Wednesday, November 16, 2016

THƠ * TRUYỆN TÙ & VƯỢT BIÊN * TÔ HẢI * CAO TẦN *LÃO HỦ*HỒ CHÍ MINH


Thursday, May 7, 2015


VƯỜN THƠ



  BA NGẢ


Chặt cây 
'ĐỒNG DAO HÀ NỘI


ĐỒNG DAO HÀ NỘI




"Hay nói ầm ĩ là con vịt bầu

Hay hỏi đâu đâu là con chó vện" (Trần Đăng Khoa)


Nhanh hơn cả điện là chặt cây xanh

Giải thích loanh quanh: Ủy ban Thành Phố

Họp báo nhí nhố là lão Quốc Hùng

Ăn nói như khùng là anh Tuyên giáo


Phát biểu như ngáo là Phan Đăng Long

Trồng một đêm xong, là cây Hà Nội

Đào nhanh, chặt vội: Công ty Cây Xanh

Chi tiền rất nhanh là nhà tài trợ


Tàn sát man rợ: chủ trương cấp trên

Kiểm điểm liên miên là thằng cấp dưới

Tiền bỏ đầy túi là các quan to

Chịu trận ốm o, mấy anh tẹp nhẹp


Nói đơn, làm kép: Phế Thải Bắc Ninh

Mỡ thay vàng tâm: Công an Hà Nội

Rút dây chạy vội: Sĩ Nghị xứ Thanh

Vội vàng chối quanh: Ủy ban Hà Nội.


Chi tiền, hứng tội: Doanh nghiệp có tên

Nguồn gốc đảo điên: Chủ trương Thành ủy

Chết dân, ngàn tỷ: Dự án Hà Thành

Vàng mắt, da xanh: Dân đen cả nước


Hứa rồi bội ước: Thủ tướng đương kim

Nhắm mắt lim dim: Mấy ông nghị gật

Như con lật đật là việc người dân

Mặt méo mày nhăn là người lao động


Mồm to, miệng rộng: Đám Dư luận viên

Thay đổi liên miên: Luật và quần lót

Làm xấu nói tốt: Báo cáo hàng năm

Nói như thằng hâm là anh Hùng hói


Như người khác cõi, là lão Tấn Sang

Nổ như bắp rang là sư Thanh Quyết

Ăn chơi mải miết là sư Thanh Cường

Hề chèo một phường, nghị Đương vai chính


Sợ Tàu nóng tính, là Phùng Quang Thanh

Coi giặc là anh, ấy là lão Lú

Chén anh chén chú, là đám quan tham

Bị điên quanh năm là ban tư tưởng


Ăn nằm vất vưởng là đám dân oan

Suốt ngày khóc than là dân mất đất

Ngai vàng ngây ngất, anh Tổng về hưu

Vẽ vượn, bày hươu "Hội đồng lú lẫn"


Dân tình uất hận là việc thường ngày

Tính giá, bầy hầy là anh điện lực

Tăng giá bất chợt là chú xăng dầu

Nợ công ngập đầu là dân xứ Việt


Dân nghèo mạt kiếp, nhờ đảng tiên phong

Suốt ngày long nhong, làm thuê các nước

Chỉ một mơ ước, đủ ăn hàng ngày

Cho hết kiếp này, cuộc đời ông chủ.



Khuyết danh









VÕNG TRĂNG http://youtu.be/Jk9yqf1hk2M https://youtu.be/Jk9yqf1hk2M 1- từ non trăng chạy xuống đèo từ đêm hôm ấy trăng leo lên thuyền đưa em về xứ mặc nhiên trăng và e

TIN VIỆT NAM

Vần đề nhân sự lãnh đạo tại Hội nghị Trung ương 11

Mặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok
2015-05-06

Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
Từ trái sang: TBT Nguyễn Phú Trọng, Cựu TBT Nông Đức Mạnh và TT Nguyễn Tấn Dũng tại cuộc diễn binh mừng ngày 30 tháng 4 ở TPHCM
Từ trái sang: TBT Nguyễn Phú Trọng, Cựu TBT Nông Đức Mạnh và TT Nguyễn Tấn Dũng tại cuộc diễn binh mừng ngày 30 tháng 4 ở TPHCM.
AFP
Cứ mỗi lần Hội nghị Trung ương mở ra là giới quan sát trong cũng như ngoài nước đểu chú ý tới vấn đề chọn lựa nhân sự hơn bất cứ vấn đề nào khác. Trong bải diễn văn lần này Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh tới vấn để nhân sự và báo chí đồng loạt nhắc lại điều này như một biến cố có thể khiến Đảng lung lay.
Đối với các nước dân chủ có chế độ bầu cử tự do thì việc chọn lựa người lãnh đạo quốc gia là cơ hội cho dân chúng thực hiện quyền phổ thông đầu phiếu của mình. Riêng tại các nước theo chế độ Cộng sản thì cuộc đầu phiếu theo ý dân sẽ được vài trăm Ủy viên Bộ chính trị họp kín với nhau để chọn người lãnh đạo cho chính họ và cho người dân cả nước.
Tổng bí thư là vị trí quyền lực cao nhất, trên cả Quốc hội và chính phủ, sẽ được Hội nghị Trung ương lần này thảo luận và bàn bạc cho kỳ Đại hội Đảng 12 sẽ diễn ra vào năm tới.
Cuộc tranh giành quyền lực
Mặc dù Hội nghị được xem là tuyệt mật nhưng chưa bao giờ thoát khỏi sự rò rỉ từ bên trong cùng những thông tin được tổng hợp từ bên ngoài sẽ cho thấy một kết quả nào đó từ các ứng viên có ý định đại diện cho phe nhóm của mình tiến tới việc nắm giữ vị trí then chốt nhất của chế độ.
Nhiều chuyên gia quan sát chính trường Việt Nam đồng ý rằng có hai phe được các nhóm lợi ích hỗ trợ trong cuộc tranh giành quyền lực. Hai phe này đã hình thành ít nhất từ Hội nghị Trung ương 6 hai năm trước đây khi ông Tổng bí thư, đại diện cho nhóm Đảng đã cố lật Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhưng thất bại một cách cay đắng và từ đó tới nay mối bất đồng ngày một đào sâu, đặc biệt khi đường đua tới đích ngày một rút ngắn.
Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, một nhà bất đồng chính kiến nổi bật đưa ra nhận xét về vấn đề mà Hội nghị đang bàn tới:
-Bây giờ chủ yếu vấn đề được quan tâm là vấn đề nhân sự, phe nào thì được những ghế nào. Một số nhân vật được coi như đã an bài rồi ví dụ như Nguyễn Phú Trọng, thì ngoài vấn đề tuổi tác, mà nếu ông ta còn trẻ thì chắc cũng bị cho về vườn thôi vì với một bản lĩnh non kém như thế thì chắc chắn không tồn tại được trong vị trí Tổng bí thư nữa. Còn những vị trí khác thì rõ ràng bây giờ trước Đại hội 12 thì có phe Nguyễn Phú Trọng và một phe cầm đầu bởi Nguyễn Tấn Dũng. Hai phe này đã từng giao chiến mà trận giao chiến ác liệt nhất là Hội nghị Trung ương 6 mà Nguyễn Phú Trọng đã khóc lóc sụt sùi khi không hạ bệ được Nguyễn Tấn Dũng.
Bây giờ trước Đại hội 12 thì có phe Nguyễn Phú Trọng và một phe cầm đầu bởi Nguyễn Tấn Dũng. Hai phe này đã từng giao chiến mà trận giao chiến ác liệt nhất là Hội nghị Trung ương 6 mà Nguyễn Phú Trọng đã khóc lóc sụt sùi khi không hạ bệ được Nguyễn Tấn Dũng
TS Nguyễn Thanh Giang
TS Nguyễn Thanh Giang cho rằng mặc dù bị đánh tận lực trong Hội nghị Trung ương 6 nhưng ông Dũng không có cơ hội phản kích. Điều ông Dũng cố làm là hạ uy tín ông Trọng khi chọn thái độ đi ngược lại những gì mà ông Tổng Bí thư đã làm hay đã tuyên bố. Trong khi ông Trọng giữ vững lập trường xem Trung Quốc là bạn thì ông Dũng lại cho rằng “nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc”, TS Nguyễn Thanh Giang nhận xét về thế mạnh của ông Dũng trong Hội nghị lần này:
-Sau này ông Dũng không đánh thẳng vào Nguyễn Phú Trọng như các tuyên ngôn khác hẳn của Nguyễn Phú Trọng đối với vấn để Trung Quốc, đối với vấn đề kinh tế thị trường hay vấn đề diều luật biểu tình hay xã hội, thái độ với doanh nghiệp nhà nước…người ta thấy hai bên có những cái sai biệt nhau vấn đề quan trọng nhất và cao nhất là vị trí Tổng bí thư thì người ta nghĩ rằng trong thế thượng phong hiện giờ thì rất có thể là ghế Tổng bí thư sẽ nằm trong tay Nguyễn Tấn Dũng, vấn đề là ông ấy có kiêm nhiệm luôn Chủ tịch nước hay là sau đó có chuyển biến thành chế độ Tổng thống hay không thì còn phải chờ xem.
TS Phạm Chí Dũng, một nhà báo, chuyên gia kinh tế và có rất nhiều bài viết nhận định chính trị chú ý tới khía cạnh nhân quyền trước khi Hội nghị khai mạc. Chỉ dấu im ắng không khủng bố, càn quét người đối lập như trước đây cho thấy một diễn biến khác lạ có thể là dọn đường cho ông Trọng sang Mỹ nhưng cũng có thể cho thấy một chủ trương nào đó từ phía Đảng:
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (giữa) mỉm cười đi phía sau Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng  (trái) và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tại một kỳ họp Quốc hội ở Hà Nội  năm 2012.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (giữa) mỉm cười đi phía sau Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng (trái) và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tại một kỳ họp Quốc hội ở Hà Nội năm 2012.
-Hội nghị Trung ương 11 lần này tôi muốn đề cập đầu tiên là vấn đề nhân quyền. Trong vòng hai năm qua đây là Hội nghị Trung ương lần thứ hai mà trước Hội nghị không diễn ra bắt người còn hầu như tất cả các Hội nghị Trung ương trước đây đều diễn ra tình trạng bắt các blogger, các nhà bất đồng chính kiến trước khi diễn ra Hội nghị đó là vấn đề mà chúng ta cần xem xét.
Thứ hai, ta có thể so sánh Hội nghị Trung ương 11 lần này với Hội nghị Trung ương 7 vào năm 2013 khi đó diễn ra sự kiện khá lớn trong Bộ chính trị là bổ xung hai Ủy viên Bộ chính trị. Có 4 ứng cửa viên mà sau đó chỉ chọn hai người là ông Nguyễn Thiện Nhân và bà Nguyễn Thị Kim Ngân còn ông Nguyễn Bá Thanh và ông Vương Đình Huệ bị trượt và Hội nghị Trung ương lần thứ 7 vấn đề nhân sự rất quan trọng.
Từ quan trọng kỳ này đổi thành hệ trọng theo lời của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng mà thậm chí báo chí còn rút tít là vấn để nhân sự kỳ này ảnh hưởng sinh mệnh của Đảng điều đó cho thấy công tác nhân sự khi Đại hội Đảng lần thứ 12 diễn ra vào năm 2016 hệ trọng đến thế nào.
Bài diễn văn chống Mỹ
Mặc dù Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chiếm được khá nhiều cảm tình của người dân qua các tuyên bố cứng cỏi, nhưng bài diễn văn đọc nhân ngày 30 tháng 4 vừa qua là một tì vết cho sự nghiệp chính trị của ông. TS Phạm Chí Dũng nhận xét:
Thái độ của ông Dũng hầu như chưa tỏ ra có mối quan hệ với TQ nhưng đặc biệt khi mà ta nhắc lại cái diễn văn chào mừng ngày 30/4 của ông Dũng có thể nói thẳng đó là một bài diễn văn chống Mỹ...Đó là một diễn văn bất cập với những ngôn từ gay gắt quyết liệt, kể cả mang tính chất khiêu khích

TS Phạm Chí Dũng
-Trong suốt hai nhiệm kỳ làm thủ tướng của ông Dũng cho tới nay ông chưa xuất hiện ở Bắc Kinh và điều đó không cho thấy một tín hiệu quá rõ ràng về việc Thiên triểu có thể có một ảnh hưởng lớn đối với ông Nguyễn Tấn Dũng.
Tôi cho rằng thái độ của ông Dũng hầu như chưa tỏ ra có mối quan hệ với Trung Quốc nhưng đặc biệt khi mà ta nhắc lại cái diễn văn chào mừng ngày 30 tháng 4 của ông Dũng có thể nói thẳng đó là một bài diễn văn chống Mỹ. Hầu như không nhắc đến vai trò hỗ trợ kinh tế của Mỹ trong vấn đề đầu tư nước ngoài và viện trợ kể cả vai trò của Mỹ trong Biển Đông trong thời gian gần đây. Đó là một diễn văn bất cập với những ngôn từ gay gắt quyết liệt, kể cả mang tính chất khiêu khích điều đó có lợi gì cho ông Dũng khi ông được coi là một trong những người có thân nhân gần gũi nhất với Hoa Kỳ?
Có lẽ từ những sai lầm chiến lược này của ông Dũng đã khiến ông Trọng có một bài diễn văn khá tự tin trước Hội nghị Trung ương 11 lần này, mặc dù ông Trong vốn nổi tiếng là rất khô cứng khi đọc diễn văn. TS Phạm Chí Dũng nhận xét:
-Hội nghị Trung ương lần thứ 11 chúng ta chứng kiến một bài diễn văn có vẻ khá tự tin của ông Nguyễn Phú Trọng, nó khác với diễn văn kết thúc Hội nghị Trung ương 6 vào cuối tháng 9 năm 2012 đã cho thấy ưu thế phía Đảng đang tăng lên đáng kể.
Người dân không tin rằng Đảng sẽ làm được điều gì đột phá, ý nghĩa trong các Hội nghị như thế này nhưng rất nhiều người trong đó có TS Nguyễn Thanh Giang, vẫn ước ao sẽ có một cuộc vận động nào đó khiến Đảng Cộng sản Việt Nam đổi máu để có thề tiếp tục con đường mà họ cho là phục vụ dân tộc, phục vụ nhân dân:
-Trong giai đoạn mà ông Nguyễn Phú Trọng cầm quyền thì mỗi một ngày Đảng với dân lại chia hai con đường khác biệt cho nên người ta trông chờ hai phía tích cực và tiêu cực. Phía tiến bộ và phía lạc hậu nó tự vận động trong các hội nghị trung ương từ đây đến Đại hội đảng như thế nào thì may ra cái Đại hội 12 nó sẽ khá lên một chút thì dần dần Đảng còn có thê một phần nào giữ được cái vai trò lãnh đạo đất nước và dân tộc. Dù non kém nhưng không đến nỗi quá tệ và thậm chí không đếnnỗi phản động như hiện nay.
Hội nghị Trung ương lần thứ 11 chưa kết thúc nhưng hầu như giới quan sát và đa số người có quan tâm đều cho rằng sẽ không có bất kỳ một cuộc cách mạng nhân sự nào vì Đảng vẫn giữ truyền thống chia sẻ ghế ngồi cho nhau nhằm ổn định chính trị và nhất là giữ vững sự cai trị của mình.

Tuesday, May 5, 2015


VIỆT NAM-1975-2015

1975-2015: Có thể bạn chưa biết

  • 29 tháng 4 2015




Cuộc chiến Việt Nam, cũng được sử gia nước ngoài gọi là Cuộc chiến Đông Dương lần hai, thường được tính bắt đầu từ 1959 hay 1960 với các hoạt động du kích ở miền Nam Việt Nam và Lào, và kết thúc ngày 30/4/1975.
Đánh dấu 40 năm ngày kết thúc chiến tranh, BBC giới thiệu 10 dữ kiện quan trọng liên quan cuộc chiến Việt Nam và quan hệ Việt – Mỹ.
Chiến tranh Lạnh: Việt Nam Cộng Hòa phụ thuộc viện trợ quân sự và kinh tế của Mỹ, còn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được Liên Xô và Trung Quốc giúp đỡ.
Số lượng quân đội: Hơn 2.5 triệu lính Mỹ phục vụ ở Việt Nam – năm cao điểm là 1968 với 536.000 người. Năm 1973, khi Mỹ rút, ước tính quân lực Việt Nam Cộng Hòa là khoảng 700.000, còn Quân đội Nhân dân Việt Nam khoảng 1 triệu.
Số người chết: Hơn 58.000 người Mỹ và ít nhất 1.1 triệu người Việt thiệt mạng. Lực lượng các nước khác cũng có người chết, gồm hơn 4.000 lính Hàn Quốc.
Phía Mỹ: 47.406 người thiệt mạng trong chiến trận và 10.787 không do giao tranh – tổng cộng là 58.193 người.
Trung Quốc, nước gửi tổng cộng khoảng 320.000 người liên quan quâuân sự để giúp các tuyến đường vận chuyển và khẩu đội phòng không, đã có 1.100 người thiệt mạng và 4.200 người bị thương.Các nguồn của chính phủ Mỹ ước tính tổng cộng lính Cộng sản Việt Nam thiệt mạng từ 1961 đến 1975 là 1.027.085 người, một con số mà giới chức Lầu Năm Góc cho rằng có thể bị phóng đại lên 30%. Nhưng Bộ Lao động, Thương binh, Xã hội Việt Nam ước tính con số bộ đội Cộng sản chết từ 1954 đến 1975 là 1.1 triệu.




http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2015/04/150429_things_you_may_not_know_vietnam_war

 http://www.bbc.co.uk/vietnamese/pictures/2015/04/150425_boat_people_gallery_vietnam_war

BÙI TÍN* NGUYỄN PHÚ TRỌNG-TẬP CẬN BÌNH

Nếu thật thế thì nghiêm trọng quá!

Ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã sang Bắc Kinh trong chuyến đi thăm chính thức theo lời mời của ông Tập Cận Bình.Chuyến đi cập rập không được chuẩn bị từ trước, vội vã chỉ để đi trước cuộc sang Hoa Kỳ để gặp Tổng thống Obama đã được ấn định trong tháng 5 này. Chuyến thăm diễn ra từ ngày 7 đến ngày 10 tháng 4, 2015.
Đi cùng ông Trọng có đến 4 ủy viên Bộ Chính trị phụ trách ngành Tuyên giáo, ngành Công an, Quân đội và một phó Chủ tịch Quốc Hội, thêm ủy viên Trung ương Phạm Bình Minh, phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao. Đủ thấy tầm quan trọng ra sao.
Một Tuyên bố chung 9 điểm được đưa ra ngày 8/4. Đây là bản Tuyên bố chung dài nhất trong quan hệ Việt – Trung từ trước đến nay. Cũng là bản Tuyên bố đậm đà nhất về « tình nghĩa hữu nghị Trung – Việt sâu đậm do 2 lãnh tụ vỹ đại Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh vun đắp nên ».
Bản Tuyên bố nhắc đi nhắc lại 16 chữ vàng và Bốn Tốt tiêu biểu cho tình anh em và tình đồng chí chí thiết gắn bó 2 đảng và nhân dân 2 nước cùng chung lý tưởng XHCN cao đẹp. Bản Tuyên bố kể lại sự chi viện to lớn của Đảng CS và nhân dân TQ cho Đảng CS và nhân dân VN trong « các cuộc chiến tranh chống xâm lược của nhân dân VN».
Điều đặc biệt nổi bật là bản Tuyên bố chung kể lể nhiều nhất đến những cam kết về hợp tác chiến lược toàn diện giữa 2 đảng, 2 Nhà nước, 2 Chính phủ, 2 Quốc hội, 2 Mặt Trận, về mọi mặt:chính trị, quốc phòng, quân sự, an ninh, đối ngoại, kinh tế, tài chính, thương mại, tiền tệ, tuyên huấn, đào tạo cán bộ, văn hóa, văn nghệ, truyền thanh truyền hình. Hai bên cam kết sẽ tăng thêm trao đổi hàng hóa qua biên giới, tạo điều kiện tăng đầu tư, nâng cao kỹ thuật công nghiệp, rồi hợp tác giao thông trên biển, trong biển Nam Hải, ở cửa ngõ Vịnh Bắc bộ. Tất cả đều phát triển mạnh trong kế hoạch hiện tại 2011-2016 và trong kế hoạch hợp tác 2016-2020 sắp tới.
Điều đặc biệt nổi bật là trong bản Tuyên bố chung không hề nhắc đến cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung đầu năm 1979, về sự kiện dàn khoan HD 981 từng gây sóng gió dữ dội trong quan hệ Việt – Trung, không hề nhắc đến những hoạt động phi pháp ngang ngược hiện tại trên vùng biển nước ta của phiá TQ, mở rộng củng cố các khu vực, các hòn đảo, bãi đá bị họ lấn chiếm.
Có những điểm mới rất quan trọng, khác hẳn với những Tuyên bố chung Việt – Trung trước đây. Đó là 2 bên cam kết sẽ hợp tác chặt chẽ trên lĩnh vực tài chính - tiền tệ - ngân hàng, trong lĩnh vực thuế và thanh toán, có hẳn một văn kiện ký riêng về vấn đề này. Đây có thể là một ràng buộc thâm hiểm nhằm gắn liền đồng tiền VN với đồng Nhân dân tệ TQ chặt chẽ hơn các ngoại tệ khác, nâng cao thanh thế của Ngân hàng đầu tư hạ tầng châu Á BIIA - Bank Investment Infrastructure of Asia - do Trung Quốc lập nên. Tuyên bố chung cũng nhiều lần nói đến hợp tác giữa hai Bộ tài chính và hai Ngân hàng Nhà nước.
Tuyên bố chung nhiều lần nhắc đến quan điểm lấy « đại cục làm trọng » nhằm tăng cường tình hữu nghị truyền thống, thắt chặt thêm quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện giữa 2 nước, 2 đảng theo 16 chữ vàng : láng giềng hữu nghị - hợp tác toàn diện - ổn định lâu dài - hướng tới tương lai, và quan hệ 4 tốt : láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt. Đây là một ràng buộc nữa để bỏ qua mọi sự kiện được coi là tiểu tiết như phía TQ ráo riết xây dựng sân bay, pháo đài, trạm Ra-Đa trên các đảo bị lấn chiếm.
Thế nhưng những thiếu sót, sơ hở trên của ông Nguyễn Phú Trọng và tùy tùng chuyên gia đi theo chưa phải là nghiêm trọng nhất. Báo Nhật bản Nikkei Asian Review ngày 9/4 cho biết « Trong bản Tuyên bố chung Trung – Việt phía VN đồng ý đưa cảng Hải Phòng vào chương trình xây dựng Con Đường Tơ Lụa trên biển do Trung Quốc khởi xướng ». ( theo bài viết « Về Tuyên bố chung Việt – Trung, trên Diễn đàn – Forum của Hải Vân và Vũ Quang Việt – 15/4).
Chủ trương xây dựng Vành đai kinh tế Tơ lụa – Silk Road Economic Belt, từ TQ qua các nước Trung Á đến Trung Đông sang tận châu Âu, với đường sắt, ống dẫn dầu và khí, dài hàng chục ngàn kilômét và xây dựng Đường Tơ lụa trên biển - Maritime Silk Road từ TQ ra biển Đông VN, xuống Ấn Độ Dương, vào Biển Đỏ rồi sang Địa Trung Hải cập các bến châu Âu và châu Phi. Đây là 2 công trình đồ sộ nhất, ban đầu chi phí hơn 50 tỷ đôla, liên hệ đến 65 nước có hơn 4 tỷ dân, được coi là tham vọng kinh tế trọng điểm rộng lớn chưa từng có trong 10 năm tới, cũng là mối quan tâm kinh tế hàng đầu của Tập Cận Bình trong giấc mơ Trung Hoa to lớn Bình thiên hạ của ông ta.
Tham vọng này cực lớn, nhưng đang vấp phải sự cản phá mạnh mẽ của Ấn Độ, Nhật Bản, các nước Trung Á thân Nga, các nước Trung Đông cũng như của Hoa Kỳ và châu Âu. TQ đang rất vất vả tìm kiếm đối tác đồng thuận cho « 2 công trình thế kỷ » này.
Nếu quả thật như trên, ông Trọng đã nhẹ dạ bị sập bẫy của ông anh Cả của mình.
Có thể ông đã bị loáng mắt inh tai mất tỉnh táo do sự tiếp đón linh đình của ông tổng Tập, có duyệt đoàn quân danh dự, có 21 phát đại bác, có Đại Yến tiệc, quên mất rằng chưa có đồng thuận của Bộ chính trị, chưa có ý kiến của Quốc hội, Chủ tịch Nước và Thủ tướng Chính phủ, các quan chức chóp bu này bị đặt trước việc đã rồi. Nhân dân không ai bỏ phiếu bàu ông Trọng làm Tổng bí thư. Ông chỉ là Tổng bí thư của đảng ông ta. Ai cho ông cái quyền đứng đầu nước ta ?
Nếu quả thật như trên thì cái sơ hở sai lầm cực kỳ nghiêm trọng của ông Trọng và cả đoàn VN nên gọi chính xác là gì ? Có thể gọi là bán nước cho thế lực bành trướng ? Ông và đoàn của ông ăn nói ra sao với toàn dân ? Tuyên bố chung có nên đưa ra trưng cầu dân ý của toàn dân ?
Thì ra « cái tròng Bắc thuộc mới » mà nguyên Bộ trưỏng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch sớm cảnh báo đã được Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh mở đầu năm 1990, tiếp nối bởi Tổng bí thư Đỗ Mười, rồi bị thắt chặt hơn dưới thời Tổng bí thư tham quyền Lê Khả Phiêu, để rồi tiếp nối mạnh hơn nữa bởi tổng bí thư Nông Đức Mạnh, còn rước họa bô-xít vào vùng chiến lược Tây Nguyên, và nay lại được ông tổng Trọng làm cho cái tròng Bắc Thuộc thêm chặt hơn, ngẹt thở thêm, dân ta không còn chịu nổi.
Năm đời Tổng bí thư làm tôi đòi cho ngoại bang phương Bắc chưa đủ sao? Đại Hội Đảng CS thứ XII hãy trả lời rõ cho toàn đảng và toàn dân nước ta.
* Blog của Nhà báo Bùi Tín là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.  
http://www.voatiengviet.com/content/neu-that-the-thi-nghiem-trong-qua/2748300.html


TRUC GIANG *HÒA GIẢI




Đánh lận con đen trong chiêu bài “hòa giải hòa hợp dân tộc”

Trúc Giang

1* Mở bài
Đánh lận con đen là đánh lừa bằng mánh khóe gian xảo. 
Trong tháng 4 có rất nhiều bài viết về biến cố lịch sử ngày 30 tháng 4 năm 1975, trong đó có những bài kêu gọi hòa giải hòa hợp dân tộc, hãy quên quá khứ, xóa bỏ hận thù, đoàn kết xây dựng tương lai của đất nước.
Hòa giải hòa hợp dân tộc là một chiêu bài tuyên truyền trong Nghị quyết 36 của đảng CSVN.
Sở dĩ có lời kêu gọi hòa giải là vì họ cho rằng dân tộc VN, giữa người Việt ở nước ngoài và người Việt ở trong nước có hận thù với nhau, cho nên họ mới kêu gọi hòa giải để hòa hợp.
Sự thật là không có hận thù gì trong dân tộc VN cả. Chiêu bài đó chỉ là việc đánh lận con đen gán cho những phong trào đòi dân chủ cho VN là vì hận thù dân tộc. Chống lại chế độ độc tài không phải là do hận thù dân tộc.
2* Hai chữ “dân tộc” bị lạm dụng
Trong mục đích chận đứng những người, những tổ chức đấu tranh cho dân chủ nhân quyền Việt Nam, ở trong nước và hải ngoại, Việt Cộng đưa ra chiêu bài mang tính hợp lý và chính nghĩa, đó là “hòa giải hòa hợp dân tộc”.
Hai chữ “dân tộc” bị lạm dụng và đặt sai vị trí mà trên thực tế là họ muốn sự hòa giải, hòa hợp với chế độ cai trị của đảng CSVN hiện nay.
Dùng hai chữ “dân tộc” được thay thế cho “đảng CSVN” là đánh lận con đen, nghĩa là đánh lừa bằng mánh khóe gian xảo.
Thật ra “dân tộc” và “chế độ cai trị” là hai thành phần hoàn toàn khác biệt nhau.
Xin chứng minh như sau.
Dân tộc Việt Nam đã trải qua nhiều chế độ cai trị khác nhau. Chế độ thay đổi nhưng dân tộc Việt Nam vẫn là một. Không đổi.
Dân tộc Việt Nam trải qua sự cai trị của nhiều triều đại khác nhau, từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn…. Triều đại thay đổi nhưng dân tộc Việt Nam vẫn là một.
Không thể nói nhà Lê, nhà Trần, nhà Nguyễn là dân tộc Việt Nam. Cũng lý luận như thế, không thể nói nhà Tống, nhà Minh, Nhà Hán là dân tộc Việt Nam khi họ cai trị Việt Nam trong những thời kỳ Bắc thuộc.
Cũng tương tự, không thể nói Nhật Bản hay nước Pháp là dân tộc Việt Nam khi họ cai trị dân tộc Việt Nam.
Kết luận. Chế độ Cộng Sản, đảng Cộng Sản không phải là dân tộc Việt Nam.
3* Dân tộc Việt Nam không hận thù nhau nên không cần phải hòa giải, hòa hợp.
3.1. Truyền thống thương yêu đùm bọc lẫn nhau
Dân tộc Việt Nam có truyền thống thương yêu đùm bọc lẫn nhau, xem nhau như anh em ruột thịt. “Anh em như thể tay chân” (Huynh đệ như thủ túc), tay và chân cùng một huyết thống trong cơ thể con người. Không thể tách rời ra được.
Nguồn gốc dân tộc bắt nguồn từ truyền thuyết mẹ Âu Cơ sinh ra một bào thai 100 trứng, cùng một bào thai nên gọi nhau là đồng bào. Chỉ có người Việt Nam mới gọi nhau như thế mà thôi.
Cùng một cha một mẹ Lạc Long Quân và Âu Cơ nên thương yêu đùm bọc lẫn nhau, “lá lành đùm lá rách”.
Thấy ai đói rách thì thương
Rét thời cho mặc, đói thường cho ăn.
Hay
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ. Chị ngã em nâng…
Đồng bào trong nước cứu trợ thiên tai, hỏa hoạn. Người Việt hải ngoại thực hiện công tác từ thiện, hướng về đồng bào trong nước với tình dân tộc, nghĩa đồng bào, thậm chí còn đấu tranh cho đồng bào trong nước được sống dưới chế độ dân chủ, có nhân quyền…
3.2. Không có hận thù với nhau
Người Việt trong nước được tự do đi lại thoải mái khắp nơi từ Nam ra Bắc. Người Việt ở nước ngoài về Việt Nam cũng được đi lại an toàn từ Sài Gòn ra Huế, Hà Nội, ngoài công an Việt Cộng ra, thì người dân Việt Nam ở trong nước và ngoài nước không có vấn đề gây trở ngại nào cả.
Rõ ràng là dân tộc Việt Nam không có mâu thuẩn, thù hận gì với nhau nên không cần phải hòa giải hòa hợp gì với nhau cả.
Nhiều bài viết có những tựa đề không rõ ràng, gây hiểu lầm. “Dân tộc không thể mạnh nếu cứ thù nhau”. Đó là cái tựa bài trên trang Diễn Đàn Thế Kỷ thuật lại cuộc phỏng vấn GS Lê Xuân Khoa ngày 28-4-2015 của đài BBC tiếng Việt.
Cái tựa bài nầy không rõ ràng, gây hiểu lầm, vì dân tộc VN trong và ngoài nước tuyệt đối là không có thù oán gì với nhau cả. Một cái tựa khác cũng không rõ ràng, đó là “Hòa giải Mỹ- Việt dễ hơn với nội bộ Việt Nam”
Đấu tranh cho dân chủ Việt Nam không phải là do thù oán.
4* Chiêu bài “Hãy quên quá khứ, xóa bỏ hận thù, hướng tới tương lai”
4.1. Hãy quên quá khứ
Vì sao phải kêu gọi “hãy quên quá khứ”?
Quá khứ của Chủ Nghĩa Cộng Sản là tội diệt chủng và tội chống nhân loại vì đã giết trên 100 triệu người vô tội. Đó là quá khứ tội ác của Staline , Mao Trạch Đông, Pol Pot và Hồ Chí Minh.
Quá khứ của đảng CSVN là tội ác trong Cải Cách Ruộng Đất, trong Tết Mậu Thân 1968 ở Huế, và trong “đánh tư sản” ở Miền Nam sau 1975. Đó là “cướp của giết người”. Đánh tư sản dân tộc, cướp của để trở thành tư sản đỏ như hiện nay ở Việt Nam.
Ông Nguyễn Hùng Trương, suốt đời chỉ mua bán sách, nhưng vì ông có nhà cửa và tài sản là nhà sách Khai Trí cho nên bị bắt giam để cướp tài sản. Không phải chỉ có một mình nhà sách khai Trí mà nhiều nhà kinh doanh khác bị cướp tài sản và đuổi vào các vùng kinh tế mới…Những tài sản của các tôn giáo cũng bị cướp sạch.
Đó là quá khứ của đảng CSVN. Họ kêu gọi hãy quên nó đi!
Nhiều kẻ a dua với Việt Công cũng xen vào kêu gọi như thế. (A dua là hùa theo người khác một cách vô lý để lấy lòng)
4.2. “Đảng Cộng Sản không phải là tương lai của Việt Nam”
Dân biểu Chris Smith cho biết: “Đảng Cộng sản không phải là tương lai của Việt Nam”
Về quan hệ Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) đang được đàm phán, một nhóm 4 dân biểu Hạ viện Mỹ thuộc cả hai đảng, đã giới thiệu Đạo luật Nhân quyền Việt Nam để bảo đảm rằng vấn đề nhân quyền không bị 'bán đứt' trong các cuộc đàm phán thương mại nầy.
Dân biểu Chris Smith, Chủ tịch tiểu ban đặc trách nhân quyền thuộc Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ, chỉ trích thành tích nhân quyền của Việt Nam là “tệ hại” và vì thế Việt Nam không xứng đáng nhận được những lợi ích thương mại trong tổ chức kinh tế Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) đang được đàm phán. Ông nói “Đảng Cộng Sản không phải là tương lai của Việt Nam”
Chris Smith và 4 dân biểu: Ed Royce, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện, Dana Rohrabacher (Đảng Cộng hòa), Zoe Lofgren và Gerald Connolly (cùng Đảng Dân Chủ) giới thiệu một đạo luật nhân quyền cho Việt Nam. “Dự luật này là trọng yếu trong những nỗ lực của chúng ta nhằm cải thiện tình hình nhân quyền cho người dân Việt Nam”.

Tổ chức Phóng viên Không Biên giới cho biết, từ giữa tháng hai Việt Nam đã bỏ tù ít nhất 34 blogger .
Ngày 1-5-2015, Tổng Thống Obama đã tiếp blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải tại Phòng Bầu Dục Tòa Bạch Ốc, mà trước kia đã tuyên bố không tiếp Nguyễn Phú Trọng tại đó, chỉ vì nhân quyền của Việt Nam.

blank
4.3. Xóa bỏ hận thù
Như trên đã chứng minh, giữa “người dân” VN với “người dân” VN dù ở trong nước hay ở ngoài nước đều hoàn toàn không có mâu thuẩn đối kháng nhau, không có thù hận gì với nhau cả.
Đảng CSVN chụp mũ, cho rằng những người hay những tổ chức đấu tranh nhân quyền cho dân tộc VN là những người chống Cộng vì cảm tính, do cái mặc cảm bị bại trận, những người H.O thì do hận thù vì bị đày đọa trong trại tù cải tạo…
Nhận xét chụp mũ nầy ngụy biện và trật lất.
Những nhà dân chủ trong nước là những người được sinh ra dưới chế độ XHCN, bị giáo dục nhồi sọ dưới mái trường XHCN, trong đó có những đảng viên CS, họ không bị mất nước, không có mặc cảm bị bại trận, không có hận thù vì tù cải tạo…


               blank  Cụ thể là nữ đại úy công an Tạ Phong Tần, cựu đảng viên Vi Đức Hồi, cựu trung tá Trần Anh Kim, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, các luật sư Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài, Cù Huy Hà Vũ, Lê Trần Luật, nhà văn Trần Khải Thanh Thủy, Bùi Thị Minh Hằng, Lê Công Định, Trần Huỳnh Duy Thức, Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn Tiến Trung, Trương Duy Nhất, nhà báo Trương Minh Đức nhà văn Huỳnh Ngọc Tuấn và con gái là Huỳnh Thục Vy, và còn rất nhiều người khác nữa…
Việt Nam bị đề nghị đưa trở lại danh sách các quốc gia đáng quan tâm CPC (Country of Particular Concernt=CPC) về nhân quyền, đặc biệt là tự do tôn giáo.
blank
Tóm lại, đấu tranh cho dân chủ nhân quyền Việt Nam, dứt khoát không phải là do mặc cảm bại trận hay hận thù cải tạo.
4.4. Hướng tới tương lai
Hiện tại như thế nầy thì tương lai sẽ ra sao?
Tương lai của một dân tộc Việt Nam đang bị chế độ Cộng Sản cai trị thì tương lai sẽ trở thành một khu tự trị mà dân tộc Việt Nam sẽ trở thành một sắc tộc thiểu số trong “đại gia đình các dân tộc” thuộc chính trung ương ở Bắc Kinh.
Xã hội Việt Nam dưới sự cai trị của đảng độc tài, tham nhũng có truyền thống bán nước của đảng CSVN đã bị văn hóa xuống cấp, đạo đức suy đồi cùng cực, sống vô trách nhiệm, sống chết mặc bây, chết ai nấy bỏ…

Phóng xe bừa bãi gây tai nạn chết người cao nhất, bỏ hóa chất độc hại vào thực phẩm để bán lấy tiền, lừa phụ nữ và trẻ em đem bán vào các động mãi dâm ở nước ngoài…Chỉ vì tiền mà không có tội ác nào mà họ không dám làm.
Nếu đảng CSVN tiếp tục cai trị, nếu cái đà nầy kéo dài thì tương lai của dân tộc có được tươi sáng không? Biết đến bao giờ mới bằng được như xã hội Nhật Bản hiện nay đây?
Những kẻ a dua Việt Cộng lại xen vào phổ biến cái chủ trương nầy thêm một lần nữa.
Tóm lại, chủ trương “Hãy quên quá khứ, xóa bỏ hận thù hướng tới tương lai” là lối tuyên truyền nằm trong Nghị quyết 36 của đảng CSVN mà những kẻ bợ đít, nâng bi Việt Cộng tiếp tay tuyên truyền trong các cộng đồng người Việt ở hải ngoại.
5* Những ví dụ được nêu ra để tuyên truyền cho việc hòa giải hòa hợp dân tộc của Việt Nam
5.1. Ví dụ về sự thống nhất giữa Đông và Tây Đức
         blank
Một Việt kiều yêu nước ở Đức đem sự thống nhất giữa Đông và Tây Đức ra làm thí dụ để kêu gọi người Việt hải ngoại về nước phục vụ đảng CSVN để góp phần xây dựng quê hương.
Mới thoạt nghe về việc xây dựng quê hương thì thấy cũng có lý đôi chút, nhưng nghĩ kỹ lại thì chẳng ra gì. Vì sai bét. Trật lất.
Vì sao?
Vì người Đức thống nhất bằng cách đạp đổ bức tường ô nhục Bá Linh, tiêu diệt chế độ Cộng Sản để về sống với người Đức dưới chế độ dân chủ của Tây Đức.
Và sau đó, những tên trùm Cộng Sản Đông Đức bị lôi ra tòa cho vào nhà đá gỡ lịch.
Những tên trùm Cộng Sản Đức như Erich Honecker và những quan chức cao cấp phải vác chiếu ra tòa.
Người tội nặng nhất là Chủ Tịch Hội đồng Nhà Nước, Egon Krenz, nhận bản án 6 năm 6 tháng. 11 người khác nằm nhà đá gỡ lịch từ 4 đến 6 năm.
Tờ TheTelegraph nêu thống kê, cho đến năm 2014 Tây Đức phải chi tiêu cho Đông Đức 2,000 tỷ euro, trung bình mỗi năm 100 tỷ euro.
Người Đông Đức trở về thống nhất với người ở Tây Đức sống dưới chế độ dân chủ. Trái lại bà Việt Kiều nầy cổ võ người Việt ở chế độ dân chủ về sống dưới chế độ độc tài, đó là tuyên truyền tào lao trơ trẻn, vì họ đã từng liều mạng chạy trối chết để trốn tránh chế độ ôn hoàng Cộng Sản nầy.
Nhiều ông bà yêu nước chỉ xúi người ta đâm đầu vào chỗ chết, xúi con nít ăn cứt gà, trái lại họ cứ bám trụ. Nằm vùng.
5.2. Ví dụ về sự hòa hợp của người Mỹ sau nội chiến 1861-1865
1. Kêu gọi không đúng đối tượng
Nhiều người nêu ra sự hòa hợp hòa giải giữa người Mỹ sau Nội Chiến (Civil War 1861-1865) để kêu gọi người Việt hải ngoại thực hiện.

THĂM NUÔI CHỒNG

  Tôi đi thăm chồng "cải tạo"

Vâng, chúng tôi nghiễm nhiên nhận chồng chúng tôi là "các ông cải tạo" như người miền Nam vẫn kêu với tấm tình trân quý, để phân biệt với những người tù hình sự. Vâng, những người đàn ông ở miền Nam mà đang đi tù Cộng Sản mới là những người xứng đáng với đàn bà con gái miền Nam ở lứa tuổi tôi. Chị em chúng tôi gọi đó là "tấm bằng tù cải tạo" của các ông để chọn gửi cuộc đời, dù là trao gửi vào một nơi bất định….
Minh Hòa -Virginia
2015-04-29

Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
DSC_0157-001-va-2012-600.jpg
Tác giả Minh Hòa chụp tại Virginia năm 2012
Ảnh do tác giả gửi RFA
Tôi quen anh năm 17 tuổi, khi còn cắp sách đến trường. Lúc ấy anh là sinh viên sĩ quan năm thứ ba, hai mươi tuổi đời, nhưng dạo đó trong mắt tôi anh thật chững chạc, lại tài hoa, và cũng không thiếu… si mê.
Anh nhất định đòi cưới tôi ngay sau khi ra trường, nói rằng Thầy Mẹ anh sẽ ưng ý, không thể phản đối. Tôi hình như có hơi ngạc nhiên và hơi… sợ sợ, vì tuổi 18, 19 thời đó còn nhỏ lắm, chẳng biết gì, chỉ biết rằng tôi hình như cũng… yêu anh nhiều lắm.  Tôi còn nhớ, tuy còn nhỏ và ngây thơ lắm, nhưng những ngày giữa năm thứ tư của anh, từng đêm tôi đã thổn thức một mình. Cảm giác lúc ấy là chỉ sợ mất anh vào nơi gió cát mịt mù mà biết bao người trai đã ra đi không hẹn ngày về.  Và tôi nhất quyết lấy anh, tuy anh làm phiền lòng Ba Má tôi không ít, khi anh dứt khoát từ chối mọi công lao chạy chọt của song thân tôi ngay từ truớc ngày anh tốt nghiệp. Gia đình tôi ngần ngại, nhưng tôi là con gái út, được cưng nhất nhà, vả lại cả nhà ai cũng quý mến anh…
Thế là tôi rời ghế nhà trường năm 19 tuổi, lên xe hoa mà tưởng như đang trong giấc mộng tình yêu thời con gái. Rồi thì giã từ quê huơng Đà lạt yêu dấu, giã từ những kỷ niệm yêu đương trên từng con dốc, từng vạt nắng xuyên cành trong hơi lạnh thân quen, từng hơi thở thì thầm trong ngàn thông thương mến, tôi theo anh về làm dâu gia đình chồng ở Sài Gòn. Tôi chưa hề được chuẩn bị để làm dâu, làm vợ, đầy sợ hãi trong giang sơn nhà chồng, còn chưa biết ứng xử ra sao, nhưng được cha mẹ và các em chồng hết lòng thương mến.
Các chú em chồng nho nhã luôn luôn hoan hô những món ăn tôi nấu nướng.
Tuần trăng mật thật vội vã nhưng vô cùng hạnh phúc, chỉ vỏn vẹn trong thời gian anh nghỉ phép ra trường, rồi trình diện đơn vị mới. Mùng sáu tết Tân Hợi 1971, Sư đòan Dù của anh đi mặt trận Hạ Lào. Hôm ra đi anh vui tưng bừng như con sáo sổ lồng, trong khi tôi thẫn thờ… Anh siết tôi thật chặt, không cho tôi khóc, nói rằng ra đi trong giòng nước mắt vợ hiền là điều xui rủi.
Tôi vội vã gượng cười, để rồi từng đêm thổn thức một mình trong căn phòng lạnh vắng, run rẩy lắng nghe từng tin chiến sự miền xa. .. Thư anh từ mặt trận toàn những điều thương nhớ ngâp tràn, pha lẫn những lời như những tràng cười say sưa của người tráng sĩ đang tung mình trên lưng ngựa chiến. Mẹ chồng tôi chẳng vui gì hơn tôi. Hai mẹ con buôn bán xong thường đi lễ chùa, khấn nguyện. Bà cụ bảo tôi "phải khấn cho nó bị thương nhẹ để mà về, chứ vô sự thì lại không được về, vẫn còn bị nguy hiểm"… Tôi càng hoang mang, thảng thốt, quỳ mãi trong khói hương với đầy nước mắt, chẵng khấn được câu nào… Má tôi trên Đà lạt cũng vội lặn lội lên tận cốc xa, thỉnh cho được tượng ảnh Bồ Tát Quán thế Âm để chồng tôi về sẽ đeo vào cổ.

\
IMG_0021s-1971-dalat-400.jpg
Tác giả Minh Hòa chụp cùng chồng năm 1971 tại Dalat.
Sau trận đầu tiên ở Hạ Lào anh trở về với cánh tay trái treo trước ngực. Tôi run run dội nước tắm cho anh để nước khỏi vào vết thương, mà không giấu được nụ cười đầy sung sướng, pha lẫn… đắc thắng, cảm ơn Trời Phật linh thiêng…
Rồi anh lại ra đi. Tây Ninh, Cam Bốt, cùng những địa danh trong các dòng tin chiến sự mà tôi thuộc nằm lòng. Trảng Bàng, Trảng Lớn, Suông, Chúp, Krek, Đam Be… Anh đi toàn những trận ác liệt một mất một còn với quân thù quái ác. Vừa lành vết thương là lại ra đi. Tôi thành người chinh phụ, thao thức từng đêm, vùi đầu vào gối khóc mùi trong lời khấn nguyện Phật Trời che chở cho sinh mạng chồng tôi. Còn anh, anh cứ đi đi về về trong tiếng cười vui sang sảng, hệt như các bạn chiến đấu trong cùng đơn vị, mà nay tôi vẫn còn nhớ tên gần đủ: các anh Tường, Hương, Trung, Dũng, Sinh, Chiêu, anh Sĩ, anh Tâm, anh Quyền….
Mỗi lần trở về bình an là một lần cả nhà mở hội, và mỗi khi nhận lệnh đi hành quân là một lần tôi thờ thẫn u sầu trong lúc anh hăng hái huýt gió vang vang khúc hát lên đường. Con người ấy không biết sợ hãi là gì, không cần sống chết ra sao, và không hề muốn nghe lời than vãn, chỉ thích nụ cười và những lời thương yêu chiều chuộng. Anh nói không biết tại sao anh có niềm tin kỳ lạ là không có việc hiểm nguy nào hại đựơc thân anh. Tôi chỉ còn biết chiều theo ý chồng, không bao giờ dám hé môi làm anh buồn bực, vì thời gian gần nhau quá ngắn ngủi, tôi chỉ lo cho anh những phút giây hạnh phúc hiếm hoi của người lính chiến, không muốn để anh bận lòng vì những nỗi lo âu. Lấy chồng hơn hai năm sau mà tôi vẫn chưa có cháu, vì anh cứ đi, đi mãi đi hoài, những ngày gần nhau không có mấy.
Rồi mùa hè đỏ lửa nổ ra. Anh nhảy vào An Lộc, lăn lóc đánh dập đánh vùi với địch quân đông gấp bội trong gần ba tháng trời, mất cả liên lạc bưu chính, ở nhà không hề nhận một chữ một lời. Người hạ sĩ quan hậu cứ mỗi tháng ghé lại gia đình thăm hỏi đều phải vẫy tay tươi cười ngay từ đầu ngõ. Anh về được đúng một tuần, thì lại lên đường đi Quảng Trị. .. Rồi anh lại bị thương ở cửa ngõ Cổ thành, trở về trong phòng hồi sinh Tổng y viên Cộng Hòa. Trên đướng tới bệnh viện cùng với gia đình, tôi ngất xỉu trên xe của người anh chồng…
Nhưng rồi anh vẫn đứng dậy, lại khoan khoái cất bước hành quân. Ôi, không biết tôi mang nợ anh từ tận tiền kiếp xa xôi nào, mà tôi yêu thương cái con người chỉ biết miệt mài say mê chiến trận. Tôi chỉ biết ước nguyện của anh là trở thành một tướng Patton của Việt Nam, "Rồi nước mình sẽ phải tự chủ hơn lên, mấy năm nữa phải khác hẳn đi chứ. Nền nếp quân đội sẽ phải thay đổi. Anh sẽ làm Tư lệnh đại đơn vị, để anh điều động liên quân chủng, cả thiết giáp, máy bay, đánh giặc như Patton cho mà coi. Cam bốt, Hạ Lào Trung Thượng Lào ăn nhằm gì… Hà hà" Tôi chỉ ậm ừ vì chẳng hiểu gì, khi anh thì thầm bên tai tôi vào một đêm tôi dần thiếp đi trong đôi cánh của hạnh phúc, một lần anh về phép hành quân…
Sinh cháu gái đầu lòng năm 1973 ở Đà Lạt, anh về thăm mẹ con tôi và trường cũ, xong lại bay đi trấn thủ đường ranh giới ngưng chiến ở vùng Tây Nam Huế...
Tháng tư năm 1975, đơn vị anh đóng quân ở Thủ Đức, chuẩn bị tử chiến với quân thù. Chú em chồng là sĩ quan chuyển vận tàu HQ505.  Tàu ghé Sài Gòn để chuẩn bị đi công tác Phú Quốc. Chồng tôi bảo cả gia đình, gồm Thầy Mẹ, các chú và cả mẹ con tôi, xuống tàu đi Phú Quốc lánh nạn chiến sự, rồi khi yên sẽ lại trở về. Tôi tưởng anh cũng định ra đi, nhưng anh quắc mắt nói tại sao anh lại phải bỏ đi lúc quân lính của anh vẫn còn chưa nao núng, "bọn nó làm gì thắng nổi khi cả Sư Đoàn Dù đầy đủ bung ra phản công, cho nó ăn một cái Mậu thân nữa thì mới hết chiến tranh, quân Dù đánh giặc một chấp bốn là thường, còn trận cuối này là xong." Anh hăng say như sắp xung trận, nhưng rồi anh quay lưng lại, run giọng bảo tôi hãy bế con theo xe của ông anh ra bến tàu. Đến nước đó tôi không còn gì sợ hãi, ôm con nhảy xuống, nhất định đòi ở lại. Vợ chồng sống chêt có nhau...
Ba lần toan vượt thoát từ đầu đến giữa tháng 5 đều thất bại não nề. Anh lên đường đi trại tập trung vào tháng 6, khi tôi đang mang bầu cháu thứ nhì… Bé Dung ưỡn người đòi theo bố. Anh quay lại, vẫy tay cười với mẹ con tôi. Vẫn nụ cười ấy, anh vẫn chẳng nệ âu lo sống chết là gì, nhưng còn mẹ con em, anh ơi??? …
Gia đình nhà chồng tôi thiệt có phước, hầu hết đã theo tàu HQ505 đi Phú Quốc rồi sang Mỹ, kể từ hôm tôi ôm con ở lại với chồng. Gia đình tôi từ Đà lạt chạy về Sài Gòn, sống chen chúc quây quần đùm bọc lẫn nhau. Hàng quán của gia đình chồng tôi bị tịch biên hết. Tôi nhất định giữ chặt ngôi nhà của cha mẹ chồng để lại, đuổi mấy cũng không đi.  Chị ruột tôi bỏ dấn vốn ra mua được ngôi nhà khác, vì ông chồng ôm vợ bé chạy mất, nhà cửa xe cộ bị tịch biên hết.  Tôi và các anh chị em tôi chạy vạy đủ điều để lo sinh kế, nuôi con thơ cha già mẹ yếu. Chồng tôi mịt mù tăm tích, chỉ có đôi ba lá thư viết về từ trại Long Giao. Lên Long Giao cũng không gặp. Anh bị đưa ra Bắc.
Năm đó tôi tròn 25 tuổi, dung nhan tuy tiều tụy nhưng vẫn khiến nhiều kẻ phải suýt soa dòm ngó. Biết bao người mai mối thì thầm bên tai tôi, thôi hãy lo cuộc đời mới, sĩ quan ngụy đi Bắc chẳng có ngày về... Bao nhiêu nỗi khổ đau dồn nén đôt nhiên bùng nổ. Tôi vùng lên như một con cọp cái: bác thử nghĩ coi cả bọn cả lũ tụi nó đó có đáng xách dép cho chồng tôi không!!! Rồi ba mẹ con tôi ôm nhau khóc vùi trong tủi hận.
Không, không, một ngàn vạn lần không. Quanh tôi chỉ còn toàn rác rưởi. Vâng, những người đàn ông ở miền Nam mà đang đi tù Cộng Sản mới là những người xứng đáng với đàn bà con gái miền Nam ở lứa tuổi tôi. Chị em chúng tôi gọi đó là "tấm bằng tù cải tạo" của các ông để chọn gửi cuộc đời, dù là trao gửi vào một nơi bất định…. Còn gì nữa mà chọn lựa! Thà vậy, đành thôi. Tôi đã là vợ anh, tôi vẫn tôn thờ anh trong tim óc, làm sao khỏi lợm giọng trước bọn người lường lọc, bướm ong, hèn hạ ... Chị em tôi buôn bán từ thuốc lá đến bánh cuốn, bánh ướt, bánh mì, thuốc tây, thuốc nam, kiêm luôn cắt chải gội uốn tóc, làm móng tay … nhưng luôn tránh chỗ công quyền và nơi phồn hoa nhan nhản những con mắt hau háu của bọn ăn cướp và bọn trở cờ.  Mấy anh chị em tôi đồng lòng, đùm bọc lẫn nhau, nên áo rách nhưng một tấm lòng son tôi vẫn vẹn với câu thề…
Vượt qua được thời gian khó khăn cực khổ nhất lúc ban đầu, sau ba mẹ con tôi được gia đình chồng từ Mỹ chu cấp, tuy không dư dả nhưng cũng đủ gửi quà ba tháng một lần, rồi lại dành dụm cho môt chuyến thăm nuôi….
Anh từ miền cực bắc bị đưa về Thanh Hóa chừng một năm, thì tôi xin được giấy phép đi thăm nuôi. Tôi và chị tôi chạy đôn chạy đáo mua đủ một trăm năm chục ký quà để tôi đem ra Bắc cho chồng. Bà cụ buôn bán quen ngoài chợ lại nhờ đem thêm năm chục ký thăm dùm con trai, vì con dâu cụ đã vượt biên. Cháu Dung đã lên 6, em Long nó 4 tuổi và chưa lần nào thấy được mặt cha. Tôi đem cả hai con đi cho anh gặp đứa con trai.
Xuống ga Thanh Hóa, cả đoàn quân khuân vác vây quanh gọi mời giục giã. Tôi và mấy chị cùng thăm chồng chia nhau giữ chặt hàng hóa không cho ai khiêng vác, rồi tự mình kéo lê kéo lết đi thuê nhà trọ. Có người đã đi về kể rằng cứ sơ ý là bị vác hàng chạy mất. Chúng tôi cũng phải chia nhau ở lại nhà trọ coi chừng hàng và đi chợ. Tôi nhờ một chị mua thêm được ký mỡ, về rang tóp mỡ ngoài sân nhà trọ. Nghe con khóc, tôi vội vã chạy vô nhà. Chưa kịp dỗ con thì nghe tiếng ồn ào. Quay ra, hai kẻ cắp đã bưng chảo tóp mỡ ù té chạy, chị bạn rượt theo không kịp. Tôi khóc thầm tiếc hoài, cứ nghĩ những tóp mỡ kia đáng lẽ đã giúp chồng mình đỡ bao đói khát.
Xe đò đi Thanh Cẩm chật ních những bà thăm chồng. Chúng tôi năm người lớn và hai cháu xuống ngã ba Nam Phát để vô Trại 5. Tôi lê từng bao hàng rồi lại quay lui kéo lê bao khác, chừng hơn nửa cây số mới đến trạm xét giấy tờ vào trại, hai cháu còn quá nhỏ chẳng muốn chúng đụng tay . Cô Út thiệt giỏi, xong phần mình lại xông xáo giúp hết người nọ tới người kia.


Xong giấy tờ, chờ một lát thì một người tù hình sự đánh xe trâu đến. Hàng hóa và hai con tôi được lên xe trâu, tôi và chị Phước, chị Điệp cùng hai mẹ con cô Út lẽo đẽo theo sau. Đường đi xuyên trại xuyên rừng dài tám cây số. Chúng tôi chưa biết lúc trở ra mới càng thê thảm.


Chân tay rã rời, tới chiều tối mới thấy cổng trại 5 Lam Sơn. Đêm xuống bé Dung còn phải phụ tôi gom lá mía cho tôi vội nấu hết gạo thành cơm, nắm lại từng vắt, vì nghe nói công an không cho tù chính trị đem gạo sống vô, sợ các anh âm mưu trốn trại. Đêm chờ sáng để thăm chồng, nhìn hai con thơ ngây ngủ say sưa vì mỏi mệt, tôi rời rã vô cùng nhưng không sao ngủ được. Hằng trăm hình ảnh chồng tôi nhảy múa trong đầu… Chồng của tôi, người lính dù hăng hái húyt sáo mỗi khi nhận lệnh hành quân ấy, nay đã ra sao???
Sáng, đến lượt ra nhà thăm nuôi ngong ngóng chờ chồng, tôi không được phép ra khỏi cửa căn buồng nhỏ xíu, kê một bàn gỗ dài và hai ghế băng dọc hai bên. Đột nhiên một ông lạ hoắc đứng lù lù ngay cửa. Tôi ngỡ ngàng chưa biết điều gì. Cô nữ công an nhìn chòng chọc, hằn học, đợi chờ như con gà chọi sắp tung đòn. Tôi không thể hiểu người con gái Bắc cỡ cùng tuổi tôi kia thù hằn tôi điều gì.


Tôi ngó lại, lát sau cô ta coi sổ xong, mới nói đây là anh Đức mà bà cụ nhờ tôi đi thăm dùm. Mất nửa tiếng giao quà và kể chuyện gia đình cho anh Đức nghe, tôi được biết chỉ còn một tiếng rưỡi gặp chồng. Thế là tôi bắt đầu ôm mặt khóc, càng lúc càng nức nở vì tủi cực, không thể nào cầm được. Trên thế giới này có ai phải lặn lội hằng ngàn cây số để chỉ được gặp chồng có một giờ ba mưới phút không hả Trời?!!
Hai cô công an lớn tiếng dọa dẫm, những là phải động viên học tập tốt, không lau sạch nước mắt thì không cho ra thăm… Nhưng kìa, ai như chồng tôi vừa bước ra khỏi cổng trại. Tôi không còn nhớ quy định luật lệ gì nữa, vùng đứng dậy chạy nhào ra như một tia chớp. Hai đứa nhỏ vừa khóc vừa chạy theo. Hai công an nữ bị bất ngờ không cản kịp, đứng nhìn.
Tôi chạy tới ôm anh, và càng khóc dữ, đôi chân khụyu xuống, không còn sức lực. Trời ơi, chồng tôi ốm yếu đến nỗi tôi ôm không trọn một vòng tay. Người anh nhỏ thó hẳn lại, chỉ có đôi mắt sáng với tia nhìn ngay thẳng là vẫn hệt như ngày nào, nhưng nay đượm nét u buồn khiên tôi đứt ruột.  Anh vẫn không nói được lời nào, chỉ bặm môi nhìn tôi nhìn con thăm thẳm. Tôi biết anh đang cố trấn tĩnh, vì không muốn rơi nước mắt trước mặt công an.  Anh dìu tôi và dắt con trở vào nhà thăm nuôi. Anh nắm chặt tay tôi, đưa vào chiếc ghế băng.


 Cô công an lạnh lùng chỉ anh bước sang chiếc ghế đối diện, rồi ngồi sừng sững ở đầu bàn, cứ chăm chăm nhìn vào sát tận mặt tôi. Anh khuyên tôi ở nhà ráng nuôi dạy con cho giỏi. Rồi thật nghiêm trang, anh bảo tôi phải đưa con  đi vùng kinh tế mới, về tỉnh Mỹ Tho chỗ bác Chánh với chú Cương và cô Huyền đã tự nguyện đi khai hoang rồi, đang chờ vợ chồng mình lên lao động sản xuất. Tôi hơi sững sờ, rồi chợt hiểu, đang khóc lại suýt bật cười hân hoan, khi thấy nét khôi hài tinh anh của chồng tôi vẫn còn nguyên vẹn. Bác Chánh là tên gọi của Thầy Mẹ chúng tôi, chú Cương và cô Huyền chính là chú Cường, chú em chồng đã đưa cả nhà xuống tàu HQ 505 đi lánh nạn. Cô công an có vẻ rất đắc ý, nhắc tôi:

-  Chị phải nói gì động viên anh ý đi chứ.
Anh nhìn mắt tôi, cười thành tiếng. Tôi chợt cười, nhưng lại chợt giận hờn.
Tôi cúi mặt giận dỗi:
-  Em không đi đâu hết, em chờ anh về đã rồi muốn đi đâu cũng được …
Tôi lại khóc, hai tay nắm
diane-n-family
'Bé Dung' với chồng và hai con, 08-2014
chặt tay anh, chỉ sợ phải xa rời. Cô công an cứ quay nhìn hết người nọ đến người kia, lên tiếng:
-  Chị này hay nhỉ! Phải đi kinh tế mới, lao đông tốt thì anh ấy mới chóng được khoan hồng chứ! Trại giáo dục anh ý tiến bộ thế đấy, còn chị thì cứ…. Chỉ được cái khóc là giỏi thôi!!
Anh không nhịn được, lại cười khanh khách và nói:
-  Đó em thấy chưa, cán bộ ở đây ai cũng tiến bộ như vậy hết, em phải nghe anh mới được… Em cứ thấy anh bây giờ thì biết chính sách Nhà nước ra sao, cũng đừng lo gì hết, ráng nuôi dạy con cho nên người đàng hoàng đừng học theo cái xấu, nghe…
Tôi dở khóc dở cười, chỉ nắm chặt tay anh mà tấm tức, dỗi hờn. Anh gọi hai con chạy sang ngồi hai bên lòng. Cô nữ công an do dự, rồi để yên, lại tiếp tục nhìn sững vào mặt tôi. Anh ôm hôn hai cháu, nói chuyện với hai cháu. Đôi mắt chúng tôi chẳng nỡ rời nhau. Mắt tôi nhòa lệ mà vẫn đọc được trong mắt anh những lời buồn thương da diết. Tội nghiệp hai con tôi đâu biết chỉ được gần cha trong giây lát nữa thôi.
Tôi như một cái máy, vừa khóc vừa lay lay bàn tay anh, nhắc đi nhắc lại, em sẽ đợi anh về, anh đừng lo nghĩ gì nghe, em sẽ đợi anh về, em nhất định đợi anh mà.. anh về rồi mình cùng đi kinh tế mới… anh ráng giữ gìn sức khỏe cho em và con nghe… Em thề em sẽ đợi anh về…. Em không sao đâu… Anh đừng lo nghĩ, cứ yên tâm giữ gìn sức khỏe nghe, em thề mà, anh nghe…
Tôi chợt thấy chồng tôi nhòa nuớc mắt. Cô công an lúng túng đứng dậy, bỏ ra ngoài nhưng lại trở vào ngay, gõ bàn ra hiệu cho người ở ngoài. Người nữ công an kia chẳng biết núp ở đâu, lập tức xuất hiện, báo hết giờ thăm… Vợ chồng tôi lại ôm chặt nhau ở đầu bàn bên kia ngay trước cửa phòng, bất chấp tiếng gõ bàn thúc giục.  Anh nắm chặt hai bàn tay tôi, chỉ nói được một câu:
-Anh sẽ về đưa em và con đi, không thể quá lâu đâu, đừng lo nghe, cám ơn em … đã quyết đợi anh về… Rồi anh nghẹn ngào…
Tôi bị ngăn lại ngay cửa nhà thăm nuôi, cháu Dung chạy ù theo cha, cu Bi nhút nhát đứng ôm chân mẹ cùng khóc . Tôi ôm cây cột gỗ nhìn dáng anh chậm chạp buớc tới hai cánh cổng gỗ to sầm, mà không thể nào ngưng tiếng khóc.
Anh ngoái đầu nhìn lại hoài, bước chân lảo đảo, chiếc xe cút kít một bánh mấy lần chao nghiêng vì hàng quá nặng…
Sáng hôm sau tôi như người mất hồn. Các chị bạn cũng chẳng hơn gì . Mấy chị em và bà bác dắt díu nhau ra, mới biết không được về lối cũ, mà phải đi vòng bên ngoài trại cả gần hai chục cây số nữa để trở lại chỗ ngã ba Nam Phát.
Đường xuyên rừng, rồi lại ra đồng trống, nắng hanh chang chang như muốn quật ngã ba mẹ con tôi. Cu Bi mệt lắm, có lúc ngồi bệt xuống, áo quần mồ hôi ướt nhẹp. Tôi phải đứng giữa nắng đem thân mình che nắng cho hai con, dỗ dành chúng, rồi lại bế cu Bi, lầm lũi bước thấp bước cao. Bà bác và hai chị cùng cô Út cứ phải đi chậm lại chờ mẹ con tôi. Bao nhiêu cơm gạo đã giao cho chồng hết, chúng tôi không còn gì ăn uống.


Dọc dường mua được mấy cây mía, tôi róc cho các con ăn cho đỡ đói. Hai đứa không khóc lóc một lời. Bé Dung thiệt ngoan, luôn miệng dỗ em cố gắng. Bụng đói, chân mỏi rã rời trong lúc chiều cứ xuống dần. Đám người lang thang trong những cánh rừng tre nứa âm u, trên miền đất không một chút tình thương. Ai cũng lo sợ, dớn dác nhìn trước ngó sau, tự nhiên túm tụm lại mà đi, càng mệt lại càng như muốn chạy. Tôi bế cu Bi, mỏi tay quá lại xoay ra cõng cháu, vừa mệt vừa đói vừa sợ, lếch thếch vừa đi vừa chạy, không biết sẽ ngã gục lúc nào. Cháu Bi nhìn thấy mẹ mệt quá, đòi tuột xuống, rồi lại hăng hái tiến bước. May sao, đến hơn 6 giờ chiều, trời gần tối hẳn, thì trở lại được ngã ba Nam Phát. Hai công an dắt xe ra đạp về nhà, dặn chúng tôi ở đó đón xe đò ra Thanh Hóa.
Đám người ngồi bệt xuống bên đường. Lâu lắm mới có một xe chất đầy người chạy qua, nhưng đều chạy thẳng, không ngừng. Đã hơn chín giờ đêm. Dáng cô Út cao mảnh rắn chắc đứng vẫy xe in lên nền trời đêm đầy sao như một pho tượng thần Vệ Nữ. Một xe lớn có hai bộ đội chở đầy tre nứa, từ xa chiếu đèn pha sáng lòa trên dáng người con gái đảm đang ấy, từ từ dừng lại. Chúng tôi xúm lại hứa trả thật nhiều tiền, rồi bà bác cùng hai con tôi được lên ngồi ca bin, còn tôi với hai chị và cô Út đẩy kéo nhau leo lên ngồi nghiêng ngả trên tre nứa, tay bám, chân đạp chặt vô thành xe, qua năm tiếng đồng hồ trên con đường đất dằn xóc kinh hồn, nhiều lần tưởng đã văng xuống đất. Hai bộ đội tử tế, không lấy tiền, chỉ ăn hai tô cháo lòng mà chúng tôi mời mãi. Ra đến Thanh hóa là hai giờ sáng. Các chị đi thăm chồng xuống tàu đêm thật đông, thăm hỏi tíu tít, trả lời không kịp. Khi ấy sao mà chị em chúng tôi thương nhau quá sức.
Vé về Nam không có, phải mua vé ra Hà Nội rồi mới đi ngược trở về. Đêm hôm sau mới đến ga Hàng Cỏ, mấy bà con ra đường đang ngơ ngác thì các chị đằng xa đã đôn đáo vẫy chào, kéo chúng tôi tới chỗ… lề đường, đầy những chiếu với tấm ni lông, nơi tạm trú mà các bà "vợ tù cải tạo" gọi là… Hotel California.
Vâng, chúng tôi nghiễm nhiên nhận chồng chúng tôi là "các ông cải tạo" như người miền Nam vẫn kêu với tấm tình trân quý, để phân biệt với những người tù hình sự. Cho nên danh từ thường đi theo với ý nghĩa nào mà người ta hiểu với nhau, không còn giữ được nguyên cái nghĩa mà nó được đặt cho vì mục đích chính trị sâu xa.
family-pic
'Cu Bi' và cha mẹ, ngày cưới vợ, 04-2009
Ngủ lề đường nhưng chẳng ai thấy khổ, vì gần nhau thấy ấm hẳn tình người đồng cảnh. Các chị em thì thầm trò chuyện suốt đêm, kẻ thì khóc rấm rứt, người lại cười khúc khích. Tôi vừa ôm con ngủ gật vừa quạt muỗi cho hai cháu, hình ảnh chồng tôi quay cuồng mãi trong đầu, khi anh nói, khi anh cười, lúc anh đầy nước mắt… Sau những nguồn cơn cực nhọc và xúc động mạnh này, về nhà tôi bị thương hàn nhập lý, rụng hết mái tóc dài, gần trọc cả đầu, tôi đã trối trăn cho bà chị nuôi dạy hai cháu, tưởng không còn được thấy mặt chồng tôi lần nữa…
…Chín năm sau, đúng ngày giỗ đầu Ba tôi, anh đột ngột bước vô nhà. Tôi suýt té xỉu vì vui mừng, cứ ôm chặt anh mà.. khóc ngất. Anh cười sang sảng:
-  Cái chị này chỉ được cái khóc là giỏi thôi, phải động viên cho chồng đi sang Mỹ đi chứ … Hà hà..
Các chị em tôi từ Đà Lạt tất bật xuống thăm. Vừa xong ngày đám giỗ thì cả nhà đã vui như hội. Tất nhiên tôi là người mừng vui nhất….
Hạnh phúc đã trở về trong vòng tay tôi. Tôi sẽ ôm thật chặt lấy nguồn hạnh phúc này, không bao giờ để cho đi đâu xa mất nữa…

Đi thăm Chồng


Trần Văn Giang (Danlambao) 

 - Lời mở đầu: Ngay sau ngày 30 tháng tư năm 1975, cộng sản đã bắt giam, đày đọa hàng trăm ngàn quân cán chính của VNCH trong hơn 100 trại tù mà cộng sản gọi là “trại cải tạo.” Nhiều gia đình miền Nam tự dưng mất chồng, mất cha, mất con, mất anh, mất em…  Sau đây là tâm sự của bà chị vợ tôi trong thời gian “được phép” của cộng sản cho đi thăm chồng ở “trại cải tạo” lần đầu tiên.

Ông anh cột chèo trong câu chuyên này là một cựu Đại úy Y sĩ của Sư đoàn TQLC (QLVNCH).
*
1. Bây giờ là 3 giờ sáng. Tôi vẫn trằn trọc thao thức không thể nào chợp mắt được. Chỉ còn 6 ngày nữa là tôi được đi thăm chồng. Niềm vui sẽ được gặp lại chồng sau một thời gian dài xa cách; nỗi lo sợ; sự buồn tủi khi nghĩ tới lúc phải từ giã anh sau khi gặp mặt; những điều sẽ phải nói; sự nhớ nhung day dứt... tất cả những ưu tư đó liên tục chập chờn trong đầu óc tôi. Rồi dĩ vãng, rồi hiện tại tưởng chừng như một giấc mơ nhanh chóng đi qua và không có thực. 
2. Hôm đó (!) nhân viên an ninh khu vực đến chỗ chúng tôi tạm trú (sau khi nhà chúng tôi đã bị bỏ bom xập mất), trói tay chồng tôi, bắt anh đi mà không cần cho biết lý do. Tôi đứng lặng người, như một cái xác không hồn. Một tay dắt thằng con trai lớn hai tuổi, một tay bồng thằng con nhỏ mới sanh được một tuần. Chồng tôi nhìn tôi với đôi mắt tuyệt vọng, lo lắng và khuôn mặt xanh xám sợ hãi. Sau khi họ dẫn chồng tôi đi rồi, tôi buông cái thân gầy gò của tôi xuống sàn nhà và gục mặt khóc. Tôi khóc như chưa bao giờ được khóc. Tôi cảm thấy kinh hoàng và lo âu cho những ngày sắp tới: 28 tuổi đầu với hai đứa con nhỏ dại, không cha mẹ, không anh em, không bà con thân thuộc bên cạnh. Tất cả mọi người thân thuộc đã đi xa, thật xa. Lần đầu tiên tôi thấy thật bơ vơ ở cái tỉnh lỵ đất đỏ Ban Mê Thuột đèo heo này.
3. Người ta bảo là: "Con người là một cây sậy biết suy nghĩ." Tôi vào lúc này còn yếu hơn một cây sậy, còn quá trẻ, có chút nhan sắc và biết suy nghĩ. Cũng vì có chút nhan sắc cho nên “an ninh khu vực” đã không để cho tôi yên thân. Họ thường lân la tìm mọi cách đến “thăm” tôi. Họ khuyên tôi nên từ bỏ dĩ vãng và dứt khoát với ông chồng "có quá nhiều tội ác với nhân dân." Họ cũng cho tôi biết là chồng tôi sẽ “đi cải tạo" không có ngày về vì chồng tôi là một Bác Sĩ Quân Y, cái nghề chuyên chữa bệnh cho "ngụy quân để chúng cầm súng giết hại đồng bào," là có cha vợ làm “trùm ngụy quân," là có cha mẹ anh em trốn ra nước ngoài.
4. Như vậy là chồng tôi đi không biết đến ngày nào mới về? Sự chờ đợi mỏi mòn, sự nhớ nhung dằn vặt, nỗi tuyệt vọng và sự sợ hãi mỗi ngày một nhiều hơn. Thêm vào đó, những người “an ninh khu vực” cứ lai vãng, tìm gặp tôi, mỗi ngày một tỏ ra ân cần, săn đón và hứa hẹn nhiều hơn. Nhưng tôi đã quyết định từ bỏ nơi này để ra đi. Vào một đêm thanh vắng, tôi đã dắt díu hai đứa con dại lẩn trốn ra bến xe đò và đi về Sài Gòn.
5. Tôi miên man nghĩ đến cuộc hành trình đi thăm chồng sắp tới. Lòng tôi tràn đầy sự rộn rã vui mừng. Tôi muốn đem hai đứa con tôi cùng đi để chúng được biết mặt bố; và đồng thời tôi cũng muốn dạy chúng, ngay từ khi thơ ấu, thế nào là tình gia đình và thế nào là sự chia sẻ những cái bất hạnh của gia đình! 
Xe đò từ Sài Gòn đi Ban Mê Thuột phải chạy hết hai ngày và một đêm ngủ trọ dọc đường. Đến bến xe đò Ban Mê Thuột, tôi một tay bồng con, một tay sách giỏ đồ ăn nặng trĩu gói ghém cho chồng và thằng con nhỏ chập chững, lếc thếch chạy theo mẹ ở đàng sau. Chúng tôi, 3 mẹ con, đi bộ đến bến xe thồ và đi vào thị xã Quảng Nhiêu. Từ Quảng Nhiêu đến trại “tù” của chồng tôi là năm kí lô mét (5 Km) đường bộ. Không có xe cộ nào có thể đi vào đó, chỉ có một cách là đi bộ. Thành ra tôi phải bồng cháu nhỏ, tôi nhờ một người Thượng gùi thức ăn và ẵm cháu lớn. Đoạn đường 5 km này đi hoài mãi mà không tới trại. Chúng tôi phải đi thật chậm và rất mệt mỏi vì đường đất sét đỏ ướt. Tôi mệt lả và bụng đói cồn cào nhưng không dám ăn gì vì sợ mất phần ăn của chồng. 
6. Đến trại, ở một cái chòi rất phong phanh gọi là "phòng đợi," tôi và mấy bà vợ khác đi thăm chồng "tù cải tạo" cùng ngồi lặng thinh. Người nào cũng mang một bộ mặt đăm chiêu, thiểu não như nhau. Không ai hỏi thăm ai lời nào có lẽ vì đầu óc đều đang ngổn ngang. Mọi người dường như chỉ muốn để dành hết tất cả những gì mình đang có dù là nhỏ bé tầm thường nhất, từng lời nói và từng giây phút còn lại cho sự gặp gỡ sắp tới! Ngay cả chớp mắt, tôi cũng không dám làm! Tất cả các cặp mắt đỏ hoe, ưu tư, mệt mỏi đều cố gắng mở rộng, hướng chăm chăm vào một chỗ: cái cổng trại. Nơi cổng cái trại xa xa đó, trong chốc lát chồng tôi cùng đám người "tù cải tạo" sẽ được đi ra để gặp vợ con và thân nhân lần đầu tiên. 
Cuối cùng, họ được phép đi ra. Tôi không thể nhận ra được ai là chồng tôi vì “tù nhân” được xếp thành hai hàng. Tất cả đều mặc quần áo một mầu đen, vừa đi vừa cúi mắt nhìn xuống đất. Lòng tôi đau đớn, quặn thắt lại. Nỗi chua xót dâng lên trong người tôi mà không có ngôn ngữ nào có thể diễn tả được. Nước mắt cứ thế mà tuôn trào, tuôn trào... 
Rồi chúng tôi được sắp xếp ngồi đối diện nhau, dưới sự quan sát của những người “an ninh” trại. Chúng tôi nhìn nhau mà chỉ nghẹn ngào, không nói được đến một lời nào cả. Thằng con nhỏ 10 tháng chập chững đứng và gọi bập bẹ "Ba...Ba..." Những thức ăn mà tôi đã cẩn thận gói gém xếp đặt cho chồng thì bây giờ đang bị những người “an ninh” của trại cắt, rạch, mở toang ra, bới tung ra để khám xét. Tôi thấy chồng tôi gầy gò, khuôn mặt khắc khổ, đôi mắt suy tư. Tôi nhìn chồng, rồi nhìn con. Tôi thấy thương chồng, thương con và cũng thương cho cái số phận hẩm hiu của tôi. Tôi chỉ biết khóc. 
Rồi giờ thăm ngắn ngủi đã hết. Chồng tôi được lệnh đứng dậy, tay xách giỏ thức ăn. Mãi đến lúc ấy, chúng tôi vẫn không thể nói nổi một lời từ giã với nhau. Anh hôn hai đứa con, đưa mắt nhìn tôi một cách buồn thảm rồi lầm lũi đi vào trại. Tôi cố nán ở lại, nhìn theo cho đến khi anh đi khuất sau cái cổng trại. Lòng tôi xe thắt và đành dắt díu hai đứa con thơ ra về ...
7. “Chỉ còn 6 ngày nữa tôi lại được đi thăm chồng!” Tôi tự nhủ lòng. Trong nỗi vô vọng cùng cực, tôi vẫn tìm thấy một chút an ủi vào những lúc chờ đợi được đi thăm chồng như thế này. Vì ít ra, tôi vẫn còn có niềm hy vọng sắp gặp lại chồng, được nhìn lại anh dù chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi, để thấy anh vẫn còn sống, để thấy là chúng tôi vẫn còn có nhau. 
Rồi đến khi ngồi trên xe trở lại Sài Gòn, tôi sẽ lại nghĩ ngợi miên man đến thân phận của người “tù cải tạo”: Sống ra sao? Sống như thế nào? Cơ cực? Nhục nhằn? Thiếu thốn? Nhớ vợ con? Nhớ thân nhân? Mất tự do? v...v...
8. Tôi đọc kinh và cầu xin Thiên Chúa ban cho chồng tôi sức mạnh thể xác để vượt qua và sức mạnh tinh thần để chấp nhận cái hoàn cảnh mà chồng tôi không thể thay đổi được. 
Tôi lại thấy nhớ anh day dứt, và mơ ước được trở lại để thăm chồng thêm vài phút nữa. Nước mắt tôi trào ra; dòng nước mắt buồn tủi!!!
(Viết theo ý của chị vợ Võ Thị Như Hường)
danlambaovn.blogspot.com

Sau 30/4/1975, tôi đi thăm nuôi chồng!


Sau khi chồng tôi bị áp giải vào Công an huyện một thời gian, tôi cố nghe ngóng xem người ta đã đưa anh đi đâu nữa rồi, nhưng hoàn toàn mất tin tức. Về sau, tôi mới nghe biết anh đã bị tống vào trại tạm giam tỉnh. Hàng ngàn quân-cán-chính VNCH cũng vừa bị đẩy vào đây sau ngày 30/4/1975, ngày Tướng Dương Văn Minh ra lệnh buông súng đầu hàng.

Cơm vắt trại tạm giam

Bằng những bản chính sách năm điểm, bảy điểm, chín điểm, mười điểm..., người ta cam kết hứa hẹn thời gian học tập cải tạo “ba tháng”. Nhưng rồi ba tháng trôi qua, “ngụy quân" được thả chỉ vài anh lính tò te mới cầm súng; còn "ngụy quyền" thì cũng chỉ vài ba anh chị đánh máy hay chạy công văn với một số ít người lính hay nhân viên cấp thấp đã giải ngũ hay nghỉ việc từ cả chục năm về trước. Người được thả phải biết ơn đảng “chiếu cố khoan hồng”. Về địa phương không được nói ra hay kể lại bất cứ những gì mắt thấy tai nghe trong nhà tù. 

Dầu vậy, nhiều chuyện lỡ khóc lỡ cười trong các trại giam lúc bấy giờ vẫn được truyền miệng rộng khắp. Theo thông cáo, người đi “học tập cải tạo” phải mang nộp cho trại tiền và gạo ăn cho 3 tháng. Bọn cai tù ở tỉnh tôi thu gạo, thu tiền, nhưng không cho mở bếp nấu ăn trong nhà tù. Không biết bằng hợp đồng hay bằng lệnh bắt buộc, dân các thôn ấp xung quanh trại luân phiên nhau nấu cơm và đưa cơm vắt vào tù cho tù nhân. 

Mỗi ngày, tới giờ ăn, xe lam ba bánh chở cơm vào trại giam. Cai tù tập họp tù nhân ngồi bệt giữa sân để nghe chúng mắng nhiếc chửi bới nham nhở trước khi phát cho mỗi người tù một vắt cơm nho nhỏ kèm theo một gói muối hầm! 

Suốt mấy tháng bặt tin chồng con, các bà mẹ và bà vợ vô cùng sốt ruột, chạy ngược chạy xuôi vô vọng. Nhưng rồi đâu đâu cánh đàn bà cũng liều làm dữ, đòi phải được đi thăm chồng con. Sau đó, có tin truyền miệng: Chính quyền địa phương bắt đầu cấp giấy phép cho thân nhân đi “thăm nuôi tù cải tạo”. 

Khẩu chiến với cáo chồn

Một ngày vào cuối tháng Tám 1975, sau khi nắm được giấy phép thăm nuôi chồng, tôi thuê xe thồ Honda hai bánh chở tôi đi thẳng tới cổng trại tạm giam tỉnh, dĩ nhiên có mang theo ít thức ăn phù hợp với hai từ THĂM và NUÔI. 

Mới tờ mờ sáng đã đông nghẹt các bà các chị gồng gánh tụ tập trước cổng nhà giam, chờ thăm con, thăm chồng. Cai tù thu hết giấy phép thăm nuôi, lùa tất cả chúng tôi dồn vào một khu đất trống bên ngoài cổng nhà tù, bảo ai nấy ngồi im chờ gọi tên. Bọn cảnh vệ kết thành vòng đai vây bọc chúng tôi, trong khi một vài tên khác len vào giữa chúng tôi, dò xét từng người! 

Các bà, các cô lúc ở địa phương không dám hé răng vì sợ lỡ lời dễ bị khép tội phản động, và như vậy chồng con mình khó thoát vòng lao lý. CS lúc bấy giờ cài đầy ăng-ten mật thám khắp Miền Nam Việt Nam khiến người dân không còn ai tin ai để mà trao đổi điều gì riêng tư hay gửi gắm niềm tâm sự. Vợ chồng nghi kỵ nhau, cha mẹ sợ cả con cái mình, anh em, họ hàng, bạn hữu mất hết tình nghĩa với nhau dưới bầu trời u ám của quyền lực Satan! Chưa có chế độ nào làm cho người dân sợ nhau đến mất tin nhau như vậy.

Chị em chúng tôi, những người mẹ, người vợ tù đều mang nặng nỗi ức chế vì không thổ lộ được những gì mình muốn tỏ bày. Bây giờ gặp gỡ nhau, cùng một cảnh ngộ, cùng một nỗi đau, các bà các chị hết e dè, tha hồ trút cạn cho nhau những ấm ức dồn nén bấy lâu nay. Một chị liều lĩnh châm ngòi pháo đầu tiên ném thẳng vào mặt bọn cán bộ trại giam: “Các người bảo là học tập ba tháng! Đã hơn ba tháng rồi các người vẫn còn nhốt con người ta trong nhà tù mà bảo là học tập à?” 

Một chị khác la lên: “Đồ cái thứ chính phủ - chú phỉnh!” 

Các bà, các chị nhao nhao! Bọn cảnh vệ chĩa nòng súng vào đám phụ nữ. Chúng la hét, buộc chúng tôi ngồi im, câm mồm! Cai tù dọa đóng cổng nhà tù, đuổi các bà về, “không cho thăm nuôi thăm dưỡng” gì hết. Một tên cai tù tuổi trung niên chắp tay sau đít đi qua đi lại oai phong lắm. Hắn luôn mồm nhai đi nhai lại như nhai giẻ rách cái bài học thuộc lòng “tội ác của bọn Mỹ ngụy và chính sách khoan hồng của cách mạng”. Cũng một luận điệu, một lối nói gắt gỏng mất dạy như bọn cán bộ “giảng bài” ở xã phường mà chúng tôi từng nghe hằng đêm từ sau 30/4/1975. 

Bọn công an có súng, có đạn và hùng hổ như cọp đói chực vồ nuốt mồi. Chúng tôi đành “chịu thua” chỉ vì đang sốt ruột nóng lòng sớm nhìn tận mặt chồng con.

Cái bàn rộng đặt giữa sân nhà giam dùng làm “ranh giới” ngăn cách người thăm với người được thăm khi gặp nhau. Nhất nhật bất kiến như tam thu hề. Thế mà hai bên mặt giáp mặt xa xa nhìn nhau chưa nói trọn câu đã bị phân cách! Đúng năm phút, anh thì bị lôi về phòng giam, chị thì bị đuổi ra khỏi cổng nhà tù!

Những món “thăm nuôi” nào bị cai tù cho là “đồ ăn nuôi béo kiểu tư sản” đều bị hắt đổ dưới nền đất tại chỗ. Họa hoằn lắm mới có một hai cảnh vệ còn chút tình người, đã đưa trả cho người đi thăm nuôi mang về. Một chai nước mắm pha chanh ớt cũng bị kết là “đồ ăn tư sản.” Những lọ thuốc ho, thuốc cảm thì bị tịch thu, bảo đó là thuốc độc “âm mưu đưa vào dầu độc cán bộ hoặc cho tù nhân uống chết để đổ tội cho cách mạng.” Các loại thức ăn “khả nghi” cũng như các loại bánh trái đều bị cai tù cắt làm ba làm bốn, hoặc dùng que cây hay cọng thép thọc vào quậy nát! 

Bọn cai tù chửi bới xỏ xiên: 

- Cách mạng đâu để chồng con các người đói như bọn Mỹ-ngụy ác ôn đã từng bỏ đói cán bộ “Cách mạng”.

Chị em chúng tôi vô cùng hậm hực và chua xót trước những lời mắng mỏ cọc cằn xấc xược thô lỗ của bọn cai tù CS dốt nát mất dạy. Nhưng là kẻ thất thế, chúng tôi biết làm gì hơn!

Sau lần thăm nuôi này, hầu hết các cựu viên chức và sĩ quan bị chuyển trại, đưa sâu vào rừng, xa hẳn khu dân cư. “Trại cải tạo lao động” được dựng lên ở đó. “Trại cải tạo”? Cải tạo ai? Cái tạo cái gì? Không! Đó là “trại tù khổ sai”, trừng trị những người thất thế... Không cần tắm máu. Chỉ cần hành hạ! Vắt cho cạn kiệt sức lực! 

Rừng sâu núi thẳm

Trại “cải tạo lao động” nằm sâu trong khu rừng già thượng nguồn một con sông của tỉnh. Người tù tự đốn cây, phát quang, dựng lều trại để ăn ngủ và lao động. Đây là chỗ núi non hiểm trở, tù nhân không dễ gì tìm ra ngõ ngách mà trốn trại. Hơn nữa, người tù bị chuyển trại bí mật giữa đêm khuya trên những chuyến quân xa molotova phủ vải bạc kín mít. Lộ trình di chuyển ngoằn ngoèo, lúc lên đèo, khi xuống dốc, có lúc lại băng qua các khe suối, người tù không đoán được xe chở mình đi về đâu. Đường đi lẽ ra chỉ mất độ 2 tiếng đồng hồ, nhưng xe chuyển tù chạy lòng vòng cả đêm, mãi gần sáng mới tới nơi. 

Suốt hai tháng đầu, vợ con các “tù cải tạo” không biết chồng cha mình bị giam giữ ở đâu. Các bà mẹ và các bà vợ thương con, thương chồng nhất quyết liều chết lặn lội dò tìm cho ra ngõ ngách dù phía CS cố tình giấu kỹ. Các bà các chị không thua, cuối cùng đã tìm ra trại mới của người thân. 

Không bỏ đói?

Trong “trại cải tạo”, người tù ban ngày lao động nhọc nhằn, ban đêm mặc muỗi rừng đốt, phải ngồi hàng giờ nghe bọn cai tù giảng bài chính trị “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Bò cạp, rắn rết và thú dữ đêm nào cũng rình rập. 

Cai tù dựng lên “tổ anh nuôi” từ trong đám tù nhân lo việc nấu ăn cho anh em mình. Họ chỉ lo chuyện bếp núc. Sổ sách chi thu và việc cân đo đong đếm, giá cả thì đều do cai tù quyết định. Gian lận từ A đến Z, cân non cân già, tráo đổi chất lượng hàng, tráo đổi giá cả. Rốt cục, tiêu chuẩn ăn uống của người tù đã thấp, càng bị hạ thấp. Cụ thể, tiêu chuẩn khẩu phần ăn quy định là 15kg mỗi tháng (1) cho mỗi tù nhân gồm phân nửa là gạo và phân nửa là độn khoai hay bo bo. Cái tiêu chuẩn này (không biết do lệnh trên hay do cấp dưới tự tung) “cải biên” thành 1 phần gạo + 9 phần khoai hay bo bo. Gạo là gạo mốc. Khoai là củ mì (sắn) hay khoai lang hư thối phơi khô nấu cho heo (lợn) mua giá cực rẻ ngoài chợ trời. Bo bo từ Liên Xô thì còn nguyên vỏ, ăn vào thế nào, thải ra thế ấy.

Tất cả mọi loại rau trái và cả lúa gạo trong trại đều do người tù làm ra. Những gia súc: bò, gà, heo, vịt cũng đều từ bàn tay người tù vỗ béo. Nhưng còn lâu người tù mới được hưởng những “thành quả lao động do tay mình làm ra”. Cái khẩu hiệu phù phiếm và lừa lọc “lao động là vinh quang” phải chăng đã là phần thưởng? 

Y sĩ rừng rú và chiếc hái tử thần

Có tin dịch sốt rét ác tính hoành hành dữ dội ở trại tù. Nhiều tù nhân ngã chết không kịp trối và đều được tặng một chiếc áo quan gỗ xẻ thô sơ đóng ráp vội vàng, giao cho tù hình sự khiêng đi chôn lấp sơ sài giữa rừng già, không để lại dấu vết gì, đánh lạc hướng người nhà nạn nhân tìm cách cướp xác! 

Cả trại tù chỉ có mỗi một phương tiện chuyên chở duy nhất là chiếc máy cày cũ kỹ đoạt của nông dân. Chiếc máy cày này bọn cai tù triệt để khai thác, sử dụng tối đa vào mọi công việc y như họ khai thác sức lao động của tù nhân. Phụ tùng máy móc hư hỏng hay thậm chí chưa hư hỏng vẫn bị bọn chủ mới tháo gỡ đem đi bán phế liệu kiếm tiền bỏ túi, rồi đi mua phụ tùng cũ hoặc thứ phụ tùng dởm do Trung Cộng chế tạo thay thế. Chiếc máy cày vốn đã ỳ ạch, càng trở chứng “nằm vạ” liên tục. Hỏng thì sửa. Sửa xong lại hỏng. Càng có lý do để sửa đi sửa lại mãi… rút được nhiều tiền bỏ túi! 

Bệnh viện của tỉnh ở cách xa trại giam hàng chục kilômét. Trong khi đó, rất hiếm khi chiếc máy cày rỗi việc hay có thể nổ máy để chở bệnh nhân đi cấp cứu. Bệnh nhân nào được máy cày chở đi cấp cứu là tốt số! Nhưng cũng khó mà hy vọng sống sót sau khi được “nhập viện”. Bởi lẽ những “y bác sĩ cách mạng” tay nghề rừng rú, vừa dốt về y khoa vừa tắc trách về nhiệm vụ, thậm chí luôn luôn vòi vĩnh cho được tiền đút lót mới chữa trị. Trong khi các y bác sĩ có lương tâm và lành nghề của VNCH, kẻ thì bị đuổi việc, người thì đã trốn ra ngoại quốc, một số người khác bị tống vào trại giam. Những vị bác sĩ được “lưu nhiệm” thì lại chỉ được giao các phần vụ không thuộc chuyên môn của mình.

Xã hội không còn nữa bóng dáng “lương y như từ mẫu” mà dẫy đầy những tên lưu manh sát nhân đội lốt thầy thuốc! “Gian y hơn ác mẫu!”

Dụng cụ y khoa và âu dược trước 30/4/1975 được trang bị đầy đủ cho các bệnh viện ở Miền Nam VN nay trở thành chiến lợi phẩm của tân chế độ, hầu hết bị tuồn về miền Bắc xhcn. Số còn lại thì hoặc bị phá hỏng hoặc bị sử dụng bừa bãi khiến chúng nhanh chóng trở thành hàng phế liệu, giấy vụn, nhựa vụn, thủy tinh vụn và sắt vụn. 

Thuốc tây trong bệnh viện, người ta đua nhau vơ vét mang đi bán chợ trời với giá cắt cổ. Nhiều khi lại vớ phải thuốc quá hạn, thuốc giả, tiền mất tật mang!

Bệnh ruột thừa, trước 30/4/1975, giải phẫu dễ dàng như mổ thiến gà, nhanh chóng và an toàn, bây giờ cứ 100 bệnh nhân mổ ruột thừa thì đã trên dưới 8-9 chục người lăn ra chết bất đắc kỳ tử do “thầy thuốc rừng” mổ xẻ vô trách nhiệm, mất nhân tính và mất cả vệ sinh cũng như mù tịt về phương pháp phẫu thuật. 

Bệnh sốt rét trước năm 1975 là thứ bệnh cũng hết sức dễ chữa, nhưng nay bệnh nhân sốt rét đưa vào bệnh viện là hết số! Gian y phủi tay, đổ lỗi cho sốt rét “ác tính”. Ở trại tù khổ sai, không ít nạn nhân mất mạng vì “sốt rét ác tính”! Bác sĩ tù nhân chỉ làm nhiệm vụ trưởng bệnh xá trại tù. Bệnh xá thì làm gì có âu dược, làm gì có dụng cụ y khoa! Thuốc toàn “chế” từ cỏ lá rừng làm thành những viên “thuốc tể” chẳng biết công hiệu hay tác hại ra sao, khi được cấp, bệnh nhân phải uống tại chỗ, cai tù giám sát! Do đó, mỗi lần nhắc tới trại lao động cải tạo là mỗi lần tôi rởn gai ốc, sợ chồng mình nhỡ có đau bệnh gì như đau ruột thừa hay sốt rét rừng e cũng sẽ ra đi không lời giã biệt. Bệnh ghẻ lở trong trại cũng là thứ bệnh lây lang bất trị. 

“Đến buồn đi ỉa…”

Ở trại tù, người ta gia tăng hành hạ người tù mỗi ngày một tàn nhẫn hơn. Người tù vẫn bị xếp ngang hàng với trâu bò, bị sử dụng thay cho trâu bò để kéo cày, kéo bừa, kéo xe, vỡ hoang, khai hóa, kê vai “chuyên chở” những vật nặng thay cho xe bò, xe trâu; song quyền ăn uống, nghỉ ngơi thì hoàn toàn bị cướp đoạt. Cuộc sống của tù nhân tồi tệ gấp bội so với con trâu con bò. Nhọc nhằn khuân vác đất đá gỗ súc vừa xong thì bị lôi đi phá rừng, xẻ núi, đào kênh, lấp hố, vỡ ruộng, chặt tre… Tù nhân đổ ra không biết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt và cả máu, nhưng mức đền bù vẫn cứ là 15 kg củ mì, củ lang mỗi tháng (mỗi ngày ½ kg cho 3 bữa ăn), có khi đột nhiên hạ xuống dưới mức 13kg một tháng. Nếu ai nhỡ bị bệnh hay bị “kỷ luật” thì… tiêu chuẩn chỉ còn 9 cân/tháng… nghĩa là húp cháo lỏng!

Cộng sản chiếu phim cho tù nhân xem cảnh người nông dân Việt Nam thời thực dân Pháp thay trâu bò kéo cày bừa. Nhưng dưới thời Tây đô hộ, cứ đến mùa thu hoạch, người dân còn có lúa, có gạo mang về nuôi cả nhà cho đến kỳ giáp hạt. Còn bây giờ, thời đại xã hội chủ nghĩa theo chế độ Cộng sản, người tù cải tạo lẫn người nông dân ngoài đời đều trở lại kiếp sống trâu bò. Mọi thứ người tù hay người dân làm ra đều bị coi là “tài sản xã hội chủ nghĩa” để đảng và nhà nước cộng sản CSVN cướp sạch. 

Nhắc tới cuộc sống của các tù nhân trong nhà tù cộng sản, tôi nhớ HCM lúc ở trong nhà tù thực dân Anh bên Tàu có bài thơ độc đáo: “Đến buồn đi ỉa cũng không cho”(2). Bài thơ này chỉ phản ảnh một phần nhỏ thân phận các tù nhân cải tạo trong đó có chồng tôi. Rõ ràng các tù nhân trong nhà tù Cộng sản không phải chỉ “đến buồn đi ỉa cũng không cho” mà còn phải ỉa đái lồ lộ giữa thanh thiên bạch nhật trước mặt đồng đội mình. Muốn hay không muốn, những đồng đội ấy cũng phải hít thở trọn vẹn cái mùi xú khí xông thẳng vào mũi họ đang lúc họ lao động! Lần lượt kẻ trước người sau đều vậy cả! 

Bên trong trại, tù nhân phải giải quyết chuyện ỉa đái của mình trên một dãy “sàn cầu” dài để dễ bề canh chừng nhau, kiểm soát lẫn nhau! Chất thải từ bụng người trút vãi ra dưới đất được dùng làm phân gọi là “phân bắc” tức phân cứt người, khác với phân chuồng (cứt gia súc) và phân xanh (lá ủ). Chất thải của người bệnh kiết lỵ, bệnh ỉa tháo, bệnh sán lãi, bệnh tiểu đường… thảy thảy là phân bắc. Một vài tù nhân bị phân công phụ trách đi gom thu các thứ phân bắc này. Phân bắc pha với nước tiểu khuấy nhuyễn tưới lên những đám rau xanh trong vài ngày lá rau phát lớn, một phần nhỏ loại còi cọt bán cho bếp trại tù, phần tốt mang bán chợ trời, giám thị trại thu tiền bỏ túi, gọi là “cải thiện”! Ban đêm, nhà trại khóa cửa. Tù nhân cũng giải quyết “việc riêng của mình” như vậy, và dĩ nhiên trại có thêm lượng “phân bắc” cho canh tác.

Cơm chan nước mưa hòa cùng mồ hôi và nước mắt

Một cảnh tượng khác của lao động khổ sai xã hội chủ nghĩa: Vào giờ ăn trưa, khi tiếng còi báo ngưng lao động, tù nhân tập hợp từng tổ để mỗi người nhận phần ăn trưa, ăn ngay tại chỗ, bất luận trời nắng hay mưa. Dưới nắng hè nóng như thiêu hay trong cơn mưa tầm tã, mặc cho mồ hôi và nước mắt hòa cùng cơm canh với nước mưa, tù nhân phải nhai, phải nuốt, phải thanh toán phần ăn của mình để còn sức lực mà lao động tiếp cho tới chiều mới về trại. Khoai lang, khoai mì hòa cùng nước mắt, mồ hôi và nước mưa… mặn mặn chát chát cũng rán mà nuốt! 

Nhiều tù nhân ngả bệnh và chết vì cảm lạnh sau mỗi ngày bị hành hạ dày vò như vậy! 

- Lao động là vinh quang! Làm nhiều hưởng nhiều. Các anh làm ra, các anh hưởng.

Đó là khẩu hiệu mà bọn cai tù đắc chí nhai đi nhai lại. Nhưng người tù chẳng thấy cái vinh quang nó nằm ở xó xỉnh nào mà chỉ thấy những gạo thơm, gỗ quý, dầu bạc hà, bông vải, trái ngon, thịt gà, thịt heo béo tốt do công lao mồ hôi nước mắt mình làm ra đều biến hết vào mồm, vào túi cán bộ từ cấp thấp tới cấp cao!

Bóp chết tình người

Ngoài ra, việc bỏ đói tù nhân còn có mục đích khác thâm hiểm hơn: “dập tắt tâm thức nổi loạn” nơi người tù hầu “tiểu trừ mầm mống mưu toan phản động!”

Người tù ăn khổ, ăn đói, suốt ngày quần quật cày sâu cuốc bẫm dưới nắng mưa, gió bão, đến tối lại bị bắt buộc ngồi khoanh chân bó gối hàng giờ để làm cái công việc gọi là “kiểm điểm, phê bình và tự phê” hạch tội nhau: một âm mưu gieo rắc ngờ vực, đố kỵ, chia rẽ dẫn tới hiềm khích hận thù giữa các tù nhân với nhau! Cho nên, mọi nhà tù CSVN dựng lên để “cải tạo” những người quân-dân-cán-chính VNCH thua trận đều là những trại khổ sai trừng giới độc ác nhất, giết dần giết mòn cả thể xác lẫn tinh thần người tù, làm mất đi tình người cũng như tình đồng đội cũ giữa những con người bất hạnh này. 

Xa cha, xa mẹ, xa vợ, xa con, xa người thân quyến, xa cả xã hội xóm làng, người tù chỉ còn lại chút tình huynh đệ chi binh với nhau, thì cái tình này lại là mối nguy đe dọa nghiêm trọng nhất cho chế độ CSVN, nên bọn cán bộ nhà tù CS quyết bóp chết nó bằng biện pháp cấm “tụ tập” quây quần bên nhau để “to nhỏ âm mưu phản loạn”. Thô bạo và tinh vi nhất là thủ đoạn gieo ngờ vực giữa tù nhân với nhau, gây đố kỵ, chia rẽ và căm thù giữa họ với nhau, một mối thù dai dẳng ăn sâu vào tim óc, huyết quản từng người, không sao giải tỏa được.

Nhọc nhằn đường thăm nuôi! 

Sợ chồng con mình kiệt lực trong nhà tù vì thiếu ăn, các bà mẹ và vợ của các tù nhân ở nhà dù cơ cực đến mấy cũng tiết kiệm từng đồng tiền, từng hạt gạo, đếm từng ngày mong kỳ thăm nuôi mau tới, tiếp tế lương thực cho chồng con và nhìn tận mặt người thân. 

Phần tôi và các con tôi, ngay sau đợt thăm nuôi trước đã lo tới chuyến thăm nuôi sau. Mẹ con cùng ráng nhịn bớt phần ăn mỗi bữa của mình, dành dụm tiền để mua sắm đồ thăm nuôi tiếp tế cho chồng-cha. Ngày này sang ngày khác, tháng này sang tháng nọ, mẹ con tôi cứ liên tục cơm độn, rau luộc chấm mắm, chẳng dám đụng tới miếng thịt hay lát cá. 

Thấm thía lắm câu nói: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Tôi chỉ tâm niệm một điều là đừng vì ngại núi e sông mà bỏ bê chồng, sợ khi chồng mình đã đi vào cõi âm ti mới hối tiếc thì sự đã muộn. Không phải chỉ vài ngày, vài tháng, nhưng là năm này sang năm khác, “mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”, miễn sao trong chốn lao tù chồng mình không phải đói khổ nhọc nhằn, cạn mòn sức lực, trở nên thân tàn ma dại hay chết bụi chết rừng. 

Phương tiện giúp đưa chúng tôi đi gặp chồng sau mỗi hai tháng thường thường là chiếc xe chở gỗ súc cũ kỹ cà rịch cà tang. Nó đã lỗi thời và lẽ ra đã vất vào đống sắt phế liệu nếu không có ngày 30/4/1975. Máy nổ của chiếc xe cổ lỗ ấy phát ra tiếng ầm ĩ đinh tai điếc óc như động cơ máy bay phản lực chiến đấu gầm thét. 

Khi xe lăn bánh, người ngồi trên xe có cảm tưởng như bộ bánh của chiếc xe chực văng ra khỏi xe. Chiếc xe bò lê nặng nề, lắc lư chậm chạp băng qua những chặng đường đồi dốc gập ghềnh hoặc hì hục khổ sở lội qua các khe suối hiểm trở. Lúc leo đèo hay lao đầu xuống triền đồi, chiếc xe trườn tới rồi giật lui như muốn trút ào mọi người xuống hố sâu, thỉnh thoảng bất ngờ tăng ga rồi đột ngột kẹt thắng, khựng lại, rung lắc mạnh hơn. 

“Khách” trên xe ngả nghiêng ngã ngửa trong thùng xe, níu kéo nhau kêu la thất thanh! Tội nghiệp đám con nít đi theo bà, theo mẹ để gặp mặt cha! Chúng sợ hãi kêu khóc inh ỏi thật đáng thương. Ba đứa con dại của tôi lần đi thăm nào cũng khốn đốn như vậy, song mỗi khi tới kỳ đi thăm nuôi… chúng vẫn một mực đòi đi gặp mặt cha cho được. 

Một hôm, chiếc xe chở khoảng vài chục đàn bà chúng tôi cùng một số trẻ con đi thăm nuôi ngồi chen nhau như nêm giữa đủ thứ “hàng thăm nuôi” lổn ngổn. Xe bò lê lên một sườn đồi bỗng đứt thắng tuột dốc. Ai nấy trên xe hồn xiêu phách lạc, ơi ới kêu Chúa, kêu Phật. Đám trẻ con hốt hoảng la khóc thất thanh. Nhưng may mắn chiếc xe đang đà chạy thụt lui thì đụng vào thành núi đất bên đường thay vì đổ nhào xuống hố. Tỉnh hồn, mới hay mình còn sống! 

Sau cơn ác mộng tai nạn xe chở gỗ súc dùng làm xe chở khách thăm nuôi, tôi không dám đi loại xe ấy nữa. Mỗi lần đi thăm chồng, tôi thuê xe đạp thồ chở tôi và các con tôi cùng các thứ thức ăn nuôi chồng theo định kỳ hai tháng một lần. Đi xe đạp thồ vất vả gấp trăm lần đi xe chở súc, nhưng yên ổn cho con nít hơn. Vào thời gian này, các loại xe bốn bánh - kể cả mấy chiếc xe lẽ ra đã phế thải từ lâu như xe chở gỗ súc cũ kỹ trên, đều bị trưng thu. Còn các loại xe máy nổ hai bánh của người dân Miền Nam dần dần cũng biến mất vì dân chúng Miền Nam không được cấp phiếu mua xăng, không được phép đăng bộ xe gắn máy… Họ đành bán đổ bán tháo xe mình cho cán bộ CS miền Bắc. 

Đi xe đạp thồ lên đồi xuống dốc, vượt suối, lội sông vất vả lắm, nhưng tôi không nản chí! 

Tại khu thăm nuôi trại, một chiếc bàn dài rộng ngăn cách vợ chồng chúng tôi, kẻ bên này, người bên kia chiếc bàn, chúng tôi gọi là” bên này sông, bên kia sông”, chỉ nhìn thấy mặt nhau và nhanh chóng trao gửi cho nhau đôi lời cần nói trong vòng 5 phút! Các con tôi đứng bên tôi, nhìn cha chúng nó chờ người cha ôm hôn, nhưng người cha chỉ rưng rưng nước nhìn con bởi đã có lệnh cấm “quan hệ tình cảm linh tinh”… 

Bao lần đi “thăm nuôi” chồng, tôi nghe mãi lời mắng mỏ của cai tù: “Cách mạng đâu có bỏ đói chồng con các người!” Không bỏ đói? Tại sao lại có chuyện “thăm-nuôi”! Không đói, chỉ cần thăm, sao cần nuôi? Không bỏ đói, nhưng người tù nào không được người nhà “thăm nuôi” đều trở thành thứ “con bà phước” sống nhờ vào tình thương của những bạn tù được thăm nuôi hoặc phải tìm cách “cải thiện” từ cọng rau, cọng cỏ, củ khoai, củ mì, con chuột, con rắn!


Cải thiện là cái chi chi? 

Lần nào đi thăm nuôi chồng, tôi cũng nghe các bà, các chị kháo nhau về chuyện người tù “cải thiện” mưu sinh. Tôi không hiểu người tù “cải thiện” làm sao, mưu sinh cách nào trong khi hết thảy người dân Miền Nam đang đói meo, dở sống dở chết ngoài xã hội. Người dân ngoài đời còn chưa kiếm được thứ gì ở bất cứ đâu để mà mưu sinh, thì những người bị đọa đày trong lao tù CS lấy gì và bằng cách nào màcải thiện, mưu sinh? 

Xưa nay ở Miền Nam Việt Nam dân đồng ruộng có bao giờ thiếu gạo ăn, kể cả những khi hạn hán kéo dài hay bão lụt nặng nề gây mất mùa trầm trọng. Vậy mà bây giờ chính bản thân người nông dân là kẻ làm ra lúa gạo lại phải chảy nước mắt nhai cơm độn khoai mì, khoai lang, bo bo, bữa no, bữa đói, đói nhiều hơn no, huống hồ là người tù chính trị. 

Thế nhưng có phải vì bản năng sinh tồn, người tù vẫn có cách của họ để “cải thiện” mưu sinh dù bị kiểm soát nghiêm nhặt và có thể phải nhận những trận đòn trừng phạt man rợ chỉ vì “cải thiện”?

Dưới chế độ Cộng sản, từ ngữ “cải thiện” mất đi cái nghĩa “sửa đổi cho tốt hơn” về mặt tinh thần như dân Miền Nam từng hiểu. "Cải thiện" bây giờ mang một ý nghĩa hoàn toàn vật chất, xấu nhiều hơn tốt. Khi người cộng sản nói “cải thiện” có nghĩa là làm một cái gì đó bất luận lương thiện hay bất lương để bù vào cái mà Nhà nước cấm cách hay đã “quy hoạch vào diện quốc doanh”. 

Phải “cải thiện” mới có thêm cái ăn, cái mặc, cái tiêu dùng hằng ngày mà chế độ không "phân phối" đủ, hay phân phối không đồng đều, không đến nơi đến chốn do phân biệt đối xử căn cứ vào thứ tự cấp loại ưu tiên của sổ lương thực, phiếu mua hàng. Nhiều người dân, nhất là đám tiện dân bị liệt vào thành phần “ngụy” hầu như chẳng mấy khi có được cái cơ may mua một món hàng cho ra hàng theo chế độ phân phối. Họ bắt buộc phải “cải thiện” thôi! 

Sự cải thiện của họ rất thực tế và ngay lành: “cải thiện” một con cá dưới sông, dưới biển, hay gieo trồng một luống rau… vậy mà vẫn không yên. Hết du kích xã tới quản lý thị trường, rồi thuế vụ, công an luôn rình rập, bắt bớ, kết tội “xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa” hay tội“phá hoại kinh tế quốc doanh”. Ghê gớm chưa? Trong khi đó, cán bộ đảng, cán bộ nhà nước ngang nhiên khai thác tối đa cái quyền “cải thiện” bằng những hành vi cắt xén, trộm cắp đầy gian trá. Chẳng những không bị trừng phạt, họ còn được thăng quan tiến chức vun vút và được báo đài tôn vinh chúc tụng “người tốt việc tốt”. 

Khi cán bộ cải thiện

Không ít cán bộ tranh nhau mang heo, gà vào nuôi trong trường học, bệnh viện rồi đưa cả phân người, phân gia súc vào những nơi đó làm phân bón cho rau cải họ trồng, làm mất vệ sinh môi trường, thế nhưng họ lại hãnh diện rằng là cải thiện chính đáng. Cân bán một con heo nái, phân đôi cân lượng, ghi vào chứng từ mua bán là 2 con heo thịt! Giá heo hơi thịt cao gấp đôi gấp ba giá heo hơi nái. Gian lận “đội giá” kiểu đó, họ cũng bảo là “cải thiện”. Cắt xén lượng hàng hay mặt hàng trong các cửa hàng quốc doanh, cải thiện đấy. Đánh tráo cân lượng lúa gạo và hàng hóa các loại để ăn gian ăn bớt của dân nghèo: cải thiện. Ăn cắp công quỹ hay công sản quốc gia: cải thiện… 

Đó là chưa kể tới vô số gia đình cán bộ đảng viên CS các cấp thừa thắng xông lên sau 30/4/1975 từ Miền Bắc tràn vào Miền Nam mà người ta gọi là cuộc di dân lấn chiếm nhà cửa đất đai vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam. Cướp của, đoạt nhà, chia nhau của cướp dưới danh nghĩa “phân phối”. Có được nhà, dọn vào ở, mọi thứ trang trí hay trang bị đắt tiền của chủ cũ đều bị vơ vét mang đi bán chợ trời, biến cái cơ ngơi đầy tiện nghi của người ta thành nhà không vườn trống khoác chiếc áo bần cùng “chuyên chính vô sản”, bên trong đủ thứ kiểu “cải thiện” quái gở: Heo, gà, vịt ung dung chung sống với người. Phân người, phân gia súc được tích trữ để “cải thiện” mấy đám rau xanh gieo trồng bừa bãi khắp sân trước sân sau nhà và cả nơi sân thượng của những nhà cao cửa rộng cướp đoạt. Phố thị Miền Nam chẳng những mất đi hoàn toàn cái vẻ mỹ quan quen thuộc trước đây mà còn liên tục xông ra mùi xú khí gây ô nhiễm cho cuộc sống con người.

Người tù cải thiện

Người tù đi làm khổ sai vất vả, đói khát. Cái “cải thiện” của người tù có thể đơn giản là lén lấy lại chút mồ hôi nước mắt mình làm ra như củ khoai mì, khoai lang, cây mía, trái bắp, trái ớt, cọng rau chẳng ra gì. Nhưng thật vô phúc cho người tù nào bị cai tù bắt được đang “cải thiện”, dù món cải thiện chẳng đáng ba xu ba hào. Bọn cai tù trừng phạt người “vi phạm” bằng những nhục hình rất dã man, trong khi những món mà người tù “cải thiện” chưa chắc đã bù đắp được một phần nhỏ công lao khó nhọc mồ hôi, nước mắt và cả máu họ đã đổ ra để làm nên những sản phẩm ấy. 

Trong nhà tù cộng sản, khi đi lao động, tù nhân lén kiếm ít rau trái trong rừng, câu lén một vài con cá dọc bờ sông hay mương lạch chẳng qua cũng chỉ là những cải thiện lặt vặt, thứ cải thiện lương thiện hơn gấp bội so với các loại “cải thiện” ăn cắp, cướp giật bất lương của bọn cán bộ đảng viên cộng sản. Thế nhưng những việc cái thiện chơn chất ấy của người tù thì lại bị bọn cai tù nhiếc mắng “cải tạo linh tinh” và từ đó người tù lại bị gán ghép hết tội này tới tội khác, toàn là những thứ tội trời ơi đất hỡi để cuối cùng thành tội “chống cải tạo”! 

Gia súc gia cầm trong trại do người tù chăn nuôi, bọn cai tù đều xí phần, coi là của riêng, liên tục giết gà, giết vịt, mổ heo, một phần dùng để chè chén với nhau, còn lại phần lớn thì mang đi bán chợ đen, thu tiền chia nhau bỏ túi. Họa hoằn một hai lần một năm lễ lạt, bọn cai tù cho tù nhân nếm một miếng thịt heo nhỏ bằng đầu ngón chân cái thì lại kể ơn kể nghĩa “đảng quan tâm, chiếu cố”. 

Đến khi gia súc gia cầm bị dịch bệnh, bọn cai tù lại đẩy cho nhà bếp trại giam những con vật sắp chết, đang giãy chết hay vừa lăn ra chết, bắt phải nấu cho tù nhân trong trại ăn. Và người tù phụ trách bếp ăn phải ký nhận vào ghi sổ mua hàng nhìn nhận đó là những “thịt tươi sống” mua từ thị trường ngoài xã hội. Cai tù “cải thiện” như vậy đó, cải thiện trên xác chết người tù! 

Mới hay chữ nghĩa của CSVN vừa thâm vừa độc. Cải thiện không còn cái ý nghĩa cải sửa cái xấu, làm cho kẻ gian ác thành người thiện hảo. Ngược lại, nó tạo điều kiện cho kẻ ác càng thêm gian ác!

Những tờ chứng tử đểu cáng

Một câu chuyện mà người tù cải tạo đã kể lại cho thân nhân mình, ai nghe chắc cũng động lòng thương kẻ xấu số và căm thù bọn người lòng lang dạ thú: Có người tù kia vì đói quá khi đi lao động đã cải thiện” vài củ khoai mì thì bị bắt gặp. Bọn cai tù bắt người tù ấy quỳ mọp giữa sân dưới nắng hè, giang hai tay ra, lòng bàn tay để ngửa, hai cục đá nặng đặt vào lòng hai bàn tay người tù ấy. Người tù mỏi quá chịu không thấu, nhiều lần buông hòn đá ra, bọn cảnh vệ đến đánh đấm túi bụi, rồi cuối cùng dùng chiêu ác độc khác phạt người tù. 

Một tên cảnh vệ lấy hai củ mì sống nhay vào mồm anh tù, bắt anh phải nhai sống cho hết, trong khi anh tù không được buông tay đánh rơi hai hòn đá. Khoai mì này là loại khoai mì Ấn Độ, chỉ dùng trong chế biến công nghiệp, trâu bò ăn vào còn ngộ độc nằm lăn ra mà chết, huống chi con người. 

Anh tù thọ phạt nhai chưa hết củ mì đã ngã vật xuống đất sùi bọt mép bất tỉnh. Bọn cảnh vệ kéo anh dậy không phải để giải thoát anh mà lôi anh xành xạch, tống vào biệt giam. Vài ngày sau, có tin nạn nhân đã chết, cai tù bí mật sai tù hình sự khiêng xác anh đi chôn trong rừng. Gia đình nạn nhân không hề biết người thân của mình đã ra người thiên cổ.

Một tuần lễ sau, cai tù gọi bác sĩ tù nhân phụ trách trạm xá lập “vi bằng chứng tử.” Vị bác sĩ nói người chết đã chôn, làm sao chứng tử được? Cai tù nói: “bảo viết, anh cứ viết, không lôi thôi gì cả!” Bác sĩ tù nhân viết xuống dòng chữ: "chết vì kiệt sức"; ông cho rằng cách chứng nhận ỡm ờ đó vừa được lòng cai tù mà không hại người bị nạn, lại không phạm tới đạo đức nghề nghiệp. Nhưng tên trưởng cai tù xé toạc tờ chứng tử, quát mắng vị bác sĩ tù nhân, bắt ông viết lại tờ chứng tử: "Chết vì sốt rét ác tính." 

Thời kỳ sau 1975, con muỗi anophen tái xuất khắp Miền Nam Việt Nam. Vi trùng sốt rét hoành hành trong khi các bệnh viện trong khu vực đều thiếu thuốc trị bệnh sốt rét rừng khiến nhiều nạn nhân chết chỉ vì sốt rét. Mà hễ chết vì sốt rét thì đương nhiên là do “sốt rét ác tính,” một phương thức “hóa giải” gọn nhất, ổn nhất để che đậy tội ác sát nhân của bọn cai tù.

Một cựu giáo sư Đại học Khoa học tại Sài Gòn bị bắt về tội vượt biên. Ông Giáo sư ở tù xa nhà, không ai thăm nuôi, nhưng quyết giữ phẩm chất một nhà giáo VNCH, không cậy dựa vào người khác. Ông luôn tự cảnh giác: “Miếng ăn là miếng tồi tàn”! Ngày này sang ngày khác ông chỉ biết cơm độn, muối hầm và “canh toàn quốc” (canh toàn là nước) do trại cung cấp. Ông trụ được hơn một năm thì kiệt sức. Cai tù bảo ông giả bệnh trốn lao động, tống ông vào biệt giam, ăn cháo lỏng. Ông chết! Bác sĩ tù nhân được gọi đến lập chứng tử. Vị bác sĩ viết:“Chết vì suy dinh dưỡng”. Cai tù ra lệnh viết lại: "Chết vì sốt rét ác tính."

Cùm sắt (3)




Nhắc lại chuyện người tù lăn chết vì một củ mì, tôi không thể quên chuyện cái cùm trong trại tù CS mà bất cứ người cựu tù nào cũng rùng mình khi nhớ tới, nhắc lại.

Thời chế độ thực dân Pháp, người dân Việt Nam khốn khổ không ít với mấy chiếc cùm gỗ. Cùm thực dân làm bằng hai mảnh gỗ, mỗi mảnh được đục khuyết hình nửa vành trăng cách khoảng nhau chừng mười phân. Cái bán nguyệt mỗi mảnh ghép lại thành vòng tròn. Phạm nhân ngồi bệt xuống tra chân vào vòng tròn này.

CSVN thì “tinh vi” và “khoa học” hơn thực dân Pháp về phương pháp áp dụng nhục hình độc ác cho kẻ thù. Thay vì cùm gỗ, họ cho thợ rèn rèn những khoen sắt, luồng hàng chục cái khoen sắt ấy vào một thanh sắt dài gọi là “cây thông nòng”. Cây thông nòng đâm xuyên từ vách này sang vách khác của dãy biệt giam dài hàng chục phòng. Chân tù nhân bị tra vào các khoen sắt vừa bằng cổ chân, tội nhẹ thì cùm một chân, tội nặng thì cùm cả hai chân. Một lời nói bâng quơ bị diễn dịch thành ý đồ chống phá: Cùm. “Cải thiện linh tinh”: Cùm. Gì cũng có thể tra chân vào cùm. Khi bị cho là ngoan cố, nạn nhân bị cùm chéo hai chân! Chân cùm trong khoen sắt rèn, nhất cử nhất động cọ xát, đau đớn dường nào. Những người tù bị cùm khi được thả về phần lớn mang thương tật đến cuối đời. Có người về mắc chứng hoại tử cả hai chân, rồi chết thảm.

Chết trên đường thăm nuôi

Một người bạn của tôi tên DTM đi thăm nuôi chồng. Tuy trèo đèo vượt suối khốn khổ trăm bề, song giống như nhiều bà mẹ và vợ tù khác, không kỳ thăm nuôi nào chị M không đem theo ba đứa con mọn của chị để chúng gặp mặt cha. 

Một sự rủi ro trở thành tấn thảm kịch đau thương cho gia đình chị M: Trên đường trở về sau chuyến thăm nuôi, chiếc xe tải chở người đi thăm nuôi bị tụt dốc, lăn kềnh xuống dốc Đèo Cả (ranh giới Phú Yên-Khánh Hòa). Cậu con trai đầu của chị tử thương, nó mới 5-6 tuổi! Chị và hai đứa con khác may mắn thoát chết, nhưng đều mang thương tích. Chồng chị ở trong tù chỉ nghe kể lại loáng thoáng về cái chết của con mình cho tới ngày anh về nhà mới hay biết mọi sự! 

Một thiếu phụ khác tại một tỉnh ở Miền Nam có chồng bị đưa đi “cải tạo” tận miền Bắc. Vì sa cơ thất thế và lâm cảnh nghèo túng sau 30/4/1975 đổi đời, người phụ nữ đáng thương ấy hiếm khi đi thăm nuôi chồng. 

Một hôm, được tin chồng bị bệnh nặng, thập tử nhất sinh, chị quyết đi, hy vọng gặp mặt chồng để nói lên lời chào biệt lần cuối hay ít ra khích lệ tinh thần chồng mình. Chị ráng tiết kiệm, dành dụm tiền để mua quà và thuốc trị bệnh cho chồng. Nhưng sau khi mua sắm đồ thăm nuôi, chị không còn tiền để đáp xe từ Nam ra Bắc hàng ngàn cây số. Thời kỳ đó, xe khách Bắc-Nam lại hiếm hoi, giá chợ đen rất cao. Được bạn bè mách nước, một hôm chị mon men ra quốc lộ đón xe bộ đội, năn nỉ chú bộ đội lái xe cho quá giang, dĩ nhiên dúi vào tay chú lái xe ít tiền “cà phê cà pháo.” Chuyện “đi nhờ” xe bộ đội với tiền trà nước song phẳng là chuyện thường ngày ở Miền Nam VN sau 30/4/1975. Hàng lậu, hàng cấm gì cũng “an toàn trên xa lộ” tùy theo giá cả trà nước.

Vừa chạy ra khỏi thành phố Nha Trang độ chừng vài chục kilômét, chiếc xe bộ đội bỗng loạng choạng rồi đổ nhào, có lẽ do tài xế ngủ gục, bạt tay lái. Chị chết tại chỗ, có lẽ do chấn thương sọ não. Bộ đội lục túi chị, thấy giấy tờ chứng nhận chị đi thăm chồng - “sĩ quan ngụy đang cải tạo”, sợ liên quan phản động, mấy chú bộ đội lấp vội xác chị ở bìa rừng, xa chỗ xe bị tai nạn nhằm phi tang dấu vết, rồi lên xe nhà binh khác trốn mất dạng! 

Mấy hôm sau người dân lao động gần đó phát hiện tử thi người thiếu phụ xấu số sình lên bốc mùi thúi. Dân chúng góp tay mua quan tài chôn cất chị. Họ cắm một khúc cây để làm dấu. Dường như có người biết cái chết ấy do xe bộ đội gây ra rồi vất bỏ, nhưng thời buổi ấy đâu ai dám hé môi tố cáo tội ác của người CS. Ách giữa đàng quàng vào cổ, nguy lắm!

Chồng của người đàn bà xấu số không hay biết gì về tai họa xảy ra cho vợ mình. Ra khỏi tù, trở về nhà với thân tàn ma dại, anh đi tìm kiếm…, nghi vợ mình “sang ngang”. Về sau có người mách cho anh biết, anh đến tận nơi đào hài cốt thì mới vỡ lẽ!

Chưa tốt chưa về!

Mỗi lần đi thăm nuôi để thấy mặt chồng, tôi cảm nhận một chút an ủi xoa dịu con tim đau nhói của mình. Nhưng lần nào cũng vậy, nhìn thấy chồng trong thân phận lao tù, tôi không thể không bật khóc. 

Chính sách của chế độ CS ngày nào cũng lặp đi lặp lại trên các loa phóng thanh: "Ngụy quân, ngụy quyền tập trung cải tạo ba tháng.”Nhưng thời gian tù tội và lao động khổ sai của quân-cán-chính VNCH đã nhân lên tới gấp hai, gấp ba, gấp bốn, hay gấp hàng chục lần cái mức ba tháng, vẫn chẳng mấy ai được về! Sau nhiều lời giải thích ngụy biện dối trá lố bịch khoái chấp nhận, đám quan chức Cộng sản tự bào chữa trâng tráo:

- Cải tạo chưa tốt, chưa về. 

Hoặc:

- Các bà mẹ, các bà vợ chưa chấp hành tốt đường lối chính sách ở địa phương, "nhân dân chưa cho chồng-con các người về”!

“Nhân dân” nào ác ôn và ngu xuẩn đến độ đè đầu bóp cổ chính mình? Chỉ có Đảng Cộng sản gian manh và hiểm độc mới “gắp lửa bỏ vào tay nhân dân” vậy thôi!

(Cuối Tháng Tư 2015)



Nguyễn Thị Ngọc


__________________________________________

Chú thích:

(1) Đó là tiêu chuẩn khẩu phần bình thường. Chỉ những tù nhân đi đốn cây gỗ quý trong rừng mới được tiêu chuẩn việc nặng 21 kg/tháng. Những tù nhân không lao động (do đau bệnh chẳng hạn), tiêu chuẩn 13kg/tháng. Tù nhân trong biệt giam chỉ 9kg/tháng, gọi là tiêu chuẩn cháo lỏng và không có phần ăn sáng! Thời VNCH không hề phân biệt hạng loại như vậy, mọi tù nhân đều hưởng đồng đều tiêu chuẩn 21kg/tháng, gạo trắng thơm.

(2) Đau khổ chi bằng mất tự do 
Đến buồn đi ỉa cũng không cho 
Cửa tù khi mở không đau bụng
Đau bụng thì không mở cửa tù 

(3) Khi viết về cùm sắt, tôi lấy làm tiếc không có được hình ảnh minh họa. Ngày 20/4/2015, đọc Blog AnhBaSam, thấy hình vẽ trên bài “Về phát biểu của pgs/ts Vũ Quang Hiển”, mạn phép sử dụng hình vẽ ấy ở đây. Cám ơn.

LÊ HẢI LĂNG * CUỘC CHIẾN TÀN


Chuyện người đàn bà khi cuộc chiến tàn

 Lê Hải Lăng  



Chị Thương dồn ba đưá con vào một góc lều xong.Chị cầm một cái cán cuốc chống cái bạt cho căng.Nước mưa ào ào đổ hoà cùng tiếng gió rừng hú ghê rợn. Chị chống phiá trái thì sập bên phải.Rút cục không chống nổi với mưa gió cái lều tạm dựng bị sụp hoàn toàn.Mấy đưá con áo quần tóc tai ướt đẩm như chuột lột. Một đưá con thứ hai tên cu Tèo lấy tay dụi nước mưa trên trán rồi khóc lóc hỏi mẹ:
-Mẹ ơi ! Tại sao mẹ lại bỏ hết nhà cửa mà tự nhiên tới ở chỗ này ?
Chưa kịp cách nghĩa cho con nghe .Thằng anh của Tèo là cu Tới đang cởi cái áo ra vắt nước cho khô phân trần với em:
-Không phải tại mẹ tự nhiên ra cái khu kinh tế mới này đâu. “Giải phóng” tịch thu nhà mình rồi đuổi đi đó em.Mai mốt lớn một xíu nữa rồi hiểu hoàn cảnh đau buồn của mẹ.
-Thế có phải mấy người mang súng cùng nhóm người mang khăn quàng đỏ vứt bỏ sách vở bàn học cuả em lại một chỗ rồi đốt hết không vậy ?
-Ưà .Tao nhớ không lầm là trước ngày lấy nhà rồi đưa mình lên đây tao thấy lố nhố người lạ mặt cộng mấy ông trên phường với lại đội quân ô hợp lung tung phèng tới giật cướp tống khứ tất cả mẹ con nhà mình nữa đó.


Hai anh em đang trao đổi chuyện qua rồi mà cơ hồ như còn in đậm mãi trong đầu.Cơn gió rừng tạt mạnh làm thằng cu út tên Cường run cầm cập.Nó mở cái rương đựng áo quần tìm một bộ đồ.Một vài con chuột lù lù chạy ra .Nó hoảng hốt la ơi ới.Chị Thương cũng vưà trở về khi đi tìm một người đàn ông ở dưới chân núi để nhờ dựng lại các cây cột.Thấy chuột mừng quá .Mẹ con chị Thương không ai bảo ai tự động cầm cây chạy đuổi bắt.Chuột lủi mau quá thế là lại được tiếp tục ăn bo bo gạo thúi với rau rừng.
Đêm xuống chậm. Bầu trời biến dần những đám mây đen.Cơn mưa tạm dứt.Người đàn ông giúp dựng lại cái lều xong rồi nhìn chằm chặp vào mặt chị Thương đoạn nói bâng quơ :
-Hết mưa cuối chân trời có ráng mây hồng , đỏ,tím đẹp thật.Cảnh đẹp người đẹp.
Chị Thương không nhịn được cười :
-Cảnh chết chóc thế này mà anh lại mơ mộng quá đổi.
-Tôi cũng muốn mớm một chút khôi hài với chị thôi mà. À mà quên hỏi chị anh đâu rồi ?
Chị Thương bậm môi nghiêm nét mặt nhìn xa xăm rồi trả lời nhát gừng :
-Chồng tôi thấy còn sức lực nên xung phong đi làm thủy lợi đào kinh cũng ở trong tỉnh này thôi.
-Chị có dấu diếm gì tôi không đấy .Phần đông những gia đình đi kinh tế mới ra đây là vợ con bọn “nguỵ quân nguỵ quyền”.Chúng nó được cách mạng khoan hồng cho đi học tập cải tạo cả rồi.
Chị Thương đổi sắc mặt :
-Xin lỗi anh là ai mà chạy theo a dua chửi những người chiến sĩ bảo vệ miền đất tự do dân chủ là “ngụy”.
-Tôi nói cô biết cô lầm rồi.Tôi là cán bộ trong ban cai quản cái khu kinh tế mới này.Bây giờ cô còn mở miệng phản động.
-Tôi tưởng anh là người cùng hoản cảnh bị đày ra chốn này như tôi.Thế thì tôi không dám tiếp chuyện với quan quyền đâu.
Người cán bộ mở lời mật ngọt:
-Thôi mà người đẹp.Cho mình đuà vui một tí xem nào.
-Xin lỗi .Anh đừng có trở giọng sàm sở.Yêu cầu anh có thái độ lịch sự tối thiểu đối với tôi.
-Được rồi ở đó mà hỗn hào.Nhớ mặt nghe sẽ biết tay mà.
Chị Thương biủ môi trương mắt nhìn người cán bộ bước chân đi.
Cả bốn mẹ con như nằm ngủ dưới trời.Chị Thương nhớ lại từng khúc phim thời buổi hai vợ chồng mới quen nhau tham gia sinh hoạt hướng đạo đi cắm trại tại vùng biển.Hồi đó vui chi lạ.Càng nghĩ chuyện cũ chị thiếp đi lúc nào không hay.
Ngoài kia tiếng gió xào xạc,tiếng côn trùng như khóc than ai oán trong cái đêm tỉnh mịch của rừng sâu.
XXX
Trong trại tù gọi là cải tạo .Anh Việt chồng chị Thương đếm trên ngón tay đi trình diện học tập 10 ngày mà thắm thoắt bao nhiêu năm cùng tháng tận đi qua vẫn nằm trong rọ củi sắt giữa núi đồi. Cứ mỗi lần tới ngày lễ thì anh nghe phong phanh hy vọng được thả.Hôm nay cả trại được ăn đặc biệt hơn mọi khi.Quản giáo ra lệnh là trong số 10 người chia một thau cơm trắng .Việt nằm trong cái tổ làm phận sự chia cơm.Chia cho 8 người xong đến lượt phần người thứ 9 bị người bạn nào đó vô tình đụng vào làm rớt xuống đất cát.Việt lấy phần cuả mình trao cho bạn đồng thời lấy chổi quét đi để tránh tình trạng người khác tiếc cuả bốc lên ăn vào làm đau bao tử mà chết .Chờ mọi người ăn xong Việt chuồn xuống nhà bếp đi lục lọi cơm cháy mà trước đó Việt biết có một số trại viên nấu bếp thường để dành phơi khô cho những lúc đi lao động thiếu ăn.
Việt giở cái chảo này lên,mở cái nắp soong kia ra tìm được miếng cơm cháy.Hếch lỗ mũi lên vì sung sướng .Quay mặt lui bị một bàn tay ông quản giáo chận trước mặt :
-À ra mầy.Có người báo cáo là mầy đổ cơm tao chưa trị tội mầy phản loạn nội quy.Giờ mầy lại vô nhà bếp định ăn cắp phá hoại gì nữa đây ?
Nói vưà dứt câu.Quản giáo xuống lệnh đánh kẻng cho toàn trại họp để phê bình kiểm thảo.
Năm người mang đòn gánh và cái mền ở ngoài khuôn viên trại nơi cái lều phong vương(bệnh sắp chết đưa vào đây) mới bước vào . Quản giáo quát tháo doạ nạt:
-Tụi bây khiêng chôn có 3 người mà đi cả buổi.Thôi ! khoan đem cất dụng cụ vào kho để đó để chôn cái thằng này nữa.
Tất cả trại viên sững sờ nhìn mặt nhau đoán mò.Thời gian gần đây ngày nào cũng có người chết vì sốt rét,chết vì đói,chết vì bị tra tấn hành hạ,chết vì những cái cùm nhục hình.Ai cũng lo lắng không biết lúc nào tới lượt mình.Chết ở chiến trường là chuyện chiến tranh . Còn chết sau cơn binh lửa đã tàn nơi cái nhà tù nhìn qua về máu đỏ da vàng một mẹ Việt Nam tức tưởi nhục nhả lắm.Cho nên mọi tù nhân cố lê lết nở nụ cười trước lưỡi hái tử thần để còn mong sum họp với gia đình.
Khi người trại viên cuối cùng lùa đàn heo ngoài vòng đai vào trại.Cũng là lúc trưởng trại tù lên tiếng :
-Hôm nay ta đã bắt gặp thằng bác sĩ quân y hèn hạ.Thằng sĩ quan “ngụy” vô nhà bếp ăn cắp.An ninh đem nó ra đây trình diện .
Việt bị trói hai tay ra phiá sau.Việt đứng như bức tượng sống.Một gã bộ đội sấn tới đạp một cái vào hông rồi chế riễu :
-Tất cả chúng mầy thấy chưa.Cách mạng ta không có những hạng người này.Mầy có ý kiến gì tao cho mầy khai.
Việt khoan thai trả lời :
-Ngày nào các ông cũng bắt chúng tôi khai báo lý lịch.Các ông nói ai khai đúng làm tốt thì cho về sớm.Chúng tôi có người giữ đàn bò,có người giữ đàn heo,cho các ông làm thịt ăn riêng .Chúng tôi vào rừng lao động khổ sai chín chết một sống.Chúng tôi bệnh không có thuốc.Chúng tôi chết bạn bè không có ai dám khóc.Chúng tôi là người mà các ông xem như là súc vật.Chúng tôi là người Việt Nam mà các ông cứ chụp mũ phản động như là người nước ngoài xâm chiếm .Chuyện tôi nhường phần cơm cho bạn để rồi chính tôi phải ăn một miếng cơm cháy để sống có gì là tội.Một bác sĩ hành nghề là để cứu mạng sống con người các ông còn đày vào đây cho chết.Các ông vì lợi ích xã hội ở chỗ nào mà trả thủ đành đoạn nhứ thế này đã chứ ! Bao nhiêu kỹ sư,chuyên viên, giáo sư về khoa học kỹ thuật ,giáo dục các ông tống vào đây cho làm rẩy,phá rừng,giữ chó giữ gà để vợ con người ta không nơi nương tựa thế nào gọi là đạo đức.
-Câm mồm đi . Đồ quân ác ôn.An ninh đâu đem thằng này đi cùm cho đến chết .
XXX
Nơi cái khu kinh tế mới giết người không gươm dao cũng chẳng khác gì trại tù giam cho kiệt sức mà chết.Phần thì đói không có ăn.Phần thì đi phá rừng chỉ thấy cây cối trồng trên cát sạn.Phần thì bệnh không có thuốc uống.Các con đưá thì bị phù thủng, đưá bị ghẻ lở từ mặt tới chân, đưá thì mỗi lần iả là cả chùm sán lãi theo ra.Chị Thương thì đêm hôm phập phùng lo sợ không biết cái băng trong ban quản trị bất lương hành hạ người già đàn bà con nít lao động trong hoàn cảnh nghiệt ngã rồi bệnh mà chết như nhiều người bà con ở đây đã bị.Người dân quá khổ thành thử không ai có đủ trí lực để quan tâm kẻ khác cùng hoạn nạn.Cán bộ thì ngang tàng phách lối coi nhẹ đời sống dân bị đày lên đây .Chị Thương nhớ rõ mồn một mãi cái cảnh một người bị rắn cắn cả một đội lao động cuốc đá bó tay.Cán bộ có thuốc trừ rắn cắn cũng không cho viện cớ là để dành quan chức .May thay có cô con gái nào đó biết cách chửa mẹo.Cô ta thọc tay vào chỗ kín rồi phết lên nơi phần rắn cắn cho kẻ bị nạn.Thế là nọc độc bị rút đi mà khỏi chết.
Thấy con cái càng ngày càng đói ăn không chịu nỗi bởi chúng nó quen sống cảnh sung túc. Chị Thương cùng nhiều người đồng cảnh ngộ vạch ra con đường thoát chạy khu ma vương ôn dịch này.
Thế rồi trốn về được phố đi tìm nhà người bạn học cũ xin tá túc.Việc đầu tiên là chị Thương nghĩ tới thôn quê miền Trung nơi mà ông bà nội sáp nhỏ sống ở đó. Có thể về ngoài ấy mà cũng có thể vá víu sống tạm bợ trong cái hẽm này đến đâu hay đó.Mấy đưá con chạy lăng xăng như kẻ lạc loài trong phố cũ.Thằng con lớn nhớ da diết bạn bè cô giáo mà không biết làm sao mà được trở lại lớp.Thằng con thứ hai thèm cầm quyển vở và cái vụ làm trò chơi.Chúng nó mất hết cả rồi.Thằng con út thấy mẹ ngồi rũ rượi bắt chí trên đầu.Nó buột miệng :
-Mẹ ơi ! Mẹ nói ba đi làm xa sao không gởi tiền về cho mẹ mua gạo muối cho chúng con ăn hở mẹ ?Con nhớ ba con nhớ nhà.Mà mẹ đưa con về lại nhà đi.
Chị Thương nghĩ tới căn nhà tạo dựng bằng mồ hôi nước mắt khi không bị người thắng cuộc nhân danh cách mạng “giải phóng” mà mượn dài hạn đi rồi.Bàn cờ ra nông nỗi thế này cũng tại mình đời bắt làm kẻ thua cuộc.Chị giấu hết nước mắt tang thương trong lòng rồi vuốt tóc con vỗ về :
-Ba con đi làm lâu ngày mới có nhiều tiền đó con.Hôm nào mẹ con mình tha hồ mà ăn uống no đủ .
Chị Thương kêu hai đứa cu Tèo,cu Tới cùng ngồi bệt xuống đất nghe lời dặn dò :
-Con cu Tới lảnh phận sự lên ga tàu bán báo.Thằng cu Tèo lo chuyện theo mẹ đi lượm đồ ve chai phế thải.
Thằng cu Tèo méo miệng :
-Con không chịu đâu.Con thấy đường phố xe díp(Jeep) như ba chạy đón con đi học về hồi nào.Sao mẹ không cho con vô trường lại.Khi ở trên rừng chưa về đây mẹ hứa với con rồi mà.
Thằng cu Tới chen vào :
-Thôi em muốn đi học thì theo anh đi bán báo .Báo in đầy rừng chữ Xã hội chủ nghĩa tha hồ mà ngồi đầu đường xó chợ đọc với học.
Chị Thương mớm lời dạy con :
– Nghề nào cũng được miển là đừng làm nghề ăn cướp cả ngày lẫn đêm như bọn người lớn nhan nhản hàng ngày trước mặt.
XXX
Bữa nay bán báo không được bao nhiêu.Thằng cu Tới quay qua bạn cùng nghề tên Hiền :
-Mầy than van cái con khỉ gì.Bán không được thì cha mẹ mầy lo bao che cả gia đình.Mầy có lần nói với tao là con nhà cách mạng mà.
-Thật ra ba tớ là cách mạng 30 mà thôi.
-Hèn chi ăn sau đẻ muộn bỏ công đi phất cờ để cho đồng đài đạp nồi niêu soong chảo nó chở hết trương mắt ra ngó.
-Còn mầy là con cách mạng tháng mấy mà cũng đi bán báo như tớ.
-Tao đấy à.Tao con ông 3 mai bị lột sạch kể cả bản thân vợ con .Người lớn trả thù tận cùng bằng số tao mới gặp mầy chốn này.
-Tớ biết ra rồi nhà nước muốn trai trẻ miền Nam như tụi mình tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên XHCN để xuống ngang hàng với miền Bắc.
-Thôi đừng nói chuyện heo,lợn , đậu phụng,lạc rang nữa.Tao hỏi kinh nghiệm cuả mầy về bán báo trên tàu lửa để tao học hỏi thêm.
Như gãi trúng chỗ ngưá.Hiền đằng hắng một cái rồi lên mặt dạy đời :
-Nhờ ngày 30 mà tớ bỏ học .Bây giờ mới thực sự làm thầy cho đồng bọn như mầy.Hãy nghe tớ vung chiêu mời khách trên tàu lửa đây nè:
-Ông ơi ông mua cho tôi tờ báo .Mua mở hàng đi .Báo quốc doanh viết ra bán chớ không có tặng. Ông mua để biết hôm qua mơ gặp người trong mộng. Ông mua để thằng tuổi trẻ bị đuổi học được có việc làm để sống. Ông thương cho kẻ ngã ngựa sa cơ thất thế có chén cơm độ nhật.
Thằng cu Tới cắt ngang:
-Mầy đọc sớ Táo quân trình thiên đường như thế này người ta không mua thì làm sao ?
-Mầy cứ cầm tờ báo đi lui đi tới phất qua phất về trước mặt chọc người ta ghét rồi bỏ tiền ra mua cho mầy trốn khuất mắt đó mà.
-Ừ mầy nói có lý đó nghe.Khi nào tao có nghề gì mới tao dạy lại mầy chịu không ?
-Gì cũng được nhưng đừng dạy nghề giết người anh em như nhổ cỏ không dùng gươm dao.
-Thế thì vào nghề còn đảng còn mình.
-Mầy phải chờ 10 đời lý lịch mới mặc được cái áo xanh áo vàng khủng bố dân lành chớ không phải dể đâu nhá !
-Tai vách mặt rừng coi chừng bắt vô nhà đá đếm lịch đấy .Thôi tao về nhà ăn cơm kẻo sáng giờ cồn cào ruột non ruột già ra đây.

XXX
Một tháng trôi qua bốn mẹ con tảo tần bưã đói bữa no cũng nhờ người bạn học Gia Long chia cho chỗ ăn chỗ ngủ .Một lần chị Thương đếm những đồng bạc chắt chiu rồi chạnh nghĩ tới phụ trả điện nước .Chị nói với chị Hạnh chủ nhà :
-Bạn tốt với mình quá trong hoàn cảnh ngặt nghèo.Bạn cho mình phụ chút về chuyện ăn ở.
-Bạn đề cập tới mình mới nói ra đây.Mình bị cái ông tổ trưởng dân phố,mấy tên bạn dân khu vực kêu lên gọi xuống đòi khai báo người lạ trong nhà .Mình sai đưá em ra trà nước cho họ không biết để yên tới lúc nào.Vả lại bạn thường về khuya nên mình cũng nói xạo với họ là mình chưá chấp người ăn mày ngủ qua đêm mà thôi.Xin lỗi bạn vì chỉ có cái xã hội trả thù trả oán thế này mình mới nói xấu bạn thân sau lưng để chúng mình sống còn.
-Mình nhớ mãi tinh thần giáo dục nhân bản từ học đường Gia Long .Mà xã hội đạo đức là đúng rồi từ lớp năm lớp tư(lớp 1,2) đã học môn Đức dục và Công dân giáo dục chứ có ai dạy tuổi ô mai hận thù chém giết nhau đâu.
Hai người đang ngồi trước nhà nói chuyện.Chị Hạnh thấy một người lối xóm lượn qua lượn lại phiá trước.Hạnh đoán biết đây là loại người theo dõi sinh hoạt trong nhà chị.Chị ra hiệu cho chị Thương lẻn vào nhà.Rồi chị mở miệng chửi đổng:
-Đồ cái quân khốn kiếp.Phường vô lại ăn không ngồi rồi đi chỉ điểm hại phường hại khóm.
Chửi xong chị Hạnh vô nhà .
Tên công an khu vực cũng vưà tới đúng lúc.Hắn gõ cưả xét nhà.Thấy chị Hạnh hắn hỏi:
-Bà đưa hộ khẩu tôi xem.
-Anh vô ra cái hẽm này bao nhiêu lần anh biết nhà tôi quá mà.
-Tổ dân phố báo cáo nhà bà có người lạ tới ở mà không khai trình.
-Bạn học của tôi dân cùng thành phố cả mà.
-Thế thì tôi mời bà bạn kia cho xem giấy tờ.
Chị Thương mở cái giỏ đan bằng lá dưá rồi cầm tờ giấy CMND chià ra.
Tên CA nhìn xong đoạn hạch hỏi:
-Tại sao bà không ở cái điạ chỉ này mà tới đây dự định hoạt động gì ?
-Nhà tôi bị giặc cướp rồi.
-Rõ ràng giặc Mỹ nó ác độc dã man hơn cả quỹ quái.
-Không.Mỹ tới đây mang súng đạn cùng chúng tôi bảo vệ phần đất tự do.Khi họ về mang theo hai bàn tay trắng.Họ không chiếm lấy một thước đất nói chi tới làng mạc phố xá biển đảo.Nhà tôi bị “giải phóng” mượn dài hạn xài chơi.
Tên CA đấm tay vào tường giận dữ:
-Nhất định bà là CIA cài lại.Bà theo tôi về đồn để điều tra ra ngọn ra ngành.
Hai ngày sau chị Hạnh nhận giấy lên bệnh viện nhận xác bạn.Theo hồ sơ bệnh lý công an nói là bị đau nặng trước khi đưa đi cấp cứu.Khi những đưá con tới ôm xác mẹ. Đưá nhỏ nhất mang tên Cường rờ tay vào vú .Từng cục sưng đọng máu còn hiện lằn roi. Đưá con lớn tên Tới rờ tay lên đầu.Từng lỗ hổng lạ lắm trong chân tóc. Đưá con thứ nhì tên Tèo cuả chị Thương ôm chầm lên thân thể mẹ van lơn:
– Mẹ ơi ! bao giờ ba về nuôi nấng các con…
Ba anh em nhìn xác mẹ rồi nhìn thân phận mình nước mắt tuôn trào theo nhau đầm đià xuống áo.
Trời về khuya .Bên kia con phố nóc nhà ai trăng thanh bình rọi xuống trên đống gạch hoang vu.
Lê Hải Lăng
1

SAIGON 30-4- VOI SÁU CHÂN

 Tổ chức diễu binh ngày 30/4
  • 13 tháng 4 2015



Hình chụp Dinh Độc Lập, từng là nơi ở của các tổng thống Việt Nam Cộng hòa, nay gọi là Hội trường Thống Nhất

Việt Nam sẽ tổ chức diễu binh với các khí tài hiện đại ở lễ kỷ niệm 40 năm ngày 30/4/1975, đánh dấu cuộc chiến Việt Nam kết thúc.
Cuộc diễu binh, diễu hành của 6.000 người sẽ diễn ra tại trục đường Lê Duẩn, TP. HCM.
Thông tin được loan báo trong cuộc họp báo quốc tế diễn ra hôm 13/4.
Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Trương Minh Tuấn cho biết hiện có 19 phóng viên nước ngoài đăng ký đưa tin về sự kiện này.
Lễ kỷ niệm sẽ bắt đầu từ ngày 29/4 với lễ dâng hương ở Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đài tưởng niệm các Anh hùng liệt sỹ tại Hà Nội, và ở nghĩa trang liệt sỹ TP. HCM và đền tưởng niệm Bến Dược, huyện Củ Chi.
Lễ mit tinh, diễu binh và diễu hành của 6.000 người diễn ra sáng ngày 30/4 tại TP. HCM.
Trung tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị, được dẫn lời: “Riêng phần diễu binh gồm có 38 khối, mỗi khối gồm 100 người thuộc các lực lượng vũ trang với các khí tài hiện đại.”

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2015/04/150413_chuan_bi_dieu_binh_ngay_304

Ăn mừng 30/4, CS 'diễu binh' bằng quái vật voi 6 chân

Bạn đọc Danlambao - CSVN đang ráo riết tập dượt, chuẩn bị cho buổi lễ ăn mừng 40 năm ngày cưỡng chiếm miền Nam. Dự kiến, một buổi lễ diễu binh quy mô sẽ diễn ra vào ngày 30/4/2015 tại Sài Gòn, trong đó có hoạt cảnh Hai Bà Trưng cưỡi voi qua lễ đài.
Để tái hiện cảnh cưỡi voi của Hai Bà, ban tổ chức đã dùng một con voi vuông, làm bằng giấy và có... 6 chân (2 chân người và 4 bánh xe). Việc làm cẩu thả và lố bịch này nhanh chóng bị biến thành trò cười trên các mạng xã hội.
Ngay sau đó, một số hình ảnh về buổi lễ Hai Bà Trưng cưỡi voi thật dưới thời Việt Nam Cộng Hòa đã được mang ra để so sánh với hình ảnh voi giấy 6 chân của chế độ cộng sản.

Quái vật voi 6 chân dưới chế độ cộng sản

Buổi lễ Hai Bà Trưng cưỡi voi thật dưới thời VNCH
Video buổi lễ tập dượt với hình ảnh quái vật voi biết lăn khiến nhiều người phải ôm bụng cười bò. Một cảnh tượng nhố nhăng chỉ có thể xảy ra dưới chế độ cộng sản.


Bạn đọc Danlambao
danlambaovn.blogspot.com

ĐẠI HỘI RUỒI NHẶNG

CS khai mạc mật nghị trung ương 11, bàn vấn đề nhân sự ‘cực kỳ hệ trọng’

CTV Danlambao - Sáng ngày 4/5/2015, hội nghị lần thứ 11 ban chấp hành trung ương của đảng cộng sản đã được khai mạc tại Hà Nội.
Trong 4 ngày làm việc, 200 nhân vật quyền lực trong đảng sẽ họp bàn những vấn đề cơ mật về sắp xếp và chia chác nhân sự, chuẩn bị cho đại hội đảng lần thứ 12 sắp tới vào năm 2016.

Trong diễn văn khai mạc, tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh công tác nhân sự là một ‘nhiệm vụ cực kỳ hệ trọng’ và được dày công chuẩn bị theo quy trình chặt chẽ.
Hội nghị lần này có tính quyết định đối với các vị trí lọt vào bộ chính trị khoá tới, thời điểm mà một nửa số uỷ viên hiện nay sẽ phải về hưu do quá tuổi.
Người đứng đầu đảng CSVN cũng kêu gọi đề ra tiêu chuẩn lựa chọn nhân sự cho cơ quan quyền lực tối cao của đảng cộng sản khoá tới.
Theo đó, ông Trọng yêu cầu các ứng cử viên phải kiên định với chủ nghĩa xã hội, ‘tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh’.
Đặc biệt, các uỷ viên bộ chính trị và ban chấp hành trung ương khoá tới phải hội đủ tiêu chuẩn ‘không tham nhũng, cơ hội, tham vọng quyền lực’.
Dự kiến, số lượng uỷ viên ban chấp hành trung ương đảng từ 200 người hiện nay sẽ tăng vọt lên con số 290 người vào khoá tới. Đây cũng là kết quả trận 'thắng đậm' của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại hội nghị trước đó.
Phát biểu trước lần thêm ghế lớn nhất trong lịch sử đảng CSVN, TBT Nguyễn Phú Trọng khẳng định việc xây dựng ban chấp hành trung ương là một công việc liên quan đến ‘vận mệnh của đảng’.
Cũng trong hội nghị 11 lần này, các uỷ viên trung ương đảng sẽ họp bàn và đưa ra quyết định về việc xây dựng sân bay Long Thành – một dự án đang gây nhiều tranh cãi do mức độ hoang phí khủng khiếp.
Cũng như nhiều lần trước, thông tin về diễn biến các cuộc họp sẽ được đảng cộng sản giữ bí mật. Theo một số lời đồn đoán, 3 ứng cử viên sẽ thay thế chức vụ TBT của ông Trọng khóa tới sẽ là thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, bí thư Hà Nội Phạm Quang Nghị và bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh.
Dự kiến, mật nghị trung ương CS sẽ kết thúc vào ngày 7/5/2015 sắp tới. Sau đó, TBT Nguyễn Phú Trọng sẽ chuẩn bị có chuyến công du đầu tiên đến Hoa Kỳ.

4/5/2015

CTV Danlambao
danlambaovn.blogspot.com


VŨ ĐÔNG HÀ * NGUYỄN TẤN DŨNG

Hội nghị Trung ương 11 và thông điệp chửi Mỹ vái Tàu của Nguyễn Tấn Dũng

Vũ Đông Hà (Danlambao) - Hội nghị TƯ 11 được khai mạc vào ngày 4/5/2015 để các quan lớn cộng sản đóng cửa, tính toán, đấu đá, tranh giành nhau những chiếc ghế lãnh đạo nhằm tiếp tục cai trị và làm giàu trên mồ hôi, xương máu của hơn 90 triệu người dân Việt Nam. Trong thực tế, cuộc đua tranh giành quyền lực đã được khởi hành trước đó và hướng nhắm đến để đạt được mục tiêu là: kẻ nào bày tỏ thái độ thần phục thiên triều Bắc Kinh nhiều nhất, kẻ đó sẽ thắng. Hiện nay, dẫn đầu cuộc chạy đua thần phục này là Nguyễn Tấn Dũng.
Sau khi Nguyễn Tấn Dũng thắng thế trong Hội nghị TƯ 10, ngày 25.01.2015, Trung Nam Hải qua tờ Hoàn Cầu Thời Báo đã gián tiếp đặt Nguyễn Tấn Dũng ngồi vào ghế Tổng Bí Thư. Mặc dù về "diện", nội dung của tờ báo chỉ trích Nguyễn Tấn Dũng là "đại diện phe thân Mỹ" nhưng về "điểm" thì đây là một tín hiệu được gửi đến từ Bắc Kinh "đại hội 12 là cơ hội duy nhất để Nguyễn Tấn Dũng trở thành TBT" và cũng là một cảnh báo "muốn vậy thì phải xa Mỹ gần Tàu".
Điều cảnh báo của Bắc Kinh đã được Nguyễn Tấn Dũng cấp tốc ghi nhận bằng chuyến tham quan vội vã đến Nhân Cơ, nóc nhà chiến lược Tây Nguyên mà Tàu cộng đang ngự trị ngay sau khi vừa củng cố xong quyền lực. Tại đây, vào ngày 09.02.2015, Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố: "bùn đỏ vẫn an toàn". Những phát biểu của Nguyễn Tấn Dũng mang nội dung về an toàn môi trường nhưng thực chất là một thông điệp gián tiếp gửi đến quan thầy Bắc Kinh về mặt chính trị để khẳng định sự thần phục và thái độ "gần Tàu".
Phải chờ đến ngày 30/4 Nguyễn Tấn Dũng mới có được cơ hội để gửi thông điệp "xa Mỹ" đến Bắc Kinh. Trong bối cảnh kỷ niệm 40 năm ngày cộng sản thôn tính VNCH, Nguyễn Tấn Dũng đã ngoan ngoãn đáp trả yêu cầu "xa Mỹ gần Tàu" của quan thầy Bắc Kinh với bài diễn văn chửi Mỹ, cám ơn Tàu Cộng được truyền hình trực tiếp trên cả nước vào ngày 30/04/2015:
"Đế quốc Mỹ đã ngang nhiên áp đặt chế độ thực dân kiểu mới, biến miền Nam Việt Nam thành căn cứ quân sự của Mỹ, đàn áp tàn bạo Cách mạng miền Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại khốc liệt ở miền Bắc. Chúng đã gây ra biết bao tội ác dã man, biết bao đau thương, mất mát đối với đồng bào ta, đất nước ta"

"Tại buổi lễ trọng thể này, một lần nữa chúng ta chân thành cảm ơn các nước XHCN, nhất là Liên Xô, Trung Quốc".

Phát biểu của Nguyễn Tấn Dũng làm cho những kẻ ngấm ngầm hoặc công khai hỗ trợ ông ta, cho rằng ông ta là thành phần"cấp tiến", chống tàu và có thể là 1 Putin Việt Nam... hụt hẫng và im lặng trong ngỡ ngàng.
Thông điệp xa (chửi) Mỹ, gần (cám ơn) Tàu của Nguyễn Tấn Dũng chắc chắn đã làm hài lòng Bắc Kinh.
Quan trọng hơn cả, phát biểu 30/4 chửi Mỹ thân Tàu của Nguyễn Tấn Dũng đã định vị bàn cờ chính trị trong nội bộ đảng trước đại hội XII: không có phe thân Mỹ, phe thân Tàu... Tất cả, toàn bộ 290 UVTƯĐ đều (phải) là những kẻ thân Tàu.
Thân Tàu. Đó mới chính là tiêu chuẩn cần thiết và sống còn cho con đường hoạn lộ của 290 UVTƯĐ.
Tất cả những tiêu chuẩn mà Nguyễn Phú Trọng đưa ra trong bài diễn văn khai mạc Hội nghị TƯ 11: kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước và lợi ích của dân tộc; có phẩm chất đạo đức và lối sống trong sáng, gương mẫu, không tham nhũng, cơ hội, tham vọng quyền lực, có ý thức giữ gìn và bảo vệ sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, được quần chúng thực sự tin yêu... đều là những điều láo khoét nói cho sướng miệng mà chính ông ta lẫn toàn bộ bầy đàn cộng sản chẳng ai tin. Tất cả đều vô nghĩa, vô giá trị nếu những "tay đua" không biết cắm đầu chạy nhanh về phương Bắc, vừa chạy vừa khòm lưng và có lúc phải quỳ với câu thần chú, với tấm bùa hộ mạng có viết 2 chữ: thân tàu!
Nguyễn Tấn Dũng đã chạy tốt, khòm tốt, quỳ tốt nhân kỷ niệm 40 năm ngày độc tài, đói khát CHXHCHVN giải phóng VNCH tự do, ấm no và trù phú bằng bài diễn văn chửi Mỹ lạy Tàu được phóng đi chỉ vài ngày trước khi cả lũ bầy đàn bước vào võ đài mang tên Hội nghị TƯ 11.
Bằng bài diễn văn đó, Nguyễn Tấn Dũng đang cầm cờ quán quân dẫn đầu trong cuộc chạy đua chứng minh "đứa nào" là đứa thần phục quan thầy Bắc Kinh nhất, xứng đáng nhất cho cái ghế Tổng bí thư Ba Đình.
05.05.2015


VIẾT TỪ SAIGON 8 BỒI BÚT

Nghĩ về chuyện cầm bút và bồi bút


Trong vài ngày trở lại đây, kể từ khi lễ kỉ niệm “40 năm giải phóng miền nam” bắt đầu rục rịch cho đến khi nó kết thúc, rồi sang ngày Báo Chí Thế Giới, báo chí ở Việt Nam xuất hiện khá nhiều nhân vật “gương mẫu”, tiêu biểu, từ các đồng chí cựu chiến binh xuất hiện trên truyền hình với những chuyện xuất thần cho đến các đồng chí xuất hiện trên báo, nếu không xuất thần thì cũng xuất chúng, nói chung là xuất…!
Câu chuyện đầu tiên phải nói đến đồng chí Lái, một cựu quân nhânn Bắc Việt, từng có thành tích đang bị thương nhưng thấy địch tới, liền xé vải băng vết thương ngay tức thời và nhờ một đồng chí trinh sát kéo giùm khẩu 37mm Cannon tới để tiếp tục chiến đấu.
Cái hay ở chỗ loại súng này phải được một tổ tám người nam và mười đến mười hai nữ thanh niên xung phong vừa hè vừa kéo theo từng nhịp mới có thể di chuyển được bởi nó có trọng lượng trên 2000kg khi đứng không và có thể lên đến trên 2500kg khi mang cơ số đạn bên mình nó. Vậy mà một đồng chí trinh sát đã nhanh chóng kéo bốn khẩu lại vị trí chiến đẩu để đồng chí Lái cho “nổ”. Kết quả là có mấy tên địch nữa đi toi!
Chuyện này khá buồn cười bởi nó không thể có thật, người ta nổ đến mức một ông lính Cộng sản có thể ngang với thần thánh, trong phút chốc làm Phù Đổng Thiên Vương. Nhưng thời đại bây giờ không phải như ngày xưa mà khó tìm kiếm thông tin để đọc, để biết về đặc điểm cũng như tính năng của loại vũ khí tương đối cũ hoặc phổ biến nào đó như 37mm Cannon. Vậy mà anh nhà báo tác giả bài viết vẫn hồn nhiên viết bài, gửi đăng và người biên tập, đặc biệt là đồng chí tổng biên tập vốn dĩ có thói quen săm soi từng chữ cũng hồn nhiên cho đăng. Bài hot mà!
Kết quả là câu chuyện chém gió này gây trò cười cho không ít người và một lần nữa nó làm nhiều người cảm thấy buồn, thậm chí tổn thương bởi sự trung thực đã biến mất (chí ít là) trong người cầm bút (này). Bởi vô hình trung, một cách hết sức tự nhiên, một lần nữa, khái niệm bồi bút lại được nhắc đến, nó cho thấy người cầm bút không những cẩu thả, thiếu lòng tự trọng mà còn thiếu cả những kiến thức rất cơ bản trước khi xây dựng một câu chuyện (dù là chuyện để tô son, trét phấn).
Đương nhiên, trong cái buồn cũng có cái vui, bởi lẽ, qua đó, độc giả một lần nữa xác tín về những gì họ hoài nghi, nhìn thấy ở giới cầm bút nhà nước, họ không còn phải phân vân hay lưỡng lự trong chuyện có nên chọn  thông tin báo chí nhà nước để làm tiêu điểm truyền thống troing cuộc sống hằng ngày hay không? Và nhiều người chắc chắn đã có câu trả lời dứt khoát, tránh tình trạng nấn ná, lưỡng lự. Đó cũng là cái hay.
Câu chuyện thứ hai, cũng là chuyện nâng bi cho nhân vật, nhưng có khác câu chuyện thứ nhất. Ở câu chuyện thứ hai, nói về một viên công an ở thành phố Đà Nẵng trong đêm sau lễ hội bắn pháo bông, anh đã cúi xuống nhặt rác bỏ vào bao tải giúp người phu quét đường. Và bài báo này xem đây là hành vi đẹp, hết lời ca ngợi viên công an này.
Mới đọc qua cũng thấy rằng xã hội Việt Nam lộn xộn cỡ nào và cách định nghĩa cũng như hiểu về chức năng công việc của một nhà báo như tác giả bài báo này bị cụt cỡ nào. Bởi chức năng cơ bản của một công an không phải là đi nhặt rác. Đương nhiên việc này cũng không thừa nếu như anh ta thực hiện chức năng của mình đầy đủ và nếu thấy thừa thời gian, anh có thể giúp người khác, đó là chuyện rất bình thường, giống như hàng triệu con người khác đang giúp đỡ nhau trong xã hội, chẳng có gì đáng bàn.
Nhưng ở đây, có hai vấn đề, thử hỏi, công an Việt nam có bao giờ làm đúng và đủ chức năng bảo vệ an ninh cho nhân dân? Nếu không muốn nói là họ từng đánh chết người, từng cưỡng chế nhân dân và từng “thấy là hốt liền” những người biểu tình chống Trung Quốc xâm chiếm lãnh hải Việt Nam.
Hơn nữa, nếu là chuyện bình thường thì có gì đáng nói? Sao lại phải ca ngợi như thế? Phải chăng bài báo này muốn lột trần sự xấu tệ của ngành công an và xem hành vì của viên công an trên là một sự bất thường, là tiêu biểu hay gì gì đó?
Khả năng thứ hai là lột trần cái xấu có vẻ như không xãy ra. Nhưng khả năng viết bài để ca ngợi “công an nhân dân” là chắn chắn có. Trong khi đó, một nhà báo, khi ca ngợi một vấn đề gì đó, trước nhất phải coi lại bản chất cũng như sứ mệnh và chức năng của đối tượng. Khi mà ngay trong chức năng, sứ mệnh của bản thân chưa bao giờ trọn vẹn lại đi diễn trò để được ca ngợi là chuyện quá tệ, không đáng bàn, thậm chí đáng khinh.
Ngược lại, nếu như đối tượng đã làm xong chức năng, sứ mệnh của bản thân và muốn chia sẻ thời gian rảnh rỗi của bản thân bằng cách giúp một ai đó thì cũng là chuyện bình thường. Trừ khi xã hội đó không bình thường, cách định nghĩa xã hội của người chứng kiến sự việc cũng không bình thường thì cái nhìn của người ta trở nhên bất thường và bất kì việc cỏn con nào cũng xé cho to.
Và hơn hết, khi xã hội quá hiếm chuyện tốt, hiếm nghĩa cử hay hành vi tốt, một chuyện cỏn con cũng mang ra ca ngợi, nhào nặn nó thành một hành vi tiêu biểu hoặc một hiện tượng có tầm vóc thì rõ ràng là xã hội đó bất ổn. Và kẻ ca ngợi, thần thánh hóa nó quá thiển cận, nếu không muốn nói là đánh mất lòng tự trọng cũng như khả năng nhận định giá trị con người thông qua chức năng và sứ mệnh của công việc ở một người cầm bút.
Điều này chỉ chứng minh rằng báo chí nhà nước vốn quen ca ngợi của Việt Nam hiện tại đã trở nên trơ trẽn và không còn khả năng căn bản nhất của báo chí là ghi chép thực tại, nhìn nhận và đánh giá thực tại bằng một cách nào đó khách quan nhất.
Ngày Báo Chí Quốc Tế, tự dưng thấy báo chí Việt Nam vừa có chút gì đó khôi hài, lại vừa có điều gì đó thật khó nói, chí ít là cũng khó nói về giá trị, phẩm cách của người cầm bút nhà nước trong hiện tại. Thật đáng buồn và khôi hài!

VÕ THỊ HẢO * MỪNG 30-4

Mừng 30/4: „Văn tự bán nước“ giá bao nhiêu?


Nhà văn Võ Thị Hảo
„Văn tự bán nước“ giá bao nhiêu?
Máu của người VN và đất nước thì vô giá. Nhưng nó trở nên mạt hạng, quá rẻ rúng trong tay những nhà cầm quyền VN bán nước…
  • Giàn khoan TQ mừng 30/4 VN
10h 18’ ngày 30/4/2015, Trung quốc đã cho một giàn khoan nước sâu mới mang tên Hưng Vượng, tương tự giàn khoan Hải Dương 981 hoạt động phi pháp trong  năm 2014 xuống khu vực biển Đông.
 Thật mỉa mai khi trong khi đó, người phát ngôn Bộ Ngoại giao TQ lại lớn tiếng đổ tội cho VN.
Tại cuộc họp báo ngoại giao ngày 29/4, phát ngôn viên Hồng Lỗi nói : từ lâu, các nước ASEAN cá biệt như Philippin, Việt Nam xây dựng rầm rộ ở đảo đá Trường Sa xâm chiếm phi pháp của Trung quốc, tiến hành lấn biển xây đảo quy mô lớn, thi công các công trình cố định như sân bay…”.
Qua giám sát của VN và quốc tế, thì chính TQ đã lấn chiếm và xây dựng các đảo đó lâu nay và vấp phải sự chỉ trích mạnh mẽ của khối ASEAN, Mỹ và nhiều nước trên thế giới.
 Đây là một “cái tát trời giáng” của TQ vào VN để mừng 40 năm ngày VN độc lập và thống nhất”.
 Hành động này cũng bộc lộ những “kết quả âm” cho VN sau chuyến đi trong tháng tư của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và đoàn tùy tùng cấp cao VN, sau khi hai bên vừa ký hộc tốc 9 văn bản cam kết “giải quyết những bất đồng trên biển Đông” và “hợp tác chặt chẽ giữa hai đảng cộng sản anh em”!
Sở dĩ TQ đã xâm lược, đang xâm lấn và còn xâm lược VN, không phải chỉ vì TQ quá mạnh, quá tham, VN quá nhỏ. Đó là do nhiều người trong số nhà cầm quyền VN đã chấp nhận, đã làm tay trong, “rước voi về giày mả tổ” chỉ để bảo vệ kho và quyền lợi sặc mùi xú uế của họ.
* Tự chuốc họa cho nước
Lẽ ra 30/4 năm nay là một cơ hội cực lớn cho việc hòa giải và hòa hợp dân tộc VN, đưa VN thoát ra khỏi họa xâm lăng cũng như thoát khỏi thảm họa vỡ nợ và bạo loạn.
Nhưng đại lễ mừng 30/4 với vô số pháo hoa, diễu binh và lễ lạt từ những đồng tiền tước đoạt từ mồ hôi nước mắt người dân ấy chỉ là một dịp để nhà cầm quyền VN ra sức kể công với người dân. Họ luôn vỗ ngực dương dương tự đắc, kiếm cớ diễn tuồng tôn vinh bong ma“cha già dân tộc” Hồ Chí Minh(theo nhiều nguồn tư liệu, trong đó có nguồn từ TQ nói rằng ông này chính là gián điệp TQ cài vào VN) để làm bình phong cho đám tư bản đỏ man rợ tung hoành.
Nhân dịp này, diễn văn của Thủ tướng VN cũng khẳng định VN kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, lên án mạnh mẽ khác thường “tội ác của đế quốc Mỹ” cách đây đã 40 năm. Trong khi đó,  Mỹ đang được VN xác định là quan hệ hợp tác toàn diện. Mỹ đang giúp VN trên rất nhiều lĩnh vực, đặc biệt là bảo vệ lãnh hải. VN lại đang cố gắng được Mỹ chấp nhận vào TPP càng vào sớm càng tốt.
Lại càng đáng ngạc nhiên vì sự đối xửa bất công của VN nếu so giữa Mỹ và TQ. TQ đã mở cuộc chiến tranh xâm lược VN liên miên trong nhiều thế kỷ. Nhiều năm gần đây và đến nay TQ cũng đã giết chóc người VN, đã lấn chiếm biên giới trên bộ và trên biển nhưng VN không dám lên án, nếu có chỉ vài lời hết sức yếu ớt. Một lễ kỷ niệm xứng đáng và tôn vinh những người đã hy sinh trong trận chiến chống TQ xâm lược cũng không có, thậm chí công an còn bằng mọi cách cách cấm đoán, bỏ tù những người tưởng niệm.
Bằng cách đối xử bất công như vậy, nhà cầm quyền VN tự chuốc họa cho đất nước, cố tình lệ thuộc TQ để chặn con đường đưa VN đến một tương lai  tươi sáng hơn.
Điều này không bất ngờ vì ai cũng biết rằng trong truyền thống thì nhà cầm quyền VN luôn có biệt tài trong việc đóng sập lại những „cửa sinh“ và mau mắn mở ra cánh „cửa tử“ cho đất nước. Nguyên nhân là:  “cửa tử” cho dân lại là “cửa sinh” cho quyền lợi riêng của họ.
Trước đó, ngày 7- 10/4/2015, ông Tổng Bí thư đã “lập công đầu” khi dẫn một đoàn tùy tùng cấp cao thăm TQ. Chuyện thăm viếng, ký kết hợp tác là chuyện bình thường. Nhưng chuyến thăm này đầy những bất thường vì nội dung ký kết được dư luận phân tích chỉ là „mở cửa tử“ và „đóng của sinh“ đối với người dân VN.
  • Được „kẻ cướp“ trọng thị vì sao?
Nếu vào Google, đánh từ khóa “bán nước”, sẽ thấy hiện lên hơn 17 triệu kết quả chỉ trong vòng vài giây. Trong đó, được nhắc đến nhiều nhất là cụm từ “Đài tiếng nói nhân dân Trung Hoa xác định cộng sản Việt Nam đã bán nước”, “Nạn bám quyền bán nước hại dân của Cộng sản”, “Trò bỉ ổi mới của bè lũ cướp nước và bán nước”, „Nguyễn Phú Trọng bán nước“, Công hàm bán nước”, “Làm việc nước hay bán nước”…
Chưa xác định chắc chắn rằng những tư liệu mà dư luận đưa ra chính xác đến đâu nhưng không thể không khiến người ta nhận ra những chi tiết của một phần sự thật trong đó.
Tần số của từ „bán nước“ xuất hiện ngaỳ càng dầy đặc, sau khi dư luận đưa ra vô số thông tin rất khó bác bỏ về Công hàm „bán nước“ Phạm Văn Đồng, về Hội nghị Thành Đô của các  lãnh đạo Việt Nam „bán nước“ cho Trung quốc, rồi có nhiều tài liệu chứng minh Hồ Chí Minh – „cha già siêu hạng“ ngày đêm được ca tụng trên các phương tiện thông tin đại chúng của VN, lại là là một gián điệp của cộng sảnTrung quốc cài cắm quá hoàn hảo.
 Tiếp theo đó, chuyến thăm Trung quốc ba ngày của ông Tổng Bí thư và đoàn tùy tùng và vội vàng ký kết tới 9 văn bản hợp  tác theo kiểu hết sức khác thường, đã khiến dư luận càng thêm phẫn nộ và có những phản ứng hết sức gay gắt.
 Điều này chứng tỏ rằng những hành tung của nhà cầm quyền VN trong thời gian vừa qua,  đặc biệt là trong chuyến thăm TQ vừa rồi của ông Tổng Bí thư và đoàn tùy tùng đã được rất nhiều người VN theo dõi sát sao và bày tỏ thái độ nghi ngờ, phẫn nộ. Ai bảo rằng người VN không quan tâm đến vận mệnh đất nước?
Những ai làm lợi cho kẻ cướp, đương nhiên được kẻ cướp trọng thị, còn ban chức tước và bổng lộc.
Nỗi nhục mà tự coi là vinh quang, trong giới cầm quyền thế giới dễ có mấy người?
  • Mở „cửa tử“ để đón chào 30/4
Xem lại các văn kiện đã ký, sẽ không khó khăn gì để nhận ra tính hai mặt của những ngôn từ trong đó, và tất cả không ngoài việc chỉ thị giữ gì cho được tính ổn định của đại cục quan hệ hai nước, trong khi TQ thả sức  lấn chiếm lãnh thổ lãnh hải VN.
Lẽ ra ông Tổng Bí thư phải sang TQ để phản đối việc xâm lăng  đó, thì lại ký ngay „hai bên còn đồng ý cùng nhau nỗ lực, kiểm soát tốt các bất đồng trên biển“. Rõ ràng hành động xâm lấn của TQ là hành động kẻ cướp, thù địch, hoàn toàn không còn ở mức bất đồng. Và chính TQ phải trả lại các đảo thuộc lãnh hải VN, vậy tại sao đoàn VN lại chấp nhận ký văn bản chấp nhận kiểm soát bất đồng?!
Bản Kế hoach hợp tác giữa hai đảng Cộng sản giai đoạn 2016 – 2020, Hiệp định hợp tác dẫn độ, Bản ghi nhớ giữa hai Bộ quốc phòng về hợp tác trong lĩnh vực giữ gìn hòa bình của Liên hơp quốc, Bản ghi nhớ về việc thành lập Nhóm công tác về cơ sở hạ tầng trên bộ, Điều khoản tham chiếu Nhóm công tác tài chính tiền tệ giữa Ngân hàng Nhà nước VN và Ngân hàng nhân dân Trung quốc, Thỏa thuận các vấn đề về thuế đối với dự án thăm dò chung tài nguyên dầu khí tại Vịnh Bắc bộ , Bản ghi nhớ về hợp tác phim truyền hình chuyên đề giữa đài truyền hình VN và đài truyền hình TƯ Trung quốc…
Đây thực sự là những văn bản rất nguy hiểm, chấp nhận ràng buộc toàn diện với một nước hiện đang hành xử với VN như kẻ cướp nước và VN đang phải hết sức cảnh giác. Lẽ ra VN chỉ chấp nhận hợp tác với TQ ở một mức độ vừa phải nếu như TQ tôn trọng chủ quyền VN.
Đằng này TQ càng lấn chiếm lãnh hải VN, thì nhà cầm quyền VN càng nhu nhược và càng tự nguyện „thắt thêm thòng lọng“ vào cổ đất nước VN trên tất cả các mặt: chính trị tư tưởng, kinh tế, tài chính tiền tệ, an ninh quốc phòng, ngoại giao quốc tế và ngay cả truyền thông và văn hóa.
Hậu quả nhỡn tiền là sau ký kết thì TQ càng thêm trắng trợn hơn tỏng xâm lấn. Giàn khoan Hưng Vượng nói trên là một „cú tát trời giáng“ cho VN ngay trong dịp lễ VN đang hỉ hả ăn mừng 40 năm 30/4. Thông điệp ấy có thể phiên dịch ra ý nghĩa nào khác hơn: „Không có độc lập cho mi đâu, VN! „?!
Nhiều người cho rằng chuyến đi của Nguyễn Phú Trọng, với sự cam kết hợp tác chặt chẽ với nhà độc tài TQ, không có một mục đích nào khác hơn là để mua lấy „ngôi thái thú“ và địa vị tay sai cho một số người nào đó. Vì ghế „thái thú“ của họ đã được kê sẵn trên miệng vực rồi và chỉ việc ngồi đó an hưởng, ngắm con dân nước Việt rơi xuốn vực mà thôi.

Để bảo vệ ngôi vị họ, nhiều nhà cầm quyền VN họ bằng mọi cách chặn đứng nhưng ai muốn bảo vệ lãnh thổ VN và cải cách thể chế, đi theo khuynh hướng dân chủ và tự do. Chuyến đi vội vã này của ông Tổng Bí thư VN sang TQ trước khi sang thăm Mỹ cũng nằm trong âm mưu của TQ vô hiệu hóa khả năng giúp đỡ của Mỹ và các nước đồng minh khác cho VN chống lại sự xâm lấn ngang ngược của TQ.
Những thòng lọng trên sẽ thêm xiềng xích VN trong một thời kỳ nô lệ Bắc thuộc mới cho TQ dưới chiêu bài ký kết hợp tác chặt chẽ hơn nữa giữa hai đảng cộng sản.
Thật hài hước khi thấy những „lãnh tụ tư bản đỏ“ mà người ta biết rất rõ tài sản ra sao, con đường tiến thân thế nào, cướp bóc thế nào thủ đoạn thế nào để có, lại vẫn luồn thân dưới chiếc áo đáng ghê tởm của chủ nghĩa cộng sản để bắt tay bán nước.

„Văn tự bán nước“ giá bao nhiêu?
Máu của người VN thì vô giá. Nhưng nó trở nên mạt hạng, quá rẻ rúng trong tay những nhà cầm quyền VN bán nước.
Từ nay, mọi chuyến thăm viếng của Nguyễn Phú Trọng và phe Đảng sang Mỹ đều vô nghĩa. VN quan hệ đối tác toàn diện với Mỹ, nhận vũ khí chiến lược từ Mỹ, trong tình thế này, ai chẳng hiểu chỉ là bước chân và miệng lưỡi Trọng Thủy để đánh tráo nỏ thần giao TQ, thậm  có thể là những cuộc nghi binh để có cơ hội làm tổn hại Mỹ.
* Còn cơ nào cho VN?
Cuộc cạnh tranh giữa các nhóm quyền lực trong nhà cầm quyền VN xem ra thật thảm hại.
Vì đã đi ngược lại quyền lợi của đất nước và nhân dân nên họ trước sau cũng chỉ là những con lật đật. Chiêu trò chẳng có gì mới.  Hễ bên này dung xảo kế ra được một gậy giành thế thượng phong, thì bên kia lại lật đật xẻo thịt đất nước sang bán cho ngoại bang để mong họ ra ơn mưa móc bảo kê cho cái vị trí được tiếp tục ngồi lên đầu lên cổ nhân dân mà tiếp tục cướp bóc vinh thân phì gia.
Bên nào bán nhanh, bán ẩu, bán toàn diện với giá rẻ nhất, kẻ đó đang tạm thời giành thế thắng trong cuộc cạnh tranh này.
Nhưng kết cục còn hạ hồi phân giải. Bởi vì dẫu là ai lại có quyền ksy văn tự  bán nước.  Nước VN là của mọi người VN dù ở nơi đâu trên thế giới và người VN sẽ đòi lại.
VTH

NGUYỄN THỊ TỪ HUY * DI CHUC HỒ CHÍ MINH

Di chúc Hồ Chí Minh : từ bản thứ nhất tới bản thứ hai (II)


2. Nguyện vọng về việc chôn cất.
Đọc cả hai bản gốc di chúc còn lại ta thấy rằng việc chôn cất sau khi chết là một việc vô cùng quan trọng đối với Hồ Chí Minh. Quan trọng đến mức trong bản di chúc thứ hai, ông đưa việc này lên đầu văn bản, thay vào vị trí dành cho Đảng trong bản di chúc thứ nhất.
 Cần nhấn mạnh rằng mong muốn của ông Hồ về việc hỏa táng là không thay đổi. Đó là mong muốn duy nhất của ông.
Theo những gì được ông trực tiếp trình bày trong di chúc, thì ông muốn làm gương cho hình thức hỏa táng, vốn không phải là một truyền thống của người Việt, vì các lý do được ông giải thích rõ : « Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức là “hỏa táng”. Tôi mong rằng cách “hỏa táng” sau này sẽ được phổ biến. Vì như thế đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất ruộng. Khi ta có nhiều điện, thì “điện táng” càng tốt hơn. »
Câu này được giữ nguyên trong cả hai văn bản. Chứng tỏ đó là ý nguyện bất di bất dịch của Hồ Chí Minh, điều mà ông đã suy ngẫm rất kỹ. Hơn nữa ông dùng chữ « yêu cầu », chứ không phải « đề nghị ». Đó là một mệnh lệnh. Để thấy rằng nguyện vọng này là một nguyện vọng hết sức quan trọng.
Tóm lại, những điều ông Hồ giữ nguyên trong cả hai bản di chúc : di nguyện chọn hình thức hỏa táng, không tổ chức tang lễ linh đình, tránh lãng phí thời giờ và tiền bạc của nhân dân.
Dưới đây là các thay đổi liên quan đến việc chôn cất tro, sau khi hỏa táng :
Ở văn bản năm 1965 có ba đoạn ngắn, tôi trích nguyên văn:
Tro xương thì tìm một quả đồi mà chôn. Gần Tam Đảo và Ba Vì như hình có nhiều đồi tốt. Trên mộ, nên xây 1 cái nhà zản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ để những người đến thăm viếng có chỗ ngỉ ngơi.
Nên có kế hoạch trồng cây trên đồi. Ai đến thăm thì trồng một cây làm kỷ niệm. Trồng cây nào fải tốt cây ấy. Lâu ngày, cây nhiều thành rừng, sẽ tốt cho fong cảnh và lợi cho nông nghiệp.
Nếu tôi qua đời trước ngày nước ta được thống nhất, thì nên gửi một ít tro xương cho đồng bào miền Nam.
Ở văn bản năm 1968 cũng có ba đoạn, tôi trích nguyên văn :
Tro thì chia làm 3 fần, bỏ vào 3 cái hộp sành. Một hộp cho miền Bắc. Một hộp cho miền Trung. Một hộp cho miền Nam.
Đồng bào mỗi miền nên chọn l quả đồi mà chôn hộp tro đó. Trên mả, không nên có bia đá tượng đồng, mà nên xây 1 ngôi nhà zản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ, để những người đến thăm viếng có chỗ ngỉ ngơi.
Nên có kế hoạch trồng cây trên và chung quanh đồi. Ai đến thăm thì trồng một vài cây làm kỷ niệm. Lâu ngày, cây nhiều thành rừng sẽ tốt cho fong cảnh và lợi cho nông nghiệp. Việc săn sóc nên zao fó cho các cụ fụ lão.
Đối chiếu hai văn bản, ta thấy:
Ở văn bản 1965, Hồ Chí Minh đề nghị chôn toàn bộ tro di hài của ông trên một ngọn đồi ở miền Bắc, và ông gợi ý ở vùng gần Tam Đảo và Ba Vì. Ông cũng hình dung rằng ông có thể mất trước khi đất nước thống nhất nên đề nghị gửi một ít tro xương cho đồng bào miền Nam.
Ở văn bản năm 1968, Hồ Chí Minh thay đổi ý nguyện. Ông đề nghị chia tro ra ba phần, nói rõ là bỏ vào 3 cái “hộp sành”, cho cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Đồng thời, mỗi miền chọn một quả đồi để chôn tro di hài.
Điều thống nhất ở cả hai văn bản là ông đề nghị trồng cây lên đồi, biến nơi chôn cất thành một rừng cây. (Đọc đến đây hẳn quý độc giả không thể không liên tưởng đến sự kiện đang là thời sự : lãnh đạo thành phố Hà Nội « thực hiện di chúc Hồ Chí Minh » bằng cách quyết tâm triệt hạ bằng được 6.700 cây ở thủ đô, triệt hạ môi trường sống của người dân thủ đô và của chính họ. Đồng thời quý độc giả hẳn cũng không khỏi ngậm ngùi trước việc những người bảo vệ cây xanh bị chính quyền đàn áp bắt bớ).  Thậm chí ông Hồ còn dặn đến tận chi tiết nhỏ là việc chăm sóc giao cho các cụ phụ lão, tức là những người đã ở tuổi nghỉ ngơi, không còn lao động nữa.
Và mọi người dân Việt Nam đều biết, di nguyện của Hồ Chí Minh đã bị phản bội, cho tới tận lúc này, đã 46 năm kể từ khi ông mất. Ông Hồ bị phản bội từ di nguyện quan trọng nhất tới tận từng chi tiết nhỏ nhất của di chúc.
Hẳn còn có nhiều dịp, cho nhiều người, để phân tích vì sao Hồ Chí Minh chọn chết và chôn theo cách đó.  Cá nhân tôi cũng có những nhận định riêng của mình, nhưng lúc này chưa phải là lúc đi vào phân tích cụ thể. Như đã nói, ở đây tôi chỉ trình bày sự đối chiếu giữa hai bản di chúc năm 1965 và 1968 để thấy Hồ Chí Minh giữ lại điều gì, bỏ đi điều gì. Từ đó xác định điều gì quan trọng đối với ông, và điều gì đã thay đổi trong nhận thức của ông.
Từ đó để chúng ta cùng suy nghĩ về bi kịch của Hồ Chí Minh, và bi kịch của cả dân tộc.
Bi kịch ấy bắt nguồn từ chính con đường mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn : chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội. Con đường mà một nửa châu Âu cũng đã lựa chọn, nhưng đã từ bỏ, hai thập kỷ sau khi Hồ Chí Minh mất. Hồ Chí Minh mất năm 1969, bức tường Berlin sụp đổ năm 1989.
Việc tôi đã làm trên đây là dựa vào các văn bản do Hồ Chí Minh viết, và tôi chỉ thuần túy nói về các văn bản này, về những gì mà văn bản trình bày, không đi ra ngoài văn bản, nghĩa là không nói đến Hồ Chí Minh ở những khía cạnh mà văn bản di chúc không bộc lộ.
Nghĩa là tôi ý thức được rằng Hồ Chí Minh, cũng như cuộc chiến tranh 54-75 ở Việt Nam, là nhân vật và sự kiện lịch sử chịu sự đánh giá từ nhiều phía và hết sức phức tạp. Và tôi cũng đã xác định rõ rằng ở đây tôi không tham gia vào việc đánh giá về Hồ Chí Minh vì đó không phải là mục đích của bài này, nhưng cũng không phủ nhận rằng tôi có thể làm việc đó vào một lúc khác.
Nói về một người đã chết thì dễ ở chỗ là họ chẳng còn sống để tự bảo vệ mình, nên ai muốn nói gì cũng được. Nhưng cũng khó là ở chỗ làm sao để công bằng đối với người đã chết, để không hiểu sai họ, cũng chính vì lý do là họ không còn sống để có thể tự bảo vệ mình.
Vậy, ý thức về sự công bằng khiến cho tôi tự nhủ rằng, nếu muốn đưa ra nhận xét hay kết luận về một người đã chết thì phải dựa vào bằng chứng cụ thể và xác thực, những bằng chứng được xác nhận. Đó là cách của tôi.

Dưới đây là một vài lời dành cho các bạn thanh niên, sinh viên đang bị tẩy não bởi phong trào « học tập tư tưởng Hồ Chí Minh », một chiến dịch tuyên truyền được đảng và Ban Tuyên giáo thực hiện từ nhiều năm nay.
Qua phân tích của tôi có lẽ các bạn cũng đã thấy rằng bản thân Hồ Chí Minh còn không quyết định được số phận của mình, không quyết định được về thân xác của mình. Làm sao ông ấy có thể quyết định tương lai cho cả dân tộc ?
Bản thân Hồ Chí Minh còn không biết được thể xác của ông ấy sẽ bị đối xử như thế nào, dù đã hết lòng dặn đi dặn lại từ bản di chúc này đến bản di chúc kia, thì làm sao ông ấy đảm bảo được cho các bạn con đường lên chủ nghĩa xã hội ? Làm sao ông ấy đảm bảo được tương lai cho các bạn ?
Chính các bạn mới là người quyết định tương lai của mình. Chính các bạn mới là người quyết định lựa chọn con đường nào cho các bạn và cho dân tộc, bởi các bạn là thành tố hợp thành dân tộc này. Chính các bạn mới là người lựa chọn xây dựng một xã hội như thế nào để có thể đảm bảo cuộc sống tốt đẹp cho tất cả các bạn. Chính các bạn, không ai khác, phải gánh lấy trách nhiệm đó.
Các bạn có trí tuệ là để tự chịu trách nhiệm về hành động, về suy nghĩ, về lựa chọn của các bạn. Nếu không, trí tuệ của các bạn sẽ dùng vào việc gì ?
Các bạn không thể đổ lỗi cho Hồ Chí Minh, một người đã chết, về việc các bạn là nạn nhân của cỗ máy lừa dối khổng lồ mà đảng đang lê khắp mọi thôn cùng ngõ hẻm trên đất nước này, đang lê khắp mọi trường đại học. Không ! Các bạn phải tự chịu trách nhiệm nếu để cho người ta biến các bạn thành nạn nhân, nếu để cho người ta lừa dối các bạn. Vì chính các bạn đã lựa chọn trở thành nạn nhân trong khi mà các bạn hoàn toàn có thể từ chối cái trò « học tập » dối trá đó.
Hồ Chí Minh phải chịu trách nhiệm về những việc ông ấy đã làm khi còn sống (người ta sẽ còn phân tích nhiều về trách nhiệm của ông ấy).
Nhưng nay ông Hồ đã chết, ông ấy không còn chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của các bạn ngày hôm nay.
Tôi có thể nói với các bạn rằng, cá nhân tôi, một người sinh ra sau khi ông Hồ chết, tôi phải chịu trách nhiệm về mọi việc tôi làm. Tôi không thể nào đổ lỗi cho một người đã chết trước khi tôi ra đời.
Nếu tôi thất bại thì đó là lỗi của tôi, vì tôi kém nên tôi thất bại.
Nếu tôi chọn sai đường, thì đó là lỗi của tôi, vì tôi thiếu hiểu biết nên tôi chọn sai đường.
Nếu tôi đặt niềm tin vào nhầm người, thì đó là lỗi của tôi, vì tôi không biết cách nhìn người.
Nếu tôi bị lừa, thì đó là lỗi của tôi, vì tôi đã không sử dụng trí tuệ của mình nên mới để cho người khác lừa.
Những gì tôi đã làm, tôi phải chịu trách nhiệm. Tôi không có lý do gì để đổ lỗi cho người khác, lại càng không có lý do gì để đổ lỗi cho một người đã mất.
 Tôi cũng không có lý do gì để đặt số phận mình vào lựa chọn của một người đã chết (một người mà ngay đến thân xác của mình còn không tự quyết định được, linh hồn không siêu thoát được suốt từ 46 năm nay). Tôi phải chịu trách nhiệm về lựa chọn của mình.
Các bạn cũng vậy. Các bạn là người chịu trách nhiệm về mọi việc các bạn làm, mọi điều các bạn nghĩ, mọi lựa chọn của các bạn. Các bạn là người chịu trách nhiệm về mọi hậu quả do các bạn gây ra, hay mọi thành công mà các bạn đạt được.

Paris, 5/5/2015
Nguyễn Thị Từ Huy

Monday, May 4, 2015


NGUYỄN BÁ CHỔI * VIỆT CỘNG 30-4

Mừng 40 năm: giễu văn với giễu binh

Ăn mừng đại thắng thật dzui:
Giễu văn đi với giễu binh một tuồng
Nguyễn Bá Chổi (Danlambao) - Bài đọc của Thủ tướng Ba Ếch trong buổi lễ mừng 40 năm Ngày Thống nhất Đất Nước tại Thành Hồ vừa qua đã khiến cho một bộ phận không nhỏ trong lẫn ngoài quần chúng nhân dân chưng hửng, ngạc nhiên, nhưng dù ai có phản động đến mấy cũng đều phải công nhận đó là một bài giễu văn rất "ăn khớp" với cuộc giễu binh (nhấn mạnh: khác với diễu binh) của quân ta anh hùng.
Sau đây là những nét giễu trong bài văn đọc trước khi đoàn quân vừa đi vừa giễu:
Một là, Trong đoạn "Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là một trang sử hào hùng trong lịch sử dựng nước và giữ nước vĩ đại của dân tộc ta. Chúng ta đã hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang là giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa nước ta bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của độc lập, thống nhất và cùng nhau xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa - dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.", người nghe thấy lù lù cù thằng khố rách áo ôm, ăn mày bị gậy đi cứu đói anh nhà giàu; anh đang bị trói tay bịt miệng đi giải trói giải bịt cho chị thoải mái tự do; thống nhất là thống nhất trong cảnh đói phờ râu cả nước, đến độ phải "đổi mới tư duy" quy hàng Tư Bản học đòi làm ăn theo Kinh tế Thị trường; độc lập theo kiểu không dám gọi đích danh tàu Tàu vào hải phận trấn lột ngư dân VN lại phải gọi là "tàu lạ"; còn "dân chủ" VN vô địch thế giới về số người "tự tử" trong đồn Công An; "công bằng" thì nhà dân thu trăm lần nhà thờ họ nhà Ếch; "văn minh" thì chỉ cần xem hình ảnh nam thanh nữ tú bu nhau bẻ đào Nhật, giật hoa tre ở lễ hội Thánh Gióng, hay mới nhất là cảnh Hỗn loạn "Bikini Hà Nội" (1) của thanh niên "Thủ đô của phẩm giá con người"
Hai là, "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào": Mỹ nó đã tự cút khỏi Miền Nam sau khi đã dàn xếp "nước VN ta anh hùng" xong xuôi với "anh cả" Chai Na từ năm 1973, chứ đâu phải chờ đến 1975. Ngày 30 Tháng Tư ta vừa đốt pháo,"nổ" ăn mừng 40 năm đại thắng là đại thắng nhân dân Miền Nam (nên mới có câu "Tiến lên chiến sĩ đồng bào, Đánh cho chết mẹ đồng bào Miền nam". Quân Ngụy tuy có "nhào" đấy, nhưng nó có đánh đấm gì đâu. Ngụy chỉ bỏ chạy thôi, chạy không phải vì hèn nhát, nhưng chạy vì súng đạn do Mỹ viện trợ đã bị cúp, trong khi trái lại, bộ đội cụ Hồ được Liên Xô, Chai Na thừa thắng Hiệp định Paris 73 xông lên tăng cung cấp dồi dào chiến cụ đủ thứ "chất lượng" lẫn "số lượng", nên mới có chuyện trong giễu văn, Ba Ếch đã không ngớt ca ngợi, cảm ơn Chai Na và Liên Xô, mặc dầu "ông" Liên Xô chết banh xác đã 25 năm rồi, tượng ông nội Lê Nin đã bị tròng cổ lôi ra bãi rác nằm sấp ngửa lền kên.
Ba là, "...nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quí hơn độc lập tự do. Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành mệnh lệnh thiêng liêng của lý trí và trái tim của mỗi người Việt Nam." Cái Độc lập tự do không có gì quý hơn của "bác Hồ" đưa ra dụ khị đồng bào đi theo CS đâu phải thứ độc lập tự do "cái con c.c" của tên Trung tá Côn an Vũ Văn Hiển Phường 3 Quận 10 TP Hồ Chí Minh quang vinh kia. Tự do như cái con trong quần nên khi nào cũng được đảng ta bịt kín túm kỹ bằng điều 258 Bộ luật Hình Sự...
Bốn là, "Chúng ta luôn ghi nhớ và biết ơn các đồng chí Lão thành cách mạng, các Mẹ Việt Nam Anh hùng, các Anh hùng lực lượng vũ trang, các thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với nước, các cựu chiến binh, cựu thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến cùng đồng bào, đồng chí trên mọi miền đất nước, đồng bào ta ở nước ngoài đã cống hiến máu xương, trí tuệ, tài năng, công sức, của cải cho cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại". Lão thành Cách Mạng thì nay đã nhiều vị oải Cách Mạng ra mặt lắm rồi, bỏ thẻ đảng hơi bị nhiều; anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thì ngực mang huân chương tay cầm bảng kêu oan; gia đình liệt sĩ lắm kẻ đã thành liệt sức vì kêu oan đã bao nhiêu năm; bà mẹ đóng góp của cải cho Cách Mạng có ai nhiều bằng Bà Cát Hạnh Long Nguyễn Thị Năm đã bị C.B (Của Bác) kết tội qua bài viết bài "Địa chủ ác ghê", và sau đó bác Hồ bịt râu giấu mặt đi coi đấu tố rồi giết tại chỗ rồi về sau bác giễu trò khóc hu hu.
Năm là, chửi Mỹ Ngụy như tát nước vào mặt người ta trong khi VN đang mong được Mỹ cho gia nhập Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương TPP (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement); đang hợp tác với Mỹ trong nhiều lãnh vực, kể cả quốc phòng, đào tạo giáo dục; đang kêu gọi quên hận thù, hòa giải hòa hợp; đó là chưa nói đến chuyện cá nhân mình đang làm sui gia với Ngụy gộc, và cháu ngoại đầu tiên là công dân Mỹ.
Sáu là,... nếu kể cho hết những cái giễu trong bài diễu văn của Thủ tướng Ba Ếch vừa rồi thì cho tới khi xây dựng xong CNXH của bác Cả Lú đã hết chưa. Nhưng bấy nhiêu cái giễu thôi cũng đã thừa sức "ăn khớp" với cảnh giễu binh sau đó.
Giễu binh thay vì diễu binh, là vì ai đời, trên khán đài Thủ tướng hô "đánh cho Mỹ cút.." mà dưới đường quân chiến thắng áo quần bảnh bao, giày mũ đàng hoàng, sắp hàng đi chân hất hất, cẳng nện nện, mặt gằm gằm, tay ôm cứng cây súng M.18 của Mỹ.
Đúng là:
Ăn mừng đại thắng thật dzui:
Giễu văn đi với giễu binh một tuồng...
04.05.2015

NGUYÊN THẠCH * VIỆT CỘNG VÀ 30-4

Nỗi cô đơn của đảng CSVN cùng sự khờ khạo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong ngày 30-4
Nguyên Thạch (Danlambao) - Ngày 30 tháng Tư 1975, đảng CSVN đã vi phạm hiệp định Paris, thôn tính VNCH và từ đó luôn có thái độ hãnh tiến rằng đã đánh gục được "đế quốc Mỹ, con sen đầm quốc tế". Cố tật ấy kéo dài cho đến ngày 30-4 năm nay 2015 khi Nguyễn Tấn Dũng phát biểu: "Đế quốc Mỹ đã ngang nhiên áp đặt chế độ thực dân kiểu mới, biến miền Nam Việt Nam thành căn cứ quân sự của Mỹ, đàn áp tàn bạo Cách mạng miền Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại khốc liệt ở miền Bắc. Chúng đã gây ra biết bao tội ác dã man, biết bao đau thương, mất mát đối với đồng bào ta, đất nước ta".
*
 
Trong bối cảnh đầy bất lợi khi cả nước phải sống với lũ, khi toàn dân đã thấy được bộ mặt ô uế của một nhà cầm quyền không giải quyết được quốc nạn tham nhũng, cùng sự lo ngại về nợ nần chồng chất của đất nước với mức độ lệ thuộc Tàu cộng trầm trọng, đảng CSVN biểu lộ rõ nét về sự cô đơn của mình qua những hình ảnh của buổi diễu hành của cái ngày được mệnh danh là "chiến thắng thống nhất đất nước".
Người quan sát không nhìn thấy được hào khí "hồ hởi phấn khởi" như thuở nào trên gương mặt của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Bộ trưởng Bộ quốc phòng Phùng Quang Thanh cùng nhiều đại biểu cộng sản khác. Đặc biệt Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, tuy cố thể hiện nét vui tươi nhưng cũng không giấu
được nét giả tạo cùng sự trơ trẻn trên khuôn mặt. Bên cạnh, ông Nguyễn Tấn Dũng cũng đã vướng phải những điều vô cùng tế nhị trong hoàn cảnh của Việt Nam trong tình hình căng thẳng giữa Trung Cộng với Nhật, Ấn Độ, Mỹ... cho tình trạng Biển Đông cùng sự bất ổn của nó. Người Thủ tướng của một quốc gia đã không có được sự thông minh tối thiểu hầu tránh né những bất lợi cho cá nhân và đất nước cũng như không có được nhạy cảm để tranh thủ giành lấy những thuận lợi từ các quốc gia liên hệ khác ngoài Trung Cộng. Điều này, đã nói lên rằng chẳng những ông không có được sự tinh tế trong bang giao quốc tế mà còn thể hiện rõ nét sự thuần phục thiên triều một cách ngoan ngoan ngoãn. Phải chăng ông Nguyễn Tấn Dũng đã chấp nhận chọn một con đường độc đạo cho Việt Nam mà không có lối về?.
Nếu cố mở lòng để nhìn đảng và nhà nước Việt Nam ở góc độ của hai chữ "Trung Tín" thì quả thật đảng CSVN ở thời điểm này đã giữ được thái độ "Trung Tín" của nó đối với Bắc Triều. Nhưng sự "trung tín" đó đã bị quan thầy Bắc Kinh chẳng những không tôn trọng mà còn tỏ ra rất xem thường bằng nhiều động thái của kẻ cả như chiếm đất, lấn biển thuộc chủ quyền của Việt Nam một cách lộ liễu trắng trợn với mục đích đặt Việt Nam trong tình huống của sự việc đã rồi, phải chấp nhận và sẽ phải hợp thức hóa vấn đề Biển Đông, Hoàng Trường Sa nhằm hậu thuẫn cho Trung Cộng trong tranh cãi quốc tế.
Cảnh lố lăng trong buổi diễu binh ăn mừng chiến thắng của đảng cộng sản. 
Ảnh: AP Photo/Na Son Nguyen
Ngày 30 tháng Tư 1975, đảng CSVN đã vi phạm hiệp định Paris, thôn tính VNCH và từ đó luôn có thái độ hãnh tiến rằng đã đánh gục được "đế quốc Mỹ, con sen đầm quốc tế". Cố tật ấy kéo dài cho đến ngày 30-4 năm nay 2015 khi Nguyễn Tấn Dũng phát biểu: "Đế quốc Mỹ đã ngang nhiên áp đặt chế độ thực dân kiểu mới, biến miền Nam Việt Nam thành căn cứ quân sự của Mỹ, đàn áp tàn bạo Cách mạng miền Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại khốc liệt ở miền Bắc. Chúng đã gây ra biết bao tội ác dã man, biết bao đau thương, mất mát đối với đồng bào ta, đất nước ta".
Cuộc diễu hành trong ngày 30-4 năm nay, đảng CSVN đã cảm nhận được sự thờ ơ lạnh lùng của dân chúng cả nước, của sự bất mãn như ẩn chứa những đợt sóng ngầm trong lòng đại dương sẵn sàng dậy nên một cuộc cách mạng nhằm giải thể một thể chế mụ mị, hung bạo đầy tráo trở đã đưa đất nước đến bờ vực thẳm vong nô và tụt hậu. Thái độ này của toàn dân cũng đã xác định được nếp suy nghĩ đúng đắn, phù hợp với những diễn tiến xung quanh đang xảy ra mà cả hai đảng CSVN và CSTQ sẽ không còn lối thoát.
Lưới Trời luôn lồng lộng, ác lai thì ác báo.
01.05.2015

30-4- TẠI CANADA-QUỐC HỘI TREO CỜ RỦ

Đặc biệt là Quốc Hội Canada đã treo cờ rủ trong Ngày Lể Tưởng Niệm 30-4 .
Đoàn người xếp hàng đi tới Quốc Hội trên đường phố Thủ đô Canada.
Canada.
Đoàn đã vào sân Quốc Hội.... phía sau đoàn còn rất dài trên đường.
Lửa Tưởng Niệm.

Sunday, May 3, 2015


HỒI ỨC TÙ BINH MỸ

Phi công Mỹ ở Hỏa Lò 'mong ngày tự do'

28 tháng 4 2015 Cập nhật lúc 23:13 ICT
Một Thiếu tá Hải quân Mỹ ngồi tù ở Hỏa Lò hơn bảy năm khi chiến đấu cơ bị trúng đạn kể lại cho BBC về những gì đã xảy ra.
Vào tháng 10 năm 1965, phi cơ của Thiếu tá Tá Hải quân David Wheat và phi công trưởng là Trung Tá Roderick Mayer điều khiển bị bắn hạ ở miền Bắc Việt Nam. Ông David Wheat bị bắt và đưa về nhà tù Hỏa Lò ở Hà Nội trong khi đồng đội tử nạn. Cuộc phỏng vấn dành cho Nguyễn Hoàng của BBC tiếng Việt thực hiện vào tháng 04/2015 ở California.
BBC: Nhiệm vụ của ông được giao trong lần bay bị bắn hạ là gì?
David Wheat: Nhiệm vụ của lần không kích đó của chúng tôi là ném bom một cây cầu ở Thái Nguyên để chặn đường tiếp tế từ Trung Quốc sang. Khi phi cơ của chúng tôi bị trúng đạn thì vì được huấn luyện từ trước tôi thấy là cần phải bấm nút để bật thoát ra ngoài. Và khi xuống đất rồi thì tôi tháo dây dù ra và bò ngược lên đồi và trốn trong bụi cây. Tôi có thể nhìn thấy đồng đội của tôi vẫn còn dù gắn vào người và anh ta bị thương rất nặng. Tôi nghĩ rằng một hai ngày sau đó thì anh ta qua đời.
Lúc đó tôi bị thương ở đầu gối và không đi được. Khi dân quân phát hiện ra tôi thì họ lục soát xem trong người có gì hay không và dẫn đi. Có người nhổ nước bọt vào tôi. Có hai dân quân đỡ tôi để đi lên đồi và sau đó họ kiếm được một cái cáng và đưa tôi đi. Rồi từ làng này qua làng khác và rốt cùng là dùng xe quân sự chở tôi về Hỏa Lò hay còn gọi là ''Khách sạn Hilton'' vào sáng sớm.
BBC:Việc hỏi cung được thực hiện như thế nào?
Tôi được đưa vào một phòng giam khoảng 12 foot vuông (9 mét vuông) và trong phòng không có gì cả. Chỉ là nền gạch đỏ và tôi nằm xuống ngủ vì tôi mệt quá. Chẳng bao lâu sau thì họ hỏi cung tôi. Vào thời điểm đó là giai đoạn kể như đầu tiên của tù binh chiến tranh nên những gì tôi khai họ cũng không biết thực hư thế nào. Một ngày hỏi cung hai lần, một lần vào khoảng 10 giờ sáng và một lần vào khoảng 5 giờ chiều.
Và tôi bắt đầu nghĩ tới cách liên lạc với các tù binh ở các phòng giam khác như thế nào. Bữa ăn thì có cơm với bí ngô và thỉnh thoảng có chuối, nghiền ra ăn cùng với cơm.
BBC: Ông trao đổi với tù binh khác trong nhà giam như thế nào?
Trong khu nhà giam chúng tôi thì có khoảng 6-8 phòng giam và mỗi người bị giam riêng biệt. Chúng tôi đã được học cách gõ vào tường để liên lạc với nhau bằng mã riêng và chỉ cần dùng một bàn tay là có thể ra ký hiệu về chữ cái và số. Chúng tôi cũng thỉnh thoảng ho hoặc hắng giọng theo cách mã hóa các chữ cái để nói chuyện với nhau.
Chúng tôi cũng viết lên giấy đi vệ sinh để liên lạc với nhau hoặc khi bị thẩm vấn thì đôi khi bẻ đầu bút chì và gài mẩu chì đó vào quần áo để dùng sau này khi cần viết cho nhau. Và hộp thư của chúng tôi nằm trong nhà tắm, để ở chỗ không ai để ý cả. Nếu chúng tôi mà bị phát hiện là liên lạc với nhau trong tù thì chúng tôi bị phạt nặng.
BBC:Trong những năm tháng ở tù thì ông thường nghĩ về điều gì nhất?
Nghĩ nhiều nhất là ngày tự do. Cả ngày thì chẳng có việc gì làm nên cũng chỉ nghĩ ngợi là khi ra tù thì mình sẽ đi đâu, làm gì. Vì tôi độc thân khi đó nên tôi nghĩ về căn nhà mình xây sau này cho mình sẽ thế nào. Rèm cửa kiểu cách ra sao. Chủ đề này có thể giúp tôi nghĩ ngợi khoảng một tháng.
Rồi cũng rất chán và không thể ép mình nghĩ mãi về một chủ đề. Đôi khi thể nằm mơ ra cái gì đó khác như xe hơi chẳng hạn thì lại nghĩ về đi du lịch. Cứ như thế và rồi khi chán thì lại quay lại nghĩ về chủ đề cũ là xây nhà mà mình đã nghĩ vài tuần trước.
Đôi khi ngồi quan sát xem con nhện nó bắt ruồi thế nào. Và chán quá nữa thì ngồi giết một vài con kiến để rồi gây náo loạn cho cả đàn kiến đang di chuyển phải đổi hướng đi. Hoặc xem kiến mang thức ăn về tổ thế nào.
BBC:Ông có thể kể lại ngày ông được trả tự do? Ông có được thông báo trước?
Trước khi chúng tôi được thả thì chúng tôi được chuyển đi một nơi khác vì đó là vào mùa Giáng sinh 1972 khi đó có ném bom ở Hà Nội. Nhưng sau đó họ lại đưa chúng tôi trở lại 'Khách sạn Hilton'. Khi hiệp định Paris được ký kết vào năm 1973 thì một trong các điều khoản là phải thông báo cho tù binh chiến tranh là họ sẽ được thả. Và chúng tôi được thông báo là họ sẽ sớm thả chúng tôi nhưng không biết sớm là thế nào. Sau đó khoảng hai tuần thì chúng tôi được thả. Và đêm trước hôm thả chúng tôi thì họ tập trung tất cả vào một khu và phân phát quần áo dân sự, tất, giày...
Rồi sáng hôm đó họ đưa chúng tôi ra sân bay bằng xe buýt. Lúc đó chúng tôi cũng chưa vui vì vẫn còn nằm trong sự kiểm soát của họ. Sau đó khi ra sân bay rồi thì chúng tôi được trao cho quân nhân Mỹ để lên phi cơ. Chỉ khi máy bay ra đường băng và bắt đầu cất cánh thì tôi mới thấy thở phào là sau 7 năm rưỡi thì cuối cùng cảm thấy giây phút đang trở về quê hương mình.
BBC: 7 năm 4 tháng tù có ảnh hưởng gì tới thể lực và tâm trí của ông?
Trong suốt thời gian ở tù thì tôi không có vấn đề gì về thần kinh. Về thể lực cũng không bị ảnh hưởng đáng kể gì. Nhưng tôi bị áp xe răng vào năm cuối ở tù nên một bên mặt tôi bị sưng vù nhưng sau đó đỡ hơn. Và Hải quân Mỹ có chương trình khám, điều trị hay trợ giúp tù binh chiến tranh về tâm lý và thể lực và vẫn còn áp dụng cho tới tận bây giờ. Cuộc chiến Việt Nam có thể xem là có dài ngày đối với tù binh chiến tranh so với các cuộc chiến khác như Triều Tiên.
BBC: Ông trở lại thăm Hỏa Lò vào năm 2013, ông thấy gì ở đó và ông đã đi tới những đâu ở Việt Nam?
Tôi và vợ tôi đi cùng với một cựu thủy quân lục chiến cùng vợ ông và một vài người bạn người Mỹ gốc Việt trở về Việt Nam lần đó. Khi máy bay hạ cánh ở sân bay Nội Bài thì tôi có cảm giác khó tả vì đây vẫn là một nước Cộng sản và chẳng biết điều gì sẽ xảy ra ở một nước Cộng sản cả.
Chúng tôi đi taxi khá dễ chịu về khách sạn ở Hà Nội và chúng tôi ở một khách sạn rất đẹp. Sau đó thì chúng tôi bàn tới chuyện là phải quay lại “Khách sạn Hilton” và tôi đi qua cổng chính nhà tù, cái cổng mà tôi đã ra rồi lại vào ít nhất là bốn lần. Tôi rẽ phải và đi vào chính nơi tôi từng bị giam.
Tất nhiên là phòng giam có thay đổi so với trước đây bởi người ta mở rộng ra thành phòng lớn hơn (sau hiệp định Paris 1973) nhưng tôi vẫn nhớ như in chỗ mà tôi hay đứng, hay ngồi. Rồi chúng tôi đi sang khu trưng bày hiện vật và một phòng giam mà người ta tái hiện lại. Trong đó có một cái giường đơn cho một người nằm. Nhưng thời gian chúng tôi bị giam ở đó thì không có giường, tức là tôi ngủ trên nền bê tông. Rồi có một cậu hướng dẫn cho du khách thăm quan kể về những gì đã xảy ra ở đây. Tôi bảo cậu ấy rằng “Này cậu, tôi đã từng ở đây và tôi biết cái gì là sự thật, cái gì không". Đó là lần ghé thăm thú vị và tôi vui là vợ tôi biết được nơi tôi từng bị giam tại đây.
BBC: Việt Nam và Hoa Kỳ đang cải thiện quan hệ trong đó có hợp tác quân sự. Hà Nội muốn Washington bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương, ông nghĩ gì về đề nghị này?
Tôi đã từng nghe nói về việc này và tôi thực sự không có bình luận gì về chủ đề này. Nhưng tôi muốn nói tiếp rằng chuyến thăm của chúng tôi tới nhiều nơi ở Việt Nam, từ Hà Nội tới Huế, Đà Nẵng, rồi một số nơi ở miền Nam, và Sài Gòn thì mọi thứ thật tuyệt.
Mọi người đều chăm chỉ làm việc và bận rộn kiếm sống. Có những tour du lịch cho người ít tiền và người giàu có hơn. Đối với chúng tôi đó là chuyến đi thật tuyệt vời.
Thiếu tá Hải quân David Wheat là bạn cùng tù với Thượng Nghị sỹ John McCain, người cũng bị giam tại Hỏa Lò và ra tù sau ông Wheat một tháng. Ông David Wheat sinh ngày 16 tháng 12, năm 1939 tại thành phố Duluth, tiểu bang Minnesota. Tốt nghiệp Đại học Minnesota năm 1963, sau đó ghi danh vào Trường Sỹ quan Phi công Hải quân Hoa Kỳ.
 http://www.bbc.co.uk/vietnamese/multimedia/2015/04/150428_david_wheat_interview

No comments: