Wednesday, November 2, 2016

HUY LÂM =GÓC CỦA PHAN=

HUY LÂM * MÁY MOC VÔ TÌNH


 
Viết từ Dallas: Máy móc vô tình
Huy Lâm

Đã từ lâu, khi các ngành kỹ thuật có những bước tiến thật xa, thật nhanh, người ta vẫn không ngừng nêu câu hỏi: Đến bao giờ thì máy móc sẽ thay thế con người? Hay nói cách khác, đến bao giờ thì máy móc sẽ đẩy con người sang bên lề và làm những công việc mà trước đây vẫn là độc quyền của con người?
Mà đây là những lo lắng không phải không có căn cứ. Hãy cứ nhìn xung quanh mà xem, máy móc đã thay con người làm rất nhiều công việc, từ những công việc sản xuất đến việc văn phòng, từ dịch vụ ngân hàng đến việc rất nhỏ như tính tiền/ trả tiền ở siêu thị, v.v…
Vào năm 2012, công ty Amazon mua lại Kiva Systems, là công ty chế tạo ra loại robot có khả năng nhận đơn đặt hàng từ nhà kho, sau đó đóng thùng và đưa món hàng đó tới khu vực để gửi đi cho khách hàng. Hiện nay Amazon đã có 1.382 người máy robot như thế tại ba trung tâm nhận đơn đặt hàng và gửi hàng đi, nghĩa là công ty Amazon có thể sẽ không cần phải mướn nhiều ngàn nhân viên làm việc cho họ, nhất là vào mùa lễ bận rộn như cuối năm.
Trong thời gian gần đây, nhân viên làm việc cho hệ thống nhà hàng thức ăn nhanh ở nhiều nơi trên toàn nước Mỹ đã có những cuộc đình công đòi tăng lương, đưa đến những cảnh báo từ các nhà nghiên cứu dưới sự bảo trợ của nhiều hệ thống nhà hàng rằng nếu chi phí trả cho những nhân viên nấu ăn cao quá, họ có thể dễ dàng thay thế những nhân viên này bằng người máy. Việc này chưa xảy ra nhưng những cuộc nghiên cứu vẫn đang được tiến hành và rất có thể trong một tương lai gần sẽ trở thành hiện thực. Hiện nay, hệ thống nhà hàng McDonalds tại Âu châu đã thay thế nhân viên tính tiền bằng các máy điện tử tự động, người mua chỉ việc bấm nút chọn thức ăn và tự trả tiền. Đó là lý do chúng ta có thể tin rằng cái ngày những người máy nướng bánh hamburger cho khách hàng sẽ không còn bao xa.
Kỹ thuật xe tự động trong mấy năm gần đây đã tiến triển rất nhanh, và hiện nay, những công ty như Toyota và Google đang tiến hành những cuộc nghiên cứu nhắm vào loại xe dành cho hành khách. Nhưng không thể không nghĩ tới những loại xe vận tải chở hàng chạy đường trường và một khi kỹ thuật xe tự động thành công, công việc tài xế cho những loại xe tải này có thể thay thế bằng những người máy được điều khiển từ xa, và hãy nhớ rằng những người máy này lái xe không bao giờ biết mệt và không lạc đường. Như vậy có nghĩa là với 5,7 triệu tài xế đang làm công việc lái xe tải đường trường trong tương lai sẽ phải đổi nghề khác để kiếm sống.
Ngay cả trong ngành canh nông cũng đã có những bước tiến dài trong việc áp dụng kỹ thuật tự động đến nỗi ta có thể nói hầu như chẳng còn mấy ai làm công việc tay chân trên những cánh đồng bao la bát ngát ở Mỹ này nữa. Ngoại trừ một số người đang điều khiển những máy móc thay thế nhà nông làm những công việc như cày bừa và gặt hái. Nhưng thậm chí luôn cả những người đang làm công việc điều khiển máy đó cũng không thể tiếp tục giữ vững được công việc của họ bao lâu nữa. Với những tiến bộ của những loại máy nông nghiệp được điều khiển bằng máy điện toán, những tọa độ nhất định trên cánh đồng được chấm sẵn và thế là cứ để chúng chạy tự do ngày cũng như đêm.
Những ví dụ vừa nêu để cho bạn đọc có chút khái niệm rằng cái ngày mà những máy móc tự động thay thế phần lớn công việc của chúng ta, nhất là công việc của giới lao động tay chân, không còn bao xa.
Phải chăng con người ngày càng ra sức phát triển kỹ thuật để rồi đến một lúc nào đó kỹ thuật sẽ hoàn toàn thay thế chúng ta làm việc và đẩy chúng ta vào đội ngũ của những người thất nghiệp kinh niên?
Giáo sư kinh tế Tyler Cowen của Đại học George Mason tiên đoán một thế giới với khoảng 10 – 15% thành phần dân số là có đủ kỹ năng để làm việc cùng với những loại máy móc thông minh trong tương lai. Ông tin rằng nhóm người này sẽ trở nên hết sức giàu có, khá giả, trong khi phần còn lại sẽ phải đương đầu với khó khăn trong công việc hoặc lương bổng cứ teo dần đi.
Đối với nhiều người, khoảng cách khác biệt ấy giữa nhóm người với kỹ năng cao và phần lớn những người lao động khác là điều rất đáng lo ngại. Có người thấy rằng sự bất quân bình đó có hại cho nền dân chủ; người khác thì nghĩ rằng vấn đề đó sẽ tạo nên khủng hoảng và có hại cho sự tăng trưởng kinh tế.
Nhưng cái thế giới mà Cowen đã miêu tả đó có thật sự đang đến hay không? Có nhiều lý do chính đáng để ta có quyền nghi ngờ. Ngay từ cuối thế kỷ 18 khi cuộc cách mạng kỹ nghệ bùng phát, người ta đã vội tiên đoán kỹ thuật sẽ giết chết giới lao động. Nhưng cho đến nay, lời tiên đoán đó sai. Quả thật, lương bổng của giới lao động thuộc thành phần trung lưu có khựng lại thật, ít nhất là trong một hai thập niên qua. Nhưng trên đường dài, kỹ thuật đã giúp cho phần lớn lớp lao động bình thường tương đối khá giả hơn trước. Nhờ kỹ thuật, mức lương trung bình ở Hoa Kỳ, sau khi điều chỉnh thay đổi ở giá sinh hoạt, đã tăng hơn 10 lần so với 200 năm trước. Dựa vào điểm này, ta có nhiều lý do đủ mạnh để nghi ngờ về sự tiên đoán của Tyler Cowen.
Nhìn lại khoảng 200 năm qua, kể từ những năm đầu của cuộc cách mạng kỹ nghệ, mỗi khi kỹ thuật mới xuất hiện thì nó lại bổ sung một số kỹ năng và thay thế một số kỹ năng khác mà không tạo ra sự bất quân bình quá mức.
Dạo gần đây, người ta đang nói nhiều tới sự khác biệt giữa giàu và nghèo ngày càng lớn. Nhưng có người cho rằng sự bất quân bình về lợi tức ngày càng gia tăng đó có thể chỉ là hiện tượng nhất thời. Lịch sử cho thấy trong thời gian đầu của cuộc cách mạng kỹ nghệ đã phát sinh chiều hướng kinh tế cũng tựa như chúng ta thấy ngày nay. Một nhóm nhỏ ưu thế gồm các chủ nhân, thợ máy và kỹ sư – là những người đầu tiên biết lợi dụng cơ hội phát minh ra những máy hơi nước, máy dệt vải, và những kỹ thuật cơ khí liên quan – nhận thấy lợi tức của họ tăng rất nhanh, trong khi lợi tức của giới thợ thuyền khựng lại. Nhưng khi kỹ thuật được hoàn thiện và kỹ năng mới trở nên tiêu chuẩn hóa hơn thì lợi tức cũng được san sẻ đồng đều hơn.
Hãy lấy ví dụ chiếc máy ATM (ta thường nôm na gọi là máy rút tiền tự động). Đây là loại máy thông minh có thể làm được những công việc trước kia thuộc về nhân viên ngân hàng làm việc tại quầy (bank teller). Trong quá khứ, khi chiếc máy này được giới thiệu tới công chúng, nhiều người tiên đoán rằng số nhân viên làm việc tại ngân hàng sẽ giảm sút đáng kể.
Nhưng trong thực tế thì ngược lại. Con số nhân viên ngân hàng lại tăng, và mức lương của họ cũng tăng đều đặn trong mấy năm qua. Từ năm 1999 đến 2009, số nhân viên ngân hàng làm việc tại quầy tăng thêm 123.000 lên đến 577.000, mặc dù tình trạng kinh tế trì trệ; và mức lương của họ tăng khoảng 3% sau khi điều chỉnh mức lạm phát. Lý do là vì những nhân viên này làm được một số việc phức tạp mà máy ATM không làm được và điều quan trọng hơn, những nhân viên này tạo được mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng của họ. Khách hàng sẽ vui vẻ tự mình rút tiền từ máy ATM, nhưng nếu họ muốn trả xong một món tiền nợ, hoặc muốn ký thác tiền vào nhiều trương mục khác nhau cùng một lúc, hoặc cần mượn một món tiền hay mở một trương mục hưu trí, người khách hàng muốn có một nhân viên ngân hàng bằng xương bằng thịt có thể giải thích cặn kẽ cho họ và trả lời những câu hỏi thắc mắc.
Như vậy, ta có thể nói người và máy vẫn có thể làm việc chung với nhau và vẫn mang lại hiệu quả.
Nhân viên ngân hàng chỉ là một ví dụ. Nhu liệu về kế toán lấy đi một số công việc, nhưng số nhân viên kế toán và nhân viên giữ sổ sách vẫn tăng; máy móc thông minh thay thế cho công việc đánh máy, nhưng số thư ký và nhân viên tiếp khách (receptionist) vẫn tăng đều, làm những công việc mới bổ sung cho kỹ thuật văn phòng mới. Từ năm 1999 đến 2009, số thư ký tăng 216.000, số nhân viên tiếp khách tăng 64.000. Con số tăng trưởng này bù vào những công việc bị mất đi như đánh máy, trả lời điện thoại.
Ta có thể thấy những kỹ thuật thông minh ngày nay ngày càng được thông dụng tại những nơi làm việc. Và những ví dụ trên cho thấy là vẫn còn nhiều công việc đòi hỏi những kỹ năng vừa phải thôi chứ không cần cao lắm để con người có thể làm việc chung với những kỹ thuật mới này. Dựa vào những bằng chứng nêu trên, không có lý do gì để nghĩ rằng chỉ có 15% những người làm việc trong tương lai mới đủ khả năng để làm việc chung với máy và được cho là những phần tử lao động có giá trị.
Máy móc là vật vô tình. Tự nó không thể nối dây cắm vào ổ điện, không thể tự mình nhấn cái nút “on” để kích hoạt, chúng vẫn cần người nào đó cắm dùm dây vào ổ điện, nhấn dùm cái nút “on” cho chúng. Đứng một mình thì chúng vẫn chỉ là cục sắt vô tri vô giác không hơn không kém. Chỉ nghĩ tới điều đơn giản đó thôi cũng đủ cho chúng ta an tâm phần nào để hướng về phía trước và tiếp tục đi nốt đoạn đường còn lại.
Huy Lâm

GÓC CỦA PHAN * SỐ CON RỆP


 gocphan03


Tôi đã nghe nhiều người rên, “Số tôi số con rệp”. Nhưng con rệp không có trong 12 con giáp. Suy ra, cách nói thậm xưng đó chỉ nhằm ta thán về sự kém may mắn của người nói đã quá sức chịu đựng của bản thân. Nhìn lại từ ngữ bình dân trong tiếng Việt, đôi khi sự hệch hạc đến buồn cười như: “Có tiền mua tiên cũng được/ không có tiền mua cây lược cũng không xong”. Câu nói than thở cảnh nghèo túng – nghèo thường vò đầu bóp trán để nghĩ cách thoát nghèo, làm cho đầu bù tóc rối như ổ quạ, nhưng tiền mua cái lược để chải lại đầu tóc cho gọn gàng như mọi người cũng không có. Tiếng Việt có lối nói thậm xưng tức là nói quá để làm bật lên cái chủ ý muốn nói, như nói về một người thường nói vóc thì người ta nói, “Ôi, hơi đâu nghe kẻ trăm voi không được bát nước xáo”. Tiếng Việt ta rất hay với biện pháp tu từ thì kể ra rất đểu với nghệ thuật thậm xưng, cường điệu … cạo đến cao hơn trời khi nói “con rận bằng con ba ba/ đêm nằm nó ngáy cả nhà thất kinh”… nên lắm người Việt mang số con rệp như quả báo nhãn tiền.
 
 Không cần giở lại sách vở, chỉ ngồi xuống với mình, nghĩ đến, thì trong đầu sẽ từ từ nhả ra bất cứ hoàn cảnh nào trong cuộc sống cũng có những câu nói mang hàm ý sâu xa từ đời xưa mà dân gian đã tích lũy được để trở thành ca dao, tục ngữ… Nhưng nói đến số phận của con người, cũng là nói đến duyên phận – nghiệp quả của con người, sự phát sinh ra duyên và phận, nghiệp và quả, từ đâu đến, đi về đâu… Đó là biển thức mà mỗi người giác, ngộ theo cách riêng của mình để có sự khác biệt về số phận từng người trong biển đức mênh mông mà ta được mấy phần…
Trong một ngày cuối năm, trời lạnh căm căm ngoài ngõ, ngoài đường không một bóng người, không tiếng xe qua… cả không gian lắng đọng như tuyết đá lặng thinh trên nhành cây ngọn cỏ, vạn vật tịnh độ để tiễn biệt một năm nữa đi qua – một năm nữa lại về. Bốn mùa thay lá của năm qua đã đi đâu; bốn mùa của năm mới sẽ từ đâu đến; những người ta đã gặp trong đời nhưng không còn gặp nữa, họ đã đi đâu? Những người đang cùng ta hiện hữu sẽ tan biến về đâu; và ai sẽ đến thay những người ra đi để duy trì sự bất tận của vòng luân hoán này? Duyên khởi từ đâu để có ta và duyên tận về đâu để người thay ta đến mà duy hoài tâm linh đời đời trên hành tinh mà trời đất đã tạo ra vạn vật và con người…
Có lẽ tại cái quyển sách “Hành trình về phương đông” của Blair T. Spalding vô tình nằm ở góc bàn ăn đã khiến tôi suy tư trong buổi sáng bói tìm không ra chút nắng. Quyển sách nằm không đúng nơi nó được đặt để; không đến tay người tìm đọc, mà chỉ đến tay người tìm hiểu dở dang rồi bỏ mặc hiếu kỳ; không mất đi như thức ăn trên bàn ăn… nghĩa là một (những) món khó tiêu hóa thường sót lại để thừa thãi, đóng bụi với thời gian theo duyên phận, duyên nghiệp của nó. Ngay việc tôi không tìm đọc nhưng chỉ có tôi với quyển sách trên bàn đã là duyên hội ngộ trong buổi sáng nay thay…
Nghĩ về duyên phận theo thuyết luân hồi của nhà Phật trong sáng ngày Chúa Giáng sinh thì thật tréo nguẩy, nhưng những trang sách cũ trong đầu giở lại có cửa hơn để nghĩ suy, vì kiến thức của nhân loại mênh mông như biển cả mà ta nhỏ nhoi như hạt bụi nước giữa mù khơi bến bờ… Đó là sự khác biệt giữa đạo Phật với kinh sách của các tôn giáo khác. Kinh sách Phật như những quyển sách vỡ lòng, lòng ai vỡ ra được sau khi đọc (hiểu) thì mở ra được những chân trời vô biên riêng, tùy theo sự (sức) hiểu biết riêng của từng người; cũng mang chứa trong đó kỳ duyên với đạo, nhưng có phận để trở thành thầy tu hay không lại là chuyện khác. Đạo Phật không đóng khung người tu luyện trong những phần thưởng nhất định ở trên trời bằng một cuộc sống đời đời an vui trong cõi vĩnh hằng nào đó… Có thể nói (theo cá nhân thôi), đạo Phật là đạo mở.


Tôi ngồi ghép lại những mảnh vụn về số phận, duyên nghiệp mà những mùa thay lá đi qua đời mình đã trầm tích được. Nói theo khoa học thì con người là một thực thể sống, mang tính xã hội cao nhất trong các loài động vật. Được hiểu gồm hai phần. Phần thấy được là thể xác, phần cảm nhận được thôi là tâm linh (tinh thần) chính là năng lượng sinh tồn của mỗi thực thể sống. Sự hiện hữu của hai phần kết hợp giữa thể xác và năng lượng sống không tồn tại mãi mà luân hồi theo vòng sinh lão bệnh tử của vạn vật và con người. Nghĩa là sau khi được sinh ra một thời gian dài hay ngắn tùy theo số phận của từng người thì cuối cùng ai cũng đến cái đích cuối cùng như nhau là sự chết.
Sau khi chết đi, phần vật chất (thể xác) trở về với cát bụi (theo nhiều cách giải quyết của con người), nhưng chung quy cũng là trở lại khởi thủy trong vũ trụ tự nhiên. Còn phần tâm linh (tinh thần) – phần năng lượng sống vẫn tồn tại, nhưng ở một thế giới khác với thế giới hằng sống, (nơi đó không có thời gian một chiều và không gian ba chiều như thời gian và không gian hiện hữu trong cõi người). Tính khoa học trong Phật sách đã có mấy ngàn năm nhưng rất phù hợp với định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, “mọi vật chất và năng lượng không tự nhiên sinh ra, cũng không tự nhiên mất đi, mà chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác”. Phần năng lượng (phần hồn) theo sách Phật sẽ đi tái sanh, sớm hay muộn tùy vào mức độ nặng nhẹ của nghiệp. Linh hồn người đã chết chỉ ở tạm trần gian thêm 49 ngày, sau đó sẽ tùy vào nghiệp thiện-ác đã tạo trong kiếp vừa qua sẽ tái sinh vào một trong sáu cõi (trời, người, atula, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục).


Sự tái sinh không mang theo hình hài kiếp trước mà chỉ mang theo phần năng lượng (linh hồn, tinh thần) hòa nhập vào những cảnh giới khác nhau tùy theo nghiệp (tức là hành vi, đạo đức của kiếp trước). Cõi địa ngục sẽ đón nhận những linh hồn hằng sống bất lương, tà, ác… Nơi có vạc dầu, quỷ sứ, đầy trong chín tầng địa ngục là hậu quả phát sinh từ linh hồn tội lỗi, tự cảm thấy để đau đớn với tiền kiếp). Khác với sự tái sinh vào cõi người, không quá đau khổ như cõi súc sanh, ngạ quỷ, nhưng cũng không quá sung sướng như cõi trời, thì năng lượng đó sẽ theo nhân quả của nghiệp ở kiếp trước mà đầu thai vào nhân duyên của một người cha và một người mẹ của kiếp sau. Sự bất diệt của linh hồn – là sự bất biến của năng lượng trong vũ trụ sẽ chuyển tiếp qua kiếp khác; kiếp khác nữa, mãi mãi… Trừ những linh hồn thành tâm, ngộ được Phật pháp, hết tham sân si thì có thể thoát khỏi vòng luân hồi thường tình mà về cõi tịnh độ. Không tái sinh nữa.
 


Có lần tôi đã đọc và hiểu được (rất không chính xác), nhưng tôi nghĩ là đạo Phật đã dựa vào hai điểm mấu chốt để giải thích thế giới. Một là nhân quả: gieo gió gặt bão, ở hiền gặp lành. Nên kiếp sau được tạo thành từ nghiệp của kiếp trước. Và nghiệp là cái mà ta đã sống, đã làm thiện hay ác trong tiền kiếp để kiếp sau được hưởng nhân quả hay bị trừng phạt từ nhân quả của tiền kiếp. Và trong nghiệp được chỉ giáo có cộng nghiệp và nghiệp riêng của mỗi người, chia thành nhiều loại như: tích nghiệp, cận tử nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp… tức mọi hành vi trong đời thường như lời nói, hành động của mỗi người trong đời sống hiện hữu đều được trời đất phán xét để hình thành nên quả cho kiếp sau. (Những linh hồn có chung cộng nghiệp có thể được đầu thai về một nơi thích hợp, như những người ăn cơm là chánh có thể sẽ đầu thai về các nước trồng lúa, những người ăn thịt là chánh sẽ đầu thai về những xứ chăn nuôi…) Đó là phần phước của những người ăn hiền ở lành. Ngược lại, kẻ thiếu chánh trực, nếu không biết ăn cay thì cũng đừng thắc mắc sao tôi lại đầu thai làm người Đại Hàn để ngày nào cũng phải phồng môi rộp mỏ với hũ kim chi…
Nghiệp có tốt thì có xấu do sự tích phước mà thành. Vì vậy, thế dân gian mới có câu, “làm ơn đừng nhớ thiếu nợ đừng quên”, làm ơn là tích phước, quên nợ là bạc phước – Phước – qua nhiều kiếp theo thuyết luân hồi tạo thành số phận. Như dân oan thường nói kẻ cậy quyền cướp đất có tu chín kiếp cũng không thành chánh quả là vậy! Sách Phật dựa vào phước để lý giải tại sao có người mới sinh ra đã sung sướng mà lại còn sung sướng cho tới mãn phần, vì họ đã tích phước từ nhiều kiếp trước nên kiếp này sung sướng từ sinh ra tới khi chết đi. Và dễ hiểu cho người sinh ra đã khổ đau suốt đời với tật nguyền, nghiệp chướng, là vì những kiếp trước bạc phước, – không chia sẻ với ai miếng ăn khi đói, lời an ủi khi bất hạnh xảy ra… 
Đó chính là số phận của mỗi sinh linh được tạo ra bởi nhiều nghiệp từ những tiền kiếp. Cũng vì thế mà phước cần được vun bồi để dồi dào mãi – bởi không xài kiếp này thì xài kiếp sau. -Cho người ăn mày đồng bạc lẻ buổi sáng không đồng nghĩa với trúng số độc đắc vào buổi chiều. Sự tích phước qua nhiều lần giúp người hoạn nạn sẽ làm cho ta được sống an vui, yên bình ngay trên quê nhà; không còn người biệt xứ nữa – nhất là những ngày năm tàn tháng tận với góc trời riêng mang như nhiều mảnh đời trôi dạt khắp hành tinh bây giờ. -Phước như dầu; nghiệp như đèn. Dầu không châm thì đèn lụi tim. Dân gian ta xưa, không mấy ai được sách đèn nhưng đạo Phật từng là quốc giáo trong một thời gian dài của lịch sử nên sự thấm nhuần Phật pháp đã để lại cho những đời sau nhiều câu nói bình dân nhưng hàm chứa ý nghĩa sâu xa như: có phước có phần; người năng tích phước bằng hành vi từ thiện; nhường nhịn đồng loại lời ăn tiếng nói – không ác mồm ác miệng mà dân gian quen gọi là khẩu nghiệp. Người hiếu để với cha mẹ mà chính Đức Phật đã từng dạy chúng sanh: Cha mẹ trong nhà là Phật; người biết để phật tánh tự nhiên chan hòa với vạn vật, yêu thương đồng loại bằng chính thành tâm, hảo ý tự nhiên của lòng thành thì phần phước về sau mỹ mãn. Có phước có phần, không sớm thì muộn phần thưởng của trời đất sẽ đến tay người năng tích phước trong kiếp phù sinh.
Những trang sách mở còn cho thấy, người đức hạnh hôm nay sao phải chịu quá nhiều bất hạnh trong đời sống. Đơn giản là người đó đang trả nợ tiền kiếp (lãnh quả) do nhân kiếp trước mỏng phước. Sự đức hạnh hôm nay, việc tích phước hôm nay, sẽ có quả tốt lành trong kiếp sau. Và nghiệp dĩ hôm nay cũng sẽ vượng về sau nếu hối cải thành tâm, và năng tích phước qua nhiều kiếp. Sự công bằng của trời đất đã có từ khai thiên lập địa là vậy. Như Tiên Điền Nguyễn Du đã phán, “ngẫm hay muôn sự tại trời/ trời kia đã bắt làm người có thân/ bắt phong trần phải phong trần/ cho thanh cao mới được phần thanh cao”. Kể ra triết lý Phật của tiên sinh rất cao thâm trong truyện Kiều.
Số phận từng con người riêng lẻ được giải thích khá rõ trong sách Phật. Nhưng càng moi trí nhớ nhỏ nhoi thì kết hợp được triệu triệu linh hồn trong muôn vạn kiếp, như dòng chảy bất tận từ kiếp này qua kiếp khác, tới kiếp kiếp sau… Vậy sao một đôi vợ chồng không thể là người đàn ông hay người đàn bà khác, mà nhất định, chính xác là hai người ấy! Đó là chữ “duyên” trong Phật sách. Mọi sự trên đời đều có cái duyên của nó. Giữa nhân và quả là duyên. Hai người có duyên nên mới gặp, nhưng tiền kiếp mỏng phước nên quả không như ý là không thành vợ chồng; để từ đó đau khổ tới suốt đời. Nhưng năng tích phước, dù trọn đời khổ đau bởi duyên không thành. Nhưng hệ quả của sự tích phước (ngay trong đời khổ đau) làm cho nghiệp chướng tiêu tan. Có thể hai người thành tâm được gặp lại nhau trong tình nghĩa vợ chồng vào kiếp sau.
Duyên có khởi thì có tận theo luật tuần hoàn của vũ trụ. Duyên tiền kiếp nên giờ là vợ chồng; nhưng vòng luân hồi mà dương gian thường nói gọn trong bốn chữ: sinh lão bệnh tử sẽ, xảy ra việc người này hay người kia đi trước về cõi hư vô. Nếu năng tích phước ngay trong hạnh phúc lứa đôi đang hưởng phước thì duyên lại đến với kiếp sau được gặp lại để yêu thương và tích phước cho kiếp sau, sau nữa… Ngược lại, với “duyên phận” như bao nhiêu người phụ nữ trên nước Mỹ, sao lại chỉ có một người trở thành đệ nhất phu nhân. Mà nhất định, chính xác là người phụ nữ đó chứ không ai khác. Đó là duyên phận của đệ nhất phu nhân và đương kim tổng thống. Vậy “duyên nợ” là gì? Sao lại có hoàng hậu tự tử. Vì nàng đã thiếu nợ quân vương từ tiền kiếp nên duyên se khó tránh để kiếp tái sanh trở thành hoàng hậu, nhưng thay vì hạnh phúc trong nhung lụa thì chỉ có tan nát cõi lòng, con tim mệt mỏi trong lầu son gác tía, nên thế gian mới có việc hoàng hậu quyên sinh…
Sáng mùa đông không chút ánh mặt trời, hôm nay là Giáng sinh. Trên hành tinh này có bao nhiêu gia đình đang tề tựu, nói cười, ấm áp trong niềm vui, hạnh phúc; cũng không biết có bao nhiêu gia đình đang chống chọi với giá lạnh và cơn đói đang cào cấu ruột gan… Người nghèo kia tơi tả, nhưng đang nở nụ cười hân hoán đón Chúa (trời) vào lòng khi ngộ ra ân sủng người đã ban cho một đời khổ cực để giác ngộ về thân, tâm, tội, nghiệp… kẻ giàu sang nọ đang chán ghét xa hoa cũng vì ngộ được tội lỗi của xa hoa có từ tranh cướp được. Hạnh phúc mù lòa là hạnh phúc có được từ khổ đau của người khác. Hạnh phúc đích thực của nhân sinh nằm ở sự cho đi, hãy bẻ nửa cái bánh có được trong cơn đói để chia cho người đói hơn ta, thì sự nhận được là bến bờ hóa giải sự bơ vơ trong tâm tưởng, như Đức Phật đã dạy kẻ giết người, “đời là bể khổ, ta bơi mãi cũng chẳng thấy bến bờ đâu. Nhưng quay lại sẽ thấy bến bờ ngay…” Kẻ giết người ngộ được nên đã viên tịch với chức danh Đại đức – là đại đệ tử thứ tư của Đức Phật.
Duyên khởi tôi đi từ trang giấy trắng vào một sáng mùa đông, sáng Giáng sinh thứ 2014. Những con chữ vô nghĩa nhỏ nhoi như những con rệp tới giờ hành động, chúng bò trong tư tưởng bò ra, bò lên trang giấy “số con rệp” của mình là sự cô đơn trong căn nhà vắng, bàn ăn cũng là bàn viết lạnh căm với cái laptop đã không còn thấy mặt chữ trên keyboard; quyển “Hành trình về phương đông” của Blair T. Spalding nơi góc bàn không lật ra trang chữ, chỉ bóng Người ngồi quán thế trong ánh tà dương ở trang bìa đã làm cho con rệp lưu vong thấy lại quê nhà, người thân, bếp lửa gia đình ấm tối nay – cùng mừng Chúa ra đời…
Phan
Giáng sinh 2014

NGUYỄN THANH TY * BA MƯƠI NĂM



Ba mươi năm trước – Ba mươi năm sau.
Nguyễn Thanh Ty
 
 
Tôi ra tù “cải tạo” giữa năm 1981. Về nhà kiếm cái ăn còn khó hơn lúc còn ở trong trại tù. Đi xin việc không ai chịu nhận một sĩ quan “ngụy” mới được tha.
Hợp tác xã nào cũng nhìn tôi với ánh mắt nghi kỵ và ngại ngùng.
Tôi xin vào HTX  Dệt vải màn để dệt gia công thì ông Chủ Nhiệm lắc đầu nói thẳng mặt rằng:
   Mấy ông tù cải tạo mới về lãnh sợi rồi đem bán lấy tiền vượt biên, chúng tôi lấy gì đền cho Nhà nước?
Xin vào HTX Xây Dựng ông Chủ nhiệm hỏi có biết cầm bay xây nhà không?
Dạ không!
Có biết lát gạch hoa nền nhà không?
  Dạ không!
  Cái gì cũng không biết thì xin vào Xây Dựng làm được cái gì? 
Quả thực, ngày xưa chọn cái nghề dạy học tôi cứ tưởng đâu là yên phận một đời. Hay đâu sau một cuộc đổi đời, biển cả hóa ruộng dâu. Ông xuống thành thằng. Chăn trâu, đày tớ lên làm ông chủ.  Tôi trở nên hụt hẫng, chới với, không biết phải làm gì để có thể mỗi ngày kiếm ra một ký gạo để nuôi con. Đi ăn cắp thì không thể được rồi. Mà dễ gì ăn cắp được khi thiên hạ ai cũng đều đói khổ cả.
Hồi còn ở trong tù, năm 1979 là năm đói nhất, tôi còn có thể lén ăn cắp (trong tù gọi là đi cải thiện ) củ khoai, củ sắn hoặc bẻ cái bắp chuối, vặt trái cà mà ăn. Bây giờ ở thành phố lấy khoai sắn chuối cà đâu mà đào trộm, bẻ trộm? 
Thật là thiên nan vạn nan. Không lẽ bây giờ lại xin đi ở tù cải tạo lại vài năm nữa! Thiệt là vô lý! Còn bầy con không lẽ để cho cha mẹ già yếu nuôi hộ mãi sao?
Cuối cùng, tôi cũng được ông Chủ nhiệm HTX Xây Dựng thương tình dành cho một công việc không chuyên môn là đạp xe ba gát chở xà bần đi đổ. Ây cũng là nhờ lời nói vào của thằng bạn, con ông Chủ nhiệm, cũng đi “cải tạo” mới về như tôi. 
Công việc này rất nặng nhọc. Nhất là lúc đạp ngược gió thì trọng lượng cái xe ba gát đầy tú hụ xà bần gạch đá vụn, nặng lên gấp đôi. Tuy vậy tôi cũng cố ráng sức để được mỗi tháng lãnh được 120 đồng bạc về đưa cho má tôi để phụ thêm tiền chợ.
Được cái vui là đám tù được tha chúng tôi, đứa thì đạp xe xích lô, đứa thì khuân vác ở chợ… làm đủ thứ lao động tay chân, mỗi khi gặp nhau, ngồi quán cóc vĩa hè uống ly cà phê đen, phì phà điếu thuốc rê - bốc lăn xe – bù khú năm ba câu chuyện rồi đứa nọ an ủi đứa kia bằng những ý tưởng lạc quan - ráng lên - ngày mai trời lại sáng!
Trong thời gian này tôi dần dà kiệt sức nhưng vẫn cố gắng đeo đuổi công việc vì chưa kiếm được việc khác khá hơn, hợp với sức khoẻ hơn.
Tôi đâm ra bi quan và buồn rầu với ý nghĩ tuyệt vọng :
Chẳng lẽ cuộc đời mình sẽ mãi mãi như thế này sao?
Các con mình lớn lên cũng sẽ như thế này sao? 
Một viễn ảnh trước mắt thật đen tối hãi hùng. 
Vậy mà vẫn chưa hãi hùng bằng câu truyện xãy ra ở ngoài Bắc, cái nôi của Xã Hội Chủ Nghĩa đã được xây dựng kiểu mẫu từ năm 1945.
Khoảng cuối năm 1983, một hôm có anh bạn lén đưa cho tôi một bài báo bằng giấy quay rô nê ô, đã ngã màu ố vàng. Chắc đã sang tay nhiều người.
Anh bạn thì thầm:
 
Ở ngoài Bắc dân họ còn khổ hơn mình rất nhiều. May mà mình ở trong Nam . Anh về nhà đọc rồi sẽ biết, cũng an ủi cho mình lắm! Nghe nói tác giả đang lẫn trốn ở Sài Gòn tránh sự trả thù của địa phương. Họ đang tìm giết ông ấy.
Tối hôm đó, nằm trên gác vắng, tôi moi ở túi quần ra 3 tờ giấy in cái truyện có nhan đề:
   “Cái đêm hôm ấy… đêm gì?”
  Tác giả là Phùng Gia Lộc cũng chính là nạn nhân của cái đêm hôm ấy.
Đọc một mạch xong cái truyện, tôi bỗng lạnh mình, ghê rợn, ghê tởm cho cái xã hội nông thôn miền Bắc và tự hỏi sao miền Bắc lại đói khổ đến như vậy mà bọn cường quyền địa phương sao có thể ác đến cái độ vô tâm, mất nhân tính như thế được. 
Cộng sản là như thế sao?
Thực chất cách mạng vô sản là như thế sao?.
Năm 1975, Việt cộng vừa cưỡng chiếm miền Nam xong, chúng tôi bị chúng lừa lùa vào các trại giam trong rừng gọi là đi “học tập” ngay. (Ôi! Chữ nghĩa sao mà tráo trở làm vậy!) .
Ở trong tù, mấy tên quản giáo đều ngu dốt hết nên cứ bắt chúng tôi làm việc quần quật như trâu, như bò thôi. Thỉnh thoảng lên lớp, cả bọn cứ một sách nói như vẹt rằng “Cu Hồ đã nói…” Thật ra, chúng cũng chẳng biết cộng sản hay cách mạng là cái gì. Tròn méo ra sao.
Cả đời trốn chui, trốn nhũi trên núi, trong rừng, dám chắc chưa biết “Cu Hồ” của chúng mặt ngang, mũi dọc ra sao. Lúc nhỏ đi chăn trâu, chăn bò rồi bị bắt lên núi để khiêng đạn hay đào hầm, hay làm giao liên bậy bạ gì đó thôi. Vì vậy chúng cũng không hình dung ra cái xã hội gọi là Xã hội Chủ Nghĩa ra sao cả. 
Vào miền Nam , sau năm, sáu năm, Việt cộng chỉ thi hành được mỗi một việc là cào bằng và làm xã hội thêm đói khổ chứ chưa thể bắt ép dân chúng vào khuôn như miền Bắc được. Vì vậy khị đọc cái truyện của tác giả Phùng Gia Lộc tôi hết sức bàng hoàng và ghê tởm. Cứ tượng tượng ra gia đình tôi lâm vào hoàn cảnh ấy là rùng mình?
Hồi tưởng lại lúc còn trong tù, ngày nào cũng như ngày nào, từ 6 giờ sáng đến 6 giờ chiều, cuốc đất, cấy lúa, làm cỏ… nói chung là lao động đủ kiểu từ đồng ruộng đến núi rừng, đốn cây đẵn gỗ… tuy cực khổ đó nhưng vẫn có cái ăn, dù ít, dù ăn độn sắn khô, ăn độn bo bo… vẫn không có cái cảnh bị đói, bị đối xử tàn ác như ở trong truyện, thực cảnh của những xã, thôn miền Bắc.
Câu truyện “Cái đêm hôm ấy… đêm gì?” cứ ám ảnh, đè nặng mãi trong tâm trí tôi.
Nhiều đêm ngủ tôi cứ thấy ác mộng mình là người đang trong cuộc. Người dân đã đói sắp chết đến nơi mà vẫn cứ phải “nộp sản” cho đủ chỉ tiêu của đảng đưa ra. Không có thóc để nộp đủ thì đảng có biện pháp mạnh. 
Hãy nghe tác giả kể lúc bọn dân quân sục vào nhà:
… Ngồi ở bếp tôi hỏi vợ:
Nhà mình còn thiếu của hợp tác xã bao nhiêu thóc nữa  em?
Cô ấy không trả lời tôi mà nói rất vô lễ:
Có biết thế này, đái tòe tòe vào, chứ tội gì lôi về. Cha đời! Bữa trước thì tuyên bố vớt được nấy ăn nấy, người ta mới hụp lặn xuống nước lụt mà gở từng bông lúa. Nay lại giở trò giảm tỉ lệ. 
Tôi vỗ về:
   “Thôi! Lụt thì lụt cả làng, em ạ! Em nói xem, so với tổng sản phải nộp, nhà ta thiếu bao nhiêu?   Một tạ mười hai cân, em đã trình bày với nhà anh Đội trưởng rồi.
…..Bỗng  tiếng kẻng gõ giục giã liên hồi. Kẻng khắp xã:
  Từ đội 1 đến đội 15, như một sự bùng nổ dây chuyền. Tiếng loa phóng thanh mở hết cỡ đọc bản tin, kế hoạch huy động lương thực của tỉnh và chỉ thị của tỉnh ủy về công tác lương thực. Hoàng văn Nhân, đội trưởng đội 12, đọc lên loa danh sách những nhà thiếu thóc chưa giao nộp cho hợp tác xã. Đèn đóm soi rừng rực ở các ngã đường. Chó sủa ơi là chó sủa. 
…  Gần một giờ sáng, công an, dân quân đã ập đến các nhà nợ thóc. Tiếng chó sủa vang, tiếng lợn kêu èng ẹc như bị chọc tiết ở các nhà chung quanh…
Bên nhà ông Ái, láng giềng cách nhà tôi một hàng rào, công an và dân quân đang lùng sục. Tiếng ông bà Ái kêu xin và tiếng quát lác, tôi nghẽ rõ mồn một.
   “Cứ bắt lấy cái xe đạp! Phích, xô, bắt ráo!
Ở cổng nhà tôi đã có bước chân rình rịch, con chó mực đang có chửa bị quất, kêu ư ử.
Cạch cạch cạch.
   Chị cò Lộc, mở cửa ra! 
Tiếng thằng bé trong buồng khóc thét. Thằng Thức đang ôm tôi, nghe em khóc cũng òa khóc toáng lên. Thằng Học 12 tuổi đã học lớp 8 rồi, mà cũng níu lưng tôi run bắn. Nghe tiếng quát lần thứ hai, từ nhà bếp, tôi chạy lên. Một luồng đèn pin soi giữa mặt làm tôi lóa mắt, phải lấy tay che.
   Có chuyện gì đấy, các bạn trẻ ơi?
   Thu thóc, thu thóc chứ còn gì, ông đừng hỏi vờ.
… Chợt vị “hộ pháp” nhìn chằm chằm vào cổ quan tài để dưới gầm bàn thờ, rồi đi lại, vừa gõ vừa hỏi:
   “Cái gì trong này chị Lộc?
  Im lặng… 
   “ Cái gì trong này, chị nói mau? 
Vợ tôi ấp úng. Tôi muốn tắt thở.
   “Có cái gì đâu… 
Mấy vị hăm hở lại, đạp lật nghiêng môt cái. Nắp ván thiên bung ra, lúa chảy rào rào. Cả toán reo lên như  một hiệp đào vàng trúng vỉa:
v   “A! Lúa!! Lúa! Lúa! Anh em ơi . Ghê thật! Thế mà giả nghèo giả khổ.
Mẹ tôi chống gậy vái dài:
v   ‘Van các anh! Cắn rơm cắn cỏ tôi lạy các anh! Lúa của tôi. Đó là tạ lúa của hai đứa con gái hắn mua góp lại cho, để hôm sau tôi chết, bà con thương mà chạy đến ăn lưng cơm sốt”.
Bà cụ nói như rên rẩm:
v   “Đã bảo xây phứa đi cho con nó ăn không nghe. Cứ bóp mồm bóp miệng, để dành làm chi. Sống chả thấy đâu nữa là”!
Một tay râu tóc lồm xồm hỏi:
v   “Chị có gánh đi hay không thì bảo”?
… Họ xúm vào khiêng bàn thờ ra để lôi hòm lúa. Bất đồ hai thằng Học và Thức từ bếp tuôn lên, ôm lấy chân chư vị, van rối rít:
v   “Cháu van các chú! Các chú đừng lấy lúa này đi. Lâu nay các cháu phải nhịn để dành bữa sau cúng cỗ bà, làm ma bà”!
v   “Buông ra đi! Ô hay! Đồ con nít”!
Bà cụ loạng choạng đi lại, giơ gậy cản:
v   “Các ông không thương trẻ, thì các ông thương lấy thân già, để lấy phúc đức cho con cháu.
Vì họ đá vấp gậy, lại yếu như con căng cắc lột, bà cụ ngã chỏng queo như chiếc ghế đổ.
v   “Ôi Đảng ôi là Đảng ôi! Chính phủ ôi… Trông xuống mà coi…” 
Tôi xốc mẹ lên giường, bịt mồm cụ lại:
v   “Mẹ! Mẹ không được la như thế! Đây không phải Đảng! Đảng ta không làm thế! Đảng không chủ trương thế này! Tôi nói vậy và ngoặp hai hàm răng vào cổ tay mình để kìm giữ cái gì cứ chực tung ra.
… Việc thật ở nhà tôi đêm 26 tháng 11 năm 1983, người ngoài cuộc hẳn cho là mình bịa. Cho đến nay, mỗi khi nghĩ đến, tôi cứ thảng thốt hỏi mình:
v   “ Cái đêm hôm ấy… đêm gì?” 
Năm 1950  Hồ lãnh chỉ thị từ Liên Xô, Trung Quốc về nước cùng với Trường Chinh - Đặng xuân Khu phát động chính sách “Cải cách ruộng đất” long trời lở đất ở miền Bắc, gần 6 năm, chấm dứt vào mùa Thu năm 1956, giết oan hơn ba trăm ngàn người dân quê vô tội bị qui kết là thành phần địa chủ (thật ra chỉ là trung nông) để thi hành chế độ cộng sản.
Sau khi bị dân chúng lên án, nguyền rũa lên tận trời xanh,  Hồ giả vờ khóc lóc nói là sai lầm, đẩy Võ Nguyên Giáp ra làm con vật tế thần để xin lỗi với nhân dân và hứa sẽ tiến hành sửa sai. Trong khi đó Hồ và Trường Chinh lánh mặt thay vì phải chịu trách nhiệm nặng nhất về tội ác này.
Tuy nhiên cái việc mà đảng và Chính phủ của ông Hồ sửa sai đã tiến hành như thế nào?
Ta hãy nghe những người nông dân khốn khổ sống sót sau đợt “cải cách” đó kêu rêu: 
Hồ già nói chuyện sửa sai.
Sai rồi cứ sửa, sửa rồi cứ sai.
Đảng ta có lắm anh tài.
Sai hoài sai mãi, sửa hoài cứ sai.
Rõ ràng là thủ đoạn gian hùng của Tào Tháo bằng cách “tát bùn sang ao” hoặc là “lùi một bước tiến ba bước”, cứ thi hành chính sách trước sau như một, Hồ và đám hậu duệ của Y không thể đi chệch hướng của đảng cộng sản Trung Quốc đề ra. Lâu lâu để “xả nồi xú bắp” lòng căm phẩn của dân lại nói là “sai lầm” rồi “sửa sai”. 

 
Cứ như thế,  Hồ cho bọn đàn em tiếp tục con đường sắt máu dài dài.
Thời gian từ năm 1956 với “Cải cách ruộng đất”, đến 1983, câu chuyện vô cùng “đen tối và bi thảm” ở nông thôn “Cái đêm hôm ấy… đêm gì?” của Phùng Gia Lộc, đã cách nhau gần ba mươi năm, sao vẫn cứ giống nhau như đúc.
Câu chuyện “Cầu cho bạo chúa sống lâu” trong Cổ Học Tinh Hoa tuy có cay đắng mỉa mai nhưng vẫn cứ đúng với đảng cộng sản Việt Nam .
Tuy  Hồ đã chết, bị phơi thây mấy chục năm ở Ba Đình, nhưng cái ác lại càng được gia tăng cường độ nhiều hơn bởi tay sai đàn em như Lê Duẫn, Lê Đức Thọ…
Ngày Hồ bạo chúa còn sống, chỉ những ai thuộc thành phần trí, phú, địa, hào mới bị “đào tận gốc trốc tận rễ” để tiêu diệt, để chỉ còn lại toàn là bần cố nông, tạo ra một giai cấp mới, xây dựng một xã hội mới, Xã hội Chủ nghĩa. Đó là một thiên đàng ảo tưởng mà chủ nghĩa cộng sản Quốc tế nói chung, cộng sản Việt Nam nói riêng, nhắm tới để xích hóa toàn thế giới thành một thế giới đại đồng: 
v   Người không bóc lột người, ai ai cũng được hưởng cảnh ấm no hạnh phúc.
Giờ đây bạo chúa Hồ đã chết, những kẻ kế thừa nối ngôi còn bạo tàn hơn Hồ nhiều.
Bọn chúng càn quét triệt hạ, bóc lột luôn cả cái đám “dân ngu khu đen, khố rách áo ôm” mà ngày xưa chúng lợi dụng làm lực lượng nòng cốt trong việc truy bức đấu tố, không chừa một ai cả.
Thảm cảnh đêm 26 tháng 11 năm 1983 ở xã Phú Yên, huyện Thọ Xuân đã nói lên hết cái thủ đoạn tàn độc họ đã dùng để đem lại “ấm no hạnh phúc của thiên đường cộng sản”.
Tập đoàn bạo chúa Duẫn, Đồng nối tiếp xây dựng, tròn trèm một phần ba thế kỷ, đã đạt được kết qủa vô cùng tốt đẹp!.
Tốt đẹp đến độ vợ của tác giả câu truyện “Cái đêm hôm ấy… đêm gì?” đã quá “sướng” mà “ca” lên rằng:
v   Chả nhẽ kiếm liều thuốc chuột, cho vào nồi cháo, ăn hết cả nhà cho sướng cái đời…
Nhờ gần 6 năm tù “cải tạo” trong nhà tù nhỏ của bạo quyền Cộng sản, tôi đã thấy được sự gian trá vô cùng ác độc và nham hiểm một cách tinh vi của Việt cộng nên tôi không bao giờ tin bất cứ một điều gì cộng sản nói cả. 
Cho nên, chúng dù có “đổi mới” có “thoáng”, có tự do, dân chủ “gấp ngàn lần tư bản” đi nữa tôi cũng nhất quyết đùm túm gia đình ra đi.
Cái sự thay đổi của chúng giống như con tắc kè đổi màu da tùy lúc, tùy nơi. Bản chất vẫn là con tắc kè.
Tôi ra đi để tìm cái tự do đích thực dù chỉ nhỏ bằng một phần ngàn cái tự do bánh vẽ của cộng sản đang phô bày để tuyên truyền lừa gạt nhân dân trong nước.
Sau 15 năm sống và làm việc ở cái xứ tư bản chuyên “bóc lột và hút máu người lao động”, vợ chồng tôi đến tuổi nghỉ hưu, đã dành dụm được một số tiền đủ có thể về quê nhà ở Việt Nam, tậu một căn nhà nhỏ, xung quanh có chút vườn trồng năm ba cây cảnh để vui thú tuổi già cho hết quãng đời còn lại.
Đó là niềm mơ ước nhỏ nhoi của nhiều kẻ ly hương trong tuổi xế chiều.
Khi biết được ý định của chúng tôi, ông nhạc tôi năm nay đã 86 tuổi, đã bỏ chạy khỏi miền Trung từ cái độ “9 năm kháng chiến” lúc hãy còn thanh niên, gia đình bị đấu tố, đã vội vàng khuyên:
v   Các con à! Cái bọn Cộng sản dù có ba mươi năm, năm mươi năm sau nữa vẫn cứ sắt máu y sì. Giờ đây người trong nước, dù đã hơn ba mươi ba năm hòa bình lập lại,  nhiều người cũng vẫn đang tìm cách ra đi thì các con không có lý do gì để dại dột lần thứ hai nữa mà mơ ước trở về. Các con luôn hãy nhớ lời ông Thiệu nói. 
Sau đó ông gửi qua cho chúng tôi một tờ báo, trong đó có bài viết của tác giả là nhà văn, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều với nhan đề:
v   “Quy trữ tài sản tương đương”  nhưng theo báo điện tử Dân Trí thay bằng cái tít  “Chuyện khó tin ở vùng quê đau khổ” vẫn còn cho là nhẹ, không diễn tả hết nội dung sự việc.
Đọc xong bài báo, tôi bỗng thấy bàng hoàng. Cái xúc cảm chán ngán buồn rầu lẫn lộn với cái phẫn nộ căm hờn hơn ba chục năm nay tưởng chừng như đã phai nhạt ít nhiều đối với cái chế độ bất nhân, tàn độc của cộng sản trong tôi, giờ lại bùng lên mãnh liệt.
Mấy năm gần đây, chúng ra sức kêu gào “hòa hợp hòa giải dân tộc” để lôi kéo người Việt hải ngoại trở về góp sức xây dựng đất nước.
Nào là “quê hương là chùm khế ngọt”, nào là “khúc ruột ngàn dặm” nào là “một phần xương thịt không thể tách lìa”, nào là “Việt kiều yêu nước” vân vân… nghe rất thân thương, âu yếm, lời lẽ quay ngoắt 180 độ với miệng lằn lưỡi rắn, đầy sắt máu cuồng sát của chúng trước kia.
Nhưng đằng sau những lời đường mật chiêu dụ người Việt hải ngoại như thế, thì thực tế trong nước tập đoàn bạo quyền Hà Nội đã cai trị người dân như thế nào? 
Ta hãy theo dõi bài phóng sự của Nguyễn quang Thiều.
Bài báo được mở đầu bằng cách giới thiệu về những “tuyệt chiêu” mà con cháu của “Cu Hồ” đang áp dụng tại Thanh Hóa - mảnh đất lắm tài, nhiều tật thuộc bậc nhất Việt Nam.
Trong số những “tuyệt chiêu” của chính quyền địa phương để thúc dân làm phận sự đóng góp có bí kíp “Quy trữ tài sản tương đương”. Nghĩa là, không có tiền đóng góp thì cán bộ, công an đến nhà, thấy có gì đáng giá khuân luôn về xã…
Ôi ! Ba mươi năm trước, ba mươi năm sau, chính sách tàn bạo ấy vẫn y hệt không hề thay đổi.
“Nếu như ngày xưa, Hồ từng dõng dạc tuyên bố với toàn thể đồng bào trong nước và nhân dân quốc tế về “hằng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng” thì 63 năm sau cái bản tuyên ngôn bất hủ đó, đảng cộng sản lại cho “quan” xã xiết nợ cả… quan tài – cái mảnh gỗ cuối cùng đưa mỗi người về chốn linh thiêng.” 
Hiện nay xã Hải Lộc, huyên Hậu Lộc, Thanh Hóa còn gần 60% hộ đói nghèo, con số này những năm trước còn cao hơn. Vậy mà gần chục năm qua, bà con nơi đây vẫn phải vẹo lưng gồng gánh những khoản đóng góp, khoán phạt lạ lùng. Ai không có tiền đóng thì sẽ bị chính quyền địa phương dùng “biện pháp mạnh”, chà đạp lên nghĩa xóm, tình làng. 
Lượt tóm chuyện của bài báo:
“Quan” xã xiết nợ cả… quan tài
Về Hải Lộc, theo sự chỉ dẫn của người dân, tôi tấp vào nhà của ông Nguyễn văn Thủy, ở thôn Lạch Trường. Trong căn nhà tuềnh toàng, ông Thủy dở khóc, dở cười kể lại câu chuyện bị bắt bộ ván canh vì thiếu nợ.
Chẳng biết những khoản tiền gì mà mỗi năm nhà tôi phải đóng tới mấy trăm nghìn. Cái ăn hàng ngày còn phải còng lưng tìm kiếm thì số tiền ấy, với gia đình tôi, quả là quá lớn. Hôm ấy, khi tôi đi biển về, thấy vợ sụt sịt ngồi khóc, hỏi, bà thuật lại câu chuyện, khiến tôi  thấy trời đất như chao đảo quay cuồng. Thì ra trong lúc tôi đi làm, chính quyền xã và thôn đã ập vào “quy trữ tài sản”, nghĩa là tịch thu đồ vật tương đương. Nhà duy chỉ có mấy tắm ván canh, tôi tậu phòng xa lo hậu sự cho mình, là đáng giá nên họ khuân đi. 
Ông bảo, khi ấy, tiếc mấy tấm ván thì ít, mà cay đắng về cách hành xử của những người được coi là “đầy tớ của dân” thì nhiều. Khốn nạn thay cái kiếp nhà nghèo! Đến mấy tấm ván hậu sự  mà cũng không giữ được thì mặt mũi đâu mà thấy mọi người.
Hơn năm sau kể từ ngày kinh hoàng ấy, anh Nguyễn văn Năm, con trai út của ông từ Nam ra. Thấy bố kể chuyện, anh dốc nhẵn túi lên xã hoàn thành nghĩa vụ đóng góp của gia đình. Lần ấy cả nợ cũ lẫn lãi, anh nộp cho xã hơn 1 triệu đồng. Đóng xong, ngỡ là được lấy mấy tấm ván về, nào ngờ… Anh ngã ngữa khi người ta bảo, muốn lấy ván về thì phải nộp tiền lưu kho 5 nghìn một ngày. Hơn một năm trời “nằm trên xã”, “phí trông coi” có khi lớn hơn cả giá trị mấy tấm ván. Suy tính thiệt hơn, lại thêm cạn túi, anh đành tay không lủi thủi ra về…
Theo ông Nguyễn văn Chiến - Trưởng công an xã – “Quy trữ tài sản” là việc làm… cần thiết để chính quyền xử lý những hộ gia đình chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đóng góp do Nhà nước và địa phương quy định. Cụ thể nhà anh Năm, chưa hoàn thành nghĩa vụ nên xã tiến hành tạm thu mấy miếng ván trên…
Nhà báo, dân quân, công an và nồi cháo trắng
Nhà chị Ngô thị Sáng cũng nằm trong diện bị “quy trữ tài sản”. Năm ấy nhà chị nợ hơn 100 nghìn tiền đóng góp. Nhà những chục người toàn trẻ con lít nhít nên làm chẳng đủ ăn. Hôm cán bộ đến, chị đã hết lời khẩn xin, nhưng họ không nghe. Cuối cùng, thấy nhà chị có một chiếc bàn và một chiếc ghế sa lông nan, họ đã khuân đi.
Lúc tôi đến (nhà báo) chị Sáng đang cùng các con ăn trưa. Bữa trưa là nồi cháo trắng cùng mấy con cá vụn. Cá này, dân biển bán rẻ như cho. Đang hí hoáy ghi hình bữa ăn đạm bạc ấy, không biết từ đâu  4-5 người mở cổng ập vào. Lại là mấy cán bộ thôn “mẫn cán” đến “nắm bắt tình hình”.
Thấy chị Sáng tiếp tục chia sẻ cùng tôi cuộc sống vất vả, một thanh niên cắt ngang:
v   “Các anh ở đâu thế nhỉ?  Sao thấy là lạ nhỉ?” 
Tôi dừng ghi, bình thản trả lời:
v    “Tôi là nhà báo anh ạ”.
Đang lúc đôi co thì ông Nguyễn văn Chiến - Trưởng công an xã đến. Ông thừa nhận giấy tờ của tôi hợp lệ. Nhưng một người tự xưng là trưởng thôn gay gắt:
v   “Nếu chú mà ghi lại hình ảnh nồi cháo thì chú bỏ đi ngay! Tôi khẳng định nhà này là… vớ vẩn!”
Nghe ông trưởng thôn nói vậy, chị Sáng ôm mặt khóc òa. Còn nồi cháo thì mắt trước mắt sau, người ta đã đem đi đâu mất. Theo yêu cầu của mấy người lạ mặt, tôi lại về hội trường của thôn Thắng Hùng để cùng họ… trao đổi công việc. 
Tại hội trường, ông thôn trưởng dặn tôi không được đưa hình ảnh nồi cháo của chị Sáng lên báo, vì như thế thì khác gì bôi xấu hàng ngũ lãnh đạo thôn. Ông nhấn mạnh, nếu tôi “cố tình” đề cập đến vấn đề… không đẹp này, ông sẽ có ý kiến ngay! 
“Phép công”… ông cứ làm!
Biết có nhà báo về, mấy bô lão ở thôn Hưng Thái cứ đạp xe lên xuống kiếm tìm. Theo chân họ, tôi về thăm gia đình chị Liệu, nhà ở ngay mặt con đường dẫn lên trung tâm xã.
Trò chuyện với chị Liệu chúng tôi luôn được một công an viên kè kè bên cạnh. Tiếp chuyện tôi, chị Liêu không cầm được nước mát. Chị bảo, chị không biết chữ và cũng ít đi ra ngoài.
Thế nhưng, trong thâm tâm mình, chị tin chắc một điều rằng chẳng có nơi đâu người dân lại khổ như đất này. 
Đợt cao điểm “Quy trữ tài sản” năm 2004, gia đình chị bị tam thu một chiếc ti vi, tài sản đáng giá duy nhất lúc đó. Sáng hôm ấy chị đang lúi húi nấu cơm còn chồng chị bế con thì “đoàn công tác” tấp vào nhà. Không thu được những khoản nợ đọng, đoàn tạm thu luôn chiếc TV. Thấy nhà bỗng dưng “mất” của, chị nước mắt như mưa. Van nài, xin xỏ, nhưng vì “việc công” những “công bộc của nhân dân” vẫn không hề xúc động. Năm sau, cào cấu vay mượn được chút tiền, chồng chị lên xã xin “chuộc lại” chiếc ti vi. Thế nhưng chẳng hiểu họ bảo quản thế nào đem về được nửa tháng thì câm tịt. Tiếc của chị lại khóc tu tu. 
Nhà báo Nguyễn quang Thiều sau khi đưa ra vài hình ảnh tượng trưng trong bài phóng sự dài hơi của ông ở nông thôn để minh họa bộ mặt thực của cái gọi là xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa “văn minh tiến bộ độc lập tự do hạnh phúc” nó là như thế, ông minh định lập trường của mình:
v   “Những gì tôi đang nói về nông thôn và nông dân Việt Nam mới chỉ là 50% sự thật. Thực tế còn tệ hại hơn rất nhiều. Sai lầm này tất nhiên thuộc về những người hoạch định chính sách và trực tiếp quản lý nông thôn. Với cá nhân mình, tôi không chấp nhận bất cứ lời biện minh nào của những người này”.
Chao ôi! Những gì của 50% còn lại mà ông Thiều không dám phơi lên mặt báo đó là xử bắn, chôn sống, đập đầu bằng lưỡi cuốc, bồ cào đối với những hộ nào nghèo quá không có vật gì đáng giá trong nhà để “đoàn công tác” có thể “Quy trữ tài sản” tịch thu khuân đi, mà năm 1950 trong đợt “Cải cách ruộng đất” “Đội cải cách” đã làm chứ gì? 
Dù ông không nói ra, nhưng người ta cũng đã đọc thấy ý ông ở đàng sau dấu chấm.
Tội nghiệp cho ông Thiều, một mình ông đứng giữa 14 ngàn bồi bút chuyên nịnh đảng, bẻ cong ngòi viết, cúc cung ca tụng chế độ và đánh phá, bôi bẩn, vu khống kết án những ai dám nói lên sự thật xấu xa của chế độ dù chỉ 50 phần trăm như ông đã dám làm, để kiếm chút cơm thừa canh cặn nhét cho đầy cái túi cơm và bám vững chổ cho cái giá áo, liệu ông có cô đơn và có nơm nớp sợ hãi cho đến lúc chết như nhà văn Nguyễn Tuân tự thú trước khi nhắm mắt không? 
Dù sao ông cũng đáng khâm phục lắm lắm khi đang ở giữa lòng chế độ, một chế độ bất nhân, đi ngược lại lòng dân, mà dám hiên ngang khẳng định một cách mạnh mẽ:
v   “Có lẽ những người lái tàu đang tự thỏa mãn khi thấy con tàu đang chạy với tốc độ cao về phía trước. Họ nghĩ, cứ đà chạy như thế, chẳng mấy chốc con tàu sẽ đến đích. Nhưng, khi đã chệch đường ray thì tốc độ cao chỉ dẫn đến một tai nạn không lường mà thôi.”
Cái đích và cái tai nạn ông Thiều tiên đoán đang đứng chờ lù lù bên triền vực thẵm, phía trước mặt của Nhà nước cộng sản Việt Nam . Càng tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc thì tới đích càng sớm. Hãy cố lên! Toàn dân đang nóng lòng chờ!
 
Đã ba mươi ba năm rồi kể từ ngày Việt cộng cưỡng chiếm miền Nam bằng bạo lực, sáp nhập hai miền Nam Bắc thành một, gọi là thống nhất đất nước, áp đặt người dân dưới ách nô lệ phong kiến kiểu mới, rập khuôn theo mẫu quốc Trung cộng, vẫn cứ sắt máu trong cách cướp bóc tài sản nhân dân để làm giàu cho bản thân, cho tập đoàn thống trị của mình giống y như thời kỳ “Cải cách văn hóa” của Mao Trạch Đông, tiến sang thời “Cải cách ruộng đất” của Hồ Chí Minh.
Chỉ có điều bây giờ, thay cái bình mới, rượu độc vẫn y như cũ. Danh từ “Cải cách ruộng đất” thay bằng “Quy trữ tài sản”. “Đội cải cách” thay bằng “Đội công tác”. Bọn khuyển ưng khuyển mã chuyên lùng sục đầu hè, xó bếp thay bằng “công an nhân dân”.
Ngày xưa ở trong rừng mới ra, còn ấu trĩ, đảng ta đi ăn cướp theo lối thảo khấu lục lâm nên lộ liễu quá.
Giờ đây, đã là thế kỷ 21 rồi, đảng ta đã có nhiều thạc sĩ, tiến sĩ được đào tạo từ Liên Xô, Trung Quốc trở về, học được những ngón nghề “thần sầu quỉ khốc” của các sư tổ, nên cách ăn cướp và hà lạm nhân dân rất tinh vi, hợp pháp lắm.
Đó là cách Đảng ta và Nhà nước ta lập ra cái gọi là Tòa Án kiêm luôn ba chức:
v   Làm luật, thi hành luật và xử luật nên dân oan có miệng cũng không thể kêu trời để minh oan.
Và những quan tham cũng được cái Toà án này che chở cho một cách an toàn.
Những vụ án dàn dựng trơ trẽn trân tráo mới đây đã minh chứng hùng hồn cho những điều nói trên. Khỏi cần kê ra đây làm chi cho phí giấy.
Lời ông nhạc tôi khuyên: Ba mươi năm trước, ba mươi năm sau cộng sản cứ vẫn là cộng sản, sắt máu vẫn là bản chất không thay đổi của chúng.
Có lẽ câu khuyên này giá trị chẳng kém câu nói của ông Thiệu.
Tôi từ bỏ hẵn ý định về di dưỡng tuổi già ở quê nhà. Khế quê hương không có vị ngọt như lời rao hàng của những người cộng sản lũ lượt kéo nhau ra hải ngoại rao bán.
Khế quê hương giờ đây đã bị tẩm bởi những hóa chất nhập tràn lan vô tội vạ từ Trung Cộng nên có vị chua lè, chát ngắt và đầy độc tố chết người.
Ở xứ người tuy không có khế cho con cháu tôi “trèo hái mỗi ngày” nhưng có một bầu trời không khí tự do bao la cho chúng tha hồ hít thở. Con người cần không khí tự do để sống hơn là khế ngọt. Không ăn khế ngọt cũng chẳng sao, huống chi là khế độc.
Cái không khí tự do trân quí mà hơn nửa triệu người Việt phải bỏ thây trên rừng sâu nước độc, dưới lòng biển cả để đánh đổi, hiện tại cái quê hương có chùm khế ngọt chưa có. Bạo quyền cộng sản Hà Nội vẫn là những tay đầu nậu ác ôn bao thầu “trọn gói”, chúng toàn quyền ban phát.
Đó là lý do tại sao người Việt hải ngoại vẫn phải quyết tâm chống cộng dù đã hơn ba mươi ba năm, để tranh đấu dành lại kỳ được cho 80 triệu đồng bào trong nước đang thoi thóp thở. Họ sẽ không bao giờ cam chịu cảnh “phân phối”, “xin cho” không khí để thở theo kiểu tem phiếu đong đo một lần nữa.
Xin quí vị “Vịt kiều iu nước” sắp xênh xang áo gấm về làng nên “cẩn tắc vô áy náy” cho chắc ăn, để khi bị ViXi tráo hàng giả, lúc ấy có hối, lui chân cũng còn kịp.
Nguyễn Thanh Ty   
2009.

No comments: