Tuesday, November 15, 2016

TRUNG CỘNG * THOẠI KỊCH *

EM HỌ PHÓ THỦ TƯỚNG HOÀNG TRUNG HẢI



VC phi tang bằng chứng


EM HỌ PHÓ THỦ TƯỚNG HOÀNG TRUNG HẢI, PETER HOÀNG BỊ BẮT TẠI ÚC VÌ TỘI RỬA TIỀN.

Pete Tân Hoàng hay là Hoàng Tấn Phùng, con trai của ông Hoàng Quốc Chí, là chú ruột của phó thủ tướng CSVN Hoàng Trung Hải đã bị bắt tại Úc vì mang trên người số tiền 1.2 triệu USD.
Hoàng Tấn Phùng còn tuyên bố là số tiền KHỔNG LỒ là 90 triệu USD đã KIẾM ĐƯỢC ở Úc trong 5 năm qua là nhờ ĐÁNH BÀI thắng được.


Thời gian nhiều năm trước đó, Hoàng Tấn Phùng đã thua cho các sòng bài với số tiền là 8 triêu USD, một số tiền quá lớn trong cuộc đời của một người khó lòng làm ra được số tiền nầy.
Tờ OnlineCasino tại Úc đã đưa tin Hộ chiếu cao của tay cờ bạc cao cấp Pete Hoàng đã bị tịch thu.


Một thẩm phán tại tòa án Melbourne đã từ chối trả lại hộ chiếu cho Hoàng , nói rằng ông sẽ không được phép về Việt Nam cho một kỳ nghỉ hoặc để thăm cha mẹ nuôi của mình.


Thẩm phán Susie Cameron đồng ý rằng không cho Hoàng được phép đi ra nước ngoài vì có thể Hoàng sẽ không trở lại cho phiên tòa phúc thẩm trong tháng Sáu tới đây.
Công tố viên Andrew Buckland nói rằng Hoàng không có quan hệ với ai tại Úc, mặc dù là một công dân Úc, tuy nhiên Hoàng không có bất cứ quan hệ gia đình và không có tài sản thuộc sở hữu trong nước Úc.


Hoàng đang đối mặt với cáo buộc liên quan đến xử lý tài sản, bị nghi ngờ đây là số tiền thu được của một tổ chức tội phạm. Trước đó, Hoàng đã từng bị bắt tại một Casino ở Thailand vào năm 2012 trong khi đang có trong người gần 1.5 triệu USD tiền mặt.
Các công tố viên nói rằng Hoàng có thể phải đối mặt với một bản án lên đến ba năm nếu bị kết tội .

Theo Công tố viên Buckland , Hoàng không có bất cứ nguồn tài chính nào để chứng minh tài khoản với một lượng lớn tiền mặt mà anh ta đã  mang vào một sòng bạc ở Úc Châu.

“Ngoài việc đánh bài, ông không có nguồn thu nhập hợp pháp nào khác ” Buckland nói.
Và theo Buckland , hơn 12 năm, Hoàng đã thua mất gần 8.000.000 USD tại sòng bài Crown – tất cả mà không có bất kỳ thu nhập nào được ghi lại.


Trường hợp của công tố chủ yếu vào phân tích về nguồn gốc tài chính của Hoàng. báo cáo đưa ra, ở xung quanh 7.100.000 USD, số tiền mà Hoàng đánh bạc trong sòng bạc của Úc là ” dẫu không có nguồn . ”


Theo Grace , Hoàng đã giành thắng hơn 2,5 triệu USD tại sòng bài SkyCity Adelaide trong những tuần gần đây, cũng được cho là đã thắng được hơn 600,000 USD tại 2 lần sổ Tattslotto trong năm ngoái. Trong tất cả tài sản, Hoàng tuyên bố kiếm tiền được qua cờ bạc là 90 triệu USD trong 5 năm trước khi ông bị bắt .

Tóm lược theo báo Casinoonline Úc

1. COCC đem tiền cha mẹ cướp được của dân sang Úc ăn chơi đã bị bắt
( COCC- Con Ông Cháu Cha ) - Hoàng đã bị cảnh sát Úc theo dõi 1 thời gian dài và bị chặn bắt khi xách 1 vali đựng 1.2 triệu đô tiền mặt đi vào Crown Casino. Hoàng không thể giải thích được số tiền này từ đâu có, hắn chỉ nói là do ” cha mẹ nuôi ” ở Việt Nam gửi cho.


Peter Hoàng sang Úc năm 1990 bằng visa du học và làm việc, sau vài năm thì xin nhập quốc tịch Úc. Nhưng hắn chỉ học hành qua loa vài năm và làm nhân viên bán điện thoại cho công ty Telstra 1 thời gian ngắn.


Tuy vậy Peter Hoàng lại có rất nhiều tiền mặt, hàng triệu đô, mà không biết nguồn gốc từ đâu. Hoàng ăn chơi trác táng, chơi rất lớn tại các casino của Úc. Riêng tại Crown Casino ở Melbourne, trong vòng 12 năm Hoàng đã thua 8 triệu đô.


Nghi ngờ đây là tiền của phi nghĩa (tiền tham nhũng hối lộ đem từ nước ngoài vào cũng bị coi là bất hợp pháp) nên Hoàng đã bị bắt và truy tố ra tòa. Tòa án đã tịch thu hộ chiếu của Hoàng, không cho hắn trốn về Việt Nam.


Nếu bị kết tội, Hoàng có thể sẽ bị tù 3 năm.


Các COCC đừng tưởng có thể ngang nhiên đem tiền của ăn cướp được của người dân sang xứ giẫy chết mà chơi bời phung phí nhé. Luật pháp của xứ tự do, dân chủ rất nghiêm minh không như luật rừng bao che lẫn nhau như ở VN đâu nhé.


Bị 1 bản án tù ở xứ tự do thì coi như tương lai đóng lại, vì đi đâu cũng sẽ bị tẩy chay, và cái lý lịch xài tiền ăn cướp này sẽ đeo theo cho đến cuối đời, đừng hòng ngóc đầu lên được.


Bài báo nói về việc Peter Hoàng bị từ chối tại sân bay
Nguồn: Chinhluanvn.org
(Visited 471 times, 471 visits today)
This entry was posted in Tin Việt Nam and tagged Con ông cháu cha, tiền tham nhũng hối lộ. Bookmark thepermalink.

1. VC Thủ tiêu để phi tang
‘Vua bạc’ gốc Việt bị bắn chết ở Australia
Cảnh sát phát hiện thi thể một người đàn ông gốc Việt từng tiêu tốn 90 triệu USD vào các sòng bài tại Australia trong công viên ở thành phố Sydney.



Peter Tan Hoang xuất hiện bên ngoài một tòa án tại thành phố Melbourne, Australia hồi tháng 4. Ảnh: SMH
Cảnh sát phát hiện thi thể của Peter Tan Hoang, 36 tuổi, ở đường Dunmore tại công viên Croydon, thành phố Sydney hôm 7/9. Nhân viên y tế không thể cứu Hoang vì các vết thương quá nặng khiến anh chết ngay tại chỗ, tờ Sydney Morning Herald (SMH) đưa tin ngày 10/9.



Cảnh sát chưa bắt nghi phạm nào. Tuy nhiên, họ đang truy lùng hai người đàn ông xuất hiện cùng Hoang tại một cửa hàng McDonalds' vào thời điểm vụ án mạng xảy ra.


Hoang từng hai lần trúng giải xổ số Tattslotto vào năm 2013. Cảnh sát cho biết, trong 5 năm qua, Hoang chi hơn 90 triệu USD trong các trò đỏ đen ở sới bạc. Dù vậy, Hoang khẳng định anh chỉ làm những công việc bình thường với mức thu nhập thấp, như bồi bàn và nhân viên bán hàng tại tập đoàn viễn thông Telstra.




Thi thể của Hoang tại công viên.
Ảnh: Sydney Morning Herald

Nhân viên tại sòng bài Crown nói Hoang là một trong những "khách hàng giá trị cao" và quen thuộc nhất của họ. Hoang từng "đốt" tới 13 triệu USD trong một lần tại sới bạc.


Cảnh sát liên bang từng bắt Hoang ngay tại sòng bài Crown ở Melbourne cùng khoản tiền mặt 1,5 triệu USD vào năm 2012. Họ cáo buộc số tiền ấy có nguồn gốc từ những hành vi phạm pháp và Hoang đang rửa tiền. Hoang sẽ hầu tòa tại Melbourne vào tháng 8/2015 dù phủ nhận các cáo buộc rửa tiền.



Hoàng là một trong những khách quan trọng tại sòng bài Crown ở Melbourne. Ảnh: Sydney Morning Herald

Một số người xác nhận với tòa án rằng Hoang thường mang về một khoản tiền mặt rất lớn, lên tới 1-2 triệu USD, sau mỗi lần rời sòng bạc. Tòa án đã tịch thu hộ chiếu và cấm Hoang xuất cảnh vì lo ngại anh sẽ không trở về Australia để hầu tòa. Anh đã về Việt Nam ít nhất 12 lần từ năm 2000 để thăm bố, mẹ nuôi.
Andrew Buckland, một công tố viên, cho biết Hoang không khai thuế thu nhập suốt 12 năm. Nhưng anh nhận khoản tiền trợ cấp 50.000 USD của chính phủ trong khoảng thời gian từ năm 2001 tới 2007.
Ngoài các khoản tiền đánh bài, anh ta không có nguồn thu nhập chính đáng nào", Andrew nói.
David Grace, luật sư của Hoang, nói nghề nghiệp chính của anh là chơi bài. "Đó là cách anh ấy kiếm sống”.

TS. PHAN VĂN SONG * TRUNG QUỐC RA ĐẠI DƯƠNG



Nửa năm 2014, thử nhận định tình hình chánh trị ( 2 kỳ):  Bài 2
Thừa Nước Đục, Hổn Loạn Quốc Tế
Trung Cộng Cũng Cố Tham Vọng Ra Đại Dương.
Phan Văn Song
Tham vọng Đại Dương
(đúng theo chương trình của Lui Huaqing vẽ năm 1980 )–
(cf Alexandre Sheldon-Duplaix, “La Marine de l'Armée populaire de libération de 1949 à nos jours” Revue historique des Armées, n°230, Paris, 2003 – Ông Liu cũng là ông Tướng Tổng Chỉ huy Hải quân đầu tiên của Trung quốc chánh thức viếng thăm Huê kỳ  năm 1985).
Ra khơi, nghĩa là làm sao thoát qua khỏi “vòng đai”  chạy từ Nhựt bổn xuống đến Mả lai Á, chạy ngang Đài loan và Phi luật Tân. Vòng đai ấy do Nhựt bổn trấn giữ, Beijing đã cho “thử” đụng chạm vài lần rồi bằng cho thử tàu lặn len lỏi. (tai nạn với một tàu lặn nguyên tử trung hoa năm 2004).
Ra khơi, nghĩa là làm sao ra khỏi vùng biển nông của các biển phiá Đông và phía Nam, để ra Đại Dương, nghĩa là một vùng biển bao la đi từ Nhựt bổn đến Indonésia ngang qua Đảo Guam, điểm tựa của lực lượng Hải và Không quân Huê kỳ, vùng Tây Thái Bình Dương. Đau khổ của Tàu là cái chìa khóa then chốt để trấn ải giữ Vòng Đai và  cửa ngõ thông thương giữa các biển cạn và Đại Dương, nơi có Hạm đội 7 Huê kỳ đang tuần tiểu, là … Đảo Đài loan.  Đầu năm 2008 nầy, Ông Ko Cheng-heng Thứ trưởng Quốc phòng Đài loan đã lớn tiếng phản đối những hoạt động quân sự của Hải quân Tàu chung quanh eo Bashi, eo biển nằm giữa Đài loan và Phi luật Tân.
Khi nào tháo gởi được các chướng ngại vật ấy, Hải quân Tàu mới có thể nghĩ đến bài toán sau đây: bảo toàn các hải lộ tiếp tế nhiên liệu vùng Nam Á.
Đường số 1 do các tàu chở dầu loại nhỏ dưới 100 000 tấn, đi từ Phi châu hay Trung Đông đến Trung Quốc qua eo Malacca.
Đường số 2, cùng một xuất xứ, qua  hai eo biển Sonde và Gaspar.(2)
Đường tiếp vận số 3, từ Nam Mỹ đi qua hải phận Phi luật Tân, và
đường số 4, một đường đề thay thế, xuất phát từ Trung Đông và Phi Châu, len lỏi giữa những eo biển của Indonésia Lombock và Macassar, Phi luật Tân và tiến vào vùng Tây Thái bình Dương để vào các hải cảng Tàu.  Cái quan trọng là làm sao :
Bảo toàn các cửa ngõ nhập cảng nhiên liệu:
Nguy hiểm nhứt của các hải lộ nầy là nút thắt Malacca. 80 %  đường tiếp vận nhiên liệu Tàu đều đi qua nút thắt nầy. Ai cũng có thể chận được cả.  Vì vậy, Beijing tìm cách tổ chức những cửa ngõ bằng mọi giá để dẫn dầu vào Trung quốc : 
-Xây dựng và tổ chức một hệ thống đường sắt xuất phát từ các quốc gia các nước ASEAN với Trung hoa. 
-Lắp đặt một ống dẫn dầu từ Sittwe (3) trên bờ biển Miến Điện ở Ấn độ Dương nối liền với Kunming tỉnh Sichuan trên đất Tàu. Con đường tiếp vận bằng ống dẫn dầu nầy đang « bị » thương thuyết lại. Chánh phủ Miến Điện mới đang đặt lại những ký kết giữa Tàu và chánh phủ quân phiệt Miến điện cũ ;
-Tài trợ các chương trình sản xuất ngoài biển (off shore) khai thác khí đốt của các quốc gia Á châu ( đặc biệt Thái lan và Miến Điện ).
-Đang cho đào một con kinh xuyên bán đảo Kra của  Nam Thái lan ( iện nay  phải thương thuyết, lại vì những đòi hỏi của các dân tộc thiểu số bản xứ hồi giáo).
Kinh đào nầy sẽ giúp các tàu chuyên chở dầu, không qua ngã eo Malacca nữa mà đi thẳng từ Ấn độ Dương đến Vịnh Thái Lan để đến cảng SihanoukVille của Cao Miên. Từ đấy hoặc ống dẫn dầu, hoặc xe vận tải đi về phía Bắc bằng xa lộ Trường Sơn Tây đến Côn Minh.
Mặc dù có những chương trình đầy khó khăn nầy, yêu cầu hiện nay là phải cũng cố sự độc lập và  an toàn của 4 hải lộ chiền lược tiếp vận nầy. Trước mắt là Hải tặc, sau đó là những tham vọng, có thật hay nghi ngờ của Huê Kỳ, Ấn độ và Nhựt bổn. Đây cũng là Chương trình Chánh trị hàng đầu của Trung Ương Đảng Cộng sản Tàu. Beijing đã xây một lô cơ sở được gọi là “vòng Ngọc trai” (collier de perles), các cơ sở thường trực  nầy nằm dọc theo tuyến đường tiếp liệu của Trung hoa:. trên các hải cảng của Ấn độ Dương,
quần đảo Cocos thuộc hải phận Miến Điện, ngay trong vòng thương thuyết lại.
Chittagong và Gwadar thuộc Pakistan.
Trung quốc cũng sửa soạn thương thuyết vơi các nước Phi châu để mở thêm những hải cảng để yểm trợ đường tiếp liệu của mình. Tất cả những phương tiện từ tài chánh đến nhơn sự đều được cung cấp tối đa cho các quốc gia đồng minh để tạo nhựng cơ sở bảo vệ an toàn cho hải lộ tiếp liệu.

Ngoài Huê kỳ là một quốc gia Thái binh Dương, Trung quốc đang e ngại hai cường quốc khác: Nhựt bổn và Ấn độ. Đặc biệt là Ấn độ với tham vọng biến Ấn độ Dương là Đại dương của mình. Tổ chức “Vòng Ngọc trai” của Trung quốc, Ấn độ xem như là một cuộc “xâm phạm chủ quyền” của mình.
Và để bảo vệ Đại dương của mình, Ấn độ đã có ba Hàng không Mẫu hạm, chiếc đầu tiên ra đời năm 2010,  chiếc thứ ba, mua lại của Nga,. Giàn tầu lặn trang bị bởi Pháp, (theo mẫu chiếc Scorpène), tân tiến hơn giàn tầu lặn Trung quốc. Đến ngày hôm nay, hai anh vừa láng giềng vừa địch thủ nầy cố sống chung hòa bình và cố tránh mọi đụng chạm..
Với Nhựt bổn, thời gian vừa qua rất khó khăn và  căng thẳng, Hải quân Nhựt bổn, tân tiến hơn, mạnh hơn Hải quân Tàu, và vì  nhờ đã thường tham dự tập trận với Hải quân Huê kỳ, kỹ thuật chiến đấu của Nhựt cao hơn Tàu nhiều. Những kỳ đụng độ vừa qua chung quanh vấn đề tranh chấp quần đảo Senkiku, Nhựt ở thế thượng phong
Các quốc gia trong vùng Đông Nam Á, Mả lai Á, Indonésia, Singapore bắt đầu lo sợ tham vọng bành trướng nầy của Tàu. Các ngân sách trang bị Hải quân đều gia tăng vùn vụt, tất cả đều lo ngại rằng Mỹ, e vì bị sa lầy ở Irak và A phú Hản, sẽ không còn sức đảm nhận vai trò bảo vệ những quyền lợi của mình ở  Thái Bình Dương nữa, mặc dù ngoại trường John Kerry đã xác nhận hướng chánh trị cũng cố Thái Bình Dương của Tổng thống Obama.
Trung quốc cũng nhận thấy cái khó khăn của Huê kỳ. Và đây là một cơ hội ngàn năm một thuở, nên các hảng đóng tàu của Trung quốc làm việc ráo riết, từ các cảng miền Bắc trên Hoàng Hải, đến cực Nam  vùng Nam hải. Những hải cảng, những cảng trên sông, những đê điều, những hầm trú ẩn của tầu lặn ( cảng quân sự Sanya trên Đảo Hainan) được trang bị, tân tiến hóa. Nênnhớ 90 % của Phát triển Trung quốc dựa  Hàng hải.
Về mặt sản xuất Thương thuyền, và kiến trúc đóng tàu dân sự, năm 2005, Trung quốc đã đứng hàng thứ ba vế sản xuất đóng tàu thương mãi và chuyên chở, sau Nam Hàn và Nhựt bổn.
Cũng nên nhớ là đối với một nhà cầm quyền Cộng sản, đóng thuyền thương mãi hay đóng thuyền chiến đều do một kỹ thuật cả, đều  do một cơ xưởng cả.
Việt Nam trước tham vọng bành trướng của Hải quân Tàu :
Để kết luận, sau khi đã đi một vòng “xem dân cho biết sự tình”, chúng ta cũng phải nhận định là ngày nay, Việt nam là một nhược tiểu vế mặt Hải quân.
Hoàng Sa, Trường Sa không mong gì Anh Tàu trả lại. Đó là Sanh mạng của Tàu, đó là Huyết lộ Sanh tử của Tàu.
Không thể làm gì hơn,  là phải làm sao chứng minh cho những cường quốc Âu Mỹ và các quốc gia láng giềng trong khối ASEAN phải hiểu rõ tham vọng của Tàu; là sẽ bóp chết các nước có mặt ở bờ biển.
Muốn Chung sống Hoà bình  và Hài hòa phải biết nhường nhịn nhau để sống. Đó là lời tuyên bố của Tàu, còn việc làm là khác. Tàu không chia chác với ai cả. Về Sanh tồn Tàu sẽ phải xâm chiếm để có đường sanh sống. Việt Nam trên đường đi của Tàu. Lịch sử Việt Nam đã bao lần chứng minh những tham vọng bành trướng của Hán tộc về hướng Nam. Bắc thuộc đã hai lần, xâm lăng cũng đã nhiều lần. Một lần nữa e
rằng cũng gần kề.
Phải vận động các cường quốc Âu Mỹ và các nước láng giềng phải giúp đở Việt Nam giữ nước,  để giữ cân bằng và an toàn cho khu vực.
Việt Nam phải biết dựa vào Ấn độ, Nhựt bổn để tạo thêm đồng minh để chia sẻ những quan tâm đối với láng giềng khổng lồ.
Một SEATO (Hiệp Ước Phòng Thủ Đông Nam Á ) phải được lập lại như xưa để chống bành trướng Cộng sản Tàu, thì ngày nay phải được dựng trở lại để cản Bá quyền Trung quốc.
NATO đang bảo vệ Âu châu chống Bá quyền Nga,  tại sao SEATO không ra đời lại ? 
Việt Nam hãy dựa vào Đài loan, dựa vào Nhựt, vào Nam Hàn, vào Indonésia, Mả lai Á , Singapore,  Phi luật Tân để chận tham vọng Tàu, phải biết dựa vào ba cường quốc Thái bình Dương là Mỹ, Tân Tây lan và Úc Châu. Úc châu và Tân Tây Lan cùng Mỹ cũng phải tồ chức lại khối ANZUS( Australia, New Zealand, USA).
Bổn cũ soạn lại ư ? Tại sao không ? Sau Đệ nhị thế chiến, trừ Việt Nam và Triều Tiên là những cuộc nội chiến do các Cộng sản địa phương tạo thành.Ở những quốc gia còn lại phương thức nầy thành công .
Thuyết của Ông Obama là lo cho nước Mỹ và người Mỹ trước. Hy vọng Ông đừng quên cái oai hùng của Huê kỳ và Bổn phận của nước Mỹ đối với thế giới. Ông cũng đừng quên phía bờ bên kia của Thái Bình Dương, phía  bờ Tây của Thái Bình Dương, phía bờ của chúng tôi.
Hồi Nhơn Sơn, V ào Thu 2014
Phan Văn Song
Ghi chú:
1/ Tám quốc gia có Hải quân hùng hậu:
-         Huê kỳ       : 2, 900, 000 tấn.
-         Nga            : 1, 100, 000 tấn
-         Trung Hoa :     850, 000 tấn
-         HG Anh     :     470, 000 tấn
-         Nhựt bổn    :    432, 000 tấn
-         Pháp           :    307, 000 tấn
-         Ấn độ         :    240, 000 tấn
-         Ý đại lợi    :     143, 000 tấn
(Bernard Ptrézelin: Flottes de Combat 2008 Éditions maritimes et d'outre mer, Rennes 2008)
 
2/ Eo Sonde ranh giới chia Đảo Java và Sumatra  (Nam Dương Quần Đảo). Eo Gaspar ranh giới chia ĐảoBangka và Đảo Belitung. Tất cả 4 đảo nầy đều thuộc Indonésia.
3/ Sittwe nằm ở bờ Tây Miến Điện bên bờ Ấn độ Dương.
Kunming (Côn Minh) là một cảng trên sông tỉnh Sechuan (Tứ Xuyên ) Nam Trung quốc.  
 


GS. NGHIÊM HOÀNG LY * SỰ DIỄN TIẾN CỦA THOẠI KỊCH MỚI



SỰ DIỄN TIẾN CỦA THOẠI KỊCH MỚI
QUAN NIỆM KỊCH NGHỆ CỦA  ANTONIN ARTAUD   (1896- 1948 ) VÀ CÔNG TRÌNH SÁNG TẠO CỦA SAMUEL BECKETT ( 1906-1989)

GS. NGHIÊM HOÀNG LY

Trước 1975, bà Nghiêm Hoàng Ly, giáo sư Pháp văn tại Đại học Văn Khoa Saigon gửi cho chúng tôi bài biên khảo này để đăng vào tạp chí Văn khoa, nhưng rồi  Saigon thất thủ, anh em bè bạn chúng tôi mỗi người đi một phương. Hôm nay tìm trong đống sách cũ, thấy bài này, bèn đánh máy để đăng vào Bên Kia Bờ Đại Dương số 329. Xin giới thiệu cùng độc giả bốn phương, một bài biên khảo cách đây gần nửa thế kỷ nay mới xuất hiện dưới ánh mặt trời.
 Sơn Trung.


I. ANTONIN ARTAUD (1896- 1948 )

Là một thi sĩ, bị rối loạn thần kinh, từ thuở nhỏ và mãi tới năm 24 tuổi mới lành bệnh, Antonin Artaud lên Paris hội kiến với Breton và tham gia cuộc " Cách mạng Siêu thực". Nhưng sau đó,

Artaud tách rời khỏi khóa này, trở thành diễn viên để kiếm ăn cho tới năm gần 40 tuổi. Ông đã từng cộng tác với Pitoeff và Jouvet. Năm 1926, ông thành lập nhóm kịch Alfred Jarry ( cùng với Aron và Vitrac ); ông quay về lý thuyết, " vì không mấy thành công về phương diện thực hành và ông cho in nhiều bài khảo luận phác họa một cuộc canh tân kịch nghệ dựa theo kịch nghệ Á Đông.



"Tuyên ngôn của kịch tàn bạo"(trong cuốn Le Theatre et son Double-1938) trình bày chủ thuyết của Artaud, là một công trình được soạn thảo tỉ mỉ, chủ trương gạt bỏ những phương cách cổ truyền của kịch nghệ Pháp đã đi đến ngõ cụt, đến bước đường cùng vì không thoát khỏi những khuôn phép kịch cổ điển làm tê liệt hết năng khiếu sáng tạo của các tác gia. Theo ông, cuộc cải cách phải toàn diện và kịch mới phải làm cho cảm súc của khán giả trở nên thật là nhạy cảm:" Kịch chỉ có thể trở thành chính nó, nghĩa là nó phải thành lập một phương pháp gây ảo giác thật sự, khi nào nó đã cho khán giả những hố sâu đich thực của mộng ảo khiến sự cưa thyich gây tội ác nơi khán giả, những ám ảnh về dục tình, những sự dã man, những mộng mơ, mà ở một bình diện nội tâm. " (Le Theatre et son Double).


Artaud còn muốn đưa một cải tiến xa hơn: ông từ bỏ kịch tâm lý, ngôn ngữ và bản văn, thoát ra ngoài địa hạt lý tính để đạt đến một cái gì sâu hơn, nghĩa là tới thật gần với con người. Ông đã xây dựng cả một phương pháp rõ rệt và thực tế để đổi thay toàn diện kịch cổ điển của Pháp.

-kịch phải có những thành phần vật chất và khách quan ( tiếng la hét, than vãn, những bất ngờ, những màu sắc rực rỡ của lễ phục, âm điệu hay của giọng nói, sự hòa hợp, một vài nốt nhạc khác lạ, nhịp điệu cdủa động tác, sự xuất hiện của những vật mới lạ...)

-Phải có một đạo diễn cộng tác thật sát với tác gia tạo dựng chung một vở kịch.
-Ngôn ngữ kịch nghệ phải bao gồm cả nhạc, cử động, dáng điệu, đèn và ánh sáng . Những thứ đó tác dụng thẳng vào khán giả, gây cho họ cảm giác thấy sợ, thấy nóng, thấy lạnh, thấy rùng mình.
- Y phục phải theo đúng nghi lễ, dựa trên căn bản những tập tục đã khiến chúng nảy sinh.

-Sân khấu và khán giả được nhập lại làm một với nhau. Khán già ngồi ở giữa phòng trên ghế xoay hầu giúp họ theo dõi vở kịch dễ dàng được trình diễn ở bốn góc phòng. Tuy nhiên có thể thành một điểm trung tâm để tập hợp hay kết cấu những phần cốt yếu của vở kịch.
- Sẽ không có vở kịch viết sẵn mà chúng ta tìm cách tạo dựng thẳng một vở kịch dựa trên những chủ đề, những hành động hay những tác động.
-Diễn viên là thành phần chính yếu. Sự thành công của vở kịch phần lớn tùy thuộc vào họ. Tuy nhiên, họ cũng chỉ là một thành phần thụ động và trung lập, vì mọi ý chí chủ động của họ đều bị khai trừ.
-Sự tàn ác: Theo Artaud, không thể có kịch nếu không có sự tàn ác làm móng, làm nền. " Tính thiện là điều được ước mong, nó là thành quả của một hành vi. Tính ác thì thường xuyên có mặt".


Artaud đã đưa ra làm mẫu kịch nghệ bình dân theo cổ tục xứ Bali, một loại kịch tổng hợp tất cả các thành phần như dáng điệu, ca, vũ, y phục, trang trí, âm nhạc và ánh sáng.

Như chúng ta đã thấy, tư tưởng của Artaud rất quyết liệt và tác phẩm của ông đã gây nhiều tiếng vang. Artaud đã loại bỏ kịch xây dựng trên nền tảng tâm lý, dựa trên ngôn ngữ, những vấn đề xã hội và các đòi hỏi của con người. Ngược lại, ông đã trình bày một quan niệm mạnh bạo và tàn khốc, vượt qua mọi quy luật và phương cách cổ truyền. Tuy nhiên, người ta vẫn chưa thấy phát sinh một cuộc "cách mạng". Kịch nghệ toàn diện hưởng ứng lời ông kiêu gọi. Các tác gia hiện đại cũng không chịu công nhận ông là người đi tiên phong như thi phái Siêu thực công nhận Breton là người chủ xướng sau bài Tuyên ngôn của thi sĩ. Ta chỉ thấy họ vay mượn của ông một vài ý kiến, tuy xác đáng thật nhưng chưa có ai noi theo ông để thành lập một nhóm kịch Tàn Ác. Ta phải nhận thấy giữa Artaud và các kịch tác gia co một cách biệt rõ ràng.


Ở một điểm duy nhất, ta thấy Artaud đã tự mâu thuẫn với chính mình:
- Một mặt ông gạt bỏ kịch tâm lý, xã hội và loại đối thoại Văn chương. Như vậy, nghệ thuật tàn ác của ông đã loại trừ chính Văn chương và không chấp nhận nó là một thực thể của con người.

-Mặt khác, ông bắt buộc Văn chương ( được coi như là một thực tế thiên nhiên ), phải theo đuổi nhiệm vụ khai thác tính Ác để phô bày ra trước mắt mọi người những đòi hỏi, ham muốn vô ý thức.

Sự chống đối của ông nhắm vào đối tượng chính là Văn chương nhưng vẫn đòi hỏi ở văn chương một cố gắng phi thường, phải vượt ra ngoài cả ngôn ngữ. Chấp nhận và theo đuôi Artaud là chấp nhận sự phá sản của ngôn ngữ trong ý niệm đào tạo văn chương lấy phê bình làm nền tảng chủ yếu. Nhưng các năng khiếu và khả năng sáng tạophải thoát khỏi sự phê bình ấy mới phát huy được trọn vẹn. Tài sáng tạo vẫn tùy thuộc ở cá nhân, ở người nghệ sĩ, thi sĩ mà không ở trong tay các lý thuyết gia như Antonin Artaud.

Đặc biệt ta nên ghi nhận giá trị tư tưởng và lý thuyết kịch nghệ củaArtaud có một sắc thái độc đáo dị thường. Trong cuốn Psychodrame et Theatre Modern (Kịch Phân Tâm và Tân Kịch) -Ed.Buchet Chastel,1971-Jean Fanchette, một bác sĩ phân tâm, đã ca ngợi quan điểm của Artaud mà ông coi là một cuộc cách mạng hoàn toàn trong kịch nghệ. Kịch, theo chiều hướng Artaud vạch ra, sẽ quay trở về nguồn gốc nguyên thủy của nó. Đó là những phương cách trị liệu tâm bệnh giải thoát những ẩn ức của con người ( khán giả ). Fanchette coi Artaud như một nhà phân tâm kỳ tài, với loại kịch giải thoát ẩn ức (Psychodrame ) rất gần với quan niệm phân tâm nổi tiếng của Jacob LevyMreno ( một đồ đệ của Freud ) đã sáng tạo ra loại kịch Phân tâm trị liệu mệnh danh là Stegreiftheater (Théatre de la Spontanéité- thoại kịch tự phát ).


II. SAMUEL BECKETT ( 1906-1989 )

Sinh trưởng ở Doublin trong một gia đình theo đạo Tin Lành, Beckett học và tốt nghiệp Đại Học Dublin với bằng Bachelor về sinh ngữ Pháp và Ý. Khoảng 1928 trở đi, ông sống ở Paris và dạy tiếng Anh tại trường Cao đẳng Sư phạm (Ecole Normale Superieure ). Ông bắt đầu dịch những tác phẩm của J oyce và kết thân với các thi sĩ như Breton, Eluard.Ông được bồ nhiệm làm phụ khảo văn chương Pháp tại đại học Dublin nhưng ông từ chức, và bắt đầu đi du lịch qua Ái Nhĩ Lan, Luân Đôn, Đức. Những tác phẩm của ông gồm có : Murphy (1947), Molly (1951), Malone meurt (1951), L'Innombrable (1953)...Sau đó ông chuyển sang địa hạt kịch nghệ với các kịch phẩm En Attendant Godot, Waiting for Godot (1953),Watt (1953), Endgame (1957), Krapp's Last Tape (1958), How It Is (1961). Năm 1969, ông được giải Nobel. Những vở kịch của Samuel Beckett ngay tự lúc đầu đã cho ta cảm giác đồng nhất: tất cả đều gợi ra sự phân hóa của mọi tiêu chuẩn cổ truyền: chủ đề, động tác, kết cấu đều bị giản lược hóa đến mức tối đa, và ngay cả ngôn ngữ cũng trở thành rời rạc. Sự phân hóa những phương thức kịch nghệ cổ truyền mặc nhiên gây sự hủy hoại của thuyết nhân bản và kịch bản Beckett mang nặng sắc thái bi quan.

A.En Attendant Godot (Trong khi chờ đợi Godot)

Trong vở tuồng Trong khi chờ đợi Godot, động tác được giản lược hoàn toàn, chỉ còn lại chủ đề CHỜ ĐỢI nhìn dưới nhiều khía cạnh.

Không gian trống vắng : bối cảnh thu gọn là một thân cây duy nhất biểu hiện sự hiện diện của thiên nhiên bất động trong một vũ trụ chỉ có những đường nét và hình thể tạo dựng tùy ý, vì tác giả đã muốn ta cảm thấy " sự chờ đợi ", một thái độ đặc biệt của tâm trí hội tụ về một điểm duy nhất trong khi ngoại cảnh xem như vô định. Bối cảnh ở đây chỉ có giá trị tượng trưng, thân cây có thể đưọc thay thế bằng một dòng sông hay một tảng đá. Sự vật không quan trọng bao nhiêu và chỉ chứng tỏ sự hờ hững của ngoại cảnh mà thôi.

Thời gian với tính cách tuần hoàn của nó, cũng vô định như không gian, không khởi tiếp cũng không chấm đứt, thời gian điược kéo dài bằng một số chu trình liên tục không ngừng. đo thời gian là vạch một đường thẳng dài trên đó ta cắt ra từng khoảng 24 tiếng đồng hồ đồng nhất rồi cgia ra thành sáng, chiếu tối. Vậy động tác của vở kịch theo thời gian này cũng không có khởi điểm và cũng không có điểm ngưng lại. Hồi II của vở kịch diễn tiến y như hồi I khi cuộc hẹn được tuyên bố dời lại hôm sau, bắt buộc hai nhân vật chính lại phải chờ đợi y như họ đã chờ đợi lúc mở màn.

Trong vở kịch, tác giả xây dựng nòng cốt căn cứ vào những vai tuồng. Họ là những người đang lấp cái khoảng trốngcủa không gian và sự im lặng của thời gian. Phương cách duy nhất áp dụng để tạo dựng sự sống cho vở kịch là ngôn ngữ, thể thức của sự truyền đạt tư tưởng thông thường và suốt vở kịch, ngôn ngữ trải qua mọi giai đoạn, từ lời nói chuyện phổ thông đến loại ngôn ngữ thuần túy triết lý.
- Ngôn ngữ đối thoại ngắt quãng tuỳ thuộc ở nhịp tư tưởng và tình cảm:

ESTRAGON: Hành trang! Tại sao lúc nào cũng xách! Không bao giờ đặt xuống ! Tại sao?

+ Ngôn ngữ lý luận, câu được đặt khúc chiết hơn nhưng vẫn có nhịp mau và hiệu nghiệm:

VLADIMIR: Điều chắc chắn là trong những điều kiện ấy thời gian có dài thật, và nó bắt chúng ta phải lấp nó bằng những hoạt động ma nói sao bây giờ ! Thoạt đầu thấy có vẻ hợp lý nhưng lại là những hoạt động chúng ta đã quen rồi. Mày sẽ bảo tao rằng đó chỉ để ngăn chận đừng cho lý trí mình chìm sâu. Điều ấy đã đành. Nhưng phải chăng lý trí của ta đang vẩn vơ trong đêm đen thường xuyên của đáy đại dương Tại sao thỉnh thoảng ta vẫn tự hỏi như vậy? Mày theo kịp lập luận của tao không hử?

+Nhưng ngôn ngữ cũng có thể bị tan rã. Chủ đề triết lý chỉ còn là những mảnh vụn gần như vô nghĩa tuy vẫn bao hàm rất nhiều khôi hài đen ( humour noir ).

VLADIMIR -"Không phải ngày nào người ta cũng cần đến mình. Nhân loại là chúng ta, dù chúng ta thich hay không thich...Chúng ta sinh ra đều điên cả. Một số người mãi mãi vẫn còn điên".

+ Ngôn ngữ có thể diễn tả những dọ dẫm của tâm trí đi tìm sự thật:

VLADIMIR- " Tại sao hắn ta lại không lấy vẻ tự nhiên? Mình tìm hiểu xem tại sao? Hắn ta không có quyền à? Có chứ!Vậy là hắn ta không muốn. Đó mới là đúng theo lý luận. Và tại sao hắn ta lại không muốn? Tại hắn muốn áp đảo tinh thần chúng ta chăng? Có lẽ tao đã diễn tả sai điều tao nghĩ.

+ Ở thềm chót của mức hiểu biết, ngôn ngữ trở thành máy móc và lấp đầy khoảng trống của tư tưởng:

VLADIMIR - Nói cái gì đi ! Tao tìm đã! Nói bất cứ cái gì đi! Bây giờ chúng ta làm gì? Mình cho Godot!

Sự lập đi lập lại vẫn là phương sách duy nhất gây hài tính, mặc dầu là khôi hài đen.

B. FIN DE PARTIE ( Tàn cuộc)

Trong Fin de Partie, kịch một hồi trình diễn năm 1957, ngay động tác cũng không còn nữa. Tác già đã tạo dựng một màn kịch đặc biệt, bất kể những quy luật thường có.Chủ đề phác họa một cuộc sống thảm não cùng cực. Bối cảnh là một căn phòng trống trải, không bàn không ghế. Beckett đã ghi nhận phần trang trí như sau:

"Ánh sáng xám ngắt. ở hai bên tường bên phải và bên trái, hai cửa sổ nhỏ có rèm đóng kín được đặt trên cao. Cửa ra vào ở bên phải tiền hí đài ( avant scene). Trên tường gần cửa ra vào treo một bức ảnh lật úp. Ở tiền hí đài bên trái, hai thùng rác kê sát nhau được phủ bằng tấm trải giường cũ kỹ. ngay chính giữa... một ghế bành có xe lăn cũng được phủ bằng một tấm trải giường không mới mẻ gì hơn."

Khi lật tấm trải giường ở ghế bành ra thì khán giả mới nhận thấy trên ghế có người ngồi. Đó là Hamm, một nhân vật mù hai mắt, có vẻ buồn nản vì bắt buộc phải dính liền vào ghế lăn. Hắn chỉ còn lại cách duy nhất là hành hạ Clov, đứa con nuôi còn dùng được vì đủ chân, đủ mắt. Cả trăm lần, hắn đòi cho kỳ được đúng một đồ vật, ra lệnh cho Clov đẩy ghế bành của mình di chuyển, hay mở nắp hai thùng rác, ở đấy ló ra hai cái đấu và một thân mình không thấy chân của hai vị thân sinh ra Hamm là Nagg và Nell. Đây là những bộ mặt nhăn nhó chỉ thoáng linh động khi thèm ăn bột hoặc khi trong tân đáy lòng, họ sống lại một it kỷ niệm cũ nào. Cả bốn người tàn tật này cùng ngắm nhyìn sự khổ đau của nhau. Họ không còn gì để chờ đợi, ngay đến cả cái chết đáng ra phải là sự giải thoát cuối cùng. Vở kịch được cực tả sự kiện không gian và thời gian tan rã.

HAMM - Đoạn kết nằm trong đoạn đầu rồi, vậy mà mình vẫn tiếp tục. Vở kịch không thiếu chất hài hước và Beckett thành công hoàn toàn với hài tính đen của ông. Ngay từ lúc vở kịch bắt đầu đã làm ta chú ý những hoạt động của Clov. Với dáng đi cứng cỏi, và chập choạng, anh ta đi tới và nhìn vào cửa sổ bên phải rồi đi lại phía này. Xong rồi hắn tìm một cái ghế đẩu, đặt đặt ghế dưới cửa sổ bên trái, xong lại nhắc ghế sang chửa sổ bên kia, cuối cùng nhìn ra ngoài, cười gằn một tiếng ngắn. Sau đó hắn quyết định thu dọn nhà cửa. Hắn lật tấm trải giường bao phủ hai thùng rác gấp lại, cắp dưới nách, mở nắp một thùng rác, đậy lại rồi cười gằn nữa, tiến lại ghế bành lật tấm trải giường thì Hamm hiện hình.

Tuy chưa một lời nào được thốt ra, người ta đã có cảm giác đang chìm đắm trong một không khí khủng hoảng bất bình thường , giữa một vũ trụ thê thảm và thế gian phi lý, tàn ác, bất nhân. Hài tính rất rõ rệt đúng như lời nói một nhân vật trong vở kịch:

NELL-Không có gì tức cười bằng sự đau khổ! Đó là điều khôi hài nhất ở đời..."

Người ta khó tìm một ý nghĩa rõ rệt cho vở kịch này, vì ở muôn ngàn khía cạnh, chỉ là sự phủ định của triết lý, của tình cảm và tư tưởng mà thôi.Nhân vật tuy sống thực nhưng người ta vẫn có cảm giác chắc chắn là chỉ có khôi hài đen. Beckett cũng nhận thấy tính chất khó khăn, tối nghĩa trong vở kịch của mình, vì tác phẩm cô đọng quá.

-Tác phẩm của tôi là vấn đề phát ra âm thanh căn bản một cách trọn vẹn nhất nếu được, và tôi không chịu trách nhiệm về bất cứ cái gì khác. Nếu thiên hạ muốn nhức óc về những giai điệu (harmoniques) của âm thanh căn bản ấy , thì đó là việc của họ, chứ đâu phải là việc của tôi.
( VILLAGE VOICE 29-12-1957)

Như thế ta phải công nhận vở kịch mang nhiều hài tính đúng như ý tác giả mong chờ, tất cả những vấn đề triết lý, suy luận đều tùy theo khán giả mà không liên quan gì đến vở kịch của ông. Trong chiều hướng này, vở Fin de partie được coi như đáp ứng đầy đủ hoàn toàn những đòi hỏi căn bản để tạo dựng một vở hài kịch đúng nghĩa của nó vậy.


C. LA DERNIERE BANDE (Cuộn băng cuối cùng )


Vào năm 1960, ở rạp hát Récamier Roger Blin cho diễn vở La Dernière Bande ( Krapp's Last Tape ) bằng tiếng Pháp. Vở kịch chỉ còn có vai Krapp, ông già cận thị, ngồi một mình trong vòng ánh sáng chói lọi, chung quanh đầy những cuộc băng ghi âm thu lại kỷ niệm mỗi kỳ sinh nhật. Màn mở lên : Krapp kéo ngăn hộc lấy một cuộn băng, xong lại xếp vào, mở hộc khác lấy quả chuối bóc vỏ, ngoạm, nhai, nuốt, rồi lật sổ tìm sổ cuộn băng, cho vào máy nghe lại tiếng nói của chính mình trong những năm qua. Vở kịch không muốn ghi nhận sự khác biệt giữa Krapp ngày trươc và Krapp bây giờ vì con người vẫn là một với những cá tính đặc biệt (thích uống rựu, nghiện chuối v.v..) không hề đổi thay, mà chỉ nhấn mạnh vào một điểm là " theo thời gian Hy vọng và Trí khôn" đã mất. Krapp bây giờ phải tìm lại trong tự điển nghĩa những chữ đã dùng hồi trước và theo tuổi già, con người đã yếu dần ( cận thị hơn, điếc hơn, mệt mỏi hơn ), chỉ còn lại sự ưa thích duy nhất: nghe lập đi lập lại chữ " BOBIINE ".

Cuối vở kịch, sau khi nghe từng lớp ký ức chồng chất trong những cuộn băng, Krapp ngồi bất động nhìn khoảng trống ở trước mặt mình. Ngày sinh nhật hôm nay không còn gì phải ghi lại.

Riêng với vở kịch này, ta nhận thấy mối cảm hoài của tác giả qua những kỷ niệm trong đời người như đôi chút hương vị còn sót lại cho một cuộc sống đầy ác mộng kinh hoàng.


D. OH! LES BEAUX JOURS (Ôi ! Những Ngày Vui )


Đây cũng là vở kịch với một nhân vật chính và một nhân vật phụ. Ở hồi đầu, Vinnie xấp xỉ tuổi 50, bị ngập đến nửa người giữa một cồn cát nắng chang chang. Trong khi bà từ từ tụt xuống, đi dần đến cái chết thì xung quanh thế gian đã gần ngày tận thế. Chính ở lúc này mà bi kịch bắt đầu sau lớp màn che của một tấn tuồng hài hước.

Winnie giả tảng như không hiểu gì cả ,không vtrông thấy và không cảm thấy gì và bà tự xây dựng cho mình một thế giới của tâm tưởng với những lời lẽ dùng để lấp khoảng trống vô nghĩa. Bà hồi tưởng những ngày mình vui sướng, nói chuyện, hoạt động lăng xăng. Bà ôn lại những kỷ niệm cũ của một thời xa xưa qua nhiều hình ảnh rời rạc, không liên tục. Tuy nhiên, trò chơi không thể tiếp diễn được vì " sự thật " vẫn cón đó`, và bà phải níu kéoVillie tham dự, nhưng Villie chỉ là một người chồng bất động ở quá tầm tay bà và có mặt ở đây như một nhân chứng bất đắc dĩ, không giúp ich gì được cho bà.

Màn mở lên thì, trước mặt chúng ta, người đàn bà đang ở trong tư thế bất động, chỉ còn nửa người tự do trên mặt đất mà thôi. Bên cạnh bà là một túi xách tay đen, có đủ vật liệu trang điểm tùy thân phụ nữ thường dùng như gương soi mặt, bàn chải đánh răng, kính đeo mắt, chai, lọ,son, và một khẩu súng lục nhỏ, xinh dường như để ghi nhận tư tưởng của nhân vật muốn tự tìm cái chết cho chính bản thân mình nhưng lại là ý định không bao giờ thực hiện.


Bà lập lại từng động tác hằng ngày với một cuộc độc thoại kỳ diệu và không bỏ qua bất kể sự kiện nào dù vô nghĩa nhất ( như theo dõi con kiến đi qua trước mặt ). Bà còn can đảm ngân nga một điệu hát xa xưa quen thuộc ( La Veuve Joyeuse ) trước khi đi vào giấc ngủ ngàn thu.

Với nhân vật Winnie, tác giả đã nhấn mạnh đến sự phi lý của thân phận, của hành động và ngôn ngữ con người. Thượng đế vắng mặt, thiên nhiên bất động và đáng sợ, xã hội khép kín với mỗi tâm hồn là một thế giới riêng tư, con người đối diện với thân phận của mình, đó là những điều mà tác giả muốn nói với chúng ta qua vở kịch. Và ta ý thức một cách rõ rệt sự sâu sắc của bài học tâm lý ấy. Vở kịch chẳng qua chỉ là tấn bi kịch của mỗi người trong chúng ta khi chúng ta cảm thấy sức lực mình suy kém và cuộc sống càng ngày càng rút ngắn. Chúng ta nào có khác gì người đàn bà kia mỗi ngày một tụt xuống nơi cát bụi để mai kia sẽ hoàn toàn bị ngập chìm. Tuy nhiên, vở kịch không hẳn chỉ yếm thế, bi quan. Tất cả sự thê thảm đều được che đậy dưới nụ cười, nụ cười êm dịu, guượng ép, mỉa mai, nhưng vẫn biểu lộ cái cố gắng phi thường của nhân vật chánh: một người đàn bà kiên tâm, can đảm. Đó chính là sự xác nhận tự do của con người trong thế gian hiện thời đang tan rã, bằng cách chấp nhận gần như một thách đố số mạng của chính mình.


WINNIE: Phải, it chuyện nói quá, mà cũng quá it chuyện làm.Cái sợ hãi tột độ thấy: ngày nào đó mình... kiệt lực, có biết bao nhiêu là tiếng đồng hồ trước mặt mình, trước khi đến giờ đi ngủ, mà chẳng có gì để nói, chẳng còn gì để làm, ngày lại qua ngày, có những ngày trôi đi mắt tăm, đến giờ đi ngủ rồi đây mà vẫn chẳng, hay gần như là chẳng nói được điều gì, chẳng làm được việc gì, mối nguy là ở chỗ đó! Mà mình phải tránh.


E. COMEDIE - 1964- ( HÀI KỊCH)

Vở Comédie còn độc đáo hơn nữa . Chủ đề vẫn là một bộ ba thường tình : người chồng ở giữa vợ và tình nhân. Người vợ tin rằng chồng phụ bạc bèn cho theo dõi ông ta, người chồng hứa hẹn thủy chung với vợ và được bà vợ tha thứ nhưng ông này vẫn đi tìm người tình và bị ép buộc phải bỏ vợ.Trong lúc người vợ tưởng mình đã tìm lại được chồng và trong lúc người tình nhân yên chí mình
thành công đắc thắng thì người đàn ông biến mất và ông ta đã tìm thấy sự thanh thản. Thật giản dị, nhưng tác giả không theo lối trình diễn thông thường: và tất cả được xếp đặt như sau:

Ở tiền hí đài, nơi ch ính giữa là ba thùng cao một thước kê liền nhau: ba đầu người hiện ra ở miệng thùng, cổ kẹt ngang: đó là ba nhân vật: F2 người tình, H người chồng, F1người vợ. Ba bộ mặt luôn nhìn về phía trước và bất động. H ọ nói nhưng không nói với nhau mà đây là ba độc thoại được ghép xen kẽ. Một ngọn đèn chiếu thẳng vào mặt người nào thì người đó phát ra tiếng nói. Họ bị bó buộc phải nói, nói rời rạc, và khi nói xong lại phải bắt đầu trở lại. Dần dần, tiếng phát a76m càng ngày nghe không rõ, rồi thì chỉ còn lại những tiếng động và ánh sáng di chuyển. Comédie là vở kịch chứng tỏ tài năng sáng tạo của Beckett và cách trình diễn khác lạ chưa từng thấy bao giờ.

Ngoài những vở kịch trên, ta nên ghi nhận một số tác phẩm nhỏ được truyền thanh: TOUX CEUX QUI TOMBENT ( Những Người Nằm Xuống ), FROM AN ANBANDONED WORK (Từ Một Tác Phẩm Bỏ Dở ), CENDRES (Tro Tàn), PAROLES ET MUSIQUES ( Lời và Nhạc ) là một loại kịch có cử động mà không có lời: ACTES SANS PAROLES (Hành vi không lời nói ).

KẾT LUẬN:

Đối với một công trình đang tiếp tục, chúng ta ghi lại vài chủ đề quan trọng nhất, có thể tiêu biểu cho vũ trụ Beckett : -không gian và thời gian chỉ là những thực thể không có nghĩa: tác giả không cần nhấn mạnh rõ rệt về hai điểm ấy: một con đường với một thân cây (EN ATTENDANT GODOT), một căn phòng giữa đất và biển (FIN DE PARIE ), một cồn cát (OH! LES BEAUX JOURS ). Thời gian vô cùng tận chỉ thực sự có đối với con người không thể chế ngự được nó. Không gian, thời gian, Thượng đế sẽ lập thành một vũ trụ khép kín, không còn ở tầm tay con người.

-Đối với vũ trụ này, lạnh lùng dữ tợn, Con người chỉ là một bộ mặt của Khổ đau: Cả một loạt nhân vật từ Didi, Gogo cho đến Hamm, Clov, Krapp đều là những người khốn khổ mà tác động, lời nói không có nghĩa lý gì, ngoài chú ý bày tỏ sự tan rã tâm lý của chính họ. Họ đã trở thành những người máy có suy tư, nhưng là một sự suy tư khô cằn không đem lại kết quả. Những cử động chỉ dùng để mô tả sự ngu ngốc và vô nghĩa của hành động và mọi thái độ làm nổi bật sự thảm hại của thể xác con người:Vladimir đi những bước nhỏ và cứng đơ, Clov thì chập choạng, và hấp tấp vội vàng, Nagg, Nell, Vinnie thì bất động ở một chỗ, Krapp thì nghễnh ngãng, và những nhân vật này đều gò bó, đóng đô tại những thùng rác, xe lăn...

- Ngôn ngữ không phải là một lối thoát vì nó bất lực hoàn toàn, ngay cả ở chủ đich của nó là sự liên lạc với tha nhân. Ngôn ngữ không bao gồm một ý nghĩa nào, và không thể bảo đảm sự liên lạc, sự thông cảm giữa người với người. Dưới ngòi bút của Beckett, ngôn ngữ chỉ còn là lời lẽ rời rạc, vu vơ, một thứ tiếng không cần thiết cốt để lấp đầy khoảng trống của tư tưởng.

Vũ trụ của Beckett hoàn toàn bị phân hóa và nụ cười của ông thật ảm đạm. Beckett đã lấy sự đau khổ làm nền tảng vcho các vở kịch, một hành động không suy nghĩ, sự tàn tật, mkột tiếng nói vấp đều có thyể làm cho người ta cười qua những vai hề bất đắc dĩ của đời sống thường ngày trong vũ trụ này.

Người ta phải ghi nhận là Beckett không chịu lập luận và bày tỏ quan niệm hay triết thuyết của mình, công trình kịch nghệ của ông thuần túy thiên về kịch tính khôi hài. Những chi tiết nhỏ nhặt nhất liên quan đến vai trò đều được toan tính tỉ mỉ, tinh vi. Ông muốn chúng ta cảm thấy sự phi lý của thân phận con người trong cõi nhân sinh qua những tiếng than, tiếng hét. Trong một tác phẩm nào, kịch Beckett đã tiếp nối công trình của Artaud trong đường hướng xây dựng một loại kịch tàn ác. Phần lớn kịch Beckett khó nghe, khó hiểu. nó chỉ gây ảo giác : phô bày một vũ trụ tàn khốc, nơi mà con người chìm đắm. muốn xây dựng thành công loại kịch này, phải là một thiên tài, khắc phục được ngôn ngữ qua tâm hồn tế nhị, săc sảo và nghệ thuâ kỳ diệu. Beckett thành công nơi chính Artaud thất bại vì không đem ra một công trình sáng tạo đáng giá nào.

Nghiêm Hoàng Ly

SƠN TRUNG * TRUNG CỘNG -VIỆT CỘNG



TRUNG CỘNG -VIỆT CỘNG

Trung cộng và Việt cộng đều xuất thân từ lò sát sinh Lenin, Stalin, và cùng là dân Á châu cho nên có nhiều điểm giống nhau. Nhất là Trung cộng lại là thầy , là cha đỡ đầu, là mẫu quốc của Việt cộng thì hai bên càng giống nhau. Giống nhau cái gì? Xin thưa họ giống nhau về tính tàn ác và gian trá.


I. TRUNG CỘNG


Từ khi Đặng Tiểu Bình lên thay Hoa Quốc Phong, thì ông từ bỏ nhiều chính sách giáo điều và phản khoa học của Mao Trạch Đông. Đặng Tiểu Bình bỏ chính sách "thành phần", " lập trường giai cấp " khi ông chủ trương " mèo trắng mèo đen nếu bắt được chuột đều tốt " , và ông dẹp bỏ kinh tế chỉ huy mà xoay qua kinh tế thị trường, kêu gọi tư bản đầu tư thì kinh tế Trung cộng khởi sắc. Sự cải cách của họ Đặng chỉ là về kinh tế, còn chính thể vẫn theo cộng sản độc tài chuyên chế.

Tâm lý con người ta khi trong túi rủng rỉnh đồng tiền thì sinh ra kiêu căng và tham lam. Họ có một triệu, họ lại muốn có thêm vài triệu nữa. Nhân dục vô nhai là thế. Họ tìm mọi cách để làm giàu. Gian manh, trộm đạo, hiếp đáp đều có đủ cho những anh chàng có máu gian tham và tàn ác. Trung Cộng cũng không ngoại lệ.

Sự thực tính ác của Trung Cộng, của Mao Trạch Đông vốn là bản chất và truyền thống của những gian thương và bọn đầu trộm đuôi cướp Trung Quốc. Lã Bất Vy là một tên đại gian thương, Tần Thủy Hoàng, Thành Cát Tư Hãn, Hốt Tất Liệt là những kẻ xâm lược khát máu. Chu Nguyên Chương là một tên cướp. Trung Quốc sản xuất được một vài triết gia nhưng có hàng triệu bọn Lương Sơn Bạc. Khắp Trung quốc mọi thời đều có loạn lạc, đói khát và đầy rẫy bọn cướp cho nên từ thời Vương Mãng, người Trung Quốc từ hạng giàu có, trí thức cho đến dân nghèo đều bỏ nước mà sang đất Giao châu.


Cộng đảng của Mao Trạch Đông cũng là một đảng cướp Lương Sơn Bạc. Họ cũng cướp của, giết người với danh nghĩa " thế thiên hành đạo " và "lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo" cho nên được nhiều người theo. Mao Trạch Đông cũng như Lenin, Stalin luôn tuyên bố yêu hòa bình, chống thực dân, đế quốc nhưng thâm tâm y lại muốn đánh Mỹ, thay Mỹ cai trị thế giới, và muốn nuốt Mông Cổ, Mãn châu,Tây Tạng, Việt Nam. Vì tham vọng này, y đã ủng hộ Việt Cộng để Việt cộng trở thành đội quân lê dương của Trung Cộng trong việc xâm chiếm châu Á và thế giới. Và vì mục tiêu này Trung cộng nuôi dưỡng Nguyễn Tất Thành, Hoàng Văn Hoan, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp v.v.. để bọn chúng trở thành những tôi tớ ngoan ngoản, đẩy Việt nam vào cuộc chiến tranh cho dù đốt cả Trường sơn, cho dù chỉ còn lại người Việt cuối cùng, để rồi Trung Cộng tiến vào tiếp thu Việt nam một cách dễ dàng. Đã thế, Trung Cộng còn biến Hồ Tập Chương thành Nguyễn Tất Thành để việc xâm chiếm Việt Nam dễ dàng hơn.


Không những Trung Cộng muốn chiếm Việt Nam mà Trung cộng còn muốn chiếm cả châu Á. Việt cộng thời Lê Duẩn tố cáo âm mưu của Mao Trạch Đông:

Chủ tịch Mao Trạch Đông còn khẳng định trong cuộc họp của Bộ Chính trị ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc, tháng 8 năm 1965:
Chúng ta phải giành cho được Đông nam châu Á, bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malayxia và Singapo…Một vùng như Đông nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản…xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy…Sau khi giành được Đông nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây…”.

So với các khu vực khác trên thế giới, Đông nam châu Á là khu vực mà Trung Quốc có nhiều điều kiện thuận lợi nhất, có nhiều phương tiện và khả năng nhất (hơn 20 triệu Hoa kiều, các chính đảng lệ thuộc vào Đảng cộng sản Trung Quốc, Đông nam châu Á có đường đất liền với Trung Quốc…) để thực hiện chính sách bành trướng và bá quyền nước lớn của mình. Cho nên trong 30 năm qua, những người lãnh đạo nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đã dùng nhiều thủ đoạn để thực hiện chính sách bành trướng ở khu vực này, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chiến lược toàn cầu phản cách mạng của họ.
[1].

Nay thì Hồ Cẩm Đào, Tập Cận Bình đã hung hăng vẽ ra bản đồ lưỡi bò 9 đoạn, nay thành 10 đoạn, và ra mặt đe dọa các nước lân cận trong đó có Việt Nam. Thế giới khắp nơi lên án Trung cộng xâm lược. Báo Điện Tử Dân Trí viết về âm mưu xâm lược của Trung Cộng:
Trong bài viết đăng trên tờ Times of India số ra gần đây, ông SD Pradhan, Chủ tịch Ủy ban Tình báo, kiêm Phó Cố vấn an ninh quốc gia của Ấn Độ đã phân tích sự phi lý của bản đồ khổ dọc mà Trung Quốc vừa phát hành.

Bài báo viết: Ngày 28/6 Trung Quốc công bố một bản đồ dọc mới cho thấy những khu vực mà họ tuyên bố chủ quyền bao gồm cả toàn bộ bang Arunachal Pradesh của Ấn Độ và các bộ phận của bang Jammu và Kashmir của Ấn Độ, "đường lưỡi bò" của Trung Quốc ở Biển Đông, Đài Loan và quần đảo Điếu Ngư/Senkaku. Sự kiện này phản ánh động cơ sâu xa của "Rồng Trung Hoa" muốn phá vỡ tan tành thế cân bằng địa chiến lược ở vành bên ngoài của nước này cũng như mưu đồ bành trướng và thiết lập sự bá quyền ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Tấm bản đồ dọc khác biệt đáng kể với các bản đồ trước đó. Trước đây các phiên bản bản đồ cho thấy những khu vực nói trên nằm riêng trong một ô thuộc về Trung Quốc. Lần này các vùng này được chỉ rõ là các khu vực của Trung Quốc.Hai nhân tố quan trọng cần phải tính đến khi xem xét lý do Trung Quốc cho ra tấm bản đồ này.

Thứ nhất, đó là phản ứng đối với tấm bản đồ về Trung Quốc mà Thủ tướng Đức Angela Merkel trao cho Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vào tháng 3/2014 khi ông Tập tới thăm Đức. Khi ấy bà Merkel trao cho ông Tập một tấm bản đồ Trung Hoa năm 1735 do nhà bản đồ học Jean-Baptiste Bourguignon d’Anville vẽ và được một nhà xuất bản Đức ấn hành. Tấm bản đồ thể hiện phần lõi của Trung Quốc với dân số chủ yếu là người dân tộc Hán mà không hề có Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông hay Mãn Châu. Các đảo Đài Loan và Hải Nam (cái thứ 2 thì rõ là một phần của Trung Hoa hiện đại, còn đảo thứ nhất thì gây tranh cãi nhiều) được thể hiện bằng một đường biên có màu khác.

Thứ hai, Trung Quốc đang tìm kiếm một cơ hội chứng tỏ cho thế giới một điều rằng Trung Quốc thời nay bao gồm tất cả các vùng mà nó tuyên bố chủ quyền. Và chuyến thăm của Phó Tổng thống Ấn Độ mang lại cơ hội đó.

Tuy nhiên bối cảnh của tấm bản đồ dọc này rộng lớn hơn rất nhiều. Trong vài năm qua, Trung Quốc đã cố gắng xác lập các yêu sách chủ quyền tại các vùng xung quanh nước này. Chủ nghĩa dân tộc hung hăng và tư tưởng thu hồi lãnh thổ của Trung Quốc là một nét nổi bật trong chính sách đối ngoại và sự gia tăng sức mạnh của Trung Quốc. Quan điểm cho rằng Trung Quốc phải rửa nhục trong các thế kỷ trước đang chiếm vị trí trung tâm trong quá trình xây dựng chính sách đối ngoại và an ninh của Trung Quốc. Đáp lại điều này, Chủ tịch Tập Cận Bình đã tuyên bố nước ông phải nhớ mình từng là “nạn nhân của ngoại xâm” và hối thúc người Trung Quốc tăng cường phòng thủ biên giới cả trên bộ lẫn trên biển
[2].


Tại Diễn đàn An ninh khu vực Đông Nam Á Shangri-La (Singapore), quy tụ hàng trăm nhân vật lãnh đạo chính trị, ngoại giao, quân sự và chuyên gia quốc tế, bộ trưởng quốc phòng Mỹ Chuck Hagel trong bài phát biểu ngày hôm qua 31/06 tuyên bố Hoa Kỳ không chấp nhận « thái độ gây bất ổn » của Trung Quốc và « sẽ không điềm nhiên tọa thị » nếu trật tự thế giới bị đe dọa. Hoa Kỳ « mạnh mẽ chống lại bất kỳ hành động đe dọa, cưỡng chế, uy hiếp bằng vũ lực để khẳng định yêu sách », bộ trưởng Quốc phòng Mỹ nhấn mạnh.

Trước đó, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe kêu gọi « mọi quốc gia phải tôn trọng luật pháp », khi nói về tình hình căng thẳng ở Biển Đông và Hoa Đông, một cách để gián tiếp để lên án Trung Quốc lấy sức mạnh đè ngườ
i.[3]

Tham lam, ngông cuồng như thế mà người Trung quốc vẫn tuyên bố họ yêu hòa bình, không có tinh thần thực dân đế quốc. Bản tin trên của RFI cũng nhận định về tính chất dối trá của Trung Cộng, một sự dối trá lộ liễu, sỗ sàng:

« Khi tiếp thủ tướng Malaysia Najib Razak khi ông viếng thăm Trung Quốc, chủ tịch Tập Cận Bình đã hứa không khuấy động tình hình tại Biển Đông. Tuy nhiên nếu như Việt Nam hay Philippines gây hấn, thì khi đó Bắc Kinh sẽ có phản ứng. Trên thực tế, Trung Quốc không ngần ngại sử dụng sức mạnh để kiểm soát những vùng lãnh thổ mà Bắc Kinh luôn khẳng định là thuộc chủ quyền của Trung Quốc từ nhiều thế kỷ qua.

Cụ thể là qua việc Trung Quốc vào đầu tháng 5/2014 đã đưa giàn khoan dầu đến ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa, một vùng biển mà Hà Nội khẳng định là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Một thí dụ khác cho thấy thái độ bành trướng của Trung Quốc được thể hiện qua việc Bắc Kinh đã cho xây một phi đạo trên một bãi đá thuộc khu vực quần đảo Trường Sa, nơi Manila khẳng định là thuộc chủ quyền của Philippines.

Bắc Kinh khẳng định quyền kiểm soát đối với cả một khu vực chiến lược như Biển Đông, nhưng đồng thời lại luôn tuyên bố là không muốn để xảy ra xung đột trong vùng. Về mặt chính thức, Trung Quốc luôn hô hào duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực.
[3]

Tại Đối thoại Shangri-La (Singapore), cũng như tại nhiều quốc gia, bọn đầu gấu Trung Cộng vẫn không ngượng miệng khoe khoang yêu chuộng hòa bình, không có dã tâm bá quyền xâm lược.

Hôm 03.09.2014,một quan chức cấp cao Trung Quốc hôm thứ Tư (3 tháng 9) cảnh báo các nước láng giềng châu Á chớ ngả theo một "đại cường" để tìm cách làm đối trọng với Trung Quốc trong việc giải quyết tranh chấp lãnh hải cao của họ, một cảnh báo dường như nhắm vào Mỹ.

Hãng tin Yonhap của Hàn Quốc dẫn lời ông Vương Gia Thụy, Trưởng Ban Liên lạc Đối ngoại Trung ương Trung Quốc, nói rằng nước ông sẽ không bao giờ tìm kiếm quyền bá chủ bất kể Trung Quốc sẽ hùng mạnh ra sao.
Phát biểu tại một diễn đàn của Đảng Cộng sản ở Bắc Kinh, ông Vương nói mối lo ngại của các nước láng giềng về sự gia tăng sức mạnh quân sự và chính trị của Trung Quốc trong khu vực là “hoàn toàn không có cơ sở.”
Ông Vương nói việc Trung Quốc trở nên hùng mạnh không nhất thiết là sẽ mang tới vấn đề cho những nước láng giềng
.[4].

Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường trong một cuộc họp báo chung với Thủ tướng Anh David Cameron tại London vào ngày 17 tháng 6 năm 2014 đã tuyên bố ngon lành: Trung Quốc yêu chuộng hòa bình và chủ nghĩa bành trướng không nằm trong huyết quản của người Trung Hoa.[5]

Ngày nay, Tập Cận Bình đem hình ảnh Đặng Tiểu Bình để làm bùa hộ mạng, nhưng Đặng Tiểu Bình khôn ngoan che giấu móng vuốt, còn Hồ Cẩm Đào, Tập Cận Bình giương móng vuốt hù dọa Á Châu. Hai bên khác nhau làm sao mà giống được mặc dầu cả hai đều mang tham vọng thực dân đế quốc!

Trung cộng hung hăng với Úc, Ấn, Nhật nhưng đến khi Mỹ, Nhật, Uc và Ấn Độ lập liên minh thì bắt đầu sợ cho nên họ Tập vác mặt dầy sang vuốt ve Ấn độ song Ấn Độ dại gì đi theo bọn cướp![6] 
Ngọt ngào mà người ta chưa tin huống hồ đã lớn tiếng hăm dọa và ra tay cướp bóc thì làm sao người ta tin!


Trung cộng luôn tuyên bố bản đồ 10 đoạn là không thể đảo ngược, và cho rằng biển Đông là hải phận của họ. Bao nhiêu năm, Trung cộng đã tốn tâm huyết, tiền bạc, thời giờ để chế tạo vũ khí, hỏa tiễn, tàu sân bay.. để thực hiện tham vọng đế quốc. Lẽ nào họ dễ dàng từ bỏ tham vọng đó. Tình hình căng thẳng như thế đó mà Tổng thống Indonesia muốn đứng ra làm trung gian hòa giải [7]. Trong các cuộc tranh chấp, người đứng ra hòa giải phải là người có sức mạnh tinh thần lẫn vật chật cao hơn hai cậu bé giành trái bứa trong Quốc văn giáo Khoa Thư. Indonesia nói mà Trung Cộng nghe ư? Indonesia là cái thá gì mà lớn lối vậy?


Một cái gian manh khác của Trung Cộng là muốn đàm phán song phương để bọn họ bẻ từng chiếc đũa. Bọn Nguyễn Phú Trọng cam tâm chấp nhận nô lệ, chấp nhận bán nước cầu vinh nên đã thỏa thuận hai bên hợp tác khai thác. Đó là một hình thức đầu hàng và phản quốc. Biển Đông là vấn đề quốc tế, phải theo luật quốc tế chứ không phải dùng sức mạnh và gian kế. Tàn ác và gian manh, Trung Cộng sẽ bị cả thế giới tiêu diệt.


II. VIỆT CỘNG


Người ta cho rằng Việt cộng nay chia hai phe, một phe theo Trung Cộng, một phe chống Trung Cộng. Nguyễn Tấn Dũng chống Trung Cộng còn hết thảy là nô lệ Trung Cộng. Nhưng có người vẫn nghi ngờ con người thật của ông y tá  chich thuốc tây hay thuốc tàu?

Cả hai phe đều khát khao TPP, vũ khi sát thương, nhưng cả hai cũng lập lờ trong vấn đề cải cách chế độ và từ bỏ chính sách nô lệ Trung Quốc. Nguyễn Tấn Dũng bị phe Trung Cộng áp chế hay y cũng chỉ là một kịch sĩ đóng tuồng yêu nước? Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Gia Kiểng v.v.. cho rằng bọn họ một duộc mà thôi.  Đã là cộng sản tất nhiên chúng nó có ý chí căm thù, ý chí chiến đấu hăng say. Khẩu hiệu của họ là " Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghĩ" như Tố Hữu kêu gào. Họ giết  tất cả  cho dù là đồng chí anh em, cha me con cái như cộng sản Bolchevish ( phe đa số) giết cộng sản  Menchevish (phe thiểu số  ), cộng sản đệ tam quốc tế tàn sát cộng sản đệ tứ quốc tế. Tại Việt Nam, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ đã giết Lê Trọng Tấn, Chu Huy Mân, Chu Văn Tấn, Hoàng Văn Thái v.v.. Và nay phe Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần toan quật ngã Nguyễn Tấn Dũng cũng là trò đấu đá nội bộ. Trong tháng 9 này, một trung tướng Nguyễn Xuân Tư - Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Xây dựng lực lượng - Bộ Công an bị đụng xe mà chết và Nguyễn Bá Thanh bị đầu độc bằng phóng xạ cũng là trò cọp beo cắn xé nhau. Và bên kia mẫu quốc , Tập Cận Bình triệt hạ phe Giang Trạch Dân cũng không ngoài sự dã man của lang sói

Việt Cộng có nhiều phe đảng mà tay nào cũng nắm quyền cho nên ta không rõ phe nào thực hiện chính sách này, phe nào chủ trương chính sách kia. Tất cả đều bát nháo, mâu thuẫn, trống đánh xuôi kèn thổi ngược...

Việt Cộng đầu hàng Trung cộng nhưng vẫn tỏ ra ta đây yêu nước để che mắt nhân dân ta và thế giới. Trương Tấn Sang nay luôn miệng nói " bất biến ứng vạn biến" để biện hộ cho việc y, Nguyễn Phú Trọng, và Nguyễn Sanh Hùng câm miệng hến, cúi mặt không hề lên tiếng chống Trung Quốc khi Trung Quốc đưa dàn khoan HD 981 vào lãnh hải Việt nam . Bất biến thì sao lại sai Công an đánh dân và bắt bớ các nhà dân chủ? Bất biến sao biết chạy vạy xin vào TPP? Bất biến thì sao lại sai Phạm Quang Nghị sang Mỹ và Lê Hồng Anh sang Trung Quốc ?  Bất biến sao cũng biết đu giây? trò đu giây chỉ là nhất thời không thể kéo dài.Tất cả chỉ là xin xỏ, nịnh bợ và dối trá.


Dân chúng đã nhìn rõ tinh thần đầu hàng và trốn tránh của Việt Cộng. Cộng sản giả dối khi đề xuất khẩu hiệu "ngư dân bám biển   " . Khẩu hiệu này chỉ là khẩu hiệu, nghĩa là chỉ nói bằng mồm, nhưng cũng có mục ich  thu tiền vì Việt cộng hứa hẹn sẽ xuất ra một số tiền giúp đỡ ngư dân. Nghe mùi cá thịt tanh tao, Việt cộng đàn em bu tới trục lợi:
- Chồng đại gia Diệu Hiền, ông Trần Văn Trí đề nghị cho công ty Trí Việt được vay vốn ưu đãi theo Nghị định 67 ngày 7-7-2014 của Chính phủ để nhập, đóng mới 220 tàu vỏ thép (tàu nhập đã qua sử dụng dưới 15 năm). Đồng thời, công ty muốn được hỗ trợ, vay vốn, xây dựng 2 cầu cảng loại I và khu neo đậu tránh bão tại huyện đảo Phú Quốc - Kiên Giang và cảng Trần Đề tỉnh Sóc Trăng.
 - Công ty Đức Khải  đưa ra kế hoạch nhập 100 tàu cá cũ và xin vay ưu đãi 1.350 tỉ đồng,[8]

 GS. Nguyễn Văn Tuấn viết về chủ trương " ngư dân bám biển" của Việt Cộng:     
Hôm trước có người (và tôi) thắc mắc ai bảo vệ ngư dân khi họ ra vùng biển nguy hiểm như Hoàng Sa? Bây giờ thì chúng ta đã có câu trả lời: chẳng ai bảo vệ họ cả. Tuần trước, một bộ trưởng nói “Xin ngư dân yên tâm bám biển”. Nhưng hôm qua, khi được hỏi về vấn đề này, một quan chức kiểm ngư, Nguyễn Ngọc Oai, cho biết “Không, không.


Chúng tôi không theo bảo vệ vì lực lượng chúng tôi có hạn. Cả vùng biển rộng lớn chúng tôi chỉ có 30 tàu. Chúng tôi chủ yếu tuyên truyền, quan sát ở xa để theo dõi, để hỗ trợ thôi, chứ chúng tôi không phải theo để bảo vệ tàu cá”. Ôi, trời đất ơi, ở thế kỉ 21 mà vẫn còn tuyên truyền! Mà, tuyên truyền từ xa! [9].

Nhân dân đã phát biểu tình hình Việt Nam hiện tại: lãnh tụ bám ghế, ngư dân bám biển, quân đội bám bờ, tàu bè, vũ khí bám kho...

Trước tình hình như vậy,  thế mà gần đây tin cho biết Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh công bố quyết định thành lập Lữ đoàn 950 đóng trên huyện đảo Phú Quốc với nhiệm vụ phòng thủ đảo và vùng biển phía tây nam Việt Nam [10]

Tại sao chỉ phòng thủ Phú quốc? Thế Hoàng sa, Trường sa thì sao?
Tóm lại, Trung cộng và Việt cộng đều là một lũ man rợ, tán ác và dối trá, nhân dân ta và thế giới phải tiêu diệt chúng..
__
 
CHÚ THICH

[1]. SỰ THẬT VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM -TRUNG QUỐC TRONG 30 NĂM QUA.Sự thật, 1979.
[2]. Sự phi lý của bản đồ “đường 10 đoạn”. http://dantri.com.vn/the-gioi/su-phi-ly-cua-ban-do-duong-10-doan-898326.htm
[3].http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20140601-dien-dan-shangri-la-trung-quoc-cong-kich-my-nhat-khieu-khich
[4]. Trung Quốc tuyên bố không theo đuổi bá quyền trong khu vực.
 http://www.voatiengviet.com/content/trung-quoc-tuyen-bo-khong-theo-duoi-ba-quyen-trong-khu-vuc/2437732.html
[5]. Trung Quốc yêu hòa bình và chống chủ nghĩa bành trướng? 
http://www.rfa.org/vietnamese/internationalnews/cn-love-peace-06192014094705.html 
[6]. Ấn Độ hòa hoãn nhưng cứng rắn với Trung Quốc.http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20140912-an-do-hoa-hoan-nhung-cung-ran-voi-trung-quo
 [7].http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20140912-bien-dong-tong-thong-indonesia-muon-dung-ra-lam-trung-gian-hoa-gia
[8].http://nld.com.vn/vnmoney/dai-gia-vay-ngan-ti-mua-tau-ca-xin-uu-dai-qua-da-20140814112040267.htm
[9]. Ai bảo vệ ngư dân?http://bolapquechoa.com/ai-bao-ve-ngu-dan.quechoa/
[10].http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2014/09/140905_vn_bridgade_phu_quoc.shtml

No comments: