Friday, March 6, 2015
THƠ TRẦN VÀNG SAO
Trâ`n Vàng Sao:
tau tức quá rồi
tau chịu không nổi
tau nghẹn cuống họng
“tau chưởi” — Một Bài Thơ Kinh Dị Và Khốc Liệt
Nam Đan
February 17, 20150 Bình Luận
February 17, 20150 Bình Luận
Theo tiểu sử tôi tìm được trên mạng, nhà thơ Trần Vàng Sao tên thật là Nguyễn Đính, sinh năm Tân Tỵ 1941, quê quán làng Đông Xuyên, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên – Huế, sinh sống từ thuở ấu thời đến nay tại phườngVỹ Dạ, thành phố Huế. Năm 1962, ông đậu tú tài ở Huế và dạy học ở Truồi.
Thời gian này ông bắt đầu tham gia phong trào chống Mỹ ở Huế. Năm 1965 ông thoát ly lên rừng theo VC. Năm 1970 ông bị thương, được đưa ra miền Bắc chữa bệnh an dưỡng.
Tháng 5 năm 1975, ông trở về Huế được phân công làm liên lạc (đưa thư) rồi công tác ở ban Văn Hóa Thông Tin xã và nghỉ hưu năm 1984. Vào thời điểm này, bài thơ “Người đàn ông bốn mươi ba tuổi nói về mình” của ông được đăng trên Sông Hương, số kỷ niệm 5 năm ngày tạp chí ra đời. Bài thơ lập tức gặp phản ứng dữ dội của một số chức sắc địa phương.
Ở hải ngoại, nhà xuất bản Tân Thư (California, Hoa Kỳ) cũng cho in tập “Bài thơ của một người yêu nước mình” của ông.
Sáng nay tình cờ tôi đọc bài thơ “Tau chưởi” dưới đây, và nghĩ rằng có lẽ trong văn học VN (và thế giới?!) khó tìm ra một bài thơ nào kinh dị, khốc liệt như bài thơ này. Điều gì làm cho tâm hồn con người – thi sĩ – phải đau đớn, quằn quại, căm hận, phẫn nộ đến vậy?
Tôi rất thú vị với lời bình của nhà báo Mặc Lâm (RFA) về bài thơ này:
“Trong văn học dân gian, không hiếm những bài vè, lục bát dùng để chửi bới người mình ghét. Nhưng đối với các nhà thơ vốn quen thuộc và trân trọng những con chữ thì việc chửi bới là một điều phạm húy. Trần Vàng Sao chẳng những không sợ chữ nghĩa đau đớn mà ông còn bóc trần, nạo hết nét vàng óng bên ngoài của chúng để phục vụ cho một bài thơ mà ông cảm thấy hả hê. Ông dùng thơ để chửi cả một chế độ. Chửi từng sự việc, từng con người. Cách chửi của bà nhà quê mất gà được ông “biên đạo” lại thành của riêng, gây sốc lẫn gây cười cho người đọc bài thơ.
Có điều là cười xong thì người ta lại chảy nước mắt…”
Tôi chỉ xin góp thêm vài ý.
Bài thơ “Người đàn ông bốn mươi ba tuổi nói về mình” làm cho Trần Vàng Sao nổi tiếng, nhưng theo tôi, bài “Tau chưởi” mới là bài đáng kể nhất trong thơ của ông.
Về ngôn từ, ông lật đổ quan niệm “duy mỹ trong ngôn ngữ” lâu nay trong thơ Việt, nhưng điều khác biệt là ông không sử dụng đến những từ tục tỉu như nhiều nhà thơ đương thời đang dùng. Ông ác miệng, cực kỳ ác miệng, nhưng không tục tĩu.
Chửi là 1 trong 2 hành vi của kẻ yếu, của người thấp cổ bé miệng mà có chữ (nhà văn, nhà thơ chẳng hạn), nhưng không có cách gì để tự vệ, để phản ứng trước kẻ mạnh.
Họ không thể phản ứng bằng hành động, bằng bạo lực, nên họ chọn cách phát ngôn bằng lời nói hay chữ viết.
Hành vi còn lại sau chửi là đặt, viết những chuyện tiếu lâm đen mà chúng ta thường đọc, hay nghe kể. Tôi chưa từng gặp Trần Vàng Sao, nhưng tôi mơ hồ nghĩ rằng với cái tâm tính bộc trực và tâm hồn mẫn cảm của mình, ông chỉ có thể bày tỏ cảm xúc bằng cách chửi thẳng chứ không thể dùng ẩn dụ né tránh, nói kiểu móc họng, sâu xa, thâm thúy như nhiều người khác.
Điển hình là bài thơ “Tau chưởi” này.
Bài thơ nói thẳng, nói thật cảm xúc và suy nghĩ của một con người bị vùi dập, bị thể chế CS đàn áp thô bạo đến chỗ tàn tệ nhất.
Ban đầu, tôi suýt hiểu nhầm rằng bài thơ như phát ngôn của một con người vì quá đau đớn, quá phẫn nộ mà đứng ở chỗ mấp mé sự điên loạn, nhưng khi tôi đọc kỹ lại thì thấy không phải vậy. Bài thơ có một cấu trúc chặt chẽ, diễn đạt một tiến trình tâm lý rất lớp lang.
Từ dòng đầu của bài thơ, ông chưa chửi, mà ông nói. Ông bình tĩnh nói thiệt hơn về nỗi ấm ức vì phải câm nín trước sự tàn độc, bất công và dối trá cho tới khi chịu không nổi nữa:
“tau phải câm miệng hến
không được nói
không được la hét
nghĩ có tức không”
không được nói
không được la hét
nghĩ có tức không”
Từ đó, sự phẫn nộ kết tụ rồi bùng vỡ dữ dội thành tiếng gào thét. Ông quyết định phải chửi, nhưng không chửi vòng vo, vông khống, ông chửi thẳng, không chỉ chửi thẳng, ông còn kêu đối tượng, thậm chí cả dòng họ thân tộc của chúng ra để nghe ông chửi. Ông không chỉ chửi, ông vừa chửi vừa kể tội chúng, và sau cùng, ông nguyền rủa, những lời nguyền rủa vô cùng độc địa.
Tôi tự hỏi, với một cảm xúc khốc liệt như thế, trong thơ, thì cái thiện ở đâu, cái đẹp ở đâu? Tính nhân văn ở đâu? Lương tri con người ở đâu?
Hay, khi đặt những tiêu chí có vẻ cao đẹp đó ra cho thơ – cho thi ca – của một tâm hồn bị tổn thương đến tận cùng như Trần Vàng Sao thì chúng ta đang bắt đầu cho một sự dối trá khác?
Nam Đan
tau chưởi
tau chịu không nổi
tau nghẹn cuống họng
tau lộn ruột lộn gan
…
tau đầu tắt mặt tối
đổ mồ hôi sôi nước mắt
vẫn đồng không trự nõ có
suốt cả đời ăn tro mò trú
suốt cả đời khố chuối Trần Minh
kêu trời không thấu
tau phải câm miệng hến
…
tau đầu tắt mặt tối
đổ mồ hôi sôi nước mắt
vẫn đồng không trự nõ có
suốt cả đời ăn tro mò trú
suốt cả đời khố chuối Trần Minh
kêu trời không thấu
tau phải câm miệng hến
không được nói
không được la hét
nghĩ có tức không
tau chưởi
tau phải chưởi
tau chưởi bây
tau chưởi thẳng vào mặt bây
không bóng không gió
không chó không mèo
….
tau chưởi cho tiền đời dĩ lai bây mất nòi mất giống
hết nối dõi tông đường
tau chưởi cho mồ mả bây sập nắp
tau chưởi cho bây có chết chưa liệm ruồi bu kiến đậu
tam giáo đạo sư bây
cố tổ cao tằng cái con cái thằng nào móc miếng cho bây
hà hơi trún nước miếng cho bây
…
bây là rắn
không được la hét
nghĩ có tức không
tau chưởi
tau phải chưởi
tau chưởi bây
tau chưởi thẳng vào mặt bây
không bóng không gió
không chó không mèo
….
tau chưởi cho tiền đời dĩ lai bây mất nòi mất giống
hết nối dõi tông đường
tau chưởi cho mồ mả bây sập nắp
tau chưởi cho bây có chết chưa liệm ruồi bu kiến đậu
tam giáo đạo sư bây
cố tổ cao tằng cái con cái thằng nào móc miếng cho bây
hà hơi trún nước miếng cho bây
…
bây là rắn
rắn
toàn là rắn
như cú dòm nhà bệnh
đêm bây mò
ngày bây rình
dưới giường
trên bàn thờ
trong xó bếp
bỏ tên bỏ họ cha mẹ sinh ra
bây mang bí danh
anh hùng dũng cảm vĩ đại kiên cường
lúc bây thật lúc bây giả
khi bây ẩn khi bây hiện
lúc người lúc ma
toàn là rắn
như cú dòm nhà bệnh
đêm bây mò
ngày bây rình
dưới giường
trên bàn thờ
trong xó bếp
bỏ tên bỏ họ cha mẹ sinh ra
bây mang bí danh
anh hùng dũng cảm vĩ đại kiên cường
lúc bây thật lúc bây giả
khi bây ẩn khi bây hiện
lúc người lúc ma
……
hỡi cô hồn các đảng
hỡi âm binh bộ hạ
hỡi những kẻ khuất mặt đi mây về gió
trong am trong miếu giữa chợ giữa đường
đầu sông cuối bãi
móc họng bóp cổ móc mắt bọn chúng nó
cho bọn chúng nó chết tiệt hết cho rồi
bây giết người như thế
bây phải chết như thế
ác lai thì ác báo
tau chưởi ngày chưởi đêm
mới bét con mắt ra tau chưởi
chập choạng chạng vạng tau chưởi
nửa đêm gà gáy tau chưởi
giữa trưa đứng bóng tau chưởi
bây có là thiền thừ mười tám con mắt tau cũng chưởi
mười hai nhánh họ bây
cao tằng cố tổ bây
tiên sư cha bây
tau chưởi cho bây ăn nửa chừng mẻ chai mẻ chén
xương cá xương thịt mắc ngang cuống họng
tau chửi cho nửa đêm oan hồn yêu tinh ma quỷ
mình mẩy đầy máu hiện hình vây quanh bây đòi trả đầu trả chân trả tay trả hòm trả vải liệm
tau chưởi cho cha mẹ bây có chết cũng mồ xiêu mả lạc
đoạ xuống ba tầng địa ngục bị bỏ vào vạc dầu
tau chưởi cho cha mẹ bây có còn sống cũng điên tàn
đui què câm điếc làm cô hồn sống lang thang đầu đường xó chợ
bốc đất mà ăn xé áo quần mà nhai cho bây có nhìn ra
cũng phải tránh xa
hỡi cô hồn các đảng
hỡi âm binh bộ hạ
hỡi những kẻ khuất mặt đi mây về gió
trong am trong miếu giữa chợ giữa đường
đầu sông cuối bãi
móc họng bóp cổ móc mắt bọn chúng nó
cho bọn chúng nó chết tiệt hết cho rồi
bây giết người như thế
bây phải chết như thế
ác lai thì ác báo
tau chưởi ngày chưởi đêm
mới bét con mắt ra tau chưởi
chập choạng chạng vạng tau chưởi
nửa đêm gà gáy tau chưởi
giữa trưa đứng bóng tau chưởi
bây có là thiền thừ mười tám con mắt tau cũng chưởi
mười hai nhánh họ bây
cao tằng cố tổ bây
tiên sư cha bây
tau chưởi cho bây ăn nửa chừng mẻ chai mẻ chén
xương cá xương thịt mắc ngang cuống họng
tau chửi cho nửa đêm oan hồn yêu tinh ma quỷ
mình mẩy đầy máu hiện hình vây quanh bây đòi trả đầu trả chân trả tay trả hòm trả vải liệm
tau chưởi cho cha mẹ bây có chết cũng mồ xiêu mả lạc
đoạ xuống ba tầng địa ngục bị bỏ vào vạc dầu
tau chưởi cho cha mẹ bây có còn sống cũng điên tàn
đui què câm điếc làm cô hồn sống lang thang đầu đường xó chợ
bốc đất mà ăn xé áo quần mà nhai cho bây có nhìn ra
cũng phải tránh xa
tau chưởi cho con cái bây đứa mới đi đứa đã lớn
sa chân sẩy tay đui què sứt mẻ nửa đòi nửa đoạn
chết không được mà sống cũng không được
tau chưởi cho dứt nọc dòng giống của bây cho bây chết sạch hết
không bà không con
không phúng không điếu
không tưởng không niệm
không mồ không mả
tuyệt tự vô dư
tau chưởi cho bây chết hết
chết sạch hết
không còn một con
không còn một thằng
không còn một mống
chết tiệt hết
hết đời bây
sa chân sẩy tay đui què sứt mẻ nửa đòi nửa đoạn
chết không được mà sống cũng không được
tau chưởi cho dứt nọc dòng giống của bây cho bây chết sạch hết
không bà không con
không phúng không điếu
không tưởng không niệm
không mồ không mả
tuyệt tự vô dư
tau chưởi cho bây chết hết
chết sạch hết
không còn một con
không còn một thằng
không còn một mống
chết tiệt hết
hết đời bây
Trần Vàng Sao
PHẨM VẬT TIẾN CỐNG
PHẨM VẬT TIẾN CỐNG
Không chỉ quý và hiếm, những món sơn hào hải vị tiến vua xưa còn là món ăn rất bổ dưỡng được nhiều thực khách sành ăn săn tìm.
Sá sùng, chim sâm cầm, tổ yến... là những món ăn "sơn hào hải vị" được người dân cung tiến vua chúa xưa kia.
1. Sá sùng, thần dược của đàn ông
Sá sùng, trùng biển hay sâu cát là đặc sản độc đáo của vùng biển, đặc biệt ở Nha Trang, Quảng Ninh... Do có rất nhiều công dụng như bổ thận, tráng dương, tăng cường bản lĩnh đàn ông nên sá sùng được nhiều người săn lùng. Những đồn thổi về loài sinh vật biển có bề ngoài giống giun đất được gắn mác "thần dược" khiến giá của sá sùng đắt như vàng.
.
2. Gà Đông Tảo
Những con gà đẹp thường có giá từ 5-10 triệu đồng. Ảnh: Thi Hà
|
Tương truyền xưa kia người dân ở Khoái Châu (Hưng Yên) thường dùng gà Đông Tảo để cúng tế, hội hè, hay tiến vua bởi mùi vị thơm ngon đặc biệt. Gà Đông Tảo có có thân hình to lớn, chân to nặng, xù xì, bao quanh chân là một lớp vảy da sần sùi... chỉ được nuôi ở Việt Nam mà không tìm thấy ở đâu trên thế giới.
Phần thịt gà ngọt với khối lượng thịt ức nhiều, đỏ hồng, bắp đùi có nhiều bó cơ cuồn cuộn, không có gân, không dai, ăn rất ngon. Giá mỗi kg khá cao, khoảng từ 600.000 đến 1 triệu đồng. Các thực khách sành ăn dễ dàng tìm thấy ở các quán ăn tại Hà Nội hay Hưng Yên.
3. Cá Anh Vũ
Thịt Anh Vũ trắng, thơm ngon hơn bất kỳ loại cá nào. Theo sử sách, một ngư dân vào thời Hùng Vương thứ 3 đã bắt được một con cá lạ, mình vảy xanh óng ánh, bụng vẩy trắng, vây đỏ, môi giống môi lợn ở khu vực ngã ba sông Việt Trì, nên đã đem tiến vua. Khi ăn, nhà vua thấy thịt ngọn đậm, thơm hơn hẳn các loại cá khác... Cho rằng đây là một loại cá hiếm nên chỉ dụ người dân khi bắt được cá phải đem tiến vua.
Trong con cá Anh Vũ, phần ăn ngon nhất là khối sụn môi, ăn rất giòn. Loài cá này sống ở vùng nước trong, ăn rong rêu và tảo. Để săn được loài cá này mất rất nhiều công sức, nên số thực khách được thưởng thức món cá chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Có thể tìm món cá Anh Vũ trong một số nhà hàng ở thành phố Việt Trì (Phú Thọ). Một số nhà hàng ở Hà Nội cũng săn loài cá quý hiếm này, giá 2-3 triệu đồng.
4. Sâm cầm
Là một loài chim di cư từ phương Bắc, sống thành đàn ở những nơi có nước như ao, hồ, nơi có nhiều thủy sinh, chim sâm cầm được biết đến như một loại thực phẩm quý hiếm chỉ dành cho các bậc vua chúa thời xưa.
Loài chim sâm cầm ngày nay đang bị săn bắn nhiều. Ảnh: wikipedia |
Nhiều tài liệu ghi chép lại sâm cầm là sản vật ở vùng Hồ Tây, Hà Nội từ năm Tự Đức. Chim thường sống ở ao hồ, nơi có nhiều thủy sinh nên được biết đến là một loại thực phẩm quý, thịt chim mềm, màu đỏ tươi và chế biến thành rất nhiều món ăn rất ngon, bổ nên được nhiều thực khách ngày nay săn tìm.
Do khai thác nhiều nên số lượng chim sâm cầm ngày nay rất hiếm, giá khoảng gần 2 triệu đồng một kg.
5. Cá chìa vôi
Cá chìa vôi biển là một loại cá nước lợ, sống ở vùng nước xoáy, nơi hợp lưu của sông Sài Gòn và sông Đồng Nai, nơi có cả dòng nước mặn, nước lợ và nước ngọt.
Loài cá này sống ở vùng nước xoáy, nước lợ có hình dáng giống như cá điêu hồng. Tuy nhiên cá có vảy màu vàng óng và thân dày mình hơn. Cá chìa vôi được giới sành ăn săn tìm với mức giá từ 1,3 triệu đồng một kg.
6. Yến sào
Tổ yến được bán với giá khoảng 4,5 triệu đồng/ 100g. Ảnh: Hiếu Nguyệt |
Yến sào là tổ của chim yến, được làm hoàn toàn từ nước dãi của chim yến. Do giá cả đắt đỏ nên ngày nay chỉ những người có điệu kiện mới có khả năng mua được.
Yến sào có thể được chế biến thành nhiều món ngon trứ danh như nước yến, huyết yến, chè yến, súp yến. Có thể mua nhiều nhất ở Khánh Hòa, nơi chim yến làm tổ nhiều nhất ở Việt Nam với giá khoảng 4,5 triệu đồng 100g.
HỒ CHÍ MINH
Báo Anh: Hồ Chí Minh là một trong những trùm diệt chủng tàn ác nhất thế kỷ 20
Bạn đọc Danlambao - Lãnh tụ đảng CSVN, ông Hồ Chí Minh vừa có tên trong danh sách những kẻ diệt chủng tàn ác nhất thế kỷ 20, theo bình chọn của Daily Mail – tờ báo có lượng phát hành hàng đầu nước Anh.
Trong bài 'Từ Stalin đến Hitler, những chế độ diệt chủng tàn ác nhất thế giới' đăng hồi tháng 10/2014, nhiều tên trùm diệt chủng khét tiếng cũng đã được liệt kê như: Mao Trạch Đông, Stalin, Hitler, Pol Pot, Kim Nhật Thành...
Theo Daily Mail, Hồ Chí Minh và chế độ CSVN là thủ phạm gây ra cái chết của ít nhất 200 ngàn người dân miền Nam Việt Nam.
Về điều này, facebook Ngọc Nhi Nguyễn cho biết: “Nếu tính thêm 120 000 người dân miền Bắc chết trong cải cách ruộng đất và các phong trào Nhân văn giai phẩm, Xét lại và số dân và bộ đội chết trong chiế tranh Nam - Bắc nữa thì phải cả triệu”.
Hồ Chí Minh nằm trong danh sách những tên trùm diệt chủng tàn ác nhất thế kỷ 20. Nguồn:
Sách vở của cộng sản luôn gọi Hồ Chí Minh bằng những ngôn từ như 'vị cha già dân tộc', 'lãnh tụ kính yêu' hay 'anh hùng kiệt xuất'... Thậm chí, đã có thời hệ thống truyền thông CS còn bịa đặt thông tin nói rằng Hồ Chí Minh được UNESCO công nhân là danh nhân văn hóa thế giới.
Trong những năm gần đây, CSVN vẫn đang tiếp tục kêu gào và bắt buộc người dân phải ra sức học tập, làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Trên thực tế, những chiến dịch phong thánh cho Hồ Chí Minh đã nhanh chóng bị phá sản từ đầu.
Qua việc tờ báo Daily Mail của Anh xem Hồ Chí Minh là một trong những tên trùm diệt chủng tàn ác nhất thế kỷ 20, đây quả là một cú tát trời giáng đối với hệ thống tuyên truyền CSVN.
PHAN CHÂU THÀNH * ĐẠI HỌA XII
Cung Vua, phủ Chúa giành nhau cái gì quanh Đại họa 12?
Chuẩn bị cho Đại chiến - Đại họa 12
Sau những cuộc đấu đá phe phái nội bộ khốc liệt ở cấp cao nhất (giữa cung Vua và phủ Chúa) sau Đại họa 11, từ 2012 đến nay, mà phần thắng luôn nghiêng về phủ Chúa của Thủ tướng 3X (chỉ nhờ có lắm đạn, nhiều tiền), đợt này cung Vua của Tổng Lú đang chuẩn bị phản công quyết liệt và toàn diện cú chót với tinh thần không còn gì để mất với phủ Chúa, qua chiến thuật ba giai đoạn mà chúng ta có thể nhìn ra như sau:
Giai đoạn I, trong 2015, chuẩn bị lực lượng và tư thế tham chiến (gồm năm hướng chính: nhân sự - vốn rất giáo điều và ít tiền nhưng đông đảo; cơ sở lý luận kinh tế chính trị “dựa trên” lý thuyết Mác-Lê-Hồ; quyền lãnh đạo tuyệt đối của đảng ghi trong Điều lệ đảng cũng như cái bóng tàn đã nát trong lòng dân của đảng CSVN và lãnh tụ Hồ Tàu để phản công trông Đại họa 12 của dân tộc; “cải tổ” các bộ máy tố chức đảng hiện nay; và thứ năm là khai thác tối đa sự ủng hộ của đảng mẹ Tàu cộng - bằng cả bán nước).
Giai đoạn II, đầu 2016, tại Đại họa 12: phản công toàn diện để thâu tóm quyền lực (thực ra là để thâu tóm quyền ăn cướp tiền bạc của quốc gia và dân chúng, vào lại tay cung Vua - vì quyền lãnh đạo chung thì cung Vua luôn vốn có nhưng hóa ra thế là chưa đủ - không có lực như phú Chúa do ít tiền bạc hơn nhiều, nên thực tế cung vua đã và đang không có quyền lực như phủ Chúa, điều đã làm cung Vua thua đậm liên tiếp vừa qua...)
Giai đoạn III (Vua), từ sau Đại họa 12: Sau khi phe cung Vua thắng thế sẽ triển khai tranh giành và thâu tóm tiền bạc với phủ Chúa do lợi thế mới mà cuộc phản công trong Đại họa 12 dự kiến sẽ mang lại cho cung Vua, đó là: tính “chính danh lãnh đạo” của các lực lượng kinh tế mới của vua trong mọi hoạt động kinh tế của nhà nước xưa nay vốn chỉ do phủ Chúa một mình tung tác, và sự lồng ghép các lực lượng chức năng của cung vua vào các lực lượng tương tự của phủ Chúa (tất nhiên bên vua lãnh đạo) sẽ giúp cung Vua kiểm soát hoàn toàn mọi hành tung (và nguồn cung) của phủ Chúa mọi lúc mọi nơi, để khống chế, chiếm đoạt lại hay tiêu diệt thay thế phủ Chúa. Cài này vua gọi là “lấy võ địch đánh địch” - hay “nắm gáy” thằng ăn cướp để cùng ăn cướp của dân.
Tất nhiên, Giai đoạn III còn có phương án khác là Giai đoạn III (Chúa) khi phe phủ Chúa thắng ở Đại họa 12. Lúc đó thì chúng ta phải tham chiếu sang Moscow (ngoài Bắc kinh ra) về những gì sẽ diễn ra ở VN trong chế độ độc tài hậu cộng sản của Pu-X.
Cung Vua đang chuẩn bị cho đại chiến Đại họa 12 thế nào?
Có ít nhất 5 lĩnh vực mà cung Vua đang chuẩn bị ráo riết cho Đại họa 12, như tôi đã liệt kê sơ bộ nội dung Giai đoạn I trên, và ở phần này xin phân tích sâu hơn.
Về nhân sự cho Đại họa 12, làm sao cung Vua thắng nổi phủ Chúa đây? Nhân lực của cung Vua vốn đông nhung nhúc trong các ban ngành ngồi uống trà đọc báo của đảng, luôn đúp-lờ phủ Chúa từ các địa phương nhỏ nhất là phường xóm đến trung ương, trong quân đội và công an, nhưng toàn lũ ăn tục nói phét, không phải và không biết làm gì, lại ít tiền hơn quân phủ chúa (chỉ đủ cho con cái du học) dù hệ số lương cao hơn phủ Chúa do có “phụ cấp đảng” hay “hệ số lãnh đạo”, nhưng ít cơ hội tham nhũng hơn. Quân phủ Chúa chúng đâu có sống bằng lương hay “bổng”, “lộc”, mà chỉ bằng “quả”, “đạn” hay “cục gạch” từ tham nhũng mà thôi. Vấn đề nhân sự vì thế, cũng chỉ là vấn đề tiền bạc. Ai có nhiều tiền, bên đó mua được nhiều chức, cài cắm được nhiều quân vào các vị trí trọng yếu của chế độ hơn, và thắng. Hơn hai chục năm qua đã thế ở mức độ tăng dần và vài năm tới quanh Đại họa 12 sẽ là tăng vọt - vì ai cũng lo đó sẽ là những năm cuối cùng của cả cung Vua và phủ Chúa.
Thế cho nên, phe Lú phải dùng bài “khuấy đục lên” của Tàu cộng (do Du Chính Thanh chỉ đạo trước Hại nghị 10 là tăng số dự trù vào TƯ khóa tới lên 50%, từ 200 lên khoảng 300 mống, vì cái danh sách 300 ấy còn đang do phe đảng vẽ ra. Tương tự với dang sách ứng viên cho Bộ Chính trị và Ban Bí thư tương lai của Đại họa 12, gần ba chục mống. Và cung vua quyết giữ bí mật hai danh sách đó để hy vọng dành thế chủ động trong Đại họa 12.
Liệu điều đó có giúp gì cho cung vua thì chưa biết, nhưng chúng làm phe cung Vua bớt run hơn, nhất là sau cái chết thảm hại của một ứng viên sáng giá của Lú cho cái ghế đầu rồng “sẽ cướp lại” từ phủ Chúa là Nguyễn Bá Thanh.
Về cơ sở lý luận kinh tế chính trị “dựa trên” lý thuyết Mác-Lê-Hồ cho Đại họa 12, phe Cung Vua đưa ra “định nghĩa mới” cho cái gọi là nền kinh tế thị trường (tự do) định hướng XHCN VN”. Như tôi đã phân tích sơ sơ trong một bài viết trước (bài “Thấy gì qua “nhận thức mới” của đảng CSVN về khái niệm kinh tế thị trường định hướng XHCN” trên DLB và một số báo khác), đây lại chỉ là một trò lừa bịp và đánh tráo khái niệm thô thiển nữa của CSVN, hay trò “tự định hướng bằng con c... của đảng”. Thực chất đó là bình cũ, rượu cũ đã chua và thiu thối, nhưng được dán thêm mẩu nhãn mới và được thả thêm vài con chuột sắp chết mới có tên các “thành phần kinh tế lãnh đạo và quản lý” của đảng, của quốc hội, mặt trận, quân đội, công an, đoàn thể… bên cạnh “thành phần kinh tế nhà nước chủ đạo” cũ vốn do phe phủ Chúa điều hành bấy nay. Độ trơ và vô liêm sỉ của cung vua ở đây đã hết cỡ, vì cung vua chả có cơ hội nào đi ăn cướp như phủ chúa nữa ngoài “lý luận kinh tế định hướng mới” cho Đại họa 12 này.
Thế là cuộc loạn chiến và loạn luân kinh tế của 12 sứ quân CSVN sẽ có cơ sở lý thuyết mác-lê sắc bén để cung vua xông ra đâm chém hay hôn phối với phủ chúa để giành giật nhau miếng ăn, tài sản của quốc gia, của nhân dân một cách “chính danh”. Và tất nhiên, sau Đại họa 12 là kinh tế VN, nhất là kinh tế dân doanh sẽ chết cháy cả cánh đồng như cỏ khô, chứ không chỉ chết như ngả rạ như hiện nay.
Về quyền lãnh đạo tuyệt đối của đảng ghi trong Điều lệ đảng cũng như về khai thác cái bóng tàn đã nát trong lòng dân của đảng CSVN và lãnh tụ Hồ Tàu (bằng các phong trào học tập, thi đua, lễ hội này nọ...) chỉ để lừa bịp dân đen dù khó lừa được ai lắm rồi - cũng sẽ được phe đảng Lú đẩy mạnh dùng để phản công trong Đại họa 12 của dân tộc này.
Phải nói là chiêu bẩn của đảng CSVN này dù sao vẫn có chút hiệu nghiệm (dù tốn rất nhiều tiền của vào đó) vì hiếm thấy có dân tộc nào ngu lâu với cộng sản như người Việt. Hiện nay, đã 70 năm bị chúng cai trị bịp bợm ngu dốt và tàn ác rồi mà đa số vẫn im ro. Câu hỏi ở đây là, sự im lặng đó đã sắp trở thành sự im lặng đáng sợ với CSVN chưa?
Về “cải tổ” các bộ máy tố chức đảng hiện nay, phe vua Lú đưa ra chính sách “thống nhất bộ máy” đảng và nhà nước ở các cấp, lý do để giảm chi phí chung và tăng hiệu quả (đúng thế thật, lẽ ra phải làm từ 50 năm nay rồi), nhưng lý do thật là để phe Vua áp sát vào mọi hoạt động của phe Chúa, để được cùng ăn chia, cùng cướp tài sản của quốc gia, dân lành. Riêng cái mảng học tập “đạo đức tư tưởng” của kẻ không đạo đức và tư tưởng gì cho hàng triệu người hàng năm như trên đã cần biết bao tiền bạc mà đảng không ăn cướp đủ và kịp như phủ Chúa nên Vua luôn phải chỉ đạo Chúa chi mà nó cứ chi một ăn hai.
Và thứ năm là cung Vua khai thác tối đa sự ủng hộ của đảng mẹ Tàu cộng - kể cả bằng cách bán nước, cắt biển đảo, cắt đất... cho công cuộc Đại chiến với phủ chúa tại Đại họa 12 sắp tới.
Cuộc đấu đá nội bộ của vua Tàu cộng Tập Cận Bình bên mẫu quốc của CSVN rất tàn khốc, nhưng dù sao cũng là đấu đá với các thế lực “chống đảng” ở cấp thấp hơn trong bộ máy đảng, quân đội và an ninh của Tàu cộng, vì 7 vị trí đứng đầu trong Thường vụ Bộ Chính trị của Tàu cộng hiện nay đều trong tay phe đảng của vua Tập và chúa Cường cả. Các đối thủ thực sự của Tập là Giang và Hồ là hai kẻ tiền nhiệm đã về hưu - không thể sánh với đối thủ của phe đảng Lú là kẻ số 2 trong đảng CSVN, rất lươn lẹo nhưng lại có quyền lực mạnh bạo hơn số 1 là chính Tổng Lú - mạnh vì gạo, bạo vì tiền.
Chúng ta thấy, vì thế, việc quan trọng hàng đầu mà Lú phải làm trong 2015 là triều kiến Bắc Kinh. Obama không tiếp Lú ở phòng bầu dục ư? Có hề chi. Trước và sau lễ quì ở Bắc Kinh đó của CSVN với CS Tàu phải là hàng loạt triều cống cho Tàu qua các hiệp định “song phương”: bán đất bán biền, mở cửa quốc gia cho quân Tàu ô tràn vào mọi ngả. Tất cả chỉ để được Tàu cộng hỗ trợ phe Tổng Lú thắng keo Đại họa 12 sắp tới.
Điều oái oăm cho cung Vua là phủ Chúa cũng đang làm ý như thế: cũng quì lạy và cung phụng bán nước, nhượng quyền lợi và an ninh quốc gia cho Tàu cộng. Mà Chúa 3X còn làm việc đó giỏi hơn vì là những người đang có thực quyền quản lý Quốc gia, nắm cả kinh tế, quân đội, công an...
Và Tàu cộng thì khuyến khích “Hảo! hảo!...” với cả hai lũ việt gian bán nước đó - vì như thế chúng càng nhanh đớp gọn nước Việt, dân tộc Việt hơn. Chỉ có dân Việt sớm thành dân vong quốc (mất nước) sau Đại họa 12 mà đa số vẫn không thèm biết!
Tất cả chỉ vì tiền, tiền quyết định tất cả
Cung vua đã hiểu ra câu đó bằng giá đắt, nên cái chung của cả 5 hướng chuẩn bị trên của Lú cho Đại họa 12, đó chính là tiền, không phải là lợi ích của đảng hay đất nước.
Tiền (rất nhiều tiền) là thứ phe Lú cần để huy động lực lượng và đem ra hứa hẹn cho cái lực lượng ấy. Tiền là mục đích khiến phe Lú phải xông vào làm kinh tế để ăn cướp như phe Chúa, và để làm thế Lú cần “nhận thức mới” về kinh tế thị trường định hướng. Tiền là thứ phe đảng thiếu để tổ chức lừa dân học tập đạo đức bịp của Hồ tiếp để đảng có “chính danh” ăn cướp tiền của dân tiếp. Tiền là mục tiêu cuối cùng của việc “thống nhất tổ chức” cùng chức năng giữa đảng và chính phủ - để ăn chia tiền bạc ăn cướp của dân của nước cho “đều hơn” giữa cung vua và phủ chúa. Và tiền là thứ cả hai phe đều cần để quì lạy với Tàu cộng, kể cả tiền bán nước, và hy vọng được quan thầy Tàu cộng cho chúng được sống phè phỡn và cướp bóc tiền dân Việt thêm 100 năm nữa.
Ôi Dân Việt! Trong dạ dày con thú dữ Tàu cộng đã và đang có đến chín bộ tộc Việt mất nước và đã bị Hán hóa gần hết (là Điền Việt, Âu Việt, Hồ Việt, Đông Việt, U Việt, Nam Việt, Mãn Việt, Diêm Việt và cả Văn Lang) rồi, nay chỉ còn giòng giống bộ tộc Lạc Việt chúng ta là còn giữ được lãnh thổ Việt Nam của mình mong manh cho đến nay và như hiện nay, mà chúng ta chịu để lũ cộng sản bán nước cắt hết đất dâng nộp Tàu cộng hết, xóa sổ cả Lịch sử, đất nước và dân tộc Việt Nam của chúng ta ư?!
Để cho cộng sản VN làm thế - phá nát nước Việt này rồi dâng cho Tàu cộng, dân Việt chúng ta có chết hết liệu có cam lòng?!
BANG GIAO VIỆT MỸ
Đại sứ Mỹ nêu thông điệp ngoại giao mạnh mẽ với Việt Nam
Đại sứ Mỹ tại Việt Nam khẳng định mối quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam trong 20 năm qua đã đạt được những bước tiến vượt bậc và nói rằng Mỹ “sẵn sàng tiếp thêm sức mạnh cho Việt Nam bay cao và bay xa hơn nữa,” một phát biểu mà ông nói bằng tiếng Việt.
Trong một bài diễn văn quan trọng đọc tại trường Đại học Quốc gia Hà Nội hôm thứ Sáu, Đại sứ Ted Osius đã nói về ba khía cạnh của cột mốc 20 năm kể từ khi hai nước chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao, bao gồm mối quan hệ Đối tác Toàn diện, hiện trạng bang giao của hai nước, và viễn kiến cho mối quan hệ này.
Đại sứ nói việc Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Mỹ Barack Obama năm 2013 đưa mối quan hệ giữa hai nước lên Đối tác Toàn diện đã vạch ra một lộ trình mới để hai nước hợp tác trong một loạt những lĩnh vực chiến lược. Ông nói vào những năm 1990 phía Mỹ đã không kỳ vọng mối quan hệ này sẽ tiến nhanh và xa như vậy.
Về hiện trạng bang giao giữa hai nước, ông Osius dành phần lớn bài diễn văn trình bày về những hoạt động hợp tác và hỗ trợ mà Mỹ đã thực hiện với Việt Nam trong những năm qua trong các lĩnh vực ngoại giao, kinh tế và thương mại, an ninh, khoa học kỹ thuật, giáo dục, môi trường, y tế và trao đổi giữa người dân với người dân.
Về vấn đề Biển Đông, Đại sứ Osius khẳng định lập trường của Mỹ không chấp nhận việc bất kỳ bên tranh chấp nào đe dọa, cưỡng ép, sử dụng vũ lực khi theo đuổi tuyên bố chủ quyền của mình.
"Chúng tôi tin rằng những tranh chấp lãnh thổ cần phải được giải quyết một cách hòa bình, thông qua biện pháp ngoại giao và phù hợp với luật pháp quốc tế. Chúng tôi kêu gọi các bên tuyên bố chủ quyền thể hiện sự tự chế - đặc biệt là trong những hoạt động cải tạo quy mô lớn để biến những bãi đá và bãi ngầm trở thành tiền đồn rằng có thể dễ dàng được quân sự hóa,” ông Osius nói.
Hoa Kỳ muốn một nước Việt Nam cường thịnh, độc lập, tôn trọng nền pháp trị và nhân quyền
Đại sứ Osius
Một lĩnh vực khác mà hai nước đã đạt được tiến bộ nhưng vẫn còn gặp nhiều thách thức là việc thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền. “Hoa Kỳ muốn một nước Việt Nam cường thịnh, độc lập, tôn trọng nền pháp trị và nhân quyền,” Đại sứ Osius nói.
“Hoa Kỳ và những nước khác đã thẳng thắn và minh bạch với Việt Nam về những khác biệt của chúng ta ở vấn đề nhân quyền. Chúng tôi tin rằng mối quan hệ của chúng ta chỉ có thể đạt đến tiềm năng cao nhất nếu có tiến bộ rõ ràng về nhân quyền. Chúng tôi tin rằng cải cách bộ luật hình sự và dân sự, mở rộng những quyền tự do cá nhân – gồm cả quyền tự do trên Internet, và khuyến khích tư pháp độc lập – đóng vai trò trọng yếu cho sự thành công của Việt Nam,” Đại sứ Mỹ tiếp lời.
Đại sứ Osius chia sẻ với cử tọa rằng, một trong những người truyền đạt kinh nghiệm cho ông, đại sứ Mỹ đầu tiên ở Việt Nam sau khi bình thường hóa Pete Peterson, đã nói rằng “Nothing is impossible” (Không có gì là không thể.)
Và khi ông Osius đặt ra những câu hỏi phác họa viễn kiến về mối bang giao trong tương lai giữa hai nước, câu trả lời “Nothing is impossible” được nhắc đi nhắc lại như một điệp khúc, không chỉ bởi Đại sứ Mỹ mà còn bởi những khán giả ngồi bên dưới.
“Với truyền thống ‘con Rồng cháu Tiên,’ Việt Nam đã tạo được cho mình một đôi cánh vững chắc để bay lên. Chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ sẵn sàng tiếp thêm sức mạnh cho Việt Nam bay cao và bay xa hơn nữa,” Đại sứ Osius phát biểu tự tin bằng tiếng Việt.
Nguồn: vietnam.usembassy.gov
http://www.voatiengviet.com/content/dai-su-my-neu-thong-diep-ngoai-giao-manh-me-voi-vietnam/2670794.html
http://www.voatiengviet.com/content/dai-su-my-neu-thong-diep-ngoai-giao-manh-me-voi-vietnam/2670794.html
'Hy vọng Việt - Mỹ vun đắp thiện chí'
Bài phát biểu của Đại sứ Mỹ Ted Osius tại Đại học Quốc gia Hà Nội hôm 06/3/2015 được nhà quan sát đánh giá là 'xây dựng, thiện chí'.
Đại sứ Mỹ trong bài phát biểu hôm thứ Sáu nói:
"Tập trung vào việc hiện đại hoá năng lực phòng thủ, Việt Nam có thể sẽ tìm đến các đối tác truyền thống của mình. Điều này có thể hiểu được.
"Việt Nam cần có nhiều bạn bè – nhất là ở trong một khu vực phức tạp và năng động như thế này. Tuy nhiên, Hoa Kỳ có nhiều để đề xuất nhằm tăng cường an ninh của Việt Nam trong thời gian ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
'Táo bạo, lạc quan?'
Ra khỏi media player. Bấm enter để quay lại hay tab để tiếp tục.
"Còn nhiều điều mà hai nước chúng ta có thể cùng nhau làm để duy trì hoà bình, thịnh vượng và độc lập cho Việt Nam và cho khu vực.
"Để làm được như vậy, cả hai bên sẽ cần phải có những quyết định táo bạo và hướng tới một tương lai mới, mặc dù chúng ta vẫn nhớ và thành tâm giải quyết lịch sử của mình.
"Tuy chúng ta chia sẻ một lịch sử phức tạp, tôi tin rằng chúng ta cũng chia sẻ một tương lai tươi sáng."
Bình luận về điều này, Giáo sư Vũ Minh Giang, đương kim Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo của Đại học Quốc gia Hà Nội nói với BBC:
"Cái ý táo bạo của ông Đại sứ theo tôi hiểu tức là có thể có những quyết định mà trong ý nghĩ thông thường người ta không nghĩ tới.
"Hoặc là nó có những ngăn trở mà từ trước tới nay không vượt qua, thế thì nếu nó đụng tới những việc như thế thì có thể gọi là táo bạo.
Tôi nhìn ở góc độ tích cực là với một cách phát biểu như thế thì tôi là một trong những người trông chờ. Mong rằng tất cả những điều mà ông phát biểu như thế sẽ dần dần diễn ra trong thực tế
Khi được hỏi liệu vị tân Đại sứ Mỹ có 'quá lạc quan' hay là không, Giáo sư Giang, người cũng từng là thành viên của Hội đồng Lý luận Trung ương của Đảng Cộng sản, nói:
"Tính cách của Đại sứ mới thể hiện một người rất cởi mở trong cách nhìn nhận các vấn đề và thứ hai thể hiện rất rõ một cái năng động và rất quyết tâm trong việc thực hiện một cái gì đó mà ông mong muốn.
"Tôi nhìn ở góc độ tích cực là với một cách phát biểu như thế thì tôi là một trong những người trông chờ.
"Mong rằng tất cả những điều mà ông phát biểu như thế sẽ dần dần diễn ra trong thực tế, bởi vì hướng tới tương lai và mong cho quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ ngày càng phát triển tốt đẹp hơn.
'Chi tiết bất ngờ?'
Hôm thứ Sáu, một nhà quan sát chính trị - xã hội Việt Nam từ Sài Gòn, Tiến sỹ Phạm Chí Dũng, cho rằng bài phát biểu của Đại sứ Mỹ là 'tự tin'.
Ông nói: "Trong cuộc tiếp xúc với giới sinh viên của Việt Nam thì quả là ông Ted Osius đã tự tin tới mức mà đưa ra thông tin là ông Trần Đại Quang, Bộ trưởng Bộ Công an sẽ sớm thăm Mỹ.
"Điều đó cho thấy rằng có vẻ như là ông Ted Osius không chỉ nắm được lịch trình của đoàn Việt Nam, sắp tới ông Tổng Bí thư Đảng Nguyễn Phú Trọng, ông Quang và có thể cả những chính sách nữa đi Mỹ, mà còn có thể dự đoán được kết quả của chuyến đi đó thành công như thế nào và thành công ở mức độ nào."
Một số chính khách Việt Nam còn mơ màng với Bắc Kinh trước đây, họ dường như là tỉnh ngộ, tỉnh giấc và bắt buộc phải nghĩ tới những thế lực quốc tế có thể hỗ trợ Việt Nam chẳng hạn như Mỹ.
"Kết quả đó nó sẽ nương theo xu thế quan hệ Việt Mỹ thôi, tại vì đây là một xu thế khó có thể đảo ngược, đặc biệt khi Việt Nam đã cảm nhận được một cách rõ ràng trên lòng bàn tay về mối nguy cơ.
"Và qua vụ Giàn khoan HD-981, mặc dù là một sự gây hấn hung hãn của Trung Quốc, nhưng cũng phải thừa nhận rằng Bắc Kinh đã quá chủ quan trong việc áp đặt thế lực của mình.
Mỹ sẵn sàng tiếp sức cho VN’
- 6 tháng 3 2015
Đại sứ Mỹ tại Việt Nam có bài phát biểu quan trọng, tuyên bố “không có điều gì là không thể” trong quan hệ giữa hai nước.
Ông Ted Osius phát biểu trước sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội hôm 6/3 nhân kỉ niệm 20 năm quan hệ ngoại giao với Việt Nam.Từng làm việc ở Việt Nam hồi thập niên 1990, Đại sứ Mỹ nói khi đó “tôi không nghĩ rằng có ai lại dự đoán được rằng chúng ta có thể tiến xa như hiện nay”.
Ông nhắc lại lời Ngoại trưởng Mỹ John Kerry khi thăm Việt Nam năm 2013, rằng không có hai nước nào khác “nỗ lực hơn, làm được nhiều hơn, và làm được tốt hơn để cố gắng đến với nhau, thay đổi lịch sử và thay đổi tương lai”.
Quan hệ Đối tác Toàn diện
Việt Nam và Hoa Kỳ đã thiết lập quan hệ Đối tác Toàn diện trong chuyến thăm Nhà Trắng năm 2013 của Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang.Nhiều chuyến thăm cấp cao giữa hai bên đã diễn ra.
Đại sứ Mỹ nhắc lại Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng sẽ thăm Mỹ trong năm nay, mặc dù ông không nói về thời gian.
Chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ sẵn sàng tiếp thêm sức mạnh cho Việt Nam bay cao và bay xa hơn nữa.
Ông cũng tiết lộ Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang sẽ “sớm thăm” Mỹ để bàn nhiều vấn đề, trong đó có nhân quyền.
Diễn văn của ông Ted Osius điểm lại những lĩnh vực quan tâm chung và hợp tác chính giữa hai nước.
Trong lĩnh vực hợp tác quốc phòng, ông tiết lộ cuối tháng Ba, quân đội hai nước sẽ cùng tiến hành các hoạt động cứu trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa trong khuôn khổ chương trình Thiên thần Thái Bình Dương.
Đến tháng Tám, hải quân hai nước sẽ cộng tác trong chương trình Đối tác Thái Bình Dương.
‘Không có điều gì là không thể’
Nhìn về tương lai, Đại sứ Ted Osius, trong diễn văn, nhiều lần dùng câu ‘Không có điều gì là không thể’, có vẻ gợi nhắc khẩu hiệu “Yes, we can” của Barack Obama khi ông ra tranh cử nhiệm kỳ đầu chức vụ tổng thống Mỹ năm 2008.Ông đặt ra một số câu hỏi: “Liệu Việt Nam và Hoa Kỳ có thể tiến hành các bước đi để cho phép tiến hành các chuyến bay thẳng giữa hai nước chúng ta?
Liệu Hoa Kỳ có thể trở thành nhà đầu tư số 1 tại Việt Nam như vị trí xếp hạng đầu tư Hoa Kỳ hiện nay tại các nước ASEAN nói chung?
Liệu Việt Nam có thể cải cách các quy định pháp luật về thị thực để tạo thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh tại Việt Nam?”
Và ông khẳng định: “Có, chúng ta có thể, bởi vì không có điều gì là không thể.”
Ông kết thúc với cam kết: “Chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ sẵn sàng tiếp thêm sức mạnh cho Việt Nam bay cao và bay xa hơn nữa.”
Trong chuyến thăm Đại học, ông Ted Osius cũng trồng cây lưu niệm tại khuôn viên trường.
Tổng thống Obama từ chối tiếp TBT Trọng tại phòng Bầu Dục
Bảng Đỏ (Danlambao) - Nhà cầm quyền CSVN tỏ ra không hài lòng vì tổng thống Obama từ chối tiếp tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại phòng Bầu Dục trong Nhà Trắng. Đó là một thông tin đáng chú ý do giáo sư Carl Thayer từ Học viện Quốc phòng Úc viết trên trang web Chennai Centre for China Studies (C3S)
Trước đó, nguồn tin từ bộ ngoại giao CSVN cho biết ngoại trưởng John Kerry đã lặp lại lời nhắc về việc mời TBT Nguyễn Phú Trọng sang thăm Hoa Kỳ trong năm 2015.
Cũng trong buổi trình quốc thư diễn ra ít lâu sau đó, tân đại sứ CSVN tại Hoa Kỳ là ông Phạm Quang Vinh tiếp tục hối thúc tổng thống Obama 'tích cực chuẩn bị' cho chuyến viếng thăm của ông Trọng.
2015 cũng là thời điểm đánh dấu 20 năm bình thường hóa quan hệ giữa chế độ CSVN và nước cựu thù Hoa Kỳ. Nếu chuyến đi diễn ra như dự kiến, ông Nguyễn Phú Trọng có lẽ sẽ là tổng bí thư CSVN đầu tiên sang thăm Hoa Kỳ.
Dù chuyến đi đã được chuẩn bị trước đóđó một năm, nhưng nghi thức ngoại giao để đón tiếp TBT Nguyễn Phú Trọng sẽ là một vấn đề cực kỳ nan giải. Đối với người Mỹ, ông Trọng cũng chỉ là người đứng đầu một đảng phái tại Việt Nam, tương tự như vị trí chủ tịch đảng Dân chủ của Hoa Kỳ.
Theo giáo sư Carl Thayer, sẽ là một sự nhượng bộ quá mức của Hoa Kỳ đối với CSVN nếu diễn ra một buổi gặp giữa ông Trọng và tổng thống Obama tại phòng Bầu Dục.
Mặc dù đã cố tình 'đánh lận con đen' đối với người dân Việt Nam, trên thực tế, chức vụ tổng bí thư đảng CSVN của ông Trọng chưa từng được xem là một nguyên thủ quốc gia.
Do đó, các đời TBT của đảng CSVN thường chủ yếu sang thăm một vài quốc gia độc tài còn xót lại, như Bắc Hàn, Trung Cộng, Cuba... để được đón tiếp theo nghi thức một nguyên thủ quốc gia.
Xem ra, chuyến công du sang Mỹ của TBT Trọng sẽ còn lắm gian truân, đó là chưa nói đến sự dò xét, đe nẹt của người 'đàn anh' Trung Cộng.
Theo cá nhân Bảng Đỏ tui, TBT Nguyễn Phú Trọng muốn đua đòi bằng được phải vào Nhà Trắng như vậy, người Mỹ cũng nên linh động và chiều chuộng lão một chút cho đỡ mất thời gian.
Thay vì cho vào phòng Bầu Dục, cứ để Trọng Lú và phái đoàn cộng sản của lão vào trong toilet công du, dù sao vẫn được mang tiếng là vào Nhà Trắng. Nếu có thêm một chút lá cây để sẵn thì càng tiện lợi hơn.
NHỮNG VẤN ĐỀ VIỆT NAM
47 năm im lặng và chết khi nỗi oan còn đó
Cái chết của ông Lê Trọng Nghĩa vài ngày trước mang theo vụ án oan sai của ông kéo dài 47 năm vẫn không ai trong chính phủ lên tiến minh oan hay trả lại công bằng cho ông và gia đình. Ông Lê Trọng Nghĩa là đại biểu quốc hội khóa đầu tiên, Đại tá chánh văn phòng Quân ủy Trung ương thuộc Bộ quốc phòng và Cục trưởng Cục quân báo. Ông cũng là thư ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và từ chức vụ này khiến ông bị bắt trong vụ án chống đảng vào năm 1968.
Mặc Lâm tìm hiểu thêm qua nhà văn Trần Đĩnh, người nổi tiếng với tác phẩm Đèn Cù và rất thân thiết với Đại tá Lê Trọng Nghĩa, để biết thêm câu chuyện của vị đại tá hàm oan này.
Theo tôi biết thì Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp không tán thành. Một ông không bỏ phiếu biểu quyết một ông thì bỏ phiếu trắng. Như thế tức là phản đối. Ông Trường Chinh thì cuối cùng lại đồng tình, mới đầu thì nói với tôi là ổng không đồng tình tư tưởng Mao nhưng cuối cùng thì đồng tình. Quốc hội cũng chỉ thế thôi chứ không còn thực quyền. Vụ án xét lại nó có lý do sâu xa là như thế.
Mặc Lâm: Thưa, ông nói là Trung Quốc lúc ấy do sợ Mỹ nên dấy lên phong trào xét lại, ông có thể cho biết rõ hơn tại sao Trung Quốc lại muốn như thế hay không?
Trần Đĩnh: Tại sao Trung Quốc lại muốn thế? Một là Trung Quốc trong năm 60 nêu lên chống xét lại là bắn tín hiệu mà tôi gọi là củ cà rốt cho Mỹ là ta đánh kẻ thù số 1 của mi đây! Lúc ấy kẻ thù đáng sợ nhất của Mỹ là Liên xô. Đồng thời khều Mỹ, đánh tiếng với Mỹ sau đó đại sứ Trung Quốc và đại sứ Mỹ thường xuyên gặp nhau hàng tháng ở Warszawa (Vác sa va) thủ đô Ba Lan để bàn gì không ai biết nhưng báo chí đều đang các cuộc gặp này. Một mặt nói với Mỹ: đây, ta đánh kẻ thù của các ông đây, mặt khác đưa ra cây gậy xúi đánh Mỹ để Mỹ đứng trước thử thách anh nhận đàng nào?
Làm như thề Trung Quốc được gì? Nhân đà đẩy Mỹ đi thì Biển Đông là nơi Trung Cộng đã nhận của mình từ trước khi Hồ Chí Minh sang gặp. Nguyên ủy đầu tiên nó là như thế nên khi đã đánh nhau thì phải theo phía bên kia. Dương Thiếu kỳ, Đặng Tiểu Bình 11 nguyên soái lừng danh thì 10 ông bị tước rồi, tất cả Bộ chính trị đều biết thì cái này những người chống lại có nghĩa lý gì đâu?
Ông Võ Nguyên Giáp thì ai còn lạ gì nữa. Phụ trách sinh đẻ có kế hoạch, rồi Phó thử tướng phụ trách khoa học kỹ thuật. Mà đứng vể phía cộng sản mà nói khi đang làm chính trị quân sự mà bỏ đi làm khoa học kỹ thuật thì đã là rớt đài rồi.
Mặc Lâm: Thưa ông có phải rớt đài mà đại tướng Giáp đã không muốn dính líu tới vụ án của đại tá Lê Trọng Nghĩa. Sau khi ông Nghĩa bị bắt thì ông Giáp chưa bao giờ lên tiếng. Ông thấy điều này có ý nghĩa gì?
