Monday, August 11, 2014
VĂN HÓA-XÃ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY

Một tấm lòng vàng trên đường phố
03.08.2014
Bạn cho là mình chưa đủ điều kiện để làm từ thiện? Hãy nghĩ lại,
đặc biệt là khi bạn nghe câu chuyện sau đây về một anh chàng nghèo vật
chất-giàu nhân ái ở Đà Nẵng.
Suốt hơn chục năm qua, anh Trần Viết Hùng hành nghề bơm vá xe đạp
trên góc đường Hà Huy Tập-Điện Biên Phủ ở quận Thanh Khê để nuôi sống
gia đình gồm mẹ già, vợ, và ba con.
Lam lũ dầm mưa dãi nắng 10 giờ đồng hồ trên vệ đường mỗi ngày anh mới
kiếm được cao lắm là 120 ngàn đồng đủ chạy cơm hai bữa qua ngày. Thế
nhưng, có một điều đặc biệt khiến điểm vá xe vỉa hè của anh trở nên nổi
tiếng, nhất là đối với những người nghèo cùng cảnh ngộ: Đây là nơi hiếm
hoi, nếu không muốn nói có một không hai, vá xe miễn phí cho các khách
hàng là học sinh và người tàn tật. Điểm sửa xe của anh có treo tấm bảng
to ghi dòng chữ ‘Học sinh-Người Tàn Tật Miễn phí.’
“Anh là người tốt bụng. Những người nghèo khổ như tôi đây khi xe
bị hư anh không lấy tiền. Bao nhiêu người nghèo như tôi đi đường lở bị
lủng lốp xe cũng nhờ ảnh. Đôi lúc mình không có tiền, cũng nhờ ảnh mới
có phương tiện để đi. Những người trong cảnh nghèo anh đều giúp hết.
Những người như anh rất tốt trong xã hội đầy những người lừa lọc, tham
ô, ăn cắp, ăn trộm. Em cũng mong sao có được nhiều người như anh Hùng.
Nhiều người giàu, có tiền, nhưng cũng này kia kia nọ lắm. Em cũng dạy dỗ
con em là ‘nghèo cho sạch, rách cho thơm’, bắt chước theo tấm lòng như
anh Hùng đây.”
Tạp chí Thanh Niên VOA hôm nay mời quý vị và các bạn cùng gặp gỡ
người đàn ông sống nhờ vỉa hè nhưng rộng lượng giúp đỡ người nghèo khó,
Trần Viết Hùng.
Trần Viết Hùng: Gia đình cũng khổ nên em làm nhiều
nghề từ xích lô, xe bò, bốc vác, xe thồ và cuối cùng chọn nghề này. Em
làm dựa vô vỉa hè của người ta, họ cho mình làm buổi chiều thôi. Em ra
làm 2 giờ chiều đến 2 giờ sáng, khi nào đường hết người mình mới về. Hai
vợ chồng em có ba đứa con. Đứa đầu 18 tuổi. Cách đây ba năm nó bị bệnh
phổi, yếu quá, nên giờ ở nhà không đi học nữa. Hai đứa nhỏ còn đi học.
Đứa nhỏ nhất học lớp 6. Vợ em buôn bán hàng rong.
Trà Mi: Xuất phát từ cơ duyên nào và từ khi nào anh có ý tưởng bơm vá xe miễn phí cho học sinh và người tàn tật?
Trần Viết Hùng: Mình cũng cực khổ nhiều rồi. Chỗ em
làm cách chừng 200 mét có hai trường học. Mình thấy nhiều hoàn cảnh cũng
tội. Nhiều em ra học xe hư dắt bộ ngang qua chỗ mình mà không dám vô.
Hùng kêu lại để làm dùm mà các em ngại. Trước tới giờ em bơm vá xe cho
các em đã không lấy tiền rồi, nhưng còn nhiều em không biết, nên ngại.
Cho nên, em mới để tấm bảng Miễn phí lên cho các em thấy an tâm. Còn
người tàn tật, mình không giúp họ thì thôi, lấy tiền họ làm gì. Mình chỉ
nghĩ đơn giản vậy thôi.
Trà Mi: Nói tới chuyện làm từ thiện, người ta liên
tưởng ngay đến những người dư ăn, dư để. Chuyện người nghèo làm từ thiện
cũng hiếm thấy..
Trần Viết Hùng: Giờ nghe người ta nói là mình làm từ
thiện thì em mới biết vậy chứ khi đặt tấm bảng lên em chẳng nghĩ gì
hết. Em chỉ muốn giúp đỡ những người tàn tật và các em học sinh lỡ
đường. Mình nghĩ các em như con mình thôi, chứ không nghĩ là làm từ
thiện này nọ. Đó là cái tâm mình thương các cháu như con mình thôi.
Trà Mi: Giữa đời sống bon chen có một tấm gương
người nghèo làm việc tốt trên đường phố, anh có nghĩ hình ảnh của mình
có thể giúp các cháu có cái nhìn và suy nghĩ tốt hơn về xã hội, về
chuyện làm việc tốt giúp đời?
Trần Viết Hùng: Lần đầu tiên em được lên báo có các
em gửi tin nhắn tới chúc mừng. (Mời quý vị bấm vào phần âm thanh sau đây
để nghe toàn bộ cuộc trao đổi với anh Trần Viết Hùng)
Bấm vào để nghe âm thanh toàn bộ cuộc trao đổi với anh Trần Viết Hùng
http://www.voatiengviet.com/content/mot-tam-long-vang-tren-duong-pho/1970716.html

Lớp học ngoại ngữ miễn phí của chàng trai bán bóng dạo ở Hà Nội
Anh
Phạm Minh Dap, 24 tuổi, dùng tiền kiếm được từ việc bán bóng và đồ chơi
dạo để mở một ngôi trường ngoại ngữ miễn phí cho học sinh, sinh viên
nghèo ở Hà Nội, Việt Nam. (Marianne Brown/VOA)
08.08.2014
HÀ NỘI—
Giáo dục thường được xem là
phương cách để thoát khỏi nghèo đói, nhưng ngay cả những người tốt
nghiệp đại học cũng không phải lúc nào cũng tìm được việc làm. Tại Hà
Nội, hai anh em trong một gia đình bán hàng dạo đã tìm ra cách để giúp
đỡ cho những học sinh nghèo nhất của thành phố bằng cách dạy tiếng Anh
và tiếng Nhật miễn phí.
Trong vài giờ đồng hồ hầu hết các buổi chiều, bạn có thể thấy chàng
trai 24 tuổi Phạm Minh Dap bán bóng bay (bong bóng) và đồ chơi trẻ em ở
bên ngoài công viên Hòa Bình ở trung tâm Hà Nội.
Anh đã bán hàng dạo ở đây được 5 năm cùng với nhiều thành viên khác
trong gia đình. Họ đến từ một làng quê nghèo của những người nông dân
trồng lúa ở tỉnh Thanh Hóa. Mỗi ngày, anh kiếm được khoảng 100.000 đồng
(5 đô la). Anh chia sẻ:
“Đây là công việc ở làng em. Chúng em rất nghèo nên đây là công việc
chính ngoài việc đồng áng… Rất nhiều người thân của em bán hàng xung
quanh đây, có thể là hơn 30 người. Mỗi sáng Chủ Nhật, em đến chợ Đồng
Xuân để mua bóng bay, em mang bóng về nhà bơm và treo lên xe đạp, khách
hàng nhìn thấy và mua.”
Nhưng Dap còn có một công việc khác nữa. Đầu năm nay, anh và người em
đã lập ra “Stand By You,” một trung tâm ngoại ngữ với các giáo viên
tình nguyện dạy miễn phí cho các học sinh nghèo trong thành phố.
Tiền thuê mặt bằng và các chi phí khác cộng lại khoảng 10 triệu đồng
(500 đô la) mỗi tháng. Dap đóng góp khoảng 3 triệu đồng (150 đô la) tiền
kiếm được từ công việc bán hàng vỉa hè và dạy kèm ngoại ngữ tại nhà. Em
của anh đóng góp số tiền tương tự kiếm được từ việc làm thư ký văn
phòng. Phần còn lại là từ bạn bè. Các học sinh học lớp nâng cao đóng
khoản lệ phí 5.000 – 10.000 đồng (25-50 cents) mỗi lớp. Mục tiêu là để
giúp cho các học sinh không có cơ hội học ngoại ngữ. Anh Dap cho biết:
“Đây chỉ là cho những học sinh không có tiền. Những học sinh đến đây
thường là ở quê lên, họ phải trả tiền ăn, tiền thuê nhà. Điều quan trọng
là cha mẹ họ là nông dân. Nông dân ở Việt Nam rất nghèo”.
Theo Ngân hàng Thế giới, trong khi tỉ lệ nghèo đói ở Việt Nam đã giảm
từ 60% xuống còn trên 20% trong 20 năm qua, tỉ lệ tăng trưởng kinh tế
nhanh chóng đã góp phần làm gia tăng sự bất bình đẳng về thu nhập và các
cơ hội.
Cùng lúc đó, tỉ lệ thất nghiệp ở các sinh viên tốt nghiệp đại học vẫn
là một vấn đề dai dẳng. Theo truyền thông địa phương thì cứ 10 người
tốt nghiệp đại học, có một người bị thất nghiệp.
Năm ngoái, Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận đã đổ lỗi tình
trạng thất nghiệp sau khi tốt nghiệp là do các trường đại học không dạy
các kỹ năng mà những người chủ cần. Anh Dap cho biết các nhà tuyển dụng
muốn ứng viên có các kỹ năng ngoại ngữ tốt:
“Chúng ta biết là chỉ có ngoại ngữ mới có thể giúp phát triển đất
nước. Chúng ta cần dạy ngoại ngữ cho học sinh để có thể làm việc với
người nước ngoài và họ có cơ hội đi ra bên ngoài đất nước Việt Nam và
trở về giúp xây dựng đất nước”.
Nhưng với các truờng dạy ngoại ngữ với học phí lên đến 150 USD/lớp,
cơ hội cho người nghèo rất hạn chế. Anh Dap đã tự học ngoại ngữ.
Anh Dap cho biết kế hoạch ban đầu là dạy các lớp tiếng Anh, nhưng đa
số các thiện nguyện viên muốn dạy tiếng Nhật, nên bây giờ trường học dạy
cả hai thứ tiếng.
“26 lớp tiếng Nhật đang hoạt động. Chúng em không có đủ nhà và lớp
học nên nhiều người đang chờ đợi để được học. Nhưng chúng em chỉ có bốn
phòng học hoạt động suốt từ 7 giờ sáng đến 9 giờ tối, mỗi ngày đều có
học sinh và các lớp học.”
Có 10 giáo viên tình nguyện làm việc tại trường. Một trong số họ là
sinh viên đại học 20 tuổi Tạ Khánh Huyền, hiện đang học tiếng Nhật.
Huyền nói rằng cô nghe nói về trường học này thông qua những người
bạn cùng học ở đó. Cô đến dạy tiếng Nhật để có thể “cho lại điều gì đó.”
Cô nói rằng đó là sự giao tiếp xã hội thân tình và giúp cô nâng cao kỹ
năng nói tiếng Nhật.
Cô gái 24 tuổi Phạm Thị Trang là một trong 600 học sinh của trường.
Cô đang học năm cuối ngành kế toán tài chính. Cha mẹ cô bán hàng ở chợ
trong một làng quê của tỉnh Hà Nam. Cô nói cuộc sống ở thành phố rất khó
khăn.
Trang cho biết cô kiếm được khoảng 1 triệu đồng (50 USD) mỗi tháng từ
công việc bán thời gian. Cha mẹ cô gửi thêm 1.6 triệu đồng (75 USD),
nhưng đó mới chỉ vừa đủ để sinh sống và cô phải tính toán rất cẩn thận
để có thể chi trả các chi phí.
Nhu cầu học ở trường mỗi ngày một tăng. Có khoảng 1.000 người đang
nằm trong danh sách chờ nhập học và 10 người nữa đang muốn dạy miễn phí.
Anh Dap cho biết anh hy vọng sẽ quyên góp đủ tiền thông qua một chiến
dịch gây quỹ để chi trả cho một địa điểm rộng rãi hơn để anh có thể mở
thêm nhiều lớp học hơn.
Vu Lan và Tự Tứ Tăng thời bây giờ
Song hành với lễ Vu Lan Báo Hiếu, Rằm tháng Bảy còn là lễ Tự Tứ Tăng,
và nếu xét về thời gian xuất hiện, lễ Tự Tứ Tăng xuất hiện trước Vu Lan
Báo Hiếu, thời Đức Phật Thích Ca tại thế, trong một buổi Tự Tứ Tăng,
Đức Mục Kiền Liên kể lại câu chuyện nhìn thấy mẹ mình bị đọa dưới địa
ngục và muốn nhờ đến công lực tu tập của chư tăng để giải cứu cho mẹ.
Lễ Vu Lan ra đời từ dịp đó và khi nói về Vu Lan, người Phật tử nghĩ
đến chuyện báo hiếu, ít tai nhớ đến Tự Tứ Tăng và có lẽ chính vì khuynh
hướng thị trường hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở các chùa ngày
càng cao nên vấn đề Vu Lan Báo Hiếu ngày càng được vật chất hóa theo mọi
góc độ.
Văn nghệ kiếm tiền ủng hộ
Một Phật Tử tên Hòa ở Phước Thuận, Tuy Phước, Bình Định, chia
sẻ:“Thực sự phải nói đó là một tệ nạn, sau một thời gian quá dài gần 40
năm, trước năm 1975, hầu như người ta chưa xác định được vấn đề nghệ
thuật cũng như văn hóa trong tôn giáo. Sau 1975, việc xảy ra là nhiều vị
không phải chân tu đang trụ trị nhiều chùa và lãnh đạo rất nhiều tín
đồ. Phật giáo phải nói là tạp chủng bởi vì có quá nhiều vị trụ trị những
chùa hoặc lãnh đạo chùa trong một hệ phái nào đó thì nó trở thành Phật
luôn, cho nên tự nó tạo nên những thứ đó để lấy lại uy tín, có nhiều tín
đồ, có nhiều tiền cúng dường. Cho nên đó là hình tượng của một thời kỳ
mạt vận của dân tộc thôi. Cộng với nhiều yếu tố khác, phải nói nó thuộc
về tệ nạn văn hóa, tệ nạn tôn giáo!”
Theo ông Hòa, chuyện văn nghệ ở các chùa từ Nam chí Bắc trong các dịp
đại lễ của đạo Phật hầu như chẳng có gì mới và cũng chẳng có gì đặc
biệt nếu không nói đó là một hình thức xin tiền ủng hộ của mọi người
nhưng lại được khoác chiếc áo lam. Ông Hòa nói rằng sở dĩ ông phải nhận
xét nặng lời như vậy vì ông cũng là một Phật tử và từng nhiều lần phải
thay mặt nhà chùa đi mời các biên đạo múa ở các nhà văn hóa huyện về tập
múa cho các Phật tử.
Thực sự phải nói đó là một tệ nạn, sau một thời gian quá dài gần 40 năm, trước năm 1975, hầu như người ta chưa xác định được vấn đề nghệ thuật cũng như văn hóa trong tôn giáo. Sau 1975, việc xảy ra là nhiều vị không phải chân tu đang trụ trị nhiều chùa và lãnh đạo rất nhiều tín đồ
Một Phật Tử tên Hòa
Mà những biên đạo múa này là ai, họ vốn dĩ là những đoàn viên đoàn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh phát triển thành những cán bộ văn hóa và
được nhà nước đưa đi học tập, đào tạo thành những biên đạo của nhà văn
hóa. Lối múa tuyên truyền, ca ngợi đảng Cộng sản, ca ngợi Hồ Chí Minh
với mô-tuýp năm sáu người bế một người giơ lên cao làm bức tượng và sau
đó là một thanh niên cầm cây cờ chạy ra giữa sân khấu huơ huơ trên không
vốn là sở trường của các biên đạo này.

Phật tử đi lễ mùa Vu Lan
Chính vì thế, khi biên đạo cho các Phật tử, họ cũng mang sở trường
này ra để áp dụng. Kết quả là sân khấu chùa cũng chẳng khác chi mấy so
với sân khấu ủy ban và sân khấu đảng bộ, lối múa, kịch bản cũng na ná
nhau, chỉ khác chăng là những ca khúc do các em nhỏ Phật tử trình bày
không mang tính đảng như sân khấu ủy ban. Nhưng các ca khúc này vẫn được
biên tập và kiểm duyệt rất kĩ trước khi ra sân khấu.
Và, với những nội dung, chương trình na ná nhau từ năm này sang năm khác nhưng các chùa vẫn cứ thi nhau tổ chức văn nghệ, theo ông Hòa đó là vì hai lý do, một phần vì phong trào chung, vì lòng nhiệt tình của chư tăng cũng như các Phật Tử, mong có một sân chơi vui vẻ cho những người con nhà Phật, đó là theo hướng tích cực, lý do còn lại có vẻ tiêu cực hơn. Rất tiếc là hướng không tốt đẹp lại phát triển mạnh mẽ hơn hướng kia, đa phần các chùa làm để lấy sự nhộn nhịp cũng như thanh thế nhà chùa, thanh thế nhà sư và qua đó cũng kiếm được kha khá tiền ủng hộ của mọi người. Đương nhiên là số tiền kiếm được này không bị tùng xẻo đến mức không còn gì như bên ngoài.
Và, với những nội dung, chương trình na ná nhau từ năm này sang năm khác nhưng các chùa vẫn cứ thi nhau tổ chức văn nghệ, theo ông Hòa đó là vì hai lý do, một phần vì phong trào chung, vì lòng nhiệt tình của chư tăng cũng như các Phật Tử, mong có một sân chơi vui vẻ cho những người con nhà Phật, đó là theo hướng tích cực, lý do còn lại có vẻ tiêu cực hơn. Rất tiếc là hướng không tốt đẹp lại phát triển mạnh mẽ hơn hướng kia, đa phần các chùa làm để lấy sự nhộn nhịp cũng như thanh thế nhà chùa, thanh thế nhà sư và qua đó cũng kiếm được kha khá tiền ủng hộ của mọi người. Đương nhiên là số tiền kiếm được này không bị tùng xẻo đến mức không còn gì như bên ngoài.
Họ đi chùa không phải để tu tập, để làm cho tâm linh sạch sẽ, thơm tho mà đến đó để một lần nữa biến gia đình Phật tử hoặc chi hội Phật giáo thành chi bộ đảng theo một cách nào đó
Thị trường hóa mùa báo hiếu
Một Phật tử khác tên Kính, ở Tam Quan, Bình Định, chia sẻ: “Ngài Mục
Kiền Liên khi mà đắc đạo rồi thì nhìn xuống dưới âm tỳ thấy mẹ mình bị
đày xuống chín tầng địa ngục, ăn cơm không được, Ngài liền xin Đức Phật
xuống âm tỳ thăm mẹ, lúc thăm mẹ, lúc mời mẹ ăn cơm thì cơm đưa tới
miệng thì cơm hóa thành than với lửa hồng không ăn được. Ngài liền trở
về xin Đức Phật chỉ cách giúp mẹ mình thoát khỏi cảnh đó. Đức Phật mới
chỉ ra một ngày mà chư tăng an cư, giống như toàn bộ chư tăng phát phép
truyền bá đạo Phật, vào ngày này giống như là Ngài Mục Kiền Liên rướt
mẹ, cầu siêu hóa phép cho mẹ mình!”
Theo ông Kính, vấn đề báo hiếu hay là khái niệm báo hiếu ở các chùa
nói chung bây giờ có vẻ như không còn nguyên vẹn ý nghĩa của nó. Đương
nhiên, ông cũng đưa ra nhận định là với các bậc tăng ni đầy đủ đức độ và
công lực tu tập cũng như với các Phật tử thuận thành thì ngày Vu Lan
Báo hiếu vẫn là một ngày thiêng liêng để con cháu tưởng nhớ đến công ơn
của ông bà cha mẹ. Nhưng trong giai đoạn hiện tại, có những vấn đề phát
sinh mà những năm trước đây chưa hề xuất hiện, đó là những bậc cha mẹ
đội mũ cối và giữ làm việc ở cấp cối cũng như những bậc cha mẹ xã hội
chủ nghĩa.
Có nghĩa là các bậc cha mẹ mũ cối, cấp cối với đầy đủ quyền lực trên
tay một thời, đến khi về hưu hoặc mất chức, bản chất gian manh của một
cán bộ từng đấu đá, thanh trừng vẫn giữ nguyên trong họ. Chính vì rảnh
rỗi, họ nghĩ ngay đến các chùa, họ đi chùa không phải để tu tập, để làm
cho tâm linh sạch sẽ, thơm tho mà đến đó để một lần nữa biến gia đình
Phật tử hoặc chi hội Phật giáo thành chi bộ đảng theo một cách nào đó.
Và mỗi khi mùa Vu Lan về lại thêm một lần gieo vào tâm hồn những bạn trẻ một nỗi buồn xa xôi nào đó về mọi giá trị tinh thần, mọi cử chỉ yêu thương, ân cần đang dần mất đi trong xã hội này!
Và với những bậc cha mẹ như thế, để tìm ra những đứa con hiếu thảo,
có đạo đức cho xã hội quả thật là vô cùng khó, nếu không muốn nói rằng
con của họ rất có thể là những công tử đỏ coi trời bằng vung. Đó là chưa
muốn nói đến tình trạng chấp thủ tràn lan trong giới Phật tử và Tăng
Ni, nếu tăng ni nghĩ đến chuyện làm sao để trụ trì chùa càng sớm càng
tốt và với chức danh trụ trì, họ được hưởng 40% tiền cúng dường của thập
phương thì đa phần các Phật tử, các bậc làm cha làm mẹ xã hội chủ nghĩa
cũng trăn trở không kém về đất đai, nhà cửa. Có nhiều bà mẹ, ông cha đã
thẳng thừng đuổi con cái ra khỏi nhà vì sợ chúng chiếm đoạt. Điều này
làm cho hình ảnh về các ni sư cũng như các bậc làm cha làm mẹ bị suy sút
rât nhiều trong tâm hồn giới trẻ.
Có lẽ chính vì sống trong một xã hội cuống cuồng vật dục và mọi thứ
đều được qui ra tiền nên ngay cả ngày Vu Lan Báo Hiếu, ngoại trừ những
Phật tử và bậc cha mẹ còn giữ nét đẹp tâm hồn, không thiếu những đứa con
báo hiếu hình thức bằng vật chất và cũng không thiếu những người con
phải bật khóc khi món quà của mình bị hất hủi vì giá tiền không cao bằng
món quà của người anh em trong gia đình. Có thể nói chữ Hiếu thời bây
giờ chứa quá nhiều đa đoan và trắc ẩn.
Và mỗi khi mùa Vu Lan về lại thêm một lần gieo vào tâm hồn những bạn
trẻ một nỗi buồn xa xôi nào đó về mọi giá trị tinh thần, mọi cử chỉ yêu
thương, ân cần đang dần mất đi trong xã hội này!
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.
Những người bán hải sản thời TQ chiếm biển Đông
Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2014-08-05
2014-08-05

Một gian hàng bán hải sản ở Lào Cai.
RFA
Ba năm nay, kể từ ngày Trung Quốc cắt đứt cáp tàu thăm dò Viking 2
và tàu Bình Minh 02 của Việt Nam trong vùng biển Việt Nam cho đến giàn
khoan HD 981 cắm vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, vấn đề nguồn và
giá cả hải sản Việt Nam có sự thay đổi đột ngột. Trong đó, chuyện hải
sản tăng giá và những loại hải sản đông lạnh không rõ xuất xứ, nghi là
của Trung Quốc nhập khẩu đang ngày càng nhiều, gây ảnh hưởng không nhỏ
đến sức khỏe của người dân. Chỉ cần ra một khu chợ nhỏ ở phố huyện cũng
có thể bắt gặp sự thay đổi này.
Hải sản tăng giá quá cao
Một người tên Lài, ở Văn Giang, Hưng Yên, chia sẻ:
“Cô cũng ít sử dụng lắm, nhưng thường người ta hay ngâm nước rồi
nó nở trương ra. Cho nên đồ đó cô ít mua lắm! Tất nhiên là nó nguy
hiểm, đồ nó ngâm rồi mình ăn không đảm bảo, cô không hiểu nó ngâm hóa
chất gì nhưng nhiều khi nó ngâm hóa chất thì nó không đảm bảo nên thành
ra ít khi ăn. Hiểu lơ mơ thôi bởi vì mình chưa gặp, thấy nó ngâm nhiều
khi nó ngâm nước nở ra một con cá, con cá mình mua tươi nó khác, con cá
nếu nó ngâm thì nhìn cũng tươi cũng cứng nhưng mua về nhà thì nó nấu
thì bắt đầu nó dở. Vậy nên cô ít khi mua…”
Cô cũng ít sử dụng lắm, nhưng thường người ta hay ngâm nước rồi nó nở trương ra. Cho nên đồ đó cô ít mua lắm!
-Bà Lài
Theo bà Lài, chuyện cá mắm ở quê bà hiện tại là một chuyện khó nói.
Bởi vì Hưng Yên vốn dĩ là một tỉnh không gần biển, vấn đề hải sản có giá
đắt hơn miền xuôi là chuyện chắc chắn xảy ra. Tuy nhiên, những năm
trước đây, người tiêu dùng hải sản cảm thấy tự tin khi mua nó và luôn
tâm niệm rằng hải sản là một loại thực phẩm có hàm lượng dinh dưỡng cao,
tốt cho mọi lứa tuổi. Thế nhưng thời gian gần đây, sau nhiều vụ ngộ độc
hải sản cũng nhưng giá cả tăng vọt của nó, người ta buộc phải suy nghĩ
thử có nên dùng loại thực phẩm đắt tiền này nữa hay không.
Bởi vì theo nhận định không phải của riêng gì bà Lài, hải sản hiện
nay bị ướp hóa chất quá nặng, nếu như trước đây, ngư dân chỉ ướp muối và
nước đá để giữ cho hải sản khỏi bị hôi thối trong quá trình vận chuyển
từ ngoài khơi vào cảng và đến nơi tiêu thụ thì hiện tại, không còn
chuyện đó nữa. Mọi tàu đánh cá khi ra khơi hoặc là chạy lòng vòng để
tránh sự truy đuổi của tàu Trung Quốc, đến khi nào có cơ hội mới bủa
lưới và kéo xong mẻ lưới phải ướp phân urê thật nhiều để duy trì độ tươi
sản phẩm, sau đó lại chạy lòng vòng để tránh tàu Trung Quốc trước khi
vào bờ.
Trường hợp những tàu cá không dám đến những khu vực thường bị truy
đuổi thì tìm những khu vực khác ít sản lượng hơn, chỉ bằng một phần tư
sản lượng những nơi Trung Quốc chiếm cứ để đánh bắt. Và thời gian cũng
như nhiên liệu bỏ ra để đánh bắt ở khu vực này thường tăng gấp đôi, gấp
ba lần so với bình thường. Chính vì kéo dài thời gian đánh bắt nên hàm
lượng urê ướp trong hải sản cũng phải nhân đôi, nhân ba để bảo đảm hải
sản không bị hôi ươn, hư hỏng trong quá trình chạy lòng vòng tiếp tục
đánh bắt. Và khi vào đến bờ, giá thành sản phẩm buộc phải tăng cao so
với trước.
Đó là chưa muốn nói đến nguồn hải sản của ngư dân Việt Nam đánh bắt
thường bị Trung Quốc chặn mua bằng nhiều cách, trong đó có thu mua giá
rẻ trên biển, tịch thu tàu thuyền và thả đầu nậu vào bờ để mua. Một
lượng lớn hải sản Việt Nam bị chảy máu sang Trung Quốc, trong khi đó,
một số lượng lớn hải sản hết hạn hoặc không qua kiểm dịch thực phẩm từ
Trung Quốc lại thi nhau tuồn sang Việt Nam.
Ăn hải sản giống như ăn bệnh

Cá được bày bán ở một chợ đêm. RFA PHOTO.
Một người bán cá khác tên Hoa, ở huyện Khoái Châu, Hưng Yên, chia sẻ,
phần lớn hải sản trong chợ mà bà mua bán hằng ngày là do Trung Quốc
nhập sang, theo bà dự đoán là theo đường đi từ cửa khẩu Lào Cai sang chợ
Cốc Lếu rồi sau đó phân phát đi nhiều nơi. Bởi loại hải sản từ Trung
Quốc nhập sang có hai đặc điểm rất dễ nhận biết là chúng được ướp hóa
chất rất kĩ nên bất kì cua, tôm, ghẹ hay cá mực gì cũng cứng, cho cảm
giác dòn và đặc điểm thứ hai là tất cả hải sản Trung Quốc nhập sang Việt
Nam đều là hải sản thứ cấp, những thứ mà người nhà khá giả của Trung
Quốc không đụng đến vì chất lượng kém, không ngon miệng. Nhưng với những
người ở các miền quê Việt Nam, đặc biệt là với các quán nhậu, đây là
nguồn thực phẩm cực kì dễ xài, chỉ cần bỏ ra một ít tiền, không ảnh
hưởng gì đến chi tiêu hằng tháng vẫn có thể ăn được món này.
Rất tiếc là phần đông người dân còn nghèo khổ, chuyện cái ăn cái mặc
luôn là nỗi ám ảnh mỗi ngày nên người ta sẽ mua bất kỳ thứ gì có giá rẻ
nhưng nhìn hấp dẫn bữa ăn và giải quyết được nỗi mặc cảm về cái nghèo.
Thường thì ở thôn quê, vùng nghèo khổ, việc ăn hải sản giống như một thứ
gì đó nâng đẳng cấp, cho thấy chủ nhà không đến nỗi nghèo khổ. Nhưng
một khi cái nghèo, nỗi mặc cảm được giải quyết theo hướng Tàu hóa như
vậy thì sức khỏe lại bị đe dọa trầm trọng bởi loại hải sản thứ cấp có
xuất xứ Trung Quốc này!
Đó là chưa nói đến các quán nhậu, vì động cơ lợi nhuận, hầu hết các
quán nhậu bình dân đều chọn các loại hải sản thứ cấp có xuất xứ Trung
Quốc để mua về chế biến. Chỉ cần màu mè, gia vị thật nhiều, người ta sẽ
biến loại hải sản dỏm này thành những món ăn hấp dẫn. Và đáng sợ nhất là
các loại màu mè, gia vị ở các quán nhậu cũng được mua giá rẻ bởi xuất
xứ Trung Quốc của nó. Vì chỉ có làm như thế, người ta mới mau giàu được.
Trong khi đó, một tỉ lệ ngược đã phát triển đến độ báo động tại Việt
Nam, đó là quán nhậu càng mau giàu, tỉ lệ người mang bệnh tật vì nhậu
càng cao.
Và một khi mọi thứ đã trở nên bình thường, người ta không còn suy
nghĩ nhiều đến những gì mình bỏ vào miệng hằng ngày, hải sản không đảm
bảo vệ sinh của Trung Quốc càng có cơ hội phát triển, phì đại trên lãnh
thổ Việt Nam. Trong khi đó, một trữ lượng lượng hải sản sạch của ngư dân
Việt Nam đánh bắt được lại rơi vào tay người tiêu dùng Trung Quốc. Chưa
bao giờ người đi chợ cảm thấy khó khăn khi mua một ký hải sản do chính
người Việt Nam đánh bắt và ướp giữ theo kĩ thuật truyền thống như bây
giờ. Cũng chưa bao giờ tâm lý người tiêu dùng lại bất an, mất niềm tin
khi đối diện với mâm hải sản như hiện nay.
Cũng xin nói thêm, đã đến lúc chúng ta đặt tên nỗi bất an về lương
thực nói chung, hải sản nói riêng thành cái tên chung, đó là Bất An
Trung Quốc!
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.
Người bán vé số bùng phát vì thất nghiệp
Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2014-08-01
2014-08-01

Nhiều người bán vé số trong một tiệm cà phê.
RFA
Khi nạn thất nghiệp xảy ra, kinh tế quốc gia èo ọp, đời sống người
dân khốn khổ, sẽ có nhiều người tìm việc và bằng cách này hay cách khác
họ bươn bả kiếm sống qua ngày. Khác với cách nói của ông Giàng Seo Phử,
Bộ trưởng – Chủ nhiệm Ủy Ban Dân Tộc nhà nước Cộng sản Việt Nam cho rằng
người bán vé số thuộc nhóm có thu nhập cao, những người bán vé số ở
khắp ba miền Việt Nam đều có thu nhập lèo tèo, đời sống chật vật. Tuy
vậy, số lượng người bán vé số ngày càng tăng cao.
Đông đến mức đi đụng đầu
Tình trạng người bán vé số chen chân ở các quán cà phê, quán nhậu đến
mức đi vào đi ra đụng đầu và có người bán đến 23 giờ đêm để kiếm thêm
tiền thuê nhà là chuyện đang xảy ra một cách rầm rộ ở Sài Gòn. Đặc biệt,
trường hợp nhiều người bán vé số phải căng não để suy nghĩ những chiêu
trò mua vui cho khách mà bán cho được tờ vé số đang ngày càng phổ biến.
Nhưng nếu chỉ dừng những chiêu trò mua vui để bán thì không sao,
không thiếu người sử dụng khả năng lì lợm đến độ vô văn hóa của họ để
mời khách. Ví dụ như khách đang nói chuyện với nhau hoặc đang ăn uống,
người bán thản nhiên đưa xấp vé số dứ dứ ngay trước mặt khách và cứ đưa
lì như vậy đợi khách lắc đầu bốn năm lần mới bỏ đi, có người trước khi
bỏ đi còn kèm theo cái nguýt lườm hoặc tiếng xì hơi qua kẽ răng nghe vô
cùng mất thiện cảm.
Nếu mà làm trong công ty rồi thì kết nối với bên ngoài làm rất là dễ, vấn đề là mình có chút quyền lực hay không hoặc là mình có chịu lì hay không.
-Một nhân viên cty xs
Nhưng chị Loan cũng tỏ ra thông cảm với những người như thế vì họ
không có khả năng làm những trò vui hoặc mời mọc, vốn từ dân quê gốc rạ,
bụi chuối mụt măng, đùng đùng lên phố bán buôn, khó mà tiếp cận được
khách hàng, trong khi đó, đi cả ngày mà bán chẳng được mấy tờ vé, hoa cả
mắt vẫn không đủ tiền để trả tiền nhà, tiền ăn cơm vẫn chưa có. Đương
nhiên, cách mời liều lĩnh và mất lịch sự vừa đáng trách lại vừa đáng
thông cảm.
Với một người bán vé số năng động như chị Loan, việc kiếm lãi mỗi
ngày một trăm ngàn đồng giữa đất Sài Gòn nghe ra xa vời và khó khăn vô
cùng. Bởi nền kinh tế xuống dốc trầm trọng, người thất nghiệp đầy rẫy ra
đó nên chuyện ngồi uống cà phê đôi khi là để giết thời gian thất nghiệp
hoặc để đỡ bữa ăn sáng.
Với những người như vậy, mời họ mua một tấm vé số chẳng khác nào xin
họ nhịn một ổ bánh mì ăn sáng để cho mình. Một người năng động còn bán ế
ẩm như thế huống gì những người dân quê quen ăn cục nói hòn, rất khó để
mời cho được một tấm vé số. Và một khi không kiếm được vài chục ngàn
đồng lãi, cuộc sống sẽ trở nên eo hẹp, khó khăn và thậm chí không thể
tồn tại nổi giữa thành phố đất chật người đông như Sài Gòn.Chính vì thế, không thiếu những cô gái trẻ vừa đi bán vé số lại vừa đi khách, tuy mời vé số nhưng nếu khách thấy ưa và gợi ý, các cô này sẵn sàng cùng khách đến nhà trọ với giá từ một trăm ngàn đồng cho đến một trăm năm mươi ngàn đồng trên một lần với khách. Hiện tại, tình trạng các cô bán vé số kiêm nghề bán mình ngày càng nhiều ra trên đất Sài Gòn.
Thất nghiệp tăng, doanh thu ngành vé số tăng
Một người hiện là kế toán công ty xổ số kiến thiết Đồng Nai, yêu cầu giấu tên, chia sẻ:
Một em bé bán vé số ở TPHCM, ảnh minh họa chụp trước đây. RFA PHOTO.
“Nếu mà làm trong công ty rồi thì kết nối với bên ngoài làm rất là
dễ, vấn đề là mình có chút quyền lực hay không hoặc là mình có chịu lì
hay không. Ví dụ như chiều nay tôi tham dự xổ số bên trong thì thường
kết quả bên ngoài cũng chậm ít nhất khoảng 5 – 10 phút so bên trong, chỉ
cần tôi nhắn một cái tin ra bên ngoài rồi có người đi đánh một con đề
thì kết quả nó tới đâu rồi. Cho nên làm xổ số thì nó có cả trăm đường,
hoặc là gian thuế, ngành này là ngành được ưu tiên về thuế mà. Bán
khoảng năm nghìn tờ mà khai có ba nghìn tờ cũng có ai biết, có ai ngồi
đếm vé số bao giờ, không có cơ quan nào đến đếm hết, cho nên cái chuyện
gian thuế là rất bình thường.”
Theo ông này cho biết, trong hai năm trở lại đây, mặc dù nền kinh tế
Việt Nam luôn đứng bên bờ vực, hàng ngàn doanh nghiệp phá sản nhưng
ngành xổ số kiến thiết vẫn ăn nên làm ra, thậm chí doanh thu có chiều
hướng tăng dần theo tỉ lệ thất nghiệp. Bởi vì một khi nạn thất nghiệp
tăng, rất nhiều người mất việc, phải chọn công việc bán vé số để kiếm
sống qua ngày và họ phải nghĩ ra nhiều cách để bán cho được tờ vé số.
Không thiếu những người bình thường, khỏe mạnh phải đóng giả người
tàn tật để đánh động lòng thương của khách hàng mà bán cho được tờ vé
số. Và số lượng người đóng giả tàn tật ở Sài Gòn, Đồng Nai tăng vọt. Mặc
dù công ty xổ số kiến thiết vẫn biết đó là hành vi gian trá nhưng cũng
chấp nhận tôn trọng kế sinh nhai của những người này và hơn hết chính họ
là người mang doanh thu về cho ngành xổ số. Bởi trong mỗi tấm vé số, tỉ
lệ hoa hồng của họ là 10% và họ chỉ được hưởng lợi trong mỗi tấm vé họ
bán được. Trong khi đó, số tiền 90% còn lại sẽ đưa về công ty và sau khi
chiết khấu mọi khoản chi phí, số lãi còn lại cũng được ngót ngét 60%.
Và ngành xổ số là ngành được ưu tiên nhiều nhất trong chính sách
thuế, hơn nữa, mọi công ty đều có thể dễ dàng trốn thuế bằng cách hạ chỉ
số vé bán được hằng ngày. Ví dụ như trong một ngày, số lượng vé bán
được là mười ngàn tờ, công ty bằng cách này hay cách khác, tăng số lượng
vé hủy và hạ mức bán được xuống chừng năm ngàn hoặc sáu ngàn vé. Như
vậy, số tiền thuế phải đóng của công ty luôn ở mức thấp hơn rất nhiều so
với qui định mà không ảnh hưởng gì đến hoạt động của công ty đó. Nhìn
chung, đây là một trong những cách mà công ty xổ số kiến thiết trốn thuế
mà hầu như không có công ty nào là không dùng đến cách này.
Và ông kế toán nói thêm rằng trong ngành xổ số kiến thiết hiện nay,
việc bán kết quả cho các đầu nậu số đề không phải là ít, chỉ cần sớm 10
phút, một đầu nậu số đề hoặc một người bình thường nhận được tin nhắn
của người công ty đang ngồi trong buổi xổ số nhắn cho, tay đầu nậu hoặc
ngưởi bình thường kia ghi một con số với mức tiền cao ngất ngưỡng và kết
quả sẽ khó mà nói, nếu không bị quỵt thì cả tay nhân viên công ty và
tay ghi đề sẽ kiếm được khoản tiền vô cùng lớn. Với một người bán vé số
nghèo, chỉ cần một lần được rò rỉ thông tin như thế, xem như đổi đời
ngày tức khắc.
Rất tiếc, đó là cơ hội dành cho những người trong ngành xổ số kiến
thiết. Và những người nghèo, người thất nghiệp chỉ có một con đường kiếm
sống duy nhất trong ngành xổ số kiến thiết là lê chân từ lối này qua
ngõ nọ để mời vé số, thây kệ nắng mưa và nỗi buồn của kiếp nghèo đang
vây bủa!
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.
Nữ sinh viên nghèo đi bán vé số

Nữ sinh đi bán vé số
Courtesy Tuoitre.vn
Chật vật tìm việc làm mùa hè Nếu những ngày đầu hè, học sinh kéo
nhau đi bán vé số kiếm thêm tiền trang trải cho niên học tới, thì vài
ngày gần đây, sau khi tốt nghiệp hoặc sau khi thi học kì 2 và chính thức
nghỉ hè, nhiều sinh viên ở thành phố Đà Nẵng bủa ra khắp các huyện để
bán vé số. Phần lớn họ là những sinh viên trường cao đẳng nghề và cao
đẳng kinh tế ở thành phố Đà Nẵng. Họ có gốc gác từ các vùng quê hẻo lánh
và miền núi, có kinh tế gia đình khó khăn, không chen chân phục vụ được
ở các quán, họ phải nghĩ kế sinh nhai qua mùa hè.
Một bạn nữ tên Thùy, sinh viên năm thứ nhất trường cao đẳng kinh tế - kế hoạch Đà Nẵng, cho chúng tôi biết rằng mỗi sáng, em thức dậy lúc 5h và ăn uống qua loa một gói mì tôm, sau đó đón xe bus vào thẳng Điện Bàn, rồi đi bán dạo vé số ở Điện Bàn trong buổi cà phê sáng ở các quán. Đến trưa, em đón xe bus hoặc đi nhờ xe của ai đó xuống Hội An để tiếp tục bán trong các quán, đến 3h30 chiều, em lại bắt xe bus Hội An về Đà nẵng trả vé. Trên xe bus, em cũng tranh thủ mời vé các hành khách với hy vọng bán được tấm nào mừng tấm đó.
Một nữ sinh viên khác tên Khánh, học năm thứ nhất trường cao đằng
nghề Đà Nẵng, cùng đi bán chung nhóm với Thùy, chia sẻ với chúng tôi
thêm là gần như mùa hè năm nay, chuyện đi kiếm việc làm thêm đối với
sinh viên nhà nghèo quá khó khăn. Tuy vậy, cơ hội thường đến với những
sinh viên con nhà giàu vì họ sành điệu, quen với nếp sống thành phố,
biết tiếp xúc, nói năng hợp với khách hơn sinh viên nhà quê như Khánh.
Và trên hết là với sinh viên thành phố, con nhà giàu, chuyện đi làm thêm
của họ lại không vì đồng tiền bát gạo mà mang tính chất thử nghiệm đời
sống, lấy điểm với cha mẹ.
Có nhiều sinh viên thành phố làm xong ba tháng hè là cho luôn hai tháng tiền lương sau cho chủ, chỉ lấy tháng đầu về mua quà cho cha mẹ, bù vào đó, sau mùa hè, có khi các sinh viên này được cha mẹ mua sắm cho xe hơi hoặc xe tay ga. Nói chung, sinh viên con nhà giàu đi làm ít quan tâm đến tiền lương và sành điệu. Chính vì thế, cơ hội tìm việc của sinh viên thành phố, sinh viên con nhà giàu luôn cao hơn nhiều so với sinh viên nghèo đến từ các miền quê.
Bán vé số mùa hè trong giới sinh viên, dường như chỉ có sinh viên nữ chọn việc này, ít thấy sinh viên nam nào tham gia. Một nữ sinh viên trường cao đẳng nghề Đà Nẵng khác tên Dung, thường đi bán vé số ở Hòa Vang và Liên Chiểu, những quận vùng ven thành phố Đà Nẵng, than thở với chúng tôi rằng bán vé số nhọc nhằng lắm lắm, đôi khi buồn và tủi nhục nữa. Nói là buồn vì bây giờ người ta đi bán vé số quá nhiều, chuyện đi bán mỗi ngày cho được năm mươi tờ vé, kiếm năm mươi ngàn đồng quá ư là khó khăn.
Có nhiều hôm Dung đi suốt ngày, mời từ bàn này sang bàn nọ, từ quán này sang quán kia, cuối cùng, cả ngày đi bộ cả mấy chục cây số chỉ bán được hai mươi lăm tấm vé, buổi sáng ăn mì tôm, buổi trưa ăn mì tôm, buổi tối lại ăn mì tôm để dành ra một ít tiền tích lũy. Có tuần liên tục ba ngày ăn mì tôm, nói chuyện cũng nghe mùi mì tôm xốc lên mũi. Nhưng Dung vẫn nuôi hy vọng kiếm được nhiều tiền để dành cho năm học sau.
Dung nói có nhiều lần, vào quán cà phê hoặc quán nhậu mời vé, nhiều ông sòn sòn tuổi ngang với cha của Dung ở nhà chọn mua vài tấm vé nhưng kéo dài cả mười lăm, hai mươi phút, sau đó mời Dung uống bia, cô từ chối thì ông khách này đặt thẳng vấn đề là chỉ cần đi chơi, đi ngủ với ông một tuần, ông sẽ cho đủ học phí hai năm sau, khỏi cần phải lang thang đầu đường xó chợ mời từng tấm vé cực khổ. Nghe ông khách nói vậy, Dung thấy tê buốt cả lồng ngực bởi vì tổn thương, người ta đã hiểu nhầm động cơ kiếm tiền của cô, họ nghĩ rằng cô đi bán dâm trá hình bằng kiểu chào mời vé số.
Một nữ sinh viên khác, yêu cầu giấu tên, hiện làm tiếp thị cho hãng bia Huda – Huế tại thị trường Liên Chiểu, Đà Nẵng, nói với chúng tôi rằng ban đầu cô cũng có ý nghĩ trong sáng như bao sinh viên nhà nghèo khác, cũng đi làm thêm, đi bán vé số mùa hè để kiếm tiền, nhưng dần dần, quá khổ, da sạm đen mà kiếm không ra tiền, bữa được bữa mất, mẹ cô ở quê lại bệnh nặng, cô tình cờ gặp một ông khách già hỏi cô muốn về làm việc cho ông không, giúp việc trong khu biệt thự của ông. Cô đồng ý, về làm được vài hôm thì ông này mời cô uống vài lon bia, cô say, đến khi cô tỉnh dậy, cuộc đời con gái của cô đã tan theo bọt bia của ông già. Nhưng, ông già này cho tiền cô rất nhiều, cô về chuyển mẹ lên bệnh viện tuyến trên để phẫu thuật, chữa trị và làm nhà.
Kết cục, cô quyết định đi làm tiếp thị, cuộc đời sinh viên của cô chấm dứt sau một mối tình kéo dài gần hai năm với một ông già nhà giàu, cho đến phút ông ta lâm chung vì một tai nạn đột ngột trên giường với một sinh viên khác. Cũng may là gia đình ông khéo bưng bít chuyện này nên ông chết có thanh thản, không mang tiếng. Kể đến đây, cô tiếp thị bùi ngùi nói rằng đồng tiền là thứ thuốc độc mà đôi khi người ta biết nó độc vẫn cứ uống vì không còn lựa chọn nào khác.
Nghe câu chuyện của cô gái tiếp thị xong, một mối cảm hoài xa xôi nào đó về đời sống sinh viên thời kinh tế khốn khó lại dấy lên, buồn khó tả!
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.
Một bạn nữ tên Thùy, sinh viên năm thứ nhất trường cao đẳng kinh tế - kế hoạch Đà Nẵng, cho chúng tôi biết rằng mỗi sáng, em thức dậy lúc 5h và ăn uống qua loa một gói mì tôm, sau đó đón xe bus vào thẳng Điện Bàn, rồi đi bán dạo vé số ở Điện Bàn trong buổi cà phê sáng ở các quán. Đến trưa, em đón xe bus hoặc đi nhờ xe của ai đó xuống Hội An để tiếp tục bán trong các quán, đến 3h30 chiều, em lại bắt xe bus Hội An về Đà nẵng trả vé. Trên xe bus, em cũng tranh thủ mời vé các hành khách với hy vọng bán được tấm nào mừng tấm đó.
Phần lớn họ là những sinh viên trường cao đẳng nghề và cao đẳng kinh tế ở thành phố Đà Nẵng. Họ có gốc gác từ các vùng quê hẻo lánh và miền núi, có kinh tế gia đình khó khăn, không chen chân phục vụ được ở các quán, họ phải nghĩ kế sinh nhai qua mùa hèThùy cho biết thêm, em quê ở huyện Trà My, ra Đà Nẵng học được một năm nay, nghỉ hè, em định sẽ về nhà phụ với gia đình làm vườn, làm ruộng, nhưng bây giờ nhà nông đang rảnh rỗi vì mùa lúa đã sạ xong, làm vườn thì trời nắng nóng, rau cải cũng chẳng lên được, nội tiền nước và phân tro không bù lỗ được, nếu Thùy về nhà làm phụ, có khi lại thành gánh nặng của gia đình. Mà đi tìm việc làm thêm ở các quán trong thành phố quá khó bởi mùa hè năm nay có quá nhiều sinh viên ở lại tìm việc làm thêm. Các quán nhậu, quán cà phê trong thành phố cũng đầy nghẹt sinh viên xin việc. Nghĩ mãi không ra, cuối cùng, Thùy quyết định nhận vé số đi bán.

Vé số tỉnh Thừa Thiên (minh họa) RFA
Có nhiều sinh viên thành phố làm xong ba tháng hè là cho luôn hai tháng tiền lương sau cho chủ, chỉ lấy tháng đầu về mua quà cho cha mẹ, bù vào đó, sau mùa hè, có khi các sinh viên này được cha mẹ mua sắm cho xe hơi hoặc xe tay ga. Nói chung, sinh viên con nhà giàu đi làm ít quan tâm đến tiền lương và sành điệu. Chính vì thế, cơ hội tìm việc của sinh viên thành phố, sinh viên con nhà giàu luôn cao hơn nhiều so với sinh viên nghèo đến từ các miền quê.
Đi suốt ngày, mời từ bàn này sang bàn nọ, từ quán này sang quán kia, cuối cùng, cả ngày đi bộ cả mấy chục cây số chỉ bán được hai mươi lăm tấm vé, buổi sáng ăn mì tôm, buổi trưa ăn mì tôm, buổi tối lại ăn mì tôm để dành ra một ít tiền tích lũyLây lất, tủi nhục kiếm cơm và học phí
Dung, sinh viên
Bán vé số mùa hè trong giới sinh viên, dường như chỉ có sinh viên nữ chọn việc này, ít thấy sinh viên nam nào tham gia. Một nữ sinh viên trường cao đẳng nghề Đà Nẵng khác tên Dung, thường đi bán vé số ở Hòa Vang và Liên Chiểu, những quận vùng ven thành phố Đà Nẵng, than thở với chúng tôi rằng bán vé số nhọc nhằng lắm lắm, đôi khi buồn và tủi nhục nữa. Nói là buồn vì bây giờ người ta đi bán vé số quá nhiều, chuyện đi bán mỗi ngày cho được năm mươi tờ vé, kiếm năm mươi ngàn đồng quá ư là khó khăn.
Có nhiều hôm Dung đi suốt ngày, mời từ bàn này sang bàn nọ, từ quán này sang quán kia, cuối cùng, cả ngày đi bộ cả mấy chục cây số chỉ bán được hai mươi lăm tấm vé, buổi sáng ăn mì tôm, buổi trưa ăn mì tôm, buổi tối lại ăn mì tôm để dành ra một ít tiền tích lũy. Có tuần liên tục ba ngày ăn mì tôm, nói chuyện cũng nghe mùi mì tôm xốc lên mũi. Nhưng Dung vẫn nuôi hy vọng kiếm được nhiều tiền để dành cho năm học sau.
Dung nói có nhiều lần, vào quán cà phê hoặc quán nhậu mời vé, nhiều ông sòn sòn tuổi ngang với cha của Dung ở nhà chọn mua vài tấm vé nhưng kéo dài cả mười lăm, hai mươi phút, sau đó mời Dung uống bia, cô từ chối thì ông khách này đặt thẳng vấn đề là chỉ cần đi chơi, đi ngủ với ông một tuần, ông sẽ cho đủ học phí hai năm sau, khỏi cần phải lang thang đầu đường xó chợ mời từng tấm vé cực khổ. Nghe ông khách nói vậy, Dung thấy tê buốt cả lồng ngực bởi vì tổn thương, người ta đã hiểu nhầm động cơ kiếm tiền của cô, họ nghĩ rằng cô đi bán dâm trá hình bằng kiểu chào mời vé số.
Mẹ cô ở quê lại bệnh nặng, cô tình cờ gặp một ông khách già hỏi cô muốn về làm việc cho ông không, giúp việc trong khu biệt thự của ông. Cô đồng ý, về làm được vài hôm thì ông này mời cô uống vài lon bia, cô say, đến khi cô tỉnh dậy, cuộc đời con gái của cô đã tan theo bọt bia của ông giàNhưng rồi suy đi nghĩ lại, cô càng quyết tâm hơn và không thấy buồn bực vì loại khách này nữa, bởi cô nghĩ rằng họ gặp cũng không ít các cô gái giả dạng sinh viên hoặc là sinh viên thực thụ cũng đi bán dâm trá hình kiếm tiền phụ giúp gia đình và trang trải học phí. Chuyện này nhiều, cô biết, và cô thấy thông cảm, thương xót cho các bạn cùng lứa hơn là ghét họ.
Nữ sinh viên giấu tên
Một nữ sinh viên khác, yêu cầu giấu tên, hiện làm tiếp thị cho hãng bia Huda – Huế tại thị trường Liên Chiểu, Đà Nẵng, nói với chúng tôi rằng ban đầu cô cũng có ý nghĩ trong sáng như bao sinh viên nhà nghèo khác, cũng đi làm thêm, đi bán vé số mùa hè để kiếm tiền, nhưng dần dần, quá khổ, da sạm đen mà kiếm không ra tiền, bữa được bữa mất, mẹ cô ở quê lại bệnh nặng, cô tình cờ gặp một ông khách già hỏi cô muốn về làm việc cho ông không, giúp việc trong khu biệt thự của ông. Cô đồng ý, về làm được vài hôm thì ông này mời cô uống vài lon bia, cô say, đến khi cô tỉnh dậy, cuộc đời con gái của cô đã tan theo bọt bia của ông già. Nhưng, ông già này cho tiền cô rất nhiều, cô về chuyển mẹ lên bệnh viện tuyến trên để phẫu thuật, chữa trị và làm nhà.
Kết cục, cô quyết định đi làm tiếp thị, cuộc đời sinh viên của cô chấm dứt sau một mối tình kéo dài gần hai năm với một ông già nhà giàu, cho đến phút ông ta lâm chung vì một tai nạn đột ngột trên giường với một sinh viên khác. Cũng may là gia đình ông khéo bưng bít chuyện này nên ông chết có thanh thản, không mang tiếng. Kể đến đây, cô tiếp thị bùi ngùi nói rằng đồng tiền là thứ thuốc độc mà đôi khi người ta biết nó độc vẫn cứ uống vì không còn lựa chọn nào khác.
Nghe câu chuyện của cô gái tiếp thị xong, một mối cảm hoài xa xôi nào đó về đời sống sinh viên thời kinh tế khốn khó lại dấy lên, buồn khó tả!
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.
GIÀN KHOAN HD 981
11/08/2014
Hậu giàn khoan và những việc phải làm của tổ quốc Việt Nam hôm nay
Luật gia Đức Thành
Kể
từ sau khi Trung Quốc rút giàn khoan khổng lồ khỏi thềm lục địa, vùng
đặc quyền kinh tế của Việt Nam đến nay, chưa thấy có bất cứ phân tích
đánh giá nào về vai trò của đảng cộng sản VN với tư cách là lực lượng
duy nhất lãnh đạo nhân dân Việt Nam có công trạng đến đâu trong vấn đề
này.
Cứ theo cách hành xử của lãnh đạo đảng
trong hơn hai tháng giàn khoan ấy cắm ở biển Đông của Việt Nam thì ĐCS
VN hoàn toàn bất lực trước ông bạn vàng bốn tốt của đảng, nên ông bạn
vàng đã ngang nhiên bất chấp công pháp quốc tế, bất chấp dư luận tiến bộ
thế giới, bất chấp cả thói xu nịnh bợ đỡ của chính đảng anh em, cắm cho
bằng được bộ mặt gian giảo, xảo quyệt nhất mọi thời đại là bành trướng
bá quyền nước lớn lên tấm thân gầy dằng dặc đau thương của dân tộc Việt
Nam. Và với cách hành xử như thế thì rõ ràng việc giàn khoan của TQ rút
đi khỏi VN không có tý công trạng nào của đảng cả.
Hiện
nay đảng đang dùng các nguồn từ ngân sách nhà nước, từ nguồn thuế của
dân và từ tiền bán rẻ công thổ quốc gia cho những tập đoàn nước ngoài để
xây dựng lộ trình cho một nhiệm kỳ đại hội mới của đảng.
Vấn
đề là ở đại hội này, họ có quan tâm đến những lợi ích nguyện vọng chính
đáng của dân tộc, mà đặt quyền lợi của dân tộc lên trên hết thảy mọi
quyền lợi khác của họ hay không?
Đã từ rất nhiều
nhiệm kỳ đại hội đảng, dân tộc ta dường như đã buông xuôi cho họ muốn
làm gì thì làm, đã chấp nhận họ lãnh đạo một cách tuyệt đối dù biết rất
rõ trong đảng của họ còn đầy rẫy suy thoái, biến chất. Thực tế họ đã là
những con sâu dân, mọt nước, nên đất nước mới kiệt quệ về kinh tế, phân
hóa về nội bộ, lòng dân bất an, thế lực nước ngoài nhòm ngó xâm lấn như
hiện nay!
Để đất nước sớm có con đường phát
triển, đoàn kết dân tộc cùng nhau một lòng xây dựng đất nước Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay thì công việc trước tiên của tổ quốc cần là
phải định vị lại vị trí vai trò của ĐCS VN trong tiền đồ dân tộc, để có
cách nhìn nhận đúng đắn về đảng này, xem xét xem họ có còn phù hợp với
lợi ích chính đáng của dân tộc VN nữa hay không.
Nếu
họ không còn phù hợp nữa thì cần tạo đà để cho các lực tiến bộ khác
phát triển cùng nhau gánh vác công việc của non sông đất nước. Ai, lực
lượng nào phù hợp với lợi ích của dân tộc nhất người đó sẽ là lực lượng
dẫn dắt dân tộc.
Cung cách đảng đang lựa chọn
nhân sự cho đại hội nhiệm kỳ tới là theo tiêu chí bó đũa chọn cột cờ, có
nghĩa là đảng vẫn cam tâm chỉ chọn một nhúm người trong đảng, trong đó
có cả một bộ phận thoái hóa biến chất đứng ra gánh vác công việc đất
nước của một dân tộc có đến hơn 90 triệu dân. Với cách lựa chọn như thế
thì làm sao cho dân tộc ta phát triển?
Thế nào là phù hợp với lợi ích của dân tộc?
Đương
nhiên con đường phát triển của dân tộc là đường đi của một dân tộc phải
đến được hùng cường giàu mạnh, ở đó không thể có điểm dừng để lực lượng
dẫn dắt dân tộc tự mãn theo kiểu sau mỗi chặng đường do mình vẽ ra lại
bắt dân tộc phải suy tôn mình, ghi nhận công lao của mình như đảng đang
làm và mặc cả với dân tộc trong giai đoạn vừa qua và cho đến tận hôm
nay.
Nguyện vọng chung nhất của bất cứ dân tộc
nào trên thế giới là bình đẳng bình quyền cùng nhau quản lý lãnh đạo đất
nước mình, phát huy cao độ mọi sức mạnh của toàn dân trong việc xây
dựng đất nước và giữ gìn, phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc
mình, hòa đồng với thế giới văn minh tiến bộ.
Một
nguyện vọng như thế mà đảng không dám nêu cao, không dám phát huy cổ
súy cho nó hình thành thì đảng đó sẽ sớm trở thành tội đồ của dân tộc.
Trước sau gì thì dân tộc ấy cũng nhận ra và sẽ có phán xét kịp thời về
nó.
Vấn đề ở đây là: Với dân tộc, đã để cho ai
thay mặt mình lãnh đạo gánh vác đất nước thì cũng cần phải tỉnh táo, cân
nhắc giao cho lộ trình cần làm, đúc rút kinh nghiệm trong một hai nhiệm
kỳ để mà chỉnh sửa, hoặc thay thế bằng lực lượng khác có uy tín hơn.
Không thể nhắm mắt làm ngơ khi họ đã công khai những thối nát nhất, suy
thoái nhất, mục nát nhất không có cách gì và lộ trình nào khắc phục để
tài sản công sức của dân tộc sau bấy nhiêu năm có cơ hồ mất trắng bởi
“nền hòa bình độc lập của Việt Nam đang bị đe dọa” - như phát biểu của
chủ tịch quốc hội Nguyễn Sinh Hùng.
Còn với với
riêng đảng, cũng cần nhận thức trong đợt phân tích đánh giá của dân tộc
đối với đảng mình thì cần phải nghiêm túc soi sét mình đã làm được gì
cho dân tộc này, nguyên nhân nào đảng bị đánh giá lại, sách lược, chính
cương, nghị quyết của mình có còn phù hợp với lợi ích của dân tộc mình
hay không để mà điều chỉnh phù hợp đối với nguyện vọng của dân tộc này.
Sự
soi xét này yêu cầu đảng phải làm hết sức nghiêm túc mới tìm ra được
những cái lệch lạc, sai lầm. Thậm chí đảng sẽ nhận ra cả những đòi hỏi
phi lý của mình trong điều 4 hiến pháp mà đảng mà đảng cố tình lái cho
bằng được trong đợt xây dựng hiến pháp vừa qua.
Để
có tiêu chí đánh giá chung nhất nhưng cũng rất khách quan công bằng
khoa học cho một công cuộc đánh giá lại vai trò của đảng CS VN, cần nhận
thức theo các hướng sau đây:
1. Đảng ra
đời và dẫn dắt dân tộc trong lúc khủng hoảng xã hội Việt Nam sâu sắc
nhất, khi nhà nước phong kiến thì ươn hèn, còn tư bản thì tận dụng tối
đa cơ hội này khai thác bóc lột đến thậm tệ dân tộc Việt Nam. Thời kỳ
này đảng đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, dân chủ bình quyền và
chính sách hợp lòng dân là người cày có ruộng. Đây là một công lao cần
ghi nhận.
2. Giai đoạn kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ: Thời kỳ này do không vượt thoát bởi ý thức hệ phe phái
giữa các nước lớn đại diện cho hai phe TBCN và XHCN, đảng đã nhắm mắt
làm ngơ tiến hành một cuộc chiến tranh được gọi là giải phóng dân tộc
nhằm vào chính đồng bào mình, mà hệ quả là đất nước bị dìm trong bể máu
chiến tranh, suốt 30 năm huynh đệ tương tàn dẫn đến suy yếu thậm tệ khối
đại đoàn kết của dân tộc, khiến kẻ thù của dân tộc hiện đang ngư ông
đắc lợi trên biển Đông. Đây là điểm yếu hạn chế nhất của đảng trong giai
đoạn này.
3. Cần nhận thức rõ, nhận thức
lại rằng cuộc chiến tranh 30 năm 1945-1975 tại Việt Nam chính là cuộc
chiến tranh phe phái TBCN và XHCN để Trung Quốc không còn cớ cậy công
rằng đã giúp dân tộc Việt Nam chiến thắng Pháp và Mỹ. Việt Nam trong
cuộc chiến tranh này chỉ là nạn nhân, do đó bất luận trong trong hoàn
cảnh nào không được nói thắng thua trong lòng một dân tộc. Làm được như
thế tự nhiên chính sách hòa giải hòa hợp dân tộc đã được giải quyết.
4.
Phải làm cho dân hiểu rõ Cải cách ruộng đất, Nhân văn Giai phẩm, Cải
tạo công thương nghiệp tại miền Nam là sai lầm. Sai lầm do nôn nóng, chủ
quan duy ý chí hoặc sức ép từ bên ngoài trong điều kiện hoàn cảnh bị
nước ngoài lợi dụng chứ không phải ý chí cuối cùng tối thượng của đảng
để được nhân dân thông cảm.
5. Về cuộc
chiến tranh biên giới 1979: Đây là cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân
dân ta bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của tổ quốc, qua đó đòi lại những
phần đất đã bị TQ lấy mất tại ải Nam Quan, Thác Bản Giốc… theo nguyên
tắc của hiệp định Pháp - Thanh. Phần nào đã bị lấn chiếm mất bao nhiêu
diện tích so với hiệp định Pháp - Thanh cần có bảng chỉ dẫn lập bia để
hậu thế biết được.
Quần đảo Hoàng Sa là lãnh thổ
thiêng liêng của tổ quốc. Đảng ngay tức khắc phải có mọi biện pháp đòi
lại chủ quyền không thể tẩm ngẩm tầm ngầm mãi như thời gian vừa qua được
nữa.
6. Trong bang giao đối ngoại dù với
nước nào cần phải triệt để nguyên tắc có đi có lại, bình đẳng hữu nghị
cùng có lợi. Tuyệt nhiên không được đem vận mệnh dân tộc làm vật tế thần
mặc cả với những thế lực ngoại bang. Là người hiểu rõ dã tâm của Trung
Quốc hơn bao giờ hết cần phải cho thế giới thấy hết dã tâm này của Trung
Quốc. Qua đó họ sẽ có đối sách phù hợp với chính TQ và thông cảm giúp
đỡ nhân dân Việt Nam hơn.
7. Với nhân dân
trong nước cần mở rộng lộ trình dân chủ bình đẳng bình quyền đến mọi
tầng lớp trong xã hội, khuyến khích những thành phần ưu tú tham gia quản
lý, cùng gánh vác các công việc quốc gia đại sự.
8. Cần
triệt để tranh thủ sự ủng hộ quốc tế trong chương trình phát triển kinh
tế biển, hợp tác phát triển lĩnh vực kinh tế biển. Mạnh dạn đầu tư tàu
dịch vụ hậu cần nghề cá hiện đại làm nơi tập trung thu mua khai thác cá
của nhân dân, góp phần nâng cao giá trị phẩm chất và năng suất cá. Đầu
tư cho lực lượng này đủ lớn để cung ứng hậu cần bằng máy bay cho ngư dân
cũng như xuất thẳng sang những nước có tỷ giá cao.
9.
Với xu thế bất lợi hiện nay trên biển Đông và biển Hoa Đông đã manh nha
một hiệp ước phòng thủ, phòng vệ tập thể nhằm ngăn ngừa những kẻ cậy
lớn cắn trộm. Việt Nam cần nghiên cứu kỹ loại hình hợp tác này trên
nguyên tắc phòng ngừa xung đột xảy ra.
Vài tiêu
chí viết vội trên đây chắc chắn sẽ còn rất nhiều thiếu sót, nhưng chỉ
cần căn cứ những tiêu chí này sẽ đánh giá về đảng, cách nghĩ của đảng
hiện nay một cách chính xác nhất. Các tiêu chí này đảng có thể tự nhìn
nhận để đúc rút cho mình, hòng đáp ứng hơn đối với đòi hỏi của dân tộc,
từ đó mà lấy lại lòng tin từ dân tộc mình. Còn với dân tộc Việt có tấm
lòng vị tha bao dung sẵn sàng giao phó cho những chính đảng dám đáp ứng
và phục vụ lợi ích tối đa của dân tộc.
Mong rằng
qua bài viết này, toàn thể dân tộc, và mỗi con người Việt Nam chúng ta
dù trong nước hay hải ngoại luôn nặng nòng với non sông đất nước đánh
giá lại vị trí vai trò của đảng hiện nay có còn đủ uy tín lãnh đạo đất
nước nữa hay không.
Đ.T.
Tác giả gửi BVN
VẬN MỆNH * CỘNG SẢN
Định nghĩa cộng sản là gì?
Vận Mệnh (Danlambao) - Có
rất nhiều học thuyết, chủ nghĩa tồn tại hơn 100 năm bàn về dan từ "Cộng
sản" được trang trí vẻ bề ngoài bằng nhiều câu từ hết sức trìu mến,
thanh cao, hồng hào, cao cả khiến cho nhiều người thoạt nghe như vừa tìm
thấy chỗ dựa vững chắc. Riêng Vận Mệnh thì hiểu theo cách rất Việt Nam
qua cuộc đối thoại như sau:
Thằng ăn xin (1) gặp bạn và nói: Ê! Thằng công - nông - tư - trí (2) mày biết thế nào là cộng sản không?
Bạn: Tao không biết. Theo mày nó là gì?
Thằng ăn xin: Mày có mang theo tiền đó không?
Bạn: Có
Thằng ăn xin: Bao nhiêu?
Bạn: 10 đồng
Thằng ăn xin: Mày đưa đây, tao sẽ nói cho mày hiểu thế nào là cộng sản.
Bạn móc bóp và đưa: Đây, mày chứng minh thử xem.
Thằng ăn xin: Mày có 10 đồng, tao có 0 đồng đúng không?
Bạn: Đúng rồi.
Thằng ăn xin: Là thế này, 10 đồng của mày cộng với 0 đồng của tao, bây giờ tao chia lại mày 5 đồng.
Bạn: Rồi sao nữa?
Thằng ăn xin: Thì là cộng sản rồi chứ là sao.
Bạn: Là sao, là sao ta?
10/8/2014
_______________________________
Giải thích:
(1) Thằng ăn xin: là giai cấp vô sản, không có gì ngoài cái miệng biết nói láo.
(2) Bạn là người luôn có tinh thần yêu nước:
Công: là giai cấp công nhân, có sức lao động, có tay nghề.
Nông: là giai cấp nông dân, có ruộng đất, có sức lao động, có kinh nghiệm trồng trọt và canh tác.
Tư: là tầng lớp tư sản, có của cải vật chất, có sức lao động, có kiến thức.
Trí: là tâng lớp trí thức, là các nhà khoa học, có trí tuệ hơn người, có sức lao động.
Sunday, August 10, 2014
NGUYỄN CHÍNH KẾT * CỘNG SẢN MÂU THUẪN
Bộ máy thuần hóa của CSVN
Mâu thuẫn trong chế độ CSVN
Chế độ CSVN là một chế độ hàm chứa rất nhiều mâu thuẫn và nhiều điều khó
hiểu, khó hiểu đến nỗi có nhiều người không hiểu nổi hoặc không sao
giải thích được.
Chẳng hạn, có thể nói: xét về khả năng xây dựng đất nước thì CSVN là một
chế độ ngu xuẩn và tệ hại nhất trong lịch sử nước ta, và không chừng
còn là ngu xuẩn nhất thế giới. Thế mà những người lãnh đạo chế độ này
thường vỗ ngực tự xưng là “đỉnh cao trí tuệ loài người”. Thật
vậy, trước 1975, VNCH hay miền Nam Việt Nam − vốn văn minh hơn những
nước chung quanh như Thái Lan, Lào, Miến Điện, hay ít nhất là ngang hàng
hoặc hơn chứ không thể kém Philippines, Đài Loan, Đại Hàn. Thế mà sau
1975, khi chiếm được miền Nam, CSVN đã biến cả Miền Nam lẫn miền Bắc trở
thành một nước lạc hậu hàng trăm năm so với những nước kể trên. Sự tự
hào của bọn lãnh đạo CSVN quả là một ngu xuẩn, ngu xuẩn đến nỗi người
bình thường khó mà hiểu được!
Tuy nhiên, nghĩ theo chiều hướng hoàn toàn cục bộ thì sự tự hào ấy xem ra cũng có lý. Hồ Chí Minh khi sinh tiền đã từng nói: “Đánh thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng bằng năm, bằng mười ngày nay”.
Khi thấy thực tế là đất nước dưới chế độ CSVN đã nghèo đi gấp năm gấp
mười lần trước đó, chúng ta thường nhạo báng lời của ông Hồ. Sở dĩ thế
là vì chúng ta tưởng ông Hồ có ý nói về việc xây dựng đất nước. Nhưng
nếu áp dụng cho việc xây dựng đảng và đời sống của các đảng viên CSVN
thì lời đó của ông Hồ đúng 100%. Thật vậy, sau khi “đánh thắng giặc Mỹ” và chiếm được Miền Nam, đảng và các đảng viên CSVN đã giàu lên không chỉ gấp năm gấp mười mà gấp đến cả trăm, cả ngàn lần.
Cũng vậy, sự kiện các lãnh đạo CSVN vỗ ngực tự xưng là “đỉnh cao trí tuệ loài người”,
nếu đừng hiểu trí tuệ này áp dụng vào việc xây dựng đất nước, mà chỉ áp
dụng vào việc bảo vệ đảng, bảo vệ sự độc tôn trường trị của đảng, thì
ta phải công nhận họ đã thật sự đạt đến đỉnh cao của trí tuệ loài người.
Có thể nói tóm gọn là CSVN rất ngu xuẩn trong điều thiện, nhưng lại vô
cùng khôn ngoan trong điều ác; rất ngu xuẩn trong việc bảo vệ và phát
triển đất nước, nhưng lại rất khôn ngoan và hữu hiệu trong việc bảo vệ
và phát triển độc quyền thống trị đất nước của họ. Trí tuệ hay sự khôn
ngoan ở đây cần phải hiểu theo chiều hướng gian manh, quỷ quyệt, mưu mô,
thủ đoạn…
Những câu hỏi khó trả lời
Khi chưa hiểu được những phương cách đảng CSVN áp dụng để bảo vệ quyền
lực và độc quyền thống trị đất nước của họ, thì nhiều người trên thế
giới, nhất những nạn nhân của chế độ CSVN, đều lấy làm lạ tự hỏi:
− Tại sao các cán bộ CSVN, cụ thể là những người công an CSVN lại có thể
tàn bạo và dường như hoàn toàn vô cảm trước sự đau khổ tận cùng của
người dân, vốn cùng là máu đỏ da vàng với mình, có khi là những người có
họ hàng gần xa với mình như vậy?
− Tại sao chế độ CSVN lại dung dưỡng cho các cán bộ cấp dưới được tự do cướp nhà cướp đất của người dân mà không thèm xét xử?
− Trước nguy cơ mất nước rất lớn vào tay Trung Cộng, biết bao người dân
đang hết sức lo âu cho vận mệnh dân tộc, tại sao một Quốc hội gồm 500
dân biểu với tư cách đại diện cho dân lại có thể thờ ơ và vô cảm trước
sự kiện này đến nỗi không thể ra được một văn kiện chính thức phản đối
Trung Cộng? Tại sao những người lãnh đạo cao cấp nhất trong nước lại
phản ứng như đồng lõa, tiếp tay với kẻ thù xâm lược?
− Giặc Tàu xâm lược rất mạnh và hung bạo đã xông vào nhà mình, mà mình
là nước nhỏ vừa nghèo lại vừa yếu, chắc chắn chống giặc không nổi, tại
sao CSVN lại ngu xuẩn đến nỗi tuyên bố sẽ không liên kết với nước nào
khác để chống lại giặc? Trong lịch sử thế giới, có nước nào hay ông vua
nào lại ngu xuẩn đến thế không? Hay là CSVN muốn đầu hàng hoặc muốn dâng
cả nước Việt cho Tàu?
− Tại sao công an CSVN trở nên phi nhân tính đến mức tàn bạo, dã man, vô
cảm như hiện nay? Trước khi trở thành công an, họ có như vậy không? Họ
tàn bạo, vô cảm nên mới xin làm công an, hay vì họ làm công an nên mới
trở thành như vậy? (Nhiều người cũng hỏi câu tương tự như vậy đối với
các cán bộ cộng sản).
− Còn hàng trăm câu hỏi khác người dân thắc mắc mà không dễ dàng gì trả lời cho xuôi…
Nhưng nếu chúng ta hiểu được cách chế độ CSVN tự bảo vệ mình và duy trì
quyền lực tuyệt đối trên toàn dân tộc, nhất là trên các đảng viên hay
cán bộ của mình bằng việc thiết lập một bộ máy có khả năng thuần hoá một
cách rất hữu hiệu những người làm việc trong bộ máy đó, chúng ta sẽ rất
dễ trả lời những câu hỏi trên.
Phương cách bảo vệ quyền lực và độc quyền thống trị của CSVN
1/ Bộ máy thuần hóa người dân và đảng viên
Từ khi cướp được chính quyền, đảng CSVN chủ trương phải làm sao thành
lập và duy trì được quyền lực tuyệt đối trên toàn dân Việt hầu muôn đời
trường trị trên đất nước này, hầu có thể mãi mãi đè đầu cưỡi cổ người
dân bất chấp họ có chán ghét và bất mãn chế độ đến đâu. Vì thế đảng chủ
trương một chế độ độc tài, phi nhân, lấy gian trá và bạo lực làm phương
châm hành động hầu tồn tại lâu dài. Ngoài ra đảng CSVN còn tạo nên một bộ máy thuần hóa
người dân, nhất là thuần hóa những đảng viên và những cán bộ từng phục
vụ cho chế độ, biến họ thành những người tuyệt đối trung thành với chế
độ, và trung thành cho đến chết.
Bộ máy thuần hóa này hệ tại một số những yếu tố sau:
● Chủ trương vô thần, vô tôn giáo, vô gia đình, vô tổ quốc và đứng trên luật pháp
giúp cho các đảng viên và các cán bộ cộng sản không còn bị một ràng
buộc nào khác ngoài sự ràng buộc với chế độ. Nhờ thế, họ chỉ còn biết
tuân lệnh đảng và trung thành với đảng mà thôi.
a) Vô thần hay vô tôn giáo khiến người cộng sản không còn tin vào
Thượng Đế, vào sự tồn tại của linh hồn sau khi chết. Do không tin,
người cộng sản không cảm thấy lo sợ hay áy náy khi làm điều ác, cho dù
đó là những tội ác tày trời như giết người, cướp của, cướp đất của dân
nghèo, hay sẵn sàng bán nước cho ngoại bang… Còn người hữu thần hay có
tôn giáo, nếu thật sự tin vào luật luân hồi, nhân quả nghiệp báo, hoặc
tin vào sự thưởng phạt sau khi chết, họ thường không dám làm điều ác hay
xử sự bất công với người khác, vì họ sợ sẽ bị phạt ở đời sau nếu họ
phạm những tội ác ấy. Nhờ bản chất khuyến thiện và chống ác, tôn giáo
giúp các tín hữu sống tốt hơn. Chính vì thế, cộng sản luôn luôn muốn
tiêu diệt tôn giáo, do tôn giáo luôn chống lại điều ác, làm ngăn trở hữu
hiệu bộ máy thuần hóa của chế độ.
b) Vô gia đình, vô tổ quốc khiến họ không còn đặt nặng tình cảm
cũng như trách nhiệm đối với gia đình cũng như đối với tổ quốc. Chủ
trương vô gia đình khiến những người cộng sản thuần thành sẵn sàng thoát
ly gia đình, không còn để tình cảm gia đình chi phối, thậm chí sẵn sàng
theo lệnh đảng tố khổ cha mẹ mình hay anh em ruột thịt của mình. Điển
hình và là gương mẫu cho tính vô gia đình này là Trường Chinh, một lãnh
đạo cao cấp của đảng CSVN, đã đấu tố chính cha mẹ mình. Chủ trương vô tổ
quốc khiến họ không còn coi tổ quốc là quan trọng, mà coi đảng là trên
hết. Những khẩu hiệu như “Trung với đảng, hiếu với dân”, “Mừng đảng, mừng Xuân, mừng Quê Hương”, “Còn đảng còn mình”,
v.v… với thứ tự đảng trước dân sau, hoặc đảng rồi tới xuân rồi mới tới
quê hương… cho thấy tinh thần của những khẩu hiệu này là đặt đảng lên
trên hết, trên cả dân tộc và tổ quốc. Do đó, người cộng sản bị thuần hóa
sẵn sàng hy sinh cả dân tộc cho đảng, coi sự tồn tại và quyền lợi của
đảng quan trọng hơn sự tồn tại và quyền lợi của cả dân tộc.
c) Đảng đứng trên luật pháp, hiến pháp nên đảng không bị luật
pháp chi phối, và đảng được hoàn toàn tự do vi phạm luật pháp cũng như
hiến pháp. Pháp luật trong nước hoàn toàn phải theo ý muốn và chủ trương
của đảng, từ việc soạn thảo đến việc thi hành hiến pháp và luật pháp.
Hiến pháp là do đảng lập, luật pháp cũng do đảng viết; luật pháp do đảng
chỉ thị có nhiều điều luật ngược hẳn lại hiến pháp, nhưng đối với đảng,
điều đó không đáng quan tâm. Ngồi xổm trên luật pháp, đảng có quyền kết
án buộc tội ai tuỳ tiện, cho dù họ hoàn toàn vô tội; và tuyên bố ai vô
tội, không kết án, tuỳ ý đảng, cho dù tội người ấy có tày trời chăng
nữa. Hiến pháp và luật pháp chỉ dùng để ép buộc người dân phải tuân hành
ý muốn của đảng mà thôi. Đối với đảng, vấn đề quan trọng là các đảng
viên hay các cán bộ có trung thành với đảng hay không. Hễ trung thành
với đảng thì mọi tội ác hay mọi vi phạm pháp luật đều có thể bỏ qua,
hoặc được giảm nhẹ tối đa có thể. Hễ chống lại đảng hay tạo nên những
bất lợi cho đảng thì dù không có tội, đảng cũng tìm cho ra tội đểkết án,
bỏ tù hoặc giết chết.
● Đảng chủ trương phải làm sao để các cán bộ cộng sản chỉ có một con đường sống là trung thành bảo vệ chế độ cho đến hết đời mà
thôi, không còn một con đường sống nào khác. Không trung thành hoặc
phản lại đảng thì chẳng những mất hết tất cả những gì nhờ đảng mà mình
tạo được (như quyền lực, danh vọng, của cải...) mà còn có thể bị tù tội
hoặc thủ tiêu. Vì thế, đừng lấy làm lạ khi thấy các cán bộ cộng sản dù
đã biết chế độ này là chế độ bán nước hại dân, và việc theo đảng của
mình là một sai lầm vô cùng to lớn, nhưng vẫn cứ phải tỏ ra ủng hộ và
nói tốt cho chế độ.
Về lãnh vực này phải nói rằng đảng CSVN hết sức tài tình. Đảng đã tạo ra được một bộ máy nhà nước có khả năng thuần hoá tất cả các cán bộ cộng sản
làm việc trong bộ máy này, biến họ trở thành những người chỉ biết có
đảng, chỉ biết tuân lệnh đảng, bất chấp lệnh đó là phi lý, phi nhân, tàn
bạo, có hại cho dân tộc, cho tổ quốc...
Làm sao đảng làm được điều đó?
2/ Phương cách tạo nên bộ máy thuần hóa
a) Trước hết, đảng dồn người dân vào thế bần cùng. Mà “bần cùng sinh đạo tặc”. Người dân muốn sống được thì phải biết lươn lẹo, gian trá, trộm cắp, đút lót, hối lộ, thậm chí phải hại cả người khác [1]. Do người dân phải lươn lẹo, gian trá, trộm cắp, đút lót, hối lộ… để sống mà đảng luôn luôn có lý do để kết tội người dân
khi cần. Cách hay nhất để tiến thân trong xã hội, sống thoải mái sung
sướng là trở thành đảng viên, thành cán bộ cộng sản. Cuộc sống của đảng
viên hay cán bộ sung sướng hơn dân thường rất nhiều, nên nhiều người dân
đã phấn đấu để được trở thành đảng viên hay cán bộ.
b) Khi đã trở thành người của đảng, của bộ máy nhà nước, người ta bỗng
nhiên có một thế đứng, một quyền hạn nào đó, và đương nhiên họ bị cám dỗ
lạm dụng những lợi thế đó. Nhiều cán bộ đã sử dụng bằng giả để tiến
thân, hay hối lộ cấp trên để được thăng chức, hay lạm dụng quyền hành để
cướp nhà cướp đất của dân, hay ăn thụt két, trộm cắp của công, hay làm
những điều tồi bại khác… Đảng sẵn sàng làm ngơ trước những vi phạm pháp luật đó nếu đảng viên hay người cán bộ vẫn tỏ ra trung thành với đảng.
Tuy làm ngơ nhưng đảng vẫn ghi nhận trong hồ sơ những vi phạm ấy. Và
những hồ sơ vi phạm này chỉ được khui ra khi đảng cần kết án vì đương sự
trở nên có hại cho quyền lực của đảng [2].
Hầu hết những cán bộ hay đảng viên đã lỡ tay “nhúng chàm” do lòng “tham sân si” của mình hay do bị gài bẫy [3] đều nhìn thấy cái án treo sẵn trên đầu mình. Án này cứ treo mãi trên đầu như thế cho dẫu mình có tiếp tục “nhúng chàm” nhiều hơn nữa cũng không sao, miễn là cứ tỏ ra trung thành với đảng, là đảng sẵn sàng bảo vệ. Nhưng án đó sẽ sập xuống ngay khi đảng viên hay cán bộ ấy chống lại đảng, không tuân lệnh đảng, hay có ý phản đảng,
nhất là khi họ thức tỉnh lương tâm, nhận ra đảng toàn làm những điều
sai trái, toàn gây tội ác đối với nhân dân, nên không còn muốn tuân lệnh
đảng nữa, hoặc muốn đứng về phía người dân để bênh vực cho quyền lợi
của người dân...
c) Những ai từng tỏ ra trung thành với đảng, đảng luôn luôn tạo điều
kiện để họ trung thành với đảng hơn nữa. Ngoài việc làm ngơ khi họ vi
phạm pháp luật, hay cướp nhà cướp đất của dân, đảng cho họ được thăng
quan tiến chức, bất chấp họ có xứng đáng hay có khả năng đảm nhiệm tốt
chức vụ đó hay không. Đối với giới công an, đảng ra thật nhiều luật thậm chí rất phi lý
để công an có lý do làm tiền người dân. Vì luật càng nhiều, càng phi lý
thì càng có nhiều người dân vi phạm những luật ấy. Mà khi dân bị công
an bắt gặp vi phạm luật, chẳng hạn không đội mũ bảo hiểm trên xa lộ,
chạy xe không chính chủ, v.v... thì để khỏi bị công an làm lôi thôi mất
thì giờ, người dân sẵn sàng bỏ tiền ra hối lộ công an cho xong chuyện.
Nhờ đó công an có điều kiện làm giàu, và cũng nhờ đó công an phải trung
thành và gắn bó với chế độ hơn. Nhiều người dân quá sợ bị mời về đồn
công an và bị tra tấn đến chết như đã từng xảy ra chỉ vì vi phạm luật
giao thông hay một lỗi nhỏ khác [4]nên
sẵn sàng hối lộ để tránh nguy hiểm cho mình. Việc pháp luật làm ngơ
hoặc xử án thật nhẹ những công an đánh chết người, vừa để người dân sợ
mà nhanh nhẩu đút lót làm giàu cho công an, vừa để cho người công an
thấy sự dung dưỡng của chế độ đối với mình mà trung thành với đảng hơn.
Tóm lại, bộ máy thuần hóa của đảng CSVN gồm những yếu tố:
1) Người cộng sản được “giải phóng” khỏi những ràng buộc do lương tâm, do tôn giáo, do gia đình, do tổ quốc để chỉ còn bị ràng buộc vào đảng mà thôi.
2) Người nào theo đảng, trung thành với đảng thì được đảng tạo đủ mọi
điều kiện để sống thoải mái, giàu có, có quyền lực, địa vị… lại được
pháp luật làm ngơ trước những vi phạm luật của mình. Điều này giúp họ dễ
dàng thỏa mãn những đòi hỏi của lòng tham sân si cũng như thất tình lục
dục của mình.
3) Những vi phạm luật này khiến họ phải tiếp tục trung thành với đảng để
được tiếp tục hưởng ơn mưa móc của đảng và để khỏi bị truy tố về những
tội ác của mình.
4) Những ai không còn tuân phục đảng, hay phản bội đảng, hoặc làm theo
lương tâm mình mà gây bất lợi cho đảng thì chẳng những mất hết những gì
mình đang có mà còn có thể nguy hiểm đến tính mạng mình và nhiều khó
khăn sẽ xảy đến cho gia đình mình.
Chính sách “cây gậy và củ cà-rốt”, hay nói cụ thể hơn là “khủng bố và quyền lợi”,
được đảng CSVN sử dụng rất nhuần nhuyễn và tài tình, tạo nên một bộ máy
thuần hóa rất hữu hiệu đối với người dân, và nhất là đối với đảng viên
hay cán bộ cộng sản.
Do đó, đối với các đảng viên hay cán bộ cộng sản, chuyện công khai bỏ
đảng, nhất là trở thành một người đấu tranh cho dân chủ nhân quyền là
chuyện hi hữu, là những trường hợp đặc biệt. Làm được chuyện này phải là
người rất can đảm, rất đáng phục nhờ trong quá khứ họ sống thanh liêm,
trong sạch, tay chưa hề “nhúng chàm” nên không sợ bị chế độ truy
tố. Thiết tưởng chúng ta cần nâng đỡ tinh thần họ, khuyến khích họ làm
theo lương tâm, hơn là cản trở hay tỏ ra nghi ngờ họ.
Tuy nhiên, do luật quả báo, đảng CSVN lại bị Trung cộng hay đảng Cộng sản Trung Quốc thuần hóa cũng
bằng những phương cách tương tự như những phương cách mà CSVN đã thuần
hóa người dân và đảng viên của mình. Bị thuần hóa đến nỗi đảng CSVN muốn
thoát khỏi ảnh hưởng của Trung cộng để tự cứu mình và cứu cả đất nước
cũng không sao thoát được! Đúng là luật quả báo!
Houston, ngày 10/8/2014
________________________________________
Chú thích:
[1] Có lần Thủ tướng CSVN
Phạm Văn Đồng nói: “Lương cao, lương thấp đều sống được, chỉ có lương
thiện là chết” (Tiến sĩ Hoàng Xuân Hào tiết lộ) (xem Nguyễn Anh Tuấn,
Việt Đạo trong sáng tạo lịch sử, nhóm phát huy tinh thần Hùng Gia Đại
Việt xuất bản, Westminster-Cali, 1994).
[2] Tương tự như ở Trung
Quốc, những ông Bạc Hy Lai, Chu Vĩnh Khang… đã tham nhũng cả mấy chục
năm;, tình báo hay an ninh nhà nước cộng sản làm gì mà không biết, nhưng
có đếm xỉa gì đến đâu! Chỉ khi mấy ông này trở nên nguy hiểm hay bất
lợi cho người đang nắm quyền tối cao trong nước thì những vi phạm ấy mới
bị đưa ra ánh sáng để có cớ mà kết án, mà hạ bệ hay tiêu diệt thôi.
[3] Nhiều công an hay cán bộ
giết người, bảo vệ đường giây chuyển ma túy vì thi hành lệnh trên, hoặc
bị gài bẫy về mặt tình cảm hay tình dục, v.v... đều phải tiếp tục những
công việc bất nhân mà đảng ra lệnh. Họ sợ bị đảng truy tố hay công khai
hóa những việc tồi bại của mình. Nhiều người có uy tín hay có địa vị
trong xã hội hoặc trong tôn giáo, do sai phạm về tiền bạc, tình dục, hay
bị gài bẫy để sai phạm những điều ấy, chỉ vì muốn giữ uy tín cho mình
mà không dám làm những gì lương tâm mình buộc phải làm, nhất là khi điều
ấy gây bất lợi cho chế độ.
[4] 5 công an đánh chết người: Thay phiên tra tấn nghi can bị còng
Công An tra tấn chết người chỉ bị án treo
Ăn trộm vài đồng tiền lẻ bé trai bị tra tấn đến chết?
TS NGUYỄN ĐÌNH THẮNG * QUAN HỆ VIỆT MỸ
Ts. Nguyễn Đình Thắng - Quan Hệ Hoa Kỳ - Việt Nam: Có Điều Kiện Và Tiệm Tiến
Ts. Nguyễn Đình Thắng
Các bản tin quốc tế về buổi họp báo của TNS John McCain và TNS
Sheldon Whitehouse ngày 8 tháng 8 ở Hà Nội đã không nêu lên hai điểm
quan trọng: cải thiện nhân quyền phải ở mức căn bản và tiến trình phát
triển quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam mang tính cách tiệm tiến, tuỳ
thuộc mức cải thiện nhân quyền. Một số bản tin Việt ngữ cũng phạm thiếu
sót vì lấy tin từ các bản tin quốc tế.
Điểm quan trọng thứ nhất là sự cải thiện nhân quyền phải ở mức căn
bản và không quay lui được. Căn bản nghĩa là: trả tự do cho tất cả tù
nhân lương tâm, xoá bỏ các công cụ trong khung luật và trong chính sách
mà nhà nước dùng để đàn áp hay bỏ tù người bất đồng chính kiến, và tôn
trọng ba quyền tự do căn bản: tự do phát biểu, tự do hội họp ôn hoà và
tự do lập hội. Nếu thực hiện đúng như vậy thì đây là nền tảng cho một
tiến trình dân chủ hoá đất nước.
TNS McCain hiểu rằng những cải thiện này không thể xảy ra "qua đêm"
mà đòi hỏi một thời gian. Do đó sự phát triển quan hệ đối tác với Việt
Nam, kể cả về an ninh và mậu dịch, sẽ mang tính cách tiệm tiến. Nghĩa là
Việt Nam cải thiện nhân quyền đến đâu thì Hoa Kỳ sẽ đáp ứng đến đó về
mức độ đối tác.
Đây chính là mục tiêu chiến lược của kế hoạch quốc tế vận 2013-2014,
được nhiều trăm người chung sức thực hiện qua các đợt tổng vận động Quốc
Hội và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ trong thời gian qua và ngày càng được nhiều
dân biểu và thượng nghị sĩ Hoa Kỳ hưởng ứng.

TNS John McCain tham gia cuộc biểu tình chống giàn khoan HD-981, Phoenix, AZ ngày 17/05/2014
TNS McCain chỉ nói lên một thực tế: với mức chống đối hiện nay ở Quốc
Hội Hoa Kỳ, không cách gì thông qua được TPP và gỡ bỏ lệnh cấm bán vũ
khí sát thương cho Việt Nam nếu Việt Nam không thoả đáng điều kiện về
cải thiện nhân quyền một cách căn bản.
Chúng ta có thể hình dung một lộ trình 5 năm để dân chủ hoá Việt Nam.
Khởi điểm của lộ trình là Việt Nam phải trả tự do cho một số đáng kể
các tù nhân lương tâm, xoá bỏ hay tu chính các luật vi phạm nhân quyền
(Nghị Định 72 về internet, Nghị Định 92 về sinh hoạt tôn giáo, các điều
88, 258 và 79 Bộ Luật Hình Sự), và ban hành luật chống tra tấn và luật
hội đoàn bao gồm công đoàn độc lập. Sau đó mỗi năm Việt Nam phải đạt
những chỉ tiêu nhất định để được hưởng thêm các hỗ trợ về an ninh (bao
gồm vũ khí sát thương) và quyền lợi mậu dịch qua TPP. Năm nào Việt Nam
không đạt chỉ tiêu thì các quyền lợi sẽ không được tăng thêm cho đến khi
đạt chỉ tiêu.
Đây không phải là một ví dụ bâng quơ mà đang là một chính sách được
nhiều thành phần trong và ngoài chính quyền Hoa Kỳ thúc đẩy. Đó cũng là
lý do của sự hình thành Liên Minh Cho Một Việt Nam Tự Do Và Dân Chủ.
Phát biểu báo chí của TNS McCain, mà chúng ta có thể hiểu là đại biểu
cho Thượng Viện Hoa Kỳ, đánh dấu thành quả bước đầu nhưng đáng kể của
kế hoạch quốc tế vận 2013-2014.
Trong 5 tháng còn lại của năm 2014, chúng tôi sẽ tiếp tục cài thêm
nhiều nút chặn TPP để Hành Pháp Hoa Kỳ bị giới hạn về chọn lựa và chỉ
còn cách thúc đẩy chính quyền Việt Nam chấp nhận lộ trình dân chủ hoá
với khởi điểm trước cuối năm. Qua năm sau có thể là quá trễ vì cánh cửa
cơ hội cho Việt Nam vào TPP sẽ khép lại rất nhanh một khi cuộc tranh cử
Tổng Thống Hoa Kỳ bắt đầu.
Một trong những nút chặn đang được hình thành là vấn đề tự do tôn
giáo mà Việt Nam đang vi phạm trầm trọng. Một nút chặn nữa là tình trạng
cưỡng chiếm tài sản của công dân Hoa Kỳ mà chúng tôi đã chuẩn bị sẵn để
khi cần thì dùng đến.
Từ giờ đến cuối năm, chúng ta sẽ phải đẩy mạnh hơn nữa cuộc tổng vận động.
TRƯƠNG NHÂN TUẤN * VIỆT NAM
VN hợp tác với ai, về cái gì và chia sẻ với ai, về cái gì ?
Góp ý với ba vị giáo sư có hơn 30 năm giảng dạy ở Hoa Kỳ.
Trương Nhân Tuấn/FB TNT
Ảnh bên:Hai giáo sư Trần Hữu Dũng (giữa) và Ngô Vĩnh Long (phải) trả lời Nguyễn Hùng
Thật tình tôi không thể chia sẻ bất kỳ ý tứ nào của của ba vị (giáo sư tiến sĩ ) trong bài phỏng vấn của BBC ở đây. Bài phỏng vấn có tựa đề: “Hoàng Sa-Trường Sa : hợp tác để chia sẻ”.
Ý kiến của ba vị này, như theo ông GS Trần Hữu Dũng :
“Tôi nghĩ rằng Việt Nam hơi sai khi đặt nặng vấn đề về chủ quyền hơn là vấn đề an ninh khu vực và tự do khu vực.”
Vấn đề đặt ra là : VN hợp tác với ai, về cái gì và chia sẻ với ai, về cái gì ?
Nói về Hoàng Sa. TQ đã chiếm quần đảo này (trên tay VNCH) từ năm 1974.
Nếu chỉ tính từ biến cố giàn khoan 981, lý do mà TQ đưa ra trước quốc tế để bào chữa cho hành động đặt giàn khoan này là :
1/ Hoàng Sa là lãnh thổ của TQ.
2/ Vị trí đặt giàn khoan 981 thuộc về thềm lục địa của các đảo HS.
Ban đầu TQ cho rằng vị trí giàn khoan nằm trong “lãnh hải” của đảo
Tri Tôn. Sau đó họ nhận ra rằng việc này là không đúng, vì vị trí giàn
khoan nằm cách đảo Tri Tôn đến 17 hải lý (trong khi bề rộng lãnh hải
theo luật định chỉ có 12 hải lý). Vì vậy họ mới chữa là giàn khoan nằm
trong vùng “tiếp cận lãnh hải” của đảo Tri Tôn. TQ còn nói thêm rằng,
dầu thế nào thì giàn khoan cũng nằm trong hải phận của các đảo HS (nếu
tính hiệu lực các đảo như Phú Lâm…)
Thử đặt giả thuyết, VN không đặt nặng vấn đề chủ quyền như ý kiến của
các giáo sư : (Hoàng Sa là của VN), thì VN chỉ có lý do duy nhất để
phản bác hành vi của TQ (khi đặt giàn khoan 981) là các đảo Hoàng Sa quá
nhỏ (để có hải phận kinh tế độc quyền).
Nhưng khi nói vậy, thứ nhứt VN mặc nhiên nhìn nhận HS thuộc chủ quyền
của TQ. Thứ hai, tranh chấp giữa VN và TQ trở thành tranh chấp về việc
cách diễn giải điều 121 của Luật Biển 1982 về hiệu lực các đảo, mà điều
này phần thua 99% thuộc về VN. Bởi vì Luật Biển 1982 không hề phân biệt
đảo nhỏ hay đảo lớn (để có vùng kinh tế độc quyền 200 hải lý) mà chỉ
phân biệt đảo mà con người có thể sinh sống và có nền kinh tế tự túc hay
không.
Quan niệm như vậy, TQ sẽ không cho VN “hợp tác” và “chia sẻ” bất cứ cái gì (như hiện nay) ở Hoàng Sa (và vùng biển chung quanh).
Tức là nếu VN không đặt nặng vấn đề chủ quyền (Hoàng Sa là của VN),
có nghĩa là VN sẽ phải “chia sẻ” và “hợp tác” với TQ vùng biển (và thềm
lục địa) của mình, từ bờ biển miền Trung cho đến đảo Tri Tôn.
Phải chăng ý kiến của ba vị giáo sư “có 30 năm kinh nghiệm giảng dạy tại Hoa Kỳ” (sic!) là vậy ?
Còn về an ninh và tự do hàng hải, thực ra, nếu nhìn sâu xa, thì hiện
nay VN mới là bên có thể đe dọa “an ninh” và “tự do hàng hải” trong Biển
Đông hơn cả TQ. Trong một mức độ chiến thuật, nếu khủng hoảng giàn
khoan 981 bùng nổ, thì chỉ phía VN là bên có khả năng “ngăn chặn” tất cả
các tàu buôn, của TQ hay của các nước khác, qua lại. Hải quân TQ chưa
đủ mạnh để có thể kiểm soát Biển Đông. Trong khi vùng biển Hoàng Sa thì
không hề nằm trên trục qua lại của tàu bè các nước. Do đó, khi Hoa Kỳ
cũng như các nước lo ngại vụ giàn khoan 981 sẽ đe dọa an ninh khu vực,
phần lớn là do từ khả năng “du kích đại dương” của VN mà ra, chứ không
phải đe dọa từ TQ.
Cá nhân tôi nhận thấy rằng, trong vấn đề giàn khoan 981, phản ứng của
VN như vậy là khá hợp lý, trong khi phía TQ có lẽ đã phạm sai lầm. VN
đã sử dụng thành công các mặt vận động dư luận, vận động về pháp lý, kể
cả việc răn đe… Điều còn lại là VN nên nắm lấy cơ hội để đưa tranh chấp
Hoàng Sa ra một trong tài quốc tế.
Câu hỏi đặt ra, ở Hoàng Sa, điều hợp lý là VN phải “đặt nặng” hay “đặt nhẹ” vấn đề chủ quyền ?
Còn ở khu vực Trường Sa, vấn đề cũng đặt ra là : VN hợp tác với ai, về cái gì và chia sẻ với ai, về cái gì ?
Giả sử nếu không có TQ, thì tranh chấp Trường Sa giữa VN với các nước
Phi, Mã Lai, Indonésie… sẽ không là việc khó. VN có thể tuyên bố các
đảo này quá nhỏ để có hiệu lực về ZEE, hoặc đề nghị một vùng khai thác
chung trong vùng biển thuộc Trường Sa. Các đề nghị này đều có thể được
người dân VN dễ dàng chấp nhận.
Vấn đề nổi cộm là đòi hỏi phi lý của TQ về chủ quyền các đảo TS cũng như vùng biển chung quanh (và vùng biển theo đường chữ U).
VN và các nước liên quan có thể “hợp tác” và “chia sẻ” cái gì ở Trường Sa với Trung Quốc ?
Vấn đề là TQ muốn gì ?
Đối với VN, trong quá khứ, TQ chiếm một số đảo của VN năm 1988, thảm
sát gần trăm binh lính VN (không cầm khí giới). Thập niên 90, TQ đã cho
các tập đoàn dầu khí (của Hoa Kỳ) khai thác trên thềm lục địa của VN,
thuộc vùng Tư Chính- Vũng Mây (mà TQ gọi là Vạn An Bắc), cách bờ biển VN
khoảng 300km. Gần đây TQ cho gọi đấu thầu khai thác dầu khí trên các lô
thuộc thềm lục địa của VN, cách bờ biển các tỉnh miền Trung chỉ hơn
100km. Ngoài ra còn có các hành vi ngang ngược như cắt cáp tàu Bình
Minh, ra lệnh cấm đánh cá…
Đối với Phi, TQ chiếm đảo Vành Khăn (thập niên 90). Gần đây chiếm bãi cạn Scarborough, đe dọa chiếm bãi Cỏ Rong…
Đối với Indonésie, TQ mở tranh chấp lãnh thổ ra tới đảo Natuna. Với Mã Lai thì cho tàu bè chiếm đóng các bãi cạn…
Bỏ các nước kia ra một bên, VN có thể « chia sẻ » cái gì với TQ ?
Vùng Tư Chính – Vũng Mây ? Hay thềm lục địa miền Trung (khu vực giữa đá
Gạc Ma và bờ biển VN) ?
Không thấy quí vị giáo sư “có 30 năm kinh nghiệm giảng dạy tại
Hoa Kỳ” (sic!) nói rõ ý kiến « chia sẻ và hợp tác », trường hợp với TQ,
là chia ở đâu, và chia như thế nào ?
Theo tôi, nếu VN không đặt nặng vấn đề chủ quyền : Trường Sa
là của Việt Nam, thì VN sẽ không có cách nào khả dĩ bảo vệ được quyền
lợi chính đáng của mình trước những yêu sách ngang ngược của TQ.
NGUYỄN AN DÂN * QUAN HỆ VIỆT MỸ
TPP, Vũ Khí Sát Thương, và Quan Hệ Việt-Mỹ
Nguyễn An DânGiới quan sát chính trị Việt Nam lại xôn xao khi liên tục các ông Bob Corker (thành viên thâm niên ủy ban đối ngoại), John McCain (thành viên ủy ban quân vụ- đối ngoại) và Sheldon Whitehouse (thành viên các ủy ban tư pháp, ngân sách, kinh tế, lao động tiền lương, môi trường và công chính ) là các quan chức Quốc Hội Mỹ đến Việt Nam. Theo công bố chính thức của hai nước, sứ mệnh của các ông này là xúc tiến TPP, dỡ bỏ cấm vận vũ khí sát thương, đối thoại nhân quyền và thương mại.
Dư luận đang có một giả thuyết ầm ĩ rằng “nhóm bảo thủ trong đảng
(đứng đầu là Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng) và Mỹ đã âm thầm bắt tay nhau
và hai bên đã loại bỏ vai trò của nhóm cải cách (đứng đầu là thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng) trong cuộc chơi này. Việc McCain qua Việt Nam là “ khả
năng là theo lời mời của ông Phạm Quang Nghị, đáp lễ lại việc ông Nghị
đại diện cho nhóm bảo thủ sang Mỹ vào tuần cuối tháng 7/2014 vừa qua”
(*)
“Mỹ sẽ ủng hộ khi và chỉ khi bạn tự mình đứng lên”
Theo tôi, nhận định rằng nhóm bảo thủ trong Đàng CSVN và Mỹ đã đạt
được một niềm tin nào đó để từ đó bắt tay nhau nhằm loại bỏ vai trò của
nhóm cải cách là thiếu cơ sở xác đáng. Thế mà nó được đảng và dư luận
thổi bùng lên một cách ồn ào chỉ qua mỗi 1 việc là nhóm bảo thủ cử ông
Phạm Quang Nghị đi Mỹ và có những phát biểu rất chung chung.
Muốn hiểu việc vì sao các quan chức Mỹ qua Việt Nam hôm nay thì phải
xét đến cách làm việc và quy trình hành động của Mỹ. Ở một đất nước dân
chủ pháp trị minh bạch như Mỹ, khó có khả năng chiến lược đối ngoại lại
có thể thay đổi dựa trên chuyến thăm, làm việc đột xuất ngoài nghị trình
của một nhân vật “chưa có quyền quyết định trong chính sách lãnh đạo”
như ông Phạm Quang Nghị
Cần chú ý là chiến lược xoay trục của Mỹ sang Châu Á, Thái Bình Dương
là một chiến lược lớn và được cài đặt từ lâu trong quá khứ. Với Việt
Nam-Mỹ, nó bắt đầu từ khi thủ tướng Võ Văn Kiệt vận động cho chương
trình bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ sau cú “thoát hiểm” thập niên
1990.
Chuyện ông Võ Văn Kiệt, người “được coi là thân Mỹ và phương tây”
ngồi vững ở ghế thủ tướng cũng khá ly kỳ sau một kế hoạch thanh trừng
của phe bảo thủ. Một số quan chức am hiểu nội tình và có từng có vị trí
cao trong đảng cộng sản Việt Nam đều “xì xào” là Nguyễn Hà Phan, một
nhân vật mà phe bảo thủ đưa lên để thay Ông Kiệt “bị cháy” là do Mỹ đứng
sau. Tôi nghe được từ họ là Mỹ đã âm thầm tung ra tài liệu “ khai báo
phản đảng, phản tổ quốc khi bị bắt” của ông Hà Phan làm ông Phan thất
thế. Không biết chuyện trên đúng hay sai, nhưng “vụ án khai trừ Hà Phan
phản bội” và BCH TW Đảng năm 1996 vẫn bỏ phiếu cho ông Kiệt tiếp tục làm
thủ tướng là chuyện ai cũng nhớ
Trong tư thế có một nhóm trong đảng “tự đứng lên kêu gọi cải cách và
hướng về mình”, dĩ nhiên Mỹ “chừa ghế” cho Việt Nam trong chiến lược
Châu Á- TBD là tất yếu. Chúng ta hãy luôn nhớ rằng “Mỹ chỉ ủng hộ bất kỳ
ai khi và chỉ khi họ tự đứng lên”. Thủ tướng VN thời kỳ 1990 đã tự đứng
dậy thì Mỹ ủng hộ.
Sau đó, các đời thủ tướng Việt Nam tiếp theo đều theo con đường ông
Kiệt vạch ra và đi hội kiến tổng thống Mỹ. Phan Văn Khải đi Mỹ năm 2005
và Nguyễn Tấn Dũng năm 2006. Ngược lại, các đời tổng thổng Mỹ từ ông
Bill Clinton đến nay đều sang Việt Nam. Tất cả những động thái này để
làm gì nếu không phải là việc duy trì hậu thuẫn nhau và giữ gìn đường
lối hợp tác của nhóm cải cách với Mỹ nhằm dần dần lái con thuyền VN
hướng về Mỹ hơn ?
Tôi cho rằng các mốc son trong quan hệ Mỹ-Việt như bình thường hóa
quan hệ, hiệp định thương mại Mỹ-Việt, phát triển hạt nhân và TPP, dỡ bỏ
cấm vận vũ khí sát thương… là những bước đi quan trọng mang tính kế
thừa qua các thời kỳ của chính phủ hai bên nhằm giúp VN cải cách. Nó là
mối dây xuyên suốt, chứ không phải tự nhiên hôm nay phát sinh ra việc
mấy ông thượng nghị sĩ đến VN “theo lời mời và đáp lễ ông Nghị”. Nếu
không có các bước đi mang tính “phá núi mở đường” của nhóm cải cách thì ở
đâu ra có mấy việc này?.
Nếu ông Võ Văn Kiệt không tự đứng lên và các đời thủ tướng Việt Nam
không cố gắng giữ thế đứng trong sự kiềm chế và tìm cách thanh trừng của
nhóm bảo thủ và Trung Cộng thì chẳng có Mỹ nào tác động và ủng hộ. Hình
như những người đang lý luận rằng “Mỹ và nhóm bảo thủ đang bắt tay
nhau, bỏ qua nhóm cải cách” đã quên đi phương châm nhất quán này của Mỹ
chăng ? Hà cớ gì Mỹ bỏ qua một “đồng minh cải cách” đã chủ động bắt tay
và kiên trì cùng mình trong 19 năm nay và đi bắt tay với một “đồng minh
bảo thủ”, lại còn đã từng tìm cách thanh trừng nhóm kia? (HNTW 6 năm
2012)
Trong mấy năm qua, người ta đồn đoán rằng vị trí chủ tịch nước đang
tìm cách phá bỏ kế hoạch cải cách chính trị của nhóm thủ tướng thì tôi e
rằng cũng không đúng. Trong bang giao Mỹ-Việt, có vẻ hai chức danh Thủ
tướng và Chủ tịch nước là đồng minh của nhau thì có cơ sở hơn, khi mà
hai đời chủ tịch nước VN là ông Nguyễn Minh Triết và ông Trương Tấn Sang
đều sang Mỹ. Rõ nhất là việc ông Trương Tấn Sang, trước khi ông Nghị đi
Mỹ, đã chủ động nêu ra vấn đề “Việt Nam cần vũ khí sát thương của Mỹ”.
Với Trung Quốc, những điều khoản mà ông Sang ký kết với Tập Cận Bình năm
2013 được giới quan sát chính trị ghi nhận là “tích cực hơn” các điều
khoản mà VN-TQ đã ký năm 2011 trong chuyến sang Trung Quốc của ông
Nguyễn Phú Trọng..
Xét trong bối cảnh quan hệ Việt-Mỹ như thế mới rõ vì sao các Thượng
Nghị Sĩ Mỹ qua Việt Nam lúc này. Vai trò của Quốc Hội Mỹ và các uỷ ban
trực thuộc trong những việc liên hệ đến các vấn đề mà Mỹ đang hướng đến
là họ thường giúp chính phủ ở phần mở đầu để chính sách đối ngoại của Mỹ
được tốt đẹp. Quốc Hội Mỹ nắm ngân sách và thông qua các hiệp ước như
hiến pháp đã định do đó sự can dự của họ là để tạo dễ dàng cho chính phủ
Mỹ, giúp cho chính sách đối ngoại của Mỹ có tính nhất quán của quốc
gia. (Quốc Hội Việt Nam nên học hỏi điều này)
Đại sứ Mỹ David Shear, trong cuộc gặp mặt cuối cùng với Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng trước khi ông J.McCain qua VN, đã công bố ra một thông
điệp, đó là “đã đến lúc ủng hộ Việt Nam vào TPP và dỡ bỏ cấm vận vũ khí
sát thương”. Ý kiến của ông đại sứ là quan trọng, nên thành viên ủy ban
đối ngoại Bob Corker sang Việt Nam để khởi động cho sự tham gia của Quốc
Hội Mỹ vào vấn đề gia tăng ủng hộ Việt Nam là bước khởi đầu tất yếu. Ở
Việt Nam vài năm, ông Đại sứ hiểu nội tình và “diễn biến cuộc tranh chấp
đảng quyền-chính quyền”, của “thân Tàu-thân Mỹ”, của “bảo thủ-cải cách”
nhiều nhất. Lời ông Đại sứ Mỹ nói ra dĩ nhiên quan trọng với Mỹ hơn lời
ông Nghị nói ở Mỹ. Vì nó phản ảnh nhận định về Việt Nam của người đại
diện chính phủ Mỹ tại Việt Nam.
Việc nhóm chính phủ VN đang chỉ đạo khui ra những bê bối của phe đối
lập (các đại án khởi tố mới đây mà tôi đã viết trong bài “cuộc chiến hậu
giàn khoan”) sau khi không thuyết phục được nhau là một điều Mỹ dĩ
nhiên thấy. Qua việc này, chứng tỏ quyết tâm cầm nắm quyền lực của nhóm
cải cách (chính quyền) sau khi bị nhóm bảo thủ (đảng quyền) o ép (ngăn
cản Phạm Bình Minh đi Mỹ và thay bằng Phạm Quang Nghị, cũng như chưa cho
kiện Trung Quốc) là một tín hiệu để Mỹ xúc tiến nhanh lên bước đi của
họ, là đúng theo tư duy của Mỹ lâu nay. Có một vụ “thú vị” nữa là “vụ án
in tiền Polyme” thì tôi cũng sẽ nói sau, trong một bài viết khác gần
đây, cũng có liên quan đến thế cục nội bộ đảng hôm nay, mà như chính
phát ngôn nhân Việt Nam phải lên tiếng phản đối vì “ảnh hưởng đến uy tín
và danh dự của lãnh đạo Việt Nam”.
Thành thử ra, tôi e rằng nhận định ông McCain sang Việt Nam lần này
“theo lời mời của ông Phạm Quang Nghị” và “đáp lễ ngoại giao” là thiếu
cơ sở xác đáng. Bằng chứng là khi trả lời phỏng vấn, ông McCain không hề
nói rằng “ông Nghị đã mời tôi sang đây” hay là đại loại như “chuyến đi
của ông Nghị gặp tôi ở Mỹ vừa qua đã giúp thắt chặt quan hệ hai bên”.
Như tôi đã nhận định trong bài viết “Nước cờ xuất tướng của đảng”,
việc ông Nghị đi Mỹ cũng cho thấy rằng đảng không thật sự “âm thầm xoay
trục sang Mỹ” như dư luận đang bàn tán. Ông Nghị tuyên bố khi ở Mỹ “Đàm phán không được thì mời Trung Quốc cùng ra tòa”. Sau
vụ giàn khoan, chính phủ và nhân dân Việt Nam cũng như giới quan sát
chính trị quốc tế đến Việt Nam tham vấn đều nói “đây là lúc phài kiện ra
tòa” thì ông Nghị lại nói như trên. Vậy phải chăng quan điểm của nhóm
bảo thủ là “không nên kiện mà là đàm phán tiếp”? (dù thiệt hại toàn ở
phía VN trong nhiều năm nay)
Thêm nữa, cũng chính trong chuyến đi Mỹ, ông Nghị vẫn nói “Trung
Quốc đã giúp Việt Nam nhiều. Chúng tôi ý thức được tầm quan trọng của
mối quan hệ hữu nghị với Trung Quốc. Chúng tôi muốn giải quyết tranh
chấp trên biển Đông như đã giải quyết đường biên giới trên bộ, vịnh Bắc
Bộ (nghĩa là: đàm phán song phương tiếp như trước). Cho đến nay Trung
Quốc vẫn chưa sẵn sàng cùng chúng tôi đưa vụ việc ra tòa”. Thế nghĩa là
nếu Trung Quốc chưa sẵn sàng thì Việt Nam sẽ đợi Trung Quốc và trong
thời gian đó, VN-TQ tiếp tục đàm phán “song phương như biên giới và Vịnh
Bắc Bộ”?
Cũng có một chi tiết đáng nhớ trong chuyến đi của ông Nghị. Ông Nghị
tặng ông McCain tấm hình chụp bia kỷ niệm nơi máy bay của ông bị bắn
rớt. Việc này đã tạo phản ứng mạnh mẽ trên mạng, đa số chê ông Nghị
thiếu “tế nhị”. Và ngay lúc đó ông McCain đã phản ứng nhẹ bằng cách sửa
sai ghi chú sai về ông trên tấm bia. Và điều đáng nói hơn là truyền
thông Nga tung ra bài viết cho biết chính Nga đã bắn rơi máy bay của ông
McCain. Những sự kiện “thiếu tế nhị” đó chắc khó thể làm “nồng ấm” thêm
quan hệ Việt-Mỹ.
Dư luận cũng cần nhớ là về danh nghĩa, quan hệ hai đảng cộng sản Việt
Nam-Trung Quốc vẫn là “quan hệ anh em” vì các động thái cần có phá vỡ
quan hệ này chưa xày ra và đang bị kềm chế để “không xảy ra” (như việc
kiện cáo và Đảng CSVN chưa ra nghị quyết riêng của đảng để lên án Trung
Quốc), còn trong quan hệ Mỹ-Việt thì Tổng Bí Thư đã nói “quan hệ giữa
VN-Mỹ là quan hệ hàng đầu”. “Quan hệ hàng đầu” và “quan hệ anh em”, quan
hệ nào mạnh hơn ?.
Cũng rất rõ để thấy việc đảng và chính phủ đang kềm chế nhau trong
đối ngoại với Mỹ. Trong khi ông Nghị và chính Tổng Bí Thư Nguyễn Phú
Trọng đều đang ra sức tuyên truyền rằng Đảng CSVN đang “quan hệ với Mỹ
theo kênh đảng hai bên” thì thực tế cho thấy ngược lại. Nội dung các
quan chức Mỹ bàn với các lãnh đạo đảng chỉ là chung chung, “uh thì chúng
ta sẽ hợp tác hơn” mà không có cái gì cụ thể, rành mạch (mang tính xã
giao). Còn phía chính phủ, các thượng nghị sĩ Mỹ đều gặp và bàn rất rõ
các vấn đề (TPP, dỡ bỏ cấm vận vũ khí, Mỹ giúp bảo vệ Việt Nam, nhân
quyền, hợp tác chính trị, anh làm cái này xong thì tôi đưa cái kia, dần
dần tiến lên). Như vậy tôi e rằng đã rõ là Mỹ đang chọn nhóm nào để làm
việc trong hai nhóm bảo thủ-cải cách, đảng quyền-chính quyền, trong nội
bộ đảng CSVN.
Các bạn có thể kiểm chứng nhận định trên qua thông cáo ngày
08/08/2014 trên trang mạng của Thượng Nghị Sĩ McCain, tôi nghĩ nó như
một cáo bạch chấm hết cho việc dư luận nghĩ rằng ông sang Việt Nam là để
“hợp tác với phe bảo thủ và loại trừ thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ra khỏi
cuộc chơi theo lời mời ngầm của ông Nghị”.
Qua các ý trong thông cáo của ông McCain nói về chuyến đi, chúng ta
đã rõ, ông McCain nói việc ông qua VN là nằm trong 1 quá trình 20 năm
hợp tác lâu dài giữa Mỹ và nhóm cải cách trong nhà nước VN, và Mỹ trông
đợi Thủ tướng Việt Nam sẽ dẫn dắt đảng phất ngọn cờ dân chủ như ông Thủ
tướng đã nói ra đầu năm 2014, hơn là bắt tay với phe bảo thủ, và vì
“Trung Quốc cắm giàn khoan, chúng ta phải nhanh lên”.
Gửi những người dân chủ
Tôi muốn lưu ý các bạn, trong ngày 09/08/2014, tờ Quân Đội Nhân Dân,
tờ báo mà ai cũng hiểu lập ra vì cái gì, trong lúc phái đoàn Mỹ còn ở
Việt Nam, đã chủ động đưa lên hàng đầu một bài viết mang mục đích “chống
diễn biến hòa bình và mạo danh nhân quyền-dân chủ”. Như vậy bằng chứng
nào cho thấy nhóm bảo thủ đang “thật lòng muốn cải cách và hướng về Mỹ”
như dư luận bàn tán ?
Nhận định chính trị thì ai cũng có quyền nói, từ bác xe ôm vỉa hè đến
các quan chức cấp cao. Tuy nhiên, trong bối cảnh chính trị Việt Nam
đang rối bởi sự tranh chấp đường lối, cùng ảnh hưởng của kẻ xâm lược
Trung Cộng đang “lùi 1 tiến 2” thì phải hết sức thận trọng, nhất là khi
tiếng nói của mình đang được quần chúng chú ý lắng nghe (và có khi hành
động theo). Tôi hi vọng rằng Mỹ đã đúng khi nhận định xu hướng cải cách
đang thắng thế mà đưa ra các hứa hẹn ủng hộ Việt Nam, nhưng một tư thế
thận trọng của cộng đồng tranh đấu là cần thiết khi chúng ta còn yếu.”
Nguyễn An Dân
(Ngày 10/08/2014)
__________________
Tư liệu sử dụng cho bài viết:
-www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2006/06/060630_nguyentandung_profile.shtml
-http://vietnamembassy-usa.org/vi/basic-page/mot-so-moc-dang-nho-trong-quan-he-viet-nam-hoa-ky
-http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/san-sang-trao-doi-ca-van-de-con-khac-biet-voi-hoa-ky-2014080523043158.htm
-http://www.McCain.senate.gov/public/index.cfm/press-releases?ID=f5fd4b07-3d87-4a9f-a892-03018c779888
-http://nguyentandung.org/dai-su-my-quan-he-my-viet-trung-tot-moi-co-hoa-binh.html
-http://m.vov.vn/chinh-tri/tong-bi-thu-hoa-ky-la-doi-tac-quan-trong-hang-dau-cua-viet-nam-344349.vov
-http://plo.vn/thoi-su/thu-tuong-nguyen-tan-dung-tiep-cac-thuong-nghi-sy-hoa-ky-488375.html
-http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/chong-dien-bien-hoa-binh/mot-su-hieu-biet-mu-mo-ve-nhan-quyen/314926.html
***********
Tác giả gửi cho Chuyển Hóa. Bài viết phản ảnh quan điểm của tác giả)
HÙNG TÂM * KINH TẾ TRUNG QUỐC
Kinh tế Trung Quốc vào khúc quanh và có thể lật
Bài toán phát triển
Từ Tần Thủy Hoàng Ðế, Stalin đến Tập Cận Bình
Tần Thủy Hoàng Ðế đã thống nhất nước Tầu, thiết lập chế độ quận huyện, đặt ra quy ước sinh hoạt (một bước cải tiến hệ thống “tư bản xã hội”) và huy động sức dân xây dựng Vạn lý Trường thành nguy nga vĩ đại. Nếu thời đó mà có khoa kinh tế chính trị học, thì công trình xây dựng này được gọi là “đầu tư,” có giải quyết nạn thất nghiệp và tạo ra sự tăng trưởng. Nhưng không bền và sau đó nước Tầu có loạn!
Nan đề của Tập Cận Bình
Các chuyên gia kinh tế và nhiều tổ hợp đầu tư quốc tế đã chỉ ra bài toán của Tập Cận Bình ở mấy con số sau đây.
Hùng Tâm
Muốn
hiểu rõ rủi ro của Trung Quốc trong giai đoạn tới, chúng ta cần biết 1)
vài định lý kinh tế của mọi quốc gia hay thời đại, rồi 2) đối chiếu với
thực tế chính trị của xứ này và rà soát lại 3) xem lãnh đạo Bắc Kinh có
thể làm những gì để giải quyết các bài toán kinh tế xã hội tích lũy từ
mấy chục năm nay. Kết luận hợp lý của tiến trình này là Bắc Kinh không
có nhiều giải pháp, và có làm gì thì cũng đi vào một khúc quanh dễ lật.
Trong giới hạn của một bài viết, “Hồ Sơ Người Việt” sẽ cố trình bày một
cách đơn giản một thực tế vô cùng phức tạp - đề tài của một cuốn sách!
Bài toán phát triển
Bài toán kinh tế của nhân loại, ở mọi nơi vào mọi thời, là sự khan
hiếm. Chúng ta có nhu cầu vượt quá khả năng sản xuất cho nên lúc nào
cũng thấy thiếu thốn.
Từ thuở khai thiên lập địa, giải quyết sự thiếu thốn ấy là một tiến
trình tự nhiên và được chúng ta mặc nhiên thực hiện hàng ngày hàng giờ
mà không biết. Chỉ mới vài trăm năm trở lại, người ta mới tổng hợp những
kiến thức về việc giải quyết sự khan hiếm và tìm ra một số nguyên tắc
giải thích. Kiến thức đó được gọi là “kinh tế học,” hay đúng hơn, do một
phát minh của nhà tư tưởng Adam Smith, “kinh tế chính trị học.”
Thí dụ cụ thể cho tiến trình trừu tượng này là tôi chỉ có 100 đồng,
nhưng nếu lập gia đình rồi sinh con đẻ cái thì cần tiêu thụ nhiều hơn
khoản lợi tức đó. Hoặc với lợi tức có hạn, tôi không muốn chỉ ăn cơm ăn
cháo mà cần thêm thịt cá cho bữa cơm, và thay vì một tháng chỉ có 15 ký
gạo tôi ước mơ có thêm ký thịt nên thấy rằng mình bị thiếu thốn.
Cách giải quyết sự thiếu thốn ấy là... không xài hết trăm bạc mà cố
dành dụm ba chục của khoản lợi tức đó đem đầu tư để tháng sau hay năm
tới thì có thêm lợi tức khả dĩ thỏa mãn nhu cầu. Tôi gọi khoản lợi tức
ba chục bạc được tiết kiệm ấy là tư bản. Nếu sử dụng tư bản để giải
quyết bài toán khan hiếm ấy mà thành công thì tôi có thể nghĩ đến chữ
phát đạt.
Hoàn cảnh của một quốc gia cũng không khác. Tạo ra sự phát đạt ấy là tiến trình phát triển.
Giới nghiên cứu kinh tế có nghiệm thấy rằng nhiều quốc gia đã thành
công trong phát triển để thành nước giàu mạnh, “đã phát triển” -
developed. Nhưng đa số còn lại thì chưa, vẫn thuộc loại “đang phát
triển,” developing. Bí quyết thành công không chỉ là có thể tiết kiệm
được 30 đồng, hay 50 đồng, trong số lợi tức trăm bạc để làm tư bản đem
đi đầu tư. Bí quyết thành công không chỉ là gia tăng lợi tức, nghĩa là
tăng trưởng, mà là sử dụng lợi tức đó để phát triển.
Bí quyết thành công không là số lượng, 30 hay 50% của lợi tức nguyên
thủy, mà là cách sử dụng. Ðây là bài toán thuộc về phẩm chất hơn là số
lượng. Chữ “chất lượng” nhiều người trong nước đang dùng và ngoài này
lười biếng dùng theo phản ảnh sự thiếu hiểu biết về kinh tế hay ngôn ngữ
học vì không phân biệt phẩm với lượng!
Một giáo sư kinh tế của Ðại Học MIT, giải Nobel năm 1987, là Robert
Solow đã nghiên cứu kinh tế Hoa Kỳ và tìm ra một đặc tính: là trong đà
tăng trưởng lợi tức của dân Mỹ thì “sự sáng tạo” đóng góp tới hơn 80%.
Phần còn lại, dưới 20%, là do số tư bản đem vào đầu tư.
Xin thêm vài chữ giải thích. Tư bản đưa vào tiến trình đầu tư có thể
là hữu hình, như đất đai, máy móc, nguyên liệu hay sức lao động. Nhưng
hoàn cảnh sử dụng nguồn tài nguyên đó mới quan trọng. Khái niệm
innovation của Solow thuộc về phẩm hơn lượng và dẫn ta đến khái niệm
khác, là “tư bản xã hội,” hoặc tư bản vô hình: hệ thống luật lệ, quyền
sở hữu, chế độ thuế khóa, quy ước sinh hoạt, tinh thần tín nhiệm trong
kinh doanh, nền tảng chính trị, v.v....
Các yếu tố vô hình ấy mới giúp quốc gia sử dụng tư bản hữu hình một cách tốt đẹp, có hiệu năng, hiệu suất, v.v...
Nôm na là nhờ môi trường sáng tạo, dân Mỹ sử dụng 10 đồng tư bản cho
đầu tư mà có hiệu năng cao hơn nhiều người huy động đến 30 đồng. Trung
Quốc huy động đến 50 đồng mà thiếu môi trường sáng tạo, có loại tư bản
xã hội lạc hậu nên sau hơn 30 năm tăng trưởng vẫn là một xứ “đang phát
triển.”
Nghiêm trọng hơn thế, còn trôi vào khúc quanh và có thể bị khủng hoảng.
Từ Tần Thủy Hoàng Ðế, Stalin đến Tập Cận Bình
Tần Thủy Hoàng Ðế đã thống nhất nước Tầu, thiết lập chế độ quận huyện, đặt ra quy ước sinh hoạt (một bước cải tiến hệ thống “tư bản xã hội”) và huy động sức dân xây dựng Vạn lý Trường thành nguy nga vĩ đại. Nếu thời đó mà có khoa kinh tế chính trị học, thì công trình xây dựng này được gọi là “đầu tư,” có giải quyết nạn thất nghiệp và tạo ra sự tăng trưởng. Nhưng không bền và sau đó nước Tầu có loạn!
Lãnh đạo Liên Bang Xô Viết thời Chiến Tranh Lạnh, Josef Stalin, cũng
có nhả năng huy động tư bản rất mạnh, đưa tài nguyên vô cùng giàu có và
lực lượng lao động dồi dào vào đầu tư, với sự chỉ đạo tưởng là hợp lý
của hệ thống kinh tế kế hoạch. Y như Tần Thủy Hoàng Ðế, hay Mao Trạch
Ðông, hệ thống huy động của nhà nước Xô Viết đã vơ vét tài nguyên quốc
dân cho tăng trưởng, và bắn vệ tinh Sputnik lên trời, mà vẫn không có
phát triển. Nước Nga vẫn nghèo, dân Nga vẫn khổ và Liên Xô tan rã.
Sau khi Ðặng Tiểu Bình tiến hành cải cách, 35 năm về trước, nước Tầu
đã ra khỏi tình trạng bần cùng và loạn lạc thời Mao và có đà tăng trưởng
cao hơn trước. Chính thức là 10% một năm trong ba chục năm liền. Lãnh
đạo xứ này, từ Ðặng Tiểu Bình đến Giang Trạch Dân rồi Hồ Cẩm Ðào, đã áp
dụng một số quy luật của kinh tế thị trường nhưng vẫn nắm độc quyền huy
động tư bản.
Lực lượng lao động, nguyên nhiên vật liệu và đủ loại tư bản hữu hình
như đất đai, máy móc, hay hạ tầng cơ sở vật chất, đã được nhà nước tận
dụng với số lượng kỷ lục - của lịch sử Trung Quốc – và tạo ra sự tăng
trưởng về hình thức mà vẫn không có phát triển trong thực tế.
Như nhiều quốc gia khác, nước Tầu đã huy động tư bản cho phát triển
với chiến lược gia tăng đầu tư về lượng mà thiếu phẩm, vì tư bản xã hội
vẫn bị bó trong tư duy xã hội chủ nghĩa và thiếu các định chế cần thiết
cho phát triển. Thiếu cái phần “sáng tạo” mà Solow đã thấy tại Hoa Kỳ.
Hậu quả vô hình về chính trị là tư bản xã hội bị bóp méo, lệch lạc và
tạo ra đặc lợi cho những kẻ có đặc quyền, các “nhóm lợi ích. Tham nhũng
chỉ là một cách gọi, chứ chế độ độc quyền trưng thu của nhà nước còn đè
nén sức tiêu thụ của người dân và dẫn tới sự bất mãn lan rộng. Hậu quả
hữu hình về kinh tế là nạn sản xuất thừa chỗ này mà thiếu ở chỗ khác, và
hiện tượng bong bóng đầu cơ về gia cư, địa ốc. Quan trọng nhất và càng
ngày càng tỏ lộ là những núi nợ khổng lồ.
Nhiều nước “đang phát triển” đã từng bị như vậy. Nhưng Trung Quốc lại
khác vì số lượng quá lớn được phân phối quá sai nên gây ra vấn đề về
phẩm. Ðấy là bài toán vừa kinh tế vừa xã hội và chắc chắn là chính trị
của nhân vật đang lên là Chủ Tịch Tập Cận Bình.
Nan đề của Tập Cận Bình
Các chuyên gia kinh tế và nhiều tổ hợp đầu tư quốc tế đã chỉ ra bài toán của Tập Cận Bình ở mấy con số sau đây.
Kinh tế Trung Quốc vẫn lấy sức đẩy từ đầu tư và ức chế tiêu thụ của
các hộ gia đình. Từ nhiều năm qua, tiêu thụ của tư nhân chẳng những
không tăng mà còn giảm, tới năm ngoái thì chỉ có 34% của Tổng sản lượng,
so với 52% của Nam Hàn, 57% của Ðức, 61% của Nhật và gần 70% của Hoa Kỳ
là nơi mà “giới tiêu thụ là vua.”
Lượng đầu tư đến hơn 50% của Trung Quốc lại trút vào các dự án ít giá
trị kinh tế, dẫn tới sản xuất thừa, dù có được bút ghi là tăng trưởng
thì cũng chỉ là tồn kho ế ẩm, nhà không người ở, phi cảng vắng khách.
Không những vậy, từ 2008, trong sáu năm qua, Trung Quốc còn tài trợ đà
tăng trưởng đó bằng tín dụng, ào ạt chảy vào khu vực kinh tế nhà nước,
các công ty đầu tư của đảng bộ ở địa phương.
Số tín dụng hay dư nợ từ 147% của Tổng Sản Lượng nay đã lên tới 251%.
Một công ty đầu tư của Mỹ còn báo riêng cho các thân chủ là tổng số nợ
của Trung Quốc, cả công lẫn tư, nay đã vượt 400% của Tổng sản lượng.
Trong số này, những khoản nợ xấu được chính thức ước lượng là 1%. Thực
tế thì có thể ở mức 25% hay thậm chí 40%. Tức là bằng hoặc còn hơn Tổng
Sản Lượng.
Cả nước vay tiền gấp bốn lợi tức để một năm sản xuất ra tám ngàn tỷ
đồng mà có thể mất nợ đến 10 ngàn tỷ - là ít. Kinh tế Trung Quốc có thể
phá sản hay vỡ nợ vì khối nợ ung thối vĩ đại. Hậu quả sẽ là một vụ khủng
hoảng lan ra toàn cầu, còn dữ dội hơn những gì xảy ra cho Hoa Kỳ và Âu
Châu sau năm 2008.
Lên cầm quyền từ cuối năm kia, ban hành quyết định cải cách từ cuối
năm ngoái (Nghị quyết Ba của hội nghị Ban Chấp Hành Trung Ương vào Tháng
Mười Một năm 2013), Tập Cận Bình ý thức được mối nguy trước mặt. Cho
nên phải chuyển hướng kinh tế qua khu vực dịch vụ và chế biến cao cấp,
gia tăng sức tiêu thụ cho tư nhân, v.v.... và chấp nhận một đà tăng
trưởng thấp hơn. Giải pháp khả thể là phải có đà tăng trưởng khoảng 4-5%
một năm mà thôi.
Và muốn chủ động chuyển hướng như vậy, phải đánh bung những lực cản
xuất phát ngay trong bộ máy đảng và hệ thống kinh tế nhà nước. Nhưng dù
đã ráo riết tập trung quyền hành để bẻ tay lái hầu cỗ xe khỏi lao xuống
vực - Tập Cận Bình vẫn bất lực.
Kinh tế Trung Quốc vẫn lao vào hướng cũ.
Tháng Tư vừa qua, Quốc Vụ Viện tức là Hội Ðồng Chính Phủ, do Lý Khắc
Cường làm tổng lý, đã kín đáo thông báo một số quyết định kinh tế sau
đây: 1) gia tăng công chi cho các dự án hỏa xa, chung cư rẻ tiền, và các
vùng ngoại ô nhà tôn vách lá để bù vào sự giảm sút tiêu thụ của tư
nhân; 2) cắt lãi suất trong một số khu vực nhất định để mở vòi tín dụng;
3) tung tiền chuộc nợ để tránh nạn doanh nghiệp bị phá sản; và 4) giảm
thuế cho các doanh nghiệp loại nhỏ và vừa để nâng cao khả năng sản xuất
của tư doanh trước sức nặng và trì trệ của hệ thống quốc doanh.
Nói cho dễ hiểu, lãnh đạo Trung Quốc không dám đạp thắng cho cỗ xe
chạy chậm hơn hầu bẻ lái qua hướng khác. Ngược lại, họ vẫn châm thêm tín
dụng và bảo đảm là kinh tế Trung Quốc vẫn đạt chỉ tiêu tăng trưởng năm
nay là 7.5%. Mà bơm thêm tín dụng có nghĩa là chất thêm một núi nợ xấu.
Biện pháp kích thích ngấm ngầm và nhẹ nhàng ấy tô điểm cho cái bề mặt là
kinh tế vẫn tăng trưởng mà thực tế là đẩy cho cỗ xe chạy nhanh hơn.
Trong khi ấy, Tập Cận Bình ráo riết mở rộng chiến dịch diệt trừ tham
nhũng và nắn gân cả thành phần đảng viên đã từng lên tới cấp lãnh đạo.
Ông ta có thể đánh vào các trung tâm quyền lực đã gây ra nhiều vấn đề
kinh tế nên đang phải cùng lúc giải quyết hai bài toán kinh tế và chính
trị. Hai bài toán là hai mặt của một đồng bạc xã hội chủ nghĩa và phải
cần cả chục năm sửa đổi thì mới có kết quả. Trong khi đó, khủng hoảng có
thể xảy ra trong một vài năm.
Tập Cận Bình có đủ mọi quyền hành, nhưng không có thời giờ.
Kết luận ở đây là gì?
Trung Quốc đang ở vào một khúc quanh cực nguy hiểm, mấy chục năm mới thấy một lần. Lần trước, cách nay 40 năm là vào cao điểm của cuộc Cách Mạng Văn Hóa điên rồ. Nhờ Ðặng Tiểu Bình giỏi xoay trở nên sau năm năm thì đổi loạn thành trị và mua được 30 năm tăng trưởng.
Tập Cận Bình có đủ mọi quyền hành, nhưng không có thời giờ.
Kết luận ở đây là gì?
Trung Quốc đang ở vào một khúc quanh cực nguy hiểm, mấy chục năm mới thấy một lần. Lần trước, cách nay 40 năm là vào cao điểm của cuộc Cách Mạng Văn Hóa điên rồ. Nhờ Ðặng Tiểu Bình giỏi xoay trở nên sau năm năm thì đổi loạn thành trị và mua được 30 năm tăng trưởng.
Kinh tế Trung Quốc có những phương tiện lớn lao được đưa vào sản xuất
nên gây ấn tượng phát triển mà chỉ có tăng trưởng ở bề mặt. Lý do là
thượng tầng chính trị ở trên vẫn có một đảng độc quyền thâu tóm quyền
lực. Quyền lực có thể đem lại tiền tài cho một thiểu số, nhưng là những
cái vòi của con bạch tuộc đã giam hãm kinh tế và đang dẫn xứ này đến bờ
vực. Muốn giải quyết bài toán kinh tế thì phải cải cách về chính trị.
Ðảng Cộng Sản Trung Quốc dùng thành quả kinh tế biện minh cho quyền
lãnh đạo độc tôn. Khi thành quả ấy chỉ là chuyện ảo và khủng hoảng bùng
nổ thì đảng có thể đổ.
__._,_.___
TOÀN PHONG * MỘT THUỞ HỌC TRÒ
Một Thuở Học Trò
Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh
Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh
Ngày Khai Trường
"Hôm nay là ngày khai trường. Mấy tháng hè đã thoáng qua như giấc mộng. Sáng nay, mẹ tôi đưa tôi vào trường Ba-Lệ-Tư để ghi tên lớp Ba. Đi đường, óc tôi cứ vơ vẩn đến chốn nhà quê, lấy sự đi học làm ngại. Phố nào cũng thấy nhan nhản học trò. Hai hiệu sách lớn chật ních những phụ-huynh vào mua sách vở, giấy, bút, cặp da. Cửa trường đông nghịt những người, cảnh binh và người gác cổng phải khó nhọc mới mở được một lối vào.
Vừa bước qua cổng trường, thấy một bàn tay vỗ vào vai, tôi giật mình ngoảnh lại thì ra thày giáo lớp Tư, tôi học năm ngoái, mái tóc đỏ hoe vẫn để rối, nét mặt vẫn vui tươi, thày bảo tôi:
An-Di ơi! Thày trò ta từ nay chia tay nhỉ?
Điều ấy, tôi đã nghĩ đến, nay thày tôi lại nhắc, khiến tôi thêm trạnh lòng.
Mẹ tôi và tôi phải chen chúc mãi mới vào được trong trường."
Trên đây là một đoạn văn dịch tôi đã trích ra nguyên bản từ cuốn sách "Tâm Hồn Cao Thượng" của nhà giáo Hà Mai Anh. Đọan văn này tôi đã phải học thuộc lòng khi còn là học sinh lớp Ba ở trường tiểu học Bonnal ở Hải Phòng, nghĩa là khi tôi vào tuổi ấu thơ, năm lên tám hay lên chín tuổi. Từ dạo đó đến nay, mỗi năm vào dịp cuối hè, cảnh tượng khai trường này lại tới với tôi, dù ở phương trời nào hay ở tuổi nào. Lúc còn nhỏ, vào dịp khai trường, tôi thường theo mẹ đi mua giấy bút, sách vở. Cho đến khi học xong lớp Nhất ở trường tiểu học Hải Phòng, mẹ tôi là người mua sắm mọi thứ cho tôi, kể cả đôi giầy và chiếc mũ mới, ở phố Cầu Đất, không xa truờng tôi học là mấy. Tôi cũng giống như cậu bé An-Di ở trong cuốn truyện, là mỗi năm đuợc lên một lớp, bao giờ tôi cũng thấy quyến luyến ông thày ở lớp dưới, nhưng chỉ vài tuần lễ sau, quen lớp, quen thày, tôi lại thấy qúy mến ông thày học mới.
Từ ngày lên học trường trung học ở Hà Nội, và sau này ở bậc đại học, theo học ở Pháp hay ở Mỹ, tôi phải tự mình mua lấy sách vở giấy bút, nhưng bao giờ vào những dịp khai trường, vào thăm những hiệu sách và đi quanh quẩn ở giữa những chồng sách vở, thơm mùi giấy mới, tôi lại nhớ đến thời thơ ấu, nhớ những kỷ niệm xa xưa, cho đến năm học lớp Ba, bao giờ mẹ tôi cũng đưa tôi đến tận lớp vào ngày tựu trường. Mẹ tôi là người ở Nam Định, nhưng từ ngày lấy chồng, gần như suốt cuộc đời, bà sống ở thành phố Hải Phòng, lại có đông con cháu nên mẹ tôi quen thuộc với tất cả các trường trung và tiểu học. Riêng với trường Bonnal, sau này đổi tên thành trường Ngô Quyền, thì có lẽ trong mấy chục năm trời vừa qua, không biết bao nhiêu lần mẹ tôi đã dắt các con, và các cháu tới chào các thày giáo, hay cô giáo những ngày đầu tựu trường.
Giờ nghĩ lại, tôi mường tượng nhìn thấy những đứa em tôi, hay có thể
sau này là những đứa cháu, một tay cầm chiếc cặp da mới mua, tay kia nắm
lấy vạt áo của mẹ hay của bà, đôi mắt đầy vẻ lo âu nhìn thày giáo mới.
Và mẹ tôi chắc sẽ ôn tồn bảo đứa nhỏ:"Đây là thày giáo con. Con ở lại
học ngoan, bà phải về." Hết năm này qua năm khác, mẹ tôi đã dành để làm
công việc ấy, mỗi buổi khai trường, hồi còn trẻ đưa các con, lúc về già
lại dẫn các cháu, có lẽ vì mẹ tôi nghĩ rằng bà quen biết với các thày
giáo, cô giáo hơn, và mấy đứa cháu đi với bà chúng nó vững tâm hơn.
Tháng 10 năm 2000, trường trung học Ngô Quyền ở Hải Phòng tưng bừng làm lễ kỷ niệm 80 năm xây dựng và phát triển (1920-2000). Nhân dịp này ban giám đốc in ra một đặc san trong đó có một trang in hình của 9 thày giáo đã dạy ở trưòng và được học sinh qúy mến. Họ lại dành một trang in hình của 9 học sinh được ghi là "học sinh tiêu biểu của trường Bonnal-Ngô Quyền". Ông hiệu trưởng đương nhiệm đã đến nhà để xin mẹ tôi cho mượn một tấm hình của đứa con xa vắng mà cách đây hơn sáu mươi năm bà đã dắt đến trường giao tận tay cho thày giáo mới và dặn dò:"Con ở lại với thày, học cho ngoan, mẹ phải về".
Đã đúng nửa thế kỷ, tôi xa Hải Phòng, và cũng từng ấy năm trời tôi không gặp lại mẹ tôi. Nguồn vui cuối đời của bà có lẽ là biết tôi vẫn còn chờ đợi cho ngày nào quê hương thật có tự do, thanh bình mới trở về. Xa con, và mong có ngày được gặp mấy đứa cháu, những đứa con tôi mà bà đã không có dịp được cầm tay để dẫn tới trường, thỉnh thoảng có những lá thư và vài tấm hình gia đình chúng tôi gửi về bà lại trân trọng lưu giữ để thỉnh thoảng mang ra khoe với những khách đến thăm. Mẹ tôi đã cho trường Ngô Quyền mượn một tấm hình thật tiêu biểu của tôi, để in vào tập kỷ yếu, tấm hình tôi đang ngồi đọc sách. Thuở nhỏ, đôi khi tôi nghe thấy mẹ nói về tôi với những bà khách: "Thằng ấy nó chỉ biết chúi đầu vào học!"
Tôi không biết trường Ngô Quyền khi in tập kỷ yếu, kỷ niệm 80 năm ngày thành lập, đã lựa chọn những học sinh tiêu biểu ra sao nhưng trên trang giấy in hình 9 cựu học sinh, đặt thành ba hàng, thì ở hàng trên cùng, bức hình đầu tiên là của Nguyễn Văn Linh, cựu Tổng Bí thư BCHTƯ đảng CSVN, với phụ đề là học sinh khoá 1926-1930. Những học sinh tiêu biểu khác, trong số những người tôi từng nghe thấy tên trong văn học, tôi thấy có Thế Lữ, học sinh khoá 1920, Nguyễn Đình Thi, học sinh khoá 1930, Nguyễn Huy Tưởng, học sinh khoá 1920, và Văn Cao, học sinh khoá 1930. Những người này đều có phụ chú là Nhà thơ, Nhà văn, Nhà viết kịch hay Nhạc sĩ.
Tôi đã được ban giám đốc đương thời chọn là một trong những học sinh tiêu biểu của trường, và tấm hình tôi ngồi đọc sách đã được xếp sau cùng với lời phụ chú: "Giáo sư Viện sĩ Viện hàn lâm không gian quốc tế Nguyễn Xuân Vinh. Học sinh khoá 1935". Tôi được biết là ngày lễ kỷ niệm mẹ tôi cũng nhận được giấy mời, nhưng bà lấy cớ tuổi già, đã ngoài chín mươi tuổi nên không tham dự. Hai năm sau, vào cuối năm 2002, mẹ tôi qua đời. Trước khi bà mất hai tháng, đứa con trai út của chúng tôi, cùng đi với vợ và gia đình người chị đã về thăm mẹ tôi, và bà đã vui mừng khóc ròng khi lần đầu tiên được nhìn thấy hai đứa cháu nội, một trai một gái, và cả hai chắt ngoại. Khi về Mỹ, đứa con trai của tôi đã nói lại một câu: "Bà nói là bà nhớ bố lắm!"
Cuốn Sách có Ảnh Hưởng Nhất
Đầu năm 1982, tôi được Đại Học Washington ở Seattle mời tới thuyết trình về quỹ đạo tối ưu, và nhân dịp đó anh Thanh Nam của Báo Đất Mới đã hỏi tôi là thích đọc cuốn truyện nào nhất. Tôi đã trả lời là tôi rất thích cuốn “Hoa Vông Vang” của Đỗ Tốn. Ý nghĩ đó chợt đến với tôi vì tôi đã có dịp gặp cả Đỗ Tốn và Thanh Nam hàng ngày trong một khoảng thời gian ngắn chừng vài tháng vào cuối năm 1957 khi tôi chờ đợi nghị định bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Không Quân và lúc đó tạm thời giữ chức vụ Trưởng phòng Báo chí Nha Chiến Tranh Tâm Lý, Bộ Quốc Phòng, kiêm nhiệm chủ bút hai tờ báo Quân Đội và Phụng Sự mà các anh đều ở trong ban biên tập. Thât ra trong cuộc đời, tôi đã đọc nhiều cuốn sách mà mình thấy ưa thích, kể cả những cuốn sách chuyên môn về toán hay về khoa học, nhưng không bao giờ tôi có ý nghĩ là chọn lựa ra một cuốn sách nào mà mình cho là hay nhất. Thuở nhỏ tôi chỉ được đọc sách Pháp, mới đầu là cuốn “Lettres de mon Moulin” của Alphonse Daudet vì có ghi ở trong chương trình học.
Sau đó tôi đọc tiếp cuốn “Le Petit Chose” của ông. Hồi học ở Pháp tôi đã lái xe mô tô đi khắp vùng Provence và tới thăm chiếc cối xay là nơi tác giả đã viết những lá thư hay tuyệt vời, sau này được giảng dậy trong chương trình trung học. Cuốn truyện đầu tiên bằng tiếng Việt tôi đọc là cuốn “Tâm Hồn Cao Thượng” của ông Hà Mai Anh. Đó là những cuốn sách Pháp và Việt tôi đọc đầu tiên, và là những cuốn sách hay đã xâm nhập vào tiềm thức của tôi, để sau này dù có tạo ra được một văn phong riêng cho mình, tôi vẫn chỉ có thể viết được những câu chuyện tình cảm nhẹ nhàng giống như trong những cuốn sách đầu đời tôi đã đọc mà thôi. Sau này, khi đã đọc những cuốn “Hồn Bướm Mơ Tiên” và “Tiêu Sơn Tráng Sĩ” của Khái Hưng và “Vang Bóng Một Thời” của Nguyễn Tuân, là những cuốn sách tôi thấy viết thật hay, thì tôi nhận thức được rằng chúng ta có thể dùng tiếng Việt để tạo dựng nên những tác phẩm văn chương sánh ngang được với những tác phẩm lớn của các quốc gia khác trên thế giới. Với lòng tin vào sự phong phú của tiếng Việt, tôi đã yên tâm viết văn và làm thơ từ năm 1950 khi được mời vào nhóm "Thế Kỷ" của các anh Bùi Xuân Uyên, Viên Phong và Tạ Tỵ.
Năm ngoái, Nguyệt san văn hóa văn học nghệ thuật "Khởi Hành" mở cuộc phỏng vấn và đặt câu hỏi: "Cuốn sách nào đã ảnh hưởng nhiều nhất từ trước tới nay và cho biết trường hợp đọc cuốn sách đó" để gửi tới các nhà văn nghệ sĩ. Để trả lời anh chủ nhiệm-chủ bút Viên Linh, tôi đã không ngần ngại ghi xuống là cuốn "Tâm Hồn Cao Thượng", bản dịch tiếng Việt của nhà giáo Hà Mai Anh, dù rằng sau đó tôi cũng đọc bản dịch tiếng Pháp, đề là "Grands Coeurs" của ông A. Piazzi. Tác giả cuốn sách nguyên bản là Edmondo De Amicis (1846-1908), một nhà văn hào Ý, đã kể lại như là một tập nhật ký, trọn một niên học của một cậu bé tên là An-Di ở một trường tiểu học tại thành phố Tuy-Ranh bên Ý Đại Lợi. Những câu chuyện ở học đường, và trong gia đình, về các thầy giáo, cô giáo và bè bạn của An-Di, những mẩu chuyện vui hay buồn đã xẩy ra trong thành phố cổ xưa này đã được kể lại trong sách bằng một văn phong dản dị và trong sáng, thắm đặm tình người.
Ở thời đại này, những nhà giáo dục và những nhà tâm lý học đôi khi cho rằng những cảnh tàn bạo diễn xuất trên màn ảnh TV có ảnh hưởng rất nhiều đến giới thiếu niên, kích thích bọn trẻ gây nên những bạo động, nhưng qua nhiều cuộc tranh cãi và hàng trăm bài viết, vẫn chưa đi đến một kết luận nào cụ thể. Riêng tôi thì tôi nghĩ là những cuốn sách giáo khoa, học ở những lớp tiểu học, và đặc biệt là cuốn truyện đầu tiên bằng tiếng Việt tôi được đọc, tả cuộc đời của cậu bé An-Di trong một năm học ở lớp Ba, đã cho tôi nhiều bài học về lòng thương người, phương cách cư xử chung thủy với bè bạn, và hiếu kính với mẹ cha. Tôi đã bắt đầu bài viết này bằng một đoạn trích nguyên bản phần đầu trong cuốn truyện tả "Ngày Khai Trường". Thay cho đoạn kết trong phần này, tôi xin trích đăng lại những dòng cuối cùng của cuốn truyện là những lời viết của bà mẹ cậu bé An-Di dặn con đừng quên mái trường xưa.
"An ơi! Mai sau, con nên người, con sẽ du lịch trong thế giới, con sẽ trông thấy những thị thành hoa lệ, những đài các nguy nga, nhưng con phải nhớ luôn luôn đến nếp nhà trắng tầm thường kia với cửa chớp khép, với vườn cây xanh, vì đấy là nơi bông hoa trí tuệ đầu tiên của con đã nẩy nở. Mẹ tin rằng hình ảnh trường cũ của con sẽ in vào ký ức cho đến lúc tàn sinh cũng như không bao giờ mẹ quên được bóng dáng cái nhà cũ kỹ mà ở đấy mẹ đã nghe tiếng nói ban đầu của con."
Tập Truyện Thơ Còn Dang Dở
Cuốn sách của nhà giáo Hà Mai Anh, tôi đã đọc nhiều lần và vì thấy thích thú nên, thuở còn là sinh viên ở Hà Nội, tôi đã dùng thơ ngũ ngôn để viết ra một tập nhật ký của một em bé Việt Nam trong suốt một niên học ở bậc tiểu học cũng giống như cậu bé An-Di ở trong sách của ông Edmondo De Amicis. Cũng như vào mấy năm đầu ở trường tiểu học tôi đã phải học thuộc lòng nhiều đoạn sách trong cuốn "Tâm Hồn Cao Thượng", tôi có mộng ước rằng tập thơ của tôi sau này được dùng làm sách tập đọc cho các em học sinh còn nhỏ, tuổi chưa lên mười. Cuốn truyện thơ lấy đề là “Tuổi Thơ”, tôi viết tay chỉ có một bản, khi đang là sinh viên "Toán Học Đại Cương", đã được truyền giữa đám bạn cùng là dân khoa học.
Năm sau đó tôi đi Pháp du học, và trước khi đi tôi trao cho anh Bùi xuân Uyên và sau này được biết anh có trích đăng vài bài trên báo "Thế Kỷ" của anh, còn ngoài ra bản thảo độc nhất nay ở trong tay ai thì tôi không biết. Mới đây ngồi nói chuyện với giáo sư Hà Mai Phương là thứ nam của cụ Hà Mai Anh thì được anh cho biết là anh cùng bào huynh là cựu đại tá thiết giáp Hà Mai Việt, cũng là một người bạn của tôi, có dự án cho in lại cuốn “Tâm Hồn Cao Thượng” của thân phụ, và lần này có thêm tiểu sử của nhà giáo cùng những kỷ niệm viết bởi thân hữu và môn sinh. Riêng tôi, sẽ là một điều hân hạnh cho tôi nếu có dịp đóng góp vào ấn phẩm này để vinh danh công nghiệp của một nhà mô phạm đã dịch thuật và giới thiệu nhiều tác phẩm ngoại quốc tới giới trẻ Việt Nam ở thế hệ tôi.
Bản chất của tôi là một nhà toán học, quen dùng lý luận, nên không có thi tài, và cũng không có trí nhớ dai nên tập truyện thơ viết cách đây gần nửa thế kỷ, tôi chỉ còn nhớ vài đoạn. Khi viết, tôi đã soạn thành từng bài thơ ngắn, mỗi bài giới thiệu một người trong gia đình, hay thày cô giáo cùng bạn học trong trường, hay kể lại một truyện ở học đường hay ngoài xã hội. Tôi viết như vậy để cho những thày cô giáo dùng tập sách có thể dễ dàng trích ra từng bài cho học sinh tập đọc. Tôi đã hình dung cậu bé ở tuổi ấu thơ bằng những vần thơ năm chữ
Tuổi Thơ
Nhớ năm xưa ấu trĩ,
Dưới nách mẹ ngây thơ.
Em ăn no ngủ kỹ,
Nhìn đời chẳng ước mơ.
Áo cánh điều tươi thắm,
Quần xanh biếc như lơ.
Mẹ nhìn em say đắm,
Đôi tóc đào phất phơ.
Mẹ ru, em ngủ say,
Tấm lòng mẹ phơi bầy.
Qua lời ca, gửi gấm:
Lớn khôn, thành người ngay.
Phô tài năng kẻ sĩ,
Làm vui lòng mẹ cha.
Thành công dân tài trí,
Cho vẻ vang sơn hà.
Tập sách của nhà văn hào người Ý luôn luôn có hình ảnh của người cha khuyên bảo đứa con, và nhiều lúc tâm sự như đối với một người bạn nhỏ. Trong tập thơ của tôi lại có tình cảm thân yêu săn sóc của một người mẹ hiền.
Mẹ Em
Từ năm còn ấu thơ,
Hình mẹ không phai mờ.
Mẹ thật làø tiên nữ,
Đẹp như một bài thơ.
Mẹ là ánh trăng thanh,
Lời mẹ nghe dịu lành.
Mẹ là nguồn hạnh phúc,
Mẹ có công sinh thành.
Còn nhỏ, mẹ bế bồng,
Lớn khôn, em cậy trông:
Từ cơm ăn, áo mặc,
Dậy em, mẹ vun trồng.
Tình mẹ như biển Đông,
Nghiã mẹ thật vô cùng.
Mai sau em khôn lớn,
Hiếu kính nhớ nằm lòng.
Khác với gia đình của người Âu Mỹ, trong một gia đình Việt Nam bao giờ cũng có sự đoàn viên của các anh chị em và ông bà cùng dưới một mái nhà. Tôi đã tả người chị của cậu bé qua những vần thơ dịu dàng
Chị Thanh
Chị Thanh em hiền hậu,
Ai cũng khen nết na.
Nói năng êm và dịu,
Dáng người đi thướt tha.
Tóc mây soà trên trán,
Nụ cười tươi như hoa.
Ngó sen, trăng tuơi sáng,
Không sánh kịp làn da.
Chị hơn em năm tuổi,
Đã biết trông việc nhà.
Sáng, trưa, chiều mấy buổi,
Làm vui lòng mẹ cha.
Cứ mỗi sáng tinh sương,
Tà áo bay trên đường.
Chân đều theo nhịp bước,
Chị tới trường Trưng Vương. >
Bài "Ngày Khai Trường" trong cuốn sách của nhà giáo Hà Mai Anh tôi đã thuộc nằm lòng từ thuở ấu thơ, nay tôi viết thành thơ để in trong tập sách nhỏ bé, có thể gọi là sáng tác đầu tay của tôi.
Ngày Đến Trường
Ngày đầu tiên đến trường,
Em dậy sáng tinh sương,
Mặc áo quần mới sắm,
Rồi ngắm mình trong gương.
Đôi má em ửng hồng,
Mừng vui hay sượng sùng?
Ngày đầu tiên đi học,
Lo âu đầy trong lòng.
Cùng mẹ, em tới trường,
Chân đi, lòng vấn vương.
Ngước mắt nhìn lên mẹ,
Vỗ về, mẹ thân thương.
Mẹ nhìn em rồi cười:
Trông con tôi thật tươi.
Đi học chăm con nhé,
Gắng công cho bằng người.
Tập sách "Tuổi Thơ" tôi viết ra chỉ đưa cho một số bạn thân đọc nhưng họ đều là dân khoa học vào hạng gạo cội, suốt ngày chỉ mê mải với những phép tính nguyên hàm và đạo hàm nên chẳng ai cho tôi được ý kiến gì. Tuy vậy sau này tài thơ của tôi cũng cảm hoá được một anh bạn là anh Ngô Quốc Quýnh, nay là giáo sư-tiến sĩ dạy môn vật lý ở Trường Đại Học Tổng Hợp ở Hà Nội, để anh viết một bài cảm đề, qua nhiều năm tháng tôi còn nhớ được vài đoạn:
Tuổi Hoa Niên
Thu qua rồi lại một thu qua,
Thời thơ ấu khuất bóng dần xa.
Đường đời giây phút dừng chân bước,
Chẳng khỏi ngậm ngùi, tiếc tuổi hoa.
Sợ một mai đây, tựa nắng hồng,
Ngày tàn héo hắt, chếch bên song.
"Tuổi Thơ" ghi để vài trang nhỏ,
Gửi lại nơi đây một tấm lòng.
Tập thơ tôi viết, tuy dựa vào cuốn nhâït ký của cậu bé An-Di ở một trường tiểu học tại thành phố Tuy-Ranh bên nước Ý Đại Lợi, nhưng nay khi tả suốt một niên học ở lớp Ba của một trường tiểu học ở Việt Nam, tôi đã đưa vào câu chuyện những phong vị của quê hương, có những đoạn tả cảnh chiều vàng năm ba mục đồng cưỡi trâu về thôn xóm, có những ngày hội xuân tưng bừng, người đi lễ chùa khói hương nghi ngút, và cũng có những khung cảnh ở học đường để người đọc thấy cậu bé trong truyện cũng có những bạn tốt, và cũng có những tên dữ dằn chuyên môn hà hiếp người yếu đuối. Tập thơ nguyên thủy tôi đã viết, tôi ước chừng có vào khoảng một ngàn năm trăm câu, nay tôi mới nhớ lại được chừng một phần mười. Trải qua nhiều tháng năm trong cuộc đời, luôn luôn phải tranh đấu vượt những trở ngại để mưu sinh, trước kia ở nước nhà và nay bên quê người, trí nhớ của tôi nay cũng đã xuy sụp không cho tôi nhớ lại được toàn bộ những trang sách đã viết. Tuy vậy tình cảm với mái trường xưa đối với tôi vẫn còn nguyên vẹn. Lòng thương nhớ người mẹ hiền, với sự săn sóc ưu ái khi xưa, vẫn còn cánh cánh trong tôi. Mộng ước của tôi là rồi đây tìm lại được sự thanh thản trong tâm hồn như thuở học trò để viết cho trọn toàn bộ tập truyện thơ, nay hãy còn dang dở.
Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh
(Tháng Sáu, 2003)
Tháng 10 năm 2000, trường trung học Ngô Quyền ở Hải Phòng tưng bừng làm lễ kỷ niệm 80 năm xây dựng và phát triển (1920-2000). Nhân dịp này ban giám đốc in ra một đặc san trong đó có một trang in hình của 9 thày giáo đã dạy ở trưòng và được học sinh qúy mến. Họ lại dành một trang in hình của 9 học sinh được ghi là "học sinh tiêu biểu của trường Bonnal-Ngô Quyền". Ông hiệu trưởng đương nhiệm đã đến nhà để xin mẹ tôi cho mượn một tấm hình của đứa con xa vắng mà cách đây hơn sáu mươi năm bà đã dắt đến trường giao tận tay cho thày giáo mới và dặn dò:"Con ở lại với thày, học cho ngoan, mẹ phải về".
Đã đúng nửa thế kỷ, tôi xa Hải Phòng, và cũng từng ấy năm trời tôi không gặp lại mẹ tôi. Nguồn vui cuối đời của bà có lẽ là biết tôi vẫn còn chờ đợi cho ngày nào quê hương thật có tự do, thanh bình mới trở về. Xa con, và mong có ngày được gặp mấy đứa cháu, những đứa con tôi mà bà đã không có dịp được cầm tay để dẫn tới trường, thỉnh thoảng có những lá thư và vài tấm hình gia đình chúng tôi gửi về bà lại trân trọng lưu giữ để thỉnh thoảng mang ra khoe với những khách đến thăm. Mẹ tôi đã cho trường Ngô Quyền mượn một tấm hình thật tiêu biểu của tôi, để in vào tập kỷ yếu, tấm hình tôi đang ngồi đọc sách. Thuở nhỏ, đôi khi tôi nghe thấy mẹ nói về tôi với những bà khách: "Thằng ấy nó chỉ biết chúi đầu vào học!"
Tôi không biết trường Ngô Quyền khi in tập kỷ yếu, kỷ niệm 80 năm ngày thành lập, đã lựa chọn những học sinh tiêu biểu ra sao nhưng trên trang giấy in hình 9 cựu học sinh, đặt thành ba hàng, thì ở hàng trên cùng, bức hình đầu tiên là của Nguyễn Văn Linh, cựu Tổng Bí thư BCHTƯ đảng CSVN, với phụ đề là học sinh khoá 1926-1930. Những học sinh tiêu biểu khác, trong số những người tôi từng nghe thấy tên trong văn học, tôi thấy có Thế Lữ, học sinh khoá 1920, Nguyễn Đình Thi, học sinh khoá 1930, Nguyễn Huy Tưởng, học sinh khoá 1920, và Văn Cao, học sinh khoá 1930. Những người này đều có phụ chú là Nhà thơ, Nhà văn, Nhà viết kịch hay Nhạc sĩ.
Tôi đã được ban giám đốc đương thời chọn là một trong những học sinh tiêu biểu của trường, và tấm hình tôi ngồi đọc sách đã được xếp sau cùng với lời phụ chú: "Giáo sư Viện sĩ Viện hàn lâm không gian quốc tế Nguyễn Xuân Vinh. Học sinh khoá 1935". Tôi được biết là ngày lễ kỷ niệm mẹ tôi cũng nhận được giấy mời, nhưng bà lấy cớ tuổi già, đã ngoài chín mươi tuổi nên không tham dự. Hai năm sau, vào cuối năm 2002, mẹ tôi qua đời. Trước khi bà mất hai tháng, đứa con trai út của chúng tôi, cùng đi với vợ và gia đình người chị đã về thăm mẹ tôi, và bà đã vui mừng khóc ròng khi lần đầu tiên được nhìn thấy hai đứa cháu nội, một trai một gái, và cả hai chắt ngoại. Khi về Mỹ, đứa con trai của tôi đã nói lại một câu: "Bà nói là bà nhớ bố lắm!"
Cuốn Sách có Ảnh Hưởng Nhất
Đầu năm 1982, tôi được Đại Học Washington ở Seattle mời tới thuyết trình về quỹ đạo tối ưu, và nhân dịp đó anh Thanh Nam của Báo Đất Mới đã hỏi tôi là thích đọc cuốn truyện nào nhất. Tôi đã trả lời là tôi rất thích cuốn “Hoa Vông Vang” của Đỗ Tốn. Ý nghĩ đó chợt đến với tôi vì tôi đã có dịp gặp cả Đỗ Tốn và Thanh Nam hàng ngày trong một khoảng thời gian ngắn chừng vài tháng vào cuối năm 1957 khi tôi chờ đợi nghị định bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Không Quân và lúc đó tạm thời giữ chức vụ Trưởng phòng Báo chí Nha Chiến Tranh Tâm Lý, Bộ Quốc Phòng, kiêm nhiệm chủ bút hai tờ báo Quân Đội và Phụng Sự mà các anh đều ở trong ban biên tập. Thât ra trong cuộc đời, tôi đã đọc nhiều cuốn sách mà mình thấy ưa thích, kể cả những cuốn sách chuyên môn về toán hay về khoa học, nhưng không bao giờ tôi có ý nghĩ là chọn lựa ra một cuốn sách nào mà mình cho là hay nhất. Thuở nhỏ tôi chỉ được đọc sách Pháp, mới đầu là cuốn “Lettres de mon Moulin” của Alphonse Daudet vì có ghi ở trong chương trình học.
Sau đó tôi đọc tiếp cuốn “Le Petit Chose” của ông. Hồi học ở Pháp tôi đã lái xe mô tô đi khắp vùng Provence và tới thăm chiếc cối xay là nơi tác giả đã viết những lá thư hay tuyệt vời, sau này được giảng dậy trong chương trình trung học. Cuốn truyện đầu tiên bằng tiếng Việt tôi đọc là cuốn “Tâm Hồn Cao Thượng” của ông Hà Mai Anh. Đó là những cuốn sách Pháp và Việt tôi đọc đầu tiên, và là những cuốn sách hay đã xâm nhập vào tiềm thức của tôi, để sau này dù có tạo ra được một văn phong riêng cho mình, tôi vẫn chỉ có thể viết được những câu chuyện tình cảm nhẹ nhàng giống như trong những cuốn sách đầu đời tôi đã đọc mà thôi. Sau này, khi đã đọc những cuốn “Hồn Bướm Mơ Tiên” và “Tiêu Sơn Tráng Sĩ” của Khái Hưng và “Vang Bóng Một Thời” của Nguyễn Tuân, là những cuốn sách tôi thấy viết thật hay, thì tôi nhận thức được rằng chúng ta có thể dùng tiếng Việt để tạo dựng nên những tác phẩm văn chương sánh ngang được với những tác phẩm lớn của các quốc gia khác trên thế giới. Với lòng tin vào sự phong phú của tiếng Việt, tôi đã yên tâm viết văn và làm thơ từ năm 1950 khi được mời vào nhóm "Thế Kỷ" của các anh Bùi Xuân Uyên, Viên Phong và Tạ Tỵ.
Năm ngoái, Nguyệt san văn hóa văn học nghệ thuật "Khởi Hành" mở cuộc phỏng vấn và đặt câu hỏi: "Cuốn sách nào đã ảnh hưởng nhiều nhất từ trước tới nay và cho biết trường hợp đọc cuốn sách đó" để gửi tới các nhà văn nghệ sĩ. Để trả lời anh chủ nhiệm-chủ bút Viên Linh, tôi đã không ngần ngại ghi xuống là cuốn "Tâm Hồn Cao Thượng", bản dịch tiếng Việt của nhà giáo Hà Mai Anh, dù rằng sau đó tôi cũng đọc bản dịch tiếng Pháp, đề là "Grands Coeurs" của ông A. Piazzi. Tác giả cuốn sách nguyên bản là Edmondo De Amicis (1846-1908), một nhà văn hào Ý, đã kể lại như là một tập nhật ký, trọn một niên học của một cậu bé tên là An-Di ở một trường tiểu học tại thành phố Tuy-Ranh bên Ý Đại Lợi. Những câu chuyện ở học đường, và trong gia đình, về các thầy giáo, cô giáo và bè bạn của An-Di, những mẩu chuyện vui hay buồn đã xẩy ra trong thành phố cổ xưa này đã được kể lại trong sách bằng một văn phong dản dị và trong sáng, thắm đặm tình người.
Ở thời đại này, những nhà giáo dục và những nhà tâm lý học đôi khi cho rằng những cảnh tàn bạo diễn xuất trên màn ảnh TV có ảnh hưởng rất nhiều đến giới thiếu niên, kích thích bọn trẻ gây nên những bạo động, nhưng qua nhiều cuộc tranh cãi và hàng trăm bài viết, vẫn chưa đi đến một kết luận nào cụ thể. Riêng tôi thì tôi nghĩ là những cuốn sách giáo khoa, học ở những lớp tiểu học, và đặc biệt là cuốn truyện đầu tiên bằng tiếng Việt tôi được đọc, tả cuộc đời của cậu bé An-Di trong một năm học ở lớp Ba, đã cho tôi nhiều bài học về lòng thương người, phương cách cư xử chung thủy với bè bạn, và hiếu kính với mẹ cha. Tôi đã bắt đầu bài viết này bằng một đoạn trích nguyên bản phần đầu trong cuốn truyện tả "Ngày Khai Trường". Thay cho đoạn kết trong phần này, tôi xin trích đăng lại những dòng cuối cùng của cuốn truyện là những lời viết của bà mẹ cậu bé An-Di dặn con đừng quên mái trường xưa.
"An ơi! Mai sau, con nên người, con sẽ du lịch trong thế giới, con sẽ trông thấy những thị thành hoa lệ, những đài các nguy nga, nhưng con phải nhớ luôn luôn đến nếp nhà trắng tầm thường kia với cửa chớp khép, với vườn cây xanh, vì đấy là nơi bông hoa trí tuệ đầu tiên của con đã nẩy nở. Mẹ tin rằng hình ảnh trường cũ của con sẽ in vào ký ức cho đến lúc tàn sinh cũng như không bao giờ mẹ quên được bóng dáng cái nhà cũ kỹ mà ở đấy mẹ đã nghe tiếng nói ban đầu của con."
Tập Truyện Thơ Còn Dang Dở
Cuốn sách của nhà giáo Hà Mai Anh, tôi đã đọc nhiều lần và vì thấy thích thú nên, thuở còn là sinh viên ở Hà Nội, tôi đã dùng thơ ngũ ngôn để viết ra một tập nhật ký của một em bé Việt Nam trong suốt một niên học ở bậc tiểu học cũng giống như cậu bé An-Di ở trong sách của ông Edmondo De Amicis. Cũng như vào mấy năm đầu ở trường tiểu học tôi đã phải học thuộc lòng nhiều đoạn sách trong cuốn "Tâm Hồn Cao Thượng", tôi có mộng ước rằng tập thơ của tôi sau này được dùng làm sách tập đọc cho các em học sinh còn nhỏ, tuổi chưa lên mười. Cuốn truyện thơ lấy đề là “Tuổi Thơ”, tôi viết tay chỉ có một bản, khi đang là sinh viên "Toán Học Đại Cương", đã được truyền giữa đám bạn cùng là dân khoa học.
Năm sau đó tôi đi Pháp du học, và trước khi đi tôi trao cho anh Bùi xuân Uyên và sau này được biết anh có trích đăng vài bài trên báo "Thế Kỷ" của anh, còn ngoài ra bản thảo độc nhất nay ở trong tay ai thì tôi không biết. Mới đây ngồi nói chuyện với giáo sư Hà Mai Phương là thứ nam của cụ Hà Mai Anh thì được anh cho biết là anh cùng bào huynh là cựu đại tá thiết giáp Hà Mai Việt, cũng là một người bạn của tôi, có dự án cho in lại cuốn “Tâm Hồn Cao Thượng” của thân phụ, và lần này có thêm tiểu sử của nhà giáo cùng những kỷ niệm viết bởi thân hữu và môn sinh. Riêng tôi, sẽ là một điều hân hạnh cho tôi nếu có dịp đóng góp vào ấn phẩm này để vinh danh công nghiệp của một nhà mô phạm đã dịch thuật và giới thiệu nhiều tác phẩm ngoại quốc tới giới trẻ Việt Nam ở thế hệ tôi.
Bản chất của tôi là một nhà toán học, quen dùng lý luận, nên không có thi tài, và cũng không có trí nhớ dai nên tập truyện thơ viết cách đây gần nửa thế kỷ, tôi chỉ còn nhớ vài đoạn. Khi viết, tôi đã soạn thành từng bài thơ ngắn, mỗi bài giới thiệu một người trong gia đình, hay thày cô giáo cùng bạn học trong trường, hay kể lại một truyện ở học đường hay ngoài xã hội. Tôi viết như vậy để cho những thày cô giáo dùng tập sách có thể dễ dàng trích ra từng bài cho học sinh tập đọc. Tôi đã hình dung cậu bé ở tuổi ấu thơ bằng những vần thơ năm chữ
Tuổi Thơ
Nhớ năm xưa ấu trĩ,
Dưới nách mẹ ngây thơ.
Em ăn no ngủ kỹ,
Nhìn đời chẳng ước mơ.
Áo cánh điều tươi thắm,
Quần xanh biếc như lơ.
Mẹ nhìn em say đắm,
Đôi tóc đào phất phơ.
Mẹ ru, em ngủ say,
Tấm lòng mẹ phơi bầy.
Qua lời ca, gửi gấm:
Lớn khôn, thành người ngay.
Phô tài năng kẻ sĩ,
Làm vui lòng mẹ cha.
Thành công dân tài trí,
Cho vẻ vang sơn hà.
Tập sách của nhà văn hào người Ý luôn luôn có hình ảnh của người cha khuyên bảo đứa con, và nhiều lúc tâm sự như đối với một người bạn nhỏ. Trong tập thơ của tôi lại có tình cảm thân yêu săn sóc của một người mẹ hiền.
Mẹ Em
Từ năm còn ấu thơ,
Hình mẹ không phai mờ.
Mẹ thật làø tiên nữ,
Đẹp như một bài thơ.
Mẹ là ánh trăng thanh,
Lời mẹ nghe dịu lành.
Mẹ là nguồn hạnh phúc,
Mẹ có công sinh thành.
Còn nhỏ, mẹ bế bồng,
Lớn khôn, em cậy trông:
Từ cơm ăn, áo mặc,
Dậy em, mẹ vun trồng.
Tình mẹ như biển Đông,
Nghiã mẹ thật vô cùng.
Mai sau em khôn lớn,
Hiếu kính nhớ nằm lòng.
Khác với gia đình của người Âu Mỹ, trong một gia đình Việt Nam bao giờ cũng có sự đoàn viên của các anh chị em và ông bà cùng dưới một mái nhà. Tôi đã tả người chị của cậu bé qua những vần thơ dịu dàng
Chị Thanh
Chị Thanh em hiền hậu,
Ai cũng khen nết na.
Nói năng êm và dịu,
Dáng người đi thướt tha.
Tóc mây soà trên trán,
Nụ cười tươi như hoa.
Ngó sen, trăng tuơi sáng,
Không sánh kịp làn da.
Chị hơn em năm tuổi,
Đã biết trông việc nhà.
Sáng, trưa, chiều mấy buổi,
Làm vui lòng mẹ cha.
Cứ mỗi sáng tinh sương,
Tà áo bay trên đường.
Chân đều theo nhịp bước,
Chị tới trường Trưng Vương. >
Bài "Ngày Khai Trường" trong cuốn sách của nhà giáo Hà Mai Anh tôi đã thuộc nằm lòng từ thuở ấu thơ, nay tôi viết thành thơ để in trong tập sách nhỏ bé, có thể gọi là sáng tác đầu tay của tôi.
Ngày Đến Trường
Ngày đầu tiên đến trường,
Em dậy sáng tinh sương,
Mặc áo quần mới sắm,
Rồi ngắm mình trong gương.
Đôi má em ửng hồng,
Mừng vui hay sượng sùng?
Ngày đầu tiên đi học,
Lo âu đầy trong lòng.
Cùng mẹ, em tới trường,
Chân đi, lòng vấn vương.
Ngước mắt nhìn lên mẹ,
Vỗ về, mẹ thân thương.
Mẹ nhìn em rồi cười:
Trông con tôi thật tươi.
Đi học chăm con nhé,
Gắng công cho bằng người.
Tập sách "Tuổi Thơ" tôi viết ra chỉ đưa cho một số bạn thân đọc nhưng họ đều là dân khoa học vào hạng gạo cội, suốt ngày chỉ mê mải với những phép tính nguyên hàm và đạo hàm nên chẳng ai cho tôi được ý kiến gì. Tuy vậy sau này tài thơ của tôi cũng cảm hoá được một anh bạn là anh Ngô Quốc Quýnh, nay là giáo sư-tiến sĩ dạy môn vật lý ở Trường Đại Học Tổng Hợp ở Hà Nội, để anh viết một bài cảm đề, qua nhiều năm tháng tôi còn nhớ được vài đoạn:
Tuổi Hoa Niên
Thu qua rồi lại một thu qua,
Thời thơ ấu khuất bóng dần xa.
Đường đời giây phút dừng chân bước,
Chẳng khỏi ngậm ngùi, tiếc tuổi hoa.
Sợ một mai đây, tựa nắng hồng,
Ngày tàn héo hắt, chếch bên song.
"Tuổi Thơ" ghi để vài trang nhỏ,
Gửi lại nơi đây một tấm lòng.
Tập thơ tôi viết, tuy dựa vào cuốn nhâït ký của cậu bé An-Di ở một trường tiểu học tại thành phố Tuy-Ranh bên nước Ý Đại Lợi, nhưng nay khi tả suốt một niên học ở lớp Ba của một trường tiểu học ở Việt Nam, tôi đã đưa vào câu chuyện những phong vị của quê hương, có những đoạn tả cảnh chiều vàng năm ba mục đồng cưỡi trâu về thôn xóm, có những ngày hội xuân tưng bừng, người đi lễ chùa khói hương nghi ngút, và cũng có những khung cảnh ở học đường để người đọc thấy cậu bé trong truyện cũng có những bạn tốt, và cũng có những tên dữ dằn chuyên môn hà hiếp người yếu đuối. Tập thơ nguyên thủy tôi đã viết, tôi ước chừng có vào khoảng một ngàn năm trăm câu, nay tôi mới nhớ lại được chừng một phần mười. Trải qua nhiều tháng năm trong cuộc đời, luôn luôn phải tranh đấu vượt những trở ngại để mưu sinh, trước kia ở nước nhà và nay bên quê người, trí nhớ của tôi nay cũng đã xuy sụp không cho tôi nhớ lại được toàn bộ những trang sách đã viết. Tuy vậy tình cảm với mái trường xưa đối với tôi vẫn còn nguyên vẹn. Lòng thương nhớ người mẹ hiền, với sự săn sóc ưu ái khi xưa, vẫn còn cánh cánh trong tôi. Mộng ước của tôi là rồi đây tìm lại được sự thanh thản trong tâm hồn như thuở học trò để viết cho trọn toàn bộ tập truyện thơ, nay hãy còn dang dở.
Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh
(Tháng Sáu, 2003)
VẬN MỆNH * CỘNG SẢN
Định nghĩa cộng sản là gì?
Vận Mệnh (Danlambao) - Có
rất nhiều học thuyết, chủ nghĩa tồn tại hơn 100 năm bàn về dan từ "Cộng
sản" được trang trí vẻ bề ngoài bằng nhiều câu từ hết sức trìu mến,
thanh cao, hồng hào, cao cả khiến cho nhiều người thoạt nghe như vừa tìm
thấy chỗ dựa vững chắc. Riêng Vận Mệnh thì hiểu theo cách rất Việt Nam
qua cuộc đối thoại như sau:
Thằng ăn xin (1) gặp bạn và nói: Ê! Thằng công - nông - tư - trí (2) mày biết thế nào là cộng sản không?
Bạn: Tao không biết. Theo mày nó là gì?
Thằng ăn xin: Mày có mang theo tiền đó không?
Bạn: Có
Thằng ăn xin: Bao nhiêu?
Bạn: 10 đồng
Thằng ăn xin: Mày đưa đây, tao sẽ nói cho mày hiểu thế nào là cộng sản.
Bạn móc bóp và đưa: Đây, mày chứng minh thử xem.
Thằng ăn xin: Mày có 10 đồng, tao có 0 đồng đúng không?
Bạn: Đúng rồi.
Thằng ăn xin: Là thế này, 10 đồng của mày cộng với 0 đồng của tao, bây giờ tao chia lại mày 5 đồng.
Bạn: Rồi sao nữa?
Thằng ăn xin: Thì là cộng sản rồi chứ là sao.
Bạn: Là sao, là sao ta?
10/8/2014
_______________________________
Giải thích:
(1) Thằng ăn xin: là giai cấp vô sản, không có gì ngoài cái miệng biết nói láo.
(2) Bạn là người luôn có tinh thần yêu nước:
Công: là giai cấp công nhân, có sức lao động, có tay nghề.
Nông: là giai cấp nông dân, có ruộng đất, có sức lao động, có kinh nghiệm trồng trọt và canh tác.
Tư: là tầng lớp tư sản, có của cải vật chất, có sức lao động, có kiến thức.
Trí: là tâng lớp trí thức, là các nhà khoa học, có trí tuệ hơn người, có sức lao động.
Sunday, August 10, 2014
NGUYỄN CHÍNH KẾT * CỘNG SẢN MÂU THUẪN
Bộ máy thuần hóa của CSVN
Mâu thuẫn trong chế độ CSVN
Chế độ CSVN là một chế độ hàm chứa rất nhiều mâu thuẫn và nhiều điều khó
hiểu, khó hiểu đến nỗi có nhiều người không hiểu nổi hoặc không sao
giải thích được.
Chẳng hạn, có thể nói: xét về khả năng xây dựng đất nước thì CSVN là một
chế độ ngu xuẩn và tệ hại nhất trong lịch sử nước ta, và không chừng
còn là ngu xuẩn nhất thế giới. Thế mà những người lãnh đạo chế độ này
thường vỗ ngực tự xưng là “đỉnh cao trí tuệ loài người”. Thật
vậy, trước 1975, VNCH hay miền Nam Việt Nam − vốn văn minh hơn những
nước chung quanh như Thái Lan, Lào, Miến Điện, hay ít nhất là ngang hàng
hoặc hơn chứ không thể kém Philippines, Đài Loan, Đại Hàn. Thế mà sau
1975, khi chiếm được miền Nam, CSVN đã biến cả Miền Nam lẫn miền Bắc trở
thành một nước lạc hậu hàng trăm năm so với những nước kể trên. Sự tự
hào của bọn lãnh đạo CSVN quả là một ngu xuẩn, ngu xuẩn đến nỗi người
bình thường khó mà hiểu được!
