VIỆT NAM & BIỂN ĐÔNG
Không thể tin cậy được TQ như trước'
Cập nhật: 09:10 GMT - thứ năm, 29 tháng 5, 2014
Media Player
Trả lời BBC Tiếng Việt hôm 26/05
tại Lyon về việc liệu đảng Cộng sản Việt Nam có cần có tiếng nói chính
thức trước công chúng về sự kiện với Trung Quốc, ông Francois Guillemot
nói điều này "rất khó cho ông Nguyễn Phú Trọng".
Chuyên viên của viện Nghiên cứu Đông Á cho rằng
quan hệ hiện nay giữa hai đảng Cộng sản theo dạng 'người anh nói, người
em phải làm' khi yêu cầu của Tổng bí thư Việt Nam gặp đảng Trung Quốc bị
từ chối.
"Theo tôi phản ứng nội bộ của Việt Nam là quá yếu mặc dù ông Nguyễn Tấn Dũng có một số thông điệp mạnh ra bên ngoài.
"Việt Nam cần xem xét lại tình hữu nghị giữa hai
nước là như thế nào, đánh giá lại vai trò của Trung Quốc trong lịch sử
Việt Nam, mà cái này rất phức tạp," tiến sỹ Lịch sử phụ trách kho tài
liệu Việt Nam nói.
"Thời kỳ chiến tranh đã hết rồi nhưng cái nợ về mặt tinh thần vẫn nặng trong đầu não của đảng Cộng sản Việt Nam."
Cuộc phỏng vấn được thực hiện nhân sự kiện thảo
luận về Các vấn đề căng thẳng khủng hoảng giữa Trung Quốc và Việt Nam
tại Viện nghiên cứu Đông Á, Đại học Sư phạm Lyon hôm 24/05.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/multimedia/2014/05/140528_francois_guillemot_noi_ve_dang_cong_san.shtml Với Việt Nam, Biển Đông là sống còn'
Cập nhật: 11:24 GMT - thứ sáu, 30 tháng 5, 2014
Một chuyên viên nghiên cứu địa
chính trị của Viện Nghiên cứu Đông Á (IAO) cho rằng, Trung Quốc còn có
nhiều mối quan tâm khác không chỉ trên Biển Đông mà còn trên Biển Hoa
Đông, trong khi với Việt Nam, Biển Đông là ‘sống còn’.
Ông Laurent Gédéon, chuyên gia về Trung Quốc và
Việt Nam, nhấn mạnh trong toàn bộ cuộc khủng hoảng này, Trung Quốc đã
‘thắng’ vì họ đã làm được những gì họ muốn trên Biển Đông.
“Trong cuộc khủng hoảng bất cân xứng
này, các nước trong khu vực cần tìm tới một đồng minh xa xôi hơn, như
Hoa Kỳ chẳng hạn, quốc gia có thể sẽ chấp nhận tham gia vào mối quan hệ
địa chính trị, và họ cũng là quốc gia duy nhất có thể cân bằng lại với
sức mạnh của Trung Quốc, còn nếu riêng từng nước đơn lẻ trong khu vực
thì không thể đấu lại được,” nhà nghiên cứu nói.
Ông Gédéon cũng cho rằng, sự kiện giữa Crimea và
Nga có mối liên hệ với sự kiện biển Đông, do ‘lãnh đạo’ Trung Quốc đã
theo dõi ‘rất sát’ nhằm đánh giá khả năng phản ứng và hồi đáp của các
quốc gia lớn ở phương Tây, “nhất là Hoa Kỳ, nổi bật là trong vấn đề toàn
vẹn lãnh thổ theo luật pháp quốc tế”.
BBC Tiếng Việt giới thiệu cuộc phỏng vấn với
chuyên gia người Pháp hôm 25/05 tại Lyon, Pháp bên lề cuộc thảo luận về
các vấn đề trong cuộc khủng hoảng căng thẳng Trung – Việt.
Trung Quốc đã 'thắng'
BBC: Phải chăng do vị trí địa lý của Việt Nam với Trung Quốc mà vấn đề tranh chấp lãnh thổ giữa hai nước sẽ không bao giờ giải quyết được?
Tôi cho rằng mâu thuẫn không phải là không thể
tránh được nếu Trung Quốc và Việt Nam đạt được thỏa thuận chung về vùng
nước trong vịnh Bắc Bộ.
Một thỏa thuận chính trị chung giữa Hà Nội và
Bắc Kinh là hoàn toàn có thể và chúng ta có chứng cứ để tin rằng điều
này có thể đạt được.
Về vấn đề lãnh hải trên biển Đông, chúng ta thấy
có sự chồng lấn trong việc tuyên bố lãnh thổ từ phía Trung Quốc và bên
kia là Việt Nam, các tuyên bố này áp dụng lên hai quần đảo Trường Sa và
Hoàng Sa và rộng lớn hơn, là không gian hàng hải.
Như vậy có thể nói đây là một dạng căng thẳng nằm trong căng thẳng chính trị mà không chỉ đơn giản là vấn đề địa lý.
BBC: Điều gì sẽ xảy ra tiếp theo đối với những gì đang diễn ra trên Biển Đông? Việt Nam có lý do để lo lắng không?
Trung Quốc đã chứng tỏ họ có phương tiện để duy
trì sự có mặt của giàn khoan này trong khu vực, bằng cách đưa hơn 80 tàu
thuyền xung quanh để bảo vệ giàn khoan.
Chúng ta cũng có giả thuyết rằng giàn khoan có
thể sẽ được rút đi. Với cách nhìn của tôi thì đây là chiến thắng về mặt
chính trị và chiến thắng về mặt ngoại giao.
Bởi vì nhìn vấn đề một cách khách quan thì từ
năm 1974, quần đảo Hoàng Sa đã chịu chủ quản trực tiếp của Trung Quốc.
Nên một khi Trung Quốc đã đưa giàn khoan vào vùng này rồi kể cả có rút
ra, chủ quyền của họ đối với vùng này là không thay đổi.
Theo ý kiến của tôi, việc này vén màn chiến lược
của Bắc Kinh nhằm trước tiên và đương nhiên là thử phản ứng của các
nước láng giềng với Việt Nam, và xa hơn là của Hoa Kỳ. Thế nên giàn
khoan này có thể chỉ là một bước thử nghiệm.
Với người dân, người Việt vốn vẫn cực kỳ lo lắng
trước Trung Quốc, vì Trung Quốc nhắc họ nhớ tới lịch sử đô hộ, mà nếu
tôi nhớ không nhầm, Việt Nam chỉ độc lập trước Trung Quốc vào năm 939
bằng vũ lực, và sau này vẫn luôn phải đối mặt với ý đồ muốn chiếm lại
Việt Nam từ đế chế Trung Hoa.
Vậy đó là lịch sử cận đại, và ít nhất thì Trung Quốc cũng đã chiếm cứ một số không gian trên biển của Việt Nam.
Nhưng về đe dọa chiến tranh thực sự và mối lo
ngại liên quan trực tiếp đối với Việt Nam và Trung Quốc, tôi nghĩ là rất
ít khả năng xảy ra. Bởi vì theo tôi thì từ cả phía Bắc Kinh và Hà Nội
đều không có ý định đối đầu nhau.
'Tách rời phương Đông'
BBC: Dưới áp lực nào thì giới lãnh đạo Việt Nam thấy họ buộc phải đổi mới?
Chúng ta chỉ có thể đưa ra các giả thuyết, tuy
nhiên Hà Nội vẫn thường xuyên đánh giá mối đe dọa từ Trung Quốc và khả
năng Việt Nam có thể đối phó với các đe dọa của Trung Quốc.
Cũng có áp lực từ nội bộ, khi mà đảng Cộng sản
phải bảo vệ vị trí và vai trò dẫn dắt của mình trong toàn cảnh chính trị
Việt Nam. Tôi cho rằng cần có sự cân bằng trong việc đưa ra các quan
điểm chính trị từ phía chính phủ và Đảng.
Từ phía đảng Cộng sản cần phải giữ vững quan
điểm chính trị quốc gia và các biện pháp chống lại áp lực từ Trung Quốc.
Và câu trả lời cũng nằm ở việc họ cân bằng áp lực này như thế nào.
Nếu áp lực của Trung Quốc ngày càng lớn, đây chỉ
là một giả thuyết, và Việt Nam vẫn thấy mình đơn độc trong việc đối đầu
với Trung Quốc, và thấy cần thiết phải tìm tới các đối tác mạnh mẽ
khác, chẳng hạn như Hoa Kỳ.
Nhưng lúc đó Việt Nam sẽ ở vào vị trí phải
thương lượng với người Mỹ, mà một khía cạnh có lẽ chắc chắn được đề cập
tới là nhân quyền và sự minh bạch trong chính trị Việt Nam.
Với cách làm này thì điều sống còn là Đảng Cộng
sản Việt Nam phải tách rời phương Đông thêm một chút, và chấp nhận cởi
mở nền chính trị vốn đang giữ kẽ với Hoa Kỳ.
Như thế có nghĩa là Hoa Kỳ đã bày tỏ ý kiến
rằng, chúng tôi chỉ trao vũ khí cho các anh để phòng ngự khi các anh
chấp nhận tiến trình dân chủ.
...Theo cách nhìn khách quan, ta có thể thấy có
nhu cầu cần phải tìm được sự cân bằng này. Nếu không, Việt Nam có thể sẽ
gặp rắc rối trong chính trị nội bộ.
BBC: Ông từng nói sự kiện Crimea và Nga cũng liên quan tới vấn đề Biển Đông?
...Cụ thể trong trường hợp Crimea, tôi nghĩ là
Bắc Kinh đã cực kỳ chú ý tới sự kiện này. Đặc biệt là những người đứng
đầu Trung Quốc đã đánh giá khả năng phản ứng và đáp trả của các nước lớn
ở phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ, trong vấn đề toàn vẹn lãnh thổ theo
luật pháp quốc tế.
Tôi nghĩ là sự thiếu câu trả lời trực tiếp và
hiệu quả đối với Crimea từ Hoa Kỳ - vì Nga đã dùng tới biện pháp chính
trị sự đã rồi – và tới thời điểm này, vẫn chưa có các biện pháp giữ toàn
vẹn lãnh thổ, khiến lãnh đạo Bắc Kinh suy nghĩ.
...Cùng lúc đó, chúng ta có thể thấy với sự kiện
biển Đông, việc thiếu câu trả lời của Hoa Kỳ trong vụ Crimea có thể chỉ
dấu cho Trung Quốc rằng họ có thể dùng tới chút vũ lực, họ có thể dùng
kiểu chính trị sự đã rồi vì Mỹ sẽ phản ứng lại một cách hạn chế.
Và chúng tôi tự hỏi, liệu giàn khoan đưa ra nhằm
mục đích chắc chắn là thử Việt Nam nhưng có phải cũng là để xem khả
năng phản ứng và đáp trả của Hoa Kỳ đối với các sự việc về không gian
lãnh thổ theo kiểu này.
THƯ KHẨN CẤP CỦA TRÍ THỨC VIỆT NAM
Trí thức Việt Nam gửi thư ngỏ về tình hình khẩn cấp của đất nước
Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 gần quần đảo Hoàng Sa
30.05.2014
Hơn một trăm nhà trí thức Việt Nam vừa ra thư ngỏ gửi đến đồng bào
trong và ngoài nước cùng các đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam, bày tỏ
quan tâm về “tình thế hiểm nghèo khi chủ quyền quốc gia bị xâm phạm”,
tiếp theo sau những sự cố dồn dập xảy từ đầu tháng Năm, trong cuộc tranh
chấp với Trung Quốc ở Biển Đông.
Trang mạng boxit.com đăng bức thư ngỏ có chữ ký của nhiều trí thức cả
trong lẫn ngoài nước. Trên danh sách này có tên nhiều nhà hoạt động, nhà
văn nhà thơ, nhà báo và một số đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam. Danh
sách này còn có chữ ký của một số lãnh đạo tôn giáo và quân đội, trong
đó có Thiếu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh.
Bức thư ngỏ tố cáo mưu đồ lấn chiếm Biển Đông và “hành vi xâm lược bằng
vũ lực, ngang nhiên vi phạm luật pháp và các cam kết quốc tế” mà Trung
Quốc đã ký kết.
Bức thư ngỏ này được soạn thảo bởi nhóm trí thức đã khởi xướng kiến nghị
72 và ký tuyên bố quyền thực thi quyền chính trị và dân sự.
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho Ban Việt ngữ-VOA, một trong những
người đã ký vào thư ngỏ, Tiến sĩ Nguyễn Quang A, cho biết thông điệp
chính của lá thư ngỏ này:
“Cái thông điệp nổi bật là phải dứt bỏ 4 tốt và 16 chữ vàng, mối quan hệ lệ thuộc vào Trung Quốc, đấy là cái thứ nhất. Thứ hai là, chỉ có xây dựng một hệ thống dân chủ thực sự, một nền dân chủ và một nền pháp trị thực sự, tức là không còn độc đảng, không còn toàn trị thì Việt Nam mới có cơ chống ngoại xâm, bởi vì Việt Nam hiện bây giờ đang trơ trọi, tuy rằng trong nước, Tivi vẫn nói rằng nhân dân thế giới ủng hộ, nhưng mà thực sự là bất chấp sự kêu gọi của ông Thủ Tướng, những nước mà lên tiếng mạnh mẽ cũng chỉ nói một cách chiếu lệ mà thôi bởi vì một nước độc đảng, một chế độ độc tài khó mà thuyết phục được những người khác làm bạn.”
Tiến sĩ Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu IDS và từng là Chủ tịch Hội Tin Học Việt Nam, nói rằng đã đến lúc Đảng Cộng Sản Việt Nam nên gạt sang một bên 16 chữ vàng và 4 chữ tốt trong quan hệ với Trung Quốc.
Nhưng liệu tình hình thực tế trong nước đã chín muồi cho các đảng chính trị khác sẵn sàng hoạt động hay chưa, Tiến sĩ Nguyễn Quang A nói:
“Tôi nghĩ rằng nếu mà người dân thúc ép và bản thân những người cầm quyền cũng hiểu được điều đấy và có một thay đổi về mặt pháp luật, hợp thức hóa các đảng chính trị khác hoạt động thì tôi nghĩ rất là nhanh chóng họ có thể tự tổ chức được, chứ không có gì là quá khó khăn cả.”
Bức thư ngỏ nói chính quyền Việt Nam vẫn trấn áp các cuộc biểu tình khi người dân muốn bày tỏ ý chí muốn bảo vệ chủ quyền quốc gia và chống xâm lược trước dã tâm muốn thôn tính Biển Đông của Bắc Kinh.
Nhóm khởi xướng bức thư ngỏ nói rằng tình hình nguy hiểm hiện nay là một thách thức, nhưng có thể là “một cơ hội lớn cho dân tộc chấn hưng theo con đường dân tộc và dân chủ”.
Bức thư kêu gọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước hãy đoàn kết và kiên quyết đấu tranh để bảo vệ độc lập và chủ quyền quốc gia.
http://www.voatiengviet.com/content/tri-thuc-viet-nam-gui-thu-ngo-ve-tinh-hinh-khan-cap-cua-dat-nuoc/1925947.html
Việt Nam : Giới nhân sĩ trí thức ra thư ngỏ về tình hình Biển Đông
Biểu tình phản đối Trung Quốc ở Sài Gòn, 18/05/2014
REUTERS
Bức « Thư ngỏ về tình hình khẩn cấp của đất nước » cho
rằng vụ Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương 981 ở thềm lục địa và vùng
đặc quyền kinh tế của Việt Nam, xâm hại tàu, thuyền của ngư dân và tàu
công vụ của Việt Nam là « hành vi xâm lược bằng vũ trang » và là « một bước leo thang mới rất nguy hiểm của thế lực bành trướng Trung Quốc trong mưu đồ lấn chiếm Biển Đông ».
Các tác giả bức thư ngỏ bày tỏ sự bất bình trước việc Ban chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam trong phiên họp vừa qua đã không « lên án, phân tích và đề ra đối sách chống lại mưu đồ và hành động xâm lược mới của thế lực bành trướng Trung Quốc
». Họ cũng bất bình trước việc chính quyền tiếp tục trấn áp các cuộc
biểu tình ôn hòa của người dân Việt Nam phản đối Trung Quốc.
Tuy vậy, các tác bức thư ngỏ hoan nghênh tuyên bố của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng rằng « Việt Nam nhất định không chịu đánh đổi chủ quyền thiêng liêng để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó ». Theo họ, tuyên bố này là thể hiện « đúng ý chí của nhân dân ta ».
Nhưng để có thể tập hợp, đoàn kết dân tộc và thu hút được sự đồng
tình, ủng hộ mạnh mẽ của quốc tế, để có đủ sức mạnh bảo vệ và phát triển
đất nước, các tác giả thư ngỏ kêu gọi « những nhân tố tích cực » trong giới cầm quyền cùng với nhân dân «
thúc đẩy cải cách chính trị, chuyển đổi thể chế từ toàn trị sang dân
chủ một cách ôn hòa, gắn với cải cách kinh tế, văn hóa, giáo dục ».
Trả lời phỏng vấn RFI, một trong những người ký tên vào thư ngỏ, nhà
nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân từ Huế nên lên suy nghĩ của ông :
Để ký tên xin ghi rõ: (1) họ tên; (2) nghề nghiệp; (3) địa chỉ cư trú (mức thành phố, tỉnh); (4) nước nơi đang cư trú; và gửi về địa chỉ thungovn2014@gmail.com
Thư ngỏ về tình hình khẩn cấp của đất nước
* Để ký tên xin ghi rõ: (1) họ tên; (2) nghề nghiệp; (3) địa chỉ cư trú (mức thành phố, tỉnh);
(4) nước nơi đang cư trú; và gửi về địa chỉ thungovn2014@gmail.com
29-05-2014
Kính gửi đồng bào Việt Nam ở trong nước và nước ngoài,
cùng toàn thể các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
Từ đầu tháng 5 năm 2014, Trung Quốc huy động nhiều loại tàu, đặc biệt là
tàu vũ trang, tàu quân sự và cả máy bay yểm trợ cho việc đặt trái phép
giàn khoan Hải Dương 981 tại vị trí ở sâu trong thềm lục địa và vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam, xâm hại tàu, thuyền của ngư dân và tàu công
vụ của Việt Nam hoạt động ở vùng biển này. Đó là hành vi xâm lược bằng
vũ lực, ngang nhiên vi phạm luật pháp và các cam kết quốc tế mà chính
Trung Quốc đã ký kết, đánh dấu một bước leo thang mới rất nguy hiểm của
thế lực bành trướng Trung Quốc trong mưu đồ lấn chiếm Biển Đông, xâm
phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, uy hiếp chủ quyền của một số
nước khác tiếp giáp Biển Đông và đe dọa trực tiếp hòa bình, an ninh, an
toàn hàng hải trong khu vực. Hành động này, cùng với thái độ ngoan cố,
xuyên tạc sự thật trước sự phản đối của dư luận quốc tế, đã phơi trần dã
tâm bành trướng của nhà cầm quyền Trung Quốc, phản bội quan hệ hữu nghị
giữa nhân dân hai nước Việt-Trung.
Tình thế hiểm nghèo khi chủ quyền quốc gia bị xâm phạm đòi hỏi phải phân
tích, dự báo diễn biến và có đối sách chủ động ứng phó. Trách nhiệm này
được đặt ra trước hết cho cơ quan lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam
(ĐCSVN), đảng đang cầm quyền. Mấy ngày sau khi Trung Quốc đặt giàn
khoan, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI của ĐCSVN đã
họp trong 7 ngày (từ 8/5 đến 14/5 năm 2014) song không đáp ứng yêu cầu
nêu trên. Phát biểu khai mạc và bế mạc của Tổng Bí thư Đảng CSVN cũng
như thông báo của Hội nghị khi kết thúc đều không lên án, phân tích và
đề ra đối sách chống lại mưu đồ và hành động xâm lược mới của thế lực
bành trướng Trung Quốc. Như vậy, khi đất nước đối mặt với nguy cơ lớn,
Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN, trước hết là Tổng Bí thư và Bộ Chính trị
đã buông lơi trách nhiệm của mình đối với nước, với dân.
Trước dã tâm của nhà cầm quyền Trung Quốc, nhân dân muốn bày tỏ ý chí
chống xâm lược, bảo vệ chủ quyền quốc gia, nhưng các cuộc biểu tình ôn
hòa trong mấy năm qua đều bị nhà cầm quyền trấn áp. Sau “vụ giàn khoan,”
các cuộc biểu tình yêu nước của dân vẫn không được chính quyền ủng hộ,
mà còn dùng nhiều hình thức ngăn trở, phá đám nên không đạt quy mô và
hiệu quả thể hiện đúng sự phẫn nộ và đoàn kết của 90 triệu dân Việt
trước kẻ xâm lăng. Nghiêm trọng hơn nữa là sự mất cảnh giác và tình
trạng đột ngột tê liệt đến khó hiểu của nhà cầm quyền và các lực lượng
an ninh để cho những phần tử xấu chen vào các cuộc biểu tình kích động
bạo động phá hoại ở một số nơi, gây thiệt hại cho một số doanh nghiệp
nước ngoài, cho nền kinh tế và cho uy tín quốc gia. Dư luận chưa được
biết chính xác ai đứng sau những vụ kích động có chủ đích này, song thấy
rõ một điều là nhà cầm quyền Trung Quốc đã lập tức thổi phồng những
cuộc bạo động này để làm mờ hành vi xâm lược ở Biển Đông và bôi xấu hình
ảnh Việt Nam. Các cấp chính quyền nước ta trong khi trợ giúp các doanh
nghiệp bị thiệt hại, trấn an các nhà đầu tư nước ngoài, lại lấy các sự
cố đó làm cớ để ngăn chặn nhân dân tiếp tục biểu tình phản đối Trung
Quốc xâm lược.
Tình thế hiểm nghèo của đất nước hiện nay vừa thách thức nghiêm trọng,
vừa tạo cơ hội lớn cho dân tộc ta chấn hưng đất nước theo con đường dân
tộc và dân chủ, trước hết là giải tỏa nhận thức mơ hồ về thế lực bành
trướng Trung Quốc, thấy rõ sự xâm nhập, lũng đoạn bằng nhiều thủ đoạn
tinh vi và thâm độc của thế lực này trên nhiều mặt mà nước ta phải phấn
đấu để thoát khỏi sự phụ thuộc, xây dựng quan hệ láng giềng hòa bình,
hữu nghị trên cơ sở tự chủ, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.
Dư luận xã hội ghi nhận và ủng hộ những quan điểm và hành động tích cực trong thời gian gần đây của không ít người có trách nhiệm trong bộ máy cầm quyền ở các ngành, các cấp trước mưu đồ bành trướng của Trung Quốc. Trong những biểu hiện đó, nổi lên lời phát biểu của Thủ tướng tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN họp ngày 11-5, tại hội nghị Diễn đàn kinh tế thế giới khu vực Đông Á ngày 22-5, đặc biệt là lời khẳng định “Việt Nam nhất định không chịu đánh đổi chủ quyền thiêng liêng để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó”, thể hiện đúng ý chí của nhân dân ta.
Dư luận xã hội ghi nhận và ủng hộ những quan điểm và hành động tích cực trong thời gian gần đây của không ít người có trách nhiệm trong bộ máy cầm quyền ở các ngành, các cấp trước mưu đồ bành trướng của Trung Quốc. Trong những biểu hiện đó, nổi lên lời phát biểu của Thủ tướng tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN họp ngày 11-5, tại hội nghị Diễn đàn kinh tế thế giới khu vực Đông Á ngày 22-5, đặc biệt là lời khẳng định “Việt Nam nhất định không chịu đánh đổi chủ quyền thiêng liêng để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó”, thể hiện đúng ý chí của nhân dân ta.
Tình hình hiện nay đòi hỏi và tạo cơ sở cho các cán bộ, đảng viên trung
thành với tâm nguyện vì dân vì nước cùng với nhân dân vạch rõ và đấu
tranh không khoan nhượng chống lại những quan điểm và thái độ nhu nhược
đối với kẻ xâm lược, dùng bạo lực, lừa mị đối với dân, lo mất chức quyền
hơn mất nước của một số người lãnh đạo ở cơ quan Trung Ương và các cấp,
đặc biệt là những kẻ có quan hệ mờ ám với nhà cầm quyền Trung Quốc.
Những nhân tố tích cực trong giới cầm quyền cần thoát khỏi sự khống chế
và kìm hãm lâu nay, gắn bó mật thiết với dân để cùng nhân dân thúc đẩy
cải cách chính trị, chuyển đổi thể chế từ toàn trị sang dân chủ một cách
ôn hòa, gắn với cải cách kinh tế, văn hóa, giáo dục, đưa đất nước ra
khỏi cuộc khủng hoảng toàn diện và sâu sắc hiện nay, mở ra một trang mới
trong lịch sử dân tộc. Chỉ có như vậy chúng ta mới tập hợp, đoàn kết
được toàn dân tộc và thu hút được sự đồng tình, ủng hộ mạnh mẽ của nhân
loại tiến bộ để có đủ sức mạnh bảo vệ và phát triển đất nước.
Không một thủ đoạn lừa bịp, hăm dọa hay bạo lực nào từ bên ngoài có thể khuất phục được ý chí bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta!
Không một sự lừa mị, một hành động trấn áp nào có thể lung lạc được tinh thần yêu nước của nhân dân!
Chúng tôi tin tưởng rằng cuộc đấu tranh nêu trên của những đảng viên vì nước vì dân của Đảng CSVN sẽ được nhân dân nhiệt tình ủng hộ, góp sức. Mọi người Việt Nam hãy đồng lòng kiên quyết đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia bằng nhiều hình thức thể hiện rõ tính chính nghĩa và nhân văn, hết sức cảnh giác trước những thủ đoạn kích động của thế lực bành trướng Trung Quốc và tay sai, hết lòng cổ vũ, hỗ trợ các chiến sĩ bảo vệ biển đảo và ngư dân bám biển, đồng thời góp phần tích cực thúc đẩy cải cách chính trị, xây dựng nền dân chủ và pháp trị thực sự, đổi mới và phát triển kinh tế, văn hóa để bảo vệ chủ quyền, đưa đất nước thoát khỏi lệ thuộc và tụt hậu.
Không một sự lừa mị, một hành động trấn áp nào có thể lung lạc được tinh thần yêu nước của nhân dân!
Chúng tôi tin tưởng rằng cuộc đấu tranh nêu trên của những đảng viên vì nước vì dân của Đảng CSVN sẽ được nhân dân nhiệt tình ủng hộ, góp sức. Mọi người Việt Nam hãy đồng lòng kiên quyết đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia bằng nhiều hình thức thể hiện rõ tính chính nghĩa và nhân văn, hết sức cảnh giác trước những thủ đoạn kích động của thế lực bành trướng Trung Quốc và tay sai, hết lòng cổ vũ, hỗ trợ các chiến sĩ bảo vệ biển đảo và ngư dân bám biển, đồng thời góp phần tích cực thúc đẩy cải cách chính trị, xây dựng nền dân chủ và pháp trị thực sự, đổi mới và phát triển kinh tế, văn hóa để bảo vệ chủ quyền, đưa đất nước thoát khỏi lệ thuộc và tụt hậu.
Chúng tôi mong nhận được sự đồng tình, hưởng ứng của đồng bào ở trong và ngoài nước cùng với nhiều đảng viên ĐCSVN, thể hiện trước hết bằng việc ký thư ngỏ này và vận động nhiều người khác tham gia.*
Những người ký tên đầu tiên
Phạm Xuân Yêm, nguyên Giám đốc Nghiên cứu Khoa học (CNRS), Đại học Pierre et Marie Curie, Paris, Pháp
Nguyễn Đắc Xuân, nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử, Huế
Tô Nhuận Vỹ, nhà văn, Huế
Nguyễn Trọng Vĩnh, Thiếu tướng, Hà Nội
J.B Nguyễn Hữu Vinh, kỹ sư, blogger, nhà báo tự do, Hà Nội
Dương Tường, nhà thơ – dịch giả, Hà Nội
Hoàng Minh Tường, nhà văn, Hà Nội
Trần Thị Tươi, làm biên tập website, TP HCM
Hoàng Tụy, GS, Viện Toán học, Hà Nội
Nguyễn Đức Tùng, M.D., Canada
Vũ Quốc Tuấn¸ nguyên trợ lý Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hà Nội
Tô Văn Trường, TS, chuyên gia tài nguyên nước và môi trường, TP HCM
Nguyễn Trung, nguyên trợ lý cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội
Phạm Đình Trọng, nhà văn, TP HCM
Nguyễn Thị Khánh Trâm, nghiên cứu viên về văn hóa, TP HCM
Phạm Toàn, nhà giáo nghỉ hưu, Hà Nội
Nguyễn Minh Tịnh, Australia
Phan Văn Thuận, Giám đốc công ty TNHH Phú An Định, TP HCM
Nguyễn Thị Thu, cán bộ nghỉ hưu, TP HCM
Đào Tiến Thi, ThS, nhà giáo, nhà văn, nhà nghiên cứu ngôn ngữ, Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội
Lê Thân, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên cán bộ phong trào đấu tranh của nhân dân, sinh viên, học sinh tranh thủ dân chủ Thành phố Đà Lạt, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP HCM
JM. Lê Quốc Thăng, linh mục Tổng Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
Trần Minh Thảo, viết văn, Bảo Lộc, Lâm Đồng
Trần Quang Thành, nhà báo, Slovakia
Antôn Lê Ngọc Thanh, linh mục Dòng Chúa Cứu Thế, Tổng Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
Thân Hải Thanh, nguyên Tổng Giám đốc Benthanhtourist, TP HCM
Trần Thị Băng Thanh, nghiên cứu văn học cổ Việt Nam, Hà Nội
Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, TP HCM
Trần Công Thạch, nhà giáo nghỉ hưu, Sài Gòn
Nguyễn Hữu Tế, TP HCM
Bùi Ngọc Tấn, nhà văn, Hải Phòng
Đào Xuân Sâm, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hà Nội
Trần Ngọc Sơn, kỹ sư, Pháp
Tô Lê Sơn, kỹ sư cơ khí, TP HCM
André Menras Hồ Cương Quyết, cựu tù chính trị chế độ cũ, Cộng hòa Pháp
Bùi Minh Quốc, nhà báo, nguyên Tổng Biên tập tạp chí Lang Bian, Đà Lạt
Nguyễn Đăng Quang, Đại tá, nguyên cán bộ Bộ Công an, Hà Nội
Đặng Bích Phượng, đã nghỉ hưu, Hà Nội
Hiền Phương, nhà văn, TP HCM
Huỳnh Sơn Phước, nhà báo, nguyên thành viên IDS, Hội An
Hà Sĩ Phu, TS, nhà văn tự do, Đà Lạt
Nguyễn Hữu Châu Phan, nhà nghiên cứu, Huế
Nguyễn Văn Nhượng, kỹ sư, Thụy Sĩ
Hồ Ngọc Nhuận, nguyên Chủ bút nhật báo Tin Sáng Sài Gòn, TP HCM
Nguyễn Quang Nhàn, cán bộ công đoàn hưu trí, Đà Lạt
Nguyễn Thái Nguyên, TS, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, Hà Nội
Trần Đức Nguyên, nguyên Trưởng ban Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hà Nội
Nguyễn Đình Nguyên, TS, Australia
Hạ Đình Nguyên, hưu trí, TP HCM
Nguyên Ngọc, nhà văn, Hội An – Hà Nội
Nguyễn Xuân Nghĩa, TS, giảng viên, TP HCM
Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP HCM
Trần Tố Nga, nhà giáo về hưu, Huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh của Pháp, hiện sống ở Paris
La Thi Nga, sinh viên, CHLB Đức
Ngô Minh, nhà thơ, Huế
Phạm Gia Minh, TS Kinh tế, Hà Nội
GBt. Huỳnh Công Minh, linh mục Tổng Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
Phan Đắc Lữ, nhà thơ, TP HCM
Lê Thăng Long, kỹ sư, TP HCM
Mai Thái Lĩnh, nhà giáo nghỉ hưu, nhà nghiên cứu độc lập, Đà Lạt, Lâm Đồng
Hồ Uy Liêm, PGS TS, nguyên quyền Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội
Cao Lập, hưu trí, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Giám đốc Làng Du lịch Bình Quới – Saigontourist
Võ Thị Lan, cán bộ hưu trí (Công an TP- HCM), TP HCM
Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải, nguyên Phó Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, TP HCM
Trần Minh Khôi, kỹ sư điện toán, Đức
Vũ Trọng Khải, chuyên gia độc lập về phát triển nông thôn, TP HCM
Hoàng Hưng, nhà thơ, nhà báo tự do, TP HCM
Hà Thúc Huy, PGS TS, giảng dạy đại học, TP HCM
Nguyễn Thế Hùng, GS TS ngành Thủy lợi, Phó Chủ tịch Hội Cơ học Thủy khí Việt Nam, TP Đà Nẵng
Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục giáo phận Vinh
Tô Hòa, nguyên Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP HCM
Nguyễn Xuân Hoa, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin, nguyên Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Huế
Hồ Hiếu, cựu tù Côn Đảo, nguyên chánh văn phòng Ban Dân vận Thành ủy, TP HCM
Phạm Duy Hiển, GS, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
Phạm Duy Hiển, kĩ sư, đã nghỉ hưu, Bà Rịa – Vũng Tàu
Vũ Sinh Hiên, nhà nghiên cứu, TP HCM
Nguyễn Công Hê, TP HCM
Nguyễn Thị Thanh Hằng, dược sĩ, Pháp
Võ Thị Hảo, nhà văn, Hà Nội
Đặng Thị Hảo, TS, Hà Nội
Nguyễn Gia Hảo, chuyên gia tư vấn (Kinh tế đối ngoại) độc lập, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Chính phủ (Võ Văn Kiệt), trọng tài viên Trung tâm Trọng tài (Thương mại) Quốc tế Việt nam (VIAC), Hà Nội
Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Hà Nội
Nguyễn Tất Hanh, họa sĩ, nhà thơ, hội viên Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hải Phòng
Phạm Bá Hải, Ths Kinh tế, Sài Gòn
Đặng Hạ, lão thành cách mạng, đã nghỉ hưu, Hà Nội
Lê Minh Hà, nhà văn, Đức
Lê Công Giàu, nguyên Tổng Thư ký Tổng hội Sinh viên Sài Gòn 1966, nguyên Giám đốc Trung Tâm xúc tiến thương mại đầu tư, TP HCM
Nguyễn Ngọc Giao, nhà giáo về hưu, Pháp
Nguyễn Hoàng Giao, nghiên cứu sinh tại Đại học Macquarie, Australia
Trần Tiến Đức, nhà báo, đạo diễn truyền hình, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục – Truyền thông Ủy ban Quốc gia Dân số và Kế hoạch hóa Gia đình, Hà Nội
Lê Mạnh Đức, hưu trí, TP HCM
Huy Đức, nhà báo độc lập, TP HCM
Uông Đình Đức, kỹ sư cơ khí đã nghỉ hưu, TP HCM
Phạm Ngọc Đăng, GS TSKH, Nhà giáo Nhân dân, Hà Nội
Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, TP HCM
Nguyễn Đức Dương, nghiên cứu tiếng Việt, cán bộ nghỉ hưu, TP HCM
Lê Đăng Doanh, TS Kinh tế, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ Tướng, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
Doãn Mạnh Dũng, kỹ sư Khai thác Vận tải biển, Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hội Biển TP HCM, TP HCM
Hoàng Dũng, PGS TS, Đại học Sư phạm TP HCM, TP HCM
Nguyễn Xuân Diện, TS Ngữ văn, Hà Nội
Nguyễn Trung Dân, nhà báo, TP HCM
Phạm Công Cường, TS Hóa học, nguyên giảng viên Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, cán bộ Viện Nghiên cứu Năng lượng Nguyên tử Quốc gia, Hà Nội
Tiêu Dao Bảo Cự, nhà văn tự do, Đà Lạt
Ngô Thị Kim Cúc, nhà văn, nhà báo, TP HCM
Tống Văn Công, nguyên Tổng Biên tập báo Lao Động, TP HCM
Nguyễn Kim Chung, giáo viên dạy toán đã về hưu, TP HCM
Nguyễn Phương Chi, biên tập viên chính, nguyên Phó phòng Tạp chí Nghiên cứu văn học, Viện Văn học, Hà Nội
Nguyễn Huệ Chi, GS, Hà Nội
Huỳnh Ngọc Chênh, nhà báo, Sài Gòn
Nguyễn Văn Binh, nguyên dân biểu Quốc hội Sài Gòn, TP HCM
Nguyễn Thị Hoàng Bắc, nhà giáo, nhà văn, Hoa Kỳ
Trần Ngọc Báu, nghỉ hưu, Thuỵ Sĩ
Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng thư ký Hội Trí thức, TP HCM
Nguyễn Quang A, TS, nguyên Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
* Để ký tên xin ghi rõ: (1) họ tên; (2) nghề nghiệp; (3) địa chỉ cư trú (mức thành phố, tỉnh); (4) nước nơi đang cư trú; và gửi về địa chỉ thungovn2014@gmail.com
TIN VIỆT NAM & BIỂN ĐÔNG
VN xích lại gần cựu thù Hoa Kỳ, Nhật Bản giữa lúc tranh chấp Biển Đông leo thang
Tàu Việt Nam và Trung Quốc gần giàn khoan Hải Dương 981 Trung Quốc hạ đặt gần quần đảo Hoàng Sa
Theo bản tin của tờ South China Morning Post, những giải pháp của Hà Nội
bị hạn chế giữa lúc họ đang cố gắng lôi kéo sự chú ý của quốc tế, và
cùng lúc không muốn phương hại tới quan hệ với nước láng giềng khổng lồ
Trung Quốc, một đối tác quan trọng về ý thức hệ và kinh tế.
Tờ báo dẫn lời Giáo sư Li Ming jiang của Đại học Quan hệ Quốc tế
Singapore, nói rằng trong ngắn hạn Việt Nam và Hoa Kỳ có khả năng tăng
cường hợp tác quân sự. Nhưng về lâu về dài, các vấn đề như tình hình
nhân quyền tại Việt Nam sẽ ngăn cản nỗ lực tạo dựng một quan hệ đối tác
bền chặt hơn.
Việt Nam cũng đang chuẩn bị chung kết một thỏa thuận để Việt Nam nhận
thêm tàu tuần tiễu của Nhật. Thủ Tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã lên tiếng
ủng hộ Hà Nội trong một cuộc phỏng vấn dành cho tờ The Wall Street
Journal mới đây.
Sáng thứ Sáu, Thủ Tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã rời Nhật Bản lên đường
sang Singapore để dự hội nghị an ninh ba ngày. Theo dự kiến, tại đây ông
sẽ đưa ra hình ảnh một nước Nhật như một lực đối trọng với sức mạnh
đang tăng của Trung Quốc trong khu vực.
Các hãng tin AFP, Kyodo và AP tường thuật rằng trong một bài diễn văn
quan trọng đọc vào tối hôm nay, Thủ Tướng Abe sẽ vạch ra viễn kiến của
ông về những gì mà Nhật Bản có thể đóng góp cho nền hòa bình toàn cầu.
Các giới chức Nhật cho biết tại hội nghị Singapore, Thủ Tướng Abe cũng
sẽ giải thích vì sao Nhật Bản đang tái xét những hạn chế về pháp lý đã
được áp đặt bởi Hiến Pháp chủ hòa của nước ông, trong bối cảnh tình hình
an ninh đang thay đổi.
Thủ Tướng Abe sẽ gặp Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Chuck Hagel hôm nay, thứ Sáu, trong khi Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Onodera sẽ gặp Bộ trưởng Hagel vào ngày thứ Bảy.
Các cuộc họp cấp cao diễn ra giữa lúc trong nội địa Nhật Bản đang có tranh cãi gay gắt hơn về liệu Nhật Bản có nên hành xử quyền tự vệ, và sửa đổi chính sách chủ hòa của Nhật Bản sau thời chiến, hay không.
Các động thái của Nhật Bản nhằm tháo gỡ các hạn chế để có khả năng bênh vực các đồng minh bị tấn công quân sự đang gây nhiều quan ngại tại Trung Quốc và Nam Triều Tiên.
Bất cứ cuộc tranh cãi nào giữa Tokyo và Bắc Kinh cũng sẽ thu hút sự chú ý tại hội nghị an ninh Singapore, trong bối cảnh các chiến đấu cơ Trung Quốc mới đây đã áp sát một cách bất thường các máy bay của Lực lượng Tự vệ Nhật Bản trên Biển Hoa Đông.
Nguồn: cctv.com, cnn.com, theglobeandmail.com
http://www.voatiengviet.com/content/vn-xich-lai-gan-cuu-thu-hoa-ky-nhat-ban-giua-luc-tranh-chap-bien-dong-leo-thang/1926029.html
Bộ trưởng Hagel sẽ khuyến cáo TQ chớ leo thang thêm tranh chấp trong khu vực
30.05.2014
Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Chuck Hagel cho biết ông sẽ gặp một giới
chức quân sự cao cấp Trung Quốc tại một hội nghị an ninh ở Singapore và
sẽ khuyến cáo giới chức này chớ leo thang hơn nữa các cuộc tranh chấp
lãnh thổ trong khu vực Á Châu-Thái bình dương.
Hãng tin Bloomberg đêm thứ Năm tường thuật rằng theo kế hoạch, ông
Hagel, ngày thứ Bảy sắp tới, sẽ gặp Trung Tướng Vương Quán Trung (Wang
Guanzhong), Phó Tham mưu trưởng Quân đội Trung Quốc và phái đoàn Trung
Quốc đến dự hội nghị an ninh thường niên Shangri-La sẽ diễn ra vào cuối
tuần này.
Nói chuyện với các nhà báo trên chuyến bay tới Singapore, Bộ trưởng
Hagel nói Hoa Kỳ có lợi ích rất lớn trong việc duy trì các tuyến hàng
hải trong khu vực, tiếp tục được mở rộng cho giao thương quốc tế.
Dịp này, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ cho biết ông dự định sẽ thảo luận “một
cách cụ thể ” về các căng thẳng giữa Trung Quốc và Việt Nam trong Biển
Đông.
Ông nói Hoa Kỳ và Trung Quốc có những lĩnh vực có thể hợp tác với nhau,
nhưng mặt khác “cũng có những lĩnh vực hai bên có thể trực diện với
nhau, không phải là những lĩnh vực cạnh tranh, mà là những lĩnh vực mà
Washington tin rằng Bắc Kinh đang “quá tay khi khơi mào và tạo ra những
thách thức và những căng thẳng mới”.
Trung Quốc và Việt Nam đang lâm vào một cuộc xung đột kéo dài, và đã leo
thang đáng kể trong tuần qua, sau khi Trung Quốc đưa giàn khoan nước
sâu vào khoan dầu ở ngoài khơi bờ biển Việt Nam, nơi mà Hà nội cho là
lãnh thổ của mình. Căng thẳng tăng cao sau khi một tàu đánh cá Việt Nam
bị chìm trong một vụ đụng tàu mà hai bên quy lỗi cho nhau.
Đây là lần thứ năm ông Hagel tới thăm Á Châu-Thái bình dương từ khi ông lên nhậm chức vào tháng Hai năm 2013.
Tại đây, ông dự định sẽ mở 10 cuộc họp song phương với các vị tương
nhiệm Á Châu, và tổ chức 2 cuộc họp tay ba, một cuộc họp với Nhật Bản và
Nam Triều Tiên, và cuộc họp tay ba thứ nhì là giữa Hoa Kỳ với Nhật Bản
và Australia.
Ông Hagel đang thực hiện một chuyến công du 12 ngày cũng sẽ đưa ông sang thăm Afghanistan, Bỉ, Romania và Pháp.
http://www.voatiengviet.com/content/bo-truong-hagel-se-khuyen-cao-tq-cho-leo-thang-them-tranh-chap-trong-khu-v%E1%BB%B1c/1925998.html
Học giả Việt Nam tiếc thông điệp Obama đến muộn
Hoa Kỳ sẵn sàng đáp trả sự gây hấn của Trung Quốc trên Biển Đông, lời
cảnh báo do Tổng thống Barack Obama đưa ra hôm 28/5 tại Học viện quân
sự West Point (New York) được báo chí Việt Nam nhanh chóng chuyển tải.
Phải chăng Việt Nam trông đợi sự ủng hộ của Hoa Kỳ và liệu việc này có
giúp Việt Nam thoát khỏi hoàn cảnh đơn độc trong cuộc đấu không cân xứng
với kẻ xâm lược phương Bắc.
Một tín hiệu rất tốt
Trong câu chuyện với Nam Nguyên vào tối 29/5/2014, Thạc sĩ Hoàng
Việt, giảng viên luật quốc tế trường Đại học Luật TP.HCM, thành viên Quỹ
nghiên cứu Biển Đông đã trả lời câu hỏi là bản thân ông đón nhận tuyên
bố của Tổng thống Obama như thế nào:
“Cá nhân tôi cho rằng, đó là một tín hiệu rất tốt. Và nếu Hoa Kỳ
đã có những tiếng nói mạnh mẽ hơn như vậy, nếu Hoa Kỳ đưa ra sớm từ đầu
thì có lẽ đã ngăn chặn được sự leo thang của Trung Quốc như thời gian
vừa rồi. Và tôi đã từng nói, trên thế giới này để kiềm chế được tham
vọng của Trung Quốc đối với các vùng biển, trong đó đặc biệt là Biển
Đông thì chỉ có một quốc gia có thể làm được đó là Hoa Kỳ. Vì Hoa Kỳ có
uy tín và khả năng, cũng như kinh nghiệm phát triển cường quốc biển của
mình. Hoa Kỳ đủ sức và chỉ có Hoa Kỳ có thể ngăn chặn tham vọng của
Trung Quốc ở vùng Biển Đông này.”
Trả lời cùng một câu hỏi được chúng tôi nêu ra, TS Phạm Chí Dũng nhà
bình luận độc lập hiện sống và làm việc ở Sài Gòn nhận định:
Đó là một tín hiệu rất tốt. Và nếu Hoa Kỳ đã có những tiếng nói mạnh mẽ hơn như vậy, nếu Hoa Kỳ đưa ra sớm từ đầu thì có lẽ đã ngăn chặn được sự leo thang của TQ.
-Thạc sĩ Hoàng Việt
“Tôi nghĩ là rất nhiều người Việt Nam ủng hộ chuyện này và họ còn
thấy sự thực lòng của Mỹ nữa. Còn về quyền lợi của Mỹ thì rõ ràng Tổng
thống Obama cần hành động như vậy, không thể hành động khác được. Vì nếu
hành động khác thì nó không thuận chính sách xoay trục về Châu Á Thái
Bình Dương của Mỹ. Cho tới lúc này ít nhất một hành động mà Mỹ cần thể
hiện là tăng cường vai trò hạm đội 7 trên khu vực Biển Đông, để ngăn
chặn ảnh hưởng bành trướng mở rộng của Trung Quốc, đó là vấn đề mà hiện
nay người Mỹ đang phải đối mặt. Giàn khoan HD 981 mặc dù là một câu
chuyện rất nhỏ nhưng là một thách thức gián tiếp mà tôi cho là cả trực
tiếp đối với chính quyền Mỹ về tất cả những gì gọi là chính sách bảo vệ
quyền lợi và công dân Mỹ ở ngoài biên giới Mỹ.”