Trần Đĩnh: Ở đây tôi phải nói thế này, trong Đèn Cù tôi cũng đã nói qua. Ông Lê Liêm nói với tôi ông Giáp bị bôi nhọ ghê lắm. Thứ nhất kỷ luật của cái đảng này không cho phép ai được nói về vụ xét lại. Anh nói là anh bới chuyện thôi mà người ta không muốn bới nữa. Không một người nào dù là đảng viên cao cấp được nói với nhau, ông Võ Nguyên Giáp càng không bao giờ dám đụng tới vì ông ấy là nạn nhân. Thứ đến người nhu nhược như Võ Nguyên Giáp không bao giờ trả lời ai rằng tôi không nói vì tôi sợ sẽ bị này khác, như thế là một thằng hèn không dám nói ra chuyện ấy.
Chỉ có một lần Lê Trọng Nghĩa nói với tôi mình vừa gặp ông Giáp vì sinh nhật ông ấy mình đi thì mình có nói với ông ấy, anh phải làm cái gì đi chứ sao cứ im thế? Thì ông Giáp cáu! Quắc mắt nhìn ông Nghĩa và nói tôi làm thì việc gì phải báo ai?
Ở Việt Nam cấp bậc trên dưới rất to không thể nào hỏi một ông bí thư tại sao ông làm thế này, tại sao ông làm thế kia…
Mặc Lâm: Ông lê Trọng Nghĩa đã bị án tù từ năm 1968 cho tới khi mất vào năm 2015 tức là 47 năm nhưng ông ấy vẫn giữ im lặng như ông vừa nói. Tuy nhiên ông đã để lại một di chúc yêu cầu minh oan cho ông. Trong di chúc ấy có phải là muốn giải oan cho cá nhân ông hay vì gia đình còn lại mà ông ấy phải làm như vậy?
Trần Đĩnh: Theo tôi chúng ta đọc di chúc mặc dù gửi cho Tổng bí thư thì thường có câu: “tôi xin viết di chúc này xin minh oan cho riêng cá nhân tôi”… thế này thế nọ nhưng trong ấy ông trình bày rõ về các con của ông ấy như thế nào, tức là chủ yếu ông nhằm nói tới các con ông ấy mà ông rất thương. Ông đã từng nói là ông làm khổ con mình vì vụ án này. Khi bệnh sắp chết cũng muốn làm một cái gì đó cho các con nhất là cái đất nước mà người ta chỉ nhìn lý lịch.
Không phải ông đòi xin lại vào đảng hay xin vì ông. Ông là người rất cương trực không giải cho ông thì ông không chết đâu. Nếu không như thế thì ông không nói với tôi những chuyện, mà ông thừa biết nói để tôi viết chứ không phải để chơi. Ông nói với tôi về cách mạng tháng Tám, ông bảo với tôi là phải cảm ơn Nhật nếu không có Nhật thì làm sao có cơ sở thuận lợi để nổi lên như thế được… đấy đã cho thấy ông là người có tư tưởng nhưng ông rất kín đáo không nói ra vì ông biết khi nói ra thì rất lôi thôi. Ông là Cục trưởng tình báo khi ông phát ngôn thì người ta rất là phiền nên ông ấy giữ gìn thì cũng phải.
Trong di chúc ổng chỉ nói cái nhà thế này thế kia là vì các con ông. Tôi muốn nói ông nhắc tới cái khổ của các con ông ấy. Ổng nói như vậy theo tôi chính là vì các con ông ấy. Tiền nong không phải, nhưng ở cái đất nước má vẫn còn nhìn vào lý lịch thì các con ông sẽ khổ nếu ông vẫn còn mang tiếng phản đảng, chống đảng.
Mặc Lâm: Xin cám ơn nhà văn Trần Đĩnh.
Mặc Lâm tìm hiểu thêm qua nhà văn Trần Đĩnh, người nổi tiếng với tác phẩm Đèn Cù và rất thân thiết với Đại tá Lê Trọng Nghĩa, để biết thêm câu chuyện của vị đại tá hàm oan này.
Vụ án chống đảng
Mặc Lâm: Thưa ông theo chúng tôi được biết ông là người đã có thời gian sống và gần gũi với nhiều nhân vật cao cấp trong Đảng trong đó có đại tá Lê Trọng Nghĩa vừa qua đời vài ngày trước đây. Đại tá Lê Trọng Nghĩa được biết là người bị trù dập rất nhiều năm qua vụ án “xét lại chống đảng” Là người biết vụ án này từ đầu ông có thể cho biết sơ lược về nó hay không?Tôi muốn nói ông nhắc tới cái khổ của các con ông ấy. Ổng nói như vậy theo tôi chính là vì các con ông ấy. Tiền nong không phải, nhưng ở cái đất nước má vẫn còn nhìn vào lý lịch thì các con ông sẽ khổ nếu ông vẫn còn mang tiếng phản đảng, chống đảng.Trần Đĩnh: Về vụ án chống đảng, khi đó đứng trước hai ngả đường, một là đi theo cái mà 57 nước cộng sản đã ký kết với nhau là hòa bình, xây dựng kinh tế và chống sùng bái cá nhân. Sau đó Đảng Cộng sản Việt Nam ký vào đấy. Đến năm 1960 thì Trung Quốc phát động xét lại. Cái cớ chống xét lại do sợ Mỹ, đầu hàng Mỹ. Đến năm 63 thì ông Lê Duẩn ngã theo phía Trung Quốc gọi tư tưởng Mao Trạch Đông là tư tưởng Lê Nin của thời đại ba giòng thác cách mạng, cách mạng châu Á, cách mạng châu Phi và cách mạng châu Mỹ La tinh. Đấy là ngọn đuốc mới, đấy là ngôi sao chỉ đường mới.
-Trần Đĩnh
Theo tôi biết thì Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp không tán thành. Một ông không bỏ phiếu biểu quyết một ông thì bỏ phiếu trắng. Như thế tức là phản đối. Ông Trường Chinh thì cuối cùng lại đồng tình, mới đầu thì nói với tôi là ổng không đồng tình tư tưởng Mao nhưng cuối cùng thì đồng tình. Quốc hội cũng chỉ thế thôi chứ không còn thực quyền. Vụ án xét lại nó có lý do sâu xa là như thế.
Mặc Lâm: Thưa, ông nói là Trung Quốc lúc ấy do sợ Mỹ nên dấy lên phong trào xét lại, ông có thể cho biết rõ hơn tại sao Trung Quốc lại muốn như thế hay không?
Trần Đĩnh: Tại sao Trung Quốc lại muốn thế? Một là Trung Quốc trong năm 60 nêu lên chống xét lại là bắn tín hiệu mà tôi gọi là củ cà rốt cho Mỹ là ta đánh kẻ thù số 1 của mi đây! Lúc ấy kẻ thù đáng sợ nhất của Mỹ là Liên xô. Đồng thời khều Mỹ, đánh tiếng với Mỹ sau đó đại sứ Trung Quốc và đại sứ Mỹ thường xuyên gặp nhau hàng tháng ở Warszawa (Vác sa va) thủ đô Ba Lan để bàn gì không ai biết nhưng báo chí đều đang các cuộc gặp này. Một mặt nói với Mỹ: đây, ta đánh kẻ thù của các ông đây, mặt khác đưa ra cây gậy xúi đánh Mỹ để Mỹ đứng trước thử thách anh nhận đàng nào?
Làm như thề Trung Quốc được gì? Nhân đà đẩy Mỹ đi thì Biển Đông là nơi Trung Cộng đã nhận của mình từ trước khi Hồ Chí Minh sang gặp. Nguyên ủy đầu tiên nó là như thế nên khi đã đánh nhau thì phải theo phía bên kia. Dương Thiếu kỳ, Đặng Tiểu Bình 11 nguyên soái lừng danh thì 10 ông bị tước rồi, tất cả Bộ chính trị đều biết thì cái này những người chống lại có nghĩa lý gì đâu?
Ông Võ Nguyên Giáp thì ai còn lạ gì nữa. Phụ trách sinh đẻ có kế hoạch, rồi Phó thử tướng phụ trách khoa học kỹ thuật. Mà đứng vể phía cộng sản mà nói khi đang làm chính trị quân sự mà bỏ đi làm khoa học kỹ thuật thì đã là rớt đài rồi.
Mặc Lâm: Thưa ông có phải rớt đài mà đại tướng Giáp đã không muốn dính líu tới vụ án của đại tá Lê Trọng Nghĩa. Sau khi ông Nghĩa bị bắt thì ông Giáp chưa bao giờ lên tiếng. Ông thấy điều này có ý nghĩa gì?
Trần Đĩnh: Ở đây tôi phải nói thế này, trong Đèn Cù tôi cũng đã nói qua. Ông Lê Liêm nói với tôi ông Giáp bị bôi nhọ ghê lắm. Thứ nhất kỷ luật của cái đảng này không cho phép ai được nói về vụ xét lại. Anh nói là anh bới chuyện thôi mà người ta không muốn bới nữa. Không một người nào dù là đảng viên cao cấp được nói với nhau, ông Võ Nguyên Giáp càng không bao giờ dám đụng tới vì ông ấy là nạn nhân. Thứ đến người nhu nhược như Võ Nguyên Giáp không bao giờ trả lời ai rằng tôi không nói vì tôi sợ sẽ bị này khác, như thế là một thằng hèn không dám nói ra chuyện ấy.
Chỉ có một lần Lê Trọng Nghĩa nói với tôi mình vừa gặp ông Giáp vì sinh nhật ông ấy mình đi thì mình có nói với ông ấy, anh phải làm cái gì đi chứ sao cứ im thế? Thì ông Giáp cáu! Quắc mắt nhìn ông Nghĩa và nói tôi làm thì việc gì phải báo ai?
Ở Việt Nam cấp bậc trên dưới rất to không thể nào hỏi một ông bí thư tại sao ông làm thế này, tại sao ông làm thế kia…
Một người đáng kính
Mặc Lâm: Ông đã có dịp sống chung và tiếp xúc với đại tá Lê Trọng Nghĩa, xin ông cho biết tính cách và mẫu người của ông ấy như thế nào?Ông Lê Trọng Nghĩa là một người đáng mến và đáng kính. Đáng mến là vì chúng tôi quan hệ với nhau như những người bạn lâu ngày, hầu như tuần nào ông ấy cũng đến nhà tôi một, hai lần. Đó là một con người rất nhũn nhặn rất biết im lặng.Trần Đĩnh: Ông Lê Trọng Nghĩa là một người đáng mến và đáng kính. Đáng mến là vì chúng tôi quan hệ với nhau như những người bạn lâu ngày, hầu như tuần nào ông ấy cũng đến nhà tôi một, hai lần. Đó là một con người rất nhũn nhặn rất biết im lặng, ông ấy tránh tất cả những cuộc tranh luận. Khi mọi người tranh luận ông ấy chỉ cười thôi. Là người kín đáo nhưng lại nhũn nhặn không phật ý ai bao giờ, còn trong quan hệ với mọi người thì ông ấy rất đáng mến. Ông Lê Liêm, ông Lê Trọng Nghĩa, ông Minh Việt là những người hiền hòa nhân hậu.
-Trần Đĩnh
Mặc Lâm: Ông lê Trọng Nghĩa đã bị án tù từ năm 1968 cho tới khi mất vào năm 2015 tức là 47 năm nhưng ông ấy vẫn giữ im lặng như ông vừa nói. Tuy nhiên ông đã để lại một di chúc yêu cầu minh oan cho ông. Trong di chúc ấy có phải là muốn giải oan cho cá nhân ông hay vì gia đình còn lại mà ông ấy phải làm như vậy?
Trần Đĩnh: Theo tôi chúng ta đọc di chúc mặc dù gửi cho Tổng bí thư thì thường có câu: “tôi xin viết di chúc này xin minh oan cho riêng cá nhân tôi”… thế này thế nọ nhưng trong ấy ông trình bày rõ về các con của ông ấy như thế nào, tức là chủ yếu ông nhằm nói tới các con ông ấy mà ông rất thương. Ông đã từng nói là ông làm khổ con mình vì vụ án này. Khi bệnh sắp chết cũng muốn làm một cái gì đó cho các con nhất là cái đất nước mà người ta chỉ nhìn lý lịch.
Không phải ông đòi xin lại vào đảng hay xin vì ông. Ông là người rất cương trực không giải cho ông thì ông không chết đâu. Nếu không như thế thì ông không nói với tôi những chuyện, mà ông thừa biết nói để tôi viết chứ không phải để chơi. Ông nói với tôi về cách mạng tháng Tám, ông bảo với tôi là phải cảm ơn Nhật nếu không có Nhật thì làm sao có cơ sở thuận lợi để nổi lên như thế được… đấy đã cho thấy ông là người có tư tưởng nhưng ông rất kín đáo không nói ra vì ông biết khi nói ra thì rất lôi thôi. Ông là Cục trưởng tình báo khi ông phát ngôn thì người ta rất là phiền nên ông ấy giữ gìn thì cũng phải.
Trong di chúc ổng chỉ nói cái nhà thế này thế kia là vì các con ông. Tôi muốn nói ông nhắc tới cái khổ của các con ông ấy. Ổng nói như vậy theo tôi chính là vì các con ông ấy. Tiền nong không phải, nhưng ở cái đất nước má vẫn còn nhìn vào lý lịch thì các con ông sẽ khổ nếu ông vẫn còn mang tiếng phản đảng, chống đảng.
Mặc Lâm: Xin cám ơn nhà văn Trần Đĩnh.
Đảng viên nghĩ gì về chuyện liên minh?
Họa mất nước nhãn tiền
Chấp nhận liên minh người cộng sản phải chấp nhận một tình thế mới, họ có thể mất quyền lợi cá nhân lẫn vị trí trong chiếc ghế quyền lực nhưng bù lại đất nước sẽ thoát ra khỏi vòng kềm tỏa nặng nề của Trung Quốc với họa mất nước nhãn tiền.
Trước việc Trung Quốc xây dựng một loạt các căn cứ quân sự trên các dãy đão tại Trường Sa mặc dù nhà nước chưa có một tuyên bố gì khác hơn so với trước đây nhưng trên báo chí chính thống nhiều ý kiến của các đảng viên cao cấp cho thấy sự uất ức lẫn lo ngại cho tình hình an ninh đất nước đang là mối lo hàng đầu hiện nay.
Trung tướng Nguyễn Quốc Thước, đại biểu Quốc hội liên tiếp nhiều nhiệm kỳ đã tuyên bố rằng hành động xây dựng của Trung Quốc còn nguy hiểm hơn dàn khoan HD-981 trước đây. Nó cho thấy quyết tâm dùng sức mạnh quân sự để khống chế Việt Nam, khẳng định đường lưỡi bò phi pháp của họ. Trước nguy cơ này, trí thức, đảng viên không thể im lặng theo nhà nước mà không ít người trong đảng cho rằng liên minh với các nước, đặc biệt là Mỹ, sẽ kéo Việt Nam ra khỏi tầm tay Trung Quốc và đây là cơ hội khó kiếm lần thứ hai.
Trong giai đoạn này tôi thấy Hoa Kỳ họ sẵn sàng chìa tay ra để nắm lấy bàn tay Việt Nam để cùng với Việt Nam giữ lấy Biển Đông. Việc giữ Biển Đông không chỉ vì quyền lợi của Việt Nam mà còn vì quyền lợi Hoa Kỳ.
-TS Nguyễn Thanh Giang
TS Nguyễn Thanh Giang, một nhà bất đồng chính kiến kiên trì trong hàng chục năm qua cho biết nhận xét của ông:
“Trong giai đoạn này tôi thấy Hoa Kỳ họ sẵn sàng chìa tay ra để nắm lấy bàn tay Việt Nam để cùng với Việt Nam giữ lấy Biển Đông. Việc giữ Biển Đông không chỉ vì quyền lợi của Việt Nam mà còn vì quyền lợi Hoa kỳ. Việc ngăn chặn âm mưu bành trướng Đại Hán cũng là quyền lợi không chỉ là của toàn nhân loại mà là quyền lợi cũng sát sườn của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ phải ngăn chặn cho được sức vươn lên cạnh tranh không lành mạnh của Trung Quốc.
Với một điều kiện thuận lợi như vậy Đảng Cộng sản Việt Nam cần và phải xúc tiến nhanh việc liên minh liên kết với Hoa Kỳ. Liên minh với Hoa Kỳ hay bất cứ nước nào trên thế giới không phải để chống Trung Quốc mà để giữ gìn lãnh hải lãnh thổ của mình. Đấy là liên minh chính đáng cần phải tuyên bố và thực hiện. Tiếc rằng cho đến bây giờ cái chủ trương đúng đó không được thực thi và Việt Nam vẫn giữ một khoảng cách khá xa đối với Hoa Kỳ đồng thời lại vẫn hô những khẩu hiệu hoàn toàn vô nghĩa lý là 16 chữ vàng 4 tốt. Điều này lệ thuộc vào ý thức hệ đã trở nên lạc hậu phi thực tế.”
Vai trò của Đảng sẽ ra sao?
Trở ngại quan trọng nhất là yếu tố ý thức hệ mà đảng cộng sản hai nước liên quan quá chặt chẽ với nhau đã khiến cho Ban chấp hành Đảng cộng sản Việt Nam không đủ quyết tâm tách rời ra khỏi quỹ đạo của nó mặc dù cả hai bên đều biết rằng chủ nghĩa xã hội nay chỉ còn là cái vỏ bọc đã lỗi thời, lạc hậu. Trung Quốc chạy theo mục tiêu bá quyền nước lớn và Việt Nam nằm trên con đường xâm lấn của Bắc Kinh. Chỉ có hai cách tránh họa xâm lăng của Trung Quốc, một là thỏa hiệp nhắm mắt chờ đợi một biến cố nào đó xảy ra, cam chịu mọi sự ép bức trong đó mất dần chủ quyền Biển đảo, một phần xương thịt quan trọng của đất nước.
Thứ hai, từ bỏ chủ nghĩa xã hội, dứt khoát chặt đứt 16 chữ 4 tốt quay hẳn về phía khác và chấp nhận liên minh với các nước để tạo ra vòng đai bảo vệ lấy mình bằng sức mạnh liên minh. Để từ đó yên tâm xây dựng thể chế chính trị nào phù hợp với ý nguyện toàn dân vì một đất nước thật sự phú cường thịnh vượng.
Rào cản lớn nhất cho vấn đề liên minh vẫn từ cấp cao nhất trong Bộ chính trị. Quyết sách liên minh mặc dù là lợi ích to lớn cho đất nước nhưng khi quyết định chọn lựa phương cách này thì Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ ngay lập tức đối diện với thử thách là liệu vai trò của Đảng sẽ ra sao khi liên minh hình thành với hàng tá điều mà Đảng phải từ bỏ.
Ông Lê Công Giàu, một đảng viên kỳ cựu, nguyên Phó Bí thư thành đoàn thành phố Hồ Chí Minh cho biết nhận định của ông trong tình hình hiện nay:
“Hiện nay tình hình Việt Nam đang đòi hỏi sự đổi mới, một sự đổi mới cơ bản chứ không phải từng chút hay từng phần, tất nhiên là phải có thời gian. Bây giớ số trí thức trong đảng suy nghĩ của họ là không phải bám vào những học thuyết, những lý thuyết không còn phù hợp. Người ta căn cứ trên thực tế những việc gì làm có lợi cho đất nước thì người ta sẵn sàng chấp nhận. Không như cách đây vài chục năm tình hình nó khác, suy nghĩ nó khác còn bây giờ người ta sẵn sàng từ bỏ những cái cũ để đi theo cái mới. Tất nhiên hợp tác phải thật sự đem lại lợi ích cho đất nước vì chúng ta biết rằng bất cứ nước nào thì họ cũng sẽ tính tới quyền lợi của họ trước do đó những cái hợp tác, quan hệ nào mà thật sự đem lại lợi ích cho đất nước thì tôi nghĩ họ sẵn sàng, ngay bản thân tôi cũng sẵn sàng.”
Ông Lê Công Giàu xác định một số lớn nhân sĩ trí thức, ngay cả đảng viên cũng đều muốn thay đổi theo hướng liên minh, vì vậy họ chấp nhận không cần quyền lợi vì sự an nguy của dân tộc là trên hết, ông Giàu cho biết:
“Đối với người dân, đối với những anh em trí thức qua nói chuyện thì tôi hiểu anh em rằng tình hình bây giờ nó đã thay đổi nhiều lắm rồi, thế giới bây giờ nó khác với cách đây vài chục năm cho nên bây giờ mọi suy nghĩ, mọi hành động người ta căn cứ vào trong những tình hình mới. Đối với anh em trí thức ở Việt Nam họ nghĩ rằng là trong tình hình hiện nay cái gì có lợi cho đất nước thì đều nên làm.
Trong xu thế hiện nay Trung Quốc đang gây khó khăn như thế không thể nào hợp tác hay nghiêng về phía Trung Quốc được mà phải đi với những nước cùng có hướng không để cho Trung Quốc chi phối, có những hành động có hại cho tình hình chung của từng nước cũng như cả thế giới. Hiện nay những suy nghĩ như vậy đang rất phổ biến, người ta căn cứ vào những hành động có lợi cho đất nước thì người ta sẵn sàng ủng hộ.”
Theo tôi nghĩ thì chắc là thế nào cũng có sự biến động phải thay đổi chứ không thể cứ y như cũ được là vì tôi nói thật người cộng sản cũng hết sức cơ hội chứ không phải là cái anh trung thành.
-Ông Trần Đĩnh
TS Nguyễn Thanh Giang cho rằng quyết định tham gia vào một liên minh để giữ gìn bờ cõi là tất yếu và không thể từ khước dù bất cứ lý do gì:
“Tiếng gọi thiên liêng của tổ quốc, tiếng gọi thiêng liêng của dân tộc là phải nhanh chóng thiết lập mối liên minh liên kết với những lực lượng tiến bộ trên thế giới, đặc biệt là đối với Hoa Kỳ để giữ lấy chủ quyền, giữ lấy lãnh hải lãnh thổ của dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam phải làm cho được nếu không thì Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ phải có tội lớn đối với đất nước và dân tộc này. Cho nên nếu mà vì liên minh liên kết với Hoa Kỳ mà đảng có thiệt thòi quyền lợi này quyền lợi khác thì tôi khuyên đảng và dặc biệt là ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng phải biết hy sinh một phần quyền lợi của mình để giữ lấy giang sơn tổ quốc. Giữ lấy quyền lợi của đất nước của dân tộc.”
Ông Trần Đĩnh, một đảng viên lâu đời và là người chấp bút cho việc viết tiểu sử chủ tịch Hồ Chí Minh, tác giả của quyển Đèn Cù mô tả những câu chuyện thâm cung bí sử của Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng người cộng sản không phải lúc nào cũng trung thành với ý tưởng hay chủ thuyết mà họ đưa ra. Sau bao nhiêu năm sống chung nhà văn Trần Đĩnh cho rằng người cộng sản sẽ chấp nhận một trào lưu khác mà theo ông đó là chủ nghĩa cơ hội:
“Theo tôi nghĩ thì chắc là thế nào cũng có sự biến động phải thay đổi chứ không thể cứ y như cũ được là vì tôi nói thật người cộng sản cũng hết sức cơ hội chứ không phải là cái anh trung thành. Ta cứ xem lịch sử đảng thì thấy nay theo người này mai theo người kia là bình thường. Theo tôi đến chỗ bế tắc thì người ta rất dễ đi đến chỗ phải tính lại chứ không phải cứ tập trung bảo thủ đến cùng.
Lịch sử đã chứng tỏ rằng cộng sản lúc cần đến thì rất dễ thay đổi. Đang là đầu tàu cách mạng người ta có thể đánh đầu tàu cách mạng được th2i bây giờ đi với Mỹ với phương Tây theo tôi không có gì ghê gớm cả. tại vì thế này đảng không còn nguyên vẹn một khối nữa, nó có những biến hóa làm cho họ phải suy nghĩ lại, họ không còn là một khối thống nhất, chưa bao giờ có chuyện nội bộ mâu thuẫn đánh nhau như vậy.”
Biến cố chính trị lớn nhất trong năm có lẽ là chuyến đi Hoa Kỳ sắp tới của Tổng bí Thư Nguyễn Phú Trọng. Mặc dù chuyến đi này chỉ là hình thức ngoại giao nhưng qua nó giới quan sát dễ dàng suy luận rằng ông Trọng dù sao cũng đang chấp nhận một vai trò khác trong cuộc chiến âm thầm với Trung Quốc mà ông luôn được xem là tiên phong trong việc giữ gìn mối hữu nghị.
Khi được hỏi liệu ông TBT có nhân cơ hội này mà xoay trục về hướng khác hay không, ông Trần Đĩnh người nhiều năm sống và nghiên cứu về Trung Quốc cho biết cảm nghĩ của ông:
“Theo tôi nghĩ rất có khả năng là vì Trung Quốc đang rất căng với Hoa kỳ mà lại đồng ý đi thì theo tôi đấy là tín hiệu ông ấy muốn tỏ rằng ông ấy không phải như ngưới ta nói chỉ kiên trì muôn đi với Trung Quốc còn ông ấy thật tình như thế nào thì không biết.
Trung Quốc nó có cái chữ “hình thế bức nhân” trong chính trị. Hình thế là cái situation, cái tình hình. Bức nhân là nó bắt buộc con người không thể không làm.”
Nhân sĩ trí thức cho rằng cái “không thể không làm” đó sẽ là khởi điểm cho một quyết định có tính cách xoay đổi cả một chính sách. Đây là cơ hội vô cùng to lớn nếu TBT Nguyễn Phú Trọng nắm lấy và khai thác. Nó cũng sẽ thay đổi tất cả mọi ác cảm dành cho ông qua thành kiến cho rằng ông quá thân với Trung Quốc đến nỗi vuột cả cơ hội lớn của dân tộc.
Định nghĩa mới về kinh tế thị trường định hướng XHCN có gì khác biệt?
Dự thảo Báo cáo chính trị đại hội 12 Đảng cộng sản Việt Nam nêu ra định nghĩa mới về khái niệm kinh tế thị trường định hướng XHCN. Kể từ sau khi Đảng cộng sản Việt nam lần đầu tiên đưa ra khái niệm kinh tế thị trường định hướng XHCN trong thập niên 1990 đến nay, nhiều kinh tế gia và các nhà phân tích cho rằng đảng vẫn chưa ra được một định nghĩa rõ ràng về khái niệm mới này. Tại sao Đảng cộng Sản Việt Nam đưa ra định nghĩa mới vào lúc này và định nghĩa mới có gì khác biệt với nguyên lý chung mà Đảng đã đề ra trước đó về sự lãnh đạo của Đảng cộng sản VN và vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế? Việt Hà phỏng vấn Tiến sĩ Nguyễn Quang A, Nguyên viện trưởng viện nghiên cứu phát triển IDS.
Cốt lõi không thay đổi?
Trước hết nói về định nghĩa mới trong dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội 12, Tiến sĩ Nguyễn Quang A nhận định:
TS Nguyễn Quang A: Tôi nghĩ là không có gì thay đổi ở đây cả, về hành văn, về câu chữ, những lời hoa mỹ thì có thể thay đổi nhưng về cốt lõi như những gì chị vừa nói là kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế thị trường nhưng dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam… những điểm như thế vẫn hệt như cũ. Nó chứa đựng những thứ mà nói khiếm nhã là ngớ ngẩn, nó mâu thuẫn nhau trong nội bộ những ý. Tất nhiên, người ta nói nhấn mạnh vào chuyện có sự quản lý của nhà nước nhưng tôi nghĩ chả có nước nào mà không có sự quản lý của nhà nước cả nhưng quản lý như thế nào mới là vấn đề. Ở đây được nêu là dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam thì hỏng bét hết. Và nếu mà người ta tiếp tục đường lối như thế thì tôi nghĩ rằng sẽ không có bước đột phá trong kinh tế Việt Nam trong thời gian tới. Tuy nhiên bản thân nền kinh tế cũng không phụ thuộc lắm vào những câu văn của nghị quyết của Đảng cộng sản Việt Nam.
Tôi nghĩ là không có gì thay đổi ở đây cả, về hành văn, về câu chữ, những lời hoa mỹ thì có thể thay đổi nhưng về cốt lõi như những gì chị vừa nói là kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế thị trường nhưng dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam.
-TS Nguyễn Quang A
Tôi thường nói với mọi người là mức độ họ có thể làm hại đối với nền kinh tế cũng chỉ ở mức giới hạn nhất định bởi vì có những lực lượng không quan tâm gì đến hành văn của văn kiện đảng cộng sản là gi cả. Tất nhiên nó có thể ảnh hưởng đến họ, nhưng về cơ bản nền kinh tế vẫn phát triển theo đường của nó bất chấp người ta muốn kiểu gì. Nói cách khác, lẽ ra trong một đường lối kiến tạo cho sự phát triển thì nền kinh tế có thể phát triển một cách lành mạnh, khu vực kinh tế tư nhân trong nước có thể mạnh mẽ hơn lên. Với đường lối thế này thì nó có thể làm hại mà hại nhiều chứ không phải là không. Nhưng mà mức đấy cũng có hạn thôi chứ không phải tất cả.
Việt Hà: Đảng cộng sản Việt Nam từ 20 năm nay chưa đưa ra một định nghĩa rõ ràng mà chỉ nói chung chung về lý luận như vậy. Nhưng đến bây giờ thì đưa ra định nghĩa mới. Theo ông tại sao bây giờ họ mới đưa ra?
TS Nguyễn Quang A: Tôi nghĩ rằng họ không phải là họ không đưa ra đâu. Trước đó họ cũng nêu rõ ở nơi này nơi kia. Họ nêu rõ là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một, hai, ba bốn, năm sáu, bảy… cách nói như thế thì họ nói rồi chứ không phải bây giờ họ mới nói. Còn bây giờ nó có chuyện theo tôi nghe ở bên ngoài thì thấy là có một số lực lượng, nhất là bên hành pháp muốn ghi rất rõ ràng không có chủ đạo gì cả và thị trường nói chung không thôi và không có các tính từ bổ ngữ đằng sau nữa. Nhưng mà cái giới bên thủ cựu bên đảng vẫn giữ nguyên như cũ. Những hội thảo vừa rồi nêu các định nghĩa, tôi không biết những ai đã dự cuộc đấy nhưng tôi nhìn sơ sơ thì không có thay đổi gì đâu.
Việt Hà: Tại sao cho đến lần này đưa ra định nghĩa mới trong dự thảo này Đảng cộng sản vẫn không thay đổi chút nào kể cả trong vấn đề doanh nghiệp nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo?
TS Nguyễn Quang A: Tôi nghĩ là nói chỉ chứng tỏ một điều là họ sợ những cái thực sự không đáng sợ bởi vì bỏ cái điểm như tôi vừa nói là dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hay doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo thì nền kinh tế chỉ tốt lên, mà nền kinh tế tốt lên thì uy tín của bộ phận lãnh đạo cũng tốt lên. Nhưng họ không đủ tự tin đến như vậy. Chứng tỏ là họ sợ. Đấy là theo tôi tôi nghĩ như vậy. Cũng có một điểm mà họ có lý là họ muốn vẫn muốn ôm các doanh nghiệp nhà nước để họ có thể đạo diễn những con số làm sao để cho nó phù hợp với kế hoạch và thành tích của họ. Tôi nói ví dụ nền kinh tế đặt ra 5,8% nhưng chỉ đạt 5,7 thôi thì họ có thể lệnh cho Petro Việt nam thêm triệu tấn, Vinacomin khai thác thêm nửa triệu tấn than xuất đi, như thế thì nó tăng lên mức đẹp cả kế hoạch nữa. Như thế thì người ta ghi vào thành tích của người ta. Về khía cạnh thực dụng thì họ có lý thực dụng của họ như vậy. Với một nền kinh tế nói chung thì đó là một cách làm tai hại.
Việt Hà: Trong định hướng phát triển XHCN trong 5 đến 10 năm tới thì người ta nói đến năm 2020 thì sẽ phấn đấu hoàn thiện cơ bản hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN theo tiêu chuẩn của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Theo ông mục tiêu mà họ đề ra như vậy có khả thi hay không?
TS Nguyễn Quang A: Tôi nghĩ rằng họ đặt ra khả thi hay không khả thi đối với họ cũng không quan trọng bởi vì có bao giờ họ nhìn lại một cách nghiêm túc rằng những vấn đề mà họ đặt ra nó có đạt hay không đạt, nó dở hay nó hay ở chỗ nào. Ở đây một số người vẫn cố bám lấy cái định kiến của mình và muốn áp đặt cái định kiến ấy lên cả một đảng, tôi nghĩ đơn thuần nó chỉ là như vậy thôi.
Việt Hà: Xin cảm ơn ông đã dành cho chúng tôi buổi phỏng vấn.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/new-definition-of-market-oriented-economy-vh-03052015125710.html
Khởi tố báo Người Cao tuổi: Nhằm triệt hạ báo chí chống tham nhũng?
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/new-definition-of-market-oriented-economy-vh-03052015125710.html
Khởi tố báo Người Cao tuổi: Nhằm triệt hạ báo chí chống tham nhũng?
Nhà văn Võ Thị Hảo
2015-03-03
2015-03-03
"Dư luận âm ỉ chuyện “Tướng chạy” là có thật. Bạn tôi tâm sự rằng: “Lúc ấy mình cũng ráng hết sức để đầu tư lên tướng… nhưng rồi hụt hơi, thua “thầu” nên chấp nhận lỗ nặng, còn tay ấy đủ lực và lên tướng nên chỉ sau 1, 2 năm thu hồi đủ vốn rồi lãi… được cả danh, cả kinh tế! Vốn là bao nhiêu cũng tuỳ vị trí! (Bài Bàn về "thị trường sao và vạch". Báo NCT- 1/4/2014).
Nạn nhân mới của "búa liềm quyền lực đen"
Tết âm lịch với các chương trình ăn uống, vui chơi ở VN rất dễ làm cho chúng ta lơ đãng với số phận những nạn nhân của một chính thể được nhiều tổ chức có uy tín trên thế giới cho là thù địch với tự do ngôn luận và nhân quyền như VN. Khi công dân để mặc cho đồng bào của mình bị oan khuất, triệt hạ hoặc giết chết mà không lên tiếng, các lực lượng đang nắm "búa liềm quyền lực đen" càng tha hồ ra đòn thù và tung tác để củng cố quyền lực nhằm hưởng lợi bất chính, đi ngược lại quyền lợi của người dân và đất nước VN.
Nạn nhân gần đây nhất của việc chống tham nhũng rồi rơi vào phận dân oan là Tổng Biên tập Kim Quốc Hoa và Báo Người Cao tuổi (NCT).
Có người cho rằng đây là cuộc sát phạt giữa hai nhóm lợi ích trong "triều đình cộng sản phong kiến và tư bản man rợ", lại có người "lớn" chống lưng nên báo NCT mới có thể làm như thế.
Nhưng cần công bằng trong cách nhìn nhận. Cho dù động cơ thế nào, có phe nhóm nào đứng sau „chống lưng“ hay không, cũng rất khó phủ nhận kỳ tích chống tham nhũng của tờ báo NCT. Theo Văn bản số 37/BTV-HNCT của Chủ tịch Hội Người Cao tuổi, thì chỉ trong 8 năm (2007 – 2014), báo đã phanh phui hơn 2.500 vụ tham nhũng, tiêu cực từ cấp xã trở lên, cơ bản đảm bảo chính xác, nhiều vụ điển hình được xử lý, thu về cho ngân sách hàng trăm tỉ đồng…".
Để làm được những điều đó, không bao giờ chỉ được "chống lưng" là đủ, mà còn cần rất nhiều kiên trì, đam mê và dũng cảm. Nhiều năm nay, NCT là một tờ báo nhỏ, nghèo, phải đối diện với sự đe dọa hàng ngày và trả thù của một số quan chức lớn cùng lực lượng bảo kê phe nhóm lợi ích với những "quả đấm thép". Bản thân Tổng Biên tập Kim Quốc Hoa đã không nao núng dù nhiều lần bị dọa giết (theo Tiền phong – 19-6-2012). Ông và tờ báo được coi là "người hùng chống tham nhũng" khi dám đăng những bài viết chấn động và rất được người đọc hâm mộ như "Chống tham nhũng khi trao "vũ khí" cho bọn biến chất "đăng ngày 03/5/2013; "Bàn về "Thị trường sao và vạch" đăng ngày 01/4/2013; "Sự thật về "Công tử" Hà Thành ra Trường Sa" đăng ngày 09/7/2014". Báo này cũng đã dám đưa những sai phạm của Tổng và Phó tổng thanh tra Nhà nước ra ánh sáng. Những bài viết của họ dẫu chưa hoàn thiện nhưng đã giúp cho người đọc trong và ngoài nước nhìn rõ thêm bộ mặt thật của đám quan chức không từ một thủ đoạn nào để rút ruột đất nước.
Lẽ ra NCT phải được tôn vinh, khen thưởng vì họ đã làm đúng theo lời kêu gọi của lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Vậy mà ngược lại, tờ báo nghèo này không những bị nhà cầm quyền phạt tới khoảng 700 triệu đồng (có lẽ đó là tất cả số tiền mà họ đang có) mà Tổng Biên tập còn bị Bộ Thông tin và Truyền thông (TTTT) đột ngột thu thẻ nhà báo, yêu cầu cách chức, thu hồi tên miền báo điện tử. Đồng thời, Bộ Công an cũng mau mắn khởi tố NCT vì chính những bài báo trên với quy kết "đăng một số bài viết có dấu hiệu lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của các tổ chức, công dân".
Tất cả những động thái khác thường đó từ phía cơ quan quản lý báo chí và ngành công an khiến người ta ngờ rằng NCT bị trả thù vì đã dám động đến những sai phạm của một số quan chức lớn. Ý chí của những ai đó trong bộ máy cầm quyền là phải nhanh chóng triệt hạ họ để dằn mặt báo chí và những người còn „ngây thơ“ tưởng rằng có thể chống và dám chống tham nhũng dưới chính thể này?!
Hẳn rằng NCT đã có một số lỗi nghiệp vụ trong quá trình tác nghiệp. Nhưng điều này là thông thường đối với báo chí. Chưa báo nào không từng có sai sót vì con người không phải là cỗ máy hoàn hảo nhất. Theo nhiều bộ luật VN hiện hành, trong đó có Luật báo chí, khi có sơ suất, sai sót, báo chỉ cần xin lỗi, cải chính và bồi thường thiệt hại trong trường hợp bị nạn nhân khởi kiện trước tòa và có quyết định của toà án…
Nhưng công luận đã rất sốc, khi chứng kiến sự hối hả đến mức đáng ngờ của Thanh tra Bộ TTTT trong việc bỏ qua nhiều quy định của Luật Thanh tra, Luật Báo chí và nhiều văn bản pháp quy khác để kết tội báo NCT.
Chủ tịch TƯ Hội NCT đã ra văn bản phản đối cung cách thanh tra này: "Trong quá trình hoạt động Đoàn Thanh tra đã vi phạm nghiêm trọng Điều 7 Luật Thanh tra như trong Báo cáo giải trình số 33/CV-BNCT của Tổng Biên tập Báo NCT (Phần VII Về hoạt động của Đoàn Thanh tra), đặc biệt là vi phạm Điều 21 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011; Điều 24, Điều 27 Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày 9/2/2012 của Chính phủ, Điều 24 Thông tư số 05/2014/TT-TTCP ngày 16/10/2014 của Thanh tra Chính phủ về việc trong quá trình thanh tra và ra văn bản Kết luận phải tuân thủ các quy định, đối tượng thanh tra phải được giải trình, phản biện để có thể xác minh, làm rõ nhằm “đánh giá bảo đảm tính khách quan, chính xác”, tránh quy chụp, áp đặt chủ quan, mất dân chủ dẫn đến oan sai.…Cách làm của Đoàn Thanh tra phải chăng nhằm ngăn chặn, làm thui chột năng lực chống tham nhũng của báo chí mà Báo NCT là một điển hình?... Ban Thường vụ Trung ương Hội NCT Việt Nam trân trọng đề nghị đồng chí Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông tạm dừng công bố Kết luận thanh tra để tiến hành lại cuộc thanh tra theo trình tự, thủ tục đúng với quy định của pháp luật”.(Theo Báo Người Cao tuổi, 10 - 02 – 2015).
Nhưng thay vì kiểm tra lại tính hợp pháp, khách quan của quy trình và kết luận thanh tra, thì Bộ TTTT lại ra đòn đe dọa NCT. Theo (VTC News) 12/2/2015, "Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ áp dụng các biện pháp quản lý nhà nước cứng rắn hơn nếu báo Người cao tuổi tiếp tục có những hành động phản ứng tiêu cực, gây phức tạp tình hình".
Xem ra, không còn hy vọng nào để NCT có thể được hưởng công lý mà pháp luật VN đã quy định. Phải chăng "Đạn đã lên nòng, phải nã vào đầu kẻ dựa cột, bất kể bản án tử là vô căn cứ"?!
Trở thành dân oan vì chống tham nhũng
Dư luận trong và ngoài nước nghiêng về việc NCT và ông Kim Quốc Hoa đã bị trở thành dân oan, bị trả thù do chống tham nhũng.
Vụ bất công đối với báo NCT lại nối dài những bất công, trù dập, đòn thù mà người chống tham nhũng VN lâu nay phải gánh chịu. Chống tham nhũng là rước họa vào thân. Huống gì, tờ báo này và ông Kim Quốc Hoa đã dám bạo gan chạm vào một số tử huyệt của nền độc tài như đội ngũ cấp tướng bên quân đội và công an với "thị trường sao vạch". Ông còn cả gan đụng đến Thanh tra chính phủ, đến việc vén tấm màn đầy vi rút bao che sự đồi bại của một bí thư tỉnh ủy thực ra là "yêu râu xanh"…
Dù là ai, trên thực tế, người dám đấu tranh chống tham nhũng cuối cùng cũng sẽ tự đứng về phía "lề Dân". Mải mê chống tham nhũng, từ một tờ báo "lề Đảng" với chức năng nhiệm vụ là ban Tuyên giáo bảo sao nói vậy, NCT đặt chân sang phía "lề Dân" lúc nào không hay. Về quyền lợi, hai lề này đối chọi nhau như bóng tối và ánh sáng.
Luật sư Trần Vũ Hải nhận định trên Facebook cá nhân: "Mặc dù từng đối đầu và không đồng ý nhiều việc với ông TBT báo Người cao tuổi, nhưng tôi vẫn cho rằng sau thanh tra nhanh chóng đề nghị cách chức ông và chuyển sang cơ quan an ninh điều tra là có vấn đề và không công bằng."
"Những vụ ông khui ra đều làm rất chậm chạm và xử lý nhẹ nhàng, dù dưới con mắt của dân chúng khá nghiêm trọng“.
Hiện trạng trả thù người chống tiêu cực tham nhũng ở VN đã trầm trọng đến mức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Quốc hội Nguyễn Đình Quyền ngày 27.10.2014 khi trả lời danviet.vn đã nêu quan điểm sau phiên thảo luận của Quốc hội:
"Không ít trường hợp tố cáo tham nhũng đã bị trả thù bằng hình thức này hay hình thức khác. Đây chính là rào cản khiến người dân không muốn tham gia vào việc tố cáo tham nhũng".
Báo Văn hóa điện tử ngày 12.10.10.2013 cho biết, thời gian qua tình trạng người dân tố cáo tham nhũng, tiêu cực rất nhiều nhưng đổi lại việc tố cáo tham nhũng được khen thưởng thì ít mà rước họa thì nhiều. Rất nhiều trường hợp người tố cáo tham nhũng bị trù dập như chuyển công tác, bị nhắn tin đe dọa, bị gây thương tích và khủng bố tinh thần cá nhân và những người thân trong gia đình…Người tố cáo tham nhũng ít khi được sự đồng thuận, chia sẽ giữa người thân và cộng đồng, họ thường đơn độc, lẻ loi trong cuộc chiến mà ở đó họa thường nhiều hơn phúc…
Báo chí VN phải chối bỏ sự lương thiện?
Theo sự tố cáo của Báo Người Cao tuổi và nhận định của nhiều chuyên gia luật, cũng như đối chiếu so sánh quy định của pháp luật VN liên quan đến vấn đề này, thì rõ ràng là Tổng biên tập Kim Quốc Hoa và báo NCT đang phải chịu những bất công hết sức nặng nề.
Họ cũng như nhiều công dân VN khác, đang hành nghề vì cộng đồng nhưng phải gánh chịu tai họa riêng trong một chính thể đứng thứ 5 trên thế giới về việc bỏ tù nhà báo, theo xếp hạng của Tổ chức bảo vệ ký giả Thế giới (CPJ) (theo BBC, 17/12/2014) và đứng gần chót bảng về mức độ tự do báo chí. Trong tình hình đó, họ chỉ có thể được bảo vệ và an ủi bởi sự lương thiện của đồng nghiệp và cộng đồng cùng lên tiếng, cùng hành động.
Một người lương thiện, theo định nghĩa của từ điển Việt - Việt là cư xử ngay thẳng, không gian dối, làm ăn lương thiện. Nhà báo nhà văn và các chính trị gia, đương nhiên càng phải có trách nhiệm lương thiện. Điều trước tiên là phải ngay thẳng trước xã hội, trên mặt báo, thấy sai nói sai, thấy đúng nói đúng.
Trước sự bất công nói trên, làng báo VN, với 838 cơ quan báo chí in (số liệu từ bài "Tình hình phát triển lĩnh vực báo chí năm 2014 của Bộ Thông tin và truyền thông" – 24/12/2014, nhưng theo Vn Economy đăng ngày 31/12/2014 thì Bộ này lại khẳng định là có tới 845 cơ quan báo chí?!) với 1.111 loại ấn phẩm, 3 đài truyền hình cỡ quốc gia, 67 đài phát thanh truyền hình TƯ và địa phương, 90 báo và tạp chí điện tử, 215 trang tin điện tử tổng hợp, 180 kênh phát thanh truyền hình quảng bá, với gần 18 nghìn nhà báo có thẻ và khoảng 5 ngàn phóng viên hoạt động báo chí chưa được cấp thẻ, lực lượng khổng lồ ấy đã cư xử thế nào với đồng nghiệp và người đọc của họ?
Thật là một cơn ác mộng. Họ nói cùng một giọng!
Làng báo lao vào đưa tin, đúng như nội dung họp báo của Bộ TT-TT – hoàn toàn thiên lệch về phía nhà cầm quyền mà không có một lời bình luận, tìm hiểu thỏa đáng hay phỏng vấn ông Kim Quốc Hoa và báo NCT hoặc những người liên quan để làm rõ vụ việc. Không một ai, tờ báo chính thống nào lên tiếng chỉ ra những cái sai đã hết sức rõ ràng của quy trình thanh tra, việc rút thẻ nhà báo, yêu cầu cách chức và khởi tố bên cạnh việc chỉ ra những sai sót của NCT… Suy nghĩ của họ là: "ai bảo ruồi muỗi tham gia vào quá trình đánh nhau của trâu bò. Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết, "tránh cho nó lành".
Đây là một suy nghĩ và cách hành xử đáng sợ, hậu quả là bất công với đồng nghiệp và thiếu ngay thẳng. Đương nhiên họ biết sự vô cảm với đồng nghiệp, sự im lặng với các ác khi cái ác đang xẩy ra, đó cũng là tội ác. Cũng hệt như khi người khác đang chống tham nhũng, đang bị dọa giết, bị đe dọa tính mạng thì các báo mặc kệ, chỉ lo đi đăng tin cướp giết hiếp và hở ngực hở mông câu khách.
Sở dĩ có tình trạng đó bởi nhiều Tổng biên tập cũng đã được „quy hoạch“ bởi lý tưởng của họ không ra ngoài cái ghế và nồi cơm của mình. Chính họ, bằng cách cắt xén bài của phóng viên, gắt gao định hướng, trừng phạt lập tức những phóng viên dám có ý kiến khác để giữ an toàn theo lệnh cấp trên. Khi đó, chính họ cũng trở nên thù địch với tự do báo chí.
Vì sao, trong lồng ngực mỗi nhà báo VN cũng đều có trái tim con người mà họ nỡ cư xử như vậy?
Phải chăng họ đã phải chối bỏ sự lương thiện bằng cách vờ câm điếc, bởi vì họ sẽ bị trừng phạt nặng nề nếu trái ý nhà cầm quyền, sợ bị triệt hạ như báo NCT và Tổng BT Kim Quốc Hoa cùng những nạn nhân trước đó? Trên thực tế, nhiều nhà báo yêu nghề, cố gắng để viết được tin bài chân thực nhưng họ đã bị trừng phạt nặng nề hoặc không tờ báo nào dám đăng bài của họ. Dần dần, trái tim lương thiện của nhà báo bị đóng vào cũi sắt. Đó là ngày chiến thắng của nhà cầm quyền.
Khi trái tim lương thiện của nhà báo bị đóng cũi sắt thì sẽ kéo theo vô số thảm họa khác. Hôm nay là NCT chịu oan ức, nhưng hôm sau sẽ là nhà báo khác và những công dân khác. Trong cái cũi sắt độc tài, nhiều nhà báo và nhà văn cũng phải cam tâm làm những con vẹt sặc sỡ phát lại những lời dối trá từ cái loa tuyên truyền của lề Đảng.
Dẫu sao, vẫn đáng chúc mừng NCT và ông Kim Quốc Hoa, vì dù đang chịu bất công, thậm chí nay mai có người trong số họ bị tù tội nhưng họ đã giữ được nhân phẩm vì đã dám tách khỏi đám vẹt sặc sỡ ấy để kịp làm một số việc hữu ích cho cộng đồng.
*Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA.
http://www.rfa.org/vietnamese/blog/blog-0302015-vothihao-03032015151327.htmlNạn nhân mới của "búa liềm quyền lực đen"
Tết âm lịch với các chương trình ăn uống, vui chơi ở VN rất dễ làm cho chúng ta lơ đãng với số phận những nạn nhân của một chính thể được nhiều tổ chức có uy tín trên thế giới cho là thù địch với tự do ngôn luận và nhân quyền như VN. Khi công dân để mặc cho đồng bào của mình bị oan khuất, triệt hạ hoặc giết chết mà không lên tiếng, các lực lượng đang nắm "búa liềm quyền lực đen" càng tha hồ ra đòn thù và tung tác để củng cố quyền lực nhằm hưởng lợi bất chính, đi ngược lại quyền lợi của người dân và đất nước VN.
Nạn nhân gần đây nhất của việc chống tham nhũng rồi rơi vào phận dân oan là Tổng Biên tập Kim Quốc Hoa và Báo Người Cao tuổi (NCT).
Có người cho rằng đây là cuộc sát phạt giữa hai nhóm lợi ích trong "triều đình cộng sản phong kiến và tư bản man rợ", lại có người "lớn" chống lưng nên báo NCT mới có thể làm như thế.
Nhưng cần công bằng trong cách nhìn nhận. Cho dù động cơ thế nào, có phe nhóm nào đứng sau „chống lưng“ hay không, cũng rất khó phủ nhận kỳ tích chống tham nhũng của tờ báo NCT. Theo Văn bản số 37/BTV-HNCT của Chủ tịch Hội Người Cao tuổi, thì chỉ trong 8 năm (2007 – 2014), báo đã phanh phui hơn 2.500 vụ tham nhũng, tiêu cực từ cấp xã trở lên, cơ bản đảm bảo chính xác, nhiều vụ điển hình được xử lý, thu về cho ngân sách hàng trăm tỉ đồng…".
Để làm được những điều đó, không bao giờ chỉ được "chống lưng" là đủ, mà còn cần rất nhiều kiên trì, đam mê và dũng cảm. Nhiều năm nay, NCT là một tờ báo nhỏ, nghèo, phải đối diện với sự đe dọa hàng ngày và trả thù của một số quan chức lớn cùng lực lượng bảo kê phe nhóm lợi ích với những "quả đấm thép". Bản thân Tổng Biên tập Kim Quốc Hoa đã không nao núng dù nhiều lần bị dọa giết (theo Tiền phong – 19-6-2012). Ông và tờ báo được coi là "người hùng chống tham nhũng" khi dám đăng những bài viết chấn động và rất được người đọc hâm mộ như "Chống tham nhũng khi trao "vũ khí" cho bọn biến chất "đăng ngày 03/5/2013; "Bàn về "Thị trường sao và vạch" đăng ngày 01/4/2013; "Sự thật về "Công tử" Hà Thành ra Trường Sa" đăng ngày 09/7/2014". Báo này cũng đã dám đưa những sai phạm của Tổng và Phó tổng thanh tra Nhà nước ra ánh sáng. Những bài viết của họ dẫu chưa hoàn thiện nhưng đã giúp cho người đọc trong và ngoài nước nhìn rõ thêm bộ mặt thật của đám quan chức không từ một thủ đoạn nào để rút ruột đất nước.
Lẽ ra NCT phải được tôn vinh, khen thưởng vì họ đã làm đúng theo lời kêu gọi của lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Vậy mà ngược lại, tờ báo nghèo này không những bị nhà cầm quyền phạt tới khoảng 700 triệu đồng (có lẽ đó là tất cả số tiền mà họ đang có) mà Tổng Biên tập còn bị Bộ Thông tin và Truyền thông (TTTT) đột ngột thu thẻ nhà báo, yêu cầu cách chức, thu hồi tên miền báo điện tử. Đồng thời, Bộ Công an cũng mau mắn khởi tố NCT vì chính những bài báo trên với quy kết "đăng một số bài viết có dấu hiệu lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của các tổ chức, công dân".
Tất cả những động thái khác thường đó từ phía cơ quan quản lý báo chí và ngành công an khiến người ta ngờ rằng NCT bị trả thù vì đã dám động đến những sai phạm của một số quan chức lớn. Ý chí của những ai đó trong bộ máy cầm quyền là phải nhanh chóng triệt hạ họ để dằn mặt báo chí và những người còn „ngây thơ“ tưởng rằng có thể chống và dám chống tham nhũng dưới chính thể này?!
Hẳn rằng NCT đã có một số lỗi nghiệp vụ trong quá trình tác nghiệp. Nhưng điều này là thông thường đối với báo chí. Chưa báo nào không từng có sai sót vì con người không phải là cỗ máy hoàn hảo nhất. Theo nhiều bộ luật VN hiện hành, trong đó có Luật báo chí, khi có sơ suất, sai sót, báo chỉ cần xin lỗi, cải chính và bồi thường thiệt hại trong trường hợp bị nạn nhân khởi kiện trước tòa và có quyết định của toà án…
Nhưng công luận đã rất sốc, khi chứng kiến sự hối hả đến mức đáng ngờ của Thanh tra Bộ TTTT trong việc bỏ qua nhiều quy định của Luật Thanh tra, Luật Báo chí và nhiều văn bản pháp quy khác để kết tội báo NCT.
Chủ tịch TƯ Hội NCT đã ra văn bản phản đối cung cách thanh tra này: "Trong quá trình hoạt động Đoàn Thanh tra đã vi phạm nghiêm trọng Điều 7 Luật Thanh tra như trong Báo cáo giải trình số 33/CV-BNCT của Tổng Biên tập Báo NCT (Phần VII Về hoạt động của Đoàn Thanh tra), đặc biệt là vi phạm Điều 21 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011; Điều 24, Điều 27 Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày 9/2/2012 của Chính phủ, Điều 24 Thông tư số 05/2014/TT-TTCP ngày 16/10/2014 của Thanh tra Chính phủ về việc trong quá trình thanh tra và ra văn bản Kết luận phải tuân thủ các quy định, đối tượng thanh tra phải được giải trình, phản biện để có thể xác minh, làm rõ nhằm “đánh giá bảo đảm tính khách quan, chính xác”, tránh quy chụp, áp đặt chủ quan, mất dân chủ dẫn đến oan sai.…Cách làm của Đoàn Thanh tra phải chăng nhằm ngăn chặn, làm thui chột năng lực chống tham nhũng của báo chí mà Báo NCT là một điển hình?... Ban Thường vụ Trung ương Hội NCT Việt Nam trân trọng đề nghị đồng chí Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông tạm dừng công bố Kết luận thanh tra để tiến hành lại cuộc thanh tra theo trình tự, thủ tục đúng với quy định của pháp luật”.(Theo Báo Người Cao tuổi, 10 - 02 – 2015).
Nhưng thay vì kiểm tra lại tính hợp pháp, khách quan của quy trình và kết luận thanh tra, thì Bộ TTTT lại ra đòn đe dọa NCT. Theo (VTC News) 12/2/2015, "Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ áp dụng các biện pháp quản lý nhà nước cứng rắn hơn nếu báo Người cao tuổi tiếp tục có những hành động phản ứng tiêu cực, gây phức tạp tình hình".
Xem ra, không còn hy vọng nào để NCT có thể được hưởng công lý mà pháp luật VN đã quy định. Phải chăng "Đạn đã lên nòng, phải nã vào đầu kẻ dựa cột, bất kể bản án tử là vô căn cứ"?!
Trở thành dân oan vì chống tham nhũng
Dư luận trong và ngoài nước nghiêng về việc NCT và ông Kim Quốc Hoa đã bị trở thành dân oan, bị trả thù do chống tham nhũng.
Vụ bất công đối với báo NCT lại nối dài những bất công, trù dập, đòn thù mà người chống tham nhũng VN lâu nay phải gánh chịu. Chống tham nhũng là rước họa vào thân. Huống gì, tờ báo này và ông Kim Quốc Hoa đã dám bạo gan chạm vào một số tử huyệt của nền độc tài như đội ngũ cấp tướng bên quân đội và công an với "thị trường sao vạch". Ông còn cả gan đụng đến Thanh tra chính phủ, đến việc vén tấm màn đầy vi rút bao che sự đồi bại của một bí thư tỉnh ủy thực ra là "yêu râu xanh"…
Dù là ai, trên thực tế, người dám đấu tranh chống tham nhũng cuối cùng cũng sẽ tự đứng về phía "lề Dân". Mải mê chống tham nhũng, từ một tờ báo "lề Đảng" với chức năng nhiệm vụ là ban Tuyên giáo bảo sao nói vậy, NCT đặt chân sang phía "lề Dân" lúc nào không hay. Về quyền lợi, hai lề này đối chọi nhau như bóng tối và ánh sáng.
Luật sư Trần Vũ Hải nhận định trên Facebook cá nhân: "Mặc dù từng đối đầu và không đồng ý nhiều việc với ông TBT báo Người cao tuổi, nhưng tôi vẫn cho rằng sau thanh tra nhanh chóng đề nghị cách chức ông và chuyển sang cơ quan an ninh điều tra là có vấn đề và không công bằng."
"Những vụ ông khui ra đều làm rất chậm chạm và xử lý nhẹ nhàng, dù dưới con mắt của dân chúng khá nghiêm trọng“.
Hiện trạng trả thù người chống tiêu cực tham nhũng ở VN đã trầm trọng đến mức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Quốc hội Nguyễn Đình Quyền ngày 27.10.2014 khi trả lời danviet.vn đã nêu quan điểm sau phiên thảo luận của Quốc hội:
"Không ít trường hợp tố cáo tham nhũng đã bị trả thù bằng hình thức này hay hình thức khác. Đây chính là rào cản khiến người dân không muốn tham gia vào việc tố cáo tham nhũng".
Báo Văn hóa điện tử ngày 12.10.10.2013 cho biết, thời gian qua tình trạng người dân tố cáo tham nhũng, tiêu cực rất nhiều nhưng đổi lại việc tố cáo tham nhũng được khen thưởng thì ít mà rước họa thì nhiều. Rất nhiều trường hợp người tố cáo tham nhũng bị trù dập như chuyển công tác, bị nhắn tin đe dọa, bị gây thương tích và khủng bố tinh thần cá nhân và những người thân trong gia đình…Người tố cáo tham nhũng ít khi được sự đồng thuận, chia sẽ giữa người thân và cộng đồng, họ thường đơn độc, lẻ loi trong cuộc chiến mà ở đó họa thường nhiều hơn phúc…
Báo chí VN phải chối bỏ sự lương thiện?
Theo sự tố cáo của Báo Người Cao tuổi và nhận định của nhiều chuyên gia luật, cũng như đối chiếu so sánh quy định của pháp luật VN liên quan đến vấn đề này, thì rõ ràng là Tổng biên tập Kim Quốc Hoa và báo NCT đang phải chịu những bất công hết sức nặng nề.
Họ cũng như nhiều công dân VN khác, đang hành nghề vì cộng đồng nhưng phải gánh chịu tai họa riêng trong một chính thể đứng thứ 5 trên thế giới về việc bỏ tù nhà báo, theo xếp hạng của Tổ chức bảo vệ ký giả Thế giới (CPJ) (theo BBC, 17/12/2014) và đứng gần chót bảng về mức độ tự do báo chí. Trong tình hình đó, họ chỉ có thể được bảo vệ và an ủi bởi sự lương thiện của đồng nghiệp và cộng đồng cùng lên tiếng, cùng hành động.
Một người lương thiện, theo định nghĩa của từ điển Việt - Việt là cư xử ngay thẳng, không gian dối, làm ăn lương thiện. Nhà báo nhà văn và các chính trị gia, đương nhiên càng phải có trách nhiệm lương thiện. Điều trước tiên là phải ngay thẳng trước xã hội, trên mặt báo, thấy sai nói sai, thấy đúng nói đúng.
Trước sự bất công nói trên, làng báo VN, với 838 cơ quan báo chí in (số liệu từ bài "Tình hình phát triển lĩnh vực báo chí năm 2014 của Bộ Thông tin và truyền thông" – 24/12/2014, nhưng theo Vn Economy đăng ngày 31/12/2014 thì Bộ này lại khẳng định là có tới 845 cơ quan báo chí?!) với 1.111 loại ấn phẩm, 3 đài truyền hình cỡ quốc gia, 67 đài phát thanh truyền hình TƯ và địa phương, 90 báo và tạp chí điện tử, 215 trang tin điện tử tổng hợp, 180 kênh phát thanh truyền hình quảng bá, với gần 18 nghìn nhà báo có thẻ và khoảng 5 ngàn phóng viên hoạt động báo chí chưa được cấp thẻ, lực lượng khổng lồ ấy đã cư xử thế nào với đồng nghiệp và người đọc của họ?
Thật là một cơn ác mộng. Họ nói cùng một giọng!
Làng báo lao vào đưa tin, đúng như nội dung họp báo của Bộ TT-TT – hoàn toàn thiên lệch về phía nhà cầm quyền mà không có một lời bình luận, tìm hiểu thỏa đáng hay phỏng vấn ông Kim Quốc Hoa và báo NCT hoặc những người liên quan để làm rõ vụ việc. Không một ai, tờ báo chính thống nào lên tiếng chỉ ra những cái sai đã hết sức rõ ràng của quy trình thanh tra, việc rút thẻ nhà báo, yêu cầu cách chức và khởi tố bên cạnh việc chỉ ra những sai sót của NCT… Suy nghĩ của họ là: "ai bảo ruồi muỗi tham gia vào quá trình đánh nhau của trâu bò. Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết, "tránh cho nó lành".
Đây là một suy nghĩ và cách hành xử đáng sợ, hậu quả là bất công với đồng nghiệp và thiếu ngay thẳng. Đương nhiên họ biết sự vô cảm với đồng nghiệp, sự im lặng với các ác khi cái ác đang xẩy ra, đó cũng là tội ác. Cũng hệt như khi người khác đang chống tham nhũng, đang bị dọa giết, bị đe dọa tính mạng thì các báo mặc kệ, chỉ lo đi đăng tin cướp giết hiếp và hở ngực hở mông câu khách.
Sở dĩ có tình trạng đó bởi nhiều Tổng biên tập cũng đã được „quy hoạch“ bởi lý tưởng của họ không ra ngoài cái ghế và nồi cơm của mình. Chính họ, bằng cách cắt xén bài của phóng viên, gắt gao định hướng, trừng phạt lập tức những phóng viên dám có ý kiến khác để giữ an toàn theo lệnh cấp trên. Khi đó, chính họ cũng trở nên thù địch với tự do báo chí.
Vì sao, trong lồng ngực mỗi nhà báo VN cũng đều có trái tim con người mà họ nỡ cư xử như vậy?
Phải chăng họ đã phải chối bỏ sự lương thiện bằng cách vờ câm điếc, bởi vì họ sẽ bị trừng phạt nặng nề nếu trái ý nhà cầm quyền, sợ bị triệt hạ như báo NCT và Tổng BT Kim Quốc Hoa cùng những nạn nhân trước đó? Trên thực tế, nhiều nhà báo yêu nghề, cố gắng để viết được tin bài chân thực nhưng họ đã bị trừng phạt nặng nề hoặc không tờ báo nào dám đăng bài của họ. Dần dần, trái tim lương thiện của nhà báo bị đóng vào cũi sắt. Đó là ngày chiến thắng của nhà cầm quyền.
Khi trái tim lương thiện của nhà báo bị đóng cũi sắt thì sẽ kéo theo vô số thảm họa khác. Hôm nay là NCT chịu oan ức, nhưng hôm sau sẽ là nhà báo khác và những công dân khác. Trong cái cũi sắt độc tài, nhiều nhà báo và nhà văn cũng phải cam tâm làm những con vẹt sặc sỡ phát lại những lời dối trá từ cái loa tuyên truyền của lề Đảng.
Dẫu sao, vẫn đáng chúc mừng NCT và ông Kim Quốc Hoa, vì dù đang chịu bất công, thậm chí nay mai có người trong số họ bị tù tội nhưng họ đã giữ được nhân phẩm vì đã dám tách khỏi đám vẹt sặc sỡ ấy để kịp làm một số việc hữu ích cho cộng đồng.
*Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA.
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 353
HUỲNH KIM QUANG * NHỮNG ĐỒNG MINH CỦA MỸ
Những Đồng Minh Của Mỹ Bị Bỏ Rơi Tại Miền Nam Việt NamĐọc “A Gift of Barbed Wire” (Tặng Vật Cuộn Dây Thép Gai) của Robert S. McKelvey
Năm nay 2015, đánh dấu 40 năm (1975-2015) ngày Cộng Sản Bắc Việt xâm chiếm Miền Nam. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuộc chiến Việt Nam dù đã kết thúc trên chiến trường bom đạn nhưng những hệ lụy đau thương của nó còn kéo dài cho đến nay!
Trong số những hệ lụy trở thành vết hằn khó xóa trên thân phận nghiệt ngã của người dân Miền Nam là chiến dịch sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 của Cộng Sản đẩy hơn một triệu trí thức, văn nghệ sĩ và quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) vào các trại tù khổ sai mà Cộng Sản gọi một cách mị dân là “trại học tập cải tạo.” Trong những trại tù khổ sai đó, nhiều người đã bị thủ tiêu bí mật, bị xử tử công khai, bị buộc phải làm việc cật lực trong điều kiện đói khát, đau bịnh, không thuốc men, không chăm sóc, bị đối xử bất công và tàn bạo không tình người. Nhiều người đã phải ngồi tù lâu hơn 20 năm. Sau khi được thả ra, hầu hết đều mang thân tật bệnh, suy nhược, quản thúc, theo dõi, thất nghiệp, nghèo đói, và xem như bị đẩy ra ngoài lề xã hội. Trong khi đó, hàng triệu thân nhân, gồm cha mẹ, vợ con của những người tù chính trị này đã phải sống trong hoàn cảnh vô cùng đau khổ bên ngoài trại tù để tranh đấu cho sự sống còn của bản thân và gia đình trong sự bức bách của chính quyền Cộng Sản và sự kỳ thị của xã hội.
Bức tranh toàn cảnh về thân phận bi đát của những người tù chính trị Việt Nam Cộng Hòa dưới chế độ Cộng Sản sau năm 1975 tại Miền Nam đã được nhiều người Việt, gồm những nạn nhân mà cũng là chứng nhân, viết lên trong nhiều thập niên qua. Nhưng số lượng sách bằng tiếng Anh do người Mỹ viết về biến cố này thì vẫn còn quá ít ỏi. Đặc biệt là loại tài liệu nghiên cứu đến nơi đến chốn, chẳng hạn, đến gặp trực tiếp, phỏng vấbiệt là loại tài liệu nghiên cứu đến nơi đến chốn, chẳng hạn, đến gặp trực tiếp, phỏng vấn và nghe chính các nạn nhân cựu tù chính trị VNCH kể lại đầy đủ chi tiết, do người Mỹ viết bằng tiếng Anh thì lại càng hiếm hơn.
Trong số tài liệu hiếm quý đó có tác phẩm “A Gift of Barbed Wire – America’s Allies Abandoned in South Vietnam” [Tặng Vật Cuộn Dây Thép Gai: Những Đồng Minh Của Mỹ Bị Bỏ Rơi Tại Miền Nam Việt Nam] của tác giả Robert S. McKelvey. Sách do Nhà Xuất Bản University of Washington Press ấn hành tại Seattle của Hoa Kỳ và London của Anh Quốc lần đầu vào năm 2002. Sách in bìa cứng, dày trên 260 trang.
Tựa đề tiếng Anh của cuốn sách là dịch từ câu thơ trong bài “Tặng Vật Tỏ Tình” của nhà thơ Trần Dạ Từ sáng tác vào năm 1964 tại Việt Nam:
“Tặng cho em cuộn dây thép gai
Thứ dây leo của thời đại mới.”
(I give you a gift of barbed wire,
Some creeping vine of this new age.)
Ngoài Lời Nói Đầu, Giới Thiệu và Kết Luận, tác phẩm “A Gift of Barbed Wire” của Robert S. McKelvey gồm 2 phần chính: Phần I gồm 4 truyện nói về bản thân của những cựu tù chính trị VNCH; Phần II gồm 10 truyện nói về bản thân những cựu tù chính trị và cha mẹ, vợ con của họ.
Tác giả Robert S. Mckelvey là Đại Úy Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ phục vụ tại Việt Nam từ năm 1969 tới 1970 trong nhiệm vụ sĩ quan Dân Vụ hoạt động tại phía tây bắc thành phố Đà Nẵng, theo ông cho biết trong Lời Nói Đầu của cuốn sách. Ông hiện là giáo sư về môn tâm phân học trẻ em và thanh thiếu niên tại Đại Học Oregon Health and Science University ở Portland. Ông là tác giả của các tác phẩm “The Dust of Life: America’s Children Abandoned in Vietnam” [Bụi Đời: Những Đứa Trẻ Mỹ Bị Bỏ Rơi Tại Việt Nam], và “A Gift of Barbed Wire: America’s Allies Abandoned in South Vietnam” [Tặng Vật Cuộn Dây Thép Gai: Những Đồng Minh Của Mỹ Bị Bỏ Rơi Tại Miền Nam Việt Nam].
Mắt Thấy Tai Nghe
Để viết cuốn sách này, tác giả Robert S. McKelvey đã thực hiện nhiều chuyến đi đến Việt Nam trong thập niên 1980s tiếp xúc trực tiếp và phỏng vấn cũng như chính mắt chứng kiến cuộc sống vất vả khổ cực trăm bề của các cựu tù chính trị VNCH và thân nhân ngay trên mảnh đất quê hương của họ. Trong Lời Nói Đầu của tác phẩm “A Gift of Barbed Wire,” tác giả đã kể sơ về thân thế và sự nghiệp của ông cùng với mối quan hệ của ông với đất nước và người dân Việt.
“Giữa năm 1969 và 1970 tôi phục vụ tại Việt Nam trong nhiệm vụ một đại úy Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Tôi được phân công làm sĩ quan Dân Vụ, chịu trách nhiệm với “việc chiến thắng trái tim và tâm thức” của người Việt Nam trong khu vực hoạt động của chúng tôi ở phía tây bắc của thành phố Đà Nẵng thuộc miền trung Việt Nam. Công việc này đưa tôi vào việc tiếp xúc hàng ngày với thường dân Việt Nam, hầu hết là nông dân, và đã cung cấp cho tôi quan điểm khác về cuộc chiến hơn là trong trường hợp tôi ở trong trung đội bộ binh, một khẩu đội pháo binh, hay một đơn vị không quân. Trong một ý nghĩa nào đó, tôi hành xử chức năng như một binh sĩ tình nguyện Thủy Quân Lục Chiến hơn là một người lính bộ binh, làm cho tôi dễ hiểu và cảm thông với sự đau khổ của những người Việt Nam bị mắc kẹt giữa các lực lượng đánh nhau.
Sau khi rời Việt Nam vào tháng 5 năm 1970 tôi trở về nhà để bắt đầu nghề nghiệp mới của một bác sĩ. Tôi học xong trường y khoa năm 1974 và hoàn tất việc huấn luyện làm một bác sĩ tâm thần và bác sĩ nhi đồng vào năm 1979. Trong những năm bận rộn đó tôi ít suy nghĩ về các kinh nghiệm thời chiến tranh của tôi. Rồi trong thập niên 1980s nhiều cuốn sách, phim ảnh, và thảo luận nhằm khảo sát vai trò của Mỹ trong Chiến Tranh Việt Nam đã đánh thức sự thích thú của tôi, và làm cho tôi nhớ lại, Việt Nam. Tôi bắt đầu tìm kiếm cách trở lại Việt Nam và làm việc với người Việt Nam, lần này như là một bác sĩ tâm thần. Tại Thành Phố Hồ Chí Minh, tại Trung Tâm Chuyển Tiếp Tị Nạn Phi Luật Tân, và tại Hoa Kỳ, tôi nghiên cứu về đời sống của những người Mỹ Á Châu gốc Việt, từ những đứa trẻ sinh ra trong thời chiến tranh tới những người đàn ông Mỹ và phụ nữ Việt Nam.(2) Sau đó tôi nới rộng mục tiêu của mình để bao gồm những trẻ em Việt Nam tại Úc, Hoa Kỳ, và Hà Nội, thủ đô của Việt Nam.”
Cũng trong Lời Nói Đầu của “A Gift of Barbed Wire,” Robert S. McKelvey kể lại về các chuyến đi Việt Nam để sưu tập tài liệu và gặp gỡ phỏng vấn các cựu tù chính trị VNCH và ấn tượng đầu tiên khi chứng kiến tình cảnh bi thương của những cựu tù chính trị.
“Vào năm 1990, thời gian đầu tiên tôi trở lại thăm Việt Nam kể từ lúc phục vụ trong quân đội ở đó, tôi đã mua 2 bức tranh sơn mài.(3) Chúng miêu tả một cách trừu tượng những người đàn bà thanh lịch với mái tóc đen dài phủ xuống chiếc áo dài có hoa màu tím và xanh lá cây, y phục Việt Nam truyền thống. Người bán hàng nói với tôi rằng họa sĩ vẽ bức tranh đó sống gần đây. Tôi quyết định đến thăm ông ấy. Sau khi đi tìm một hay hai giờ đồng hồ qua các đường phố đông đúc và dơ dáy của Thành Phố Hồ Chí Minh, cuối cùng tôi đã tìm ra căn chung cư nhỏ hai tầng vừa là chỗ ở vừa là phòng vẽ tranh của ông ấy. Vợ ông ấy mở cửa và, sau khi xác minh rằng tôi đến đó để xem và có thể mua một vài bức tranh của chồng bà, đã mời tôi vào nhà. Bà ấy đóng vai trò như là người quản trị phòng trưng bày tranh và dẫn tôi đi xem một vòng, giải thích cách những bức tranh được vẽ và miêu tả một số chủ đề của tranh ảnh. Tôi ngưỡng mộ tác phẩm của chồng bà bao nhiêu, nhiều bức tranh mà sau đó tôi đã mua, thì tôi càng bị quyến rũ bởi cặp mắt sâu và đẹp của bà ấy bấy nhiêu. Với tôi cặp mắt ấy có vẻ được đong đầy với nỗi buồn đau vô hạn. Khi hỏi về bối cảnh hội họa của chồng bà, tôi biết được rằng ông ấy đã từng phục vụ là một sĩ quan Lục Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sau chiến thắng năm 1975 của Cộng Sản, chính quyền mới đã bắt bỏ tù ông. Khi tôi hỏi tại sao, bà cho biết rằng đây đã là số phận của nhiều người từng làm việc cho chính quyền cũ. Bà cũng nói vắn tắt về cuộc đời của bà trong thời gian năm năm vắng chồng, mô tả tình cảnh nghèo khổ và bị xã hội cô lập mà bà đã phải chịu đựng và sự chiến đấu sau đó của họ để xây dựng lại cuộc sống sau khi ông được ra tù. Lắng nghe bà kể chuyện tôi bắt đầu hiểu đôi chút về nỗi buồn trong đôi mắt của bà.
Đây là kinh nghiệm đầu tiên của tôi với cựu tù chính trị Việt Nam và gia đình của họ. Tôi đã từng không biết rằng sau khi Sài Gòn sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, hơn một triệu người là cựu đồng minh Nam Việt Nam của chúng ta, trong số hai mươi triệu dân, đã bị đẩy vào các trại học tập cải tạo.(4) Ở đó họ bị bắt buộc đào hào và kênh dẫn nước, trồng trọt, và xây nhà làm đường. Họ được nuôi bằng những khẩu phần chết đói – hai chén cơm, một ít muối, và một chút xíu canh cải mỗi ngày. Vào ban đêm, sau một ngày làm việc cực nhọc, họ bị lên lớp về những lỗi lầm của chính quyền cũ và người Mỹ, về các lý thuyết Mác-Lê, và về những vinh quang của chế độ Cộng Sản mới, được mô tả bởi những cai tù như là “chính quyền tốt nhất thế giới.” Họ cũng bị đòi hỏi phải thú tội về những tội ác quá khứ của họ như là một phần của quá trình học tập cải tạo để lấy cớ là sẽ “chuyển” họ thành “người mới.”(5) Điều đó đã không được tiết lộ với họ cho đến về sau mà những thú tội này tạo thành cơ bản cho những buộc tội thêm nữa để chống lại họ và ngay cả bỏ tù họ lâu hơn.
Cuối cùng được thả từ những trại học tập cải tạo sau khi đã bị bỏ tù từ một tới hơn hai mươi năm, các cựu tù nhân trở về nhà như những người đàn ông chỉ còn da bọc xương. Họ kiệt sức, bệnh tật, và chán ngán sâu sắc chính quyền mới và những ý định thực sự của nó. Có rất ít người, như nhà họa sĩ mà tôi đã gặp, tìm ra được công việc làm đúng với nghề nghiệp mà họ đã từng được đào tạo. Tuy nhiên, hầu hết đã phải sinh sống bằng bất cứ công việc gì mà họ có thể tìm ra, một thứ giai cấp thấp bị khinh khi của những người đàn ông có học thức cao và thông minh với không còn triển vọng cho một tương lai phát đạt tại Việt Nam với chính họ hay với con cháu của họ.
Tôi đã gặp một trong nhiều cựu tù chính trị kém may mắn trong thời gian chuyến thăm Việt Nam sau này. Ông ấy đã từng là một thiếu tá trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nhưng vào lúc tôi gặp ông năm 1993 thì ông là một người đạp xích lô tại Thành Phố Hồ Chí Minh. Công việc của ông là đạp xích lô chở những du khách Tây Phương từ các khách sạn sang trọng quanh khu vực thương mại trung tâm qua những chuyến mua sắm hay tham quan. Trong thời gian thực hiện cuốn phim Pháp Indochine (Đông Dương) ông đã là một phu xích lô cho nữ tài tử điện ảnh Catherine Deneuve. Nếu được hỏi, ông sẽ đưa ra một tờ giấy copy được ép nylon của hình bìa tạp chí Paris Match mà ông đã được chụp trong lúc chở nữ tài tử Deneuve trên chiếc xe xích lô của ông. Ông ấy cùng tuổi tôi, và mỗi ngày khi tôi quan sát cái tướng gầy gò mà phải ráng gân cốt để đẩy chiếc xe nặng chở những du khách Mỹ và Pháp to con qua các con đường đông nghẹt người của thành phố, tôi suy nghĩ về những khác biệt trong số phận của chúng ta.
Trong những năm sau khi họ được thả từ các trại học tập cải tạo hầu hết cựu tù nhân đều quyết định rời Việt Nam. Một số đã vượt biên như thuyền nhân hay đi đường bộ xuyên qua Cam Bốt và Thái Lan, trong khi những người khác thì rời khỏi nước theo Chương Trình Ra Đi Trật Tự (ODP).(6) Đến được Hoa Kỳ thì họ lại đối diện thử thách, đặc biệt khó khăn với người già, về việc thích ứng với một quốc gia với các truyền thống văn hóa khác nhau quá lớn. Họ thường không nói được tiếng Anh nhiều và cũng hay bị kỳ thị chủng tộc, định kiến, và kỳ thị trong việc làm. Không như các cựu chiến binh Việt Nam của chúng ta, có ít người Mỹ biết hay quan tâm đến những câu chuyện của họ. Chẳng có cuốn phim nào nói về cuộc đời họ. Những cuốn sách mà họ đã viết về các kinh nghiệm của họ thì không nằm trong các danh sách bán chạy nhất.(7) Không có phim Miss Saigon để giúp chúng ta hiều sự đau khổ của họ. Ngay cả tài liệu khoa học cũng chỉ viết vài trang trình bày về các vấn đề của họ.(8) Tôi tự hỏi, bằng cách nào họ và những người vợ của họ có thể chịu đựng nhiều thập niên đau khổ kéo dài và lập đi lập lại như thế? Sự đau khổ đó ảnh hưởng đến phát triển nhân cách, sức khỏe tâm thần và triển vọng cuộc sống của họ ra sao? Cái gì còn lại của hy vọng và ước mơ thời trai trẻ của họ? Đây là một số nghi vấn mà tôi tìm kiếm câu trả lời trong tác phẩm này.
Khi tôi bắt đầu tìm hiểu về những cựu tù chính trị của Việt Nam tôi đã biết trước rằng tôi sẽ gặp những người tuyệt vọng và đau khổ đang đau buồn đối với quá khứ và phẫn uất vì tất cả những gì họ đã mất mát. Sau nhiều giờ gặp họ, lắng nghe những trải nghiệm của họ, và rồi suy ngẫm và viết về họ tôi đã, với sự ngạc nhiên của mình, phát giác điều gì đó khác hẳn. Trong khi một vài người trong số mà tôi biết là đau khổ, không có vẻ gì tuyệt vọng, và hầu hết tất cả đều cho thấy khả năng hồi phục rất lớn trên gương mặt của những người dường như bị chấn thương nặng nề.” (Robert S. McKelvey, A Gift of Barbed Wire, University of Washington Press, Seattle and London, 2002, Lời Nói Đầu, trang XI, XII, XIII, XIV)
Đó chỉ là sơ lược về tình cảnh sống của vài cựu tù chính trị VNCH trong số rất nhiều người mà tác giả Robert S. McKelvey đã gặp trong những chuyến đi Việt Nam để chuẩn bị cho cuốn sách này. Phần nội dung dày hơn 260 trang sau đó của cuốn sách mới là những câu chuyện về người thật và việc thật của các cựu tù chính trị VNCH từ lúc gia nhập Quân Lực VNCH chiến đấu bên cạnh đồng minh Mỹ để bảo vệ tự do, dân chủ, cho đến khi Miền Nam sụp đổ, rồi vào tù Cộng Sản sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ra tù, sống lây lất khổ sở, sau cùng đi Mỹ và đối diện những va chạm khắc nghiệt của cuộc sống mới.
Robert S. McKelvey nêu ra 7 trường hợp tiêu biểu cho hàng trăm ngàn cựu tù chính trị VNCH để kể chuyện về họ và thân nhân của họ trong tác phẩm “A Gift of Barbed Wire” gồm, cuộc đời của một bác sĩ, một kỹ sư, một thợ hớt tóc, một gián điệp, một phi công, một thầy giáo, và một chính trị gia. Vì tôn trọng một vài trường hợp mà trong đó người được McKelvey phỏng vấn không muốn nêu danh tánh thực và cũng để giữ sự an toàn cho những người còn lại trong nước, đặc biệt tình hình an ninh khắc nghiệt của người dân tại Việt Nam vào thập niên 1980s, tác giả đã chọn cách không nêu danh tánh thật của tất cả cựu tù chính trị VNCH được kể trong sách này.
Ngày 30 Tháng 4 và Lời Hứa Cuội Của Cộng Sản
Người dân miền Nam, đặc biệt những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, những người còn ở lại Việt Nam và chứng kiến sự kiện miền Nam bị Cộng Sản chiếm, có cảm nghĩ như thế nào trong ngày 30 tháng 4 năm 1975? McKelvey thuật lại lời kể của một cựu phi công Không Quân VNCH tên là Trà kể rằng, “Đó là một ngày kinh hoàng. Chúng tôi mất mọi thứ. Chúng tôi không biết phải làm gì. Một số đơn vị đã chiến đấu đến cùng; những đơn vị khác không tuân lệnh tổng thống Nam Việt Nam [Dương Văn Minh để đầu hàng]. Tôi không biết hàng xóm của tôi là Cộng Sản hay không và không biết họ sẽ làm gì, vì vậy tôi quyết định ở lại với một người bạn ít ngày trước khi về nhà chỉ để thấy điều gì đã xảy ra. Tôi nói với vợ tôi là nơi nào tôi nên ở để vợ tôi không lo ngại. Đêm 30 rất là yên lặng -- thật đáng sợ.” Đêm trước thì có nhiều hỏa tiễn và tiếng nổ, nhưng cái đêm đó thì không có hỏa tiễn. Im lặng đáng sợ bởi vì chúng tôi không biết cái gì xảy ra. Sau hai ngày vợ tôi khuyến khích tôi về nhà. Không có gì xảy ra. Tôi không biết làm gì. Tôi không hiểu phải giúp gia đình tôi bằng cách nào.” (Sách đã dẫn, trang 112)
Bi kịch làm thay đổi cả cuộc đời của các quân cán chính VNCH trong các trại tù lao động khổ sai kéo dài hàng chục năm bắt đầu với lời hứa gian dối của chế độ Cộng Sản về thời gian đi học tập cải tạo từ 3 ngày đến 30 ngày. McKelvey thuật lại lời kể của cựu phi công VNCH Thọ như sau: “Có thông báo [trên đài phát thanh và những cái loa chát chúa] rằng tất cả quân nhân của chế độ cũ đểu phải đi học tập cải tạo. Bạn đựợc cho biết đến văn phòng chính quyền hay trường học và viết lý lịch của bạn, một loại sơ yếu lý lịch. Rồi bạn về nhà và chờ. Sau một tháng có thông báo khác bảo bạn trình diện đi học tập cải tạo. Các sĩ quan, hạ sĩ quan, và những cấp bậc thấp hơn thì được cho biết việc học tập cải tạo của họ sẽ kéo dài 3 ngày và họ có thể về nhà mỗi đêm. Các sĩ quan cấp bậc cao hơn, cấp tá tới tướng, và viên chức chính quyền cao hơn được cho biết việc học tập cải tạo của họ kéo dài lâu hơn và họ phải trình diện tại trường trung học hay đại học gần đó với đầy đủ lương thực và quần áo cho 30 ngày.” (Sđd., trang 112, 113.)
Nhưng rồi hàng trăm ngàn quân cán chính VNCH đã phải ngồi tù lao động khổ sai tới cả chục năm, có người ở tù tới 21 năm, như trường hợp nhà tình báo Sang đã bị bắt ở tù học tập cải tạo từ tháng 3 năm 1975 cho đến năm 1996 mới được thả (Sđd., trang 71).
Những Năm Tháng Trong Tù
Ở tù là một khổ nạn, nhưng ngồi tù Cộng Sản thì lại càng là cực hình khốn khổ không thể tả! Những năm sau 1975 cho đến giữa thập niên 1980s, Việt Nam là một đất nước nghèo đói, lạc hậu và khép kín với thế giới bên ngoài. Vì vậy, chế độ Cộng Sản đã cai trị dân bằng luật rừng, đặc biệt là chế độ đối với các tù chính trị. Các cựu tù chính trị VNCH phải tự xây cất nhà tù để giam cầm chính họ, tự canh tác hoa màu đủ thứ và sung túc nhưng lại bị buộc sống chết đói, và gánh chịu bao nhiêu tàn ác, dã man của chế độ tù Cộng Sản.
Nói về việc ăn uống trong tù McKelvey thuật lời kể của cựu phi công VNCH Thọ như sau: “Trong thời gian năm đầu tại miền Nam chúng tôi ăn cơm độn bo bo. Đó không phải là bo bo bình thường, mà chỉ là loại thô cũ. Chúng tôi cố nấu cho mềm, nhưng nó không ngon chút nào. Qua năm thứ hai tại miền Bắc chúng tôi ăn cơm độn với bắp. Năm thứ ba chúng tôi có sắn khô và đôi khi ăn cơm vào những lễ lớn như Tết. Năm 1978 và 1979 là tệ nhất. Thiếu thực phẩm trên cả nước và nhiều người chết. Vì thiếu thực phẩm họ bắt đầu để gia đình đến thăm nuôi chúng tôi tại các trại tù để họ có thể bổ sung khẩu phần ăn của chúng tôi. Các thân nhân đã mang cho tù gạo, lương khô, và thuốc men.” (Sđd., trang 117)
Ở trong tù, các cựu tù chính trị VNCH không những làm việc cực nhọc, ăn uống thiếu thốn khổ sở mà còn bị đánh đập, hành hạ, và thậm chí giết chết. McKelvey ghi lại lời của cựu phi công Thọ như sau: “Họ nhốt tù trong “chuồng cọp” [một hộp thiết nhỏ giống như cái thùng chở hàng hóa], để nó ra giữa trời dưới ánh nắng mặt trời, và chỉ cho tù một chút thức ăn – 2 ca nước và một tô sắn 2 lần một ngày. Hay họ còng tù vào tường ở cổ tay và mắt cá. Thật là không thoải mái chút nào!” (Sđd., trang 116)
Cựu phi công Thọ còn chứng kiến 2 lần Cộng Sản giết tù chính trị VNCH. McKelvey thuật lại lời Thọ như sau:“Hai lần. Lần thứ nhất là lúc ở trong Nam tại Biên Hòa. Một ông cố trốn trại ban đêm nhưng bị bắt. Ngày hôm sau họ đã xử tội ông. Họ buộc chúng tôi phải nghe phiên xử qua tiếng loa bự. Một giờ sau chấm dứt họ bắn chết ông ấy. Lần thứ hai lúc đã ra Bắc. Ba hay bốn người trốn trại. Sau vài ngày họ bị bắt lại và bị mang trở về trại. Họ đánh một trong những người đó tới chết. Những người khác thì bị đưa đi trại khác.” (Sđd., trang 116)
McKelvey thuật lại lời của cựu tù chính trị là nhà chính trị VNCH tên Hung (tác giả không đánh dấu) kể rằng,“Tôi hỏi có người nào chết trong tù không. “Nhiều! Đói khát và làm việc nặng nhọc làm cho nhiều người bị bệnh. Rất dễ chết. Không phải là tình trạng tinh thần hay cá tính của người tù. Chỉ là không có đủ để ăn và không có thuốc men.” (Sđd., trang 187)
Cựu tù chính trị VNCH là nhà chính trị Hung còn kể chuyện Cộng Sản cực kỳ hung ác hơn nữa với tù chính trị VNCH. Mckelvey thuật lại lời kể của Hung rằng, “Lúc đó chúng tôi ở trại không xa biên giới Cam Bốt. Đó là thời gian Chiến Tranh Việt-Miên. Việt Cộng đặt mìn Claymore [mìn chống cá nhân] chung quanh trại tù. Chúng tôi nghĩ là họ bảo vệ chúng tôi, nhưng họ nhắm mục tiêu mìn Claymore vào chúng tôi! Họ cho biết rằng nếu Cam Bốt tấn công, họ sẽ giết chúng tôi trước bởi vì chúng tôi cũng là kẻ thù của họ.” (Sđd., trang 208, 209)
Sự bức bách và tàn ác của chế độ tù Cộng Sản đã khiến cho người tù chính trị VNCH có lúc không thể im lặng chịu đựng và đứng lên chống lại. McKelvey thuật lại lời kể của một cựu tình báo VNCH là cựu tù chính trị tên Sang về tình trạng nghiêm trọng tại trại tù Hàm Tân vào những năm từ 1976 đến 1980, như sau: “Một ngày kia chúng tôi đi ra ngoài lao động trong một nhóm 40 người tù với một cai tù và 2 người lính. 12 người chúng tôi khống chế cai tù và lấy vũ khí của họ. Chúng tôi có 2 khẩu súng M-16 và một khẩu K-54. Chúng tôi vào rừng đế đến mật khu của những nhóm chống chính quyền đã xây dựng căn cứ cho chúng tôi. Cộng Sản phái 2 trung đoàn lính tới và công an tủa ra 2 tỉnh, Thuận Hải và Đồng Nai, để tìm chúng tôi. Sau 6 ngày tôi bị bắt đầu tiên. 4 ngày sau 9 người khác bị bắt và 2 người bị bắn chết.” (Sđd., trang 85)
Hoàn Cảnh Vợ Con Người Tù Chính Trị VNCH
Các quân cán chính VNCH bị Cộng Sản bắt đi tù học tập cải tạo tất nhiên là chịu rất nhiều thống khổ và đau thương trong những nhà tù nhỏ, nhưng vợ con và thân nhân của họ ở bên ngoài cũng không khác gì một nhà tù lớn với vô vàn gian nan, khổ cực và tủi nhục. Họ vừa phải gánh vác trách nhiệm thế cha và làm mẹ nuôi dạy con cái và buôn bán tảo tần, vừa phải đối mặt với những áp bức của chế độ Cộng Sản và sự kỳ thị của xã hội.
Tác giả Robert S. Mckelvey đã trực tiếp phỏng vấn và ghi lại nhiều trường hợp rất thương tâm của những người vợ con của cựu tù chính trị VNCH. McKelvey thuật lại lời của người vợ của một chính trị gia tên Hung là bà Tho (tác giả cũng không bỏ dấu) kể tình cảnh gia đình sau khi chồng bị bắt đi học tập cải tạo như sau: “Sau khi ông nhà tôi đi tù tôi phải chăm sóc 7 đứa con của chúng tôi và tiệm chụp hình. Cửa tiệm làm ăn không khá. Chồng tôi là người chính yếu gánh vác việc ấy trước đây, và sau khi ông ấy đi không ai trong chúng tôi biết làm sao để tiếp tục điều hành. Người ta cũng sợ không dám ủng hộ cửa tiệm bởi vì chồng tôi là người đi tù học tập cải tạo. Ngay cả những thân nhân của chúng tôi và người bạn thân nhất của chồng tôi cũng tránh xa. Nó giống như là chúng tôi mắc bịnh nguy hiểm, một thứ bệnh lây nhiễm, và người ta sợ chúng có thể lây lan họ. Họ không muốn dính dáng tới và vướng vào phiền phức với chính quyền.” (Sđd., trang 196)
Những người vợ con cựu tù chính trị VNCH còn phải bị bắt học tập cải tạo tại địa phương. Bà Tho kể với McKelvey rằng, “Mỗi tháng tất cả những bà vợ của những người đàn ông bị tù học tập cải tạo bị đòi hỏi phải đến họp. Mục đích là để cải tạo chúng tôi tại nhà. Họ bảo chúng tôi không được buôn bán và tận dụng lợi thế của người dân. Thực tế họ muốn chúng tôi ở nhà và làm ruộng.” (Sđd., trang 197)
Những người vợ cựu tù chính trị VNCH khóc hết nước mắt hàng đêm vì hoàn cảnh bế tắc và vì Cộng Sản áp bức người quá đáng. Bà Tho kể với McKelvey rằng, “Mỗi đêm tôi đợi mấy đứa con đi ngủ và không thể nghe được, thì tôi khóc bởi vì chúng tôi không có đủ tiền cho tôi đi thăm nuôi chồng tôi. Một ngày sau khi chồng tôi đi tù những người từ chính quyền đến và liệt kê mọi thứ chúng tôi có. Họ lấy một số đồ đạc như máy truyền hình và quần áo của thằng con trai đi lính của chúng tôi. Họ nói rằng đó là “tài sản của nhân dân.” Khi chồng tôi là người chủ gia đình đi rồi, tôi đã bán những gì chúng tôi có để nuôi gia đình. Tôi bán nồi và chảo trước nhà. Ngay cả vậy mà cũng không có gì nhiều để ăn. Thịt và cá thì hiếm khi có. Chúng tôi trộn cà chua với cơm chỉ để làm đầy bao tử.” (Sđd., trang 197)
Điều cực kỳ bất công mà Cộng Sản đã làm với những gia đình cựu tù chính trị VNCH là không cho con cái họ đi học. McKelvey thuật lại lời bà Tho kể rằng, “Thực tế con cái không được phép đi học bởi vì địa vị của cha chúng nó trong chính quyền cũ. Chẳng hạn, con gái của tôi học rất giỏi ở trung học. Sau khi tốt nghiệp cháu muốn vào đại học. Ở đó có danh sách ưu tiên để quyết định ai được nhận. Nếu gia đình bạn là Cộng Sản, bạn đứng đầu danh sách. Nếu họ làm việc cho chính quyền cũ, thì bạn đứng đội sổ. Bởi vì cha và anh của cháu đều đi tù học tập cải tạo, nên cháu đã không được nhận.” (Sđd., trang 198)
Ra Tù, Về Nhà, Đi Vượt Biên
Ra khỏi những nhà tù nhỏ là các trại tù học tập cải tạo, các cựu tù chính trị VNCH tường có thể bước qua được khúc quanh nghiệt ngã này để bắt đầu làm lại cuộc đời. Nhưng, không, họ chỉ mới bước chân vào cái nhà tù lớn của xã hội Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản với vô số khổ sở và trớ trêu khác đang chờ chực.
Đúng vậy, như lời kể của một cựu kỹ sư và thầy giáo thời VNCH đi tù học tập cải tạo về mà McKelvey thuật lại như sau: “Ngày đầu về nhà tôi lo sợ về an ninh. Tôi phải đem giấy chứng nhận ra tù học tập cải tạo đến văn phòng an ninh phường, văn phòng hành chánh phường, và ty an ninh tỉnh để ký xác nhận. Trong tháng đầu sau khi tôi về nhà tôi cũng phải có mặt ở những buổi họp trong xóm mỗi đêm. Chúng giống y chang những buổi họp trong trại tù. Tôi phải đứng dậy và thú tội trước 15, 20 người láng giềng của tôi đang có mặt trong buổi họp. Mỗi lần như thế tôi đều phải bắt đầu bằng câu, “Tôi biết ơn Cộng Sản.” Sau một tháng như vậy tôi mới nhận được giấy nói rằng tôi đã trở lại làm công dân Việt Nam. Rất là quan trọng để tờ giấy đó được ký chứng nhận bởi công an địa phương. Nếu bạn phạm trọng tội, thì họ sẽ lấy lại [giấy tờ và quyền công dân của bạn].” (Sđd., trang 47)
Một cựu tù chính trị VNCH khác là cựu đại tá và chỉ huy Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn tên Bích kể cho McKelvey nghe ngày từ trại tù trở về nhà như sau: “Hơi là lạ. Ban đầu, mấy đứa con không nhận ra tôi bởi vì tôi rất ốm. Tôi đi lại khó khăn bởi vì vấn đề dinh dưỡng. Tôi rất yếu. Tất cả trừ đứa con trai út của tôi đều đã đi thăm nuôi tôi ở ngoài Bắc với vợ tôi. Trải qua 2 năm đầu chúng tôi không được phép nhận thư từ gia đình, và qua 3 năm đầu chúng tôi không được thăm nuôi. Sau đó họ có thể thăm nuôi mỗi 6 tháng, nhưng vợ tôi không có tiền để đi thăm nuôi tôi đều như thế. Bà chỉ đi thăm tôi mỗi năm 1 lần hay 2 năm một lần.” (Sđd., trang 65)
Còn cựu tù chính trị VNCH là nhà tình báo Sang thì kể như sau, theo McKelvey, “Khi tôi trở về nhà một số người sợ tôi và không muốn liên hệ với tôi. Những người khác thì thông cảm, nhưng tôi không muốn họ gặp rắc rối vì tôi gần gũi với họ, do đó tôi sống rất cô độc. Sauk hi trở về nhà nhiều cựu tù chính trị sống cô độc. Nhiều bà vợ bỏ họ trong lúc họ còn trong tù. Nhiều người khác về nhà bị rồi loạn thần kinh mà một thời gian ngắn sau đó họ đã ly dị. Hầu hết họ đều không có việc làm. Những nào người ở tù nhiều năm có con lớn lên và khó hiểu biết chúng. Những đức con độc lập, và không có sự gần gũi giữa chúng và người cha đi tù. Khi những cựu tù ly di với các bà vợ thì những đứa con cảm thấy vô vọng.” (Sđd., trang 95)
Giáp mặt với cuộc sống khó khăn mọi mặt ở nhà như thế, nhiều cựu tù chính trị VNCH đã tìm đường vượt biên.
Nhà tình báo Sang kể tiếp cho McKelvey nghe, “Hầu hết mọi người tù trong các trại tù cải tạo đều hy vọng trở thành những người tị nạn tại một quốc gia khác.” (Sđd., trang 95)
Cựu tù chính trị VNCH nguyên là phi công tên Tra (tác giả không bỏ dấu) kể về chuyện vượt biên của ông cho McKelvey nghe rằng, “Tôi cố vượt biên bằng thuyền nhiều lần, nhưng đều bị gạt, họ bỏ tôi ở lại. Lần cuối cùng tôi cố vượt biên với mấy người bạn và tôi mua thuyền. Kế hoạch là chúng tôi phải neo thuyền ngoài khơi. Chúng tôi đi ra thuyền đó bằng ghe nhỏ. Nhưng người lái ghe nhỏ của tôi đã bị lạc, và tôi không bao giờ thực hiện được việc đó. 2 người bạn khác của tôi thì đã thành công lái tàu tới Mã Lai Á.” (Sđd., trang 120)
Qua Mỹ Và Những Khó Khăn Của Cuộc Sống Mới
Ra khỏi Việt Nam đối với các cựu tù chính trị VNCH là một nhu cầu để được sống tự dọ và hạnh phúc, nhất là qua Mỹ. Nhưng trước khi tới Mỹ, không một cựu tù chính trị VNCH nào hình dung ra được những hoàn cảnh thế nào mà họ sẽ phải đối diện mỗi ngày. Vì thế, qua Mỹ là một trong những bước ngoặc lớn trong cuộc đời của một cựu tù chính trị VNCH.
Chúng ta hãy nghe lại lời kể của cựu phi công Tra về những khó khăn nào mà ông gặp phải khi qua Mỹ, “Chúng tôi có nhiều khó khan. Đôi khi tôi nghĩ chúng tôi không tạo nên nó. Sau khi chúng tôi gặp lại nhau vài năm thì bà [vợ] nói với tôi, “Anh biết đó, chúng ta vẫn còn đang thích nghi. Vẫn còn khoảng cách giữa chúng ta.l” Tại Việt Nam, là người chồng, tôi chăm sóc mọi thứ. Ở đây tôi không có gì, không việc làm và không tiền bạc. Bà ấy cho tôi mọi thứ. Tôi cảm thấy bị coi thường. Bà ấy nói rằng, “Hãy ở nhà và nghỉ ngơi.” Tôi nói, “Không, tôi muốn đi làm ngay nếu được.” Vì thế bà đi và bảo với người quản trị của hãng xưởng nơi bà ấy làm việc. Ông ấy cho tôi một việc làm lắp ráp điện tử vào năm 1991, và từ đó tôi làm việc ở đó tới nay.” (Sđd., trang 121)
Trường hợp của bà Oanh là vợ của cựu phi công Tra là một điển hình của những người vợ cựu tù chính trị VNCH đã đến Mỹ trước và phải đấu tranh sinh tồn rất khổ cực để vừa nuôi con vừa nuôi chồng trong một đất nước hoàn toàn xa lại. Bà Oanh kể với McKelvey như sau: “Tôi không biết mặt mũi của tôi ra sao trong thời gian đó. Tôi rất bận rộn đến nỗi không có thì giờ để soi gương. Điều duy nhất mà tôi nghĩ về là kiếm tiền. Tôi có việc làm trong khâu dây chuyền lắp ráp. Tôi chỉ kiếm được 3.25 đô la một giờ, và vì vậy tôi tới sở xã hội để xin giúp đỡ. Người phụ nữ ở đó cũng là một người Việt. Bà ấy rất khinh khỉnh. Bà nói rằng, “Bạn kiếm được 3.25 đô la một giờ, vậy mà bạn vẫn còn đi xin giúp đỡ hà? Tiền nhà của cô chắc là quá cao. Tại sao bạn không dời tới [một chương trình trợ cấp nhà ở rõ rang mà nơi đó có nhiều người tị nạn Việt Nam mới tới ở]? Tôi rất giận. Tôi không biết phải nói gì. Tôi chỉ khóc và bỏ đi.” (Sđd., trang 127)
Còn một khó khăn khác mà nhiều cựu tù chính trị VNCH khi qua Mỹ gặp phải đó là sự cách biệt giữa cha mẹ và con cái lớn lên bên này đã trở thành xung đột khó giải kết trong gia đình. Tác giả Robert S. McKelvey nêu ra trường hợp con cái trong gia đình của cựu phi công là cựu tù chính trị VNCH qua lời kể của người con gái tên Phuong (tác giả không đánh dầu), như sau: “Tôi nhớ căng thẳng giữa ba tôi và người em gái của tôi. Lúc đó em gái út của tôi và tôi ở nhà và 2 đứa em gái khác ở đại học. Tôi không nhớ căng thẳng nhiều tới mức nào giữa ba tôi và tôi, nhưng ba tôi bị bực mình với em gái út của tôi bởi vì nó quá bướng bỉnh. Họ không hạp nhau. Ba tôi thì rất truyền thống và đối xử với con cái theo cách ở Việt Nam. Em gái út tôi là con gái Mỹ. Nó nói những gì nó suy nghĩ và hành động độc lập. Ông còn nhớ sự kiện ba mẹ tôi kể cho ông nghe về việc em gái tôi lái xe lui ra quá nhanh? Ba tôi nói rằng, “Tôi rất giận đứa con gái đó.” Tại Việt Nam bạn không thể hành động như vậy, ngay dù bạn đang giận dữ. Bây giờ em gái tôi cho rằng, “Ba không thích em – Em là đồ rác.” (Sđd., trang 139)
Kết Luận
Ông Quyet (tác giả không đánh dấu) là một học giả có bằng thạc sĩ tại Hoa Kỳ và dạy tiếng Anh tại Học Viện Quân Sự Quốc Gia Việt Nam (VNCH) trước năm 1975. Sau năm 1975 Quyet đi tù học tập cải tạo. Quyet đã trình bày bằng văn bản ba điều với McKelvey về quan điểm của ông đối với chế độ Cộng Sản Việt Nam. Trong đó ông chỉ trích chính sách tàn ác của Cộng Sản đối với dân quân miền Nam và cho rằng chính quyền CSVN còn nợ người dân miền Nam lời xin lỗi.
Điều thứ ba của văn bản của Quyet viết rằng, “Thứ ba, các anh [Cộng Sản] lớn tiếng kêu gọi mọi người “tha thứ và quên đi.” Hãy để tôi nói rõ rằng chúng tôi đã không, và đang không, mắc nợ các anh bất cứ điều gì [đối với những gì chúng tôi đã làm]. Hầu hết chúng tôi chiến đấu dũng cảm đơn giản là để tự bảo vệ. Không có gì sai với điều đó cả. Khi chiến tranh chấm dứt quá khứ nên để lại sau. Chúng tôi có thể đã là bạn bè của các anh và cùng nhau làm việc với các anh để xây dựng đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta, nhưng các anh đã chọn ôm giữ ác cảm chống lại chúng tôi và đối xử với chúng tôi tồi tệ hơn với thú vật. Các anh mới chính là người nợ chúng tôi một lời xin lỗi [cho điều đó] và đặc biệt đối với việc [các anh] làm ô nhiễm nơi an nghỉ thiêng liêng của những chiến sĩ đã nằm xuống của chúng tôi.” (Sđd., trang 168)
Trong phần kết luận cuốn sách, tác giả Robert S. McKelvey rút ra 5 nhận định từ những kinh nghiệm và bài học của chiến tranh Việt Nam, của các cựu tù chính trị VNCH mà người Mỹ và chính quyền Mỹ cần đặc biệt quan tâm. Một, nạn nhân của chiến tranh là những con người nhạy cảm, tế nhị và dễ bị tổn thương nên, người Mỹ cần đối xử công bằng với các đồng minh của mình. Hai, sự đau khổ của các nạn nhân chiến tranh không chấm dứt sau khi ký hiệp định hòa bình và rút quân [Mỹ] về nước. Do vậy, việc điều trị vết thương chiến tranh cần thời gian dài sau đó. Ba, Hoa Kỳ cần cẩn thận cách can thiệp trên thế giới, mà cụ thể là cần lắng nghe nguyện vọng của các đồng minh. Bốn, Hoa Kỳ cần có trách nhiệm với các đồng minh hay quốc gia mà mình can thiệp bằng chiến tranh. Và năm, người Mỹ cần nhận thức rõ là họ chiến tranh vì cái gì. Nên nhớ, chuyện mở cuộc chiến tranh không giống như chuyện trong phim, vì nó sẽ để lại nhiều đau khổ cho vô số người trong nhiều thập niên sau đó.
Dù cuốn “A Gift of Barbed Wire” đã được xuất bản cách nay 13 năm, nhưng những điều mà tác phẩm này nói đến vẫn còn là các bài học giá trị mà các chính quyền tại Việt Nam và Hoa Kỳ cần phải học lại kỹ lưỡng để tránh gây đau thương cho cả một dân tộc. Đối với người Việt trong và ngoài nước, tác phẩm này chắc chắn là một kho tàng ký ức sâu đậm của một thời lịch sử không thể quên. Khi có dịp gợi lại thì thấy rằng nó vẫn còn nguyên ở đó.
Xin cám ơn tác giả Robert S. McKelvey.
Huỳnh Kim Quang
Khi tôi bắt đầu tìm hiểu về những cựu tù chính trị của Việt Nam tôi đã biết trước rằng tôi sẽ gặp những người tuyệt vọng và đau khổ đang đau buồn đối với quá khứ và phẫn uất vì tất cả những gì họ đã mất mát. Sau nhiều giờ gặp họ, lắng nghe những trải nghiệm của họ, và rồi suy ngẫm và viết về họ tôi đã, với sự ngạc nhiên của mình, phát giác điều gì đó khác hẳn. Trong khi một vài người trong số mà tôi biết là đau khổ, không có vẻ gì tuyệt vọng, và hầu hết tất cả đều cho thấy khả năng hồi phục rất lớn trên gương mặt của những người dường như bị chấn thương nặng nề.” (Robert S. McKelvey, A Gift of Barbed Wire, University of Washington Press, Seattle and London, 2002, Lời Nói Đầu, trang XI, XII, XIII, XIV)
Đó chỉ là sơ lược về tình cảnh sống của vài cựu tù chính trị VNCH trong số rất nhiều người mà tác giả Robert S. McKelvey đã gặp trong những chuyến đi Việt Nam để chuẩn bị cho cuốn sách này. Phần nội dung dày hơn 260 trang sau đó của cuốn sách mới là những câu chuyện về người thật và việc thật của các cựu tù chính trị VNCH từ lúc gia nhập Quân Lực VNCH chiến đấu bên cạnh đồng minh Mỹ để bảo vệ tự do, dân chủ, cho đến khi Miền Nam sụp đổ, rồi vào tù Cộng Sản sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ra tù, sống lây lất khổ sở, sau cùng đi Mỹ và đối diện những va chạm khắc nghiệt của cuộc sống mới.
Robert S. McKelvey nêu ra 7 trường hợp tiêu biểu cho hàng trăm ngàn cựu tù chính trị VNCH để kể chuyện về họ và thân nhân của họ trong tác phẩm “A Gift of Barbed Wire” gồm, cuộc đời của một bác sĩ, một kỹ sư, một thợ hớt tóc, một gián điệp, một phi công, một thầy giáo, và một chính trị gia. Vì tôn trọng một vài trường hợp mà trong đó người được McKelvey phỏng vấn không muốn nêu danh tánh thực và cũng để giữ sự an toàn cho những người còn lại trong nước, đặc biệt tình hình an ninh khắc nghiệt của người dân tại Việt Nam vào thập niên 1980s, tác giả đã chọn cách không nêu danh tánh thật của tất cả cựu tù chính trị VNCH được kể trong sách này.
Ngày 30 Tháng 4 và Lời Hứa Cuội Của Cộng Sản
Người dân miền Nam, đặc biệt những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, những người còn ở lại Việt Nam và chứng kiến sự kiện miền Nam bị Cộng Sản chiếm, có cảm nghĩ như thế nào trong ngày 30 tháng 4 năm 1975? McKelvey thuật lại lời kể của một cựu phi công Không Quân VNCH tên là Trà kể rằng, “Đó là một ngày kinh hoàng. Chúng tôi mất mọi thứ. Chúng tôi không biết phải làm gì. Một số đơn vị đã chiến đấu đến cùng; những đơn vị khác không tuân lệnh tổng thống Nam Việt Nam [Dương Văn Minh để đầu hàng]. Tôi không biết hàng xóm của tôi là Cộng Sản hay không và không biết họ sẽ làm gì, vì vậy tôi quyết định ở lại với một người bạn ít ngày trước khi về nhà chỉ để thấy điều gì đã xảy ra. Tôi nói với vợ tôi là nơi nào tôi nên ở để vợ tôi không lo ngại. Đêm 30 rất là yên lặng -- thật đáng sợ.” Đêm trước thì có nhiều hỏa tiễn và tiếng nổ, nhưng cái đêm đó thì không có hỏa tiễn. Im lặng đáng sợ bởi vì chúng tôi không biết cái gì xảy ra. Sau hai ngày vợ tôi khuyến khích tôi về nhà. Không có gì xảy ra. Tôi không biết làm gì. Tôi không hiểu phải giúp gia đình tôi bằng cách nào.” (Sách đã dẫn, trang 112)
Bi kịch làm thay đổi cả cuộc đời của các quân cán chính VNCH trong các trại tù lao động khổ sai kéo dài hàng chục năm bắt đầu với lời hứa gian dối của chế độ Cộng Sản về thời gian đi học tập cải tạo từ 3 ngày đến 30 ngày. McKelvey thuật lại lời kể của cựu phi công VNCH Thọ như sau: “Có thông báo [trên đài phát thanh và những cái loa chát chúa] rằng tất cả quân nhân của chế độ cũ đểu phải đi học tập cải tạo. Bạn đựợc cho biết đến văn phòng chính quyền hay trường học và viết lý lịch của bạn, một loại sơ yếu lý lịch. Rồi bạn về nhà và chờ. Sau một tháng có thông báo khác bảo bạn trình diện đi học tập cải tạo. Các sĩ quan, hạ sĩ quan, và những cấp bậc thấp hơn thì được cho biết việc học tập cải tạo của họ sẽ kéo dài 3 ngày và họ có thể về nhà mỗi đêm. Các sĩ quan cấp bậc cao hơn, cấp tá tới tướng, và viên chức chính quyền cao hơn được cho biết việc học tập cải tạo của họ kéo dài lâu hơn và họ phải trình diện tại trường trung học hay đại học gần đó với đầy đủ lương thực và quần áo cho 30 ngày.” (Sđd., trang 112, 113.)
Nhưng rồi hàng trăm ngàn quân cán chính VNCH đã phải ngồi tù lao động khổ sai tới cả chục năm, có người ở tù tới 21 năm, như trường hợp nhà tình báo Sang đã bị bắt ở tù học tập cải tạo từ tháng 3 năm 1975 cho đến năm 1996 mới được thả (Sđd., trang 71).
Những Năm Tháng Trong Tù
Ở tù là một khổ nạn, nhưng ngồi tù Cộng Sản thì lại càng là cực hình khốn khổ không thể tả! Những năm sau 1975 cho đến giữa thập niên 1980s, Việt Nam là một đất nước nghèo đói, lạc hậu và khép kín với thế giới bên ngoài. Vì vậy, chế độ Cộng Sản đã cai trị dân bằng luật rừng, đặc biệt là chế độ đối với các tù chính trị. Các cựu tù chính trị VNCH phải tự xây cất nhà tù để giam cầm chính họ, tự canh tác hoa màu đủ thứ và sung túc nhưng lại bị buộc sống chết đói, và gánh chịu bao nhiêu tàn ác, dã man của chế độ tù Cộng Sản.
Nói về việc ăn uống trong tù McKelvey thuật lời kể của cựu phi công VNCH Thọ như sau: “Trong thời gian năm đầu tại miền Nam chúng tôi ăn cơm độn bo bo. Đó không phải là bo bo bình thường, mà chỉ là loại thô cũ. Chúng tôi cố nấu cho mềm, nhưng nó không ngon chút nào. Qua năm thứ hai tại miền Bắc chúng tôi ăn cơm độn với bắp. Năm thứ ba chúng tôi có sắn khô và đôi khi ăn cơm vào những lễ lớn như Tết. Năm 1978 và 1979 là tệ nhất. Thiếu thực phẩm trên cả nước và nhiều người chết. Vì thiếu thực phẩm họ bắt đầu để gia đình đến thăm nuôi chúng tôi tại các trại tù để họ có thể bổ sung khẩu phần ăn của chúng tôi. Các thân nhân đã mang cho tù gạo, lương khô, và thuốc men.” (Sđd., trang 117)
Ở trong tù, các cựu tù chính trị VNCH không những làm việc cực nhọc, ăn uống thiếu thốn khổ sở mà còn bị đánh đập, hành hạ, và thậm chí giết chết. McKelvey ghi lại lời của cựu phi công Thọ như sau: “Họ nhốt tù trong “chuồng cọp” [một hộp thiết nhỏ giống như cái thùng chở hàng hóa], để nó ra giữa trời dưới ánh nắng mặt trời, và chỉ cho tù một chút thức ăn – 2 ca nước và một tô sắn 2 lần một ngày. Hay họ còng tù vào tường ở cổ tay và mắt cá. Thật là không thoải mái chút nào!” (Sđd., trang 116)
Cựu phi công Thọ còn chứng kiến 2 lần Cộng Sản giết tù chính trị VNCH. McKelvey thuật lại lời Thọ như sau:“Hai lần. Lần thứ nhất là lúc ở trong Nam tại Biên Hòa. Một ông cố trốn trại ban đêm nhưng bị bắt. Ngày hôm sau họ đã xử tội ông. Họ buộc chúng tôi phải nghe phiên xử qua tiếng loa bự. Một giờ sau chấm dứt họ bắn chết ông ấy. Lần thứ hai lúc đã ra Bắc. Ba hay bốn người trốn trại. Sau vài ngày họ bị bắt lại và bị mang trở về trại. Họ đánh một trong những người đó tới chết. Những người khác thì bị đưa đi trại khác.” (Sđd., trang 116)
McKelvey thuật lại lời của cựu tù chính trị là nhà chính trị VNCH tên Hung (tác giả không đánh dấu) kể rằng,“Tôi hỏi có người nào chết trong tù không. “Nhiều! Đói khát và làm việc nặng nhọc làm cho nhiều người bị bệnh. Rất dễ chết. Không phải là tình trạng tinh thần hay cá tính của người tù. Chỉ là không có đủ để ăn và không có thuốc men.” (Sđd., trang 187)
Cựu tù chính trị VNCH là nhà chính trị Hung còn kể chuyện Cộng Sản cực kỳ hung ác hơn nữa với tù chính trị VNCH. Mckelvey thuật lại lời kể của Hung rằng, “Lúc đó chúng tôi ở trại không xa biên giới Cam Bốt. Đó là thời gian Chiến Tranh Việt-Miên. Việt Cộng đặt mìn Claymore [mìn chống cá nhân] chung quanh trại tù. Chúng tôi nghĩ là họ bảo vệ chúng tôi, nhưng họ nhắm mục tiêu mìn Claymore vào chúng tôi! Họ cho biết rằng nếu Cam Bốt tấn công, họ sẽ giết chúng tôi trước bởi vì chúng tôi cũng là kẻ thù của họ.” (Sđd., trang 208, 209)
Sự bức bách và tàn ác của chế độ tù Cộng Sản đã khiến cho người tù chính trị VNCH có lúc không thể im lặng chịu đựng và đứng lên chống lại. McKelvey thuật lại lời kể của một cựu tình báo VNCH là cựu tù chính trị tên Sang về tình trạng nghiêm trọng tại trại tù Hàm Tân vào những năm từ 1976 đến 1980, như sau: “Một ngày kia chúng tôi đi ra ngoài lao động trong một nhóm 40 người tù với một cai tù và 2 người lính. 12 người chúng tôi khống chế cai tù và lấy vũ khí của họ. Chúng tôi có 2 khẩu súng M-16 và một khẩu K-54. Chúng tôi vào rừng đế đến mật khu của những nhóm chống chính quyền đã xây dựng căn cứ cho chúng tôi. Cộng Sản phái 2 trung đoàn lính tới và công an tủa ra 2 tỉnh, Thuận Hải và Đồng Nai, để tìm chúng tôi. Sau 6 ngày tôi bị bắt đầu tiên. 4 ngày sau 9 người khác bị bắt và 2 người bị bắn chết.” (Sđd., trang 85)
Hoàn Cảnh Vợ Con Người Tù Chính Trị VNCH
Các quân cán chính VNCH bị Cộng Sản bắt đi tù học tập cải tạo tất nhiên là chịu rất nhiều thống khổ và đau thương trong những nhà tù nhỏ, nhưng vợ con và thân nhân của họ ở bên ngoài cũng không khác gì một nhà tù lớn với vô vàn gian nan, khổ cực và tủi nhục. Họ vừa phải gánh vác trách nhiệm thế cha và làm mẹ nuôi dạy con cái và buôn bán tảo tần, vừa phải đối mặt với những áp bức của chế độ Cộng Sản và sự kỳ thị của xã hội.
Tác giả Robert S. Mckelvey đã trực tiếp phỏng vấn và ghi lại nhiều trường hợp rất thương tâm của những người vợ con của cựu tù chính trị VNCH. McKelvey thuật lại lời của người vợ của một chính trị gia tên Hung là bà Tho (tác giả cũng không bỏ dấu) kể tình cảnh gia đình sau khi chồng bị bắt đi học tập cải tạo như sau: “Sau khi ông nhà tôi đi tù tôi phải chăm sóc 7 đứa con của chúng tôi và tiệm chụp hình. Cửa tiệm làm ăn không khá. Chồng tôi là người chính yếu gánh vác việc ấy trước đây, và sau khi ông ấy đi không ai trong chúng tôi biết làm sao để tiếp tục điều hành. Người ta cũng sợ không dám ủng hộ cửa tiệm bởi vì chồng tôi là người đi tù học tập cải tạo. Ngay cả những thân nhân của chúng tôi và người bạn thân nhất của chồng tôi cũng tránh xa. Nó giống như là chúng tôi mắc bịnh nguy hiểm, một thứ bệnh lây nhiễm, và người ta sợ chúng có thể lây lan họ. Họ không muốn dính dáng tới và vướng vào phiền phức với chính quyền.” (Sđd., trang 196)
Những người vợ con cựu tù chính trị VNCH còn phải bị bắt học tập cải tạo tại địa phương. Bà Tho kể với McKelvey rằng, “Mỗi tháng tất cả những bà vợ của những người đàn ông bị tù học tập cải tạo bị đòi hỏi phải đến họp. Mục đích là để cải tạo chúng tôi tại nhà. Họ bảo chúng tôi không được buôn bán và tận dụng lợi thế của người dân. Thực tế họ muốn chúng tôi ở nhà và làm ruộng.” (Sđd., trang 197)
Những người vợ cựu tù chính trị VNCH khóc hết nước mắt hàng đêm vì hoàn cảnh bế tắc và vì Cộng Sản áp bức người quá đáng. Bà Tho kể với McKelvey rằng, “Mỗi đêm tôi đợi mấy đứa con đi ngủ và không thể nghe được, thì tôi khóc bởi vì chúng tôi không có đủ tiền cho tôi đi thăm nuôi chồng tôi. Một ngày sau khi chồng tôi đi tù những người từ chính quyền đến và liệt kê mọi thứ chúng tôi có. Họ lấy một số đồ đạc như máy truyền hình và quần áo của thằng con trai đi lính của chúng tôi. Họ nói rằng đó là “tài sản của nhân dân.” Khi chồng tôi là người chủ gia đình đi rồi, tôi đã bán những gì chúng tôi có để nuôi gia đình. Tôi bán nồi và chảo trước nhà. Ngay cả vậy mà cũng không có gì nhiều để ăn. Thịt và cá thì hiếm khi có. Chúng tôi trộn cà chua với cơm chỉ để làm đầy bao tử.” (Sđd., trang 197)
Điều cực kỳ bất công mà Cộng Sản đã làm với những gia đình cựu tù chính trị VNCH là không cho con cái họ đi học. McKelvey thuật lại lời bà Tho kể rằng, “Thực tế con cái không được phép đi học bởi vì địa vị của cha chúng nó trong chính quyền cũ. Chẳng hạn, con gái của tôi học rất giỏi ở trung học. Sau khi tốt nghiệp cháu muốn vào đại học. Ở đó có danh sách ưu tiên để quyết định ai được nhận. Nếu gia đình bạn là Cộng Sản, bạn đứng đầu danh sách. Nếu họ làm việc cho chính quyền cũ, thì bạn đứng đội sổ. Bởi vì cha và anh của cháu đều đi tù học tập cải tạo, nên cháu đã không được nhận.” (Sđd., trang 198)
Ra Tù, Về Nhà, Đi Vượt Biên
Ra khỏi những nhà tù nhỏ là các trại tù học tập cải tạo, các cựu tù chính trị VNCH tường có thể bước qua được khúc quanh nghiệt ngã này để bắt đầu làm lại cuộc đời. Nhưng, không, họ chỉ mới bước chân vào cái nhà tù lớn của xã hội Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản với vô số khổ sở và trớ trêu khác đang chờ chực.
Đúng vậy, như lời kể của một cựu kỹ sư và thầy giáo thời VNCH đi tù học tập cải tạo về mà McKelvey thuật lại như sau: “Ngày đầu về nhà tôi lo sợ về an ninh. Tôi phải đem giấy chứng nhận ra tù học tập cải tạo đến văn phòng an ninh phường, văn phòng hành chánh phường, và ty an ninh tỉnh để ký xác nhận. Trong tháng đầu sau khi tôi về nhà tôi cũng phải có mặt ở những buổi họp trong xóm mỗi đêm. Chúng giống y chang những buổi họp trong trại tù. Tôi phải đứng dậy và thú tội trước 15, 20 người láng giềng của tôi đang có mặt trong buổi họp. Mỗi lần như thế tôi đều phải bắt đầu bằng câu, “Tôi biết ơn Cộng Sản.” Sau một tháng như vậy tôi mới nhận được giấy nói rằng tôi đã trở lại làm công dân Việt Nam. Rất là quan trọng để tờ giấy đó được ký chứng nhận bởi công an địa phương. Nếu bạn phạm trọng tội, thì họ sẽ lấy lại [giấy tờ và quyền công dân của bạn].” (Sđd., trang 47)
Một cựu tù chính trị VNCH khác là cựu đại tá và chỉ huy Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn tên Bích kể cho McKelvey nghe ngày từ trại tù trở về nhà như sau: “Hơi là lạ. Ban đầu, mấy đứa con không nhận ra tôi bởi vì tôi rất ốm. Tôi đi lại khó khăn bởi vì vấn đề dinh dưỡng. Tôi rất yếu. Tất cả trừ đứa con trai út của tôi đều đã đi thăm nuôi tôi ở ngoài Bắc với vợ tôi. Trải qua 2 năm đầu chúng tôi không được phép nhận thư từ gia đình, và qua 3 năm đầu chúng tôi không được thăm nuôi. Sau đó họ có thể thăm nuôi mỗi 6 tháng, nhưng vợ tôi không có tiền để đi thăm nuôi tôi đều như thế. Bà chỉ đi thăm tôi mỗi năm 1 lần hay 2 năm một lần.” (Sđd., trang 65)
Còn cựu tù chính trị VNCH là nhà tình báo Sang thì kể như sau, theo McKelvey, “Khi tôi trở về nhà một số người sợ tôi và không muốn liên hệ với tôi. Những người khác thì thông cảm, nhưng tôi không muốn họ gặp rắc rối vì tôi gần gũi với họ, do đó tôi sống rất cô độc. Sauk hi trở về nhà nhiều cựu tù chính trị sống cô độc. Nhiều bà vợ bỏ họ trong lúc họ còn trong tù. Nhiều người khác về nhà bị rồi loạn thần kinh mà một thời gian ngắn sau đó họ đã ly dị. Hầu hết họ đều không có việc làm. Những nào người ở tù nhiều năm có con lớn lên và khó hiểu biết chúng. Những đức con độc lập, và không có sự gần gũi giữa chúng và người cha đi tù. Khi những cựu tù ly di với các bà vợ thì những đứa con cảm thấy vô vọng.” (Sđd., trang 95)
Giáp mặt với cuộc sống khó khăn mọi mặt ở nhà như thế, nhiều cựu tù chính trị VNCH đã tìm đường vượt biên.
Nhà tình báo Sang kể tiếp cho McKelvey nghe, “Hầu hết mọi người tù trong các trại tù cải tạo đều hy vọng trở thành những người tị nạn tại một quốc gia khác.” (Sđd., trang 95)
Cựu tù chính trị VNCH nguyên là phi công tên Tra (tác giả không bỏ dấu) kể về chuyện vượt biên của ông cho McKelvey nghe rằng, “Tôi cố vượt biên bằng thuyền nhiều lần, nhưng đều bị gạt, họ bỏ tôi ở lại. Lần cuối cùng tôi cố vượt biên với mấy người bạn và tôi mua thuyền. Kế hoạch là chúng tôi phải neo thuyền ngoài khơi. Chúng tôi đi ra thuyền đó bằng ghe nhỏ. Nhưng người lái ghe nhỏ của tôi đã bị lạc, và tôi không bao giờ thực hiện được việc đó. 2 người bạn khác của tôi thì đã thành công lái tàu tới Mã Lai Á.” (Sđd., trang 120)
Qua Mỹ Và Những Khó Khăn Của Cuộc Sống Mới
Ra khỏi Việt Nam đối với các cựu tù chính trị VNCH là một nhu cầu để được sống tự dọ và hạnh phúc, nhất là qua Mỹ. Nhưng trước khi tới Mỹ, không một cựu tù chính trị VNCH nào hình dung ra được những hoàn cảnh thế nào mà họ sẽ phải đối diện mỗi ngày. Vì thế, qua Mỹ là một trong những bước ngoặc lớn trong cuộc đời của một cựu tù chính trị VNCH.
Chúng ta hãy nghe lại lời kể của cựu phi công Tra về những khó khăn nào mà ông gặp phải khi qua Mỹ, “Chúng tôi có nhiều khó khan. Đôi khi tôi nghĩ chúng tôi không tạo nên nó. Sau khi chúng tôi gặp lại nhau vài năm thì bà [vợ] nói với tôi, “Anh biết đó, chúng ta vẫn còn đang thích nghi. Vẫn còn khoảng cách giữa chúng ta.l” Tại Việt Nam, là người chồng, tôi chăm sóc mọi thứ. Ở đây tôi không có gì, không việc làm và không tiền bạc. Bà ấy cho tôi mọi thứ. Tôi cảm thấy bị coi thường. Bà ấy nói rằng, “Hãy ở nhà và nghỉ ngơi.” Tôi nói, “Không, tôi muốn đi làm ngay nếu được.” Vì thế bà đi và bảo với người quản trị của hãng xưởng nơi bà ấy làm việc. Ông ấy cho tôi một việc làm lắp ráp điện tử vào năm 1991, và từ đó tôi làm việc ở đó tới nay.” (Sđd., trang 121)
Trường hợp của bà Oanh là vợ của cựu phi công Tra là một điển hình của những người vợ cựu tù chính trị VNCH đã đến Mỹ trước và phải đấu tranh sinh tồn rất khổ cực để vừa nuôi con vừa nuôi chồng trong một đất nước hoàn toàn xa lại. Bà Oanh kể với McKelvey như sau: “Tôi không biết mặt mũi của tôi ra sao trong thời gian đó. Tôi rất bận rộn đến nỗi không có thì giờ để soi gương. Điều duy nhất mà tôi nghĩ về là kiếm tiền. Tôi có việc làm trong khâu dây chuyền lắp ráp. Tôi chỉ kiếm được 3.25 đô la một giờ, và vì vậy tôi tới sở xã hội để xin giúp đỡ. Người phụ nữ ở đó cũng là một người Việt. Bà ấy rất khinh khỉnh. Bà nói rằng, “Bạn kiếm được 3.25 đô la một giờ, vậy mà bạn vẫn còn đi xin giúp đỡ hà? Tiền nhà của cô chắc là quá cao. Tại sao bạn không dời tới [một chương trình trợ cấp nhà ở rõ rang mà nơi đó có nhiều người tị nạn Việt Nam mới tới ở]? Tôi rất giận. Tôi không biết phải nói gì. Tôi chỉ khóc và bỏ đi.” (Sđd., trang 127)
Còn một khó khăn khác mà nhiều cựu tù chính trị VNCH khi qua Mỹ gặp phải đó là sự cách biệt giữa cha mẹ và con cái lớn lên bên này đã trở thành xung đột khó giải kết trong gia đình. Tác giả Robert S. McKelvey nêu ra trường hợp con cái trong gia đình của cựu phi công là cựu tù chính trị VNCH qua lời kể của người con gái tên Phuong (tác giả không đánh dầu), như sau: “Tôi nhớ căng thẳng giữa ba tôi và người em gái của tôi. Lúc đó em gái út của tôi và tôi ở nhà và 2 đứa em gái khác ở đại học. Tôi không nhớ căng thẳng nhiều tới mức nào giữa ba tôi và tôi, nhưng ba tôi bị bực mình với em gái út của tôi bởi vì nó quá bướng bỉnh. Họ không hạp nhau. Ba tôi thì rất truyền thống và đối xử với con cái theo cách ở Việt Nam. Em gái út tôi là con gái Mỹ. Nó nói những gì nó suy nghĩ và hành động độc lập. Ông còn nhớ sự kiện ba mẹ tôi kể cho ông nghe về việc em gái tôi lái xe lui ra quá nhanh? Ba tôi nói rằng, “Tôi rất giận đứa con gái đó.” Tại Việt Nam bạn không thể hành động như vậy, ngay dù bạn đang giận dữ. Bây giờ em gái tôi cho rằng, “Ba không thích em – Em là đồ rác.” (Sđd., trang 139)
Kết Luận
Ông Quyet (tác giả không đánh dấu) là một học giả có bằng thạc sĩ tại Hoa Kỳ và dạy tiếng Anh tại Học Viện Quân Sự Quốc Gia Việt Nam (VNCH) trước năm 1975. Sau năm 1975 Quyet đi tù học tập cải tạo. Quyet đã trình bày bằng văn bản ba điều với McKelvey về quan điểm của ông đối với chế độ Cộng Sản Việt Nam. Trong đó ông chỉ trích chính sách tàn ác của Cộng Sản đối với dân quân miền Nam và cho rằng chính quyền CSVN còn nợ người dân miền Nam lời xin lỗi.
Điều thứ ba của văn bản của Quyet viết rằng, “Thứ ba, các anh [Cộng Sản] lớn tiếng kêu gọi mọi người “tha thứ và quên đi.” Hãy để tôi nói rõ rằng chúng tôi đã không, và đang không, mắc nợ các anh bất cứ điều gì [đối với những gì chúng tôi đã làm]. Hầu hết chúng tôi chiến đấu dũng cảm đơn giản là để tự bảo vệ. Không có gì sai với điều đó cả. Khi chiến tranh chấm dứt quá khứ nên để lại sau. Chúng tôi có thể đã là bạn bè của các anh và cùng nhau làm việc với các anh để xây dựng đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta, nhưng các anh đã chọn ôm giữ ác cảm chống lại chúng tôi và đối xử với chúng tôi tồi tệ hơn với thú vật. Các anh mới chính là người nợ chúng tôi một lời xin lỗi [cho điều đó] và đặc biệt đối với việc [các anh] làm ô nhiễm nơi an nghỉ thiêng liêng của những chiến sĩ đã nằm xuống của chúng tôi.” (Sđd., trang 168)
Trong phần kết luận cuốn sách, tác giả Robert S. McKelvey rút ra 5 nhận định từ những kinh nghiệm và bài học của chiến tranh Việt Nam, của các cựu tù chính trị VNCH mà người Mỹ và chính quyền Mỹ cần đặc biệt quan tâm. Một, nạn nhân của chiến tranh là những con người nhạy cảm, tế nhị và dễ bị tổn thương nên, người Mỹ cần đối xử công bằng với các đồng minh của mình. Hai, sự đau khổ của các nạn nhân chiến tranh không chấm dứt sau khi ký hiệp định hòa bình và rút quân [Mỹ] về nước. Do vậy, việc điều trị vết thương chiến tranh cần thời gian dài sau đó. Ba, Hoa Kỳ cần cẩn thận cách can thiệp trên thế giới, mà cụ thể là cần lắng nghe nguyện vọng của các đồng minh. Bốn, Hoa Kỳ cần có trách nhiệm với các đồng minh hay quốc gia mà mình can thiệp bằng chiến tranh. Và năm, người Mỹ cần nhận thức rõ là họ chiến tranh vì cái gì. Nên nhớ, chuyện mở cuộc chiến tranh không giống như chuyện trong phim, vì nó sẽ để lại nhiều đau khổ cho vô số người trong nhiều thập niên sau đó.
Dù cuốn “A Gift of Barbed Wire” đã được xuất bản cách nay 13 năm, nhưng những điều mà tác phẩm này nói đến vẫn còn là các bài học giá trị mà các chính quyền tại Việt Nam và Hoa Kỳ cần phải học lại kỹ lưỡng để tránh gây đau thương cho cả một dân tộc. Đối với người Việt trong và ngoài nước, tác phẩm này chắc chắn là một kho tàng ký ức sâu đậm của một thời lịch sử không thể quên. Khi có dịp gợi lại thì thấy rằng nó vẫn còn nguyên ở đó.
Xin cám ơn tác giả Robert S. McKelvey.
Huỳnh Kim Quang
Tuesday, March 3, 2015
CHÁU NGOẠI VUA THÀNH THÁI
Gặp cháu ngoại vua Thành Thái thầm lặng cống hiến cho cố đô Huế
Dân trí Một câu chuyện về sự tình cờ, bén duyên của những thế hệ còn lại dòng dõi vua Nguyễn từng đóng đô tại Huế cho chúng tôi nhiều xúc động về nhiều việc làm có ý nghĩa với tổ tiên của cô Monie Phương (Công Tôn Nữ Y Phương) – cháu ngoại vua Thành Thái.
Chuyến về Huế định mệnh
“Tôi sinh ra tại Pháp, mẹ tôi người gốc Huế là công chúa Lương Mỹ, một trong nhiều người con của vua Thành Thái. Cha tôi là người Campuchia. Sau khi mẹ sinh ra tôi một thời gian ngắn thì không mất do bị bạo bệnh. Từ lúc nhỏ đến lớn tôi chưa lần nào về quê hương Việt Nam. Năm 2004, khi tôi làm nghề về du lịch có cơ hội đi cùng đoàn văn hóa khảo sát du lịch ở Capuchia. Chúng tôi về Việt Nam để tìm hiểu tiềm năng du lịch. Tự nhiên đến những vùng đất từ Bắc tới Nam ở đất nước hình chữ S, tôi cảm thấy bị thu hút. Và lúc đặt chân đến Huế, dù chỉ vài ngày nhưng nó hút hồn, mê hoặc tôi dữ lắm. Nhiều di tích lịch sử của vua chúa tạo nên một cảm giác bồi hồi không thể diễn tả hết” – cô Monie Phương nhớ lại lúc quay trở về cố hương lần đầu tiên, khi ấy cô đã hơn nửa cuộc đời, 50 tuổi tròn.
Sau chuyến đi đó, cô Monie nhớ Huế vô cùng. Đúng 1 tháng sau, cô một mình đi về lại Huế theo đường xe để tận mắt thấy và cảm nhận phong cảnh hai bên đường nhiều hơn. Không biết một chữ tiếng Việt, cô tìm cách học qua một số thầy tu ở chùa, hay nhờ một số bạn bè mới là Phật tử hay chở cô đi thăm lăng tẩm dạy từng từ một qua các đồ vật cụ thể gặp ở bất cứ chỗ nào đi qua. Cô đã tìm đến với ban đại diện Nguyễn Phước tộc tại Huế – nơi liên lạc của dòng họ các vua Nguyễn, và tìm hiểu dần về nguồn gốc của gia đình mình, nhưng cô hầu như “kín tiếng”, ít nói với ai nguồn tích của mình để tự thân làm những gì mà bản thân mách bảo.
Và cứ thế, mỗi năm cô dành 18 ngày nghỉ phép cộng với 24 ngày nghỉ lễ quốc gia dành rồi gói ghém đồ đạc về Huế đều đặn. Trong khoảng thời gian đi qua qua lại lại giữa 2 nước, cô chăm chỉ học tiếng Việt từ những Việt kiều tại Campuchia. Cách viết tiếng Việt cô cũng linh động học theo từ bộ từ ngữ tiếng Pháp, vì cô cho rằng tiếng Pháp có cách nói và viết giống nhau về chữ, nên tiếng Việt cũng vậy do chữ Quốc ngữ có nguồn gốc từ nhà truyền giáo Alexandre de Rhodes người Pháp sáng tạo thành. Thành thử, việc tự học đem lại rất nhiều hiệu quả, không mấy chốc, tiếng mẹ đẻ của cô thuần thục nhanh chóng.
Với tình cảm trong người là mong muốn đi tìm lại dòng họ của mình, cô đã trải qua không biết bao nhiêu chặng đường dài trong những ngõ ngách ở xứ Huế. Đền đài, di tích, lăng tẩm, mộ phần, thiên nhiên ngày càng tích tụ một thứ tình cảm của “đất mẹ”, thấm dần vào trong tâm khảm cô, và tạo nên ý nghĩ cho cô phải làm một điều gì đó có ích.
Hành trình tu sửa lăng mộ cho cha ông
“Phủ đầu tiên tôi vào là Hoàng Hóa Quận Vương (con thứ 66 vua Minh Mạng, phủ ở đường Tô Hiến Thành – PV) gây một cảm xúc mạnh mẽ. Thời gian sau đó tôi cứ đi hết chỗ này đến chỗ khác, quan sát và thấy nhiều mộ xưa không được bảo quản, hư hỏng nặng thấy xót lắm. Có mộ bị hỏm những lỗ sâu vào trong, người ta nói bị ăn trộm vô đào vàng vì các mộ họ hàng vua chúa xưa thường có bỏ đồ trang sức quý để chôn cùng. Sau mỗi lần đi, về chỗ nghỉ là tôi lại vẽ sơ đồ chi tiết như đi bao nhiêu bước tới mộ nào, có vật nào làm dấu. Rồi liên hệ mấy anh em bên Nguyễn Phước tộc đi khảo sát với tôi để lên phương án sửa chữa.
Cô Monie Phương đang lật lại cuốn gia phả dòng họ, xem những mộ phần mà mình đã tu sửa
Cứ thế, tôi làm từng mộ một. Mộ nào bị hỏm thì lấy đất đắp lại, xây lại vòng lăng. Có mộ còn lượm được cả xương vương vãi ra ngoài tôi mới lấy khuôn tĩnh nhỏ thu hết bỏ vào. Tôi cứ thấy là làm chứ không chú ý phải làm như thế nào, mộ nào trước mộ nào sau. Nhiều mộ bà phi, con bà phi vua, họ hàng đời sau của vua, rồi mộ phò mã, mộ quan được tu sửa lại chỉnh chu. Đặc biệt tôi chú trọng tới mộ của các hoàng tử, công chúa. Lúc xưa vua có nhiều vợ lắm nên con rất nhiều. Sau thời gian khi vương triều không còn nữa thì người chăm sóc mộ phần cũng ít, làm sao có thể chăm chút được nên rất nhiều mộ bị hư hại nặng.”.
Cô Monie Phương kể lại một câu chuyện mà dường như nhiều định mệnh đã gắn cô với việc tu bổ lăng mộ của thế hệ xưa. “Hôm đó tôi đang ở Campuchia và ngủ dậy muộn một chút vì khách có hẹn tới du lịch trễ. Trong lúc nằm mơ thấy có 1 ngôi mộ có 2 lỗ sụt ngang hông và đầu mộ. Tôi thấy anh Tôn Thất Phú đang làm bảo vệ lăng vua Thiệu Trị, tôi nói anh giúp một tay nhưng anh không chịu nói phải đi về nhà. Bừng tỉnh dậy, tôi điện thoại liền cho anh Phú đang ở Huế bảo anh đi tìm có mộ nào gần nhà anh không. Sau vài tiếng, anh nhắn lại có một mộ với đặc điểm bị 2 lỗ sụt như giấc mơ của tôi. Sau đó, tôi về tu sửa mới biết đó là một mộ của một hoàng hậu rất lớn”.
Khu vực mà cô Monie Phương làm mộ nhiều tập trung ở gần lăng vua Thiệu Trị. Đã có khá nhiều ngôi mộ của hoàng tử, công chúa được cô chú trọng làm lại hay làm vòng thành để gom lại khu vực mộ chung để linh hồn người xưa được ấm áp. Kể từ năm 2010, cô đã quyết định về ở Huế phần lớn thời gian trong năm nhằm thực hiện công việc thầm lặng của mình. Thời điểm đó, mọi người bắt đầu biết về cô sau khoảng hơn 6 năm cô hầu như không nói về bản thân, tự đi, tự làm và đã tu sửa được hàng chục ngôi mộ của cha ông.
Việc tu sửa mộ của cô được làm không ngơi nghỉ trong 10 năm qua với một tinh thần nhiệt huyết cao độ. Nhiều ngôi mộ của hoàng gia xưa đã được khang trang như ban đầu
Nhiều việc làm ý nghĩa hướng về di tích Huế
Hay đi vào trong di tích Huế, thấy các khăn trải nơi thờ tự của vua chúa đã cũ hoặc không có, cô bèn đề nghị cùng với Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế được tự tay trang cấp, còn phía Trung tâm lo phần gương lót trên (vì không có gương thì tàn hương rơi xuống sẽ dễ cháy khăn). Được sự đồng ý, cô tự tay đi mua lụa tốt, tìm chỗ đặt ren rồi nhờ người thêu thành những chiếc khăn trải đẹp đẽ trên các án thờ tiền nhân ở toàn bộ các lăng (duy chỉ có lăng vua Đồng Khánh là chưa trải khăn cô đang còn tu bổ), Khương Ninh Các, Thế Miếu, Triệu Miếu… tại Đại Nội.
Giữa năm 2013, cô đã hiến tặng 5 sắc phong thần thời Nguyễn, 228 hiện vật gốm sứ có niên đại từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XX lưu giữ từ lâu cho Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế. Bộ sưu tập này đã được triển lãm 1 tháng sau đó, nhiều người đã rất cảm kích trước tình cảm của cô. Ngồi với cô tại nhà, hỏi ra tại sao cô lại có ý định hiến tặng nhiều cổ vật như vậy? Cô chỉ cười và nói “Sau khi mình đi rồi, cổ vật có đi được với mình đâu. Mình làm vậy để nhiều thế hệ sau còn được thấy những dấu xưa của ông cha một thời”.
Sắc phong niên hiệu Thiệu Trị thứ 3 (1843), tóm lược: “Gia tặng mỹ tự ‘Hồng Huệ Phổ Tế Linh Cảm Diệu Thông Thượng Đẳng Thần cho Thiên Y A Na tại thôn Cam Hải, huyện Hòa Đa, tỉnh Ninh Thuận” – một trong số nhiều hiện vật cô hiến tặng cho Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế
Mới đây vào gần cuối năm 2014, lăng vua ông ngoại Thành Thái cũng được cô đứng ra chủ yếu tu sửa đẹp khang trang. Cô cũng bỏ kinh phí tôn tạo vườn Ngự Viên trong Tử Cấm Thành ở Đại Nội. Và góp tiền cùng Trung tâm Bảo tồn và một số nhà hảo tâm khác đấu giá thành công chiếc xe kéo của Hoàng Thái Hậu Từ Minh từ Pháp. Đây là lần đầu tiên Việt Nam đấu giá thành công một kỷ vật quý thời vua Nguyễn bị thất lạc ra nước ngoài. Chiếc xe kéo sẽ được hồi hương về Huế để trưng bày trước dịp Tết Âm lịch sắp tới. Ngày 30/12/2014, cô Monie Phương cùng với 2 cá nhân tiêu biểu khác (là 2 doanh nghiệp) đã được Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế tri ân vì đã có đóng góp cho công cuộc bảo tồn di sản văn hóa Huế năm 2014.
Cô Monie Phương (thứ 2 từ trái qua) được TS. Phan Thanh Hải, GĐ Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế (thứ 2 từ phải qua) tặng bằng khen tri ân vì đã đóng góp cho công cuộc bảo tồn di sản văn hóa Huế cuối năm 2014
Theo TS. Phan Thanh Hải, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế “đóng góp của chị Monie Phương thời gian qua rất ý nghĩa đối với di tích Huế. Chị là một tấm gương sáng xứng đáng được tôn vinh, tri ân”. Còn thầy giáo Tôn Thất Viễn Bào, Chủ tịch Hội đồng Trị sự Nguyễn Phước tộc Việt Nam cho hay, cô Monie Phương là một hiện tượng nổi bật. “Cô ở xa về, đã có sự quan tâm đến dòng họ, làm một cách tự nguyện. Ban đầu chúng tôi cũng có nghi ngại nhưng sau mới hiểu hết là cô làm thật tâm. Chúng tôi rất ghi nhận công lao của cô về việc làm mồ mả, lăng mộ, kỵ lễ cho tổ tiên thể hiện sự hiếu đạo đáng quý của một người cháu ngoại của vua Thành Thái” – thầy Bào tâm sự.
Lăng mộ vua ông ngoại Thành Thái được cô chủ yếu đứng ra cùng Nguyễn Phước tộc tu sửa khang trang trong năm 2014
…
Ngày đầu xuân Ất Mùi 2015, đi dạo thảnh thơi trên tầng 2 ngôi nhà vườn kiểu xưa của cô Monie Phương, cạnh giữa hàng trăm giò phong lan rừng xanh tươi làm cho tinh thần sảng khoái đến lạ, cô nói ước mơ thời gian tới, ngoài việc chăm sóc, tu sửa tiếp tục mộ phần tổ tiên cô muốn cùng Phân viện văn hóa nghệ thuật tại Huế in một cuốn sách về mộ các hoàng tử, công chúa vì điều này chưa có. Tiếp theo là được mở 1 khu điều trị cho người bị ung thư theo phương pháp y học cổ truyền, và mở chợ quê mang hơi thở Huế xưa cho khách du lịch được khám phá, cảm nhận vì giờ đã không còn hình bóng các o các chị mặc áo dài Huế bán hàng, tuy đơn sơ nhưng thân thương vì đó là nét Huế.
Người cháu ngoại vua Thành Thái trở về bình yên với vườn lan rừng ngát hương tại khu nhà vườn Kim Long, Huế
Một điều đáng tiếc, cô cho biết năm sau sẽ về Úc nơi có con ruột đang sinh sống vì tuổi cũng đã lớn rồi cần có người chăm sóc. “Huế là nơi đi xa mới nhớ mới thương chứ không phải để ở. Đây cũng là quê hương tôi, mình cứ vận động, sống hết mình, điều gì đến sẽ đến, vũ trụ đất trời luôn xoay chuyển, vận động và con người mình cũng hữu hạn lắm” những lời của người cháu ngoại của vị vua một thời làm tôi suy nghĩ mãi, thấm thía, mong sao cho cô khỏe để làm nhiều việc hơn nữa cho cha ông .
“Vua Thành Thái, tên thật là Nguyễn Phúc Bửu Lân, sinh ngày 4/3/1879, mất ngày 20/3/1954. Trị vì 19 năm (từ 1989) trong hoàn cảnh Việt Nam bị thực dân Pháp đô hộ, Ngài đã có tinh thần yêu nước, đấu tranh đòi lại nền độc lập cho dân tộc. Tuy lên ngôi còn tuổi thiếu niên (10 tuổi), nhưng Ngài đã có tính khí cương nghị và đầy lòng yêu nước. Vì vậy, dù ở ngôi Vua không bao giờ Ngài lấy làm vui sướng, mà luôn luôn suy tư với vận nước. Ngài đã tự giả dạng mất trí, che mắt thực dân Pháp và các hạng mãi quốc cầu vinh, để được tiếp cận dân chúng và các sĩ phu yêu nước mưu đồ đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập cho xứ sở.
Lo sợ về tư tưởng và hành động của Nhà vua, thực dân Pháp buộc ngài thoái vị ngày 3/9/1907. Sau 9 năm bị quản thúc tại Vũng Tàu, Ngài bị Pháp đưa ra lưu đày xa xứ ở đảo La Réuion (Madagascar, thuộc địa của Pháp) từ năm 1916 đến năm 1947. Sau đó, Ngài được nghinh đón trở về nước và sinh sống bình dị tại ngôi biệt thự ở đượng Thành Thái, quận 5 đô thành Sài Gòn. Năm 1954 Ngài mất và được rước về yên nghỉ tại khuôn viên thành An Lăng (lăng Đức Dục Đức) tỉnh Thừa Thiên Huế. Vua Thành Thái có 16 Hoàng Tử và nhiều Công Chúa” – trích Nguyễn Phúc tộc giản yếu.
Chân dung nhà vua yêu nước Thành Thái (1879-1954) |
Monday, March 2, 2015
SINGAPORE
Điều " tồi tệ " ở Singapore
Các bạn ơi ,
Còn nhiều điều thú vị ở cái Xứ nầy . Trong tuần vừa rồi, Chánh Phủ Singapore đã cấp cho dân chúng và người thường trú 100 SD/người, nhằm khuyến khích đi tập thể dục trong Chuong Trình Giảm 1 triệu kgs cho toàn dân trong năm 2014 do Nhà Nước phát động.
Không hiểu nổi cái Xứ Singapore nầy , người dân được chăm chút từ chuyện nhỏ kể cả những người tàn tật ,họ dể dàng di chuyển bằng xe lăn trên đường phố hoặc bằng xe bus , đều có đường và khoãng trống ưu tiên dành cho họ. Thấy họ rồi ngẫm đến ta …Hỏng cười nổi các bạn
MỜI CÁC BẠN ĐỌC NHÉ !
Lang thang tại Sanh-ga-bo trong mấy ngày vừa qua, tui nhận thấy đất nước này có những điều vô cùng tồi tệ. Kể ra chút cho bà con nghe chơi
1- Đầu tiên dễ nhận thấy đó là trên khắp con đường của Sanh không hề có bóng dáng cảnh sát. Điều này đã tạo nên một sự đơn điệu vô cùng to lớn cho đường phố. Trong khi ở Việt Nam ta đâu đâu cũng có bóng dáng của Cảnh sát giao thông. Đôi khi 1 cột đèn mà tề tựu đến những 4,5 anh - vừa Giao Thông, vừa Xung Kích vừa Cơ Động. Màu áo vàng hòa quyện màu áo xanh thật là đẹp mắt. Khi tui hỏi người Sanh "Sao không thấy cảnh sát trên đường?", thì họ trợn mắt ngạc nhiên "Cảnh sát ngoài đường để làm gì? Dân tao ý thức, đất nước tao an toàn mà. Mày có ra đường một mình 2h khuya cũng không sao đâu". Chưa thỏa mãn tui gặng tiếp" Ok dân mày tốt, nhưng rủi dân nước khác nó tới làm bậy thì sao?". Nghe xong thằng Sanh nó cười hô hố "Ở Sanh cướp giật là tội nặng lắm, Tù cho mọt gông luôn, thậm chí có thể lên tới tử hình á. Mày dám hông?". CHỦ QUAN. Một đất nước hết sức là chủ quan!
2- Thứ hai đó là ở Sanh không có rác. Cha mạ ơi cái gì mà kiếm miếng rác đỏ con mắt không ra. Một đất nước láng o như vậy thì những ngành nghề như móc bọc, ve chai, lụm rác, phế liệu... sẽ đi về đâu? Xin hỏi sẽ đi về đâu ???
3- Ở những nơi công cộng tại Sanh người ta hay đặt những máy nước uống để dân du lịch hay người đi đường đều có thể tấp vào hứng uống. Gì chớ vụ này tui thấy Chánh phủ Sanh quá là dại dột. Vì nếu cứ cho uống chùa như vậy thì còn ai bỏ tiền mua nước uống đóng chai nữa? Và như vậy đất Sanh sẽ thất thoát một khoản thu khổng lồ từ ngành công nghiệp nước giải khát. Quá dại, quá dại!
4- Đa phần Toi-lết công cộng ở Sanh đều đẹp và sạch sẽ, như cái hình tui chụp mới nhìn cứ tưởng Toi-lết khách sạn 5 sao. Đây là một sự LÃNG PHÍ vô cùng nghiêm trọng. Hết chuyện đi đổ tiền đầu tư trang trí cho mấy cái Toi-lết.
5- Toi-lết công cộng ở Sanh họ có hẳn một phòng vệ sinh riêng cho Mẹ và Baby. Trong đó họ sẽ thiết kế thêm một cái ghế con cho Baby ngồi để Mẹ có thể thoải mái đi vệ sinh mà không vướng bận con nhỏ. Đây là sự chu đáo hết sức ấu trĩ vì sướng quá sẽ sanh tệ. Cứ cái đà này kỹ năng chăm con của các bà Mẹ dần dần sẽ bị thui chột một cách nghiêm trọng cho coi.
6- Cái vụ cuối cùng mới đỉnh nè. Bữa tui đi uống nước với mấy người Sanh. Uống xong thì họ chồm tới xin tui cái khoen lon Coca cola. Tui hỏi xin làm gì thì họ hào hứng cho biết "Tụi tao gom góp cái khoen này để ủng hộ giúp đỡ cho mấy trường học. Vì Nhà trường sẽ bán nó để gây quỹ học đường. Và những khoen này sau đó sẽ được tái chế phục vụ việc sản xuất chân tay giả cho người tàn tật. Tụi tao làm như vậy nhà trường vừa có quỹ mà người tàn tật cũng đã gián tiếp được giúp đỡ". Úi giời ơi, tưởng đâu Sanh-ga-bo nó giàu có lắm, ai ngờ nó KEO KIỆT thấy mà ghê. Có cái khoen lon mà cũng đi gom góp ...
Nổi tới, nói lui đi đâu cũng thấy chỉ có Xứ Ta mới đúng nghĩa là thiên đường. Hề hề hề!
SONG LAM * SAIGON 40 NĂM
Sàigòn 40 năm …
Tác giả: Song Lam
Với 12 bài viết trong năm, cho thấy một sức viết mạnh mẽ, tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Định cư tại Mỹ từ 26 tháng Ba 1992, hiện là cư dân Cherry Hill, New Jersy, bà vui vẻ tự sơ lược tiểu sử “22 năm dạy học trong nước, 22 năm làm culi job trên đất Mỹ”. Bài mới của tác giả kể về Sài gòn mùa Noel vừa qua.
* * *
I.
I.
Cuối cùng thì tôi cũng về cái ổ của mình. Nằm thẳng cẳng, hai tay đan trên ngực, mắt nhắm nghiền, tôi giống hệt như những người được Chúa gọi về. Chỉ có khác đôi điều là còn thở phì phò và trái tim còn đập lổn nhổn khi trồi khi sụt.
Ba tuần lễ ở Sàigon để thăm lại người mẹ ra đi năm ngoái, tôi như con thú hoang đi lạc. Mọi thứ đều lạ lẫm, trễ tràng. Sàigon thật sự không còn của riêng tôi.
Đứng thật lâu ở cửa Tây chợ Bến Thành, ngay tiệm vàng Nguyễn Thế Bài trước 75, tôi không hiểu mình muốn tìm gì, gặp ai trong lúc này. Con đường Lê Thánh Tôn ngày xưa đi học bằng xe đạp đôi lần dừng lại vì xe bị tuột sên, có ít nhất vài anh con trai tới sửa dùm. Bây giờ, đứng đây cả buổi, nhìn ngó tứ tung, chẳng có ma nào ngó tới tôi.
Buồn tình, tôi đi lang thang. Đi bộ lòng vòng ngang kem Bạch Đằng, tôi ngán ngẫm chẳng thèm vào. À, nhà sách Khai Trí cũ đây rồi. Vô chút. Hình bóng cũ nào còn đây, sách vở ích gì cho buổi ấy? Tôi mua vài quyển sách dạy nhạc, Tự học Tây Ban Cầm với ước mong dợt lại bài Thu Ca ngày nào, bài dư âm kỷ niệm ngày hai đứa mới quen nhau, bài Thuyền và Biển mà mấy đứa em già chế lại hát như thế này: “Nếu phải sống xa em, anh chỉ còn bão tố. Nếu phải sống bên em, anh chỉ còn… cái khố.”
Bùng binh Sàigon ngày nào có tượng đài Trần Nguyên Hãn oai phong, tượng nữ sinh Quách thị Trang bằng đá trắng… nay đã mất tăm, mất tiêu. Xe cộ thật nhiều, ồ ạt, ào ào khiến tôi chóng mặt.
Sàigòn bây giờ đầy dẫy, ngập tràn nhà cao tầng không khác gì các đô thị văn minh Âu Mỹ.
Sàigon có Bicotex Trung tâm tài chính, mà dân Saigon gọi là bà đầm bưng mâm xôi, Saigon có Center Tower 72 lầu, Saigon có đường hầm bắc qua sông Thủ Thiêm. Bến đò Thủ Thiêm bên bến sông Bạch Đằng năm xưa chạy xập xình, ành ạch sóng nước cả ngày cả đêm nay đã không còn. Con đò Thủ Thiêm đã lùi vào dĩ vãng! Trong trí nhớ người dân Sàigon vẫn còn câu hát: “Bắp non đem nướng lửa lò. Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm”. “Con đò” Thủ Thiêm tức là cô lái đò trẻ tuổi xinh đẹp chèo đò đưa khách sang sông. Tôi thích quá chừng chữ “ve” này, mà chữ “cua” hay chữ “dê” không tài nào sánh kịp!
Sàigon có cầu vượt, có xa lộ Đông Tây, có siêu thị lớn nhỏ sang trọng không thua gì ở Mỹ. Sàigon có tất cả, nhưng Saigon không có nụ cười.
Sàigon không có nụ cười? Các bạn có cho rằng tôi nói quá sự thật không? Một lần nữa, tôi xin xác định: Saigon không có nụ cười. Trong công việc hàng ngày của tôi, tôi cười với khách hàng hàng trăm lần, nói hai chữ “cám ơn” hàng ngàn lần. Saigon không có được chuyện này.
Sàigon không có nụ cười? Các bạn có cho rằng tôi nói quá sự thật không? Một lần nữa, tôi xin xác định: Saigon không có nụ cười. Trong công việc hàng ngày của tôi, tôi cười với khách hàng hàng trăm lần, nói hai chữ “cám ơn” hàng ngàn lần. Saigon không có được chuyện này.
Hàng ngàn chiếc xe gắn máy đổ xô ra đường mỗi giờ, mỗi ngày, mọi người chen lấn nhau, tranh giành nhau từng centimet đường, mặt mày hằm hè như sắp sửa gây gổ, chửi mắng nhau và mặt lạnh như… tiền Việt Nam.
Vào cơ quan chính quyền, quý vị sẽ thấy được sắc mặt này: họ nhìn mình ghẻ lạnh, soi mói coi mình thuộc tầng lớp nào trong xã hội, họ nhìn qua cách ăn mặc để đoán xem mình có tiền nhiều hay ít… ôi cái nhìn xa lạ, dửng dưng, không có một chút tình cảm con người nào hết. Sao kỳ vậy cà? Tôi tự hỏi mình. Biết hỏi ai bi giờ?
Saigon có những bộ trang phục đắt tiền, những chiếc xe hơi bạc triệu, những biệt thự sang trọng với phòng master bedroom dát vàng ròng bốn số chín, nhưng Saigon không có được tình yêu thương. Saigon vắng bóng lòng nhân ái và chết tiệt sự bao dung.
Những ngày cận kề Christmas, Saigon treo đèn kết hoa cùng khắp những con đường lớn. Những công trình xây dựng còn dang dở khắp nơi gây ra sự kẹt xe dữ dội vào những giờ cao điểm.
Dân Saigon ăn nhậu tối ngày, từ sáng sớm cho tới giữa khuya. Quán nhậu san sát, từ bò dê cao cấp cho đến rắn mối thằn lằn. Hình như mọi người đang lâm vào cảnh mê hồn trận cứ ăn nhậu thả cửa chừng nào chết hẳn hay.
Tôi có những đêm Saigon mất ngủ triền miên vì tiếng xe gắn máy ầm ầm trong từng hang cùng ngõ hẹp. Bốn năm giờ sáng lại nghe rội rã tiếng rao hàng: “Bánh mì nóng đây, bánh mì nóng đây”. Saigon lúc nào cũng hực hở lửa nóng, rít rịt tay chân, chỉ nhờ mong ngọn gió mát bất chợt.
Tuổi trẻ Saigon bây giờ cao hơn, đẹp hơn, sang trọng hơn. Con gái ra đường không ai biết đẹp hay xấu, cao hay thấp, da trắng mịn màng hay đen thui rổ chằng chịt, vì họ trùm kín mít, chỉ chừa hai con mắt vẽ chỉ đen thui, lạnh lùng. Ai cũng chen lấn, vội vã, chụp giựt. Và hoàn toàn không có một nụ cười nào hết.
Ở Saigon ba tuần, tôi không biết mình cười được bao nhiêu lần, chỉ thấy lòng trĩu nặng sầu thương.
Đã nhiều lần tôi thấy được những người già như tôi đã về hưu ngồi trong nhà thu lu bất động. Nếu không bận rộn được làm ô-sin không công cho con cháu thì họ cứ ngồi trước bực cửa nhìn ra ngoài đường. Họ ngồi đó, buồn, bất động và héo tàn.
Central Tower lộng lẫy sửa soạn chào mừng năm mới 2015, sẵn sàng giơ cao dao sắc chém ngọt khách hàng. Ly kem bạc hà chỉ có hai viên kem tròn vo lớn hơn cái trứng cút chút xíu, trả 11 dollars cho tui. Trời ơi giá cả hơn cả bên Mỹ. Nhưng lo gì. Đại gia thừa tiền lắm bạc, “bi nhiêu bi!”
Saigon cũng có những buffet đắt tiền dành cho nhà giàu mới mở mắt sau này như ở Hoàng Yến, Newworld, nhất là ở nhà hàng năm sao Newworld này, ăn trưa 26 dollars và ăn tối 42 dollars trong khi người lao động buôn gánh bán bưng chỉ mong kiếm được 2 dollars/ngày (42.000 đồng Việt Nam). Saigon ơi, nhức nhối lòng tôi.
Mở mắt chào đời ở Saigon, sống và thở với Saigon qua bao nhiêu thăng trầm của đất nước, của thời cuộc, tôi vẫn ôm Saigon vào trong lồng ngực tưởng như lúc nào cũng son trẻ của mình.
Xa Saigon 40 năm, Saigon đã ngủ vùi 40 năm, Saigon đã mất đi vẻ thơ mộng, lãng mạn, đã mất đi hoàn toàn văn hóa phương Nam, để trở thành thứ lai căng chú kiết, Tây chẳng ra Tây, Tàu chẳng ra Tàu. Saigon bây giờ vẫn đang còn một triệu ba trăm ngàn người nghèo khổ đói khát lầm than. Có những cái chết vội vàng non yểu, trăm thứ bệnh lạ do thực phẩm độc hại mang đến, Saigon có trăm ngàn chuyện giả từ lông mi giả đến tôm khô, bánh tráng, gạo lúa ăn uống hàng ngày.
Bên cạnh những building cao vòi vọi, những nhà hàng sang trọng, những resort năm sao, quý bạn đọc sẽ còn thấy được những trường học xuống cấp thê thảm, những bệnh viện ghẻ lở hoang phế hàng trăm năm không sửa sang.
Quý bạn đọc hãy ghé mắt vào bệnh viện T.C ở Saigon để thấy bệnh nhân nằm la liệt từ hành lang cho đến trước cửa nhà vệ sinh, nằm luôn cả dưới gầm giường. Y tế quả là quá tải và giáo dục đi đoong.
Chúng tôi đến thăm đứa cháu họ tại phòng vô trùng của Trung tâm huyết học mà sững sờ: thằng nhỏ chuẩn bị trình luận án tốt nghiệp cao học kinh tế, lại được phát hiện bị ung thư máu. Tôi phát khóc khi nhìn bốn thanh niên trẻ không quá 25, mặt mũi sáng láng khôi ngô với những cái đầu trọc lóc vì vừa trải qua mấy đợt Chemo. Những khuôn mặt trắng bệt đang cần vô máu, mà xác suất sống còn chỉ có từ 20-25% đã làm tôi đau lòng, không biết phải nói gì để an ủi các cháu. Không ai trả lời được câu hỏi tại sao trong khi tiền đóng cho bệnh viện cao ngất ngưỡng được tính bằng hàng chục ngàn dollars, cha mẹ các cháu phải cầm cố nhà cửa, ruộng vườn…
Làm sao ngoảnh mặt quay lưng với cảnh đời trái ngược ở Saigon: bên cạnh cuộc sống xa hoa dư thừa phủ phê của kẻ có quyền lực, vẫn còn hằng hà sa số cuộc đời của những con người Việt Nam bần cùng đói khát kiếm ăn từng bữa toát mồ hôi, còn những mồ hoang mả lạnh, còn bao nhiêu cái chết tức tưởi, âm thầm… những người muôn năm cũ hồn ở đâu bây giờ? (Vũ Đình Liên-Ông Đồ).
Người lính cũ VNCH, người thương phế binh của chế độ cũ vẫn còn sống vất vưởng, lê la đầu đường xó chợ mà sự giúp hàng năm của đồng bào hải ngoại vẫn không thấm thía vào đâu! Chương trình “Cám ơn Anh” hàng năm ở California với số thu lên đến bảy tám trăm ngàn dollars vẫn còn quá ít so với nỗi đau quá lớn, những thương tật trùng điệp của hàng chục ngàn chiến binh sau 75. Chúng ta đời đời chịu ơn họ, cái ơn sâu không bao giờ trả nổi…
Saigon thân yêu của tôi ơi. Em đã ngoài 40 từ 1975, tù dạo người Saigon ken chân vội vã chen lấn xuống tàu bạt mạng thừa sống thiếu chết vượt trùng dương tìm đường trốn chạy, biết bao người đã chìm sâu đáy nước, biết bao nhiêu người lưu lạc phương trời?
Biết nói gì với em hôm nay, Saigon 40?
Hôm nay thăm lại Saigon, em chỉ còn trong tôi hình bóng cũ: Con đường Bà Huyện Thanh Quan những chiều tan học mát rượi lối đi, vòng xe quay thanh thản nói cười với bạn, tà áo dài trắng quấn quít mối tình đầu.
“Saigon ơi, tôi đã mất người trong cuộc đời. Saigon ơi, thôi đã hết thời gian tuyệt vời…” (Saigon ơi vĩnh biệt-Nam Lộc)
Tôi vẫn còn hoài hình ảnh Saigon tráng lệ, tươi đẹp trong trái tim già nua khô héo của mình. Và Saigon ơi, tôi còn mãi Saigon xưa trong trí nhớ.
II.
Tôi trở lại Valley Forge vào những ngày cuối của năm 2014, tôi nghe lòng giá buốt với cái lạnh 6 độ F về đêm và những tai ương nổ ra từ khắp thế giới trong khi năm 2015 từng bước đến gần.
Hai cảnh sát viên New York bị kẻ gian sát hại ngày 20/12 là vết thương lớn cho nhân dân Mỹ, đặc biệt là cộng đồng New York. Sự sát hại đó có lẽ bắt nguồn từ sự phân biệt chủng tộc âm ỉ, dai dẳng sau khi người thanh niên Michael Brown ngả xuống từ viên đạn của người cảnh sát da trắng trong tháng 8/2014.
Và chỉ một tuần sau 28/12, Air Asia của Malaysia mang biển số 8501 lại bị rớt ở đáy biển Java mang theo 162 hành khách và phi hành đoàn, trong khi vừa cất cánh từ Jakarta (Indonesia) đi Singapore được 45 phút…
Dù vậy, ở Times Square New York, trái cầu mà cả thế giới dõi mắt mong chờ count down như một thông lệ chào mừng năm mới, với hy vọng sẽ tốt đẹp hơn năm cũ, đã qui tụ hàng trăm ngàn người trẻ tuổi bất chấp cái lạnh giá mùa Đông.
Ở quanh vùng chúng tôi cư ngụ, Valley Forge Casino đã chuẩn bị hàng trăm chai Champagne sẳn sàng mở nnắp để đón khách. Liệu 2015 có khá hơn chăng?Ai mà biết được?
Tôi đã não lòng với đồng hương của tôi ở Saigon Việt Nam, tức Saigon lớn.
Còn Saigon nhỏ? Khi nghĩ đến Little Saigon là tôi có chút vui. Sao kỳ vậy cà? Saigon nhỏ hình thành khắp nơi trên thế giới, nơi có người Việt Nam sinh sống và thành lập cộng đồng. Phải chăng người Việt Nam tị nạn khắp nơi trên thế giới muốn tìm lại những gì đã mất? Vì Saigon lớn không còn của mình nữa, mà là của họ, của người chủ mới!
Những lần đến Little Saigon ở Cali, tôi tìm lại được hình ảnh quá khứ, rất Việt Nam. Hình ảnh chiếc áo bà ba, vành nón lá, tà áo dài thanh tú ngày xưa đã không còn thấy ở Saigon lớn, lại vẫn ung dung hãnh diện khoe khoang ở Saigon nhỏ, đặc biệt tôi tìm thấy được con người Saigon xưa với đặc trưng văn hóa Saigon và tôi có được từ họ, những nụ cười thân ái.
Làm sao nói hết được những gian khổ, nhục nhằn của người Việt Nam lưu lạc nơi xứ người từ 40 năm qua?
Họ đã từ bỏ hết những gì có được trong tay để làm lại từ đầu bằng bất cứ công việc gì, vị trí nào để mưu sinh nuôi sống gia đình, gầy dựng cuộc sống mới.
Biết bao mồ hôi nước mắt đã tuôn đổ cho 40 năm lưu vong? Hai ba giờ sáng phải trở dậy đáp xe buýt đến chỗ làm với đồng lương rẻ mạt, phải sinh hoạt trong những điều kiện eo hẹp, phải tiết kiệm từng đồng bạc kiếm được, và cũng không thiếu những ê chề, tủi nhục trong quãng đường dài nơi xứ người. Nhưng người Việt Nam với bản tính chịu khó, cần cù, chịu đựng gian khổ để gầy dựng tương lai cho thế hệ thứ hai.
Sau 40 năm ròng, lớp người thế hệ thứ nhất đã già rồi, một số người đã ngàn đời yên nghỉ, để lớp trẻ đầy đủ năng lực, trưởng thành vươn lên nơi quê hương thư hai này.
Họ có mặt ở các ngành nghề với vai trò lãnh đạo và thật sự bước vào chính trường của Mỹ như Janet, Trí, Andrew… ở Little Saigon Nam Cali, như Nguyễn Xuân Hùng ở Texas hay Tâm Nguyễn ở San Jose… Công việc của họ hãy còn ở phía trước, trong đó có dự định đề nghị Thượng Viện Mỹ can thiệp cho người lính cũ VNCH, những thương phế binh sống vất vưởng ở quê nhà được định cư sang Mỹ, sang Uc để bù đắp phần nào thiệt thòi của họ. Chúng ta hãy cầu nguyện cho mộng ước này thành sự thật!
Người Saigon sống dễ dãi, chan hòa tình cảm với mọi người, với bà con hàng xóm láng giềng, với đồng hương đồng khói.
Người viết cứ tự hỏi mình hoài: Ở Cali có nhiều hội đoàn, như Hội Nhớ Huế, Quảng Nam-Đà Nẵng, Bạc Liêu, Gò Công… mà sao không có Hội Saigon? Có thể Saigon là điểm hẹn, điểm đến của các miền đất nước chăng?
Ở vùng New Jersey, có Saigon Plaza, có chợ Bến Thành… và cái Logo chợ Bến Thành dùng làm bảng hiệu cho khắp nơi có Saigon nhỏ, tức Little Saigon.
Đây là niềm hãnh diện chung cho người Việt Nam, cho Saigon, cho người Saigon, cho nên 40 năm qua, tâm tình ấy vẫn đầy thương, đầy nhớ.
Bây giờ ở Little Saigon Nam Cali chắc đang có những lo toan hạnh phúc? Nào là chuẩn bị Hội Tết hàng năm, cuộc diễn hành ở phố Bolsa, cuộc thi nấu bánh chưng ở Phước Lộc Thọ, thi hoa hậu áo dài truyền thống… để đón mừng năm mới Ất Mùi 2015. Tết Việt Nam vẫn còn mãi trong lòng người Việt Nam, người Saigon!
Những chuẩn bị rậm rịch, rộn ràng của mọi người từ đầu tháng Chạp. Các bà mẹ sẽ lui cui nấu nướng sớm chiều cho ngày 30 Tết cúng rước ông bà, tổ tiên, chào đón Giao thừa. Ngoài chợ lao xao mua sắm đồ ăn thức uống, bánh trái rượu bia và nhất là hoa Tết.
Trời ơi làm sao nói hết cái cảm giác vui sướng khi đi dạo chợ hoa tìm mua những cành mai đẹp nhất? Người bán người mua lao xao nói cười, chợ ngày không đủ ngày giờ, còn có chợ đêm nữa chứ! Về đêm Cali mát rượi, đi chợ đêm vừa đi vừa ăn bắp nướng thoa mỡ hành thì hạnh phúc biết bao?
Ngày Tết đến rồi, những chiếc áo dài được phơi phóng, ủi là cho thật phẳng phiu để đem ra chưng diện với mọi người. Áo gấm chữ thọ dành cho các ông, áo gấm đủ màu, đủ các loại hoa Mai lan cúc trúc dành cho các bà và các cô gái trẻ. Ai cũng mặc áo dài, từ trẻ nít cho đến cụ già, thậm chí các dân cử Mỹ lẫn Việt trên truyền hình chúc Tết đồng hương cũng diện áo dài. Áo dài được mùa. Người viết cảm thấy thật vui, thật gần gũi với họ. Ai cũng trang trọng chúc Tết nhau, nói cười thật vui như… Tết.
Người Việt Nam ở Little Saigon nói cười với nhau trong chợ, trên xe đò, ngoài bãi biển, trên xe buýt, trong buổi coi văn nghệ… dù họ chửa quen nhau, quen nhau đôi lần, gặp nhau đôi bận, họ cũng sẳn sàng chia xẻ tâm tình, mọi hoàn cảnh được phơi bày để hỏi ý kiến, thật hoàn toàn khác với những khuôn mặt “chằm vằm” của người Saigon ở Việt Nam.
Xin lỗi bạn đọc thật nhiều vì tôi cứ nhắc hoài những hình bóng ngày xưa.
Quả thật quãng đường 40 năm của người Việt Nam với những kỷ niệm đã cũ, rất cũ, đã là của hôm qua. Và 40 năm lưu vong tị nạn nơi xứ người, cũng tưởng chừng như mới hôm qua.
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ. Rồi tất cả sẽ qua, sẽ qua, sẽ là của quá khứ rộn ràng trong lòng mỗi người dân Việt.
Dù thế giới hiện giờ chưa được bình an dù chưa hoàn toàn hạnh phúc, nhưng có lẽ nào ta lại hờ hững với mùa xuân đang từng bước đến gần?
Ở miền Đông lạnh giá mù sương này, tôi chỉ ao ước có một ngày nào đó được hưởng sự nồng ấm tình người, tình đất ở Cali, để thấy mình trẻ lại trong ngày Tết truyền thống, với văn hóa Saigon qua tiếng pháo mừng Xuân.
Với đồng hương, bằng hữu, gia đình ở Little Saigon Nam Cali, tôi xin gởi đến quý vị những tình cảm tốt đẹp, lời chúc mừng trân trọng nhất trong ngày đầu năm Ất Mùi 2015 này.
Và, với Saigon lớn của tôi ngày xưa, tôi xin chào em, Saigon 40, và chỉ xin em, tha thiết xin em, chỉ một nụ cười.
Song Lam Anh Trinh Nguyen
|
LÃO HỦ * CHUYỆN QUÊ NHÀ
CHUYỆNQUÊNHÀ
Cung điện Nông Đức Mạnh
Báo Tiền Phong on line đăng bức ảnh bí thư thứ nhất trung ương Đoàn Thanh niên Hồ chí Minh Nguyễn Đắc Vinh tới chúc tết nguyên Tổng bí thư Đảng CSVN Nông Đưc Mạnh thấy ông này ngồi trong căn phòng như cung điện của một vị hoàng đế và ghế ông ngồi có hai con rồng chầu như ngai vàng làm thiên hạ sửng sốt vì nhà ôngMạnh không khác gì một cung điện hoàng gia trong phim ảnh và cũngkhông thua gì nhà ông nguyên Tổng bí thư Đảng CSVN Lê Khả Phiêu.
Dư luận ồn lên thế là Tiền Phong on line vội rút bức hình nhưng chuyện cung điện nhà vua ở nhà ông Mạnh thì càng lúc càng ồn lên.Nhà thơThái Bá Tân tức cảnh có mấy vần
Một ông Nông Đưc Mạnh
vì sao trở thành giầu
lương bao nhiêu dân biết vậy
đất nhà do đâu
đó mới chỉ phần nổi
còn phần chìm thề nào
còn các nhà lãnh đao đang tại nhiệm thì sao?
Bài thơ như một câu hỏi nhức nhối,vì các nhà lãnh đao ĐCSVN hiện tại ai củng giầu có và nhà cửa không thua ông Nông Đưc Manh và có người còn co nhiều biệt thự ở nước ngoài.
Nhà văn Dương Nghiễm Mậu viết Từ Hải ngoai truyện
Bốn mươi năm nay người ta cứ tưởng Dương Nghiễm Mậu gác bút làm sơn mài ,nào ngờ nhà văn Ngô Thế Vinh vừa tiết lộ trên mạng internet rằng thì là DươngNghiễmMẫu vừa hoàn thành Từ Hải ngoại truyện bằng thư văn phúng thích hay đáo để.
Quốc sư đao văn
Nhà giáo Vũ Khiêu nhân vật được các lãnh tụ Đảng CSVN tôn là ""quốc sư'"",tết con Dê vừa rồi ông đã tiếp và ôm hôn hoa hậu Kỳ Duyên và tặng đôi câu đối khá là mùi mẫn nguyênvăn như sau:
Trí như bạch tuyết tăm như ngọc
Vân tưởng y thường hoa tưởng dung
Theo nhà báo Huy Đức thì cả hai về câu đối này Vũ Khiêu đã cầm nhầmcủa Lý Bach và thô tục hóa thơ Lý Bạch khi ông già trămtuổi dùng thơ Lý Bạch ve vãn cô gái 19 tuổi.
Cũng theo nhà báo Huy Đức thì Vũ Khiêu là chuyên viên cầm nhầm ông đã từng ""thuổng"" ý của Quản Trọng thời Xuân Thu bên Tầu khi viết câu đối viếng tướng Võ Nguyên Gíáp
Nhà báo Huy Đưc quí mến Vũ Khiêu luôn tự nhận là học trò cụ Hồ mà cụ Hồ lại là vua cầm nhầm trong văn chương hết lấy ý nguyên văn câu của Quản Trọng là '""Trồng cây mười năm trồng người trăm năm ""lai còn sơi nguyên văn thơ Thanh Tịnh"
"Dễ trăm lần không dân cũng chịu.Khó vạn lần dân liệu cũng xong" nhận là sáng tác của mình. Thấy nào thì trò ấy có gì lạ đâu mà phải thắc mắc!
Nguyên Tổng bí thư ĐCSVN Lê Khả Phiêu gây sóng gió
Ngay đầu năm con Dê nguyên Tổng bí thư ĐCSVN Lê Khả Phiêu đã tuyên bố một câu vàng trời rằng thì là Đảng CSVN đã hết vai trò lich sử nên rút lui để cho Đảng khác làm việc nước.
Chuyện bây giờ mới kể
Ông Vũ Hồng Khanh lãnh tụ VNQDĐ sau khi ký hiệpđịnh sơ bộ 6 tháng 3 năm 1946 rước quân Pháp vào Hà nội và thập niên 50 làm bộ trưởng Thanh Niên cho chánh phủ của thủ tướng thân Pháp Nguyễn Văn Tâm bị thiên hạ dè bỉu nhiều, không ngờ nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Cung vừa sưu tầm được chuyện sau 30 tháng 4 năm 1975 ông Khanh bị Việt Cộng bỏ tù cải tạo tại trại nữ tù Thủ Đức ông đã làm một chuyện đáng nhớ. Số là năm 1976 đai tướng Việt Cộng Nguyễn Quyết vào kiểm tra trại này thấy ông Khanh thì hỏi mỉa anh Khanh tội gì mà vào đây vậy,ông Khanh dõng dạc trả lời ""tội làm cách mạng"".
Tướng Quyết dằn giọng anh mà làm cách mạng.ông Khanh mỉm cươi nói năm 1927 tôi cùng đồng chí Nguyễn Thái Học thành lập Việt Nam Quôc Dân Đảng làm cách mạng dân tộc năm 1930 chúng tôi tổ chức cuộc khởi nghĩa Yên Bái.
Chúng tôi làmcách mạng trước khi Đảng Cộng Sản của các anh ra đời những ba nămđấy. Tiếng nói của Vũ Hồng Khanh làmNguyễn Quyết cứng họng nên năm 1977 Vũ Hồng Khanh bị đưa về Thổ Tang sống với con gái trong chế độ quản chế. Đảng CSVN đã sai nhà văn Nguyễn Khải về đây ba cùng với Vũ Hồng Khanh rồi viết cuốn tiểu thuyết Cõi Nhân Gian Bé Tì bôi bác cuộc đời Vũ Hồng Khanh đủ điều nhưng vẫn lộ ra là Nguyễn Khải khâm phuc Vũ Hồng Khanh.
Nhà báo nhà nho Huỳnh Thúc Kháng bị Việt Cộng thủ tiêu
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Cung thì nhà báo nhà nho Huỳnh Thúc Kháng vì ngây thơ và cả tin đã bị Hồ Chí Minh lừa làmbung xung để chúng lợi dụng đàn áp các Đảng pháiquốc gia năm 1946 vì vậy sau đó ông đã tỉnh ngộ dặn con cái rằng ông qua đời phải chôn sấp chứ không đươc chôn ngửa vì ông già mà còn dại để thiên hạ qua mặt,chính thái độ này cũa nhà báo Huỳnh Thúc Kháng đã khiến Việt Cộng ra tay thủ tiêu ông bằng cách tiêmthuốc độc cho chết.
BáoVăn Nghệ đòi đổi mớithể chế
Báo Văn Ngjhệ cơquan ngôn luận của Hội Nhà Văn VN trong số Xuân con Dê đã đăng bài Mùa xuân nói chuyện đổi mới thể chế viết rằng'""Bước vào năm mớiđiều đán g mừng nhất là việc đổi mớithể chế kinh tế đang được triển khai cùng với đổi mới thể chế chánh trị cũng đang nhận được sự đồng thuận cao của mọitầng lớp nhân dân gắn liền với mở rộng dân chủ nhân quyền'"".Báo Văn Nghệ dám đề cập vấn đề nhậy cảmlà ""đổi mớithể chế chánh trị""chắc sẽ còn nhiều chuyện ly kỳ xẩy ra.
Hai Blog được tại ngoại
Hai blog Nguyễn Quang Lập và Hồng Lê Thọ bị công an ThànhHồ bắt giamvì vi pjhạm điều 258 bộ luật hình sự đột nhiên đươc công an chotại ngoại về nhà ăn tết.Theo giới thạotin thì công an Thành Hồ thay đổi thái độ vì VNcần đươc ký hiệpđịnh TPPnên công an phải""mềm""một chút.
Đấu đá
Thế là Hội Nghị 10 ban Chấp Hành Trung ươngĐảng CSVN đã quyết định thông qua danh sách 22 nhân vật trong ban bí thư và bộ chánh trị cùng 290 nhân vật trong ban chấphành trung ương Đảng CSVN khóa 12,nghĩa là đai hội 12 không có bầu cử ứng cử các chức danh ủy viên trung ương Đảng vì ban chấphành trung ương khóa 11 đã cơ cấu xong nhân sự rồi đại hội chỉ có việc bỏ phiếu thông qua. Sau hội nghị 10 ban tổ chức trung ương bắt đầu sắp xếp những nhân vật không ăn ý với ban tổ chức rời vị trí bí thư tỉnh ủy để đưa nhân sự mới lên thay thế dù còn một năm nữa đai hội 12 mới họp.Thế là chuyện ly kỳ diễn ra liền nhân vật nào vừa rời đia phương về trung ương thủ tướng Dũng đều nhận về làmthứ trưởng để củng cố lưc lượng.
Theo tin Lão Hủ nhận đươc thìhội nghị 10 đã thông qua danh sách Bộ Chánh Tri khóa 12 có tên thủ tướng Dũng nghĩa là thủ tướng Dũng còn tồn tại tới khóa 12 nên hứa hẹn nhiều trận đấu đá mới rất cụp lạc.
Nhất liên hệ nhì tiền tệ ba trí tuệ
Theo tác giả Nguyễn Cần viết trên bán nguyệt san Văn Hóa Phật Gíaó số 217 cơ quan ngôn luận của ban văn hóa GíaoHội Phật Gíao VN thì bộ máy nhà nước Việt Nam sở dĩ hoạt động kémhiệu quả là vì 40 phần trăm cán bộ công nhân viên chức là thuộc loại con ông cháu cha khả năng làm việc tồi tệ Cũng theo tác giả Nguyễn Cần nguyên nhân dẫn tới tình trạng này là vì bộ máy tuyển dụng nhân sự đãlàm việc theo nguyên tắc nhất liên hệ[con ông cháu cha đươc ưu tiên tuyển dụng]nhì tiền tệ [có tiền hối lộ ưutiên hai]ba trí tuệ[có bằng cấp ưu tiên ba]
Chuyện ông Nguyễn bá Thanh
Thế là ông Nguyễn bá Thanh đã về thế giới bên kia nhưng tại sao ông lại chết yểu thì thiên hạ vẫn không ngớt bàn tán.Nào ông Thanh bị ""đồng chí"" Nguyễn Xuân Phúc nhờ điệp viên Trung Quốc hạ độc bằng tia phóng xa,nào ông Thanh bị thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho""đi đoong""nào chínhTổng bí thư Đảng CSVN Nguyễn Phú Trọnng cho lệnh thanh toán ông Thanh
Tội nghiệp Nguyễn bá Thanh chết cũng chưa yên.
Học thuyết bốn toàn diện
Ông Tập Cận Bình lên làm lãnh đạo tại Trung Quôc vội vã chôn sống học thuyết Ba đai diện của ông Giang Trạch Dân và xua một lô tay chân của ông Dân vô tù đồng thời đưa ra học thuyết,bốn toàn diện đó là
1- xây dựng một xã hội thịnh vương toàn diện
2- cải tổ sâu sắc toàn diện
3- thưc hiện nhà nước phápquyền toàn diện
4- thưc hiện kỷ cương Đảng toàn diện
Thuyết bốn toàn diện của ông Bình cho thấy Trung Quốc đang xây dưng một nhà nươc tư bản đỏ với Đảng CSTQ giữ vai trò toàn trị và ông Bình trở thành mộthoàng đế mới vớitriềuđình là thường trưc bộ chánh trị Đảng CSTQ .
Đảng CSVN định nghĩa lại ""kinh tế thị trương đinh hương xã hội chủ nghĩa""
Sau khi tổ chức hội thảo về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,các ông tiến sĩ kinh tế của Đảng CSVNđềunói chỉ có nền kinh tế thị trường chứ chẳng làmgì có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nênban tuyên giáo trung ương Đảng đã quyết định viếtlại đinh nghĩa kinh tế thị trường định hướng xã hộichủ nghĩa là cái gì trong báo cáo chánh trị đem trình đai hồi Đảng CSVN .khóa 12. Theođịnh nghĩa này thì kinh tế thị trường phảithuần túy là kinh tế thị trường chỉ vớisự ca n thiệpcủa nhà nước khi cần thiết,và chỉ thế thôi.
Nhà văn hóa Thái văn Kiểm đã về cõi vĩnh hằng
Nhà văn hóa Thái văn Kiểmsinhnăm 1922 tại Huế ông có hai bằng tiến sĩ tại Pháp mớiqua đời ngày 21 tháng 2 nặm hương thọ 93 tuổi. Nhục thân ông Kiểmđươc chôn tại nghĩa trang Bình Dương ở VN
LÃO HỦ
NGUYỄN THIÊN THỤ * CÁC VĂN THI SĨ VIỆT NAM SUY NGHĨ VỀ CỘNG SẢN
CÁC VĂN THI SĨ VIỆT NAM
SUY NGHĨ VỀ CỘNG SẢN
SUY NGHĨ VỀ CỘNG SẢN
NGUYỄN THIÊN THỤ
Các văn thi sĩ ở đây gồm những người quê hương ở phía nam Bến Hải, và những người miền Bắc di cư vào miền Nam trong khoảng 1945-1975. Những người này đã có những cái nhìn về chủ nghĩa cộng sản rất thấu đáo và sáng suốt.
Từ trước tại Miền Nam đã có những người hiểu rõ chủ nghĩa cộng sản như Huỳnh Giáo chủ, Phạm Công Tắc. Và trước đó là những Sư Vãi Bán Khoai, Tứ Thánh , Nguyễn Văn Thới.. . Tư tưởng cuả các vị này đã được thể hiện qua kinh sách Bửu Sơn Kỳ Hương truyền qua Phật giáo Hòa Hảo và Cao Đài.
Tứ Thánh là một cậu bé 9 tuổi được thánh nhập xác phàm, trong khoảng 1925 đã đọc những câu thơ tuyệt diệu truyền đời nói về tương laì Việt Nam:
Chiến tranh xảy ra giữa Pháp và Cộng sản:
Phiên bang đảng cộng đôi đàng.
Chiến tranh giành giựt xóm làng thác oan.
Pháp (cờ tam tài: ba màu), Mỹ ( quốc huy con ó) rút khỏi Việt Nam:
Ba màu phải chịu thớt thưa.
Cây cùng nòi giống sớm trưa giúp rày.
Thanh- long nối gót trổ tài.
Thòng vòi lấy nước phun ngoài âu quân.
Kiếm chi khó nổi bền quân.
Rút về Gia- định ngăn chừng Đồng- nai.
Trời ôi ! sao ó biến (biếng) bay.
Xe kia biến (biếng) chạy tại ai xe ngừng.
Súng sao biến (biếng) nổ không chừng.
Chư bang thập bát ngập ngừng ngẩn ngơ.
Nhưng Mỹ sẽ trở lại:
Gầm trời ó cất cánh bay.
Nửa chừng dấp dới bằng nay dập dều.
Chiến tranh thú ba sẽ xảy ra tại biên giới Việt Miên:
Đổi Châu-Đốc, đổi Tịnh-Biên.
Thất- sơn lại đổi Hoa liên Nhà-Bàn.
Qua liền năm nước chật đàng.
Qua lộ Văn giáo máu tràn như sông.
Đổi nhật, đổi nguyệt, đổi phong.
Đổi năm, đổi tháng, đổi trong ngày giờ.
Cộng sản thất bại:
Chó thấy trời mọc phải tru.
Thảm thương chú cộng công phu đợi chờ.
. . . . . . . .. ... ..... .. .. . ..
Thương công chú cộng chan dầm.
Vào sanh ra tử lại lầm kế ai.
Hội Long Hoa sẽ mở tại vùng Thất Sơn, thế giới hòa bình, Việt Nam thịnh trị.
Núi rừng trồ ngọc trổ ngà.
Long-hoa lại trổ trên tòa Thượng-nguơn.
Nam-bang một lá quế đơn.
Năm châu tựu hội Thất sơn đông đầy.
TỨ THÁNH
Bửu Sơn Kỳ Hương cũng có Sấm Trạng Trình (Giảng Xưa) nói về Việt Cộng ngu dốt và tàn ác:
Chừng nào thằng ngốc làm vua,
Thế gian cạo trọc, thầy chùa để râu.
Cuộc đời ai dễ biết đâu,
Yêu tinh đặng thế bóp đầu thằng kiên.
Quan làng ỷ thế, ỷ quyền,
Dầu khôn giả dại mới yên phận mình.
. .. . .... .... . .. ... ..... ...... . . . . . ..
http://thanhsi.org/samgiang-giangxua/SamTrangTrinh.mp3
hoặc:
BỬU SƠN KỲ HƯƠNG * SẤM TRẠNG TRÌNH (GIẢNG XƯA)
Ông Nguyễn Văn Thới trong 9 quyển Kim Cổ Kỳ Quan đã nói rất rõ về tương lai thế giới và Việt Nam, trong đó ông nói về Việt cộng làm tay sai Trung Quốc và bị Trung Quốc xâm lăng:
Ông cũng kết tội Việt Cộng tàn ác, đối xử tàn bạo với nhân dân miền Nam.
Sau 1945, một số người theo Tàu, một số người theo Pháp, Mỹ. Ông Ba đã biết sự phân hóa trong đất nước Việt Nam:
Bầu Tây thêm vị bầu Tàu.
(TG, 231, 73)
Nước lộn xỏ rế Tây Tàu,
Đố ai biết đặng chỗ nào nước trong?
(TG, 202; 16)
Sau khi Pháp Mỹ về nước thì Việt Nam khốn khổ vì nghèo đói và độc tài:
Càng thấy khổ ngày càng túm rụm,
Tây về Tây người khó bụm khu . (KT 278, 19)
Tây về đói khát nằm dài
Đừng lo mắng lén chưởi xài người Tây(Thừa nhàn)
Ông kết tội Hồ Chí Minh và cộng sản là bọn " giật đồ", cướp bóc:
Mắc mưu chú Nhẫn chú Hồ ,
Truông mây chiếm cứ dực (giật) đồ ăn no
Giàu nghèo chưa chắc đừng lo
Hội nầy nhà ngói của kho chẳng còn
(Thừa nhàn)
Một lũ Trịnh Hồ dực (giật) đồ ải ải
Tào mang
Bây lại xưng trung tứ tung lũ nịnh.
(Cáo thị)
Sống trong chế độ cộng sản, bọn cộng sản độc tài tham nhũng, làm cho con người bị tha hóa, mất tự do, không có dân chủ và công lý:
Dân xưa như thể gỗ tròn
Dân nay bát giác dạ còn lục lăng
Thương dân không cội không căn
Tây-phiên trấn thủ lo ăn bạc tiền
Đa ngân phá luật phản tiền
Tòa-sơ thầy kiện cải liền bạc trăm
Khiến dân bất chánh tà tâm
Người quấy mà có bạc trăm phải rồi
Đồng bạc bất chánh bại tồi
Mắt tham đồng bạc thôi rồi nghĩa nhân.
(Thừa nhàn)
Cộng sản Bắc Việt ( Bắc địa) phỉnh phờ, lừa dối. Chúng xuyên tạc lịch sử, chúng bắt văn nghệ sĩ ca tụng chúng theo chủ trương hiện thực xã hội chủ nghĩa nghĩa là theo chủ trương nói láo và nịnh hót. Ai nói thẳng, ai trung cang đảm lược phê bình chúng thì chúng bỏ tù hoặc trừng phạt nặng nề như nhóm Nhân Văn Giai Phẩm :
Trách thay Bắc địa lộng tình
Tác thơ kinh sử bất bình trung cang
Đêm nằm nát một lá gan
Oán thù nịnh tặc chẳng an trong lòng.
(Thừa nhàn)
Tận nhà Hớn Bắc kinh á vị ấy làm vậy người cũng không ngờ
Nam kỳ địa bị vây thậm khổ
Biệt từ hải ngoại khứ mang mang
Trức (Trực) đáo lâm san an tỵ tử
Ta hồ hung dữ tử vô phân
Chư sự tùng tân vận ân chí
Hoàng thiên định lý ý vị ngoan.
(Bốn tuồng)
Sau 30- 4-1975, dân miền Nam từ nhân viên chính phủ, sĩ quan quân đội và nhân dân ( sát hại quân thần ) bị cộng sản giết hại, tù đày mặc dù họ chẳng có tội tình gì:
Kẻ không tội bắt giam ?
Còn người gian tham khỏi hại ?
Người khiến nhiều lẽ Nam kỳ tồn bại
(Ý người muốn)
Tuyệt kỳ hang sát hại quân thần
(Kim cổ)
Cộng sản (Tây phiên) bắt dân đi đào kinh và lao động không phân biệt dân thành thị, thôn quê, không phân trí thức và lao động
Bắc chiên nhiều người quên cười biếng khóc
Tây phiên nả tróc bắt tốc cường thọ trường dân bộ
Đa binh nhứt ngộ nhập mộ đa điền
Làng bắt đi liền kinh tiền Vỉnh Tế tận thế đa nhơn
Quan cựu vô phân hành đàn nhựt dạ.( Cáo thị)
Sau 1975, dân miền Nam bỏ nước ra đi. Sài gòn dân cư đông đúc, có lúc tan tác ( bể om). Dân chúng Sai gòn và các tỉnh phải bỏ nước vượt biển, các nước thấy dân ta bơ vơ nên thương xót ( cảm thương) mà giúp đỡ bằng cách cho định cư tại Mỹ,Pháp, Anh,Úc, Nhật, Đức. . .
Thương đông đảo là xứ Saì gòn,
Bể om việc trước, hao mòn khắp nơi.
Cũng như buồm ra biển chạy khơi,
Cám thương các nước không nơi cậy nhờ. (KT, 202, 47)
(Xứ Sài gòn : có thể hiểu là miền Nam)
Phe Cộng sản theo Trung Cộng và bị Trung Cộng lợi dụng để rồi chúng xâm chiếm Việt Nam:Bọn Trung Cộng đã làm Thầy ( cố vấn) cho Việt Cộng, dạy chính trị, quân sự và cung cấp vũ khí cho Việt Cộng, Việt Cộng đắc chí, cam tâm làm nô lệ bưng trầu rót nước:
An Nam con chú bên Tàu,
Ra tài dao bảy dạ vào búa tay.
Nghề võ người thiệt tài hay,
Bưng mâm, bưng nước giỏi nay lạ lùng.
(TG218, 48)
Ông Ba biết trước việc Trung Cộng sau 1975 thay đổi bộ mặt, ló đuôi chồn, ra sức ép buộc Việt Nam, quấy rối, xâm phạm Việt Nam:
Nên muôn dân kẻ dọc người ngang,
Cũng vì bởi Tàu man quấy rối (KT, 278, 20)
Trung Cộng phạm nhiều tội với Trời Phật. Tội thứ nhất là xâm lăng Việt Nam. Chúng không chỉ quấy rối biên cương và hải đảo. Chúng sẽ đưa quân xâm chiếm Việt Nam, giết hại vô số người Việt:
Sát Nam địa Tàu nguy mới đáng
(KT 276, 20)
Vì dã tâm xâm chiếm Việt Nam mà Trung Cộng gặp thất bại đắng cay:
Bắc Kinh dương lụy cảm chuổi sầu,
Tại vì ai sớm dứt Nam lầu. (KT 260,131)
Pháp vì lòng tham chiếm Việt Nam rồi cũng phải bỏ. Tàu tham chiếm Việt Nam rồi cũng phải lui:
Tây tham tây chịu gian nan,
Tàu tham Tàu cũng chớ tham khúc tùng.
(TG 239, 90)
Ông Ba Thới đã thấy một ngày Trung Quốc sẽ bị mất nước và Việt Nam do đó mà phục quốc, đòi lại những đất đai đã mất, và không còn bị Trung Quốc lấn áp về kinh tế, chính trị:
Bắc kinh mất, nước Nam nhờ
(Tiềng giang, 209, 29)
Hiện nay Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, Trường Sa và biên giới Việt Nam. Chúng dàn quân biển Đông. Chúng có đánh chiếm toàn quốc Việt Nam hay không? Theo văn nghĩa, các chữ" Sát Nam", " Qua nước Nam" , " dứt Nam lâu " thì có nghĩa là Trung Quốc sẽ đổ bộ, chiếm đánh và tàn sát người Việt từ Bắc chí Nam chứ không phải chỉ lấp ló ở biên cương và ngoài hải đảo.
Trong khi một số cộng sản theo Trung Cộng, một số phản đối. Muốn có độc lập, tự do, Việt Nam họ phải cầu viện Tây phương. Một người nào đó đã sang Âu Mỹ cầu viện, và được Âu Mỹ đồng ý viện trợ, nên khi trở về, thành công trong việc giành độc lập cho Việt Nam:
Qua Tây nhất bái cúi đầu,
Trở về Nam quốc lập lầu Nam bang ( Thừa nhàn)
Không những nước ta độc lập mà còn có mười tám nước " chư hầu". Có lẽ lúc bấy giờ địa lý thế giới biến cải, trật tự thế giới được lập lại, có mười tám tiểu quốc với nước ta trở thành một liên bang. Phải chăng vì tình hình chính trị, kinh tế và quân sự đòi hỏi, nước ta liên kết với Miên, Lào, Thái Lan, Miến Điện, Phi Luật Tân, Singapore và các nước nữa thành Liên bang Việt Nam hay liên bang Đông Dương, hoặc liên bang Đông Nam Á mà Việt Nam là nước đứng đầu.
Trước đó, Sư Vãi Bán Khoai đã nói:
Nước Nam như thể cái lầu/Ngày sau các nước đâu đâu phục tùng.Trước đó, Sư Vãi Bán Khoai đã nói:
Giảng Xưa của Đức Sư Vải Bán Khoai, phần IV.
http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_283_ArticleID_3516_.aspx
Ông Ba cũng có ý kiến tương tự và nhắc lại nhiều lần:
Nước Nam như thể cái chùa
Ngày sau các nước bốn mùa bán buôn
(Vân Tiên 2)
Ngài Hộ Pháp Phạm Công Tắc đã thấy ngày cộng sản chiến thắng và thất bại, đã khuyên các đạo hữu:
Khi Cộng sản đúng thời đúng buổi
Chiếm Nam Quan cho đến mũi Cà Mau
Lúc bấy giờ Hội Thánh phải nói sao?
Khi đã lở lâm vào trong thế khó
Khi Cộng Sản chiếm quyền hành trong lúc đó
Biết bao nhà tôn giáo phải suy vi
Cấp lãnh đạo và các phẩm chỉ huy
Đứng không vững cho nên vấp ngã
Làm tên tuổi lợi danh tiêu mất cả.
Cộng ngày sau sẽ tan rã không còn.
Khi dân tình khôi phục lại nước non
Khuyên tín hữu lòng son cố tránh.
THÍCH THIỆN MINH * PHẠM CÔNG TẮC
Sau 1954, một số văn thi sĩ và học giả miền Bắc vào Nam đã tăng cường lực lượng chống cộng tại miền Nam. Người nhiệt tình nhất là tiểu thuyết gia, lý thuyết gia Nguyễn Mạnh Côn, bên cạnh đó còn có Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng là những kịch tác gia tích cực. Nổi bật nhất là Doãn Quốc Sỹ và nhóm Sáng Tạo.
Trước cuộc chiến tranh ý thức hệ, các thi sĩ đã lựa chọn chỗ đứng cho mình trong lòng dân tộc.
Nguyễn Chí Thiện sống trong lòng cộng sản đã anh dũng chống cộng. Trong Hoa Địa Ngục, ông viết nhiều bài thơ tuyệt diệu:
Khiếp sơ, sững sờ tê dại,
Lịch sử quay tít vòng ngược lại
Thời hùm beo rắn rết công khai.
Ngàn vạn đãu trường mọc dậy giữa ban mai
Đúng lúc đất trời nhợt nhạt
Bọn giết người giảo hoạt
Nâng cốc mừng thắng lợi liên hoan
. . . .. . . . . . .
Bãi sú, bờ lau,rừng rú
Thây người vun bón nuôi cây
Đạo lý tối cao ở xứ đồng lầy
Là lừa thầy phản bạn
Và tuyệt đối trung thành vô hạn
Với Đảng, với đoàn, với lãnh tụ thiêng liêng
Hạt thóc hạt ngô phút hóa xích xiềng
Họa phúc toàn quyền của đảng (28).
Tội nặng hơn hết là Hồ Chí Minh. Dưới mắt Nguyễn Chí Thiện, Hồ Chí Minh là một hung thần, ác quỷ, đã gây ra bao đau khổ cho nhân dân Việt Nam:
Hang Pác Bó hóa thành hang ác thú
Bác Hồ già hóa dạng bác Hồ Ly
Đôi dép lốp nặng bằng trăm đôi dép sắt
Bộ ka ki vàng, vàng như mắt dân đen
Quỷ quá đê hèn, lừa đảo!
Gia tài tra khảo cướp trơn tay ( 31-32).
Thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã nói đến chiến tranh Việt Nam, đến cuộc tấn công mậu thân 1968 của Cộng sản tại miền Nam.
-Thế là con ác nhả sân bay rồi bỗng lên dần
Thế là bầy rắn nhổ neo vừa phun nọc độc
Thế là đoàn bọ hung sang số bay đi
Thế là cánh tay người buông rũ liệt
Thế là xong. . . là hết. . . .
Thế là không còn chi. . .
Ôi Chiến tranh làm biệt ly
Như bọt vỡ trên sông trên biển
Như bụi nát nhừ trên đường ra hỏa tuyến . .
(Thế là)
-Khổ đau tràn bốn cửa Thành
Dư ba chợ Bến, hồi thanh xóm Chùa
Ngựa Thời gian phá trường đua
Hí lên cho bước Giao Mùa nhịp theo
Đường Hai Mưoi lắng chuông gieo
Gối tay thế kỷ nằm heo hút buồn
Dưới kia thác lũ mưa nguồn
Lệ hay mạch nước ào tuôn vỡ bờ?
Lật coi giòng máu chưa mờ
Bạch thư dày mấy muôn tờ đất đen.
( Đào sâu trang sử)
Một số thi nhân Miền Nam đã ngồi tù trong đó có Vũ Hoàng Chương. Tô Thùy Yên đã nói lên nỗi đau khổ khi trở về nhà sau bao năm bị cộng sản giam cầm:
Hề, ta trở lại gian nhà cỏ
Sống tàn đời kẻ sĩ tàn mùa
Trên dốc thời gian, hòn đá cuội
Lăn dài kinh động cả hư vô ...
Hề, ta trở lại gian nhà cỏ
Tử tội mừng ơn lịch sử tha
Ba vách, ngọn đèn xanh, bóng lẻ
Ngày qua ngày, cho hết đời ta...
...Ta ngồi cho đến khi trời trắng
Đồng ruộng xanh đông đúc tiếng người
Ta rảo quanh làng hóng chuyện phiếm
Đời người cũng chuyện phiếm mà thôi...(Hề, Ta Trở Lại Gian Nhà Cỏ)
Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay,
Chút rượu hồng đây, xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này
Ta khóc tạ ơn đời máu chảy
Ruột mềm như đá dưới chân ta
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó
Người thức mong buồn tận cõi xa
Ta về như hạt sương trên cỏ
Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt
Tội tình chi lắm nữa người ơi…
(Ta về)
Thanh Tâm Tuyền đã nói lên những ngày tháng khổ sai trong nhà tù cộng sản:
Tuột dốc té nhào trên hẽm núiChết điếng toàn thân trong giây lâu
Mưa rơi đều hạt mưa phơi phới
Ngày đang tàn hiu quạnh rừng sâu
Duỗi soài chân tay gối trên nứa
Ngó trời nhá nhem nghe mưa mau
Tưởng chừng thi thể ai thối rữa
Hồn viễn vông chẳng chút oán sầu
Mưa giăng tấm lưới trắng dày khít
Làng xóm dưới núi ở phương nào?
Gió lạnh tái tê bó liệm chặt
Lã thiếp người quên bẵng xước đau
Đầm mình trong hạnh của ẩn mật
Mắt hoen nhòa thấm giọt thiên thâu
Dò dẫm lối về đêm tối mịt
Sông xa núi thẳm quê nhà đâu?
(Ngã trên núi Việt Hồng ở Yên Báy khi đi vác nứa)
Du Tử Lê đã lên tiếng tố cáo cộng sản giết hại nhân dân, và làm cho đời sống nhân dân ngày càng thêm cơ cực:
Khi ở đây mới chiều
quê hương tôi đã sáng
buổi sáng, không áo quần
buổi sáng không miếng bánh
buổi sáng cố nuốt trôi
trăm ngàn đe dọa mới
Khi ở đây mới chiều
quê hương tôi đã sáng
buổi sáng chờ tin chồng
- chết rồi trong nhà ngục
buổi sáng chờ xác cha
lãnh về không nguyên vẹn
( Thơ Tình. buổi sáng quê hương tôi)
Vì cộng sản mà Du Tử Lê cùng hàng trăm ngàn người Việt Nam đã bỏ xứ ra đi liều thân trên biển cả để tìm tự do. Du Tử Lê đã tâm sự với người bạn ngoại quốc:
Anh nghe gì vọng lại?
Bên kia thái bình dương
từ vùng tăm tối đó
đồng bào tôi lên đường
Ba năm vùng biển ấy
bao người đã tan thây
ba năm vùng Đông Á
ai đếm? Bao tù đầy.
Hãy hình dung hộ tôi
Tóc người trôi đầy biển
xác trẻ vữa như vôi
những tiệc người của cá
Nhưng họ vẫn ra đi
dù nhân gian ngoảnh mặt
nhưng họ vẫn an nhiên
ném thân vào cõi chết
Bởi mặt trời phương đông
đã không còn mọc nữa
và họ muốn làm người
nên chẳng còn cách khác
(Thơ Tình. bình minh nhân loại mới)
Ngã Sáu Sài Gòn có những bộ lạc về từ rừng sâu tiền sử
Từ kinh tế mới âu sầu mất hướng
Trại lưu đày dựng bên bờ đại lộ quê hương
Bên kim tự tháp rác rưởi trầm ngâm
Lửa hờn căm đốt sôi lòng nồi nhỏ
Sưởi ấm ruột gan rét cóng giữa trưa hè
Bằng những hạt cơm trừu tượng
Bằng vài lời hứa. . . thiên đường trần gian. . .
(Nửa Khuya Giấy Trắng. Tháng 4.. . Mưa Ngâu dầm dề)
Thi sĩ đã chứng kiến bao cuộc sống của Sài Gòn đã bị vô sản hóa, bần cùng hóa sau 1975:
Tôi đi xe bus Sài Gòn
Xa cảng miền Tây
Xe Cây Mai Phú Thọ Hòa
Xe tã như giẻ rách
Trong lòng quê hương
Rách tơi bời!
Kính chiếu hậu vỡ từng mảng vụn
Như con ngươi mắt trợn trừng nhìn vào thực
tế phủ phàng
Mui xe gồ ghề mu rùa cong cong
Đập mạnh vào sọ não người tài xế già
theo nhịp bánh xe quay
. . . . . . . . . .
Xe nêm cối có đứa trẻ mồ côi
Mặt rầu rầu bán trái cóc với kẹo đồng đôi
Có anh thương phế binh gãy đàn tay trái
Chiều nay ta trở về bại tướng què chân. . .
Có thằng móc túi bị lôi phăng xuống bến
Vào trụ sở quân cướp ngày oai phong
Có hơi người nồng nặc giữa chiều đông
Có mùi rác rưởi trên xe gầy ốm tong teo
Đồng bào tôi áo chằng áo đụp
Mình võ vàng ngàn nỗi thiếu ăn
Đồng bào tôi đi về đâu chiều vô định
Giòng lịch sử lênh đênh chiếc bách
Đồng bào tôi có tội tình gì?
(Nhớ Đất ThươngTrời . Sài gòn xe bus nội ngoại thành)
Ông cũng tố cáo việc cộng sản bán dân:
Tin AFP rao truyền khắp năm châu bốn biển
''Trong năm năm gần đây 5000 (hay 50,000?) con gái Việt Nam đã được bán buôn dưới nhiều hình thức''
Những người con gái từng thấy trong ca dao
Trong thơ Nguyễn Bính chân quê
Trong thơ Hàn Mặc Tử chị ấy năm nay còn gánh
thóc dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
50 năm trước đây, thời thực dân mấy đời
bánh đúc có xương
Họ còn được là cô dâu trinh trắng nón quai thao về
nhà những chàng trai quan họ quần chùng
áo dài nguyên nếp tình quê
5000 ngưồi con gái Việt Nam ấy, hôm nay sau cơn mê sảng ý thức hệ,
mà họ không hề tạo nên,
đã là món hàng tươi sống xuất khẩu
1. Về những phường dạ lạc Hồng Kông
2. Về những xóm yên hoa Ma Cao
3. Về đảo quốc Đài Loan xả xui bằng chữ ngàn vàng
4. Về vùng Lưỡng Quảng chiều mưa biên giới em đi về đâu?
5. Về niềm tủi nhục ngửa nghiêng Vọng Các thủ đô
ổ nhện suốt sáng thâu đêm. . . .
( Hạnh Phúc Đến Từng Phút Giây. Mẹ Âu Cơ hôm nay khóc hay cười?)
Một đôi khi thi sĩ cũng châm biếm chủ nghĩa cộng sản:
Lằn đường, lane đường
Mù mịt tít mù
Chạy mút mùa như đời cải tạo không án lệnh
Chạy phân minh nhị nguyên
Như đường ranh tư bản dẫy chết. . . vẫn sống nhăn răng
Như đường ranh vô sản tiến nhanh tiến mạnh về thiên đường mù
(Hạnh Phúc đến Từng Phút Giây . Buổi chiều góc cạnh)
Thi sĩ tin tưởng một ngày kia dân Việt Nam sẽ vùng lên đập tan xích xiềng để giành lấy tự do:
nhất định
sấm sét cuồng phong sẽ vùng dậy
từ những đốm lửa nhỏ
từ những di động vi ba
Tần Thủy hoàng chết khô
Trong lửa đỏ Hàm Dương
phần thư! phần thư!
nhưng bài thơ vẫn tồn tại
trọn vẹn
ung dung
trên nẻo đường khai phá
nẻo đường tự do
(Hạnh Phúc đến Từng Phút Giây. Làm thơ sau cơn hồng thủy)
Phan Lạc Phúc it khi làm thơ nhưng trong những ngày tháng xa gia đình đã có vần thơ trác tuyệt:
Có nghĩa gì chia xa
Có nghĩa gì cách trở
Anh phải sống bằng tình xưa
Anh sống bằng nỗi nhớ
Anh nhớ em buổi sáng
Anh nhớ em buổi trưa
Nhớ em khi trời nắng
Nhớ em khi trời mưa
Nhớ em trong giấc ngủ
Thấy em đầy trong mơ. . . .
(Nỗi nhớ - Bè Bạn Gần Xa)
Các văn sĩ có ý thức chính trị thì rất đông đảo, nhất là sau 1975. Các tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Mạnh Côn, Vũ Khắc Khoan mang tính chất chính trị rất sâu sắc. Trong Gánh Xiếc, Doãn Quốc Sỹ đã so sánh gánh xiếc và cộng sản:
Khắp nơi báo chí đều đăng tin 'Một gánh xiếc làm trò quỷ thuật bị lộ tẩy'. Ông kết luận bằng một suy tưởng về triết lý chính trị. Ông viết về cuộc di cư của đồng bào miền Bắc vào miền Nam:
Đó cũng là sự tích một gánh xiếc. Có điều khác là gánh xiếc ở Ấn Độ đến rồi phải đi , ở Bắc Việt hiện nay trái lại có gánh xiếc đến, chính dân chúng phải đi. Gánh xiếc chính quyền có khác!Và tôi nghĩ: nếu trong đám đông xem trò quỷ thuật chỉ cần một người tỉnh mà cả gánh xiếc phải tan thì trong khi những gánh xiếc chính quyền to nhỏ trên sân khấu quốc tế làm trò, số người tỉnh có khi là hầu khắp thế giới. Họ không thất bại sao được? (24)
Ông kết án cộng sản:
Sau sáu năm kháng chiến, rồi tới một ngày kia tỉnh ngộ lòng đau như cắt. Tâm chẳng tự hỏi vì quá vô tình hay quá thực thà chỉ biết tỉnh ngộ thì đã quá muộn, nhưng dù quá muộn còn hơn không (158).
Ghét thực dân và cộng sản, ông viết:
Ở thế giới Thực dân tư bản, người ta tung vật chất ra để giam lỏng linh hồn; ở thế giới cộng sản, người ta phong tỏa vật chất để mua rẻ linh hồn. Cả hai cùng thất bại! Linh hồn nhân loại chỉ có thể mua được bằng tình thương yêu rộng rãi và chân thành.''( Gìn Vàng Giữ Ngọc)
Chiến tranh là một thực tại vây phủ nước Việt trong bao thế kỷ cho nên các tác giả đã chú trọng đến các đề tài chiến tranh. Nhã Ca, Phan Nhật Nam, Xuân Vũ, Kim Nhật cho chúng ta thấy chiến tranh xảy ra công khai trước mắt mọi người bằng súng đạn, bom, và mã tấu. Nhã Ca mang tâm trạng đau đớn của người dân đêm đêm sợ hãi khi nghe tiếng đại bác. Đại bác đã đến trong cơn mộng, và AK cũng đã hiện đến trước mắt bà với nhà tan, vườn cháy và xác người vương vãi khắp nơi trong Giải Khăn Sô cho Huế. . Nhã Ca đã nói đến sự sợ hãi và căm thù của nhân dân Huế đối với cộng sản và bọn tay sai như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân. . .
Xuân Vũ, Kim Nhật là những nhân vật từ thế giới bên kia bất chợt hiện đến kể cho chúng ta những câu chuyện bi thảm trên đường mòn Hồ Chí Minh và mật khu Việt Cộng. Phan Nhật Nam, Phạm Huấn, viết về những trận đánh mà đại bác của địch vang rền suốt ngày đêm cho một tiền đồn heo hút. Phan Nghị, Phan Lạc Tiếp viết về những vùng đất xa với những nghĩa quân đang gìm nấc súng suốt ngày đêm trong hầm đầy bùn và nước lạnh .Trong số này, Xuân Vũ là người mạnh mẽ nhất đã nói lên sự gian dối và tàn bạo của cộng sản. Ông cũng nói lên óc thực dân và óc cục bộ của cộng sản miền Bắc đối với người Nam bộ tập kết ra Bắc.
Ông đã viết lời tựa cho quyển Đường Đi Không Đến , trong đó có đoạn:
Yêu nước thì phải thương dân, trước hết phải lo cho dân có cơm áo. Yêu nước nhất quyết không phải là mưu đồ sự nghiệp cá nhân, mặc cho dân chúng lầm than, quê hương tan nát. Yêu nước càng không phải là điên cuồng nhắm mắt đưa toàn dân vào con đường tranh đấu ngu xuẩn và vô vọng có thể mang tới hậu quả diệt quốc, diệt chủng. Yêu nước lại càng không phải là cưỡng bức nhân dân thắt lưng buộc bụng, nhịn đói nhịn khát để tập trung tài nguyên nhân lực vào việc dùng vũ lực mưu toan áp đặt một nền nếp suy tư và những phương thức hành động đã được đúc khuôn mà dân chúng mong muốn (9).
Khắp truyện, chúng ta thấy biết bao cảnh đau khổ mà thanh niên nam nữ đủ hạng người phải chịu đựng dưới ách thống trị của cộng sản bạo tàn. Biết bao thanh niên nam nữ đã trở thành nạn nhân trên đuờng mòn Hồ Chí Minh. Họ đã đói khát, bệnh tật. Họ đã trở thành những bộ xương trắng trên Trường Sơn hoặc trở thành những con người tàn phế khi về đến chiến khu miền Nam. Họ là ai? Nếu lập một danh sách, chắc dài mấy tập. trong truyện này, ta chỉ thấy một số nhân vật tượng trưng cho những người Trường Sơn. Là Xuân Vũ, nhà văn; cô Thu, diễn viên múa; Chân , sinh viên Hà Nội, Ngạc , người Hà Đông, và một số người Nam Bộ như ông già Chín Sử; cậu Mai, liên lạc viên. Chúng ta phải kể đến những người Nam Bộ nằm trên Trường Sơn để phục vụ cho công việc xâm chiếm Lào mà không được về Nam như Thành, Tư Ớt. . .
Họ đã xem con người như một công cụ, một con vật. Họ đã coi Mạng người không bằng mạng kiến (150). Họ không tha một ai. Các cán bộ lãnh đạo nếu vào Nam thì đi bằng những con đường đặc biệt như đi máy bay qua ngả Kampuchia. Họ bắt thanh niên nam nữ đi bộ suốt Trường Sơn, nhất là đem cặp chân diễn viên múa mà trèo núi (95). Hy sinh có ý nghĩa khi tự nguyện. Trong chế độ cộng sản, hy sinh có nghĩa là bắt buộc. Ở đây chữ nghĩa đã hoàn toàn biến dạng. Tác giả viết:
Sự hy sinh là một điều cao quý. Đến một mức độ mà con người còn chấp thuận thì nó còn là một sự cao quý nhưng một khi bắt buộc người ta phải chịu đựng quá sức thì nó trở thành một sự dã man (77).
Họ đã xem con người như một công cụ, một con vật. Họ đã coi Mạng người không bằng mạng kiến (150). Họ không tha một ai. Các cán bộ lãnh đạo nếu vào Nam thì đi bằng những con đường đặc biệt như đi máy bay qua ngả Kampuchia. Họ bắt thanh niên nam nữ đi bộ suốt Trường Sơn, nhất là đem cặp chân diễn viên múa mà trèo núi (95). Hy sinh có ý nghĩa khi tự nguyện. Trong chế độ cộng sản, hy sinh có nghĩa là bắt buộc. Ở đây chữ nghĩa đã hoàn toàn biến dạng. Tác giả viết:
Sự hy sinh là một điều cao quý. Đến một mức độ mà con người còn chấp thuận thì nó còn là một sự cao quý nhưng một khi bắt buộc người ta phải chịu đựng quá sức thì nó trở thành một sự dã man (77).
Một khuynh hướng khác rất phong phú là văn chương tù đày. Các văn sĩ phần lớn là sĩ quan đã bị cộng sản giam giữ, sau khi ra nước ngoài đã viết lên những thiên hồi ký để tố cáo tội ác của cộng sản với thế giới bên ngoài. Các văn sĩ này rất đông như Trần Văn Thái (Trại Đầm Đùn) , Hà Thúc Sinh (Đại Học Máu), Phan Lạc Phúc (Bè Bạn Gần Xa), Hiếu Đệ ( Niềm Đau Bạc Tóc, Lưu Xứ U Minh), Lucien Trọng (ENFER ROUGE MON AMOUR, Hỏa Ngục Đỏ, Mối Tình Tôi); Trần Tri Vũ ( Những Năm Mất Trắng). . . . Trong "Đại Học Máu", Hà Thúc Sinh viết: Trong lời mở đầu, Đại Học Máu, Hà Thúc Sinh viết rằng: Đại Học Máu không phải là một tác phẩm tiểu thuyết văn chương, cũng không thể nằm trong hình thức một hồi ký chính trị, hoặc một bút ký lao tù. . . (mà là) bản phúc trình của một người lính VNCH bị bỏ rơi, bị ở tù cộng sản, rồi thoát được ra ngoài, ngồi viết lại để kính gửi tới những ai còn thương yêu và còn quan tâm đến nước Việt Nam còn ở lại . . .
Một số tù nhân lại là gốc xã hội chủ nghĩa cũng đã đóng góp khá nhiều vào kho tàng văn học Việt Nam như Trần Dần, Vũ Thư Hiên, Nguyễn Ngọc Tấn, Nguyễn Chí Thiện, Phùng Quán, Phùng Cung, Tuân Nguyễn. . .
Một số văn thi sĩ viết về chủ đề vượt biên như Võ Kỳ Điền, Đặng Phùng Quân, Hàn Song Tường, Uyên Giang. Năm 2003, Ngụy Vũ tại California đã đề xướng chương trình thi viết về những cuộc vượt biển. Số đông đã tham dự và gửi bài về khá đông đủ, phần lớn là do những người cầm bút không chuyên nghiệp. Kết quả, tháng 3-2003 đã xuất bản các tập “Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông”.
Trong tập truyện " Người Đưa Đường", Võ Kỳ Điền đã nói lên nỗi khổ của nhân dân miền Nam bị cộng sản bỏ tù và cướp nhà cửa:
Thằng Hai bị bắt đi học tập, vợ đã về quê Mõ Cày để sinh sống. Cái xe đò của thằng Ba bị lấy, tụi nó nói khéo là trưng dụng. Cái nhà bị ty Giao Thông Vận Tải Đường Bộ muợn làm văn phòng. Gia đình phải làm đơn xin xỏ lắm mới được ở tạm sau nhà xe. Tao thấy mấy đứa cháu nội đi lao động mà đứt ruột đứt gan.[.. .]. Thằng nhỏ dầm mưa trải nắng chịu không thấu, phần bị sốt rét nóng mê man được chở về. . .(43)
Một số tù nhân lại là gốc xã hội chủ nghĩa cũng đã đóng góp khá nhiều vào kho tàng văn học Việt Nam như Trần Dần, Vũ Thư Hiên, Nguyễn Ngọc Tấn, Nguyễn Chí Thiện, Phùng Quán, Phùng Cung, Tuân Nguyễn. . .
Một số văn thi sĩ viết về chủ đề vượt biên như Võ Kỳ Điền, Đặng Phùng Quân, Hàn Song Tường, Uyên Giang. Năm 2003, Ngụy Vũ tại California đã đề xướng chương trình thi viết về những cuộc vượt biển. Số đông đã tham dự và gửi bài về khá đông đủ, phần lớn là do những người cầm bút không chuyên nghiệp. Kết quả, tháng 3-2003 đã xuất bản các tập “Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông”.
Trong tập truyện " Người Đưa Đường", Võ Kỳ Điền đã nói lên nỗi khổ của nhân dân miền Nam bị cộng sản bỏ tù và cướp nhà cửa:
Thằng Hai bị bắt đi học tập, vợ đã về quê Mõ Cày để sinh sống. Cái xe đò của thằng Ba bị lấy, tụi nó nói khéo là trưng dụng. Cái nhà bị ty Giao Thông Vận Tải Đường Bộ muợn làm văn phòng. Gia đình phải làm đơn xin xỏ lắm mới được ở tạm sau nhà xe. Tao thấy mấy đứa cháu nội đi lao động mà đứt ruột đứt gan.[.. .]. Thằng nhỏ dầm mưa trải nắng chịu không thấu, phần bị sốt rét nóng mê man được chở về. . .(43)
Một số văn thi sĩ như Nhã Ca, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Ngọc Ngạn , Võ Kỳ Điền . . . hướng về đề tài xã hội Việt Nam dưới thời cộng sản. Nhã Ca đã nói đến nỗi đau đớn của các văn nghệ sĩ và gia đình bà bị cướp tài sản và bắt đi kinh tế mới.
Sài Gòn Cười Một Mình dày 261 trang, gồm các truyện. Ở đâu chúng ta cũng thấy những cảnh đau khổ của nhân dân miền Nam sau 1975. Một phần lớn dân chúng miền Nam phải thất nghiệp, và phải chịu cảnh lao tù. Ở đâu, người dân cũng phải đương đầu với chế độ mới, và bọn công an phường khóm. Đây là những bản án dành cho chế độ cộng sản:
- Những gia đình rách nát đau khổ vì chồng, cha , con em đi ngồi tù vì tội ‘’ ngụy quân, ngụy quyền’’, và một số đã chết trong tù ( Chợ què, Vẫn có mùa xuân tới, Trong nhà ngoài phố ).
-Xã hội băng hoại vì trộm cướp giết người ( Chợ què ,Vẫn có mùa xuân tới, Gia đình chị Mười Một).
-Cán bộ lường gạt, cướp bóc dân chúng: cộng sản cướp nhà hàng chả giò Phú Hương ( Trong nhà ngoài phố, 90- 92)
-Học sinh bị bóc lột, phải đi lao động cực khổ ( Coi chừng cái búa)
-Dân chúng phải đóng góp quá nhiều: phải mua công trái, đóng tiền tiết kiệm, tiền mua sổ nhu yếu phẩm, quyên góp các nghĩa vụ, tiễn đưa thanh niên đi quân dịch, cứu trợ lụt lội, yểm trợ chiến sĩ, anh hùng lao động, anh hùng quân đội. . . ( Trong nhà ngoài phố, 90)
- Công an làm tiền ( Chợ què, Trong nhà ngoài phố, Gia đình chị Mười Một)
-Xã hội băng hoại vì trộm cướp giết người ( Chợ què ,Vẫn có mùa xuân tới, Gia đình chị Mười Một).
-Cán bộ lường gạt, cướp bóc dân chúng: cộng sản cướp nhà hàng chả giò Phú Hương ( Trong nhà ngoài phố, 90- 92)
-Học sinh bị bóc lột, phải đi lao động cực khổ ( Coi chừng cái búa)
-Dân chúng phải đóng góp quá nhiều: phải mua công trái, đóng tiền tiết kiệm, tiền mua sổ nhu yếu phẩm, quyên góp các nghĩa vụ, tiễn đưa thanh niên đi quân dịch, cứu trợ lụt lội, yểm trợ chiến sĩ, anh hùng lao động, anh hùng quân đội. . . ( Trong nhà ngoài phố, 90)
- Công an làm tiền ( Chợ què, Trong nhà ngoài phố, Gia đình chị Mười Một)
Ngoài ra, Sai Gòn Cười Một Mình là những bức tranh xã hội, tả các cảnh vật, các sinh hoạt của đủ hạng người tại miền Nam sau 1975 như chợ trời ( Chợ què), dân bụi đời Sài gòn ( Gia đình chị Mười Một, Một mảnh đêm đường Tự Do, Sài gòn), người tù cải tạo trốn trại (Vẫn có mùa xuân tới ) hay được tha về ( Sài gòn cười một mình ), xe đò, công viên, cùng cuộc sống của những người buôn hàng chuyến ( Của nợ).
Hồi Ký của Nhã Ca khá dày với 560 trang, viết về cuộc đời của bà sau 1975. Đó là một cuộc đời đầy đau khổ vì bị giam về tội văn hóa phản động,và bị đánh về tội tư sản. Và đó cũng là kiếp nạn của các văn nghệ sĩ và nhân dân ta, kẻ mất nhà, mất của, người bị tù cho đến chết trong các trại giam của cộng sản. Trong tác phẩm này, Nhã Ca đã tố cáo chế độ lao tù cộng sản và xã hội cộng sản. Cộng sản bắt nhà văn, vu cho tội phản động, cộng sản thù ghét Chu tử, bắt con gái, con rể Chu Tử và trẻ sơ sinh, cháu ngoại của Chu Tử sinh được bảy ngày vào nhà tù (19-36). Một số công an ở T 20 ( Đề lao Gia Định) đã tịch thu hộ khẩu của gia đình bà, sau khi bà về, họ bắt chuộc lại, mỗi cái 2 ngàn đồng tiền mới, nếu không chuộc sẽ bị tạt at xit (108). Con gái Chu Tử, Chu Vị Thủy, được thả về thì nhà bị chiếm trên cắt dưới. Khoảnh còn lại thì từng viên gạch bông cũng bị lật lên vì ngờ phía dưới chôn vàng ngọc (125), và việc Vũ Hạnh, phó chủ tịch hội nhà văn thành phố, cùng bọn văn nô theo dõi Chu Vị Thủy lúc mẹ con họ bán bún riêu tại đường Lê Thánh Tông (125).
Khuynh hướng đồng quê là một khuynh hướng mạnh trong văn học và âm nhạc Tây phương. Trước 1945, Trần Tiêu, Nguyễn Công Hoan, Thanh Tịnh, Bùi Hiển. . .là những người đi tiên phong trong phong trào này.Trước 1975, Hồ Biểu Chánh, Phi Vân, Bình Nguyên Lộc, Lê Xuyên, Sơn Nam được coi như là những nhà văn Nam kỳ. Ngày nay, tại hải ngoại các nhà văn Nam Kỳ lục tỉnh đã vươn mình đứng lên, tạo thành một lực lượng đông đảo như Võ Kỳ Điền, Nguyễn Văn Sâm, Hồ Trường An, Nguyễn Văn Ba,Võ Phước Hiếu. Một số nêu lên tội ác của cộng sản, nhất là Xuân Vũ ,Lê Xuyên và Võ Phước Hiếu.
Trong Như Nước Trong Nguồn, ông nói đến việc Việt Minh sát hại dân chúng trong 1945:Phong trào bắt Việt gian làm nhiều người chết oan ức. Tám Thôi chưa kịp hoàn hồn sau vụ bắt cụ Bùi ở chùa Giác Hải bỗng nghe lũ trẻ la ó bắt được Việt gian sắp dẫn ngang nhà. . . Thì ra thằng Ba La, bạn chí thân của anh, bị trói thúc ké. (140-141).
Đó là cuộc đời của Tám Thôi. Sau 1945, thấy Sài Gòn đầy cảnh máu tanh, Tám Thôi lui về quê, dùng số tiền cần kiệm khi làm việc cho nhà thuốc Ông Tiên để cưới vợ và mua ruộng đất. Tám Thôi có hai đứa con lớn, sau 1975 phải đi ngồi tù, hai đứa con dâu phải về nương náu nhà ông. Tám Thôi phải quay về nghề câu tôm câu cá để nuôi sống gia đình. Cảnh khổ của ông cũng là cảnh khổ của đa số dân chúng xóm Rạch Rít khi cộng sản xâm chiếm miền Nam. Và con sông quê ông cũng mang số phận đau thương của dân tộc:
Bây giờ trong xóm ai cũng đổ bung ra sông ra rạch chăn ví, săn đuổi cá tôm, tranh nhau đắp đổi qua ngày. Tôm cá bây giờ càng hiếm hoi. Cuộc sống thêm vất vả buồn nôn (148).
Đó là cuộc đời của chú Năm Nghê con người vui vẻ nhưng sau 1975 bị ''ghép vào thành phần phản động chống chế độ'', họ cấm dân chúng tụ họp cho nên nhà chú không còn ai dám lai vãng, chú bệnh và chết trong cô đơn và nghèo khổ (73) .
Rồi bao biến cố xảy ra cho đất nước Việt Nam mà xóm Rạch Rít của Võ Phước Hiếu cũng không thoát khỏi cơn đại hồng thủy. Nào là học tập cải tạo, nào là sản xuất tập thể hóa nông nghiệp (146-147), .Hai ông giáo trong Như Nước Trong Nguồn là những con người bất khuất, có quá khứ chống Pháp , ông thầy Huế chết già, còn ông giáo Sử bị Việt Minh giết vì ông yêu tự do, không chịu khuất phục đảng vô sản, đảng của thiểu số người ngông cuồng không tưởng, rắp tâm muốn áp đặt bằng võ lực và hận thù (75).
Trong Hùm Chết Để Da và Như Nước Trong Nguồn, tác giả đã nói về cuộc đời của tác giả và các bạn bè vì chịu không thấu khổ ách cộng sản phải bỏ nước mà đi:
Tháng 6 năm 1979, sau thời gian mấy năm bị vùi dập trong những '' chiến dịch cải tạo'' , '' đánh tư sản mại bản'', '' kiểm kê công thương nghiệp'' và ''bài trừ văn hóa đồi trụy''. . . . tôi lặng lẽ cúi đầu tủi nhục, thấm thía bước xuống chiếc tàu cây định mệnh (Như Nước Trong Nguồn, 77).
Trong Hùm Chết Để Da và Như Nước Trong Nguồn, tác giả đã nói về cuộc đời của tác giả và các bạn bè vì chịu không thấu khổ ách cộng sản phải bỏ nước mà đi:
Tháng 6 năm 1979, sau thời gian mấy năm bị vùi dập trong những '' chiến dịch cải tạo'' , '' đánh tư sản mại bản'', '' kiểm kê công thương nghiệp'' và ''bài trừ văn hóa đồi trụy''. . . . tôi lặng lẽ cúi đầu tủi nhục, thấm thía bước xuống chiếc tàu cây định mệnh (Như Nước Trong Nguồn, 77).
Tóm lại, các văn thi sĩ miền Nam đã tích cực chống lại chủ nghĩa cộng sản tàn ác đã bán nước hại dân, tham nhũng, cướp tài sản nhân dân và tài sản quốc gia. Ngọn lửa thiêng này đã bừng lên trong các tôn giáo Miền Nam và trong dòng văn học hiện đại. Các văn thi sĩ và văn nghệ sĩ cũng như những người có đạo tâm, có ý thức dân chủ là tinh hoa của dân tộc, là những chiến sĩ tiền phong trong cuộc tranh đấu bảo vệ Tổ quốc và xây dựng dân chủ cho tương lai gần đây.
VŨ KHIÊU
Trần Mạnh Hảo: Thử lý giải hiện tượng Gs Vũ Khiêu bị “ném đá
GS. Vũ Khiêu, thần tượng trí thức và biểu tượng văn hóa của chế độ hiện hành, anh hùng lao động, vừa được thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng tặng câu đối ca tụng, nhân việc ông thọ 100 tuổi như sau : “Triết gia trong cách mạng – Nghệ sĩ giữa Anh hùng”
Ông cũng là người được giải thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu 1996 về các cuốn sách mỹ học, triết học, văn hóa học như :” Nghệ sĩ và anh hùng”, “Góp phần nghiên cứu cách mạng tư tưởng và văn hoá (1987), Người trí thức Việt Nam qua các chặng đường lịch sử” nhằm ca ngợi Bác và Đảng.
Năm 2000, giáo sư được phong danh hiệu Anh hùng Lao động thời đổi mới.
Ngày 12 tháng 9 năm 2006, Phó Chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa thay mặt Hội đồng Nhà nước trao tặng Huân chương Độc lập hạng nhất cho Giáo sư, Anh hùng Lao động Vũ Khiêu vì có nhiều thành tích đặc biệt xuất sắc trong sự nghiệp phát triển khoa học xã hội và nhân văn, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Đại hội Thi đua Thủ đô Hà Nội, khi được trao tặng danh hiệu “Công dân Ưu tú Thủ đô”.
( Theo từ điển mạng)
Ông từng được nhà nước tặng biệt thự, được chế độ ưu đãi công thần, chế độ coi ông là thần tượng văn hóa của chế độ…
Năm 1963 GS. Vũ Khiêu đã viết cuốn sách về Mỹ học có tên là “Đẹp”. Năm đó, chúng tôi đã mua cuốn sách này để đọc và thấy kiến thức của GS. Vũ Khiêu phải nói cho công bằng là rất… hạn hẹp và ấu trĩ. Mỹ học trong cái nhìn của GS là Mỹ học có tính giai cấp, có tính đảng. Cái gì đảng ta nói, đảng ta làm đều đồng nghĩa với cái đẹp. Ví dụ như cải cách ruộng đất là cái đẹp, đánh nhân văn giai phẩm là cái đẹp, căm thù giai cấp địa chủ tư sản là cái đẹp…
Sau đó tôi đã đọc hầu hết các cuốn sách của GS. Vũ Khiêu như vừa kể trên thì thấy trình độ GS chưa thể gọi là trí thức.
Việc chế độ nâng GS. Vũ Khiêu từ một ông giáo tiểu học, từng hành nghề lao công tạp dịch trong bệnh viện thời Pháp lên thành biểu tượng cho giới trí thức : là anh hùng văn hóa, là nhà triết học số 1, mỹ học số 1, nhà nghiên cứu văn hóa số 1, thậm chí thành Nguyễn Trãi của chế độ…khiến dư luận giới trí thức thứ thật bất bình, không phục; nên khi GS. ôm hôn cô hoa hậu Nguyễn Cao Kỳ Duyên mãnh liệt quá mức ông cháu và nhất là cụ lại tặng cô này một câu đối thiếu văn hóa, khiến thiên hạ bực mình ném đá khắp nơi trên FB và trên các blog, website…
Chúng tôi đã đọc hầu hết các cuốn sách của GS. Vũ Khiêu thì thấy nếu ta xếp cụ vào hàng ngũ trí thức thì quả là một điều quá lố. Chỉ riêng việc GS. Vũ Khiêu lên tiếng nhiệt liệt ủng hộ hành vi của mộ kẻ điên rồ đòi sửa lại, viết lại Truyện Kiều như dưới đây, chứng tỏ cụ không phải là người trí thức :
“Trong cuộc hội thảo về Dòng chảy văn hóa xứ Nghệ từ Truyện Kiều đến phong trào Thơ mới tổ chức vào ngày 15.12.2012 tại khu di tích Nguyễn Du, Hà Tĩnh, mỗi đại biểu tham dự được tặng một cuốn sách (bản photo) có nhan đề Truyện Kiều Nguyễn Du với tiếng Việt hiện đại, phổ thông, đại chúng và trong sáng, do Đỗ Minh Xuân, một kỹ sư, khảo dịch – nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin in năm 2012. Cuốn sách này có lời đề tựa rất trang trọng của GS. Vũ Khiêu:
“Với một tinh thần khoa học rất nghiêm túc, ông tìm lại hầu hết các bản Truyện Kiều từ trước đến nay, so sánh các dị bản, tìm đọc hầu hết các bài đã bình luận, phân tích tác phẩm và tác giả Truyện Kiều. Từ đó, ông đã có ý tưởng lớn là làm thế nào để phổ cập hóa Truyện Kiều cho quảng đại công chúng, ông gạt bỏ những câu chữ khó hiểu từ tiếng Hán để thay bằng ngôn ngữ thuần Việt trong Truyện Kiều… Tôi hoan nghênh công phu nghiên cứu của ông Đỗ Minh Xuân và tin rằng cuốn sách này của ông là một đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu Truyện Kiều…”.
Với hơn 1.000 chỗ sửa, tức 1/3 tác phẩm, gần như bất cứ chỗ nào trong Truyện Kiều, cũng bị ông kỹ sư cắt xé, bức tử. Điều đáng nói là, việc sửa thơ này của ông kỹ sư lại nhận được cổ xúy của một bậc giáo sư lừng danh: Anh hùng lao động, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, Giáo sư Đặng Vũ Khiêu.”
http://vi.wikipedia.org/wiki/V%C5%A9_Khi%C3%AAu
http://vi.wikipedia.org/wiki/V%C5%A9_Khi%C3%AAu
GS. Vũ Khiêu quả tình không thể gọi là trí thức khi muốn lấy hoa mào gà làm quốc hoa. Ơ hay, bệnh mào gà là bệnh gì chắc GS. chưa biết hay sao ?
GS.Vũ Khiêu tặng cô hoa hậu Nguyễn Cao Kỳ Duyên câu đối thiếu văn hóa dưới đây sao có thể gọi là trí thức :
“Trí như bạch tuyết tâm như ngọc
Vân tưởng y thường hoa tưởng dung”
Vân tưởng y thường hoa tưởng dung”
GS.Vũ Khiêu đã lấy nguyên vẹn một câu thơ của đại thi hào Lý Bạch trong bài thơ “Thanh Bình điệu” : “ Vân tưởng y thường hoa tưởng dung” làm câu đối trên. Đạo văn như trên sao là trí thức ?
Câu đối trên ngay từ câu đầu, GS. Vũ Khiêu đã diễu cô hoa hậu rằng trí của cháu trắng như tuyết, nghĩa là cháu không có trí; có lẽ GS. Vũ Khiêu muốn nói đến câu thơ Nguyễn Du : “Mai cốt cách tuyết tinh thần” chăng ? Nhưng TRÍ và TINH THẦN là hai điều khác nhau thưa cụ GS ! Tinh thần trong câu Nguyễn Du có thể hiểu là tâm đấy ! Trí mà như tuyết thì trí ấy bằng không à ? Câu đối tặng người ta mà xỏ xiên như thế sao gọi là trí thức ?
Bài thơ “Thanh bình điệu” của Lý Bạch là bài thơ ca ngợi thân xác gợi dục của Dương Qúy Phi sau khi làm tình với Đường Minh Hoàng, sao lại lấy ra ca ngợi một cô gái còn chưa có chồng là sao ? Dương Qúy Phi vốn là một dâm phụ, từng là vợ con trai Đường Minh Hoàng, bị vua cha cướp lấy. Dương Qúy Phi với sắc đẹp dục tính đã khiến con nuôi Đường Minh Hoàng là An Lộc Sơn muốn cướp người đàn bà dục tình này lên đã làm loạn, gây chết một phần ba dân số Trung Hoa thời đó…
Có thể vì chế độ nâng GS. Vũ Khiêu, một người không phải trí thức lên thành biểu tượng của trí thức, biểu tượng của văn hóa Việt Nam mà nhân dịp cụ ôm hôn gái trẻ kiểu trai lực điền và tặng nàng đôi câu đối đểu nên đã bị dân mạng ném đá cho bõ tức vì bị lừa hết vụ này sang vụ khác chăng ?
Sài Gòn lúc 23 h 28’ ngày 27-2-2015
Học thì giả, nhưng đổ bô thì thật nên cụ "giáo sư" làm 2 câu đối thật là "vô đối"!
Ngoc Nhi Nguyen (Danlambao) - Đầu năm Ất Mùi, hoa hậu Kỳ Duyên đi thăm cụ "giáo sư", được cụ tặng cho 2 câu đối thuộc vào hàng... "vô đối"! " Vô đối " không vì nó tầm thường, mà vì nó thuộc vào dạng... tầm bậy!!
Cụ Vũ Khiêu học lực chỉ đến bậc tiểu học, nhưng nhận bừa có bằng Tú tài Pháp của trường Bonnal! Nghề nghiệp đầu tay của cụ là lao công bệnh viện, chuyên về đổ bô, từ đó về sau cụ tiếp tục phát huy, bưng bô hay đội bô cho đảng đều thuộc vào hàng xuất sắc. Nhờ vậy mà cụ được đảng phong cho làm "giáo sư học giả"!
Vì cái lẽ cụ học thì giả, nhưng đổ bô thì là rất thật nên chi mỗi khi cụ "giáng bút" thì thiên hạ lại phải một phen bịt mũi, ói mửa vì cái mùi bô cố hửu của cụ. Từ chuyện đòi sửa văn của đại thi hào Nguyễn Du trong truyện Kiều, đến việc "giáng bút" bừa bãi ở Bình Đà, nay để "giáng" ra được 2 câu đối cho người đẹp, cụ rặn được câu đầu còn câu sau cụ "sao y bản chánh" của một đại thi hào khác là Lý Bạch.
Ngay câu đầu tiên, cụ "giáo sư" phán: "Trí như bạch tuyết tâm như ngọc" khiến cho cư dân mạng phải sửng sờ. Cụ muốn nói gì đây? Muốn nói tâm ý của cô hoa hậu trong trắng như tuyết, sáng như ngọc, mà cụ không phân biệt được sự khác nhau giữa Ý và Trí, hay là cụ chửi xéo cô HH hoa hậu não rỗng, trí óc trắng xóa chẳng có cái chi trong đó? Hic, cả 2 trường hợp đều dở cụ ạ. Nếu là cụ chơi xỏ cô hoa hậu não rỗng thì quả thật cụ già mà đểu, chửi con người ta xong lại lợi dụng hôn với hít! Còn nếu là cụ muốn khen thật nhưng lại không phân biệt được giữa ý và trí, thì cụ làm ơn từ nay gác bút vào chùa tụng kinh sám hối chờ ngày về với ông bà, chứ đừng "giáng bút" kiểu này nữa hại não con cháu lắm cụ ạ!
Rặn được 1 câu đầu, cụ "giáo sư" hết cả vốn chữ, bí quá bèn "bưng nguyên con" của Lý Bạch về xài đỡ: "Vân tưởng y thường hoa tưởng dung"! Tới đây xin phép cắt ngang bàn một chút về thư pháp khi viết câu đối. Câu đối một khi viết ra để treo lên cho mọi người thưởng thức thì phải viết bằng dạng thư pháp, chữ phải đẹp, như rồng bay phượng múa, như 1 bức tranh. Chẳng có ai viết câu đối bằng chữ in, lệch lạc xấu xí như cách viết tầm bậy của cụ Khiêu cả! Đã thế cụ lại còn bỏ dấu bừa bãi, dấu hỏi bỏ thành dấu huyền, sau đó lại thành dấu chấm 1 cục khiến cho người đọc có cố giương mắt cũng chỉ đọc thành thế này "Vân tường y thường họa tương dung", như trong các bài báo trong nước đã đăng!
Phàm là câu đối ngẫu hứng tả người tả cảnh, phải phù hợp với người đó cảnh đó, nhưng ở đây cô hoa hậu Kỳ Duyên đến thăm cụ mặc áo đen, mà cụ gán ghép cho câu "Vân tưởng y thường: nhìn áo tưởng mây" thì 1 đây là mây đen vần vũ cũng cỡ bão cấp 10, còn không thì lúc ấy não cụ không trắng như bạch tuyết mà đang đầy các ý nghĩ đen tối nên mới nhìn áo cô hoa hậu ra mây!
Trở lại vấn đề niêm luật trong câu đối, vì cụ lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia nên câu đối của cụ nó sai trật lất. Trí mà cụ đối với vân, y thường mà đối với bạch tuyết, tâm lại đối với hoa, ngọc đối với dung.. thì đúng là không tầm thường mà chính xác là quá... tầm bậy!!
Mình chỉ là hàng hậu bối, cũng chẳng có học vị gì, nhưng vì là con cháu VNCH nên ít ra những gì mình học được là "học thật", nên nhân đây xin mạn phép "sửa lưng" cụ giáo sư học giả của đảng, làm giùm cho cụ 2 câu đối chuẩn:
"Ý như bạch tuyết tâm như ngọc
Xiêm tựa phù vân dung tựa huê"
Ý là bên trong đối với xiêm áo là bên ngoài là rất chuẩn. Bạch tuyết đối với phù vân (đám mây nhẹ bay thoảng qua) cũng là tạm ổn. Tâm đối với dung, huê đối với ngọc thì thật sít sao đúng điệu. Cụ mà đối được như thế thì chẳng ai dám cười cụ đâu ạ. Nhưng đáng tiếc...
Ngoài ra mình cũng xin nhắn với cô hoa hậu Kỳ Duyên, năm mới có đi chúc Tết muốn được hên nở mày nở mặt, thì nên tìm đến con cháu VNCH hay những người đấu tranh dân chủ thực sự mà thăm, vì tuy họ bị đảng CSVN gán ghép là " phản động" nhưng học thức và hiểu biết của họ là thật, chứ không phải là "học giả đổ bô" như ba cái loại hàng dỏm của đảng, cô nhé!
Thêm một điều cuối cùng, theo báo chí trong nước cho biết, sau khi "giáng bút" tặng câu đối cho hoa hậu, cụ lại bảo cô Kỳ Duyên ký tên vào đó, để cụ giữ lại treo TRONG NHÀ CỤ làm kỷ niệm!!! Đời thuở nay tặng người ta câu đối nhưng lại không đưa cho người đó mà giữ lại cho mình thì đúng là mới thấy lần đầu!
Sao cụ "giáo sư học giả" này kẹo thế? Hay là cụ hôn hít cô HH xong thấy chưa đủ phê nên cụ... "đòi lại quà"? Tâm tư quá đi mất!
Học tập theo gương đạo đức bác Hồ: Hôn sao cho nó chuẩn!?
Vũ Đông Hà (Danlambao) - Nụ hôn của Giáo sư học (giả) và Đạo (thơ) sư Vũ Khiêu mở đầu cho mùa xuân già hít trẻ vô cùng tươi héo đã làm báo chí lề đảng lẫn lề dân tưng tưng như pháo, dân nghèo quên cha nó 3 ngày tết éo sầu và vờ luôn cái bao tử sở hụi chủ nghẽo đói meo râu - lâu lâu được no một bữa nhờ đảng cho xem bắn pháo bông.
Trong cơn sốt hít hà đó, ngay cả các đồng chí công an nhân dân cũng tạm thời quên đi thế lực thù địch, cất thanh gươm lá chắn còn đảng còn mình, khiêng một đống lá cải đặt trước mặt tiền của cửa hàng bán rau với lời chào hàng hấp dẫn "Có nên chỉ trích hình ảnh GS Vũ Khiêu 'thơm' má hoa hậu Kỳ Duyên?"
Thơm với thối! Hôn thì hôn, hít thì hít chứ ông già đổi máu thành tàu khựa đã 99 xấp rồi mà thơm hoa thơm hậu cái nỗi gì!
Từ "sự cố" đạo (thơ) sư 99 mùa thu lá rụng hít hít hà hà hoa hậu 19 xuân xanh đã nở thêm một chuyện thời sự không chừng nóng bỏng hơn giàn khoan hát dê 981 của khựa hôm nảo hôm nao vào đâm túi bụi lòng biển Đông: hôn thế nào thì chuẩn?
Báo Đất Việt với thương hiệu "Kết nối sức mạnh Việt" đã kết nối tinh thần hôn hít giữa các cụ lọm xọm và các em mơn mởn như sau:
Thứ nhất là không được đánh giá những nụ hôn hữu nghị này theo tinh thần dung tục. Thứ hai là nụ hôn của Đương Đại Quốc (tàu) Sư 99 dành cho Đương Đại Hoa Hậu 19 chưa đúng cách. Từ đó, cửa hàng rau cải Đất Việt này rinh luôn cả một công trình của một nhóm sinh viên nghiên cứu để giải trình cho màn hôn hít: Giáo sư hôn hoa hậu thế nào thì chuẩn?
Thiệt tình chịu hết nỗi! Vừa bức vừa xúc với các đồng chí làm báo để phục vụ đảng ta! Đảng đã thò tay đạo tặc móc túi hết bao nhiêu tài sản của nhân dân để vừa phát động, vừa rút ruột chiến dịch lắm tiền nhiều của cho cái gọi là Học tập theo gương bác Hồ vĩ đại. Đã biểu là chỉ cần và chỉ phải học theo bác. Con đường bác đi như thế nào thì các cháu cứ việc bi đát theo chân. Bất cứ cái gì bác làm là các cháu cứ nhắm mắt học theo như ngày xưa bác nhắm mắt học ông nội Mao.
Này nhé, vài thí dụ cơ bản:
- Bác chui vào mùng của đồng chí vợ Nguyễn Thị Minh Khai, mặc kệ đồng chí chồng Lê Hồng Phong đứng khóc ngoài quan ải, thì các cháu cũng rúc vào mền vợ đồng chí của các cháu. Rúc vào mà nhỡ đụng đầu thằng đồng chí khác thì các cháu tìm mền của các thường dân gái như đồng chí Nguyễn Trường Tô đã từng. Còn nếu bí quá thì cứ hốt, cứ dzớt luôn người tình của thằng con cả - như đồng chí cu con của cụ Cờ Bờ - có tên ĐM họ Nông - đã dzớt, đã hốt người đẹp của cu Tuấn Đờ Mờ.
- Bác buồn buồn vừa đi vừa đá bèo rất ư là hạnh fúc kiểu Trần Dân Tiên lăn tăn tự sướng thì các cháu cũng học tập cách nâng bi cho nó sung sướng cái C.B. - Cờ chấm Bờ - Của Bác.
- Bác tiêu diêu miền cực lạc với gái Pháp, gái Nga, gái Tàu, gái Nùng, gái Việt mà cuối đời con tự do vẫn thề sống thề chết rằng chưa một lần khóc trong, khóc ngoài hữu nghị quan thì các cháu cứ học theo bác mà phiêu phiêu với các nàng, miễn sao các cháu vẫn giữ được hình ảnh đời đời trong trắng trinh nguyên, suốt đời chỉ mình ên, sống để hạnh fúc nhân dân như bác.
Thế mới gọi là đạo đức bác Hồ!
Và trong cái bài học một tập nhiều chương của Hồ này - gọi tắt là bài học Hồ Tập Chương, nổi bật là Bài Học Hôn Kiểu của Bác.- gọi tắt là Hôn kiểu C.B. Quan trọng vô cùng! Nụ hôn của bác đã dập dềnh cùng sơn nữ theo dòng suối Lê nin, đã cùng các cháu rập rềnh hành quân trong động Pắc Pó, đã lội xình từ đồng ruộng, rồi leo lên xe thồ ra đến thị thành, trèo lên máy bay vượt biên giới đến nỗi mấy chú đạo Hồi Indo sợ các cháu nhi đồng thủ đô Jakarta bị nụ hôn của bác mê hoặc nên đã lên tiếng nài nỉ bác chủ tịch vĩ đại - thôi xin anh đừng hôn đắm đuối các cháu.
Hôn sao cho nó chuẩn!?
Hôn cho chuẩn thì không thể, không cách gì khác hơn là hôn kiểu của bác. Đảng sẽ cập nhật lịch sử đảng ta và vinh danh, trân trọng, kính cẩn gọi nó là Nụ Hôn Toả Sáng theo cái tên Chí Minh của bác. Dẹp mịa nó mấy cái công trình nghiên cứu của đám sinh viên ăn cơm đảng ta thờ ma đế quốc, dẹp cha nó những nụ hôn của tụi tư bản giãy chết. Tất cả phải học ở bác.
Và đây là bí kíp hôn hít của bác, tinh thần vĩ đại của Nụ hôn Toả Sáng Hồ Chí Minh:
- Đó là đụng đâu hôn đó, đụng ai hôn đó. Thế mới bày tỏ được tình hữu nghị nồng nàn thắm thiết.
- Gặp đàn ông: ôm chầm lấy mà hôn - kệ tía nó!
- Gặp các cháu nhi đồng: ghì sát mặt mà hít - kệ mịa nó!
- Gặp các chị, các cô: nhớ hỏi các cháu kinh nguyệt có thường không cho nó có nghĩa tình cha già dân tộc hẹ trước khi hít hà các cháu gái thanh xuân.
Nắm được tinh thần hôn hít Hồ Chí Minh, quán triệt được nền tảng đạo đức Trần Dân Tiên thì các cháu sẽ thấy ngay rằng: Đương Đại Quốc (tàu) Sư Vũ Khiêu là đệ tử sáng giá nhất của Cha Già Dân Tộc (hẹ). Từ nghĩa cử của đứa con hoang đổi họ để mình trở về với dòng giống xì dầu, đến đạo văn - chôm thơ - ăn cắp ý, sang chuyện hôn hít, thấy gái tơ là lòng lâng lâng, thấy vợ của đồng chí ta là con tim vội vã... tất cả đều là thành tích của đứa học trò xuất sắc học tập, sống và chơi bời theo gương bác không sai một ly.
Hôn sao cho nó chuẩn? Đạo văn sao cho nó chuẩn? Tình ái sao cho nó chuẩn? Các cháu hãy anh dũng giơ cao tay và rống họng trả lời: Hồ Chí Minh!!!
*
TB: Đây là một bài viết lá cải. Không thể nào tránh khỏi khi mà cả đất nước Việt Nam là một gian hàng lá cải, và giống cải mắc mỏ nhất, được trình bán, rao hàng cả mấy chục năm qua là giống cải Hồ Chí Minh.
Sunday, March 1, 2015
VIETTUSAIGON * ĐẤT NƯỚC
Khi đất nước trở thành trại tế bần
Wed, 02/25/2015 - 00:57 — VietTuSaiGon
Đầu Xuân, trăm hoa đua nở, người người diện áo mới ra đường, các quan khoe mẽ sự giàu có tột đỉnh, các đài, báo trong nước tha hồ tán về một năm thắng lợi, thành công, ổn định… Sao lại nói đất nước là một cái trại tế bần? Xin mở ngoặc chỗ này: Đất nước là một cái trại tế bần lớn, trong đó, những người lao động nghèo cùng chung tay với tư bản để bố thí, nuôi nấng, cưu mang cho các quan Cộng sản.
Đất nước này là một cái trại tế bần vĩ đại với hàng triệu kẻ ăn xin trên lưng nhân dân. Đừng nhầm tưởng những người ăn xin, lăn lóc ngoài đầu đường xó chợ mới là ăn mày. Trong khía cạnh số phận và công việc, họ thật sự là những người ăn xin nhưng sâu xa hơn, trên góc độ chính trị, họ cũng là những người đang bố thí cho các quan Cộng sản, các quan Cộng sản mới là kẻ ăn mày.
Vì sao lại có kiểu lập luận ngược ngạo và vô lý này? Bởi lẽ, thi thoảng vẫn thấy các ông quan, bà quan nhà Cộng sản móc túi, bố thí cho người ăn xin cơ mà? Không, đó là cái mà ai cũng có thể làm được và ai cũng có thể nhìn thấy. Bởi giới ăn mày, ăn xin họ rất sòng phẵng, cho dù sự sòng phẵng này có léo hánh, có xảo quyệt (mạnh khỏe mà vẫn đóng bộ yếu đuối để lăn lóc ăn xin) chăng nữa thì ít nhất, họ cũng chấp nhận thân phận của một người ngửa tay xin sự ban ơn, xin lòng thương của đồng loại. Họ không dấm dúi về thân phận ăn mày của mình, họ hoàn toàn khác với các quan chức Cộng sản.
Thử hỏi, trong đất nước này, ai là kẻ nhân danh một dân tộc cả trăm triệu người này để vay vốn nước ngoài, xin viện trợ nước ngoài để rồi tư túi, tùng xẻo, phân năm xẻ bảy trong bè lũ, phe nhóm với nhau? Chắc chắn không có ai ngoài những quan chức cấp cao trong nhà nước, chính phủ, trung ương đảng Cộng sản. Chỉ có họ mới đủ thẩm quyền để làm điều này. Và khi các nước khác mở hầu bao viện trợ nhân đạo, cho vay không hoàn vốn, cho vay lâu dài… Nhóm quan lại từ trung ương đến địa phương đã bỏ túi một phần không nhỏ.
Thử hỏi: Ai đã nhận hối lộ, và ai đã hối lộ? Đương nhiên là quan chức bề trên nhận hối lộ của cấp dưới, cấp dưới lại nhận của cấp thấp hơn. Và để có cái mà hối lộ, giới quan lại Cộng sản đã không ngần ngại tham nhũng, đục khoét, bán đứng lãnh thổ, lãnh hải, bán đứng danh dự dân tộc, thao túng công quĩ, biển thủ… Có như vậy họ mới có tiền để cống nạp cấp trên. Và chuyện này cũng không nằm ngoài vấn đề cướp đất của dân lành để hô biến thành những dự án, sau đó bán đất dự án bỏ túi.
Tất cả những hành vi tham nhũng, hối lộ, biển thủ của công… Đều cho thấy khả năng tự làm kinh tế của giới quan lại Cộng sản rất thấp, nếu không muốn nói là họ không có khả năng này, họ phải ăn cắp, ăn xin của nhân dân và làm giàu bằng tiền ăn cắp, ăn xin. Cho dù ăn cắp, tham nhũng hay ăn xin, xét về bản chất, căn cội của hành vi này, đều là ăn mày, bất lực từ căn để và tự dối lòng mình, tự lấp liếm với danh dự để ăn mày của nhân dân.
Thử hỏi, ngân sách quốc gia do đâu mà có nếu không phải là do thuế của nhân dân đóng góp? Với kiểu thu thuế theo định mức giá trị gia tăng, từ chai thuốc trừ sâu cho đến bó rau, hạt lúa, củ cải, trái bắp và cả cái ca để người ăn mày ngửa ra giữa chợ hay cái nón lá để người ăn mày ngửa xin giữa cuộc đời đều có thuế trong đó. Vấn đề thuế của nhân dân là bao trùm, từ chén cơm cho đến hạt gạo. Vậy suy cho cùng, người ăn mày ngửa tay xin ngoài chợ đời nhưng vẫn phải đóng thuế cho nhà nước mỗi khi mua bất cứ một thứ hàng hóa nào trên đất nước hình chữ S này.
Và một khi các quan ăn chặn thuế của nhân dân, biển thủ công quĩ, điều này chứng tỏ bọn họ đã thành một loại “ăn mày của ăn mày”. Suy cho cùng, quan chức càng lớn thì mức độ ăn mày và độ dày của da mặt càng cao, chả có gì để hãnh diện hay tự hào!
Thế nhưng bọn họ vẫn dương dương tự đắc, tự cho mình tài giỏi, đạo đức, biết cống hiến cho xã hội. Đó là một bi kịch của dân tộc! Không có bi kịch nào lớn hơn bi kịch mà ở đó, những kẻ ăn mày lại luôn xem mình là ân nhân, là kẻ bố thí, còn những người bố thí lại phải sống thân phận ăn mày. Điều đó đang xãy ra trên đất nước này.
Và cũng không có bi kịch nào đáng sợ hơn sinh mệnh và danh dự của gần một trăm triệu ông chủ, bà chủ, cô chủ, cậu chủ phải bị mang ra thế chấp để vay nợ, để một số nhỏ ăn mày được sống phè phỡn, giàu có, vương giả và lạnh lùng nhìn chủ của mình, ân nhân và cũng là nạn nhân của mình phải chịu đói rét, đau khổ, u tối. Điều đó e rằng xãy ra rất hãn hữu, ở các nước thuộc về thế giới thứ ba và một số nước độc tài, trong đó, Việt nam đứng ở vị trí chủ chốt!
Đã hơn bốn mươi mùa xuân trôi qua, người dân miền Nam đã nếm đủ mọi nỗi khổ nhục và cũng đã hơn bảy mươi mùa Xuân, người dân miền Bắc nếm đủ mất mát, hy sinh, đau khổ và tủi nhục. Tất cả những gì người dân cống hiến, ban tặng cho cái chế độ này không gì khác là những cái bằng khen, những cái huy chương nếu bán giấy lộn và đồng nát chẳng mua đủ một bữa cơm. Và những gì họ bố thí cho cái chính thể Cộng sản xã hội chủ nghĩa này đã quá đủ. Đã đến lúc những người bố thí phải dừng ngay việc bố thí bằng cách này hay cách khác.
Và cũng đã đến lúc những kẻ trộm cắp, những kẻ nhận bố thí, ăn mày trên xương máu và số phận của nhân dân phải dừng ngay việc sống bám của họ, phải biết học hai chữ “tự trọng” và cần tìm hiểu thế nào là danh dự, làm người. Họ cũng cần phải xem việc sống phè phỡn trên xương máu cũng như sự bố thí của tổ tiên, dân tộc là một cái tội. Mà tội đầu tiên là tội lừa dối, lừa dối tổ tiên, lừa dối dân tộc, lừa dối cộng đồng quốc tế, và đáng nói hơn cả là lừa dối bản thân, xem sự ăn mày, ăn bám nhân dân của mình là một thứ công trạng.
Một khi kẻ ăn mày bớt nhỡn nhơ, biết xấu hổ trước đồng loại và người tài biết đứng lên xây dựng quê hương, dân tộc thì mới hy vọng vào sự tồn vong của đất nước này! Một năm mới, cũng là một bước khởi sự cho một vận hội mới! Hãy thôi ngay việc biến đất nước này thành một trại tế bần!
- VietTuSaiGon's blog
- http://www.rfavietnam.com/node/2467
TƯỞNG NĂNG TIẾN * ĐẢNG VÀ ĐẢNG TÍNH
Đảng & Đảng Tính
Sun, 03/01/2015 - 08:48 — tuongnangtien S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến- “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, cần phải có tính đảng mới làm được việc. Kém tính đảng, thì việc gì cũng không làm nên.”
- “Đất nước đã mắc phải một giống vi trùng có tên gọi tính đảng nó kháng lại mọi yêu cầu tử tế của con người.”
Từ Vọng Các, Mặc Lâm bay tuốt luốt qua Nam Vang rủ nhậu:
- Ê, kiếm chỗ nào ngồi uống sương sương vài ly cho nó có chút hương vị đầu Xuân nha.
- Tưởng gì chớ uống thì bất kể Xuân, Hạ, Thu, Đông ... gì tui cũng chịu liền.
Tôi rất hài lòng với người bạn trẻ vừa quen: nhanh nhẹn, thông minh, và (xem chừng) đôn hậu. Ghé quán Ngon Restaurant, chúng tôi gọi “liều” một chai Johnnie Walker Black Label. Thấy cái gíá 40 MK mà gần muốn “đứt ruột” luôn nhưng rồi đành tặc lưỡi: “Thôi chả gì thì cũng mừng tân niên, mỗi năm chỉ có mật lần, và cũng là dịp mừng một tân đồng nghiệp.”
Đêm giao thừa vừa rồi, nằm chèo queo mình ên ở nhà trọ buồn gần chết tôi bèn lò dò ra phố, đang đi lơ ngơ thì chợt thấy một chai Ballatine’s bám bụi đứng co ro trong góc một quầy hàng. Ngó “thương” quá mà giá cả cũng nhẹ nhàng thôi (nên) nên tôi “ẵm” liền, sợ chậm. Vừa về tới nhà là lật đật vặn nắp tu liền: rượu giả! Đ...mẹ, cái con bà nó. Khi khổng khi không (cái) mất tiêu 15 U.S.A dollar, lảng xẹc!
Bữa nay thì rượu thiệt (và vì “vật vã” đã lâu) nên tôi tợp liền liền. Vừa cạn ly đầy, lại đầy ly cạn. Rượu ngon, bạn hiền nhưng chỉ có mình ên tui là vô cùng hào hứng còn Mặc Lâm – không hiểu sao – bỗng ưu tư quá cỡ về chuyện nhân quần và cứ nói hoài cái cuộc phỏng vấn mới rồi (“Chuyện Tử Tế Ngày Nay”) với đạo diễn Trần Văn Thủy, cùng rất nhiều buồn bực về tình trạng “đạo đức xuống cấp, văn hoá xuy đồi của” của cả nước Việt Nam.
Tôi sốt ruột (“biết rồi khổ quá”) ngắt ngang:
- Tôi có nghe hai ông “mạn đàm” trên RFA rồi. Hay lắm. Người hỏi đã hay mà kẻ đáp còn hay hơn nữa nhưng chuyện này toàn thể đồng bào, cũng như toàn thể nhân loại, cũng đều đang rất quan tâm nên xin cứ an lòng mà ... uống vài ly đi đã. Để lâu rượu bốc hơi, nhạt mùi, tội chết.
Nói đến vậy mà đương sự (ngó bộ) vẫn còn băn khoăn lắm nên tôi lại phải thêm:
- Bữa trước, G.S. Nguyễn Văn Tuấn còn bàn về “thứ hạng tử tế” của Việt Nam nữa kìa.
- Có cái vụ đó nữa sao?
-Sao không, coi nè.
Vừa nói, tôi vừa mở smartphone – mới sắm hồi hôm, cho kịp với trình độ văn minh nhân loại – kiếm tuan's blog chìa liền:
Tính chung, thứ hạng về tử tế của Việt Nam trên thế giới đứng hạng áp chót (124/125). Điều đáng nói hay cũng có thể xem là nhục là thứ hạng tử tế của VN chỉ đứng chung bảng với mấy nước “đầu trâu mặt ngựa” như Lybia, Iraq, Zimbabwe, Yemen...
Sự bủn xỉn của VN thể hiện rõ nhất qua đóng góp vào quĩ dành cho nạn nhân sóng thần ở Nhật vào năm 2011. Trong đợt đó, Chính phủ VN đóng góp 200,000 USD. Chỉ hai trăm ngàn USD! Chúng ta có thể lí giải rằng VN còn nghèo nên đóng góp như thế là hợp lí. Nhưng lí giải đó có lẽ không thuyết phục. Thái Lan đã giúp nạn nhân sóng thần Nhật 65 triệu USD và 15 ngàn tấn gạo. So với tỉ trọng GDP, đóng góp của Thái Lan hơn VN 100 lần. Chúng ta có thể nào tự hào với mức độ đóng góp chỉ có thể mô tả bằng hai chữ "bủn xỉn" đó?
Ngược lại, VN đã và đang là một gánh nặng cho thế giới. Sau 1975, hàng triệu người Việt bỏ nước ra đi và các nước phương Tây đã cung cấp nơi định cư (nhưng VN thì chẳng nhận người tị nạn từ Duy Ngô Nhĩ). VN cũng là nước chuyên xin xỏ: suốt năm này sang năm khác, quan chức VN ngửa tay xin viện trợ từ rất nhiều nước trên thế giới. Xin nhiều đến nỗi có quan chức nước ngoài phàn nàn nói "Sao chúng mày nói là chúng mày rất thông minh và cần cù mà cứ đi xin hoài vậy. Dân xứ tao phải làm lụng vất vã mới có tiền cho chúng mày". Thật là nhục...
Nói nào ngay, bị xỉ vả cỡ đó, cũng chưa “nhục” gì cho lắm. Nhà văn Trần Đĩnh còn trích lời của một thằng cha tham tán thương mại Ba Lan (nào đó) nghe nhục nhã hơn nhiều:
“Với chúng mày tốt nhất là đưa chúng mày ra một hòn đảo hẻo lánh giữa Thái Bình Dương rồi thế giới góp tiền nuôi và mọi người nhờ thế mà được yên ổn.”
Bị thiên hạ liệt vào hạng “đầu trâu mặt ngựa” nên họ muốn xua đuổi ra tuốt “một hòn đảo hẻo lánh” (cứ như bệnh nhân cùi hủi hồi xa xưa vậy) thì cũng không oan uổng gì cho lắm nhưng ăn ở cư xử ra sao mà tai tiếng dữ vậy cà? Muốn biết, xin nghe qua vài câu chuyện (nhỏ) liên quan đến cuộc sống của giới quan chức lãnh đạo nước CHXHCNVN – vẫn theo lời Trần Đĩnh:
- “Trường Chinh chết, Hồng Ngọc, vợ Hoàng Minh Chính và Hà, con gái cả đến nhà chia buồn. Hai mẹ con về, Đặng Xuân Kỳ tiễn. Kỳ vừa đi qua sân sỏi vừa nói: ông cụ tôi ngoài không dám ăn uống bất cứ thứ gì. Họp Bộ chính trị với Trung ương cũng uống nước của nhà mang theo và nếu không về nhà ăn trưa được thì ông cụ nhịn.” (Trần Đĩnh. Đèn Cù, tập II. Người Việt, Westminster, CA: 2014).
- “Khi Long đã mệt, tôi đến thế nào anh cũng bắt tôi đưa anh đi dạo một vòng phố. Từng bước nhích rất chậm, kiểu như đi dè cho được ngâm mình lâu trên đường.
Một bữa đến đầu Dã Tượng ra Lý Thường Kiệt, anh nhìn vào toà biệt thự bên trái mà có lần anh bảo ông Đồng có người quen, thân thiết ở đây, rồi nói khẽ với tôi: Tôi đến ông Đồng, ông ấy thường kéo tôi ra vườn nói chuyện. Nghe nói mũ của trung uý Dương con ông ấy cũng bị gài rệp nghe trộm ở ngôi sao đằng trước mũ.
Tôi sững nhìn Long. Long biết thì ông Đồng tất biết! Sao biết mà cam nhẫn chịu cho đồng chí của mình dò la, nghe trộm mình? Ôi, các lãnh tụ của phong trào giải phóng đất nước và loài người mà không phá nổi vòng kiểm soát của đồng chí. Bữa ấy tôi hiểu cả tại sao Võ Nguyên Giáp chịu đắng cay tủi hổ như thế mà im! Các vị tại sao tự nguyện phục tùng tội ác?” (S.đ.d. trang 194).
Coi: ông ông Tổng Bí Thư chỉ ăn uống ở nhà vì sợ các đồng chí của mình đầu độc, còn ông Thủ Tướng thì chỉ dám nói năng ở ngoài vườn vì sợ bị “dò la, nghe trộm.” Vậy mà hai vị vẫn thừa “liêm sỉ” và “kiên nhẫn” để “lãnh đạo” toàn dân cho gần đến hơi thở cuối cùng.
Thiệt là đã đời luôn!
Giữa “các anh ở trên” với nhau mà còn xử sự tàn tệ và đốn mạt tới cỡ đó thì đám dân lành, tất nhiên, đều bị hành cho tới bến:
“Thí dụ sáu bao diêm (bị móc vơi mất gần nửa vì gian giảo là thuộc tính trời sinh của thứ kinh tế tạo ra bằng những kẻ đói ăn, thiếu mặc nên quay sang tháu trộm lại của Nhà nước).
Thí dụ mạt cưa và củi mua về đốt lò nấu cơm thì ướt dề dề vì nhà mậu rẩy nước vào cho nặng cân.
Thí dụ nước mắm pha nước lã, đậu phụ trộn thạch cao. Nhà nước độc quyền mọi sản vật, nhất là lương thực...
Con người cũng sẽ giống như bao diêm trăm que chỉ cháy một que, sống điêu, sống gian, sống vờ, sống giả.” (S.đ.d. 225 – 226).
Buộc phải “sống điêu, sống gian, sống vờ, sống giả” qua vài ba thế hệ thì trách sao mà người dân không bớt dần tấm lòng tử tế:
“Một cái gì đó đã phá vỡ lòng tin của con người rằng xã hội luôn luôn cố gắng đem lại sự tốt đẹp cho mình, và chính mình phải có bổn phận phải gìn giữ các công trình xã hội để mình và mọi người cùng hưởng. Người ta thẳng tay cắt dây điện để bán lấy chút tiền, có thể đốt hết một kho hàng hoá để phi tang cho một vật ăn cắp không đáng là bao… con người đối xử với xã hội thô bạo như vậy chỉ vì xã hội đã đối xử với họ tệ quá." (Phạm Xuân Đài. Hà Nội Trong Mắt Tôi. Thế Kỷ: Hoa Kỳ 1994, 32-33).
Quả là “tệ” thật nhưng nhưng nói theo Trần Đỉnh (“bao diêm trăm que chỉ cháy một que”) thì e có hơi quá đáng. Coi:
- VnExpress: “Sau một tháng mở đợt quyên góp, hàng nghìn độc giả trong và ngoài nước đã hướng về người dân đôi bờ Pôkô, ủng hộ hơn 2,4 tỷ đồng. Dự kiến, cầu sẽ được khởi công sau 2 tuần tới.”
- Dân Trí: “Từ sự ủng hộ của bạn đọc, tính đến nay báo Dân trí đã xây dựng được 8 cây cầu để giúp các em học sinh vượt sông tìm chữ. Những cây cầu được đặt tên Dân trí thực sự đã ‘nối đôi bờ vui’ trên khắp mọi miền đất nước.”
Có hàng chục ngàn cây cầu từ thiện như trên đã được dựng xây chỉ nhờ vào lòng tử tế của người dân Việt. Tương tự, có hàng triệu mảnh đời rách nát ở đất nước đang được chia sẻ, đùm bọc bởi tình đồng bào ruột thịt, kể cả những khúc ruột xa ngàn dặm.
Đó là chưa kể đến “những chuyện nhỏ” hàng ngày “nhưng lay động lòng người” theo như cách nói của nhà báo Quỳnh Trân:
- “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, cần phải có tính đảng mới làm được việc. Kém tính đảng, thì việc gì cũng không làm nên.”
- “Đất nước đã mắc phải một giống vi trùng có tên gọi tính đảng nó kháng lại mọi yêu cầu tử tế của con người.”
Từ Vọng Các, Mặc Lâm bay tuốt luốt qua Nam Vang rủ nhậu:
- Ê, kiếm chỗ nào ngồi uống sương sương vài ly cho nó có chút hương vị đầu Xuân nha.
- Tưởng gì chớ uống thì bất kể Xuân, Hạ, Thu, Đông ... gì tui cũng chịu liền.
Tôi rất hài lòng với người bạn trẻ vừa quen: nhanh nhẹn, thông minh, và (xem chừng) đôn hậu. Ghé quán Ngon Restaurant, chúng tôi gọi “liều” một chai Johnnie Walker Black Label. Thấy cái gíá 40 MK mà gần muốn “đứt ruột” luôn nhưng rồi đành tặc lưỡi: “Thôi chả gì thì cũng mừng tân niên, mỗi năm chỉ có mật lần, và cũng là dịp mừng một tân đồng nghiệp.”
Đêm giao thừa vừa rồi, nằm chèo queo mình ên ở nhà trọ buồn gần chết tôi bèn lò dò ra phố, đang đi lơ ngơ thì chợt thấy một chai Ballatine’s bám bụi đứng co ro trong góc một quầy hàng. Ngó “thương” quá mà giá cả cũng nhẹ nhàng thôi (nên) nên tôi “ẵm” liền, sợ chậm. Vừa về tới nhà là lật đật vặn nắp tu liền: rượu giả! Đ...mẹ, cái con bà nó. Khi khổng khi không (cái) mất tiêu 15 U.S.A dollar, lảng xẹc!
Bữa nay thì rượu thiệt (và vì “vật vã” đã lâu) nên tôi tợp liền liền. Vừa cạn ly đầy, lại đầy ly cạn. Rượu ngon, bạn hiền nhưng chỉ có mình ên tui là vô cùng hào hứng còn Mặc Lâm – không hiểu sao – bỗng ưu tư quá cỡ về chuyện nhân quần và cứ nói hoài cái cuộc phỏng vấn mới rồi (“Chuyện Tử Tế Ngày Nay”) với đạo diễn Trần Văn Thủy, cùng rất nhiều buồn bực về tình trạng “đạo đức xuống cấp, văn hoá xuy đồi của” của cả nước Việt Nam.
Tôi sốt ruột (“biết rồi khổ quá”) ngắt ngang:
- Tôi có nghe hai ông “mạn đàm” trên RFA rồi. Hay lắm. Người hỏi đã hay mà kẻ đáp còn hay hơn nữa nhưng chuyện này toàn thể đồng bào, cũng như toàn thể nhân loại, cũng đều đang rất quan tâm nên xin cứ an lòng mà ... uống vài ly đi đã. Để lâu rượu bốc hơi, nhạt mùi, tội chết.
Nói đến vậy mà đương sự (ngó bộ) vẫn còn băn khoăn lắm nên tôi lại phải thêm:
- Bữa trước, G.S. Nguyễn Văn Tuấn còn bàn về “thứ hạng tử tế” của Việt Nam nữa kìa.
- Có cái vụ đó nữa sao?
-Sao không, coi nè.
Vừa nói, tôi vừa mở smartphone – mới sắm hồi hôm, cho kịp với trình độ văn minh nhân loại – kiếm tuan's blog chìa liền:
Tính chung, thứ hạng về tử tế của Việt Nam trên thế giới đứng hạng áp chót (124/125). Điều đáng nói hay cũng có thể xem là nhục là thứ hạng tử tế của VN chỉ đứng chung bảng với mấy nước “đầu trâu mặt ngựa” như Lybia, Iraq, Zimbabwe, Yemen...Sự bủn xỉn của VN thể hiện rõ nhất qua đóng góp vào quĩ dành cho nạn nhân sóng thần ở Nhật vào năm 2011. Trong đợt đó, Chính phủ VN đóng góp 200,000 USD. Chỉ hai trăm ngàn USD! Chúng ta có thể lí giải rằng VN còn nghèo nên đóng góp như thế là hợp lí. Nhưng lí giải đó có lẽ không thuyết phục. Thái Lan đã giúp nạn nhân sóng thần Nhật 65 triệu USD và 15 ngàn tấn gạo. So với tỉ trọng GDP, đóng góp của Thái Lan hơn VN 100 lần. Chúng ta có thể nào tự hào với mức độ đóng góp chỉ có thể mô tả bằng hai chữ "bủn xỉn" đó?
Ngược lại, VN đã và đang là một gánh nặng cho thế giới. Sau 1975, hàng triệu người Việt bỏ nước ra đi và các nước phương Tây đã cung cấp nơi định cư (nhưng VN thì chẳng nhận người tị nạn từ Duy Ngô Nhĩ). VN cũng là nước chuyên xin xỏ: suốt năm này sang năm khác, quan chức VN ngửa tay xin viện trợ từ rất nhiều nước trên thế giới. Xin nhiều đến nỗi có quan chức nước ngoài phàn nàn nói "Sao chúng mày nói là chúng mày rất thông minh và cần cù mà cứ đi xin hoài vậy. Dân xứ tao phải làm lụng vất vã mới có tiền cho chúng mày". Thật là nhục...
Nói nào ngay, bị xỉ vả cỡ đó, cũng chưa “nhục” gì cho lắm. Nhà văn Trần Đĩnh còn trích lời của một thằng cha tham tán thương mại Ba Lan (nào đó) nghe nhục nhã hơn nhiều:
“Với chúng mày tốt nhất là đưa chúng mày ra một hòn đảo hẻo lánh giữa Thái Bình Dương rồi thế giới góp tiền nuôi và mọi người nhờ thế mà được yên ổn.”
Bị thiên hạ liệt vào hạng “đầu trâu mặt ngựa” nên họ muốn xua đuổi ra tuốt “một hòn đảo hẻo lánh” (cứ như bệnh nhân cùi hủi hồi xa xưa vậy) thì cũng không oan uổng gì cho lắm nhưng ăn ở cư xử ra sao mà tai tiếng dữ vậy cà? Muốn biết, xin nghe qua vài câu chuyện (nhỏ) liên quan đến cuộc sống của giới quan chức lãnh đạo nước CHXHCNVN – vẫn theo lời Trần Đĩnh:
- “Trường Chinh chết, Hồng Ngọc, vợ Hoàng Minh Chính và Hà, con gái cả đến nhà chia buồn. Hai mẹ con về, Đặng Xuân Kỳ tiễn. Kỳ vừa đi qua sân sỏi vừa nói: ông cụ tôi ngoài không dám ăn uống bất cứ thứ gì. Họp Bộ chính trị với Trung ương cũng uống nước của nhà mang theo và nếu không về nhà ăn trưa được thì ông cụ nhịn.” (Trần Đĩnh. Đèn Cù, tập II. Người Việt, Westminster, CA: 2014).
- “Khi Long đã mệt, tôi đến thế nào anh cũng bắt tôi đưa anh đi dạo một vòng phố. Từng bước nhích rất chậm, kiểu như đi dè cho được ngâm mình lâu trên đường.
Tôi sững nhìn Long. Long biết thì ông Đồng tất biết! Sao biết mà cam nhẫn chịu cho đồng chí của mình dò la, nghe trộm mình? Ôi, các lãnh tụ của phong trào giải phóng đất nước và loài người mà không phá nổi vòng kiểm soát của đồng chí. Bữa ấy tôi hiểu cả tại sao Võ Nguyên Giáp chịu đắng cay tủi hổ như thế mà im! Các vị tại sao tự nguyện phục tùng tội ác?” (S.đ.d. trang 194).
Coi: ông ông Tổng Bí Thư chỉ ăn uống ở nhà vì sợ các đồng chí của mình đầu độc, còn ông Thủ Tướng thì chỉ dám nói năng ở ngoài vườn vì sợ bị “dò la, nghe trộm.” Vậy mà hai vị vẫn thừa “liêm sỉ” và “kiên nhẫn” để “lãnh đạo” toàn dân cho gần đến hơi thở cuối cùng.
Thiệt là đã đời luôn!
Giữa “các anh ở trên” với nhau mà còn xử sự tàn tệ và đốn mạt tới cỡ đó thì đám dân lành, tất nhiên, đều bị hành cho tới bến:
“Thí dụ sáu bao diêm (bị móc vơi mất gần nửa vì gian giảo là thuộc tính trời sinh của thứ kinh tế tạo ra bằng những kẻ đói ăn, thiếu mặc nên quay sang tháu trộm lại của Nhà nước).
Thí dụ mạt cưa và củi mua về đốt lò nấu cơm thì ướt dề dề vì nhà mậu rẩy nước vào cho nặng cân.
Thí dụ nước mắm pha nước lã, đậu phụ trộn thạch cao. Nhà nước độc quyền mọi sản vật, nhất là lương thực...
Con người cũng sẽ giống như bao diêm trăm que chỉ cháy một que, sống điêu, sống gian, sống vờ, sống giả.” (S.đ.d. 225 – 226).
Buộc phải “sống điêu, sống gian, sống vờ, sống giả” qua vài ba thế hệ thì trách sao mà người dân không bớt dần tấm lòng tử tế:
“Một cái gì đó đã phá vỡ lòng tin của con người rằng xã hội luôn luôn cố gắng đem lại sự tốt đẹp cho mình, và chính mình phải có bổn phận phải gìn giữ các công trình xã hội để mình và mọi người cùng hưởng. Người ta thẳng tay cắt dây điện để bán lấy chút tiền, có thể đốt hết một kho hàng hoá để phi tang cho một vật ăn cắp không đáng là bao… con người đối xử với xã hội thô bạo như vậy chỉ vì xã hội đã đối xử với họ tệ quá." (Phạm Xuân Đài. Hà Nội Trong Mắt Tôi. Thế Kỷ: Hoa Kỳ 1994, 32-33).
Quả là “tệ” thật nhưng nhưng nói theo Trần Đỉnh (“bao diêm trăm que chỉ cháy một que”) thì e có hơi quá đáng. Coi:
- VnExpress: “Sau một tháng mở đợt quyên góp, hàng nghìn độc giả trong và ngoài nước đã hướng về người dân đôi bờ Pôkô, ủng hộ hơn 2,4 tỷ đồng. Dự kiến, cầu sẽ được khởi công sau 2 tuần tới.”
- Dân Trí: “Từ sự ủng hộ của bạn đọc, tính đến nay báo Dân trí đã xây dựng được 8 cây cầu để giúp các em học sinh vượt sông tìm chữ. Những cây cầu được đặt tên Dân trí thực sự đã ‘nối đôi bờ vui’ trên khắp mọi miền đất nước.”
Đó là chưa kể đến “những chuyện nhỏ” hàng ngày “nhưng lay động lòng người” theo như cách nói của nhà báo Quỳnh Trân:
Những ai đi ngang qua đường Huỳnh Văn Bánh, Quận Phú Nhuận đều bị thu hút bởi tấm biển "Sửa giày dép miễn phí cho người bán vé số, xe ôm, ba gác, xích lô, người thu gom rác..." của anh thợ sửa giày Lý Ngọc Bình, 30 tuổi. Ảnh và chú thích: vietnamnet.vn
Trà đá miễn phí. Chủ nhân của những bình nước này đều là người dân lao động.
Ảnh và chú thích :vietnamnet.vn
“Gần gụi và cảm động nhất,” theo ghi nhận của blogger Đinh Tấn Lực “là những hoạt động âm thầm trợ giúp bà con có nhu cầu thiết thực: Bữa Cơm Có Thịt, Trường Lớp Tình Thương, Quà Trung Thu Cho Trẻ Em Miền Núi, Học Bổng Bước Đầu Vào Đại Học, Tủ Sách Nông Thôn, Bầu Bí Tương Thân, Cứu Lấy Dân Oan, Bữa Cơm Dân Oan… “
Những kẻ bị “chết lòng tử tế” ở đất nước này phần lớn (chắc chắn) đều không phải ... nhân dân. Bởi vậy, khi xếp “thứ hạng về tử tế của Việt Nam trên thế giới đứng hạng áp chót (124/125)” thì tưởng cũng cần phải nói thêm cho rõ là những con số này chỉ “thể hiện” sự tiểu tâm, ti tiện, bạc ác, và đểu cáng của đám côn đồ đang “lãnh đạo” ở xứ sở này chứ không liên quan dính dáng gì nhiều đến những lương dân đất Việt.
Người Việt chỉ chịu một phần trách nhiệm (e cũng không nhỏ lắm) khi cam chịu để cho “bọn đầu trâu mặt ngựa” hoành hành trên quê hương và đất nước của mình mà không có được một sự phản kháng nào đáng kể, hay đáng nể.
NGUYỄN THIÊN THỤ * TRẦN ĐỨC THẢO
TÂM TRẠNG
TRẦN ĐỨC THẢO
NGUYỄN THIÊN THỤ
Phật giáo nói rằng con người bị vô minh che lấp cho nên suy nghĩ và hành động sai lầm. Ai cũng có thể bị vô minh che lấp, người trí kẻ ngu đều bị vô minh điều khiển. Vô minh như là những đợt sóng thần Tsunami cuốn phăng tất cả không chừa ai. Những kẻ có chân tuệ mới thoát khỏi vô minh. Nhiều khi vô minh hiện ra dưới những dạng tốt đẹp như giải phóng nhân loại, san bằng giai cấp, diệt bóc lột nhưng nhiều khi hiện rõ rêt dưới mãnh lực tham sân si như nhiều quốc gia trong các thế kỷ trước đã giết nhau trong cuộc thánh chiến để bảo vệ và phát triển nước Chúa, Và các cuộc thám hiểm thế giới đã đưa đến việc tàn sát các quốc gia nhỏ bé để chiếm thuộc địa. Dân tộc ta cũng vậy, đã trải qua nhiều cơn mê. Những cơn mê này lôi cuốn nhiều người nên người ta còn gọi là phong trào như phong trào đi bán chính thức do Mai Chí Thọ lãnh đạo, phong trào đi lao động XHCN, phong trào lấy chồng Đài, chồng Hàn, phong trào đi Úc trồng cỏ, phong trào du học và du lịch Mỹ v.v..
Sau khi đọc Trần Đức Thảo Những Lời Trăn Trối của Tri Vũ Phan Ngọc Khuê, tôi thấy có nhiều điều ich lợi cho lịch sử và thực tế nên mạo muội viết bài này về một danh nhân mà chúng ta rất kính trọng và thương xót.
I. PARIS KHUNG TRỜI HỒNG CỦA DON QUICHOTE HIỆN ĐẠI.
Don Quichote là cuốn tiểu thuyết được rất nhiều người ưa chuộng qua nhiều thế kỷ. Tác giả Cervantes (1547-1616) viết ra tác phẩm này có chủ đích châm biếm tinh thần hiệp sĩ thái quá và lỗi thời cũng như các quy ước xã hội và văn chương của thời đại của ông. Don Quichote tên thật là Alonso Quixano xuất thân từ tỉnh La Mancha, là một con người tử tế, gặp cảnh nghèo khó.
Do đọc nhiều cuốn truyện có tính anh hùng, mã thượng, Alonso trở nên hơi điên khùng. Chàng này quyết định trang bị cho mình một bộ áo giáp đã rỉ sét và đội trên đầu chiếc mũ sắt bằng giấy cứng để trở thành một hiệp sĩ lang thang. Với danh hiệu Don Quixote, anh chàng bất thường này đi tới nhiều nơi để sửa chữa các điều sai trái gặp phải trong xã hội. Vào cuối truyện, anh chàng này đã tỉnh ngộ, trở về nhà và hối hận vì các điên khùng của mình trước khi qua đời.
Do đọc nhiều cuốn truyện có tính anh hùng, mã thượng, Alonso trở nên hơi điên khùng. Chàng này quyết định trang bị cho mình một bộ áo giáp đã rỉ sét và đội trên đầu chiếc mũ sắt bằng giấy cứng để trở thành một hiệp sĩ lang thang. Với danh hiệu Don Quixote, anh chàng bất thường này đi tới nhiều nơi để sửa chữa các điều sai trái gặp phải trong xã hội. Vào cuối truyện, anh chàng này đã tỉnh ngộ, trở về nhà và hối hận vì các điên khùng của mình trước khi qua đời.
Tuổi trẻ Trần Đức Thảo tràn đầy tự hào. Ông tự hào về sự học giỏi và nổi tiếng của ông mà Paris chính là môi trường phát triển tài năng và sự tự hào của ông.
Nguồn gốc tự hào đã có tự thời Trung Học, ông theo ban Triết học ( sau này là ban C, Văn Chương Cổ điển) ông làm bài luận triết học mà ông còn nhớ rõ, đề thi là bình giải một câu của Léon Bourgeois: “Danh dự cũng có thể là một nền tảng của đạo đức” được Giáo sư Ner cho 16/20 điểm với lời phê “Có nhiều ý triết lý!” Bài của Thảo được đọc cho cả lớp nghe. Sự khen ngợi đó đã vĩnh viễn in sâu vào trí óc non nớt của Thảo. Chính GS Ner giới thiệu ông xin học bổng du học. (Ch.3)
Trường Cao đẳng Sư Phạm phố Ulm là môi trường phát triển khối tự hào vĩ đại trong lòng ông. Quả thật trường Cao Đẳng Sư Phạm phố Ulm được nổi tiếng vì nơi đây toàn sinh viên ưu tú! Ông tự hào về trường Cao Đẳng Sư Phạm của ông: "Nhưng khi sang tới Paris, tôi nhất định chọn học triết, mà phải là ban triết của trường Cao đẳng Sư phạm phố Ulm, là ngôi trường danh tiếng bậc nhất của nước Pháp. Tôi đã phải theo học hai lớp dự bị rất vất vả mới thi được vào trường ấy. Sự chọn lựa học triết lúc đó chỉ là do tính kiêu ngạo, bồng bột của tuổi trẻ, muốn được mọi người nể phục, muốn chứng tỏ mình là người có đủ sức mạnh trí óc để học triết.(Ch.3)
Ông không học đại học, chỉ là Cao đẳng, chưa là tiến sĩ, chỉ là thạc sĩ, cái bằng cấp để dạy trung học nhưng cái danh thơm triết gia về một vài tác phẩm triết học cũng đủ làm cho ông bay lên chín tầng mây.
Ở đời đa số tự hào, tự đắc. Không phải người tài cao học rộng, địa vị cao quý mới tự hào, tự tôn. Án tử làm Tể tướng nhưng luôn khiêm cung còn anh đánh xe cho Án Anh lại tự hào ta là người đánh xe cho tể tướng! Trên thế gian, người cộng sản tự hào , tự cao, tự đại nhất! Anh cần vụ, chú lính trơn, bà thư ký mà tự hào ngất trời là mình thuộc giaicấp vô sản, giai cấp lãnh đạo! Kim Nhật trong Về R cho biết bọn thuộc cấp khinh bỉ Trịnh Đình Thảo, Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát là giai cấp tư sản, không đáng cho họ bưng cơm rót nước.
Còn tôi, sau 1975, khi tôi vào thư viện Quốc gia đường Gia Long xin đọc Lương Khê Thi Thảo của Phan Thanh Giản thì bị từ chối. Tôi xin gặp giám đốc Thanh Nghị nhưng bà thư ký người Bắc Kỳ 75 ở bàn ngoài cho tôi nghe một bài "tụng mất gà" về Thanh Nghị, coi như Thanh Nghị là kẻ thù truyền kiếp của bà, một kẻ vô cùng đáng khinh bỉ dưới hàng trâu chó!
Cao hơn nữa, Engels, Lenin tự hào về Duy vật lịch sử của Marx!Tại Việt Nam, trước 1945, Trương Tửu, một trí thức có bằng tiểu học tự học đã tự hào về Duy vật sử quan! Sau 1954, Lê Duẩn tự hào giỏi hơn Hồ Chí Minh, khinh miệt Võ Nguyên Giáp hèn nhát, sợ Mỹ, chỉ biết sờ mu rùa nên chuyển ngành cho ông sang làm xếp xòng bên khoa học thuộc bộ phận công nghệ Từ Dũ. Còn Trần Văn Trà trong Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm (gồm nhiều tập) thì khinh Lê Duẩn ,Lê Đức Thọ hèn nhát, kém cỏi, chiến tháng 1975 là hoàn toàn là công lao của ông. Họ tự hào lắm. Cho dân Nam ta là đĩ điếm, trộm cắp, lưu manh, các bác sĩ kỹ sư, giáo sư là ngu dốt cho nên họ xếp tiến sĩ trời Âu chỉ bằng sinh viên tốt nghiệp đại học của XHCN! Cho nên hồi đó tôi có câu thơ nhại Nguyễn Khuyến:
Còn tôi, sau 1975, khi tôi vào thư viện Quốc gia đường Gia Long xin đọc Lương Khê Thi Thảo của Phan Thanh Giản thì bị từ chối. Tôi xin gặp giám đốc Thanh Nghị nhưng bà thư ký người Bắc Kỳ 75 ở bàn ngoài cho tôi nghe một bài "tụng mất gà" về Thanh Nghị, coi như Thanh Nghị là kẻ thù truyền kiếp của bà, một kẻ vô cùng đáng khinh bỉ dưới hàng trâu chó!
Cao hơn nữa, Engels, Lenin tự hào về Duy vật lịch sử của Marx!Tại Việt Nam, trước 1945, Trương Tửu, một trí thức có bằng tiểu học tự học đã tự hào về Duy vật sử quan! Sau 1954, Lê Duẩn tự hào giỏi hơn Hồ Chí Minh, khinh miệt Võ Nguyên Giáp hèn nhát, sợ Mỹ, chỉ biết sờ mu rùa nên chuyển ngành cho ông sang làm xếp xòng bên khoa học thuộc bộ phận công nghệ Từ Dũ. Còn Trần Văn Trà trong Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm (gồm nhiều tập) thì khinh Lê Duẩn ,Lê Đức Thọ hèn nhát, kém cỏi, chiến tháng 1975 là hoàn toàn là công lao của ông. Họ tự hào lắm. Cho dân Nam ta là đĩ điếm, trộm cắp, lưu manh, các bác sĩ kỹ sư, giáo sư là ngu dốt cho nên họ xếp tiến sĩ trời Âu chỉ bằng sinh viên tốt nghiệp đại học của XHCN! Cho nên hồi đó tôi có câu thơ nhại Nguyễn Khuyến:
"Tiến sĩ còn chẳng ra gì,
Cử nhân, Cao học khác chi thằng hề!"
Họ tự cao lắm cho nên Lê Duẩn tự hào Việt Nam đánh thắng bốn cường quốc là Nhật, Pháp, Mỹ và Trung Cộng! Ông còn tự hào quân đội Việt Nam bách chiến bách thắng, là lính đánh thuê cho Liên Xô và Trung Cộng! Lê Duẩn còn đòi Mỹ phải trả 3tỷ 7 mỹ kim mới chịu bang giao.! Họ vui cười với Phạm Duy, Nguyễn Cao Kỳ, và các thượng tọa, hòa thượng, linh mục, giám mục lưu manh nhưng trong bụng họ vô cùng khinh bỉ bọn bất nhân bất nghĩa và hèn hạ!
Trần Đức Thảo cũng có cái tự cao, tự đại đó, cái tự hào đã nắm hết chủ nghĩa Marx, nghĩa là sẽ làm cho thế giới đi đến đại đồng, xóa sạch bất công, chấm dứt bóc lột và chiến tranh! Ông tin ở Pháp ông đã học hết tài nghệ của Marx, ông sẽ xuống núi phất cao cờ hồng đại thắng!
Ông nghĩ rằng ông phải về Việt Nam để thực hành chủ nghĩa Marx. Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam làm sai vì họ không đọc Marx, không hiểu Marx, còn ông đọc Marx cả triệu lần, đã thuộc lòng Marx từng câu, từng chữ. Khi đã hiểu đúng tất làm đúng! Ông thấy người ta nói Lenin, Stalin, Mao làm sai, ông phải trở về để "trải nghiệm".
Tôi nghĩ rẳng ông ngụy biện. Trong phòng thí nghiệm, chúng ta có quyền thử nhiều lần. Nhưng trong chính trị,quân sự, kinh tế, chúng ta e không có quyền thí nghiệm. Muốn thí nghiệm phải dùng chuột bạch. Không ai đưa tay mình ra để trải nghiệm với thanh kiếm mới đúc! Không ai đứng ra giữa đường chận xe ô tô để trải nghiệm thân thể mình với xe ô tô cái nào cứng hơn! Trí tuệ là đủ. Nhiều bộ môn không thuộc khoa học thực nghiệm. Môn toán học đâu cần trải nghiệm! Lão tử nói: Bất xuất hộ, tri thiên hạ. Bất khuy dũ kiến thiên đạo ( Chẳng ra khỏi cửa mà biết thiên hạ. Chẳng dòm qua cửa sổ, mà biết đạo Trời" 不 出 戶, 知 天 下. 不 闚 牖, 見 天 道.Đạo Đức kinh.ch.47 ).Triết gia mà nói trải nghiệm thì thật là tài! Nói câu này nếu không ngụy biện thì cũng tỏ ra kiêu căng.
Tôi nghĩ rẳng ông ngụy biện. Trong phòng thí nghiệm, chúng ta có quyền thử nhiều lần. Nhưng trong chính trị,quân sự, kinh tế, chúng ta e không có quyền thí nghiệm. Muốn thí nghiệm phải dùng chuột bạch. Không ai đưa tay mình ra để trải nghiệm với thanh kiếm mới đúc! Không ai đứng ra giữa đường chận xe ô tô để trải nghiệm thân thể mình với xe ô tô cái nào cứng hơn! Trí tuệ là đủ. Nhiều bộ môn không thuộc khoa học thực nghiệm. Môn toán học đâu cần trải nghiệm! Lão tử nói: Bất xuất hộ, tri thiên hạ. Bất khuy dũ kiến thiên đạo ( Chẳng ra khỏi cửa mà biết thiên hạ. Chẳng dòm qua cửa sổ, mà biết đạo Trời" 不 出 戶, 知 天 下. 不 闚 牖, 見 天 道.Đạo Đức kinh.ch.47 ).Triết gia mà nói trải nghiệm thì thật là tài! Nói câu này nếu không ngụy biện thì cũng tỏ ra kiêu căng.
Ông không tin những kết quả xấu về việc xây dựng cộng sản chủ nghĩa ở Liên Xô, Trung Cộng. Ông cho rằng người ta có ác ý xuyên tạc. Như nhiều người theo cộng sản cho rằng họ đã đọc Aleksandr Solzhenitsyn và quần đảo Gulak nhưng họ khôngb tin. Cũng như đồng bào miền Nam thấy dân di cư vào Saigon đã nói: "Ngòai Bắc tự do còn vào đây làm gì? Và khi nghe việc đấu tố chém giết, họ bảo bọn di cư ăn tiền Mỹ nói vu cho cách mạng. Người ta cả đời đi làm cách mạng để chém giết và bỏ tù nhân dân sao? ( Võ Kỳ Điền- Kẻ Đưa Đường). Tại Pháp cũng vậy, sau 1975, dân Việt Nam chạy qua Pháp, Việt kiều bên đó nói" Việt Nam độc lập, hòa bình còn chạy qua chi đây?" Một bà trung tá cảnh sát miền Nam, nghe nói ngoài bắc xếp hàng mua rau muống. Bà cười ngất mà nói rằng làm sao có chuyện đó. Đây rau muống cả đống, cần gì phải xếp hàng! Bọn di cư nói láo! Trần Đức Thảo cũng cho rằng tất cả là do bọn tay sai Mỹ, bọn phản động "nói xấu đảng ta". Ông phải vể để "trải nghiệm". Người ta dùng chuột bạch để trải nghiệm, ông dùng thân ông để trải nghiệm, vô rồi khó rút ra, về Việt Nam là đã trở thành cá chậu chim lồng còn than thở với ai!
..
Điều quan trọng là sự trở về xứ sở đã giúp tôi trải nghiệm một thực tại...(Ch2). Sống và tư duy như thế là biết trải nghiệm… Trải nghiệm là biết quan sát cái đang biến hoá, cái đang trở thành cái đã cũ, xuất phát từ những di sản mang tính cổ hủ của dĩ vãng…(Ch.4).
Nói "trải nghiệm" là nói không thật. Sự thực ông về Việt Nam là do tham sân si và vụng tính. Chính ông thú nhận:" Hồi ấy, tôi đã trở về xứ sở với một đầu óc hăng hái, đầy lạc quan tin tưởng của tuổi trẻ. Cứ nghĩ thể nào cụ Hồ cũng phải ngạc nhiên về những hiểu biết của tôi. Bởi tôi đã có những nghiên cứu sâu rộng về cuộc cách mạng tháng mười ở Nga, mặt khác, tới đã có một vốn hiểu biết vững chắc về tư tưởng của Karl Marx. Với lòng hiếu thắng bồng bột, ngông cuồng đến mức cuồng tín, tôi tin rằng với những nghiên cứu và kiến thức mà tôi đã đạt được, tôi tự thấy mình như là hiện thân của ý thức hệ mác-xít, để có thể trở về làm nhiệm vụ như một trong những lý thuyết gia bên cạnh ông cụ. Để tôi góp sức xây dựng ở quê hương một mô hình cách mạng mà loài người mong đợi!
Ông không hiểu tâm lý người đời. Ông Hồ học chưa xong tiểu học làm sao có thể dùng một trí thức nổi danh như ông. Ông nổi danh là một triết gia Marxist sắc sảo, tài ba, lại là " đại biểu Việt kiều", còn ông Hồ lúc đó vô danh, ông Hồ rước ông về cho ông ngồi trên đầu ông ta ư? Khoảng 1930, ông Hồ khốn đốn vì bọn Trần Phú, Hà Huy Tập, Nguyễn văn Cừ tố cáo ông mang đầu óc dân tộc và bắt tay với thực dân Pháp bán các đồng chí cộng sản. Ông bị Stalin triệu về giam cầm điều tra... Sau đó ông là Hồ Tập Chương đóng vai Hồ Chí Minh, ông lại càng kị bọn xoi mói lai lịch và hành tung của ông. Trần Đức Thảo nhảy về Việt Nam là một hành động khờ dại và nguy hiểm. Khờ dại vì ở đời người ta mời ăn cỗ thì mình mới xách ô đến, không mời mà vác mặt đến thì người ta đuổi ra tổ cho xấu hổ cái mặt lỳ! Cô gái nào cũng nên làm cao một chút, đừng quá dễ dãi. Dễ dãi là mất giá ngay. Ông Hồ không mời mà ông Trần chạy đến bắt tay làm quen, rồi lại ăn nói ngông nghênh:" Tôi nhớ rất rõ hôm ấy là ngày mùng 5 tháng sáu, năm 1946. Lúc đó, trùng buổi chiêu đãi “phái bộ cụ Hồ” vừa tới Paris để lo việc điều đình với Pháp, vì sự bồng bột của tuổi trẻ, nên tôi hồn nhiên vui mừng, thân mật, vồn vã chạy tới nắm chặt tay “ông cụ” một cách nồng nhiệt và nói: “Tôi rất hân hạnh được gặp cụ chủ tịch!” Cụ Hồ cũng vui vẻ đáp: “Chào chủ Thảo!” Nghe vậy, tôi rất cảm động, nghĩ rằng Hồ chủ tịch đã thân mật coi mình như đứa em trong gia đình… Cuối bữa ăn, Hồ chủ tịch kêu gọi anh em Việt kiều về nước tham gia kháng chiến, thì tôi hăng hái, xin được trở về ngay để được phục vụ cách mạng và quê hương.> Tôi còn tỏ ra là mình hơn hẳn các anh em Việt kiều khác khi khoe rằng “tôi cũng đã bỏ công nghiên cứu về tư tưởng Karl Marx và về cuộc Cách mạng tháng Mười ở Nga… Tôi rất mong ước được về nước cùng cụ xây dụng thành công một mô hình cách mạng tốt đẹp… tại quê hương ta”! Ông cụ lúc ấy chỉ mỉm cười nhạt, nhưng nét mặt thì vẫn lạnh lùng khi nhìn tôi. Tới lúc Hồ chủ tịch lần lượt bắt tay từ biệt mọi người. Khi bắt tay tôi thì “ông cụ” nói với tôi một cách nghiêm nghị:
- Còn chú Thảo này thì cách mạng chưa cần tới chú lúc này đâu. Chú cứ ở lại Paris thì có lợi cho cách mạng và cho chú hơn. (Ch.12)
Trong khi đó, ông Hồ mời bốn khoa học gia về nước.
Hành động này làm cho ông Hồ ghét ông và nghi ngờ ông là tay sai của cộng sản Pháp và cộng sản Liên Xô đặt ông bên cạnh ông Hồ để theo dõi, báo cáo và có thể chuẩn bị thay thế ông! Ai cũng thấy thế huống hồ ông Hồ và bọn Trường Chinh. Nếu ông Thảo lên lãnh đạo thì bọn họ phải cuốn gói. "Tôi đã kể lại lần gặp gỡ này cho một người bạn mới quen ở ATK, tên là Đa, một trí thức có vẻ cởi mở hiếm thấy. Nghe kể xong, Đa lè lưỡi, lắc đầu, khoát tay tỏ vè lo sợ đến lớn tiếng:
Sau này Trần Đức Thảo mới thấy mình ngu' . Ông tâm sự:"
Nay nghĩ lại lúc gặp “Người” lần đầu tiên, mà tôi thấy lúc ấy mình ngốc quá. Bạch diện thư sinh mà dám tỏ ra là tay ngang với lãnh tụ! Vì trong đầu “ông cụ” đầy ắp cuồng vọng quyền lực tối cao. Anh phải biết là cho tới nay, những ai đã từng coi thường “Người”, từng tỏ ra ngang hàng với “Người”, thì sau đều đã vinh viễn bị loại trừ ra khỏi tầm mắt của “Người”. Không ít người đã mất mạng, mất cả xác vì dám có ứng xử tay ngang như thế đấy.
Bởi ngay từ khi vừa đặt chân trở lại quê hương, tôi đã bị nghi ngờ là một “kẻ có vấn đề”(Ch11). Cho tới khi bị coi như là một kẻ phản động, bị nghi là “kẻ do địch cài vào hàng ngũ cách mạng” thì từ đó tôi mới nhận ra sự bế tắc ấy là do ý thức, do thái độ cảnh giác, do chính sách thù hận mù quáng của quyền lực chuyên chính.(Ch.12).
Ông cho rằng ông là Maxist chân chính còn bọn kia chẳng hiểu gì Marx nên làm sai. Tôi tin rằng với những nghiên cứu và kiến thức mà tôi đã đạt được, tôi tự thấy mình như là hiện thân của ý thức hệ mác-xít, để có thể trở về làm nhiệm vụ như một trong những lý thuyết gia bên cạnh ông cụ. Để tôi góp sức xây dựng ở quê hương một mô hình cách mạng mà loài người mong đợi!.. để nghiên cứu thực tại, với hoài bão đóng góp xây dựng ở nước ta một mô hình cách mạng trong sáng, mà chẳng những dân ta mà là cả nhân loại mong đợi...để hoàn thành sứ mệnh cao cả của cách mạng, là giải phóng con người (Ch.2)
Ông lớn lối quá, kiêu ngạo quá, chính người cộng sản cũng ghét ông. Ta hãy nghe những đoạn đối thoại giữa cha con ông:"Mày nói thế là mày là người cộng sản thật à?
Trần Đức Thảo là người ôm mộng lớn, thế mà ông đã dùng nhiều lần chữ "trải nghiệm". Điều này cho biết khi về Việt Nam, ông đã gặp nhiều thực trạng đắng cay.Trước khi về Việt Nam, ông phải đến Trung Quốc, rồi về An Toàn khu ( Việt Bắc), nơi đây ông đã trải nghiệm nhiều điều!
Thực tại thứ nhất là tại Trung Quốc, Việt Cộng bắt ông khai lý lịch, bắt ông tố cáo cha mẹ, ông bà của ông. Về Việt Bắc, ông trải nghiệm CCRĐ. Ông viết về tâm trạng của ông trong CCRĐ tại huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang:Từ giờ phút ấy, Thảo ý thức rất rõ rằng, lúc này, ở nơi đây, mình sẽ không có một cơ hội nào để góp một chút gì tốt đẹp cho cách mạng! Có thể nào cản ngăn được thứ bạo lực thô bạo này, khi nó đang trong đà phát động với tất cả hăng say, cuồng nộ, cuồng tín như thế? Vậy thì những ngày còn lại của đời ta sẽ có thể làm gì ở đây? Cứ im lặng chịu đựng để được sống ngày nào hay ngày ấy? Để cái ác cứ tiếp tục phát triển như nó vẫn được khai triển trong suốt chiều dài lịch sử? Thế thì cái triết học của ta còn ý nghĩa gì khi chấp nhận khoanh tay đứng nhìn cái ác hoành hành? “Chính nghĩa vô sản”, “Hạnh phúc công nông trong một thế giới đại đồng” là như thế này sao? Dù thế nào cũng phải làm một cái gì chứ? Nhưng làm gì bây giờ? Làm gì? Mà từ bao giờ, từ đâu, do đâu, những người lãnh đạo đã thề một lòng vì nước vì dân nay lại chọn lựa con đường hành động nặng tính cuồng tín, dã man, tàn bạo, phản nhân đạo như vậy? Có thể nào coi đấy là hành động, là chính sách vì con người? Một ý thức hệ không bào vệ được người vô tội thì có còn lý do để tồn tại hay không? (Ch.6)
Đây là lúc ông Trần giác ngộ đồng thời ngã xuống hố sâu tuyệt vọng. Người ta cho ông ngồi vì. Ông nhận thức ông là con bù nhìn giữa ruộng dưa!
Tôi cũng biết thân phận tôi chứ! Bởi thế tôi phải thường xuyên đề phòng. Lúc căng quá thì cũng phải biết làm ngơ, câm nín trước cái ác để giữ mạng sống trước đã. Tuy nhiều lúc tôi đinh ninh là phen này sẽ khó thoát khỏi cái chết. Bởi những ông cán bộ “i tờ” quanh tôi rất hung hăng, rất cuồng tín, sẵn sàng quy chụp, tội lỗi, sẵn sàng chờ lệnh để tiêu diệt tôi, để “loại bỏ con giòi trong tay áo cách mạng”(Ch.VII)
Sau khi vào Saigòn, Trần Đức Thảo mới được sáng mắt, sáng lòng. Một triết gia như ông cũng bị Việt cộng lừa dối, bưng bít. Ông ngạc nhiên về một miền Nam tự do, một Saigòn hiện đại. Ông ca tụng Trịnh Công Sơn và chính quyền Miền Nam:
Không hiểu sao chính quyền miền Nam lại để cho anh ta tự do sáng tác những bài ca làm mất tinh thần chiến đấu như thế? Điều này khiến phải suy nghĩ tới trình độ dân chủ rất khác nhau giữa hai miền Nam, Bắc. Một chế độ để cho người nghệ sĩ được tự do cất tiếng hát lên những nỗi niềm như thế, không phải là một chế độ tồi tệ. Xét chung thì miền Nam đã có một mức độ dân chủ rõ rệt. Cả giới trí thức lẫn dân chúng của miền Nam đều bàn chuyện chính trị cởi mở, phê phán lãnh đạo và đảng rất tự nhiên. Ở miền Bắc thì không thể. Miền Bắc là cái lò của giáo điều, của chiến tranh. Không có chỗ cho một Trịnh Công Sơn, điều đó dễ hiểu.(Ch.12)
Ông kết tội Việt Cộng đã kìm kẹp nhân dân miền Nam, bần cùng hóa nhân dân miền Nam:
Thật không có sự bất công xã hội nào bằng tình trạng lợi nhuận trong cả nước tăng lên vòn vọt, mà dân ốm đau không có tiền đi chữa bệnh! Con trẻ đang tuổi học hành nhưng không có tiền đóng học phỉ! So với thời chế độ cũ của miền Nam trước đây thì thật là một sự thua kém rất xa! Thật là vô lý và nhục nhã, khi ta nói là đã giải phóng miền Nam, mà nay đưa miền Nam tới tình trạng con người bị nô lệ vào đồng tiền hơn trước! Không tiền là ốm đau không thuốc men, không tiền là con em không được học hành! Giải phóng miền Nam là như vậy sao? Sự thật là miền Bắc đã mang cái chuyên chính, cái đói nghèo vào cho xã hội miền Nam
(Ch.11)
Trong khi đó triết gia họ Trần cho rằng miền Nam giải phóng miền Bắc:
Và rồi nếp sống văn minh văn hoá cởi mở ấm no của miền Nam đã tràn ra giải phóng ngược lại miền Bắc, lôi miền Bắc ra khỏi lối sống hủ lậu “tự túc tự cường” cứ ngoan cố tự hảo về thành tích bưng bít chính trị, về hạn chể tiêu dùng! Nay thì miền Bắc cũng được bung ra tự do làm ăn… theo gương miền Nam. Nhưng trong cái đà bung ra làm kinh tế ấy, tham những đã phát triển tối đa, không gì ngăn chặn được!(Ch.11)
Từ đây, ông thay đổi tư duy, thay đổi tâm trạng và hành động.
Không thể được! Nếu ai cũng thoả hiệp với dối trá và tội ác, thì dân còn hi vọng vào đâu, vào ai? Không thoả hiệp với dối trá vả tội ác là nguyên tắc để giữ vững chính mình. Một hành động, thiện hay ác, dù là thật nhỏ, dù chỉ là nhất thời, cũng đều để lại dấu vết bền lâu trên sự nghiệp của mỗi con người. Dối trá, độc ác, bạo lực là độc tố âm thầm huỷ hoại con người đã sử dụng nó. Xã hội dung túng nó sẽ mất hết lương tri, mất hết trật tự kỷ cương. Nhân nhượng hay thoả hiệp với cái xấu là con đường tự diệt từ từ chính mình. Điều ấy, Thảo này không thể nào làm được.(Ch.11)
Vào Saigon, nhiều người ái mộ ông, tìm đến thăm ông. Số khách ngày càng đông. Người ta hỏi, ông trả lời thật tình. Bọn đầu nậu Saigon , bọn Công An lo lắng nên đã tìm cách tống ông sang Pháp cho rảnh nợ. Sang Pháp, ông diễn thuyết phê phán Stalin và hứa hẹn sẽ viết xong sách phê bình Marx. Trịnh Ngọc Thái, Đại sứ Việt Cộng tại Pháp cảnh cáo ông. Người ta cấm ông đén cơ sở Nhà Việt Nam, một cơ sở Việt kiều tại Paris. Vài ngày sau ông chết. Chắc chắn do cộng sản thủ tiêu ông và quyển sách của ông.
Không biết tương lai những giấu tich của ông sẽ xuất hiện, hay chỉ còn lại quyển Trần Đức Thảo, Những Lời Trăn Trối của Tri Vũ Phan Ngọc Khuê?. Nếu thế cũng rất quý. Trong quyển sách này, ông cũng đã nói it nhiều về Marx,
đã đặt nhiều vấn đề nền tảng về chủ nghĩa Marx:
1. CÙNG TẮC BIẾN
Trong lịch sử, luôn luôn có sự vùng dậy của chân lý và lương tri. Chính vì vậy mà chế độ gian trá và tàn ác nào rồi cũng sẽ sụp đổ... Ngoan cố càng kéo dài thì sự đào thải, đổ vỡ càng thảm khốc. (Ch.XI)
2. HỮU SẢN HAY VÔ SẢN?
Con người xã hội chủ nghĩa một khi đã phát triển đầy đủ mọi khả năng, một khi đã có ý thức rõ rệt về quyền lợi và nghĩa vụ trong xã hội, thì khát vọng của nó lúc đó là thuộc về bản năng tư sản, hay bản năng vô sản?con người nào là một thực thể bền vững về bản chất trong lịch sử? Có cần bắt buộc phải xoá bỏ con người tư sản trong công cuộc xây dựng một xã hội tiên tiến hay không? Mà có thể nào xoá bỏ hẳn khát vọng tư sản trong con người hay không? Có một hiện tượng đáng chú ý là trong cuộc sống càng thiếu thốn, thì con người càng nghĩ tới quyền lợi cá nhân, tới tư sản nhiều hơn là tới vô sản và quyền lợi tập thể. Bởi quyền lợi tập thể đã hạn chế, ức chế quyền sống cá thể. Mà ngân sách nhà nước xã hội chủ nghĩa dành cho phúc lợi của mỗi cá thể của công dân thì rất là hạn chế, hầu như không đáng kể. Trừ ra và trái lại, thì đã có một ưu tiên về mặt phúc lợi dành cho diện đảng viên, nhất là cho cấp lãnh đạo! Đảng viên trở thành một thứ giai cấp mới có nhiều đặc quyên, đặc lợi hơn nhân dân...Mà có thật là những con người vô sản đang phấn đấu để vẫn còn là người vô sản trong tương lai? Hay nó đang phấn đấu để trở lại thành con người hữu sản? Phấn đấu để có một cái gì cho minh, hay để rồi không có gì cả cho riêng mình?(Ch.IX)
3. THUYẾT ĐẠI ĐỒNG SAI LẦM
Không có thứ lý luận biện chứng nào có thể chứng minh rằng một xã hội đầy đen tối, đầy dối trá, độc ác, quỷ quyệt, đầy hận thù, tranh chấp, đầy chia rẽ và tham nhũng, của hôm nay sẽ đẻ ra một thế giới đại đồng chân thật, đoàn kết, thương yêu, tốt đẹp trong tương lai! (Ch.IX)
Trong khi đó, ông Hồ mời bốn khoa học gia về nước.
Bác Thảo cho biết bốn Việt kiều cùng về với Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay chuyến ấy là ba kỹ sư: Phạm Quang Lễ, Võ Quý Huân, Võ Đình Quỳnh, và bác sĩ Trần Hữu Tước. Phạm Quang Lễ là kỹ sư cơ khí hàng không, nhưng có nhiều kiến thức về vũ khí nên đã được tin dùng đặc biệt. Và đã được “cụ Hồ” đặt cho một tên mới là Trần Đại Nghĩa, rồi sau được phong quân hàm thiếu tướng, trông nom quân xưởng đầu tiên của chiến khu, rồi sau được ca ngợi như là người đã sáng chế ra loại súng chống tăng, mang tên SKZ (Súng Không Zật). Nhưng bác Thảo cũng chế giễu khéo:
- Thứ súng ấy sau chỉ thấy trong ảnh, chứ không thường thấy trên các trận địa. Vinh quang là như thế. Sự thật là như thế (Ch.12)
Ông Hồ mời các ông này dù là trí thức nhưng cũng thuộc loại trí ngủ, chẳng biết gì về chính trị, đem về làm tay sai thì được. Hơn nữa cũng cần khoa học gia, còn cái thứ triết già ưa lý luận ngốc nghếch, không xài được. Việc này làm cho ông Trần nổi tự ái.Ông càng tức giận cố vật vã mà về cho được! Sao ông háo thắng kiêu căng và khờ dại như thế! Như vậy là ông Hồ " kị" ông rồi. Nếu lúc đó ông Trần nói
" Trăm ngàn lạy cụ, xin cụ cho con về xách dép cho cụ" may ra ông Hồ chấp thuận. Thế nhưng ông lại đòi về lãnh đạo chung với ông Hồ! Tôi nghĩ rằng nghe nói vậy, trong bụng ông Hồ giận lắm. Ông chửi thầm:" Thằng nhóc! Mày là cái thá gì mà đòi làm vua với tao! Ăn mày mà đòi ăn xôi gấc!" Ông Hồ có chân tay tại Pháp, họ đã báo cáo cho ông đầy đủ về Trần Đức Thảo. Hạng người như ông Trần, ông Hồ không thể xài và cho ở gần. Thế mà ông Trần lại chạy chọt cho được về Việt Nam. Quả là "cố đấm ăn xôi"!
Ông Thảo nói ra sự thật về ông: Sự thật là việc tôi về là do sự vận động của tôi với sự trợ giúp của đảng cộng sản Pháp. Và qua đảng cộng sản Pháp thì có cả sự giúp đỡ của phía lãnh đạo Liên Xô nữa. Bởi lúc ấy, cả đảng cộng sản Pháp, cũng như phía Liên Xô, đều muốn đưa tôi về với hi vọng có thể có cơ hội góp ý với cách mạng Việt Nam.(Ch.12)" Trăm ngàn lạy cụ, xin cụ cho con về xách dép cho cụ" may ra ông Hồ chấp thuận. Thế nhưng ông lại đòi về lãnh đạo chung với ông Hồ! Tôi nghĩ rằng nghe nói vậy, trong bụng ông Hồ giận lắm. Ông chửi thầm:" Thằng nhóc! Mày là cái thá gì mà đòi làm vua với tao! Ăn mày mà đòi ăn xôi gấc!" Ông Hồ có chân tay tại Pháp, họ đã báo cáo cho ông đầy đủ về Trần Đức Thảo. Hạng người như ông Trần, ông Hồ không thể xài và cho ở gần. Thế mà ông Trần lại chạy chọt cho được về Việt Nam. Quả là "cố đấm ăn xôi"!
Hành động này làm cho ông Hồ ghét ông và nghi ngờ ông là tay sai của cộng sản Pháp và cộng sản Liên Xô đặt ông bên cạnh ông Hồ để theo dõi, báo cáo và có thể chuẩn bị thay thế ông! Ai cũng thấy thế huống hồ ông Hồ và bọn Trường Chinh. Nếu ông Thảo lên lãnh đạo thì bọn họ phải cuốn gói. "Tôi đã kể lại lần gặp gỡ này cho một người bạn mới quen ở ATK, tên là Đa, một trí thức có vẻ cởi mở hiếm thấy. Nghe kể xong, Đa lè lưỡi, lắc đầu, khoát tay tỏ vè lo sợ đến lớn tiếng:
- Thế thì chết! Chết thật đấy! Tôi không doạ anh đâu. Anh khôn hồn thì tìm cách lặn cho sâu, tránh cho xa lãnh tụ đi! Không nên nán lại ở ATK này nữa. Phải xin đổi công tác đi. Nói câu ấy ra là “Người” đã khai trừ anh rồi đấy. Tỏ thái độ ngang hàng như thế là anh đã tự tuyên án tử hình cho chính mình rồi đấy!(Ch.12)
Sau này Trần Đức Thảo mới thấy mình ngu' . Ông tâm sự:"
Nay nghĩ lại lúc gặp “Người” lần đầu tiên, mà tôi thấy lúc ấy mình ngốc quá. Bạch diện thư sinh mà dám tỏ ra là tay ngang với lãnh tụ! Vì trong đầu “ông cụ” đầy ắp cuồng vọng quyền lực tối cao. Anh phải biết là cho tới nay, những ai đã từng coi thường “Người”, từng tỏ ra ngang hàng với “Người”, thì sau đều đã vinh viễn bị loại trừ ra khỏi tầm mắt của “Người”. Không ít người đã mất mạng, mất cả xác vì dám có ứng xử tay ngang như thế đấy.
- Tôi không hiểu nổi tại sao lại có thể tàn nhẫn khủng khiếp đến thế?
- Vì vậy mà phải biết giải mã lãnh tụ. Phải hiểu rằng “ông cụ” có tâm thức mình là bên trên tất cả, là một bậc kỳ lão gia trưởng, luôn luôn toả sùng bái một thứ hào quang thần thoại đúng với truyền thuyết lịch sử “con rồng, cháu tiên”… Và đám quần thần chung quanh “ông cụ” không tha thứ cho một ai dám tỏ mình là ngạng hàng với “Người”. Từ những tay trí thức nổi tiếng tâm huyết như Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm… cho tới kẻ được đào tạo chính quy như Trần Văn Giàu, và biết bao nhiêu trí thức có uy tín khác nữa… đều là những nạn nhân của thái độ ngang hàng như thế (Ch.12).
Ông biết thân ông đã lọt hang hùm, ổ rắn khi vừa về Việt Bắc.Bởi ngay từ khi vừa đặt chân trở lại quê hương, tôi đã bị nghi ngờ là một “kẻ có vấn đề”(Ch11). Cho tới khi bị coi như là một kẻ phản động, bị nghi là “kẻ do địch cài vào hàng ngũ cách mạng” thì từ đó tôi mới nhận ra sự bế tắc ấy là do ý thức, do thái độ cảnh giác, do chính sách thù hận mù quáng của quyền lực chuyên chính.(Ch.12).
Ông cho rằng ông là Maxist chân chính còn bọn kia chẳng hiểu gì Marx nên làm sai. Tôi tin rằng với những nghiên cứu và kiến thức mà tôi đã đạt được, tôi tự thấy mình như là hiện thân của ý thức hệ mác-xít, để có thể trở về làm nhiệm vụ như một trong những lý thuyết gia bên cạnh ông cụ. Để tôi góp sức xây dựng ở quê hương một mô hình cách mạng mà loài người mong đợi!.. để nghiên cứu thực tại, với hoài bão đóng góp xây dựng ở nước ta một mô hình cách mạng trong sáng, mà chẳng những dân ta mà là cả nhân loại mong đợi...để hoàn thành sứ mệnh cao cả của cách mạng, là giải phóng con người (Ch.2)
Ông lớn lối quá, kiêu ngạo quá, chính người cộng sản cũng ghét ông. Ta hãy nghe những đoạn đối thoại giữa cha con ông:"Mày nói thế là mày là người cộng sản thật à?
- Vâng chính vì con là người có lý tưởng cộng sản nên con mới về với cách mạng! Nhưng có nhiều thứ cộng sản: thứ cộng sản của con là muốn thực hiện một cuộc cách mạng công bằng bằng luật pháp, bằng lý tưởng, không gây thù gây oán, một cuộc cách mạng nhân đạo, sạch sẽ, mà toàn thể nhân loại mơ ước! Các bạn trí thức tiến bộ của con ở Pháp đã thúc giục con phải trở về tìm cách góp ý, góp sức, để thực hiện ở Việt Nam ta một thứ cộng sản tiến bộ khác, tốt hơn, sạch hon so với những gì đã thấy trong cách mạng ở Nga, ở Tàu. Cũng như con, họ muốn thấy xây dựng ở nước ta một mẫu mực cộng sản không tận dụng bạo lực và hận thù, mà bằng một sự kết hợp luật lệ nhân đạo tiến bộ, với một nền giáo dục theo đúng lý tưởng công bằng xã hội… chứ không phải lấy cái bất công mới thay thể cho cái bất công cũ, cái tàn bạo mới thay cho tàn bạo cũ…
- Mày bênh vực cho thứ cách mạng của mày, nhưng cái thứ cách mạng đang diễn ra ở đây thì sao? Nó không phải là thứ cách mạng của mày mà mày về hợp tác với nó à?
- Con về hợp tác với thứ cách mạng này là với hoài bão sẽ có ngày thay đổi, cải thiện được nó, sẽ có ngày tìm ra cách uốn nắn lại được nó, để nó trở thành thứ cách mạng của con, tức là thứ cách mạng mà mọi người mong đợi!
- Máy giỏi thế cơ à? Một mình mày, mà sẽ có ngày thay đổi được cả một bộ máy, cả một hệ thống quốc tế cộng sản, cả một ý thức hệ cộng sản cơ à?
- Cái gì cũng có thể thay đổi, và nó sẽ phải thay đổi, vì nó chưa hoàn chính. Khi mà, với thời gian, nó đã tỏ ra có sai trái, bất lực, không tiến bộ, không thật sự giải phóng còn người, và bị mọi người oán ghét, thì lúc đó không cần phải có một đoàn quân hùng mạnh để thay đổi nó. Chi cần một người lãnh đạo, một tư tưởng trong sáng, dũng cám nói lên chân lý, y như mặt trời mọc lên… để mang ánh sáng tới dẹp tan bóng tối, để ánh sáng soi lối cho thấy con đường tốt đẹp mà đi… để tránh cái sai, cái ác, để sụ sống sinh sôi, nảy nở, trong hoà bình, ấm no, tự do, hạnh phúc!
- Nghe mày nói tao thấy mày khừng, mày điên rồi! Rõ ràng là mày học nhiều quá nên trở đã thành kẻ không tưởng, kẻ sống trong mộng ảo! Mày tưởng một mình mày về đây là sẽ cải đổi, cải thiện được cái thứ cách mạng tàn nhẫn này, cái thứ cộng sản thô lỗ, trói buộc con người như thế này à? Tao nói thật cho mày biết sự thất vọng của tao khi tao nghe tin mày đã về với cách mạng, với cộng sản! Về như vậy là mày tự giết mày rồi! Mà cũng là giết cả mẹ mày và tao nữa! Thảo ơi! Phải chi mà mày học được cái nghề gì như thợ nề, thợ máy, thợ mộc gì… thì đỡ khổ cho tao biết mấy! Phải chi mày cứ ở bên Pháp làm việc, mỗi tháng gửi về cho tao vài chục đồng Francs thì cũng đủ cho tao vui sống cảnh già! Mày nói mấy cái thằng bạn tiến bộ của mày ở bên ấy hối thúc mày về trong khi đất nước này đang khổ sở vì chiến tranh, vì cộng sản, thì mấy cái thằng ấy cũng chỉ là một lũ điên thôi! Chúng nó đã xúi mày đi vào chỗ chết. Có là điên mới nghe theo chúng nó! Mày về đây là mày giết mày, mày giết cả tao đấy Thảo ơi là Thảo ơi! (Ch.8)
II.RỪNG VIỆT BẮC ÂM U NHƯNG TÂM HỒN BỪNG SÁNG
II.RỪNG VIỆT BẮC ÂM U NHƯNG TÂM HỒN BỪNG SÁNG
Trần Đức Thảo là người ôm mộng lớn, thế mà ông đã dùng nhiều lần chữ "trải nghiệm". Điều này cho biết khi về Việt Nam, ông đã gặp nhiều thực trạng đắng cay.Trước khi về Việt Nam, ông phải đến Trung Quốc, rồi về An Toàn khu ( Việt Bắc), nơi đây ông đã trải nghiệm nhiều điều!
Thực tại thứ nhất là tại Trung Quốc, Việt Cộng bắt ông khai lý lịch, bắt ông tố cáo cha mẹ, ông bà của ông. Về Việt Bắc, ông trải nghiệm CCRĐ. Ông viết về tâm trạng của ông trong CCRĐ tại huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang:Từ giờ phút ấy, Thảo ý thức rất rõ rằng, lúc này, ở nơi đây, mình sẽ không có một cơ hội nào để góp một chút gì tốt đẹp cho cách mạng! Có thể nào cản ngăn được thứ bạo lực thô bạo này, khi nó đang trong đà phát động với tất cả hăng say, cuồng nộ, cuồng tín như thế? Vậy thì những ngày còn lại của đời ta sẽ có thể làm gì ở đây? Cứ im lặng chịu đựng để được sống ngày nào hay ngày ấy? Để cái ác cứ tiếp tục phát triển như nó vẫn được khai triển trong suốt chiều dài lịch sử? Thế thì cái triết học của ta còn ý nghĩa gì khi chấp nhận khoanh tay đứng nhìn cái ác hoành hành? “Chính nghĩa vô sản”, “Hạnh phúc công nông trong một thế giới đại đồng” là như thế này sao? Dù thế nào cũng phải làm một cái gì chứ? Nhưng làm gì bây giờ? Làm gì? Mà từ bao giờ, từ đâu, do đâu, những người lãnh đạo đã thề một lòng vì nước vì dân nay lại chọn lựa con đường hành động nặng tính cuồng tín, dã man, tàn bạo, phản nhân đạo như vậy? Có thể nào coi đấy là hành động, là chính sách vì con người? Một ý thức hệ không bào vệ được người vô tội thì có còn lý do để tồn tại hay không? (Ch.6)
Đây là lúc ông Trần giác ngộ đồng thời ngã xuống hố sâu tuyệt vọng. Người ta cho ông ngồi vì. Ông nhận thức ông là con bù nhìn giữa ruộng dưa!
Thời gian sống ở ATK, tôi bị sai khiến làm mấy việc vơ vẩn như ngồi dịch những tài liệu cũ kỹ, mà rồi sau chẳng dùng được vào việc gì! Hoặc là theo chân mấy phái đoàn Trung ương đi thanh tra này nọ với vai trò của một cây cảnh: đi tới đâu cũng được giới thiệu là trí thức ở bên Tây mới về tham gia cách mạng! Rồi được vỗ tay, hoan hô. Chứ chẳng làm được một việc gì hữu ích cả! ...
Ngay cả khi người ta bảo tôi lãnh trách nhiệm phó giám đốc trường Đại học Văn khoa Sư phạm, sau khi kháng chiến về tiếp thu Hà Nội, thì tôi cũng chưa hề được tham dự bàn bạc gì vào công việc tổ chức hay điều khiển bất cứ một công tác gì của trường ấy, ngay cả đến tham khảo ý kiến giảng dạy cũng chưa hề có. Sự có mặt của tôi trong một số sinh hoạt của chế độ cũng chỉ là thứ “bù nhìn đứng giữa ruộng dưa”, cũng y như sự có mặt của mấy cựu quan lại hay của hai đảng Dân chủ và Xã hội do cụ Hồ bày đặt ra cho lấy có, để bên ngoài nhìn vào, tưởng là chế độ có nền tảng đoàn kết quốc gia và dân chủ rộng rãi!(Ch.4)
Dù bị chà đạp, khinh miệt, Trần Đức Thảo vẫn cố làm thân và nịnh hót nhưng vô ich.:
Ngay cả khi người ta bảo tôi lãnh trách nhiệm phó giám đốc trường Đại học Văn khoa Sư phạm, sau khi kháng chiến về tiếp thu Hà Nội, thì tôi cũng chưa hề được tham dự bàn bạc gì vào công việc tổ chức hay điều khiển bất cứ một công tác gì của trường ấy, ngay cả đến tham khảo ý kiến giảng dạy cũng chưa hề có. Sự có mặt của tôi trong một số sinh hoạt của chế độ cũng chỉ là thứ “bù nhìn đứng giữa ruộng dưa”, cũng y như sự có mặt của mấy cựu quan lại hay của hai đảng Dân chủ và Xã hội do cụ Hồ bày đặt ra cho lấy có, để bên ngoài nhìn vào, tưởng là chế độ có nền tảng đoàn kết quốc gia và dân chủ rộng rãi!(Ch.4)
Dù bị chà đạp, khinh miệt, Trần Đức Thảo vẫn cố làm thân và nịnh hót nhưng vô ich.:
Mặc dù tôi đã thường xuyên, cố gắng tìm cách bắc cầu quan hệ với các cấp lãnh đạo, bằng cách gửi trực tiếp những báo cáo, đề nghị, viết những bức thư góp ý của tôi về nhiều vấn đề quan trọng, vào nhiều thời điểm quan trọng. Nhưng không một lần nào, không một lãnh đạo nào, từ Hồ chủ tịch trở xuống, đã thân chinh trả lời các bức thư của tôi.(Ch.11)
Nhưng rồi thực tại tàn nhẫn và những giao động mất lý tưởng của những người quanh tôi, tất cả đã hằng ngày như chất vấn tôi, khiến tôi phải từng bước đặt lại vấn đề, hằng ngày tìm cách giải đáp cho những chất vấn ấy. Những cái đó đã làm cho đầu óc dần dần sáng hơn, dần dần chuyển biến, dần dần thức tỉnh.
Kinh qua công việc mà người ta giao cho ông và thái độ của bọn đầu nậu đối với ông, nhất là những hé lộ bí mật của những con người nhân đức, ông Thảo đã hiểu rõ thân phận ông, thân phận kẻ bị xếp loại là " có vấn đề". Ông Đa, ông Trần Lâm và Giáo sư Đặng Thai Mai là những kẻ báo động cho ông về sự nguy hiểm đang đến bên ông.
Giáo sư Đặng Thai Mai chỉ cho ông biết một phần sự thực. Ông nói về việc đảng toàn quyền quyết định mọi sự. Những ai không ở trong ban lãnh đạo nhà trường và không phải là đảng viên thì chỉ có việc dạy và chấm điểm thế là đủ, còn ai đỗ, ai rớt, chương trình thế nào là do Cộng đảng quyết định. Trong Trại Kiên Giam, Nguyễn Chí Thiệp cho ta nghe một câu chuyện giữa hai chú cháu:
Nhưng không ngờ, với thời gian, tôi dần dần nhận ra là lãnh đạo và mình, cả hai đều lao mình vào cùng một cuộc cách mạng, nhưng với hai quan niệm khác nhau, với hai tâm thức khác nhau, đến độ đối nghịch nhau, xung đột nhau (Ch.2)
Nhưng khốn khổ cho tôi là khi về tới quê hương, thì tôi đã va chạm vào một thực tại hoàn toàn đóng kín, nó đã làm tôi bị vỡ mặt và vỡ mộng. Thời gian ấy, tôi đã phải trải qua những giờ phút chao đảo lập trường. Đấy là giai đoạt tuyệt vọng nhất của đời tôi (ch.2)
Kinh qua công việc mà người ta giao cho ông và thái độ của bọn đầu nậu đối với ông, nhất là những hé lộ bí mật của những con người nhân đức, ông Thảo đã hiểu rõ thân phận ông, thân phận kẻ bị xếp loại là " có vấn đề". Ông Đa, ông Trần Lâm và Giáo sư Đặng Thai Mai là những kẻ báo động cho ông về sự nguy hiểm đang đến bên ông.
Giáo sư Đặng Thai Mai chỉ cho ông biết một phần sự thực. Ông nói về việc đảng toàn quyền quyết định mọi sự. Những ai không ở trong ban lãnh đạo nhà trường và không phải là đảng viên thì chỉ có việc dạy và chấm điểm thế là đủ, còn ai đỗ, ai rớt, chương trình thế nào là do Cộng đảng quyết định. Trong Trại Kiên Giam, Nguyễn Chí Thiệp cho ta nghe một câu chuyện giữa hai chú cháu:
Chú hỏi tôi: “Cháu có tưởng tượng một người lao công quyết định giáo án của giáo sư đại học không?”
Tôi lắc đầu không biết.
Chú nói: “Tụi nó (Đảng Cộng Sản) ngồi xổm trên đại học. Vấn đề là mỗi năm giáo chức phải soạn giáo án rồi trình cho Đảng Ủy duyệt xét. Khi duyệt xét giáo án, nếu người giáo viên không có đảng tịch thì phải đứng ngoài. Trong khi Đảng Ủy gồm nhiều thành phần đảng viên trong đại học, trong đó có cả những người lao công quét dọn và những chị bán căng-tin. Chương trình học kém chất lượng, học sinh được tuyển lựa trên lý lịch nhiều hơn trên trình độ học vấn. Do đó “Cái bằng cấp đại học không còn có giá trị”.(Ch.2)
GS Đặng Thai Mai giải thích việc ông Trần được cộng đảng phân phối dạy các triết gia trước Marx mà không cho dạy Marx là vì ông không chuyên Lenin, Stalin (Ch.8). Sai. Bởi vì trong Cộng đảng chẳng ai biết gì về trước Marx hay sau Marx mà vẫn dạy triết học Marx như thường. Đặng Thai Mai không nói thẳng cho ông Trần biết là cộng đảng khinh khi ông chẳng biết gì về Marx. Cái học của ông Trần chỉ là sách vở, còn các ông cộng sản i tờ nhưng đã học Marx và thực hành chủ nghĩa Marx trong chiến đấu và thực tế. Qua tường thuật của Tri Vũ, ta thấy ông Trần khinh khi Đặng Thai Mai là hèn, nhưng tiếng cười của Đặng Thai Mai là tiếng cười của một triết gia, một ẩn sĩ đã hiểu rõ lưỡi mềm thì còn!Tiếng cười của ông cũng là chế nhạo cái ngây thơ, kiêu căng, cái cuồng phẫn của con cà cuống chết đến đít vẫn còn cay!
Có lẽ ông Trần đã nghe người cộng sản nói rằng sau 1975, các ông cộng sản dù là i tờ cũng đã tốt nghiệp đại học thắng Mỹ! Với các ông Việt Cộng, trí thức như ông Trần là cục phân chứ không phải cục vàng. Ông Hồ đã nói bóng, nói gió cho ông Trần hay rằng mày đừng tự hào mày là triết gia chuyên trị Marx:" “Gắng mà học tập nhân dân!”. Phải mở mắt, mở tai ra mà “học tập nhân dân!”. Đấy không phải là một lời khuyên, đây là một lời xỉ vả kẻ ngu xuẩn cứ tưởng mình đã đọc nhiều sách vở bên Tây là hay, là giỏi! (Ch.4,12).
Họa sĩ Hiếu Đệ cũng là một tay triết lý cừ khôi. Ông mượn lời Tám Sạc Ne đưa ra thuyết "vị trí" rất hay:
Họa sĩ Hiếu Đệ cũng là một tay triết lý cừ khôi. Ông mượn lời Tám Sạc Ne đưa ra thuyết "vị trí" rất hay:
" Sau đêm văn nghệ, Tám Sạc Ne lại đến. Như một triết gia, ông phân tích cho bọn tù nghe: Vì các anh không biết vị trí của mình. Làm việc gì cũng phải nhớ vị trí các anh đứng chỗ nào cái đã. Ví như anh Hiếu Đệ vẽ hình giỏi mà anh vẽ hình bác Hồ có đẹp cách mấy thì anh vẫn có tội. Ý gì mà anh học viên học tập cải tạo lại đi ca tụng lãnh tụ của tụi tui là người cách mạng chiến thắng? Anh đâu phải là đảng viên cũng như anh đâu phải là thứ con ruột mà ca ngợi bố tui. Anh chỉ cốt làm cho tôi nghi ngờ anh (Niềm Đau Bạc Tóc-34).
Cộng sản cần nắm quyền bính, cần cai trị, cần bóc lột nhân dân, ngoài ra họ không cần gì cả. Họ không cần người tài. Họ cần người vâng lệnh , sẵn sàng chém giết cho họ. Bởi vậy mà Marx coi các giai cấp trung đẳng là lưng chừng, nghĩa là có thể giết.Và cũng bởi vì Marx chủ trương "đấu tranh giai cấp" và " vô sản chuyên chính"! Lenin, Stalin đánh đuổi, giết hại, cầm tù tư sản, trí thức, nông dân. Mao đưa ra chủ trương "Hồng hơn chuyên" cũng là do đường lối "vô sản chuyên chính" và "giai cấp đấu tranh" không cần người tài, người chuyên môn! Và Xô Việt Nghệ An 1930 đã nêu cao khẩu hiệu trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ! Trần Đức Thảo dạy Marx hay không dạy Marx là điều không cần thiết. Cái quan trọng là ông Thảo không là cộng sản theo hệ phái Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông!Sau 1975, tôi gặp GS Phạm Thiều tại Saigon, ông nói :
" Nước ta không có rau mà ăn thì cần gì đầu bếp Paris hay đầu bếp Bắc Kinh.!" Ông nói như thế là thành thật, không tuyên truyền, quảng cáo, lời ngắn và gọn là đủ cho tôi.
Trần Đức Thảo đã biết thân phận ông, ông cúi rạp mình xuống, nửa giả đò tích cực, nửa giả bộ điên khùng.
Tôi cũng biết thân phận tôi chứ! Bởi thế tôi phải thường xuyên đề phòng. Lúc căng quá thì cũng phải biết làm ngơ, câm nín trước cái ác để giữ mạng sống trước đã. Tuy nhiều lúc tôi đinh ninh là phen này sẽ khó thoát khỏi cái chết. Bởi những ông cán bộ “i tờ” quanh tôi rất hung hăng, rất cuồng tín, sẵn sàng quy chụp, tội lỗi, sẵn sàng chờ lệnh để tiêu diệt tôi, để “loại bỏ con giòi trong tay áo cách mạng”(Ch.VII)
Tri Vũ hỏi ông Trần làm sao ông sống sót được. Ông trả lời:" Cái đó là do tôi đã sớm đề phòng; Vì thế mà tôi mới sống sót cho tới ngày nay. Thứ nhất là tôi giữ ý, cố tỏ ra là tuyệt đối không mưu tìm một vai về chính trị nào, tuyệt đối không mưu tìm gặp gỡ, kết thân với những trí thức, để tránh bị coi là có ý gây phe phái ở chung quanh. Bởi chung quanh ông cụ đã có quá nhiều phe phái rình rập nhau. Lúc nào tôi cũng cố tỏ ra kính phục “ông cụ”. Vì tôi biết quanh tôi toàn là những con mắt rất cuồng tín, rất nghi kỵ, rất cảnh giác… của các cục “bảo vệ A này, A nọ”. Sống trong một xã hội ngu tín, của thời cuồng tín như thế không phải là dễ, sơ hở một chút là dễ… chết như chơi!
- Lúc có dịp nêu những ý kiến mới mẻ, có nội dung phản biện, thì tôi luôn luôn phải nhấn mạnh phủ đầu rằng nói như thế là tôi muốn “xây dựng đảng”. Đã nhiều lần tôi nói công khai với mọi người chung quanh rằng tôi chỉ ước ao được học tập, theo gương “bác Hồ”. Đấy là để công khai chứng tỏ một sự đầu hàng “lãnh tụ” với điều kiện để tôi có thể sống sót… Nhưng cũng phải nhắc tới và biết ơn tới một thế lực đã bảo vệ tôi, đó là sự quan tâm, chăm sóc của mấy nhà trí thức Pháp, đứng đầu là Sartre. Họ đã tận tình tỏ ra chăm sóc, theo dõi hoàn cảnh và sức khỏe của tôi khi họ biết tôi đang bị kìm kẹp. Họ thường xuyên viết thư thăm hỏi và đôi khi gửi cả thuốc men cho tôi. Có lúc họ còn đòi qua tận Việt Nam để thăm tôi… Sartre và tôi tuy có vài mâu thuẫn trong tư duy triết học, nhưng ông và đám bạn bè của ông rất quý trọng tôi, muốn bảo vệ tôi. Vì thế, tuy bị cánh tuyên huấn ghét bỏ, nhưng tôi nghĩ nhờ sự quan tâm, kính nể của trí thức của thế giới bên ngoài, mà “ông cụ” đã có sự e nể đối với tôi. Lúc tôi lâm nguy tới tính mạng trước thái độ quá khích của đám cán bộ cải cách, khi tôi dám đối đầu với đám cố vấn Trung Quốc, nhóm cán bộ cực đoan đã chụp lên đầu tôi cái tội đáng tiêu diệt là “có đầu óc phản cách mạng của bọn đệ tứ”! Nhưng vì “bên trên” chưa ra lệnh, nên cấp dưới chưa dám ra tay đó thôi. Họ vẫn phải để cho tôi sống. Tuy là sống vất vưởng như một con thú dữ cần phải canh chừng, “để xem nó còn ra những trò gì”. Cứ như con mèo vờn con chuột, chưa muốn cắn cổ cho nó chết hẳn.(Ch.12)
Ông cũng cho biết Liên Xô, cũng là thế lực làm cho Việt Cộng ngần ngại thủ tiêu ông:
Thực ra chỉ là với lãnh đạo. Mà các anh cũng nên biết rằng trong vấn đề đối xử với tôi, chính “ông cụ” cũng luôn luôn chịu sức ép của một thế lực lớn lao, nên “ông cụ” cũng rất e ngại tay chân tai mắt của thế lực ấy. Đấy là cả một guồng máy thống trị của ý thức hệ mà trọng tâm của nó nằm ở Bắc Kinh hay ở Mátxcơva! (Ch.2)
Lúc bấy giờ trong tuyệt vọng bỗng nảy sinh ra ra sự đối kháng mạnh mẽ làm ông đứng lên được. Nhưng rồi thực tại tàn nhẫn và những giao động mất lý tưởng của những người quanh tôi, tất cả đã hằng ngày như chất vấn tôi, khiến tôi phải từng bước đặt lại vấn đề, hằng ngày tìm cách giải đáp cho những chất vấn ấy. Những cái đó đã làm cho đầu óc dần dần sáng hơn, dần dần chuyển biến, dần dần thức tỉnh… Trạng thái đó đã giúp tôi đứng dậy đươc. Bởi trong thời gian chao đảo, khủng hoảng ấy, trong đầu tôi luôn luôn có một cuộc tranh cãi bùng lên dữ dội ( Ch.2)
III. AI THẮNG AI? SAIGON XÃ HỘI TỰ DO
Ông cũng cho biết Liên Xô, cũng là thế lực làm cho Việt Cộng ngần ngại thủ tiêu ông:
Thực ra chỉ là với lãnh đạo. Mà các anh cũng nên biết rằng trong vấn đề đối xử với tôi, chính “ông cụ” cũng luôn luôn chịu sức ép của một thế lực lớn lao, nên “ông cụ” cũng rất e ngại tay chân tai mắt của thế lực ấy. Đấy là cả một guồng máy thống trị của ý thức hệ mà trọng tâm của nó nằm ở Bắc Kinh hay ở Mátxcơva! (Ch.2)
Lúc bấy giờ trong tuyệt vọng bỗng nảy sinh ra ra sự đối kháng mạnh mẽ làm ông đứng lên được. Nhưng rồi thực tại tàn nhẫn và những giao động mất lý tưởng của những người quanh tôi, tất cả đã hằng ngày như chất vấn tôi, khiến tôi phải từng bước đặt lại vấn đề, hằng ngày tìm cách giải đáp cho những chất vấn ấy. Những cái đó đã làm cho đầu óc dần dần sáng hơn, dần dần chuyển biến, dần dần thức tỉnh… Trạng thái đó đã giúp tôi đứng dậy đươc. Bởi trong thời gian chao đảo, khủng hoảng ấy, trong đầu tôi luôn luôn có một cuộc tranh cãi bùng lên dữ dội ( Ch.2)
III. AI THẮNG AI? SAIGON XÃ HỘI TỰ DO
Sau khi gặp Trần Dần, rồi vào Saigon, nghe nhạc Trịnh Công Sơn, và gặp các cán bộ cộng sản Saigòn, nhất là sau vụ Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, Trần Đức Thảo tỉnh ngộ hẳn. Một sức mạnh trào lên làm cho ông đứng lên mạnh mẽ. Tâm trạng ông thay đổi.
Hồi ở chiến khu, để tỏ lòng trung thành với chế độ, Thảo ý tứ không bao giờ thổ lộ điều gì phê phán về chính sách với người bên ngoài “đảng” hoặc với những “đảng viên” cấp thừa hành. Thảo chỉ trình bày một cách xây dựng, từ tốn những gì là sai trái, xấu xa với vài cán bộ cấp cao, thân cận giới lãnh đạo mà thôi. Nay khác: Thảo liều lĩnh nói thẳng ra những trăn trở với những ai muốn nghe.(Ch.9)Sau khi vào Saigòn, Trần Đức Thảo mới được sáng mắt, sáng lòng. Một triết gia như ông cũng bị Việt cộng lừa dối, bưng bít. Ông ngạc nhiên về một miền Nam tự do, một Saigòn hiện đại. Ông ca tụng Trịnh Công Sơn và chính quyền Miền Nam:
Không hiểu sao chính quyền miền Nam lại để cho anh ta tự do sáng tác những bài ca làm mất tinh thần chiến đấu như thế? Điều này khiến phải suy nghĩ tới trình độ dân chủ rất khác nhau giữa hai miền Nam, Bắc. Một chế độ để cho người nghệ sĩ được tự do cất tiếng hát lên những nỗi niềm như thế, không phải là một chế độ tồi tệ. Xét chung thì miền Nam đã có một mức độ dân chủ rõ rệt. Cả giới trí thức lẫn dân chúng của miền Nam đều bàn chuyện chính trị cởi mở, phê phán lãnh đạo và đảng rất tự nhiên. Ở miền Bắc thì không thể. Miền Bắc là cái lò của giáo điều, của chiến tranh. Không có chỗ cho một Trịnh Công Sơn, điều đó dễ hiểu.(Ch.12)
Ông kết tội Việt Cộng đã kìm kẹp nhân dân miền Nam, bần cùng hóa nhân dân miền Nam:
Thật không có sự bất công xã hội nào bằng tình trạng lợi nhuận trong cả nước tăng lên vòn vọt, mà dân ốm đau không có tiền đi chữa bệnh! Con trẻ đang tuổi học hành nhưng không có tiền đóng học phỉ! So với thời chế độ cũ của miền Nam trước đây thì thật là một sự thua kém rất xa! Thật là vô lý và nhục nhã, khi ta nói là đã giải phóng miền Nam, mà nay đưa miền Nam tới tình trạng con người bị nô lệ vào đồng tiền hơn trước! Không tiền là ốm đau không thuốc men, không tiền là con em không được học hành! Giải phóng miền Nam là như vậy sao? Sự thật là miền Bắc đã mang cái chuyên chính, cái đói nghèo vào cho xã hội miền Nam
(Ch.11)
Trong khi đó triết gia họ Trần cho rằng miền Nam giải phóng miền Bắc:
Và rồi nếp sống văn minh văn hoá cởi mở ấm no của miền Nam đã tràn ra giải phóng ngược lại miền Bắc, lôi miền Bắc ra khỏi lối sống hủ lậu “tự túc tự cường” cứ ngoan cố tự hảo về thành tích bưng bít chính trị, về hạn chể tiêu dùng! Nay thì miền Bắc cũng được bung ra tự do làm ăn… theo gương miền Nam. Nhưng trong cái đà bung ra làm kinh tế ấy, tham những đã phát triển tối đa, không gì ngăn chặn được!(Ch.11)
Từ đây, ông thay đổi tư duy, thay đổi tâm trạng và hành động.
Không thể được! Nếu ai cũng thoả hiệp với dối trá và tội ác, thì dân còn hi vọng vào đâu, vào ai? Không thoả hiệp với dối trá vả tội ác là nguyên tắc để giữ vững chính mình. Một hành động, thiện hay ác, dù là thật nhỏ, dù chỉ là nhất thời, cũng đều để lại dấu vết bền lâu trên sự nghiệp của mỗi con người. Dối trá, độc ác, bạo lực là độc tố âm thầm huỷ hoại con người đã sử dụng nó. Xã hội dung túng nó sẽ mất hết lương tri, mất hết trật tự kỷ cương. Nhân nhượng hay thoả hiệp với cái xấu là con đường tự diệt từ từ chính mình. Điều ấy, Thảo này không thể nào làm được.(Ch.11)
Vào Saigon, nhiều người ái mộ ông, tìm đến thăm ông. Số khách ngày càng đông. Người ta hỏi, ông trả lời thật tình. Bọn đầu nậu Saigon , bọn Công An lo lắng nên đã tìm cách tống ông sang Pháp cho rảnh nợ. Sang Pháp, ông diễn thuyết phê phán Stalin và hứa hẹn sẽ viết xong sách phê bình Marx. Trịnh Ngọc Thái, Đại sứ Việt Cộng tại Pháp cảnh cáo ông. Người ta cấm ông đén cơ sở Nhà Việt Nam, một cơ sở Việt kiều tại Paris. Vài ngày sau ông chết. Chắc chắn do cộng sản thủ tiêu ông và quyển sách của ông.
Không biết tương lai những giấu tich của ông sẽ xuất hiện, hay chỉ còn lại quyển Trần Đức Thảo, Những Lời Trăn Trối của Tri Vũ Phan Ngọc Khuê?. Nếu thế cũng rất quý. Trong quyển sách này, ông cũng đã nói it nhiều về Marx,
đã đặt nhiều vấn đề nền tảng về chủ nghĩa Marx:
1. CÙNG TẮC BIẾN
Trong lịch sử, luôn luôn có sự vùng dậy của chân lý và lương tri. Chính vì vậy mà chế độ gian trá và tàn ác nào rồi cũng sẽ sụp đổ... Ngoan cố càng kéo dài thì sự đào thải, đổ vỡ càng thảm khốc. (Ch.XI)
2. HỮU SẢN HAY VÔ SẢN?
Con người xã hội chủ nghĩa một khi đã phát triển đầy đủ mọi khả năng, một khi đã có ý thức rõ rệt về quyền lợi và nghĩa vụ trong xã hội, thì khát vọng của nó lúc đó là thuộc về bản năng tư sản, hay bản năng vô sản?con người nào là một thực thể bền vững về bản chất trong lịch sử? Có cần bắt buộc phải xoá bỏ con người tư sản trong công cuộc xây dựng một xã hội tiên tiến hay không? Mà có thể nào xoá bỏ hẳn khát vọng tư sản trong con người hay không? Có một hiện tượng đáng chú ý là trong cuộc sống càng thiếu thốn, thì con người càng nghĩ tới quyền lợi cá nhân, tới tư sản nhiều hơn là tới vô sản và quyền lợi tập thể. Bởi quyền lợi tập thể đã hạn chế, ức chế quyền sống cá thể. Mà ngân sách nhà nước xã hội chủ nghĩa dành cho phúc lợi của mỗi cá thể của công dân thì rất là hạn chế, hầu như không đáng kể. Trừ ra và trái lại, thì đã có một ưu tiên về mặt phúc lợi dành cho diện đảng viên, nhất là cho cấp lãnh đạo! Đảng viên trở thành một thứ giai cấp mới có nhiều đặc quyên, đặc lợi hơn nhân dân...Mà có thật là những con người vô sản đang phấn đấu để vẫn còn là người vô sản trong tương lai? Hay nó đang phấn đấu để trở lại thành con người hữu sản? Phấn đấu để có một cái gì cho minh, hay để rồi không có gì cả cho riêng mình?(Ch.IX)
3. THUYẾT ĐẠI ĐỒNG SAI LẦM
Không có thứ lý luận biện chứng nào có thể chứng minh rằng một xã hội đầy đen tối, đầy dối trá, độc ác, quỷ quyệt, đầy hận thù, tranh chấp, đầy chia rẽ và tham nhũng, của hôm nay sẽ đẻ ra một thế giới đại đồng chân thật, đoàn kết, thương yêu, tốt đẹp trong tương lai! (Ch.IX)
Marx đã sử dụng những sự kiện đã xảy ra trong lịch sử đương đại, trong xã hội đương thời, để đả kích xã hội tư bản. Cách phê phán này có tính biện chứng duy vật sử quan không thể bất bẻ. Nhưng bước qua phần lý luận căn bản để xây dựng xã hội mới bằng cách nêu mô hình thế giới đại đồng mà mọi người mơ ước, thì Marx bắt đầu lúng túng trong biện chứng. Vì cái mô hình thế giới đại đồng ấy là không có giai cấp, không có bóc lột. Nó được coi là nền tảng của khái niệm, của ý thức “đấu tranh giai cấp”. Cái mô hình ấy, thật ra là chưa hề thấy, chưa hề có ở đâu đó trong lịch sử. Nó chỉ là một ảo tưởng, một mong ước sẽ có trong tương lai! Làm như vậy trong lý luận, là Marx đã mang cái tương lai ảo ấy, đặt nó lên trước hiện tại để dùng nó như một kinh nghiệm đã có, đã thấy. Đấy là lối lý luận với một nền tảng siêu hình, đúng là thứ biện chứng của Hegel! Biện chứng đó không còn có chút gì là duy vật sử quan nữa.
Từ khái niệm thế giới đại đồng tốt đẹp theo dự báo, do mong ước ấy, Marx đã biến nó thành ý thức cách mạng đấu tranh giai cấp, để hành động, để đạt tới thắng lợi, để xoá bỏ giai cấp bóc lột, để hoàn thành một xã hội không còn giai cấp! Viễn ảnh quá đẹp ấy là một kinh nghiệm ảo, một ý niệm siêu hình của một thứ thiên đường ảo chưa hề có trên trải đất. Trong mô hình ảo ấy, giới công nông được giải phóng, được làm chủ chính mình. Từ kinh nghiệm ảo mơ ước ấy, Lenin khai triển một chủ nghĩa xã hội mới, bằng cách khơi dậy hận thù giai cấp để đem động lực đấu tranh của giai cấp vô sản, làm đòn bẩy để hoàn thành cuộc cách mạng tạo ra sự đổi đời với một hệ thống giá trị mới của giai cấp công nông! Với một đảng cầm quyền “là đại diện cho giai cấp công nông”, tức là “đảng cộng sản”. Vậy là cách mạng đạt tới một chế độ mới, một nhà nước mới theo một chủ nghĩa xã hội mới. Trong chế độ mới ấy, “sẽ” không còn cảnh người bóc lột người vì quyền tư hữu đã bị bãi bỏ, thay thế nó bằng quyền sở hữu tập thể. Đặc điểm là tập thể sở hữu tư liệu sản xuất! Nghe lý luận như công nông nào mà không mê.
Như vậy là khi cách mạng thành công, giai cấp công nông sẽ sống và làm việc một cách sung sướng: vì mình sẽ không còn bị bóc lột, mình sẽ làm chủ! Con người từ đây được giải phóng! Sung sướng thay! Phấn khởi thay cái xã hội không còn giai cấp “sẽ” thành hình trong tương lai! Lời hô hào “vô sản thế giới hãy đoàn kết lại!” đã vang dậy khắp trái đất rồi vang lên khúc ca: “Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian”, đã thôi thúc giai cấp bị bóc lột đúng dậy, quyết tâm vùng lên tiêu diệt giai cấp tư sản! Hoan hô con người mới xã hội chủ nghĩa, là con người vô sản chân chính. Lúc đó, các dân tộc đều là anh em một nhà. Và toàn thế giới sẽ là một tổ quốc vô sản duy nhất! Hoan hô tinh thần vô sản quốc tế! Hoan hô xã hội mới trong đó “mọi người sẽ làm việc theo khả năng và hưởng thụ theo nhu cầu”! Sáng kiến của Marx lập tức bùng lên như một ngọn đuốc trong đầu mọi giới lao động. Nhiều nhà tư tưởng tiến bộ đã náo nức ủng hộ; đã sùng bái Marx. Đây là bình minh của một kỷ nguyên quyền lực chuyên chính của giai cấp lao động! Đây chính là con đường vinh quang, con đường cứu rỗi của cả nhân loại.
Cả thế giới đã bị lung lạc vì luồng tư tưởng mới đầy hứa hẹn này, với niềm hi vọng tràn trề của nhân dân lao động, với lòng cằm thù “giai cấp bóc lột” sôi sục trong đầu. Người người đều muốn đứng lên phá tan xiềng xích của xã hội tư bản!(Ch.XIV)
Biến khái niệm, biến học thuyết “đấu tranh giai cấp” chống bóc lột thành ý thức cách mạng. Lấy hận thù giai cấp làm nền tảng phát động một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên toàn cầu. Đấy là một phát minh ý thức hệ vô cùng sắc bén và tinh vi! Bởi nó có một sức bùng phát phi thường, nhờ đánh thức dậy trong con người bản năng bạo lực của thời còn là muông thú, khi khơi dậy tâm lý hận thù! Lý thuyết cách mạng hay hận thù giai cấp làm động lực, lấy ý chí tiêu, diệt giai cấp bóc lột làm vũ khí! Không cần lý luận sâu xa, chỉ nghe sơ qua lý thuyết ấy, bất cứ người dân cùng khổ nào cũng tin như thế là đúng, như thế là sẽ thắng, sẽ là đại thắng!
Với niềm tin tất thắng, ai cũng có thể tưởng tượng ra đủ thứ kết quả tốt đẹp… Để rồi cuồng tín đến độ sùng bái ý thức hệ ấy như là một thứ thánh kinh, “đảng” trở thành linh hồn của cách mạng, là “hội thán”, lãnh tụ là vị giáo hoàng! Khát vọng phát triển cuộc cách mạng xã hội theo ý thức hệ ấy làm cho con người sẵn sàng hi sinh tất cả cho nó! Vì nó!
Thế nhưng cho tới nay, những ai đã từng sống cả cuộc đời trong sự vận hành cách mạng do Lenin phát động, do Stalin triệt để khai thác, do Mao hò hét vận động… đều đã thấy rõ kết quả tồi tệ của một tổ chức mang danh “đảng của giai cấp công nông”, là một nhà nước chuyên chính vô sản cầm quyền… Tất cả mọi người đã được thấy tận mắt, đã được tận tay tham dự vào công cuộc xây dựng “con người mới xã hội chủ nghĩa” là như thế nào! Thực tế là tất cả đã nhận ra một cách khách quan và đau đớn rằng việc xay dựng xã hội mới ấy gây ra quá nhiều vấp váp, phạm quá nhiều tội ác, vì đã trắng trợn dẫm lên quyền sống của con người, đã trói buộc, giam hãm con người. Kết quả là con người trong công cuộc đấu tranh giai cấp, khi kết thúc, thì nó đã không hề được giải phóng! Đau đớn hơn hết là trong thực tại, con người lao động vẫn còn bị bóc lột. Trong xã hội mới này, thành phần công nông vẫn chỉ là thành phần thiệt thời nhất!
Kết quả là “thế giới đại đồng” ấy đã không hiển hiện trong một chế độ xã hội chủ nghĩa nào cả. Sau này thì “cuộc cách mạng long trời lở đất ấy” đã lộ ra cái bản chất vừa ngu tín, vừa cuồng tín! Và bộ mặt thật của ý thức hệ ấy là đã dụng cụ hoá, đã nô lệ hoá con người bởi đủ thứ kim kẹp, giam hãm, tuyên truyền xảo trá, chứ chẳng phải là đã giải phóng con người! Con người lao động đã chẳng hề được làm chủ, kể ca làm chủ bản thân minh. Vì mình cũng là của… “đảng”!
Vì trong thực tại của xã hội chủ nghĩa mới, vẫn còn giai cấp bóc lột. Đó là giai cấp chuyên chính, chuyên quyền của đáng cộng sản cầm quyền! Đó là giai cấp tư sản đỏ phát, sinh từ tinh thần vô sản vùng lên đấu tranh cướp lại quyền lực trong tay giai cấp tư sản thống trị! Lớp người vô sản vùng lên cướp đoạt chính quyền, đồng thời nó cũng đã cướp đoạt tài sản của giai cấp tư sản để tự nó trở thành một nhà nước tham lam sở hữu toàn bộ đất đai, toàn bộ tư liệu sản xuất, nắm toàn bộ guồng máy quản lý xã hội, vừa nặng tính chuyên quyền, vừa toàn quyền lũng đoạn kinh tế! Trước mắt giờ đây, là một nhà nước tư bản đỏ độc quyền bóc lột kiểu mới, mang danh hiệu là “chế độ dân chủ nhân dân”, được quảng bá là “dân chủ gấp ngàn lần dân chủ tư sản”! Mà rồi mãi sau này người ta đặt cho chế độ ấy, cho thời ấy một cái tên có tính khinh thị là “Chế độ bao cấp! Thời bao cấp”.
Đặc biệt là ngay ở trong chế độ “vô sản” mới này, con người vô sản ở khắp nơi, đều tỏ ra vẫn giữ nguyên bản năng hữu sản! Họ gậm nhấm, xâm chiếm của công, cướp đoạt tài sản của tập thể, của kẻ yếu, cướp đoạt đất đai của nông dân… làm của riêng. Tư hữu kiểu cũ đo làm ăn cần cù, do tích luỹ lâu dài mà có được, này đã bị xoá bỏ. Thay thế nó nay là tư hữu kiểu mới do chiếm đoạt bằng chữ ký của quyền lực, hoặc do móc ngoặc với quyền lực. Con người vô sản cầm quyền nay tha hồ bòn mót của công, cướp đoạt của tư, để tạo cho minh một tài sản vừa nhiều, vừa nhanh! Vì cái gì cũng là của chung, đặc biệt là “đất đai là sở hữu của toàn dân”, nên ai cũng nghĩ rằng toàn dân có quyền nhúng tay vào cái sở hữu chung ấy! Bởi là của chung nên, trong thực tế, nó không được bảo vệ như của riêng. Rừng, núi, sông ngòi, ao hồ… bị con người mới trong xã hội vô sản mới ấy phá phách, lấn chiếm vô tội vạ! Con người vô sản đã tỏ ra là con người tham lam, phá phách, gậm nhấm, xâm chiếm những gì là của chung bất kể luật pháp! Vì là của chung nên ai cũng nghĩ là mình cũng có quyền xâm phạm, nhưng không thấy ai có nhiệm vụ phải bảo vệ, bảo trì! Trong thực tế trước mắt, con người, vô sản có quyền hành, luôn luôn phấn đấu để chiếm hữu một cách rất tự nhiên của cải của xã hội, đã trở thành nhà tư sản kiểu mới. Đấy là thứ tư sản đỏ, do tham nhũng, do hối mại quyền thế mà có: họ chia chác tài sản tập thể của xã hội cho gia định, họ hàng, cho đồng chí, đảng viên, bằng chữ ký của quyền lực trong tay họ!
Khi thấy của công, của tập thể bị xâm phạm, người ta không có phản ứng quyết liệt và nghiêm chỉnh như khi thấy sự xâm phạm của tư! Thói thường của xã hội, và nay đã thành một thứ tư duy phổ biến, một suy nghĩ tự nhiên rằng “lấy của tập thể, lấy của nhà nước không phải là ăn cắp”! Vì đấy là của chung!
Marx đã không ngờ rằng một giai cấp tư bản đỏ sẽ ra đời ngay trong xã hội xã hội chủ nghĩa như thế. Giai cấp tư bản độ ấy đã phát triển một cách lộng hành, nó xâm chiếm, do cướp đoạt vừa nhiều, vừa trắng trợn, gấp bội lần thứ tư bản tư sản cổ điển! Một điều khủng khiếp nữa mà Marx không thể ngờ là bởi tham lam quyền lực và quyền lợi, chính các lãnh đạo trong “đảng”, cũng đã trắng trợn triệt hạ nhau, quy chụp cho nhau những tội lỗi tày trời để diệt nhau, để tranh nhau địa vị, để được sống đế vương trên đầu nhân dân, để rồi tìm cách truyền ngôi, truyền gia tài cho con cái!
Thực tại cho thấy trong xã hội mới “xã hội chủ nghĩa”, các phe cánh vô sản kình chống nhau. Trong khi đó, giai cấp công nông vẫn còn bị bóc lột, thật là trái ngược với biện chứng và hứa hẹn của Marx! Và kẻ bóc lột đây lại là những người của “đảng”, của nhà nước, một nhà nước nắm toàn bộ vốn liếng, tư liệu sản xuất và mọi hình thức sinh hoạt khác trong xã hội, nhất là về mặt kinh tế! Trong thực tế, tất cả mọi thứ, từ đất đai cho đền con người, tất cả đều là “của đảng”! Các cá nhân, hội đoàn, các thành viên của nhà nước, các định chế như toà án, viện kiểm soát, các tổ chức tập thể… tất cả đều phải thề trung thành với “đảng”! Trong chế độ vô sản nay có một ông chủ toàn quyền, toàn năng! Bởi nay “đảng” là ông chủ lớn nhất, duy nhất, sở hữu tất cả, từ vật chất tới tinh thần! “Đảng” đứng trên hết mọi quyền lực, trên cả công lý! Và ”đảng” tự tuyên xưng “đảng” là nhân dân! Những ai chống lại “đảng” là chống lại nhân dân! Cụm từ “nhân dân” từ đây là nhãn hiệu độc quyền của nhà nước cộng sản!
“Đàng” còn ngang nhiên tuyên bố: “Yêu xã hội chủ nghĩa là yêu nước”
Quan sát những hiện tượng đã xảy ra trước mắt, ngay tại Hà Nội sau nhất là tại Sài Gòn sau năm 1975, là nhũng nơi chế độ tư bản, tư hữu kiểu cũ đã bị đánh gục bằng bạo lực cách mạng, người dân bừng tỉnh, và kinh ngạc trước hiện tượng phát sinh và bành trướng một tư bản đỏ: chưa bao giờ thấy xuất hiện những đảng viên cao cấp, cùng phe cánh, đã trở thành những nhà giàu mới, vơ vét nhiều và nhanh đến thế. Những cơ ngơi bất động sản không lồ đã lọt vào tay “giai cấp tư sản đỏ”, nó thống trị một cách trắng trợn, như chưa từng thấy ở đất nước nghèo nàn, lạc hậu này. Mà những cơ ngơi và vốn liếng của giai cấp mới ấy đã được đánh giá hàng bao nhiêu tỉ đô-la Mỹ!
Đó là những hiện tượng kinh khủng mà Marx đã không hề tiên liệu.
Sai lầm cơ bản của lối lý luận ấy là đã mang cái mô hình ảo của tương lai, đặt nó lên trước hiện tại, coi nó như là kinh nghiệm lịch sử. Thế là từ một học thuyết mơ hồ, siêu hình ấy, Lenin muốn suy diễn ra sao cũng được, Stalin cũng mặc sức tuỳ tiện khai triển nó, rồi đến Pol Pot lại càng tuỳ tiện khùng khiếp hơn nữa!(Ch.XIV)
KẾT LUẬN:
Không ai tắm hai lần trên một giòng sông. Tâm trạng con người buồn vui luôn thay đổi. Trần Đức Thảo cũng không ra ngoại lệ. Tâm trạng ông đã qua nhiều lần chuyển biến mà lại là những chuyển biến quan trọng thay đổi tư tưởng và cuộc đời ông.
Trần Đức Thảo từ tôn thờ Marx cuối đời đã nhận thấy sai lầm của Marx. . Từ tin tưởng chuyển qua thất vọng, rồi từ thất vọng, ông cố gắng đứng lên chống lại cộng sản. Ông kết tội Marx,Lenin, Stalin, Mao, Hồ với một câu nói đầy ấn tượng:
Marx đã xây dựng một lâu đài chỉ tiếc là có nhiều người từ trong lâu đài ấy của Marx, khí bước ra, thì họ đã trở thành ác quỷ (Ch.XIII)
Không ai tắm hai lần trên một giòng sông. Tâm trạng con người buồn vui luôn thay đổi. Trần Đức Thảo cũng không ra ngoại lệ. Tâm trạng ông đã qua nhiều lần chuyển biến mà lại là những chuyển biến quan trọng thay đổi tư tưởng và cuộc đời ông.
Trần Đức Thảo từ tôn thờ Marx cuối đời đã nhận thấy sai lầm của Marx. . Từ tin tưởng chuyển qua thất vọng, rồi từ thất vọng, ông cố gắng đứng lên chống lại cộng sản. Ông kết tội Marx,Lenin, Stalin, Mao, Hồ với một câu nói đầy ấn tượng:
Marx đã xây dựng một lâu đài chỉ tiếc là có nhiều người từ trong lâu đài ấy của Marx, khí bước ra, thì họ đã trở thành ác quỷ (Ch.XIII)