Wednesday, November 23, 2016

CHIÊM THÀNH= MỸ & TRUNG CỘNG= THƠ=PHẬT GIÁO

TRẦN THỊ VĨNH TƯỜNG * CHIÊM THÀNH

Ai về Chiêm quốc hộ Huyền Trân?”

Trần Thị Vĩnh Tường

https://khoahocnet.files.wordpress.com/2015/09/hoasu.png
Hãy cùng nhau hé mở cánh cửa bí mật vào một nền văn hoá rực rỡ, tưởng là bị lãng quên, đó là văn hoá Champa, mà ngưòi Việt quen gọi là Chiêm thành hay Chàm, Hời hay Lồi. Ngưòi Chàm tự gọi là Chăm hay Champaka, tên một loài hoa.
Hoa champaka màu trắng, chính là hoa sứ. Trong một chuyến đi cruise đầu năm 2008, tôi mang theo tập san Champaka, bìa có in một bông hoa sứ. Một nhân viên người Bali mượn đọc và cho hay hoa champaka cũng là hoa của đảo Bali, thuộc Indonesia.  Anh cũng đọc và hiểu một số những chữ Chàm in trong sách. Từ đó thủy thủ đoàn nguời Indonesian và tôi chào nhau theo kiểu Bali và Chàm, cũng giống người Việt xá nhau khi vào chùa, chắp hai tay chắp truớc ngực, đầu hơi cúi. Bông hoa, tay chắp, như dấu hiệu văn hoá xuyên quốc gia, bỗng dưng mang lại niềm vui dịu dàng suốt cuộc hải hành dù giữa một biển ngưòi xa lạ.

Hương thơm của nền văn minh rực rỡ của vương quốc Champa, xứ sở của trầm hương, đã được nhiều nhà sử học và khảo cổ học nghiên cứu. Tuy nhiên, sức tàn phá cuả thiên nhiên và con người thô bạo hơn, đến nỗi một thi sĩ người Việt là Phan Ngọc Hoan, yêu Champa đến lấy bút hiệu Chế Lan Viên, đã ai oán kêu lên :
Chắc có lẽ linh hồn ta lay động
Khi vội vàng trở lại nước non Chiêm
Chiến tranh liên tục giữa hai nước láng giềng Chàm-Việt xảy ra hàng ngàn năm đã tàn phá cả hai dân tộc. Chỉ nhắc loáng thoáng đôi điều nơi Đại Việt Sử Ký Toàn Thư :
Đời Lê, năm 982, “…vua Lê Đại Hành chém Vua Chiêm là Phế Mị Thuế tại trận, bắt sống quân giặc không biết bao nhiêu mà kể, bắt được kỹ nữ trong cung trăm ngừoi và một thầy tăng người Thiên Trúc, lấy các đồ quí mang về, thu được vàng bạc của báu kể hàng vạn, san phẳng thành trì, phá huỷ tôn miếu, vừa một năm thì trở về Kinh sư.”
Đời Lý,  năm 1044, vua Lý Thái Tôn mang quân đi đánh Chiêm Thành…”Quách Gia chém đầu vua Chiêm là Sạ Đẩu. Bắt sống hơn 5,000 nguời, còn thì bị quan quân giết chết, máu đầy gươm giáo, xác chất đầy đồng. Vua lấy làm thương xót mới hạ lệnh rằnng “Kẻ nào giết bậy ngưòi Chiêm thành thì sẽ giết không tha…”

Năm 1069, “Vua Lí Thánh Tông bắt vua nước ấy là Chế Củ và dân chúng 5 vạn nguời….

Về phía Đại Việt, ngoài những lần quân Chàm quấy đảo nơi biên giới, kinh thành Thăng Long cũng ba lần bị thớt voi Chàm dẫm nát vào những năm 1370, 1377 và 1382 do việc vua Chế Bồng Nga đòi lại hai châu Ô- Lý.

Sử sách cũng nhắc đến những khoảng thời gian hòa bình, khi liên minh Chàm-Việt dựa lưng vào nhau chống quân Nguyên. Mối giao hảo đẹp đẽ tới nỗi Thuợng Hoàng Trần Nhân Tôn, lúc đó là thiền sư, sang viếng thăm nước Chăm suốt 9 tháng. Chuyến đi này cũng quyết định cuộc nhân duyên giữa vua Chế Mân 43 tuổi và công chúa Huyền Trân 19 tuổi.

Nhắc lại lịch sử làm gì? Không ngoài mục đích nhắc nhở nhau, rằng không có qúa khứ, sẽ không có hiện tại.  Không thể thay đổi lịch sử, thì hãy cùng nhau ghi nhận, học tập những chinh chiến can qua, để thấy bài học lịch sử gồm cả khiếm khuyết của các lãnh đạo, và sự bất toàn nơi chính sự các quốc gia,

Những giọt lệ nặng chĩu dài trên má của ông Từ Công Thu – anh cả của nhạc sĩ Từ Công Phụng – ngưòi sáng lập Văn Phòng Quốc Tế Champa, khiến bài phát biểu của ông bị ngưng lại nhiều lần, cho thấy nỗi khắc khoải khôn nguôi của nguời Champa về một quê hương đã mất. Giấc mơ phục hồi vưong quốc Champa hoàn toàn bị vua Minh Mạng dập tắt năm 1832.  Lãnh thổ cuối cùng của Champa – tỉnh Bình Thuận bây giờ – không còn trên bản đồ kể từ năm ấy.  Nhưng Champa không mất, bởi vì trong Chàm có Việt, trong Việt có Chàm. Chăm-Việt đã bất khả phân ly từ hàng ngàn năm truớc.
Thế kỷ 10 và 11, dân số Đại Việt ở đồng bằng sông Hồng từ 2 triệu đến 2.600.000, thì con số tù binh 50,000 chiếm tỷ lệ khá lớn.  Đám tù binh này bị an trí ở nhiều nơi mà dấu tích còn ghi đến ngày nay:
Phía Tây Thăng Long, 2 làng Yên Sở, Đắc Sở thuộc tỉnh Hưng Yên, có đền Lý Phục Man, chung quanh có trồng rất nhiều dừa, một sản phẩm hiếm hoi của đất Bắc. Có thể tù binh của bộ tộc Dừa của nước Chăm đã trồng những hàng dừa trên để nhớ đến cố huơng. Tạ Chí Đại Trường dẫn Trần Quốc Vuợng, cho biết ngay tại Yên Sở tới bây giờ, vẫn thấy “dấu vết một nơi an tháp tù binh Chàm, vẫn nói tiếng với ngữ điệu khó nghe nhận”.
Trong số 50.000 tù binh có 100 mỹ nữ, vũ nữ hoàng gia Chàm.  Hưng Yên nổi tiếng với hát chèo, hát ả đào, có thể xuất phát từ các cung nữ Chàm. Nhóm tù binh nữ đã có kỹ thuật dệt vải riêng, nên có cả đền bà Chúa Dệt Lĩnh. Các ca nữ này cũng đã trao truyền lại những khúc hát Nam Ai Nam Binh vọng về quê hương hết sức bi thương.

Vương tử Trần Nhật Duật hay cưỡi voi đến thôn Da-da-li –gọi trệch là thôn Bà Già- nơi nguời Việt gốc tù binh Chàm sinh sống, chơi mấy ngày mới về.

Chùa Bà Đanh, hữu ngạn sông Đáy, thuộc thôn Đanh Xá, hay Đinh Xá, thuộc huyện Kim Bảng, cũng là một làng có nguồn gốc của tù binh Chăm.

Chùa Giạm, Bắc Ninh, nổi tiếng với cột đá cột đá cao chừng 5m, một khối hình trụ (đường kính 1m30) chồng lên một khối hộp (1m4 x 1m6) –  hai bộ phận sinh dục nam nữ – là biểu hiệu  cho sự trường tồn, một biệt sắc rất Chăm.

caytramhuong-thapbaothienTháp Bảo Thiên, nóc được lợp bằng đồng, cao 12 tầng, cũng là công trình của thợ Chàm. Khi quân nhà Minh xâm chiếm Đại Việt, đã gỡ lớp đồng để đúc khí giới. Chỉ mới cách đây vài tháng, tháp Bảo Thiên là đề tài tranh dành giũa hai giáo hội Ki-Tô giáo và Phật giáo trong nước. Rất ngộ, không thấy hai giáo hội – và đồng nghiệp – nhắc nhở, hay hỏi ý kiến sở hữu chủ thật sự của địa điểm lịch sử này, là dân tộc Việt Nam.

Vào đến miền Trung, sự pha trộn văn hóa Champa-Việt còn rõ ràng hơn: từ tục thờ cúng Cá Ông, đến việc thờ nữ thần Thiên Y A Na – bà mẹ vương quốc Chămpa – ngự ở đền Ngọc Trản, tức điện Hòn Chén, mà triều đình nhà Nguyễn sắc phong làm Thượng Đẳng Thần. Người Bắc di cư 1954, mang theo bà chúa Liễu Hạnh tá túc thờ chung ở đền này.Theo Phan Khoan, cống phẩm của Champa cho Đại Việt năm 1659 gồm 2 con voi đực, 20 con bò sắc vàng, 6 cặp ngà voi, 10 sừng tê giác, 50 cân sáp vàng, 50 khăn luạ trắng, 200 bó vi cá, 200 cây gỗ mun, 1 cây cột buồm, 500 nón lá.

“Nón lá che ngang mặt chữ điền”. Cả hai nón lá và khuôn mặt chữ điền đều là tặng phẩm Champa. Miền Bắc, phụ nữ chít khăn mỏ quạ, ngày hội mới đội nón quai thao. Ở miền Trung, nón lá phổ thông hơn. Chốn kinh đô Huế, nón lá hoá thân thành chiếc nón bài thơ. Phụ nữ đồng bằng sông Hồng đa số có mặt tròn, hơi tèn tẹt, mắt hai mí lót hơi húp. Nguợc lại, phụ nữ miền Trung có trán cao hơi nhô, mũi cao, mắt to sâu hình trái hạnh, gò má cao, quai hàm vuông, đôi nguời có tóc quăn, vì vậy có ca dao “Tóc quăn chải lược đồi mồi. Chải đứng chải ngồi tóc vẫn còn quăn”. Tà áo dài Việt không khác tà áo cổ truyền của Chăm, chỉ khác có sẻ tà.  Khác biệt giữa phụ nữ Bắc và Trung không biết có phải do máu Chàm pha trộn? Cố Tổng thống Nguyễn văn Thiệu có nhận xét “Ở miền Trung, không ai là không có máu Chàm” không phải vô lý, do những cuộc hoà huyết bắt đầu từ rất lâu.