Tuy nhiên, nghĩ theo chiều hướng hoàn toàn cục bộ thì sự tự hào ấy xem ra cũng có lý. Hồ Chí Minh khi sinh tiền đã từng nói: “Đánh thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng bằng năm, bằng mười ngày nay”.
Khi thấy thực tế là đất nước dưới chế độ CSVN đã nghèo đi gấp năm gấp
mười lần trước đó, chúng ta thường nhạo báng lời của ông Hồ. Sở dĩ thế
là vì chúng ta tưởng ông Hồ có ý nói về việc xây dựng đất nước. Nhưng
nếu áp dụng cho việc xây dựng đảng và đời sống của các đảng viên CSVN
thì lời đó của ông Hồ đúng 100%. Thật vậy, sau khi “đánh thắng giặc Mỹ” và chiếm được Miền Nam, đảng và các đảng viên CSVN đã giàu lên không chỉ gấp năm gấp mười mà gấp đến cả trăm, cả ngàn lần.
Cũng vậy, sự kiện các lãnh đạo CSVN vỗ ngực tự xưng là “đỉnh cao trí tuệ loài người”,
nếu đừng hiểu trí tuệ này áp dụng vào việc xây dựng đất nước, mà chỉ áp
dụng vào việc bảo vệ đảng, bảo vệ sự độc tôn trường trị của đảng, thì
ta phải công nhận họ đã thật sự đạt đến đỉnh cao của trí tuệ loài người.
Có thể nói tóm gọn là CSVN rất ngu xuẩn trong điều thiện, nhưng lại vô
cùng khôn ngoan trong điều ác; rất ngu xuẩn trong việc bảo vệ và phát
triển đất nước, nhưng lại rất khôn ngoan và hữu hiệu trong việc bảo vệ
và phát triển độc quyền thống trị đất nước của họ. Trí tuệ hay sự khôn
ngoan ở đây cần phải hiểu theo chiều hướng gian manh, quỷ quyệt, mưu mô,
thủ đoạn…
Những câu hỏi khó trả lời
Khi chưa hiểu được những phương cách đảng CSVN áp dụng để bảo vệ quyền
lực và độc quyền thống trị đất nước của họ, thì nhiều người trên thế
giới, nhất những nạn nhân của chế độ CSVN, đều lấy làm lạ tự hỏi:
− Tại sao các cán bộ CSVN, cụ thể là những người công an CSVN lại có thể
tàn bạo và dường như hoàn toàn vô cảm trước sự đau khổ tận cùng của
người dân, vốn cùng là máu đỏ da vàng với mình, có khi là những người có
họ hàng gần xa với mình như vậy?
− Tại sao chế độ CSVN lại dung dưỡng cho các cán bộ cấp dưới được tự do cướp nhà cướp đất của người dân mà không thèm xét xử?
− Trước nguy cơ mất nước rất lớn vào tay Trung Cộng, biết bao người dân
đang hết sức lo âu cho vận mệnh dân tộc, tại sao một Quốc hội gồm 500
dân biểu với tư cách đại diện cho dân lại có thể thờ ơ và vô cảm trước
sự kiện này đến nỗi không thể ra được một văn kiện chính thức phản đối
Trung Cộng? Tại sao những người lãnh đạo cao cấp nhất trong nước lại
phản ứng như đồng lõa, tiếp tay với kẻ thù xâm lược?
− Giặc Tàu xâm lược rất mạnh và hung bạo đã xông vào nhà mình, mà mình
là nước nhỏ vừa nghèo lại vừa yếu, chắc chắn chống giặc không nổi, tại
sao CSVN lại ngu xuẩn đến nỗi tuyên bố sẽ không liên kết với nước nào
khác để chống lại giặc? Trong lịch sử thế giới, có nước nào hay ông vua
nào lại ngu xuẩn đến thế không? Hay là CSVN muốn đầu hàng hoặc muốn dâng
cả nước Việt cho Tàu?
− Tại sao công an CSVN trở nên phi nhân tính đến mức tàn bạo, dã man, vô
cảm như hiện nay? Trước khi trở thành công an, họ có như vậy không? Họ
tàn bạo, vô cảm nên mới xin làm công an, hay vì họ làm công an nên mới
trở thành như vậy? (Nhiều người cũng hỏi câu tương tự như vậy đối với
các cán bộ cộng sản).
− Còn hàng trăm câu hỏi khác người dân thắc mắc mà không dễ dàng gì trả lời cho xuôi…
Nhưng nếu chúng ta hiểu được cách chế độ CSVN tự bảo vệ mình và duy trì
quyền lực tuyệt đối trên toàn dân tộc, nhất là trên các đảng viên hay
cán bộ của mình bằng việc thiết lập một bộ máy có khả năng thuần hoá một
cách rất hữu hiệu những người làm việc trong bộ máy đó, chúng ta sẽ rất
dễ trả lời những câu hỏi trên.
Phương cách bảo vệ quyền lực và độc quyền thống trị của CSVN
1/ Bộ máy thuần hóa người dân và đảng viên
Từ khi cướp được chính quyền, đảng CSVN chủ trương phải làm sao thành
lập và duy trì được quyền lực tuyệt đối trên toàn dân Việt hầu muôn đời
trường trị trên đất nước này, hầu có thể mãi mãi đè đầu cưỡi cổ người
dân bất chấp họ có chán ghét và bất mãn chế độ đến đâu. Vì thế đảng chủ
trương một chế độ độc tài, phi nhân, lấy gian trá và bạo lực làm phương
châm hành động hầu tồn tại lâu dài. Ngoài ra đảng CSVN còn tạo nên một bộ máy thuần hóa
người dân, nhất là thuần hóa những đảng viên và những cán bộ từng phục
vụ cho chế độ, biến họ thành những người tuyệt đối trung thành với chế
độ, và trung thành cho đến chết.
Bộ máy thuần hóa này hệ tại một số những yếu tố sau:
● Chủ trương vô thần, vô tôn giáo, vô gia đình, vô tổ quốc và đứng trên luật pháp
giúp cho các đảng viên và các cán bộ cộng sản không còn bị một ràng
buộc nào khác ngoài sự ràng buộc với chế độ. Nhờ thế, họ chỉ còn biết
tuân lệnh đảng và trung thành với đảng mà thôi.
a) Vô thần hay vô tôn giáo khiến người cộng sản không còn tin vào
Thượng Đế, vào sự tồn tại của linh hồn sau khi chết. Do không tin,
người cộng sản không cảm thấy lo sợ hay áy náy khi làm điều ác, cho dù
đó là những tội ác tày trời như giết người, cướp của, cướp đất của dân
nghèo, hay sẵn sàng bán nước cho ngoại bang… Còn người hữu thần hay có
tôn giáo, nếu thật sự tin vào luật luân hồi, nhân quả nghiệp báo, hoặc
tin vào sự thưởng phạt sau khi chết, họ thường không dám làm điều ác hay
xử sự bất công với người khác, vì họ sợ sẽ bị phạt ở đời sau nếu họ
phạm những tội ác ấy. Nhờ bản chất khuyến thiện và chống ác, tôn giáo
giúp các tín hữu sống tốt hơn. Chính vì thế, cộng sản luôn luôn muốn
tiêu diệt tôn giáo, do tôn giáo luôn chống lại điều ác, làm ngăn trở hữu
hiệu bộ máy thuần hóa của chế độ.
b) Vô gia đình, vô tổ quốc khiến họ không còn đặt nặng tình cảm
cũng như trách nhiệm đối với gia đình cũng như đối với tổ quốc. Chủ
trương vô gia đình khiến những người cộng sản thuần thành sẵn sàng thoát
ly gia đình, không còn để tình cảm gia đình chi phối, thậm chí sẵn sàng
theo lệnh đảng tố khổ cha mẹ mình hay anh em ruột thịt của mình. Điển
hình và là gương mẫu cho tính vô gia đình này là Trường Chinh, một lãnh
đạo cao cấp của đảng CSVN, đã đấu tố chính cha mẹ mình. Chủ trương vô tổ
quốc khiến họ không còn coi tổ quốc là quan trọng, mà coi đảng là trên
hết. Những khẩu hiệu như “Trung với đảng, hiếu với dân”, “Mừng đảng, mừng Xuân, mừng Quê Hương”, “Còn đảng còn mình”,
v.v… với thứ tự đảng trước dân sau, hoặc đảng rồi tới xuân rồi mới tới
quê hương… cho thấy tinh thần của những khẩu hiệu này là đặt đảng lên
trên hết, trên cả dân tộc và tổ quốc. Do đó, người cộng sản bị thuần hóa
sẵn sàng hy sinh cả dân tộc cho đảng, coi sự tồn tại và quyền lợi của
đảng quan trọng hơn sự tồn tại và quyền lợi của cả dân tộc.
c) Đảng đứng trên luật pháp, hiến pháp nên đảng không bị luật
pháp chi phối, và đảng được hoàn toàn tự do vi phạm luật pháp cũng như
hiến pháp. Pháp luật trong nước hoàn toàn phải theo ý muốn và chủ trương
của đảng, từ việc soạn thảo đến việc thi hành hiến pháp và luật pháp.
Hiến pháp là do đảng lập, luật pháp cũng do đảng viết; luật pháp do đảng
chỉ thị có nhiều điều luật ngược hẳn lại hiến pháp, nhưng đối với đảng,
điều đó không đáng quan tâm. Ngồi xổm trên luật pháp, đảng có quyền kết
án buộc tội ai tuỳ tiện, cho dù họ hoàn toàn vô tội; và tuyên bố ai vô
tội, không kết án, tuỳ ý đảng, cho dù tội người ấy có tày trời chăng
nữa. Hiến pháp và luật pháp chỉ dùng để ép buộc người dân phải tuân hành
ý muốn của đảng mà thôi. Đối với đảng, vấn đề quan trọng là các đảng
viên hay các cán bộ có trung thành với đảng hay không. Hễ trung thành
với đảng thì mọi tội ác hay mọi vi phạm pháp luật đều có thể bỏ qua,
hoặc được giảm nhẹ tối đa có thể. Hễ chống lại đảng hay tạo nên những
bất lợi cho đảng thì dù không có tội, đảng cũng tìm cho ra tội đểkết án,
bỏ tù hoặc giết chết.
● Đảng chủ trương phải làm sao để các cán bộ cộng sản chỉ có một con đường sống là trung thành bảo vệ chế độ cho đến hết đời mà
thôi, không còn một con đường sống nào khác. Không trung thành hoặc
phản lại đảng thì chẳng những mất hết tất cả những gì nhờ đảng mà mình
tạo được (như quyền lực, danh vọng, của cải...) mà còn có thể bị tù tội
hoặc thủ tiêu. Vì thế, đừng lấy làm lạ khi thấy các cán bộ cộng sản dù
đã biết chế độ này là chế độ bán nước hại dân, và việc theo đảng của
mình là một sai lầm vô cùng to lớn, nhưng vẫn cứ phải tỏ ra ủng hộ và
nói tốt cho chế độ.
Về lãnh vực này phải nói rằng đảng CSVN hết sức tài tình. Đảng đã tạo ra được một bộ máy nhà nước có khả năng thuần hoá tất cả các cán bộ cộng sản
làm việc trong bộ máy này, biến họ trở thành những người chỉ biết có
đảng, chỉ biết tuân lệnh đảng, bất chấp lệnh đó là phi lý, phi nhân, tàn
bạo, có hại cho dân tộc, cho tổ quốc...
Làm sao đảng làm được điều đó?
2/ Phương cách tạo nên bộ máy thuần hóa
a) Trước hết, đảng dồn người dân vào thế bần cùng. Mà “bần cùng sinh đạo tặc”. Người dân muốn sống được thì phải biết lươn lẹo, gian trá, trộm cắp, đút lót, hối lộ, thậm chí phải hại cả người khác [1]. Do người dân phải lươn lẹo, gian trá, trộm cắp, đút lót, hối lộ… để sống mà đảng luôn luôn có lý do để kết tội người dân
khi cần. Cách hay nhất để tiến thân trong xã hội, sống thoải mái sung
sướng là trở thành đảng viên, thành cán bộ cộng sản. Cuộc sống của đảng
viên hay cán bộ sung sướng hơn dân thường rất nhiều, nên nhiều người dân
đã phấn đấu để được trở thành đảng viên hay cán bộ.
b) Khi đã trở thành người của đảng, của bộ máy nhà nước, người ta bỗng
nhiên có một thế đứng, một quyền hạn nào đó, và đương nhiên họ bị cám dỗ
lạm dụng những lợi thế đó. Nhiều cán bộ đã sử dụng bằng giả để tiến
thân, hay hối lộ cấp trên để được thăng chức, hay lạm dụng quyền hành để
cướp nhà cướp đất của dân, hay ăn thụt két, trộm cắp của công, hay làm
những điều tồi bại khác… Đảng sẵn sàng làm ngơ trước những vi phạm pháp luật đó nếu đảng viên hay người cán bộ vẫn tỏ ra trung thành với đảng.
Tuy làm ngơ nhưng đảng vẫn ghi nhận trong hồ sơ những vi phạm ấy. Và
những hồ sơ vi phạm này chỉ được khui ra khi đảng cần kết án vì đương sự
trở nên có hại cho quyền lực của đảng [2].
Hầu hết những cán bộ hay đảng viên đã lỡ tay “nhúng chàm” do lòng “tham sân si” của mình hay do bị gài bẫy [3] đều nhìn thấy cái án treo sẵn trên đầu mình. Án này cứ treo mãi trên đầu như thế cho dẫu mình có tiếp tục “nhúng chàm” nhiều hơn nữa cũng không sao, miễn là cứ tỏ ra trung thành với đảng, là đảng sẵn sàng bảo vệ. Nhưng án đó sẽ sập xuống ngay khi đảng viên hay cán bộ ấy chống lại đảng, không tuân lệnh đảng, hay có ý phản đảng,
nhất là khi họ thức tỉnh lương tâm, nhận ra đảng toàn làm những điều
sai trái, toàn gây tội ác đối với nhân dân, nên không còn muốn tuân lệnh
đảng nữa, hoặc muốn đứng về phía người dân để bênh vực cho quyền lợi
của người dân...
c) Những ai từng tỏ ra trung thành với đảng, đảng luôn luôn tạo điều
kiện để họ trung thành với đảng hơn nữa. Ngoài việc làm ngơ khi họ vi
phạm pháp luật, hay cướp nhà cướp đất của dân, đảng cho họ được thăng
quan tiến chức, bất chấp họ có xứng đáng hay có khả năng đảm nhiệm tốt
chức vụ đó hay không. Đối với giới công an, đảng ra thật nhiều luật thậm chí rất phi lý
để công an có lý do làm tiền người dân. Vì luật càng nhiều, càng phi lý
thì càng có nhiều người dân vi phạm những luật ấy. Mà khi dân bị công
an bắt gặp vi phạm luật, chẳng hạn không đội mũ bảo hiểm trên xa lộ,
chạy xe không chính chủ, v.v... thì để khỏi bị công an làm lôi thôi mất
thì giờ, người dân sẵn sàng bỏ tiền ra hối lộ công an cho xong chuyện.
Nhờ đó công an có điều kiện làm giàu, và cũng nhờ đó công an phải trung
thành và gắn bó với chế độ hơn. Nhiều người dân quá sợ bị mời về đồn
công an và bị tra tấn đến chết như đã từng xảy ra chỉ vì vi phạm luật
giao thông hay một lỗi nhỏ khác [4]nên
sẵn sàng hối lộ để tránh nguy hiểm cho mình. Việc pháp luật làm ngơ
hoặc xử án thật nhẹ những công an đánh chết người, vừa để người dân sợ
mà nhanh nhẩu đút lót làm giàu cho công an, vừa để cho người công an
thấy sự dung dưỡng của chế độ đối với mình mà trung thành với đảng hơn.
Tóm lại, bộ máy thuần hóa của đảng CSVN gồm những yếu tố:
1) Người cộng sản được “giải phóng” khỏi những ràng buộc do lương tâm, do tôn giáo, do gia đình, do tổ quốc để chỉ còn bị ràng buộc vào đảng mà thôi.
2) Người nào theo đảng, trung thành với đảng thì được đảng tạo đủ mọi
điều kiện để sống thoải mái, giàu có, có quyền lực, địa vị… lại được
pháp luật làm ngơ trước những vi phạm luật của mình. Điều này giúp họ dễ
dàng thỏa mãn những đòi hỏi của lòng tham sân si cũng như thất tình lục
dục của mình.
3) Những vi phạm luật này khiến họ phải tiếp tục trung thành với đảng để
được tiếp tục hưởng ơn mưa móc của đảng và để khỏi bị truy tố về những
tội ác của mình.
4) Những ai không còn tuân phục đảng, hay phản bội đảng, hoặc làm theo
lương tâm mình mà gây bất lợi cho đảng thì chẳng những mất hết những gì
mình đang có mà còn có thể nguy hiểm đến tính mạng mình và nhiều khó
khăn sẽ xảy đến cho gia đình mình.
Chính sách “cây gậy và củ cà-rốt”, hay nói cụ thể hơn là “khủng bố và quyền lợi”,
được đảng CSVN sử dụng rất nhuần nhuyễn và tài tình, tạo nên một bộ máy
thuần hóa rất hữu hiệu đối với người dân, và nhất là đối với đảng viên
hay cán bộ cộng sản.
Do đó, đối với các đảng viên hay cán bộ cộng sản, chuyện công khai bỏ
đảng, nhất là trở thành một người đấu tranh cho dân chủ nhân quyền là
chuyện hi hữu, là những trường hợp đặc biệt. Làm được chuyện này phải là
người rất can đảm, rất đáng phục nhờ trong quá khứ họ sống thanh liêm,
trong sạch, tay chưa hề “nhúng chàm” nên không sợ bị chế độ truy
tố. Thiết tưởng chúng ta cần nâng đỡ tinh thần họ, khuyến khích họ làm
theo lương tâm, hơn là cản trở hay tỏ ra nghi ngờ họ.
Tuy nhiên, do luật quả báo, đảng CSVN lại bị Trung cộng hay đảng Cộng sản Trung Quốc thuần hóa cũng
bằng những phương cách tương tự như những phương cách mà CSVN đã thuần
hóa người dân và đảng viên của mình. Bị thuần hóa đến nỗi đảng CSVN muốn
thoát khỏi ảnh hưởng của Trung cộng để tự cứu mình và cứu cả đất nước
cũng không sao thoát được! Đúng là luật quả báo!
Houston, ngày 10/8/2014
________________________________________
Chú thích:
[1] Có lần Thủ tướng CSVN
Phạm Văn Đồng nói: “Lương cao, lương thấp đều sống được, chỉ có lương
thiện là chết” (Tiến sĩ Hoàng Xuân Hào tiết lộ) (xem Nguyễn Anh Tuấn,
Việt Đạo trong sáng tạo lịch sử, nhóm phát huy tinh thần Hùng Gia Đại
Việt xuất bản, Westminster-Cali, 1994).
[2] Tương tự như ở Trung
Quốc, những ông Bạc Hy Lai, Chu Vĩnh Khang… đã tham nhũng cả mấy chục
năm;, tình báo hay an ninh nhà nước cộng sản làm gì mà không biết, nhưng
có đếm xỉa gì đến đâu! Chỉ khi mấy ông này trở nên nguy hiểm hay bất
lợi cho người đang nắm quyền tối cao trong nước thì những vi phạm ấy mới
bị đưa ra ánh sáng để có cớ mà kết án, mà hạ bệ hay tiêu diệt thôi.
[3] Nhiều công an hay cán bộ
giết người, bảo vệ đường giây chuyển ma túy vì thi hành lệnh trên, hoặc
bị gài bẫy về mặt tình cảm hay tình dục, v.v... đều phải tiếp tục những
công việc bất nhân mà đảng ra lệnh. Họ sợ bị đảng truy tố hay công khai
hóa những việc tồi bại của mình. Nhiều người có uy tín hay có địa vị
trong xã hội hoặc trong tôn giáo, do sai phạm về tiền bạc, tình dục, hay
bị gài bẫy để sai phạm những điều ấy, chỉ vì muốn giữ uy tín cho mình
mà không dám làm những gì lương tâm mình buộc phải làm, nhất là khi điều
ấy gây bất lợi cho chế độ.
[4] 5 công an đánh chết người: Thay phiên tra tấn nghi can bị còng
Công An tra tấn chết người chỉ bị án treo
Ăn trộm vài đồng tiền lẻ bé trai bị tra tấn đến chết?
TS NGUYỄN ĐÌNH THẮNG * QUAN HỆ VIỆT MỸ
Ts. Nguyễn Đình Thắng - Quan Hệ Hoa Kỳ - Việt Nam: Có Điều Kiện Và Tiệm Tiến
Ts. Nguyễn Đình Thắng
Các bản tin quốc tế về buổi họp báo của TNS John McCain và TNS
Sheldon Whitehouse ngày 8 tháng 8 ở Hà Nội đã không nêu lên hai điểm
quan trọng: cải thiện nhân quyền phải ở mức căn bản và tiến trình phát
triển quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam mang tính cách tiệm tiến, tuỳ
thuộc mức cải thiện nhân quyền. Một số bản tin Việt ngữ cũng phạm thiếu
sót vì lấy tin từ các bản tin quốc tế.
Điểm quan trọng thứ nhất là sự cải thiện nhân quyền phải ở mức căn
bản và không quay lui được. Căn bản nghĩa là: trả tự do cho tất cả tù
nhân lương tâm, xoá bỏ các công cụ trong khung luật và trong chính sách
mà nhà nước dùng để đàn áp hay bỏ tù người bất đồng chính kiến, và tôn
trọng ba quyền tự do căn bản: tự do phát biểu, tự do hội họp ôn hoà và
tự do lập hội. Nếu thực hiện đúng như vậy thì đây là nền tảng cho một
tiến trình dân chủ hoá đất nước.
TNS McCain hiểu rằng những cải thiện này không thể xảy ra "qua đêm"
mà đòi hỏi một thời gian. Do đó sự phát triển quan hệ đối tác với Việt
Nam, kể cả về an ninh và mậu dịch, sẽ mang tính cách tiệm tiến. Nghĩa là
Việt Nam cải thiện nhân quyền đến đâu thì Hoa Kỳ sẽ đáp ứng đến đó về
mức độ đối tác.
Đây chính là mục tiêu chiến lược của kế hoạch quốc tế vận 2013-2014,
được nhiều trăm người chung sức thực hiện qua các đợt tổng vận động Quốc
Hội và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ trong thời gian qua và ngày càng được nhiều
dân biểu và thượng nghị sĩ Hoa Kỳ hưởng ứng.

TNS John McCain tham gia cuộc biểu tình chống giàn khoan HD-981, Phoenix, AZ ngày 17/05/2014
TNS McCain chỉ nói lên một thực tế: với mức chống đối hiện nay ở Quốc
Hội Hoa Kỳ, không cách gì thông qua được TPP và gỡ bỏ lệnh cấm bán vũ
khí sát thương cho Việt Nam nếu Việt Nam không thoả đáng điều kiện về
cải thiện nhân quyền một cách căn bản.
Chúng ta có thể hình dung một lộ trình 5 năm để dân chủ hoá Việt Nam.
Khởi điểm của lộ trình là Việt Nam phải trả tự do cho một số đáng kể
các tù nhân lương tâm, xoá bỏ hay tu chính các luật vi phạm nhân quyền
(Nghị Định 72 về internet, Nghị Định 92 về sinh hoạt tôn giáo, các điều
88, 258 và 79 Bộ Luật Hình Sự), và ban hành luật chống tra tấn và luật
hội đoàn bao gồm công đoàn độc lập. Sau đó mỗi năm Việt Nam phải đạt
những chỉ tiêu nhất định để được hưởng thêm các hỗ trợ về an ninh (bao
gồm vũ khí sát thương) và quyền lợi mậu dịch qua TPP. Năm nào Việt Nam
không đạt chỉ tiêu thì các quyền lợi sẽ không được tăng thêm cho đến khi
đạt chỉ tiêu.
Đây không phải là một ví dụ bâng quơ mà đang là một chính sách được
nhiều thành phần trong và ngoài chính quyền Hoa Kỳ thúc đẩy. Đó cũng là
lý do của sự hình thành Liên Minh Cho Một Việt Nam Tự Do Và Dân Chủ.
Phát biểu báo chí của TNS McCain, mà chúng ta có thể hiểu là đại biểu
cho Thượng Viện Hoa Kỳ, đánh dấu thành quả bước đầu nhưng đáng kể của
kế hoạch quốc tế vận 2013-2014.
Trong 5 tháng còn lại của năm 2014, chúng tôi sẽ tiếp tục cài thêm
nhiều nút chặn TPP để Hành Pháp Hoa Kỳ bị giới hạn về chọn lựa và chỉ
còn cách thúc đẩy chính quyền Việt Nam chấp nhận lộ trình dân chủ hoá
với khởi điểm trước cuối năm. Qua năm sau có thể là quá trễ vì cánh cửa
cơ hội cho Việt Nam vào TPP sẽ khép lại rất nhanh một khi cuộc tranh cử
Tổng Thống Hoa Kỳ bắt đầu.
Một trong những nút chặn đang được hình thành là vấn đề tự do tôn
giáo mà Việt Nam đang vi phạm trầm trọng. Một nút chặn nữa là tình trạng
cưỡng chiếm tài sản của công dân Hoa Kỳ mà chúng tôi đã chuẩn bị sẵn để
khi cần thì dùng đến.
Từ giờ đến cuối năm, chúng ta sẽ phải đẩy mạnh hơn nữa cuộc tổng vận động.
TRƯƠNG NHÂN TUẤN * VIỆT NAM
VN hợp tác với ai, về cái gì và chia sẻ với ai, về cái gì ?
Góp ý với ba vị giáo sư có hơn 30 năm giảng dạy ở Hoa Kỳ.
Trương Nhân Tuấn/FB TNT
Ảnh bên:Hai giáo sư Trần Hữu Dũng (giữa) và Ngô Vĩnh Long (phải) trả lời Nguyễn Hùng
Thật tình tôi không thể chia sẻ bất kỳ ý tứ nào của của ba vị (giáo sư tiến sĩ ) trong bài phỏng vấn của BBC ở đây. Bài phỏng vấn có tựa đề: “Hoàng Sa-Trường Sa : hợp tác để chia sẻ”.
Ý kiến của ba vị này, như theo ông GS Trần Hữu Dũng :
“Tôi nghĩ rằng Việt Nam hơi sai khi đặt nặng vấn đề về chủ quyền hơn là vấn đề an ninh khu vực và tự do khu vực.”
Vấn đề đặt ra là : VN hợp tác với ai, về cái gì và chia sẻ với ai, về cái gì ?
Nói về Hoàng Sa. TQ đã chiếm quần đảo này (trên tay VNCH) từ năm 1974.
Nếu chỉ tính từ biến cố giàn khoan 981, lý do mà TQ đưa ra trước quốc tế để bào chữa cho hành động đặt giàn khoan này là :
1/ Hoàng Sa là lãnh thổ của TQ.
2/ Vị trí đặt giàn khoan 981 thuộc về thềm lục địa của các đảo HS.
Ban đầu TQ cho rằng vị trí giàn khoan nằm trong “lãnh hải” của đảo
Tri Tôn. Sau đó họ nhận ra rằng việc này là không đúng, vì vị trí giàn
khoan nằm cách đảo Tri Tôn đến 17 hải lý (trong khi bề rộng lãnh hải
theo luật định chỉ có 12 hải lý). Vì vậy họ mới chữa là giàn khoan nằm
trong vùng “tiếp cận lãnh hải” của đảo Tri Tôn. TQ còn nói thêm rằng,
dầu thế nào thì giàn khoan cũng nằm trong hải phận của các đảo HS (nếu
tính hiệu lực các đảo như Phú Lâm…)
Thử đặt giả thuyết, VN không đặt nặng vấn đề chủ quyền như ý kiến của
các giáo sư : (Hoàng Sa là của VN), thì VN chỉ có lý do duy nhất để
phản bác hành vi của TQ (khi đặt giàn khoan 981) là các đảo Hoàng Sa quá
nhỏ (để có hải phận kinh tế độc quyền).
Nhưng khi nói vậy, thứ nhứt VN mặc nhiên nhìn nhận HS thuộc chủ quyền
của TQ. Thứ hai, tranh chấp giữa VN và TQ trở thành tranh chấp về việc
cách diễn giải điều 121 của Luật Biển 1982 về hiệu lực các đảo, mà điều
này phần thua 99% thuộc về VN. Bởi vì Luật Biển 1982 không hề phân biệt
đảo nhỏ hay đảo lớn (để có vùng kinh tế độc quyền 200 hải lý) mà chỉ
phân biệt đảo mà con người có thể sinh sống và có nền kinh tế tự túc hay
không.
Quan niệm như vậy, TQ sẽ không cho VN “hợp tác” và “chia sẻ” bất cứ cái gì (như hiện nay) ở Hoàng Sa (và vùng biển chung quanh).
Tức là nếu VN không đặt nặng vấn đề chủ quyền (Hoàng Sa là của VN),
có nghĩa là VN sẽ phải “chia sẻ” và “hợp tác” với TQ vùng biển (và thềm
lục địa) của mình, từ bờ biển miền Trung cho đến đảo Tri Tôn.
Phải chăng ý kiến của ba vị giáo sư “có 30 năm kinh nghiệm giảng dạy tại Hoa Kỳ” (sic!) là vậy ?
Còn về an ninh và tự do hàng hải, thực ra, nếu nhìn sâu xa, thì hiện
nay VN mới là bên có thể đe dọa “an ninh” và “tự do hàng hải” trong Biển
Đông hơn cả TQ. Trong một mức độ chiến thuật, nếu khủng hoảng giàn
khoan 981 bùng nổ, thì chỉ phía VN là bên có khả năng “ngăn chặn” tất cả
các tàu buôn, của TQ hay của các nước khác, qua lại. Hải quân TQ chưa
đủ mạnh để có thể kiểm soát Biển Đông. Trong khi vùng biển Hoàng Sa thì
không hề nằm trên trục qua lại của tàu bè các nước. Do đó, khi Hoa Kỳ
cũng như các nước lo ngại vụ giàn khoan 981 sẽ đe dọa an ninh khu vực,
phần lớn là do từ khả năng “du kích đại dương” của VN mà ra, chứ không
phải đe dọa từ TQ.
Cá nhân tôi nhận thấy rằng, trong vấn đề giàn khoan 981, phản ứng của
VN như vậy là khá hợp lý, trong khi phía TQ có lẽ đã phạm sai lầm. VN
đã sử dụng thành công các mặt vận động dư luận, vận động về pháp lý, kể
cả việc răn đe… Điều còn lại là VN nên nắm lấy cơ hội để đưa tranh chấp
Hoàng Sa ra một trong tài quốc tế.
Câu hỏi đặt ra, ở Hoàng Sa, điều hợp lý là VN phải “đặt nặng” hay “đặt nhẹ” vấn đề chủ quyền ?
Còn ở khu vực Trường Sa, vấn đề cũng đặt ra là : VN hợp tác với ai, về cái gì và chia sẻ với ai, về cái gì ?
Giả sử nếu không có TQ, thì tranh chấp Trường Sa giữa VN với các nước
Phi, Mã Lai, Indonésie… sẽ không là việc khó. VN có thể tuyên bố các
đảo này quá nhỏ để có hiệu lực về ZEE, hoặc đề nghị một vùng khai thác
chung trong vùng biển thuộc Trường Sa. Các đề nghị này đều có thể được
người dân VN dễ dàng chấp nhận.
Vấn đề nổi cộm là đòi hỏi phi lý của TQ về chủ quyền các đảo TS cũng như vùng biển chung quanh (và vùng biển theo đường chữ U).
VN và các nước liên quan có thể “hợp tác” và “chia sẻ” cái gì ở Trường Sa với Trung Quốc ?
Vấn đề là TQ muốn gì ?
Đối với VN, trong quá khứ, TQ chiếm một số đảo của VN năm 1988, thảm
sát gần trăm binh lính VN (không cầm khí giới). Thập niên 90, TQ đã cho
các tập đoàn dầu khí (của Hoa Kỳ) khai thác trên thềm lục địa của VN,
thuộc vùng Tư Chính- Vũng Mây (mà TQ gọi là Vạn An Bắc), cách bờ biển VN
khoảng 300km. Gần đây TQ cho gọi đấu thầu khai thác dầu khí trên các lô
thuộc thềm lục địa của VN, cách bờ biển các tỉnh miền Trung chỉ hơn
100km. Ngoài ra còn có các hành vi ngang ngược như cắt cáp tàu Bình
Minh, ra lệnh cấm đánh cá…
Đối với Phi, TQ chiếm đảo Vành Khăn (thập niên 90). Gần đây chiếm bãi cạn Scarborough, đe dọa chiếm bãi Cỏ Rong…
Đối với Indonésie, TQ mở tranh chấp lãnh thổ ra tới đảo Natuna. Với Mã Lai thì cho tàu bè chiếm đóng các bãi cạn…
Bỏ các nước kia ra một bên, VN có thể « chia sẻ » cái gì với TQ ?
Vùng Tư Chính – Vũng Mây ? Hay thềm lục địa miền Trung (khu vực giữa đá
Gạc Ma và bờ biển VN) ?
Không thấy quí vị giáo sư “có 30 năm kinh nghiệm giảng dạy tại
Hoa Kỳ” (sic!) nói rõ ý kiến « chia sẻ và hợp tác », trường hợp với TQ,
là chia ở đâu, và chia như thế nào ?
Theo tôi, nếu VN không đặt nặng vấn đề chủ quyền : Trường Sa
là của Việt Nam, thì VN sẽ không có cách nào khả dĩ bảo vệ được quyền
lợi chính đáng của mình trước những yêu sách ngang ngược của TQ.
NGUYỄN AN DÂN * QUAN HỆ VIỆT MỸ
TPP, Vũ Khí Sát Thương, và Quan Hệ Việt-Mỹ
Nguyễn An DânGiới quan sát chính trị Việt Nam lại xôn xao khi liên tục các ông Bob Corker (thành viên thâm niên ủy ban đối ngoại), John McCain (thành viên ủy ban quân vụ- đối ngoại) và Sheldon Whitehouse (thành viên các ủy ban tư pháp, ngân sách, kinh tế, lao động tiền lương, môi trường và công chính ) là các quan chức Quốc Hội Mỹ đến Việt Nam. Theo công bố chính thức của hai nước, sứ mệnh của các ông này là xúc tiến TPP, dỡ bỏ cấm vận vũ khí sát thương, đối thoại nhân quyền và thương mại.
Dư luận đang có một giả thuyết ầm ĩ rằng “nhóm bảo thủ trong đảng
(đứng đầu là Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng) và Mỹ đã âm thầm bắt tay nhau
và hai bên đã loại bỏ vai trò của nhóm cải cách (đứng đầu là thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng) trong cuộc chơi này. Việc McCain qua Việt Nam là “ khả
năng là theo lời mời của ông Phạm Quang Nghị, đáp lễ lại việc ông Nghị
đại diện cho nhóm bảo thủ sang Mỹ vào tuần cuối tháng 7/2014 vừa qua”
(*)
“Mỹ sẽ ủng hộ khi và chỉ khi bạn tự mình đứng lên”
Theo tôi, nhận định rằng nhóm bảo thủ trong Đàng CSVN và Mỹ đã đạt
được một niềm tin nào đó để từ đó bắt tay nhau nhằm loại bỏ vai trò của
nhóm cải cách là thiếu cơ sở xác đáng. Thế mà nó được đảng và dư luận
thổi bùng lên một cách ồn ào chỉ qua mỗi 1 việc là nhóm bảo thủ cử ông
Phạm Quang Nghị đi Mỹ và có những phát biểu rất chung chung.
Muốn hiểu việc vì sao các quan chức Mỹ qua Việt Nam hôm nay thì phải
xét đến cách làm việc và quy trình hành động của Mỹ. Ở một đất nước dân
chủ pháp trị minh bạch như Mỹ, khó có khả năng chiến lược đối ngoại lại
có thể thay đổi dựa trên chuyến thăm, làm việc đột xuất ngoài nghị trình
của một nhân vật “chưa có quyền quyết định trong chính sách lãnh đạo”
như ông Phạm Quang Nghị
Cần chú ý là chiến lược xoay trục của Mỹ sang Châu Á, Thái Bình Dương
là một chiến lược lớn và được cài đặt từ lâu trong quá khứ. Với Việt
Nam-Mỹ, nó bắt đầu từ khi thủ tướng Võ Văn Kiệt vận động cho chương
trình bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ sau cú “thoát hiểm” thập niên
1990.
Chuyện ông Võ Văn Kiệt, người “được coi là thân Mỹ và phương tây”
ngồi vững ở ghế thủ tướng cũng khá ly kỳ sau một kế hoạch thanh trừng
của phe bảo thủ. Một số quan chức am hiểu nội tình và có từng có vị trí
cao trong đảng cộng sản Việt Nam đều “xì xào” là Nguyễn Hà Phan, một
nhân vật mà phe bảo thủ đưa lên để thay Ông Kiệt “bị cháy” là do Mỹ đứng
sau. Tôi nghe được từ họ là Mỹ đã âm thầm tung ra tài liệu “ khai báo
phản đảng, phản tổ quốc khi bị bắt” của ông Hà Phan làm ông Phan thất
thế. Không biết chuyện trên đúng hay sai, nhưng “vụ án khai trừ Hà Phan
phản bội” và BCH TW Đảng năm 1996 vẫn bỏ phiếu cho ông Kiệt tiếp tục làm
thủ tướng là chuyện ai cũng nhớ
Trong tư thế có một nhóm trong đảng “tự đứng lên kêu gọi cải cách và
hướng về mình”, dĩ nhiên Mỹ “chừa ghế” cho Việt Nam trong chiến lược
Châu Á- TBD là tất yếu. Chúng ta hãy luôn nhớ rằng “Mỹ chỉ ủng hộ bất kỳ
ai khi và chỉ khi họ tự đứng lên”. Thủ tướng VN thời kỳ 1990 đã tự đứng
dậy thì Mỹ ủng hộ.
Sau đó, các đời thủ tướng Việt Nam tiếp theo đều theo con đường ông
Kiệt vạch ra và đi hội kiến tổng thống Mỹ. Phan Văn Khải đi Mỹ năm 2005
và Nguyễn Tấn Dũng năm 2006. Ngược lại, các đời tổng thổng Mỹ từ ông
Bill Clinton đến nay đều sang Việt Nam. Tất cả những động thái này để
làm gì nếu không phải là việc duy trì hậu thuẫn nhau và giữ gìn đường
lối hợp tác của nhóm cải cách với Mỹ nhằm dần dần lái con thuyền VN
hướng về Mỹ hơn ?
Tôi cho rằng các mốc son trong quan hệ Mỹ-Việt như bình thường hóa
quan hệ, hiệp định thương mại Mỹ-Việt, phát triển hạt nhân và TPP, dỡ bỏ
cấm vận vũ khí sát thương… là những bước đi quan trọng mang tính kế
thừa qua các thời kỳ của chính phủ hai bên nhằm giúp VN cải cách. Nó là
mối dây xuyên suốt, chứ không phải tự nhiên hôm nay phát sinh ra việc
mấy ông thượng nghị sĩ đến VN “theo lời mời và đáp lễ ông Nghị”. Nếu
không có các bước đi mang tính “phá núi mở đường” của nhóm cải cách thì ở
đâu ra có mấy việc này?.
Nếu ông Võ Văn Kiệt không tự đứng lên và các đời thủ tướng Việt Nam
không cố gắng giữ thế đứng trong sự kiềm chế và tìm cách thanh trừng của
nhóm bảo thủ và Trung Cộng thì chẳng có Mỹ nào tác động và ủng hộ. Hình
như những người đang lý luận rằng “Mỹ và nhóm bảo thủ đang bắt tay
nhau, bỏ qua nhóm cải cách” đã quên đi phương châm nhất quán này của Mỹ
chăng ? Hà cớ gì Mỹ bỏ qua một “đồng minh cải cách” đã chủ động bắt tay
và kiên trì cùng mình trong 19 năm nay và đi bắt tay với một “đồng minh
bảo thủ”, lại còn đã từng tìm cách thanh trừng nhóm kia? (HNTW 6 năm
2012)
Trong mấy năm qua, người ta đồn đoán rằng vị trí chủ tịch nước đang
tìm cách phá bỏ kế hoạch cải cách chính trị của nhóm thủ tướng thì tôi e
rằng cũng không đúng. Trong bang giao Mỹ-Việt, có vẻ hai chức danh Thủ
tướng và Chủ tịch nước là đồng minh của nhau thì có cơ sở hơn, khi mà
hai đời chủ tịch nước VN là ông Nguyễn Minh Triết và ông Trương Tấn Sang
đều sang Mỹ. Rõ nhất là việc ông Trương Tấn Sang, trước khi ông Nghị đi
Mỹ, đã chủ động nêu ra vấn đề “Việt Nam cần vũ khí sát thương của Mỹ”.
Với Trung Quốc, những điều khoản mà ông Sang ký kết với Tập Cận Bình năm
2013 được giới quan sát chính trị ghi nhận là “tích cực hơn” các điều
khoản mà VN-TQ đã ký năm 2011 trong chuyến sang Trung Quốc của ông
Nguyễn Phú Trọng..
Xét trong bối cảnh quan hệ Việt-Mỹ như thế mới rõ vì sao các Thượng
Nghị Sĩ Mỹ qua Việt Nam lúc này. Vai trò của Quốc Hội Mỹ và các uỷ ban
trực thuộc trong những việc liên hệ đến các vấn đề mà Mỹ đang hướng đến
là họ thường giúp chính phủ ở phần mở đầu để chính sách đối ngoại của Mỹ
được tốt đẹp. Quốc Hội Mỹ nắm ngân sách và thông qua các hiệp ước như
hiến pháp đã định do đó sự can dự của họ là để tạo dễ dàng cho chính phủ
Mỹ, giúp cho chính sách đối ngoại của Mỹ có tính nhất quán của quốc
gia. (Quốc Hội Việt Nam nên học hỏi điều này)
Đại sứ Mỹ David Shear, trong cuộc gặp mặt cuối cùng với Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng trước khi ông J.McCain qua VN, đã công bố ra một thông
điệp, đó là “đã đến lúc ủng hộ Việt Nam vào TPP và dỡ bỏ cấm vận vũ khí
sát thương”. Ý kiến của ông đại sứ là quan trọng, nên thành viên ủy ban
đối ngoại Bob Corker sang Việt Nam để khởi động cho sự tham gia của Quốc
Hội Mỹ vào vấn đề gia tăng ủng hộ Việt Nam là bước khởi đầu tất yếu. Ở
Việt Nam vài năm, ông Đại sứ hiểu nội tình và “diễn biến cuộc tranh chấp
đảng quyền-chính quyền”, của “thân Tàu-thân Mỹ”, của “bảo thủ-cải cách”
nhiều nhất. Lời ông Đại sứ Mỹ nói ra dĩ nhiên quan trọng với Mỹ hơn lời
ông Nghị nói ở Mỹ. Vì nó phản ảnh nhận định về Việt Nam của người đại
diện chính phủ Mỹ tại Việt Nam.
Việc nhóm chính phủ VN đang chỉ đạo khui ra những bê bối của phe đối
lập (các đại án khởi tố mới đây mà tôi đã viết trong bài “cuộc chiến hậu
giàn khoan”) sau khi không thuyết phục được nhau là một điều Mỹ dĩ
nhiên thấy. Qua việc này, chứng tỏ quyết tâm cầm nắm quyền lực của nhóm
cải cách (chính quyền) sau khi bị nhóm bảo thủ (đảng quyền) o ép (ngăn
cản Phạm Bình Minh đi Mỹ và thay bằng Phạm Quang Nghị, cũng như chưa cho
kiện Trung Quốc) là một tín hiệu để Mỹ xúc tiến nhanh lên bước đi của
họ, là đúng theo tư duy của Mỹ lâu nay. Có một vụ “thú vị” nữa là “vụ án
in tiền Polyme” thì tôi cũng sẽ nói sau, trong một bài viết khác gần
đây, cũng có liên quan đến thế cục nội bộ đảng hôm nay, mà như chính
phát ngôn nhân Việt Nam phải lên tiếng phản đối vì “ảnh hưởng đến uy tín
và danh dự của lãnh đạo Việt Nam”.
Thành thử ra, tôi e rằng nhận định ông McCain sang Việt Nam lần này
“theo lời mời của ông Phạm Quang Nghị” và “đáp lễ ngoại giao” là thiếu
cơ sở xác đáng. Bằng chứng là khi trả lời phỏng vấn, ông McCain không hề
nói rằng “ông Nghị đã mời tôi sang đây” hay là đại loại như “chuyến đi
của ông Nghị gặp tôi ở Mỹ vừa qua đã giúp thắt chặt quan hệ hai bên”.
Như tôi đã nhận định trong bài viết “Nước cờ xuất tướng của đảng”,
việc ông Nghị đi Mỹ cũng cho thấy rằng đảng không thật sự “âm thầm xoay
trục sang Mỹ” như dư luận đang bàn tán. Ông Nghị tuyên bố khi ở Mỹ “Đàm phán không được thì mời Trung Quốc cùng ra tòa”. Sau
vụ giàn khoan, chính phủ và nhân dân Việt Nam cũng như giới quan sát
chính trị quốc tế đến Việt Nam tham vấn đều nói “đây là lúc phài kiện ra
tòa” thì ông Nghị lại nói như trên. Vậy phải chăng quan điểm của nhóm
bảo thủ là “không nên kiện mà là đàm phán tiếp”? (dù thiệt hại toàn ở
phía VN trong nhiều năm nay)
Thêm nữa, cũng chính trong chuyến đi Mỹ, ông Nghị vẫn nói “Trung
Quốc đã giúp Việt Nam nhiều. Chúng tôi ý thức được tầm quan trọng của
mối quan hệ hữu nghị với Trung Quốc. Chúng tôi muốn giải quyết tranh
chấp trên biển Đông như đã giải quyết đường biên giới trên bộ, vịnh Bắc
Bộ (nghĩa là: đàm phán song phương tiếp như trước). Cho đến nay Trung
Quốc vẫn chưa sẵn sàng cùng chúng tôi đưa vụ việc ra tòa”. Thế nghĩa là
nếu Trung Quốc chưa sẵn sàng thì Việt Nam sẽ đợi Trung Quốc và trong
thời gian đó, VN-TQ tiếp tục đàm phán “song phương như biên giới và Vịnh
Bắc Bộ”?
Cũng có một chi tiết đáng nhớ trong chuyến đi của ông Nghị. Ông Nghị
tặng ông McCain tấm hình chụp bia kỷ niệm nơi máy bay của ông bị bắn
rớt. Việc này đã tạo phản ứng mạnh mẽ trên mạng, đa số chê ông Nghị
thiếu “tế nhị”. Và ngay lúc đó ông McCain đã phản ứng nhẹ bằng cách sửa
sai ghi chú sai về ông trên tấm bia. Và điều đáng nói hơn là truyền
thông Nga tung ra bài viết cho biết chính Nga đã bắn rơi máy bay của ông
McCain. Những sự kiện “thiếu tế nhị” đó chắc khó thể làm “nồng ấm” thêm
quan hệ Việt-Mỹ.
Dư luận cũng cần nhớ là về danh nghĩa, quan hệ hai đảng cộng sản Việt
Nam-Trung Quốc vẫn là “quan hệ anh em” vì các động thái cần có phá vỡ
quan hệ này chưa xày ra và đang bị kềm chế để “không xảy ra” (như việc
kiện cáo và Đảng CSVN chưa ra nghị quyết riêng của đảng để lên án Trung
Quốc), còn trong quan hệ Mỹ-Việt thì Tổng Bí Thư đã nói “quan hệ giữa
VN-Mỹ là quan hệ hàng đầu”. “Quan hệ hàng đầu” và “quan hệ anh em”, quan
hệ nào mạnh hơn ?.
Cũng rất rõ để thấy việc đảng và chính phủ đang kềm chế nhau trong
đối ngoại với Mỹ. Trong khi ông Nghị và chính Tổng Bí Thư Nguyễn Phú
Trọng đều đang ra sức tuyên truyền rằng Đảng CSVN đang “quan hệ với Mỹ
theo kênh đảng hai bên” thì thực tế cho thấy ngược lại. Nội dung các
quan chức Mỹ bàn với các lãnh đạo đảng chỉ là chung chung, “uh thì chúng
ta sẽ hợp tác hơn” mà không có cái gì cụ thể, rành mạch (mang tính xã
giao). Còn phía chính phủ, các thượng nghị sĩ Mỹ đều gặp và bàn rất rõ
các vấn đề (TPP, dỡ bỏ cấm vận vũ khí, Mỹ giúp bảo vệ Việt Nam, nhân
quyền, hợp tác chính trị, anh làm cái này xong thì tôi đưa cái kia, dần
dần tiến lên). Như vậy tôi e rằng đã rõ là Mỹ đang chọn nhóm nào để làm
việc trong hai nhóm bảo thủ-cải cách, đảng quyền-chính quyền, trong nội
bộ đảng CSVN.
Các bạn có thể kiểm chứng nhận định trên qua thông cáo ngày
08/08/2014 trên trang mạng của Thượng Nghị Sĩ McCain, tôi nghĩ nó như
một cáo bạch chấm hết cho việc dư luận nghĩ rằng ông sang Việt Nam là để
“hợp tác với phe bảo thủ và loại trừ thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ra khỏi
cuộc chơi theo lời mời ngầm của ông Nghị”.
Qua các ý trong thông cáo của ông McCain nói về chuyến đi, chúng ta
đã rõ, ông McCain nói việc ông qua VN là nằm trong 1 quá trình 20 năm
hợp tác lâu dài giữa Mỹ và nhóm cải cách trong nhà nước VN, và Mỹ trông
đợi Thủ tướng Việt Nam sẽ dẫn dắt đảng phất ngọn cờ dân chủ như ông Thủ
tướng đã nói ra đầu năm 2014, hơn là bắt tay với phe bảo thủ, và vì
“Trung Quốc cắm giàn khoan, chúng ta phải nhanh lên”.
Gửi những người dân chủ
Tôi muốn lưu ý các bạn, trong ngày 09/08/2014, tờ Quân Đội Nhân Dân,
tờ báo mà ai cũng hiểu lập ra vì cái gì, trong lúc phái đoàn Mỹ còn ở
Việt Nam, đã chủ động đưa lên hàng đầu một bài viết mang mục đích “chống
diễn biến hòa bình và mạo danh nhân quyền-dân chủ”. Như vậy bằng chứng
nào cho thấy nhóm bảo thủ đang “thật lòng muốn cải cách và hướng về Mỹ”
như dư luận bàn tán ?
Nhận định chính trị thì ai cũng có quyền nói, từ bác xe ôm vỉa hè đến
các quan chức cấp cao. Tuy nhiên, trong bối cảnh chính trị Việt Nam
đang rối bởi sự tranh chấp đường lối, cùng ảnh hưởng của kẻ xâm lược
Trung Cộng đang “lùi 1 tiến 2” thì phải hết sức thận trọng, nhất là khi
tiếng nói của mình đang được quần chúng chú ý lắng nghe (và có khi hành
động theo). Tôi hi vọng rằng Mỹ đã đúng khi nhận định xu hướng cải cách
đang thắng thế mà đưa ra các hứa hẹn ủng hộ Việt Nam, nhưng một tư thế
thận trọng của cộng đồng tranh đấu là cần thiết khi chúng ta còn yếu.”
Nguyễn An Dân
(Ngày 10/08/2014)
__________________
Tư liệu sử dụng cho bài viết:
-www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2006/06/060630_nguyentandung_profile.shtml
-http://vietnamembassy-usa.org/vi/basic-page/mot-so-moc-dang-nho-trong-quan-he-viet-nam-hoa-ky
-http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/san-sang-trao-doi-ca-van-de-con-khac-biet-voi-hoa-ky-2014080523043158.htm
-http://www.McCain.senate.gov/public/index.cfm/press-releases?ID=f5fd4b07-3d87-4a9f-a892-03018c779888
-http://nguyentandung.org/dai-su-my-quan-he-my-viet-trung-tot-moi-co-hoa-binh.html
-http://m.vov.vn/chinh-tri/tong-bi-thu-hoa-ky-la-doi-tac-quan-trong-hang-dau-cua-viet-nam-344349.vov
-http://plo.vn/thoi-su/thu-tuong-nguyen-tan-dung-tiep-cac-thuong-nghi-sy-hoa-ky-488375.html
-http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/chong-dien-bien-hoa-binh/mot-su-hieu-biet-mu-mo-ve-nhan-quyen/314926.html
***********
Tác giả gửi cho Chuyển Hóa. Bài viết phản ảnh quan điểm của tác giả)
HÙNG TÂM * KINH TẾ TRUNG QUỐC
Kinh tế Trung Quốc vào khúc quanh và có thể lật
Bài toán phát triển
Từ Tần Thủy Hoàng Ðế, Stalin đến Tập Cận Bình
Tần Thủy Hoàng Ðế đã thống nhất nước Tầu, thiết lập chế độ quận huyện, đặt ra quy ước sinh hoạt (một bước cải tiến hệ thống “tư bản xã hội”) và huy động sức dân xây dựng Vạn lý Trường thành nguy nga vĩ đại. Nếu thời đó mà có khoa kinh tế chính trị học, thì công trình xây dựng này được gọi là “đầu tư,” có giải quyết nạn thất nghiệp và tạo ra sự tăng trưởng. Nhưng không bền và sau đó nước Tầu có loạn!
Nan đề của Tập Cận Bình
Các chuyên gia kinh tế và nhiều tổ hợp đầu tư quốc tế đã chỉ ra bài toán của Tập Cận Bình ở mấy con số sau đây.
Hùng Tâm
Muốn
hiểu rõ rủi ro của Trung Quốc trong giai đoạn tới, chúng ta cần biết 1)
vài định lý kinh tế của mọi quốc gia hay thời đại, rồi 2) đối chiếu với
thực tế chính trị của xứ này và rà soát lại 3) xem lãnh đạo Bắc Kinh có
thể làm những gì để giải quyết các bài toán kinh tế xã hội tích lũy từ
mấy chục năm nay. Kết luận hợp lý của tiến trình này là Bắc Kinh không
có nhiều giải pháp, và có làm gì thì cũng đi vào một khúc quanh dễ lật.
Trong giới hạn của một bài viết, “Hồ Sơ Người Việt” sẽ cố trình bày một
cách đơn giản một thực tế vô cùng phức tạp - đề tài của một cuốn sách!
Bài toán phát triển
Bài toán kinh tế của nhân loại, ở mọi nơi vào mọi thời, là sự khan
hiếm. Chúng ta có nhu cầu vượt quá khả năng sản xuất cho nên lúc nào
cũng thấy thiếu thốn.
Từ thuở khai thiên lập địa, giải quyết sự thiếu thốn ấy là một tiến
trình tự nhiên và được chúng ta mặc nhiên thực hiện hàng ngày hàng giờ
mà không biết. Chỉ mới vài trăm năm trở lại, người ta mới tổng hợp những
kiến thức về việc giải quyết sự khan hiếm và tìm ra một số nguyên tắc
giải thích. Kiến thức đó được gọi là “kinh tế học,” hay đúng hơn, do một
phát minh của nhà tư tưởng Adam Smith, “kinh tế chính trị học.”
Thí dụ cụ thể cho tiến trình trừu tượng này là tôi chỉ có 100 đồng,
nhưng nếu lập gia đình rồi sinh con đẻ cái thì cần tiêu thụ nhiều hơn
khoản lợi tức đó. Hoặc với lợi tức có hạn, tôi không muốn chỉ ăn cơm ăn
cháo mà cần thêm thịt cá cho bữa cơm, và thay vì một tháng chỉ có 15 ký
gạo tôi ước mơ có thêm ký thịt nên thấy rằng mình bị thiếu thốn.
Cách giải quyết sự thiếu thốn ấy là... không xài hết trăm bạc mà cố
dành dụm ba chục của khoản lợi tức đó đem đầu tư để tháng sau hay năm
tới thì có thêm lợi tức khả dĩ thỏa mãn nhu cầu. Tôi gọi khoản lợi tức
ba chục bạc được tiết kiệm ấy là tư bản. Nếu sử dụng tư bản để giải
quyết bài toán khan hiếm ấy mà thành công thì tôi có thể nghĩ đến chữ
phát đạt.
Hoàn cảnh của một quốc gia cũng không khác. Tạo ra sự phát đạt ấy là tiến trình phát triển.
Giới nghiên cứu kinh tế có nghiệm thấy rằng nhiều quốc gia đã thành
công trong phát triển để thành nước giàu mạnh, “đã phát triển” -
developed. Nhưng đa số còn lại thì chưa, vẫn thuộc loại “đang phát
triển,” developing. Bí quyết thành công không chỉ là có thể tiết kiệm
được 30 đồng, hay 50 đồng, trong số lợi tức trăm bạc để làm tư bản đem
đi đầu tư. Bí quyết thành công không chỉ là gia tăng lợi tức, nghĩa là
tăng trưởng, mà là sử dụng lợi tức đó để phát triển.
Bí quyết thành công không là số lượng, 30 hay 50% của lợi tức nguyên
thủy, mà là cách sử dụng. Ðây là bài toán thuộc về phẩm chất hơn là số
lượng. Chữ “chất lượng” nhiều người trong nước đang dùng và ngoài này
lười biếng dùng theo phản ảnh sự thiếu hiểu biết về kinh tế hay ngôn ngữ
học vì không phân biệt phẩm với lượng!
Một giáo sư kinh tế của Ðại Học MIT, giải Nobel năm 1987, là Robert
Solow đã nghiên cứu kinh tế Hoa Kỳ và tìm ra một đặc tính: là trong đà
tăng trưởng lợi tức của dân Mỹ thì “sự sáng tạo” đóng góp tới hơn 80%.
Phần còn lại, dưới 20%, là do số tư bản đem vào đầu tư.
Xin thêm vài chữ giải thích. Tư bản đưa vào tiến trình đầu tư có thể
là hữu hình, như đất đai, máy móc, nguyên liệu hay sức lao động. Nhưng
hoàn cảnh sử dụng nguồn tài nguyên đó mới quan trọng. Khái niệm
innovation của Solow thuộc về phẩm hơn lượng và dẫn ta đến khái niệm
khác, là “tư bản xã hội,” hoặc tư bản vô hình: hệ thống luật lệ, quyền
sở hữu, chế độ thuế khóa, quy ước sinh hoạt, tinh thần tín nhiệm trong
kinh doanh, nền tảng chính trị, v.v....
Các yếu tố vô hình ấy mới giúp quốc gia sử dụng tư bản hữu hình một cách tốt đẹp, có hiệu năng, hiệu suất, v.v...
Nôm na là nhờ môi trường sáng tạo, dân Mỹ sử dụng 10 đồng tư bản cho
đầu tư mà có hiệu năng cao hơn nhiều người huy động đến 30 đồng. Trung
Quốc huy động đến 50 đồng mà thiếu môi trường sáng tạo, có loại tư bản
xã hội lạc hậu nên sau hơn 30 năm tăng trưởng vẫn là một xứ “đang phát
triển.”
Nghiêm trọng hơn thế, còn trôi vào khúc quanh và có thể bị khủng hoảng.
Từ Tần Thủy Hoàng Ðế, Stalin đến Tập Cận Bình
Tần Thủy Hoàng Ðế đã thống nhất nước Tầu, thiết lập chế độ quận huyện, đặt ra quy ước sinh hoạt (một bước cải tiến hệ thống “tư bản xã hội”) và huy động sức dân xây dựng Vạn lý Trường thành nguy nga vĩ đại. Nếu thời đó mà có khoa kinh tế chính trị học, thì công trình xây dựng này được gọi là “đầu tư,” có giải quyết nạn thất nghiệp và tạo ra sự tăng trưởng. Nhưng không bền và sau đó nước Tầu có loạn!
Lãnh đạo Liên Bang Xô Viết thời Chiến Tranh Lạnh, Josef Stalin, cũng
có nhả năng huy động tư bản rất mạnh, đưa tài nguyên vô cùng giàu có và
lực lượng lao động dồi dào vào đầu tư, với sự chỉ đạo tưởng là hợp lý
của hệ thống kinh tế kế hoạch. Y như Tần Thủy Hoàng Ðế, hay Mao Trạch
Ðông, hệ thống huy động của nhà nước Xô Viết đã vơ vét tài nguyên quốc
dân cho tăng trưởng, và bắn vệ tinh Sputnik lên trời, mà vẫn không có
phát triển. Nước Nga vẫn nghèo, dân Nga vẫn khổ và Liên Xô tan rã.
Sau khi Ðặng Tiểu Bình tiến hành cải cách, 35 năm về trước, nước Tầu
đã ra khỏi tình trạng bần cùng và loạn lạc thời Mao và có đà tăng trưởng
cao hơn trước. Chính thức là 10% một năm trong ba chục năm liền. Lãnh
đạo xứ này, từ Ðặng Tiểu Bình đến Giang Trạch Dân rồi Hồ Cẩm Ðào, đã áp
dụng một số quy luật của kinh tế thị trường nhưng vẫn nắm độc quyền huy
động tư bản.
Lực lượng lao động, nguyên nhiên vật liệu và đủ loại tư bản hữu hình
như đất đai, máy móc, hay hạ tầng cơ sở vật chất, đã được nhà nước tận
dụng với số lượng kỷ lục - của lịch sử Trung Quốc – và tạo ra sự tăng
trưởng về hình thức mà vẫn không có phát triển trong thực tế.
Như nhiều quốc gia khác, nước Tầu đã huy động tư bản cho phát triển
với chiến lược gia tăng đầu tư về lượng mà thiếu phẩm, vì tư bản xã hội
vẫn bị bó trong tư duy xã hội chủ nghĩa và thiếu các định chế cần thiết
cho phát triển. Thiếu cái phần “sáng tạo” mà Solow đã thấy tại Hoa Kỳ.
Hậu quả vô hình về chính trị là tư bản xã hội bị bóp méo, lệch lạc và
tạo ra đặc lợi cho những kẻ có đặc quyền, các “nhóm lợi ích. Tham nhũng
chỉ là một cách gọi, chứ chế độ độc quyền trưng thu của nhà nước còn đè
nén sức tiêu thụ của người dân và dẫn tới sự bất mãn lan rộng. Hậu quả
hữu hình về kinh tế là nạn sản xuất thừa chỗ này mà thiếu ở chỗ khác, và
hiện tượng bong bóng đầu cơ về gia cư, địa ốc. Quan trọng nhất và càng
ngày càng tỏ lộ là những núi nợ khổng lồ.
Nhiều nước “đang phát triển” đã từng bị như vậy. Nhưng Trung Quốc lại
khác vì số lượng quá lớn được phân phối quá sai nên gây ra vấn đề về
phẩm. Ðấy là bài toán vừa kinh tế vừa xã hội và chắc chắn là chính trị
của nhân vật đang lên là Chủ Tịch Tập Cận Bình.
Nan đề của Tập Cận Bình
Các chuyên gia kinh tế và nhiều tổ hợp đầu tư quốc tế đã chỉ ra bài toán của Tập Cận Bình ở mấy con số sau đây.
Kinh tế Trung Quốc vẫn lấy sức đẩy từ đầu tư và ức chế tiêu thụ của
các hộ gia đình. Từ nhiều năm qua, tiêu thụ của tư nhân chẳng những
không tăng mà còn giảm, tới năm ngoái thì chỉ có 34% của Tổng sản lượng,
so với 52% của Nam Hàn, 57% của Ðức, 61% của Nhật và gần 70% của Hoa Kỳ
là nơi mà “giới tiêu thụ là vua.”
Lượng đầu tư đến hơn 50% của Trung Quốc lại trút vào các dự án ít giá
trị kinh tế, dẫn tới sản xuất thừa, dù có được bút ghi là tăng trưởng
thì cũng chỉ là tồn kho ế ẩm, nhà không người ở, phi cảng vắng khách.
Không những vậy, từ 2008, trong sáu năm qua, Trung Quốc còn tài trợ đà
tăng trưởng đó bằng tín dụng, ào ạt chảy vào khu vực kinh tế nhà nước,
các công ty đầu tư của đảng bộ ở địa phương.
Số tín dụng hay dư nợ từ 147% của Tổng Sản Lượng nay đã lên tới 251%.
Một công ty đầu tư của Mỹ còn báo riêng cho các thân chủ là tổng số nợ
của Trung Quốc, cả công lẫn tư, nay đã vượt 400% của Tổng sản lượng.
Trong số này, những khoản nợ xấu được chính thức ước lượng là 1%. Thực
tế thì có thể ở mức 25% hay thậm chí 40%. Tức là bằng hoặc còn hơn Tổng
Sản Lượng.
Cả nước vay tiền gấp bốn lợi tức để một năm sản xuất ra tám ngàn tỷ
đồng mà có thể mất nợ đến 10 ngàn tỷ - là ít. Kinh tế Trung Quốc có thể
phá sản hay vỡ nợ vì khối nợ ung thối vĩ đại. Hậu quả sẽ là một vụ khủng
hoảng lan ra toàn cầu, còn dữ dội hơn những gì xảy ra cho Hoa Kỳ và Âu
Châu sau năm 2008.
Lên cầm quyền từ cuối năm kia, ban hành quyết định cải cách từ cuối
năm ngoái (Nghị quyết Ba của hội nghị Ban Chấp Hành Trung Ương vào Tháng
Mười Một năm 2013), Tập Cận Bình ý thức được mối nguy trước mặt. Cho
nên phải chuyển hướng kinh tế qua khu vực dịch vụ và chế biến cao cấp,
gia tăng sức tiêu thụ cho tư nhân, v.v.... và chấp nhận một đà tăng
trưởng thấp hơn. Giải pháp khả thể là phải có đà tăng trưởng khoảng 4-5%
một năm mà thôi.
Và muốn chủ động chuyển hướng như vậy, phải đánh bung những lực cản
xuất phát ngay trong bộ máy đảng và hệ thống kinh tế nhà nước. Nhưng dù
đã ráo riết tập trung quyền hành để bẻ tay lái hầu cỗ xe khỏi lao xuống
vực - Tập Cận Bình vẫn bất lực.
Kinh tế Trung Quốc vẫn lao vào hướng cũ.
Tháng Tư vừa qua, Quốc Vụ Viện tức là Hội Ðồng Chính Phủ, do Lý Khắc
Cường làm tổng lý, đã kín đáo thông báo một số quyết định kinh tế sau
đây: 1) gia tăng công chi cho các dự án hỏa xa, chung cư rẻ tiền, và các
vùng ngoại ô nhà tôn vách lá để bù vào sự giảm sút tiêu thụ của tư
nhân; 2) cắt lãi suất trong một số khu vực nhất định để mở vòi tín dụng;
3) tung tiền chuộc nợ để tránh nạn doanh nghiệp bị phá sản; và 4) giảm
thuế cho các doanh nghiệp loại nhỏ và vừa để nâng cao khả năng sản xuất
của tư doanh trước sức nặng và trì trệ của hệ thống quốc doanh.
Nói cho dễ hiểu, lãnh đạo Trung Quốc không dám đạp thắng cho cỗ xe
chạy chậm hơn hầu bẻ lái qua hướng khác. Ngược lại, họ vẫn châm thêm tín
dụng và bảo đảm là kinh tế Trung Quốc vẫn đạt chỉ tiêu tăng trưởng năm
nay là 7.5%. Mà bơm thêm tín dụng có nghĩa là chất thêm một núi nợ xấu.
Biện pháp kích thích ngấm ngầm và nhẹ nhàng ấy tô điểm cho cái bề mặt là
kinh tế vẫn tăng trưởng mà thực tế là đẩy cho cỗ xe chạy nhanh hơn.
Trong khi ấy, Tập Cận Bình ráo riết mở rộng chiến dịch diệt trừ tham
nhũng và nắn gân cả thành phần đảng viên đã từng lên tới cấp lãnh đạo.
Ông ta có thể đánh vào các trung tâm quyền lực đã gây ra nhiều vấn đề
kinh tế nên đang phải cùng lúc giải quyết hai bài toán kinh tế và chính
trị. Hai bài toán là hai mặt của một đồng bạc xã hội chủ nghĩa và phải
cần cả chục năm sửa đổi thì mới có kết quả. Trong khi đó, khủng hoảng có
thể xảy ra trong một vài năm.
Tập Cận Bình có đủ mọi quyền hành, nhưng không có thời giờ.
Kết luận ở đây là gì?
Trung Quốc đang ở vào một khúc quanh cực nguy hiểm, mấy chục năm mới thấy một lần. Lần trước, cách nay 40 năm là vào cao điểm của cuộc Cách Mạng Văn Hóa điên rồ. Nhờ Ðặng Tiểu Bình giỏi xoay trở nên sau năm năm thì đổi loạn thành trị và mua được 30 năm tăng trưởng.
Tập Cận Bình có đủ mọi quyền hành, nhưng không có thời giờ.
Kết luận ở đây là gì?
Trung Quốc đang ở vào một khúc quanh cực nguy hiểm, mấy chục năm mới thấy một lần. Lần trước, cách nay 40 năm là vào cao điểm của cuộc Cách Mạng Văn Hóa điên rồ. Nhờ Ðặng Tiểu Bình giỏi xoay trở nên sau năm năm thì đổi loạn thành trị và mua được 30 năm tăng trưởng.
Kinh tế Trung Quốc có những phương tiện lớn lao được đưa vào sản xuất
nên gây ấn tượng phát triển mà chỉ có tăng trưởng ở bề mặt. Lý do là
thượng tầng chính trị ở trên vẫn có một đảng độc quyền thâu tóm quyền
lực. Quyền lực có thể đem lại tiền tài cho một thiểu số, nhưng là những
cái vòi của con bạch tuộc đã giam hãm kinh tế và đang dẫn xứ này đến bờ
vực. Muốn giải quyết bài toán kinh tế thì phải cải cách về chính trị.
Ðảng Cộng Sản Trung Quốc dùng thành quả kinh tế biện minh cho quyền
lãnh đạo độc tôn. Khi thành quả ấy chỉ là chuyện ảo và khủng hoảng bùng
nổ thì đảng có thể đổ.
__._,_.___
TOÀN PHONG * MỘT THUỞ HỌC TRÒ
Một Thuở Học Trò
Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh
Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh
Ngày Khai Trường
"Hôm nay là ngày khai trường. Mấy tháng hè đã thoáng qua như giấc mộng. Sáng nay, mẹ tôi đưa tôi vào trường Ba-Lệ-Tư để ghi tên lớp Ba. Đi đường, óc tôi cứ vơ vẩn đến chốn nhà quê, lấy sự đi học làm ngại. Phố nào cũng thấy nhan nhản học trò. Hai hiệu sách lớn chật ních những phụ-huynh vào mua sách vở, giấy, bút, cặp da. Cửa trường đông nghịt những người, cảnh binh và người gác cổng phải khó nhọc mới mở được một lối vào.
Vừa bước qua cổng trường, thấy một bàn tay vỗ vào vai, tôi giật mình ngoảnh lại thì ra thày giáo lớp Tư, tôi học năm ngoái, mái tóc đỏ hoe vẫn để rối, nét mặt vẫn vui tươi, thày bảo tôi:
An-Di ơi! Thày trò ta từ nay chia tay nhỉ?
Điều ấy, tôi đã nghĩ đến, nay thày tôi lại nhắc, khiến tôi thêm trạnh lòng.
Mẹ tôi và tôi phải chen chúc mãi mới vào được trong trường."
Trên đây là một đoạn văn dịch tôi đã trích ra nguyên bản từ cuốn sách "Tâm Hồn Cao Thượng" của nhà giáo Hà Mai Anh. Đọan văn này tôi đã phải học thuộc lòng khi còn là học sinh lớp Ba ở trường tiểu học Bonnal ở Hải Phòng, nghĩa là khi tôi vào tuổi ấu thơ, năm lên tám hay lên chín tuổi. Từ dạo đó đến nay, mỗi năm vào dịp cuối hè, cảnh tượng khai trường này lại tới với tôi, dù ở phương trời nào hay ở tuổi nào. Lúc còn nhỏ, vào dịp khai trường, tôi thường theo mẹ đi mua giấy bút, sách vở. Cho đến khi học xong lớp Nhất ở trường tiểu học Hải Phòng, mẹ tôi là người mua sắm mọi thứ cho tôi, kể cả đôi giầy và chiếc mũ mới, ở phố Cầu Đất, không xa truờng tôi học là mấy. Tôi cũng giống như cậu bé An-Di ở trong cuốn truyện, là mỗi năm đuợc lên một lớp, bao giờ tôi cũng thấy quyến luyến ông thày ở lớp dưới, nhưng chỉ vài tuần lễ sau, quen lớp, quen thày, tôi lại thấy qúy mến ông thày học mới.
Từ ngày lên học trường trung học ở Hà Nội, và sau này ở bậc đại học, theo học ở Pháp hay ở Mỹ, tôi phải tự mình mua lấy sách vở giấy bút, nhưng bao giờ vào những dịp khai trường, vào thăm những hiệu sách và đi quanh quẩn ở giữa những chồng sách vở, thơm mùi giấy mới, tôi lại nhớ đến thời thơ ấu, nhớ những kỷ niệm xa xưa, cho đến năm học lớp Ba, bao giờ mẹ tôi cũng đưa tôi đến tận lớp vào ngày tựu trường. Mẹ tôi là người ở Nam Định, nhưng từ ngày lấy chồng, gần như suốt cuộc đời, bà sống ở thành phố Hải Phòng, lại có đông con cháu nên mẹ tôi quen thuộc với tất cả các trường trung và tiểu học. Riêng với trường Bonnal, sau này đổi tên thành trường Ngô Quyền, thì có lẽ trong mấy chục năm trời vừa qua, không biết bao nhiêu lần mẹ tôi đã dắt các con, và các cháu tới chào các thày giáo, hay cô giáo những ngày đầu tựu trường.
Giờ nghĩ lại, tôi mường tượng nhìn thấy những đứa em tôi, hay có thể
sau này là những đứa cháu, một tay cầm chiếc cặp da mới mua, tay kia nắm
lấy vạt áo của mẹ hay của bà, đôi mắt đầy vẻ lo âu nhìn thày giáo mới.
Và mẹ tôi chắc sẽ ôn tồn bảo đứa nhỏ:"Đây là thày giáo con. Con ở lại
học ngoan, bà phải về." Hết năm này qua năm khác, mẹ tôi đã dành để làm
công việc ấy, mỗi buổi khai trường, hồi còn trẻ đưa các con, lúc về già
lại dẫn các cháu, có lẽ vì mẹ tôi nghĩ rằng bà quen biết với các thày
giáo, cô giáo hơn, và mấy đứa cháu đi với bà chúng nó vững tâm hơn.
Tháng 10 năm 2000, trường trung học Ngô Quyền ở Hải Phòng tưng bừng làm lễ kỷ niệm 80 năm xây dựng và phát triển (1920-2000). Nhân dịp này ban giám đốc in ra một đặc san trong đó có một trang in hình của 9 thày giáo đã dạy ở trưòng và được học sinh qúy mến. Họ lại dành một trang in hình của 9 học sinh được ghi là "học sinh tiêu biểu của trường Bonnal-Ngô Quyền". Ông hiệu trưởng đương nhiệm đã đến nhà để xin mẹ tôi cho mượn một tấm hình của đứa con xa vắng mà cách đây hơn sáu mươi năm bà đã dắt đến trường giao tận tay cho thày giáo mới và dặn dò:"Con ở lại với thày, học cho ngoan, mẹ phải về".
Đã đúng nửa thế kỷ, tôi xa Hải Phòng, và cũng từng ấy năm trời tôi không gặp lại mẹ tôi. Nguồn vui cuối đời của bà có lẽ là biết tôi vẫn còn chờ đợi cho ngày nào quê hương thật có tự do, thanh bình mới trở về. Xa con, và mong có ngày được gặp mấy đứa cháu, những đứa con tôi mà bà đã không có dịp được cầm tay để dẫn tới trường, thỉnh thoảng có những lá thư và vài tấm hình gia đình chúng tôi gửi về bà lại trân trọng lưu giữ để thỉnh thoảng mang ra khoe với những khách đến thăm. Mẹ tôi đã cho trường Ngô Quyền mượn một tấm hình thật tiêu biểu của tôi, để in vào tập kỷ yếu, tấm hình tôi đang ngồi đọc sách. Thuở nhỏ, đôi khi tôi nghe thấy mẹ nói về tôi với những bà khách: "Thằng ấy nó chỉ biết chúi đầu vào học!"
Tôi không biết trường Ngô Quyền khi in tập kỷ yếu, kỷ niệm 80 năm ngày thành lập, đã lựa chọn những học sinh tiêu biểu ra sao nhưng trên trang giấy in hình 9 cựu học sinh, đặt thành ba hàng, thì ở hàng trên cùng, bức hình đầu tiên là của Nguyễn Văn Linh, cựu Tổng Bí thư BCHTƯ đảng CSVN, với phụ đề là học sinh khoá 1926-1930. Những học sinh tiêu biểu khác, trong số những người tôi từng nghe thấy tên trong văn học, tôi thấy có Thế Lữ, học sinh khoá 1920, Nguyễn Đình Thi, học sinh khoá 1930, Nguyễn Huy Tưởng, học sinh khoá 1920, và Văn Cao, học sinh khoá 1930. Những người này đều có phụ chú là Nhà thơ, Nhà văn, Nhà viết kịch hay Nhạc sĩ.
Tôi đã được ban giám đốc đương thời chọn là một trong những học sinh tiêu biểu của trường, và tấm hình tôi ngồi đọc sách đã được xếp sau cùng với lời phụ chú: "Giáo sư Viện sĩ Viện hàn lâm không gian quốc tế Nguyễn Xuân Vinh. Học sinh khoá 1935". Tôi được biết là ngày lễ kỷ niệm mẹ tôi cũng nhận được giấy mời, nhưng bà lấy cớ tuổi già, đã ngoài chín mươi tuổi nên không tham dự. Hai năm sau, vào cuối năm 2002, mẹ tôi qua đời. Trước khi bà mất hai tháng, đứa con trai út của chúng tôi, cùng đi với vợ và gia đình người chị đã về thăm mẹ tôi, và bà đã vui mừng khóc ròng khi lần đầu tiên được nhìn thấy hai đứa cháu nội, một trai một gái, và cả hai chắt ngoại. Khi về Mỹ, đứa con trai của tôi đã nói lại một câu: "Bà nói là bà nhớ bố lắm!"
Cuốn Sách có Ảnh Hưởng Nhất
Đầu năm 1982, tôi được Đại Học Washington ở Seattle mời tới thuyết trình về quỹ đạo tối ưu, và nhân dịp đó anh Thanh Nam của Báo Đất Mới đã hỏi tôi là thích đọc cuốn truyện nào nhất. Tôi đã trả lời là tôi rất thích cuốn “Hoa Vông Vang” của Đỗ Tốn. Ý nghĩ đó chợt đến với tôi vì tôi đã có dịp gặp cả Đỗ Tốn và Thanh Nam hàng ngày trong một khoảng thời gian ngắn chừng vài tháng vào cuối năm 1957 khi tôi chờ đợi nghị định bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Không Quân và lúc đó tạm thời giữ chức vụ Trưởng phòng Báo chí Nha Chiến Tranh Tâm Lý, Bộ Quốc Phòng, kiêm nhiệm chủ bút hai tờ báo Quân Đội và Phụng Sự mà các anh đều ở trong ban biên tập. Thât ra trong cuộc đời, tôi đã đọc nhiều cuốn sách mà mình thấy ưa thích, kể cả những cuốn sách chuyên môn về toán hay về khoa học, nhưng không bao giờ tôi có ý nghĩ là chọn lựa ra một cuốn sách nào mà mình cho là hay nhất. Thuở nhỏ tôi chỉ được đọc sách Pháp, mới đầu là cuốn “Lettres de mon Moulin” của Alphonse Daudet vì có ghi ở trong chương trình học.
Sau đó tôi đọc tiếp cuốn “Le Petit Chose” của ông. Hồi học ở Pháp tôi đã lái xe mô tô đi khắp vùng Provence và tới thăm chiếc cối xay là nơi tác giả đã viết những lá thư hay tuyệt vời, sau này được giảng dậy trong chương trình trung học. Cuốn truyện đầu tiên bằng tiếng Việt tôi đọc là cuốn “Tâm Hồn Cao Thượng” của ông Hà Mai Anh. Đó là những cuốn sách Pháp và Việt tôi đọc đầu tiên, và là những cuốn sách hay đã xâm nhập vào tiềm thức của tôi, để sau này dù có tạo ra được một văn phong riêng cho mình, tôi vẫn chỉ có thể viết được những câu chuyện tình cảm nhẹ nhàng giống như trong những cuốn sách đầu đời tôi đã đọc mà thôi. Sau này, khi đã đọc những cuốn “Hồn Bướm Mơ Tiên” và “Tiêu Sơn Tráng Sĩ” của Khái Hưng và “Vang Bóng Một Thời” của Nguyễn Tuân, là những cuốn sách tôi thấy viết thật hay, thì tôi nhận thức được rằng chúng ta có thể dùng tiếng Việt để tạo dựng nên những tác phẩm văn chương sánh ngang được với những tác phẩm lớn của các quốc gia khác trên thế giới. Với lòng tin vào sự phong phú của tiếng Việt, tôi đã yên tâm viết văn và làm thơ từ năm 1950 khi được mời vào nhóm "Thế Kỷ" của các anh Bùi Xuân Uyên, Viên Phong và Tạ Tỵ.
Năm ngoái, Nguyệt san văn hóa văn học nghệ thuật "Khởi Hành" mở cuộc phỏng vấn và đặt câu hỏi: "Cuốn sách nào đã ảnh hưởng nhiều nhất từ trước tới nay và cho biết trường hợp đọc cuốn sách đó" để gửi tới các nhà văn nghệ sĩ. Để trả lời anh chủ nhiệm-chủ bút Viên Linh, tôi đã không ngần ngại ghi xuống là cuốn "Tâm Hồn Cao Thượng", bản dịch tiếng Việt của nhà giáo Hà Mai Anh, dù rằng sau đó tôi cũng đọc bản dịch tiếng Pháp, đề là "Grands Coeurs" của ông A. Piazzi. Tác giả cuốn sách nguyên bản là Edmondo De Amicis (1846-1908), một nhà văn hào Ý, đã kể lại như là một tập nhật ký, trọn một niên học của một cậu bé tên là An-Di ở một trường tiểu học tại thành phố Tuy-Ranh bên Ý Đại Lợi. Những câu chuyện ở học đường, và trong gia đình, về các thầy giáo, cô giáo và bè bạn của An-Di, những mẩu chuyện vui hay buồn đã xẩy ra trong thành phố cổ xưa này đã được kể lại trong sách bằng một văn phong dản dị và trong sáng, thắm đặm tình người.
Ở thời đại này, những nhà giáo dục và những nhà tâm lý học đôi khi cho rằng những cảnh tàn bạo diễn xuất trên màn ảnh TV có ảnh hưởng rất nhiều đến giới thiếu niên, kích thích bọn trẻ gây nên những bạo động, nhưng qua nhiều cuộc tranh cãi và hàng trăm bài viết, vẫn chưa đi đến một kết luận nào cụ thể. Riêng tôi thì tôi nghĩ là những cuốn sách giáo khoa, học ở những lớp tiểu học, và đặc biệt là cuốn truyện đầu tiên bằng tiếng Việt tôi được đọc, tả cuộc đời của cậu bé An-Di trong một năm học ở lớp Ba, đã cho tôi nhiều bài học về lòng thương người, phương cách cư xử chung thủy với bè bạn, và hiếu kính với mẹ cha. Tôi đã bắt đầu bài viết này bằng một đoạn trích nguyên bản phần đầu trong cuốn truyện tả "Ngày Khai Trường". Thay cho đoạn kết trong phần này, tôi xin trích đăng lại những dòng cuối cùng của cuốn truyện là những lời viết của bà mẹ cậu bé An-Di dặn con đừng quên mái trường xưa.
"An ơi! Mai sau, con nên người, con sẽ du lịch trong thế giới, con sẽ trông thấy những thị thành hoa lệ, những đài các nguy nga, nhưng con phải nhớ luôn luôn đến nếp nhà trắng tầm thường kia với cửa chớp khép, với vườn cây xanh, vì đấy là nơi bông hoa trí tuệ đầu tiên của con đã nẩy nở. Mẹ tin rằng hình ảnh trường cũ của con sẽ in vào ký ức cho đến lúc tàn sinh cũng như không bao giờ mẹ quên được bóng dáng cái nhà cũ kỹ mà ở đấy mẹ đã nghe tiếng nói ban đầu của con."
Tập Truyện Thơ Còn Dang Dở
Cuốn sách của nhà giáo Hà Mai Anh, tôi đã đọc nhiều lần và vì thấy thích thú nên, thuở còn là sinh viên ở Hà Nội, tôi đã dùng thơ ngũ ngôn để viết ra một tập nhật ký của một em bé Việt Nam trong suốt một niên học ở bậc tiểu học cũng giống như cậu bé An-Di ở trong sách của ông Edmondo De Amicis. Cũng như vào mấy năm đầu ở trường tiểu học tôi đã phải học thuộc lòng nhiều đoạn sách trong cuốn "Tâm Hồn Cao Thượng", tôi có mộng ước rằng tập thơ của tôi sau này được dùng làm sách tập đọc cho các em học sinh còn nhỏ, tuổi chưa lên mười. Cuốn truyện thơ lấy đề là “Tuổi Thơ”, tôi viết tay chỉ có một bản, khi đang là sinh viên "Toán Học Đại Cương", đã được truyền giữa đám bạn cùng là dân khoa học.
Năm sau đó tôi đi Pháp du học, và trước khi đi tôi trao cho anh Bùi xuân Uyên và sau này được biết anh có trích đăng vài bài trên báo "Thế Kỷ" của anh, còn ngoài ra bản thảo độc nhất nay ở trong tay ai thì tôi không biết. Mới đây ngồi nói chuyện với giáo sư Hà Mai Phương là thứ nam của cụ Hà Mai Anh thì được anh cho biết là anh cùng bào huynh là cựu đại tá thiết giáp Hà Mai Việt, cũng là một người bạn của tôi, có dự án cho in lại cuốn “Tâm Hồn Cao Thượng” của thân phụ, và lần này có thêm tiểu sử của nhà giáo cùng những kỷ niệm viết bởi thân hữu và môn sinh. Riêng tôi, sẽ là một điều hân hạnh cho tôi nếu có dịp đóng góp vào ấn phẩm này để vinh danh công nghiệp của một nhà mô phạm đã dịch thuật và giới thiệu nhiều tác phẩm ngoại quốc tới giới trẻ Việt Nam ở thế hệ tôi.
Bản chất của tôi là một nhà toán học, quen dùng lý luận, nên không có thi tài, và cũng không có trí nhớ dai nên tập truyện thơ viết cách đây gần nửa thế kỷ, tôi chỉ còn nhớ vài đoạn. Khi viết, tôi đã soạn thành từng bài thơ ngắn, mỗi bài giới thiệu một người trong gia đình, hay thày cô giáo cùng bạn học trong trường, hay kể lại một truyện ở học đường hay ngoài xã hội. Tôi viết như vậy để cho những thày cô giáo dùng tập sách có thể dễ dàng trích ra từng bài cho học sinh tập đọc. Tôi đã hình dung cậu bé ở tuổi ấu thơ bằng những vần thơ năm chữ
Tuổi Thơ
Nhớ năm xưa ấu trĩ,
Dưới nách mẹ ngây thơ.
Em ăn no ngủ kỹ,
Nhìn đời chẳng ước mơ.
Áo cánh điều tươi thắm,
Quần xanh biếc như lơ.
Mẹ nhìn em say đắm,
Đôi tóc đào phất phơ.
Mẹ ru, em ngủ say,
Tấm lòng mẹ phơi bầy.
Qua lời ca, gửi gấm:
Lớn khôn, thành người ngay.
Phô tài năng kẻ sĩ,
Làm vui lòng mẹ cha.
Thành công dân tài trí,
Cho vẻ vang sơn hà.
Tập sách của nhà văn hào người Ý luôn luôn có hình ảnh của người cha khuyên bảo đứa con, và nhiều lúc tâm sự như đối với một người bạn nhỏ. Trong tập thơ của tôi lại có tình cảm thân yêu săn sóc của một người mẹ hiền.
Mẹ Em
Từ năm còn ấu thơ,
Hình mẹ không phai mờ.
Mẹ thật làø tiên nữ,
Đẹp như một bài thơ.
Mẹ là ánh trăng thanh,
Lời mẹ nghe dịu lành.
Mẹ là nguồn hạnh phúc,
Mẹ có công sinh thành.
Còn nhỏ, mẹ bế bồng,
Lớn khôn, em cậy trông:
Từ cơm ăn, áo mặc,
Dậy em, mẹ vun trồng.
Tình mẹ như biển Đông,
Nghiã mẹ thật vô cùng.
Mai sau em khôn lớn,
Hiếu kính nhớ nằm lòng.
Khác với gia đình của người Âu Mỹ, trong một gia đình Việt Nam bao giờ cũng có sự đoàn viên của các anh chị em và ông bà cùng dưới một mái nhà. Tôi đã tả người chị của cậu bé qua những vần thơ dịu dàng
Chị Thanh
Chị Thanh em hiền hậu,
Ai cũng khen nết na.
Nói năng êm và dịu,
Dáng người đi thướt tha.
Tóc mây soà trên trán,
Nụ cười tươi như hoa.
Ngó sen, trăng tuơi sáng,
Không sánh kịp làn da.
Chị hơn em năm tuổi,
Đã biết trông việc nhà.
Sáng, trưa, chiều mấy buổi,
Làm vui lòng mẹ cha.
Cứ mỗi sáng tinh sương,
Tà áo bay trên đường.
Chân đều theo nhịp bước,
Chị tới trường Trưng Vương. >
Bài "Ngày Khai Trường" trong cuốn sách của nhà giáo Hà Mai Anh tôi đã thuộc nằm lòng từ thuở ấu thơ, nay tôi viết thành thơ để in trong tập sách nhỏ bé, có thể gọi là sáng tác đầu tay của tôi.
Ngày Đến Trường
Ngày đầu tiên đến trường,
Em dậy sáng tinh sương,
Mặc áo quần mới sắm,
Rồi ngắm mình trong gương.
Đôi má em ửng hồng,
Mừng vui hay sượng sùng?
Ngày đầu tiên đi học,
Lo âu đầy trong lòng.
Cùng mẹ, em tới trường,
Chân đi, lòng vấn vương.
Ngước mắt nhìn lên mẹ,
Vỗ về, mẹ thân thương.
Mẹ nhìn em rồi cười:
Trông con tôi thật tươi.
Đi học chăm con nhé,
Gắng công cho bằng người.
Tập sách "Tuổi Thơ" tôi viết ra chỉ đưa cho một số bạn thân đọc nhưng họ đều là dân khoa học vào hạng gạo cội, suốt ngày chỉ mê mải với những phép tính nguyên hàm và đạo hàm nên chẳng ai cho tôi được ý kiến gì. Tuy vậy sau này tài thơ của tôi cũng cảm hoá được một anh bạn là anh Ngô Quốc Quýnh, nay là giáo sư-tiến sĩ dạy môn vật lý ở Trường Đại Học Tổng Hợp ở Hà Nội, để anh viết một bài cảm đề, qua nhiều năm tháng tôi còn nhớ được vài đoạn:
Tuổi Hoa Niên
Thu qua rồi lại một thu qua,
Thời thơ ấu khuất bóng dần xa.
Đường đời giây phút dừng chân bước,
Chẳng khỏi ngậm ngùi, tiếc tuổi hoa.
Sợ một mai đây, tựa nắng hồng,
Ngày tàn héo hắt, chếch bên song.
"Tuổi Thơ" ghi để vài trang nhỏ,
Gửi lại nơi đây một tấm lòng.
Tập thơ tôi viết, tuy dựa vào cuốn nhâït ký của cậu bé An-Di ở một trường tiểu học tại thành phố Tuy-Ranh bên nước Ý Đại Lợi, nhưng nay khi tả suốt một niên học ở lớp Ba của một trường tiểu học ở Việt Nam, tôi đã đưa vào câu chuyện những phong vị của quê hương, có những đoạn tả cảnh chiều vàng năm ba mục đồng cưỡi trâu về thôn xóm, có những ngày hội xuân tưng bừng, người đi lễ chùa khói hương nghi ngút, và cũng có những khung cảnh ở học đường để người đọc thấy cậu bé trong truyện cũng có những bạn tốt, và cũng có những tên dữ dằn chuyên môn hà hiếp người yếu đuối. Tập thơ nguyên thủy tôi đã viết, tôi ước chừng có vào khoảng một ngàn năm trăm câu, nay tôi mới nhớ lại được chừng một phần mười. Trải qua nhiều tháng năm trong cuộc đời, luôn luôn phải tranh đấu vượt những trở ngại để mưu sinh, trước kia ở nước nhà và nay bên quê người, trí nhớ của tôi nay cũng đã xuy sụp không cho tôi nhớ lại được toàn bộ những trang sách đã viết. Tuy vậy tình cảm với mái trường xưa đối với tôi vẫn còn nguyên vẹn. Lòng thương nhớ người mẹ hiền, với sự săn sóc ưu ái khi xưa, vẫn còn cánh cánh trong tôi. Mộng ước của tôi là rồi đây tìm lại được sự thanh thản trong tâm hồn như thuở học trò để viết cho trọn toàn bộ tập truyện thơ, nay hãy còn dang dở.
Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh
(Tháng Sáu, 2003)
Tháng 10 năm 2000, trường trung học Ngô Quyền ở Hải Phòng tưng bừng làm lễ kỷ niệm 80 năm xây dựng và phát triển (1920-2000). Nhân dịp này ban giám đốc in ra một đặc san trong đó có một trang in hình của 9 thày giáo đã dạy ở trưòng và được học sinh qúy mến. Họ lại dành một trang in hình của 9 học sinh được ghi là "học sinh tiêu biểu của trường Bonnal-Ngô Quyền". Ông hiệu trưởng đương nhiệm đã đến nhà để xin mẹ tôi cho mượn một tấm hình của đứa con xa vắng mà cách đây hơn sáu mươi năm bà đã dắt đến trường giao tận tay cho thày giáo mới và dặn dò:"Con ở lại với thày, học cho ngoan, mẹ phải về".
Đã đúng nửa thế kỷ, tôi xa Hải Phòng, và cũng từng ấy năm trời tôi không gặp lại mẹ tôi. Nguồn vui cuối đời của bà có lẽ là biết tôi vẫn còn chờ đợi cho ngày nào quê hương thật có tự do, thanh bình mới trở về. Xa con, và mong có ngày được gặp mấy đứa cháu, những đứa con tôi mà bà đã không có dịp được cầm tay để dẫn tới trường, thỉnh thoảng có những lá thư và vài tấm hình gia đình chúng tôi gửi về bà lại trân trọng lưu giữ để thỉnh thoảng mang ra khoe với những khách đến thăm. Mẹ tôi đã cho trường Ngô Quyền mượn một tấm hình thật tiêu biểu của tôi, để in vào tập kỷ yếu, tấm hình tôi đang ngồi đọc sách. Thuở nhỏ, đôi khi tôi nghe thấy mẹ nói về tôi với những bà khách: "Thằng ấy nó chỉ biết chúi đầu vào học!"
Tôi không biết trường Ngô Quyền khi in tập kỷ yếu, kỷ niệm 80 năm ngày thành lập, đã lựa chọn những học sinh tiêu biểu ra sao nhưng trên trang giấy in hình 9 cựu học sinh, đặt thành ba hàng, thì ở hàng trên cùng, bức hình đầu tiên là của Nguyễn Văn Linh, cựu Tổng Bí thư BCHTƯ đảng CSVN, với phụ đề là học sinh khoá 1926-1930. Những học sinh tiêu biểu khác, trong số những người tôi từng nghe thấy tên trong văn học, tôi thấy có Thế Lữ, học sinh khoá 1920, Nguyễn Đình Thi, học sinh khoá 1930, Nguyễn Huy Tưởng, học sinh khoá 1920, và Văn Cao, học sinh khoá 1930. Những người này đều có phụ chú là Nhà thơ, Nhà văn, Nhà viết kịch hay Nhạc sĩ.
Tôi đã được ban giám đốc đương thời chọn là một trong những học sinh tiêu biểu của trường, và tấm hình tôi ngồi đọc sách đã được xếp sau cùng với lời phụ chú: "Giáo sư Viện sĩ Viện hàn lâm không gian quốc tế Nguyễn Xuân Vinh. Học sinh khoá 1935". Tôi được biết là ngày lễ kỷ niệm mẹ tôi cũng nhận được giấy mời, nhưng bà lấy cớ tuổi già, đã ngoài chín mươi tuổi nên không tham dự. Hai năm sau, vào cuối năm 2002, mẹ tôi qua đời. Trước khi bà mất hai tháng, đứa con trai út của chúng tôi, cùng đi với vợ và gia đình người chị đã về thăm mẹ tôi, và bà đã vui mừng khóc ròng khi lần đầu tiên được nhìn thấy hai đứa cháu nội, một trai một gái, và cả hai chắt ngoại. Khi về Mỹ, đứa con trai của tôi đã nói lại một câu: "Bà nói là bà nhớ bố lắm!"
Cuốn Sách có Ảnh Hưởng Nhất
Đầu năm 1982, tôi được Đại Học Washington ở Seattle mời tới thuyết trình về quỹ đạo tối ưu, và nhân dịp đó anh Thanh Nam của Báo Đất Mới đã hỏi tôi là thích đọc cuốn truyện nào nhất. Tôi đã trả lời là tôi rất thích cuốn “Hoa Vông Vang” của Đỗ Tốn. Ý nghĩ đó chợt đến với tôi vì tôi đã có dịp gặp cả Đỗ Tốn và Thanh Nam hàng ngày trong một khoảng thời gian ngắn chừng vài tháng vào cuối năm 1957 khi tôi chờ đợi nghị định bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Không Quân và lúc đó tạm thời giữ chức vụ Trưởng phòng Báo chí Nha Chiến Tranh Tâm Lý, Bộ Quốc Phòng, kiêm nhiệm chủ bút hai tờ báo Quân Đội và Phụng Sự mà các anh đều ở trong ban biên tập. Thât ra trong cuộc đời, tôi đã đọc nhiều cuốn sách mà mình thấy ưa thích, kể cả những cuốn sách chuyên môn về toán hay về khoa học, nhưng không bao giờ tôi có ý nghĩ là chọn lựa ra một cuốn sách nào mà mình cho là hay nhất. Thuở nhỏ tôi chỉ được đọc sách Pháp, mới đầu là cuốn “Lettres de mon Moulin” của Alphonse Daudet vì có ghi ở trong chương trình học.
Sau đó tôi đọc tiếp cuốn “Le Petit Chose” của ông. Hồi học ở Pháp tôi đã lái xe mô tô đi khắp vùng Provence và tới thăm chiếc cối xay là nơi tác giả đã viết những lá thư hay tuyệt vời, sau này được giảng dậy trong chương trình trung học. Cuốn truyện đầu tiên bằng tiếng Việt tôi đọc là cuốn “Tâm Hồn Cao Thượng” của ông Hà Mai Anh. Đó là những cuốn sách Pháp và Việt tôi đọc đầu tiên, và là những cuốn sách hay đã xâm nhập vào tiềm thức của tôi, để sau này dù có tạo ra được một văn phong riêng cho mình, tôi vẫn chỉ có thể viết được những câu chuyện tình cảm nhẹ nhàng giống như trong những cuốn sách đầu đời tôi đã đọc mà thôi. Sau này, khi đã đọc những cuốn “Hồn Bướm Mơ Tiên” và “Tiêu Sơn Tráng Sĩ” của Khái Hưng và “Vang Bóng Một Thời” của Nguyễn Tuân, là những cuốn sách tôi thấy viết thật hay, thì tôi nhận thức được rằng chúng ta có thể dùng tiếng Việt để tạo dựng nên những tác phẩm văn chương sánh ngang được với những tác phẩm lớn của các quốc gia khác trên thế giới. Với lòng tin vào sự phong phú của tiếng Việt, tôi đã yên tâm viết văn và làm thơ từ năm 1950 khi được mời vào nhóm "Thế Kỷ" của các anh Bùi Xuân Uyên, Viên Phong và Tạ Tỵ.
Năm ngoái, Nguyệt san văn hóa văn học nghệ thuật "Khởi Hành" mở cuộc phỏng vấn và đặt câu hỏi: "Cuốn sách nào đã ảnh hưởng nhiều nhất từ trước tới nay và cho biết trường hợp đọc cuốn sách đó" để gửi tới các nhà văn nghệ sĩ. Để trả lời anh chủ nhiệm-chủ bút Viên Linh, tôi đã không ngần ngại ghi xuống là cuốn "Tâm Hồn Cao Thượng", bản dịch tiếng Việt của nhà giáo Hà Mai Anh, dù rằng sau đó tôi cũng đọc bản dịch tiếng Pháp, đề là "Grands Coeurs" của ông A. Piazzi. Tác giả cuốn sách nguyên bản là Edmondo De Amicis (1846-1908), một nhà văn hào Ý, đã kể lại như là một tập nhật ký, trọn một niên học của một cậu bé tên là An-Di ở một trường tiểu học tại thành phố Tuy-Ranh bên Ý Đại Lợi. Những câu chuyện ở học đường, và trong gia đình, về các thầy giáo, cô giáo và bè bạn của An-Di, những mẩu chuyện vui hay buồn đã xẩy ra trong thành phố cổ xưa này đã được kể lại trong sách bằng một văn phong dản dị và trong sáng, thắm đặm tình người.
Ở thời đại này, những nhà giáo dục và những nhà tâm lý học đôi khi cho rằng những cảnh tàn bạo diễn xuất trên màn ảnh TV có ảnh hưởng rất nhiều đến giới thiếu niên, kích thích bọn trẻ gây nên những bạo động, nhưng qua nhiều cuộc tranh cãi và hàng trăm bài viết, vẫn chưa đi đến một kết luận nào cụ thể. Riêng tôi thì tôi nghĩ là những cuốn sách giáo khoa, học ở những lớp tiểu học, và đặc biệt là cuốn truyện đầu tiên bằng tiếng Việt tôi được đọc, tả cuộc đời của cậu bé An-Di trong một năm học ở lớp Ba, đã cho tôi nhiều bài học về lòng thương người, phương cách cư xử chung thủy với bè bạn, và hiếu kính với mẹ cha. Tôi đã bắt đầu bài viết này bằng một đoạn trích nguyên bản phần đầu trong cuốn truyện tả "Ngày Khai Trường". Thay cho đoạn kết trong phần này, tôi xin trích đăng lại những dòng cuối cùng của cuốn truyện là những lời viết của bà mẹ cậu bé An-Di dặn con đừng quên mái trường xưa.
"An ơi! Mai sau, con nên người, con sẽ du lịch trong thế giới, con sẽ trông thấy những thị thành hoa lệ, những đài các nguy nga, nhưng con phải nhớ luôn luôn đến nếp nhà trắng tầm thường kia với cửa chớp khép, với vườn cây xanh, vì đấy là nơi bông hoa trí tuệ đầu tiên của con đã nẩy nở. Mẹ tin rằng hình ảnh trường cũ của con sẽ in vào ký ức cho đến lúc tàn sinh cũng như không bao giờ mẹ quên được bóng dáng cái nhà cũ kỹ mà ở đấy mẹ đã nghe tiếng nói ban đầu của con."
Tập Truyện Thơ Còn Dang Dở
Cuốn sách của nhà giáo Hà Mai Anh, tôi đã đọc nhiều lần và vì thấy thích thú nên, thuở còn là sinh viên ở Hà Nội, tôi đã dùng thơ ngũ ngôn để viết ra một tập nhật ký của một em bé Việt Nam trong suốt một niên học ở bậc tiểu học cũng giống như cậu bé An-Di ở trong sách của ông Edmondo De Amicis. Cũng như vào mấy năm đầu ở trường tiểu học tôi đã phải học thuộc lòng nhiều đoạn sách trong cuốn "Tâm Hồn Cao Thượng", tôi có mộng ước rằng tập thơ của tôi sau này được dùng làm sách tập đọc cho các em học sinh còn nhỏ, tuổi chưa lên mười. Cuốn truyện thơ lấy đề là “Tuổi Thơ”, tôi viết tay chỉ có một bản, khi đang là sinh viên "Toán Học Đại Cương", đã được truyền giữa đám bạn cùng là dân khoa học.
Năm sau đó tôi đi Pháp du học, và trước khi đi tôi trao cho anh Bùi xuân Uyên và sau này được biết anh có trích đăng vài bài trên báo "Thế Kỷ" của anh, còn ngoài ra bản thảo độc nhất nay ở trong tay ai thì tôi không biết. Mới đây ngồi nói chuyện với giáo sư Hà Mai Phương là thứ nam của cụ Hà Mai Anh thì được anh cho biết là anh cùng bào huynh là cựu đại tá thiết giáp Hà Mai Việt, cũng là một người bạn của tôi, có dự án cho in lại cuốn “Tâm Hồn Cao Thượng” của thân phụ, và lần này có thêm tiểu sử của nhà giáo cùng những kỷ niệm viết bởi thân hữu và môn sinh. Riêng tôi, sẽ là một điều hân hạnh cho tôi nếu có dịp đóng góp vào ấn phẩm này để vinh danh công nghiệp của một nhà mô phạm đã dịch thuật và giới thiệu nhiều tác phẩm ngoại quốc tới giới trẻ Việt Nam ở thế hệ tôi.
Bản chất của tôi là một nhà toán học, quen dùng lý luận, nên không có thi tài, và cũng không có trí nhớ dai nên tập truyện thơ viết cách đây gần nửa thế kỷ, tôi chỉ còn nhớ vài đoạn. Khi viết, tôi đã soạn thành từng bài thơ ngắn, mỗi bài giới thiệu một người trong gia đình, hay thày cô giáo cùng bạn học trong trường, hay kể lại một truyện ở học đường hay ngoài xã hội. Tôi viết như vậy để cho những thày cô giáo dùng tập sách có thể dễ dàng trích ra từng bài cho học sinh tập đọc. Tôi đã hình dung cậu bé ở tuổi ấu thơ bằng những vần thơ năm chữ
Tuổi Thơ
Nhớ năm xưa ấu trĩ,
Dưới nách mẹ ngây thơ.
Em ăn no ngủ kỹ,
Nhìn đời chẳng ước mơ.
Áo cánh điều tươi thắm,
Quần xanh biếc như lơ.
Mẹ nhìn em say đắm,
Đôi tóc đào phất phơ.
Mẹ ru, em ngủ say,
Tấm lòng mẹ phơi bầy.
Qua lời ca, gửi gấm:
Lớn khôn, thành người ngay.
Phô tài năng kẻ sĩ,
Làm vui lòng mẹ cha.
Thành công dân tài trí,
Cho vẻ vang sơn hà.
Tập sách của nhà văn hào người Ý luôn luôn có hình ảnh của người cha khuyên bảo đứa con, và nhiều lúc tâm sự như đối với một người bạn nhỏ. Trong tập thơ của tôi lại có tình cảm thân yêu săn sóc của một người mẹ hiền.
Mẹ Em
Từ năm còn ấu thơ,
Hình mẹ không phai mờ.
Mẹ thật làø tiên nữ,
Đẹp như một bài thơ.
Mẹ là ánh trăng thanh,
Lời mẹ nghe dịu lành.
Mẹ là nguồn hạnh phúc,
Mẹ có công sinh thành.
Còn nhỏ, mẹ bế bồng,
Lớn khôn, em cậy trông:
Từ cơm ăn, áo mặc,
Dậy em, mẹ vun trồng.
Tình mẹ như biển Đông,
Nghiã mẹ thật vô cùng.
Mai sau em khôn lớn,
Hiếu kính nhớ nằm lòng.
Khác với gia đình của người Âu Mỹ, trong một gia đình Việt Nam bao giờ cũng có sự đoàn viên của các anh chị em và ông bà cùng dưới một mái nhà. Tôi đã tả người chị của cậu bé qua những vần thơ dịu dàng
Chị Thanh
Chị Thanh em hiền hậu,
Ai cũng khen nết na.
Nói năng êm và dịu,
Dáng người đi thướt tha.
Tóc mây soà trên trán,
Nụ cười tươi như hoa.
Ngó sen, trăng tuơi sáng,
Không sánh kịp làn da.
Chị hơn em năm tuổi,
Đã biết trông việc nhà.
Sáng, trưa, chiều mấy buổi,
Làm vui lòng mẹ cha.
Cứ mỗi sáng tinh sương,
Tà áo bay trên đường.
Chân đều theo nhịp bước,
Chị tới trường Trưng Vương. >
Bài "Ngày Khai Trường" trong cuốn sách của nhà giáo Hà Mai Anh tôi đã thuộc nằm lòng từ thuở ấu thơ, nay tôi viết thành thơ để in trong tập sách nhỏ bé, có thể gọi là sáng tác đầu tay của tôi.
Ngày Đến Trường
Ngày đầu tiên đến trường,
Em dậy sáng tinh sương,
Mặc áo quần mới sắm,
Rồi ngắm mình trong gương.
Đôi má em ửng hồng,
Mừng vui hay sượng sùng?
Ngày đầu tiên đi học,
Lo âu đầy trong lòng.
Cùng mẹ, em tới trường,
Chân đi, lòng vấn vương.
Ngước mắt nhìn lên mẹ,
Vỗ về, mẹ thân thương.
Mẹ nhìn em rồi cười:
Trông con tôi thật tươi.
Đi học chăm con nhé,
Gắng công cho bằng người.
Tập sách "Tuổi Thơ" tôi viết ra chỉ đưa cho một số bạn thân đọc nhưng họ đều là dân khoa học vào hạng gạo cội, suốt ngày chỉ mê mải với những phép tính nguyên hàm và đạo hàm nên chẳng ai cho tôi được ý kiến gì. Tuy vậy sau này tài thơ của tôi cũng cảm hoá được một anh bạn là anh Ngô Quốc Quýnh, nay là giáo sư-tiến sĩ dạy môn vật lý ở Trường Đại Học Tổng Hợp ở Hà Nội, để anh viết một bài cảm đề, qua nhiều năm tháng tôi còn nhớ được vài đoạn:
Tuổi Hoa Niên
Thu qua rồi lại một thu qua,
Thời thơ ấu khuất bóng dần xa.
Đường đời giây phút dừng chân bước,
Chẳng khỏi ngậm ngùi, tiếc tuổi hoa.
Sợ một mai đây, tựa nắng hồng,
Ngày tàn héo hắt, chếch bên song.
"Tuổi Thơ" ghi để vài trang nhỏ,
Gửi lại nơi đây một tấm lòng.
Tập thơ tôi viết, tuy dựa vào cuốn nhâït ký của cậu bé An-Di ở một trường tiểu học tại thành phố Tuy-Ranh bên nước Ý Đại Lợi, nhưng nay khi tả suốt một niên học ở lớp Ba của một trường tiểu học ở Việt Nam, tôi đã đưa vào câu chuyện những phong vị của quê hương, có những đoạn tả cảnh chiều vàng năm ba mục đồng cưỡi trâu về thôn xóm, có những ngày hội xuân tưng bừng, người đi lễ chùa khói hương nghi ngút, và cũng có những khung cảnh ở học đường để người đọc thấy cậu bé trong truyện cũng có những bạn tốt, và cũng có những tên dữ dằn chuyên môn hà hiếp người yếu đuối. Tập thơ nguyên thủy tôi đã viết, tôi ước chừng có vào khoảng một ngàn năm trăm câu, nay tôi mới nhớ lại được chừng một phần mười. Trải qua nhiều tháng năm trong cuộc đời, luôn luôn phải tranh đấu vượt những trở ngại để mưu sinh, trước kia ở nước nhà và nay bên quê người, trí nhớ của tôi nay cũng đã xuy sụp không cho tôi nhớ lại được toàn bộ những trang sách đã viết. Tuy vậy tình cảm với mái trường xưa đối với tôi vẫn còn nguyên vẹn. Lòng thương nhớ người mẹ hiền, với sự săn sóc ưu ái khi xưa, vẫn còn cánh cánh trong tôi. Mộng ước của tôi là rồi đây tìm lại được sự thanh thản trong tâm hồn như thuở học trò để viết cho trọn toàn bộ tập truyện thơ, nay hãy còn dang dở.
Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh
(Tháng Sáu, 2003)