Thông tấn xã Việt Nam cũng nhanh chóng đưa tin về điều gọi là ‘Mỹ ủng
hộ Việt Nam khá mạnh mẽ trong vấn đề Biển Đông. Hãng thông tấn chính
thức này đã trích nhận định của GS Nguyễn Mạnh Hùng, chuyên ngành quan
hệ quốc tế của Đại học George Mason tiểu bang Virginia Hoa Kỳ. GS Nguyễn
Mạnh Hùng nói rằng: “Quan điểm của chính quyền Mỹ trước vấn đề Biển
Đông như vậy là rõ ràng và nên được đặt trong bối cảnh chính quyền ông
Obama thời gian qua đã liên tục nêu quan ngại trước các hành động của
Trung Quốc.”
Học giả Hoàng Việt thành viên Quỹ nghiên cứu Biển Đông giải thích rõ
hơn về việc tại sao ông lại tiếc về việc thời điểm mà ông cho là khá
chậm khi phía Hoa Kỳ thể hiện quan điểm mạnh mẽ và cụ thể hơn về vấn đề
Biển Đông:
“Trong suốt thời gian vừa rồi chính quyền Hoa Kỳ vẫn có những phản
đối, nhưng là những phản đối ở mức độ vừa phải và chỉ dừng lại ở những
tuyên bố mang tính chất lo ngại thôi. Chính vì vậy Trung Quốc cho là họ
toàn quyền giống như một ông chủ ở một vùng hoang vu ở Châu Á này và
Trung Quốc có thể quyết định muốn làm gì cũng được. Chính vì vậy dẫn tới
hàng loạt những căng thẳng do Trung Quốc gây ra. Cho nên, nếu phía Hoa
Kỳ như Tổng thống Obama phát biểu ở Học viện West Point cho thấy một
tiếng nói phản đối mạnh mẽ từ phiá Hoa Kỳ, thì điều này sẽ làm cho Trung
Quốc phải chùn tay.”
Tuyên bố của Tổng thống Obama về Biển Đông được đưa ra vào ngày 28/5 trong bối cảnh Việt Nam đã chịu trận 28 ngày, đã thất bại trong việc đẩy giàn khoan Hải Dương 981 ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của mình. Cùng ngày 28/5 Trung Quốc đã hoàn tất việc di chuyển giàn khoan chếch lên phía đông bắc 23 hải lý, gần đảo Tri Tôn hơn nhưng vẫn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế thềm lục địa Việt Nam. Trung Quốc còn xác nhận họ đã hoàn tất khoan thăm dò ở vị trí cũ, nay bước sang giai đoạn hai. Với tình hình này việc Việt Nam mất biển đã thể hiện và không loại trừ việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan dầu khí ở bất cứ chỗ nào trên vùng biển Việt Nam. TS Phạm Chí Dũng từ Sài Gòn nhận định:
Tàu Trung Quốc (bên
phải) sử dụng vòi rồng để tấn công tàu tuần tra của Việt Nam và cũng
liên tiếp húc vào tàu VN trong vùng biển tranh chấp ở Biển Đông hôm 2
tháng 5, 2014. AFP PHOTO.Tuyên bố của Tổng thống Obama về Biển Đông được đưa ra vào ngày 28/5 trong bối cảnh Việt Nam đã chịu trận 28 ngày, đã thất bại trong việc đẩy giàn khoan Hải Dương 981 ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của mình. Cùng ngày 28/5 Trung Quốc đã hoàn tất việc di chuyển giàn khoan chếch lên phía đông bắc 23 hải lý, gần đảo Tri Tôn hơn nhưng vẫn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế thềm lục địa Việt Nam. Trung Quốc còn xác nhận họ đã hoàn tất khoan thăm dò ở vị trí cũ, nay bước sang giai đoạn hai. Với tình hình này việc Việt Nam mất biển đã thể hiện và không loại trừ việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan dầu khí ở bất cứ chỗ nào trên vùng biển Việt Nam. TS Phạm Chí Dũng từ Sài Gòn nhận định:
“Thứ nhất giàn khoan 981 là bước đi đầu tiên trong chiến dịch gây
hấn của Trung Quốc và lấn chiếm từng hải lý một trên vũng lãnh thổ của
Việt Nam. Thứ hai một viên tướng về hưu của Trung Quốc đã từng tuyên bố
rằng Trung Quốc có thể kéo 100 giàn khoan lại sát với HD 981 vào vùng
biển Việt Nam mà không cần phải dè dặt gì. Và thứ ba tôi nghĩ là nhà
nước Việt Nam họ đã quá đuối trong việc này, gần 4 tuần sau khi sự khởi
động dịch chuyển giàn khoan HD 981 từ Hải Nam vào Việt Nam mà không có
một phản ứng gì đáng kể. Cho tới nay tất cả những điều nói ra là kiện
Trung Quốc ra tòa án quốc tế như Philippines làm thì cũng chưa tới đâu
cả. Tôi không hiểu nhà nước Việt Nam, các hội đồng cố vấn các giáo sư họ
đang tính toán điều gì, đó chính là điều tôi từng viết “nhu nhược là
nguồn cơn của tội lỗi và đớn hèn là căn nguyên của mất nước.”
Việt Nam cứ mãi kiềm chế?
Gần 4 tuần sau khi chủ quyền trên vùng biển duyên hải Việt Nam bị
Trung Quốc xâm phạm Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu 3 nhóm giải pháp cụ
thể về biển Đông. Nhưng theo giới quan sát chính trị, thì nó hoàn toàn
không có gì mới so với những gì mà chính quyền Việt Nam đã thể hiện.
Hầu hết báo chí Việt Nam đưa tin này và báo mạng VnEconomy gọi là
thông điệp của Thủ tướng với 3 nhóm giải pháp cụ thể về biển Đông. Tờ
báo tóm gọn lời Thủ tướng: “Kiên quyết đấu tranh với Trung Quốc trên
biển Đông, nhưng vẫn giữ quan hệ ngoại giao, kinh tế bình thường, tuyệt
đối lên án các hành vi kích động, bài trừ người Hoa.”
Nếu Việt Nam cứ mãi kiềm chế như thế này mà không đẩy được cái giàn khoan của Trung Quốc ra thì có nguy cơ là Việt Nam ở vào thế yếu.
-Thạc sĩ Hoàng Việt
Như vậy người Việt Nam kiên trì thực hiện chấp pháp trên vùng biển
của mình và sẽ không bao giờ sử dụng vũ lực. Điều gì sau cùng sẽ xảy ra,
nếu lực lượng cảnh sát biển, kiểm ngư Việt Nam vẫn mãi chịu trận trước
vành đai bảo vệ giàn khoan của hơn 100 tàu Trung Quốc vũ trang. Nhà
nghiên cứu biển đông Hoàng Việt nhận định:
“Một bên là Việt nam vẫn hết sức kiềm chế để không bị rơi vào cái
bẫy của Trung Quốc đang giăng ra. Trung Quốc muốn Việt Nam sử dụng vũ
lực trước thì Trung Quốc sẽ có cớ để đáp trả ngay, Việt Nam vẫn cố hết
sức để kiềm chế vấn đề đó. Tuy nhiên nếu Việt Nam cứ mãi kiềm chế như
thế này mà không đẩy được cái giàn khoan của Trung Quốc ra thì có nguy
cơ là Việt Nam ở vào thế yếu, Trung Quốc cho rằng họ thành công trong
việc này và nó sẽ tạo thành một tiền lệ để Trung Quốc tiếp tục làm trong
tương lai.
Về lâu về dài, một mặt Việt Nam vẫn lên tiếng kêu gọi cộng đồng
quốc tế ngăn chặn tham vọng của Trung Quốc, cũng giống như buộc Trung
Quốc phải xuống thang trong cuộc gây căng thẳng này. Mặt thứ hai thì làm
sao Việt Nam phải xây dựng được nội lực của mình, trong đó các đội tàu
như cảnh sát biển, kiểm ngư có đủ sức mạnh để mà có thể đương đầu với
các lực lương của Trung Quốc thì lúc đó Việt Nam mới có thể bảo vệ được
vùng biển của mình.”
Đấu tranh trên thực địa là một trong 3 giải pháp bảo vệ chủ quyền ở
biển Đông mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng công bố hôm 29/5/2014 tại Hà Nội,
hai giải pháp còn lại là đấu tranh trên mặt trận ngoại giao và đấu
tranh bằng con đường dư luận.
Đấu tranh trên thực địa thì Thủ tướng chỉ đạo các tàu chấp pháp Việt
Nam phải luôn có mặt tại vị trí mới của giàn khoan Trung Quốc cản phá và
đẩy đuổi tàu trung Quốc hoạt động trái phép. Ông Nguyễn Tấn Dũng cho
biết hơn 30 tàu của lực lượng chấp Việt Nam đã bị tàu Trung Quốc đâm va,
gây hỏng hóc. Ông Thủ tướng cũng cảnh báo sẽ còn có va chạm nhiều nữa,
nhưng ông chỉ đạo lực lượng chấp pháp Việt Nam phải kiên quyết và cố
gắng kiềm chế.
Khi nói về giải pháp đấu tranh trên thực địa, Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng không hề hứa hẹn đóng thêm tàu lớn hơn, mạnh hơn để trang bị cho
lực lượng chấp pháp, cũng như gia tăng ngân sách để tăng cường đội ngũ
tiền phương này. Vậy thì làm thế nào mà lực lượng cảnh sát biển, lực
lượng kiểm ngư Việt Nam có thể đối đầu lực lượng tàu ngư chính, hải
giám, hải sự hùng mạnh của Trung Quốc. Hỏi như thế tất nhiên đã có câu
trả lời.
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/obama-s-speech-on-scs-is-it-late-nn-05302014072932.html
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/obama-s-speech-on-scs-is-it-late-nn-05302014072932.html
Việt Nam: có làm mạnh như nói?
Việt-Long - RFA
2014-05-29
2014-05-29
Hôm thứ ba Trung Quốc đã dời giàn khoan về hướng đông đông bắc, đến vị trí cách đảo Lý Sơn 150 hải lý, cách đảo Tri Tôn thuộc Hoàng Sa 25 hải lý hướng đông đông nam, tức là vẫn nằm trong lãnh hải đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Trung Quốc cũng tăng cường lực lượng hải cảnh, hải giám và tàu sắt quanh vị trí mới, sau khi tuyên bố hoàn tất giai đoạn 1 đạt kết quả khả quan về khảo sát địa chất. Trước đó hôm thứ hai, tàu cá Trung Quốc đã đâm chìm nghỉm một tàu cá của ngư dân Quảng Ngãi, gây thiệt hại tới 5-6 tỉ đồng.
Liệu có phải Trung Quốc muốn lui dần giàn khoan ra ngoài lãnh hải Việt Nam chăng?
Chắc chắn là không. Trước hết, Trung Quốc chẳng tìm dầu khí gì ở lô
143 của Việt Nam, là nơi mà Việt Nam chưa muốn thăm dò vì không có triển
vọng có trữ lượng dầu khí đáng lưu ý, thậm chí không có gì đáng thăm
dò. Trung Quốc chỉ hành động để cắm sào giành chủ quyền lãnh hải khu vực
đó và khởi sự cho những hoạt động giành chiếm lãnh hải xa hơn về hướng
tây và hướng Nam. Bắc Kinh bày ra chuyện di dời để tuyên bố đã khoan
thăm dò và nghiên cứu, chứng tỏ đã có hoạt động, nhằm tạo đủ điều kiện
xác định chủ quyền. Thế nhưng chưa di dời giàn khoan thì đã cho tàu sắt
đâm chìm tàu ngư dân Việt Nam, lần đầu tiên ở khu vực tranh chấp nóng
bỏng này, chứng tỏ Trung Quốc muốn khẳng định nơi rời đi cũng như nơi
dời đến tới đều thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Vị trí thứ nhì của giàn
khoan HD-981 nhích về hướng đông, xa khỏi đảo Lý Sơn một chút, nhưng vẫn
nằm trọn trong lãnh hải thuộc chủ quyền Việt Nam, theo Công ước quốc tế
mà chính Trung Quốc cũng ký kết.
Có tiếng nói mạnh mẽ
Về đối sách của Việt Nam, hôm thứ tư 21 tháng 5 trong văn bản trả lời
phỏng vấn của các hãng thông tấn Reuters và AP, Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng tuyên bố Việt Nam không đánh đổi độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ lấy một thứ hòa bình viễn vông, lệ thuộc nào, dù rằng luôn mong muốn
có hòa bình, hữu nghị. Ông nói thêm Việt Nam đang cân nhắc nhiều phương
án tự vệ, kể cả phương án đấu tranh pháp lý dựa theo luật pháp quốc tế.
Đó là lời tuyên bố mạnh mẽ nhất từ trước đến nay của một trong những
cấp lãnh đạo cao nhất của Việt Nam, một Uỷ viên có thế lực trong Bộ
chính trị, về vấn đề bảo vệ chủ quyền. Trong khi nói đến nhiều phương án
tự vệ thì Thủ tướng Việt Nam cũng lưu lại Philippines lâu hơn thường
lệ, để bàn thảo với Philippines về những vấn đề mà hai nước cùng quan
tâm, hiển nhiên nghị trình phải có vấn đề chủ quyền lãnh hải đang bị Bắc
Kinh xâm lấn. Như vậy Thủ tướng Việt Nam hẳn phải bàn với giới lãnh đạo
Philippines vấn đề đem Trung Quốc ra trước một tòa án quốc tế, là việc
Manila đang làm.
Tuy nhiên người ta phải chờ xem Việt Nam có thực sự tiến hành vụ kiện
hay không, và tiến hành như thế nào. Thủ tướng Dũng từng đưa ra những
chính sách nội trị mang tính cách cải tổ và tiến bộ. Trong thông điệp
đầu năm ông từng nói “dân chủ và pháp quyền là hai thành quả song sinh
của nền chính trị hiện đại” nhưng thực tế cho thấy chính phủ chẳng hề
cho người dân được tự do gì thêm trong những quyền được hiến pháp ấn
định, và viên chức Nhà nước cùng công an vẫn cứ làm những việc trái pháp
luật mà không bị kỷ luật gì.
Tương quan giữa “nói” với “làm”
Thủ tướng Dũng cũng từng có những quyết sách táo bạo về kinh tế, như
gom quyền chủ đạo các tập đoàn sản xuất và tổng công ty quốc doanh, hệ
thống ngân hàng Nhà nước vào tay Thủ tướng, nhưng ông đã thực hiện một
cách thất bại. Nhắc đến điều này để nói về việc ông Dũng thường có những
quyết định táo bạo và chính sách cấp tiến nhưng lúc thi hành thường
chẳng mấy thành công .
Tuy nhiên, xét kỹ, người ta thấy ông Dũng không thành công ở các
chính sách kinh tế tài chính là vì chính sách không đúng, lại không chịu
nghe ý kiến của các chuyên gia, cố vấn thông thạo về kinh tế thị
trường, mà còn muốn họ im tiếng. Thêm vào đó, không thành công cùng
còn vì lý do một vị Thủ tướng của chính phủ phải chịu trách nhiệm
thực hiện chính sách của đảng cầm quyền. Đó là chính sách bảo thủ, giữ
chặt lấy nền kinh tế gọi là theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì thế,
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có thể bị quy trách về việc thực hiện không
thánh công một chính sách kinh tế, nhưng chính Bộ chính trị mới phải
chịu trách nhiệm về chính sách sai lầm.
Dù vậy, làm kinh tế thất bại không có nghĩa là không thể thành
công trong những chính sách khác về ngoại giao, quốc phòng chẳng hạn.
Trong lãnh vực ngoại giao và quốc phòng dường như giới lãnh đạo Việt Nam
dễ đồng thuận với nhau hơn là trong lãnh vực kinh tế, tài chính, tuy
rằng mọi chính sách đều do quyết định tập thể của bộ chính trị.
Áp lực quân sự?
Thủ tướng Dũng tuyên bố là Việt Nam cân nhắc nhiều phương án tự vệ.
Thì qua ngày 23 tháng 5 báo mạng Arirang News của Hàn quốc trích tin của
báo Đài Loan China Times cho biết 300 ngàn quân Trung Quốc đang được
điều động về hướng biên giới Việt Nam. Báo China Times còn nói tỉnh
Quảng Đông đang chuẩn bị cho nguy cơ khả dĩ xung đột quân sự với Việt
Nam, trong khi Việt Nam cũng tăng cường lực lượng ở vùng biên giới phía
bắc. Tuy nhiên báo này cũng nói ngay là cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đều
chưa xác nhận những hoạt động này. Trên internet xuất hiện nhiều hình
ảnh nói là của “dân mạng” ghi nhận hình ảnh chuyển quân đông đảo của
quân đội Trung Quốc. Sự kiện này có thể được nhận định ra sao?
Trước hết chưa có nhiều nguồn tin độc lập với nhau loan tải việc này để
có thể đối chiếu và tìm sự xác thực của tin. Có ý kiến cho đây là cuộc
thao dượt bình thường của quân đội Trung Quốc. Tuy nhiên nếu giả định là
việc chuyển quân đang xảy ra, có thể nói hành động này không khác gì so
với việc Nga cho tập trận quy mô ở biên giới phía đông Ukraine lúc diễn
ra vụ Crimea đòi độc lập rồi đến cuộc biến động miền Đông. Tuy nhiên
chiến sự sẽ không xảy ra ở vùng biên giới phía bắc cũng như ở biển Đông.
Diễn đàn này từng khẳng định Trung Quốc không cần đến biện pháp quân
sự để giành chiếm biển Đông, mà vẫn xâm lấn thành công, trong khi Việt
Nam cũng không muốn chiến tranh. Chúng ta cũng đã dự đoán Trung Quốc sắp
sửa bố trí “vài lộ quân” ở vùng biên giới để gây áp lực tinh thần về
mặt quân sự. Thì đây chính là lúc Trung Quốc đang làm việc đó.
Tin điều động quân đội Trung Quốc đến cùng lúc với tin Ngoại trưởng
Mỹ mời người tương nhiệm của Việt Nam sang Washington để tham khảo toàn
diện những đề tài song phương và khu vực. Nên nếu đúng là Trung Quốc
đang điều binh thì đó là hành động để gây áp lực quân sự với Việt Nam.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/just-expansionism-05292014223144.htmlPhạm Chí Dũng : Trung Quốc có tấn công Việt Nam vào thời điểm này ?
Quân đội Trung Quốc không ngừng được hiện đại hóa, với ngân sách quốc phòng sẽ tăng mỗi năm gần 20%.
Đã gần một tháng, giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 của Trung
Quốc vẫn ngang nhiên hiện diện tại vùng biển Hoàng Sa thuộc vùng thềm
lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Hàng trăm tàu quân sự trong
đó có những tàu hộ vệ tên lửa và tàu cá giả dạng của Bắc Kinh, cùng với
máy bay trinh sát hàng ngày hung hãn tấn công, đe dọa các tàu Việt Nam.
Trong lúc Biển Đông dậy sóng, những hình ảnh trên mạng cũng hé lộ việc
Trung Quốc rầm rộ chuyển quân về phía biên giới Việt-Trung.
Reuters
Các động thái này khiến mọi người không thể không đặt ra câu
hỏi : Liệu chế độ Bắc Kinh sẽ lại tấn công quân sự vào Việt Nam như đã
tiến hành vào năm 1979 ?
RFI Việt ngữ đã đặt vấn đề này với nhà bình luận Phạm Chí Dũng, cựu sĩ quan quân đội ở Thành phố Hồ Chí Minh.
RFI : Thân chào nhà bình luận Phạm Chí Dũng. Vụ giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 đã làm nổi sóng dư luận, với một câu hỏi thẳng thừng, mà về phương diện quân sự là thứ bậc cao nhất trong phòng vệ quốc gia: Liệu Trung Quốc có tấn công quân sự Việt Nam vào thời điểm này? Nhận định của anh ra sao?
TS Phạm Chí Dũng - TP Hồ Chí Minh
by Thụy My
RFI Việt ngữ đã đặt vấn đề này với nhà bình luận Phạm Chí Dũng, cựu sĩ quan quân đội ở Thành phố Hồ Chí Minh.
RFI : Thân chào nhà bình luận Phạm Chí Dũng. Vụ giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 đã làm nổi sóng dư luận, với một câu hỏi thẳng thừng, mà về phương diện quân sự là thứ bậc cao nhất trong phòng vệ quốc gia: Liệu Trung Quốc có tấn công quân sự Việt Nam vào thời điểm này? Nhận định của anh ra sao?
TS Phạm Chí Dũng - TP Hồ Chí Minh
Do đó, không phải vô cớ mà những quốc gia gần gũi về lãnh hải với Việt Nam ở khu vực Biển Đông như Nhật Bản, Philippines và cả Hạm đội 7 của Hoa Kỳ vốn chỉ liên quan gián tiếp, đã phải bắn tín hiệu thực sự lo ngại về động thái mở rộng bành trướng của Trung Quốc. Rồi hẳn nhiên một lần nữa - nhưng lần này nghiêm túc hơn nhiều, cả dư luận lẫn giới quan sát Việt Nam và quốc tế đều muốn tìm lời giải cho việc Trung Quốc có thể tấn công Việt Nam vào thời gian này hay không.
Trước hết, chúng ta hãy xem xét những bất lợi đối với chính thể Trung Quốc nếu họ tiến hành một cuộc tấn công quân sự vào Việt Nam. Theo tôi, có ít nhất một số bất lợi rất đáng kể có thể xảy ra đối với Trung Quốc.
Từ sau cuộc chiến tranh lạnh Mỹ - Liên Xô, thế giới đã tiến vào kỷ nguyên hội nhập và thỏa hiệp với nhau về nhiều mặt, trong đó nổi trội là phương diện buôn bán thương mại song phương và đa phương. Tương quan như thế khiến không một quốc gia có ảnh hưởng nào dám chịu thiệt lớn chỉ đổi lấy cái lợi nhỏ. Một trong số ít những cuộc chiến tranh chấp hải đảo gần đây nhất xảy ra vào năm 1982 giữa người Anh và Achentina ở quần đảo Malvinas, nhưng cũng kết thúc chỉ sau vài tháng. Một chi tiết đáng chú ý là Anh luôn được xem là một trong những nước lớn ở châu Âu và nằm trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Rõ ràng Luân Đôn đã không dám phiêu lưu quân sự.
Còn ở châu Á, Trung Quốc cũng được coi là nước lớn, dù chưa được xếp vào loại siêu cường như Mỹ và Nga. Nhưng Trung Quốc cũng có chân trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, và đó là lý do để có thể cho rằng bất kỳ hành động gây hấn hoặc xâm lược nào từ phía Bắc Kinh cũng làm ảnh hưởng đến đại cục địa - chính trị trên thế giới mà các siêu cường khác không thể bỏ qua. Những vụ Trung Quốc gây hấn với Nhật Bản về quần đảo Senkaku/Điếu Ngư hay với Philippines về một số đảo nhỏ đã lập tức gặp phải phản ứng mạnh mẽ của không chỉ các quốc gia này mà với cả cộng đồng quốc tế.
Trừ Nhật có lực lượng phòng vệ bờ biển đủ mạnh, Philippines đã phải tính đến việc tìm kiếm một quan hệ tương trợ quốc phòng với người Mỹ để chống lại ý đồ xâm lăng từ Bắc Kinh. Vào tháng 5/2014, họ đã đạt được kết quả khả quan khi thiết lập được hiệp ước tương trợ quốc phòng với Washington, do vậy sẽ hợp thức hóa sự có mặt của Hạm đội 7 của Hoa Kỳ ở vùng lãnh hải Philippines bất cứ khi nào Trung Quốc gây hấn.
Hậu quả mà Bắc Kinh không tính kỹ trước khi hành động xâm chiếm biển đảo chính là chỗ này. Tức là họ đã khiến một số nước nhỏ trong khu vực đang nổi lên khuynh hướng liên kết với nhau theo cách Phong trào không liên kết vào nửa cuối thế kỷ 20 và tìm đến sự trợ giúp của người Mỹ để hạn chế rủi ro. Xu thế này cũng đang diễn ra với Việt Nam.
Ngay sau vụ việc giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981, chúng ta có thể thấy là giới lãnh đạo Việt Nam, cho dù một số trong đó vẫn thề thốt “mười sáu chữ vàng” với Trung Quốc, nhưng đã không còn dám xem thường hiểm họa ngoại xâm trước mắt và tương lai mất nước không còn quá xa. Và bất chấp tiếng nói hết sức yếu ớt của 3/4 bộ tứ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cùng ê-kíp của ông đã tìm đến mối liên minh không chính thức đầu tiên với Philippines và sau đó có thể là một mối quan hệ quân sự ở mức độ nào đó với Hoa Kỳ.
Trung Quốc chưa dám tấn công vào thời điểm này
RFI : Theo anh, hoạt động gây hấn của Trung Quốc gây ảnh hưởng thế nào đến chính sách Biển Đông của Hoa Kỳ ngay vào thời điểm này?
Nếu không can thiệp mà để cho Trung Quốc tự tung tự tác, Mỹ sẽ gặp bất lợi lớn về tự do hàng hải, an toàn hàng hải ở Biển Đông và do đó có thể sẽ bị phá sản phần lớn chính sách xoay trục sang châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ. Ai cũng biết rằng Biển Đông có vị trí như một cửa ngõ cho giao thương hàng hải và nếu cần có thể khống chế hoạt động quân sự của cả khu vực phía Nam và các nước xung quanh. Hiện nay cuộc đua lớn nhất giữa Trung Quốc và Mỹ chính là điểm xung yếu này. Do vậy nếu bị Trung Quốc qua mặt ở Biển Đông, mục tiêu an toàn hàng hải của Mỹ sẽ bị đe dọa nghiêm trọng, vai trò của Hạm đội 7 cũng có không ý nghĩa đủ lớn, làm cho chính sách của Mỹ về bảo vệ an ninh thế giới và cũng là an ninh của công dân Mỹ sẽ lạc điệu.
Lời bắn tiếng về mối liên kết “đối tác chiến lược” với Việt Nam của Tư lệnh quân đội Mỹ ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương Locklear là một minh chứng khá hoàn hảo về việc người Mỹ hoàn toàn không bỏ qua ý đồ phong tỏa Biển Đông của Trung Quốc. Mới đây lần đầu tiên từ khi nhậm chức Tổng thống Mỹ, ông Barack Obama đã phải tuyên bố “sẽ điều binh đến Biển Đông” nếu tình hình nơi đây có thể xung đột quân sự.
Chúng ta đang nhận ra rằng người Mỹ không quá câu nệ vào quan hệ làm ăn với Trung quốc, bất chấp quốc gia đông dân nhất thế giới này là đối tác thương mại lớn nhất của Mỹ với giá trị buôn bán hàng năm lên đến 600 tỉ USD. Thậm chí ngược lại, nền kinh tế Trung Quốc đang phải đối mặt với nhiều khó khăn về tín dụng, nợ xấu, ngân hàng, làn sóng thoái vốn của giới đầu tư nước ngoài, thị trường xuất khẩu, do vậy Trung Quốc phải cần đến các đối tác thương mại như Mỹ và Tây Âu hơn là phương Tây cần đến họ.
Kẻ nào quá tham lam sẽ bị cộng đồng tẩy chay. Cũng như hình ảnh suy yếu của nước Anh vào năm 1982 trong cuộc tranh chấp quần đảo Malvinas với Achentina, những năm gần đây Trung Quốc đã trở thành một trong những quốc gia bị oán ghét nhất trên hành tinh này. Nếu mạo hiểm gây ra một cuộc chiến tranh dù chỉ quy mô nhỏ trong khu vực, Trung Quốc sẽ bị đại đa số quốc gia trong Liên Hiệp Quốc quay lưng và sẽ bị cô lập. Đó chính là điều mà chủ nghĩa Đại Hán phải tính đến một cách rất nghiêm cẩn, cho dù tham vọng bành trướng của họ lớn đến mức nào.
RFI : Trong lịch sử, người Việt Nam luôn sẵn sàng chống lại đến cùng tham vọng xâm lược của Trung Quốc, kể cả sau một ngàn năm Bắc thuộc. Anh có cho rằng lịch sử sẽ lặp lại nếu chiến tranh Trung - Việt nổ ra vào thời gian tới?
Có những dấu hiệu rất cần chú ý và lượng giá. Nếu Trung Quốc đã rất tự tin kéo giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 vào vùng biển Việt Nam thì từ sau khu xảy ra vụ bạo động ở Bình Dương, Đồng Nai và cuộc xung đột dẫn đến chết người ở Hà Tĩnh, các cơ quan tuyên giáo và báo đảng ở Trung Quốc, kể cả Hoàn Cầu Thời Báo là tờ báo hung hăng nhất, đã có vẻ lắng tiếng khá đột ngột. Giả thiết nêu ra là Bắc Kinh đã không tính đúng và đủ về phản ứng của người dân Việt Nam đối với bước đầu xâm lăng của họ, cho dù có thể họ đã lường trước và còn có thể “điều khiển” được phản ứng của giới lãnh đạo cầm quyền Việt Nam.
Trong lịch sử Việt Nam, chưa bao giờ chủ nghĩa Đại Hán nô dịch được
đất nước này như một chư hầu trọn vẹn. Sau hàng loạt triều đại lịch sử
kháng Trung thành công như từ thời Hai Bà Trưng, Đinh, Lê, Lý và Hậu Lê,
những cuộc xâm lược gần nhất của Trung Quốc chỉ là sự tồn tại rất ngắn
ngủi của đội quân hai chục vạn của triều đình nhà Thanh ở Thăng Long vào
cuối thế kỷ 18. Hoặc là sự tồn tại ngắn ngủi không kém của đội quân
cũng hai chục vạn người của Tưởng Giới Thạch ở miền Bắc Việt Nam vào năm
1945. Và ngắn ngủi nhất là lực lượng lên đến sáu chục vạn người của
Trung Quốc nhưng bị thiệt hại đến 10% quân số trong cuộc tấn công biên
giới phía Bắc Việt Nam vào năm 1979.
Lịch sử và ưu thế kháng chiến đã nghiêng về Việt Nam, đó là điều hiển
hiện. Biện chứng lịch sử cũng cho thấy các chế độ chính trị Trung Hoa
luôn sai lầm khi đánh giá thấp tinh thần phản kháng của người dân và
quân đội Việt Nam, đặc biệt vào những bối cảnh mà họ cho là triều chính
Việt Nam đang phân hóa và rối loạn như hiện thời.
Nhưng cũng chính yếu tố rối loạn nội bộ mà Trung Quốc tưởng như một
ưu thế để có thể gây áp lực với Hà Nội lại khiến nảy sinh xu hướng công
khai hóa quan điểm ngả sang phương Tây của một nhóm không nhỏ các chính
khách Việt Nam. Tôi cho đây chính là một bất lợi lớn đối với Trung Quốc
khi phần lớn, nếu không nói là tất cả giới lãnh đạo Việt Nam đã như tỉnh
ra, ngộ ra bản chất thật của mối quan hệ “Bốn Tốt” với Trung Quốc là
như thế nào. Cùng lúc, bất cứ quan chức Việt Nam nào cũng phải tính đến
tương lai cho cá nhân họ nếu chủ hàng trước Trung Quốc. Tương lai ấy
cùng lắm cũng chỉ là “ngựa xe vài cỗ, quân hầu lơ thơ” nếu Việt Nam bị
biến thành chư hầu của người bạn phương Bắc đầy dã tâm.
Một bất lợi khác là nếu Trung Quốc tấn công Việt Nam vào thời điểm
này sẽ khiến cho một bộ phận quan chức “thân Trung” bị lộ diện và sẽ bị
cô lập. Truyền thống người Việt xưa nay không thể chấp nhận những Trần
Ích Tắc hay Lê Chiêu Thống, và nếu những nhân vật tái thế thời hiện đại
này bị cô lập quá sớm, Trung Quốc sẽ không còn nhiều cơ hội để thực hiện
chiến thuật mua chuộc, không chế lãnh đạo để sau đó bắt toàn bộ giới
lãnh đạo Việt Nam phải phụ thuộc vào ý chí của Bắc Kinh.
RFI : Thế còn bất lợi về hiệu quả kinh tế nếu Trung Quốc xâm lược Việt Nam?
Đây là câu hỏi khó trả lời nhất đối với Trung Quốc. Câu hỏi này cũng
dẫn đến một câu hỏi tiếp nối là Trung Quốc tấn công Việt Nam sẽ được lợi
gì, nếu thiệt hại về kinh tế của họ là khó có thể bù đắp được?
Trong lịch sử buôn bán hai chiều với các quốc gia trên thế giới, Việt
Nam bị phụ thuộc vào Trung Quốc nhiều nhất. Ít nhất 35% nguyên liệu
dùng cho sản xuất của Việt Nam phải nhập khẩu từ Trung Quốc, và cơ cấu
này đang gây khó rất lớn cho việc Việt Nam tham gia vào TPP, ứng với một
điều kiện không thể thay đổi của TPP là Việt Nam phải chuyển đổi vùng
nguyên liệu nhập khẩu từ các nước ngoài TPP như Trung Quốc về các nước
trong khối TPP.
Chỉ từ sau năm 2000 đến nay, giá trị nhập khẩu của Việt Nam từ Trung
Quốc đã tăng chẵn 100 lần, và hiện thời Việt Nam đang phải nhập siêu từ
23-24 tỉ USD hàng năm từ Trung Quốc. Đó là một sự mất cân xứng quá lớn
và làm lợi rất nhiều cho Trung Quốc. Cũng cho đến nay, Trung Quốc có gần
940 dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn đầu tư gần 5 tỉ USD…
Những giá trị thương mại và đầu tư từ Trung Quốc vào Việt Nam cho
thấy họ có khá nhiều việc phải lo lắng nếu chiến tranh nổ ra. Khi đó, cơ
chế nhập khẩu chính thức qua cửa khẩu Việt Nam sẽ đương nhiên chấm dứt,
rất nhiều doanh nghiệp Trung Quốc sẽ khó lòng tồn tại được.
Cũng rất có thể sẽ xảy ra một làn sóng tẩy chay hàng hóa Trung Quốc
và càng làm khó cho sự tồn vong của giới đầu tư Trung Quốc tại Việt Nam.
Minh chứng mà chúng ta có thể thấy là sau vụ giàn khoan Hải Dương
Thạch Du 981, ở nhiều vùng và từ một doanh nghiệp lớn đến một bà bán tạp
hóa ở chợ, tâm lý ngán ngại nhập hàng Trung Quốc là khá phổ biến. Mặc
dù cho tới nay chưa có một chiến dịch nào về tẩy chay hàng Trung Quốc
được công bố chính thức, nhưng rõ ràng một số mặt hàng Trung Quốc vẫn bị
coi là ẩn chứa rủi ro độc tố như thực phẩm, nhựa… đã bị giảm đáng kể
sức tiêu thụ.
Với không ít bất lợi như vậy, tôi cho rằng Trung Quốc sẽ chưa dám mạo hiểm tấn công Việt Nam ngay vào thời điểm này.
RFI : Nhưng hiện thời vẫn
đang có thông tin có thể xảy ra chiến tranh, chẳng hạn như một tờ báo
Hàn Quốc đưa tin về việc có đến 300.000 quân Trung Quốc đã áp sát biên
giới Việt - Trung?
Tôi cho rằng tin tức đó chỉ đơn giản là chiến tranh tâm lý, do chính
Trung Quốc tung ra trên mạng Internet và cho vài tờ báo nước ngoài. Thậm
chí còn có tin đồn về lực lượng quân đội Trung Quốc dùng để tấn công
Việt Nam lên đến hơn 500.000 người, hoạch định sẽ công chiếm Việt Nam
trong đúng một tháng, và chiến tranh có thể diễn ra ngay vào mùa hè này,
thậm chí vào tháng Sáu năm 2014…
Bao giờ cũng vậy, trước hoặc sau mỗi hành động gây hấn, Bắc Kinh đều
sử dụng tối đa loa phóng thanh một chiều nhằm mục đích gây nhiễu. Một
chuyện khá khôi hài khác là giữa hai nhà nước Trung Quốc và Việt Nam
đang diễn ra một trận khẩu chiến mà dân Hà Nội gọi Bắc kinh là “Chí
Phèo”, còn Trung Quốc lại coi Việt Nam là nhân vật “AQ” trong tiểu
thuyết của nhà văn Lỗ Tấn…
Thực ra tôi không để ý đến hoạt động này nhiều. Vì điều đơn giản mà
chúng ta có thể rút ra là nếu Trung Quốc thực sự có kế hoạch gây xung
đột quân sự hoặc tấn công tổng lực Việt Nam, để giữ yếu tố bất ngờ trong
khai chiến, họ đã không cần phải khẩu chiến theo kiểu cù nhầy, hoặc
tung thông tin giả quá hung hãn để tạo tin đồn và gây xáo trộn đời sống
chính trị ở Việt Nam. Một dẫn chứng khác cũng dễ thấy là nếu Trung Quốc
có ý đồ tấn công quân sự, họ đã không phải dùng lại các tiểu xảo và chơi
xấu, như dùng “tàu lạ” - từ mà một số báo nhà nước ở Việt Nam cho đến
giờ này vẫn chưa thể chui ra khỏi chăn - để đâm húc tàu cá Việt mà đã
gây ra hai cái chết cho ngư dân ở Quảng Ninh vừa qua.
Theo tôi, sẽ chẳng có một hành động mạo muội xứng đáng nào từ phía
Trung Quốc ngay vào thời điểm này. Kể cả hiện tượng họ rút công nhân
Trung Quốc đang làm việc ở Hà Tĩnh về nước hay sơ tán chuyên gia cũng
chỉ là động tác tâm lý nhằm gây áp lực với Bộ Chính trị Việt Nam mà
thôi.
Khi nào Trung Quốc có thể tấn công Việt Nam?
RFI : Nếu Vậy theo anh, Trung Quốc sẽ thực sự tấn công Việt Nam trong những điều kiện gì và vào lúc nào?
Trung Quốc chỉ tấn công Việt Nam nếu hội tụ các điều kiện: kinh tế
khủng hoảng, xã hội rối loạn, nội bộ chính trị phân hóa đủ sâu và có thể
tan vỡ, sức chiến đấu của quân đội giảm sút mạnh. Và cũng phải thêm một
điều kiện không thể thiếu: giới kinh tài Trung Quốc đủ sức chi phối và
lũng đoạn phần lớn một số ngành quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam.
Hiện thời, nền kinh tế Việt Nam đang dợm bước chân vào khủng hoảng và
tất cả chỉ còn chờ thời gian. Bất ổn xã hội cũng đang mau chóng chuyển
thành rối loạn xã hội và có thể dẫn đến khủng hoảng xã hội. Nếu đến năm
2016-2017, kinh tế Việt Nam thật sự rơi vào khủng hoảng thì tất yếu xã
hội sẽ khủng hoảng theo. Khủng hoảng xã hội cộng hưởng với khủng hoảng
kinh tế hầu như chắc chắn sẽ dẫn đến khủng hoảng chính trị. Đó là điều
kiện cần và cũng là điều kiện đủ của một dân tộc trong vận khí suy vong.
Trong trường hợp đó, tôi không hy vọng là quân đội Việt Nam còn duy
trì được khả năng sẵn sàng chiến đấu như những năm trước. Và đó sẽ là cơ
hội vàng để nếu muốn và không quá bị chi phối bởi sự cô lập của quốc
tế, Trung Quốc có thể nuốt gọn Việt Nam trong một kế hoạch quân sự với
tỉ lệ ba chọi một.
RFI : Tại sao anh lại cho rằng Trung Quốc cần huy động quân đội ba chọi một, anh có thể giải thích cụ thể thêm được không ?
Xuất phát từ chiến thuật biển người truyền thống của họ.
Trong chiến dịch xâm lược biên giới năm 1979, toàn bộ lực lượng kể cả
hậu cần và dự bị của Trung Quốc là 600.000 quân. Trong khi đó, Việt Nam
chỉ chủ yếu đối phó bằng lực lượng quân sự địa phương và một bộ phận
lực lượng bộ đội chính quy. Có những trận đánh ở Cao Bằng, Lạng Sơn,
Hoàng Liên Sơn, thông báo quân sự hồi đó cho biết tỉ lệ đối kháng giữa
quân Trung Quốc và bộ đội Việt Nam lên đến 5/1 và 10/1. Tuy thế, cuộc
chiến vẫn kết thúc với thất bại của người Trung Quốc, chiến dịch xâm
lược đó đã chấm dứt với 60.000 thi hài của lính Trung Quốc.
Còn bây giờ, có những thông tin nghiên cứu cho biết tuy xét về số
lượng, Việt Nam là quốc gia có lực lượng quân đội hùng hậu nhất khu vực
Đông Nam Á với khoảng nửa triệu bộ đội chính quy và khoảng 5 triệu quân
dự bị, nhưng quân đội Trung Quốc lại duy trì số lượng đông thuộc loại
nhất trên thế giới, cùng chi phí quân sự đứng thứ hai chỉ sau Mỹ.
Đó là ưu thế để một khi phát động chiến tranh, Trung Quốc sẽ dễ dàng
huy động ít nhất nửa triệu quân từ các tập đoàn quân ở Vân Nam và Quảng
Tây, chưa kể hạm đội Nam Hải. Thậm chí tôi cho rằng với chiến thuật biển
người được duy trì từ cuộc chiến tranh Triều Tiên những năm 1950, Trung
Quốc có thể huy động một lực lượng tăng thiết giáp gấp nhiều lần Việt
Nam. Ngay cả với xe tăng họ T của Liên Xô cũ, Trung Quốc cũng có nhiều
tăng T72 trở lên, trong khi Việt Nam vẫn chủ yếu là tăng T54, T55.
RFI : Một số chuyên gia đánh giá rằng ưu thế quân sự của Trung Quốc có thể tỏ rõ trên mặt biển, nhưng còn trên đất liền thì sao?
Đúng là Trung Quốc chỉ còn thiếu tàu sân bay. Còn về quân chủng hải quân, họ có đủ các loại tàu, kể cả tàu ngầm lớp kilo. Họ vẫn tự hào và khoe khoang là chỉ riêng hạm đội Nam Hải của họ đã có thể làm chủ cả mặt biển Đông.
Trong khi đó, địa hình duyên hải Việt Nam có lợi thế kinh tế và du
lịch là trải dài, nhưng trong chiến tranh điều đó lại thường là nhược
điểm vì có thể bị đối phương từ biển đánh úp bất cứ điểm bố phòng mỏng
manh hoặc sơ hở nào.
Tuy nhiên, đánh trên bộ thì lại khác hẳn. Dù được trang bị vũ khí và
khí tài quân sự tối tân và có vẻ được đánh bóng về khả năng thiện chiến,
nhưng quân đội Trung Quốc luôn đi sau Việt Nam khoảng một phần tư thế
kỷ về trải nghiệm và kinh nghiệm trận mạc. Đã sáu chục năm qua quân đội
Trung Quốc không thực sự chiến đấu, trong khi bộ đội Việt Nam chỉ mới
kết thúc chiến tranh tại chiến trường Campuchia từ cuối thập kỷ 80. Sự
so le thời gian như thế cho thấy phản xạ tác chiến của bộ đội Việt Nam
vẫn cao hơn binh lính Trung Quốc.
Thêm vào đó, nếu tấn công quân sự theo hướng xẻ dọc qua các vùng biên
giới phía Bắc về Hà Nội, quân đội Trung Quốc sẽ vấp phải địa hình rừng
núi hiểm trở mà lực lượng tăng thiết giáp của họ khó lòng phát huy được
hiệu quả tác chiến chiến thuật. Đến lúc đó, có thể Trung Quốc mới được
nếm trải chiến thuật chiến tranh du kích của người Việt Nam lợi hại như
thế nào.
Trong hầu hết các cuộc kháng Trung trong lịch sử, người Việt đã không
bao giờ bỏ trống hậu phương địch quân, đặc biệt tại những vùng sơn
cước. Theo tôi, trong trường hợp Trung Quốc tác chiến trên bộ dù với tỉ
lệ ba chọi một, xác suất chiến thắng của họ vẫn chỉ là năm ăn năm thua.
Họ cần phải chú ý là bộ đội đặc công của Việt Nam rất thiện chiến.
Nhưng đó chỉ mới là về sức kháng cự của quân đội Việt Nam. Còn nếu
nhà nước Việt Nam đủ hồi tâm để biết cách huy động sức dân thì một cuộc
chiến tranh nhân dân sẽ được hình thành, và đó là điều đáng sợ nhất đối
với bất cứ một cường quốc xâm lược nào.
RFI : Nếu một cuộc chiến
tranh tổng lực chưa được Trung Quốc phát động vào thời điểm này, họ có
thể làm những gì tiếp theo vụ giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981?
Họ sẽ trở lại bài bản của những cuộc gây hấn và khiêu khích từ ít
nhất năm 2011 đến nay. Nghĩa là tạo mọi khó khăn đối với ngư dân Việt
Nam, dùng tàu cá hoặc tàu hải giám chủ động va chạm hoặc đâm chìm và có
thể dẫn tới tử vong cho ngư dân Việt. Trên bộ, họ có thể tiếp nối chuỗi
khiêu khích bằng những cuộc xung đột vũ trang quy mô nhỏ và có thể dẫn
đến sát thương bộ đội Việt Nam. Tình hình quấy rối như thế cũng có thể
tương tự những gì mà lực lượng Khmer Đỏ gây ra ở biên giới Tây Nam đối
với thường dân Việt Nam vào năm 1978.
Theo tôi, ý đồ của Trung Quốc là chờ đến năm 2016-2017, khi tình hình
Việt Nam xấu hẳn, họ sẽ tấn công theo kịch bản Nga - Crimée. Cần lưu ý
là khác hẳn Việt Nam, thế mạnh hiện thời của Trung Quốc là quyền lực tập
trung vào một cá nhân là Tập Cận Bình, và Trung Quốc vừa thiết lập quan
hệ tay đôi với Nga.
Tuy nhiên, không phải Trung Quốc luôn rảnh tay để hành động. Bản thân
Trung Quốc cũng gặp nhiều rắc rối: kinh tế có xu hướng suy thoái, phản
kháng xã hội dâng cao, các khu vực tự trị Tây Tạng, Tân Cương và Nội
Mông gia tăng bất ổn. Tình hình đó gần như tương tự với không khí xã hội
Trung Hoa vào lúc triều đình Mãn Thanh xua hai chục vạn quân do Tôn Sĩ
Nghị làm chủ tướng tràn vào Thăng Long trước một Lê Chiêu Thống đi bằng
đầu gối.
Do vậy, họa xâm lăng Trung Quốc vẫn có một hy vọng được giải tỏa phần
nào bởi chính nguy cơ tan rã từ bên trong của nền kinh tế và do đó của
chế độ độc đảng Bắc Kinh thiên về đàn áp như hiện nay. Nếu nguy cơ này
được xác nhận thì Trung Quốc dù có gây chiến tranh với Việt Nam cũng nằm
trong tình trạng bị suy yếu đáng kể chứ không thể gọi là mạnh mẽ.
Vấn đề còn lại là giới lãnh đạo chủ chốt ở Việt Nam có làm được gì để hạn chế hiểm họa từ Trung Quốc trong vài năm tới.
Nguyễn Tấn Dũng là nhân tố duy nhất?
RFI : Để đối phó với họa ngoại xâm ngày càng hiển hiện, anh có hy vọng nào vào giới lãnh đạo Việt Nam hiện thời?
Nếu không xét đến những gương mặt chính khách chưa xuất hiện, trong
tất cả những gương mặt hiện nay và trong khoảng hai năm tới, tôi chỉ hy
vọng vào một nhân tố duy nhất là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nhưng hy
vọng này cũng chỉ mới manh nha và còn rất chập choạng.
Cơ sở để có thể có đôi chút hy vọng vào Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là
bởi ông ta đang trong tình thế phải “cứu nhà, cứu nước”. Nước mất thì
nhà tan. Nhưng muốn cứu nhà thì trước hết và dù muốn hay không cũng phải
cứu nước.