Mai Hắc Đế  (722) nổi dậy chống nhà Đường, quê ở Hà Tĩnh có cha là người Chăm, mẹ Việt.

Năm 1499, vua Lê Hiến Tông xuống chiếu  …“Từ nay trên từ thân vương, dưới đến trăm họ, nhất luật không ai được lấy đàn bà con gái nước Chiêm thành làm vợ cả hay vợ lẽ để cho phong tục được thuần hậu”. “Từ nay nhân dân đạo Quảng Nam không được thuận tiện cướp bóc dân Man (ám chỉ dân Chiêm), mua bán nô tì riêng. Ai trái lệnh sẽ bị tội.” – cho thấy việc lấy vợ nguời Chàm rất phổ biến từ quan đến dân. Chiếu vua bỏ quên giới phụ nữ, có lẽ họ đuợc lập gia đình với chồng Chăm? Đó là tình hình Thăng Long.

Kể từ 1588, Nguyễn Hoàng làm trấn thủ vùng Thuận Hoá và bắt đầu cuộc Nam tiến từ 1611. Những ngưòi đi theo Nguyễn Hoàng có họ hàng thuộc huyện Tống Sơn (Thanh Hoá) cùng quân lính vùng Thanh Nghệ. Di dân không thể mang theo gia đình, chắc chắn những cuộc hoà huyết vói dân bản địa Chàm đã ra khỏi luật vua.

Ngoài DNA, điều vô cùng quan trọng mà Chàm tặng cho toàn vùng, là lúa Chiêm. Lúa Chiêm vào Việt Nam từ thế kỷ 10 và từ đó lan qua Trung Quốc. Theo Lê Quý Đôn, có nhiều loại lúa Chiêm,  lúa tẻ có lông, lúa tẻ chín sớm, lúa tiễn tử  60 ngày, lúa  80 ngày, lúa 100 ngày. Đến thời nhà Minh, các vùng từ Triết Giang, Phúc Kiến đến Hải Nam đều gieo trồng lúa Chiêm mà họ gọi là lúa tiên.

Vì vậy, tôi linh đình phản đối câu ca dao mà tác giả vô danh phát biểu dưới nhãn quan… thái thú Tô định.

“Tiếc thay cây quế giữa rừng

Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo”

Ngưòi Chàm theo mẫu hệ, con gái phải dâng lễ vật đi cưới con trai. Đằng này, ông vua đa tình Chế Mân đã theo yêu cầu của thượng hoàng Trần Nhân Tôn thuận dâng hai châu Ô, Lý (Quảng Trị, Thừa Thiên) để cưới công chúa Huyền Trân. Năm 1306, tháng sáu, công chúa Huyền Trân sang Chiêm. Năm 1307, tháng năm, vua Chế Mân băng. Tháng sáu, vua đựoc hoả táng. Tháng mười, Trần Khắc Chung tuân lệnh vua Trần Anh Tôn sang Chiêm, lập mưu đón công chúa Huyền Trân và thế tử Đa Da về Việt, lúc đó đe doạ về một cuộc hoả táng đã thật sự không còn thời gian tính nữa.
Theo sách sử và phong tục Chàm, lên giàn hoả là một điều tự nguyện chỉ chánh cung mới đuợc khẩn nài nếu muốn, và phải đuợc hội đồng hoàng gia duyệt xét. Hoàng hậu Tapasi – gốc người Java – đã đuợc đưa về nước sau ngày vua Chế Mân từ trần. Công chúa Huyền Trân không phải chánh cung, nên không được lên giàn hỏa chết theo đấng quân vương.
Triều Trần cướp công chúa về, là bội hôn. Cướp ngưòi nhưng không trả đất, là bội ước.  Điều ai oán, sau khi về tới Thăng Long, với sự khinh rẻ cay độc của một triều đình ảnh hưởng Nho giáo, Huyền Trân đã vào chùa tu, khi mới ngoài 20 tuổi. Thế tử Đa Da mồ côi bé bỏng, không hề đuợc nhắc tới dù chỉ một lần trong sử sách.
Cũng may, văn hiến nước Việt cũng vẫn còn, nên câu ca dao này không chính thức ghi trong sử Việt. Cũng không may, câu ca dao này vẫn được các văn sĩ trích dẫn tỉnh bơ – hệt như họ là hậu duệ của thái thú Tô Định hay quan toàn quyền Decoux –  coi thuờng tấm chân tình của vua Chế Mân, cũng coi rẻ cả bước chân ngàn dậm ra đi của công chúa Huyền Trân. Thử hỏi, không có miền Trung, làm gì có miền Nam? Một dải đồng bằng sông Hồng, – mà vua Trần tả “bé bằng cái bàn tay, mà làm sao đặt ra lắm ban lắm bệ thế”-  làm sao chống trả nổi đe doạ triền miên từ phương Bắc? Suốt một ngàn năm, người Việt Giao Chỉ không tiến xa hơn đèo Ngang để đặt chân tới đất Nhật Nam. Chỉ 600 năm sau công chúa Huyền Trân, biên giới cực Nam của nước Việt đã như ngày nay.

Tổ tiên thế nào, chúng ta nhận chịu như thế ấy.  Nhưng không vì thế ngồi  hưởng sự buồn đau của dân tộc Champa. Hãy vọng về cố đô Mỹ Sơn, vọng về cố đô Thăng Long, tưởng nhớ đến mối u tình của vua Chế Mân và Công Chuá Huyền Trân, tưởng niệm triệu triệu sinh linh Việt-Chăm lót máu suốt giải giang sơn, và hiểu câu thơ của Nguyễn Bính khác với lối mòn lãng mạn:

Huyền Trân Huyền Trân Huyền Trân ơi

Mùa xuân mùa xuân mùa xuân rồi

Ngoài kia chín vạn bông tròi nở

Riêng có tình ta khép lại thôi

Không việc gì phải khép lại! Ngay cả thảm kịch cũng thiêng liêng và ích lợi nếu nhận biết nỗi đau lịch sử không của riêng ai.  Trong nuớc, vừa mở hội thảo “Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn: Một hội thảo lịch sử”. Chắc cũng đã đến lúc ngưòi Việt đủ tự tin và bình tâm mở nhiều hội thảo chính thức về sự đa nguồn gốc của Việt tộc, trong đó có Champa, một trong những cội nguồn của Việt tộc, cả DNA lẫn văn hoá. Có như thế mới có được những rung cảm giống nhau về đất nứơc và con ngưòi, yếu tố cần thiết cho sự thống nhất và đoàn kết trong sâu thẳm.

Những học giả người Chàm, ngừơi Tây Phương nghiên cứu Champa đã đành, cũng không thiếu gì học gỉa người Việt để ngòi bút tự do vượt khỏi lũy tre xanh chật hẹp khi viết về nguồn cội Champa. Trong nước có Ngô Văn Doanh, ở Pháp có Lê Thành Khôi, ở Úc có Nguyên Nguyên, Nguyễn Đức Hiệp. Ở Cali có  Tạ Chí Đại Trưòng, Nguyễn Hy Vọng, Thu Tứ. Ở Texas có Nguyễn Cúc….Mới hôm qua, đài VNCR giới thiệu về ngày sinh nhật của IOC trên làn sóng, cộng thêm sự có mặt của giới truyền thông và đông đảo ngưòi Việt trong buổi lễ kỷ niệm hôm nay, cho thấy dù kết quả ban đầu có khiêm nhường, cũng xin các anh em Champa ghi nhận những ân cần ấy, để trái tim đỡ bị rạn nứt; và lòng tin, vào cuộc đời và giòng sinh mệnh Champa, sẽ không bao giờ phai nhạt.
Salam, xin chào.
Trần Thị Vĩnh Tường
—————————-
Ảnh của Vũ Kim Lộc – Cổ Vật Huyền Bí – NXB Văn Hoá Dân Tộc – Hà Nội 2006. Cây trầm hương bằng vàng, thế kỷ 4-5. một loại Cây Đời của Champa, đuợc tìm thấy ở Nhà Bè.  Một tuyệt phẩm vô song, cả về ý tưởng lẫn kỹ thuật làm nữ trang. Cây cao 95mm, chiều dài của tán 130mm, chiều rộng 87mm, nặng 363,27 gram.  Lớp vàng dát dầy 0,3mm. Cây đuợc tạo theo dáng bộ phận sinh vật nữ, hướng lên trời để giao thoa với thần thánh. Tổng cộng 8 trái và 26 bông hoa, nói lên ước nguyện sinh sôi nảy nở.
__._,_.___

Posted by: MY LOAN <tmyloan@gmail.com>

TRUNG QUỐC & HOA KỲ



Liệu sẽ có cuộc đối đầu Trung-Mỹ?

  • 28 tháng 9 2015





 
Image copyright AFP
"Hoa Kỳ hoan nghênh sự trỗi dậy của một Trung Quốc hòa bình, ổn định, thịnh vượng và có trách nhiệm trong các mối quan hệ toàn cầu."
Đó là lời Tổng thống Obama nói hôm thứ Sáu, khi ông đứng cạnh Chủ tịch Tập Cận Bình tại Tòa Bạch ốc.
Ông Obama lặp lại những nội dung này vào bất kỳ khi nào ông gặp Chủ tịch Tập.
Thương mại giữa Trung Quốc với chỉ riêng Hoa Kỳ đã tăng từ 2 tỷ đôla hồi 1979, là lúc hai nước bắt đầu thiết lập quan hệ, tới gần 600 tỷ đôla hồi năm ngoái.
Mối quan hệ sâu rộng được đánh dấu bởi sự hợp tác ráo riết nhưng đồng thời cũng cạnh tranh quyết liệt.
Trong bài diễn văn tại Seattle, Chủ tịch Tập Cận Bình nhắc tới mối đe dọa đối với sự cạnh tranh, đối đầu chiến lược giữa hai quốc gia.
"Không có cái gọi là cái bẫy Thucydides (tức sự cạnh tranh giữa một thế lực đang lên và một thế lực đã xác lập được vị trí của mình) trên thế giới. Nhưng nếu các nước lớn tính toán sai lầm về mặt chiến lược thì họ sẽ giăng những cái bẫy đó cho chính mình."

Bẫy Thucydides là gì?

Điều mà một sử gia Hy Lạp hồi 2.000 năm trước nêu ra trong một bài thuyết giảng nay được nhắc tới thực sự là gì?





 




Image copyright EPA
Cái bẫy này được đặt theo tên nhà sử gia nói tới những căng thẳng về cấu trúc xã hội khi có một thế lực mạnh lên một cách nhanh chóng - giống như Trung Quốc lúc này - làm thay đổi cán cân quyền lực đối với một đối thủ cạnh tranh vốn đã xác lập được vị thế từ trước, và do vậy dẫn tới chiến tranh.
Sức mạnh đang lên thì muốn có quyền lực lớn hơn đối với thế giới, trong lúc sức mạnh hiện thời thì muốn giữ nguyên trạng.
Thucydides xác định điều này như một khuynh hướng dẫn tới việc thành Athens đang lớn mạnh dần lên gây chiến với Sparta hồi thế kỷ 5 trước Công nguyên.
Dường như diễn văn của ông Tập tái hiện lại câu chuyện 2.500 năm trước, bởi một số nhà phân tích chiến lược tin rằng câu chuyện Athens và Sparta quả là câu chuyện Trung Quốc và Hoa Kỳ ngày nay.

Nền tảng chung

Vậy trong lúc hai nhà lãnh đạo có những thủ tục nghi lễ trang trọng trong chuyến đi, với loạt 21 phát đại bác đón chào và buổi quốc yến khoản đãi, cả hai bên có thể đồng ý những gì về việc cần cấp bách tránh khỏi cái bẫy Thucydides?
Hai bên đã ra tuyên bố về vấn đề thay đổi khí hậu, với việc Tổng thống Obama hoan nghênh cam kết của Chủ tịch Tập Cận Bình đối với chương trình kiểm soát khí thải.
Hai bên cũng ăn mừng việc hợp tác trong chương trình hạt nhân của Iran và nói sẽ tiếp tục phối hợp với nhau để xử lý vấn đề hạt nhân của Bắc Hàn.
Trung Quốc đã ký một thỏa thuận trị giá nhiều tỷ đôla để mua máy bay Boeing.





Image copyright Reuters
Chủ tịch Tập đã rất nỗ lực trong việc tỏ thái độ tích cực. Ông đã nói lưu loát một danh sách những tác giả, những bộ phim Mỹ mà mình yêu thích. Tuy nhiên, ta cũng nên nhớ là khi tới Nga thì Chủ tịch Tập yêu Pushkin và Tolstoy, và khi đi Pháp thì ông nói tới Moliere và Dumas.
Tổng thống Obama đã tìm cách có được một thỏa thuận mà cả chính phủ hai nước đều muốn kiềm chế, đó là nạn đánh cắp sở hữu trí tuệ trên mạng.
Về những căng thẳng ở Biển Đông, hai bên không đạt tiến triển nào.
Nhìn chung, chính quyền ông Obama đã tìm cách tỏ thái độ hữu ích trong lần gặp thượng đỉnh này, nhưng đây đã là lần gặp quan trọng thứ ba giữa hai nhà lãnh đạo trong thời gian ba năm qua mà mối quan hệ song phương vẫn chưa đạt được mức như hy vọng trước đó của Hoa Kỳ.
Chủ tịch Tập có chính sách đối ngoại tự tin hơn, chính xác hơn và tập trung hơn so với những người tiền nhiệm.
Thái độ quyết đoán của ông khiến chính quyền ông Obama bị choáng, cho dù đó là việc xây lấn đảo đầy tham vọng tại Biển Đông, thành lập một ngân hàng phát triển mới để thách thức sự thống trị của Hoa Kỳ trong hệ thống tài chính toàn cầu, hay thúc đầy việc định hình lại cơ cấu ngoại giao ở Á châu thông qua chiến lược "Một vành đai Một con đường" của Trung Quốc.
Chủ tịch Tập đã có một tính toán dứt khoát, không khoan nhượng, rằng người tương nhiệm của ông đã có quá nhiều vấn đề rắc rối của Mỹ tại Trung Đông và Nga, cho nên không còn nhiều sức dồn cho việc đối phó với con đường trỗi dậy của Trung Quốc

Về khả năng xung đột Việt-Trung

  • 28 tháng 9 2015



Image copyright AFP
Image caption Hai nguyên thủ đã có họp báo chung sau khi gặp

Hôm 25/9, trong cuộc họp báo chung tại Vườn Hồng của Tòa Bạch Ốc, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã khẳng định trước Tổng thống Mỹ Barack Obama và báo giới rằng, “Các quần đảo ở Nam Hải (“Biển Nam Trung Hoa” theo cách gọi của Phương Tây hoặc “Biển Đông” của Việt Nam) từ thời cổ đại là lãnh thổ của Trung Hoa”.
Đây là thông điệp mạnh mẽ nhất từ trước đến nay của người đứng đầu Nhà nước Trung Quốc để khẳng định chủ quyền ở vùng đang có tranh chấp với các nước láng giềng trong đó có Việt Nam.
Tuy ông Tập cho rằng Trung Quốc có quyền duy trì cái gọi là “chủ quyền và lợi ích hợp pháp của mình ở Nam Sa” (Trường Sa) nhưng ông cũng thừa nhận việc cải tạo các đảo trong khu vực này với một ít lời biện hộ.
Ông nói: “Các hoạt động xây dựng ở Quần đảo Nam Sa mà Trung Quốc đang tiến hành không nhằm mục tiêu chống lại hoặc gây ảnh hưởng bất cứ quốc gia nào, và Trung Quốc không có ý định quân sự hóa chúng”.
Một điều gần như chắc chắn là nếu như Trung Quốc không khai phát pháo đầu tiên trên “Biển Đông” thì chính quyền Obama sẽ không làm gì cả cho dù có đạn nổ, máu đổ, đầu rơi. Đối với ông Obama, “di sản hòa bình” của ông là trên hết, và ông sẽ để quyết định “tham chiến” cho người kế nhiệm vì ông sẽ không còn đủ thời gian để có câu trả lời ai đã khai pháo đầu tiên.

Mô hình mới của quan hệ Trung-Mỹ

Ngoài việc khẳng định chủ quyền “Nam Hải”, ông Tập còn cho biết thêm về chính sách ngoại giao của Trung Quốc, đặc biệt đối với Hoa Kỳ.
Ông phát biểu rằng, “Trung Quốc cam kết chắc chắn con đường phát triển hòa bình. Để làm việc với Hoa Kỳ nhằm xây dựng các mô hình mới của mối quan hệ quan trọng quốc gia mà không có xung đột, không đối đầu, với sự tôn trọng lẫn nhau và cùng hợp tác có lợi là một ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc”.
Hôm 25/9 là lần thứ sáu ông Tập và ông Obama gặp nhau. Cả hai đều nhắc lại “chủ thuyết con đường phát triển hòa bình của Trung Quốc mà ông Tập đã trao đổi với ông Obama vào tháng 6/2013 tại California.
Ông Tập triển khai thêm rằng “Trung Quốc không muốn có xung đột, đối đầu với Mỹ và mong muốn hợp tác vì lợi ích chung”.
Khái niệm “lợi ích chung” này là gì thì ông Tập vẫn chưa diễn giải cho công luận Mỹ hiểu nhưng trước thềm chuyến thăm Nhà Trắng, ông nói: “Cả hai bên (Hoa Kỳ và Trung Quốc) phải vì lợi ích cốt lõi của nhau, tránh tính toán sai lầm chiến lược, và kiểm soát và giải quyết đúng đắn các khác biệt”.
Chắc chắn một điều là Hoa Kỳ có “lợi ích quốc gia” lâu dài ở Châu Á – TBD và Hoa Kỳ sẽ tiếp tục bảo vệ quyền lợi của mình ở khu vực này như cựu Ngoại trưởng Hillary Clinton đã từng tuyên bố. Và lợi ích đó là kiến tạo hòa bình, an ninh và thịnh vượng theo tiêu chí tự do, dân chủ và tôn trọng nhân quyền, phù hợp với luật pháp quốc tế.



Image copyright Reuters
Image caption Hàng không mẫu hạm USS Nimitz tại Biển Đông
Giả sử như tiêu chí đó cũng là những gì mà “Trung Hoa Mộng” của ông Tập hằng mơ ước thì cớ gì mà ông Tập phải khuyến cáo Hoa Kỳ cần “tránh tính toán sai lầm chiến lược, và kiểm soát và giải quyết đúng đắn các khác biệt”.
Thực ra lời khuyến cáo của ông Tập ngụ ý cảnh báo Hoa Kỳ nên tìm hiểu kỹ “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc là gì để “tránh tính toán sai lầm chiến lược” dẫn đến xung đột gây ra đại hoạ.
Nhưng “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc là gì nếu như đó không phải là muốn độc quyền thôn tính toàn bộ “Biển Đông”, xưng hùng xưng bá và đẩy Hoa Kỳ ra ngoài khu vực?
Một Trung Quốc phát triển hòa bình, thịnh vượng, tôn trọng nhân quyền, luật pháp quốc tế, hòa hiếu, hữu nghị, hợp tác với láng giềng và cộng đồng quốc tế vì lợi ích chung chắc chắn là một Trung Quốc không phải như những gì chúng ta đang biết hôm nay.

Xung đột quân sự Trung-Việt

Với những gì đã và đang xảy ra, nhất là với tuyên bố hôm 25/9 vừa qua của ông Tập, không ai còn nghi ngờ gì nữa về dã tâm độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc.
Và Việt Nam nằm hoàn toàn trong tầm ngắm ngắn hạn của Trung Quốc trên Biển Đông với một lý do rất đơn giản là không ai hiện giờ có trách nhiệm pháp lý đến cứu Việt Nam mặc dù Việt Nam đang có trên cả chục đối tác chiến lược trên toàn cầu.
Tuy viễn ảnh một “đại chiến” trong khu vực chỉ là giả thuyết nhưng một cuộc đụng độ quân sự có giới hạn trên biển và/hoặc cả trên bộ là điều hoàn toàn khả thi.
Hôm 22/9, nhà nghiên cứu cao cấp Joshua Kurlantzick đã có một bản báo cáo dài đăng trên Tạp chí ngoại giao uy tín hàng đầu của Mỹ “Council on Foreign Relations” nhận định về khả năng một cuộc đụng độ quân sự Trung-Việt.



Image caption Việc cải tạo đảo của Trung Quốc đang gây quan ngại
Bài viết tựa đề “A China-Vietnam Military Clash” cảnh báo các nguy cơ của một cuộc đối đầu quân sự nghiêm trọng giữa Trung Quốc và Việt Nam đang ngày càng dâng cao.
Tác giả còn khẳng định sự rạn nứt đáng kể trong quan hệ Trung-Việt từ vài năm qua sẽ làm tăng khả năng xung đột quân sự giữa hai nước trong vòng 12 đến 18 tháng sắp tới; và tác giả thúc giục Hoa Kỳ cần tìm cách xoa dịu căng thẳng, giúp ngăn chặn một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng trong khu vực, sẽ ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến quyền lợi của Hoa Kỳ.
Tác giả còn hé lộ một số thông tin quan trọng (BBC chưa kiểm chứng độc lập), thí dụ như bộ đội biên phòng Việt Nam và Trung Quốc đã từng chạm súng hai lần trong năm 2014 và 2015, mặc dù không rõ nguyên nhân và tình hình an ninh biên giới Việt-Trung trên bộ rất căng thẳng, hai bên dường như đã chuẩn bị sẵn sàng trong mấy tháng qua cho một cuộc đọ súng.
Quan hệ Việt Trung cũng rất căng thẳng từ sau vụ giàn khoan khổng lồ HD-981 của Trung Quốc ngang nhiên xâm phạm thềm lục địa Việt Nam vào mùa hè năm 2014, và nhất là sau chuyến công du Hoa Kỳ của TBT Nguyễn Phú Trọng vào cuối tháng 7 vừa qua, một động thái được cho là có sự “chuyển trục chiến lược” sang Hoa Kỳ của ĐCSVN.

Trường Sa và kế hoạch tấn công Việt Nam

Với vị trí chiến lược đặc biệt của Quần đảo Trường Sa của Việt Nam hiện nay, cộng với việc Việt Nam là nước duy nhất có nhiều đảo nhất và chiếm nhiều đảo lớn trong quần thể này, việc Trung Quốc cần loại Việt Nam càng sớm càng tốt ra khỏi khu vực là điều hết sức cần thiết không những cho hiện tại mà cho cả tương lai.
Ngoài những lợi ích về kinh tế biển và năng lượng, nơi đây còn có giá trị chính trị và ngoại giao để kiểm soát toàn bộ khu vực Đông Nam Á, và với giá trị quân sự, sẽ là trạm trung chuyển tiền phương cho toàn bộ khu vực nối liền với đảo Hải Nam và Trung Hoa lục địa.



Image copyright AFP
Image caption Liệu Obama sẽ làm gì trước các động thái của Trung Quốc?
Hơn thế nữa về trung hạn, với khả năng Trung-Thái hợp tác khai thông kênh đào Kra, thì Trung Quốc sẽ không còn sợ bị Mỹ và đồng minh phong tỏa ở eo biển Malacca, trục lộ yết hầu nối liền “Biển Đông” với Ấn Độ Dương, và cũng là huyết lộ của Trung Quốc ra thế giới.
Kiểm soát Trường Sa sẽ đảm bảo thế thượng phong chiến lược của Trung Quốc trong khu vực.
Khả năng xung đột Việt-Trung xảy ra rất cao còn vì một lý do quan trọng nữa. Đó là thái độ của chính quyền Obama, đặc biệt trong năm bầu cử 2016 nhiệm kỳ cuối của ông Obama.
Năm 2016 là năm bầu cử Tổng thống và Quốc hội Mỹ mà lại là năm mà ông Obama vừa bị Quốc hội Mỹ trói tay, trói chân vì ngân sách, vừa là năm cuối của nhiệm kỳ II trước khi về hưu.
Cho nên ông Obama sẽ không thể làm gì được nhiều ngoài những lời tuyên bố hùng hồn nhưng vô thưởng vô phạt. Ông không khác chi con “vịt què” như người Mỹ vẫn thường nói.
Nếu có, Trung Quốc sẽ chọn thời điểm mùa hè 2016 để khởi chiến, vì ngoài điều kiện thời tiết tự nhiên thuận lợi cho hành quân trên bộ, trên không lẫn trên biển, Trung Quốc còn có yếu tố “thiên thời và nhân hòa của Mỹ”.
Vào thời điểm này là lúc cao trào của mùa bầu cử bên Mỹ, các ứng cử viên Mỹ tha hồ phát biểu nhưng sẽ không có ai ra được quyết định gì.
Vậy trước nguy cơ sắp mất Trường Sa, người Việt chúng ta trong và ngoài nước sẽ phải làm gì? Ông Tập Cận Bình đã nói: “Nam Hải từ thời cổ đại là lãnh thổ của Trung Hoa”. Còn chúng ta sẽ nói gì với cộng đồng thế giới, với tiền nhân, hậu thế của chúng ta, và với cả kẻ thù?
Bài viết phản ánh văn phong và quan điểm của tác giả, luật sư hiện sống và làm việc ở Canada.
http://www.bbc.com/vietnamese/world/2015/09/150927_xi_jinping_scs

PHẠM ĐÌNH HƯNG * HỒ CHÍ MINH

MT CON H Đ.

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đặt niềm tin vào Thiên Cơ. Đa số đạo hữu Cao Đài là người trí thức như Kỹ sư kiêm Bác sĩ Nguyễn Ngọc Bích, Giáo sư Nguyễn Hữu Lương, Giáo sư Nguyễn văn Sâm v.v...Victor Hugo (1802-1885), đại văn thi hào của Pháp và thế giới, cũng có niềm tin nầy. Vì vậy, Victor Hugo là một trong số vĩ nhân trên thế giới được Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thờ phượng.
Thiên Cơ đã dạy bảo Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc (1890-1959) thiết kế xây dựng Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh, một công trình kiến trúc to đẹp tại miền Nam Việt Nam, mặc dầu Ngài không phải là một kiến trúc sư và chỉ có bằng Thành Chung (Diplôme d’Études Primaires Supérieures Indochinoises).
Một lời tiên tri
Do Thiên cơ giáng chỉ, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ở Tây Ninh đã cảnh giác về một con hồ đỏ xuất hiện để gây ra một đại họa cho dân tộc Việt Nam. Mùa hè năm 1941, tại một khu rừng nằm trong địa phận Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc báo động: “ Ngày nay có một con hồ đỏ, nhân dân Việt Nam không trử khử nó, ngày mai nó sẽ nhượm đỏ đất nước mình
Lời tiên tri của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đã ứng hiện ngay từ năm 1941.
Con hồ gọi nôm na là con chồn, một loài thú rừng rất gian xảo. Theo truyền thuyết của Đông phương, cữu vỹ hồ ly tinh là chúa tể của loài chồn có khả năng hóa thành người đẹp để gây hại cho những người chất phát dễ nghe theo lời đường mật của nó. Truyền thuyết mơ hồ nầy lại trờ thành một hiện thực đau đớn cho đất nước Việt Nam trong thế kỷ 20. Đúng như lời tiên tri của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, một con hồ ly tinh gian ngoan quỷ quyệt từ phương Bắc đến đã gieo mầm trái đắng để bức hại dân tộc Lạc Việt sống trên ba miền Nam, Trung, Bắc Việt Nam phải ngậm đắng, nuốt cay, hứng chịu biết bao tang tóc và đau khổ từ năm 1941 đến ngày nay. Trái đắng đó chính là đảng Cộng Sản Đông Dương, tiền thân của đảng Cộng Sản Việt Nam. Thật vậy, đảng nầy đã được thành lập tại Hong Kong  ngày 3-2-1930 với sự tham gia của 7,8 đại biểu, trong đó cóNguyễn Tất Thành, bí danh Nguyễn Ái Quốc, và Hồ Tập Chương, bí danh Hồ Quang, cả hai đều là cán bộ cộng sản quốc tế, thành viên Ban Trù bị thành lập đảng. Một năm sau ngày ra đời bên Tàu theo chỉ thị của Josef Stalin, Tổng Bí thơ đảng Cộng sản Liên Xô, đảng Cộng Sản Đông Dương đã phát động một cuộc nổi dậy giết người rùng rợn tại Nghệ An và Hà Tỉnh gọi là Xô Viết Nghệ Tỉnh với chủ trương tàn bạọ :“Trí, Phú, Địa, Hào. Đào tận gốc, trốc tận rễ” Từ sau thất bại “Xô Viết Nghệ Tỉnh” đến cuối thập niên 1930, đảng Cộng Sản Đông Dương đã hoàn toàn thúc thủ và phải tạm ngưng hoạt động. Nhưng kể từ năm 1940, đảng Cộng Sản Đông Dương được chỉ thị tái hoạt động nổi loạn giết người tại Nam kỳ năm 1941. Nhưng cuộc nổi dậy đẵm máu gọi là Nam Kỳ Khởi Nghĩa tại một vài tỉnh miền Đông Nam kỳ đã bị nhà cầm quyền Pháp biết trước và nhanh chóng dẹp tan. Năm 1940, đảng Cộng Sản Trung Quốc đã bí mật đưa một trong bốn điệp viên xuất sắc tên Hồ Quang, từ Quảng Tây đến hang Pác Bó để lãnh đạo đảng Cộng Sản Đông Dương. Địa danh hiểm trở nầy nằm trong tỉnh Cao Bằng giáp ranh Khu Tự Trị của dân tộc Choang trong tỉnh Quảng Tây. Căn cứ địa Pác Bó đặt dưới sự bảo vệ cẩn mật của cán binh cộng sản Tàu võ trang đầy đủ và một số thổ dân Tày do Chu văn Tấn chỉ huy. Một số người làm nghề rừng rủi ro đi lạc vào căn cứ Pác Bó đã bị giết chết thẳng tay trong những năm đầu của thập niên 1940 để bảo toàn bí mật. Nhờ có công bảo vệ Hồ Quang tại căn cứ địa Pác Bó, Chu văn Tấn đã được cho làm Bộ trưởng bộ Quốc Phòng đầu tiên sau khi một vài cán bộ cộng sản cướp được chánh quyền một cách dễ dàng ngày 19-8-1945 từ Nội các Trần Trọng Kim do Hoàng đế Bảo Đại bổ nhiệm.
Năm 1941, nhân vật thần bí Hồ Quang thành lập tại Quảng Tây Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (Việt Minh) để làm một công cụ gieo trồng trái đắng khắp nước Việt Nam. Từ Pác Bó, Hồ Quang thường len lỏi qua lại biên giới Hoa-Việt để đi về Quảng Tây công tác cho Sở Tình Báo Hoa Nam và nhận chỉ thị của Chủ Tịch đảng Cộng Sản Trung Quốc Mao Trạch Đông. Cán bộ Đệ tam Quốc tế Cộng sản và đảng viên đảng Cộng Sản Trung Quốc, Hồ Quang lại cộng tác với OSS (Office of Strategic Service) của Hoa Kỳ dưới bí danh Lucius và tình nguyện phục vụ dưới trướng của tướng Trung Hoa Quốc Dân đảng Trương Phát Khuê sau khi vị tướng quân nầy bắt giữ y tại Liểu Châu năm 1942 vì tình nghi là gián điệp cộng sản. Trở về Pác Bó năm 1943 với tên mới Hồ Chí Minh, Hồ Quang (Quang đồng nghĩa với Minh), một gián điệp dân tộc Hẹ (Khách Gia) sanh năm 1901 tại Đài Loan, chuẩn bị thành lập một chánh quyền cộng sản thân Tàu theo kế sách của Mao Trạch Đông. Tháng 8 năm 1945, Hồ Quang và đảng Cộng Sản Đông Dương đã hoàn thành kế hoạch của Cộng Sản Trung Hoa: cướp chánh quyền trong toàn quốc và thành lập một ngụy quyền dưới quyền chi phối của đảng Cộng Sản Đông Dương trá hình dưới danh nghĩa Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (Việt Minh). Đột nhiên từ trong bóng tối nhảy ra chiếm giữ ngôi vị Chủ Tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa mặc dầu không được ai bầu cử, Hồ Chí Minh đã trở thành Cụ Hồ, Bác Hồ, “Cha Già dân tộc Việt Nam” lúc mới 44 tuổi. Sau khi cướp đoạt chánh quyền chánh thống của nhà Nguyễn năm 1945, Hồ Quang trở thành nguyên thủ quốc gia kiêm Chủ tịch đảng Cộng sản Việt Nam nhưng đồng bào trong nước không biết ông ta là ai và có công trạng gì đối với đất nước và dân tộc Việt Nam. Vài năm sau, Tổng Cục Tình Báo Hoa Nam cố gắng làm sống lại một người Việt đã qua đời từ năm 1932 trong vai trò lãnh tụ cộng sản của nước Việt Nam trong thời kỳ cách mạng vô sản. Nhân vật đó là Nguyễn Tất Thành, một cán bộ cấp thừa hành của Đệ tam Cộng sản Quốc tế từ năm 1924. Vì sống nghèo khổ tại thủ đô giá lạnh của nước Pháp từ 1917 đến 1923, Nguyễn Tất Thành mắc bịnh lao phổi trầm trọng và đã qua đời tại Hong Kong năm 1932 vì trong thập niên 1930 chưa có thuốc trụ sinh Streptomycin để chửa bịnh lao phổi. Trong một Báo cáo gởi Cộng sản Quốc tế, Hà Huy Tập, Tổng Bí thơ thứ ba của đảng Cộng sản Việt Nam, xác nhận Nguyễn Tất Thành đã bị “ám sát” năm 1932 trong nhà tù của thực dân Anh tại Hong Kong. Báo chí Hong Kong cũng đăng tin Tống văn Sơ tức Nguyễn Tất Thành đã qua đời.
Hồ Chí Minh là người Tàu hay người Việt?
Hồ Chí Minh là một người có trên 200 tên đã phục vụ Liên Xô, Trung Cộng, Hoa Kỳ, Trung Hoa Quốc Dân Đảng và Việt Nam Quốc Dân Đảng tại Hoa Nam trước khi đến nước Việt thi hành một sứ mạng bí mật theo sự bố trí của Chủ tịch đảng Cộng Sản Trung Quốc Mao Trạch Đông. Ngày 2-9-1945, lần đầu tiên Hồ Chí Minh công khai xuất hiện trước công chúng tại Ba Đình, Hà Nội, đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập (lần thứ 2 sau Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 11-3-1945 của Hoàng đế Bảo Đại), đồng bào không biết ông ta là người Việt hay người Tàu. Nhưng lúc bấy giờ có một người Hẹ bán thịt heo ở chợ Hà Nội đã nhận diện qua giọng nói tiếng Việt ông ta là một người Tàu, dân tộc Hẹ (Khách Gia, Hakka). Ngoài ông Cắc Chú nầy, một số ít người sống và hoạt động lâu năm bên Trung Hoa trong Quân đội cộng sản Tàu như Thiếu tướng Nguyễn Sơn cũng biết rõ chính đảng Cộng Sản Trung Quốc thông qua Tổng Cục Tình Báo Hoa Nam đã bí mật đứng trong bóng tối yểm trợ, đánh bóng và thần tượng hóa Hồ Chí Minh trở thành một siêu sao trên vòm trời Việt Nam. Vì vậy, Hồ Chí Minh không thích Thiếu tướng Nguyễn Sơn và giao trả ông ta về Trung Quốc. Năm 1947, hai năm sau ngày Hồ Chí Minh xuất hiện tại Hà Nội, nhà văn học nổi tiếng của Đải Loan Ngô Trọc Lưu viết một quyển sách tựa đề “Hồ Chí Minh” bằng tiếng Nhựt tiết lộ Hồ Chí Minh tên thật là Hồ Tập Chương, người Tàu dân tộc Hẹ (Khách Gia), một người bạn của ông ta.
Sau khi Hồ Chí Minh đi xuống tuyền đài ngày 2-9-1969, có năm nguồn tin đã được công bố với một kết luận giống nhau:

