NGUYỄN NGỌC CHÍNH * BÁO CHÍ SAIGON
Báo chí Sài Gòn thời VNCH (1)
Kể từ khi tờ báo đầu tiên - Gia Định báo - xuất hiện tại Sài Gòn từ năm 1865 dưới thời Pháp thuộc, nghề báo đã phát triển không ngừng với một đội ngũ chủ báo và người viết báo ngày càng nhiều và thị trường báo chí ngày càng đa dạng tại miền Nam trong suốt thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng hòa (1954-1975).
Biến cố chính trị năm 1954 với cuộc di cư vào Nam của hơn 1 triệu người miền Bắc đã mang lại một sắc thái mới mẻ trong sinh hoạt văn nghệ của Sài Gòn nói chung và trong làng báo Sài thành nói riêng. Ở miền Bắc, báo chí chỉ dành cho giới trí thức, ngược lại, báo chí miền Nam đã ăn sâu vào tận sinh hoạt hàng ngày của người lao động. Người đạp cyclo, tài xế taxi, giới tiểu thương cũng có tờ nhựt trình để đọc những khi vắng khách.
Quầy báo Sài Gòn xưa
Thói quen đọc báo đã ăn sâu vào nếp sống của người Sài Gòn và đến khi có cuộc di cư của người Bắc, sinh hoạt báo chí lại nở rộ. Người ta thấy xuất hiện nhiều tờ báo mới như Tự Do, Ngôn Luận, Chính Luận… Người đọc báo cũng dần dần làm quen với những tên tuổi mới như Thanh Nghị, Đặng Văn Sung, Từ Chung, Thanh Nam, Thái Thủy, Hoàng Hải Thủy…
Tờ Tự Do quy tụ các tên tuổi như Tam Lang (chủ nhiệm), Mặc Thu (quản lý), Như Phong (thư ký tòa soạn) và một số nhà văn, nhà thơ “di cư” như Ðinh Hùng, Vũ Khắc Khoan, Mặc Ðỗ, Tạ Quang Khôi… Phần nội dung có các mục đặc biệt như “Chuyện hàng ngày” do Tam Lang phụ trách, Ðinh Hùng viết thơ châm biếm “Ðàn Ngang Cung” với bút hiệu Thần Ðăng và một truyện dài dã sử nhiều kỳ mang tên “Kỳ Nữ Gò Ôn Khâu” với bút hiệu Hoài Ðiệp Thứ Lang. Tự Do còn có mục hí họa, tranh châm biếm mang tính cách “tố cộng”.
Theo Tạ Quang Khôi, sở dĩ tờ Tự Do bị đình bản vì lý do chính trị. Phủ Tổng thống thấy báo Tự Do được dân Bắc di cư ủng hộ thì không vui, vì nhóm chủ trương và nhân viên tòa soạn không ai có đạo Thiên chúa, lại không có ai là người miền Trung. Thế rồi báo đình bản ít lâu lại tái xuất hiện với chủ nhiệm và quản lý mới, đó là hai ông Phạm Việt Tuyền và Kiều Văn Lân. Hai ông này không những theo đạo Thiên chúa mà còn là nhân viên phủ Tổng thống.
“Ông Như Phong vẫn làm thư ký tòa soạn, ông Nguyễn Hoạt vẫn là một nhân viên tòa soạn. Ông còn viết thêm mục “Chuyện Hàng Ngày” với bút hiệu Hiếu Chân. Mục này được đổi tên là “Nói Hay Ðừng”. Ngoài Hiếu Chân còn hai người nữa cũng viết trong mục này, là nhà văn đường rừng Tchya Ðái Ðức Tuấn. Bút hiệu của ông trong “Nói Hay Ðừng” là Mai Nguyệt. Người thứ ba là Phạm Xuân Ninh, tức Hà Thượng Nhân, với bút hiệu Tiểu Nhã. Ông nói lái “Nói Hay Ðừng” thành “Nứng Hay Ðòi”. Mục này được độc giả rất hâm mộ vì lối viết sắc bén và châm biếm của các tác giả”.
Khi báo Tự Do của nhóm “người Bắc di cư” đình bản, một số cây bút chạy sang cộng tác với Ngôn Luận, một tờ báo được chính phủ Ngô Đình Diệm “ưu ái” qua vai trò “Giám đốc chính trị” của Hà Ðức Minh. Về sau, Ngôn Luận có Từ Chung về làm thư ký tòa soạn.
Ngôn Luận có mảng thu hút thiến niên, nhi đồng qua mục“Bé Ngôn, bé Luận” với các hí họa do họa sĩ Văn Ðạt vẽ. Bản thân tôi ngày đó cũng thích mục này và đã có lần được đăng một tryện ngắn trên phụ trang của Ngôn Luận. Về sau trên báo Chính Luận cũng có trang “Mai Bê Bi” dành riêng cho độc giả nhỏ tuổi.
Ngôn Luận còn có mục “Giải đáp tâm tình” của Kiều Diễm Hồng, cái tên do Tạ Quang Khôi đặt ra dù sau này ông không còn phụ trách. “Thương hiệu” Kiều Diễm Hồng cũng “chạy” sang Chính Luận trong mục “Mai Bê Bi”.
Tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ qua cuộc cách mạng ngày 1/11/1963 và nền Đệ nhất Cộng hòa cũng cáo chung. Sang đến thời kỳ Đệ nhị Cộng hòa, tờ Chính Luận của nghị sĩ Ðặng Văn Sung trở nên ăn khách khi Ngôn Luận đóng cửa và thu hút hầu hết các cây bút một thời viết cho Ngôn Luận. Thư ký tòa soạn Chính Luận là Từ Chung, người sau này bị cộng sản ám sát ngay gần nhà ở trường đua Phú Thọ. Chính Luận có bài xã luận dưới đây về thời Đệ nhất Cộng hòa:
“Dưới thời Nhu, Diệm, không biết có anh nào cắc cớ đã đẻ ra một đoàn thể có danh hiệu rất kêu: Công chức Cách mạng Quốc gia.
…
Có một số thư ký phục vụ tại những tỉnh nhỏ đã lâu năm, vì hoàn cảnh gia đình, xin thuyên chuyển đến tiếp tục công vụ tại những nơi thuận tiện cho họ hơn, nhưng đơn xin của họ chẳng bao giờ được xét tới, mặc dầu dưới thời “Cách mạng Nhân vị” người ta thường lập đi lập lại câu châm ngôn “Cách mạng Quốc gia nhằm thực hiện công bằng xã hội”.
Tức cười hơn hết là cựu Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần hồi đó đã trả lời trước Quốc hội bù nhìn, câu hỏi của một vài dân biểu về việc thuyên chuyển công chức: “Những nhân viên được chỉ định đến làm việc tại các tỉnh là những người phạm kỷ luật hoặc là những người phục vụ đắc lực tại địa phương”. Câu trả lời đầy mâu thuẫn đó đã làm cho một số người thắc mắc. Người ta tự hỏi: “Ngoài hai hạng công chức này, còn có thể có hạng công chức thứ ba phải ở lại các tỉnh nhỏ . . . muôn năm nữa không? Hạng công chức ấy phải chăng là những kẻ không có khả năng . . . “chè lá” cho những ông công chức khác có trách nhiệm về việc quản trị nhân viên công chức?”.
Chính Luận cũng đưa tin những trận hải chiến giữa VNCH và Trung Cộng từ ngày 17 đến 19/1/1974 [1]. Tờ báo "giật" nhiều tít nóng bỏng như: “VC [Việt Cộng] bác bỏ đề nghị VNCH lên án vụ TC [Trung Cộng] chiếm H. Sa”, “Giờ phút chót của Ty Khí Tượng Hoàng Sa chứng nhân 24 năm qua tại vùng tranh chấp”, “Nga lên án TC đánh chiếm Hoàng Sa, thúc LHQ buộc TC phải thương thuyết”, … Trên Chính Luận còn in hình di ảnh của HQ Thiếu tá Nguyễn Thành Trí, thuộc Hộ tống hạm Nhựt Tảo (HQ 10), tử trận tại Hoàng Sa.
Chính Luận đưa tin về cuộc hải chiến giữa VNCH và Trung Cộng trên đảo
Hoàng Sa
Dân gian có câu “nhà báo nói láo ăn tiền”. Câu nói mang tính cách miệt thị nghề báo nhưng nhiều nhà báo vẫn say mê với cái nghề… nói láo ra tiền. Cũng vì người đọc nhận xét về tài “nói láo” của nhà báo nên ký giả Vũ Bằng [1] đã viết hẳn một cuốn hồi ký mang tên “Bốn mươi năm nói láo” để kể lại chuyện 40 năm lăn lộn trong nghề báo. Ông viết trong tập hồi ký: “Người mẹ nào sinh con lại chẳng muốn cho con sau này ăn nên làm ra, có vai có vế nhưng Mẹ ơi, con đành chịu tội bất hiếu với mẹ: nếu trở lại làm người con cứ lại xin làm báo!”
Biến cố đặc biệt nhất trong làng báo Sài Gòn là chuyện “ký giả xuống đường đi ăn mày” vào ngày 10/10/1974 để phản đối Sắc luật 007 của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Sắc luật này quy định muốn ra nhật báo phải đóng ký quỹ 20 triệu đồng (ngày đó số tiền này tương đương với khoảng 47.000 USD), báo định kỳ đóng 10 triệu. Số tiền này rất lớn khiến nhiều báo không có tiền ký quỹ đành phải đóng cửa. Cũng theo điều luật này, tờ báo nào bị tịch thu lần thứ hai do có bài vi phạm an ninh quốc gia và trật tự công cộng thì sẽ bị đóng cửa vĩnh viễn.
Đã có nhiều tờ báo bị đóng cửa, chủ báo bị phạt, bị tịch thu tiền ký quỹ, một số người còn bị tù. Theo thống kê không chính thức, có khoảng 70% người làm báo bị thất nghiệp. Trước tình hình đó, các nghiệp đoàn ký giả Sài Gòn đã tập hợp lại để tìm ra một biện pháp nhằm cứu nguy cho báo chí.
Ký giả đi ăn mày
Hồi ký không tên của dân biểu kiêm nhà báo Lý Quí Chung cho biết: “…Có vài con số thống kê đáng chú ý như sau: từ vụ xử đầu tiên theo sắc luật 007/72 (tờ báo bị đưa ra Tòa án Quân sự Mặt trận Biệt khu thủ đô đầu tiên là Điện Tín ngày 18/8/1972) cho đến hết năm 1973 có tất cả 228 vụ tịch thu và truy tố báo chí. Trước đó khi chưa có sắc luật 007/72, từ tháng 12/1969 đến tháng 8/1972 có đến 5.000 vụ “vi phạm luật báo chí” cũ (luật 019/69)”.
Theo Lý Quý Chung, có 4 tổ chức báo chí khởi xướng nhưng chỉ cần nhìn vào những nhân vật dẫn đầu cuộc biểu tình thì biết ai đứng sau lưng sự kiện lịch sử của báo chí Sài Gòn. Ngoài chủ tịch Nghiệp đoàn Nam Việt Nguyễn Kiên Giang, các nhà báo lão thành như Nam Đình (chủ báo Thần Chung và sau là Đuốc Nhà Nam), Trần Tấn Quốc (chủ nhiệm tờ Tiếng Dội Miền Nam) còn có các nhà văn – nhà báo Tô Nguyệt Đình tức Nguyễn Bảo Hóa, nhà báo Văn Mại (cựu tổng thư ký tòa soạn báo Buổi Sáng), nhà thơ Quốc Phượng, nhà báo Kiên Giang Hà Huy Hà… đều là nhà báo cộng sản chính cống hoặc ít ra cũng… “thiên cộng”.
Chính quyền biết trước cuộc xuống đường vì trong làng báo cũng có nhiều ký giả “giả”, ký giả chỉ điểm, ký giả “ăng ten”, ký giả làm việc cho trung ương tình báo… Tuy nhiên, họ vẫn không thể ngăn chặn cuộc xuống đường lấy hình ảnh “ký giả ăn mày”. Mỗi ký giả tham dự đều được phát một nón lá, một bị cói và một cây gậy giống hệt người ăn mày. Lực lượng chính hỗ trợ cho nhà báo là các dân biểu, nghị sĩ đối lập, trong đó có nhiều người đồng thời là nhà báo như Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Hữu Chung và Lý Quý Chung.
Lý Quý Chung kể lại trong cuốn hồi ký đã dẫn: “Cuộc xuống đường xuất phát từ trụ sở của Nghiệp đoàn ký giả Nam Việt, nằm trên đường Lê Lợi, giáp đường Tự Do (nay là Đồng Khởi). Lộ trình dự định của đoàn biểu tình là tuần hành trên đại lộ Lê Lợi, nhắm thẳng vào chợ Bến Thành nơi có đông đảo quần chúng chờ đợi…
Thật sự trước các nhà báo, các dân biểu, nghị sĩ, nghệ sĩ, trí thức rất hiền lành, lực lượng cảnh sát cũng không hăng hái lắm để ra tay đàn áp nếu họ không bị khiêu khích hoặc kích động làm mất đi sự bình tĩnh. Do đó khi đám đông “ký giả đi ăn mày” rướn tới một cách quyết liệt là hàng rào cảnh sát tự vỡ ra và dòng người biểu tình cuồn cuộn đổ.
Ra đại lộ Lê Lợi như dòng sông đổ ra biển. Người dân hai bên đường hoan hô người biểu tình, nhiều người hào hứng nhập vào đoàn, nhất là thanh niên học sinh. Đến chợ Bến Thành, những người buôn bán trong chợ ào ra “bố thí”. Các ký giả ăn mày, nhét vào bị của chúng tôi đủ thứ bánh trái và quà tặng khiến cho hình ảnh ký giả đi ăn mày càng đậm nét.
Ký giả ăn mày đụng độ với cảnh sát
Một trong những nhân vật nổi tiếng trong làng báo vào thập niên 1960 là nhà văn Chu Tử. Ông ra tờ Sống và báo thu hút một số lượng lớn người đọc với các tiết mục được ưa thích như “Ao thả vịt” (trên trang nhất), “Thơ đen” và trang nhạc trẻ. Báo Sống thường chạy tít rất “giật gân” như: “66 triệu của Tống nha Ngân khố bay đằng nào…” hoặc “5 phút ‘hàn huyên’ với tử tội ‘chịu chơi’ Đặg Cao Sách”…
Nhật báo Sống |
Những cây viết cộng tác với Sống có các nhà văn, nhà báo Tú Kếu, Nguyễn Mạnh Côn, Bùi Giáng, Trùng Dương... Nhật báo Sống đăng tiểu thuyết nhiều kỳ (feuilleton) Loan Mắt Nhung của Nguyễn Thụy Long, từ đó nhà văn này trở thành nổi tiếng với công chúng.
Trong Hồi Ký Viết Trên “Gác Bút” (nxb Văn Nghệ, California, 1999) Nguyễn Thụy Long tiết lộ: “Tác phẩm đầu tay của tôi là Loan Mắt Nhung ra đời và làm nên văn nghiệp của tôi được xuất hiện trên tờ báo Sống, do sự khuyến khích của ông Chu Tử… Tôi chính thức là ký giả của báo Sống, nhưng cũng đánh lẻ cho nhiều báo như một số anh em ký giả khác…”
Sau cuộc cách mạng lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm ngày 1/11/1963, Nguyễn Thụy Long bước vào nghề qua nhật báo Sống từ lúc tờ báo ra mắt cho đến ngày báo đình bản. Chu Tử có rất nhiều “con nuôi” và ông gả một trong số các con nuôi cho Nguyễn Thụy Long.
Vì bất đồng chính kiến, tòa báo Sống bị Lực lượng Tranh thủ Cách mạng của phe Phật giáo cực đoan tấn công năm 1966. Cũng vào thời điểm này, sáng ngày 16/4/1966, Chu Tử bị mưu sát khi vừa ra khỏi nhà, ông bị trúng đạn nhưng thoát chết. Nhiều người cho rằng cuộc khủng bố này do Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam chủ trương.
Tòa soan nhật báo Sống bị tấn công
Cuối thập niên 1960 báo Sống bị thu hồi giấy phép vì chỉ trích việc chính phủ cho Quân đội Hoa Kỳ toàn quyền sử dụng căn cứ Cam Ranh. Chu Tử ra tiếp tờ Sóng Thần vào tháng 10/1971 và bị rút giấy phép vào tháng 2/1975. Nữ ký giả Trùng Dương là người có liên quan trực tiếp đến Sóng Thần cho biết:
“Khởi thủy Sóng Thần là cơ quan ngôn luận của nhóm chống tham nhũng Hà Thúc Nhơn (tên một đại úy y sĩ đã bị sát hại vào năm 1970 trong khi đơn thương độc mã chống tham nhũng trong chính quyền Nha Trang). Nhóm này gồm Bác sĩ Phạm Văn Lương, Giáo sư Nguyễn Liệu, Hà Thế Ruyệt, Phan Nhự Thức, Uyên Thao, Lý Đại Nguyên và một số người khác tôi không nhớ hết tên, và những người vì lý do riêng, không muốn công khai”.
Sóng Thần được hình thành là do đóng góp tiền bạc dưới hình thức mua cổ phần của các cổ đông và độc giả. Tờ báo có trụ sở đặt tại 133 đường Võ Tánh, Sài Gòn do Trùng Dương đứng tên làm chủ nhiệm, Chu Tử làm chủ biên, Nguyễn Đức Nhuận lo trị sự và Uyên Thao điều hành với tư cách tổng thư ký.
Sóng Thần chống tham nhũng ngay từ lúc đầu nhưng không chống chính phủ như một số báo chí ngoại quốc hồi ấy xếp loại là “anti-government”. Về sau này, sau khi nhật báo Đuốc Nhà Nam của ký giả lão thành Trần Tấn Quốc tự ý đóng cửa để phản đối luật báo chí mới 007/1972, Sóng Thần mời được bỉnh bút Ngọa Long về cho có mầu sắc người Miền Nam vì đa số thành phần biên tập là những người gốc miền Bắc di cư năm 1954.
Riêng về các nhà văn viết feuilleton cho Sóng Thần thì khởi thủy gồm có Nguyên Vũ, Cung Tích Biền, Nguyễn Thụy Long, Vũ Ngọc Đĩnh, Hoàng Hải Thuỷ… sau tăng cường thêm hai nhà văn nữ Túy Hồng và Nguyễn Thị Thụy Vũ.
Trùng Dương cho biết thêm về phiên tòa “lịch sử” ngày 31/10/1974, ngày Sóng Thần ra trước vành móng ngựa. Tờ báo chạy tít “Ngày dài vô tận” : “Tờ báo bị Bộ Nội Vụ của chính phủ Nguyễn Văn Thiệu đưa ra toà xử về tội đã đăng nguyên văn bản cáo trạng số 1 của Phong Trào Nhân Dân Chống Tham Nhũng do Linh Muc Trần Hữu Thanh chủ xướng với sự tham gia của 300 linh mục. Tổng cộng có 205 luật sư tình nguyện ra toà biện hộ cho Sóng Thần và quyền tự do báo chí”.
"Ngày dài vô tận" của Sóng Thần
Chuyện lạ trong làng báo: chủ nhiệm Sóng Thần là nhà báo nữ Trùng Dương
nhưng báo chí Sài Gòn còn “lạ” hơn khi có một chủ báo kiêm chủ bút cũng
là phụ nữ: bà Bút Trà đứng tên tờ Sàigòn Mới nổi tiếng một thời trong
làng báo Sài Gòn. Điều “lạ” hơn nữa là bà Bút Trà không phải là dân làm
báo hay làm văn nghệ mà chỉ là một thương gia giàu có đã đưa Saigon Mới
thành tờ báo ưa thích của giới bình dân.
Báo Saigon Mới
Bà Bút Trà, nhũ danh Tô Thị Thân, kết hôn với một ông nhà giàu người Tàu làm chủ khoảng 20 cơ sở kinh doanh nghề “cầm đồ”. Lý do bà nhẩy sang nghề làm báo cũng thật ly kỳ. Nhà văn Bình Nguyên Lộc [4] đã kể lại trong “Hồi Ký Văn Nghệ” như sau:
“Bà nhà giàu nầy [Tô Thị Thân], về sau, khi lấy chồng Việt Nam, đã xây cất biệt thự lớn ở Phú Nhuận, nhưng bà ấy nhứt định tiếp tục sống trong căn nhà liên-kế, tòa soạn của tờ nhựt báo Sàigòn Mới, chớ không chịu dọn về ngôi biệt thự đẹp, vốn bỏ không… Bà mang tục danh là “Bà chị Bồn binh”, chỉ vì bà bám mãi vào căn nhà thuê trước cái bồn cỏ tròn, nằm giữa tòa soạn của bà và chợ Bến Thành”.
Hồi đó báo chí Sài Gòn, có lẽ vì thiếu đề tài khai thác, nên “đánh hội đồng” nghề cầm đồ với lý do tiệm cầm đồ “hút máu dân nghèo”, chính phủ cần phải rút giấy phép! Bị đụng chạm nghề nghiệp nên bà Tô Thị Thân có nói với Tô Văn Giỏi, anh họ của Bình Nguyên Lộc, nguyên văn như sau: “Em Giỏi nè, em có biết ông nào viết nhựt trình thiệt giỏi, mà ăn lương rẻ hay không?”. Đầu óc của những người kinh doanh vào thời nào cũng thế: đòi hàng tốt mà giá lại rẻ!
Chính mắt bà Bút Trà xem lại bài vở của nhân viên tòa soạn trước khi đăng và cũng chính tay bà chọn bài lai cảo… Nhà văn Trọng Nguyên, Tổng thư ký tòa soạn Saigon Mới đã có lần tâm sự với Bình Nguyên Lộc: “Khi nào bà ấy quá bận về việc khác, bà ấy chỉ thị cho tôi làm việc, đúng y như bà đã làm. Có tôi, bà cũng cứ thủ vai chánh. Bà chỉ cần tôi về mặt kỷ thuật mà thôi. Tôi chết đi, bất kỳ ai thay thế cũng được, bởi cứ còn bà.”
Bình Nguyên Lộc ngỏ lời muốn cộng tác với Saigon Mới, bà Thân từ chối thẳng thừng: “Tôi chỉ đăng bài mà chị bán cá có đọc cũng hiểu. Cậu viết khó hiểu, người bình dân không đọc đâu”. Người ta chửi bà, gọi bà là thím Xồi (ông chồng cũ người Tàu của bà có tục danh là chú Xồi) bà trả lời trên báo: “Ừ, tôi tên là thím Xồi thì đã sao kia chớ ? Thím ấy có làm hại xã hội bằng những bài vở khiêu dâm chăng? Có nêu gương đồi phong bại tục chăng?”
Bà Bút Trà còn bị chọc ghẹo bằng các sửa bút danh của bà thành “Bút Tè”, báo chí tiếp tục “chửi” nghề cầm đồ, bà đáp ngắn gọn: “Hằng ngàn người khác cho vay cắt cổ, sao cứ bà họ Tô mà chưởi?”.
Quả là trường hợp của bà chủ báo Bút Trà đi ngược hẳn với lẽ thường tình. Con buôn nào khi bị chửi trên bào cũng chỉ hành động theo một trong ba cách: (1) cắn răng mà chịu đựng khi nào bị báo chí chửi; (2) hối lộ cho các ký giả viết bài chửi bới; hoặc (3) thuê du côn đánh các ký giả đó. Bà Tô Thị Thân là người đầu tiên nghĩ ra giải pháp thứ tư: ra tờ báo chửi lại dù chẳng viết được một câu văn nào.
Saigon Mới còn có một nhân vật nữ nổi tiếng là bà Tùng Long, phụ trách mục Gỡ rối tơ lòng từ năm 1953, bà còn giữ mục Tâm Tình Cởi Mở trên báo Tiếng Vang (1962-1972). Hai mục “hỏi đáp tâm tình” này rất ăn khách trên báo và thu hút nhiều người đọc, nhất là phụ nữ vì chủ đề xoay quanh chuyện yêu đương, tình cảm.
Bà Tùng Long làm chủ bút Tuần báo Tân Thời (1935), Thư ký tòa soạn tuần báo Phụ Nữ Diễn Đàn, ngoài ra còn cộng tác với các báo Đồng Nai, Tiếng Vang, Tiếng Chuông, và các tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong, Phụ Nữ Mới, Phụ Nữ Ngày Mai, Duy Tân, Đông Phương… Bà Tùng Long xuất bản trên 60 tác phẩm trong khoảng thời gian từ năm 1956 đến 1972.
Người ta thường ví “hiện tượng Tùng Long” tại Sài Gòn được lập lại với nhà văn Quỳnh Giao bên Đài Loan với loại tiểu thuyết tình cảm trong đó có những trớ trêu, ngang trái đã khiến nhiều người đọc, nhất là phụ nữ, phải rơi lệ.
***
Chú thích:
[1] Ngày nay, báo chí "lề phải" Việt Nam chỉ đề cập đến những diễn
biến trên Biển Đông qua từ mới “Tàu Lạ”, ám
chỉ tàu Trung Quốc ngang ngược xâm phạm hải phận Việt Nam theo “Đường lưỡi bò”
trong chiến lược thôn tính quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa. Họ sợ đụng chạm đến phương
châm “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn
diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” do chính lãnh đạo Trung Quốc
đưa ra năm 1999 để xác định tư tưởng chỉ đạo và khung tổng thể phát triển quan
hệ hai nước Việt – Trung trong thế kỷ mới.
Theo Wikipedia, cuộc chiến trên Biển Đông năm 1974 giữa VNCH
- Trung Cộng có tương quan lực lượng như sau:
Phía VNCH có 4 chiến hạm là Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt
(HQ-16), Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10), Tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ-5),
Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4), 1 đại đội hải kích thuộc Hải quân, một số
biệt hải (biệt kích hải quân) và 1 trung đội địa phương quân đang trú phòng tại
đảo Hoàng Sa.
Phía Trung Cộng có 4 chiếm hạm trực tiếp tham gia trận chiến
là Liệp tiềm đĩnh (tàu chống ngầm) số 274, Liệp tiềm đĩnh số 271, Tảo lôi hạm
số 389, Tảo lôi hạm số 396, 2 ngư thuyền ngụy trang số 402 và số 407. Ngoài ra còn
có lực lượng thuộc Trung đoàn 10 Hải quân lục chiến, trinh sát (không rõ số
lượng). Sau khi trận chiến đã kết thúc, thì Liệp tiềm đĩnh số 282, Liệp tiềm
đĩnh số 281 mới đến tăng viện.
Trung Cộng chiếm đóng toàn phần quần đảo Hoàng Sa sau những
trận hải chiến từ ngày 17 đến 19/1/1974. Hải quân VNCH có 74 binh sỹ tử vong
trong đó HQ-10 có 62 người chết bao gồm hạm trưởng Ngụy Văn Thà và Thiếu tá Nguyễn
Thành Trí; HQ-4 có 3 người chết, HQ-5 có 3 quân nhân tử vong và 16 bị thương,
HQ-16 có 2 người chết.
Theo tài liệu của Trung Cộng thì các tàu 274, 271, 389, 396
đều trúng đạn, 281, 282 và 402, 407 bị hư hại trung bình. Trung Quốc bắt giữ 48
tù binh và cuộc trao trả tù binh diễn ra sau đó tại Hồng Kông qua Hội Chữ thập
đỏ quốc tế. (http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%A3i_chi%E1%BA%BFn_Ho%C3%A0ng_Sa_1974)
Bích chương "Tây sa chiến ca" của Trung Quốc
nói về trận chiến ở Hoàng Sa
[2] Vũ Bằng (1913-1984),
tên thật là Vũ Đăng Bằng, là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng dưới thời VNCH. Ông
sở trường về viết truyện ngắn, tùy bút, bút ký... với các bút hiệu Tiêu Liêu,
Vịt Con, Thiên Thư, Vạn Lý Trình, Lê Tâm, Hoàng Thị Trâm...
Khoảng năm 1934-1935, Vũ Bằng nghiện á phiện rất nặng suốt 5
năm. Nhờ người cô ruột và nhờ vợ là Nguyễn Thị Quỳ thường xuyên săn sóc, khuyên
nhủ, cộng với sự quyết tâm của bản thân nên ông đã cai được, rồi viết cả một
cuốn tự truyện mang tên “Cai”.
Vũ Bằng di cư vào Nam năm 1954 để tiếp tục hoạt động
văn chương - báo chí. Ông làm việc tại Việt
Tấn Xã và cộng tác với nhiều tờ báo. Vũ Bằng có lúc năm trong tay 3 tờ báo Đồng Nai, Sài Gòn Mai và Tiếng Dân, có
lúc vừa viết cho Dân Chúng, làm tổng
thư ký báo Tin Điện, lại vừa hợp tác
với làm báo Vịt Vịt...
Vũ Bằng bị mang tiếng là nhà văn “dinh tê”, “quay lưng lại với
Kháng chiến” và “di cư vào Nam theo giặc” nhưng chỉ sau biến cố Sài Gòn thất
thủ năm 1975 người ta mới biết ông là “VC nằm vùng” trong mạng lưới tình báo
của Hà Nội. Vì nhiều lý do, trong đó có sự gián đoạn đường dây liên lạc, mãi
đến sau này, ông mới được công nhận là người hoạt động ‘cách mạng’ và được truy
tặng huân chương nhà nước.
Tác phẩm chính của Vũ Bằng gồm Miếng ngon Hà Nội (bút ký, 1960), Miếng lạ miền Nam
(bút ký, 1969), Bốn mươi năm nói láo
(hồi ký, 1969), Thương Nhớ Mười Hai
(hồi ký, 1972)...
Vũ Bằng
[3] Chu Tử là bút
hiệu của Chu Văn Bình (1917-1975), nhà văn, nhà báo nổi tiếng tại Sài Gòn vào
thập niên 1960. Ông được biết đến là chủ nhiệm nhật báo Sống và là tác giả
những cuốn tiểu thuyết có tựa đề chỉ một chữ: Yêu, Sống, Ghen, Loạn, Tiền...
Ông một thời dạy học ở Trường tư thục Phùng Hưng ở Hải
Phòng, về sau làm hiệu trưởng Trường trung tiểu học Lê Văn Trung ở Tây Ninh.
Vào ngày 30/4/1975, trên đường di tản khỏi Việt Nam bằng tàu Việt Nam Thương
tín, tàu trúng pháo B-40 khi qua cửa Cần Giờ và ông tử thương, được thủy táng
ngay cửa biển.
Nhà văn Chu Tử
[4] Bình-nguyên Lộc
(1915-1987) tên thật là Tô Văn Tuấn, sanh ngày 7/3/1915 tại làng Tân Uyên, Biên
Hòa. Ông sinh ra và lớn lên trong một ngôi nhà chỉ cách bờ sông Ðồng Nai hơn
một trăm thước, chính con sông này đã cung cấp nhiều chi tiết để hoàn tất một
số tác phẩm như truyện ngắn Ðồng Ðội
(trong Ký Thác), hồi ký Sông Vẫn Ðợi Chờ
(viết và đăng báo ở California)….
BNL đang viết dang dở tập hồi ký “Nếu Tôi Nhớ Kỹ” thì qua đời. Trong tập đó có bài “Ông Bà Bút Trà” kể lại trường hợp nào
ông bà Bút Trà gia nhập báo giới rồi kết hôn với nhau. Bà Bút Trà giao
công việc tìm người làm báo cho thơ ký kế toán của bà tên Tô Văn Giỏi, vốn là
anh họ của BNL. Ông Giỏi nhờ BNL tìm kiếm người làm báo. BNL giới thiệu nhà thơ
kiêm thầy thuốc Trương Quang Tiền, tuy chưa hề làm báo nhưng ông cũng nhận đảm
trách tờ Sàigòn Họa Báo, tiền thân
của Saigon Mới. Ít lâu sau, bà Bút
Trà ly dị ông chồng người Hoa và nhà thơ này trở thành ông Bút Trà.
Từ năm 1948 BNL về Sài Gòn và sống bằng nghề viết báo,
chuyên về tiểu thuyết feuilleton. Ông đã cộng tác với báo Lẽ Sống (qua bút hiệu Phong Ngạn, Phóng Ngang, Phóng Dọc, v.v…), Điện Tín, Ðời Mới, Tin Mới, Tiếng Chuông,
Tin Sớm…
Tháng
10/1985 BNL định cư tại Hoa Kỳ theo chương trình đoàn
tụ gia đình và sống tại Rancho Cordova, một thành phố nằm trong thủ phủ
Sacramento của tiểu bang California. Tại đây BNL từ trần ngày 7/3/1987
vì bịnh huyết áp cao.
Tác phẩm của BNL nổi bật nhất có Hương Gió Ðồng Nai, Ðò Dọc, Nguồn gốc Mã Lai của Dân Tộc Việt Nam và
nhiều toàn tập truyện ngắn: Cuống Rún
Chưa Lìa, Nhốt Gió, Ký Thác…
[5] Bà Tùng Long
(1915-2006), tên thật Lê Thị Bạch Vân, là một nhà văn nổi tiếng với những tiểu
thuyết tâm lý xã hội ở miền Nam
trước 1975. Bà sinh ngày 1/8/1915 tại Đà Nẵng, học trung học ở trường Đồng
Khánh, Huế, và trường Gia Long, Sài Gòn. Năm 1935 bà thành hôn cùng nhà báo
Hồng Tiêu Nguyễn Đức Huy.
Năm 1952, Bà Tùng Long dạy Pháp văn và Việt văn tại các
trường Les Laurié, Tân Thịnh, Đạt Đức... nhưng vì lương không đủ sống, bà bắt
đầu viết truyện đăng từng kỳ cho một số nhật báo. Vào thập niên 1960, các tác
phẩm của bà rất thành công về mặt thương mại, vừa dạy học vừa viết báo, viết
văn, thu nhập của Bà Tùng Long rất cao, nghe nói lên đến cả chục lượng vàng. Vào đầu thập niên 1960, bà giữ chức
Tổng thư ký Hội Phụ Nữ Việt Nam Cộng hòa, đắc cử Dân biểu tỉnh Quảng Ngãi.
Về bút danh Bà Tùng Long, bà giải thích: “Các vị nho học của chúng ta có câu ‘Vân
Tùng Long, Phong Tùng Hổ’, nghĩa là mây theo rồng, gió theo cọp... Tôi tên Vân
cho nên lấy bút danh Tùng Long. Và khi ký bút danh này, tôi thấy không trùng
với ai, cho nên tôi dùng luôn đến nay. Vì ký bút danh Tùng Long, tôi sợ độc giả
hiểu lầm tôi là đàn ông, cho nên tôi thêm chữ Bà vào để phân biệt.”
Một số tác phẩm nổi bật:
- Bóng người xưa
- Đời con gái
- Hồi kí Bà Tùng Long
- Một lần lầm lỡ
- Mẹ chồng nàng dâu
- Nẻo về tình yêu
Bà Tùng Long
(Còn tiếp)
***
(Trích Hồi Ức Một Đời
Người – Chương 10: Thời xuống lỗ)
Hồi Ức Một Đời Người
gồm 9 Chương:
- Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
- Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
- Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
- Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
- Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
- Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
- Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
- Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
- Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả còn dự tính viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang
tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000
cho đến ngày xuống lỗ)!
TS. NGUYỄN VĂN TRẦN * TÔN ĐỨC THẮNG &PHẠM VĂN ĐỒNG
VỤ ÁN ĐƯỜNG BARBIER Ở TÂN ĐỊNH
Can phạm : Tôn Đức Thắng và Phạm văn Đồng
Ts Nguyễn văn Trần
Ngày 8 tháng 12 năm 1928, tại số 5,
đường Barbier, Tân Định, Quận 1, Sài gòn đã xảy ra một vụ án mạng gây
xôn xao dư luận khắp Nam kỳ trong nhiều năm dài . Theo sự giải thích của
nhà cầm quyền Pháp và báo chí lúc bấy giờ thì đó là một vụ thanh toán
nội bộ của một nhóm người trong hội kín làm cách mạng.
Báo chí mất nhiều ngày giờ tường thuật vụ án mạng nên về sau chỉ cần viết ngắn gọn mà ai cũng hiểu "Vụ án đường Barbier".
Điều lạ là vụ án mạng với một người chết
mà gây sôi nổi dư luận khắp xứ Nam kỳ và kéo dài suốt nhiều năm. Vì
tính tàn bạo của án mạng hay vì có nhiều người trong hội kín "Thanh Niên
Cách mạng Đồng chí hộ " liên can?
Ông Nguyễn văn Nguyễn, thành viên của
Thanh Niên Cách mạng Đồng chí hội và đảng viên Cộng sản Đông dương, có
liên can tới vụ án, bị Tòa án xử phạt 3 năm tù treo. Năm 1939, ông kể
lại vụ án mạng này trong một quyển sách tựa là "Án mạng đường Barbier".
Vụ án mạng mở đường vào Trung Ương đảng
Đường Barbier, sau 1955, đổi lại tên
Việt nam là đường Lý Trần Quán. Đó là một con đường nhỏ, hai bên là hai
dảy phố ngói trệt, nằm gần chợ Tân định.
Tuần báo Phụ nữ Tân văn theo dõi nội vụ
từ khi vụ án mạng xảy ra ngày 8 tháng 12 năm 1928 cho tới khi Tòa tuyên
án kết thúc vụ án mạng tháng 6 năm 1930 .
Mời
bạn đọc lại một bản tin ngắn đăng trên Tuần báo Phụ nữ Tân văn số 14,
xuất bản ngày 1 tháng 8 năm 1929 tại Sài gòn, để thử so sánh với một bản
tin ngắn của báo chí ngày nay . Tuy viết cách đây hơn 80 năm mà lời văn
ngày nay, đọc lại, chúng ta hiểu được trọn vẹn và dễ dàng :
"Đào Xuân Mai là người bị tình nghi
trong vụ ám sát ở đường Barbier ngày nọ, nằm trong khám lớn ( Khám Chí
Hòa) có lẻ tới 10 tháng nay mà chưa thấy Tòa xét hỏi gì tới, thì mấy bửa
trước nhịn đói không ăn uống gì hết . Cứ theo tin các báo Tây ở đây thì
quan Bồi thẩm hết sức dụ dổ tra hỏi mà Đào Xuân Mai không nói gì cả,
chỉ một mực nói rằng mình không có dính dấp tới việc đó".
Nhưng thực chất vụ giết người này là gì mà có tầm ảnh hưởng lớn như vậy ?
Trong đêm mùng 8 rạng ngày 9 tháng 12
năm 1929 xảy ra một vụ giết người quá tàn bạo và dã man tại căn nhà số 5
đường Barbier mà hung thủ là những người trong Phân bộ Thanh niên Cách
mạng Đồng chí hội ở Nam kỳ. Nạn nhơn là Lê văn Phát, bí danh là Mỹ Lang,
bị đồng chí kết án tử hình vì tội phản bội theo điều lệ của đảng "Lê
văn Phát ve vản người chị em của chúng ta là Thị Nhứt". Đó là tội phản
bội. Và tội phản bội, theo điều lệ đảng, được các đồng chí của Phát
giải thích : "Phát không gạt bỏ tình riêng để toàn tâm, toàn ý phục vụ
cách mạng". Ba đồng chí trẻ tuổi hơn hết trong tổ chức của Phát (23, 24
và 26 tuổi) thi hành bản án đã được Tòa án Cách mạng phán quyết. Tôn Đức
Thắng, 40 tuổi, chủ trì Tòa án vì ông là Chủ tịch Kỳ bộ Thanh niên Cách
mạng Đồng chí hội. Tôn Đức Thắng, năm 1969 kế nghiệp Hồ Chí Minh làm
Chủ tịch nước, liên can vụ án mạng bị 20 năm tù khổ sai.
Can phạm kế là Phạm văn Đồng, sau này làm Thủ tướng ở Hà nội suốt 30 năm, lảnh 10 năm cấm cố vì tội " đồng ý bản án tử hình". Còn những người khác trong đó có những tên quen thuộc vì sau này hoặc làm Ủy viên TW đảng cộng sản hà nội và nhơn viên Chánh phủ hoặc lãnh đạo kháng chiến năm 1945 như Trần Huy Liệu, Nguyễn Duy Trinh, Nguyễn Bình, Nguyễn văn Nguyễn... Riêng 4 tên ra tay giết Lê văn Phát là Trần Trương, Ngô Thiêm, Nguyễn văn Thinh và Cô Nguyễn Trung Nguyệt. Chỉ có Trần Trương, Ngô Thiêm và Nguyễn văn Thinh bị án tử hình về tội giết Lê văn Phát. Những tội nhơn khác, sau khi lảnh án tù, bị đưa ra Côn Đảo. Cô Nguyễn Trung Nguyệt bị giam ở Chí Hòa vì nữ tù nhơn được miễn bị đày ra Côn Đảo.
Can phạm kế là Phạm văn Đồng, sau này làm Thủ tướng ở Hà nội suốt 30 năm, lảnh 10 năm cấm cố vì tội " đồng ý bản án tử hình". Còn những người khác trong đó có những tên quen thuộc vì sau này hoặc làm Ủy viên TW đảng cộng sản hà nội và nhơn viên Chánh phủ hoặc lãnh đạo kháng chiến năm 1945 như Trần Huy Liệu, Nguyễn Duy Trinh, Nguyễn Bình, Nguyễn văn Nguyễn... Riêng 4 tên ra tay giết Lê văn Phát là Trần Trương, Ngô Thiêm, Nguyễn văn Thinh và Cô Nguyễn Trung Nguyệt. Chỉ có Trần Trương, Ngô Thiêm và Nguyễn văn Thinh bị án tử hình về tội giết Lê văn Phát. Những tội nhơn khác, sau khi lảnh án tù, bị đưa ra Côn Đảo. Cô Nguyễn Trung Nguyệt bị giam ở Chí Hòa vì nữ tù nhơn được miễn bị đày ra Côn Đảo.
Sau này, Phạm văn Đồng, một hôm nhơn
nhắc lại những ngày tù tội dưới chế độ thực dân Pháp, có nói "Nếu tụi
Pháp mà đối xử với anh em cách mạng như chế độ tù tội của ta thì chúng
ta chắc chẳng còn mấy người được sống sót mà đưa cách mạng tới thành
công ngày nay".
Lê văn Phát bị các đồng chí hành quyết,
thi thể còn bị đốt, cắt, phá hủy để không thể nhận diện được, đem bỏ ra
sau nhà số 5 đường Barbier.
Bản án thi hành xong, Ngô Thiêm đi qua
Quảng Châu đem theo đầy đủ biên bản và phán quyết của Tòa án Cách mạng
để báo cáo với Tổng bộ Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội . Sau vụ án
giết Lê văn Phát, Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội ở Nam kỳ bị Tây phá
vỡ nên phải dẹp bỏ luôn . Đảng cộng sản Đông dương ra đời.
Ngay từ thời tiền thân của đảng cộng
sản, những nguời sau đó trở thành cộng sản, đều lập thành tích bằng giết
người, khủng bố để nhờ đó mà vào Trung ương đảng bằng cửa chánh.
Vài nét về Tuần báo Phụ nữ Tân văn
Phụ nữ Tân văn là Tuần báo do Ông Nguyễn
Đức Nhuận làm Chủ nhiệm, đặt trụ sở tại số 42, đường Catinat, sau năm
1955, đồi qua tên Việt nam là đường Tự Do . Địa điểm này là cửa hàng bán
tơ lụa của Ông Bà Nguyễn Đức Nhuận . Tòa báo đặt trên lầu . Qua năm
sau, năm 1930, Tòa báo chiếm trọn căn phố số 42 vì đang trên đà phát
triển mạnh . Cửa hàng tơ lụa được Ông Bà Nguyễn Đức Nhuận dời đi nơi
khác .
Ông Nguyễn Đức Nhuận làm Chủ nhiệm nhưng chính Bà Nguyễn Đức Nhuận mới là người sáng lập tờ báo.
Tưởng cũng nên lưu ý về tên Nguyễn Đức
Nhuận cùng thời, cùng nghề làm báo, viết báo, viết văn ở Sài gòn vào
những năm 20, 30 cho tới sau này. Nguyễn Đức Nhuận có bút danh là Phú
Đức, tác giả tiểu thuyết « Châu về Hiệp phố » một thời ăn khách ở Sài
gòn. Người thứ hai là Ông Bút Trà của nhựt báo Sài gòn Mới. Kỳ thật,
chính Bà Bút Trà mới là người lãnh đạo tờ báo.
Tuần báo Phụ nữ Tân văn xuất bản vào
ngày Thứ Năm mỗi tuần, với khổ 0, 24m x 0, 31m, dày 32 trang không kể
bìa có in hình 3 Cô Gái Bắc, Trung, Nam với khẩu hiệu « Phấn son tô điểm sơn hà, Làm cho rõ mặt đàn Bà nước Nam » .
Tuần báo qui tụ được những cây viết
tiếng tăm lừng lẫy từ Bắc, Trung, Nam như các ông Đào Trinh Nhất, Phan
Khôi, Tản Đà, Hồ Biểu Chánh, Bùi Thế Mỹ, Diệp văn Kỳ, Ls Trịnh Đình
Thảo, Phan văn Hùm, Bà Bùi Thế Mỹ, Nữ sĩ Nguyễn thị Manh Manh, …
Phụ nữ Tân văn, số ra mắt là ngày 02
tháng 05 năm 1929, do nhà in Nguyễn văn Viết, số 85 – 87, đường d’
Ormay, Quận I, Sài gòn, nhận in. Năm 1930, Phụ nữ Tân văn phát hành trên
10 000 bản, các nhà in Việt nam không đảm nhận được nên nhà báo phải
giao cho nhà in Albert Portail của người Pháp in. Cùng tên Albert
Portail, có nhà sách ở đường Catinat, ngang khách sạn Continental, sau
đổi thành Nhà sách Xuân Thu, nghe nói là tài sản của Giám mục Ngô Đình
Thục, do một người Pháp lai làm quản lý . Và cũng tại đây đặt 1 Phân
khoa của Viện Đại Học Đà lạt ( Báo chí hay Bang giao quốc tế ).
Tết năm 1930, Phụ nữ Tân văn xuất bản Phụ nữ Tân văn Xuân
do sáng kiến của Ông Đào Trinh Nhất làm Chủ bút . Đây là tờ báo Xuân
đầu tiên mở đường cho báo Xuân sau này và cho tới ngày nay.
Tuần báo Phụ nữ Tân văn giử các mục
thường xuyên : xã thuyết, Vấn đề giải phóng Phụ nữ, Phụ nữ và Gia đình,
Vệ sinh khoa học thường thức, Gần đây trong nước có những gì ?, Thời sự
đoản bình, Tiểu thuyết, phóng sự, Thư cho bạn ( bạn gái ), Văn uyển,
Khảo luận , Nhi đồng…
Giá bán mỗi tờ báo là 0, 10$ . Giá báo
trọn năm là 6, 00$, …1 tháng là 0, 50$ . Qua năm 1934, giá báo giảm
xuống . Một năm báo, giá còn 5$ nhưng giá một số vẫn không thay đổi.
Tiền nhuận bút cho tác giả và lương bổng
Ban Biên tập rất hậu hỉnh vì chủ trương « Chiêu Hiền đãi Sĩ ». Một bài
khảo cứu, bình luận, điều tra dài từ 2 trương được trả 5$ 00 . Bài
thường dài 1 trang trả nhuận bút 3$00. Hình hí họa, mỗi hình được trả
2$00.
Đồng thời với Tuần báo Phụ nữ Tân văn ở
Sài gòn có tất cả 15 tờ báo ngày, tuần và tháng, bằng tiếng việt và 3 tờ
bằng tiếng pháp : La Tribune Indochinoise, Le Phare Indochinois và La
Lutte.
Tưởng cũng nên biết Sài gòn năm 1930,
không phải như Sài gòn trước năm 1975, chỉ gồm có 4 Quận. Quận Trung
ương bao gồm Chợ cũ, Chợ Mới Bến thhành và Chợ Đủi . Quận I gồm có vùng
Dakao và Tân Định . Quận II gồm Cầu Ông Lãnh, Cầu Kho, Chợ Quán . Quận
III gồm Khánh Hội, Xóm Chiếu.
Bên kia Chợ Quán trở đi thuộc Chợ lớn, tức Tỉnh Chợ lớn.
Hoạt động xã hội của Phụ nữ Tân văn
Qua giửa năm sau, Phụ
nữ Tân văn tổ chức « Đồng Xu cho học sinh » để giúp học sinh nghèo có
tiền đi học. Không chỉ đi học ở Việt nam mà còn đi qua Pháp học nữa
.Tiếp theo, Phụ nữ Tân văn tổ chức Hội Dục Anh. Hai cơ sở xã hội này
hoạt động mạnh mẻ nhờ sự hưởng ứng nhiệt tình của độc giả và những nhà
hảo tâm.
Hội Dục Anh tổ chức thêm chương trình
giữ trẻ giúp những gia đình đơn chiếc có chỗ gởi con em để yên lòng đi
làm việc. Để có tiền tài trợ cho chương trình Dục Anh, năm 1932, Hội tổ
chức Hội chợ trong khuôn viên Tổng cuộc Thể thao Annam ở góc đường Mayer
và Lareynière . Năm ngày Hội chợ có nhiều trò chơi vui nhộn, hòa nhạc,
văn nghệ, thể thao phụ nữ, nữ công gia chánh,… Phụ nữ Sài gòn, Chợ lớn,
Gia định tới đông đủ, mà còn có cả Phụ nữ ở lục tỉnh cũng kéo về tham dự
đông đảo.
Niềm vui chưa trọn thì chuyện bực mình
đã xảy ra . Do hiểu lầm chuyện gì đó mà phía Phụ nữ Tân văn không hề
biết, hai báo Sài Thành và Trung Lập kêu gọi dân chúng tẩy chay Phụ nữ
Tân văn và các tổ chức của Phụ nữ Tân văn luôn . Chẳng những kêu gọi
trên báo, họ còn in truyền đơn xúi dục dân chúng tẩy chay Phụ nữ Tân
văn.
Nữ lưu học hội
Ông bà Nguyễn Đức Nhuận từ lâu đã tham
khảo ý kiến của giới phụ nữ ở Sài gòn về dự tính thành lập « Nữ lưu học
hội ». Hội ra đời và đi vào hoạt động thật sự . Để vận động cho Nữ lưu
học hội, Tuần báo Phụ nữ Tân văn cho phổ biến một bài xã luận dưới tựa
đề «Sáng lập Nữ lưu học hội»:
«Chị em đã từng thảo luận về sự lợi ích,
về cách tổ chức một cái học hiệu riêng cho phụ nữ, lấy tên là « Nữ lưu
học hội». Hết thảy các bạn đều nhận là một công trình đáng gây dựng lên
ở các đô thành mới như Hà nội và Sài gòn.
Thảo luận là một việc rất hay, vì nhờ nó
mà các bạn đồng chí trong nước trao đổi tư tưởng và ý kiến vế một vấn
đề quan hệ . Nhưng vậy, lời bàn luận không phải là một cái cứu cánh, một
cái mục đích.
Nghĩa là : ta không nên tranh biện để mà tranh biện, mà tranh biện để hành động và thiệt hành.
Tuân theo tôn chỉ nói trên đây, bổn báo mời:
Các bạn phụ nữ hoạt động,
Các bạn đàn ông biểu đồng tình với chị em,
Ra công gắng sức để sáng lập « Nữ lưu học hội » ở Sài gòn...".
Nữ lưu học hội từ khi thành lập đã qui
tụ được nhiều chị em phụ nữ có tiếng tăm . Mỗi người với lòng nhiệt
thành, nhận ngay trách nhiệm phân công.
Hội mở được nhiều lớp nữ công, gia chánh, trao đổi kiến thức khoa học và văn hóa cho chị em trong và ngoài hội.
Một hội viên năng hoạt động là nữ sĩ Nguyễn thị Manh Manh . Bà có lần lên diễn đàn phát biểu:
« Tài sơ, trí thiểu và lời ăn nói vụng
về như tôi, thiệt lấy làm e lệ mà bước lên diễn đàn và cũng lấy làm áy
náy, sẽ không khỏi để phụ lòng quí ông, quí bà và hết thảy các chị em.
Nói chuyện về nữ lưu học hội là muốn nói
chuyện về phụ nữ với văn chương . Nếu cho Nữ lưu học hội là cần ích thì
cũng phải cho đàn bà là có mật thiết có quan hệ đến văn chương nước
nhà.
…Phần văn học nước nào cũng đều có thể
chia ra làm hai phần, khách quan và chủ quan . Cái văn học khách quan
thường thiên về triết lý với khoa học . Cái văn học chủ quan thường
trọng về mỹ thuật với thi ca. Một đàng nhờ cái tư tưởng nhơn sanh mà có,
một đàng do ở cái tình cảm nhơn loại mà ra.
Theo lẽ sinh lý thì đàn bà thường nặng
về phần hồn và nhẹ về phần trí, cảm tình thì sâu mà tư tưởng thì hẹp nên
trong văn học thường sở trường về lối tả cảnh, đạo tình mà ít hay về
lối khách quan triết lý …
Người đàn bà có cái tinh thần cần phải
tự giác để chiếu sáng ra ở chung quanh mình, cho gia đình được êm đềm
phong phú, cho xã hội được rực rỡ quang minh .
Cái tinh thần đó ta muốn có thì ta lại càng tha thiết mong cho nữ lưu học hội sớm thành công…"
Phụ nữ Tân văn hoạt động đưọc 6 năm, từ năm 1929 tới năm 1935.
Xứ Nam kỳ không phải là nơi ngàn năm văn
vật nhưng báo chí ra đời sớm hơn những nơi khác, truyện quốc ngữ cũng
xuất hiện sớm . Nam ký là xứ thuộc địa nên được thừa hưởng một số quyền
lợi như ở xứ Pháp về mặt báo chí, xuất bản. Ở Bắc, truyện « Tố Tâm » của
Hoàng Ngọc Phách xuất hiện vào năm 1925 được cho là tác phẩm văn chương
hiện đại đầu tiên của Việt nam trong lúc đó, truyện quốc ngữ « Ai làm
được » của Hồ Biểu Chánh xuất bản năm 1916 . Ai cũng biết không phải có
mặt trước là có giá trị hơn, hay hơn . Điều muốn nói là "có " nhưng bị
bỏ quên hay bị phủ nhận tự nhiên.
Sự nghiệp văn chương của Hồ Biểu Chánh
thật sự vĩ đại, gồm 64 tiểu thuyết, 12 truyện ngắn và truyện kể, 2
truyện dịch, 12 tập hài kịch và ca kịch, 5 tập thơ, 8 tập ký, 28 tập
khảo cứu phê bình và nhiều bài diễn thuyết. Nhưng trong nhiều sách phê
bình văn học, Hồ Biểu Chánh vẫn còn bị bỏ quên hoặc chê tác phẩm của ông
không có giá trị văn chương . Mãi về sau này, ông mới được không còn bị
bỏ quên nữa .
Về làm cách mạng chống thực dân, yểm trợ
phong trao Đông du và Đông kinh nghĩa thục, Nam kỳ cũng bắt tay trước
và nhiệt tình. Đóng góp nhiều hơn vì dân Nam kỳ lúc đó đã có nhiều người
mần ăn được và cũng giàu lòng hào hiệp do bản chất Nam kỳ.
Nhưng Nam kỳ vẫn chưa có được chỖ đứng khiêm tốn cho mình trên đất nước.
Gần đây, trong việc đánh Tây, đánh Mỹ
dành độc lập dân tộc, Nam kỳ thêm một lần nữa bị cướp công và bức tử.
Thế mà dân Nam kỳ lúc nào cũng bằng lòng với số phận của mình.
Thật dễ thương cho dân Nam kỳ!
Nguyễn văn Trần
BÀ TÙNG LONG
Bà Tùng Long
Nhà Văn Bà Tùng Long
Tác giả: nhiều tác giả
Tác Giả - tác Phẩm
Nhà văn nữ BÀ TÙNG LONG tên thật là Lê Thị Bạch Vân, sinh ngày
1-8-1915 tại Đà Nẵng, quê nội ở thị xã Hội An. Khi cha về Hội An khai
sinh cho con, nhân viên hộ tịch ghi ngày 21-4-1915. Sở dĩ có sự ghi sai
ngày sinh của bà như vậy vì bấy giờ Đà Nẵng (tức Touranne) là thuộc địa
của thực dân Pháp, nên thân phụ của bà không muốn con mình là dân xứ
thuộc địa, mới về Hội An, quê nội, làm giấy khai sinh cho con. Còn ngày
tháng trong khai sinh ghi lộn xộn là vì lý do chính trị: Thân sinh của
bà lúc đầu làm việc trong một công ty tư của ngoại quốc, có tham gia
phong trào Duy Tân do nhà các mạng Phan Thành Tài (cha của Phan Bá Lân
và Phan Thuyết, sau này là giáo sư các trường Trung học tư thục Chấn
Thanh và Đạt Đức) dẫn đầu. Thân phụ bà làm liên lạc viên cho phong trào.
Khi phong trào tan vỡ, ông Phan Thành Tài bị thực dân Pháp bắt đưa lên
đoạn đầu đài, và một số khác bị đày Côn Đảo.
Trước hiểm họa ấy, thân mẫu
bà lánh về Hội An ẩn náu với mẹ chồng. Bấy giờ bà nội của bà cũng đã
già yếu. Vì chữ hiếu, buộc lòng thân phụ bà phải thi vào sở Douanes
(Thương chánh – nay gọi là Hải quan). Đó là lý do cô bé Lê Thị Bạch Vân
khai sinh ở Hội An và ghi lệch ngày chào đời ở Đà Nẵng.
Vừa rồi, ngày 1 tháng 8, các con của bà có tổ chức buổi tiệc họp mặt mừng mẹ tám mươi tuổi, ngày đó đúng là sinh nhật của bà.
Vừa rồi, ngày 1 tháng 8, các con của bà có tổ chức buổi tiệc họp mặt mừng mẹ tám mươi tuổi, ngày đó đúng là sinh nhật của bà.
Thời gian thân phụ và làm việc tại Sở Thương chánh Đà Nẵng, bà theo học hết bậc Tiểu học tại đây, rồi ra Huế học trường Trung học Đồng Khánh.
Năm 1932, thân phụ bà đổi vào Sở Douanes Sài Gòn thì bà học những năm cuối ban Trung học tại Collège Des Jeunes Filles Indigène (Nữ trung học Bản xứ), vì nữ sinh mặc đồng phục áo dài màu tím, cho nên người Sài Gòn quen gọi là trường Áo Tím. (Sau đổi lại là trường Gia Long, mãi cho đến sau ngày miền Nam giải phóng, trường đổi tên Trung học phổ thông Nguyễn Thị Minh Khai cho đến nay).
Bà đã viết cho Trang Phụ Nữ của báo Sài Thành (sau đổi tên là Sàigòn Mới) hồi còn ngồi ghế nhà trường. Ngoài bút danh Bà Tùng Long, bà còn ký Lê Thị Bạch Vân.
Riêng bút danh “Bà Tùng Long” bà đã ký trong mục Gỡ Rối Tơ Lòng cho nhật báo Sàigòn Mới, mục Tâm Tình Cởi Mở cho nhật báo Tiếng Vang, và trên bốn mươi đầu sách đã xuất bản, với mười mấy truyện dài đăng báo chưa in ra sách.
Nhà văn Bà Tùng Long đã đi vào văn đàn Việt Nam với sự ưu ái của độc giả nhiều lứa tuổi thời bấy giờ.
Năm 1935, Bà Tùng Long kết hôn với nhà báo Hồng Tiêu Nguyễn Đức Huy tại Sài Gòn. Nhà báo Hồng Tiêu là người Quảng Ngãi, chủ bút nhật báo Sài Thành bấy giờ, chuyên trách mục Tranh Xã Hội (Film du Jour), đả phá thói hư tật xấu xã hội đương thời, dưới bút danh Như Hoa.
Bấy giờ Bà Tùng Long thuê manchette (bảng hiệu) tờ báo Tân Thời, chuyên về vấn đề phụ nữ, vì lúc ấy báo Phụ Nữ Tân Văn đã đình bản. Khi biết bà chủ trương tờ Tân Thời, một số bạn bè cũ ở trường Gia Long, trường Pétrus Ký (Sài Gòn), trường Pellerin (Huế), đã góp sức cổ động cho báo. Nhờ báo Tân Thời chủ trương đề cập những vấn đề thiết thân của chị em trong giới phê bình dân, báo được nhiều độc giả ủng hộ. Bà lại qui tụ được nhiều bạn học cũ cộng tác. Người ở xa thì gởi bài về, những người ở quanh vùng Sài Gòn, Gia Định thì đến làm việc luôn tại tòa soạn. Những cây viết ấy phần đông tên tuổi còn xa lạ với độc giả, và cũng mới chân ướt chân ráo bước vào làng báo như bà. Nhưng về sau, sau năm 1952 bà ở Quảng Ngãi về lại Sài Gòn, thì bút danh Tùng Long của bà đã được “cầu chứng” trong làng văn làng báo; như Nguyễn Trọng Trí đã nổi danh là nhà thơ Hàn Mặc Tử đang dưỡng bệnh ở Qui Hòa; Nguyễn Đức Nhuận cũng là nhà thơ đã được ghi tên trong quyển Thi Nhân Hiện Đại của Hoài Thanh, Hoài Chân (Nguyễn Đức Nhuận này không phải Bút Trà Nguyễn Đức Nhuận, anh chồng Bà Tùng Long); và một người là Nam Quốc Cang, đã trở thành người hùng, hy sinh trong cuộc biểu tình chống Pháp của phong trào Trần Văn Ơn.
Nhắc đến nhà báo Nam Quốc Cang, bà nhớ kỷ niệm khi Nam Quốc Cang giữ mục Chuyện Hằng Tuần trên tờ tuần báo Tân Thời, nhà báo này viết; “Người Việt Nam chúng tôi chỉ có bốn quyền Tư do, đó là Tự do cờ bạc, Tự do rượu chè, Tự do hút sách và Tự do đĩ điếm”.
Thế là trong một buổi họp báo tại dinh Thống đốc Nam Kỳ (Thống đốc bấy giờ là ông Khrautemer), họ cho đọc bài ấy giữa cuộc họp báo, bấy giờ gồm có các ông Nguyễn Phan Long chủ nhiệm báo Việt Nam, Nguyễn Văn Sâm chủ nhiệm báo Đuốc Nhà Nam, Bút Trà chủ nhiệm báo Sài Thành, và bà Thụy An, vợ của Băng Dương, chủ nhiệm báo Đàn Bà. Vì tác giả Nam Quốc Cang vắng mặt, nên Bà Tùng Long đã lãnh đủ những lời chỉ trích ác liệt, nào là tác giả có tư tưởng đen tối, công kích chính phủ Pháp… Và Viên Thống đốc không quên kèm theo lời đe dọa, làm mọi người đều quay lại mỉm cười nhìn bà – chẳng biết mỉa mai hay thương hại – chắc họ nghĩ là bà mới bước vào làng báo, chưa biết sự lợi hại và nguy hiểm của lưỡi kéo kiểm duyệt!
Sau đó, người chủ cho thuê bảng hiệu báo, thấy báo bán chạy liền tìm cách lấy báo lại, mặc dù chưa hết giao kèo. Bấy giờ (1936) bà đang ốm nghén, và trong giao kèo thuê báo còn lỏng lẻo, lại nữa chủ báo cũng là người bên nhà chồng, nên bà bỏ luôn tờ báo, về nhà cụ thân sinh (đang ở Sài Gòn) để nghỉ ngơi chuẩn bị sinh con. Bà sinh con gái đầu lòng xong, sau đó vẫn đi dạy trường Tôn Thọ Tường và chỉ còn viết cho trang Phụ Nữ của nhật báo Sài Thành. Rồi năm 1949, Sài Gòn bị máy bay phe Đồng Minh thả bom, thân sinh của bà đổi xuống Sở Douanes tỉnh Trà Vinh; ông bà Bút Trà về Tân An tránh bom. Bà cũng bế con theo chồng về quê Quảng Ngãi.
Đúng ra, nguyên quán anh em ông Hồng
Tiêu ở tỉnh Quảng Nam, nhưng cụ nội xưa kia làm quan ở Bình Thuận. Khi
đau nặng, gia nhân đưa về ngang Quảng Ngãi thì mãn phần tại đây. Cụ bà
(là cô của tiến sĩ Phạm Liệu, một trong Ngũ Phụng Tề Phi xứ Quảng) là mẹ
của thân sinh anh em ông Bút Trà – Hồng Tiêu sau này, ở lại nơi chôn
ông cụ để cư tang đái hiếu. Và rồi nơi đây trở thành quê hương thứ hai
của tộc họ Nguyễn Đức…
Khi về Quảng Ngãi, tỉnh lỵ cũng bị bom quân đồng minh, vợ chồng bà lại chạy lên vùng Mỹ Thắng, Nghĩa Kỳ, nơi có thắng cảnh Thạch Bích Tà Dương, mỗi chiều về nắng chiếu vào vách núi tạo nên một vẻ đẹp kỳ ảo, là một trong những thắng tích của tỉnh Quảng Ngãi. Vì ở gần núi nên đêm về gió lùa lạnh thấu xương.
Khi về Quảng Ngãi, tỉnh lỵ cũng bị bom quân đồng minh, vợ chồng bà lại chạy lên vùng Mỹ Thắng, Nghĩa Kỳ, nơi có thắng cảnh Thạch Bích Tà Dương, mỗi chiều về nắng chiếu vào vách núi tạo nên một vẻ đẹp kỳ ảo, là một trong những thắng tích của tỉnh Quảng Ngãi. Vì ở gần núi nên đêm về gió lùa lạnh thấu xương.
Rồi Cách Mạng tháng 8 bùng lên, bà kẹt luôn ở đấy. Bà xin mở trường Tiểu học lấy tên là Tân Dân, dạy những người lớn tuổi thất học, ban ngày làm việc đồng áng, tối về lớp học. Trong số đó có cán bộ hành chánh, đoàn thể đến học thêm ngoài giờ làm việc. Bà giúp một số anh chị em thi vào trường Trung học Bình dân Chợ Chùa tỉnh Quảng Ngãi.
Sau này, có vài người học trò cũ ở trường Tân Dân thuở ấy, đã là cán bộ cao cấp, nhân dịp vào Sài Gòn, đã tìm đến thăm bà. Gặp số học trò cũ, gợi bà nhớ lại những kỷ niệm thời chín năm kháng chiến chống Pháp…
Bấy giờ là thời điểm UBHC tỉnh Quảng Ngãi chủ trương tiêu thổ kháng chiến, lớp học ban ngày còn nhờ ánh sáng mặt trời, đến lớp đêm dạy anh chị em cán bộ, phải đốt đèn dầu mù u, mỗi lần lên lớp là phải có hai người học trò cầm đèn mù u đứng hai bên cho bà giảng bài. Bà không có sách để dạy môn Toán (Arithmétique) và Hình học (Géométrie), nên phải tự soạn chương trình và soạn những bài giảng Việt văn theo trí nhớ để dạy học (sau này gọi là giáo án).
Dạy học trong hoàn cảnh thiếu thốn như vậy được bốn năm (từ 1945 đến 1949), bà cũng đào tạo nhiều người được đưa vào trường Trung học Bình dân (Chợ Chùa – Quảng Ngãi), giúp anh chị em cán bộ trước kia thiếu điều kiện cắp sách đến trường, nay có thể tự học để nâng lên trình độ Trung học. Sau đó, Ty Giáo dục địa phương thấy bà dạy có hiệu quả, mời làm Liên hiệu trưởng coi thêm các trường học quanh vùng Nghĩa Kỳ.
Đến năm 1952, vì tình trạng khó khăn chung trong vùng kháng chiến, gia đình bà thiếu ăn, các con và đói chỉ vì lương tháng dạy học của bà vừa mua đủ hai mươi ngày gạo, cho dù bà lãnh thêu cờ, khăn, bao gối để kiếm thêm cũng không đủ tiền nuôi con. Giới chức địa phương thông cảm hoàn cảnh bà, chấp thuận cho bà dẫn con về vùng tạm chiến. Khi đó con trai út của bà, nay là nhà văn Nguyễn Đông Thức mới tám tháng tuổi. Bấy giờ bà vào Sài Gòn với các con, ông Hồng Tiêu ở lại.
Vào Sài Gòn, Bà Tùng Long vừa dạy học vừa viết báo để nuôi con. Bà nhận dạy Pháp văn cho các trường trung học Tân Thịnh, Đạt Đức, Les Lauriers… đồng thời viết truyện dài từng ngày (feuilleton) cho các nhật báo xuất bản ở Sài Gòn. Sau 1954, bà viết thêm cho các báo Đồng Nai, Tiếng Vang, Tiếng Chuông, và các tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong, Phụ Nữ Diễn Đàn, Phụ Nữ Mới, Phụ Nữ Ngày Mai, Duy Tân, Đông Phương… Và bà chuyên trách mục Gỡ Rối Tơ Lòng trên báo Sàigòn Mới, và mục Tâm Tình Cởi Mở cho báo Tiếng Vang. Đặc biệt hai mục này bà có rất nhiều độc giả, nhất là độc giả trẻ rất ái mộ.
Thời ấy, những truyện dài của bà vừa kết thúc trên báo đã có nhà xuất bản thương lượng mua bản quyền để in sách. Từ năm 1956 đến 1958, bà đã cho xuất bản trên hai mươi đầu sách, rồi từ 1963 đến 1972 bà tiếp tục cho xuất bản trên hai mươi đầu sách nữa. Những đầu sách chúng tôi tra cứu được in kèm dưới đây vẫn còn thiếu. Vì sau 1975 sách báo thất lạc rất nhiều. Mấy năm gần đây bà cũng có cho tái bản mấy cuốn: Đời Con Gái, Hứa Hẹn, Tỉnh Giấc Tình Si, Tìm Về Bến Thương, Mười Hai Bến Nước… nhưng bà không được hài lòng vì nhà xuất bản in giấy xấu quá, thiếu thẩm mỹ.
Bà Tùng Long gác bút từ năm 1972, như bà đã trả lời cuộc phỏng vấn của ký giả Trần Quân báo TIME năm 1961: “Tôi viết văn để nuôi con. Khi nào các con tôi đứa lớn trưởng thành dìu dắt được đàn em nó, bấy giờ tôi sẽ nghỉ viết”.
Cho nên đến khi người con gái lớn của bà đỗ cử nhân Khoa học (hiện đang công tác tại Công ty Dệt Phong Phú) và mấy người con trai của bà cũng đỗ đạt, thành danh trong và ngoài nước, đã là giáo sư, luật sư… là bà toại nguyện.
Và bà cũng “gác bút quy ẩn” từ dạo đó…
Quá trình đi học:
- Học hết bậc tiểu học trường Tiểu học Đà Nẵng.
- Học một năm Trung học Đồng Khánh – Huế.
- Chuyển vào học năm 2è Année (Đệ nhị niên) trường Aùo Tím (Collège Des Jeunnes Filles Indigènes) – Sài Gòn.
Quá trình đi dạy:
- Dạy Pháp văn các trường Trung học Tân Thịnh, Đạt Đức, Les Lauriers ở Sài Gòn (1950 – 1954).
- Làm Hiệu trưởng, Liên hiệu trưởng các trường Tiểu học Bình dân Học hội ở Nghĩa Kỳ – Quảng Ngãi.
Quá trình hoạt động Văn học – Báo chí:
- Chủ bút Tuần báo Tân Thời (1935).
- Phụ trách mục Gỡ Rối Tơ Lòng trên nhật báo Sàigòn Mới.
- Phụ trách mục Tâm Tình Cởi Mở trên nhật báo Tiếng Vang (1962 – 1972).
- Thư ký tòa soạn tuần báo Phụ Nữ Diễn Đàn.
- Đã cộng tác với các tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong, Phụ Nữ Ngày Mai.
- Đã viết tiểu thuyết (feuilleton) cho các báo ở Sài Gòn từ năm 1954 1972.
- Đã có trên sáu mươi đầu sách được xuất bản từ năm 1956 đến 1972.
-Sau 1975 đã tái bản và in mới trên mười cuốn sách.
(Hiện nay tác phẩm của Bà tùng Long đã bị thất lạc trên năm mươi phần trăm).
Ý niệm của nhà văn Bà Tùng Long:
-“Tôi vừa viết tiểu thuyết cho báo, vừa dạy con học, vừa thảo thực đơn cho con gái đi chợ. Viết văn đối với tôi đã trở thành chuyên nghiệp chớ không phải viết theo cảm hứng”.
-“Tôi ngồi đâu cũng viết được và viết bất cứ lúc nào, khi có nhu cầu… Tôi thích viết loại bút Bic mực màu đen, viết trên giấy báo đã in một mặt.”
-“Tôi viết văn để nuôi con. Khi các con tôi những đứa lớn trưởng thành, dìu dắt được các em chúng, bấy giờ tôi sẽ nghỉ viết.”
-“Tôi làm báo chẳng những không bị gia đình rẻ rúng, mà còn được cha tôi khuyến khích và chồng tôi dìu dắt. Tôi tự xét mình, thấy trong hai mươi năm làm báo, tôi chưa hề “nói láo ăn tiền”…”
Trích " Hồi ký Bà Tùng Long" 2002
HOÀNG HẢI THỦY * SAIGON MỚI
"Saigonmới Ngày Xưa">Saigonmới Ngày Xưa
Trước năm 1956 đường tên là đường Colonel Grimaud, tên một sĩ quan
Pháp tham dự trận chiến Pháp xâm lược Nam kỳ hơn 100 năm xưa. Từ năm
1956 đến năm 1975, đường tên là đường Phạm Ngũ Lão.
Ðường Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn, khởi đầu từ Ngã Ba có Rạp Xi-nê Khải
Hoàn, Trụ Sở Hội Dục Anh, nơi gặp nhau của ba đường Nguyễn Trãi, Cống
Quỳnh, Phạm Ngũ Lão. Ðường có chợ Thái Bình, rạp xi-nê Thanh Bình, toà
soạn nguyệt san Văn, nhà in Nguyễn Ðình Vượng, xóm Sáu Lèo, một đoạn
đường một bên là dẫy tường Nhà Ga Hoả Xa Sài Gòn, một bên liền một dẫy
năm, bẩy nhà in, toà soạn nhật báo, tuần báo. Ở đoạn đường này những năm
1970 có nhà in Thư Lâm Ấn Quán của ông con rể ông Ðông Hồ, toà soạn tạp
chí Phổ Thông của ông Nguyễn Vỹ, với Thi Ðoàn Bạch Nga, một thời đặt
trong nhà in Thư Lâm, toà soạn nhà in tuần báo Ðiện Ảnh của ông Mai
Châu, toà soạn nhà in tuần báo Kịch Ảnh, nhật báo Tiếng Vang của ông
Quốc Phong, toà soạn-nhà in Thế Giới của ông Nguyễn Văn Hợi..vv… Trong
những năm từ 1965 đến 1975 đường Phạm Ngũ Lão tập trung nhiều toà
báo-nhà in báo nhất trong lịch sử báo chí Sài Gòn.
Toà soạn – nhà in nhật báo Sàigòn Mới ở số nhà 39 cuối đường Phạm Ngũ
Lão, đoạn đường này nằm lửng lơ con cá vàng giữa ba đường Phạm Ngũ Lão,
Trần Hưng Ðạo và Hàm Nghi. Dẫy nhà một tầng lầu, toà báo Sàigòn Mới gồm
ba căn, ba căn tầng trệt là nhà in, bà căn tầng lầu là toà soạn và nơi
cư ngụ của ông bà Bút Trà. Tuy có vi-la ở đường Nguyễn Huệ, Phú Nhuận,
sau năm 1963 đổi tên là đường Thích Quảng Ðức, ông bà Bút Trà vẫn sống ở
toà báo đường Phạm Ngũ Lão.
Tại sao hôm nay, buổi chiều mùa thu, sống ở xứ người xa Sài Gòn, xa
đường Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn, không phải là một mà hai biển lớn, tôi bỗng
dưng lại thấy hiển hiện bầu trời Sài Gòn chuyển mưa xanh sám buổi chiều
những năm 1960?? Những năm tôi đang thời son trẻ, những năm phong độ
nhất của đời tôi! Năm muơi năm xưa rồi còn gì?
Sáng nay, buổi sáng cuối năm ở Rừng Phong lòng vòng Hoa Thịnh Ðốn, Xứ
Tình Nhân, Kỳ Hoa Ðất Trích, tôi đi môt đường cảm khái nhớ Sài Gòn xưa,
nhớ toà báo cũ, là vì mới đây trong một bài viết của tôi, tôi đăng bức
ảnh chụp trang nhất tờ nhật báo Sàigònmới.
Từ ngày sang Hoa Kỳ, tôi vẫn để nhiều thì giờ tìm trên Internet những
tài liệu về tờ nhật báo Sàigònmới năm xưa. Nhưng tôi thất vọng. Có thể
nằm ở đâu đó trong kho Internet Khổng Lồ Thế Giới có những tài liệu,
hình ảnh về những tờ nhật báo của Sài Gòn trước năm 1975, như những tờ
báo hàng đầu Tự Do, Ngôn Luận, Chính Luận, Tiếng Chuông, Tia Sáng, Trắng
Ðen, Bút Thép, Ðại Dân Tộc. Xong tôi không tìm thấy gì cả. Ngay cả một
tấm ảnh của bà Bút Trà, bà chủ nhiệm nhật báo Sàigònmới, tôi cũng không
tìm thấy trên Intrenet. Rõ hơn: tôi không có ảnh bà Bút Trà.
Ðã vài lần trong những bài viết của tôi, tôi ngỏ lời mong quí vị
người đọc bốn phương vị nào có tài liệu về nhật báo Sàigònmới xin gửi
cho tôi.
Tôi nhận được bản chụp trang nhất nhật báo Sàigonmới – tôi ghi ảnh
này Số 1 – Sau khi đăng ảnh lên, xem kỹ lại tôi thấy có sự vô lý: Tuớng
Nguyễn Viết Thanh tử nạn phi cơ trên mặt trận Cao Miên Ngày 19 Tháng
Năm, 1970, nhật báo Sàigònmới bị chính phủ Nguyễn Khánh đóng cửa Tháng
Tư 1964, làm sao báo Sàigonmới chết năm 1964 đăng được tin một vị Tướng
Quân Ðội VNCH tử nạn năm 1970?
Một người nào đó đã làm giả tấm ảnh Nhật báo Sàigonmới Số 1 đăng cùng
bài này. Vì vô ý tôi đã không thấy ngay sự vô lý của tấm ảnh ấy.
Tôi nêu thắc mắc đó lên. Tháng 11, 2010, bạn T.V. ở thành phố
Milipitas, Cali, gửi cho tôi tấm ảnh nhật báo Sàigònmới Số 2. Cám ơn bạn
T.V.
Và tôi nhận được thư của một bạn đọc:
Phạm Lộc, August 19, 2010
Năm 1982 đi tù Lính về, một hôm tôi
đến đứng trước Nhà In Nguyễn Ðức, số 39 đường Pham Ngũ Lão. Tôi ngậm
ngùi khi thấy nét chữ Nhà In Nguyễn Ðức đã phai mờ nhưng còn đọc được.
Tôi nhìn lên cầu thang dẫn lên tầng trên nơi có tòa soạn báo Sàigonmới.
Tôi nhớ lại chỗ này trước 1975 có Nhà Sách Lê Phan, Hàng Ăn Thanh Bạch.
Bà má tôi là giáo viên dậy ở Trường Bình Dân Học Hội ở số 266 đường Tôn
Ðản của BÀ BÚT TRÀ. Tôi phải viết hoa BÀ BÚT TRÀ vì nhờ mẹ tôi có việc
làm ở trường của bà nên mẹ tôi mới có tiền nuôi tôi ăn học, tôi có bằng
Tú Tài, vô lính lên đến Ðại Uý.
Tôi vẫn cám ơn BÀ BÚT TRÀ và cầu nguyện mong Bà được yên vui trong cõi vĩnh hằng.
Mong được CTHÐ cho đọc thêm về chuyện Nhà Báo Sàigonmới.
Hết thư của bạn Phạm Lộc.
Vì vậy chiều nay tôi viết bài này:
Lúc 11 giờ trưa ngày 11 Tháng 11, năm 1961, hay ngày 1 Tháng 11 năm
1961, khi những ông sĩ quan làm đảo chính Nguyễn chánh Thi, Vương văn
Ðông, Phạm văn Liễu..vv.. đã lên phi cơ bay sang Nam Vang, một tuyên cáo
ủng hộ phe đảo chính được đưa tới toà báo Sàigòn Mới.
Tuyên cáo do một số nhân sĩ ký tên, trong số có các ông Nguyễn Tường
Tam, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Tuyên, Phan Quang Ðán .. Báo Sàigònmới đăng
Tuyên Cáo này hay không? Người quyết định đăng hay không là ông Bút
Trà. Ông nói nhà báo không ủng hộ phe nào cả, có tin là nhà báo đăng. Và
nhật báo Sàigòn Mới đã đăng bản Tuyên Cáo ấy.
Hình như cả làng báo Sài Gòn hôm ấy chỉ có báo Sàigòn Mới đăng Tuyên
Cáo ủng hộ phe Quân Nhân Làm Ðảo Chính. Những người ký tên trong Tuyên
Cáo ủng hộ phe đảo chính, không phải nhật báo Sài Gòn Mới ủng hộ, nhưng
vì đăng bản Tuyên Cáo đó báo Sàigòn Mới “có tội” với chính phủ. Báo
không bị đóng cửa nhưng bị một phen xính vính.
Tổng Thống Ngô Ðình Diệm bị bắn chết, buổi trưa ngày hôm sau Tượng
Ðồng Hai Bà Trưng ở Công Trường Mê Linh bị đám đông kéo xuống, Tượng Hai
Bà bị cưa cổ, đầu Tượng bị cho vào xe xích lô chạy diễu trên đường Tự
Do, cùng lúc ấy toà báo Sàigòn Mới bị một nhóm người kéo đến đập phá.
Một anh nào đó, anh này mới thực là quân sư quạt mo, trong bọn cố vấn
cho đám tướng lãnh làm đảo chính, biết lời chỉ thị của Lenin: “Khi ‘cách mạng’ thành công, nếu nhân dân có vì căm thù mà trả thù bọn cầm quyền cũ hay bọn nhà giàu thì đừng cấm. Cứ để họ làm.” Nhân dân Sài Gòn không căm thù, không trả thù thì bọn đảo chính cho bọn tay sai đi phá phách.
Khi bọn đập phá kéo vào toà báo Sàigònmới, chị hầu của bà Bút Trà đưa
cho bà cái nón lá, bà đội nón theo chị đi ra khỏi toà soạn. Những người
đi phá phách chắc cũng không hãnh diện chi lắm với việc làm của họ, nên
họ chỉ đập phá qua loa rồi rút êm. Chính phủ của Thủ Tướng Nguyễn Ngọc
Thơ không đóng cửa nhật báo Sàigòn Mới. Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ không
đóng cửa một nhật báo nào của Sàigón, chỉ có tờ báo Cách Mạng Quốc Gia
tự đóng cửa.
Bốn tháng sau, khoảng Tháng Ba, Tháng Tư năm 1964, Nguyễn Khánh làm
cuộc binh biến gọi là chỉnh lý. Trong cuộc họp báo thứ nhất của nhóm
chỉnh lý, ủy viên của nhóm là Ðỗ Mậu – hình như lúc đó còn là Ðại tá –
đọc lệnh đóng cửa ba nhật báo Sàigòn Mới, Ngôn Luận, Ðồng Nai vì “tội cấu kết với Ðộc Tài Nhà Ngô.”
Nhật báo Sàigòn Mới, nhật báo Ngôn Luận, hai tờ báo chính của tôi, bị
đóng cửa, thời phong độ của tôi chấm dứt, cuộc đời tôi bắt đầu đi
xuống.
Ơi.. Người đọc những dòng chữ này ở tám phương trời, mười phương đất, tôi mời Người đọc: TRUYỆN NGƯỜI THỢ NỀ VƯƠNG THỪA PHÚC, tác giả Hàn Dũ, theo bản dịch của Nguyễn Hiến Lê:
Nghề thợ nề hèn mọn mà lại khó nhọc. Có
người làm nghề đó mà vẻ mặt lại như tự đắc, nghe lời nói thì giản ước mà
thấu triệt. Hỏi thì đáp họ Vương, tên Thưà Phúc, đời đời làm nghề nông ở
đất Tràng An, hạt Kinh Triệu. Hồi loạn Thiên Bảo, làm lính mộ, cầm cung
tên mười ba năm, có công lao, có thể được thăng quan, nhưng bỏ mà về
nhà; vườn ruộng mất hết, làm nghề thợ nề để nuôi thân, đã trên ba chục
năm. Ở trọ một nhà tại chợ, mà trả tiền nhà, tiền cơm đều phải chăng.
Tuỳ tiền nhà, tiền cơm đắt hay rẻ mà tăng hay hạ tiền công thợ nề, có dư
thì cho những kẻ nghèo đói, phế tật.
Người thợ nề ấy nói:
- Nghề thợ nề dễ làm, tuy khó nhọc mà
không có gì phải thẹn, lòng tôi được yên. Dùng sức thì dễ, dùng tâm thì
khó mà cần có trí. Kẻ dùng sức để người ta sai khiến, kẻ dùng tâm sai
khiến người, cũng là đáng vậy. Tôi chọn làm cái nghề dễ làm mà không xấu
hổ.
Ôi..! Tôi cầm bay vô các nhà phú quí đã
nhiều năm rồi. Có nhà tôi tới một lần, lần sau đi qua thì đã thành đất
hoang, có nhà tôi tới hai, ba lần, lần sau đi qua thấy không còn nữa.
Hỏi người láng giềng, có người nói: “Ôi..! Chủ nhà bị tội, chết rồi!” Có
nơi đáp: “Chết rồi! Con cháu không giữ được gia sản.” Có người nói:
“Chết rồi. Gia sản bị tịch thu!” Tôi lấy đó mà ngẫm thì chẳng phải ăn mà
làm biếng nên bị vạ trời đấy ư? Chẳng phải là gắng dùng trí mà không đủ
sức, không biết xét tài năng có xứng không mà mạo hiểm làm đấy ư? Chẳng
phải là làm nhiều điều đáng xấu hổ, biết là không nên mà cứ làm đấy ư?
Hay là phú quí khó giữ vì công lao thì ít mà hưởng thụ lại quá hậu
chăng? Hay là thịnh suy có thời, hết thịnh đến suy không thể thịnh hoài
được chăng? Nghĩ vậy tôi sợ lắm, cho nên tôi lựa cái nghề vừa sức tôi mà
làm. Thích giầu sang mà ghét nghèo hèn, tôi nào có khác chi người.
Lại nói:
- Kẻ công lao nhiều thì cung phụng cho
mình cũng nhiều; vợ con đều trông vào ta mà sống. Sức tôi yếu mà công
tôi nhỏ, tôi không có vợ con cũng phải. Hạng người lao lực mà có vợ con
thì thêm lao tâm. Một thân mà gánh vác hai việc, bực Thánh cũng không
làm được.
Hàn Dũ tôi thoạt nghe còn nghi hoặc, sau
ngẫm kỹ thì thấy người đó là bực hiền, là hạng mà người ta gọi là “độc
thiện kỳ thân.” Nhưng tôi có chỗ chê người đó là vị mình thì quá nhiều,
vị người thì quá ít. Người đó cho việc có gia đình là lao tâm, không
chịu nhọc tâm để nuôi vợ con thì có khi nào chịu lao tâm vì người không?
Tuy nhiên so với bọn người đời chỉ lo đắc thất, mong thoả mãn dục vọng
một đời, tham tà mà quên đạo đến nỗi táng thân, thì người thợ nề đó còn
hơn xa. Tôi lại nghĩ lời người đó có thể răn tôi được nên tôi chép lại
truyện này.
Ngưng trích Hàn Dũ.
Từ năm 1960 khi tôi – CTHÐ – bắt đầu “ghi nhận được chuyện đời,” tôi
thấy ở nước tôi không có nhà nào giầu sang được hai đời. Hai đời thôi,
không lâu đến ba đời, nước tôi không có chuyện nhà quyền quí truyền đến
năm đời như những nhà công hầu quí tộc thời Ðông Chu bên Tầu. Ở nuớc
tôi như nhà họ Hoàng, ông bố Hoàng Cao Khải, ông con Hoàng Trọng Phu,
hai đời Tổng Ðốc Ðại Thần, nhưng đời Tổng Ðốc Hoàng Trọng Phu không được
trọn vẹn. Chính quyền Nam Triều và Nhà Nước Bảo Hộ Ðại Pháp tiêu tán
thoòng, quay cu lơ, ngủm cù đeo, phe lơ mò năm 1945 khi Tổng Ðốc Hoàng
Trọng Phu còn sống. Năm 1942 ông Tổng Ðốc Hà Ðông Hoàng Trọng Phu về
hưu, nhường chức Tổng Ðốc Hà Ðông cho ông Vi văn Ðịnh, rồi ông Hồ đắc
Ðiềm. Tổng Ðốc Hoàng Trọng Phu qua đời không kèn, không trống ở Ấp Thái
Hà năm 1946.
Sau năm 1945 những nhà giầu nước tôi, giầu thôi, không nói sang,
không lâu được một đời. Như ông bà Bút Trà chủ báo Sàigòn Mới. Tờ nhật
báo Sài Gòn ra đời từ những năm 1925, 1926, sau năm 1945 đổi tên là báo
Sàigòn Mới. Báo sống được nhưng không huy hoàng, không phải là báo bán
chạy, mãi đến năm 1957 nhờ sáng kiến tặng phụ bản bản đồ Việt Nam, bản
đồ thế giới rồi phụ bản mầu đủ thứ chim cò, ngao sò ốc hến của anh con
thứ năm là Năm Thành, báo Sàigòn Mới tăng vọt số báo bán. Anh con thứ
sáu là Sáu Khiết xuất bản Tuần báo Phụ Nữ Ngày Mai. Tiền đổ vào nhà
Sàigòn Mới như nước. Bà Bút Trà xây và làm chủ Rạp Xi-nê Kim Châu đường
Nguyễn Văn Sâm.
Giang sơn Sàigòn Mới chỉ thịnh được có bẩy, tám năm, từ 1957 đến đầu
năm 1964. Rồi tan. Rồi nát. Rồi không còn qua một dấu vết. Sau ngày tờ
báo bị bức tử, ông Bút Trà đi sống với bà vợ nhỏ, bà Bút Trà về sống với
nhà bảo sinh có từ trước của bà ở gần Trường Tiểu Học Bàn Cờ đường Phan
đình Phùng. Tôi nghe nói sau năm 1975, khoảng năm 1985, ông Bút Trà
chết trong nghèo đói.
Ông bà Bút Trà không làm việc gì gian tham, thất đức, ông bà, những
anh con của ông bà, không lười biếng, không phải là hạng người chỉ ăn mà
không làm, không phải là những người làm mà không lượng sức, cũng không
làm những trò gian dâm, không mê cờ bạc, không nghiện hút, không cả
uống rượu, nhưng cuộc giầu có của họ vẫn không được bao năm. Ôi… Phải
chăng như lời ông Thợ Nề Vương Thưà Phúc nói: “Thịnh suy có thời, không thể thịnh mãi!” Tôi chỉ ngậm ngùi vì chuyện ở đời tôi những thời gian Thịnh của những người sống cùng thời với tôi sao ngắn quá!
Những ngày như lá, tháng như mây…! Sài Gòn 1960, Sài Gòn Ðẹp Lắm Sài
Gòn ơi.., Virginia is for American Lovers, Xứ Tình Nhân Mỹ, Kỳ Hoa Ðất
Trích năm 2010.. Chiều cuối năm, 4 giờ trời đã tối… Thấm thoắt dzậy mà
đã 50 muà lá rụng đi qua đời tôi kể từ ngày tôi bước chân ra khỏi tòa
soạn nhật báo Sàigònmới lần cuối cùng trong đời tôi.
Chiều nay, trong 234 sát-na tôi trở về đứng trên hành lang trên lầu
toà soạn nhật báo Sàigònmới, nhìn trời Sài Gòn chiều chuyển mưa xanh sám
trên chợ Bến Thành, tôi nghĩ:
- Trong một chiều trời đất buồn như thế này, Từ Hải dừng bước giang hồ để trở về với Kiều!
Tôi trở lại là tôi năm tôi ba mươi tuổi.
Năm nay tuổi đời qua giới hạn Thất Thập – nôm na là Bẩy Bó Lẻ Mấy Que
– ở xứ người, một xứ cách nước tôi hai biển lớn, trong vài sát-na, tôi
trở lại là tôi năm tuổi đời tôi Ba Bó.
Trong trí nhớ của tôi nay vẫn còn nguyên hình ảnh chàng phóng viên
lãng tử nhật báo Sàigònmới năm xưa – năm 1960 – chàng phóng viên ăn
dziện đúng mode Italie: sơ-mi hai túi ngực, hai cây bút Bi Parker cắm ở
túi áo, một bút mực đen, một bút mực đỏ, đồng hồ tay Internamatic mua ở
Bangkok, quần sanspli, giầy mocassin Trinh’s Shoes Tự Do 500 đồng một
đôi, trong túi áo ngực có bao thuốc điếu Lucky Strike, hay bao Philip
Morris Vàng, quẹt máy Dupont Trắng dắt ở túi đựng bật lửa nơi lưng quần.
Chàng phóng viên mới ba mươi tuổi mà tóc đã “không bạc, tóc chàng là
tóc argenté.”
Tôi già đi nhưng chàng phóng viên ấy cứ ba mươi tuổi mãi.
Cảm khái cách gì!
Filed under: Sài Gòn Vang Bóng
Cháu mới được đọc ,kính gởi Bác HHT đọc chơi cho biết Saigon ngày nay.
http://saigonecho.com/main/phim/cactacgia/33654-li-xa.html