LS. VŨ ĐỨC KHANH * NGOẠI TRƯỞNG KERRY
Thông điệp 'trở lại Việt Nam' của Ngoại trưởng Kerry?
Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry dự
Thánh Lễ tại Nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn, ngày 14/12/2013.
Tin liên hệ
Edward Snowden là một người can đảm
Nợ công 2013: Cuộc tranh đấu giữa hai số liệu
Nhập siêu từ TQ: Cấp độ báo động ngày càng lớn và những cái tai ngày càng điếc
Hoài niệm và thương tiếc cố ca nhạc sĩ Việt Dũng
Thông điệp 'yêu thương, hòa giải, hướng đến tương lai'
Tuổi hưu và phúc lợi ở Mỹ
Mỹ đã có ảnh hưởng nào ở Việt Nam?
Vũ Đức Khanh
06.01.2014
Hôm 14/12/2013, khi Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry dự Thánh Lễ tại Nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn, nơi từng là thủ đô của miền Nam Việt Nam, một đồng minh của Mỹ ở Đông Nam Á, thông điệp được chuyển đi rất rõ ràng, đó là Washington sẽ tiếp tục thúc đẩy cải thiện nhân quyền tại Việt Nam, trong đó có cả tự do tôn giáo.
Nhưng chuyến đi thăm của ông Kerry không đơn thuần là một chiến dịch vận động cho tự do, dân chủ và cải thiện nhân quyền ở Việt Nam.
Hoa Kỳ cũng đang tìm cách tăng cường quan hệ song phương và tái khẳng định cam kết chiến lược của Washington tại Việt Nam và trong khu vực để giúp đối trọng với sự quyết đoán ngày càng gia tăng của Trung Quốc về tranh chấp lãnh thổ.
Tại Hà Nội, hôm 16/12, Ngoại trưởng Kerry, một cựu sỹ quan hải quân Hoa Kỳ từng tham chiến ở Việt Nam, đã thông báo Mỹ sẽ cung cấp một khoản viện trợ bán quân sự đầu tiên 18 triệu USD riêng cho Việt Nam, khởi đầu với việc huấn luyện và cung cấp năm tàu tuần tra cao tốc cho lực lượng cảnh sát biển Việt Nam như một phần của chương trình phát triển năng lực hàng hải tại Đông Nam Á.
Đồng thời, nhà ngoại giao hàng đầu của Mỹ cũng đã gặp gỡ cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam để vận động quan hệ kinh tế “đối tác xuyên Thái Bình Dương” (TPP), một Hiệp định thương mại tự do, mà nếu thành hình, sẽ là cơ hội thương mại tuyệt vời không chỉ đối với Mỹ trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương mà còn cho các nhà xuất khẩu Việt Nam.
Theo dự kiến, Hiệp định TPP sẽ sớm kết thúc trong vòng đàm phán tháng 1/2014 để mở đường cho chuyến công du châu Á - Thái Bình Dương của Tổng Thống Obama vào tháng 4/2014.
Cam kết hướng đến tương lai
Ngay ngày thứ hai sau khi đến Việt Nam, hôm 15/12, ông Kerry đã đến Cà Mau, một địa danh của chiến trường xưa nhưng không phải để ôn lại kỷ niệm mà để cùng hướng đến tương lai.
Chuyến thăm ngắn ngủi này ở vùng duyên hải cực Nam của Việt Nam tự nó đã nói lên tầm quan trọng địa - chính trị của Việt Nam đối với nền an ninh, hòa bình và thịnh vượng chung ở Biển Đông.
Nó là biểu tượng của sự cam kết “trở lại Việt Nam” của Hoa Kỳ và cho cả tương lai của khu vực.
Hôm 5/12, tàu tuần dương USS Cowpens của Hoa Kỳ đang quan sát hàng không mẫu hạm Liêu Ninh đầu tiên của Trung Quốc thì bị một tàu chiến Trung Quốc ra lệnh phải dừng lại.
Các giới chức Hoa Kỳ tuyên bố rằng “chiến hạm USS Cowpens đã phải tránh để khỏi đụng nhau khi chiến hạm Trung Quốc cắt ngang trước mũi chiến hạm Mỹ”.
Truyền thông quốc tế cho biết, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Chuck Hagel đã gọi “các hành động của Trung Quốc trong sự cố trên là vô trách nhiệm…” Ông Hagel cũng cảnh báo rằng “những sự cố như thế có thể khiến cho căng thẳng trong khu vực trở nên trầm trọng thêm.”
Bất luận là ai đã có lỗi, nhưng vụ việc này, một lần nữa đã buộc Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á phải thực sự “quan ngại” về sự ngày càng quyết đoán của Trung Quốc trên Biển Đông.
Mặc dù Mỹ luôn cố duy trì chính sách trung lập đối với các vụ tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải trong khu vực, nhưng dù sao Washington cũng đã gây không ít khó chịu cho Bắc Kinh trong những năm gần đây bằng cách lien tục khẳng định “quyền tự do hàng hải” ở Biển Đông như một phần của “lợi ích quốc gia” trọng yếu của Hoa Kỳ.
Căng thẳng Mỹ-Trung nhất định đã, đang và sẽ gây “lo ngại” cho các quốc gia trong khu vực.
Tại Philippines, hôm 17/12, Ngoại trưởng Kerry cũng hứa là sẽ cung cấp thêm một ngân khoản viện trợ quân sự 40 triệu USD để nâng cấp hải quân Philippines.
Những động thái này từ Việt Nam đến Philippines được xem như là những nỗ lực của chính sách “chuyển trục” của Hoa Kỳ với khu vực, và lập trường này dường như ngày càng rõ nét hơn.
Đối với Hà Nội, Hoa Kỳ đã thành công ngoạn mục khi chuyển đổi từ cựu thù thành một đối tác chiến lược mới trước sự tức giận của Bắc Kinh, một đồng minh trụ cột của Hà Nội trong chiến tranh Việt Nam ở thế kỷ trước.
Cái gai nhân quyền
Bang giao Mỹ-Việt đã được cải thiện đáng kể và đều đặn kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ với nhau; quá khứ cũng đã lùi dần và tương lai đang được nỗ lực rộng mở nhưng giao hảo hai nước vẫn còn sa lầy trong hồ sơ nhân quyền.
Từ lâu, nhân quyền đã là cái gai trong quan hệ của hai nước.
Hà Nội tiếp tục làm ngơ trước các cáo buộc về thành tích nhân quyền tồi tệ của mình, và thường nêu lập luận “khác biệt về văn hóa” để biện minh cho những bất đồng. Trong khi Washington tiếp tục phê phán thì Hà Nội vẫn đàn áp thẳng thừng các nhà hoạt động dân chủ và nhân quyền trong nước, những người đã dám lên tiếng chỉ trích chính quyền.
Từ quá trình đàm phán về Hiệp định thương mại Mỹ-Việt năm 2001 đến quá trình gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới năm 2007 cho đến các cuộc đàm phán đang diễn ra với Hiệp định TPP, Việt Nam hầu như chưa có một nỗ lực nào đáng kể để cải thiện thành tích nhân quyền của mình. Một điều kỳ lạ đến mức không thể chấp nhận được là Hoa Kỳ chưa hề có một biện pháp nào buộc chính phủ Việt Nam phải có những chuyển đổi tích cực theo hướng tự do, dân chủ hóa, ngoài những lời chỉ trích suông, dù đôi khi được dư luận cho là tương đối khá mạnh mẽ.Điều đó có phải vì người dân Việt Nam chưa gây đủ áp lực hay đơn giản chỉ vì Hoa Kỳ đang có một hậu ý hay nghị trình khác với Chính phủ Việt Nam?Vũ Đức Khanh
Người ta thường nói rằng người Mỹ rất thực dụng; có lợi họ mới làm. Nhưng cho đến nay, chúng ta có thể thấy rằng Hoa Kỳ tương đối rất kiên nhẫn trong cách tiếp cận với Hà Nội.
Ngoại giao của Washington với Việt Nam đang mang đặc trưng của “củ cà rốt hơn là cây gậy!”
Và lần này ông Kerry đã không đến Việt Nam với hai bàn tay không, điển hình là ông đã đề xuất viện trợ quân sự được cho là rất cần thiết cho Việt Nam. Chính ông Kerry cũng trấn an bằng cách cam kết bảo vệ “quyền tự do hàng hải trên Biển Đông” mặc dù ông không quên nhắc khéo rằng “nhân quyền là một trong những trọng tâm của chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ” và dĩ nhiên Việt Nam sẽ không là trường hợp ngoại lệ!
Thực ra Hoa Kỳ cần gì ở các lãnh đạo Cộng sản Việt Nam đến độ phải nhẹ nhàng đến thế?
Và giả sử nếu Hà Nội tiếp tục thách thức không cải thiện nhân quyền như Washington từng nhắc nhở, liệu chính quyền Obama có sẵn sàng tiếp tục nâng cấp quan hệ giữa hai quốc gia?
Trong ván cờ chính trị quốc tế và khu vực hôm nay, Washington cần hiểu rằng dân gian Việt Nam có câu: “Quan nhất thời - Dân vạn đại”. Nói rõ ra rằng không một chính quyền nào có thể tồn tại mãi mãi, chỉ có Dân mới tồn tại muôn đời.
Nhân quyền là gì nếu không phải là những quyền thiêng liêng cơ bản nhất của người dân ví dụ như quyền tự do ngôn luận, quyền lập hội, lập đảng tham chính?
Một chế độ không tôn trọng nhân quyền liệu có thể tồn tại lâu dài được chăng?
Washington cũng nên hiểu rằng quyền lực luôn là cứu cánh, và bạo lực luôn là ưu tiên hàng đầu của các chế độ toàn trị, độc tài, quân phiệt, phát-xít và Cộng sản!
Cộng sản Hà Nội cũng sẽ không là ngoại lệ!
Lịch sử cũng từng chứng minh rằng “lòng dân là ý Trời” cho nên để “chiến lược chuyển trục” thành công, Washington nên chọn “đồng minh” là nhân dân Việt Nam hơn là “đồng hành” với lãnh đạo Cộng sản Hà Nội.
Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả. Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Vũ Đức Khanh là luật sư và giáo sư luật bán thời gian tại Đại học Ottawa, chuyên nghiên cứu về chính trị Việt Nam, quan hệ quốc tế và luật pháp quốc tế.
http://www.voatiengviet.com/content/thong-diep-tro-lai-vietnam-cua-ngoai-truong-kerry/1824696.html
NGUYỄN THIÊN THỤ * QUAN HỆ VIỆT NAM VÀ CHIÊM THÀNH
QUAN HỆ VIỆT NAM VÀ CHIÊM THÀNH
I. VIỆT NAM THỜI HÙNG VƯƠNG
Ở đây, chúng tôi xin trình
bày sơ lược về đời Hùng vương, sau đó sẽ đề cập đến mối quan hệ Chiêm Thành Việt
Nam
kể từ thời này.
Về đời Hùng vương, nước ta
là một quốc gia văn minh giàu mạnh nhất vùng Nam Á. Thực ra, chúng ta it có tài
liệu lịch sử đời Hùng Vương. Phải chờ hơn 50 năm sau , khi quân Trung Quốc xâm chiếm Việt Nam, chúng
ta mới có tài liệu của nhà Hán viết về Việt Nam thời này. Và những sự kiện này
cũng có thể cho biết thực tại lịch sử vào đời Hùng Vương.
Bàn về dân số Việt
Nam, trong Dư Địa Chí, Nguyễn Trãi đã dùng tài liệu Hán
Thư, và sau này Lê Quý Đôn đọc Hán Thư đã nhận định:
Vào thời nhà Hán làm vua
Trung Quốc, nước ta có 143.743 hộ ( nóc nhà), và 981. 828 nhân khẩu. . . Nay
thông cả hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây- vào thời Hán - chỉ được 71.805 hộ, 389.673 khẩu. Như vậy,
vào thời Hán, hộ nước ta chiếm hơn phần nửa tổng số hộ của Nam Việt trong đó có
Lưỡng Quảng, và khẩu của nước ta chiếm gần bằng hai phần ba tổng số khẩu của
Nam Việt. (Phủ Biên Tạp Lục I, 28).
Không những dân số đông, mà
nước ta vào thời Hùng Vương là một trung tâm văn hóa rất lớn.
Lê quý Đôn viết:
Hơn
nữa lúc Tôn Quyền chưa chia Giao Quảng hai châu ( Giao Châu và Quảng Châu), và
vào thời đại Lưỡng Hán (Tiền Hán và Hậu Hán), chức quan Thứ sử Giao Chỉ kiêm quản
cả Lưỡng Quảng, trị sở tại huyện Long Biên. Như thế há chẳng phải người ta đã lấy
đô thành nước ta hiện nay làm nơi trung chính tâm điểm, để bốn phương tấu tập tụ
hội hay sao? (Phủ Biên Tạp Lục I, 29).
Chúng ta có người đông và
nhiều người giỏi. Trong khoảng Hán, Đường, chúng ta có nhiều nho sĩ học giỏi và
sang làm quan tại Trung quốc như như đời Hán Minh Đế (58-75) có Trương Trọng
làm thai thú quận Kim Thành; đời Hán
Linh Đế, Lý Tiến làm thư ùsử Giao Chỉ năm
187; Lý Cầm; đồng thời với Lý Tiến làm Tư lệ hiệu úy; và Khương Công Phụ
đậu tiến sĩ làm quan đến chức Bình
Chương. Diều này cho thấy tinh thần Hán học đã thịnh hành từ mấy trăm năm trước,
đến đây đã khai hoa kết quả.
Ngày rằm tháng hai niên hiệu
Hội Phong thứ năm (1096), sư Thông Biện
đã trình bày cùng Thái hậu (mẹÏ Lý Nhân Tông) vài nét về lịch sử Phật
giáo Việt Nam. Sư đã đem việc sư Đàm
Thiên (Trung quốc) bàn việc vua Cao Tổ nhà Tùy (589-604) đã xây hơn 150 ngôi
chùa ở Trung Quốc, lại muốn xây chùa ở Giao Châu. Sư Đàm Thiên nói:
Xứ
Giao Châu có đường thông sang Thiên Trúc. Khi mà Phật pháp truyền sang Trung Quốc,
chưa đến Giang Đông, thì người ta đã lập trên hai mươi chế đa (caitya: Linh
Tháp) tại Luy Lâu, và người ta kể có hơn năm trăm tăng sĩ dịch được mười lăm bộ
kinh. Do đó, người ta nói rằng giáo pháp được truyền đến Giao Châu trước Giang
Đông vậy' ( Trầàn Văn Giáp, 46).
Chúng ta có thể nói rằng đời
Hán (202 tr. Tây Lịch- 220 TL), Giao Chỉ là một trong những trung tâm Phật giáo
sớm nhất Trung Hoa và Việt Nam.
Lúc bấy giờ Trung Quốc có hai trung tâm Phật giáo Bành Thành và Lạc Dương ở
phía bắc, còn phương Nam chỉ một trung
tâm Phật giáo Giao Châu .
Nhiều học giả cho rằng buổi
đầu người Việt Nam
sang Trung quốc du học và các nho sĩ Trung quốc sang Giao Châu truyền bá Phật
pháp. Các học giả này sai lầm. Nhìn vào tiểu sử Mâu Bác và Khương Tăng Hội, ta thấy hai vị này
trưởng thành tại Việt Nam
và tốt nghiệp Phật học, tinh thông Hán, Phạn tại Việt Nam. Cộng vào
đó, những Trương Trọng, Lý Tiến, Lý Cầm, Khương Công Phụ, ta thấy nước ta có
nhiều nhân tài do ta đào tạo. Trăm năm trồng người, nguồn gốc văn hóa và giáo dục
đã lớn mạnh từ mấy trăm năm trước nghĩa là từ các đời Hùng Vương.
Về nông nghiệp, nước ta
cũng là một trung tâm sản xuất lúa gạo trong vùng. Theo sách Giao Châu hay Nam
Việt Chí của Tăng Cổn chép năm 877 đã
khen ngợi việc sản xuất lúa gạo ở ta rất có hệ thống :
Đất
Giao Chỉ xưa rất phì nhiêu, xưa có quân trưởng là Lạc hùng, kẻ giúp việc là
Hùng hầu, ruộng gọi là Hùng điền, dân khai khẩn lấy lúa ăn gọi là Hùng dân (Nguyễn
V ăn Siêu, P ĐDC,tr.55)
Nước ta trồng lúa gạo đã
lâu đời, sáu trăm năm trước đời Hán. Theo Lê Quý Đôn, Thiên Trung Ký của Thủy
Kinh Chú chép:
Đất
Tượng Lâm biết cày tính đến nay đã hơn sáu trăm năm, đốt cây trồng lúa cũng như
lề lối của Trung Hoa ( Vân Đài Loại Ngữ
I, tr.486).
Theo Lê Quý Đôn, sách Quảng
Đông Tân Ngữ chép:
Lĩnh Nam có nhiều
thóc tẻ, mà ở Giao Chỉ nhiều nhất. Còn thóc nếp thì ở An Nam có nếp trắng, nếp
vàng, có đến hơn hai mươi giống, họ dùng gạo tẻ nấu cơm và gạo nếp nấu rượu (
Vân Đài Loại Ngữ I ,486.)
Năm 183 tr. Tây lịch, bà Lữ
hậu nắm quyền, cấm xuất cảng kim loại, và đồ điền khí sang Việt Nam, điều này
chứng tỏ nông nghiệp ta phát triển, dân ta giàu sang, yêu thích vàng bạc cho
nên có nhu cầu nhập cảng hàng Trung quốc.
Vì nước ta trồng lúa nhiều
cho nên nhiều trâu bò và nấu nhiều rượu. Khi Lộ Bác Đức đem quân giết Lữ Gia,
ba vị Lạc Hầu đã phải mang ba trăm trâu, sáu ngàn vò rượu và sổ hộ của ba quận
Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam đầu hàng (Ngô Sï Liên, tr.87). Do đây, ta thấy thuyết nói rằng
Nhâm Diên dạy dân ta cày bừa khai khẩn ruộng đất là điều sai lầm.
Theo học giả Wilhelm G.
Solheim II., nước ta là một nước nông nghiệp sớm nhất thế giới, có 15 ngàn năm
trước Tây lịch. Về công nghệ và mỹ thuật,
dân ta rất thiện nghệ trong việc đúc đồng , Giao Châu Ký của Tăng Cổn chép:
Người
Việt đúc đồng làm thuyền. Khi nước thủy
triều xuống thì trông thấy (Nguyễn Văn Siêêu, tr.18 ).
Sách BácVật Chí nói:
Giống
sơn man ở Giao Châu, Quảng Châu gọi là Lý Từ, cung của họ dài hơn một thước,
đúc đồng làm mũi tên, đầu tên bôi thuốc độc, tên trúng vào người nào, người ấy
tất chết. Ngày nay sơn man vẫn dùng cung ấy, hổ báo cũng sợ trốn (Lê Quý Đôn,
Vân Đoài Loại Ngữ I, tr. 438)
Đỉnh cao của việc đúc đồng
và nghệ thuật chạm trỗ tinh vi là trống đồng. Theo học giả W.G. Solheim II, trống đồng là sản phẩm đặc sắc của
Việt Nam,
có tuổi là 3.5000 năm trước Tây lịch.
Trên đây, chúng ta đã
nghiên cứu sơ về văn hóa thời Hùng Vương. Tiếp theo, chúng tôi trình bày hành
chánh đời Hùng vương và mối liên hệ ngoại giao và đất đai giữa Việt Nam và Chiêm
Thành.
Khảo về quốc hiệu nước ta,
Trần Trọng Kim viết:
Nước
Việt Nam
thời Hồng Bàng (2897- 258 tr. Tây lịch), gọi là Văn Lang, đời Thục An Dương
Vương thì gọi là Âu Lạc. Đến đời nhà Tần (246-206 tr.tây lịch?) lược định về
phía nam thì đặt là Tượng Quận. Năm 207,
Triệu Đà đánh được An Dương Vương rồi sáp nhập nước Âu Lạc thành một nước gọi
là Nam
Việt . . .. Sau nhà Hán (202tr. Tây lịch
- 220 sau Tây lịch) dứt nhà Triệu, chia Tượng Quận ra làm ba quận Giao Chỉ,Cửu
Chân và Nhật Nam
( Việt Nam
Sử Lược, 15-37)..
Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi là quyển sách đầu
tiên viết về lịch sử và địa lý nước Việt Nam. Nguyễn Trãi viết:
Vua
trước tiên là Kinh Dương Vương, từ khi bé đã có thánh đức được phong tại VIệt
Nam, tức là tổ đất Bách Việt. Tương truyền nước Việt ta, vua đầu tiên là Kinh
Dương là dòng dõi Viêm Đế xứ Bắc. Cha là Đế Minh đi tuần thú tới Hải Nam, lấy
nàng Vụ tiên nữ, sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục có đức độ một vị thánh minh, vua rất
yêu quý, muốn truyền ngôi. Lộc Tục cố chối từ, nhường cho anh. Vì thế, Đế Minh
phong Lộc Tục ở Việt Nam, tức là Kinh Dương Vương. Hùng vương nối nghiệp, đặt
tên nước Văn Lang, chia nước làm 15 bộ: Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc,
Việt Thường,Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải,Vũ Đình, Hoài Hoan, Cửu Chân, BÌnh
Văn, Tân Hưng, Cửu Đức (Hạ, 731)
Các sách sử ký khác như
sách của Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú cũng
chép 15 bộ nước ta về đời Hùng vương mặc dầu nhiều tài liệu có đôi chút khác
nhau. Tài liệu của Nguyễn Trãi chép sót một bộ là bộ Văn lang kiêm thủ đô. Phan
Huy Chú nói rõ: Chỗ nhà vua ở gọi là nước Văn Lang (24).
Trần Trọng Kim ghi chép 15
bộ như sau:
1.Văn Lang ( Bạch Hạc, Vĩnh
Yên)
2. Châu Diên ( Sơn Tây)
3.Phúc Lộc ( Sơn Tây)
4. Tân Hưng (Hưng Hóa,
Tuyên Quang)
5. Vũ Định ( Thái Nguyên,
Cao Bằng )
6. Vũ Ninh ( Bắc Ninh)
7. Lục Hãi ( Lạng Sơn)
8.Ninh Hải ( Quảng Yên)
9.Dương Tuyền ( Hải Dương)
10.Giao Chỉ ( Hà Nội, Hưng Yên,Nam
Định, Ninh BÌnh)
11. Cửu Chân ( Thanh HóÙa)
12. Hoài Hoan ( Nghệ An)
13.Cửu Đức ( Hà Tĩnh)
14. Việt Thường ( Quảng
Bình, Quảng Trị)
15.Bình Văn (?)
Khi
viết về 15 bộ, Trần Trọng Kim cũng viết
rằng năm tân mão (1109 tr. Tây lịc), đời Thành vương nhà Chu, có nước Việt Thường
ở phía nam xứ Giao Chỉ sai sứ đem chim bạch trĩ sang cống, nhà Chu phải tìm người
thông ngôn mới hiểu được tiếng nói, và ông Chu công lại chế ra xe chỉ nam để
đưa sứ Việt Thường về nước (25)
II. CHIÊM THÀNH VÀ VIỆT NAM LÀ MỘT
Từ thời Hùng Vương, nước
Văn Lang là một quốc gia văn minh và giàu mạnh. có 15 bộ, phía bắc giáp Động
Đình Hồ, phía nam giáp Hồ Tôn. Các sử gia đều bác bỏ ranh giới phía Bác vì quá
xa, không đúng. Ở đây, chúng ta không đề
cập đến các bộ khác, chỉ chú trọng đến bộ Việt Thường, là phần tổ quốc phía
nam, có liên hệ đến Chiêm Thành.
Có hai thuyết khác nhau. Một
thuyết cho rằng Việt Thường là Việt Nam, và nhiều tác giả, học giả theo
thuyết này.
+ Hán Việt Từ Điển của Đáo
Duy Anh định nghĩa Việt Thường và Việt Nam như sau:
Việt Thường
là tên nước ta ngày xưa về đời Hùng Vương, chỉ miền đất từ Thanh hóa vào Nam.. . Việt Nam: tên nước ta. Nguyên nước
ta xưa tên là Việt Thường, từ đời Bắc thuộc gọi là An Nam đến đời Gia
Long góp hai tên cũ mà đặt là An Nam.
+ Sách Sơ HọcVấn Tân là sách giáo khoa Việt Nam dạy trẻ sơ
học có câu:
Kỳ tại bản quốc, cổ hiệu Việt
Thường;
Đường cải An Nam, Hán xưng
Nam Việt.
(Ở nước ta, xưa gọi Việt Thường, nhà Đường đổi làm An Nam, nhà Hán gọi
là Nam Việt)
Nguyễn Trãi trong Dư Địa
Chí ( Ức Trai Tập) cũng theo thuyết này:
Giao thiệp với Bắc triều lần lượt xưng là
Việt Thường, Giao Chỉ, An Nam
( bản QVK, Hạ, 743).
Ngô Sĩ Liên cho rằng đời Chu gọi
Việt Nam
là Việt Thường Thị, tên Việt bắt đầu từ đấy
( Toàn Thư I, 59). Truyện cống chim bạch
trĩ khiến cho Trần Trọng Kim thắc mắc: Vậy đất Việt Thường và đất Giao Chỉ có
phải là đất của Hùng Vương lúc bấy giờ không? (25).
Một số thuyết cho rằng Việt
Thường là Chiêm Thành.
Tự Điển Từ Hải viết:
Việt Thường là tên một nước
Nam man ngày xưa, ở phía nam Giao Chỉ. Truyện Nam Man trong sách Hậu Hán Thư
chép rằng: Phía nam nước Giao Chỉ có nước Việt Thường Khi Chu công lên ngôi, Việt
Thường sai sứ sang cống chim trĩ, phải thông dịch ba lần.
Và định nghĩa Chiêm Thành:
Tên một nước xưa, tức Việt
Thường.
Về phía Chiêm Thành, họ
nghĩ sao? Người Chiêm Thành tự xưng là Việt Thường và nhận truyện cống chim trĩ
đời nhà Chu là của họ.Trong một bài biểu họ
dâng vua Trung Quốc có đoạn:
Thiết dĩ: Việt Thường trùng
dịch văn thịnh đức nhi quy Châu ( Nước Việt Thường dùng nhiều lớp thông dịch, mới
vào chầu Trung Quốc, vì nghe thịnh đứcc của nhà Chu
( Lê Tắc, 137)
Một số tài liệu Việt Nam cũng cho rằng
Việt Thường là Chiêm Thành. Nguyễn Văn Siêu trong Dư Địa Chí, khảo về Chiêm
Thành viết:
Chiêm
Thành: phía đông giáp bể, phía tây đến Vân Nam, phía Nam giáp Chân Lạp, phía bắc
liền An Nam, phía đông bắc đến Quảng Đông. .
. là đất của Việt Thường Thị xưa,
đời Tần là huyện Lâm Ấp, thuộc Tượng Quận,
đời Hán thuộc Tượng Lâm, thuộc quận Nhật Nam ( 82).. . .Thuận thành ( tức Binh Thuận) là dòng giõi còn lại của nước
Chiêm Thành, ngày xưa là Lâm Ấp, là đất họ Việt Thường ngày trước, là huyện Tượng
Lâm quận Nhật Nam nhà Hán (181)
Đời Hùng Vương, nước Việt
Thường đã là một bộ trong nước Văn Lang. Nói rõ hơn, Chiêm Thành và Việt Nam là
một. Khảo về Chiêm Thành, Nguyễn Trãi viết:
Chiêm
Thành xưa là huyện Tượng Lâm, thuộc bộ Việt Thường ta, quận Nhật Nam sau đổi là
Lâm Ấp (Ức Trai tập, hạ, 821).
Nếu thời Hùng Vương, Chiêm
Thành và Việt Nam là một thì biên giới phía nam, Hồ Tôn là nước Phù Nam, sau là
Chân Lạp. Còn khi Chiêm Thành tách ra khỏi Văn Lang, lập thành một mước riêng,
biên giới phía nam là Hồ Tôn, tức Chiêm Thành.
Việc Việt Thường đến chầu
nhà Chu năm tân mão (1109 tr. Tây lịch), cho
thấy Việt Thường là một quốc gia độc lập. Việc liên hiệp trong khối Văn Lang có
thể trước hoặc sau thời này. Hoặc là Chiêm Thành và Việt Nam liên hiệp trong một
thể chế rộng rãi, nghĩa là trong khối Liên hiệp Văn Lang, Việt Thường vẫn có
quyền độc lập ngoại giao. Dẫu sao, đất và dân Việt Thường đã sáp nhập nước Văn
Lang từ lâu. . Thời H ùng
vương, đất đai nước Văn Lang đã đến Hà
Tĩnh, Quảng Bình, vì bên cạnh Hoài Hoan
( Nghệ An), có Cửu Đức ( Hà Tĩnh) và Việt Thường ( Quảng Bình, Quảng Trị).
Các sách sử của ta đều cho
rằng Nghệ An là đất xưa của ta, nhưng theo Phương Đình Nguyễn Văn Siêu, Nghệ An là đất của nưiớc Việt Thường đời Chu,
quận Tượng đời Hán, quận Cửu Đức đời Ngô, quận Nhật Nam đời Tùy, châu Diễn đời
Đường (135).
Tạï sao lại có những ý kiến
khác nhau như thế?
1. Có lẽ cái tên Việt
Thường đã làm cho đa số người lầm lẫn Việt Nam với Việt Thường.
2. Cuộc chiến tranh Chiêm Việt kéo dài hơn 1.600 năm nên
không ai nghĩ đến thời Hùng Vương Chiêm Thành Việt Nam sống chung trong
đại gia đình Văn Lang.
3.Việt Thường ở trong Văn Lang cho nên
Việt Thường cò thể hiểu là Việt Nam.
Có thể chính người Trung Quốc cũng không phân biệt. Vì vậy mà sử Thế giới cũng
như sử Trung Hoa không đề cập đến nguồn gốc Chiêm Thành trước Tần Hán. Có thể họ
biết Việt Thường thuộc Việt Nam
nhưng họ không muốn nói ra. Không có tài liệu nào nói nguồn gốc Chiêm Thành trước
đời Tần, như vậy thuyết của Việt Nam nói Chiêm Thành (Việt Thường)
thuộc Văn Lang là điều đáng tin cậy.
Trong Văn Lang, hai nước
Chiêm Thành và Việt Nam
chung sống hòa bình và thịnh vượng. Mọi sự đổi thay từ khi quân nhà Tần xâm chiếm
Bách Việt. Năm đinh hợi (214 tr. Tây lịch) Tần Thỉ Hoàng sai Đồ Thư đem quân đánh Bách
Việt ( Hồ Nam,
Quảng Đông, Quảng Tây). An Dương Vương hàng phục nhà Tần. Quân Tần chia đất
Bách Việt và Âu Lạc thành ba quận:
- Nam
Hải (Quảng Đông)
- Quế Lâm (Quảng Tây)
- Tượng Quận (Bắc Việt)
Năm canh ngọ (111 tr.Tây lịch)
Hán Vũ Đế sai Lộ Bác Đức và Dương Bộc
đánh nước Nam Việt của Triệu Đà,
cải thành Giao Chỉ bộ, chia thành 9 quận:
1. Nam
Hải ( Quảng Đông)
2. Thương Ngô (Quảng TâÂy)
3. Uất Lâm (Quảng Tây)
4. Hợp Phố ( Quảng Đông)
5. Châu Nhai (đảo Hải Nam)
6. Đạm Nhĩ (đảo Hải Nam)
7. Giao Chỉ( Bắc Việt)
8. Cửu Chân (Trung Việt)
9. Nhật Nam ( Trung Việt)
III. LÂM ẤP ĐỘC LẬP VÀ
CHIẾN TRANH CHIÊM VIỆT
Năm giáp ngọ (34), Trưng
Vương nổi lên và thất bại. Đến cuối đời Hán, năm nhâm dần (102), ở huyện Lâm
Aáp, quận Nhật Nam, Khu Liêu nổi lên lập nước Lâm Ấp, và xưng là Lâm Aáp quốc
vương (Nguyễn Siêu, 83) . Từ đây, Việt Nam và Chiêm Thành chia làm hai. Việt
Nam
bị Trung Hoa đô hộ, còn Lâm Ấp độc lập. Từ dây nước Lâm Âp thường đánh phá nước
ta. Ta có thể chia cuộc chiến tranh Chiêm Việt thành hai giai đoạn:
1.Giai
đoạn I: Từ 102 đến 980: Lâm Ấp tấn công, Việt Nam chịu đựng:
Nước Chiêm Thành ban đầu gọi
là Lâm Ấp, sau gọi là Hoàn quốc. Con cháu của
Khu Liêu thường đánh cướp các quận Nhật Nam, Cửu Chân, gây nên một điều lo
lắng cho Giao Châu. Các thứ sử Giao Châu như Nguyễn Phu, Đỗ Tuệ Độ đã nhiều lần
đánh dẹp. Các vua Lâm Ấp như Phạm Đạt, Phạm Dương Mại chơi trò hai mặt. Họ áp dụng
chính sách sớm đầu tối đánh. Họ cũng biết lối nịnh trên đạp dưới, một mặt họ
triều cống Trung quốc, một mặt cướp phá Giao Châu, khiến cho dân ta luôn sống
trong không khí cướp bóc và chiến tranh. Đời Đường, quan An Nam
đô hộ là Trương Chu đánh bại, họ rút lui về đất Chiêm Nhân nên đổi quốc
hiệu là Chiêm Thành
(
Nguyễn Siêu, 85; Trần Trọng Kim, 55-56).
Tóm lại, từ đời Hán, Chiêm
Thành thường đem quân cướp phá đất Giao Châu ( Giao Chỉ) , trong khi nước ta bị
lệ thuộc Trung quốc, không có binh bị, phải nhờ các quan quân Trung Quốc đánh dẹp,
nhưng người Chiêm Thành luôn luôn tấn công dân Việt, đem lại đau thương cho dân
Việt. Đến khi nước ta độc lập, các vua ta mới tổ chức binh bị để phòng thủ.
2.
Giai đoạn II: Từ 982 đến 1697: Quân Việt Nam phản công.
Năm tân dậu (541), Lý Bôn nổi
lên vì nhận thấy dân ta bị ách đô hộ Trung Quốc lại bị Chiêm Thành cướp phá
ngày đêm. Nhưng Lý Nam
Đế làm vua không được lâu vì quân Trung Quốc sang xâm lấn. Sau Ngô Quyền, Đinh
Bộ Lĩnh nổi lên giành độc lập nhưng không được bao lâu. Kịp khi Lê Hoàn lên
ngôi (980), năm 981 đã đem binh đánh nhà Tống
và năm 982 đánh Chiêm Thành . Kể từ khi Khu Liêu lập quốc đến nay, gần
tám thế kỷ, dân Việt Nam phải chịu đựng bao cuộc tấn công của Chiêm Thành, nay
mới có cuộc tấn công lần thứ nhất để trả lời cho việc Chiêm Thành bắt giam sứ
giả Việt Nam.
Đến khi Lý Thái tổ (
1010-1028) lên ngôi, xây dựng triều chính vững chắc, lập được triều đại lâu
dài, các vua ta mới thực sự bảo vệ được nhân dân khỏi nạn ngoại xâm cả hai phía
bắc nam. Năm giáp thân (1044), vua Thái tông đi đánh Chiêm Thành vì họ không chịu
triều cống và thường xuyên quấy nhiễu mật biển nước ta. Quan ta đánh tan quân
Chiêm tại Ngũ hồ (?) ,tướng Chiêm Thành là Quách Gia Ghi chém vua SạÏ Đẩu xin
hàng. Vua tiến quân vào thành Phật Thệ ( làng Nguyệt Hậu, huyện Hương Thủy, tỉnh
Thừa Thiên, giết nhiều người, bắt về 5.000 người và 30 voi. Vua ban đất đai cho
họ làm ăn. Đời Lý Thánh Tông, năm kỷ dậu (1069), đánh thắng Chiêm Thành, bắt được
Chế Củ. Chế Củ xin dâng đất ba châu là Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính để chuộc tội..
Vua tha cho Chế Củ về nước. Ba châu này nay thuộc Quảng Bình và Quảng Trị.
Chiêm Thành lại sang quấy nhiễu, vua sai Lý Thường Kiệt đánh Chiêm Thành. Năm ất
mão (1075), Lý Thường Kiệt cho người sang ở ba châu mà Chế Củ dâng ngày trước.
Năm quý mùi (1103), quốc vương Chiêm Thành là Chế Ma Na chiếm lại ba châu, sang
năm, Lý Thường Kiệt đem binh sang đòi lại, quân Chiêm Thành thua to , phải trả
lại ba châu..
Từ đấy cho đến hết đời Lý, quân Chiêm vẫn sang quấy nhiễu nước ta. Đến đầu đời Trần,
mối giao hảo giữa hai nước khá thân thiện. Năm tân sửu, (1301), Thượng hoàng (
Nhân Tông ) đi thăm phong cảnh Chiêm Thành, ước gả Huyền Trân công chúa cho Chế
Mân, Chế Mân xin dâng hai châu Ô, Rí làm lễ cưới. Năm 1307, vua Anh Tông thu nhận
hai châu Ô Rí đổi thành Thuận Châu và Hóa Châu.
Một vài sử gia cho rằng Thượng
hoàng sang Chiêm Thành dò thám quân tình. Điều đó là không cần thiết vì thiếu
gì người sai phái mà thượng hoàng phải đem thân vào nơi hiểm nguy. Việc vua
sang Chiêm có lẽ do ý muốn du ngoạn và ngoại giao.
Sau Chế Mân mất, Chế Chí
lên nối ngôi, thường chống đối nước ta. Vì vậy, năm tân hợi
(
1311), vua Anh Tông, Huệ Võ Vương Trần Quốc Chân và Nhân Huệ Vương Trần Khánh
Dư đem ba đạo binh qua đánh Chiêm Thành, bắt Chế Chi đem về phong vương, song
chẳng bao lâu Chế Chí mất. Từ đó, hai nước sinh ra thù hận.. Hễ gặp lúc nước ta
suy đồi, Chiêm Thành cất quân sang đánh phá.
Trần Dụ Tông say mê chơi bời, trong khi đó Chế Bồng Nga là một ông vua
anh hùng. Năm mậu thân (1368), sứ Chiêm Thành sang đòi đất Hóa Châu. Vua Dụ
Tông sang đánh Chiêm Thành, rốt cuộc vua chết trận, Đỗ Tử BÌnh, Hồ Quý Ly chạy
trốn. Năm quý hợi (1388), Chế Bồng Nga đánh Thăng Long nhiều phen như vào chỗ
không người . Vua quan bỏ kinh thành mà chạy saqng Đông Ngạn. Năm canh ngọ
(1390), Chế Bồng Nga bị bắn chết. Chiêm Thành suy yếu từ đây. Năm canh thìn (1400), Hồ Quý Ly lên ngôi, sai tướng
Đỗ Mãn đem quân đánh Chiêm Thành nhưng thất bại. Năm nhâm ngọ (1402), Đỗ Mãn
đem binh lấy đất Chiêm Động ( phủ Thăng BÌnh, Quảng Nam), Cổ Lũy ( Quảng Nghĩa) và đặt
quan cai trị, dân Chiêm ở những nơi này bỏ đi. Năm quý mùi (1304), quân nhà Hố
tiến đánh Đồ Bàn nhưng thất bại. Đến đời Lê, bang giao giữa Việt Nam và Chiêm
Thành có lúc tốt đẹp,có khi gay cấn. Năm bính dần (1446), quân Chiêm thường sang
đánh Hóa Châu, vua Lê sai Lê Thụ, Lê Khả
chiếm thành Đồ Bàn, bắt Bí Cai và lập người cháu là Mã Kha Qui Lai lên làm vua.
Quan trong nhất là khi Lê
Thánh Tông lên ngôi vua Chiêm Thành là Tr à
Toán quấy phá Hóa Châu, đồng thời sang sứ sang nhà Minh cầu viện. Vua Lê Thánh
Tông một mặt cho sứ sang Minh triều giải thích, một mặt đem quân bình Chiêm.
Quân Lê đánh Thi Nại, Đồ Bàn, bắt được Trà Toàn, chiếm đất Đồ Bàn, Đại Chiêm,
và Cổ Lũy lập đạo Quảng Nam, đồng thời cắt
Chiêm Thành làm ba nước là Chiêm Thành, Hóa Anh và Nam Phan. Em Trà Toàn là Trà
Toại trốn vào núi, gửi thư cho vua Minh xin phong vương. Vua Lê Thánh Tông sai
Lê Niệm tiến quân bắt Trà Toại về kinh sư. Vua Minh bắt Thánh Tông trả đất
nhưng ngài không chịu.
Năm mậu ngọ (1558), Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận
Hóa. Từ đây Nguyễn Hoàng phát triển miền Nam.
-Năm canh hợi (1611) Nguyễn
Hoàng đánh Chiêm Thành lập phủ Phú Yên.
-Năm quý tị (1653) vì vua
Chiêm Thành là Bà Thấm đánh Phú Yên, chúa Nguyễn Phúc Tần đánh lấy Phan Rang
trơ ra làm phủ Diên Khánh ( Khánh HòØa), còn từ Phan Rang trở vào thuộc Chiêm.
- Năm quý dậu (1693) vua Chiêm
Thành là Bà Tranh không chịu tiến cống, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu
KÍnh đem binh bắt Bà Tranh và quần thần đem về Phú Xuân, đổi đất Chiêm Thành
làm Thuận Phủ, bắt dân Chiêm mặc y phục Việt Nam.
- Năm đinh sửu ( 1697), đặt phủ Bình Thuận, lấy Phan Rang, Phan Rí làm
huyện Yên Phúc và Hòa Đa. Đến đây Chiêm
Thành mất hẵn.
Tổng kết, dân Việt Nam phải
chịu đựng hơn 800 năm bị Chiêm Thành đánh phá, sau đó phải mất hơn 800 năm để tấn
công và phòng thủ.Thời Hùng Vương, nước ta và Chiêm Thành là một. Đến cuối đời
nhà Hán, nuớc ta bị Trung quốc đô hộ, còn Lâm Ấp độc lập. Đáng lý họ nên sống
hòa bình với dân Việt Nam,
họ lại đánh phá liên miên trong khi Việt Nam ngoại thuộc, không quân lực chống
cự. Đến khi nước ta thoát ách ngoại xâm, Chiêm Thành vẫn không nhường bước. Do
đó các vua ta phải áp dụng chính sách lấy chiến tranh để bảo vệ hòa bình.
Kể từ 892, Lê Đại Hành đem
binh đánh Chiêm Thành lần thứ nhất đến năm
1697 là 805 năm, Chiêm Thành mới
bị tiêu diệt. Bàn về sự kiện này, Trần Trọng Kim viết rất chí lý:
Nước
Lâm Aáp chính là nướ Chiêm Thành ngày trước đã từng qua mấy trăm năm, cùng với
họ Lý, họ Trần đối địch, chống với quân Mông Cổ, không cho xâm phạm vào cõi, lập nên một nước có vua, có tôi, có
chính trị, có luật pháp. Nhưng chỉ hiềm vì người nước ấy cứ hay sang cướp phá ở
đất Việt Nam, thành ra hai nước không mấy hòa thuận được với nhau.
Đã
là đối địch thì không sao tránh khỏi được cái luật chung của tạo hóa là : khỏe
còn, yếu chết. . Vì vậy cho nên từ khi vua Thánh Tông nhà Lê đã lấy đất Quảng
Nam và chia nước Chiêm ra ba nước rồi, thì từ đó về sau thế lực nước ấy mỗi
ngày mỗi kém, dân tình mỗi ngày một suy. Chẳng những là đến nỗi mất nước với
chúa Nguyễn mà chủng loại Chiêm Thành bây giờ cũng chẳng còn được mấy nghìn người
nữa. Một nước như thế, mà nay như thế, dẫu rằng nước ấy đồng hóa với nước ta mặc
lòng, song cũng thương tâm thay cho những nước yếu hèn không tránh khỏi đượccái
họa: cá nhỏ bị cá lớn nuốt (328-329).
Tài
Liệu:
Lê Quý
Đôn. Phủ Biên Tạp Lục I, Lê Xuân Giáo dịch. QVK, Sài gòn, 1972.
Lê Quý
Đôn. Vân Đài Loại Ngữ. Tạ Quang Phát dịch. QVK. Saigòn, 1972.
Lê Tắc. An
Nam
Chí Lược. Đại HọÏc Huế, 1961).
Phan Huy
Chú. Lich Triều Hiến Chương Loại Chí. Dư
Địa Chí. Khoa Hoc XảÕ Hội, Hà Nội,1992.
Ngô Sĩ
Liên. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư I, KHXH, Hà Nội, 1967.
Nguyễn
Siêu. Phương Đình Dư Địa Chí. Ngô Mạnh
Nghinh dich. Tự Do, Sàigòn, 1959.
Nguyễn
Trãi. Dư Địa Chí. Ức Trai Tập, I, II. Hoàng Khôi dịch. Phủ QVK, Sàigon, 1972.
Solheim
II., Wilhelm G. New Light on a forgotten
Past. National Geographic.Vol 139 . No
3, March, 1971.
Trần Văn
Giáp. Phật Giáo Việt Nam.
Van Hạnh. Sai gòn, 1968.
Trần Trọng
Kim, Việt Nam Sử Lược. Tân Việt, Sài gòn, 1958.
(Dòng Việt, số 17, 2005,
222-236)
No comments:
Post a Comment