Saturday, November 26, 2016

NGUYỄN BÁ CHỔI - TƯỞNG NĂNG TIẾN - SƠN TRUNG


Saturday, July 23, 2016


NGUYỄN BÁ CHỔI * BÁC HỒ CÁ CHẾT

Bác Hồ sống mãi trong sự nghiệp cá chết

Nguyễn Bá Chổi (Danlambao) - Mặc cho bọn phản động nói xấu tổ quốc gì thì nói, không ai có thể phủ nhận được sự cố cá chết mà cả nước đang quan tâm là một trong những sự nghiệp vĩ đại của bác Hồ để lại cho dân Việt.
Quả vậy, kể từ ngày lập quốc đến nay, qua hàng bốn ngàn năm văn hiến, Việt Nam chưa bao giờ có chuyện cá chết đồng loạt trắng xóa bờ biển mấy tỉnh miền Trung. Phải đợi cho đến sau khi bác Hồ xuống bến Nhà Rồng “tìm chốn đoạn trường mà đi”, gặp được cái Luận cương Lê-Nin bác đọc trào nước mắt, rồi mang về nước lập băng dựng đảng, cướp chính quyền, làm dân trào máu họng; cá ngoài biển khơi cũng trào máu họng. 
Nếu không có bác Hồ, đã không có đồ Cộng Sản đang làm tan hoang đất nước về mọi phương diện, mà ai cũng đã thấy, đến cả không ít các “nhà cách mạng lão thành” cũng đã “thấm” nỗi bi đát của con đường “bác” đi.
Cá chết là do chất độc thải ra từ Formosa; Formosa nổi tiếng phá hoại môi trường, hủy diệt sinh thái, bị thế giới tẩy chay, tống khứ. Thế nhưng nó - Formosa - hiện diện nơi đất Hà Tĩnh trên sự đau khổ của người dân Vũng Áng, huyện Kỳ Anh vì mất nhà cửa, mất nghề nghiệp, mất học hành; nó hiện diện một cách ngão nghễ, ngang ngược, thách thức, xấc xược khi trả lời người dân nơi đây về thảm họa Formosa gây ra, “Muốn cá hay muốn thép”. 
Bất chấp sự chống đối của đồng bào Vũng Áng bị cưỡng chế phải rời khỏi nơi sinh sống và nghề nghiệp gắn bó bao đời; bất chấp sự can ngăn của các nhà khoa học trước những hiểm họa sẽ do công nghệ luyện thép, lãnh đạo CS đã “có công với cách mạng” rước Formosa vào nhà, hưởng quy chế “tô giới”, người Việt không được phép bén mảng tới, ngoại trừ người đứng đầu đảng CS là Cả Lú đến để chúc mừng mà không đả động gì đến cá chết đã đang trắng biển Miền Trung vi chất độc Foromosa thải ra ngoài kia.
Cải cách ruộng đất; Đấu tố; Nhân văn và Giai phẩm; Xét lại chống đảng; Thảm sát Mậu Thân; Đại lộ kinh hoàng; Mùa Hè đỏ lửa; Tập trung cải tạo;
Đánh Tư sản; Triệu người làm mồi cho cá và hải tặc, lưu lạc quê người… 
Trên đây toàn là những sự nghiệp vĩ đại của bác và đảng. Nay lại thêm “sự nghiệp” cá chết mà tầm ảnh hưởng và di hại của nó “hoành tráng” gấp bội; không chỉ lên một số người, cho một vùng miền, nhưng lên cả nước, cho cả dân tộc, có thể qua nhiều thế hệ..
Bác Hồ sống mãi trong sự nghiệp cá chết”, là vậy.
23.7.2016

HANS S. NICGHOLS * CON HỒ CHÍ MINH

Con rơi của Hồ Chí Minh

28/5/2001 - Tin đồn đã đưa Nông Đức Mạnh lên làm người đứng đầu Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nhiều người nói tài năng chính trị của ông không phải là điều duy nhất mà giống Bác Hồ kỳ lạ.
Vào năm 1931 trong khi đang lùng bắt các gián điệp cộng sản ở các hải cảng Châu Á trong đế quốc của mình, người Anh đã xông vào căn hộ của Hồ Chí Minh ở Hồng Kông và bắt ông đang ở trên giường với một phụ nữ Trung Quốc. Đối với những người Xô Viết ủng hộ tài chánh cho ông, những người mà đã bác bỏ yêu cầu được kết hôn của ông vào mấy tháng trước đấy, điều này chẳng có gì lạ.
Nhưng hiện nay đối với những kẻ thần thánh hóa ông, những người đang bảo vệ huyền thoại Hồ Chí Minh, điều này đồng nghĩa với xúc phạm. Đối với những kẻ thêu dệt huyền thoại về ông ở trung ương đảng Bác Hồ là vị thánh cộng sản, đã thoát ra khỏi những ham muốn trần tục, và suốt đời chỉ gắn bó với cách mạng. Điều này và những bằng chứng khác từ hồ sơ cảnh sát Pháp và hồ sơ lưu trữ Liên Xô cho thấy Bác Hồ còn có những quan tâm khác. Hồ sơ hé lộ trong một chuyến đi ngang qua Liên Xô cũ ông bắt đầu quan hệ tình dục với một phụ nữ Nga có chồng. Trước khi mối quan hệ tình dục qua đường ở Nga này, nhà ái quốc người Việt đáng ngờ này còn say đắm trước sắc đẹp Pháp. Từ cuộc ái tình vụng trộm ấy loan ra những tin đồn về đứa con người Pháp.
Trong khi phải dồn hết mọi suy nghĩ và sức lực vào sự nghiệp cách mạng quốc tế, Hồ đã nhờ một người bạn phiến loạn cộng sản tìm cho ông một người vợ trong thời gian ông lưu lại miền duyên hải Trung Quốc vào cuối thập niên 1920. Hồ không biết người đồng chí của mình là gián điệp nhị trùng làm việc cho mật vụ Pháp. Trong lúc gián điệp này dành ra thời gian để tìm bạn gái cho Hồ y cũng báo cáo hết mọi chuyện về Paris.
Còn bây giờ đến bằng chứng chắc chắn nhất về lối sống phóng túng của Hồ: người con trai, Nông Đức Mạnh, trở thành tổng bí thư mới của Đảng Cộng Sản Việt Nam một cách mờ ám.
Từ lâu trước khi ông có tên là Bác Hồ, ông có thể là Cha Minh. Hồ sơ tình báo cho thấy vào thời điểm người ta nghĩ ông trở thành cha Nông Đức Mạnh ông thậm chí chẳng phải là Hồ Chí Minh. Vào thời đó, ông vẫn còn dùng tên Nguyễn Ái Quốc và thật ra chỉ là một gián điệp cộng sản mờ nhạt - người thích mô tả về mình như là “người yêu nước đã phục vụ tổ quốc từ bao lâu nay.”
Frederick Brown ở trường đại học John Hopkins nói với Insight rằng “Việt Nam là xứ sở tin đồn và huyền thoại.” Sự thật về người lãnh đạo mới của Việt Nam vẫn ở đâu đó đằng sau lớp sương mù ban mai dâng lên trên mặt nước đầm lầy nông cạn tù đọng của vùng châu thổ sông Mekong. Dù theo như họ nói, “ Tất cả chúng tôi đều là con Bác Hồ,” nhưng các nguồn tin Việt Nam và các học giả Mỹ tin Mạnh chính là con ruột: một trong vài đứa con rơi của Hồ Chí Minh.
Hầu hết các bài báo đăng tin Mạnh trở thành người đứng đầu ĐCSVN đều viết ông là người dân tộc Tày, mặc dù không có tài liệu về cha mẹ ông, những người mà Mạnh nói đã chết khi ông còn rất bé. Tại hội nghị của các chuyên gia về Việt Nam vào cuối tháng Tư ở Houston, ngay sau Đại hội Đảng lần thứ chín chính thức bầu Mạnh vào chức vụ tổng bí thư đảng, mọi người đều hỏi nhau về nhân thân cha mẹ ông. Ngay ở Hà Nội, người ta cũng bàn tán râm ran bóng gió rằng một trong những đứa con rơi của Hồ Chí Minh đã trở thành người lãnh đạo mới của Việt Nam.
William Duiker, tác giả sách tiểu sử đáng tin cậy nhất về Hồ Chí Minh có thể là người đầu tiên tính toán. Nếu Mạnh sinh vào tháng Chín 1940 thì như vậy vào lúc thọ thai Minh phải ở miền nam Trung Quốc. Duiker kiểm tra lại những ghi chép của mình: ông không thể nào không nghĩ đến khả năng người lãnh đạo mới của Việt Nam có thể mang nửa dòng máu Tàu.
Nếu Hồ là cha thì hoặc là Mạnh mang nửa dòng máu Tàu hay ngày sinh của ông bị khai man. Vì gốc gác và lý lịch mờ ám của Mạnh mà do ĐCSVN đưa ra không được minh bạch cho nên hoặc là một hay cả hai khả năng này đều có thể đúng.
Huyền thoại hiếm khi tự nhiên mà sinh ra. Khi hồ sơ Liên Xô được bạch hóa thì càng có nhiều bằng chứng rằng hình ảnh được xây dựng cẩn thận về Bác Hồ là nhà cách mạng khổ hạnh, chỉ gắn bó với sự nghiệp nước Việt Nam độc lập luôn luôn chỉ là nhiều huyền thoại hơn sự thực. Hilaire Du Berrier, một người Mỹ hoạt động bí mật cho cả Pháp và Mỹ chống lại người Nhật trong vùng này, chế giễu: “Hình ảnh ấy luôn luôn dối trá.” Nhưng như Zachary Abuza, giáo sư tại trường đại học Simmons ở Boston và là chuyên gia nổi tiếng về Việt Nam, nhận xét: “Đảng Cộng Sản Việt Nam làm hết sức mình để phổ biến huyền thoại này.” Chắc chắn như thế.
Ước gì thói trăng hoa của Bác Hồ chỉ là thú vui tao nhã; ước gì Việt Nam có thể tồn tại chỉ bằng huyền thoại thôi.
Có nhiều rủi ro mất mát ở đây hơn thanh danh của nhà cách mạng và thanh danh của những phụ nữ Trung Quốc, Pháp và Nga mà ông đã tằng tịu: “Đến hôm nay đảng vẫn còn sử dụng Hồ để làm cho chế độ chính danh vì họ chắc chắn không đạt được sự chính danh nào về hoạt động kinh tế,” Abuza gợi ý.
“Dù các tin đồn này đúng hay không,” Carl Thayer ở Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á-Thái Bình Dương tại Honolulu nói, “rõ ràng chúng vẫn có lợi cho Mạnh.” Tuy nhiên tổng bí thư đảng mới phải cẩn thận không khai thác quá xa gốc gác bí ẩn của mình vì, nếu ông ta là con của lãnh tụ cộng sản thì Bác Hồ không phải là người đẹp đẽ gì như đảng từ lâu đã khẳng định. Còn nếu bản thân Hồ đã hủ hóa với phụ nữ thì phải chăng về những phương diện khác ông đã phản bội lại niềm tin được đặt trọn vào ông?
Nếu khó lần theo nguồn gốc của huyền thoại thì nguồn gốc của tin đồn lại càng khó lần hơn. Câu chuyện Mạnh là con của Bác Hồ lần đầu tiên lan rộng ra khoảng độ cách đây tám hay chín năm. “Mọi người, đặc biệt là người Việt Nam, nói ông ta là con của Hồ Chí Minh” Duiker nói. Duiker từng công tác với sở ngoại vụ Hoa Kỳ ở Sài Gòn vào thập niên 60 và trở lại Việt Nam vài lần để tìm tài liệu cho cuốn sách của mình.
“Chính Mạnh chẳng làm gì để dập tắt tin đồn, mà còn láu lỉnh trả lời một cách lảng tránh, “Tất cả mọi người Việt Nam đều là con của Bác Hồ.” Tuy nhiên một khi đã chắc chắn lên làm lãnh đạo đảng ông cố gắng tuyên bố ông không quan hệ gì với tin đồn. Không đưa ra lời phủ nhận hoàn toàn, ông tuyên bố ông mới đây đã về thăm mộ cha mẹ mình ở quê ông thuộc tỉnh Bắc Cạn. Và mọi người biết, như tùy viên báo chí ở tòa đại sứ Việt Nam ở Washington giải thích, nơi an nghỉ cuối cùng của Bác Hồ là ở Hà Nội.
Nhưng nếu Mạnh là đứa bé mồ côi ở bộ tộc thiểu số người Tày miền núi thì làm thế nào ông thăng tiến nhanh đến như thế? “ Người này vô danh tiểu tốt, “ William Turley, học giả nghiên cứu về Việt Nam ở đại học Southern Illinois nhận xét. “ Vậy ai là người đỡ đầu ông?”
Mặc dù vấn đề thân nhân cha mẹ của Mạnh không thể được giải quyết trong tương lai gần, nhưng các chuyên gia ở Quốc Hội và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đang cố gắng điền vào những chỗ trống trong tiểu sử của ông. Lý lịch khác biệt về việc ông ở đâu trong suốt thời gian từ cuối thập niên 60 đến đầu thập niên 70. Tiểu sử chính thức của đảng nói ông học lâm nghiệp ở Liên Xô từ năm 1966 đến 1971, rồi trở về một tỉnh miền bắc để áp dụng học vấn của mình. Nhưng nguồn Quốc Hội Hoa Kỳ chứng tỏ Mạnh vẫn còn học ở Hà Nội từ năm 1966 đến 1971 và chỉ dành một năm ở rừng Nga. Trong một lý lịch khác, Mạnh ở Liên Xô hầu như trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam, đến năm 1975 mới trở về nước. Khi bị thúc ép phải giải thích những sự khác biệt này, các nhà ngoại giao Phương Tây ở Hà Nội và Washington đều quy cho bản lý lịch chính thức của đảng.
Đối với một số người ở Quốc Hội Mỹ, vấn đề về tiểu sử của Mạnh chỉ là kết quả khác của sự cả tin của Bộ Ngoại Giao và tình báo kém cỏi. Họ cho rằng các nhà ngoại giao đã bị lừa gạt rất lâu và cộng đồng thương mại thiện cảm đang đánh giá thấp vai trò của Mạnh trong chiến tranh. “Họ không biết người này là ai,” Al Santoli, trợ lý trưởng về ngoại vụ cho dân biểu Dana Rohrabacher, thuộc Đảng Cộng Hòa- bang California, nói.
Bây giờ 60 tuổi, lúc chiến tranh kết thúc Mạnh 34 tuổi. Cho dù ông tham gia vào chiến tranh như thế nào chăng nữa, điều quan trọng là ĐCSVN không nhắc đến vai trò của người lãnh đạo mới trong “cuộc chiến tranh chống Mỹ”. Phải chăng Việt Nam muốn mở ra chương mới trong mối quan hệ với Hoa Kỳ? Santoli, chẳng hạn, không tin: “Ông ấy là cộng sản, và đấy mới chính là điều quan trọng.”
Vào năm 1986 khi Mạnh bất ngờ được nổi tiếng và được bầu vào Ủy ban Trung ương, đại hội lần thứ sáu quyết định đã đến lúc mở cửa kinh tế Việt Nam và phát động chương trình canh tân kinh tế gọi là đổi mới. Ngày nay, thu nhập trung bình của người Việt khoảng độ 370 đô la Mỹ- trong khu vực chỉ có Lào là nghèo hơn-đổi mới không thể nào được coi là thành công lớn. Trong khi Việt Nam nhìn thấy các nước châu Á khác hưởng tiến bộ kinh tế thì nền kinh tế của họ lại đầy rẫy yếu kém và tham nhũng. Đảng cộng sản từ lâu đã tìm kiếm một nhà lãnh đạo có thể vực dậy nền kinh tế trì tệ, giống như Bác Hồ giải phóng Việt Nam ra khỏi sự thống trị của thực dân.
Dân biểu Earl Blumenauer, thuộc Đảng Dân Chủ-bang Oregon, từng đến Việt Nam với Bill Clinton vào tháng Mười Một năm 2000. Blumenauer nhận xét, “Giới trẻ rất náo nức muốn có cơ hội tham gia vào kinh tế... Tất cả họ đang đòi hỏi điện thoại di động.” Tuy cái ấy có vẻ tầm thường, nhưng niềm hy vọng bây giờ của họ về kinh tế phát triển đặt vào Mạnh, một người lãnh đạo được đặt đủ tên từ “ứng cử viên thỏa hiệp” đến “nhà cải cách kín đáo”.
Điều này không có nghĩa rằng Mạnh tin vào dân chủ hay thị trường tự do. Nếu những người theo dõi tình hình Việt Nam đồng ý về một điều. Đó là ông là người cộng sản kiên định. Về những vấn đề nhân quyền và tự do tôn giáo, họ nghĩ chính sách Việt Nam chỉ có vài thay đổi.
Dù sao đi nữa, Mạnh đã nhận được điểm cao trong tư cách chủ tịch Quốc Hội, đã lèo lái đảng ông hiện lãnh đạo. Quả thật, tài năng chính trị của Mạnh giống kỳ lạ tài năng chính trị của Bác Hồ, bậc thầy về nghệ thuật làm cho phái này chống phái kia và rồi mình ở giữa lãnh đạo. Ta có thể nói như thế về chuyện Mạnh trở thành người đứng đầu của ĐCSVN.
À đúng rồi, còn một điều giống nhau nữa- chẳng có báo cáo nào trên truyền thông Phương Tây về vợ con của ông. Phải chăng cha con cộng sản giống hệt nhau?
Nguồn:
Dịch từ tạp chí Insight on the News số ra ngày 28/5/2001, trang 14-15. Tựa đề nguyên tác tiếng Anh “Ho Chi Minh’s Love Child”
Bản tiếng Việt:


VIETTUSAIGON * MIỀN TRUNG

 

Thân phận miền Trung!


Dù nói theo cách nào, miền Trung cũng là miền đất thân phận nhất trên cả nước. Cái eo tựa như chiếc đòn gánh oằn mình chịu đựng cuộc phân tranh Trịnh – Nguyễn, rồi cuộc phân chia Nam – Bắc để một bên Nam vĩ tuyến 17 cho dù có cố gắng cách gì cũng không thể trở thành miền Nam được bởi nề nếp xôi đậu, bởi những ông nằm vùng… Và để rồi thời gian ngắn ngủi ấy trôi qua, miền Trung xóa đi ranh giới Nam - Bắc, dấu vết của tự do cũng phai mờ, thay vào đó là một miền Trung mưa chang, nắng cháy và khốc liệt trên mọi nghĩa.
Chỉ riêng hai cuộc chiến Mậu Thân 1968 và Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 đã ngốn của miền Trung gần ba triệu sinh mạng, không nơi nào nhiều mộ hoang và am thờ cô bác chết đường chết chợ như miền Trung. Đáng sợ hơn là dấu mốc 30 tháng 4 năm 1975, miền Trung chính thức bước vào thời kì chó ăn đá gà ăn muối. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên, địa lý đã cộng hưởng với sự khắc nghiệt của chính trị khiến cho người miền Trung trở nên bi thảm từ đó.


Suốt hơn mười năm trải qua thời kỳ kinh tế tập trung bao cấp, người miền Trung thấu hiểu thế nào là ba hạt cơm dính trên một lát sắn (khoai mì) khô và thế nào là ba bữa đói một bữa thèm no. Thậm chí bảy bữa đói một bữa lưng bụng. Những thức quà trở thành đắt đỏ, mang hồn cốt ẩm thực của người miền Trung bây giờ như bánh trôi nước sắn, bánh canh, cơm hến, bắp rang nóng nhúng canh rau muống, ốc xào lá gừng… Tất cả đều là thành tựu, là kết tinh của thời mò cua bắt ốc. Người ta nghèo quá, đói quá phải nghĩ đến việc đi bắt từng con ốc, đi hái từng cọng rau muống để nấu canh với muối và rang bắp đang nóng đổ vào canh ăn cho khỏi ngấy, bởi không có cơm, hay là xúc hến về luộc rồi rang bắp bỏ vào, bữa nào có cơm sắn độn thì bỏ vào đó để tăng dưỡng chất.
Đó chỉ mới là chuyện miếng ăn, chuyện tự do ư? Đó là câu chuyện hết sức viễn vông đối với người miền Trung nói riêng và người dân cả nước nói chung, nhưng dù sao thì với người miền Trung, kinh nghiệm nói một tiếng “phản động” thì bị gọi lên hội đồng xã, bị đánh đến không còn một cái răng thì nhiều vô kể, có những nhân chứng sống, từng bị gọi lên trụ sở xã, (thời đó gọi là hội đồng xã) để đánh gãy gần hết hai hàm răng chỉ vì khi chứng kiến đoàn xe của Phạm Văn Đồng hụ còi đi qua thì nói “mấy thằng cha này làm gì mà ồn ào quá!”.
Thời đó chưa kịp qua, con người cũng chưa kịp hồi tỉnh sau những chấn động kinh hoàng thì tiếp đó, miền Trung là cái rốn của sự xâm lăng, từ biển đảo cho đến đất liền, núi cao, không đâu là không có sự xuất hiện của kẻ xâm lăng. Từ việc tận thu tài nguyên thiên nhiên biển đảo như rong biển, san hô, nhử yến sào, tận thu tài nguyên rừng… cho đến việc người Trung Quốc được nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam dành cho sự ưu ái quá mức cho phép. Hay nói khác đi là hầu như nhà cầm quyền đã bán đứng, bán một cách rẻ rúng từ tài nguyên cho đến con người, lãnh thổ, lãnh hải của đất nước mà mức thu về chẳng có gì khác ngoài một cái gái rẻ mạt chưa từng thấy cũng như sự khinh khi, coi thường.


Và điều này dẫn đến hệ lụy cả một miền Trung đau đớn dây chuyền, hậu quả đầu tiên là hèn nhát dây chuyền. Bởi có muốn dũng cảm cũng không được dũng cảm. Biết người Trung Quốc xúc phạm bà mẹ quê lên thành phố Đà Nẵng bán chuối qua ngày đoạn tháng, biết rằng họ xúc phạm người Việt đó, và bẩn thỉu đó nhưng chẳng thể làm gì được hơn ngoài sự can thiệp vừa phải, gần như năn kỉ kẻ xấu tha cho người mẹ quê kia. Bởi vì nếu chúng đụng vào người Việt thì không sao, cùng lắm thì bị trả về nước, nhưng người Việt đụng vào chúng thì hậu quả khôn lường bởi đã húc đầu vào bức tường “bốn tốt mười sáu vàng” của đảng Cộng sản Việt Nam.

Và khi mà thế giới đã lên đường với đầy đủ hành trang văn minh, công kĩ nghệ tiến bộ, tự do, dân chủ, hòa bình, người thương yêu người trong thế giới phẵng của thời đại số thì Việt Nam ra sao? Miền Trung ra sao? Miền Trung, phía Đông vẫn có nhiều gia đình đói khổ mò cua bắt ốc, phía Tây vẫn có nhiều gia đình thiếu ăn đào củ mài qua ngày đoạn tháng, đồng bằng có nhiều gia đình mất đất, mất ruộng vì công trình của Trung Quốc mọc lên. Đặc biệt là công trình của Trung Quốc thuê tại miền Trung Việt Nam, tuy họ đã tiến hành dự án từ rất lâu nhưng vấn đề ký hợp đồng chỉ mới diễn ra nhiều nhất từ năm 2015 đến nay. Vì sao?
Vì trên tất cả mọi cuốn bìa đỏ, bìa hồng nhà đất của cư dân Việt Nam đều ghi thời hạn sử dụng đất ruộng và đất vườn chấm dứt vào năm 2014. Từ năm 2015 đến nay, nhà nước bỏ ngỏ quyền sử dụng đất ruộng và đất vườn của người dân. Người dân, đặc biệt là nông dân vốn kham khổ làm ăn, ít ai để ý cái bìa đỏ, bìa hồng nên cũng không mang nó đi gia hạn, mà có gia hạn thì chưa chắc đã được. Hệ quả của vấn đề này là khi có một công trình hay một khu công nghiệp mọc lên trên đất nông nghiệp, người nông dân chỉ được nhận một số tiền ít ỏi gọi là đền bù cho mùa màng chưa thu hoạch chứ chưa chắc đã được nhận tiền đền bù diện tích đất đã mất. Bởi diện tích này không được gia hạn và đã thuộc về quản lý nhà nước trên danh nghĩa quản lý toàn dân.
Và những mẫu hợp đồng thuê đất mà Trung Quốc đã ký thuê của Việt Nam thời hạn 49 hoặc 67 năm đều xuất hiện rất nhiều kể từ đầu năm 2015 đến nay không phải là không có lý do của nó. Dân oan ngày càng nhiều cũng không phải không có lý do. Và đáng sợ nhất khi điều này đến với người miền Trung, bởi cái nghèo, nỗi đau đã quá đủ với người dân miền Trung.
Thử nghĩ, khi mà cả một bờ biển dài làm sinh kế cho hàng chục triệu gia đình trong đó gồm ngư dân, người buôn bán, nông dân và những người kinh doanh du lịch trở thành một bờ biển chết, vùng biển chết, kinh tế trì trệ, đời sống cơ cực, nhà cầm quyền không những không thương dân, thương đồng bào của họ mà còn bán rẻ nỗi đau của đồng bào, bán rẻ sự cơ cực của đồng bào cho kẻ thủ ác, kẻ đã xả độc vào lòng biển quê hương với cái giá 500 triệu Mỹ kim (có thể là cái giá thực cao hơn nhiều!) để rồi nhân dân tự gồng mình chống chọi với đau khổ, với con bệnh đang ủ trong cơ thể và trong môi trường.
Có thể nói rằng khúc ruột miền Trung đã quá đau khổ, đã quá lầm than, đã trả giá cho đau khổ và lầm than của mình bằng máu và nước mắt. Nhưng, dường như nỗi đau này chưa bao giờ chạm tới lòng trắc ẩn của những “đày tớ nhân dân”, nếu không muốn nói đó là một loại cơ hội của họ. Như lời của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu: “Thời gian qua, hiện tượng hải sản chết đột ngột ở các tỉnh miền Trung đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình bầu cử…”. Thật là tội nghiệp cho miền Trung!
Bởi hơn ai hết, miền Trung đã nhường cơm xẻ áo, miền Trung đã mang cả sinh mệnh của mình để giao phó cho chế độ (có nơi nào có nhiều liệt sĩ Cộng sản hơn miền Trung?!) để rồi đến ngày hôm nay, người miền Trung té ngửa nhận ra nơi quê hương, bản quán của mình được chọn làm hố rác cho kẻ cướp nước, đời sống, sinh mệnh của người miền Trung không đáng giá bằng đống rác thải đầy độc tố của ngoại bang! Còn thân phận nào đau hơn thân phận miền Trung?!

NS.TUẤN KHANH * LẮNG NGHE CON TIM

Lắng nghe con tim mình thức tỉnh

tuankhanh's picture


Thư cho người bạn trẻ,
Có thể bạn sẽ thất vọng sau khi đọc những gì tôi sẽ viết dưới đây, nhưng nếu trong phút giây nào đó, tôi may mắn được bạn nhận ra những điều tôi gửi gắm vào, hy vọng, bạn và tôi sẽ còn có thể chia sẻ với nhau trên suốt con đường dài dầy những biến cố của đất nước mình.
Trước việc các ngôi sao giải trí của Trung Quốc rầm rộ giương cao biểu ngữ đường chín đoạn trên biển Đông để bác bỏ phán quyết của tòa trọng tài La Haye, Hà Lan về vụ kiện của Philippines với Trung Quốc, bạn đã hỏi rằng người Việt cần phải làm một cái gì đó mạnh hơn nữa để đáp trả. Vài ngày trước, nhiều ngôi sao giải trí Việt Nam cũng đã làm hành động đáp trả bằng cách giơ cao biểu ngữ Việt Nam có chủ quyền với Hoàng Sa và Trường Sa. Thậm chí, rất nhiều người không cần là nghệ sĩ cũng có những hoạt động như vậy.
Làm gì? Chúng ta sẽ làm thêm những gì, để gọi là yêu nước?
Kết quả của tòa trọng tài quốc tế, phủ quyết sự điên cuồng của Bắc Kinh đòi sở hữu 80% biển Đông, là một cơ hội thú vị cho người Việt được giương cao suy nghĩ của mình, được biểu lộ công khai lòng yêu nước. Tôi chỉ muốn nhắc cho bạn nhớ, rằng nhiều năm trước đây, rất nhiều người giương biểu ngữ Hoàng Sa – Trường Sa – Việt Nam đã luôn bị đánh đập, đã bị gọi là “phản động”. Có những con người vô danh đã mỗi ngày lặng lẽ viết lên tường, bỏ lại một mảnh giấy trên đường như mật mã để nhận ra nhau, với những dòng chữ yêu nước như vậy. Nhạc sĩ Việt Khang chỉ với câu hỏi “Việt Nam còn hay đã mất, mà giặc Tàu, ngang tàng trên quê hương ta” đã nhận 4 năm tù giam. Nhạc sĩ Trần Vũ Anh Bình cũng nhận 6 năm tù với “Hoàng Sa nay đâu - sao biển máu dâng trào, Trường Sa nay đâu - nhuộm thắm giọt máu đào”. Tất cả những lời yêu nước xé lòng ấy, có quá xa lạ và bất thường với hiện thực hôm nay không?
Tôi nhớ vô cùng những ngày tháng mà tôi và các người bạn chuyền tay nhau những chiếc áo có in gạch chéo trên đường chín đoạn của Trung Quốc, phản đối âm mưu xâm lược của Bắc Kinh. Những chiếc áo phải đưa thầm cho nhau dưới gầm bàn. Có những người rơi vào khó khăn vì giữ những khẩu hiệu như vậy. Có những người đang mặc áo, cũng bị xé rách. Bạn hãy tự đặt câu hỏi cho mình, những người ấy hôm nay ở đâu, trong phong trào yêu nước hợp pháp lúc này?
Hãy cùng tôi nhận ra rằng, lòng yêu nước có cơ hội của riêng mình để bùng phát, nhưng sự tồn tại của lòng yêu nước không phải là hoạt động vô giác chỉ khởi động theo điều kiện. Có thể lòng yêu nước được biểu hiện rầm rộ, nhưng cũng có lúc lòng yêu nước rất cô đơn. Lòng yêu nước, đơn giản bắt đầu từ sự nhìn ngó chung quanh mình mỗi ngày. Nếu bạn biết cau mày trước những điều vô pháp, biết tức giận trước các vấn nạn của xã hội chung quanh mình và không ngại bày tỏ về lẽ phải và sự thật, thì lòng yêu nước đã rọi những tia sáng đầu tiên lấp lánh trong trái tim bạn. Clarence Darrow (1857-1938), luật sư và nhà cải cách lỗi lạc của Hoa Kỳ có nói rằng “Tinh thần yêu nước thật sự được bắt đầu từ việc căm ghét sự bất công ngay trên mảnh đất quê hương của mình, hơn bất cứ nơi nào khác”.
Vậy, hãy bắt đầu sống như một người yêu nước ngay khi bạn nhận thức được về hơi thở của mình, con đường đi dưới chân mình. Khi bạn vượt lên cao, nhìn thấy được những điều chung quanh mình và khao khát lên tiếng, đó là sự thức tỉnh lớn lao mà chỉ có duy lòng yêu nước cao quý mới có thể thúc đẩy bạn – vào bất kỳ thời điểm nào, và đôi khi, tự thân chứ không màng đến một người đồng hành.
Bạn hỏi tôi vì sao không cùng đưa hình phản đối đường chín đoạn của Bắc Kinh như nhiều người khác. Hãy hứa với tôi nhé, nếu hôm nay chúng ta không giương biểu ngữ để mừng cùng Philippines về kết quả tòa án La Haye, Hà Lan, thì chúng ta nhớ phải luôn luôn nuôi trong tim mình một ngọn lửa yêu nước không đợi bất kỳ một điều kiện nào, và cũng cần không cần sự cho phép của bất cứ ai. Đừng nghĩ Việt Nam chỉ có kẻ thù là Bắc Kinh với nụ cười nham hiểm trên môi họ, mà kẻ thù của chúng ta, đôi khi nằm ngay trên đất nước mình với những thỏa hiệp, hám danh lợi, phản bội và sẳn sàng bán rẻ tổ quốc với những lời ngụy biện ngu xuẩn.
Tôi biết bạn rất vui vì hiện có nhiều ngôi sao Việt đang cùng bộc lộ lòng yêu nước qua biểu ngữ. Tôi cũng như bạn, đã vui như trẻ dại khi đọc được những dòng tâm huyết của nghệ sĩ Thành lộc, nghệ sĩ Nguyễn Công Vượng… Họ đúng là những người ấp ủ trong tim lòng yêu nước và chỉ luôn muốn cất cao giọng nói. Nhưng trong việc hưởng ứng luôn dễ bị đẩy thành phong trào, cũng có những kẻ muốn đóng vai yêu nước để được bằng vai phải lứa với các ngôi sao Trung Quốc, họ chọn đối chọi chỉ vì muốn mình cũng được nhìn nhận và cảm thấy khoái trá vì được nâng tầm như là một ngôi sao.
Bạn và tôi, chúng ta cần sống như những người yêu nước thức tỉnh trước thời cuộc. Và xin hãy nhận rõ đâu là kẻ thù và đâu là những kẻ dựa dẫm kẻ thù, hãm hại quê hương mình. Kẻ thù có thể mặc quân phục nhưng cũng có thể mặc những bộ veste sang trọng đắt tiền. Thậm chí, kẻ thù cũng có thể là những kẻ cùng tiếng nói, màu da và luôn lên giọng ái quốc. Ngọn lửa thức tỉnh về lòng yêu nước trong tim bạn chính là điều cao quý nhất – sẽ giúp bạn nhận ra mọi thứ - mà không cần phải khoác lên mình bất kỳ chiếc áo lộng lẫy nào của danh hiệu nhà ái quốc được phong tặng. Nhà ái quốc được tung hô, đôi khi chính là người có thể hò la to nhất mà không biết mình đang hò la vì cái gì – nhà văn Mark Twain (1835-1910) đã từng viết như vậy.
Và vì sao chúng ta phải yêu nước trong thức tỉnh? Nếu không thức tỉnh trước những lời ngụy trá, những hứa hẹn mật ngọt… chúng ta sẽ trở thành những kẻ ái quốc u mê: những kẻ ái quốc vui vì được đập cánh, rộ lên theo mùa của lễ hội.
Có rất nhiều bài học về lòng yêu nước trên thế giới này. Tôi không thể kể hết cho bạn. Nhưng yêu nước, bản chất của nó là khi bạn nhận ra mình mang danh dự, trách nhiệm với tổ quốc mình chứ không vì một ai, hay vì một đảng phái nào. Tôi thích ông già nhà văn Mark Twain lắm, vì ông rất tàn nhẫn trong ngôn ngữ, nhưng ít có gì có thể diễn đạt hay như ông. Chẳng hạn với câu nói nổi tiếng của ông “Hãy luôn trung thành với Tổ quốc. Và chỉ trung thành với chính quyền, một khi nó xứng đáng với điều đó”.
Bạn hỏi tôi phải nên hành động như thế nào. Tôi khó có thể trả lời toàn ý cho bạn về điều này. Tôi cũng không muốn khuyên bạn xuống đường biểu tình, vì bạn có thể là một người bồng bột. Nhưng nếu bạn bắt gặp một ai đó trên đường phố đang giương khẩu hiệu chống Bắc Kinh xâm lược, hay phản đối sự tồn tại phi nhân và phi lý của Formosa chẳng hạn, hãy chào và dành cho người yêu nước ấy một nụ cười. Đó là một nụ cười thật sự ấm áp để bạn, tôi, và người ấy cùng hiểu với nhau trong niềm hy vọng, rằng, dân tộc chúng ta, quê hương chúng ta đang thức tỉnh.
 tuankhanh's blog
http://www.rfavietnam.com/node/3353

SỔ TAY TƯỞNG NĂNG TIẾN

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Chúng Ta/ Chúng Nó & Tiếng Nước Mình

tuongnangtien's picture

Có lần, tôi (trộm) nghe giáo sư Đỗ Mạnh Tri nói rằng: "Rồi chế độ toàn trị sẽ chấm dứt tại Việt Nam. Nhưng người Việt Nam không thể xây dựng đất nước bằng cách phủ định thực tại Việt Nam. Trong thực tại ấy, có Mác."
Thế còn Mao? Học thuyết Marx - Lénine, tư tưởng Mao Trạch Đông và tác phong Hồ Chí Minh mà. Chính Mao (chứ không phải là Hồ) mới là soạn giả của thảm kịch Cải Cách Ruộng Đất, và là tác giả của của cuộc chiến chống Mỹ cứu nước, cùng với sản phẩm phụ là vô số những từ ngữ thô bạo phát sinh ngay sau khi ĐCSVN phóng tay phát động quần chúng:
"Cán bộ:'Tại sao thằng hào Thức nó lại sướng cao độ thế?'
Chị cốt cán: 'Nó sướng cao độ thế là vì nhà nó đi bóc lột nhân dân.'
Cán bộ: 'Thế tại sao chị lại khổ cao độ thế?'
Chị cốt cán:'Em khổ cao độ thế là vì em bị nó bóc lột em trên một cái vấn đề đi ở cho nó mười mấy năm.' 'Hôm nay em không đi họp được vì nhà em nó cứ khống chế em.'
Chúng ta không được phóng tay lỏng lẻo, mà phải phóng tay chặt chẽ.
Bần cố nông là con đẻ Cụ Hồ, dân nghèo là con nuôi thôi, nên mới đề ra chiếu cố.
Vì giai cấp địa chủ bóc lột mấy nghìn năm nay nên chị Phước mới bị toét mắt." (Trần Dần – Ghi chép về Cải cách Ruộng đất ở Bắc Ninh 1955-1956. Phạm Thị Hoài biên soạn).
Ở thời điểm này, có lẽ, vì ngôn ngữ cách mạng chưa kịp đi sâu vào lòng quần chúng nên mẫu đối thoại thượng dẫn (nghe) vẫn còn hơi ngọng nghịu. Với thời gian, cùng với cuộc chiến giải phóng miền Nam, ngôn từ chiến tranh mới trở nên phổ cập và mỗi lúc một thêm... nhuần nhuyễn:
"Có một lần từ mặt trận đường 9 ghé về thăm nhà, tôi gặp đúng đêm máy bay Mỹ đánh phá Hà Nội. Còi báo động từ Nhà hát Lớn rú vang. Quầng sáng ánh đèn điện phía nội thành bỗng như dụi tắt bớt. Rồi những chùm đạn phòng không đỏ lừ thun thút lao lên vòm trời. Rồi bom nổ phía Yên Viên, Cầu Giát…
Còi báo yên, đàn chó trong làng vẫn sủa râm ran, đường làng ngõ xóm vẫn rậm rịch bước chân người, không một ai ngủ lại cả. Các cô các chị thức thẳng từ lúc đó cho tới lúc quẩy gánh rau húng, rau thơm tới các phiên chợ sớm. Người làng Láng chia sẻ âu lo với người nội thành như thế đấy!
Giữa phút tĩnh lặng, nghiêm trang ấy tôi bỗng nghe có tiếng gì động mạnh như tiếng ai đập chiếu trên mặt ao, tiếng đổ vỡ  loảng xoảng, ngay sau đó là tiếng kêu la của một người đàn bà:
Ối bà con xã viên đội một, đội hai, đội ba, đội bốn ơi! Lão chồng tôi tàn ác, thâm độc như đế quốc thực dân. Nó đánh tôi trường kỳ, gian khổ như thế này làm sao tôi chịu nổi?”
...
Đêm sau máy bay Mỹ tiếp tục đánh phá Hà Nội. Đúng vào giây phút không ai chợp mắt nổi ấy, bà Hin lại chạy bổ ra đường la hét váng động cả xóm:
Ới bà con xã viên ơi! Chiều nay lão chồng tôi không nấu cơm cho tôi ăn. Nó còn giấu biệt hòm gạo đi. Nó rắp tâm triệt hạ kinh tế tôi đấy mà!” (Tô Hoàng - "Nỗi Buồn Lâu Qua." Talawas blog).

Chiến lược, cũng như chiến thuật, trong trận chiến giữa bần nông và phú nông Việt Nam được chỉ đạo sát sao từ nước XHCN anh em Trung Quốc. Cuộc chiến Bắc/Nam cũng vậy. Không ít lương thực, vũ khí, đạn dược, cùng vô số những từ ngữ (mới) cũng đều được chi viện từ nước bạn láng giềng: bảo quản, bồi dưỡng, cải thiện, đại trà, đăng ký, đề xuất, đột xuất, động viên, kiểm điểm, kiểm thảo, hộ khẩu, hộ chiếu, hộ lý, khẩn trương, nhất trí, quản lý, sư trưởng, sự cố, tham quan, thiết kế, tranh thủ, trợ lý, xuất khẩu, xử lý ...

Nguồn ảnh: nhabe.hochiminhcity.gov.vn
Nhà phê bình văn học & văn hoá Vương Trí Nhàn cho rằng: “Cái mà ta gọi là giáo dục miền Bắc chỉ là sự kéo dài của lối phát triển giáo dục trong chiến tranh... Giáo dục chiến tranh, do dó, luôn luôn là một nền giáo dục dở dang chắp vá, mà lại vẫn phải khoác cho mình cái chức danh lớn lao của một nền giáo dục mới mẻ, cách mạng...”
Đôi lúc, tôi còn nghĩ thêm là tiếng nói của miền Bắc (trong nhiều thập niên qua) cũng thế, cũng là thứ ngôn từ của thời chiến chinh, cũng “chắp vá, mà lại vẫn phải khoác cho mình cái chức danh lớn lao ... cách mạng.”
Chiến cuộc rồi tàn. Bắc/Nam thống nhất. Nam/Bắc hoà lời ca. Nhiều triệu người dân (ở vùng địch tạm chiếm) ca không nổi nên đã liều mạng đâm xầm ra biển, hoặc ù té bỏ chạy thục mạng qua biên giới xứ người.
Họ chết bờ, chết bụi, chết dấm, chết dúi, chết đói, chết khát, chết đâm, chết chém, chết đạn, chết mìn, chết chìm, chết nổi, chết trôi, chết đuối (ôi thôi) nhiều vô số kể! Đám này chết “cũng tốt thôi” vì toàn là những kẻ thuộc thành phần bất hảo, cặn bã của xã hội, ma cô, đĩ điếm, trộm cướp, trây lười lao động, ngại khó ngại khổ, chạy theo bơ thừa sữa cặn… ” - theo như nguyên văn lời giải thích của Chính Quyền Cách Mạng với dư luận thế giới bên ngoài, và với lũ cột đèn (còn) kẹt lại.
Không hiểu những người vượt biên đã hành nghề ma cô, đĩ điếm và tổ chức trộm cướp ra sao - nơi đất lạ quê người - nhưng số lượng "bơ thừa sữa cặn" mà họ gửi về cố hương đã (lắm phen) cứu được toàn dân, cũng như toàn Đảng thoát chết ... vì đói khát!
Từ đó, Đảng mới “dũng cảm” đổi mới tư duy và – đồng thời – đổi giọng. Những kẻ phản bội tổ quốc (qua đêm) bỗng  trở thành “khúc ruột xa ngàn dặm,” và là “thành phần không thể thiếu trong đại gia đình dân tộc."  Nghị Quyết số 36-NQ/TƯ - về “Công Tác Ðối Với Người VN Ở Nuớc Ngoài”- đã ra đời (hơi muộn) vào ngày 26 tháng 3 năm 2004, dựa trên cơ sở đó.

N.Q này, tiếc thay, không phát huy được chút hiệu quả nào ráo nạo. Những khúc ruột xa ngàn dặm vẫn nhất định giữ nguyên thái độ xa cách, và coi mọi thứ "ma zê in" Việt Nam (Bộ chính Trị, Chính Phủ, Nhà nước, Quốc Hội... ) đều không khác gì những nùi giẻ rách - kể cả những hạn từ trong tiếng nói hằng ngày mà họ gọi một cách miệt thị là chữ Vẹm hay chữ Việt Cộng:
Chúng ta nói là “phát ngôn viên” thì chúng nói là: “người phát ngôn”
Chúng ta nói là “thăm viếng” thì chúng nói là “tham quan”
Chúng ta nói là “ghi danh” thì chúng nói là “đăng ký”
Chúng ta nói là “đá bóng” thì chúng nói là “bóng đá”
Chúng ta nói là “yếu điểm” thì chúng nói là “điểm yếu”
Chúng ta nói là “trở ngại” thì chúng nói là “sự cố”
Chúng ta nói là “xuất cảng” thì chúng nói là “xuất khẩu”
Chúng ta nói là “liên lạc” thì chúng nói là “liên hệ”
Chúng ta nói là “hiểu rõ” thì chúng nói là quán triệt”.
Chúng ta nói là “viên chức” thì chúng nói là “quan chức”.
Chúng ta nói là “chuyển âm” thi chúng nói là “lồng tiếng”.
Chúng ta nói là“dẫn giải” thì chúng nói là “thuyết minh”.

      Nguồn ảnh: tếu.blogspot.com
Tôi vốn tính hơi ba phải nên rất sợ chuyện chia phe; đã thế, khi nhìn thấy một đường ranh rạch ròi, phân chia bạn/thù (quyết liệt) giữa "chúng ta/chúng nó" thì không khỏi sinh lòng ái ngại, cùng với đôi chút băn khoăn.
Uả, chớ "chúng" là ai vậy – hả Trời?
Chúng có phải là vài chục triệu đồng bào miền Bắc, những nạn nhân đầu tiên của chế độ hiện hành, những kẻ đã bị tra tấn không ngừng - từ hai phần ba thế kỷ qua - bởi cả một cái hệ thống truyền thông (loa/ đài/ sách/ báo) của ĐCSVN không?
Chúng - không chừng - cũng dám là ông hay bà hàng xóm, những người cùng đi chung chuyến vượt biên với chúng ta (hai ba mươi năm trước) chớ ai? Chúng ta nhờ may nên đến được Bangkok, còn họ vì xui  nên phải vào ngồi (bóc lịch) ở Băng Ki.
Và chúng có phải là những người trẻ cỡ tuổi con cháu của chúng ta, sinh ra và lớn lên "trong lòng cách mạng," chưa bao giờ có dịp tiếp xúc với một thứ ngôn từ nào khác ngoài tiếng Vẹm (hay tiếng Việt Cộng) không?
Ngôn ngữ có đời sống và tuổi thọ riêng của nó. Sinh mệnh của cái được gọi là tiếng Vẹm; tuy thế, tuỳ thuộc không ít vào sự tồn vong của chế độ hiện hành.
Tiếng Việt Cộng chỉ thôi phổ cập, và dần bị đào thải, sau khi chế độ này không còn có thể tiếp tục hoành hành nữa. Và việc dứt điểm nó sẽ không thể xẩy ra nếu mọi người vẫn cứ giữ khư khư cái lằn ranh phân chia bạn/thù ("chúng ta/chúng nó") giữa lòng dân tộc.
 tuongnangtien's blog
 http://www.rfavietnam.com/node/3359

SƠN TRUNG * NHỮNG NGƯỜI CỘNG SẢN ĐẠI NGỘ


NHỮNG NGƯỜI CỘNG SẢN ĐẠI NGỘ

SƠN TRUNG


Có hai hạng cộng sản tiến bộ. Một loại đã đứng lên tranh đấu công khai chống chế độ bất công, độc tài, phi dân chủ như nhóm Nhân Văn ,Giai phẩm, Trần Độ, Trần Thư, Nguyễn Kiến Giang, Trần Xuân Bách.. để rồi bị tù, bị rút phép thông công. Một hạng sau một thời gian nhiệt tình theo Cộng sản và thấy rõ tâm địa cộng sản thì công khai  phủ định Cộng sản và âm thầm phủ định đời mình. Loại này thì rất hiếm. Ở đây, tôi muốn nói về trường hợp thứ hai này ,và tôi dùng chữ "đại ngộ" để tán thán tinh thần bất khuất của họ.

 Các nhân vật này ở trong xã hội cộng sản, có danh lớn trong văn học, nghệ thuật cộng sản rồi tự tử vì bất bình với chủ nghĩa cộng sản và vì mình tội lỗi đã đi theo cộng sản tàn bạo, phi dân chủ. Cũng có thể họ bị cộng sản sát hại. Cái chết của họ bị Cộng sản giấu kín hay đưa ra những lý do như bệnh tâm thần, thất tình, hay bị ai đó thù riêng mà ám hại. Chắc chắn cộng sản xóa hết dấu tich và ngụy tạo những nhân chứng, vật chứng có lợi cho Cộng sản.  Báo chí Cộng sản tất nhiên phải tuân theo chỉ đạo của cộng sản, phải phục tùng thuyết "hiện thực xã hội chủ nghĩa" của Nga!Nhưng cái kim trong bọc sẽ có ngày lòi ra. Dân chúng biết ngay tự đầu cái nguyên nhân bi thảm là chế độ cộng sản. Sau đây, chúng tôi xin đưa ra vài vụ cụ thể.


I. SERGEI ALEKDANDROVICH YESENIN (1895-1925)


Sinh ra ở làng của Konstantinovo (ngày nay là Yesenino, vùng Ryazan, Nga) trong một gia đình nông dân, Sergei Yesenin sớm được gửi tới sống với ông bà của anh. Ông bắt đầu làm thơ khi lên 9. Một thần đồng văn học, vào năm 1912, ông chuyển tới làm ở Moskva nơi mà ông được hỗ trợ bởi chính sở trường của mình đó là một chân kiểm tra lỗi chính tả trong một nhà máy in. Năm sau ông ghi danh vào học trường đại học quốc gia Moskva như một sinh viên không chính thức và học trong một năm rưỡi. Nghệ thuật làm thơ sớm của ông lấy cảm hứng từ văn hoá dân gian của Nga. Vào năm 1915, ông chuyển tới Sankt-Peterburg nơi anh làm quen với những bạn thơ như – nhà thơ Aleksandr Aleksandrovich Blok, Sergei Mitrofanovich Gorodetsky, Nikolai Alekseevich Klyuev và Andrei Bely. Chính ở Sankt-Peterburg này, ông đã trở thành nổi tiếng trong lĩnh vực văn học.

Vào năm 1915, Sergei Yesenin xuất bản quyển thơ đầu tiên cuả ông có tiêu đề "Radunitsa" ngay sau đó là "Ritual for the Dead" (Lễ nghi cho cái chết, 1916). Xuyên suốt trong những vần thơ của ông là nghệ thuật thơ thể hiện sự cay đắng trong tình yêu và cuộc sống đơn giản. Mùa xuân năm 1925, kết hôn với người vợ thứ năm của ông, Sophia Andreyevna Tolstaya, cháu gái của Lev Nikolayevich Tolstoy. Hai ngày sau lễ Giáng sinh anh cắt cổ tay và viết một bài thơ tạm biệt bằng máu chính anh, ngày sau anh treo cổ ở cái ống trên trần nhà tại phòng anh trong khách sạn Anglettere ở tuổi 30. Có giả thuyết cũng cho rằng anh tự tử nhưng thực tế anh bị giết bởi những mật-vụ Nga (NKVD agents) (Wikipedia)


Tin tưởng rằng cách mạng mang tới một cuộc sống tốt hơn, anh phục vụ cách mạng trong một thời gian ngắn, nhưng sớm vỡ mộng và thậm chí phê phán cách cai trị của những người Bolshevik trong những bài thơ như "The Stern October has Deceived me" (Tháng mười lạnh lùng đã lừa dối tôi).Từ tác phẩm này ta thấy ông đã thất vọng với Marx và bọn Lenin, Stalin. Và đưa đến kết cuộc bi thảm vào đêm 27 rạng ngày 28/12/1925, nhà thơ Nga nổi tiếng Sergei Esenin đã thắt cổ tự tử tại khách sạn Angleter ở Leningrad. Mùa xuân năm 1925, kết hôn với người vợ thứ năm của ông, Sophia Andreyevna Tolstaya, cháu gái của Lev Nikolayevich Tolstoy. Hai ngày sau lễ Giáng sinh anh cắt cổ tay và viết một bài thơ tạm biệt bằng máu chính anh, ngày sau anh treo cổ ở cái ống trên trần nhà tại phòng anh trong khách sạn Anglettere ở tuổi 30. Có giả thuyết cũng cho rằng anh tự tử nhưng thực tế anh bị giết bởi những mật-vụ Nga (NKVD agents) (Wikipedia)



Sergei Esenin cùng nàng vũ công Hoa Kỳ nổi tiếng Duncan Isadora


II. VLADIMIR VLADIMIROVICH MAYAKOVSKY (1893 - 1930)


Ông là một nhà thơ người Nga, một đại diện tiêu biểu nhất của trường phái thơ vị lai của thế kỉ 20.
Mayakovsky sinh tại làng Baghdati, tỉnh Kutaisy, Gruzia trong một gia đình kiểm lâm. Vì sinh vào ngày sinh của bố nên được đặt tên trùng với tên bố. Cả bố và mẹ đều là những người có dòng dõi quý tộc. Lên 6 tuổi đã ham mê sách vở và thích đọc nhiều loại sách. Năm 1906, sau cái chết đột ngột của người cha, cả gia đình chuyển về Moskva. Năm 1908 ông vào Đảng Công nhân Dân chủ Xã hội Nga và tham gia hoạt động bí mật nên bỏ học từ lớp 5. Ông đã ba lần bị bắt giam, 11 tháng ngồi tù vì tội hoạt động g bí mật.(Wikipedia)


Ông và Sergei Esenin là hai ngọn cờ đầu trong văn học vô sản Nga. Đặc biệt,Mayakovsky được coi như Tố Hữu của Nga! Từng có một thời trong các sách giáo khoa ở Liên Xô người ta gọi Mayakovsky là "lá cờ đầu của thơ ca Tháng Mười". Đánh giá về vai trò lớn lao của nhà thơ Mayakovsky, lãnh tụ Xô Viết Stalin đã từng nói: “Mayakovsky là nhà thơ ưu tú nhất của chủ nghĩa xã hội”.

Cách mạng Tháng Mười giành thắng lợi năm 1917, Mayakovsky đã công khai, dứt khoát đi với chính quyền Xô Viết, nguyện mang toàn tâm, toàn lực phục vụ sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản. Thời kỳ này, ông viết những bài thơ phản ánh kịp thời, sinh động khí thế tiến công cách mạng của hàng trăm triệu nhân dân Xô Viết.


Mayakovsky là ca sĩ của cách mạng. Hai câu thơ nổi tiếng của Mayakovsky được lan truyền trong quân đội và trong dân chúng như những bài ca cửa miệng :

Ngốn nốt đi những quả dứa, nhai nốt đi những miếng thịt chim
Ngày tận thế của mi đã đến rồi, hỡi tên tư sản !


Nhà thơ hân hoan đón chào cách mạng Tháng Mười, không một chút băn khoăn, nghi ngại : “Đón nhận hay không đón nhận ? Với tôi không có câu hỏi đó. Cách mạng là của tôi”, nhà thơ đã viết như thế trong tự truyện của mình. Nhà thơ làm việc trong Bộ Giáo dục của chính quyền Xô viết, xuất bản “Cửa sổ ROSTA” (Cửa sổ Thông tấn xã Nga) với những bức biếm hoạ phê phán Bạch vệ, ca ngợi chiến thắng của Hồng quân. “Hành khúc của chúng ta”, “Tụng ca cách mạng”, “Mệnh lệnh cho đạo quân nghệ thuật”, “Hành khúc bên trái”... là những tiếng ca Mayakovsky góp vào với dàn "đồng ca cách mạng".


Đủ lắm rồi những chân lý rẻ tiền.
Cái cũ xưa trong trái tim nay hãy vứt.
Đường phố giờ là ngọn bút.
Quảng trường là bảng pha màu.
Cuốn sách thời đại
hàng ngàn trang
những ngày cách mạng ngợi ca chưa hết.
Hãy xuống đường, hỡi những nhà vị lai
Những chàng đánh trống và những thi nhân !

(1918)


Không còn là chủ nghĩa vị lai của những năm trước cách mạng. Năm 1918, nhà thơ lập ra nhóm “Komfut” (Vị lai cộng sản), ba năm sau là nhà xuất bản MAF (Hội vị lai Moskva), năm 1923 tổ chức Mặt trận nghệ thuật cánh tả (LEF) với tờ tạp chí cùng tên ra được bảy kỳ.

Mayakovsky chân thành ngợi ca "cách mạng" và chế độ Xô viết. Những tác phẩm của nhà thơ mang đầy tính tuyên truyền, cổ động. Trường ca “150,000,000” (1915) mang âm hưởng của những sử thi dân gian Nga, với nhân vật chàng tráng sĩ Nga chiến đấu với kẻ thù tư bản chủ nghĩa. Trường ca “Vladimir Ilich Lenin” (1924) là câu chuyện cuộc đời lãnh tụ cách mạng được kể như một huyền thoại về một vị thánh được Lịch Sử phái đến khi nước Nga cần. Đặc biệt, nhân kỷ niệm mười năm Cách mạng Tháng Mười, Mayakovsky viết “Tốt lắm!” – bản trường ca hoàn chỉnh cuối cùng, đồng thời cũng là một trong những tác phẩm kiệt xuất của nhà thơ. Với trường ca này, chủ đề trung tâm trong thơ Mayakovsky “cách mạng của tôi” đã được chuyển sang một phương diện mới “tổ quốc của tôi”. Mười chín chương trường ca gắn với nhiều sự kiện lịch sử của thời đại: từ việc công nhân và binh lính chiếm Cung điện Mùa Đông, bắt Chính phủ Lâm thời của giai cấp tư sản đêm tháng Mười năm 1917 trao quyền cho Xôviết, sự can thiệp của nước ngoài, cuộc nội chiến,... Nhà thơ cất tiếng nói từ nhân dân với đại từ “chúng ta” :


Giữa
       súng trường
            và vũ khí ngôn từ
Moskva –
          thành đảo nhỏ,
                    còn chúng ta trên đảo đó.
Chúng ta –
         đói khát,
                chúng ta –
                         cùng khổ,
Với Lenin trong đầu
                         và súng lục (1)

Nhưng đồng thời, đó cũng là tiếng nói từ cái tôi cá nhân. Những chi tiết tự truyện, những dòng thơ về cuộc sống đời thường của nhà thơ trong trường ca đã cụ thể hoá bức tranh toàn cảnh cuộc đấu tranh, đồng thời thể hiện tình yêu nước, lòng trung thành vô điều kiện đối với lý tưởng cách mạng, sự nghiệp của nhân dân cũng là sự nghiệp của cá nhân nhà thơ “đất nước của tôi”, “Xô viết Moskva của tôi”, “những nhà máy của tôi”, “những đại biểu của tôi”.


Đặc biệt, Mayakovsky còn sáng tác cả một bản trường ca để ca ngợi vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Liên Xô - Trường ca “Vladimir Ilich Lenin”. Người ta đánh giá, đến nay, trong văn học Nga và thế giới, chưa có bản trường ca nào lại có tầm vóc về Lênin như bản trường ca Vladimir Ilich Lenin” của Mayakovsky.


Có thể nói, hình thức thơ của Mayakovsky rất độc đáo, sắp xếp theo bậc thang, tiết tấu rõ ràng mà khỏe khoắn, từ ngữ nghiêm trang mà chặt chẽ. Tác phẩm của Mayakovsky. được dịch ra năm mươi tám thứ tiếng của các dân tộc ở Liên Xô cũ và ba mươi chín tiếng nước ngoài, nhất là trong phe xã hội chủ nghĩa. Mayakovsky được giảng dạy ở các trường phổ thông và trường đại học Việt Nam. "Bác" cũng trích thơ của "đồng chí" Mayakovsky nhân dịp nói chuyện tại Ðại hội lần thứ ba của Ðoàn Thanh niên Lao động Việt nam năm 1961.

 Sáng tác văn học của Mayakovsky. như vừa trình bầy được các tài liệu trong nước phổ biến. Nhưng tôi chưa được đọc tài liệu tiếng Việt nào nói chi tiết về cái chết của  ông . Thật ra, Mayakovsky tự tử bằng cách bắn một phát súng lục vào tim vì các lý do: không thấy những điều kỳ vọng được thực hiện mà chỉ thấy cách mạng tiến bước ì ạch, thở dốc; tính cách bấp bênh của tương lai; rắc rối hành chánh nhất là từ Bộ Văn hoá; thất vọng tình cảm. Như thế, Mayakovsky tìm cái chết để tự xử trước toà án lương tri của người trí thức sau khi hoàn tất tác phẩm cuối đời - tất nhiên không được người cộng sản nhắc đến - là (bản dịch tiếng Pháp) Les bains (Tắm gội), bản văn phúng thích chỉa thẳng mũi dùi vào chế độ quan liêu stalinit. Ngày Mayakovsky lìa bỏ thiên đường cộng sản là ngày 14 tháng tư năm 1930, lúc đó Mayakovsky. mới ba mươi sáu tuổi.


Có người suy nghĩ rằng Tố Hữu say mê cộng sản nhưng e rồi cũng thất vọng mà tự tử như Mayakosky. Người tự tử phải có nghị lực, có tâm sám hối như Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh thấy Pháp lừa mà mình ngu dại nên hủy thân. Mayakosky cũng vậy. Còn Tố Hữu là một tay gian nịnh, lúc theo ông Hồ, lúc theo Lê Duẩn, Lê Đức Thọ khống chế ông Hồ. Đây là một tay tráo trở có hạng. Bởi vậy thi ca hiện đại có câu về Tố Hữu (tục danh là Lành):

Tên Lành mà dạ chẳng lành,
Đã vin cành táo lại giành cành nho.
Táo Tầu của bác Mao cho,
Còn nho Brezhnev thưởng thơ anh tài.
Xưa anh nhắm rượu Mao Đài,
Giờ đây đổi gió, anh xài Vodka.
Ngày mai anh nhắm Xăm pa,
Biết đâu sau nữa chẳng là Sa kê.
Khen anh đánh đĩ lành nghề,
Bao giờ anh sẽ nằm kề chú Sam?

Tố Hữu khoác áo cộng sản nhưng vị lợi là chính. Ông không bao giờ chống cộng dù là âm thầm. Ông bực tức tỏ ra bất mãn vì mộng vàng của ông tan vỡ. Ông có chí cao lắm. Ông nịnh Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh , tàn sát Nhân Văn, Giai phẩm để lập công mà leo lên Thủ Tướng, Tổng Bí thư và Chủ tịch nước. Không ngờ các đồng chí của ông lấy việc " giá lương tiền" mà đá văng ông!


Người ta so sánh Trần Dần với Mayakovsky. Trần Dần tham gia nhóm Dạ Đài, cùng ý hướng với nhóm Xuân Thu Nhã Tập.Dạ đài, viết Tuyên ngôn tượng trưng và khi kết thúc chiến tranh cũng đã mang cả một bầu máu nóng đến với cuộc sống mới. Vậy mà, về con người, trong thời gian nhà thơ còn bị hiểu nhầm, ngộ nhận, ông Huy Vân, trên báo Nhân Dân số ra ngày 25/4/1958 gọi Trần Dần là “một tâm hồn đồi trụy”, về thơ ca, cũng chính người viết nói trên, phán rằng ông là kẻ mang “những quan điểm nghệ thuật sa đọa”. Với một gia tài thơ gần ba mươi năm bị niêm phong, Trần Dần khó đến được với công chúng và thực ra, thơ Trần Dần, công chúng nói chung không dễ tiếp nhận. Công chúng, trừ một số ít, phần lớn, không biết về ông, hoặc biết đến ông quá muộn.


Trần Dần từng bị mang tiếng là kẻ coppy Mai a. Hễ nhắc đến Trần Dần là người ta nghĩ ngay đến thơ bậc thang và liên hệ ông với Mayakovsky. Hoàng Cầm, một thi hữu có những năm tháng trải qua hoạn nạn như ông đã có lần trách Trần Dần về chuyện ảnh hưởng Mai a. Và Dương Tường, một văn hữu thân thiết của các nhà thơ trong nhóm Nhân văn – Giai phẩm cũng cho rằng từ Mùa sạch (1964-1965) trở đi, Trần Dần mới thực sự và “dứt khoát rũ bỏ ảnh hưởng của thơ bậc thang và khẩu khí Mayakovsky”. Chính Trần Dần cũng từng thừa nhận mình chịu ảnh hưởng Mai a, nhưng ông khẳng định rằng “tâm hồn có giống nhau thì mới ảnh hưởng nhau sâu sắc được” và, điều ông muốn nhấn mạnh là ông chịu ảnh hưởng thực tế Cách mạng Việt Nam. Dù sao, trong một bầu khí quyển mà ở đó người ta cho rằng “ảnh hưởng” là hai từ chẳng vinh dự gì thì những nhận xét nói trên, trong cách nhìn nào đấy có thể là một khổ lụy đối với người cầm bút, dẫu cho, với Trần Dần, vinh quang hay khổ lụy, thực ra chẳng có ý nghĩa gì nhiều. Điều chúng tôi quan tâm là ở vấn đề thơ bậc thang này, Trần Dần có thể bị thu hút bởi Mai a tới đâu, ông đã có những cố gắng nào đó thoát khỏi từ trường của Mai a và, trong tư cách là những nghệ sĩ có nhiều điểm chung về khí chất, hai cây bút này đã có những ứng xử như thế nào trước những hằng số nghệ thuật của thời đại họ?


Mai a đến với công chúng Việt Nam theo như ấn tượng của Hoàng Ngọc Hiến ghi trong cuốn Mayakopxki con người, cuộc đời và thơ là qua những vần thơ nóng bỏng những câu thơ nảy lửa và với một giọng thơ rất khác thường, hồn nhiên, sôi nổi và mãnh liệt.(2)

Sao những nhà văn Việt Cộng trí óc nhỏ như trôn kim. Trong thơ, người ta bắt chước về hình thức bài thơ, về nghệ thuật là thường, sao lại trách Trần Dần? Tổ tiên là làm thơ theo Đường luật. Khi văn chương Pháp vào nước ta, các thi sĩ trẻ đua nhau làm thơ mới là cũng theo nghệ thuật Pháp, Anh, Mỹ. Nguyễn Vỹ là nhà thơ hăng hái trong việc đổi mới hình thức bài thơ. Trần Dần đi sau những phong trào trên. Phải chẳng các ngài khỉ đỏ đít ghét Trần Dần chống cộng sản  độc tài? Rất nhiều nhà thơ miền Bắc làm thơ bậc thang chứ không phải Trần Dần.Thơ bậc thang đã có từ lâu trong thơ  Âu Mỹ trước Mayakosky. Người ta còn tạo ra những bài thơ hình trái tim, con chim bay, ngôi sao ,cái đuôi.. .

Pháp: Appollinaire (1880 -1918) , Stéphane Mallarmé (1842-1898)
Mỹ: Whitman (1819 – 1892)

Những người này đã chế ra lối thơ bực thang, nghĩa là một câu thơ được ngắt thành hai ba đoạn và xuống dòng
Tại Pháp, Stéphane Mallarmé (1842-1898) đã làm thơ bực thang từ lâu. Trong thi tập A Tomb for Anatole , ông viết:
malade au
printemps
mort en automne
----- c’est le soleil
____
la vague
idée la toux
Feuillet 3, p. 101.)
la mort --- chuchotte bas
---- je ne suis personne ----
je m’ignore même
(car morts ne savent
pas qu’ils sont
morts ----, ni même qu’ils
meurent
(Feuillet 61, p. 159.)

The Fragments

1.

Child emerged from
          us both – showing us
                  our ideal, the way
                         – for us! A father
mother surviving him
                 in sad existence
                     like two extremes –
                           ill fused in him
that are parted
         –hence his death –
                cancelling this small
                                  child’s ‘self’

2.

Ill in
         spring time
          Dead in autumn
– the sun

3.

Son
     re-absorbed
             not gone
                     it is he
– or his brother
I
myself said it
         to him
              two brothers

4.

– image of I
            other than I
                     taken in
                          death!

5.

what takes refuge
               in me your future
                                  becomes a
purity for life,
              which I shall
                        not touch –
 
 Éventails 14
 Palpite,
_______Aile,
____________mais n'arrête
Sa voix que pour brillamment
La ramener sur la tête
Et le sein
__________en diamant

Guillaume Apollinaire cũng làm thơ bực thang:

Et tout
         A tant changé
                     En moi
                                Tout

( Case d' Armon) 

Nhiều bài thơ của William Carlos Williams (1883-1963) có nhiều đoạn làm theo lối bực thang như bài thơ sau đây:

Outside
        outside myself
            there is a world,
                he rumbled, subject to my incursions
- a world     
(to me) at rest,
         which I approach
                          concretely

        ( Sunday in the Park, Book II)

Trong bài The Ivy Crown , ông viết:
          The whole process is a lie,
                                unless,
                                         crowned by excess,
                           it break forcefully,
         one way or another,
               from its confinement-
                          . . . . No doubts
are permitted -
        though they will come
                and may
                           before our time
overwhelm us.
      We are only mortal
                 but being mortal
                               can define our fate.


  Vả lại, bắt chước tinh thần giác ngộ của Mayakosky là tốt chứ, sao lại trách ông? Nhân dân ta và nhân dân thế giới rất hoan hô tinh thần giác ngộ của những người cộng sản mà khinh miệt bọn dối trá, nịnh bợ, làm tay sai cho quỷ Satan!


III. VŨ ANH KHANH (19 26-1956)

Ông tên thật là Vũ Văn Khanh sinh tại Mũi Né (trước thuộc quận Hải Long, nay thuộc thành phố Phan Thiết), tỉnh Bình Thuận.

Không rõ thân thế, chỉ biết trước năm 1945, ông vào ở Sài Gòn và làm báo, viết văn. Sau ngày Toàn quốc kháng chiến (19 tháng 12 năm 1946), ông cùng hoạt động với Lý Văn Sâm, Dương Tử Giang, Thẩm Thệ Hà...trong nhóm cộng sản ở Sài Gòn.



 Vũ Anh Khanh

Vũ Anh Khanh là một cây bút chuyên viết truyện ngắn và tiểu thuyết. Tác phẩm của ông phần lớn được in trong năm 1949 tại Sài Gòn, với "số lượng phát hành chiếm kỷ lục trong số ấn phẩm thời đó" gồm:
Truyện dài
Cây ná trắc (Nhà xuất bản. Tân Việt, Sài Gòn, 1947)
Nửa bồ xương khô (2 tập, Nhà xuất bản. Tân Việt Nam, Sài Gòn, 1949)
Bạc xỉu lìn (Nhà xuất bản. Tiếng chuông, Sài Gòn, 1949)

Tập truyện ngắn
Sông máu (Nhà xuất bản. Tiếng chuông, Sài Gòn, 1949)
Đầm Ô Rô (Nhà xuất bản. Tiếng chuông, Sài Gòn, 1949)
Bên kia sông (Nhà xuất bản. Tân Việt Nam, Sài Gòn, 1949, 1949)
Ngũ Tử Tư (Nhà xuất bản. Tân Việt Nam, Sài Gòn, 1949)

Ngoài ra, ông còn sáng tác thơ, nổi bật có bài "Chiến sĩ hành", "Tha La xóm đạo",...

 Vũ Anh Khanh
Nhìn chung, các tác phẩm trên đều là những "bức tranh bi thiết nhưng hào hùng của người dân Nam Bộ, trên những chặn đường lịch sử chống Pháp gay go". Vì vậy, chúng có giá trị tiêu biểu cho dòng văn chương thời kỳ kháng Pháp ở Nam Bộ. Nhưng, dường như nhiều người chỉ nhớ đến Vũ Anh Khanh với bài thơ "Tha La xóm đạo"

Năm 1950, bị nhà cầm quyền Sài Gòn lùng bắt, ông và một bạn bè trốn thoát ra chiến khu. Năm 1954, ông tập kết ra miền Bắc, nhưng rồi đổi ý, tìm cách vượt biên vào Nam có lẽ ông thấy chán cờ đỏ sao vàng và hình ảnh Bác Cáo dài đuôi!. Khi vượt sông Bến Hải năm 1956, ông bị bộ đội biên phòng bắn chết giữa dòng.

Nhà văn Xuân Vũ trong bài viết "Người chết không mồ", đăng trên Văn Hóa Việt Nam số 14 năm 2001, cho biết Vũ Anh Khanh nhân kỳ nghỉ phép, đã sửa thông hành từ Vĩnh Phúc thành Vĩnh Linh, để vào Quảng Trị vượt biên vào Nam. Ông bơi qua đoạn sông Bến Hải, phía trên thượng nguồn cầu Hiền Lương chừng vài cây số, thì bị bộ đội biên phòng bờ Bắc bắn chết bằng tên tẩm thuốc độc để không bị ai phát giác. Xác của người bạc mệnh được kéo lên vùi dập đâu đó trong khu phi quân sự . Ông Võ Hồng Cương, Cục phó Cục Tuyên Huấn quân đội nhân dân Việt Nam, cũng kể tương tự (Mặc Lâm . (Wikipedia; 3).


IV.TAM ICH 1915-1972)

Tam Ích tên thật là Lê Nguyên Tiệp, là nhà văn Việt Nam trước năm 1975. Ngoài bút danh Tam Ích, ông còn ký XXX và Trúc Lâm. Ông là người xã Ngọc Đường, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Cha ông là cử nhân Lê Nguyên Phong. Ông dạy học, viết báo, soạn nhiều tiểu luận, phê bình văn và triết học theo xu hướng cộng sản..

 Tam Ích

Ngày 5 tháng 1 năm 1972, Tam Ích tự tử (thắt cổ chết bằng cách dùng sách làm bệ để treo dây) tại nhà riêng số 563/74 đường Phan Đình Phùng, Sài Gòn, hưởng dương 57 tuổi.


Để tưởng niệm Tam Ích, ngày 15 tháng 05 năm 1972, tạp chí Văn (Sài Gòn) có ra số đặc biệt, giới thiệu mười tiểu luận đặc sắc của ông.

Tác phẩm Tam Ích đã xuất bản:
Nghệ thuật và nhân sinh (Chân trời mới, 1951)
Văn nghệ và phê bình (Nam Việt, 1950)
Diologue (Pháp ngữ, 1965)
Văn chương và xã hội (Nam Việt, 1948)
Kêu thương (dịch, Chứng ngôn, 1967)
Trẻ Guernica (truyện dịch)
Sartre và Heidegger trên thảm xanh (1968)
Ý văn I (khảo luận, 1969)

Di cảo chưa in:
Triết học Đông Tây chung quanh bàn tròn
Lần lữa (kịch dài)
Ý văn II
Hồ sơ văn hóa
Phê bình tiểu luận: 10 văn sĩ tiền chiến và hiện đại, cùng nhiều tiểu luận đăng trên các tạp chí ở Sài Gòn.


Trong Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam:

Tam Ích trong những năm đầu cuộc sống có tư tưởng tiến bộ, nhất là trong những năm 40 và những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Trong kháng chiến chống Mỹ ông sống tại Sài Gòn, tư tưởng ngày càng bế tắc. Cuối cùng đâm ra bi quan, đưa đến cái chết bi đát...

Trong Hồi ký Sơn Nam:

...Hồi trước Cách mạng tháng Tám, tôi được may mắn học Trường Trung học Cần Thơ, bấy giờ Cần Thơ có hai trường trung học tư thục là Nam Hưng và Bassac...Bên trường Nam Hưng, giáo sư nổi danh nhất là Lê Nguyên Tiệp (tức Tam Ích) thích chống đối thực dân...Hồi khoảng 1946-1947, trong chiến khu,...Tôi giựt mình vì trên số báo tương đối cũ "Ngày mai" có bài của Tam Ích tựa bài là "Bác sĩ Thinh[2] cút ngay!"...Dám viết báo trong vùng địch để chống công khai quả là táo bạo!

Sau Hiệp định Genève 1954, (tôi) về Sài Gòn, tình hình biến đổi quá nhanh...Bác sĩ Thinh đã thắt cổ tự tử đâu vài ngày sau khi nhậm chức. Giáo sư Tam Ích đã luống tuổi. Hỏi thăm thì ông đang dạy Pháp văn, gần như bị lãng quên. Tôi đã viết truyện ngắn, tạo được chút ít danh vọng trên tờ tuần báo "Nhân loại". Lần hồi, tôi dò dẫm, nhờ bạn giới thiệu, đến thăm.

Hồi (Ngô Đình) Diệm và về sau, thỉnh thoảng tôi gặp anh đạp xe đạp mini đi dạy các khóa học tư thục như Les Lauriers, Vương Gia Cần, thỉnh thoảng anh ngoắt, tôi ngừng chuyến đi bộ, cùng uống cà phê lề đường...Thỉnh thoảng anh mời tôi về nhà, nướng khô mực, cùng uống tí rượu, bảo rằng con mực ở Nha Trang ngon nhất. Vài người bạn lớn tuổi rỉ tai với tôi là anh buồn đời, chán đời rồi sinh tật nghiện ngập.

...Một buổi chiều, đi đường, gặp người bạn già báo tin anh đã mất: tự tử theo dạng thắt cổ, quần áo sạch sẽ, đứng trên một chồng sách cao nghệu rồi đạp chân cho đống sách ngã xuống!...

Hồi anh em ta ra tuần báo "Nhân loại", Tam Tam Ích có viết vài bài khó hiểu về triết học. Bấy giờ bên Pháp, .P. Sartre được hâm mộ. Chủ nghĩa hiện sinh thịnh hành. Tam Ích kết hợp từng đoạn với Phật, Lão Tử. Khó hiểu quá, buổi ấy, J.P. Sartre chống đế quốc Mỹ...Nỗi cô đơn của Tam Ích. Ngày 5-1-1972 ông tự tử tại tư thất số 563/74 đường Phan Đình Phùng Sài Gòn, hưởng dương 57 tuổi.

Anh có để lại di chúc, căn dặn đám tang phải cử hành đơn giản và sạch...(Wikipedia)


Cái chết của Tam Ich nhiều người cho là bí ẩn vì không hiểu sự thật. Có tài liệu viết rằng Tư tưởng ngày càng bế tắc. Cuối cùng đâm ra bi quan, đưa đến cái chết bi đát . Ông theo Marx sao lại bế tắc? Ông hết tin tưởng vào Marx , nghĩa là ông chán Marx, chống Marx? Viết như Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam là sai, là mơ hồ !GS. Nguyễn Hữu Lương và Tam Ich là người Thanh Hóa. Ở Sai gon, Tam Ich tự do tuyên truyên truyên chủ nghĩa Marx lập nhóm Chân trời mới gồm có bộ ba Tam Ích (Lê Nguyên Tiệp), Thê Húc (Phạm Văn Hạnh), Thiên Giang (Trần Kim Bảng), và đám cộng sản nằm vùng Thiếu Sơn, Hợp Phố, Bách Việt…nhưng không bị dòm ngó hoặc gây khó khăn.

GS Nguyễn Hữu Lương là bạn của tôi. Ông cho biết ông là người Thanh Hóa nên thân với Tam Ich. Hồng Liên Lê Xuân Giáo (4) cũng người Thanh Hóa. GS Nguyễn Hữu Lương cho biết năm 1958 , ông Lê Xuân Giáo vượt Trường Sơn vào Nam, kể chuyện cụ cử nhân Lê Nguyên Phong, thân phụ Tam Ich bị đấu tố mà chết. Cái chết của cha làm cho ông tỉnh ngộ, ông quyết tâm phủ định chủ nghĩa Marx và phủ định ông. Té ra bao nhiêu năm ông ăn cơm quốc gia, lại đem thân phục vụ bọn đồ tể đã sát hại phụ thân ông và gây ra bao cảnh tang tóc cho dân tyiộc Việt Nam!~ Dẫu theo Cộng sản, nhiệt tình phá hoại chủ nghĩa quốc gia dân tộc, ông cũng là người có khí tiết, khác xa PhạmTuyên và Nguyễn Khắc Viện là những kẻ bất trung, bất hiếu, nhận kẻ thù đã giết cha mình bằng cha!


