HOÀNG QUÂN TRÍ NÔ * NGƯỜI Ở LẠI BIỂN ĐÔNG
Người Ở Lại Biển Đông
Hoàng Quân Trí Nô
Như một nén hương muộn màng, để tưởng niệm
hương hồn anh Sáu Hoàng, người đã bị bỏ lại một cách tình cờ, tức tưởi
trong vùng biển Phi Luật Tân , chỉ một ngày trước khi cả đoàn ghe đánh
cá người Phi cứu vớt an toàn! Anh đã bị bỏ lại trong khi cố tìm một tia
hy vọng cho đoàn tàu đang bị trôi giạt một cách tuyệt vọng hơn 1 tháng
trên vùng biển kinh hoàng này...
Biển Đông ngày thứ ba mươi tám... Buổi
sáng hôm đó, cả nhóm chúng tôi gồm hơn ba mươi người còn lại, gồm cả
đàn ông đàn bà và cả con nít, đang nằm, ngồi la liệt, đói khát, mệt lả
trong khaong của chiếc ghe cào rách nát, tả tơi. Sau
hơn một tháng trời trôi dạt trên vùng biển mênh mông, vô định, chiếc
máy “ấn độ” đã chết tiệt chỉ sau hơn ba ngày gầm gừ, thi gan cùng bão
gió, bây giờ nằm thù lù giữa lòng ghe như một vật vô tri vô giác, chỉ
dùng làm chỗ dựa lưng cho vài người ngồi nhìn ra biển một cách tuyệt
vọng, hai chiếc máy đuôi tôm loại Khá lớn đã lần lượt bị đẩy xuống biển
sau chỉ hơn một vài lần nổ máy mà không đẩy được chiếc ghe đi được bao
xa, vì sóng biển cứ liên tục lên xuống bập bềnh, khiến không cách nào
giữ cho chiếc chong chóng chìm dưới mặt nước được...
Tất
cả “động cơ” (!) còn lại trên ghe chỉ là một chiếc buồm tự tạo bằng một
tấm vải bạt khá lớn trước đây dùng đậy máy, được cột chằng chịt vào một
cây “tầm vông” dài khoảng năm thước, được dựng lên hạ xuống tùy theo
mức gió. Có ai đó đã có sáng kiến dùng dầu nhớt máy, phết lên mấy chữ
S.O.S lên “ chiếc buồm hộ mệnh”, đã bị nước mưa làm lem luốc, chảy dài,
làm tăng thêm vẻ thê lương của con “tàu định mệnh”. Mặt biển bây giờ
thật yên lặng, không một chút gió nào, chiếc ghe dường như đứng yên,
không nhúc nhích.
Tôi nghe rõ từng tiếng vỗ lạch bạch, thưa thớt của
nước biển vỗ vào thành ghe. Không ai nói một lời nào, tất cả mọi người
dường như còn bàng hoàng, ngạc nhiên vì sự ra đi, hay đúng là sự “ở lại”
thật vô lý, thật bi thảm của anh Sáu Hoàng mới chiều hôm qua. Anh chàng
này là một cựu Sĩ Quan Hải Quân, mới ra tù được vài năm, được người chủ
ghe móc nối đi theo để làm tài công cho chuyến đi, vì biết anh ta trước
đây đã từng nhiều lần lái tàu đi về trên vùng biển này. Cho đến ngày
hôm đó, anh là người tương đối còn khoẻ mạnh, năng động nhất trên tàu,
anh vẫn thường dùng những kinh nghiệm đi biển của mình để tính toán,
đoán mò là theo sức gió thế này, đi theo hướng này thì bây giờ phải đi
qua khỏi vĩ tuyến số mấy, và nếu cứ tiếp tục với tốc độ này, thì bao
nhiêu ngày sẽ đến vùng biển nào, và ta có thể tấp vào vùng đảo nào,
v.v... Mọi người, ai cũng thích nghe anh
nói, đặt cho anh những câu hỏi ngây ngô: bây giờ đi tới đâu rồi?
Còn bao
xa nữa? Chừng nào tới? Mình sẽ di tới đâu?...Mặc dù không mấy ai tin
tưởng lắm, vì chưa có gì thật sự xẩy ra đúng như lới anh tiên đoán! Tôi
còn nhớ rõ như in, buổi chiều hôm đó, anh ngồi tựa lưng bên thành ghe,
chân tựa vào bánh lái đã được buộc hờ vào khoang ghe, anh chỉ cho tôi và
một vài người kế đó xem: Mặt nước biển bây giờ có vẻ đục hơn, không còn
mầu đen đậm như khoảng một tuần trước đây, có nghĩa là mình đã qua khỏi
vùng biển sâu, nước biển như có lẫn cát, và thỉnh thoảng có những mảnh
Rác nổi trên mặt, hy vọng là mình đã tới gần bờ hơn, và nếu như anh
không tính toán sai thì có lẽ đây là vùng biển Philippines. Dù không tin
tưởng lắm, nhưng ai nấy đều có thoáng một chút hy vọng mong manh, biết
đâu lần này anh ta nói đúng...
Và rồi,
kia kìa, có một vật gì trăng trắng nổi lên mặt nước biển, trôi từ từ về
phía bên hông ghe, anh nhoài người ra nhìn và chỉ cho chúng tôi, có lẽ
là một vỏ nhựa của bình sữa, hoặc một loại nước uống nào đó từ đất liền
trôi ra. Và đột nhiên, không nói một lời nào, anh ta nhào xuống biển, để
vớt lấy bình nhựa lên may ra thấy nhãn hiệu mà có thể xác dịnh xuất xứ
của chúng, để biết mình gần đến đâu, tôi chỉ thầm đoán như thế. Nghe
tiếng động, mọi người quay lại nhìn theo. Chiếc bình nhựa cách thành ghe
không xa, khoảng mười thước, anh sải tay bơi về phía đó, với lấy chiếc
bình, lặn hụp vài cái để nhìn rõ hơn, vài người trên ghe nhao nhao hỏi
có thấy gì không? Đến đâu rồi?...\
Anh vẫy
tay, ra dấu hiệu không ai biết gì, rồi ôm chiếc bình, bơi ngược trở lại
ghe. Mặt biển vẫn yên lặng, sóng chỉ gờn gợn nhẹ, sức gió yếu ớt không
căng nổi chiếc buồm. Chiếc ghe vẫn vô tình lướt tới, dường như không
biết đến chuyện gì xẩy ra. Anh Sáu Hoàng một tay ôm chiếc bình nhựa, một
tay sải nước cố bơi theo chiếc ghe, mọi người trên ghe đứng cả dậy,
nhìn về phía anh, không có gì nguy hiểm lắm...Mọi người hớn hở, chờ đợi
tin vui. Một phút...hai phút...rồi năm
phút trôi qua, anh vẫn chưa theo kịp chiếc ghe, vài người trên ghe vớ
lấy thanh gỗ, áo quần nhoài người đưa xuống cho anh với lấy, có người la
lên – Anh ấy đuối sức rồi! Tôi vội vàng nắm lấy cần lái, cố đẩy hết mức
về phía phải mong cho chiếc ghe vòng lại. Hay ít ra cũng giảm tốc
độ...nhưng không hiểu sao bánh lái không hoạt động, tôi cố kéo ngược về
bên trái, chiếc ghe vẫn ù lì tiến tới...Chết rồi.!! Làm sao bây giờ?...
Khoảng cách chiếc ghe và anh Sáu càng lúc càng xa hơn, tôi nhìn thấy tay
anh đập chậm hơn, tay kia đã buông trôi bình nhựa, chân đạp yếu
dần...Không có cách nào khác cho ghe dừng lại, hoặc giảm đi tốc độ, vài
người trên ghe hì hục tháo dây cột buồm, cố sức lấy dây, hoặc cả cột
buồm mong đưa xuống cho anh bám, nhưng đã trễ... Anh
Sáu mỗi lúc một trôi lùi lại phía sau, chiếc ghe vẫn tiến về phía
trước, khoảng cách mỗi lúc một xa dần, mấy người trên ghe cố quăng xuống
cho anh bất cứ thứ gì có thể bám được...cuối cùng anh vớ được một tấm
ván khá to, vẫn dùng để đậy nắp hầm sau ghe, tôi thấy anh cố nhoài người
cưỡi lên tấm ván, nằm sấp người, ôm chặt lấy nó, và rồi anh cùng tấm
ván trôi ngược dần về phía sau. Tôi đứng
chết lặng nhìn theo anh đang cố vẫy vùng, trồi lên hụp xuống, tay vung
vẩy một cách tuyệt vọng, càng lúc càng xa dần, xa dần cho đến khi chỉ
còn là một chấm nhỏ lay động ở chân trời.
Hình như anh đang còn cố vẫy
gọi chúng tôi một cách tuyệt vọng...Trời ơi! Dễ dàng thế sao? Tại sao
anh ta nhẩy xuống vớt cái bình quỉ quái ấy...làm gì? Sao trước khi nhẩy,
không tìm sợi dây, hay vật gì để buộc vào cho chắc? Thôi
đành vĩnh biệt anh...Số phần anh đã vậy!!! Cầu xin Thượng Đế phù hộ cho
anh. Xin biển, trời nâng đỡ thân xác anh, hoặc xin cho phép lạ nào dun
rủi....Tôi không dám nghĩ tiếp nữa, bất giác tôi từ từ đưa tay ngang
trán, chào anh lần cuối, một vài người đưa tay chào theo. Không ai thốt
được một lời nào. Màn đêm dần dần buông
xuống, theo thói quen của những ngày trước, tôi đưa mắt nhìn về phía
chân trời để đoán mò thời tiết đêm nay. Theo kinh nghiệm của anh chàng
vốn là dân chài trước đây, nếu chân trời trong là biển lặng, sóng êm, mà
nếu có nhiều áng mây, đóng như vẩy cá là coi chừng có gió bão...Trời
hôm nay có vẻ trong xanh, cầu xin cho anh không bị sóng gió dập vùi,
cũng cầu xin cho những người còn lại trên tàu thêm một đêm nữa yên lành
trên biển cả!
Tiếng hát cầu kinh của các
anh em công giáo trầm buồn vang lên như thường lệ mỗi đêm, nhưng đêm nay
có vẻ thê thiết hơn, ngậm ngùi hơn “Lạy Mẹ... Là ngôi sao sáng...Soi
lối cho con, lúc vượt biển...thế gian...” Có người đế nghị đọc thêm vài
lời kinh cầu cho anh Sáu Hoàng được bình an! Bóng
tối đã hoàn toàn bao phủ vùng biển mênh mông, chiếc ghe vẫn bồng bềnh
trôi giạt, lầm lủi như một chiếc tàu ma. Không khí thật yên lặng, nhưng
tôi biết rõ là không có người nào chợp mắt trong đêm nay. Ngày thứ ba mươi chín... Trời
đã sáng hẳn, mặt trời lên khá cao, chiếu những tia nắng nóng xuyên vào
trong lòng ghe, làm tôi tỉnh hẳn sau một đêm dài trằn trọc.
Như một phản
ứng tự nhiên như đã có từ những ngày lênh đênh trên biển, tôi nhỏm dậy
nhìn quanh tứ phía, vẫn chưa thấy bến bờ, vẫn là biển cả mênh mông! Thêm
một ngày lênh đênh trôi giạt!!! Nhìn về sau ghe, mặt biển phản chiếu
ánh sáng mặt trời lấp lánh như một tấm thủy tinh khổng lồ loang lổ. Hình
ảnh anh Sáu Hoàng ôm mảnh ván vẫy vùng tuyệt vọng như còn ẩn hiện cuối
chân mây. Anh có thể chịu đựng được bao nhiêu lâu trong hoàn cảnh bi
thảm đó?! Tôi cố ghi ngày tháng, để sau này có dịp cón báo lại cho gia
đình anh cúng giổ, ma chay. Kiếp người sao quá mong manh! Biên giới của
cái sống cái chết chỉ là một lằn ranh thật nhỏ, một cái bình nhựa, một ý
nghĩ vội vàng, một cái sẩy tay trong gang tấc....cũng có thể đổi lấy
một mạng người...
Còn đang miên man với
những ý nghĩ mơ hồ, lẫn lộn, thì đầu phía khoang có tiếng la lớn...Có
tầu đến!!! có tầu đến!!! Tôi bật ngồi dậy, nhìn quanh thấy một vệt dài,
xám đen, chưa rõ hình thù đang ẩn hiện ở phía trái của chiếc ghe. Không
ai bảo ai, mọi người đều đứng lên, vớ lấy những gì có thể thấy được,
quần áo, khăn giẻ, nón mũ....đưa lên cao, vẫy qua vẫy lại. Một
vài thanh niên còn có sức, đưa tay lên miệng làm lao la lớn
“Help!Help!”...Những động tác này, chúng tôi đã từng lập đi lập lại
nhiều lần trong những ngày lênh đênh trên biển cả, mỗi khi thấy có bóng
dáng một chiếc tầu xuất hiện từ xa, và cũng đã bao nhiêu lần chúng tôi
thất vọng não nề nhìn theo những chiếc thương thuyền đi qua một cách
lãnh đạm, không hề quay lại, hoặc có một dấu hiệu nào cứu vớt. Thậm chí
còn có những chiếc tầu đã vội vã quay mũi chuyển hướng khi nhìn thấy
chúng tôi vẫy gọi. Tôi đã từng nghe nói đến từ ngữ “Tình thương mệt
mỏi...ngân sách không còn...trại tỵ nạn sắp đóng cửa...” Trong những
ngày còn ở quê nhà. Nhưng tôi không ngờ họ có thể vô tình đến như vậy!
Đành lòng đến như vậy!!! Chiếc tàu lạ dần
dần hiện rõ.
Ồ, cũng không to lắm, có lẽ cũng xấp xỉ ghe chúng tôi
thôi, hình thù trông có vẻ khác lạ, có nhiều màu xanh đỏ, lại có cái gì
giống như hai cái “giàn cào” (?) dang rộng hai bên, trông vững chắc. Có
lẽ là ghe đánh cá của dân địa phương chăng? Thì ra anh Sáu Hoàng đã tiên
đoán rất đúng, đây quả là vùng biển Phi Luật Tân rồi! Hình như họ đã
nghe thấy chúng tôi và đang tiến thẳng tới. Mọi
người vẫy tay hăng hơn, mấy thanh niên la lớn hơn. Tôi nhận ra được có
mấy người trên chiếc ghe lạ, mặc quần áo kín mít. Đầu trùm thứ mũ vải
che kín cả mặt, chỉ chừa hai lỗ mắt. Một người có vẻ vạm vỡ, đứng lom
khom trước mũi ghe, tay cầm cuộn dây thừng cuốn vòng lại, nhìn chúng
tôi, quan sát. Mấy người trên ghe chúng tôi càng la to hơn “Help!”
“Help!”... Chiếc ghe lạ tiến thẳng đến,
quay mũi lại, cặp sát vào, người đứng trước mũi ghe lẹ làng truyền qua
giàn cào, nhảy gọn lên ghe chúng tôi. Ông ta dùng sợi dây thừng cột vào
chiếc cọc trước mũi ghe, rồi từ từ nhìn mọi người, nói ư a những tiếng
gì không ai hiểu. Có lẽ ông ta đang đếm xem có bao nhiêu người.
Chúng
tôi thi nhau nói với ông ta bằng một thứ tiếng Anh cố dặn ra từng chữ “
Việtnamese refugee...boat people...no food...no
water...help...please!!!” Có mấy người đàn bà chắp tay xá xá tỏ vẻ cầu
khẩn...Ông ta vẫn nói ư a những tiếng gì khó hiểu, lần đi vào trong lòng
ghe, nhìn vào chiếc máy chết tiệt rồi quay trở ra. Ông dùng tay ra hiệu
cho mấy người ở bên kia ghe, họ liền nhanh chóng bê ra một tấm ván dài,
chuyền tay bắc qua thành ghe chúng tôi, và ra hiệu cho chúng tôi bước
qua. Mọi người reo hò, vui mừng khôn xiết, luôn miệng nói những tiếng
“thanh you, thank you...” Tạ ơn Thượng Đế
đã cứu mạng chúng con, đã cho chúng con đến được bến bờ! Thôi, hết rồi,
những ngày lênh đênh, trôi giạt. Hết rồi, những cơn sóng gió hãi hùng!
Qua rồi những ngày đói khát triền miên! Cảm
ơn tấm lòng vàng của những người dân chài đơn sơ chơn chất! Cám ơn một
dân tộc tuy không giàu của cải, nhưng tràn đầy lòng nhân ái, đã dang tay
đón nhận chúng tôi trong lúc mọi người chỉ muốn đóng cửa, phủi tay,
vì..."tình thương đã mỏi mệt...!!!”
Kể từ
buổi sáng nhiệm mầu đó, họ đã cưu mang chúng tôi như những người anh em
ruột thịt, họ đã chia sớt cho chúng tôi từng mẩu bánh, chén cơm, từng
manh quần, tấm áo, đến cả những viên thuốc hồi sinh. Họ đã giúp đỡ chúng
tôi những điều kiện ban đầu trên bước đường tị nạn, trước cả những trợ
giúp chậm chạp, đầy nguyên tắc, giấy tờ của Cao Ủy Tỵ Nạn! Dân tộc này,
đất nước này đã đem lại cho chúng tôi những niềm tin yêu mới, những hình
ảnh tốt đẹp nhất của một “ NGƯỠNG CỬA TỰ DO” Anh
Sáu Hoàng ơi, chỉ môt ngày nữa thôi, sao anh không nán lại để cùng
chúng tôi hưởng nhờ những kết quả mầu nhiệm của một chuyến đi liều chết
để tìm lẽ sống! Chính anh đã lèo lái con thuyền trong giông bão, đã cùng
chúng tôi chia xẻ những nhọc nhằn, đói khát, mòn mỏi, tuyệt
vọng...Trong những ngày lênh đênh trôi dạt trên vùng biển cả mênh mông.
Anh đã đưa con thuyền đi đúng hướng.
Anh đã đoán đúng khi con thuyền sắp
đến bến bình yên, anh đã đoán đúng mà! Xin anh tha thứ cho những lời
trêu chọc, bông đùa vì quá mòn mỏi, tuyệt vọng...Đâu có cần anh phải
liều mình chứng minh cho những suy đoán của mình. Chúng tôi thật sự tin
tưởng ở sự lèo lái của anh mà!!! Hay là
trong những lúc tận cùng khổ ải, anh linh của anh đã sáng suốt, thấy
trước những nhục nhằn của cuộc đời tị nạn, những nghiệt ngã của cuộc
sống tha hương lưu đầy mà đã sớm ra đi về miền miên viễn...!!!??? Dù sao
đi chăng nữa, chúng tôi – những người còn lại – thật sự mang ơn anh.
Chúng tôi thật sự tiếc thương anh. Và mỗi lần có dịp gợi lại những kỷ
niệm đau buồn đó, là hình ảnh anh ôm chặt tấm ván thuyền, tay vùng lên
vẫy gọi, trôi tuột vào vùng giông bão mênh mông, lại trở về trong tâm
tưởng chúng tôi. Xin thắp một nén hương,
để tưởng nhớ và ghi ơn anh Sáu Hoàng, người đã liều mình trong nỗi chết,
để chứng minh cho niềm tin của mình, đã hy sinh chỉ một ngày trước khi
con thuyền được tới bến bình yên. Với lòng tin tưởng mãnh liệt đó, anh đã chọn làm...
NGƯỜI Ở LẠI BIỂN ĐÔNG! Cali mùa thu 2002 ::: Hoàng Quân Trí Nô :::
KHUYẾT DANH * CHUYỆN TÙ
Chuyện đi "cải tạo" - Sư đoàn Tiền Giang
|
Bắt đầu từ 1982, các tù cải tạo đã gửi ra Bắc lần lượt được chuyển về Nam, về Hàm Tân và Xuân Lộc. Và từ đó, có nhiều đợt tha về với gia đình, chịu sự quản chế (probation) cực kỳ nghiêm khắc. Ngoài một phần ba còn bị giam tại trại Nam Hà, các trại khác ngoài Bắc cũng thay phiên nhau đóng cửa. Cho đến năm 1987 thì còn ở ba trại Nam Hà, Hàm Tân và Xuân Lộc khoảng trên 600 tù cải tạo thuộc loại "chính quyền và quân đội VNCHỮ. Số tù khác thuộc nhiều dạng khó phân biệt từ đâu, nên ai cũng phải cảnh giác, không nên vội cho là phe ta mà bị hố.
http://www.hungviet.org/ncct/ncct13.html
|
Bắt đầu từ 1982, các tù cải tạo đã gửi ra Bắc lần lượt được chuyển về Nam, về Hàm Tân và Xuân Lộc. Và từ đó, có nhiều đợt tha về với gia đình, chịu sự quản chế (probation) cực kỳ nghiêm khắc. Ngoài một phần ba còn bị giam tại trại Nam Hà, các trại khác ngoài Bắc cũng thay phiên nhau đóng cửa. Cho đến năm 1987 thì còn ở ba trại Nam Hà, Hàm Tân và Xuân Lộc khoảng trên 600 tù cải tạo thuộc loại "chính quyền và quân đội VNCHỮ. Số tù khác thuộc nhiều dạng khó phân biệt từ đâu, nên ai cũng phải cảnh giác, không nên vội cho là phe ta mà bị hố.
Trước khi rời trại A Xuân Lộc để sang trại B, Võ Quế
và tôi đã từng lân la tìm hiểu các tù mới đến. Có
một chú em thấy tên Võ Quế trên áo tù, chú bèn hỏi Võ
Quế có đứa con nào tên...không, vì hắn đã c'ung vào tù
ở Vũng Tàu, nay thì không biết chuyển con của Võ Quế đi
đâu. Đấy là tù bị bắt trong các chuyến vượt biển.
Còn có một số người lớn tuổi hơn, không nói chuyện
với ai, chỉ nằm yên trong gốc phòng giam. Hỏi chú nhỏ khi
nãy xem có biết họ là ai, thì chú bảo không rõ, nhưng sau
này được nghe cán bộ trại gọi họ là "đồng chí". Có
thể là nhem nhúa gì đây. À mà có đi chui thì có bán
bãi, đi chui bị bắt thì bán bãi cũng vào tù Chuyện nhỏ!
Điều đáng ghi nhận là, có đợt về thì có đợt vô,
giữ sự quân bình của trại giam. Sau các đợt tha thì có
vấn đề biên chế lại các đội, và chuyển trại để duy
trì nhân số tù từng trại cho thích hợp. Vì thế tôi sang
trại Xuân Lộc B, ở chung với các anh như Phan Văn Mạnh là
người đã từng tổ chức kỷ niệm ngày thành lập Không
Quân trong t'ụ Và tôi cũng được mời tham dự. Hân hạnh!
Rồi cũng có nhiều đợt tha về từ trại Z30B Xuân Lộc
này, nên tôi lại được chuyển ra trại C gần cổng trại.
Ra đây là một niềm vui cho tôi, vì tôi được gặp lại
nhiều người quen từ thời còn học trung học với nhau.
Trại C này nổi tiếng là đã tổ chức trốn trại tập
thể một lần, cướp vũ khí của cai tù, và có FULRO dẫn
đường nên cả đám vào được trong rừng. Tuy vậy, có
nhiều anh trốn đã 5 năm, sau bị bắt lại. Ở trại C này,
tôi cũng được làm quen với một số anh em "phục quốc",
tuy chưa hoạt động được nhiều, nhưng hào khí còn "khá”
lắm, có đường lối chủ trương hẳn hoi, hành động có
lớp lang, có vẻ được trí thức lãnh đạo. Nghe thấy
cũng mừng cho thế hệ đàn em có vẻ khá hơn, nhưng chưa
chi lại đi vào tù rồi thì còn gì để chơi. Còn một số
đầu trâu mặt ngựa khác mà từ trước trong suốt quá
trình cải tạo không khi nào gặp, đó là ở chung với tù
hình sự, mà lại là tù hình sự do VNCH giam tại Côn Sơn,
nay chuyển về đây để ở chung với chúng tôi. Có tên
là kẻ sát nhân trong quân ngủ trước kia, chỉ vì đánh bài
lận rồi đánh chết đồng đội, hay những tội ác
động trời. Thật là đáng sợ khi phải ở chung với họ.
Lúc nào họ cũng có vũ khí giết người mà họ gọi là
để phòng thân. Có anh nằm một gốc sạp phải bằng ba
lần chiếu người khác, chỉ vì không ai giám nằm gần
anh. Anh nằm trên sạp trên, nếu ai bất thần thò đầu
lên mà anh chưa được báo trước thì sẽ thấy dao kè cổ
khi vừa lú đầu lên. Cái phản xạ tự nhiên sau nhiều năm
phải sống trong cảnh mạnh thì sống, yếu thì chết trong
tù đã rèn luyện con người họ như thế đấy. Sống chung
với họ đã khiếp rồi, nếu phải dẩn họ đi lao động,
cắt công việc cho họ làm, đó là điều không có đội
trưởng nào muốn cả. Vì vậy, có một ngày, không hẹn
nhau, tù chính trị như chúng tôi đây cho chúng một bài
học, đánh cho nhừ tử, đánh cho gần chết mà không giám
kêu ca gì nữa. Cán bộ trại điều tra cũng không khai là
ai đánh họ.
Không Quân vẫn giữ truyền thống tốt, giúp đỡ, đoàn
kết lẫn nhau, có thể nói là tình quân chủng nổi bật
làm các quân binh chủng khác phải ganh tị. Khi "Tâm Giò" bị
sạn thận, thì KQ cũng khuyên góp tiền và xin thầy chữa
bằng thuốc Nam cho anh, khi tất cả thuốc Tây đều không
mua được. Đó là trong trại Z30A . Còn ra Z30C thì có một
anh bị suy nhược, tuy bề ngoài còn đi đứng được,
nhưng không biết ngày nào anh đứt hơi, nên chúng tôi
cũng khuyên góp tiền để anh tẩm bổ. Bình thường thì
các ngày lễ KQ, chúng tôi đều ngồi chung với nhau, ăn
hủ tiếu, bún bò, ...do đại đầu bếp Võ Ý đứng thầu,
nhưng khi thăm nuôi, ai có vui thì cũng mời nhau dự một
tiệc trà chung. Năm ấy, 1987, vào ngày lễ Không Quân,
chúng tôi lấy làm ngạc nhiên có một tù mới, mới vì
mặt còn trẻ so với chúng tôi, mới vì không phải là sĩ
quan mà cũng vào tù, mới là vào tù khi chúng tôi chuẩn
bị về..."Sao? Tự khai đi chứ, không lẽ đợi các ông tra
khảo mới nói à!" Thế là anh kể.
"Em là Trung sĩ, đệ tử của ông Thôn tại BTLKQ. Sau tháng
4-1975, em về Mỹ Tho làm ăn với gia đình. Thật là khó
sống với bọn chúng. Cái gì cũng chèn ép, hăm dọa, khám
xét tối ngày. Không làm gì mà moi riết rồi cũng có chỗ
chúng kết tội mình. Vì vậy, một ngày nọ, có anh cựu
Trung Úy Hải Quân vừa ra tù chẳng bao lâu, anh rủ ren tôi
gia nhập lực lượng phục quốc tại vùng này, tên gọi Sư
Đoàn Tiền Giang. Tôi vào liền, chẳng cần suy nghĩ gì
nữa. Vào tổ chức này thì chưa hoạt động gì cả, vì
bảo quân số còn thiếu, trang bị còn kém, nên cứ nằm im
mà chờ lệnh. Có hôm anh phát cho tôi một bản đồ tỉnh
Tiền Giang, loại bản đồ quân sự trước đây đã được
quân đội VNCH sử dụng và bảo tôi quản lý cho tốt.
Chừng một tháng sau, anh giao cho tôi một súng Colt-.45, và
cũng chỉ tôi tháo ráp, vô dầu mỡ, và bảo quản cho tốt,
nhất là chỉ có một gắp 7 viên đạn mà thôi. Ba tháng
sau, anh đến cho tôi biết sẽ có một cuộc họp ra mắt Sư
Đoàn Tiền Giang với Thượng Cấp, nên hẹn nhau đúng ngày
gặp nhau ở một địa điểm gần Trung Lương, vào lúc 8
giờ tối. Khi mọi người tề tựu đông đủ để chào
đón Thượng Cấp thì Công An áp vào bắt trọn ổ, với
đầy đủ tang vật. Vì thế nên vào tù với các ông,
ngoài tôi, trong trại A có thêm một Trung Úy Quân Cảnh
Không Quân."
Đó là công tác làm sạch xã hội của bọn CS. Làm bất cứ
điều gì, bảo đảm đạt kết quả là tốt. Rất nhiều
thanh niên hết sức bất mãn dưới gông cùm của chế độ
hà khắc, hay chụp mũ người ta, quét nhà ra rác, làm mọi
cách để kết tội và nhốt; và chủ trương "thà nhốt
lầm hơn tha lầm". Tổ chức Sư Đoàn Tiền Giang là để
dụ dỗ ai còn máu nóng, muốn đứng lên trả thù, thì CS
giúp một tay để đưa vào tù cho gọn.
Khi tôi về Tiền Giang để cư ngụ sau khi được tha, khi
đó, không còn chế độ quản chế, vì lệnh của Bộ Nội
Vụ, không biết vì lý do gì. Tôi ở trong ruộng cùng với
gia đình. Ba tháng hai lần, hai người thuộc Cục Phản Gián
đến thăm tôi. Họ thường hỏi tôi, tại sao không ở
Saigon, mà bán nhà trên đó để về Tiền Giang(trước
đây là Định Tường, hay Mỹ Tho) mà ở. Tôi bảo họ là
"vì vợ con không biết làm gì để sống ở Saigon".
Họ
lại hỏi "về Mỹ Tho sao không ở nhà cha mẹ ở thị xã, tại
sao về ruộng mà ở?". Tôi bảo là "nhà mẹ tôi ngoài thị
xã đã bị tịch thu làm nhà thương rồi, mà vợ con tôi ở
Mỹ Tho đâu biết buôn bán gì?" Thế rồi, cứ kỳ này gặt
lúa, chú "phản gián" hẹn tôi, lúa trổ đồng đồng sẽ
lên thăm. Có một hôm, có một anh tuổi trạc chúng tôi,
đến gạ gẫm với tôi. Anh bảo anh là lính Tây thời
trước, sau thì chuyển vào quân đội VNCH, bây giờ sống
ở đây, nhưng chẳng khi nào giám nói chuyện với ai cả.
Nay có ông về đây ở, có gì cứ chỉ bảo, đàn em sẵn
sàng nghe lệnh. Tôi cười bảo: "Anh làm cho ai thì tôi không
cần biết, nhưng lo cái mạng của anh đi, còn phần tôi,
chỉ biết làm ruộng làm rẫy mà nuôi thân thôi." Nghĩa là
họ cũng dùng lại "mứng" củ. Có lần chú "phản gián" lên
thăm nhắc lại thắc mắc củ của chú, "tại sao tôi vào
ruộng ở?" Tôi bèn phân tách cho chú ấy hiểu:
"Hết rồi, tan hàng rồi, còn gì nữa mà chơi? Chỉ có các
chú trẻ, còn nhiều máu nóng, không biết trời cao đất
rộng thì mới điên khùng "nổi dậy", "phục quốc"... Chứ
tôi thì không. Chỉ có làm ăn chất phác mà thôi. Tại sao?
Vì có ai mà giỏi như Hồ Chí Minh, mà có tài như ông ta
thì cũng phải tốn đến "30 năm mới có ngày nay", thì
nếu được một nhà lãnh đạo tài tình như ông ấy thì
cũng mất 30 năm nhân dân gánh chịu đau khổ nữa mới mong
đạt được cái gì. Và chừng đó, chắc gì cái mà muốn
xây dựng lên lại chẳng là một cái chẳng ra gì khác.
Thôi, mệt lắm, nghĩ không thôi cũng thấy chán rồi,
huống chi là bảo tôi làm". Chú "phản gián" chăm chú nghe,
tôi hy vọng chú hiểu, và sau này, chú không hề hỏi tôi
tại sao về ruộng ở. Tôi biết là họ rất lo. Vì thế,
thỉnh thoảng sai bọn du kích xã đến nhà tôi kiểm tra hộ
khẩu vào giữa đêm. Trước ba người, sau hai người, lên
cò súng nghe sướng tai hay lạnh xương sống? Nhà chỉ có
một ông già và hai bà già. May là họ chỉ muốn kiểm tra
chứ không cố tình bắt nhốt, vì chừng đó, họ chỉ cần
vu khống chụp cho cái mũ gì đó là xong chuyện.
Có hôm,
tôi ăn giỗ nhà hàng xóm, gặp một Thượng sĩ Không Quân
trước làm cho Ngy Cao Nguyên. Hắn ê càng đến độ biết
tôi mà không giám nhìn, vì hắn đã bị bắt theo Sư Đoàn
Tiền Giang và ở tù 5 năm. Nhưng đến ngày nay,chắc hắn
cũng an ủi phần nào, vì Mỹ đồng ý cho định cư tại Mỹ
những người đã trải qua trên 3 năm tù dưới chế độ
CS ở VN.
Mánh gạt người của CS dùng đi dùng lại nhiều lần, trong
nước như ngoài nước. Cái chính ở ngoài nước là đô
la, làm sao gạt để lấy đô lạ Cái thứ là để ly gián
những ai mà CS cho rằng có tài lãnh đạo, phải làm cho họ
thân bại danh liệt. Nói cách khác là diệt trong trứng
nước những mầm móng gây hiểm họa cho chế độ của
chúng. Thật là khó mà nhận ra thế nào là bị gạt. Chẳng
hạn khi ta bị một người nào đó cho ta nhiều hứa hẹn
để làm giàu mà ta nghĩ đi nghĩ lại chẳng cách nào có
thể làm giàu như vậy được, thì cứ tin rằng đó là
gạt gẩm còn hơn là bước tới một bước thử thời
vận.
Trên xứ Mỹ này, nếu ta có thể gạt được một
ngày 10 người, mỗi người chỉ $20, thì ta đã được
$200. Do đó, khi người ta bảo vào phong bì mà được trả
$1 cho 10 phong bì đi nữa cũng là điều không thể có
rồi. Đó là chuyện gần, có thể xảy ra ngay trước mắt
tạ Còn chuyện lớn hơn, tức nhiên cần đến nhiều tiền
hơn, cần đánh thức lương tâm ta hơn, phải chọn những
dịp tốt, những người có lương cao, và người ta chỉ
cần "khích tướng", hay "hứa hẹn" trên trời dưới đất,
nếu có ai tin thì sẽ bị mắc lừa. Cứ tự hỏi mình, "họ
làm như vậy sẽ có lợi cho ai?" chừng đó, bạn sẽ không
còn bị gạt nữa. Những người gạt bạn có thể là bạn
rất thân của bạn, chỉ vì họ cũng đã bị gạt rồi.
oOohttp://www.hungviet.org/ncct/ncct13.html
Sunday, February 2, 2014
TRẦN CÔNG * XUÂN SẮP VỀ
Trần Công
Khi ấy xuân sắp về(truyện ngắn)
Những ngày tàn thu. Đường Lý
Thường Kiệt dài, heo hút. Rặng cây đã đổi màu, lá úa rơi rơi trước từng
cơn gió nhẹ. Sương mù nặng trĩu trên những tấm áo bông đang cúi đầu bước
run rẩy.Minh hoạ của N.Ở một góc đường, Linh đang vẽ. Người anh dong
dỏng cao, mặt gầy, mắt sáng, tuy đượm vẻ buồn xa xăm nhưng vẫn có tí
tinh nghịch. Da hơi xám vì lạnh và cũng vì sốt nhiều trong những năm
kháng chiến. Chiếc áo khoác bằng vải bạt mua chợ giời đã bạc màu, lấm
tấm bẩn những vết mực vẽ.
Bên lề đường, Lân, người học vẽ, ngồi co rúm
vì lạnh, mải ngắm những cô nữ sinh. Lân còn trẻ lắm, mắt nhỏ, ngây thơ
như mắt trẻ con, tóc hơi quăn, một mảng nhỏ rớt trên trán.Xung quanh
Linh, dừng lại một số người hiếu kỳ. Đây là một ông công chức vẫn hay
đến sở muộn giờ. Người đeo kính trẻ tuổi kia là một ông giáo ở trường
bên cạnh. Cả một anh công an. Anh hơi nhíu mày, phóng xe lại định hỏi,
nhưng lại thấy một hoạ sĩ đang vẽ nên lại thôi và cũng tò mò đứng xem.Xa
Việt Bắc hơn một năm nay, anh nhớ những đồi sim dại, tím ngát trong
chiều hoàng hôn, những đồi sim đã vỗ về Linh sống trong những ngày gian
khổ. Linh nhớ những ngưòi con gái đẹp nghèo trong xóm, chiều chiều lên
đồi sim tìm củi rồi hát véo von.
Từ khi về Hà Nội, đề tài của anh tản
mạn, nhiều vướng mắc. Anh vẽ nhiều nhưng kết quả ít được như ý muốn. Rồi
mùa thu về. Ngồi đếm lá vàng rụng, anh sực nhớ ra mình đã hai mươi tám.
Mải mê với nghệ thuật, đâu sẽ là mảnh nắng ấm lòng để sưởi khi trời trở
lạnh. Anh thèm khát nhìn theo những tà áo. Có một chiều nắng vàng, gió
nhẹ lất phất những tà áo tím quất vào hồn anh lùi về dĩ vãng: màu tím
hoa sim dại trên núi đồi Việt Bắc, bóng người con gái nghèo nhặt củi mỗi
buổi hoàng hôn xuống.
Linh tần ngần bảo Lân:"Lân ơi, tôi sẽ vẽ một người
thôn nữ trong những bông sim tím."Lân hồn nhiên:"Đúng đấy anh Linh ạ.
Anh vẽ người đẹp đi, Lân thích lắm."Thế rồi, có một sáng sớm, trời lành
lạnh, Linh và Lân xách giá ra góc đường ngồi vẽ. Linh muốn ngồi ngay góc
ngã tư này để tìm gợi cảm hứng ở những màu áo tím của các cô nữ sinh.Đã
một tuần rồi, vẽ rồi lại xoá, màu tô lại đổi. Linh ôm trong hồn hình
bóng một cô thôn nữ mộc mạc mà vẽ mãi không giống lắm: “Đẹp đấy nhưng
trông vẫn giống nữ sinh Hà Nội anh Linh ạ!”. Linh nghĩ: “Ồ! Mới có hơn
một năm mà cuộc sống thành thị đã ám ảnh mình nặng thế ư?”.
Anh nhẫn nại
cố chữa, cố tưởng tượng trong ký ức những nét giản đơn, cái đẹp tự
nhiên thanh thoát của người thiếu nữ đồi sim. Có một vài nữ sinh đi
ngang, ngừng xe đạp tấm tắc khen đẹp làm Linh ngường ngượng. Linh hơi
buồn về ký ức kém cỏi của mình.Nhưng, có một sáng, khi kẻng vào lớp đã
kéo hết học sinh đi, khi chỉ còn sót một vài “công chúng” tí hon học
buổi chiều ôm bóng đi đá thì bỗng Linh ngừng bút ngửng đầu. Anh thần
người đứng nhìn: Từ trước mặt đi lại một cô hàng hoa. Cô mặc áo dài nâu,
yếm trắng, chít khăn mỏ quạ, đi chân không, người cô dong dỏng cao,
khuôn mặt trái xoan, mắt to mà đen, hai gánh đầy hoa: lay-ơn hồng, tím,
cúc trắng, vàng, hồng nhung. Giữa những màu rực rỡ xen vài lá xanh ướt
đọng ít giọt sương mai.Tưởng có cơ bán được, cô gái hàng hoa ngừng bước,
nhè nhẹ đặt gánh xuống. Người hoạ sĩ đứng nhìn, đánh rơi cả bút, vui
sướng thốt lên:"Đây rồi!"Đám trẻ nhìn theo cười ròn rã rồi hò nhau đi đá
bóng. Thôi phải rồi! Đây mới thực là người cần cho tranh của Linh.
Thoạt mới nhìn, anh có cảm giác là lạ. Thấy như một đêm trăng nào đó,
rờn rợn như trong Liêu trai, bóng người đẹp hiện về trong thư phòng
người hàn sĩ. Linh thấy như đã tìm ra thìa khoá của nghệ thuật, linh hồn
của bức tranh. Bây giờ chỉ còn cách lồng nó vào giữa đám hoa vẽ xong từ
bao giờ nhưng còn thiếu hồn hoa. Thì nay hồn hoa đây rồi…Linh bước lại
gần người bán hoa. Anh cầm lấy một vài chùm hoa, lơ đễnh hỏi giá và chăm
chú nhìn người chủ của chúng. Anh giơ lên một bó lay-ơn tím rồi tưởng
tượng một cái khung vô hình mà cạnh bó hoa là khuôn mặt cô gái.
Thấy vừa
ý, anh tấm tắc: “Đẹp quá!”.Cô hàng hoa nhanh nhảu: "Ông mua đi, loại ấy
hiếm lắm. Tôi chỉ có một ít thôi!"Linh vội vàng giả tiền.Và cô gái bán
hoa cũng đứng dậy, thoăn thoắt rảo bước.Linh thấy như hụt mất trong tay
một vật quý, định gọi với lại nhưng lại thôi. Anh đứng nhìn theo cho đến
khi Lân đến vỗ vai anh, anh chợt tỉnh quay lại giá vẽ, phóng bút vẽ nên
một đôi mắt rất đen....Và cứ thế, trong sương mù của những buổi sáng
cuối thu, khi ánh mặt trời dậy muộn vội vã từng tia, xen qua sương mai
phơn phớt vạch trên cây lá, khi sương lách tách nhẹ rớt trên lưng người
hoạ sĩ đang say mê vẽ, thì cô gái hàng hoa cũng nhanh nhẹn quẩy gánh đi
ngang. Người hoạ sĩ lại tươi cười dừng bút mua một chùm hoa tím, nói vài
câu chuyện. Chủ hàng ý chừng đã quen tính vui vẻ hồn nhiên của ông
khách lạ nên cũng thành thói quen.
Mỗi buổi sáng đi ngang đều có dừng
lại. Nhưng có một lần, thấy hoạ sĩ lúng túng móc túi mãi không đủ 300,
cô ái ngại. Và nhìn lại quần áo lôi thôi cũ kỹ thì chợt hiểu nỗi nghèo
của người hoạ sĩ. Thầm kín, cô hàng hoa mở bó hoa chọn một nhành hoa tím
tươi nhất đưa cho Linh:"Nhà tôi còn nhiều, ông cầm lấy mà vẽ."Nói rồi
quẩy hàng đi.Ở đời xét cho cùng thì nghệ thuật là cái dễ thấm hồn người
nhất. Chỉ có cái là người nói ra được, người chỉ cảm thông thôi. Linh
cho là những người bán hoa nhất định có người có tâm hồn đẹp như hoa và
người mua hoa cũng có ngưòi hiểu hoa, quý hoa.Ngày hôm sau, như thường
lệ, cô gái hàng hoa tới, lúc kẻng trường đã dồn ông giáo, học sinh vào
lớp, lúc đám trẻ em đã phân tán đi chơi bóng. Lần này, Linh chưa kịp lại
thì cô gái hàng hoa đã tới trao cho anh một chùm hoa tím. Linh đem cắm
nó lên giá rồi hí húi vẽ. Cô hàng hoa đứng trông anh vẽ. Cô chợt hỏi
Linh:"Ông vẽ ai đấy?"Linh nhìn cô:"Tôi vẽ cô đấy. Có giống không?"Cô
hàng hoa ngượng ngùng:"Bao nhiêu người đẹp mà ông vẽ tôi. Tôi có ra
gì."Linh nói rất nhiều, rất say mê giải thích bức tranh của anh.
Nhưng
nghe một lúc cô hàng hoa e lệ bỏ đi.Linh vẫn thấy tranh mình chưa vừa ý
lắm. Thỉnh thoảng một chiếc ô tô vù bụi, khét mùi xăng rầm rộ chạy qua…
Thỉnh thoảng nhiều tiếng còi, tiếng chuông, tiếng rao làm anh rộn óc.
Khung cảnh ồn ào chung quanh chi phối anh, anh bực tức. Thế rồi, có một
sáng, trời lạnh hơn, sương xuống nhiều hơn, anh không thấy cô hàng hoa
qua đây nữa. Anh giục Lân thu xếp đồ vẽ, bỏ đi tìm.Ngoài Hà Nội. Một
trại hàng hoa. Chập chờn trên các mô đất chỗ cao chỗ thấp, điểm xuyết
giữa những ngôi nhà nhỏ xinh xắn là những vườn hoa rực rỡ.Đào còn lạnh
gió heo may chưa buồn nảy nụ. Linh, Lân cắp giá vẽ bút đi theo con đường
mòn vào làng.Ánh sáng ban mai dìu dịu. Qua một dãy rào nứa dài, Linh,
Lân bước vào một mảnh vườn dài trồng toàn cúc và lay-ơn tím. Linh chợt
thấy cô hàng hoa của mình đang hái hoa. Anh định rẽ hoa chạy tới nhưng
sợ kinh động người hái hoa, sợ mất đi một cảnh rất quý, anh quay lại lấy
bút ghi lại hình ảnh đó. Đây mới thực là bức tranh anh mong muốn. Đây
mới thực là nguyên chất của sự phối hợp giữa cảnh và người.
Cô hàng hoa
giữa vườn hoa. Hồn hoa không còn lạc lõng nữa. Hồn nghệ sĩ không còn lạc
lõng nữa.Một lát sau, cô hàng hoa rẽ hoa, ôm một bó lớn đi về nhà.
Linh, Lân lặng lẽ ôm tranh đi theo. Đến một ngôi nhà tranh gần đó, cô
hàng hoa đẩy cửa bước vào. Linh bước vào theo. Một bà cụ trên 40 bước ra
hỏi:"Thưa hai ông hỏi ai ạ?"Linh lúng túng chưa biết đáp thế nào cho
tiện, ấp úng:"Thưa cụ, tôi..."Thì may quá cô hàng hoa đã bước ra:"Ồ, hai
ông, mời hai ông vào nhà."Và nhanh nhẩu bảo bà cụ:"Thưa đẻ, đây là hai
ông hoạ sĩ vẽ tranh dưới phố, khách quen của con đấy ạ."
Gian nhà thấp
nhưng sáng sủa. Giữa nhà một hương án nhỏ đã long lở sơn trên có tấm ảnh
một người đàn ông khoảng 50. Một bàn gỗ tạp có bộ ấm chén cổ. Trong góc
nhà một chiếc phản gỗ. Cánh liếp bên trái để hở một tấm cửa phên nhỏ
vào buồng trong. Bà mẹ dáng hiền lành, gọi con:"Lan ơi, lấy nước mời hai
ông."Mải ngắm gian phòng, Linh để Lân tiếp bà cụ. Anh bước ra quanh
quẩn nhìn những cây hoa phong lan, lan tiêu, cái bể cạn nhỏ có mấy con
cá vàng.
Anh nghĩ: “Sao mảnh đất nhiều tình ý thế này, tĩnh mịch gợi
hứng nhiều thế này, mảnh đất của hồn hoa mà đám nghệ sĩ mình ít người
chịu ra đây mà sống. Và anh thấy mến cái yên tĩnh thơ mộng của trại hàng
hoa, thấy sờ sợ cái ồn ào của Hà Nội. Anh thấy như ở đây mỗi thứ hoa
đều có hồn riêng, có đời sống riêng, có lịch sử riêng…Đang suy nghĩ liên
miên, Linh bỗng có cảm giác như có ai đang nhìn mình. Anh ngửng đầu
lên, kinh ngạc thấy Lan đứng trước mặt.Lan ra mời anh vào nhà uống nước,
Linh hỏi:"Này chị Lan, cây phong lan này giồng từ bao giờ?" [1]
Lan
đáp:"Tôi cũng không rõ nữa. Nghe đâu từ khi thầy tôi còn sống, tôi lớn
đã thấy nó rồi."Rồi Lan dẫn Linh ra phía sau nhà, chỉ vào một hàng
lay-ơn tím:"Đã sáu năm nay tôi vẫn giồng lay-ơn tím ở đây. Thường tôi
vẫn cho ông đấy."Linh nhìn màu tím, dịu mắt, anh thấy đời mình cần một
chỗ dừng chân. Anh hoa mắt nhìn đôi mắt Lan. Người nghệ sĩ đã bước từ
tình nghệ thuật vào tình yêu: Anh đã yêu Lan....Đêm hôm đó, Linh trằn
trọc mãi. Ngọn đèn đêm le lói toả mờ mờ gian phòng bừa bộn của người hoạ
sĩ. Lâu rồi, anh lại thấy những tác phẩm của anh không còn đủ để làm
người yêu duy nhất. Cạnh nàng nghệ thuật, anh đã thấy cần một người có
con tim.
Lâu nay thắc mắc nhiều cho nghệ thuật, anh sợ nó ghen tuông,
anh không dám san sẻ nó với ai cả. Ngày đêm, anh thủ thỉ tâm tình với nó
và nghĩ rằng như thế là “trọn nghĩa”. Nhưng cô đơn vẫn là cô đơn. Hồn
tranh đã tụ lại thành hồn người đòi anh tìm tình yêu. Hồi Linh nghĩ biết
đâu được yêu lại chẳng giúp nhiều cho nghệ thuật. Biết đâu tình yêu lại
chẳng là chuyện mất thì giờ như anh thường nghĩ mà là cả một đề tài lớn
cho anh, mặc dầu nó có thể lại chua xót!Linh với tay cầm bông hoa tím
nhổm người ngắm bức tranh một lúc rồi áp bông hoa lên ngực ngủ thiếp đi
trong nụ cười trên môi.Linh không ngờ: Lan lại là gái có chồng.
Mấy hôm
sau tình yêu lại đẩy Linh lên trại hàng hoa tìm Lan. Lan chưa về. Lý, em
Lan, cũng một cô hàng hoa xinh xắn, ngồi nói chuyện với Linh.Một lát
sau, Lý đưa Linh chạy tung tăng quanh nhà, bứt một chùm nhiều thứ hoa
cho Linh. Rồi lúc vào nhà ngồi, chợt Linh thấy trên liếp một tấm bảng
“Gia đình vẻ vang”, Linh hỏi Lý:“Anh cô đi bộ đội đấy à?”Lý rí rủm:“Anh,
nhưng không phải cả hai đều là anh ruột cả đâu. Một người là chồng chị
Lan đấy.”Linh bàng hoàng:“Ồ! Anh cứ tưởng chị Lan chưa chồng.”Lý bưng
miệng cười khúc khích:“Nhiều ông con giai cũng đều tưởng thế. Rồi lại
khổ thôi.”Linh hỏi:“Sao lại khổ?”Lý đáp:“Khổ chứ còn khổ thế nào nữa.
Người ta có chồng rồi thì còn lấy thế nào được nữa.”
Nhưng bỗng Lý đổi
nét mặt, buồn rầu:“Nhưng mà chắc gì anh ấy về nữa. Anh ấy đi bộ đội 6
năm nay bặt tin bặt tức. Từ khi hoà bình, bao nhiêu người ta về nhà, mà
anh ấy chẳng có thư từ gì cả. Người ta đồn là chết rồi. Khổ chị Lan nhỉ,
chị ấy còn trẻ, mới 22 tuổi đầu."Linh nhìn tấm bảng “gia đình vẻ vang”
thấy tiếc thương người bộ đội và thấy buồn lây:"Ừ mà thế đâm khổ cả
đôi."Lý mở to mắt, ngơ ngác:"Chắc gì anh ấy còn sống để đủ cả đôi mà
khổ."Dần dần, lòng người thiếu phụ cô quạnh, càng cô quạnh, lúc đông
đang về lạnh buốt, thấy mến Linh.
Vẫn mong chồng, vẫn quý người bộ đội,
nhưng mà thấy nó xa xăm quá đỗi, hầu như tuyệt vọng. Linh hiền lành, dễ
mễn, lại biết quý người, quý lao động. Thường anh đến nhà, cũng biết
gánh nước tưới hoa. Anh vui vẻ nhưng lại đứng đắn, không cợt nhả bao
giờ. Không riêng gì Lan, mà mẹ Lan cũng quý anh. Nhất là Lý. Lý càng
nhìn Linh lại càng thương chị.Có một chiều, hoàng hôn xuống ủ lên hàng
lay-ơn tím đang đổi sang màu xám đen, Linh ngồi nói chuyện với Lan trước
thềm."Trước kia tôi chỉ muốn tìm ở Lan một người đẹp để vẽ vào tranh,
nhưng gần đây tôi yêu Lan, tuy biết Lan đã có chồng… Thế có sai không hở
Lan?"Lan cúi đầu, lặng thinh một hồi lâu. Bỗng cô ngửng đầu lên, giương
to mắt ngơ ngác, sợ hãi lùi lại, giơ tay như che đỡ."Thôi anh đừng nói
nữa. Tôi là gái có chồng."
Nhưng nói gì thì nói, đào đã bắt đầu chớm nụ.
Tình yêu vẫn âm thầm, sôi nổi.Có một hôm, Linh đến chào gia đình Lan đi
vắng một thời gian.Bà cụ hiền từ bảo Linh:"Em Lan và em Lý đều rất mến
anh. Tôi cũng rất quý anh. Con rể tôi nếu không may đã mệnh hệ đi rồi
thì tôi cũng không cản con tôi đi bước nữa. Tết này anh về nhà tôi chơi,
cứ coi như người nhà cả thôi mà. Anh đừng ngại gì cả."Và đông đã sống
những ngày cuối, tàn tạ. Từng đàn em nhỏ tung tăng theo mẹ đi may quần
áo Tết. Cây cối xanh dần hứng sương mai long lanh.Vài chùm đào sớm đã nở
miệng cười hàm tiếu.Lòng người đang thắm lại.Và những ngày ấy, xuân sắp
về thì Lễ cũng về. Anh khập khễnh đi giữa đồng hoa, hớn hở. Nụ cười
trên môi tuy còn đọng tý lạnh lẽo của đau xót, da tuy có xám, trán tuy
có nếp nhưng người bộ đội đó vẫn trẻ. Anh đã thắng nổi Thần chết.
Sau
hoà bình, đơn vị anh vẫn tiếp tục đi tiễu phỉ vùng Tây Bắc. Vẫn những
ngày đèo heo hút gió, nằm trời gối đất. Anh đi miên man trên những vùng
Cha Pa, Phong Tổ, Bát Xát. Rồi anh bị thương nặng ở chân. Lạc đồng đội
trong rừng, anh cố lê mãi ra đầu ngọn suối. Đồng bào Mèo gặp đưa anh ấy
về chạy chữa. Và trên giãy núi cao ngất, trong một bản Mèo heo hút, anh
đã sống 8 tháng trời. Anh bị hỏng một chân. Sau khi bắt được liên lạc
với đơn vị, anh được ra ngoài phục thuốc, lắp chân giả.Và chiều nay, một
chiều cuối đông, khi xuân sắp về thì Lễ về nhà.Thấy chồng về, Lan vui
mừng khôn xiết. Nàng quên hết chuyện cũ, quên hoa, quên Linh, chạy ra
đón Lễ.
Người chồng trao cái túi dết cho vợ, tuột tay để rơi xuống đất.
Lan vội cúi xuống nhặt, tình cờ chạm phải cái gì cưng cứng ở chân chồng
mình. Nàng vén quần chồng lên thì thấy chiếc chân gỗ mới lắp, còn thơm
mùi sơn. Lan bàng hoàng đau xót, nửa thương chồng, nửa tủi phận. Mẹ Lan
mừng mừng tủi tủi rớt nước mắt đứng nhìn con rể. Lý ngơ ngác, người con
gái mới nhớn lên này thương hay mừng cho chị?Dần dần, Lễ biết chuyện.
Anh không trách Lan mà thấy thương vợ. Đau khổ nhưng anh không muốn ghen
tuông vì nghĩ cũng chẳng lợi ích gì. Có lúc anh nghĩ: “Giá mình chết đi
thì họ đẹp đôi lắm nhỉ”. Ghen một tý thì nghĩ thế thôi nhưng anh thấy
cần phải sống, cần phải xây dựng lại hạnh phúc của mình. Vì anh đã tranh
đấu, đã thắng nổi cái chết, thì lúc này anh không thể mềm yếu thế được.
Tuy vậy anh vẫn bình tĩnh. Thỉnh thoảng thấy vợ buồn buồn, đêm đôi khi
quay đi ôm mặt khóc, anh để yên cho vợ khóc.
Và khi Lan muốn cất bức
tranh của Linh đi thì Lễ ngăn cản lại bảo cứ treo đó cho đẹp.Nhưng ngày
ấy, xuân sắp về. Vài chùm đào sớm đã nở miệng cười hàm tiếu, màu đỏ dần
dưới nắng ấm. Chợ họp đông dần, những bức tranh làng Hồ thắm thiết màu
dân tộc trong đám cưới chuột, tranh hứng dừa, đang ngự trị dưới những
túp lều mái rạ thơm phức.Và trong một ngày đó, Linh trở về nhà Lan. Cuộc
gặp gỡ với Lan những tháng trước đã giúp anh dựng một câu chuyện đẹp.
Nhưng còn đoạn cuối sẽ kết ra sao, bản thân anh cũng chưa rõ.
Chỉ biết
rằng dù sao thì tâm hồn anh vẫn là của nghệ thuật, yêu con người, yêu
cuộc sống. Anh cũng chẳng nghĩ tới kết quả của cuộc tình duyên mà anh
chỉ thấy nó đẹp lắm, trong trắng lắm.Linh tới nhà Lan. Vào nhà, anh thấy
một người đang đóng khung lại bức tranh của anh. Linh hỏi:"Chị Lan đâu
hở anh?"Linh vẫn ngỡ trước mặt mình là một bà con hàng xóm. Lễ mỉm
cười:"Chắc anh là anh Linh phải không?"Linh ngạc nhiên:"Sao anh
biết?""Từ hôm tôi ở đơn vị về, các em gái tôi vẫn nhắc tới anh luôn.""Ồ!
Thế ra anh là anh ruột Lan.
Thế chồng cô Lan có ở với anh không?"Lễ
trầm ngâm chậm rãi đáp:"Tôi với Lễ ở cùng đơn vị. Lễ bị thương nặng mất
một chân… nhưng nay khỏi rồi… và cũng sắp về đây."Linh bàng hoàng, nói
bâng quơ:"Thế à! May quá nhỉ."Trên mảnh vườn đầy đào nở, bóng Linh đi.
Anh ngắt một bông đưa lên trước mắt ngắm nghía. Có khi anh dừng bước
dưới một cành đào suy nghĩ hồi lâu. Rồi lại đi.Bỗng trước mắt anh hiện
lên một dãy lay-ơn tím. Màu tím đập vào mắt anh, đau xót. Anh lặng người
một hồi lâu. Rồi ngửng đầu nhìn trời xanh, nhếch mép cười, nói một
mình:"Âu cũng là một chuỗi ngày rất đẹp. Hồn hoa đâu, có nghe lời nghệ
sĩ chăng?"Đêm 27-12-1956*
NHÂN VĂN III. SÁCH TẾT 57
ĐẶNG HUY VÂN * HUẾ THỜI VÀNG SON
Ôi! Thời vàng son của Huế hỏi còn không?
Trong khi nhân dân nhiều nước trên thế giới chỉ lo làm ăn để mưu cầu một
cuộc sống vật chất ngày càng đầy đủ, thì người dân Việt Nam chúng ta
lại đang phải lo đối phó với những cuộc đàn áp biểu tình chống Tàu, đình
công đòi tăng lương, lo Tàu chiếm Biển Đông, lo bị bắt tù vì nói sự
thật, lo bị chính quyền cướp đất, lo xin giấy phép đi thăm nuôi người
thân đang bị ngồi tù oan uổng, lo bị cấp dưới của thượng tướng Phạm Quý
Ngọ điều tra, quy tội, xét hỏi... Nhưng nếu chúng ta nhớ lại cách đây 46
năm, đúng vào ngày hôm nay tại Huế thương, đồng bào ta đang bị giết
chết bằng súng B40, bằng cuốc thuổng, bằng đạn súng AK, bằng chôn
sống... Thì những cái lo âu ở trên chỉ là nhỏ bé!
Vì vậy, hôm nay tôi gửi đăng lại bài viết này để một lần nữa xin được tạ
tội trước những vong linh các oan hồn Huế Mậu Thân 68. Chỉ khi nào
những kẻ đã gây ra tội ác man rợ kinh hoàng này đứng ra nhận tội trước
đồng bào cả nước thì khi đó, quá khứ đau thương này mới được khép lại,
nhân dân ta mới được thênh thản đón Tết cổ truyền của dân tộc!
Ôi! Thời vàng son của Huế hỏi còn không?
(Xin tạ tội với những oan hồn Huế Mậu Thân 68)
Quá ngỡ ngàng khi thấy ông
Từ trên máy bay “bước” xuống
Kẻ bế người nâng khác nào một vị vua
Với nét mặt nát nhàu
Đôi mắt buồn rười rượi
Có lẽ nào đây là anh giải phóng quân
Vào thành Huế Mậu Thân xưa?
Không!
Ông chỉ là một nhà thơ
Một nhà thơ chan chứa tình bè bạn
Theo bộ đội lên chiến khu
Nhưng chưa bao giờ cầm súng bắn
Tết Mậu Thân ông chỉ là quan tòa
Tại trường Gia Hội mà thôi
Để xét xử người của đối phương
Những học trò cùng bạn hữu một thời
Và ông chỉ biết cầm bút ký tên vào bản án
Để người khác thi hành thôi
Chứ ông nào biết bắn!
Ông thương dân lắm!
Nên khi tiến quân vào Huế thương, ông khóc
Vì thấy các đồng chí của ông
Đã chôn sống những xác người!
Một nhà thơ
Chỉ biết chắt lọc suốt đời
Những ngôn từ mĩ miều
Của tình người thiêng liêng nhất
Dù biết rõ kẻ đã ra lệnh bắn vào
Bàn thờ tổ tiên trong đêm mùng một Tết
Là một kẻ vô thần mang dạ thú mặt người
Nhưng ông là nhà thơ chỉ biết làm thơ thôi!
Và đây là dịp để có những vần thơ trác tuyệt
Lấy máu của bạn bè để viết nên những bài thơ
Lừng danh đất nước Việt!
Chuyện ai ra lệnh bắn vào ai
Đâu phải việc của nhà thơ!
Ai ngờ về già ông cứ thờ thẩn ngẩn ngơ
Đêm gió động ngoài hiên
Cũng bật dậy tưởng có người gõ cửa
Có hôm nằm mơ thấy hồn Mậu Thân
Ngoài Khe Đá Mài than thở(*)
“Không biết mẹ già và vợ con
“Nay phiêu dạt về đâu?”
Ông là nhà thơ
Càng thấm thía nỗi đau
Của những người học trò bị giết oan
Mà ông “không thể” cứu!
Ông phải sống những năm tháng cuối đời
Với nỗi đau nặng trĩu!
Vì thời trẻ ông chỉ chạy theo phù du
Chứ có biết nghĩ suy đâu
Nếu ông được dạy dỗ đến nơi đến chốn thì
Non sông bây giờ chắc đã khác
Ôi! Cái tuổi trẻ đam mê vĩ cuồng
Để suốt đời lầm lạc
Đã kết án oan cả chú bác cô dì
Bè bạn lẫn trò ngoan!
Đã phá tan hoang những đường phố, ngôi làng
Cả mái trường xưa nơi một thời dạy học
Day dứt quá những đêm dài trằn trọc!
Nhưng cuộc đời đâu dễ dàng
Quay ngược lại thời gian!
Để chuộc lại những sai lầm
Khi tay đã nhúng chàm
Những sai lầm
Được mang tên Tội Ác!
Bốn mươi sáu năm rồi
Huế Thương giờ thật khác!
Ôi! Còn đâu những ngày xuống đường
Của sinh viên Huế biểu tình
Và còn đâu những buổi tụ tập mít tinh
Của nhân dân Huế “Đã đảo quân xâm lược!”
Xuống đường ư? Bị bắt ngay lập tức
Vì chống Tàu là “chống đảng chống nhân dân!”
Ông lờ mờ xem Ti Vi mà đau đớn tận tim gan
Khi Hoàng-Trường Sa và Biển Đông
Nay đang bị giặc Tàu xâm lược
Nước mắt ông bỗng trào dâng
Và thốt nhiên bật khóc!
Tết Giáp Ngọ này
Ông quay lại Huế thương
Ông định sẽ tìm lại cái gì ở đây
Giữa những hố chôn người vội vã?
Hay để chứng kiến cảnh nhiều em thơ
Đang phải lang thang trên vỉa hè tơi tả
Những dân oan khắp thôn xã, quận phường
Đang lũ lượt lên tàu xe
Mang đơn kiện tận trung ương
Vì đã bị cướp đất, cướp nhà nhiều năm
Mà không ai giải quyết?
Nhưng những chuyện của thời nay
Chắc không ai nỡ nói cho ông hay biết
Vì nói để làm gì thêm khốn khổ thân ông!
Ôi! Thời vàng son của Huế
Hỏi còn không?
Hà Nội, 1/2/2014
HÀ THÚC SINH ** ÔNG GIÀ LÒA
Ông già lòa đường Nguyễn Đình Chiểu
Hà Thúc Sinh
Buổi sáng ra vườn mò mẫm chiếc bình tưới
Cảm nhận mặt trời leo ấm cổ gầy
Ðôi mắt trơ tựa hai hòn sỏi
Ngửi đoá hoa như uống lấy sương mai
Khi ấy cuộc đời nhẹ nhàng quay ngược
Thấy lại người lính già khóc buông súng trên đường
Sâu tâm can như có dao xước
Máu hận trào lấm tấm lỗ chân lông
Ðứng thẳng lên nghe gió vù vù
Ngó ngơ ngơ hướng nào rừng rú
Ðường trở về ai đó có đi
Ôi biết sao nhập dòng tham dự
Ông cụ già ngồi dưới nắng mai
Nghe trống trận từ Văn Lang Xích Quỷ
Nâng đóa hoa khấn giữa đất trời
Xin được chết hoá đôi giầy người dũng sĩ
Hà Thúc Sinh
Saturday, February 1, 2014
NGUYỄN QUANG LẬP * ANH CU ĐO
Anh cu Đo
Nguyễn Quang Lập
Làng Đông có vè: Hay cãi cu Luật, hay đập cu Hinh, đánh rắm thối inh là anh cu Khả... Lại có vè: Cu Luật hay cãi, cu Thái hay lo, cu Đo hay cấm, cu Chấm hay thơ, cu Bơ hay lẹo….. Mấy anh cu Bơ, cu Hinh, cu Thái,cu Khả, cu Chấm… mình không biết. Hồi ở làng Đông mình không thấy họ, có thể họ đã đi bộ đội hay đi kinh tế mới lâu rồi. Anh cu Luật mình đã kể rồi, giờ kể nốt chuyện anh cu Đo.
Anh cu Đo lúc đầu ở trước nhà thằng Tâm con ông cu Thành, sau chuyển về ở sau nhà chị Xuân con ông Mẹt Nhiệt, sau chuyển về ở cạnh nhà anh cu Tý con ông cu Nhuế, rốt lại mình chẳng nhớ anh cu Đo ở đâu nữa. Gần chục năm sống ở làng Đông mình thấy anh cu Đo nhổ nhà chỗ này cắm nhà chỗ kia loạn cả lên. May anh có của nả ông bà để lại nếu không anh cũng sẽ sạt nghiệp theo chuyển nhà.
To cao trắng trẻo đẹp trai hát hay, anh cu Đo thuộc loại hot boy trong làng. Chị Lê vợ anh cũng xinh và hiền, hiền vô kể, ai nói gì cũng cười, ít khi thấy chị cãi nhau với ai bao giờ. Nhác qua thấy họ hạnh phúc, nhưng không, chị Lê hết nước mắt với anh cu Đo.
Cũng chẳng có gì to tát, chỉ vì với việc làng anh nhiệt tình năng nổ xông xáo quá đáng. Anh chẳng có chức sắc gì, một chân tổ trưởng cũng không. Bất kì một cuộc bầu bán nào anh cũng hăng hái ứng cử nhưng chẳng ma nào bầu cho anh. Người làng Đông vốn ghét đa sự, ghét luôn mấy kẻ thích quan trọng hóa, máu quan quyền. Cứ thấy anh nào thích quan trọng hóa, máu quan quyền không bao giờ họ bầu dù kẻ đó có giỏi bằng giời. Khốn thay cả hai thứ đó thứ nào anh cu Đo cũng đầy ắp, hi hi.
Anh cu Đo tự thấy mình phải có trách nhiệm ở khắp mọi nơi, bất kì việc gì xảy ra trong làng anh cũng ra sức đôn đốc giải quyết. Nội mỗi chuyện họp đội không thôi cũng đủ mệt với anh. Đã qui định rồi, kẻng đội đánh một hồi sáu tiếng là đi họp nhưng anh luôn lo người ta bỏ họp, phải đôn đốc tới nơi tới chốn. Buổi chiều đi cày về anh thả cày vọt đến nhà này, nói tối nay họp đội nghe chưa; lại vọt đến nhà kia nói đến nhà nói tối nay họp đội nghe chưa… cứ thế anh hết đi hết cả trăm hộ trong đội.
Ăn cơm xong anh lại lượn một vòng đủ trăm hộ, đến nhà này nói mau ra họp đội nha, đến nhà kia nói mau ra họp đội nha. Nghe lắm nhàm tai chẳng ai thèm trả lời anh, anh cũng chẳng cần ai trả lời. Nhưng nhà nào đi chậm hoặc bỏ họp là anh vọt đến ngay, tay chỉ miệng quát, nói à ha, giờ ni không ra họp à bay- À ha có ra họp không đó hả. Đa số đều ngọt nhạt trình bày lý do để anh đi cho khuất mắt, cũng có nhà điên lên, nói tau không đi họp đó, mi mần c. chi tau. Thế là cãi nhau ầm ầm, có khi còn đánh nhau nữa.
Bốn vách kho đội 1 đều treo biển cấm của anh cu Đo: Cấm nói chuyện riêng trong khi họp, cấm đan lát thêu thùa trong khi họp, cấm ngủ gật trong khi họp. Tự anh treo lên chứ chẳng ai bảo. Giá ông đội trưởng nhắc anh bỏ đi, nói thôi em ạ, mấy thứ đó mình nhắc nhở thôi, cấm đoán làm chi, tự khắc anh cu Đo sẽ tháo luôn mấy cái biển cấm. Đằng này chẳng có ai bảo, người nghĩ nó treo biển thế cũng chẳng sai, người nghĩ thôi kệ cha nó muốn treo gì thì treo, việc mình mình làm.
Anh cu Đo không nghĩ vậy, anh đinh ninh mấy cái biển anh treo lên đó là luật rồi, nhất nhất mọi người phải tuân theo. Hễ ai làm việc riêng nói chuyện riêng trong khi họp là anh nhảy lên tay chỉ miệng quát, nói này, à ha không thấy cái biển đó à, có mù không đó- À ha không chịu chấp hành, gan to hè. Mọi người cũng chỉ cười xòa, không chấp. Lâu ngày thành quen, anh cu Đo lấn ra ngoài làng, khắp nơi có biển cấm của anh: Cấm ỉa bậy đái bậy, Cấm chặt cây rừng trâm bầu, Cấm ăn cắp đất cày của hợp tác, Cấm khạc nhổ lung tung, cấm đ. bậy… Người gật gù khen, nói cu Đo có tinh thần trách nhiệm; người cười khẩy văng tục, nói đ.mạ cu Đo hết việc rồi à bay, thăng ni e điên.
Nhiều người tìm đến Chủ nhiệm thắc mắc, nói cu Đo quyền hành chi mà cấm lung tung? Chủ nhiệm cười cười, nói ừ nhưng mà nó cấm có sai đâu. Được lời anh cu Đo càng hăng hái cấm. Một hôm khắp đường làng bỗng xuất hiện biển cấm của anh: Cấm trâu bò ỉa trên đường làng. Mọi người rũ, nói vơ cu Đo nời, lệ làng có rồi, trâu bò nhà ai ỉa nhà đó dọn, răng mi còn cấm. Anh cu Đo đầu lắc tay xua, nói phải cấm không được cho trâu bò ỉa, ỉa rồi dọn nói làm chi. Mọi người phải có trách nhiệm huấn luyện cho trâu bò không được ỉa trên đường làng. Mọi người cười rũ. Có người dắt bò đến trước mặt anh, nói đây, bò tau đây. Mi huấn luyện răng cho nó không ỉa trên đường làng tau cho mi cả con bò. Anh cu Đo không nói, cắm cái biển cấm cái phập, nói chấp hành đi, không oong đơ chi hết!
Anh cấm cứ cấm, trâu bò ỉa cứ ỉa. Cứ mỗi lần phát hiện trâu bò ỉa chỗ nào trên đường làng là anh lại làm thêm cái biển cấm cắm ngay ở đó. Đường làng hơn cây số có đến trăm cái biển cấm của anh cu Đo. Suốt ngày anh loay hoay làm biển cấm, bỏ hết việc nhà việc Hợp tác. Ai cười chê mặc anh cứ làm, biển cấm này bị nhổ bỏ đi anh lại làm biển khác, không biết chán nản mệt mỏi là gì. Chị Lê vốn hiền lành nhu mì cũng phát rồ với anh, nói anh cấm chi cấm lắm, cấm được người ta anh sướng lắm à. Anh trừng mắt lên, nói em là vợ anh, không được nói năng vô trách nhiệm.
Một chiều anh cu Đo đang loay làm thêm mấy cái biển cấm thì chị Lê với hơn chục chị đi vào, ai nấy đầy một ôm biển cấm trên đường làng,. Anh ngạc nhiên hỏi chi rứa. Mọi người xổ chục ôm biển cấm ra cả một đống, biển nào biển nấy ghi đúng một dòng: Cấm Đo Lê ỉa trên đường làng. Anh cu Đo gầm lên, nói đ. mạ bọn phản động. Anh hì hụi xóa chữ Đo Lê thay bằng chữ trâu bò, mặc chị Lê lăn lóc rên rĩ van xin anh vẫn ngồi sửa hết cả trăm cái biển cấm. Rồi anh lại vác trăm cái biển cấm ra đường làng cắm cho đến sáng hôm sau mới xong. Tối hôm đó nghe nói chị Lê ra giếng làng tự vẫn, may có người cứu được.
Chuyện anh cu Đo mấy chục năm rồi mình vẫn nhớ như in, riêng việc vì sao anh chuyển nhà cả chục lần là mình không biết. Năm ngoái anh cu Tý con ông cu Nhuế vào Sài Gòn cưới chồng cho con, ông chồng là cháu ruột vợ mình. Anh em gặp nhau hàn huyên làng Đông, mình có hỏi vì sao anh cu Đo hay chuyển nhà, Anh cu Tý mắt trợn miệng há, nói oa chà thằng ni không biết à bay. Rồi anh kể, vừa cười vừa kể, nói ông Cu Đo mắc bệnh khó ngủ, nghe tiếng con nít khóc tiếng hát ru ông càng khó ngủ. Cu Đo mới làm biển: Cấm con nít khóc sau chín giờ đêm, cắm trước ngõ những nhà có con nít mới đẻ quanh xóm ông. Chẳng những ông không cấm được mà còn bị người ta chửi cho, rứa là ông đành phải nhổ nhà đi cắm chỗ khác. Anh cu Tý vỗ đùi đánh bốp, nói mi biết không, hay ở chỗ là thà nhổ nhà đi cắm chỗ khác, nhổ nhổ cắm cắm cả chục lần ông cu Đo vẫn kiên quyết không bãi bỏ lệnh Cấm con nít khóc sau chín giờ đêm… ha,tức cười chết được.
Mình cười hì hì, nói anh cu Đo còn sống không? Anh cu Tý nói còn, bây giờ già yếu hom hem, sống một mình vợ con không có, tội lắm. Mình nói chị Lê bỏ anh Cu Đo rồi à. Anh cu Tý cười, nói a thằng ni không biết à bay, bỏ nhau từ thời mi còn ở làng Đông mà. Chuyển nhà đến lần thứ năm thì chị Lê đâm đơn ly di, may hai người chưa có con bỏ để cũng nhẹ nhàng. Anh cu Tý bỗng vỗ vai mình đánh bốp, nói hay mi về làng Đông với tau một chuyến? Mi không về mau ông cu Đo chết rồi lại tiếc. Mình nghe bùi tai, đi liền.
Về làng Đông tất nhiên mình đến thăm anh Cu Đo. Ngôi nhà toang hoác, anh đang ngồi khóm róm ở ngạch cửa trông ra ngõ. Xưa anh to khỏe đẹp trai là thế, bây giờ sụm xuống hệt một cây chuối héo rũ rượi xơ xác. Mình chào anh, anh trố mắt nhìn, nói ai rứa hè. Mình xưng tên mình, tên ba mạ mình anh vẫn trố mắt nhìn rồi cười cái hậc, nói quên cha cả rồi còn mô, và lại ngồi im ngoảnh mặt trông ra ngõ.
Tuồng như không nhớ nhà đang có khách, anh cứ ngồi khóm róm trông ra ngõ, dáng như chó đói chờ ăn. Sau lưng anh có biển cấm to đùng treo trên vách: Cấm li dị.
QUÊ CHOA
Friday, January 31, 2014
TIN THẾ GIỚI
Biển Đông : Mỹ cảnh cáo Trung Quốc về vùng phòng không
Trung Quốc chọn Hoàng Sa làm tâm điểm, từ đó mở rộng vùng nhận dạng phòng không, bao phủ hầu như toàn bộ Biển Đông (hoangsa.org)
Hôm qua, 31/01/2014, phát ngôn viên phó của Bộ Ngoại giao Mỹ
Marie Harf tuyên bố là những hành động như vậy sẽ bị xem là « một hành
động khiêu khích và đơn phương có thể làm gia tăng căng thẳng và gây
nghi ngờ về cam kết của Trung Quốc giải quyết tranh chấp lãnh thổ qua
con đường ngoại giao ».
Bộ Ngoại giao Mỹ đã ra tuyên bố như trên sau khi hôm qua nhật báo
Asahi Shimbun của Nhật loan tin là không quân Trung Quốc đã soạn thảo dự
án thiết lập một vùng nhận dạng phòng không trên Biển Đông, lấy quần
đảo Hoàng Sa làm trung tâm từ đó mở rộng ra để bao phủ hầu như toàn bộ
Biển Đông. Dự án này đã được trình lên các giới chức quân sự cao cấp của
Trung Quốc từ tháng 05/2013 và đang được xem xét.
Trước đó, ngày 30/01, một quan chức đặc trách châu Á của Hội đồng An
ninh Quốc gia Mỹ, Evan Medeiros, đã tuyên bố là Washington chống lại
việc thiết lập vùng phòng không ở các khu vực khác, kể cả vùng Biển
Đông.
Ông Evan Meidedros tuyên bố : « Chúng tôi đã nói rõ với phía Trung
Quốc rằng chúng tôi xem việc thiết lập một vùng phòng không khác là một
hành động mang tính khiêu khích và gây mất ổn định, có thể dẫn đến những
thay đổi về sự hiện diện quân sự của Mỹ ở châu Á ».
Vào tháng 11 năm ngoái, Bắc Kinh đã tuyên bố thành lập vùng nhận dạng
phòng không trên biển Hoa Đông, bao gồm cả quần đảo Senkaku/Điếu Ngư,
hiện do Nhật quản lý, nhưng Trung Quốc cũng giành chủ quyền. Việc thành
lập vùng phòng không này đã bị Nhật Bản, Hàn Quốc và Hoa Kỳ chỉ trích
kịch liệt.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG * TRẦN PHONG GIAO
Trần Phong Giao và những người viết trẻ
CỠ CHỮ
02.11.2010
1. Thời ấy, thời những năm 60, nói đến văn học
miền Nam là nói đến nhóm, là phải nhắc đến Sáng Tạo, Hiện đại, Thế Kỷ 20
v.v… Những đề tài thì quanh quẩn những hiện sinh, nôn mửa, làm mới văn
học, hay viết về những kinh nghiệm bản thân về một chủ nghĩa là Cộng Sản
mà họ đã trải qua… Họ sống ở thủ đô, ít hiểu, ít chất liệu để nói về
con quái vật chiến tranh và những hệ lụy của nó. Và nếu có viết thì chỉ
đứng ở ngoài nhìn vào, chứ không phải đứng trong lòng cuộc chiến như
những kẻ trực tiếp ở trong lòng hoả ngục mà tổng thống thứ 31 của Mỹ là
Hoover đã từng nói “tuyên chiến thì dành cho những ông già còn phần đánh và chết thì dành cho đám trẻ”. (Herbert Hoover: The old men declare war. But it is the youth who must fight and die).
Riêng, những người trẻ viết văn thì không những lãnh phần đánh giặc,
chết thế mà còn tự nguyện lãnh thêm những sấp giấy nhét trong ba lô hay
túi áo trận có khi dính đầy máu. Và khác với những quan chức văn nghệ
phòng trà, mang bộ đồng phục mà viết về ca sĩ, vũ nữ v.v… thì các người
viết trẻ phải viết trong điều kiện:
“Viết thư thăm ông sau cuộc hành quân biên phòng, kéo dài suốt 20 ngày trong rừng đầy muỗi, lạnh và vắt rừng.
Ở đây thiếu thốn về nhiều phương diện. Ngay như báo chí. Đôi khi tờ báo hàng ngày xuất bản ngày 10 thì đến 20 chúng tôi mới được đọc. Còn nói gì đến những tập san văn học nghệ thuật?”
Ở đây thiếu thốn về nhiều phương diện. Ngay như báo chí. Đôi khi tờ báo hàng ngày xuất bản ngày 10 thì đến 20 chúng tôi mới được đọc. Còn nói gì đến những tập san văn học nghệ thuật?”
(t.l, thư từ Dakto ngày 12-12-1970, Vấn đề số 45 tháng 4- 71)
2. May mắn trong thế giới ấy chúng ta có một Trần Phong Giao của Văn.
Có thể nói, trong thời chiến, không một người viết trẻ nào lại không
nhớ đến cái công tìm tòi, khai phá những tài năng mới của tạp chí Văn,
mà thơ ký tòa soạn Trần Phong Giao (TPG) là người đầu tàu.
3. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ xin đề cập đến
một đức tính quí hiếm mà chúng tôi đã tìm thấy ở ông, dù ít khi chúng
tôi có dịp gần gũi với ông.
Nhớ lại trong vài lần từ vùng hai về phép, ghé ngang tòa soạn Văn,
thăm ông, thấy ông với gương mặt lạnh lùng, họa hoằn lắm mới thốt vài
câu thăm hỏi, sau đó lại tiếp tục cúi xuống bàn máy đánh chữ, thì thấy
lòng hơi bất mãn.
Vậy mà trên tạp chí Văn, ở mục trang Sinh Họat Văn học Nghệ thuật,
dưới bút hiệu Thư Trung, ông luôn luôn viết về chúng tôi, đề cập đến
chúng tôi, và cất lời thống thiết vì chúng tôi. Thật khó tìm một tạp chí
có người thơ ký tòa soạn lại chú tâm về cuộc hành trình của những người
mang màu áo đồng phục như chúng tôi như thế. Nhờ Văn mà chúng tôi tìm
đến nhau, và biết tin nhau dù chúng tôi luân lạc tứ phương, ví dụ qua
bản tin trên Văn số 121 năm 1968:
Hay trên tạp chí Văn số 103 Tháng 4 năm 1968, ông đã viết về lần chúng tôi (THT) bị thương trong trận Mậu Thân:
Ông gọi, kêu, khan cổ. Cái máy chữ Olympic phương tiện mà ông sử dụng
từ việc liên lạc, đến việc trị sự, tòa soạn, đã bao lần thấy được nỗi
lòng của ông, vì bạn văn, vì những người đồng chung một mái nhà văn
chương. Như lần ông kêu cứu nhà văn Duy Lam giúp đở nhà thơ Đỗ Tấn sau
khi nhà thơ này gặp nạn vào Tết Mậu Thân:
*
Sau 1975, Trần Phong Giao sống lặng lẽ, ít giao tiếp với ai, nhất là giới văn nghệ sĩ ở hải ngoại.
Ông chết vào ngày 12-4-2005 tại Saigon thọ 70 tuổi vì bịnh ung thư đại tràng.
Lòng bùi ngùi nhớ lại người đã gây dựng tạp chí Văn, đưa tạp chí này
lên một vị thế lớn trong bầu trời văn chương miền Nam, thêm vào cõi lòng
từ tâm hiếm có, không biết gì hơn là xin được đăng bài thơ của ông sau
1975 mà ông cảm tác khi vào tuổi 60 do một người bạn văn thương mến gởi
tặng tòa soạn TQBT để chúng ta hiểu rõ hơn về cuộc đời của ông sau 1975:
Khai bút đầu xuân gõ máy chơiTưởng mình “cả tiếng lại dài hơi” (1)
Nào ngờ mắt kém, tay run rẩy
Đã lão, tuy vừa chớm sáu mươi!
Tuổi “tri thiên mệnh” tưởng được nghỉ
Nào ngờ vợ ốm thêm vận bỉ
Lại thức thâu đêm mài chữ bán
Bảy hào một từ, sung sướng nhỉ?
“Chữ nghĩa tây tầu chót dở dang
Nôm na phá nghiệp kiếm ăn soàng” (2)
Mười ba năm đã quên cầm bút
Nghĩ đến Kiều thêm nỗi bẽ bàng!
Xin hiểu lòng tôi, hỡi nguyệt vàng:
Mưu sinh hệ lụy của trần gian
Tôi còn sống nhé, tôi chưa chết,
Chỉ có tên xưa: cát bụi tan!…
Trà, rượu, xuân tình vẫn cứ chơi
“Cơm toàn rau muống, chẳng chiên ngồi” (3)
Đã lỡ phong lưu nên phải gượng
Sàng đầu kim tận cũng đành vui…
Tưởng lúc về già được con nuôi:
Chơi chim, chơi cảnh, hưởng nhàn chơi,
Hạo khí chưa mòn, râu tóc bạc
Mới biết cao xanh chẳng đãi người…
Trời cao mây trắng ngẩn ngơ trôi…
Ngoài hiên hoa mướp nhởn nhơ cười
Thơ xuân, đánh chữ, ghê ông quá,
Chữ nghĩa thư-trung chán mớ đời! (4)
Đầu năm khai bút, à, khai máy,
Rượu uống mềm môi vẫn chẳng say,
Ngậm ngùi pha loãng men cay đắng,
Hàng xóm hoa mai lơi lả bay…
Một bầu tâm sự gởi về đâu?
Mênh mang giấy trắng ngẩn ngơ sầu,
Trước đèn nào biết xuân hay tết,
Chỉ biết lòng riêng nỗi quặn đau.
Khai bút đầu xuân gõ máy chơi
Tâm sự vô cùng, cố hữu ơi!
Đã không thương nhớ, đừng thương xót,
Hãy mặc tôi
và
tuổi sáu mươi!….
Trần Phong Giao (*) – 1990
Ghi Chú:
1. Mõ Làng Văn: Một bút hiệu ngày cũ
2. Thơ Tản Đà
3. Thơ Nguyễn Trãi: “bàn duy mục túc, tọa vô chiên”
4. Một bút hiệu ngày cũ
(1) Trích từ Thư Quán Bản Thảo số 35 tháng 2-2009
Địa chỉ liên lạc: tranhoaithu@verizon.net
* Blog của Trần Hoài Thư là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
http://www.voatiengviet.com/content/tran-phong-giao-va-nhung-nguoi-viet-tre-11-03-10-106646483/916801.html
No comments:
Post a Comment