Sau vụ giàn khoan Hải Dương 981, có vẻ ông Nguyễn Tấn Dũng đã dứt
khoát hơn trong chính sách chuyển hướng xoay trục sang phương Tây. Để
đối chọi với Trung Quốc, trước mắt người Việt cần ít nhất sự hỗ trợ của
Hạm đội 7 của Mỹ, sau đó là một bản hiệp ước tương trợ quốc phòng với
Hoa Kỳ, như kết quả mà Philippines đã vừa đạt được. Và cuối cùng, tốt
nhất Việt Nam trở thành một đồng minh quân sự với Hoa Kỳ như trường hợp
Nhật Bản và Hàn Quốc.
Tuy nhiên, cần chân thật mà nói rằng hy vọng duy nhất vào Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng rất có thể chỉ là một đốm lửa sớm nở tối tàn. Từ khi
nhậm chức thủ tướng vào năm 2006 đến nay, ông Dũng đã đưa ra khá nhiều
lời cam kết trước quốc dân đồng bào, nhưng thời gian sau những lời hứa
đó lại chỉ là một khoảng trống thất vọng mênh mông.
Còn bây giờ, khi nước đã đến chân và không thể không nhảy, người dân
Việt đang chờ đợi những hành động cụ thể của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
như tiến hành thủ tục kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế, đưa ngay Luật
Biểu tình vào đời sống để người dân có cơ hội phản kháng Trung Quốc, chứ
không chỉ bằng vài câu tuyên bố có vẻ cảm tính và sẽ bị trôi ngay vào
lãng quên nếu không làm gì cả.
RFI : Xin rất cảm ơn nhà bình luận Phạm Chí Dũng đã dành thì giờ cho cuộc phỏng vấn hôm nay của RFI Việt ngữ. http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20140530-pham-chi-dung-trung-quoc-co-tan-cong-viet-nam-vao-thoi-diem-nay
Nhật sẽ 'ủng hộ tối đa' cho Đông Nam Á
Cập nhật: 15:02 GMT - thứ sáu, 30 tháng 5, 2014
Phát biểu tại Đối thoại
Shangri-La, Thủ tướng Shinzo Abe nói Tokyo sẽ “ủng hộ tối đa” cho các
nước Đông Nam Á, trong đó có một số nước có tranh chấp chủ quyền với
Trung Quốc.
“Tất cả các nước cần tôn trọng luật pháp quốc
tế. Nhật sẽ ủng hộ tối đa cho nỗ lực của các nước ASEAN trong việc đảm
bảo an ninh vùng biển và bầu trời, và triệt để duy trì tự do hàng hải và
tự do hàng không.Trong bài diễn văn quan trọng ông Abe nhấn mạnh về nhu cầu cần phải tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế.
'Ba nguyên tắc'
"Chúng tôi cũng ủng hộ Việt Nam trong
nỗ lực giải quyết tranh chấp thông qua đối thoại"
"Khi chúng ta nói về luật lệ trên biển thì điều đó có nghĩa gì. Nếu chúng ta lấy tinh thần cơ bản mà chúng ta đã đưa vào luật quốc tế qua năm tháng thì có thể thấy có ba nguyên tắc, và luật lệ trên biển là điều đơn giản và dễ hiểu.
"Nguyên tắc thứ nhất các các nước tuyên bố và làm rõ chủ quyền dựa vào luật lệ quốc tế.
"Nguyên tắc thứ hai là các nước không dùng vũ lực hay hăm dọa nhằm để khẳng định chủ quyền.
"Và nguyên tắc thứ ba là các nước sẽ tìm cách giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình.
"Tôi thúc giục tất cả các nước chúng ta tại châu Á và Thái Bình Dương, mỗi nước hãy tuân thủ triệt để ba nguyên tắc này.
"Chẳng hạn như Indonesia và Philipppines, họ đã
ký Hiệp định về phân định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế và tôi hoan
nghênh bước đi này, đây là một ví dụ tuyệt vời về việc tôn trọng luật lệ
trên biển.
"Chính phủ Nhật ủng hộ mạnh nỗ lực của
Philippines kêu gọi cho một nghị quyết đối với tranh chấp tại Biển Đông
sao cho tuân thủ ba nguyên tắc này.
"Chúng tôi cũng ủng hộ Việt Nam trong nỗ lực giải quyết tranh chấp thông qua đối thoại.
Nhà lãnh đạo Nhật Bản cũng đã kêu gọi ASEAN và Trung Quốc sớm đạt được bộ quy tắc ứng xử tại Biển Đông.
'Đừng hăm dọa'
"Các động thái nhằm củng cố việc thay đổi hiện
trạng bằng cách tạo ra sự việc đã rồi cần bị lên án mạnh mẽ vì đó là
điều đi ngược lại với tinh thần của các nguyên tắc trên.
"Liệu quý vị có đồng ý rằng giờ là lúc phải cam
kết chắc chắn với tinh thần và các điều khoản của Tuyên bố các Quy tắc
ứng xử trên Biển Đông năm 2002 (DOC), mà toàn bộ các quốc gia có liên
quan trên biển cùng đồng thuận tuân theo và không thực hiện các hành
động đơn phương làm thay đổi thực trạng một cách lâu dài.
"Thời điểm để cống hiến trí tuệ của chúng ta nhằm khôi phục hòa bình trên biển là lúc này.
"Điều mà cả thế giới đang nóng lòng chờ đợi là
biển và trời của chúng ta được quán xuyến bằng luật, luật lệ và qui
trình giải quyết tranh chấp sẵn có.
"Điều chúng ta ít mong đợi nhất là sợ rằng luật pháp bị thay thế bằng các mối đe dọa, sự hăm dọa chen chân vào luật lệ"
Shinzo Abe, Thủ tướng Nhật Bản
"Điều chúng ta ít mong đợi nhất là sợ rằng luật
pháp bị thay thế bằng các mối đe dọa, sự hăm dọa chen chân vào luật lệ
và rằng các tình huống bất ngờ sẽ xảy vào thời điểm và địa điểm bất
định.
"Tôi hy vọng mạnh mẽ rằng một bộ quy tắc ứng xử
(COC) thật sự có hiệu quả có thể được thiết lập trên Biển Đông giữa
ASEAN với Trung Quốc, và điều này có thể nhanh chóng đạt tới", ông Abe
phát biểu.
Jonathan Marcus, phóng viên ngoại giao BBC nhận
định rằng ông Abe muốn tăng cường ủng hộ cho các nước đang có tranh chấp
lãnh hải với Bắc Kinh.
"Ông Abe lên án những ai muốn “thay đổi hiện trạng” bằng cách áp đặt và đây là một đòn nữa giáng vào Trung Quốc.
"Ông Abe muốn thay đổi đồng thuận cho Nhật Bản
thời hậu chiến nhằm tạo điều kiện để Tokyo có vai trò chủ động hơn trong
phòng vệ tập thể. Không phải là ông Abe nói cái gì mà nói điều đó ở
đâu.
"Không có tổ chức an ninh tập thể nào như Nato
tại châu Á và vì vậy diễn đàn được biết tới với tên gọi Đối thoại
Shangri-La trở thành “sự kiện” an ninh thường niên chính trong vùng.
"Đây là lần đầu tiên một nhà lãnh đạo của Nhật
đọc diễn văn của diễn giả chính tại đây, một chỉ dấu rõ ràng rằng ông
Abe muốn Nhật đóng vai trò sâu rộng hơn nữa trong cuộc tranh luận an
ninh có qui mô", phóng viên Marcus nhận định.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2014/05/140530_abe_speech_shangri_la.shtmlNhật mưu tìm ‘vai trò tích cực hơn’ trong nỗ lực hòa bình cấp vùng
CỠ CHỮ
30.05.2014
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe nói nước ông sẵn sàng đóng một vai trò tích cực hơn trong việc thúc đẩy hòa bình trong khu vực.
Trong bài phát biểu tại Đối thoại Shangri-La cho các giới chức chuyên gia quốc phòng tại Singapore, ông Abe nhấn mạnh tất cả các nước phải tuân thủ luật pháp quốc tế:
"Nhật Bản sẽ hết lòng hỗ trợ những nỗ lực của các nước ASEAN," ông Abe nói, đề cập đến Hiệp hội các nước Đông Nam Á , trong khi các nước thành viên "nỗ lực đảm bảo sự an toàn của các vùng biển và vùng trời, và giữ gìn toàn vẹn sự tự do lưu thông hàng hải và hàng không."
Nhật Bản là một trong một số quốc gia trong khu vực hiện đang vướng vào tranh chấp lãnh hải căng thẳng với Trung Quốc.
Trong bài phát biểu của mình tại Singapore, ông Abe kêu gọi tất cả các quốc gia tuân thủ pháp chế và không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel cũng tham dự cuộc họp tại Singapore, nơi ông gặp người đồng nhiệm Nhật Bản và Australia vào thứ Sáu. Các quan chức Mỹ nói rằng họ kêu gọi ASEAN và Trung Quốc đồng thuận về một bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông.
Cuộc họp của ông Hagel với các bộ trưởng quốc phòng Australia và Nhật Bản bao gồm các cuộc đàm phán về Bắc Triều Tiên và chương trình hạt nhân gây tranh cãi của nước này. Bắc Triều Tiên dự kiến sẽ là chủ đề chính khi Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ gặp gỡ những người đồng nhiệm Nhật Bản và Hàn Quốc vào thứ Bảy.
Trong bài phát biểu tại Đối thoại Shangri-La cho các giới chức chuyên gia quốc phòng tại Singapore, ông Abe nhấn mạnh tất cả các nước phải tuân thủ luật pháp quốc tế:
"Nhật Bản sẽ hết lòng hỗ trợ những nỗ lực của các nước ASEAN," ông Abe nói, đề cập đến Hiệp hội các nước Đông Nam Á , trong khi các nước thành viên "nỗ lực đảm bảo sự an toàn của các vùng biển và vùng trời, và giữ gìn toàn vẹn sự tự do lưu thông hàng hải và hàng không."
Nhật Bản là một trong một số quốc gia trong khu vực hiện đang vướng vào tranh chấp lãnh hải căng thẳng với Trung Quốc.
Trong bài phát biểu của mình tại Singapore, ông Abe kêu gọi tất cả các quốc gia tuân thủ pháp chế và không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel cũng tham dự cuộc họp tại Singapore, nơi ông gặp người đồng nhiệm Nhật Bản và Australia vào thứ Sáu. Các quan chức Mỹ nói rằng họ kêu gọi ASEAN và Trung Quốc đồng thuận về một bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông.
Cuộc họp của ông Hagel với các bộ trưởng quốc phòng Australia và Nhật Bản bao gồm các cuộc đàm phán về Bắc Triều Tiên và chương trình hạt nhân gây tranh cãi của nước này. Bắc Triều Tiên dự kiến sẽ là chủ đề chính khi Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ gặp gỡ những người đồng nhiệm Nhật Bản và Hàn Quốc vào thứ Bảy.
Thursday, May 29, 2014
ĐÀM TRUNG THAO * TIỀM NĂNG QUÂN SỰ VIỆT CỘNG
"Tiềm Năng Quân Sự của CSVN Hiện nay"
ĐÀM TRUNG THAO
Với tiềm năng quân sự như hiện nay, CSVN đủ sức phòng thủ bảo vệ biên giới và lãnh hải (Exclusive Economic Zone). Nhưng với sự t ăng c ư ờng mỗi ngày mỗi lớn về quân sự của Trung Cộng (TC) thì trong tương lai CSVN cũng phải liên tục tăng cường sức mạnh quân sự để đương đầu với TC.
ĐÀM TRUNG THAO
Với tiềm năng quân sự như hiện nay, CSVN đủ sức phòng thủ bảo vệ biên giới và lãnh hải (Exclusive Economic Zone). Nhưng với sự t ăng c ư ờng mỗi ngày mỗi lớn về quân sự của Trung Cộng (TC) thì trong tương lai CSVN cũng phải liên tục tăng cường sức mạnh quân sự để đương đầu với TC.
Muốn
tăng cường sức mạnh bảo vệ địa giới và hải phận thì CSVN phải dồn 1 số
rất lớn về nhân lực, tài lực cho mục tiêu phòng thủ này, số còn lại
không đủ để phát triển kinh tế, lo phúc lợi tối thi ểu
cho nhân dân (xã hội, y tế, giáo dục). Muốn có đủ tài lực cho mọi mặt,
CSVN cần phải có sự trợ giúp của thế giới bên ngoài. Ngó tới ngó lui thì
trên thế giới hiện nay chỉ thấy Hoa
Kỳ là có khả năng trợ giúp VN. Hoa Kỳ đang “xoay trục” về Á Châu nói
chung và Đông Nam Á nói riêng.
Á Châu có tiềm năng lớn về kinh tế với
nhân lực, chất xám, và ý chí quyết tâm. Đông Nam Á còn là 1
vùng chiến lược, địa bàn cản sức bành trướng của TC. Nhật Bản, Đại Hàn
hiện là 2 cuờng quốc đồng minh của Hoa Kỳ đang được Hoa Kỳ bảo vệ, chống
sự phá hoại của TC, VN gia nhập đồng minh, họ sẽ biết ơn và trợ giúp. Gọn l ại, muốn giữ
vững ĐNÁ, Hoa Kỳ cần các nước còn lại trong vùng ĐNÁ thành đồng minh của mình. Hoa Kỳ sẵn sàng trợ giúp bất cứ quốc gia không Cộng sản trong vùng.
Chỉ
riêng VN, Hoa Kỳ đưa ra điều kiện VNCS phải hủy bỏ 1 số điều trong
hiến pháp (do VNCS dựng lên) mang tính phản Dân Chủ, phản Nhân Quyền,
phản Hiến Chương LHQ. Nếu đảng CSVN tuân theo và tôn trọng điều kiện
nầy, Hoa Kỳ sẽ trợ giúp VN mọi mặt để VN cùng với Hoa Kỳ và các đồng
minh khác tại ĐNÁ chung lưng đối cật chặn TC toàn vùng Á Châu, trước
tiên là ĐNÁ.
Đồng minh với Hoa Kỳ chống TC, cả Hoa Kỳ lẫn VN đều có lợi :
- Hoa Kỳ hưởng lợi ở chỗ VN sẽ là đội quân đồng minh phòng thủ hải
phận VN, 1 quãng dài hải lộ trên cái dải biển lưỡi bò mà TC tuyên bố là
lãnh hải của chúng chiếm tới 90% biển Đông. (Hải lộ “lưỡi bò” này là
con đường huyết mạch cho các nước đồng minh Nhật, Hàn, Đài Loan, Phi
Luật Tân chuyên chở các mặt hàng nhập cảng (nhiên
liệu, nguyên liệu) và c ác mặt hàng xuất cảng, cho Hạm Đội Thái Bình Dương của Mỹ tự do qua lại.
- VN
có lợi được Hoa Kỳ viện trợ võ khí phòng thủ để bảo vệ biên giới đất
và biển, trợ giúp phát triển kinh tế và cải tiến dân sinh
Thế
nhưng đảng CSVN sẽ rất sợ, không dám nhận những điều kiện của Hoa Kỳ
đưa ra vì tuân theo điều kiện của Hoa Kỳ có nghĩa là đảng CSVN mất
quyền độc đảng, mất quyền đàn áp, bóc lột nhân dân, chừng đó người dân
trong nước sẽ nổi dậy đập tan cái guồng máy cai trị sắt máu của chúng
để thiết lập 1 chế độ Tự Do Dân Chủ cho cả nuớc.
Chừng đó, 1 sớm 1 chiều đảng CSVN s ẽ
mất hết quyền lực, đảng viên các cấp mất hết quyền lợi, gia sản và 1 số
đáng kể sẽ mất mạng sống luôn không chừng ! Vì sợ mất đặc quyền đặc lợi
(và không chừng mất mạng sống luôn !) chúng sẽ không dám
nhận điều kiện Hoa Kỳ đưa ra. Chúng sẽ mè nheo Mỹ làm áp lực với Trung
Cộng để slow down tiến trình Hoa hóa VN như hiện tại, theo đúng như mật
ước Thành Đô mà lũ cha ông chúng đã ký kết (hiến dâng VN cho Trung Cộng,
tức giai đoạn chót sát nhập VN vào CHNDTQ vào năm 2060).
Để chúng có
thêm mấy chục năm nữa ra sức bóc lột nhân dân, bán sạch tài nguyên thiên
nhiên của VN lấy tiền bỏ túi áo khỉ, trở thành nhửng tư bản Đỏ sống
vương giả ngang hàng với đám tài phiệt Chệt Đỏ
mẫu quốc !
Tôi
nghĩ Trung Cộng sẽ thuận nghe theo đề nghị đó để không bị thế giới mất
cảm tình ghét bỏ, có hại cho việc phát triển kinh tế mà trong tương lai
ngắn hạn chúng đang cần. Điều này không hẳn là chúng (Trung Cộng) nghe
Mỹ và nghe theo lời khuyên của Đặng Tiểu Bình (đừng vội khoe khoang,
flex muscle, hãy âm thầm nhịn nhục, nhẫn nại build kinh tế, quân sự trức
khu thật sự vững mạnh v.v..).
Nhưng nếu TC không vâng lời Đặng Tiểu Bình, không chịu nghe lời năn nỉ đó, chúng sẽ cùng gia đình ôm tiền bạc châu báu trốn qua các các quốc gia Tự Do sống an toàn dưới cây dù của chế
độ dân chủ pháp trị của các xứ đó, bỏ lại sau lưng 80 triệu người dân Việt khốn khổ nơi quê hương cho Tầu Đỏ đô hộ, kh ông có cơ may n ào nổi d ậy gìn giữ giang sơn.
Tôi nghĩ cái kịch bản cuối cùng đó (ôm bạc trốn ra nước ngoài) sẽ xảy
ra vì từ trên 10 năm nay bọn chúng đã bắt đầu chuyển tiền ra nước
ngoài, chúng đã cho mua rất nhiều nhà cửa tại Hoa Kỳ, Canada, Úc và 1 số
nước bên Âu Châu để một khi có biến động tại VN là chúng nhanh chân chạy qua h ạ c ánh an toàn.
Nhưng hãy chờ xem, luật trời, luật người có để bọn chúng ngồi hưởng của cải bất lương phi pháp đó không ?
My 2-cent,
Thao Dam
CHIẾN LƯỢC VIỆT NAM
Chiến lược Việt Nam làm “chùn bước” Trung Quốc
Thứ năm, 29/05/2014, 06:31 (GMT+7)
***
Bài 1
Theo
các chuyện gia nước ngoài, có 2 chiến lược mà Việt Nam có thể làm “chùn
bước” Trung Quốc, ngăn chặn dã tâm của Bắc Kinh trên Biển Đông.
Theo
giáo sư Carl Thayer của ĐH New South Wales (Australia), leo thang căng
thẳng Việt Nam – Trung Quốc trên biển Đông hiện nay là kết quả của ý đồ
thay đổi hiện trạng của Trung Quốc nhằm hiện
thực hóa cái mà Bắc Kinh gọi là “đường 9 đoạn” trên biển Đông.
Ông
Thayer cho rằng, Trung Quốc đang thực hiện “chiến lược tiêu hao” với
Việt Nam. Theo đó, các tàu của Trung Quốc sẽ đâm các tàu Việt Nam từ 2
tới 4 lần khiến các tàu của Việt Nam bị hư hại, buộc phải sửa chữa.
Một
số nhà phân tích cũng dự đoán: Nếu Trung Quốc tiếp tục chiến lược có
tính chất phá hoại này, thì Việt Nam có thể không có đủ tàu để đối đầu
với Trung Quốc ở khu vực Bắc Kinh hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương
981 (HD981).
Scott Bentley
"Chiến lược tiêu hao" của Trung Quốc đối với lực lượng tàu Việt Nam.
Trước
đó, nghiên cứu của nhà phân tích Scott Bentley (ĐH New South Wales,
Australia) đã vạch trần cách Trung Quốc cố tình dùng vòi rồng để phá
hoại cột ăng ten và hệ thống liên lạc trên các tàu Việt Nam. Các đoạn
video được Cảnh sát biển Việt Nam công bố cho thấy,
các cột ăng ten trên tàu Việt Nam bị thổi bay khỏi tàu. Khi đó, tàu
Việt Nam sẽ không thể liên lạc với các tàu khác và buộc phải quay trở
lại đất liền để sửa chữa.
Không
dừng ở đó, chuyên gia Scott Bentley cho biết, gần như tất cả các tàu
canh gác bờ biển của Trung Quốc đều được trang bị súng và chủ ý nhắm tới
tàu Việt Nam trong các
cuộc đối đầu hiện nay.
Việt Nam đối phó và làm thất bại dã tâm của Trung Quốc thế nào?
Việt
Nam có những chiến lược gì để đáp trả lại
những hành động hiếu chiến và mang tính cưỡng ép của Trung Quốc hiện
nay trên Biển Đông, dù trên thực tế, tàu Việt Nam vẫn có mặt tại khu vực
quanh giàn khoan; hàng ngày, các tàu của lực lượng cảnh sát biển Việt
Nam có mặt tại khu vực này, khẳng định chủ quyền của Việt Nam và kêu gọi
tàu Trung Quốc rút lui khỏi vùng biển của Tổ quốc.
Theo
chuyên gia Scott Bentley, Việt Nam vẫn hết sức thận trọng, không điều
động tàu quân sự và điều đó cho thấy, Việt Nam đang thực hiện chính sách
rất ôn hòa. Các tàu chiến và tàu ngầm của Hải quân Việt Nam vẫn đang
nằm trong cảng, cách xa khu vực đối đầu hiện nay. Các quan chức Việt Nam
liên tục kêu gọi Trung Quốc giải quyết vấn đề thông qua đối thoại. Tuy
nhiên, đáp lại thái độ ôn hòa của Việt Nam, Trung Quốc tiếp tục duy trì
thái độ hung hăng, hiếu chiến.
Khi
các cuộc biểu tình chống Trung Quốc diễn ra ở một số tỉnh thành Việt
Nam, chính quyền Việt Nam đã nhanh chóng khôi phục trật tự; đã bắt giữ
và xét xử những người khuấy động bạo lực trong các cuộc biểu tình.
Việt
Nam cũng tìm tới các giải pháp ngoại giao thông qua Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN) và kêu gọi sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Việt
Nam tuyên bố đang cân nhắc thực hiện “nhiều biện pháp phòng vệ” đối với
Trung Quốc, bao gồm các hành động pháp lý. Theo đó, Việt Nam có thể đệ
đơn kiện Trung Quốc hoặc ủng hộ Philippines trong vụ kiện Trung Quốc tại
Tòa án Liên Hợp Quốc.
Việt
Nam cũng đang xây dựng một chiến lược lâu dài để đối phó với những hành
động hiếu chiến tương tự của Trung Quốc trong tương lai.
Giáo sư Carl Thayer
Giáo
sư Thayer cho rằng, tâm điểm trong chiến lược của Việt Nam là tìm cách
buộc Trung Quốc di chuyển giàn khoan và các tàu hải quân ra khỏi vùng
đặc quyền kinh tế của Việt Nam mà không phải đối đầu trực tiếp với Trung
Quốc. Có vẻ các nhà chiến lược Việt Nam đang nghĩ cách ngăn chặn Trung
Quốc có các hành động tương tự trong tương lai.
Theo
ông, hiện tại có vẻ Việt Nam đang xem xét 2 chiến lược đối phó Trung
Quốc – thứ nhất là gián tiếp phối hợp cùng với Mỹ thông qua hai đồng
minh của Washington là Nhật Bản và Philippines; thứ hai là chiến lược
“đôi bên cùng thiệt hại” trong trường hợp xảy ra xung đột vũ trang. Theo
một số nguồn tin, Việt Nam sẽ minh bạch chiến lược của mình để giảm
thiểu sự tính toán sai lầm từ Trung Quốc.
Mục
tiêu hàng đầu của Việt Nam trong chiến lược mới này không phải nhằm tới
đối đầu Trung Quốc, mà ngăn chặn điều đó bằng cách xây dựng hoàn cảnh
buộc Trung Quốc phải quyết định chấp nhận hiện trạng, nếu không Biển
Đông cứ “dậy sóng”. Chiến lược này của Việt Nam sẽ khiến Trung Quốc đối
mặt với nhiều rủi ro bởi lẽ các lực lượng vũ trang Việt Nam sẽ sát cánh
cùng các đồng minh của Mỹ trong khu vực.
Trước
khi vụ việc giàn khoan diễn ra, Việt Nam đã đề xuất tổ chức cuộc đối
thoại ba bên với Mỹ và Nhật Bản. Mặc dù Tokyo tỏ ra dè dặt, nhưng với
hành động hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông thì có vẻ đề xuất này
của Việt Nam là điều cần thiết, giúp tạo hành lang cho một chiến lược đa
phương (đa quốc gia) nhằm ngăn chặn Trung Quốc .
Việt
Nam cũng đã tiếp cận Nhật Bản và Philippines nhằm thúc đẩy các hoạt
động hợp tác của các lực lượng hàng hải bao gồm lực lượng canh gác bờ
biển và hải quân. Việt Nam hi vọng cùng các đối tác tiến hành tập trận
chung hàng hải, bao gồm các cuộc tuần tra chung, trên Biển Đông. Các
cuộc tập trận này sẽ diễn ra cách xa khu vực đang căng thẳng hiện nay.
Các cuộc tập trận sẽ được thực hiện ở các vùng biển xa và những vùng
biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trùng với khu vực mà
Trung Quốc coi là
“đường 9 đoạn”.
Việt
Nam cũng đang cân nhắc tiếp cận Mỹ. Một trong các đề xuất được đưa ra
là Việt Nam và Mỹ sẽ xúc tiến thỏa thuận hợp tác giữa lực lượng cảnh sát
biển của hai nước. Có thể lực lượng Bảo vệ Bờ biển của Mỹ sẽ được điều
động tới vùng biển của Việt Nam để tham gia diễn tập chung. Hai bên cũng
sẽ trao
đổi quan chức tới quan sát hoạt động của lực lượng canh gác bờ biển.
Vừa
qua, Việt Nam đã tham gia vào Sáng kiến chống phổ biến vũ khí hủy diệt
hàng loạt (PSI). Điều đó sẽ khiến Mỹ có cơ hội giúp đỡ Việt Nam nâng cao
năng lực giám sát hàng hải.
Trước
đây, Việt Nam từng bày tỏ mong muốn mua máy bay giám sát hàng hải của
Mỹ. Do đó, có thể Mỹ sẽ điều động một máy bay loại này tới Việt Nam và
các sĩ quan Việt Nam có thể trực tiếp tham gia vào các chuyến bay diễn
tập.
Ngoài
ra, một loại máy bay giám sát hàng hải phi vũ trang của Hải quân Mỹ
đóng tại Philippines cũng sẽ được tạm thời điều động tới Việt Nam. Máy
bay Mỹ sẽ cùng máy bay Việt Nam tham gia các hoạt động giám sát hàng
hải. Các sĩ quan Mỹ sẽ có mặt trong máy bay của Việt Nam với tư cách
quan sát viên và ngược lại.
Theo
các quan chức và chuyên gia Việt Nam, Trung Quốc thường tăng cường các
hoạt động hải quân trên Biển Đông vào khoảng thời gian từ tháng Năm tới
tháng Tám hàng năm. Lịch hoạt động này sẽ giúp Mỹ và Nhật Bản có thể tổ
chức các hoạt động hải quân chung cùng Việt Nam trên Biển Đông trước khi
các lực lượng hải quân Trung Quốc tăng cường hiện diện.
Nội
dung chi tiết của các hoạt động hải quân chung Mỹ – Nhật Bản – Việt Nam
sẽ được thông báo công khai minh bạch cho tất cả các quốc gia trong khu
vực, bao gồm cả Trung Quốc.
Theo
chuyên gia Thayer, chiến lược tiếp cận gián tiếp của Việt Nam giúp Mỹ
hiện thực hóa lập trường phản đối giải quyết tranh chấp bằng hành động
dọa nạt hay cưỡng chế. Chiến lược gián tiếp của Việt Nam không buộc Mỹ
phải đối đầu trực tiếp với Trung Quốc. Thay vào đó, chiến lược này đẩy
Trung Quốc vào thế phải quyết định có “dám” gánh chịu hậu quả của nguy
cơ đối đầu với một “liên minh” giữa hải quân Việt Nam và hai đồng minh
của Mỹ là Philippines và Nhật Bản và có thể, chính lực lượng Mỹ.
Các
lực lượng hải quân và không quân của “liên minh” này sẽ hoạt động tại
vùng biển và không phận quốc tế trên Biển Đông. Mục tiêu là thường xuyên
duy trì hiện diện hải quân và không quân nhằm ngăn chặn Trung Quốc có
hành động bắt nạt hay cưỡng chế đối với Việt Nam. Quy mô của các cuộc
diễn tập chung cũng sẽ được điều chỉnh tùy thuộc vào mức độ căng thẳng
trên vùng biển này.
Chiến
lược “đôi bên cùng thiệt hại” sẽ chỉ được Việt Nam áp dụng trong tình
huống mối quan hệ Việt – Trung tiến tới mức tồi tệ nhất là xung đột. Các
chiến lược gia Việt Nam mong muốn các cường quốc sẽ can thiệp để đối
phó với sự hiếu chiến của Trung Quốc.
Việc
Việt Nam xem xét chiến lược mới này cho thấy các quan chức và các nhà
chiến lược Việt Nam xác định tình hình căng thẳng hiện nay là một phần
trong chiến lược lâu dài của Trung Quốc. Theo đó, Trung Quốc có tham
vọng không chỉ thống trị biển Đông mà còn cả biển Hoa Đông ở phía bắc.
Theo
chuyên gia Thayer, chiến lược gián tiếp này của Việt Nam sẽ giúp Nhật
Bản, Philippines và cả Mỹ ngăn chặn Trung Quốc ngay từ bây giờ.
Bài
2
Trả
lời phỏng vấn báo Dân Trí, chuyên gia về Biển Đông nổi tiếng của
Philippines Richard Heydarian nhận định với sự hiếu chiến của mình,
Trung Quốc giờ đây muốn thiết kế lại kiến trúc về an ninh của khu vực
châu Á-Thái Bình Dương và theo đuổi giấc mộng bành trướng bất chấp tất
cả.
Richard Heydarian trong cuộc trả lời phỏng vấn với phóng viên Dân Trí.
Biển
Đông trong những ngày vừa qua thực sự đã dậy sóng khi Trung Quốc đưa
trái phép giàn khoan Hải Dương-981 vào sâu trong vùng thềm lục địa, đặc
quyền kinh tế của Việt Nam. Tại Diễn đàn kinh tế Thế giới về Đông Á đang
diễn ra ở Manila, Philippines, sức nóng của Biển Đông cũng được cảm
nhận rõ.
Bên
lề của hội nghị này, phóng viên Dân Trí ngày 22/5 đã có cuộc phỏng vấn
riêng với Giáo sư khoa học chính trị Richard Heydarian thuộc trường đại
học Ateneo De Manila, Philippines, chuyên gia nổi tiếng về Biển Đông của
Philippines. Ông đã có rất nhiều bài viết về Biển Đông trên các tờ báo
nổi tiếng như Asia Times, The New York Times, BBC, South China Morning Post, Huffington
Post... và là cố vấn cho nhiều tổ chức, nghị sỹ, chính trị gia của Philippines.
Giàn
khoan HD-981 được CNOOC chính thức đưa vào hoạt động từ 9/5/2012 trong
khi việc khởi công xây dựng giàn khoan nước sâu này đã được bắt đầu từ
nhiều năm trước đó. Và chủ tịch CNOOC cũng từng nói đây là “lãnh thổ di
động” cũng như “vũ khí chiến lược” của Trung Quốc. Theo ông thì động
thái Trung Quốc đưa giàn khoan vào vùng biển Việt Nam có phải là điều
bất ngờ?Và vì sao Trung Quốc lại làm vậy?
Tôi cho rằng nhiều người đã không ngờ Trung Quốc lại đưa ra hành động như vậy đối với Việt Nam bởi so với các nước láng giềng khác
cũng có tranh chấp về lãnh thổ với Trung Quốc như Philippines hay Nhật
Bản, Việt Nam có cách giải quyết thận trọng hơn. Hơn nữa Việt Nam và
Trung Quốc đã có hiệp định về phân định biên giới trên Vịnh Bắc Bộ. Thực
tế, một số quan chức giấu tên của Trung Quốc đã thừa nhận đây không
phải là quyết định kinh tế, thương mại của Trung Quốc mà thực chất hoàn
toàn là quyết định mang tính chính trị.
Thời
điểm Trung Quốc đưa ra quyết định này cũng rất đúng lúc, chỉ ngay sau
khi Tổng thống Mỹ Obama có chuyến công du tới châu Á. Trong chuyến thăm
của mình, đầu tiên Tổng thống Obama đã đưa ra đảm bảo về quân sự một
cách chắc chắn đối với Nhật, trong đó có cả quần đảo Senkaku/Điếu Ngư
trên Hoa Đông (quần đảo Trung Quốc và Nhật đang tranh chấp-pv). Và sau
đó Mỹ và Philippines đã ký thỏa thuận
hợp tác mới, củng cố hợp tác về quân sự giữa hai nước.
Vì
vậy bằng cách triển khai giàn khoan, Trung Quốc, một cách gián tiếp,
đang thử xem Mỹ có thể đi xa đến đâu. Mỹ đã ký hiệp ước đồng minh với
Nhật và Mỹ cũng mới ký một thỏa thuận mới với Philippines nên Trung Quốc
đã đưa ra hành động trên với Việt Nam nhằm gửi tín hiệu tới
Mỹ và các đồng minh.
Ngoài
ra, hãy nhìn vào chính trị nội bộ của Trung Quốc. Hoạt động khủng bố ở
Tân Cương, một loạt các vụ tấn công bằng dao, bom, là những điều khiến
chính quyền Trung Quốc bị mất mặt. Chính quyền Trung Quốc đã tuyên bố
rất mạnh về vấn đề an ninh, rằng tình hình an ninh hoàn toàn nằm trong
tầm kiểm soát. Bằng cách
triển khai giàn khoan 1 tỷ USD vào khoảng 120 hải lý thuộc vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam, tôi cho rằng Trung Quốc kéo được sự chú ý
đáng kể ra khỏi những vấn đề nội bộ Trung Quốc. Vì vậy, việc Trung Quốc
triển khai giàn khoan không hề gây ngạc nhiên nếu nhìn từ góc độ chiến
lược.
Nhưng
động thái triển khai giàn khoan của Trung Quốc
cũng gây bất ngờ khi nó đã hủy hoại những thỏa thuận mất nhiều nỗ lực,
nhiều thập kỷ mới đạt được giữa Việt Nam và Trung Quốc. Làm vậy, thực tế
Trung Quốc đã nói: Trung Quốc sẽ thực hiện tham vọng trên Biển Đông của
mình bằng mọi giá.
Tôi
cho rằng với sự hiếu chiến của mình, Trung Quốc giờ đây muốn thiết kế
lại kiến trúc về
an ninh của khu vực châu Á-Thái Bình Dương cũng như hình ảnh của chính
mình. Trung Quốc đã nói: “Tôi không quan tâm, tôi sẽ vẫn bành trướng bất
chấp tất cả”.
Trung Quốc đang hứng chịu "sức nóng" cô lập ở khu vực
Xin ông cho biết đánh giá của mình đối với những diễn biến gần đây trong ASEAN liên quan đến vấn đề Biển Đông?
Nói
về ASEAN, nhìn vào tuyên bố mới đây tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN (ở
Myanmar trong tháng này), mặc dù họ không nêu cụ thể tên Trung Quốc
trong lên án tình hình căng thẳng trên Biển Đông, nhưng so với những gì
diễn ra 2 năm trước, khi Campuchia là chủ tịch ASEAN, thì đã có sự khác
biệt vô cùng lớn.
Và
nếu cũng nhìn vào tuyên bố của Bộ Ngoại giao Trung Quốc sau đó, cũng
rất đáng chú ý. Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã cho rằng vấn đề Biển Đông
không phải là vấn đề giữa Trung Quốc với ASEAN, mà chỉ là vấn đề song
phương. Theo tôi, Trung Quốc dường như nhận ra rằng họ đang bị cô lập
trong khu vực.
Ngày
càng nhiều các thành viên nòng cốt của ASEAN, như Việt Nam,
Philippines, Indonesia, Malaysia, Singapore và Thái Lan (dĩ nhiên Thái
Lan hiện đang gặp khủng hoảng chính trị) nhận thấy tranh chấp trên Biển
Đông là vấn đề lợi ích của cả khu vực. Và khi ASEAN hướng tới Cộng đồng
kinh tế ASEAN vào năm 2015 thì sự ổn định cơ bản của khu vực không thể
thiếu. Bất kỳ đối đầu, xung đột nào trong khu vực cũng ảnh hưởng đến sự
hội nhập kinh tế của khu vực.
Tôi
cho rằng Trung Quốc ngay bây giờ đã cảm thấy được “sức nóng”. Các thành
viên nòng cốt của ASEAN đang có những động thái quyết liệt hơn với
Trung Quốc. Theo cách này, tôi cho rằng, Trung Quốc đã bị lùi một bước.
Cảnh sát biển Việt Nam đã chụp được ảnh, quay được video cho thấy tàu
Trung Quốc đâm vào tàu của họ. Tôi cũng cho rằng đây cũng là
một sự mất mặt với Trung Quốc. Rồi Indonesia cũng lên tiếng phủ nhận
“đường lưỡi bò của Trung Quốc”. Trên mặt trận ngoại giao, chúng ta đã
nhìn thấy sự đoàn kết mạnh mẽ, hợp tác chặt chẽ hơn trong khối ASEAN.
Trước đây Trung Quốc nghĩ có thể thực hiện chiến lược “chia để trị”. Nhưng giờ đây đã bắt đầu có nhiều nước cùng
ngồi với nhau, phối hợp quan điểm của họ để đối phó với Trung Quốc. Đây lại là một bước lùi nữa của Trung Quốc.
Những
tháng tới là những tháng vô cùng quan trọng. Chúng ta sẽ chờ đợi xem
Việt Nam và Philippines hợp tác như thế nào, phối hợp với các nước khác
trong ASEAN như Singapore, Malaysia, Indonesia như thế nào. Tất nhiên
điều quan trọng
là các nước ASEAN phải tập trung vào COC, quy tắc ứng xử có tính ràng
buộc về pháp lý trên Biển Đông.
Kiện cơ sở pháp lý “đường 9 đoạn”, không kiện “ai sở hữu cái gì”
Philippines đã khởi kiện “đường lưỡi bò” Trung Quốc lên Tòa án
trọng tài Liên hợp quốc tại The Hauge vào ngày 30/3 vừa qua. Theo ông Việt Nam nếu khởi kiện Trung Quốc nên khởi kiện theo hướng nào?
Tôi
tin là Việt Nam hiện đang suy xét đến việc kiện Trung Quốc giống như
Philippines. Nơi Trung Quốc đặt giàn khoan không nằm trong vùng đặc
quyền kinh tế 200 hải lý của Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc lại lập luận
rằng vùng biển nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của đảo Trung Quốc trước
đây đã chiếm của Việt Nam.
Nếu
nhìn vào vụ kiện của Philippines, thì chiến lược cơ bản là Philippines
khẳng định Trung Quốc không thể đưa ra lập luận như vậy được. Trung Quốc
chỉ có thể tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế trong 200 hải lý tính từ bờ
biển của nước này, chứ không phải từ hòn đảo giữa biển mà nước này đã
chiếm. Vì vậy Việt Nam có thể kiện Trung Quốc đã vi phạm vùng đặc quyền
kinh tế của mình.
Tôi
cho rằng cách Philippines kiện Trung Quốc rất khôn ngoan. Philippines
không kiện “ai sở hữu cái gì” mà kiện Trung Quốc đã vi phạm Công
ước Liên hợp quốc về Luật biển. Việt Nam nên kiện Trung Quốc theo hướng
này, kiện cơ sở Trung Quốc đưa ra “đường lưỡi bò” của mình có hợp pháp
hay không. Tất nhiên Trung Quốc sẽ tìm cách phá hoại vụ kiện. Khi đối
mặt với một mình Philippines, Trung Quốc có thể thấy dễ dàng. Nhưng nếu
Việt Nam, hay Nhật Bản hoặc một nước nào khác cũng có động thái tương tự
thì Trung Quốc sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy điều tôi muốn nhấn
mạnh ở đây là sự hợp lực của các nước có tranh chấp chủ quyền với Trung
Quốc.
Theo ông khởi kiện Trung Quốc, Philipines hoặc Việt Nam sẽ được gì?
Năm
2006 Trung Quốc đã nói rõ là nước này không chấp nhận vụ kiện nào lên
các cơ quan Liên hợp quốc trong các vấn đề lãnh thổ. Trung Quốc đã dùng
cách
không công nhận vụ kiện và có thể sẽ không tuân thủ theo phán quyết.
Nhưng đây là “cuộc tập trận” ngoại giao. Nếu Philippines thắng kiện,
Trung Quốc sẽ bị đặt trong tình thế bất lợi hơn. Giờ đây đã có một cơ
quan có tiếng nói trung lập, của bên thứ ba, với những chuyên gia giỏi
nhất thế giới, công khai khẳng định “học thuyết đường 9 đoạn” của Trung
Quốc chỉ là tuyên truyền của Trung Quốc, là vi phạm luật pháp quốc tế.
Trong suốt thời gian qua, Trung Quốc nói rằng chúng tôi phát triển hòa
bình, nhưng thực tế họ đã đi ngược lại những tuyên bố của mình. Khởi
kiệnTrung Quốc là nhằm hỗ trợ, tăng cường thêm áp lực với Trung Quốc. Và
tôi cho rằng cần phải dùng mọi biện pháp pháp lý để tăng cường áp lực
này.
Xin ông cho biết dự đoán của mình đối vụ giàn khoan Hải Dương-981 hiện nay?
Trong
tuyên bố đặt giàn khoan của mình, Trung Quốc cấm tàu thuyền quanh khu
vực giàn khoan tới ngày 15/8 tới. Nhưng nếu tới ngày đó, Trung Quốc vẫn
không rút giàn khoan ra khỏi vùng biển của Việt Nam, chúng ta cũng có
thể nghĩ tới lựa chọn quân sự. Nhưng tôi cho rằng Trung Quốc không muốn
điều đó. Trong thời gian từ nay đến đó, chắc chắn Trung Quốc sẽ phải
tính toán họ bị thiệt hại những gì trong vụ này. Vì vậy, trong thời gian
đó, tôi cho rằng Việt Nam cần phải liên tục gia tăng áp lực lên Trung
Quốc. Trung Quốc chỉ có thể lùi bước nếu họ cảm thấy “sức nóng”. Với một
mình Việt Nam có thể Trung Quốc cảm thấy dễ dàng đối phó, nhưng khi
Việt Nam, ASEAN, trong đó
có Philippines, và có thể là Nhật Bản hiệp lực, thì mọi chuyện sẽ
khác.
Bài 3: Xung đột tiếp theo tại Biển Đông: Trung Quốc và Indonesia?
Jack
Greig, chuyên gia phân tích tại Viện Chính sách Chiến lược Australia,
trong những ngày gần đây, việc Trung Quốc triển khai giàn khoan Hải
Dương 981 vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam đánh dấu một
sự leo thang căng thẳng mới ở khu vực Biển Đông nhằm đáp ứng cơn khát
năng lượng của mình và là một tín hiệu cho thấy tham vọng độc chiếm Biển
Đông của Bắc Kinh.
Ngoại giao "cân bằng động"
Trong
hai thập kỷ qua, Trung Quốc đã chuyển từ một nước xuất khẩu sang nhập
khẩu năng lượng ròng hàng đầu thế giới. Theo dự báo trong bản Báo cáo
năng lượng toàn cầu của Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ (IEA) năm 2013,
nhu cầu của Trung Quốc sẽ chiếm 31% nhu cầu tăng trưởng năng lượng của
toàn thế giới giai đoạn 2011 - 2035. Nhu cầu năng lượng của Bắc Kinh vào
năm 2035 sẽ gấp đôi Mỹ và gấp 3 lần Liên minh châu Âu (EU). Cơn khát
ngày càng tăng này của Trung Quốc sẽ ngày càng được hỗ trợ bởi sức mạnh
hải quân đang phát triển của nước này. Có nghĩa là, Bắc Kinh sẽ có các
lựa chọn trong việc thúc đẩy nguồn dự trữ năng lượng chiến lược ở Biển
Đông để bảo đảm an ninh năng lượng trong tương lai của mình.
Đáy
biển xung quanh quần đảo Natuna của Indonesia được cho là khá giàu khí
đốt và nằm trong cái gọi là "đường 9 đoạn" mơ hồ của Trung Quốc ở Biển
Đông. Đồng thời quần đảo này cũng nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ)
của Indonesia. Jakarta từng khẳng định rằng, nước này không có tranh
chấp với Trung Quốc vì
tuyên bố trên của Bắc Kinh không có cơ sở theo luật pháp quốc tế. Nhưng
Trung Quốc đã từ chối trả lời một cách nhất quán hoặc rõ ràng về yêu
cầu của Jakarta để làm rõ vấn đề này.
Tàu khu trục của Trung Quốc.
Như
vậy, theo ông Jack Greig,ít nhất sẽ có một cuộc xung đột về việc giải
thích về Công ước của Liên Hợp Quốc về luật biển (UNCLOS) năm 1982 và
khái niệm pháp lý rằng "đất thống trị biển" giữa Trung Quốc và
Indonesia. Những nỗ lực của Jakarta nhằm tìm kiếm sự
đồng thuận trong ASEAN về Biển Đông đã dựa chủ yếu vào giải pháp ngoại
giao được gọi là "sự cân bằng động" (PDF) - có thể làm dịu bớt đi sự mất
cân bằng quyền lực ngày càng tăng lên ở Đông Nam Á. Quan điểm của
Indonesia về những lợi ích lâu dài và vai trò của Trung Quốc trong khu
vực với chiến lược "cân bằng động" trên được cho là "sự mơ hồ chiến
lược".
Sự
mơ hồ này cũng lan tỏa ra các mối quan hệ khác và được thúc đẩy một
phần bởi lo ngại liên quan đến vấn đề lịch sử. Bắc Kinh và Jakarta đã
cắt đứt quan hệ ngoại giao trong vòng 23 năm sau khi Tổng thống
Indonesia Suharto lên nắm quyền. Mối quan hệ giữa hai nước được nối lại
vào năm 1990, nhưng đã xảy ra một cuộc khủng hoảng giữa họ vào năm 1994
liên quan đến cách đối xử của Indonesia với người Trung Quốc ở Bắc
Sumatra (Indonesia). Vào năm 1998, khi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á
đang ở mức đỉnh điểm và bạo loạn xảy ra ở Jakarta, người Trung Quốc ở
Indoneisa lại trở thành mục tiêu của các cuộc xung đột một lần nữa, kết
quả là hàng ngàn người Trung Quốc
phải chạy trốn. Giờ đây, mặc dù cả hai nước đang có những mối quan hệ
tốt về kinh tế, nhưng Jakarta không thể không đưa nhân tố gây hấn của
Trung Quốc trong khu vực vào tư duy chiến lược của mình.
Đáng
chú ý nhất, Tư lệnh Lực lượng Phòng vệ Quốc gia Indonesia (TNI), Tướng
Moeldoko gần đây thừa nhận
“những thách thức chính trong tương lai gần của Indonesia là tranh chấp
ở khu vực Biển Đông và an ninh biên giới”. Chuyên gia Scott Bentley
(Australia) cũng mới bình luận trên diễn đàn của Trung tâm Nghiên cứu
Chiến lược quốc tế (CSIS) rằng có lý do chính đáng để tin rằng có tín
hiệu cho thấy về sự thay đổi trong nhữn ưu tiên chiến lược của TNI, ít
nhất là trong giới lãnh đạo quân sự.
Thực
tế là Bộ Ngoại giao Indonesia và TNI cũng đã quan tâm đến phạm vi ảnh
hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực. Phát biểu sau khi Bắc
Kinh tuyên bố thiết lập Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên biển Hoa
Đông, Bộ trưởng Ngoại giao Indonesia Marty Natalegawa cảnh báo: "chúng
tôi đã kiên quyết nói với phía Trung Quốc, chúng tôi sẽ không chấp nhận
một ADIZ tương tự ở Biển Đông”. Trả lời phỏng vấn của tạp chí "Phố Wall"
(Mỹ) ngày 20/5, Ngoại trưởng Indonesia Marty Natalegawa đã phản bác một
số quan điểm từng được Trung Quốc đưa ra để biện minh cho hành động leo
thang tại Biển Đông, đồng thời cho biết Indonesia sẽ can dự mạnh mẽ hơn
nhằm giải
quyết tình hình căng thẳng trên Biển Đông sau khi Trung Quốc đơn
phương hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương - 981 (Haiyang Shiyou -
981) trong vùng biển Việt Nam.
Kết thúc sự "mơ hồ chiến lược"
Trong
hơn hai thập kỷ qua, Indonesia đã định vị mình như một bên trung gian
hòa giải trung lập trong các tranh chấp Biển Đông giữa ASEAN và Trung
Quốc. Jakarta cho rằng Indonesia và Trung Quốc không có yêu sách chồng
lấn tại các đảo trên Biển Đông vì theo UNCLOS, chủ quyền đối với vùng
nước xuất phát từ chủ quyền đối với đất liền và Jakarta đã yêu cầu
Bắc Kinh phải bảo đảm quan điểm này nhưng rốt cuộc vẫn chưa được chấp
nhận”.
Indonesia
xem các tranh chấp lãnh thổ như một mối đe dọa lớn đến lợi ích của
mình, ảnh hưởng đến sự ổn định khu vực Đông Nam Á. Trong những năm 1990,
Indonesia bắt đầu tổ chức các cuộc hội thảo về Biển Đông để
giảm căng thẳng và xây dựng lòng tin giữa các bên tranh chấp. Sau đó,
các thành viên ASEAN và Trung Quốc đã ký Tuyên bố về ứng xử của các bên ở
Biển Đông (DOC) vào năm 2002, cam kết giải quyết hòa bình các tranh
chấp, không sử dụng vũ lực. Quan trọng hơn, DOC kêu gọi tất cả các bên
kiềm chế, không chiếm các hòn đảo không có người ở, các rạn san hô và
bãi ngầm ở Biển Đông.
Tổng thống Philippines Benigno Aquino III (phải) và người đồng nhiệm Indonesia Susilo Bambang Yudhoyono trong cuộc họp báo chung tại thủ đô Manila ngày 23/5.
Ảnh: THX-TTXVN
Tuy
nhiên, DOC thiếu cơ chế thực thi nên Indonesia đã đi đầu trong việc
thúc giục các bên đàm phán tiến tới bộ quy tắc có tính ràng buộc pháp lý
hơn, trong đó có các biện pháp phòng tránh sự leo thang quân sự trên
biển. Jakarta từ lâu cũng đã lo ngại âm mưu độc chiếm Biển Đông của
Trung Quốc, nhất là đối với chuỗi đảo Natuna – một trong những khu vực
có trữ lượng khí đốt lớn nhất thế giới.
Sự
lo ngại của Indonesia đã tăng lên cùng với việc Trung Quốc gia tăng sức
mạnh quân sự, ngày càng quyết đoán hơn để khẳng định lợi ích trên Biển
Đông. Hành động của Trung Quốc không chỉ đe dọa đối với khu vực quần đảo
Natuna, các vùng biển xung quanh mà còn sự thiêng liêng của UNCLOS.
Indonesia là quốc gia quần đảo lớn nhất thế giới nhưng năng lực hải quân
hạn chế để có
thể bảo vệ các hòn đảo xa xôi kéo dài tới 3.000 dặm từ Đông sang Tây,
do đó nước này luôn ủng hộ mạnh mẽ UNCLOS.
Do
đó, mặc dù cả Trung Quốc và Indonesia đang tận hưởng sự thân thiện
trong thời gian dài giữa hai bên, nhưng căng thẳng ở Biển Đông đang tiếp
tục như là ngọn lửa âm ỉ trong mối quan hệ
song phương này.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã có những hành động mà theo Indonesia nhận thức là phá hoại UNCLOS, đe dọa đến sự ổn định khu vực. Trước tiên, khi Trung Quốc công bố bản đồ đường chín đoạn vào năm 2009, trong đó có phần đặc khu kinh tế tại khu vực Natuna, Indonesia đã phản đối tuyên bố của Trung Quốc đối với UNCLOS vào năm 2010 và yêu cầu Trung Quốc làm rõ tuyên bố về bản đồ được vẽ vào năm 1947 bằng cách cung cấp tọa độ chính xác các đường đứt khúc chín đoạn. Giáo sư Ann Marie Murphy nói rằng tuyên bố của Indonesia, thực chất khẳng định mình là một bên tranh chấp trên Biển Đông với Trung Quốc, đã kết thúc sự mơ hồ chiến lược trong quan hệ hai nước, có khả năng làm gia tăng căng thẳng trong quan hệ song phương.
Theo quan điểm của Indonesia, tuyên bố của Trung Quốc không rõ ràng về mặt pháp lý, không phù hợp với UNCLOS. Trung Quốc phản ứng thiếu tích cực trước yêu cầu của Indonesia đã gửi một tín hiệu mạnh mẽ đến Jakarta rằng nước này không đánh giá cao các hành động (phản đối) của Indonesia. Sau đó, Trung Quốc ngày càng trở nên quyết đoán hơn trong việc theo đuổi tuyên bố trên Biển Đông và có xu hướng sử dụng vũ lực để hiện thực hóa tham vọng của mình, đặc biệt nghiêm trọng hơn, theo quan điểm của Indonesia, Trung Quốc đã tăng cường tập trận hải quân, mở rộng sự hiện diện quân sự từ Bắc xuống phía Nam – khu vực Trung Quốc đã sử dụng vũ lực trong cuộc đối đầu với các tàu Indonesia. Chẳng hạn như hồi tháng 3/2013, Indonesia đã chặn bắt tàu cá Trung Quốc đánh bắt bất hợp pháp tại quần đảo Natuna, buộc ngư dân Trung Quốc rời tàu lên bờ làm thủ tục pháp lý nhưng ngay sau đó tàu vũ trang Trung Quốc xuất hiện, đối đầu với tàu Indonesia, yêu cầu thả các ngư dân Trung Quốc.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã có những hành động mà theo Indonesia nhận thức là phá hoại UNCLOS, đe dọa đến sự ổn định khu vực. Trước tiên, khi Trung Quốc công bố bản đồ đường chín đoạn vào năm 2009, trong đó có phần đặc khu kinh tế tại khu vực Natuna, Indonesia đã phản đối tuyên bố của Trung Quốc đối với UNCLOS vào năm 2010 và yêu cầu Trung Quốc làm rõ tuyên bố về bản đồ được vẽ vào năm 1947 bằng cách cung cấp tọa độ chính xác các đường đứt khúc chín đoạn. Giáo sư Ann Marie Murphy nói rằng tuyên bố của Indonesia, thực chất khẳng định mình là một bên tranh chấp trên Biển Đông với Trung Quốc, đã kết thúc sự mơ hồ chiến lược trong quan hệ hai nước, có khả năng làm gia tăng căng thẳng trong quan hệ song phương.
Theo quan điểm của Indonesia, tuyên bố của Trung Quốc không rõ ràng về mặt pháp lý, không phù hợp với UNCLOS. Trung Quốc phản ứng thiếu tích cực trước yêu cầu của Indonesia đã gửi một tín hiệu mạnh mẽ đến Jakarta rằng nước này không đánh giá cao các hành động (phản đối) của Indonesia. Sau đó, Trung Quốc ngày càng trở nên quyết đoán hơn trong việc theo đuổi tuyên bố trên Biển Đông và có xu hướng sử dụng vũ lực để hiện thực hóa tham vọng của mình, đặc biệt nghiêm trọng hơn, theo quan điểm của Indonesia, Trung Quốc đã tăng cường tập trận hải quân, mở rộng sự hiện diện quân sự từ Bắc xuống phía Nam – khu vực Trung Quốc đã sử dụng vũ lực trong cuộc đối đầu với các tàu Indonesia. Chẳng hạn như hồi tháng 3/2013, Indonesia đã chặn bắt tàu cá Trung Quốc đánh bắt bất hợp pháp tại quần đảo Natuna, buộc ngư dân Trung Quốc rời tàu lên bờ làm thủ tục pháp lý nhưng ngay sau đó tàu vũ trang Trung Quốc xuất hiện, đối đầu với tàu Indonesia, yêu cầu thả các ngư dân Trung Quốc.
Indonesia
tuyên bố công khai trở thành bên xung đột với Trung Quốc đi kèm kế
hoạch tăng cường sức mạnh hải quân tại quần đảo Natuna là sự thay đổi
quan trọng trong ván cờ Biển Đông. Indonesia chính thức phản đối tuyên
bố của Trung Quốc trên Biển Đông, "sự mơ hồ chiến lược" từng cho phép
Indonesia định vị mình như một trung gian hòa giải giữa Trung Quốc và
ASEAN đã thất bại.
Theo Công Thuận
***
LS. TẠ VĂN TÀI * KIỆN TRUNG QUỐC
Kiện Trung Quốc
LS Tạ Văn Tài, Harvard Law School
LTS
Đã hơn mấy
chục năm nay, dân ta xôn xao bàn tán công hàm Phạm Văn Đồng. Phe cộng
sản im lặng như không nghe, không biết, không thấy. Vì nói đến thì sợ
thòi lòi cái đuôi bán nước của Hồ Chí Minh và Việt cộng. Những ông tiến
sĩ luật khoa hải ngoại có cái bằng to tổ bố, dạy các đại học Âu Mỹ "
hoành tráng " cũng êm re ! Thiệt là buồn hết sức, mai mỉa hết sức! Nay
mới thấy ông Tạ Văn
Tài, xuất hiện. Chúng ta thử xem ông nói những gì...Bài này trich đăng
tạp chí KINH TẾ SAIGON ONLINE đăng ngày
thứ Sáu, 30/5/2014, 05:34 (GMT+7)
Không
thấy ông xuất hiện trên báo chí hải ngoại, té ra ông là cộng tác viên
của báo chí Saigon đỏ, và phải chờ khi Nguyễn Tấn Dũng nói đến việc kiện
Trung Cộng thì ông mới có hào khí viết bài này, nếu không thì ông đã im
lặng trung thành với 16 chữ vàng! Ôi nhập gia thì phải tùy tục thôi!
Tục ngữ có câu :" Có hơn không, lấy chồng hơn ở góa '' . Thật vậy lên tiếng dù muộn màng còn hơn im lặng!
Tục ngữ có câu :" Có hơn không, lấy chồng hơn ở góa '' . Thật vậy lên tiếng dù muộn màng còn hơn im lặng!
Bên Kia Bờ Đại Dương xin trân trọng giới thiệu cùng quiý độc giả.
Phần 1: Quyền của Việt Nam ở Biển Đông và lập luận của Trung Quốc
Phần 1: Quyền của Việt Nam ở Biển Đông và lập luận của Trung Quốc
Trước khi đi vào chi tiết các biện pháp Việt Nam có thể sử dụng như đối
sách thì cần ôn lại những lợi ích hay quyền lợi mà Công ước Liên hiệp
quốc về Luật Biển (United Nations Convention on the Law of the Sea,
UNCLOS) dành cho các quốc gia hội viên như Việt Nam.
Giàn khoan HD-981 của Trung Quốc (chấm xanh) nằm sâu trong vùng Thềm
lục địa và vùng Đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo quy định của Công
ước Liên hiệp quốc về Luật Biển UNCLOS (ranh giới là đường màu trắng)
Có hai loại lợi ích hay quyền lợi quốc gia của Việt Nam tại Biển Đông:
và đá tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Việt Nam đã tuyên bố và
thực thi với sự chiếm hữu và quản lý trong quá khứ, theo đúng luật quốc
tế truyền thống đã có mấy trăm năm, cho đến khi một số địa điểm bị
Trung Quốc chiếm đóng bằng bạo lực; và
(b) lợi ích hay quyền đối với những vùng nước và đáy biển dưới mặt nước
tại Biển Đông chiếu theo UNCLOS năm 1982, gồm có quyền chủ tể (sovereign rights),
quyền khai thác tài nguyên sinh vật như cá biển và phi sinh vật như
quặng mỏ, kim loại hay dầu khí ở đáy biển, trong một vùng dưới mặt nước
gọi là Vùng Đặc quyền kinh tế (Exclusive Economic Zone, EEZ) rộng 200 hải lý tính từ mực nước thủy triều thấp nhất (gọi là đường cơ sở) (điều 56 và 57 UNCLOS), và trong vùng Thềm lục địa (Continenal Shelf) tức mặt đáy biển và đất dưới đáy biển đi ra tới bờ của lục địa (continental margin) hay tới khỏang cách 200 hải lý tính từ đường cơ sở, khi bờ lục địa không xa tới mức đó (điều 76 và 77 UNCLOS).
Hơn nữa cần nhấn mạnh là theo UNCLOS, các quyền chủ thể trong vùng EEZ
và Thềm lục địa của Việt Nam là dành riêng hay chuyên độc (exclusive)
của quốc gia cận duyên, cho nên Việt Nam trong vùng EEZ có chủ quyền
xây các kiến trúc nhân tạo trên các đá thành những đảo nhân tạo, nghiên
cứu biển, quy định bảo vệ môi sinh, miễn là tôn trọng quyền các quốc gia
khác về tự do lưu thông hàng hải, đặt dây cáp và ống dẫn dầu khí của
các nước khác (điều 56,58), và trong Thềm lục địa, Việt Nam cũng đương
nhiên có quyền chuyên độc khai thác tài nguyên thiên nhiên mà không cần
tuyên bố hay chiếm hữu, và các quốc gia khác không thể có các hoạt động
khai thác tài nguyên mà không có sự minh thị đồng ý của Việt Nam (điều
77).
Khi bàn luận về tranh chấp với Trung Quốc, ta nên nhớ luật quốc tế đã
nói chắc chắn về các quyền của Việt Nam như đinh đóng cột.
Khi đem giàn khoan dến vị trí giữa hai lô dầu 142 và 143 của Việt Nam
trong vùng Đặc quyền kinh tế Việt Nam (EEZVN), như trong bản đồ trên,
thì trái với sự bàn luận cuộc một số người, Trung Quốc không dùng cái
Đường lưỡi bò hay đường Chín đoạn (Nine-dotted Line), vốn không
thể biện hộ được và bị tất cả các nước và học giả chất vấn, làm căn bản
cho sự xâm lấn. Họ nói đến hai yếu tố làm cơ sở pháp lý cho quyết định
của họ:
(a) Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã nham hiểm mà tránh viện dẫn cái Đường
lưỡi bò vô duyên đó, mà dùng lập luận về vùng EEZ của Trung Quốc, để nói
là giàn khoan “đặt hoàn toàn trong vùng nước của các đảo Paracels của
Trung Quốc” (placed completely within the waters of China's Paracels”), ám chỉ trong vòng 200 hải lý của EEZ và thềm lục địa của Paracels do Trung Quốc quản lý (nhưng Việt Nam vẫn liên tục đòi).
Vùng EEZ và thềm lục địa đó, UNCLOS sẽ công nhận cho Paracels nếu hội
đủ điều kiện quy định trong UNCLOS cho tính cách một hòn đảo (island)
là con người sinh sống với nền kinh tế tự túc (nước ngọt và thực phẩm
trồng tại chỗ) khi mỏm đất hay đá đó còn trong trạng thái thiên nhiên
[Còn nếu không có mỏm đất hay đá nào trong Paracels đủ điền kiện là đảo,
thì chúng chỉ là đá (reef) theo UNCLOS và chúng chỉ có 12 hải lý của lãnh hải/territorial sea.]
Việc Philippines kiện Trung Quốc trước Tòa án Luật Biển, sau khi chịu
đựng thương lưọng với Trung Quốc 17 năm về vụ Trung Quốc chiếm đá ngầm
trong vùng EEZ của Phi thì dễ hơn vụ của Việt Nam vì vùng EEZ của Việt
Nam trùng lấp với vùng EEZ của quần đảo Paracels, mà nay Trung Quốc nói
đang thuộc quyền quản lý của họ.
(b) Trung Quốc cũng ám chỉ là giàn khoan cách đảo Hải Nam 180 hải lý về
phía nam (cách đảo Lý Sơn của Việt Nam chừng 120 hải lý về phía đông),
tức là có vùng chồng lấn giữa EEZ của Việt Nam tính từ đảo Lý Sơn và EEZ
của Trung Quốc tính từ đảo Hải Nam.
(Mời xem tiếp: Phần 2: Việt Nam có thể kiện trước tòa án quốc tế nào? trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số ra ngày 29-5-2014, và trên TBKTSG Online chiều thứ Năm 29-5-2014)
Phần 2: Việt Nam có thể kiện trước tòa án quốc tế nào?
A) Luận cứ (a) của Trung Quốc dùng Paracels để đòi quyền khai thác cho giàn khoan phải được bác khước bằng hai vụ kiện trong đó Việt Nam phải trình hồ sơ về hai điểm: (i) Paracels không phải thuộc chủ quyền đất đai (territorial sovereignty) của Trung Quốc mà của Việt Nam; (ii) Paracels không có mỏm đá nào, kể cả Woody/Yongxing /Phú Lâm xứng đáng gọi là đảo/island, tức có người sống trong nền kinh tế tự túc được trong trạng thái nguyên thủy sơ khai, mà toàn là đá/reef.
Vụ kiện thứ nhất về chủ quyền đất đai trên Paracels là thuộc luật quốc tế cổ truyền (traditional international law), theo đó Việt Nam phải minh chứng theo nguyên tắc luật quốc tế là một chính quyền muốn xác nhận chủ quyền phải có sự liên tục hành xử chủ quyền trong hòa bình, nói rõ ý định làm chủ, và nếu bị cưỡng chiếm thì phải phản đối chính quyền mới cướp bằng võ lực đất của mình để ngăn cản chính quyền mới này thủ đắc chủ quyền bằng sự hành xử chủ quyền liên tục.
Xét các bằng chứng lịch sử về chủ quyền của Việt Nam theo luật quốc tế
này, thì Việt Nam, trong chiều dài lịch sử từ nhiều thế kỷ, đã xác nhận
và hành xử chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa (tuy phạm vi hành xử ở
Trường Sa thì chưa xác định tới bao nhiêu đảo); và khi Trung Quốc chiếm
Hoàng Sa bằng võ lực năm 1974 và Việt Nam Cộng hòa phản đối, sau đó Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam) – kế
quyền của Việt Nam Cộng hòa theo nguyên tắc thừa kế quốc gia (succession of state)
– cũng phản đối vụ Trung Quốc dùng võ lực chiếm Hoàng Sa và rồi phản
đối nhiều lần việc Trung Quốc dùng võ lực chiếm một số đảo ở Trường Sa
năm 1988 gây thương vong cho nhiều lính hải quân Việt Nam và các năm sau
đó, thì chủ quyền Việt Nam trên Hoàng Sa và Trường Sa không thể bị coi
là đã bị xói mòn vì thiếu sự tuyên bố và hành xử chủ quyền.
Nhưng ngay tại đây, cần bác khước một vấn đề Trung Quốc nêu ra: nguời Trung Quốc thường viện đến công hàm hay công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 mà họ cho là đã nhường Paracels và Spratleys cho Trung Quốc. Chúng tôi có đủ luận cứ quốc tế công pháp bác khước điểm này và trình bày trong một bài báo khác, như là Phụ lục của bài này. Phải dùng luận cứ này trong dư luận quốc tế và trong vụ kiện về chủ quyền đất đai (territorial sovereignty) trên Paracels tại tòa án có thẩm quyền về việc này là Tòa án Công Lý Quốc Tế (International Court of Justice, ICJ).
Rất tiếc là trong hiện trạng luật quốc tế, không thể lôi Trung Quốc ra tòa ICJ được như một số kiến nghị vì chắc chắn Trung Quốc sẽ không đồng ý ra tòa mà theo nguyên tắc optional clause thì một quốc gia có đồng ý ra tòa thì tòa mới xem xét đơn kiện.
B) Trong vụ kiện thứ hai, chúng tôi nghĩ là trước Tòa án Trọng tài Luật Biển, Việt Nam có thể bác khước căn bản pháp lý của việc Trung Quốc đặt vị trí giàn khoan, bác khước cả hai luận cứ: luận cứ (b) về khoảng cách đảo Hải Nam tới giàn khoan chỉ có 180 dặm, gây ra sự trùng lấp của hai EEZ của hai nước, cùng với luận cứ (a) về tư cách đảo/island của Paracels.
Tòa án Trọng tài Luật Biển là tòa mà Việt Nam có thể lôi Trung Quốc ra theo thủ tục bó buộc trong UNCLOS, Mục 2, điều 286-288. Tòa án đó có hẩm quyền xét xử bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến việc giải thích hay áp dụng một điều ước quốc tế có liên quan đến các mục đích của Công ước và đã được đưa ra cho mình theo đúng điều ước này.
Nhưng ngay tại đây, cần bác khước một vấn đề Trung Quốc nêu ra: nguời Trung Quốc thường viện đến công hàm hay công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 mà họ cho là đã nhường Paracels và Spratleys cho Trung Quốc. Chúng tôi có đủ luận cứ quốc tế công pháp bác khước điểm này và trình bày trong một bài báo khác, như là Phụ lục của bài này. Phải dùng luận cứ này trong dư luận quốc tế và trong vụ kiện về chủ quyền đất đai (territorial sovereignty) trên Paracels tại tòa án có thẩm quyền về việc này là Tòa án Công Lý Quốc Tế (International Court of Justice, ICJ).
Rất tiếc là trong hiện trạng luật quốc tế, không thể lôi Trung Quốc ra tòa ICJ được như một số kiến nghị vì chắc chắn Trung Quốc sẽ không đồng ý ra tòa mà theo nguyên tắc optional clause thì một quốc gia có đồng ý ra tòa thì tòa mới xem xét đơn kiện.
B) Trong vụ kiện thứ hai, chúng tôi nghĩ là trước Tòa án Trọng tài Luật Biển, Việt Nam có thể bác khước căn bản pháp lý của việc Trung Quốc đặt vị trí giàn khoan, bác khước cả hai luận cứ: luận cứ (b) về khoảng cách đảo Hải Nam tới giàn khoan chỉ có 180 dặm, gây ra sự trùng lấp của hai EEZ của hai nước, cùng với luận cứ (a) về tư cách đảo/island của Paracels.
Tòa án Trọng tài Luật Biển là tòa mà Việt Nam có thể lôi Trung Quốc ra theo thủ tục bó buộc trong UNCLOS, Mục 2, điều 286-288. Tòa án đó có hẩm quyền xét xử bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến việc giải thích hay áp dụng một điều ước quốc tế có liên quan đến các mục đích của Công ước và đã được đưa ra cho mình theo đúng điều ước này.
Chúng tôi nghĩ rằng Việt Nam có thể lôi Trung Quốc ra Tòa án Trọng tài Luật Biển mà Trung Quốc không thể dùng sự bảo lưu (reservation)
khi ký Công ước là không nhận thủ tục bó buộc cho các tranh chấp về
vùng chồng lấn của các EEZ giữa Việt Nam và Trung Quốc, như nói ở điểm
(b), giàn khoan ở chỗ chống lấn của hai EEZ tính từ bờ biển Việt Nam và
từ Hải Nam, vì rằng Việt Nam cũng có thể xin Toà Trọng Tài xử về biên
giới biển/sea boundary, mặc dầu Trung Quốc có bảo lưu/reservation khi gia nhập Công ước về vấn dề biên giới biển/sea boundary hay vịnh lịch sử/historical bays; quyền kiện đó của Việt Nam là chiếu theo điều 298 đoạn 4, Công ước UNCLOS dành quyền cho quốc gia duyên hải/coastal state, quyền có thể đối kháng:
“4. Nếu một quốc gia thành viên đã ra một tuyên bố theo khoản 1, điểm a, thì bất kỳ quốc gia thành viên nào khác cũng có thể đưa ra mọi tranh chấp giữa quốc gia đó với quốc gia đã ra tuyên bố và nằm trong một loại tranh chấp đã bị loại trừ, ra giải quyết theo thủ tục được định rõ trong tuyên bố này“.
“4. Nếu một quốc gia thành viên đã ra một tuyên bố theo khoản 1, điểm a, thì bất kỳ quốc gia thành viên nào khác cũng có thể đưa ra mọi tranh chấp giữa quốc gia đó với quốc gia đã ra tuyên bố và nằm trong một loại tranh chấp đã bị loại trừ, ra giải quyết theo thủ tục được định rõ trong tuyên bố này“.
Bây giờ nói về điểm (b), vị trí giàn khoan ở nơi chống lấn giữa EEZ
Việt Nam và EEZ Trung Quốc tính từ Hải Nam: cả hai phía bờ biển Việt Nam
và Trung Quốc đều có thể phát sinh hai EEZ và hai Thềm lục địa, của cả
hai nước Việt Nam và Trung Quốc. Nói cho Việt Nam, chúng ta có thể biện
luận theo luật là: vị trí giàn khoan ở trong Thềm lục địa mở rộng của
Việt Nam, và hơn nữa, ở hẳn sang phía Việt Nam nếu cần phải thương lượng
theo Công ước để tìm ra một đưòng trung tuyến (median line) giữa hai Thềm lục địa—như vẽ trong hình đăng trên Phần 1.
Trước Toà Trọng Tài, mục đích quan trọng nhất là xin một bản án giải thích (declaratory judgement) giải thích và áp dụng Công ước về vấn đề không có mỏm đá, đất nào trong Paracels, kể cả Woody/Yongxing/Phú Lâm, xứng đáng là đảo (island) mà người ở được trong một nền kinh tế tự túc, trong trạng thái thiên nhiên trước khi Trung Quốc xây các tòa nhà ở được, phi trường, cảng, để tiếp tế, và nhà máy lọc nước ngọt.
Cũng còn một căn bản khác để kiện là xin Tòa giải thích việc Trung Quốc, một quốc gia duyên hải /coastal state,
đã đơn phương ngăn chặn tự do lưu thông, với vòng vây rộng lớn các tầu
chiến và hải giám quanh giàn khoan, chiếu theo điều 297 đoạn 1a:Trước Toà Trọng Tài, mục đích quan trọng nhất là xin một bản án giải thích (declaratory judgement) giải thích và áp dụng Công ước về vấn đề không có mỏm đá, đất nào trong Paracels, kể cả Woody/Yongxing/Phú Lâm, xứng đáng là đảo (island) mà người ở được trong một nền kinh tế tự túc, trong trạng thái thiên nhiên trước khi Trung Quốc xây các tòa nhà ở được, phi trường, cảng, để tiếp tế, và nhà máy lọc nước ngọt.
1. Các vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước về việc thi hành các quyền thuộc chủ quyền hay quyền tài phán của quốc gia ven biển như đã được trù định trong Công ước, phải được xét theo các thủ tục giải quyết đã được trù định ở Mục 2 trong các trường hợp sau đây:
Lại còn vi phạm khác nữa của Trung Quốc, đó là trong khi chờ đợi các cơ quan tài phán giải quyết, Việt Nam chỉ giới hạn họat động vào các lô 118 và 119, thì Trung Quốc—đáng lẽ phải theo đoạn 3 các điều 74 và 83 về các bước đi thương lượng giải quyết bất đồng với Việt Nam về EEZ và thềm lục địa để tự chế trong tinh thần hiểu biết và cộng tác (understanding and cooperation) kèm theo những biện pháp tạm thời (provisional measures), ngõ hầu không hại đến thỏa ước sau cùng - thì Trung Quốc lại lấn lưót, hung hăng. Hành động của Trung Quốc cũng vi phạm Tuyên bố Ứng xử trên Biển Đông của ASEAN (DOC).
Trong việc kiện Trung Quốc, Việt Nam có thể theo gương Philippines, nhờ các văn phòng luật sư quốc tế giỏi, như Cotvington & Burling, khi xưa đã giúp Việt Nam thời Thủ tướng Võ Văn Kiệt, cũng trong vấn đề Biển Đông.
Phần 3: Vai trò của cộng đồng quốc tế
Nếu tình thế tiếp tục căng thẳng thì Việt Nam phải dùng thêm
các biện pháp chính trị, ngọai giao và quân sự nào? Vai trò của cộng
đồng quốc tế ra sao?
Công ước luôn đòi hỏi các bên thương nghị và cả hòa giải nữa trước khi
đem ra các thủ tục bó buộc. Vì thế các cuộc thương nghị ngoại giao song
phương, đa phương phải luôn có. Nếu thương nghị song phương mà bá quyền
lấn áp, thì phải dùng thương nghị đa phương qua ASEAN và, nhất là nếu
các nước nhỏ quá ngại va chạm với Trung Quốc thì phải dùng cả sự can
thiệp của các nước lớn có quyền lợi ở Biển Đông như Nhật, Úc, Nga, Ấn và
nhất là Mỹ.
Một nền ngoại giao đa phương đã có thể làm chùn bớt hành vi hung hăng
của Trung Quốc, ngay từ khi trong chuyến du hành của Thủ tướng Việt Nam
qua Mỹ năm 2008: lúc đó, Tổng thống Bush đã cam kết bảo đảm cho sự toàn
vẹn lãnh thổ cho Việt Nam. Thông cáo chung Mỹ Việt "nhắc lại sự ủng hộ của chính phủ Hoa Kỳ đối với Việt Nam về chủ quyền quốc gia, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ" và nói đến nhu cầu "củng cố đối thoại cấp cao" và ủng hộ "thành
lập các cuộc họp hoạch định chính sách về chính trị, quốc phòng để có
các trao đổi thường xuyên và sâu hơn về các vấn đề chiến lược và an
ninh".
Hồi hạ tuần tháng 7 năm 2010, Ngoại trưởng Clinton tuyên bố tại Hà Nội rằng Hoa Kỳ xem Việt Nam “không
những thật sự là một quốc gia quan trọng mà còn là một bộ phận của
chiến lược nhắm tăng cường cam kết của người Mỹ trong khu vực Á châu
Thái Bình Dương, đặc biệt là trong vùng Đông Nam Á.”
Khi phát biểu tại hội nghị của Diễn đàn Khu vực ASEAN ở Hà Nội, bà
Clinton còn nói rằng Hoa Kỳ xem việc giải quyết vấn đề tranh chấp chủ
quyền ở biển Nam Trung Hoa (Việt Nam gọi là Biển Đông) bằng đường lối đa
phương, theo luật quốc tế, mà không đe dọa hay dùng võ lực, là một
“quyền lợi quốc gia” của Mỹ. Những phát biểu này đã khiến cho giới lãnh
đạo Trung Quốc phật lòng.
Cơ chế các tổ chức quốc tế hoàn vũ (global international organizations)
là diễn đàn nêu sự bắt nạt củaTrung Quốc trước dư luận quốc tế và có
thể đi đến những nghị quyết hãm bớt sự hung hăng của Trung Quốc. Vì thế
nên đưa vấn đề ra Đại hội đồng Liên hiệp quốc/United Nations General Assembly hay ngay cả Hội đồng Bảo an/Security Council.
Một nghị quyết của Đại hội đồng Liên hiệp quốc là áp lực công luận quốc
tế, có thể làm chùn bước Trung Quốc. Tuy ở Hội đồng Bảo an , khi lấy
quyết định có thể vấp vào phiếu phủ quyêt của Trung Quốc, nhưng Việt Nam
vẫn cần đưa ra hay nhờ cường quốc đưa ra, vì đó là thủ tục có thế làm
bất cứ khi nào có đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế/threat to international peace and security,
như việc Trung Quốc đem chiến hạm đe dọa và dùng võ lực với lực lượng
kiểm ngư và ngư dân Việt Nam. Làm như vậy để tạo dư luận quốc tế có lợi
cho Việt Nam.
Phụ lục: Về công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng
Trung Quốc có lý không khi viện dẫn công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn
Đồng để nói chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa đã về tay họ? Có hai luận cứ
pháp lý quốc tế cho thấy biện dẫn của Trung Quốc là phi lý.
Công thư mà cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho Chu Ân Lai năm 1958
thường được Trung Quốc viện dẫn một cách sai trái cho chủ quyền của họ ở
Hoàng Sa và Trường Sa.
Công thư không đề cập đến chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa.
Thứ nhất, và quan trọng nhất, Hiệp định Geneva trao quyền quản lý hành
chính Hoàng Sa và Trường Sa, đều ở phía Nam vĩ tuyến 17, cho Chính phủ
Miền Nam Việt Nam (Việt Nam Cộng hòa - VNCH) ở phía nam vĩ tuyến đó, cho
nên các hành vi xác lập và hành xử chủ quyền về Hoàng Sa và Trường Sa
phải thuộc thẩm quyền của VNCH, và chính phủ này cũng như hải quân của
họ đã mạnh mẽ xác nhận chủ quyền Việt Nam ở các hải đảo trong và sau
biến cố hải chiến Hoàng Sa 1974.
Còn cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, đại diện miền Bắc Việt Nam, tức Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) lúc đó, không có thẩm quyền hay không có ý
định tuyên bố gì về chủ quyền đất đai về Hoàng Sa và Trường Sa thuộc
VNCH vào thời điểm đó, mà chỉ đưa ra lời tuyên bố công nhận hải phận 12
hải lý của Trung Quốc.
Tuy nguyện vọng "Dân tộc Việt Nam là một, nước Việt Nam là một” là
chính đáng, nhưng tình trạng hiện hữu của một quốc gia là một vấn đề sự
kiện thực tại trong luật quốc tế, cho nên thực tại có hai nước Việt Nam -
VNDCCH và VNCH - trong thời gian 1954-1975, là đúng với luật quốc tế và
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) là quốc gia kế quyền (successor state)
trong việc hành xử và bảo vệ chủ quyền đất đai đó. Sự kế quyền trong
việc bảo vệ chủ quyền đất đai này cũng đã được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
đề cập trong bài phát biểu trước Quốc hội ngày 25-11-2011, theo đó
khẳng định năm 1974, Trung Quốc đã dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần
đảo Hoàng Sa “trong sự quản lý hiện tại của chính quyền Sài Gòn, tức là
chính quyền VNCH. Chính quyền VNCH đã lên tiếng phản đối việc làm này và
đề nghị Liên hiệp quốc (LHQ) can thiệp”.
Theo Hiệp ước Montevideo 1933 thì VNCH là một thực thể có đủ 4 điều kiện của một quốc gia (state),
gồm: (a) một dân số ổn định; (b) một lãnh thổ rõ rệt; (c) có một chính
quyền; và (d) có khả năng giao dịch với quốc gia khác. Còn vấn đề các
nước khác nhìn nhận một quốc gia có đủ 4 điều kiện trên để lập bang giao
thì là vấn đề chính trị và tiêu chuẩn chính trị thêm vào 4 tiêu chuẩn
luật, và chính phủ nào không ưa một nước nào mà không nhìn nhận thì cũng
không thể xóa bỏ tư cách quốc gia của nước đó. Chẳng hạn như trường hợp
Cuba bị Mỹ ghét, không nhìn nhận, nhưng Mỹ cũng không thể xóa tư cách
quốc gia của Cuba được.
Quốc gia VNCH 1954-75 đã được mấy chục nước thừa nhận ngoại giao, thậm
chí có lúc Trung Quốc đã đề nghị cả hai nước Việt Nam vào LHQ.
Tất nhiên, việc có vào LHQ được hay không (chẳng hạn bị một trong 5
quốc gia thành viên thường trực của HĐBA phủ quyết), thì là chuyện chính
trị, không phải là tiêu chuẩn về sự khai sinh một quốc gia. Những ai cứ
viện dẫn Hiệp định Geneve nói sẽ có một nước Việt Nam sẽ được thành
lập với tuyển cử thống nhất hai phần đất tạm thời chia cắt, mà coi nước
VNCH như không có trong trời đất là không hiểu luật quốc tế mấy trăm năm
về tình trạng quốc gia và lầm lẫn tiêu chuẩn pháp lý về tình trạng quốc
gia trong luật quốc tế với những sự sắp xếp chính trị của các cường
quốc trong một Hiệp định giữa vài nước mà thôi, đã cố tình quên cái thực
tại chính trị là đã có mấy chục nước nhìn nhận sự khai sinh của quốc
gia VNCH, và cũng quên mất luật quốc tế theo nghĩa là một số ít nước ký
Hiệp định Geneva không thể truất quyền của mấy chục nước kia đã thừa
nhận VNCH.
Bây giờ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói, và trước đây giả sử người
tiền nhiệm của ông là cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói một cách minh thị
hơn nữa, nói có hai quốc gia Việt Nam trong giai đoạn 1954-1975, thì
cũng không làm giảm giá trị của sự nghiệp thống nhất đất nước vào năm
1976, vì trong lịch sử thế giới, đã có nhiều quốc gia chia ra nhiều mảnh
rồi lại thống nhất, và cũng có quốc gia chia ra hai, thí dụ Pakistan
chia thành hai, nửa kia thành Bangladesh, Sudan trước là một thì nay là
hai quốc gia, mà các quốc gia đó vẫn có vị trí và được nhìn nhận trong
cộng đồng các quốc gia.
Công thư 1958 không có hiệu lực pháp lý quốc tế về việc nhượng đất.
Thứ hai, một bản tuyên bố đơn phương (unilateral declaration)
như công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có hiệu lực pháp lý về
mặt quốc tế. Trong luật quốc tế, không thể cố áp dụng lý thuyết "Estoppel",
tức là lý thuyết trong luật pháp quốc nội của một số quốc gia có quy
định là “Đã nói ra thì không nói ngược lại được”, vì lý thuyết này không
áp dụng trong luật quốc tế theo cùng các điều kiện như trong luật quốc
nội, vì có những điều kiện ngặt nghèo, và do đó không thể coi lời nói
đơn phương là có hiệu lực ràng buộc đương nhiên trong luật quốc tế.
Tòa án quốc tế trong một vụ xử giữa Đức và Đan Mạch/Hà Lan về thềm lục địa đã nói như vậy. Ngoài ra, theo một án lệ khác, khi xét ý nghĩa của lời tuyên bố đơn phương, tòa án quốc tế phải xét một cách chặt chẽ "ý định" của người tuyên bố. Theo án lệ "Nuclear Tests Case Australia & New Zealand v. France 1974 I.C.J 253", thì "khi các quốc gia đưa ra lời tuyên bố hạn chế tự do hành động của mình, thì phải giải thích hạn hẹp”. Tòa án cũng nói là: “Chỉ cần xét một vấn đề quan trọng là xem lời văn trong lời tuyên bố có biểu lộ một ý định rõ rệt không… Tòa án phải tự có quan điểm riêng về ý nghĩa và phạm vi mà tác giả lời tuyên bố đơn phương nào có thể tạo ra một nghĩa vụ pháp lý, và tòa không thể bị ảnh hưởng gì bởi quan điểm của một quốc gia khác.”
Theo tiêu chuẩn trong án lệ trên mà xét, thì ý định của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong công thư 1958 phải được xét trong khuôn khổ quyền hạn Thủ tướng chiếu theo Hiến pháp 1946. Theo đó Chính phủ gồm Chủ tịch nước, Phó chủ tịch và nội các (điều 44). Trong nội các đó, có Thủ tướng (điều 44), nhưng Chủ tịch nước mới là người thay mặt cho nước (điều 49 đoạn a) mà ký hiệp ước với nước khác (điều 49 đoạn H) ràng buộc Việt Nam về những việc quan trọng, thí dụ chủ quyền đất đai như việc nhượng đất; kèm theo quyết định chuẩn y hiệp ước bởi nghị viện là cơ quan quyền lực cao nhất, thì mới có quyền về nhượng đất (điều 22 và 23).
Còn Thủ tướng không thể vượt quá quyền, theo học lý luật pháp "ultra vires" (vượt quá quyền hạn), và công thư của cố Thủ tưởng Phạm Văn Đồng, trong ngôn ngữ dùng, chỉ có ý định ủng hộ ngoại giao cho Trung Quốc về một điểm là 12 hải lý hải phận mà Trung Quốc đang lo lắng tuyên bố để chống sự đe dọa lúc đó của Mỹ từ hai đảo Kim Môn và Mã Tổ do quân đội Đài Loan chiếm giữ với sự ủng hộ mạnh mẽ của Mỹ và đe dọa lớn hơn của Mỹ từ eo biển Đài Loan với Hạm đội 7.
Hơn nữa, ý định của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không thể được giải thích là liên quan đến nhượng đất, vì Trung Quốc yêu sách về tất cả các đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa, trong đó nhiều đảo thuộc quyền chiếm hữu của một số quốc gia Đông Nam Á, mà cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không là đại diện để nói về chuyện nhượng đất. Trung Quốc cũng không thể mang lời của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra để đối kháng với các quốc gia Đông Nam Á khác được. Theo án lệ "Nuclear Tests" nói trên, Toà án quốc tế không cần nghe giải thích chủ quan, thủ lợi theo ý mình của Trung Quốc.
Tòa án quốc tế trong một vụ xử giữa Đức và Đan Mạch/Hà Lan về thềm lục địa đã nói như vậy. Ngoài ra, theo một án lệ khác, khi xét ý nghĩa của lời tuyên bố đơn phương, tòa án quốc tế phải xét một cách chặt chẽ "ý định" của người tuyên bố. Theo án lệ "Nuclear Tests Case Australia & New Zealand v. France 1974 I.C.J 253", thì "khi các quốc gia đưa ra lời tuyên bố hạn chế tự do hành động của mình, thì phải giải thích hạn hẹp”. Tòa án cũng nói là: “Chỉ cần xét một vấn đề quan trọng là xem lời văn trong lời tuyên bố có biểu lộ một ý định rõ rệt không… Tòa án phải tự có quan điểm riêng về ý nghĩa và phạm vi mà tác giả lời tuyên bố đơn phương nào có thể tạo ra một nghĩa vụ pháp lý, và tòa không thể bị ảnh hưởng gì bởi quan điểm của một quốc gia khác.”
Theo tiêu chuẩn trong án lệ trên mà xét, thì ý định của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong công thư 1958 phải được xét trong khuôn khổ quyền hạn Thủ tướng chiếu theo Hiến pháp 1946. Theo đó Chính phủ gồm Chủ tịch nước, Phó chủ tịch và nội các (điều 44). Trong nội các đó, có Thủ tướng (điều 44), nhưng Chủ tịch nước mới là người thay mặt cho nước (điều 49 đoạn a) mà ký hiệp ước với nước khác (điều 49 đoạn H) ràng buộc Việt Nam về những việc quan trọng, thí dụ chủ quyền đất đai như việc nhượng đất; kèm theo quyết định chuẩn y hiệp ước bởi nghị viện là cơ quan quyền lực cao nhất, thì mới có quyền về nhượng đất (điều 22 và 23).
Còn Thủ tướng không thể vượt quá quyền, theo học lý luật pháp "ultra vires" (vượt quá quyền hạn), và công thư của cố Thủ tưởng Phạm Văn Đồng, trong ngôn ngữ dùng, chỉ có ý định ủng hộ ngoại giao cho Trung Quốc về một điểm là 12 hải lý hải phận mà Trung Quốc đang lo lắng tuyên bố để chống sự đe dọa lúc đó của Mỹ từ hai đảo Kim Môn và Mã Tổ do quân đội Đài Loan chiếm giữ với sự ủng hộ mạnh mẽ của Mỹ và đe dọa lớn hơn của Mỹ từ eo biển Đài Loan với Hạm đội 7.
Hơn nữa, ý định của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không thể được giải thích là liên quan đến nhượng đất, vì Trung Quốc yêu sách về tất cả các đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa, trong đó nhiều đảo thuộc quyền chiếm hữu của một số quốc gia Đông Nam Á, mà cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không là đại diện để nói về chuyện nhượng đất. Trung Quốc cũng không thể mang lời của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra để đối kháng với các quốc gia Đông Nam Á khác được. Theo án lệ "Nuclear Tests" nói trên, Toà án quốc tế không cần nghe giải thích chủ quan, thủ lợi theo ý mình của Trung Quốc.
VŨ TRỌNG KHẢI * TRUNG CỘNG SẼ SỤP ĐỔ
NỀU KHÔNG TẤN CÔNG VIỆT NAM
TRUNG CỘNG SẼ SỤP ĐỔ
Vũ
Trọng Khải.
28/5/2014
Bà Holly Morrow, một chuyên viên nghiên cứu Biển
Đông của trường ĐH/ Havard đưa ra nhận định :
“ Cái gía về ngọai giao mà TC phải trả về
những gì đang làm là quá cao, vì thế, những gì mà TC mong muốn phải CAO HƠN
những lợi ích của an ninh năng lượng đem
lại cho TC.”
Nhận định của Bà
Holly Morrow như trên về hành động của Trung Cộng (TC) khi cắm dàn khoan HD 981
trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tại Biển Đông, là, một nhận định đáng
để suy ngẫm nhiều nhất so với những lời nhận định khác của các chuyên viên quốc
tế nghiên cứu tình hình Biển Đông qua sự
kiện HD 981.
Thường các nhà
nghiên cứu những biến chuyển chính trị, quân sự hay ngay cả kinh tế, luôn bỏ lửng
như nhận định trên đây của Bà Morrow, họ không xác định một cách rõ ràng, như
trong nhận định này, Bà Morrow cũng không nêu rõ cái “TC mong muốn cao hơn” đó là
gì khi TC chấp nhận những chỉ trích của Quốc Tế.
Việc bỏ lửng, không
xác định như vậy, không có nghĩa là Bà Morrow hay các vị khác không có câu trả
lời chính xác cho nhận định của họ, như trong trường hợp này “ mong
muốn cao hơn đó của TC là gì”, có lẽ, người ta muốn chính những người trong
cuộc phải tìm ra lời giải đáp để có thái độ hành xử tương ứng !
Là người Việt Nam,
chính là người trong cuộc trước vận mệnh đất nước, không thể không suy nghĩ về
nhận định của Bà Morrow để tìm hiểu hành động của TC trong những ngày qua sẽ dẫn
đến những hệ lụy nào cho Tổ Quốc và Dân Tộc, khi TC quyết tâm đánh đổi những bất
lợi ngọai giao để lấy được cái gì đó khi chọn VN là đối tượng gây hấn vào thời điểm
này.
Nhìn về nội tình
TC hiện nay,
1/ Ai cũng thấy, đó
là một đất nước đang có quá nhiều bất ổn cả về chính trị lẫn kinh tế, có thể dẫn
đến sự xụp đổ của chế độ !
Cũng như chế độc
CSVN, nguyên nhân của nó là THAM NHŨNG.
Các dân tộc bị TC đô
hộ như Tân Cương, Mông Cổ, Tây Tạng đang có những cuộc chống đối, đòi quyền độc
lập, mạnh nhất là Tân Cương đã chấp nhận thực hiện những vụ khủng bố ngay tại Bắc
Kinh trong vài tháng qua.
Ngay chính dân
Trung Quốc cũng có những cuộc đình công đòi công bằng xã hội, đòi quyền sống của
công nhân dẫn đến bạo động chống lại lực lượng an ninh công sản, thậm chí có những
cảnh sát chấn áp bạo động đã bị thiệt mạng.
Hệ thống công quyền
của TC cũng như của CSVN, đã tham nhũng đến nỗi không còn giấy mực nào tả cho hết,
chính chế độ độc tài này đã tạo nên một xã hội quá chênh lệch giữa ngưới giầu và
người nghèo, bất ổn phát sinh từ đó, chính giới cầm quyền gây nên bất ổn xã hội,
nhưng họ đổ tội này lên đầu người dân !!!
2/ Tình hình kinh
tế sa sút nặng khi thế giới cáo giác hành vi mất đạo đức trong việc sản xuất hàng
hóa độc hại cho người tiêu dung, cả thế giới đang tẩy chay hang hóa mang nhãn
hiệu “ MADE IN CHINA”.
3/ Một số công ty
lớn của Hoa Kỳ như Apple đã rút nguồn vốn và những trang thiết bị về chính quốc
hoặc đầu tư vào các quốc gia khác như Ấn Độ hoặc Đông Âu.
4/ Nhật và Nam Hàn
cũng đã có hành động tương tự và đang lên kế họach di chuyền nguồn vốn ra khỏi
TC, điển hình mới đây, khỏang đầu tuần lễ thứ hai của tháng 5/2014 hãng Samsung
của Nam Hàn tuyên bố rút đầu tư từ TC qua Việt Nam
Với tình hình đó,
người ta khó có thể tiên đoán số công nhân bị thất nghiệp tại TC là bao nhiêu ?
Ảnh hưởng giây
chuyền của kinh tế, càng làm số nhân công thất nghiệp gia tăng gấp bội, chắc cũng
phải hàng trăm triệu người thất nghiệp.
Một gánh nặng oằn đôi
vai đảng cộng sản Trung Quốc !
Liệu lãnh đạo TC có
thể gánh nổi hay không ?
Lãnh đạo TC phải tìm phương cách vãn hồi bạo lọan
nội địa của công nhân, dẹp tan sự vùng dậy của các dân tộc bị trị đòi độc lập,
giữ ổn định nền kinh tế, vì chính quyền lợi thống trị của đảng cộng sản hơn là
nguyện vọng của người dân.
GÂY CHIẾN TRANH GIỚI
HẠN VỚI VIỆT NAM
- Để giải quyết những
vấn đề đó, TC phải tấn công Việt Nam để có lý do chấn áp bạo động trong nội địa
!
- Tạo một tình hình
căng thẳng, bất ổn cho Việt Nam để các nhà tư bản không giám hoặc tạm thời đình
hõan chuyển vốn đầu tư từ TC qua Việt Nam.
Để thực hiện kế sách
cứu chế độ, TC đã thẳng tay với đàn em là CSVN.
Giàn khoan HD 981
là một chiếc đinh đóng vào cột xương sống đảng CSVN, nhưng TC không ngờ đã làm
náo lọan ổn định tại Biển Đông, đã là lý do để thành viên Asean đoàn kết hơn, để
Hoa Kỳ và CSVN sẽ bàn thảo kế hoạch hợp tác tòan diện!!!
Đối với an ninh của
Tổ Quốc Việt Nam, giàn khoan HD 981 không dẫn đến nguy cơ mất nước khi có chiến
tranh với TC, như việc đảng CSVN nhượng phần biên giới địa đầu cực bắc Việt Nam
cho TC,
Đây là một vùng đồi
núi hiểm trở, đó chính là những công sự phòng thủ thiên nhiên trời ban cho Dân
Tộc Việt Nam để giữ nước, để ngăn cản bước chân xâm lăng của giặc phương bắc từ
ngàn xưa….
CSVN đã nhượng phần
đất này cho TC, và giờ đây, TC đặt những dàn đại pháo rót vào các tỉnh địa đầu của VN như ta đặt chính
xác những quân cờ vào vị trí của nó trên bàn cờ, không cần “ đề lô”!!!
Việc phân định lại ranh giới nội địa giữa hai nước, kẻ
nào ngu nấy chịu, chả ảnh hưởng gì đến quốc tế ….
Nhưng… giàn khoan HD 981 không như vậy, nó nằm
trên tuyền đường an ninh hàng hải quốc tế, do đó quốc tế đã có những động thái
nhất tề lên án TC xâm lăng Việt Nam, hành động lên án đó rõ ràng không vì an
ninh của Việt Nam, mà vì quyền lợi của những ai có liên hệ, thế thôi !
Từ hành động chuyển giàn khoan HD 981 đến ngoài khơi
VN tạo bất ổn khu vực, mục đích của TC
chỉ để tự cứu nguy cơ sụp đổ chế độ mà thôi.
Có lẽ chưa chắc ăn,
Chính TC, qua bàn
tay của những tên tình báo TC và tay chân thân tín cài cắm trong đảng CSVN, TC
cho tiến hành vụ bạo động tại Bình Dương.
Là người VN, hẳn mọi
người đều biết bản tính hiếu hòa của dân tộc mình, người công nhân chân chính
VN không thể có hành động bạo động, đốt phá các hãng xưởng, nơi mà họ, trong lúc
này, mong có công ăn việc làm hơn bao giờ hết.
Các hãng xưởng đầu
tư của Nam Hàn, Đài Loan, Nhật Bản cũng bị đập phá mạnh mẽ, tan hoang (?)….. thế
là chả có chủ đầu tư nào của các quốc gia này rút nguồn vốn từ TC về Việt Nam
khi VN đang có những bất ổn xã hội như vậy !
Coi như TC đã thắng
một keo là cầm chân tư bản nước ngoài lưu lại TC, để tránh khủng hỏang chính trị
tạo nên bởi số nhân công thất nghiệp.
TC sẽ không gây
chiến tranh với Việt Nam trên Biển Đông, trong bài
“ Cộng Sản Tàu Cá Nằm Trên
Thớt”
(Đã được phổ biến tháng 6 năm 2011, xin đính kèm)
Người viết đã trình bầy, TC chỉ là một anh du kích biển !
TC không bao giờ mở
mặt trận lớn trên Biển Đông với thành viên Asean và Hoa Đông với Nhật Bản… vì
như vậy, TC sẽ đơn thương chống trả một lực lượng hùng hậu của cả thế giới, không
riêng gì Hoa Kỳ khi Hoa Kỳ coi tư do hàng hải trên Biển Đông và Hoa Đông là “
quyền lợi thiết thực của Hoa Kỳ”.
Cũng chính lý do đó,TC
cũng không khai chiến với VN trên Biển Đông, vì an ninh hành hải trên Biển Đông
là quyền lợi chung của Thế Giới, sẽ có nhiều tay nhúng vào can thiệp, bất lợi về
phía TC. Dùng vòi phun nước chỉ là trò chơi của lũ trẻ, bên nào kông kiềm chế được,
nổ sung trước sẽ mất chánh nghĩa, mà không chừng, có khi cả hai đều không mang đạn
trên tầu ra chung quang dàn khoan HD 981 cũng nên !!!
TC sẽ khai chiến với
Việt Nam lần này cũng như năm 1979, không
mở rộng ngoài vài tỉnh vùng biên giới, hoặc đôi khi chỉ pháo kích lẻ tẻ để giới
quan sát có ảo tưởng tình hình VN đang bất ổn !!!
TC cũng không xua
quân vào Hà Nội, nhưng thời gian gây chiến sẽ kéo dài cho đến khi ổn định xong
nội bộ, khi đó TC sẽ kéo quân về với những lời tuyên bố ba hoa như người ta có
thể dự đoán kiểu như : “ sẽ cho VN một bài học thứ ba !” nhân đó cũng là cơ hội
thử một số vũ khí mới, tập dợt tinh thần và khả năng tác chiến của quân đội Tàu.
May ra cũng có lợi,
như sau trận năm 1979, đảng CSVN nhu nhược
lại nhượng tí đất nào chăng, ai biết ?
Chỉ như thế thôi,
vì TC cần mua thời gian dẹp tan nội loạn, cứu kinh tế Tàu, cũng cố ngôi vị của đảng
cộng sản Tàu, được ngày nào, hay ngày đó.
Tình huống bạo lọan
nội bộ TC, là màn kịch cuối trong kế họach của Hoa Kỳ , không gây chiến tranh với
TC, nhưng gây bất ổn phát xuất từ kính tế để banh xé nước tàu làm nhiều mảnh,
người ta dự đóan, những mảnh đó sẽ tương ứng với 6 ngôn ngữ chính của Tàu !!!
Công lao đầu tư của
Hoa Kỳ và các quốc gia tư bản chỉ nhằm mục đích, kéo nông thôn về thành thị để
cung ứng nhu cầu công nhân trong kế hoạch đầu tư của HK và khối tư bản.
Về thành thị, là công
nhân, người nông dân Tàu không còn chịu cảnh lưng đội trời, mặt gằm đất, để đổi
mỗi ngày, được vài miếng bánh bao không nhân với nước lã rồi lại tiếp tục thêm
một ngày làm kiếp trâu ngựa cho đảng cộng sản Tàu.
Mấy chục năm qua, đa
số người dân Tàu đã quên cảnh bánh bao không nhân, thay vào đó là Hamburger và
Coca Cola….
Nay Hoa Kỳ và khối
tư bản tước đi những món ăn “ khoái khẩu” đó, chắc hẳn dân Tàu không cam chịu
trở về với cảnh cũ, nhà xưa, trên bàn vài miếng bánh bao không nhân đến ruồi cũng
không thèm bu lại.
Trong tình huống đó,
người ta có thể hình dung ra nội tình nước Tàu như thế nào.
Hợp tác chặt chẽ với
các thành viên Asean.
Liên kết chặt chẽ
với Philippine.
Nhận viện trợ của
Nhật.
Hợp tác toàn diện
với Hoa Kỳ
Chính là cơ hội để
CSVN thoát khỏi sự khống chế bởi bàn tay TC.
Muốn cho nước Tàu
sớm đi đến gia đọan kết thúc của nó, Hoa kỳ đã thúc đẩy để cho ra đời cuốn “
Death By China” làm cả thế giới rùng mình./.
Sydney, ngày 28/5/2014.
Vũ Trọng KhảiBÀI LIÊN HỆ
CỘNG SẢN TRUNG QUỐC CÁ NẰM TRÊN THỚT
Vũ Trọng Khải/Úc Châu
28/6/2011
Khi nói CS/Tàu như “ cá nằm trên thớt.” người ta nghĩ ngay đến việc CS/Tàu sẽ bị “ banh xác ” trong một cuộc chiến, dưới một dạng thức nào đó có thể xẩy ra trong tương lai không xa !
Ý tưởng “ Hiểm họa da vàng ” ám chỉ sự bành trướng của Tàu, đã có trong ý nghĩ Hoa Kỳ và Tây Phương từ thập niên 50.
Nước Tàu phải suy yếu, phải bị chia năm sẻ bẩy như thời Lục Quốc.
Đó chính là mục đích phải theo đuổi của Hoa Kỳ để triệt tiệu “ Họa Da Vàng”
Muốn đạt được kết qủa như nói trên, biện pháp tốt nhất là làm sao tạo được nội loạn trong nước Tàu, hơn là tạo chiến tranh trực diện để triệt hạ Tàu.
Đầu tư vào CS/Tàu để phát triển công kỹ nghệ là một cách “ cấy sinh tử phù” , một kế sách hữu hiệu về hai phương diện :
1/ Làm chủ nguồn vốn phá triển:
Nguồn vốn này có thể rút ra bất cứ lúc nào để làm suy yếu kinh tế CS/Tàu.
( Ngày nay CS/Tàu giầu lên, cho Hoa Kỳ vay nợ hàng ngàn tỷ … có lần đã trình bầy, xin lập lại, cho thằng yếu vay nợ, thì nó thành nô lệ, dâng đất dâng biển trả nợ như CS/Việt đã làm. Còn cho thằng khoẻ nó vay, coi chừng không đòi lại được mà có khi còn phải móc hầu bao “ BỒI THƯỜNG CHIẾN TRANH ” !!)
2/ Kéo nông dân về thành thị:
Tạo một tầng lớp công nhân mới để cung ứng cho nhu cầu phát triển công kỹ nghệ.
Chính lực lượng công nhân này sẽ là mầm mống nội loạn nếu CS/Tàu không đủ khả năng cung cấp công ăn việc làm cho họ ( những công nhân này, không thể trở lại kiếp sống với “ bánh bao không nhân ” khi đã quen với Hamburger và coca cola rồi !!! .)
Hiện nay, dư luận Thế giới đều nhìn CS/Tàu là một đại họa của Nhân Loại.
Các Quốc Gia quanh biển Đông đều trông chờ, cầu cứu Hoa Kỳ.
Sự phát triển kinh tế của CS/Tàu trong nhiều thập niên qua, đương nhiên cũng kéo theo cả phát triển quân sự. Nhưng không cần so sánh đến khả năng quân sự, ai cũng rõ, ngay chính CS/Tàu cũng phải hiểu rằng, trong giai đoạn hiện tại, CS/Tàu chưa phải là đối thủ của Hoa Kỳ về phương diện này.
Về kinh tế, CS/Tàu với dân số khoảng 1 tỷ 400 triệu dân, nhưng sức tiêu thụ nội địa chưa đóng vai chủ động, vì vậy kinh tế CS/Tàu sống được là nhờ thị trường Tây Phương.
Do đó, nền kinh tế cuả CS/Tàu không chỉ lệ thuộc vào vốn đầu tư, mà lệ thuộc ngay cả vào sức tiêu thụ của thị trường ngoại quốc, mà mạnh nhất vẫn là Hoa Kỳ.
“ Chủ nhân đích thực của nền kinh tế CS/Tàu không phải là Tàu !!!
Đó là điểm yếu của kinh tế CS/Tàu, và cũng là chủ đích của Hoa Kỳ và Tây Phương, kể cả Nhật Bản khi đầu tư ồ ạt vào đất Tàu trong những thập niên qua.
Mầm mống nội lọan đang từng ngày lan tràn mạnh trong nội địa CS/Tàu với nhiều cuộc bạo động, gây thiệt hại nhân mạng cho cả quần chúng và phe cầm quyền.
Phía
Tây Phương và Hoa Kỳ chỉ cần khơi động thêm sự vùng dậy đòi tự trị của
các Quốc Gia đang bị CS/Tàu đô hộ như Tây Tạng, Tân Cương, hợp sức với
dân nội địa, là những công nhân bị bóc lột, là những dân oan bị cướp đất
để tư bản đỏ Tàu Cộng càng ngày càng giầu thêm, cộng vào đó nhóm Pháp
Luân Công đang bị truy sát dã man, cũng sẽ phải vùng lên bảo vệ mạng
sống tín đồ và sự tồn vong của chính giáo phái này !!!
Cuộc
chiến can thiệp của Liên Quân Anh, Pháp, Mỹ bảo vệ người dân Lybia
chống lại Gaddafi cũng sẽ có những tác động tâm lý mạnh mẽ để thúc đẩy
những lực lượng Dân Tộc bị CS/Tàu thống trị vùng lên .
Phía Hoa Kỳ đã chuẩn bị đầy đủ dư luận chính trị Quốc Nội cũng như Quốc Tế.
Đây là yếu tố rất cần thiết trước khi xuống tay trong một trận chiến nào đó.
Tại
nội địa, quần chúng Hoa Kỳ đã “ bàng hoàng thức tỉnh ” khi Peter
Navarro, một chuyên gia về CS/Tàu và Greg Autry đã cảnh báo về hiểm họa
của CS/Tàu đối với Hoa Kỳ và cả Thế Giới, cuộc hội thảo mang tên : “
Death by China – Confronting the Dragon – A Global Call to Action.”
(Chết dưới tay Trung Cộng - Đối phó với con rồng - Lời kêu gọi hành động
toàn cầu. ).
Báo Chí và Truyền Thông Hoa Kỳ nhập cuộc, kêu gọi quần chúng tẩy chay hàng hoá CS/Tàu …. Kêu gọi vứt bỏ ra đường ngay những sản phẩm của CS/Tàu, để bầy tỏ thái độ với ý đồ bá quyền của CS/Tàu.
Ắt hẳn, Quốc Hội Hoa Kỳ đã chọn lựa thái độ theo ý dân, khi phía Hành Pháp xin thông qua quyết định tham chiến, hoặc tuyên chiến với CS/Tàu !!!
Cuộc chiến có thể xẩy ra tại khu vực biển đông hay không ??? xin hạ hồi phân giải !!!
Nhưng người ta thấy rõ, những quốc gia quanh khu biển đông, điển hình như Philippines, Việt Nam (..?... )và những quốc gia khối Asean đều muốn có sự hiện diện của Hoa Kỳ giúp giải quyết vấn đề tranh chấp dưới một chiều hướng nào đó !!!
Như vậy, từ Quốc Nội, đến Quốc Tế và ngay với các Quốc Gia có quyền lợi mật thiết tại biển đông đều muốn chào mời Hoa Kỳ đứng ra giải quyết trên cả hai phương diện HOÀ BÌNH hoặc CHIẾN TRANH nếu cần !!!
Đồng thời, quyền lợi của chính Hoa Kỳ tại khu vực này cũng được Ngoại Trưởng HK xác nhận :
“ Tư do lưu thông trên biển Đông là quyền lợi Quốc Gia của Hoa Kỳ.”
Hoa Kỳ đã tạo được thế mạnh trong mọi cuộc hoà đàm song phương hoặc đa phương với CS/Tàu !!!
Hoa Kỳ đã tạo được chính nghĩa nếu có chiến tranh !!!
Cho dù không mời thì Hoa Kỳ cũng phải tìm đường đến !!!
Xin lập lại câu hỏi:
“ Cuộc chiến có thể xẩy ra trong khu vực biển đông hay không ? ”.
Đó là điều không ai muốn, kể cả Hoa Kỳ cũng như CS/Tàu !!!
( Ngoại trừ trường hợp, CS/Tàu muốn giảm nhân số một cách nhanh chóng bằng cách lấy chiến tranh làm phương tiện giải quyết !!!)
Hiện nay dân số CS/Tàu khoảng 1 tỷ 400 triệu, nếu bình quân mỗi nhân khẩu cần có 400Gr lương thực một ngày, vị chi CS/Tàu phải kiếm cho được
580.000.000 ( năm trăm, 80 triệu )Kílô lương thực trong một ngày cho dân số là 1 tỷ 400 triệu người, một gánh nặng khôn lường !!! )
Như đã trình bầy, phía Hoa Kỳ, đã có sẵn những yếu tố cấy trong lòng xã hội CS/Tàu từ lâu để làm ung thối và tan vỡ chế độ độc tài CS/Tàu.
Phía Hoa Kỳ và Tây Phương sẽ tận dụng những yếu tố này để đạt kết quả cao hơn nữa là :
BANH XÉ NƯỚC TÀU THÀNH NHIỀU MẢNH, MỖI MẢNH (có thể) TƯƠNG ỨNG VỚI MỘT NGÔN NGỮ CỦA NHỮNG NHÓM DÂN LỚN.
Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, Bà Clinton trả lời trong một cuộc phỏng vấn báo chí đã tuyên bố :
“ Chế độ của Trung Quốc chắc chắn sẽ sụp đổ, các nhà lãnh đạo Trung Quốc giờ đây đang làm “ những việc vô ích như những gã hề.” ( theo Jeffrey Goldberg, báo The Atlantic. Ngày 10/5/2011 )
Là Bộ Trưởng Ngoại Giao, tiếng nói của Bà Clinton là tiếng nói chính thức của chính phủ Hoa Kỳ, do đó, Bà Clinton phải có căn cứ, phải có dữ kiện và dựa vào sức mạnh nào đó để tuyên bố như vậy.
Chủ trương của Hoa Kỳ đã rõ !!!.
Nếu phải dùng đến giải pháp Quân Sự, Hoa Kỳ sẽ không dại gì, đơn phương vào đất Tàu, thiển nghĩ, Hoa Kỳ sẽ đội MŨ XANH, đi dưới lá cờ của Liên Hiệp Quốc, hoặc chí ít thì cũng như liên quân Anh Pháp Mỹ vào Lybia.
Hoa Kỳ và Tây Phương, bằng cách này hay cách khác phải tiêu diệt mộng BÀNH TRƯỚNG BÁ QUYỀN của CS/Tàu, không thể để cho CS/Tàu câu giờ hòng tăng cường khả năng quân sự thỏa mãn cho giấc mộng :
“ CHIẾN TRANH KHÔNG XA CHÚNG TA VÀ LÀ BÀ MỤ THẾ KỶ NGƯỜI TÀU.” ( Xin đọc bài nói chuyện của Trì Hào Điền )
Về phiá CS/Tàu có muốn cũng không đủ năng lực khi mà “ A Global Call to Action”, thêm vào đó, nội địa CS/Tàu đang rối như nồi canh hẹ.
Nếu vậy, tại sao CS/Tàu đòi :
“ MỞ RỘNG KHÔNG GIAN SỐNG CHO NGƯỜI TÀU ??? ”
Hung hăng hơn nữa :
“ CS./Tàu chấp nhận chết 20 triệu Hoa Kiều đang sinh sống tại Hoa Kỳ để tiêu diệt 300 triệu người Hoa Kỳ.”.
Thiển nghĩ đây là một chiến thuật rất thâm độc của CS/Tàu.
CS/Tàu đem số lượng dân và vài trái bom nguyên tử ra dọa mấy anh nhà giầu, Tây Mỹ ….Vậy thôi
CS/Tàu
áp dụng chiến thuật “ DU KÍCH TRÊN BIỂN ” … với từng quốc gia liên hệ,
CS/Tàu không tạo trận chiến lớn khiến các quốc gia trong vùng và quốc tế
có cớ nhẩy vào can thiệp.
CS/Tàu tạo một không khí chính trị và quân sự căng thẳng một cách gỉa tạo tại biển đông … với sự toa rập của CS/Việt.
(
như đã trình bầy trong bài “ SAU LƯNG CUỘC XUNG ĐỘT CỦA HAI BỌN MA ĐẦU
CỘNG SẢN …Cho đến hôm nay, CS/Việt vẫn là một con cờ đang chạy tứ phiá,
đông tây để thực hiện âm mưu của CS/Tàu …
Xin mở ngoặc :
“
Nếu…. những cuộc biểu tình chống CS/Tàu xâm lăng của tuổi trẻ Việt Nam
là thực tâm mong muốn của CS/Việt, CS/Việt phải trả lại tự do tức khắc
cho Nhà Báo ĐIẾU CẦY,người đã cùng các thành viên của CÂU LẠC BỘ NHÀ BÁO
TỰ DO, chống OLYMPIC Bắc Kinh rước đuốc qua Việt Nam, và phải VINH
DANH cùng bồi thường những năm tù của Luật Sư Lê Trí Quang, người trước
đây hàng chục năm ĐÃ LÊN TIẾNG “ CẢNH GIÁC BẮC TRIỀU !!!” ….
Nhưng
người ta cũng hiểu rằng trong tình thế hiện tại, nếu CS/Việt phản bội
những cam kết với Hoa Kỳ, CS/Việt không chết…quá lắm là bị cấm vận là
cùng….. nhưng CS/Việt phản bội những cam kết với CS/Tàu … CS/Việt sẽ
chết ngay không kịp ngáp. !!! )
Trở lại với âm mưu của CS/Tàu :
CS/Tàu âm mưu cùng CS/Việt tạo sóng gió trên Biển Đông, để dồn dư luận thế giới vào thế phải mở những cuộc hội nghị quốc tế để ỔN ĐỊNH biển đông.
Khi
giải quyết quyền lợi chung trên biển đông trong hoà bình…., một nơi
CS/Tàu không có đến một thước nước, theo với Luật Biển 1982, người ta sẽ
lọt vào âm mưu của CS/Tàu !!!
Khi
giải quyết quyền lợi trên Biển Đông, thông qua những hội nghị “HOÀ
BÌNH ỔN ĐỊNH TẠI BIỂN ĐÔNG ” …CS/Tàu đương nhiên được hợp thức hoá một
phần nào quyền lợi tại đây ( nơi mà theo luật biển 1982, CS/Tàu không có
được một lít nước biển) …Quyền lợi mà CS/Tàu được hưởng nhiếu hay ít,
tùy theo CS/Tàu cương đến mức độ nào….
CUỘC
CHIẾN GIẢ TƯỞNG TRÊN BIỂN ĐÔNG DO CS/TÀU TẠO NÊN (với sự toa rập của
CS/Việt ) ĐÃ BIẾN CS/TÀU TỪ KHÔNG CÓ GÌ TRÊN BIỂN ĐÔNG THÀNH chủ nhân
ông một vùng nào đó….MỘT CÁCH HỢP PHÁP TẠI KHU VỰC NÀY.
NẾU CS/TÀU CHẤP NHẬN CHIẾN TRANH NHƯ TỪNG TUYÊN BỐ HUYÊNH HOANG …..
CS/TÀU SẼ MẤT HẾT …. MẤT TRẮNG TAY !!! kéo theo cả CS/Việt chìm xuống Biển Đông.
Do đó âm mưu toa rập giữa CS/Tàu và CS/Việt như trình bầy trên đây phải thành hình
Hãy chờ xem phản ứng của Hoa Kỳ và Tây Phương ra sao ?
Xin nhắc lại lời tuyên bố của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ :
“ Chế độ của Trung Quốc chắc chắn sẽ sụp đổ, các nhà lãnh đạo Trung Quốc giờ đây đang làm “ những việc vô ích như những gã hề.”
Thiển nghĩ, nếu CS/Tàu đi theo đường lối phát triển kinh tế như Nhật Bản, để kiếm cơm … thì có lẽ không ai phải xôn xao trước một viễn tượng chiến tranh thế giới lần thừ ba, giới hạn trong khu vực Biển Đông.
Nhưng xin hãy cảnh giác … viễn tượng chiến tranh này … có thể chỉ là GIẢ TƯỞNG để thực hiện âm mưu của CS/Tàu là :
“ ĐỂ ĐƯỢC CHIA CHÁC CÁI MÀ CS/TÀU KHÔNG CÓ” tại Biển Đông trong HÒA BÌNH .. với sự toa rập của CS/Việt.
CON CÁ CS/TÀU ĐANG NẰM DƯỚI LƯỠI DAO CỦA :
“GLOBAL CALL TO ACTION !!!.
Thay lời kết :
Người viết xin nhấn mạnh : Nếu CS/Việt không toa rập cùng âm mưu của CS/Tàu để hợp thức hoá quyền lợi của CS/Tàu trên Biển Đông như nói trên, và thực tâm cùng toàn dân chống hiểm họa BẮC TRIỀU… Thì … CS/Việt phải lập tức :
1/ Trả tự do vô điều kiện, phải phục hồi danh dự và bồi thường thiệt hại vật chất cho nhà báo Điếu Cầy và Gia Đình.
2/ Phải VINH DANH và bồi thường thiệt hại những năm tù đầy của Luật Sư Lê Trí Quang và Gia Đình. người hàng chục năm trước đã mạnh dạn lên tiếng “ CẢNH GIÁC BẮC TRIỀU.”
3/ Phải lập tức trả tự do cho LS Cù Huy Hà Vũ và những nhà đấu tranh cho Tự Do Tôn Giáo & Dân Chủ còn bị cô lập hay giam cầm./.
Vũ Trọng Khải/Úc Châu.
28/6/2011.
Thursday, May 29, 2014
PHẠM TRẦN * HÒA VỚI TRUNG CỘNG LÀ BÁN NƯỚC
Hòa hiếu với kẻ thù là trao thân cho giặc
Phạm Trần (Danlambao) - Máu dân đã đổ cho Tổ quốc được toàn vẹn ở Biển Đông mà Đảng và Quốc hội thì lại co ro đến mức đã làm hèn đi “tính anh hùng của dân tộc” trước các hành động mỗi ngày một hung hãn, dã man của Trung Cộng.
Theo báo cáo của ngư dân, từ ngày 7/5 (2014) lực lượng của Trung Cộng đã
liên tục bao vậy, trấn áp và tấn công các tầu đánh cá và tầu cảnh sát
biển Việt Nam hoạt động chống giàn khoan dầu HD-981 của Trung Cộng
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình nói phía Trung Cộng đã: “Dùng
vòi rồng phun nước; dùng búa, chai lọ, bu lông ném sang tàu; dùng câu
liêm cắt đứt dây và hệ thống liên lạc, định vị... đâm thẳng vào tàu gây
vỡ mạn phải và toàn bộ kính ca bin, hỏng nhiều thiết bị và tài sản trên
tàu... ực lượng chức năng của Trung Quốc đã lên tàu cá đập phá hầu hết
tài sản trên tàu, đánh và gây thương tích nặng đối với hai ngư dân Việt
Nam tên là Nguyễn Huyền Lê Anh và Nguyễn Tấn Hải...”
Nghiêm trọng hơn, theo ông Bình: “26/5/2014, tại khu vực có tọa độ
15o16’42”N-111o01’30”E, ngư trường truyền thống thuộc quần đảo Hoàng Sa
của Việt Nam, tàu cá Đà Nẵng mang số hiệu ĐNa 90152 TS cùng 10 ngư dân
trên tàu đã bị tàu Trung Quốc mang số hiệu 11209 đã đâm chìm. Hiện 10
ngư dân đã được lực lượng kiểm ngư, Cảnh sát biển cứu vớt và đưa lên tàu
an toàn.”
Ông Lê Hải Bình gọi hành động của phía Trung Cộng là “vô nhân đạo, xâm hại nghiêm trọng đến tính mạng, tài sản và lợi ích hợp pháp của ngư dân Việt Nam...”
Sau 3 tuần mang giàn khoan dầu HD-981 vào sâu trong thềm lục địa và vùng
đặc quyền kinh tế của Việt Nam, phía Trung Cộng vẫn duy trì một lực
lượng quân sự hùng mạnh để bảo vệ giàn khoan nhưng chỉ để cho các tầu
“dân sự có võ trang” như Hải Cảnh, Hải Giám, Ngư Chính và tàu cá vỏ sắt
để tấn công các thuyền và tầu của Việt Nam.
Có ngót 100 tầu chiến, tầu đổ bộ, tầu có gắn hỏa tiễn, đại liên và súng
cối đang bao quanh giàn khoan HD-981, sau khi di chuyển khoảng 40 cây số
vào ngày 27/5 (2014) nhưng vẫn nằm trong vùng biển của Việt Nam. Một số
máy bay phản lực của quân Trung Cộng có gắn hỏa tiễn và bom đã bay lượn
đe dọa ở độ cao chỉ cách tầu Việt Nam từ 500 đến 100 thước.
Trong khi đó thì không có bất cứ một tầu quân sự nào của Việt Nam hành
quân ở khu có giàn khoan HD-981, mặc dù phía quân đội Việt Nam cho biết
họ không chủ trương sử dụng võ lực để giải quyết tranh chấp với Trung
Cộng.
Sự dè dặt của Bộ Quốc phòng Việt Nam chứng tỏ đường giây nóng giữa hai
Bộ trưởng Quốc phòng Việt-Trung không hoạt động được vì phía Trung Cộng
không muốn đối thoại với Việt Nam.
Ngay cả hai Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng của Việt Nam và Tập Cận Bình
của Trung Cộng cũng không nói chuyện với nhau từ khi có cuộc xung đột
mới từ ngày 02/05/2014.
Chỉ có Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh nói
chuyện lần thứ nhất bằng điện thoại với Ủy viên Quốc vụ Trung Cộng Dương
Khiết Trì, người phụ trách về tranh chấp lãnh thổ và biển đảo và lần
thứ hai với Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị.
Theo tin phía Việt Nam, ông Minh đã khẳng định chủ quyền biển của Việt
Nam đã bị Trung Cộng vi phạm khi đem giàn khoan HD-981 vào đặt trong
vùng đặc quyền kinh tế và yêu cầu ông Dương Khiết trì rút giàn khoan.
Phía họ Dương không những đã thẳng tay bác bỏ yêu cầu của ông Minh mà
còn bảo rằng Trung Cộng đang làm việc này trên vùng biển của Trung Cộng!
Phía Quốc hội của Trung Cộng cũng không thèm liên lạc với Quốc hội Việt
Nam, mặc dù một số Ủy ban then chốt của Quốc hội Việt Nam như Quốc phòng
và Ngoại giao đã chủ động liên lạc nhưng không ai bên phía Trung Cộng
nhắc máy nói.
Với thái độ trịch thượng của các viên chức Bắc Kinh và hành động xâm
lăng ngang ngược của phía Trung Cộng như đang diễn ra trên Biển Đông,
tưởng đâu phía đảng và Quốc hội Việt Nam đã biết “sáng mắt sáng lòng”
trước cạm bẫy 16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt (“láng giềng hữu nghị, hợp
tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và “láng giềng tốt,
bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”), nào ngờ lại tỏ ra yếu kém hơn
bao giờ hết cả trong lời nói và hành động như thể “tình nghĩa đôi ta
không bao giờ ngăn cách đâu anh”!
Hữu nghị với kẻ thù?
Tiêu biểu cho lối suy nghĩ “lội nước ngược dòng” này đã xuất hiện trên một số bài viết trong báo Quân đội Nhân Dân.
Chẳng hạn như bài của tác giả Bắc Hà trên số báo ngày 12/05/2014 đã viết: “Trong
quan hệ với Đảng Cộng sản và nhân dân Trung Quốc, quan điểm trước sau
như một của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng, bảo vệ và phát triển quan
hệ hữu nghị truyền thống giữa hai Đảng và hai dân tộc. Đối với những vấn
đề tranh chấp về chủ quyền ở Biển Đông, hai Đảng, hai Nhà nước cũng đã
thống nhất giải quyết theo “Thỏa thuận những nguyên tắc chỉ đạo giải
quyết vấn đề trên biển”. Do hai Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Hồ Cẩm Đào ký trong dịp đồng chí Nguyễn Phú Trọng thăm Trung Quốc vào tháng 10-2011.
Trong đó, Văn kiện ghi: “Lấy đại cục quan hệ hai nước làm trọng, xuất
phát từ tầm cao chiến lược và toàn cục, dưới sự chỉ đạo của phương châm
“láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới
tương lai” và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối
tác tốt”, để giải quyết các tranh chấp về chủ quyền giữa hai quốc gia.
Đồng thời, trên tinh thần “tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem xét
các yếu tố liên quan khác như lịch sử… với thái độ xây dựng, cố gắng mở
rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng, không ngừng thúc đẩy tiến trình
đàm phán. Căn cứ chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật
pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982” để tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông.
Trong khi khẳng định quan điểm của Việt Nam: Bảo vệ chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ là thiêng liêng đối với mỗi quốc gia, dân tộc, Việt Nam sẽ
sử dụng mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của mình, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam vẫn coi trọng quan hệ hữu
nghị, hợp tác đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc, thể hiện
thiện chí kiên trì giải quyết bất đồng thông qua đàm phán, đối thoại và
các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế và “Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển" giữa Việt Nam và Trung Quốc.”
Rõ ràng là thái độ “lấy nhu chống cương”, “phân trần phải trái bằng văn kiện, chữ nghĩa”
với kẻ cướp đã vào nhà có ích gì không hay chỉ chứng tỏ cho nhân dân
thấy sự yếu kém toàn diện từ tinh thần đến thể chất của đảng và quân
đội?
Chẳng lẽ một quân đội từng tự hào “khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” mà nay lại có luận điệu ru ngủ, hòa hoãn đến yếu mềm đến thế?
Nhưng không chỉ “nhũn như con chi chi” như thế mà báo Quân đội Nhân dân
còn xỉa xói những ai có lòng ngay chính muốn khuyên đảng hãy nhân cơ hội
“an nguy của tổ quốc” đang ở vào thời kỳ “sợi chỉ treo mành” mà từ bỏ
độc quyền, độc tôn lãnh đạo để đoàn kết được toàn dân trong-ngoài chống
kẻ thù phương Bắc.
Trong số báo ngày 25/05/2014, tờ Quân đội Nhân dân đăng bài của tác giả Nguyễn Tấn Tuân viết:
“Trên một số trang mạng xã hội trong nước, có người cho rằng, muốn bảo
vệ được chủ quyền, lãnh thổ, Việt Nam phải phát huy sức mạnh của toàn
dân. Muốn vậy phải đi theo “con đường dân chủ”, thoát khỏi sự phụ thuộc
về “hệ tư tưởng” và từ bỏ quan hệ hữu nghị với Trung Quốc... đồng thời
dựa vào các quốc gia phát triển phương Tây, như một số quốc gia khác
trên thế giới và trong khu vực đã làm.
Không phủ nhận rằng, hầu hết các ý kiến nói trên đều xuất phát từ sự
bức xúc, bất bình trước việc Trung Quốc vi phạm trắng trợn chủ quyền của
Việt Nam. Nhiều ý kiến mong muốn tìm ra một giải pháp cơ bản, lâu dài,
hữu hiệu ngăn chặn, đẩy lùi tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung
Quốc.
Thế nhưng, phải chăng muốn bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc
gia, Việt Nam phải “chuyển hóa” chế độ xã hội hiện nay, phải thiết lập
chế độ chính trị “dân chủ đa nguyên, đa đảng đối lập”, phải từ bỏ tình
hữu nghị giữa hai dân tộc, hai Đảng mà các vị cách mạng tiền bối và nhân
dân hai nước đã dày công vun đắp?”
Vậy ra “tình hữu nghị giữa hai dân tộc, hai Đảng mà các vị cách mạng tiền bối và nhân dân hai nước đã dày công vun đắp” nhưng
đã bị giàn khoan HD-981 làm cho tan nát bằng cái tát “nổ đom đóm mắt”
ra mà vẫn chưa biết mở mắt thì nhân dân sẽ còn bị nô lệ cho đến bao giờ?
Để bảo vệ cho đảng khỏi tan trước sự căm phẫn của nhân dân, báo Quân đội Nhân dân còn hù họa rằng: “Khi
có thù trong, giặc ngoài thì nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của chính
quyền là phải ổn định được bên trong, mới tập trung sức mạnh, toàn tâm,
toàn ý đánh giặc ngoài. Nếu không ổn định được xã hội trong nước, không
tạo sự đoàn kết thống nhất một lòng thì tất yếu đất nước sẽ bị ngoại
bang xâm chiếm. Hơn nữa, trong thời điểm hiện tại, chúng ta không chỉ lo
đấu tranh với hành động xâm chiếm, vi phạm nghiêm trọng thềm lục địa và
vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam của phía Trung Quốc, mà còn đề phòng,
ngăn chặn các hành động chống phá của các thế lực thù địch, phản động.
Lịch sử của Đảng và dân tộc cho thấy, với hệ tư tưởng đối lập với lợi
ích của nhân dân Việt Nam, nhất là thái độ cay cú trước sự phát triển
lớn mạnh về mọi mặt của đất nước ta những thập niên qua, các thế lực và
lực lượng thù địch luôn tìm mọi cách phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc,
lợi dụng các mâu thuẫn xã hội, kích động và châm lên từ bên trong các
"ngòi nổ" gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tiến đến
các vụ bạo loạn chính trị... Đó là những bài học xương máu mà mỗi công
dân Việt Nam cần sáng suốt nhận thức rõ để hành động đúng.”
Với thứ lập luận “ngoan ngoãn” với quân thù nhưng phải đàn áp nhân dân
để tồn tại thì liệu đảng CSVN có được nhân dân “đồng tình ủng hộ” trong
cuộc chiến với Trung Cộng không, hay đã có kẻ “đi theo giặc từ lâu rồi”?
(05/014)
CÔNG HÀM BÁN NƯỚC
Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 có hiệu lực pháp lý hay không?
Trung Quốc vừa qua lại đưa ra Công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 để biện luận cho hành động của họ tại khu vực Biển Đông. Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng đã họp báo phản đối cho rằng công hàm đó vô hiệu. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng nói đến việc kiện Trung Quốc về việc xâm chiếm biển đảo của Việt Nam.
Gia Minh đặt một số câu hỏi liên quan với nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn hiện đang ở tại Pháp về các vấn đề đó:
Tùy tư cách pháp nhân
Gia Minh: Ông không đồng ý với một số ý kiến cho rằng Công Hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 là vô hiệu, vậy những điểm chính ông muốn nêu ra là gì?Trương Nhân Tuấn: Công hàm 1958 có hiệu lực ràng buộc pháp lý hay không, theo tôi, là do quan điểm của nhà cầm quyền Việt Nam hôm nay về tư cách pháp nhân của thực thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong thời kỳ từ 1954 đến 1975.
Theo như lập trường của Việt Nam hôm nay, qua lời tuyên bố của các
viên chức bộ ngoại giao phát biểu trong hôm họp báo vừa rồi, nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa ngày trước là hai quốc gia độc
lập, có chủ quyền. Trên quan điểm này thì tôi cho rằng công hàm 1958
của Phạm Văn Đồng có hiệu lực pháp lý ràng buộc.
Vì sao? Tại vì nếu Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là một quốc gia độc lập
có chủ quyền, thì công hàm của ông Đồng là một tuyên bố đơn phương, nội
dung nhìn nhận tuyên bố về chủ quyền và hải phận của Trung Quốc.
Công hàm 1958 có hiệu lực ràng buộc pháp lý hay không, theo tôi, là do quan điểm của nhà cầm quyền VN hôm nay về tư cách pháp nhân của thực thể VNDCCH trong thời kỳ từ 1954 đến 1975.
-Trương Nhân Tuấn
Để dễ hiểu, tôi lấy thì dụ về cái tuyên bố đơn phương về vùng “nhận
diện phòng không của” Trung Quốc hôm 23 tháng 11 năm ngoái 2013. Tuyên
bố này, một cách tổng quát, thì phù hợp với luật pháp và tập quán quốc
tế. Nếu không có nước nào lên tiếng phản đối, hay bảo lưu một điều khoản
nào, thì tự động tuyên bố “vùng nhận diện phòng không” của Trung Quốc
có hiệu lực. Ta thấy Nhật, Mỹ, Nam Hàn cùng nhiều nước khác đồng loạt
lên tiếng phản đối. Các nước này phản đối vì chồng lấn vùng nhận diện
phòng không của nước họ đã đặt ra từ trước, trong thời chiến tranh lạnh,
mặt khác, còn có chồng lấn do tranh chấp chủ quyền giữa Nhật và Trung
Quốc tại quần đảo Điếu Ngư. Các nước khác thì phản đối điều khoản mà
trong đó Trung Quốc đe dọa sẽ sử dụng vũ lực nếu vùng “nhận diện phòng
không” của họ bị xâm phạm. Những nước không lên tiếng, thì tôn trọng
tuyên bố này. Mình thấy hôm nay, các hãng hàng không dân sự, kể cả của
Nhật hay của Mỹ, cũng hải tôn trọng vùng trời của Trung Quốc.
Trở lại công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng. Ta biết tuyên bố của
Trung Quốc về lãnh thổ và hải phận ngày 4-9-1958 là phù hợp với các công
ước quốc tế vềBiển đã được một số nước ký kết vào tháng 4 cùng năm,
trong đó có Trung Hoa Dân Quốc, tức Đài Loan hiện nay. Vì chính quyền
Bắc Kinh không phải là đại diện nước Trung Hoa ở LHQ do đó tuyên bố của
Trung Quốc là cần thiết. Tương tự như tuyên bố về “vùng nhận diện phòng
không” vừa rồi, nếu không ai lên tiếng phản đối, thì tự động nó có hiệu
lực.
Tức là, thay vì phản lên tiếng phản đối hay bảo lưu chủ quyền của
Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
lại lên tiếng ủng hộ nó.
Hiện nay, các viên chức cũng như học giả Việt Nam cố gắng bào chữa
ràng công hàm 1958 của ông Đồng chỉ công nhận hải phận 12 hải lý của
Trung Quốc, chứ không công nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và
Trường Sa. Những lý lẽ bào chữa này không hề thuyết phục. Giả sử rằng
công hàm này không có hiện hữu, tức là ông Đồng chưa bao giờ ký công hàm
này, thì thái độ im lặng của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trước
tuyên bố đơn phương, công khai của Trung Quốc, được hiểu như là sự “im
lặng đồng tình”.
Còn nếu quan niệm rằng, trong khoản 1954 và 1975 nước Việt Nam bị
phân chia theo hiệp định Genève 1954 thành hai vùng lãnh thổ tại vĩ
tuyến 17, lần lượt mang tên: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng
Hòa. Vĩ tuyến 17 là đường ranh quân sự tạm thời, không phải là đường
phân định biên giới về chính trị hay lãnh thổ.
Nội dung Hiệp định Genève xác nhận Việt Nam là nước độc lập, toàn vẹn
lãnh thổ, có chủ quyền và thống nhất. Điều này được tái xác nhận theo
Hiệp định Paris năm 1973.
Điều này thể hiện lên thực tế. Trong khoảng thời gian từ 1954 đến
1973, không có bất kỳ quốc gia nào trên thế giới nhìn nhận sự hiện hữu
của hai quốc gia Việt Nam. Khối Tư bản nhìn nhận Việt Nam Cộng Hòa là
đại diện của nước Việt Nam duy nhất. Khối XHCN công nhận Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa là đại diện nước Việt Nam duy nhất. Nước này nhìn nhận phía
này thì không nhìn nhận phía kia, hay ngược lại.
Trên tinh thần một nước Việt Nam “độc lập, có chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ” của các hiệp ước 1954 và 1973, thì bất kỳ các tuyên
bố, các hành vi đơn phương của một bên (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và
Việt Nam Cộng Hòa), nếu có làm tổn hại đến việc toàn vẹn lãnh thổ của
Việt Nam, chúng đều không có giá trị.
Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng viết trong khoản thời gian
1954-1973, có liên quan đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam,
đi ngược lại tinh thần hai Hiệp định 1954 và 1973, do đó không có giá
trị pháp lý ràng buộc.
Quan điểm này phù hợp với thực tế lịch sử, thực tế pháp lý của hai
miền Nam Bắc Việt Nam trong thời kỳ 1954-1975. Và cũng là một quan điểm
có lợi, vì Việt Nam gỡ bỏ được những hứa hẹn, những cam kết mà nhà cầm
quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã thể hiện với nhà cầm quyền Trung Quốc
trong quá khứ. Tôi vừa mới gởi một lá thư không niêm, gởi lên TT Nguyễn
Tân Dũng với nội dung tương tự. Hy vọng Việt Nam kịp thời thay đổi lập
trường của mình để có một tư thế mạnh hơn, nếu vấn đề tranh chấp được
đưa ra một trọng tài quốc tế để phân xử.
Kiện Trung Quốc như thế nào?
Gia Minh: Theo ông biện pháp kiện Trung Quốc từ phía Việt Nam hiện nay cần tiến hành ra sao và kiện ra các tòa án nào?
Trương Nhân Tuấn: Trước hết là mình phải biết phía Trung Quốc
họ bảo lưu ở LHQ các điều nào, từ đó mình mới biết Việt Nam có thể kiện ở
các điều gì, sau đó là kiện ra tòa án nào.
Theo tôi biết, năm 2006 Trung Quốc có bảo lưu ở LHQ, là họ không chấp
nhận bất kỳ thủ tục nào, qui định theo mục 2, Phần XV của Công ước, đối
với tất cả các loại tranh chấp được ghi ở các khoản a), b) và c) của
điều 298 của Công ước.
Tức là Trung Quốc không nhìn nhận thẩm quyền của Tòa liên quan các vụ
tranh chấp chủ quyền, cũng không nhìn nhận trọng tài để phân định ranh
giới trên biển.
Tức là, trong vụ giàn khoan 981, Việt Nam không thể kiện Trung Quốc
ra Tòa về tranh chấp chủ quyền các đảo, cũng không thể kiện để nhờ phân
định ranh giới biển, thí dụ giữa đảo Hải Nam và bờ biển Việt Nam. Điều
duy nhất mà Việt Nam có thể kiện là về hiệu lực các đảo Hoàng Sa. Nhưng
mà nếu Việt Nam đệ đơn kiện về điều này thì Việt Nam mặc nhiên nhìn nhận
chủ quyền của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa rồi!
Trước hết là mình phải biết phía Trung Quốc họ bảo lưu ở LHQ các điều nào, từ đó mình mới biết Việt Nam có thể kiện ở các điều gì, sau đó là kiện ra tòa án nào.
-Trương Nhân Tuấn
Gia Minh: Vụ kiện nếu Việt Nam tiến hành sẽ khác vụ kiện mà
Philippines đang kiện Trung Quốc về tranh chấp lãnh hải ở khu vực Biển
Đông ra sao?
Trương Nhân Tuấn: Thì nếu kiện, Việt Nam sẽ kiện tương tự như
Philippines mà thôi. Có điều Việt Nam sẽ không có được tư thế thoải mái
như là Philippines.
Philippines kiện Trung Quốc gồm 10 điều, nội dung đại khái: kiện về
yêu sách đường 9 đoạn của Trung Quốc, về quyền chiếm hữu các cấu trúc
địa lý lúc chìm lúc nổi ở trong hải phận của Philippines, về việc chiếm
đóng và xây dựng trên các bãi lúc chìm lúc nổi, về hiệu lực của các bãi
đá, về quyền tự do hàng hải…
Còn Việt Nam kiện, xem lại danh sách bảo lưu của Trung Quốc, nếu
không lầm thì Việt Nam sẽ chỉ có thể kiện Trung Quốc về hiệu lực các đảo
thuộc Hoàng Sa mà thôi. Ở đây là hiệu lực đảo Tri Tôn. Mà khi làm điều
này, như đã nói, gián tiếp Việt Nam lại công nhận chủ quyền của Trung
Quốc tại quần đảo Hoàng Sa rồi. Vì nếu quần đảo Hoàng Sa là của mình,
thì mắc mớ gì mình đi kiện?
Mặt khác, khi kiện như vậy, Việt Nam cũng làm một cuộc phiêu lưu khác
không kém phần nguy hiểm. Là vì Việt Nam cũng chủ trương các đảo Hoàng
Sa có hiệu lực tối đa, theo như các bản đồ thấy trên báo chí thế giới
hiện nay, hay theo một tuyên bố về hải phận của Việt Nam từ thập niên
80.
Thói thường thì mình đâu thể cấm người khác có chủ trương giống như
mình? VN đã từng chủ trương các đảo có hiệu lực tối đa, thì bây giờ đâu
thể nào kiện Trung Quốc khi Trung Quốc cũng chủ trương y như vậy được?
Vì thế tình hình Việt Nam hôm nay thật là tiến thoái lưỡng nan.
Vì thế để thoát ra khỏi tình thế này, nhà nước Việt Nam nên thực hành
ý kiến của tôi vừa nói ở trên. Tức là tuyên bố Công hàm 1958 của ông
Phạm Văn Đồng viết trong khoản thời gian 1954-1973, vì có liên quan đến
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, vì đi ngược lại tinh thần
hai Hiệp định 1954 và 1973, do đó không có giá trị pháp lý ràng buộc.
Sau đó, Tôi nghĩ rằng Việt Nam vẫn còn phương pháp để mà thoát ra khỏi cảnh khó khăn hôm nay.
Gia Minh: Ý kiến người dân trong nước và những cộng đồng người Việt ở nước ngoài sẽ có giá trị ra sao khi được đưa vào vụ kiện?
Trương Nhân Tuấn: Theo tôi, ý kiến của cộng đồng người Việt
nước ngoài cũng như dư luận quốc tế sẽ ảnh hưởng đến thái độ của Trung
Quốc. Cho dầu thế nào thì Trung Quốc cũng không thể bất chấp dư luận
quốc tế, trong khi khu vực biển Đông là nơi vận chuyển hàng hóa khoảng
50% số lượng thế giới. Nếu khu vực bất ổn, kinh tế cả thế giới bị ảnh
hưởng, chắc chắn các nước sẽ làm áp lực. Mình cũng thấy Mỹ và Nhật họ
cũng ủng hộ Việt Nam, mặc dầu còn trong chừng mực, nhưng là điều tốt.
Theo tôi, việc đi kiện là thiên nan vạn nan, nhưng việc chuẩn bị đi
kiện, khua chuông gióng trống lên cho mọi người biết mình đi kiện, sẽ
tạo cho Việt Nam một tư thế chính đáng. Quan trọng là việc hóa giải công
hàm 1958. Việc này tạo cho Việt Nam một tư thế thoải mái hơn về chủ
quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa. Việt Nam có thể có những hành động mạnh
bạo hơn trong việc đáp trả những hành vi côn đồ của Trung Quốc, như đâm
chìm tàu của Việt Nam. Và đó sẽ là hành động tự vệ chính đáng, được LHQ
nhìn nhận.
Gia Minh: Cám ơn ông Trương Nhân Tuấn.
Việt Nam – Trung Quốc ‘khẩu chiến’ về công hàm Phạm Văn Đồng
Hà Nội mới lên tiếng ‘kiên quyết bác bỏ những phát biểu sai sự thật
của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc’ sau khi bị Bắc Kinh cáo
buộc ‘xuyên tạc lịch sử, bác bỏ thực tế và nuốt lời’ liên quan tới quần
đảo mà Trung Quốc gọi là Tây Sa, còn Việt Nam gọi là Hoàng Sa, cũng như
về công hàm Phạm Văn Đồng.
Trong email trả lời VOA Việt Ngữ, Bộ Ngoại giao Việt Nam thêm một lần
nữa khẳng định ‘chủ quyền không tranh cãi của mình đối với quần đảo
Hoàng Sa’.
Người phát ngôn Lê Hải Bình nói: “Trung Quốc đã sử dụng vũ lực chiếm
đóng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Hành động của Trung Quốc đã vi phạm
các quy định của luật pháp quốc tế, việc chiếm giữ bằng vũ lực không
thể đem lại chủ quyền cho Trung Quốc ở quần đảo Hoàng Sa”.
Tuyên bố của ông Bình được đưa ra hôm 27/5 một ngày sau khi phát ngôn
viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương nói rằng một cuộc họp báo của
Việt Nam, trong đó có đề cập tới công thư của cố thủ tướng Phạm Văn
Đồng, là ‘lố bịch và nực cười’.
Ông Tần nói thêm rằng ‘trước giữa những năm 1970, phía Việt Nam đã công
khai và chính thức thừa nhận rằng quần đảo Tây Sa thuộc về Trung Quốc’,
và rằng ‘năm 1956, các giới chức hàng đầu của Bộ Ngoại giao việt Nam đã
nói rõ với Đại biện lâm thời của Đại sứ quán Trung Quốc ở Việt Nam rằng
quần đảo Tây Sa là thuộc Trung Quốc’.
Người phát ngôn này tuyên bố:
“Năm 1958, chính phủ Trung Quốc thông báo rằng vùng lãnh hải của nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa rộng 12 hải lý và chỉ rõ rằng nguyên tắc này
áp dụng đối với từng tấc đất của Trung Quốc, trong đó có quần đảo Tây
Sa. 10 ngày sau thông báo trên, Thủ tướng Việt Nam lúc đó là Phạm Văn
Đồng đã gửi một công hàm tới Thủ tướng Chu Ân Lai và bày tỏ rằng phía
chính phủ Việt Nam thừa nhận và tôn trọng thông báo của chính phủ Trung
Quốc về lãnh hải”.
Trong một cuộc họp báo 3 ngày trước đó ở Hà Nội hôm 23/5, Việt Nam cho
rằng Trung Quốc đã ‘viện dẫn sai lệch’ công thư của Thủ tướng Việt Nam
Phạm Văn Đồng gửi cho Bắc Kinh năm 1958.
Ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia, nói rằng công thư của ông Đồng ‘hoàn toàn không đề cập tới vấn đề lãnh thổ cũng như là chủ quyền, và không đề cập tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa’.
“Nội dung công thư chỉ ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng
lãnh hải 12 hải lý, và đồng thời chỉ thị cho các cơ quan của Việt Nam
tôn trọng giới hạn 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố. Việc công thư của
Thủ tướng Phạm Văn Đồng không đề cập tới hai quần đảo này, quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, cũng phù hợp với thực tế lúc đó, là quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa nằm dưới vĩ tuyến 17 và thuộc quyền quản lý của
Việt Nam Cộng hòa mà được Pháp chuyển giao trên thực tế năm 1956, phù
hợp với hiệp định Geneve năm 1954 mà Trung Quốc cũng là một bên tham
gia”.
Trong khi đó, ông Tần Cương lại nói rằng ‘bấy lâu nay, các tài liệu
chính thức, sách giáo khoa và bản đồ của Việt Nam đều cho thấy quần đảo
Tây Sa thuộc về Trung Quốc’ và nói thêm rằng Việt Nam ‘có một mức độ khả
tín thấp’.
Báo chí trong nước đã cho đăng toàn văn công hàm Phạm Văn Đồng, trong đó có đoạn:
“Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản
tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân
Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan
Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung
Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt
biển”.
Tiến sỹ Tạ Văn Tài, luật sư và cựu giảng viên trường luật Harvard, cho rằng công hàm Phạm Văn Đồng ‘không có hiệu lực pháp lý’:
“Nó chỉ là một tuyên bố đơn phương, cho nên nó không có giá trị của một
hiệp ước nhượng đất là cái thủ tục bó buộc theo hiến pháp năm 1946 của
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, áp dụng vào thời điểm 1958 bởi vì rằng khi
ông Đồng tuyên bố, ông không thể nhân danh chủ tịch nước, mới là người
có quyền ký hiệp ước về nhượng đất. Và ngay cả Chủ tịch nước Hồ Chí Minh
cũng phải có nghị viện, tức là quốc hội, phê chuẩn hiệp ước thì mới có
giá trị. Vả lại, khi đọc kỹ thì thấy rằng công hàm đó chỉ nói về việc
công nhận 12 hải lý lãnh hải của Trung Quốc. Hồi đó nó [Trung Quốc] đòi
cái đó vì họ ngại cái hạm đội đi sát vào Trung Quốc từ eo biển Đài Loan,
nhất là từ hai đảo Kim Môn và Mã Tổ mà Trung Hoa Dân quốc kiểm soát.
Thành ra nó chỉ có hiệu lực thừa nhận 12 hải lý, chứ không phải nói đến
hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Luận cứ thứ hai, ông Đồng không đại
diện cho miền nam Việt Nam là quốc gia riêng biệt. Có hai quốc gia thời
đó theo tiêu chuẩn quốc gia là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Nam
Cộng hòa. Hiệp định Geneve đã giao việc quản lý hai quần đảo đó cho miền
nam Việt Nam thì ông Đồng không có đủ tư cách gì mà nói về vấn đề hai
quần đảo đó, nhượng đất hai quần đảo đó”.
Ông Tài nói thêm rằng nếu đôi bên không thể ‘tiếp tục cãi lý’ trên các diễn đàn quốc tế thì vụ việc cần phải được đưa ra Tòa án Quốc tế.
Nhưng chuyên gia luật này cũng cho rằng việc kiện ra tòa ‘rất khó’ vì Bắc Kinh từ trước tới nay ‘không đồng ý ra tòa nên chỉ còn đánh nhau trên mặt trận ngoại giao mà thôi’.
Những người bất đồng chính kiến ở hải ngoại bấy lâu nay dùng công hàm này để cáo buộc Hà Nội đã thực hiện điều họ gọi là ‘bán nước’, nhưng phía Việt Nam luôn bác bỏ điều này.
Sau việc Trung Quốc đưa giàn khoan khổng lồ vào vùng biển mà Việt Nam tuyên bố là thềm lục địa của mình, đẩy hai nước láng giềng vào thế đối đầu, giới lãnh đạo Việt Nam đã có các tuyên bố được một số nhà quan sát cho là ‘không kiêng nể’ khi nói về mối quan hệ với Bắc Kinh.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từng tuyên bố ‘không đánh đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông' cũng như cho báo giới biết rằng Hà Nội có thể xem xét hành động pháp lý chống lại các hành động của Trung Quốc ở biển Đông.
http://www.voatiengviet.com/content/viet-nam-trung-quoc-khau-chien-ve-cong-ham-pham-van-dong/1925103.html
Vợ TBT Lê Duẩn nói công hàm Phạm Văn Đồng 'giao TQ quản lý Hoàng Sa'
CTV Danlambao
- Trong cuộc phỏng vấn với đài BBC vào năm 2008, phu nhân cố tổng bí
thư Lê Duẩn là bà Bảy Vân khẳng định ông Phạm Văn Đồng đã ký vào một
'văn bản' có nội dung 'giao cho Trung Quốc quản lý Hoàng Sa'.
Bà Bảy Vân tên thật Nguyễn Thụy Nga, là vợ thứ hai của ông Lê Duẩn. Sau
năm 1975, bà Bảy Vân từng giữ chức vụ Phó tổng Biên Tập báo Sài Gòn Giải
Phóng.
Trích đoạn phỏng vấn của BBC vào tháng 8/2008:
Phóng viên Xuân Hồng, BBC: Thưa bà, nếu ông nhà (Lê Duẩn - Chú thích) còn sống, bà có nghĩ Trung Quốc có thể chiếm được Hoàng Sa và Trường Sa hay không?
Bà Nguyễn Thụy Nga (Bảy Vân): Tui cũng hổng biết. Nhưng mà hồi
đó, hổng có ý kiến anh Ba [Lê Duẩn] là nó chiếm hết luôn cả Trường Sa
rồi. Nhưng mà ảnh bảo phải ra đóng cho được ở Trường Sa.
Thì lúc đó là... Y lấy cái thế là trước kia ông Phạm Văn Đồng có ký một
cái văn bản, coi như là ngụy nó đóng ở đó, cho nên giao cho Trung Quốc
quản lý Hoàng Sa. Coi như là Phạm Văn Đồng có ký tên.
Thì bây giờ, Trung Quốc nó nói cái đó là khỏi bàn, bởi vì đã có văn bản
ký rối. Nhưng mà hổng phải, cái đó trong tình anh em, nghĩa là để cho
ổng [Trung Quốc] làm trong khi mình chưa làm thôi. Vì mình còn đánh ở
trong này, đâu có lực đâu mà làm ngoài đó.
Wednesday, May 28, 2014
TIN BIỂN ĐÔNG
Trung Quốc dời giàn khoan khỏi vị trí cũ 23 hải lý
Ông Hà Lê, Phó Cục trưởng Cục Kiểm ngư đang minh họa vị trí dịch chuyển của giàn khoan Hải Dương - 981
Báo chí trong nước hôm qua loan tin rằng Dàn khoan HD 981 của Trung quốc rời vị trí cũ theo hướng đông bắc để hạ đặt tại 1 vị trí mới cách chổ cũ 23 hải lý.
Vị trí mới này được biết là cách đảo Lý Sơn 150 hải lý.
Ông Lê Hải Bình, phát ngôn nhân Bộ ngoại giao Việt nam nói rằng vị trí mới của giàn khoan vẫn nằm trong vùng thềm lục địa đặc quyền kinh tế của Việt nam.
Công ty Trung quốc thực hiện việc vận hành giàn khoan cho biết là đã thu được những dữ liệu địa lý quan trọng nhưng không nói rõ chi tiết.
Tại vị trí mới, các tàu cảnh sát biển, kiểm ngư của Việt nam tiếp tục đối đầu với các tàu bảo vệ giàn khoan của phía Trung quốc. Tin từ phía Việt nam cho hay là sáng nay tàu Trung quốc đã sử dụng vòi rồng để tấn công các tàu Việt Nam. Theo báo mạng Vietnamet thì một tàu kiểm ngư Việt nam bị hư
hại nhẹ
Xin nhắc lại liên quan đến căng thẳng biển Đông hiện nay giữa Việt Nam và Trung quốc, 1 tàu cá Việt nam đã bị đâm chìm vào ngày 26/5, và 1 ngư dân đảo Lý Sơn đã bị thiệt mạng tại khu vực vịnh Bắc bộ trong một vụ đâm tàu khác vào ngày 24/5.
http://www.rfa.org/vietnamese/vietnamnews/cn-disp-oil-ring-05282014085050.html
Hoa Kỳ sẵn sàng đáp lại sự gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông
Ông tiết lộ là Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ mà trong đó ông là Chủ tịch Tiểu ban Châu Á Thái Bình Dương, đang cân nhắc việc ra một nghị quyết về tình hình hiện nay ở Biển Đông.
Ông nói thêm là sau chuyến làm việc ở Việt Nam, khi sang Singapore tham dự diễn đàn an ninh khu vực mang tên Shangrila, ông sẽ đưa sự việc giàn khoan Trung Quốc ra trước diễn đàn này.
Được biết là trước cuộc họp báo ông Benjamin Cardin có buổi gặp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, và trong buổi gặp này Thủ tướng Viêt Nam có đề nghị phía Hoa Kỳ có tiếng nói mạnh mẽ hơn về hành động bất hợp pháp của Trung Quốc.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/obama-warns-agression-in-scs-05282014131009.html
Tổng thống Obama: Thế giới dựa vào sức mạnh của Hoa Kỳ
Tổng thống Obama phát biểu tại lễ tốt nghiệp trường Võ bị Quốc gia Hoa Kỳ ở West Point, New York, 28/5/2014.
CỠ CHỮ
Cập nhật: 28.05.2014 17:20
Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama tuyên bố chủ nghĩa cô lập của Hoa Kỳ
không phải là một giải pháp, nhưng không phải vấn đề nào cũng có giải
pháp quân sự.
Nhân bài phát biểu tại lễ tốt nghiệp trường Võ bị Quốc gia Hoa Kỳ hôm nay, ông Obama đã trình bày quan điểm về chính sách đối ngoại trong những năm cuối tại chức của ông.
Ông nói khủng bố vẫn là mối đe dọa trực tiếp đến an ninh Mỹ, và ông kêu gọi hợp tac với các nước mà các mạng lưới khủng bố tìm cách bắt rễ. Ông nhấn mạnh rằng Hoa Kỳ không bao giờ nên xin phép bảo vệ cho nhân dân hay tổ quốc của mình, nhưng khi các vấn đề gây quan tâm toàn cầu gặp nguy cơ mà không đề ra mối đe dọa trực tiếp cho Hoa Kỳ, thì “ngưỡng hành động quân sự phải được đặt cao hơn.”
Nhân bài phát biểu tại lễ tốt nghiệp trường Võ bị Quốc gia Hoa Kỳ hôm nay, ông Obama đã trình bày quan điểm về chính sách đối ngoại trong những năm cuối tại chức của ông.
Ông nói khủng bố vẫn là mối đe dọa trực tiếp đến an ninh Mỹ, và ông kêu gọi hợp tac với các nước mà các mạng lưới khủng bố tìm cách bắt rễ. Ông nhấn mạnh rằng Hoa Kỳ không bao giờ nên xin phép bảo vệ cho nhân dân hay tổ quốc của mình, nhưng khi các vấn đề gây quan tâm toàn cầu gặp nguy cơ mà không đề ra mối đe dọa trực tiếp cho Hoa Kỳ, thì “ngưỡng hành động quân sự phải được đặt cao hơn.”
Tổng thống nói: “Trong các tình huống đó, chúng ta không nên làm một
mình. Thay vì thế, chúng ta phải huy động các đồng minh và đối tác để có
hành động tập thể. Chúng ta phải mở rộng các công cụ của chúng ta để
bao gồm ngoại giao và phát triển; chế tài và cô lập; kêu gọi luật pháp
quốc tế - và - chỉ nếu cần, và hữu hiệu, hành động quân sự đa phương.
Trong các tình huống như thế, chúng ta phải hợp tác với các nước khác
bởi vì hành động tập thể trong các tình huống này có phần chắc đạt được
hiệu quả hơn.”
Ông Obama đề nghị một ngân khoản 5 tỷ đôla để giúp các nước chống khủng bố và mở rộng việc tài trợ cho tình báo Bộ Quốc phòng, kiểm soát, tình báo, hoạt động đặc biệt và các sinh hoạt khác.
Tổng thống nói Hoa Kỳ hiếm khi mạnh hơn so với phần còn lại của thế giới. Ông nói công tác của Hoa Kỳ qua các tổ chức quốc tế từ NATO cho đến Quỹ Tiền Tệ Quốc tế đã chứng tỏ nhiều lần rằng Hoa Kỳ là “quốc gia duy nhất không thể không có được.”
Bài phát biểu được đưa ra vào lúc ông Obama bị chỉ trích từ phía các chuyên gia về chính sách đối ngoại vì những cách đáp ứng của ông đối với những vấn đề từ cuộc nội chiến ở Syria cho đến vụ khủng hoảng chính trị ở Ukraine.
Tổng thống cam kết tăng cường các nỗ lực hỗ trợ cho các lân quốc của Syria như Jordan, Lebanon, Thổ Nhĩ Kỳ và Iraq, cũng như hợp tác với Quốc hội để tăng cường hỗ trợ cho “những người thuộc phe đối lập ở Syria đem lại sự lựa chọn tốt đẹp nhất thay thế cho các phần tử khủng bố và một nhà độc tài tàn bạo.”
Về vấn đề Ukraine, ông Obama nói khả năng của Hoa Kỳ hình thành công luận quốc tế đã mau chóng góp phần cô lập hóa nước Nga.
Ông giải thích: “Nhờ sự lãnh đạo của Mỹ, thế giới lập tức lên án các hành động của Nga. Châu Âu và khối G-7 đã cùng với chúng ta áp đặt các biện pháp chế tài. NATO củng cố cam kết của chúnt ta với các đồng minh Ðông Âu. Các thanh sát viên OSCE khiến thế giới chú mục vào những nơi bất ổn ở Ukraine, và sự huy động công luận thế giới này và các cơ chế quốc tế có tác dụng như một đối trọng với tuyên truyền của Nga, và quân đội Nga ở biên giới cùng các dân quân vũ trang đeo mặt nạ trượt truyết."
Ông Obama đề nghị một ngân khoản 5 tỷ đôla để giúp các nước chống khủng bố và mở rộng việc tài trợ cho tình báo Bộ Quốc phòng, kiểm soát, tình báo, hoạt động đặc biệt và các sinh hoạt khác.
Tổng thống nói Hoa Kỳ hiếm khi mạnh hơn so với phần còn lại của thế giới. Ông nói công tác của Hoa Kỳ qua các tổ chức quốc tế từ NATO cho đến Quỹ Tiền Tệ Quốc tế đã chứng tỏ nhiều lần rằng Hoa Kỳ là “quốc gia duy nhất không thể không có được.”
Bài phát biểu được đưa ra vào lúc ông Obama bị chỉ trích từ phía các chuyên gia về chính sách đối ngoại vì những cách đáp ứng của ông đối với những vấn đề từ cuộc nội chiến ở Syria cho đến vụ khủng hoảng chính trị ở Ukraine.
Tổng thống cam kết tăng cường các nỗ lực hỗ trợ cho các lân quốc của Syria như Jordan, Lebanon, Thổ Nhĩ Kỳ và Iraq, cũng như hợp tác với Quốc hội để tăng cường hỗ trợ cho “những người thuộc phe đối lập ở Syria đem lại sự lựa chọn tốt đẹp nhất thay thế cho các phần tử khủng bố và một nhà độc tài tàn bạo.”
Về vấn đề Ukraine, ông Obama nói khả năng của Hoa Kỳ hình thành công luận quốc tế đã mau chóng góp phần cô lập hóa nước Nga.
Ông giải thích: “Nhờ sự lãnh đạo của Mỹ, thế giới lập tức lên án các hành động của Nga. Châu Âu và khối G-7 đã cùng với chúng ta áp đặt các biện pháp chế tài. NATO củng cố cam kết của chúnt ta với các đồng minh Ðông Âu. Các thanh sát viên OSCE khiến thế giới chú mục vào những nơi bất ổn ở Ukraine, và sự huy động công luận thế giới này và các cơ chế quốc tế có tác dụng như một đối trọng với tuyên truyền của Nga, và quân đội Nga ở biên giới cùng các dân quân vũ trang đeo mặt nạ trượt truyết."
TT Obama: Không nên làm ngơ ‘hành động gây hấn’ ở Biển Đông
http://www.voatiengviet.com/content/tong-thong-obama-khong-nen-lam-ngo-hanh-dong-gay-han-o-bien-dong/1924761.html
CỠ CHỮ
28.05.2014
Tổng thống Mỹ Barack Obama hôm thứ Tư cảnh báo rằng Mỹ sẵn sàng đáp
trả "hành động gây hấn" của Trung Quốc đối với các nước láng giềng trên
biển, nhưng nói rằng Washington nên làm gương bằng việc phê chuẩn một
hiệp ước quan trọng.
Trong một bài phát biểu đề cập nhiều vấn đề chính sách đối ngoại tại học viện quân sự West Point, Tổng thống Obama nói rằng Mỹ cần phải dứt bỏ chính sách đứng ngoài cuộc và quân đội Mỹ phải chuẩn bị cho những cuộc khủng hoảng.
"Hành động gây hấn trong khu vực mà không bị kiểm soát - cho dù ở miền nam Ukraine hay biển Nam Trung Hoa [Biển Đông], hoặc bất cứ nơi nào khác trên thế giới - cuối cùng sẽ ảnh hưởng đến các đồng minh của chúng ta, và có thể lôi cuốn quân đội chúng ta can dự," ông Obama nói.
Tuy nhiên, ông Obama nhấn mạnh cảnh báo về bất kỳ quyết định sử dụng vũ lực nào. "Ảnh hưởng của Mỹ luôn mạnh hơn khi chúng ta đi đầu làm gương," ông nói.
"Chúng ta không thể cố gắng giải quyết những vấn đề ở Biển Nam Trung Hoa khi chúng ta không chịu đảm bảo rằng Công ước về Luật Biển được phê chuẩn, dù thực tế là các nhà lãnh đạo quân sự hàng đầu của chúng ta nói rằng hiệp ước đó giúp thăng tiến an ninh quốc gia của chúng ta," ông Obama nói, không nêu đích danh Trung Quốc khi ông phát biểu ngoài câu chữ chuẩn bị sẵn trong bài phát biểu.
"Đó không phải là sự lãnh đạo, đó là sự thoái lui. Đó không phải là sức mạnh. Đó là sự yếu kém," ông Obama nói.
Những thượng nghị sĩ của Đảng Cộng hòa đối thủ đã từ chối phê chuẩn hiệp ước, nói rằng công ước của Liên Hiệp Quốc sẽ làm mất hiệu lực chủ quyền của Mỹ.
Gần đây căng thẳng đã dâng cao giữa Trung Quốc và các nước láng giềng về tranh chấp lãnh hải. Việt Nam hôm thứ Ba cáo buộc Bắc Kinh đâm chìm một tàu đánh cá của mình ở Biển Đông.
Trong một bài phát biểu đề cập nhiều vấn đề chính sách đối ngoại tại học viện quân sự West Point, Tổng thống Obama nói rằng Mỹ cần phải dứt bỏ chính sách đứng ngoài cuộc và quân đội Mỹ phải chuẩn bị cho những cuộc khủng hoảng.
"Hành động gây hấn trong khu vực mà không bị kiểm soát - cho dù ở miền nam Ukraine hay biển Nam Trung Hoa [Biển Đông], hoặc bất cứ nơi nào khác trên thế giới - cuối cùng sẽ ảnh hưởng đến các đồng minh của chúng ta, và có thể lôi cuốn quân đội chúng ta can dự," ông Obama nói.
Tuy nhiên, ông Obama nhấn mạnh cảnh báo về bất kỳ quyết định sử dụng vũ lực nào. "Ảnh hưởng của Mỹ luôn mạnh hơn khi chúng ta đi đầu làm gương," ông nói.
"Chúng ta không thể cố gắng giải quyết những vấn đề ở Biển Nam Trung Hoa khi chúng ta không chịu đảm bảo rằng Công ước về Luật Biển được phê chuẩn, dù thực tế là các nhà lãnh đạo quân sự hàng đầu của chúng ta nói rằng hiệp ước đó giúp thăng tiến an ninh quốc gia của chúng ta," ông Obama nói, không nêu đích danh Trung Quốc khi ông phát biểu ngoài câu chữ chuẩn bị sẵn trong bài phát biểu.
"Đó không phải là sự lãnh đạo, đó là sự thoái lui. Đó không phải là sức mạnh. Đó là sự yếu kém," ông Obama nói.
Những thượng nghị sĩ của Đảng Cộng hòa đối thủ đã từ chối phê chuẩn hiệp ước, nói rằng công ước của Liên Hiệp Quốc sẽ làm mất hiệu lực chủ quyền của Mỹ.
Gần đây căng thẳng đã dâng cao giữa Trung Quốc và các nước láng giềng về tranh chấp lãnh hải. Việt Nam hôm thứ Ba cáo buộc Bắc Kinh đâm chìm một tàu đánh cá của mình ở Biển Đông.
Mỹ, Nhật lên tiếng sau vụ đâm tàu
Hoa Kỳ và Nhật Bản vừa
lên tiếng bày tỏ quan ngại sau vụ va chạm gần giàn khoan của Trung Quốc
trên vùng biển tranh chấp khiến một tàu cá của Việt Nam bị chìm.
Đài truyền hình Nhật NTDTV dẫn lời Bộ trưởng
Quốc phòng Nhật Itsunori Onodera nói: "Chúng tôi thấy việc tàu cá Việt
Nam có thể bị nhiều tàu cá Trung Quốc bao vây và đâm chìm là điều
báo động."
"Có lẽ bạn thực sự phải đặt câu hỏi rằng vì sao
một chiếc tàu cá, với nhiệm vụ đơn giản là đánh bắt cá, lại đâm một tàu
khác như vậy."
"Thật không thể tin nổi."
Trong khi đó, Chánh văn phòng Nội các Nhật Yoshihide Suga cũng được NTDTV dẫn lời nói:
"Bất chấp việc nhiều nước đã yêu cầu Trung Quốc
phải tránh có những hành động đơn phương, nước này vẫn tuyên bố sẽ tiếp
tục hoạt động khoan thăm dò."
"Tôi cho rằng đây là một quyết định rất đáng tiếc."
"Có lẽ bạn thực sự phải đặt câu hỏi rằng vì sao một chiếc tàu cá, với nhiệm vụ đơn giản là đánh bắt cá, lại đâm một tàu khác như vậy."
Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Itsunori Onodera
Còn hãng thông tấn AFP dẫn lời ông Suga nói rằng việc Trung Quốc đâm chìm tàu Việt Nam là 'một hành động vô cùng nguy hiểm'.
"Điều quan trọng lúc này là các bên liên quan
phải tránh có các hành động đơn phương và xử lý các vấn đề một cách bình
tĩnh, theo đúng luật pháp quốc tế," ông nói thêm.
Hoa Kỳ thận trọng
Phía Hoa Kỳ tỏ ra thận trọng hơn trước sự việc xảy ra hôm 26/5.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Jen Psaki
được hãng thông tấn AP dẫn lời trong buổi họp báo thường nhật hôm 27/5
cho biết Hoa Kỳ chưa thể kiểm chứng độc lập về thông tin một tàu cá Việt
Nam bị đâm chìm.
Tuy nhiên bà cũng bày tỏ quan ngại trước "những
hành động nguy hiểm và sự khiêu khích của các tàu Trung Quốc đang hoạt
động trong khu vực tranh chấp."
"Chúng tôi tiếp tục kêu gọi tất cả các bên liên quan kiềm chế và thực hiện các bước nhằm tháo gỡ căng thẳng", bà nói thêm.
Trong khi đó, truyền thông Việt Nam dẫn lời một
thượng nghị sĩ Mỹ nói việc Trung Quốc đâm chìm tàu Việt Nam là hành động
“cực kỳ nguy hiểm, đơn phương của Trung Quốc”.
Thượng nghị sĩ Ben Cardin thuộc Đảng Cộng hòa đang thăm Việt Nam và tổ chức họp báo hôm 28/5.
Báo Tuổi Trẻ tường thuật lời nói của ông Cardin:
“Riêng về việc Trung Quốc đâm chìm tàu Việt Nam, đây là hành động cực
kỳ nguy hiểm, đơn phương của Trung Quốc.
Vụ việc này xảy ra cách giàn khoan nhiều dặm. Đó
là hành vi nguy hiểm không thể chấp nhận được, gây thiệt hại lớn về tài
sản và tính mạng. Cần phải làm sao xuống thang tình hình.”
Phát biểu trong chuyến thăm một căn cứ hải quân
hôm 27/5, Tổng thống Philippines Benigno Aquino III nói nước của ông
đang tiếp tục quan sát diễn biến xung đột hiện nay giữa Việt Nam và
Trung Quốc.
"Chúng tôi đang cố gắng rút ra bài học đúng cho mình."
Tổng thống Philippines Benigno Aquino
"Chúng tôi đang cố gắng rút ra bài học đúng cho mình," ông được hãng thông tấn AP dẫn lời nói.
"Quân đội, lực lượng tuần duyên và các cơ quan
khác của chúng tôi đã xem xét những kịch bản có khả năng để có những
phản ứng phù hợp".
Trước đó, hôm 26/5, Việt Nam tố cáo tàu Trung
Quốc đã đâm chìm một tàu cá Đà Nẵng ở khu vực Nam Tây Nam giàn khoan Hải
Dương 981, cách giàn khoan này 17 hải lý.
Trong khi đó, ngày 27/5, Tân Hoa Xã xác nhận tàu
cá Việt Nam bị chìm, nhưng nói vụ việc xảy ra vì tàu Việt Nam "tiến
hành quấy nhiễu và đâm va tàu cá của thành phố Đông Phương,
tỉnh Hải Nam”.
"Các ngư dân trên tàu đã được cứu kịp thời," Tân Hoa Xã nói.
Tân Hoa Xã cáo buộc từ ngày 2/5, Việt Nam
"nhiều lần cử các loại tàu tiến hành quấy nhiễu việc tác
nghiệp khoan thăm dò” của công ty Trung Quốc.
Hôm 26/5, truyền thông trong nước cũng đưa tin
về vụ một tàu cá từ huyện đảo Lý Sơn bị "một tàu lạ" đâm chìm khi đang
đánh bắt trên ngư trường Vịnh Bắc Bộ khiến thuyền trưởng Đặng Văn Giùm
tử nạn, một thuyền viên mất tích.
Việt Nam yêu cầu Trung Quốc ngưng ‘hành động vô nhân đạo’
Phát
ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam nói chuyện tại một cuộc họp báo về
việc Trung Quốc đặt giàn khoan trái phép ở biển Đông, 7/5/14
CỠ CHỮ
28.05.2014
Hà Nội nói tàu của ngư dân Đà Nẵng bị đâm chìm trên ngư trường truyền thống, thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, cách giàn khoan Hải Dương gây tranh cãi của Trung Quốc 17 hải lý.
Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Việt Nam, Lê Hải Bình, ngày 27/5 yêu cầu Trung Quốc ‘tôn trọng luật quốc tế’, ‘xử lý nghiêm những người có liên quan’, tránh tái diễn hành động tương tự, và bồi thường cho ngư dân Việt.
Việt Nam cho biết đã ‘triệu đại diện đại sứ quán Trung Quốc’ để ‘trao công hàm phản đối.’
Trung Quốc quy lỗi Việt Nam gây ra sự cố. Phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao, Tần Cương, nói tàu cá Việt cố tình xâm nhập vào khu vực giàn khoan Hải Dương của Trung Quốc, đâm vào tàu Trung Quốc và bị lật.
Người phát ngôn Lê Hải Bình của Bộ Ngoại giao Việt Nam tuyên bố ‘Việt Nam kiên quyết bác bỏ những phát biểu sai sự thật của Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc.’
Vẫn theo lời ông Bình, ‘Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử để khẳng định chủ quyền không tranh cãi của mình đối với quần đảo Hoàng Sa. Trung Quốc đã sử dụng vũ lực chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Hành động của Trung Quốc đã vi phạm các quy định của luật pháp quốc tế, việc chiếm giữ bằng vũ lực không thể đem lại chủ quyền cho Trung Quốc ở quần đảo Hoàng Sa.’
Việt Nam một lần nữa yêu cầu Trung Quốc chấm dứt hoạt động, rút giàn khoan và các lực lượng hộ tống ra khỏi vùng biển Việt Nam. Ông Bình nói Việt Nam kiên quyết phản đối những hành động của Trung Quốc ‘vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam ở Biển Đông, trái với tinh thần Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), tiếp tục làm phức tạp tình hình trên Biển Đông.’
Lên tiếng về vụ tàu cá Việt Nam bị đánh chìm, phát ngôn nhân Bộ Ngoại
giao Hoa Kỳ, Jen Psaki ngày 27/5 nói ‘các hành động khiêu khích phần lớn
xuất phát từ phía Trung Quốc.’
Nguồn: Vietnam MOFA website
Nguồn: Vietnam MOFA website
Nhật Bản can dự nhiều hơn vào vấn đề Biển Đông
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe nói rằng Nhật Bản sẽ không bao giờ chấp nhận việc thay đổi hiện trạng bằng vũ lực hoặc cưỡng ép
CỠ CHỮ
28.05.2014
Hôm thứ ba (27-5-2014), không lâu sau khi có tin tàu đánh cá Việt Nam bị tàu đánh cá Trung Quốc đâm chìm gần giàn khoan Trung Quốc hạ đặt trong vùng biển mà Việt Nam cho là thuộc khu vực đặc quyền kinh tế của mình, hai giới chức cấp cao của chính phủ Nhật Bản đã lên tiếng chỉ trích điều mà họ gọi là “hành động cực kỳ nguy hiểm” của Trung Quốc.
Chánh văn phòng nội các Nhật Yoshihide Suga phát biểu tại một cuộc họp báo ở Tokyo rằng “Đây là một hành động cực kỳ nguy hiểm, có thể đe dọa tới sinh mạng con người.” Ông nói thêm rằng các nước liên hệ cần phải tránh thực hiện những hành động đơn phương làm cho căng thẳng gia tăng, phải tuân thủ luật pháp quốc tế, và xử lý các vấn đề một cách bình tĩnh.
Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Itsunori Onodera cũng cho báo chí biết rằng “vụ việc nghiêm trọng” này làm cho mọi người cảm thấy bất an. Ông cũng yêu cầu cộng đồng quốc tế làm rõ những sự việc liên quan tới vụ tàu cá Trung Quốc đâm chìm tàu cá Việt Nam.
Phát biểu vừa kể của các giới chức ở Tokyo đã nhanh chóng gặp phải sự chỉ trích của phía Trung Quốc, là nước cũng đang có vụ đối đầu gay gắt với Nhật Bản về vấn đề chủ quyền của một nhóm đảo không người ở ở Biển Đông Trung Hoa mà Trung Quốc gọi là Điếu Ngư và Nhật Bản gọi là Senkaku.
Tại cuộc họp báo ở Bắc Kinh hôm thứ ba, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương hối thúc “Nhật Bản tôn trọng sự thật và ngưng đưa ra những phát biểu vô trách nhiệm.” Ông Tần cũng lập lại tố cáo là Nhật Bản đang tìm cách khuấy động tình hình Biển Đông để đạt mục tiêu mà ông gọi là “đục nước béo cò.”
Cuộc khẩu chiến hôm thứ ba giữa Tokyo và Bắc Kinh diễn ra trong lúc Nhật Bản ra sức tăng cường các mối quan hệ với những nước vùng Đông Nam Á có yêu sách chủ quyền chồng lấn với yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông, đặc biệt là với Việt Nam và Philippines.
Trong cuộc phỏng vấn hôm thứ 6, (23 tháng 5, 2014) dành cho tờ Wall Street Journal, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã một lần nữa chỉ trích việc Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 tới vùng biển có tranh chấp với Việt Nam. Ông nói rằng “những hoạt động khoan dầu đơn phương”của Trung Quốc làm cho căng thẳng leo thang và Nhật Bản “sẽ không bao giờ chấp nhận việc thay đổi hiện trạng bằng vũ lực hoặc cưỡng ép.”
Tháng 12 năm ngoái, chính phủ Nhật Bản đã tặng 10 chiếc tàu tuần duyên cho Philippines và cho biết một cuộc điều đình đang được tiến hành để cung cấp một sự trợ giúp tương tự cho Việt Nam.
Ông Abe nói với tờ Wall Street Journal ông đã gặp Phó Thủ tướng Việt Nam Vũ Đức Đam một ngày trước đó và được thông báo là Việt Nam “muốn được cung cấp các tàu tuần duyên đó càng sớm càng tốt”. Nhà lãnh đạo Nhật cho biết ông cũng muốn gia tốc tiến trình này.
Theo các nhà phân tích, sự can dự nhiều hơn của Nhật Bản vào vấn đề Biển Đông phát xuất từ mối lo ngại đối với an ninh của tuyến đường hàng hải vô cùng quan trọng cho nền kinh tế Nhật, giữa lúc Trung Quốc không ngừng gia tăng sức mạnh quân sự và thực hiện những hành động ngày càng hung hãn trong những vụ tranh chấp chủ quyền với các lân bang ở Á châu.
Các nhà quan sát nói rằng Nhật Bản phải dựa vào nhập khẩu để thỏa mãn 95% nhu cầu nhiên liệu trong nước và hầu hết số dầu nhập khẩu là được vận chuyển ngang qua Biển Đông. Ngoài ra, 99% hàng hóa nhập khẩu và xuất khẩu của Nhật cũng dựa vào đường biển, trong đó các loại hàng hóa bán sang các thị trường Âu châu, Đông Nam Á và Úc châu được vận chuyển qua Biển Đông. Theo ước tính của các chuyên gia, trong trường hợp phải đi đường vòng sang phía đông Philippines, giá thành của các sản phẩm chế tạo của Nhật Bản sẽ tăng 25%. Do đó, Nhật Bản xem Biển Đông là “tuyến đường huyết mạch” của mình và tìm đủ mọi cách để bảo vệ.
Theo tường thuật của báo chí Nhật Bản và Trung Quốc, tại một cuộc hội thảo ở Tokyo hôm 22 tháng 5, Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long nói rằng Trung Quốc và Nhật Bản có thể xảy ra chiến tranh trong vòng 20 năm tới đây. Nhà lãnh đạo Singapore cho rằng Á châu có thể có một tương lai tốt đẹp nếu cả Trung Quốc lẫn Nhật Bản đều muốn làm việc chung với Hoa Kỳ để duy trì sự ổn định và thịnh vượng của khu vực. Ông Lý Hiển Long nói thêm rằng trong trường hợp giới lãnh đạo ở Bắc Kinh không chịu hợp tác với Nhật Bản và các nước khác trong vùng, Trung Quốc có thể xảy ra chiến tranh với Nhật Bản vì vụ tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư hay với các nước Á châu khác vì vụ tranh chấp Biển Đông dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
Ông Lý Hiển Long cho rằng chính vì lý do đó mà Hoa Kỳ nên tiếp tục duy trì sự hiện diện trong khu vực, và ông tin rằng với sự trợ giúp của Washington, Á châu có thể né tránh được nhiều phần của tương lai u ám đó.
Trung Quốc chỉ trích Nhật Bản lên án vụ đâm chìm tàu Việt Nam
Hôm qua, 27/05/2014, Bắc Kinh đã phản ứng mạnh mẽ về tuyên bố
của phía Nhật Bản lên án vụ tàu Trung Quốc đâm chìm tàu cá của Việt Nam
trên Biển Đông. Hôm qua, phát ngôn viên chính phủ Nhật Yoshihide Suga
đã tuyên bố rằng nếu thông tin về vụ tàu cá Việt Nam bị đâm chìm ngày
26/05 là đúng sự thật, thì đây quả là « một hành động cực kỳ nguy hiểm
».
Ông Yoshihide Suga kêu gọi các nước có liên quan « không nên có
những hành động đơn phương làm tăng thêm căng thẳng, và phải tuân thủ
luật pháp quốc tế ».
Phản ứng về tuyên bố nói trên của phát ngôn viên chính phủ Nhật, phát ngôn viên bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương hôm qua cho đây là những phát biểu « bất chấp sự thật, hòng đục nước béo cò, có dụng ý xấu. ». Ông yêu cầu Tokyo tôn trọng « sự thật lịch sử » về chủ quyền của Trung Quốc trên quần đảo Tây Sa ( Hoàng Sa ) và chấm dứt những lời nói « vô trách nhiệm ».
Quan hệ Nhật – Trung hiện đang căng thẳng trở lại sau vụ phi cơ của hai nước suýt đụng nhau ngày 25/05 vừa qua trên không phận vùng biển Hoa Đông, nơi mà hai nước đang tranh chấp chủ quyền quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Hai bên đã đổ lỗi cho nhau.
Trong khi đó, tờ báo Yomiuri của Nhật số ra ngày hôm nay, trích dẫn nguồn tin từ bộ Quốc phòng Nhật Bản, cho biết là nước này sẽ điều một tàu vận tải thuộc Lực lượng Phòng vệ vùng biển đến Biển Đông chở theo 140 binh lính Mỹ và Úc tham gia diễn tập cứu hộ vào tháng 6 tới với Việt Nam, Cam Bốt và Philippines.
Chiếc tàu Kunisaki sẽ đến Việt Nam ngày 06/06. Đây là lần đầu tiên tàu của Lực lượng phòng vệ vùng biển Nhật Bản tham gia vào một hoạt động như vậy.
Theo tờ Yomiuri, cuộc diễn tập cứu hộ này cũng là nhằm thể hiện tình đoàn kết của Nhật, Hoa Kỳ và Úc đối với các nước Đông Nam Á trước Trung Quốc.
Phản ứng về tuyên bố nói trên của phát ngôn viên chính phủ Nhật, phát ngôn viên bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương hôm qua cho đây là những phát biểu « bất chấp sự thật, hòng đục nước béo cò, có dụng ý xấu. ». Ông yêu cầu Tokyo tôn trọng « sự thật lịch sử » về chủ quyền của Trung Quốc trên quần đảo Tây Sa ( Hoàng Sa ) và chấm dứt những lời nói « vô trách nhiệm ».
Quan hệ Nhật – Trung hiện đang căng thẳng trở lại sau vụ phi cơ của hai nước suýt đụng nhau ngày 25/05 vừa qua trên không phận vùng biển Hoa Đông, nơi mà hai nước đang tranh chấp chủ quyền quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Hai bên đã đổ lỗi cho nhau.
Trong khi đó, tờ báo Yomiuri của Nhật số ra ngày hôm nay, trích dẫn nguồn tin từ bộ Quốc phòng Nhật Bản, cho biết là nước này sẽ điều một tàu vận tải thuộc Lực lượng Phòng vệ vùng biển đến Biển Đông chở theo 140 binh lính Mỹ và Úc tham gia diễn tập cứu hộ vào tháng 6 tới với Việt Nam, Cam Bốt và Philippines.
Chiếc tàu Kunisaki sẽ đến Việt Nam ngày 06/06. Đây là lần đầu tiên tàu của Lực lượng phòng vệ vùng biển Nhật Bản tham gia vào một hoạt động như vậy.
Theo tờ Yomiuri, cuộc diễn tập cứu hộ này cũng là nhằm thể hiện tình đoàn kết của Nhật, Hoa Kỳ và Úc đối với các nước Đông Nam Á trước Trung Quốc.
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20140528-trung-quoc-chi-trich-nhat-ban-len-an-vu-dam-chim-tau-viet-nam
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng công bố các giải pháp bảo vệ chủ quyền
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng công bố các giải pháp bảo vệ chủ quyền
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hôm nay tham gia phiên họp báo thường kỳ
của Chính phủ, và nêu ra 3 nhóm giải pháp bảo vệ chủ quyền đất nước.
Nhóm giải pháp thứ nhất được nêu ra là các tàu chấp pháp của Việt Nam
phải luôn có mặt tại vị trí mới để cản phá và đuổi tàu Trung Quốc hoạt
động trái phép trong vùng biển Việt Nam.
Về mặt ngoại giao, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định Việt Nam tiếp
tục kiên trì và đấu tranh đến cấp cao nhất, nói rõ hành động sai trái
của phía Trung Quốc, yêu cầu họ rút giàn khoan Hải Dương-981 ra khỏi
vùng biển của Việt Nam.
Giải pháp thứ ba được người đứng đầu chính phủ Việt Nam nêu ra là đấu
tranh bằng con đường dư luận. Theo đó các cơ quan chức năng phải cung
cấp đầy đủ, trung thực, khách quan các hành động sai trái của Trung Quốc
cho cộng đồng quốc tế.
Sẽ có va chạm
Thủ tướng Việt Nam cho biết trong gần một tháng qua, Việt Nam đã tiến
hành hơn 30 cuộc giao tiếp với đại diện Trung Quốc, yêu cầu họ rút giàn
khoan ra khỏi vùng biển của Việt Nam.
Cũng trong thời gian qua có hơn 30 tàu của các lực lượng chấp pháp của Việt Nam bị tàu Trung Quốc đâm va, gây hỏng hóc.
Cũng trong cuộc họp báo này, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đưa ra dự báo
là sẽ có va chạm với Trung Quốc, nhưng phía Việt Nam kiên quyết và cố
gắng kiềm chế.
Sau khi nêu ra ba nhóm biện pháp bảo vệ chủ quyền và tình hình thực
tế xảy ra tại Biển Đông, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vẫn nói Việt Nam hết
sức coi trọng quan hệ hợp tác, hữu nghị trên các lĩnh vực với Trung
Quốc. Ông nói rằng đấu tranh vì chủ quyền vẫn phải tiếp tục, nhưng làm
ăn thì vẫn bình thường.
Phản đối tại diễn đàn LHQ
Cũng tin liên quan, tại Hội nghị lần thứ 15 tiến trình tư vấn của
Liên Hiệp Quốc về đại dương và Luật Biển từ ngày 27 đến 30 tháng 5 này,
đoàn Việt Nam tham dự hội nghị cũng đã có bài phát biểu phản đối những
hành động bất hợp pháp của Trung Quốc tại vùng đặc quyền kinh tế của
Việt Nam ở Biển Đông.
Theo phía Việt Nam thì những các hành động căng thẳng gần đây của
Trung Quốc tại Biển Đông gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động ngư
nghiệp chính đáng của ngư dân Việt Nam.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/vn-pm-put-forth-to-protect-sovereignty-05292014102642.html
Carl Bildt nói về Biển Đông và tự do
Cập nhật: 12:28 GMT - thứ năm, 29 tháng 5, 2014
Ngoại trưởng Thụy
Điển Carl Bildt vừa chủ trì một hội nghị quốc tế về tự do
internet - Diễn đàn Internet Stockholm 2014, trong đó ông có bài
phát biểu nói về tầm quan trọng của tự do và cởi mở trên
không gian ảo.
Bấm
Diễn đàn thường niên lần thứ ba do Bộ Ngoại giao Thụy
Điển, Cơ quan Hợp tác Phát triển Quốc tế (Sida) và Quỹ Hạ
tầng internet .SE đồng tổ chức hai ngày 27/5-28/5 với chủ đề
"Internet - riêng tư, minh bạch, theo dõi và quản lý".
Ông Carl Bildt đã dành cho BBC
một cuộc phỏng vấn ngắn bên lề diễn đàn, trước hễt là về
căng thẳng biển đảo trong vùng Đông Nam Á.
BBC: Nói về căng thẳng hiện thời tại Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc, quan điểm của ông như thế nào?
Ngoại trưởng Carl Bildt: Chúng tôi đã phát biểu nhiều lần là các xung đột thế này cần phải được giải quyết theo luật pháp quốc tế.
Có nhiều luật, thí dụ như Công ước Liên
Hiệp Quốc về luật biển, hay các văn bản pháp lý quốc tế khác
mà các nước cần phải tuân thủ một cách minh bạch và thực
chất để có thể giải quyết các vấn đề một cách hòa bình.
Căng thẳng giữa Việt Nam, Trung Quốc, và
cả các nước xung quanh khác cần phải được giải quyết giống như
các nước tại các khu vực khác đã từng làm.
Chúng tôi đã chứng kiến nhiều bất đồng
thí dụ tại biển Baltic hay biển Bắc, Bắc Đại Tây Dương... các
tranh chấp bất đồng đó đều đã được giải tỏa theo luật pháp
quốc tế.
Thụy Điển không đứng về phía nước nào mà
chúng tôi muốn đóng vai trò trung gian thúc đẩy cách giải
quyết bằng luật pháp quốc tế.
BBC: Trong thời gian Diễn
đàn Internet Stockholm, các bên đã thảo luận khá nhiều về mối
liên quan giữa các quyền tự do của người dân, trong đó có tự do
internet, và phát triển kinh tế. Thế còn liên quan giữa các
quyền tự do này với an ninh và chủ quyền của một quốc gia thì
như thế nào thưa ông?
Ngoại trưởng Carl Bildt:
Chúng tôi thấy có liên quan giữa sự phổ cập internet và tự do
internet với khả năng phát triển thực sự của một quốc gia trong
tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội.
Những nước nào tìm cách hạn chế tự do,
trong đó có tự do internet, thì cũng gặp phải nhiều vấn đề
trong phát triển kinh tế, xã hội.
Thụy Điển chúng tôi là bạn bè thân thiết
với Việt Nam trong nhiều năm qua, chúng tôi cũng duy trì quan hệ
với Việt Nam lâu nay nhưng tôi phải thành thật mà nói rằng tôi
từng trông đợi Việt Nam phát triển tốt hơn là như bây giờ. Một
trong các lý do chính có thể là môi trường chính trị không cởi
mở như chúng tôi hy vọng và do vậy mà cả đầu tư nước ngoài
lẫn tốc độ phát triển đều không được như dự đoán 15-20 năm
trước đây.
Đây cũng là minh chứng rõ ràng cho mối liên hệ giữa tự do chính trị và phát triển kinh tế.
BBC: Chắc là ông đã
được biết về trường hợp một blogger Việt Nam (Facebooker Anh
Chí) bị ngăn cản không được tới Thụy Điển tham dự Diễn đàn
Internet Stockholm?
Ngoại trưởng Carl Bildt: Vâng
tôi có được biết và điều này cho thấy một lần nữa là môi
trường chính trị o ép và hạn chế sẽ có những hậu quả xấu
tới tiềm năng phát triển xã hội và kinh tế của Việt Nam.
BBC: Trong cách hành xử
đối với các quốc gia hạn chế quyền tự do internet, dường như
đang có chỉ trích là châu Âu và phương Tây đưa ra quá nhiều
khuyến khích và nâng đỡ mà quá ít biện pháp trừng phạt. Ông
trả lời thế nào về chỉ trích này?
Ngoại trưởng Carl Bildt: Tôi
cho là về lâu dài thì khuyến khích có lợi hơn là chế tài.
Tính hiệu quả của việc trừng phạt như thế nào thì còn phải
tranh cãi và thường về ngắn hạn nhưng hiệu quả của sự khuyến
khích thì lâu dài vì nó thường liên quan tới cải cách dài
hạn.
Ông Carl Bildt là Ngoại trưởng
Thụy Điển từ 2006 tới nay. Ông từng giữ chức Thủ tướng Thụy
Điển từ 1991-1994. Năm 1994, ông đã thăm Việt Nam trong vai trò
thủ tướng.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2014/05/140529_carl_bildt_inv.shtml
Trong khi tình hình tại Biển Đông ngày càng nóng lên do vụ
giàn khoan Hải Dương 981, thì tại vùng biển Hoa Đông, căng thẳng
Nhật-Trung cũng nổi lên trở lại với vụ phi cơ hai nước suýt đụng nhau
trên không phận vùng biển này.
Tình hình vùng biển Hoa Đông lại căng thẳng
Máy bay tiêm kích SU-27 của Trung Quốc
REUTERS
Ngày 25/05/2014 bộ Quốc phòng Nhật tố cáo một chiếc tiêm kích
SU-27 của Trung Quốc đã bay sát, chỉ cách máy bay tuần tra OP-3C của
Nhật Bản khoảng 50 mét, tại điểm tiếp xúc giữa hai vùng nhận dạng phòng
không của Trung Quốc và Nhật Bản. Một chiếc tiêm kích SU-27 khác của
Trung Quốc cũng bay sát gần 30 mét một máy bay tình báo điện tử YZ-11EB
của Nhật Bản, cũng trong khu vực này.
Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Itsunori Onodera tố cáo « các hành động nguy hiểm này có thể gây ra tai nạn », nhất là vì hai máy bay tiêm kích của Trung Quốc có trang bị tên lửa. Tokyo đã gửi công hàm ngoại giao để phản đối Trung Quốc về vụ này.
Nhưng phía Bắc Kinh cũng đã phản ứng mạnh mẽ không kém. Trung Quốc cáo buộc rằng chính hai máy bay Nhật Bản đã xâm nhập vùng cấm bay mà quân đội Trung Quốc và Nga thiết lập trước khi tiến hành tập trận chung. Bộ Quốc phòng Trung Quốc cho rằng như vậy là Nhật Bản đã vi phạm công pháp quốc tế, có thể dễ dàng gây hiểu lầm và có thể gây ra tai nạn trên không. Bắc Kinh yêu cầu Tokyo tôn trọng « các quyền chính đáng của hải quân Trung Quốc và Nga ».
Vụ xảy ra trên biển Hoa Đông khiến người ta nhớ đến vụ một máy bay do thám của Mỹ đụng một chiến đấu cơ Trung Quốc trên hải phận quốc tế ở vùng Biển Đông vào năm 2001. Chiến đấu cơ Trung Quốc đã bị rơi, phi công thiệt mạng, còn máy bay Mỹ đã phải đáp khẩn cấp xuống đảo Hải Nam.
Trên biển, cũng đã từng xảy ra vụ một chiến hạm của Trung Quốc « khoá » radar nhắm bắn một khu trục hạm của Nhật trên biển Hoa Đông vào tháng 1/ 2013.
Quan hệ Nhật-Trung đã xấu đi nghiêm trọng từ hơn một năm qua, do tranh chấp chủ quyền quần đảo Senkaku/Điếu Ngư trên biển Hoa Đông. Chính là nhằm tăng cường khả năng bảo vệ các đảo có nguy cơ bị Trung Quốc đánh chiếm mà bộ binh Lực lượng Phòng vệ ( Quân đội ) Nhật hiện đang tập trận trên quần đảo Amami, nằm gần khu vực quần đảo Senkaku.
Thứ hai tuần trước, chính phủ Tokyo thông báo một kế hoạch đặt các đơn vị lục quân trên ba hòn đảo của quần đảo Nansei, nằm cách Senkaku khoảng 170 km. Tháng trước, chính phủ Nhật bắt đầu xây một hệ thống radả trên đảo Yonaguni, cách Senkaku khoảng 150 km.
Hôm qua, thủ tướng Shinzo Abe tuyên bố là vụ mới xảy ra hôm Chủ nhật sẽ không làm thay đổi kế hoạch của chính phủ Tokyo tiến hành thêm các chuyến bay do thám để thu thập tin tình báo ở khu vực quần đảo Senkaku/Điếu Ngư.
Vụ máy bay Nhật Trung suýt đụng nhau trên biển Hoa Đông ngày 25/05/2014 phản ánh sự căng thẳng ngày càng gia tăng do tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc với các nước láng giềng. Nguy cơ xung đột cũng gia tăng theo. Bộ quốc phòng Nhật Bản và Trung Quốc đã từng thảo luận về việc thiết lập một cơ chế liên lạc trên biển để tránh mọi va chạm, nhưng cuộc đàm phán đã bị đình chỉ do tranh chấp chủ quyền Senkaku/Điếu Ngư.
Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Itsunori Onodera tố cáo « các hành động nguy hiểm này có thể gây ra tai nạn », nhất là vì hai máy bay tiêm kích của Trung Quốc có trang bị tên lửa. Tokyo đã gửi công hàm ngoại giao để phản đối Trung Quốc về vụ này.
Nhưng phía Bắc Kinh cũng đã phản ứng mạnh mẽ không kém. Trung Quốc cáo buộc rằng chính hai máy bay Nhật Bản đã xâm nhập vùng cấm bay mà quân đội Trung Quốc và Nga thiết lập trước khi tiến hành tập trận chung. Bộ Quốc phòng Trung Quốc cho rằng như vậy là Nhật Bản đã vi phạm công pháp quốc tế, có thể dễ dàng gây hiểu lầm và có thể gây ra tai nạn trên không. Bắc Kinh yêu cầu Tokyo tôn trọng « các quyền chính đáng của hải quân Trung Quốc và Nga ».
Vụ xảy ra trên biển Hoa Đông khiến người ta nhớ đến vụ một máy bay do thám của Mỹ đụng một chiến đấu cơ Trung Quốc trên hải phận quốc tế ở vùng Biển Đông vào năm 2001. Chiến đấu cơ Trung Quốc đã bị rơi, phi công thiệt mạng, còn máy bay Mỹ đã phải đáp khẩn cấp xuống đảo Hải Nam.
Trên biển, cũng đã từng xảy ra vụ một chiến hạm của Trung Quốc « khoá » radar nhắm bắn một khu trục hạm của Nhật trên biển Hoa Đông vào tháng 1/ 2013.
Quan hệ Nhật-Trung đã xấu đi nghiêm trọng từ hơn một năm qua, do tranh chấp chủ quyền quần đảo Senkaku/Điếu Ngư trên biển Hoa Đông. Chính là nhằm tăng cường khả năng bảo vệ các đảo có nguy cơ bị Trung Quốc đánh chiếm mà bộ binh Lực lượng Phòng vệ ( Quân đội ) Nhật hiện đang tập trận trên quần đảo Amami, nằm gần khu vực quần đảo Senkaku.
Thứ hai tuần trước, chính phủ Tokyo thông báo một kế hoạch đặt các đơn vị lục quân trên ba hòn đảo của quần đảo Nansei, nằm cách Senkaku khoảng 170 km. Tháng trước, chính phủ Nhật bắt đầu xây một hệ thống radả trên đảo Yonaguni, cách Senkaku khoảng 150 km.
Hôm qua, thủ tướng Shinzo Abe tuyên bố là vụ mới xảy ra hôm Chủ nhật sẽ không làm thay đổi kế hoạch của chính phủ Tokyo tiến hành thêm các chuyến bay do thám để thu thập tin tình báo ở khu vực quần đảo Senkaku/Điếu Ngư.
Vụ máy bay Nhật Trung suýt đụng nhau trên biển Hoa Đông ngày 25/05/2014 phản ánh sự căng thẳng ngày càng gia tăng do tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc với các nước láng giềng. Nguy cơ xung đột cũng gia tăng theo. Bộ quốc phòng Nhật Bản và Trung Quốc đã từng thảo luận về việc thiết lập một cơ chế liên lạc trên biển để tránh mọi va chạm, nhưng cuộc đàm phán đã bị đình chỉ do tranh chấp chủ quyền Senkaku/Điếu Ngư.
NGUYỄN AN DÂN * CHỐT QUA SÔNG
Bước thứ hai của con chốt qua sông
Nguyễn An Dân
Hôm nay một số cơ quan truyền thông trong và ngoài nước loan tin con
chốt giàn khoan HY-981 đã thực hiện xong bước đi thứ nhất của nó và đã
bắt đầu đi bước thứ hai, dời khỏi vị trí cũ 23 hải lý và xích lại gần
khu vực quần đảo Hoàng Sa hơn. Theo tuyên bố của Tổng Công Ty Dầu Khí
Trung Quốc thì nó đã khoan thăm dò xong mũi thứ nhất, giờ di chuyển để
khoan mũi thứ hai. Tôi cũng đồng ý trên góc độ chính trị, “mũi khoan
thăm dò chính trị” thứ nhất vào Việt Nam nói riêng, Mỹ và quốc tế nói
chung, cũng đã xong và tất cả đang bắt đầu vào nước đi thứ 2 trong vàn
cờ Việt-Trung. Chúng ta cùng nhìn lại các diễn biến của các bên xoay
quanh bàn cờ trong nước đi thứ nhất và dự đoán các khả năng sẽ xảy ra
cho bước đi thứ hai và hơn nữa
Tổng kết bước đi thứ nhất
Sau khi con chốt giàn khoan qua sông thì phía Trung Quốc nhận thấy
mình sa lầy từ các phản ứng của phía Việt Nam, mà cụ thể là các bước đi
ứng phó của tay cầm cờ Ba Dũng và sự nhanh nhạy vào cuộc của Mỹ. Nếu xét
trong bối cảnh quan hệ Mỹ-Việt thì các phản ứng cấp thời và cần thiết
của tay cờ Mỹ trong giai đoạn một theo tôi nhận xét là nhanh hơn so với
chiều sâu quan hệ mà Mỹ-Việt có trước khi giàn khoan triển khai.
Hàng loạt các động thái ngoại giao như trợ lý ngoại trưởng Mỹ qua Việt Nam, rồi giao lưu của hạm đội 7 Mỹ, ngoại trưởng Việt Nam được mời qua Mỹ (nghe đâu Phạm Bình Minh đang “soạn hành lý”), phái bộ nghị sĩ của Mỹ được mời qua Việt Nam để khảo sát về các bước tiến triển sắp đến của Việt Nam về vấn đề nhân quyền (một tiêu chí quan trọng trong việc Mỹ có cung cấp vũ khí sát thương cho Việt Nam hay không, điều mà Việt Nam lúc này đang cần, ít nhất như một dấu hiệu tượng trưng trong quan hệ Mỹ-Việt). Việc xuất hiện giàn khoa của Trung Quốc dường như đẩy nhanh hơn quá trình gần Mỹ “thoát Trung” của nhóm Ba Dũng, và hai bên Việt-Mỹ đang thúc đẩy các bước đi nhanh hơn theo chiều hướng này. Cùng lúc đó, các quốc gia đồng minh với Mỹ như Nhật, Philipin, Hàn Quốc cũng chìa bàn tay mình ra với Việt Nam nhằm mục đích hình thành một liên minh “kháng Trung”.
Hàng loạt các động thái ngoại giao như trợ lý ngoại trưởng Mỹ qua Việt Nam, rồi giao lưu của hạm đội 7 Mỹ, ngoại trưởng Việt Nam được mời qua Mỹ (nghe đâu Phạm Bình Minh đang “soạn hành lý”), phái bộ nghị sĩ của Mỹ được mời qua Việt Nam để khảo sát về các bước tiến triển sắp đến của Việt Nam về vấn đề nhân quyền (một tiêu chí quan trọng trong việc Mỹ có cung cấp vũ khí sát thương cho Việt Nam hay không, điều mà Việt Nam lúc này đang cần, ít nhất như một dấu hiệu tượng trưng trong quan hệ Mỹ-Việt). Việc xuất hiện giàn khoa của Trung Quốc dường như đẩy nhanh hơn quá trình gần Mỹ “thoát Trung” của nhóm Ba Dũng, và hai bên Việt-Mỹ đang thúc đẩy các bước đi nhanh hơn theo chiều hướng này. Cùng lúc đó, các quốc gia đồng minh với Mỹ như Nhật, Philipin, Hàn Quốc cũng chìa bàn tay mình ra với Việt Nam nhằm mục đích hình thành một liên minh “kháng Trung”.
Song song với phía Mỹ, sau khi thấy Mỹ và các đồng minh khu vực thực
hiện các bước đi tích cực để hậu thuẫn cho tay cờ Ba Dũng có “thế” vừa
áp đảo vừa thuyết phục nhằm loại bỏ sự đối kháng bên trong đảng của nhóm
thân Trung Quốc, và có “lực” để đề kháng trên biển Đông (và cả trên đất
liền, nếu cần thiết). Sau khi đặt giàn khoan, Trung Quốc đã triển khai
việc gây hấn trở lại với Philipin, Nhật Bản. Cùng lúc đó là giật dây 1
đồng minh khác, Bắc Triều Tiên, quốc gia lâu nay ai cũng biết “vừa là
Chí Phèo vừa là đàn em” của Trung Quốc trong khu vực Đông Á. Thế là “anh
Chí Phèo” Bắc Triều Tiên nhảy ra múa dao trong mấy ngày vừa qua nhằm
“chia lửa” với ông anh Trung Quốc của mình trong bàn cờ khu vực. “Chí
Phèo Đông Á” tiếp tục gây hấn và mạnh mẽ hô hào chống đối Mỹ và anh hàng
xóm anh em Nam Hàn mấy ngày gần đây.
Tất cả những động thái đó cho thấy Trung Quốc đang tìm cách chia sẻ
sức lực và sự tập trung của Mỹ và đồng minh. Việc này có mục đích gì nếu
không ngoài phân tán sức mạnh liên kết của liên minh “kháng Trung” đang
manh nha và sự tập trung của Mỹ vào môt khu vực (biển Đông) hầu chuẩn
bị “dứt điểm” phe thân Mỹ trong Việt Nam trong giai đoạn thứ hai này ?
Trong một động thái khác, giới quan sát chú ý đến việc Trung Quốc mời
Malaysia qua thăm. Phải chăng Trung Quốc đang chuẩn bị một kế hoạch
trung hạn sắp đến là tranh thủ vị trí chủ tịch Asean năm 2015 của nước
này. Có nhiều khả năng là nếu Malaysia đồng ý, Trung Quốc sẽ tiếp tục
các nước cờ chia rẽ Asean, và có một nguồn tin khác cho biết, Trung quốc
còn thuyết phục Malaysia hỗ trợ cho quá trình rút chạy khỏi Thái Lan
của chính phủ Thái Lan Yingluck Shiwanatra. Nguồn tin này còn cho biết,
nhóm anh em nhà Shiwanatra dự định nếu chạy được sẽ thành lập chính phủ
lưu vong ? Nếu quả vậy thì một công hai việc. Vừa thuyết phục Malaysia
vừa thu xếp bàn cờ Thái Lan để còn “thế” mà tranh giành tiếp dự án kênh
đào Kra với Mỹ
Song song với các hoạt động của Mỹ và Trung Quốc, các phản ứng của
chính phủ Việt Nam trong suốt giai đoạn một được đánh giá khá phức tạp.
Một luồng dư luận của các nhà quan sát chính trị có xu hướng thân Mỹ
(giới chuyên gia trí thức ngoài nước và những người vận động dân chủ
trong nước) thì đánh giá là “chậm chạp một cách chán nản tuy có khá hơn
quá khứ một chút”. Một luồng quan sát chính trị của trí thức trong nước
thì đánh giá là “tàm tạm nhưng cần bổ sung thêm”. Và một luồng đánh giá
thứ ba của các quan chức đương nhiệm lẫn cựu thần từ to đến nhỏ thuộc
nội bộ đảng thì cho thấy thế là ổn. Không kể một luồng nhỏ bé vẫn còn xu
hướng nên giữ “16 vàng 4 tốt” mà một nhà trí thức trong nước vừa cảnh
báo “Ông Z hãy im đi”.
Nhưng bất kể như thế nào, có lẽ các luồng dư luận cùng gặp nhau ở một
quan điểm là các bước đi của tay cờ Ba Dũng có vẻ sốt sắng ồn ào hơn
các lãnh đạo tiền nhiệm và cả các lãnh đạo ngang hàng hiện nay. Các bước
đi này nếu chưa có hiệu quả nhiều trong thực tế thì cũng có giá trị vực
dậy “sĩ khí” qua những lời phát ngôn và các bước đi ngoại giao tương
đối nhanh nhẹn với “các đồng minh tiềm năng” là Mỹ, Philipin, Nhật. Trái
ngược với hình ảnh năng động của tay cầm cờ Ba Dũng dù sao cũng gây ra
một chút hào hứng, thì hình ành của tay cờ Nguyễn Phú Trọng gây ra một
sự nghi ngờ khó hiểu. Cũng đã gần một tháng nay chưa nghe có một phát
ngôn chính thức hay hành lang nào của tay cờ chủ chốt này, thậm chí
trong báo cáo tổng kết hội nghị Trung Ương 9 vừa rồi mà tay cờ này đọc
cũng không hề có hai từ “Trung Quốc”. Điều này làm tôi nhớ đến thời
phong kiến, người ta rất sợ “phạm húy”. Hay là với tay cờ Nguyễn Phú
Trọng, hai tiếng “Trung Quốc” lúc này là “phạm húy” nên không thể nói
ra.
Đứng giữa hai thái cực của hai tay cờ có ảnh hưởng nhất trong bàn cờ
Việt Nam hiện nay, hai vị trí còn lại là Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh
Hùng và Chủ Tịch Nước Trương Tấn Sang có vẻ trung dung chi đạo, mỗi tay
nói ra một ít mà dường như tôi nhận thấy những phát biểu này mang tính
“không mất lòng ai”, từ lòng dân, lòng Mỹ cho đến…lòng Trung Quốc, dù
ông Trương Tấn Sang có vẻ hơn một chút trong khẩu khí khi đi gặp bà con
cử tri giữa tháng 5 vừa qua
Dự kiến các bước đi giai đoạn hai
Về phía Mỹ, nếu tính từ mốc ngày hôm nay là giai đoạn hai, đang có
vài bước đi ngoại giao mở ra cho Việt Nam, cùng với việc bật đèn xanh
cho Tư Lệnh Hạm Đội Thái Bình Dương “hé ra” cho phía Việt Nam thấy khả
năng “đối tác chiến lược”. Qua sự “sốt sắng có động cơ” đó, tôi tin rằng
Mỹ sẽ tiếp tục ủng hộ Ba Dũng mạnh hơn để kế hoạch “thoát Trung” của
Việt Nam thành công. Bất kể chiến thuật thế nào, tôi tin rằng Mỹ luôn
hiểu cái khó của tay cờ Ba Dũng để giữ tinh thần hợp tác và ủng hộ ông
ta. Tay cờ này đang xoay trở trong một hệ thống lâu nay bị Trung Quốc
chi phối sâu sắc. Việc thực hiện các bước đi cải cách không phải dễ dàng
như mong muốn chủ quan. Việc thành công hay thất bại trong vấn đề Việt
Nam và trong chính sách “xoay trục” của Mỹ chính là ở lúc này.
Trung
quốc vừa gây biến động vùa tạo cơ hội cho Mỹ –cũng như cho Việt Nam. Mỹ
không thắt chặt được quan hệ với Việt Nam lúc này thì khó có cơ hội
khác. Còn Việt Nam không dứt khoát thoát Trung lúc này thì chỉ còn đợi
khi Trung quốc rối loạn và tan vỡ như Liên Xô trước đây –mà lúc đó thì
không biết chính Việt Nam sẽ ở trong tình trạng nào. Cả Mỹ và Việt Nam
đều đang có chung một nguy cơ và một cơ hội. Nhưng quả banh nằm trong
chân Việt Nam, đá hay không là ở ban lãnh đạo Hà Nội. Câu hỏi then chốt
là Ba Dũng có thoát được “gọng kìm” của phe thân Tầu trong ban lãnh đạo
của chính đảng CS của ông ta, và “gọng kìm” giàn khoan của Trung quốc
hay không. Nhất là trước kế hoạch bỏ phiếu tín nhiệm vào Hội Nghị TW 10
cuối năm nay của phe NP Trọng. Và ông phải dựa vào đâu để thoát khi mà
quan hệ với Mỹ chưa có bược đột phá rõ rệt?
Về phía Trung Quốc, bên cạnh các hành động gây hấn ngoài biển đông và
“khẩu chiến” trên mặt trận ngoại giao, đã lẳng lặng chuyển quân bộ vào
khu vực biên giới trên đất liền khiến Việt Nam cũng phải chuyển quân.
Việt Nam chuyển quân để phòng thủ thì có thể hiểu được, nhưng Trung Quốc
chuyển quân để làm gì? Tôi nghĩ đến các kịch bản có thể xảy ra trong
giai đoạn hai này
Dĩ nhiên Trung Quốc không bao giờ điên rồ mà xua quân tràn qua biên
giới Việt Nam như năm 1979. Tình hình quốc tế bây giờ đã khác, nếu lặp
lại lịch sử thì dù cho mục đích xâm lược Việt Nam bằng quân sự chính quy
có đạt được, thì cũng gây ra sự đề phòng và bất mãn thật sự của 200
quốc gia còn lại trên thế giới. Do đó tôi thiên về khả năng Trung Quốc
dùng quân đội gây áp lực để 4 tay cầm cờ “Sang Trọng Hùng Dũng” của Việt
Nam “chùn tay và cản phá nhau” trên con đường thóat Trung ngả về phía
Mỹ.
Va chạm vũ trang cao nhất nếu có cũng chỉ đến mức va chạm cục bộ,
phá hoại một vài mục tiêu chiến thuật để “khủng bố tinh thần Việt Nam”
rồi lui binh. Khả năng thứ hai là dự phòng trong trường hợp “nội bộ Việt
Nam có biến động” thì đội quân sát vùng biên này có thể hỗ trợ một phần
trong việc đảm bảo chiến thắng toàn cục cho phe thân Trung Quốc tại Hà
Nội. Khả năng nào đi nữa thì mục tiêu trung hạn sau cùng vẫn là cản phá
kế hoạch “thoát Trung” mà Ba Dũng đang đi. Bằng cách này hay cách khác
đội quân Trung Quốc này, với thế “ỷ giốc” mà nó đang đóng quân sẽ “can
thiệp trong một mức độ nhất định” khi cuộc bỏ phiếu lấy tín nhiệm Ủy
Viên Bộ Chính Trị của phía Việt Nam ở HNTW 10 vào cuối năm nay không đạt
được mục đích là loại bỏ tay cờ Ba Dũng ra khỏi cuộc chơi.
Mỹ thật sự không muốn lùi bước khi thấy một tiền đồn quan trọng bảo
vệ kênh đào Kra cho chiến lược “xoay trục” có thể mất. Còn Trung Quốc
thì đã bày binh bố trận dàn hàng ngang từ đất liền đến trên biển nhằm
cản phá Việt Nam, cho thấy họ cũng kiên quyết không lùi. Hay là người
dân Việt Nam có thể nghĩ đến việc “fasten seatbelt” trong giai đoạn hai
và ba của nước cờ giàn khoan này nếu cuộc đấu đá nội bộ giữa 2 phe trong
đảng cầm quyền Việt Nam đi đến bước xấu nhất ?
Nghe đâu hôm nay cửa khẩu Tân Thanh ở Lạng Sơn đã đóng cửa vì quân
đội Việt-Trung xúc phạm ném đá thóa mạ nhau mà phía chủ động gây hấn là
Trung Quốc. Suốt từ lúc hai bên căng thẳng đến nay Trung Quốc chưa đóng
cửa khẩu để gây áp lực kinh tế cho phía Việt Nam vì họ dùng công hàm
1958 như một bằng chứng khi tuyên bố Hoàng Sa là của họ. Họ chưa muốn
quốc tế chỉ trích nhiều hơn nữa khi biết mình còn cầm cái bằng chứng
pháp lý “nặng ký” trong tay về vấn đề Hoàng Sa. Trong giai đoạn hai này
một sự khiêu khích quân đội Việt Nam nổ súng trước sẽ có lợi cho hình
ảnh của Trung Quốc hơn trước dư luận quốc tế rồi sau đó mới đóng cửa
khẩu là logic. Nhưng Việt Nam cần dự trù một khả năng nữa là dù bộ đội
Việt Nam tránh va chạm nhưng vụ lúa hè thu sắp đến, nguồn sống chính của
hàng triệu hộ nông dân cả nước, lúa gạo, sẽ bán đi đâu nếu một tháng
sau thu hoạch xong thì TQ đóng cửa biên giới. Coi chừng TQ dồn sức lại
để đánh một đòn nặng về thu mua lúa gạo vào thời điểm đó thì nông dân
Việt Nam ăn cơm không thịt cá bên cạnh một đống lúa mốc meo trong kho.
Trái ngược với các bước đi mạnh mẽ của Mỹ và Trung Quốc như trên,
ngược lại phía Việt Nam đã gây không ít sự thất vọng ức chế cho dân
chúng và sự hoài nghi của giới quan sát quốc tế về việc thực thi một
kịch bản “thoát Trung” đến tận cùng. Tới nay dường như vẫn chỉ là một vở
diễn nữa mùa của tay cờ Ba Dũng. Sự lần chần chậm trễ loanh quanh biện
giải xung quanh kế hoạch kiện Trung Quốc ra Tòa Quốc Tế đã làm quần
chúng thất vọng, cùng với động thái ngăn cản các cuộc “mít tinh-biểu
tình-tuần hành” đã làm nguội đi lòng yêu nước và gia tăng…lòng chán nản.
Sau những phát ngôn táo bạo bên ngoài thì tay cờ Ba Dũng lại có vẻ lùi
về và xa cách với nhân dân, trong khi ai cũng hiểu là chỉ có quần chúng
nhân dân mới là lực lượng duy nhất có thể bảo vệ ông ta lúc này trước
những đòn dưới thắt lưng của các tay cờ thân Trung Quốc. Trước các hành
động đầy thiện chí của Mỹ và sự gia tăng áp lực của Trung Quốc thì các
động thái gần đây của tay cờ Ba Dũng làm quần chúng thấy ông “có vẻ chưa
xứng tầm trong các ván cờ mang tính quyết định bước ngoặt tình thế”.
Làm sao để thoát Trung?
Để thoát Trung không thể chỉ bằng lời nói hay kêu gọi suông. Phải có
hành động để tạo sự cảm thông và ủng hộ từ mọi phía, để thoát khỏi “gọng
kìm” của chính những tay cờ thân TQ trước hết, rồi để có thế, có lực mà
thoát khỏi vòng “kim cô” 16 vàng 4 tốt, đã thòng vào cổ từ sau Thành
Đô. Hành động gì đây? Cũng không khó biết lắm, chỉ cần nhận rõ ai là bạn
ai là thù trong cuộc cờ gay go hiện nay.
Thù thì dễ thấy rồi, nhưng bạn thì có khi ở rất gần dễ thấy lại chưa
muốn thấy hay không dám thấy. Bạn xa có khi dễ thấy và dễ muốn có hơn
bạn gần xát bên mình. Nói kiểu bình dân miền Tây thì bởi xưa nay không
muốn bạn gần vì ở gần dễ thấy dễ biết tẩy nhau, tốt xấu gì cũng thấy cả.
Tới nay đối xử với người gần không tốt vì người gần thật lòng thấy xấu
chê xấu, kể cả với dồng chí, anh em, hễ không khen ta, nghe theo ta đều
là “phản động” cả, đều là “thế lực thù địch” cả, đều âm mưu “diễn biến
hòa bình”. Đàn áp, bắt bớ, giam cầm cả những người muốn cùng mình thoát
Trung. Nay muốn thoát Trung mà vẫn chưa buông tha họ, chưa chấp nhận họ,
dù nghe có nghịch nhĩ, thì lấy sức nào, thế nào để thoát Trung. Đấy là
việc đầu tiên cần làm.
Rồi quần chúng, thanh niên, tri thức muốn biểu tình để chống bành
trướng, tỏ lòng yêu nước, lại ngăn cản, đàn áp, thậm chí đánh đập. Luật
biểu tình mấy kỳ họp QH đều chưa đưa ra được tới kỳ này nhiều giới vận
động mạnh mà tới nay vẫn chưa dứt khoát và nhanh chóng đưa vào chương
trình làm luật. Thiệt là không hiểu nổi, tự chặt tay chân mình để kẻ thù
bành trướng thong dong tự do đi lại trên vùng biển của mình mà nhân dân
mình không thể phản đối được. Đó là việc thứ hai phải nhanh chóng chấm
dứt để có thể thoát Trung.
Một nửa đất nước còn chịu dư âm của chế độ cộng hòa đã một thời quyết
chết theo với biển đảo. Một nửa dân số đó sẽ không thể hết lòng ủng hộ
thoát Trung nếu bao oan trái chưa được giải tỏa, nếu những chiến sĩ chết
cho tổ quốc chưa được vinh danh như Ngụy Văn Thà…, và nghĩa trang của
họ chưa được chính thức công nhận. Nếu nền kinh tế thị trường tự do của
miền Nam trước đây nay đã trở thành mẫu mực cho phát triển kinh tế cả
nước thì tại sao không dám công nhận các lý tưởng tự do dân chủ của nền
cộng hòa là lý tường chung của mọi người Việt yêu nước chống bành trướng
Bắc kinh? Không có dân chủ tự do thì sao có lòng dân, thì lấy thế và
lực nào để thoát Trung thật sự được.
Đó là những việc phải làm ngay nếu tay cờ Ba Dũng và nhóm của ông
muốn thật sự thoát Trung. Chỉ có thể thoát Trung nếu các ông công khai
công bố và thực hiện một lộ trình dân chủ và hòa giải dân tộc chân chính
và thực tiễn. Trái banh đã ở trong chân của các ông. Thời gian của các
ông không còn nhiều nữa, ván cờ đã đến lúc “được ăn cả ngã về không”
rồi.
Nguyễn An Dân
(Tháng 5, 27, 2014)
********
Nguồn:https://www.facebook.com/john.nguyencao
VĂN QUANG * QUAN THAM TRUNG QUỐC
Văn Quang - Viết từ Sài Gòn, ngày 26.5.2014
Quan tham Trung Quốc nhiều “bồ” nhất thế giới
Thời
gian đã có quá nhiều tin tức đủ mọi loại tràn đầy trên các trang báo
giấy cũng như báo mạng từ VN đến nước ngoài về vụ Trung Quốc (TQ) ngang
nhiên xâm phạm chủ quyền biển đảo của VN bị cả thế giới lên án. Kỳ sau
tôi sẽ tiếp tục tường thuật về tình hình Biển Đông và thời sự VN.
Kỳ
này, để biết thêm một mặt khác của TQ và cũng để “hạ nhiệt” vì những
tin tức “quá nóng”, mời bạn đọc một loại tin tức khác về những “bê bối”
ngoài sức tưởng tượng của những quan lớn TQ.
Một
số tài liệu về nạn tham nhũng ở TQ làm rõ bộ mặt thật của các quan tham
đó khiến tôi sững sờ, không thể ngờ các quan lớn của TQ lại giàu
“khủng” và nhiều “nhân tình” đến thế, có thể nói là nhất thế giới. Hầu
như “chuyện cung đình” của TQ từ ngàn xưa tới nay vẫn thế, mỗi thời đại
có một kiểu chơi bời khác mà thôi.
Hình ảnh nữ hoàng Võ Tắc Thiên của TQ nổi tiếng nhiều người tình trong một cuốn phim dã sử TQ.
Trong
sử sách Trung Hoa đã ghi lại khá nhiều thiên “tình sử Trung Hoa” hấp
dẫn. Thời xưa, Tần Thủy Hoàng có tới 3.000 cung nữ hầu hạ; nữ hoàng Võ
Tắc Thiên có hàng loạt người tình trong hậu cung, đến khi bà 70 tuổi còn
uống thuốc hồi xuân “thốc kê hoàn” để hưởng thụ…
Đạo quân nghĩa dũng chống quan tham
Thời
nay, cũng có nhiều quan lớn TQ giàu có không thể ngờ và ăn chơi như ông
hoàng chẳng kém vua chúa thời xưa. TQ cũng có chủ trương “bài trừ tham
nhũng”, nhưng họ lại phát hiện tham nhũng bằng một giải pháp rất… “độc”.
Họ không cần sử dụng đến cả một hệ thống mật vụ, công an theo dõi, điều
tra vừa mất nhiều thời gian, vừa tốn kém cả sức người đến sức của.
Tuyệt
chiêu được dùng để hạ gục đám quan tham chính là sử dụng nguồn tin từ
các cô bồ đã trở mặt (nói đúng hơn là bị các quan tham trở mặt, bỏ rơi)
mà báo chí TQ đã tôn vinh là ““đạo quân nghĩa dũng chống quan tham”.
Họ
chỉ cần cho vài cô “cán” đi tìm kiếm những cô “bồ” cũ của các quan cần
điều tra, bằng cách khích tướng, tâm sự, hoặc đe dọa, dụ dỗ, giúp đỡ nếu
cô nào có tội… Nhờ vậy họ có thể khai thác được mọi ngóc ngách trong
đời các quan. Những
cô bồ này sẵn sàng gửi thư, đơn từ tố giác, thậm chí tung các hình ảnh,
clip “nóng, nhạy cảm” của những người tình một thời của mình lên các
trang mạng để trả thù, làm nhục và cung cấp chứng cứ để cơ quan chức
năng trị tội
người tình cũ.
Chỉ
với vài mánh lới đó, cuộc đời ái tình sự nghiệp của các quan tham bị
lôi ra ánh sáng với đầy đủ chi tiết cùng những bằng chứng và nhân chứng
không thể chối cãi.
Vài con số chóng mặt
Đúng
là Bắc Kinh nổi tiếng là nhiều mưu mô “độc”, chưa thấy nước nào có
“sáng kiến” này. Nhờ kế hoạch đó, chính phủ Bắc Kinh đã thu được những
kết quả đáng kinh ngạc. Bạn hãy nhìn sơ qua kết quả này:
-
Cảnh sát phải huy động 16 máy đếm tiền mới kiểm kê hết được số tiền mặt
khi khám nhà của Wei Pengyuan-một quan chức có quyền phê duyệt các dự
án năng lượng của nước này.
-
Theo một báo cáo của chính quyền công bố, có đến 90% quan chức
cấp cao ngã ngựa vì tham nhũng có nhân tình, thậm chí là có
nhiều cô. Điển hình là cựu Bộ trưởng Đường sắt Lưu Chí Quân,
người bị phạt tù vì tham nhũng hồi đầu năm 2013, có tới 18 bồ
nhí.
Hai người tình trẻ của tướng Cốc Tuấn Sơn
-
Còn “khủng” hơn thế, theo báo chí TQ, khi điều tra đã phát hiện Trung
tướng Cốc Tuấn Sơn có tới 79 căn nhà, bao nuôi 23 người tình, trong đó
có 2 nữ minh tinh, 1 cô MC, 1 viên chức cao cấp...
-
Cựu Phó chủ tịch Ủy ban Cải cách và Phát triển của Chính phủ Trung Quốc
Lưu Thiết Nam với tài khoản khổng lồ và 330 đĩa phim sex, 12 hộ chiếu
khác nhau để chuẩn bị “chuồn”…
- Kỷ lục về số người tình hiện đang thuộc về Từ Kỳ Diệu, Giám đốc Sở Xây dựng tỉnh Giang Tô: bao nuôi tới 146 cô bồ.
Những
vụ này có quá nhiều tình tiết ly kỳ, tôi chỉ có thể tường thuật tương
đối đầy đủ. Cũng cần nói rõ đây mới chỉ là “hồ sơ” do các bồ nhí “phản
thùng” khai lại thôi. Tất nhiên còn rất nhiều cô không chịu khai vì sợ
bị trả thù, vì được chi tiền ém miệng, vì chút tình cảm hoặc chút hy
vọng nào đó còn sót lại… và những ông già không đủ sức có bồ, có ông quá
sợ “sư tử Hà Đông”, chỉ biết “ăn” mà không biết “chơi” nên dù tham gấp
10 lần vẫn không bị phanh phui hoặc đã chuồn êm ra nước ngoài hưởng
“lộc”.
90% quan chức bị kỷ luật đều có người tình
Các
người tình của các tham quan đều trẻ đẹp và có loại chuyên nghiệp và có
loại “con nhà lành”. Tất nhiên các ả này đều khéo ăn khéo nói nên mới
moi được những khoản tiền lớn, quà tặng có giá trị nên họ đều có tài sản
kếch xù trong thời gian “cặp bồ”, nhưng chẳng thiều gì “em” bị quan
“nghỉ chơi”, bỏ rơi không thương tiếc trở nên hận tình, hận đời… đen
bạc! Có cô phung phí thời hoàng kim, bị các “bà lớn” triệt hạ nên đói
rách tơi tả.
Lưu Xuân Cẩm, Phó Chủ nhiệm Phòng nghiên cứu Ủy ban Kiểm tra kỷ luật trung ương (KTKLTW) cho biết:
“Trong
số các cán bộ cấp Cục, Sở trở lên bị kỷ luật, có 90% có người tình,
thậm chí có hiện tượng nhiều quan tham có chung một người tình”.
Hiện
tượng cặp bồ ở Trung Quốc phổ biến đến mức một nhà báo khẳng định: nếu
quan chức chính quyền hay đại gia kinh doanh nào không có tình nhân thì
họ không được người khác tôn trọng. Nói như kiểu VN là “cả quỷnh”, không
được xếp vào hàng ngũ “quý sờ tộc”.
Cặp
bồ đã trở thành hiện tượng “văn hóa người tình”, đã được phản ánh trong
phim “Tay chơi”: có những cuộc tiếp tân thì đưa vợ tới, nhưng có những
cuộc du hí thì dẫn bồ đi theo, “nếu không đi cùng một người phụ nữ thì
anh không phải là đàn ông chân chính”.
Ở
Trung Quốc có hẳn một tầng lớp phụ nữ làm nghề cho thuê làm bạn gái,
làm vợ. Những cô gái này lúc đầu chỉ có mối quan hệ thuê mướn với các
quan chức, đại gia, sau phát triển thành quan hệ thân xác kiểu “bóc bánh
trả tiền”. Phần lớn họ coi đó là quan hệ giao dịch thương mại đơn
thuần, nhưng cũng có những người lại xem nặng tình cảm, cố níu kéo,
giành giật…
Nhà
nghiên cứu trẻ Trịnh Cam Cam đã dành thời gian 2 năm rưỡi vào vai ca-ve
trong vũ trường, hộp đêm để tìm hiểu về thế giới của các gái bao rồi
viết nên cuốn “Khu đèn đỏ” rất ăn khách. Trịnh Cam Cam viết: trong thế
giới của các ca-ve, cô nào được các quan chức hay đại gia bao được coi
là “cao cấp”, còn ước mơ của họ là trở thành tình nhân rồi được kết hôn
với người khách đó. (Chuyện này cũng giống như ở VN thôi).
Trong
các vụ quan tham ngã ngựa người ta đều thấy bóng dáng các ả tình nhân.
Trong vụ mới đây, Kim Đạo Minh, nguyên Phó Bí thư tỉnh ủy, đương kim Phó
Chủ tịch HĐND tỉnh Sơn Tây bị bãi chức để điều tra vì “vi phạm kỷ cương
pháp luật nghiêm trọng” và bao nuôi nhiều người tình.
Khi
nguyên Ủy viên Bộ Chính trị Bạc Hy Lai bị xét xử, trong cáo trạng,
ngoài các tội về tham nhũng, còn thêm “có quan hệ tình dục bất chính với
nhiều phụ nữ”, trong đó có cả một cặp chị em ruột!
Diệp Nghênh Xuân (trái) và Thẩm Băng, hai người tình của Chu Vĩnh Khang
Trong
vụ nguyên Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Chu Vĩnh Khang đang bị điều
tra, báo chí cũng đã “chỉ mặt, điểm tên” hai cô bồ trẻ đẹp của ông ta đã
bị Ủy ban KTKLTW bắt, đều là phát thanh viên truyền hình là Diệp Nghênh
Xuân và Thẩm Băng.
100% quan chức Quảng Đông đều có “bồ nhí”
Năm
1999 tỉnh Quảng Đông có 102 quan chức ở Quảng Châu, Thâm Quyến, Chu Hải
bị xử vì lý do tham nhũng, cả 102 người đều bao nuôi bồ nhí…
Ngày
13/3/2014, Thượng tướng Tôn Tư Kính, nguyên Phó Chính ủy Tổng cục Hậu
cần quân đội Trung Quốc cho báo chí biết: khi vụ án tham nhũng của Trung
tướng Cốc Tuấn Sơn, Phó chủ nhiệm TCHC khi sắp được công khai. Lập tức,
hình ảnh về các cô bồ của viên tướng tham nhũng này đã xuất hiện trên
các trang báo mạng. Theo báo chí, qua nhiều cuộc điều tra đã phát hiện,
tướng Cốc có tới 79 căn nhà, bao nuôi 23 người tình, trong đó có cô ca
sĩ “người tình công cộng” tên Thang Sán, 2 nữ minh tinh, 1 cô MC truyền
hình, 1 viên chức cao cấp… như đã nói ở trên.
Bao
nuôi nhiều người tình là “mốt”, thể hiện “bản lĩnh nam nhi”, nhưng có
một thực tế là rất nhiều quan tham đã ngã ngựa vì sự trở mặt, phản phé
của các người tình.
Quy trình bồ nhí chống tham nhũng
Tờ
“Vượng Báo” đã tổng kết, hiện tượng “bồ nhí chống quan tham” thành “quy
trình” như sau: đầu tiên tung lên mạng những bức ảnh “bất nhã” giữa
quan tham với mình hoặc với người khác; tiếp đó tập hợp các clip nóng in
thành đĩa, tập hợp những “kỷ niệm” giữa đôi bên thành “nhật ký tình ái”
phát tán lên mạng hoặc gửi đến cơ quan chức năng làm chứng cứ có sức
thuyết phục để hạ gục quan tham.
Điển
hình là Cục phó Hồ sơ nhà nước Phạm Nhuế bị hạ gục bởi cô MC truyền
hình Kỷ Anh Nam tung ảnh, video “nóng” lên mạng; Cục trưởng Biên dịch
trung ương Y Tuấn Khanh bị ngã ngựa sau khi cô người tình Thường Diễm
cho công bố trên mạng tác phẩm “Một sớm chợt tỉnh mộng, nửa đời trôi nổi
trong mưa”, truyện khá dài viết về chuyện tình yêu, thù hận giữa đôi
bên…
Riêng
năm 2012 đã có hơn 10 vụ quan chức bị ngã ngựa do bị phơi bày những
hình ảnh “nóng” trên mạng. Lý do các cô bồ tố quan tham cũng rất đa
dạng: có cô do bị bỏ rơi, ruồng rẫy do đối phương “có mới nới cũ”; có cô
tố giác do ghen tuông với vợ người tình, do người tình “ăn ở không công
bằng” giữa các người tình…
Tuy
nhiên, việc các cô bồ đứng ra tố giác người tình là quan tham nhiều khi
cũng tự chuốc lấy nguy hiểm. Có cô sau khi tố giác đã bị người tình trả
thù; có cô bất chấp danh dự bản thân tung hình ảnh để triệt hạ người
tình, nhưng đối phương chẳng hề hấn gì, còn mình thì mất cả chì lẫn
chài…
Lại có anh “chết” vì vợ ghen
Nhân
dân Nhật báo mới đây đã đăng tải vụ án Cục trưởng Y tế quận Thục Sơn
(Hợp Phì) bị vợ là Đào Bình tố cáo nhận hối lộ, bao nuôi 2 cô bồ. Theo
đơn tố cáo của Đào Bình gửi đến báo, chồng bà 42 tuổi, sau khi nhận chức
Cục trưởng cuối năm 2011 thường không về nhà ngủ.
Bà
ta nghi ngờ, nhờ người tìm hiểu thì biết ông Hách (tên chồng bà) có
quan hệ với một phụ nữ họ Lý, hai người thuê phòng sống chung. Khi bị bà
cảnh báo, dọa tố giác, Hách đã viết đơn cam đoan và chia tay với Lý.
Sau đó, Hách quay về nhà, nhưng từ cuối năm 2013, Đào Bình lại phát hiện
qua tin nhắn điện thoại chồng mình có quan hệ với cô gái 27 tuổi họ
Tôn.
Đào
Bình rất tức giận, đã cùng mấy người thân tìm đến nơi hai người thuê
phòng sống chung, bắt quả tang, chụp được ảnh nhạy cảm. Tại căn phòng
hai người sống chung, Đào Bình đã phát hiện thấy nhiều rượu, thuốc lá
đắt tiền và các tác phẩm mỹ thuật quý giá, chỉ có thể có do nhận hối lộ.
Bà đã thu giữ những món này và sẽ giao nộp để cơ quan chức năng xử tội
chồng mình...
Khám nhà quan tham Trung Quốc, đếm tiền hỏng cả máy
Cảnh
sát Trung Quốc phải huy động 16 máy đếm tiền mới kiểm hết được số tiền
mặt khi khám nhà của Wei Pengyuan-một quan chức có quyền phê duyệt các
dự án năng lượng của nước này.
Theo
tạp chí tài chính Caixin, ông Wei là Phó Trưởng phòng Than tại Cục Quản
lý Năng lượng quốc gia của Trung Quốc. Wei bị cơ quan chức năng Trung
Quốc điều tra vì những sai phạm trong việc phê duyệt các dự án xây dựng
nhà máy điện.
Theo báo Caixin, đây là vụ tham nhũng lớn và mới nhất của Trung Quốc.
Cảnh sát phải huy động đến 16 máy đếm tiền mới đếm hết số tiền trong nhà ông Wei Pengyuan,
cựu Phó chủ tịch Ủy ban Cải cách và Phát triển của Chính phủ TQ.
Được
biết, khi khám nhà ông Wei, cảnh sát Trung Quốc đã phải huy động 16 máy
đếm tiền để kiểm đếm số tiền mặt lên tới hơn 100 triệu nhân dân tệ tìm
thấy ở đây. Trong quá trình kiểm đếm, có 4 chiếc máy đã bị hỏng vì hoạt
động quá công suất!
Tờ
giấy bạc mệnh giá lớn nhất của Trung Quốc là 100 nhân dân tệ. Điều đó
có nghĩa là “núi” tiền của Wei gồm ít nhất 1 triệu tờ, mà khi xếp chồng
lên nhau có thể tạo thành một cột cao 100m.
Tài sản kếch xù và 330 đĩa sex
Cựu
Phó chủ tịch Ủy ban Cải cách và Phát triển của Chính phủ Trung Quốc Lưu
Thiết Nam vừa bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Trung Quốc vì tham nhũng,
lạm quyền.
Tân
Hoa xã cho hay. Ông Lưu còn tìm cách trục lợi từ các doanh nghiệp thân
quen của mình bằng việc phá vỡ nhiều quy định, nhận tiền mặt và quà đút
lót.
Lưu Thiết Nam, Cựu Phó chủ tịch Ủy ban Cải cách và Phát triển của Chính phủ TQ
có tài sản kếch xù và 330 đĩa phim sex.
Những
sai trái của ông Lưu bị phanh phui trên mạng vào năm 2012 khi bị Phó
Tổng biên tập Tạp chí Kinh doanh Tài Kinh La Xương Bình tố cáo dựa vào
lời của những bồ nhí của ông Lưu.
Ngay
chiều hôm đó, cơ quan chức năng đã khám xét 3 ngôi nhà của Lưu Thiết
Nam ở Bắc Kinh, 1 nhà ở Thanh Đảo, 1 nhà ở Thái Nguyên và ban đầu tìm
thấy 25 thẻ tài khoản của 7 ngân hàng, một số dùng tên giả, tên người
khác.
Trong
các tài khoản có hơn 71,5 triệu nhân dân tệ, 2,65 triệu USD, hơn 870
ngàn euro, 2,2 triệu dollar Úc, số cổ phiếu trị giá 133 triệu nhân dân
tệ. Trong két bảo hiểm có 9,375 kg vàng, 1,420 kg Bạch kim, 25 món trang
sức bằng kim cương, ngọc, đá quý...
Điều
khiến các nhân viên công tác sửng sốt là họ đã tìm thấy 25 cuốn hộ
chiếu nước ngoài, riêng Lưu Thiết Nam có 12 cuốn mang các tên khác nhau
như hộ chiếu Úc mang tên Lưu Á Bình, hộ chiếu Canada mang tên Uông Giai.
Tại
nhà của Lưu ở Thanh Đảo, cơ quan chức năng đã tìm thấy hơn 330 đĩa phim
sex của Nhật và châu Âu, hơn 1.200 cuốn tạp chí khiêu dâm, để chật cứng
4 giá sách.
Theo điều tra, Lưu Thiết Nam bao nuôi 8 người tình ở Bắc Kinh, Hàng Châu, Thái Nguyên, Thanh Đảo, Tô Châu...
Vì sao MC xinh đẹp phải tung ảnh người tình lên mạng
Người
dẫn chương trình (MC) truyền hình Kỷ Anh Nam bôi tro trét trấu vào mặt
người tình cũ 26 tuổi Phạm Duyệt, một phó giám đốc tại Tổng cục
Lưu trữ quốc gia, khi công khai đủ thứ chuyện với hàng trăm triệu
cư dân mạng Trung Quốc. Hè vừa qua, Kỷ Anh Nam tải lên mạng nhiều
đoạn video và hình ảnh riêng tư khi hai người cùng đi mua sắm,
ngâm mình trong một bể bơi và vui chơi tại một bữa tiệc cũng là
nơi Phạm Duyệt cầu hôn.
Hình cặp đôi MC Kỷ Anh Nam và Phạm Duyệt khi còn mặn nồng được tung lên mạng.
Nguyên
nhân khiến người dẫn chương trình (MC) truyền hình Kỷ Anh Nam “phản
thùng” là vì phát hiện Phạm Duyệt đã có vợ con. Trả lời phỏng vấn tờ
Thời báo Hoàn Cầu, Kỷ Anh Nam kể lể: “Anh ta luôn hứa hẹn sẽ
cưới tôi. Tôi luôn nghĩ anh ta sẽ là chồng mình”. Tuy nhiên, điều
khiến dư luận bị sốc không phải chuyện ngoại tình mà là số
tiền khổng lồ liên quan. Theo lời nhân tình, Phạm Duyệt từng tặng
cô số tiền tiêu vặt hơn 1.000 USD/ngày, một chiếc xe hạng sang
và còn hứa chu cấp một căn nhà lớn.
Lúc
đầu, cô nhân tình trình bày sự việc với nhà chức trách, tin rằng
Phạm Duyệt tham nhũng. Nhưng không nhận được phản hồi, cô liền tiết
lộ mọi chuyện lên mạng. Vì vậy nhà chức trách phải điều tra. Theo
Tân Hoa Xã, Phạm Duyệt đã bị cách chức bị điều tra vì cáo buộc
tham nhũng.
Còn
khá nhiều những quan chức ngã ngựa như thế này nhưng trang báo có hạn,
tôi không thể viết hết. Xin rút ra một kết luận ngắn gọn:
Những
tiết lộ này không thôi cũng không đủ để kiềm chế nạn tham nhũng mang
tính hệ thống ở Trung Quốc. Như một bài xã luận trên tờ Nhân dân Nhật
báo có viết: “Một số người nói rằng các cơ quan chống tham nhũng ở mọi
cấp làm việc thậm chí còn không bằng các cô bồ nhí”.
Quan tham TQ đi đâu?
Ở một số nước phương Tây hiện đã hình thành những “phố quan tham”, “phố vợ lẽ”, “phố con cái quan tham” Trung Quốc. Tại
phiên tòa xét xử cựu Ủy viên BCT, Bí thư thành ủy Trùng Khánh Bạc Hy
Lai, tòa biệt thự xa hoa ở ven biển Cannes nước Pháp đã trở thành chứng
cứ trọng điểm để tòa kết tội Bạc Hy Lai nhận hối lộ. Trên thực tế, châu
Âu đã trở thành “thiên đường” để rất nhiều quan tham Trung Quốc mua bất
động sản. Thậm chí không quan tâm tới giá cả.
Một khu biệt thự của quan tham TQ tại Mỹ.
Một
thủ đoạn quen dùng của họ là “điệu hổ ly sơn”: nhờ người thân, bạn bè ở
nước ngoài mua sẵn nhà, đưa vợ con sang định cư trước, khi thấy hành vi
tham nhũng của mình có nguy cơ bại lộ là tìm cách tháo chạy khỏi Trung
Quốc ngay.
Mỗi quan tham chạy trốn mang theo 100 triệu tệ
Theo
thống kê của báo chí Trung Quốc hồi cuối năm 2010, trong gần 30 năm qua
có khoảng 4.000 quan tham Trung Quốc chạy trốn thành công, mang theo
hơn 50 tỷ USD ra nước ngoài, tính bình quân mỗi tên “nuốt” trọn 100
triệu NDT tiền thuế của dân. Tuy nhiên, chỉ mới có có hơn 500 sa lưới
trong 9 năm nỗ lực truy bắt.
Chính
vì vậy, chạy trốn ra nước ngoài đang là sự lựa chọn hàng đầu của các
quan tham, trong khi đó cơ chế phòng ngừa chưa có, hiện chỉ ở mức đuổi
gà đã xổng chuồng.
Tôi
nghĩ những nước cần chống tham nhũng nên áp dụng cách phát hiện này, cứ
hô hào lớn tiếng chống tham nhũng nhưng vô cùng tốn kém và không có kết
quả khiến người dân càng mất lòng tin. Dùng mấy cô bồ nhí bị quan “đá”,
chắc “thành tích chống tham nhũng” sẽ tăng lên ào ào.
Văn Quang
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
HÀ HƯNG QUỐC * TRUNG CỘNG XÂM LƯỢC
Trước con cù China manh động và…nhiều hơn thế nữa
Hà Hưng Quốc, Ph.D
“Một ngày nào đó chúng ta có thể phát hiện chính xác lý do tại sao phía Trung Quốc quyết định triển khai giàn khoan cùng đội tàu đi kèm đến chỗ đó vào thời điểm này. Chúng ta biết rất ít về cách mà những quyết định như thế được đưa ra.” (Nguồn: Dân Luận. Trung Quốc Tính Toán Sai Trong Vụ Giàn Khoan của Bill Hayton do Huỳnh Phan chuyển ngữ).
Những dòng này của Bill Hayton cho thấy thế giới đang thắc mắc cái gì mới là lý do thực sự bên sau động thái của Trung Cộng vào những ngày gần đây. Chờ đến một ngày nào đó trong tương lai mới phát hiện chính xác lý do thì có thể đã quá muộn, cho Việt Nam nói riêng và cho toàn vùng ĐNA nói chung.
Trung Cộng muốn trỗi dậy và thật sự hóa rồng thì cần phải có khả năng ra tới biển xanh biểu dương sức mạnh. Hiện giờ thì Trung Cộng vẫn còn là con Cù China manh động đang bị nhốt trong ao. Động thái mạnh mẽ của Trung Cộng trong những năm gần đây không có gì là khó hiểu. Tất cả và bằng mọi giá Trung Cộng phải đột phá để mở ra một thông đạo từ ao nhà tới biển xanh và một hành lang chiến lược bảo đảm an ninh cho Cù China. Đó là cốt lõi của vấn đề. Đó là tầng nền tảng của các tầng chiến lược Trung Cộng đã và đang thực hiện. Đó là trả lời cho câu hỏi “Trung Cộng thực sự muốn gì ở Biển Đông?”
Chỉ có điều khó hiểu là tại sao Trung Cộng lại chọn vào thời điểm này và đặt giàn khoan tại vị trí đó với một đội tàu bảo vệ giàn khoan, một lực lượng hùng hậu có thể nói là chưa từng có từ sau thế chiến.
Để mở được con đường ra biển xanh và chủ động an ninh cho con đường chiến lược này, Trung Cộng nhất định phải thâu tóm bán đảo Đông Dương trong tay. Với những diễn biến gần đây, và với tin tức tình báo có độ khả tín cao, có thể dự đoán là Trung Cộng đang lặng lẽ tiến hành một trục liên minh quân sự Hoa-Lào-Miên-Thái. Liên Minh này sẽ là lưỡi dao cắt đôi vòng đai tiếp cận Trung Quốc nhằm phá chiến lược “bao vây tiếp cận” của Hoa Kỳ.
Nếu đúng như dự đoán, và nếu họ thành công, Trung Cộng không những sẽ thao túng bán đảo Đông Dương mà còn kiểm soát toàn bộ Nam Hải, Vịnh Thái Lan, một phần biển Andaman, uy hiếp Việt Nam từ mọi phía và hội đủ yếu tố chiến lược để có thể triển khai chiến tranh toàn vùng.
Trung Cộng đã nắm trọn Campuchia trong tay sau khi đã nhổ đi những nhân vật quan trọng thân cận Việt Nam. Đặc biệt là từ sau tai nạn máy bay ngày 9 tháng 11 năm 2008 giết chết Hok Lundy, Tư Lệnh Cảnh Sát Campuchia, và Sok Sa Em, Phó Tư Lệnh Quân Đội Campuchia, thì chính quyền Hunsen đã công khai trở mặt với Việt Nam và không che dấu thế liên minh với Trung Cộng. Tuy TT Hunsen từng là “gà nhà” của Việt Nam nhưng quan hệ đó đã rạn nứt và xấu dần kể từ 2002.
Và trong lúc cả thế giới hướng về Biển Đông dõi theo “China’s Mobil National Territory” HD 981 neo trong lãnh hải Việt Nam và lo lắng về những hậu quả tiêu cực của động thái trên thì Trung Cộng lặng lẽ thu tóm nước Lào, một đồng minh trung thành với Việt Nam. Bốn nhân vật chóp bu do Việt Nam đào tạo đã tử vong trong một tai nạn máy bay ngày 17 tháng 5 năm 2014, ngay sau khi Thường Vạn Toàn, Ủy Viên Bộ Chính Trị và là Bộ Trưởng Quốc Phòng của Trung Cộng, ghé thăm Lào. Cái chết của họ cũng là cái chết của “Việt – Lào hai nước chúng ta, Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”. Tuy cần một thời gian nữa mới thấy rõ hậu quả của sự việc nhưng có thể nói ngay bây giờ rằng Lào đã chính thức rớt vào tay Trung Cộng.
Cũng cần nhắc lại là ngày 25 tháng 5 năm 1998 cũng đã từng xảy ra một tai nạn máy bay quân sự tại Xiêng Khoảng, Lào gây tử vong cho 20 sĩ quan Việt Nam trong đó có 5 tướng lĩnh và 5 đại tá: Đào Trọng Lịch, Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng, Thứ Trưởng Quốc Phòng, UVTV Đảng Ủy Quân Sự Trung Ương; Trần Tất Thanh, Trung Tướng Tư Lệnh QK2; Trần Minh Thiệt, Thiếu Tướng Phó Tư Lệnh kiêm Tham Mưu Trưởng QK5; Phạm Minh Thanh, Thiếu Tướng Cục Trưởng Cục Nhà Trường, Bộ Tổng Tham Mưu; Thiếu Tướng Vũ Xuân Thủy; Đại Tá Hoàng Bình Quân; Đại Tá Lai Thế Cường Đại Tá Cao Tiến Lãm, Đại Tá Ngô Quang Vinh, Đại Tá Lê Văn Hân. Nhìn chung họ là những sĩ quan giàu kinh nghiệm chiến trường và nhiều người từng là sĩ quan chỉ huy chống quân xâm lăng Trung Cộng tại mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang.
Một tai nạn rơi máy bay khác (không nhớ ngày tháng năm) đã giết chết đoàn cán bộ cao cấp vài chục người của QĐNDVN trong chuyến công tác viếng thăm bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng. Và cách đây không lâu (không nhớ ngày tháng năm) một máy bay bị rơi trên đường trở về đất liền trong chuyến công tác ủy lạo chiến sĩ Trường Sa. Tai nạn này đã giết chết rất nhiều sĩ quan tham mưu cao cấp của Quân Khu 5.
Dĩ nhiên không phải là những sự cố ngẫu nhiên. Lại càng không phải là tình cờ khi tất cả nạn nhân đều là những sĩ quan giàu kinh nghiệm đang trấn giữ trọng địa sinh tử của Việt Nam. Tuy là không thể trưng ra bằng chứng cụ thể (và dù có bằng chứng cụ thể thì cũng không được phép công bố) phương pháp “tai nạn rơi máy bay” dùng để thủ tiêu tập thể giới chức quân sự mà Trung Cộng muốn trừ khử là phương tiện hiệu quả và dễ thực hiện hơn hết.
Thái Lan cũng không nằm ngoài tầm tay khuynh đảo của Trung Cộng. Mới đây Thái Lan đã đồng ý để cho Trung Cộng tiến hành xây dựng con kinh đào Kra Isthmus. Theo bản tin ngày 13 tháng 3 năm 2014 của Menafn - SinoCast Daily Business Beat via COMTEX và ngày 14 tháng 3 năm 2014 của Global Time, một tập hợp đa công ty của Trung Cộng đã khởi công, trong đó có Sany Heavy Industry Co., Ltd., Xuzhou Construction Machinery Group Co., Ltd. và Guangxi Liugong Machinery Co., Ltd.. Về mặt kinh tế con kinh đào chiến lược này chắc chắn sẽ mang lợi ích đến cho nhiều quốc gia, ngoại trừ những quốc gia hưởng lợi lớn từ kinh đào Malacca. Nhưng về mặt an ninh toàn vùng, một khi kinh đào Kra đã được đào xong và nằm trong tay của Trung Cộng thì nó lại là một tai họa. Nếu như Thái Lan trong những ngày tới cũng rớt vào bàn tay của Trung Cộng thì coi như lộ đồ thâu tóm bán đảo Đông Dương đã thực hiện xong.
Hành lang chiến lược của Trung Quốc đang hình thành và càng lúc càng hiện rõ.
Tại Koh Kong —một tỉnh duyên hải của Campuchia nằm cạnh Tháí Lan và
hướng ra vịnh, một địa điểm chiến lược— Campuchia đã giao 36 ngàn hecta
đất, bằng một nửa diện tích của Singapore, cho Tập Đoàn Phát Triển Liên
Hợp Thiên Tân (Union Group) với thời gian 99 năm, dài hơn một đời người,
để xây một “Ankor Watt trên biển” với dự án Botum Sakok hơn 3 tỉ USD
cộng thêm gần 10 ngàn hecta đất cho dự án xây đập thủy điện. Một tiền
đồn biển của Trung Cộngđang mọc lên trên đất Campuchia, áp sát biên giới
Thái Lan. Đúng như nhân viên kiểm lâm đã từng ngăn chận phóng viên
Reuters đi vào vùng đất này đã nói: “Đây là Trung Quốc.”
Tại Bokor —một cao nguyên có độ cao trên một ngàn mét nằm sát biên giới Việt Nam nhìn ra vịnh Tháí Lan và Biển Đông, cách cảng Kampongson 90 km, với những cao điểm quân sự và quân cảng xung quanh như cao điểm 144, 146, 162... và quân cảng Ream— Vườn Quốc Gia Bokor, còn có tên là Preah Monivong National Park, đã bán cho Chinese Corp. Bên trong khuôn viên của Bokor, tập đoàn quốc doanh Sinohydro của Trung Cộng đã xây đập thủy điện Kamchay, nhấn chìm hai ngàn hecta rừng. Trong quá khứ những giàn radar đã từng được đặt trên đỉnh Bokor. Nơi đây cũng từng là thành trì của Miên Đỏ. Không ai biết được hiện giờ Trung Cộng đã cài đặt gì ở những nơi được khoanh vùng “của người Trung Quốc.” Những giàn radar? Những giàn tên lửa? Những căn cứ bí mật? Một điều chắc chắn Bokor đang/sẽ là một tiền đồn biển của Trung Cộng mọc lên trên đất Campuchia, áp sát biên giới Việt Nam.
Một nhà máy sản xuất sắt thép và một tuyến đường sắt 400 km nối liền khu vực sản xuất thép trong tỉnh Preah Vihear đến hải cảng Koh Kong, kinh phí trên 11 tỉ USD, cũng đã được ký kết giữa Tập Đoàn Sắt, Thép và Hầm Mỏ Campuchia với Tập Đoàn Đường Sắt Trung Quốc. Đồng thời các công ty Trung Cộng cũng lên kế hoạch xây một tuyến đường sắt cao tốc 400 km từ đất Lào lên hướng Vân Nam và đang thu xếp để ký hợp đồng xây một tuyến đường sắt khác với Thái Lan. Một tuyến đường chiến lược nối liền Vân Nam/ Côn Minh tới vịnh Thái Lan và nam Biển Đông đang hình thành. Thêm vào đó là QL78 dài 120 km, nối liền Vân Nam với Thượng Lào, xuống Đông Bắc Campuchia, tới cảng Kompongsom nam Campuchia, và nối với Tây Nguyên của Việt Nam ra tới biển. “Để thực hiện kế hoạch mở đường xuống vùng biển phía Nam, Bắc Kinh đang củng cố ba tuyến đường bộ từ biên giới Vân Nam xuống Vịnh Bengal và Vịnh Thái Lan. Tuyến thứ nhất từ Côn Minh đến Mandalay (Miến Điện), tuyến đường thứ hai từ Côn Minh đến Chiang Rai (Thái Lan) băng ngang tiểu bang Shan của Miến Điện, tuyến đường thứ ba cũng từ Côn Minh đến Chiang Rai (Thái Lan) nhưng qua các tỉnh Luang Nam Tha va Bokeo trên lãnh thổ Lào.” (Nguồn: Sách Lược Mở Đường Xuống Phương Nam Của Trung Quốc. Nguyễn Văn Huy, 26/2/2012).
“Từ năm 1995, Bắc Kinh tiến hành đề án xây dựng 5 Vùng Kinh tế đặc biệt, gọi tắt là SEZ (Special Economic Zone) hay Khu chế xuất, và 14 Thành phố Hải cảng Mở, hay OCC (Open Coastal Cities), dọc các bờ biển.... Bắc Kinh đã thành công trong việc gán ghép các tỉnh Quảng Châu, Vân Nam vào tiểu vùng sông Mêkông để tạo thành một khu vực kinh tế lớn hơn, rộng 2,6 triệu km2 với 326 triệu dân. Từ đó đến nay, Trung Quốc trở thành quốc gia đầu tàu lãnh đạo tiểu vùng hạ lưu sông Mêkông.” (Nguồn: Sách Lược Mở Đường Xuống Phương Nam Của Trung Quốc. Nguyễn Văn Huy, 26/2/2012).
Như ông Chheang Vannarith, Giám Đốc Cambodian Institute for Cooperation and Peace, nhận xét “đối với Trung Quốc đây là vấn đề chiến lược, vì ở đằng sau là các vấn đề Biển Đông và cả Ấn Độ Dương.”
Những náo nhiệt ở mặt Biển Đông, thực có và hư có, là một phần trong chiến sách trá ngụy để Trung Cộng thuận lợi tiến hành âm mưu nắm lấy đường không-địa dọc hành lang Đông Dương để một mặt (a) an ninh thủy lộ cho Cù China ra biển hóa rồng, còn một mặt khác là (b) chuẩn bị cho chiến tranh thôn tính trong tương lai.
Trong lúc đang viết bài này thì đọc thấy tin tức cho biết quân đội Thái vừa làm một cuộc đảo chánh nhanh gọn. Ngoài việc nền dân chủ non trẻ của Thái Lan bị bức tử, tương lai của Thái Lan còn tùy thuộc vào thế lực nào đứng sau chống lưng cho tướng lĩnh và động lực thực sự của họ. “Thái Lan, một quốc gia dân chủ mà Bắc Kinh đang tìm cách lôi kéo vào quỹ đạo ảnh hưởng. Những xáo trộn chính trị gần đây tại Thái Lan nằm trong kế hoạch hoạch này.” (Nguồn: Sách Lược Mở Đường Xuống Phương Nam Của Trung Quốc. Nguyễn Văn Huy, 26/2/2012). Những ngày tới Thái Lan sẽ còn phải đối diện với một chuỗi bảo bùng trước mặt!
Đồng thời cũng có tin tức cho biết là Trung Cộng đang tập trung 300 ngàn quân sát biên giới Việt Nam. Rất nhiều người lo ngại Trung Cộng sẽ tấn công trên đất liền. Theo nhận định cá nhân, không tin rằng Trung Cộng sẽ không làm vậy hoặc ít ra là chưa đến lúc. Giao chiến trên mặt biển hoặc xua chiến hạm chiếm lấy một vài cứ điểm quân sự của Việt Nam ngoài biển có khả năng cao hơn và có lợi hơn cho Trung Cộng.
Nếu họ tấn công Việt Nam như năm 1979 thì người ta có phần nào nhẹ nhõm vì nó cho thấy Trung Cộng vẫn chưa đủ bản lĩnh. Một cuộc chiến như vậy chỉ làm hao xương máu vô ích và không mở rộng toàn vùng. Trên đất liền Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội hơn để chống trả và chiến thắng Trung Quốc.
Ngược lại, nếu chỉ động binh doạ nạt và là một phần của chiến sách trá ngụy nhằm kéo sự quan sát của thế giới theo hướng họ muốn để rảnh tay thực hiện ý đồ lớn hơn mới là điều thực sự đáng lo ngại vừa lâu vừa dài. Và trong vòng vài năm nữa, khi đã thực hiện xong liên minh quân sự Hoa-Lào-Miên-Thái, nếu Trung Cộng manh động châm ngòi chiến tranh hoặc xua quân thôn tính thì đó mới là cuộc chiến tốn nhiều xương máu và nhấn chìm toàn vùng trong khủng hoảng.
Trên thực tế Trung Cộng có thể thành công trong nỗ lực hình thành một liên minh quân sự Hoa-Lào-Miên-Thái cắt đôi vòng đai bao vây tiếp cận của Hoa Kỳ. Đồng thời cũng có thể chính sự hung hãn của Trung Cộng sẽ giúp cho một liên minh quân sự của ĐNA ra đời, đặc biệt là liên minh quân sự của các quốc gia Thái Lan, Nam Dương, Mã Lai, Việt Nam và Phi Luật Tân.
Một khi Trung Cộng đã không thể độc chiếm Biển Đông thì chắc chắn không một quốc gia nào khác có thể. Nếu đã thế tại sao các quốc gia đang tranh chấp lãnh hãi (loại trừ Trung Cộng) không cùng nhau khai khác tài nguyên tại những vùng tranh chấp và dùng nguồn lợi để thành lập quỹ Bảo An Biển Đông? Nếu đã đạt được sự đồng thuận, liên minh có thể dùng nguồn lợi còn nằm dưới biển làm “thế chấp” để “mướn” từ nhiều cường quốc trên thế giới trong thời gian nhanh nhất “khí tài tuần tra và an ninh biển” để trang bị cho lực lượng liên quân? Và có lẽ đây là giải pháp mà Trung Cộng sợ nhất vì tính chính danh của nó và vì Trung Cộng không còn sự chọn lựa nào khác ngoài con đường “trỗi dậy trong hòa bình” và “không thể” tiếp tục manh động với lân bang.
Trung Cộng có được ngày hôm nay là do chính chính sách Strategic Engagement của Hoa Kỳ đã kéo nó lên từ đáy vực của nghèo đói và lạc hậu. Đương nhiên là Hoa Kỳ phải trù liệu có một ngày “nếu như Trung Cộng trỗi dậy không bằng con đường hợp tác và hòa bình thì...” Chính vì trù liệu này mà Hoa Kỳ mới có những vòng đai “bao vây tiếp cận” và vòng đai “bao vây phi tiếp cận” phòng khi bất trắc.
Một yếu tố khác càng quan trọng hơn là Hoa Kỳ biết rất rõ nồi cơm của mình trong thể kỷ 21 và về sau nằm ở Pacific Rim. Hoa Kỳ sẽ không để cho bất cứ một nước nào đá mình ra khỏi vùng và giật lấy nồi cơm đó. Nó trở thành là vấn đề sống chết của Hoa Kỳ. Tất cả những hoài nghi về ý chí của Hoa Kỳ “đến để rồi bỏ đi” là không cần thiết.
Nếu như, chỉ là nếu như, Trung Cộng tham vọng và ngông cuồng đến độ cả gan khởi động một cuộc chiến tranh thôn tính, đối đầu vũ lực với Hoa Kỳ, thì điều gì sẽ xảy ra? Đáp án đã bày rõ trên thế cuộc phân bố quân sự. Vòng đai bao vây phi tiếp cận sẽ khóa chặt. Liên quân Anh, Mỹ, Nhật, Hàn, Phi, Úc cộng một số quốc gia trong ASEAN sẽ rút gân Cù China, như Na Tra đã làm với cha con Long Vương Biển Đông.
Căn cứ theo hiện tình thì Nga đang bắt tay với Trung Quốc. Nhưng hai quốc gia nương tựa vào nhau chống lại Hoa Kỳ không có nghĩa là một đồng minh chiến lược, lại càng không phải là một liên minh quân sự. Nó chỉ cho thấy Nga đang đuối sức trước quả đấm phong tỏa kinh tế của Hoa Kỳ nên dẹp tự tôn để nhờ đến sự trợ giúp của Trung Quốc. Nó cũng cho thấy luôn sự mong manh của nền kinh tế Nga vì hẹp nền và thiếu sinh lực.
Với tình trạng yếu ớt như vậy thì Nga càng không muốn giúp cho Trung Cộng trỗi dậy và gây nguy hại cho chính Nga. Không, sẽ không có liên quân Nga-Hoa. Nói cho cùng, nếu có chiến tranh toàn vùng không chừng Nga sẽ liên quân với Anh, Mỹ đánh bại Trung Cộng. Hai siêu cường Nga-Mỹ tuy có giành nhau địa bàn ảnh hưởng nhưng không dại dột hủy diệt nhau và rất hiểu ý nhau trong những ván bài chia chác quyền lợi. Còn Cù China chưa học được cách hành xử có trách nhiệm của một siêu cường mà đã nôn nóng vung quả đấm của siêu cường lại quá ham hố và tự tin vượt giới hạn cho nên trở thành nguy hiểm. Vì vậy, có một ngày Cù China sẽ trở thành là mồi nhậu nếu cứ tiếp tục manh động.
Hoa Kỳ là một quốc gia có chiều dầy kinh nghiệm về sự trỗi dậy và đã từng lần lượt quật ngã tất cả siêu cường trong quá trình trỗi dậy và chống trỗi dậy. Do đó, mọi đánh giá và và chọn lựa chiến lược của các quốc gia trong vùng nên hiểu rõ về Hoa Kỳ và cần cân nhắc cẩn trọng.
Nam Hàn và Nhật Bản là hai quốc gia đã nhờ cây dù quân sự của Hoa Kỳ che chở nên đã không hao tốn kinh phí mà còn rảnh tay rảnh trí tập trung toàn lực vào việc xây dựng kinh tế và đã trở thành là cường quốc trong một thời gian ngắn. Sự chọn lựa đúng của một quốc gia trong vùng không những giúp cơ hội cho đất nước đó mà còn giúp duy trì hòa bình lâu dài cho toàn vùng.
Chính sách ba không trong một bối cảnh tốt thì có thể là một chính sách khôn ngoan. Nhưng với bối cảnh đang vận hành hiện nay và những dự đoán cho tương lai, chính sách ba không có thể được diễn dịch là không bạn, không lối thoát và không tương lai.
Hy vọng là Việt Nam cho mình một cơ hội tốt và tích cực đóng góp vào nỗ lực duy trì hòa bình.
Hà Hưng Quốc, Ph.D
__._,_.___
Tại Bokor —một cao nguyên có độ cao trên một ngàn mét nằm sát biên giới Việt Nam nhìn ra vịnh Tháí Lan và Biển Đông, cách cảng Kampongson 90 km, với những cao điểm quân sự và quân cảng xung quanh như cao điểm 144, 146, 162... và quân cảng Ream— Vườn Quốc Gia Bokor, còn có tên là Preah Monivong National Park, đã bán cho Chinese Corp. Bên trong khuôn viên của Bokor, tập đoàn quốc doanh Sinohydro của Trung Cộng đã xây đập thủy điện Kamchay, nhấn chìm hai ngàn hecta rừng. Trong quá khứ những giàn radar đã từng được đặt trên đỉnh Bokor. Nơi đây cũng từng là thành trì của Miên Đỏ. Không ai biết được hiện giờ Trung Cộng đã cài đặt gì ở những nơi được khoanh vùng “của người Trung Quốc.” Những giàn radar? Những giàn tên lửa? Những căn cứ bí mật? Một điều chắc chắn Bokor đang/sẽ là một tiền đồn biển của Trung Cộng mọc lên trên đất Campuchia, áp sát biên giới Việt Nam.
Một nhà máy sản xuất sắt thép và một tuyến đường sắt 400 km nối liền khu vực sản xuất thép trong tỉnh Preah Vihear đến hải cảng Koh Kong, kinh phí trên 11 tỉ USD, cũng đã được ký kết giữa Tập Đoàn Sắt, Thép và Hầm Mỏ Campuchia với Tập Đoàn Đường Sắt Trung Quốc. Đồng thời các công ty Trung Cộng cũng lên kế hoạch xây một tuyến đường sắt cao tốc 400 km từ đất Lào lên hướng Vân Nam và đang thu xếp để ký hợp đồng xây một tuyến đường sắt khác với Thái Lan. Một tuyến đường chiến lược nối liền Vân Nam/ Côn Minh tới vịnh Thái Lan và nam Biển Đông đang hình thành. Thêm vào đó là QL78 dài 120 km, nối liền Vân Nam với Thượng Lào, xuống Đông Bắc Campuchia, tới cảng Kompongsom nam Campuchia, và nối với Tây Nguyên của Việt Nam ra tới biển. “Để thực hiện kế hoạch mở đường xuống vùng biển phía Nam, Bắc Kinh đang củng cố ba tuyến đường bộ từ biên giới Vân Nam xuống Vịnh Bengal và Vịnh Thái Lan. Tuyến thứ nhất từ Côn Minh đến Mandalay (Miến Điện), tuyến đường thứ hai từ Côn Minh đến Chiang Rai (Thái Lan) băng ngang tiểu bang Shan của Miến Điện, tuyến đường thứ ba cũng từ Côn Minh đến Chiang Rai (Thái Lan) nhưng qua các tỉnh Luang Nam Tha va Bokeo trên lãnh thổ Lào.” (Nguồn: Sách Lược Mở Đường Xuống Phương Nam Của Trung Quốc. Nguyễn Văn Huy, 26/2/2012).
“Từ năm 1995, Bắc Kinh tiến hành đề án xây dựng 5 Vùng Kinh tế đặc biệt, gọi tắt là SEZ (Special Economic Zone) hay Khu chế xuất, và 14 Thành phố Hải cảng Mở, hay OCC (Open Coastal Cities), dọc các bờ biển.... Bắc Kinh đã thành công trong việc gán ghép các tỉnh Quảng Châu, Vân Nam vào tiểu vùng sông Mêkông để tạo thành một khu vực kinh tế lớn hơn, rộng 2,6 triệu km2 với 326 triệu dân. Từ đó đến nay, Trung Quốc trở thành quốc gia đầu tàu lãnh đạo tiểu vùng hạ lưu sông Mêkông.” (Nguồn: Sách Lược Mở Đường Xuống Phương Nam Của Trung Quốc. Nguyễn Văn Huy, 26/2/2012).
Như ông Chheang Vannarith, Giám Đốc Cambodian Institute for Cooperation and Peace, nhận xét “đối với Trung Quốc đây là vấn đề chiến lược, vì ở đằng sau là các vấn đề Biển Đông và cả Ấn Độ Dương.”
Những náo nhiệt ở mặt Biển Đông, thực có và hư có, là một phần trong chiến sách trá ngụy để Trung Cộng thuận lợi tiến hành âm mưu nắm lấy đường không-địa dọc hành lang Đông Dương để một mặt (a) an ninh thủy lộ cho Cù China ra biển hóa rồng, còn một mặt khác là (b) chuẩn bị cho chiến tranh thôn tính trong tương lai.
Trong lúc đang viết bài này thì đọc thấy tin tức cho biết quân đội Thái vừa làm một cuộc đảo chánh nhanh gọn. Ngoài việc nền dân chủ non trẻ của Thái Lan bị bức tử, tương lai của Thái Lan còn tùy thuộc vào thế lực nào đứng sau chống lưng cho tướng lĩnh và động lực thực sự của họ. “Thái Lan, một quốc gia dân chủ mà Bắc Kinh đang tìm cách lôi kéo vào quỹ đạo ảnh hưởng. Những xáo trộn chính trị gần đây tại Thái Lan nằm trong kế hoạch hoạch này.” (Nguồn: Sách Lược Mở Đường Xuống Phương Nam Của Trung Quốc. Nguyễn Văn Huy, 26/2/2012). Những ngày tới Thái Lan sẽ còn phải đối diện với một chuỗi bảo bùng trước mặt!
Đồng thời cũng có tin tức cho biết là Trung Cộng đang tập trung 300 ngàn quân sát biên giới Việt Nam. Rất nhiều người lo ngại Trung Cộng sẽ tấn công trên đất liền. Theo nhận định cá nhân, không tin rằng Trung Cộng sẽ không làm vậy hoặc ít ra là chưa đến lúc. Giao chiến trên mặt biển hoặc xua chiến hạm chiếm lấy một vài cứ điểm quân sự của Việt Nam ngoài biển có khả năng cao hơn và có lợi hơn cho Trung Cộng.
Nếu họ tấn công Việt Nam như năm 1979 thì người ta có phần nào nhẹ nhõm vì nó cho thấy Trung Cộng vẫn chưa đủ bản lĩnh. Một cuộc chiến như vậy chỉ làm hao xương máu vô ích và không mở rộng toàn vùng. Trên đất liền Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội hơn để chống trả và chiến thắng Trung Quốc.
Ngược lại, nếu chỉ động binh doạ nạt và là một phần của chiến sách trá ngụy nhằm kéo sự quan sát của thế giới theo hướng họ muốn để rảnh tay thực hiện ý đồ lớn hơn mới là điều thực sự đáng lo ngại vừa lâu vừa dài. Và trong vòng vài năm nữa, khi đã thực hiện xong liên minh quân sự Hoa-Lào-Miên-Thái, nếu Trung Cộng manh động châm ngòi chiến tranh hoặc xua quân thôn tính thì đó mới là cuộc chiến tốn nhiều xương máu và nhấn chìm toàn vùng trong khủng hoảng.
Trên thực tế Trung Cộng có thể thành công trong nỗ lực hình thành một liên minh quân sự Hoa-Lào-Miên-Thái cắt đôi vòng đai bao vây tiếp cận của Hoa Kỳ. Đồng thời cũng có thể chính sự hung hãn của Trung Cộng sẽ giúp cho một liên minh quân sự của ĐNA ra đời, đặc biệt là liên minh quân sự của các quốc gia Thái Lan, Nam Dương, Mã Lai, Việt Nam và Phi Luật Tân.
Một khi Trung Cộng đã không thể độc chiếm Biển Đông thì chắc chắn không một quốc gia nào khác có thể. Nếu đã thế tại sao các quốc gia đang tranh chấp lãnh hãi (loại trừ Trung Cộng) không cùng nhau khai khác tài nguyên tại những vùng tranh chấp và dùng nguồn lợi để thành lập quỹ Bảo An Biển Đông? Nếu đã đạt được sự đồng thuận, liên minh có thể dùng nguồn lợi còn nằm dưới biển làm “thế chấp” để “mướn” từ nhiều cường quốc trên thế giới trong thời gian nhanh nhất “khí tài tuần tra và an ninh biển” để trang bị cho lực lượng liên quân? Và có lẽ đây là giải pháp mà Trung Cộng sợ nhất vì tính chính danh của nó và vì Trung Cộng không còn sự chọn lựa nào khác ngoài con đường “trỗi dậy trong hòa bình” và “không thể” tiếp tục manh động với lân bang.
Trung Cộng có được ngày hôm nay là do chính chính sách Strategic Engagement của Hoa Kỳ đã kéo nó lên từ đáy vực của nghèo đói và lạc hậu. Đương nhiên là Hoa Kỳ phải trù liệu có một ngày “nếu như Trung Cộng trỗi dậy không bằng con đường hợp tác và hòa bình thì...” Chính vì trù liệu này mà Hoa Kỳ mới có những vòng đai “bao vây tiếp cận” và vòng đai “bao vây phi tiếp cận” phòng khi bất trắc.
Một yếu tố khác càng quan trọng hơn là Hoa Kỳ biết rất rõ nồi cơm của mình trong thể kỷ 21 và về sau nằm ở Pacific Rim. Hoa Kỳ sẽ không để cho bất cứ một nước nào đá mình ra khỏi vùng và giật lấy nồi cơm đó. Nó trở thành là vấn đề sống chết của Hoa Kỳ. Tất cả những hoài nghi về ý chí của Hoa Kỳ “đến để rồi bỏ đi” là không cần thiết.
Nếu như, chỉ là nếu như, Trung Cộng tham vọng và ngông cuồng đến độ cả gan khởi động một cuộc chiến tranh thôn tính, đối đầu vũ lực với Hoa Kỳ, thì điều gì sẽ xảy ra? Đáp án đã bày rõ trên thế cuộc phân bố quân sự. Vòng đai bao vây phi tiếp cận sẽ khóa chặt. Liên quân Anh, Mỹ, Nhật, Hàn, Phi, Úc cộng một số quốc gia trong ASEAN sẽ rút gân Cù China, như Na Tra đã làm với cha con Long Vương Biển Đông.
Căn cứ theo hiện tình thì Nga đang bắt tay với Trung Quốc. Nhưng hai quốc gia nương tựa vào nhau chống lại Hoa Kỳ không có nghĩa là một đồng minh chiến lược, lại càng không phải là một liên minh quân sự. Nó chỉ cho thấy Nga đang đuối sức trước quả đấm phong tỏa kinh tế của Hoa Kỳ nên dẹp tự tôn để nhờ đến sự trợ giúp của Trung Quốc. Nó cũng cho thấy luôn sự mong manh của nền kinh tế Nga vì hẹp nền và thiếu sinh lực.
Với tình trạng yếu ớt như vậy thì Nga càng không muốn giúp cho Trung Cộng trỗi dậy và gây nguy hại cho chính Nga. Không, sẽ không có liên quân Nga-Hoa. Nói cho cùng, nếu có chiến tranh toàn vùng không chừng Nga sẽ liên quân với Anh, Mỹ đánh bại Trung Cộng. Hai siêu cường Nga-Mỹ tuy có giành nhau địa bàn ảnh hưởng nhưng không dại dột hủy diệt nhau và rất hiểu ý nhau trong những ván bài chia chác quyền lợi. Còn Cù China chưa học được cách hành xử có trách nhiệm của một siêu cường mà đã nôn nóng vung quả đấm của siêu cường lại quá ham hố và tự tin vượt giới hạn cho nên trở thành nguy hiểm. Vì vậy, có một ngày Cù China sẽ trở thành là mồi nhậu nếu cứ tiếp tục manh động.
Hoa Kỳ là một quốc gia có chiều dầy kinh nghiệm về sự trỗi dậy và đã từng lần lượt quật ngã tất cả siêu cường trong quá trình trỗi dậy và chống trỗi dậy. Do đó, mọi đánh giá và và chọn lựa chiến lược của các quốc gia trong vùng nên hiểu rõ về Hoa Kỳ và cần cân nhắc cẩn trọng.
Nam Hàn và Nhật Bản là hai quốc gia đã nhờ cây dù quân sự của Hoa Kỳ che chở nên đã không hao tốn kinh phí mà còn rảnh tay rảnh trí tập trung toàn lực vào việc xây dựng kinh tế và đã trở thành là cường quốc trong một thời gian ngắn. Sự chọn lựa đúng của một quốc gia trong vùng không những giúp cơ hội cho đất nước đó mà còn giúp duy trì hòa bình lâu dài cho toàn vùng.
Chính sách ba không trong một bối cảnh tốt thì có thể là một chính sách khôn ngoan. Nhưng với bối cảnh đang vận hành hiện nay và những dự đoán cho tương lai, chính sách ba không có thể được diễn dịch là không bạn, không lối thoát và không tương lai.
Hy vọng là Việt Nam cho mình một cơ hội tốt và tích cực đóng góp vào nỗ lực duy trì hòa bình.
Hà Hưng Quốc, Ph.D
__._,_.___