1
- Theo giáo sư sử học Hồ Tuấn Hùng ở Đài Loan, Hồ Chí Minh tên thật là Hồ Tập Chương, người dân tộc Hẹ, sinh năm 1901 tại Đài Loan trong cùng một gia tộc với tác giả quyển  Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo, xuất bản tại Đài Bắc vào tháng 11 năm 2008. Tác giả Hồ Tuấn Hùng xác nhận theo các tài liệu trong văn khố của nhà cầm quyền Anh ở Hong Kong, Tống văn Sơ (bí danh của Nguyễn Tất Thành lúc hoạt động tại Hong Kong) sau khi bị Cảnh Sát Hong Kong bắt giữ năm 1931 đã được chữa trị bệnh lao phổi trầm trọng trong một bệnh viện bài lao và đã chết năm 1932. Nguyễn Tất Thành đã mắc bệnh lao phổi lúc ở Paris (1917-1923). Về mặt y học, bệnh lao phổi vào thập niên 1930 không chửa trị được vì phương Tây chưa phát minh thuốc trụ sinh Streptomycin. Mãi đến ngày 19-10-1943, Sinh viên Cao học Albert Schatz, thành viên một nhóm nghiên cứu y học của Hoa Kỳ dưới quyền điều khiển của Bác sĩ Selman Abraham Waksman, mới khám phá ra thuốc Streptomycin. Đến năm 1946, thuốc Steptomycin mới được đem ra thí nghiệm trên lâm sàng để chửa trị bệnh lao phổi.
2- Căn cứ một bài viết của Huỳnh Tâm tựa đề Đảng Cộng Sản Việt Nam, Phiên Bản Của Tình Báo Trung Quốc đăng trên Blog danlambaovn, một số tài liệu của Tình Báo Trung Quốc hiện còn lưu trử tại hai cơ quan Tình Báo ở Hoa Nam và Bắc kinh đã được giải mã. Các tài liệu đã giải mã, đặc biệt là Sổ Tay của Đặng Bình Ánh (ĐBA), xác nhận nhân vật đã được đảng Cộng Sản Trung Quốc gởi đến căn cứ Pác Bó năm 1940 là Hồ Tập Chương mang bí danh Hồ Chí Minh từ năm 1932. Hồ Tập Chương là một điệp viên của Trung Cộng có năng khiếu về tình báo và biết nói nhiều thứ tiếng: Hẹ, Quảng Đông, Quan Thoại, Nhựt, Nga, Pháp và Việt.Tuy nhiên, Hồ Tập Chương viết và nói tiếng Việt và tiếng Pháp còn nhiều sai lầm vì mới học. Tiếng Hẹ có thanh âm gần giống tiếng Việt và tiếng Quảng Đông. Nếu so sánh chử viết trên lá đơn đề ngày 11-9-1911 của Nguyễn Tất Thành xin nhập học trường Thuộc Địa của Pháp với chữ viết của Hồ Chí Minh trên nhiều văn bản, nhứt là bản Di chúc của ông ta, mọi người đều nhận thấy có một sự khác biệt nổi bật. Viết tiếng Việt không rành, Hồ Chí Minh cầm bút sắt hay bút bi như viết chữ Hán (cầm bút lông).
Tác giả Huỳnh Tâm còn phát hiện một tài liệu hiện còn lưu trử tại Học Viện Quân Sự Tình Báo Bắc kinh ghi rõ như  sau: “ Hồ Tập Chương thay mặt đảng Cộng Sản Đông Dương tham dự Quốc khánh của Trung Quốc ngày 1-10-1950 đã tuyên bố như sau:
“ Từ ngày có đảng ta khai hóa được nhược tiểu chư hầu Việt Nam đến với trào lưu nghĩa vụ Cộng sản Quốc tế, nay kính dâng lên Đảng tùy nghi sử dụng cơ sở Cộng Sản Đông Dương. Mao Chủ tịch muôn năm”.
3- Năm 2014, Trung Quốc chánh thức xác định Chủ tịch Hồ Chí Minh của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là Thiếu tá Hồ Quang của Quân đội Nhân dân Giải phóng Trung Quốc đã phục vụ trong Bát lộ quân. Địa bàn hoạt động của Hồ Quang là tỉnh Quảng Tây.
4- Năm 2015, Cục Văn Thư và Lưu Trử của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cũng xác nhận Chủ tịch Hồ Chí Minh là Thiếu tá Hồ Quang của Quân đội Trung Cộng.
5- Trong một bài viết tháng 1 năm 1949 tựa đề “Đảng ta”dưới bút danh Trần Thắng Lợi, Hồ Chí Minh đã viết như sau: “Cuối năm 1929, đồng chí Nguyễn Ái Quốc trở lại Tàu cùng với đại biểu các nhóm khai hội ở Hương Cảng. Trong số 7,8 đại biểu, ngoài đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi (tức Hồ Chí Minh), nay chỉ còn đồng chí Hồ Tùng Mậu và Trịnh Đình Cữu, đồng chí Tán Anh (Lê Tán Anh) và vài đồng chí nữa đã oanh liệt hy sinh cho đảng và cho dân tộc lâu trước Cách mạng tháng 8”. (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, trang 547, Nhà xuất bản Chánh trị Quốc gia, 2000).
Năm nguồn tin kể trên có cơ sở đúng đắn và khả tín:
- Giáo sư sử học Hồ Tuấn Hùng ở Đài Bắc là một người trí thức trẻ trung thực trong công tác khảo cứu sâu rộng và không có ân oán gì với các bên lâm chiến trong hai cuộc chiến tranh Việt Nam từ 1945 đến 1975. Giáo sư Hồ Tuấn Hùng còn là cháu của Hộ Tập Chương và Hồ Tập Dưỡng (em của Hồ Tập Chương)
- Các tài liệu của Tình báo Trung Quốc đều được mã hóa để bảo mật nội dung. Sự chính xác của các tài liệu nầy có thể tin tưởng được.
- Hai bản Công bố của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc và nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là văn bản chánh thức của Nhà nước.
- Hồ Chí Minh toàn tập là một văn kiện chánh thức của đảng Cộng sản VN
Ngoài năm nguồn tin vừa kể, chúng ta cần lưu ý đến mặt tình cảm của con người Việt Nam đối với thân nhân sau một thời gian xa cách lâu dài. Nếu Hồ Chí Minh thật sự là Nguyễn Tất Thành tức Nguyễn Sinh Cung, con của Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc, thì ông ta không thể từ chối tiếp một lần người chị ruột Nguyễn thị Thanh tức Bạch Liên đã lặn lội từ Nghệ An ra Hà Nội thăm em sau khi cách biệt từ 1910 đến 1945; ông ta cũng không buồn đến dự đám tang của người anh cả Nguyễn Sinh Khiêm tức ông Cả Khiêm và bà chi Nguyễn thị Thanh khi hai người thân nầy qua đời. Hồ Chí Minh chỉ về Nghệ An sau khi ông anh cả Nguyễn Sinh Khiêm và bà chị Nguyễn thị Thanh không còn ở trên thế gian nầy để khỏi bị lộ diện thân phận giả trá.
Căn cứ năm nguồn tin kể trên và một số thông tin chính xác khác, tôi khẳng định Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Tất Thành, một người Việt, mà là Hồ Quang, bí danh của Hồ Tập Chương, một người Tàu gốc Hẹ.
Nguồn gốc của người lãnh tụ tối cao đảng Cộng sản Việt Nam
Theo nhà văn Bình Nguyên Lộc (Tô văn Tuấn) trong tác phẩm đắc ý “Nguồn gốc Mã Lai của người Việt Nam”, Sài Gòn, 1971, tổ tiên người Hẹ đã định cư trên đất Thục (Tứ Xuyên ngày nay). Sau khi nhà Hán đánh chiếm đất Thục, giết vua Thục, dân tộc Hẹ di cư đến sinh sống đông nhứt tại Quảng Châu (bao gồm Quảng Đông và Quảng Tây) và Phước Kiến. Dân tộc Hẹ đã sản sinh ra một số đại nhân vật như Tôn Dật Tiên (Trung Hoa), Lý Quang Diệu (Singapore), Đặng Tiểu Bình (Trung Quốc), Lý Đăng Huy (Đài Loan). Khi nước Tàu có biến loạn, nhiều người Hẹ ở Quảng Đông, Quảng Tây và Phước Kiến  đã di tản qua Việt Nam làm ăn sinh sống tại các tỉnh thành miền Nam cũng như tại những vùng giáp giới hai nước Việt-Hoa như thành phố Móng Cái tiếp giáp với tỉnh Quảng Tây. Vì vây, khi đi kinh lý Móng Cái lần đầu tiên năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất thích thú có dịp gặp nhiều cư dân gốc Hẹ và nói tiếng Hẹ với họ một cách lưu loát. (Xem Trần Đĩnh, Đèn Cù I và II ). Dưới thời Pháp thuộc, làn sóng di dân của người Tàu qua Việt Nam đã được dành cho nhiều dễ dàng để bù trừ lại việc nước Pháp hất ảnh hưởng của nước Tàu ra khỏi Việt Nam.
Ngoài khả năng nói tiếng Hẹ lưu loát, còn có một số thông tin đúng đắn khả dĩ chứng minh Hồ Chí Minh là người Tàu gốc Hẹ:
- Thiếu tá Hồ Quang của Quân đội Nhân dân Giải phóng Trung Quốc đã hoạt động tại Quảng Đông và Quảng Tây để thường có dịp tiếp xúc với người dân tộc Hẹ lập nghiệp tại hai địa phương nầy. Từ miền Bắc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minhthường qua lại tỉnh Quảng Tây. Ông ta cũng đã chọn thành lập trường đào tạo Thiếu niên Việt Nam tại Lư Sơn trong tỉnh nầy.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh tự nhận là tác giả của tập thơ Lao Trung Nhật Ký: 134 bài thơ trong tập thơ nầy đã được viết bằng Hán văn trác tuyệt với nhiều thành ngữ đặc biệt của dân tộc Hẹ. Nguyễn Tất Thành chỉ có trình độ Hán văn sơ cấp, chỉ nói được tiếng Quảng Đông, không nói được tiếng Hẹ và tiếng Quan thoại, không thể làm thơ bằng tiếng Hán và cũng không thể thông thạo các thành ngữ đặc thù của dân tộc Hẹ.
- Trong Tuyên Ngôn Độc lập ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh sử dụng cụm từ “Lâm thời Chánh phủ”. Đó là lối nói và viết của người Tàu, đặt tính từ (adjective) trước danh từ (noun) cũng như người Anh và Mỹ.
- Trước khi hồn phách bay về cố quốc, Hồ Chí Minh muốn nghe một bản nhạc Tàu do một cô xẩm hát tại Hà Nội.
- Nhớ lại mối tình với Lâm Y Lan tại Quảng Châu và Hạ Môn, Hồ Chí Minh đã lấy lá cờ đỏ sao vàng của tỉnh Phước Kiến làm cờ đảng Cộng sản Việt Nam và muốn rước Lâm Y Lan qua Hà Nội chung sống với ông ta.
- Quyển sách “Những Mẫu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch” do Trần Dân Tiên (tức Hồ Chí Minh) viết bằng chữ Hán, xuất bản tại Thượng Hải năm 1949, dịch ra tiếng Pháp tại Paris năm 1950 rồi dịch từ tiếng Pháp ra tiếng Việt năm 1951. Nếu Hồ Chí Minh là Nguyễn Tất Thành tức Nguyễn Ái Quốc, tại sao một người Việt không viết quyển sách nầy bằng tiếng Việt mà phải dùng chữ Hán ? Vã lại, với trình độ thấp kém về Hán văn, Nguyễn Tất Thành không có khả năng viết sách bằng tiếng Hán.
Tội ác của Hồ Chí Minh đối với đất nước và dân tộc Việt Nam
1-Gây ra hai cuộc chiến tranh nồi da xáo thịt trong 30 năm (1945-1975)
Nhằm mục đích thực hiện giấc mộng bành trường của Trung Quốc xuống Việt Nam và Đông Nam Á, Hồ Chí Minh đã vận dụng chủ nghĩa cộng sản và lợi dụng lòng yêu nước của dân tộc Việt để phát động hai cuộc nội chiến giữa người Việt anh em nhưng khác biệt ý thức hệ. Áp dụng triệt để các giáo điều của chủ nghĩa Mác-Lê, đảng Cộng Sản Việt Nam dưới quyền lãnh đạo của Hồ Chí Minh đã tận dụng bạo lực để chiếm đoạt chánh quyền trong cả nước Việt Nam với các chánh sách, chủ trương và hành động tàn độc dã man chưa từng thấy trong lịch sử Việt Nam dưới thời quân chủ và Pháp thuộc. Hai cuộc nội chiến giữa người Việt quốc gia và người Việt cộng sản đã giết hại cả chục triệu mạng người, gieo tang tóc và đau khổ cho tất cả gia đình đồng bào trên cả ba miền Nam, Trung, Bắc, tàn phá nặng nề đất nước Viêt Nam vừa thu hồi độc lập với bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên ngày 11-3-1945 của Hoàng đế Bảo Đại. Ba mươi năm chiến tranh tàn khốc đã làm suy yếu nội lực của  nước Việt, gây ra hận thù giai cấp, chia rẽ dân tộc, dần dần tạo ra tinh thần nô lệ ngoại bang, xem nhẹ Tổ quốc.
Nhờ viện trợ quân sự hùng hậu của Trung Cộng, đảng Cộng Sản Việt Nam đã chiếm được miền Bắc sau khi ký kết Hiệp định Geneve năm 1954 phân chia nước Việt Nam ra hai miền Nam Bắc. Người giúp bộ đội Việt Minh chiến thắng quân Pháp tại Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954 là Thượng tướng Trưởng Đoàn Cố Vấn Quân Sự Trung Quốc Vi Quốc Thanh, một người dân tộc Choang ở Quảng Tây có quan hệ mật thiết từ trước với Thiếu tá Hồ Quang tại tỉnh nầy. Theo đuổi ý đồ dùng chiến tranh để giết chết dân tộc Việt, Hồ Chí Minh đã nhanh chóng phát động cuộc Chiến tranh Việt Nam lần thứ hai (1954-1975) gọi là “Chiến tranh chống Mỹ cứu nước”. Sử dụng chiêu bài giả dối thống nhất đất nước, người “Cha Già dân tộc Việt Nam” gốc Tàu đã thúc đẩy dân tộc Lạc Việt phải  tiếp tục bắn giết nhau như kẻ thù không đội trời chung. Cuối cùng, đảng Cộng Sản Việt Nam do Thiếu tá Tàu Hồ Quang rèn luyện và dạy bảo đã nhượm đỏ cả nước Việt Nam nhờ sự thay đổi chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ từ năm 1972.
Triệt để thi hành kế sách thâm độc của Trung Quốc, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản đã liên tục tiến hành hai cuộc chiến tranh trong 30 năm để tiêu diệt dân tộc Việt Nam, hết đánh Pháp rối lại đánh Mỹ đến người Việt cuối cùng đúng y như lời tuyên bố của Tổng Bí thư Lê Duẫn:
“ Chúng ta đánh Mỹ là đánh cho Trung Quốc, cho Liên Xô và cho các nước xã hội chủ nghĩa”
2-Tiêu diệt lãnh tụ các chánh đảng quốc gia, giáo chủ các tôn giáo và nhân sĩ, trí thức
Với tinh thần độc tôn và độc ác, Hồ Chí Minh không dung tha các tổ chức chánh trị và cá nhân có uy tín và khả năng tranh đoạt chánh quyền với đảng Cộng sản. Ngoài các chánh đảng và nhân vật quốc gia, Hồ Chí Minh cũng lên án tôn giáo là một loại thuốc phiện ru ngủ quần chúng. Vì vậy, sau khi cướp được chánh quyền của nhà Nguyễn và Nội các Trần Trọng Kim, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị Bộ trưởng Nội Vụ Võ Nguyên Giáp, một bộ hạ tâm phúc đắc lực của ông ta, ban hành quyết định đặt Việt Nam Quốc Dân Đảng ngoài vòng pháp luật và ra tay trừ khử lãnh tụ và cán bộ của các chánh đảng quốc gia (Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Quốc Dân Đảng, Đại Việt Duy Dân, đảng Lập Hiến, đảng Quốc Gia Độc Lập, đảng Dân Xã), đảng viên Đệ tứ Quốc tế Cộng sản, Giáo chủ Phật Giáo Hòa Hảo. Tuân lịnh Võ Nguyên Giáp, cán bộ Việt Minh cộng sản trong toàn quốc đã tàn sát một số lớn nhân sĩ, trí thức và tinh hoa của dân tộc Việt Nam.
3-“Rèn cán, Chỉnh quân”
Nhằm mục đích Hán hóa dần dần các sĩ quan và cán bộ Việt Minh, Hồ Chí Minh đã phối hợp với các Cố vần Tàu thực hiện kế hoạchRèn cán, Chỉnh quânđể loại bỏ các sĩ quan Việt Minh thuộc thành phần trí thức tiểu tư sản và đưa thành phần bần cố nông ít học vào hàng ngũ sĩ quan của bộ đội Võ Nguyên Giáp. Từ năm 1950, Trung Cộng đã mở hai trung tâm đảo tạo quân sự tại Nam Ninh (Quảng Tây) và Kaiyuan (Vân Nam) phụ trách huấn luyện quân sự các sĩ quan Việt Minh và tuyển chọn người trung thành với Trung Quốc. Song song với việc viện trợ quân sự giúp Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam đánh quân Pháp, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa, Trung Cộng đã tiến hành kế sách đào tạo người cộng sản Việt Nam trở thành người học trò tốt, tuân lệnh và ngoan ngoãn theo lời chỉ dạy, thi hành nhiệm vụ rập theo khuôn mẫu Trung Quốc. Mục tiêu của kế sách Trung Quốc là phá tiêu tan nguồn sinh lực của dân tộc Việt Nam và buộc đảng Cộng Sản Việt Nam phải triệt để trung thành với đảng Cộng Sản Trung Quốc.Tổng Cục Tình Báo Hoa Nam phụ trách Việt Nam có nhiệm vụ cài đặt nhân sự vào các cấp đảng và chánh quyền cộng sản Việt Nam, trải rộng khắp mọi nơi.
(Ninh Cơ, Việt Nam: Tỉnh hay Khu Tự Trị, Nhựt báo Sài Gòn Nhỏ số 226 ngày 3-7-2009)
Để thống trị dễ dàng nước Việt Nam và nhanh chóng sát nhập nước ta vào đế quốc Đại Hán, đảng Cộng sản Tàu đã chỉ thị “cơ sở đảng chư hầu An Nam” do Thiếu tá Hồ Quang lãnh đạo và rèn luyện:
- Giết sạch tầng lớp nhân sĩ, trí thức và tinh hoa của dân tộc Việt để nước Việt Nam không còn người lãnh đạo sáng suốt và chuyên viên có nhiều tài năng;
-  Liên tục gây chiến tranh để tiêu diệt người Việt càng nhiều càng tốt với võ khí do Trung Quốc cung cấp và tàn phá tối đa đất nước Việt Nam;
- Đẩy mạnh đấu tranh giai cấp và tận dụng bạo lực của chuyên chính vô sản để gây ra hận thù vô phương hàn gắn giữa đồng bào người Việt khác biệt địa phương, chánh kiến, tôn giáo và thành phần xã hội;
- Thi hành chánh sách Cải Cách Ruộng Đất rập theo khuôn mẫu Trung Quốc để tàn sát dã man trên 172,000 đồng bào ở nông thôn miền Bắc từ 1952 đến 1956;
- Tạo lập một đội ngũ cán bộ cộng sản trung thành với Trung Quốc. Những người cộng sản Việt Nam đã có can đảm nói lên lập trường “đời đời nhớ ơn Trung Quốc” và “ không được vong ân bội nghĩa” đối với Đại Hán như Đại tá Trần Đăng Thanh của Học Viện Chánh trị Bộ Quốc Phòng phải được trọng dụng. Thuộc thế hệ trước Trần Đăng Thanh, thi nô Tố Hữu (bí danh Lành), Trưởng Ban Văn Hóa Tư Tưởng đảng Cộng Sản Việt Nam, là người đứng đầu trong đội ngũ cán bộ cộng sản trung thành với Trung Quốc. Hán nôTố Hữu luôn luôn được nhân dân Việt Nam nhớ đến với hai câu thơ vô tổ quốc sau đây:
“Bên ni biên giới là nhà”
“Bên kia biên giới cũng là quê hương”
4-“Trăm Năm Trồng Người”
Hồ Chí Minh lúc sinh thời đã nhiều lần dạy bảo các cấp lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam về kế hoạch “Trăm NămTrồng Người”: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người mới xã hội chủ nghĩa. Để đào tạo con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam trung thành với hai đảng Việt Cộng và Trung Cộng, một trường “Thiếu niên Việt Nam” đã được thành lập tại Lư Sơn (Quảng Tây) thâu nhận và huấn luyện trẻ em Việt Nam từ 9 đến 15 tuổi trong nhiều năm để trở thành những cán bộ nồng cốt của đảng và nhà nước Việt Nam triệt để trung thành với hai đảng Cộng sản Việt Trung. Nhiều người tốt nghiệp trường “Thiếu niên Việt Nam” ở Lư Sơn, Quảng Tây, đã và đang giữ những chức vụ lãnh đạo trong Đảng và Nhà nước Việt Nam. Một số đã là thành viên của bộ Chánh trị đảng Cộng sản, Chánh phủ và Ban Thường vụ Quốc Hội. Một trường hợp điển hình là việc trọng dụng Hoàng Trung Hải, một người Hoa tốt nghiệp trường “Thiếu niên Việt Nam” ở Quảng Tây, trong chức vụ Bộ trưởng bộ Tài Chánh và Phó Thủ tướng đăc trách các dự án Đầu Tư.
5-Hán hóa Việt Nam
Ngay từ năm 1951, một năm sau khi Hoa quân nhập Việt giúp Việt Minh đánh Pháp, Hồ Chí Minh ra lịnh cho Trường Chinh (Đặng Xuân Khu), Tổng Thơ Ký đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản) mới thành lập, công bố một bản Hiệu triệu nhân dân Việt Nam bỏ chử Quốc ngữ để học chử Hán, bỏ Tây y để dùng lại cao đơn hườn tán và xin làm chư hầu của Trung Quốc. Tinh thần thần phục Hán tộc đã được thể hiện thông qua nhiều hình thức của “Quyền lực mềm” (Soft power), nhứt là việc ưu tiên sử dụng người Việt gốc Hoa, dạy trẻ em Việt Nam học tiếng Hán ngay từ cấp 1, thành lập các Viện Khổng Tử và hạn chế học sử Việt trong thời đại Hồ Chí Minh mà thôi.
6-Chuyển nhượng chủ quyền lãnh thổ Việt Nam cho Trung Quốc
Hồ Chí Minh đã đi bước đầu trong quá trình sát nhập Việt Nam vào Trung Quốc: ra lịnh cho Thủ tướng Phạm văn Đồng của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt cộng sản) gởi Công hàm ngày 14-9-1958 đến Thủ tướng Chu Ân Lai của Quốc Vụ Viện Trung Quốc để chánh thức công nhận chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hiện nay, Trung Quốc đã lợi dụng Công hàm Phạm văn Đồng để chiếm đoạt hầu hết Biển Đông của Việt Nam. Bản đồ 9 đoạn của Trung Quốc (gọi là Lưỡi Bò) nhiều nơi đi sâu vào Vùng Đặc Quyền Kinh tế 200 hải lý, Vùng Tiếp cận Lãnh hảỉ 12 hải lý hoặc Lãnh hải 12 hải lý của Việt Nam. Hồ Chí Minh và Phạm văn Đồng đã đi xuống địa ngục nhưng đã để lại một di hại vô cùng trầm trọng cho đất nước Việt Nam. Công hàm Phạm văn Đồng đã thật sự chuyển giao cho Trung Quốc chủ quyền lãnh thổ Việt Nam trên  hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và làm mất quá nhiều tài nguyên dồi dào của Biển Đông, chận bít đường đi ra hải phận quốc tế của tàu thuyền Việt Nam vì Biển Đông hay Biển Nam Hải (South China Sea) nay đã trở thành một nội hồ của Trung Quốc đã có căn cứ quân sự,  bến cảng lớn và chắc chắn sẽ có hệ thống Nhận Dạng Phòng Không (Air Defense Identification Zone) của Tàu Cộng như trên Biển Hoa Đông (East China Sea).

Kết luận
Vì nhận thấy Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc có viễn kiến sáng suốt về một con hồ đỏ sẽ gieo trồng trái đắng để tàn sát nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh đã ra lịnh cho Việt Minh trừng phạt Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ bằng cách giết chết ngay từ năm 1945 1,720 đạo hữu Cao Đài tại Quảng Ngải và trên 1,000 chức sắc và đạo hữu Cao Đài tại bìa rừng Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh.
Ngoài ra , Hồ Chí Minh đã hai lần ra chỉ thị cho Cao Triều Phát (1889-1956), một đại địền chủ ở Bạc Liêu theo Việt Minh, mưu sát vị lãnh đạo Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh, lần đầu tiên với sự trợ giúp của Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, thành viên Ủy Ban Kháng Chiến tỉnh Tây Ninh. Nhưng âm mưu sát hại vị lãnh đạo Đại Đạo Cao Đài Tây Ninh bất thành vì Cao Triều Phát chấp nhận chịu chết dưới tay Hồ Chí Minh thay vì ám hại người đồng đạo đức cao trọng vọng. Cao Triều Phát, một nhân sĩ trí thức người Việt gốc Hoa, nguyên quán Triều Châu, Trung Hoa, đã tập kết ra Bắc Việt sau khi hiệp định Geneve được ký kết ngày 20-7-1954. Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đã về trời tại Pnom Penh từ năm 1959 nhưng nhà cầm quyền cộng sản vẫn còn căm thù Ngài. Năm 1978, đảng Cộng sản kết tội Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc là phản quốc, hại dân, chống phá cách mạng. Mới đây, ngày 27-8-2015, hai tên côn đồ ngang nhiên mang giày xông vào Hộ Pháp Đường trong Tòa thánh Tây Ninh, một tên dùng búa đập lên trán pho tượng Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc còn một tên quay phim, chụp hình. Sau khi đập phá xong, hai tên côn đồ nầy ung dung lên xe chạy đi mất.
Ngày nay, dưới ảnh hưởng nặng nề của Hồ Chí Minh, một điệp viên Tàu tàn ác có nhiều quỷ kế thâm độc nhưng được thần thánh hóa trong lúc còn sống cũng như sau khi qua đời, dân tộc Việt đã dần dần bị nô lệ hóa dưới ách thống trị của các Thái thú bản xứ của Hán tộc; so với thời Pháp thuộc, nước Việt đã mất đất, biển, hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, cao nguyên Trung Phần, rừng đầu nguồn, tô giới Tàu và rất nhiều tài nguyên quốc gia. Sự tồn tại của nước Việt Nam với tư cách một thành viên của Liên Hiệp Quốc chỉ còn trên danh nghĩa mà thôi. Ngày nước Việt Nam chánh thức trở thành  một quận huyện hoặc một Khu Tự trị trực thuộc tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc không còn xa. Lời tiên tri của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc từ năm 1941 đã trở thành hiện thực. Trong hiện tình đất nước, nếu không muốn sử dụng “Quyền lực của quần chúng” và “Quyền dân tộc tự quyết” để phục hồi nhân quyền và các quyền tự do dân chủ của công dân một nước độc lập, 87 triệu đồng bào không cộng sản ở quốc nội sẽ phải chấp nhận thân phận nô lệ của người bị trị. Dầu muốn hay không, họ cũng bắt buộc phải tiếp tục thờ phượng người “Cha Già dân tộc” gốc Tàu theo kế hoạch của đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục xây dựng vô số tượng đài Hồ Chí Minh từ khắp trong nước ra đến các nước ngoài như tại thị trấn Newhaven, Anh quốc, nơi có một người thợ nhồi bột mì tên Nguyễn Tất Thành làm việc chân tay cho một tiệm bánh mì của người Pháp ở London trước năm 1917.
California, 15-9-2015
Thẩm phán Phạm Đình Hưng
Mai Luong chuyển

Sunday, September 27, 2015


VƯỜN THƠ


MẶC ĐỖ ĐỖ QUANG BÌNH 
VƯƠNG TÂN 

Sống chỉ thiếu một năm tròn thế kỷ
Viết rất nhiều nhưng chỉ còn lại mấy cái truyện ngắn
Lòng luôn tiếc nuối tác phẩm ưng ý
 Đứng ngồi không yên bị thiêu hủy
Sống  xa đất nước 40 năm khắc khoải
Phải làm một cái gì cho quê hương
Nhưng lực bất tòng tâm đành nhắm mắt xuôi tay
Vương tân





 
TÔI VỚI ANH;

DƯ THỊ DIỄM BUỒN

Tôi với anh sinh ra trên nước Việt
Anh miền Bắc có sông Đuống sông Hồng
Miền Nam tôi có chín nhánh Cửu Long
Nuôi ruộng lúa Tiền, Hậu Giang, Đồng Tháp...

;Vườn cây quằn trái thênh thang bát ngát
Cho dân Nam có cuộc sống ấm no
Khi chúng tôi trong lứa tuổi học trò
Chăm sách vở, kính thầy, yêu bè bạn...

Gặp người khốn khổ trong cơn hoạn nạn
Lễ phép đưa đường, giúp đỡ, viếng thăm...
Khi ốm đau mọi chữa trị, thuốc thang...
Chánh phủ cho, lo cả nhà dưỡng lão...

Hãng xưởng thị thành, nông thôn nếp, gạo...
 Trường dạy nghề đào tạo những sinh viên
Học kỹ thuật và đạo đức thánh hiền...
 Tương lai đẹp dựng, xây, bồi... đất nước

 Nền tảng đó có từ muôn thuở trước
Trên nước Việt Nam hùng vĩ gấm hoa...
Ai tội đồ, rước Cộng sản vào nhà?
Để Nam Bắc cắt chia... dòng Bến Hải!

Dân miền Nam sống hiền hòa nhân ái
 Luôn siêng năng trong tài trí, thiện tâm...
 Cùng quyết lòng xây dựng một miền Nam
 Chánh thể Cộng Hòa an cư, lạc nghiệp...

 Miền Bắc Cộng sản ác gian, oan nghiệt...
Bắt thiếu niên bỏ học, đào hầm chông...
Gieo mầm thù hận, oán... tận đáy lòng
Lẻn vào Nam gây “nồi da xáo thịt”

Say máu Cộng không kể già, trẻ nít...
Đại bác nả bừa tan tát giáo đường...
Bịnh nhân chết... bởi pháo kích nhà thương
 Giết học trò giờ chơi trường Cai Lậy...

Đất Thần Kinh đặt hầm chông, mìn, bẫy
Tết Mậu Thân tàn sát cả vạn người...
Những oan hồn biết đến thuở nào nguôi...
> Huế yêu ơi, Huế sầu thương chất ngất!

Tôi với anh sống trên cùng dãy đất
Chia cắt hai miền, Nam Việt sáng tươi
Nơi đất Bắc Cộng kềm kẹp tơi bời
Theo Tàu, Nga... toàn trái ngang, ác đức...

 Cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam thống nhứt
 Mấy mươi năm, dân tộc có được gì?
Chúng tôi, giờ anh làm kiếp chim di!
 Lãnh hải, lãnh thổ... Cộng đem chia bán

Rước Tàu phù vào tạo lập doanh bản...
Làm đường, xây nhà... chỉ để mị dân
Tốt làm chi đó cái bọn vô thần...
Chiếm nước ta... làm quận nhà chúng nó!

“Độc lập tự do” cũng câu nói đó!
 Ai mà tin! Anh bị gạt nửa đời...
 Nỗi xác xao cay đắng mãi không nguôi...
Hãy bỏ Cộng, cùng Quốc Gia dựng nước

 Quê hương sẽ thanh bình như thuở trước
Màu cờ vàng phấp phới rợp trời xanh
> Sao xả thân cho chế độ gian manh?
Tội gì anh, còn chần chờ chi nữa...

 Chạy thụt mạng qua được vùng đất hứa...
Hãy cùng chúng tôi dưới bóng cờ vàng
 Ta trở về giải phóng cứu Việt Nam
 Nếu tim anh còn quê hương, dân tộc

Anh đã biết dân bị Tàu đầu độc
Ác, gian, bán trôn, cướp giựt, lao nô...
Từ Bắc vào Nam nếp sống xô bồ...
Cai trị dốt, tham... thương dân chẳng có!

Không nhận Quốc Kỳ Vàng Ba Sọc Đỏ?
Là anh không cùng Chánh Nghĩa Quốc Gia
Là vĩnh viển anh không phải bạn ta!
Dù tôi anh cùng giống dòng Hồng Lạc!

 DƯ THỊ DIỄM BUỒN

Email: dtdbuon@hotmail.com
ĐT: (530)822 5622


 RỪNG THU XƯA VẪN NHỚ

Khi tôi về, rừng thu xưa chưa rụng lá
Vàng thu treo trong nắng buổi về chiều
Vùng kỷ niệm một thời ôm ước vọng
Ðọng trong hồn nỗi hoang vắng tịch liêu

Người đi thuở ấy trong giông bão
Không nói mà sao nhớ thiết tha
Chưa dám cầm tay rưng nước mắt
Ngày vui tao ngộ phải chia xa

Sóng tình chưa gợn trong dòng mực
Nét bút chưa quen để tỏ nhiều
Thoảng nhẹ hương thơm hoa nhớ bướm
Bâng khuâng vừa gợn chút tin yêu

Người đi biền biệt không quay lại
Hằn dấu tim đau những sớm chiều
Từ ấy hồn thu thêm nặng trĩu
Rừng thu in dấu những đìu hiu

Tôi về đánh thức mùa thu cũ
Gởi gió rừng xưa tuổi xế chiều
Chiếc bóng đơn côi ôm kỷ niệm
Người ơi … hoa vẫn mãi cô liêu …

nguyễn phan ngọc an - 2015
\



NHÌN LẠI TRƯỜNG XƯA

Thấy lạ xa…ồ… đây là góc phố !
Chợt biết mình…Từ Thức năm xưa
Trường học… còn…một bức tường sắp đổ
Rũ đầu im…khóc lặng mấy gốc dừa.

Thầy, bạn, gái, trai, bảng xanh, phấn trắng
tập vở, mực xanh, chép, học hán văn
bán tự vi sư… làm sao quên lãng
Ghi khắc trăm năm , ghi khắc ngàn năm

Thủa ấy học trò, đẹp thay dĩ vãng !
Vẫn bóng hình xưa chung thủy trở về
Áo trắng dài bay những chiều lãng đãng
Để hồn bùi ngùi chết thưở đam mê



Rũ bụi thời gian tìm hương tàn đó
Đập kính hồn cho tan biển nát trời
Đâu Người, đâu Đời Nha Trang ngày nọ ?
Thương nhớ vô cùng, ơi thương nhớ ơi !

TỪ VŨ


MUSING ON THE OLD SCHOOL

How strange, oh, this is the street corner perhaps!
I suddenly realize I have just got back from Elysium:
The school... only a remaining wall... going to collapse,
Some coconut trees droop as if to cry, dull and dumb.


Teachers, friends, girls, boys, black board, white chalk,
Copybooks, blue ink, writing/learning Classic Chinese.
Teaching even half a word is a teacher, how to balk?
I would keep in mind my whole life, the sense to seize.

They were so beautiful those school days, that dear past!
The old beloved images faithfully return, each cheers.
White long split dresses waving in the evening vast,
To make my sensitive soul sad to the verge of tears.



Clear the time dust to retrieve of yore the fragrance!
Break up the mind mirror to smash sky, shatter sea!
Where are old days' Nha Trang people, life, pleasance?
How morosely I miss you, sempiternal souvenirs in me!

Translation by THANH-THANH

__._,_.___

Posted by: Nhuan Xuan Le

Reply via web post Reply to sender Reply to group Start a New Topic Messages in this topic (1)
Chính Nghĩa tự có tính thuyết phục - Nhân Nghĩa tự có tính cảm hóa

http://www.chinhnghia.com
http://www.kimau.com
http://www.tinhhoa.org
http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

No comments: