Saturday, 12 November 2016
TIN TỨC THẾ GIỚI
Mỹ tố cáo Trung Quốc bồi đắp thêm 800 ha đảo tại Trường Sa
Hoạt động bồi đắp cát tại phía bắc Đá Vành Khăn, ảnh vệ tinh của CSIS;REUTERS/CSIS's Asia Maritime Transparency Initiative/Digital Glo
Hôm qua 08/05/2015, Bộ Quốc phòng Mỹ ra báo cáo thường niên về sức mạnh quân sự của Trung Quốc trong đó nêu rõ Bắc Kinh đã gia tăng thâu tóm bồi đắp các đảo đang tranh chấp trong quần đảo Trường Sa với nhịp độ và quy mô lớn chưa từng có, để biến những đảo đang có tranh chấp tại Biển Đông thành căn cứ hải quân, hiển nhiên thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Theo báo cáo của Bộ Quốc phòng Mỹ, với việc bồi đắp đảo từ tháng Giêng năm 2014, Trung Quốc đã « mở rộng diện tích các đảo họ đang chiếm trong Biển Đông lên khoảng 400 lần », tương đương với 800 ha mà 3/4 số này thực hiện từ đầu năm 2015 đến nay.
Báo của Lầu Năm góc chỉ ra bốn vùng trong quần đảo Trường Sa, nơi Trung Quốc đã san lấp xong và đã chuyển qua giai đoạn « xây dựng hạ tầng cơ sở » như cầu cảng, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống giám sát và có ít nhất một đường băng sân bay.
Báo cáo còn ghi nhận, trong các công việc cải tạo đảo, Trung Quốc còn khơi sâu các luồng lạch để tàu chiến của họ ra vào những vị trí tiền tiêu trong Trường Sa.
Một quan chức Quốc phòng Mỹ, hôm qua, đã nhận định, cách làm của Trung Quốc nhằm chiếm cứ khu vực Biển Đông đã diễn ra với « tốc độ nhanh và quy mô lớn » hơn nhiều so với các nước có đảo ở Biển Đông.
Hồi đầu tháng Tư, một nhóm nghiên cứu Mỹ đã cho phổ biến những ảnh chụp vệ tinh cho thấy rõ các hoạt động bồi đắp đảo Đá Vành Khăn ( Mischief) và san lấp xây cầu cảng ở nhiều hòn đảo khác trong quần đảo Trường Sa.
Phần lớn các nhà phân tích đều nhận thấy ý đồ Trung Quốc muốn thay đổi thực trạng các đảo đang có tranh chấp để xây dựng cơ sở hạ tầng quốc phòng của họ ở Biển Đông.
Ngay lập tức hôm nay, Bộ Quốc phòng Trung Quốc đã phản ứng với bản báo cáo của Lầu Năm Góc. Tân Hoa Xã dẫn lời phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Trung Quốc Cảnh Nhạn Sinh : « Bản báo cáo của Bộ Quốc phòng Mỹ về tình hình quân sự Trung Quốc đã bóp méo sự việc ... không có cơ sở » nhằm tiếp tục tạo hình ảnh Trung Quốc là mối đe dọa quân sự. Ông Cảnh Nhạn Sinh khẳng định « việc tăng cường khả năng quân sự là nhằm bảo đảm giữ gìn an ninh chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và phát triển hòa bình của Trung Quốc » mà không đề cập cụ thể đến hoạt động bồi đắp cải tạo đảo trong Biển Đông.
Hoa Kỳ không khẳng định đứng về bên nào trong các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Tuy nhiên không ít lần Washington tỏ lo ngại trước « những hoạt động gây bất ổn định » của Bắc Kinh trong các khu vực đang có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.
Biển Đông : Việt Nam gởi công hàm đến LHQ phản đối Trung Quốc bồi đắp đảo
Trong cuộc họp báo ngày 08/05/2015, phát ngôn viên bộ Ngoại giao Lê Hải Bình cho biết Việt Nam đã gởi công hàm đến phái đoàn thường trực các nước tại Liên Hiệp Quốc để phản đối việc Trung Quốc bồi đắp đảo ở Biển Đông.
Trong cuộc họp báo, ông Lê Hải Bình trước hết nêu lập trường của Việt Nam, theo đó những hoạt động bồi đắp, mở rộng đảo, đá mà Trung Quốc đang tiến hành “ đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông, gây lo ngại sâu sắc trong cộng đồng quốc tế, trong đó có ASEAN ”. Phát ngôn viên bộ Ngoại giao cho biết Việt Nam yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay các hoạt động này.
Gần đây, Phái đoàn thường trực Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc đã có công hàm gửi Phái đoàn thường trực các nước tại Liên Hiệp Quốc, khẳng định các hoạt động xây dựng của Trung Quốc tại các đảo và bãi ở Biển Đông là “hợp pháp, chính đáng và đúng đắn”.
Đáp lại công hàm mà Hà Nội cho là có những quan điểm “sai trái” của phía Trung Quốc, phát ngôn viên bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình cho biết là ngày 30/04/2015, Phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc đã có công hàm gửi phái đoàn thường trực tất cả các nước tại Liên Hiệp Quốc bác bỏ những quan điểm đó của phía Trung Quốc.
http://vi.rfi.fr/viet-nam/20150508-bien-dong-viet-nam-goi-cong-ham-den-lhq-phan-doi-trung-quoc-boi-dap-dao
Các hình ảnh vệ tinh cho thấy Việt Nam cũng đã bồi đắp các đảo tranh chấp trên Biển Đông. Quy mô và nhịp độ của các công trình này không thể so sánh với các công trình của Trung Quốc. Đó là thông tin được viện nghiên cứu CSIS của Mỹ loan báo ngày 07/05/2015.\
Gần đây, Phái đoàn thường trực Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc đã có công hàm gửi Phái đoàn thường trực các nước tại Liên Hiệp Quốc, khẳng định các hoạt động xây dựng của Trung Quốc tại các đảo và bãi ở Biển Đông là “hợp pháp, chính đáng và đúng đắn”.
Đáp lại công hàm mà Hà Nội cho là có những quan điểm “sai trái” của phía Trung Quốc, phát ngôn viên bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình cho biết là ngày 30/04/2015, Phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc đã có công hàm gửi phái đoàn thường trực tất cả các nước tại Liên Hiệp Quốc bác bỏ những quan điểm đó của phía Trung Quốc.
http://vi.rfi.fr/viet-nam/20150508-bien-dong-viet-nam-goi-cong-ham-den-lhq-phan-doi-trung-quoc-boi-dap-dao
Biển Đông : Ảnh vệ tinh cho thấy Việt Nam cũng bồi đắp đảo
Ảnh vệ tinh bãi Sơn Ca chụp trước (trên) và sau năm 2011(dưới) Reuters
Các hình ảnh vệ tinh cho thấy Việt Nam cũng đã bồi đắp các đảo tranh chấp trên Biển Đông. Quy mô và nhịp độ của các công trình này không thể so sánh với các công trình của Trung Quốc. Đó là thông tin được viện nghiên cứu CSIS của Mỹ loan báo ngày 07/05/2015.\
Các hình ảnh vệ tinh mà hãng tin Reuters nhận được từ Viện Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược ( CSIS ), cho thấy Việt Nam đã bồi đắp hai đảo mà nước này đang kiểm soát, đó là đảo Sơn Ca ( Sand Cay ) và đảo Đá Tây ( West London Reef ), thuộc quần đảo Trường Sa. Trên hai đảo này cũng có các tòa nhà được xây thêm. Các hình ảnh vệ tinh nói trên được chụp trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến ngày 30/04/2015.
Theo lời bà Mira Rapp-Hooper, giám đốc Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á của CSIS, Việt Nam đã bồi đắp thêm 65 ngàn mét vuông cho đảo Đá Tây và 21 ngàn mét vuông cho đảo Sơn Ca. Diện tích bồi đắp này thật ra chẳng thấm vào đâu so với 900 ngàn mét vuông mà Trung Quốc bồi đắp chỉ riêng cho Đá Chữ Thập ( Fiery Cross Reef ). Cũng theo lời bà Rapp-Hooper, công trình bồi đắp đảo của Việt Nam bao gồm cả các cơ sở quân sự và đã được khởi công xây dựng trước khi Trung Quốc bắt đầu tiến hành ồ ạt các công trình cải tạo, bồi đắp đảo vào năm 2014.
Bà Rapp-Hooper cho biết các hình ảnh vệ tinh cho thấy là vào khoảng tháng 03/2014, Bắc Kinh đã tiến hành cải tạo, bồi đắp ở 7 đảo, xây một phi đạo quân sự trên một đảo nhân tạo và có thể đang xây một phi đạo thứ hai. Theo lờ bà Rapp-Hooper, Việt Nam cũng đã xây một phi đạo trên quần đảo Trường Sa.
Tốc độ bồi đắp đảo của Trung Quốc đã gây lo ngại cho các nước láng giềng châu Á và Hoa Kỳ. Washington xem hành động này của Trung Quốc là một mối đe dọa đến nguyên trạng của Biển Đông, tuyến giao thương hàng hải rất quan trọng đối với Mỹ.
Vào cuối tháng 4/2015, sau nhiều tuần bị chỉ trích nặng nề, Trung Quốc đã phản bác, bằng cách tố cáo Việt Nam và Philippines cũng đã tiến hành xây dựng « trái phép » trên các đảo « của Trung Quốc » ở Biển Đông.
http://vi.rfi.fr/viet-nam/20150508-bien-dong-anh-ve-tinh-cho-thay-viet-nam-cung-boi-dap-dao/
Theo lời bà Mira Rapp-Hooper, giám đốc Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á của CSIS, Việt Nam đã bồi đắp thêm 65 ngàn mét vuông cho đảo Đá Tây và 21 ngàn mét vuông cho đảo Sơn Ca. Diện tích bồi đắp này thật ra chẳng thấm vào đâu so với 900 ngàn mét vuông mà Trung Quốc bồi đắp chỉ riêng cho Đá Chữ Thập ( Fiery Cross Reef ). Cũng theo lời bà Rapp-Hooper, công trình bồi đắp đảo của Việt Nam bao gồm cả các cơ sở quân sự và đã được khởi công xây dựng trước khi Trung Quốc bắt đầu tiến hành ồ ạt các công trình cải tạo, bồi đắp đảo vào năm 2014.
Bà Rapp-Hooper cho biết các hình ảnh vệ tinh cho thấy là vào khoảng tháng 03/2014, Bắc Kinh đã tiến hành cải tạo, bồi đắp ở 7 đảo, xây một phi đạo quân sự trên một đảo nhân tạo và có thể đang xây một phi đạo thứ hai. Theo lờ bà Rapp-Hooper, Việt Nam cũng đã xây một phi đạo trên quần đảo Trường Sa.
Tốc độ bồi đắp đảo của Trung Quốc đã gây lo ngại cho các nước láng giềng châu Á và Hoa Kỳ. Washington xem hành động này của Trung Quốc là một mối đe dọa đến nguyên trạng của Biển Đông, tuyến giao thương hàng hải rất quan trọng đối với Mỹ.
Vào cuối tháng 4/2015, sau nhiều tuần bị chỉ trích nặng nề, Trung Quốc đã phản bác, bằng cách tố cáo Việt Nam và Philippines cũng đã tiến hành xây dựng « trái phép » trên các đảo « của Trung Quốc » ở Biển Đông.
http://vi.rfi.fr/viet-nam/20150508-bien-dong-anh-ve-tinh-cho-thay-viet-nam-cung-boi-dap-dao/
Trung Quốc tuyên bố có quyền lập vùng phòng không tại Biển Đông
Ngày 07/05/2015, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố nước này « có quyền lập ADIZ - vùng nhận dạng phòng không » ở Biển Đông. Động thái này bị nhiều nhà quan sát cho rằng sẽ khiến căng thẳng gia tăng không chỉ với các quốc gia láng giềng đang có các tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc, mà còn gây quan ngại cho giao thương quốc tế.
Theo trang web của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, trong cuộc họp báo thường kỳ phát ngôn viên Trung Quốc Hoa Xuân Oánh (Hua Chunying) khẳng định : « Trung Quốc có quyền lập ADIZ. Quyết định về vấn đề này phụ thuộc vào việc an toàn hàng không có bị thách thức hay không, và bị thách thức đến mức nào ».
Cũng trong phần trả lời này, phát ngôn viên Trung Quốc nói thêm : « Tình hình tại Biển Hoa Nam (tức Biển Đông) nói chung là ổn định, và Trung Quốc phấn khởi về mối quan hệ lành mạnh với các quốc gia Đông Nam Á. Chúng tôi sẽ tìm cách khuyến khích việc hợp tác cùng có lợi giữa các bên, và phối hợp bảo đảm hòa bình và ổn định tại Biển Hoa Nam ». Bà Hoa Xuân Oánh đồng thời chỉ trích « việc đưa tin rầm rộ về cái gọi là ‘‘vùng ADIZ tại Biển Hoa Nam’’ ».
Báo chí Philippines dẫn lời Phó đô đốc Philippines Alexander Lopez, trong buổi làm việc hôm qua với Thượng viện Philippines, theo đó trong thời gian gần đây, có bảy chuyến bay quân sự của Philippines tại khu vực quần đảo Trường Sa (từ đảo Thị Tứ/Pagasa - do Philippines kiểm soát – đến đá Xu bi/Subi Reef, do Trung Quốc kiểm soát, cũng thuộc cụm đảo Thị Tứ) đã bị phía Trung Quốc cảnh cáo bằng thông điệp radio, yêu cầu rời xa khỏi khu vực này. Theo giới chức quân đội Philippines, đây là một can thiệp mới của Trung Quốc nhằm trắc nghiệm khả năng lập vùng nhận dạng phòng không ADIZ tại vùng Trường Sa, nơi nhiều quốc gia Đông Nam Á phản đối sự chiếm đóng của quân đội Trung Quốc.
Hãng tin Bloomberg dẫn lời phát biểu của Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Philippines, được phát trên truyền hình ngày 08/05/2015 : « Đây là một điều đáng lo ngại, vì Trung Quốc hành xử y như là họ đã thiết lập một vùng ADIZ trên thực tế, trong khi không hề có tuyên bố chính thức nào ». Ian Story, chuyên gia về chính trị quốc tế thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore, nhận xét, nếu Trung Quốc lập một vùng nhận dạng phòng không, « điều này sẽ bị nhiều nước trong khu vực xem như một xâm phạm nghiêm trọng quyền tự do hàng hải và thổi bùng lên các lo ngại về những ý đồ của Trung Quốc, cũng như cam kết tôn trọng luật pháp quốc tế của nước này ».
Hồi tháng trước, Tư lệnh Bộ chỉ huy quân đôi Mỹ tại Thái Bình Dương, đô đốc Samuel Locklear tuyên bố tại Quốc hội Mỹ : việc Trung Quốc gia tăng mở rộng và xây dựng các cơ sở trên một số đảo tại Biển Đông nhằm « kiểm soát trên thực tế » vùng biển này. Theo một số quan sát, Philippines là một trong các nước bị ảnh hưởng nhiều nhất, tàu cá của ngư dân nước này bị tàu Trung Quốc ngăn không cho vào nhiều khu vực tại Trường Sa.
Việc Trung Quốc đơn phương lập vùng nhận dạng phòng không tại Biển Hoa Đông tháng 11/2013 đã khiến Nhật Bản và các đồng minh, đặc biệt là Hoa Kỳ phản đối dữ dội.
Trang bị tên lửa cho tàu ngầm, Việt Nam khiêu khích Trung Quốc ?
Tàu ngầm Việt Nam tại quân cảng Cam Ranh - DR
Theo các nhà phân tích, việc Hà Nội trang bị tên lửa tấn công trên bộ cho đội tàu ngầm của Việt Nam có thể bị xem như là một hành động khiêu khích Trung Quốc.
Theo các dữ liệu được cập nhật hóa trên trang web của Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm ( SIPRI ), Việt Nam đã mua tên lửa tấn công trên bộ Klub của Nga để trang bị cho các tàu ngầm tấn công hạng Kilo cũng mua của Nga. Nhà nghiên cứu Siemon Wezeman của SIPRI cho biết dữ liệu mới này là dựa trên của bản khai báo các vũ khí quy ước của Việt Nam nộp cho Liên hiệp quốc vào năm ngoái.
Theo nhận định của các tùy viên quân sự trong khu vực và các nhà phân tích, việc trang bị tên lửa nói trên cho các tàu ngầm thể hiện quyết tâm của Việt Nam đối phó với thế lực quân sự ngày càng mạnh của Trung Quốc và nó cũng phản ánh xu thế chung của các nước châu Á hiện nay, gia tăng trang bị vũ khí trong bối cảnh căng thẳng do tranh chấp chủ quyền lãnh thổ.
Việt Nam hiện cũng dự tính mua các tên lửa diệt hạm. Nhưng nếu như những tên lửa này chỉ có thể nhắm vào các mục tiêu là tàu trên mặt nước và tàu ngầm của Trung Quốc, thì tên lửa tấn công trên bộ có tầm bắn tới 300 km, tức là có thể bắn tới các thành phố dọc theo các bờ biển Trung Quốc, nếu giữa hai nước nổ ra xung đột. Cũng cần phải ghi nhận rằng Việt Nam là quốc gia Đông Nam Á đầu tiên trang bị tên lửa tấn công trên bộ cho tàu ngầm.
Đối với giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về Việt Nam thuộc Học viện Quốc phòng Úc, hành động nói trên là một sự thay đổi đáng kể so với các chiến thuật diệt hạm bình thường. Giáo sư Thayer cho rằng với việc trang bị tên lửa tấn công trên bộ, Việt Nam tự tạo cho mình một khả năng ngăn chận mạnh hơn và điều này khiến cho những tính toán của Trung Quốc phức tạp hơn.
Thật ra, theo giáo sư Thayer, trong trường hợp xảy ra xung đột Việt-Trung, thay vì mạo hiểm oanh kích vào các thành phố như Thượng Hải, chắc là Hà Nội sẽ nhắm vào những mục tiêu như căn cứ hải quân trên đảo Hải Nam của Trung Quốc, cũng như vào các đảo mà Bắc Kinh đang bồi đắp trên Biển Đông.
Trước khi có tên lửa tấn công nói trên, khả năng tấn công trên bộ của Việt Nam rất giới hạn, vì chỉ dựa vào những tên lửa Scud cũ kỹ và một số vũ khí bắn từ những chiến đấu cơ Su-30 do Nga chế tạo.
Hải quân Việt Nam hiện đã tiếp nhận ba tàu ngầm hạng Kilo của Nga và chờ tiếp nhận chiếc thứ tư trong khuôn khổ hợp đồng 2,6 tỷ euro ký với Matxcơva năm 2009. Chiếc thứ năm hiện đang được cho chạy thử ở ngoài khơi thành phố St Petersburg và chiếc thứ sáu, chiếc cuối cùng, sẽ được hoàn tất vào năm tới.
Nhà phân tích chiến lược tại Matxcơva Vasily Khashin cho biết loại tàu ngầm hạng Kilo bán cho Việt Nam tối tân hơn loại tàu ngầm mà Trung Quốc đang sử dụng và Nga cũng chưa bao giờ bán tên lửa tấn công trên bộ Klub cho Bắc Kinh.
Một giáo sư môn quan hệ quốc tế tại Bắc Kinh cho rằng việc Việt Nam trang bị tên lửa tấn công trên bộ cho tàu ngầm là nằm trong xu hướng tái vũ trang « bình thường » trong khu vực, nhưng theo ông, Hà Nội nên ý thức cái giá phải trả nếu sử dụng vũ khí này chống Trung Quốc.
Còn theo lời ông Trevor Hollingsbee, nguyên là nhà phân tích tin tình báo hải quân của bộ Quốc phòng Anh, thì Việt Nam đang đặt ra cho Trung Quốc một bài toán chiến lược nan giải nhất trên Biển Đông.
Theo nhận định của các tùy viên quân sự trong khu vực và các nhà phân tích, việc trang bị tên lửa nói trên cho các tàu ngầm thể hiện quyết tâm của Việt Nam đối phó với thế lực quân sự ngày càng mạnh của Trung Quốc và nó cũng phản ánh xu thế chung của các nước châu Á hiện nay, gia tăng trang bị vũ khí trong bối cảnh căng thẳng do tranh chấp chủ quyền lãnh thổ.
Việt Nam hiện cũng dự tính mua các tên lửa diệt hạm. Nhưng nếu như những tên lửa này chỉ có thể nhắm vào các mục tiêu là tàu trên mặt nước và tàu ngầm của Trung Quốc, thì tên lửa tấn công trên bộ có tầm bắn tới 300 km, tức là có thể bắn tới các thành phố dọc theo các bờ biển Trung Quốc, nếu giữa hai nước nổ ra xung đột. Cũng cần phải ghi nhận rằng Việt Nam là quốc gia Đông Nam Á đầu tiên trang bị tên lửa tấn công trên bộ cho tàu ngầm.
Đối với giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về Việt Nam thuộc Học viện Quốc phòng Úc, hành động nói trên là một sự thay đổi đáng kể so với các chiến thuật diệt hạm bình thường. Giáo sư Thayer cho rằng với việc trang bị tên lửa tấn công trên bộ, Việt Nam tự tạo cho mình một khả năng ngăn chận mạnh hơn và điều này khiến cho những tính toán của Trung Quốc phức tạp hơn.
Thật ra, theo giáo sư Thayer, trong trường hợp xảy ra xung đột Việt-Trung, thay vì mạo hiểm oanh kích vào các thành phố như Thượng Hải, chắc là Hà Nội sẽ nhắm vào những mục tiêu như căn cứ hải quân trên đảo Hải Nam của Trung Quốc, cũng như vào các đảo mà Bắc Kinh đang bồi đắp trên Biển Đông.
Trước khi có tên lửa tấn công nói trên, khả năng tấn công trên bộ của Việt Nam rất giới hạn, vì chỉ dựa vào những tên lửa Scud cũ kỹ và một số vũ khí bắn từ những chiến đấu cơ Su-30 do Nga chế tạo.
Hải quân Việt Nam hiện đã tiếp nhận ba tàu ngầm hạng Kilo của Nga và chờ tiếp nhận chiếc thứ tư trong khuôn khổ hợp đồng 2,6 tỷ euro ký với Matxcơva năm 2009. Chiếc thứ năm hiện đang được cho chạy thử ở ngoài khơi thành phố St Petersburg và chiếc thứ sáu, chiếc cuối cùng, sẽ được hoàn tất vào năm tới.
Nhà phân tích chiến lược tại Matxcơva Vasily Khashin cho biết loại tàu ngầm hạng Kilo bán cho Việt Nam tối tân hơn loại tàu ngầm mà Trung Quốc đang sử dụng và Nga cũng chưa bao giờ bán tên lửa tấn công trên bộ Klub cho Bắc Kinh.
Một giáo sư môn quan hệ quốc tế tại Bắc Kinh cho rằng việc Việt Nam trang bị tên lửa tấn công trên bộ cho tàu ngầm là nằm trong xu hướng tái vũ trang « bình thường » trong khu vực, nhưng theo ông, Hà Nội nên ý thức cái giá phải trả nếu sử dụng vũ khí này chống Trung Quốc.
Còn theo lời ông Trevor Hollingsbee, nguyên là nhà phân tích tin tình báo hải quân của bộ Quốc phòng Anh, thì Việt Nam đang đặt ra cho Trung Quốc một bài toán chiến lược nan giải nhất trên Biển Đông.
Bắc Kinh phản hồi tin tên lửa Việt Nam bắn tới Trung Quốc
Một hợp đồng quân sự lớn nhất của Việt Nam gần đây là việc mua 6 chiếc tàu ngầm lớp Kilo của Nga năm 2009, trị giá khoảng 2 tỷ đôla.
Hàng nghìn binh sĩ hải quân Việt Nam hôm nay diễu binh đánh dấu 60 năm ngày thành lập, và người đứng đầu lực lượng này nói rằng việc “bảo vệ chủ quyền phức tạp hơn”.
07.05.2015
Bộ Quốc phòng Trung Quốc mới lên tiếng trước tin Việt Nam đang trang bị cho đội tàu ngầm tối tân loại tên lửa có khả năng bắn tới các thành phố ven biển của nước này.
Dữ liệu đăng trên trang web của Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế (SIPRI) cho thấy Việt Nam đang mua phiên bản dùng để tấn công đất liền của loại tên lửa Klub do Nga chế tạo.
Khi được hỏi về chuyện này, ông Cảnh Nhạn Sinh, phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Trung Quốc, nói rằng “quan hệ giữa hai nhà nước và quân đội giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn tiến triển bình thường”.
Ông Cảnh nói: “Cách đây không lâu, nhà lãnh đạo của Việt Nam [Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng] đã có chuyến thăm hiệu quả tới Trung Quốc, và lãnh đạo của hai nước đã đạt nhiều đồng thuận về việc phát triển mối quan hệ song phương hữu hảo và hợp tác”.
Phát ngôn viên của Bộ Quốc phòng quốc gia đông dân nhất thế giới nói thêm: “Quân đội Trung Quốc và Việt Nam cũng duy trì các cuộc trao đổi gần gũi. Và chúng tôi tin rằng chúng tôi có thể giữ cho quan hệ song phương cũng như quan hệ quân sự đi đúng hướng. Liên quan tới kế hoạc trao đổi thường niên giữa quân đội hai nước, quân đội Trung Quốc và Việt Nam sẽ tiến hành các chương trình trao đổi và thăm viếng lẫn nhau”.
Tuy nhiên, ông Cảnh Nhạn Sinh cũng cho rằng Philippines và Việt Nam “đã và đang xây dựng các cơ sở quân sự trên các đảo thuộc quần đảo Nam Sa [Việt Nam gọi là Trường Sa] mà họ đã chiếm giữ bất hợp pháp. Trung Quốc hết sức quan ngại và mạnh mẽ phản đối các hoạt động trái phép này”.
Các nhà quan sát tình hình khu vực nhận định rằng việc Hà Nội mua loại tên lửa của Nga là một dấu hiệu nữa cho thấy quyết tâm của Việt Nam nhằm đương đầu với Trung Quốc trong bối cảnh tranh chấp chủ quyền lãnh hải leo thang.
Loại tên lửa Klub có tầm bắn khoảng 300 km và vì thế, các thành phố ven biển của Trung Quốc có thể trở thành mục tiêu trong bất kỳ cuộc xung đột nào.Việt Nam là quốc gia Đông Nam Á đầu tiên trang bị tên lửa tấn công các mục tiêu trên bộ cho đội tàu ngầm.
Việt Nam chưa lên tiếng trước các thông tin về tên lửa Klub của Nga nhưng các quan chức nước này từng nói rằng việc mua sắm các loại vũ khí, trong đó có tàu ngầm, chỉ nhằm mục đích phòng thủ, đồng thời kêu gọi các bên kiềm chế.
‘Chạy đua vũ trang’
Một hợp đồng quân sự lớn nhất của Việt Nam gần đây là việc mua 6 chiếc tàu ngầm lớp Kilo của Nga năm 2009, trị giá khoảng 2 tỷ đôla, và dự kiến sẽ được bàn giao tất cả vào năm 2016.
Mới đây, Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế nói rằng chính quyền Hà Nội tiếp tục gia tăng chi tiêu quân sự với mức tăng 9,6% trong năm 2014, lên 4,3 tỷ đôla.
Mức tăng chi tiêu này cao hơn so với mức trung bình 5% của khu vực châu Á và châu Đại Dương.
Theo Viện nghiên cứu này, tính từ năm 2005 tới nay, chi tiêu quân sự của Việt Nam tăng nhanh tới 128%, và điều đó xuất phát từ tình hình căng thẳng với Trung Quốc tại biển Đông.
Tôi nghĩ một trong những vấn đề lớn nhất hiện nay là nhiều quốc gia thấy sự khó lường của Bắc Kinh và tự hỏi Trung Quốc sẽ làm gì với sức mạnh ngày càng lớn của mình. Điều này đã dẫn tới lo ngại, và các quốc gia trong vòng ảnh hưởng của Trung Quốc đang chi nhiều tiền hơn để vũ trang so với nếu họ không cảm thấy bất an vì Trung Quốc.
Bà Linda Jakobson, học giả tại Viện nghiên cứu chính sách quốc tế Lowy ở Sydney, Australia, nói.
Năm qua, chính quyền Bắc Kinh, quốc gia hiện có tranh chấp chủ quyền lãnh hải với Việt Nam và một số quốc gia khác trên biển Đông, chi tới 216 tỷ đôla cho quân sự.
Bà Linda Jakobson, một nhà nghiên cứu độc lập và là một học giả tại Viện nghiên cứu chính sách quốc tế Lowy ở Sydney, Australia, cho rằng các chính sách không đồng nhất của Trung Quốc về vấn đề biển Đông đã làm các quốc gia láng giềng, trong đó có Việt Nam, lo ngại.
Tác giả của nghiên cứu dài hơn 50 trang về chính sách an ninh hàng hải của Trung Quốc nói với VOA Việt Ngữ: “Tôi nghĩ một trong những vấn đề lớn nhất hiện nay là nhiều quốc gia thấy sự khó lường của Bắc Kinh và tự hỏi Trung Quốc sẽ làm gì với sức mạnh ngày càng lớn của mình. Điều này đã dẫn tới lo ngại, và các quốc gia trong vòng ảnh hưởng của Trung Quốc đang chi nhiều tiền hơn để vũ trang so với nếu họ không cảm thấy bất an vì Trung Quốc”.
Theo Sách trắng về Quốc phòng của Việt Nam công bố lần gần đây nhất là năm 2009, Việt Nam đã chi hơn 27 nghìn tỷ đồng, tương đương 1,8% tổng sản phẩm quốc nội, cho ngân sách quốc phòng trong năm 2008.
Cuối tuần trước, hàng nghìn binh sĩ hải quân Việt Nam đã tham gia cuộc diễu binh đánh dấu 60 năm ngày thành lập, trong bối cảnh Trung Quốc đang mạnh mẽ khẳng định chủ quyền trên biển Đông bằng việc bồi đắp, xây các đảo nhân tạo mà giới chức Mỹ nói sẽ tạo nên Vạn lý Trường thành bằng cát.
Cuối tuần trước, hàng nghìn binh sĩ hải quân Việt Nam đã tham gia cuộc diễu binh đánh dấu 60 năm ngày thành lập, trong bối cảnh Trung Quốc đang mạnh mẽ khẳng định chủ quyền trên biển Đông bằng việc bồi đắp, xây các đảo nhân tạo mà giới chức Mỹ nói sẽ tạo nên Vạn lý Trường thành bằng cát.
Ngòai ra, các chiến hạm, tàu tuần tra, tàu ngầm Kilo và nhiều biên đội tàu mặt nước của Hải quân Việt Nam đã duyệt đội hình trên biển tại quân cảng Cam Ranh thuộc tỉnh Khánh Hòa.
Đô đốc Nguyễn Văn Hiến, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Hải quân Việt Nam, được báo chí trích lời nói: “Tình hình trên biển Đông, cũng như các vùng biển nước ta đã và đang diễn ra những diễn biến phức tạp, xuất hiện nhiều động thái mới, ảnh hưởng trực tiếp đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc”.
Ông nói thêm rằng “sự nghiệp đấu tranh bảo vệ chủ quyền đã và đang bước vào một giai đoạn mới, nặng nề và phức tạp hơn”.
http://www.voatiengviet.com/content/bac-kinh-phan-hoi-tin-ten-lua-cua-viet-nam-ban-toi-trung-quoc/2752556.htmlTrung Quốc 'đẩy mạnh cơi nới đảo'
- 9 tháng 5 2015
Giới chức nước này cho biết Trung Quốc đã cải tạo 810 ha đất kể từ đầu năm 2014.
Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với hầu hết Biển Đông.
Các nước khác cáo buộc hoạt động thi công đảo nhân tạo của Bắc Kinh là bất hợp pháp và có thể được sử dụng cho mục đích quân sự.
Trung Quốc nói việc cơi nới đảo là hợp pháp và cần thiết nhằm bảo vệ chủ quyền.
Trong một báo cáo, Ngũ Giác Đài nói Trung Quốc đã cải tạo 200 ha đất tại 5 đảo thuộc quần đảo Trường Sa trong năm 2014.
Giới chức Hoa Kỳ nói 610 ha đất khác đã được cải tạo kể từ đó.
Báo cáo nói "mục đích cuối cùng của kế hoạch cơi nới đảo vẫn chưa được làm rõ", nhưng cũng cho biết Trung Quốc có khả năng muốn "thay đổi thực trạng" bằng cách củng cố hệ thống phòng thủ trên Biển Đông.
Việt Nam nới đảo
Trong khi đó, hôm 7/5, Viện Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược (CSIS) nói với hãng tin Reuters rằng họ có các hình ảnh vệ tinh cho thấy Việt Nam cũng đã bồi đắp các đảo tranh chấp trên Biển Đông.Tuy vậy, quy mô và nhịp độ của các công trình này còn nhỏ so với của Trung Quốc, theo CSIS.
Hình ảnh vệ tinh của CSIS cho thấy Việt Nam đã bồi đắp hai đảo mà nước này đang kiểm soát, đó là đảo Sơn Ca (Sand Cay) và đảo Đá Tây (West London Reef), thuộc quần đảo Trường Sa.
Bà Mira Rapp-Hooper, giám đốc Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á của CSIS, nói công trình bồi đắp đảo của Việt Nam bao gồm cả các cơ sở quân sự và dường như bắt đầu trước khi Trung Quốc tiến hành ồ ạt các công trình vào năm 2014.
Các bức hình của công ty DigitalGlobe chụp từ 2010 đến 30/4 năm nay.
Bà Rapp-Hooper nói Trung Quốc “đúng” khi cáo buộc Việt Nam.
“Nhưng có thể nói rằng quy mô và nhịp độ của Trung Quốc là chưa từng thấy và hơn gấp nhiều lần so với Việt Nam.”
Theo bà, Việt Nam đã bồi đắp thêm 65 ngàn mét vuông cho đảo Đá Tây và 21 ngàn mét vuông cho đảo Sơn Ca.
Trong khi đó, Trung Quốc bồi đắp 900 ngàn mét vuông chỉ riêng cho Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef).
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2015/05/150509_china_island_buildings
VN phản đối TQ về 'xây dựng trên biển'
- 8 tháng 5 2015
Việt Nam phản đối cáo buộc của Trung Quốc nói Việt Nam đã “mở rộng, bồi đắp lấn biển quy mô lớn tại các đảo, đá” ở Biển Đông.
Hôm 8/5, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình nói Việt Nam “có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử để khẳng định chủ quyền”.
Ông Bình lên án Trung Quốc: “Những hoạt động tôn tạo, mở rộng đảo, đá mà Trung Quốc đang tiến hành đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông, gây lo ngại sâu sắc trong cộng đồng quốc tế, trong đó có ASEAN.”
Ông nói: “Một lần nữa Việt Nam yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay các hoạt động này, nghiêm túc tuân thủ và thực thi luật pháp quốc tế.”
Hôm 29/4, Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói Philippines và Việt Nam “tiến hành hoạt động xây dựng trái phép các đảo ở Nam Sa của Trung Quốc mà họ chiếm đóng trái phép”.
Người phát ngôn Hồng Lỗi cáo buộc Philippines và Việt Nam “tiến hành xây dựng công trình, đào lấp biển quy mô lớn, xây dựng công trình cố định như sân bay, thậm chí bố trí vũ khí tấn công như tên lửa v.v trên chuỗi đảo Nam Sa của Trung Quốc do những nước này chiếm đóng phi pháp”.
Tuyên bố của Việt Nam không bác bỏ cáo buộc “xây dựng công trình” mà Trung Quốc đưa ra.
Một phóng viên cũng đặt câu hỏi về việc Trung Quốc mời Mỹ và các nước khác sử dụng những cơ sở dân sự mà Trung Quốc đang xây dựng trên Biển Đông cho hoạt động tìm kiếm cứu nạn.
Ông Lê Hải Bình trả lời: “Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là không thể tranh cãi và chúng tôi yêu cầu các bên liên quan tôn trọng chủ quyền của Việt Nam. Mọi hoạt động của các bên tại hai khu vực này mà không được sự chấp thuận của Việt Nam đều là bất hợp pháp và vô giá trị.”
‘Hoạt động của Việt Nam’
Trong khi đó, hôm 7/5, Viện Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược (CSIS) nói với hãng tin Reuters rằng họ có các hình ảnh vệ tinh cho thấy Việt Nam cũng đã bồi đắp các đảo tranh chấp trên Biển Đông.
Tuy vậy, quy mô và nhịp độ của các công trình này còn nhỏ so với của Trung Quốc, theo CSIS.
Hình ảnh vệ tinh của CSIS cho thấy Việt Nam đã bồi đắp hai đảo mà nước này đang kiểm soát, đó là đảo Sơn Ca (Sand Cay) và đảo Đá Tây (West London Reef), thuộc quần đảo Trường Sa.
Bà Mira Rapp-Hooper, giám đốc Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á của CSIS, nói công trình bồi đắp đảo của Việt Nam bao gồm cả các cơ sở quân sự và dường như bắt đầu trước khi Trung Quốc tiến hành ồ ạt các công trình vào năm 2014.
Các bức hình của công ty DigitalGlobe chụp từ 2010 đến 30/4 năm nay.
Bà Rapp-Hooper nói Trung Quốc “đúng” khi cáo buộc Việt Nam.
“Nhưng có thể nói rằng quy mô và nhịp độ của Trung Quốc là chưa từng thấy và hơn gấp nhiều lần so với Việt Nam.”
Theo bà, Việt Nam đã bồi đắp thêm 65 ngàn mét vuông cho đảo Đá Tây và 21 ngàn mét vuông cho đảo Sơn Ca.
Trong khi đó, Trung Quốc bồi đắp 900 ngàn mét vuông chỉ riêng cho Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef).
Saturday, March 7, 2015
PHÙNG QUÁN * THẰNG KHÙNG
THẰNG KHÙNG TRONG TRẠI TÙ CẢI TẠO
Mặc dầu là một Phật tử, xin mời các hiền huynh và quý bạn đọc bài viết nói về Cha Chính Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh là một chứng nhân của thời đại, một linh mục Công Giáo Việt Nam can trường, hậu thế kính tôn và ghi ân ngài.
(viết lại theo lời kể của nhà văn Nguyễn Tuân)
(viết lại theo lời kể của nhà văn Nguyễn Tuân)
"… Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội chính trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm chính trị. Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm giác anh ta là một khúc củi rều, do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng có thể năm mươi. Gương mặt anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ, như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống rác. Người anh ta cao lòng khòng, tay chân thẳng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da, gân với xương.
Trên người, tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu mình cứ tưởng anh ta bị câm vì suốt ngày ít khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ để nhếch mép cười. Thật ra anh ta chỉ là người quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi chào cung kính, nhưng không chuyện trò với bất cứ ai. Nhưng không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái gì đó làm mình đặc biệt chú ý, cứ muốn làm quen…Nhiều lần mình định bắt chuyện, nhưng anh ta nhìn mình với ánh mắt rất lạ, rồi lảng tránh sau khi đã cúi chào cung kính.
Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều thương anh ta. Những trại viên được gia đình tiếp tế người để dành cho anh ta viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc.
Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn tranh. Đó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi "thằng khùng" (tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm. Với bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đã từng đánh đập anh ta, anh ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm rửa cho người chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ.
Lúc tắm rửa, kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái gì đó không ai nghe rõ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược gãy, chải tóc cho người chết, nếu người chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần lành lặn nhất của người tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng xác đặt vào áo quan được đóng bằng gỗ tạp sơ sài
Anh ta cuộn những bộ áo quần khác thành cái gói vuông vắn, đặt làm gối cho người chết. Nếu người tù không có áo xống gì, anh ta đẽo gọt một khúc cây làm gối. Khi đã hoàn tất những việc trên, anh ta quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên trán người tù chết, và bật khóc.
Anh ta khóc đau đớn và thống thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác người nằm trong áo quan là anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người tù nào anh ta cũng khóc như vậy. Một lần giám thị trại gọi anh ta lên:
- Thằng tù chết ấy là cái gì với mày mà mày khóc như cha chết vậy?
Anh ta chấp tay khúm núm thưa:
- Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy mà. Người chết mà không có tiếng khóc tống tiễn thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó tìm cách làm hại cán bộ. Lúc hắn còn sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây là vong hồn hắn, cán bộ muốn xích cổ, cũng không xích được.
Thằng khùng nói có lý. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu thì khóc. Nhưng mình không tin là anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt vàng úa, nhăn nhúm của anh ta chan hòa nước mắt. Cả thân hình gầy guộc của anh ta run rẩy. Mình có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người anh ta cũng khóc…
Trong tiếng khóc và nước mắt của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn tả. Nghe anh ta khóc, cả những trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, "đầu chày, đít thớt, mặt bù loong" cũng phải rơm rớm nước mắt. Chỉ có nỗi đau đớn chân thật mới có khả năng xuyên thẳng vào trái tim người. Mình thường nghĩ ngợi rất nhiều về anh ta. Con người này là ai vậy? Một thằng khùng hay người có mối từ tâm lớn lao của bậc đại hiền?…
Thế rồi, một lần, mình và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho dầm nước. Trời nóng như dội lửa. Bãi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng như than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ trải một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi. Người lính gác ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và mình phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. Vì mảng bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau. Anh ta bỗng lên tiếng trước, hỏi mà đầu không quay lại:
- Anh Tuân này - không rõ anh ta biết tên mình lúc nào- sống ở đây anh thèm cái gì nhất?
- Thèm được đọc sách - mình buột miệng trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ anh ta chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc biết viết cũng nên.
- Nếu bây giờ có sách thì anh thích đọc ai? - anh ta hỏi.
- Voltaire! - một lần nữa mình lại buột miệng. Và lại nghĩ: Nói với anh ta về Voltaire thì cũng chẳng khác gì nói với gốc cây mủng mà mình đang ngồi dựa lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện trò bộc bạch với con người nó cũng lớn như nhu cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai nghe mình, hiểu mình hay không. Đó chính là tâm trạng của anh công chức nát rượu Marmeladov bất chợt nói to lên những điều tủi hổ nung nấu trong lòng với những người vớ vẩn trong một quán rượu tồi tàn, mà Dostoievsky miêu tả trong “Tội ác và Trừng phạt”
Anh ta ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:
- Trong các tác phẩm của Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào?
Mình sửng sốt nhìn anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: một người nào khác đã ngồi thay vào chỗ anh ta… Mình lại liên tưởng đến một cậu làm việc cùng phòng hồi còn ở Đài phát thanh, tốt nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho Pin.
Mình trả lời anh ta:
- Tôi thích nhất là Candide.
- Anh có thích đọc Candide ngay bây giờ không?
Không đợi mình trả lời, anh ta nói tiếp:
- Không phải đọc mà nghe… Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.
Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậm rãi, phát âm chuẩn và hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy mình ở trường Providence. Mình trân trân nhìn cái miệng rúm ró, răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nhìn phép lạ. Còn anh ta, mắt vẫn không rời dòng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta đang đọc thiên truyện Candide nguyên bản được chép lên mặt sông…
Anh đọc đến câu cuối cùng thì kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến giờ lùa trâu về trại. Người lính gác trên bờ cao nói vọng xuống: "Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!".
- Chúng mình lùa trâu lên bờ đi! - anh nói.
Lội ra đến giữa sông, mình hỏi anh ta:
- Anh là ai vậy?
Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả lời:
- Tôi là cái thanh ngang trên cây thập tự đóng đinh Chúa.
Rồi anh ta tiếp:
- Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi…
Giáp mặt người lính canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn - ngu ngơ, đần độn như thường ngày.
Cuối mùa đông năm đó, anh ta ngã bệnh. Nghe các trại viên kháo nhau mình mới biết.
Thằng chuyên gia khâm liệm e đi đong. Thế là nếu bọn mình ngoẻo, sẽ không còn được khâm liệm tử tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn… - những người tù nói, giọng buồn.
Mình gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta.
Giám thị hỏi:
- Trước kia anh có quen biết gì thằng này không?
Mình nói:
- Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi.
Giám thị đồng ý cho mình đến thăm, có lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm, hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co giật…
Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt, chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười. Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè luỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều thào nói:
- Tuân ở lại, mình đi đây… Đưa bàn tay đây cho mình…
Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than viết vào lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN.
Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co giật.
Người lính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ Nhẫn ngửa ra. Người lính canh ngờ rằng đó là một ám hiệu.
Giám thị hỏi:
- Cái hình nguệch ngoạc này có ý nghĩa gì? Anh mà không thành khẩn khai báo, tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam.
Mình nói
- Thưa cán bộ, thật tình tôi không rõ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng cậu một đạo bùa để xua đuổi bệnh tật và tà khí.
Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…
Phùng Quán
________Ghi Chú:
(*) THẰNG KHÙNG trong tù này là Cha Chính Vinh, tức là Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH (1912-1971), của Nhà thờ lớn Hà Nội. Bài viết của Phùng Quán đã kể lại chuyện thật những năm, những ngày cuối trong ngục tù của Ngài.
Xin mời đọc thêm (bài kèm theo dưới đây) tiểu sử của Cha Vinh để chúng ta biết thêm nhiều chi tiết về cuộc đời Ngài; và cũng để hiểu thêm gương phụng sự Chúa của Ngài….
Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH,
Cha chính Hà Nội, (1912 – 1971).
TẤM GƯƠNG CAN TRƯỜNG
Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH*
Cha Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh chào đời ngày 2 tháng 10 năm 1912 tại làng Ngọc Lũ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Cậu Vinh, một thiếu niên vui vẻ, thông minh, có năng khiếu nghệ thuật bẩm sinh về âm nhạc, ca hát. Cậu biết kính trên, nhường dưới, trong xứ đạo, ai cũng quý yêu. Cha xứ Ngọc Lũ thời đó là Cố Hương, một cha người Pháp tên là Dépaulis giới thiệu cậu lên học tại trường Puginier Hà Nội. Năm 1928, cậu học Tiểu Chủng viện Hoàng Nguyên, Phú Xuyên, Hà Tây.
Năm 1930, thầy Vinh được cố Hương dẫn sang Pháp du học. Năm 1935, thầy vào Đại Chủng viện St Sulpice, Paris. Ngày 20-6-1940, thầy được thụ phong linh mục ở Limoges. Chiến tranh thế giới xảy ra, cha Vinh phải ở lại Pháp và tiếp tục học tập. Ngài học Văn Khoa - Triết tại Đại Học Sorbone, học sáng tác và hòa âm tại Nhạc viện Quốc Gia. Ngài phải vừa học vừa làm. Vóc dáng nhỏ nhắn dễ thương của ngài đã làm cho nhiều người Pháp tưởng lầm ngài là phụ nữ nên cứ chào: “Bonjour Madame!”
Nhưng ẩn trong cái dáng vóc nhỏ bé đó là một tâm hồn rộng lớn, sau đôi mắt sáng là tính cương trực, dưới nụ cười là ý chí sắt son.
Sau khi tốt nghiệp cử nhân Văn Triết ở Sorbone, ngài gia nhập dòng khổ tu Biển Đức tại Đan Viện Ste Marie.
Sau 17 năm du học, năm 1947 cha Vinh về nước, nhằm góp sức xây dựng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vững mạnh về mọi mặt. Khi ấy, Đức cha François Chaize - Thịnh, Bề trên Giáo phận đã bổ nhiệm ngài làm cha xứ Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Ngài xin Bề trên lập dòng Biển Đức ở Việt Nam, nhưng không thành.
Cha Vinh, dù tu học ở Pháp nhưng luôn có tinh thần yêu nước, độc lập, không nệ Pháp. Năm 1951, Nhà Thờ Lớn Hà Nội tổ chức lễ an táng cho Bernard, con trai tướng De Lattre de Tassigni. Trong thánh lễ, tướng De Lattre kiêu căng đòi đặt ghế của ông trên cung thánh và bắt chuyển ghế của Trần Văn Hữu, Thủ tướng Việt Nam xuống dưới lòng nhà thờ. Vì lòng tự trọng dân tộc, danh dự quốc gia, cha Vinh cương quyết không chịu.
Tướng De Lattre rất tức giận, gọi cha Vinh tới, đập bàn quát tháo, đe dọa. Cha Vinh cũng đập bàn, lớn tiếng đáp lại, quyết không nhượng bộ, nhưng Thủ Tướng ngại khó nên tự nguyện rút lui. Sau vụ đó, để tránh căng thẳng, Đức Cha Khuê đã chuyển cha Vinh làm giáo sư của Tiểu Chủng Viện Piô XII, phụ trách Anh văn, Pháp văn, âm nhạc, triết học; ngài khiêm tốn vâng lời. Ngài cũng giảng dạy Văn Triết ở trường Chu Văn An.
Năm 1954, Đức cha Trịnh Như Khuê cho phép cha Vinh và cha Nhân đưa chủng sinh đi Nam, nhưng cả hai đều xin ở lại sống chết với giáo phận Hà Nội, dù biết hoàn cảnh đầy khó khăn, nguy hiểm. Đức Cha Khuê bổ nhiệm ngài làm Cha Chính, kiêm Hiệu Trưởng trường Dũng Lạc.
Ngài tổ chức lớp học giáo lý cho các giới, có những linh mục trẻ thông minh, đạo đức cộng tác, như cha Nguyễn Ngọc Oánh, cha Nguyễn Minh Thông, cha Phạm Hân Quynh. Lúc đầu, lớp học được tổ chức thành nhóm nhỏ tại phòng khách Tòa Giám Mục, về sau, con số người tham dự tăng dần, lớp học được chuyển tới nhà préau, và ngồi ra cả ngoài sân. Lớp học hiệu quả rất lớn, những tín hữu khô khan trở thành đạo đức nhiệt thành, ảnh hưởng lan tới cả giới sinh viên và giáo sư đại học, nhiều người gia nhập đạo. Sau chính quyền ra lệnh ngừng hoạt động vì lý do an ninh.
Khi cha Vinh đang làm Hiệu Trưởng Dũng Lạc, Chính phủ ra chỉ thị phải treo ảnh lãnh tụ thay vào ảnh Thánh Giá ở các lớp học. Ngài không tuyên đọc chỉ thị cũng không tháo bỏ Thánh giá, nên năm 1957, trường bị đóng cửa.
Thời bấy giờ, Đại học Y khoa Hà Nội thiếu giáo sư, nên đã đề nghị Đức Cha Khuê cử cha Vinh đến trường dạy La tinh. Nhiều sinh viên cảm phục ngài. Một hôm, Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc đến thăm trường, thấy bóng dáng chiếc áo chùng thâm linh mục, ông nói với đoàn tháp tùng: “Đến giờ này mà còn có linh mục dạy ở Đại Học quốc gia ư?” Ít lâu sau trường Đại học Y khoa không mời cha dạy nữa.
Biết tài năng và kiến thức âm nhạc của ngài, nhiều nhạc sĩ ở Hà Nội tìm cha Vinh tham khảo ý kiến và nhờ xem lại những bản nhạc, bài ca họ mới viết.
Cha Vinh, một trong những nhạc sĩ tiên phong của Thánh nhạc Việt Nam, và là một nhạc sĩ toàn tài. Ngài chơi vĩ cầm và dương cầm thật tuyệt, chính ngài là người Việt Nam đầu tiên chơi vĩ cầm ở Hà Nội.
Ngài có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, lại được học tập chu đáo nên đã sáng tác và để lại nhiều nhạc phẩm thánh ca tuyệt vời. Cha Vinh trình bày bản hợp tấu “Ở Dưới Vực Sâu” nhân cuộc đón tiếp phái đoàn Việt Nam do ông Hồ Chí Minh dẫn đầu sang dự Hội Nghị Fontainebleau năm 1946.
Ngài cộng tác với Hùng Lân sáng tác “Tôn Giáo Nhạc Kịch Đa-Vít.” Sáng tác nhiều nhạc phẩm lớn: “Mở Đường Phúc Thật,” “Tôn Vinh Thiên Chúa Ba Ngôi,” “Ôi GiaVi,” “Lạy Mừng Thánh Tử Đạo.” Ngài phổ nhạc cho các Ca Vịnh 8 , Ca vịnh 16, Ca vịnh 23, Ca vịnh 41, Ca vịnh 115 và nhiều bài hát khác như Đức Mẹ Vô Nhiễm, Thánh Tâm Giêsu. Ngài còn viết những bài ca sinh hoạt: Sao Mai, Đời Người, phổ nhạc bài “Bước Tới Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan.
Hằng tuần ngài đến dạy nhạc, xướng âm và tập hát bên chủng viện Gioan. Cha Vinh có giọng nam cao, âm hưởng thanh thoát, lôi cuốn. Ngài tổ chức và chỉ huy dàn đồng ca trong nhiều cuộc lễ và rước kiệu lớn như cuộc Cung Nghinh Thánh Thể từ Hàm Long về Nhà Thờ Lớn Hà Nội.
Năm 1957, Nhà nước muốn tỏ cho dân chúng trong nước và thế giới thấy là ở Việt Nam đạo Công giáo vẫn được tự do hành đạo và tổ chức được những lễ nghi long trọng, tưng bừng. Dịp Lễ Noel, chính quyền tự động cho người đến chăng dây, kết đèn quanh Nhà Thờ Lớn, sau lễ họ vào đòi nhà xứ Hà Nội phải thanh toán một số tiền chi phí lớn về vật liệu và tiền công.
Năm 1958 cũng thế, gần đến lễ Noel, không hề hỏi han, xin phép, một số người của Nhà nước ngang nhiên đưa xe ô tô chuyển vật liệu, tự động bắc thang, chăng dây treo bóng điện màu trang trí ở mặt tiền và trên hai tháp Nhà Thờ Lớn. Cha xứ thời đó là cha Trịnh Văn Căn bảo vệ chủ quyền Giáo Hội trong khuôn viên cơ sở tôn giáo, không đồng ý, nhưng họ cứ làm. Để phản đối, cha Căn liền cho kéo chuông nhà thờ cấp báo, giáo dân kéo đến quảng trường nhà thờ rất đông ủng hộ cha xứ, hai bên to tiếng.
Cha Căn gọi Cha Vinh ra can thiệp, sau một hồi tranh luận không kết quả, cha Vinh kéo những người của Nhà nước đang leo thang chăng đèn xuống, rồi chính ngài leo lên thang, hai tay đưa cao trước mặt, hai bàn tay nắm lại, hai cườm tay đặt lên nhau, làm dấu hiệu còng tay số 8, và nói lớn:
“Tự do thế này à!”
Vụ giằng co lộn xộn kéo dài suốt buổi sáng, công cuộc trang trí không thành. Cha Căn, cha Vinh cùng một số giáo dân bị cơ quan an ninh thẩm vấn, đem ra xét xử. Tòa án Hà Nội tuyên án: Cha Trịnh Văn Căn, Chính xứ Nhà Thờ Lớn, người chịu trách nhiệm tổ chức lễ Noel năm 1958 chịu án 12 tháng tù treo.
Cha Chính Nguyễn Văn Vinh chịu án 18 tháng tù giam, với tội danh: “Vô cớ tập hợp quần chúng trái phép, phá rối trị an, cố tình vu khống, xuyên tạc chế độ, gây chia rẽ trong nhân dân” (!).
Sau phiên tòa, cha Vinh bị đưa đi giam ở Hỏa Lò, sau bị chuyển đi nhiều trại giam khác như Chợ Ngọc, Yên Bái, cuối cùng là trại “Cổng Trời”, nơi dành riêng cho các tù nhân tử tội.
Khi cha Vinh mới đến trại Yên Bái, ngài còn được ở chung với các tù nhân khác, nhiều giáo dân, chủng sinh, tu sĩ đến xin cha giải tội, vì thế ngài bị kỷ luật, phải biệt giam, bị cùm chân trong xà lim tối. Mấy tháng sau được ra, ngài lại ban phép giải tội. Cán bộ hỏi: “Tại sao bị cùm, bị kỷ luật, được ra, anh tiếp tục phạm quy?”
Ngài đáp:
“Cấm là việc của các ông, giải tội là việc của tôi, còn sống ngày nào, tôi phải làm bổn phận mình!”
Ở tù đói rét là đương nhiên, lúc nào cũng đói, hằng ngày mỗi bữa một bát sắn độn cơm, ăn với lá bắp cải già nấu muối, khi chia cơm phải cân đong từng chút một... Một lần cha Vinh nhận được gói bưu kiện do cha Cương, quản lý Nhà Chung Hà Nội, gửi lên, trong đó có ít thức ăn, lương khô và vài đồ dùng cá nhân, ngài đem chia sẻ cho anh em trong nhóm, cả Công giáo lẫn lương dân, ăn chung, dùng chung. Anh em tù hình sự thân thương gọi ngài là “Bố.”
Ngay trong nhà tù, cha Vinh vẫn can đảm bảo vệ người bị áp bức, có lần một tổ trưởng đánh đập tù nhân, ngài lên tiếng bênh vực, liền bị người tổ trưởng này xông đến giang tay đánh, ngài đưa tay gạt, anh ta ngã khụy. Từ đó trong trại có tiếng đồn cha Vinh giỏi võ, mọi người phải nể vì.
Một cán bộ cao cấp ở Hà Nội lên Cổng Trời gặp cha Vinh, nói: “Đảng và Chính phủ muốn anh được tha về, nhưng với điều kiện phải cộng tác với linh mục Nguyễn Thế Vịnh (Chủ tịch Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo). Nếu anh đồng ý, anh có thể về Hà Nội ngay bây giờ với tôi”. Ngài khẳng khái đáp: “Ông Vịnh có đường lối của ông Vịnh. Tôi có đường lối của tôi”.
Vì không khuất phục được ngài, nên bản án từ 18 tháng tù giam, không qua một thủ tục pháp lý án lệnh nào, đã biến thành 12 năm tù kiên giam, xà lim, biệt giam và án tử.
Năm 1971, khi ngài từ trần không ai được biết, một năm sau, chính quyền mới báo cho Đức Cha Khuê và cha Cương quản lý Nhà Chung: “Ông Vinh đã chết. Không được làm lễ áo đỏ cho ông Vinh!”
Suốt đời mình, trong mọi tình huống cha Chính Vinh làm tròn trách vụ của mình. Ngài đã mạnh mẽ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho đức tin, khi thuận tiện cũng như khó khăn. Vượt mọi thử thách gian khó, không chịu khuất phục trước cường quyền, luôn trung kiên với Thiên Chúa và Giáo Hội.
Cha Chính Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh là một chứng nhân của thời đại, một linh mục Công Giáo Việt Nam can trường, hậu thế kính tôn và ghi ân ngài.
TGP. Hà Nội - 2013
BBT (Theo HĐGMVN)
( Hồ Công Tâm chuyển ).
VÂN HÀ * VƯỢT BIÊN
Tác giả/Nhân vật: Vân Hà |01-04-2014| 191 lần xem | |
22 tuổi, không kịp từ giã người yêu, người đang mang giọt máu của tôi trong bụng mà tôi không hề biết, bước xuống con tàu định mệnh đưa tôi rời khỏi quê hương để rồi thay đổi cả số phận của cuộc đời mình.
Từ Saigon ngày 11-6-1980 tôi về Rạch Giá cùng với gia đình anh Hai, anh của người chị kết nghĩa LNT, người cùng chung mái trường LVC và 3 người con của anh chị hai.
Hôm sau chúng tôi về Tắc Cậu và lên Tàu ở Bến cây xăng Đại Thành, nhà bác cả của tôi. Chiếc ghe dài khoảng 20m,ngang 5m, trên ghe chứa 92 người, hầu hết là đàn bà và trẻ em, đa số là người Bắc ở Ông Tạ.
Ghe rời bến khoảng 11 giờ khuya, chạy cặp ven sông Lớn để đón người ở vài điểm hẹn, rồi chạy thẳng ra cửa biển sau khi bị vướng lưới đóng đáy, cũng nhờ 10 em nhỏ ngồi thuyền thúng đẩy ra khỏi khu vực có đáy rồi các em xin được lên ghe cùng đi tiếp. Khi gần ra khỏi cửa sông, bên phải là vùng trời sáng rực của thị xã Rạch Giá, nơi tôi chào đời, bên trái là vùng biển trời mênh mông, tôi nghe lòng mình như đau tê tái, có bao giờ tôi được nhìn lại nơi này không, má tôi, em tôi, nguời tôi yêu, tất cả kỷ niệm trong đời chợt thoắt hiện rả
Ba tôi và cô Ní, người em họ của ba, đứng trên mũi ghe dẫn đường, vói qua ghe tôi để thu nhận thư từ của người ra đi nhắn gởi cho nguời ở lại, cũng là bằng chứng để trao số tiền còn lại cho những thân nhân đánh đổi tất cả ra đi tìm lẻ sống. Tôi đứng ở phía bánh lái, ba đưa mắt tìm tôi rồi khoát tay, ý như bảo con đi đi. Tôi ráng cầm nước mắt (con trai mà), dõi theo bóng chiếc ghe của ba lui lại, ghe của tôi rẽ trái, bị nuốt chững vào bóng đêm, bắt đầu cho những thảm cảnh trên biển cả.
Tàu chạy suốt đêm, tới quá trưa thì qua khỏi Hòn Chuối, thấy xa xa có bóng dáng hai chiếc tàu, tưởng sắp tới hải phận, nào ngờ đến gần thấy rõ hàng chữ QUỐC DOANH ĐÁNH CÁ VŨNG TÀU CÔN ĐẢO, ai cũng thất vọng ê chề, thôi rồi chắc là bị bắt lại.
Hai chiếc tàu áp lại bên thuyền vượt biển, bên chiếc thứ nhất, ba người nhảy qua ghe, những người còn lại trên tàu chỉa súng, như sẵn sàng nả đạn bắn nếu có chống cự. Họ đòi tiền và hứa không báo về đất liền. Mọi người gom hết tiền bạc tư trang đưa cho họ. Những người bên tàu thứ nhất vừa rời ghe, tách ra một quãng thì chiếc thứ hai sấn tới. Lần này họ lục soát trên người và lấy đi vàng của những người đi vượt biển cất dấu. Khi họ rời tàu, mọi người như mất tinh thần, nhưng cũng mừng vì không bị bắt, có điều trước khi rời tàu họ đã đập cong bánh lái để không thể điều khiển và lấy đi cái Hải bàn.
Tài công là một vị sĩ quan Hải Quân , tên Tín( tụi tôi gọi lén là Tín mặt rỗ) anh tìm cách xử dụng bánh lái, đầu tiên là đập bỏ ván xung quanh, dạy tôi cách xoay sợi dây xích mỗi khi anh cần bẻ lái. Nhờ vậy chiếc ghe có thể đi đúng hướng và anh cứ lấy sao Bắc Đẩu làm chuẩn mà thôi.
Chủ ghe mua thức ăn dự trử chất trên tàu đầy đủ nhưng vì thiếu kinh nghiệm, để phía trên boong tàu nên khi tàu ra biển khơi, sóng lớn nhồi vài đợt , mọi thứ bị hất tung xuống nuớc, đến chừng nhận ra điều đó thì đã muộn, đồ ăn thức uống đã không còn. Trên ghe lúc này ai có thức ăn mang ra chia xẻ, mỗi người chỉ có một chút ít để ăn tạm cho qua cơn đói mà thôi.
Chiếc tàu thứ ba chúng tôi gặp là tàu của những người ngư phủ đánh cá Thái Lan. Họ cho nước uống và mì gói rồi chỉ hướng cho tài công chạy tới, không ngờ đó là hướng đi định mệnh mà trên tàu ai cũng nghĩ họ đã cấu kết với nhau: Trong sáu ngày sáu đêm, chúng tôi bị tàu Thái Lan chận cuớp 15 lần
Đau lòng nhất là lần cuớp thứ 14, không còn gì để vơ vét, bọn cướp Thái xoay qua hãm hiếp 2 đứa bé gái là hai chị em, đứa 14, đứa 16. Mặc cho những người trên tàu van xin. Chúng chỉa súng vào mọi người và thay phiên nhau thỏa mãn thú tính. Chúng tôi chỉ biết khóc thương cho các em, trên tàu có cha Hiệp, ông đã cùng chúng tôi cầu nguyện xin chúa ban phước lành cho hai em, sau khi bọn cướp rời bỏ con tàu.
Chiếc tàu thứ 15 lại tấp vào để cướp bóc, lần này rõ ràng là chẳng còn gì, và rồi bọn chúng đã nhẫn tâm gỡ cả máy ghe mang đỉ vì nghĩ rằng những con người khốn khổ, không có khả năng tự vệ này sẽ chìm sâu vào lòng biển cả, chon vùi những tội ác tài trời đã xảy ra do chính những bàn tay của họ.
Chúng tôi hoàn toàn tuyệt vọng, không có máy để chạy, đói khát, ai cũng kiệt sức, chỉ còn cầu nguyện ơn trên phù hộ, hy vọng một phép lạ mà thôi. Và điều đó đã xãy ra khi chiếc tàu nhỏ đánh cá ở ven biển xuất hiện. Trên tàu chỉ có hai người đánh cá. Tuyệt nhiên họ không bước qua ghe mà chỉ ra hiệu chúng tôi quăng dây qua, một anh lấy dây neo cột vào đuôi ghe, rồi kéo đi. Họ nấu cháo mực chuyền qua ghe cho chúng tôi, tất cả mọi người trên ghe đều được ăn uống đầy đủ.
Trên ghe chúng tôi có một người phụ nữ rất đẹp có đứa con trai tên Bình. Chồng chị là sĩ quan QLVNCH, bị đi tù cải tạo, chị dắt con đi vượt biên, cha chị vốn làm việc ở Bộ Ngoại Giao đặt ở Thái Lan nên chị nói được tiếng Thái Lan tuy không lưu loát, có lẽ nhờ vậy nên bọn Hải tặc không làm hỗn với chị. Theo chị giải thích sau khi trao đổi với hai người đánh cá vì sao họ không có ý cuớp mà còn giúp mọi nguời, họ cho biết đó là hai cha con, người cha ngày trước đi lính cho Quân đội Đồng Minh có sang đánh trận và bị thương ở Biên Hoà, được người Việt Nam tận tình cứu chữa nên anh rất mang ơn, đây chính là cơ hội để anh trả ơn lại cho người Việt. Chúng tôi bày tỏ sự biết ơn và không biết làm sao để đáp đền, anh chỉ nói rằng vợ anh rất thích vải quần lảnh Mỹ A của người Việt, rất may cũng có một dì còn được cái quần còn nguyên vẹn, gởi tặng vợ của anh.
Anh đã kéo chiếc ghe vào gần bến và cho biết theo luật pháp anh không có quyền kéo chúng tôi vào bến, anh sẽ gọi cho tuần duyên Thái, rồi chặt dây để họ tới cứu. Điều anh dặn tôi còn nhớ như in trong đầu là khi thấy tàu cảnh sát tuần duyên Thái tới gần, phải đục lổ cho tàu vô nước không còn tiếp tục xử dụng được, nếu không, có thể sẽ bị đuổi ra biển sau khi cho lương thực. Đó là ngày 19 tháng 6 năm 1980.
Hơn ba mươi năm, nay đã là công dân Hoa Kỳ, nhưng những kỷ niệm xưa luôn còn sống trong tôi như mới hôm qua. Tôi ra đi mang theo quê hương, mang theo mối tình đầu dang dở, cũng như vẫn mang theo hình bóng đứa con trai mà vì hiểu lầm tôi là kẻ phụ bạc, tôi chưa hề được nó gọi một tiếng…BA.
(Ghi theo lời kể của anh LVT)Vân Hà
XÃ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY
Năm mới, thi nhau đánh bạc, đá gà
Nếu như Tết Ất Mùi là cái Tết thê thảm của người lao động nghèo, nông dân, người buôn hoa cuối năm và dư âm của nó vẫn còn đâu đó trong những bữa cơm thiếu hụt dinh dưỡng, những đôi mắt thâm quầng vì thức đêm và buồn bã thì Tết Ất Mùi cũng là mùa khởi sự của những ổ cờ bạc, đá gà trên đất Sài Gòn nói riêng và trên cả nước nói chung. Hầu như đi đâu người ta cũng có thể bắt gặp cảnh đá gà, và nếu có tiền, chỉ cần ngoắc một tay xe ôm bất kì nào đó, nhờ họ chở đến tụ điểm đánh bạc, nếu tay xe ôm không cảm thấy nghi ngờ gì, anh hoặc chị ta có thể chở khách đến tụ điểm đánh bạc ngay tức khắc, chuyện cờ bạc, rượu chè ở Việt Nam có thể xếp vào hàng có tên tuổi trên thế giới.
Tháng Giêng là tháng ăn chơi
Một người tên Lam, chuyên chạy xe ôm ở Bà Điểm, Hóc Môn, Sài Gòn, chia sẻ: “Họ đổ về các tỉnh miền Tây, các vùng quê nó đánh, cái quy trường là từ ba triệu rưỡi cho đến năm triệu rưỡi. Đánh bài thì đông nhưng năm nay chỉ cần động một cái là họ chuyển đi chỗ khác liền.”
Họ đổ về các tỉnh miền Tây, các vùng quê nó đánh, cái quy trường là từ ba triệu rưỡi cho đến năm triệu rưỡi. Đánh bài thì đông nhưng năm nay chỉ cần động một cái là họ chuyển đi chỗ khác liền.
-Ông Lam
Theo ông Lam, có ba thứ mà một người xe ôm như ông cần phải rành rõi để tồn tại, để không bị các hãng taxi đè bẹp, đó là tụ điểm cờ bạc, các nhà thổ và những nơi ốp đồng. Thậm chí có nhiều xe ôm còn biết thêm điểm thứ tư, đó là nơi có thể mua bán ma túy một cách dễ dàng. Nhưng ông Lam chỉ chọn biết ba địa điểm trên để hành nghề.
Và thường thì các tụ điểm ăn khách theo mùa, ví dụ như đầu mùa Xuân, các tụ điểm đá gà, cờ bạc sẽ hút khách nhiều nhất, sang tháng Hai thì khách vãng dần, đi vào ổn định bởi những người có nhiều tiền, các đối tượng vợ và con quan chức tới lui thường xuyên, không rầm rộ như tháng Giêng, thời gian này người ta đi đến các điện thờ, đền miếu tăng lên nhiều hơn. Và bắt đầu tháng Ba, các tụ điểm ăn chơi trác tán có gái đi vào hoạt động mạnh hơn, đồng thời với thời, các điểm bán ma túy cũng bắt đầu hoạt động mạnh trở lại.
Nhưng hiện tại đang là tháng Giêng, tháng của cờ bạc nên các xe ôm thỏa sức mà kiếm cơm nhờ việc đưa người đến sòng bài. Ông Lam nói rằng trên đất Sài Gòn, nếu tìm sòng bạc thì thượng vàng hạ cám đều có, từ chỗ chơi với nhau vài chục ngàn đồng cho đến chơi vài triệu, thậm chí vài chục triệu, vài trăm triệu, hàng tỉ đồng đều có. Cứ tùy vào túi tiền và đẳng cấp để mà chơi. Còn chuyện đá gà thì về Gò Vấp, Bà Điểm, Hóc Môn, Quận Tư, Quận 10, những những nơi này, đâu cũng có sới gà đá độ với nhau, nếu độ ít thì vài triệu, độ nhiều cũng lên đến tiền tỉ, không có gì là không thể xảy ra, miễn có tiền là có tất cả.
Ông Lam kể thêm là mới sáng hôm qua, ông dắt một Việt Kiều Mỹ đi xem đá gà, ban đầu anh ta chỉ xem cho vui, sau đó cũng tham gia cá độ, mức cược ban đầu là vài trăm đô la, sau vài ván có ăn có thua, anh ta cũng say máu gà và cược độ cả ngàn đô la, cuối cùng là cược lên đến cả chục ngàn đô la và sau đó cháy túi, ôm hận ra về với cái túi rỗng không, không còn đủ tiền để trả xe ôm, phải mượn tiền người thân để trả cho ông Lam.
Anh Việt Kiều này kể với ông Lam là anh đã ăn cược với một tay hình như là chủ tịch phường, tay này tỏ ra coi thường anh Việt Kiều, cho rằng Việt Kiều không có đủ tiền để chơi mà ưa tài lanh, anh ta nổi máu khùng chơi tới bến. Chơi xong, thua độ, anh mới chua chát nhận ra là mình đã chọc phải ổ kiến lửa, vì Việt Kiều bây giờ làm sao giàu và đủ tiểu xảo bằng Việt Cộng mà lại lao đầu vào chơi với họ nên thua cũng đúng mà thôi.
Tháng Hai bán nhà ra bụi
Một người tên Khánh, vốn là dân đánh bạc lâu năm và có số có má ở khu đồng hương miền Trung tại Tân Bình, Sài Gòn, chua chát nói: “Không có chỗ chơi cố định, nó đánh lớn thì đâu có chơi một chỗ. Như anh ngày xưa thì đánh toàn 1 tỷ, hai tỷ. Bữa nay thì nó đánh lớn hơn nhiều, nó thuê xe di động, loại 16 chỗ, đánh trên đường đi luôn, nó đi Đồng Nai rồi đánh về, ăn uống cũng phục vụ trên xe luôn. Họ đánh sạt mậu ra đánh...”
Theo ông Khánh, cờ bạc nó cũng giống như quyền lực chính trị, một khi đã say máu ngà với nó thì e rằng khó mà dứt ra nổi. Cho dù có thua tơi tả, có mang nhà ra thế chấp để trả nợ giang hồ thì vài ngày sau cũng đã nổi máu trở lại và bằng mọi giá phải kiếm cho được tiền để gỡ vốn.
Không có chỗ chơi cố định, nó đánh lớn thì đâu có chơi một chỗ. Như anh ngày xưa thì đánh toàn 1 tỷ, hai tỷ. Bữa nay thì nó đánh lớn hơn nhiều, nó thuê xe di động, loại 16 chỗ, đánh trên đường đi luôn, nó đi Đồng Nai rồi đánh về, ăn uống cũng phục vụ trên xe luôn. Họ đánh sạt mậu ra đánh...
-Ông Khánh
Và thường thì khi thua bạc xong, con bạc thường xuýt xoa giá như lúc đó mình đánh theo lối này, đừng đánh theo lối kia thì đã ăn chắc. Chính vì kiểu rút kinh nghiệm đầy ấm ức này mà con bạc càng thua lại càng lao đầu vào đánh để rồi lại rút kinh nghiệm, rút mãi cho đến khi sợi dây kinh nghiệm kéo tất tần tật nhà cửa, vợ con ra đường thì mới tạm thôi, chờ thời cơ khác.
Và thường thì một khi cả nhà kéo ra đường thì thời cơ cũng không còn gì nữa. Mãi cho đến bây giờ, khi mà cả một sở nhà thừa kế của người cha quá cố bay mất theo các ván bài, ông Khánh vẫn không hiểu được cái qui luật thắng thua trong cờ bạc bởi khi ông thắng, ông vẫn không giàu lên được nhưng khi ông thua, ông lại dắt vợ con ra đường. Và mặc dù cuộc sát phạt đôi khi kéo dài từ tháng này sang năm nọ cũng chỉ ngần ấy con bạc với nhau. Nhưng không hiểu vì sao con bạc nào cũng thua, cũng phải bán nhà mà vẫn chưa thấy con bạc nào phất lên nhờ thắng bạc. Vậy mấy căn nhà cùng khối tiền kết sù thua bạc bay đi đâu?
Đó là câu hỏi mà tháng Giêng nào, giới cờ bạc cũng tự hỏi, rồi lại tự trả lời là không biết, rồi lại lao đầu vào các cuộc chơi cho đến tàn mạt lại quay về với vợ con, có khi là cùng nhau ra đường, ra công viên ngủ tạm, nếu may mắn thì giữ được cái nhà.
Hầu như cái vòng luân chuyển từ cờ bạc sang rượu chè, từ rượu chè sang gái gú, từ gái gú sang ma túy để rồi trắng tay và có thể là trộm cướp, giật dọc vốn dĩ là cái vòng lẩn quẩn rất Việt Nam, đặc biệt là với người Sài Gòn. Nhưng ông Khánh cũng phải thừa nhận là những người miền Bắc lúc nào cũng khôn hơn người Nam trong các sòng bạc, họ chỉ đánh cho đến lúc vừa đủ thắng là họ rút quân, không chơi nữa, tiền thắng bạc có thể biến thành mảnh đất, chiếc xe hơi.
Và đương nhiên mảnh đất hay chiếc xe hơi này được mua với giá rẻ mạt do các con bạc khát nước, đang máu me đã bán tháo. Họ thu mua về, đợi khi có giá lại bán lấy lãi. Cách gì họ cũng dễ thắng lợi hơn con bạc miền Nam. Còn người miền Nam thì đánh tới bến, thua thì trắng tay, nhiều người thành xác đồng, kẻ cướp, là nữ thì có thể bán thân nuôi miệng đợi ngày phục thù.
Có thể nói là năm nào cũng như năm nào, cờ bạc phát triển rất mạnh vào tháng Giêng và người dắt díu ra đường, ra công viên trở nên rầm rộ vào tháng Hai trên đất Sài Gòn. Cũng may là đất Sài Gòn có thể dung thân bất kì hoàn cảnh nào, người ta vẫn có thể sống qua ngày bằng mọi công việc chộp được giữa thành phố này!
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.
http://www.rfa.org/vietnamese/reportfromvn/gambling-n-cockfighting-in-new-year-03062015104216.html
Giằng xé nhau vì xin lộc đầu năm
Chuyện đầu năm, người ta lên các điện, đài, đền, miếu,lăng tẩm, chùa chiền để xin lộc đã thành chuyện rất phổ biến hiện nay ở Việt Nam. Đặc biệt, tình trạng mê tín dị đoan và diễn trò ốp đồng giữa đường ngày càng nở rộ trên đất Bắc. Nhưng nổi cộm hơn cả vẫn là chuyện xin lộc đầu năm, tranh giành lộc đầu năm đến mức đánh nhau sứt đầu mẻ trán, phải vào bệnh viện cấp cứu và nhà càng giàu có, càng quyền thế thì việc xin lộc càng có uy, táo bạo và nề nếp, bài bản. Chuyện đó chỉ mới xảy ra trong vài năm trở lại đây, đặc biệt nổi cộm trong dịp Tết này.
Thường thì bắt đầu từ Mồng Mười tháng Giêng trở đi, các bà vợ cán bộ, các doanh nghiệp bắt đầu kéo nhau đến những nơi như thế này để xin lộc, xem quẻ đầu năm và nhương sao giải hạn. Đặt biệt, các chùa bây giờ tổ chức nhương sao giải hạn rất rầm rộ, cứ Mồng Mười tháng Giêng trở đi là các Phật tử bắt đầu kéo đến chùa làm sớ, mua phiếu sớ, dâng sớ nhương sao. Giá mỗi tấm sớ dao động từ hai trăm ngàn đồng đến năm trăm ngàn đồng và mỗi lần nhương sao, ước chừng có khoản hai chục ngàn tấm sớ ở mỗi chùa, vị chi, chỉ riêng chuyện nhương sao giải hạn đầu năm, chùa nhỏ kiếm cũng được ngót nghét vài ba tỉ đồng, chùa lớn có thể kiếm được vài chục tỉ đồng.
Đương nhiên dịch vụ nhương sao giải hạn ở các chùa còn kèm thêm dịch vụ lắc xăm xem bói đầu năm, cho lộc đầu năm và số tiền kiếm được cũng tương đương với số tiền nhương sao giải hạn. Đó là các chùa, ở các điện, nơi đồng bóng và các đền đài, lăng miếu cũng tổ chức nhương sao, cho lộc đầu năm ráo riết. Các lễ hội tâm linh xã hội chủ nghĩa như lễ hội đền Gióng, lễ hội đền Trần là nơi khách thập phương kéo đến nhiều nhất để chờ tranh ấn đầu năm.
Ở những nơi này, ấn được cho không nhưng không phải ai cũng được cho ấn bởi các quan chức, các doanh nghiệp đã đặt chỗ, đã thuê mướn giang hồ, mua chuộc người trong đền giật ấn, cướp ấn để bán lại cho họ với giá cao ngất, mỗi mảnh ấn chưa đầy một tấc vải sô có thể bán lên vài chục triệu đồng. Chính vì giá tiền cao ngất ngưởng như vậy mà người tai không ngại đập đầu chảy máu, xông vào giành giật, cấu xé nhau để có được cái thứ gọi là lộc đầu năm ấy.
Ông này nói vui rằng Đức Thánh Trần là người có nhân cách, biết thương dân, đương nhiên khi chết đi, ông chắc chắn sẽ sớm siêu thoát, làm sao lại có chuyện mãi cho đến bây giờ ông còn ngồi trong đền để giữ đền, để chứng kiến đám con cháu giành giật nhau, đánh nhau như vậy. Và nếu như Thánh Trần và Thánh Gióng chưa được siêu thoát, vẫn con quanh quất đâu đó nơi đền thờ, thì chắc chắn các vị ấy phải chau mày đau khổ trước cảnh con cháu cấu xé, giành giật nhau những miếng giẻ ấn như một bầy thú đói ăn. Chuyện này không thể nói khác đi được.
Theo bà Lộc, tình trạng xin lộc và tranh lộc đã khiến cho tháng Giêng ở Hà Nội trở nên lộn xộn vô cùng. Hầu như nhà nước không những không ngăn cấm mà còn hậu thuẫn cho vấn đề này. Chính vì sự hậu thuẫn của nhà nước mà các kiệu rước từ các đền mặc sức lộng hành trên các con phố. Ví dụ như kiệu Ông ở một ngôi đền trong thành phố Hà Nội, tuy gần các cơ quan công quyền nhưng đã không ngần ngại thay phiên nhau khiêng kiệu đâm thẳng vào một chiếc xe hơi đang đậu bên hè phố nhiều lần khiến cho chiếc xe này vỡ toác kính sau.
Chưa dừng ở đó, một đám kiệu đã ngang nhiên khiêng kiệu chạy lấy đà tông hàng chục lần vào tấm kính chịu lực ở cửa ra vào một khu văn phòng tại Hà Nội, tông cho đến vỡ kính và cả đám khiêng kiệu và người theo kiệu vỗ tay reo hò, cho rằng chủ tòa nhà bị bề trên phạt.
Như vậy, chủ của xe hơi và chủ tòa nhà bị vỡ kính muốn có lộc làm ăn cho cả một năm phải mang số tiền lớn ra cúng vái, van xin cho đến bao giờ đám rước kiệu chịu nhận tiền, bỏ đi thì mới xong chuyện, mới yên thân. Vô hình trung, tệ nạn mê tín dị đoan được nhà nước bảo kê trở thành một lực lượng khủng bố mới trong thủ đô Hà Nội.
Bà Lộc cho rằng hiện nay, chuyện một người phụ nữ mang con đến điện thờ nhờ chữa bệnh và xin lộc, bị xác đồng bóp cổ cho đến chết và ngang nhiên tuyên bố thần thánh đã mang đứa bé theo, không cho ở lại trần gian nữa hoặc là chuyện đám rước kiệu đến phá nhà, phá tài sản của người dân đã trở nên bình thường trong mắt một bộ phận không nhỏ người Hà Nội. Điều này cho thấy con người đã vô cảm đến mức mất hết tính người, hò reo và a dua. Không có gì đáng sợ và gây bất an hơn chuyện này!
Mùa Xuân còn dài, các cuộc diễu hành theo kiểu tâm linh cũng còn diễn ra nhan nhản khắp nơi, chuyện xin lộc, mua lộc và cướp lộc rồi sẽ còn diễn ra dài dài. Không biết rồi đây chuyện gì sẽ xảy ra khi phong trào xin lộc đã phát triển đến đỉnh cao và đại bộ phận đi xin lộc trở thành một đám đông hò reo, a dua, sẵn sàng cấu xé nhau, hãm hại nhau vì cái thứ gọi là lộc đầu năm này.
Cảm giác như đất nước này đang lên đồng tập thể và con người đang dần trở về với đời sống nguyên thủy, mông muội giữa thế kỉ 21 này!
Giàu mới có tiền mà đi xin lộc…
Một người chuyên nghiên cứu về các vấn đề cận tâm linh, yêu cầu giấu tên, chia sẻ: “Tình trạng khủng hoảng về tâm linh đã xảy ra từ vài năm nay rồi, nhưng năm nay thì trơ hơn, lễ hội các thứ. Nó thể hiện sự mất niềm tin của con người, họ phải tin vào những thứ linh tinh. Bản thân con người gọi là chấp, người theo đạo Phật thì gọi là chấp Phật, người theo Đạo thì trông cậy vào Thiên Chúa. Con người như đứa trẻ tựa vào cha mẹ, giờ mất hết chỗ dựa thì họ dựa vào mê tín dị đoan. Như là cầu những điều vật chất, như họ đi cầu sao, dâng sao, ngồi la liệt đầy đường, công an phải dẹp đường cho họ ngồi.”Tình trạng khủng hoảng về tâm linh đã xảy ra từ vài năm nay rồi, nhưng năm nay thì trơ hơn, lễ hội các thứ. Nó thể hiện sự mất niềm tin của con người, họ phải tin vào những thứ linh tinh.Theo ông này, hiện nay, không riêng gì Hà Nội mà hầu hết các tỉnh khu vực phía Bắc đều có những nơi gọi là trung tâm nghiên cứu tâm linh, vườn tâm linh và vườn cho lộc. Trong đó, đáng nói nhất là vườn tâm linh ở Nghệ An, đây là nơi chuyên cung cấp các nhà ngoại cảm để tìm mộ liệt sĩ Cộng sản và cho lộc, hỗ trợ âm lực cho các bà vợ quan chức cao cấp, các doanh nhân, doanh nghiệp.
-Một nhà nghiên cứu
Thường thì bắt đầu từ Mồng Mười tháng Giêng trở đi, các bà vợ cán bộ, các doanh nghiệp bắt đầu kéo nhau đến những nơi như thế này để xin lộc, xem quẻ đầu năm và nhương sao giải hạn. Đặt biệt, các chùa bây giờ tổ chức nhương sao giải hạn rất rầm rộ, cứ Mồng Mười tháng Giêng trở đi là các Phật tử bắt đầu kéo đến chùa làm sớ, mua phiếu sớ, dâng sớ nhương sao. Giá mỗi tấm sớ dao động từ hai trăm ngàn đồng đến năm trăm ngàn đồng và mỗi lần nhương sao, ước chừng có khoản hai chục ngàn tấm sớ ở mỗi chùa, vị chi, chỉ riêng chuyện nhương sao giải hạn đầu năm, chùa nhỏ kiếm cũng được ngót nghét vài ba tỉ đồng, chùa lớn có thể kiếm được vài chục tỉ đồng.
Đương nhiên dịch vụ nhương sao giải hạn ở các chùa còn kèm thêm dịch vụ lắc xăm xem bói đầu năm, cho lộc đầu năm và số tiền kiếm được cũng tương đương với số tiền nhương sao giải hạn. Đó là các chùa, ở các điện, nơi đồng bóng và các đền đài, lăng miếu cũng tổ chức nhương sao, cho lộc đầu năm ráo riết. Các lễ hội tâm linh xã hội chủ nghĩa như lễ hội đền Gióng, lễ hội đền Trần là nơi khách thập phương kéo đến nhiều nhất để chờ tranh ấn đầu năm.
Ở những nơi này, ấn được cho không nhưng không phải ai cũng được cho ấn bởi các quan chức, các doanh nghiệp đã đặt chỗ, đã thuê mướn giang hồ, mua chuộc người trong đền giật ấn, cướp ấn để bán lại cho họ với giá cao ngất, mỗi mảnh ấn chưa đầy một tấc vải sô có thể bán lên vài chục triệu đồng. Chính vì giá tiền cao ngất ngưởng như vậy mà người tai không ngại đập đầu chảy máu, xông vào giành giật, cấu xé nhau để có được cái thứ gọi là lộc đầu năm ấy.
Ông này nói vui rằng Đức Thánh Trần là người có nhân cách, biết thương dân, đương nhiên khi chết đi, ông chắc chắn sẽ sớm siêu thoát, làm sao lại có chuyện mãi cho đến bây giờ ông còn ngồi trong đền để giữ đền, để chứng kiến đám con cháu giành giật nhau, đánh nhau như vậy. Và nếu như Thánh Trần và Thánh Gióng chưa được siêu thoát, vẫn con quanh quất đâu đó nơi đền thờ, thì chắc chắn các vị ấy phải chau mày đau khổ trước cảnh con cháu cấu xé, giành giật nhau những miếng giẻ ấn như một bầy thú đói ăn. Chuyện này không thể nói khác đi được.
Nghèo ăn còn không đủ lấy tiền đâu mà đi xin lộc?
Một người tên Lộc, hiện sống ở Thường Tín, Hà Nội, chia sẻ: “Dùng kiệu đâm xe, đâm vào vỡ tôn, vỡ kính, các thứ nếu chủ ra xin lỗi, dâng tiền mới tha thứ. Rồi thì xin lộc, xin ấn đâm nhau đánh nhau vào đầy bệnh viện. Mình muốn đi dạo phố cũng không dám. Con nít vào các điện thì bị bóp cổ chết ngay tại chỗ, họ bảo ông mang theo, mà mang theo là mang theo thế nào, toàn mê tín dị đoan.”Theo bà Lộc, tình trạng xin lộc và tranh lộc đã khiến cho tháng Giêng ở Hà Nội trở nên lộn xộn vô cùng. Hầu như nhà nước không những không ngăn cấm mà còn hậu thuẫn cho vấn đề này. Chính vì sự hậu thuẫn của nhà nước mà các kiệu rước từ các đền mặc sức lộng hành trên các con phố. Ví dụ như kiệu Ông ở một ngôi đền trong thành phố Hà Nội, tuy gần các cơ quan công quyền nhưng đã không ngần ngại thay phiên nhau khiêng kiệu đâm thẳng vào một chiếc xe hơi đang đậu bên hè phố nhiều lần khiến cho chiếc xe này vỡ toác kính sau.
Dùng kiệu đâm xe, đâm vào vỡ tôn, vỡ kính, các thứ nếu chủ ra xin lỗi, dâng tiền mới tha thứ. Rồi thì xin lộc, xin ấn đâm nhau đánh nhau vào đầy bệnh viện. Mình muốn đi dạo phố cũng không dám.Khi chủ xe lên tiếng thì những người rước kiệu ngang nhiên nói rằng “ông đã phạt” phải xin và nộp phạt, người chủ xe hơi đã cầm một xấp tiền quì trước kiệu để van xin, cho đến lúc đám rước kiệu nhận tiền mới chịu khiêng kiệu đi nơi khác. Và công an, nhà nước cũng chẳng nói gì để bảo vệ người chủ xe. Thậm chí có nhiều cán bộ tai to mặt lớn cũng có mặt, cúng vái trong đám rước kiệu này.
-Bà Lộc
Chưa dừng ở đó, một đám kiệu đã ngang nhiên khiêng kiệu chạy lấy đà tông hàng chục lần vào tấm kính chịu lực ở cửa ra vào một khu văn phòng tại Hà Nội, tông cho đến vỡ kính và cả đám khiêng kiệu và người theo kiệu vỗ tay reo hò, cho rằng chủ tòa nhà bị bề trên phạt.
Như vậy, chủ của xe hơi và chủ tòa nhà bị vỡ kính muốn có lộc làm ăn cho cả một năm phải mang số tiền lớn ra cúng vái, van xin cho đến bao giờ đám rước kiệu chịu nhận tiền, bỏ đi thì mới xong chuyện, mới yên thân. Vô hình trung, tệ nạn mê tín dị đoan được nhà nước bảo kê trở thành một lực lượng khủng bố mới trong thủ đô Hà Nội.
Bà Lộc cho rằng hiện nay, chuyện một người phụ nữ mang con đến điện thờ nhờ chữa bệnh và xin lộc, bị xác đồng bóp cổ cho đến chết và ngang nhiên tuyên bố thần thánh đã mang đứa bé theo, không cho ở lại trần gian nữa hoặc là chuyện đám rước kiệu đến phá nhà, phá tài sản của người dân đã trở nên bình thường trong mắt một bộ phận không nhỏ người Hà Nội. Điều này cho thấy con người đã vô cảm đến mức mất hết tính người, hò reo và a dua. Không có gì đáng sợ và gây bất an hơn chuyện này!
Mùa Xuân còn dài, các cuộc diễu hành theo kiểu tâm linh cũng còn diễn ra nhan nhản khắp nơi, chuyện xin lộc, mua lộc và cướp lộc rồi sẽ còn diễn ra dài dài. Không biết rồi đây chuyện gì sẽ xảy ra khi phong trào xin lộc đã phát triển đến đỉnh cao và đại bộ phận đi xin lộc trở thành một đám đông hò reo, a dua, sẵn sàng cấu xé nhau, hãm hại nhau vì cái thứ gọi là lộc đầu năm này.
Cảm giác như đất nước này đang lên đồng tập thể và con người đang dần trở về với đời sống nguyên thủy, mông muội giữa thế kỉ 21 này!
http://www.rfa.org/vietnamese/reportfromvn/tearing-each-others-because-of-lucky-buds-03062015092919.html
Bài chòi miền Trung khai hội
Hằng năm, cứ đến hẹn lại lên, bắt đầu từ hai mươi ba tháng Chạp trở đi, khi mọi nhà đã đưa ông Táo về trời, mọi việc đồng áng tạm xếp lại để đón mừng năm mới, đón Tết, hô hát bài chòi ở các tỉnh miền Trung lại vào hội. Có thể nói nghệ thuật hô hát bài chòi là một bộ môn có tính hứng khởi, diễn xướng rất cao và đó cũng là môn nghệ thuật phản ánh đời sống, tâm tư của người dân rõ nét nhất. Hội hô hát bài chòi năm nay ở miền Trung đã phản ánh điều gì trong dân gian?
Theo nghệ nhân này nhận xét, có thể nói rằng hô hát bài chòi là bộ môn nghệ thuật dân gian có tính thời đại cao nhất không chỉ của riêng miền Trung mà cả với Việt Nam. Bởi nó không có kịch bản, không qua kiểm duyệt và nếu có kiểm duyệt nội dung thì chỉ xảy ra sau khi nghệ nhân đã hô hát, sau đêm bài chòi, cán bộ văn hóa vào cuộc, hoặc là yêu cầu nghệ nhân không được hô hát những nội dung cũ, kỉ luật, phạt tiền hoặc dẹp luôn hội bài chòi, nếu nặng nề có thể đi tù vì đã diễn xướng những nội dung nhạy cảm.
Có lẽ chính vì tính trào lộng và tính giễu nhại xã hội với nồng độ nặng nằm giấu mình trong tâm thế diễn xướng của nghệ nhân mà từ rất lâu, trước cả nghệ thuật hát tuồng và hát bội, bộ môn diễn xướng bài chòi bị nhà cầm quyền quản lý rất chặt và mọi cuộc vui bài chòi đầu năm phải thông qua sự đồng ý, quản lý, kiểm duyệt từ nội dung cho đến lợi nhuận của các cơ quan đảng bộ Cộng sản địa phương.
Nhưng đây cũng chỉ là những trường hợp cá biệt, phần phổ biến nhất vẫn là đảng bộ cấp huyện, cấp xã đứng ra tổ chức hô hát bài chòi và nghệ nhân hô hát phải là những cán bộ văn hóa của các cấp này, thậm chí trong hội bài chòi có ít nhất từ một đến hai đảng viên Cộng sản đứng ra tổ chức, quản lý, bán vé cũng như tổng kết lợi tức.
Chính vì sự quản lý quá chặt chẽ như vậy mà hầu hết nội dung hô hát bài chòi nhiều năm trước đây đều khô khốc, máy móc, tính ngẫu hứng hoàn toàn bị triệt tiêu, thậm chí trong hội hô hát bài chòi còn có cả những trò ca ngợi đảng Cộng sản, ca ngợi Hồ Chí Minh, ca ngợi các lãnh tụ Cộng sản khác… Và điều này đã làm cho hô hát bài chòi miền Trung một thời bị xếp vào chỗ không chơi được, người già và trẻ em dần thay đổi thói quen ba ngày Tết, họ dành thời gian đi du ngoạn và chơi bầu cua tôm cá.
Mãi cho đến vài năm trở lại đây, khi các hội bài chòi tư nhân hoặc của các hội Người Cao Tuổi mọc lên, kĩ năng diễn xướng và tính ngẫu hứng trong bài chòi lại quay về. Người già trở nên máu lửa với bài chòi, trẻ em háo hức với bài chòi còn thanh niên, nam nữ thì ưa bài chòi bởi diễn ngôn của nó hàm chứa những ẩn ức tuổi trẻ, ẩn ức thời cuộc và ẩn ức chính trị mà lẽ ra họ không cần phải kìm nén những ẩn ức vô lý này.
Những bài hát bài chòi của các hội Người Cao Tuổi thường xoay quanh các vấn đề nổi cộm trong xã hội đương đại, từ tai nạn giao thông, tham nhũng, bán dâm trá hình, hối lộ bằng tình dục, mua quan bán chức, mua bằng giả, thủ đoạn chính trị dơ bẩn… Tất cả được phơi bày trong những diễn ngôn vừa tinh tế lại vừa bộc trực, đánh thẳng vào cái xấu và kêu gọi điều tốt đẹp hãy quay trở về nhân dịp đầu năm.
Theo cụ Liệu, với ông, bài chòi, hát tuồng hay hát bội là những bộ môn nghệ thuật làm tan nát cõi lòng. Nếu như hát tuồng, hát bội với tính hàn lâm, có kịch bản hẳn hoi và sau khi bị quản lý chặt chẽ, các nghệ nhân đã chuyển sang làm ông công đám tang để giải bày nỗi lòng trước nhân tình thế thái thì hô hát bài chòi, sau nhiều năm im hơi lặng tiếng vì bị quản lý, hiện tại những diễn ngôn đầy tính ngẫu hứng và giễu nhại xã hội đang phát triển mạnh.
Những diễn xướng theo kiểu “Ăn gì mà ăn tận cái đáy nồi/ Da trơn mặt trắng đứng ngồi không yên/ Dân hỏi thì nói quàng nói xiên/ Lần này xin lỗi sai liền lần sau/ Dân ngồi chịu cảnh nước đau/ Cái thằng mặt láng làm rầu lê thê… là con bạch huê”. Hay “Bữa nay anh cấm tôi đi/ Vô lăng bỏ lại cũng vì ngực xương/ Dân ta thiếu sữa thiếu đường/ Lấy đâu cho mập ngực không xương thì ngực gì/ Hoan hô các bác chây lì/ Cướp ngày ráo máng cũng vì cái rún… ấy là con năm rún!”.
Có nhiều diễn xướng bài chòi còn nặng nề hơn, đương nhiên là các diễn xướng này thường nằm trong các hội hô hát bài chòi của Hội Người Cao Tuổi tự tổ chức với nhau trong các xóm, các làng. Ví dụ như: “Thằng nào xin lỗi triền miên/ Ăn không biết nhục đảo điên dân lành/ Đất nước nó phá tanh bành/ Nhơn nhơn cái mặt ra vẻ lành với dân/ Tiền dân nó bỏ nhà bân (tức nhà băng)/ Ôm riết cái ghế nổi sần mọc chông/ Dân phát ngông dân phát phiền… ấy là con tam tiền!”.
Nhìn chung, có vẻ như nghệ thuật diễn xướng bài chòi sau một thời gian dài im hơi lặng tiếng, nhường chỗ cho nghệ thuật tuyên truyền của nhà cầm quyền nay đã trở lại với đầy đủ ý nghĩa và sứ mệnh của nó. Vừa là trò chơi vui, cầu may cho ba ngày Tết, vừa là áp suất kế đo độ căng của xã hội thông qua những diễn ngôn đầy chất ngẫu hứng của các nghệ nhân dân gian. Một năm mới đã bắt đầu khởi sự!
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.
http://www.rfa.org/vietnamese/reportfromvn/playing-card-under-the-huts-02272015115822.html
Đảng quản lý hô hát bài chòi
Một nghệ nhân bài chòi yêu cầu giấu tên, chia sẻ: “Bình Định bài chòi nhiều lắm, hô bài chòi bằng thẻ tre. Những ai mà ít tiếp xúc với bài chòi cũng thích thú lắm, nó lạ, không khí mà!”Bình Định bài chòi nhiều lắm, hô bài chòi bằng thẻ tre. Những ai mà ít tiếp xúc với bài chòi cũng thích thú lắm, nó lạ, không khí mà!
-Một nghệ nhân bài chòi
Theo nghệ nhân này nhận xét, có thể nói rằng hô hát bài chòi là bộ môn nghệ thuật dân gian có tính thời đại cao nhất không chỉ của riêng miền Trung mà cả với Việt Nam. Bởi nó không có kịch bản, không qua kiểm duyệt và nếu có kiểm duyệt nội dung thì chỉ xảy ra sau khi nghệ nhân đã hô hát, sau đêm bài chòi, cán bộ văn hóa vào cuộc, hoặc là yêu cầu nghệ nhân không được hô hát những nội dung cũ, kỉ luật, phạt tiền hoặc dẹp luôn hội bài chòi, nếu nặng nề có thể đi tù vì đã diễn xướng những nội dung nhạy cảm.
Có lẽ chính vì tính trào lộng và tính giễu nhại xã hội với nồng độ nặng nằm giấu mình trong tâm thế diễn xướng của nghệ nhân mà từ rất lâu, trước cả nghệ thuật hát tuồng và hát bội, bộ môn diễn xướng bài chòi bị nhà cầm quyền quản lý rất chặt và mọi cuộc vui bài chòi đầu năm phải thông qua sự đồng ý, quản lý, kiểm duyệt từ nội dung cho đến lợi nhuận của các cơ quan đảng bộ Cộng sản địa phương.
Nhưng đây cũng chỉ là những trường hợp cá biệt, phần phổ biến nhất vẫn là đảng bộ cấp huyện, cấp xã đứng ra tổ chức hô hát bài chòi và nghệ nhân hô hát phải là những cán bộ văn hóa của các cấp này, thậm chí trong hội bài chòi có ít nhất từ một đến hai đảng viên Cộng sản đứng ra tổ chức, quản lý, bán vé cũng như tổng kết lợi tức.
Chính vì sự quản lý quá chặt chẽ như vậy mà hầu hết nội dung hô hát bài chòi nhiều năm trước đây đều khô khốc, máy móc, tính ngẫu hứng hoàn toàn bị triệt tiêu, thậm chí trong hội hô hát bài chòi còn có cả những trò ca ngợi đảng Cộng sản, ca ngợi Hồ Chí Minh, ca ngợi các lãnh tụ Cộng sản khác… Và điều này đã làm cho hô hát bài chòi miền Trung một thời bị xếp vào chỗ không chơi được, người già và trẻ em dần thay đổi thói quen ba ngày Tết, họ dành thời gian đi du ngoạn và chơi bầu cua tôm cá.
Mãi cho đến vài năm trở lại đây, khi các hội bài chòi tư nhân hoặc của các hội Người Cao Tuổi mọc lên, kĩ năng diễn xướng và tính ngẫu hứng trong bài chòi lại quay về. Người già trở nên máu lửa với bài chòi, trẻ em háo hức với bài chòi còn thanh niên, nam nữ thì ưa bài chòi bởi diễn ngôn của nó hàm chứa những ẩn ức tuổi trẻ, ẩn ức thời cuộc và ẩn ức chính trị mà lẽ ra họ không cần phải kìm nén những ẩn ức vô lý này.
Những bài hát bài chòi của các hội Người Cao Tuổi thường xoay quanh các vấn đề nổi cộm trong xã hội đương đại, từ tai nạn giao thông, tham nhũng, bán dâm trá hình, hối lộ bằng tình dục, mua quan bán chức, mua bằng giả, thủ đoạn chính trị dơ bẩn… Tất cả được phơi bày trong những diễn ngôn vừa tinh tế lại vừa bộc trực, đánh thẳng vào cái xấu và kêu gọi điều tốt đẹp hãy quay trở về nhân dịp đầu năm.
Bài chòi tan nát cõi lòng
Cụ ông Trần Liệu, người Hội An, Quảng Nam, chia sẻ: “Bài chòi giờ thì được tổ chức nhiều hơn, quay lại với bài chòi xưa. Thì hô hát nhưng cũng bị khuôn khổ rồi.”Theo cụ Liệu, với ông, bài chòi, hát tuồng hay hát bội là những bộ môn nghệ thuật làm tan nát cõi lòng. Nếu như hát tuồng, hát bội với tính hàn lâm, có kịch bản hẳn hoi và sau khi bị quản lý chặt chẽ, các nghệ nhân đã chuyển sang làm ông công đám tang để giải bày nỗi lòng trước nhân tình thế thái thì hô hát bài chòi, sau nhiều năm im hơi lặng tiếng vì bị quản lý, hiện tại những diễn ngôn đầy tính ngẫu hứng và giễu nhại xã hội đang phát triển mạnh.
Bài chòi giờ thì được tổ chức nhiều hơn, quay lại với bài chòi xưa. Thì hô hát nhưng cũng bị khuôn khổ rồi.Không riêng gì các hội bài chòi tự phát trong nhân dân hay các hội bài chòi của Hội Người Cao Tuổi tổ chức với nhau mà ngay cả trong các hội bài chòi do đảng bộ Cộng sản địa phương tổ chức, những diễn ngôn có tính bất mãn xã hội, bất bình thời cuộc ngày càng cất tiếng nói mạnh mẽ, không còn e dè như trước đây.
-Cụ Trần Liệu
Những diễn xướng theo kiểu “Ăn gì mà ăn tận cái đáy nồi/ Da trơn mặt trắng đứng ngồi không yên/ Dân hỏi thì nói quàng nói xiên/ Lần này xin lỗi sai liền lần sau/ Dân ngồi chịu cảnh nước đau/ Cái thằng mặt láng làm rầu lê thê… là con bạch huê”. Hay “Bữa nay anh cấm tôi đi/ Vô lăng bỏ lại cũng vì ngực xương/ Dân ta thiếu sữa thiếu đường/ Lấy đâu cho mập ngực không xương thì ngực gì/ Hoan hô các bác chây lì/ Cướp ngày ráo máng cũng vì cái rún… ấy là con năm rún!”.
Có nhiều diễn xướng bài chòi còn nặng nề hơn, đương nhiên là các diễn xướng này thường nằm trong các hội hô hát bài chòi của Hội Người Cao Tuổi tự tổ chức với nhau trong các xóm, các làng. Ví dụ như: “Thằng nào xin lỗi triền miên/ Ăn không biết nhục đảo điên dân lành/ Đất nước nó phá tanh bành/ Nhơn nhơn cái mặt ra vẻ lành với dân/ Tiền dân nó bỏ nhà bân (tức nhà băng)/ Ôm riết cái ghế nổi sần mọc chông/ Dân phát ngông dân phát phiền… ấy là con tam tiền!”.
Nhìn chung, có vẻ như nghệ thuật diễn xướng bài chòi sau một thời gian dài im hơi lặng tiếng, nhường chỗ cho nghệ thuật tuyên truyền của nhà cầm quyền nay đã trở lại với đầy đủ ý nghĩa và sứ mệnh của nó. Vừa là trò chơi vui, cầu may cho ba ngày Tết, vừa là áp suất kế đo độ căng của xã hội thông qua những diễn ngôn đầy chất ngẫu hứng của các nghệ nhân dân gian. Một năm mới đã bắt đầu khởi sự!
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.
http://www.rfa.org/vietnamese/reportfromvn/playing-card-under-the-huts-02272015115822.html
Saturday, March 7, 2015
NGUYỄN THỊ THÊM * ÔNG NỘI CHÁU NỘI
Ông nội là cựu đại úy Việt Nam Cộng Hòa, con trai là đại úy không quân Hoa kỳ, mấy người quen thân gọi đùa cháu là Captain junior. Có hôm buổi sáng ông nội ngủ dậy khệnh khạng bước ra phòng khách, thằng con đang ăn điểm tâm đứng phắt lại giơ tay lên chào "Good morning, Sir!". Ông nội giật mình đứng lại, không suy nghĩ ông nghiêm túc giơ tay lên chào. Miệng lẩm bẩm "Morning Sir!". Cả nhà cùng cười, thằng cháu nội cũng cười.
Bước ra xe, con dâu mang cái túi baby có tã, sữa, quần áo. Bà nội dìu ông nội ra, tay mang một cái giỏ. Con dâu hỏi "Mẹ mang theo gì đó?". Bà nội trả lời "Mang tã, nước và quần cho ba". Thằng con cười:
- Hai ông cháu thiệt giống nhau.
Thằng cháu đái ướt tã khóc đòi thay. Ông nội lí nhí: "Tui muốn thay tã". Con dâu vào phòng vệ sinh nữ trước. Ló đầu ra "Mẹ ! Không có ai". Bà nội dẫn ông nội vào, đẩy nhanh vô phòng toilet đóng cửa lại. Một lúc sau, bà nội đưa ông nội ra nói với con dâu: " Coi chừng ba, cho mẹ vào rửa tay". Xong xuôi, ông nội cũng sạch, cháu cũng sạch. Cả nhà lại đi dạo phố. Con trai cười cười:
- Hai ông cháu cùng vào nhà vệ sinh nữ.
*
Chơi chán cả nhà lên xe về nhà. Thằng cháu nội khóc um sùm không chịu nằm vào ghế baby. Thằng con loay hoay lo cho con nó. Bà nội đưa ông nội ngồi vào ghế trước. Ông nội cũng không chịu lên. Bà nội năn nỉ, ông cương quyết phản đối: "Tui muốn nói chuyện với đồng đội của tui, sao bà kéo tui đi". Thằng con trai hỏi lý do. Bà nội nói là đi ngang mấy người lính Mỹ ngồi uống nước, ông nội đòi ngồi lại đó nói chuyện. Thằng con dụ dỗ: ''Mai con mời họ tới nhà nói chuyện chơi với ba" Ông cương quyết bấu chặt cửa không chịu lên xe. Thằng con gỡ tay bồng ông lên, gài dây an toàn. Xe chạy, ông nội cũng ngủ, thằng cháu cũng ngủ.
*
Thằng cháu nội nhễu, nước miếng chảy lòng thòng. Ai cũng la con dâu: "Lúc có bầu bộ nhịn thèm hay sao mà thằng cu nhểu dữ vậy". Con dâu chỉ cười. Ông nội không còn nhỏ nhưng ông nội cũng nhểu. Ông nội bồng cháu, mặt quay ra đàng trước. Hai tay ông bấu thật chặt sợ cháu té. Nước miếng ông nội nhểu lòng thòng rớt từng dây trên đầu cháu. Cháu nhểu lòng thòng rớt từng dây trên tay ông. Bà nội chạy lại lau cho cả hai:
- Ông nội và cháu nhểu giống nhau.
*
Thằng cháu đứng chơi trong trong cái xe đi trẻ em. Chơi chán, nó muốn ra ngoài. Cháu la và khóc. Ông nội đang nằm bật dậy, chạy ra. Ông lại gần bồng cháu lên. Hai tay ông bíu chặt vào nách cháu lôi ra. Cháu vùng vẫy, Ông cố sức nắm. Hai bàn tay ông cuối cùng chỉ còn nắm chặt cái áo, Cháu gần rơi xuống đất. Bà nội chạy lên. Kịp thời chụp cháu. Bà nội hết hồn. Ông phân bua: "Con ai mà bỏ khóc um sùm, thiệt là tội".
- Thì ra ông còn ngái ngủ, không biết thằng bé là cháu mình.
*
Thằng cháu nội tắm trong cái bồn tắm nhỏ xíu trẻ em. Nó thích lắm, hai tay đập vào nước cười ngây thơ. Xong xuôi, cháu được lau sạch thay đồ. Con dâu nói: ''Mẹ! con xong rồi". Bà nội đem ông nội vào phòng, kéo cái ghế để vào bathtube cho ông ngồi rồi xối nước tắm rửa, kỳ cọ. Ông đưa tay vuốt mặt nói: "Mát quá! Mát quá". Bà nội tắm ông xong, lau sạch, thoa lotion và thay đồ. Ông ra ngoài, cháu đang nằm ngửa chân đạp lòng còng. Ông được dìu vào giường. Ông nằm yên, hai chân cũng nằm yên;
- Hai ông cháu sau khi tắm giống nhau.
*
Con dâu đút cho cháu nội ăn từng muỗng baby food. Cái yếm đeo trước ngực. Cháu vừa ăn vừa chơi. Thỉnh thoảng lắc đầu không chịu cho đút. Con dâu ngọt ngào: ''Giỏi nè, giỏi nè." Bà nội cũng dìu ông nội lại bàn, kéo cái ghế ngay mông ông rồi kéo ông ngồi xuống. Bà nội lấy cái tạp đề mang vào cổ cho ông rồi đút cơm cho ông ăn. Ông đôi lúc cũng lắc đầu không chịu nuốt. Bà nội năn nỉ: ''Ăn đi ông, còn vài muỗng nữa thôi. Giỏi đi ông".
- Khi ăn, ông và cháu cũng giống nhau.
*
Ông muốn bồng cháu nhưng tay ông bấu chặt quá, cháu đau, cháu khóc. Bà nội đem ông vào phòng, cho ông nằm xuống rồi đặt cháu nằm một bên. Cháu nằm trên tay ông, chân quơ lung tung, tay cầm đồ chơi bỏ vào miệng cạp liên tục. Bà nội ngồi nhìn hai ông cháu. Ông đã ngủ khò, còn cháu cứ ê a.
- Bà nội mắt cay xè, muốn khóc.
*
Thằng con nhận lệnh qua Ý công tác 3 năm. Cả nhà làm tiệc tiển đưa. Vợ chồng thằng con buồn, nước mắt ngân ngấn mi, nghĩ mấy năm xa nhà, nghĩ cha già thế này có chuyện gì không biết có về kịp không? Thằng cháu nội vẫn cười, bi bô những âm thanh không rõ tiếng. Bà nội nắm tay ông nội lại gần con nói: ''Con nó muốn nói với ông trước khi đi nè". Ông cười cười: ''Nói gì! Đi đâu? Ừ đi chơi vui vẻ". Xong ông đi vào phòng ngủ. Chả biết ông có buồn hay không. Chỉ biết khi bà nội vào phòng ông đã ngủ khò. Thằng cháu nội nằm trong ghế cũng ngủ khò.
- Hai ông cháu ngủ giống nhau.
*
Từ đất Ý, thằng con mở Webcam nói chuyện. Thằng cháu nội đã biết ngồi, đã bập bẹ âm thanh ba ba. Bà nội dẫn ông vào phòng, kéo ghế cho ngồi để nhìn con, dâu và cháu. Hỏi ông: ''Biết ai không ông?". "Biết chớ, người quen". Bà nội chỉ cháu và hỏi: ''Ông biết thằng đó không?". Ông nội trả lời mạnh mẽ: ''Biết chớ sao không. Nó là bà con chú bác của tui mà". Ông đưa tay rờ rờ màn hình. Bên kia thằng cháu cũng đưa tay quơ quơ. Bà nội muốn khóc.
- Hai ông cháu cùng trẻ con như nhau, không ai biết ai.
* * *
Vậy đó, ông nội và cháu có nhiều điểm giống nhau. Cháu sẽ lớn, sẽ trưởng thành. Ông một ngày nào đó sẽ ra đi. Bà nội nhìn ông mà nhớ cháu. Hạnh phúc của ông bây giờ là sống vô tư như trẻ con. Hạnh phúc của bà bây giờ là không còn giận hờn mà con tim đầy ắp những yêu thương và bổn phận.
Thế là thời gian trôi qua nhanh chóng, thằng cháu nội theo cha mẹ công tác bên Ý đã được 2 tuổi.
Cuối tháng này là sinh nhật cháu tôi. Đứa cháu trai duy nhất trong gia đình. Đứa cháu nội mà tôi thương nhất. Chẳng phải tôi thiên vị vì nó là con trai hay là vì nó là cháu nội. Mà vì nó ở quá xa. Nó lớn lên từng ngày không có tôi bên cạnh. Nhiều khi nhớ quá muốn ôm nó vào lòng mà hai tay trống rỗng. Muốn đi thăm nó thì ông chồng già chẳng biết bỏ cho ai. Thằng con trai cứ năn nỉ, "Má ơi! Qua đây một chuyến. Con sẽ đem má đi khắp Âu Châu cho biết với người ta." Tôi cười cầu tài nói cho con yên lòng. Nhìn ông chồng đau yếu mà thương. Thôi đành thúc thủ.
Nhìn ông chồng ngày càng yếu để thấy sự đào thải của thời gian và thân phận của kiếp con người.
Ngày xưa, lúc cháu được vài tháng tuổi, mỗi lần đi đâu con dâu đem một giỏ tã, sữa cho con, còn bà nội cũng lè kè một túi cho chồng. Mỗi khi cần vào phòng vệ sinh thay tã, bà nội lại nhờ con dâu xem chừng phòng nữ có vắng hay không rồi đem chồng vào làm vệ sinh. Xong xuôi cháu cũng sạch mà ông cũng sạch.
Bây giờ cháu đã bỏ tã, nó mặc quần lót đàng hoàng. Lần đầu tiên bỏ tã, trên webcam con trai bảo nó kéo quần xuống cho nội xem. Nó mừng rỡ chỉ cái quần lót hình Superman bí bô khoe. Bà nội chẳng hiểu cháu nói gì, chỉ cười cười. Thương quá đỗi!
Còn ông nội, ngày xưa chỉ mang tã lúc đi đâu hay những lúc cần. Bây giờ ông phải mang tã cả ngày vì ông cũng không biết lúc nào mình cần giải quyết. Những ngày quan trọng cần thiết, bà nội mang khẩu trang, đeo găng tay làm y tá giải quyết những cục nợ đời hôi tanh mà ông không có sức rặn ra. Những ngày đó tã thay không biết bao nhiêu cái.
Bây giờ cháu đã biết đâu là phòng vệ sinh để vào, còn ông thì phòng vệ sinh ngay trước mặt cũng không biết mà vô, bà nội nắm tay ông lôi vào và làm từ A tới Z.
Cháu bây giờ đã biết bắt ghế đứng lên tự đánh răng. Còn ông nội thì bà nội phải đưa ly vào miệng cho ông từng ngụm nước. Bỏ kem vào bàn chải và giúp ông đánh răng. Xong lau mặt, lau tay đưa ông ra khỏi phòng.
Kết luận bây giờ, hai năm sau cháu đã vượt qua mặt ông cái vù về phương diện vệ sinh cá nhân.
Cháu bây giờ đã biết ngồi ăn chững chạc dù mẹ phải đút, bởi không đút là cháu ham chơi ăn không no. Cháu tự múc ăn khi nào đó là ăn chơi hay cháu thật đói. Còn ông thì bây giờ hoàn toàn không chủ động. Đút gì ông ăn đó, ăn xong thỉnh thoảng càm ràm bà nội, "Sao từ qua tới nay không cho tui ăn."
Cháu bây giờ rất gọn gàng không cần khăn, còn ông nội thì phải một cái khăn lót ở dưới để hứng thức ăn rơi. Một cái khăn nhỏ ở trên để lau miệng.
Ngày xưa cháu đi tắm phải có cái thau riêng, cháu nằm trong đó cho mẹ kỳ cọ. Bây giờ cháu có thể đứng trong bathtub cho cha, mẹ thoa xà bông và xịt nước ấm.
Còn ông nội giờ này vẫn tệ như xưa. Càng tệ hơn sau khi xong xuôi, bà nội bảo giơ chân lên để mặc tã, ông cũng đứng im. Những giọt nước miếng cứ nhểu lòng thòng rơi trên đầu bà nội. Khi bà vỗ vỗ vào chân ông, nói, "Chân này nè ông, giơ chân lên!" thì ông mới giơ chân lên. Có hôm ông giật mình kéo mạnh chân tống vào càm bà nội bầm một cục.
Ờ mà còn cái vụ nhểu nữa. Cháu bây giờ ngon lành hơn ông nhiều. Cháu hết nhểu, đẹp trai ra, biết nhận diện đâu là mắt, mũi, miệng. Còn ông nội thì càng ngày tốc độ nhểu càng trầm trọng. Không có thuốc men hay phương pháp gì chận lại. Bà nội dùng kim gút gài một cái khăn bên áo để bà nội chùi cho ông để khỏi chạy đi tìm. Ông không thích cái khăn lòng thòng nên giựt tét cả áo, đứt kim băng. Bà nội phải mặc ngoài một cái áo che lại. Khi cần bà lôi khăn ra lau, xong nhét lại. Thế nhưng nước miếng ông vẫn nhểu dài theo nền nhà theo mỗi bước chân đi. Bà nội lúc nào cũng chuẩn bị khăn lau nhà. Thỉnh thoảng bà lại đạp khăn dưới chân xóa đi dấu vết cho đỡ trơn trợt và cũng để mấy đứa cháu ngoại khỏi gớm.
Cháu nội hôm nay đã có bạn, biết các trò chơi và tung tăng như chim sáo. Còn ông nội thì càng ngày càng quên, càng lẩm cẩm.
Mỗi khi đi đâu bà nội nắm tay ông tình tứ như một cặp tình nhân. Nhưng thực ra là giữ ông cho khỏi đi lạc. Ông rất thích tự do. Ờ mà tự do ai không thích. Nhưng tự do trong trật tự. Thế nhưng ông nội nào biết trật tự là gì. Buông tay ông ra là ông đi, không cần biết điểm đến và đi đâu. Bà nội lạc ông mấy lần nên sợ lắm. Bà giữ tay ông trong bàn tay già yếu nhăn nheo. Thế nhưng đôi khi ông gặp một người không quen, ông vẫn nhào tới nói không ra lời hay lôi bà nội chạy theo họ. Ông la, "Bạn tui, bạn tui." Bà nội biết tẩy của ông nên ngọt ngào dụ dỗ, ''Biết rồi! Họ ra xe đợi mình đó. Đi chợ xong mình sẽ gặp," có vậy ông mới chịu nghe lời và đi theo bà.
*
Cháu nội bây giờ đã biết nghe lời cha mẹ. Mỗi khi làm điều gì sai, mẹ cháu bắt xin lỗi, nhận được gì cháu biết cám ơn. Cháu đã bắt đầu học để nhận biết đúng, sai. Còn ông nội tháng ngày trôi qua ông nội càng mù mịt đúng sai. Cái gì ông muốn là ông làm, ông không muốn thì đừng hòng ép. Khi cần ông đứng lại thì ông đi. Khi muốn ông đi thì ông đứng yên một chỗ. Kéo ghì không nhúc nhích. Năn nỉ một hồi ông mới chịu cho kéo đi. Khi cần ông nói thì ông làm thinh hoặc tiếng không thoát ra ngoài, chỉ lầu bầu, lịch phịch theo nước miếng. Nhưng khi ông nói chuyện với những gì ông thích hay bạn bè ảo tưởng của ông thì ông nói ra tiếng, mạnh mẽ và đầy sức sống.
*
Cho nên hai ông cháu đã đi ngược chiều với nhau, không còn giống nhau như xưa.
Mỗi khi vào Webcam nói chuyện, cháu chỉ trên màn ảnh "Bà nọi, bà nọi. My bà nọi." Còn ông chỉ nhìn cháu như nhìn một cái gì lờ mờ không quen biết. Cặp mắt lơ đãng, ánh nhìn tỉnh khô, môi xệ xuống, nước miếng lòng thòng chảy ra.
Tuy nhiên hai ông cháu cũng có điểm na ná giống nhau là dỗi hờn.
Khi cháu dỗi cháu lăn xuống đất nằm đạp lòng còng. Cha, mẹ cháu kêu đứng dậy và bảo xin lỗi, nếu không sẽ phạt time out.
Còn ông nội, ông hay hờn mát. Mỗi khi như vậy ông bỏ đi nằm và bỏ ăn.
Cả nhà năn nỉ, dụ ngọt cả buổi trời ông mới ngồi dây ăn uống.
Chỉ hai năm thôi, hai năm trôi qua cho thấy một lực hút cuốn mọi người xoay chóng mặt. Đứa cháu ngày nào mới biết lật giờ đã là một cậu bé dễ thương tinh nghịch, ngây thơ. Cháu đang học mọi thứ để tập sự những ngày bước vào trường mầm non.
Còn ông thì mòn hết mọi thứ để đi vào con số không của cuộc đời. Ông như một cây đã cạn hết nhựa. Sống trong một trạng thái mơ hồ và làm theo quán tính của mình.
*
Thằng con trai vừa sinh thêm một đứa con gái. Đứa con gái đẹp như một con búp bê. Khi đứa con dâu sinh xong, thằng con chụp hình gửi về, rồi vào Webcam nói chuyện. Bà nội vui lắm khi nhìn con bé thật dễ thương nằm gọn trong lớp khăn xinh xắn.
Đứa con trai bồng con giơ giơ trước mặt ông nội:
- Ba biết ai không ba?. Cháu nội ba nè.
Ông nhìn cháu hai mắt lim dim, nước miếng chảy có dây ậm ừ:
- Cái cục gì đen đen vậy bà?
- Cái ông này nói kỳ. Bé Hạnh cháu mình đó. Bà nội vội trả lời
Ông làm thinh dường như mọi sự việc chẳng có gì liên quan đến ông. Đứa cháu gái hay cháu trai cũng không còn quan trọng.
Thỉnh thoảng ông cũng không nhớ bà là ai, ông cũng không phân biệt hai đứa cháu ở chung nhà đứa nào là chị đứa nào là em. Ông cũng không nhớ cháu ông tên gì. Cả đứa con gái đầu lòng ngày xưa ông rất mực yêu thương, thỉnh thoảng ông cũng không nhận ra và gọi là chị.
Thằng cháu nội ngày nào giờ đã được đi học ở thư viện trong base của quân đội. Cháu được dạy và chơi các môn thể thao. Cháu đã biết đếm từ 1 đến 40 bằng tiếng Mỹ và đếm 1 đến 10 bằng tiếng Việt Nam.
Còn ông nội bây giờ nói ông thử đếm xem. Bà nội đưa những ngón tay lên để đố, ông chỉ cười cười không trả lời. Không hiểu ông có biết hay ông chả thèm để ý chi ba cái chuyện đố ai lặt vặt trẻ con của đàn bà con gái.
Thằng cháu nội nhìn ông trong webcam và nói:
- Ông nội, ông nội. Ông nội nhểu giống em bé. Ông nội hư quá.
Ông nội bây giờ hư thật, ông sống trong thế giới của riêng ông và những thói hư tự dưng bây giờ xuất hiện.
Người ta nói đó là những thay đổi tâm tính của người già. Ông lúc nào cũng coi đồng tiền quan trọng lắm. Lúc nào cũng khư khư cái giỏ trong đó có cái ví tiền mà ông giữ thật cẩn thận.
Mỗi sáng ông lấy ra đếm đi đếm lại những đồng tiền mới mà bà nội để vào ví cho ông. Những giọt nước miếng chảy xuống làm ướt nhẹp mấy đồng tiền nằm trên. Ông cẩn thận xăm soi rồi lại bỏ vào. Như đứa bé chơi đồ chơi lấy một nón đồ chơi rồi bỏ vào trong hộp. Lại lôi ra chơi tiếp.
Ông hay sợ mất tiền và hay than hôm nay bị ai đánh cắp mấy trăm. Ông dấu kín dưới gối, kẹt tủ rồi lại hoảng loạn đi tìm vì không biết ở đâu. Ông kêu lên đầy lo lắng.:
- Gói tiền và giấy tờ để làm hồ sơ đi Mỹ đã bị đánh cắp rồi. Mình làm sao lên máy bay?
Vậy đó, ông nội lại trở về quá khứ để sống, còn cháu nhìn về tương lai để lớn lên. Cháu lớn từng ngày và mỗi ngày mỗi hiểu biết thêm một chút để bỏ xa ông nội đằng sau.
Bây giờ ông nội lại sắp hàng giống con em nó là con bé mới sinh được 5 tháng tuổi. Cũng mang tã, cũng ngu ngơ không biết gì như nó mấy năm về trước.
Tôi nhìn ông chồng tội nghiệp của tôi mà suy gẫm ra nhiều thứ.
Trên con đường đời của luật tử sinh vòng xoay bất biến, con người luôn đi theo một vòng tròn.
Khi đứa bé sinh ra bắt đầu bằng tã, sữa. Niềm vui là được bú no, ngủ cho yên giấc. Đứa bé lớn dần học nhiều thứ để trưởng thành. Để biết tham lam muốn cái này cái nọ. Để biết tìm cách lấy phần hơn về cho mình và trưởng thành để tự lập một đời sống riêng tư. Cái tuổi thành niên đến giai đoạn tráng niên là phải vật lộn với đời sống, với mưu sinh. Con người tốt hay xấu, danh vọng hay nghèo nàn, có nhân cách và đạo đức hay không là do mình tạo ra trong giai đoạn này.
Đến lão niên cuộc đời trải qua nhiều thăng trầm của cuộc sống. Tuổi đời chồng chất, đấu tranh mòn mõi, luật đời đào thải, cơ thể đào thải để cuối cùng cũng chỉ trở lại với tã và sữa.
Đứa bé là một sinh vật trong trắng, thơ ngây. Tã và sữa là những thứ cần thiết để đứa bé lớn lên và phát triển.
Người già là một cơ thể đã hết rồi nhựa sống. Trang sách đời đầy những dấu vết đau thương và tội lỗi. Nên ngoài tả sữa còn mang cả một quá khứ ở tâm hồn và đau đớn ở thân xác. Vì vậy đôi khi họ rất khó tính và câu chấp thiệt hơn. Cái vòng tròn khi về điểm cuối bao giờ cũng nhạt nhòa và mất dần đi nét vẻ đẹp ban đầu. Tất cả rồi sẽ nhập lại để hủy diệt. Để trả lại cái thân xác cho đất, nước lửa và không khí. Để sau đó một mầm sống mới vươn lên của vòng sinh tử, tử sinh bắt lại từ đầu.
Con đường nào rồi cũng có đích để đến, Nhưng cái đích để đến của những người lính VNCH bị tù Cộng Sản bao giờ cũng nhiều đau đớn, thương tích về thể xác lẫn tâm hồn. Nó đốt cháy và thiêu rụi nhiều thứ trong ký ức vàng son hay làm khô cằn niềm vui và sức sống.
Rất may ông và cháu đều được sống, được là công dân của một đất nước coi trọng người già và trẻ con. Một nước Mỹ tân tiến có nhiều quyền lợi ưu tiên cho cả ông và cháu. Cháu được xã hội nâng niu vì là mần non của đất nước. Cháu được tạo mọi điều kiện để sức khỏe và trí tuệ phát triển đến mức tối đa. Cháu sẽ trưởng thành để góp phần vào sự phồn vinh của đất nước, một người công dân xứng đáng trong xã hội.
Ông được xã hội trân trọng vì đã đóng góp ít nhiều cho xứ sở này. Một đất nước nhân bản coi trọng mỗi cá nhân. Những người già được quan tâm và hưởng những phúc lợi cần thiết để bảo vệ sức khỏe của mình. Để những ngày cuối đời là những ngày hạnh phúc và đáng sống.
Tôi cám ơn nước Mỹ vô cùng đã cho gia đình tôi có cơ hội sống và làm việc. Đã cho chúng tôi có một chỗ thật bình yên và an lành. Cho chúng tôi khi tuổi già không lo cơm áo gạo tiền, vật lộn với đời sống để kiếm miếng ăn. Nếu tôi còn ở VN ông chồng tôi chắc đã ra đi từ lâu lắm... Tôi sẽ không đủ khả năng để lo cho chồng như hiện nay Vì với một sức khỏe cạn kiệt sau bao nhiêu năm trên trại tù Việt Bắc. Bao nhiêu những ám ảnh quá khứ và hiện tại anh sẽ không thể nào đủ sức vượt qua.
Ông trời đã cho chồng tôi sống sót sau bao nhiêu năm tù tội gian lao. Đã cho chàng cùng tôi sang đây để xây lại một mái gia đình hạnh phúc. Và bây giờ đã cho chàng ở bên tôi hàng ngày, hàng giờ như tôi đã từng ước mơ, cầu nguyện.
Ông trời đã đùa với tôi. Ổng háy một bên mắt và cười: "Con ạ! Con xin gì ta đã cho con điều đó. Con ước nguyện cho chồng con sống sót trở về. Con cầu nguyện có chồng một bên không rời xa dù cực khổ bao nhiêu con cũng chịu. Cảm thương con ta cho con toại nguyện. Ta cho nó bên con hàng ngày, hằng giờ không bao giờ chia cắt. Con hãy trân trọng những đặc ân ta ban cho con. Chúc con hạnh phúc."
Và thế, tôi ôm lấy niềm hạnh phúc ơn trên ban cho tôi và giữ lấy nó bằng cả trái tim.
Trái tim của một người phụ nữ Việt Nam yêu chồng.
Nguyễn thị Thêm
Nguyễn thị Thêm
THẾ GIỚI QUANH TA
Cuộc sống của bộ tộc ăn thịt sống ở Bắc Cực
Trong suốt hàng nghìn năm qua, những người thuộc một bộ tộc ở vùng cực thuộc Nga duy trì tập tục ăn thịt sống, uống máu tươi của động vật.
Nenets, hay Samoyeds, là một bộ tộc ở vùng Cực Bắc thuộc Nga. Ảnh: National Geographic
|
Theo thống kê dân số mới nhất vào năm 2010, hơn 44.000 người Nenets đang sống tại Liên bang Nga. Ảnh: RT |
Phần lớn họ sống ở khu tự trị Nenets và Yamal. Ảnh: Steve Morgan
|
Họ sống chủ yếu bằng công việc đánh cá, nuôi tuần lộc, săn thú. Ảnh: nord-espaces.com |
Những cỗ xe do tuần lộc kéo là phương tiện di chuyển chủ yếu của người Nenets. Nhờ những con tuần lộc mà họ có thể vượt qua những khoảng cách xa ở vùng cực bắc. Ảnh: nord-espaces.com |
Tập tục nổi bật của tộc người Nenets là ăn thịt sống, uống máu tươi. Ảnh: Alessandra Meniconzi |
Hai phụ nữ chuẩn bị mổ một con thú. Ảnh: Alessandra Meniconzi
|
Một bữa ăn ngoài trời của lũ trẻ với thịt sống và máu tươi. Ảnh: Alessandra Meniconzi |
Một người đàn ông uống máu tuần lộc. Ảnh: articphoto.co.uk |
Bộ trang phục bằng da và lông thú giúp người Nenets chống chọi thời tiết giá lạnh ở vùng cực. Ảnh: Ảnh: Alessandra Meniconzi |
NÉT BÌNH DỊ QUYẾN RŨ CỦA MIỀN ĐẤT PHẬT NEPAL
Cảnh vật, văn hóa và con người ở vùng thảo nguyên thanh bình mang đến một nét đẹp rất đỗi dung dị, lay động lòng người.
·
Nepal là một quốc gia nhỏ bé nằm giữa hai nền văn hóa lớn Trung Quốc và Ấn Độ, nhưng có một nền tảng văn hóa lâu đời cùng cảnh sắc thiên nhiên kỳ vĩ khiến cho bất kỳ ai từng một lần đặt chân tới khó lòng quên được.
|
Ấn tượng lớn nhất về Nepal đó là những ngôi nhà đất nung với nét kiến trúc giản dị mà cổ kính, nằm yên bình giữa các thung lũng rộng lớn, khí hậu trong lành. Người dân nơi đây mang vẻ đẹp của những người lao động tần tảo, lam lũ nhưng rất thân thiện và hồn hậu.
|
Vì nguồn nước không có sẵn trong từng gia đình nên hàng ngày các em nhỏ có thói quen đi lấy nước công cộng để sử dụng.
|
Bhaktapur là niềm tự hào của người Nepal, nơi đây được mệnh danh là Thành phố văn hóa với nhiều đền thờ, miếu mạo cùng những bức tượng được chạm trổ, điêu khắc kỳ thú. Ngày nay, du khách đến Nepal sẽ có dịp chiêm ngưỡng những di sản văn hóa còn bảo tồn được giữa lòng Bhaktapur mà tuổi đời của chúng lên tới vài trăm năm có lẻ. Trong ảnh là một góc phố với những con đường đá ở Bhaktapur.
|
Con người cũng giống như cảnh vật ở đô thị cổ Bhaktapur đều chất phác, gần gũi và luôn nở nụ cười rất tươi chào đón những người khách phương xa.
|
Du khách cũng không nên bỏ qua chuyến tham quan tới thủ đô Kathmandu xinh đẹp và cổ kính, nơi được coi là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của Nepal. Đặc điểm nổi bật nhất mà du khách có thể thấy được ở thành phố Kathmandu là những công trình chùa chiền, đền thờ và bảo tháp phần lớn được xây dựng từ gỗ với nhiều họa tiết chạm trổ khéo léo, tinh xảo và công phu. Trong vô số những đền chùa, bảo tháp mà du khách có thể viếng thăm ở Kathmandu, các công trình nổi tiếng hơn cả là Pashupatinath, Bouddhanath, Swayambhunath và Basantapur.
|
Quảng trường Durbar ở Bhaktapur nằm ở độ cao hơn 1.400m so với mực nước biển, trải rộng trên diện tích 119km2 trên tuyến đường thương mại giữa Ấn Độ và Tây Tạng. Được xây dựng từ thế kỷ thứ 12 dưới thời vua Ananda Malla, Bhaktapur trở thành thủ đô của vương quốc Malla trong suốt 3 thế kỷ. Bên trong Bhaktapur là 172 đền thờ và tu viện với 77 bể chứa nước và 152 giếng nước sâu trong vắt với lối kiến trúc hình vỏ ốc xà cừ, biểu tượng thiêng liêng của
Chúa Vishnu.
|
Bảo tháp Boudhanath có màu trắng nổi bật cao 36m có kiến trúc hình bán cầu với đỉnh tháp nhô lên có hình vẽ đôi mắt Phật nhìn ra 4 hướng. Những dây cờ đủ màu sắc đặc trưng cho Phật giáo Tây Tạng giăng từ đỉnh tháp xuống làm cho Boudhanath trông càng lộng lẫy hơn. Thời điểm tốt nhất trong ngày để tới thăm bảo tháp là vào lúc hoàng hôn, khi hàng trăm tín đồ cùng tới đây cầu nguyện. Trong nhiều thế kỷ qua, bảo tháp Boudhanath đã trở thành một điểm đến quan trọng trong lộ trình hành hương của người dân Tây Tạng và Nepal.
|
Pokhara là thành phố có 200.000 dân ở miền trung Nepal, cách thủ đô Kathmandu 198 km về phía tây. Nơi đây nhìn thoáng qua giống như một bức tranh sơn thủy sinh động với những thửa ruộng bậc thang hùng vĩ. Trong những năm gần đây, Pokhara được du khách biết đến nhiều hơn khi phát triển du lịch qua những môn thể thao mạo hiểm như chơi dù lượn trên hồ, bay qua thung lũng, đạp xe qua mọi địa hình...
|
Ghé thăm nhà ở của người Himalaya bạn sẽ phần nào hiểu được cuộc sống và tập tục của con người ở vùng núi cao quanh năm nắng gió.
|
Annapurna là một phần của dãy Himalaya, nằm ở miền Trung Nepal. Nơi đây luôn thu hút khách du lịch bởi phong cảnh núi non hùng vĩ, làng mạc quanh co dưới chân núi và những cánh đồng hoa Millet phủ kín núi đồi và thung lũng. Annapurna hiện là những đỉnh núi khó chinh phục nhất thế giới, khi mà có vô số những người leo lên đến đỉnh thường phải bỏ mạng nơi đây.
|
Đến Annapurna bạn đừng bỏ lỡ cơ hội ghé thăm làng Gurung với những con đường xếp bằng đá rất đỗi công phu và những ngôi nhà truyền thống của người Nepal. Du khách cũng có thể nghỉ chân tại nhà nghỉ Gurung của Công ty Ker & Downey Nepal. Nhà nghỉ có sức chứa khoảng 20 người, tiện nghi đầy đủ.
|
CỔ VẬT AI CẬP
Tại bảo tàng nổi tiếng Louvre (Pháp) có một khu vực thu hút sự quan tâm đặc biệt của các du khách đó là nơi trưng bày các cổ vật Ai Cập. Hơn 50nghìn hiện vật"có một không hai"được trưng bày khiến người xem không khỏi ngỡ ngàng về một nền văn minh từ hàng nghìn năm trước.
Những cổ vật Ai Cập quý giá nhất đang được trưng bày tại bảo tàng Louvre của Pháp trong 30 căn phòng lớn nhỏ. Tại cửa chính, án ngữ là một bức tượng nhân sư khổng lồ còn gần như nguyên vẹn. Có chừng 50.000 cổ vật Ai Cập được trưng bày tại đây và chia thành các khu vực khác nhau như xác ướp, công cụ, đồ trang sức, các trò chơi, tượng, vũ khí...
Số cổ vật tại đây tăng lên rõ rệt về số lượng sau các chuyến đi viễn chinh vào thời điểm năm 1798 của Napoleon. Nhiều học giả nổi tiếng cũng tham gia góp công sức để làm phong phú khu vực trưng bày cổ vật Ai Cập tại bảo tàng Louvre
Các cổ vật Ai Cập có mặt rất sớm tại bảo tàng Louvre và được giới thiệu tới người xem lần đầu vào năm 1793
Học giả, nhà khảo cổ học Auguste Mariette, giám đốc đầu tiên của khu vực trưng bày cổ vật Ai Cập cũng là người tái thiết bảo tàng Ai Cập. Ông là người có công lớn trong việc đưa chừng 6000 cổ vật Ai Cập tới Paris
Nhà sưu tầm người Mỹ Atherton Curtis cũng là một nhân vật được Louvre yêu mến khi gửi tặng bảo tàng này tới 1500 hiện vật quý của Ai Cập
Một chiếc thuyền gỗ được chạm khắc tinh vi tại khu vực trưng bày cổ vật Ai Cập
Những món đồ nữ trang tuyệt đẹp này dường như chỉ dành cho những bậc vua chúa thưở xưa
Thật khó tin là cách đây hàng nghìn năm, con người đã khéo léo trong việc chế tác nữ trang như thế này!
Cận cảnh những chiếc vòng đeo tay kim loại
Vũ khí và cũng là công cụ lao động của người Ai Cập cổ
Những chiếc quan tài chạm trổ cầu kỳ và hoàn toàn khác nhau được trưng bày tại nhiều nơi
Thời gian không xóa đi cảm xúc trên gương mặt những người đã khuất được thể hiện trên những chiếc quan tài
Cỗ quan tài đá nặng hàng tấn
Người xem sẽ có chút cảm giác rợn người khi "lang thang" tại khu vực này trong không gian vắng lặng
Một xác ướp Ai Cập và mặt nạ của mình. Những xác ướp từ hàng trăm, hàng nghìn năm trước vẫn giữ được nguyên vẹn cho đến ngày nay luôn được khách tham quan chú ý
Các cổ vật này là minh chứng rõ ràng cho nền văn minh từng đạt tới đỉnh cao tại Ai Cập từ hàng nghìn năm trước
Bảo tàng Louvre được hàng chục nghìn khách viếng thăm mỗi ngày và khu vực trưng bày cổ vật Ai Cập là một trong những nơi thu hút nhiều khách tham quan nhất bên cạnh bức tranh nàng Mona Lisa và tượng Thần Vệ Nữ!
Những tập tục kỳ lạ của văn hoá Nhật Bản
Nhật Bản là một quốc gia được biết đến nhiều bởi nền văn hoá độc đáo và các lễ nghi nghiêm ngặt. Sau đây là một vài những quy tắc xã hội và những truyền thống của người Nhật mà những du khách nước ngoài nên để ý nếu đi du lịch đến quốc gia này.
ăn uống ở những nơi công cộng hay trên tàu là thô lỗ. Photo courtesy: Business Insider
- Nhật Bản là một quốc gia được biết đến nhiều bởi nền văn hoá độc đáo và các lễ nghi nghiêm ngặt. Sau đây là một vài những quy tắc xã hội và những truyền thống của người Nhật mà những du khách nước ngoài nên để ý nếu đi du lịch đến quốc gia này.
1. Con số 4 không bao giờ được sử dụng cho giá tiền:
Tại Nhật Bản, số 4 thường được tránh sử dụng vì nó phát âm giống với chữ "tử - chết". Cũng tương tự như số 13 trong văn hoá phương Tây, số 4 là con số vô cùng xui xẻo và người Nhật hạn chế sử dụng con số này càng ít càng tốt. Vì vậy khi tặng quà cho ai, người Nhật không tặng số lượng 4 món. Trong thang máy cũng thường không có tầng thứ tư. Thậm chí, một số nơi còn không có những tầng từ 40 đến 49. Số 49 là con số đặc biệt không may mắn vì nó phát âm giống với ''đau đến chết''.
Việc tránh động đến con số 4 không chỉ có ở Nhật Bản mà còn phổ biến ở nhiều quốc gia Đông Á và Đông Nam Á khác.
2. Hỉ mũi nơi công cộng là thô lỗ:
Với người Nhật, hành động hỉ mũi nơi công cộng không chỉ bị xem là thô lỗ mà còn bị xếp vào những hành động đáng kinh tởm. Người Nhật thường khịt mũi ở những nơi kín đáo. Vì vậy nếu bạn cần phải xì mũi, bạn hãy tìm một nơi vắng vẻ và kín đáo chứ đừng vô tư xì mũi nơi công cộng.
3. Cho tiền tip được coi là hành động xúc phạm:
Việc cho tiền tip ở Nhật Bản là thô lỗ và hèn hạ. Nhiều khách du lịch nước ngoài đã rất ngạc nhiên khi nhân viên của một tiệm ăn đuổi theo họ để trả lại tiền tip. Đối với người Nhật, tiền tip không hề có trong từ điển của họ.
Nhiều người Nhật khó tính còn cho rằng ăn uống ở những nơi công cộng hay trên tàu là thô lỗ.Photo courtesy: Business Insider
4. Vừa đi vừa ăn thể hiện bạn là một con người cẩu thả:
Mặc dù việc vừa đi vừa ăn được xem là thuận tiện và được chấp nhận rộng rãi ở nhiều nền văn hoá phương Tây. Tại Nhật Bản, đây lại là một hành động khiến người khác đánh giá về con người của bạn. Nhiều người Nhật khó tính còn cho rằng ăn uống ở những nơi công cộng hay trên tàu là thô lỗ. Tuy vậy vẫn có những ngoại lệ cho quy tắc này, chẳng hạn như bạn vẫn có thể vừa đi bộ vừa nhâm nhi một cây cà rem trên đường phố Nhật mà không sợ bị người khác khó chịu.
5. Tại Nhật có những người chuyên làm việc đẩy bạn lên một chiếc xe điện đông đúc:
Oshiya là những người làm việc tại các trạm xe điện ngầm. Họ mặc đồng phục, đội mũ đen và đeo găng tay trắng. Các Oshiya làm công việc đẩy người lên các chiếc xe điện đông đúc. Họ được trả tiền để bảo đảm rằng tất cả mọi hành khách đều được lên xe điện và không bị ngã ra khỏi tàu.
6. Mọi người có thể ngủ trên xe lửa và gục đầu trên vai của bạn:
Nếu ai đó buồn ngủ khi đang ngồi trên tàu điện, họ có thể ngủ gục và ngả đầu lên vai của người kế bên. Những người bị rơi vào tình trạng này thường chọn cách chịu đựng cảnh 'trở thành chiếc gối' bất đắc dĩ trong suốt chuyến hành trình của họ. Người Nhật phải di chuyển những quãng đường rất dài và làm việc chăm chỉ, vì vậy nhiều người thường xuyên ngủ gục trên tàu.
7. Luôn có dép dùng riêng trong khu vực nhà vệ sinh:
Người Nhật có phong tục đổi dép khi bước vào trong nhà của một ai đó. Thậm chí là nhà hàng truyền thống, đền chùa và đôi khi là các bảo tàng, phòng trưng bày nghệ thuật. Hay nói cách khác, bất kể khi nào đến Nhật Bản, bạn nhìn thấy những đôi dép (slippers) được xếp thành hàng, bạn hãy cứ mang chúng vào. Đặc biệt bên trong nhà vệ sinh của một ngôi nhà Nhật Bản luôn có sẵn một đôi dép chỉ dùng riêng trong nhà vệ sinh.
8. Khi được mời đến thăm nhà của người Nhật, bạn hãy nhớ mang theo một món quà để tặng chủ nhà:
Tại Nhật Bản khi bạn được mời đến thăm nhà ai đó là một niềm vinh hạnh. Nếu được mời đến nhà ai đó, bạn đừng quên mang theo quà. Món quà cũng cần phải được gói kỹ lưỡng và buộc dây nơ đẹp mắt. Và bạn cũng đừng bao giờ từ chối một món quà khi được tặng.
9. Tự rót rượu vào ly của mình cũng là hành động thô lỗ:
Tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác trên thế giới, bạn thường rót rượu cho những người khác trong bàn rồi mới rót cho mình. Nhưng ở Nhật Bản, bạn đừng khi nào tự rót cho mình. Nếu bạn rót rượu vào ly của những người khác đang ngồi cùng bàn, hãy hy vọng rằng có ai đó sẽ phát hiện ra là ly của bạn đã trống rỗng và sẽ rót thêm vào ly của bạn.
10. Húp sùm sụp mì không chỉ được xem là lịch sự mà còn có nghĩa là bạn rất thích bữa ăn của bạn:
Húp sùm sụp khi ăn mì ở Nhật Bản được xem là lịch sự vì nó chứng tỏ bạn đang thưởng thức một món mì ngon. Trên thực tế, nếu tiếng húp mì của bạn không đủ lớn, người Nhật có thể hiểu rằng bạn không thích món ăn của họ.
Người Nhật húp mì không hoàn toàn vì phép lịch sự, mà còn để tránh lưỡi bị phỏng. Súp và mì của Nhật thường được ăn khi còn nóng, nên húp mì sẽ giúp 'giảm nhiệt' món ăn. Nhưng không giống như một số quốc gia châu Á khác, việc ợ ngay tại bàn ăn đối với người Nhật lại là một hành động thô lỗ.
11. Khách sạn với những căn phòng chỉ lớn hơn chiếc quan tài không phải là hiếm ở Nhật.
Những khách sạn viên nang có giá rẻ chủ yếu phục vụ những người chỉ đơn thuần tìm một nơi để ngủ. Và thường là nơi nghỉ ngơi phổ biến đối với các doanh nhân đang đi công tác, hoặc những người lỡ tiệc tùng quá đà và đã bỏ lỡ chuyến tàu cuối cùng về nhà. Khái niệm khách sạn viên đã xuất hiện tại Nhật từ những năm 1970, nhưng sau này đã bắt đầu lây lan sang các quốc gia khác trên thế giới. Giá mỗi phòng của loại khách sạn này chỉ khoảng 65 Mỹ Kim/ ngày, rẻ hơn rất nhiều so với giá khách sạn bình thường. Nhưng nơi này không thích hợp cho những ai có chứng sợ nơi chật hẹp.
VƯỜN THƠ
MP3
CÙNG EM
Cùng em yêu hết kiếp này
Cùng em đi hết con đường
Để nghe trong mắt nhớ thương
Mộng bay bay giữa mộng thường
Và nghe trong gió hồng
NGUYỄN LỘC
-----
tại Thư viện Thủ đô
những bạn thơ từng đi Liên Xô
hội ngộ
đón Tuyển thơ "Nối hai đầu Thế kỷ"
155 Thi sĩ / 600 bài thơ
Hoài niệm nước "Nga - Xô Viết"
đi suốt chiều dài
60 năm lịch sử !
*
Ôi Liên Xô, một thời để nhớ
Mùa thu về rực rỡ hồn ai
Lénine đúng ngã tư chỉ lối
Sông Volga cuộn đến chân trời..."
*
Đảng cộng sản Liên Xô giải tán rồi
Marx - Lénine
cờ búa liềm
đi vào quá khứ
một Siêu cường tan rã
còn ánh chút hồi quang
trong hồn lũ đệ tử ! ?
*
Chao ôi
bây giờ đang lúc
Đồng Dollar xanh nhấn chìm đồng Rub
lại hai đầu đối kháng
hầm hè "bom hạt nhân"
cả thế gian ô nhiễm môi trường
bọn Bá quyền lũng đoạn...
*
Ơi các bạn Thi nhân
tâm hồn tôi ớn lạnh
còn một chút cảm xúc
lắt lay
Hoài Niệm.
----
Hà Nội chiều 30/12/2014
MỘT NỬA
Từng hơi thở ấm nồng
Còn bao chiếc lá rơi
Mang những xa xôi
Biết bao niềm mơ
Ngoài sân đang tuyết rơi
Cùng em bên lửa hồng
Và nghe bao nhớ thương
Quyện chung một bóng hình!
NGHIÊU MINH
MỪNG NĂM MỚI DƯƠNG LỊCH
Mừng quá, tôi già hơn một tuổi
Tuổi đòi quà ông đất ông trời
Tuổi được mấy nhỏ gọi bằng cụ
Dù trong tim chưa trổ đồi mồi!
Năm mới cũng xin bạn lì xì
Bỏ vào phong thư chút sân si
Tôi đem lên núi ngày nắng đẹp
Vui cùng bạn thả gió mang đi
Năm mới mừng bạn ly cà phê
Cho đắng đời cộng chút đam mê
Mang theo những nụ cười âm điệu
Bụi-ta-bụi-bạn hẹn nhau về
Mừng quá, tôi lớn thêm một tuổi
Tuổi lấn chen chưa kịp tu hành
Thôi thì kiếp sau tu sẽ ngộ
Ngộ tục thiền đi ngoài giới răn!
NGHIÊU MINH
HOÀI NIỆM CHIỀU 30/12
(Tặng : Thúy Toàn)NGUYỄN LỘC
-----
"Dân tộc có Thi nhân
là thoát thời Bộ lạc
Quen sống theo bầy đàn
cùng ca một điệu hát"
*
15h chiều 30 tháng chạp*
(đã sụp đổ)
như quê hương thứ hai*
*
còn ánh chút hồi quang
trong hồn lũ đệ tử ! ?
*
Chao ôi
bây giờ đang lúc
Đồng Dollar xanh nhấn chìm đồng Rub
lại hai đầu đối kháng
hầm hè "bom hạt nhân"
cả thế gian ô nhiễm môi trường
bọn Bá quyền lũng đoạn...
*
Ơi các bạn Thi nhân
tâm hồn tôi ớn lạnh
còn một chút cảm xúc
lắt lay
Hoài Niệm.
----
Hà Nội chiều 30/12/2014
NẮNG TRONG NHƯ NGỌC
Á NGHI
Thì thầm, tình tự điều chi
Mà hai người ấy đỏ y mặt trời?
Êm êm, nhè nhẹ từng lời
Nhìn xem! Hạnh phúc như thời hai mươi
Cây xanh như ngọc! Xanh ơi!
Trời xanh như lụa mịn, mời tình yêu
Họ ngồi suốt cả buổi chiều
Nói chi nhiều thế? Bao nhiêu ngọt ngào?./.
Á Nghi**6-3-2015
MỘT NỬA
Thân ta hai mảnh mà thành
Nửa ta với nửa thân hình người yêu
Ngày thì nửa sáng nửa chiểu
Thương thì nửa có, nửa điều nói không
Mây chiều nửa tím nửa hồng
Tình ai nửa nhạt cho lòng ngẩn ngơ
Để ai nửa đợi nửa chờ
Nửa ngồi ủ rũ, nửa hờ hững đi
Nửa yêu cay đắng sá gì
Nửa ta cũng chẳng buồn chi cuộc tình
ANH ĐỘ ĐỖ CẨM KHÊ
THIS HALF OF MINE
My self is composed of two halves; no laugh!
One's the very mine, the other of my better half.
Each whole day is half morning, half afternoon.
In love she would half yes tune, half no croon.
As the evening clouds are half violet, half rose,
Her feelings half cold, in a daze my heart to pose,
Causing me to half wait, half long for, foolish,
Half staying disconsolate, half straying, coolish,
Half infatuated bitterly; but I do not care, sure!
Half of myself, too, would not bemoan this amour.
Translation by THANH-THANH
TRẦN ĐỖ CUNG * CHUYỆN TÙ
Chuyện tù cải tạo của Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng Quốc Gia
Các bản báo cáo trở thành ác mộng của tù nhân. Viết ít chừng nào tốt chừng ấy và phải nhớ những gì đã viết để có thể viết lại những báo cáo sau. Ý đồ của quản trại là bắt tù từ bỏ niềm tin, chối bỏ lý tưởng và gia đình, khinh rẻ chế độ cũ và chửi rủa các cấp lãnh đạo cũ.
Thật là khó khăn cho những ai thẳng thắn với những nguyên tắc có sẵn hay những người bản chất hiền hòa không biết chửi bậy. Song viết ngắn quá cũng bị nghi ngờ là thiếu thành thật và tù bị gọi lên hạch hỏi đủ điều, chữa đi chữa lại. Kết quả là tù phạm tội nặng hơn để rơi vào bẫy sửa sai không ra thoát.
Tinh khôn ở đâu ?
Một bạn thân ở Montréal Canada vừa gửi cho tôi cuốn Pháp Ngữ Souvenirs et Pensées,viết bởi Bà Bác Sỹ Nguyễn Thị Đảnh và được Bác Sỹ Từ Uyên chuyển qua Việt Ngữ.
Bạn lại khuyến khích tôi nếu có thì giờ thì chuyển qua Anh Ngữ theo sự mong muốn của tác giả. Sau khi đọc tôi thấy đặc biệt ở chỗ tù cải tạo này là một chuyên viên tài chính ngân hàng, khác hẳn trường hợp thường thấy của các sỹ quan trong quân lực.
Ông Thảo bị đầy đọa sáu năm rưỡitrời để hy vọng moi các hiểu biết của ông về tài sản Ngân Hàng Quốc Gia.
Bà Bác Sỹ Đảnh nay định cư tại Oslo Na Uy là một phụ nữ miền Nam, Tây học. Phu quân Đỗ Văn Thảo cũng là người Nam, sinh ngày 21 tháng 8 năm 1927 tại Gò Công. Sau khi tốt nghiệp Đại Học tại Pháp ông Thảo đã về làm việc tại Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam từ tháng Tư năm 1955. Ông đã giữ chức Giám Đốc Nha Ngoại Viện rồi Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng Quốc Gia cho đến ngày 30 tháng Tư năm 1975.
Ông bị đi tù cải tạo tháng 6 năm 1975 rồi bị lưu đầy ra Bắc cho đến tháng 9 năm 1980. Đến tỵ nạn chính trịtại Bergen, Na Uy tháng 12 năm 1981, ông tạ thế tháng Giêng năm 2001 tại Oslo, Na Uy vì trụy tim.
Ông bị đi tù cải tạo tháng 6 năm 1975 rồi bị lưu đầy ra Bắc cho đến tháng 9 năm 1980. Đến tỵ nạn chính trịtại Bergen, Na Uy tháng 12 năm 1981, ông tạ thế tháng Giêng năm 2001 tại Oslo, Na Uy vì trụy tim.
Câu chuyện Bà Bác Sỹ Đảnh kể lại về sự tù tội Việt Cộng của đức lang quân cho thấy đặc biệt có ba khía cạnh. Là người Nam thuần túy, là chuyên viên được huấn luyện công phu và chưa bao giờ liên quan đến quân đội. Nhưng Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam đã hành xử như quân xâm lăng, cầm tù những chuyên viên rồi vơ vét của cải đem về như Phát Xít Đức Quốc Xã khi tiến vào Paris.
Sự thiển cận của họ đã đưa đến sự kiệt quệ tột cùng cho đến bây giờ vẫn chưa ngóc đầu lên ngang hàng với các nước lân bang. Nay mở miệng mời chào người Việt nước ngoài trở về đem chất xám giúp nước thì thử hỏi có nghe được không?
Sự thiển cận của họ đã đưa đến sự kiệt quệ tột cùng cho đến bây giờ vẫn chưa ngóc đầu lên ngang hàng với các nước lân bang. Nay mở miệng mời chào người Việt nước ngoài trở về đem chất xám giúp nước thì thử hỏi có nghe được không?
Câu chuyện do bà Đảnh kể lại trong thời kỳ gia đình bị kẹt vì lỡ chuyến ra đi của tầu Việt Nam Thương Tín. Những ôn tưởng chỉ được ông Thảo thỉnh thoảng nhắc đến vì ông không muốn trải qua một lần nữa những hình ảnh dã man mà ông đã trải qua.
Bà hết sức căm nước Pháp đã hùa theo Việt Cộng chỉ vì thù Mỹ đã không giúp họ xâm chiếm lại xứ Việt Nam trù phú sau khi Thế Chiến II chấm dứt. Bất hạnh cho Việt Nam, trong khi cộng sản Nga Hoa chỉ ngầm giúp Hà Nội thì Mỹ ồn ào đổ quân vào làm mất chính nghĩa của chúng ta đã bị nhóm thiên tả và CS cơ hội bóp méo thành chiến tranh chống Mỹ cứu nước.
Bà viết để vinh danh những ai đã trải qua địa ngục trần gian tù cải tạo Việt Cộng. Và cũng để nói lên lời an ủi tới những ai đã bị phân tán ra bốn phương trời, làm cho không những mất gốc mà còn mất cả cá tính nữa.
Bà cùng gia đình bị kẹt lại trong cư xá sang trọng của Ngân Hàng nằm trên đường nhỏ hướng ra cầu xa lộ mới. Bà thấy rõ sự chiến đấu dũng cảm của một Trung Đội Nhẩy Dù với 20 binh sĩ chỉ huy bởi một Thiếu Úy trẻ măng có vẻ mới ra trường.
Nhìn các quân nhân rắn chắc, nét mặt kiêu hùng và người chỉ huy Thiếu Úy trẻ nhưng chững chạc, bà đã chia xẻ đồ ăn với họ và có cảm tưởng đã cùng họ chiến đấu. Cuối cùng tất cả quân sỹ đã bị hy sinh một cách tức tưởi. Bà nói: “Ai dám bảo là quân ta không chịu chiến đấu”? Trong khi ấy những phát súng lẻ tẻ của du kích Mặt Trận Giải Phóng quấy rối giữa những tiếng nổ đại pháo. Ngoài đường một sự hỗn loạn không tưởng tượng được khi bọn hôi của nhào vào các nhà vắng
Bà hết sức căm nước Pháp đã hùa theo Việt Cộng chỉ vì thù Mỹ đã không giúp họ xâm chiếm lại xứ Việt Nam trù phú sau khi Thế Chiến II chấm dứt. Bất hạnh cho Việt Nam, trong khi cộng sản Nga Hoa chỉ ngầm giúp Hà Nội thì Mỹ ồn ào đổ quân vào làm mất chính nghĩa của chúng ta đã bị nhóm thiên tả và CS cơ hội bóp méo thành chiến tranh chống Mỹ cứu nước.
Bà viết để vinh danh những ai đã trải qua địa ngục trần gian tù cải tạo Việt Cộng. Và cũng để nói lên lời an ủi tới những ai đã bị phân tán ra bốn phương trời, làm cho không những mất gốc mà còn mất cả cá tính nữa.
Bà cùng gia đình bị kẹt lại trong cư xá sang trọng của Ngân Hàng nằm trên đường nhỏ hướng ra cầu xa lộ mới. Bà thấy rõ sự chiến đấu dũng cảm của một Trung Đội Nhẩy Dù với 20 binh sĩ chỉ huy bởi một Thiếu Úy trẻ măng có vẻ mới ra trường.
Nhìn các quân nhân rắn chắc, nét mặt kiêu hùng và người chỉ huy Thiếu Úy trẻ nhưng chững chạc, bà đã chia xẻ đồ ăn với họ và có cảm tưởng đã cùng họ chiến đấu. Cuối cùng tất cả quân sỹ đã bị hy sinh một cách tức tưởi. Bà nói: “Ai dám bảo là quân ta không chịu chiến đấu”? Trong khi ấy những phát súng lẻ tẻ của du kích Mặt Trận Giải Phóng quấy rối giữa những tiếng nổ đại pháo. Ngoài đường một sự hỗn loạn không tưởng tượng được khi bọn hôi của nhào vào các nhà vắng
chủ và du kích Việt Cộng ngày càng hung hăng tàn ác.
Rồi ông Thảo phải ra trình diện theo lệnh của quân quản Sài Gòn. Ông thật thà nghĩ rằng vì vợ chồng ông là các chuyên gia thuần túy nên chính thể mới sẽ cần đến những bàn tay xây dựng lại quốc gia.
Ông nói với vợ rằng, “Nếu họ không ưa chúng ta thì họ cũng không thể xử tệ với chúng ta. Họ không thể giết hết tất cả”. Một Pol Pot đã làm như vậy, nhưng họ đã thấy là không có lợi gì hết.
Tuy nhiên Việt Cộng đã làm những việc tệ hại hơn nhiều. “Chúng tôi không hiểu rõ cái thực tế của cộng sản. Chúng tôi đã nuôi ảo tưởng rằng cộng sản là một xác tín cao đẹp.
Song đem cái xác tín ấy vào đời sống con người bằng võ lực đã làm mất hào quang lý tưởng và thơ mộng. Và như vậy nó trở nên tầm thường, bẩn thỉu, ích kỷ và man rợ”.
Ông nói với vợ rằng, “Nếu họ không ưa chúng ta thì họ cũng không thể xử tệ với chúng ta. Họ không thể giết hết tất cả”. Một Pol Pot đã làm như vậy, nhưng họ đã thấy là không có lợi gì hết.
Tuy nhiên Việt Cộng đã làm những việc tệ hại hơn nhiều. “Chúng tôi không hiểu rõ cái thực tế của cộng sản. Chúng tôi đã nuôi ảo tưởng rằng cộng sản là một xác tín cao đẹp.
Song đem cái xác tín ấy vào đời sống con người bằng võ lực đã làm mất hào quang lý tưởng và thơ mộng. Và như vậy nó trở nên tầm thường, bẩn thỉu, ích kỷ và man rợ”.
Ngày 15 tháng Sáu năm 1975 bà Đảnh đã chở ông Thảo và các con trên chiếc xe VW Variant đến một ngôi trường bỏ không gần Sở Thú. Ông gập một bạn cũ cùng đi trình diện nên thấy đỡ cô đơn hơn. “Khi chia tay tôi nhìn thấy trong ánh mắt anh ấy sự tiếc nuối, lo âu và tình yêu đằm thắm.
Anh chưa biết rằng sự chia tay này kéo giài cả hơn sáu năm rưỡi trời. Ánh mắt sâu thẳm ấy theo tôi mãi mãi ngày đêm và không bao giờ tôi quên được. Hầu hết các gia đình đều chịu hoàn cảnh như vậykhông cha, không chồng.
Tôi may mắn thuộc thành phần không làm điều gì sai quấy và được đồng sự mến, không phải loại có nợ máu lớn với nhân dân, nên được gọi đi cải tạo trong một tuần lễ”.
Anh chưa biết rằng sự chia tay này kéo giài cả hơn sáu năm rưỡi trời. Ánh mắt sâu thẳm ấy theo tôi mãi mãi ngày đêm và không bao giờ tôi quên được. Hầu hết các gia đình đều chịu hoàn cảnh như vậykhông cha, không chồng.
Tôi may mắn thuộc thành phần không làm điều gì sai quấy và được đồng sự mến, không phải loại có nợ máu lớn với nhân dân, nên được gọi đi cải tạo trong một tuần lễ”.
Rồi xẩy ra việc vơ vét toàn diện. Tại Bộ Giáo Dục cũ không một cái gì là bị bỏ sót, cục tẩy, cái bút BIC, giấy, tập vở đều bị thu gom chở về Bắc trên các xe vận tải nhà binh đầy ắp. Những cán bộ miền Nam thấy bất bình,
“Chúng ta bây giờ thống nhất vậy của cải miền Nam phải được để lại miền Nam vì ở đây cũng cần các phương tiện để xây dựng lại chớ”? Bà nói: “Khi tôi nghĩ dến những đứa con miền Nam đã gia nhập MTGPMN tôi không khỏi khinh bỉ và tội nghiệp.
Một số ít có thể là những người yêu nước thật sự tuy nuôi một lý tưởng ngu đần để bị VC xập bẫy. Họ đã làm gì để giúp đỡ quê cha đất tổ? Hay là giúp tay xa lìa sự trù phú, sự phồn thịnh và cả tự do nữa”?
“Chúng ta bây giờ thống nhất vậy của cải miền Nam phải được để lại miền Nam vì ở đây cũng cần các phương tiện để xây dựng lại chớ”? Bà nói: “Khi tôi nghĩ dến những đứa con miền Nam đã gia nhập MTGPMN tôi không khỏi khinh bỉ và tội nghiệp.
Một số ít có thể là những người yêu nước thật sự tuy nuôi một lý tưởng ngu đần để bị VC xập bẫy. Họ đã làm gì để giúp đỡ quê cha đất tổ? Hay là giúp tay xa lìa sự trù phú, sự phồn thịnh và cả tự do nữa”?
Các cán bộ cộng sản thường vào tư gia mượn những thứ cần dùng. Họ được đối xử tử tế nhã nhặn. Nhưng một hôm một cấp chỉ huy vào nhà. Bà lịch sự rót một cốc nước mát mời thì ông ta túm lấy vai đứa con trai nhỏ bắt húp một ngụm trước.
“Tôi đâu có ngu gì mà đầu độc họ ngay tại nhà tôi? Họ ra vào nhiều lần và tôi cảm thấy họ muốn cái gì, có lẽ muốn cái nhà của tôi? Ý tưởng đào thoát manh nha trong đầu tôi. Với sự hiện diện của báo chí và những quan sát viên, nên VC còn tỏ ra dè dặt, không dám ra mặt tham lam áp chế dân chúng. Cũng may là chẳng bao lâu sau cả đoàn quân CS bị chuyển qua Cao Mên”.
Tù phải viết bản báo cáo mỗi ngày, nói rõ những gì bản thân họ đã phạm trước kia và những gì cha hay thân nhân họ đã làm. Nay mới thấy sự ích lợi của các cây bút BIC. “Tôi đâu có ngu gì mà đầu độc họ ngay tại nhà tôi? Họ ra vào nhiều lần và tôi cảm thấy họ muốn cái gì, có lẽ muốn cái nhà của tôi? Ý tưởng đào thoát manh nha trong đầu tôi. Với sự hiện diện của báo chí và những quan sát viên, nên VC còn tỏ ra dè dặt, không dám ra mặt tham lam áp chế dân chúng. Cũng may là chẳng bao lâu sau cả đoàn quân CS bị chuyển qua Cao Mên”.
Một tháng sau khi trình diện học tập cải tạo không thấy một ai được về nhà. Cậu con trai lớn luôn luôn đạp xe quanh ngôi trường mà cha cậu trình diện thì thấy vắng tanh.
Khi đem người trưởng gia đình đi thì tạo ra một không khí bất an và đạt được hai mục đích, vô hiệu hóa người chồng người cha và cùng một lúc kiểm soát được mọi người trong gia đình. Nhiều gia đình chỉ trông cậy vào đồng lương cha chồng đem về hàng tháng thì bây giờ túng quẫn. Và sau hai lần đổi tiền, những người giầu có nay thành nghèo và những ai đã nghèo nay lại càng xơ xác. Sau một tháng quy định chẳng ai được trở về.
Thỉnh thoảng có một vài người có lẽ thuộc loại có móc nối hay không nợ máu thấy lẻ tẻ trở về. Một người quen cho biết là chồng bà bị chuyển tới trại Long Thành.
Khi đem người trưởng gia đình đi thì tạo ra một không khí bất an và đạt được hai mục đích, vô hiệu hóa người chồng người cha và cùng một lúc kiểm soát được mọi người trong gia đình. Nhiều gia đình chỉ trông cậy vào đồng lương cha chồng đem về hàng tháng thì bây giờ túng quẫn. Và sau hai lần đổi tiền, những người giầu có nay thành nghèo và những ai đã nghèo nay lại càng xơ xác. Sau một tháng quy định chẳng ai được trở về.
Thỉnh thoảng có một vài người có lẽ thuộc loại có móc nối hay không nợ máu thấy lẻ tẻ trở về. Một người quen cho biết là chồng bà bị chuyển tới trại Long Thành.
Một loạt xe vận tải nhà binh đến chở các tù nhân đi. Họ không biết là đi tới đâu. Trong đêm tối đến một khu rừng mà họ không biết là Long Thành và bị lùa vào mấy gian trại bằng tre lá và lèn chặt như cá hộp.
Ngay sáng hôm sau tù phải bắt tay xây cất các trại giam khác cho những người tới sau. Có cảm tưởng là Việt Cộng không có kế hoạch gì cả, chỉ thực hiện theo nhu cầu xẩy đến và tù nhân phải dựng lấy trại giam cho mình. Mục tiêu quan trọng lúc đó là gom lại và vô hiệu hóa các thành viên của chế độ cũ. Mục đích thứ hai là cách ly quân đội với hành chính.
Các cấp hành chính do cán bộ canh giữ còn các quân nhân bị đặt dưới bộ đội và các sỹ quan Việt Cộng canh chừng. Chỗ nào cũng là rừng nên không ai biết được bao nhiêu trại tù rải rác ở đâu.
Ngay sáng hôm sau tù phải bắt tay xây cất các trại giam khác cho những người tới sau. Có cảm tưởng là Việt Cộng không có kế hoạch gì cả, chỉ thực hiện theo nhu cầu xẩy đến và tù nhân phải dựng lấy trại giam cho mình. Mục tiêu quan trọng lúc đó là gom lại và vô hiệu hóa các thành viên của chế độ cũ. Mục đích thứ hai là cách ly quân đội với hành chính.
Các cấp hành chính do cán bộ canh giữ còn các quân nhân bị đặt dưới bộ đội và các sỹ quan Việt Cộng canh chừng. Chỗ nào cũng là rừng nên không ai biết được bao nhiêu trại tù rải rác ở đâu.
Mỗi nhà giam có thể lèn chừng 50 tù, mỗi người có được chừng 80 phân để nằm ngủ ngay trên mặt đất. Về đêm phải chịu hơi lạnh của núi rừng và khi mưa phải chịu ướt át. Bà hỏi chồng có nhớ đến cái mùng mà anh cẩn thận gói theo.
Anh nói, “Trong hoàn cảnh ấy mùng đâu có ích gì và một anh bạn khéo tay đã giúp cắt ra may thành một áo trấn thủ dầy dặn với nhiều lớp vải mùng khiến cho anh qua được cảnh rét mướt”! Mỗi đêm có điểm danh trước khi cho vào đi ngủ sau khi cán bộ đã khóa chặt nhà tù.
Anh nói, “Trong hoàn cảnh ấy mùng đâu có ích gì và một anh bạn khéo tay đã giúp cắt ra may thành một áo trấn thủ dầy dặn với nhiều lớp vải mùng khiến cho anh qua được cảnh rét mướt”! Mỗi đêm có điểm danh trước khi cho vào đi ngủ sau khi cán bộ đã khóa chặt nhà tù.
Đồ ăn thật đơn sơ nhưng còn có gạo nên không bị đói. Cơm được nấu trong các chảo to nên có nhiều cháy là một món ngon mà đứa bé con cô cán bộ nhà bếp luôn luôn chầu chực. “Nhà tôi sực nhớ đến đứa con nhỏ ở nhà mà lòng bồi hồi xúc động”! Vấn đề nước khó khăn hơn vì chỉ có mỗi một cái giếng và khi lao động về phải sắp hàng tắm rửa. Những người lớn tuổi chậm chân nên đến lượt mình thì đã tới giờ điểm danh trở về phòng nên không bao giờ được dùng nước.
Các bản báo cáo trở thành ác mộng của tù nhân. Viết ít chừng nào tốt chừng ấy và phải nhớ những gì đã viết để có thể viết lại những báo cáo sau. Ý đồ của quản trại là bắt tù từ bỏ niềm tin, chối bỏ lý tưởng và gia đình, khinh rẻ chế độ cũ và chửi rủa các cấp lãnh đạo cũ.
Thật là khó khăn cho những ai thẳng thắn với những nguyên tắc có sẵn hay những người bản chất hiền hòa không biết chửi bậy. Song viết ngắn quá cũng bị nghi ngờ là thiếu thành thật và tù bị gọi lên hạch hỏi đủ điều, chữa đi chữa lại. Kết quả là tù phạm tội nặng hơn để rơi vào bẫy sửa sai không ra thoát.
Có lệnh cho đi thăm tù. Những người như bà Đảnh là công nhân viên phải có Những người như bà Đảnh là công nhân viên phải có giấy phép của cơ quan ghi rõ lý do nghỉ phép. Và chỉ được đem theo tối đa 5 kí thực phẩm và mỗi gia đình chỉ có ba người được đi thăm.
Với bốn đứa con, đem đứa nào đi, để đứa nào lại? Trong khi thăm chồng phải ngồi hai bên bàn dài cùng những người khác, có cán bộ đứng đàu bàn lắng nghe. Phải nói to, không được dùng ngoại ngữ. Vợ chồng trao đổi những vấn đề sức khỏe và kinh tế gia đình, bán chác quần áo cho các bà miền Bắc bây giờ ham chưng diện lắm. Khi hết giờ thăm, tù đứng giậy nhặt gói quà trở về nhà giam.
Có người còn bị mắng vì ôm hôn người thân hay căn dặn thêm vài điều. Trong phòng những tiếng òa khóc nổi lên như sóng gió trong cơn mưa bão. “Tôi cố nhịn khóc nhưng khi về đến nhà vào phòng tôi bật khóc lệ tràn như suối”.
Với bốn đứa con, đem đứa nào đi, để đứa nào lại? Trong khi thăm chồng phải ngồi hai bên bàn dài cùng những người khác, có cán bộ đứng đàu bàn lắng nghe. Phải nói to, không được dùng ngoại ngữ. Vợ chồng trao đổi những vấn đề sức khỏe và kinh tế gia đình, bán chác quần áo cho các bà miền Bắc bây giờ ham chưng diện lắm. Khi hết giờ thăm, tù đứng giậy nhặt gói quà trở về nhà giam.
Có người còn bị mắng vì ôm hôn người thân hay căn dặn thêm vài điều. Trong phòng những tiếng òa khóc nổi lên như sóng gió trong cơn mưa bão. “Tôi cố nhịn khóc nhưng khi về đến nhà vào phòng tôi bật khóc lệ tràn như suối”.
Từ tháng 10/11, 1976 bà Đảnh không nhận được thư nào của chồng nữa và biết là chồng không còn ở Long Thành. Từ nay gửi thư cho anh phải qua một địa chỉ mới tại hòm thư A-40 khám Chí Hòa.
Thư từ quà bánh tối đa 3-5 kí phải gửi qua một địa điểm ở một ngôi trường không xử dụng nữa. Hai đứa con lớn phải đi thi hành các nghĩa vụ công ích không lương, tối phải tạm trú tại những chỗ nào tạm che mưa nắng. Đã có dấu hiệu chống đối ngầm trong giới trẻ.
Nhưng chúng bị răn đe, phải cố gắng theo chỉ thị thì cha anh mới được mau chóng tha về.Thật là xảo trá, lợi dụng lòng thương xót cha anh để ép chúng phục vụ.
Thư từ quà bánh tối đa 3-5 kí phải gửi qua một địa điểm ở một ngôi trường không xử dụng nữa. Hai đứa con lớn phải đi thi hành các nghĩa vụ công ích không lương, tối phải tạm trú tại những chỗ nào tạm che mưa nắng. Đã có dấu hiệu chống đối ngầm trong giới trẻ.
Nhưng chúng bị răn đe, phải cố gắng theo chỉ thị thì cha anh mới được mau chóng tha về.Thật là xảo trá, lợi dụng lòng thương xót cha anh để ép chúng phục vụ.
Một ngày đen tối nhất của tháng 10 năm 1976, các tù được lệnh đổi trại giam. Đây là lúc cán bộ lục lọi khám xét thủ tiêu mọi chuyện.“Chồng tôi ghi chép nhật ký trong một cuốn sổ tay nhỏ hầu mong kể lại cho con những điều đã trải qua. Anh đã vội vã thủ tiêu cuốn sổ”.
Tù đươc chất trên các xe vận tải, tay xích người nọ với người kia. Sau hàng giờ đi vòng vo họ bi lùa xuống hầm tầu thủy và chân bắt đầu bị khóa.Tầu đi ngang qua một khu mà nhìn qua lỗ hổng hầm tầu anh nhận ra cây cầu gần nhà, nơi đây vợ con đang ở, rất gần anh nhưng xa, xa lắm. Nước mắt anh dâng trào, không biết đang đi về đâu, xa Sài Gòn vì đây là Tân Cảng.
Tù đươc chất trên các xe vận tải, tay xích người nọ với người kia. Sau hàng giờ đi vòng vo họ bi lùa xuống hầm tầu thủy và chân bắt đầu bị khóa.Tầu đi ngang qua một khu mà nhìn qua lỗ hổng hầm tầu anh nhận ra cây cầu gần nhà, nơi đây vợ con đang ở, rất gần anh nhưng xa, xa lắm. Nước mắt anh dâng trào, không biết đang đi về đâu, xa Sài Gòn vì đây là Tân Cảng.
Chừng 7 tháng sau cái địa chỉ kỳ quái Chí Hòa, có một người tới gập bà Đảnh nhưng không dám vào nhà. Ngó trước ngó sau, phải trái, rồi anh vội nói, “Chồng chị đang bị giam tại miền cực Bắc. Tôi cũng bị giam ở đó nhưng vì vợ tôi là người Đức nên đã nhờ tòa Đại Sứ Tây Đức can thiệp”.
Mắt tràn lệ, anh nói tiếp, “Chị biết chúng bắt tôi và anh làm gì không? Ngày ngày gánh phân bón rau và đó là việc nhẹ dành cho người yếu sức”!
Bà bật khóc thảm thiết, ngồi bệt xuống vệ đường rồi anh bạn bỏ đi thật nhanh để khỏi bị nhòm ngó.
Mắt tràn lệ, anh nói tiếp, “Chị biết chúng bắt tôi và anh làm gì không? Ngày ngày gánh phân bón rau và đó là việc nhẹ dành cho người yếu sức”!
Bà bật khóc thảm thiết, ngồi bệt xuống vệ đường rồi anh bạn bỏ đi thật nhanh để khỏi bị nhòm ngó.
“Chồng tôi chẳng phải là một ông lớn tại miền Nam mà cũng không phải là các Tướng Lãnh uy quyền. Nhưng anh thuộc loại có thể khai thác được. Họ muốn biết vàng, đô la hay các kho tàng của miền Nam chôn dấu ở đâu. Họ hạch hỏi khai thác bắt làm việc đều đều, nhưng cho là không thành khẩn khai báo nên đầy ra miền Bắc cộng sản”.
Hầm tầu chật chội với các chất thải vệ sinh của tù nên tạo ra một mùi hôi hám khủng khiếp không tả nổi. Hành trình rất dài không ai nhớ rõ. Sau cùng cũng tới hình như Hải Phòng và chuyển lên các xe tải, chân vẫn xiềng xích.
Xe chạy qua một số làng xóm, dân làng đua nhau la ó chửi bới và mọi người biết đây là đất địch. Có các bà chửi, “Đồ Tàu Phù khốn kiếp”! Thì ra họ tưởng là tù binh Trung Quốc.
Hầm tầu chật chội với các chất thải vệ sinh của tù nên tạo ra một mùi hôi hám khủng khiếp không tả nổi. Hành trình rất dài không ai nhớ rõ. Sau cùng cũng tới hình như Hải Phòng và chuyển lên các xe tải, chân vẫn xiềng xích.
Xe chạy qua một số làng xóm, dân làng đua nhau la ó chửi bới và mọi người biết đây là đất địch. Có các bà chửi, “Đồ Tàu Phù khốn kiếp”! Thì ra họ tưởng là tù binh Trung Quốc.
Cán bộ la to, “Đây không phải là tù binh Trung Quốc”. Nhưng họ cũng khônNhưng họ cũng không dám bảo là tù miến Nam vì họ sợ phản ứng của dân quê thật thà, thương hại hay cùng chia xẻ nỗi đau buồn.
Đêm tới thì đến một ven rừng bát ngát. Tù được tháo cùm và lùa sâu vào rừng rậm, đi bộ dăm bẩy cây số và đến một hàng rào bao quanh một số trại.
Các cán bộ vào trại, để mặc tù lo liệu chỗ ngủ qua đêm. Sáng hôm sau tù bỏ tay vào xây cất lấy trại tù cho chính mình.
Đêm tới thì đến một ven rừng bát ngát. Tù được tháo cùm và lùa sâu vào rừng rậm, đi bộ dăm bẩy cây số và đến một hàng rào bao quanh một số trại.
Các cán bộ vào trại, để mặc tù lo liệu chỗ ngủ qua đêm. Sáng hôm sau tù bỏ tay vào xây cất lấy trại tù cho chính mình.
Đúng 31 tháng Chạp Dương Lịch các gia đình tù nhận được một món quà chính thức cuối năm, một lá thư của thân nhân đang bị giam tại trại Bắc Thái.
Ông Thảo không gập lại những bạn tù Long Thành và phải bắt đầu làm quen với các bạn tù mới. Tù được lệnh trao cho một cán bộ gái tất cả tài sản, đồng hồ, bút máy, nhẫn vòng tay, dây chuyền và tiền mặt để được liệt vào một cuốn sổ ghi tên sở hữu. Ông Thảo nhất định không đưa chiếc nhẫn cưới với lý do vì lâu ngày không kéo ra được. Sau khi dùng xà bông mà cũng không xong thì họ văng tục và thôi không thử tháo nữa.
Ông nói dù họ có cố rút ra nhưng nếu ông cố ý giữ thì cũng vô hiệu vì ông nhất định không rời cái nhẫn cưới mà ông coi là tượng trưng quý báu
Ông Thảo không gập lại những bạn tù Long Thành và phải bắt đầu làm quen với các bạn tù mới. Tù được lệnh trao cho một cán bộ gái tất cả tài sản, đồng hồ, bút máy, nhẫn vòng tay, dây chuyền và tiền mặt để được liệt vào một cuốn sổ ghi tên sở hữu. Ông Thảo nhất định không đưa chiếc nhẫn cưới với lý do vì lâu ngày không kéo ra được. Sau khi dùng xà bông mà cũng không xong thì họ văng tục và thôi không thử tháo nữa.
Ông nói dù họ có cố rút ra nhưng nếu ông cố ý giữ thì cũng vô hiệu vì ông nhất định không rời cái nhẫn cưới mà ông coi là tượng trưng quý báu
Ban quản trại đều là người Bắc khắc nghiệt và khó tính. Tù thấy luôn luôn bị theo rõi sát nút. Báo cáo hằng ngày bị phân tách kỹ lưỡng, thảo luận và bị phê bình.
Các cán bộ hung dữ và lộng quyền, không ngớt tỏ ra là người chiến thắng. Nhưng đừng lầm tưởng họ thèm muốn những gì chúng ta có, họ thấy chúng ta giỏi hơn họ trên mọi phương diện.
Họ luôn khiêu khích, nói xiên nói xỏ, đả kích chê bai và phê bình. Và đây là tình trạng khủng bố tinh thần kinh khủng.
Các cán bộ hung dữ và lộng quyền, không ngớt tỏ ra là người chiến thắng. Nhưng đừng lầm tưởng họ thèm muốn những gì chúng ta có, họ thấy chúng ta giỏi hơn họ trên mọi phương diện.
Họ luôn khiêu khích, nói xiên nói xỏ, đả kích chê bai và phê bình. Và đây là tình trạng khủng bố tinh thần kinh khủng.
Về phương diện vật chất vì quá đông người nên trong phòng một tiếng động nhỏ cũng vang âm. Một tiếng ho, một cái hắt xì cũng khiến một số tù nhân thức giấc. Nhiều bạn tù trong cơn ác mộng đã rên la, gào khóc.
Không ai quên được một bạn già cỡ sáu chục, góa vợ với đứa con thơ dại nên đêm đêm nức nở khi đi ngủ thương xót đứa con bỏ lại miền Nam không ai săn sóc. Giếng nước duy nhất rất gần trại nên phải nấu sôi để uống.
“Chồng tôi làm công tác hôi thối gánh phân nên cần tắm rửa mỗi chiều tối. Nhưng nước lạnh cóng khi xối lên người thi da đỏ ửng. Anh còn đùa rằng, “thật may là da và phổi còn tốt”
Không ai quên được một bạn già cỡ sáu chục, góa vợ với đứa con thơ dại nên đêm đêm nức nở khi đi ngủ thương xót đứa con bỏ lại miền Nam không ai săn sóc. Giếng nước duy nhất rất gần trại nên phải nấu sôi để uống.
“Chồng tôi làm công tác hôi thối gánh phân nên cần tắm rửa mỗi chiều tối. Nhưng nước lạnh cóng khi xối lên người thi da đỏ ửng. Anh còn đùa rằng, “thật may là da và phổi còn tốt”
Nhưng cái đói thật là kinh khủng. Khi còn ở miền Nam thì nắm cơm còn thực là nắm cơm đầy đủ gạo. Ở đây, cơm phải trộn những hạt bo bo vỏ thật cứng thường phải xay ra để cho súc vật ăn.
Một số lớn không muốn hy sinh bộ răng cấm nên phải ngồi nhặt các hột bo bo ra để chỉ còn lại được một muỗng cơm trong bát cơm độn. Nhiều người bị lủng củng tiêu hóa và bị tháo dạ. Cái đói thật khủng khiếp ngày đêm làm cho con người bớt sáng suốt, dảm ý chí và mất óc phán đoán.
“May mắn là cả bốn đội trưởng đều là bạn thân của em tôi. Nếu không nhờ các bạn đó và các y sĩ đồng nghiệp của tôi giúp đỡ thì chắc gì anh đã sống đến ngày được thả”!
Một số lớn không muốn hy sinh bộ răng cấm nên phải ngồi nhặt các hột bo bo ra để chỉ còn lại được một muỗng cơm trong bát cơm độn. Nhiều người bị lủng củng tiêu hóa và bị tháo dạ. Cái đói thật khủng khiếp ngày đêm làm cho con người bớt sáng suốt, dảm ý chí và mất óc phán đoán.
“May mắn là cả bốn đội trưởng đều là bạn thân của em tôi. Nếu không nhờ các bạn đó và các y sĩ đồng nghiệp của tôi giúp đỡ thì chắc gì anh đã sống đến ngày được thả”!
“Tôi cố tìm hiểu vì sao mà anh bị giam giữ lâu thế? Phải chăng anh được nhiều bạn tù cảm mến nên anh bị giữ lâu? Anh luôn luôn được gọi lên yêu cầu hợp tác để giúp trại sinh hoạt tốt. Nếu nhận lời thì sẽ được cấp phần ăn như cán bộ, được miễn lao động và hưởng nhiều ưu đãi.Nhưng anh đã từ chối và bị giam giữ lâu hơn”.
Đầu tháng 9 năm 1978 ông Thảo gửi thư về cho biết quản trại đã phổ biến tin cho thân nhân đi thăm và tù được nhận thực phẩm. Ông cũng dặn nếu muốn ra Bắc thì liên lạc với một bà gốc Bắc có chồng cùng bị giam giữ với ông.
Bà này biết rành Ha Nội và biết rõ manh mốichạy chọt giấy tờ di chuyển và cũng biết cách xoay xở vé xe lửa khứ hồi. Và từ nay bà Thảo biết các mánh khóe luồn lọt thật mất thì giờ, khó khăn và tế nhị.
Tất cả các sự việc đều có thể mua bằng tiền, chạy đúng chỗ và không để lộ ra vì hối lộ là một trọng tội. Đối với bà lại còn khó khăn hơn vì trước kia đã phục vụ ngụy quyền và chồng đang bị tù cải tạo.
Bà này biết rành Ha Nội và biết rõ manh mốichạy chọt giấy tờ di chuyển và cũng biết cách xoay xở vé xe lửa khứ hồi. Và từ nay bà Thảo biết các mánh khóe luồn lọt thật mất thì giờ, khó khăn và tế nhị.
Tất cả các sự việc đều có thể mua bằng tiền, chạy đúng chỗ và không để lộ ra vì hối lộ là một trọng tội. Đối với bà lại còn khó khăn hơn vì trước kia đã phục vụ ngụy quyền và chồng đang bị tù cải tạo.
Mãi mới xin được giấ
y phép nghỉ nhưng chưa biết cách nào đi. May thay có một ông bạn có cô em trước làm tiếp viên phi hành cho Air Vietnam cũ và nay còn được lưu dụng bởi hãng Vietnam Airlines mới chưa có ai đủ khả năng thay thế. Cô này rất tháo vát và đã kiếm cho bà một vé máy bay vào tháng 11. Khi ra máy bay với xách đồ ăn khô cô ta đã giới thiệu là dì ruột và đưa bà lên máy bay, căn dặn là đừng tỏ ra sợ sệt quá.
“Khi đã lên máy bay, không ai biết được là mình không có quyền xử dụng máy bay và khi về thì đã có người cho phép đi nên không có ai dám cản trở về”.
y phép nghỉ nhưng chưa biết cách nào đi. May thay có một ông bạn có cô em trước làm tiếp viên phi hành cho Air Vietnam cũ và nay còn được lưu dụng bởi hãng Vietnam Airlines mới chưa có ai đủ khả năng thay thế. Cô này rất tháo vát và đã kiếm cho bà một vé máy bay vào tháng 11. Khi ra máy bay với xách đồ ăn khô cô ta đã giới thiệu là dì ruột và đưa bà lên máy bay, căn dặn là đừng tỏ ra sợ sệt quá.
“Khi đã lên máy bay, không ai biết được là mình không có quyền xử dụng máy bay và khi về thì đã có người cho phép đi nên không có ai dám cản trở về”.
Khi đến phi trường Gia Lâm nhỏ xíu bà lên xe quân sự chờ đón khách. Bà gọi một xe xích lô đạp về nhà cán bộ giáo dục trẻ Sơn mà bà được bà thủ trưởng Sâm giới thiệu. Cha mẹ Sơn đều là giáo sư Đại Học tiếp bà ân cần và thông cảm.
Họ được ở ngôi biệt thự cũ gần hồ Hoàn Kiếm tuy chỉ dưdược xử dụng có một căn phòng với một cầu tiêu lối cổ. Ông đã cơi lên một gác xép làm chỗ ngủ cho ông và con trai.
“Tối đến họ dẹp bàn ghế vào tường và trải một chiếc chiếu rộng dưới sàn cho bà mẹ, cô chị dâu, cháu gái nhỏ và tôi nằm. Trong khi tôi thao thức vì sắp gập chồng sau hơn hai năm xa cách thì ai cũng ngủ ngon lành”.
Họ được ở ngôi biệt thự cũ gần hồ Hoàn Kiếm tuy chỉ dưdược xử dụng có một căn phòng với một cầu tiêu lối cổ. Ông đã cơi lên một gác xép làm chỗ ngủ cho ông và con trai.
“Tối đến họ dẹp bàn ghế vào tường và trải một chiếc chiếu rộng dưới sàn cho bà mẹ, cô chị dâu, cháu gái nhỏ và tôi nằm. Trong khi tôi thao thức vì sắp gập chồng sau hơn hai năm xa cách thì ai cũng ngủ ngon lành”.
Khi đợi người hướng dẫn đến bằng xe lửa phải mất ba tuần lễ, bà Đảnh ra phố quan sát thấy các nhóm người bán đồ lậu. Cái gì họ cũng có, phần nhiều là các gói nhỏ đường, trà, cà phê, bao thuốc lá và các thỏi chocolat nhỏ đựng trong các túi xách.
Bà mua các gói kẹo chocolat vì mang từ Sài Gòn ra không tiện. Họ nói mua gì cũng có trữ tại nhà vả trả tiền xong là hôm sau họ sẽ giao. Người hướng dẫn cho bà đến nhập bọn ngủ dêm để sáng hôm sau ra ga lúc 5 giờ cho kịp chuyến xe lửa Đông Bắc.
Người đông như kiến, chen lấn lộn xộn và “tôi cùng bà chiếm được hai chỗ trên bực ngoài toa cho đến sau khi qua nhiều ga xép mới mò vào được bên trong để ngồi xệp xuống sàn tầu đầy rác, đỡ nạn bụi khói và mưa phùn giá lạnh”.
Bà mua các gói kẹo chocolat vì mang từ Sài Gòn ra không tiện. Họ nói mua gì cũng có trữ tại nhà vả trả tiền xong là hôm sau họ sẽ giao. Người hướng dẫn cho bà đến nhập bọn ngủ dêm để sáng hôm sau ra ga lúc 5 giờ cho kịp chuyến xe lửa Đông Bắc.
Người đông như kiến, chen lấn lộn xộn và “tôi cùng bà chiếm được hai chỗ trên bực ngoài toa cho đến sau khi qua nhiều ga xép mới mò vào được bên trong để ngồi xệp xuống sàn tầu đầy rác, đỡ nạn bụi khói và mưa phùn giá lạnh”.
Từ trạm xe lửa đi đến vùng Bắc Thái phải dùng xe bò. May thay bà hướng dẫn đã nhanh nhẩu quá giang được một xe chở dầu nhà binh với tiền thù lao nhỏ 20 đồng. Đến ven rừng phải thuê một xe bò tới trại giam qua một con đường gập ghềnh với giá 15 đ một người.
Tới cổng trại, một căn nhà lợp tranh thì cán bộ xét giấy và cho hai người một vào ngồi đợi ở một cái bàn nhỏ chữ nhật. Hai mưoi phút
Tới cổng trại, một căn nhà lợp tranh thì cán bộ xét giấy và cho hai người một vào ngồi đợi ở một cái bàn nhỏ chữ nhật. Hai mưoi phút
sau thân nhân được dẫn ra, yếu ớt, thân hình tiều tụy xác xơ trông thật đau lòng. Cán bộ đứng ở đầu bàn và phải nói to cũng như không được dùng ngoại ngữ.
“Tôi không biết được gập anh bao lâunhưng mục đích tôi là xin phép anh đưa các con trốn khỏi nước. Tôi có bổn phận báo cho anh biết là phải liều lĩnh như tự sát vì chừng 50% đến được bến tự do”. Nhưng làm sao để không cho cán bộ biết?
“Tôi không biết được gập anh bao lâunhưng mục đích tôi là xin phép anh đưa các con trốn khỏi nước. Tôi có bổn phận báo cho anh biết là phải liều lĩnh như tự sát vì chừng 50% đến được bến tự do”. Nhưng làm sao để không cho cán bộ biết?
“Tôi nghĩ cách nói là mẹ con muốn đi vùng kinh tế mới”, thi anh xúc động hỏi lại, “Bộ chúng không đủ ăn sao”? Bà chậm rãi trả lời, “Chúng muốn làm lại cuộc đời mới và gập lại hai bà gì đã đến đó trước rồi”.
Ông Thảo suy nghĩ rồi chợt hiểu là chvà em tôi đã định cư ở Âu Châu từ lâu và dặn dò, “Đừng để cho các con bơ vơ, em phải đi với các con còn quá nhỏ”!
“Chúng tôi chuyện trò đủ chuyện Sài Gòn trước đây, nhà cửa, tình trạng gia đình thân nhân nội ngoại và anh không thổ lộ gì về hoàn cảnh của anh và số phận hiện tại”.
Ông Thảo suy nghĩ rồi chợt hiểu là chvà em tôi đã định cư ở Âu Châu từ lâu và dặn dò, “Đừng để cho các con bơ vơ, em phải đi với các con còn quá nhỏ”!
“Chúng tôi chuyện trò đủ chuyện Sài Gòn trước đây, nhà cửa, tình trạng gia đình thân nhân nội ngoại và anh không thổ lộ gì về hoàn cảnh của anh và số phận hiện tại”.
Sau một giờ thì cán bộ thổi còi chấm dứt thăm nuôi. Các tù nhân đứng lên lượm gói quà và sắp hàng về phòng giam. “Chồng tôi ôm tôi và thì thầm, em phải đi với các con và như vậy trong tương lai có thể dễ tìm lại nhau”. Lần thăm nuôi chỉ có bốn người đi thăm khốn khổ. Không một lời phản kháng hay thất vọng. Nước mắt có chảy cũng trong thầm lặng. Nơi đây hy vọng còn ít hơn ở Long Thành. “Rã rời tôi có cảm tưởng như sống những giây phút cuối cùng và tôi không còn biết tôi là ai nữa. Nếu tôi ra đi cùng các con thì rồi đây ai săn sóc anh, và biết có gặp lại nữa không”?
Chiều về tới Hà Nội, tôi e họ sẽ không cho tôi ghi vé trở về. Cha anh Sơn chở tôi bằng xe đạp ra trạm hàng không. Họ hỏi tôi đủ điều, lý do đi thăm, trú ngụ ở đâu, thấy thủ đô ra sao và đã đi thăm lăng Hồ Chủ Tịch chưa?
“Tôi phải vui vẻ tỏ ra mãn nguyện và phải chấp nhận bất cứ cách giả dối nào để về với các con tôi. Tôi đã thành công và được về trên chuyến bay hai ngày sau”. Còn hơn một ngày tôi mướn một xe xích lô đi một vòng quan
“Tôi phải vui vẻ tỏ ra mãn nguyện và phải chấp nhận bất cứ cách giả dối nào để về với các con tôi. Tôi đã thành công và được về trên chuyến bay hai ngày sau”. Còn hơn một ngày tôi mướn một xe xích lô đi một vòng quan
nh Hồ Gươm. Hồ quá nhỏ, nước đen ngòm mà mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Không thấy dấu hiệu hư hại vì oanh tạc chỉ có cây cầu Doumer và đôi chút ở một bệnh viện mặc dầu họ tuyên truyền ầm ĩ là bị phi cơ hủy hoại.
Tôi đã nói dối ở trạm hàng không. Tôi đã không đi thăm lăng chủ tịch mà chỉ đi xích lô phớt qua. Không có gì đặc sắc, chỉ là một kiến trúc lạc loài bê tông cốt sắt với các cột lạnh lẽo như trong thời cổ.
Nhưng nếu tôi vào trong để nhìn thấy con người mà họ cho là thần thánh thì tôi đã ớn lạnh về sự lọc lừa phản bội của ông ta đã đưa nước nhà vào một cuộc chiến tàn khốc,tạo nên mối chia rẽ toàn dân và cả nước”!
Tôi đã nói dối ở trạm hàng không. Tôi đã không đi thăm lăng chủ tịch mà chỉ đi xích lô phớt qua. Không có gì đặc sắc, chỉ là một kiến trúc lạc loài bê tông cốt sắt với các cột lạnh lẽo như trong thời cổ.
Nhưng nếu tôi vào trong để nhìn thấy con người mà họ cho là thần thánh thì tôi đã ớn lạnh về sự lọc lừa phản bội của ông ta đã đưa nước nhà vào một cuộc chiến tàn khốc,tạo nên mối chia rẽ toàn dân và cả nước”!
Hà Nội một thành phố cổ kính thì nay đã tiều tụy, không được coi như một bà già mà là một đứa con nít thiếu dinh dưỡng lâu ngày, bụng ỏng, đít eo, chân tay khẳng khiu mang chứng bệnh còm cõi và già nua sớm không phương cứu chữa.
“Tôi không muốn những ai đã rời Hà Nội năm 1954 trở lại để thấy sự điêu tàn khắc
“Tôi không muốn những ai đã rời Hà Nội năm 1954 trở lại để thấy sự điêu tàn khắc
nghiệt vì tiền của nhân lực đều xung vào chiến tranh. Cha mẹ Sơn cũng như người hướng dẫn tôi đều hình như thổ lộ là họ đã sống qua ngày hướng về miền Nam.
Nhưng nay miền Nam đã xụp đổ, thế là hết cả. Cuôc viếng thăm rất có kết quả vì tôi đã nói được với nhà tôi một điều cần thiết. Và tinh thần nhà tôi hình như đã vững hơn, bắt đầu yêu đời hơn và thấy hy vọng”.
Nhưng nay miền Nam đã xụp đổ, thế là hết cả. Cuôc viếng thăm rất có kết quả vì tôi đã nói được với nhà tôi một điều cần thiết. Và tinh thần nhà tôi hình như đã vững hơn, bắt đầu yêu đời hơn và thấy hy vọng”.
Bà Đảnh đã đưa bốn đứa con vượt biển ngày 1 tháng 5 năm 1979 lợi dụng sơ hở vì mải liên hoan ngày lễ. Cả gia đình lênh đênh trên biển cả thì gặp một chiếc tầu chờ dầu Na Uy vớt.
Vì vậy khi ông Thảo được thả về thì nhà đã mất và phải tạm trú nhà bà chị. Ông bị các đè ép từ các cơ quan công an phường, quận. Không có hộ khẩu nghĩa là không được phiếu mua thực phẩm và các đồ lặt vặt như thuốc đánh răng. Phải luôn luôn trình diện và đẩy đi vùng kinh tế mới. Nhưng nếu xa Sài Gòn thì làm sao có được tin tức nên ông đã chán nản nghĩ liều đi trốn. Bà Đảnh phải nhắn về xin yên tâm đừng liều mạng vì đã có chương trình bảo lãnh và Cao Ủy tị nạn đã đặt thêm một văn pBà Đảnh phải nhắn về xin yên tâm đừng liều mạng vì đã có chương trình bảo lãnh và Cao Ủy tị nạn đã đặt thêm một văn phòng ở Sài Gòn. Bà gửi về các giấy tờ cho nhiều nơi để khỏi thất lạc.
Vì vậy khi ông Thảo được thả về thì nhà đã mất và phải tạm trú nhà bà chị. Ông bị các đè ép từ các cơ quan công an phường, quận. Không có hộ khẩu nghĩa là không được phiếu mua thực phẩm và các đồ lặt vặt như thuốc đánh răng. Phải luôn luôn trình diện và đẩy đi vùng kinh tế mới. Nhưng nếu xa Sài Gòn thì làm sao có được tin tức nên ông đã chán nản nghĩ liều đi trốn. Bà Đảnh phải nhắn về xin yên tâm đừng liều mạng vì đã có chương trình bảo lãnh và Cao Ủy tị nạn đã đặt thêm một văn pBà Đảnh phải nhắn về xin yên tâm đừng liều mạng vì đã có chương trình bảo lãnh và Cao Ủy tị nạn đã đặt thêm một văn phòng ở Sài Gòn. Bà gửi về các giấy tờ cho nhiều nơi để khỏi thất lạc.
Cuối cùng, sau nhiều lần chạy chọt khó khăn và nhiêu khê, ông Thảo đã được giấy phép xuất cảnh. Bà Đảnh nói, “Không chối cãi việc Việt Cộng đã trả lại người thân cho chúng tôi. Nhưng họ đã ra sao khi được thả? Một số đông đã chết như anh đội trưởng giúp đỡ tận tình bạn tù.
Anh chết tức tưởi trong tuổi hoa niên của cuộc đời. Qua hành hạ thể xác độc địa nhằm triệt tiêu nhân phẩm, Việt Cộng không tàn phá nổi thể xác nhưng đã để lại trong tâm hồn tù nhân nhiều rạn nứt in hằn. Lập trường chính trị, tín ngưỡng, lòng yêu nước không bao giờ xóa tẩy được”. Bà Đảnh kết luận, “Tôi chấm dứt bằng một câu xúc tích của chồng tôi khi anh đặt chân xuxuống đất Na Uy”:
“Chúng tôi vẫn sống, hy vọng của chúng tôi đã đạt được. Tôi đã có vợ con quanh tôi, hạnh phúc tôi tràn đầy. Từ nay các con tôi được bảo đảm tương lai trên một đất nước cao đẹp, tự do như Na Uy mà chúng tôi coi là miền đất hứa”.
Anh chết tức tưởi trong tuổi hoa niên của cuộc đời. Qua hành hạ thể xác độc địa nhằm triệt tiêu nhân phẩm, Việt Cộng không tàn phá nổi thể xác nhưng đã để lại trong tâm hồn tù nhân nhiều rạn nứt in hằn. Lập trường chính trị, tín ngưỡng, lòng yêu nước không bao giờ xóa tẩy được”. Bà Đảnh kết luận, “Tôi chấm dứt bằng một câu xúc tích của chồng tôi khi anh đặt chân xuxuống đất Na Uy”:
“Chúng tôi vẫn sống, hy vọng của chúng tôi đã đạt được. Tôi đã có vợ con quanh tôi, hạnh phúc tôi tràn đầy. Từ nay các con tôi được bảo đảm tương lai trên một đất nước cao đẹp, tự do như Na Uy mà chúng tôi coi là miền đất hứa”.
Vài cảm nghĩ.- Cộng sản Việt Nam sùng bái Hồ Chí Minh như thánh sống. Ai cũng biết là họ Hồ mạo danh nhóm ái quốc ở Paris khi viết báo Le Paria đã dùng tên chung Nguyễn Ái Quốc (Nguyen le Patriot).
Hồ đã từng nộp đơn xin làm việc với Bộ Thuộc Địa rồi đi theo cộng sản Nga để được huấn luyện thành cán bộ Đông Dương Cộng Sản. Khi qua Tầu lại lấy danh tính một người chết để thành Hồ Chí Minh. Không có lấy cái bằng sơ học, chỉ lặp lại những danh từ Sô Viết rồi Tầu Mao, lợ lợi dụng khí thế ái quốc chống Pháp để đổi Việt Minh thành đảng Lao Động Cộng Sản và hãm hại các người yêu nước cũng như nhiều người trong vụ đấu tố.
Hồ đã từng nộp đơn xin làm việc với Bộ Thuộc Địa rồi đi theo cộng sản Nga để được huấn luyện thành cán bộ Đông Dương Cộng Sản. Khi qua Tầu lại lấy danh tính một người chết để thành Hồ Chí Minh. Không có lấy cái bằng sơ học, chỉ lặp lại những danh từ Sô Viết rồi Tầu Mao, lợ lợi dụng khí thế ái quốc chống Pháp để đổi Việt Minh thành đảng Lao Động Cộng Sản và hãm hại các người yêu nước cũng như nhiều người trong vụ đấu tố.
Ông ta đã học thuộc lòng câu “Hồng hơn Chuyên” của Mao nên cũng nói “Trí Thức là Cục Phân” cho nên khi chiếm Sài Gòn chính trị bộ Hà Nội đã bỏ tù các chuyên viên của miền Nam mà huấn luyện mất bao nhiêu thời gian và công của. Hệt như “bước nhẩy vọt” của Tầu Mao trong kế hoạch sản xuất thép tiểu công trong các làng xã phí phạm bao nhiêu nhân lực đưa đến phá sản kinh tế và môi trường
. Cho nên ta thấy các Y Khoa Bác Sỹ phải đi quét chợ và chuyên viên kinh tài như ông Đỗ Văn Thảo bị giam cầm trong nhiều năm.
Phí phạm chất xám như vậy để cho ba chục năm thống nhất đất nước vẫn lạc hậu. Bây giờ kêu gọi trí thức và chất xám trở về xây dựng lại nước thì thật khôi hài và có tin được chăng?
. Cho nên ta thấy các Y Khoa Bác Sỹ phải đi quét chợ và chuyên viên kinh tài như ông Đỗ Văn Thảo bị giam cầm trong nhiều năm.
Phí phạm chất xám như vậy để cho ba chục năm thống nhất đất nước vẫn lạc hậu. Bây giờ kêu gọi trí thức và chất xám trở về xây dựng lại nước thì thật khôi hài và có tin được chăng?
Trần Đỗ Cung
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 353
SƠN TRUNG * Y HỌC TÂN TIẾN CỦA XỨ HỒ LY
Y HỌC TÂN TIẾN CỦA XỨ HỒ LY
SƠN TRUNG
Khi Cáo mới khởi nghĩa, Cáo tuyên bố mọi loài vật bình đẳng, và mọi loài vật phải thương nhau, không được ăn thịt nhau hay cấu xé nhau. Mệnh lệnh ban ra được mọi người và vật ca tụng là công bình và nhân đạo. Vì vậy, các loài vật khắp nơi đã gia nhập bang Hồ Ly rất đông đảo và nồng nhiệt.
Sau một thời gian, tin loan truyền ra là có kẻ địch lẻn vào chiến khu đốt phá và lấy đi lương thực của nhà nước. Vì vậy, nghị quyết mới ban ra là từ nay, lương thực và thực phẩm phải tập trung do bang Hồ Ly kiểm soát và gìn giữ để tránh sự phá hoại của quân thù. Các loài vật sẽ đuợc bang Hồ Ly săn sóc và phát cho ăn từng bữa.
Một thời gian nữa, lại có tin biệt kích của Sư tử lẻn vào ám sát, đầu độc chủ tịch Cáo. Vì vậy, nghị quyết của Hội đồng Chính Trị là phải dùng thịt để chữa các chất độc cho lãnh tụ bang Hồ Ly. Một số đầu bếp được tuyển chọn để phục vụ lãnh đạo. Ban khoa học Hồ Ly đã chế tạo một cái khóa rất tinh vi để khóa mõm đầu bếp.
Cái khóa rất tinh vi khiến cho người ta tưởng đó là một kiểu thời trang! Đã tốt đẹp thế, mà bên ngoài cái miệng, các đầu bếp còn đeo khẩu trang, thành thử đầu bếp trông oai vệ như bác sĩ trong bệnh viện! Mục đích khóa là để ngăn chận các đầu bếp ăn vụng thức ngon, vật lạ của lãnh tụ, nhất là thịt. Khóa miệng cũng có mục đích ngăn chận các đầu bếp tiết lộ bí mật thâm cung.
Sau một thời gian, tin loan truyền ra là có kẻ địch lẻn vào chiến khu đốt phá và lấy đi lương thực của nhà nước. Vì vậy, nghị quyết mới ban ra là từ nay, lương thực và thực phẩm phải tập trung do bang Hồ Ly kiểm soát và gìn giữ để tránh sự phá hoại của quân thù. Các loài vật sẽ đuợc bang Hồ Ly săn sóc và phát cho ăn từng bữa.
Một thời gian nữa, lại có tin biệt kích của Sư tử lẻn vào ám sát, đầu độc chủ tịch Cáo. Vì vậy, nghị quyết của Hội đồng Chính Trị là phải dùng thịt để chữa các chất độc cho lãnh tụ bang Hồ Ly. Một số đầu bếp được tuyển chọn để phục vụ lãnh đạo. Ban khoa học Hồ Ly đã chế tạo một cái khóa rất tinh vi để khóa mõm đầu bếp.
Cái khóa rất tinh vi khiến cho người ta tưởng đó là một kiểu thời trang! Đã tốt đẹp thế, mà bên ngoài cái miệng, các đầu bếp còn đeo khẩu trang, thành thử đầu bếp trông oai vệ như bác sĩ trong bệnh viện! Mục đích khóa là để ngăn chận các đầu bếp ăn vụng thức ngon, vật lạ của lãnh tụ, nhất là thịt. Khóa miệng cũng có mục đích ngăn chận các đầu bếp tiết lộ bí mật thâm cung.
Nhưng làm sao để các đầu bếp ăn, đánh răng? Viên khoa học Hồ Ly đã nghĩ cách đưa thực phẩm từ hậu môn vào dạ dày. Việc đánh răng cũng vậy. Viện sẽ dùng dụng cụ xuyên qua hậu môn. Tuy nhiên Viện trưởng thì bác bỏ việc đánh răng vì đầu bếp không ăn, không nhai cho nên không cần đến việc vệ sinh răng miệng nữa.
Từ đó viện Khoa học tiến đến việc trị sâu răng và tai mũi họng đều thông qua từ hậu môn là một kỹ thuật tối tân nhất trên thế giới chưa có.
Từ đó viện Khoa học tiến đến việc trị sâu răng và tai mũi họng đều thông qua từ hậu môn là một kỹ thuật tối tân nhất trên thế giới chưa có.
Friday, March 6, 2015
O. HENRY * ÁI TÌNH THEO KHẨU PHẦN
O. Henry
Dịch giả: Nguyễn Việt Long
Xu hướng của đàn bà, - Giep Pitơx nói, sau khi đã có một vài ý kiến bàn về vấn đề này, - thường hướng về phía mâu thuẫn. Đàn bà muốn cái mà các cậu không có. Cái gì càng có ít, đàn bà càng muốn nhiều. Họ thích lưu trữ các loại xuvơnia về những sự kiện thực ra chẳng có trong đời họ. Cái nhìn một phía đối với sự vật không đội trời chung với bản tính đàn bà.
Tớ có một điểm dở bẩm sinh và được những chuyến du lịch phát triển lên, - Giep nói tiếp, mặt đăm chiêu nhìn cái bếp lò nằm lọt giữa đôi chân ghếch cao. - Tớ nhìn một số sự vật sâu hơn đa số mọi người. Tớ đã hít no hơi xăng, đã diễn thuyết trước đám đông hầu như tại tất cả các thành phố của Hoa Kỳ.
Tớ mê hoặc người đời bằng âm nhạc, tài hùng biện, sự khéo léo của đôi tay và những thủ thuật ranh mãnh, đồng thời bán cho họ hàng kim hoàn thuốc men, xà phòng, thuốc mọc tóc và đủ thứ tạp nham khác. Trong lúc đi chu du, phần để giải trí, phần để chuộc tội, tớ đã nghiên cứu đàn bà.
Muốn hiểu được một ả đàn bà, con người ta cần cả một đời, nhưng những mầm mồng kiến thức về nữ giới có thể đạt được, nếu ta dành cho nó mười năm nghiên cứu cần cù, kĩ lưỡng. Trong lĩnh vực này, tớ đã biết được rất nhiều điều bổ ích khi rao bán ở miền tây kim cương Braxin và đồ nhóm lửa đã được cấp bằng phát minh, - đó là sau chuyến đi Xavanna của tớ qua vành đai bông. Dạo ấy là thời kì phát đạt đầu tiên của bang Oclahôma.
Thị xã Gatơri mọc lên ở giữa bang này, vùn vụt như thổi. Đó là một thị xã điển hình ra đời trong cao trào bùng nổ kinh tế: muốn tắm rửa phải xếp hàng, nếu bạn ngồi ăn trong tiệm lâu quá chục phút thì phải trả thêm tiền chỗ ngồi; còn nếu ngủ đất trong khách sạn, sáng ra xin cứ việc chi tiền như nghỉ biệt thự. Về quan điểm lẫn tư chất thì ở đâu tớ cũng thích tìm những chỗ đánh chén ngon lành nhất. Tớ tìm được một nơi hết sức vừa ý.
Đó là một tiệm ăn căng bạt của một gia đình vừa mới mở. Gia đình ấy đến thị xã này theo vết chân sự bùng nổ kinh tế. Họ đã dựng gấp một ngôi nhà nhỏ vừa để ở vừa để nấu nướng và chăng thêm lều bạt áp vào ngôi nhà làm tiệm ăn. Lều này chăng đầy những tờ quảng cáo nhằm giành giật từ vòng tay tội lỗi của các biệt thự và khách sạn kẻ lữ hành mệt mỏi. “Hãy nếm bánh quy nhà chúng tôi”, “Bánh rán nóng với xirô phong, những món bạn vẫn ăn từ thuở bé”,
“Gà rán của chúng tôi lúc sống chưa đến tuổi cục tác” đấy là những dòng chữ có nhiệm vụ kích thích sự tiêu hoá của khách ăn. Tớ mới bụng bảo dạ rằng cái thân xác tớ cần tọng một chút gì đó chiều nay tại chính tiệm ăn này. Sự việc diễn ra đúng như vậy. Chính tại đây tớ đã làm quen được với Mâymi Điugân.
Ông già Điugân - kiểu dân ăn không ngồi ở xứ Inđiana, cao tới sáu bộ (1) - nằm trên ghế xích đu hồi tưởng lại vụ thất bát năm một tám linh sáu. Bà lão Điugân nấu bếp, còn Mâymi thì phục vụ khách. Chỉ vừa trông thấy Mâymi, tớ đã hiểu ngay là cuộc tổng kê dân số đã phạm một sự nhầm lẫn. Ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đúng ra chỉ có một cô gái mà thôi! Mô tả nàng chi tiết thật là khó. Vóc nàng xấp xỉ một thiên thần, nàng có đôi mắt, lại còn điệu bộ nữa chứ. Nếu các cậu muốn biết nàng là người như thế nào, thì có thể tìm thấy cả một chuỗi xích, trải dài từ cầu Bruclin về phía tây đến tận trụ sở toà án ở Caonsin Blaphơ, bang Inđiana.
Những người như nàng kiếm sống bằng cách làm việc ở các cửa hàng tiệm ăn, trong các nhà máy và văn phòng. Họ có gốc gác theo đường thẳng từ bà Eva, chả là họ đã giàng được quyền làm đàn bà, còn nếu như các cậu dám đặt dấu hỏi về cái quyền ấy thì có khả năng ăn một cái tát ra trò. Họ là những người bạn tốt, họ trung thực và tự do, dịu dàng và táo tợn, và họ biết nhìn thẳng vào cuộc đời. Họ gặp gỡ mặt đối mặt với đàn ông và đã đi đến kết luận rằng đàn ông là giống sinh vật thảm hại. Họ đã đinh ninh rằng sự mô tả của đàn ông trong các tiểu thuyết đọc trên tàu hoả tựa như chàng hoàng tử trong cổ tích, chẳng hề được thực tế xác nhận.
Đấy, Mâymi cũng là một cô gái như vậy. Toàn bộ con người nàng toát lên sức sống, sự vui vẻ và tính linh lợi, với khách thì mau mồm mau miệng: thật chết cười mỗi lần nghe nàng đáp. Tớ không ưa khai quật tận lòng sâu các cảm xúc cá nhân. Tớ vẫn theo cái thuyết cho rằng những mâu thuẫn và những mối tơ vò của cái bệnh có tên gọi là bệnh tương tư là những thứ cũng riêng tư giống như cái bàn chải đánh răng.
Theo tớ, các bản tiểu sử những trái tim chỉ nên tìm vị trí cho mình bên cạnh các tiểu thuyết lịch sử về đời sống buồng gan trên các tạp chí dành cho việc rao tin. Vì thế xin các cậu thứ lỗi, nếu tớ không liệt kê ra đây danh sách đầy đủ của những tình cảm của tớ đối với Mâymi. Chẳng bao lâu tớ đã nhiễm thói quen thường xuyên có mặt ở quán vào những lúc ít người. Mâymi tiến lại phía tớ, trong bộ áo dài đen và tạp dề trắng, miệng mỉm cười và nói:
“Chào anh Giep, sao anh không đến đúng giờ đã định? Anh cố ý muộn để mọi người phải lo lắng hay sao? Gà rán - bít-tết - thịt lợn - dầu - trứng tráng - với - giăm-bông - … Nàng gọi tớ là Giep, nhưng
Nguyễn Phương
Huy Lâm
Hôm đầu tháng Hai, hạ viện nước Anh, qua biểu quyết mang tính lịch sử, đã thông qua một dự luật cho phép người dân Anh Quốc có quyền có con qua phương pháp thụ tinh nhân tạo với cấu trúc di truyền (DNA) từ hai người phụ nữ và một người đàn ông. Như vậy, nước Anh rất có thể trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới chính thức áp dụng đạo luật cho phép người dân nước này có con lấy giống từ ba người riêng rẽ.
Với phương pháp thụ tinh nhân tạo mới này, những căn bệnh di truyền sẽ không thể truyền từ người mẹ xuống cho những đứa con nữa. Sau khi biểu quyết dự luật, một số vị dân cử nói rằng phương pháp mới này là “ánh sáng cuối đường hầm” cho một số gia đình hiếm muộn không con vì những nguyên nhân có liên quan tới một số căn bệnh di truyền.
Hiện dự luật còn chờ để được thông qua ở thượng viện. Nếu mọi chuyện xuôi chảy thì đứa bé đầu tiên loại này có thể được ra đời vào năm tới. Người ta ước tính nếu đạo luật được đem ra áp dụng, riêng tại nước Anh, có khoảng 150 em bé với hai bà mẹ và một ông bố được chào đời mỗi năm.
Những người ủng hộ cho đây là một tin mừng cho sự tiến bộ của ngành y khoa và mang lại chút hy vọng đến cho một số gia đình nay có thể có được những đứa con khoẻ mạnh mà không phải sống trong đau đớn do một số căn bệnh di truyền gây ra. Trong đó có một nhóm gồm 40 nhà nghiên cứu khoa học và cố vấn chính phủ trên khắp thế giới đã đứng chung trong một lá thư ngỏ gửi tới quốc hội Anh ủng hộ cho phương pháp thụ tinh mới này. Trong khi những người chống thì lo ngại với phương pháp thụ tinh mới này có thể đưa tới những vấn đề liên quan tới đạo đức và an toàn.
Phương pháp thụ tinh một cha hai mẹ được phát minh bởi Đại học Newcastle bên Anh Quốc cho phép những phụ nữ nào mang trong người mầm mống di truyền của căn bệnh rối loạn ty thể (mitochondrial disease) đến nay vẫn chưa có cách chữa – vẫn có thể có con mà không truyền căn bệnh này xuống cho đứa trẻ.
Ty thể mitochondrial là những hạt li ti có trong hầu hết các tế bào và có chức năng biến đổi thức ăn thành năng lượng cho cơ thể. Các ty thể này có cấu trúc di truyền DNA của riêng chúng và vì vậy sẽ không ảnh hưởng đến đặc tính cá nhân của đứa bé, chẳng hạn diện mạo bên ngoài như chiều cao, màu mắt, màu tóc v.v… Khi một người bị rối loạn ty thể, nó có thể đưa tới những căn bệnh hết sức nguy hiểm như teo cơ bắp, bại tim và thận, hoại não, động kinh, tiểu đường, mù loà, và có thể đưa tới tử vong. Trên thế giới, người ta ước tính cứ 6.500 em thì có một em mắc phải căn bệnh rối loạn ty thể, mà căn bệnh này chỉ được truyền từ người mẹ qua đứa con (tinh trùng của người cha không đóng một vai trò nào cả).
Phương pháp thụ tinh này có thể thực hiện bằng hai cách khác nhau: Cách thứ nhất, tách nhân từ trứng của người mẹ rồi đưa vào trứng của người hiến tặng sau khi trứng đó đã được tách tất cả mọi thứ ra ngoại trừ ty thể. Hạt trứng mới này – có chứa nhân DNA từ người mẹ và ty thể từ người hiến tặng – sau đó được cấy với tinh trùng của người cha. Cách thứ hai, cả hai trứng của người mẹ và người hiến tặng được cấy với tinh trùng, sau đó nhân DNA được lấy ra khỏi trứng của người mẹ và đưa vào trứng của người hiến tặng sau khi nhân của trứng này đã được lấy ra.
Nói chung, phương pháp thụ tinh nhân tạo này là gộp DNA của hai cha mẹ chung với lại những ty thể khoẻ mạnh của người phụ nữ hiến tặng trứng.
Kết quả là khi đứa bé được sinh ra nó sẽ mang DNA của cha mẹ cùng với 0,1% DNA của người phụ nữ thứ hai. Mặc dù phần DNA của người phụ nữ hiến tặng trứng rất nhỏ nhưng trên thực tế có thể nói đứa bé này là đứa con một cha và hai mẹ.
Hiện nay, Giáo hội Công giáo và Anh giáo ở Anh còn đang chống đối cho rằng ý tưởng về việc thụ tinh nhân tạo này chưa được an toàn tối đa và trái luân lý, đó là chưa nói tới tiến trình thụ tinh này còn bao gồm việc hủy hoại phôi thai.
Một vài nhóm chống đối khác nói rằng việc này còn có khả năng mở ra cánh cửa để người ta đi xa hơn nữa trong việc biến cải di truyền của những đứa trẻ trong tương lai – nghĩa là người ta đòi hỏi sinh ra những đứa con theo ý muốn, dùng kỹ thuật cải sửa di truyền để có được những đứa con đẹp, khoẻ, thông minh hoặc miễn bệnh tật.
Tại Hoa Kỳ, nơi mỗi năm có khoảng từ 1.000-4.000 em bé chào đời với căn bệnh rối loạn ty thể, hiện cũng đang có những tranh luận về phương pháp thụ tinh mới mẻ này. Vào đầu năm ngoái, Cơ quan Kiểm soát Thực và Dược phẩm (FDA) đã lập một ủy ban để thảo luận là có nên hay không cho phép những cuộc thử nghiệm lâm sàng về thụ tinh nhân tạo bao gồm ba người này. Với yêu cầu của FDA, Viện nghiên cứu Y khoa (Institute of Medicine) đã bắt tay làm việc để lập một bản phúc trình tìm hiểu về những vấn đề liên quan tới phương pháp thụ tinh trên có thể ảnh hưởng đến những chính sách về xã hội và luân lý.
Thậm chí nếu luật ở Anh cho phép được mang ra áp dụng, những đứa trẻ được sinh ra đời cũng không phải là thế hệ đầu tiên mang trong người di tố (gene) của ba người riêng rẽ. Vào thập niên 1990, một nhóm nhà nghiên cứu tại Viện St. Barnabus ở New Jersey đã phát minh một phương pháp điều trị cho những người hiếm muộn được gọi là cytoplasmic transfer (truyền tế bào chất), dùng phương pháp cài tế bào chất – là chất nằm trong tế bào có chứa ty thể và những cơ quan tử (organelle) khác – của người hiến tặng vào trong trứng của người mẹ. Nhưng kể từ năm 2002, cơ quan FDA đã cấm không cho thực hành phương pháp này nữa – nhưng trước đó đã có nhiều trung tâm y khoa đã bắt chước và thử nghiệm phương pháp của nhóm nghiên cứu ở New Jersey, và giúp cho ra đời ước đoán khoảng 30-50 em bé mà tố chất di truyền có chứa một phần ty thể có mang cấu trúc di truyền DNA của người hiến tặng.
Vậy tại sao một phương cách thụ thai mới có thể giải quyết được một căn bệnh rối loạn di truyền nghiêm trọng lại đưa đến nhiều tranh cãi như thế? Mặc dù một hội đồng cố vấn của FDA đã lưu ý tới phương pháp thụ tinh mới này nhưng quyết định là phải cần có thêm nhiều nghiên cứu nữa trước khi nó được cho phép thử nghiệm trên các bà mẹ đang mong mỏi có con. Hội đồng cố vấn ngụ ý rằng vẫn còn một vài thắc mắc khoa học về những ảnh hưởng lâu dài của phương pháp thụ tinh trên. Ví dụ, nếu chẳng may một phần rất nhỏ những mảnh vụn ty thể biến dạng vô tình còn sót lại và gây ra những vấn đề sức khoẻ cho những thế hệ tương lai của các em?
Mặc dù một số giống khỉ được sinh ra bằng phương pháp thụ tinh này đã sống bình thường và trưởng thành, nhưng chưa có nghiên cứu nào theo dõi những thế hệ tương lai của mấy chú khỉ con này. Một số nhà khoa học nói rằng nếu phải chờ thêm vài thập niên để có kết quả trên những thế hệ tương lai như vậy sẽ lấy mất đi cơ hội có con của những bà mẹ đang trong tuổi sinh đẻ nhưng lại mang mầm mống rối loạn ty thể trong trứng của họ.
Nói đến kỹ thuật sinh sản nhân tạo, chính nước Anh là quốc gia đầu tiên cho phép thực hiện phương pháp thụ tinh nhân tạo (ống nghiệm) vào năm 1978, mở đường cho Hoa Kỳ đi theo và sau đó là nhiều triệu đứa trẻ đã được sinh ra theo phương pháp trên tại Hoa Kỳ và nhiều nơi khác trên thế giới.
Tin về, Một gia đình ở Missouri lao đao trong vòng lao lý sau khi dàn dựng một vụ bắt cóc giả để dạy cho cậu con trai 6 tuổi về những mối nguy hiểm của người lạ.
Ông nói xin lỗi, rồi ra tủ lạnh lấy lon bia giải khát ở bàn ăn. Lòng bực tức là cho vợ chồng thằng con nuôi ở trong nhà ông vì nó nói thất nghiệp, không tiền trả apartment nên cho hai đứa dọn về ở tạm nhà ông tới có việc làm lại. Vợ chồng nó ngủ trên lầu, trên đó có nhà tắm, toilet. Nếu có gì trục trặc thì kêu thợ tới sửa chứ mắc gì tự động xuống sử dụng nhà tắm trong master bathroom của ông ở nhà dưới…?
Cơn giận của ông đang dồn đến quyết định đuổi thằng con nuôi và con dâu nuôi ra khỏi nhà. Cho tụi nó ít tiền đi mướn chỗ ở…
Nhưng quyết định của ông không bao giờ thực hiện được vì cảnh sát đã tới nhà để còng tay, đưa ông đi tù vì xông vào nhà tắm lúc con dâu đang tắm, (với tư thế đang cởi quần)!
Ra tòa. Thằng con rể hụt thành con nuôi phản cha nuôi để cứu vợ nó. Nó muốn chiếm đoạt tài sản của ông để cứu vợ nó đã lâm vào vỡ nợ bởi bài bạc. Nó đứng về phía vợ – trước tòa, để kết tội ông: tấn công tình dục. Đòi bồi thường, với hăm dọa bỏ tù ông…
Chúng tôi toan tính là đem con cú đi thật xa, rồi thả ra. Chắc nó không nhớ đường về đây để bắt gà con nữa! Nhưng không ai có thời giờ để đưa cú đi biệt xứ. Thằng Đực chọn phương án ôn hòa là sang hỏi thăm ông hàng xóm Mỹ trắng. Tin tức nó đem về là ông Mỹ trắng biết con cú này, nó thường bắt gà của ông trước đây. Nhưng mấy năm nay ông không nuôi gà nữa nên nó không tới. Bây giờ thằng Đực mở trại nuôi gà thì nó lại về. Đừng hòng đem nó đi xa mà nó quên đường về đây…
Ông ấy có cho thằng Đực số điện thoại của animal control ở địa phương, và hướng dẫn là gọi họ đến đem nó đi. Khi nào thấy nó bay về thì gọi nữa…
Chỉ một tiếng sau khi gọi, xe của enimal control tiến vào cổng farm. Người thanh niên nhà quê lực lưỡng – càng uy nghi hơn trong đồng phục như cảnh sát. Anh ta từ tốn, hiền lành, tốt bụng, vui vẻ, niềm nở. Nhưng năm tính tốt đó hơi mắc là tới năm trăm đô la! Bởi sau khi nghe thằng Đực trình bày, anh ta thản nhiên nói, “Ông phạm hai tội. Một là ông không được bắt chim cú bởi nó trong danh sách động vật hoang dã không được bắt. Chỉ người có licence như chúng tôi mới được bắt nó. Hai là ông phạm tội ngược đãi súc vật vì ông không được giam giữ nó quá 24 tiếng. Lần sau, ông thấy nó đến bắt gà thì gọi chúng tôi. Để chúng tôi tới bắt nó đi. Bây giờ…!”
Cái bây giờ làm teo chim thằng Đực là bị còng tay hay gì đây? (Bạn bè đứng xung quanh bỗng lo cho nó!)
Ái tình theo khẩu phần
Tớ mê hoặc người đời bằng âm nhạc, tài hùng biện, sự khéo léo của đôi tay và những thủ thuật ranh mãnh, đồng thời bán cho họ hàng kim hoàn thuốc men, xà phòng, thuốc mọc tóc và đủ thứ tạp nham khác. Trong lúc đi chu du, phần để giải trí, phần để chuộc tội, tớ đã nghiên cứu đàn bà.
Muốn hiểu được một ả đàn bà, con người ta cần cả một đời, nhưng những mầm mồng kiến thức về nữ giới có thể đạt được, nếu ta dành cho nó mười năm nghiên cứu cần cù, kĩ lưỡng. Trong lĩnh vực này, tớ đã biết được rất nhiều điều bổ ích khi rao bán ở miền tây kim cương Braxin và đồ nhóm lửa đã được cấp bằng phát minh, - đó là sau chuyến đi Xavanna của tớ qua vành đai bông. Dạo ấy là thời kì phát đạt đầu tiên của bang Oclahôma.
Thị xã Gatơri mọc lên ở giữa bang này, vùn vụt như thổi. Đó là một thị xã điển hình ra đời trong cao trào bùng nổ kinh tế: muốn tắm rửa phải xếp hàng, nếu bạn ngồi ăn trong tiệm lâu quá chục phút thì phải trả thêm tiền chỗ ngồi; còn nếu ngủ đất trong khách sạn, sáng ra xin cứ việc chi tiền như nghỉ biệt thự. Về quan điểm lẫn tư chất thì ở đâu tớ cũng thích tìm những chỗ đánh chén ngon lành nhất. Tớ tìm được một nơi hết sức vừa ý.
Đó là một tiệm ăn căng bạt của một gia đình vừa mới mở. Gia đình ấy đến thị xã này theo vết chân sự bùng nổ kinh tế. Họ đã dựng gấp một ngôi nhà nhỏ vừa để ở vừa để nấu nướng và chăng thêm lều bạt áp vào ngôi nhà làm tiệm ăn. Lều này chăng đầy những tờ quảng cáo nhằm giành giật từ vòng tay tội lỗi của các biệt thự và khách sạn kẻ lữ hành mệt mỏi. “Hãy nếm bánh quy nhà chúng tôi”, “Bánh rán nóng với xirô phong, những món bạn vẫn ăn từ thuở bé”,
“Gà rán của chúng tôi lúc sống chưa đến tuổi cục tác” đấy là những dòng chữ có nhiệm vụ kích thích sự tiêu hoá của khách ăn. Tớ mới bụng bảo dạ rằng cái thân xác tớ cần tọng một chút gì đó chiều nay tại chính tiệm ăn này. Sự việc diễn ra đúng như vậy. Chính tại đây tớ đã làm quen được với Mâymi Điugân.
Ông già Điugân - kiểu dân ăn không ngồi ở xứ Inđiana, cao tới sáu bộ (1) - nằm trên ghế xích đu hồi tưởng lại vụ thất bát năm một tám linh sáu. Bà lão Điugân nấu bếp, còn Mâymi thì phục vụ khách. Chỉ vừa trông thấy Mâymi, tớ đã hiểu ngay là cuộc tổng kê dân số đã phạm một sự nhầm lẫn. Ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đúng ra chỉ có một cô gái mà thôi! Mô tả nàng chi tiết thật là khó. Vóc nàng xấp xỉ một thiên thần, nàng có đôi mắt, lại còn điệu bộ nữa chứ. Nếu các cậu muốn biết nàng là người như thế nào, thì có thể tìm thấy cả một chuỗi xích, trải dài từ cầu Bruclin về phía tây đến tận trụ sở toà án ở Caonsin Blaphơ, bang Inđiana.
Những người như nàng kiếm sống bằng cách làm việc ở các cửa hàng tiệm ăn, trong các nhà máy và văn phòng. Họ có gốc gác theo đường thẳng từ bà Eva, chả là họ đã giàng được quyền làm đàn bà, còn nếu như các cậu dám đặt dấu hỏi về cái quyền ấy thì có khả năng ăn một cái tát ra trò. Họ là những người bạn tốt, họ trung thực và tự do, dịu dàng và táo tợn, và họ biết nhìn thẳng vào cuộc đời. Họ gặp gỡ mặt đối mặt với đàn ông và đã đi đến kết luận rằng đàn ông là giống sinh vật thảm hại. Họ đã đinh ninh rằng sự mô tả của đàn ông trong các tiểu thuyết đọc trên tàu hoả tựa như chàng hoàng tử trong cổ tích, chẳng hề được thực tế xác nhận.
Đấy, Mâymi cũng là một cô gái như vậy. Toàn bộ con người nàng toát lên sức sống, sự vui vẻ và tính linh lợi, với khách thì mau mồm mau miệng: thật chết cười mỗi lần nghe nàng đáp. Tớ không ưa khai quật tận lòng sâu các cảm xúc cá nhân. Tớ vẫn theo cái thuyết cho rằng những mâu thuẫn và những mối tơ vò của cái bệnh có tên gọi là bệnh tương tư là những thứ cũng riêng tư giống như cái bàn chải đánh răng.
Theo tớ, các bản tiểu sử những trái tim chỉ nên tìm vị trí cho mình bên cạnh các tiểu thuyết lịch sử về đời sống buồng gan trên các tạp chí dành cho việc rao tin. Vì thế xin các cậu thứ lỗi, nếu tớ không liệt kê ra đây danh sách đầy đủ của những tình cảm của tớ đối với Mâymi. Chẳng bao lâu tớ đã nhiễm thói quen thường xuyên có mặt ở quán vào những lúc ít người. Mâymi tiến lại phía tớ, trong bộ áo dài đen và tạp dề trắng, miệng mỉm cười và nói:
“Chào anh Giep, sao anh không đến đúng giờ đã định? Anh cố ý muộn để mọi người phải lo lắng hay sao? Gà rán - bít-tết - thịt lợn - dầu - trứng tráng - với - giăm-bông - … Nàng gọi tớ là Giep, nhưng
điều ấy tuyệt nhiên không có nghĩa gì cả. Chẳng qua nàng cũng phải phân biệt người nọ với người kia mà thôi. Gọi thế thì vừa nhanh, vừa tiện.
Tớ thường ăn hai bữa trưa và cố kéo dài chúng như ăn tiệc trong xã hội thưọng lưu, nơi người ta đổi đĩa, đổi vợ và trao qua đổi lại những câu đùa giữa các lần nuốt. Mâymi chịu đựng tất. Có lẽ nào nàng lại làm ầm ĩ lên và bỏ mất một đôla chỉ vì người ăn không đến theo thời gian biểu đã định. Ít lâu sau lại thêm một cậu chàng nữa tên là Eđ Côliê nảy ra cái thói tọng đồ ăn vào giờ trái khoáy.
Vì có tớ và cậu ta mà giữa bữa ăn sáng với bữa ăn trưa và bữa ăn trưa với bữa ăn chiều đã bắc những cây cầu nối thường xuyên. Qnán ăn biến thành rạp xiếc với ba vũ đài, thành thử Mâymi hoàn toàn không còn thời gian nghỉ ở hậu trường nữa. Thằng cha Côliê đầy những thủ đoạn ma lanh. Hắn làm việc đâu như ở đội khoan giếng hoặc bảo hiểm, có quỷ mới biết được - tớ cũng chả nhớ ở đội nào. Hắn cũng khá về khoa ăn nói và dễ gây được thiện cảm. Tớ với hắn đã tạo ra trong quán một bầu không khí tình tự và thi đua. Mâymi giữ mình trên tầm cao vô tư và phân phối đều sự lịch thiệp đối với cả hai người chúng tớ, giống như chia bài ở câu lạc bộ ấy: một quân bài cho tớ, một quân bài cho Côliê, và một quân bài đặt cái.
Trong ống tay áo không còn một quân bài nào cả. Tất nhiên tớ với Côliê đã làm quen với nhau và thỉnh thoảng còn thù tạc với nhau trong bốn bức tường của lều quán. Không kể những trò khôn ranh, cậu ta gây được ấn tượng tốt và sự đối địch của cậu ta cũng rất ngộ. - Tao thấy mày thích ngồi lì trong phòng tiệc sau khi khách đã tản về hết đấy nhé. - Có một lần tớ nói với Côliê để xem hắn đối đáp như thế nào. - Ừ, - Côliê nói, vẻ tư lự. - Sự ồn ào cảnh chen vai thích cánh làm thần kinh nhạy cảm của tao khó chịu. - Thần kinh tao cũng thế, - tớ nói - À, cô bé cũng kháu đấy chứ nhỉ? - À, thì ra thế, - Côliê bật cười.
- Nếu mày đã nhắc đến điều đó, thì tao xin báo để mày rõ là cô bé gây được ân tượng không phải là khó chịu đối với thần kinh thị giác của tao. - Cô ấy làm tao thích mắt lắm, - tớ nói. - Tao đang tán nó đây. Nói để mày biết. - Tao sẽ rất trung thực, - Côliê nói. - Nếu như ở các hiệu thuốc có bán đủ dịch vị, tao sẽ cho mày một chầu cho mày tha hồ bị bội thực để đạt được cái đích mới thôi. Thế là bắt đầu cuộc đua nước rút của chúng tớ. Quán ăn cung ứng liên tục.
Mâymi phục vụ chúng tớ, vui vẻ, dễ thương và lịch sự. Thần ái tình và người nấu bếp ở quán Điugân làm việc cật lực. Một ngày tháng chín tớ đã rủ Mâymi đi chơi với tớ sau bữa ăn tối, khi cô ấy dọn dẹp xong. Chúng tớ đi dạo một tí rồi ngồi lên những khúc gỗ ở khu vực cuối thành phố. Dịp may như thế chắc còn lâu mới có, nên tớ đã thổ lộ hết những gì mình muốn nói. Rằng kim cương Braxin và đồ nhóm lửa đã được cấp bằng phát minh là nguồn thu nhập của tớ, đủ để đảm bảo ấm no cho cả hai, rằng cả hai thứ ấy dù sao cũng không thể cạnh tranh được với ánh mắt của một nàng, rằng họ Điugân cần phải đổi sang họ Pitơx, nếu không đổi thì xin giải thích lí do. Thoạt đầu Mâymi chẳng nói gì cả.
Sau đó bỗng nàng rùng rùng toàn thân. Thế là tớ nghe được những điều bổ ích. Nàng nói: - Anh Giep ạ, em rất tiếc là anh đã nói ra. Em cũng mến anh, em mến anh nhiều mặt, nhưng trên đời này sẽ chẳng có người đàn ông nào em lấy làm chồng đâu và sẽ chẳng bao giờ có cả. Anh có biết trong con mắt em, đàn ông là cái thứ gì không? Đó là nấm mồ, là nấm mồ để chôn bít-tết, thịt lợn kho, gan xào, trứng tráng với giăm-bông. Trong tâm khảm em đã in đậm hình ảnh của họ như thế. Em đã thử chống lại cảm giác ấy, những không tài nào chống được.
Nghe nói các cô gái khen hết lời chồng chưa cưới của mình, em không hiểu nổi. Đàn ông, cái cối xay thịt và chạn đựng thức ăn đều gây ra ở em những cảm giác giống nhau. Có lần em đi xem kịch, nhìn thấy một diễn viên mà các cô gái đều chết mê chết mệt. Em ngồi xem mà nghĩ bụng, không hiểu anh ta thích loại bít-tết nào - còn tái, chín vừa hay đã rán già và loại trứng nào - còn lòng đỏ nhùng nhùng hay đã luộc nhừ, chỉ có bấy nhiêu thôi. Không, anh Giep ạ. Em sẽ không bao giờ lấy chồng. Để mà toàn trông thấy anh ta sáng đến ngồi ăn, đến trưa lại quay về ăn, rồi cuối cùng lại vác mặt về ăn tối, chỉ ăn, ăn, ăn ấy à…
- Nhưng mà, Mâymi này, - tớ bảo, - cái đó rồi sẽ qua. Tại em đã làm công việc này nhiều quá đấy thôi. Nhất định rồi em sẽ lấy chồng. Đàn ông không phải bao giờ cũng chỉ ăn. - Còn em thì lúc nào cũng quan sát thấy họ ăn. Không, em sẽ nói cho anh biết em sẽ làm gì. - Mâymi bỗng tràn đầy cảm hứng, đôi mắt nàng sáng lên. - Ở Têri Hot có một cô gái tên là Xiudi Phoxtơ, bạn gái em. Cô bạn ấy làm ở quán điểm tâm ngay nhà ga. Em cũng đã làm hai năm ở tiệm ăn chỗ ấy. Xiudi còn kinh tởm đàn ông hơn, bởi vì những người đàn ông ra ga ăn bao giờ cũng vội cuống vội cuồng. Họ vừa tán tỉnh vừa nhồm nhoàm nhai cùng một lúc.
Khiếp! Em với Xiudi đã quyết rồi. Chúng em sẽ dành dụm tiền, khi nào đủ sẽ tậu một ngôi nhà nhỏ và năm acrơ (2) đất. Chúng em đã để ý đến một khoảnh đất. Chúng em sẽ sống với nhau và sẽ trồng hoa viôla. Em khuyên người đàn ông nào phàm ăn tục uống đừng nên đến gần trang trại của chúng em dưới một dặm. - Ồ, thế chả lẽ các cô gái không bao giờ… - tớ cất tiếng. Nhưng Mâymi đã dứt khoát cắt ngang. - Không, không bao giờ. Họ chỉ nhấm nháp gọi là đôi chút thôi. - Anh thì cho rằng kẹo…
- Lạy trời, anh hãy nói sang chuyện khác đi, - Mâymi đáp. Như tớ đã nói, kinh nghiệm này đã chứng minh cho tớ rằng bản tính đàn bà đời đời hướng tới những ảo ảnh và ảo tưởng. Hãy lấy nước Anh mà xem - bít-tết đã tạo nên nó, nước Đức thì do xúc-xích đẻ ra, còn chú Sam hùng mạnh như ngày nay là nhờ bánh rán và gà rán. Nhưng các cô thiếu nữ có tin điều ấy đâu. Họ cho rằng tất cả là do Sếchxpia, Rubinxtên và đội khinh kị binh của Thêơđo Rudơven làm nên. Tình thế của tớ thì ai mà chẳng nản lòng. Không thể có chuyện cắt đứt Mâymi được.
Thế nhưng cứ nghĩ đến việc phải từ bỏ thói quen ăn uống xưa nay thì tớ lại buồn nẫu ruột. Tớ đã nhiễm phải cái tật ấy từ sớm quá. Hai mươi bảy tuổi đời mà tớ đã mù quáng lao đầu vào thảm hoạ và ngả theo tiếng gọi mê hoặc của con quái vật khủng khiếp là thực phẩm. Thay đổi muộn quá rồi. Tớ đã trở thành loại nhai lại hai chân hết phương cứu vãn. Có thể đánh cuộc bằng món tôm hùm với món bánh rán, cuộc đời tớ thế là đi đứt vì cái thói ấy. Tớ tiếp tục ăn ở quán Điugân, hi vọng Mâymi rủ lòng thương. Tớ tin vào tình yêu chân chính và nghĩ rằng nếu nó thường đã phải chống chọi lại với sự vắng mặt của một bữa ăn thịnh soạn thì biết đâu, nó sẽ biết chống chọi lại với sự có mặt của chính bữa ăn ấy.
Tớ vẫn tiếp tục chịu sự điều khiển của tật xấu tai hại, nhưng mỗi lần tớ bỏ một miếng khoai tây vào mồm trước mặt Mâymi là tớ cảm thấy có lẽ mình đang chôn vùi những hi vọng ngọt ngào nhất của bản thân. Côliê hình như cũng ngỏ lời với Mâymi và cũng nhận được câu trả lời tương tự. Ít ra thì có một hôm hắn chỉ gọi một tách cà phê và một mẩu bánh lương khô rồi ngồi nhấm nháp miếng bánh hệt như một tiểu thư khuê các trước đó đã nếm thịt bò xào bắp cải dưới bếp.
Tớ liền bắt chước và cũng chỉ gọi cà phê và bánh lương khô. Kể cũng láu cá đấy chứ hả? Ngày hôm sau, hai đứa lại lặp lại như thế. Ông già Điugân từ bếp lên bưng cái món đài các của chúng tớ. - Các cậu mắc chứng ăn không ngon hả? - Bác ấy hỏi với giọng của người cha, tuy không phải không có sự châm biếm. - Tôi đã đổi con Mâymi xuống bếp rồi, cho nó nghỉ ít lâu. Phục vụ bàn này cũng không vất vả, không ảnh hưởng lắm đến bệnh thấp khớp của tôi. Tớ với Côliê đành phải quay trở lại với những thứ thực phẩm nặng dạ dày.
Lúc ấy tớ bỗng phát hiện ra mình ăn ngon miệng kinh khủng, đúng là “ngồi ăn núi lở”. Tớ ăn đến nỗi nếu có bước qua ngưỡng cửa vào gặp Mâymi lúc ấy thì nàng sẽ căm ghét tớ lắm. Sau đó tớ phát hiện ra mình đã trở thành nạn nhân của một mánh khoé đầy báng bổ và đê tiện mà Eđ Côliê đã rắp ranh bẫy tớ. Tớ với hắn ngày nào cũng đi uống lai rai trong thành phố để làm dịu bớt cơn đói. Cái thằng xỏ lá ấy đã mua chuộc gần chục gã phục vụ, thế là những gã này đã rót vào từng cốc rượu uytxki của tớ một lượng đáng kể thứ chất cay làm từ táo kích thích sự ngon miệng do hãng Anacôn sản xuất. Nhưng còn trò bịp cuối cùng mà hắn định chơi tớ, còn khó quên hơn nhiều. Một hôm không thấy Côliê ló mặt đến quán nữa. Một người quen chung có nói rằng buổi sáng hắn đã rời bỏ thành phố. Như vậy là kẻ thù duy nhất của tớ chỉ là tấm bảng món ăn. Vài ngày trước khi đi biệt tăm,
Côliê đã tặng tớ hai chai uytxki hảo hạng, tuồng như là của người anh họ ở Kentơcki gửi cho hắn. Bây giờ tớ có cơ sở để nghĩ rằng thứ uytxki ấy hầu như chứa toàn món chất cay Anacôn là từ táo kích thích sự ngon miệng. Tớ vẫn tiếp tục ngốn hàng tấn thực phẩm. Trong con mắt Mâymi, hơn bao giờ hết, tớ vẫn là loài hai chân chuyên nhai lại. Khoảng một tuần sau khi Côliê mất hút, có một đoàn triển lãm trưng bày của lạ đến thành phố và ở trong một lều bạt gần đường sắt. Một buổi chiều tớ ghé vào chỗ Mâymi, thì bà mẹ nàng bảo với tớ rằng Mâymi cùng đứa em trai là Tômat đã đi xem triển lãm rồi. Việc này lặp đi lặp lại tuần ba lần. Chiều thứ bảy tớ lại bắt gặp Mâymi đi xem triển lãm về.
Tớ bèn rủ nàng ngồi lại một lát. Nàng đã thay đổi hẳn. Đôi mắt dịu dàng hơn và long lanh sáng. Thay vì một Mâymi Điugân chỉ chực trốn chạy khỏi tính tham ăn của giới đàn ông, đi chăm sóc hoa viôla, trước mặt tớ là một Mâymi đáp ứng được với dự liệu của Chúa trời và cực kì thích hợp với việc sưởi lòng trong ánh kim cương Braxin và những đồ nhóm lửa đã được cấp bằng phát minh. - Chắc là em đang bị lôi cuốn rất nhiều vì cái triển lãm chưa từng có về các sinh vật kì diệu và lạ mắt? - Tớ hỏi. - Dù sao cũng giải trí được ạ. - Mâymi đáp. - Rồi em sẽ phải đi tìm sự giải trí để thoát khỏi sự giải trí ấy, nếu ngày nào em cũng đi xem. - Đừng nổi nóng lên thế, anh Giep! Chẳng qua em chỉ muốn bứt khỏi những ý nghĩ về bếp núc. - Những sinh vật kì diệu ấy không ăn à? - Không phải tất cả. Một số bằng sáp. - Đừng có dính vào đấy là được. -
Tớ nói nặng tuy không có ẩn ý gì, chẳng qua quen mồm mà thôi. Mâymi đỏ mặt. Tớ chẳng hiểu ra làm sao nữa. Trong lòng tớ bừng lên một hi vọng là bằng sự chung thuỷ của mình tớ sẽ làm nhẹ bớt tội ác khủng khiếp của cánh đàn ông là công nhiên nhồi nhét thực phẩm vào cơ thể. Mâymi loáng thoáng nói đến các vì sao, trong những ngôn từ lịch sự nhất. Tớ cũng hứng chí tán về sự kết giao của những con tim, về tổ ấm gia đình sưởi bằng tình yêu chân chính và những đồ nhóm lửa đã được cấp bằng phát minh. Mâymi lắng nghe không nhăn mặt, thế là tớ đã bụng bảo dạ “Chú mày đã làm nhẹ được sự căm ghét trùm lên những kẻ phàm ăn tục uống rồi đấy! Chú mày đã giẫm được lên đầu con rắn ẩn trong lọ nước chấm rồi đấy!”.
Chiều thứ hai tớ lại mò đến Mâymi. Nàng với cậu em trai lại đi xem triển lãm các vật kì diệu mất rồi. “Lạy trời cho bốn mươi lăm hà bá quơ cái triển lãm ấy đi cho rồi! - Tớ rủa. - Tròi đánh thánh vật đời đời cái triển lãm ấy! Amen! Ngày mai ta phải đích thân đến đấy xem có cái chết tiệt gì mà hấp dẫn thế.
Chả lẽ một con người được tạo hoá sinh ra để thừa kế đất đai, lại có thể bị mất người yêu thoạt đầu vì thìa dĩa, rồi sau đó vì một cái triển lãm mà vé vào cửa chỉ có mười xu?” Chiều hôm sau, trước khi đi xem triển lãm, tớ tạt vào nhà Mâymi và được biết nàng không có nhà. Lần này nàng không đi với Tômat, vì cậu này đã đón tớ ngay trên bãi cỏ trước lều quán để gạ tớ. - Anh Giep, anh sẽ cho em gì nào, nếu em nói chuyện này cho anh nghe? - Cái gì đáng giá thì anh sẽ cho. - Chị Mâymi phải lòng kì quan ở triển lãm rồi. Em chẳng thấy thích.
Nhưng chị ấy lại thích. Em đã nghe lỏm được họ nói chuyện với nhau. Em nghĩ chắc anh thích nghe. Anh Giep này, hai đôla đối với anh có nhiều quá không? Ở trong thành phố có bán một khẩu súng, em muốn… Tớ lục túi và đổ vào mũ cho Tômat một đồng xu bạc. Tin Tômat báo như dao đâm vào tớ, khiến ý nghĩ của tớ chao đảo mất một lúc. Rót tiền lẻ cho Tômat, tớ mỉm cười một cách ngớ ngẩn, mà trong lòng tan nát.
Tớ nói giọng nửa ngố nửa pha trò. - Cảm ơn Tômat… cảm ơn… em nói cái kì quan… ấy à? Nó có gì đặc biệt, cái của quái dị ấy, hả Tômat? - Đây này, - Tômat vừa nói vừa lôi từ trong túi ra tờ chương trình bằng giấy vàng khè và dúi vào mũi tớ. - Anh ta là vô địch thế giới về nhịn đói. Chắc là vì thế mà chị Mâymi cứ bám lấy anh ta. Anh ta không ăn gì cả. Anh ta sẽ nhịn đói bốn mươi chín ngày. Hôm nay là ngày thứ sáu… Anh ta đây này. Tớ nhìn dòng chữ mà ngón tay Tômat chỉ vào: “Giáo sư Eđuacđô Côliêri”. - À! - Tớ thốt lên thán phục. - Giỏi thật, Eđ Côliê.
Xin chịu ông cái khoản nhanh trí. Nhưng tôi không nhường cô gái cho ông đâu, hiện tại nàng chưa phải là kì quan phu nhân. Tớ rảo bước đến ngay triển lãm. Khi tớ tiến vào lối cửa sau thì có một người nào đó thò đầu ra như con rắn, đứng thẳng chân lên và lao thẳng đến tớ như chú ngựa muxtang. Tớ tóm ngay cổ người đó và quan sát kĩ dưới ánh sao. Đó là giáo sư Eđuacđô Côliêri mặc quần áo của giống người, với nỗi tức giận trong một con mắt và sự sốt ruột trong con mắt kia. - Hêlô, kì vậy! - Tớ nói. - Đợi một chút nhé, để tao ngắm mày cái nào. Chà chà, làm kì quan của thế kỉ chúng ta, hoặc là của lạ từ đảo Boocnêô thích thật! Thế trong chương trình người ta tôn xưng cho mày cái tên gì? - Giep Pitơx này, -
Côliê nói khe khẽ. - Thả tao ra, không thì tao nện mày bây giờ. Tao đang vội chết đi được đấy. Bỏ tay ra! - Nhẹ nhàng nào, nhẹ nhàng nào, Eđi, - tớ nói, tay vẫn giữ chặt cổ áo anh chàng. - Cho phép một người bạn cũ chiêm ngưỡng mày cho thoả đã. Mày bày ra trò này phải nói là đại bợm đấy, con ạ, nhưng chớ có to mồm về chuyện đấm nhau: mày không thích hợp với việc ấy đâu. Cái tối đa mà mày có bây giờ - đó là sự táo tợn kha khá với cái dạ dày rỗng. Tớ đoán không nhầm, hắn yếu như sên. Hắn lên tiếng: - Giep ơi, tao sẵn sàng tranh cãi với mày về chủ đề này bao nhiêu hiệp cũng được, chỉ cần tao có nửa tiếng luyện tập và một thỏi bít-tết diện tích hai bộ vuông để luyện.
Tổ sư đứa nào sáng tạo ra nghệ thuật nhịn ăn! Hãy xích nó lại đời đời cách cái giếng không đáy chứa toàn bít-tết nóng sốt chỉ hai bước chân! Tao bỏ cuộc đấu đây, Giep ạ. Tao đào ngũ đây. Mày sẽ tìm thấy nàng Điugân trong lều: nàng đang ngắm một xác ướp sống và một con lợn bác học ở đấy. Nàng thật là một cô gái kì diệu, Giep ạ. Lẽ ra tao đã thắng trong cái trò này, nếu như chịu được trạng thái không ăn uống thêm một thời gian nữa. Mày phải thừa nhận rằng đường đi nước bước của tao trong trò tuyệt thực này đã được suy tính để hoàn toàn có khả năng thành công.
Tao đã tưởng như thế. Người ta bảo tình yêu lay chuyển cả núi non. Cứ tin tao đi, đấy chỉ là lời đồn sai lệch… Không phải tình yêu, mà là hồi chuông gọi đi ăn buộc núi non phải rung chuyển. Tao yêu Mâymi Điugân. Tao đã trải qua sáu ngày nhịn ăn để chiếm được tình cảm của nàng. Suốt thời gian này tao chỉ có một lần xơi một miếng, đó là lúc tao đẩy cái thằng xăm đầy mình và giật của nó miếng bánh xanđuych để ăn.
Ông chủ cúp sạch lương của tao. Nhưng tao đến đây không phải vì mấy đồng lương, mà là vì cô gái ấy. Vì nàng tao có thể hiến dâng cuộc đời, còn vì miếng thịt lợn rán tao sẽ hiến dâng tâm hồn bất tử của mình. Đó là một cực hình, Giep ạ. Cả tình yêu, cả sự nghiệp, cả gia đình, cả tôn giáo, cả nghệ thuật, cả tinh thần yêu nước đều chỉ là những lời nói suông trống rỗng, khi con người ta đói. Eđ Côliê tâm sự với tớ bằng giọng lâm li. Chẩn đoán bệnh rất dễ: những đòi hỏi của trái tim cậu ta và những đòi hỏi của dạ dày đang xung đột với nhau, và phái hậu cần đã thắng. Quả thực, tớ luôn thấy mến Côliê. Tớ lục tìm một câu an ủi nào đó, nhưng chẳng tìm thấy câu nào thích hợp cả. Côliê nói tiếp: -
Bây giờ mày hãy thương tao mà để cho tao đi. Số phận đã giáng cho tao một đòn nên thân, nhưng bây giờ tao sẽ giáng cho đồ ăn thức uống một đòn mạnh hơn. Tao sẽ khua sạch tất cả các tiệm ăn trong thành phố. Tao sẽ ngâm mình ngập đến thắt lưng trong món thịt philê và sẽ tắm trong trứng tráng với giăm-bông. Thật kinh khủng khi một người đàn ông phải đến nước từ bỏ một cô gái chỉ vì cái ăn. Thật còn tệ hơn cái anh chàng tên gì nhỉ? Ixav, kẻ đã bỏ cả bản quyền tác giả vì một con lôi. Đói là một điều khủng khiếp. Xin lỗi mày nhé, tao đang ngửi thấy mùi giăm-bông rán ở phía xa xa, nên đôi chân tao đang thúc giục tao băng về hướng đó. - Chúc mày ăn ngon miệng, Côliê ạ. -
Tớ nói - Nhưng đừng có giận tao nhé. Trời sinh ra tao cũng là một đứa phàm ăn nên tao thông cảm với nỗi đau khổ của mày. Đúng vào phút ấy mùi giăm-bông rán đã bay đến trên đôi cánh của gió trời. Nhà quán quân nhịn ăn chép miệng rồi phi nước đại về phía có mồi ăn. Tiếc rằng các vị văn hoá xưa nay vẫn quảng cáo về ảnh hưởng thần diệu của tình yêu và lãng mạn không nhìn thấy cảnh này! Thì đây, Eđ Côliê, một con người tinh tế, đầy khôn ngoan mưu mẹo. Vậy mà cậu ta đã bỏ một cô gái, đang làm chúa tể trái tim cậu ta và nhảy sang địa hạt của dạ dày trong cuộc truy tìm cái ăn hèn kém. Đó là cái tát đối với các thi sĩ, là sự nhạo báng chủ đề câu khách nhất của văn chương.
Cái dạ dày rỗng là đối trọng tốt nhất đối với một con tim tràn trề tình cảm. Tất nhiên tớ hết sức quan tâm đến việc Mâymi mù quáng tin vào mánh khoé của Côliê đến mức nào. Tớ bước vào trong lều, nơi tổ chức cái triển lãm có một không hai đó, thấy Mâymi ở đó. Dường như nàng ngạc nhiên, nhưng không để lộ sự lúng túng. - Hôm nay ngoài phố thật là một buổi tối tuyệt vời. - Tớ lên tiếng. - Mát mẻ dễ chịu làm sao, còn tất cả các vì sao thì đứng sóng hàng theo một trật tự tuyệt vời. Em có muốn nhổ toẹt vào những sản phẩm phụ của cái vương quốc loài vật này để đi dạo với một con người bình thường chưa có tên trong chương trình được không? Mâymi e dè né sáng một bên, và tớ hiểu điều đó có nghĩa là gì. Tớ bèn nói: -
Ôi, anh nói điều này ra với em quả là không dễ chịu, nhưng cái vật kì diệu chỉ nuốt không khí mà sống của em đã chuồn rồi. Hắn vừa mớibò ra khỏi lều bằng lối cửa sau. Bây giờ hắn đã hoà nhập làm một với cái phần háu ăn của nhân loại ở trong thành phố. - Anh một số chỉ anh Eđ Côliê phải không? - Mâymi hỏi. - Đúng thế. Nhưng điều đáng buồn nhất là hắn lại bước lên con đường tội lỗi. Anh đã gặp hắn ngoài lều, và hắn đã tuyên bố với anh về ý định tiêu diệt số thực phẩm dự trữ của thế giới. Buồn không thể tả được, khi thần tượng của em đã bước khỏi bục danh dự để biến thành một con châu chấu đi tìm cái ăn. Mâymi nhìn thẳng vào mắt tớ không rời cho đến khi làm tắc tị những ý nghĩ của tớ. -
Anh Giep, nói những điều ấy thật không giống với con người anh chút nào. Anh đừng có đem anh Eđ Côliê ra làm trò cười. Một con người có thể làm những điều buồn cười, nhưng không vì thế mà anh ta trở nên buồn cười trong đôi mắt của cô gái bởi lẽ vì cô, anh ta làm những điều buồn cười ấy. Những người như Eđ ít khi gặp được lắm. Anh ấy từ bỏ ăn uống chỉ cốt làm vừa lòng em. Em thật tàn nhẫn và bội bạc, nếu như sau việc này lại đối xử không tốt đối với anh ấy. Còn anh, anh có gan làm những việc hi sinh như thế không? - Anh biết, - tớ nói, sau khi hiểu nàng ngả về hướng nào. - Anh đã có phốt rồi. Anh chẳng thế làm gì được nữa. Vết chàm của kẻ phàm ăn đã đóng lên trán anh. Bà Eva đã định trước điều này khi nghe lời con rắn (3). Thật là tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa. Hiển nhiên anh là nhà vô địch thế giới về ăn.
Tớ nói với giọng cam phận, nên Mâymi cũng mềm lòng chút ít. - Quan hệ của em với anh Eđ Côliê rất tốt, - nàng nói, - cũng như với anh thôi. Em cũng đã trả lời anh ấy như trả lời anh: đối với em, không có chuyện hôn nhân đâu. Em chỉ thích gặp gỡ, chuyện phiếm với anh ấy. Em cảm thấy dễ chịu vô cùng mỗi khi nghĩ rằng có một người không bao giờ sờ đến dao và dĩa chỉ vì em. - Thế em không yêu anh ta à? - Tớ hỏi hết sức không đúng chỗ. - Em không có tí ý định nào muốn trở thành kì quan phu nhân à? Điều này với ai chả có thể xảy ra.
Tất cả chúng ta đôi khi đều vượt quá phạm vi những lời nói có suy nghĩ thấu đáo. Mâymi khoác lên mặt một nụ cười mát mẻ, trong đó có bao nhiêu đường thì cũng có bấy nhiêu băng và nói bằng giọng hết sức lịch sự. - Anh Pitơx, anh không có quyền đặt cho em những câu hỏi như vậy. Trước tiên anh hãy nhịn ăn bốn mươi chín ngày để giành được cái quyền ấy đã, rồi sau có thể em mới trả lời anh. Vậy là, ngay cả khi Côliê, bằng sự thèm ăn của mình, không còn ngáng trở tớ nữa, thì triển vọng quan hệ riêng của tớ với Mâymi cũng không khá lên.
Rồi công việc ở Gatơri cũng chẳng ra làm sao cả. Tớ đã ở đó quá lâu. Kim cương Braxin mà tớ bán đã dần dần kém đi, còn đồ nhóm lửa thì dứt khoát không chịu cháy những khi trời ẩm. Trong công việc của tớ bao giờ cũng có cái giây phút mà ngôi sao may mắn bảo tớ: “Hãy chuyển sang thành phố lân cận”. Hồi đó tớ du ngoạn trên chiếc xe ngựa có mui để khỏi bỏ sót các thị trấn nhỏ, thế là sau đó mấy hôm tớ thắng ngựa và đánh xe đến chào Mâymi.
Tớ chưa bỏ cuộc đâu. Tớ chỉ định đến Oclahôma Xity có công chuyện độ một hai tuần, sau đó sẽ trở về và tiếp tục mở các cuộc tấn công Mâymi. Các bạn có thể hình dung được không, - tớ đến nhà Điugân thì thấy Mâymi ở đó, kiều diễm trong bộ áo dài xanh, và ở cửa có cái hòm của nàng. Hoá ra là cô bạn của nàng tên là Lôtti Ben làm nghề đánh máy ở Têri Hot, thứ năm tới sẽ đi lấy chồng và Mâymi sẽ đi một tuần để tham dự lễ cưới ấy. Mâymi đang mong một xe hàng chở nàng đến Oclahôma.
Tớ khinh bỉ nhìn chiếc xe rồi xung phong nhận chở hàng. Bà mẹ Điugân thấy chẳng tội gì phải từ chối cả, - vì chở hàng xưa nay vẫn phải mất tiền mà lại, - nên nửa tiếng sau tớ đã cùng Mâymi ngồi trên chiếc xe có bộ díp nhẹ và nhắm hướng phía nam lên đường. Buổi sáng hôm ấy thật đáng khen hết chỗ nói. Làn gió nhẹ thổi hây hây, cây cỏ hoa lá toả hương, những chú thỏ con vểnh đuôi chạy qua đường cho thêm phần vui nhộn.
Cặp ngựa hồng Kentớcky của tớ hướng thẳng về phía đường chân trời; đến nỗi chói hoa cả mắt, khiến lắm lúc tớ phải quay mặt. Không nhìn đường chân trời căng tựa dây phơi quần áo, Mâymi phấn khởi ra mặt, nàng bô lô ba la như trẻ con, nào chuyện về ngôi nhà cũ, nào những trò nghịch ngợm thời đi học, nào những thứ nàng yêu thích, nào những cô ả đáng ghét nhà Giônxơn ở ngay phía đối diện, nơi quê hương nàng, bang Inđiana.
Nhưng tịnh không một lời nào về Eđ Côliê, về ăn uống và những đề tài khó chịu đại loại như vậy. Khoảng gần trưa thì Mâymi mới phát hiện ra giỏ đồ ăn mà nàng định mang theo, đã nằm lại ở nhà. Tớ không phản đối chuyện lót dạ tí ti, nhưng Mâymi không tỏ ra một chút khó chịu nào về chuyện nàng chẳng có cái ăn, nên tớ cũng nín lặng.
Đây chính là điểm chốt của vấn đề, nên tớ tránh nói động đến bất cứ đồ ăn dưới bất cứ dạng gì. Tớ xin rọi chút ánh sáng vào sự việc tớ bị lạc đường trong hoàn cảnh nào. Đường không rõ ràng, bị cỏ che lấp nhiều, mà bên cạnh tớ là Mâymi, người đã thâu tóm hết tâm trí và sự khôn ngoan của tớ. Điều này có thể biện hộ được hay không thì tuỳ các bạn xem xét.
Chỉ có điều là tớ bị lạc đường, và trong cảnh chạng vạng, đáng lẽ phải ở Oclahôma rồi, thì chúng tớ lại luẩn quẩn trên địa giới nào đó, trong lòng khô của một con sông còn chưa khai thông, mà mưa đang quất vào người. Ở một bên, giữa đầm, chúng tớ nhìn thấy một căn nhà gỗ trên gò khô. Xung quanh cỏ mọc cùng những loài cây hiếm. Ngôi nhà nhuốm vẻ buồn bã gợi thương cảm.
Theo sự đồ chừng của tớ thì hai đứa chúng tớ phải náu mình qua đêm ở đó. Tớ giảng giải cho Mâymi nghe, và nàng dành quyền quyết định cho tớ. Nàng không tỏ ra nôn nao lo lắng, và không làm mình làm mẩy ra dáng khổ ải như đa số những người phụ nữ khác nếu ở vào địa vị ấy, mà chỉ nói: “Thôi được”.
Nàng biết rằng nào ai muốn cơ sự này. Ngôi nhà không có người ở. Trong đó có hai phòng trống. Ngoài sân có một nhà kho nhỏ ngảy xưa vẫn nhốt súc vật. Trên gác xép còn ít cỏ khô từ năm ngoái. Tớ dẫn ngựa vào gian nhà kho cho chúng ăn một ít cỏ khô. Lũ ngựa nhìn tớ bằng cặp mắt buồn bã, dường như chờ đợi sự xin lỗi. Chỗ cỏ khô còn lại thì tớ ôm thành từng bó vào nhà làm nơi ngả lưng.
Tớ cũng mang kim cương Braxin và đồ nhóm lửa, vì cả hai thứ ấy không thể chống chọi được tác dụng phá hoại của nước. Tớ với Mâymi ngự toạ trên sàn, trên nệm gối lấy từ trên xe xuống. Tớ dùng cả đống đồ nhóm lửa, vì đêm ấy trời lạnh. Nếu tớ phán đoán đúng thì toàn bộ sự việc trên khiến Mâymi lấy làm thích thú. Đối với nàng, đó là một cái gì đó mới lạ, một vị trí mới từ đó mà nhìn cuộc đời. Nàng cười nói huyên thuyên, và đồ nhóm lửa của tớ cháy không sáng rực bằng đôi mắt nàng.
Tớ có mang theo bên người bao thuốc lá, nên về phần mình, tớ cảm thấy tớ như chàng Ađam trước khi mắc tội. Cả hai chúng tớ đúng là đang ở trong vườn Địa Đàng xưa tốt đẹp. Đâu đó trong đêm tối là con sông Xiôn chảy dưới mưa, và vị thiên thần cầm thanh kiếm lửa còn chưa treo tấm biển “Cấm đi trên cỏ”. Tớ mở hộp ra lấy cho Mâymi đeo lên người nào nhẫn, nào vòng, nào dây chuyền, hoa tai, thắt lưng và khánh hình trái tim. Nàng lấp la lấp lánh như một nàng công chúa triệu phú cho mãi đến khi má rực hồng và nàng đòi có gương đến suýt phát khóc. Đêm đến, tớ sửa soạn cho Mâymi một chiếc giường tuyệt vời trên sàn bằng cỏ khô, áo khoác của tớ và chăn từ xe đem xuống, rồi khuyên nàng ngả lưng.
Còn tớ thì ngồi ở căn phòng khác hút thuốc, lắng nghe mưa rơi và nghĩ đến chuyện biết bao sự khó nhọc đổ xuống đầu con người ta khoảng bảy chục năm trước khi anh ta được mai táng. Gần sáng có lẽ tớ hơi thiếp đi, bởi vì mắt tớ đã nhắm tít lại, mà khi mở ra thì trời đã sáng và trước mặt tớ là Mâymi, đầu tóc gọn gàng, sạch sẽ, quần áo tươm tất, với đôi mắt sáng lên niềm vui cuộc đời. - Hêlô Giep, - nàng thốt lên. - Em thấy đói rồi đấy! Giá em được ăn…
Tớ chăm chú nhìn nàng. Nụ cười biến khỏi khuôn mặt nàng và nàng ném vào tớ cái nhìn đầy khinh thị lạnh lùng. Thế là tớ bật cười và lại nằm lăn ra đất cho dễ chịu hơn. Tớ thấy vui nhộn kinh khủng. Về bản tính và gien di truyền thì xưa nay tớ là thằng hay cười thượng hạng, nhưng lúc này tớ cười ngất, vượt xa mức thường. Khi tớ đã cười chán chê, Mâymi ngồi quay lưng lại phía tớ và toàn thân chứa đầy cảm giác tự tôn. - Đừng giận, Mâymi, - tớ lên tiếng. - Anh không thể nào nhịn cười được. Em chải đầu buồn cười quá. Giá như em được trông thấy… - Đừng có kể chuyện cổ tích ở đây, - Mâymi nói giọng lạnh lùng và quyền uy. -
Tóc em đâu vào đấy chỉnh tề cả. Em biết anh cười cái gì rồi. Nhìn này, anh Giep, - nàng vừa nói vừa ghé nhìn qua kẽ hở giữa các súc gỗ căn nhà ra ngoài trời. Tớ mở ô cửa sổ nhỏ bằng gỗ và nhìn ra. Toàn bộ con sông đã chìm cả dưới nước và cái gò mà trên đó có ngôi nhà chúng tớ đang ở, đã biến thành hòn đảo, vây quanh là dòng nước lũ vàng điên cuồng rộng tới một trăm yat. Mưa vẫn trút xuống.
Chúng tớ chỉ còn cách ngồi đây đợi một chú chim bồ câu đem cành ôliu tới. Phải công nhận rằng trò chuyện và giải trí ngày hôm đó mang rặt một vẻ ảm đạm. Tớ ý thức được rằng Mâymi lại chuốc cho mình cái nhìn hết sức một chiều đối với sự vật, nhưng tớ không đủ sức thay đổi cái nhìn ấy. Bản thân tớ thì rạo rực một mong muốn được ăn. Những ảo ảnh thịt băm và những giấc mộng giăm-bông không buông tha tớ và lúc nào tớ cũng nghĩ thầm: “Nào, bây giờ mi sẽ đánh chén cái gì đây, hả Giep? Mi sẽ gọi món gì đây khi người phục vụ đi đến?”. Tớ chọn cho mình những món ăn ưa thích nhất trong thực đơn và hình dung ra cái giây phút chúng được đặt lên bàn trước mặt tớ.
Có lẽ điều này xảy đến với tất cả những ai đói cồn đói cào. Họ không thể tập trung ý nghĩ vào cái gì khác ngoài cái ăn. Hoá ra, cái chủ yếu nhất không phải là sự bất tử của tâm hồn, cũng không phải là hoà bình thế giới, mà là một cái bàn ăn xinh xắn với cái bát ăn, nước chấm giả kiểu Uxtơ và chiếc khăn ăn để lau những vết cà phê trên khăn trải bàn. Tớ ngồi bần thần nhai đi nhai lại, than ôi, chỉ những ý nghĩ của mình và tranh luận kịch liệt với chính bản thân mình về việc tớ sẽ ăn loại bít-tết nào - với nấm hương hay là theo kiểu con cháu những người Âu sang châu Mỹ vẫn ăn. Mâymi ngồi đối diện vẻ trầm ngâm, đầu tì xuống cánh tay. “Khoai tây thì cứ rán theo kiểu quê, - tớ nhủ thầm, - còn bánh cuốn thì cứ tráng lên chảo. Cũng trên cái chảo ấy sẽ rán chín quả trứng”.
Tớ lục kĩ các túi xem vô tình có còn sót lại củ lạc hay vài hạt ngô nào không? Sang đến buổi chiều thứ hai, dòng sông càng dâng cao, mưa vẫn đổ xuống. Tớ nhìn sang Mâymi và bắt gặp trên mặt nàng nỗi buồn vẫn thường hiện lên trên mặt các cô gái khi đi ngang qua quầy bán kem. Tớ biết rằng cô nàng tội nghiệp của tớ đang đói, có lẽ lần đầu tiên trong đời. Nàng có cái nhìn ưu tư thường gặp ở phụ nữ khi đi ăn trưa hơi muộn hoặc khi cảm thấy đằng sau váy bị tuột cúc. Có lẽ đã đến mười một giờ rồi.
Chúng tớ ngồi trong gian nhà xơ xác, mặt lầm lì và lặng im thin thít. Tớ cố xua đuổi khỏi đầu những hình ảnh ăn uống, nhưng chúng cứ trôi dạt về đúng chỗ cũ trước khi tớ kịp xích chúng vào chỗ khác. Tớ nghĩ đến tất cả những món cao lương mĩ vị đã từng được nghe kể. Tớ chìm đắm trong suy nghĩ về những năm tháng niên thiếu và với sự hồ hởi, sùng bái, tớ hồi tưởng bánh bích-quy tẩm mật và xúc-xích chấm nước mắm. Sau đó tớ đi dọc những năm tháng cuộc đời, dừng lại ở những quả táo tươi và táo ướp, ở bánh rán và xirô phong, ở cháo ngô, ở gà con quay kiểu Vơgini, ở ngô luộc, thịt lợn băm viên và ở bánh khoai lang, và kết thúc bằng món ragu Brunxuych là đỉnh cao của tất cả những thứ ngon lành, vì nó chứa tất cả những thứ ngon lành.
Người ta thường bảo trước mắt người sắp chết đuối hiện ra toàn bộ cuộc đời. Cũng có thể. Vậy thì khi con người ta đói, trước mặt người đói hiện lên bóng ma của tất cả các món ăn anh ta đã nếm trong đời. Và anh ta sáng tạo ra những món ăn mới có thể đem lại vinh quang danh giá cho người đầu bếp.
Giá có ai cất công thu thập những lời trăng trối của những kẻ chết đói thì hẳn sẽ phát hiện thấy trong những lời ấy có ít tình cảm, nhưng được cái dồi dào tư liệu cho một cuốn sách dạy nấu ăn in đến triệu bản bán cũng hết. Nhiều phần chắc là những tư duy bếp núc đã hoàn toàn ru ngủ trí óc tớ. Bất giác tớ thốt lên thành lời với một người hầu bàn tưởng tượng: - Hãy cắt cho dày dày một chút và rán tai tái thôi, sau đó đổ trứng vào - sáu quả nhé. Mâymi quay đầu lại ngay. Đôi mắt nàng sáng lên và nàng mỉm cười rồi nói líu tíu: -
Còn tôi thì ba quả trứng rán vừa chín với khoai tây. Ái chà, được thế thì còn gì bằng, anh Giep nhỉ. Em sẽ gọi thêm món cơm gà rán, món kem… - Nhẹ thôi! - Tớ cắt ngang. - Thế còn bánh gan gà, thận xô-tê, lại cả cừu non rán… - Ôi, - Mâymi ngắt lời tớ, toàn thân run lên, - với nước chấm cay… Cả xalát với thịt gà tây, cả quả ôliu, cả dâu nữa… Cứ như vậy trong suốt mười phút chúng tớ duy trì cuộc đối thoại cao lâu này.
Chúng tớ vòng đi vòng lại trên con đường huyết mạch rồi rẽ vào tất cả các nhánh đường con của đề tài ăn uống, do Mâymi dẫn đường, vì nàng rất có tri thức về các loại danh mục đồ ăn, và những món ăn mà nàng gọi tên càng làm tăng sự thèm khát của tớ. Có cảm tưởng Mâymi đã hoà nhập được với thực phẩm ăn uống và nàng nhìn cái thói háu ăn tội nghiệp ít khinh bỉ hơn so với trước đây. Sáng ra, chúng tớ thấy nước đã rút. Tớ thắng ngựa và cả hai lên đường, lần theo bùn lầy cho tới khi gặp được con đường khi trước. Chúng tớ chỉ đi lạc mất vài dặm và hai tiếng sau đã ở Oclahôma. Vật đầu tiên chúng tớ dõi mắt thấy trong thành phố là tấm biển lớn của một tiệm ăn, thế là chúng tớ phóng ngay tới.
Tớ ngồi vào bàn với Mâymi, giữa chúng tớ là dao, dĩa, đĩa ăn, còn trên gương mặt nàng không phải là sự khinh bỉ, mà là nụ cười, một nụ cười đói và đáng yêu. Tiệm ăn mới bày biện rất khá. Tớ trích đọc cho người phục vụ rất nhiều dòng trong tờ thực đơn, khiến anh ta ngó ra ngoài xe ngựa của tớ, băn khoăn không rõ còn bao nhiêu người nữa sẽ chui ra từ xe vào đây. Chúng tớ ngồi như vậy và người ta bắt đầu bưng các món ra. Đó quả là một bữa tiệc cho mười hai quan khách, vả lại chúng tớ cảm thấy mình cũng đúng là bằng mười hai quan khách. Tớ nhìn qua bàn sang Mâymi và nở nụ cười vì sực nhớ ra một điều. Mâymi nhìn bàn ăn như một cậu bé nhìn chiếc đồng hồ có khoá vặn đầu tiên của mình. Sau đó nàng nhìn thẳng vào mặt tớ, và hai giọt lệ to ứa lên trong mắt nàng.
Người phục vụ đi xuống bếp lấy thêm món ăn bổ sung. - Anh Giep ơi, - Mâymi dịu dàng cất tiếng, - em thực là một con ngốc. Em đã nhìn mọi thứ không đúng. Trước kia em chưa bao giờ phải chịu cảnh này. Đàn ông ngày nào cũng phải chịu cảnh đói, phải không anh? Họ to khoẻ là thế, họ làm công việc nặng nhọc là thế, cho nên họ ăn không phải để trêu tức những cô ả phục vụ ngốc nghếch, phải không anh? Đã có lần anh nói… nghĩa là… anh đã hỏi em… anh muốn… Vậy thì, anh Giep ơi, nếu anh còn muốn… thì em sẽ rất sung sướng… em muốn có anh luôn ngồi đối diện với em bên bàn. Giờ thì hãy cho em ăn thêm một chút gì nữa, mau lên, anh nhé.
Tớ thường ăn hai bữa trưa và cố kéo dài chúng như ăn tiệc trong xã hội thưọng lưu, nơi người ta đổi đĩa, đổi vợ và trao qua đổi lại những câu đùa giữa các lần nuốt. Mâymi chịu đựng tất. Có lẽ nào nàng lại làm ầm ĩ lên và bỏ mất một đôla chỉ vì người ăn không đến theo thời gian biểu đã định. Ít lâu sau lại thêm một cậu chàng nữa tên là Eđ Côliê nảy ra cái thói tọng đồ ăn vào giờ trái khoáy.
Vì có tớ và cậu ta mà giữa bữa ăn sáng với bữa ăn trưa và bữa ăn trưa với bữa ăn chiều đã bắc những cây cầu nối thường xuyên. Qnán ăn biến thành rạp xiếc với ba vũ đài, thành thử Mâymi hoàn toàn không còn thời gian nghỉ ở hậu trường nữa. Thằng cha Côliê đầy những thủ đoạn ma lanh. Hắn làm việc đâu như ở đội khoan giếng hoặc bảo hiểm, có quỷ mới biết được - tớ cũng chả nhớ ở đội nào. Hắn cũng khá về khoa ăn nói và dễ gây được thiện cảm. Tớ với hắn đã tạo ra trong quán một bầu không khí tình tự và thi đua. Mâymi giữ mình trên tầm cao vô tư và phân phối đều sự lịch thiệp đối với cả hai người chúng tớ, giống như chia bài ở câu lạc bộ ấy: một quân bài cho tớ, một quân bài cho Côliê, và một quân bài đặt cái.
Trong ống tay áo không còn một quân bài nào cả. Tất nhiên tớ với Côliê đã làm quen với nhau và thỉnh thoảng còn thù tạc với nhau trong bốn bức tường của lều quán. Không kể những trò khôn ranh, cậu ta gây được ấn tượng tốt và sự đối địch của cậu ta cũng rất ngộ. - Tao thấy mày thích ngồi lì trong phòng tiệc sau khi khách đã tản về hết đấy nhé. - Có một lần tớ nói với Côliê để xem hắn đối đáp như thế nào. - Ừ, - Côliê nói, vẻ tư lự. - Sự ồn ào cảnh chen vai thích cánh làm thần kinh nhạy cảm của tao khó chịu. - Thần kinh tao cũng thế, - tớ nói - À, cô bé cũng kháu đấy chứ nhỉ? - À, thì ra thế, - Côliê bật cười.
- Nếu mày đã nhắc đến điều đó, thì tao xin báo để mày rõ là cô bé gây được ân tượng không phải là khó chịu đối với thần kinh thị giác của tao. - Cô ấy làm tao thích mắt lắm, - tớ nói. - Tao đang tán nó đây. Nói để mày biết. - Tao sẽ rất trung thực, - Côliê nói. - Nếu như ở các hiệu thuốc có bán đủ dịch vị, tao sẽ cho mày một chầu cho mày tha hồ bị bội thực để đạt được cái đích mới thôi. Thế là bắt đầu cuộc đua nước rút của chúng tớ. Quán ăn cung ứng liên tục.
Mâymi phục vụ chúng tớ, vui vẻ, dễ thương và lịch sự. Thần ái tình và người nấu bếp ở quán Điugân làm việc cật lực. Một ngày tháng chín tớ đã rủ Mâymi đi chơi với tớ sau bữa ăn tối, khi cô ấy dọn dẹp xong. Chúng tớ đi dạo một tí rồi ngồi lên những khúc gỗ ở khu vực cuối thành phố. Dịp may như thế chắc còn lâu mới có, nên tớ đã thổ lộ hết những gì mình muốn nói. Rằng kim cương Braxin và đồ nhóm lửa đã được cấp bằng phát minh là nguồn thu nhập của tớ, đủ để đảm bảo ấm no cho cả hai, rằng cả hai thứ ấy dù sao cũng không thể cạnh tranh được với ánh mắt của một nàng, rằng họ Điugân cần phải đổi sang họ Pitơx, nếu không đổi thì xin giải thích lí do. Thoạt đầu Mâymi chẳng nói gì cả.
Sau đó bỗng nàng rùng rùng toàn thân. Thế là tớ nghe được những điều bổ ích. Nàng nói: - Anh Giep ạ, em rất tiếc là anh đã nói ra. Em cũng mến anh, em mến anh nhiều mặt, nhưng trên đời này sẽ chẳng có người đàn ông nào em lấy làm chồng đâu và sẽ chẳng bao giờ có cả. Anh có biết trong con mắt em, đàn ông là cái thứ gì không? Đó là nấm mồ, là nấm mồ để chôn bít-tết, thịt lợn kho, gan xào, trứng tráng với giăm-bông. Trong tâm khảm em đã in đậm hình ảnh của họ như thế. Em đã thử chống lại cảm giác ấy, những không tài nào chống được.
Nghe nói các cô gái khen hết lời chồng chưa cưới của mình, em không hiểu nổi. Đàn ông, cái cối xay thịt và chạn đựng thức ăn đều gây ra ở em những cảm giác giống nhau. Có lần em đi xem kịch, nhìn thấy một diễn viên mà các cô gái đều chết mê chết mệt. Em ngồi xem mà nghĩ bụng, không hiểu anh ta thích loại bít-tết nào - còn tái, chín vừa hay đã rán già và loại trứng nào - còn lòng đỏ nhùng nhùng hay đã luộc nhừ, chỉ có bấy nhiêu thôi. Không, anh Giep ạ. Em sẽ không bao giờ lấy chồng. Để mà toàn trông thấy anh ta sáng đến ngồi ăn, đến trưa lại quay về ăn, rồi cuối cùng lại vác mặt về ăn tối, chỉ ăn, ăn, ăn ấy à…
- Nhưng mà, Mâymi này, - tớ bảo, - cái đó rồi sẽ qua. Tại em đã làm công việc này nhiều quá đấy thôi. Nhất định rồi em sẽ lấy chồng. Đàn ông không phải bao giờ cũng chỉ ăn. - Còn em thì lúc nào cũng quan sát thấy họ ăn. Không, em sẽ nói cho anh biết em sẽ làm gì. - Mâymi bỗng tràn đầy cảm hứng, đôi mắt nàng sáng lên. - Ở Têri Hot có một cô gái tên là Xiudi Phoxtơ, bạn gái em. Cô bạn ấy làm ở quán điểm tâm ngay nhà ga. Em cũng đã làm hai năm ở tiệm ăn chỗ ấy. Xiudi còn kinh tởm đàn ông hơn, bởi vì những người đàn ông ra ga ăn bao giờ cũng vội cuống vội cuồng. Họ vừa tán tỉnh vừa nhồm nhoàm nhai cùng một lúc.
Khiếp! Em với Xiudi đã quyết rồi. Chúng em sẽ dành dụm tiền, khi nào đủ sẽ tậu một ngôi nhà nhỏ và năm acrơ (2) đất. Chúng em đã để ý đến một khoảnh đất. Chúng em sẽ sống với nhau và sẽ trồng hoa viôla. Em khuyên người đàn ông nào phàm ăn tục uống đừng nên đến gần trang trại của chúng em dưới một dặm. - Ồ, thế chả lẽ các cô gái không bao giờ… - tớ cất tiếng. Nhưng Mâymi đã dứt khoát cắt ngang. - Không, không bao giờ. Họ chỉ nhấm nháp gọi là đôi chút thôi. - Anh thì cho rằng kẹo…
- Lạy trời, anh hãy nói sang chuyện khác đi, - Mâymi đáp. Như tớ đã nói, kinh nghiệm này đã chứng minh cho tớ rằng bản tính đàn bà đời đời hướng tới những ảo ảnh và ảo tưởng. Hãy lấy nước Anh mà xem - bít-tết đã tạo nên nó, nước Đức thì do xúc-xích đẻ ra, còn chú Sam hùng mạnh như ngày nay là nhờ bánh rán và gà rán. Nhưng các cô thiếu nữ có tin điều ấy đâu. Họ cho rằng tất cả là do Sếchxpia, Rubinxtên và đội khinh kị binh của Thêơđo Rudơven làm nên. Tình thế của tớ thì ai mà chẳng nản lòng. Không thể có chuyện cắt đứt Mâymi được.
Thế nhưng cứ nghĩ đến việc phải từ bỏ thói quen ăn uống xưa nay thì tớ lại buồn nẫu ruột. Tớ đã nhiễm phải cái tật ấy từ sớm quá. Hai mươi bảy tuổi đời mà tớ đã mù quáng lao đầu vào thảm hoạ và ngả theo tiếng gọi mê hoặc của con quái vật khủng khiếp là thực phẩm. Thay đổi muộn quá rồi. Tớ đã trở thành loại nhai lại hai chân hết phương cứu vãn. Có thể đánh cuộc bằng món tôm hùm với món bánh rán, cuộc đời tớ thế là đi đứt vì cái thói ấy. Tớ tiếp tục ăn ở quán Điugân, hi vọng Mâymi rủ lòng thương. Tớ tin vào tình yêu chân chính và nghĩ rằng nếu nó thường đã phải chống chọi lại với sự vắng mặt của một bữa ăn thịnh soạn thì biết đâu, nó sẽ biết chống chọi lại với sự có mặt của chính bữa ăn ấy.
Tớ vẫn tiếp tục chịu sự điều khiển của tật xấu tai hại, nhưng mỗi lần tớ bỏ một miếng khoai tây vào mồm trước mặt Mâymi là tớ cảm thấy có lẽ mình đang chôn vùi những hi vọng ngọt ngào nhất của bản thân. Côliê hình như cũng ngỏ lời với Mâymi và cũng nhận được câu trả lời tương tự. Ít ra thì có một hôm hắn chỉ gọi một tách cà phê và một mẩu bánh lương khô rồi ngồi nhấm nháp miếng bánh hệt như một tiểu thư khuê các trước đó đã nếm thịt bò xào bắp cải dưới bếp.
Tớ liền bắt chước và cũng chỉ gọi cà phê và bánh lương khô. Kể cũng láu cá đấy chứ hả? Ngày hôm sau, hai đứa lại lặp lại như thế. Ông già Điugân từ bếp lên bưng cái món đài các của chúng tớ. - Các cậu mắc chứng ăn không ngon hả? - Bác ấy hỏi với giọng của người cha, tuy không phải không có sự châm biếm. - Tôi đã đổi con Mâymi xuống bếp rồi, cho nó nghỉ ít lâu. Phục vụ bàn này cũng không vất vả, không ảnh hưởng lắm đến bệnh thấp khớp của tôi. Tớ với Côliê đành phải quay trở lại với những thứ thực phẩm nặng dạ dày.
Lúc ấy tớ bỗng phát hiện ra mình ăn ngon miệng kinh khủng, đúng là “ngồi ăn núi lở”. Tớ ăn đến nỗi nếu có bước qua ngưỡng cửa vào gặp Mâymi lúc ấy thì nàng sẽ căm ghét tớ lắm. Sau đó tớ phát hiện ra mình đã trở thành nạn nhân của một mánh khoé đầy báng bổ và đê tiện mà Eđ Côliê đã rắp ranh bẫy tớ. Tớ với hắn ngày nào cũng đi uống lai rai trong thành phố để làm dịu bớt cơn đói. Cái thằng xỏ lá ấy đã mua chuộc gần chục gã phục vụ, thế là những gã này đã rót vào từng cốc rượu uytxki của tớ một lượng đáng kể thứ chất cay làm từ táo kích thích sự ngon miệng do hãng Anacôn sản xuất. Nhưng còn trò bịp cuối cùng mà hắn định chơi tớ, còn khó quên hơn nhiều. Một hôm không thấy Côliê ló mặt đến quán nữa. Một người quen chung có nói rằng buổi sáng hắn đã rời bỏ thành phố. Như vậy là kẻ thù duy nhất của tớ chỉ là tấm bảng món ăn. Vài ngày trước khi đi biệt tăm,
Côliê đã tặng tớ hai chai uytxki hảo hạng, tuồng như là của người anh họ ở Kentơcki gửi cho hắn. Bây giờ tớ có cơ sở để nghĩ rằng thứ uytxki ấy hầu như chứa toàn món chất cay Anacôn là từ táo kích thích sự ngon miệng. Tớ vẫn tiếp tục ngốn hàng tấn thực phẩm. Trong con mắt Mâymi, hơn bao giờ hết, tớ vẫn là loài hai chân chuyên nhai lại. Khoảng một tuần sau khi Côliê mất hút, có một đoàn triển lãm trưng bày của lạ đến thành phố và ở trong một lều bạt gần đường sắt. Một buổi chiều tớ ghé vào chỗ Mâymi, thì bà mẹ nàng bảo với tớ rằng Mâymi cùng đứa em trai là Tômat đã đi xem triển lãm rồi. Việc này lặp đi lặp lại tuần ba lần. Chiều thứ bảy tớ lại bắt gặp Mâymi đi xem triển lãm về.
Tớ bèn rủ nàng ngồi lại một lát. Nàng đã thay đổi hẳn. Đôi mắt dịu dàng hơn và long lanh sáng. Thay vì một Mâymi Điugân chỉ chực trốn chạy khỏi tính tham ăn của giới đàn ông, đi chăm sóc hoa viôla, trước mặt tớ là một Mâymi đáp ứng được với dự liệu của Chúa trời và cực kì thích hợp với việc sưởi lòng trong ánh kim cương Braxin và những đồ nhóm lửa đã được cấp bằng phát minh. - Chắc là em đang bị lôi cuốn rất nhiều vì cái triển lãm chưa từng có về các sinh vật kì diệu và lạ mắt? - Tớ hỏi. - Dù sao cũng giải trí được ạ. - Mâymi đáp. - Rồi em sẽ phải đi tìm sự giải trí để thoát khỏi sự giải trí ấy, nếu ngày nào em cũng đi xem. - Đừng nổi nóng lên thế, anh Giep! Chẳng qua em chỉ muốn bứt khỏi những ý nghĩ về bếp núc. - Những sinh vật kì diệu ấy không ăn à? - Không phải tất cả. Một số bằng sáp. - Đừng có dính vào đấy là được. -
Tớ nói nặng tuy không có ẩn ý gì, chẳng qua quen mồm mà thôi. Mâymi đỏ mặt. Tớ chẳng hiểu ra làm sao nữa. Trong lòng tớ bừng lên một hi vọng là bằng sự chung thuỷ của mình tớ sẽ làm nhẹ bớt tội ác khủng khiếp của cánh đàn ông là công nhiên nhồi nhét thực phẩm vào cơ thể. Mâymi loáng thoáng nói đến các vì sao, trong những ngôn từ lịch sự nhất. Tớ cũng hứng chí tán về sự kết giao của những con tim, về tổ ấm gia đình sưởi bằng tình yêu chân chính và những đồ nhóm lửa đã được cấp bằng phát minh. Mâymi lắng nghe không nhăn mặt, thế là tớ đã bụng bảo dạ “Chú mày đã làm nhẹ được sự căm ghét trùm lên những kẻ phàm ăn tục uống rồi đấy! Chú mày đã giẫm được lên đầu con rắn ẩn trong lọ nước chấm rồi đấy!”.
Chiều thứ hai tớ lại mò đến Mâymi. Nàng với cậu em trai lại đi xem triển lãm các vật kì diệu mất rồi. “Lạy trời cho bốn mươi lăm hà bá quơ cái triển lãm ấy đi cho rồi! - Tớ rủa. - Tròi đánh thánh vật đời đời cái triển lãm ấy! Amen! Ngày mai ta phải đích thân đến đấy xem có cái chết tiệt gì mà hấp dẫn thế.
Chả lẽ một con người được tạo hoá sinh ra để thừa kế đất đai, lại có thể bị mất người yêu thoạt đầu vì thìa dĩa, rồi sau đó vì một cái triển lãm mà vé vào cửa chỉ có mười xu?” Chiều hôm sau, trước khi đi xem triển lãm, tớ tạt vào nhà Mâymi và được biết nàng không có nhà. Lần này nàng không đi với Tômat, vì cậu này đã đón tớ ngay trên bãi cỏ trước lều quán để gạ tớ. - Anh Giep, anh sẽ cho em gì nào, nếu em nói chuyện này cho anh nghe? - Cái gì đáng giá thì anh sẽ cho. - Chị Mâymi phải lòng kì quan ở triển lãm rồi. Em chẳng thấy thích.
Nhưng chị ấy lại thích. Em đã nghe lỏm được họ nói chuyện với nhau. Em nghĩ chắc anh thích nghe. Anh Giep này, hai đôla đối với anh có nhiều quá không? Ở trong thành phố có bán một khẩu súng, em muốn… Tớ lục túi và đổ vào mũ cho Tômat một đồng xu bạc. Tin Tômat báo như dao đâm vào tớ, khiến ý nghĩ của tớ chao đảo mất một lúc. Rót tiền lẻ cho Tômat, tớ mỉm cười một cách ngớ ngẩn, mà trong lòng tan nát.
Tớ nói giọng nửa ngố nửa pha trò. - Cảm ơn Tômat… cảm ơn… em nói cái kì quan… ấy à? Nó có gì đặc biệt, cái của quái dị ấy, hả Tômat? - Đây này, - Tômat vừa nói vừa lôi từ trong túi ra tờ chương trình bằng giấy vàng khè và dúi vào mũi tớ. - Anh ta là vô địch thế giới về nhịn đói. Chắc là vì thế mà chị Mâymi cứ bám lấy anh ta. Anh ta không ăn gì cả. Anh ta sẽ nhịn đói bốn mươi chín ngày. Hôm nay là ngày thứ sáu… Anh ta đây này. Tớ nhìn dòng chữ mà ngón tay Tômat chỉ vào: “Giáo sư Eđuacđô Côliêri”. - À! - Tớ thốt lên thán phục. - Giỏi thật, Eđ Côliê.
Xin chịu ông cái khoản nhanh trí. Nhưng tôi không nhường cô gái cho ông đâu, hiện tại nàng chưa phải là kì quan phu nhân. Tớ rảo bước đến ngay triển lãm. Khi tớ tiến vào lối cửa sau thì có một người nào đó thò đầu ra như con rắn, đứng thẳng chân lên và lao thẳng đến tớ như chú ngựa muxtang. Tớ tóm ngay cổ người đó và quan sát kĩ dưới ánh sao. Đó là giáo sư Eđuacđô Côliêri mặc quần áo của giống người, với nỗi tức giận trong một con mắt và sự sốt ruột trong con mắt kia. - Hêlô, kì vậy! - Tớ nói. - Đợi một chút nhé, để tao ngắm mày cái nào. Chà chà, làm kì quan của thế kỉ chúng ta, hoặc là của lạ từ đảo Boocnêô thích thật! Thế trong chương trình người ta tôn xưng cho mày cái tên gì? - Giep Pitơx này, -
Côliê nói khe khẽ. - Thả tao ra, không thì tao nện mày bây giờ. Tao đang vội chết đi được đấy. Bỏ tay ra! - Nhẹ nhàng nào, nhẹ nhàng nào, Eđi, - tớ nói, tay vẫn giữ chặt cổ áo anh chàng. - Cho phép một người bạn cũ chiêm ngưỡng mày cho thoả đã. Mày bày ra trò này phải nói là đại bợm đấy, con ạ, nhưng chớ có to mồm về chuyện đấm nhau: mày không thích hợp với việc ấy đâu. Cái tối đa mà mày có bây giờ - đó là sự táo tợn kha khá với cái dạ dày rỗng. Tớ đoán không nhầm, hắn yếu như sên. Hắn lên tiếng: - Giep ơi, tao sẵn sàng tranh cãi với mày về chủ đề này bao nhiêu hiệp cũng được, chỉ cần tao có nửa tiếng luyện tập và một thỏi bít-tết diện tích hai bộ vuông để luyện.
Tổ sư đứa nào sáng tạo ra nghệ thuật nhịn ăn! Hãy xích nó lại đời đời cách cái giếng không đáy chứa toàn bít-tết nóng sốt chỉ hai bước chân! Tao bỏ cuộc đấu đây, Giep ạ. Tao đào ngũ đây. Mày sẽ tìm thấy nàng Điugân trong lều: nàng đang ngắm một xác ướp sống và một con lợn bác học ở đấy. Nàng thật là một cô gái kì diệu, Giep ạ. Lẽ ra tao đã thắng trong cái trò này, nếu như chịu được trạng thái không ăn uống thêm một thời gian nữa. Mày phải thừa nhận rằng đường đi nước bước của tao trong trò tuyệt thực này đã được suy tính để hoàn toàn có khả năng thành công.
Tao đã tưởng như thế. Người ta bảo tình yêu lay chuyển cả núi non. Cứ tin tao đi, đấy chỉ là lời đồn sai lệch… Không phải tình yêu, mà là hồi chuông gọi đi ăn buộc núi non phải rung chuyển. Tao yêu Mâymi Điugân. Tao đã trải qua sáu ngày nhịn ăn để chiếm được tình cảm của nàng. Suốt thời gian này tao chỉ có một lần xơi một miếng, đó là lúc tao đẩy cái thằng xăm đầy mình và giật của nó miếng bánh xanđuych để ăn.
Ông chủ cúp sạch lương của tao. Nhưng tao đến đây không phải vì mấy đồng lương, mà là vì cô gái ấy. Vì nàng tao có thể hiến dâng cuộc đời, còn vì miếng thịt lợn rán tao sẽ hiến dâng tâm hồn bất tử của mình. Đó là một cực hình, Giep ạ. Cả tình yêu, cả sự nghiệp, cả gia đình, cả tôn giáo, cả nghệ thuật, cả tinh thần yêu nước đều chỉ là những lời nói suông trống rỗng, khi con người ta đói. Eđ Côliê tâm sự với tớ bằng giọng lâm li. Chẩn đoán bệnh rất dễ: những đòi hỏi của trái tim cậu ta và những đòi hỏi của dạ dày đang xung đột với nhau, và phái hậu cần đã thắng. Quả thực, tớ luôn thấy mến Côliê. Tớ lục tìm một câu an ủi nào đó, nhưng chẳng tìm thấy câu nào thích hợp cả. Côliê nói tiếp: -
Bây giờ mày hãy thương tao mà để cho tao đi. Số phận đã giáng cho tao một đòn nên thân, nhưng bây giờ tao sẽ giáng cho đồ ăn thức uống một đòn mạnh hơn. Tao sẽ khua sạch tất cả các tiệm ăn trong thành phố. Tao sẽ ngâm mình ngập đến thắt lưng trong món thịt philê và sẽ tắm trong trứng tráng với giăm-bông. Thật kinh khủng khi một người đàn ông phải đến nước từ bỏ một cô gái chỉ vì cái ăn. Thật còn tệ hơn cái anh chàng tên gì nhỉ? Ixav, kẻ đã bỏ cả bản quyền tác giả vì một con lôi. Đói là một điều khủng khiếp. Xin lỗi mày nhé, tao đang ngửi thấy mùi giăm-bông rán ở phía xa xa, nên đôi chân tao đang thúc giục tao băng về hướng đó. - Chúc mày ăn ngon miệng, Côliê ạ. -
Tớ nói - Nhưng đừng có giận tao nhé. Trời sinh ra tao cũng là một đứa phàm ăn nên tao thông cảm với nỗi đau khổ của mày. Đúng vào phút ấy mùi giăm-bông rán đã bay đến trên đôi cánh của gió trời. Nhà quán quân nhịn ăn chép miệng rồi phi nước đại về phía có mồi ăn. Tiếc rằng các vị văn hoá xưa nay vẫn quảng cáo về ảnh hưởng thần diệu của tình yêu và lãng mạn không nhìn thấy cảnh này! Thì đây, Eđ Côliê, một con người tinh tế, đầy khôn ngoan mưu mẹo. Vậy mà cậu ta đã bỏ một cô gái, đang làm chúa tể trái tim cậu ta và nhảy sang địa hạt của dạ dày trong cuộc truy tìm cái ăn hèn kém. Đó là cái tát đối với các thi sĩ, là sự nhạo báng chủ đề câu khách nhất của văn chương.
Cái dạ dày rỗng là đối trọng tốt nhất đối với một con tim tràn trề tình cảm. Tất nhiên tớ hết sức quan tâm đến việc Mâymi mù quáng tin vào mánh khoé của Côliê đến mức nào. Tớ bước vào trong lều, nơi tổ chức cái triển lãm có một không hai đó, thấy Mâymi ở đó. Dường như nàng ngạc nhiên, nhưng không để lộ sự lúng túng. - Hôm nay ngoài phố thật là một buổi tối tuyệt vời. - Tớ lên tiếng. - Mát mẻ dễ chịu làm sao, còn tất cả các vì sao thì đứng sóng hàng theo một trật tự tuyệt vời. Em có muốn nhổ toẹt vào những sản phẩm phụ của cái vương quốc loài vật này để đi dạo với một con người bình thường chưa có tên trong chương trình được không? Mâymi e dè né sáng một bên, và tớ hiểu điều đó có nghĩa là gì. Tớ bèn nói: -
Ôi, anh nói điều này ra với em quả là không dễ chịu, nhưng cái vật kì diệu chỉ nuốt không khí mà sống của em đã chuồn rồi. Hắn vừa mớibò ra khỏi lều bằng lối cửa sau. Bây giờ hắn đã hoà nhập làm một với cái phần háu ăn của nhân loại ở trong thành phố. - Anh một số chỉ anh Eđ Côliê phải không? - Mâymi hỏi. - Đúng thế. Nhưng điều đáng buồn nhất là hắn lại bước lên con đường tội lỗi. Anh đã gặp hắn ngoài lều, và hắn đã tuyên bố với anh về ý định tiêu diệt số thực phẩm dự trữ của thế giới. Buồn không thể tả được, khi thần tượng của em đã bước khỏi bục danh dự để biến thành một con châu chấu đi tìm cái ăn. Mâymi nhìn thẳng vào mắt tớ không rời cho đến khi làm tắc tị những ý nghĩ của tớ. -
Anh Giep, nói những điều ấy thật không giống với con người anh chút nào. Anh đừng có đem anh Eđ Côliê ra làm trò cười. Một con người có thể làm những điều buồn cười, nhưng không vì thế mà anh ta trở nên buồn cười trong đôi mắt của cô gái bởi lẽ vì cô, anh ta làm những điều buồn cười ấy. Những người như Eđ ít khi gặp được lắm. Anh ấy từ bỏ ăn uống chỉ cốt làm vừa lòng em. Em thật tàn nhẫn và bội bạc, nếu như sau việc này lại đối xử không tốt đối với anh ấy. Còn anh, anh có gan làm những việc hi sinh như thế không? - Anh biết, - tớ nói, sau khi hiểu nàng ngả về hướng nào. - Anh đã có phốt rồi. Anh chẳng thế làm gì được nữa. Vết chàm của kẻ phàm ăn đã đóng lên trán anh. Bà Eva đã định trước điều này khi nghe lời con rắn (3). Thật là tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa. Hiển nhiên anh là nhà vô địch thế giới về ăn.
Tớ nói với giọng cam phận, nên Mâymi cũng mềm lòng chút ít. - Quan hệ của em với anh Eđ Côliê rất tốt, - nàng nói, - cũng như với anh thôi. Em cũng đã trả lời anh ấy như trả lời anh: đối với em, không có chuyện hôn nhân đâu. Em chỉ thích gặp gỡ, chuyện phiếm với anh ấy. Em cảm thấy dễ chịu vô cùng mỗi khi nghĩ rằng có một người không bao giờ sờ đến dao và dĩa chỉ vì em. - Thế em không yêu anh ta à? - Tớ hỏi hết sức không đúng chỗ. - Em không có tí ý định nào muốn trở thành kì quan phu nhân à? Điều này với ai chả có thể xảy ra.
Tất cả chúng ta đôi khi đều vượt quá phạm vi những lời nói có suy nghĩ thấu đáo. Mâymi khoác lên mặt một nụ cười mát mẻ, trong đó có bao nhiêu đường thì cũng có bấy nhiêu băng và nói bằng giọng hết sức lịch sự. - Anh Pitơx, anh không có quyền đặt cho em những câu hỏi như vậy. Trước tiên anh hãy nhịn ăn bốn mươi chín ngày để giành được cái quyền ấy đã, rồi sau có thể em mới trả lời anh. Vậy là, ngay cả khi Côliê, bằng sự thèm ăn của mình, không còn ngáng trở tớ nữa, thì triển vọng quan hệ riêng của tớ với Mâymi cũng không khá lên.
Rồi công việc ở Gatơri cũng chẳng ra làm sao cả. Tớ đã ở đó quá lâu. Kim cương Braxin mà tớ bán đã dần dần kém đi, còn đồ nhóm lửa thì dứt khoát không chịu cháy những khi trời ẩm. Trong công việc của tớ bao giờ cũng có cái giây phút mà ngôi sao may mắn bảo tớ: “Hãy chuyển sang thành phố lân cận”. Hồi đó tớ du ngoạn trên chiếc xe ngựa có mui để khỏi bỏ sót các thị trấn nhỏ, thế là sau đó mấy hôm tớ thắng ngựa và đánh xe đến chào Mâymi.
Tớ chưa bỏ cuộc đâu. Tớ chỉ định đến Oclahôma Xity có công chuyện độ một hai tuần, sau đó sẽ trở về và tiếp tục mở các cuộc tấn công Mâymi. Các bạn có thể hình dung được không, - tớ đến nhà Điugân thì thấy Mâymi ở đó, kiều diễm trong bộ áo dài xanh, và ở cửa có cái hòm của nàng. Hoá ra là cô bạn của nàng tên là Lôtti Ben làm nghề đánh máy ở Têri Hot, thứ năm tới sẽ đi lấy chồng và Mâymi sẽ đi một tuần để tham dự lễ cưới ấy. Mâymi đang mong một xe hàng chở nàng đến Oclahôma.
Tớ khinh bỉ nhìn chiếc xe rồi xung phong nhận chở hàng. Bà mẹ Điugân thấy chẳng tội gì phải từ chối cả, - vì chở hàng xưa nay vẫn phải mất tiền mà lại, - nên nửa tiếng sau tớ đã cùng Mâymi ngồi trên chiếc xe có bộ díp nhẹ và nhắm hướng phía nam lên đường. Buổi sáng hôm ấy thật đáng khen hết chỗ nói. Làn gió nhẹ thổi hây hây, cây cỏ hoa lá toả hương, những chú thỏ con vểnh đuôi chạy qua đường cho thêm phần vui nhộn.
Cặp ngựa hồng Kentớcky của tớ hướng thẳng về phía đường chân trời; đến nỗi chói hoa cả mắt, khiến lắm lúc tớ phải quay mặt. Không nhìn đường chân trời căng tựa dây phơi quần áo, Mâymi phấn khởi ra mặt, nàng bô lô ba la như trẻ con, nào chuyện về ngôi nhà cũ, nào những trò nghịch ngợm thời đi học, nào những thứ nàng yêu thích, nào những cô ả đáng ghét nhà Giônxơn ở ngay phía đối diện, nơi quê hương nàng, bang Inđiana.
Nhưng tịnh không một lời nào về Eđ Côliê, về ăn uống và những đề tài khó chịu đại loại như vậy. Khoảng gần trưa thì Mâymi mới phát hiện ra giỏ đồ ăn mà nàng định mang theo, đã nằm lại ở nhà. Tớ không phản đối chuyện lót dạ tí ti, nhưng Mâymi không tỏ ra một chút khó chịu nào về chuyện nàng chẳng có cái ăn, nên tớ cũng nín lặng.
Đây chính là điểm chốt của vấn đề, nên tớ tránh nói động đến bất cứ đồ ăn dưới bất cứ dạng gì. Tớ xin rọi chút ánh sáng vào sự việc tớ bị lạc đường trong hoàn cảnh nào. Đường không rõ ràng, bị cỏ che lấp nhiều, mà bên cạnh tớ là Mâymi, người đã thâu tóm hết tâm trí và sự khôn ngoan của tớ. Điều này có thể biện hộ được hay không thì tuỳ các bạn xem xét.
Chỉ có điều là tớ bị lạc đường, và trong cảnh chạng vạng, đáng lẽ phải ở Oclahôma rồi, thì chúng tớ lại luẩn quẩn trên địa giới nào đó, trong lòng khô của một con sông còn chưa khai thông, mà mưa đang quất vào người. Ở một bên, giữa đầm, chúng tớ nhìn thấy một căn nhà gỗ trên gò khô. Xung quanh cỏ mọc cùng những loài cây hiếm. Ngôi nhà nhuốm vẻ buồn bã gợi thương cảm.
Theo sự đồ chừng của tớ thì hai đứa chúng tớ phải náu mình qua đêm ở đó. Tớ giảng giải cho Mâymi nghe, và nàng dành quyền quyết định cho tớ. Nàng không tỏ ra nôn nao lo lắng, và không làm mình làm mẩy ra dáng khổ ải như đa số những người phụ nữ khác nếu ở vào địa vị ấy, mà chỉ nói: “Thôi được”.
Nàng biết rằng nào ai muốn cơ sự này. Ngôi nhà không có người ở. Trong đó có hai phòng trống. Ngoài sân có một nhà kho nhỏ ngảy xưa vẫn nhốt súc vật. Trên gác xép còn ít cỏ khô từ năm ngoái. Tớ dẫn ngựa vào gian nhà kho cho chúng ăn một ít cỏ khô. Lũ ngựa nhìn tớ bằng cặp mắt buồn bã, dường như chờ đợi sự xin lỗi. Chỗ cỏ khô còn lại thì tớ ôm thành từng bó vào nhà làm nơi ngả lưng.
Tớ cũng mang kim cương Braxin và đồ nhóm lửa, vì cả hai thứ ấy không thể chống chọi được tác dụng phá hoại của nước. Tớ với Mâymi ngự toạ trên sàn, trên nệm gối lấy từ trên xe xuống. Tớ dùng cả đống đồ nhóm lửa, vì đêm ấy trời lạnh. Nếu tớ phán đoán đúng thì toàn bộ sự việc trên khiến Mâymi lấy làm thích thú. Đối với nàng, đó là một cái gì đó mới lạ, một vị trí mới từ đó mà nhìn cuộc đời. Nàng cười nói huyên thuyên, và đồ nhóm lửa của tớ cháy không sáng rực bằng đôi mắt nàng.
Tớ có mang theo bên người bao thuốc lá, nên về phần mình, tớ cảm thấy tớ như chàng Ađam trước khi mắc tội. Cả hai chúng tớ đúng là đang ở trong vườn Địa Đàng xưa tốt đẹp. Đâu đó trong đêm tối là con sông Xiôn chảy dưới mưa, và vị thiên thần cầm thanh kiếm lửa còn chưa treo tấm biển “Cấm đi trên cỏ”. Tớ mở hộp ra lấy cho Mâymi đeo lên người nào nhẫn, nào vòng, nào dây chuyền, hoa tai, thắt lưng và khánh hình trái tim. Nàng lấp la lấp lánh như một nàng công chúa triệu phú cho mãi đến khi má rực hồng và nàng đòi có gương đến suýt phát khóc. Đêm đến, tớ sửa soạn cho Mâymi một chiếc giường tuyệt vời trên sàn bằng cỏ khô, áo khoác của tớ và chăn từ xe đem xuống, rồi khuyên nàng ngả lưng.
Còn tớ thì ngồi ở căn phòng khác hút thuốc, lắng nghe mưa rơi và nghĩ đến chuyện biết bao sự khó nhọc đổ xuống đầu con người ta khoảng bảy chục năm trước khi anh ta được mai táng. Gần sáng có lẽ tớ hơi thiếp đi, bởi vì mắt tớ đã nhắm tít lại, mà khi mở ra thì trời đã sáng và trước mặt tớ là Mâymi, đầu tóc gọn gàng, sạch sẽ, quần áo tươm tất, với đôi mắt sáng lên niềm vui cuộc đời. - Hêlô Giep, - nàng thốt lên. - Em thấy đói rồi đấy! Giá em được ăn…
Tớ chăm chú nhìn nàng. Nụ cười biến khỏi khuôn mặt nàng và nàng ném vào tớ cái nhìn đầy khinh thị lạnh lùng. Thế là tớ bật cười và lại nằm lăn ra đất cho dễ chịu hơn. Tớ thấy vui nhộn kinh khủng. Về bản tính và gien di truyền thì xưa nay tớ là thằng hay cười thượng hạng, nhưng lúc này tớ cười ngất, vượt xa mức thường. Khi tớ đã cười chán chê, Mâymi ngồi quay lưng lại phía tớ và toàn thân chứa đầy cảm giác tự tôn. - Đừng giận, Mâymi, - tớ lên tiếng. - Anh không thể nào nhịn cười được. Em chải đầu buồn cười quá. Giá như em được trông thấy… - Đừng có kể chuyện cổ tích ở đây, - Mâymi nói giọng lạnh lùng và quyền uy. -
Tóc em đâu vào đấy chỉnh tề cả. Em biết anh cười cái gì rồi. Nhìn này, anh Giep, - nàng vừa nói vừa ghé nhìn qua kẽ hở giữa các súc gỗ căn nhà ra ngoài trời. Tớ mở ô cửa sổ nhỏ bằng gỗ và nhìn ra. Toàn bộ con sông đã chìm cả dưới nước và cái gò mà trên đó có ngôi nhà chúng tớ đang ở, đã biến thành hòn đảo, vây quanh là dòng nước lũ vàng điên cuồng rộng tới một trăm yat. Mưa vẫn trút xuống.
Chúng tớ chỉ còn cách ngồi đây đợi một chú chim bồ câu đem cành ôliu tới. Phải công nhận rằng trò chuyện và giải trí ngày hôm đó mang rặt một vẻ ảm đạm. Tớ ý thức được rằng Mâymi lại chuốc cho mình cái nhìn hết sức một chiều đối với sự vật, nhưng tớ không đủ sức thay đổi cái nhìn ấy. Bản thân tớ thì rạo rực một mong muốn được ăn. Những ảo ảnh thịt băm và những giấc mộng giăm-bông không buông tha tớ và lúc nào tớ cũng nghĩ thầm: “Nào, bây giờ mi sẽ đánh chén cái gì đây, hả Giep? Mi sẽ gọi món gì đây khi người phục vụ đi đến?”. Tớ chọn cho mình những món ăn ưa thích nhất trong thực đơn và hình dung ra cái giây phút chúng được đặt lên bàn trước mặt tớ.
Có lẽ điều này xảy đến với tất cả những ai đói cồn đói cào. Họ không thể tập trung ý nghĩ vào cái gì khác ngoài cái ăn. Hoá ra, cái chủ yếu nhất không phải là sự bất tử của tâm hồn, cũng không phải là hoà bình thế giới, mà là một cái bàn ăn xinh xắn với cái bát ăn, nước chấm giả kiểu Uxtơ và chiếc khăn ăn để lau những vết cà phê trên khăn trải bàn. Tớ ngồi bần thần nhai đi nhai lại, than ôi, chỉ những ý nghĩ của mình và tranh luận kịch liệt với chính bản thân mình về việc tớ sẽ ăn loại bít-tết nào - với nấm hương hay là theo kiểu con cháu những người Âu sang châu Mỹ vẫn ăn. Mâymi ngồi đối diện vẻ trầm ngâm, đầu tì xuống cánh tay. “Khoai tây thì cứ rán theo kiểu quê, - tớ nhủ thầm, - còn bánh cuốn thì cứ tráng lên chảo. Cũng trên cái chảo ấy sẽ rán chín quả trứng”.
Tớ lục kĩ các túi xem vô tình có còn sót lại củ lạc hay vài hạt ngô nào không? Sang đến buổi chiều thứ hai, dòng sông càng dâng cao, mưa vẫn đổ xuống. Tớ nhìn sang Mâymi và bắt gặp trên mặt nàng nỗi buồn vẫn thường hiện lên trên mặt các cô gái khi đi ngang qua quầy bán kem. Tớ biết rằng cô nàng tội nghiệp của tớ đang đói, có lẽ lần đầu tiên trong đời. Nàng có cái nhìn ưu tư thường gặp ở phụ nữ khi đi ăn trưa hơi muộn hoặc khi cảm thấy đằng sau váy bị tuột cúc. Có lẽ đã đến mười một giờ rồi.
Chúng tớ ngồi trong gian nhà xơ xác, mặt lầm lì và lặng im thin thít. Tớ cố xua đuổi khỏi đầu những hình ảnh ăn uống, nhưng chúng cứ trôi dạt về đúng chỗ cũ trước khi tớ kịp xích chúng vào chỗ khác. Tớ nghĩ đến tất cả những món cao lương mĩ vị đã từng được nghe kể. Tớ chìm đắm trong suy nghĩ về những năm tháng niên thiếu và với sự hồ hởi, sùng bái, tớ hồi tưởng bánh bích-quy tẩm mật và xúc-xích chấm nước mắm. Sau đó tớ đi dọc những năm tháng cuộc đời, dừng lại ở những quả táo tươi và táo ướp, ở bánh rán và xirô phong, ở cháo ngô, ở gà con quay kiểu Vơgini, ở ngô luộc, thịt lợn băm viên và ở bánh khoai lang, và kết thúc bằng món ragu Brunxuych là đỉnh cao của tất cả những thứ ngon lành, vì nó chứa tất cả những thứ ngon lành.
Người ta thường bảo trước mắt người sắp chết đuối hiện ra toàn bộ cuộc đời. Cũng có thể. Vậy thì khi con người ta đói, trước mặt người đói hiện lên bóng ma của tất cả các món ăn anh ta đã nếm trong đời. Và anh ta sáng tạo ra những món ăn mới có thể đem lại vinh quang danh giá cho người đầu bếp.
Giá có ai cất công thu thập những lời trăng trối của những kẻ chết đói thì hẳn sẽ phát hiện thấy trong những lời ấy có ít tình cảm, nhưng được cái dồi dào tư liệu cho một cuốn sách dạy nấu ăn in đến triệu bản bán cũng hết. Nhiều phần chắc là những tư duy bếp núc đã hoàn toàn ru ngủ trí óc tớ. Bất giác tớ thốt lên thành lời với một người hầu bàn tưởng tượng: - Hãy cắt cho dày dày một chút và rán tai tái thôi, sau đó đổ trứng vào - sáu quả nhé. Mâymi quay đầu lại ngay. Đôi mắt nàng sáng lên và nàng mỉm cười rồi nói líu tíu: -
Còn tôi thì ba quả trứng rán vừa chín với khoai tây. Ái chà, được thế thì còn gì bằng, anh Giep nhỉ. Em sẽ gọi thêm món cơm gà rán, món kem… - Nhẹ thôi! - Tớ cắt ngang. - Thế còn bánh gan gà, thận xô-tê, lại cả cừu non rán… - Ôi, - Mâymi ngắt lời tớ, toàn thân run lên, - với nước chấm cay… Cả xalát với thịt gà tây, cả quả ôliu, cả dâu nữa… Cứ như vậy trong suốt mười phút chúng tớ duy trì cuộc đối thoại cao lâu này.
Chúng tớ vòng đi vòng lại trên con đường huyết mạch rồi rẽ vào tất cả các nhánh đường con của đề tài ăn uống, do Mâymi dẫn đường, vì nàng rất có tri thức về các loại danh mục đồ ăn, và những món ăn mà nàng gọi tên càng làm tăng sự thèm khát của tớ. Có cảm tưởng Mâymi đã hoà nhập được với thực phẩm ăn uống và nàng nhìn cái thói háu ăn tội nghiệp ít khinh bỉ hơn so với trước đây. Sáng ra, chúng tớ thấy nước đã rút. Tớ thắng ngựa và cả hai lên đường, lần theo bùn lầy cho tới khi gặp được con đường khi trước. Chúng tớ chỉ đi lạc mất vài dặm và hai tiếng sau đã ở Oclahôma. Vật đầu tiên chúng tớ dõi mắt thấy trong thành phố là tấm biển lớn của một tiệm ăn, thế là chúng tớ phóng ngay tới.
Tớ ngồi vào bàn với Mâymi, giữa chúng tớ là dao, dĩa, đĩa ăn, còn trên gương mặt nàng không phải là sự khinh bỉ, mà là nụ cười, một nụ cười đói và đáng yêu. Tiệm ăn mới bày biện rất khá. Tớ trích đọc cho người phục vụ rất nhiều dòng trong tờ thực đơn, khiến anh ta ngó ra ngoài xe ngựa của tớ, băn khoăn không rõ còn bao nhiêu người nữa sẽ chui ra từ xe vào đây. Chúng tớ ngồi như vậy và người ta bắt đầu bưng các món ra. Đó quả là một bữa tiệc cho mười hai quan khách, vả lại chúng tớ cảm thấy mình cũng đúng là bằng mười hai quan khách. Tớ nhìn qua bàn sang Mâymi và nở nụ cười vì sực nhớ ra một điều. Mâymi nhìn bàn ăn như một cậu bé nhìn chiếc đồng hồ có khoá vặn đầu tiên của mình. Sau đó nàng nhìn thẳng vào mặt tớ, và hai giọt lệ to ứa lên trong mắt nàng.
Người phục vụ đi xuống bếp lấy thêm món ăn bổ sung. - Anh Giep ơi, - Mâymi dịu dàng cất tiếng, - em thực là một con ngốc. Em đã nhìn mọi thứ không đúng. Trước kia em chưa bao giờ phải chịu cảnh này. Đàn ông ngày nào cũng phải chịu cảnh đói, phải không anh? Họ to khoẻ là thế, họ làm công việc nặng nhọc là thế, cho nên họ ăn không phải để trêu tức những cô ả phục vụ ngốc nghếch, phải không anh? Đã có lần anh nói… nghĩa là… anh đã hỏi em… anh muốn… Vậy thì, anh Giep ơi, nếu anh còn muốn… thì em sẽ rất sung sướng… em muốn có anh luôn ngồi đối diện với em bên bàn. Giờ thì hãy cho em ăn thêm một chút gì nữa, mau lên, anh nhé.
° ° °
- Như tớ đã bảo các cậu, - Giep Pitơx kết thúc câu chuyện, - đàn bà thỉnh thoảng cần phải thay đổi quan điểm của họ. Một cảnh mãi cũng làm họ phát chán - nếu vẫn cảnh cái bàn ăn, cái bồn rửa mặt hoặc cái máy khâu. Hãy cho họ sự đa dạng một chút: một chút du lịch, một chút nghỉ ngơi, một chút hờn dỗi nũng nịu xen với những bi kịch nội trợ, một chút vuốt ve âu yếm sau cảnh om sòm trong gia đình, một chút xao xuyến và lẵng nhẵng nói dai, và xin cam đoan với các cậu là hai bên cùng có lợi.Chú thích: (1) 1 bộ (foot) = 30,48 cm (2) 1 acrơ (acre) = 0,4 hecta (3) Nhắc đến sự tích trong Kinh Thánh, khi Eva nghe lời xui của con rắn, cùng chồng ăn trái cây thiện ác và bị Chúa trời trừng phạt khiến con cháu về sau chịu nhiều đau khổ.
|
NGUYỄN PHƯƠNG * VỌNG CỔ
Câu chuyện đầu xuân nơi xứ tuyết:Vọng cổ còn nhen lửa trong tim
Tết 2015, tôi và các bạn già trong Viện dưỡng lão Rosemont ngồi nhâm nhi trà, nhắc chuyện đời xưa với nhau. Một ông bạn nói: “Ngày Tết, bạn nào có chuyện vui, kể cho nhau nghe chơi!”
Một bạn khác hỏi tôi: “Anh Phương, anh đã viết về nghệ thuật hát cải lương tuồng Tàu, tuồng cổ, tuồng xã hội và viết về Hý Khúc Trung Quốc. Sao anh không viết về nghệ thuật sáng tác và ca vọng cổ?”
– “À, chuyện vọng cổ, hay đó… nhưng tôi muốn nghe kể về cuộc đời của các danh ca vọng cổ hồi xưa, cái thời chỉ cần hát 6 câu cho thật hay là lập tức có ông bà bầu nào đó đến ký contrat cho ca sĩ mua nhà lầu, sắm xe hơi…”
– “Ôi chuyện dĩ vãng, nhắc làm gì? Nhắc hoài thêm tiếc nuối” (một ông bạn già khác có vẻ chán đời, nói như đang bơi… bơi… trong cơn tuyệt vọng)
– “À, chuyện vọng cổ, hay đó… nhưng tôi muốn nghe kể về cuộc đời của các danh ca vọng cổ hồi xưa, cái thời chỉ cần hát 6 câu cho thật hay là lập tức có ông bà bầu nào đó đến ký contrat cho ca sĩ mua nhà lầu, sắm xe hơi…”
– “Ôi chuyện dĩ vãng, nhắc làm gì? Nhắc hoài thêm tiếc nuối” (một ông bạn già khác có vẻ chán đời, nói như đang bơi… bơi… trong cơn tuyệt vọng)
– Tôi nói: “Tôi nhớ câu nói của thi sĩ Émile Zola: “Nhắc lại chuyện xưa, không phải là để gợi lại đống tro tàn mà chính là giữ lại ngọn lửa. (Du passé gardons la flamme mais non pas les cendres). Chúng mình may mắn được sống ở Canada, một nơi xứ lạnh tình nồng. Đời sống của người cao niên được chánh phủ chăm lo, trẻ nhỏ được học hành và xây dựng tương lai, thanh niên đang có sức làm việc thì đều được sống tự do và có cuộc sống sung túc theo khả năng làm việc của mình. Cuộc sống của chúng ta dù là di dân hay tị nạn cộng sản, chúng ta đều hưởng được quyền lợi như người bản xứ. Vì vậy, tôi nghĩ là người nào đã từng trải qua dĩ vãng đau buồn do cộng sản gây ra hay người nào biết được thời vàng son dưới chánh thể Cộng Hòa, cũng nên thuật lại hay viết lại cho thế hệ trẻ biết để các cháu hiểu vì sao dân Việt Nam lưu lạc nơi xứ người và các cháu cũng sẽ hiểu được giá trị của cuộc sống trong tự do dân chủ”.
– “Đang là chuyện bài ca vọng cổ và những giọng ca vàng, sao lại bỗng dưng xen vô cái chuyện thời sự vậy?”
– “Dạ, tôi xin lỗi! Vì ông Tám đây nói là hãy quên chuyện xưa đi… Mà thôi, theo ý của các anh, tôi nhắc lại chuyện xưa qua một bài vọng cổ hài của ca sĩ Văn Hường. Qua bài ca này, tôi nhớ các đoàn hát, nhớ các bạn nghệ sĩ, nhớ cái khoảnh khắc kinh hoàng mà nghệ sĩ và dân chúng Đô thành phải trải qua trong cái Tết Mậu Thân. Bài ca đó như sau:
– “Dạ, tôi xin lỗi! Vì ông Tám đây nói là hãy quên chuyện xưa đi… Mà thôi, theo ý của các anh, tôi nhắc lại chuyện xưa qua một bài vọng cổ hài của ca sĩ Văn Hường. Qua bài ca này, tôi nhớ các đoàn hát, nhớ các bạn nghệ sĩ, nhớ cái khoảnh khắc kinh hoàng mà nghệ sĩ và dân chúng Đô thành phải trải qua trong cái Tết Mậu Thân. Bài ca đó như sau:
Táo quân cải lương chầu Ngọc Hoàn
Nói lối) Dạ muôn tâu với Thượng Đế, tên thật của con là Trịnh văn Đỏ tự Văn Hường nghệ sĩ, đã mấy ngày trường con quá giang chiếc phản lực vượt chín tầng mây, đến đêm Giao thừa con mới lên được đến đây, xin Thượng Đế cho con được tỏ bày mọi việc…
Câu 1 / – Thượng Đế ôi! Xin ngài hãy xót thương mà đừng bắt tội, tại sao con là kẻ ở trần gian mà dám lặn lội tới Thiên Đình… Tại vì ở dưới trần gian trong làng nghệ sĩ có nhiều chuyện bất bình… mà đau khổ hơn là Tết Sáu mươi tám (1968) vì tất cả các gánh hát ở dưới dương trần đều hy vọng trong ba ngày Tết mới trả được hết nợ nầng với tiền góp hoặc tiền cô son…ơ… ơ… tiền cô xông + Thế mà chỉ mới hát được có đêm mùng một thì súng nổ rầm rầm khắp bốn phương nên tất cả mấy trăm gánh hát, nào là bầu bì soạn giả, đào kép hề họt gì bất kể, ai ai cũng hoảng vía bò càng, chỉ có cách là chun xuống sàn mà Nam Mô vái Tổ…ơ…ơ…
Câu 2 / – Nhưng cũng may là không có ai thiệt mạng, chỉ có vài gánh tiểu ban, trung ban và đại ban cũng tan rã dần dần… có kẻ thì đi đạp xích lô, có người thì bán phở để trang trải nợ nầng… và đặc biệt có mấy cậu kép trẻ như là Hùng Cường, Tấn Tài, Thanh Sang, Minh Đức, Út Hiền, Bửu Tài, Diệp Lang, Thanh Tú… Ôi thôi nhiều lắm con kể không hết… + Bây giờ họ không còn mặc đồ xi dinh bóng bẩy nữa mà họ lại mặc mỗi người một bộ đồ nhà binh như da beo da cọp, còn tóc thì không có để dài chải tém vắt lỗ tai, mà mỗi người đều đẩy cao gần tới xoáy thượng, còn mặt mày thì nắng gặm đen thui ơ…ơ…
(Nói lối) Muôn tâu với Thượng Đế, ở dưới trần gian các đoàn hát cải lương hiện giờ không còn được mấy gánh, Dạ Lý Hương thì thường trực ở Đô thành, Thanh Minh – Thanh Nga cũng lành quành Sài Gòn Chợ Lớn, Kim Chung, có gánh thì thẳng trớn đi xa xa, còn Tân Hoa Lan cũng chỉ tà tà gần Đô thị, còn Hương Mùa Thu thì cũng viễn du không xa lắm, nay hát Cà Mau, bữa sau về Châu Đốc, rồi bọc lại Vĩnh Long, cái rồi dông ra Vũng Tàu, rồi nhào lên Đà Lạt, rồi tạt xuống Pleiku, kế u qua Ban Mê Thuộc, rồi tuột xuống Long An, kế mang lên Biên Hòa rồi tà tà về Thủ Đức và trực chỉ xuống…
Câu 4 / – Đô thành… vì đây là một địa chỉ cao sang và mát mẻ trong lành… nên các gánh kể trên dù có đi ta bà thế giới nơi đâu thì lâu lâu cũng phải về Sài Gòn để ra mắt với bà con, báo chí… + Chỉ tội nghiệp cho gánh Thủ Đô, Út Bạch Lan – Thành Được, Thống Nhứt, Trăng Mùa Thu, Kim Chưởng, Dũng Thanh Lâm phải tạm xếp màn nằm nghỉ, không hiểu họ nghỉ luôn hay còn ngồi dậy được để tranh đua với các gánh hát đương thời….
Câu 5 / – Còn mấy gánh nhỏ như Thanh Hương – Hùng Minh, Tinh Hoa, Tân Hoa Sen, Thúy Nga và Hoa Phượng – Hà Triều… Sao Ngàn Phương, Trâm Vàng, Phước Chung, Minh Cảnh với Mây Tần… còn nữa… mặc dù mấy gánh hát này coi nho nhỏ vậy mà họ làm ăn đỡ khổ, gánh thì hát ở tỉnh thành, gánh thì lành quàng theo quận, còn có gánh thì đi sâu vào những kẹt hóc cheo leo để giúp vui cho bà con cô bác trong quê nghèo xem giải trí, hễ mỗi chiều nghe tiếng xe ngựa xe lam rải giấy thì ngoài các ông già bà lão và thanh niên thiếu nữ, người ta còn thấy các em nhỏ, đứa thì quần cụt, đứa thì ở trần, đứa thì mặt mày lem luốt cũng chen lần đua nhau xin cho được một tấm chương trình.
Câu 6 / – Tâu Thượng Đế, còn nói về tuồng tích của các gánh hát cải lương ở dương trần năm nay thì con còn nhớ mấy tuồng hay như Đôi Nhân Tình Khùng thì hùng hồn hơn Gái Nhảy, mà Gái Nhảy thì chạy trước Tuyệt Tình Ca, mà Tuyệt Tình Ca lại qua mặt Người Nhạn Trắng, mà Người Nhạn Trắng lại bay trước Thảm Kịch Tuổi Xanh, Thảm Kịch Tuổi Xanh lại bò nhanh hơn Bọt Biển, mà Bọt Biển lại chiến hơn Nữ Hoàng Về Đêm, Nữ Hoàng Về Đêm lại êm hơn Trường Kịch, mà Trường Kịch lại xê xích với Lệnh Của Bà, Tâu Thượng Đế, + Mấy tuồng con vừa kể qua đều hay tất cả nhưng chỉ có tuồng Bốn Thằng Trời Đánh thì con sợ chạm tới Ngọc Hoàng… + Còn nói về hãng dĩa dưới trần năm nay thì ối thôi nhiều lắm nhưng chỉ có một hãng dĩa tối tân nhứt mới ra đời đó là hãng dĩa Capitol, vậy mỗi năm con báo cáo với Ngọc Hoàng, những gì con thấy dưới tận trần gian. (Tôi tiếp tục câu chuyện với các bạn già của tôi)
“Qua bài vọng cổ hài của nghệ sĩ Văn Hường, người ta nhớ lại Tết Mậu Thân 1968, đến nay đã 47 năm qua người nghe ca nhớ thời đó có bao nhiêu gánh hát đại ban, trung ban và các gánh hát nhỏ, đó là một thời kỳ vàng son của cải lương, thời kỳ dân chúng được tự do làm ăn, buôn bán, cuộc sống sung túc, an lành. Rồi sau đó CS đem chiến tranh vô Đô thành, người chết, nhà cháy, gia sản tiêu tan; bao nhiêu gánh hát rã, nhiều nghệ sĩ gia nhập quân đội Cộng Hòa, nhiều người phải đổi nghề. Có nhiều bài vọng cổ khác viết về các anh hùng dân tộc, nói về chuyện đồng quê, chuyện tình yêu đôi lứa, chuyện tình nghĩa xóm làng, chớ không phải Vua viết bài ca Vọng cổ…”
Anh Tám: “Nhắc tới vọng cổ, Nguyễn Phương nổ như một dây pháo điển đốt mừng xuân!”
Tôi cười: “Chưa đâu! Mới mở màn sơ sơ thôi, chớ còn nói tới Vọng Cổ thì phải nói dài dài như kiểu hát Tiều hồi xưa, hát ba ngày bảy đêm chưa vãn hát. Trước khi kể cái hay của Vọng Cổ về văn chương, về làn điệu cổ nhạc, tôi kể chuyện bản Vọng Cổ đã biến cô gái nghèo đi hát dạo trở thành Nữ Hoàng sầu muộn… Đây là chuyện đời của Nữ hoàng sầu muộn Út Bạch Lan.”
Trong số nghệ sĩ được khán giả ái mộ và ký giả kịch trường tặng cho những biệt danh thì nữ nghệ sĩ Út Bạch Lan được tặng nhiều biệt danh nhứt. Nghệ sĩ Út Trà Ôn chỉ được tặng một biệt danh là Vua Vọng cổ, Văn Hường được gọi là Vua vọng cổ hài, Viễn Châu là Vua viết bài ca vọng cổ, Tấn Tài là Hoàng đế dĩa nhựa, Thanh Nga là Nữ Hoàng sân khấu, Bạch Tuyết là Cải lương chi bảo, Kim Cương là Kỳ nữ, Mỹ Châu là Tiếng hát Liêu trai, Ba Vân là Quái kiệt… riêng Út Bạch Lan thì ở làng dĩa nhựa, người ta gọi cô là Nữ hoàng Vọng cổ, còn ở sân khấu là Đệ nhứt đào thương, vì cô có cuộc đời rất bi thương, cô hát xuất sắc các vai buồn nên được gọi thêm là Nữ hoàng sầu mộng, Sầu nữ Út Bạch Lan, Sầu nữ Liêu trai, Vương nữ Sương Chiều (vì Út Bạch Lan ca bài Sương Chiều rất gợi cảm, trữ tình).
Những ngày thơ bi thảm của Út Bạch Lan
Út Bạch Lan tên thật là Đặng Thị Hai, sanh năm 1935, tại ấp Lộc Hóa, xã Lộc Giang, Đức Hòa, Long An. Cha cô là ông Nguyễn Văn Chưa, làm nghề nài ngựa, qua đời năm 1966.
Năm 1945, cha mẹ cô xa nhau. Mẹ là bà Đặng Thị Tư dẫn cô rời xã Lộc Giang, về ở vùng Chợ Lớn Mới. Bà Tư cùng cảnh ngộ với mẹ của Văn Vĩ nên hai bà cùng kết nghĩa chị em, cùng sống chung nhà và đi làm mướn độ nhựt trong chợ Bình Tây Chợ Lớn Mới. Bé Út thì ngày ngày lang thang trong chợ, ai sai gì làm nấy, được người ta thương tình, khi thì cho tiền, khi cho rau cải, thịt cá. Bé Út đem về cho mẹ để hai mẹ con sống qua ngày.
Văn Vĩ mù bẩm sinh, học đàn guitare cổ nhạc và đàn rất giỏi. Hai bà mẹ kết nghĩa thân thiết với nhau thì hai đứa trẻ Văn Vĩ và Bé Út cũng quấn quít bên nhau. Bé Út được 11 tuổi, Văn Vĩ 15 tuổi, khi có dịp rảnh, Van Vĩ dạy cho Bé Út ca cổ nhạc.
Bé Út nghe máy hát dĩa của hàng xóm, học thuộc mấy bài vọng cổ: Trọng Thủy Mỵ Châu, Đêm Khuya trông chồng (cô Tư Bé ca), Mẹ Dạy Con (cô Tư Sạng ca).
Bé Út thấy người mù đi hát dạo trong chợ được người ta cho tiền, bèn rủ Văn Vĩ đi lén mẹ hát dạo, hy vọng kiếm được tiền giúp đỡ hai bà mẹ.
Văn Vĩ và Bé Út đi hát dạo từ Chợ Lớn Mới qua các đường phố Chợ Lớn cũ, ra tới Sài Gòn, chợ Bến Thành, qua Chợ Vườn Chuối, Chợ Bàn Cờ, Chợ Bàu Sen, Bùnh Binh Sài Gòn, Garage Charner, sân xẹt (cercle sportif trong vườn Tao Đàn hiện nay) Chợ Cầu Ông Lãnh, bến Tàu, Cột Cờ Thủ Ngữ…
Nơi nào Bé Út và Văn Vĩ hát dạo cũng được đông đảo người tụ tập nghe và thưởng cho nhiều tiền. Cuộc sống của hai gia đình đỡ khổ hơn trước nhưng tai nạn bất ngờ đổ ụp xuống đầu hai trẻ hát dạo: thời đó 1946, 1947, đang có chiến tranh Việt-Pháp, Văn Vĩ và Bé Út đờn ca, tụ tập người nghe rất đông tại Bùng Binh Sài Gòn, bọn Biện Chà (tức cảnh sát Tây thời Pháp thuộc) sợ có biểu tình, giải tán số người tụ tập nghe đờn ca, bắt Văn Vĩ và Bé Út đem về nhốt ở bót quận Nhì. Xếp bót quận Nhì là người Pháp lai Việt, thấy đứa bé mù và một cô gái nhỏ bị bắt, tưởng là mấy đứa trẻ đi rải truyền đơn, đem ra tra hỏi, mới biết là Văn Vĩ và Bé Út đi hát dạo. Ông xếp bót thích nghe vọng cổ, ông ta có bạn là nhạc sĩ đờn violon trên Đài phát thanh Pháp-Á tên Jean Tịnh nên nói: “Nếu tụi bây ca được một câu vọng cổ có tiếng Tây thì tao thưởng tiền mà con thả về. Tự hậu, bây ca ở Sài Gòn, tao cũng làm lơ cho đi ca hát kiếm ăn…”
Văn Vĩ biết là ông Xếp nói chơi chớ đâu có ai viết vọng cổ mà có tiếng Tây trong đó nên cứ chấp tay xá xá, năn nỉ. Bỗng nghe Bé Út nói: “Dạ, con biết ca một câu vọng cổ có tiếng Tây.”
Ông Xếp trợn tròn đôi mắt, kinh ngạc nhìn Bé Út. Văn Vĩ sợ quá, hỏi: “Được hông mà em nói ẩu đó?”
Bé Út cho biết là khi đi hát dạo ở sân Xẹt (Cercle sportif, sân Tao Đàn hiện nay) có một thầy đi đánh banh tennis ở đó dạy cho Út ca. Út chỉ nhớ một câu vọng cổ, không biết trúng hay trật.
Ông Xếp khoái chí, biểu Bé Út ca. Câu vọng cổ có tiếng Tây đó như sau:
– Hỡi ôi! Tôi có một thằng chồng ở đất Pháp, lâu rồi bặt tin nhàn cá nên tôi đành phải dê cờ ri (J’écris) một bức thư tình, ăng voa (envoie) thăm hỏi me xừ (monsieur) Di Đăng (Résident, công sứ), Tú xơn (tout seul) gạt nước mắt than rằng: Cô son (cochon) cái phận lăng nhăng lỡ…
– (Câu vọng cổ 1) Làng… Ôi! Đờ buy (depuis) thiếp bén duyên chàng… Nốt xờ (noce) chưa được một bàn tiệc vui, Ê loanh nhê (éloigner) ai khéo giục xui, cu tô (couteau) ai nỡ cắt mùi nguyệt hoa, (Song lang) La cua (la cour) mút mọc luynh tà (lune tà: trăngtà), la sâm (la chambre) biết lấy ai là a mi ami), lạnh lùng manh áo sơ mi (Chemise) Năm canh trằn trọc, lơ li (le lit) một mình cô lẻ ơ…ơ…
Mấy chữ Pháp ghi trong hai dấu ngoặt là do tác giả viết để làm rõ các chữ nhại âm theo tiếng Tây của bé Út ca.
Ông Xếp bót cười ha hả, cười tới té sặc té ho. Văn Vĩ cũng bò ra mà cười, cười tới nước mắt nước mũi ra ràng rụa. Ông Xếp bót thưởng cho năm đồi rồi tha cho Văn Vĩ và Bé Út ra về.
Câu chuyện ca vọng cổ tiếng Tây tới tai nhạc sĩ Jean Tịnh và ca sĩ Thành Công, Đài phát thanh Pháp-Á khiến cho hai anh hiếu kỳ, đi tìm xem bé Út là ai và đây cũng là cơ duyên khiến cho sau này ca sĩ Thành Công trở thành người đầu tiên dìu dắt Út Bạch Lan trên con đường sự nghiệp cầm ca.
Ca sĩ Thành Công và nhạc sĩ Jean Tịnh gặp Bé Út và rất mến mộ ngón đờn xuất sắc của Văn Vĩ nên mời hai anh em gia nhập Ban cổ nhạc Thành Công của Đài phát thanh Pháp-Á với nhạc sĩ Hai Long, các ca sĩ Sáu Thoàng, Ba Tình, Văn Chung, Việt Hùng. Thành Công cho biết bên Đài phát thanh Quốc Gia có ca sĩ Bạch Huệ (con của nhạc sĩ Sáu Tửng) thì bên Đài phát thanh Pháp-Á có ca sĩ Bạch Lan. Anh dựa vào câu hát đưa em: Lan huệ sầu ai lan huệ héo, Lan huệ sầu chồng trong héo ngoài tươi. Thành Công đặt tên cho Bé Út là Bạch Lan bên Đài phát thanh Pháp-Á để đối chọi lại với tên Bạch Huệ bên Đài phát thanh Quốc Gia. Bé Út xin cho thêm chữ Út thành tên Út Bạch Lan vì mẹ cô thường gọi cô là Bé Út. Nghệ danh Út Bạch Lan được khai sanh năm 1950 như vậy đó.
Năm 1952, Út Bạch Lan gia nhập gánh hát Kim Khánh của ông bầu Cang được cho đóng các vai thế nữ, vũ nữ và ca ngâm hậu trường.
Năm 1953, Út Bạch Lan theo đoàn hát Tô Huệ, cũng chỉ được cho làm thế nữ và ca hậu trường vì lúc đó các đoàn đã có đào chánh, Út Bạch Lan chưa nổi danh và không người giúp “lăng xê” nên cô phải đóng thế vai khi các cô đào chánh của đoàn bị bịnh không hát được. Út Bạch Lan bèn trở về cộng tác với Đài phát thanh Pháp-Á và Đài phát thanh Quốc Gia.
Năm 1954, Út Bạch Lan gia nhập đoàn hát Kim Thanh, bầu gánh là bốn ngôi sao sân khấu: Út Trà Ôn, Thanh Tao, Kim Chưởng, Thúy Nga. Út Bạch Lan cũng chỉ đóng những vai tuồng phụ. Soạn giả Viễn Châu viết thêm hai câu vọng cổ trong tuồng của anh là “Tình Vương Hoa Thắm” để cho Út Bạch Lan ca. Khán giả vỗ tay khen nhiệt liệt không thua gì khi anh Út Trà Ôn ca.
Sau đó Viễn Châu viết thêm hai câu vọng cổ trong tuồng “Đời Cô Nga” cho Út Bạch Lan ca. Vãn hát, khán giả đứng nghẹt cửa hậu trường đón xem mặt của Út Bạch Lan.
Hôm sau, trên trang kịch trường các báo, hình của Út Bạch Lan được đăng rất lớn với câu đề rất kêu của ký giả Nguyễn Ang Ca: “Một ngôi sao lạ vụt sáng trên vòm trời nghệ thuật cải lương”. Ký giả Trần Tấn Quốc viết: “Út Bạch Lan, một giọng ca vọng cổ thảm sầu, bứt ruột bứt gan người nghe”. Ký giả Kiên Giang Hà Huy Hà viết: “Sầu nữ Út Bạch Lan, chất giọng đồng pha thổ nghe thương cảm chơi vơi, đêm đêm khơi nguồn lệ của hàng ngàn khán giả mộ điệu cải lương”.
Đó, các bạn thấy chỉ với 6 câu vọng cổ, một em bé nghèo đi hát dạo được biến thành “Nữ hoàng sầu mộng Út Bạch Lan”.
(Còn tiếp: Chuyện một ngàn lẻ một đêm cải lương)
Nguyễn Phương 2015
Câu 1 / – Thượng Đế ôi! Xin ngài hãy xót thương mà đừng bắt tội, tại sao con là kẻ ở trần gian mà dám lặn lội tới Thiên Đình… Tại vì ở dưới trần gian trong làng nghệ sĩ có nhiều chuyện bất bình… mà đau khổ hơn là Tết Sáu mươi tám (1968) vì tất cả các gánh hát ở dưới dương trần đều hy vọng trong ba ngày Tết mới trả được hết nợ nầng với tiền góp hoặc tiền cô son…ơ… ơ… tiền cô xông + Thế mà chỉ mới hát được có đêm mùng một thì súng nổ rầm rầm khắp bốn phương nên tất cả mấy trăm gánh hát, nào là bầu bì soạn giả, đào kép hề họt gì bất kể, ai ai cũng hoảng vía bò càng, chỉ có cách là chun xuống sàn mà Nam Mô vái Tổ…ơ…ơ…
Câu 2 / – Nhưng cũng may là không có ai thiệt mạng, chỉ có vài gánh tiểu ban, trung ban và đại ban cũng tan rã dần dần… có kẻ thì đi đạp xích lô, có người thì bán phở để trang trải nợ nầng… và đặc biệt có mấy cậu kép trẻ như là Hùng Cường, Tấn Tài, Thanh Sang, Minh Đức, Út Hiền, Bửu Tài, Diệp Lang, Thanh Tú… Ôi thôi nhiều lắm con kể không hết… + Bây giờ họ không còn mặc đồ xi dinh bóng bẩy nữa mà họ lại mặc mỗi người một bộ đồ nhà binh như da beo da cọp, còn tóc thì không có để dài chải tém vắt lỗ tai, mà mỗi người đều đẩy cao gần tới xoáy thượng, còn mặt mày thì nắng gặm đen thui ơ…ơ…
(Nói lối) Muôn tâu với Thượng Đế, ở dưới trần gian các đoàn hát cải lương hiện giờ không còn được mấy gánh, Dạ Lý Hương thì thường trực ở Đô thành, Thanh Minh – Thanh Nga cũng lành quành Sài Gòn Chợ Lớn, Kim Chung, có gánh thì thẳng trớn đi xa xa, còn Tân Hoa Lan cũng chỉ tà tà gần Đô thị, còn Hương Mùa Thu thì cũng viễn du không xa lắm, nay hát Cà Mau, bữa sau về Châu Đốc, rồi bọc lại Vĩnh Long, cái rồi dông ra Vũng Tàu, rồi nhào lên Đà Lạt, rồi tạt xuống Pleiku, kế u qua Ban Mê Thuộc, rồi tuột xuống Long An, kế mang lên Biên Hòa rồi tà tà về Thủ Đức và trực chỉ xuống…
Câu 4 / – Đô thành… vì đây là một địa chỉ cao sang và mát mẻ trong lành… nên các gánh kể trên dù có đi ta bà thế giới nơi đâu thì lâu lâu cũng phải về Sài Gòn để ra mắt với bà con, báo chí… + Chỉ tội nghiệp cho gánh Thủ Đô, Út Bạch Lan – Thành Được, Thống Nhứt, Trăng Mùa Thu, Kim Chưởng, Dũng Thanh Lâm phải tạm xếp màn nằm nghỉ, không hiểu họ nghỉ luôn hay còn ngồi dậy được để tranh đua với các gánh hát đương thời….
Câu 5 / – Còn mấy gánh nhỏ như Thanh Hương – Hùng Minh, Tinh Hoa, Tân Hoa Sen, Thúy Nga và Hoa Phượng – Hà Triều… Sao Ngàn Phương, Trâm Vàng, Phước Chung, Minh Cảnh với Mây Tần… còn nữa… mặc dù mấy gánh hát này coi nho nhỏ vậy mà họ làm ăn đỡ khổ, gánh thì hát ở tỉnh thành, gánh thì lành quàng theo quận, còn có gánh thì đi sâu vào những kẹt hóc cheo leo để giúp vui cho bà con cô bác trong quê nghèo xem giải trí, hễ mỗi chiều nghe tiếng xe ngựa xe lam rải giấy thì ngoài các ông già bà lão và thanh niên thiếu nữ, người ta còn thấy các em nhỏ, đứa thì quần cụt, đứa thì ở trần, đứa thì mặt mày lem luốt cũng chen lần đua nhau xin cho được một tấm chương trình.
Câu 6 / – Tâu Thượng Đế, còn nói về tuồng tích của các gánh hát cải lương ở dương trần năm nay thì con còn nhớ mấy tuồng hay như Đôi Nhân Tình Khùng thì hùng hồn hơn Gái Nhảy, mà Gái Nhảy thì chạy trước Tuyệt Tình Ca, mà Tuyệt Tình Ca lại qua mặt Người Nhạn Trắng, mà Người Nhạn Trắng lại bay trước Thảm Kịch Tuổi Xanh, Thảm Kịch Tuổi Xanh lại bò nhanh hơn Bọt Biển, mà Bọt Biển lại chiến hơn Nữ Hoàng Về Đêm, Nữ Hoàng Về Đêm lại êm hơn Trường Kịch, mà Trường Kịch lại xê xích với Lệnh Của Bà, Tâu Thượng Đế, + Mấy tuồng con vừa kể qua đều hay tất cả nhưng chỉ có tuồng Bốn Thằng Trời Đánh thì con sợ chạm tới Ngọc Hoàng… + Còn nói về hãng dĩa dưới trần năm nay thì ối thôi nhiều lắm nhưng chỉ có một hãng dĩa tối tân nhứt mới ra đời đó là hãng dĩa Capitol, vậy mỗi năm con báo cáo với Ngọc Hoàng, những gì con thấy dưới tận trần gian. (Tôi tiếp tục câu chuyện với các bạn già của tôi)
“Qua bài vọng cổ hài của nghệ sĩ Văn Hường, người ta nhớ lại Tết Mậu Thân 1968, đến nay đã 47 năm qua người nghe ca nhớ thời đó có bao nhiêu gánh hát đại ban, trung ban và các gánh hát nhỏ, đó là một thời kỳ vàng son của cải lương, thời kỳ dân chúng được tự do làm ăn, buôn bán, cuộc sống sung túc, an lành. Rồi sau đó CS đem chiến tranh vô Đô thành, người chết, nhà cháy, gia sản tiêu tan; bao nhiêu gánh hát rã, nhiều nghệ sĩ gia nhập quân đội Cộng Hòa, nhiều người phải đổi nghề. Có nhiều bài vọng cổ khác viết về các anh hùng dân tộc, nói về chuyện đồng quê, chuyện tình yêu đôi lứa, chuyện tình nghĩa xóm làng, chớ không phải Vua viết bài ca Vọng cổ…”
Anh Tám: “Nhắc tới vọng cổ, Nguyễn Phương nổ như một dây pháo điển đốt mừng xuân!”
Tôi cười: “Chưa đâu! Mới mở màn sơ sơ thôi, chớ còn nói tới Vọng Cổ thì phải nói dài dài như kiểu hát Tiều hồi xưa, hát ba ngày bảy đêm chưa vãn hát. Trước khi kể cái hay của Vọng Cổ về văn chương, về làn điệu cổ nhạc, tôi kể chuyện bản Vọng Cổ đã biến cô gái nghèo đi hát dạo trở thành Nữ Hoàng sầu muộn… Đây là chuyện đời của Nữ hoàng sầu muộn Út Bạch Lan.”
Trong số nghệ sĩ được khán giả ái mộ và ký giả kịch trường tặng cho những biệt danh thì nữ nghệ sĩ Út Bạch Lan được tặng nhiều biệt danh nhứt. Nghệ sĩ Út Trà Ôn chỉ được tặng một biệt danh là Vua Vọng cổ, Văn Hường được gọi là Vua vọng cổ hài, Viễn Châu là Vua viết bài ca vọng cổ, Tấn Tài là Hoàng đế dĩa nhựa, Thanh Nga là Nữ Hoàng sân khấu, Bạch Tuyết là Cải lương chi bảo, Kim Cương là Kỳ nữ, Mỹ Châu là Tiếng hát Liêu trai, Ba Vân là Quái kiệt… riêng Út Bạch Lan thì ở làng dĩa nhựa, người ta gọi cô là Nữ hoàng Vọng cổ, còn ở sân khấu là Đệ nhứt đào thương, vì cô có cuộc đời rất bi thương, cô hát xuất sắc các vai buồn nên được gọi thêm là Nữ hoàng sầu mộng, Sầu nữ Út Bạch Lan, Sầu nữ Liêu trai, Vương nữ Sương Chiều (vì Út Bạch Lan ca bài Sương Chiều rất gợi cảm, trữ tình).
Những ngày thơ bi thảm của Út Bạch Lan
Út Bạch Lan tên thật là Đặng Thị Hai, sanh năm 1935, tại ấp Lộc Hóa, xã Lộc Giang, Đức Hòa, Long An. Cha cô là ông Nguyễn Văn Chưa, làm nghề nài ngựa, qua đời năm 1966.
Năm 1945, cha mẹ cô xa nhau. Mẹ là bà Đặng Thị Tư dẫn cô rời xã Lộc Giang, về ở vùng Chợ Lớn Mới. Bà Tư cùng cảnh ngộ với mẹ của Văn Vĩ nên hai bà cùng kết nghĩa chị em, cùng sống chung nhà và đi làm mướn độ nhựt trong chợ Bình Tây Chợ Lớn Mới. Bé Út thì ngày ngày lang thang trong chợ, ai sai gì làm nấy, được người ta thương tình, khi thì cho tiền, khi cho rau cải, thịt cá. Bé Út đem về cho mẹ để hai mẹ con sống qua ngày.
Văn Vĩ mù bẩm sinh, học đàn guitare cổ nhạc và đàn rất giỏi. Hai bà mẹ kết nghĩa thân thiết với nhau thì hai đứa trẻ Văn Vĩ và Bé Út cũng quấn quít bên nhau. Bé Út được 11 tuổi, Văn Vĩ 15 tuổi, khi có dịp rảnh, Van Vĩ dạy cho Bé Út ca cổ nhạc.
Bé Út nghe máy hát dĩa của hàng xóm, học thuộc mấy bài vọng cổ: Trọng Thủy Mỵ Châu, Đêm Khuya trông chồng (cô Tư Bé ca), Mẹ Dạy Con (cô Tư Sạng ca).
Bé Út thấy người mù đi hát dạo trong chợ được người ta cho tiền, bèn rủ Văn Vĩ đi lén mẹ hát dạo, hy vọng kiếm được tiền giúp đỡ hai bà mẹ.
Văn Vĩ và Bé Út đi hát dạo từ Chợ Lớn Mới qua các đường phố Chợ Lớn cũ, ra tới Sài Gòn, chợ Bến Thành, qua Chợ Vườn Chuối, Chợ Bàn Cờ, Chợ Bàu Sen, Bùnh Binh Sài Gòn, Garage Charner, sân xẹt (cercle sportif trong vườn Tao Đàn hiện nay) Chợ Cầu Ông Lãnh, bến Tàu, Cột Cờ Thủ Ngữ…
Nơi nào Bé Út và Văn Vĩ hát dạo cũng được đông đảo người tụ tập nghe và thưởng cho nhiều tiền. Cuộc sống của hai gia đình đỡ khổ hơn trước nhưng tai nạn bất ngờ đổ ụp xuống đầu hai trẻ hát dạo: thời đó 1946, 1947, đang có chiến tranh Việt-Pháp, Văn Vĩ và Bé Út đờn ca, tụ tập người nghe rất đông tại Bùng Binh Sài Gòn, bọn Biện Chà (tức cảnh sát Tây thời Pháp thuộc) sợ có biểu tình, giải tán số người tụ tập nghe đờn ca, bắt Văn Vĩ và Bé Út đem về nhốt ở bót quận Nhì. Xếp bót quận Nhì là người Pháp lai Việt, thấy đứa bé mù và một cô gái nhỏ bị bắt, tưởng là mấy đứa trẻ đi rải truyền đơn, đem ra tra hỏi, mới biết là Văn Vĩ và Bé Út đi hát dạo. Ông xếp bót thích nghe vọng cổ, ông ta có bạn là nhạc sĩ đờn violon trên Đài phát thanh Pháp-Á tên Jean Tịnh nên nói: “Nếu tụi bây ca được một câu vọng cổ có tiếng Tây thì tao thưởng tiền mà con thả về. Tự hậu, bây ca ở Sài Gòn, tao cũng làm lơ cho đi ca hát kiếm ăn…”
Văn Vĩ biết là ông Xếp nói chơi chớ đâu có ai viết vọng cổ mà có tiếng Tây trong đó nên cứ chấp tay xá xá, năn nỉ. Bỗng nghe Bé Út nói: “Dạ, con biết ca một câu vọng cổ có tiếng Tây.”
Ông Xếp trợn tròn đôi mắt, kinh ngạc nhìn Bé Út. Văn Vĩ sợ quá, hỏi: “Được hông mà em nói ẩu đó?”
Bé Út cho biết là khi đi hát dạo ở sân Xẹt (Cercle sportif, sân Tao Đàn hiện nay) có một thầy đi đánh banh tennis ở đó dạy cho Út ca. Út chỉ nhớ một câu vọng cổ, không biết trúng hay trật.
Ông Xếp khoái chí, biểu Bé Út ca. Câu vọng cổ có tiếng Tây đó như sau:
– Hỡi ôi! Tôi có một thằng chồng ở đất Pháp, lâu rồi bặt tin nhàn cá nên tôi đành phải dê cờ ri (J’écris) một bức thư tình, ăng voa (envoie) thăm hỏi me xừ (monsieur) Di Đăng (Résident, công sứ), Tú xơn (tout seul) gạt nước mắt than rằng: Cô son (cochon) cái phận lăng nhăng lỡ…
– (Câu vọng cổ 1) Làng… Ôi! Đờ buy (depuis) thiếp bén duyên chàng… Nốt xờ (noce) chưa được một bàn tiệc vui, Ê loanh nhê (éloigner) ai khéo giục xui, cu tô (couteau) ai nỡ cắt mùi nguyệt hoa, (Song lang) La cua (la cour) mút mọc luynh tà (lune tà: trăngtà), la sâm (la chambre) biết lấy ai là a mi ami), lạnh lùng manh áo sơ mi (Chemise) Năm canh trằn trọc, lơ li (le lit) một mình cô lẻ ơ…ơ…
Mấy chữ Pháp ghi trong hai dấu ngoặt là do tác giả viết để làm rõ các chữ nhại âm theo tiếng Tây của bé Út ca.
Ông Xếp bót cười ha hả, cười tới té sặc té ho. Văn Vĩ cũng bò ra mà cười, cười tới nước mắt nước mũi ra ràng rụa. Ông Xếp bót thưởng cho năm đồi rồi tha cho Văn Vĩ và Bé Út ra về.
Câu chuyện ca vọng cổ tiếng Tây tới tai nhạc sĩ Jean Tịnh và ca sĩ Thành Công, Đài phát thanh Pháp-Á khiến cho hai anh hiếu kỳ, đi tìm xem bé Út là ai và đây cũng là cơ duyên khiến cho sau này ca sĩ Thành Công trở thành người đầu tiên dìu dắt Út Bạch Lan trên con đường sự nghiệp cầm ca.
Ca sĩ Thành Công và nhạc sĩ Jean Tịnh gặp Bé Út và rất mến mộ ngón đờn xuất sắc của Văn Vĩ nên mời hai anh em gia nhập Ban cổ nhạc Thành Công của Đài phát thanh Pháp-Á với nhạc sĩ Hai Long, các ca sĩ Sáu Thoàng, Ba Tình, Văn Chung, Việt Hùng. Thành Công cho biết bên Đài phát thanh Quốc Gia có ca sĩ Bạch Huệ (con của nhạc sĩ Sáu Tửng) thì bên Đài phát thanh Pháp-Á có ca sĩ Bạch Lan. Anh dựa vào câu hát đưa em: Lan huệ sầu ai lan huệ héo, Lan huệ sầu chồng trong héo ngoài tươi. Thành Công đặt tên cho Bé Út là Bạch Lan bên Đài phát thanh Pháp-Á để đối chọi lại với tên Bạch Huệ bên Đài phát thanh Quốc Gia. Bé Út xin cho thêm chữ Út thành tên Út Bạch Lan vì mẹ cô thường gọi cô là Bé Út. Nghệ danh Út Bạch Lan được khai sanh năm 1950 như vậy đó.
Năm 1952, Út Bạch Lan gia nhập gánh hát Kim Khánh của ông bầu Cang được cho đóng các vai thế nữ, vũ nữ và ca ngâm hậu trường.
Năm 1953, Út Bạch Lan theo đoàn hát Tô Huệ, cũng chỉ được cho làm thế nữ và ca hậu trường vì lúc đó các đoàn đã có đào chánh, Út Bạch Lan chưa nổi danh và không người giúp “lăng xê” nên cô phải đóng thế vai khi các cô đào chánh của đoàn bị bịnh không hát được. Út Bạch Lan bèn trở về cộng tác với Đài phát thanh Pháp-Á và Đài phát thanh Quốc Gia.
Năm 1954, Út Bạch Lan gia nhập đoàn hát Kim Thanh, bầu gánh là bốn ngôi sao sân khấu: Út Trà Ôn, Thanh Tao, Kim Chưởng, Thúy Nga. Út Bạch Lan cũng chỉ đóng những vai tuồng phụ. Soạn giả Viễn Châu viết thêm hai câu vọng cổ trong tuồng của anh là “Tình Vương Hoa Thắm” để cho Út Bạch Lan ca. Khán giả vỗ tay khen nhiệt liệt không thua gì khi anh Út Trà Ôn ca.
Sau đó Viễn Châu viết thêm hai câu vọng cổ trong tuồng “Đời Cô Nga” cho Út Bạch Lan ca. Vãn hát, khán giả đứng nghẹt cửa hậu trường đón xem mặt của Út Bạch Lan.
Hôm sau, trên trang kịch trường các báo, hình của Út Bạch Lan được đăng rất lớn với câu đề rất kêu của ký giả Nguyễn Ang Ca: “Một ngôi sao lạ vụt sáng trên vòm trời nghệ thuật cải lương”. Ký giả Trần Tấn Quốc viết: “Út Bạch Lan, một giọng ca vọng cổ thảm sầu, bứt ruột bứt gan người nghe”. Ký giả Kiên Giang Hà Huy Hà viết: “Sầu nữ Út Bạch Lan, chất giọng đồng pha thổ nghe thương cảm chơi vơi, đêm đêm khơi nguồn lệ của hàng ngàn khán giả mộ điệu cải lương”.
Đó, các bạn thấy chỉ với 6 câu vọng cổ, một em bé nghèo đi hát dạo được biến thành “Nữ hoàng sầu mộng Út Bạch Lan”.
(Còn tiếp: Chuyện một ngàn lẻ một đêm cải lương)
Nguyễn Phương 2015
HUY LÂM * MỘT CHA HAI MẸ
Viết từ Dallas: Một cha hai mẹ
Hôm đầu tháng Hai, hạ viện nước Anh, qua biểu quyết mang tính lịch sử, đã thông qua một dự luật cho phép người dân Anh Quốc có quyền có con qua phương pháp thụ tinh nhân tạo với cấu trúc di truyền (DNA) từ hai người phụ nữ và một người đàn ông. Như vậy, nước Anh rất có thể trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới chính thức áp dụng đạo luật cho phép người dân nước này có con lấy giống từ ba người riêng rẽ.
Với phương pháp thụ tinh nhân tạo mới này, những căn bệnh di truyền sẽ không thể truyền từ người mẹ xuống cho những đứa con nữa. Sau khi biểu quyết dự luật, một số vị dân cử nói rằng phương pháp mới này là “ánh sáng cuối đường hầm” cho một số gia đình hiếm muộn không con vì những nguyên nhân có liên quan tới một số căn bệnh di truyền.
Hiện dự luật còn chờ để được thông qua ở thượng viện. Nếu mọi chuyện xuôi chảy thì đứa bé đầu tiên loại này có thể được ra đời vào năm tới. Người ta ước tính nếu đạo luật được đem ra áp dụng, riêng tại nước Anh, có khoảng 150 em bé với hai bà mẹ và một ông bố được chào đời mỗi năm.
Những người ủng hộ cho đây là một tin mừng cho sự tiến bộ của ngành y khoa và mang lại chút hy vọng đến cho một số gia đình nay có thể có được những đứa con khoẻ mạnh mà không phải sống trong đau đớn do một số căn bệnh di truyền gây ra. Trong đó có một nhóm gồm 40 nhà nghiên cứu khoa học và cố vấn chính phủ trên khắp thế giới đã đứng chung trong một lá thư ngỏ gửi tới quốc hội Anh ủng hộ cho phương pháp thụ tinh mới này. Trong khi những người chống thì lo ngại với phương pháp thụ tinh mới này có thể đưa tới những vấn đề liên quan tới đạo đức và an toàn.
Phương pháp thụ tinh một cha hai mẹ được phát minh bởi Đại học Newcastle bên Anh Quốc cho phép những phụ nữ nào mang trong người mầm mống di truyền của căn bệnh rối loạn ty thể (mitochondrial disease) đến nay vẫn chưa có cách chữa – vẫn có thể có con mà không truyền căn bệnh này xuống cho đứa trẻ.
Ty thể mitochondrial là những hạt li ti có trong hầu hết các tế bào và có chức năng biến đổi thức ăn thành năng lượng cho cơ thể. Các ty thể này có cấu trúc di truyền DNA của riêng chúng và vì vậy sẽ không ảnh hưởng đến đặc tính cá nhân của đứa bé, chẳng hạn diện mạo bên ngoài như chiều cao, màu mắt, màu tóc v.v… Khi một người bị rối loạn ty thể, nó có thể đưa tới những căn bệnh hết sức nguy hiểm như teo cơ bắp, bại tim và thận, hoại não, động kinh, tiểu đường, mù loà, và có thể đưa tới tử vong. Trên thế giới, người ta ước tính cứ 6.500 em thì có một em mắc phải căn bệnh rối loạn ty thể, mà căn bệnh này chỉ được truyền từ người mẹ qua đứa con (tinh trùng của người cha không đóng một vai trò nào cả).
Phương pháp thụ tinh này có thể thực hiện bằng hai cách khác nhau: Cách thứ nhất, tách nhân từ trứng của người mẹ rồi đưa vào trứng của người hiến tặng sau khi trứng đó đã được tách tất cả mọi thứ ra ngoại trừ ty thể. Hạt trứng mới này – có chứa nhân DNA từ người mẹ và ty thể từ người hiến tặng – sau đó được cấy với tinh trùng của người cha. Cách thứ hai, cả hai trứng của người mẹ và người hiến tặng được cấy với tinh trùng, sau đó nhân DNA được lấy ra khỏi trứng của người mẹ và đưa vào trứng của người hiến tặng sau khi nhân của trứng này đã được lấy ra.
Nói chung, phương pháp thụ tinh nhân tạo này là gộp DNA của hai cha mẹ chung với lại những ty thể khoẻ mạnh của người phụ nữ hiến tặng trứng.
Kết quả là khi đứa bé được sinh ra nó sẽ mang DNA của cha mẹ cùng với 0,1% DNA của người phụ nữ thứ hai. Mặc dù phần DNA của người phụ nữ hiến tặng trứng rất nhỏ nhưng trên thực tế có thể nói đứa bé này là đứa con một cha và hai mẹ.
Hiện nay, Giáo hội Công giáo và Anh giáo ở Anh còn đang chống đối cho rằng ý tưởng về việc thụ tinh nhân tạo này chưa được an toàn tối đa và trái luân lý, đó là chưa nói tới tiến trình thụ tinh này còn bao gồm việc hủy hoại phôi thai.
Một vài nhóm chống đối khác nói rằng việc này còn có khả năng mở ra cánh cửa để người ta đi xa hơn nữa trong việc biến cải di truyền của những đứa trẻ trong tương lai – nghĩa là người ta đòi hỏi sinh ra những đứa con theo ý muốn, dùng kỹ thuật cải sửa di truyền để có được những đứa con đẹp, khoẻ, thông minh hoặc miễn bệnh tật.
Tại Hoa Kỳ, nơi mỗi năm có khoảng từ 1.000-4.000 em bé chào đời với căn bệnh rối loạn ty thể, hiện cũng đang có những tranh luận về phương pháp thụ tinh mới mẻ này. Vào đầu năm ngoái, Cơ quan Kiểm soát Thực và Dược phẩm (FDA) đã lập một ủy ban để thảo luận là có nên hay không cho phép những cuộc thử nghiệm lâm sàng về thụ tinh nhân tạo bao gồm ba người này. Với yêu cầu của FDA, Viện nghiên cứu Y khoa (Institute of Medicine) đã bắt tay làm việc để lập một bản phúc trình tìm hiểu về những vấn đề liên quan tới phương pháp thụ tinh trên có thể ảnh hưởng đến những chính sách về xã hội và luân lý.
Thậm chí nếu luật ở Anh cho phép được mang ra áp dụng, những đứa trẻ được sinh ra đời cũng không phải là thế hệ đầu tiên mang trong người di tố (gene) của ba người riêng rẽ. Vào thập niên 1990, một nhóm nhà nghiên cứu tại Viện St. Barnabus ở New Jersey đã phát minh một phương pháp điều trị cho những người hiếm muộn được gọi là cytoplasmic transfer (truyền tế bào chất), dùng phương pháp cài tế bào chất – là chất nằm trong tế bào có chứa ty thể và những cơ quan tử (organelle) khác – của người hiến tặng vào trong trứng của người mẹ. Nhưng kể từ năm 2002, cơ quan FDA đã cấm không cho thực hành phương pháp này nữa – nhưng trước đó đã có nhiều trung tâm y khoa đã bắt chước và thử nghiệm phương pháp của nhóm nghiên cứu ở New Jersey, và giúp cho ra đời ước đoán khoảng 30-50 em bé mà tố chất di truyền có chứa một phần ty thể có mang cấu trúc di truyền DNA của người hiến tặng.
Vậy tại sao một phương cách thụ thai mới có thể giải quyết được một căn bệnh rối loạn di truyền nghiêm trọng lại đưa đến nhiều tranh cãi như thế? Mặc dù một hội đồng cố vấn của FDA đã lưu ý tới phương pháp thụ tinh mới này nhưng quyết định là phải cần có thêm nhiều nghiên cứu nữa trước khi nó được cho phép thử nghiệm trên các bà mẹ đang mong mỏi có con. Hội đồng cố vấn ngụ ý rằng vẫn còn một vài thắc mắc khoa học về những ảnh hưởng lâu dài của phương pháp thụ tinh trên. Ví dụ, nếu chẳng may một phần rất nhỏ những mảnh vụn ty thể biến dạng vô tình còn sót lại và gây ra những vấn đề sức khoẻ cho những thế hệ tương lai của các em?
Mặc dù một số giống khỉ được sinh ra bằng phương pháp thụ tinh này đã sống bình thường và trưởng thành, nhưng chưa có nghiên cứu nào theo dõi những thế hệ tương lai của mấy chú khỉ con này. Một số nhà khoa học nói rằng nếu phải chờ thêm vài thập niên để có kết quả trên những thế hệ tương lai như vậy sẽ lấy mất đi cơ hội có con của những bà mẹ đang trong tuổi sinh đẻ nhưng lại mang mầm mống rối loạn ty thể trong trứng của họ.
Nói đến kỹ thuật sinh sản nhân tạo, chính nước Anh là quốc gia đầu tiên cho phép thực hiện phương pháp thụ tinh nhân tạo (ống nghiệm) vào năm 1978, mở đường cho Hoa Kỳ đi theo và sau đó là nhiều triệu đứa trẻ đã được sinh ra theo phương pháp trên tại Hoa Kỳ và nhiều nơi khác trên thế giới.
Tuy nhiên, phần nhiều những tranh cãi hiện nay vẫn là sự lo ngại sẽ đưa đến tình trạng sau này có những cha mẹ muốn sinh ra những đứa con theo ý muốn của họ (designer babies). Những người chống đối nói rằng nếu bác sĩ có thể biến cải thai phôi, ai dám chắc rồi đây sẽ không có ai thử nghiệm lựa chọn di tố trong việc thụ tinh để tạo ra những đứa trẻ khoẻ, đẹp và thông minh hơn bình thường? Và như thế có nghĩa là đi ngược lại luân lý thông thường mà với những kỹ thuật tân tiến trong lãnh vực y khoa ngày nay làm nhiều người lo ngại.
Nhưng dù có đang tranh cãi thế nào thì người ta vẫn phải chờ xem thượng viện Anh sẽ quyết định có thông qua dự luật cho phép thực hiện phương pháp thụ tinh nhân tạo này hay không đã. Hơn nữa, cơ quan kiểm soát y tế của Anh, tương tự như cơ quan FDA của Hoa Kỳ, còn phải xem xét kỹ lưỡng kết quả khoa học từ những cuộc thí nghiệm khác nữa. Thậm chí nếu việc truyền ty thể vượt qua cuộc kiểm chứng khoa học của cơ quan kiểm soát y tế, nó còn gặp một thử thách lớn khác là tìm một trung tâm y khoa nào có thể thực hiện phương pháp thụ tinh nhân tạo mới mẻ này. Hiện trên thế giới chỉ có một số rất ít bác sĩ có thể đếm trên đầu ngón tay là có khả năng thực hiện được phương pháp thụ tinh trên, và vì vậy không phải là trung tâm y khoa nào cũng có thể làm được. Những diễn biến ở Anh hiện nay có gây ảnh hưởng lên quyết định của chính phủ Hoa Kỳ cho phép thực hiện phương pháp thụ tinh này hay không còn là một câu hỏi rất lớn. Người ta đoán nhanh lắm thì cũng phải chờ thêm vài năm nữa mới biết.
Huy Lâm
HAN * ĐỌC BÁO CUỐI TUẦN
ĐỌC BÁO CUỐI TUẦN
PHAN
Những trang báo xuân muôn đời thơm mùi mực mới, nhưng cái mới lạ lùng của mùi mực in trên báo xuân là khơi dậy hoài niệm nhiều hơn hướng tới. Từng trang báo lật tới là từng kỷ niệm hiện về như viên pháo đốt chung với người bạn nhỏ, từng ký ức mở ra như lột đòn bánh tét, bóc cái bánh chưng… Người xa xứ nào cũng cất giữ hình bóng quê nhà trong lòng vì thời gian dừng lại từ khi bước chân đi. Đời phiêu bạt từ năm thứ nhất ở hải ngoại, rồi năm tính lên hàng chục. Khi người ta nhìn lại thời gian ở hải ngoại đã nhiều hơn tuổi đời lúc ra đi, thì quê nhà có tuổi nhỏ hơn tuổi hải ngoại, nhưng quê nhà vẫn trang trọng hơn trong lòng người viễn xứ bởi đó là nơi chôn nhau cắt rốn; nói nhẹ nhàng hơn là tuổi thơ (tuổi trẻ) có nhiều chuyện đáng nhớ hơn tuổi già. Một người thanh niên hai mươi tuổi, rời xa quê vào năm 1975 nay đã là một ông già sáu mươi.
Thời gian bốn mươi năm sống ở hải ngoại rõ là gấp đôi hai mươi năm sống ở quê nhà. Nhưng trong lòng già không có bốn mươi năm chân trời góc biển, lòng hoài hương vẫn ôm ấp hai mươi năm tình cũ ở quê nhà. Nên với tôi, từng trang báo xuân là từng kỷ niệm hiện về, từng ký ức mở ra theo mùi mực mới, giấy mới, nhưng lại chan chứa ân tình… với quê cũ. Đó là sự độc đáo của báo xuân. Cuốn báo chỉ đọc một lần như báo chợ nhưng khác báo chợ là không bỏ recycle mà xếp lên kệ sách. Vì người tù biết được mình phải ngồi gỡ bao nhiêu cuốn lịch thì được về nhà, nhưng người xa quê chỉ biết đếm bao nhiêu tờ báo xuân trên kệ sách là bấy nhiêu năm xa nhà; chỉ biết hằng năm cất lên kệ sách thêm một năm xa quê… Gấp cuốn báo xuân lại là cất thêm một năm vào quỹ xa nhà của người Việt hải ngoại.
Ôi, những người giàu có cái chán nhất trên đời là nhớ nhà; nhớ tiếng rao đêm khuya của người bán gánh, nhớ lọn gió vô tình chở hết mùi hương dân dã của nhà hàng xóm đang nấu bữa ăn chiều, nhớ tiếng mưa trên mái tôn; nhớ tiếng hát của thằng bé đi nhặt ve chai nghe não lòng, mới mấy tuổi đầu mà nó đã nghêu ngao, “đời tôi cô đơn…”. Những bỗng nhớ là quê nhà, không có gì lớn cả, nhưng lại là tất cả.
Cảm ơn bạn bè với những cuốn báo xuân năm nào cũng gởi tới nhà như món quà đầu xuân. Cảm ơn ly trà từ quê nhà xa lắc chưa quên đứa con lưu lạc, nên hương vị thật gần như làng xóm, người thân…
Ly trà cạn như tờ lịch cuối năm trên tường. Dư vị trà rồi tan đi, tờ lịch mới nào chả háo hức treo lên để một hôm âm thầm gỡ xuống. Háo hức mở cuốn báo xuân còn thơm mùi mực để trở về một thoáng xuân xưa rồi gấp lại ký ức, kỷ niệm, mà trở lại đời thường. Vì đời sống là thực tại chứ không phải quá khứ, đọc tin thời sự để sống còn ở xứ sở này là cần thiết hơn. Giá xăng bắt đầu lên lại; tỷ lệ thất nghiệp không giảm hơn được vì lý do…; Tổng thống đang xin quốc hội cho sử dụng quân đội để triệt hạ ISIS vì an ninh quốc gia Hoa Kỳ…
Sự bất an của người sống trên nước Mỹ không phân biệt dân bản xứ hay di dân, không phân biệt màu da, tiếng nói… vì đâu ai biết hôm nay hay ngày mai bom lại nổ ở phi trường, nhà ga, công viên nào đó trong nội địa Hoa Kỳ. Ai còn ai mất giữa rủi may chỉ là có mặt hay không ở hiện trường. Ngay người hàng xóm mới chào nhau buổi sáng ra lấy thơ chợt gặp thì chắc gì chiều anh ta không gọi cảnh sát than phiền về gia đình người hàng xóm Việt tụ tập đông, đậu xe bừa bãi, gây ồn… Chuyện ăn tết của người Việt không biện minh nổi cho lề thói xã hội nơi đây! Cái giá của tự do ở xứ Mỹ là vô giá nên mọi người như nhau là trả không bao giờ hết!
Tin trên báo cuối năm như chuyện khó tin nhưng có thật vì đây là nước Mỹ, thánh địa của phát minh khoa học; thiên đàng của tự do; cái nôi của những chuyện khó lòng xảy ra ở bất cứ đâu trên địa cầu này…Tin về, Một gia đình ở Missouri lao đao trong vòng lao lý sau khi dàn dựng một vụ bắt cóc giả để dạy cho cậu con trai 6 tuổi về những mối nguy hiểm của người lạ.
Những người liên quan đến vụ bắt cóc giả đều đã bị cảnh sát bắt giữ bao gồm bà ngoại nạn nhân là Rose Brewer, 58 tuổi; người bác Denise Kroutil, 38 tuổi, Nathan Firoved, 23 tuổi (đóng vai kẻ bắt cóc) và mẹ bé Elizabeth Hupp, 25 tuổi.
Theo báo Mirror, cả gia đình Elizabeth Hupp đều rất lo lắng, sợ cậu con trai 6 tuổi bị người lạ bắt cóc vì tính tình dễ tin người lạ của cậu bé. Gia đình đã dàn dựng một vở kịch để dạy cho bé bài học nhớ đời về việc phải cảnh giác với những người lạ mặt.
Vụ bắt cóc giả để dạy con đã đưa ba người nhà Elizabeth Hupp và một người bạn của gia đình vào tù.
Cảnh sát cho biết, các thành viên trong gia đình Elizabeth Hupp kêu oan vì mục đích của họ chỉ là để giáo dục con cháu và họ không nghĩ rằng họ đã làm điều gì sai, hay quá đáng!
Vậy điều gì đã khiến cho cả nhà đi tù vì cậu bé sáu tuổi?
Theo báo Mirror, cả gia đình Elizabeth Hupp đều rất lo lắng, sợ cậu con trai 6 tuổi bị người lạ bắt cóc vì tính tình dễ tin người lạ của cậu bé. Gia đình đã dàn dựng một vở kịch để dạy cho bé bài học nhớ đời về việc phải cảnh giác với những người lạ mặt.
Vụ bắt cóc giả để dạy con đã đưa ba người nhà Elizabeth Hupp và một người bạn của gia đình vào tù.
Cảnh sát cho biết, các thành viên trong gia đình Elizabeth Hupp kêu oan vì mục đích của họ chỉ là để giáo dục con cháu và họ không nghĩ rằng họ đã làm điều gì sai, hay quá đáng!
Vậy điều gì đã khiến cho cả nhà đi tù vì cậu bé sáu tuổi?
Tìm thêm thông tin trên mạng thì câu chuyện liên quan tới năm người, gồm: cậu bé 6 tuổi, bà mẹ, bà ngoại, bà dì, và một thanh niên là bạn làm cùng sở với bà dì.
Câu chuyện bắt đầu từ cậu bé cởi mở, quá dễ kết thân với người lạ. Cậu thân mật với bất cứ ai khiến gia đình vì thương cậu mà lo lắng, e ngại cậu có thể bị bắt cóc như những chuyện thường thấy trên báo chí, đài truyền thanh, truyền hình. Mẹ cậu bé, người dì, và bà ngoại muốn dạy cho cậu bé bài học cảnh giác. Bà dì nhờ một người quen chung sở đóng vai kẻ bắt cóc. Anh ta chờ cậu bé xuống xe bus là kịch vô màn: làm quen, rồi bắt cóc cậu bé. Trói tay, bịt mắt, chở cậu chạy loanh quanh thành phố một chập. Chở cậu bé về nhà và đưa xuống basement. Bà dì vô vai hăm dọa bán cậu bé đi làm… “nô lệ tình dục”.
Màn kích kết thúc ở phòng khách. Mẹ với bà ngoại xuất hiện, giảng giải cho cậu nghe về sự nguy hiểm mà kẻ lạ có thể làm đối với cậu.
Màn kịch của gia đình kết thúc (tùy người khen chê theo quan điểm riêng). Nhưng xã hội Mỹ không khép màn dễ vậy! Hôm sau đi trường lại, cậu bé kể hết chuyện ra, lại cộng thêm bao nhiêu sợ hãi, lo lắng của cậu. Kết quả là cảnh sát bắt giam hết bốn người trong câu chuyện; Còn cậu phải đi vào một trung tâm của chính phủ, nơi trông coi trẻ em bị ngược đãi – khủng bố tinh thần…
Màn kịch của gia đình kết thúc (tùy người khen chê theo quan điểm riêng). Nhưng xã hội Mỹ không khép màn dễ vậy! Hôm sau đi trường lại, cậu bé kể hết chuyện ra, lại cộng thêm bao nhiêu sợ hãi, lo lắng của cậu. Kết quả là cảnh sát bắt giam hết bốn người trong câu chuyện; Còn cậu phải đi vào một trung tâm của chính phủ, nơi trông coi trẻ em bị ngược đãi – khủng bố tinh thần…
Gia đình cậu bé kêu oan cũng phải vì họ chỉ vì thương yêu và lo lắng cho con em. Nhưng luật pháp ở thiên đường Mỹ quốc cứ vẫn truy tố tội hành hung, ngược đãi, khủng bố… tinh thần trẻ em. Chuyện khó tin nhưng có thật ở nước Mỹ là thế!
Điều đáng nghĩ là dấu ấn khó phai trong tâm trí cậu bé với quãng đời không có mẹ, ngoại, dì… vì họ ở tù – vì cậu! Rồi khi cậu bé trưởng thành, có dám lập gia đình, sanh con hay không? Bởi ai chả sợ ở tù. Và ở Mỹ thì ở tù vì phạm pháp là ở tù. Đừng hòng nói chuyện tình ngay lý gian gì hết!
Trang báo khép lại nhưng chuyện về nước Mỹ mở ra để đừng bao giờ quên nhập gia phải tùy tục với nước Mỹ này! Khoảng năm 2000, tôi và mấy bạn cùng xưởng thường ghé nhà một người bạn, cũng làm chung, vào những cuối tuần. Chúng tôi nướng thịt, uống bia, và coi game football ngoài garage. Nhóm chúng tôi chỉ chia phe cá độ với nhau thùng bia, vỉ cánh gà để nướng cho game tuần sau. Không chơi tiền bạc nên được mấy bà vợ thông cảm.
Nhà bên cạnh có một con chó nhỏ xíu, rất dễ thương. Nó nghe mùi cánh gà nướng nên tà tà qua chơi. Gặp anh bạn ở Việt nam mới qua, điếc không sợ súng với luật pháp Mỹ. Anh ta ném cho con chó miếng thịt cánh gà nướng, thấy nó xơi ngon lành nên ném luôn cho nó miếng xương!
Tai họa giáng xuống đầu bọn tôi mà anh ta thì cười, gọi mọi người coi, “con chó hóc xương, mắc cười quá!”
Tai họa giáng xuống đầu bọn tôi mà anh ta thì cười, gọi mọi người coi, “con chó hóc xương, mắc cười quá!”
Anh chủ nhà đóng vội cửa garage xuống, “Ông hại tui rồi! Cười không nổi…!”
Người bạn lớn tuổi nhất, tuy là khách. Nhưng ra lệnh giải tán liền tức khắc. Rồi liên lạc với nhau bằng điện thoại.
Người bạn lớn tuổi nhất, tuy là khách. Nhưng ra lệnh giải tán liền tức khắc. Rồi liên lạc với nhau bằng điện thoại.
Vừa về tới nhà, tôi đã nghe qua điện thoại của người bạn chủ nhà, “Chết tôi thiệt rồi! Vợ chồng thằng hàng xóm qua nói với tôi, họ đưa con chó đi cấp cứu ở bệnh viện thú vật (animal hospital). Tôi hứa liều là hết bao nhiêu tiền, tôi xin chịu. Và xin lỗi ông bà, vì người bạn mới từ Việt nam mới qua, không biết…!”
Tin cập nhật tiếp theo chỉ nửa tiếng sau, là: Cảnh sát tới nhà bạn tôi để lập biên bản. Thấy gia chủ là người đàng hoàng, biết lỗi và nhận lỗi nên viên cảnh sát cho biết, “Con chó phải được làm phẫu thuật để lấy khúc xương gà mắc ở cổ họng ra. Vợ chồng người hàng xóm sợ là số tiền lớn nên bạn tôi sẽ không chịu trả, vì thế họ mới báo cảnh sát đến lập biên bản để có hồ sơ ra tòa nếu bạn tôi chối tội…”
Tin cập nhật tiếp theo chỉ nửa tiếng sau, là: Cảnh sát tới nhà bạn tôi để lập biên bản. Thấy gia chủ là người đàng hoàng, biết lỗi và nhận lỗi nên viên cảnh sát cho biết, “Con chó phải được làm phẫu thuật để lấy khúc xương gà mắc ở cổ họng ra. Vợ chồng người hàng xóm sợ là số tiền lớn nên bạn tôi sẽ không chịu trả, vì thế họ mới báo cảnh sát đến lập biên bản để có hồ sơ ra tòa nếu bạn tôi chối tội…”
Viên cảnh sát tử tế với bạn tôi khi bạn tôi tham khảo ý kiến chính anh ta. Anh ta nói thêm, “đằng nào mày cũng phải trả tiền ca phẫu thuật cho con chó thôi. Đừng để lôi thôi ra tòa, sẽ lãnh thêm tội ngược đãi súc vật!”
Cuối cùng là hơn hai ngàn đô la trong năm 2000, là một số tiền không nhỏ, nhất là đối với chúng tôi. Bữa đó sáu mặt nhậu nhưng chia năm theo lệnh người lớn tuổi nhất vì anh bạn bên Việt nam mới qua chỉ có lời xin lỗi gia chủ và anh em. Câu chuyện tuy làm khó khăn tài chánh cho anh em bấm thẻ lúc bấy giờ, dù không làm ai khánh tận, nhưng bài học …đừng chơi với chó của nhà hàng xóm ở Mỹ còn đắng họng tới bao giờ khi chợt nhớ tới.
Nếu ai đọc báo mà nhớ hết thì chuyện lãng òm ở Mỹ sẽ không kể xiết, chỉ biết người càng ở lâu trên xứ này càng sợ họa bá vơ. Chuyện lâu hơn, cũ hơn, là năm 1994. Một sáng đầu tuần, ông xếp giới thiệu với tôi người mới. Từ nay anh ta làm việc với mày.
Đó là người đàn ông Mỹ trắng. Đã hơn năm mươi tuổi nhưng ông ta to lớn, vui vẻ, khỏe mạnh như thanh niên. Thoáng thấy việc nặng là ông nói, “để đó tao…!” Vì tôi có người đồng nghiệp khác nữa, cũng là một tay Việt nam, nhưng nhỏ thó và yếu hơn tôi nữa!
Tôi khoái ông Mỹ trắng từ ngày đầu là không ăn hiếp hai thằng Việt nam nhỏ con, tiếng Anh không rành…, ngược lại còn dùng sức khỏe hơn người của ông để giúp chúng tôi. Thằng bạn tôi không biết nói một câu tiếng Anh đơn giản nhất như chào hỏi ông ta mỗi buổi sáng, nhưng tình người không ngôn ngữ, nó hiểu được ông ấy thương nó, nên nó nhờ tôi nói với ông ấy là nó thương ông ấy lắm!
Tình cảm của ba thằng làm chung một việc tới cuối tuần. Hai thằng tôi rủ ông ấy đi uống bia vì ông ấy mới làm hết tuần đầu thì phải thứ sáu tuần sau mới có lương.
Ông ấy rất cảm động với chúng tôi. Nhưng đành từ chối vì ông ấy đã ở tù năm năm. Đây là lần đầu tiên nhà tù cho ông ra đi làm thử một tháng. Nếu ông không có gì sai trái thì họ mới cho ông ra tù thực sự, trở lại đời thường. Vì thế ông không thể đi uống bia với chúng tôi trong tháng đầu ra tù. – Ông không muốn vô tù lại!
Tình thương mến thương đành hẹn lại với nhau khi ông được thực sự tự do thì uống bia với nhau một bữa cho đã đời. Nhưng từ tình thân có được mà tôi biết được lý do đi tù của một người lương thiện bản xứ; tôi biết sợ luật pháp Mỹ qua chuyện ông Corner…
Ông ấy rất cảm động với chúng tôi. Nhưng đành từ chối vì ông ấy đã ở tù năm năm. Đây là lần đầu tiên nhà tù cho ông ra đi làm thử một tháng. Nếu ông không có gì sai trái thì họ mới cho ông ra tù thực sự, trở lại đời thường. Vì thế ông không thể đi uống bia với chúng tôi trong tháng đầu ra tù. – Ông không muốn vô tù lại!
Tình thương mến thương đành hẹn lại với nhau khi ông được thực sự tự do thì uống bia với nhau một bữa cho đã đời. Nhưng từ tình thân có được mà tôi biết được lý do đi tù của một người lương thiện bản xứ; tôi biết sợ luật pháp Mỹ qua chuyện ông Corner…
Ông đau buồn nhiều sau cái chết của vợ với đứa con gái duy nhất của hai người vì một tai nạn giao thông. Cái đau điếng là tai nạn xảy ra khi bà đi cố vấn việc chọn áo cưới cho con gái mình theo yêu cầu của chàng rể tương lai. Nhưng ý trời bỏ lại hai người đàn ông cô đơn trên cõi trọc này. Họ biết làm gì hơn uống bia với nhau cho hết quãng đời còn lại.
Rồi người bạn trẻ (con rể hụt) đi lấy vợ sau vài năm niềm đau nguôi ngoai. Ông Corner không trách chàng rể hụt mà ngược lại còn xem anh ta như con trai của mình. Ông ấy giúp đôi vợ chồng trẻ nhiều vì lương thợ sửa thang máy của ông ấy ngang lương kỹ sư. Trong khi ông ấy bỗng trở thành người giàu bất đắc dĩ vì bảo hiểm xe cộ đền tiền tai nạn của vợ con cho một số tiền lớn. Bảo hiểm nhân thọ của vợ ông cũng nhiều tiền…
Nhưng an toàn, tự do, giàu có… những yếu tố của hạnh phúc ở Mỹ quá mong manh, vì thằng con trai nuôi mê mệt con vợ đẹp nên phản cha nuôi! Ông đâu biết con vợ nó là con bạc vỡ nợ.
Một hôm, ông đi làm về tới nhà, quần áo đầy dầu mỡ và mồ hôi bởi mùa hè Texas. Ông cởi áo sơ mi từ khi sửa xong cái thang máy ở một rạp hát trong downtown. Ông về nhà, xông vô master bathroom của mình trong tư thế đang cởi quần – để tắm một cái cho tỉnh người. Đâu ngờ đứa con dâu nuôi đang lõa lồ trong shower bước ra…Nhưng an toàn, tự do, giàu có… những yếu tố của hạnh phúc ở Mỹ quá mong manh, vì thằng con trai nuôi mê mệt con vợ đẹp nên phản cha nuôi! Ông đâu biết con vợ nó là con bạc vỡ nợ.
Ông nói xin lỗi, rồi ra tủ lạnh lấy lon bia giải khát ở bàn ăn. Lòng bực tức là cho vợ chồng thằng con nuôi ở trong nhà ông vì nó nói thất nghiệp, không tiền trả apartment nên cho hai đứa dọn về ở tạm nhà ông tới có việc làm lại. Vợ chồng nó ngủ trên lầu, trên đó có nhà tắm, toilet. Nếu có gì trục trặc thì kêu thợ tới sửa chứ mắc gì tự động xuống sử dụng nhà tắm trong master bathroom của ông ở nhà dưới…?
Cơn giận của ông đang dồn đến quyết định đuổi thằng con nuôi và con dâu nuôi ra khỏi nhà. Cho tụi nó ít tiền đi mướn chỗ ở…
Nhưng quyết định của ông không bao giờ thực hiện được vì cảnh sát đã tới nhà để còng tay, đưa ông đi tù vì xông vào nhà tắm lúc con dâu đang tắm, (với tư thế đang cởi quần)!
Ra tòa. Thằng con rể hụt thành con nuôi phản cha nuôi để cứu vợ nó. Nó muốn chiếm đoạt tài sản của ông để cứu vợ nó đã lâm vào vỡ nợ bởi bài bạc. Nó đứng về phía vợ – trước tòa, để kết tội ông: tấn công tình dục. Đòi bồi thường, với hăm dọa bỏ tù ông…
Một người lương thiện vì thương người mà vướng vào lao lý. Ông mất việc làm, hết gia tài vì tiền luật sư bào chữa cho ông từ mười hai năm tù giảm xuống năm năm.
Chuyện lãng òm ở Mỹ là thằng “con rể hụt, thành con nuôi” của ông cũng bị con vợ cờ bạc lường gạt, phải đi tù sau ông không tới một năm.
Hai người đàn ông tan cửa nát nhà, mất việc, hết tiền… đi tù – vì người đàn bà mê cờ bạc. Trong khi cô ta lại phây phây đi lừa gạt người khác.
Đúng là ở Mỹ đừng đụng tới con nít, con chó, đàn bà – bộ ba được tôn vinh ở Mỹ.
Đúng là ở Mỹ đừng đụng tới con nít, con chó, đàn bà – bộ ba được tôn vinh ở Mỹ.
Sáng cuối năm ngồi đọc báo tiễn đưa một năm xa nhà nữa lên đường bụi mờ. Lòng chơi vơi thèm bạn bè để bớt nghĩ lung tung. Quả tình có người bạn rủ đi uống cà phê qua điện thoại. Nhưng mất hứng bất tử, tôi trả lời, “tôi uống cà phê, đọc báo rồi, và đang viết báo về những chuyện tào lao ở Mỹ…”
Ông bạn tôi có ý kiến, “… ba con trong bài báo mày đang viết. Chuyện thằng con nít thì gia đình nó hơi quá đáng! Chuyện con chó thì bọn bay quá ngu – để Mỹ ăn hiếp. Chuyện con dâu với cha chồng… thì.”
Ông bạn tôi có ý kiến, “… ba con trong bài báo mày đang viết. Chuyện thằng con nít thì gia đình nó hơi quá đáng! Chuyện con chó thì bọn bay quá ngu – để Mỹ ăn hiếp. Chuyện con dâu với cha chồng… thì.”
Không biết “thì” gì? Ông bạn tôi ở Mỹ thành tinh rồi nên ông không tin người Mỹ nào hết! Tôi hiểu ý ông là cô con dâu có thể gài bẫy cha chồng; nhưng cha chồng chỉ là cha nuôi của chồng nên huyết thống gì đâu mà ngại cái chuyện ấy chứ? Trong khi ông ta là người đàn ông khỏe mạnh và vợ chết đã mấy năm…
Thật đáng ngại cho lòng đa nghi của ông bạn. Nhưng những điều ông nói ra không phải không có lý. Và dù sao tôi cũng đang nhớ lại những chuyện tào lao ở xứ sở này mà tôi biết được. Đành cảm ơn ông nhắc chuyện, “…mày còn nhớ chuyện con cú ở farm của thằng Đực không? Còn lãng xẹt hơn mấy chuyện mày đang viết lại…”
Thật đáng ngại cho lòng đa nghi của ông bạn. Nhưng những điều ông nói ra không phải không có lý. Và dù sao tôi cũng đang nhớ lại những chuyện tào lao ở xứ sở này mà tôi biết được. Đành cảm ơn ông nhắc chuyện, “…mày còn nhớ chuyện con cú ở farm của thằng Đực không? Còn lãng xẹt hơn mấy chuyện mày đang viết lại…”
Đúng là chuyện khó tin nhưng có thật ở Mỹ. Năm ngoái, bạn tôi mua năm mẫu đất, cất cái trại gà đá. Mà ở đâu có gà thì ở đó có rắn tới ăn trộm trứng. Chúng tôi tới trại gà nhưng nhậu thịt rắn lia chia vì gà đá dai nhách mà ăn gì!
Tới khi trại gà có gà con thì cú mèo xuất hiện! Tôi chưa từng thấy con cú mèo nào to như con gà tây này. Hai mắt nó to như hai quả ping-pong, xanh lè tới phát khiếp! Hai chân nó móng vuốt, sần sùi như hai tay mụ phù thủy độc ác nhất thế gian…
Đêm, nó mò vô tới chuồng gà. Đánh văng con gà mẹ để cắp gà con – bay đi. Mà gà con giống Peru thì tới ba trăm đô la một con. Thằng Đực tiếc của hôm cái mỏ như thép nguội của con cú bẻ gãy cổ con gà mẹ luôn.
Nó đặt bẫy lồng – và bắt được con cú.Chúng tôi toan tính là đem con cú đi thật xa, rồi thả ra. Chắc nó không nhớ đường về đây để bắt gà con nữa! Nhưng không ai có thời giờ để đưa cú đi biệt xứ. Thằng Đực chọn phương án ôn hòa là sang hỏi thăm ông hàng xóm Mỹ trắng. Tin tức nó đem về là ông Mỹ trắng biết con cú này, nó thường bắt gà của ông trước đây. Nhưng mấy năm nay ông không nuôi gà nữa nên nó không tới. Bây giờ thằng Đực mở trại nuôi gà thì nó lại về. Đừng hòng đem nó đi xa mà nó quên đường về đây…
Ông ấy có cho thằng Đực số điện thoại của animal control ở địa phương, và hướng dẫn là gọi họ đến đem nó đi. Khi nào thấy nó bay về thì gọi nữa…
Chỉ một tiếng sau khi gọi, xe của enimal control tiến vào cổng farm. Người thanh niên nhà quê lực lưỡng – càng uy nghi hơn trong đồng phục như cảnh sát. Anh ta từ tốn, hiền lành, tốt bụng, vui vẻ, niềm nở. Nhưng năm tính tốt đó hơi mắc là tới năm trăm đô la! Bởi sau khi nghe thằng Đực trình bày, anh ta thản nhiên nói, “Ông phạm hai tội. Một là ông không được bắt chim cú bởi nó trong danh sách động vật hoang dã không được bắt. Chỉ người có licence như chúng tôi mới được bắt nó. Hai là ông phạm tội ngược đãi súc vật vì ông không được giam giữ nó quá 24 tiếng. Lần sau, ông thấy nó đến bắt gà thì gọi chúng tôi. Để chúng tôi tới bắt nó đi. Bây giờ…!”
Cái bây giờ làm teo chim thằng Đực là bị còng tay hay gì đây? (Bạn bè đứng xung quanh bỗng lo cho nó!)
Nhưng người nhân viên animal control không rút còng mà chìa cho thằng Đực tờ biên bản phải ký tên vô, và tờ giấy phạt năm trăm đô la. Không cho lý lẽ gì hết! Vẫn ôn tồn, thân thiện, người nhân viên ấy nói, “Luật là vậy! Ông có thể mướn luật sư để ra tòa. Nhưng tôi khuyên ông nên đóng phạt trước ngày quy định để ông không mắc tội thứ ba…”
Nó tức tới ấp úng. Nhưng không quên cảm ơn người nhân viên animal control đã ân xá cho nó tội “ngược đãi động vật hoang dã” – không ghi vô biên bản là nó đã nhốt con cú hơn 24 giờ. Chỉ phạt một tội không có licence mà dám bắt nhốt con cú.
Xe animal control chở con cú đi. Nhưng sự tức tưởi thì ở lại mãi với thằng Đực. Như luật pháp nơi đây được thế giới ca tụng là nghiêm minh, người thi hành pháp luật không nhúng chàm. Nhưng luật nào không có kẽ hở để kẻ xấu lợi dụng và luật nào không cứng ngắc để người ngay đôi khi bị mắc oan.
Cuối năm ngồi đọc báo tết càng nhớ nhà, càng buồn hơn. Nhưng đọc báo ngày thì lo âu cho cái xã hội mà mình đang sống với luật pháp bảo vệ mình tối đa, tới mức nó bắt mình hồi nào không biết vì ai hiểu hết luật pháp bao giờ, chỉ khi đụng chuyện mới té ngửa ra… thì đã muộn. Đành chịu tiếng hèn mà tránh xa những con nguy hiểm như con nít, con chó, con cú, con… gì nữa đây!
Cuối năm ngồi đọc báo tết càng nhớ nhà, càng buồn hơn. Nhưng đọc báo ngày thì lo âu cho cái xã hội mà mình đang sống với luật pháp bảo vệ mình tối đa, tới mức nó bắt mình hồi nào không biết vì ai hiểu hết luật pháp bao giờ, chỉ khi đụng chuyện mới té ngửa ra… thì đã muộn. Đành chịu tiếng hèn mà tránh xa những con nguy hiểm như con nít, con chó, con cú, con… gì nữa đây!
Phan
TS. PHẠM CAO DƯƠNG * PHẠM QUỲNH
Việt Nam 1945: Những Ngày Cuối Cùng Trong Cuộc Đời Làm Chính Trị Của Học Giả Phạm Quỳnh
Phạm Cao Dương, TS
November 1, 20140 Bình Luận
November 1, 20140 Bình Luận
Cho tới nay mọi người đều biết là sau ngày Nhật đảo chánh Pháp, 9 tháng 3, 1945, Nội Các Phạm Quỳnh đã từ chức và được thay thế bởi Nội Các của Học Giả Trần Trọng Kim. Vắn tắt như vậy, nhưng một vấn đề không kém quan trọng cần được đặt ra là chuyện gì đã xảy ra ở chung quanh Hoàng Đế Bảo Đại và thái độ của nhà vua đối với Phạm Quỳnh trong thời gian một tuần lễ kể từ ngày Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nhà vua mà Phạm Quỳnh là tác giả , được ban hành, từ ngày 11 tháng 3 đến ngày 19 tháng 3 năm 1945, ngày Phạm Quỳnh và các thượng thư khác, mà người ta thường quen gọi là Cơ Mật Viện hay Hội Đồng Thượng Thư hay Nội Các Phạm Quỳnh tùy theo từng sách, từ chức và nhà vua tuyên bố đích thân điều khiển việc nước, sau đó đã quyết định thành lập chính phủ mới? Trong bài này người viết xin được phần nào trả lời câu hỏi này.
Nội Các Phạm Quỳnh Từ Chức và Vai Trò của Ngự Tiền Tổng Lý Văn Phòng Phạm Khắc Hoè
Sau Đảo Chính 9 tháng 3, 1945 Hoàng Đế Bảo Đại vẫn còn tín nhiệm Học Giả Phạm Quỳnh và muốn giao thêm nhiệm vụ mới
Theo Bảo Đại qua hồi ký sau này của ông thì một ngày sau khi Bản Tuyên Ngôn Độc Lập được ban hành, ngày 12 tháng 3, nhà vua có triệu Đại Sứ Yokoyama vào cung để trao bản Tuyên Ngôn Độc Lập của ông. Trong buổi gặp gỡ này Bảo Đại đã đặt vấn đề xứ Nam Kỳ và trước khi cáo lui, Yokoyama với giọng như dò hỏi và nhẹ nhàng gợi ý là giữa lúc Việt Nam đi vào con đường mới, nhà vua có định thành lập một chính phủ hợp bởi những người mới để đáp ứng nhu cầu của một nước Việt Nam mới hay không? Trước câu hỏi này, Bảo Đại chỉ cười mà không trả lời, nhưng trong hồi ký, ông viết thêm là “Trao sự điều khiển quốc gia cho những người mới…Một trong những mục tiêu mà tôi nhắm tới vào lúc tôi mới lên ngôi.”[2] Những người mới này là những người hoàn toàn mới hay là luôn cả những người có thể được coi là mới vì mới được nhà vua đưa vào làm việc khi ông mới lên ngôi nhưng chưa thi thố được tài năng, trong đó có Phạm Quỳnh và Ngô Đình Diệm? Câu hỏi được đặt ra không phải chỉ vì Bảo Đại không trực tiếp trả lời Yokoyama mà chỉ cười, một cái cười đầy ý nghĩa, mà sau này lời chứng của Phạm Khắc Hoè, đương thời là Ngự Tiền Tổng Lý Văn Phòng của nhà vua, người vốn đã là một cảm tình viên của Việt Minh, nằm vùng trong Đại Nội bên cạnh nhà vua và Nam Phương Hoàng Hậu, nhân chứng người ngoài duy nhất có mặt trong Đại Nội trong những ngày này cho ta biết phần nào. Trong hồi ký của Phạm Khắc Hoè, Phạm Khắc Hoè đã ghi rằng sáng ngày 12 tháng 3, một ngày sau khi Bản Tuyên Ngôn Độc Lập được công bố, nhà vua có bảo ông thảo một “đạo dụ” cử Phạm Quỳnh làm người thay mặt cho Chính Phủ Việt Nam Độc Lập để giao thiệp với người Nhật.[3] Sự kiện này chứng tỏ là vào lúc đó Bảo Đại vẫn chưa có ý định thay thế Phạm Quỳnh và còn tín nhiệm Phạm Quỳnh hay ít ra là muốn dùng Phạm Quỳnh trong thời gian chuyển tiếp, một thời gian vô cùng quan trọng cho vị nguyên thủ quốc gia, sau một biến cố vô cùng trọng đại và bất ngờ xảy ra cho đất nước mình và chính mình là Đảo Chính 9 tháng 3 năm 1945, làm chủ được vị thế của mình, đồng thời lượng định được tình hình rồi mới đi đến những quyết định cuối cùng hay những thay đổi có tính cách lâu dài hơn mà không gây xáo trộn. Điều này cũng được Hoàng Xuân Hãn kể lại khi nhân chứng đáng tin cậy này được Nhà Văn Thụy Khuê phỏng vấn như sau:
“Rồi đến lúc đảo chính Nhật, một hôm tôi ở Hà Nội, nghe tin radio biết rằng ông ấy (Vua Bảo Đại) giao cho ông Phạm Quỳnh liên lạc với người Nhật để đổi mới gì gì đấy. Đợi mãi hơn một tuần không có tin gì mới hết cả. chúng tôi nhiều người nóng ruột lắm. Chính ở Bắc, anh em có mượn một người đi vào Huế dò tin tức, người ta đi xe đạp từ Hà Nội về Huế, lúc ấy tầu hỏa bị đứt đoạn, đi lại khó lòng lắm. Đến lúc trở về đây thì cũng chỉ biết tin vừa vừa thôi, rằng hình như ông ấy giao cho Phạm Quỳnh, nhưng Phạm Quỳnh không làm gì cả.”[4]
Nội Các Phạm Quỳnh từ chức – Vai trò của Ngự Tiền Tổng Lý Văn Phòng Phạm Khắc Hoè
Mọi chuyện đã hoàn toàn đổi khác vì Phạm Quỳnh đã từ chức và lịch sử đã chuyển sang một hướng khác. Theo Phạm Khắc Hoè thì việc từ chức của Nội Các Phạm Quỳnh và sự chấp thuận sự từ chức này của Vua Bảo Đại là do chính Phạm Khắc Hoè gợi ý và chủ động. Thay vì tuân lệnh Vua Bảo Đại, soạn thảo đạo dụ theo ý muốn của nhà vua, Phạm Khắc Hoè đã quay sang nói xấu Phạm Quỳnh và khuyên nhà vua không nên dùng Phạm Quỳnh nữa. Câu chuyện hôm đó kéo dài hơn nửa giờ và Bảo Đại quyết định tạm cử Phạm Quỳnh “cho dễ liên lạc với Nhật đã rồi sau sẽ hay.” Nguyên văn lời kể của Phạm Khắc Hoè như sau:
“Sau một đêm thao thức, suy nghĩ về những chuyện trên, sáng ngày 12 tháng 3, tôi vào Đại Nội làm việc với ý định nêu vấn đề cải tổ Viện Cơ Mật lại với Bảo Đại. Nhưng chưa biết bắt đầu như thế nào?
“Tôi đang ngồi bóp trán suy nghĩ thì một nguời thị vệ vào nói: Dạ bẩm, Hoàng đế ban Cụ qua chầu có việc gấp. Tôi liền sang Phòng Phê thì Bảo Đại bảo thảo một đạo Dụ cử Phạm Quỳnh làm người thay mặt Chính phủ Việt Nam độc lập giao thiệp với tối cao Cố vấn Nhật và các nhà chức trách Nhật nói chung. Thấy tôi làm thinh, tỏ vẻ không thông mệnh lệnh ấy, Bảo Đại nói thêm: Nếu ông thấy có chi khó khăn chi thì cứ đi bàn với ông Lại mà làm cho kịp thời. Sau phút ngập ngừng, tôi nói toạc ra với Bảo Đại rằng: Phạm Quỳnh là một người xấu, bị mọi từng lớp nhân dân oán ghét và giới nhân sĩ trí thức khinh bỉ, mặc dầu ai cũng biết ông ta học rộng, nói hay cả tiếng Việt lẫn tiếng Pháp. Cho nên nếu nhà vua thực tâm vì dân, vì nước thì không nên dùng Phạm Quỳnh nữa. Câu chuyện kéo dài hơn nửa giờ và cuối cùng Bảo Đại nói: Thôi! Hãy tạm cử Phạm Quỳnh cho dễ liên lạc với Nhật đã, rồi sau sẽ hay.
“Tôi trở về văn phòng thảo ngay một tờ Chỉ cử Lại Bộ Thượng Thư Phạm Quỳnh tạm thời làm nhiệm vụ liên lạc giữa Chính phủ Việt Nam độc lập với các nhà chức trách Nhật, đem lên cho Bảo Đại ký rồi sao lục ngay cho các Bộ và Tối cao cố vấn Nhật. Làm như vậy, tôi chắc rằng những chữ chỉ, tạm thời, và liên lạc thế nào cũng làm cho Phạm Quỳnh căm thù mình! Ấy thế nhưng sáng ngày 14 tháng 3, khi gặp tôi trong buổi lễ cáo yết Liệt Thánh, Phạm Quỳnh đã tỏ ra ngọt ngào với tôi hơn bao giờ hết. Và lúc buổi lễ kết thúc, ông ta thiết tha căn dặn tôi chiều hôm ấy trên đường đi vào Đại Nội, ghé qua Bộ Lại nói chuyện.
“Đúng hai giờ chiều, tôi ghé qua Bộ Lại, Phạm Quỳnh đón tiếp tôi niềm nở hơn trước nhiều và giữ lại nói chuyện hơn một tiếng đồng hồ. Nội dung câu chuyện xoay quanh tương lai tốt đẹp của Tổ quốc và tiền đồ vẻ vang của những người trí thức Âu-Á kiêm thông.”[5]
Đoạn hồi ký này rất quan trọng. Nó cho người ta thấy Hoàng Đế Bảo Đại lúc đầu chưa có ngay ý định thay thế Phạm Quỳnh và lập một chính phủ mới. Không những thế, ngay sau ngày 11 tháng 3, nhà vua đã có ý định bổ nhiệm Phạm Quỳnh thay mặt Chính Phủ độc lập trong việc giao thiệp với Tối Cao Cố Vấn Nhật và các giới chức Nhật khác bằng một đạo Dụ. Nhà vua đã tới văn phòng làm việc rất sớm, tới trước cả Phạm Khắc Hoè, để thực hiện quyết định này. Nhưng Phạm Khắc Hoè đã phá hỏng tất cả khiến cho ít ra một thời kỳ chuyển tiếp đã không được thực hiện và một tình trạng không chính phủ đã xảy ra từ ngày 19 tháng 3, ngày sáu vị thượng thư từ chức và được chấp nhận cho đến ngày 8 tháng 5, ngày nội các Trần Trọng Kim họp phiên họp đầu tiên với đầy đủ các nhân sự để nhận lãnh công tác và Vua Bảo Đại có lúc “đã cuống lên” vi không kiếm ra được người lập nội các như lời kể của Hoàng Xuân Hãn,[6] trong khi tình hình đất nước vô cùng nghiêm trọng, có nhiều việc cấp bách cần phải làm.
Thành công bước đầu,Phạm Khắc Hoè sau đó đã làm một “tờ chỉ”, một văn kiện kém quan trọng hơn một “đạo dụ” rất nhiềuđể cử Phạm Quỳnh vào vai trò tạm thời nàynhằm hạ thấp vaitrò và uy tín của Phạm Quỳnh. Cho là chưa đủ, có lẽ vì cho tới thời điểm đó Phạm Khắc Hoè chỉ mới hành động do ý riêng của cá nhân mình do sự ghen ghét với Phạm Quỳnh sau “một đêm thao thức suy nghĩ..”, Phạm Khắc Hoè sau đó một mặt hỏi ý kiến Tôn Quang Phiệt, một đảng viên Tân Việt kỳ cựu hoạt động cho Việt Minh ở Huế đương thời, sau này là Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng đầu tiên của tỉnh Thừa Thiên rồi Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chính Thừa Thiên, mặt khác vận động với các thượng thư Bùi Bằng Đoàn và Ưng Úy để hai vị này thuyết phục Bảo Đại loại bỏ Phạm Quỳnh và “vận động toàn thể Cơ Mật Viện từ chức”.[7] Kết quả là sáng sớm ngày 17, Bảo Đại đã cho gọi Phạm Khắc Hoè qua phòng làm việc của mình, Phòng Phê, và ra lệnh cho ông này soạn thảo một đạo dụ theo đó “từ nay Trẫm sẽ tự cầm quyền và chế độ chính trị sẽ căn cứ vào khẩu hiệu Dân vi quý”.[8] Dụ này mang tên là Dụ Số 1, được ban hành ngày 17 tháng 3 năm 1945.
Tiếp theo đó là “ Khoảng 10 giờ sáng ngày 19 tháng 3, cả sáu vị Thượng thư vào yết kiến nhà vua đưa đơn xin từ chức” và đã được Bảo Đại chấp thuận.[9] Cũng nên để ý là theo hồi ký của Bảo Đại, trước đó Phạm Quỳnh có báo cáo cho nhà vua biết về những phản ứng xảy ra trong Hội Đồng, hiểu theo nghĩa ở đây là Hội Đồng Thượng Thư, theo đó người ta sợ hoặc là người Nhật sẽ đổi ý, hoặc là người Pháp sẽ trở lại, hoặc là Vua Duy Tân hay Hoàng Thân Cường Để sẽ trở về… Điều này cho phép người ta suy đoán rằng tình trạng hoang mang của các vị thượng thư này ngoài những tin tức liên quan đến tình hình thời đó, phần nào còn là do Phạm Khắc Hoè tạo ra qua hai Thượng Thư Bùi Bằng Đoàn và Ưng Úy. Tuy nhiên, để trả lời Phạm Quỳnh, nhà vua đã dứt khoát bảo với ông này qua nguyên văn: “Ông liệu mà bảo họ chấm dứt những chuyện ăn nói lung tung và mưu mô đó đi… Hoàng đế là Trẫm! Bảo họ đừng quên điều đó. Nếu ngày nào Trẫm phải ra đi, ngày đó sẽ không còn Đế Quốc Việt Nam này nữa!”[10] Những sự kiện này và câu nói của Bảo Đại cho ta thấy một điều là ngay từ những ngày đầu nhà vua đã phải đương đầu với hoạt động của những người Cộng Sản xuyên qua người nằm vùng của họ, ngay trong Đại Nội bên cạnh nhà vua, là Phạm Khắc Hoè, nạn chống đối nhau trong nội bộ các quan lại cao cấp trong triều, đồng thời sự hiểu biết và thái độ cương quyết của ông.
Sự thù ghét và chống đối Phạm Quỳnh của Phạm Khắc Hoè
Câu hỏi được đặt ra là tại sao Phạm Khắc Hoè lại thù ghét và chống lại Phạm Quỳnh như vậy? Trong hồi ký của ông, Phạm Khắc Hoè không cho biết lý do mà chỉ nói rằng Phạm Quỳnh là một người “bản chất xấu xa và nguy hiểm”[11] nhưng người ta có thể suy đoán hai điều. Trước nhất là sự ghen tị của Phạm Khắc Hoè đối với Phạm Quỳnh. Sự ghen tị này bắt nguồn từ sự kiện là cả hai người đều là thân cận của Bảo Đại ở vào thời điểm này. Thêm vào đó, Phạm Khắc Hoè có gốc quan trường, được huấn luyện theo đường lối chính thống để làm công chức, quan lại với chức vụ trước đó là Quản Đạo Đà Lạt, một chức vụ cũ của Ngô Đình Diệm, còn Phạm Quỳnh không có gốc quan trường mà xuất thân là một nhà báo, một học giả tiếng tăm, bất ngờ được chuyển sang làm Ngự Tiền Văn Phòng rồi Thượng Thư Bộ Học và Lại. Tại sao lại cứ là Phạm Quỳnh mà không phải là Phạm Khắc Hoè? Thứ hai, Phạm Khắc Hoè vốn cùng quê với Tôn Quang Phiệt và có liên lạc với Tôn Quang Phiệt từ trước nên đã chịu ảnh huởng của Tôn Quang Phiệt, do đó đã trở thành nằm vùng cho Tôn Quang Phiệt. Nhất cử nhất động của vua Bảo Đại cũng như những gì xảy ra ở trong Đại Nội đều được Phạm Khắc Hoè kể cho Tôn Quang Phiệt nghe và hỏi ý Tôn Quang Phiệt hết. Sự kiện Phạm Quỳnh bị loại bỏ do đó phần nào có thể là do chủ trương và vận động của những người Cộng Sản hay thiên Cộng ở Huế lúc bấy giờ hay xa hơn nữa, y hệt như trường hợp của Trường Thanh Niên Tiền Tuyến do Phan Anh thành lập. Phạm Khắc Hoè chỉ là một nhân vật bị Cộng Sản lợi dụng qua Tôn Quang Phiệt mà thôi.[12] Nhưng dù đúng dù sai, hành động gièm pha, ngăn cản Vua Bảo Đại chính thức chỉ định Phạm Quỳnh vào chức vụ mới bằng một đạo Dụ và thay bằng một tờ Chỉ, rồi sau đó vận động với các nhân vật tai mắt ở Huế lúc đó, tiếp tục lung lạc nhà vua dẫn đến việc sáu vị thượng thư từ chức và tình trạng vô chính phủ đã xảy ra sau đó, khiến cho lịch sử Việt Nam diễn tiến theo một chiều hướng khác. Đây là khúc quanh thứ nhất trong thời gian ngắn ngủi chưa tới 4 tháng của năm 1945. Nếu không có sự thay đổi do Phạm Khắc Hoè chủ động gây ra này, guồng máy hành chánh của Chính Phủ Nam Triều từ trung ương đến địa phương vẫn tiếp tục hoạt động bình thường, không bị xáo trộn và người dân không bị hoang mang trong thời gian chuyển tiếp như Hoàng Xuân Hãn đã kể, chưa nói tới sự kiện Phạm Quỳnh đã bộc lộ thái độ lạc quan về “tương lai tốt đẹp” của Tổ Quốc và ‘tiền đồ vẻ vang” của những người trí thức Âu Á kiêm thông, vì đây là dịp nhà học giả này thực hiện những gì từ lâu ông vẫn ôm ấp và mong đợi, xuyên qua những bài viết của ông, không phải cho riêng cá nhân ông mà cho cả đất nước và dân tộc. Nên nhớ Phạm Quỳnh lúc đó là Thượng Thư Bộ Lại là bộ đứng đầu lục bộ lo việc quản lý các quan văn ở trong nước và trước đó là Ngự Tiền Tổng Lý của Vua Bảo Đại nên ông nắm vững sinh hoạt hành chánh và nhân sự trong sinh hoạt này. Với Phạm Quỳnh trong vai trò liên lạc với người Nhật, việc chuyển giao nền hành chánh từ người Nhật sang người Việt sẽ chấm dứt sớm hơn và triều đình Huế có cơ hội nắm vững quyền hành hơn trước khi tình thế thay đổi, chưa kể tới việc thay thế các quan lại tham nhũng hay bất lực.[13] Đây là một điều đáng tiếc cho Vua Bảo Đại và Đế Quốc Việt Nam nói riêng và cho dân tộc Việt nam nói chung. Cuối cùng, để chính thức giải thích thái độ của mình đối với Phạm Quỳnh, Phạm Khắc Hoè viết:
“Thực ra, tôi không có oán thù cá nhân gì với Phạm Quỳnh và tôi nghĩ hắn có tội, thì sẽ bị nhân dân trừng trị. Khi nghĩ như vậy, tôi không ngờ rằng chỉ khoảng một tháng sau, Phạm Quỳnh đã bị đền tội trước nhân dân.”[14]
Qua đoạn văn này, Phạm Khắc Hoè không nói rõ Phạm Quỳnh đã bị đền tội như thế nào, bị bắt không thôi hay bị bắt rồi bị thủ tiêu và ông đã biết những gì về chuyện này.
Hoạt động cuối cùng của Phạm Quỳnh
Buổi họp chiều ngày 15 tháng 8, 1945 tại văn phòng Vua Bảo Đại với Nhà Vua, Phó Tổng Trưởng kiêm Bộ Trưởng Ngoại Giao Trần Văn Chương và Đại Nội Đại Thần Nguyễn Duy Quang.
Đây có thể là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng Phạm Quỳnh gặp lại nhà vua và các giới chức khác trong Đại Nội từ sau khi ông từ chức cùng với Nội Các của ông, từ ngày 19 tháng 3 và người duy nhất nói tới buổi họp này là Phạm Khắc Hoè. Buổi họp diễn ra sau khi Phạm Khắc Hoè vào gặp Vua Bảo Đại để báo cáo với nhà vua về “tin Nhật đã đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện” vào buổi chiều ngày 15 tháng 8 và kéo dài từ khoảng 3 giờ 30 đến hơn 5 giờ. Lúc đầu chỉ có nhà vua, Trần Văn Chương và Nguyễn Duy Quang, sau đó Phạm Quỳnh mới tới do con trai ông là Phạm Bích đương thời làm việc trong Đại Nội dưới quyền của Nguyễn Duy Quang lấy xe của Đại Nội đón vào. Phạm Khắc Hoè không có mặt trong buổi họp này vì ông được nhà vua nhờ sang gặp Trần Trọng Kim để hỏi xem Trần Trọng Kim “có ý kiến chi trước tình hình mới không?” nên ta không biết nội dung là để bàn những gì? Phạm Khắc Hoè chỉ cho ta biết là trên đường từ dinh Tổng Trưởng Nội Các về “thì gặp trên cầu Tràng Tiền một chiếc xe ô-tô của Đại Nội trong đó có Phạm Quỳnh và con trai của ông ta là Phạm Bích làm việc ỏ Đại Nội dưới quyền trực tiếp của Nguyễn Duy Quang. Tôi liên tưởng ngay đến việc gặp Trần Văn Chương vào phòng Bảo Đại lúc tôi mới ra đi và đoán rằng, chắc trong khi tôi đi gặp Trần Trọng Kim thì ở Đại Nội bọn Trần Văn Chương, Nguyễn Duy Quang và Phạm Quỳnh đã họp với Bảo Đại bàn mưu tính kế trở về với chủ cũ là thực dân Pháp”. Hôm sau, ngày 16 tháng 8, Phạm Khắc Hoè lại kiểm chứng về buổi họp này bằng cách hỏi người thị vệ thuờng trực phòng làm việc của nhà vua, thì được người này cho biết là sau khi Trần Văn Chương vào chầu thì Phạm Bích lấy xe đi đón Phạm Quỳnh đến và họp hơn 5 giờ mới chấm dứt.[15]
Trần Đình Nam đề nghị bắt Phạm Quỳnh vào những ngày chót nhưng không được Vua Bảo Đại chấp nhận
Ý kiến bắt Phạm Quỳnh này được Trần Đình Nam, Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ trong Chính Phủ Trần Trọng Kim, chia sẻ với Phạm Khắc Hoè, Nguyễn Hữu Thí và Trần Đình Nam vào một buổi tối, khoảng 20-7-1945, tại nhà Trần Đình Nam khi bốn người kiểm điểm “công tác của Nội Các Trần Trọng Kim trong hai tháng vừa qua” trong đó Trần Đình Nam yêu cầu mọi người phải“cảnh giác đối với cả bọn thân Pháp, cả bọn thân Nhật và nhất là vừa thân Nhật, vừa thân Pháp như loại Phạm Quỳnh thì lại càng vô cùng nguy hiểm…rồi hạ giọng nói nhỏ cho biết rằng Nam định bắt giam Phạm Quỳnh, vì bộ Nội vụ đã có nhiều chứng cớ về tội ác của Phạm Quỳnh trong thời thuộc Pháp, mà còn cả về âm mưu của nó hiện đang lo lót, chạy vạy với Nhật để hòng lên nắm quyền, làm tay sai cho Nhật.”[16]
Ý kiến kiến kể trên đã được Trần Đình Nam chính thức thực hiện vào cuối tháng 7 bằng một “tờ phiến”[17] của Bộ Nội Vụ gửi lên Vua Bảo Đại tâu xin bắt giam Phạm Quỳnh. Tờ phiến này đã được Phạm Khắc Hoè trình lên nhà vua để xin phê chuẩn nhưng Bảo Đại không làm theo mà bảo “hãy đợi vài hôm”, rồi ba hôm sau ra lệnh “tạm xếp việc ấy.”[18] Phạm Quỳnh đã thoát nạn nhưng chỉ trên dưới một tháng sau ông đã bị Việt Minh bắt và những người dân sống bên bờ sông thuộc làng An Cựu gần Biệt Thự Hoa Đường không bao giờ còn thấy bóng dáng quen thuộc của “Cụ Phạm”[19] nữa.
Kết Luận
Trong cuộc đời làm văn hóa cũng như trong cuộc đời làm chinh trị, Phạm Quỳnh có rất nhiều kẻ thù nhưng không kẻ thù nào nguy hiểm bằng những kẻ thù ông phải đương đầu trong thời gian từ sau Cuộc Đảo Chính 9 tháng 3 năm 1945 cho tới ngày ông và nội các từ chức, tức ngày 19 cùng tháng và luôn cả sau này nữa. Lý do là vì đằng sau những kẻ thù này là Đảng Cộng Sản với mục tiêu tối hậu của họ là cướp chính quyền từ tay Hoàng Đế Bảo Đại. Chưa hết, điều nguy hiểm hơn nữa nằm ở chỗ Phạm Khắc Hoè, cảm tình viên của họ, nằm vùng ngay trong Đại Nội và Tôn Quang Phiệt, đảng viên của họ, đã từ lâu hoạt động ngay giửa thành phố Huế. Họ đã thành công. Phạm Quỳnh không những chỉ bị giảm vai trò trong việc giao thiệp với Nhật mà còn hoàn toàn bị loại trừ. Giữa lúc mọi người từ quan lại đến quần chúng nóng lòng mong đợi phản ứng của Vua Bảo Đại và của triều đình thì nhà vua đã phải đối phó với một khủng hoảng nội các kéo dài cho mãi tới ngày 8 tháng 5 khi Chính Phủ Trần Trọng Kim chính thức nhận lãnh trách nhiệm mới chấm dứt. Thời gian chuyển tiếp để nhà vua ổn định được tình hình ở trung ương cũng như ở địa phương đã bị rút ngắn khiến công việc thu hồi chính quyền từ trong tay người Nhật, kiện toàn nền độc lập cũng như thu hồi Xứ Nam Kỳ và các nhượng địa khác bị chậm lại, đặc biệt công tác cứu đói gặp trở ngại rất nhiều. Lịch sử Việt Nam cũng bị chuyển sang một hướng khác.
Phạm Cao Dương, TS
[1] Phạm Khắc Hoè, Từ Triều Đình Huế đến Chiến Khu Việt Bắc, Hồi Ký (in lần thứ ba, có sửa chữa và bổ sung). Huế: Nhà Xuất Bản Thuận Hoá, 1987, tr. 16-17. Đặng Văn Nhâm, “Nhân Ngày Giỗ Thứ 54 Cố Học Giả Phạm Quỳnh, Tìm Hiểu Cái Chết Oan Khiên, Bi Thảm Của Một Danh Tài Lỗi Lạc”, trong Giải Oan Lập Một Đàn Tràng. Silver Spring, MD: Ủy Ban Phục Hồi Danh Dự Phạm Quỳnh, 2001, tr. 254-255.
[2] S.M. Bao Dai. Le Dragon d’Annam. Paris: Plon, 1980, tr. 105; Bảo Đại, Con Rồng Việt Nam, Hồi Ký Chánh Trị 1913-1987, Nguyễn Phước Tộc Xuất Bản. Los Alamitos, CA: Nhà Sách Xuân Thu phát hành, 1990, tr. 163.
[3]Nên để ý là cho tới thời điểm này Việt Nam bị Pháp bảo hộ nên quyền ngoại giao do người Pháp nắm giừ. Vì vậy trong tổ chức triều đình không có cơ quan nào lo công tác này. Phạm Quỳnh được Bảơ Đại muốn bổ nhiệm bằng một đạo dụ là vì thế.
[4] Thụy Khuê, Nói Chuyện với Hoàng Xuân Hãn…, đã dẫn, tr. 128.
[5] Phạm Khắc Hoè, Từ Triều Đình Huế đến Chiến Khu Việt Bắc, tr. 18-19
[6]Thụy Khuê, Nói Chuyện với Hoàng Xuân Hãn và Tạ Trọng Hiệp. Westminster, CA: Nhà Xuất Bản Văn Nghệ, 2002, tr. 134-135.
[7] -nt-, tr. 20 và 24.
[8] Dụ này mang tên là Dụ Số 1, được ban hành ngày 17 tháng 3 năm 1945 nguyên văn như sau:
Dương Lịch ngày 17 tháng 3 năm 1945
Nước Nhật muốn hoàn toàn thực hiện chương trình sây nền thịnh vượng chung ỏ Đại-Đông-Á đã giải phóng cho nước Nam ta, và Trẫm tuyên bố Việt Nam độc lập rồi.
Nay Trẫm có trách nhiệm đối với lịch sử và thần dân, nên tự cầm lấy quyền để bảo vệ lấy quyền lợi cho Tổ-quốc và giáng dụ rằng
1) Chế độ chính trị từ nay căn cứ vào khẩu hiệu “DÂN VI QUÍ’
2) Trong chính giới sẽ chiêu tập các nhân tài đích đáng để chỉnh đốn lại nền tảng Quốc gia cho xứng đáng là một nước độc lập chân chính có thể hợp tác với Đại-Nhật-Bản trong công cuộc kiến thiết Đại-Đông-Á.
3) Trẫm sẽ tài định và tuyên bố các cơ quan chính trị để ban hành những phương pháp hợp với nguyện vọng của Quốc dân.
Nhận định về đạo dụ này, Nguyễn Tường Phuợng trong bài “Một Đạo Dụ, Một Chế Độ” đăng trên Tri Tân Tạp Chí ngày 20 tháng 4 năm 1945, trên trang đầu, đã viết như sau:
“Ba điều ban bố trên đáng ghi vào lịch sử xứ này, thật là trên thuận lòng giời, dưới đẹp lòng dân, quốc dân rất trông mong ở sự thi hành triệt để khác nào như đói mong ăn và khát mong uống vậy.
“Nếu một khi nhà nước dùng được ngưòi tài, đức vẹn hai ra gánh vác, đảm đương những trọng trách, lại thêm vào đấy cái chính sách thân dân, thể tất đến dân nguyện thời nền tảng quốc gia xứ này có thể phục hưng.
“Được như vậy, đạo dụ ngày 17 tháng ba đáng ghi vào trang đầu lịch sử của nước Việt-Nam độc lập.”
Còn Luật Sư Bùi Tường Chiểu, trong bài “Đạo Dụ Số 1 Của Đức bảo Đại Hoàng Đế” đăng trên Thanh Nghị, số 107, “Số Đặc-San Chính Trị”, ra ngày 5 tháng Năm 1945, cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng đặc biệt của đạo dụ này. Ngay những dòng mở đầu ông viết:
“Đạo dụ trên đối với chế độ chính trị nước ta sau này có một tính cách quan trọng đặc biệt mà ta có thể nói rằng đạo dụ này đã nêu lên một cách tóm tắt những quả quyết rõ ràng những nguyên tắc kiến thiết chính thể nước Việt-Nam sau này.” Rồi nhấn mạnh hơn đến ba chữ Dân Vi Quý, ông phân tích:
“Nay đạo Dụ số 1 đã nêu lên khẩu hiệu Dân vi quí có nghĩa là đức Bảo-Đại đã hủy bỏ cái lý thuyết cũ mà đến nay hầu hết các nước văn minh đã cho là không hợp thời. Đã lấy dân làm trọng. đã lấy quyền lợi dân để trên tất cả thì vua tất chỉ là một cơ quan tối cao trong nước điều khiển những cơ quan chính trị khác để phụng vụ quốc gia, tìm những phương pháp hợp với nguyện vọng của cả quốc dân mà thi hành. Như thế là trong nền chính trị đức Bảo-Đại Hoàng-Đế đã định đặt quốc dân ta đi vào một con đường mới.”
Cuối cùng đi xa hơn nữa, vị luật gia này còn nói tới hiến pháp. Theo ông:
“Xong chúng ta có thể căn cứ vào điều thứ 3 của bản Dụ mà nói rằng đức Bảo-Đại sẽ tuyên bố các cơ quan chính trị mới mà trong câu cơ quan ấy sẽ có một cơ quan có quyền lập pháp. Muốn tổ chức một cách phân minh các cơ quan hành chính, lập pháp và tư pháp, tất nhiên phải có một đạo hiến-luật để ấn định rõ ràng những quyền hành của các cơ quan chính trị”.
[9] Phạm Khắc Hoè, đã dẫn, tr.25.
[10] Le Dragon d’Annam, tr. 105; Con Rồng Việt Nam, tr. 164.
[11] Phạm Khắc Hoè, đã dẫn, tr. 20-21.
[12] Tôn Quang Phiệt (1900-1973), học Cao Đẳng Sư Phạm Đông Dương, năm thứ hai, theo Tân Việt, bị đuổi, sang Trung Quốc cùng với Trần Phú , Vương Thúc Oánh…, bị Pháp bắt giam ở Hà Nội, sau được thả, trở thành đảng viên Cộng Sản và dạy ở trường Thăng Long ở Hà Nội, rồi Thuận Hóa ở Huế. Chính trong thời gian này Phạm Khắc Hoè đã được móc nối để trở thành nằm vùng trong Đại Nội. Nguyễn Quyết Thắng và Nguyễn Bá thế. Từ Điển Nhân vật Lịch Sử Việt Nam. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Văn Hóa, 1999.
[13] Về vai trò của bộ lại và các bộ trong triều đình Nhà Nguyễn, xin xem Võ Hương An, Từ Điển Nhà Nguyễn. Irvine, CA: Nam Việt Publisher, 2012, tr. 60.
Về sự quan trọng và nhu cầu cấp bách của công tác Việt hóa guồng máy hành chánh ờ thời nàỳ, xin xem Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên. Saigon: Nam Chi Tùng Thư xuấtn, Không rõ năm, Đại Nam tái bản tại Hoa Kỳ, không đề năm, tr. 34- 37.
[14] Phạm Khắc Hoè, Từ Triều Đình Huế…, tr. 47.
[15] -nt-, tr. 59-61.
[16] -nt- , tr. 45.
[17] Phiến là báo cáo của của Nội Các hay các bộ gửi lên nhà vua.
[18] Phạm Khắc Hoè, tr. 46.
[19] Về danh xưng “Cụ Phạm”, xin xem: Nguyễn Phước Bửu Tập, “Chiến Sĩ Ái Quốc Phạm Quỳnh”, trong Giải Oan Lập Một Đàn Tràng, đã dẫn, tr. 223.
Posted by sontrung at 10:04 PM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 353
SƠN TRUNG * Y HỌC TÂN TIẾN CỦA XỨ HỒ LY
Y HỌC TÂN TIẾN CỦA XỨ HỒ LY
SƠN TRUNG
Khi Cáo mới khởi nghĩa, Cáo tuyên bố mọi loài vật bình đẳng, và mọi loài vật phải thương nhau, không được ăn thịt nhau hay cấu xé nhau. Mệnh lệnh ban ra được mọi người và vật ca tụng là công bình và nhân đạo. Vì vậy, các loài vật khắp nơi đã gia nhập bang Hồ Ly rất đông đảo và nồng nhiệt.
Sau một thời gian, tin loan truyền ra là có kẻ địch lẻn vào chiến khu đốt phá và lấy đi lương thực của nhà nước. Vì vậy, nghị quyết mới ban ra là từ nay, lương thực và thực phẩm phải tập trung do bang Hồ Ly kiểm soát và gìn giữ để tránh sự phá hoại của quân thù. Các loài vật sẽ đuợc bang Hồ Ly săn sóc và phát cho ăn từng bữa.
Một thời gian nữa, lại có tin biệt kích của Sư tử lẻn vào ám sát, đầu độc chủ tịch Cáo. Vì vậy, nghị quyết của Hội đồng Chính Trị là phải dùng thịt để chữa các chất độc cho lãnh tụ bang Hồ Ly. Một số đầu bếp được tuyển chọn để phục vụ lãnh đạo. Ban khoa học Hồ Ly đã chế tạo một cái khóa rất tinh vi để khóa mõm đầu bếp.
Cái khóa rất tinh vi khiến cho người ta tưởng đó là một kiểu thời trang! Đã tốt đẹp thế, mà bên ngoài cái miệng, các đầu bếp còn đeo khẩu trang, thành thử đầu bếp trông oai vệ như bác sĩ trong bệnh viện! Mục đích khóa là để ngăn chận các đầu bếp ăn vụng thức ngon, vật lạ của lãnh tụ, nhất là thịt. Khóa miệng cũng có mục đích ngăn chận các đầu bếp tiết lộ bí mật thâm cung.
Sau một thời gian, tin loan truyền ra là có kẻ địch lẻn vào chiến khu đốt phá và lấy đi lương thực của nhà nước. Vì vậy, nghị quyết mới ban ra là từ nay, lương thực và thực phẩm phải tập trung do bang Hồ Ly kiểm soát và gìn giữ để tránh sự phá hoại của quân thù. Các loài vật sẽ đuợc bang Hồ Ly săn sóc và phát cho ăn từng bữa.
Một thời gian nữa, lại có tin biệt kích của Sư tử lẻn vào ám sát, đầu độc chủ tịch Cáo. Vì vậy, nghị quyết của Hội đồng Chính Trị là phải dùng thịt để chữa các chất độc cho lãnh tụ bang Hồ Ly. Một số đầu bếp được tuyển chọn để phục vụ lãnh đạo. Ban khoa học Hồ Ly đã chế tạo một cái khóa rất tinh vi để khóa mõm đầu bếp.
Cái khóa rất tinh vi khiến cho người ta tưởng đó là một kiểu thời trang! Đã tốt đẹp thế, mà bên ngoài cái miệng, các đầu bếp còn đeo khẩu trang, thành thử đầu bếp trông oai vệ như bác sĩ trong bệnh viện! Mục đích khóa là để ngăn chận các đầu bếp ăn vụng thức ngon, vật lạ của lãnh tụ, nhất là thịt. Khóa miệng cũng có mục đích ngăn chận các đầu bếp tiết lộ bí mật thâm cung.
Nhưng làm sao để các đầu bếp ăn, đánh răng? Viên khoa học Hồ Ly đã nghĩ cách đưa thực phẩm từ hậu môn vào dạ dày. Việc đánh răng cũng vậy. Viện sẽ dùng dụng cụ xuyên qua hậu môn. Tuy nhiên Viện trưởng thì bác bỏ việc đánh răng vì đầu bếp không ăn, không nhai cho nên không cần đến việc vệ sinh răng miệng nữa.
Từ đó viện Khoa học tiến đến việc trị sâu răng và tai mũi họng đều thông qua từ hậu môn là một kỹ thuật tối tân nhất trên thế giới chưa có.
Từ đó viện Khoa học tiến đến việc trị sâu răng và tai mũi họng đều thông qua từ hậu môn là một kỹ thuật tối tân nhất trên thế giới chưa có.
Friday, March 6, 2015
O. HENRY * ÁI TÌNH THEO KHẨU PHẦN
O. Henry
Dịch giả: Nguyễn Việt Long
Xu hướng của đàn bà, - Giep Pitơx nói, sau khi đã có một vài ý kiến bàn về vấn đề này, - thường hướng về phía mâu thuẫn. Đàn bà muốn cái mà các cậu không có. Cái gì càng có ít, đàn bà càng muốn nhiều. Họ thích lưu trữ các loại xuvơnia về những sự kiện thực ra chẳng có trong đời họ. Cái nhìn một phía đối với sự vật không đội trời chung với bản tính đàn bà.
Tớ có một điểm dở bẩm sinh và được những chuyến du lịch phát triển lên, - Giep nói tiếp, mặt đăm chiêu nhìn cái bếp lò nằm lọt giữa đôi chân ghếch cao. - Tớ nhìn một số sự vật sâu hơn đa số mọi người. Tớ đã hít no hơi xăng, đã diễn thuyết trước đám đông hầu như tại tất cả các thành phố của Hoa Kỳ.
Tớ mê hoặc người đời bằng âm nhạc, tài hùng biện, sự khéo léo của đôi tay và những thủ thuật ranh mãnh, đồng thời bán cho họ hàng kim hoàn thuốc men, xà phòng, thuốc mọc tóc và đủ thứ tạp nham khác. Trong lúc đi chu du, phần để giải trí, phần để chuộc tội, tớ đã nghiên cứu đàn bà.
Muốn hiểu được một ả đàn bà, con người ta cần cả một đời, nhưng những mầm mồng kiến thức về nữ giới có thể đạt được, nếu ta dành cho nó mười năm nghiên cứu cần cù, kĩ lưỡng. Trong lĩnh vực này, tớ đã biết được rất nhiều điều bổ ích khi rao bán ở miền tây kim cương Braxin và đồ nhóm lửa đã được cấp bằng phát minh, - đó là sau chuyến đi Xavanna của tớ qua vành đai bông. Dạo ấy là thời kì phát đạt đầu tiên của bang Oclahôma.
Thị xã Gatơri mọc lên ở giữa bang này, vùn vụt như thổi. Đó là một thị xã điển hình ra đời trong cao trào bùng nổ kinh tế: muốn tắm rửa phải xếp hàng, nếu bạn ngồi ăn trong tiệm lâu quá chục phút thì phải trả thêm tiền chỗ ngồi; còn nếu ngủ đất trong khách sạn, sáng ra xin cứ việc chi tiền như nghỉ biệt thự. Về quan điểm lẫn tư chất thì ở đâu tớ cũng thích tìm những chỗ đánh chén ngon lành nhất. Tớ tìm được một nơi hết sức vừa ý.
Đó là một tiệm ăn căng bạt của một gia đình vừa mới mở. Gia đình ấy đến thị xã này theo vết chân sự bùng nổ kinh tế. Họ đã dựng gấp một ngôi nhà nhỏ vừa để ở vừa để nấu nướng và chăng thêm lều bạt áp vào ngôi nhà làm tiệm ăn. Lều này chăng đầy những tờ quảng cáo nhằm giành giật từ vòng tay tội lỗi của các biệt thự và khách sạn kẻ lữ hành mệt mỏi. “Hãy nếm bánh quy nhà chúng tôi”, “Bánh rán nóng với xirô phong, những món bạn vẫn ăn từ thuở bé”,
“Gà rán của chúng tôi lúc sống chưa đến tuổi cục tác” đấy là những dòng chữ có nhiệm vụ kích thích sự tiêu hoá của khách ăn. Tớ mới bụng bảo dạ rằng cái thân xác tớ cần tọng một chút gì đó chiều nay tại chính tiệm ăn này. Sự việc diễn ra đúng như vậy. Chính tại đây tớ đã làm quen được với Mâymi Điugân.
Ông già Điugân - kiểu dân ăn không ngồi ở xứ Inđiana, cao tới sáu bộ (1) - nằm trên ghế xích đu hồi tưởng lại vụ thất bát năm một tám linh sáu. Bà lão Điugân nấu bếp, còn Mâymi thì phục vụ khách. Chỉ vừa trông thấy Mâymi, tớ đã hiểu ngay là cuộc tổng kê dân số đã phạm một sự nhầm lẫn. Ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đúng ra chỉ có một cô gái mà thôi! Mô tả nàng chi tiết thật là khó. Vóc nàng xấp xỉ một thiên thần, nàng có đôi mắt, lại còn điệu bộ nữa chứ. Nếu các cậu muốn biết nàng là người như thế nào, thì có thể tìm thấy cả một chuỗi xích, trải dài từ cầu Bruclin về phía tây đến tận trụ sở toà án ở Caonsin Blaphơ, bang Inđiana.
Những người như nàng kiếm sống bằng cách làm việc ở các cửa hàng tiệm ăn, trong các nhà máy và văn phòng. Họ có gốc gác theo đường thẳng từ bà Eva, chả là họ đã giàng được quyền làm đàn bà, còn nếu như các cậu dám đặt dấu hỏi về cái quyền ấy thì có khả năng ăn một cái tát ra trò. Họ là những người bạn tốt, họ trung thực và tự do, dịu dàng và táo tợn, và họ biết nhìn thẳng vào cuộc đời. Họ gặp gỡ mặt đối mặt với đàn ông và đã đi đến kết luận rằng đàn ông là giống sinh vật thảm hại. Họ đã đinh ninh rằng sự mô tả của đàn ông trong các tiểu thuyết đọc trên tàu hoả tựa như chàng hoàng tử trong cổ tích, chẳng hề được thực tế xác nhận.
Đấy, Mâymi cũng là một cô gái như vậy. Toàn bộ con người nàng toát lên sức sống, sự vui vẻ và tính linh lợi, với khách thì mau mồm mau miệng: thật chết cười mỗi lần nghe nàng đáp. Tớ không ưa khai quật tận lòng sâu các cảm xúc cá nhân. Tớ vẫn theo cái thuyết cho rằng những mâu thuẫn và những mối tơ vò của cái bệnh có tên gọi là bệnh tương tư là những thứ cũng riêng tư giống như cái bàn chải đánh răng.
Theo tớ, các bản tiểu sử những trái tim chỉ nên tìm vị trí cho mình bên cạnh các tiểu thuyết lịch sử về đời sống buồng gan trên các tạp chí dành cho việc rao tin. Vì thế xin các cậu thứ lỗi, nếu tớ không liệt kê ra đây danh sách đầy đủ của những tình cảm của tớ đối với Mâymi. Chẳng bao lâu tớ đã nhiễm thói quen thường xuyên có mặt ở quán vào những lúc ít người. Mâymi tiến lại phía tớ, trong bộ áo dài đen và tạp dề trắng, miệng mỉm cười và nói:
“Chào anh Giep, sao anh không đến đúng giờ đã định? Anh cố ý muộn để mọi người phải lo lắng hay sao? Gà rán - bít-tết - thịt lợn - dầu - trứng tráng - với - giăm-bông - … Nàng gọi tớ là Giep, nhưng điều ấy tuyệt nhiên không có nghĩa gì cả. Chẳng qua nàng cũng phải phân biệt người nọ với người kia mà thôi. Gọi thế thì vừa nhanh, vừa tiện.
Tớ thường ăn hai bữa trưa và cố kéo dài chúng như ăn tiệc trong xã hội thưọng lưu, nơi người ta đổi đĩa, đổi vợ và trao qua đổi lại những câu đùa giữa các lần nuốt. Mâymi chịu đựng tất. Có lẽ nào nàng lại làm ầm ĩ lên và bỏ mất một đôla chỉ vì người ăn không đến theo thời gian biểu đã định. Ít lâu sau lại thêm một cậu chàng nữa tên là Eđ Côliê nảy ra cái thói tọng đồ ăn vào giờ trái khoáy.
Vì có tớ và cậu ta mà giữa bữa ăn sáng với bữa ăn trưa và bữa ăn trưa với bữa ăn chiều đã bắc những cây cầu nối thường xuyên. Qnán ăn biến thành rạp xiếc với ba vũ đài, thành thử Mâymi hoàn toàn không còn thời gian nghỉ ở hậu trường nữa. Thằng cha Côliê đầy những thủ đoạn ma lanh. Hắn làm việc đâu như ở đội khoan giếng hoặc bảo hiểm, có quỷ mới biết được - tớ cũng chả nhớ ở đội nào. Hắn cũng khá về khoa ăn nói và dễ gây được thiện cảm. Tớ với hắn đã tạo ra trong quán một bầu không khí tình tự và thi đua. Mâymi giữ mình trên tầm cao vô tư và phân phối đều sự lịch thiệp đối với cả hai người chúng tớ, giống như chia bài ở câu lạc bộ ấy: một quân bài cho tớ, một quân bài cho Côliê, và một quân bài đặt cái.
Trong ống tay áo không còn một quân bài nào cả. Tất nhiên tớ với Côliê đã làm quen với nhau và thỉnh thoảng còn thù tạc với nhau trong bốn bức tường của lều quán. Không kể những trò khôn ranh, cậu ta gây được ấn tượng tốt và sự đối địch của cậu ta cũng rất ngộ. - Tao thấy mày thích ngồi lì trong phòng tiệc sau khi khách đã tản về hết đấy nhé. - Có một lần tớ nói với Côliê để xem hắn đối đáp như thế nào. - Ừ, - Côliê nói, vẻ tư lự. - Sự ồn ào cảnh chen vai thích cánh làm thần kinh nhạy cảm của tao khó chịu. - Thần kinh tao cũng thế, - tớ nói - À, cô bé cũng kháu đấy chứ nhỉ? - À, thì ra thế, - Côliê bật cười.
- Nếu mày đã nhắc đến điều đó, thì tao xin báo để mày rõ là cô bé gây được ân tượng không phải là khó chịu đối với thần kinh thị giác của tao. - Cô ấy làm tao thích mắt lắm, - tớ nói. - Tao đang tán nó đây. Nói để mày biết. - Tao sẽ rất trung thực, - Côliê nói. - Nếu như ở các hiệu thuốc có bán đủ dịch vị, tao sẽ cho mày một chầu cho mày tha hồ bị bội thực để đạt được cái đích mới thôi. Thế là bắt đầu cuộc đua nước rút của chúng tớ. Quán ăn cung ứng liên tục.
Mâymi phục vụ chúng tớ, vui vẻ, dễ thương và lịch sự. Thần ái tình và người nấu bếp ở quán Điugân làm việc cật lực. Một ngày tháng chín tớ đã rủ Mâymi đi chơi với tớ sau bữa ăn tối, khi cô ấy dọn dẹp xong. Chúng tớ đi dạo một tí rồi ngồi lên những khúc gỗ ở khu vực cuối thành phố. Dịp may như thế chắc còn lâu mới có, nên tớ đã thổ lộ hết những gì mình muốn nói. Rằng kim cương Braxin và đồ nhóm lửa đã được cấp bằng phát minh là nguồn thu nhập của tớ, đủ để đảm bảo ấm no cho cả hai, rằng cả hai thứ ấy dù sao cũng không thể cạnh tranh được với ánh mắt của một nàng, rằng họ Điugân cần phải đổi sang họ Pitơx, nếu không đổi thì xin giải thích lí do. Thoạt đầu Mâymi chẳng nói gì cả.
Sau đó bỗng nàng rùng rùng toàn thân. Thế là tớ nghe được những điều bổ ích. Nàng nói: - Anh Giep ạ, em rất tiếc là anh đã nói ra. Em cũng mến anh, em mến anh nhiều mặt, nhưng trên đời này sẽ chẳng có người đàn ông nào em lấy làm chồng đâu và sẽ chẳng bao giờ có cả. Anh có biết trong con mắt em, đàn ông là cái thứ gì không? Đó là nấm mồ, là nấm mồ để chôn bít-tết, thịt lợn kho, gan xào, trứng tráng với giăm-bông. Trong tâm khảm em đã in đậm hình ảnh của họ như thế. Em đã thử chống lại cảm giác ấy, những không tài nào chống được.
Nghe nói các cô gái khen hết lời chồng chưa cưới của mình, em không hiểu nổi. Đàn ông, cái cối xay thịt và chạn đựng thức ăn đều gây ra ở em những cảm giác giống nhau. Có lần em đi xem kịch, nhìn thấy một diễn viên mà các cô gái đều chết mê chết mệt. Em ngồi xem mà nghĩ bụng, không hiểu anh ta thích loại bít-tết nào - còn tái, chín vừa hay đã rán già và loại trứng nào - còn lòng đỏ nhùng nhùng hay đã luộc nhừ, chỉ có bấy nhiêu thôi. Không, anh Giep ạ. Em sẽ không bao giờ lấy chồng. Để mà toàn trông thấy anh ta sáng đến ngồi ăn, đến trưa lại quay về ăn, rồi cuối cùng lại vác mặt về ăn tối, chỉ ăn, ăn, ăn ấy à…
- Nhưng mà, Mâymi này, - tớ bảo, - cái đó rồi sẽ qua. Tại em đã làm công việc này nhiều quá đấy thôi. Nhất định rồi em sẽ lấy chồng. Đàn ông không phải bao giờ cũng chỉ ăn. - Còn em thì lúc nào cũng quan sát thấy họ ăn. Không, em sẽ nói cho anh biết em sẽ làm gì. - Mâymi bỗng tràn đầy cảm hứng, đôi mắt nàng sáng lên. - Ở Têri Hot có một cô gái tên là Xiudi Phoxtơ, bạn gái em. Cô bạn ấy làm ở quán điểm tâm ngay nhà ga. Em cũng đã làm hai năm ở tiệm ăn chỗ ấy. Xiudi còn kinh tởm đàn ông hơn, bởi vì những người đàn ông ra ga ăn bao giờ cũng vội cuống vội cuồng. Họ vừa tán tỉnh vừa nhồm nhoàm nhai cùng một lúc.
Khiếp! Em với Xiudi đã quyết rồi. Chúng em sẽ dành dụm tiền, khi nào đủ sẽ tậu một ngôi nhà nhỏ và năm acrơ (2) đất. Chúng em đã để ý đến một khoảnh đất. Chúng em sẽ sống với nhau và sẽ trồng hoa viôla. Em khuyên người đàn ông nào phàm ăn tục uống đừng nên đến gần trang trại của chúng em dưới một dặm. - Ồ, thế chả lẽ các cô gái không bao giờ… - tớ cất tiếng. Nhưng Mâymi đã dứt khoát cắt ngang. - Không, không bao giờ. Họ chỉ nhấm nháp gọi là đôi chút thôi. - Anh thì cho rằng kẹo…
- Lạy trời, anh hãy nói sang chuyện khác đi, - Mâymi đáp. Như tớ đã nói, kinh nghiệm này đã chứng minh cho tớ rằng bản tính đàn bà đời đời hướng tới những ảo ảnh và ảo tưởng. Hãy lấy nước Anh mà xem - bít-tết đã tạo nên nó, nước Đức thì do xúc-xích đẻ ra, còn chú Sam hùng mạnh như ngày nay là nhờ bánh rán và gà rán. Nhưng các cô thiếu nữ có tin điều ấy đâu. Họ cho rằng tất cả là do Sếchxpia, Rubinxtên và đội khinh kị binh của Thêơđo Rudơven làm nên. Tình thế của tớ thì ai mà chẳng nản lòng. Không thể có chuyện cắt đứt Mâymi được.
Thế nhưng cứ nghĩ đến việc phải từ bỏ thói quen ăn uống xưa nay thì tớ lại buồn nẫu ruột. Tớ đã nhiễm phải cái tật ấy từ sớm quá. Hai mươi bảy tuổi đời mà tớ đã mù quáng lao đầu vào thảm hoạ và ngả theo tiếng gọi mê hoặc của con quái vật khủng khiếp là thực phẩm. Thay đổi muộn quá rồi. Tớ đã trở thành loại nhai lại hai chân hết phương cứu vãn. Có thể đánh cuộc bằng món tôm hùm với món bánh rán, cuộc đời tớ thế là đi đứt vì cái thói ấy. Tớ tiếp tục ăn ở quán Điugân, hi vọng Mâymi rủ lòng thương. Tớ tin vào tình yêu chân chính và nghĩ rằng nếu nó thường đã phải chống chọi lại với sự vắng mặt của một bữa ăn thịnh soạn thì biết đâu, nó sẽ biết chống chọi lại với sự có mặt của chính bữa ăn ấy.
Tớ vẫn tiếp tục chịu sự điều khiển của tật xấu tai hại, nhưng mỗi lần tớ bỏ một miếng khoai tây vào mồm trước mặt Mâymi là tớ cảm thấy có lẽ mình đang chôn vùi những hi vọng ngọt ngào nhất của bản thân. Côliê hình như cũng ngỏ lời với Mâymi và cũng nhận được câu trả lời tương tự. Ít ra thì có một hôm hắn chỉ gọi một tách cà phê và một mẩu bánh lương khô rồi ngồi nhấm nháp miếng bánh hệt như một tiểu thư khuê các trước đó đã nếm thịt bò xào bắp cải dưới bếp.
Tớ liền bắt chước và cũng chỉ gọi cà phê và bánh lương khô. Kể cũng láu cá đấy chứ hả? Ngày hôm sau, hai đứa lại lặp lại như thế. Ông già Điugân từ bếp lên bưng cái món đài các của chúng tớ. - Các cậu mắc chứng ăn không ngon hả? - Bác ấy hỏi với giọng của người cha, tuy không phải không có sự châm biếm. - Tôi đã đổi con Mâymi xuống bếp rồi, cho nó nghỉ ít lâu. Phục vụ bàn này cũng không vất vả, không ảnh hưởng lắm đến bệnh thấp khớp của tôi. Tớ với Côliê đành phải quay trở lại với những thứ thực phẩm nặng dạ dày.
Lúc ấy tớ bỗng phát hiện ra mình ăn ngon miệng kinh khủng, đúng là “ngồi ăn núi lở”. Tớ ăn đến nỗi nếu có bước qua ngưỡng cửa vào gặp Mâymi lúc ấy thì nàng sẽ căm ghét tớ lắm. Sau đó tớ phát hiện ra mình đã trở thành nạn nhân của một mánh khoé đầy báng bổ và đê tiện mà Eđ Côliê đã rắp ranh bẫy tớ. Tớ với hắn ngày nào cũng đi uống lai rai trong thành phố để làm dịu bớt cơn đói. Cái thằng xỏ lá ấy đã mua chuộc gần chục gã phục vụ, thế là những gã này đã rót vào từng cốc rượu uytxki của tớ một lượng đáng kể thứ chất cay làm từ táo kích thích sự ngon miệng do hãng Anacôn sản xuất. Nhưng còn trò bịp cuối cùng mà hắn định chơi tớ, còn khó quên hơn nhiều. Một hôm không thấy Côliê ló mặt đến quán nữa. Một người quen chung có nói rằng buổi sáng hắn đã rời bỏ thành phố. Như vậy là kẻ thù duy nhất của tớ chỉ là tấm bảng món ăn. Vài ngày trước khi đi biệt tăm,
Côliê đã tặng tớ hai chai uytxki hảo hạng, tuồng như là của người anh họ ở Kentơcki gửi cho hắn. Bây giờ tớ có cơ sở để nghĩ rằng thứ uytxki ấy hầu như chứa toàn món chất cay Anacôn là từ táo kích thích sự ngon miệng. Tớ vẫn tiếp tục ngốn hàng tấn thực phẩm. Trong con mắt Mâymi, hơn bao giờ hết, tớ vẫn là loài hai chân chuyên nhai lại. Khoảng một tuần sau khi Côliê mất hút, có một đoàn triển lãm trưng bày của lạ đến thành phố và ở trong một lều bạt gần đường sắt. Một buổi chiều tớ ghé vào chỗ Mâymi, thì bà mẹ nàng bảo với tớ rằng Mâymi cùng đứa em trai là Tômat đã đi xem triển lãm rồi. Việc này lặp đi lặp lại tuần ba lần. Chiều thứ bảy tớ lại bắt gặp Mâymi đi xem triển lãm về.
Tớ bèn rủ nàng ngồi lại một lát. Nàng đã thay đổi hẳn. Đôi mắt dịu dàng hơn và long lanh sáng. Thay vì một Mâymi Điugân chỉ chực trốn chạy khỏi tính tham ăn của giới đàn ông, đi chăm sóc hoa viôla, trước mặt tớ là một Mâymi đáp ứng được với dự liệu của Chúa trời và cực kì thích hợp với việc sưởi lòng trong ánh kim cương Braxin và những đồ nhóm lửa đã được cấp bằng phát minh. - Chắc là em đang bị lôi cuốn rất nhiều vì cái triển lãm chưa từng có về các sinh vật kì diệu và lạ mắt? - Tớ hỏi. - Dù sao cũng giải trí được ạ. - Mâymi đáp. - Rồi em sẽ phải đi tìm sự giải trí để thoát khỏi sự giải trí ấy, nếu ngày nào em cũng đi xem. - Đừng nổi nóng lên thế, anh Giep! Chẳng qua em chỉ muốn bứt khỏi những ý nghĩ về bếp núc. - Những sinh vật kì diệu ấy không ăn à? - Không phải tất cả. Một số bằng sáp. - Đừng có dính vào đấy là được. -
Tớ nói nặng tuy không có ẩn ý gì, chẳng qua quen mồm mà thôi. Mâymi đỏ mặt. Tớ chẳng hiểu ra làm sao nữa. Trong lòng tớ bừng lên một hi vọng là bằng sự chung thuỷ của mình tớ sẽ làm nhẹ bớt tội ác khủng khiếp của cánh đàn ông là công nhiên nhồi nhét thực phẩm vào cơ thể. Mâymi loáng thoáng nói đến các vì sao, trong những ngôn từ lịch sự nhất. Tớ cũng hứng chí tán về sự kết giao của những con tim, về tổ ấm gia đình sưởi bằng tình yêu chân chính và những đồ nhóm lửa đã được cấp bằng phát minh. Mâymi lắng nghe không nhăn mặt, thế là tớ đã bụng bảo dạ “Chú mày đã làm nhẹ được sự căm ghét trùm lên những kẻ phàm ăn tục uống rồi đấy! Chú mày đã giẫm được lên đầu con rắn ẩn trong lọ nước chấm rồi đấy!”.
Chiều thứ hai tớ lại mò đến Mâymi. Nàng với cậu em trai lại đi xem triển lãm các vật kì diệu mất rồi. “Lạy trời cho bốn mươi lăm hà bá quơ cái triển lãm ấy đi cho rồi! - Tớ rủa. - Tròi đánh thánh vật đời đời cái triển lãm ấy! Amen! Ngày mai ta phải đích thân đến đấy xem có cái chết tiệt gì mà hấp dẫn thế.
Chả lẽ một con người được tạo hoá sinh ra để thừa kế đất đai, lại có thể bị mất người yêu thoạt đầu vì thìa dĩa, rồi sau đó vì một cái triển lãm mà vé vào cửa chỉ có mười xu?” Chiều hôm sau, trước khi đi xem triển lãm, tớ tạt vào nhà Mâymi và được biết nàng không có nhà. Lần này nàng không đi với Tômat, vì cậu này đã đón tớ ngay trên bãi cỏ trước lều quán để gạ tớ. - Anh Giep, anh sẽ cho em gì nào, nếu em nói chuyện này cho anh nghe? - Cái gì đáng giá thì anh sẽ cho. - Chị Mâymi phải lòng kì quan ở triển lãm rồi. Em chẳng thấy thích.
Nhưng chị ấy lại thích. Em đã nghe lỏm được họ nói chuyện với nhau. Em nghĩ chắc anh thích nghe. Anh Giep này, hai đôla đối với anh có nhiều quá không? Ở trong thành phố có bán một khẩu súng, em muốn… Tớ lục túi và đổ vào mũ cho Tômat một đồng xu bạc. Tin Tômat báo như dao đâm vào tớ, khiến ý nghĩ của tớ chao đảo mất một lúc. Rót tiền lẻ cho Tômat, tớ mỉm cười một cách ngớ ngẩn, mà trong lòng tan nát.
Tớ nói giọng nửa ngố nửa pha trò. - Cảm ơn Tômat… cảm ơn… em nói cái kì quan… ấy à? Nó có gì đặc biệt, cái của quái dị ấy, hả Tômat? - Đây này, - Tômat vừa nói vừa lôi từ trong túi ra tờ chương trình bằng giấy vàng khè và dúi vào mũi tớ. - Anh ta là vô địch thế giới về nhịn đói. Chắc là vì thế mà chị Mâymi cứ bám lấy anh ta. Anh ta không ăn gì cả. Anh ta sẽ nhịn đói bốn mươi chín ngày. Hôm nay là ngày thứ sáu… Anh ta đây này. Tớ nhìn dòng chữ mà ngón tay Tômat chỉ vào: “Giáo sư Eđuacđô Côliêri”. - À! - Tớ thốt lên thán phục. - Giỏi thật, Eđ Côliê.
Xin chịu ông cái khoản nhanh trí. Nhưng tôi không nhường cô gái cho ông đâu, hiện tại nàng chưa phải là kì quan phu nhân. Tớ rảo bước đến ngay triển lãm. Khi tớ tiến vào lối cửa sau thì có một người nào đó thò đầu ra như con rắn, đứng thẳng chân lên và lao thẳng đến tớ như chú ngựa muxtang. Tớ tóm ngay cổ người đó và quan sát kĩ dưới ánh sao. Đó là giáo sư Eđuacđô Côliêri mặc quần áo của giống người, với nỗi tức giận trong một con mắt và sự sốt ruột trong con mắt kia. - Hêlô, kì vậy! - Tớ nói. - Đợi một chút nhé, để tao ngắm mày cái nào. Chà chà, làm kì quan của thế kỉ chúng ta, hoặc là của lạ từ đảo Boocnêô thích thật! Thế trong chương trình người ta tôn xưng cho mày cái tên gì? - Giep Pitơx này, -
Côliê nói khe khẽ. - Thả tao ra, không thì tao nện mày bây giờ. Tao đang vội chết đi được đấy. Bỏ tay ra! - Nhẹ nhàng nào, nhẹ nhàng nào, Eđi, - tớ nói, tay vẫn giữ chặt cổ áo anh chàng. - Cho phép một người bạn cũ chiêm ngưỡng mày cho thoả đã. Mày bày ra trò này phải nói là đại bợm đấy, con ạ, nhưng chớ có to mồm về chuyện đấm nhau: mày không thích hợp với việc ấy đâu. Cái tối đa mà mày có bây giờ - đó là sự táo tợn kha khá với cái dạ dày rỗng. Tớ đoán không nhầm, hắn yếu như sên. Hắn lên tiếng: - Giep ơi, tao sẵn sàng tranh cãi với mày về chủ đề này bao nhiêu hiệp cũng được, chỉ cần tao có nửa tiếng luyện tập và một thỏi bít-tết diện tích hai bộ vuông để luyện.
Tổ sư đứa nào sáng tạo ra nghệ thuật nhịn ăn! Hãy xích nó lại đời đời cách cái giếng không đáy chứa toàn bít-tết nóng sốt chỉ hai bước chân! Tao bỏ cuộc đấu đây, Giep ạ. Tao đào ngũ đây. Mày sẽ tìm thấy nàng Điugân trong lều: nàng đang ngắm một xác ướp sống và một con lợn bác học ở đấy. Nàng thật là một cô gái kì diệu, Giep ạ. Lẽ ra tao đã thắng trong cái trò này, nếu như chịu được trạng thái không ăn uống thêm một thời gian nữa. Mày phải thừa nhận rằng đường đi nước bước của tao trong trò tuyệt thực này đã được suy tính để hoàn toàn có khả năng thành công.
Tao đã tưởng như thế. Người ta bảo tình yêu lay chuyển cả núi non. Cứ tin tao đi, đấy chỉ là lời đồn sai lệch… Không phải tình yêu, mà là hồi chuông gọi đi ăn buộc núi non phải rung chuyển. Tao yêu Mâymi Điugân. Tao đã trải qua sáu ngày nhịn ăn để chiếm được tình cảm của nàng. Suốt thời gian này tao chỉ có một lần xơi một miếng, đó là lúc tao đẩy cái thằng xăm đầy mình và giật của nó miếng bánh xanđuych để ăn.
Ông chủ cúp sạch lương của tao. Nhưng tao đến đây không phải vì mấy đồng lương, mà là vì cô gái ấy. Vì nàng tao có thể hiến dâng cuộc đời, còn vì miếng thịt lợn rán tao sẽ hiến dâng tâm hồn bất tử của mình. Đó là một cực hình, Giep ạ. Cả tình yêu, cả sự nghiệp, cả gia đình, cả tôn giáo, cả nghệ thuật, cả tinh thần yêu nước đều chỉ là những lời nói suông trống rỗng, khi con người ta đói. Eđ Côliê tâm sự với tớ bằng giọng lâm li. Chẩn đoán bệnh rất dễ: những đòi hỏi của trái tim cậu ta và những đòi hỏi của dạ dày đang xung đột với nhau, và phái hậu cần đã thắng. Quả thực, tớ luôn thấy mến Côliê. Tớ lục tìm một câu an ủi nào đó, nhưng chẳng tìm thấy câu nào thích hợp cả. Côliê nói tiếp: -
Bây giờ mày hãy thương tao mà để cho tao đi. Số phận đã giáng cho tao một đòn nên thân, nhưng bây giờ tao sẽ giáng cho đồ ăn thức uống một đòn mạnh hơn. Tao sẽ khua sạch tất cả các tiệm ăn trong thành phố. Tao sẽ ngâm mình ngập đến thắt lưng trong món thịt philê và sẽ tắm trong trứng tráng với giăm-bông. Thật kinh khủng khi một người đàn ông phải đến nước từ bỏ một cô gái chỉ vì cái ăn. Thật còn tệ hơn cái anh chàng tên gì nhỉ? Ixav, kẻ đã bỏ cả bản quyền tác giả vì một con lôi. Đói là một điều khủng khiếp. Xin lỗi mày nhé, tao đang ngửi thấy mùi giăm-bông rán ở phía xa xa, nên đôi chân tao đang thúc giục tao băng về hướng đó. - Chúc mày ăn ngon miệng, Côliê ạ. -
Tớ nói - Nhưng đừng có giận tao nhé. Trời sinh ra tao cũng là một đứa phàm ăn nên tao thông cảm với nỗi đau khổ của mày. Đúng vào phút ấy mùi giăm-bông rán đã bay đến trên đôi cánh của gió trời. Nhà quán quân nhịn ăn chép miệng rồi phi nước đại về phía có mồi ăn. Tiếc rằng các vị văn hoá xưa nay vẫn quảng cáo về ảnh hưởng thần diệu của tình yêu và lãng mạn không nhìn thấy cảnh này! Thì đây, Eđ Côliê, một con người tinh tế, đầy khôn ngoan mưu mẹo. Vậy mà cậu ta đã bỏ một cô gái, đang làm chúa tể trái tim cậu ta và nhảy sang địa hạt của dạ dày trong cuộc truy tìm cái ăn hèn kém. Đó là cái tát đối với các thi sĩ, là sự nhạo báng chủ đề câu khách nhất của văn chương.
Cái dạ dày rỗng là đối trọng tốt nhất đối với một con tim tràn trề tình cảm. Tất nhiên tớ hết sức quan tâm đến việc Mâymi mù quáng tin vào mánh khoé của Côliê đến mức nào. Tớ bước vào trong lều, nơi tổ chức cái triển lãm có một không hai đó, thấy Mâymi ở đó. Dường như nàng ngạc nhiên, nhưng không để lộ sự lúng túng. - Hôm nay ngoài phố thật là một buổi tối tuyệt vời. - Tớ lên tiếng. - Mát mẻ dễ chịu làm sao, còn tất cả các vì sao thì đứng sóng hàng theo một trật tự tuyệt vời. Em có muốn nhổ toẹt vào những sản phẩm phụ của cái vương quốc loài vật này để đi dạo với một con người bình thường chưa có tên trong chương trình được không? Mâymi e dè né sáng một bên, và tớ hiểu điều đó có nghĩa là gì. Tớ bèn nói: -
Ôi, anh nói điều này ra với em quả là không dễ chịu, nhưng cái vật kì diệu chỉ nuốt không khí mà sống của em đã chuồn rồi. Hắn vừa mớibò ra khỏi lều bằng lối cửa sau. Bây giờ hắn đã hoà nhập làm một với cái phần háu ăn của nhân loại ở trong thành phố. - Anh một số chỉ anh Eđ Côliê phải không? - Mâymi hỏi. - Đúng thế. Nhưng điều đáng buồn nhất là hắn lại bước lên con đường tội lỗi. Anh đã gặp hắn ngoài lều, và hắn đã tuyên bố với anh về ý định tiêu diệt số thực phẩm dự trữ của thế giới. Buồn không thể tả được, khi thần tượng của em đã bước khỏi bục danh dự để biến thành một con châu chấu đi tìm cái ăn. Mâymi nhìn thẳng vào mắt tớ không rời cho đến khi làm tắc tị những ý nghĩ của tớ. -
Anh Giep, nói những điều ấy thật không giống với con người anh chút nào. Anh đừng có đem anh Eđ Côliê ra làm trò cười. Một con người có thể làm những điều buồn cười, nhưng không vì thế mà anh ta trở nên buồn cười trong đôi mắt của cô gái bởi lẽ vì cô, anh ta làm những điều buồn cười ấy. Những người như Eđ ít khi gặp được lắm. Anh ấy từ bỏ ăn uống chỉ cốt làm vừa lòng em. Em thật tàn nhẫn và bội bạc, nếu như sau việc này lại đối xử không tốt đối với anh ấy. Còn anh, anh có gan làm những việc hi sinh như thế không? - Anh biết, - tớ nói, sau khi hiểu nàng ngả về hướng nào. - Anh đã có phốt rồi. Anh chẳng thế làm gì được nữa. Vết chàm của kẻ phàm ăn đã đóng lên trán anh. Bà Eva đã định trước điều này khi nghe lời con rắn (3). Thật là tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa. Hiển nhiên anh là nhà vô địch thế giới về ăn.
Tớ nói với giọng cam phận, nên Mâymi cũng mềm lòng chút ít. - Quan hệ của em với anh Eđ Côliê rất tốt, - nàng nói, - cũng như với anh thôi. Em cũng đã trả lời anh ấy như trả lời anh: đối với em, không có chuyện hôn nhân đâu. Em chỉ thích gặp gỡ, chuyện phiếm với anh ấy. Em cảm thấy dễ chịu vô cùng mỗi khi nghĩ rằng có một người không bao giờ sờ đến dao và dĩa chỉ vì em. - Thế em không yêu anh ta à? - Tớ hỏi hết sức không đúng chỗ. - Em không có tí ý định nào muốn trở thành kì quan phu nhân à? Điều này với ai chả có thể xảy ra.
Tất cả chúng ta đôi khi đều vượt quá phạm vi những lời nói có suy nghĩ thấu đáo. Mâymi khoác lên mặt một nụ cười mát mẻ, trong đó có bao nhiêu đường thì cũng có bấy nhiêu băng và nói bằng giọng hết sức lịch sự. - Anh Pitơx, anh không có quyền đặt cho em những câu hỏi như vậy. Trước tiên anh hãy nhịn ăn bốn mươi chín ngày để giành được cái quyền ấy đã, rồi sau có thể em mới trả lời anh. Vậy là, ngay cả khi Côliê, bằng sự thèm ăn của mình, không còn ngáng trở tớ nữa, thì triển vọng quan hệ riêng của tớ với Mâymi cũng không khá lên.
Rồi công việc ở Gatơri cũng chẳng ra làm sao cả. Tớ đã ở đó quá lâu. Kim cương Braxin mà tớ bán đã dần dần kém đi, còn đồ nhóm lửa thì dứt khoát không chịu cháy những khi trời ẩm. Trong công việc của tớ bao giờ cũng có cái giây phút mà ngôi sao may mắn bảo tớ: “Hãy chuyển sang thành phố lân cận”. Hồi đó tớ du ngoạn trên chiếc xe ngựa có mui để khỏi bỏ sót các thị trấn nhỏ, thế là sau đó mấy hôm tớ thắng ngựa và đánh xe đến chào Mâymi.
Tớ chưa bỏ cuộc đâu. Tớ chỉ định đến Oclahôma Xity có công chuyện độ một hai tuần, sau đó sẽ trở về và tiếp tục mở các cuộc tấn công Mâymi. Các bạn có thể hình dung được không, - tớ đến nhà Điugân thì thấy Mâymi ở đó, kiều diễm trong bộ áo dài xanh, và ở cửa có cái hòm của nàng. Hoá ra là cô bạn của nàng tên là Lôtti Ben làm nghề đánh máy ở Têri Hot, thứ năm tới sẽ đi lấy chồng và Mâymi sẽ đi một tuần để tham dự lễ cưới ấy. Mâymi đang mong một xe hàng chở nàng đến Oclahôma.
Tớ khinh bỉ nhìn chiếc xe rồi xung phong nhận chở hàng. Bà mẹ Điugân thấy chẳng tội gì phải từ chối cả, - vì chở hàng xưa nay vẫn phải mất tiền mà lại, - nên nửa tiếng sau tớ đã cùng Mâymi ngồi trên chiếc xe có bộ díp nhẹ và nhắm hướng phía nam lên đường. Buổi sáng hôm ấy thật đáng khen hết chỗ nói. Làn gió nhẹ thổi hây hây, cây cỏ hoa lá toả hương, những chú thỏ con vểnh đuôi chạy qua đường cho thêm phần vui nhộn.
Cặp ngựa hồng Kentớcky của tớ hướng thẳng về phía đường chân trời; đến nỗi chói hoa cả mắt, khiến lắm lúc tớ phải quay mặt. Không nhìn đường chân trời căng tựa dây phơi quần áo, Mâymi phấn khởi ra mặt, nàng bô lô ba la như trẻ con, nào chuyện về ngôi nhà cũ, nào những trò nghịch ngợm thời đi học, nào những thứ nàng yêu thích, nào những cô ả đáng ghét nhà Giônxơn ở ngay phía đối diện, nơi quê hương nàng, bang Inđiana.
Nhưng tịnh không một lời nào về Eđ Côliê, về ăn uống và những đề tài khó chịu đại loại như vậy. Khoảng gần trưa thì Mâymi mới phát hiện ra giỏ đồ ăn mà nàng định mang theo, đã nằm lại ở nhà. Tớ không phản đối chuyện lót dạ tí ti, nhưng Mâymi không tỏ ra một chút khó chịu nào về chuyện nàng chẳng có cái ăn, nên tớ cũng nín lặng.
Đây chính là điểm chốt của vấn đề, nên tớ tránh nói động đến bất cứ đồ ăn dưới bất cứ dạng gì. Tớ xin rọi chút ánh sáng vào sự việc tớ bị lạc đường trong hoàn cảnh nào. Đường không rõ ràng, bị cỏ che lấp nhiều, mà bên cạnh tớ là Mâymi, người đã thâu tóm hết tâm trí và sự khôn ngoan của tớ. Điều này có thể biện hộ được hay không thì tuỳ các bạn xem xét.
Chỉ có điều là tớ bị lạc đường, và trong cảnh chạng vạng, đáng lẽ phải ở Oclahôma rồi, thì chúng tớ lại luẩn quẩn trên địa giới nào đó, trong lòng khô của một con sông còn chưa khai thông, mà mưa đang quất vào người. Ở một bên, giữa đầm, chúng tớ nhìn thấy một căn nhà gỗ trên gò khô. Xung quanh cỏ mọc cùng những loài cây hiếm. Ngôi nhà nhuốm vẻ buồn bã gợi thương cảm.
Theo sự đồ chừng của tớ thì hai đứa chúng tớ phải náu mình qua đêm ở đó. Tớ giảng giải cho Mâymi nghe, và nàng dành quyền quyết định cho tớ. Nàng không tỏ ra nôn nao lo lắng, và không làm mình làm mẩy ra dáng khổ ải như đa số những người phụ nữ khác nếu ở vào địa vị ấy, mà chỉ nói: “Thôi được”.
Nàng biết rằng nào ai muốn cơ sự này. Ngôi nhà không có người ở. Trong đó có hai phòng trống. Ngoài sân có một nhà kho nhỏ ngảy xưa vẫn nhốt súc vật. Trên gác xép còn ít cỏ khô từ năm ngoái. Tớ dẫn ngựa vào gian nhà kho cho chúng ăn một ít cỏ khô. Lũ ngựa nhìn tớ bằng cặp mắt buồn bã, dường như chờ đợi sự xin lỗi. Chỗ cỏ khô còn lại thì tớ ôm thành từng bó vào nhà làm nơi ngả lưng.
Tớ cũng mang kim cương Braxin và đồ nhóm lửa, vì cả hai thứ ấy không thể chống chọi được tác dụng phá hoại của nước. Tớ với Mâymi ngự toạ trên sàn, trên nệm gối lấy từ trên xe xuống. Tớ dùng cả đống đồ nhóm lửa, vì đêm ấy trời lạnh. Nếu tớ phán đoán đúng thì toàn bộ sự việc trên khiến Mâymi lấy làm thích thú. Đối với nàng, đó là một cái gì đó mới lạ, một vị trí mới từ đó mà nhìn cuộc đời. Nàng cười nói huyên thuyên, và đồ nhóm lửa của tớ cháy không sáng rực bằng đôi mắt nàng.
Tớ có mang theo bên người bao thuốc lá, nên về phần mình, tớ cảm thấy tớ như chàng Ađam trước khi mắc tội. Cả hai chúng tớ đúng là đang ở trong vườn Địa Đàng xưa tốt đẹp. Đâu đó trong đêm tối là con sông Xiôn chảy dưới mưa, và vị thiên thần cầm thanh kiếm lửa còn chưa treo tấm biển “Cấm đi trên cỏ”. Tớ mở hộp ra lấy cho Mâymi đeo lên người nào nhẫn, nào vòng, nào dây chuyền, hoa tai, thắt lưng và khánh hình trái tim. Nàng lấp la lấp lánh như một nàng công chúa triệu phú cho mãi đến khi má rực hồng và nàng đòi có gương đến suýt phát khóc. Đêm đến, tớ sửa soạn cho Mâymi một chiếc giường tuyệt vời trên sàn bằng cỏ khô, áo khoác của tớ và chăn từ xe đem xuống, rồi khuyên nàng ngả lưng.
Còn tớ thì ngồi ở căn phòng khác hút thuốc, lắng nghe mưa rơi và nghĩ đến chuyện biết bao sự khó nhọc đổ xuống đầu con người ta khoảng bảy chục năm trước khi anh ta được mai táng. Gần sáng có lẽ tớ hơi thiếp đi, bởi vì mắt tớ đã nhắm tít lại, mà khi mở ra thì trời đã sáng và trước mặt tớ là Mâymi, đầu tóc gọn gàng, sạch sẽ, quần áo tươm tất, với đôi mắt sáng lên niềm vui cuộc đời. - Hêlô Giep, - nàng thốt lên. - Em thấy đói rồi đấy! Giá em được ăn…
Tớ chăm chú nhìn nàng. Nụ cười biến khỏi khuôn mặt nàng và nàng ném vào tớ cái nhìn đầy khinh thị lạnh lùng. Thế là tớ bật cười và lại nằm lăn ra đất cho dễ chịu hơn. Tớ thấy vui nhộn kinh khủng. Về bản tính và gien di truyền thì xưa nay tớ là thằng hay cười thượng hạng, nhưng lúc này tớ cười ngất, vượt xa mức thường. Khi tớ đã cười chán chê, Mâymi ngồi quay lưng lại phía tớ và toàn thân chứa đầy cảm giác tự tôn. - Đừng giận, Mâymi, - tớ lên tiếng. - Anh không thể nào nhịn cười được. Em chải đầu buồn cười quá. Giá như em được trông thấy… - Đừng có kể chuyện cổ tích ở đây, - Mâymi nói giọng lạnh lùng và quyền uy. -
Tóc em đâu vào đấy chỉnh tề cả. Em biết anh cười cái gì rồi. Nhìn này, anh Giep, - nàng vừa nói vừa ghé nhìn qua kẽ hở giữa các súc gỗ căn nhà ra ngoài trời. Tớ mở ô cửa sổ nhỏ bằng gỗ và nhìn ra. Toàn bộ con sông đã chìm cả dưới nước và cái gò mà trên đó có ngôi nhà chúng tớ đang ở, đã biến thành hòn đảo, vây quanh là dòng nước lũ vàng điên cuồng rộng tới một trăm yat. Mưa vẫn trút xuống.
Chúng tớ chỉ còn cách ngồi đây đợi một chú chim bồ câu đem cành ôliu tới. Phải công nhận rằng trò chuyện và giải trí ngày hôm đó mang rặt một vẻ ảm đạm. Tớ ý thức được rằng Mâymi lại chuốc cho mình cái nhìn hết sức một chiều đối với sự vật, nhưng tớ không đủ sức thay đổi cái nhìn ấy. Bản thân tớ thì rạo rực một mong muốn được ăn. Những ảo ảnh thịt băm và những giấc mộng giăm-bông không buông tha tớ và lúc nào tớ cũng nghĩ thầm: “Nào, bây giờ mi sẽ đánh chén cái gì đây, hả Giep? Mi sẽ gọi món gì đây khi người phục vụ đi đến?”. Tớ chọn cho mình những món ăn ưa thích nhất trong thực đơn và hình dung ra cái giây phút chúng được đặt lên bàn trước mặt tớ.
Có lẽ điều này xảy đến với tất cả những ai đói cồn đói cào. Họ không thể tập trung ý nghĩ vào cái gì khác ngoài cái ăn. Hoá ra, cái chủ yếu nhất không phải là sự bất tử của tâm hồn, cũng không phải là hoà bình thế giới, mà là một cái bàn ăn xinh xắn với cái bát ăn, nước chấm giả kiểu Uxtơ và chiếc khăn ăn để lau những vết cà phê trên khăn trải bàn. Tớ ngồi bần thần nhai đi nhai lại, than ôi, chỉ những ý nghĩ của mình và tranh luận kịch liệt với chính bản thân mình về việc tớ sẽ ăn loại bít-tết nào - với nấm hương hay là theo kiểu con cháu những người Âu sang châu Mỹ vẫn ăn. Mâymi ngồi đối diện vẻ trầm ngâm, đầu tì xuống cánh tay. “Khoai tây thì cứ rán theo kiểu quê, - tớ nhủ thầm, - còn bánh cuốn thì cứ tráng lên chảo. Cũng trên cái chảo ấy sẽ rán chín quả trứng”.
Tớ lục kĩ các túi xem vô tình có còn sót lại củ lạc hay vài hạt ngô nào không? Sang đến buổi chiều thứ hai, dòng sông càng dâng cao, mưa vẫn đổ xuống. Tớ nhìn sang Mâymi và bắt gặp trên mặt nàng nỗi buồn vẫn thường hiện lên trên mặt các cô gái khi đi ngang qua quầy bán kem. Tớ biết rằng cô nàng tội nghiệp của tớ đang đói, có lẽ lần đầu tiên trong đời. Nàng có cái nhìn ưu tư thường gặp ở phụ nữ khi đi ăn trưa hơi muộn hoặc khi cảm thấy đằng sau váy bị tuột cúc. Có lẽ đã đến mười một giờ rồi.
Chúng tớ ngồi trong gian nhà xơ xác, mặt lầm lì và lặng im thin thít. Tớ cố xua đuổi khỏi đầu những hình ảnh ăn uống, nhưng chúng cứ trôi dạt về đúng chỗ cũ trước khi tớ kịp xích chúng vào chỗ khác. Tớ nghĩ đến tất cả những món cao lương mĩ vị đã từng được nghe kể. Tớ chìm đắm trong suy nghĩ về những năm tháng niên thiếu và với sự hồ hởi, sùng bái, tớ hồi tưởng bánh bích-quy tẩm mật và xúc-xích chấm nước mắm. Sau đó tớ đi dọc những năm tháng cuộc đời, dừng lại ở những quả táo tươi và táo ướp, ở bánh rán và xirô phong, ở cháo ngô, ở gà con quay kiểu Vơgini, ở ngô luộc, thịt lợn băm viên và ở bánh khoai lang, và kết thúc bằng món ragu Brunxuych là đỉnh cao của tất cả những thứ ngon lành, vì nó chứa tất cả những thứ ngon lành.
Người ta thường bảo trước mắt người sắp chết đuối hiện ra toàn bộ cuộc đời. Cũng có thể. Vậy thì khi con người ta đói, trước mặt người đói hiện lên bóng ma của tất cả các món ăn anh ta đã nếm trong đời. Và anh ta sáng tạo ra những món ăn mới có thể đem lại vinh quang danh giá cho người đầu bếp.
Giá có ai cất công thu thập những lời trăng trối của những kẻ chết đói thì hẳn sẽ phát hiện thấy trong những lời ấy có ít tình cảm, nhưng được cái dồi dào tư liệu cho một cuốn sách dạy nấu ăn in đến triệu bản bán cũng hết. Nhiều phần chắc là những tư duy bếp núc đã hoàn toàn ru ngủ trí óc tớ. Bất giác tớ thốt lên thành lời với một người hầu bàn tưởng tượng: - Hãy cắt cho dày dày một chút và rán tai tái thôi, sau đó đổ trứng vào - sáu quả nhé. Mâymi quay đầu lại ngay. Đôi mắt nàng sáng lên và nàng mỉm cười rồi nói líu tíu: -
Còn tôi thì ba quả trứng rán vừa chín với khoai tây. Ái chà, được thế thì còn gì bằng, anh Giep nhỉ. Em sẽ gọi thêm món cơm gà rán, món kem… - Nhẹ thôi! - Tớ cắt ngang. - Thế còn bánh gan gà, thận xô-tê, lại cả cừu non rán… - Ôi, - Mâymi ngắt lời tớ, toàn thân run lên, - với nước chấm cay… Cả xalát với thịt gà tây, cả quả ôliu, cả dâu nữa… Cứ như vậy trong suốt mười phút chúng tớ duy trì cuộc đối thoại cao lâu này.
Chúng tớ vòng đi vòng lại trên con đường huyết mạch rồi rẽ vào tất cả các nhánh đường con của đề tài ăn uống, do Mâymi dẫn đường, vì nàng rất có tri thức về các loại danh mục đồ ăn, và những món ăn mà nàng gọi tên càng làm tăng sự thèm khát của tớ. Có cảm tưởng Mâymi đã hoà nhập được với thực phẩm ăn uống và nàng nhìn cái thói háu ăn tội nghiệp ít khinh bỉ hơn so với trước đây. Sáng ra, chúng tớ thấy nước đã rút. Tớ thắng ngựa và cả hai lên đường, lần theo bùn lầy cho tới khi gặp được con đường khi trước. Chúng tớ chỉ đi lạc mất vài dặm và hai tiếng sau đã ở Oclahôma. Vật đầu tiên chúng tớ dõi mắt thấy trong thành phố là tấm biển lớn của một tiệm ăn, thế là chúng tớ phóng ngay tới.
Tớ ngồi vào bàn với Mâymi, giữa chúng tớ là dao, dĩa, đĩa ăn, còn trên gương mặt nàng không phải là sự khinh bỉ, mà là nụ cười, một nụ cười đói và đáng yêu. Tiệm ăn mới bày biện rất khá. Tớ trích đọc cho người phục vụ rất nhiều dòng trong tờ thực đơn, khiến anh ta ngó ra ngoài xe ngựa của tớ, băn khoăn không rõ còn bao nhiêu người nữa sẽ chui ra từ xe vào đây. Chúng tớ ngồi như vậy và người ta bắt đầu bưng các món ra. Đó quả là một bữa tiệc cho mười hai quan khách, vả lại chúng tớ cảm thấy mình cũng đúng là bằng mười hai quan khách. Tớ nhìn qua bàn sang Mâymi và nở nụ cười vì sực nhớ ra một điều. Mâymi nhìn bàn ăn như một cậu bé nhìn chiếc đồng hồ có khoá vặn đầu tiên của mình. Sau đó nàng nhìn thẳng vào mặt tớ, và hai giọt lệ to ứa lên trong mắt nàng.
Người phục vụ đi xuống bếp lấy thêm món ăn bổ sung. - Anh Giep ơi, - Mâymi dịu dàng cất tiếng, - em thực là một con ngốc. Em đã nhìn mọi thứ không đúng. Trước kia em chưa bao giờ phải chịu cảnh này. Đàn ông ngày nào cũng phải chịu cảnh đói, phải không anh? Họ to khoẻ là thế, họ làm công việc nặng nhọc là thế, cho nên họ ăn không phải để trêu tức những cô ả phục vụ ngốc nghếch, phải không anh? Đã có lần anh nói… nghĩa là… anh đã hỏi em… anh muốn… Vậy thì, anh Giep ơi, nếu anh còn muốn… thì em sẽ rất sung sướng… em muốn có anh luôn ngồi đối diện với em bên bàn. Giờ thì hãy cho em ăn thêm một chút gì nữa, mau lên, anh nhé.
Tớ mê hoặc người đời bằng âm nhạc, tài hùng biện, sự khéo léo của đôi tay và những thủ thuật ranh mãnh, đồng thời bán cho họ hàng kim hoàn thuốc men, xà phòng, thuốc mọc tóc và đủ thứ tạp nham khác. Trong lúc đi chu du, phần để giải trí, phần để chuộc tội, tớ đã nghiên cứu đàn bà.
Muốn hiểu được một ả đàn bà, con người ta cần cả một đời, nhưng những mầm mồng kiến thức về nữ giới có thể đạt được, nếu ta dành cho nó mười năm nghiên cứu cần cù, kĩ lưỡng. Trong lĩnh vực này, tớ đã biết được rất nhiều điều bổ ích khi rao bán ở miền tây kim cương Braxin và đồ nhóm lửa đã được cấp bằng phát minh, - đó là sau chuyến đi Xavanna của tớ qua vành đai bông. Dạo ấy là thời kì phát đạt đầu tiên của bang Oclahôma.
Thị xã Gatơri mọc lên ở giữa bang này, vùn vụt như thổi. Đó là một thị xã điển hình ra đời trong cao trào bùng nổ kinh tế: muốn tắm rửa phải xếp hàng, nếu bạn ngồi ăn trong tiệm lâu quá chục phút thì phải trả thêm tiền chỗ ngồi; còn nếu ngủ đất trong khách sạn, sáng ra xin cứ việc chi tiền như nghỉ biệt thự. Về quan điểm lẫn tư chất thì ở đâu tớ cũng thích tìm những chỗ đánh chén ngon lành nhất. Tớ tìm được một nơi hết sức vừa ý.
Đó là một tiệm ăn căng bạt của một gia đình vừa mới mở. Gia đình ấy đến thị xã này theo vết chân sự bùng nổ kinh tế. Họ đã dựng gấp một ngôi nhà nhỏ vừa để ở vừa để nấu nướng và chăng thêm lều bạt áp vào ngôi nhà làm tiệm ăn. Lều này chăng đầy những tờ quảng cáo nhằm giành giật từ vòng tay tội lỗi của các biệt thự và khách sạn kẻ lữ hành mệt mỏi. “Hãy nếm bánh quy nhà chúng tôi”, “Bánh rán nóng với xirô phong, những món bạn vẫn ăn từ thuở bé”,
“Gà rán của chúng tôi lúc sống chưa đến tuổi cục tác” đấy là những dòng chữ có nhiệm vụ kích thích sự tiêu hoá của khách ăn. Tớ mới bụng bảo dạ rằng cái thân xác tớ cần tọng một chút gì đó chiều nay tại chính tiệm ăn này. Sự việc diễn ra đúng như vậy. Chính tại đây tớ đã làm quen được với Mâymi Điugân.
Ông già Điugân - kiểu dân ăn không ngồi ở xứ Inđiana, cao tới sáu bộ (1) - nằm trên ghế xích đu hồi tưởng lại vụ thất bát năm một tám linh sáu. Bà lão Điugân nấu bếp, còn Mâymi thì phục vụ khách. Chỉ vừa trông thấy Mâymi, tớ đã hiểu ngay là cuộc tổng kê dân số đã phạm một sự nhầm lẫn. Ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đúng ra chỉ có một cô gái mà thôi! Mô tả nàng chi tiết thật là khó. Vóc nàng xấp xỉ một thiên thần, nàng có đôi mắt, lại còn điệu bộ nữa chứ. Nếu các cậu muốn biết nàng là người như thế nào, thì có thể tìm thấy cả một chuỗi xích, trải dài từ cầu Bruclin về phía tây đến tận trụ sở toà án ở Caonsin Blaphơ, bang Inđiana.
Những người như nàng kiếm sống bằng cách làm việc ở các cửa hàng tiệm ăn, trong các nhà máy và văn phòng. Họ có gốc gác theo đường thẳng từ bà Eva, chả là họ đã giàng được quyền làm đàn bà, còn nếu như các cậu dám đặt dấu hỏi về cái quyền ấy thì có khả năng ăn một cái tát ra trò. Họ là những người bạn tốt, họ trung thực và tự do, dịu dàng và táo tợn, và họ biết nhìn thẳng vào cuộc đời. Họ gặp gỡ mặt đối mặt với đàn ông và đã đi đến kết luận rằng đàn ông là giống sinh vật thảm hại. Họ đã đinh ninh rằng sự mô tả của đàn ông trong các tiểu thuyết đọc trên tàu hoả tựa như chàng hoàng tử trong cổ tích, chẳng hề được thực tế xác nhận.
Đấy, Mâymi cũng là một cô gái như vậy. Toàn bộ con người nàng toát lên sức sống, sự vui vẻ và tính linh lợi, với khách thì mau mồm mau miệng: thật chết cười mỗi lần nghe nàng đáp. Tớ không ưa khai quật tận lòng sâu các cảm xúc cá nhân. Tớ vẫn theo cái thuyết cho rằng những mâu thuẫn và những mối tơ vò của cái bệnh có tên gọi là bệnh tương tư là những thứ cũng riêng tư giống như cái bàn chải đánh răng.
Theo tớ, các bản tiểu sử những trái tim chỉ nên tìm vị trí cho mình bên cạnh các tiểu thuyết lịch sử về đời sống buồng gan trên các tạp chí dành cho việc rao tin. Vì thế xin các cậu thứ lỗi, nếu tớ không liệt kê ra đây danh sách đầy đủ của những tình cảm của tớ đối với Mâymi. Chẳng bao lâu tớ đã nhiễm thói quen thường xuyên có mặt ở quán vào những lúc ít người. Mâymi tiến lại phía tớ, trong bộ áo dài đen và tạp dề trắng, miệng mỉm cười và nói:
“Chào anh Giep, sao anh không đến đúng giờ đã định? Anh cố ý muộn để mọi người phải lo lắng hay sao? Gà rán - bít-tết - thịt lợn - dầu - trứng tráng - với - giăm-bông - … Nàng gọi tớ là Giep, nhưng điều ấy tuyệt nhiên không có nghĩa gì cả. Chẳng qua nàng cũng phải phân biệt người nọ với người kia mà thôi. Gọi thế thì vừa nhanh, vừa tiện.
Tớ thường ăn hai bữa trưa và cố kéo dài chúng như ăn tiệc trong xã hội thưọng lưu, nơi người ta đổi đĩa, đổi vợ và trao qua đổi lại những câu đùa giữa các lần nuốt. Mâymi chịu đựng tất. Có lẽ nào nàng lại làm ầm ĩ lên và bỏ mất một đôla chỉ vì người ăn không đến theo thời gian biểu đã định. Ít lâu sau lại thêm một cậu chàng nữa tên là Eđ Côliê nảy ra cái thói tọng đồ ăn vào giờ trái khoáy.
Vì có tớ và cậu ta mà giữa bữa ăn sáng với bữa ăn trưa và bữa ăn trưa với bữa ăn chiều đã bắc những cây cầu nối thường xuyên. Qnán ăn biến thành rạp xiếc với ba vũ đài, thành thử Mâymi hoàn toàn không còn thời gian nghỉ ở hậu trường nữa. Thằng cha Côliê đầy những thủ đoạn ma lanh. Hắn làm việc đâu như ở đội khoan giếng hoặc bảo hiểm, có quỷ mới biết được - tớ cũng chả nhớ ở đội nào. Hắn cũng khá về khoa ăn nói và dễ gây được thiện cảm. Tớ với hắn đã tạo ra trong quán một bầu không khí tình tự và thi đua. Mâymi giữ mình trên tầm cao vô tư và phân phối đều sự lịch thiệp đối với cả hai người chúng tớ, giống như chia bài ở câu lạc bộ ấy: một quân bài cho tớ, một quân bài cho Côliê, và một quân bài đặt cái.
Trong ống tay áo không còn một quân bài nào cả. Tất nhiên tớ với Côliê đã làm quen với nhau và thỉnh thoảng còn thù tạc với nhau trong bốn bức tường của lều quán. Không kể những trò khôn ranh, cậu ta gây được ấn tượng tốt và sự đối địch của cậu ta cũng rất ngộ. - Tao thấy mày thích ngồi lì trong phòng tiệc sau khi khách đã tản về hết đấy nhé. - Có một lần tớ nói với Côliê để xem hắn đối đáp như thế nào. - Ừ, - Côliê nói, vẻ tư lự. - Sự ồn ào cảnh chen vai thích cánh làm thần kinh nhạy cảm của tao khó chịu. - Thần kinh tao cũng thế, - tớ nói - À, cô bé cũng kháu đấy chứ nhỉ? - À, thì ra thế, - Côliê bật cười.
- Nếu mày đã nhắc đến điều đó, thì tao xin báo để mày rõ là cô bé gây được ân tượng không phải là khó chịu đối với thần kinh thị giác của tao. - Cô ấy làm tao thích mắt lắm, - tớ nói. - Tao đang tán nó đây. Nói để mày biết. - Tao sẽ rất trung thực, - Côliê nói. - Nếu như ở các hiệu thuốc có bán đủ dịch vị, tao sẽ cho mày một chầu cho mày tha hồ bị bội thực để đạt được cái đích mới thôi. Thế là bắt đầu cuộc đua nước rút của chúng tớ. Quán ăn cung ứng liên tục.
Mâymi phục vụ chúng tớ, vui vẻ, dễ thương và lịch sự. Thần ái tình và người nấu bếp ở quán Điugân làm việc cật lực. Một ngày tháng chín tớ đã rủ Mâymi đi chơi với tớ sau bữa ăn tối, khi cô ấy dọn dẹp xong. Chúng tớ đi dạo một tí rồi ngồi lên những khúc gỗ ở khu vực cuối thành phố. Dịp may như thế chắc còn lâu mới có, nên tớ đã thổ lộ hết những gì mình muốn nói. Rằng kim cương Braxin và đồ nhóm lửa đã được cấp bằng phát minh là nguồn thu nhập của tớ, đủ để đảm bảo ấm no cho cả hai, rằng cả hai thứ ấy dù sao cũng không thể cạnh tranh được với ánh mắt của một nàng, rằng họ Điugân cần phải đổi sang họ Pitơx, nếu không đổi thì xin giải thích lí do. Thoạt đầu Mâymi chẳng nói gì cả.
Sau đó bỗng nàng rùng rùng toàn thân. Thế là tớ nghe được những điều bổ ích. Nàng nói: - Anh Giep ạ, em rất tiếc là anh đã nói ra. Em cũng mến anh, em mến anh nhiều mặt, nhưng trên đời này sẽ chẳng có người đàn ông nào em lấy làm chồng đâu và sẽ chẳng bao giờ có cả. Anh có biết trong con mắt em, đàn ông là cái thứ gì không? Đó là nấm mồ, là nấm mồ để chôn bít-tết, thịt lợn kho, gan xào, trứng tráng với giăm-bông. Trong tâm khảm em đã in đậm hình ảnh của họ như thế. Em đã thử chống lại cảm giác ấy, những không tài nào chống được.
Nghe nói các cô gái khen hết lời chồng chưa cưới của mình, em không hiểu nổi. Đàn ông, cái cối xay thịt và chạn đựng thức ăn đều gây ra ở em những cảm giác giống nhau. Có lần em đi xem kịch, nhìn thấy một diễn viên mà các cô gái đều chết mê chết mệt. Em ngồi xem mà nghĩ bụng, không hiểu anh ta thích loại bít-tết nào - còn tái, chín vừa hay đã rán già và loại trứng nào - còn lòng đỏ nhùng nhùng hay đã luộc nhừ, chỉ có bấy nhiêu thôi. Không, anh Giep ạ. Em sẽ không bao giờ lấy chồng. Để mà toàn trông thấy anh ta sáng đến ngồi ăn, đến trưa lại quay về ăn, rồi cuối cùng lại vác mặt về ăn tối, chỉ ăn, ăn, ăn ấy à…
- Nhưng mà, Mâymi này, - tớ bảo, - cái đó rồi sẽ qua. Tại em đã làm công việc này nhiều quá đấy thôi. Nhất định rồi em sẽ lấy chồng. Đàn ông không phải bao giờ cũng chỉ ăn. - Còn em thì lúc nào cũng quan sát thấy họ ăn. Không, em sẽ nói cho anh biết em sẽ làm gì. - Mâymi bỗng tràn đầy cảm hứng, đôi mắt nàng sáng lên. - Ở Têri Hot có một cô gái tên là Xiudi Phoxtơ, bạn gái em. Cô bạn ấy làm ở quán điểm tâm ngay nhà ga. Em cũng đã làm hai năm ở tiệm ăn chỗ ấy. Xiudi còn kinh tởm đàn ông hơn, bởi vì những người đàn ông ra ga ăn bao giờ cũng vội cuống vội cuồng. Họ vừa tán tỉnh vừa nhồm nhoàm nhai cùng một lúc.
Khiếp! Em với Xiudi đã quyết rồi. Chúng em sẽ dành dụm tiền, khi nào đủ sẽ tậu một ngôi nhà nhỏ và năm acrơ (2) đất. Chúng em đã để ý đến một khoảnh đất. Chúng em sẽ sống với nhau và sẽ trồng hoa viôla. Em khuyên người đàn ông nào phàm ăn tục uống đừng nên đến gần trang trại của chúng em dưới một dặm. - Ồ, thế chả lẽ các cô gái không bao giờ… - tớ cất tiếng. Nhưng Mâymi đã dứt khoát cắt ngang. - Không, không bao giờ. Họ chỉ nhấm nháp gọi là đôi chút thôi. - Anh thì cho rằng kẹo…
- Lạy trời, anh hãy nói sang chuyện khác đi, - Mâymi đáp. Như tớ đã nói, kinh nghiệm này đã chứng minh cho tớ rằng bản tính đàn bà đời đời hướng tới những ảo ảnh và ảo tưởng. Hãy lấy nước Anh mà xem - bít-tết đã tạo nên nó, nước Đức thì do xúc-xích đẻ ra, còn chú Sam hùng mạnh như ngày nay là nhờ bánh rán và gà rán. Nhưng các cô thiếu nữ có tin điều ấy đâu. Họ cho rằng tất cả là do Sếchxpia, Rubinxtên và đội khinh kị binh của Thêơđo Rudơven làm nên. Tình thế của tớ thì ai mà chẳng nản lòng. Không thể có chuyện cắt đứt Mâymi được.
Thế nhưng cứ nghĩ đến việc phải từ bỏ thói quen ăn uống xưa nay thì tớ lại buồn nẫu ruột. Tớ đã nhiễm phải cái tật ấy từ sớm quá. Hai mươi bảy tuổi đời mà tớ đã mù quáng lao đầu vào thảm hoạ và ngả theo tiếng gọi mê hoặc của con quái vật khủng khiếp là thực phẩm. Thay đổi muộn quá rồi. Tớ đã trở thành loại nhai lại hai chân hết phương cứu vãn. Có thể đánh cuộc bằng món tôm hùm với món bánh rán, cuộc đời tớ thế là đi đứt vì cái thói ấy. Tớ tiếp tục ăn ở quán Điugân, hi vọng Mâymi rủ lòng thương. Tớ tin vào tình yêu chân chính và nghĩ rằng nếu nó thường đã phải chống chọi lại với sự vắng mặt của một bữa ăn thịnh soạn thì biết đâu, nó sẽ biết chống chọi lại với sự có mặt của chính bữa ăn ấy.
Tớ vẫn tiếp tục chịu sự điều khiển của tật xấu tai hại, nhưng mỗi lần tớ bỏ một miếng khoai tây vào mồm trước mặt Mâymi là tớ cảm thấy có lẽ mình đang chôn vùi những hi vọng ngọt ngào nhất của bản thân. Côliê hình như cũng ngỏ lời với Mâymi và cũng nhận được câu trả lời tương tự. Ít ra thì có một hôm hắn chỉ gọi một tách cà phê và một mẩu bánh lương khô rồi ngồi nhấm nháp miếng bánh hệt như một tiểu thư khuê các trước đó đã nếm thịt bò xào bắp cải dưới bếp.
Tớ liền bắt chước và cũng chỉ gọi cà phê và bánh lương khô. Kể cũng láu cá đấy chứ hả? Ngày hôm sau, hai đứa lại lặp lại như thế. Ông già Điugân từ bếp lên bưng cái món đài các của chúng tớ. - Các cậu mắc chứng ăn không ngon hả? - Bác ấy hỏi với giọng của người cha, tuy không phải không có sự châm biếm. - Tôi đã đổi con Mâymi xuống bếp rồi, cho nó nghỉ ít lâu. Phục vụ bàn này cũng không vất vả, không ảnh hưởng lắm đến bệnh thấp khớp của tôi. Tớ với Côliê đành phải quay trở lại với những thứ thực phẩm nặng dạ dày.
Lúc ấy tớ bỗng phát hiện ra mình ăn ngon miệng kinh khủng, đúng là “ngồi ăn núi lở”. Tớ ăn đến nỗi nếu có bước qua ngưỡng cửa vào gặp Mâymi lúc ấy thì nàng sẽ căm ghét tớ lắm. Sau đó tớ phát hiện ra mình đã trở thành nạn nhân của một mánh khoé đầy báng bổ và đê tiện mà Eđ Côliê đã rắp ranh bẫy tớ. Tớ với hắn ngày nào cũng đi uống lai rai trong thành phố để làm dịu bớt cơn đói. Cái thằng xỏ lá ấy đã mua chuộc gần chục gã phục vụ, thế là những gã này đã rót vào từng cốc rượu uytxki của tớ một lượng đáng kể thứ chất cay làm từ táo kích thích sự ngon miệng do hãng Anacôn sản xuất. Nhưng còn trò bịp cuối cùng mà hắn định chơi tớ, còn khó quên hơn nhiều. Một hôm không thấy Côliê ló mặt đến quán nữa. Một người quen chung có nói rằng buổi sáng hắn đã rời bỏ thành phố. Như vậy là kẻ thù duy nhất của tớ chỉ là tấm bảng món ăn. Vài ngày trước khi đi biệt tăm,
Côliê đã tặng tớ hai chai uytxki hảo hạng, tuồng như là của người anh họ ở Kentơcki gửi cho hắn. Bây giờ tớ có cơ sở để nghĩ rằng thứ uytxki ấy hầu như chứa toàn món chất cay Anacôn là từ táo kích thích sự ngon miệng. Tớ vẫn tiếp tục ngốn hàng tấn thực phẩm. Trong con mắt Mâymi, hơn bao giờ hết, tớ vẫn là loài hai chân chuyên nhai lại. Khoảng một tuần sau khi Côliê mất hút, có một đoàn triển lãm trưng bày của lạ đến thành phố và ở trong một lều bạt gần đường sắt. Một buổi chiều tớ ghé vào chỗ Mâymi, thì bà mẹ nàng bảo với tớ rằng Mâymi cùng đứa em trai là Tômat đã đi xem triển lãm rồi. Việc này lặp đi lặp lại tuần ba lần. Chiều thứ bảy tớ lại bắt gặp Mâymi đi xem triển lãm về.
Tớ bèn rủ nàng ngồi lại một lát. Nàng đã thay đổi hẳn. Đôi mắt dịu dàng hơn và long lanh sáng. Thay vì một Mâymi Điugân chỉ chực trốn chạy khỏi tính tham ăn của giới đàn ông, đi chăm sóc hoa viôla, trước mặt tớ là một Mâymi đáp ứng được với dự liệu của Chúa trời và cực kì thích hợp với việc sưởi lòng trong ánh kim cương Braxin và những đồ nhóm lửa đã được cấp bằng phát minh. - Chắc là em đang bị lôi cuốn rất nhiều vì cái triển lãm chưa từng có về các sinh vật kì diệu và lạ mắt? - Tớ hỏi. - Dù sao cũng giải trí được ạ. - Mâymi đáp. - Rồi em sẽ phải đi tìm sự giải trí để thoát khỏi sự giải trí ấy, nếu ngày nào em cũng đi xem. - Đừng nổi nóng lên thế, anh Giep! Chẳng qua em chỉ muốn bứt khỏi những ý nghĩ về bếp núc. - Những sinh vật kì diệu ấy không ăn à? - Không phải tất cả. Một số bằng sáp. - Đừng có dính vào đấy là được. -
Tớ nói nặng tuy không có ẩn ý gì, chẳng qua quen mồm mà thôi. Mâymi đỏ mặt. Tớ chẳng hiểu ra làm sao nữa. Trong lòng tớ bừng lên một hi vọng là bằng sự chung thuỷ của mình tớ sẽ làm nhẹ bớt tội ác khủng khiếp của cánh đàn ông là công nhiên nhồi nhét thực phẩm vào cơ thể. Mâymi loáng thoáng nói đến các vì sao, trong những ngôn từ lịch sự nhất. Tớ cũng hứng chí tán về sự kết giao của những con tim, về tổ ấm gia đình sưởi bằng tình yêu chân chính và những đồ nhóm lửa đã được cấp bằng phát minh. Mâymi lắng nghe không nhăn mặt, thế là tớ đã bụng bảo dạ “Chú mày đã làm nhẹ được sự căm ghét trùm lên những kẻ phàm ăn tục uống rồi đấy! Chú mày đã giẫm được lên đầu con rắn ẩn trong lọ nước chấm rồi đấy!”.
Chiều thứ hai tớ lại mò đến Mâymi. Nàng với cậu em trai lại đi xem triển lãm các vật kì diệu mất rồi. “Lạy trời cho bốn mươi lăm hà bá quơ cái triển lãm ấy đi cho rồi! - Tớ rủa. - Tròi đánh thánh vật đời đời cái triển lãm ấy! Amen! Ngày mai ta phải đích thân đến đấy xem có cái chết tiệt gì mà hấp dẫn thế.
Chả lẽ một con người được tạo hoá sinh ra để thừa kế đất đai, lại có thể bị mất người yêu thoạt đầu vì thìa dĩa, rồi sau đó vì một cái triển lãm mà vé vào cửa chỉ có mười xu?” Chiều hôm sau, trước khi đi xem triển lãm, tớ tạt vào nhà Mâymi và được biết nàng không có nhà. Lần này nàng không đi với Tômat, vì cậu này đã đón tớ ngay trên bãi cỏ trước lều quán để gạ tớ. - Anh Giep, anh sẽ cho em gì nào, nếu em nói chuyện này cho anh nghe? - Cái gì đáng giá thì anh sẽ cho. - Chị Mâymi phải lòng kì quan ở triển lãm rồi. Em chẳng thấy thích.
Nhưng chị ấy lại thích. Em đã nghe lỏm được họ nói chuyện với nhau. Em nghĩ chắc anh thích nghe. Anh Giep này, hai đôla đối với anh có nhiều quá không? Ở trong thành phố có bán một khẩu súng, em muốn… Tớ lục túi và đổ vào mũ cho Tômat một đồng xu bạc. Tin Tômat báo như dao đâm vào tớ, khiến ý nghĩ của tớ chao đảo mất một lúc. Rót tiền lẻ cho Tômat, tớ mỉm cười một cách ngớ ngẩn, mà trong lòng tan nát.
Tớ nói giọng nửa ngố nửa pha trò. - Cảm ơn Tômat… cảm ơn… em nói cái kì quan… ấy à? Nó có gì đặc biệt, cái của quái dị ấy, hả Tômat? - Đây này, - Tômat vừa nói vừa lôi từ trong túi ra tờ chương trình bằng giấy vàng khè và dúi vào mũi tớ. - Anh ta là vô địch thế giới về nhịn đói. Chắc là vì thế mà chị Mâymi cứ bám lấy anh ta. Anh ta không ăn gì cả. Anh ta sẽ nhịn đói bốn mươi chín ngày. Hôm nay là ngày thứ sáu… Anh ta đây này. Tớ nhìn dòng chữ mà ngón tay Tômat chỉ vào: “Giáo sư Eđuacđô Côliêri”. - À! - Tớ thốt lên thán phục. - Giỏi thật, Eđ Côliê.
Xin chịu ông cái khoản nhanh trí. Nhưng tôi không nhường cô gái cho ông đâu, hiện tại nàng chưa phải là kì quan phu nhân. Tớ rảo bước đến ngay triển lãm. Khi tớ tiến vào lối cửa sau thì có một người nào đó thò đầu ra như con rắn, đứng thẳng chân lên và lao thẳng đến tớ như chú ngựa muxtang. Tớ tóm ngay cổ người đó và quan sát kĩ dưới ánh sao. Đó là giáo sư Eđuacđô Côliêri mặc quần áo của giống người, với nỗi tức giận trong một con mắt và sự sốt ruột trong con mắt kia. - Hêlô, kì vậy! - Tớ nói. - Đợi một chút nhé, để tao ngắm mày cái nào. Chà chà, làm kì quan của thế kỉ chúng ta, hoặc là của lạ từ đảo Boocnêô thích thật! Thế trong chương trình người ta tôn xưng cho mày cái tên gì? - Giep Pitơx này, -
Côliê nói khe khẽ. - Thả tao ra, không thì tao nện mày bây giờ. Tao đang vội chết đi được đấy. Bỏ tay ra! - Nhẹ nhàng nào, nhẹ nhàng nào, Eđi, - tớ nói, tay vẫn giữ chặt cổ áo anh chàng. - Cho phép một người bạn cũ chiêm ngưỡng mày cho thoả đã. Mày bày ra trò này phải nói là đại bợm đấy, con ạ, nhưng chớ có to mồm về chuyện đấm nhau: mày không thích hợp với việc ấy đâu. Cái tối đa mà mày có bây giờ - đó là sự táo tợn kha khá với cái dạ dày rỗng. Tớ đoán không nhầm, hắn yếu như sên. Hắn lên tiếng: - Giep ơi, tao sẵn sàng tranh cãi với mày về chủ đề này bao nhiêu hiệp cũng được, chỉ cần tao có nửa tiếng luyện tập và một thỏi bít-tết diện tích hai bộ vuông để luyện.
Tổ sư đứa nào sáng tạo ra nghệ thuật nhịn ăn! Hãy xích nó lại đời đời cách cái giếng không đáy chứa toàn bít-tết nóng sốt chỉ hai bước chân! Tao bỏ cuộc đấu đây, Giep ạ. Tao đào ngũ đây. Mày sẽ tìm thấy nàng Điugân trong lều: nàng đang ngắm một xác ướp sống và một con lợn bác học ở đấy. Nàng thật là một cô gái kì diệu, Giep ạ. Lẽ ra tao đã thắng trong cái trò này, nếu như chịu được trạng thái không ăn uống thêm một thời gian nữa. Mày phải thừa nhận rằng đường đi nước bước của tao trong trò tuyệt thực này đã được suy tính để hoàn toàn có khả năng thành công.
Tao đã tưởng như thế. Người ta bảo tình yêu lay chuyển cả núi non. Cứ tin tao đi, đấy chỉ là lời đồn sai lệch… Không phải tình yêu, mà là hồi chuông gọi đi ăn buộc núi non phải rung chuyển. Tao yêu Mâymi Điugân. Tao đã trải qua sáu ngày nhịn ăn để chiếm được tình cảm của nàng. Suốt thời gian này tao chỉ có một lần xơi một miếng, đó là lúc tao đẩy cái thằng xăm đầy mình và giật của nó miếng bánh xanđuych để ăn.
Ông chủ cúp sạch lương của tao. Nhưng tao đến đây không phải vì mấy đồng lương, mà là vì cô gái ấy. Vì nàng tao có thể hiến dâng cuộc đời, còn vì miếng thịt lợn rán tao sẽ hiến dâng tâm hồn bất tử của mình. Đó là một cực hình, Giep ạ. Cả tình yêu, cả sự nghiệp, cả gia đình, cả tôn giáo, cả nghệ thuật, cả tinh thần yêu nước đều chỉ là những lời nói suông trống rỗng, khi con người ta đói. Eđ Côliê tâm sự với tớ bằng giọng lâm li. Chẩn đoán bệnh rất dễ: những đòi hỏi của trái tim cậu ta và những đòi hỏi của dạ dày đang xung đột với nhau, và phái hậu cần đã thắng. Quả thực, tớ luôn thấy mến Côliê. Tớ lục tìm một câu an ủi nào đó, nhưng chẳng tìm thấy câu nào thích hợp cả. Côliê nói tiếp: -
Bây giờ mày hãy thương tao mà để cho tao đi. Số phận đã giáng cho tao một đòn nên thân, nhưng bây giờ tao sẽ giáng cho đồ ăn thức uống một đòn mạnh hơn. Tao sẽ khua sạch tất cả các tiệm ăn trong thành phố. Tao sẽ ngâm mình ngập đến thắt lưng trong món thịt philê và sẽ tắm trong trứng tráng với giăm-bông. Thật kinh khủng khi một người đàn ông phải đến nước từ bỏ một cô gái chỉ vì cái ăn. Thật còn tệ hơn cái anh chàng tên gì nhỉ? Ixav, kẻ đã bỏ cả bản quyền tác giả vì một con lôi. Đói là một điều khủng khiếp. Xin lỗi mày nhé, tao đang ngửi thấy mùi giăm-bông rán ở phía xa xa, nên đôi chân tao đang thúc giục tao băng về hướng đó. - Chúc mày ăn ngon miệng, Côliê ạ. -
Tớ nói - Nhưng đừng có giận tao nhé. Trời sinh ra tao cũng là một đứa phàm ăn nên tao thông cảm với nỗi đau khổ của mày. Đúng vào phút ấy mùi giăm-bông rán đã bay đến trên đôi cánh của gió trời. Nhà quán quân nhịn ăn chép miệng rồi phi nước đại về phía có mồi ăn. Tiếc rằng các vị văn hoá xưa nay vẫn quảng cáo về ảnh hưởng thần diệu của tình yêu và lãng mạn không nhìn thấy cảnh này! Thì đây, Eđ Côliê, một con người tinh tế, đầy khôn ngoan mưu mẹo. Vậy mà cậu ta đã bỏ một cô gái, đang làm chúa tể trái tim cậu ta và nhảy sang địa hạt của dạ dày trong cuộc truy tìm cái ăn hèn kém. Đó là cái tát đối với các thi sĩ, là sự nhạo báng chủ đề câu khách nhất của văn chương.
Cái dạ dày rỗng là đối trọng tốt nhất đối với một con tim tràn trề tình cảm. Tất nhiên tớ hết sức quan tâm đến việc Mâymi mù quáng tin vào mánh khoé của Côliê đến mức nào. Tớ bước vào trong lều, nơi tổ chức cái triển lãm có một không hai đó, thấy Mâymi ở đó. Dường như nàng ngạc nhiên, nhưng không để lộ sự lúng túng. - Hôm nay ngoài phố thật là một buổi tối tuyệt vời. - Tớ lên tiếng. - Mát mẻ dễ chịu làm sao, còn tất cả các vì sao thì đứng sóng hàng theo một trật tự tuyệt vời. Em có muốn nhổ toẹt vào những sản phẩm phụ của cái vương quốc loài vật này để đi dạo với một con người bình thường chưa có tên trong chương trình được không? Mâymi e dè né sáng một bên, và tớ hiểu điều đó có nghĩa là gì. Tớ bèn nói: -
Ôi, anh nói điều này ra với em quả là không dễ chịu, nhưng cái vật kì diệu chỉ nuốt không khí mà sống của em đã chuồn rồi. Hắn vừa mớibò ra khỏi lều bằng lối cửa sau. Bây giờ hắn đã hoà nhập làm một với cái phần háu ăn của nhân loại ở trong thành phố. - Anh một số chỉ anh Eđ Côliê phải không? - Mâymi hỏi. - Đúng thế. Nhưng điều đáng buồn nhất là hắn lại bước lên con đường tội lỗi. Anh đã gặp hắn ngoài lều, và hắn đã tuyên bố với anh về ý định tiêu diệt số thực phẩm dự trữ của thế giới. Buồn không thể tả được, khi thần tượng của em đã bước khỏi bục danh dự để biến thành một con châu chấu đi tìm cái ăn. Mâymi nhìn thẳng vào mắt tớ không rời cho đến khi làm tắc tị những ý nghĩ của tớ. -
Anh Giep, nói những điều ấy thật không giống với con người anh chút nào. Anh đừng có đem anh Eđ Côliê ra làm trò cười. Một con người có thể làm những điều buồn cười, nhưng không vì thế mà anh ta trở nên buồn cười trong đôi mắt của cô gái bởi lẽ vì cô, anh ta làm những điều buồn cười ấy. Những người như Eđ ít khi gặp được lắm. Anh ấy từ bỏ ăn uống chỉ cốt làm vừa lòng em. Em thật tàn nhẫn và bội bạc, nếu như sau việc này lại đối xử không tốt đối với anh ấy. Còn anh, anh có gan làm những việc hi sinh như thế không? - Anh biết, - tớ nói, sau khi hiểu nàng ngả về hướng nào. - Anh đã có phốt rồi. Anh chẳng thế làm gì được nữa. Vết chàm của kẻ phàm ăn đã đóng lên trán anh. Bà Eva đã định trước điều này khi nghe lời con rắn (3). Thật là tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa. Hiển nhiên anh là nhà vô địch thế giới về ăn.
Tớ nói với giọng cam phận, nên Mâymi cũng mềm lòng chút ít. - Quan hệ của em với anh Eđ Côliê rất tốt, - nàng nói, - cũng như với anh thôi. Em cũng đã trả lời anh ấy như trả lời anh: đối với em, không có chuyện hôn nhân đâu. Em chỉ thích gặp gỡ, chuyện phiếm với anh ấy. Em cảm thấy dễ chịu vô cùng mỗi khi nghĩ rằng có một người không bao giờ sờ đến dao và dĩa chỉ vì em. - Thế em không yêu anh ta à? - Tớ hỏi hết sức không đúng chỗ. - Em không có tí ý định nào muốn trở thành kì quan phu nhân à? Điều này với ai chả có thể xảy ra.
Tất cả chúng ta đôi khi đều vượt quá phạm vi những lời nói có suy nghĩ thấu đáo. Mâymi khoác lên mặt một nụ cười mát mẻ, trong đó có bao nhiêu đường thì cũng có bấy nhiêu băng và nói bằng giọng hết sức lịch sự. - Anh Pitơx, anh không có quyền đặt cho em những câu hỏi như vậy. Trước tiên anh hãy nhịn ăn bốn mươi chín ngày để giành được cái quyền ấy đã, rồi sau có thể em mới trả lời anh. Vậy là, ngay cả khi Côliê, bằng sự thèm ăn của mình, không còn ngáng trở tớ nữa, thì triển vọng quan hệ riêng của tớ với Mâymi cũng không khá lên.
Rồi công việc ở Gatơri cũng chẳng ra làm sao cả. Tớ đã ở đó quá lâu. Kim cương Braxin mà tớ bán đã dần dần kém đi, còn đồ nhóm lửa thì dứt khoát không chịu cháy những khi trời ẩm. Trong công việc của tớ bao giờ cũng có cái giây phút mà ngôi sao may mắn bảo tớ: “Hãy chuyển sang thành phố lân cận”. Hồi đó tớ du ngoạn trên chiếc xe ngựa có mui để khỏi bỏ sót các thị trấn nhỏ, thế là sau đó mấy hôm tớ thắng ngựa và đánh xe đến chào Mâymi.
Tớ chưa bỏ cuộc đâu. Tớ chỉ định đến Oclahôma Xity có công chuyện độ một hai tuần, sau đó sẽ trở về và tiếp tục mở các cuộc tấn công Mâymi. Các bạn có thể hình dung được không, - tớ đến nhà Điugân thì thấy Mâymi ở đó, kiều diễm trong bộ áo dài xanh, và ở cửa có cái hòm của nàng. Hoá ra là cô bạn của nàng tên là Lôtti Ben làm nghề đánh máy ở Têri Hot, thứ năm tới sẽ đi lấy chồng và Mâymi sẽ đi một tuần để tham dự lễ cưới ấy. Mâymi đang mong một xe hàng chở nàng đến Oclahôma.
Tớ khinh bỉ nhìn chiếc xe rồi xung phong nhận chở hàng. Bà mẹ Điugân thấy chẳng tội gì phải từ chối cả, - vì chở hàng xưa nay vẫn phải mất tiền mà lại, - nên nửa tiếng sau tớ đã cùng Mâymi ngồi trên chiếc xe có bộ díp nhẹ và nhắm hướng phía nam lên đường. Buổi sáng hôm ấy thật đáng khen hết chỗ nói. Làn gió nhẹ thổi hây hây, cây cỏ hoa lá toả hương, những chú thỏ con vểnh đuôi chạy qua đường cho thêm phần vui nhộn.
Cặp ngựa hồng Kentớcky của tớ hướng thẳng về phía đường chân trời; đến nỗi chói hoa cả mắt, khiến lắm lúc tớ phải quay mặt. Không nhìn đường chân trời căng tựa dây phơi quần áo, Mâymi phấn khởi ra mặt, nàng bô lô ba la như trẻ con, nào chuyện về ngôi nhà cũ, nào những trò nghịch ngợm thời đi học, nào những thứ nàng yêu thích, nào những cô ả đáng ghét nhà Giônxơn ở ngay phía đối diện, nơi quê hương nàng, bang Inđiana.
Nhưng tịnh không một lời nào về Eđ Côliê, về ăn uống và những đề tài khó chịu đại loại như vậy. Khoảng gần trưa thì Mâymi mới phát hiện ra giỏ đồ ăn mà nàng định mang theo, đã nằm lại ở nhà. Tớ không phản đối chuyện lót dạ tí ti, nhưng Mâymi không tỏ ra một chút khó chịu nào về chuyện nàng chẳng có cái ăn, nên tớ cũng nín lặng.
Đây chính là điểm chốt của vấn đề, nên tớ tránh nói động đến bất cứ đồ ăn dưới bất cứ dạng gì. Tớ xin rọi chút ánh sáng vào sự việc tớ bị lạc đường trong hoàn cảnh nào. Đường không rõ ràng, bị cỏ che lấp nhiều, mà bên cạnh tớ là Mâymi, người đã thâu tóm hết tâm trí và sự khôn ngoan của tớ. Điều này có thể biện hộ được hay không thì tuỳ các bạn xem xét.
Chỉ có điều là tớ bị lạc đường, và trong cảnh chạng vạng, đáng lẽ phải ở Oclahôma rồi, thì chúng tớ lại luẩn quẩn trên địa giới nào đó, trong lòng khô của một con sông còn chưa khai thông, mà mưa đang quất vào người. Ở một bên, giữa đầm, chúng tớ nhìn thấy một căn nhà gỗ trên gò khô. Xung quanh cỏ mọc cùng những loài cây hiếm. Ngôi nhà nhuốm vẻ buồn bã gợi thương cảm.
Theo sự đồ chừng của tớ thì hai đứa chúng tớ phải náu mình qua đêm ở đó. Tớ giảng giải cho Mâymi nghe, và nàng dành quyền quyết định cho tớ. Nàng không tỏ ra nôn nao lo lắng, và không làm mình làm mẩy ra dáng khổ ải như đa số những người phụ nữ khác nếu ở vào địa vị ấy, mà chỉ nói: “Thôi được”.
Nàng biết rằng nào ai muốn cơ sự này. Ngôi nhà không có người ở. Trong đó có hai phòng trống. Ngoài sân có một nhà kho nhỏ ngảy xưa vẫn nhốt súc vật. Trên gác xép còn ít cỏ khô từ năm ngoái. Tớ dẫn ngựa vào gian nhà kho cho chúng ăn một ít cỏ khô. Lũ ngựa nhìn tớ bằng cặp mắt buồn bã, dường như chờ đợi sự xin lỗi. Chỗ cỏ khô còn lại thì tớ ôm thành từng bó vào nhà làm nơi ngả lưng.
Tớ cũng mang kim cương Braxin và đồ nhóm lửa, vì cả hai thứ ấy không thể chống chọi được tác dụng phá hoại của nước. Tớ với Mâymi ngự toạ trên sàn, trên nệm gối lấy từ trên xe xuống. Tớ dùng cả đống đồ nhóm lửa, vì đêm ấy trời lạnh. Nếu tớ phán đoán đúng thì toàn bộ sự việc trên khiến Mâymi lấy làm thích thú. Đối với nàng, đó là một cái gì đó mới lạ, một vị trí mới từ đó mà nhìn cuộc đời. Nàng cười nói huyên thuyên, và đồ nhóm lửa của tớ cháy không sáng rực bằng đôi mắt nàng.
Tớ có mang theo bên người bao thuốc lá, nên về phần mình, tớ cảm thấy tớ như chàng Ađam trước khi mắc tội. Cả hai chúng tớ đúng là đang ở trong vườn Địa Đàng xưa tốt đẹp. Đâu đó trong đêm tối là con sông Xiôn chảy dưới mưa, và vị thiên thần cầm thanh kiếm lửa còn chưa treo tấm biển “Cấm đi trên cỏ”. Tớ mở hộp ra lấy cho Mâymi đeo lên người nào nhẫn, nào vòng, nào dây chuyền, hoa tai, thắt lưng và khánh hình trái tim. Nàng lấp la lấp lánh như một nàng công chúa triệu phú cho mãi đến khi má rực hồng và nàng đòi có gương đến suýt phát khóc. Đêm đến, tớ sửa soạn cho Mâymi một chiếc giường tuyệt vời trên sàn bằng cỏ khô, áo khoác của tớ và chăn từ xe đem xuống, rồi khuyên nàng ngả lưng.
Còn tớ thì ngồi ở căn phòng khác hút thuốc, lắng nghe mưa rơi và nghĩ đến chuyện biết bao sự khó nhọc đổ xuống đầu con người ta khoảng bảy chục năm trước khi anh ta được mai táng. Gần sáng có lẽ tớ hơi thiếp đi, bởi vì mắt tớ đã nhắm tít lại, mà khi mở ra thì trời đã sáng và trước mặt tớ là Mâymi, đầu tóc gọn gàng, sạch sẽ, quần áo tươm tất, với đôi mắt sáng lên niềm vui cuộc đời. - Hêlô Giep, - nàng thốt lên. - Em thấy đói rồi đấy! Giá em được ăn…
Tớ chăm chú nhìn nàng. Nụ cười biến khỏi khuôn mặt nàng và nàng ném vào tớ cái nhìn đầy khinh thị lạnh lùng. Thế là tớ bật cười và lại nằm lăn ra đất cho dễ chịu hơn. Tớ thấy vui nhộn kinh khủng. Về bản tính và gien di truyền thì xưa nay tớ là thằng hay cười thượng hạng, nhưng lúc này tớ cười ngất, vượt xa mức thường. Khi tớ đã cười chán chê, Mâymi ngồi quay lưng lại phía tớ và toàn thân chứa đầy cảm giác tự tôn. - Đừng giận, Mâymi, - tớ lên tiếng. - Anh không thể nào nhịn cười được. Em chải đầu buồn cười quá. Giá như em được trông thấy… - Đừng có kể chuyện cổ tích ở đây, - Mâymi nói giọng lạnh lùng và quyền uy. -
Tóc em đâu vào đấy chỉnh tề cả. Em biết anh cười cái gì rồi. Nhìn này, anh Giep, - nàng vừa nói vừa ghé nhìn qua kẽ hở giữa các súc gỗ căn nhà ra ngoài trời. Tớ mở ô cửa sổ nhỏ bằng gỗ và nhìn ra. Toàn bộ con sông đã chìm cả dưới nước và cái gò mà trên đó có ngôi nhà chúng tớ đang ở, đã biến thành hòn đảo, vây quanh là dòng nước lũ vàng điên cuồng rộng tới một trăm yat. Mưa vẫn trút xuống.
Chúng tớ chỉ còn cách ngồi đây đợi một chú chim bồ câu đem cành ôliu tới. Phải công nhận rằng trò chuyện và giải trí ngày hôm đó mang rặt một vẻ ảm đạm. Tớ ý thức được rằng Mâymi lại chuốc cho mình cái nhìn hết sức một chiều đối với sự vật, nhưng tớ không đủ sức thay đổi cái nhìn ấy. Bản thân tớ thì rạo rực một mong muốn được ăn. Những ảo ảnh thịt băm và những giấc mộng giăm-bông không buông tha tớ và lúc nào tớ cũng nghĩ thầm: “Nào, bây giờ mi sẽ đánh chén cái gì đây, hả Giep? Mi sẽ gọi món gì đây khi người phục vụ đi đến?”. Tớ chọn cho mình những món ăn ưa thích nhất trong thực đơn và hình dung ra cái giây phút chúng được đặt lên bàn trước mặt tớ.
Có lẽ điều này xảy đến với tất cả những ai đói cồn đói cào. Họ không thể tập trung ý nghĩ vào cái gì khác ngoài cái ăn. Hoá ra, cái chủ yếu nhất không phải là sự bất tử của tâm hồn, cũng không phải là hoà bình thế giới, mà là một cái bàn ăn xinh xắn với cái bát ăn, nước chấm giả kiểu Uxtơ và chiếc khăn ăn để lau những vết cà phê trên khăn trải bàn. Tớ ngồi bần thần nhai đi nhai lại, than ôi, chỉ những ý nghĩ của mình và tranh luận kịch liệt với chính bản thân mình về việc tớ sẽ ăn loại bít-tết nào - với nấm hương hay là theo kiểu con cháu những người Âu sang châu Mỹ vẫn ăn. Mâymi ngồi đối diện vẻ trầm ngâm, đầu tì xuống cánh tay. “Khoai tây thì cứ rán theo kiểu quê, - tớ nhủ thầm, - còn bánh cuốn thì cứ tráng lên chảo. Cũng trên cái chảo ấy sẽ rán chín quả trứng”.
Tớ lục kĩ các túi xem vô tình có còn sót lại củ lạc hay vài hạt ngô nào không? Sang đến buổi chiều thứ hai, dòng sông càng dâng cao, mưa vẫn đổ xuống. Tớ nhìn sang Mâymi và bắt gặp trên mặt nàng nỗi buồn vẫn thường hiện lên trên mặt các cô gái khi đi ngang qua quầy bán kem. Tớ biết rằng cô nàng tội nghiệp của tớ đang đói, có lẽ lần đầu tiên trong đời. Nàng có cái nhìn ưu tư thường gặp ở phụ nữ khi đi ăn trưa hơi muộn hoặc khi cảm thấy đằng sau váy bị tuột cúc. Có lẽ đã đến mười một giờ rồi.
Chúng tớ ngồi trong gian nhà xơ xác, mặt lầm lì và lặng im thin thít. Tớ cố xua đuổi khỏi đầu những hình ảnh ăn uống, nhưng chúng cứ trôi dạt về đúng chỗ cũ trước khi tớ kịp xích chúng vào chỗ khác. Tớ nghĩ đến tất cả những món cao lương mĩ vị đã từng được nghe kể. Tớ chìm đắm trong suy nghĩ về những năm tháng niên thiếu và với sự hồ hởi, sùng bái, tớ hồi tưởng bánh bích-quy tẩm mật và xúc-xích chấm nước mắm. Sau đó tớ đi dọc những năm tháng cuộc đời, dừng lại ở những quả táo tươi và táo ướp, ở bánh rán và xirô phong, ở cháo ngô, ở gà con quay kiểu Vơgini, ở ngô luộc, thịt lợn băm viên và ở bánh khoai lang, và kết thúc bằng món ragu Brunxuych là đỉnh cao của tất cả những thứ ngon lành, vì nó chứa tất cả những thứ ngon lành.
Người ta thường bảo trước mắt người sắp chết đuối hiện ra toàn bộ cuộc đời. Cũng có thể. Vậy thì khi con người ta đói, trước mặt người đói hiện lên bóng ma của tất cả các món ăn anh ta đã nếm trong đời. Và anh ta sáng tạo ra những món ăn mới có thể đem lại vinh quang danh giá cho người đầu bếp.
Giá có ai cất công thu thập những lời trăng trối của những kẻ chết đói thì hẳn sẽ phát hiện thấy trong những lời ấy có ít tình cảm, nhưng được cái dồi dào tư liệu cho một cuốn sách dạy nấu ăn in đến triệu bản bán cũng hết. Nhiều phần chắc là những tư duy bếp núc đã hoàn toàn ru ngủ trí óc tớ. Bất giác tớ thốt lên thành lời với một người hầu bàn tưởng tượng: - Hãy cắt cho dày dày một chút và rán tai tái thôi, sau đó đổ trứng vào - sáu quả nhé. Mâymi quay đầu lại ngay. Đôi mắt nàng sáng lên và nàng mỉm cười rồi nói líu tíu: -
Còn tôi thì ba quả trứng rán vừa chín với khoai tây. Ái chà, được thế thì còn gì bằng, anh Giep nhỉ. Em sẽ gọi thêm món cơm gà rán, món kem… - Nhẹ thôi! - Tớ cắt ngang. - Thế còn bánh gan gà, thận xô-tê, lại cả cừu non rán… - Ôi, - Mâymi ngắt lời tớ, toàn thân run lên, - với nước chấm cay… Cả xalát với thịt gà tây, cả quả ôliu, cả dâu nữa… Cứ như vậy trong suốt mười phút chúng tớ duy trì cuộc đối thoại cao lâu này.
Chúng tớ vòng đi vòng lại trên con đường huyết mạch rồi rẽ vào tất cả các nhánh đường con của đề tài ăn uống, do Mâymi dẫn đường, vì nàng rất có tri thức về các loại danh mục đồ ăn, và những món ăn mà nàng gọi tên càng làm tăng sự thèm khát của tớ. Có cảm tưởng Mâymi đã hoà nhập được với thực phẩm ăn uống và nàng nhìn cái thói háu ăn tội nghiệp ít khinh bỉ hơn so với trước đây. Sáng ra, chúng tớ thấy nước đã rút. Tớ thắng ngựa và cả hai lên đường, lần theo bùn lầy cho tới khi gặp được con đường khi trước. Chúng tớ chỉ đi lạc mất vài dặm và hai tiếng sau đã ở Oclahôma. Vật đầu tiên chúng tớ dõi mắt thấy trong thành phố là tấm biển lớn của một tiệm ăn, thế là chúng tớ phóng ngay tới.
Tớ ngồi vào bàn với Mâymi, giữa chúng tớ là dao, dĩa, đĩa ăn, còn trên gương mặt nàng không phải là sự khinh bỉ, mà là nụ cười, một nụ cười đói và đáng yêu. Tiệm ăn mới bày biện rất khá. Tớ trích đọc cho người phục vụ rất nhiều dòng trong tờ thực đơn, khiến anh ta ngó ra ngoài xe ngựa của tớ, băn khoăn không rõ còn bao nhiêu người nữa sẽ chui ra từ xe vào đây. Chúng tớ ngồi như vậy và người ta bắt đầu bưng các món ra. Đó quả là một bữa tiệc cho mười hai quan khách, vả lại chúng tớ cảm thấy mình cũng đúng là bằng mười hai quan khách. Tớ nhìn qua bàn sang Mâymi và nở nụ cười vì sực nhớ ra một điều. Mâymi nhìn bàn ăn như một cậu bé nhìn chiếc đồng hồ có khoá vặn đầu tiên của mình. Sau đó nàng nhìn thẳng vào mặt tớ, và hai giọt lệ to ứa lên trong mắt nàng.
Người phục vụ đi xuống bếp lấy thêm món ăn bổ sung. - Anh Giep ơi, - Mâymi dịu dàng cất tiếng, - em thực là một con ngốc. Em đã nhìn mọi thứ không đúng. Trước kia em chưa bao giờ phải chịu cảnh này. Đàn ông ngày nào cũng phải chịu cảnh đói, phải không anh? Họ to khoẻ là thế, họ làm công việc nặng nhọc là thế, cho nên họ ăn không phải để trêu tức những cô ả phục vụ ngốc nghếch, phải không anh? Đã có lần anh nói… nghĩa là… anh đã hỏi em… anh muốn… Vậy thì, anh Giep ơi, nếu anh còn muốn… thì em sẽ rất sung sướng… em muốn có anh luôn ngồi đối diện với em bên bàn. Giờ thì hãy cho em ăn thêm một chút gì nữa, mau lên, anh nhé.
° ° °
- Như tớ đã bảo các cậu, - Giep Pitơx kết thúc câu chuyện, - đàn bà thỉnh thoảng cần phải thay đổi quan điểm của họ. Một cảnh mãi cũng làm họ phát chán - nếu vẫn cảnh cái bàn ăn, cái bồn rửa mặt hoặc cái máy khâu. Hãy cho họ sự đa dạng một chút: một chút du lịch, một chút nghỉ ngơi, một chút hờn dỗi nũng nịu xen với những bi kịch nội trợ, một chút vuốt ve âu yếm sau cảnh om sòm trong gia đình, một chút xao xuyến và lẵng nhẵng nói dai, và xin cam đoan với các cậu là hai bên cùng có lợi.Chú thích: (1) 1 bộ (foot) = 30,48 cm (2) 1 acrơ (acre) = 0,4 hecta (3) Nhắc đến sự tích trong Kinh Thánh, khi Eva nghe lời xui của con rắn, cùng chồng ăn trái cây thiện ác và bị Chúa trời trừng phạt khiến con cháu về sau chịu nhiều đau khổ.
|
No comments:
Post a Comment