý thuyết về tự do kinh tế, tự do thương mại được hệ thống hóa, điều kiện hóa, xã hội hóa và quốc tế hóa. Đó là những vấn đề sống còn của chủ nghĩa tư bản nhân đạo trong mối quan hệ giữa đạo đức và kinh tế, giữa lý thuyết về giá trị lao động và thị trường tự do tự điều tiết mọi mâu thuẫn lao động và tư bản, về vấn đề chuyên môn hóa sản xuất quốc tế và sự phân công lao động, về nhân tố sản xuất quan trọng hơn nhân tố mậu dịch, về thuyết trọng thương đã vượt qua thuyết trọng nông trong tích lũy tư bản, về “lý thuyết lợi ích tuyệt đối” trong vai trò điều tiết của nhà nước trong kinh doanh quốc tế, về sức lao động là giá trị đầu tiên của nền tảng sản xuất tư bản.
Vấn đề quan trọng nhất mang tính đạo đức trong kinh tế luận Adam Smith là mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giải phóng con người khỏi nô lệ thân xác. Thương nghiệp và công nghiệp thành thị chỉ có thể phát triển khi nó gắn liền với tự do cá nhân, quyền tư hữu tối thượng và pháp lý dân chủ đại nghị. Adam Smith còn khuyến cáo nền kinh tế tư bản rằng kinh tế chỉ có thể phát triển nếu việc trả lương lao động hợp lý trở thành tiêu chuẩn mang tính lịch sử để tiến lên hữu sản hóa giai cấp vô sản. Adam Smith trong kinh tế luận của mình đã coi hợp tác trong cạnh tranh là vấn đề sống còn của xã hội tư bản.
Marx, từ người học trò trở thành người phản biện học thuyết kinh tế AdamSmith. Marx luôn luôn nói đến duy vật biện chứng và duy vật lịch sử nhưng trong cách hành xử và lập luận của mình, Marx lại là người chủ quan phi biện chứng và phi lịch sử hơn ai hết. Marx áp dụng biện chứng pháp Hegel vào mọi vấn đề để đi đến công thức cứng ngắc và thiếu khoa học là tư bản thì tuyệt đối xấu còn vô sản thì tuyệt đối tốt, rằng tư bản bóc lột dã man vô sản bằng “giá trị thặng dư”, rằng nhất định vô sản sẽ chôn tư bản để xây dựng một nền kinh tế chỉ huy, một nền kinh tế kế họach hóa toàn cầu phi cạnh tranh, một nền kinh tế xóa bỏ hoàn toàn tư hữu…Marx, bằng định kiến cố hữu đã đóng đinh tư bản vào một chỗ “bóc lột dã man” mà không cho nó sự vận động để tự sửa chữa tốt hơn.
Thực tế đã chứng minh Marx hoàn toàn sai lầm về học thuyết kinh tế duy tâm chủ quan thiếu luận chứng khoa học của mình. Học thuyết kinh tế tự do và nhân đạo của Adam Smith đã chiến thắng học thuyết chôn tư bản của Marx. Chính Marx từng nói: “ Thực tế là thước đo chân lý”. Ngày nay bốn nước cộng sản cuối cùng của thế giới là Trung Quốc, Việt Nam và bước đầu với Cuba và Bắc Triều Tiên đã từ bỏ (và dần dần từ bỏ) kinh tế tập trung, kinh tế phi cạnh tranh, kinh tế bị chính trị hóa, phi tư hữu hóa của Marx để thực thi học thuyết kinh tế tự do và nhân đạo tư bản chủ nghĩa của Adam Smith.
Nói tóm lại, hầu hết tư tưởng của Marx là lấy từ các học phái trước Marx, sau khi ông đã chối bỏ mọi điều thiện của các bản chính để duy ác hóa chủ nghĩa xã hội rất thiếu lý tính, thiếu lẽ phải của mình, rồi gọi chúng là chủ nghĩa xã hội khoa học.
4. NHỮNG CÁI SAI CĂN BẢN (SAI GỐC) CỦA HỌC THUYẾT MARX
Trong các trước tác của Marx - Engels, khái niệm “đấu tranh giai cấp” luôn luôn được đồng nghĩa với khái niệm “ bạo lực cách mạng” với các từ “duy ác” như “ tiêu diệt”, “giết sạch”, “chôn”, “tước đoạt”, “ cướp”... tức là tuyệt đối hóa hành vi giết người, hành vi tước đoạt, cướp bóc của giai cấp này với các giai cấp khác trong công cuộc tiến lên thiên đường cộng sản. Marx chỉ ra rằng lối lên thiên đường duy nhất của giai cấp vô sản chính là địa ngục của giai cấp tư sản.
Marx trong tuyên ngôn của đảng cộng sản do Engels chắp bút (trích từ “ Thư Viện Marx-engels” trên Internet) đã tuyệt đối hóa CÁI ÁC, coi CÁI ÁC là động lực duy nhất của sự phát triển lịch sử nhân loại, khi ông viết:
“Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp.”
http://www.marxists.org/…/marx-enge…/1840s/tuyen/phan_01.htm
ĐẤU TRANH GIAI CẤP BẰNG TUYỆT ĐỐI HÓA BẠO LỰC – MỘT HỌC THUYẾT PHI NHÂN
Đây chính là sự sai lầm hệ trọng nhất trong nhận thức luận của Marx về lịch sử, một sai lầm gốc trong các sai lầm gốc khác nơi Marx (xóa bỏ tư hữu, giá trị thặng dư, chuyên chính vô sản, mô hình phi nhân về con người phi biện chứng, phi lịch sử, phi logic trong xã hội bịa đặt có tên là thiên đường cộng sản...)
Lịch sử loài người là lịch sử của các cuộc đấu tranh kép (vừa hòa bình vừa bạo lực) giữa văn minh và dã man, giữa cái thiện và cái ác, giữa cái chân và cái giả, giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái vị tha và cái vị kỷ...
Việc tuyệt đối hóa cuộc đấu tranh giai cấp bằng bạo lực - tức sự giết người hay CÁI ÁC là động lực duy nhất của lịch sử tiến hóa nơi con người là một lý giải sai lầm lớn nhất của Marx để biến học thuyết cộng sản của ông thành HỌC THUYẾT DUY ÁC.
Về phát kiến tai hại này của Marx, trước hết lại bắt đầu từ lời giải thích của thầy ông là triết gia duy tâm Hegel, xin trích:
“Trong "Lutvich Foiơbăc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức", Enghen đã nhắc lại quan điểm của Hêghen (F. Hegel) về sự đối lập giữa thiện và ác và ông đã phân tích như sau: "Hêghen viết: "Người ta tưởng nêu được một chân lí vĩ đại khi nói con người bẩm sinh là thiện, song người ta quên rằng người ta còn nêu được một chân lí vĩ đại hơn nữa với lời nói này: "Con người bẩm sinh là ác". Theo Hêghen, ác là hình thức, trong đó biểu hiện động lực của sự phát triển lịch sử. Thật ra câu nói đó bao hàm hai ý nghĩa: một mặt, mỗi bước tiến mới tất nhiên là một tội ác chống lại trật tự cũ đang suy đồi, nhưng được tập quán thần thánh hoá. Mặt khác, từ khi sự đối lập giữa các giai cấp xuất hiện thì chính những dục vọng xấu xa của con người – lòng tham và sự thèm muốn quyền thế – đã trở thành đòn bẩy cho sự phát triển lịch sử".” (hết trích)
http://daitudien.net/…/triet-hoc-ve-cai-thien-va-cai-ac.html
Qua Engels ta mới biết chính Hegel, một con người luôn vịn vào vào Thượng đế để đi tìm tuyệt đối trong ý niệm, trong xã hội tuyệt hảo do ý niệm tuyệt đối dẫn đường, người hình như vẫn còn tin vào thiện căn con người, lại xúi giục Marx dùng cái ác để giải thích lịch sử của loài người là một lịch sử duy ác, do cái ác làm tiến hóa xã hội con người. Đây là một ngụy lý của thầy trò Hegel- Marx, gây ra sự tai hại vô song về sau cho những hậu duệ dùng học thuyết phi khoa học này để cải tạo thế giới bằng biện pháp duy ác, không còn chỗ cho cái thiện cư trú trong học thuyết Marx.
Trong triết học Trung Hoa, Mạnh tử (372 trước TL - 298 trước TL) một học phái Nho gia nổi tiếng nhất từng nói: “ Nhân chi sơ tính bản thiện”. Tuân tử (313 trước TL - 238 trước TL) cũng một học phái Nho gia khác sinh sau Mạnh tử 59 năm lại nói ngược rằng: “ Nhân chi sơ tính bản ác”. Từ đó, có nhiều người suy ra rằng Mạnh tử chủ trương thiện còn Tuân tử chủ trương ác. Sở dĩ Tuân tử nói như trên là để cân bằng với quan niệm duy thiện của Mạnh tử, rằng con người sinh ra đã sẵn cả tính thiện và tính ác. Bởi, thiện ác là bản năng tự nhiên tạo hóa ban cho muôn loài.
Vấn đề DUY ÁC của học thuyết Marx đấu tranh giai cấp bằng bạo lực trong việc giải thích lịch sử loài người là ông đã lấy học thuyết “đấu tranh sinh tồn tàn bạo, đào thải của tự nhiên tàn nhẫn và tồn tại của giống thích ứng với môi trường ác liệt” của Charles Robert Darwin (12 tháng 2, 1809 – 19 tháng 4, 1882) làm thành học thuyết đấu tranh giai cấp bạo lực của mình.
Darwin sinh trước Marx 9 năm và mất sau Marx một năm. Mặc dù tác phẩm trứ danh nhất của Darwin là “Nguồn gốc các loài” in lần đầu tiên năm 1859, trong khi “Tuyên ngôn của đảng cộng sản” của Marx –Engels in trước đó 11 năm, tức năm 1848, thì sao lại có chuyện Marx lấy ý tưởng của Darwin?
“Nguồn gốc các loài” là cuốn sách tổng kết những thành quả của những khám phá, nhìn nhận, ghi chép, suy đoán, kết luận của Darwin trong chuyến đi gần 5 năm, từ 1831 đến 1836, trên hải trình của tàu Beagle vòng quanh thế giới; và ông đã liên tục công bố các bài báo nhỏ về các kết quả nghiên cứu này trên báo để thăm dò phản ứng của các nhà khoa học. Marx đã lấy các ý tưởng của Darwin từ các bài báo này về sự tiến hóa của các loài qua phép thử của cái ác đặng tăng thêm tự tin để ông công bố kết luận gây choáng: lịch sử loài người là lịch sử của cái ác. Chúng ta hãy nghe Engels kể lại:
“Trên các ấn phẩm của Nguồn gốc, Marx đã tham gia vào các công việc khác. Nhưng khi ông đã có một cơ hội để đọc nó một năm sau đó, đánh giá của nó cũng tương tự như của Engels, người mà ông đã viết trên 19 tháng 12 năm 1860:
"Trong thời gian thử nghiệm của tôi [bệnh] trong bốn tuần tôi đã đọc tất cả các loại vật. Trong số những người khác, cuốn sách về chọn lọc tự nhiên của Darwin. Mặc dù nó được phát triển một cách thô tiếng Anh, đây là cuốn sách có chứa các nền tảng tự nhiên lịch sử của quan điểm của chúng tôi. "
Một tháng sau, vào ngày 16 Tháng 1 năm 1861, ông đã viết cho Lassalle trong điều kiện tương tự:
"Công việc của Darwin là quan trọng nhất và phù hợp với mục đích của tôi ở chỗ nó cung cấp một cơ sở khoa học tự nhiên cho lịch sử đấu tranh giai cấp. Một, tất nhiên, không phải đưa lên với phong cách tiếng Anh vụng về của các đối số. Mặc dù tất cả các thiếu sót của nó, nó là ở đây, lần đầu tiên, 'mục đích luận trong khoa học tự nhiên là không chỉ là một đòn chết, nhưng cũng hợp lý, ý nghĩa của nó được giải thích theo kinh nghiệm."
BLOG của Đảng xã hội chủ nghĩa thế giới (Mỹ): www.wspus.org:
Thứ Hai 16 Tháng Ba, 2009
http://translate.google.com.vn/translate…
(hết trích)
Chính Engels nói trong bài phát biểu trước mộ Marx trong đám tang của ông này, khẳng định Marx đã tiếp thu học thuyết đấu tranh sinh tồn nơi thực động vật làm học thuyết đấu tranh giai cấp trong xã hội loài người: “Giống như Darwin phát hiện ra quy luật của sự tiến hóa tự nhiên đấu tranh sinh tồn, do đó, Marx phát hiện ra quy luật của của sự tiến hóa trong lịch sử nhân loại”
http://translate.google.com.vn/translate…
Darwin và Marx trong việc tuyệt đối hóa cái ác trong sự tiến hóa của tự nhiên và sự tiến hóa của xã hội loài người đã có sai lầm đáng tiếc.
THIỆN & ÁC là phạm trù của thế giới tự nhiên và dĩ nhiên là của cả xã hội loài người.
Văn minh Ấn Độ (gần như đồng thời với văn minh Lưỡng Hà, trước văn minh Ai Cập và Hi Lạp) đã theo đạo Bà La Môn với quan niệm Thượng Đế tam vị nhất thể gồm thần sáng tạo Brahma, thấn Ác Shiva và thần Thiện Vishnu. Như vậy, Thiện và Ác chính là hai mặt của sinh diệt có sẵn trong thế giới tự nhiên trước khi con người xuất hiện. Trong thần thoại và trong các tôn giáo của nhân loại từ bình minh của lịch sử đều có thần ác, thần thiện, ông Thiện và ông Ác…Chúa và Phật, Thánh Ala của tiên tri Mohamed, Lão tử và Khổng tử... đều dạy con người hướng thiện và đấu tranh loại trừ cái ác.
Chỉ có học thuyết sinh vật học của Darwin và học tuyết cộng sản của Marx không có chỗ cho cái thiện cư trú, là hai học thuyết toàn ác, duy ác, tuyệt đối ác...
Thiện Ác gần như là một bản năng tạo hóa ban cho muôn loài từ thực vật, động vật đến con người đều dùng chung quy luật tự nhiên này. Ngay ở trong các loài thực vật, động vật quy luật tiêu diệt nhau (cái ác) để tồn tại và quy luật khoan hòa, bao dung (cái thiện) để cộng sinh hòa trộn vào nhau để cùng sinh tồn là điều không còn phải bàn cãi. Trong rừng cây nhiệt đới năm, sáu tầng mọi loài cây đều tranh nhau vươn lên để độc chiếm ánh sáng mặt trời; tuy nhiên bằng cách nào đấy, chúng vẫn để những kẽ hở cho ánh sáng mặt trời lọt xuống tận các loài cỏ, loài tảo, nấm dưới mặt đất. Đấy phải chăng chính là biểu hiện của tính thiện trong thế giới tự nhiên?
Có rất nhiều loài cây nhỏ ví như phong lan mọc ký sinh trên các thân cây cổ thụ và chúng biết sống thân thiện, hòa bình với nhau suốt đời, tuy nhiên cũng có loài cây mọc ký sinh như cây si, cây đa, cây đề đã tiêu diệt cây chúng sống nhờ (nhưng loài ký sinh duy ác này rất ít so với các loài ký sinh duy thiện).
Loài vật, ngay cả các loài ăn thịt sống bên nhau như sư tử, cọp, gấu, chó sói… cũng ít muốn gây chiến tranh với đồng loại và các loài khác giống, trừ trường hợp chúng tranh mồi hay tranh chấp con cái, tranh nhau lãnh thổ…Hầu hết các loài ăn cỏ từ voi, hưu nai, trâu, bò, dê, ngựa… chọn lối sống hòa bình trên đồng cỏ, ít khi dùng bạo lực để tranh nhau nguồn sống. Các loài ăn thịt cũng biết cách ứng xử bao dung với loài ăn cỏ. Chúng chỉ bắt loài ăn cỏ để ăn đủ no chứ không bao giờ tàn sát hàng loạt loài thú ăn cỏ như con người tàn sát đồng loại để trả thù hay để thỏa mãn tính ác. Nhờ có loài ăn thịt sống chung mà loài ăn cỏ thoát chết hàng loạt vì nạn nhân mãn, sinh sản quá nhiều không đủ cỏ để ăn. Loài ăn thịt và loài ăn cỏ ngoài cách giết nhau để làm mồi mà ta gọi là ác, chúng còn biết sống cộng sinh, bao dung nhau, che chở nhau để cùng tồn tại.
Có loài cá nhỏ chuyên môn sống trong miệng loài cá mập (sát thủ của biển) để sống bằng nghề xỉa răng cho loài cá dữ. Lại có những loài cá nhỏ sống quanh, sống trên lưng loài cá lớn để làm nghề dọn vệ sinh cho bọn ác ngư mà vẫn chung sống hòa bình với nhau từ đời này đến đời khác…
Hãy nhìn đàn cá voi săn mồi bằng cách dồn các đàn cá nhỏ lại thành một vòng tròn đen đặc; nhưng chúng chỉ ăn đủ no và bao giờ cũng để lại một phần đàn cá nhỏ kia để loài này tồn tại và phát triển.
Thiên nhiên đã tự cân bằng sinh thái, bảo đảm cho sự tồn tại của muôn loài bằng quy luật thiện ác, quy luật vừa hủy diệt vừa bao dung, vừa tàn phá vừa che chở để muôn loài cộng sinh và phát triển, tránh được sự tự hủy diệt của nạn nhân mãn.
Rất tiếc, học thuyết tuyệt đối hóa cái ác trong các quy luật tàn bạo của hội chứng móng và vuốt (chữ của Darwin) trong đấu tranh sinh tồn mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé, trong sự tàn nhẫn vô lương tâm của tự nhiên khi chọn lọc giống loài…của Darwin là một cái nhìn phiến diện, thiếu tính khoa học.
Marx đã lấy học thuyết duy ác trong các quy luật tồn tại của thực vật và động vật trong tự nhiên của Darwin áp dụng vào thế giới con người để thành thuyết đấu tranh giai cấp là một sai lầm lớn nhất trong thế giới quan duy ác của ông, tạo ra các xã hội thống trị bằng cái toàn ác, không bao giờ quan tâm đến cái thiện là chủ nghĩa nhân văn đã làm nên nhân loại.
Stephen William Hawking (là một nhà bác học lỗi lạc, nhà Vật lý người Anh sinh năm 1942. Trong nhiều thập kỉ, ông được coi là ông hoàng vật lý lý thuyết của thế giới. Hawking hiện là giáo sư Lucasian, chức danh dành cho giáo sư toán học của Đại học Cambridge. Từng đảm nhiệm vị trí này là những nhà khoa học xuất chúng như Isaac Newton và Paul Dirac) trong bài: “Lược sử thời gian” viết rằng về già, Darwin đã sám hối vì nhận ra sai lầm của học thuyết vô thần tuyệt đối hóa cái ác trong chọn lọc tự nhiên, trong đấu tranh sinh tồn của sinh vật, như sau:
“Về già Darwin lại viết:
“Có một lý lẽ rất mạnh nữa khiến tôi tin ở Thượng đế, đó là lý lẽ lý trí chứ không phải lý lẽ cảm tính. Người ta rất khó, thậm chí hầu như không thể, quan niệm được rằng: cả cái vũ trụ mênh mông và kỳ diệu này, trong đó con người với khả năng nhìn lùi lại quá khứ và hướng về tương lai, lại có thể là kết quả của một sự ngẫu nhiên mù quáng hay một tất yếu. Sau khi suy nghĩ miên man như vậy, tôi tự cảm thấy phải tin rằng có một cội nguồn khởi thủy có trí thông minh tương tự như người, nghĩa là tôi tin có thượng đế. Trong thời gian viết bộ Nguồn gốc các chủng loại, tôi nhớ là tâm trạng của tôi là như vậy. Tuy nhiên qua nhiều diễn biến thăng trầm về sau, niềm tin của tôi không còn được như trước. Đến đây lại nảy sinh một mối hoài nghi: Tôi tự hỏi làm sao có thể tin được rằng linh hồn con người, thoạt đầu không khác gì linh hồn các loài vật hạ đẳng nhất, lại có thể suy luận tới những kết luận bao la như vậy?”
Darwin không trả lời câu hỏi và kết luận như sau:
“Tôi không có tham vọng rọi sáng những vấn đề trừu tượng đó. Chúng ta không thể biết nổi nguồn gốc của vạn vật và tôi đành cam nhân mình là người theo chủ trương lý trí hữu hạn”.
http://tusach.thuvienkhoahoc.com/…/L%C6%B0%E1%BB%A3c_s%E…/14
Từ học thuyết đấu tranh giai cấp bằng tuyệt đối hóa sự giết chóc, Marx đã đưa giai cấp vô sản lên thành giai cấp lãnh đạo tuyệt đối bằng chuyên chế độc tài. Đây chính là vấn nạn khổ đau vô tận cho người dân phải sống trong địa ngục chuyên chế vô sản duy ác trong các chế độ cộng sản đã và đang bị cả loài người văn minh lên án..
(hết trích)
XÓA BỎ TƯ HỮU – MARX XÓA BỎ CHÍNH CON NGƯỜI
Kết luận của Marx: “Lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp”, mà khái niệm “đấu tranh” của Marx đồng nghĩa với bạo lực, với cái ác, với sự giết người hàng loạt không hề biết thương xót; đây là một lý giải quá tầm bậy của ông. Lấy cái ác để giải thích sự phát triển của lịch sử nhân loại, Marx chính là một kẻ phi nhân.
Marx thể hiện sự phi nhân khác của mình khi ông giải thích chính tư hữu (sở hữu) là nguyên nhân gây ra sự phân chia giai cấp trong xã hội, tức là nguyên nhân mọi đau khổ của con người. Trong tuyên ngôn của đảng cộng sản, Marx viết:
“Theo ý nghĩa đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xoá bỏ chế độ tư hữu.
http://www.marxists.org/…/marx-enge…/1840s/tuyen/phan_02.htm
Nói tóm lại, ông buộc tội chúng tôi là muốn xoá bỏ sở hữu riêng của các ông. Quả thật, đó chính là điều chúng tôi muốn.”
http://www.marxists.org/…/marx-enge…/1840s/tuyen/phan_02.htm
Khi nghiên cứu tác phẩm “Cộng Hòa” của Platon (như vừa dẫn), Marx thấy Platon nói rằng vì con người có ý thức về tư hữu, sở hữu nên mới sinh ra tranh giành cướp đoạt của nhau; rằng muốn xây dựng một chế độ cộng sản lý tưởng thì phải xóa bỏ tư hữu. Ý tưởng này của Platon đã được các tiền bối của phái chủ nghĩa xã hội không tưởng trước Marx nhắc lại và đưa vào học thuyết giả tưởng của mình, nên Marx nhất quyết xóa bỏ tư hữu nơi con người nếu con người đó bị buộc phải vào sống trong thế giới cộng sản của ông.
Vả, nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng trước Marx là Charles Fourier từng cho rằng trong xã hội mông muội của loài người (tức xã hội cộng sản nguyên thủy theo cách gọi của Marx) con người chưa từng biết tư hữu về tư liệu sản xuất và công cụ sản xuất, nên Marx coi đây là một bằng chứng của chân lý.
Marx lại nghiên cứu những bài báo của Lewis H. Morgan, nhà nhân chủng học người Mỹ sinh cùng năm với Marx (1818) và chết trước ông hai năm, từng viết rằng, trong xã hội cộng sản nguyên thủy con người chưa biết tư hữu. Từ đây, Marx tưởng mình đã đầy đủ dẫn chứng nhân chủng học khi ông lấy ý này của Morgan làm căn cứ khoa học của mình. Chúng ta hãy theo dấu Engels để biết Marx bị ảnh hưởng từ Morgan:
“Dựa trên các kết quả và phát hiện của Lewis H. Morgan (Lewis Henry Morgan (21 tháng 11 1818 - ngày 17 tháng 12 năm 1881) là một nhà nhân chủng học người Mỹ tiên phong và lý thuyết xã hội đã làm việc như một luật sư đường sắt), Friedrich Engels đã phân tích lịch sử nhân loại trong những giai đoạn sớm nhất của nó, luận chứng quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy và quá trình hình thành của xã hội có giai cấp, dựa trên chế độ tư hữu. Ông cũng vạch rõ những đặc trưng của xã hội đó, giải thích sự phát triển của các quan hệ gia đình trong các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, chỉ ra nguồn gốc và bản chất của Nhà nước, chứng minh sự tất yếu diệt vong của Nhà nước và xã hội có giai cấp nói chung.
Engels bắt đầu viết cuốn này từ cuối tháng Ba năm 1884, và tới hết tháng Năm năm đó thì hoàn tất. Khi đọc các bản thảo viết tay của Marx, Engels đã tìm thấy một bản tóm tắt cuốn "Xã hội Cổ đại" của L.H. Morgan, nhà khoa học tiến bộ người Mỹ, được Marx ghi trong các năm 1880-1881, có nhiều nhận xét phê phán và luận điểm của chính Marx.
Sau khi đọc bản tóm tắt, Engels nhận thấy cuốn sách của Morgan đã xác minh quan điểm duy vật lịch sử và các quan điểm về xã hội nguyên thủy của Marx và mình đề xuất, và thấy cần viết một tác phẩm riêng, sử dụng các tài liệu và kết luận của Morgan và Marx.”
http://vi.wikipedia.org/wiki/Friedrich_Engels
(hết trích)
Thưa rằng, kết luận của Morgan và Marx khi hai ông cho rằng con người mông muội ăn chung ở chung ngủ chung làm chung (cộng sản nguyên thủy) không biết tư hữu là một kết luận sai lầm đến mức ấu trĩ.
Tư hữu, sở hữu là bản năng tạo hóa dành cho muôn loài từ cây cỏ, muông thú đến con người. Từ con kiến, con ong, đến con chim, con chuột, con cọp, con sư tử …đều biết sở hữu tổ của mình. Chúng có thể chiến đấu đến chết để bảo vệ tổ, bảo vệ con cái của mình, bảo vệ các con của mình. Ngay cả loài cây, tức là các loài thực vật… đều biết sở hữu vùng ánh sáng, tranh nhau vùng ánh sáng và dùng rễ để tranh nhau các chất màu trong đất.
Bản năng tư hữu, sở hữu đã có trong cả thế giới khoáng vật, động thực vật, sao đến loài động vật cao cấp là con người dù con người trong thời mông muội (cộng sản nguyên thủy) lại quên đi một bản năng tồn tại là bản năng sở hữu, tư hữu như hai ông mạo danh khoa học kết luận là ông Morgan và Marx là sao?
Hai đứa bé sinh đôi trong bụng mẹ chưa chào đời còn có bản năng sở hữu, tư hữu khi chúng đá nhau tranh giành không gian chật chội, xin trích:
“Nếu như bạn không tin thì hãy đến với đoạn video thú vị dưới đây được các nhà nghiên cứu Anh quay lại được. Đáng chú ý của cặp song sinh này chiến đấu với nhau để có chỗ duỗi chân thoải mái trong bụng mẹ vốn đang chật chội.
"Cuộc chiến" của cặp sinh đôi này xem ra bất phân thắng bại.
Cảnh quay trong video cho thấy đôi chân của bào thai nhỏ hơn đang duỗi chân ra về phía bào thai to, như thể nó đang rất cố gắng để đẩy chân hoặc đá chân vào người anh chị em mình, mặc dù sự thật, diễn giải này không phải là chắc chắn đang xảy ra giữa các bào thai.
"Nếu bạn đang mang thai sinh đôi thì chúng không thể đứng yên một vị trí nhất định", tiến sĩ Marjorie Greenfield, giám đốc bộ phận sản khoa nói chung và phụ khoa nói riêng tại Đại học Trung tâm y tế ở Cleveland (Luân Đôn, Anh) cho biết.
Greenfield, mẹ của cặp song sinh ban đầu còn tỏ ra do dự, không tin vào mắt mình khi tận mắt chứng kiến video cảnh hai đứa con của mình đá nhau. Greenfield nói rằng: "Hai đứa trẻ đã đá vào bụng tôi, chúng đang đấu đá nhau. Trải nghiệm thú vị này, chỉ bây giờ tôi mới có được".
http://hn.eva.vn/…/cap-song-sinh-dau-vo-trong-bung-me-c85a1…
Hình ảnh được chụp lại từ video. (Theo ABC news)
Nếu con ong, con chim, con thú... không có bản năng tư hữu, sở hữu, khi đi kiếm ăn ở những vùng xa tổ của nó, xa hang của nó có khi cả trăm cây số, chắc là nó không thèm quay về, hoặc không còn thiết tha với cái tổ, với lũ con không thuộc sở hữu của nó, thì muôn loài chắc đã bị hủy diệt từ lâu?
Con người (cũng như cây cỏ muông thú), được tạo hóa ban cho bản năng gốc là bản năng tư hữu (sở hữu). Cái sở hữu đầu tiên của con người là tôi chính là của tôi, thân xác tôi, tay tôi, mắt tôi, tư tưởng của tôi là sở hữu của chính tôi; rồi vợ của tôi, con của tôi, nhà của tôi, đất nước của tôi...Đến ngôn ngữ cũng có động từ, danh từ sở hữu huống nữa là con người. Nếu theo Marx, thử bỏ các từ “của” đi thì cuốn “ Tư bản luận” sẽ thành vô nghĩa. Con người bị Marx xóa đi cái sở hữu, tức là xóa cái tôi, tức xóa chính nó, xóa cá nhân, tức xóa chính con người.
Đưa con người trở về thời đại hão huyền bịa đặt là cộng sản nguyên thủy để xóa tư hữu, tức là Marx xóa chính con người. Do đó học thuyết Marx là một học thuyết phi nhân.
CHỦ NGHĨA MARX XÓA BỎ TÔN GIÁO, XÓA BỎ ĐẠO ĐỨC, XÓA BỎ LỊCH SỬ THÀNH VĂN NHÂN LOẠI, XÓA BỎ GIA ĐÌNH, XÓA BỎ TỔ QUỐC, XÓA BỎ NHÀ NƯỚC, XÓA BỎ ĐIỀU THIỆN, XÓA BỎ NHÂN TÍNH, XÓA BỎ PHÉP BIỆN CHỨNG…TỨC MARX MUỐN XÓA BỎ LOÀI NGƯỜI
Từ học thuyết “tha hóa” và học thuyết “phủ định của phủ định” của Hegel, Marx tiến tới xã hội cộng sản tước bỏ tư pháp, tước bỏ đạo đức, tước bỏ gia đình, tước bỏ xã hội công dân, tước bỏ nhà nước, tước bỏ lịch sử thế giới:
“C.Mác cũng đã vạch ra quan niệm của Hêghen về tha hoá trong xã hội: “Chẳng hạn như trong triết học pháp quyền của Hêghen, - C.Mác viết -, tư pháp đã bị tước bỏ là đạo đức, đạo đức đã bị tước bỏ là gia đình, gia đình đã bị tước bỏ là xã hội công dân, xã hội công dân đã bị tước bỏ là nhà nước, nhà nước đã bị tước bỏ là lịch sử thế giới. Trong hiện thực thực tế, tư pháp, đạo đức, gia đình, xã hội công dân, nhà nước, v.v. tiếp tục tồn tại như trước, chúng chỉ trở thành những nhân tố, những hình thức sinh tồn và hình thức tồn tại hiện có của con người, những hình thức và nhân tố này nếu cô lập với nhau thì không có sức mạnh, chúng xoá bỏ lẫn nhau, sản sinh lẫn nhau v.v. những nhân tố của vận động””.
http://www.vientriethoc.com.vn/…
(hết trích)
Trong “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”, Marx từng tuyên bố những người cộng sản (đảng của giai cấp công nhân) không có tổ quốc:
“Công nhân không có tổ quốc. Người ta không thể cướp của họ cái mà họ không có. Vì giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc[9], phải tự mình giành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu.”
http://www.marxists.org/…/marx-enge…/1840s/tuyen/phan_02.htm
Cho nên cờ của các đảng cộng sản trên thế giới đều là cờ búa liềm, cờ của Liên Xô. Từ khi Liên Xô sụp đổ (1991), những người cộng sản trên khắp thế giới đều mồ côi tổ quốc.
Cũng trong “Tuyên ngôn của đảng cộng sản” Marx tuyên bố thẳng thừng những người cộng sản triệt để xóa bỏ các thành tựu nhân văn của quá khứ:
“Cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với những quan hệ sở hữu kế thừa của quá khứ; không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy rằng trong tiến trình phát triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tưởng kế thừa của quá khứ.”
http://www.marxists.org/…/marx-enge…/1840s/tuyen/phan_02.htm
Khi người cộng sản tuyên bố đoạn tuyệt với các tư tưởng kế thừa của quá khứ, tức họ đoạn tuyệt với các tư tưởng nhân văn quá khứ đã làm nên nhân loại; họ xóa bỏ và đoạn tuyệt với các nền văn minh tiền Marx như văn minh Lưỡng Hà, văn minh Ai Cập, văn minh Hi-La, những giá trị nhân bản vô cùng của thời Phục Hưng, thời Ánh Sáng…Và các tư tưởng nhân văn của Cách mạng Pháp với khẩu hiệu Tự do-Bình đẳng-Bác ái cũng bị Marx đoạn tuyệt và xóa bỏ. Như thế này, chính Marx đã xóa sổ học thuyết của ông toàn bắt nguồn từ các dòng tư tưởng xưa cũ. Chính Marx đã khai tử duy vật lịch sử và duy vật biện chứng của ông vậy.
Marx và những người cộng sản tuyên bố thẳng thừng họ chỉ có một biện pháp duy ác dùng bạo lực để lật đổ thế giới cũ. Con đường họ tiến lên xây dựng thiên đường cộng sản là con đường đẫm máu các giai cấp hữu sản:
“Những người cộng sản coi là điều đáng khinh bỉ nếu giấu giếm những quan điểm và ý định của mình. Họ công khai tuyên bố rằng mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện hành. Mặc cho các giai cấp thống trị run sợ trước một cuộc Cách mạng cộng sản chủ nghĩa! Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ. Họ sẽ giành được cả thế giới.
Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!
http://www.marxists.org/…/marx-enge…/1840s/tuyen/phan_04.htm
Marx từng viết về việc xóa bỏ tôn giáo với hai lời tuyên bố rùng rợn như sau:
“Điều kiện tất yếu đầu tiên cho hạnh phúc của nhân dân là sự bãi bỏ tôn giáo.
The first requisite for the happiness of the people is the abolition of religion.”
“Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân.
Religion is the opium of the masses.”
http://www.tudiendanhngon.vn/…/search/karl-marx/default.aspx
Tôn giáo là bước phát triển văn hóa lớn nhất của con người từ mông muội đến văn minh. Cứ giả sử như không có Thượng Đế đi chăng nữa, thì sự sáng tạo ra Thượng Đế là sự sáng tạo lớn nhất của con người nhằm thiêng liêng hóa hình ảnh của mình, giúp con người khác xa con vật. Nhờ có tôn giáo, nhờ có Thượng Đế làm chỗ dựa tinh thần, làm cứu cánh giúp con người thoát khỏi mọi nỗi sợ hãi, thoát khỏi cô đơn, giải tỏa được nỗi sợ chết có thể làm con người điên loạn mà tự hủy diệt mình. Tôn giáo chính là con đường nhân loại cởi bỏ lốt thú vật để khoác lên mình bộ cánh thiên giới bay đến chân trời văn minh hôm nay. Xóa bỏ tôn giáo, khác gì Marx đã xóa bỏ chính con người.
Ta mới hiểu vì sao các xã hội cộng sản hậu bối của Marx thực thi mệnh lệnh tiêu diệt tôn giáo khủng khiếp nhường vậy. Xin bạn đọc vào công cụ tìm kiếm http://google.com rồi đánh tên tác giả và tác phẩm: “ Tân tử Lăng Mao Trạch Đông ngàn năm công tội” do Thông tấn xã Việt Nam dịch và in năm 2009, sẽ thấy Mao Trạch Đông và cộng sản Trung Hoa phá nát đình chùa miếu mạo nhà thờ trên đất Trung Hoa khủng khiếp ra sao.
Ở Việt Nam, chính người viết bài này đã mục kích cảnh đảng ra lệnh cho dân quân phá hủy nhà thờ, chùa chiền hồi cải cách ruộng đất tàn bạo vô cùng. Hãy đọc một đoạn nhà văn Đỗ Chu kể lại chiến dịch đảng cộng sản Việt Nam ra lệnh đốt phá các chùa chiền trên núi Yên Tử ra sao:
“Hỏi các vị bô lão trong vùng mới biết có chỗ là do Tây đốt, có chỗ là do ta đốt, ta đốt phá mới nhiều mới dữ. Một cụ chống gậy lọm khọm bước đến trước tôi kể, chính tôi hồi ấy đã được cấp trên gọi đi đốt phá cả chục ngôi chùa, tượng lớn tượng nhỏ cho trôi sông tuốt. Rồi ông cụ tặc lưỡi cười rất thành thực, thì cái thời nó thế, tôi lúc đó trẻ đang hăng lắm, được phong làm trưởng ban phá hoại huyện.”
(trích bài “ NĂM THÁNG GỌI VỀ” –ĐỖ CHU báo Văn Nghệ số Tết 2013)
http://www.vanvn.net/news/9/3118-nam-thang-goi-ve.html
Xin hãy nghe nhà văn Võ Văn Trực kể như sau:
“Ở làng tôi, đền chùa miếu mạo, nhà thờ họ, mộ cổ, rừng cổ, cây cổ thụ đã bị phá trụi, không còn gì để phục hồi nữa”
(Chuyện Làng Ngày Ấy của Võ Văn Trực do NXB Lao Động ấn hành tháng 6 năm 1993)
Marx viết: “Chế độ cộng sản bãi bỏ những chân lý muôn thưở, nó bãi bỏ tôn giáo và đạo đức thay vì cải cách nó; và nó đi ngược lại tất cả những phát triển lịch sử trước nó” (Marx et Engels – Manifeste du Parti communiste – trang 51. www.librio.net)
Có phải vì những lời giáo huấn duy ác này của Marx mà ta thấy trong các chế độ cộng sản cái ác lên ngôi, cái đểu lên ngôi, cái xấu lên ngôi, cái giả lên ngôi, cái dối trá lưu manh lên ngôi hay không?
Marx chính trị hóa triết học, cách mạng hóa lý thuyết ảo tưởng của mình bằng hai câu nói mà nhiều người khen là tuyệt vời hơn các triết gia khác: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, vấn đề là cải tạo thế giới “…“Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”
http://vi.wikipedia.org/…/Tri%E1%BA%BFt_h%E1%BB%8Dc_M%C3%A1…
Chính khái niệm “ cải tạo thế giới” bằng triết học này của Marx đã góp phần làm hỏng cả triết học lẫn con người. Biến triết học còn nhiều điều chưa hợp lý, chưa khoa học, thậm chí chỉ là những giả định,những ý niệm chủ quan duy tâm của mình thành vũ khí giết người của Marx thì lý thuyết này khác gì tòa án giáo hội thời trung cổ dùng giàn hỏa thiêu để thực thi đức tin tôn giáo độc quyền của nhà thờ. Thực ra, bản chất triết học nói cho cùng chính sự hoài nghi của con người về tồn tại. Không thể có một học phái triết học nào trở thành chân lý tuyệt đối. Lấy thuyết cộng sản của mình làm chân lý tuyệt đối để tiêu diệt các học phái triết học khác, chính Marx mới là ngụy triết học, phản triết học.
Theo Engels định nghĩa triết học: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”. Lấy tư duy về tồn tại để cải tạo thế giới là một sự lầm lạc đáng tiếc gây ra cái chết đau thương cho hàng trăm triệu con người là nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản do Marx vẽ vời ra để các nhà cách mạng đồ tể thực thi.
Rất tiếc, 05 tháng trước khi qua đời, Engels đã nhận ra sai lầm của mình và Marx khi ông viết “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”, rằng học thuyết dùng cái ác, dùng bạo động để giành chính quyền của giai cấp vô sản đã bị thời đại bỏ qua, đã bị chủ nghĩa tư bản nhân đạo bỏ qua:
“Ngày 6-3-1895, trong lời nói đầu của cuốn: “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, Engels viết: “Lịch sử chứng tỏ chúng ta từng mắc sai lầm. Quan điểm của chúng ta hồi đó chỉ là ảo tưởng. Lịch sử còn làm được nhiều hơn. Phương pháp đấu tranh năm 1848 nay đã lỗi thời về mọi mắt...” (Engels qua đời 5-8-1895)
Engels còn kể lại có vẻ khôi hài rằng: “Marx nói với Lafargue: «Tôi, Karl Marx, không phải là người Marxiste » – Thư Engels gửi Berstein - 3/11/1882”
Sự sám hối của Engels hình như đã muộn, học thuyết duy ác của các ông đã bị Lenine bắt cóc đưa về Nga để làm cuộc tàn sát vĩ đại con người có tên là cộng sản.
Tại quê hương Marx sinh ra, vùng Trèves, người ta có dựng lên một bức tượng của Marx, nhưng người ta có đề hàng chữ ở dưới chân tượng: "Đây là nơi sinh ra Marx, nhưng ở đây không chấp nhận tư tưởng của ông ta..."
Những nhà xã hội chủ nghĩa dân chủ nhân đạo như Karl Kautsky, Wilhelm Liebknecht, August Bebel, Ferdinand Lassalle... đồng thời với Marx hay sau Marx đã chia tay học thuyết xã hội chủ nghĩa bạo lực của Marx để xây dựng một xã hội chủ nghĩa dân chủ, bác bỏ thuyết đấu tranh giai cấp, bác bỏ chuyên chính vô sản, bác bỏ xóa tư hữu, bác bỏ kinh tế tập trung của Marx, chủ trương đa nguyên kinh tế và đa nguyên chính trị để giúp giai cấp vô sản đấu tranh bằng nghị trường ôn hòa. Những nhà xã hội chủ nghĩa dân chủ nhân đạo trên từng bị Marx, Engels, Lenine nguyền rủa nặng nề nhưng hướng đi của họ là đúng, đã dẫn dắt châu Âu và chủ nghĩa tư bản đến thành công mỹ mãn như hôm nay, chiến thắng hoàn toàn học thuyết dùng cái ác để cải tạo thế giới của Marx.
Ngày 25 tháng 1 năm 2006, tại thành phố Strasburg (Pháp), Hội đồng Châu Âu (tiếng Anh: Parliamentary Assembly of the Council of Europe; tiếng Pháp: Assemblée parlementaire du Conseil de l'Europe), một cơ quan dân cử của 46 quốc gia châu Âu đã có cuộc họp thường niên (bốn lần trong một năm) bỏ phiếu và thông qua (99 phiếu thuận, 42 phiếu chống) Nghị quyết 1481 (2006) [2] với các điều khoản lên án chủ nghĩa cộng sản và đồng nhất chủ nghĩa này với tội ác chống lại loài người.
http://vi.wikipedia.org/…/Ngh%E1%BB%8B_quy%E1%BA%BFt_1481_c…
Để kết thúc bài viết, chúng tôi xin trích lời của hai nhà văn quân đội, hai vị cựu đại tá là nhà văn Tân Tử Lăng bên Trung Quốc (hiện đang sống tại Trung Quốc và không bị bắt bớ vì dám nói thật) và nhà văn cựu đại tá Nguyễn Khải (đã mất) của Việt Nam, từng viết như sau:
Đây là lời của nhà văn đại tá Tân Tử Lăng Trung Quốc:
“Thiên đường cộng sản chủ nghĩa do chính Mao thiết kế và lãnh đạo xây dựng đã biến thành địa ngục trần gian.”
http://www.viet-studies.info/…/MaoTrachDong_NganNamCongToi.…
(Mao Trạch Đông ngàn năm công tội- Tân Tử Lăng – Thông tấn xã Việt Nam dịch và in 2009)
“Phải tiến hành một cuộc chuyển đổi ý thức hệ sâu sắc, tuyên bố công khai và rõ ràng trước toàn đảng, toàn dân: từ bỏ những giáo điều “tả” khuynh từ Mác, Ăng-ghen, Lenin, Stalin đến Mao Trạch Đông - những lý luận đã mấy chục năm đưa Trung Quốc vào con đường sai lầm, đem lại cho Trung Quốc nghèo nàn, rối loạn và chuyên chế, đến nay vẫn cản trở và phủ định công cuộc cải cách-mở cửa.” (Tân Tử Lăng- sách đã dẫn)
Và đây là lời trăn trối lại trước khi chết của nhà văn Việt Nam đại tá Nguyễn Khải:
“Những gì mà chủ nghĩa cộng sản hứa sẽ thành hiện thực trong tương lai thì cái hiện thực ấy sẽ giết chết cả loài người….Quả thật dân tộc Việt Nam đã thắng lớn trong phong trào chiến tranh giải phóng nhưng lại thua đậm trong công cuộc xây dựng một xã hội tự do và dân chủ. Thoát ách nô lệ của thực dân lại tự nguyện tròng vào cổ cái ách của một học thuyết đã mất hết sức sống.”
(trích bài: “ĐI TÌM CÁI TÔI ĐÃ MẤT” của nhà văn Nguyễn Khải – giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật).
Viết nhân dịp kỷ niệm 195 năm ngày sinh của Karl Marx (5.5.1818 – 5.5.2013) và kỷ niệm 130 năm ngày mất của ông (14.3.1883- 14.3.2013)
Sài Gòn ngày 10-04-2013
Trần Mạnh Hảo
danlambaovn.blogspot.com
BÀN QUA VỀ HỘI CHỨNG TUYỆT ĐỐI TRONG "CHỦ NGHĨA DUY ÁC " CỦA MARX - ENGELS
Trần Mạnh Hảo.
“Cái Tuyệt đối, ấy là thực tính của mi!”
- lời phán của thần Apollon được ghi trong đền Delphes
Trần Mạnh Hảo (Danlambao) - Ngày 14-3-2013 là ngày giỗ lần thứ 130 năm của Karl Marx - ngày giỗ năm chẵn, một ngày giỗ tổ quan trọng nhất của những người cộng sản Việt Nam. Lạ thật, tịnh không thấy báo Nhân Dân, Tạp chí cộng sản, báo Quân đội nhân dân hay Hà Nội mới, Sài Gòn giải phóng, Công an nhân dân, Công an TP.HCM... những tờ báo cuối cùng ở Việt Nam thề quyết bảo vệ chủ nghĩa cộng sản tới chết nhắc tới ngày giỗ tổ của đảng cộng sản Việt Nam.
Chúng tôi đã vào công cụ tìm kiếm google.com đánh mã tìm kiếm: “kỷ niệm 130 năm ngày mất của Karl Marx và 195 ngày sinh của Marx” hiện ra 18 đề mục, chỉ có câu lạc bộ chơi tem Việt Nam (CLB Viet Stamp) nhắc đến hai ngày này bằng con tem có hình Marx mà thôi. Vì sao Đảng cộng sản Việt Nam lại lờ tịt ngày giỗ tổ, không thèm thắp cho cụ cố tổ “thiêng liêng” của mình một nén nhang? Có phải Đảng cộng sản Việt Nam đã chủ động bỏ ngày giỗ tổ, dấu hiệu cho thấy Marx đã bị chính những người cộng sản Việt Nam khai tử? Họ chỉ còn dùng tên ông và chủ nghĩa của ông để làm bình phong giữ đặc quyền đặc lợi mà thôi. Cũng có thể đảng cộng sản Việt Nam thấy đảng cộng sản Trung Quốc trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII ngày 17-12-2012 vừa qua đã im lặng từ bỏ Marx- Lenine- Mao Trạch Đông, không còn nhắc tên ba ông tổ này trong các văn kiện chính thức của đại hội, nên đảng cộng sản Việt Nam cũng a tòng noi theo chăng? Qủa thực, từ năm 1978, đảng cộng Trung Quốc đã chôn sống chủ nghĩa Marx bằng cách xây dựng kinh tế thị trường, tức kinh tế tư bản. Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã chôn chủ nghĩa cộng sản bằng cách xây dựng xã hội tư bản chủ nghĩa vào năm 1986. Bởi, chủ nghĩa Marx về bản chất là một học thuyết kinh tế. Họ bỏ giỗ ông tổ Marx là quá logic.
Nhân ngày giỗ lần thứ 130 năm của Marx 14-3-2013 vừa qua và sắp tới là ngày 5-5-2013, kỷ niệm 195 năm ngày sinh của vĩ nhân trên, chúng tôi viết bài báo này gồm có mấy phần sau:
1. TỪ HI LẠP ĐẾN MARX, TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY LUÔN HƯỚNG VỀ CÁI TUYỆT ĐỐI
2. TÁCH TÂM RA KHỎI VẬT, ÁP ĐẶT Ý ĐỊNH CHỦ QUAN LÊN VẠN VẬT LÀ SỰ KHỐN CÙNG CỦA TRIẾT HỌC TỪ PROTAGORAS TỚI MARX
3. MARX TIẾP THU (LẤY) MỌI HỌC THUYẾT TRƯỚC MÌNH, TRỪ CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO
4. NHỮNG CÁI SAI CĂN BẢN (SAI GỐC) CỦA HỌC THUYẾT MARX
Xin quý độc giả đọc nội dung chính của bài viết:
1. TỪ HI LẠP ĐẾN MARX, TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY LUÔN HƯỚNG VỀ CÁI TUYỆT ĐỐI
Câu thần chú: - Cái Tuyệt đối, ấy là thực tính của mi - được cho là của thần Apollon (tiếng Hy Lạp: Απόλλων Apóllon) là thần ánh sáng, chân lý và nghệ thuật) tuyệt đối hóa cái tuyệt đối trong bản thể vũ trụ ám ảnh nền văn minh Hi Lạp từ buổi bình minh con người, khiến con người suốt cả mấy nghìn năm luôn luôn thao thức đi tìm linh hồn mình trong tuyệt đối Thượng đế, trong tự nhiên và trong chính xã hội mà nó cư trú…
Diogenes Sinope, trong tiếng Hy Lạp cổ Διογένης / Diogenes (Sinope v 413 - Corinth, ca 327 trước Công nguyên), một tông đồ của thần Apollon, mỗi ngày lại mang cây đèn đi khắp hang cùng ngõ hẻm thành Athènes đầy ắp người ta, để tìm một con người tuyệt đối giữa ban ngày nhưng tuyệt nhiên không thấy. Hình như toàn bộ nền triết học Hi Lạp (và cả châu Âu sau này), cũng bị hội chứng đi tìm con người tuyệt đối, xã hội tuyệt đối, thiên đường tuyệt đối trên mặt đất của Diogène làm cho mất ăn mất ngủ...
Protagoras (pron.: / p r oʊ t æ ɡ ə r ə s /; Hy Lạp: Πρωταγόρας, ca 490 TCN - 420 TCN) [1] Nhà triết học Hy Lạp trước Socrates, triết gia duy vật sơ khai, tuyệt đối tự tin đến mức chủ quan, đẩy con người vượt lên cả Thượng đế, kích thích chú bé Hi Lạp ấu thơ hãy vươn lên thành người khổng lồ cai trị vũ trụ: “Con người là thước đo của vạn vật”.
Thalès de Milet gọi là Ta-Lét (tiếng Hy Lạp: Θαλῆς ὁ Μιλήσιος; khoảng 624 TCN – khoảng 546 TCN), triết gia khởi nguồn văn minh Hi Lạp coi nước là tuyệt đối vũ trụ thì Heraclite coi lửa là tuyệt đối của vạn vật. Anaximandros, coi tuyệt đối là cái tuyệt đối không thể tìm thấy trong một vũ trụ tuyệt đối bất định. Democritos lại đi tìm bản nguyên vũ trụ thông qua tuyệt đối-nguyên tử, phần tử nhỏ nhất của vũ trụ tuyệt đối không thể bị chia cắt.
Xenophanes của Colophon (tiếng Hy Lạp: Ξενοφάνης ὁ Κολοφώνιος; 570 - 475 TCN) cho rằng tuyệt đối nằm trong thực tại khách quan chứ không nằm trong tay thần linh với câu nói nổi tiếng: “Nếu con ngựa, con bò biết vẽ, chúng sẽ vẽ thần linh của chúng có hình ngựa, hình bò!”.
Pythagoras (tiếng Hy Lạp: Πυθαγόρας; sinh khoảng năm 580 đến 572 TCN - mất khoảng năm 500 đến 490 TCN) nhà toán học vĩ đại lại đi tìm tuyệt đối trong các con số, trong phép mầu toán học.
Sokrates hay Socrates (Về năm sinh của ông hiện vẫn chưa có sự thống nhất giữa năm 469 hay 470. (469 - 399 TCN), (470 - 399 TCN) - triết gia khởi nguồn túi khôn Hi Lạp đã bị tử hình vì dám đưa tinh thần Hi Lạp từ trong đền thờ Apollon ra xã hội con người, khuyên người ta nên đi tìm cái đẹp linh hồn trong thân xác, để thấy linh hồn đồng nhất với thượng đế tuyệt đối. Ông tuyệt đối hóa vai trò của trí tuệ để đi tìm chân lý tuyệt đối…
Platon (tiếng Hy Lạp: Πλάτων, Platōn, "Vai Rộng"), khoảng 427-347 TCN lại đi tìm một thế giới tuyệt đối ý niệm trong linh hồn bất tử. Ông là người đầu tiên chỉ hướng cho nhân loại đi tìm một xã hội tuyệt đối thiên đường, tuyệt đối hoàn thiện hoàn mỹ là xã hội cộng sản tuyệt đối không còn tư hữu, được sinh ra trong ý niệm duy tâm của ông qua tác phẩm trứ danh “ Cộng Hòa”. Có điều xã hội cộng sản của Platon là một xã hội cộng sản nhân đạo, tuyệt đối cấm giết người. Marx, hơn 2000 năm sau đã lấy ý tưởng này của Platon để xây dựng chủ nghĩa cộng sản bằng “vũ khí duy ác”, bằng phương pháp duy nhất là giết người “ chôn tư bản”, giết tất cả các giai cấp khác trừ giai cấp vô sản. Con đường đi vào thế giới cộng sản của Platon có Thượng Đế và tình thương yêu nhân loại đi kèm, tuy chỉ là một xã hội giả tưởng. Ngược lại, con đường đi lên thế giới đại đồng, đi lên thiên đường cộng sản của Marx là con đường đầy máu và nước mắt với những núi núi sọ người như đã từng xảy ra ở Nga cộng, Tàu cộng, Triều cộng, Cu cộng, Việt cộng... và như hậu duệ cuối cùng của Marx là Pôn-pốt Iêng-xa-ri vừa thực hiện thiên đường cộng sản là những cánh đồng chết với sự tham gia của qủy dữ.
Triết gia hàng đầu của triết học Kinh Viện Thánh Aurielius Augustinus (sinh ngày 13 tháng 11, 354, mất ngày 28 tháng 8, 430) - người đã Platon hóa thần học Thiên Chúa giáo và ngược lại (sau này Thánh Thomas Aquin cũng làm như vậy với Aristote), tìm tuyệt đối trong linh hồn thánh thiện, từng phán: “Làm cho chính mình trở thành chân lý” (Vé rum tacere se ipsum); rằng khi có Chúa tồn tại trong anh em, linh hồn anh em là một với tuyệt đối Thiên Chúa. Sau này, Marx đã lấy câu kinh trên của Thánh Augustinus sau khi xua đuổi Chúa Trời để biến các ảo tưởng duy tâm cực đoan của mình thành chân lý duy nhất, chân lý vĩnh hằng giúp các hậu duệ chân truyền của ông như Lenine, Stalin, Mao Trạch Đông... tiêu diệt những kẻ bất đồng chính kiến bằng gông cùm tù tội bắn giết.
René Descartes (sinh ngày 31 tháng 3 năm 1596 – mất ngày 11 tháng 2 năm 1650) tuyệt đối hóa tư duy, cho tư tưởng con người thể hiện trong khoa học là cái tuyệt đối với hai câu nói nổi tiếng vượt qua những rào cản của thần học, tôn sùng một Thượng đế khác là lý trí: “Tôi tư duy, tôi tồn tại”, hoặc: “Trừ tư tưởng của ta, chẳng có gì tuyệt đối nằm trong tay ta”.
Immanuel Kant, (sinh ngày 22 tháng 4 năm 1724 tại Königsberg; mất ngày 12 tháng 2 năm 1804 tại Königsberg) triết gia vĩ đại nhất của nước Đức và châu Âu, người từng muốn dung hòa hai cực đoan duy vật và duy tâm trong triết học phương Tây bằng sự “phê phán lý trí thuần túy”, hướng con người về thế giới “tiên nghiệm” với thuyết: Lệnh thức tuyệt đối (kategorischer Imperativ) cho rằng tuyệt đối không thể nhận thức được “vật tự nó”. Nhưng từ I. Kant, hình như triết học truy tìm cái tuyệt đối bản thể vũ trụ phương Tây thiếu tự tin, toan tìm một lối rẽ sang phương Đông khi ông tương đối hóa cái toàn thể: Từ “toàn thể”luôn luôn chỉ có nghĩa tương đối...”
Georg Wilhelm Friedrich Hegel (27 tháng 8 năm 1770 - 14 tháng 11 năm 1831) – người đã từng tuyên bố biện chứng pháp của tôi là lấy từ triết gia Heraclitus Êphêsô (Hy Lạp cổ đại Ἡράκλειτος không Ἐφέσιος / Hêrákleitos Ephésios ho) là một nhà triết học Hy Lạp từ cuối thế kỷ thứ sáu trước Công nguyên.). Hegel đã phát triển biện chứng pháp của Héraclite tới mức hoàn thiện, tất nhiên là biện chứng pháp tinh thần theo ý niệm tuyệt đối của ông. Sau này, một người học trò của Hegel là K. Marx đã lật ngược biện chứng pháp tinh thần của Hegel để thành biện chứng pháp duy vật của Marx. Hegel đã tìm ra quy luật chung của phép biện chứng trong tư duy, trong tự nhiên và xã hội với sự hỗ trợ của Thượng Đế. Hegel đã dùng khái niệm Thượng Đế của Spinoza (Benedictus de Spinoza hay Baruch de Spinoza (24/2/1633 - 21/2/1677) là một nhà triết học người Hà Lan gốc Do Thái) để làm một cuộc cách mạng thực sự của thần học có phần nghiêng về thuyết phiếm thần, chỉ bước nửa bước nữa là tới vô thần. Spinoza cho rằng Thượng Đế không phải là một cá thể toàn năng, độc thần, tuyệt đối như quan niệm của Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo và Hồi giáo; mà Thượng Đế chính là toàn thể vũ trụ, toàn thể thế giới tự nhiên trong đó có con người sinh sống. Hegel chỉ ra lịch sử loài người có thể phát triển tới cái tuyệt đối toàn thiện toàn mỹ (một thiên đường dưới thế) với sự hướng dẫn của Thượng Đế theo hướng chỉ đường của tính thiện căn tức chủ nghĩa nhân đạo Thiên Chúa giáo.
Marx từ bỏ đạo đức Thiên Chúa giáo của Hegel, quyết mang thiên đường từ trời xuống thế để tìm cái tuyệt đối nơi trần gian, thánh hóa con người bằng bạo lực, quyết dùng máu của giai cấp tư bản để xây dựng xã hội cộng sản ảo tưởng bằng Ý NIỆM TUYỆT ĐỐI DUY VẬT. Marx, một lần nữa, lặp lại hình ảnh triết gia Diogen của Hi Lạp xa xưa, cầm đèn đi giữa ban ngày để tìm kiếm giấc mơ cộng sản của mình trên mặt đất duy ác.
2. TÁCH TÂM RA KHỎI VẬT, ÁP ĐẶT CHỦ QUAN CON NGƯỜI LÊN VẠN VẬT LÀ SỰ KHỐN CÙNG CỦA TRIẾT HỌC TỪ PROTAGORAS ĐẾN MARX:
Triết học phương Tây từ Hi Lạp tới Marx mắc một căn bệnh trầm kha, đưa tới sự cáo chung của triết học, ấy là căn bệnh tách TÂM (duy tâm) ra khỏi VẬT (duy vật). Bệnh này đưa đến cuộc truy nguyên (tranh cãi) vô hồi kỳ trận trong triết học: TÂM có trước hay VẬT có trước, VẬT sinh TÂM hay TÂM sinh VẬT? Rằng trứng đẻ ra gà hay gà đẻ ra trứng? Rằng con người sinh ra từ con khỉ (Darwin) hay có một Đấng toàn năng nào đó nặn ra con người từ đất sét như Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo đã tin tưởng? Cho đến nay, khoa học thực nghiệm phương Tây vẫn còn ngơ ngác hỏi: vũ trụ này, tồn tại này sinh ra do TẤT ĐỊNH (do Chúa, do Đấng Toàn Năng) hay do NGẪU NHIÊN (do vụ nổ lớn Big Bang) tạo ra? Cho đến nay, câu hỏi của người Sume mở đầu văn minh Lưỡng hà (mở đầu văn minh nhân loại?), sắc dân tìm ra chữ viết để viết trên gốm sớm nhất, rằng: con người từ đâu đến, đến đây làm gì và đi về đâu vẫn chưa được các nền văn minh hậu bối trả lời, kể cả Einstein hay đức Đạt Lai Lạt Ma...
Chỉ biết rằng, cho tới hiện nay, khoa học thực nghiệm phương Tây đã dẫn dắt nhân loại qua những bước tiến khổng lồ về vật chất như tìm được bản đồ gen người, sinh sản vô tính, đưa người lên vũ trụ, dùng kính viễn vọng nhìn ra vũ trụ khôn cùng... Ngược đời thay, khoa học càng ngày càng tiến lên càng thấy mình gần với tôn giáo... Khoa học tò mò hé mắt qua kính viễn vọng thiên văn Hubble, hoặc kính viễn vọng khổng lồ Alma nhìn ra vũ trụ để thấy trái đất này, thái dương hệ này cũng chỉ là kiếp hạt bụi tí con con; hoặc bồi hồi tìm ra hạt Higgs (hạt của Chúa Trời)... chợt sợ hãi nếu đột nhiên mình lại tìm ra hạt của qủy sứ... Nhưng khoa học thực nghiệm chừng như đã bất lực, khi nó lơ mơ cảm thấy rằng hình như vũ trụ này đã được một lực lượng siêu nhiên nào đó lên chương trình từ A tới Z, đã mã hóa mọi hoạt động của con người và tự nhiên từ mở đầu đến kết thúc?
Công cuộc tách TÂM ra khỏi VẬT của nền triết học phương Tây ngót ba nghìn năm nay giờ đã đến lúc nhận lấy một hậu quả kinh hồn: toàn bộ nền văn minh vật chất đã dùng khoa học thực nghiệm đưa con người vượt lên phía trước với tốc độ siêu âm, bỏ lại nền văn minh tinh thần tiến như rùa bò vẫn còn cố níu lấy luân lý và đạo đức thế kỷ ánh sáng thứ 17, tiếc nuối thế kỷ thứ 18 của cách mạng Pháp và tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ hào sảng tính nhân văn? Trong con tàu vũ trụ trái đất bay đến tương lai, dường như tinh thần nhân loại đã bị văn minh vật chất bỏ lại ở rất xa trong quá khứ, có cơ hồn sẽ lìa khỏi xác, một nhân loại DUY VẬT không có DUY TÂM đi kèm, một nhân loại ác không có thiện đi kèm, phải chăng là dấu hiệu của ngày tận thế?
Nhân loại đang tới gần nguy cơ tự hủy diệt khi thân xác bỏ rơi linh hồn, khi khoa học bỏ rơi tôn giáo, khi cái ác bỏ rơi cái thiện, khi VẬT bỏ rơi TÂM, khi loài người sắp đánh mất tuổi thơ, đánh mất tôn giáo và Thượng Đế...?
Tách TÂM ra khỏi VẬT (và ngược lại) thì TÂM ấy không còn là TÂM, VẬT ấy cũng không còn là VẬT nữa? Tách TÂM ra khỏi VẬT (và ngược lại) khác nào tách HỒN ra khỏi XÁC. Một cái xác không hồn, cái xác ấy là một vật chết, quyết không còn là con người nữa. Một cái hồn không có xác để cư trú, cái hồn ấy chỉ có thể là hư vô.
TÂM và VẬT, HỒN và XÁC là quá trình đồng thời, tuyệt nhiên không thể dùng phương pháp phân tích theo kiểu mổ xẻ: trước hết là TÂM hay trước hết là VẬT theo kiểu triết học phương Tây đã quan niệm và cãi nhau chí chết để cùng nhau treo cổ triết học vậy.
Người phương Đông quan niệm TÂM với VẬT là một. Tôi đang bàn về Vật, cũng có nghĩa là tôi đang nói về Tâm đấy. Người phương Đông cho con người là tiểu vũ trụ nên tạo ra một tam vị nhất thể (tam tài) thống nhất THIÊN ĐỊA NHÂN. Người phương Đông coi con người là con đẻ của tự nhiên, từ tự nhiên mà sinh ra, rồi lại quay về với tự nhiên, không bao giờ coi mình cao hơn tự nhiên hay bá chủ tự nhiên như triết học phương tây quan niệm.
Bằng một danh ngôn vĩ đại, triết gia Protagoras đã chỉ hướng cho nền văn minh phương tây tha hồ áp đặt chủ quan của con người lên toàn thể vũ trụ: “Con người là thước đo vạn vật”. Sao lại lấy cái giới hạn làm thước đo cái vô hạn? Con người là tùy thể của vũ trụ hay ngược lại? Con người sinh ra vũ trụ hay ngược lại mà lại lấy con người làm thước đo vũ trụ?
Lấy VẬT phủ nhận TÂM, dùng vật chất phủ nhận mọi giá trị tinh thần con người, áp đặt chủ quan vô cùng duy tâm của mình lên mọi vật rồi gọi là duy vật chủ nghĩa, áp đặt rất nhiều điều phi lý, không tưởng của mình lên con người, lên xã hội và lịch sử con người rồi gọi là duy vật biện chứng, phủ nhận lịch sử nhân loại trước mình rồi gọi là duy vật lịch sử, Marx và Engels đã biến chủ nghĩa hoang tưởng của mình thành đoạn đầu đài để hành hình triết học, để đưa triết học phương tây vào huyệt mộ của bế tắc bằng vũ khí duy nhất là cái ác.
3. MARX TIẾP THU (LẤY) MỌI HỌC THUYẾT TRƯỚC MÌNH, TRỪ CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO
Karl Marx tiếp thu (lấy) hơn 90 % học thuyết Hegel làm học thuyết của mình, trừ Thượng Đế và chủ nghĩa nhân đạo. (Nói đến Marx, cũng có nghĩa là nói đến Engels, vì hai ông là đồng tác giả của chủ nghĩa cộng sản bạo lực. Chúng tôi không bàn đến các đao phủ thủ của chủ nghĩa duy ác là Lenine, Stalin, Mao Trạch Đông và hàng tá các đao phủ thủ tí con con Âu Á cộng sản khác...)
Ngay cả ba phạm trù nổi tiếng của Marx được cho là phương pháp luận khoa học như: lượng biến thành chất, sự phủ định của phủ định và sự đấu tranh giữa các mặt đối lập thống nhất từng là những phát hiện của Héraclite và Hegel.
Karl Marx đã xua đuổi chủ nghĩa nhân đạo ra khỏi thuyết duy vật còn biết thương người của Feuerbach (Ludwig Andreas von Feuerbach (ngày 28 tháng 7 năm 1804 - ngày 13 tháng 9 năm 1872) là một nhà triết học Đức và nhà nhân chủng học) sau khi tiếp thu (lấy) 90% học thuyết duy vật của Feuerbach thể hiện trong tác phẩm “ Hệ tư tưởng Đức” của Marx. Marx đã kết hợp biện chứng Hegel với duy vật Feuerbach để tạo ra duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Marx quét sạch chủ nghĩa nhân văn (nhân đạo) ra khỏi học thuyết cộng sản trong tác phẩm “Cộng Hòa” của Platon (Platon (tiếng Hy Lạp: Πλάτων, Platōn, "Vai Rộng"), khoảng 427-347 TCN, nhà triết học cổ đại Hy Lạp được xem là thiên tài trên nhiều lĩnh vực, có nhiều người coi ông là triết gia vĩ đại nhất mọi thời đại cùng với Socrates (Σωκράτης) là thầy ông) để lấy nguyên mẫu mô hình xã hội cộng sản này của Platon, xin trích:
“PLATON: Lí tưởng cộng sản lần đầu tiên được Platon định danh về mặt lí luận trong các trước tác của mình. Trong tác phẩm Cộng hoà, thông qua Socrates, Platon khẳng định rằng bất hoà và chiến tranh có nguồn gốc từ sở hữu:
“Sự khác nhau như thế thường xảy ra do bất đồng về những từ như ‘của tôi’ và ‘không phải của tôi’, ‘của anh ta’ và ‘không phải của anh ta’… Chả lẽ việc xây dựng một nhà nước, nơi đa số người cùng sử dụng những từ như ‘của tôi’ và ‘không phải của’ đối với cùng một loại đồ vật không phải là cách làm tốt nhất hay sao?”
Trong các phẩm Các qui luật, Platon còn dự báo một xã hội, nơi người ta không những sở hữu chung tất cả, kể cả vợ con mà còn:
“riêng tư và tư hữu bị loại bỏ khỏi đời sống, những thứ về bản chất là riêng, thí dụ như mắt và tay cũng trở thành của chung và ở mức độ nào đó người ta cùng nhìn, cùng nghe và cùng hành động, tất cả mọi người cùng ca tụng hay cùng lên án, cùng vui cùng buồn vì cùng những lí do như nhau”
Aristotle, học trò của Platon, lại ngờ rằng cái Utopia cộng sản đó sẽ không đem lại hoà bình vì một lí do đơn giản là khi cùng sở hữu thì người ta dễ sinh ra cãi cọ hơn là tư hữu. Hơn nữa, ông khẳng định rằng nguồn gốc của các tranh chấp không nằm ở sự tư hữu mà ở ước muốn được sở hữu: “không cần cào bằng sở hữu mà phải san bằng ước muốn của con người”.
(Richard Pipes - Chủ nghĩa cộng sản)- Phạm Minh Ngọc dịch
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10911&rb=08
(hết trích)
Marx cũng tiếp thu (lấy) ý tưởng về một xã hội tuyệt mỹ “ thiên đường cộng sản Thiên Chúa giáo” trong khái niệm Utopia của Thomas More (Sir Thomas More (/ m ɔr / 07 Tháng 2 1478 - 06 Tháng 7 năm 1535), được biết đến với Công giáo La Mã như Thánh Thomas More từ năm 1935)
Thomas More đã sáng tác cuốn tiểu thuyết giả tưởng có tên Utopia, mô tả một xã hội thiên đường cộng sản hữu thần, ai không tin vào Chúa sẽ bị chém đầu.Trong “Utopia xã” với quyền sở hữu đất, sở hữu tư nhân không tồn tại, nam giới và phụ nữ được giáo dục như nhau, một xã hội làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, con người gần như đã biến thành các vị thánh. Marx đã lật ngược xã hội thiên đường cộng sản hữu thần của Thomas More để trở thành xã hội thiên đường cộng sản vô thần của mình, nơi tôn giáo bị triệt tiêu, cá nhân bị triệt tiêu, cái riêng bị triệt tiêu, gia đình bị triệt tiêu, nhà nước bị triệt tiêu, giai cấp bị triệt tiêu, kỷ luật và hiến pháp bị triệt tiêu, tòa án, quân đội, công an, nhà tù, hình phạt bị triệt tiêu, cái ác, cái giả, cái xấu bị triệt tiêu, biện chứng bị triệt tiêu, trần gian bị triệt tiêu …
Cứ đà này, học thuyết Marx có thể sẽ tiến lên một bước là triệt tiêu con người vì Marx (lấy ý của Hegel) nói rằng lúc xã hội loài người phát triển đến mức tuyệt hảo là thiên đường cộng sản thì lịch sử nhân loại dừng lại, không còn sự tiến hóa nào hiện hữu nữa. Lịch sử theo ý Marx đến đây là điểm kết thúc, điểm chết. Mà lịch sử loài người biến mất thì con người sẽ cư trú trong hư vô hay trong cõi chết ư? Thật là hoang đường và phi lý (!)
Marx tiếp thu (lấy) khái niệm đấu tranh giai cấp từ nhiều triết gia trước Marx làm của mình, trong đó có ba vị tiền bối được gọi là ba nhà của chủ nghĩa xã hội không tưởng lớn nhất: Saint Simon, Fourier, Owen rồi đuổi cổ chủ nghĩa nhân đạo ra khỏi khái niệm đấu tranh giai cấp ôn hòa (phi bạo lực) của ba ông thầy này.
Marx đã lấy tư tưởng xã hội chủ nghĩa là một xã hội có nền nền kinh tế thống nhất có kế hoạch trên quy mô một quốc gia và quy mô thế giới, lần đầu tiên do Saint Simon (1760 - 1825) sáng tạo ra để làm của mình, sau khi đã xóa bỏ tính nhân đạo của học thuyết Saint Simon.
Marx đã lấy học thuyết Charles Fourier (1772 - 1837) làm của mình, trong đó có một phát minh quan trọng nhất của bậc tiền bối này, rằng tiến trình lịch sử xã hội loài người trải qua bốn giai đoạn: mông muội, dã man, gia trưởng và văn minh. Văn minh là giai đoạn tư bản chủ nghĩa, gia trưởng là xã hội phong kiến, dã man là xã hội chiếm hữu nô lệ và mông muội là xã hội cộng sản nguyên thủy. Ngay cả ý tưởng công xã (Học thuyết của Fourier về một xã hội mới là hệ thống công nghiệp mới hay chủ nghĩa công nghiệp mới theo cách gọi của ông. Đơn vị cơ sở của xã hội mới ấy bắt đầu từ các phalanges (phalănggiơ - một kiểu công xã) của Fourier) Marx cũng lấy làm của mình. Ý tưởng phải thay thế chế độ tư bản một cách triệt để bằng phương pháp hòa bình của Fourier cũng được Marx trưng thu sau khi đã đuổi chủ nghĩa nhân đạo ra khỏi học thuyết Fourier.
Học thuyết cho rằng chế độ tư hữu là nhân tố chính của sự suy đồi về đạo đức cần phải được tiêu diệt bằng phương pháp hòa bình đã được Marx lấy làm của mình sau khi đã xóa bỏ tình thương con người phi giai cấp của Owen (Robert Owen (1771 - 1858) mà Marx gọi là cải lương, thỏa hiệp, là không triệt để.
Tư tưởng “Xã hội mới đó vận hành hợp lý đó theo nguyên tắc sở hữu chung và lao động chung, kết hợp lao động trí óc và chân tay, sự phát triển toàn diện của cá nhân, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Xã hội không có giai cấp ấy là một liên minh tự do của các công xã tự quản” của Owen cũng được Marx lấy làm của mình sau khi đã từ bỏ phương pháp thiện căn của Owen để dùng bạo lực xây dựng xã hội mới do Marx chủ trương.
Học thuyết kinh tế của Marx là bắt nguồn từ hai nhà kinh tế học lớn nhất của chủ nghĩa tư bản là Adam Smith và David Ricardo.
Adam Smith, FRSE (rửa tội ngày 16 tháng 6 năm 1723, hay 5 tháng 6 năm 1723 trong lịch Julian; mất ngày 17 tháng 7 năm 1790) là nhà kinh tế chính trị học và triết gia đạo đức học lớn người Scotland; là nhân vật mở đường cho phát triển lý luận kinh tế. Bộ sách Bàn về tài sản quốc gia (Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations) đã giúp tạo ra kinh tế học hiện đại và cung cấp một trong những cơ sở hợp lý nổi tiếng nhất của thương mại tự do, chủ nghĩa tư bản, và chủ nghĩa tự do.
http://vi.wikipedia.org/wiki/Adam_Smith
Adam Smith là lý thuyết gia số một đặt nền móng cho kinh tế tư bản chủ nghĩa. Ông sinh trước Marx 95 năm và 28 năm sau khi ông mất, Marx mới ra đời. Trước Adam Smith, kinh tế phương Tây còn mang đặc thù của nền kinh tế phong kiến tuy đã manh nha nền kinh tế thương mại tư bản tư nhân còn nhỏ lẻ.
Trước Adam Smith, chủ nghĩa tư bản sơ khai đã có một số nhà kinh tế bàn đến vấn đề tự do kinh tế và tự do thương mại, bàn về các khế ước xã hội trong mối quan hệ giữa tư bản và lao động. Nhưng chính từ Adam Smith lần đầu tiên các lý thuyết về tự do kinh tế, tự do thương mại được hệ thống hóa, điều kiện hóa, xã hội hóa và quốc tế hóa. Đó là những vấn đề sống còn của chủ nghĩa tư bản nhân đạo trong mối quan hệ giữa đạo đức và kinh tế, giữa lý thuyết về giá trị lao động và thị trường tự do tự điều tiết mọi mâu thuẫn lao động và tư bản, về vấn đề chuyên môn hóa sản xuất quốc tế và sự phân công lao động, về nhân tố sản xuất quan trọng hơn nhân tố mậu dịch, về thuyết trọng thương đã vượt qua thuyết trọng nông trong tích lũy tư bản, về “lý thuyết lợi ích tuyệt đối” trong vai trò điều tiết của nhà nước trong kinh doanh quốc tế, về sức lao động là giá trị đầu tiên của nền tảng sản xuất tư bản.
Vấn đề quan trọng nhất mang tính đạo đức trong kinh tế luận Adam Smith là mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giải phóng con người khỏi nô lệ thân xác. Thương nghiệp và công nghiệp thành thị chỉ có thể phát triển khi nó gắn liền với tự do cá nhân, quyền tư hữu tối thượng và pháp lý dân chủ đại nghị. Adam Smith còn khuyến cáo nền kinh tế tư bản rằng kinh tế chỉ có thể phát triển nếu việc trả lương lao động hợp lý trở thành tiêu chuẩn mang tính lịch sử để tiến lên hữu sản hóa giai cấp vô sản. Adam Smith trong kinh tế luận của mình đã coi hợp tác trong cạnh tranh là vấn đề sống còn của xã hội tư bản.
Marx, từ người học trò trở thành người phản biện học thuyết kinh tế AdamSmith. Marx luôn luôn nói đến duy vật biện chứng và duy vật lịch sử nhưng trong cách hành xử và lập luận của mình, Marx lại là người chủ quan phi biện chứng và phi lịch sử hơn ai hết. Marx áp dụng biện chứng pháp Hegel vào mọi vấn đề để đi đến công thức cứng ngắc và thiếu khoa học là tư bản thì tuyệt đối xấu còn vô sản thì tuyệt đối tốt, rằng tư bản bóc lột dã man vô sản bằng “giá trị thặng dư”, rằng nhất định vô sản sẽ chôn tư bản để xây dựng một nền kinh tế chỉ huy, một nền kinh tế kế họach hóa toàn cầu phi cạnh tranh, một nền kinh tế xóa bỏ hoàn toàn tư hữu…Marx, bằng định kiến cố hữu đã đóng đinh tư bản vào một chỗ “bóc lột dã man” mà không cho nó sự vận động để tự sửa chữa tốt hơn.
Thực tế đã chứng minh Marx hoàn toàn sai lầm về học thuyết kinh tế duy tâm chủ quan thiếu luận chứng khoa học của mình. Học thuyết kinh tế tự do và nhân đạo của Adam Smith đã chiến thắng học thuyết chôn tư bản của Marx. Chính Marx từng nói: “ Thực tế là thước đo chân lý”. Ngày nay bốn nước cộng sản cuối cùng của thế giới là Trung Quốc, Việt Nam và bước đầu với Cuba và Bắc Triều Tiên đã từ bỏ (và dần dần từ bỏ) kinh tế tập trung, kinh tế phi cạnh tranh, kinh tế bị chính trị hóa, phi tư hữu hóa của Marx để thực thi học thuyết kinh tế tự do và nhân đạo tư bản chủ nghĩa của Adam Smith.
Nói tóm lại, hầu hết tư tưởng của Marx là lấy từ các học phái trước Marx, sau khi ông đã chối bỏ mọi điều thiện của các bản chính để duy ác hóa chủ nghĩa xã hội rất thiếu lý tính, thiếu lẽ phải của mình, rồi gọi chúng là chủ nghĩa xã hội khoa học.
4. NHỮNG CÁI SAI CĂN BẢN (SAI GỐC) CỦA HỌC THUYẾT MARX
Trong các trước tác của Marx - Engels, khái niệm “đấu tranh giai cấp” luôn luôn được đồng nghĩa với khái niệm “ bạo lực cách mạng” với các từ “duy ác” như “ tiêu diệt”, “giết sạch”, “chôn”, “tước đoạt”, “ cướp”... tức là tuyệt đối hóa hành vi giết người, hành vi tước đoạt, cướp bóc của giai cấp này với các giai cấp khác trong công cuộc tiến lên thiên đường cộng sản. Marx chỉ ra rằng lối lên thiên đường duy nhất của giai cấp vô sản chính là địa ngục của giai cấp tư sản.
Marx trong tuyên ngôn của đảng cộng sản do Engels chắp bút (trích từ “ Thư Viện Marx-engels” trên Internet) đã tuyệt đối hóa CÁI ÁC, coi CÁI ÁC là động lực duy nhất của sự phát triển lịch sử nhân loại, khi ông viết:
“Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp.”
http://www.marxists.org/…/marx-enge…/1840s/tuyen/phan_01.htm
ĐẤU TRANH GIAI CẤP BẰNG TUYỆT ĐỐI HÓA BẠO LỰC – MỘT HỌC THUYẾT PHI NHÂN
Đây chính là sự sai lầm hệ trọng nhất trong nhận thức luận của Marx về lịch sử, một sai lầm gốc trong các sai lầm gốc khác nơi Marx (xóa bỏ tư hữu, giá trị thặng dư, chuyên chính vô sản, mô hình phi nhân về con người phi biện chứng, phi lịch sử, phi logic trong xã hội bịa đặt có tên là thiên đường cộng sản...)
Lịch sử loài người là lịch sử của các cuộc đấu tranh kép (vừa hòa bình vừa bạo lực) giữa văn minh và dã man, giữa cái thiện và cái ác, giữa cái chân và cái giả, giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái vị tha và cái vị kỷ...
Việc tuyệt đối hóa cuộc đấu tranh giai cấp bằng bạo lực - tức sự giết người hay CÁI ÁC là động lực duy nhất của lịch sử tiến hóa nơi con người là một lý giải sai lầm lớn nhất của Marx để biến học thuyết cộng sản của ông thành HỌC THUYẾT DUY ÁC.
Về phát kiến tai hại này của Marx, trước hết lại bắt đầu từ lời giải thích của thầy ông là triết gia duy tâm Hegel, xin trích:
“Trong "Lutvich Foiơbăc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức", Enghen đã nhắc lại quan điểm của Hêghen (F. Hegel) về sự đối lập giữa thiện và ác và ông đã phân tích như sau: "Hêghen viết: "Người ta tưởng nêu được một chân lí vĩ đại khi nói con người bẩm sinh là thiện, song người ta quên rằng người ta còn nêu được một chân lí vĩ đại hơn nữa với lời nói này: "Con người bẩm sinh là ác". Theo Hêghen, ác là hình thức, trong đó biểu hiện động lực của sự phát triển lịch sử. Thật ra câu nói đó bao hàm hai ý nghĩa: một mặt, mỗi bước tiến mới tất nhiên là một tội ác chống lại trật tự cũ đang suy đồi, nhưng được tập quán thần thánh hoá. Mặt khác, từ khi sự đối lập giữa các giai cấp xuất hiện thì chính những dục vọng xấu xa của con người – lòng tham và sự thèm muốn quyền thế – đã trở thành đòn bẩy cho sự phát triển lịch sử".” (hết trích)
http://daitudien.net/…/triet-hoc-ve-cai-thien-va-cai-ac.html
Qua Engels ta mới biết chính Hegel, một con người luôn vịn vào vào Thượng đế để đi tìm tuyệt đối trong ý niệm, trong xã hội tuyệt hảo do ý niệm tuyệt đối dẫn đường, người hình như vẫn còn tin vào thiện căn con người, lại xúi giục Marx dùng cái ác để giải thích lịch sử của loài người là một lịch sử duy ác, do cái ác làm tiến hóa xã hội con người. Đây là một ngụy lý của thầy trò Hegel- Marx, gây ra sự tai hại vô song về sau cho những hậu duệ dùng học thuyết phi khoa học này để cải tạo thế giới bằng biện pháp duy ác, không còn chỗ cho cái thiện cư trú trong học thuyết Marx.
Trong triết học Trung Hoa, Mạnh tử (372 trước TL - 298 trước TL) một học phái Nho gia nổi tiếng nhất từng nói: “ Nhân chi sơ tính bản thiện”. Tuân tử (313 trước TL - 238 trước TL) cũng một học phái Nho gia khác sinh sau Mạnh tử 59 năm lại nói ngược rằng: “ Nhân chi sơ tính bản ác”. Từ đó, có nhiều người suy ra rằng Mạnh tử chủ trương thiện còn Tuân tử chủ trương ác. Sở dĩ Tuân tử nói như trên là để cân bằng với quan niệm duy thiện của Mạnh tử, rằng con người sinh ra đã sẵn cả tính thiện và tính ác. Bởi, thiện ác là bản năng tự nhiên tạo hóa ban cho muôn loài.
Vấn đề DUY ÁC của học thuyết Marx đấu tranh giai cấp bằng bạo lực trong việc giải thích lịch sử loài người là ông đã lấy học thuyết “đấu tranh sinh tồn tàn bạo, đào thải của tự nhiên tàn nhẫn và tồn tại của giống thích ứng với môi trường ác liệt” của Charles Robert Darwin (12 tháng 2, 1809 – 19 tháng 4, 1882) làm thành học thuyết đấu tranh giai cấp bạo lực của mình.
Darwin sinh trước Marx 9 năm và mất sau Marx một năm. Mặc dù tác phẩm trứ danh nhất của Darwin là “Nguồn gốc các loài” in lần đầu tiên năm 1859, trong khi “Tuyên ngôn của đảng cộng sản” của Marx –Engels in trước đó 11 năm, tức năm 1848, thì sao lại có chuyện Marx lấy ý tưởng của Darwin?
“Nguồn gốc các loài” là cuốn sách tổng kết những thành quả của những khám phá, nhìn nhận, ghi chép, suy đoán, kết luận của Darwin trong chuyến đi gần 5 năm, từ 1831 đến 1836, trên hải trình của tàu Beagle vòng quanh thế giới; và ông đã liên tục công bố các bài báo nhỏ về các kết quả nghiên cứu này trên báo để thăm dò phản ứng của các nhà khoa học. Marx đã lấy các ý tưởng của Darwin từ các bài báo này về sự tiến hóa của các loài qua phép thử của cái ác đặng tăng thêm tự tin để ông công bố kết luận gây choáng: lịch sử loài người là lịch sử của cái ác. Chúng ta hãy nghe Engels kể lại:
“Trên các ấn phẩm của Nguồn gốc, Marx đã tham gia vào các công việc khác. Nhưng khi ông đã có một cơ hội để đọc nó một năm sau đó, đánh giá của nó cũng tương tự như của Engels, người mà ông đã viết trên 19 tháng 12 năm 1860:
"Trong thời gian thử nghiệm của tôi [bệnh] trong bốn tuần tôi đã đọc tất cả các loại vật. Trong số những người khác, cuốn sách về chọn lọc tự nhiên của Darwin. Mặc dù nó được phát triển một cách thô tiếng Anh, đây là cuốn sách có chứa các nền tảng tự nhiên lịch sử của quan điểm của chúng tôi. "
Một tháng sau, vào ngày 16 Tháng 1 năm 1861, ông đã viết cho Lassalle trong điều kiện tương tự:
"Công việc của Darwin là quan trọng nhất và phù hợp với mục đích của tôi ở chỗ nó cung cấp một cơ sở khoa học tự nhiên cho lịch sử đấu tranh giai cấp. Một, tất nhiên, không phải đưa lên với phong cách tiếng Anh vụng về của các đối số. Mặc dù tất cả các thiếu sót của nó, nó là ở đây, lần đầu tiên, 'mục đích luận trong khoa học tự nhiên là không chỉ là một đòn chết, nhưng cũng hợp lý, ý nghĩa của nó được giải thích theo kinh nghiệm."
BLOG của Đảng xã hội chủ nghĩa thế giới (Mỹ): www.wspus.org:
Thứ Hai 16 Tháng Ba, 2009
http://translate.google.com.vn/translate…
(hết trích)
Chính Engels nói trong bài phát biểu trước mộ Marx trong đám tang của ông này, khẳng định Marx đã tiếp thu học thuyết đấu tranh sinh tồn nơi thực động vật làm học thuyết đấu tranh giai cấp trong xã hội loài người: “Giống như Darwin phát hiện ra quy luật của sự tiến hóa tự nhiên đấu tranh sinh tồn, do đó, Marx phát hiện ra quy luật của của sự tiến hóa trong lịch sử nhân loại”
http://translate.google.com.vn/translate…
Darwin và Marx trong việc tuyệt đối hóa cái ác trong sự tiến hóa của tự nhiên và sự tiến hóa của xã hội loài người đã có sai lầm đáng tiếc.
THIỆN & ÁC là phạm trù của thế giới tự nhiên và dĩ nhiên là của cả xã hội loài người.
Văn minh Ấn Độ (gần như đồng thời với văn minh Lưỡng Hà, trước văn minh Ai Cập và Hi Lạp) đã theo đạo Bà La Môn với quan niệm Thượng Đế tam vị nhất thể gồm thần sáng tạo Brahma, thấn Ác Shiva và thần Thiện Vishnu. Như vậy, Thiện và Ác chính là hai mặt của sinh diệt có sẵn trong thế giới tự nhiên trước khi con người xuất hiện. Trong thần thoại và trong các tôn giáo của nhân loại từ bình minh của lịch sử đều có thần ác, thần thiện, ông Thiện và ông Ác…Chúa và Phật, Thánh Ala của tiên tri Mohamed, Lão tử và Khổng tử... đều dạy con người hướng thiện và đấu tranh loại trừ cái ác.
Chỉ có học thuyết sinh vật học của Darwin và học tuyết cộng sản của Marx không có chỗ cho cái thiện cư trú, là hai học thuyết toàn ác, duy ác, tuyệt đối ác...
Thiện Ác gần như là một bản năng tạo hóa ban cho muôn loài từ thực vật, động vật đến con người đều dùng chung quy luật tự nhiên này. Ngay ở trong các loài thực vật, động vật quy luật tiêu diệt nhau (cái ác) để tồn tại và quy luật khoan hòa, bao dung (cái thiện) để cộng sinh hòa trộn vào nhau để cùng sinh tồn là điều không còn phải bàn cãi. Trong rừng cây nhiệt đới năm, sáu tầng mọi loài cây đều tranh nhau vươn lên để độc chiếm ánh sáng mặt trời; tuy nhiên bằng cách nào đấy, chúng vẫn để những kẽ hở cho ánh sáng mặt trời lọt xuống tận các loài cỏ, loài tảo, nấm dưới mặt đất. Đấy phải chăng chính là biểu hiện của tính thiện trong thế giới tự nhiên?
Có rất nhiều loài cây nhỏ ví như phong lan mọc ký sinh trên các thân cây cổ thụ và chúng biết sống thân thiện, hòa bình với nhau suốt đời, tuy nhiên cũng có loài cây mọc ký sinh như cây si, cây đa, cây đề đã tiêu diệt cây chúng sống nhờ (nhưng loài ký sinh duy ác này rất ít so với các loài ký sinh duy thiện).
Loài vật, ngay cả các loài ăn thịt sống bên nhau như sư tử, cọp, gấu, chó sói… cũng ít muốn gây chiến tranh với đồng loại và các loài khác giống, trừ trường hợp chúng tranh mồi hay tranh chấp con cái, tranh nhau lãnh thổ…Hầu hết các loài ăn cỏ từ voi, hưu nai, trâu, bò, dê, ngựa… chọn lối sống hòa bình trên đồng cỏ, ít khi dùng bạo lực để tranh nhau nguồn sống. Các loài ăn thịt cũng biết cách ứng xử bao dung với loài ăn cỏ. Chúng chỉ bắt loài ăn cỏ để ăn đủ no chứ không bao giờ tàn sát hàng loạt loài thú ăn cỏ như con người tàn sát đồng loại để trả thù hay để thỏa mãn tính ác. Nhờ có loài ăn thịt sống chung mà loài ăn cỏ thoát chết hàng loạt vì nạn nhân mãn, sinh sản quá nhiều không đủ cỏ để ăn. Loài ăn thịt và loài ăn cỏ ngoài cách giết nhau để làm mồi mà ta gọi là ác, chúng còn biết sống cộng sinh, bao dung nhau, che chở nhau để cùng tồn tại.
Có loài cá nhỏ chuyên môn sống trong miệng loài cá mập (sát thủ của biển) để sống bằng nghề xỉa răng cho loài cá dữ. Lại có những loài cá nhỏ sống quanh, sống trên lưng loài cá lớn để làm nghề dọn vệ sinh cho bọn ác ngư mà vẫn chung sống hòa bình với nhau từ đời này đến đời khác…
Hãy nhìn đàn cá voi săn mồi bằng cách dồn các đàn cá nhỏ lại thành một vòng tròn đen đặc; nhưng chúng chỉ ăn đủ no và bao giờ cũng để lại một phần đàn cá nhỏ kia để loài này tồn tại và phát triển.
Thiên nhiên đã tự cân bằng sinh thái, bảo đảm cho sự tồn tại của muôn loài bằng quy luật thiện ác, quy luật vừa hủy diệt vừa bao dung, vừa tàn phá vừa che chở để muôn loài cộng sinh và phát triển, tránh được sự tự hủy diệt của nạn nhân mãn.
Rất tiếc, học thuyết tuyệt đối hóa cái ác trong các quy luật tàn bạo của hội chứng móng và vuốt (chữ của Darwin) trong đấu tranh sinh tồn mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé, trong sự tàn nhẫn vô lương tâm của tự nhiên khi chọn lọc giống loài…của Darwin là một cái nhìn phiến diện, thiếu tính khoa học.
Marx đã lấy học thuyết duy ác trong các quy luật tồn tại của thực vật và động vật trong tự nhiên của Darwin áp dụng vào thế giới con người để thành thuyết đấu tranh giai cấp là một sai lầm lớn nhất trong thế giới quan duy ác của ông, tạo ra các xã hội thống trị bằng cái toàn ác, không bao giờ quan tâm đến cái thiện là chủ nghĩa nhân văn đã làm nên nhân loại.
Stephen William Hawking (là một nhà bác học lỗi lạc, nhà Vật lý người Anh sinh năm 1942. Trong nhiều thập kỉ, ông được coi là ông hoàng vật lý lý thuyết của thế giới. Hawking hiện là giáo sư Lucasian, chức danh dành cho giáo sư toán học của Đại học Cambridge. Từng đảm nhiệm vị trí này là những nhà khoa học xuất chúng như Isaac Newton và Paul Dirac) trong bài: “Lược sử thời gian” viết rằng về già, Darwin đã sám hối vì nhận ra sai lầm của học thuyết vô thần tuyệt đối hóa cái ác trong chọn lọc tự nhiên, trong đấu tranh sinh tồn của sinh vật, như sau:
“Về già Darwin lại viết:
“Có một lý lẽ rất mạnh nữa khiến tôi tin ở Thượng đế, đó là lý lẽ lý trí chứ không phải lý lẽ cảm tính. Người ta rất khó, thậm chí hầu như không thể, quan niệm được rằng: cả cái vũ trụ mênh mông và kỳ diệu này, trong đó con người với khả năng nhìn lùi lại quá khứ và hướng về tương lai, lại có thể là kết quả của một sự ngẫu nhiên mù quáng hay một tất yếu. Sau khi suy nghĩ miên man như vậy, tôi tự cảm thấy phải tin rằng có một cội nguồn khởi thủy có trí thông minh tương tự như người, nghĩa là tôi tin có thượng đế. Trong thời gian viết bộ Nguồn gốc các chủng loại, tôi nhớ là tâm trạng của tôi là như vậy. Tuy nhiên qua nhiều diễn biến thăng trầm về sau, niềm tin của tôi không còn được như trước. Đến đây lại nảy sinh một mối hoài nghi: Tôi tự hỏi làm sao có thể tin được rằng linh hồn con người, thoạt đầu không khác gì linh hồn các loài vật hạ đẳng nhất, lại có thể suy luận tới những kết luận bao la như vậy?”
Darwin không trả lời câu hỏi và kết luận như sau:
“Tôi không có tham vọng rọi sáng những vấn đề trừu tượng đó. Chúng ta không thể biết nổi nguồn gốc của vạn vật và tôi đành cam nhân mình là người theo chủ trương lý trí hữu hạn”.
http://tusach.thuvienkhoahoc.com/…/L%C6%B0%E1%BB%A3c_s%E…/14
Từ học thuyết đấu tranh giai cấp bằng tuyệt đối hóa sự giết chóc, Marx đã đưa giai cấp vô sản lên thành giai cấp lãnh đạo tuyệt đối bằng chuyên chế độc tài. Đây chính là vấn nạn khổ đau vô tận cho người dân phải sống trong địa ngục chuyên chế vô sản duy ác trong các chế độ cộng sản đã và đang bị cả loài người văn minh lên án..
(hết trích)
XÓA BỎ TƯ HỮU – MARX XÓA BỎ CHÍNH CON NGƯỜI
Kết luận của Marx: “Lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp”, mà khái niệm “đấu tranh” của Marx đồng nghĩa với bạo lực, với cái ác, với sự giết người hàng loạt không hề biết thương xót; đây là một lý giải quá tầm bậy của ông. Lấy cái ác để giải thích sự phát triển của lịch sử nhân loại, Marx chính là một kẻ phi nhân.
Marx thể hiện sự phi nhân khác của mình khi ông giải thích chính tư hữu (sở hữu) là nguyên nhân gây ra sự phân chia giai cấp trong xã hội, tức là nguyên nhân mọi đau khổ của con người. Trong tuyên ngôn của đảng cộng sản, Marx viết:
“Theo ý nghĩa đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xoá bỏ chế độ tư hữu.
http://www.marxists.org/…/marx-enge…/1840s/tuyen/phan_02.htm
Nói tóm lại, ông buộc tội chúng tôi là muốn xoá bỏ sở hữu riêng của các ông. Quả thật, đó chính là điều chúng tôi muốn.”
http://www.marxists.org/…/marx-enge…/1840s/tuyen/phan_02.htm
Khi nghiên cứu tác phẩm “Cộng Hòa” của Platon (như vừa dẫn), Marx thấy Platon nói rằng vì con người có ý thức về tư hữu, sở hữu nên mới sinh ra tranh giành cướp đoạt của nhau; rằng muốn xây dựng một chế độ cộng sản lý tưởng thì phải xóa bỏ tư hữu. Ý tưởng này của Platon đã được các tiền bối của phái chủ nghĩa xã hội không tưởng trước Marx nhắc lại và đưa vào học thuyết giả tưởng của mình, nên Marx nhất quyết xóa bỏ tư hữu nơi con người nếu con người đó bị buộc phải vào sống trong thế giới cộng sản của ông.
Vả, nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng trước Marx là Charles Fourier từng cho rằng trong xã hội mông muội của loài người (tức xã hội cộng sản nguyên thủy theo cách gọi của Marx) con người chưa từng biết tư hữu về tư liệu sản xuất và công cụ sản xuất, nên Marx coi đây là một bằng chứng của chân lý.
Marx lại nghiên cứu những bài báo của Lewis H. Morgan, nhà nhân chủng học người Mỹ sinh cùng năm với Marx (1818) và chết trước ông hai năm, từng viết rằng, trong xã hội cộng sản nguyên thủy con người chưa biết tư hữu. Từ đây, Marx tưởng mình đã đầy đủ dẫn chứng nhân chủng học khi ông lấy ý này của Morgan làm căn cứ khoa học của mình. Chúng ta hãy theo dấu Engels để biết Marx bị ảnh hưởng từ Morgan:
“Dựa trên các kết quả và phát hiện của Lewis H. Morgan (Lewis Henry Morgan (21 tháng 11 1818 - ngày 17 tháng 12 năm 1881) là một nhà nhân chủng học người Mỹ tiên phong và lý thuyết xã hội đã làm việc như một luật sư đường sắt), Friedrich Engels đã phân tích lịch sử nhân loại trong những giai đoạn sớm nhất của nó, luận chứng quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy và quá trình hình thành của xã hội có giai cấp, dựa trên chế độ tư hữu. Ông cũng vạch rõ những đặc trưng của xã hội đó, giải thích sự phát triển của các quan hệ gia đình trong các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, chỉ ra nguồn gốc và bản chất của Nhà nước, chứng minh sự tất yếu diệt vong của Nhà nước và xã hội có giai cấp nói chung.
Engels bắt đầu viết cuốn này từ cuối tháng Ba năm 1884, và tới hết tháng Năm năm đó thì hoàn tất. Khi đọc các bản thảo viết tay của Marx, Engels đã tìm thấy một bản tóm tắt cuốn "Xã hội Cổ đại" của L.H. Morgan, nhà khoa học tiến bộ người Mỹ, được Marx ghi trong các năm 1880-1881, có nhiều nhận xét phê phán và luận điểm của chính Marx.
Sau khi đọc bản tóm tắt, Engels nhận thấy cuốn sách của Morgan đã xác minh quan điểm duy vật lịch sử và các quan điểm về xã hội nguyên thủy của Marx và mình đề xuất, và thấy cần viết một tác phẩm riêng, sử dụng các tài liệu và kết luận của Morgan và Marx.”
http://vi.wikipedia.org/wiki/Friedrich_Engels
(hết trích)
Thưa rằng, kết luận của Morgan và Marx khi hai ông cho rằng con người mông muội ăn chung ở chung ngủ chung làm chung (cộng sản nguyên thủy) không biết tư hữu là một kết luận sai lầm đến mức ấu trĩ.
Tư hữu, sở hữu là bản năng tạo hóa dành cho muôn loài từ cây cỏ, muông thú đến con người. Từ con kiến, con ong, đến con chim, con chuột, con cọp, con sư tử …đều biết sở hữu tổ của mình. Chúng có thể chiến đấu đến chết để bảo vệ tổ, bảo vệ con cái của mình, bảo vệ các con của mình. Ngay cả loài cây, tức là các loài thực vật… đều biết sở hữu vùng ánh sáng, tranh nhau vùng ánh sáng và dùng rễ để tranh nhau các chất màu trong đất.
Bản năng tư hữu, sở hữu đã có trong cả thế giới khoáng vật, động thực vật, sao đến loài động vật cao cấp là con người dù con người trong thời mông muội (cộng sản nguyên thủy) lại quên đi một bản năng tồn tại là bản năng sở hữu, tư hữu như hai ông mạo danh khoa học kết luận là ông Morgan và Marx là sao?
Hai đứa bé sinh đôi trong bụng mẹ chưa chào đời còn có bản năng sở hữu, tư hữu khi chúng đá nhau tranh giành không gian chật chội, xin trích:
“Nếu như bạn không tin thì hãy đến với đoạn video thú vị dưới đây được các nhà nghiên cứu Anh quay lại được. Đáng chú ý của cặp song sinh này chiến đấu với nhau để có chỗ duỗi chân thoải mái trong bụng mẹ vốn đang chật chội.
"Cuộc chiến" của cặp sinh đôi này xem ra bất phân thắng bại.
Cảnh quay trong video cho thấy đôi chân của bào thai nhỏ hơn đang duỗi chân ra về phía bào thai to, như thể nó đang rất cố gắng để đẩy chân hoặc đá chân vào người anh chị em mình, mặc dù sự thật, diễn giải này không phải là chắc chắn đang xảy ra giữa các bào thai.
"Nếu bạn đang mang thai sinh đôi thì chúng không thể đứng yên một vị trí nhất định", tiến sĩ Marjorie Greenfield, giám đốc bộ phận sản khoa nói chung và phụ khoa nói riêng tại Đại học Trung tâm y tế ở Cleveland (Luân Đôn, Anh) cho biết.
Greenfield, mẹ của cặp song sinh ban đầu còn tỏ ra do dự, không tin vào mắt mình khi tận mắt chứng kiến video cảnh hai đứa con của mình đá nhau. Greenfield nói rằng: "Hai đứa trẻ đã đá vào bụng tôi, chúng đang đấu đá nhau. Trải nghiệm thú vị này, chỉ bây giờ tôi mới có được".
http://hn.eva.vn/…/cap-song-sinh-dau-vo-trong-bung-me-c85a1…
Hình ảnh được chụp lại từ video. (Theo ABC news)
Nếu con ong, con chim, con thú... không có bản năng tư hữu, sở hữu, khi đi kiếm ăn ở những vùng xa tổ của nó, xa hang của nó có khi cả trăm cây số, chắc là nó không thèm quay về, hoặc không còn thiết tha với cái tổ, với lũ con không thuộc sở hữu của nó, thì muôn loài chắc đã bị hủy diệt từ lâu?
Con người (cũng như cây cỏ muông thú), được tạo hóa ban cho bản năng gốc là bản năng tư hữu (sở hữu). Cái sở hữu đầu tiên của con người là tôi chính là của tôi, thân xác tôi, tay tôi, mắt tôi, tư tưởng của tôi là sở hữu của chính tôi; rồi vợ của tôi, con của tôi, nhà của tôi, đất nước của tôi...Đến ngôn ngữ cũng có động từ, danh từ sở hữu huống nữa là con người. Nếu theo Marx, thử bỏ các từ “của” đi thì cuốn “ Tư bản luận” sẽ thành vô nghĩa. Con người bị Marx xóa đi cái sở hữu, tức là xóa cái tôi, tức xóa chính nó, xóa cá nhân, tức xóa chính con người.
Đưa con người trở về thời đại hão huyền bịa đặt là cộng sản nguyên thủy để xóa tư hữu, tức là Marx xóa chính con người. Do đó học thuyết Marx là một học thuyết phi nhân.
CHỦ NGHĨA MARX XÓA BỎ TÔN GIÁO, XÓA BỎ ĐẠO ĐỨC, XÓA BỎ LỊCH SỬ THÀNH VĂN NHÂN LOẠI, XÓA BỎ GIA ĐÌNH, XÓA BỎ TỔ QUỐC, XÓA BỎ NHÀ NƯỚC, XÓA BỎ ĐIỀU THIỆN, XÓA BỎ NHÂN TÍNH, XÓA BỎ PHÉP BIỆN CHỨNG…TỨC MARX MUỐN XÓA BỎ LOÀI NGƯỜI
Từ học thuyết “tha hóa” và học thuyết “phủ định của phủ định” của Hegel, Marx tiến tới xã hội cộng sản tước bỏ tư pháp, tước bỏ đạo đức, tước bỏ gia đình, tước bỏ xã hội công dân, tước bỏ nhà nước, tước bỏ lịch sử thế giới:
“C.Mác cũng đã vạch ra quan niệm của Hêghen về tha hoá trong xã hội: “Chẳng hạn như trong triết học pháp quyền của Hêghen, - C.Mác viết -, tư pháp đã bị tước bỏ là đạo đức, đạo đức đã bị tước bỏ là gia đình, gia đình đã bị tước bỏ là xã hội công dân, xã hội công dân đã bị tước bỏ là nhà nước, nhà nước đã bị tước bỏ là lịch sử thế giới. Trong hiện thực thực tế, tư pháp, đạo đức, gia đình, xã hội công dân, nhà nước, v.v. tiếp tục tồn tại như trước, chúng chỉ trở thành những nhân tố, những hình thức sinh tồn và hình thức tồn tại hiện có của con người, những hình thức và nhân tố này nếu cô lập với nhau thì không có sức mạnh, chúng xoá bỏ lẫn nhau, sản sinh lẫn nhau v.v. những nhân tố của vận động””.
http://www.vientriethoc.com.vn/…
(hết trích)
Trong “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”, Marx từng tuyên bố những người cộng sản (đảng của giai cấp công nhân) không có tổ quốc:
“Công nhân không có tổ quốc. Người ta không thể cướp của họ cái mà họ không có. Vì giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc[9], phải tự mình giành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu.”
http://www.marxists.org/…/marx-enge…/1840s/tuyen/phan_02.htm
Cho nên cờ của các đảng cộng sản trên thế giới đều là cờ búa liềm, cờ của Liên Xô. Từ khi Liên Xô sụp đổ (1991), những người cộng sản trên khắp thế giới đều mồ côi tổ quốc.
Cũng trong “Tuyên ngôn của đảng cộng sản” Marx tuyên bố thẳng thừng những người cộng sản triệt để xóa bỏ các thành tựu nhân văn của quá khứ:
“Cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với những quan hệ sở hữu kế thừa của quá khứ; không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy rằng trong tiến trình phát triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tưởng kế thừa của quá khứ.”
http://www.marxists.org/…/marx-enge…/1840s/tuyen/phan_02.htm
Khi người cộng sản tuyên bố đoạn tuyệt với các tư tưởng kế thừa của quá khứ, tức họ đoạn tuyệt với các tư tưởng nhân văn quá khứ đã làm nên nhân loại; họ xóa bỏ và đoạn tuyệt với các nền văn minh tiền Marx như văn minh Lưỡng Hà, văn minh Ai Cập, văn minh Hi-La, những giá trị nhân bản vô cùng của thời Phục Hưng, thời Ánh Sáng…Và các tư tưởng nhân văn của Cách mạng Pháp với khẩu hiệu Tự do-Bình đẳng-Bác ái cũng bị Marx đoạn tuyệt và xóa bỏ. Như thế này, chính Marx đã xóa sổ học thuyết của ông toàn bắt nguồn từ các dòng tư tưởng xưa cũ. Chính Marx đã khai tử duy vật lịch sử và duy vật biện chứng của ông vậy.
Marx và những người cộng sản tuyên bố thẳng thừng họ chỉ có một biện pháp duy ác dùng bạo lực để lật đổ thế giới cũ. Con đường họ tiến lên xây dựng thiên đường cộng sản là con đường đẫm máu các giai cấp hữu sản:
“Những người cộng sản coi là điều đáng khinh bỉ nếu giấu giếm những quan điểm và ý định của mình. Họ công khai tuyên bố rằng mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện hành. Mặc cho các giai cấp thống trị run sợ trước một cuộc Cách mạng cộng sản chủ nghĩa! Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ. Họ sẽ giành được cả thế giới.
Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!
http://www.marxists.org/…/marx-enge…/1840s/tuyen/phan_04.htm
Marx từng viết về việc xóa bỏ tôn giáo với hai lời tuyên bố rùng rợn như sau:
“Điều kiện tất yếu đầu tiên cho hạnh phúc của nhân dân là sự bãi bỏ tôn giáo.
The first requisite for the happiness of the people is the abolition of religion.”
“Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân.
Religion is the opium of the masses.”
http://www.tudiendanhngon.vn/…/search/karl-marx/default.aspx
Tôn giáo là bước phát triển văn hóa lớn nhất của con người từ mông muội đến văn minh. Cứ giả sử như không có Thượng Đế đi chăng nữa, thì sự sáng tạo ra Thượng Đế là sự sáng tạo lớn nhất của con người nhằm thiêng liêng hóa hình ảnh của mình, giúp con người khác xa con vật. Nhờ có tôn giáo, nhờ có Thượng Đế làm chỗ dựa tinh thần, làm cứu cánh giúp con người thoát khỏi mọi nỗi sợ hãi, thoát khỏi cô đơn, giải tỏa được nỗi sợ chết có thể làm con người điên loạn mà tự hủy diệt mình. Tôn giáo chính là con đường nhân loại cởi bỏ lốt thú vật để khoác lên mình bộ cánh thiên giới bay đến chân trời văn minh hôm nay. Xóa bỏ tôn giáo, khác gì Marx đã xóa bỏ chính con người.
Ta mới hiểu vì sao các xã hội cộng sản hậu bối của Marx thực thi mệnh lệnh tiêu diệt tôn giáo khủng khiếp nhường vậy. Xin bạn đọc vào công cụ tìm kiếm http://google.com rồi đánh tên tác giả và tác phẩm: “ Tân tử Lăng Mao Trạch Đông ngàn năm công tội” do Thông tấn xã Việt Nam dịch và in năm 2009, sẽ thấy Mao Trạch Đông và cộng sản Trung Hoa phá nát đình chùa miếu mạo nhà thờ trên đất Trung Hoa khủng khiếp ra sao.
Ở Việt Nam, chính người viết bài này đã mục kích cảnh đảng ra lệnh cho dân quân phá hủy nhà thờ, chùa chiền hồi cải cách ruộng đất tàn bạo vô cùng. Hãy đọc một đoạn nhà văn Đỗ Chu kể lại chiến dịch đảng cộng sản Việt Nam ra lệnh đốt phá các chùa chiền trên núi Yên Tử ra sao:
“Hỏi các vị bô lão trong vùng mới biết có chỗ là do Tây đốt, có chỗ là do ta đốt, ta đốt phá mới nhiều mới dữ. Một cụ chống gậy lọm khọm bước đến trước tôi kể, chính tôi hồi ấy đã được cấp trên gọi đi đốt phá cả chục ngôi chùa, tượng lớn tượng nhỏ cho trôi sông tuốt. Rồi ông cụ tặc lưỡi cười rất thành thực, thì cái thời nó thế, tôi lúc đó trẻ đang hăng lắm, được phong làm trưởng ban phá hoại huyện.”
(trích bài “ NĂM THÁNG GỌI VỀ” –ĐỖ CHU báo Văn Nghệ số Tết 2013)
http://www.vanvn.net/news/9/3118-nam-thang-goi-ve.html
Xin hãy nghe nhà văn Võ Văn Trực kể như sau:
“Ở làng tôi, đền chùa miếu mạo, nhà thờ họ, mộ cổ, rừng cổ, cây cổ thụ đã bị phá trụi, không còn gì để phục hồi nữa”
(Chuyện Làng Ngày Ấy của Võ Văn Trực do NXB Lao Động ấn hành tháng 6 năm 1993)
Marx viết: “Chế độ cộng sản bãi bỏ những chân lý muôn thưở, nó bãi bỏ tôn giáo và đạo đức thay vì cải cách nó; và nó đi ngược lại tất cả những phát triển lịch sử trước nó” (Marx et Engels – Manifeste du Parti communiste – trang 51. www.librio.net)
Có phải vì những lời giáo huấn duy ác này của Marx mà ta thấy trong các chế độ cộng sản cái ác lên ngôi, cái đểu lên ngôi, cái xấu lên ngôi, cái giả lên ngôi, cái dối trá lưu manh lên ngôi hay không?
Marx chính trị hóa triết học, cách mạng hóa lý thuyết ảo tưởng của mình bằng hai câu nói mà nhiều người khen là tuyệt vời hơn các triết gia khác: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, vấn đề là cải tạo thế giới “…“Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”
http://vi.wikipedia.org/…/Tri%E1%BA%BFt_h%E1%BB%8Dc_M%C3%A1…
Chính khái niệm “ cải tạo thế giới” bằng triết học này của Marx đã góp phần làm hỏng cả triết học lẫn con người. Biến triết học còn nhiều điều chưa hợp lý, chưa khoa học, thậm chí chỉ là những giả định,những ý niệm chủ quan duy tâm của mình thành vũ khí giết người của Marx thì lý thuyết này khác gì tòa án giáo hội thời trung cổ dùng giàn hỏa thiêu để thực thi đức tin tôn giáo độc quyền của nhà thờ. Thực ra, bản chất triết học nói cho cùng chính sự hoài nghi của con người về tồn tại. Không thể có một học phái triết học nào trở thành chân lý tuyệt đối. Lấy thuyết cộng sản của mình làm chân lý tuyệt đối để tiêu diệt các học phái triết học khác, chính Marx mới là ngụy triết học, phản triết học.
Theo Engels định nghĩa triết học: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”. Lấy tư duy về tồn tại để cải tạo thế giới là một sự lầm lạc đáng tiếc gây ra cái chết đau thương cho hàng trăm triệu con người là nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản do Marx vẽ vời ra để các nhà cách mạng đồ tể thực thi.
Rất tiếc, 05 tháng trước khi qua đời, Engels đã nhận ra sai lầm của mình và Marx khi ông viết “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”, rằng học thuyết dùng cái ác, dùng bạo động để giành chính quyền của giai cấp vô sản đã bị thời đại bỏ qua, đã bị chủ nghĩa tư bản nhân đạo bỏ qua:
“Ngày 6-3-1895, trong lời nói đầu của cuốn: “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, Engels viết: “Lịch sử chứng tỏ chúng ta từng mắc sai lầm. Quan điểm của chúng ta hồi đó chỉ là ảo tưởng. Lịch sử còn làm được nhiều hơn. Phương pháp đấu tranh năm 1848 nay đã lỗi thời về mọi mắt...” (Engels qua đời 5-8-1895)
Engels còn kể lại có vẻ khôi hài rằng: “Marx nói với Lafargue: «Tôi, Karl Marx, không phải là người Marxiste » – Thư Engels gửi Berstein - 3/11/1882”
Sự sám hối của Engels hình như đã muộn, học thuyết duy ác của các ông đã bị Lenine bắt cóc đưa về Nga để làm cuộc tàn sát vĩ đại con người có tên là cộng sản.
Tại quê hương Marx sinh ra, vùng Trèves, người ta có dựng lên một bức tượng của Marx, nhưng người ta có đề hàng chữ ở dưới chân tượng: "Đây là nơi sinh ra Marx, nhưng ở đây không chấp nhận tư tưởng của ông ta..."
Những nhà xã hội chủ nghĩa dân chủ nhân đạo như Karl Kautsky, Wilhelm Liebknecht, August Bebel, Ferdinand Lassalle... đồng thời với Marx hay sau Marx đã chia tay học thuyết xã hội chủ nghĩa bạo lực của Marx để xây dựng một xã hội chủ nghĩa dân chủ, bác bỏ thuyết đấu tranh giai cấp, bác bỏ chuyên chính vô sản, bác bỏ xóa tư hữu, bác bỏ kinh tế tập trung của Marx, chủ trương đa nguyên kinh tế và đa nguyên chính trị để giúp giai cấp vô sản đấu tranh bằng nghị trường ôn hòa. Những nhà xã hội chủ nghĩa dân chủ nhân đạo trên từng bị Marx, Engels, Lenine nguyền rủa nặng nề nhưng hướng đi của họ là đúng, đã dẫn dắt châu Âu và chủ nghĩa tư bản đến thành công mỹ mãn như hôm nay, chiến thắng hoàn toàn học thuyết dùng cái ác để cải tạo thế giới của Marx.
Ngày 25 tháng 1 năm 2006, tại thành phố Strasburg (Pháp), Hội đồng Châu Âu (tiếng Anh: Parliamentary Assembly of the Council of Europe; tiếng Pháp: Assemblée parlementaire du Conseil de l'Europe), một cơ quan dân cử của 46 quốc gia châu Âu đã có cuộc họp thường niên (bốn lần trong một năm) bỏ phiếu và thông qua (99 phiếu thuận, 42 phiếu chống) Nghị quyết 1481 (2006) [2] với các điều khoản lên án chủ nghĩa cộng sản và đồng nhất chủ nghĩa này với tội ác chống lại loài người.
http://vi.wikipedia.org/…/Ngh%E1%BB%8B_quy%E1%BA%BFt_1481_c…
Để kết thúc bài viết, chúng tôi xin trích lời của hai nhà văn quân đội, hai vị cựu đại tá là nhà văn Tân Tử Lăng bên Trung Quốc (hiện đang sống tại Trung Quốc và không bị bắt bớ vì dám nói thật) và nhà văn cựu đại tá Nguyễn Khải (đã mất) của Việt Nam, từng viết như sau:
Đây là lời của nhà văn đại tá Tân Tử Lăng Trung Quốc:
“Thiên đường cộng sản chủ nghĩa do chính Mao thiết kế và lãnh đạo xây dựng đã biến thành địa ngục trần gian.”
http://www.viet-studies.info/…/MaoTrachDong_NganNamCongToi.…
(Mao Trạch Đông ngàn năm công tội- Tân Tử Lăng – Thông tấn xã Việt Nam dịch và in 2009)
“Phải tiến hành một cuộc chuyển đổi ý thức hệ sâu sắc, tuyên bố công khai và rõ ràng trước toàn đảng, toàn dân: từ bỏ những giáo điều “tả” khuynh từ Mác, Ăng-ghen, Lenin, Stalin đến Mao Trạch Đông - những lý luận đã mấy chục năm đưa Trung Quốc vào con đường sai lầm, đem lại cho Trung Quốc nghèo nàn, rối loạn và chuyên chế, đến nay vẫn cản trở và phủ định công cuộc cải cách-mở cửa.” (Tân Tử Lăng- sách đã dẫn)
Và đây là lời trăn trối lại trước khi chết của nhà văn Việt Nam đại tá Nguyễn Khải:
“Những gì mà chủ nghĩa cộng sản hứa sẽ thành hiện thực trong tương lai thì cái hiện thực ấy sẽ giết chết cả loài người….Quả thật dân tộc Việt Nam đã thắng lớn trong phong trào chiến tranh giải phóng nhưng lại thua đậm trong công cuộc xây dựng một xã hội tự do và dân chủ. Thoát ách nô lệ của thực dân lại tự nguyện tròng vào cổ cái ách của một học thuyết đã mất hết sức sống.”
(trích bài: “ĐI TÌM CÁI TÔI ĐÃ MẤT” của nhà văn Nguyễn Khải – giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật).
Viết nhân dịp kỷ niệm 195 năm ngày sinh của Karl Marx (5.5.1818 – 5.5.2013) và kỷ niệm 130 năm ngày mất của ông (14.3.1883- 14.3.2013)
Sài Gòn ngày 10-04-2013
Trần Mạnh Hảo
danlambaovn.blogspot.com
BIỂN ĐÔNG
Các nước ASEAN bày tỏ 'quan ngại sâu sắc' với TQ về Biển Đông
TQ không cho Philippines cắm cờ trên Bãi cạn ScarboroughReuters dẫn lời ông Joy Ban-eg, người đứng đầu nhóm Kalayaan Atin Ito, cho hay cảnh sát biển Trung Quốc không cho nhóm của ông tới gần bãi cạn Scarborough Ngoại trưởng Singapore Vivian Balakrishnan nói các ngoại trưởng ASEAN đã bày tỏ quan ngại sâu sắc với Trung Quốc về những diễn biến gần đây ở Biển Đông tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN-Trung Quốc Đặc biệt tại thành phố Côn Minh, ở tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, hôm thứ Ba, 14/6.
Hội nghị do Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị và Ngoại trưởng Singapore đồng chủ tọa. Singapore hiện là điều phối viên về quan hệ đối thoại ASEAN-Trung Quốc.
Bộ Ngoại giao Singapore cho hay tại hội nghị, các ngoại trưởng đã nêu bật nhu cầu “tăng cường các nỗ lực để đạt tiến bộ hơn nữa trong việc thực thi Tuyên bố về Ứng xử của Các Bên ở Biển Đông và việc xây dựng một cách thực chất Bộ Quy tắc Ứng xử”.
Tại hội nghị, tiếp tục nỗ lực của Bắc Kinh nhằm làm giảm mối quan ngại về việc họ đòi chủ quyền ở Biển Đông, Ngoại trưởng Vương Nghị nói với những người đồng nhiệm của ASEAN rằng hai bên cần có “tầm nhìn dài hạn” khi cố gắng giải quyết tranh chấp.
Những phát biểu của ông Vương Nghị cho thấy rõ Trung Quốc rất muốn hạn chế những thiệt hại đối với danh tiếng của nước này liên quan đến những chiến thuật đòi chủ quyền của họ ở vùng biển rất quan trọng về mặt chiến lược và giàu tài nguyên. Bốn trong số 10 nước thuộc Hiệp hội Các Quốc gia Đông Nam Á có tuyên bố chủ quyền về các đảo và bãi cạn ở Biển Đông, chồng lấn với những tuyên bố của Trung Quốc.
Cũng hôm thứ Ba, ông Vương Nghị đã có cuộc gặp riêng với Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh.
="Tàu Cảnh sát biển Trung Quốc tại Bãi Cỏ Mây trong quần đảo Trường Sa ở Biển Đông.">
Ngoại trưởng Trung Quốc kêu gọi Việt Nam cùng bảo vệ hòa bình và ổn định trên biển, cũng như gia tăng hợp tác trong thương mại trên biển và đất liền, bên cạnh đó là lĩnh vực tài chính.
Truyền thông Việt Nam đưa tin ông Phạm Bình Minh đã bày tỏ quan ngại của Việt Nam về những diễn biến phức tạp ở Biển Đông vừa qua; đề nghị hai bên tuân thủ thỏa thuận và nhận thức chung quan trọng của lãnh đạo cấp cao hai nước về việc kiểm soát tốt bất đồng, không có hành động làm phức tạp thêm tình hình; thúc đẩy các cơ chế đàm phán về các vấn đề trên biển đạt tiến triển; cùng ASEAN thực hiện hiệu quả “Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông”, và sớm xây dựng “Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông”.
Quan hệ của Trung Quốc với Việt Nam đã ở trong trạng thái căng thẳng vì những tranh chấp ở Biển Đông, lại bị thử thách thêm nữa sau khi Mỹ quyết định dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương kéo dài nhiều thập niên đối với Việt Nam.
Trong chuyến thăm Việt Nam mới đây, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã bày tỏ hy vọng về một kỷ nguyên mới với mối quan hệ chặt chẽ hơn về kinh tế và quân sự với Việt Nam.
Trước khi hội nghị diễn ra, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị nói hôm thứ Hai rằng Bắc Kinh sẽ kiên quyết bác bỏ bất cứ “sự quấy nhiễu” nào từ các thế lực bên ngoài vào hòa bình và ổn định của Đông Nam Á.
Tại bữa tiệc tối chào mừng các quan chức tham gia Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN-Trung Quốc Đặc biệt, ông Vương Nghị kêu gọi các nước ASEAN bảo vệ nền hòa bình phải khó khăn mới có được và không cho các thế lực bên ngoài quấy nhiễu sự hợp tác của khu vực với Trung Quốc.
Trong số các thành viên ASEAN, Việt Nam phản đối mạnh mẽ việc Trung Quốc đặt một dàn khoan thăm dò dầu khí trong vùng biển có tranh chấp, còn Philippines đã nộp đơn khiếu nại lên một tòa trọng tài của Liên Hiệp Quốc, thách thức tuyên bố của Trung Quốc đòi chủ quyền đối với hầu hết Biển Đông.
Brunei và Malaysia cũng đòi chủ quyền ở đó, còn vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia chồng lấn lên những khu vực Trung Quốc đòi chủ quyền.
Trung Quốc đã từ chối hợp tác với tòa trọng tài LHQ và nói sẽ bỏ ngoài tai bất cứ phán quyết nào của tòa, cho dù các chuyên gia Trung Quốc và nước ngoài đều cho là làm như vậy sẽ ảnh hưởng xấu đến mong muốn của Trung Quốc được coi như một thành viên đáng tin cậy trong cộng đồng quốc tế đặt nền tảng trên luật lệ.
Theo Straittimes, Japantimes, Scmp
13.06.2016
Tin tức: http://www.facebook.com/VOATiengViet, http://www.youtube.com/VOATiengVietVideo, http://www.voatiengviet.com. Nếu không vào được VOA, xin các bạn hãy vào http://vn3000.com để vượt tường lửa. Các ngoại trưởng ASEAN, Trung Quốc mở cuộc họp đặc biệt. Ngân hàng Thế giới cho Việt Nam vay 310 triệu đôla để đối phó với biến đổi khí hậu. Giáo dân Nghệ An tuần hành đòi minh bạch thông tin về thảm họa môi trường. Mỹ tưởng niệm các nạn nhân vụ xả súng ở Orlando. Mỹ tiếp tục điều tra động cơ vụ xả súng tại Orlando. Bangladesh bắt hơn 5.000 nghi can tội phạm. Nổ bom ở trung tâm thương mại của Beirut, Li Băng.
http://www.voatiengviet.com/content/asean-bay-to-quan-ngai-sau-sac-voi-trung-quoc-ve-bien-dong/3375305.htmlChâu Âu phản công lại Bắc Kinh tại Biển Đông
Pháp đã chính thức nhảy vào cuộc tranh cãi gay gắt về Biển Đông, kêu gọi các quốc gia Châu Âu đi tuần tra trong vùng biển nhiều tranh chấp này.
Bộ trưởng Quốc Phòng Pháp Jean-Yves Le Drian, phát biểu tại Hội nghị An ninh ở Singapore kêu gọi hải quân Châu Âu phải có mặt “thường xuyên và rõ rệt” trong vùng Biển Đông để duy trì luật biển và quyền tự do hải hành. Ông nói, “Nếu chúng ta muốn kiềm chế nguy cơ xung đột thì chúng ta phải bảo vệ quyền này và phải tự tay bảo vệ.”
Mặc dầu ông Bộ trưởng Quốc Phòng Pháp không nêu đích danh Trung Quốc, phát biểu của ông chẳng khác gì lời chỉ trích Bắc Kinh. Ông nói, “Nếu luật biển không được tôn trọng ngày hôm nay tại Biển Đông thì luật biển sẽ bị đe dọa mai đây tại vùng Bắc Cực, vùng Địa Trung Hải, hoặc các vùng biển khác.”
Lập trường của Pháp là phản ứng bất lợi mới nhất của quốc tế đối với thái độ ương ngạnh của Trung Quốc trong vùng Biển Đông, nơi có hơn 5 nghìn tỉ đô la hàng hóa chuyển vận hàng năm.
Cuộc hội thảo an ninh tại Singapore quy tụ các viên chức quốc phòng cao cấp và giới ngoại giao để bàn luận các thách thức an ninh mà Châu Á đang đối diện. Bắc Kinh ra sức bảo vệ chính sách của họ tại diễn đàn này và cáo buộc Hoa Kỳ can thiệp vào chuyện trong vùng. Tuy thế Trung Quốc lại là đối tượng bị các quốc gia khác chỉ trích một cách gián tiếp. Bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ, ông Ash Carter đưa ra lời cảnh báo Trung Quốc tại hội nghị. Trung Quốc sẽ gặp phải “hành động” của Hoa Kỳ nếu họ tìm cách xây đắp bãi cạn Scarborough đang tranh chấp với Phi Luật Tân.
Vào ngày Chủ Nhật, Bộ trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ John Kerry phát biểu trước thềm hội nghị thượng đỉnh với Bắc Kinh về các vấn đề an ninh và kinh tế, kêu gọi Trung Quốc đừng công bố vùng nhận diện phòng không tại Biển Đông vì đó là một hành vi “khiêu khích và gây bất ổn.”
Kể từ khi tuyên nhận chủ quyền trên Biển Đông, ra sức xây đắp đảo, gây hấn với các quốc gia khác về quyền đánh bắt cá, Bắc Kinh đã tìm cách để các tranh chấp này không bị “quốc tế hóa”, và chọn giải quyết song phương. Trung Quốc thường xuyên nỗ lực để gạt vấn đề Biển Đông ra khỏi nghị trình họp của ASEAN.
Nhưng thái độ cứng rắn của Trung Quốc về chủ quyền lãnh hải, cộng với việc khai triển thêm nhiều tàu cảnh sát biển, hiện đại hóa hải quân, bồi đắp đảo, đã đẩy nhiều quốc gia Đông Nam Á đến gần Hoa Kỳ. Điển hình là Hoa Kỳ vừa tháo gỡ lệnh cấm vận vũ khí với Việt Nam, và đã tăng cường thêm quan hệ quốc phòng với Phi Luật Tân.
Các quốc gia Châu Á khác cũng quan tâm về hành vi của Trung Quốc. Nhật Bản cho biết là sẽ xem xét việc đi tuần tra tại Biển Đông mặc dầu chính Nhật và Trung Quốc đang có tranh chấp tại vùng Đông Hải. Ấn Độ cũng lên tiếng quan tâm hơn đến thách thức của Trung Quốc đối với tự do hải hành tại Tây Thái Bình Dương.
"Tàu Cảnh sát biển Trung Quốc tại Bãi Cỏ Mây trong quần đảo Trường Sa ở Biển Đông.">
Bộ trưởng Quốc Phòng Pháp Jean-Yves Le Drian tại Hội nghị An ninh ở Singapore hôm 2-6-2016.
Và bây giờ với sự lên tiếng của Pháp, ngay cả các quốc gia Châu Âu cũng cổ võ cho phản ứng mạnh hơn đối với sự lấn lướt của Trung Quốc. Đối với Pháp và Châu Âu, vấn đề không phải chỉ là bảo vệ quyền lợi giao thương và kinh tế trong vùng mà còn là duy trì trật tự thế giới và luật pháp quốc tế.
Thời điểm tuyên bố của Bộ Trưởng Quốc Phòng Pháp không phải là điều ngẫu nhiên. Trong tháng này tòa trọng tài tại The Hague sẽ ra phán quyết về đơn kiện Trung Quốc của Phi Luật Tân.
Theo bà Mira Rapp-Hooper, nghiên cứu gia tại Trung Tâm cho Nền An Ninh Mới Hoa Kỳ, “Liên Âu can dự vào Biển Đông là điều mà Hoa Kỳ đã mong đợi từ lâu. Thời điểm kêu gọi của Pháp còn có thể có nghĩa là các chính quyền Liêu Âu sẽ hỗ trợ mạnh mẽ phán quyết của tòa trọng tài sắp tới đây.”
Keith Johnson, Dan De Luce
6/6/2016
Hoàng Thuyên lược dịch
Tàu Cảnh sát biển Trung Quốc tại Bãi Cỏ Mây trong quần đảo Trường Sa ở Biển Đông.">TỪ
https://chantroimoimedia.com/2016/06/10/chau-au-phan-cong-lai-bac-kinh-tai-bien-dong/
Việt kiều tổ chức triển lãm bản đồ Hoàng Sa tại Mỹ thu hút sự chú ý của thế giới ...
Một người gốc Việt đã tổ chức buổi triển lãm vè những tấm bản đồ Hoàng Sa trên đất Mỹ. Sự kiện này đã thu hút sự quan tâm và tham gia của nhiều chuyên gia trên thế giới. Hành động này của Việt kiều Trần Thắng đã giúp thế giới hiễu rõ hơn về chủ quyền của Việt Nam.
Lần đầu tiên những bản đồ cổ giúp chứng minh chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa do Việt kiều Trần Thắng sưu tầm được trưng bày ở Mỹ. 20 bản đồ Hoàng Sa, 20 bản đồ cổ Trung Quốc và 2 sách atlas Trung Quốc được triển lãm tại Hội thảo quốc tế "Sự xung đột trong Biển Đông", tổ chức tại ĐH Yale, Mỹ cuối tuần qua. Ðây là 40 bản đồ trong bộ sưu tập 150 bản đồ cổ Hoàng Sa và Trung Quốc, cùng 3 sách atlas Trung Quốc mà ông Trần Thắng, Việt kiều Mỹ, sưu tập từ giữa năm 2012. Những bản đồ này đã được ông Thắng gửi tặng cho Việt Nam và UBND huyện đảo Hoàng Sa, Đà Nẵng.
Prevost Bellin, Đức, 1747, cho thấy lãnh thổ Trung Quốc chỉ dừng lại ở đảo Hải Nam.
20 bản đồ Hoàng Sa do các nước phương Tây và Việt Nam vẽ, từ năm 1618 đến 1859, chứng minh vùng quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Trong khi đó, 20 bản đồ các nước phương Tây vẽ về Trung Quốc từ năm 1626 đến 1980, cho thấy miền Nam của Trung Quốc chỉ dừng lại ở đảo Hải Nam. Hai sách bản đồ Atlas, một cuốn do Nhà nước Trung Hoa phát hành tại Nam Kinh năm 1933, cuốn còn lại do Phái bộ truyền giáo Trung Quốc phát hình tại Anh năm 1908 cũng chỉ rõ lãnh thổ nước này dừng lại ở Hải Nam.
Giáo sư Carl Thayer, chuyên gia người Australia nghiên cứu các vấn đề về Biển Đông, từng nhận xét bộ sưu tập của ông Trần Thắng cho thấy những mâu thuẫn trong tuyên bố của Trung Quốc về cái gọi là "chủ quyền không thể tranh cãi" đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trao đổi với VnExpress, ông Trần Thắng, chủ tịch Viện văn hóa - giáo dục Việt Nam (IVCE), cho biết các học giả tham dự hội thảo đều cho rằng, hiện chưa có sách hoặc công trình nghiên cứu về Hoàng Sa và Trường Sa được viết bằng tiếng Anh được phát hành rộng rãi. Điều này khiến các học giả quốc tế than phiền rằng họ không có tài liệu để nghiên cứu.
"Việt Nam được một số học giả quốc tế tranh đấu bảo vệ lợi ích Biển Ðông. Chính phủ Việt Nam cũng cần lập ra quỹ về Biển Ðông để tạo mọi điều kiện phát triển thông tin về Biển Ðông. Từ nguồn ngân sách này, có thể dùng dịch sách, các công trình nghiên cứu, phim tài liệu và tài liệu về Biển Ðông sang tiếng Anh và tiếng Trung Quốc", ông Thắng nói và cho rằng quỹ Biển Ðông cũng sẽ hỗ trợ cho các công trình nghiên cứu Biển Ðông.
The Atlas of The World, Johnsons Atlas, New York, 1869. cũng cho thấy chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa thuộc Việt Nam.
Hiện Trung Quốc và các nước trong khối Ðông Nam Á tăng cường phát triển quân sự, có nghĩa là phát triển "sức mạnh cứng". Cái giá phát triển sức mạnh cứng là hàng tỷ tỷ USD, trong khi giá thành phát triển sức mạnh mềm như đầu tư nghiên cứu Biển Đông chỉ vài triệu USD. "Ðiều quan trọng của sức mạnh mềm là gìn giữ được hoà bình trong khu vực trong các cuộc xung đột về Biển Ðông", ông Thắng nói.
"Tôi nghĩ Chính phủ cần phải công khai giải pháp cụ thể về Biển Đông. Ví dụ như trường hợp Philippines họ chọn giải pháp về môi trường biển và giá trị pháp lý về đường lưỡi bò để chống lại Trung Quốc tại tòa án quốc tế, và giải pháp này được công khai trong nước và cả thế giới", ông cho biết thêm.
hoalyly@vietbf sưu tầm
Hai gương mặt Việt trên bích chương Liên Hợp Quốc
Nguyễn Anh Tuấn
2016-06-08
2016-06-08
Chiến dịch này nhấn mạnh một sự thật là các quyền hiệp hội và tụ họp ôn hòa HOÀN TOÀN KHÔNG PHẢI là các vấn nạn mà thế giới gặp phải.
Trái lại, việc thực thi các quyền này góp phần giải quyết các vấn nạn đó.
Chúng là giải pháp.
Sự kiện cá chết hàng loạt ở Việt Nam được đưa vào bích chương thứ 15 với lời dẫn:
Thế giới có 99 vấn nạn. Biểu tình vì môi trường không phải là một trong số đó. Mà chính là tình trạng cá chết hàng loạt mới là một trong số đó."Thế giới có 99 vấn nạn. Biểu tình vì môi trường không phải là một trong số đó. Mà chính là tình trạng cá chết hàng loạt mới là một trong số đó.
Vô số cá đã chết gần đây ở Việt Nam, được cho là do hóa chất đầu độc. Việc này đã làm bùng phát các cuộc biểu tình trên lớn và những cuộc đàn áp trên diện rộng sau đó. Trong Ngày Môi trường Thế giới này, hãy cùng chúng tôi ghi nhớ rằng các quyền hội họp là cấp thiết để giúp bảo vệ môi trường. Đàn áp chỉ khiến mọi việc tồi tệ hơn.
Trấn áp các cuộc biểu tình vì môi trường sẽ không cứu được hành tinh của chúng ta."
Minh họa cho lời dẫn là 2 gương mặt Việt Nam cùng một màu áo xanh.
Một xanh vì môi trường, hăm hở bước chân đòi nước sạch cho cá, minh bạch cho dân.
Một xanh vì... là màu đồng phục của công ty thanh niên xung phong - lực lượng được thuê để trấn áp biểu tình, cũng quyết liệt không kém, xuống tay để bảo vệ những cấu kết quyền - tiền khoác vỏ bọc bảo vệ an ninh quốc gia.
Mỗi người có một cảm xúc khác nhau khi nhìn bức ảnh trên. Riêng tôi thì thấy vui, khi mà hình ảnh những người Việt hiện đại xuất hiện trước thế giới (trong lĩnh vực nhân quyền) không chỉ toàn dùi cui, song sắt, ánh mắt dò xét của lực lượng an ninh thể hiện sự áp đảo của một nhà nước cảnh sát.
Trong hình dưới đây, dẫu nắm đấm vẫn còn dày đặc đấy nhưng tựa hồ đã có đó một ánh nhìn - thứ tôi luôn tin có thể nâng dậy tương lai một dân tộc.
Bạn có thấy ánh nhìn đó giống tôi?
[1] Về chiến dịch #99Problems của Báo cáo viên Đặc biệt LHQ về quyền tự do hội họp ôn hòa: http://freeassembly.net/99problems/
* Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm RFA.
http://www.rfa.org/vietnamese/blog/blog-nguyenanhtuan-060816-06082016144245.html
NS. TUẤN KHANH * THÙ HẬN
Trên thù hận không thể gieo hạt giống tương lai
Thư cho người bạn trẻ,
Khi bạn hỏi tôi về sự kiện liên quan đến ông Bob Kerrey, tôi nghĩ mình phải trình bày dài hơn dự định.
Việc cựu quân nhân Bob Kerrey có trở thành người đứng đầu của trường ĐH Fulbright VN (FUV) hay không, hôm nay chắc đã không còn là điều quan trọng nữa rồi. Những cuộc tranh luận gay gắt từ phía chống và phía thuận, đang cho thấy một Việt Nam đang bị xâu xé bằng ý thức hệ ngay trên thân thể của mình. Những mất mát và đau thương và chính Nhà nước Việt Nam sau 1975 vẫn luôn kêu gọi hãy khép lại, mở ra một chương mới hòa bình, đang bị một nhóm người mở lại, rạch ra: Không ai không thấy đang có một cuộc nội chiến khác còn ghê sợ hơn cả cuộc chiến 20 năm Bắc-Nam Việt Nam. Vết thương chưa bao giờ lành, nhưng đó không phải là vết thương của bên ngoài mang đến, mà vết thương của tự mình cào cấu.
Ngôn ngữ của những người chống việc ông Bob Kerrey làm Chủ tịch Hội đồng Tín thác (FUV) ngày càng rộ lên, mọi cách dẫn giải, vận dụng đủ các hình tượng, thủ pháp gây ảo giác, để lôi kéo thêm những người chống lại việc một trường đại học có một đại diện mà họ không muốn. Thật ra, Chủ tịch Hội đồng tín thác tức là người chịu trách nhiệm tìm nguồn lực tài chính, không phải là nhân vật giữ vai trò điều hành hay trực tiếp giảng dạy. Việc đánh vào người có khả năng vận động tài chính cho nhà trường vào phút chót, không khác nào ngụ ý việc muốn cản trở tiến trình hình thành trường FUV tại Việt Nam.
Mỗi người đều có sự không muốn rất riêng tư của mình. Có những cái không muốn dễ bộc lộ cho thấy tư cách và vụ lợi. Có những cái không muốn im lặng lùi vào hành động trong bóng tối, kể cả việc rút các bài phát biểu của ông Đinh La Thăng, bí thư thành ủy “Vượt lên thù hận, chúng ta mạnh mẽ hơn”. Có những cái không muốn rất công khai như “tôi sẽ không đem con của mình đến học ở trường của một tên sát nhân”, hay “đừng nhân danh người chết để đòi tha thứ”.
Dĩ nhiên, nhìn ở một góc khác, thật đáng sợ khi có loại phụ huynh mang con mình đến trường, khởi đầu cuộc sống thơ ngây của nó bằng cách dạy đứa trẻ biết căm ghét một người hiệu trưởng, cũng như không ai có quyền nhân danh người chết để phất ngọn cờ cơ hội về thù hận, mà sự thù hận đó không đại diện cho truyền thống nhân nghĩa và hòa ái của người Việt Nam từ ngàn năm.
Lịch sử trên sách giáo khoa của Việt Nam không có bài học rõ ràng. Ẩn dưới những con chữ khéo léo che đậy là phần lời giải tự thân của mỗi con người, mỗi gia đình. Ngoài những câu chuyện về thảm sát Thạnh Phong 1969 mà ông Bob Kerry có liên quan – luôn được tô đậm, thì các câu chuyện về chiến tranh Bắc Kinh xâm lăng 1979, Trung Quốc thảm sát ở Lão Sơn 1984, giết người và chiếm đảo Gạc Ma 1988… vẫn mù mờ như một bức tranh chuyển động theo vui buồn của người cầm quyền, dù sự kiện tươi mới nhất.
Bạo lực cách mạng trong chiến tranh và cả thời bình là điểm quan yếu cốt lõi của tư tưởng Marx-Lenin. Trong thời bình, bạo lực cách mạng là phải tạo ra một kẻ thù ngay trong ý thức để xây dựng sức mạnh của chính quyền. Và dĩ nhiên, bất chấp việc xâm lược, tấn công ngư dân Việt, phong tỏa biển… của Trung Quốc, Tập Cận Bình vẫn là được vỗ tay chào đón ở Quốc Hội Việt Nam như người bạn cao cả, và người Mỹ bị chọn trở thành kẻ thù, dù lúc này chỉ còn là kẻ thù trong tư tưởng. Thực tế cho thấy kẻ thù là một phép tính chứ không dựa vào giá trị hiện thực.
Vì thế, hôm nay người Việt bị phân hóa trong câu chuyện của Bob Kerrey cho thấy: Một lớp người đứng về quan điểm kẻ thù được chỉ định, và một lớp người sống với hiện thực. Dĩ nhiên, quyền lựa chọn ở phía nào, là tự do tối thiểu của mỗi người, tùy theo nhận thức.
Đó không phải là ngoại lệ đầu tiên, ngay trong lịch sử dân tộc, những người soạn sách giáo khoa ăn lương nhà nước cũng đã sống với bạo lực tư tưởng khi dạy cho trẻ nhỏ phải biết căm ghét ngay vua Nguyễn Ánh “cõng rắn cắn gà nhà”, mà xóa mờ giá trị thống nhất đất nước đầu tiên của ông trong lịch sử. Bạo lực tư tưởng cũng ám thị người ta phải chọn yêu bằng việc nhập tâm “tiếng đầu đời con gọi Stalin”, bất chấp đó là nhà độc tài lừng danh của thế kỷ 20.
Trên thực tế, dân tộc Việt Nam thông minh hơn mọi lời tuyên bố, phát biểu hay áp đặt trên truyền thông nhà nước mà lâu nay vẫn diễn ra. Sự im lặng của họ chứa đầy hiểu biết và chọn lựa riêng. Nếu phải cầm súng hôm nay, họ biết kẻ thù là Bắc Kinh. Nếu phải lựa chọn từ sự kiện của ông Bob Kerrey, chắc chắn người dân Việt Nam tỉnh táo sẽ không gieo hạt giống tương lai trên mảnh đất bị ghim giữ bằng thù hận – thậm chí có thể là thù hận chỉ định.
Nhưng đáng tiếc, như lâu nay, mọi lựa chọn và quyết định vẫn chưa bao giờ thực sự là của nhân dân.
Có ai đó đã nói đừng lợi dụng chuyện Bob Kerrey để khuấy động lịch sử – nhưng không có lửa làm sao có khói. Lịch sử đời của Bob Kerrey rất ngắn ngủi nhưng ông ta minh bạch về tội lỗi của mình trước hàng triệu người. Còn Lịch sử vĩ đại của chúng ta vẫn bị gói buộc bằng những sợi chỉ đỏ tư duy, chỉ bởi với một ít người. Minh bạch thì chỉ có thể tái hiện, còn che giấu mới thật sự bị khuấy động.
Vậy thì tôi và bạn, chúng ta, sẽ chọn đứng đâu trong thế giới này? Chúng ta nên sống với thù hận hay với thứ tha?
Ngoài lẽ phải và sự thật mà chúng ta suốt đời cần đeo đuổi, còn một thứ nữa giúp chúng ta vượt qua sự thấp hèn của chính mình: đó là lòng vị tha.
Nếu không có sự tha thứ, làm sao Nelson Mandela (1918-2013) có thể duy trì được quốc gia Nam Phi lớn mạnh, thoát khỏi bóng ma thù hận về chế độ aparthied suốt từ năm 1948 đến 1990? Nhân cách của một người làm chính trị lớn, đã giúp cho ông Nelson Mandela hiểu rõ rằng muốn đi tới ngày mai, chỉ có thể tha thứ để cùng nhau xây dựng, giáo dục và phát triển.
Nếu không có sự tha thứ, làm sao đất nước Miến Điện với Aung San Suu Kyi có thể trở thành một quốc gia dân chủ hòa ái sáng chói, sau khi lật đổ chế độ độc tài quân sự sau 25 năm cai trị bằng súng và nhà tù, chỉ bằng những lá phiếu (tháng 11/2015). Ý nguyện cao cả và quyết định tha thứ của nhân dân đã dẫn đến một tương lai rực rỡ cho Miến Điện. Nếu không được tha thứ, chắc chắn người cầm nắm quyền lực, tướng Min Aung Hlaing sẽ không ngại mở ra một cuộc nội chiến mới với 500.000 quân trong tay, trong một đất nước chỉ có 50 triệu dân.
Chúa Jesus dạy rằng “hãy yêu kẻ thù của mình, để mặt trời có thể mọc trên cả cái ác và điều lành, để mưa có thể xuống nơi có lẽ phải và cả nơi bị bất công”.
Đức Phật dạy “Con người tự hủy hoại mình khi nuôi dưỡng hận thù”.
Không có tha thứ, loài người không thể bước vào thế giới văn minh với bình an cho mình và cho cả người khác. Không nhân danh lý tưởng để che đậy quyền lợi cá nhân, con người mới có thể chân thành với chính mình và đồng loại. Chỉ với tuệ giác, con người mới có thể nhận ra và tự tận diệt trăm lần bản thân mình hôm qua để tái sinh ngày hôm nay. Kẻ tội đồ có thể tái sinh làm Bồ tát. Kẻ tự xưng mình là Bồ tát thì mãi mãi trầm luân.
Và trên một mảnh đất bị cài đặt bởi hận thù và tuyên ngôn trá mị, làm sao chúng ta có thể tái sinh và tìm thấy một tương lai?
TRUYỆN KÝ - BIỂN ĐÔNG
PHÙNG QUÁN * THẰNG KHÙNG TRONG TRẠI TÙ CẢI TẠO
THẰNG KHÙNG TRONG TRẠI TÙ CẢI TẠO
Phùng Quán
Mặc dầu là một Phật tử, xin mời các hiền huynh và quý bạn đọc bài viết nói về Cha Chính Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh là một chứng nhân của thời đại, một linh mục Công Giáo Việt Nam can trường, hậu thế kính tôn và ghi ân ngài.
(viết lại theo lời kể của nhà văn Nguyễn Tuân)
"… Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội chính trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm chính trị. Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm giác anh ta là một khúc củi rều, do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng có thể năm mươi. Gương mặt anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ, như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống rác. Người anh ta cao lòng khòng, tay chân thẳng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da, gân với xương.
Trên người, tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu mình cứ tưởng anh ta bị câm vì suốt ngày ít khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ để nhếch mép cười. Thật ra anh ta chỉ là người quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi chào cung kính, nhưng không chuyện trò với bất cứ ai. Nhưng không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái gì đó làm mình đặc biệt chú ý, cứ muốn làm quen…Nhiều lần mình định bắt chuyện, nhưng anh ta nhìn mình với ánh mắt rất lạ, rồi lảng tránh sau khi đã cúi chào cung kính.
Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều thương anh ta. Những trại viên được gia đình tiếp tế người để dành cho anh ta viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc.
Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn tranh. Đó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi "thằng khùng" (tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm. Với bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đã từng đánh đập anh ta, anh ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm rửa cho người chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ.
Lúc tắm rửa, kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái gì đó không ai nghe rõ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược gãy, chải tóc cho người chết, nếu người chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần lành lặn nhất của người tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng xác đặt vào áo quan được đóng bằng gỗ tạp sơ sài
Anh ta cuộn những bộ áo quần khác thành cái gói vuông vắn, đặt làm gối cho người chết. Nếu người tù không có áo xống gì, anh ta đẽo gọt một khúc cây làm gối. Khi đã hoàn tất những việc trên, anh ta quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên trán người tù chết, và bật khóc.
Anh ta khóc đau đớn và thống thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác người nằm trong áo quan là anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người tù nào anh ta cũng khóc như vậy. Một lần giám thị trại gọi anh ta lên:
- Thằng tù chết ấy là cái gì với mày mà mày khóc như cha chết vậy?
Anh ta chấp tay khúm núm thưa:
- Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy mà. Người chết mà không có tiếng khóc tống tiễn thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó tìm cách làm hại cán bộ. Lúc hắn còn sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây là vong hồn hắn, cán bộ muốn xích cổ, cũng không xích được.
Thằng khùng nói có lý. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu thì khóc. Nhưng mình không tin là anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt vàng úa, nhăn nhúm của anh ta chan hòa nước mắt. Cả thân hình gầy guộc của anh ta run rẩy. Mình có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người anh ta cũng khóc…
Trong tiếng khóc và nước mắt của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn tả. Nghe anh ta khóc, cả những trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, "đầu chày, đít thớt, mặt bù loong" cũng phải rơm rớm nước mắt. Chỉ có nỗi đau đớn chân thật mới có khả năng xuyên thẳng vào trái tim người. Mình thường nghĩ ngợi rất nhiều về anh ta. Con người này là ai vậy? Một thằng khùng hay người có mối từ tâm lớn lao của bậc đại hiền?…
Thế rồi, một lần, mình và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho dầm nước. Trời nóng như dội lửa. Bãi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng như than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ trải một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi. Người lính gác ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và mình phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. Vì mảng bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau. Anh ta bỗng lên tiếng trước, hỏi mà đầu không quay lại:
- Anh Tuân này - không rõ anh ta biết tên mình lúc nào- sống ở đây anh thèm cái gì nhất?
- Thèm được đọc sách - mình buột miệng trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ anh ta chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc biết viết cũng nên.
- Nếu bây giờ có sách thì anh thích đọc ai? - anh ta hỏi.
- Voltaire! - một lần nữa mình lại buột miệng. Và lại nghĩ: Nói với anh ta về Voltaire thì cũng chẳng khác gì nói với gốc cây mủng mà mình đang ngồi dựa lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện trò bộc bạch với con người nó cũng lớn như nhu cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai nghe mình, hiểu mình hay không. Đó chính là tâm trạng của anh công chức nát rượu Marmeladov bất chợt nói to lên những điều tủi hổ nung nấu trong lòng với những người vớ vẩn trong một quán rượu tồi tàn, mà Dostoievsky miêu tả trong “Tội ác và Trừng phạt”
Anh ta ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:
- Trong các tác phẩm của Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào?
Mình sửng sốt nhìn anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: một người nào khác đã ngồi thay vào chỗ anh ta… Mình lại liên tưởng đến một cậu làm việc cùng phòng hồi còn ở Đài phát thanh, tốt nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho Pin.
Mình trả lời anh ta:
- Tôi thích nhất là Candide.
- Anh có thích đọc Candide ngay bây giờ không?
Không đợi mình trả lời, anh ta nói tiếp:
- Không phải đọc mà nghe… Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.
Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậm rãi, phát âm chuẩn và hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy mình ở trường Providence. Mình trân trân nhìn cái miệng rúm ró, răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nhìn phép lạ. Còn anh ta, mắt vẫn không rời dòng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta đang đọc thiên truyện Candide nguyên bản được chép lên mặt sông…
Anh đọc đến câu cuối cùng thì kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến giờ lùa trâu về trại. Người lính gác trên bờ cao nói vọng xuống: "Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!".
- Chúng mình lùa trâu lên bờ đi! - anh nói.
Lội ra đến giữa sông, mình hỏi anh ta:
- Anh là ai vậy?
Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả lời:
- Tôi là cái thanh ngang trên cây thập tự đóng đinh Chúa.
Rồi anh ta tiếp:
- Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi…
Giáp mặt người lính canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn - ngu ngơ, đần độn như thường ngày.
Cuối mùa đông năm đó, anh ta ngã bệnh. Nghe các trại viên kháo nhau mình mới biết.
Thằng chuyên gia khâm liệm e đi đong. Thế là nếu bọn mình ngoẻo, sẽ không còn được khâm liệm tử tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn… - những người tù nói, giọng buồn.
Mình gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta.
Giám thị hỏi:
- Trước kia anh có quen biết gì thằng này không?
Mình nói:
- Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi.
Giám thị đồng ý cho mình đến thăm, có lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm, hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co giật…
Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt, chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười. Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè luỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều thào nói:
- Tuân ở lại, mình đi đây… Đưa bàn tay đây cho mình…
Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than viết vào lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN.
Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co giật.
Người lính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ Nhẫn ngửa ra. Người lính canh ngờ rằng đó là một ám hiệu.
Giám thị hỏi:
- Cái hình nguệch ngoạc này có ý nghĩa gì? Anh mà không thành khẩn khai báo, tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam.
Mình nói
- Thưa cán bộ, thật tình tôi không rõ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng cậu một đạo bùa để xua đuổi bệnh tật và tà khí.
Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…
Phùng Quán
________
Ghi Chú:
(*) THẰNG KHÙNG trong tù này là Cha Chính Vinh, tức là Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH (1912-1971), của Nhà thờ lớn Hà Nội. Bài viết của Phùng Quán đã kể lại chuyện thật những năm, những ngày cuối trong ngục tù của Ngài.
Xin mời đọc thêm (bài kèm theo dưới đây) tiểu sử của Cha Vinh để chúng ta biết thêm nhiều chi tiết về cuộc đời Ngài; và cũng để hiểu thêm gương phụng sự Chúa của Ngài….
Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH,
Cha chính Hà Nội, (1912 – 1971).
TẤM GƯƠNG CAN TRƯỜNG
(*) THẰNG KHÙNG trong tù này là Cha Chính Vinh, tức là Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH (1912-1971), của Nhà thờ lớn Hà Nội. Bài viết của Phùng Quán đã kể lại chuyện thật những năm, những ngày cuối trong ngục tù của Ngài.
Xin mời đọc thêm (bài kèm theo dưới đây) tiểu sử của Cha Vinh để chúng ta biết thêm nhiều chi tiết về cuộc đời Ngài; và cũng để hiểu thêm gương phụng sự Chúa của Ngài….
Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH,
Cha chính Hà Nội, (1912 – 1971).
TẤM GƯƠNG CAN TRƯỜNG
ĐẶNG THỊ TUYẾT NHƯ * CÂU CHUYỆN VƯỢT BIÊN -
CÂU CHUYỆN VƯỢT BIÊN
Đặng Thị Tuyết Như
Khi đi chùa, vợ chồng tôi có thói quen ngồi cuối cùng nơi chánh điện phía bên trong dù rằng phía trên còn nhiều chỗ trống. Hôm ấy có một đạo hữu cùng chí hướng với tụi tôi, ông ta tươi cười chào hỏi chúng tôi rồi ngồi xuống bên cạnh nhà tôi. Ông tự giới thiệu tên ông là Thọ.
Nhìn ông, tôi ngờ ngợ, chợt nhớ ra ông ta giống hệt cậu trai vừa bưng gíúp tôi nồi xôi vò từ xe vào chùa.
Tôi hỏi ngay : Có phải anh đi với con trai anh không?
- Vâng, sao chị biết? Ông đáp.
Tôi cười nói : vì hai cha con anh giống nhau quá.
Ông Thọ cười lớn : Chính vì thế mà suýt nữa tôi mang họa đấy.
- Sao vậy anh ? Tôi hỏi.
Bỗng có tiếng trên máy vi âm :
- Xin mời quý vị đứng dậy cùng nghinh hòa thượng giáng lâm.
Chúng tôi ngừng nói chuyện, tất cả đứng dậy chắp tay cuối đầu. Hồi chuông niệm hương, buổi lễ bắt đầu. Lễ chấm dứt lúc một giờ trưa, chúng tôi xuống nhà dưới dùng cơm chay, không quên rủ ông Thọ ngồi cùng bàn. Vừa ăn vừa nói chuyện nho nhỏ.
Ông Thọ kể tiếp chuyện. Ông nói : Anh Chị biết không, gia đình tôi đến được Mỹ cũng trầy da tróc vảy. Chẳng khác gì Mạnh Hoạch bị cụ Khổng Minh bắt bảy lần, tôi cũng vượt biên tất cả bảy lần mới thoát. Cái họa vì hai cha con chúng tôi giống nhau xảy ra ở lần vượt biên thứ sáu.
-'' Chà, bảy lần đi trốn chắc ly kỳ lắm ''. Chồng tôi nói.
- Nhiều chuyện lắm, lúc đó sợ thấy mồ nhưng đến bây giờ
nghĩ lại thì thấy tức cười .
Tôi tò mò, nài nỉ ông Thọ kể thêm chuyện.
Thế là chủ nhật nào, khi dùng cơm chay ở chùa là tuị tôi rủ ông Thọ và vài người nữa ngồi cùng bàn để nghe chuyện. Ông Thọ lần lượt kể bảy lần vượt biên của ông.
Lần thứ nhất : Vừa ra khỏi trại học tập cải tạo, ăn Tết xong, tôi có mối đi. Nơi khởi hành là Nha Trang. Em tôi ở thị xã này. Lấy cớ thăm em để rồi trốn đi luôn. Ngay cả vợ chồng nó, tôi cũng dấu, nói dối chúng nó là có việc làm ở Nha Trang, nhân thể ghé thăm, hôm sau đi nhận việc. Để che mắt công an, buổi họp tổ khu phố tối hôm đó, tôi theo bà già vợ nó đi họp. Các buổi họp Tổ thường toàn là ông bà già đại diện gia đình. Đa số ít học, đi cho có mặt, các ông bà ngủ gật là thường. Công an khu phố phải chỉ từng người bắt phát biểu ý kiến.
Bà Năm phải phát biểu. Bà nói :'' Chế độ cũ chó đẻ, chế độ mới chó chết ''. Mọi người cắn răng nín cười.
Công an khu vực cũng kiên nhẫn hỏi : '' Xin Bác giải thích rõ hơn cho Tổ nắm được ý kiến ''. Bà thản nhiên đáp :
-' Chế độ cũ chó no chó đẻ, chế độ mới chó đói chó chết ''.
Mọi người cười ngất. Bà Năm phải học tập bảy ngày vì chưa thông đường lối của nhà nước.
Đến lượt bà Lành phải phát biểu, bà hồ hởi nói : chúng tôi rất biết ơn cách mạng vì nhờ ơn cách mạng mà chúng tôi ngày nay chúng tôi không ăn đạn pháo kích của Việt cộng. Vài người ngơ ngác, vài người làm mặt tỉnh. Quả tình bà Lành chẳng biết Việt cộng là ai chứ bà không có ý xỏ xiên, nhưng bà cũng phải học tập bảy ngày vì tội phát biểu ''linh tinh''. Lúc đó Việt Nam đang đụng độ vói Trung quốc, thấy các bà phát biểu không có lợi, anh công an chỉ đại tôi và nói:
- ''Xin Anh cho biết cảm nghĩ trước sự xâm lăng của địch''. Tôi đáp ngay bằng cách nói lại lịch sử đời Trần và kết luận rằng nhân dân ta đã ba lần đánh thắng quân Nguyên, tất nhiên ngày nay chắc chắn sẽ thắng nữa; rồi để cứu nguy cho chính mình, anh xin hát bài '' Hội nghị Diên hồng'' để tặng cả Tổ. Nhờ giọng ca hùng tráng, tôi được vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt. Sở dĩ tôi làm vậy, vì thấy nếu nói thêm vừa lòng anh công an thì chết với các bà như bà Năm mà nói vừa lòng cả Tổ thì có ngày đi học tập mút chỉ.
Ngay đêm đó, mười hai giờ khuya, tôi đi bằng ghe đánh cá. Biển sóng lớn quá, cấp sáu, cấp bảy gì đó, ghe đi không nổi. Mọi người đề nghị quay về . Có người nói : '' bị bắt cũng đươc, khi thả ra đi nữa, chứ chết thì hết đi''. Người đạo Phật, người đạ0 Chúa cầu chúa, có anh thanh niên kia cứ vái '' lạy ông cá bà cá đừng bắt con''. Cuối cùng ghe phải quay trở lại bờ. May quá, chuyến đi này không có đứa con nít nào, khi công an xét hỏi, tụi tôi nói láo là đi đánh cá, gặp sóng lớn phải quay về. Lúc hỏi giấy tờ, tôi cầm chừng như chết đến nơi, tôi chí thành cầu Phật bà Quan Âm cưú khổ, cưú nạn cho tôi. Thật là linh ứng, tôi không hiểu sao, tôi đứng áp chót không bị xét mà tên công an lại hỏi ông đứng đằng sau tôi, là người cuối cùng. Thế là tôi thoát nạn và tôi trở về Sài Gòn ngay chiều hôm đó.
Lần thứ hai : Lần thứ hai vợ tôi lo cho tôi đi bằng đường bán chính thức. Đường dây này dành cho người Hoa nhưng có nhiều người Việt giả vờ làm người Hoa cũng đi. Tôi lấy tên là Lý Thiên. Hồi còn đi học tôi đứng sau quỷ và ma, thường nhái những Ông Tàu nói tiếng Việt nên bây giờ tôi nói tiếng Việt kiểu người Tàu nói giống lắm. Chuyến đó tàu khẩm (400 người). Tàu lại chết máy phải quay trở lại. Má tôi la tôi: '' Tại bay lấy cái tên ngỗ nghịch quá, trời phạt đấy''. Tôi đuối lý, lặng thinh. Ngày 29/6/79, bán chính thức đóng cửa. Thế là tôi mất toi mười cây.
Lần thứ ba: Lần này đi chui hoàn toàn không mua bến, mua bãi, không mua công an. Thằng cha kết chủ ghe là Miên lai, vợ Việt, nó móc nối với bạn tôi, sẽ đi ở Rạch Giá. Bạn tôi rủ tôi, tôi bằng lòng. Chủ ghe nói sẽ bóc nhiều chuyến từ cá nhỏ ra cá lớn Cá lớn, lớn lắm phải đậu ở cửa biển. Cá nhỏ chở tôi, hai ông nữa, hai bà và thằng chèo ghe. Bạn tôi không đi vì chết nhát, vợ hắn, chị Nga gan hơn thế chỗ hắn. Tôi nói với Chị: ''Chị Nga à, tôi thấy tướng thằng cha kết gian hùng liệu nó có lừa mình không ?
Chị đáp: ''Nó có gian hùng mới làm nghề này, đi thì cứ đi, đừng thắc mắc. Tôi thấy chị nói cũng có lý. Mười hai giờ khuya, cá nhỏ khởi hành, trời tối đen như mực, đi lâu lắm, trời tang tảng sáng, thằng chèo ghe tắp vào một đảo nhỏ và chỉ một hang đá bảo tụi tôi tạm trú ở đó, đến chín giờ tối sẽ ra cá lớn là tới Thái lan liền. Tôi đói, ăn ổ bánh mì phết mật ong mà vợ tôi đã bọc cho tôi. Bỗng có tiếng lạ: Jésus, lạy chúa tôi''. Ông ngồi bên cạnh vội bịt mồm bà lại. Thì ra trước mặt Bà Thoa là con rắn đen phun phì phì. Tôi vội liệng hòn đá đuổi rắn đi. Mọi người, ai có gì ăn nấy để cầm hơi. Tôi ngậm thêm miếng sâm. Suốt tối hôm đó, chúng tôi chờ dài cổ chẳng ma nào đón.Bà Thoa chửi đổng:
'' Cha tiên nhân mày, mày lừa bà rồi, quân trời đánh thánh vật, mày ăn không của bà cây rưỡi ''. Quả đúng, chúng tôi đã bị lừa. Chúng tôi lo lắng ngồi trong hang nơi hòn đảo hoang vắng, chung quanh là nước mênh mông. Xế trưa, may quá có một ghe nhỏ đi qua, chúng tôi cầu cưú, năm người gom được mười một ngàn đồng Việt Nam đưa cho chủ ghe để được vào đất liền. Chủ ghe còn dặn tụi tôi rằng :'' nếu có gặp công an thì bà con nói là đi ăn cưới ở ngoài hòn về nhé ''. Tôi nghĩ thầm : '' đi ăn cưới mà lem luốc như một lũ ăn mày, liệu công an có tin không ? ''. Nhưng hên quá không gặp công an, mọi người mừng húm. Tới Sài Gòn, tôi không dám về nhà, đi cùng chị Nga về nhà bạn. Dọc đường, chúng tôi đóng kịch cứ như vợ chồng đi làm lao động về. Khi thấy chúng tôi, thay vì lo sợ, bạn tôi lại cười tươi rói nói với vợ rằng : '' Thấy em về, anh mừng quá ''. Vợ nó tức lắm, la chồng :'' Tiền mất, không đi được mà anh mừng à? ''. Nó lặng thinh. Sau này nó tâm sự với tôi rằng: hôm vợ nó đi, nó chỉ cầu cho vợ nó đừng đi được để về với nó.
Vợ chồng nó hiện giờ đang ở Cali, đi theo diện H.O.
Khi đi chùa, vợ chồng tôi có thói quen ngồi cuối cùng nơi chánh điện phía bên trong dù rằng phía trên còn nhiều chỗ trống. Hôm ấy có một đạo hữu cùng chí hướng với tụi tôi, ông ta tươi cười chào hỏi chúng tôi rồi ngồi xuống bên cạnh nhà tôi. Ông tự giới thiệu tên ông là Thọ.
Nhìn ông, tôi ngờ ngợ, chợt nhớ ra ông ta giống hệt cậu trai vừa bưng gíúp tôi nồi xôi vò từ xe vào chùa.
Tôi hỏi ngay : Có phải anh đi với con trai anh không?
- Vâng, sao chị biết? Ông đáp.
Tôi cười nói : vì hai cha con anh giống nhau quá.
Ông Thọ cười lớn : Chính vì thế mà suýt nữa tôi mang họa đấy.
- Sao vậy anh ? Tôi hỏi.
Bỗng có tiếng trên máy vi âm :
- Xin mời quý vị đứng dậy cùng nghinh hòa thượng giáng lâm.
Chúng tôi ngừng nói chuyện, tất cả đứng dậy chắp tay cuối đầu. Hồi chuông niệm hương, buổi lễ bắt đầu. Lễ chấm dứt lúc một giờ trưa, chúng tôi xuống nhà dưới dùng cơm chay, không quên rủ ông Thọ ngồi cùng bàn. Vừa ăn vừa nói chuyện nho nhỏ.
Ông Thọ kể tiếp chuyện. Ông nói : Anh Chị biết không, gia đình tôi đến được Mỹ cũng trầy da tróc vảy. Chẳng khác gì Mạnh Hoạch bị cụ Khổng Minh bắt bảy lần, tôi cũng vượt biên tất cả bảy lần mới thoát. Cái họa vì hai cha con chúng tôi giống nhau xảy ra ở lần vượt biên thứ sáu.
-'' Chà, bảy lần đi trốn chắc ly kỳ lắm ''. Chồng tôi nói.
- Nhiều chuyện lắm, lúc đó sợ thấy mồ nhưng đến bây giờ
nghĩ lại thì thấy tức cười .
Tôi tò mò, nài nỉ ông Thọ kể thêm chuyện.
Thế là chủ nhật nào, khi dùng cơm chay ở chùa là tuị tôi rủ ông Thọ và vài người nữa ngồi cùng bàn để nghe chuyện. Ông Thọ lần lượt kể bảy lần vượt biên của ông.
Lần thứ nhất : Vừa ra khỏi trại học tập cải tạo, ăn Tết xong, tôi có mối đi. Nơi khởi hành là Nha Trang. Em tôi ở thị xã này. Lấy cớ thăm em để rồi trốn đi luôn. Ngay cả vợ chồng nó, tôi cũng dấu, nói dối chúng nó là có việc làm ở Nha Trang, nhân thể ghé thăm, hôm sau đi nhận việc. Để che mắt công an, buổi họp tổ khu phố tối hôm đó, tôi theo bà già vợ nó đi họp. Các buổi họp Tổ thường toàn là ông bà già đại diện gia đình. Đa số ít học, đi cho có mặt, các ông bà ngủ gật là thường. Công an khu phố phải chỉ từng người bắt phát biểu ý kiến.
Bà Năm phải phát biểu. Bà nói :'' Chế độ cũ chó đẻ, chế độ mới chó chết ''. Mọi người cắn răng nín cười.
Công an khu vực cũng kiên nhẫn hỏi : '' Xin Bác giải thích rõ hơn cho Tổ nắm được ý kiến ''. Bà thản nhiên đáp :
-' Chế độ cũ chó no chó đẻ, chế độ mới chó đói chó chết ''.
Mọi người cười ngất. Bà Năm phải học tập bảy ngày vì chưa thông đường lối của nhà nước.
Đến lượt bà Lành phải phát biểu, bà hồ hởi nói : chúng tôi rất biết ơn cách mạng vì nhờ ơn cách mạng mà chúng tôi ngày nay chúng tôi không ăn đạn pháo kích của Việt cộng. Vài người ngơ ngác, vài người làm mặt tỉnh. Quả tình bà Lành chẳng biết Việt cộng là ai chứ bà không có ý xỏ xiên, nhưng bà cũng phải học tập bảy ngày vì tội phát biểu ''linh tinh''. Lúc đó Việt Nam đang đụng độ vói Trung quốc, thấy các bà phát biểu không có lợi, anh công an chỉ đại tôi và nói:
- ''Xin Anh cho biết cảm nghĩ trước sự xâm lăng của địch''. Tôi đáp ngay bằng cách nói lại lịch sử đời Trần và kết luận rằng nhân dân ta đã ba lần đánh thắng quân Nguyên, tất nhiên ngày nay chắc chắn sẽ thắng nữa; rồi để cứu nguy cho chính mình, anh xin hát bài '' Hội nghị Diên hồng'' để tặng cả Tổ. Nhờ giọng ca hùng tráng, tôi được vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt. Sở dĩ tôi làm vậy, vì thấy nếu nói thêm vừa lòng anh công an thì chết với các bà như bà Năm mà nói vừa lòng cả Tổ thì có ngày đi học tập mút chỉ.
Ngay đêm đó, mười hai giờ khuya, tôi đi bằng ghe đánh cá. Biển sóng lớn quá, cấp sáu, cấp bảy gì đó, ghe đi không nổi. Mọi người đề nghị quay về . Có người nói : '' bị bắt cũng đươc, khi thả ra đi nữa, chứ chết thì hết đi''. Người đạo Phật, người đạ0 Chúa cầu chúa, có anh thanh niên kia cứ vái '' lạy ông cá bà cá đừng bắt con''. Cuối cùng ghe phải quay trở lại bờ. May quá, chuyến đi này không có đứa con nít nào, khi công an xét hỏi, tụi tôi nói láo là đi đánh cá, gặp sóng lớn phải quay về. Lúc hỏi giấy tờ, tôi cầm chừng như chết đến nơi, tôi chí thành cầu Phật bà Quan Âm cưú khổ, cưú nạn cho tôi. Thật là linh ứng, tôi không hiểu sao, tôi đứng áp chót không bị xét mà tên công an lại hỏi ông đứng đằng sau tôi, là người cuối cùng. Thế là tôi thoát nạn và tôi trở về Sài Gòn ngay chiều hôm đó.
Lần thứ hai : Lần thứ hai vợ tôi lo cho tôi đi bằng đường bán chính thức. Đường dây này dành cho người Hoa nhưng có nhiều người Việt giả vờ làm người Hoa cũng đi. Tôi lấy tên là Lý Thiên. Hồi còn đi học tôi đứng sau quỷ và ma, thường nhái những Ông Tàu nói tiếng Việt nên bây giờ tôi nói tiếng Việt kiểu người Tàu nói giống lắm. Chuyến đó tàu khẩm (400 người). Tàu lại chết máy phải quay trở lại. Má tôi la tôi: '' Tại bay lấy cái tên ngỗ nghịch quá, trời phạt đấy''. Tôi đuối lý, lặng thinh. Ngày 29/6/79, bán chính thức đóng cửa. Thế là tôi mất toi mười cây.
Lần thứ ba: Lần này đi chui hoàn toàn không mua bến, mua bãi, không mua công an. Thằng cha kết chủ ghe là Miên lai, vợ Việt, nó móc nối với bạn tôi, sẽ đi ở Rạch Giá. Bạn tôi rủ tôi, tôi bằng lòng. Chủ ghe nói sẽ bóc nhiều chuyến từ cá nhỏ ra cá lớn Cá lớn, lớn lắm phải đậu ở cửa biển. Cá nhỏ chở tôi, hai ông nữa, hai bà và thằng chèo ghe. Bạn tôi không đi vì chết nhát, vợ hắn, chị Nga gan hơn thế chỗ hắn. Tôi nói với Chị: ''Chị Nga à, tôi thấy tướng thằng cha kết gian hùng liệu nó có lừa mình không ?
Chị đáp: ''Nó có gian hùng mới làm nghề này, đi thì cứ đi, đừng thắc mắc. Tôi thấy chị nói cũng có lý. Mười hai giờ khuya, cá nhỏ khởi hành, trời tối đen như mực, đi lâu lắm, trời tang tảng sáng, thằng chèo ghe tắp vào một đảo nhỏ và chỉ một hang đá bảo tụi tôi tạm trú ở đó, đến chín giờ tối sẽ ra cá lớn là tới Thái lan liền. Tôi đói, ăn ổ bánh mì phết mật ong mà vợ tôi đã bọc cho tôi. Bỗng có tiếng lạ: Jésus, lạy chúa tôi''. Ông ngồi bên cạnh vội bịt mồm bà lại. Thì ra trước mặt Bà Thoa là con rắn đen phun phì phì. Tôi vội liệng hòn đá đuổi rắn đi. Mọi người, ai có gì ăn nấy để cầm hơi. Tôi ngậm thêm miếng sâm. Suốt tối hôm đó, chúng tôi chờ dài cổ chẳng ma nào đón.Bà Thoa chửi đổng:
'' Cha tiên nhân mày, mày lừa bà rồi, quân trời đánh thánh vật, mày ăn không của bà cây rưỡi ''. Quả đúng, chúng tôi đã bị lừa. Chúng tôi lo lắng ngồi trong hang nơi hòn đảo hoang vắng, chung quanh là nước mênh mông. Xế trưa, may quá có một ghe nhỏ đi qua, chúng tôi cầu cưú, năm người gom được mười một ngàn đồng Việt Nam đưa cho chủ ghe để được vào đất liền. Chủ ghe còn dặn tụi tôi rằng :'' nếu có gặp công an thì bà con nói là đi ăn cưới ở ngoài hòn về nhé ''. Tôi nghĩ thầm : '' đi ăn cưới mà lem luốc như một lũ ăn mày, liệu công an có tin không ? ''. Nhưng hên quá không gặp công an, mọi người mừng húm. Tới Sài Gòn, tôi không dám về nhà, đi cùng chị Nga về nhà bạn. Dọc đường, chúng tôi đóng kịch cứ như vợ chồng đi làm lao động về. Khi thấy chúng tôi, thay vì lo sợ, bạn tôi lại cười tươi rói nói với vợ rằng : '' Thấy em về, anh mừng quá ''. Vợ nó tức lắm, la chồng :'' Tiền mất, không đi được mà anh mừng à? ''. Nó lặng thinh. Sau này nó tâm sự với tôi rằng: hôm vợ nó đi, nó chỉ cầu cho vợ nó đừng đi được để về với nó.
Vợ chồng nó hiện giờ đang ở Cali, đi theo diện H.O.
Wednesday, June 15, 2016
THÔNG TIN & BÌNH LUẬN QUỐC TẾ
Thứ năm, 16/06/2016
Nhật tố cáo tàu do thám Trung Quốc xâm phạm lãnh hải
15.06.2016
Các giới chức ở Tokyo nói một chiếc tàu do thám của Trung Quốc đã tiến vào lãnh hải của Nhật Bản sáng sớm hôm nay.
Chiếc tàu do thám đã được phát giác vào khoảng 3:30 sáng hôm nay, thứ Tư 15/6 ở gần đảo Kuchinoerabu ở miền Nam Nhật Bản.
Tin cho hay chiếc tàu rời khỏi lãnh hải của Nhật Bản 90 phút sau đó.
Trung Quốc tuyên bố đã hành động trong phạm vi các quyền hợp pháp của họ dựa trên luật pháp quốc tế và quyền tự do hàng hải.
Khu vực liên hệ nằm ở lằn ranh phân cách Thái Bình Dương với Biển Đông, và không thuộc vùng biển đang là điểm nóng trong cuộc tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông.
Nhật Bản trước đây đã cảnh cáo rằng bất cứ tàu bè nào tiến vào các vùng biển mà Tokyo tuyên bố có chủ quyền vì bất cứ lý do nào khác hơn là “thông qua vô hại” sẽ bị tàu tuần duyên Nhật hạ lệnh trục xuất\
http://www.voatiengviet.com/content/nhat-to-cao-tau-do-tham-trung-quoc-xam-pham-lanh-hai/3377320.html
Chiếc tàu do thám đã được phát giác vào khoảng 3:30 sáng hôm nay, thứ Tư 15/6 ở gần đảo Kuchinoerabu ở miền Nam Nhật Bản.
Tin cho hay chiếc tàu rời khỏi lãnh hải của Nhật Bản 90 phút sau đó.
Trung Quốc tuyên bố đã hành động trong phạm vi các quyền hợp pháp của họ dựa trên luật pháp quốc tế và quyền tự do hàng hải.
Khu vực liên hệ nằm ở lằn ranh phân cách Thái Bình Dương với Biển Đông, và không thuộc vùng biển đang là điểm nóng trong cuộc tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông.
Nhật Bản trước đây đã cảnh cáo rằng bất cứ tàu bè nào tiến vào các vùng biển mà Tokyo tuyên bố có chủ quyền vì bất cứ lý do nào khác hơn là “thông qua vô hại” sẽ bị tàu tuần duyên Nhật hạ lệnh trục xuất\
http://www.voatiengviet.com/content/nhat-to-cao-tau-do-tham-trung-quoc-xam-pham-lanh-hai/3377320.html
Thứ năm, 16/06/2016
http://www.voatiengviet.com/content/tq-canh-cao-tt-my-cho-gap-duc-dat-lai-lat-ma/3377228.html
TQ cảnh báo Tổng thống Obama chớ gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma
Tổng thống Obama đã nhiều lần gặp Đức Đạt Lai Lạt ma, vị lãnh tụ tinh thần được nhân dân Tây Tạng tôn sùng, và gọi ông là một người bạn tốt.
15.06.2016
Trung Quốc hôm 14/6 cảnh báo Tổng thống Obama chớ gặp Đức Đạt Lai Lạt ma và nói rằng làm như vậy có thể phương hại tới sự tin tưởng giữa hai nước.
Cuộc gặp gỡ được ấn định cho ngày 15/6, sẽ là một cuộc gặp riêng tư để tránh gây giận dữ cho Bắc Kinh, vốn coi Đức Đạt Lai Lạt ma là một nhân vật đòi ly khai nguy hiểm.
Tổng thống Obama đã nhiều lần gặp Đức Đạt Lai Lạt ma, vị lãnh tụ tinh thần được nhân dân Tây Tạng tôn sùng, và gọi ông là “một người bạn tốt”.
Nhưng Trung Quốc lo sợ cuộc gặp sẽ đánh đi một thông điệp sai lạc đến người dân Tây Tạng.
Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, ông Lục Khảng, hôm 15/6 nói với các nhà báo: “Nếu cuộc gặp gỡ như vậy được tiến hành, nó sẽ đánh đi một tín hiệu không đúng tới thế lực đòi ly khai, đòi độc lập cho Tây Tạng, và như vậy sẽ phương hại tới sự tin tưởng và hợp tác giữa hai nước”.
Cuộc đối thoại giữa Đức Đạt Lai Lạt ma và chính quyền trung ương Trung Quốc đã đình chỉ từ năm 2010.
Người Tây Tạng lưu vong bầu lại thủ tướng của họ vào tháng Năm vừa rồi, và vẫn hy vọng có thể tiếp tục cuộc thảo luận với Trung Quốc về “một giải pháp trung dung” để Tây Tạng có quyền tự trị thật sự.
Cuộc gặp gỡ được ấn định cho ngày 15/6, sẽ là một cuộc gặp riêng tư để tránh gây giận dữ cho Bắc Kinh, vốn coi Đức Đạt Lai Lạt ma là một nhân vật đòi ly khai nguy hiểm.
Tổng thống Obama đã nhiều lần gặp Đức Đạt Lai Lạt ma, vị lãnh tụ tinh thần được nhân dân Tây Tạng tôn sùng, và gọi ông là “một người bạn tốt”.
Nhưng Trung Quốc lo sợ cuộc gặp sẽ đánh đi một thông điệp sai lạc đến người dân Tây Tạng.
Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, ông Lục Khảng, hôm 15/6 nói với các nhà báo: “Nếu cuộc gặp gỡ như vậy được tiến hành, nó sẽ đánh đi một tín hiệu không đúng tới thế lực đòi ly khai, đòi độc lập cho Tây Tạng, và như vậy sẽ phương hại tới sự tin tưởng và hợp tác giữa hai nước”.
Cuộc đối thoại giữa Đức Đạt Lai Lạt ma và chính quyền trung ương Trung Quốc đã đình chỉ từ năm 2010.
Người Tây Tạng lưu vong bầu lại thủ tướng của họ vào tháng Năm vừa rồi, và vẫn hy vọng có thể tiếp tục cuộc thảo luận với Trung Quốc về “một giải pháp trung dung” để Tây Tạng có quyền tự trị thật sự.
Thứ năm, 16/06/2016
TT Mỹ gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma bất chấp sự phản đối của Trung Quốc
Tổng thống Mỹ Barack Obama chào đón Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Tòa Bạch Ốc, ngày 15 tháng 6 năm 2016.
16.06.2016
Tổng thống Mỹ Barack Obama tiếp nhận lời chia buồn từ cá nhân Đức Đạt Lai Lạt Ma về vụ xả súng ở Orlando, bất chấp khuyến cáo của Trung Quốc rằng hai nhà lãnh đạo không nên gặp nhau.
Lãnh tụ tinh thần Phật giáo được dân Tây Tạng sùng kính có cuộc gặp kín với Tổng thống Obama hôm nay 15/6 tại Tòa Bạch Ốc.
Chính quyền Mỹ cho hay Tổng thống Obama tiếp nhận lời chia buồn của Đức Đạt Lai Lạt Ma về vụ nổ súng và ca ngợi Ngài về các nỗ lực cổ võ lòng từ bi, sự cảm thông và tôn trọng giữa con người với nhau.
Trước đó, Trung Quốc khuyến cáo ông Obama chớ nên gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma vì làm như vậy có thể gây tổn hại cho sự tin cậy lẫn nhau giữa hai nước Mỹ-Trung. Bắc Kinh xem Đức Đạt Lai Lạt Ma như một phần tử ly khai nguy hiểm.
Tổng thống Obama đã gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma nhiều lần và mô tả Ngài là ‘một người bạn tốt.’
Trung Quốc e các cuộc gặp kiểu này sẽ đánh đi một thông điệp sai lệch cho người dân Tây Tạng.
Phát ngôn nhân Lục Khảng ngày 15/6 nói với báo giới tại Bắc Kinh: ‘Nếu cuộc gặp đó diễn ra thì sẽ gửi đi một thông điệp sai lệch tới các lực lượng ly khai mưu tìm độc lập cho Tây Tạng, sẽ gây phương hại cho lòng tin và sự hợp tác lẫn nhau giữa hai nước.’
Các cuộc đối thoại giữa Đức Đạt Lai Lạt Ma với chính quyền trung ương Trung Quốc chấm dứt từ năm 2010.
Người dân Tây Tạng bầu chọn Thủ tướng hồi tháng 5 và họ vẫn hy vọng rằng các cuộc đối thoại với Trung Quốc về ‘con đường trung đạo’ mang lại tự trị cho Tây Tạng có thể tiếp nối.
Lãnh tụ tinh thần Phật giáo được dân Tây Tạng sùng kính có cuộc gặp kín với Tổng thống Obama hôm nay 15/6 tại Tòa Bạch Ốc.
Chính quyền Mỹ cho hay Tổng thống Obama tiếp nhận lời chia buồn của Đức Đạt Lai Lạt Ma về vụ nổ súng và ca ngợi Ngài về các nỗ lực cổ võ lòng từ bi, sự cảm thông và tôn trọng giữa con người với nhau.
Trước đó, Trung Quốc khuyến cáo ông Obama chớ nên gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma vì làm như vậy có thể gây tổn hại cho sự tin cậy lẫn nhau giữa hai nước Mỹ-Trung. Bắc Kinh xem Đức Đạt Lai Lạt Ma như một phần tử ly khai nguy hiểm.
Tổng thống Obama đã gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma nhiều lần và mô tả Ngài là ‘một người bạn tốt.’
Trung Quốc e các cuộc gặp kiểu này sẽ đánh đi một thông điệp sai lệch cho người dân Tây Tạng.
Phát ngôn nhân Lục Khảng ngày 15/6 nói với báo giới tại Bắc Kinh: ‘Nếu cuộc gặp đó diễn ra thì sẽ gửi đi một thông điệp sai lệch tới các lực lượng ly khai mưu tìm độc lập cho Tây Tạng, sẽ gây phương hại cho lòng tin và sự hợp tác lẫn nhau giữa hai nước.’
Các cuộc đối thoại giữa Đức Đạt Lai Lạt Ma với chính quyền trung ương Trung Quốc chấm dứt từ năm 2010.
Người dân Tây Tạng bầu chọn Thủ tướng hồi tháng 5 và họ vẫn hy vọng rằng các cuộc đối thoại với Trung Quốc về ‘con đường trung đạo’ mang lại tự trị cho Tây Tạng có thể tiếp nối.
Thứ năm, 16/06/2016
'Những vụ việc liên quan đến các quan chức báo hiệu sự thay đổi'
Cựu Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng, vừa rời chức vụ cách đây 2 tháng, đã bị chất vấn về việc đưa con trai là Vũ Quang Hải vào các vị trí lãnh đạo trong bộ và trong doanh nghiệp nhà nước.
Truyền thông và công luận Việt Nam trong những ngày gần đây đang nóng lên về một số vụ việc gắn với các quan chức chính quyền.
Mới nhất là việc cựu Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng, người mới rời chức vụ cách đây 2 tháng, bị Hiệp hội Đầu tư Tài chính Việt Nam (VAFI) chất vấn trong một lá thư đề ngày 13/6 về việc đưa con trai là Vũ Quang Hải vào các vị trí lãnh đạo trong bộ và trong doanh nghiệp nhà nước.
Chức vụ cuối cùng mà ông Hải nắm giữ từ tháng 2/2015 là Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Bia Sabeco, một doanh nghiệp nhà nước lớn.
Nhận xét về lý do công luận bất bình về việc bổ nhiệm này, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương, nói với VOA Việt ngữ:
“Đây là một cái việc sai trái rất rõ ràng. Một ông bộ trưởng là đại diện chủ sở hữu nhà nước ở cái tổng công ty đó lại bổ nhiệm con mình vào chức vụ là phó tổng giám đốc ở đấy là một cái điều sai hẳn Luật Doanh nghiệp”.
Trước vụ việc này, truyền thông và công luận Việt Nam cũng tập trung sự chú ý, kể cả bày tỏ thái độ bực bội về trường hợp ông Trịnh Xuân Thanh, Phó Chủ tịch tỉnh Hậu Giang, đi xe tư nhân rất sang trọng nhưng lại gắn biển xanh chỉ dành cho xe nhà nước, bên cạnh đó là những nghi vấn về việc ông trúng cử đại biểu quốc hội.
Mới nhất là việc cựu Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng, người mới rời chức vụ cách đây 2 tháng, bị Hiệp hội Đầu tư Tài chính Việt Nam (VAFI) chất vấn trong một lá thư đề ngày 13/6 về việc đưa con trai là Vũ Quang Hải vào các vị trí lãnh đạo trong bộ và trong doanh nghiệp nhà nước.
Chức vụ cuối cùng mà ông Hải nắm giữ từ tháng 2/2015 là Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Bia Sabeco, một doanh nghiệp nhà nước lớn.
Tôi nghĩ rằng đây là sự chuyển động từng bước và có căn cứ và được sự ủng hộ của người dân. Đây cũng phản ánh đòi hỏi của công luận, của người dân và doanh nghiệp. Nó thể hiện cái yêu cầu của sự phát triển của kinh tế, của xã hội Việt Nam, thể hiện khát vọng dân chủ.
“Đây là một cái việc sai trái rất rõ ràng. Một ông bộ trưởng là đại diện chủ sở hữu nhà nước ở cái tổng công ty đó lại bổ nhiệm con mình vào chức vụ là phó tổng giám đốc ở đấy là một cái điều sai hẳn Luật Doanh nghiệp”.
Trước vụ việc này, truyền thông và công luận Việt Nam cũng tập trung sự chú ý, kể cả bày tỏ thái độ bực bội về trường hợp ông Trịnh Xuân Thanh, Phó Chủ tịch tỉnh Hậu Giang, đi xe tư nhân rất sang trọng nhưng lại gắn biển xanh chỉ dành cho xe nhà nước, bên cạnh đó là những nghi vấn về việc ông trúng cử đại biểu quốc hội.
Tổng Bí thư Đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đã yêu cầu kiểm tra, xác minh các nội dung báo chí phản ánh về ông ông Trịnh Xuân Thanh, Phó Chủ tịch tỉnh Hậu Giang.
Sự ồn ào về ông Thanh trên truyền thông đã dẫn đến việc Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng ngày 9/6 yêu cầu các ủy ban của đảng, Bộ Công an và một số cơ quan nhà nước, kể cả Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam, nơi ông Thanh từng làm lãnh đạo, phải kiểm tra, xác minh những nội dung mà báo chí phản ánh về ông này. Ông tổng bí thư yêu cầu phải “coi đây là việc cần làm ngay”.
Trên mạng xã hội, một số người cho rằng những vụ này là dấu hiệu của một cuộc bài trừ nạn bè phái, lạm quyền, song ở một quy mô nhỏ hơn và ít ầm ĩ hơn nhiều so với chiến dịch “Đả hổ diệt ruồi” ở Trung Quốc. mặc dầu vậy, với con mắt chuyên gia, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh đưa ra nhận định:
“Tôi nghĩ rằng đó là các dấu hiệu của sự chuyển động chứ không phải đây là một chiến dịch mà giống như là ông Tập Cận Bình đã thực hiện trong nhiều năm nay. Hai cái sự việc nó khác nhau”.
Tôi nghĩ rằng đó là các dấu hiệu của sự chuyển động chứ không phải đây là một chiến dịch mà giống như là ông Tập Cận Bình đã thực hiện trong nhiều năm nay. Hai cái sự việc nó khác nhau.
Ông nói thêm một cách cụ thể:
“Tôi nghĩ rằng đây là sự chuyển động từng bước và có căn cứ và được sự ủng hộ của người dân. Đây cũng phản ánh đòi hỏi của công luận, của người dân và doanh nghiệp. Nó thể hiện cái yêu cầu của sự phát triển của kinh tế, của xã hội Việt Nam, thể hiện khát vọng dân chủ”.
Thời gian gần đây, đảng cầm quyền đã chịu nhiều sức ép từ người dân khi họ liên tục lên tiếng thông qua truyền thông và mạng xã hội về tình trạng ô nhiễm môi trường, nạn lợi ích nhóm, và các cái sai trái khác. Sức ép này dường như đã dẫn đến một số thay đổi nhưng chưa to lớn và có tính cơ bản như nhiều người mong đợi.
http://www.voatiengviet.com/content/ts-le-dang-doanh-vu-viec-lien-quan-toi-cac-quan-chuc-bao-hieu-su-thay-doi/3376842.html
Thứ năm, 16/06/2016
Cứu sống phi công trong tai nạn rớt chiến đấu cơ gần Nghệ An
Truyền thông Việt Nam đưa tin hôm 15/6 rằng Thiếu tá Nguyễn Hữu Cường, một trong hai viên phi công trong vụ rơi chiến đấu cơ SU-30 ngoài khơi bờ biển tỉnh Nghệ An ở miền trung, đã được cứu sống và đưa vào bờ.
Tin cho hay ông Cường và viên phi công còn lại đã nhảy dù khi đang bay huấn luyện vào sáng sớm 14/6 vì theo lời ông Cường “trong buồng lái có tiếng nổ”.
Ông Cường, 39 tuổi, đã được một tàu cá cứu. Ông cho biết sau khi nhảy dù ông và phi công Trần Quang Khải, 43 tuổi, “bị văng ra hai nơi cách nhau khoảng 4 kilomet”.
Địa điểm chính xác nơi máy bay gặp nạn vẫn chưa được xác định. Trong khi đó, nhà chức trách đang huy động tàu hải quân, biên phòng, cảnh sát biển, ít nhất 4 trực thăng và cả tàu cá của ngư dân để tìm kiếm viên phi công còn mất tích. Ông Khải là Phó trung đoàn trưởng, Tham mưu trưởng Trung đoàn không quân 923.
Ông Đinh Viết Hồng, Phó chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An, nói với báo chí rằng các tàu cá được chia làm 3 khu vực, dàn hàng ngang tìm kiếm trên diện tích biển từ Thanh Hóa vào đến Hà Tĩnh.
Khu vực máy bay bị nạn được cho là trên mặt biển cách bờ biển ở thị xã Cửa Lò, Nghệ An vài chục kilomet về phía đông. Tình hình thời tiết trong hai ngày 14 và 15/6 không có gì bất thường.
Trong điều kiện như vậy, việc tìm kiếm bằng trực thăng rất thuận lợi. Tuy nhiên, gần một ngày trôi qua kể từ thời điểm xảy ra tai nạn, một viên phi công được cứu là nhờ tàu cá, còn hơn một ngày trôi qua vẫn chưa tìm thấy viên phi công còn lại. Điều đó đặt ra câu hỏi lớn về khả năng cứu hộ bằng trực thăng ở Việt Nam.
Theo Thanh Nien, Zing, Vnexpresshttp://www.voatiengviet.com/content/cuu-song-phi-cong-trong-tai-nan-phi-co-su-gan-nghe-an/3376818.html
Tranh cổ động Trung Quốc xuất hiện trên truyền hình Việt Nam
Tranh cổ động 'Học tập, ứng dụng tư tưởng triết học Mao Trạch Đông' được dùng làm hình nền minh hoạ cho chương trình truyền hình trực tiếp trao giải cuộc thi viết 'Những tấm gương bình dị mà cao quý' trên kênh truyền hình VTV.
Kênh truyền hình quốc gia Việt Nam (VTV) lại vấp phải chỉ trích của dư luận sau khi bị phát hiện sử dụng hình ảnh minh họa kêu gọi “học tập tư tưởng của Mao Trạch Đông”.
Bức tranh cổ động có tên "Học tập, ứng dụng tư tưởng triết học Mao Trạch Đông" đã được dùng làm hình nền minh hoạ cho chương trình truyền hình trực tiếp trao giải cuộc thi viết "Những tấm gương bình dị mà cao quý".
Ông Phan Tất Thành, một cựu du học sinh tại Trung Quốc, cho VOA Việt Ngữ biết hiện có nhiều luồng dư luận về vụ việc này.
“Trong nước dư luận đang xôn xao, bức xúc về chuyện này. Dư luận có nhiều chiều. Có một chiều nói rằng là đồng hóa nhanh quá. Có một chiều nói rằng nhầm lẫn rồi ‘lỗi thằng đánh máy’. Nó bộc lộ một sự ngu dốt của các cơ quan truyền thông Việt Nam, khi mà phải ăn cắp những cái ảnh này”.
VOA Việt Ngữ không thể liên lạc được với lãnh đạo Đài truyền hình Việt Nam để hỏi ý kiến về những chỉ trích họ trên mạng.
Tuy nhiên, khi trả lời báo Tuổi Trẻ, ông Phạm Việt Tiến, Phó tổng giám đốc Đài truyền hình Việt Nam, cho biết đây là chương trình của báo Quân đội nhân dân tổ chức, VTV chỉ truyền hình trực tiếp chương trình.
Trước câu hỏi về trách nhiệm, ông Tiến được trích lời nói rằng “khi truyền hình trực tiếp thì VTV không thể xử lý hết được những cái mà ban tổ chức (báo Quân đội nhân dân) đã chuẩn bị trước đó”.
Bài báo trích lời lãnh đạo của VTV sau đó đã bị rút khỏi trang báo mà không rõ lý do. Nhận định về việc những gì liên quan tới Trung Quốc hiện đều gây ra các phản ứng ở Việt Nam, ông Thành nói thêm:
“Cái tư tưởng bá quyền, tư tưởng lăm le xâm chiếm nước Việt Nam của nhà cầm quyền Trung Quốc rất là rõ. Việc làm này thể hiện một sự đồng nhất về văn hóa của Trung Quốc đã tràn vào Việt Nam. Phẫn nộ là vì nhân dân cho rằng đường lối, sách lược thông tin truyền thông đã bị Trung Quốc khống chế. Mà cái này lại là trên các phương tiện truyền thông đại chúng, trên VTV”.
Cơ quan quản lý truyền thông của Việt Nam chưa lên tiếng trước lời nhận xét của ông Thành.
Cựu du học sinh ở Trung Quốc cho biết thêm rằng bức tranh cổ động trên từng được một họa sĩ ở Việt Nam sao chép và sửa chữa thành tranh cổ động về an toàn lao động.
Năm ngoái, VTV cũng vấp phải sự cố khi phát đoạn nhạc trong bài “Ca ngợi tổ quốc”, “quốc ca thứ hai” của Trung Quốc.
Trong khi đó, VTV hiện vẫn là tâm điểm của dư luận sau khi phát chương trình “60 phút mở”, bị coi là “đấu tố” một MC nổi tiếng về “động cơ” chia sẻ clip vụ cá chết, cũng như chất vấn việc “làm từ thiện vì ai”.
GS. PHẠM ĐỨC LIÊN * CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI HOA VIỆT 1977
Phạm Đức Liên
Phần 1:A. Dẫn nhập:
2. Người Hoa tại Việt Nam có khoảng 2 triệu (20% sinh sống ở miền Bắc, 80% buôn bán ở miền Nam) – nắm giữ phần lớn thương mại (nhất là tại miền Nam). Việt Cộng bài Hoa (ngược đãi, xua đuổi…) . Tháng 5/1978, Trung Cộng phải mang tàu qua Việt Nam để chuyên chở khối người Hoa về cố quốc (230,000) – đó là chưa kể nhiều người Hoa đã dùng đường bộ chạy qua nhiều cửa khẩu ở biên giới Việt Hoa. Trong trận “túc cầu” nầy, Việt Cộng thắng Trung Cộng 1-0.
Phần 1:A. Dẫn nhập:
1. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Saigon đầu hàng, Việt Cộng (xin hiểu là Việt Nam Cộng Sản Đảng) thống nhất đất nước sau một cuộc chiến không cần thiết (3 lãnh tụ Roosevelt, Churchill và Staline của 3 cường quốc thắng trận – đã thỏa thuận về vùng ảnh
hưởng và giải phóng các dân tộc nhược tiểu – sau khi thế chiến thứ hai (1939-1945) chấm dứt tại hội nghị Yalta tháng 2/1945 và Postdam tháng 7/1945) – cốt nhục tương tàn (4 triệu dân quân đã chết – xác tan tành mà vẫn như mơ ! – đánh cho Trung Cộng, Liên Xô !). Thừa thắng xông lên, Việt Cộng theo đuổi chủ nghĩa bá quyền: một Liên Bang Đông Dương mà Việt Nam lãnh đạo. Một tiểu bá phía Nam cùng đại bá phương Bắc (Liên Xô): kẹp chết Trung Cộng ở giữa. Hiểu rõ thằng đàn em bướng bỉnh, vô ơn (không có Trung Cộng thì không thể thắng được Pháp, Mỹ), xoay chiều – Trung Cộng ra tay trước/ bằng mọi giá - ủng hộ Polpot (Khmer Đỏ) làm chủ Campuchia – từ đầu năm 1975
(cụ thể là Trung Cộng gởi hơn 10,000 cố vấn qua giúp Khmer Đỏ; viện trợ 1.5 tỉ đô la Mỹ/trong 3 năm 1976, 1977, 1978; cung cấp vũ khí, đạn dược, xe cộ, xăng dầu, cho một đạo quân Polpot có 200,000 lính (tức 25 sư đoàn); xây dựng đường mòn Đặng Tiểu Bình xuyên qua Thái Lan, mà cứu viện Khmer Đỏ. Quân Polpot quấy phá mấy tỉnh Việt Nam dọc biên giới Việt Miên và đánh chiếm đảo Phú Quốc. Việt Cộng viễn chinh, quân Việt tổng phản công trên khắp chiến trường Campuchia – và ngày 23/12/1978, Phnompenh thất thủ, Khmer Đỏ tan rã!. Việt Cộng lập chánh phủ Campuchia thân Việt Nam. Thủ tướng Việt Cộng Pham Văn Đồng bay qua Nam Vang ký hiệp ước hỗ tương. Tướng Văn Tiến Dũng cũng bay qua chào mừng chiến thắng – giữa lúc dầu sôi lửa bỏng ở biên giới Việt Hoa (tháng 2/1979)!!
(cụ thể là Trung Cộng gởi hơn 10,000 cố vấn qua giúp Khmer Đỏ; viện trợ 1.5 tỉ đô la Mỹ/trong 3 năm 1976, 1977, 1978; cung cấp vũ khí, đạn dược, xe cộ, xăng dầu, cho một đạo quân Polpot có 200,000 lính (tức 25 sư đoàn); xây dựng đường mòn Đặng Tiểu Bình xuyên qua Thái Lan, mà cứu viện Khmer Đỏ. Quân Polpot quấy phá mấy tỉnh Việt Nam dọc biên giới Việt Miên và đánh chiếm đảo Phú Quốc. Việt Cộng viễn chinh, quân Việt tổng phản công trên khắp chiến trường Campuchia – và ngày 23/12/1978, Phnompenh thất thủ, Khmer Đỏ tan rã!. Việt Cộng lập chánh phủ Campuchia thân Việt Nam. Thủ tướng Việt Cộng Pham Văn Đồng bay qua Nam Vang ký hiệp ước hỗ tương. Tướng Văn Tiến Dũng cũng bay qua chào mừng chiến thắng – giữa lúc dầu sôi lửa bỏng ở biên giới Việt Hoa (tháng 2/1979)!!
Quân Việt Nam
2. Người Hoa tại Việt Nam có khoảng 2 triệu (20% sinh sống ở miền Bắc, 80% buôn bán ở miền Nam) – nắm giữ phần lớn thương mại (nhất là tại miền Nam). Việt Cộng bài Hoa (ngược đãi, xua đuổi…) . Tháng 5/1978, Trung Cộng phải mang tàu qua Việt Nam để chuyên chở khối người Hoa về cố quốc (230,000) – đó là chưa kể nhiều người Hoa đã dùng đường bộ chạy qua nhiều cửa khẩu ở biên giới Việt Hoa. Trong trận “túc cầu” nầy, Việt Cộng thắng Trung Cộng 1-0.
3. Tháng 6/1978, Việt Cộng gia nhập Hội Đồng Tương Trợ Kinh Tế do Liên Xô đề xướng. Tháng 11/1978, Việt Cộng và Liên Xô ký Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác (có mục phòng thủ chung/quân sự). Vào thời điểm nầy thì Liên xô là kẻ thù số 1 của Trung Cộng. Thế thì trên giấy trắng mực đen: Việt Cộng không còn đu dây giữa Bắc Kinh và Moscow nữa mà hoàn toàn xoay trục (đi hẳn với Liên Xô). Chứng cớ hiển nhiên qua những con số thống kê: tháng 8/1978 số cố vấn và chuyên viên Nga tại Việt Nam là 4,000, tăng thật nhanh – để đầu năm 1979 là 6,000 (Đại tướng Obaturovym/ thường trực tại Bộ Tổng Tham Mưu). Liên Xô ồ ạt viện trợ cho Việt Cộng: tên lửa phòng không, xe tăng, máy bay , vũ khí tối tân qua cảng Hải Phòng – nhất là sau ngày 17/2/1979 (chiến tranh Hoa Việt bắt đầu)
. Hàng hàng lớp lớp tàu vận tải của Nga dồn dập bốc dỡ hàng. Viện trợ quân sự: 1977 là 130 triệu đô la Mỹ, 1978 là 600 triệu, 1979 là 1 tỉ). Nhiều phi cơ Liên Xô bay đến Cam Ranh và 2 khu trục hạm bỏ neo ở Cam Ranh… Viên trợ kinh tế cũng tăng nhanh (1975: 500 triệu đô la, 1979 trên 1 tỉ). Trong khi đó thì BắcKinh rút hết cố vấn/chuyên viên về và cắt đứt mọi viện trợ cho Việt Công từ tháng 6/1978. Cũng tháng 6/1978, Bắc Kinh yêu cầu Hà Nội đóng cửa lãnh sự quán ở Côn Minh (Vân Nam), Nam Ninh (Quảng Tây), Quảng Châu (Quảng Đông)… trong thời gian ngắn nhất. Cả hai bên chuẩn bị chiến tranh.
Lạng Sơn tan nát
Quân TRuing Cộng tấn công
. Hàng hàng lớp lớp tàu vận tải của Nga dồn dập bốc dỡ hàng. Viện trợ quân sự: 1977 là 130 triệu đô la Mỹ, 1978 là 600 triệu, 1979 là 1 tỉ). Nhiều phi cơ Liên Xô bay đến Cam Ranh và 2 khu trục hạm bỏ neo ở Cam Ranh… Viên trợ kinh tế cũng tăng nhanh (1975: 500 triệu đô la, 1979 trên 1 tỉ). Trong khi đó thì BắcKinh rút hết cố vấn/chuyên viên về và cắt đứt mọi viện trợ cho Việt Công từ tháng 6/1978. Cũng tháng 6/1978, Bắc Kinh yêu cầu Hà Nội đóng cửa lãnh sự quán ở Côn Minh (Vân Nam), Nam Ninh (Quảng Tây), Quảng Châu (Quảng Đông)… trong thời gian ngắn nhất. Cả hai bên chuẩn bị chiến tranh.
4. Và Đặng Tiểu Bình tuyên bố: “Việt Nam là côn đồ. Phải dạy cho Việt Nam một bài học”. Để trấn an quốc tế, họ Đặng nhấn mạnh: “Cuộc trừng phạt sẽ giới hạn không gian lẫn thời gian”. Tháng 1/1979, Đặng Tiểu Bình xuất ngoại – tìm kiếm đồng minh. Họ Đặng gặp tổng thống Mỹ Carter (30/1/1979), trên đường về nước lại gặp thủ tướng Nhật. Ngày 16/2/1979, Đặng Tiểu Bình họp với các tướng lãnh lần chót để ra chỉ thị và nhắc lại: “Tiến nhanh, diệt nhanh, rút nhanh – hạn chế không gian, thời gian”. Sáng sớm ngày 17/2/1979, cuộc chiến bắt đầu với biển người, biển lửa.. Những quả trọng pháo nổ dòn dã – tiếp theo là từng đoàn xe tăng T59, xe bọc thép K63 với bộ binh tháp tùng: biển lửa (súng phun lửa… ) biển người – đồng loạt tràn qua dọc biên giới Việt Hoa dài 1285 km. Tưởng chừng như vở cả một bầu trời – không một sinh vật nào có thể sống sót. Thế nhưng khí thiêng sông núi, hồn thiêng dân tộc đã phù hộ chúng con – chiến đấu đến cùng – bắn đến viên đạn cuối cùng – chết đến người lính cuối cùng – cho toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam cẩm tú. Và:
“Chết vì tổ quốc,
Cái chết vinh quang
Lòng ta sung sướng,
Chí ta nhẹ nhàng.”
(Nguyễn Thái Học)
B. Chiến tranh biên giới Hoa Việt bùng nổ - ngày 17/2/1979.
1. Tương quan lực lượng:
a. Trung Cộng:
• Bắc Kinh dàn ra 2 mặt trận mà chiều dài chiến tuyến là 1285 km. Mặt trận Đông Bắc – quan trọng nhất do danh tướng Hứa Thế Hữu chỉ huy và mặt trận Tây Bắc do Đại tướng Dương Đắc Chí chỉ huy.
• 9 quân đoàn (mỗi quân đoàn gồm có từ 3 đến 5 sư đoàn) và 5 sư đoàn độc lập. 4 sư đoàn pháo binh và nhiều trung đoàn phòng không (với 500 đại bác và nhiều dàn hỏa tiễn địa không. Tổng số quân lính là 300,000. Cạnh đó là 500,000 dân công để tiếp tế, tải thương… Cuộc chuyển quân áp sát biên giới Việt Hoa của Trung Cộng rất ngoạn mục: dân chúng vùng biên giới vẫn sinh hoạt bình thường – say mê với “tứ hiện đại hóa” của Đặng Tiểu Bình – loáng thoáng có nghe thấy “dạy cho Việt nam một bài học” – mà ngâm nga:
“Mạc vị xuân tàn, hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”
(Chớ tưởng xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trước một cành mai”)
(Ngô Tất Tố dịch)
Lạng Sơn tan nát
• Trung Cộng huy động 700 chiến đấu cơ, phi cơ thả bom … (trong tổng số 3,500 máy bay hiện có đến những phi trường gần biên giới Hoa Việt và hạm đội Nam Hải (với 200 tàu chiến) trực sẵn ngoài khơi. Đạo quân nầy sẽ xử dụng nếu Liên Xô tham chiến?.b. Việt Cộng:• Tổng chỉ huy cuộc chiến là Đại Tướng Võ Nguyên Giáp và Đại Tướng Văn Tiến Dũng. Bộ tư lệnh Tiền Phương là tướng Lê Trọng Tấn. Khi cuộc chiến xảy ra thì đến 50% chủ lực quân Việt Cộng đang viễn chinh tại Campuchia !!! Và lãnh đạo đang say men chiến thắng !
• Ở thế phòng thủ - nhất là địa thế hiểm nghèo – trùng trùng điệp điệp – vùng biên giới Việt Hoa, Việt Cộng đã bố trí từng sư đoàn tại từng nút chặn (check points) – đằng sau những trung đoàn địa phương quân 95, 121, 192, 254, 741, và những trung đoàn độc lập 141, 147, 148, 197 … và trung đoàn pháo 68. Binh lính tổng cộng là 100,000 cộng với 170,000 dân công tải đạn, tải thương… Quân đoàn 1 với 5 sư đoàn bọc vùng trung nguyên – bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng. Hai sư đoàn 327, 337 được tăng phái cho mặt trận Lạng Sơn – khi quá nguy kịch (23/2/1979). Hai bên đều tăng quân cứu viện.• Việt Cộng được trang bị bằng võ khí hiện đại (cả kho võ khí tối tân của quân lực VNCH để lại sau 30/4/1975: M16, M79, đại bác 175 ly… ) kinh nghiệm chiến đấu vẫn còn nóng hổi (cuộc chiến vừa tàn 1975) – trong khi quân Trung Cộng “ngồi chơi xơi nước” trên ¼ thế kỷ sau chiến tranh Triều Tiên (1950/53). Thế nhưng đồng bào thiểu số sống dọc theo biên giới Hoa Việt và dân tộc thiểu số song dọc theo biên giới Việt Hoa vẫn liên lạc mật thiết với nhau vì cùng một nguồn gốc. Và khối người Hoa số ở Bắc Phần là 2 nhóm vô cùng quan trọng trong cuộc chiến nầy. Họ làm tình báo, địch vận, giao liên, cắt dây điện thoại… cho Trung Cộng. Tình báo Trung Cộng đã móc nối được với họ từ lâu rồi.
Tù binh TRung Cộng
2. Cuộc chiến bùng nổ: diễn tiến (xin độc giả theo dõi sát bản đồ hành quân): Tiếng súng ầm vang hồi 5 giờ sáng ngày 17/2/1979 trên chiến tuyến dài 1285 km. Tiếng súng chỉ tạm ngưng nổ sáng ngày 5/3/1979 (sau khi Trung Cộng đã vào thị xã Lạng Sơn trong đêm/ngày 4/3/1979) sau khi đài phát thanh Bắc Kinh tuyên bố: “Cuộc chiến tranh chấm dứt vì đã hoàn tất mục tiêu và quân Trung Cộng chuẩn bị rút lui”.a. Giai đoạn 1: từ ngày 17/2 đến 26/2/1979 (10 ngày).• 17/2, ngày đầu của cuộc chiến: Trung Cộng tấn công như vũ bão (vận động chiến): pháo tới tấp – rồi xe tăng gầm thét và bộ binh (biển người). Chỉ ngày 17/2 quân Trung Cộng đã tiến sâu vào Việt nam gần 20 km. Việt Cộng chống trả kịch liệt từ những hang động, lũy chiến hào, hầm hố … khiến mặt trận phía tây, quân của tướng Dương Đắc Chí phải khựng lại ở Lào Cai. Trên mặt trận phía đông, Hứa Thế Hữu cũng bị cầm chân ở Đồng Đăng cửa ngõ vào Lạng Sơn. Cuộc chiến quá khốc liệt, hai bên đều bị thiệt hại nặng nề! – đến khủng khiếp.• Ngày 18/2 đến 22/2, Trung Cộng phải dùng du kích chiến: đánh bằng những toán đặc nhiệm, những tổ đặc công – đánh bằng bộc phá, sung phun lửa, bắn hoá chất … hai bên dành nhau từng đường hầm, từng hang động, từng cao điểm… Dã man và quá ác liệt !.
Đêm 22/2, Trung Cộng chiếm được thị xã Lào Cai, Cao Bằng và Đồng Đăng sau 5 ngày quyết tử. Việt Cộng di tản chiến thuật! chờ quân cứu viện.• Tàu bay Liên Xô trực sẵn ở Cam Ranh ngày 24/2 giúp Việt Cộng chở quân từ miền Nam ra Bắc (chở cả quân đoàn Việt Cộng đang viễn chinh ở Campuchia) và vũ khí, đạn dược (cả tiểu đoàn pháo hiện đại nhất BM-21 mà Liên Xô vừa viện trợ… đến Lạng Sơn – vì Đồng Đăng lá chắn cuả Lạng Sơn vừa thất thủ) . Có thể Liên Xô tham chiến. Thế giới đại chiến thứ ba bùng nổ giữa những người cộng sản anh em ! rồi lôi nhân loại vào khói lửa mịt mù!. Ngày 23/2 Đặng Tiểu bình tuyên bố: “Đây chỉ là cuộc chiến tranh hạn chế - sau khi đạt mục tiêu – sẽ rút quân trong 10 ngày”.• Ngày 26/2/1979: Trung Cộng xiết chặt vòng vây chung quanh thị xa Lạng Sơn. Cuộc chiến bước vào một khúc quanh.“Đường lên Việt Bắc quanh quanh,Non xanh nước biếc, như tranh họa đồ."(Cadao)
Quân TRuing Cộng tấn công
b. Giai đoạn 2: từ ngày 27/2 đến ngày 16/3/1979 (20 ngày)•
Đồng Đăng thất thủ ngày 22/2/1979 thì trước và sau đó 2 sư đoàn 327, 337 cùng nhiều sư đoàn khác (cả 1 quân đoàn) lên tiếp cứu Lạng Sơn lâm nguy.• 6 giờ sáng ngày 27/2 Trung Cộng bắt đầu pháo dữ dội – tấn công mạnh để chiếm những cao điểm (như cao điểm 800) ngõ hầu ở thế thượng phong: từ những cao điểm mà rót pháo vào những thị trấn nhỏ gần Lạng Sơn. Lạng Sơn là thế trận cao điểm – không là thấp điểm (hang động, giao thông hào …) như những chiến tuyến khác nữa.• Từ ngày 28/2 đến 2/3 là “đoạn đường máu lửa”: đoạn đường chí có 4 km – mà biết bao nhân mạng Trung Cộng mới áp sát được Lạng Sơn. Chiếm được những cao điểm 340, 391… pháo binh Trung Cộng rót thẳng vào Lạng Sơn – để rồi chiều ngày 4 tháng 3: Lạng Sơn thất thủ. !!! Pháo binh làm chủ chiến trường.
• Sáng ngày 5/3/1979: Bắc Kinh tuyên bố: “đã đạt được mục tiêu và chuẩn bị rút quân!” Để rồi ngày 16/3/1979. Bắc Kinh dõng dạc: “đã hoàn tất việc triệt thoái quân khỏi Việt Nam”. Hà Nội thoát chết (đã ra lịnh tổng động viên ngày 5/3/1979).3. Hậu quả: Chiến tranh biên giới Hoa Việt xảy ra rất ngắn ngủi: chỉ trong vòng 1 tháng từ ngày 17/2 đến 16/3 năm 1979 thế nhưng bao tang tóc, tàn phá…a. Trung Cộng: 17,000 binh sĩ tử trận. Việt Cộng : 25,000 liệt sĩ. Trong bất cứ một cuộc chiến tranh cận và hiện đại thì tỉ lệ bị thương khoảng 2.5 lần số người bị chết.b. Ngày 17/2/1979, trên con đường tấn công và xâm chiếm Việt Nam, quân Trung Cộng đã tàn phá một diện tích khoảng 20kmx1285km để đạt chiến thắng. Trên đường triệt thoái (sau ngày 5/3/1979) một lần nữa lính Trung Cộng lại tàn sát và tàn phá đến bình địa mọi nhà thương, trường học, chùa chiền, nhà thờ, di tích lịch sử…: 25,700 km2 (7.5% diện tích nước Việt Nam). Hỏi rằng: “Có bao nhiêu thường dân vô tội của 6 tỉnh biên giới Việt Hoa còn sống sót?". Bao nhiêu là chất xám để xây dựng lại Việt Nam cẩm tú! Đau quá!C. Lời kết:“Sứ mạng lịch sử là sứ mạng cao cả và con đường lịch sử là con đường quyết định”.Quân Trung Cộng tấn công
Con đường quyết định những ngày đầu năm 1979 là Lạng Sơn. Lạng Sơn thất thủ ngày 4/3 1979 từ đó dễ dàng cho đoàn quân viễn chinh Trung Cộng tiến vào Hà Nội. Thế nhưng lại một lần nữa “Khí thiêng sông núi – hồn thiêng dân tộc” đã phù hộ con cháu Lạc Hồng. Đặng Tiểu Bình – một phần lo ngại dư luận quốc tế (cá lớn nuốt cá bé) – một phần sợ Liên Xô nhảy vào chiến cuộc – đã chấm dứt cuộc chiến và ra lịnh rút quân. Hà Nội thở nhẹ nhỏm.Trong trận “túc cầu” lần thứ hai thì Trung Cộng đã thắng Việt Cộng 1-0. Trung Cộng và Việt Cộng đang đá trận cầu thứ ba. Không biết có dám cản gan mà đá hay không? Hãy trông cậy vào thực lực của mình = 100 triệu dân Việt Nam (96 triệu trong nước và 4 triệu hải ngoại). Phải tự trị đại học để sinh viên, giáo sư tự do phát minh, sáng chế (cụ thể là bằng sáng chế được trình tòa (patents) ngõ hầu sánh vai cùng năm châu bốn biển.“Việt Nam. Việt Nam ơi !Bầu trời Nam rực sáng,Tháng ngày đẹp tuyệt vời,Điện tử - khúc ca vang “.(Vietnam – oh Vietnam!The brilliant Vietnam sky,Future days are coming,“Hi-tech” is the victorious song”.)
Phần 2:1. Biên giới Việt Hoa (1285 km) là vùng núi rừng hang động hiểm trở - nuiis đồi trùng điệp, tưởng như vô tận – là 2 vòng cung Đông Bắc và Tây Bắc, che chở và ấp ủ - đàn con cháu Lạc Hồng trong cái nôi ấm áp – châu thổ sông Hồng. Quân xâm lăng phương Bắc – hầu như lúc nào cũng gầm gừ thôn tính “dải sơn hà cẩm tú đó”. Mẹ Việt Nam yêu dấu ơi ! Chúng con nguyện giữ trọn từng tất đất, từng thước biển – mà tổ tiên đã hy sinh bao xương máu. Cụ thể là 3 lần con cháu Rồng Tiên đã đánh tan đạo quân bách chiến bách thắng Mông Cổ trong những năm 1258, 1285 và 1288 … cho Đại Việt “Minh Châu Trời Đông”.Tù binh VIệt Nam
2. Chiến tranh biên giới Hoa Việt ngày 17/2/1079 chỉ kéo dài 30 ngày nhưng sức tàn phá và sự tàn sát của nó thì khủng khiếp cho Việt Nam. Trên đường triệt thoái (từ 6 tháng 3 đến 16/3/1979: chỉ 10 ngày) tướng Hứa Thế Hữu (tổng chỉ huy chiến dịch) đã ra lịnh cho binh sĩ: “Sát Cách Vô Luận” (“thấy là giết không cần lý lẽ !”). Bao nhiêu thường dân chết oan!? Dù chạy thật nhanh mà trốn vào rừng sâu. Dọc hai bên đường rút quân là bình địa (cầu cống, đường sá, nhà máy nước, trạm phát điện… bị phá hủy hoàn toàn).
Bình địa một diện tích 20x1285 km = 25,700 km2 (tương đương 7.5% diện tích Việt Nam) và nhân mạng như sau:Trung Cộng: 17,000 binh sĩ chết, 42,500 bị thương.Việt Cộng: 25,000 liệt sĩ, 62,500 bị thương, 35,000 thường dân thiệt mạng (sai số 2%)Ngay cả những cột mốc biên giới Việt Hoa cũng bị san bằng – nhiều cột mốc bị đào lên và lính Bắc Kinh đem chôn sâu về phía Việt Nam khiến ta mất khoảng 60 km2 (coi như 5x12km) phần lớn là những cao điểm quan trọng (núi Lão Sơn cao trên 1400m - Âm Sơn, cao điểm 1059. Vị Xuyên, cao điểm 685/772…). Cả hai thuộc Hà Giang. Ngày 16/3/1979, đài Bắc Kinh dõng dạc: “
Đã đạt mục tiêu và hoàn tất cuộc triệt thoái.”. Thế nhưng chiến tranh biên giới Hoa Việt vẫn âm ỉ, rồi nổ lớn năm 1984…, 1989.3. Chiến tranh biên giới Hoa Việt tháng 2/1979 chỉ kéo dài 1 tháng nhưng có rào trước, đón sau với thế giới bằng tuyên bố của Đặng Tiểu Bình (tạm gọi là cuộc chiến “easy talked than done”. Nhưng tiếng súng nổ sau ngày 16/3/1979 ở biên giới Hoa Việt khốc liệt hơn, não nùng hơn, giành giựt nhau từng ngọn núi, ngọn đồi, cao điểm, đánh xáp lá cà bằng cảm tử quân (bạch binh chiến) rồi pháo binh rót ngày trên đầu quân ta, quân thù bằng những địa danh: núi xay thịt, đồi thịt băm, lò vôi thế kỷ, thung lũng gọi hồn … vì cả hai bên đều chết hết (trên 2,000 nhân mạng trên một ngọn đồi!). Chiến tranh Hoa Việt 10 năm nầy (1979-1989) cứ âm thầm diễn tiến, rất ít lời tuyên bố của giới chức thẩm quyền đôi bên nhưng vô cùng bạo tàn bằng bạch binh chiến (tạm gọi là cuộc chiến “
Do more than talk”). “Thương nước, thương nòi, con quốc quốc”, tác giả xin quý vị theo dõi cuộc chiến nầy (10 năm ròng rã = 1979-1989) trong bài kỳ tới: “Dạy Việt Nam bài học thứ hai !”. Dạy đến thuần thục thì thôi !.4. Tình báo Trung Cộng giỏi lắm thế nhưng gián điệp Việt Công cũng chẳng thua gì, lại thêm sự giúp đỡ của điệp viên Liên Xô. Ấy thế mà sự chuyển quân của đạo binh Bắc Kinh áp sát biên giới Hoa Việt gần 1 triệu người (300,000 binh lính với pháo binh, chiến xa, quân cụ, xe cộ thực phẩm để chiến đấu trong 30 ngày cộng với 500,000 dân công..) và nhất là Trung Cộng di chuyển 700 phi cơ chiến đấu, bỏ bom đến những phi trường sát biên giới Hoa Việt để nếu cần thì chỉ 7 phút bay tới Hà Nội, rồi 200 tàu chiến của hạm đội Nam Hải trực sẵn ở ngoài khơi (Biển Đông) … mà Hà Nội chỉ biết lờ mờ!?
Chưa kể những sự kiện rõ ràng: tháng 12/1978, Trung Cộng ngừng các tuyến đường xe lửa tới Việt Nam và tháng 1/1979 các chuyến bay Bắc Kinh – Hà Nội bị cắt đứt. Lạc quan tếu? hay nội tuyến ? của bài “Chiến tranh biên giới Hoa Việt, 1979” tiếp theo nầy. Và để truy điệu 60,000 quân dân hy sinh cho Việt Nam.B. Tinh thần chủ quan, Việt gian ở ngay thượng tần kiến trúc lãnh đạo Hà Nội:
1. Sau mỗi chiến thắng, đều có chia rẽ ở thượng tầng lãnh đạo:a. Lịch sử đã chứng minh. Thời VNCH trước ngày 1/11/1963 khi phải đoàn kết để đòi hỏi bình đẳng tôn giáo thì Thượng Tọa Thích Tâm Châu và Thượng Tọa Thích Trí Quang đứng dưới một mái chùa. Sau ngày 1/11/1963 được bình đẳng rồi (trong quân đội VNCH trước 1/11/1963 chỉ có một Nha Tuyên Úy Công Giáo!. Sau đó Nha Tuyên Úy Phật Giáo ra đời, chăm sóc tinh thần cho 85% quân nhân và gia đình là Phật Tử. Rồi Nha Tuyên Úy Tinh Lành…) vì nhiều lý do… quý vị chia rẽ tạo ra Phật Giáo Viện Hóa Đạo, Phật Giáo Ấn Quang…!b. Lịch sử là một sự tái diễn (L’histore est un éternel recommencement).* Những nhà lãnh đạo quốc gia phải thấu triệt lịch sử - không phải đọc mà phải học. Lịch sử (Bất Đại Học, Bất Tri Lý) và phải đậu – cho dù nhân văn không chính xác bằng STEM.*
Sau khi từ hang Pắc Bó, Việt Cộng chiếm được một nửa lãnh thổ (sau hiệp định Genève, 20/7/1954) từ vĩ tuyến 17 trở ra. Tháng 10 năm 1954, Việt Cộng tiếp thu Hà Nội. Kể từ đó Hà Nội chia rẽ: - Phe chủ trương phát triển kinh tế miền Bắc rồi với thế mạnh đó sẽ dễ dàng thống nhất Việt Nam. - Phe chủ chiến, phải xâm lăng miền Nam bằng mọi giá (la fin justifie le moyen). Phe nầy thắng.* Ngày 30/4/1975 từ địa đạo Củ Chi, Hà Nội chiếm Sài gòn (không kể gì đến hiệp ước Paris 27/3/1973 để thống nhất đất nước. Kể từ đó Hà Nội chia rẽ trầm trọng.
2. Phe “Thừa thắng xông lên”hay phe “bần cố nông”. Tự cho mình là “đỉnh cao trí tuệ”. Đó là phe chủ chiến, họ muốn thôn tính Campuchia rồi Lào để lập nên Liên Bang Đông Dương do Hà Nội làm chủ để đối đầu với Trung Cộng. Phe nầy gồm Phạm Văn Đồng (Quảng Ngãi 1906-2000), Lê Duẩn (Quảng Trị 1907-1986), Văn Tiến Dũng (Hà Nội, 1917-2002)…3. Phe “kiến quốc trong hòa bình” hay phe “trí thức”. Hiểu rằng do những khúc rẽ của lịch sử thế giới, Việt Nam đã thống nhất về một mối. Hãy hàn gắn vết thương chiến tranh và phát triển kinh tế mà bắt tay với mọi quốc gia trên địa cầu. Đứng đầu là Võ Nguyên Giáp (cử nhân Luật, đại học Hà Nội/Đông Dương năm 1938, sanh tại Quảng Bình, 1911-2013)…*
Trong bất cứ cuộc tranh chấp nào giữa trí thức và bần cố nông thì thường phe bần cố nông thắng. Võ Nguyên Giáp và phe nhóm nhiều lúc bị thất sủng!.* vì bị mua chuộc (do ngoại bang) hay vì quyền lợi cá nhân, phe nhóm nhiều người từ phe tả chạy qua phe hửu hay ngược lại như sẽ thấy sau đây.4. Trong chiến tranh biên giới Hoa Việt, tháng 2/1979: Việt gian giả vờ “lạc quan tếu !?Lãnh đạo cao cấp nhất của Hà Nội không thống nhất ý chí!: trống đánh xuôi, kèn thổi ngược.• Phe dân sự: Lê Duẩn (Tổng Bí Thư): “Đập tan mọi âm mưu xâm lược của chủ nghĩa bành trướng phương Bắc”. Thế nhưng hàng ngủ dân sự cũng có chia rẽ (bị ngoại bang mua chuộc hay lạc quan tếu=chủ quan).
Cụ thể sáng ngày 17/2/1979 khi Trung Cộng tiến quân trên toàn biên giới Việt Hoa thì trưa hôm đó cơ quan tuyên giáo vẫn thuyết trình: “Cho ăn kẹo Trung Cộng không dám đánh Hà Nội “.• Phe quân sự:Ngày 16/2/1979, tướng Văn Tiến Dũng (chỉ huy quân đội nhân dân) trong buổi sinh hoạt thân thiện cùng sĩ quan khi trả lời câu hỏi : “Bắc Kinh tốt với chúng ta tại sao phải bố trí !. Ông ra lịnh cho quân chủng phòng không: “ Sinh hoạt như thường lệ, ai đi phép cứ đi, ai ứng trực cứ trực, không việc gì phải ứng chiến!”. Ra lịnh xong ông đi Campuchia giữa lúc dầu sôi lửa bỏng ở biên giới Hoa Việt: chiến tranh bùng nổ lúc 5 giờ sáng ngày 17/2/1979.Hai ba ngày trước cuộc tổng tấn công 17/2, địch đã pháo kích thăm dò và gởi những toán trinh sát để định lượng tình hình. Thế mà ngày 16/2, tại Cao Bằng trước ba quân, Thượng Tướng Đàm Quang Trung (lạc quan tếu hay bị Bắc Kinh mua chuộc ?) : “Cho ăn kẹo lạc, Trung Cộng cũng không dám đánh chúng ta!” Lãnh đạo thượng tầng của Hà Nội – có kẻ đã ăn kẹo Trung Cộng rồi !?. Kẹo kim cương, kẹo vàng lá…•
Vài tháng trước biến cố trọng đại 17/2, dân quân địa phương nhiều vùng dọc biên giới Việt Hoa được lịnh lau chùi súng ống rồi cất vào kho chỉ để một số tượng trưng cho canh phòng biên cương! Giữa lúc Bắc Kinh ầm ầm chuyển quân áp sát biên giới Hoa Việt (ở đây là ầm ầm không phải âm thầm nữa !). Việt gian ở thượng tầng giả vờ và lạc quan tếu, bán Mẹ Việt Nam cho bọn bành trướng Bắc phương!!!. Mẹ yêu dấu ơi, dân tộc nào cũng có kẻ gian – Việt gian sẽ phải đền tội trước lịch sử dân tộc.5. Đồng bào thiểu số sống dọc theo biên giới Việt Hoa là “những cụm tình báo Hoa Nam”:a. Có đến 54 sắc tộc sinh sống (làm rẩy, săn bắn..) dọc biên giới Việt Hoa. Đông nhất là người Tày (1.6 triệu), Thái (1.6), Mường (1.3), H’Mong (1.1), Nùng (1), Dao (750,000)…
Đây là những con số thống kê năm 2009. Bắc Kinh móc nối , vuốt ve cung cấp những nhu cầu tối thiểu như mùa đông đến thì cho chăn mền… đặc biệt là cho các phương tiện truyền thông (hầu như mỗi gia đình được cho một máy radio để nghe tin tức, dĩ nhiên là nghe một chiều theo tuyên truyền của tình báo Hoa Nam). Đó là chưa kể đến khối người Hoa còn lại sau tháng 5/1978.b. Dân tộc thiểu số sống ở biên giới Việt Nam lại liên lạc chặt chẽ với đồng bào thiểu số sinh nhai dọc biên giới Trung Hoa vì họ có cùng nguồn gốc, ngôn ngữ… Đây là những cụm gián điệp nhỏ của tình báo Hoa Nam: thâu thập tin tức, địch vận, cắt giây điện thoại, và nhất là chiến dịch rỉ tai, gây hoang mang cho dân Việt (điển hình là đồng bào thiểu số nhóm Tày, Mường bảo nhau: “Vua Đặng sắp qua thăm Lào Cai, Lạng Sơn..”)
C. Lời kết:1.
Cho dù đứng cùng trong khối cộng sản, Bắc Hàn chẳng tin Liên Xô cũng không theo Trung Quốc. Bắc Hàn chỉ tin vào chính Bắc Hàn để còn cháo lỏng mà húp ! Đi với Trung Quốc, cặp với Liên Xô rồi vì quyền lợi, họ hy sinh mình như Mỹ đã hy sinh VNCH, Đài Loan (Trung Hoa Dân Quốc)… thì chết. Chi bằng Bắc Hàn chế bom nguyên tử, bom hóa học… hù mấy siêu cường quốc cho diễu diễu vui vui…2. Trong The TOP 50 những nước mua nhiều vũ khí nhất thế giới (2006-2010) thì Việt Cộng đứng thứ 43, (2011-2015) Hà Nội xếp hạng 8 (hay 3% tổng số vũ khí sản xuất – nếu chia đều cho 200 quốc gia thì mỗi nước là 0.5%). The Statistics của Brookings Institute và SIPRI (Stockholm International Peace Research Institute/ Sweden) tháng 2/2016 Nam Hàn mua 2.6% tổng số vũ khí toàn cầu để đương đầu với Bắc Hàn. Hà Nội mua tới 3% – sẵn sàng đụng độ với Bắc Kinh (trong khi ngân sách quốc phòng của Bắc Kinh là 136 tỉđô năm 2015 – Hà Nội chỉ có 4 tỉ!). Hãy trông cậy vào 100 triệu dân Việt Nam (96 triệu +4): bao nhiêu là chất xám cho Việt Nam High Tech, cho Việt Nam điện tử…
Windy City / Indy 2/1/2016Pham Duc Lien, EdDGiáo sư sử địa trung học Trịnh Hoài Đức (BD), Nguyễn Trải (Saigon)Former Prof (Maths) Central Piedmont Community College, NC
CHUYỆN THẦN BÍ VÀ CHUYỆN HÀI
CHUYỆN THẦN BÍ
49 con chim xuất hiện trong lễ tưởng niệm 49 nạn nhân vụ xả súng Mỹ
Một cô gái tình cờ chụp được hình ảnh đàn chim xuất hiện trên bầu trời khu vực tổ chức lễ tưởng niệm cho 49 nạn nhân trong vụ xả súng đẫm máu ở thành phố Orlando và kinh ngạc khi đếm được có 49 con chim trong tấm ảnh.
Theo CNN, buổi tưởng niệm 49 nạn nhân được tổ chức hôm 13/6 tại trung tâm nghệ thuật biểu diễn Dr. Phillips ở thành phố Orlando, bang Florida, Mỹ. Mỗi lần người ta xướng lên một cái tên, mọi người lại im lặng, đâu đó vài tiếng nức nở phát ra.
Đang chìm đắm trong không khí đau buồn thì một cô gái bỗng ngước lên trời, nhận thấy có đàn chim bay qua và bấm máy.
"Đàn chim gợi cho tôi cảm giác bình an sau thảm kịch", cô nói.
Khi nhìn lại bức ảnh, cô sững sờ vì đếm được trong ảnh có đúng 49 con chim.
"Tôi đưa cho mọi người xung quanh xem và nhờ họ đếm", cô nói. "Chúng tôi đều choáng váng".
Tấm ảnh được cô đăng lên Facebook và thu hút hàng nghìn lượt chia sẻ.
"Trên đó có 49 con chim, là những người bạn của tôi. Họ đã bay xuống với chúng ta đêm nay".
Phát ngôn viên của trung tâm nghệ thuật Dr. Phillips cho biết, họ cũng vô cùng bất ngờ, đồng thời khẳng định trung tâm không hề thả chim trong lễ tưởng niệm.
Tại Lakeland, thành phố cách Orlando khoảng 100 km, người ta cũng tổ chức một buổi lễ tưởng niệm và phóng sinh 49 con chim bồ câu cùng ngày. Tuy nhiên, đàn chim xuất hiện ở Orlando màu đen, khác với đàn chim phóng sinh ở Lakeland.
Sau khi bức ảnh được chia sẻ trên mạng xã hội, cô gái trên từ chối công khai danh tính. Cô cho biết chỉ muốn mọi người tập trung sự chú ý vào các nạn nhân.
"Người chụp ảnh không quan trọng bằng nội dung tấm ảnh", cô nói. "Hy vọng tấm ảnh sẽ hàn gắn vết thương lòng cho mọi người".
Vụ xả súng ở Pulse, một trong những hộp đêm cho người đồng tính nổi tiếng ở thành phố Orlando xảy ra khoảng 2h ngày 12/6 khiến 50 người thiệt mạng, bao gồm cả tay súng và hàng chục người bị thương. Tổ chức Nhà nước Hồi giáo (IS) đứng ra nhận trách nhiệm. Tuy nhiên, chính quyền Mỹ tuyên bố không có chứng cứ rõ ràng cho thấy IS chỉ đạo vụ xả súng.
CÁC TRẬN GIAO CHIẾN TRÊN TRỜI
Một trận tử chiến đã diễn ra gần 400 năm trước tại một điểm gần Ethin (Anh) khiến 5.000 binh lính bỏ mạng. Về sau, thỉnh thoảng dân chúng quanh vùng vẫn thấy hình ảnh hai đạo quân ma đánh nhau trên bầu trời.
Bí ẩn chưa có lời giải: Các trận giao chiến trên trời
Các nhà ngoại cảm dùng thuật ngữ “Honting” để biểu thị mối liên hệ giữa một số ảo ảnh với một điểm địa lý nhất định. Thỉnh thoảng, tại những địa điểm ấy, người ta thấy xuất hiện trên bầu trời hàng trăm ảo ảnh. Điều đáng ngạc nhiên là ở chỗ, “Honting” thường quan sát được ở những nơi mà nhiều năm về trước đã diễn ra những trận ác chiến thực sự.
Một trong những địa điểm như vậy nằm ở nước Anh, gần Ethin, là nơi vào năm 1643 hai đạo quân của hoàng tử Rupectơ và Olive Cromoen đã gặp nhau trong một trận quyết chiến. Hơn 5.000 binh lính đã phơi thây trên bãi chiến trường.
Hiện tượng xuất hiện hình ảnh các trận giao chiến trên trời vẫn là điều bí ẩn. (Ảnh: Sức Khỏe & Đời Sống)
Sau đó một tháng, những người chăn cừu địa phương đã nhìn thấy một hiện tượng kỳ lạ: Hai đạo quân ma đụng độ nhau dữ dội trên bầu trời, lại nghe thấy tiếng súng nổ, tiếng trống trận và tiếng gươm giáo va vào nhau loảng xoảng... Từ đó trở đi, thỉnh thoảng dân chúng các vùng lân cận vẫn tiếp tục nhìn thấy trận đánh ảo ảnh này diễn ra trên bầu trời chiều.
Năm 1785 tại Uiexto ở Xiledi, người ta đã tổ chức lễ mai táng tướng Phon Coden một cách trọng thể. Vào đúng lúc hạ huyệt, trên bầu trời bỗng xuất hiện một đội quân hùng dũng đang rầm rập tiến bước.
Năm 1748, ở Đôphin gần thành Viên, 20 người đã tận mắt nhìn thấy một đạo binh đang đi trên bầu trời.
Năm 1888, trong suốt mấy tiếng đồng hồ, trên bầu trời Varagodin ở Khovati xuất hiện một đoàn kỵ binh do một viên sĩ quan tay cầm gươm sáng loáng dẫn đầu. Những sự kiện lạ lùng ấy đã được miêu tả khá tỉ mỉ trên báo chí thời đó.
Những trường hợp quan sát thấy “các trận giao chiến trên không trung” tại lãnh thổ nước Nga cũng được ghi lại trong sử biên niên cổ đại.
Trong thời gian diễn ra trận giao chiến với đạo quân Thánh giáo dòng tu của Đức trên mặt hồ đóng băng ở Chuxco vào năm 1242, nhiều binh sĩ trong đội quân của quốc vương Alexandre Nhepxki đã nhìn thấy “một binh đoàn của thượng đế” bỗng xuất hiện trên bầu trời để đến chi viện cho quân Nga...
Vào tháng 11/1956, hai người Anh tên là Pete Dinoviep và Patrich Xkipui đã tổ chức một cuộc du ngoạn trên núi Culin. Vào khoảng 3 giờ sáng, họ bỗng nghe thấy tiếng ầm ầm dữ dội, hai người bèn chui ra khỏi lều và nhìn thấy hàng chục xạ thủ Scotland đang bắn vào kẻ thù vô hình. Sáng sớm, những tiếng động trên bầu trời lại đánh thức họ và lần này họ nhìn thấy những người Scotland ấy, nhưng trông rất thiểu não, đang vội vã tháo chạy và vấp vào những tảng đá vô hình.
Sau khi trở về thị trấn Xlaigasane, Pete và Patrich kể lại những điều mắt thấy tai nghe với viên quản lý khách sạn. Ông ta cho biết rằng họ không phải là những người đầu tiên quan sát thấy hiện tượng này và đó là hình ảnh của trận đánh xảy ra vào năm 1745.
Lý giải của khoa học
Tiến sĩ toán lý A.Gurvich đã giải thích những ảo ảnh tương tự bằng hiện tượng quang học phức tạp trong khí quyển, do sự khúc xạ của ánh sáng trong hệ tầng khí quyển.
Hiện tượng này cũng được khảo sát kỹ lưỡng bởi các nhà vật lý Mỹ A. Phrayde và U.Makhơ. Các nhà bác học này cho rằng đặc tính kỳ lạ của “thấu kính khí quyển” là tạo ra những ảo ảnh khác nhau và thay hình đổi dạng các thông tin do ánh sáng chuyển tải theo mức độ truyền lan của nó qua khối không khí.
Ảo ảnh - quả là một cách giải thích thuận tiện. Nhưng vấn đề là ở chỗ một số biểu hiện của hiện tượng này không hoàn toàn nằm gọn trong kiến giải đó. Chẳng hạn dân chúng ở thị trấn Vecve (Bỉ) đã nhìn thấy trận giao chiến này xảy ra sau trận Oateclô đúng một tuần.
Các chuyên viên của Hội nghiên cứu thần giao cách cảm nổi tiếng trên toàn thế giới cho rằng bí mật của những trận đánh trên trời là ở chỗ trong thời gian giao chiến xảy ra, đã có sự phung phí rất lớn nguồn năng lượng sinh lý tinh thần. Sự kết vón của nỗi đau đớn, tâm trạng thất vọng và nỗi lo sợ được in dấu trong không gian rồi sau đó, thậm chí qua nhiều năm tháng, đã khơi gợi những hình ảnh trong đầu óc của những người rất nhạy cảm về mặt tâm lý.
Các nhà nghiên cứu Mỹ Oen và Pret cũng đi đến kết luận tương tự. Hai ông đã phân tích hơn 100 trường hợp “ảo ảnh” và đi đến hết luận rằng phần lớn những người nhìn thấy “trận giao chiến trên trời” vào thời điểm ấy đã ở trong trạng thái bị kích thích cao độ, có lẽ vì thế đã nhìn thấy cái mà người khác không nhìn thấy.
Vậy có đúng là “những trận giao chiến của các bóng ma” không phải xảy ra trong hiện thực mà chỉ diễn ra trong đầu óc con người và gần với những ảo giác hơn là những ảo ảnh và những hiện tượng quang học khác? Xin chớ vội đi đến kết luận.
Điều bí ẩn về “những ảo ảnh lầm lạc trong không gian” có lẽ sẽ được lý giải bởi các chuyên gia thuộc Ủy ban nghiên cứu các hiện tượng dị thường ở Voronegiơ (Nga). Họ đi cùng các cán bộ của xí nghiệp “Địa chất Voronegiơ” mới đây đã tiến hành một cuộc khảo sát trong đới đứt gãy kiến tạo ở Novokhopexcơ. Ở đó họ đã phát hiện và chụp ảnh được “những kênh thoát năng lượng của trái đất”. Trên ảnh thấy rõ những quả cầu và đám mây phát quang ở phía bên trên các khu đất dị thường.
Hơn nữa, theo sự khẳng định của một trong những người chỉ đạo cuộc khảo sát là ông Henrich Xilanop, đoàn đã chụp ảnh được những sự kiện xảy ra tại những địa điểm đó trong quá khứ xa xôi. Trên ảnh chụp được nhờ một thiết bị đặc biệt ở trên bờ sông Hopec, ta nhìn thấy rõ những cái lều, những hình người đội mũ sắt... Trong lúc chụp ảnh, ở đó không hề có những thứ ấy.
Các chuyên gia Voronegiơ về những hiện tượng dị thường đã giải thích như sau: Có thể tấm phim đã ghi lại được một thông tin thị giác về thời xa xưa mà “trường ký ức” năng lượng thoát ra từ đới đứt gãy còn lưu giữ. Sự thể là ở chỗ trong những năm chiến tranh vệ quốc chống phát xít Đức, tuyến phòng thủ đã chạy qua những địa phương ấy. Tham gia tuyến phòng thủ này có một Trung đoàn Tiệp Khắc do L.Xvvoboda chỉ huy. Và những người lính đội mũ sắt hiện hình trên các bức ảnh cũng như trang phục của họ hoàn toàn phù hợp với thời kỳ đó.
Nhưng ngay cả khi nếu giả thuyết trên được xác nhận thì vẫn còn nhiều điều bí ẩn về những “trận giao chiến trên trời”. Chẳng hạn, một số tài liệu đã thông báo về hiện tượng vật chất hóa lạ lùng của những đồ vật trong khi diễn ra những trận đánh trên trời. Ví dụ, năm 1686, tại Anh quốc, người ta quan sát thấy cuộc diễu hành trên trời của các binh lính có vũ trang. Và có rất nhiều khí giới, gươm súng, mũ giáp rơi lả tả xuống mặt đất.
Năm 1800, sau trận giao chiến trên trời ở vùng Kinken, người ta phát hiện thấy trên mặt đất có những cành cây bị gãy và nhiều vết máu trên cỏ.
Bí ẩn về các đoàn quân quá khứ
Bí ẩn chưa có lời giải về các đoàn quân "ma" trong quá khứ
Nhiều sách vở tài liệu nghiên cứu từ cổ đại đến nay đã ghi nhận nhiều sự kiện lạ kỳ. Các địa điểm thường xẩy ra hiện tượng quái lạ, bí hiểm hiện vẫn còn nhiều trên thế giới đã thu hút hàng ngàn nhà khoa học đến nghiên cứu nhưng lời giải thích thì vẫn còn mơ hồ; những hiện tượng lạ kỳ ở Australia, ở Ireland, ở Peru, những vùng đất huyền bí ở Nam Mỹ, ở Ai Cập, Â’n Độ,... Trong số các hiện tượng “khó giải thích đó” có chuyện về các đoàn quân “ma” xuất hiện ở vùng đất Loe Bar.Những quân đoàn "ma" vẫn là một bí ẩn đối với nhân loại (ảnh minh họa)
ột buổi trưa tháng 8/1936, Stephen Jenkins, 60 tuổi, nhà nghiên cứu địa chất, tới vùng Loe Bar - một địa điểm thuộc vùng bờ biển Cornish. Trong khi Jenkins đang chăm chú theo dõi các vùng đất thì bỗng nhiên ông ta vô cùng kinh ngạc khi thấy phía trước mặt mình một đạo quân thuộc thời Trung Cổ xuất hiện.
Quân phục của họ chứng tỏ họ đang trải qua những cuộc chạm trán trong trận mạc. Các chiến sĩ mặc áo đủ màu và khoác loại áo choàng không có tay màu trắng, màu đỏ và màu đen. Ngựa của họ có tấm che phủ với đầy đủ yên cương và những thứ trang sức cho ngựa. Một người lính đứng giữa đội quân, hai tay chống kiếm, mình khoác áo choàng màu đỏ tía đang quắc mắc nhìn chăm chăm về phía Jenkins đứng.
Vừa lạ lùng vừa kinh ngạc, Jenkins, với tính tò mò, gan dạ và thích mạo hiểm, đã không ngần ngại tiến về phía đoàn quân. Nhưng hành động ấy đã làm toàn thể đạo quân thời Trung Cổ biến mất tức thì.
Jenkins giật mình ngơ ngác và tưởng mình vừa trải qua một giấc mơ. Ông kể lại chuyện này cho người vợ nghe và họ đã ghi vào nhật ký hiện tượng lạ lùng này. Thế rồi, 38 năm sau, ông Jenkins đã chọn đúng vào ngày mà cách đó 38 năm ông đã trông thấy điều kỳ lạ để cùng với vợ đến ngay địa điểm mà ngày xưa ông đã đứng.
Hai vợ chồng lên đường với bức họa đồ ghi địa điểm của trước đây Jenkins đã đứng thì lạ lùng thay hình ảnh đoàn quân thời Trung Cổ hiện ra lần này còn rõ ràng hơn lúc trước. Mặc dầu trước đó bà Jenkins không tin chuyện chồng mình kể nhưng lần này bà thấy rõ ràng điều mà bà không thể tin được.
Đoàn quân với sắc phục rực rỡ, cờ xí, ngựa và gươm giáo dàn ra trước mắt mình, bà sợ quá níu chặt lấy cánh tay chồng và cố dụi mắt vì cứ tưởng mình nằm mơ.
Khi tường trình sự việc này cho một nhóm nhà khoa học, ông Stephen Jenkins đã nói như sau: “ Nếu lúc đó vài người trong quý vị có mặt với chúng tôi thì có lẽ lời trình bày này sẽ nặng cân hơn và có giá trị đứng đắn trung trực hơn...”
Các nhà khoa học vẫn tin có hiện tượng kỳ lạ về những đoàn quân "ma" từ thời Trung Cổ nhưng họ vẫn chưa tìm được lời giải (ảnh minh họa)
Loe Bar vẫn còn đó nhưng nơi mà năm 1936 cũng như năm 1974 Jenkins đã đứng không phải dễ dàng thấy lại được hiện tượng kể trên vì còn tùy thuộc vào môi trường, khí hậu, tầm nhìn và nhất là tùy vào từng con người đứng nơi địa điểm ấy. Điều này, mới nghe qua có vẻ không hợp lý nhưng theo Janet và Collin (hai nhà nghiên cứu về hiện tượng siêu hình, ma quái) thì thực tế là như vậy.
Hai nhà nghiên cứu này cũng đã ghi nhận một trường hợp về “hồn ma” xuất hiện vào năm 1904.
Tháng ba năm ấy, một toán học sinh được thầy giáo dẫn đi du khảo. Họ leo lên ngọn đồi Marlpit gần Honiton. Tất cả các học sinh hôm đó đều trông thấy một người đàn ông khoác áo choàng màu nâu và đội mũ rộng vành màu đen. Toàn thể con người và gương mặt u ám như phủ một màn sương khói. Theo tài liệu của Collin thì đó là hồn ma ấy đã được ghi nhận (tài liệu thư viện) từ năm 1685. Người đàn ông này là một trong những người trốn chạy từ trận đánh ở Sedgemoor vào năm 1685 và sau đó đã bị quân địch giết chết. Nhà anh ta ở ngay trên đồi Marlpit.
Tuy nhiên, điều kỳ lạ là tất cả các học sinh trong chuyến du khảo ấy đều thấy (người đàn ông trong quá khứ ấy) nhưng thầy giáo dẫn các học sinh thì tuyệt nhiên không nhìn thấy gì cả
Nguyễn Phú Trọng viếng hàng thịt.
Tổng Lú : Chà ! Thịt trông ngon quá. Làm ăn khá không ?
Anh bán thịt : Mấy ngày trước khá hơn. Hôm nay chả bán được cân thịt nào hết.
Tổng Lú : Sao vậy ?
Anh bán thịt : Vì đồng chí đến đây, nên an ninh không cho ai vào chợ hết !
Tổng Lú : Vậy anh bán cho tôi một cân thịt đi !
Anh bán thịt : Xin lỗi đồng chí Tổng Bí Thư, không thể được.
Tổng Lú : Sao lại không ?
Anh bán thịt : Vì người ta đã tịch thu con dao chặt thịt rồi.
Tổng Lú : Cũng tốt thôi. Vậy bán cho tôi nguyên cái đùi heo này đi.
Anh bán thịt : Dạ, không được, thưa đồng chí.
Tổng Lú : Anh vẫn không chịu bán cho tôi là sao ?
Anh bán thịt : Thú thật với đồng chí, tôi đâu phải là người bán thịt. Tôi chỉ là nhân viên an ninh giả vờ làm người bán thịt thôi.
Tổng Lú : Thế anh giả làm người bán thịt, vậy thịt này thật hay giả ? Có tẩm thuốc không ?
Anh bán thịt : Dạ xin lỗi, tôi không dám tiết lộ bí mật quốc gia.
Nguyễn phú Trọng sang Mỹ gặp Obama và hỏi:
"Ông làm sao mà điều hành được một chính phủ hiệu quả như thế?"
Obama trả lời:
"Rất đơn giản, ngài chỉ cần được vây quanh bởi những người thông minh".
Nguyễn phú Trọng lại hỏi:
"Thế làm sao ông biết được ai là người thật sự thông minh?"
Obama trả lời: "cũng dễ thôi, ông chỉ cần đố họ câu hỏi thông minh", nói xong đoạn nhấn nút yêu cầu tiếp tân mời John McCain vô...
Hai phút sau John McCain vô và nói:
"Thưa Tổng thống, ngài gọi tôi".
Obama hỏi
"Hãy cho tôi biết, John McCain, ba mẹ của ông có đứa con, nó không phải anh em của ông, không phải chị em của ông, vậy nó là ai?"
John McCain trả lời: "Thưa ngài, đó là tôi".
Obama trả lời: "Chính xác! Rất tốt".
-Nguyễn phú Trọng trở về nước và kêu Nguyễn Tấn Dũng vào hỏi:
"Chú Dũng, cha mẹ chú có đứa con, nó không phải anh em của chú, cũng không phải chị em của chú, nó là ai?
Nguyễn tấn Dũng trả lời: "Em cũng chưa chắc, em sẽ trả lời sau".
Nguyễn tấn Dũng họp hết nội các lại và hỏi câu hỏi đó mà không ai trả lời được... Hỏi vòng vòng không xong, cuối cùng ở nhà vệ sinh Nguyễn tấn Dũng gặp Ngô Bảo Châu và hỏi:
"Thầy Châu, có thể trả lời tôi, cha mẹ thầy có đứa con mà nó không phải anh em thầy, nó cũng không phải chị em thầy, thế nó là ai?"
Ngô Bảo Châu trả lời:"Dễ mà! đó là tôi".
Trở lại gặp Nguyễn phú Trọng, Nguyễn tấn Dũng nói hớn hở:
"đó là Ngô Bảo Châu",
Nguyễn phú Trọng tức giận chòm tới vố vào đầu Nguyễn tấn Dũng và thét to:
"đồ ngu! là John McCain!"
CHA GIÀ DÂN TỘC
Câu chuyện vui dưới đây được truyền-khẩu trong dân gian VN vào năm 1979, khi mà quan-hệ ngoại-giao giữa hai nước Cộng-sản VN và Trung-hoa lúc đó đã suy đồi đến mức tồi-tệ.
Chuyện xảy ra vào năm 1976.
Thủ-tướng Trung-cộng Chu-Ân-Lai vào lúc đó có năm đứa con, ba trai hai gái. Trong năm đứa con này, đứa con trai út cho đến năm ba tuổi vẫn chưa biết nói, dù chỉ một tiếng.
Gia-đình rất lo, có chạy chữa khắp nơi, nhưng không có kết-quả.
Một hôm, một chuyện lạ đã xảy đến cho đứa bé. Ðang ngồi ăn cơm, thằng bé bỗng đứng phắc dậy, nhìn lên trời và thốt lên hai tiếng, "bà ngoại!".
Ngay ngày hôm sau, bà ngoại của cháu qua đời.
Ma chay chôn cất bà ngoại của cháu vừa xong thì một tuần sau, đang ngồi ăn cơm, thằng bé lại bỗng đứng phắc dậy, lại nhìn lên trời và thốt lên hai tiếng, "ông ngoại!".
Ngay ngày hôm sau, ông ngoại của cháu qua đời.
Thủ-tướng Chu-Ân-Lai rất lấy làm lo lắng.
Qua hai cái chết đột ngột của ông bà già vợ, dường như ông nhìn thấy được sự liên-quan giữa điều mà đứa con út của ông thốt ra và cái hậu-quả thảm-khốc xảy đến cho người mà nó nhắc tới. Rõ ràng là thằng bé này mà nhắc đến người nào thì người đó phải chết, như một lời tiên-tri, như một bản án tử-hình.
Chưa kịp tìm được cách nào để cho thằng bé không nói nữa thì chuyện khủng-khiếp đã xảy ra.
Ðang ngồi dự tang lễ của ông ngoại của nó, thằng bé lại đứng dậy, lần này không nhìn lên trời, chỉ la lên một tiếng thật lớn, "CHA".
Ngày hôm sau, Ðồng-chí Mao-Trạch-Ðông lăn quay ra chết.
Chúng tôi chịu, không thêm được một điều khôi-hài gì nữa, vì câu chuyện đã quá rỏ-ràng.
Ngay cả kết-quả khảo-nghiệm DNA cũng đã xác-nhận là thằng bé ba tuổi ở trên chính là con của Ðồng-chí Mao-Trạch-Ðông. Cả bốn đứa kia cũng vậy.
Bắp và luật :
1 cụ già 60 tuổi , rụng hết răng đi chợ .
- bán cho bà 1 quả bắp nướng .
Tay bán bắp đưa bắp cho bà liền hỏi .
- bà mua cho cháu à ?...
Bà nhau mặt và nói .
- tôi mua cho tôi không được à .
Tay bán bắp cười và nói
- thề bà nhai bắp kiểu gì ?
Bà liền hỏi lại .
- chú có thấy quốc hội và chính phủ ra rất nhiều luật ?
- vâng có .
- và có những luật không thể thực hiện được nhưng vẫn ra luật, luật ra xong lại bỏ vào thùng rác .
- vâng , đúng thế .
- người dân thấy nghịch lý nhưng chả ai dám nói .
- vâng , vì luật đâu phải do dân nghĩ ra nên họ làm gì được ý kiến , nhưng nó liên quan gì tới trái bắp ?
- thế chú chưa hiểu à , tôi là chính phủ , quả bắp là luật , chú là dân .
Bắp tôi mua tôi ăn được hay không là quyền của tôi , không ăn được tôi bỏ . chú là dân ý kiến làm éo gì .
Tay bán bắp ???
Chữa bệnh khó ngủ .
Bác sĩ : ông bi làm sao ?
Bệnh nhân : dạ mất ngủ .
Bác sĩ : lâu chưa ?
Bệnh nhân : hơn 1 năm rồi , tôi đã nghe lời khuyên của bác sĩ trước về luyện tập thể thao , ăn uống điều độ và sinh hoạt tình dục đúng cứ mà chả khá hơn tí nào ....
Bác sĩ : thế ông đã vào họp quốc hội lần nào chưa ?
Bệnh nhân : ??
Chưa , nhưng có liên quan à ?
Bác sĩ : ông vào đó là ngủ được liền à , tôi chữa cho cả trăm và thành công cả trăm . năm nay đang chọn người mới ông mua 1 ghế đi vào trong đó ngồi ngủ .
Cá nào không chết .
trong đợt biển nhiễm hóa chất cá chết rất nhiều nhưng có loại cá nào không chết .
thầy mới tí trả lời .
dạ cá độ ạ
No comments:
Post a Comment