V. GIÁO SƯ PHẠM THIỀU(1904-1986)
 
Phạm Thiều là một giáo sư, nhà nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam, nhà ngoại giao và chính trị Việt Nam. Ông còn có bút danh Triệu Lực, Miễn Trai.

Giáo sư Phạm Thiều sinh ngày 4 tháng 4 năm 1904, quê ở xã Diễn Phúc, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Cha của ông là cụ Phạm Thâm, đậu Cử nhân năm 1909, từng là Huấn đạo ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

Từ nhỏ, ông theo học chữ Hán và được cha kèm cặp. Năm 1918, ông tham gia kỳ thi Hương cuối cùng tại Huế nhưng không đậu vì bị coi là phạm trường quy. Trở về quê, ông theo học trường College Vinh, sau đó đậu Primaire và vào học Quốc học Huế. Tốt nghiệp Tú tài, ông thi đậu vào trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương, Hà Nội, ngành Văn học.


Trong những năm học ở Hà Nội, ông đã kết bạn và cộng tác với nhiều bạn hữu tại Đông Dương học xá, mở rộng quan hệ với những người có cùng chí hướng yêu nước hoạt động chính trị, lập hội kín Hương Nam, truyền bá Quốc ngữ trong giới học sinh, sinh viên.

Năm 1927, sau khi tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm, ông được chính quyền thuộc địa phân công vào Nam dạy các trường ở Cai Lậy, Hà Tiên, Gò Công, Rạch Giá, Gia Định. Ở đây, ông tiếp tục truyền bá Quốc ngữ và đào tạo thanh niên nêu cao tinh thần yêu nước.

Năm 1938, ông được mời về trường Petrus Ký Sài Gòn, dạy các môn Hán văn, Pháp văn và Văn chương Việt Nam. Năng lực chuyên môn và đức độ của ông gây được nhiều cảm tình với giới trí thức Nam Bộ.

Trong thời gian giảng dạy tại trường, ông vừa dạy học vừa hoạt động xã hội, viết văn, viết báo cho tổ chức cách mạng. Xu hướng chính trị của ông thiên dần về hướng Việt Minh.

Đầu tháng 8 năm 1945, ông được Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát cử làm chủ bút của báo Thanh niên Tiền phong, cơ quan ngôn luận chính của Tổng hội Thanh niên Tiền phong. Để tăng ảnh hưởng chính trị cho mặt trận Việt Minh, ông được bác sĩ Phạm Ngọc Thạch giao nhiệm vụ đi diễn thuyết, tuyên truyền 10 chính sách của Mặt trận Việt Minh ở Bà Chiểu, Phú Nhuận, Thủ Thừa. Với uy tín và tài hùng biện của mình, ông đã có tác động rất lớn trong việc vận động quần chúng tham gia Việt Minh, tiến tới làm cuộc cách mạng thành công ở Sài Gòn, Chợ Lớn và toàn Nam Bộ.

Khi Pháp tái chiếm Sài Gòn, ông theo bộ đội về miền Đông Nam Bộ và được phân công nhiều chức vụ quan trọng như Trưởng phòng Chính trị Bộ Tư lệnh Khu 7, Giám đốc Trường quân chính Biên Hòa, Ủy viên Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, Giám đốc Sở Thông tin - Tuyên truyền Nam Bộ, Trưởng phòng Hoa kiều vụ Nam Bộ, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính Sài Gòn - Chợ Lớn, Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Phân liên khu miền Đông rồi Giám đốc Nha giáo dục phổ thông Nam Bộ. Trong thời gian kháng chiến, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.


Tháng 8 năm 1954, ông tập kết ra Bắc, được cử làm Trưởng phòng thông tin - báo chí Bộ Ngoại giao, Phó giám đốc Nha giáo dục rồi Vụ trưởng Vụ Sư phạm Bộ Giáo dục.

Năm 1956, ông được cử làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Tiệp Khắc. Năm 1961, ông được phân công kiêm nhiệm chức vụ Đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Hunggari.

Ngày 10 tháng 8 năm 1964, ông trở về nước sau khi hết nhiệm kỳ đại sứ.

Sau khi về nước, ông không tiếp tục làm việc trong ngành ngoại giao mà trở thành Chuyên viên nghiên cứu Viện Văn học, giảng dạy trong các khóa Đại học Hán học. Từ năm 1970-1975, ông được cử làm Trưởng ban Hán Nôm (tiền thân của Viện nghiên cứu Hán Nôm) thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam.

Sau năm 1975, ông lại vào thành phố Hồ Chí Minh, làm Giám đốc Thư viện khoa học - Viện Khoa học Xã hội thành phố Hồ Chí Minh.

Năm 1976, trong kỳ học quốc hội thống nhất, ông được bầu làm Đại biểu Quốc hội khóa VI nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Ủy viên Chủ tịch đoàn Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Những năm cuối đời, ông tham gia chủ trì nhiều chương trình nghiên cứu khoa học xã hội, và dự định cùng Ca Văn Thỉnh thực hiện công trình nghiên cứu về Nam Bộ và văn hoá Nam Bộ trước thời thuộc Pháp, tuy nhiên khi hai ông mất, dự định vẫn chưa làm được

Ông có nhiều luận văn, bài báo nghiên cứu về Văn học, Hán Nôm, đăng trên tạp chí Văn học và một số tạp chí khác. Hai đề tài lớn ông quan tâm là thi hào Nguyễn Trãi và chủ nghĩa anh hùng trong văn học cách mạng miền Nam. Ngoài ra, ông còn góp phần đào tạo nhiều nhà nghiên cứu Hán Nôm học ở Việt Nam[.

Ông mất vào ngày 1 tháng 12 năm 1986, thọ 82 tuổi

Ông đã được trao tặng Huân chương Độc lập hạng nhất. Hiện nay, tên ông đã được đặt cho các con đường ở quận 7 Thành phố Hồ Chí Minh, và tại quận Sơn Trà thành phố Đà Nẵng.


Sách
Thư tịch cổ và nhiệm vụ mới (nhiều tác giả), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1979;
Thơ đi sứ (chủ biên), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1983.

Tạp chí
Vài suy nghĩ thêm về thơ văn Nguyễn Trãi. Tạp chí Văn học, số 2 -1969;
Ba nhân vật, một tâm hồn. Tạp chí Văn học, số 5-1976;
Nguyễn Thông, con người ưu tú của đất Gia Định. Tạp chí Văn học, số 2 - 1985.

Và nhiều bài trên các tạp chí và báo khác  (Wikipedia)


Khoảng 1980, tôi thất nghiệp, tháng ngày đạp xe lang thang phường phố. Lúc đó vào tháng chạp, Noel đã qua, phố phường rộn rã đón Tết. Tôi đi qua viện Khoa Học xã hội Miền Nam, thấy trong viện vắng vẻ, trong phòng giám đốc có một cán bộ ngồi.

Đạp xe vào sân, thấy trên bàn giám đốc có bảng tên Phạm Thiều. Xưa nay, ở Saigon, người ta nhắc nhở đến Phạm Thiều, coi như một ngôi sao sáng của cộng sản miền Nam. Nhìn khuôn mặt ông, dáng khắc khổ, tôi nghĩ ông là người Quảng Nam, Quảng Ngãi nhưng sau này xem tiểu sử ông mới biết ông là người Nghệ An, đồng hương với bác.

Thấy ông, nghe danh ông, tôi cứ tưởng ông là vô sản chính tông như bao lãnh đạo đảng. Nhưng xem tiểu sử, mới biết ông cũng là một trí thức.

Ông đỗ trường Cao đẳng Sư Phạm Hà Nội. Trong Nam, tôi biết GS Nghiêm Toản, và GS Ngô Đốc Khánh cũng xuất thân trường Cao Đảng Sư Phạm. Lúc bấy giờ đỗ Cao đẳng là danh giá lắm, là đối tượng của nhiều tiểu thơ khuê các, vì tục ngữ thời đó có câu: " Phi cao đẳng bất thành phu phụ".Ông là giáo sư trường Petrus Ký, ôi thật là quý hiếm trong hàng ngũ vô sản mà lại có ông là một trí thức.



Giáo sư Phạm Thiều


Tôi khóa xe và bước vào thăm ông. Ông vui vẻ tiếp tôi. Tôi không còn nhớ tôi và ông trao đổi chuyện gì nhưng tôi còn nhớ ông bảo tôi: "Bác Hồ quý trọng hiền tài. Lênin nói con người là vốn quý. Nhưng tình trạng nước ta, ăn cháo ăn rau mà chưa đủ thì đâu cần đầu bếp Paris hay New York."

Ông nói như thế là ông hé lộ cho biết Cộng sản không xài trí thức, không có chỗ cho trí thức. Thật vậy, chiếm miền Nam thì họ đuổi dân đi kinh tế mới, đưa hàng triệu dân Bắc vào Nam chiếm nhà cửa, đất đai, hãng xưởng. Dân Nam phải đói, phải thất nghiệp. Chỉ những tên nịnh hót mới có cơm thừa canh cặn.

Tôi chào ông ra về và trong lòng tôi khen ông là người ngay thẳng, khác với những tên cộng sản miệng chính ủy, huyênh hoang tuyên truyền nói tốt cho chế độ.Sau này ra ngoại quốc, tôi cứ nghĩ rằng danh giá như Phạm Thiều tất cũng nhà cao cửa rộng như Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng.
Về cái chết của ông, Phong Lê miêu tả là "một cuộc ra đi không bình thường, mà lý do không mấy ai muốn dò hỏi".(5)
Tại sao Phong Lê không nói rõ lý do ông mất, và tại sao những đồng chí của ông nghe ông chết mà im lặng không muốn dò hỏi? Thế giới cộng sản thật bí mật!
Ông không được đảng dùng trong chính trường, ông chỉ được cho vào Viện Khoa Học Xã Hội như cho đồ cũ vào nhà kho đồng loại với Đào Duy Anh, Trương Tửu, Trần Văn Giàu, Trần Đức Thảo...

Ông sao mà công danh lận đận như Đặng Thai Mai, như Trần Huy Liệu. Có lẽ vì lưng ông thẳng, ông thiếu chất nịnh, ông mang chất cứng cõi, chính trực của dân Nghệ an, khác với ông Hồ Ly lưu manh đệ nhất. Bất chợt đọc Trần Độ có đoạn viết về Phạm Thiều như sau: Tôi được nghe một lão thành thuật lại Giáo sư Phạm Thiều trước khi tự vận có trối trăn lại một câu cho đời là: "những kẻ dốt hay làm dại, vì thế nên họ phải dối ". Ba "D" ấy đi liền với nhau: Dốt - Dại - Dối. TRẦN ĐỘ * MỘT CÁI NHÍN TRỞ LẠI

Ông đã già, gần 90, địa vị không cao, không thấp, có việc gì đau khổ mà phải quyên sinh? Chúng tôi là kẻ bại trận, phải ngậm đắng nuốt cay, GS  là kẻ chiến thắng, là bậc cố cựu lương thần, đệ nhất huân công sao lại khổ như thế? Chúng tôi thật sự không hiểu!
Tôi có bài thơ ai điếu ông.

TƯỞNG NIỆM GS. PHẠM THIỀU

Ngậm ngùi tưởng nhớ đến tiên sinh
Theo đảng từ ngày khởi chiến chinh.
Ra Bắc thanh danh rất rực rỡ,
Về Nam sự nghiệp cũng linh đình.
Khi ngàn đồng chí say mê lạc,
Sao một tôn ông hủy hoại mình?
Có phải giận quân "dốt, dại, dối",
Mà ông đoạn tuyệt đảng quang vinh?

Canada tháng 12, 2012, ngày giỗ Phạm Tiên sinh.

Bác sĩ Lê Ngươn Phiêu viết trong tập Hồi Ký "Gió Mùa Đông Bắc" cho biết Giáo sư Phạm Thiều, gốc Nghệ - Tĩnh vừa dạy chữ Nho, nhưng cũng lại dạy toán rất giỏi, là một nhân vật có phong cách nhà Nho, ăn mặc chững chạc, vào lớp lúc nào trước tiên cũng móc trong túi áo chiếc đồng hồ quả quýt, đặt lên góc bàn bên phải và xoay cho dây đeo cuốn tròn chung quanh tươm tất, xong mới bắt đầu dạy. Triệu đã gặp lại Thầy sau này trong thời gian kháng chiến. Lần đầu tiên gặp lại Thầy ở chiến khu Rừng Vĩnh Cửu, Biên Hòa, Triệu mới chợt nhận chân được cái vui tánh hồn nhiên của Thầy. Sau khi hỏi Triệu: “"Cậu đi đâu đây?"”. Thầy lại vui đùa nhại lời ca “"Nhớ chiến khu"” của Ðỗ Nhuận và hát: “ Chiều nay lên chiến khu đi gò mèo!”. Thầy đã một thời làm chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Sài Gòn-Chợ Lớn, Ủy viên Tuyên huấn Ủy ban Hành chánh Nam bộ với biệt hiệu Trường Phong và đã tập kết ra Bắc. Sau 1975, giáo sư được bầu dân biểu thành phố Sài Gòn, nhưng đã thất vọng vì lối cai trị và tham nhũng của cán bộ Cộng sản. Ông đã tự vận chết, sau khi gởi cho Ðại hội Ðảng Q3, Thành phố Hồ Chí Minh một tuyệt thư:

“Dốt mà lãnh đạo nên làm Dại.
Dại mà muốn thành tích nên báo cáo Dối
Dốt, Dại, Dối, đó là ba điều làm cho các nước Xã Hội Chủ Nghĩa sụp đổ, làm cho nước ta đi từ sai lầm này đến sai lầm khác”.(6).

Trong bài Nỗi lòng Huỳnh Tấn Phát, BS. Trần Nguơn Phiêu cho biết rõ hơn một vài chi tiết:

Phạm Thiều, một giáo sư khả kính, người gốc Nghệ Tỉnh, dạy chữ Nho và Toán tại Trường Trung học Pétrus Ký đã ra khu kháng chiến từ 9-1945, tập kết ra Bắc, trở về Nam sau 30-4-1975. Ông được bầu làm Đại biểu Thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn. Không hiểu có phải vì ông đã chán ngán cái cảnh thoái hóa, tham nhũng của cán bộ Cộng sản sau 1975 hay vì ông đã nhận thức được các sai trái của đường lối chủ nghĩa Cộng sản của Stalin khiến làm sụp đổ các nước Xã hội chủ nghĩa ở Trung Âu, nên ông đã ân hận và treo cổ tự tử! Trước khi tự kết liễu đời mình, ông đã nhờ Đại tá hồi hưu Xuân Diệu (không phải thi sĩ Xuân Diệu) nhắn giùm ông trước Đại hội Đảng Q3, Thành phố Hồ Chí Minh:
“Dốt mà lãnh đạo nên làm Dại, Dại mà muốn thành tích nên báo cáo Dối, Dốt, Dại, Dối,

Đó là ba điều làm cho các nước Xã hội Chủ nghĩa sụp đổ, làm cho nước ta đi từ sai lầm nầy đến sai lầm khác”(Trích thư của đảng viên kỳ cựu La Văn Lâm, tức cựu trùm Công an La Văn Liếm gởi Tổng Bí thư Đổ Mười ngày 30-4-1994).(7)


VI. TRẦN ĐỨC THẢO (1917- 1992)


Trần Đức Thảo là con một viên chức bưu điện, sinh ngày 26/9/1917, tại làng Thái Bình, quê quán tại làng Song Tháp, Châu Khê, Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông là học sinh xuất sắc của trường trung học Pháp Albert Sarraut (Hà Nội): giải nhì cuộc thi triết học các trường trung học toàn quốc Pháp, đỗ tú tài Pháp năm 1935.

Năm 1936, ông nhận học bổng của Phủ toàn quyền Đông Dương sang Paris, Pháp, và thi đậu vào trường École normale supérieure (Paris) năm 1939. Ông đậu thủ khoa đồng hạng bằng Thạc sĩ triết học, ngang điểm với Jules Vuillemin) tại Pháp lúc mới 26 tuổi (1942), thành người Việt Nam đầu tiên trúng tuyển kỳ thi thạc sĩ triết học.Trong khoảng 1944-1945, ông viết báo chống thực dân Pháp, ủng hộ Hồ Chí Minh và liên lạc với cộng sản Pháp. Trong bản "Tiểu sử tự thuật", ông Trần cho biết

Trong hành trình của tôi, tôi đã được đưa đến Chủ nghĩa Mác qua 2 con đường:
Thứ nhất, đó là cuộc đấu tranh đòi tự do cho dân tộc dẫn đến chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, việc nghiên cứu triết học và lịch sử triết học đã cho tôi thấy rằng chỉ có duy nhất Chủ nghĩa Mác-Lênin mới vạch ra con đường đúng đắn để giải quyết những vấn đề cơ bản về phần lý luận khoa học. ( http://www.viet-studies.info/TDThao/TranDucThao_TieuSuTuThuat.htm )

Trong tài liệu của ông và nhiều tài liệu khác, không ai cho biết ông có theo đảng Cộng sản Pháp hay không, còn Hà Nội coi ông như người ngoại đạo! Ông là số một về Marx mà Hà Nội không cho ông dạy về chủ nghĩa Marx. Ông chỉ được dạy những cái râu ria của triết học là Lịch sử triết học mà thôi!.

Tuổi trẻ Trần Đức Thảo tràn đầy tự hào. Ông tự hào về sự học giỏi và nổi tiếng của ông mà Paris chính là môi trường phát triển tài năng và sự tự hào của ông.

Nguồn gốc tự hào đã có tự thời Trung Học, ông theo ban Triết học ( sau này là ban C, Văn Chương Cổ điển) ông làm bài luận triết học mà ông còn nhớ rõ, đề thi là bình giải một câu của Léon Bourgeois: “Danh dự cũng có thể là một nền tảng của đạo đức” được Giáo sư Ner cho 16/20 điểm với lời phê “Có nhiều ý triết lý!” Bài của Thảo được đọc cho cả lớp nghe. Sự khen ngợi đó đã vĩnh viễn in sâu vào trí óc non nớt của Thảo. Chính GS Ner giới thiệu ông xin học bổng du học. ( Những Lời Trăn Trối. Ch.3)

Trường Cao đẳng Sư Phạm phố Ulm là môi trường phát triển khối tự hào vĩ đại trong lòng ông. Quả thật trường Cao Đẳng Sư Phạm phố Ulm được nổi tiếng vì nơi đây toàn sinh viên ưu tú! Ông tự hào về trường Cao Đẳng Sư Phạm của ông: "Nhưng khi sang tới Paris, tôi nhất định chọn học triết, mà phải là ban triết của trường Cao đẳng Sư phạm phố Ulm, là ngôi trường danh tiếng bậc nhất của nước Pháp. Tôi đã phải theo học hai lớp dự bị rất vất vả mới thi được vào trường ấy. Sự chọn lựa học triết lúc đó chỉ là do tính kiêu ngạo, bồng bột của tuổi trẻ, muốn được mọi người nể phục, muốn chứng tỏ mình là người có đủ sức mạnh trí óc để học triết.(Ch.3)
Ông không học đại học, chỉ là Cao đẳng, chưa là tiến sĩ, chỉ là thạc sĩ, cái bằng cấp để dạy trung học nhưng cái danh thơm triết gia về một vài tác phẩm triết học cũng đủ làm cho ông bay lên chín tầng mây.


Ở đời đa số tự hào, tự đắc. Không phải người tài cao học rộng, địa vị cao quý mới tự hào, tự tôn. Án tử làm Tể tướng nhưng luôn khiêm cung còn anh đánh xe cho Án Anh lại tự hào ta là người đánh xe cho tể tướng! Trên thế gian, người cộng sản tự hào , tự cao, tự đại nhất! Anh cần vụ, chú lính trơn, bà thư ký mà tự hào ngất trời là mình thuộc giaicấp vô sản, giai cấp lãnh đạo! Kim Nhật trong Về R cho biết bọn thuộc cấp khinh bỉ Trịnh Đình Thảo, Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát là giai cấp tư sản, không đáng cho họ bưng cơm rót nước.


Còn tôi, sau 1975, khi tôi vào thư viện Quốc gia đường Gia Long xin đọc Lương Khê Thi Thảo của Phan Thanh Giản thì bị từ chối. Tôi xin gặp giám đốc Thanh Nghị nhưng bà thư ký người Bắc Kỳ 75 ở bàn ngoài cho tôi nghe một bài "tụng mất gà" về Thanh Nghị, coi như Thanh Nghị là kẻ thù truyền kiếp của bà, một kẻ vô cùng đáng khinh bỉ dưới hàng trâu chó! Có lẽ chị ta bực tức vì chị là giai cấp vô sản lãnh đạo  mà phải ở dưới trướng của một tên tư sản!


Cao hơn nữa, Engels, Lenin tự hào về Duy vật lịch sử của Marx!Tại Việt Nam, trước 1945, Trương Tửu, một trí thức có bằng tiểu học tự học đã tự hào về Duy vật sử quan! Sau 1954, Lê Duẩn tự hào giỏi hơn Hồ Chí Minh, khinh miệt Võ Nguyên Giáp hèn nhát, sợ Mỹ, chỉ biết sờ mu rùa nên chuyển ngành cho ông sang làm xếp xòng bên khoa học thuộc bộ phận công nghệ Từ Dũ. Còn Trần Văn Trà trong Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm (gồm nhiều tập) thì khinh Lê Duẩn ,Lê Đức Thọ hèn nhát, kém cỏi, chiến tháng 1975 là hoàn toàn là công lao của ông. Họ tự hào lắm. Cho dân Nam ta là đĩ điếm, trộm cắp, lưu manh, các bác sĩ kỹ sư, giáo sư là ngu dốt cho nên họ xếp tiến sĩ trời Âu chỉ bằng sinh viên tốt nghiệp đại học của XHCN! Cho nên hồi đó tôi có câu thơ nhại Nguyễn Khuyến:


"Tiến sĩ còn chẳng ra gì,
Cử nhân, Cao học khác chi thằng hề!"

Họ khinh dân miền Nam ta ngu lắm, không biết triết lý Mac Lê, không hy sinh chiến đấu chống Mỹ. Các giáo viên Văn, Sử lại càng kém cỏi vì giảng dạy theo kiểu tư sản, không biết cách ca tụng đảng, bác, không biết biến bài văn, sử thành bài giảng chính trị, không rành nghề ca tụng cộng sản mọi thứ dù nó ác và giả dối!

Các bác sĩ, kỹ sư chỉ biết chuyên môn, không biết tí gì về các bậc thánh cộng sản, không thấy cái hào quang của Lenin, Stalin, Mao, Hồ đã sát hại hàng trăm triệu sinh linh!

Họ tự cao lắm cho nên Lê Duẩn tự hào Việt Nam đánh thắng bốn cường quốc là Nhật, Pháp, Mỹ và Trung Cộng! Ông còn tự hào quân đội Việt Nam bách chiến bách thắng, là lính đánh thuê cho Liên Xô và Trung Cộng! Lê Duẩn còn đòi Mỹ phải trả 3tỷ 7 mỹ kim mới chịu bang giao.! Họ vui cười với Phạm Duy, Nguyễn Cao Kỳ, và các thượng tọa, hòa thượng, linh mục, giám mục lưu manh nhưng trong bụng họ vô cùng khinh bỉ bọn bất nhân bất nghĩa và hèn hạ!


Trần Đức Thảo cũng có cái tự cao, tự đại đó, cái tự hào đã nắm hết chủ nghĩa Marx, nghĩa là sẽ làm cho thế giới đi đến đại đồng, xóa sạch bất công, chấm dứt bóc lột và chiến tranh! Ông tin ở Pháp ông đã học hết tài nghệ của Marx, ông sẽ xuống núi phất cao cờ hồng đại thắng!


Ông nghĩ rằng ông phải về Việt Nam để thực hành chủ nghĩa Marx. Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam làm sai vì họ không đọc Marx, không hiểu Marx, còn ông đọc Marx cả triệu lần, đã thuộc lòng Marx từng câu, từng chữ. Khi đã hiểu đúng tất làm đúng! Ông thấy người ta nói Lenin, Stalin, Mao làm sai, ông phải trở về để "trải nghiệm".


Tôi nghĩ rẳng ông ngụy biện, đề cao cái can đảm của ông  để che đậy cái ngu của ông. Trong phòng thí nghiệm, chúng ta có quyền thử nhiều lần. Nhưng trong chính trị,quân sự, kinh tế, chúng ta e không có quyền thí nghiệm. Muốn thí nghiệm phải dùng chuột bạch. Không ai đưa tay mình ra để trải nghiệm với thanh kiếm mới đúc! Không ai đứng ra giữa đường chận xe ô tô để trải nghiệm thân thể mình với xe ô tô cái nào cứng hơn! Trí tuệ là đủ. Nhiều bộ môn không thuộc khoa học thực nghiệm. Môn toán học đâu cần trải nghiệm! Lão tử nói: Bất xuất hộ, tri thiên hạ. Bất khuy dũ kiến thiên đạo
( Chẳng ra khỏi cửa mà biết thiên hạ. Chẳng dòm qua cửa sổ, mà biết đạo Trời" 不 出 戶, 知 天 下. 不 闚 牖, 見 天 道.Đạo Đức kinh.ch.47 ).Triết gia mà nói trải nghiệm thì thật là tài! Nói câu này nếu không ngụy biện thì cũng tỏ ra kiêu căng.


Ông không tin những kết quả xấu về việc xây dựng cộng sản chủ nghĩa ở Liên Xô, Trung Cộng. Ông cho rằng người ta có ác ý xuyên tạc. Như nhiều người theo cộng sản cho rằng họ đã đọc Aleksandr Solzhenitsyn và quần đảo Gulak nhưng họ không tin. Cũng như đồng bào miền Nam thấy dân di cư vào Saigon đã nói: "Ngòai Bắc tự do còn vào đây làm gì? Và khi nghe việc đấu tố chém giết, họ bảo bọn di cư ăn tiền Mỹ nói vu cho cách mạng. Người ta cả đời đi làm cách mạng để chém giết và bỏ tù nhân dân sao? ( Võ Kỳ Điền- Kẻ Đưa Đường). Tại Pháp cũng vậy, sau 1975, dân Việt Nam chạy qua Pháp, Việt kiều bên đó nói" Việt Nam độc lập, hòa bình còn chạy qua chi đây?" Một bà trung tá cảnh sát miền Nam, nghe nói ngoài bắc xếp hàng mua rau muống. Bà cười ngất mà nói rằng làm sao có chuyện đó. Đây rau muống cả đống, cần gì phải xếp hàng! Bọn di cư nói láo! Trần Đức Thảo cũng cho rằng tất cả là do bọn tay sai Mỹ, bọn phản động "nói xấu đảng ta". Ông phải về để "trải nghiệm". Người ta dùng chuột bạch để trải nghiệm, ông dùng thân ông để trải nghiệm, vô rồi khó rút ra, về Việt Nam là đã trở thành cá chậu chim lồng còn than thở với ai!

Ông đã hơn 20 lần nhắc đi nhắc lại từ "trải nghiệm".

Điều quan trọng là sự trở về xứ sở đã giúp tôi trải nghiệm một thực tại...(Ch2). Sống và tư duy như thế là biết trải nghiệm… Trải nghiệm là biết quan sát cái đang biến hoá, cái đang trở thành cái đã cũ, xuất phát từ những di sản mang tính cổ hủ của dĩ vãng…(Ch.4).


Nói "trải nghiệm" là nói không thật. Sự thực ông về Việt Nam là do tham sân si và vụng tính. Chính ông thú nhận:" Hồi ấy, tôi đã trở về xứ sở với một đầu óc hăng hái, đầy lạc quan tin tưởng của tuổi trẻ. Cứ nghĩ thể nào cụ Hồ cũng phải ngạc nhiên về những hiểu biết của tôi. Bởi tôi đã có những nghiên cứu sâu rộng về cuộc cách mạng tháng mười ở Nga, mặt khác, tới đã có một vốn hiểu biết vững chắc về tư tưởng của Karl Marx. Với lòng hiếu thắng bồng bột, ngông cuồng đến mức cuồng tín, tôi tin rằng với những nghiên cứu và kiến thức mà tôi đã đạt được, tôi tự thấy mình như là hiện thân của ý thức hệ mác-xít, để có thể trở về làm nhiệm vụ như một trong những lý thuyết gia bên cạnh ông cụ. Để tôi góp sức xây dựng ở quê hương một mô hình cách mạng mà loài người mong đợi!

(Ch.II)

Ông không hiểu tâm lý người đời. Ông Hồ học chưa xong tiểu học làm sao có thể dùng một trí thức nổi danh như ông. Ông nổi danh là một triết gia Marxist sắc sảo, tài ba, lại là " đại biểu Việt kiều", còn ông Hồ lúc đó vô danh, ông Hồ rước ông về cho ông ngồi trên đầu ông ta ư? Khoảng 1930, ông Hồ khốn đốn vì bọn Trần Phú, Hà Huy Tập, Nguyễn văn Cừ tố cáo ông mang đầu óc dân tộc và bắt tay với thực dân Pháp bán các đồng chí cộng sản. Ông bị Stalin triệu về giam cầm điều tra... Sau đó ông là Hồ Tập Chương đóng vai Hồ Chí Minh, ông lại càng kị bọn xoi mói lai lịch và hành tung của ông. Trần Đức Thảo nhảy về Việt Nam là một hành động khờ dại và nguy hiểm.

Khờ dại vì ở đời người ta mời ăn cỗ thì mình mới xách ô đến, không mời mà vác mặt đến thì người ta đuổi ra tổ cho xấu hổ cái mặt lỳ! Cô gái nào cũng nên làm cao một chút, đừng quá dễ dãi. Dễ dãi là mất giá ngay. Ông Hồ không mời mà ông Trần chạy đến bắt tay làm quen, rồi lại ăn nói ngông nghênh:"
Tôi nhớ rất rõ hôm ấy là ngày mùng 5 tháng sáu, năm 1946. Lúc đó, trùng buổi chiêu đãi “phái bộ cụ Hồ” vừa tới Paris để lo việc điều đình với Pháp, vì sự bồng bột của tuổi trẻ, nên tôi hồn nhiên vui mừng, thân mật, vồn vã chạy tới nắm chặt tay “ông cụ” một cách nồng nhiệt và nói: “Tôi rất hân hạnh được gặp cụ chủ tịch!” Cụ Hồ cũng vui vẻ đáp: “Chào chủ Thảo!” Nghe vậy, tôi rất cảm động, nghĩ rằng Hồ chủ tịch đã thân mật coi mình như đứa em trong gia đình…

Cuối bữa ăn, Hồ chủ tịch kêu gọi anh em Việt kiều về nước tham gia kháng chiến, thì tôi hăng hái, xin được trở về ngay để được phục vụ cách mạng và quê hương.> Tôi còn tỏ ra là mình hơn hẳn các anh em Việt kiều khác khi khoe rằng “tôi cũng đã bỏ công nghiên cứu về tư tưởng Karl Marx và về cuộc Cách mạng tháng Mười ở Nga… Tôi rất mong ước được về nước cùng cụ xây dụng thành công một mô hình cách mạng tốt đẹp… tại quê hương ta”! Ông cụ lúc ấy chỉ mỉm cười nhạt, nhưng nét mặt thì vẫn lạnh lùng khi nhìn tôi. Tới lúc Hồ chủ tịch lần lượt bắt tay từ biệt mọi người. Khi bắt tay tôi thì “ông cụ” nói với tôi một cách nghiêm nghị:

- Còn chú Thảo này thì cách mạng chưa cần tới chú lúc này đâu. Chú cứ ở lại Paris thì có lợi cho cách mạng và cho chú hơn. (Ch.12)

Trần Đức Thảo học giỏi nhưng kém thông minh  nhưng dưới con mắt côộng sản ông là người ngu và láo xược. Ông là cái thá gì mà đòi bắt tay với bác vĩ đại? Ông Hồ cười nhạt nghĩa là ông khinh bỉ và chửi vào mặt ông Thảo:" Cút đi!Tao không cần mày", thế mà ông Thảo không hiểu, vẫn cố đấm ăn xôi! Khổng Minh phải đợi tam cố thảo lư mới theo Lưu Bị, ông Thảo chẳng ai cầu mà ngữa tay xin việc mà chẳng nên cơm cháo gì! Trong khi đó, ông Hồ mời bốn khoa học gia về nước.
Người thường dân trung bình nghe ông chủ nói như vậy là tự động rút lui vì họ  hiểu biết tâm lý con người và biết tự trọng. Còn ông, trí thúc bậc cao sao chậm hiểu thế? Đừng cho ta học giỏi, đậu cao mà khinh người vì trí thức nhiều khi chỉ là anh Mán trong rừng mới ra, thua xa người bình dân khôn ngoan, nhiều mưu mẹo!


Tri Vũ thuật lời Trần Đức Thảo:
Bác Thảo cho biết bốn Việt kiều cùng về với Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay chuyến ấy là ba kỹ sư: Phạm Quang Lễ, Võ Quý Huân, Võ Đình Quỳnh, và bác sĩ Trần Hữu Tước. Phạm Quang Lễ là kỹ sư cơ khí hàng không, nhưng có nhiều kiến thức về vũ khí nên đã được tin dùng đặc biệt. Và đã được “cụ Hồ” đặt cho một tên mới là Trần Đại Nghĩa, rồi sau được phong quân hàm thiếu tướng, trông nom quân xưởng đầu tiên của chiến khu, rồi sau được ca ngợi như là người đã sáng chế ra loại súng chống tăng, mang tên SKZ (Súng Không Zật). Nhưng bác Thảo cũng chế giễu khéo:

- Thứ súng ấy sau chỉ thấy trong ảnh, chứ không thường thấy trên các trận địa. Vinh quang là như thế. Sự thật là như thế (Ch.12)


Ông Hồ mời các ông này dù là trí thức nhưng cũng thuộc loại trí ngủ, chẳng biết gì về chính trị, đem về làm tay sai thì được. Hơn nữa cũng cần khoa học gia, còn cái thứ triết gia ưa lý luận ngốc nghếch, không xài được. Việc này làm cho ông Trần nổi tự ái.Ông càng tức giận cố vật vã mà về cho được! Sao ông háo thắng kiêu căng và khờ dại như thế! Như vậy là ông Hồ " kị" ông rồi. Nếu lúc đó ông Trần nói


" Trăm ngàn lạy cụ, xin cụ cho con về xách dép cho cụ" may ra ông Hồ chấp thuận. Thế nhưng ông lại đòi về lãnh đạo chung với ông Hồ! Tôi nghĩ rằng nghe nói vậy, trong bụng ông Hồ giận lắm. Ông chửi thầm:" Thằng nhóc! Mày là cái thá gì mà đòi làm vua với tao! Ăn mày mà đòi ăn xôi gấc!" Ông Hồ có chân tay tại Pháp, họ đã báo cáo cho ông đầy đủ về Trần Đức Thảo. Hạng người như ông Trần, ông Hồ không thể xài và cho ở gần. Thế mà ông Trần lại chạy chọt cho được về Việt Nam. Quả là lì lợm, đáng ghét, đáng tởm!

Ông Thảo nói ra sự thật về ông: Sự thật là việc tôi về là do sự vận động của tôi với sự trợ giúp của đảng cộng sản Pháp. Và qua đảng cộng sản Pháp thì có cả sự giúp đỡ của phía lãnh đạo Liên Xô nữa. Bởi lúc ấy, cả đảng cộng sản Pháp, cũng như phía Liên Xô, đều muốn đưa tôi về với hi vọng có thể có cơ hội góp ý với cách mạng Việt Nam.(Ch.12)


Hành động này làm cho ông Hồ ghét ông và nghi ngờ ông là tay sai của cộng sản Pháp và cộng sản Liên Xô đặt ông bên cạnh ông Hồ để theo dõi, báo cáo và có thể chuẩn bị thay thế ông! Ai cũng thấy thế huống hồ ông Hồ và bọn Trường Chinh. Nếu ông Thảo lên lãnh đạo thì bọn họ phải cuốn gói. "Tôi đã kể lại lần gặp gỡ này cho một người bạn mới quen ở ATK, tên là Đa, một trí thức có vẻ cởi mở hiếm thấy. Nghe kể xong, Đa lè lưỡi, lắc đầu, khoát tay tỏ vè lo sợ đến lớn tiếng:


- Thế thì chết! Chết thật đấy! Tôi không doạ anh đâu. Anh khôn hồn thì tìm cách lặn cho sâu, tránh cho xa lãnh tụ đi! Không nên nán lại ở ATK này nữa. Phải xin đổi công tác đi. Nói câu ấy ra là “Người” đã khai trừ anh rồi đấy. Tỏ thái độ ngang hàng như thế là anh đã tự tuyên án tử hình cho chính mình rồi đấy!(Ch.12)

Sau này Trần Đức Thảo mới thấy mình ngu' . Ông tâm sự:"


Nay nghĩ lại lúc gặp “Người” lần đầu tiên, mà tôi thấy lúc ấy mình ngốc quá. Bạch diện thư sinh mà dám tỏ ra là tay ngang với lãnh tụ! Vì trong đầu “ông cụ” đầy ắp cuồng vọng quyền lực tối cao. Anh phải biết là cho tới nay, những ai đã từng coi thường “Người”, từng tỏ ra ngang hàng với “Người”, thì sau đều đã vinh viễn bị loại trừ ra khỏi tầm mắt của “Người”. Không ít người đã mất mạng, mất cả xác vì dám có ứng xử tay ngang như thế đấy.
- Tôi không hiểu nổi tại sao lại có thể tàn nhẫn khủng khiếp đến thế?
- Vì vậy mà phải biết giải mã lãnh tụ. Phải hiểu rằng “ông cụ” có tâm thức mình là bên trên tất cả, là một bậc kỳ lão gia trưởng, luôn luôn toả sùng bái một thứ hào quang thần thoại đúng với truyền thuyết lịch sử “con rồng, cháu tiên”… Và đám quần thần chung quanh “ông cụ” không tha thứ cho một ai dám tỏ mình là ngạng hàng với “Người”. Từ những tay trí thức nổi tiếng tâm huyết như Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm… cho tới kẻ được đào tạo chính quy như Trần Văn Giàu, và biết bao nhiêu trí thức có uy tín khác nữa… đều là những nạn nhân của thái độ ngang hàng như thế (Ch.12).

Ông biết thân ông đã lọt hang hùm, ổ rắn khi vừa về Việt Bắc.

Bởi ngay từ khi vừa đặt chân trở lại quê hương, tôi đã bị nghi ngờ là một “kẻ có vấn đề”(Ch11). Cho tới khi bị coi như là một kẻ phản động, bị nghi là “kẻ do địch cài vào hàng ngũ cách mạng” thì từ đó tôi mới nhận ra sự bế tắc ấy là do ý thức, do thái độ cảnh giác, do chính sách thù hận mù quáng của quyền lực chuyên chính.(Ch.12).


Ông cho rằng ông là Marxist chân chính thì làm đúng còn bọn kia chẳng hiểu gì Marx nên làm sai.
Tôi tin rằng với những nghiên cứu và kiến thức mà tôi đã đạt được, tôi tự thấy mình như là hiện thân của ý thức hệ mác-xít, để có thể trở về làm nhiệm vụ như một trong những lý thuyết gia bên cạnh ông cụ. Để tôi góp sức xây dựng ở quê hương một mô hình cách mạng mà loài người mong đợi!.. để nghiên cứu thực tại, với hoài bão đóng góp xây dựng ở nước ta một mô hình cách mạng trong sáng, mà chẳng những dân ta mà là cả nhân loại mong đợi...để hoàn thành sứ mệnh cao cả của cách mạng, là giải phóng con người (Ch.2)


Ông lớn lối quá, kiêu ngạo quá, chính người cộng sản và dân chúng cũng ghét ông. Ta hãy nghe những đoạn đối thoại giữa cha con ông:

"Mày nói thế là mày là người cộng sản thật à?
- Vâng chính vì con là người có lý tưởng cộng sản nên con mới về với cách mạng! Nhưng có nhiều thứ cộng sản: thứ cộng sản của con là muốn thực hiện một cuộc cách mạng công bằng bằng luật pháp, bằng lý tưởng, không gây thù gây oán, một cuộc cách mạng nhân đạo, sạch sẽ, mà toàn thể nhân loại mơ ước! Các bạn trí thức tiến bộ của con ở Pháp đã thúc giục con phải trở về tìm cách góp ý, góp sức, để thực hiện ở Việt Nam ta một thứ cộng sản tiến bộ khác, tốt hơn, sạch hon so với những gì đã thấy trong cách mạng ở Nga, ở Tàu. Cũng như con, họ muốn thấy xây dựng ở nước ta một mẫu mực cộng sản không tận dụng bạo lực và hận thù, mà bằng một sự kết hợp luật lệ nhân đạo tiến bộ, với một nền giáo dục theo đúng lý tưởng công bằng xã hội… chứ không phải lấy cái bất công mới thay thể cho cái bất công cũ, cái tàn bạo mới thay cho tàn bạo cũ…


- Mày bênh vực cho thứ cách mạng của mày, nhưng cái thứ cách mạng đang diễn ra ở đây thì sao? Nó không phải là thứ cách mạng của mày mà mày về hợp tác với nó à?


- Con về hợp tác với thứ cách mạng này là với hoài bão sẽ có ngày thay đổi, cải thiện được nó, sẽ có ngày tìm ra cách uốn nắn lại được nó, để nó trở thành thứ cách mạng của con, tức là thứ cách mạng mà mọi người mong đợi!

- Máy giỏi thế cơ à? Một mình mày, mà sẽ có ngày thay đổi được cả một bộ máy, cả một hệ thống quốc tế cộng sản, cả một ý thức hệ cộng sản cơ à?

- Cái gì cũng có thể thay đổi, và nó sẽ phải thay đổi, vì nó chưa hoàn chính. Khi mà, với thời gian, nó đã tỏ ra có sai trái, bất lực, không tiến bộ, không thật sự giải phóng còn người, và bị mọi người oán ghét, thì lúc đó không cần phải có một đoàn quân hùng mạnh để thay đổi nó. Chi cần một người lãnh đạo, một tư tưởng trong sáng, dũng cám nói lên chân lý, y như mặt trời mọc lên… để mang ánh sáng tới dẹp tan bóng tối, để ánh sáng soi lối cho thấy con đường tốt đẹp mà đi… để tránh cái sai, cái ác, để sụ sống sinh sôi, nảy nở, trong hoà bình, ấm no, tự do, hạnh phúc!

- Nghe mày nói tao thấy mày khừng, mày điên rồi! Rõ ràng là mày học nhiều quá nên trở đã thành kẻ không tưởng, kẻ sống trong mộng ảo! Mày tưởng một mình mày về đây là sẽ cải đổi, cải thiện được cái thứ cách mạng tàn nhẫn này, cái thứ cộng sản thô lỗ, trói buộc con người như thế này à? Tao nói thật cho mày biết sự thất vọng của tao khi tao nghe tin mày đã về với cách mạng, với cộng sản! Về như vậy là mày tự giết mày rồi! Mà cũng là giết cả mẹ mày và tao nữa! Thảo ơi! Phải chi mà mày học được cái nghề gì như thợ nề, thợ máy, thợ mộc gì… thì đỡ khổ cho tao biết mấy! Phải chi mày cứ ở bên Pháp làm việc, mỗi tháng gửi về cho tao vài chục đồng Francs thì cũng đủ cho tao vui sống cảnh già! Mày nói mấy cái thằng bạn tiến bộ của mày ở bên ấy hối thúc mày về trong khi đất nước này đang khổ sở vì chiến tranh, vì cộng sản, thì mấy cái thằng ấy cũng chỉ là một lũ điên thôi! Chúng nó đã xúi mày đi vào chỗ chết. Có là điên mới nghe theo chúng nó! Mày về đây là mày giết mày, mày giết cả tao đấy Thảo ơi là Thảo ơi! (Ch.8)


Trần Đức Thảo là người ôm mộng lớn, thế mà ông đã dùng nhiều lần chữ "trải nghiệm". Điều này cho biết khi về Việt Nam, ông đã gặp nhiều thực trạng đắng cay.Trước khi về Việt Nam, ông phải đến Trung Quốc, rồi về An Toàn khu ( Việt Bắc), nơi đây ông đã trải nghiệm nhiều điều!


Thực tại thứ nhất là tại Trung Quốc, Việt Cộng bắt ông khai lý lịch, bắt ông tố cáo cha mẹ, ông bà của ông. Về Việt Bắc, ông trải nghiệm CCRĐ. Ông viết về tâm trạng của ông trong CCRĐ tại huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang:
Từ giờ phút ấy, Thảo ý thức rất rõ rằng, lúc này, ở nơi đây, mình sẽ không có một cơ hội nào để góp một chút gì tốt đẹp cho cách mạng! Có thể nào cản ngăn được thứ bạo lực thô bạo này, khi nó đang trong đà phát động với tất cả hăng say, cuồng nộ, cuồng tín như thế? Vậy thì những ngày còn lại của đời ta sẽ có thể làm gì ở đây? Cứ im lặng chịu đựng để được sống ngày nào hay ngày ấy? Để cái ác cứ tiếp tục phát triển như nó vẫn được khai triển trong suốt chiều dài lịch sử? Thế thì cái triết học của ta còn ý nghĩa gì khi chấp nhận khoanh tay đứng nhìn cái ác hoành hành? “Chính nghĩa vô sản”, “Hạnh phúc công nông trong một thế giới đại đồng” là như thế này sao? Dù thế nào cũng phải làm một cái gì chứ? Nhưng làm gì bây giờ? Làm gì? Mà từ bao giờ, từ đâu, do đâu, những người lãnh đạo đã thề một lòng vì nước vì dân nay lại chọn lựa con đường hành động nặng tính cuồng tín, dã man, tàn bạo, phản nhân đạo như vậy? Có thể nào coi đấy là hành động, là chính sách vì con người? Một ý thức hệ không bào vệ được người vô tội thì có còn lý do để tồn tại hay không? (Ch.6)


Đây là lúc ông Trần giác ngộ đồng thời ngã xuống hố sâu tuyệt vọng. Người ta cho ông ngồi vì. Ông nhận thức ông là con bù nhìn giữa ruộng dưa!

Thời gian sống ở ATK, tôi bị sai khiến làm mấy việc vơ vẩn như ngồi dịch những tài liệu cũ kỹ, mà rồi sau chẳng dùng được vào việc gì! Hoặc là theo chân mấy phái đoàn Trung ương đi thanh tra này nọ với vai trò của một cây cảnh: đi tới đâu cũng được giới thiệu là trí thức ở bên Tây mới về tham gia cách mạng! Rồi được vỗ tay, hoan hô. Chứ chẳng làm được một việc gì hữu ích cả! ...

Ngay cả khi người ta bảo tôi lãnh trách nhiệm phó giám đốc trường Đại học Văn khoa Sư phạm, sau khi kháng chiến về tiếp thu Hà Nội, thì tôi cũng chưa hề được tham dự bàn bạc gì vào công việc tổ chức hay điều khiển bất cứ một công tác gì của trường ấy, ngay cả đến tham khảo ý kiến giảng dạy cũng chưa hề có. Sự có mặt của tôi trong một số sinh hoạt của chế độ cũng chỉ là thứ “bù nhìn đứng giữa ruộng dưa”, cũng y như sự có mặt của mấy cựu quan lại hay của hai đảng Dân chủ và Xã hội do cụ Hồ bày đặt ra cho lấy có, để bên ngoài nhìn vào, tưởng là chế độ có nền tảng đoàn kết quốc gia và dân chủ rộng rãi!(Ch.4)

Ông Hồ bảo ông "phải học tập nhân dân" nghĩa là ông ngu đốt, đừng tưởng vớ được cái bằng cấp của tu bản mà cho là giỏi. Cái giỏi đó là lý thuyết suông. Chúng tao mới là Marxit chánh tông, học từ thánh địa Mạc Tư Khoa, trưởng thành trong chiến đấu, mày đừng coi ngang hàng với bọn tao"!

Ông Hồ bắt ông đi chăn trâu ở Thái Nguyên. Họ xui vợ ông bỏ ông. Đó là những đòn thù của cộng sản. Cộng sản chơi nhiều kiểu. Lý Chánh Trung về sau ở trong nhà it ra đường nên họ cán  con trai ông thay ông! Vinh quang hay tủi nhục cho những Judas thời đại? Nào Linh-Mục Phan Khắc Từ, Linh-Mục Nguyễn Viết Khai, Linh-Mục Trương Bá Cần,Tổng-Giám-Mục Sài-Gòn Nguyễn Văn Bình,Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Trần Hữu Thanh, Nguyễn Thị Thanh, Thanh Lãng..không kể xiết!

(Lê Xuân Nhuận. Phong-Trào Chống Tham-Nhũng - Tóm lược“Biến-Loạn Miền Trung” - http://sachhiem.net/LICHSU/LEXNHUAN/LeXNhuan11.php)


Sau 1975, nhiều vi chăn chiên bị tù, bị giết, trong đó những linh mục kêu gọi chống Thiệu tham nhũng, hô hào bắt tay với miền Bắc, công lao là thế mà đã bị trả ơn bằng tù đày và cái chết bi thảm.

Bị xử bắn có linh mục Trần Học Hiệu, linh mục Nguyễn Hữu Nghị, linh mục Hoàng Quỳnh, linh mục Nguyễn Quang Minh . . Bị đánh chết trong tù có linh mục Nguyễn Văn Vàng, Dòng Chúa Cứu Thế, linh mục Nguyễn văn Ban, Dòng Đa Minh, linh mục Trần Công Chức, linh mục Vũ Khánh Tường, linh mục Đinh Bình Định v.v. Và còn nhiều linh mục khác thuộc khắp các giáo phận, các dòng tu. Máu của các ngài cũng sẽ là hạt giống làm đẹp vườn nho của Chúa. ( Hà Phượng Tân.Linh Mục Bị Tù Đầy.

http://www.luongtamconggiao.com/pages/tp.asp?topicID=3457&categoryID=2&subcateID=7 )


Ở Pháp ông nổi danh. Về Việt Nam, ông cũng chỉ là con  phượng giữa đàn gà! .Ông viết bài đăng báo hay giảng dạy cũng giống như  các giáo sư cộng sản i tờ khác.  Bài nào cũng là phong kiến lạc hậu, tư bản bóc lột. Dù bị chà đạp, khinh miệt, Trần Đức Thảo vẫn cố làm thân và nịnh hót nhưng vô ich:


Mặc dù tôi đã thường xuyên, cố gắng tìm cách bắc cầu quan hệ với các cấp lãnh đạo, bằng cách gửi trực tiếp những báo cáo, đề nghị, viết những bức thư góp ý của tôi về nhiều vấn đề quan trọng, vào nhiều thời điểm quan trọng. Nhưng không một lần nào, không một lãnh đạo nào, từ Hồ chủ tịch trở xuống, đã thân chinh trả lời các bức thư của tôi.(Ch.11)


Nhưng rồi thực tại tàn nhẫn và những giao động mất lý tưởng của những người quanh tôi, tất cả đã hằng ngày như chất vấn tôi, khiến tôi phải từng bước đặt lại vấn đề, hằng ngày tìm cách giải đáp cho những chất vấn ấy. Những cái đó đã làm cho đầu óc dần dần sáng hơn, dần dần chuyển biến, dần dần thức tỉnh.
Nhưng không ngờ, với thời gian, tôi dần dần nhận ra là lãnh đạo và mình, cả hai đều lao mình vào cùng một cuộc cách mạng, nhưng với hai quan niệm khác nhau, với hai tâm thức khác nhau, đến độ đối nghịch nhau, xung đột nhau (Ch.2)


Nhưng khốn khổ cho tôi là khi về tới quê hương, thì tôi đã va chạm vào một thực tại hoàn toàn đóng kín, nó đã làm tôi bị vỡ mặt và vỡ mộng. Thời gian ấy, tôi đã phải trải qua những giờ phút chao đảo lập trường. Đấy là giai đoạt tuyệt vọng nhất của đời tôi (ch.2)


Kinh qua công việc mà người ta giao cho ông và thái độ của bọn đầu nậu đối với ông, nhất là những hé lộ bí mật của những con người nhân đức, ông Thảo đã hiểu rõ thân phận ông, thân phận kẻ bị xếp loại là " có vấn đề". Ông Đa, ông Trần Lâm và Giáo sư Đặng Thai Mai là những kẻ báo động cho ông về sự nguy hiểm đang đến bên ông.

Giáo sư Đặng Thai Mai chỉ cho ông biết một phần sự thực. Ông nói về việc đảng toàn quyền quyết định mọi sự. Những ai không ở trong ban lãnh đạo nhà trường và không phải là đảng viên thì chỉ có việc dạy và chấm điểm thế là đủ, còn ai đỗ, ai rớt, chương trình thế nào là do Cộng đảng quyết định.


GS Đặng Thai Mai giải thích việc ông Trần được cộng đảng phân phối dạy các triết gia trước Marx mà không cho dạy Marx là vì ông không chuyên Lenin, Stalin (Ch.8). Sai. Bởi vì trong Cộng đảng chẳng ai biết gì về trước Marx hay sau Marx mà vẫn dạy triết học Marx như thường. Đặng Thai Mai không nói thẳng cho ông Trần biết là cộng đảng khinh khi ông chẳng biết gì về Marx. Cái học của ông Trần chỉ là sách vở, còn các ông cộng sản i tờ nhưng đã học Marx và thực hành chủ nghĩa Marx trong chiến đấu và thực tế. Qua tường thuật của Tri Vũ, ta thấy ông Trần khinh khi Đặng Thai Mai là hèn, nhưng tiếng cười của Đặng Thai Mai là tiếng cười của một triết gia, một ẩn sĩ đã hiểu rõ lưỡi mềm thì còn!Tiếng cười của ông cũng là chế nhạo cái ngây thơ, kiêu căng, cái cuồng phẫn của con cà cuống chết đến đít vẫn còn cay! Cái cười mỉm và cái nhìn của Đặng Thai Mai hàm ý: " Mày đừng khinh bọn tao luồn trôn! Ngựa non háu đá, coi chừng bị cọp nhai xương con ạ!"

Trong Trại Kiên Giam, Nguyễn Chí Thiệp cho ta nghe một câu chuyện giữa hai chú cháu:

Chú hỏi tôi: “Cháu có tưởng tượng một người lao công quyết định giáo án của giáo sư đại học không?”

Tôi lắc đầu không biết.

Chú nói: “Tụi nó (Đảng Cộng Sản) ngồi xổm trên đại học. Vấn đề là mỗi năm giáo chức phải soạn giáo án rồi trình cho Đảng Ủy duyệt xét. Khi duyệt xét giáo án, nếu người giáo viên không có đảng tịch thì phải đứng ngoài. Trong khi Đảng Ủy gồm nhiều thành phần đảng viên trong đại học, trong đó có cả những người lao công quét dọn và những chị bán căng-tin. Chương trình học kém chất lượng, học sinh được tuyển lựa trên lý lịch nhiều hơn trên trình độ học vấn. Do đó “Cái bằng cấp đại học không còn có giá trị”.(Ch.2)



Có lẽ ông Trần đã nghe người cộng sản nói rằng sau 1975, các ông cộng sản dù là i tờ cũng đã tốt nghiệp đại học thắng Mỹ! Với các ông Việt Cộng, trí thức như ông Trần là cục phân chứ không phải cục vàng. Ông Hồ đã nói bóng, nói gió cho ông Trần hay rằng mày đừng tự hào mày là triết gia chuyên trị Marx:" “Gắng mà học tập nhân dân!”. Phải mở mắt, mở tai ra mà “học tập nhân dân!”. Đấy không phải là một lời khuyên, đây là một lời xỉ vả kẻ ngu xuẩn cứ tưởng mình đã đọc nhiều sách vở bên Tây là hay, là giỏi! (Ch.4,12).

Họa sĩ Hiếu Đệ cũng là một tay triết lý cừ khôi. Ông mượn lời Tám Sạc Ne đưa ra thuyết "vị trí" rất hay:

" Sau đêm văn nghệ, Tám Sạc Ne lại đến. Như một triết gia, ông phân tích cho bọn tù nghe: Vì các anh không biết vị trí của mình. Làm việc gì cũng phải nhớ vị trí các anh đứng chỗ nào cái đã. Ví như anh Hiếu Đệ vẽ hình giỏi mà anh vẽ hình bác Hồ có đẹp cách mấy thì anh vẫn có tội. Ý gì mà anh học viên học tập cải tạo lại đi ca tụng lãnh tụ của tụi tui là người cách mạng chiến thắng? Anh đâu phải là đảng viên cũng như anh đâu phải là thứ con ruột mà ca ngợi bố tui. Anh chỉ cốt làm cho tôi nghi ngờ anh (Niềm Đau Bạc Tóc-34).


Cộng sản cần nắm quyền bính, cần cai trị, cần bóc lột nhân dân, ngoài ra họ không cần gì cả. Họ không cần người tài. Họ cần người vâng lệnh , sẵn sàng chém giết cho họ. Bởi vậy mà Marx coi các giai cấp trung đẳng là lưng chừng, nghĩa là có thể giết.Và cũng bởi vì Marx chủ trương "đấu tranh giai cấp" và " vô sản chuyên chính"! Lenin, Stalin đánh đuổi, giết hại, cầm tù tư sản, trí thức, nông dân. Mao đưa ra chủ trương "Hồng hơn chuyên" cũng là do đường lối "vô sản chuyên chính" và "giai cấp đấu tranh" không cần người tài, người chuyên môn! Và Xô Việt Nghệ An 1930 đã nêu cao khẩu hiệu trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ! Trần Đức Thảo dạy Marx hay không dạy Marx là điều không cần thiết. Cái quan trọng là ông Thảo không là cộng sản theo hệ phái Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông!Sau 1975, tôi gặp GS Phạm Thiều tại Saigon, ông nói :

" Nước ta không có rau mà ăn thì cần gì đầu bếp Paris hay đầu bếp Bắc Kinh.!" Ông nói như thế là thành thật, không tuyên truyền, quảng cáo, lời ngắn và gọn là đủ cho tôi.


Trần Đức Thảo đã biết thân phận ông, ông cúi rạp mình xuống, nửa giả đò tích cực, nửa giả bộ điên khùng.

Tôi cũng biết thân phận tôi chứ! Bởi thế tôi phải thường xuyên đề phòng. Lúc căng quá thì cũng phải biết làm ngơ, câm nín trước cái ác để giữ mạng sống trước đã. Tuy nhiều lúc tôi đinh ninh là phen này sẽ khó thoát khỏi cái chết. Bởi những ông cán bộ “i tờ” quanh tôi rất hung hăng, rất cuồng tín, sẵn sàng quy chụp, tội lỗi, sẵn sàng chờ lệnh để tiêu diệt tôi, để “loại bỏ con giòi trong tay áo cách mạng”(Ch.VII)


Tri Vũ hỏi ông Trần làm sao ông sống sót được. Ông trả lời:" Cái đó là do tôi đã sớm đề phòng; Vì thế mà tôi mới sống sót cho tới ngày nay. Thứ nhất là tôi giữ ý, cố tỏ ra là tuyệt đối không mưu tìm một vai về chính trị nào, tuyệt đối không mưu tìm gặp gỡ, kết thân với những trí thức, để tránh bị coi là có ý gây phe phái ở chung quanh. Bởi chung quanh ông cụ đã có quá nhiều phe phái rình rập nhau. Lúc nào tôi cũng cố tỏ ra kính phục “ông cụ”. Vì tôi biết quanh tôi toàn là những con mắt rất cuồng tín, rất nghi kỵ, rất cảnh giác… của các cục “bảo vệ A này, A nọ”. Sống trong một xã hội ngu tín, của thời cuồng tín như thế không phải là dễ, sơ hở một chút là dễ… chết như chơi!

- Lúc có dịp nêu những ý kiến mới mẻ, có nội dung phản biện, thì tôi luôn luôn phải nhấn mạnh phủ đầu rằng nói như thế là tôi muốn “xây dựng đảng”. Đã nhiều lần tôi nói công khai với mọi người chung quanh rằng tôi chỉ ước ao được học tập, theo gương “bác Hồ”. Đấy là để công khai chứng tỏ một sự đầu hàng “lãnh tụ” với điều kiện để tôi có thể sống sót… Nhưng cũng phải nhắc tới và biết ơn tới một thế lực đã bảo vệ tôi, đó là sự quan tâm, chăm sóc của mấy nhà trí thức Pháp, đứng đầu là Sartre. Họ đã tận tình tỏ ra chăm sóc, theo dõi hoàn cảnh và sức khỏe của tôi khi họ biết tôi đang bị kìm kẹp. Họ thường xuyên viết thư thăm hỏi và đôi khi gửi cả thuốc men cho tôi. Có lúc họ còn đòi qua tận Việt Nam để thăm tôi… Sartre và tôi tuy có vài mâu thuẫn trong tư duy triết học, nhưng ông và đám bạn bè của ông rất quý trọng tôi, muốn bảo vệ tôi. Vì thế, tuy bị cánh tuyên huấn ghét bỏ, nhưng tôi nghĩ nhờ sự quan tâm, kính nể của trí thức của thế giới bên ngoài, mà “ông cụ” đã có sự e nể đối với tôi. Lúc tôi lâm nguy tới tính mạng trước thái độ quá khích của đám cán bộ cải cách, khi tôi dám đối đầu với đám cố vấn Trung Quốc, nhóm cán bộ cực đoan đã chụp lên đầu tôi cái tội đáng tiêu diệt là “có đầu óc phản cách mạng của bọn đệ tứ”! Nhưng vì “bên trên” chưa ra lệnh, nên cấp dưới chưa dám ra tay đó thôi. Họ vẫn phải để cho tôi sống. Tuy là sống vất vưởng như một con thú dữ cần phải canh chừng, “để xem nó còn ra những trò gì”. Cứ như con mèo vờn con chuột, chưa muốn cắn cổ cho nó chết hẳn.(Ch.12)


Ông cũng cho biết Liên Xô, cũng là thế lực làm cho Việt Cộng ngần ngại thủ tiêu ông:

Thực ra chỉ là với lãnh đạo. Mà các anh cũng nên biết rằng trong vấn đề đối xử với tôi, chính “ông cụ” cũng luôn luôn chịu sức ép của một thế lực lớn lao, nên “ông cụ” cũng rất e ngại tay chân tai mắt của thế lực ấy. Đấy là cả một guồng máy thống trị của ý thức hệ mà trọng tâm của nó nằm ở Bắc Kinh hay ở Mátxcơva! (Ch.2)

Lúc bấy giờ trong tuyệt vọng bỗng nảy sinh ra ra sự đối kháng mạnh mẽ làm ông đứng lên được. Nhưng rồi thực tại tàn nhẫn và những giao động mất lý tưởng của những người quanh tôi, tất cả đã hằng ngày như chất vấn tôi, khiến tôi phải từng bước đặt lại vấn đề, hằng ngày tìm cách giải đáp cho những chất vấn ấy. Những cái đó đã làm cho đầu óc dần dần sáng hơn, dần dần chuyển biến, dần dần thức tỉnh… Trạng thái đó đã giúp tôi đứng dậy đươc. Bởi trong thời gian chao đảo, khủng hoảng ấy, trong đầu tôi luôn luôn có một cuộc tranh cãi bùng lên dữ dội ( Ch.2)

Từ đây, ông thay đổi tư duy, thay đổi tâm trạng và hành động.

Không thể được! Nếu ai cũng thoả hiệp với dối trá và tội ác, thì dân còn hi vọng vào đâu, vào ai? Không thoả hiệp với dối trá vả tội ác là nguyên tắc để giữ vững chính mình. Một hành động, thiện hay ác, dù là thật nhỏ, dù chỉ là nhất thời, cũng đều để lại dấu vết bền lâu trên sự nghiệp của mỗi con người. Dối trá, độc ác, bạo lực là độc tố âm thầm huỷ hoại con người đã sử dụng nó. Xã hội dung túng nó sẽ mất hết lương tri, mất hết trật tự kỷ cương. Nhân nhượng hay thoả hiệp với cái xấu là con đường tự diệt từ từ chính mình. Điều ấy, Thảo này không thể nào làm được.(Ch.11)


Vào Saigon, nhiều người ái mộ ông, tìm đến thăm ông. Số khách ngày càng đông. Người ta hỏi, ông trả lời thật tình. Bọn đầu nậu Saigon , bọn Công An lo lắng nên đã tìm cách tống ông sang Pháp cho rảnh nợ. Sang Pháp, ông diễn thuyết phê phán Stalin và hứa hẹn sẽ viết xong sách phê bình Marx. Trịnh Ngọc Thái, Đại sứ Việt Cộng tại Pháp cảnh cáo ông. Người ta cấm ông đến cơ sở Nhà Việt Nam, một cơ sở Việt kiều tại Paris. Vài ngày sau ông chết. Chắc chắn do cộng sản thủ tiêu ông và quyển sách của ông.


Không biết tương lai những giấu tich của ông sẽ xuất hiện, hay chỉ còn lại quyển Trần Đức Thảo, Những Lời Trăn Trối của Tri Vũ Phan Ngọc Khuê?. Nếu thế cũng rất quý. Trong quyển sách này, ông cũng đã nói it nhiều về Marx, đã đặt nhiều vấn đề nền tảng về chủ nghĩa Marx:


Không có thứ lý luận biện chứng nào có thể chứng minh rằng một xã hội đầy đen tối, đầy dối trá, độc ác, quỷ quyệt, đầy hận thù, tranh chấp, đầy chia rẽ và tham nhũng, của hôm nay sẽ đẻ ra một thế giới đại đồng chân thật, đoàn kết, thương yêu, tốt đẹp trong tương lai! (Ch.IX)


Marx đã sử dụng những sự kiện đã xảy ra trong lịch sử đương đại, trong xã hội đương thời, để đả kích xã hội tư bản. Cách phê phán này có tính biện chứng duy vật sử quan không thể bất bẻ. Nhưng bước qua phần lý luận căn bản để xây dựng xã hội mới bằng cách nêu mô hình thế giới đại đồng mà mọi người mơ ước, thì Marx bắt đầu lúng túng trong biện chứng. Vì cái mô hình thế giới đại đồng ấy là không có giai cấp, không có bóc lột. Nó được coi là nền tảng của khái niệm, của ý thức “đấu tranh giai cấp”. Cái mô hình ấy, thật ra là chưa hề thấy, chưa hề có ở đâu đó trong lịch sử. Nó chỉ là một ảo tưởng, một mong ước sẽ có trong tương lai! Làm như vậy trong lý luận, là Marx đã mang cái tương lai ảo ấy, đặt nó lên trước hiện tại để dùng nó như một kinh nghiệm đã có, đã thấy. Đấy là lối lý luận với một nền tảng siêu hình, đúng là thứ biện chứng của Hegel! Biện chứng đó không còn có chút gì là duy vật sử quan nữa.


Từ khái niệm thế giới đại đồng tốt đẹp theo dự báo, do mong ước ấy, Marx đã biến nó thành ý thức cách mạng đấu tranh giai cấp, để hành động, để đạt tới thắng lợi, để xoá bỏ giai cấp bóc lột, để hoàn thành một xã hội không còn giai cấp! Viễn ảnh quá đẹp ấy là một kinh nghiệm ảo, một ý niệm siêu hình của một thứ thiên đường ảo chưa hề có trên trải đất. Trong mô hình ảo ấy, giới công nông được giải phóng, được làm chủ chính mình. Từ kinh nghiệm ảo mơ ước ấy, Lenin khai triển một chủ nghĩa xã hội mới, bằng cách khơi dậy hận thù giai cấp để đem động lực đấu tranh của giai cấp vô sản, làm đòn bẩy để hoàn thành cuộc cách mạng tạo ra sự đổi đời với một hệ thống giá trị mới của giai cấp công nông! Với một đảng cầm quyền “là đại diện cho giai cấp công nông”, tức là “đảng cộng sản”. Vậy là cách mạng đạt tới một chế độ mới, một nhà nước mới theo một chủ nghĩa xã hội mới. Trong chế độ mới ấy, “sẽ” không còn cảnh người bóc lột người vì quyền tư hữu đã bị bãi bỏ, thay thế nó bằng quyền sở hữu tập thể. Đặc điểm là tập thể sở hữu tư liệu sản xuất! Nghe lý luận như công nông nào mà không mê.


Như vậy là khi cách mạng thành công, giai cấp công nông sẽ sống và làm việc một cách sung sướng: vì mình sẽ không còn bị bóc lột, mình sẽ làm chủ! Con người từ đây được giải phóng! Sung sướng thay! Phấn khởi thay cái xã hội không còn giai cấp “sẽ” thành hình trong tương lai! Lời hô hào “vô sản thế giới hãy đoàn kết lại!” đã vang dậy khắp trái đất rồi vang lên khúc ca: “Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian”, đã thôi thúc giai cấp bị bóc lột đúng dậy, quyết tâm vùng lên tiêu diệt giai cấp tư sản! Hoan hô con người mới xã hội chủ nghĩa, là con người vô sản chân chính. Lúc đó, các dân tộc đều là anh em một nhà. Và toàn thế giới sẽ là một tổ quốc vô sản duy nhất! Hoan hô tinh thần vô sản quốc tế! Hoan hô xã hội mới trong đó “mọi người sẽ làm việc theo khả năng và hưởng thụ theo nhu cầu”! Sáng kiến của Marx lập tức bùng lên như một ngọn đuốc trong đầu mọi giới lao động. Nhiều nhà tư tưởng tiến bộ đã náo nức ủng hộ; đã sùng bái Marx. Đây là bình minh của một kỷ nguyên quyền lực chuyên chính của giai cấp lao động! Đây chính là con đường vinh quang, con đường cứu rỗi của cả nhân loại.


Cả thế giới đã bị lung lạc vì luồng tư tưởng mới đầy hứa hẹn này, với niềm hi vọng tràn trề của nhân dân lao động, với lòng cằm thù “giai cấp bóc lột” sôi sục trong đầu. Người người đều muốn đứng lên phá tan xiềng xích của xã hội tư bản!(Ch.XIV)


Biến khái niệm, biến học thuyết “đấu tranh giai cấp” chống bóc lột thành ý thức cách mạng. Lấy hận thù giai cấp làm nền tảng phát động một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên toàn cầu. Đấy là một phát minh ý thức hệ vô cùng sắc bén và tinh vi! Bởi nó có một sức bùng phát phi thường, nhờ đánh thức dậy trong con người bản năng bạo lực của thời còn là muông thú, khi khơi dậy tâm lý hận thù! Lý thuyết cách mạng hay hận thù giai cấp làm động lực, lấy ý chí tiêu, diệt giai cấp bóc lột làm vũ khí! Không cần lý luận sâu xa, chỉ nghe sơ qua lý thuyết ấy, bất cứ người dân cùng khổ nào cũng tin như thế là đúng, như thế là sẽ thắng, sẽ là đại thắng!

Với niềm tin tất thắng, ai cũng có thể tưởng tượng ra đủ thứ kết quả tốt đẹp… Để rồi cuồng tín đến độ sùng bái ý thức hệ ấy như là một thứ thánh kinh, “đảng” trở thành linh hồn của cách mạng, là “hội thán”, lãnh tụ là vị giáo hoàng! Khát vọng phát triển cuộc cách mạng xã hội theo ý thức hệ ấy làm cho con người sẵn sàng hi sinh tất cả cho nó! Vì nó!


Thế nhưng cho tới nay, những ai đã từng sống cả cuộc đời trong sự vận hành cách mạng do Lenin phát động, do Stalin triệt để khai thác, do Mao hò hét vận động… đều đã thấy rõ kết quả tồi tệ của một tổ chức mang danh “đảng của giai cấp công nông”, là một nhà nước chuyên chính vô sản cầm quyền… Tất cả mọi người đã được thấy tận mắt, đã được tận tay tham dự vào công cuộc xây dựng “con người mới xã hội chủ nghĩa” là như thế nào! Thực tế là tất cả đã nhận ra một cách khách quan và đau đớn rằng việc xay dựng xã hội mới ấy gây ra quá nhiều vấp váp, phạm quá nhiều tội ác, vì đã trắng trợn dẫm lên quyền sống của con người, đã trói buộc, giam hãm con người. Kết quả là con người trong công cuộc đấu tranh giai cấp, khi kết thúc, thì nó đã không hề được giải phóng! Đau đớn hơn hết là trong thực tại, con người lao động vẫn còn bị bóc lột. Trong xã hội mới này, thành phần công nông vẫn chỉ là thành phần thiệt thời nhất!


Kết quả là “thế giới đại đồng” ấy đã không hiển hiện trong một chế độ xã hội chủ nghĩa nào cả. Sau này thì “cuộc cách mạng long trời lở đất ấy” đã lộ ra cái bản chất vừa ngu tín, vừa cuồng tín! Và bộ mặt thật của ý thức hệ ấy là đã dụng cụ hoá, đã nô lệ hoá con người bởi đủ thứ kim kẹp, giam hãm, tuyên truyền xảo trá, chứ chẳng phải là đã giải phóng con người! Con người lao động đã chẳng hề được làm chủ, kể ca làm chủ bản thân minh. Vì mình cũng là của… “đảng”!


Vì trong thực tại của xã hội chủ nghĩa mới, vẫn còn giai cấp bóc lột. Đó là giai cấp chuyên chính, chuyên quyền của đáng cộng sản cầm quyền! Đó là giai cấp tư sản đỏ phát, sinh từ tinh thần vô sản vùng lên đấu tranh cướp lại quyền lực trong tay giai cấp tư sản thống trị! Lớp người vô sản vùng lên cướp đoạt chính quyền, đồng thời nó cũng đã cướp đoạt tài sản của giai cấp tư sản để tự nó trở thành một nhà nước tham lam sở hữu toàn bộ đất đai, toàn bộ tư liệu sản xuất, nắm toàn bộ guồng máy quản lý xã hội, vừa nặng tính chuyên quyền, vừa toàn quyền lũng đoạn kinh tế! Trước mắt giờ đây, là một nhà nước tư bản đỏ độc quyền bóc lột kiểu mới, mang danh hiệu là “chế độ dân chủ nhân dân”, được quảng bá là “dân chủ gấp ngàn lần dân chủ tư sản”! Mà rồi mãi sau này người ta đặt cho chế độ ấy, cho thời ấy một cái tên có tính khinh thị là “Chế độ bao cấp! Thời bao cấp”.


Đặc biệt là ngay ở trong chế độ “vô sản” mới này, con người vô sản ở khắp nơi, đều tỏ ra vẫn giữ nguyên bản năng hữu sản! Họ gậm nhấm, xâm chiếm của công, cướp đoạt tài sản của tập thể, của kẻ yếu, cướp đoạt đất đai của nông dân… làm của riêng. Tư hữu kiểu cũ đo làm ăn cần cù, do tích luỹ lâu dài mà có được, này đã bị xoá bỏ. Thay thế nó nay là tư hữu kiểu mới do chiếm đoạt bằng chữ ký của quyền lực, hoặc do móc ngoặc với quyền lực. Con người vô sản cầm quyền nay tha hồ bòn mót của công, cướp đoạt của tư, để tạo cho minh một tài sản vừa nhiều, vừa nhanh! Vì cái gì cũng là của chung, đặc biệt là “đất đai là sở hữu của toàn dân”, nên ai cũng nghĩ rằng toàn dân có quyền nhúng tay vào cái sở hữu chung ấy! Bởi là của chung nên, trong thực tế, nó không được bảo vệ như của riêng. Rừng, núi, sông ngòi, ao hồ… bị con người mới trong xã hội vô sản mới ấy phá phách, lấn chiếm vô tội vạ! Con người vô sản đã tỏ ra là con người tham lam, phá phách, gậm nhấm, xâm chiếm những gì là của chung bất kể luật pháp! Vì là của chung nên ai cũng nghĩ là mình cũng có quyền xâm phạm, nhưng không thấy ai có nhiệm vụ phải bảo vệ, bảo trì! Trong thực tế trước mắt, con người, vô sản có quyền hành, luôn luôn phấn đấu để chiếm hữu một cách rất tự nhiên của cải của xã hội, đã trở thành nhà tư sản kiểu mới. Đấy là thứ tư sản đỏ, do tham nhũng, do hối mại quyền thế mà có: họ chia chác tài sản tập thể của xã hội cho gia định, họ hàng, cho đồng chí, đảng viên, bằng chữ ký của quyền lực trong tay họ!


Khi thấy của công, của tập thể bị xâm phạm, người ta không có phản ứng quyết liệt và nghiêm chỉnh như khi thấy sự xâm phạm của tư! Thói thường của xã hội, và nay đã thành một thứ tư duy phổ biến, một suy nghĩ tự nhiên rằng “lấy của tập thể, lấy của nhà nước không phải là ăn cắp”! Vì đấy là của chung!


Marx đã không ngờ rằng một giai cấp tư bản đỏ sẽ ra đời ngay trong xã hội xã hội chủ nghĩa như thế. Giai cấp tư bản độ ấy đã phát triển một cách lộng hành, nó xâm chiếm, do cướp đoạt vừa nhiều, vừa trắng trợn, gấp bội lần thứ tư bản tư sản cổ điển! Một điều khủng khiếp nữa mà Marx không thể ngờ là bởi tham lam quyền lực và quyền lợi, chính các lãnh đạo trong “đảng”, cũng đã trắng trợn triệt hạ nhau, quy chụp cho nhau những tội lỗi tày trời để diệt nhau, để tranh nhau địa vị, để được sống đế vương trên đầu nhân dân, để rồi tìm cách truyền ngôi, truyền gia tài cho con cái!


Thực tại cho thấy trong xã hội mới “xã hội chủ nghĩa”, các phe cánh vô sản kình chống nhau. Trong khi đó, giai cấp công nông vẫn còn bị bóc lột, thật là trái ngược với biện chứng và hứa hẹn của Marx! Và kẻ bóc lột đây lại là những người của “đảng”, của nhà nước, một nhà nước nắm toàn bộ vốn liếng, tư liệu sản xuất và mọi hình thức sinh hoạt khác trong xã hội, nhất là về mặt kinh tế! Trong thực tế, tất cả mọi thứ, từ đất đai cho đền con người, tất cả đều là “của đảng”! Các cá nhân, hội đoàn, các thành viên của nhà nước, các định chế như toà án, viện kiểm soát, các tổ chức tập thể… tất cả đều phải thề trung thành với “đảng”! Trong chế độ vô sản nay có một ông chủ toàn quyền, toàn năng! Bởi nay “đảng” là ông chủ lớn nhất, duy nhất, sở hữu tất cả, từ vật chất tới tinh thần! “Đảng” đứng trên hết mọi quyền lực, trên cả công lý! Và ”đảng” tự tuyên xưng “đảng” là nhân dân! Những ai chống lại “đảng” là

chống lại nhân dân! Cụm từ “nhân dân” từ đây là nhãn hiệu độc quyền của nhà nước cộng sản!


“Đàng” còn ngang nhiên tuyên bố: “Yêu xã hội chủ nghĩa là yêu nước”


Quan sát những hiện tượng đã xảy ra trước mắt, ngay tại Hà Nội sau nhất là tại Sài Gòn sau năm 1975, là nhũng nơi chế độ tư bản, tư hữu kiểu cũ đã bị đánh gục bằng bạo lực cách mạng, người dân bừng tỉnh, và kinh ngạc trước hiện tượng phát sinh và bành trướng một tư bản đỏ: chưa bao giờ thấy xuất hiện những đảng viên cao cấp, cùng phe cánh, đã trở thành những nhà giàu mới, vơ vét nhiều và nhanh đến thế. Những cơ ngơi bất động sản không lồ đã lọt vào tay “giai cấp tư sản đỏ”, nó thống trị một cách trắng trợn, như chưa từng thấy ở đất nước nghèo nàn, lạc hậu này. Mà những cơ ngơi và vốn liếng của giai cấp mới ấy đã được đánh giá hàng bao nhiêu tỉ đô-la Mỹ!


Đó là những hiện tượng kinh khủng mà Marx đã không hề tiên liệu.


Sai lầm cơ bản của lối lý luận ấy là đã mang cái mô hình ảo của tương lai, đặt nó lên trước hiện tại, coi nó như là kinh nghiệm lịch sử. Thế là từ một học thuyết mơ hồ, siêu hình ấy, Lenin muốn suy diễn ra sao cũng được, Stalin cũng mặc sức tuỳ tiện khai triển nó, rồi đến Pol Pot lại càng tuỳ tiện khùng khiếp hơn nữa!(Ch.XIV)



Trần Đức Thảo từ tôn thờ Marx cuối đời đã nhận thấy sai lầm của Marx. Từ tin tưởng chuyển qua thất vọng, rồi từ thất vọng, ông cố gắng đứng lên chống lại cộng sản. Ông kết tội Marx,Lenin, Stalin, Mao, Hồ với một câu nói đầy ấn tượng:

Marx đã xây dựng một lâu đài chỉ tiếc là có nhiều người từ trong lâu đài ấy của Marx, khí bước ra, thì họ đã trở thành ác quỷ (Ch.XIII)

Trần Đức Thảo cũng phê phán ông Hồ:"chính “ông cụ” đã phải cố ý sa vào sai lầm lớn khi tuyệt đối tuân theo sự thúc đẩy của Mao[...].Tham vọng của “bác Hồ” thì một phần do học thuyết sách vở chưa đọc kỹ, tư duy xổi thì chưa tiêu hoá được, một phần còn là do mưu trí chính trị cực kỳ cơ hội mà ra…{...].Bằng một cuốn sách. Và tôi đang hoàn thành cuốn sách ấy. Marx cũng đã xây dựng một lâu đài như thế, và cũng bằng một cuốn sách, chỉ tiếc là có nhiều người từ cuốn sách, từ trong lâu đài ấy của Marx, khí bước ra, thì họ đã trở thành ác quỷ. Cuốn sách của tôi là một món nợ mà tôi phải trả cho triết học, cho nhân loại, chẳng những thế mà còn là món nợ mà tôi phải trả cho dân tộc, vì cái mộng về nước lúc đó của tôi của tôi là xây dựng một mẫu mực, một mô hình cách mạng mà dân ta mong đợị. Bởi thế mà lâu đài của tôi, tức là cuốn sách của tôi, trong đó, nhân dânh chân lý, tôi sẽ đặt nặng những vấn đề nhân bản, công lý và dân chủ, bằng những cơ chế ưu tiên kiểm soát quyền lực, với những cơ sở lý luận và pháp lý, để những ai từ đó đi ra sẽ không thể trở thành ác quý. Chính vì lâu đài tư tưởng của Marx, mà từ đó đi ra, những lãnh tụ đã đã thành những ác quỷ tuỳ tiện, lộng hành quyền lực, khiến hàng vạn chiến sĩ cộng sản đã bị hi sinh một cách oan uổng, vô ích… và ở nước ta đã có hàng triệu người bỏ làng mạc, bỏ mồ mả tổ tiên để di tản vào Nam năm 1954, và rồi cũng đã có hàng triệu người đã liều chết bỏ nhà bỏ của chạy ra biển gây thảm cảnh “thuyền nhân” sau năm 1975 … làm cả thế giới rơi lệ. Thành phần dân chúng khốn khổ ấy, vì đã hiểu, đã nếm mùi lâu đài “thế giới đại đồng” của Marx, nên họ đã liều chết bỏ chạy! Là vì họ muốn đi tìm nơi có công bằng, bác ái, có tự do và hạnh phúc thật sự!(Ch.XIII)

Tại Pháp, ông đã diễn thuyết về con người tàn bạo của Stalin. Ông còn hé lộ việc ông đang viết về chủ nghĩa cộng sản và gần xong.

Ông giới thiệu sơ lược quyển sách của ông có nội dung vạch trần sư sai lầm và u mê của chủ nghĩa Cộng sản:

Trong cuốn sách đó, tôi thẳng thắn đánh giá lại tư tưởng Marx khi soạn ra phương pháp cách mạng đấu tranh giai cấp, dùng hận thù giai cấp đánh gục giai cấp tư sản, để xây dựng thế giới đại đồng với một xã hội không cỏn giai cấp bóc lột. Lenin, Stalin, Mao, rồi Hồ Chí Minh, Kim Nhật Thành, Fidel Castro cho tới Pol Pot… mỗi con người ấy, ở vị trí lãnh đạo, đã tuỳ tiện khai triển cách mạng theo lời dạy của Marx. Qua những kinh nghiệm lịch sử ấy, cùng những dì sản thảm khốc của nó, tôi đã giải mã Marx, Lẻnine, Mao, Hồ, Kim, Pol… để chỉ ra rằng ý thức cách mạng đã sai từ gốc, nghĩa là từ Marx. Đặc biệt là bác Thảo đã nhắc đi nhắc lại câu “Chính ông Marx sai”!


- Chính tôi, trong những bước đầu nghiên cứu, đã thấy giai đoạn mình tự nguyện làm môn đệ của Marx, sùng bái Marx với tất cả lòng nhiệt thành của tuổi trẻ, là giai đoạn cuồng tín, cứ nghĩ mình phải một lòng đi theo Marx như một tín đồ tin theo vị chúa cứu thế trên con đường giải phóng con người khỏi sự bóc lột của giai cấp tư sản, tư bản. Bởi cuộc cách mạng này đã dựng lên cả một hệ thống chính trị chuyên quyển giam hãm, kim kẹp con người. Hệ thống chính trị ấy lại còn bóc lột giai cấp lao động gấp bội phần so với sự bóc lột của giai cấp tư sản, tư bản. Mà quyền lực chuyên chính lại không cho phép công nông phản đối sự bóc lột ấy. Tạĩ sao kỳ lạ vậy?


- Nay già rồi tôi mới nhận ra là tất cả những sai trái ấy đều là do sự cuồng tín vào lý thuyết, vào ý thức hệ nên đã dẫn lối tới những bước quá trớn… Thế rồi các lãnh tụ, từ Lenin trở đi, đều đã tuỳ tiện theo cảm hứng mà suy diễn, mà đề ra nhưng chính sách, những phương pháp triệt để, những hành động tuyệt đối, để rồi gây ra những tội ác của cách mạng!


Khởi đầu, nhà tư tưởng đã tung ra một học thuyết thật hấp dẫn, thật là cuốn hút nhân loại, nhất là thành phần nhân loại lao động nghèo khổ… Nhưng rồi học thuyết ấy, ý thức hệ ấy đã làm khổ con người, đã nô dịch con người, đã phản bội con người và đã không hề giải phóng con người!


- Cuốn sách của tôi chứng minh rõ rằng chính cái phần xây dựng mô hình thế giới đại đồng của Marx đã làm hỏng học thuyết. Trừ ra khi phê phán chủ nghĩa tư bản, Marx đã sử dụng những sự kiện đã xảy ra trong lịch sử đương đại, trong xã hội đương thời, để đả kích xã hội tư bản. Cách phê phán này có tính biện chứng duy vật sử quan không thể bất bẻ. Nhưng bước qua phần lý luận căn bản để xây dựng xã hội mới bằng cách nêu mô hình thế giới đại đồng mà mọi người mơ ước, thì Marx bắt đầu lúng túng trong biện chứng. Vì cái mô hình thế giới đại đồng ấy là không có giai cấp, không có bóc lột. Nó được coi là nền tảng của khái niệm, của ý thức “đấu tranh giai cấp”. Cái mô hình ấy, thật ra là chưa hề thấy, chưa hề có ở đâu đó trong lịch sử. Nó chỉ là một ảo tưởng, một mong ước sẽ có trong tương lai! Làm như vậy trong lý luận, là Marx đã mang cái tương lai ảo ấy, đặt nó lên trước hiện tại để dùng nó như một kinh nghiệm đã có, đã thấy. Đấy là lối lý luận với một nền tảng siêu hình, đúng là thứ biện chứng của Hegel! Biện chứng đó không còn có chút gì là duy vật sử quan nữa.


Từ khái niệm thế giới đại đồng tốt đẹp theo dự báo, do mong ước ấy, Marx đã biến nó thành ý thức cách mạng đấu tranh giai cấp, để hành động, để đạt tới thắng lợi, để xoá bỏ giai cấp bóc lột, để hoàn thành một xã hội không còn giai cấp! Viễn ảnh quá đẹp ấy là một kinh nghiệm ảo, một ý niệm siêu hình của một thứ thiên đường ảo chưa hề có trên trải đất. Trong mô hình ảo ấy, giới công nông được giải phóng, được làm chủ chính mình. Từ kinh nghiệm ảo mơ ước ấy, Lenin khai triển một chủ nghĩa xã hội mới, bằng cách khơi dậy hận thù giai cấp để đem động lực đấu tranh của giai cấp vô sản, làm đòn bẩy để hoàn thành cuộc cách mạng tạo ra sự đổi đời với một hệ thống giá trị mới của giai cấp công nông! Với một đảng cầm quyền “là đại diện cho giai cấp công nông”, tức là “đảng cộng sản”. Vậy là cách mạng đạt tới một chế độ mới, một nhà nước mới theo một chủ nghĩa xã hội mới. Trong chế độ mới ấy, “sẽ” không còn cảnh người bóc lột người vì quyền tư hữu đã bị bãi bỏ, thay thế nó bằng quyền sở hữu tập thể. Đặc điểm là tập thể sở hữu tư liệu sản xuất! Nghe lý luận như công nông nào mà không mê.


Như vậy là khi cách mạng thành công, giai cấp công nông sẽ sống và làm việc một cách sung sướng: vì mình sẽ không còn bị bóc lột, mình sẽ làm chủ! Con người từ đây được giải phóng! Sung sướng thay! Phấn khởi thay cái xã hội không còn giai cấp “sẽ” thành hình trong tương lai! Lời hô hào “vô sản thế giới hãy đoàn kết lại!” đã vang dậy khắp trái đất rồi vang lên khúc ca: “Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian”, đã thôi thúc giai cấp bị bóc lột đúng dậy, quyết tâm vùng lên tiêu diệt giai cấp tư sản! Hoan hô con người mới xã hội chủ nghĩa, là con người vô sản chân chính. Lúc đó, các dân tộc đều là anh em một nhà. Và toàn thế giới sẽ là một tổ quốc vô sản duy nhất! Hoan hô tinh thần vô sản quốc tế! Hoan hô xã hội mới trong đó “mọi người sẽ làm việc theo khả năng và hưởng thụ theo nhu cầu”! Sáng kiến của Marx lập tức bùng lên như một ngọn đuốc trong đầu mọi giới lao động. Nhiều nhà tư tưởng tiến bộ đã náo nức ủng hộ; đã sùng bái Marx. Đây là bình minh của một kỷ nguyên quyền lực chuyên chính của giai cấp lao động! Đây chính là con đường vinh quang, con đường cứu rỗi của cả nhân loại.


Cả thế giới đã bị lung lạc vì luồng tư tưởng mới đầy hứa hẹn này, với niềm hi vọng tràn trề của nhân dân lao động, với lòng cằm thù “giai cấp bóc lột” sôi sục trong đầu. Người người đều muốn đứng lên phá tan xiềng xích của xã hội tư bản!


- Biến khái niệm, biến học thuyết “đấu tranh giai cấp” chống bóc lột thành ý thức cách mạng. Lấy hận thù giai cấp làm nền tảng phát động một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên toàn cầu. Đấy là một phát minh ý thức hệ vô cùng sắc bén và tinh vi! Bởi nó có một sức bùng phát phi thường, nhờ đánh thức dậy trong con người bản năng bạo lực của thời còn là muông thú, khi khơi dậy tâm lý hận thù! Lý thuyết cách mạng hay hận thù giai cấp làm động lực, lấy ý chí tiêu, diệt giai cấp bóc lột làm vũ khí! Không cần lý luận sâu xa, chỉ nghe sơ qua lý thuyết ấy, bất cứ người dân cùng khổ nào cũng tin như thế là đúng, như thế là sẽ thắng, sẽ là đại thắng!

Với niềm tin tất thắng, ai cũng có thể tưởng tượng ra đủ thứ kết quả tốt đẹp… Để rồi cuồng tín đến độ sùng bái ý thức hệ ấy như là một thứ thánh kinh, “đảng” trở thành linh hồn của cách mạng, là “hội thán”, lãnh tụ là vị giáo hoàng! Khát vọng phát triển cuộc cách mạng xã hội theo ý thức hệ ấy làm cho con người sẵn sàng hi sinh tất cả cho nó! Vì nó!

Thế nhưng cho tới nay, những ai đã từng sống cả cuộc đời trong sự vận hành cách mạng do Lenin phát động, do Stalin triệt để khai thác, do Mao hò hét vận động… đều đã thấy rõ kết quả tồi tệ của một tổ chức mang danh “đảng của giai cấp công nông”, là một nhà nước chuyên chính vô sản cầm quyền… Tất cả mọi người đã được thấy tận mắt, đã được tận tay tham dự vào công cuộc xây dựng “con người mới xã hội chủ nghĩa” là như thế nào! Thực tế là tất cả đã nhận ra một cách khách quan và đau đớn rằng việc xay dựng xã hội mới ấy gây ra quá nhiều vấp váp, phạm quá nhiều tội ác, vì đã trắng trợn dẫm lên quyền sống của con người, đã trói buộc, giam hãm con người. Kết quả là con người trong công cuộc đấu tranh giai cấp, khi kết thúc, thì nó đã không hề được giải phóng! Đau đớn hơn hết là trong thực tại, con người lao động vẫn còn bị bóc lột. Trong xã hội mới này, thành phần công nông vẫn chỉ là thành phần thiệt thời nhất!


Kết quả là “thế giới đại đồng” ấy đã không hiển hiện trong một chế độ xã hội chủ nghĩa nào cả. Sau này thì “cuộc cách mạng long trời lở đất ấy” đã lộ ra cái bản chất vừa ngu tín, vừa cuồng tín! Và bộ mặt thật của ý thức hệ ấy là đã dụng cụ hoá, đã nô lệ hoá con người bởi đủ thứ kim kẹp, giam hãm, tuyên truyền xảo trá, chứ chẳng phải là đã giải phóng con người! Con người lao động đã chẳng hề được làm chủ, kể ca làm chủ bản thân minh. Vì mình cũng là của… “đảng”!


Vì trong thực tại của xã hội chủ nghĩa mới, vẫn còn giai cấp bóc lột. Đó là giai cấp chuyên chính, chuyên quyền của đáng cộng sản cầm quyền! Đó là giai cấp tư sản đỏ phát, sinh từ tinh thần vô sản vùng lên đấu tranh cướp lại quyền lực trong tay giai cấp tư sản thống trị! Lớp người vô sản vùng lên cướp đoạt chính quyền, đồng thời nó cũng đã cướp đoạt tài sản của giai cấp tư sản để tự nó trở thành một nhà nước tham lam sở hữu toàn bộ đất đai, toàn bộ tư liệu sản xuất, nắm toàn bộ guồng máy quản lý xã hội, vừa nặng tính chuyên quyền, vừa toàn quyền lũng đoạn kinh tế! Trước mắt giờ đây, là một nhà nước tư bản đỏ độc quyền bóc lột kiểu mới, mang danh hiệu là “chế độ dân chủ nhân dân”, được quảng bá là “dân chủ gấp ngàn lần dân chủ tư sản”! Mà rồi mãi sau này người ta đặt cho chế độ ấy, cho thời ấy một cái tên có tính khinh thị là “Chế độ bao cấp! Thời bao cấp”.


Đặc biệt là ngay ở trong chế độ “vô sản” mới này, con người vô sản ở khắp nơi, đều tỏ ra vẫn giữ nguyên bản năng hữu sản! Họ gậm nhấm, xâm chiếm của công, cướp đoạt tài sản của tập thể, của kẻ yếu, cướp đoạt đất đai của nông dân… làm của riêng. Tư hữu kiểu cũ đo làm ăn cần cù, do tích luỹ lâu dài mà có được, này đã bị xoá bỏ. Thay thế nó nay là tư hữu kiểu mới do chiếm đoạt bằng chữ ký của quyền lực, hoặc do móc ngoặc với quyền lực. Con người vô sản cầm quyền nay tha hồ bòn mót của công, cướp đoạt của tư, để tạo cho minh một tài sản vừa nhiều, vừa nhanh! Vì cái gì cũng là của chung, đặc biệt là “đất đai là sở hữu của toàn dân”, nên ai cũng nghĩ rằng toàn dân có quyền nhúng tay vào cái sở hữu chung ấy! Bởi là của chung nên, trong thực tế, nó không được bảo vệ như của riêng. Rừng, núi, sông ngòi, ao hồ… bị con người mới trong xã hội vô sản mới ấy phá phách, lấn chiếm vô tội vạ! Con người vô sản đã tỏ ra là con người tham lam, phá phách, gậm nhấm, xâm chiếm những gì là của chung bất kể luật pháp! Vì là của chung nên ai cũng nghĩ là mình cũng có quyền xâm phạm, nhưng không thấy ai có nhiệm vụ phải bảo vệ, bảo trì! Trong thực tế trước mắt, con người, vô sản có quyền hành, luôn luôn phấn đấu để chiếm hữu một cách rất tự nhiên của cải của xã hội, đã trở thành nhà tư sản kiểu mới. Đấy là thứ tư sản đỏ, do tham nhũng, do hối mại quyền thế mà có: họ chia chác tài sản tập thể của xã hội cho gia định, họ hàng, cho đồng chí, đảng viên, bằng chữ ký của quyền lực trong tay họ!


Khi thấy của công, của tập thể bị xâm phạm, người ta không có phản ứng quyết liệt và nghiêm chỉnh như khi thấy sự xâm phạm của tư! Thói thường của xã hội, và nay đã thành một thứ tư duy phổ biến, một suy nghĩ tự nhiên rằng “lấy của tập thể, lấy của nhà nước không phải là ăn cắp”! Vì đấy là của chung!


Marx đã không ngờ rằng một giai cấp tư bản đỏ sẽ ra đời ngay trong xã hội xã hội chủ nghĩa như thế. Giai cấp tư bản độ ấy đã phát triển một cách lộng hành, nó xâm chiếm, do cướp đoạt vừa nhiều, vừa trắng trợn, gấp bội lần thứ tư bản tư sản cổ điển! Một điều khủng khiếp nữa mà Marx không thể ngờ là bởi tham lam quyền lực và quyền lợi, chính các lãnh đạo trong “đảng”, cũng đã trắng trợn triệt hạ nhau, quy chụp cho nhau những tội lỗi tày trời để diệt nhau, để tranh nhau địa vị, để được sống đế vương trên đầu nhân dân, để rồi tìm cách truyền ngôi, truyền gia tài cho con cái!


Thực tại cho thấy trong xã hội mới “xã hội chủ nghĩa”, các phe cánh vô sản kình chống nhau. Trong khi đó, giai cấp công nông vẫn còn bị bóc lột, thật là trái ngược với biện chứng và hứa hẹn của Marx! Và kẻ bóc lột đây lại là những người của “đảng”, của nhà nước, một nhà nước nắm toàn bộ vốn liếng, tư liệu sản xuất và mọi hình thức sinh hoạt khác trong xã hội, nhất là về mặt kinh tế! Trong thực tế, tất cả mọi thứ, từ đất đai cho đền con người, tất cả đều là “của đảng”! Các cá nhân, hội đoàn, các thành viên của nhà nước, các định chế như toà án, viện kiểm soát, các tổ chức tập thể… tất cả đều phải thề trung thành với “đảng”! Trong chế độ vô sản nay có một ông chủ toàn quyền, toàn năng! Bởi nay “đảng” là ông chủ lớn nhất, duy nhất, sở hữu tất cả, từ vật chất tới tinh thần! “Đảng” đứng trên hết mọi quyền lực, trên cả công lý! Và ”đảng” tự tuyên xưng “đảng” là nhân dân! Những ai chống lại “đảng” là chống lại nhân dân! Cụm từ “nhân dân” từ đây là nhãn hiệu độc quyền của nhà nước cộng sản!


“Đàng” còn ngang nhiên tuyên bố: “Yêu xã hội chủ nghĩa là yêu nước”


Quan sát những hiện tượng đã xảy ra trước mắt, ngay tại Hà Nội sau nhất là tại Sài Gòn sau năm 1975, là nhũng nơi chế độ tư bản, tư hữu kiểu cũ đã bị đánh gục bằng bạo lực cách mạng, người dân bừng tỉnh, và kinh ngạc trước hiện tượng phát sinh và bành trướng một tư bản đỏ: chưa bao giờ thấy xuất hiện những đảng viên cao cấp, cùng phe cánh, đã trở thành những nhà giàu mới, vơ vét nhiều và nhanh đến thế. Những cơ ngơi bất động sản không lồ đã lọt vào tay “giai cấp tư sản đỏ”, nó thống trị một cách trắng trợn, như chưa từng thấy ở đất nước nghèo nàn, lạc hậu này. Mà những cơ ngơi và vốn liếng của giai cấp mới ấy đã được đánh giá hàng bao nhiêu tỉ đô-la Mỹ!


Đó là những hiện tượng kinh khủng mà Marx đã không hề tiên liệu.


Sai lầm cơ bản của lối lý luận ấy là đã mang cái mô hình ảo của tương lai, đặt nó lên trước hiện tại, coi nó như là kinh nghiệm lịch sử. Thế là từ một học thuyết mơ hồ, siêu hình ấy, Lenin muốn suy diễn ra sao cũng được, Stalin cũng mặc sức tuỳ tiện khai triển nó, rồi đến Pol Pot lại càng tuỳ tiện khùng khiếp hơn nữa!



- Tôi ra đi kỳ này, là với dự tính qua Paris để công bố, trong cuốn sách, những lý luận chứng minh sự sai lầm bất đầu từ lý luận siêu hình của Mars, rồi từ đó bước tới sai lầm trong phương pháp hành động dùng hận thù làm đòn bẩy, để từ đó tuỳ tiện xúc phạm quyền sống của con người.(Ch.XIV)


Tri Vũ cho biết bi kịch cuối đời của Trần Đức Thảo:


Chiều hôm sau đó, tôi đang lái xe trên đường về nhà thì nghe đài “France Info”, mà tôi có thói quen mở nghe tin tức trong khi lái. Bỗng đài này loan tin giáo sư Trần Đức Thảo, nhà triết học Việt Nam vừa qua đời! Tin đột ngột ấy làm tôi lạnh người và buột miệng:


- Ôi! Thế là cuốn sách không còn cơ hội chào đời! Phải chăng tên đao phủ đã ra tay?

Việc đầu tiên là tôi tìm gặp ngay bà Bích Hồng để được nghe bà kể thật chi tiết.


Thật là quá bất ngờ! Bác Thảo hằng ngày vẫn có nếp ăn uống rất tinh khiết, không bao giờ ăn thức ăn cũ. Vậy mà ngay xẩm tối hôm thứ năm ấy, bỗng bác bị “thượng thổ, hạ tả” như bị trúng độc: vừa nôn mửa vừa đại tiện tràn lan đến mệt là đi. May là lúc đó bà Bích Hồng đang có mặt. Bà vội dìu bác vào nhả tắm, tắm rửa bằng nước nóng cho sạch sẽ, rồi lấy quần áo sạch thay cho. Sau đó đưa bác vào nằm tạm trong một căn phòng ở ngay tầng dưới ấy. Đấy là phòng của một cán bộ của sứ quán, lúc đó đi vắng xa. Bác Thảo dần dần tỉnh táo lại, nằm nghỉ và không hiếu tại sao, đã ăn phải thứ gì mà bị ngộ độc như thế. Bà Bích Hồng vào hỏi thăm. Bác cảm ơn sự săn sóc của bà, rồi bác tâm sự một cách rất lạc quan và tự tin:


- Này bà Bích Hồng này! Mai mốt, tôi thuê nhà ra ở riêng, bà về làm cho tôi. Mỗi tháng tôi biếu bà năm trăm. Như vậy chúng ta sẽ sống thoải mái, tự do hơn là sống ở đây.


Câu nói ấy chứng tỏ bác Thảo vẫn không có ý thức gì về tình hình giá cả trong dời sống: vì số tiến lương để nghị ấy là quá nhỏ, không đáng kể.

Bà Bích Hồng tới đặt tay lên trán bác, thấy vẫn có nhiệt độ cao, tức là vẫn còn đang bị sốt.

Đêm ấy, bác chỉ uống một ly sữa nóng rồi nằm nghỉ. Sau thấy nhức đầu quá nên được cho uống một viên Aspirine..Cả đêm bác rên rỉ vì cơn sốt vẫn cao. Đến gần trưa hôm sau, thứ sáu, cơn sốt tăng đến mê sảng, chốc chốc lại giật mình la hét lên. Bà Bích Hồng chạy vào lay gọi cho tỉnh lại để bớt rên la. Bỗng bác ngồi nhóm dậy, mặt đỏ gay vì mê sảng, hốt hoảng, tay nắm thật chặt lấy cánh tay phải bà Bích Hồng miệng la lớn:
- Nó kiểm điểm! Nó kiểm điểm!

Bà Bích Hồng lay gọi:

- Bác Thảo! Bác Thảo! Bác buông tay tôi ra! Bác làm tôi sợ quá! Buông tay tôi ra!

Bị lắc người thật mạnh, bác Thảo buông tay bà Bích Hồng ra, rồi nằm vật mình xuống; Nhưng yên được một lúc thì lại lên cơn mê sảng, rồi ngồi phắt dậy, mặt vẫn đỏ gay, hoảng hốt rồi thét lên như đang trong cơn ác mộng:

- Đông Âu đấy! Đông Âu đấy!

Nói rồi lại nằm xuống, xuội lơ, duỗi thẳng tay chân, không còn biết gì nữa… Bà Bích Hồng sợ quá vội kêu la cầu cứu ầm ĩ. Cán bộ Hào từ trên tầng lầu xuống, tới gần quan sát, rồi chạy ra gọi điện thoại cho sứ quán.


Một lát sau, đại sứ Trịnh Ngọc Thái tới, ông quyết định gọi xe cấp cứu của hệ thống cấp cứu công cộng SAMU.
Bác sĩ của toán cấp cứu hỏi:

- Trước đó bệnh nhân đã làm gì để rồi rơi vào hôn mê?

- Ông ta trước đó, đã bị ngất xỉu rồi bị té ở cầu thang!

- Bị ngất xỉu đến té ngã như vậy, sao không thấy thương tích gì trên người?

- Cái đó thì tôi không rõ, nhưng ông ta cũng đã cao tuổi rồi và rất yếu.

Bác sĩ cấp cứu quyết định cấp tốc đưa bệnh nhân vào nhà thương. Nơi gần nhất và thích hợp cho trường hợp này là bệnh viện đa khoa Les Broussais, cách đó chỉ vài phút xe hơi. Tới nơi, bác sĩ cấp cứu trực của bệnh viện chích cho bác Thảo một mũi thuốc an thần, và giữ lại tại phòng hồi sinh để theo dõi. Đêm ấy bác Thảo vẫn sốt, nằm bất tỉnh, ngủ li bì. Đến khoảng năm giờ rưỡi sáng ngày 24 tháng tư, năm 1993, bác sĩ trực phòng hồi sinh ghi nhận bác Thảo đã trút hơi thở cuối cùng! Ngay sau đó, bệnh viện làm thủ tục đưa người quá cố xuống nhà xác.


Khi được tín, tôi tìm tới nhà xác của bệnh viện. Nhìn bác nằm đấy, vẻ mặt đăm chiêu như vẫn còn đang suy nghĩ, sắp xếp những chương mục cho cuốn sách, tôi không khỏi ngậm ngùi thương cảm cho số phận nghiệt ngã của bác.

Than ôi! Thế là một cuộc đời khổ ải đi tìm chân lý, đi làm cách mạng… đã vụt tắt. Một cuồng vọng nói lẽn sự thật, bất chấp bao đe doạ, cuối cùng đã bị chặn lại bởi một cái chết đột biến, tức tưởi. Hành trình đầy triển vọng, với mộng ước thực hiện một cuộc cách mạng huy hoàng cho dân tộc, và cho cả nhân loại, với phát minh một “lý thuyết hiện tại sống động”, với một “lô-gích vừa biện chứng, vừa hình thức” tử nay bị dang dở. Cả một sự nghiệp triết học trải nghiệm công cuộc cách mạng Việt Nam rồi đầy sẽ chìm vào quên lặng…


Vả cuốn sách mang hi vọng “giải mã, giải tà quá khứ để giải thoát, giải phóng hiện tại và tương lai… để chuộc tội” mà bác nóng lòng hoàn thành, nay đã vĩnh viễn chìm vào im lặng!

Một cuộc đời thanh bạch, chân thật, không hạnh phúc, không danh vọng đã kết thúc thật oan nghiệt!

Nghĩ lại những giây phút vui mừng, lạc quan, tràn đầy hi vọng, tưởng như cuối cùng, may mắn và hạnh phúc đã đến với bác Thảo. Nhưng chúng đã bị tan biến thật phi lý.

Nhìn bác khiêm tốn nằm đấy, ai câng nghẹn ngào. Không cầm được nước mắt, khóc thương cho một kiếp người tận tuỵ với lý tưởng, với chân lý, nhùng rồi giấc mộng đã không thành….
Chỉ còn biết nguyện cầu cho vòng linh bác dược an nghỉ từ đây!


Sáng hôm chủ nhật 25 tháng tư, Canh rủ tôi vào thăm lại bác lần cuối. Tới nơi thì thấy đã có mấy người thân với bác lúc cuối đời đang ngậm ngùi chung quanh bác. Tôi chỉ nhận ra bà Bích Hồng, bà Hồng Hạnh là hai người đang sụt sùi khóc, giáo sư Boudarel, và một nữ ký giả Pháp, và vài người nữa tôi không nhớ tên… Nhờ anh Lê Tiến lúc đó có mang theo máy chụp hình nên đã ghi lại được giây phút cảm động này.


Trong nhà xác của bệnh viện, lúc ấy, bác Thảo tạm nằm đó, trên một giường sắt cũ kỹ giản dị như cuộc đời bác: một tấm vải drap cũ trắng ngà của bệnh viện che phủ cao lên tới tận cổ, chỉ để hở phần mặt. Trên bụng bác, ai đó đã đặt một bó hoa cúc trắng. Bác nhắm mắt đăm chiêu, nhưng nét mặt vẫn cau có, tập trung, như trong đầu, tư tưởng, tinh thần, nghị lực vẫn đang sôi sục vận hành, như vẫn đang suy nghĩ về những vấn đề trọng đại của triết học, của con người… Vậy mà bộ óc cất giữ cả một kho tàng trải nghiệm về chiến tranh, về cách mạng ấy, nay đã tan vào… hư vô!


Nhìn bác cô đơn, khiêm tốn nằm đấy, tôi cảm thấy thật là hụt hẫng, như vừa mất một cái gì cần thiết cho cuộc sống tinh thần của chính tôi, như cuộc đời bỗng mất hết ý nghĩa. Cái chết của người đang nằm đây làm cho kẻ tầm thường như tôi phải băn khoăn tự hỏi: cuối cùng, sống lặng câm, vất vả, ngược xuôi, chịu đựng bao dẳn vặt, cặm cụi làm việc suốt cả đời như thế để làm gì? Để cho ai? Để còn lại gì? Tôi chỉ ghi nhận một điều này: lúc cuối đời, bác Thảo đã hăng say, hào hứng, hăm hở hoàn thành một cuốn sách “để đời”, “để trả nợ đời”… nhưng chưa viết xong phần mở đầu thì đã bị cái chết chặn lại. Cái chết đã tàn nhẫn chấm dứt sự bắt đầu của một công trình lớn! Thật là tiếc, vì bao người đang bồn chồn, nóng lòng chờ đón cuốn sách mang thông điệp “giải thoát, giải phóng” mà bác Thảo đã hứa: “Khi cuốn sách này được xuất bản thì các anh sẽ thấy mọi nút thắt, mọi trói buộc, mọi sức ép sẽ được tháo gỡ ra cho bằng hết… để minh bạch vấn đề công tội trong lịch sử… Công của ai, tội của ai? Đấy là cách chuộc tội của Trần Đức Thảo này!” Nay thì điều mong ước ấy đã tiêu tan. Đây không phải lần đầu tiên tôi thấy kẻ nhận trách nhiệm và tỏ hối hận khi đã quả trễ. Nhưng trường hợp hối hận và muốn chuộc tội bằng một công trình triết học mà bác Thảo đang làm, như tôi thấy, thì đây thật là một bi kịch lớn. Bởi đấy là một sám hối chân thành, căng thẳng, bồn chồn vội vã, sau gần cả một đời im lặng tư duy về mối tương quan giữa chân lý và cách mạng, chứ không phải chỉ là cách nói vớt vát đãi bôi lúc cuối đời của nhiều nhà chính trị…



Ông theo Nhân Văn Giai Phâẩm, diễn thuyết chống Stalin, lại  tỏ ý viết sách phê phán cộng sản.Thật là nguy cơ cho Cộng sản. Người ta phải ra tay thôi. Kế hoạch đã có từ trước. Người ta cho Trần Đức Thảo chết ở Pháp chứ không chết ở Việt Nam để tránh tai tiếng.

Tài liêu đó bây giờ ở đâu? May ra ông còn lưu lại " Những Lời Trối Trăn".

Trong các học giả, thi văn sĩ Nga và Việt Nam, Trần Đức Thảo là đại diện người đần trong cổ tích. Người ta theo cộng sản vì it hiểu biết, vì bị bắt buộc và ở trong gọng kìm cộng sản không thể thoát. Còn ông là cá ở đại dương sao lại mạo hiểm vào ao hồ, rồi tham ăn mắc phải lưỡi câu! Tâm trạng của các trí thức này khi đã "trải nghiệm" với cộng sản là tâm trạng con cá ngoài lờ và con cá trong lờ:

Con cá trong lờ đỏ hoe con mắt,
Con cá ngoài lờ ngút ngoắt muốn vô"!

Thật là:

Ma đưa lối, quỷ đưa đường,
Lại tìm những lối đoạn trường mà đi!

Thương thay! Tiếc thay!


Chúng ta chỉ biết một vài người cộng sản giác ngộ chứ không nhiều vì Cộng sản bưng bít. Tướng Mỹ là Sheridannói rằng: The only good communist is a dead communist. (Chỉ có tên cộng sản tốt là tên cộng sản chết.)

Tôi nghĩ rằng những người cộng sản đại ngộ là những người đã tự đoạn tuyệt cộng sản và đoạn tuyệt đời mình. Còn những tên Cộng sản chết già hay chết trẻ như Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương ) , Hải Triều, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng... muôn đời là những kẻ gian ác không thể là cộng sản tốt!


______


CHÚ THÍCH


(1).Trần Thị Phương Phương .Mayakovsky - Nhà thơ của cách mạng. http://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/mayakovsky-%E2%80%93-nha-tho-cach-mang

(2). Nguyễn Phượng.Mayakovsky và Trần Dần - từ những tương đồng đến những dị biệt.

http://www.webook.vn/mayakovsky-va-tran-dan---tu-nhung-tuong-dong-den-nhung-di-biet_0A1245.aspx

(3).Tha La xóm đạo” và “Hoa trắng thôi cài lên áo tím”. http://www.rfa.org/vietnamese/programs/LiteratureAndArts/read-poems-on-xmas-eve-12242011131439.html

(4). Lê Xuân Giáo Bút hiệu Hồng Liên. sinh ngày 5-10-1909 tại Nghệ An. Vượt Trường Sơn thoát chế độ cộng sản tháng 2-1958. Trong khoảng 1970, ông làm việc dịch thuật của Phủ Quốc Vụ Khanh, dịch thuật nhiều tác phẩm có giá tri như Quốc Sử Di Biên của Phan Thúc Trực,Phủ-biên-tạp-lục của Quý Đôn , Lê Trung Dung Tập Chú. ..Sau 1975, ông vượt biên qua Mỹ.

(5).Phong Lê. Phong Lê, Nhớ bác Phạm Thiều, Viện Hán Nôm. Truy cập 2008-09-24.

http://vanhoanghean.com.vn/dat-va-nguoi-xu-nghe6/nguoi-xu-nghe43/nho-bac-pham-thieu

(6).BS. Trần Nguơn Phiêu. Gió mùa đông bắc. http://svqy.org/2013/10-2013/giomua3.html

(7). BS. Trần Nguơn Phiêu – NỖI LÒNG HUỲNH TẤN PHÁT.

https://vietcongonline.com/2014/12/07/bs-tran-nguon-phieu-noi-long-huynh-tan-phat/
Labels:  

XE KAMPUCHIA - THƠ -

Saturday, July 23, 2016



XE AUTO KAMPUCHIA



Siêu xe Campuchia ra đời - "Cú tát vào mặt" ngành ô tô Việt Nam - Dư luận

Chiếc xe ô tô điện tự chế điều khiển bằng smartphone đã được sản xuất tại Campuchia trong khi đó ngành sản xuất, chế tạo ô tô Việt lại tỏ ra thua kém khi ngay cả ốc vít, dây điện cũng không thể sản xuất được.


  alt

Angkor EV 2014, được phát triển từ Angkor EV 2013, ra mắt tại nhà máy ở thị trấn Takhmao, tỉnh Kandal của đất nước Chùa Tháp.

Đây được coi là thành tựu lớn của ngành chế tạo còn non trẻ của Campuchia, đất nước vốn phụ thuộc nhiều vào hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài. Còn tại Việt Nam, thời gian vừa qua Madaz rồi đến Ford đã từ bỏ những dự án từ 700 triệu đến 1 tỷ USD sản xuất ô tô ở Việt Nam vì không thể tìm mua các linh kiện đơn giản như ốc vít, dây diện hay đồ nhựa.

alt


Xe có thể được điều khiển bằng điện thoại thông minh và thẻ căn cước tần số radio (RFID) có trang bị hệ thống GPS, có vận tốc tối đa 60 km/giờ.



alt

Chiếc xe, do nhà sáng chế Nhean Phaloek thiết kế, có vẻ ngoài khá bắt mắt cùng hệ thống cửa dựng độc đáo.



alt

Khu vực điều khiển chính tập trung ở trung tâm xe. Trên cùng là một màn hình thông tin với nhiều ứng dụng hiện đại.



alt

Ngoài hệ thống đèn LED bên ngoài, Angkor EV 2014 còn sử dụng đèn phản quang bên trong nội thất.



alt

Trước đó, vào giữa năm 2013, chiếc xe Angkor EV 2013, sản phẩm đầu tay của nhà thiết kế Nhean Phaloek, đã ra đời trong một dự án trị giá 20 triệu USD của công ty Heng. Với mức giá dưới 10.000 USD, vẫn còn cao so với giá xe cũ.


Lý giải việc Campuchia sản xuât được xe ô tô điều khiển bằng smartphone còn ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam vẫn thua kém, nhiều độc giả cho rằng nguyên nhân do lợi ích nhóm và đặt câu hỏi Tiến sỹ đã ở đâu. 
Độc giả Hùng thẳng thắn chỉ trích: Việt Nam có cả viện hàn lâm, viện KH này nọ… TS, KS của VN nhiều như nấm, thế mà xe đạp điện vẫn nhập khẩu, nồi cơm điện, bàn ủi vẫn phải lắp ráp từ linh kiện của nước ngoài. 
http://tin7.info/tong-hop/sieu-xe-campuchia-ra-doi-cu-tat-vao-mat-nganh-o-to-viet-nam-1374.html


BÌNH LUẬN CỦA SÁU XÓM GÀ  

Các ông nặng lời quá! Trung Quốc thầy ta chưa chế ra xe mà mình chế xe siêu xe sao tiện. Bất kính với thầy ta quá. Phải chờ thầy ta chế ra và cho phép, ta mới chế tạo. Hơn nữa, ngu gì mà chế xe mới. Cứ nhập cảng xe mới là nhất bản vạn lợi, ta có tiền  bỏ túi  mà các đồng chí lớn cũng vui vì có xe Mỹ triệu đô vinh quang và thắng lợi  hơn là đi xe "ma-zề inh Việt Nôm"!

Việt Nam cũng có nhân tài nhưng Cộng sản chê!  Đã có nhiều kinh nghiệm cho việc nghiên cứu và sáng chế. Khi làm thì Việt Cộng xin ké tên hoặc buộc phải có người của đảng giám hộ,  đến khi thành thì tác giả là người của đảng, bọn "ngụy" mất danh mất lợi! Nhiều công ty có tính khoa học cao bị Việt Cộng cướp vì đó là "bí mật quốc phòng" phải do đảng quản lý! Dân "ngụy" đi chỗ khác chơi!

Năm 2016, có ông Hai Lúa  tên thật là  Trần Quốc Hải (SN 1960, ngụ xã Suối Dây, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh) là nhân vật từng gây chú ý với truyền thông trong và ngoài nước vì tài năng đáng nể trong việc chế tạo các thiết bị khoa học - công nghệ.
Trong năm 2015, ông đặc biệt được biết đến rộng rãi khi đã sửa, nâng cấp và chế tạo mới hàng loạt xe tăng cho Vương quốc Campuchia. Đồng thời, ông đã được Quốc vương Campuchia trao tặng huân chương Đại tướng quân - danh hiệu được trao cho những người nước ngoài có đóng góp lớn đối với quốc gia này.
http://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/289145/hai-lua-viet-che-tao-xe-tang-nguoi-campuchia-ne-phuc.html

THƠ NHẠC

 


ĐẤT NƯỚC CỦA MA QUỶ
BÙI CHÍ VINH
Đất nước toàn đồ giả 
Sống trên quê hương như không phải của mình 
Nếu là thật, sao chính quyền không chiến đấu 
Sao giặc đến nhà vẫn ngậm miệng làm thinh?
Sao giặc đến nhà, đàn bà vẫn đỏng đảnh thời trang
Đàn ông vẫn kinh doanh trên bàn nhậu 
Con nít biết chửi thề cùng lúc với chơi game 
Đất nước đóng kịch phồn hoa như nói láo
Đất nước không còn giọt máu 
Quần đảo xanh xương hệt những nấm mồ 
Quân không điếu phạt thì làm sao khử bạo ?
Đường lưỡi bò mồm Tàu Cộng nhấp nhô
Đất nước toàn bọn vua quan bán nước nằm mơ 
Ngồi bó gối chờ Phillippines kiện cáo 
Há miệng chờ sung ngậm trái đắng Formosa 
Ăn thịt lẫn nhau chẳng khác gì linh cẩu
Đất nước cuối cùng chỉ là hư ảo 
90 triệu nhân dân như cọng rác bọt bèo 
Ai cũng mong mau đến ngày tận thế 
Gặt hết những gì ma quỷ đang gieo ! 
18-7-2016
 BCV

CHÂN DUNG TỰ HỌA
     
Tôi dang hai cánh tay đàn bà
ôm lấy cuộc đời đầy lửa đạn
tôi đã sống như loài bò sát
với đôi ngươi và những mấu chân
tôi đã bám lì mặt đất yêu thân
tôi đã bám, như loài rắn rết
rồi tôi sẽ xa anh và xa hết
tôi chết đi xin người rũ cờ tang
khóc thương tôi, như đã khóc thương chàng...
Khóc thương tôi, chỉ vì tôi đã khóc
tôi đã đổ một trùng dương lệ ngọc
tôi vốn nòi khóc mướn thương vay...
tôi chẳng là gì hết của hôm nay
tôi, sinh vật đã già như cây cỗi
tay móng nhọn che mặt trời tiếc nuối
mặt mày nhăn như loài cú rừng hoang
như con mèo đêm mỗi tối lang thang
trong ngõ ngách lên lời than thở vội...
Tôi từ chối sống bằng-cây-cối
để sa sút, tôi trở thành cỏ dại
tôi đã góp hai bàn tay tội lỗi
vào cuộc đời tôi thệ thốt yêu đương
tôi, đàn bà, với trăm nỗi xót thương
đã tham dự chiến trường không dám hỏi
hỏi giùm tôi, xin hỏi giùm tôi với!
khóc thương tôi, xin hãy khóc thương nàng...
     
                                   VI KHUÊ
      SELF-PORTRAIT
    
I open both my feminine arms
to embrace this life full of fire and sword;
I have lived like what reptilians afford
with a couple of pupils and the clinging feet;
I have stuck obstinately to this earth so sweet;
I have clung to it like a snake or centipede,
then I get away from you and all in deed.
On my death please sing the mourning hymn
to cry and regret me just as you did Him...
Grieve for me because I have wept,
I have shed an ocean of pearl tears well kept,
for I am by birth a compassionate artiste...
I am today nothing at all and at least.
I am already as old a creature as a stunted tree,
with sharp-nailed hands to shade the sun free,
with a wrinkled face like a wild owl
or a she-cat each night wandering to scowl
in the blind alleys to repeatedly lament...
I have refused, for living equal to trees a bent,
to fall into decay; I have become a weed
contributing my two hands to sinful deed
in the life where I have vowed love.
I, with a lot of compassion of a dove
have taken part in the battle daring not ask.
Question for me, please question for me, unmask!
Grieve for me, please cry and regret Her...
     
Translation by THANH-THANH

QUÊ HƯƠNG ĐÊM MA GIỚI
Người tiều phu già
Đi ngang thành phố
Tìm một bóng mát nghỉ bên đường
Người tiều phu buồn nhìn cây xanh trơ gốc
Và thành phố chỉ còn mặt trời
Chói lòa.
Người tiều phu già
Mang chiếc búa cùn
Bước theo từng bước
Với chiếc bóng cô đơn
Chiếc bóng bị chém ra từng mảnh
Tan vào hư không.
Người ngư phủ
Đi vào thành phố
Đầy mùi cá ươn
Người giăng chiếc lưới rách
Lên đám cỏ công viên
Người ngủ một giấc nghìn thu
Như con cá bị nhiễm độc
Hai mắt trừng nhìn về biển màu đen.
Người ngư phủ
Mơ thấy chiếc thuyền
Đầy màu sắc xa xưa
Nhớ một thời có nắng có mưa
Và khoang thuyền đầy cá trúng mùa
Nhìn những con cá nhảy múa
Như nhịp tim chính mình mừng vui.
Người nông dân
Đi vào thành phố
Đang thiếu nước ngọt trầm trọng
Người mang chiếc nón lá rách
Hứng từng giọt thủy ngân
Đêm khuya hừng hực không một giọt sương
Người nông dân
Bước trên đường nhựa nóng
Qua những nhánh cỏ úa
Như bước trên nền ruộng khô
Người tìm cả bầu trời
Đàn cò đã mõi cánh biệt tăm.
ĐK:
Người người đi vào thành phố
Cờ xí biểu ngữ rợp trời
Bước chân rầm rập
Tiếng hô lồng lộng
Vang. Vang.Vang.Vang
Chiều chập choạng
Có tiếng sóng thần ầm ầm lướt qua
Có chiếc pháo hoa
Nở lạc loài trên bầu trời
Soi mặt những bức tượng đồng
Im lặng
Lạnh lùng
Oan khiên!
NGHIÊU MINH
CHIỀU NGHE GIÓ QUA TRONG LÒNG ĐẤT

Một chiều chơ vơ
Ta nghe gió qua trong lòng đất
Mà không thấy tóc bay
Ta sẽ nhớ miệt mài
Về một bóng ai
Mà những năm tháng dài
Ta cùng người ngồi dưới mái hiên
Thì thầm
Một chiều miên man
Ta nghe gió lướt qua châu thân
Cùng những con đường quê
Đầy bông cỏ may
Ta vẫy tay chào ngày tháng cũ
Không còn trở lại đây
Chẳng bao giờ
Một chiều trong giấc ngủ đen
Ta như cánh diều bay
Bay vào ngút ngàn
Hòa vào biển vắng đêm nay
Ta chờ cuộc luân hồi
Như chờ nhánh tóc em bay
Chẳng bao giờ
Phải không em?
Chiều hoang vu
Gió đã giả từ
Không qua đây
Ta ôm lòng đất
Nhớ vu vơ
Nhớ vu vơ!
NGHIÊU MINH


PHẠM HỒNG THÚY *THẢM HỌA TỪ HÁN TỘC


THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 22-7-2016

Quê Mẹ giới thiệu : Một Lá Thư viết bằng những lời đơn giản, với những sự việc cụ thể hằng ngày, như tin hoạt động kinh tế các công ty đầu tư đăng trên báo đài. Thế nhưng đằng sau những lời đơn giản ấy là một tấm lòng. Đằng sau những hoạt động kinh tế bình thường kia, lộ ra một âm mưu, một kế sách có tính trường kỳ và thôn tính của loài Khủng long tái hiện nơi mảnh đất Sông Hồng thuộc Giao Châu cũ, nơi người Cộng sản đang sắp hàng tái xin Bắc thuộc.
 
Đọc hay không đọc Lá Thư viết từ Hưng Yên của Hồng Thuý, thì những điều bà nói ra đã là sự thật loang đốm trên dải đất quê hương. Thật hay không thật, hết là vấn đề bàn cãi, tranh luận. Vì nó đã thành hậu quả, đã là hệ quả của giới lãnh đạo phi dân tộc mác xít họ Hồ. Còn lại chăng là động thủ của người Kháng chiến Việt muôn đời trong tâm trí và trong hành động như lẽ sống còn của mảnh đất cheo leo giữa Núi và Biển ?
Quê Mẹ

I
THẢM HỌA DIỆT CHỦNG ĐANG
Ở NGAY TRƯỚC MẮT

Từ lâu, Trung Quốc đã thực hiện cuôc diệt chủng đối với các dân tộc nhỏ để giành đất cho người Hán.


Từ tháng 04.1975 tới cuối năm 1978, 3,5 triệu người Campuchia đã bị hành quyết bằng cách đập vỡ sọ thông qua bàn tay Khơ me đỏ. Từ đấy loài người đã biết đến chính sách diệt chủng của Trung Quốc ở Campuchia, nhưng ít người biết rằng Trung Quốc đã thực hiện chính sách này đối với tất cả các dân tộc không phải người Hán. Ở Việt Nam cuộc diệt chủng đang bước vào giai đoạn khốc liệt.
Lá cờ Trung Quốc có 5 ngôi sao, ngôi lớn nhất thuộc về người Hán, 4 ngôi sao nhỏ giành cho các dân tộc Mãn, Hồi, Mông, Tạng, là 4 sắc tộc lớn nhất trong số hơn 100 sắc tộc không phải người Hán sống ở Trung Quốc. Chúng ta cùng nhau điểm lại, sau 67 năm dưới chế độ cộng sản, trong tổng số 1400 triệu người ởTrung Quốc còn lại bao nhiêu người Mãn, Hồi, Mông, Tạng ?
1. Người Mãn đã từng lập ra triều Mãn Thanh, cai trị nước Trung Hoa gần 3 thế kỷ (từ 1644 – 1912). Theo công bố của nhà nước Trung Quốc hiện nay còn 10,68 triệu người Mãn, nhưng thực tế con số thấp hơn nhiều, hầu như không còn ai nói tiếng Mãn hay có biểu hiện gì của sắc tộc này nữa.
2. Chữ “Hồi” dành cho 18 dân tộc ở Tân Cương, khu tự trị lớn nhất của Trung Quốc với diện tích 1,6 triệu km², dân số 21,8 triệu người, trong đó một nửa là người Hán. Duy Ngô Nhĩ là sắc dân chính tại đây chỉ còn lại 8,3 triệu người. (xem Tân Cương – Wikipedia)

3. Nội Mông là khu tự trị dành cho người gốc Mông cổ, tùng lập ra triều đại Nguyên Mông cai trị nước Trung hoa hai thế kỷ 13 và 14, có diện tích 1,183 triệu km² và dân số 24,7 triệu người. Tuy nhiên người gốc Mông Cổ chỉ còn lại 3,6 triệu, chiếm 14,7% dân số toàn Khu tự trị (xem Nội Mông – Wikipedia).
4. Người Tạng với nền văn hóa đồ sộ sống ở Khu tự trị Tây Tạng có diện tích 1,25 triệu km², nhưng dân số chỉ còn 3,18 triệu người, trong đó một phần đáng kể đã là người Hán (xem Tây Tạng – Wikipedia).
Tại các khu tự trị, thành phần dân tộc chính lại là người Hán, hàng trăm triệu người Mãn, Hồi, Mông, Tạng đã bị hủy diệt bằng mọi cách !
Ở Việt Nam, thảm họa mất nước đã đến, thảm họa diệt chủng đang đến nhưng nhiều người chưa nhận ra.
 
Babui (Courtesy Danlambao)
Babui (Courtesy Danlambao)
 

Các thủ đoạn hủy diệt đã
và đang diễn ra ở Việt Nam :

1. Hủy diệt châu thổ sông Cửu Long, nguồn lương thực và thực phẩm chính của cả nước. Việc này chúng thực hiên bằng cách xây nhiều đập thủy điện ngăn sông Mê Kông gây hạn hán và ngập mặn trầm trọng, đất nhiều nơi đã bị lún sâu, đồng thời dùng rất nhiều thủ đoạn thâm độc như thả hóa chất độc, ốc bươu vàng, … nhằm phá hoại lúa, hoa màu và thủy sản trên toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long
2. Đổ chất độc dọc bờ Biển Đông để hủy diệt các hải sản ở biển và các vùng nuôi hải sản ven biển, đầu độc toàn bộ nguồn muối ăn của người Việt, ngăn cấm ngư dân Việt Nam đánh bắt xa bờ !
3. Hủy diệt các sông trên toàn bộ miền Trung thông qua hàng trăm đập thủy điện, khai thác bâu xit, thương lái Trung Quốc bày trò mua chanh leo giá cao để dân phá cà phê, hồ tiêu ; mua vét rong biển để triệt hạ vùng sinh thái của cá… sau đó không mua nữa vì đã phá xong.
4. Xây nhiều đập phía thượng nguồn sông Hồng và sông Đà, làm suy kiệt sông Hồng từ nhiều năm. Chuẩn bị đại dự án sông Hồng với 6 đập thủy điện mới, hủy diệt hoàn toàn hệ sinh thái châu thổ sông Hồng.
5. Xây dưng rất nhiều nhà máy nhiệt điện thải các nhà máy ở Việt Nam dùng thiết bị Trung Quốc, hàm lượng các khí thải độc hại như CO, SO2, H2S, Hg … đều cao hơn từ 19 lần tới 125 lần hàm lượng cho phép. Chất thải đổ xuống nước đã làm chết rất nhiều sông ngòi như Thị Nại, La Ngà, Bưởi… và hàng trăm km bờ biển.
6. Tung thực phẩm và thuốc men độc hại cúng các hóa chất chế biến thực phẩm độc hại tràn ngập thị trường Việt Nam, đồng thời thương lái Trung Quốc mua vét các loại thực phẩm sạch để người Việt chỉ còn có thể tiêu thụ thực phẩm độc hại, chết dần vì bệnh tật. Hiện nay số người mắc bệnh ung thư, teo não, đột quỵ và nhiều bệnh hiểm nghèo khác đã tới mức cao nhất thế giới.
Tất cả mới chỉ trong giai đoạn đầu. Nếu tình trạng nầy cứ tiếp diễn thì sau 20 năm nữa con số 90 triệu người Việt liệu có còn tới 10 triệu như người Mãn hay tới 3 triệu như người Tạng không ?
Thảm họa diệt chủng đã hiện ra trước mắt, không ai có thể cứu được dân tộc Việt Nam khỏi thảm họa này, ngoài 90 triệu người Việt. Mỗi người cần nhìn thấy cái chết đang đến với chính mình và con cháu mình, hãy chuyển tải thông tin này tới tất cả mọi người, tới mọi tờ báo, mọi phương tiện thông tin để mọi người cùng biết, cùng nhau đứng lên chống thảm họa diệt chủng đã đến trước mắt, để cả thế giới cùng biết và lên tiếng bảo vệ chúng ta.

II
CÂU CHUYỆN GIA ĐÌNH
VỚI BỨC TÂM THƯ

GỬI CÁC CHIẾN SỸ QUÂN ĐỘI
VÀ CÔNG AN NHÂN DÂN VIỆT NAM
Hồng Thúy sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước. Ông bà nội ngoại của Hồng Thúy đều tham gia các hoạt động chống Pháp từ trước năm 1945. Bố Hồng Thúy là Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Mẹ Hồng Thúy là chủ nhiệm Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị, đã cùng đồng đội vượt qua bom đạn, đưa lời ca tiếng hát tới các trận địa, góp phần vào nhiều thắng lợi trong sự nghiệp độc lập dân tộc. Hồng Thúy giới thiệu như vậy chỉ để các anh chị biết rằng những dòng này không phải do một “phần tử phản động” viết ra. Bản thân Hồng Thúy và anh chị Hồng Thúy đều từng là cán bộ nhà nước. Anh Q. và chị K. làm việc trong ngành quốc phòng. Trước kia Hồng Thúy đã lập gia đình với anh H, một thượng úy công an đẹp trai, chính trực, liêm khiết và có với anh một con gái. Năm lên 7 tuổi cháu bị sốt xuất huyết và đã mất. Bẩy tháng sau anh H. hy sinh trong khi điều tra một vụ án hình sự. Từ đó Hồng Thúy về ở với bố mẹ và không có ý định lập gia đình nữa. Tháng 8 năm 2011 nhân dân cả nước sôi sục biểu tình chống Trung Quốc xâm phạm vùng biển, cắt cáp tầu thăm dò dầu trên biển Việt Nam, Hồng Thúy tham gia biểu tình và bị bắt giam. Chờ tới chiều không thấy con về, bố Hồng Thúy gọi điện cho chú N, Thượng tướng công an, trước kia làm việc dưới quyền bố. Ngay sau đó Hồng Thúy được tự do và được một Thiếu tá công an chở về nhà. Anh Thiếu tá nói với bố Hồng Thúy : “Chú nói chị Thúy đừng tham gia biểu tình nữa, không được phép đâu. Chính bọn cháu đã đưa lên mạng kêu gọi biểu tình để bọn đầu sỏ kích động lộ mặt và xử lý đấy chú ạ”. Chủ nhật tuần ấy, chú Thượng tướng N đến thăm và ngồi nói chuyện rất lâu với bố mẹ. Sau khi chú về, bố mẹ Hồng Thúy đều rất buồn, suốt ngày bố ngồi trước máy vi tính, thỉnh thoảng lắc đầu và thở dài, mẹ Hồng Thúy vẫn lúi húi với những việc hàng ngày, không nói gì. Đôi khi Hồng Thúy thấy có ngấn nước trên khóe mắt mẹ.
Chủ nhật tuần sau đó, bố mẹ gọi cả gia đình anh Q và chị K đến ăn cơm. Sau bữa cơm, bố bảo các cháu ra ngoài sân chơi, trong phòng khách còn lại bố mẹ và các con trai, gái, dâu, rể. Bố nói giọng nghẹn ngào : “Nước mình sắp thành một khu tự trị của Trung Quốc rồi các con ạ”. Bố nói như khóc, mắt ướt đẫm. Anh Q kêu lên : “Kìa bố ! làm gì có chuyện ấy. Bố đừng tin, bọn phản động tuyên truyền bậy đấy bố ạ”. Bố chậm rãi nói : “Chú N nói với bố đấy con ạ. Chú đang giữ trọng trách trong Đảng và Nhà nước, sao có thể tung tin đồn bậy được”. Rồi bố kể lại cho mấy anh chị em những điều chú N đã nói, và sau đó bố đã lên mạng kiểm tra lại :
“Trước đây thế giới có 13 nước Xã Hội Chủ Nghĩa, Việt Nam là một. Cuối năm 1989 các nước Đông Âu đồng loạt bỏ CNXH, Liên xô đang gặp khó khăn nên không can thiệp được. Nước mình lúc ấy đang có chiến tranh biên giới với Ttung Quốc và chiến tranh Campuchia, lại bị Mỹ cấm vận nên tình hình hết sức khó khăn. Bộ Chính trị quyết định đề nghị bình thường hóa quan hệ với Ttung Quốc. Nhân dịp ấy, Trung Quốc ép mình sát nhập vào Trung Quốc sau 30 năm. Trước đây bố đã nghe nói đến Hội nghị Thành Đô năm 1990 nhưng bố không tin. Sau khi chú N nói, bố đã lên mạng đọc hồi ký của cựu thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng, cũng nói đến Hội nghị này, có cả ảnh các ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười chụp với Giang Trạch Dân, Lý Bằng tại Hội nghị nữa”.
Anh Q nói : “Sát nhập vào thì mình cũng thành công dân Trung Quốc như hàng tỷ người Trung Quốc thôi, có sao đâu bố ?”. Bố trả lời, mặt rất buồn… “Không đâu con ạ ! Các con có biết ý nghĩa năm ngôi sao trên cờ Trung Quốc là gì không ? Ngôi lớn nhất để chỉ người Hán, 4 ngôi sao nhỏ dành cho các dân tộc Mãn, Hồi, Mông, Tạng, là 4 sắc tộc đông nhất trong số hơn 100 dân tộc thiểu số ở Trung Quốc. Trước đây Mãn, Hồi, Mông, Tạng đều là những nước lớn và rất hùng mạnh. Người Mông Cổ đã thôn tính các nước từ Á sang Âu, cai trị cả Trung Quốc qua hàng thế kỷ. Người Mãn Thanh cũng cai trị Trung Quốc suốt 3 thế kỷ, trong khi họ chỉ coi nước mình là Man Nam xứ hay An Nam nhược tiểu quốc thôi. Bây giờ riêng Việt Nam mình đã 86 triệu dân, trong khi cả 4 dân tộc Mãn-Hồi-Mông-Tạng cộng lại chưa tới 20 triệu người. Các con có biết vì sao không ?. Họ bị diệt chủng ! Trung Quốc đã làm cho các dân tộc khác suy kiệt đi, để không bao giờ có thể giành lại độc lập được nữa. Riêng với Tây Tạng thì từ sau khi bị Trung Quốc chiếm năm 1959, hầu hết đàn ông và con trai Tạng bị đưa đi khai phá các vùng đất ở Tân Cương và Nội Mông, không trở về nữa. Sau này Việt Nam mình cũng sẽ như Tây Tạng thôi các con ạ !”.
Các anh chị đều ngồi yên lặng, Hồng Thúy hỏi : “Không thể khác được hay sao bố ? Con đi biểu tình, thấy nhân dân mình vẫn hừng hực khí thế, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng tuyên bố cương quyết bảo vệ chủ quyền đất nước mà”. Bố lắc đầu, mắt lại ướt đẫm và nói : “Bố cũng hy vọng như thế đấy. Bố già rồi, không còn được bao lâu nữa. Các con nhớ mình là người Việt Nam, phải có trách nhiệm trước sự tồn vong của đất nước và dân tộc”. Nhìn sang bên, Hồng Thúy thấy hai dòng nước mắt chảy dài trên gò má mẹ.
Từ hôm ấy, bố ngồi suốt ngày bên máy vi tính, đọc và viết rất nhiều. Bốn tháng sau bố qua đời. Năm 2014, Trung Quốc đưa dàn khoan 981 vào hải phận Việt Nam, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phản đối kịch liệt, Hồng Thúy lại thấy tin yêu Đảng và không nghĩ đến chuyện bố nói nữa.


Hồng Thuý là kỹ sư làm việc trong ngành điện lực, nhận thấy hầu hết các nhà máy điện và công trình điện quan trọng đều do các công ty Trung Quốc thắng thầu. Các anh chị kỹ sư lâu năm trong ngành thường nói : dòng điện là dòng máu của đất nước, khi có xung đột quân sự, Trung Quốc chỉ cần làm cho các nhà máy và trạm điện ngừng hoạt động thi toàn bộ hoạt động quân sự, kinh tế, xã hội của Việt Nam sẽ tê liệt. Những người nói như vậy đều lần lượt phải ra khỏi ngành điên lực.
Đầu năm 2015, có một việc lớn làm cho Hồng Thuý thức tỉnh : Tỉnh Ninh Thuận và Tập đoàn điện lực EVN đưa ra đấu thầu dự án Nhà máy điện gió Phú Lạc ở Tuy Phong - Ninh thuận. Hồng Thúy chịu trách nhiệm kiểm tra về kỹ thuật các hồ sơ đấu thầu. Nhiều nhà thầu bị loại từ các vòng ngoài, đến vòng cuối còn lại một tập đoàn Đức và hai công ty Trung Quốc. Nếu Trung Quốc thắng thầu sẽ rất nguy hiểm cho nền quốc phòng Việt Nam, vì trong mỗi máy phát điện gió trên cao hàng trăm mét, Trung Quốc đều có thể đặt thêm các thiết bị khác và trở thành một trạm quan sát, trạm thông tin, trạm rada và gây nhiễu các rada khác...(Chính phủ Mỹ đã quyết định cấm sử dụng các máy phát điện gió Trung Quốc trên toàn bộ lãnh thổ Mỹ, Xem http://www.reuters.com/article/us-usa-china-turbines-idUSBRE88R19220120929). Nhà máy điện gió Phú Lạc nằm gần các hệ thống phòng thủ bờ biển nam Trung bộ. Với hàng chục máy phát điện gió, Trung Quốc có thể quan sát và tiếp nhận thông tin đồng thời từ mọi hướng, theo dõi mọi hoạt động quân sự của Việt Nam trên biển và trên đất liền. Nếu xẩy ra đụng độ quân sự, quân đội Trung Quốc hoàn toàn khống chế mọi hoạt động của Việt Nam từ đất liền tới quần đảo Trường Sa. Hồng Thúy đã đề nghị loại bỏ các nhà thầu Trung Quốc, nhưng sau cùng công ty Hydrochina vẫn trúng thầu. Nghĩ rằng UBND tỉnh Ninh Thuận và tập đoàn EVN ăn cánh với nhà thầu Trung Quốc nên Hồng Thuý đã gửi thư trình bày sự việc lên Thủ tướng, Chủ tịch nước, Tổng bí thư ĐCSVN và các Bộ, Ngành có liên quan. Những bức thư đó đều không được trả lời mà Hồng Thúy còn bị đuổi ra khỏi biên chế nhà nước. Đã có một sự thống nhất từ trên xuống dưới về việc giao cho Trung Quốc những công trình tuyệt mật này sao ?

Hồng Thuý càng bức xúc hơn khi cá ở biển miền Trung chết hàng loạt, ai cũng biết do Formosa thải ra chất độc, giám đốc Chu Xuân Phàm cũng đã tự nhận lỗi khi nói : “chọn nhà máy thép hay chọn tôm cá”, hôm sau cả ban giám đốc Formosa còn cúi đầu xin lỗi…“tại hạ đáng chết”… Nhưng rồi Nhà nước lại công bố với báo chí : “Cá chết vì thủy triều đỏ” và cương quyết không cho phép điều tra nguyên nhân. Những cuộc biểu tình nổ ra khắp nơi, tố cáo Formosa phá hoại môi trường, đều bị đàn áp thô bạo. Ngày 30 tháng 6, Formosa tự nhận là thủ phạm và bồi thường 500 triệu USD. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chấp nhận ngay và kêu gọi “đánh kẻ chạy đi, không đánh kẻ chạy lại”, khác hẳn với các trường hợp vi phạm trước đây, thủ phạm đều bị đưa ra xét xử và chịu án rất nặng, bị tịch thu tài sản và lãnh cả án tử hình… Ngay trong việc Formosa nhận lỗi cũng còn nhiều điều vô lý : Formosa nói vì mất điện 4 ngày nên hệ thống lọc ngừng hoạt động, vậy máy bơm hoạt động bằng điện nào để đẩy hàng chục ngàn m³ nước thải độc hại ra biển ?. Tháng sáu Formosa mới hoạt động, nhưng việc thải độc đã xẩy ra từ tháng tư, và lượng chất độc rất lớn, đủ hủy diêt một vùng biển rất rộng, vậy chất độc từ đâu ra mà nhiều thế ?. Chất thải Formosa còn độc hại gấp ngàn lần chất độc da cam trước đây. Nạn nhân không chỉ là thế hệ hôm nay ăn phải cá và muối biển nhiễm độc mà còn di truyền cả cho con cháu sau này. Formosa là khối ung thư khổng lồ, toàn dân Việt Nam đòi cắt bỏ nhưng lãnh đạo nhà nước tìm mọi cách giữ lại. Rõ ràng đàng sau sự kiện là một ý đồ hủy diệt tàn bạo, và đàng sau Formosa là một thế lực rất mạnh, Đảng và Nhà nước VN đang bị thế lực đó điều khiển.
Tháng 6.2016, hai máy bay quân sự Việt Nam bay ra biển liên tiếp bị rớt. Nhiều câu hỏi được đặt ra : Ai đã điều máy bay quân sự ra biển trong lúc Trung Quốc đang tập trận trên biển Đông ? Máy bay chiến đấu luôn xuất phát từng phi đội từ hai chiếc để bảo vệ lẫn nhau, tại sao SU30 phải bay một mình ra biển ? Tại sao anh phi công Cường lại thấy hai tầu chiến Trung Quốc trong hải phận VN khi nhảy dù khỏi máy bay ? Tại sao sau khi nói ra điều này, anh Cường đang khỏe mạnh phải vào bệnh viện và không được đi dự đám tang anh Khải ? Cái gì gây ra vết thương lớn ở đốt sống cổ anh Khải trước khi anh rơi xuống biển ? Máy bay SU30 phát tín hiệu gặp nạn ở bờ biển Nghệ An, ai đã phát lệnh cho máy bay CASA C-212 ra Hạ Long để tìm và rơi ở đấy ? Cả hai máy bay rơi xuống nước đều bị xé tan từng mảnh nhưng chỉ đưa tin máy bay gặp tai nạn, sao không nghĩ rằng máy bay bị bắn hạ ? Tại sao chỉ nói đến việc tìm kiếm và đưa tang, không hề nói đến việc điều tra nguyên nhân máy bay rơi ?. Rõ ràng sự kiện này cũng bị một thế lực rất mạnh dàn dựng. Hai chiếc máy bay quân sự hiện đại của Việt Nam được điều ra biển để làm mục tiêu bay cho hải quân TQ tập trận mà thôi !
Thiếu tướng anh hùng quân đội Lê Mã Lương nói : “Chúng ta đã mất quyền bay trên Biển Đông…” ; Thiếu tướng nguyên phó tư lệnh Quân khu 5 Trần Minh Hùng nói : “Toàn bộ tuyến đường Trường Sa, Hoàng Sa và Võ Nguyên Giáp (từ chân núi Sơn Trà đến phường Điện Nam, xã Điện Ngọc, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam) là tuyệt mật, bất khả xâm phạm, nhưng đã nằm trong tay người Trung Quốc...”. Hai vị trung tướng Đồng Sỹ Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh tố giác 10 tỉnh phía Bắc cho Trung Quốc thuê 305.535 ha rừng đầu nguồn là : “Hiểm họa cực lớn đối với an ninh nhiều mặt của quốc gia…”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng 165 nhà khoa học hàng đầu của Việt Nam đã ký giấy phản đối việc cho Trung Quốc khai thác bauxite Tây nguyên là một “Nguy cơ cực kỳ lớn đối với an ninh quốc phòng”. Tất cả đều chỉ là những tiếng kêu vô vọng, không ai có đủ quyền hạn để ngăn chặn những hiểm họa đe dọa sự sống còn của đất nước !


Cũng trong thời gian này, hàng trăm ngàn “khách du lịch” từ Trung Quốc tràn vào các thành phố Đà Nẵng, Hội An, Cam Ranh, Nha Trang… quậy phá. Hàng ngàn hướng dẫn viên du lịch Trung Quốc công khai giới thiệu với du khách Trung Quốc rằng đây là vùng biển của Trung Quốc, lãnh thổ của Trung Quốc đã bị đánh cắp, đang trở lại với Trung Quốc mở ra khăp nơi, cấm người Việt không được bước vào. Trước tất cả các hiện tượng đó, không hề thấy công an hay thanh niên xung phong được điều đến để giải quyết, và chính quyền các cấp hoàn toàn làm ngơ ! Rõ ràng sự việc này cũng bị một thế lực rất mạnh dàn dựng, không phải từ Đà Nẵng, Nha Trang, Hà nội, mà từ Bắc Kinh.
Ngày 12.07.2016, Tòa Trọng tài Thường trực Quốc tế tuyên bố Trung Quốc không có cơ sở pháp lý để đòi quyền lịch sử với các nguồn tài nguyên bên trong “đường lưỡi bò”. Philippines chỉ là nước nhỏ, bị thiệt hại một phần nhưng đã đứng ra kiện Trung Quốc và đã thắng lợi. Việt Nam với 93 triệu dân, lại là nước bị thiệt hại nặng nề nhất, sẽ mất toàn bộ biển vì “đường lưỡi bò” nhưng không dám làm việc này. Lãnh đạo Nhà nước Việt Nam chỉ còn là những tên tay sai đắc lực của Trung Quốc, đâu nghĩ đến đòi quyền lợi cho đất nước.

Những điều bố Hồng Thuý nói sau khi gặp cố Thượng tướng N. trước đây 5 năm, giờ đây rõ ràng là sự thật. Nếu toàn dân Việt Nam không đứng lên đẩy lùi thế lực đen tối đang điều khiển Đảng và Nhà nước thì Việt Nam sẽ bị sát nhập vào Trung Quốc và dân tộc Việt Nam sẽ bị diệt vong. Thời gian 30 năm kể từ Hội nghị Thành Đô đã gần hết, chỉ còn lại 4 năm nữa thôi. Con tàu Đất Nước đang bị những kẻ phản bội bán rẻ cho một đảng cướp tàn ác và hiểm độc, nhưng hầu hết người trên tầu chưa biết mình đang bị lừa vào chỗ chết !

KÍNH GỬI CÁC CHIẾN SỸ CÔNG AN
VÀ QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM !



Những sự việc trên đây đã thể hiện rất rõ : Tổ quốc Việt Nam thân yêu của chúng ta đang bị Trung quốc thôn tính. Đội tiền trạm của quân xâm lược Trung quốc đang nấp dưới danh nghĩa những công nhân nhà máy thép, nhà máy điện, công nhân xây dựng, khai thác bauxite, những đội trồng rừng, những thương lái và khách du lịch …đang lộng hành trên khắp dải đất Việt Nam, làm nội ứng cho những binh đoàn Trung quốc sẽ tràn vào cướp nước ta một ngày gần đây.


Lãnh đạo Đảng và Nhà nước CHXHCN là những kẻ nội ứng nguy hiểm nhất cho giặc. Chính họ đã cấp giấy phép cho Formosa để chúng vào và đầu độc biển Việt Nam. Chính họ đã điều công an, quân đội cải trang thành thanh niên xung phong đàn áp các cuộc biểu tình ôn hòa, để bao che cho Formosa hủy diệt môi trường Việt Nam ; Chính họ đã điều hai máy bay quân sự Việt Nam ra biển Đông làm mục tiêu bay cho hải quân Trung quốc tập trận, để uy hiếp tinh thần các tướng lĩnh và sĩ quan Quân đội NDVN. Vô hình chung chúng ta đang phục vụ cho mưu đồ xâm lược của Trung Quốc. Công an và thanh niên xung phong đàn áp các cuộc biểu tình để bảo vệ cho Formosa, đâu phải để giữ trật tự đường phố ?. Không quân bay ra biển để làm mục tiêu cho hải quân Trung quốc tập trận, đâu phải để bảo vệ biển trời tổ quốc. Giờ đây những nơi đang bị người Trung quốc quậy phá, cần được phục hồi trật tự là Cam Ranh, Đà Nẵng, Nha Trang… chứ đâu phải những cuôc biểu tình ôn hòa bảo vệ môi trường.
Có người nghĩ : chống lại Trung quốc có thể dẫn đến xung đột đổ máu, nhiều người sẽ phải hy sinh ?. Hãy nghĩ lại : nếu không chống lại Trung quốc, đất nước Việt Nam sẽ bị Trung quốc thôn tính, cả dân tộc Việt Nam sẽ bị diệt vong. Chúng ta chỉ còn một con đường duy nhất : đứng lên giữ lấy đất nước để cho cả dân tộc cùng tồn tại.
Cũng có người nghĩ : bây giờ mình tận tụy phục vụ, sau này có thể mình cũng được chính quyền Trung quốc trọng dụng.
Những gì đã xẩy ra ở Tây Tạng thì hoàn toàn ngược lại : cảnh sát và binh lính bản địa là những người đầu tiên bị điều tới những nơi xa xôi để không thể quay về với người Tạng được nữa. Công an và bộ đội người Việt sau này cũng sẽ như vậy, các bạn sẽ bị điều đi rất xa, sau khi Việt Nam bị sát nhập vào Trung quốc. Cảnh sát và quân đội người Hán sẽ đến thay thế các bạn để trấn áp mọi phản kháng của người Việt. Những binh đoàn xe tăng Trung quốc sẽ nghiền nát những đoàn biểu tình của người Việt, như họ đã từng nghiền nát hàng chục ngàn sinh viên Trung quốc ở quảng trường Thiên An Môn năm 1989. Trong số những người bị giết hại sau này sẽ có cả người thân của các bạn đấy ! Cảnh sát và binh lính Trung quốc sẽ thay các bạn đi cưỡng chế người Việt, cướp nhà cướp đất của cha mẹ các bạn để binh lính và dân Hán đến sinh sống.


Chính sách diệt chủng với người Việt sau này chắc chắn còn tàn bạo hơn với người Tạng rất nhiều, vì Việt Nam chúng ta đã từng bị Trung quốc thôn tính nhưng đã giành lại độc lập năm 905, trước đây 1111 năm. Bốn con số 1 liên tiếp như đang nhắc nhở chúng ta : quá khứ đau thương một ngàn năm Bắc thuộc chỉ được phép xẩy ra một lần thôi ! Nều lại chiếm được VN, TQ sẽ không để nền độc lập của VN tái diễn một lần nữa, bằng cách tận diệt người Việt, xóa sạch mọi dấu vết của dân tộc Việt trên mảnh đất này !
Từ nhiều năm nay, chính sách của Trung quốc “mỗi gia đình chỉ có một con” cộng với thói quen “trọng nam khinh nữ” của người Hán đã làm cho số nam ở Trung quốc nhiều hơn số nữ tới trên 200 triệu người. Sau khi đàn ông Việt Nam bị lùa tới các vùng xa xôi phía bắc Trung quốc, hàng chục triệu đàn ông Hán sẽ lao vào Việt Nam như lũ quỷ thèm khát tình dục, bắt vợ và con gái, chị và em gái của bạn làm vợ và làm nô lệ tình dục cho chúng như đa số phụ nữ Tạng ngày nay, không ai ngăn cản được nữa.
Giữa lúc tổ quốc đang lâm nguy, các chiến sỹ quân đội và công an NDVN là những người mà cả dân tộc đang trông đợi. Sức mạnh của đất nước, sự tồn vong của dân tộc đều đang nằm trong tay các bạn và các anh chị. Hồng Thúy tin rằng các bạn, các anh chị sẽ là những người đẩy lùi ý đồ xâm lược của Trung quốc, phá tan âm mưu của những kẻ đang tâm bán rẻ đất nước cho giặc, giữ cho tổ quốc và dân tộc Việt Nam mãi mãi trường tồn. Nhiều người nghĩ rằng Trung Quốc là siêu cường, Mỹ còn nể sợ, Việt Nam chống lại Trung quốc như trứng chọi đá, chống sao nổi ? Xin đừng quên thế kỷ 13, quân Mông Cổ thôn tính hầu hết các quốc gia trên khắp lục địa Á – Âu, chiếm cả Trung quốc, nhưng cả ba lần đều bị quân dân nhà Trần đánh cho tơi tả phải bỏ chạy. Cũng đừng quên quân Mãn Thanh đã chiếm trọn nước Trung Hoa khổng lồ và nhiều nước lân cận, nhưng đã tan nát trước đoàn quân thần tốc của vua Quang Trung. Dân tộc Viêt Nam với 93 triệu người là sức mạnh vô địch sẽ cùng với các bạn và các anh chị đẩy lùi quân xâm lược Trung quốc một lần nữa. Trước đây tổ tiên ta luôn phải một mình chống trả lũ ác quỷ khổng lồ phương bắc và đã nhiều lần chiến thắng, ngày nay cả thế giới tiến bộ đứng hẳn về phía chúng ta trong cuộc đấu tranh này. Thắng lợi của Philippines tại Tòa Trọng tài Quốc tế ngày 12 tháng 7 vừa qua lại một lần nữa khẳng định điều đó.
Sau khi gửi bức thư này tới các bạn và các anh chị, Hồng Thúy sẽ bị bắt và bị sát hại. Cái chết ấy sẽ góp phần cùng với các bạn và các anh chị giữ mảnh đất này cho con cháu chúng ta mãi mãi về sau, nên Hồng Thuý đã sẵn sàng đón nhận. Mong rằng những lời tâm huyết này sẽ là khúc quân hành nâng bước chân các bạn và các anh chị trong cuộc hành quân vĩ đại vì sự nghiệp thiêng liêng bảo vệ tổ quốc. Hồng Thúy xin gửi tới các bạn và các anh chị những tình cảm yêu quý và kính trọng, như với các anh chị, cha mẹ, ông bà ruột của Hồng Thúy, cũng từng là những quân nhân Việt Nam đã cống hiến hết mình cho đất nước.
Phạm Hồng Thúy


Văn Giang - Hưng Yên

ANDREW TRAN * TRẠM KHÔNG GIAN



Tại sao trạm Không-Gian của Tàu Chệt không hoạt-động lâu dài như của Mỹ ???

    Kính thưa quí bác và anh chị em thân mến :
    Cháu làm việc trong nhóm chế tạo Cung Cấp Điện Lực , Năng Lực power supply (1Megawatt) cho trạm không-gian Mỹ (Space Station ISS), từ năm 1990-2000, và 15 năm cho Satellites (Vệ-Tinh) từ  1980-1990 và 2010-2015...  Cháu hy-vọng đoán trúng , nghĩ đúng , suy xét đúng tẩy   “Tại sao trạm Không-Gian của Tàu Chệt không hoạt-động được lâu dài như của Mỹ” ???
    Trái đất chúng ta có ngày dài khoảng chừng 12 giờ và đêm là 12 giờ ... Bởi Vì trạm không-gian bay ở quĩ-đạo thấp (low orbital), nên Trạm không-gian có ngày dài khoảng 60 phút và đêm là 30 phút!
    Vì trên không-gian có nhiều tia sáng tử-ngoại, Cosmic Rays , tia sét đánh , ma xát rất mạnh với khí quyển … và Plasma… Do đó , các đồ điện-tử phải đặc-biệt chắc chắn , cứng chắc , dẻo dai , bền bỉ (Hardness, double screen) và tối-thiểu phải có 100KRad mới chịu nổi các khắc-nghiệt của các tia tử ngoại , sấm chớp , ma xát , cọ xát  với khí quyển và chịu các tia tử ngoại của vũ trụ cosmic rays ..v..v...!
    Trong trạm không-gian, nếu quí-vị hắt-xì-hơi mà không kịp che miệng thì nước miếng văng ra sẽ nhảy như cào-cào
(bouncing back and forth!).
    Chế cái cầu-tiêu trong trạm không-gian là cả một vấn-đề nhức đầu… Người ta phải chế các máy hút (Vacuum), máy hút yếu thì nước văng ra tùm-lum, nhảy như cào-cào, còn nếu máy hút mạnh thì nó kéo cả “bộ lòng , bộ ruột  chạy” ra ngoài !! (chúng cháu hay nói đùa rằng: "Bắt boss , ông xếp , ông chủ mình thử trước khi giao hàng…").
        Người boss , ông xếp , ông chủ , ông trưởng  nói rằng chế tạo cái cầu-tiêu là  “tuyệt-mật Hi-Secrete” !!! ...   Tàu Chệt không chế tạo được nó  là không thể ở lâu , sống lâu được trong không gian , trong vũ trụ !!!  chỉ sau vài hôm là phải bịt mũi trở về trái đất !!!!! (Trường-hợp Tào-Tháo đuổi thì sao?, Cháu không biết bọn họ gỉải-quyết thế nào…)
     Việc chế tạo Cái máy giặt cũng là một trong những việc , những điều rất nhức đầu !!! Vậy xin các bác động đầu , động trí , động óc , động não (nhưng không-đậy) để thử design ( sáng tạo , sáng chế ) nó một tí coi nào? ...
    Ở dưới đất , dây lạnh
(Negative-Return & Chassis) nối vào dây đất (Earth Ground) , nhưng ở trên tàu vũ-trụ, (Space ship), tại môi-trường Plasma, dây nóng (Positive) nối vào vỏ phi-thuyền (Chassis) , có mỗi cái  chuyện này thôi mà cơ quan NASA đã phải trả cho một viện đại-học 200 ngàn dollars để research nghiên cứu , điều nghiên nó !!!

    Thời xưa chúng cháu được học-tập trả-lời khi ai hỏi
“Anh làm nghề gì?” và chúng cháu có sẵn câu trả-lời là: ”Cháu bán bảo-hiểm nhân-thọ!”, ở bên Mỹ khi nghe tới 4 chữ “Bảo-hiểm nhân-thọ” thì  chẳng có người  nào hỏi câu thứ hai nữa! Thế là thoát-nạn! Bây giờ cháu làm cho công-ty tư ( không phải của chính phủ ) nên  không cần giữ-gìn sự kín đáo , bí ẩn gì nữa! Vì vậy , cháu viết ra điều nầy , chuyện nọ , việc kia  tí-tí để qúi vị không lo sợ , không e dè , không ngán thằng Tàu Chệt nữa bởi vì mình đã hiểu biết các nhược điểm , yếu huyệt , tử huyệt của bọn chúng  nó !!!
   Còn về Vệ-Tinh, hầu như tất cả các vệ-tinh bay theo đường xích-đạo! Khó nhất là chế tạo  vệ-tinh bay theo đường bắc-cực và nam-cực !! Vì từ-trường , nam châm , sức hút của  bắc-cực và nam-cực rất mạnh nên dễ  làm mất các  data information ( thông tin , tin tức dữ kiện , dữ liệu ) !!!! Nên phải dùng magnetic compensate method mà từ-trường là nonlinear! Tới năm 2005, chỉ có thể chế tạo và launched phóng lên đươc 1 cái vệ tinh loại nầy  mà thôi!!!
   Chế vệ-Tinh viễn-thông rẻ hơn vệ-tinh G-Synchronous, đồ điện-tử của vệ-tinh viễn-thông chỉ cần 100kRad tới 150Krad là đủ sống cho 10 năm tới 15 năm và bay ở low orbital qũy đạo thấp ! Còn đồ điện-tử của vệ-tinh G-Synchronous cần trên 300kRad và bay ở quỹ-đạo  cao (high orbital 35,786km, 22,236Miles)
   À, sém một chút nữa là quên nói về trạm không-gian của Tàu Chệt , đồ điện-tử trên trạm không gian của của Tàu Chệt là Transistor bình thường, chỉ có 5Krad tới 10Krad là cùng!! Nên thời-gian sống chỉ được vài năm là cùng!!! Mấy tháng trước ,  đứa em dại dột xuẩn ngốc của Hán Chệt là Bắc-Hàn thử bom nguyên-tử làm đám “Mây Ion” ( i-on ) bay lên không gian đã làm hư hay yếu đi mấy cái vệ-tinh của Tàu Chệt rồi!!!
    Hôm nào có mấy đặc công , mấy tình báo của Cộng Sản  nói rằng Tàu Chệt sẽ dùng tia sáng Laser chiếu lên Vệ-tinh Mỹ để phá hủy chúng !! ... Chuyện đó xưa rồi em ơi !!!  Năm 2000, chúng cháu đã có chế thêm các cửa sổ để bảo-vệ bằng cách đóng các cửa sổ lại khi có tia Laser chiếu lên !!!
    Vệ-Tinh mới bây giờ có thể tránh né ,
“lánh sang chỗ khác - Moving Target” khi biết tia sáng Laser chiếu lên!
Tàu Chệt chưa chế ra được Atomic clock ( đồng hồ và tần số nguyên tử )  , và vẫn dùng Atomic clock và hạng-số Pi của Mỹ ...  Khi chiến-tranh xảy ra, Vệ-Tinh Mỹ sẽ tắt đài
(Channel) , tắt , đóng khóa tần số   hay cộng trừ đi vài chục độ !!  Thế là các Hỏa-tiễn của Tàu Chệt sẽ bắn sai và rơi xuống biển hết !! Ví dầu Nếu như dẫu chúng may mắn  bay lọt qua được hàng rào , mạng lưới chắn đỡ và bảo vệ bởi các phi tiễn , hỏa tiễn  Patriot (PAC-3) hay  Thaad Missiles của Mỹ thì chúng cũng sẽ bị rơi xuống biển hết  ...!!!
    Khi nào cháu rảnh rỗi thì cháu  sẽ nói tới cách đáp máy bay trên hàng-không mẫu-hạm trong lúc Hàng Không Mẫu Hạm  đang chạy gọi là interlock ! Chỉ có Mỹ và Nga mới có hệ-thống này!
Còn phiá Tàu Chệt, máy bay phản-lực muốn đáp xuống thì HKMH phải dừng lại và đứng im ! Mà đứng thì làm mồi ngon cho các hỏa-
tiễn, phi tiễn , phi đạn của đối phương , đối thủ !!!! .... Ít nhất ,  còn tới 20 năm nữa Tàu Chệt mới ăn cắp được “Moving Target, Interlock System”.    ( *** Có lẽ đến lúc đó thì các tình hình , tình trạng , tình cảnh , tình huống và các hoàn cảnh của thế giới đã thay đổi !!!!!!   Tập cận Bình , Ngu. phú Trọng và nhiều kẻ Đầu Sỏ  khác của Cộng Sản Tàu Chệt và Cộng Sản VN đã về lòng đất , theo Mao trạch Đông , Chu ân Lai , Đặng tiểu Bình xuống âm ty , địa phủ chầu ma , chầu qủy rồi !!!!!!


LỜI BÌNH CỦA SÁU XÓM GÀ GIA ĐỊNH
Anh chàng Andrew Trần giỏi ghê! Nhờ anh mà ta hiểu được vài vấn đề. Ai ai cũng nghĩ rằng Trung Cộng bây giờ ghê gớm lắm, có tàu sân bay, có trạm không gian không kém gì Mỹ. Té ra không phải vậy. Cổ nhân nói" Của ba loài, người ba đứng". Không phải ai cũng lớp ba trường làng mà nhập học Quốc Học và làm thầy giáo dạy thể thao vài ngày như bác Cáo ta đâu! Tốt nghiệp Đại học cũng có kẻ ngu người giỏi. Tiến sĩ ngày xưa cũng có hạng văn hay chữ tốt mà cũng có hạng "đậu lạy quan xin":
"Con nên khoa bảng cha mòn trán, 
Em được công danh chị nát đồ! "
Phượng hoàng và gà khác nhau xa! Ngọc và đá khác nhau, Trung Cộng là rơm rác làm sao bì được với Mỹ!
Chuông khánh còn chẳng ăn ai 
Nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre!


TIN TỨC - TRANH GIẢ

Saturday, July 23, 2016


THÔNG TIN VÀ BÌNH LUẬN QUỐC TẾ

'Trump sẽ không đổi chính sách với VN'

  • 21 tháng 7 2016
Ông Donald Trump 
Image copyright Reuters
Image caption Ứng viên Tổng thống Mỹ của Đảng Cộng hòa, ông Donald Trump, hiểu tầm quan trọng của thương mại với châu Á, trong đó có Việt Nam, theo cố vấn của ông.
Ứng viên Tổng thống thuộc Đảng Cộng hòa của Mỹ, ông Donald Trump, sẽ không thay đổi chính sách của Hoa Kỳ với Việt Nam, quốc gia được cho là quan trọng trong khu vực châu Á, theo một cố vấn của ông này.
Hôm 20/7, trả lời câu hỏi của BBC về việc liệu dưới chính quyền của ông Trump, mối quan hệ mà Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama phát triển với Việt Nam có bị thay đổi hay không, ông Peter Navarro, cố vấn chính trị của ông Trump, nói:
"Chúng tôi chưa có một cuộc thảo luận nội bộ về vấn đề đó," ông Navarro nói với phóng viên Vincent Ni, người có mặt tại Cleveland, Hoa Kỳ, để đưa tin về chiến dịch tranh cử của tỷ phú Mỹ.
"Thế nhưng tôi không thể tưởng tượng vì sao lại thay đổi.
"Việt Nam là một quốc gia quan trọng và tôi chờ đợi các mối quan hệ ấm áp với Việt Nam và tốt cả các quốc gia khác ở châu Á với chính quyền của Trump."

'Đang bị bắt nạt'

Và ông Navarro, người đồng thời là một Giáo sư về kinh tế, nói thêm với BBC:
"Ông Trump là một doanh nhân tự do.
"Ông ấy hiểu tầm quan trọng của thương mại với phần còn lại của thế giới về mặt thịnh vượng.
"Chỉ có điều là phải tiến hành việc đó trên cơ sở bình đẳng.
"Việt Nam là một phần của châu Á, quốc gia này đang rời khỏi Trung Quốc vì Trung Quốc đang 'bắt nạt'.
"Và tôi tin là chính quyền của Trump sẽ muốn có các liên minh kinh tế và chiến lược mạnh mẽ vì hòa bình và thịnh vượng," cố vấn của ông Trump nói với BBC trong khuôn khổ một cuộc trao đổi về châu Á hôm thứ Tư, trong đó có liên quan tới an ninh Đông Á, Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản và Bắc Hàn.
Peter Navarro là một chuyên gia kinh tế, gần đây viết cuốn sách về Trung Quốc, Crouching Tiger: What China’s Militarism Means for the World.
 
Image copyright Getty
Image caption Ông Donald Trump đã giành được đủ số phiếu ủng hộ trong Hội nghị đề cử của Đảng Cộng hòa để trở thành ứng viên Tổng thống của Đảng này trong cuộc bầu cử 2016. 
http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2016/07/160721_donald_trump_policy_on_vietnam

Bảo tàng ở Việt Nam xin lỗi vì tranh giả

  • 20 tháng 7 2016
Image copyright Hochiminh City Museum of Fine Arts
Image caption Cuộc triển lãm ‘Những bức tranh trở về từ châu Âu’ tại Bảo tàng Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh
Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh gửi lời xin lỗi tới công chúng vì đã chấp thuận để triển lãm một bộ sưu tập toàn tranh giả.
Thông cáo do bảo tàng này gửi đến BBC hôm 20/7 viết: “Bảo tàng Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh đã tổ chức cuộc họp hôm 19/7 với các nhà quản lý, chuyên gia mỹ thuật và đưa ra kết luận:
“15 bức tranh thuộc bộ sưu tập của ông Vũ Xuân Chung đang triển lãm tại Bảo tàng không phải là bản vẽ do tác giả đứng tên thực hiện”.
“Ngoài ra, hai bức tranh trong bộ sưu tập này mạo danh chữ ký tác giả (họa sĩ Tạ Tỵ và họa sĩ Sỹ Ngọc)”.
“Bảo tàng tạm giữ tất cả 17 bức tranh này để phục vụ công tác điều tra”.
“Bảo tàng gửi lời xin lỗi đến công chúng vì đã chấp thuận để triển lãm diễn ra tại Bảo tàng khi các thông tin chưa đủ tính xác thực”.
Vụ việc được dư luận và truyền thông quan tâm sau khi có nghi vấn tranh của họa sĩ Thành Chương bị ký tên Tạ Tỵ tại triển lãm này.
Họa sĩ dân gian đương đại Thành Chương, người thường được biết đến với Việt Phủ Thành Chương có nhiều tác phẩm tham dự triển lãm tại nước ngoài cũng như từng được in trên tem.
Image copyright Facebook Ngo Huong
Image caption Họa sĩ Thành Chương và bức tranh bị ký tên Tạ Tỵ trong một cuộc triển lãm tại TP. Hồ Chí Minh
Cuộc triển lãm ‘Những bức tranh trở về từ châu Âu’ tại Bảo tàng Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh từ ngày 10/7 đến 21/7 với 17 bức tranh thuộc sở hữu nhà sưu tập Vũ Xuân Chung, được cho là tác phẩm của các danh họa: Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên, Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sỹ Ngọc, Nguyễn Tiến Chung và Tạ Tỵ.
Trước đó, họa sĩ Thành Chương nói với BBC: “Tôi rất sửng sốt khi phát hiện một bức tranh của mình vẽ khoảng năm 1970, 1971 bỗng nhiên thành tranh ‘Trừu tượng’ ký tên Tạ Tỵ năm 1952 trong cuộc triển lãm này”.

'Có chứng cứ'

Hôm 20/07 bà Ngô Hương, đại diện họa sĩ Thành Chương, nói với BBC:
“Họa sĩ Thành Chương đã công bố phác thảo và ảnh chụp tranh gốc làm bằng chứng ông là người đã vẽ bức tranh 'Trừu tượng' bị ký tên Tạ Tỵ”.
“Lâu nay, vấn nạn tranh giả, mạo danh trong làng hội họa Việt Nam đã có nhiều vụ, nhưng không có chứng cứ rõ ràng. May mà Họa sĩ Thành Chương còn lưu giữ được chứng cứ để làm sáng tỏ vấn đề”.
Bà Hương cũng cáo buộc ông Chung “có lời lẽ thách thức và định hành hung ông Thành Chương trong cuộc họp thẩm định tranh tại Bảo tàng Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh hôm 19/7”.
“Lẽ ra ông nên phản ứng mạnh mẽ với người đã bán cho ông bức tranh mới phải. Ông hoàn toàn có thể khởi kiện người bán để lấy lại tiền bạc và uy tín. Lúc đó có thể ông sẽ cần đến họa sĩ Thành Chương vì đó là cứu cánh của ông”, bà Hương nói.
Hôm 20/7, nhà báo tự do Nguyễn Trọng Chức, người có mặt tại cuộc họp, xác nhận với BBC: “Tôi có chứng kiến tận mắt cảnh ông Chung nhào tới định hành hung ông Chương và thốt ra những lời thô tục”.
Trước đó, ông Jean-François Hubert (người được cho là cựu chuyên gia cao cấp về nghệ thuật Việt Nam và châu Á của Hãng đấu giá Christie’s Hong Kong và cũng là người bán bộ sưu tập cho ông Vũ Xuân Chung) gửi cho một một tờ báo Việt Nam tấm ảnh chụp họa sĩ Bùi Xuân Phái, nhà phê bình mỹ thuật Thái Bá Vân đứng trước bức tranh Trừu tượng có chữ ký của Tạ Tỵ với chú thích: “Tấm ảnh được chụp ở Hà Nội năm 1972”.
Tấm ảnh này sau đó được xác định là "giả mạo".
“Ảnh ngụy tạo rõ rệt bằng cách ghép thêm bức tranh ‘Trừu tượng’ vào cánh cửa gỗ”, báo Tuổi Trẻ hôm 16/7 viết.
 http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2016/07/160720_vn_fake_paintings_exhibition

HẢI VÕ * LƯU Á CHÂU


 Bài diễn thuyết khiến cả Trung Quốc chấn động

Hải Võ |
Bài diễn thuyết khiến cả Trung Quốc chấn động
Bài diễn thuyết khiến cả Trung Quốc chấn động
(Ảnh minh họa)

"Lời của Lưu Á Châu có thể làm nhiều người không thoải mái, nhưng con người chỉ nghe lời hay ý đẹp sẽ không thể thức tỉnh được. Bài phát biểu của Lưu chính là một tiếng nói khác."



LTS: Những ngày vừa qua, Nga và Pháp ngay lập tức gia tăng cường độ chiến dịch không kích nhằm vào tổ chức khủng bố Nhà nước Hồi giáo (IS) tại Syria, sau các vụ khủng bố nhằm vào máy bay Nga và các vụ tấn công đẫm máu ở Paris.
Trong khi đó, hành động của Trung Quốc - quốc gia có 1 công dân vừa bị IS hành quyết và 3 công dân khác thiệt mạng trong vụ khủng bố Mali hôm 20/11 vừa qua - vẫn chỉ dừng lại ở tuyên bố "tăng cường hợp tác với quốc tế".
Chính phủ Trung Quốc né tránh trả lời vấn đề này, trong khi truyền thông lý giải nguyên nhân là do sự khác biệt giữa những giá trị cốt lõi về lợi ích quốc gia mà Bắc Kinh cần "cân, đo, đong, đếm" nếu tham chiến.
Nhân đây, chúng tôi xin giới thiệu tới quý độc giả bài diễn thuyết của của Thượng tướng Lưu Á Châu - Chính ủy ĐH Quốc phòng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc - phân tích cách thức mà xã hội Trung Quốc phản ứng với 1 sự kiện khủng bố phương Tây, cụ thể là vụ 11/9.
Bài diễn thuyết tướng Lưu nói tại căn cứ quân sự Côn Minh ngày 10/5/2010 (thời điểm ông vẫn mang hàm Trung tướng) và được truyền thông Trung Quốc cũng như quốc tế đánh giá là "chấn động".
Dưới đây, chúng tôi xin trích đăng bài diễn thuyết trên.
---
Tín niệm và đạo đức
Tôi là người kế thừa văn hóa Trung Quốc, cũng là người phê phán văn hóa Trung Quốc. Trong quá khứ, trước hết tôi là người kế thừa văn hóa Trung Quốc, sau đó mới là người phê phán. Hiện tại, tôi là người phê phán, sau mới là người kế thừa văn hóa Trung Quốc.
Lịch sử phương Tây là quá trình "bỏ ác theo thiện". Lịch sử Trung Quốc lại là quá trình "bỏ thiện theo ác".
Phương Tây cổ đại cấm đủ điều, chỉ có bản năng con người là không cấm. Trung Quốc cái gì cũng không cấm, chỉ cấm bản năng của con người.
Người phương Tây dám thể hiện chính mình và tư tưởng cá nhân, cũng dám "khoe" bản thân lõa thể. Người Trung Quốc chỉ biết "mặc quần áo". "Mặc quần áo" cho tư tưởng. Mặc quần áo dù sao cũng dễ hơn cởi quần áo.
Hegel nói: "Trung Quốc không có triết học." Tôi nhận định Trung Quốc hàng ngàn năm qua chưa từng sinh ra tư tưởng gia. Tư tưởng gia mà tôi nói tới, là những người có cống hiến trọng đại cho tiến trình văn minh nhân loại như Hegel, Socrates, Plato...
Lão Đam (Lão Tử) có phải là tư tưởng gia hay không? Chỉ dựa vào cuốn "Đạo đức kinh" 5.000 chữ có thể trở thành tư tưởng gia được không? Chưa kể tới "Đạo đức kinh" có vấn đề.
Khổng Tử có thể xem là tư tưởng gia chăng?
Hậu nhân chúng ta "kiểm duyệt" ông thế nào? Tác phẩm của ông chưa từng cung cấp cho người Trung Quốc một thể hệ giá trị quan về nội tâm có thể đối kháng được quyền lực thế tục. Cái ông đem lại là "tất cả xoay vòng quanh quyền lực".
Nếu như Nho học là tôn giáo, thì đó là "ngụy tôn giáo"; nếu là tín ngưỡng, thì đó là "ngụy tín ngưỡng"; còn nếu là triết học, thì đó là triết học của xã hội bị "quan trường hóa".
Xét từ ý nghĩa này, Nho học là có tội đối với người Trung Quốc. Trung Quốc không thể có tư tưởng gia mà chỉ có chiến lược gia. Xã hội Trung Quốc là một xã hội binh pháp. Dân tộc của chúng ta chỉ tôn sùng chiến lược gia.
Một nhân vật có sự nghiệp chẳng mấy thành công như Gia Cát Lượng lại được người ta hoài niệm. Ông không có hùng tâm tráng chí, dùng người cũng không đúng đắn. Có tư liệu còn chỉ rõ ông là kẻ lộng quyền.
Nhưng một người như thế lại được nâng lên tầm cao đáng giật mình. Đây cũng là một kiểu phản ánh tâm linh của dân tộc chúng ta.
Trong một hình thái xã hội như thế, có 3 loại hành vi trở nên phổ biến:
1. Ngụy biện
Con trai tôi năm nay (2010-PV) thi đỗ vào khoa báo chí một trường đại học. Khoa này là một trong những khoa báo chí xuất sắc nhất ở Trung Quốc. Tôi bèn bảo con trai đưa giáo trình để tôi xem. Xem xong tôi nói, thứ này không đáng để đọc.
Trong giáo trình có một khẳng định: Trung Quốc phát minh ra thuốc súng. Sau khi thuốc súng truyền tới châu Âu đã "phá vỡ những thành trì phong kiến thời Trung cổ" ở châu Âu.
Thật là nực cười, anh phát minh ra thuốc súng đi phá vỡ "thành trì phong kiến" của người ta, vậy thành trì của chính anh tại sao không bị phá? Ngược lại còn kiên cố hơn?
Khi thảo luận vấn đề Đài Loan tại ĐH Quốc phòng, có một quan điểm khá "ăn khách": Đài Loan là một "chiếc khóa". Nếu không giải quyết được vấn đề Đài Loan thì "chiếc khóa" sẽ chặn "cửa lớn" của Trung Quốc. Trung Quốc sẽ không có đường ra biển lớn.
Quan điểm này là ngụy biện. Tôi có thể phản bác lại trong một câu.
Tây Ban Nha sau khi trở thành cường quốc trên biển đã không hề chặn nước láng giềng Bồ Đào Nha cũng trở thành cường quốc đại dương.
Eo biển Dover (Calais), Pháp chỉ cách lãnh thổ nước Anh 28 hải lý, Anh có ngăn cản Pháp trở thành cường quốc trên biển hay không?
Mấu chốt khiến Trung Quốc mất đi đại dương chính là các thế hệ thống trị trong lịch sử không có quan niệm "hải quyền".
2. Đối ngoại mềm mỏng, đối nội tàn nhẫn
Văn minh châu Âu và văn minh Trung Quốc gần như cất bước cùng nhau, nhưng châu Âu hình thành nhiều quốc gia nhỏ, trong khi Trung Quốc hình thành một đại đế quốc thống nhất.
Nói tới điều này, chúng ta thường cảm thấy vui mừng. Kỳ thực, việc châu Âu hình thành nhiều quốc gia chính là một cách thể hiện lục địa này có tự do tư tưởng.
Mặc dù bọn họ chia thành nhiều nước nhỏ, nhưng, ít nhiều những gì có liên quan tới văn minh nhân loại đã được sinh ra từ chính những quốc gia tách rời này.
Còn chúng ta làm được gì cho văn minh thế giới?
Thống nhất giang sơn chắc chắn có liên hệ tất yếu với thống nhất tư tưởng. Xã hội chiến lược là xã hội mang tính hướng nội. Tôi từng nghiên cứu kỹ lưỡng những khác biệt giữa Mỹ-Trung: Trung Quốc ở các sự vụ quốc tế về cơ bản là mềm mỏng, đối với sự vụ trong nước thì cứng rắn.
Nước Mỹ ngược lại, cứng rắn trong lĩnh vực sự vụ quốc tế, mềm mỏng ở các vấn đề quốc nội.
Tôi không nhớ tôi đọc được vấn đề này trong cuốn sách nào, nhưng có một kết luận: Đó là do bất đồng văn hóa quyết định. Văn hóa Trung Quốc là khép kín, hướng nội; văn hóa Mỹ là cởi mở, hướng ngoại.
Quan niệm "nhất thống" cũng là một tư tưởng theo kiểu hướng nội. Điều này giải thích vì sao chúng ta là "cừu" trước các thế lực ngoại xâm, nhưng lại là "sói" trước chính đồng bào của mình.
[...]
Người Trung Quốc muốn dân mình đánh mình, đó mới gọi là dũng mãnh!
3. Thấp hèn, thô tục
Tinh thần thấp hèn tất dẫn đến hành vi thấp hèn. Tinh thần cao quý sẽ đưa tới hành vi cao quý.
Khoảng 20 năm trước, ở khu tập thể tôi sống phát sinh một chuyện thế này: Một đôi vợ chồng đòi ly hôn. Ông chồng đưa "tình mới" về nhà, cãi cọ ầm ĩ. Bà vợ chạy lên nóc nhà định nhảy xuống.
Người vây xung quanh đứng xem rất đông. Có người hào hứng hét lên: "Nhảy đi! Nhảy đi!" Sau đó bà vợ được cảnh sát cứu xuống, những người xem thậm chí còn thấy tiếc nuối.
Tôi thở dài trở về nhà, bật tivi xem. Truyền hình đang phát một câu chuyện ở châu Âu. Tại nước nào đó, tôi nhớ mang máng là Hungary, 70 năm trước có một thợ mỏ trẻ tuổi chuẩn bị làm đám cưới.
Lần cuối cùng người này xuống mỏ trước hôn lễ, tai nạn sập hầm xảy ra khiến anh ra đi mãi mãi. Cô dâu không tin người mình yêu đã ra đi nên mỏi mòn chờ đợi suốt 70 năm.
Gần đây người ta tu sửa lại hầm mỏ đã phát hiện ra một thi thể chính là chú rể khi trước. Do trong hầm không có không khí, thi thể chú rể lại ngâm trong nước chứa khoáng chất nên vẫn giữa được sự trẻ trung như 70 năm trước. Còn cô dâu khi ấy đã trở thành một bà lão tóc bạc trắng.
Bà ôm thi thể người yêu khóc thảm thiết và đưa ra quyết định tiếp tục hoàn thành hôn lễ.
Đó là một cảnh tượng chấn động lòng người: Tân nương 80 tuổi trong bộ váy cưới trang trọng màu trắng, tóc bà cũng trắng như tuyết. Người yêu của bà, vẫn trẻ trung như vậy, được đặt nằm trong cỗ xe ngựa.
Hôn lễ và tang lễ cử hành đồng thời, khiến bao người phải rơi nước mắt.
Sự kiện dễ dàng khảo nghiệm tiêu chuẩn đạo đức của dân tộc chúng ta nhất chính là sự kiện 11/9 ở Mỹ. Vụ 11/9 dù không thay đổi thế giới, nhưng đã thay đổi nước Mỹ. Đồng thời, thế giới cũng rất khó quay trở về thời điểm "trước 11/9".
Khi vụ khủng bố trên xảy ra, ở đất nước chúng ta, ít nhất là trong một khoảng thời gian, một bầu không khí "kém lành mạnh" lan tỏa khắp nơi.
Tối 12/9, có người gọi điện cho tôi nói rằng, sinh viên trường ĐH Bắc Kinh và ĐH Thanh Hoa đang "khua chiêng gõ trống".
Tôi nói đội tuyển bóng đá Trung Quốc ngày 7/10 mới thi đấu. Đó là trận cuối cùng gặp Các tiểu vương quốc Ả-Rập thống nhất (UAE), nếu thắng sẽ lọt vào vòng chung kết World Cup.
Một lúc sau tôi mới biết thì ra các sinh viên Trung Quốc đang ăn mừng tòa tháp đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới (WTC) tại Manhattan bị máy bay khủng bố đâm vào.
Trung Quốc có một đoàn đại biểu nhà báo, khi ấy đang làm việc tại Mỹ. Khi nhìn thấy tháp đôi bị đâm trúng, nhóm ký giả này không đừng được đã vỗ tay hoan hô.
Đây là một dạng thẩm thấu văn hóa. Không thể chỉ trích bọn họ vì hành động như vậy, bởi bản thân họ đã không thể tự kiểm soát được bản thân nữa. Kết quả nhóm này bị Mỹ tuyên bố "vĩnh viễn không hoan nghênh".
Tôi ở Không quân Bắc Kinh, mấy ngày ấy có nhiều người trong bộ đội tới thăm, tôi đều hỏi cách nhìn của họ về sự kiện 11/9. Tất cả đều nói: "Nổ rất hay".
Về sau tôi mới nói, đó là điều đáng buồn. Nếu những người như thế yêu Trung Quốc, vậy Trung Quốc còn cứu được không? Truyền thông thì không cần nhắc tới, vì nơi không có thời sự nhất ở Trung Quốc chính là trên mặt báo.
Năm 1997, công nương Diana qua đời trong vụ tai nạn giao thông. Bạn không cần biết Diana là người thế nào, Hoàng gia Anh ra sao, nhưng chí ít nhân vật này có "giá trị thời sự". Các tờ báo lớn trên thế giới đều đăng thông tin đó trên trang nhất, chỉ có báo Trung Quốc không đăng.
Ngày hôm đó, dòng tít lớn nhất trên báo chí Trung Quốc là "Các trường trung học, tiểu học ở Bắc Kinh khai giảng". Bài báo này chẳng khác đưa tin "Ngày hôm nay người dân Bắc Kinh ăn cơm" là mấy, giá trị chỉ có vậy.
Tối ngày thứ hai sau vụ 11/9, tôi xem chuyên mục "Phỏng vấn tiêu điểm" trên truyền hình với hy vọng được nghe một số bình luận về sự kiện này. Kết cục, chương trình tối hôm đó nói về... tăng cường tự thân xây dựng chi bộ đảng ở nông thôn như thế nào.
Anh muốn xem gì? Đều không có. Cái anh không muốn nghe thì nhất định nói cho anh nghe. "Những cái miệng quốc gia" (các MC nổi tiếng-PV) đương nhiên không có tội tình gì.
Bao người thiệt mạng trong vụ 11/9 đều là vô tội. Thứ mất đi là sinh mạng, điều tôn nghiêm nhất trên thế giới. Bản thân những sinh mạng này không liên quan gì tới chính phủ Mỹ.
Chúng ta đối đãi với người khác bằng thái độ như vậy, nhưng người ta không dùng thái độ đó đối xử với chúng ta. Đối chiếu rõ ràng nhất chính là vụ thảm án Dover.
Năm đó, một nhóm người Phúc Kiến trốn trong xe chở động vật từ eo biển Dover vượt biên vào Anh. Do bị thiếu không khí vì phải ở trong xe kín vài chục giờ đồng hồ, đa số đều bị ngạt chết, chỉ còn 2 người sống sót.
Sau khi vụ việc bung bét, Đại sứ quán Trung Quốc không có lấy một người ra mặt. Cuối cùng, người dân Anh ở Dover phải đứng ra cử hành đám tang và truy điệu những người thiệt mạng.
Rất nhiều trẻ em đã tới tham gia, trong tay chúng cầm đồ chơi do Trung Quốc sản xuất. Nhân tiện nhắc tới, trên thế giới hiện nay có tới 90% đồ chơi là "Made in China".
Phóng viên hỏi các em nhỏ: "Vì sao tới tham gia lễ truy điệu?", đám trẻ trả lời rằng: "Vì bọn họ cũng là người, đồ chơi mà chúng cháu cầm trong tay có thể do một trong số họ góp phần làm ra". Trong cả lễ truy điệu ấy không có một người Trung Quốc nào.
Thế nào gọi là văn minh, thế nào là không văn minh? Tôi vẫn đang suy nghĩ.

Hình ảnh trong vụ khủng bố New York 11/9/2001
Hình ảnh trong vụ khủng bố New York 11/9/2001
Khen ngợi khủng bố mới thực sự là khủng bố
Văn hóa Trung Quốc giáo dục ra người Trung Quốc. Đầu tiên, xem nhẹ tính mạng của bản thân thì mới coi người khác và tính mạng của họ như trò đùa. Tự thân không có quyền lực để quý trọng sinh mạng của mình, cũng không cho phép người khác có.
Lỗ Tấn từng phê phán tâm thái bàng quan cũng được "luyện" thành từ đó. Người Trung Quốc thấy người khác bị giết, không ai không hào hứng kích động.
Giai cấp thống trị cũng cố tình đưa người ra giữa đám đông để hành hình. Giai cấp bị trị thì hưởng thụ cảm giác "hưng phấn" của nhà thống trị trong đám đông.
Đặc biệt là khi phạm nhân bị xử tử bằng lăng trì, người xem đông "như rừng như biển" suốt 3 ngày 3 đêm. Ngay cả quán sá cũng mang ra đó mở hàng, đao phủ tay còn nhuốm máu vẫn cầm bánh bao rao bán.
Ngày nay không còn lăng trì nữa, nhưng thói quen "xét xử giữa công chúng" vẫn còn.
Ngày xưa người dân đi xem xử tử Đàm Tự Đồng và nhóm Lục quân tử (sự kiện Mậu Tuất biến pháp 1898-PV) như trẩy hội thì làm sao trận Giáp Ngọ (1894) không thất bại?
Còn hậu duệ của bọn họ thì thế nào? [...]
Anh thực hiện được "4 hiện đại hóa" thì có tác dụng gì? Buổi sáng tôi thường xem tivi trong khi tập thể dục. Sản phẩm "chạy" nhất trong tiết mục quảng cáo của Thời sự Buổi sáng là gì? Cửa chống trộm.
Đó là bi kịch của một dân tộc. Chúng ta sống như ở trong lồng. Khi tôi sống tại Thành Đô thì ở trong căn hộ của mấy đời Chính ủy Không quân trước đó.
Vừa vào nhà nhìn qua thì, trời ơi, như ở trong ngục vậy! Cửa sổ và ban công đều được lắp các tấm lưới chống trộm. Tôi cho bỏ hết.
Gần đây có một cuốn sách tiêu đề "Trung Quốc có thể nói 'Không'". Tôi nói, đúng là anh có thể nói "không", nhưng anh nói khi đứng sau cánh cửa chống trộm. Đó không phải là dũng cảm, mà là yếu hèn.
Kiều Lương (Thiếu tướng, tác giả quân đội nổi tiếng Trung Quốc-PV) nói rất hay: "Những người ái quốc mà đến trông thấy phường trộm cắp chó gà còn phải tránh đường để đi, lại có hào khí can đảm nói 'không' với các cường quốc phương xa!"
Cần nhìn nhận nước Mỹ khách quan, toàn diện
Mỹ là quốc gia như thế nào?
Trước đây tôi từng nghe một câu mô tả: Những gì tốt nhất và tồi tệ nhất trên thế giới cộng lại chính là New York. Dùng câu này để nói về nước Mỹ ngày nay phải chăng cũng phù hợp?
Thế hệ quân nhân chúng ta là những quân nhân gánh vác hy vọng tương lai của đất nước. Không thể làm "phái thân Mỹ", nhưng cũng không thể đơn giản là "phái chống Mỹ", mà phải là "phái hiểu Mỹ" thành thục.
Biết đối thủ mới chiến thắng được đối thủ. Hạ thấp đối thủ chính là hạ thấp bản thân. Thác Bạt Hoành (Hiếu Văn Đế triều Bắc Ngụy-PV) đổi tên nước Nhu Nhiên thành Nhu Nhu, ý là "sâu bọ", rồi ông bị chính Nhu Nhiên đánh bại, khác nào "không bằng cả sâu bọ".
Mỹ không mong Trung Quốc hùng mạnh, cũng giống như Trung Quốc không hy vọng Mỹ "xưng bá". Quan hệ Mỹ-Trung có xung đột, nhưng cũng có lợi ích chung nhất định.
Làm thế nào để hóa giải xung đột, phát triển lợi ích chung mới là điều mà các nhà ngoại giao Trung Quốc cần phải nỗ lực thực hiện.
Trung Quốc muốn phát triển thì không được đoạn tuyệt giao lưu với thế giới. Thế giới hiện tại vẫn là đơn cực. Chỉ có Mỹ suy yếu mới xuất hiện thế giới đa cực. Chúng ta không thể đoạn tuyệt với Mỹ, cũng không thể ôm kỳ vọng lớn vào Mỹ.
Hiện tại không phải là thời cơ thích hợp nhất để đối đầu với Mỹ. Lợi ích quốc gia phải là chuẩn mực cao nhất cho hành động của chúng ta.
Chúng ta cần nhẫn nại. Nhẫn nại không phải là mềm yếu. Chỉ có khuất phục mới là mềm yếu.
Mỹ đương nhiên không muốn Trung Quốc trỗi dậy, không muốn kinh tế Trung Quốc đi lên. Nhưng chúng ta cần nhớ: Đấu tranh với đối thủ thì anh nhất định phải cho đối phương chứng kiến cục diện mà họ không muốn thấy nhất.
Người Mỹ hy vọng người Trung Quốc nội chiến thì chúng ta đã nội chiến thật. Mỹ không "cười lăn cười bò" mới lạ. Đương nhiên, nếu chỉ "nằm gai nếm mật, nhẫn nại chờ thời" thì cũng không được.
Trung Quốc trong vai trò nước lớn có thể giống như một võ hiệp thời cổ đại, giấu mình trong thâm sơn cùng cốc tu luyện võ công, đợi ngày "quyết chiến" với kẻ địch hay không?
Với nguồn tài nguyên và dân số, cùng với văn hóa của Trung Quốc, Trung Quốc không có khả năng hùng mạnh như Mỹ, chưa kể nước Mỹ vẫn đang tiến lên không ngừng.
Vẫn là Mao Trạch Đông nói đúng: "Đánh vẫn phải đánh, đàm vẫn phải đàm, hòa vẫn phải hòa."
Con người cần phải mưu trí. Đấu tranh về ngoại giao càng cần mưu trí. Phải "dắt mũi" được người khác chứ không phải bị người ta "dắt mũi".
Khrushchyov (cựu Tổng bí thư đảng Cộng sản Liên Xô-PV) chính là một người mưu trí. Trong một lần đại hội, Khrushchyov "to gan" phê phán Stalin.
Có người đưa vụ việc lên báo chất vấn Khrushchyov rằng ông cũng là một nhân vật trong nhóm quyền lực cốt lõi thời Stalin cầm quyền, vậy tại sao không đứng ra phê phán từ thời đó?
Đáp lại, Khrushchyov đọc to câu hỏi một lần, sau đó hô lên trước đám đông: "Là ai đã gửi câu hỏi này? Hãy đứng ra đây!..." Ở phía dưới xao động một hồi nhưng không có ai bước ra.
Khrushchyov bèn nói: "Các anh xem, trong tình hình dân chủ, không cần e sợ như thế này mà đồng chí gửi câu hỏi còn không dám đứng ra, vậy trong bầu không khí thời kỳ Stalin, có ai dám đứng lên phê phán ông ấy?"
Cả hội trường liền vỗ tay.
Trong cuộc đấu với nước Mỹ, chúng ta cần có mưu trí như Khrushchyov. Khi cần ẩn nhẫn thì ẩn nhẫn. Giống như Đặng Tiểu Bình từng nói với Thủ tướng Canada Pierre Trudeau:
"Taoguangyanghui (chiến lược ngoại giao 'ẩn nhẫn' của ông Đặng-PV) mà chúng tôi nói đến, bao gồm bất chấp thể diện cũng phải duy trì quan hệ với quốc gia phát triển nhất trên thế giới."
Đại ý của Đặng Tiểu Bình là, Trung Quốc nhất định phải "đồng bước" cùng văn minh thế giới, không được xa rời văn minh thế giới. Khi cần đấu tranh thì quyết không nhượng bộ.
Sùng bái Mỹ là không đúng, thân Mỹ không đúng và ghét Mỹ cũng không đúng.
Chính phủ Mỹ, các chính khách và người dân Mỹ có điểm tương đồng, cũng có khác biệt. Anh phải có trí tuệ cao độ để phân biệt điều đó.
Trong quá khứ, nhân dân Mỹ giúp Trung Quốc thoát ách thực dân, cống hiến to lớn đưa xã hội Trung Quốc tiến bộ. Giữa hai nước không có xung đột về lợi ích căn bản.
Ngày nay, lợi ích quốc gia của Mỹ trải khắp toàn cầu, giữa hai nước đã có xung đột nảy sinh. Nhưng chúng ta vẫn phải dùng tâm thế đạo đức để đánh giá sự vật, không được kích động.
[...]

Một lính cứu hỏa sử dụng thiết bị ảnh nhiệt để tìm kiếm dấu hiệu của sự sống trong buổi sáng ngày 12/9/2001, khoảng 24 giờ sau khi chiếc máy bay đầu tiên đâm vào Trung tâm Thương mại Thế giới (WTC).
Một lính cứu hỏa sử dụng thiết bị ảnh nhiệt để tìm kiếm dấu hiệu của sự sống trong buổi sáng ngày 12/9/2001, khoảng 24 giờ sau khi chiếc máy bay đầu tiên đâm vào Trung tâm Thương mại Thế giới (WTC).
Điểm đáng sợ thực sự của nước Mỹ ở đâu?
Mặc dù Mỹ có quân đội hùng mạnh nhất thế giới, công nghệ tiên tiến nhất, nhưng tôi cho rằng điều này không đáng sợ. Nghe nói máy bay tàng hình của họ bay qua Trung Quốc rất tự do, nhưng điều đó cũng không có gì đáng ngại.
Những điều đáng sợ của Mỹ không nằm trong số đó.
Năm 1972, tôi theo học ĐH Vũ Hán. Trong tiết chính trị, một thầy giáo giảng rằng: "Mỹ là đại diện cho các nước tư bản chủ nghĩa 'giãy chết', giống như Mặt trời xuống núi, hơi thở đã rất yếu ớt."
Tôi - một sinh viên công-nông-binh trang bị "tận răng" - lập tức phản bác: "Thưa thầy, em cảm thấy thầy nói không đúng.
Nước Mỹ dù không giống như Trung Quốc - là Mặt trời mọc đằng Đông lúc 8, 9 giờ sáng, nhưng họ cũng không phải là hoàng hôn, mà là Mặt trời giữa trưa."
Câu nói của tôi làm thấy giáo giận tím mặt nói: "Em dám nói những lời như vậy ư!"
Thầy giáo không hỏi tôi vì sao trả lời như vậy, nhưng đã dùng ngay một chữ "dám". Tâm lý ở trong đó rất dễ dàng đoán định.
Chính "quốc gia tư bản chủ nghĩa 'giãy chết'" đã lãnh đạo cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật mới của thế giới thập niên 1990 của thế kỷ trước.
Khi tôi tốt nghiệp đại học cũng là lúc Trung Quốc cải cách mở cửa. Tôi lại có một quan điểm: Mỹ là quốc gia do hàng nghìn hàng vạn người không yêu tổ quốc của chính mình tập hợp thành, nhưng bọn họ đều yêu nước Mỹ.
Vào thời đó rất nhiều lãnh đạo một mặt thì mắng Mỹ, nhưng mặt khác lại đưa con cái sang Mỹ học hành. Sự khác biệt rất lớn!
Vậy, điểm đáng sợ của Mỹ là gì? Cá nhân tôi cảm thấy có 3 điểm:
1. Giới tinh anh của Mỹ không thể xem thường
Chế độ cán bộ và cơ chế tranh cử của Mỹ cho phép bảo đảm những nhà quyết sách của nước này là nhóm tinh anh.
Bi kịch của Trung Quốc, từ lớn như quốc gia cho tới nhỏ như từng cơ quan thì tình trạng phổ biến là, người có tư tưởng không quyết sách, người quyết sách không có tư tưởng. Người có đầu óc thì không có chức quyền, có chức quyền thì không đầu óc.
Mỹ thì ngược lại, hệ thống hình tháp của họ vừa hay phù hợp để "nâng" giới tinh hoa lên cao.
Vì vậy, thứ nhất, Mỹ không phạm sai lầm. Thứ hai, Mỹ ít phạm sai lầm. Thứ ba, nếu phạm sai lầm Mỹ cũng nhanh chóng sửa đổi.
Chúng ta phạm sai lầm, đó là thứ nhất. Thứ hai, thường xuyên phạm sai lầm. Thứ ba, phạm sai lầm rồi rất khó sửa sai.
[...]
Đối với một dân tộc hùng mạnh mà nói, tầm quan trọng của lãnh thổ đã giảm xuống, thay vào đó là theo đuổi "quốc thế" (vị thế quốc gia-PV).
Người Mỹ không có yêu sách về lãnh thổ đối với bất kỳ quốc gia nào. Họ không quan tâm tới lãnh thổ, những gì Mỹ làm trong toàn bộ thế kỷ XX là tạo dựng vị thế.
Thế nào gọi là "tạo thế"? Bên cạnh kinh tế lớn mạnh chính là lòng dân! Có lòng dân thì quốc gia sẽ có sức "ngưng tụ", mất đi lãnh thổ cũng có thể lấy về. Không có lòng dân thì anh có lãnh thổ cũng sẽ để mất.
Nhiều lãnh đạo quốc gia chỉ nhìn 1 bước. Nước Mỹ hành động thường tính trước 10 bước.
Chính vì như vậy, mỗi một sự kiện trọng đại trên thế giới kể từ sau Thế chiến II đều làm gia tăng vị thế của nước Mỹ. Nếu chúng ta để họ "dắt mũi" thì rất có khả năng sẽ đánh mất tất cả "vốn liếng" chiến lược.
Trọng tâm chiến lược của Mỹ sẽ không chuyển dịch sang châu Á, nhưng không có nghĩa là họ không bao vây Trung Quốc.
Rất nhiều người chỉ nhìn vào Mỹ bao vây Trung Quốc về quân sự, cũng như chỉ nhìn thấy chênh lệch giữa Mỹ-Trung về công nghệ và vũ khí mà không thấy được ở tầm chiến lược, đặc biệt là sự mất cân bằng ở bình diện ngoại giao còn nghiêm trọng hơn cả tụt hậu về khí tài.
Việc ngoại giao của Trung Quốc đối với Mỹ, hoặc là có hình thức mà không có giới hạn, hoặc là có chi tiết mà không có toàn cục.
Sau sự kiện 11/9, Mỹ tấn công Afghanistan trong vòng 2 tháng, áp sát Trung Quốc từ phía Tây. Áp lực quân sự từ Nhật Bản,[...], Ấn Độ cũng không giảm.
Nhìn từ bên ngoài, Trung Quốc giành được một số lợi ích từ vụ 11/9, nhưng những lợi ích này có thể sẽ biến mất chỉ sau 1,2 năm nữa.
Tôi nhận định sự bao vây chiến lược đối với Trung Quốc là một dạng khác, không phải quân sự mà vượt qua quân sự.
Những năm gần đây, các quốc gia xung quanh chúng ta đều lần lượt cải cách chế độ xã hội, [...]. Nga, Mông Cổ đã thay đổi; Kazakhstan cũng vậy, bên cạnh các quốc gia đi trước là Hàn Quốc, Philippines, Indonesia...
Mối đe dọa này đối với Trung Quốc còn nguy hiểm hơn đe dọa quân sự. Đe dọa về quân sự chỉ là hiệu ứng trong thời gian ngắn, trong khi sự bao vây bởi các quốc gia "dân chủ" như trên mới là ảnh hưởng dài hạn.
2. Nước Mỹ khoan dung và rộng lượng
Bạn nên tới châu Âu trước rồi qua Mỹ. Bạn sẽ nhận thấy sự khác biệt lớn: Buổi sáng tại châu Âu trên phố hầu như không có người, trong khi đường phố ở Mỹ có rất nhiều người tập thể dục, thậm chí cả ngày đều như vậy.
Tôi có một nhận định: Rèn luyện là một loại phẩm chất. Rèn luyện thân thể đại diện cho một dạng văn hóa cầu tiến. Muốn biết một quốc gia có mạnh mẽ hay không thì nhìn vào số lượng người tập luyện thể dục là rõ.
Người Mỹ có thể lấy quốc kỳ làm quần để mặc lên người. Tôi cũng mua một chiếc như vậy ở Mỹ và mặc thường xuyên.
Tôi mặc nó là để kỳ thị nó, để trút giận, giống như một dạng giải tỏa và thỏa mãn về tâm lý. Người Mỹ mặc nó là một kiểu chế giễu, nhưng bản chất khác nhau.
Người Mỹ có thể đốt quốc kỳ của họ giữa đường phố. Đới Húc (Đại tá không quân, Viện trưởng Viện nghiên cứu hợp tác và an ninh hải dương Trung Quốc, bạn của tác giả-PV) nói: "Nếu một quốc gia ngay cả quốc kỳ của mình cũng tự đốt được, thì anh còn lý do gì để đốt quốc kỳ của họ?"
3. Sức mạnh vĩ đại của tinh thần và đạo đức
Đây là điều đáng sợ nhất.
Sự kiện 11/9 là một thảm họa. Khi thảm họa ập đến, thứ đầu tiên gục ngã là thân thể, nhưng cái đứng vững là linh hồn. Có những dân tộc khi gặp tai họa, thân thể chưa đổ nhưng linh hồn đã tiêu biến.
Trong sự kiện 11/9 phát sinh 3 sự việc đều cho phép chúng ta nhìn thấy sức mạnh của người Mỹ.
Thứ nhất, sau khi phần đỉnh tòa nhà WTC bị máy bay đâm vào, khói lửa bốc lên, tình hình vô cùng nguy cấp. Mọi người thông qua lối thoát hiểm để ra ngoài nhưng không quá hoảng loạn.
Mọi người đi xuống, nhân viên cứu hỏa xông lên; đôi bên nhường đường cho nhau, không ai đâm vào ai. Khi có phụ nữ, trẻ em, người mù tới, mọi người tự giác nhường lối cho họ đi trước. Thậm chí một chú chó cũng được nhường lối đi.
Nếu tinh thần của một dân tộc không mạnh mẽ đạt tới trình độ nào đó thì họ tuyệt nhiên không thể có những hành động như thế. Đối diện với tử vong vẫn bình tĩnh như vậy, nếu không phải là thánh nhân thì cũng tiệm cận với thánh nhân rồi.
Chuyện thứ hai, ngày tiếp theo sau vụ 11/9, thế giới đã biết đây là hành động của các phần tử khủng bố Ả-Rập. Rất nhiều siêu thị, nhà hàng của người Ả-Rập bị những người Mỹ phẫn nộ đập phá. Các thương nhân người Ả-Rập cũng bị tấn công.
Trong thời khắc đó, một nhóm người Mỹ đã tập hợp lại và tới các siêu thị, nhà hàng của người Ả-Rập để đứng gác, đến các khu dân cư của người Ả-Rập đi tuần, ngăn chặn bi kịch leo thang.
Đây là một tinh thần như thế nào? Trung Quốc tự cổ đã có truyền thống báo thù. Tôi sống ở Thành Đô. Đặng Ngải (tướng Ngụy thời Tam Quốc-PV) phá Thành Đô xong, con trai Bàng Đức (tướng Ngụy-PV) đem nam phụ lão ấu cả nhà Quan Vũ giết sạch.
Những cuộc báo thù tanh máu không hiếm trong lịch sử Trung Quốc.
Chuyện thứ ba, chiếc máy bay Boeing 767 rơi xuống Pennsylvania vốn dĩ có mục tiêu là Nhà Trắng, sau đó hành khách trên máy bay chống trả bọn khủng bố mới làm máy bay rơi xuống. Bởi thời điểm đó bọn họ đã biết tin tòa nhà WTC và Lầu Năm Góc bị máy bay đâm vào.
Các hành khác đã nhanh chóng quyết định, không thể không làm gì mà phải quyết tử với khủng bố. Cho dù là trong tình thế như vậy, họ vẫn làm một việc: Bỏ phiếu thông qua việc "liều chết" với những tên khủng bố.
Vào thời khắc sinh tử cũng không áp đặt ý chí của mình lên người khác. Sau đó tập thể đồng tình, họ mới hành động. Thế nào gọi là dân chủ, đây chính là dân chủ.
Tư tưởng của dân chủ đã ăn sâu vào sinh mạng, huyết mạch, cốt tủy của họ. Một dân tộc như thế, họ không cường thịnh thì ai cường thịnh; một dân tộc như thế, họ không thống trị thế giới thì ai thống trị thế giới.

Ngày 11/9/2011, Tổng thống Mỹ Barack Obama và phu nhân Michelle thăm lại địa điểm mà chuyến bay số hiệu 93 đâm xuống Pennsylvania nhân hoạt động tưởng niệm 10 năm vụ khủng bố.
Ngày 11/9/2011, Tổng thống Mỹ Barack Obama và phu nhân Michelle thăm lại địa điểm mà chuyến bay số hiệu 93 đâm xuống Pennsylvania nhân hoạt động tưởng niệm 10 năm vụ khủng bố.
Tôi thường suy tư rằng: Vũ khí tân tiến, công nghệ mới nhất, lực lượng vũ trang hùng mạnh nhất thế giới nằm trong tay những người như thế rất phù hợp. [...] Cho dù nằm trong tay Trung Quốc, Trung Quốc có thể làm được gì cũng không biết chắc được.
Nước Mỹ có nhiều kinh nghiệm thành công đáng để chúng ta tham khảo, học hỏi. Sau vụ 11/9, Mỹ không thành lập "Ủy ban 11/9", cũng không thành lập bộ chỉ huy khẩn cấp gì đó.
Tôi rất phản đối những điều không thực tế. Sau khi tôi tới Không quân Thành Đô, hoặc là không họp, hoặc là ít họp. Những cuộc họp không thể tránh thì họp nhanh. Việc đầu tiên tôi làm là thay đổi "học tập Thường ủy" thành tự học. Cầm văn bản đọc thì gọi gì là học!
Tôi đấu tranh với thế lực thủ cựu. Sức lực cá nhân tôi có hạn nhưng không thể không đấu tranh, cho dù sứt đầu mẻ trán cũng không nản.
Ví dụ, thường ở trong bộ đội tôi không ăn cơm. Ngày nào về nhà được thì tôi mang theo lương khô chứ không ăn trong quân. Tôi tới sư đoàn 33, ở Không quân Bắc Kinh cũng như vậy. Nếu không thể không ăn thì tôi ăn đơn giản.
Dù nói rằng uống nửa lít rượu không đổ được hồng kỳ, ăn một bữa cơm không sập được giang sơn. Nhưng cái gì nhiều quá, lãng phí quá, để tích tiểu thành đại thì rất khó nói.
Khi nghiên cứu nước Mỹ, chúng ta nên nắm chắc nội hàm của nó. Không được chỉ nhìn những cái nhỏ, mà phải xem cái lớn.
Có một câu nói hay: Thường nghị luận khuyết điểm của người khác thì bạn là kẻ dưới đáy chuẩn mực đạo đức; thường nghị luận khuyết điểm của nhân loại thì bạn chính là tư tưởng gia.
Lời kết
Qua bài diễn thuyết 3 tiếng đồng hồ ngày hôm nay, mục tiêu mà tôi theo đuổi là sự giải phóng con người. Nếu nói rằng tôi đến đây để gặp gỡ mọi người thì không bằng nói rằng mọi người tới để "nhận biết" tôi.
Tôi đã rất phóng khoáng trao gửi "toàn bộ bản thân" cho các bạn, tôi thể hiện tư tưởng cá nhân trước các bạn. Đặc biệt, những điều tôi nói về phương Tây, về nước Mỹ cũng không tách rời chủ đề cuộc thảo luận này.
Có 2 điều tôi muốn bổ sung. Thứ nhất, tôi là một người trung thành với chủ nghĩa dân tộc. Mọi điều tôi nói ra đều vì cái tốt cho quốc gia, dân tộc.
Trong bất cứ tình huống nào, tôi cũng xem lợi ích dân tộc là tối cao. Vì điều đó, tôi chấp nhận đổ máu, sứt đầu mẻ trán. Trong đầu tôi vẫn thường hiện lên cảnh tượng trong chiến tranh Triều Tiên:
Mùa đông năm 1951, đơn vị của cha tôi tấn công quân Mỹ. Do vũ khí thua kém Mỹ nên buộc phải mai phục trong đêm tại vị trí gần quân địch nhất. Một liên đội yên lặng chờ đợi cả một đêm.
Đêm đó trời đổ tuyết lớn, lạnh vô cùng. Lúc trời sáng, còi hiệu xung phong vang lên, nhưng hơn 100 chiến sĩ mai phục ở đó không có một ai đứng dậy. Tất cả bọn họ đã chết vì lạnh.
Cho đến chết họ vẫn giữ đội hình chiến đấu. Về sau Chủ tịch Mao khi nghe báo cáo, ông lập tức bỏ mũ, đứng dậy rất lâu không nói gì.
Chiến tranh biên giới Trung-Ấn 1962, máy bay Trung Quốc tiêu diệt một đơn vị của Ấn Độ. Đơn vị này ngày xưa từng thuộc biên chế quân đội Anh, tham gia cuộc Chiến tranh nha phiến lần thứ 2, hỏa thiêu Viên Minh Viên.
Chủ tịch Mao nhận tin qua điện thoại, đập bàn đứng dậy, nói: "Quốc nhục trăm năm!"
Đồng thời, mọi người cũng nên nhận thấy, tình hình Trung Quốc so với phương Tây không giống nhau.
Có những việc mặc dù nhìn thấy rồi, nhưng lại không thể dễ dàng đạt được. Cũng có những việc còn chưa nhìn thấy. Có những khác biệt về quan niệm chỉ có thời gian qua đi mới rút ngắn khoảng cách được.
Lần đầu tiên gặp gỡ các cán bộ cấp doanh trở lên ở căn cứ Côn Minh, tôi đã vô cùng thẳng thắn, mạnh dạn nói nhiều như vậy. Đó là những thành quả nghiên cứu của tôi. Tôi chịu trách nhiệm với phát biểu của mình.
Chỗ nào nói đúng, các vị hãy ghi nhớ lấy; còn chỗ nào nói sai, mọi người hãy "vào tai này lọt tai kia", xem như chưa nghe thấy.
Mỗi con người là một cá thể, mỗi cá thể đều được tự do. Tôi không thể áp đặt tư tưởng của mình lên mọi người. Tôi cũng không thể yêu cầu tư tưởng của mọi người phải thống nhất đến một tư tưởng nào đó. Đó là điều không thể.
Thế nhưng chúng ta lúc nào cũng muốn theo đuổi mục tiêu này. Đó là điều hết sức mơ hồ, trên thực tế không thể thực hiện được.

PUTIN CẤM TRUYỀN ĐẠO

TT PUTIN RA LUẬT MỚI XEM NGƯỜI TIN THỜ CHÚA TẠI NGA NHƯ KHỦNG BỐ, CẤM KHÔNG ĐƯỢC TRUYỀN ĐẠO HAY CHIA SẺ TÍN NGƯỠNG NGOÀI NHÀ THỜ
Wednesday, July 20, 2016:
Các Giám mục Chính Thống Giáo Nga thờ Chúa đang dâng lễ
Nhà thờ Thiên Chúa giáo tại Moscow. TT Putin ra luật từ 20/7/2016, người thờ Chúa
chỉ được nói về Chúa trong nhà thời; ngoài nơi khác sẽ bị trị tội như khủng bố.
Tiên tri  Nostradamus tiên đáon Vladimir Putin là kẻ chống Chúa (Anti-Chist)
VietPress USA  (20/7/2016): Theo tin của Thông tấn Christian Radio vừa loan báo kể từ hôm nay Thứ Tư 20/7, tất cả những người theo Thiên Chúa giáo tại Nga đều bị cấm thảo luận, tuyên truyền hay đề cập đến vấn đề Thiên Chúa ngoài khu vực thánh đường hay tại những nơi quy định thể theo luật chống Khủng bố mới (Link:http://www.premierchristianradio.com/News/World/Russia-Christians-banned-from-discussing-faith-outside-church?).

Theo điều luật chống khủng bố mới nầy được ban hành thì kể từ Thứ Tư hôm nay, 20/7/2016, trở về sau, sẽ coi là phạm pháp nếu ai rao giảng, truyền dạy hay chia sẽ về tín ngưỡng đạo Chúa ngoài các nơi được chính quyền Nga ấn định.

Lãnh đạo cao cấp của Hội thánh Tin Lành Thệ Phản (Protestant Church) tại Nga là Sergei Ryakhovsky lên tiếng rằng "Luật nầy tạo ra căn bản để giết hằng loạt những tín hữu".
Các quan chức chính phủ Nga giải thích rằng luật nầy nhắm vào chống khủng bố và ngăn chận việc tuyên truyền ghét Hồi giáo.

TT Putin Nga (trái) và TT Erdogan của Thổ Nhĩ Kỳ nay cấu kết với nhau sau vụ đảo chính hụt 15/7/2016
Luật mới nầy đã được nhất trí thông qua bởi các đại biểu Quốc hội Nga và nó mang ý nghĩa rằng nếu ai bị bắt đang chia sẻ niềm tin tôn giáo về thờ phượng Chúa bên ngoài các thánh đường thì bị phạt ít nhất là 600 tiền Bảng Anh (£600.).

Các giáo dân tin thờ Chúa sợ rằng đây là cách mà chính quyền Nga của TT Vladimir Putin muốn hạ giảm số lượng các thánh đường đang được xây dựng ngày càng nhiều tại Nga; chỉ riêng trong thủ đơ Moscow đã có hơn 1000 thánh đường lớn nhỏ.

Luật nầy sẽ ảnh hưởng tới các người thờ Chúa mà theo thống kê chiếm tới 50% tổng dân số của Nga; mà trong số đó đông nhất là đạo Công giáo Orthodox chiếm tới 68% những người Christians. Có 68 Giáo phận Đông phương của Orthodox tại Nga.

Sergey Vdovin từ Liên Minh Thánh Kinh Nga (Russia Evangelical Alliance) nói rằng ông muốn rời bỏ nước Nga vì luật mới nầy. Tuyên bố trên chương trình "Premier's News Hour" (Giờ tin chính) ông nói "Tôi đã nghĩ đến luật nầy và cầu nguyện suốt 3 ngày và tôi nói "Ôi, ai có thể sống và cầu nguyện và rao giảng về đạo ở đây được nữa?"

Nhưng rồi ông nói thêm "Vậy tôi sẽ tiếp tục ở đây dù hoàn cảnh có thế nào thì Thiên Chúa vẫn tối cao hơn bất cứ gì con người có thể làm; do đó nếu quý vị đang ở dưới sự quan phòng của Thiên Chúa thì người ta đâu có làm gì được để hại quý vị"?

"Tại sao luật nầy ban hành để chống những người chân chính thờ phượng Thiên Chúa? Không gì cả.  Chúng chỉ để tiếp tục cùng nhau phụng sự, thanh sạch hơn, đoàn kết hơn và hiến dâng nhiều hơn", ông Sergey Vdoyin nghĩ rằng Chúa thử thách thôi.
Wikimedia Commons
Nhà thời Thiên Chúa giáo Orthodox tại Nga mà TT Putin cũng theo đạo nầy nhưng không đi nhà thời.
Paul Robinson, Giám đốc tổ chức từ thiện "Release International" (Phóng thích Quốc tế) chống đàn áp đã nói rằng "Hãy đặt quý vị vào hoàn cảnh những người tin thờ Chúa bình thường ở Nga đi.. Quý vị mời người bạn láng giềng đến nhà với một nhóm tin hữu thờ Chúa. Bạn gởi một Email để xác nhận lời mời đó. Như vậy bạn đã vi phạm pháp luật tới 2 lần! Kể từ ngày 20 tháng 7 năm 2016 luật pháp mới của Nga đối xử với những người tin thờ Chúa (Christians) như đối xử với tụi khủng bố!".

"Luật mới nầy ấn định phạm vi nơi nào những người Thiên Chúa giáo được phép gặp nhau và quy định những gì người Thiên Chúa giáo được phép nói cho người khác về tín ngưỡng của mình. Các nhà lãnh đạo Giáo Hội đã được thông báo sẽ quay lại thời đại cũ trước đây dưới chính quyền Xô-Viết Cộng Sản là thời gian mà Giáo hội phải trốn chui xuống lòng đất"; Ông Paul Robinson nói.

TT Mỹ Obama và TT Nga Putin gặp nhau trong lạnh lùng
"Lời bày tỏ của chúng tôi gởi đến Tổng thống Nga Putin là xin đừng nhầm lẫn xem những người Thiên Chúa giáo như là thành phần khủng bố. Hãy suy nghĩ lại, thưa Tổng thống, về Luật mới nầy và các hậu quả sẽ xảy ra đối với những người bình thường tin thờ Thiên Chúa tại nước Nga".

Tin nầy cho biết một nhóm các Luật sư Thiên Chúa Giáo đang chuẩn bị thách thức với Luật mới bắt đạo Thiên Chúa nầy của TT Vladimir Putin tại Tòa án Hiến Pháp Nga. Vụ cấm đạo Thiên Chúa giáo nầy làm người ta liên tưởng đến lời Tiên tri của Nostradamus nói và viết ra trước khi ông chết vào năm 1566 tại Pháp.

Lời Tiên tri của Nostradamus nói Vladimir Putin sẽ là người thứ 3 chống Chúa Giêsu Kitô  (Anti-Christ) nay đã thành sự thật ?
Một người Pháp tên là Michel de Nostredame sinh ngày 14 hoặc 21 tháng 12 năm 1503 và đã mất ngày 02/7/1566; khi lớn lên trở thành một dược sĩ Pháp thời bấy giờ; nhưng ông đã bước qua lãnh vực tiên tri và trở thành nhà tiên tri lừng danh thế giới cho đến ngày nay với tên gọi được đổi qua tiếng Latin là NOSTRADAMUS.
Ông được biết tiếng qua cuốn sách ông viết về các sự tiên đoán xuất bản năm 1555 mang tên "Les Propheties". Kể từ đó, sau khi ông chết thì các báo chí đưa ra những điều ông tiên đoán cho các sự kiện xảy ra trên thế giới. (Xem tiểu sử của Nhà tiên tri Nostradamus tại Link:https://en.wikipedia.org/wiki/Nostradamus ).
Một trong những tiên đoán của ông được thế giới đặc biệt chú ý hiện nay đó là ông nói nước Nga sẽ có một người lãnh đạo tên là Mamus, được giải mã là Vladimir Putin và ông Putin sẽ là một người thứ 3 chống Chúa Jesus Christ (Anti-Christ).

John Hogue là một nhà nghiên cứu về Tiên tri Nostradamus đã có một công bố nói về Nostradamus có những đoạn thơ 4 câu mang ẩn dụ được giải mã rằng "Các hàng liên quan đến người thứ 3 chống Chúa Jesus Christ (Anti-Christ) khi phân tích thấy rõ ràng là nói tới Vladimir Putin. Theo đó Nostradamus nói "Từ Phương Đông sẽ có một tên gian ác sẽ tân công người thừa kế của Romulus từ biển Adriatic, với hạm đội Libya của hắn. Những cư dân của Malta và các đảo lân cận phải run sợ.

Tiên tri Pháp Nostradamus đoán Vladimir Putin 
sẽ là kẻ Chống Chúa (Anti-Chist)?
Theo John Hogue thì "Thật không còn gì rõ ràng hơn! Những người thừa kế của Romulus là nói về các cựu đế quốc La Mã tức là phương Tây. Thuật ngữ "Libya" chỉ đơn giản đề cập đến khái niệm "phương Đông". Một tên nguy hiểm nhắc tới là một tên an ninh điệp viên hay nó là đại gian ác và tên nầy sẽ tấn công phương Tây từ biển Adriatic và rõ ràng đó là Vladimir Putin!"

Biển Adriatic là vùng biển cuối phía bắc của Địa Trung Hải, nối ra từ eo biển Otranto (nơi nối với biển Ionian) chạy dài đến tây bắc và vùng Pro-Valley. Bờ biển Adriatic gồm Italy, Croatia, Albania, Montenegro, Bosnia-Herzegovina và Slovenia.
 Trong các tiên đoán của Nostradamus nói người chống Chúa Jesus Christ thứ 1 là PAU NAY LORON = NAPAULON ROY được giải mã là vua Napoleon Bonaparte của Pháp.
Người chống Chúa thứ nhì là Hitler của Đức Quốc xã. Và nay Mabus được giải mã theo cuốn sách dày 498 trang mang tựa đề "Russian Anti-Christ", đó là Vladimir Putin (Xem Link:http://www.hogueprophecy.com/mabus/)

Các nghiên cứu khác cũng nói về Nostradamus tiên đoán rằng Vladimir Putin của nước Nga sẽ là Anti-Chist (http://worldnewsdailyreport.com/nostradamus-expert-claims-putin-could-be-third-antichrist/).
Bà tiên tri mù Baba Vanga
Nếu tham khảo từ Website về các tiên tri từ Kinh thánh đến các nhà tiên tri cận đại như bà thấy mù Baba vanga (Tại Link:http://www.alamongordo.com/ezekiel-bible-prophecy-and-world-war-iii/); chúng ta sẽ thấy các tiên đoán đều nói rằng Thế chiến Thứ III về nguyên tử sẽ khởi từ Trung Đông và bắt nguồn từ Syria. Theo các tiên tri nầy cho rằng Tổng thống Nga Vladimir Putin sẽ là người Chống Chúa (Anti-Christ) sẽ bảo trợ cho Syria, Iran, Iraq và các nước Hồi giáo để tấn công người theo Thiên Chúa giáo tức nhắm vào Tây Phương và Hoa Kỳ.

Cuộc đảo chánh quân sự dù thật hay giả vừa xảy ra và thất bại tại nước Cộng hòa Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ đang là dấu chấm của bang giao Mỹ và Thổ Nhĩ Kỳ. Lâu nay Nga và Thổ Nhĩ Kỳ căng thẳng và Mỹ đỡ đầu cho Thổ Nhĩ Kỳ; nhưng nay Thổ Nhĩ Kỳ lấy cớ cho rằng Mỹ xúi dục Giáo sĩ Hồi giáo thân Mỹ là Fetullah Gulen hiện đang tỵ nạn tại Hoa Kỳ để tổ chức đảo chánh quân sự để lật đổ chế độ của Tổng thống Recep Tayyip Erdogan. Do đó, Thổ Nhĩ Kỳ nay đe dọa chiến tranh chống Mỹ, sẽ không chống khủng bố Hồi giáo ISIS nữa, sẽ bắt tay với Nga thành một mặt trận chống Mỹ và Tây Phương.
Bà Tiên tri mù Baba Vanga tiên đoán vụ 911 sụp đổ tòa tháp đôi WTC của Hoa Kỳ, vụ chiến tranh với ISIS, và bà tiên đoán Hồi giáo sẽ tấn công chiếm Âu Châu và sau đó sẽ chiến luôn Vatican (https://www.yahoo.com/news/heres-what-baba-vanga-predicted-for-2016-and-the-192833607.html?ref=gs).  Những chuẩn bị của TT Nga Putin và TT Erdogan của Thổ Nhĩ Kỳ và muốn liên kết với khối Hồi giáo cực đoan. 

Hai nước đồng minh Hồi giáo mạnh nhất của Hoa Kỳ để chống khủng bố Hồi giáo là Thổ Nhĩ Kỳ thì nay Thổ Nhĩ Kỳ đang cho thấy là quay mặt và Ngoại trưởng Pháp nói rằng sau vụ đảo chánh hụt nầy thì chắc Thổ Nhĩ Kỳ sẽ không còn trong liên minh chống khủng bố Hồi giáo ISIS nữa.

Nước Hồi giáo thứ nhì bạn thân thiết của Mỹ là Ả-Rập Saudi. Thế nhưng vừa qua đã có những công bố của an ninh Hoa Kỳ giải mã rằng vụ khủng bố 911 là do Ả-Rập Saud9i chủ trương và mọi chỉ huy do Tòa Đại sứ của Ả-Rập Saudi tại Hoa Kỳ lên kế hoạch. Công bố nầy đang làm cho tình bạn nồng ấm giữa Mỹ và nước Cộng hòa Hồi giáo giàu có và hùng mạnh nầy đang trong thời nhìn nhau khó nói nên lời!

Lâu nay TT Vladimir Putin giúp chế độ độc tài của Tổng thống Syria là al-Assad bằng cách mượn cớ dội bom chống khủng bố Hồi giáo ISIS; nhưng thật ra chỉ dội bom tiêu diệt các lực lượng dân quân Tự do chống al-Assad và chống ISIS do Mỹ huấn luyện và tài trợ nên Mỹ đã nhiều lần lên tiếng cảnh báo Nga về vấn đề nầy.

TT Thổ Nhĩ Kỳ Erdogan (trái) và TT Mỹ Obama
hết rồi thời yêu nhau sớ môi nựng má?
Các tin tức và bằng chứng tình báo đưa ra khi Nga tố TT Erdogan bán xăng dầu và vũ khí cho ISIS; thì ngược lại Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã tố cáo ISIS mua xăng dầu và vũ khí của Nga thông qua chế độ al-Assad.. Và như vậy cho thấy cả Nga lẫn Thổ Nhĩ Kỳ đều liên kết với ISIS để kinh doanh và tạo quyền lực tại Trung Đông và vùng bắc Âu.Hiện nay Hoa Kỳ và Liên Âu đang tiêu diệt ISIS và lấy lại gần 2/3 lãnh thổ của ISIS tại Syria và Iraq thì sẽ làm cho Nga và Thổ Nhĩ Kỳ mất đi bạn hàng quan trọng. Ngoại trưởng Nga và Ngoại trưởng Thổ Nhĩ Kỳ đã gặp nhau thương thuyết các điều kiện hợp tác trước đó ít lâu rồi mới xảy ra vụ đảo chánh hụt theo tiết lộ của báo The National Interest (http://nationalinterest.org/feature/putin-may-be-turkeys-new-buddy-after-the-failed-coup-17037)

Hoa Kỳ là một nước hùng mạnh, nhưng chế độ tự do không kiểm soát được của Mỹ khiến hai đảng Dân chủ và Cộng hòa kình chống nhau làm cho đất nước gần như tả tơi và mất hết sức mạnh để chống đỡ các mặt trận từ bên ngoài. 8 năm cầm quyền của TT Barack Obama đã đưa nước Mỹ trở lại vị thế siêu cường; nhưng trong nội địa thì đảng Cộng Hòa luôn tìm cách phá cho hôi.. như những vụ đóng cửa chính phủ..Vì thế dù bị Nga hay Trung Quốc chèn ép, hù dọa trên Biển Đông; nhưng Hoa Kỳ sẽ không có quyết tâm chung để chống lại vì Quốc Hội do Cộng Hòa nắm sẽ không bao giờ cho phép Tổng thống Barack Obama hành động gì. Hơn thế nữa Hoa Kỳ đang giai đoạn tranh cử.. Bên nào đắc cử sẽ còn cả vài năm mới kiện toàn sức mạnh để đối đầu được áp lực tranh chấp quyền lực và thị trường do Nga và Trung Quốc tấn công!

TT Erdogan kết án Giáo sĩ Fethullah Gulen thân Mỹ hiện tỵ nạn tại Hoa Kỳ là kẻ tổ chức 
đảo chánh quân sự đên Thứ Sáu 15/7/2016 để lấy cớ thay đổi chế độ chống lại Mỹ
Chính vì sự khó khăn bị bó tay của Mỹ nên TT Erdogan của Thổ Nhĩ Kỳ thay đổi chính sách và chiến lược sẽ tìm cách cầu kết với Nga để tạo quyền lực thâu tóm thế giới Hồi giáo. TT Erdogan lấy cớ đảo chánh hụt để dẹp bỏ tất cả guồng máy tư pháp, luật pháp, giáo dục, Cảnh sát thuộc chính quyền "thế tục" để lập ra chế độ Hồi giáo chuyên chính, xây dựng một chế độ độc tài theo Luật Hồi giáo khắt khe. Luật nầy xem những người theo Thiên Chúa giáo dú là Công giáo, Tin Lành, Tin lành Thệ Phản, Orthodox (Chánh thống giáo của Nga) đều là những tôn giáo tin thờ Chúa sẽ là kẻ thù số một của Hồi giáo quá khích nên cần phải tiêu diệt. Nga muốn vào liê minh nầy thì buộc TT Vladimir Putin phải ra luật mới là cấm người theo đạo Thiên Chúa không còn tự do tín ngưỡng, tự do hành đạo hay bày tỏ niền tin nữa vì Luật pháp Nga kể từ hôm nay xem Thiên Chúa giáo như là khủng bố! 

Với luật mới nầy, Nga sẽ vào liên minh với Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Iraq, Syria, Yemen và có thể các quốc gia Hồi giáo Vùng Vịnh lập một linh minh với Khủng bố ISIS và các tổ chức khủng bố khác. TT Nga Vladimir Putin hôm nay ban hành luật xem người theo đâo Thiên Chúa như là khủng bố tức là một tuyên chiến với Vatican và các nước Phương Tay, kể cả Hoa Kỳ. 


No comments: