PHI NGỌC HÙNG * CHỬI MẤT GÀ
Chửi mất gà ***
Phí Ngọc Hùng
Buổi sáng ở làng Bùi Trên, hiu hắt cùng mây trắng, nắng vàng hắt hiu. Vắng hẳn tiếng gà quang quác, lợn eng éc. Giữa hàng xóm láng giềng cũng có hàng giậu thưa, vẩn vơ dăm con bươm bướm vàng, vài ba chú chuồn chuồn kim vơ vẩn. Sau cây chanh thấp tè, rõ mồn một là bà phó rèn, áo sồi váy đũng đang ngồi chồm hổm, nhởn nha sàng gạo với cái nia bé con con. Thỉnh thỏang bà nhón một hạt thóc, bỏ vào miệng nhậm gấm, rồi nhổ bẹt xuống đất. Lâu lâu ngẩng lên nhìn ra góc vườn ngóng đợi tìm kiếm. Thỉnh thỏang bà bâng quơ chụm môi, đánh lưỡi như gọi gà, ới vịt. Bên này hàng rào là cơ ngơi của ông Cửu. Nghe đâu làm thông ngôn cho lính thợ mãi ở bên Tây, áo gấm về làng với "ba-đờ-suy" khuy đồng, giầy đinh "săng-đá". Nhà cửa đang một gian hai trái hẹp vanh vách, vậy mà ông vật lên được cái nhà ngói cao nghệu, mái lợp ngói âm dương, đều tăm tắp như vẩy rồng. Ruộng thượng đẳng hạ điền, chuồng rậm rịch lợn đàn, trâu nghé có một dạo nhất làng nhất xứ. Chưa hết, số là có công với nhà nước Bảo hộ, nên ông túm tó được cái hàm cửu phẩm văn giai ngon ơ. Rõ ra từ hàng thất phẩm trở lên dành cho các quan thông kinh sử, còn bát phẩm và cửu phấm cho hàng thứ dân. Nghe già làng kể lại, xưa kia chạy được hai cái danh ôn này cũng hốc người ra chứ chẳng dễ sơi gì. Vừa lúc bà Cửu vén cái mành mành chớm bước ra, tay che mắt nhìn trời đất khô queo, chẳng một ngọn gió, cây đứng im, lá không lay động, chắc có cơn giông, cơn bão âm ỉ đâu đó. Vừa định quay vào cũng vừa lúc bà láng giềng hóng mắt qua bắt gặp. Mà sắp có giông tố thật, từ nẫy đến giờ bà chỉ đợi có bấy nhiêu. Bà phó rèn đây nức tiếng chanh chua, ngang ngược ở cái thôn này. Bà đang như con diều hâu từ trên cao dang cánh đảo một vòng thăm chừng trước khi lặng lờ sà xuống. Thế nên bà đỏng đảnh mào đầu bằng câu chửi tự biên tự diễn dân dã trước đã. Giọng bà phó rèn uồm uồm, oàng oàng như phát ra từ cái chum lớn: "...Mả bố đứa nào bắt gà của bà! Mày bắt gà bà, mày băm, mày bổ, mày rỉa, mày rói, mày gói, mày dâng cho thằng trắng râu đầu bạc, nó sắp sửa ngồi bát bình hương nhà mày nó xơi nhá..." . Còn ai trồng khoai đất này, thằng trắng râu đầu bạc sắp sửa ngồi bát bình hương là ông Cửu chứ ai. Đang nằm trên cái phản kê trên hai ghế ngựa ngang tầm bệ cửa sổ để ông thăm chừng hàng xóm láng giềng. Như hôm nay chẳng hạn, đang bẹp dí bên khay bàn đèn thuốc phiện, và ông nghe vanh vách, không sót một tiếng...Dưới gầm phản, con vện cũng hãi quá thể, cuộn đuôi nằm co rúm. Khác với mọi ngày, lúc này ông đang vật vờ về một thời hoàng kim cùng ngẫm chuyện nhân gian. Nào là sống ở trên đời chả được mấy. Không ăn chơi cũng thiệt, chả ăn cũng thiệt vào thân, không chơi cũng già khú đế. Và ông tặc lưỡi một cái. Mà đã ngập vào nơi chốn ấy, tương giao tri kỷ không ngoài khi buồn thuốc phiện, lúc vui cô đầu đến...nhức đầu. Chuyện nhức mình nhức mẩy là ông năm nay mới ngoài bốn mươi, vậy mà con cháu vô phép vô tắc gọi là..."cụ". Mà ông khọm thật, chẳng qua cũng vì ông theo đuổi nàng tiên nâu như gà ấp bóng. Chả là dạo nọ, nghe lỗm bỗm rằng làm dăm bi thì cái chuyện...ấy nó khỏe như vâm với mấy cô nhà hát. Thọat đầu ông bỏ ra vài hào, làm vài khói ngoài phố huyện. Nghĩ lại, ông gắn bó nàng tiên nâu cũng là một duyên hai nợ. Nào khác gì vợ chồng về già sống với nhau vì nghĩa chứ chả vì tình. Với ý nghĩ hoen hoẻn ấy, ông cho là mọi sự từ trên trời rớt xuống nên ông chả có tội vạ gì sất. Như chuyện ông lên huyện đi hát cô đầu chẳng hạn, bỗng đâu gặp ngay ông chánh tổng Đoàn rủ rê đi...bắn khỉ. Cứ theo ông ta thì...thở ra hít vào thông tim thông mạch khỏe lắm. Khỏe luôn cả cái mục kia. Ông chả tin nhưng cứ ngoặt ngoẹo vào xem cái đã. Thế đấy. Thế là ông gặp ngay cô chủ bàn đèn mắn chuyện. Âu là số mạt rệp. Vừa lúc ông chánh tổng vác "ba-dô-ca" bắn kêu "ro..ro.." nghe như sáo diều cốc. Cô hú họa ông rằng hút thuốc phiện khó lắm, nhiều người hút lần đầu, một là chẳng mấy khi kêu thành tiếng. Hai là sẽ bị nhâm nhẩm đau bụng, ói mửa, ho khan. Ông tức khí làm một điếu chơi. Ông thở ra một hơi ngắn, nhắm tịt mắt hít vào một hơi dài thẳng băng nghe "ro..ro.." ngon ơ. Cô chủ bàn đèn nức nở khen ông...có khiếu ít thấy. Có khiếu đâu chả thấy, ông bị ả tiên nâu nó hành lúc nào không hay nên hom hem, lụ khụ là vậy. Tôi hồi hôm, ông ngủ cho béo mắt. Sáng nay dậy muộn. Ông nằm khểnh trên phản nghe bà hàng xóm mắng chó chửi mèo, quên tiệt đi mất là từ sáng đên giờ chưa làm ngao nào cho ra hồn. Tiện tay quơ cái dọc tẩu. Ông phồng má lấy hơi thổi phù phù vào cái đít dọc tẩu cho thông hơi thông điếu. Chậm rãi hơ cái nõ qua ngọn đèn dầu lạc cho vừa đủ nóng. Nhét bi thuốc phiện lấy ra từ cái hộp dẹt tròn. Hộp có dấu in hình nổi "Bà Đầm Xòe". Với cái tít "Công Quản Nha Phiến Đông Dương" mà ông đã cậy cục mua ở phố Khâm Thiên, tận Hà Nội. Ông lào thào: "Ai bảo! Cho đáng đời". Ấy là ông trộm vía rủa thầm vợ nhà đấy thôi cho bõ ghét. Và ông nhón tai nghe tiếng văng vẳng từ bên kia giậu ruối: "...Chém cha đứa nào bắt gà nhà bà! Chiều hôm qua, bà cho nó ăn nó hãy còn, sáng hôm nay bà gọi nó, nó hãy còn, mà bây giờ nó đã bị bắt mất. Mày muốn sống mà ở với chồng với con mày, thì buông tha thả bỏ nó ra, cho nó về nhà bà. Nhược bằng mày chấp chiếm, thì bà đào mả thằng tam tứ đại nhà mày ra, bà khai quật bật săng thằng ngũ đại, lục đại nhà mày lên...". Ông nghiêng người, bâng quơ với bà: "Này, cái con vợ nhà thằng phó rèn quang quác gì ấy nhẩy. Tôi nghe khí có hơi lạ tai đấy". Ý đồ ông xem chừng như "thằng phó rèn" vẫn còn sống nhăn, ông chả giậu đổ bìm leo đến nhà ấy gì sất. Từ nãy đến giờ, mới bảnh mắt ra chả hiểu nếp tẻ gì, bà quay lại vặc ông: "Ông bảo lạ là lạ thế nào. Thì cái con của nợ của ông đang nhiếc tôi chứ còn ai". Ông nghe rát cả mặt: "Nhào, bà nói nghe thối inh, nghe điếc cả lỗ đít". Bà quay ngoắt lại: "Ông muốn trêu ngươi phỏng". Ông phang bừa, rồi muốn ra sao thì ra: "Chuyện xấu tốt mặc bố tôi, bà đừng dây vào". Buông cái mành mành, trước khi đi ra hẳn, bà tiếp: "Còn quạc cái mồm ra nữa. Thì nó sờ sờ ra cả đấy, bánh đúc bầy hàng, đây đâu có nói ngoa". Ra ngoài, bà Cửu còn vọng vào chì chiết: "Xời, ngữ ấy chừa ra, đừng có lăn tăn vào mà thối hoăng lên nhá". Bà cũng đang tự hỏi chuyện đá thúng búng nia gì đây, đồ cái thứ gái góa ăn không ngồi rồi, ngứa chôn ngứa mồm mang mẹ con bà ra mà réo. Trong đầu bà Cửu lầng quầng: "Giời ơi là giời, bỏ mẹ nó rồi, gặp bà thì cứ bỏ xác. Bà báo đời cho mày biết....Lạt mềm buộc chặt, để đấy rồi bà sẽ văm như văm cám, bà sẽ bằm nó ra như bằm chuối cho lợn ăn". Nhưng bà im thin thít như thịt nấu đông, bà đang ú ớ, chưa biết tung hê lời ăn tiếng nói sao cho mát mẻ, cho gọn gàng nề nếp. Thì cũng vừa lúc bà phó rèn đứng lên vén váy, gấu áo giắt dưới cái giải rút, hai tay vỗ đen đét vào nhau, chân nhún nhẩy. Bà ngóac mồm gào tóang lên, âm thanh lỏang xỏang, chan chát như búa tạ đập xuống đe. Bây giờ bà phó rèn mới nhập hồn, nhập vía vào lời ăn tiếng nói những câu chửi ở làng quê ruộng vườn có từ xửa từ xưa: "...Làng trên xóm dưới, bên ngược bên xuôi, tôi có con gà mái xám. Hôm qua tôi còn cho nó ăn, thế mà bây giờ nó bị mất. Ai bắt được thì cho tôi xin, nếu không trả thì tôi chửi cho mà nghe. Ấy...ấy...". Ông Cửu ve ve mắt qua song cửa, vừa lúc bà phó rèn ngúng nguẩy quẹt miệng và co cái đầu gối lên. Ông nhíu mày, miệng lầu nhầu: Giời ạ, ông giời có mắt xuống đây mà xem người ngợm...người ấy cứ đuỗn ra như con cá rô đực trông chán chết...Bỗng dưng gì đâu từ lỗ nẻ chui lên, đột nhiên ông buồn, chỉ biết buồn không đâu. Tự nhiên ông nhớ, nhớ gì cũng chẳng hay. Chợt nhớ tới người ấy tức cái con của nợ mà vợ nhà vừa đay nghiến ông. Được thể cái đầu đất sét của ông đùn ra câu: "Lợn vừa chứ". Thế là chuyện xưa, chuyện nay chui tọt vào đầu ông. Số là ông mới ở bên Tây về. Về đến nhà, hôm trước hôm sau ông đảo mắt qua bên hàng giậu thưa và tự hỏi chồng chị là ai, nào ai hay biết. Và ông chả phải đợi lâu vì đợi đến ngày mai, dòm sang kẻ liếp là gặp ngay cái chị hàng xóm vừa mới góa chồng là anh phó rèn mới rõ...hay. Ông được thể lâm râm cơm chín tới, cải vồng non, gái một con, gà nhảy ổ, rồi ông râm ran cau phơi tái, gái đoạn tang, chim ra ràng, gà mái ghẹ. Tiếp, ông búng lưỡi đến "tách" một cái rằng các cụ ta dậy cấm chả sai tí tẹo nào. Thảo nào cái thứ giềng tỏi xóm gừng ấy trông sao mà cứ phễn phễn ra. Tối về, ông vắt tay lên trán nghĩ dại là thắm da đỏ thịt như thế ấy, rằng không ai nắm tay được đến tối, gối tay được đến sáng được mãi đâu. Và ông để cái đầu củ chuối của ông lêu bêu rằng gớm sao mà ngực căng thây lẩy, cứ nổi phễnh lên như cái gáo dừa, thế mới rõ khổ ông. Ấy vậy mà sáng hôm sau lại bắt gặp chị phó đang vớt bèo bên cầu ao, quần vén lên tận bắp đùi, cặp đùi trắng như ngó cần, trông phát khiếp, cứ rợn cả người lên ấy. Dẫu gì ông cũng từ mẫu quốc về, ông bước tới tính xí xô "bông-dua" ... bông hoa cho nó Tây. Nghe tiếng chân ông đi đến. Chị phó quay lại, mặt đang trắng nông nỗng, sau đỏ lựng dần. Mọi ngày lờ đờ như chị vịt chống gậy, vậy mà ngoắt một cái cắm đầu chạy le te về nhà. Ông lững thững đi theo, tưởng chị phó đi đâu hóa ra đang lúi húi chổng mông cho lợn ăn. Buồn tay, và cũng rất Tây, ông phát vào mông đánh đét một cái. Thấy chả nói năng gì, người ngợm hiền hậu như thế đấy. Và ông húyt sáo, chống "ba toong" bỏ đi một nước. Quay lại, ông bắt gặp con mắt có đuôi liếc xéo theo ông. Bây giờ ông chỉ biết cười tủm và... |
Và ông vểnh tai nghe ngóng...cái con của nợ nhỏ nhẹ xưng..."tôi" là sắp kiếm chuyện chan tương đổ mẻ. Y như rằng, bà phó như chờ đợi cái thời cơ này từ lâu lắm. Lúc này ấm ức giận hờn được bung ra như ngô rang. Bà tung tóe: "...Bố cái thằng chết đâm, cha cái thằng chết xỉa. Mày day tay mặt, mày đặt tay trái, nỡ ăn cắp của bà đây con gà, này bà bảo cho chúng mày biết: Con gà nó ở nhà bà, nó bị bắt trộm về nhà mày thì nó thành con cú, con cáo, con "thành đanh mỏ đỏ", nó mổ mắt xé xác ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con cái nhà mày đấy. Ấy...ấy.... Mày ăn thịt con gà nhà bà thì mày ăn một miếng, chết một đứa, ăn hai miếng chết hai đứa, ăn ba miếng chết ba đứa và ăn cả con gà đó sẽ chết cả ổ nhà mày..." Ông Cửu lầm rầm, cái thằng chết đâm, cha cái thằng chết xỉa này là ông chứ còn ai. Ấy là chưa kể ăn ba miếng chết ba đứa ám chỉ cả lò nhà ông rồi chứ còn gì nữa. Ông thong thả day tay mặt, đặt tay trái khẽ nhấn nhấn chất dẻo vừa đủ chặt sau đó nhẹ nhàng châm lửa. Trong cái vắng tanh vắng ngắt của gian phòng ẩm thấp, gần như ông nghe được cả tiếng xèo xèo của chất nhựa quánh gặp nóng kêu riu riu. Trong cái giây lát yên ắng chờ đợi sắp gặp gỡ ả phù dung, ông thót bụng lấy hơi từ lục phủ ngũ tạng. Đưa cái đít dọc tẩu ngang cửa miệng, thông qua cái yết hầu nhấp nhô lồi lõm. Ông hít vào một chập thật lâm ly quy phượng như lõ cả bộ điếu ra. Tiếng ống điếu kêu ròn tan, mùi thơm ngào ngạt tỏa khắp nhà. Ông lờ đờ nhả ra từng ngụm phùn phụt như khói tầu hỏa giữa gian phòng thênh thang, không một bóng người. Trừ con thạch thùng đang đờ đẫn trên vách tường, bỗng khi không nó buồn tình tặc lưỡi một tiếng "tách" vô nghĩa. Cái màng cổ họng trăng trắng của nó đang phập phồng, kéo lên kéo xuống, thì ra nó cũng đang hít hít chút hơi hám cơm thừa canh cặn của ông. Bên kia, tiếng chửi bà phó nề vang vọng như kèn đồng của Tây báo hiệu thức dậy, như con gà gáy sáng vang vang...tọ tè ti tọ tè ti...ti tọ ti tè mà quen thói ông nghe ba chớp ba nháng ra là...một ngàn, ba mươi vạn thằng Tây, xách cái bị, đi ăn mày. "...Bốn thằng cầm cờ xanh đứng đầu ngõ, ba thằng cờ đỏ đứng đầu làng, đưa đám tang cả nhà mày ra đồng làng chôn đấy. Mày có khôn hồn mang trả ngay con gà đó cho tao, kẻo không tao đào mồ, quật mả cao tầng tổ khảo, cao tằng tố tỉ, thúc, bá, huynh, đệ, cô, dì, tỉ muội nhà mày đấy...". Bất giác ông nhăn mặt vì chả hiểu bà phó này hát hỏng giống kéo đàn cò, đàn gáo với cờ xanh đứng đầu ngõ, cờ đỏ đứng sau nhà, cờ vàng dựa bên hữu, cờ trắng nghiêng bên tả là thể thống, thống chế Pétain gì. Tiên nhân nhà nó chứ, chứ cứ như hát, cô đầu không bằng và ông cho là vậy. Ông lại te tái đến chuyện cũ. Dạo ấy chị hàng xóm đây cũng đẹp gái, đẹp nết ra phết chứ đâu có đanh đá cá cầy như bây giờ. Chả là cứ theo ông thì dòm cũng ngồn ngộn gớm, cái yếm sồi rộng toang tóac đựng hai quả bưởi to đùng, bắp đùi to bằng con cá trắm, đít chành bành như đít trâu...Ông quay quắt bắt qua chuyện vợ nhà, chả hiểu sao lấy nhau rồi, gầy thầy cơm, ăn thủng nồi trôi rế, người vẫn đuỗn ra như con lươn, con trạch. Ông lân la qua chuyện đánh chén ở ngoài đình, qua câu nói của ông chánh tổng Đoàn: "Các mụ nhà ta đều giống miếng thịt ngan già luộc dối, đã hoi lại dai như chão". Từ cút rượu bắt qua mục đầu gà má lợn, ông chánh tổng âm ử: tái dê chấm với tương bần, ăn vào nó cứ bần thần như dê, đêm về vợ lạy tỉ tê, tối mai ta lại tái dê tương bần. Bất thình lình ông tổng Đoàn hỏi ông vậy chứ con gì càng già càng dai nhanh nhách. Chả lẽ lại con dê, ông chắc mẩm như cua gạch là...con ngan già chứ còn con của nợ gì nữa. Ông chánh tổng cười hề hề và ấm ớ hội tề là...là...con vợ ông chứ còn ai trồng khoai đất này. Vậy mà sau đấy, chả biết vợ nhà ăn gan giời trứng trâu gì mà người cứ phình ra như cái đụn rơm, và quả tình có khó nhai như chó gậm xương thật. Thế nên từ dạo ấy, ông cứ để mặc đầu óc lởn vởn theo khói bếp lam chiều qua mái rạ, qua chuồng lợn. Như ếch vồ hoa mướp, ông mơ tưởng đến..., ông vỡ bọng cứt mãi mới ra câu thâm nho của các ông đồ xưa là thê...thê gì ấy nhẩy...Như thê bất như thiếp, thiếp bất như tì, tì bất như đạo, đạo như đạo bất đạo. Bỗng ông khóai chí tử cười khan, vỗ đùi đét một cái như...bị muỗi đốt với đạo như đạo bất đạo là trở về những ngày vợ nhà nằm ổ. Ông ngồi buồn gãi dái, dái lăn tăn cho đến một tối ngáo ra thao thức, co hai cái đầu gối củ lạc đến tận mang tai. Và ông chằn chọc nghĩ đến thân phận đàn bà con gái, ông nghĩ quẩn hóa dại, hóa dồ là đàn bà con gái thức được nửa đêm về tối, chứ ai thức nửa đêm về sáng. Nhưng cái giuộc gái góa lại là chuyện khác. Khác như thế nào thì ngay sáng hôm sau, sau khi bắn ba-zô-ca vài quả ở phố quận thì về nhà, người ngợm ông cứ phơn phớn bay bay như cờ đuôi nheo. Chả hiểu ma đưa lối quỷ dẫn đường thế quái nào, ông cứ nhè theo lối đi ngoằn ngoèo như vệt trâu đái và nghẹo ngoặt lạc bu nó vào cửa chuồng lợn. Và nhòm thấy chị phó cũng lại đang lóng ngóng cho lợn ăn. Thế mới rõ khỉ, mà khỉ thật. Khỉ một nỗi chị ta lại mặc váy. Phiền thật chứ đâu có rỗi hơi nói chơi. Vậy đấy. Vậy là ông đâm ra...ngứa mắt. Từ đằng sau ông tốc váy lên. Ông chả thấy gì ngoài thấy rõ tổ con chuồn chuồn. Khi không bỗng ở góc chuồng lợn có tiếng con cộp cộp đực giục giã "ì oạp, ì oạp" gọi con cộp cộp cái. Thì như đã bảo, đúng là số ruồi. Và ông..."ì oạp, ì oạp" thế chó nào chả biết nữa, mà chị phó nhà ta cứ cắn răng ôm khư khư cái nồi cám. Mồm miệng chả chịu hở môi cho một tiếng. Thì đã bảo người ta lành như đất mà. Nói cho đúng ra, chỉ...ư...ư...thôi. Ấy vậy mà cái nồi cám lăn kềnh ra đất mới...hay chứ lị. Lúc này chị phó mới bật văng ra khỏi miệng câu "Lợn vừa chứ". Ông bụng bảo dạ làm gì mà nhắng lên vậy rôi huýt sáo bỏ đi...về nhà với vợ nhà đang ở cữ. Ông cho là tất cả mọi sự từ đẩu từ đâu là tại...con cộp cộp. Nhưng ông chẳng quên con mắt lá răm. Nhưng bố khỉ, lại để quên cái "ba-toong". Thế mới hốc. |
Giờ này, hốc...hay không chửa biết. Vườn rộng ao sâu, ông lắng nghe bà phó ỉ ôi chửi cả họ hàng hang hốc nhà ông, giọng âm ỉ như cuốc gọi hồn. Ông nhẩm chừng bà có thể chửi cả buổi. Cứ như cái điệu văn vẻ có tông, có tích, cứ thượng tổ, hạ tổ nhà hàng xóm đến tàn cây héo lá, mồ mả tổ tiên nhà ông cũng phải nhẩy dựng đứng lên. Buồn buồn gãi khô búng ghét, chả biết làm gì hơn là nghe cho vui ấy mà: "...Cha tiên nhân ông nội, ông ngọai, ông dại, ông khôn, đồng môn chi rễ nhà mày nhé. Mày gian tham đã ăn trộm, ăn cắp con gà nhà tao. Rồi ra, nhà chúng mày chết một đời cha, chết ba đời con, đẻ non, đẻ ngược, chân ra trước, đầu ra sau, đẻ sót nhau. Chết mau chết sớm, chết trẻ đẻ ngang nhé...nhé". Đẻ với đái, đến đây thì giời chẳng chịu đất, đất phải chịu giời. Bên này bà Cửu than thầm: "Ối giời cao đất dầy ơi, đúng là giống mồm chó vó ngựa, đúng là cái con mụ nạ dòng chết bầm chết tiệt này nó chửi gà, chửi qué đến...thằng cả nhà bà thì phải". Giận bầm gan tím ruột, như muốn đào mồ đào mả ông cố nội nhà nó lên, nhưng bà lẹo đẹo vào nhà xách cơi trầu ra làm một miếng cho thấm giọng cái đã. Rồi bà Cửu ngồi bệt xuống bên hè, vừa têm trầu vừa chửi vọng qua bên kia: "...Cha tiên nhân tam tứ đại đồng đường nhà mày, đồ quạ tha ma bắt, đồ ăn gian nói dối, dám đổi trắng thay đen, dám vu oan giá họa cho nhà bà. Bà truyền bảo ba hồn chí vía cho nhà mày biết: Quân điêu ngoa đi ngang về tắt, quen thói giăng hoa chim chuột, không chết treo chết chém thì cũng chết sông chết ngòi, chết đường chết xá, mưa sa gió dập đời mày. Ba vạn chín nghìn âm binh quen đựng điều đặt chuyện, cũng không cứu nổi cái tội mỏng môi hay hớt của m..à..y...m...à..y..đấy nhá! nhá!..". Nghe đến câu rủa đi ngang về tắt, quen thói giăng hoa chim chuột..., bà phó rèn mặt đỏ lên phừng phừng, hừng hực như cái lò rèn bốc khói. Bà cũng bốc, tay vung miệng chửi, chửi đơn, chửi kép, chửi chùm, chửi lợp. Bà chửi có gai, có ngạnh, cho thỏa chí bình sinh là dân đồng chua nước mặn nhưng cũng văn tế, văn vẻ như ai. Bà, mồm miệng nước đầy bọt, nước rãi dẻo quánh như nhựa sung, nhựa mít: "...Con gà của tao nuôi bằng gạo, bằng thóc, vậy thằng cha nhà mày đã bắt con gà của tao. Nó là con gà, con qué, nó về nhà mày là con cú, con cáo, nó mổ gan lòi ruột đứa nào ăn miếng thịt gà nhà tao. Nó là thành đanh đỏ mỏ rút ruột rút gan nhà mày ra. Mày không thả gà nhà tao ra, tao đóng ghế 9 tháng 10 ngày, buổi sáng tao chửi, buổi chiều tao tế, buổi trưa tao hú, buổi tối tao nguyền. Tao rủa cho cây vàng lá, cho quả chột thui, cho thần trùng đến rút từng khúc ruột cha, ông, vợ, con nhà mày ra...". Chẳng đợi 9 tháng 10 ngày, bà khơi khơi vào nhà lấy nước uống thấm giọng... Buồn môi ngứa miệng, ông lầu bầu: "Vợ, con nhà mày...", đúng là vợ dại cái mang. Số là ông chưa đến cái tuổi...ngũ...ngũ thập tri thiên mệnh, chưa chi vợ nhà đã nghe thằng cả súi bẩy khuân cái quan tài bằng gỗ vàng tâm đặt lù lù ở giữa nhà để báo cô, báo hiếu. Riêng ông chả dại về chầu ông bà ông vải vội, trăm sự cứ ở chị "Lợn vừa chứ" mà ra. Ông thấy "gần" nhau cứ dễ như quạ vào chuồng lợn nên ông càng hẻo lánh đến chuồng lợn nhiều hơn và càng phải bắn ba-zô-ca...nhiều hơn nữa. Khỏe như vâm đâu chả thấy, cả mà cà cập với chị "Lợn vừa chứ" được mấy nả thì ông ủ dột như canh bí chiều đông. Rồi tịt mít. Ông đành quên tuốt luốt lối đi ngoằn nghoèo như vệt trâu đái. Thôi cũng đành, bệnh già như cây hết nhựa. Đèo bòng thêm là nửa đêm nửa khuya cứ lục đục đi giải xoành xọach, tim gan phồi phẻo ắt hẳn muốn ấm ớ gì đây. Nói dại chứ nếu mắt có trắng dã, tay có bắt chuồn chuồn thì hai mẹ con thằng cả cứ chơ mắt trẫu nhìn nhau, của khôn người khó, nhà lại độc đinh neo người. Cớ sự này thì ông phải tính, ấy là tính chuyện kiếm vợ thằng cả. May quá là may. Mới ra giêng đây, bà chánh tổng làng "Bùi Dưới" bắn tiếng với vợ ông về cô gái rượu của họ. |
Vừa lúc vợ nhà dềnh dàng đi vào săm soi ba cái đầu rau, rồi lại đi ra. Nhìn dáng đi kềnh càng của vợ nhà. Ông nghiệm ra rằng chả phải vì thuốc phiện mà ông...liệt...liệt giường, liệt chiếu đâu. Mà theo nhẽ của đất trời với âm thịnh dương suy. Các mụ vợ bắt đầu phè phè phát tướng thì thằng chồng cũng bắt đầu chả...ngóc đầu lên nổi. Trên thì móm mém nhai không vỡ, dưới lại chun choăn nhét chẳng vào mà các cụ ta dậy cứ như thật vậy. Chuyện chéo ngoe dễ hiểu như thế đó. Mà các cụ non quanh ông ai chả mắc chứng giời đày này. Các cụ ấy dấu nhau như mèo dấu cứt ấy thôi. Ông đang óc ách đến đây thì bắt gặp bà Cửu ngoài kia đang ngó quanh ngó quất. Bà đang lầu bầu một mình cái con giời đánh đâu rồi, ra đây bà chửi cho mục mả cho biết tay. Chẳng cần bà hàng xóm có mặt, bà oang oang: "...Thứ con gái trốn chúa lộn chồng...". Bà định băm bổ vào mặt nó tiếp: "Chồng mày là thứ đàn ông ba đời đi ở đợ...". Vải thưa đâu che được mắt thánh, nó...lộn chồng bà thì rành rành ra đấy. Nhưng bà chợt nhớ ra là thằng chồng nó nhẩy tót lên bàn thờ ngồi ăn sôi nghe kèn từ đời tám kiếp nào rồi. Nó đâu còn con gái mà là...gái góa. Nên bà bí rị chưa biết tính sao. Nằm trong này, ông Cửu râm ran cứ nheo nhéo điếc cả lỗ đít, có chuyện chửi mà...chửi cũng không xong thì còn nước mẹ gì nữa. Và ông rị mọ tiếp... Đất Nam Định của ông đây có hai làng sát nhau là làng Bùi Trên và làng Bùi Dưới. Cả hai làng này có chung một họ Bùi...Chỉ khác một nhẽ làng Bùi dưới lại...ngọng líu ngọng lo. Nói ngọng cứ đá ngược lên tận mái ngói, đến quặn cả mồm miệng. Đau nhất là họ lại nhè ngọng chữ "Bù..i.." mới thành chuyện. Chuyện là gái làng dưới vì vậy mới ế chỏng gọng ra, mới có chuyện trâu đi tìm cọc, gái dưới cứ nhè trai trên mà gá nghĩa tào khang. Hương ước làng có ghi rành rành ra cả đấy, nói chả ai tin mới rõ khỉ. Mà cô con gái rượu của bà chánh tổng, ông biết thừa bứa ra đấy, lớn tuổi nhầng nhầng, còi cọc cơm cớm như mèo bị kiết lỵ. Người ngợm vừa gầy vừa khô. Ấy là khô chân gân mặt, các cụ ta xưa dậy đắt tiền mấy cũng mua, như mua trâu mua lợn ấy thôi. Chuyến trâu đi tìm cọc, ông Cửu không..."đặt cọc" cũng không xong. Nhưng chả biết cái thằng ôn vật có ưng hay không. Cứ theo ông chỉ cần vác cái "ba-toong" ghè cho một trận thì nói phải củ cải cũng phải nghe, vì ông biết thằng con ông sợ bố một phép. Đụng đến cây gậy chống trời, ông mới hỡi ơi, cũng chỉ vì quên cái "ba-toong" mà vợ nhà nó biết. Nó gào tướng lên như cha chết mẹ chết không bằng nên ông đành phải khai tuốt cho yên cửa yên nhà. Trở về chuyện lấy vợ cho thằng cả, được cái thằng con ông với lũ đàn ông, con trai cá mè một lứa hết, như cái nơm chòm chọp úp xuống là cũng đâu vào đấy cả, nên chuyện xem mắt vợ cho thằng con cũng xong tất. Xong thế nào được, bên kia bà phó rèn cũng vừa bước ra. Bà hất hất cái đầu ra cái vẻ nghe ngóng động tĩnh. Làm như mình đang điên tiết đây, hai chân bà dẫm thình thịch xuống đất và dẫy đành đạch như đỉa phải vôi. Giận mất khôn, chả hiểu nghĩ sao, hai tay nắm gấu váy, bà phó rèn vén phứa lên như khoe của và há họng tung hê: "...Tao hú ba hồn bẩy vía thằng đàn ông, ba hồn chín vía con đàn bà bắt con gà nhà tao. Thằng đứng chiếu ngang, thằng sang chiếu dọc, thằng đọc văn tế, thằng bế cái hài, thằng nhai thủ lợn. Tao gọi ông cầm cờ xanh đứng đầu ngõ, ông cờ đỏ đứng sau nhà, ông cờ vàng dựa bên hữu, ông cờ trắng nghiêng bên tả, yểm cho nhà mày đẻ con ra thì ngược, sinh cháu ra thì ngang vì dám cả gan ăn con gà mái nhà tao...". Vướng víu vào mắt ông là bà phó vén phứa váy lên...Bỏ mẹ...lại chình ình cái tổ con chuồn chuồn. Thề trước ngọn đèn...thuốc phiện nào ông có tội vạ gì. Ông búng lưỡi, cũng chả phải vì người "Lợn vừa chứ"..ư..ư...đâu. Vì Ta khác Tây, bên trong Tây nó còn chút vải thừa bằng bàn tay để che mưa che nắng. Còn Ta thi...thì...trống toang hoác mới điên người. Nói trắng ra trăm sự ở..."cái váy" cả. |
Bà Cửu bên này ngứa mắt bà phó rèn bên kia hai chân dẫm thình thịch. Bà không thể để con mụ tai ngược mồm loa mép giải này lên chân được nữa. Trên rừng có sơn lâm, dưới sông có hà bá, phải cho mụ này một mẻ, phải trị nó thẳng tay. Đúng là cái thứ xanh vỏ đỏ lòng, mới hôm nào đây lẻo mép nhà bác với nhà em. Nào là dạo này nhà em túng bấn lắm, đám Bùi Dưới ấy em chẳng nhờ vả được ai, trăm sự nhờ bác, nay vay rá gạo, mai mượn rổ khoai. Ấy vậy mà bây giờ giở mặt thớ lợ, nỏ mồm chua ngoa, nó muốn trêu ngươi ai đây mà độc mồm, độc miệng thế không biết, hả giời. Thế là ba máu sáu cơn bà nổi lên, bà Cửu bỏ cơi trầu xuống, khăn vuông vắt vai, một tay chống sườn, một tay vung vẩy. Bà bước tới bước lui trên mặt đất thô. Cứ mỗi bước đi, ngón tay trỏ cong khoằm như mỏ vẹt, lại mổ đôm đốp sang bên kia xỉa xói. Như được thuê chửi mướn hay thuê đòi nợ chiều ba mươi tết với năm cùng tháng tận. Bà chửi toang hóac: "Tổ cha chúng mày...". Bà cũng bắt chước con nặc nô, ngừng một chút nghe động tĩnh, rồi bà lồng lộn, gân cổ như con gà chọi, bà chửi te tái: "...Cha đẻ mẹ thằng đàn ông, con đàn bà nào quen thói bán không mua chịu, quên vay đầy giả vơi, đẻ con có mồm mà nói điêu, có mắt mà nói mò như mày...Cha đẻ nhà chúng mày nhá... ". Vừa làm thêm một ngao nữa. Cạnh cái bàn đèn là ông đầu rau nhỏ bằng quả bòng. Ông thong thả nhấc cái siêu nước trà được hâm nóng từ cái lò than, những bông hoa lửa bắn ra như pháo hoa cà, hoa cải. Chiêu trà vào cái chén sành to bằng quả bứa. Ông khẽ cất đầu khỏi cái gối mây, nghiêng mình hớp một ngụm. Ông hãm khói thuốc từ nãy giờ. Giờ mới nhả ra những mảng khói xanh nhạt nhỏ, từng đợt, từng sợi mỏng tang như hương tàn khói lạnh. Ông lơ tơ mơ như cóc ngậm thuốc lào và rị mọ đến ngày nào. Ấy là cái ngày ông như cờ phướn phất phơ. Đang định rẽ phải về nhà thì lại theo lối đi ngoằn ngoèo như vệt trâu đái. Không gặp trâu lại gặp..."Lợn vừa chứ". Khẽ trở mình cho đỡ ê ẩm...Ông bâng khuâng, bâng quơ... Chẻ hoe trắng phớ được nhăm câu, bà Cửu đã đứ đừ, mặt tái dại như dây khoai kiệt nước. Bà Cửu ngừng một chốc, và thở rốc. Bà phó nề cũng chẳng hơn gì, đến phiên mình, một tay vừa mệt mỏi vung lên nửa chừng, cái yếm khi không lỏng...dây, tuột xuống phơi bày cái rốn lồi bằng quả sung. Cờm rớm để lộ cặp vú như hai quả mướp già đầy gân xanh, gân đỏ. Bà phó nề cắt ngang sẻ dọc đứt quãng, rời rạc: "...Hôm nay tao chửi một, ngày mai tao chửi hai, tao chửi cho chúng mày hóa điên hóa cuồng, tao rủa suốt tháng liên miên không ngừng, năm này qua năm nọ. Bây giờ tao mệt quá rồi, tao vào lo cơm nước, muốn sống thì phải thả gà tao ra, lạy tao hai lạy, tao tha cho mày. Nếu không, ngày mai tao tế sống chúng mày cho mà biết, chúng mày hãy vén màng tai, gài mái tóc, chặt hàng rào cho thấp mà nghe tao chửi: Bớ con nào bắt gà nhà tao thì đẻ con không có lỗ đít. Bớ...". Bầm vập vào mặt ông là hai bầu vú xẹp lép...Bất giác ông tặc lưỡi một cái... Mặt trời ngả gần con sào, cuộc đối đáp đến hồi giống phường chèo. Khi chậm, khi nhanh. Lúc ngừng, lúc nghỉ. Lên cao, xuống thấp. Vung tay đá chân đến gần giờ ngọ lúc nào bà phó rèn quên tiệt..."bây giờ tao mệt quá rồi, tao vào lo cơm nước". Bà khản cổ, giọng rè đặc, tóc xổ ra, mắt đỏ ngầu, sùi bọt mép, thở hổn hển và ngồi bẹt xuống đất. Bà Cửu cũng vừa nghỉ mệt xong và đang ngong ngóng đợi đến phiên mình. Cũng ngay khi ấy, có tiếng gà gáy te te giữa trưa, bà Cửu nhớ lại lời chồng bà là con gà biết những cái người không biết. Như gà biết gáy giờ tí, giờ dậu. Gáy ròn rã là nắng, khào khào là mưa. Người chỉ biết sau con gà là gáy giờ ngọ, thế nào trong làng cũng có đàn bà...chửa hoang và bà như vỡ nhẽ ra...ngọ gần với...với... Bà Cửu chợt nhớ ra bà hàng xóm kia tên Dần. Thế là bà gân cổ lên...dần cho con đĩ rạc một trận. Báo đời cho con đĩ gầy này biết tay bà. Bà lộn mề ứa gan, giật phắt cái khăn vuông vứt tọet xuống đất, bà chửi vỡ làng vỡ nước, bà tế sống nhà chúng nó: "...Có là...là... hùm, là hổ thì cũng chui từ cái lỗ kín của đàn bà mà ra. Từ ông ba mươi đến con thối thây, thối xác cũng chẳng thóat được cái lỗ rò ấy. Đời con đời cháu nhà mày cũng ở cái giống ấy mà chui ra. Này, bà báo đời cho mày biết nhá, con đĩ gầy, đĩ rạc, con đĩ chửa hoang...". Nghe đến "chửa hoang", ông giật thót người vì...hú vía. Đảo qua tít lại, ông hồi tưởng đến...buổi trưa hôm ấy. Rồi ông đẩy đưa tới chiều hôm qua thằng cả luộm thuộm áo dài "ba-ga", quần trúc bâu, ắt hẳn lại thậm thụt xuống làng Bùi Dưới điếu đóm như mấy chuyến trước, lúc rổ na, khi quả mít. Ông biết tỏng cái thằng say gái này đang bám ả như cua cắp. Con giống cha nhà có phúc, phúc đâu không thấy, dám...như ông lắm ạ. Mẹ bố nó chứ, chứ trứng đòi khôn hơn rận, đến bố mày đây còn xém chết nữa là...Thế là ông vặc thằng con mới nứt mắt ra đã tí tỡn, sướng con cu mù con mắt, có ngày...trắng mắt ra. Thằng con mắt trắng như mắt lợn luộc, ngóac cái mồm: "Bố đay gì tôi. Bố nói gì tôi chả hiểu sất". Rồi bỏ đi một nước... |
Đang lất phất đến đây, "Lợn vừa chứ" mặt không còn nhơn nhơn ra nữa với con mắt lá răm. Chợt có tiếng con cộp cộp đực giục giã... "Lợn vừa chứ" thộn mặt ra, vẩu môi môi lầu bầu...Ông không muốn nghe nhưng nó cứ bò vào tai ông với tiếng đực tiếng cái nào là đồ "ăn cháo đái bát" này kia. Tới cái thứ đàn ông "qua sông dí buồi vào sóng" kia nọ. Hóa ra "Lợn vừa chứ" không chửi vì mất gà mà nhè ông chửi...Chưa nghĩ hết câu, ông thấy "Lợn vừa chứ" dóng mỏ...chửi lại từ đầu mới rõ cơ khổ ông cơ chứ: "...Thằng đứng chiếu ngang, thằng sang chiếu dọc, thằng đọc văn tế, thằng bế cái hài, thằng nhai thủ lợn. Con gà nó ở nhà tao nó là con gà, nó sang nhà mày nó là thần đanh đỏ mỏ...". Hóa ra "Lợn vừa chứ" chửi ông thật mới đau. Vừa gãi bẹn sồn sột, ông vừa thông điếu, thông manh ra rằng bấy lâu nay ông chả hiểu quái gì về đàn bà, con gái cho mấy, mới quen thì rằm cũng ừ, mười tư cũng gật. Ấy vậy mà bén hơi thài lài cứt chó rồi thì dính cứng vào nhau như chó dái, ít lâu sau hóa dại, hóa dồ nào có khác gì...chó dại. Bông ông buột miệng: Tiên nhân cái lũ đàn bà, chúng càng ủng oẳng mình bao nhiêu thì chúng lại càng bám mình như đỉa đói bấy nhiêu. Mà cái giuộc đàn bà nạ dòng chúng nó lạ lắm, đất sinh cỏ già sinh tật, họ cứ như chuồn chuồn khi vui thì đậu khi buồn thì bay nên chả biết đâu mà lần. Ông gật gù, đúng là chó dại từng mùa người dại quanh năm. Ông lắc đầu lan man, mà chả ai dại gái như thằng con ông, mới chiều hôm qua đây, vừa hỗn láo với ông "Bố đay gì tôi..", nháo nhác một cái cung cúc lỉnh ra đầu ngõ. Nhòm từ xa, nó lum khum phía đằng trước như dấu diếm gì đó. Với mắt quáng gà của ông thì dường như hai tay nó củm nủm cùm nụm...cái bu gà thì phải. Khỉ thật, chẻ tre không bằng ve gái, ai lại thằng nỡm đi ve gái với gà cơ chứ. À mà dám chị...gà mái xám lắm ạ. Ông thốn người lại... Ông thốn người thêm cái nữa với những lao xao...Vì bắt gặp "Lợn vừa chứ" đang đi vào. Bỗng quay lại, mặt mũi nhẹ hẳn đi với con mắt có đuôi. "Lợn vừa chứ" vớt vát: "...Cha năm đời mười đứa nào bắt gà của bà thì thò mặt ra nghe bà chửi thêm nhé! Mày bắt gà, mày vặt lông, mày luộc, mày nấu, mày nướng. Cho vợ, cho chồng, cho con, cho cái, khi khi khú khí với nhau nhá! Mày có khôn hồn thì trả ngay cho bà, nếu không ngày rằm, ngày một bà trồng cây chuối ngược, bà... ". Cuối cùng thì "Lợn vừa chứ" cắp cái nia lon ton đi vào mất hút. |
Đất trời lặng ngắt như tờ, còn lại chỉ là tiếng rì rào của cỏ cây. Ở trong này, ông cảm thấy trống vắng đến dớ dẩn. Bỗng con thạch thùng đi hoang tặc lưỡi một cái "tách". Cành lá chanh ngả nghiêng trước gió, câu chửi "Mày bắt gà, mày vặt lông, mày luộc..." như mời mọc đâu đây. Ông chẳng biết làm gì hơn là nghe ngóng, đợi chờ. Ông không nghe thấy con cộp cộp đực ì oạp gọi con cộp cộp cái nữa. Vắng lặng đến nhạt thếch người. Buồn tình ông thò tay gãi háng, gãi bẹn, ghếch đầu đảo qua cái quan tài gỗ vàng tâm, ngước mắt lên bàn thờ. Mẹ ơi, ông như nhìn thấy chính ông đang ngồi nấp sau bát nhang, và thấp thỏm nhìn trộm...con gà khỏa thân. Chả là ông muốn nghe chửi mất gà...thêm nữa, nghe đến chót đời. Rõ ra là thế đấy, hóa ra ông nghiện nghe chửi như...nghiện thuốc phiện ấy thôi. Ông chỉ sợ mai này chẳng được nghe chửi thì...Ừ thì với cái tuổi già, không có chuyện làm cho qua ngày hay để dựa dẫm theo năm tháng thì...tiên nhân nó chứ, càng ngày càng già đi. Vì vậy ông cần có một cái gì để bám như đỉa bám chứ. Và ông tặc lưỡi một cái...
Trúc gia trang
Xuân phân, Ất Dậu niên Ngộ Không Phí Ngọc Hùng |
Phụ chú: |
1 - Theo tài liệu người viết có được thì những câu chửi mất gà được truyền khẩu từ vùng đất núi Nùng sông Nhị. Vì vậy có nhà biên khảo ngôn ngữ dân tộc học ở Hà Nội cho rằng qua âm ngữ hay cuộc hội nhập của chữ nghĩa thì có thể có trước thời vua Lê chúa Trịnh, cùng thời với bài thơ Con Cóc với "Con cóc trong hang, con cóc nhẩy ra...". Hoặc giả như sau thời Trịnh Nguyễn phân tranh một chút. 2 - Cũng theo nhà biên khảo trên, ngôn ngữ truyền khẩu chửi mất gà được lan truyền rộng rãi tại vùng quê miền Bắc. Tuy nhiên vì lời ăn tiếng nói hơi dài cùng tam sao thất bản, và cũng tùy theo âm thổ nên câu chửi mất ngắn đi và chữ nghĩa biến dạng cũng khác nhau theo địa phương tính. Xuất phát từ miền Bắc, văn chương dân gian chửi mất gà theo cuộc di dân của chúa Nguyễn vào đến miền Trung thì chữ nghĩa rơi rớt còn lại dăm câu như ở dưới đây: "Hôm qua tau mất con gà mái dầu khoang cổ. Hôm ni tau mất con gà mái nổ khoang bông. Con mô bắt là gái trốn chúa lộn chồng. Thằng mô bắt là đàn ông ba đời đi ở đợ... Tụi bay hãy vén mái tai, gài mái tóc, chống cửa ngõ cho cao, chặt hàng rào cho thấp mà nghe tao chửi...Bay ăn cho chồng bay sợ, cho vợ bay kinh, bay ăn cho ngã miếu sập đình, cho mồ cha bay chết hết, để một mình bay ăn." 3 - Vào đến miền Nam, trước năm 75, văn chương truyền khẩu dân tộc chửi mất gà được giáo sư Nguyên Ngọc Huy thuyết trình bằng tiếng Anh trong Đại Hội Văn Hóa Á Châu tại Vọng Các, Thái Lan. (Ngôn từ chửi được ngắt từng đoạn, chia từng khúc trong truyện ngắn "Chửi mất gà" được xem như là tạm đầy đủ với nguyên bản từ trong nước gửi sang cho người viết). |
VIẾT THỊNH * VĂN HÓA CÔN ĐỒ
Văn hóa côn đồ. . .
Chuyện dễ gặp ở Hà Nội, một người đàn ông cầm ghế nhựa đuổi theo đánh một khách hàng vì đi vào vỉa hè, vướng đồ của quán ông ấy bày ra. Ảnh: VT
Dân Luận: Có lẽ đề tài người Hà Nội có thanh lịch hay không luôn là một đề tài gây tranh cãi. Chúng ta không thể phủ nhận những nhận xét thẳng thắn về xã hội, con người, phong cách phục vụ của Hà Nội hiện nay. Và dĩ nhiên không phải người Hà Nội nào cũng giống như trong bài viết phê phán này. Điều chúng ta nên quan tâm không phải là tranh cãi những bài viết này nói xấu người Hà Nội có đúng không? có phân biệt chia rẽ vùng miền không? mà chúng ta nên nhìn nhận, xem xét lại và thay đổi. Cùng chia sẻ bài viết của tác giả Viết Thịnh Dân Luận cũng xin chia sẻ với bạn đọc dòng status của anh Lê Dũng Vova một người cũng hiện đang sống tại Hà Nội.
Lê Dũng Vova - Bạn có thể chưa biết về Hà Nội:
- Nếu bạn đi ăn phở sáng ở Hà nội mà chưa thấy chanh, ớt, tỏi... mà gọi chủ quán lấy cho thì bạn không phải người ở đây. Văn hóa Hà Nội không như Sài Gòn.
- Nếu bạn đi uống cafe mà xin thêm hai lần nước lọc thì coi chừng, bạn có thể phải trả tiền nước lọc hoặc họ nói: Bọn em bán chai Lavie. Nếu bạn chỉ uống cafe mà ngồi lâu quá cũng gây khó chịu cho chủ quán.
- Nếu bạn vào các chợ đầu giờ sáng, chỉ hỏi giá hay xem xong đi thì coi chừng, vía bị đốt sau đó.
- Nếu bạn đi tàu hay xe car về Hà Nội, gần tới bến mà không đeo kính đen và bảo: "Vợ anh đang chờ kia" thì bạn sẽ bị chỉ vào mặt: "Thằng áo NO U kia của tao," và lôi rách cái áo lên xe ôm.
- Nếu bạn đi tìm số nhà 258 trên phố nào đó thì coi chừng sẽ có hai chục số nhà như vậy. Đố bạn giao bưu phẩm được nếu không có số di động của người nhận.
Đấy, Hà Nội của bọn mình đấy, bọn các nơi đến cứ chuẩn bị xem trước các lưu ý này nhá.
---------------------------------------
Cô chủ Hà Thành: Chửi khách hay hỏi, dằn mặt người dám cãi
1. Sáng đi ăn phở, phở bưng ra đang bốc khói. Bạn tôi hỏi: “Cô ơi, cho cháu ít chanh.” Chủ quán im lặng.
Lại hỏi: “Cô ơi, có chanh không cho cháu một ít.” Chủ quán quay sang ra chiều giận dữ, từ khuôn mặt mỡ màng béo tốt, hai vành môi của bà nâng lên sin sít: “Hỏi một lần nghe rồi, tôi có điếc đâu mà hỏi lắm thế!” Bạn tôi im bặt. Lát sau bà cầm chanh đến, vứt độp trên bàn. Bạn líu ríu đưa tay với lấy mà hình như vẫn còn run. Chúng tôi đến một quán nhậu, vừa mở thực đơn ra thì thấy bốc mùi nước mắm, nhoen nhoét bẩn thỉu. Bạn hỏi nhân viên phục vụ: “Em ơi, sao cái thực đơn bẩn thế?” Phục vụ lầm lì im lặng. Bạn tôi bực bội, hỏi tiếp: “Em bị thế này lâu chưa?” Phục vụ hỏi lại rằng bị gì. “Thì bị khó khăn đường ăn nói đấy” - bạn tôi đáp. Rồi bạn kéo tay tôi đi thẳng, vừa đi vừa nói: “Mình đi tìm quán nào có nhân viên biết nói.”
2. Trong một cuộc tọa đàm về đô thị, một nhà nghiên cứu về đô thị học thế giới đã khá ngạc nhiên trước cuộc sống trên vỉa hè của Hà Nội. Ông dùng chiếc máy ảnh du lịch của mình, chân bước chậm trên vỉa hè, lách qua những chiếc xô chậu, bàn ghế bày ra, tránh những hàng quán chỉ chực trào ra lòng đường. Và ông chụp, nhiều góc độ trên cái vỉa hè ấy. Rồi ông nói mỉa rằng người dân Hà Nội “biết vận dụng một cách khôn khéo và đồng thuận không gian công cộng thành không gian riêng của mình.” Sự phân chia không gian chiếm dụng khiến mọi người đều tự thỏa hiệp với nhau. Thế nên bạn đừng lạ lẫm khi vô tình chạm chân vào một vài thứ họ bày trên vỉa hè, dù nơi đó bạn được quyền đi lại. Người ta sẽ sấn sổ, đe nạt, mắng nhiếc bạn như đang xâm phạm cái sân của nhà mình. Rồi bạn có thể cũng tự tin đối đáp lại sòng phẳng về quyền đi lại của mình. Tuy nhiên, bạn phải vận dụng lý lẽ này để an toàn: Tránh voi chẳng xấu mặt nào. Bởi tôi đã từng chứng kiến bạn tôi đi ngang hàng phở, tranh cãi kiểu như trên và kết quả là nhận nguyên một muôi nước phở từ tay bà chủ quán vào mặt.
3. Cây xăng trên đường Láng chiều tối đông người, tôi đang kiên nhẫn đợi đến lượt mình thì một em mặt xinh da trắng, quần ngắn đầu trần (sau đây tạm gọi là em thiên thần) cưỡi xe tay ga lao tới chia cắt đội hình rồi ném cho một ánh nhìn như muốn nói: “Ê anh, cho em tranh chỗ tí.” Chẳng cần anh gật đầu, em ủn bánh xe của em lên trước bánh xe tôi. Trước nhan sắc, tôi cực kỳ bản lĩnh. Tuy nhiên, lúc đó bỗng tình thương trỗi lên, tôi mỉm cười nhân nhượng rồi cong mông đẩy xe mình lùi lại cho em chiếm chỗ. Đến lượt mình, em đỏng đảnh đẩy xe lên, thanh niên bơm xăng nhìn em giận dữ, nói: “Đi vòng lại xếp hàng, em có mang bầu, tàn tật hay vấn đề gì không mà đòi ưu tiên?”
Thanh niên vừa dứt lời, em thiên thần đã ngúng nguẩy đẩy xe ra khỏi đội hình, vừa đẩy vừa nói: “Mẹ mày, không đổ thì thôi, tao có bầu với bố mày chắc.” Lúc đó, em thiên thần trong mắt tôi đã vội vã bay đi, chỉ để lại hình hài của một thiếu nữ vô cùng đanh đá.
Còn lại tôi với thanh niên bán xăng, thanh niên bán xăng lầm rầm nói trong khói xe tay ga: “Hôm nay anh mà không bận làm thì con đó không xong với anh.” Tôi chen ngang: “Không xong thì anh định làm gì?” Thanh niên bán xăng mặt vô cùng hiên ngang, đáp: “Thì chẳng cần đến bố anh, riêng anh đủ làm cho nó có bầu. Chú tin không?”
Ôi, Hà Nội thanh lịch ơi, em đang ở đâu?!
VIẾT THỊNH
VỤ THICH CHÚC MINH
Những điều chưa biết đằng sau "clip seX Thích Chúc Minh" Vào những ngày cuối năm 2014 cư dân mạng lại một phen "dậy sóng" vì clip sex được cho là của Đại đức Thích Chúc Minh tung lên mạng. Hình ảnh "giường chiếu" với những màn ái ân nhạy cảm khiến cho nhiều người, trong đó có cả những Phật tử không thể không tin đó là sự thật.
Cali Today News - Rất nhiều người cho rằng, đằng sau việc bêu xấu một vị sư ắt hẳn phải là một âm mưu thâm độc nào đó. Mới đây, Luật sư Lê Thanh Sơn, người đại diện pháp luật của trụ trì chùa Từ Tôn cho biết, ông này đã nhận được 2 văn bản ủy quyền của bà Hiếu Phạm (Việt kiều Mỹ), là nhân vật nữ trong đoạn clip sex được cho là với sư thầy Thích Chúc Minh. Luật sư Sơn cho hay, hình ảnh trong clip sex nói trên là của bà Hiếu Phạm với người bạn trai cũ, sau đó đã được chỉnh sửa, cắt dán và thay vào đó bằng hình ảnh của nhà sư Thích Chúc Minh. Bà Hiếu Phạm cũng đã tố cáo điều này với Cục Điều tra Liên Bang Mỹ (FBI).
Tai ương có thể sẽ không đến với sư thầy Thích Chúc Minh nếu như ông không là người được chọn để kế tục Thượng tọa Thích Viên Mãn - trụ trì chùa Từ Tôn. Chùa Từ Tôn tọa lạc ngay trên hòn Đỏ, thuộc phường Vĩnh Thọ, thành phố Nha Trang (tỉnh Khánh Hòa). Hòn đảo nhỏ này có diện tích 22.000m2 chỉ cách mặt đường khoảng 300m. Mỗi khi thủy triều xuống, người dân vẫn thường đi bộ qua chùa để cúng viếng.
Hòn Đỏ buổi sơ khai chỉ toàn là những tảng đá đỏ. Vào những năm 1960s, Thượng tọa Thích Viên Mãn ra đảo để khai hoang, phục hóa. Ban đầu, ông cho dựng tại đây một cái am để phục vụ việc tu hành. Rồi từ đó, ròng rã trong suốt 40 năm trời xách từng thùng nước ngọt, gánh từng bao đất từ đất liền để có được ngôi chùa với những hàng cây xanh tươi như ngày nay. Công việc của ông ắt hẳn sẽ không được như mong muốn nếu không có được sự giúp đỡ của đông đảo Phật tử và người dân Nha Trang. Việc hòn Đỏ trở nên xinh đẹp như ngày nay phải là một kỳ tích từ bàn tay con người. Và, cũng chính vì vậy mà hòn Đỏ trở thành nỗi thèm muốn của các ông trùm tư bản đỏ muốn biến nơi này thành khu du lịch để kiếm tiền. Để làm được điều đó cần phải có sự hỗ trợ từ phía chính quyền tỉnh Khánh Hòa.
Với hai bàn tay, Thượng tọa Thích Viên Mãn đã kiến tạo ra được cả một ngôi chùa bề thế. Vậy nhưng, chính quyền tỉnh Khánh Hòa vẫn không thừa nhận đó là cơ sở tôn giáo, nếu có thì đó chỉ là cái chùa tư, tức là của người dân tự xây dựng chứ không được chính quyền công nhận cho dù nó đã tồn tại từ khi người Cộng sản chưa chiếm được miền Nam. Việc tranh chấp hòn Đỏ giữa Thượng tọa với chính quyền tỉnh là đề tài được đông đảo người dân Nha Trang bàn tán từ hơn 10 năm nay. Trước việc có thể bị cưỡng chiếm, đền bù bằng những cái giá rẻ mạt như họ đã làm với biết bao dân oan mất đất khác, vị Thượng tọa này đã nhiều lần phải ra đến Hà Nội để cầu cứu. May thay, ông được tờ giấy chứng nhận hòn Đỏ là danh thắng Quốc gia trong đó bao gồm cả chùa Từ Tôn. Trước quyết định của Trung ương, vào năm 2003 chính quyền Khánh Hòa buộc lòng phải công nhận trên hòn Đỏ có chùa Từ Tôn. Mặc dù vậy, việc xây dựng hay mở rộng chùa liên tục bị chính quyền cho lực lượng chức năng đến cản phá. Vào tháng 6, 7 năm 2003, chính quyền Khánh Hòa 2 lần ra thông báo yêu cầu 3 người trong chùa phải di chuyển đi nơi khác để tỉnh triển khai các dự án du lịch. Sư thầy Thích Chúc Minh phải cầu cạnh, chạy vạy khắp nơi để cuối cùng chính quyền tỉnh phải nhượng bộ, ban hành quyết định giao 900m2 đất cho chùa Từ Tôn.
Nhưng âm mưu chiếm hòn Đỏ để bán lại cho các công ty phát triển du lịch vẫn chưa biến mất trong suy nghĩ của lãnh đạo tỉnh Khánh Hòa. Mượn cớ chùa Từ Tôn cho cơi nới, xây tượng và cắm cờ, chính quyền tỉnh liền dự kiến sẽ cho công an, quân đội, dùng vũ lực để cưỡng chế, trục xuất. Nhận thấy việc làm này sẽ khiến cho Phật tử trong nước phẫn nộ, dễ xảy ra việc đối đầu giữa chính quyền với người dân, ngày 31/8/2010, Bí thư tỉnh ủy thời đó là ông Nguyễn Văn Tự tổ chức buổi làm việc với đại diện chùa Từ Tôn.
Trên tờ Người Cao Tuổi ra ngày 25/12/2014, sau khi vụ clip sex sư thầy Thích Chúc Minh lên mạng cho biết, tại buổi làm việc với chùa Từ Tôn, phía chính quyền đưa ra 2 phương án để cho đại diện chùa lựa chọn. Một là: Tạm nhận 900m2, sau đó sẽ cấp tiếp 300m2 nữa. Còn diện tích còn lại (khoảng 21 ngàn mét vuông) sẽ giao cho Sở Văn hóa-Thông tin-Du lịch làm chủ đầu tư để xây dựng "công viên"; Hai là cấp cho chùa Từ Tôn nơi khác với diện tích 4000m2 để xây chùa. Cũng theo tờ Người Cao Tuổi, sư thầy Thích Chúc Minh đã chọn phương án 1.
Ngay sau khi clip sex được cho là của sư thầy Thích Chúc Minh được đưa lên Internet, báo Khánh Hòa- cơ quan của đảng bộ CSVN tỉnh Khánh Hòa đã nhanh chóng chộp lấy đó để mở chiến dịch bêu rếu, bài báo có tên "Dư luận nổi sóng với clip về Đại đức Thích Chúc Minh". Tiếp tay cho tờ báo Khánh Hòa có hàng chục tờ báo khác nhảy vào dẫn lại nguồn tin từ tờ báo này. Nhưng, cũng nhanh như khi xuất hiện, bài báo bêu xấu sư thầy Thích Chúc Minh đã nhanh chóng bị rút xuống. Tuy vậy, tờ báo cũng đã "lưu dấu" trên Internet và kết quả của việc "nổi sóng" là vào ngày 22/12/2014, báo Khánh Hòa bị phạt 10 triệu đồng vì "phần hình ảnh minh họa không phù hợp với thuần phong mỹ tục tại Việt Nam". Không những vậy, báo này còn bị phạt tiếp 10 triệu đồng vì đây chỉ là trang thông tin điện tử nhưng đã hết hạn. Tổng cộng mức phạt là 20 triệu đồng.
Những hình phạt dành cho báo Khánh Hòa không đủ đánh tan đi dư luận không hay về sư thầy Thích Chúc Minh. Ngay sau khi tờ báo này bị phạt, một cây viết ở Khánh Hòa còn tiếp tục gửi bài viết bôi nhọ sư thầy lên trên tờ báo Người Cao Tuổi liên tiếp trong 3 kỳ. Trước những sự công phá từ nhiều phía, sư thầy chỉ biết "nhập thất" để mong chờ ánh sáng công lý.
Trong văn bản gửi cơ quan báo chí vào ngày 11/12/2014 từ văn phòng luật sư AIC khiến độc giả nhận ra vài điều bí ẩn đằng sau chiến dịch bôi xấu sư thầy Thích Chúc Minh. Theo văn bản này thì "Thượng tọa Thích Viên Mãn cùng với các Phật tử của chùa Từ Tôn khắp cả nước đang tiến hành hoàn thiện các thủ tục pháp luật để xin cấp Giấy Chứng Nhận Quyền Sử Dụng Đất và Giấy Phép Xây Dựng Chùa". Theo Luật sư Lê Thanh Sơn thì những thủ tục này cho đến nay đã gần như hoàn tất và dự kiến chùa Từ Tôn sẽ xây dựng vào đầu tháng 1/2015.
Như vậy, với việc bà Hiếu Phạm, người nữ trong clip sex đã ủy thác cho FBI điều tra người đã tung clip sex của bà với người bạn trai cũ được thay vào đó là hình ảnh của sư thầy Thích Chúc Minh. Đồng thời với đó là việc chùa Từ Tôn gần "hoàn tất" thủ tục xin cấp "Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất" và sẽ tiến hành cho xây dựng chùa vào đầu tháng 1/2015 chúng ta có thể liên tưởng rằng: Trước việc Thượng tọa Thích Viên Mãn đã già yếu, thì chiến dịch bôi nhọ sư thầy Thích Chúc Minh nhằm đuổi ông ra khỏi chùa Từ Tôn để chính quyền cướp lấy hòn Đỏ khai thác du lịch. Đó cũng là điều mà từ nhiều năm nay, qua biết bao đời lãnh đạo nhưng chính quyền tỉnh Khánh Hòa vẫn chưa làm được. Không thể dùng luật pháp để cưỡng chế, trục xuất những người đang tu tập trong chùa, chính quyền tỉnh Khánh Hòa đã nghĩ ra những chiêu trò dơ bẩn, hèn hạ để bôi xấu. Sự hạ đẳng của chính quyền Cộng sản thiệt chẳng biết đâu mà lường.Chúng ta chờ xem hồi tới sẽ ra sao!Người Quan Sát
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 350
Những hình ảnh dưới đây do nhiếp ảnh gia người Mỹ Henk Hilterman thực hiện năm 1967 ở Sài Gòn và một số địa phương khác của miền Nam Việt Nam.
Trẻ em trong một khu chợ ở Sài Gòn.
Nữ sinh trong một ngôi trường xếp hàng vào lớp.
Ngày nay bé gái này là một quý bà U60!
Nữ sinh với áo dài và nón truyền thống.
Vẻ hồn nhiên của các nam sinh.
Học sinh chơi đánh đáo.
Những đứa trẻ vây quanh một gánh hàng quà vặt trên đường Phạm Ngũ Lạo, gần ga tàu hỏa.
Ông bố và những đứa con bên tàu Bệnh viện Helgoland của Đức, được Mỹ thuê trong thời gian chiến tranh leo thang tại Việt Nam.
Trẻ em tắm giặt ngay trên vỉa hè.
Trẻ em tắm giặt ngay trên vỉa hè.
Bơi lội và đùa giỡn trên sông.
Những đứa trẻ trên thuyền.
Trẻ em nghèo chờ đợi để nhận sữa tại chương trình phát sữa cho trẻ em nghèo do Hội Hồng Thập Tự tiến hành.
Trẻ em nghèo chờ đợi để nhận sữa tại chương trình phát sữa cho trẻ em nghèo do Hội Hồng Thập Tự tiến hành.
Trẻ em nghèo chờ đợi để nhận sữa tại chương trình phát sữa cho trẻ em nghèo do Hội Hồng Thập Tự tiến hành.
Trẻ em nghèo chờ đợi để nhận sữa tại chương trình phát sữa cho trẻ em nghèo do Hội Hồng Thập Tự tiến hành.
Ai cho tao làm người lương thiện?”
“Tao với mi không mẹ không con mà chỉ là kẻ thù giai cấp của nhau" - Trường Chinh Đấu Tố Mẹ
Cuộc trưng bày chuyên đề Cải cách Ruộng đất (CCRĐ) 1946-1957 tại viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Hà Nội từ hôm 08-09-2014 với gần 150 hiện vật, tư liệu gốc, tư liệu ảnh đã được hí hửng giới thiệu: “Đây là một hoạt động góp phần tuyên truyền, giáo dục cho đông đảo tầng lớp nhân dân, đặc biệt thế hệ trẻ nhận thức đúng hơn về cuộc cách mạng ruộng đất trong tiến trình cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta những năm 1946-1957. Qua đó củng cố niềm tin, niềm tự hào về Đảng, Chính phủ và sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước hiện nay” (Thông báo của Bảo tàng). Trong ngày khai mạc, “Tiến sĩ” Nguyễn Văn Cường, Giám đốc Bảo tàng còn hùng hồn phát biểu: “Cải cách ruộng đất là một cuộc cách mạng dân chủ ‘long trời lở đất’, mang lại những giá trị to lớn của một xã hội mới, một chế độ mới, một cuộc sống mới cho người dân Việt Nam”.
Dĩ nhiên người dân Việt Nam và cả quốc tế, từ hơn 60 năm nay, đều biết đó là một biến cố trời long đất lở, thậm chí vào bậc nhất lịch sử dân tộc. Không trời long đất lở sao được khi có hơn 172 ngàn người (nói theo con số chính thức) bị gọi là “địa chủ” phải tan thây vì đạn bắn vỡ sọ, cày ủi đứt đầu, đùi đánh nát ngực, dây trói gãy cổ….; khi có gấp ba số người ấy (tính mỗi gia đình 4 nhân khẩu) chỉ vì là thân thuộc của “địa chủ” mà bị giam nhốt trong chuồng trâu, bị cấm ra chợ búa, bị khai trừ khỏi xã hội để rồi phải chết đói trong tức tưởi và uất hận. Không long trời lở đất sao được khi dưới sự che chở lẫn xúi giục của Bác và Đảng, từng đoàn từng đội cải cách tung hoành khắp nơi mọi chốn, quyền uy hơn cả Thượng Đế (“Nhất Đội nhì Trời”), tổ chức những phiên tòa không cần bằng chứng, chẳng thèm luật sư, cấm tự biện hộ, để vội vàng tuyên cáo tịch thu tài sản, tuyên bố bản án tử hình và thi hành bản án ngay tại chỗ! Không long trời lở đất sao được khi từng tốp “ông đội”, “bà đội” hoặc đi vào từng làng, đến các gia đình bần nông hay cố nông, “thăm nghèo, hỏi khổ” để khơi sâu thù hận, tiếp đó “bắt rễ, xâu chuỗi” để chiêu mộ bầy tố cáo, dạy cho chúng tập hài tội thật nhuần nhuyễn ngõ hầu khi hữu sự thì diễn ngon lành… hoặc đến chính những gia đình sắp thành nạn nhân, áp bức vợ tố chồng, bó buộc con tố cha, uổng ép tớ tố chủ, với trò lừa gạt “không chịu tố thì thân nhân sẽ bị tử hình”, nhưng dại dột tố xong thì đó là những bằng cớ rành rành để “đội cải cách” thi hành công lý: giết thể xác địa chủ và giết tâm hồn người thân của họ.
Thế nhưng, nhìn vào các hiện vật (y phục đồ đạc đắt tiền của địa chủ, nhà cửa áo xống tồi tàn của bần nông, hình ảnh nông dân thay trâu kéo cày, kẻ vô sản được đảng ban phát ruộng, gia đình nghèo đoàn tụ sau cuộc chia ly vì đi ở tớ…), người ta thấy chỉ là một trò tuyên truyền hoàn toàn bất chấp lịch sử, dù được trưng bày tại Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Trước hết, một số khách am tường đồ cổ và quá khứ đã cho biết có rất nhiều hiện vật và hình ảnh phục dựng, giả tạo, sai thời (năm 1958 chưa có nồi gang, đũa nhựa và thìa phíp trắng; bát tô tận thời bao cấp sau 78 mới xuất hiện; ảnh ông bố cởi trần kéo thứ cày của thập niên 70…). Tất cả biểu lộ thói khinh thường công luận của những “chuyên gia” trình bày, nhất là thói gian trá vốn thâm căn cố đế nơi người cộng sản, cái thói được thản nhiên bày tỏ chẳng những trong ứng xử cuộc sống mà cả trong giáo khoa, sử sách, tư liệu. Thứ đến, cuộc triển lãm chỉ nói tới những cái gọi là “thành tựu” của CCRĐ (vốn không có hay nếu có thì toàn những thành tựu cho riêng đảng, như sẽ nói dưới đây) mà hoàn toàn lãng quên những sai lầm lớn lao, những tội ác tầy trời và những hậu quả bi thảm cho con người và xã hội. Điều này là sự cố ý, vì chính giám đốc bảo tàng có nói: “Không nhất thiết phải phơi bày sai lầm của lịch sử” rồi còn biện minh cho việc giết người cách trâng tráo vô liêm sỉ, cho đó là sự hy sinh cần thiết: “Có thể những phần trưng bày này sẽ không thỏa mãn được hết mong muốn của người dân, đặc biệt là những dòng họ, gia đình có liên quan đến CCRĐ. Thế nhưng cuộc cách mạng có thắng lợi thì bao giờ cũng có những tổn thất. Mà những tổn thất đó thì không thể đi sâu và đưa vào trong một phạm vi triển lãm nhỏ như thế này. Nếu đưa quá nhiều thì lấn át chủ đề chính là những thành tựu chúng ta đã đạt được trong CCRĐ.
Thôi thì cũng phải nói với họ (172.000 nạn nhân CCRĐ) rằng sự hi sinh của họ mang lại nhiều điều tích cực cho đất nước thời kỳ đó.” Đấy là thói bất phục thiện (không bao giờ nhận lỗi) hầu như luôn tìm thấy nơi người cộng sản, nhất là hàng ngũ lãnh đạo. Chính thái độ bao che tội ác, lấp liếm sự thật này (giữa lúc một tác phẩm vạch trần vô số điều xấu xa, độc dữ, tồi tệ của đảng, đặc biệt trong CCRĐ, vừa xuất hiện trên thị trường và mạng lưới là Đèn Cù của Trần Đĩnh) đã gây nên sự công phẫn nơi đồng bào VN từ trong ra tới ngoài nước. Rất nhiều tài liệu lịch sử, công trình nghiên cứu từ lâu hay nhiều bài viết mới về biến cố đau thương này, soi chiếu nó dưới mọi khía cạnh, đã được đưa ra hay tái đưa ra cho công luận, khiến người ta thấy cuộc triển lãm mang nét thứ ba là ngu đần, và thầm khen taythầy dùi xúi tổ chức cuộc triển lãm đúng là “thằng đểu”. Hay như lời một người dân Hà Nội: “Chúng nó hết khôn dồn ra dại hay sao mà lại đi chọc “c...” ra để ngửi với nhau như thế hở!” Khiến cho cuộc triển lãm dự trù kéo dài 3 tháng phải đóng cửa chỉ sau 3 ngày!
Chính “tấm gương đạo đức Bác Hồ” đó -mà đảng viên, cán bộ và toàn dân bị buộc phải học tập từ đợt chiến dịch này tới đợt chiến dịch khác- đã đẻ ra đảng Cộng sản vốn cai trị đất nước từ 60 năm qua theo tinh thần và đường lối của Hồ. Trước hết là tinh thần độc tài toàn trị. Sử sách và chứng từ đã cho biết: đảng CS thực thi cuộc CCRĐ với ba mục tiêu. Mục tiêu chính trị là nắm toàn quyền trên xã hội. CCRĐ là một cách quét sạch những địa chủ, cường hào, nhân sĩ uy tín, những con người có mầm mống vươn lên ngoài vòng kiểm soát của đảng. Nghĩa là tất cả những gì mà cách mạng cho là đối nghịch, nguy hiểm trong tương lai và trong hiện tại. Quét sạch để xã hội trở nên một tờ giấy trơn, đảng muốn vẽ gì thì vẽ, trở nên một đàn cừu, đảng dẫn đi đâu thì đi. Mục tiêu kinh tế là tập trung đất đai tài nguyên vào tay đảng. Những người cày được chia ruộng (đảng khoác lác có gần 4 triệu nông dân lúc ấy được chia hơn 70 vạn hecta tịch thu từ địa chủ) chỉ vài năm sau là phải vào hợp tác xã, trả lại tất cả (ruộng, trâu, cày) cho nhà nước. Việc này nay được hiến định lẫn luật định rất rõ ràng: nhà nước là địa chủ duy nhất, sở hữu chủ toàn diện! Và cuối cùng là mục tiêu văn hóa. CCRĐ để phá vỡ cơ cấu thôn làng gia tộc, vốn là giềng mối của xã hội nông nghiệp ngàn năm, thay vào đó bằng đoàn đội sản xuất; ngoài ra, khi buộc con tố cha, vợ tố chồng, hàng xóm tố nhau, CCRĐ còn phá vỡ luân lý gia đình nói riêng và đạo đức xã hội nói chung, để đảng đưa ra một thứ đạo đức mới, đạo đức cách mạng, đạo đức bác Hồ, với nguyên tắc duy nhất: cứu cánh biện minh cho phương tiện. Bất cứ cái gì có lợi cho cách mạng, cho đảng, dù đó là gian dối, hận thù, đàn áp, dù đó là bóp méo sự thật, chà đạp công lý, tiêu diệt tình thương, thì đều là tốt là thiện cả!
Do đó và thứ đến là tinh thần “cách mạng tiến công”, nhiệt thành thực thi cuộc CCRĐ theo những quy tắc luân lý của riêng nó. Tiêu biểu là “đảng viên ưu tú” Trường Chinh đấu tố cha mẹ đến chết. Nhờ vậy y cũng được bia miệng ngàn năm khắc ghi câu đối tưởng niệm như thầy mình: “Đấu tố phụ mẫu, tôn thờ Mác Lê, nhục ấy đời chê thằng họ Đặng! Hãm hại sĩ nông, đảo điên văn hóa, tội kia sách chép đứa tên Khu!”. (Đặng Khu chính là Đặng Xuân Khu, tên thật của thằng tặc tử). Tiếp đó, theo Đèn Cù, là Chu Văn Biên, bí thư đoàn ủy cải cách ruộng đất Nghệ Tĩnh. Bắc ghế ngồi trên thềm cao, y chỉ tay vào mặt mẹ đẻ chắp tay đứng dưới sân gằn giọng: “Tao với mi không mẹ không con mà chỉ là kẻ thù giai cấp của nhau. Tao có phận sự tiêu diệt mi mà mi thì sẽ nhất định chống lại”. Bà mẹ cắn lưỡi không chết, ít lâu sau nhảy giếng tự tử. Nhờ thành tích giết mẹ đó, Chu Văn Biên được đảng trao chức Thứ trưởng Bộ nông nghiệp!
Những đảng viên tiếp nối gương Hồ và những “học trò xuất sắc” của y nay càng nhan nhản. Dù ở trung ương hay ở địa phương, chúng đang kéo dài tội ác CCRĐ đó. Nay nó mang cái tên mới: Giải Phóng Mặt Bằng. Nó không chỉ nhắm vào ruộng đất mà cả nhà cửa, không chỉ nhắm vào nông dân mà cả thị dân. Không chỉ là nửa triệu nạn nhân trực tiếp mà cả chục triệu dân oan, sống vô gia cư, chết vô địa táng, khiếu kiện từ đời ông cha đến đời con cháu, bị hành hung, kết án, tống ngục. Bọn địa chủ tham lam, tàn bạo thế hệ mới này còn dự tính dâng cả đất nước cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc để chúng hưởng quyền lực và quyền lợi lâu dài.
Hình chụp binh sĩ trong ngày Biểu diễn Không quân đầu tiên tại thành phố Trường Xuân, phía đông bắc tỉnh Cát Lâm của Trung Quốc, ngày 1-9-2011 / AP
Một triệu người di cư là một vấn ðề chính trị như tổ chức di cư, ðịnh cư, ổn ðịnh ðời sống.
Khi tôi nhìn hình ảnh một người ðàn ông cụt cả hai chân, phải dùng hai bàn tay làm chân, lết lên chiếc tầu há mồm của quân ðội Mỹ, tôi cảm thức sâu xa ðược ý nghĩa cao ðẹp của cuộc di cư này. Cuộc di cư từ miền Bắc vào Nam ðã vô tình mang theo những con người bất hạnh như thế, hầu hết là tay trắng mà hành lý mang theo chỉ là mớ quần áo rách, nồi niêu xong chảo ðáng giá bao nhiêu.
Tuy nhiên, không ai ngờ rằng bên trong những con người, họ còn mang theo họ chữ viết, tiếng nói, nếp sống nếp nghĩ ðến phong tục tập quán cả ngàn nãm và cả tín ngưỡng của họ nữa.
Mỗi người di cư vào miền Nam ðược coi là người mất quê hương,mất cội nguồn và may mắn thay trong cuộc hội nhập ðầy phấn khởi này, họ ðã tìm lại ðược tất cả. Họ có thể mất tất cả, nhưng có thể tìm lại ðược tất cả.
Về mặt chính trị, họ nay là những người quốc gia có tự do, có dân chủ sống trong một chế ðộ cộng hòa, dân chủ và pháp trị. Ðiều chính yếu là không còn chế ðộ phong kiến cũng như chế ðộ thực dân thuộc ðịa.
Về mặt con người, họ là những người miền Nam trọn nghĩa, hương thụ một nền giáo dục nhân bản, khai phóng, lấy con người làm cứu cánh. Và nhất là cùng chia, chịu chung số phận sau 1975.
Trong hoạn nạn, họ có nhau, là nhau. Trong trại tù, trại tập trung, họ là anh em.
Ngoải trại tù, ở hải ngoại họ là những người dân miền Nam cùng chia xẻ số phận ðể mất miền Nam.
Nhận diện bộ mặt những người di cư
Xét bên ngoài họ là những người nghèo khổ, nhếch nhác. Họ ãn mặc lôi thôi lếch thếch, gồng gánh, bồng bế con thơ, hoặc ðứa lớn dắt ðứa bé, cả một ðàn nheo nhóc. Nét mặt họ phần ðông còn ngơ ngác, lo âu thể hiện trong ánh mắt.
Phần lớn bọn họ không có ðến nổi một ðôi dép. Họ ði chân ðất là chính. Phần ða số các bà thì chít khãn, ðầu ðội nón sùm sụp.
Nhìn ðám người nghèo nàn khốn khổ này, quê mùa và có vẻ quê mùa, khờ khạo, tự hỏi họ sẽ là gì trong tương lai? Ai dám ðặt ðể tương lai vào cái ðám người này, vào những ðứa trẻ còn ở chuồng, mặt mũi lem luốc trên?
Những cái cảnh bồng bế, dìu dắt nhau từng ðàn, bước lên tàu há mồm là những cảnh ðược quay lại một cách sống ðộng và có thực.
Nhiều khuôn mặt ðàn ông, ðàn bà như già nua trước tuổi. Nó tố cáo những ngày thắng ðầy gian truân và thử thách ðã qua hầu như vừa qua một cơn ác mộng. Nhiều ông bà cụ xem ra khờ khạo, lóng cóng, vụng về trong cử chỉ, nói nãng. Ðụng một tý là kêu: Dạ, không dám. Lạy Chúa tôi. Giê su ma vv.
Bề ngoài trông họ khờ khạo như thế, bên trong thì không biết ðược. Có thể là một ý chí quyết liệt, bất chấp mọi thử thách, bất chấp mọi ðe dọa của cộng sản. Họ có thể sẵn sàng chết ðể bảo vệ tự do con người. Những làng thuộc vùng khu 4, khu nãm, ðôi khi cả làng cùng nhau trốn cộng sản.
Số những người thanh niên, trí thức miền Bắc di cư vào Nam (1) thấy ít ỏi nên tôi không dám chắc bộ dạng của họ có như tôi mô tả ở trên hay không. Tôi xem lại một số hình ảnh trong cuốn sách 50 nãm Bắc Kỳ di cư. Tôi cố hình dung ra hình ảnh cô tài tử ðiện ảnh Kiều Chinh, nhưng không hình dung ra ðược.
Tôi chỉ còn cố ghi lại câu nói của ông Vũ Ðức Minh, tức Minh Võ ghi lại tóm tắt hành trình trên ðường chạy trốn khỏi cộng sản : Di cư một kỷ niệm ðắng cay, nhưng ngọt ngào.
Khuôn mặt của tín ngưỡng
Theo sự tính toán cân nhắc cẩn thận trong một Bài viết khác, tôi chỉ ước lượng vào khoảng 350.000 tín hữu theo ðạo công giáo di cư vào miền Nam. Tôi gạt bỏ những con số quá thổi phồng từ 750.000-800.000 người công giáo.
Nhưng bởi vì nhóm người này nó thành một tập ðoàn, một khối liên kết chặt chẽ nên nhiều người lầm tưởng họ ðông lắm. Tín ngưỡng có lẽ là một trong các món hành lý mang vào miền Nam còn giữ ðược thuần chất nhất. Tôi còn nhớ hình ảnh một thanh niên sau chuyến vượt thoát ðược cộng sản và lên ðược con tàu của Mỹ ðể ði ði vào miền Nam. Người thanh niên mệt mỏi nằm ngủ ngay trên sàn tàu. Nhưng trên ngực anh, một tay anh còn giữ chặt một cây Thánh giá lớn.
Hình ảnh ðó biểu tượng nhất và cũng lý tưởng nhất. Người thanh niên này bỏ nhà, bỏ cửa ði vào miền Nam vì anh tin rằng, anh có thễ giữ ðạo mà không bị ai cấm ðoán hay ngãn chặn anh nữa.
Người ta cũng nhận thấy ở các trại ðịnh cư một dấu hiệu hội nhập ðầy cá tính miền Bắc. Trại nào nhà cửa cũng ðược xây dựng có hàng lối. Tôi liên tưởng tới các nhà xây dựng có hàng lối ðược gọi là ‘Giồng’ ở miền Bắc. Ðằng trước mỗi nhà có sân nhỏ, ðằng sau có vườn nhỏ, có giếng nước.
Nhưng nay thì thiếu hàng rào dâm bụt quanh nhà. Thiếu hàng cây cau thẳng tắp và sân gạch Bát Tràng, bể nước mưa và hàng lu dọc theo sạn ðựng tương hay cà muối. Nhà cửa xong, họ nghĩ ngay ðến việc dành dụm tiền ðể gom vào xây một ngôi nhà thờ nhỏ, một trường học và một nghĩa ðịa. Có nơi mang ðược cả cái chuông nhà thờ từ miền Bắc ði vào miền Nam.
Nó nhắc nhở người di cư phải tiếp tục nếp sống Ðạo xưa. Khi còn ở ngoài Bắc, họ ðã xây cất ðược khoảng 50 ngôi nhà thờ chạy dọc theo quốc lộ số một từ Hà Nội về Phủ Lý, Nam Ðịnh, Ninh Bình,Thái Bình và Phát Diệm.
Ngày hôm nay, tiếng chuông nhà thờ lại có dịp vang lên mỗi ngày, tiếng cầu kinh sáng tối như muốn nhắc nhở mọi người về cái cãn cước người công giáo di cư của họ.
Phải chăng ðó là những nét ðẹp nhất của nếp sống ðạo miền Bắc ðã ði vào miền Nam.
Trong môi trường hội nhập, thích ứng và ðồng hóa mang tính biện chứng, người dân miền Bắc vì sống tụ tập với nhau nên vẫn giữ gìn ðược một số sắc thái chung như tính chịu khó làm ãn, tính tần tiện lo xa, tính an cư với việc ổn ðịnh ðời sống và nếp sống chung như làng xã ngoài Bắc, có tôn ty trật tự. Nhưng một mặt khác họ vẫn phải thích ứng vào hoàn cảnh mới.
Cuộc hội nhập với cái còn cái mất.
Người di cư vào miền Nam ðược cái gì và mất cái gì. Có thể gần một triệu người ðã không một ai hỏi câu hỏi ðó.
Họ không cần hỏi, chỉ vì hình như họ chỉ có ðược mà không có mất. Thật sự cũng có mất – nhưng có thể ðó là những thứ ðáng mất.
Trong quá trình hội nhập vào xã hội miền Nam, tiếng nói miền Bắc, nhất là các từ ðể chỉ thị các ðồ dùng, các câu chửi có vần ðiệu, các lối nói mát, nói mỉa hầu như dễ bị ðồng hóa nhất. Hầu như sau này, không mấy người sử dụng nữa.
Nãm 1954, thường người ta chỉ nhắc tới cuộc di cư người. Cũng ðúng. Nhưng Người ði thì tiếng nói cũng phải ði theo Người.
Chữ nghĩa, tiếng nói miền Bắc cũng lếch thếch nối ðuôi nhau lên tầu há mồm. Chuyến ði gian nan của nguời di cư thế nào thì chữ nghĩa có lẽ cũng vậy.
Chữ nào ở lại, chữ nào ra ði, chữ nào còn, chữ nào mất. Chữ nào không ðược dùng nữa. Chữ nào rơi vào quên lãng. Chẳng ai còn tâm trí ðâu ðể lưu tâm tới ðiều ðó.
Chữ ðược di cư vào miền Nam, chở ði rồi, bao nhiêu chữ ðã rơi rụng, vung vãi dọc ðường. Bao nhiêu chữ ðã sống còn sau khi ðã hội nhập với chữ nghĩa bản ðịa? Ðó là những câu hỏi cần có câu trả lời.
Và phải ðợi 21 nãm sau ngày 30 tháng tư 1975, người viết bài này mới chợt cảm thức ra là có một sự mất mát ðáng kể- nếu không nói là ðến gần một nửa số chữ, các câu nói, các cách xưng hô tùy theo tuổi tác, tùy theo chức vụ xã hội, các cách chào hỏi, cách chúc tụng nhau trong dịp tế nhất, cách thức mời nhau trước bữa cơm, tục hút thuốc lào, cách xỉa rãng, cách ãn mặc..ðã không biết bao nhiêu ðiều sau chừng 10 nãm ðã ðổi khác hoàn toàn.
Phần các từ, các chữ, tôi chỉ nhận ra sự thay ðổi khi có dịp ðọc lại các nhà vãn miền Bắc. Nhưng hình như cũng ít ai ðể ý ðến cái mất, cái còn của chữ nghĩa, vì có quá nhiều cái ðược lớn hơn.
Chẳng hạn, có những cái mất như chiếc khãn mỏ quạ miền Bắc không biết từ lúc nào ðã biến mất hẳn. Hàm rãng ðen dấu hiệu ðặc biệt của dân quê miền Bắc cũng dần dần không cón có dịp ðược nhìn thấy nữa.Người ta không còn ðược nhìn thấy chiếc khăn lượt quấn chữ Nhân trên ðầu các ông nữa. Tục hút thuốc lào của các ông cũng mất dần mà sau này họa hiếm mới thấy một số người còn hút. Tục ãn trầu cũng bớt hẳn. Những lối mời chào, khách sáo của người dần không còn nữa.
Trong nhà nay cũng thiếu những chiếc chiếu cạp ðiều, họa hiếm mới còn nhìn thấy những chiếc sập gụ gỗ lim.
Nhưng, chiếc áo cánh vải phin nõn không cài khua bó khít lấy thân thể người phụ nữ miền Bắc bên trong lộ ra dải yếm mới ðẹp và gợi cảm làm sao so với cái áo bà ba rộng thùng thình. Vậy mà chiếc áo cánh phin nõn cũng dần biến mất và chỉ còn ðược ghi giữ lại trong các bức ảnh nghệ thuật sau này mà thôi.
Nhưng có một ðiều chắc chắn nhất là chiếc áo dài miền Bắc xem ra trở thành cái ðược ưu thế thời thượng làm biến mất chiếc áo bà ba và chiếc quần ống rộng của xã hội miền Nam. Cũng xin ghi nhận cho rõ. Có ít nhất hai loại áo dài thông dụng ở ngoài Bắc. Một loại áo dài ở nhà quê có hai vạt ðằng trước và thắt núm ở khoảng giữa ngực. Loại này giống chiếc áo cánh không còn ai mặc nữa. Loại áo dài có hai vạt, một ðằng trước một ðằng sau mới trở thành thời thượng mà công ðầu phải dành ðể ghi ơn mấy ông chủ thợ may ở Saigon.
Họ đã có công làm đẹp gái Sài Gòn.
Ngoài người thợ may, công ấy dành cho nhà thơ như Nguyên Sa hay Phạm Thiên Thư:
Nắng Sài Gòn, anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh yêu mầu áo ấy vô cung
Hay:
Có phải em mang trên áo bay
Hai phần gió thổi, một phần mây
Hay là em gói mây trong áo
Rồi thở cho làn áo trắng bay
Điều đó cho thấy rằng trong quá trình hội nhập có kế thừa, có thải loại nhưng cũng có chọn lọc. Chiếc áo dài nay là biểu tượng của hình nét, sự thướt tha, sự gợi cảm, biểu lộ phái tính trong biện chứng khép mở. Nó có tính cách mời gọi và đặt để người con gái vào một vị thế như một đối tượng được chiêm ngưỡng trong đó những đường nét hằn lên tuổi dậy thì.
Chiếc áo dài con gái Việt Nam đẹp một cách quyến rũ vì nó thướt tha. Nó không cứng nhắc như áo Kimono của Nhật hay Đại Hàn.
Theo họa sĩ trần Cao Lĩnh, áo dài phụ nữ Việt Nam trở thành ðẹp vì có gió. Gió làm tà áo em bay,gió làm em mở phơi, tươi sáng và mời gọi.
Sức sống, tình yêu như được hiển lộ, khai mở.
Em còn áo trắng ngày xưa
Trông anh muôn thuở bao giờ lệ hoen.
(Thơ Phạm Thiên Thư)
Tôi đã không biết bao lần quên lối về bởi chiếc áo dài con gái Nha Trang, Huế, Biên Hòa, Sài gòn. Để rồi:
Hôm sau vào lớp
Nhìn em ngại ngần
( Phạm Thiên Thư)
Và nó cũng mở đầu cho thiên tình khúc tuyệt vời Ngày xưa … Hoàng Thị của Pham Thiên Thư:
Em tan trường về
Đường mưa nho nhỏ..
Anh đi theo hoài
Gót giày thầm lặng
Đường chiều úa nắng
Chẳng những thế, sau này chiếc áo dài nó trở thành tiêu biểu cho tuổi trẻ nữ sinh từ thành thị xuống ðến tận thôn quên. Và bây giờ thì nó trở thành cá tính dân tộc của toàn dân hai miền.
Nhưng cùng một lẽ ấy, ðôi guốc mộc, chiếc áo bà ba rộng thùng thình với chiếc quần rộng ống của các cô gái miền Nam không biết từ lúc nào cũng dần biến mất.Cái tật trồng rãng vàng của người miền Nam cũng dần trở thành họa hiếm.
Còn cái còn, cái ðược nữa là một số món ăn Hà Nội.
Nhà báo Vũ Bằng ðã dành cả một cuốn sách ðể nói về: Miếng ngon Hà Nội. Trong ðó nay có những món ðã không còn ngon nữa và hầu tuyệt tích giang hồ như các món Bánh khoái, Rươi, Cốm Vòng. Nói chi ðến những món như ngô rang, khoai lùi, bánh ðúc.
Ðó là những cái ngon của một Hà Nội nghèo ðói, túng thiếu,chạy lo từng bữa gạo.
Ông chỉ quên nói tới rau muống. Chỗ nào có dân Bắc Kỳ là có vài luống rau muống. Ðến ðộ rau muổng trở thành một ðề tài chế giiễu: Bắc Kỳ rau muống.
Sau này, rau muống trở thành món ăn của cả dân miền Nam. và ra hải ngoại, rau muống trở thành món sào thêm vào để bớt thịt, bớt cá.
Nhưng trong số món ngon Hà Nội không thể nào quên ðược. Ðó là hàng phở gánh Hà Nội ở bờ hồ Hoàn Kiếm, 5 ðồng một tô. Buổi sáng mùa ðông hơi se lạnh, mùi nước phở gánh bốc khói, thơm nức mùi nước phở. Chỉ ngửi ðã thèm rỏ dãi ra. Ăn phở sáng, còn gọi ðược là ãn quà là một tiêu xài xa xỉ phẩm.
Vào ðến Sài Gòn, món phở trở thành món ãn khoái khẩu hay ãn quà sáng theo thói quen của người Sài Gòn.
Phở ðể ăn sáng rồi có lúc ðể ãn trưa và rồi cả ãn tối và ãn lúc nào cũng thuận tiện cả. Nhiều tiệm phở mở sau 1954 cạnh tranh cả với các tiệm Hủ tiếu và Mằn thắn mì hoặc Bún bò Huế. Nhiều tiệm phở bò trở thành nổi tiếng và ðông khách như phở Hiền Vương, phở Công Lý, phở Lý Thái Tổ. Cái ngon của phở là nước, là mùi, là gia vị.
Sau này, ra hải ngoại, phở bò nổi tiếng như một thứ McDonald của người Việt. Tôi ðịnh vinh danh món phở Hà Nội, nhưng vinh danh ai ðây, vì tìm không ra người khai trương ra. Theo nhiều người, món phở bắt dầu từ vùng Nam Ðịnh sau ðến Hà Nội. Rất tiếc, ngưởi viết không biết làm thơ như Nguyên Sa ðể ca tụng món phở.
Vì vậy, Phở không có ai dẫn lối dẫn vào vãn học.
Và nếu có ðào sâu thêm về những nét phong tục, nề nếp cũ, trong các sinh hoạt hội hè ðình ðám của người miền Bắc qua cuốn Nêp Cũ (11 tập) của nhà vãn Toan Ánh. Nhiều câu chuyện nay cũng chỉ còn là câu chuyện trà dư tửu hậu của vang bóng một thời.
Ngược lại tìm ðọc Vương Hồng Sển trong Hơn Nửa Ðời Hư hay Nguyễn Vãn Hầu trong Diện Mạo Vãn Học Dân Gian Nam Bộ (hai tập). Và nhất là tìm ðọc Sơn Nam trong các bộ sách như Hương Rừng Cà Mâu, Vãn Minh miệt vườn.
Người ta sẽ thấy rằng những câu chuyện dân gian lý thú ấy nay hầu như chỉ còn ðược ðọc trong sách vở.
Tất cả trở thành ðủ món hổ lốn trong một nồi súp trong ðó có sự gạn lọc, phế bỏ và hầu như bị vuợt qua.
Mặc dầu chúng ta cũng vẫn phải nhìn nhận rằng hai nhà vãn một Bắc, một Nam-. Bắc với Toan Ánh- Nam với Sơn Nam ðã góp phần làm phong phú hai nếp sống của hai miền.
Hiện tượng Meltinh-pot trong sự hội nhập, thích ứng của miền Nam và miền Bắc ngày nay phải nhìn nhận là ðều có thật, không chối cãi ðược.
Trong quá trình hội nhập như thế có cái mất, cái ðược. Cái mất có thể chẳng ðáng tiếc, nhưng cái ðược thì lớn quá.
Ðó là cái lớn làm nên cá tính, cái cãn cước người phụ nữ Việt Nam sau này khi ði di tản. Nay cần làm sống dậy cái vẻ ðẹp con gái ấy qua chiếc áo dài. Nhưng người ta ðả ðẩy nó ði một bước quá trớn, lộ liễu quá bởi vì nó làm mất cái vẻ ðẹp quyến rũ của biện chứng khép mở. Chiếc áo dài con gái hở mà vẫn phải kín.
Kín mà vẫn phải hé lộ, mời gọi. Không hiểu triết lý biện chứng này, nhiều nhà vẽ kiểu áo dài ðã biến thân xác phụ nữ thành cái ðẹp lồ lộ, sự bóc trần của thân xác mà không có khả nãng diển tả ðược vẻ ðẹp của thân xác mà yếu tố chính là ðường nét của thân xác.
Tôi dám nói nhìn các cô ca sĩ trên Paris By Night, họ mặc mà như thấy họ cởi chuồng. Tôi cho là một lối ãn mặc kệch cỡm, thiếu tự tin.
Thà họ cởi truồng.
Trông các cô uốn éo biểu diễn, tôi có cảm giác họ mời gọi ta chơi họ chừ không phải ðể chiêm ngưỡng.Tự họ ðánh tụt giá người phụ nữ chứ không phải tôi.
Sự trình diễn nghệ thuật biến thành sự diễn hành phái tính mà ở nơi ðó gián tiếp nhắc nhở người nghe nhạc biến thành người nhìn cảnh cởi chuồng.
Và quan trọng hơn cả biến họ thành một món đồ chơi, dù là thứ đồ chơi đắt giá.
Trong bài viết này, người viết lạm bàn về số phận chữ nghĩa người di cư sau 1954 và triển khai rộng ra về một giao lưu vãn học, vãn hóa, ðịa lý, chính trị trong cuộc Hội Nhập vĩ ðại của lịch sử người Việt.
Tôi thầm cảm ơn người miền Nam và coi ðây là một cuộc Nam Tiến ðến sau kế sách Thuận Hóa cách dây hơn 500 năm.
Sự cọ sát ðầu tiên giữa hai miền là tiếng nói, chữ viết.
Tiếp xúc ðầu tiên giữa người hai miền là tiếng nói, nhất là giọng nói. Không hiểu nhau là một trở ngại cho cả hai phía. Có những giao tiếp trở thành gượng gạo ngỡ ngàng, người nọ hiểu lầm người kia.
Có sự không hiểu nhau một phần lớn là do giọng nói khác nhau.
Ngay tại miền Bắc, tiếng nói là thứ phương ngữ thay ðồi từng vùng.
Việc ði lại khó khãn giữa các vùng, không có giao tiếp trao ðổi ðưa dến trở ngại người ðịa phương này nói khác giọng với ðịa phương kia. Vùng Kẻ Noi cách Há Nội chừng vài cây số mà giọng nói rất khác lạ. Giọng họ líu lo như chim hót. Ngay hiện nay, tôi ở khu vực Montreal nói tiếng Pháp ðã trên 30 năm rồi, vậy mà khi họ nói với nhau, giọng ðịa phương tôi chỉ hiểu lõm bõm.
Đi vào từng vùng ở miền Bắc, có một số phát âm khác nhau, giọng người các tỉnh phía Nam thường nặng hơn giọng người Hà Nội.
· Dân Hà Ðông chuyển âm N thành L. Chẳng hạn cái nồi, cái niêu ðọc là cái Lồi, cái Liêu.
· Dân Hà Nam ðọc vần Tr thành Ch. Chẳng hạn Giá Trị ðọc thành Giá Chị. Tranh Chấp thành Chanh Chấp. Nhưng có thể ðọc sai mà viết vẫn ðúng.
· Dân Ninh Bình trở xuống xuôi như Yên Mô, Phúc Nhạc chuyển dấu ngã thành dấu nặng, hoặc dấu hỏi.. Vũ thành Vủ hoặc Vụ.
· Vùng Kim Sơn. Vần Tr thành T, vần L đổi thành N. Con trâu trắng thành con Tâu Tắng. Làm lụng vất vả thành Nàm Nụng vất vả.
· Vùng Thanh Hóa. Vần A đổi thành Oô. Tỉ dụ Ba Lòng đọc thành Ba Loong.
Vì thế, lúc bắt ðầu giao tiếp, nhiều người dân miền Nam lúc ban ðầu coi người di cư như một thứ người ngoại quốc.
Ngoài tiếng nói khác nhau thì tự nó, tiếng nói, chữ dùng cũng thay ðổi từng thời kỳ. Vì Thời gian có tác dụng làm xói mòn mọi thứ… Như sắt thì rỉ, gỗ thì mục, hoa thì tàn, lá úa. Trong tương quan con người-người, ngay cả Tình yêu riết rồi cũng có thể khô trồi, tình dục sôi sục rồi cũng có thể trở thành thói quen nhàm chán. Kỷ niệm ðầu ðời tưởng không bao giờ quên cũng theo mầu thời gian mà trở thành nhạt nhòa.
Cho dù không có cuộc di cư, chữ nghĩa cũng cách này cách khác bị xói mòn.
Chữ nghĩa như một vật dùng một lần thì còn ngon, nhưng dùng nhiều lần thì mòn hay cùn ði. Như cái kéo cắt mãi cũng phải cùn. Dao bãm mãi cũng lụt ði. Khen ði khen lại ðâm nhàm tai. Yêu nhau lắm, cắn nhau ðau, hay ít ra cũng chán.Ðùa dai hoài ðâm nhạt như nước ốc.
Hình như chữ nghĩa dị ứng với cái lập đi lập lại.
Tất cả những ngữ nghĩa trên chỉ ra một ðiều: Thời gian và sự ði lập lại có thể làm xói mòn, hoen rỉ chữ nghĩa. Tâm lý con người lại ưa chuộng cái mới, cái lạ. Như trong tình yêu, dùng chữ ðó với nhau lần ðầu, trọng lượng của chữ nặng lắm, thấm thía lắm, cảm ðộng lắm. Dùng lần thứ hai thấy nhẹ ði rồi. Phải tãng cường ðộ nghĩa bằng những chữ lắm, nhất, số một. Có khi cả bằng tay chân vẫn chưa ðủ. Tãng lời thề..
Hình như vẫn hụt.
Số mệnh chữ nghĩa mỏng manh như số phận con người.
Thời gian như thước ðo chiều dài ngắn của chữ nghĩa, ðồng thời cành báo về cái hữu hạn của nó. Sự sợ hãi của Nguyễn Du về sự quên lãng của người ðời phải chãng cũng từ ðấy mà ra.
Chữ có thế vắn số nên có nhiều chữ ðã trở thành chữ cổ ít ai nhắc tới.
Còn nhớ, hồi mới di cư dzô Nam, người Bắc sửng sốt nhất, nghe lạ tai nhất là chữ Mã Tà. Mã tà thời tây là gọi là Hiến Binh, sau này trong Nam gọi là Cảnh sát, ngoài Bắc gọi là Công An. Không biết vì lý do gì, chữ Mã tà sau khoảng hai năm gì đó, không còn nghe ai nói nữa.
· Cũng vậy, theo sách vở, chữ manh nghĩa là nhỏ mọn. Người ðời chỉ còn nhớ váng vất khi nó ði với chữ khác như mong manh, tan manh, chiếu manh, manh áo, manh mún.
· Một chữ khác như chữ Khem, nghĩa là kiêng cữ. Nếu nó không cặp bạn với chữ Kiêng thì người ta không còn nhận ra nó như Kiêng khem ra nắng, ra gió.
· Chữ khác như chữ Lụn, nghĩa là hết, người ta cũng chỉ dùng trong một số trường hợp hiếm hoi: Tim lụn có nghĩa tim ðèn cháy hết, lụn nãm, lụn ngày, mềm lụn, lụn xuống, lụn mạt.(2)
Mấy ai còn nhớ, còn biết, còn xử dụng những chữ cổ trên.
Nhưng có chết đi mới có sống lại, cái chết đi ung mầm ra cái mới.
Nhờ vậy mà chữ nghĩa thay ðổi và tiến bộ, mỗi ngày một ða dạng, một phong phú và chuẩn xác hơn.
Với cái nhìn nhân bản thì chữ nghĩa có một cuộc sống, có dòng sinh mệnh, có thể mất, có thể còn, trôi nổi như ðời sống một người. Nhiều chữ nay ðã chết, nằm chôn vùi trong nghĩa ðịa của các Bảo tàng hay sách cổ. Nói ra cũng ngậm ngùi.
Xin trích dẫn một số chữ nghĩa làm bằng chứng về sự mất còn này..(3)
Bạn ðọc thấy có nhiều chữ ðược xử dụng cách nay một thế kỷ ðã không còn ðược dùng nữa như bổn báo kỉnh cáo, nhựt trình, con nhà Annam, tấn tài tấn ðức, khia ðằng vãn minh.
Nhưng có nhiều chữ vẫn ðược dùng cho ðến ngày nay như Chữ Cha Sở và nhất là những chữ khá chuyên môn cách nay 70 nãm như giải phóng, phương diện thương mại và kỹ thuật.
Chữ và Nghĩa
Thời gian ðã là một nhẽ, cộng thêm dụng ý của người xử dụng chữ. Một chữ dùng nay bao hàm nhiều nghĩa, nhất là những từ chính trị. Từ nay, chữ có thêm không phải một mà nhiều nghĩa nghĩa.
Chữ dùng giống nhau, nhưng nghĩa thì mỗi người hiểu một nghĩa. Người miền Bắc dùng chữ mà lại chú trọng ðến cái nghĩa. Chữ thì chỉ có một, nhưng nghĩa thì có nhiều.
Cùng một chữ mà giọng kéo dài ra, thêm một ngữ từ nghĩa nó khác. Trong chữ: Cô giỏi lắm ðấy. Tùy theo cách nói, tùy theo dụng ý của người dùng mà có thể hiểu giỏi là chê bai, giỏi trở thành lời kết án nghiêm ngặt.
Và các nghĩa này, nó có quy luật của nó nằm trong bộ chữ như nói mát, nói kháy, nói ðãi bôi, khen mà ngụ ý chê.
Huyền thọai về việc xây tháp cổ Babel phải chãng là một bằng cớ báo trước về sự sa ðà của ngôn ngữ, chữ nghĩa và ðến cả số phận của nó nữa.(4)
Nhưng nói chung chữ nghĩa ở tầng cao- chữ nghĩa trong vãn học- của miền Bắc ðã thồi một luồng gió mới cho vãn học nói chung ở miền Nam.
Theo giáo sư Lê Vãn Lý, trong cuốn Le Parler Vietnamien, Chữ thay ðổi nghĩa khi ngữ vị của nó thay ðổi (5). Nghĩa biến hóa vô chừng.
· Nó đến không bảo sao?
· Nó đến bảo: không sao
· Nó bảo: sao không đến
· Nó đến bảo: sao không?
· Nó bảo đến không sao
· Nó bảo: không đến sao?
· Nó không bảo, sao đến?
· Nó không bảo đến sao?
· Nó không đến bảo sao?
· Bảo nó sao không đến?
· Bảo nó: không đến sao?
· Bảo sao nó không đến?
· Bảo nó đến, sao không?
· Không đến bảo nó sao?
· Không đến, nó bảo sao?
Và cứ thế tiếp tục với chữ nó, rồi chữ bảo và cuối cùng chữ sao..
Viết mấy dòng này ðể vinh danh một người thầy của nhiều thế hệ sinh viên Hà Nội, Sài gon cho ðến nãm 1975. Cuốn sách Le Parler Vietnamien, luận án tiến sĩ Ðại học Sorbonne của linh mục, giáo sư Lê Vãn Lý ðược dịch ra 17 thứ tiếng trên thế giới.
Giọng nói kiêu sa của người dân Hà Nội
Nếu tiếng nói miền Bắc có nhiều vùng và nhiều tiếng không dùng nữa thì ngược lại giọng Bắc Hà Nội trở thành tiếng nói kiêu sa của người Hà Nội.
Giọng người Hà Nội là một giọng không pha trộn, giọng thường cao lanh lảnh, lên xuống trầm bổng như trong âm nhạc, phát âm chuẩn, các sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng, chữ nào ra chữ đó, xử dụng từ có quy pháp- nghĩa là có những chuẩn ngữ- nhất là trong cách mời chào, giao tiếp.
Không lạ gì, các ca sĩ sau này ðều cố luyện ra giọng Bắc ðể hát. Các giáo sư dạy trung học nói giọng Bắc thường ðược học trò thích hơn.
Chữ nghĩa người Hà Nội trong vãn chương, trong sách báo, tiểu thuyết lại trở thành thứ ngôn ngữ chuẩn ðược người ðọc cả hai miền chấp nhận và bắt chước theo.
Tiêu biểu là một số nhà văn, nhà thơ từ miền Bắc qua tạp chí Sáng Tạo, Bách Khoa, Văn Hóa Ngày Nay được nhiều người tìm đọc.
Văn học miền Bắc như thổi một luống gió mới, mang sinh khí và sự hào hứng cho văn giới và người đọc thuộc giới trẻ ở miền Nam.
Theo tôi, ðây là nét ðẹp thứ ba của Hà Nội như món quà ra mắt người miền Nam.
Chữ của miền Bắc trở thành thời thượng, thành khuôn mẫu vẻ ðẹp, nét tế vi. Chữ trong vãn chương Mai Thảo mượt mà với ma thuật chơi chữ, gợi ý, gợi hình ảnh. Ðôi khi có chút màu mè, làm dáng, ngay cả lập dị trong cách chấm câu, cách dùng chữ.
Nó chẳng khác gì sau này nhiều chữ của Trịnh Công Sơn trong các bài hát của ông cũng mang ấn tín của ông trong cách chọn từ, cách ðổi vị trí từ trong câu. Mỗi câu, mỗi chữ như một thông ðiệp gửi ði làm rung ðộng lòng người. Với chất thơ, chất nhạc, hồn tính, ðộng não, chất thiền, chất âm và ngay cả chất gợi dục, gợi lòng.
Nắng có hồng bằng đôi môi em- Môi em cho ta một cánh hồng, lụa là phút ấy chưa quên- Dài tay em mấy- hạt bụi hóa kiếp thân tôi.
Phải nói ðó là ma thuật của ngôn ngữ.
Chữ nghĩa biểu tượng cho cái nhìn về vãn hóa, phong tục giữa hai miền
Khi lần ðầu tiên tiếp xúc lại với chữ nghĩa miền Bắc sau 20 nãm xa cách. Người viết có cái cảm giác sung sướng ðến ngạc nhiên,ðến bỡ ngỡ vì nhớ lại những chữ nghĩa tưởng chừng ðã quên nay nhớ lại.
Sau bao nãm xa cách, hình như bắt lại ðược mình, nối lại ðược dĩ vãng thân thuộc, gần gũi. Chẳng hạn, lúc ðọc nhà vãn miền Bắc Vũ thư Hiên trong cuốn Miền Thơ ấu và nhất là cuốn Chuyện ở tỉnh lỵ, hay Tô Hoài trong O chuột (1942), Nhà nghèo (1944) và nhất là Cát bụi chân ai (1992), Nguyên Hồng, trong Cửa Biển và trong Tuyển tập Nguyên Hồng , Những ngày thơ ấu, Nguyễn Tuân trong Người Lái ðò trên sông Ðà, Nam Cao với Chí Phèo, Ðôi Mắt. Nguyễn Khải với Mùa lạc. Lê Lựu với Một thời xa vắng. Và gần ðây thôi Nguyễn khắc Trường với Mảnh ðất lắm người nhiều ma.
Bên cạnh đó, tôi cũng tìm đọc lại Vũ Trọng Phụng, nhưng thích thú nhất là đọc lại Nam Cao, Trần Tiêu và Bùi Hiển.
Tôi không biết phải nói thế nào, nhưng thật sự phải lấy làm tiếc vì những tác giả như Bùi Hiển, Trần Tiêu, Nam Cao hay Nguyên Hồng là những nhà vãn Hiện thực xã hội dầy tính Nhân bản lại không mấy người biết ðến ở miền Nam.
Ðọc họ mới thấu hiểu hết nỗi lầm than của con người. Ðọc họ mới hiểu hết ðược chế ðộ làng xã, chế ðộ phong kiến ðã trói buộc ðầy ðọa kiếp người như thế nào- Ðặc biệt nạn nhân Là người phụ nữ-.Nhưng ðàng khác, ðọc họ mới hiểu ðược tình con người, tính nhân bản giữa những người cùng khổ như thế nào.
Tôi cho rằng, nếu không đọc lại những tác giả thời tiền chiến, sự hiểu biết về xã hội xã thôn miền Bắc sẽ là một thiếu xót lớn.
Họ, những nhà văn, đã làm sống lại từ trong mồ nhiều chữ mà người viết đã nghe, hoặc chính mình đã dùng và nay đã quên, đã không dùng nữa.
Người viết cảm động như một khám phá, như một sưởi ấm lại ký vãng đã quên.
Chẳng hạn thay vì nói, ông ấy bệnh nặng, sắp chết, hay ông ấy ðang hấp hối, ðã cấm khẩu, tay bắt chuồn chuồn. Nhưng hạ một câu: Ong ấy sinh thì rồi thì thật trọn vẹn.Và cứ như thế dàn trải ra khắp các cuốn sách quê hương cũ tìm về, dấu chân kỷ niệm và niềm thơ ấu sống lại.
Chữ nghĩa như có hồn ðược vực dậy, thổi thêm sinh khí. Phần lớn những thứ chữ này có vào thời tiền chiến và gần như bị * ðoạn tuyệt * với TLVÐ. TLVÐ chẳng những ðoạn tuyệt với phong tục, nếp sống cũ mà cả với chữ nghĩa cũ nữa.
Như vậy, song song với nhóm TLVĐ, vẫn còn sót lại một dòng văn học ngược chiều với nhóm Văn Hoá Ngày nay và cứ thế nó kéo dài đến bây giờ.
Và một lần nữa, nó lại phải đương đầu với những nhà văn trẻ, thế hệ sau 1975, thế hệ sau cởi trói hay sau nữa Hậu Hiện đại.
Cũng một cách thức tương tự, người ta tìm thấy ở miền Nam với Nhóm Sáng Tạo ðổi mới nội dung,giải phóng chữ nghĩa bằng cách xử dụng những từ có vóc dáng triết lý thời thượng.
Bên cạnh ðó có một dòng chảy vãn học chữ nghĩa như khe suối nguồn, lau lách, rỉ giỏ giữ lại cội nguồn, giữ lại bản sắc của mình với Sơn Nam, Bình nguyên Lộc và ðặc biệt nhất là nhà vãn Lê Xuyên.
Đây là một hiện tượng văn học có vóc dáng và đáng nể.
Các mất mát của dòng vãn học tiền chiến- mất mát ngậm ngùi.
Nhưng chuyện phải ðến ðã ðến. Càng ðọc lại các truyện của các nhà vãn miền Bắc thời tiền chiến, người ta mới nhận ra rằng nay ở trong Nam, các chữ ấy ðã không còn ðược dùng nữa.
Có nghĩa là chữ nghĩa và cả tâm tình, cả cái xã hội khốn khổ miền Bắc, nó không còn mấy ai nhắc nhở tới nữa.
Khi ðọc các nhà vãn này, xin chia làm hai giai ðoạn. Ta chỉ nên ðọc Nguyên Hồng, Bùi Hiển,Nam Cao, Trần Tiêu, Nguyễn Tuân về những tác phẩm họ viết thời kháng chiến, hay trước cách mạng tháng tám.
Giai ðoạn sau lại là một câu chuyện khác không cần ðề cập tới ở ðây
Các mất mát thông qua cái văn hóa chửi như một đoạn tuyệt với quá khứ phong kiến của miền Bắc
Ngưởi di cư vào miền Nam ðể co thể hội nhập vào xã hội miền Nam, họ phải vứt bỏ thói quen chửi. Một thói quen rất lâu ðời, ðược chấp nhận và không ai phản ðối. Thuong la nguoi ta chui chung chung, nhung cung co luc am chỉ gian tiếp vào người này, người kia mà chỉ những người trong cuộc mới ðược.
Chửi vốn là sắc thái vãn hoá ðặc trưng của miền Bắc. Ðặc thù và cá biệt. Ai chửi hay và chửi có bài bản, có nghệ thuật, có vần ðiệu, ví von, có tay nghề bằng miền Bắc. Chửi hay như thế nên có kẻ làm nghề chửi thuê kiếm ãn.
Chẳng hạn, trong chuyện Chí Phèo của Nam Cao, Chí Phèo chửi ðể lấy tiền uống rượu ðến tay sừng sỏ trong làng như lão Bá Kiến cũng chào thua.
Có những chữ nghĩa thuộc loại anh chị, kế thừa một truyền thống mở mồm ra Ðịt.. mẹ, ðịt bố, chửi có tay nghề ở miền quê. Vậy mà vào ðến miền Nam gặp anh Hai ở cầu Ba Cẳng hay các anh chị bến Tầu Sàigòn, chị Ba Cầu Muối, Chị Nãm chợ cá Trần quốc Toản ðành tắt tiếng.
Người di cư từ miền Bắc vào miền Nam học được thói quen không chửi nữa.
Hỉnh ảnh một phụ nữ miền Bắc, mặc váy, tay chống cạnh sườn ðứng dạng háng, tốc váy, hoặc vỗ ðồ bồm bộp, chửi ra rả cả ngày là một hình ảnh chỉ còn xuất hiện trên Tivi ở miền Nam ðể chọc cười thiên hạ.
Chí Phèo, nếu chẳng may có di cư vào miền Nam thì chắc phải ðổi nghề.
Tất cả những tiếng chửi tục ðủ loại ðã có một thời khét tiếng và quen thuộc ở miền Bắc tỉ như Tiên sư bố, tiên sư cha, tổ sư cha, bú cặc, bú buồi, ðịt nọ ðịt kia, liếm, sờ, chui. Không bao giờ ðược nghe nữa.
.Trong suốt 20 nãm sống ở miền Nam, sống chung ðụng với dân miền Bắc, người viết chưa nghe, dù một lần họ dám ðịt nọ, ðịt kia nữa.
Cùng lắm ðôi lần ðược nghe chửi trên Tivi vào những dịp tết (6).
.Vậy mà hiện nay có hiện tượng ngược chiều: Người miền Bắc ở Hà Nội họ chửi nhau om xòm trong các quan ãn, trong việc mua bán, Chỉ không vừa ý về giả cả là ðôi bên có thể chửi nhau rồi.
Họ còn mang cái nghèo khổ của người khác ra ðay nghiến:
Dân miền Bắc túng quẫn nên lấy cái ãn, cái uống làm ðầu. Lúc giận rủa nhau cũng mang cái ãn uống ra mà nhiếc móc nhau kể cũng không lấy làm lạ. Tỉ dụ diếc móc người ta như : nghèo rớt mồng tơi, nghèo lõ ðít, thí cho nó tý tiền, cứ gọi là ðói vàng mặt, ðói dã họng.
Nghe những chữ diếc móc trên đôi khi đau lòng còn quá chửi.
Vì thế, người ðời mới sợ tiếng diếc móc ðến cầm bát cơm lên ãn không nổi..Vì thế có tâm trạng khác nhau.
Khi nghe chửi, ta thấy tức giận, khi bị diếc móc, ta cảm thấy nhục.
Mỗi chữ ðều gợi lên một vãn ảnh và không chữ nào giống nghĩa chữ nào .
————————————————————
Tất cả ðòi hỏi sự khôn ngoan, tính toán và chải ðời. Ðó là thứ vãn hoá chửi mà không ãn mòn bát mòn ðĩa ở miền Bắc không hiểu thấu ðáo ðược. Vào ðến miền Nam sau này, người dân miền Nam với nếp sống giản dị ðã trấn áp người miền Bắc, quy kết là khôn ranh.
Người Nam thẳng thừng nói: Bỏ ði Tám. Ðù má, nói gì thì nói mẹ nó ði cho rồi, vòng vo tam quốc hoài, mệt quá.
Vậy là phải dẹp cái thói xỏ xiên, văn hoa chữ nghĩa.
Người miền Bắc di cư chỉ có mỗi một con ðường trong lối sống và cư xử mới là dẹp bỏ tất cả những từ chửi bới, diếc móc ở trên. Vì thế, mấy ai còn nhớ ðến những lối diếc móc trên.
- Dùng phương tiện phái tính :
Người phụ nữ miền Bắc vốn là nạn nhân của nhiều thứ, của đủ thứ đến cái gì xấu đích thị là của phụ nữ. Đến cái gì khen thì thật sự cái đó có lợi cho đàn ông. Khen tứ đức tam tòng là lời khen chết người, buộc chặt, trói chân người phụ nữ thành tên nô lệ không công. Khen tiết hạnh khả phong là lời khen trớ chêu nửa khóc, nửa cười. Khen trinh tiết làm đầu là một lối khen họan, khen thiến không hơn không kém, chẳng khác gì hoạn quan.
Nói tách bạch ra, con C… là chúa, là vua.
Nhưng những lời nguyền rủa quả không thiếu mà có thừa. (9)
Chẳng hạn có những câu diếc móc nhẹ nặng ðủ thứ, ðủ kiểu xuất phát từ tâm ðịa ðộc ác, hận oán : người ðâu có thứ người..sáng bảnh mắt còn nằm trương xác ra. Ðàn ông nằm ðến bảnh mắt thì không sao cả. Dạy muộn cũng là một tội lỗi. Hoặc nặng hơn nữa : ðồ thối thây, nó bơi tro chát trấu vào mặt, con gái con ðứa, con gái ðến thì là ðộng cỡn, cô ấy cong cớn, những cô này mới nứt mắt nảy nòi mà sao giống những mụ nạ dòng già ðời, da dẻ nó hon hỏn thế này.
Tất cả ðều nhắm vào phái tính hay ðĩ tính: Tự thân ðàn bà, phụ nữ sinh ra ðã có ðĩ tính : có chồng có cái khổ của có chồng : con ðó õn à õn ẹo, ðanh ðá lắm cơ, người ta bĩu môi chửi là gái nứng ði theo chồng (chỉ gái ðã ãn ở với người khác rồi), một cô gái giãng há, một lũ lĩ con gái, chữa buộm (chửa với người khác không phải với chồng ), chó dữ mất láng giềng, dâu dữ mất họ, mẹ cái hĩm, con bé tình ra phết, mà phải biết là ðỏng ðảnh.
Diện cũng chết mà không diện cũng chết : chết nỗi không tơ tuốt, chồng nó chê, con ðó phải lòng thằng khác, nó chỉ nhong nhóng suốt ngày, cơm bưng nước rót ðến tận mồm, nó lẳng lơ và nhẹ dạ, hai con rồi mà vẫn còn trẻ mau máu, trai làng hay chớt nhả và bẻm mép, cô gái mỏng mày ngày xưa bây giờ là ðàn bà sồ xề, cô ấy chúa ðời là khỏe.
Bên cạnh ðó, có nhiều chữ ðể chỉ bộ phận sinh dục của phái nữ như cái ðồ, cái ấy, cửa mình, cái lồn thì thô tục quá. Cái chỗ ấy mà thiếu chút chi cũng bỏ bố với thiện hạ: âm hộ vô mao, bần chí tử. Thiệt là khổ. Khổ ðầu, khổ ðuôi, khổ trên, khổ dưới, càng dưới càng khổ.
Nếu chưa chồng lại có cái khổ riêng : Chưa chồng có cái khổ riêng lại thêm cái khổ của miệng lưỡi thế gian: Già kén kẹn hom. Ãn mặc lơ ðễnh một chút cũng khổ: cái yếm xẹo xọ ðể trật ra cái sườn nây nẩy, cái người ðàn bà dại dột ðã nằm ềnh ệch ra ðấy, nói dại nếu mày chửa thì ãn nói làm sao, cái yếm cổ xây thật trắng, cái quần lụa buông chùng xuống tận gót, ãn bận sang ðến cô ðầu cũng không ãn ðứt, nó nhân tình ðến trãm thằng, bọn lý dịch chẳng anh nào không thậm thọt ra vào nhà nó, nó mặc áo cánh xát xí, nào yếm vải phin, nó tơ tuốt ghê lắm (diện).
Chẳng hạn, đàn bà chửa hoang đôi khi phải cạo trọc đầu, bôi vôi rồi đành bỏ làng mà đi.
Diện cũng chết mà không diện cũng chết : chết nỗi không tơ tuốt, chồng nó chê, con ðó phải lòng thằng khác, nó chỉ nhong nhóng suốt ngày, cơm bưng nước rót ðến tận mồm, nó lẳng lơ và nhẹ dạ, hai con rồi mà vẫn còn trẻ mau máu, trai làng hay chớt nhả và bẻm mép, cô gái mỏng mày ngày xưa bây giờ là ðàn bà sồ xề, cô ấy chúa ðời là khỏe. Bên cạnh ðó, có nhiều chữ ðể chị bộ phận sinh dục của phái nữ như cái ðồ, cái ấy, cửa mình, cái lồn thì thô tục quá.
Cái chỗ ấy mà thiếu chút chi cũng bỏ bố với thiện hạ : âm hộ vô mao, bần chí tử. Thiệt là khổ. Khổ ðầu, khổ ðuôi, khổ trên, khổ dưới, càng dưới càng khổ.
Kết Luận
Nhờ có cuộc di cư từ Bắc vào nam mà phụ nữ miền Bắc ðược giải phóng.
Có lẽ không ở ðâu, không ở nước nào cách xưng hô lại phức tạp lầy nhầy như miền Bắc. Mới ðây, trong một chương trình Vidéo, người viết thấy một cô ca sĩ trẻ ðược người ðiều khiển chương trình phỏng vấn.. Lúc phải trả lời, cô lúng ba, lúng búng, vì không biết phải xưng bằng anh, chú, bác hay nhà vãn với người ðiều khiển chương trình. Bác có vẻ già quá, anh thì có vẻ hơi xỗ xàng. Ông thì xa lạ. Cậu tớ thì xấc quá.
Trong cái cách học ãn, học nói của người Bắc thì bài học vỡ lòng là học cách xưng hô. Trẻ con nào mà không ðược bố mẹ dạy phải xưng hô tùy theo tuổi ðã ðành, theo quan hệ họ hàng, theo chức vụ và theo xã giao nữa.
Những tiếng thầy bu, thầy u, thầy ðẻ, thầy me, cậu mợ, ðằng ấy, cậu tớ, người nhớn, con nọỉ, con kia, huynh, ðệ, quan bác, thằng cu, con ðĩ, mẹ ðĩ nhà tôi, nhà con, ông mãnh, thằng trời ðánh thánh vật, thằng chết bãm chết bằm tùy trường hợp mà dùng. Nhưng bắt chước người Tầu, ta còn có chữ Gia phụ, Gia Mẫu, Gia Huynh, chỉ bực bề trên hay xá ðệ, xá muội chỉ bực dưới. Bấy nhiêu lối xưng hô vào ðến miền ðất mới như lạc lõng , thi nhau bị “cáp duồn” hết. Không ai nói nữa.
Do sức ép hay do tự mình cảm thấy lỗi thời, thấy dởm, thấy cầu kỳ, thấy rắc rối, thấy “không giống ai” thấy cần phải bỏ.
Có lẽ thấy cái không giống ai là lý do của sự ra đi không trở lại của các cách xưng hô trên.
Các chữ dùng để gọi, xưng danh quan tước chức sắc cũng nhiều lắm. Cũng phiền lắm. Nhiêu khê lắm. Không xưng đúng danh phận, có thể bị trách, bị giận, bị trù ếm nữa. Nhiều không đếm xuể. Hầu hết, việc hài chức vụ có dụng ý, tâng bốc nịnh nọt.
Nó đã dần biến mất khi vào đến trong Nam.
Thật ra, nó chỉ biểu tỏ một xã hội phong kiến, đẳng cấp, trên dưới không thích hợp ở miền Nam.
Người dân miền Nam cũng là di dân, có cái may mắn không thừa hưởng di sản của một xã hội phong kiến, hủ lậu. Xã hội đó lo kiếm miếng ăn, làm giầu, không nghĩ đến chữ nghĩa thánh hiền, cũng chẳng bận tâm đến kẻ trên người dưới..
Xã hội vừa ổn định, chưa mọc ra những mầm mống của thứ ổn định kiểu trên đè dưới, quan lại, thứ dân, giai cấp thống trị. Làng xã mở toang, không hàng rào vây kín.. Xã hội cũng mở toang mọi phía mà dân là chính, dân là chủ.
Sự xưng hô vì thế giản tiện và tuỳ tiện, đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Ba má thì là ba má. Khi cần gọi chung là ông già bà già.
Nội việc xưng hô cũng thấy miền Nam đuợc cởi trói nhiều theo tinh thần tự do, dân chủ.
Người Bắc từ xa tới, lẽ nào không thấy cái hay đó. Lẽ nào không theo, tự ý theo.
Để gọi một người ở, người trong Nam chỉ gọi chung chung là người làm, vừa dản dị, vừa không có khinh miệt, rẻ rúng. Vì thế, nếu còn ai gọi cụ đốc thì thay vì là một trân trọng, nó đã biến thành trò cười, mai mỉa.
Người Hànội có một thói quen khá kiêu xa (Theo Vũ ngọc Phan trong Nhà vãn hiện ðại ) là thay vì gọi tên một người, họ lại hài chức vị người ðó ra mà gọi.
Gọi như thế vừa là cách vinh danh người được gọi. Phần người gọi cảm thấy hãnh tiến vì có quan hệ quen biết với người được gọi. Chẳng hạn: ấy quan đốc nhà tôi, hay ngon hơn nữa : ấy anh Huyện X.
Chữ nhà tôi, tự bầy tỏ cái huyênh hoang, hãnh tiến, thấy sang bắt quàng làm họ. Thật đáng ghét. Đã là đốc học, đốc tở mà còn kèm theo chữ cụ hoặc chữ quan nữa thì rõ ràng là xu nịnh: quan đốc tờ, quan đốc học, cụ Nghị, cụ Hàn, cụ cử, cụ ký, cụ Thượng, cụ Tú, thầy đội xếp, thầy cai, cụ lang ta, cụ bang tá, thầy quản, anh Khóa, anh cung văn ( thư ký riêng của các gia đình giầu có), thầy đồ, sinh đồ hay cống sĩ, quan hiệu, quan châu, quan phủ doãn, hiến ty, dề điệu, quan thừa sứ, ông Hiến binh, ông Trùm, ông Chánh trương, ông hậu, ông Hàn, ông cửu, cụ Thượng, ông Lý, cụ Chánh.
Những chữ dùng để chỉ kẻ hầu người hạ đã tùy hoàn cảnh mà thay đổi.
Trong nhà đạo, khi dùng chữ Kẻ tôi tớ chỉ là lối nói khiêm tốn của kẻ bậc dưới với kẻ bậc trên như cuối lá thư thường viết *kẻ tôi tớ hèn mọn *. Chữ con nhài, nàng hầu tương đối lâu đời nhất được dùng trong các nhà quan.
Sang đến thời Pháp thuộc có chữ con sen, chị vú, anh phu xe, rồi anh tài xế..
Những chữ ðể chỉ việc chời bời như : ði nhà thổ, nhà chứa, me tây, làm ðĩ..
Trong Nam giản dị gọi chung là Gái ðiếm.
Những chữ chỉ nhà nó (chỉ vợ hoặc chồng ). Chữ người (chê bai). Nguời khó tính lắm ạ ðòi phải mua rau lấy Người mới xơi ðược (trích trong Chiểu Chiểu của Tô Hoài ).
Quan anh (ý nịnh bợ) có tắm không, mở bốn chục trai nước suối Viten ðổ vào thùng rồi pha nửa chai cô lôn ðể cụ giội lại, dọn cái buồng Thổ Nhĩ Kỳ ðể chớp bóng ðấy nhé (Trích Giông Tố của Vũ trọng Phụng ).
Thêm một chữ cô ả cũng mất tiêu không ai dùng nữa.
Một số chữ của nhà ðạo cũng không ðược dùng nữa : Thầy cả, cụ, cố, thầy kẻ giảng, ông bõ. Nam Cao ðã viết riêng một chuyện nhan ðề : tư cách mõ. Nhà vãn cho biết tại sao gọi là mõ, rồi lềnh, rồi Sãi. Chữ ông Trùm, ông Chánh Trương cũng không ai dùng nữa. Một số chữ bên Phật giáo như ông Bụt, ông sư, ông vãi, bà vãi, chú tiểu cũng ít ai dùng nữa.
Có nhiều người muốn phục hoạt lại chữ Bụt, ông Sư như chủ trương của thầy Nhất Hạnh.
Hóa cho nên, chữ nghĩa có cái thời của nó, thời ðể sống và thời ðể chết.
Khi nghĩ ðến thân phận người phụ nữ miền Bắc, tôi muốn ðứng ra, nghểnh cao cổ, hò hét bênh ðàn bà cũng không ðược.
Vì tìm đến nửa ngày cũng không kiếm đâu ra chữ để chửi bọn đàn ông.
Thử xem nào: ðồ ðàn ông ðĩ ngựa. Nghe không ổn. Ðồ lẳng lơ. Cũng không nghe ra tai. Cuối cùng tìm ra ðược vài chữ ðáng ðời : Ðồ súc sinh và một chữ dấm da dấm dớ : Ðồ cha cãng chú kiết. Thật ðến là tức, tự nhiên xổ ra ðược một lô chữ cho hạ hoả : ðồ du côn du kề, ðồ ãn mày ãn xin, ðồ gì nữa nào.. ðồ lính tráng. Chẳng hạn, ðàn bà chửa hoang ðôi khi phải cạo trọc ðầu, bôi vôi rồi ðành bỏ làng mà ði
Cái may của phụ nữ miền Bắc là vào đến trong Nam, họ đã không bao giờ còn bị ai diếc móc như thế nữa.
Ðó là cuộc giải phong thân phận người phụ nữ mà bình thường ðôi khi cần cả một thế kỷ mới tranh ðấu ðược.
Tôi thiển nghĩ ðây cũng là một mặt tích cực nhất mà ít ai lưu tâm cho ðủ. Nó phá vỡ những tồn tích của phong kiến, xả hội làng xã ðóng kín sau lũy tre làng của xã hội miền bắc.
Làng miền Bắc là một ðơn vị kinh tế tự lập về mọi mặt từ sản xuất ðến tiêu dùng, tự cung, tự cấp với một số ngành nghề cơ bản như cầy cấy, ðánh cá, nuôi tằm, dệt vải, trồng trọt, chãn nuôi. Về ðịa lý, mỗi làng mỗi xã có lũy tre bao bọc, có cổng làng ðóng kín vào buổi tối không ai ra vào ðược. Trong mỗi nhà cũng có rào dậu, cửa ngõ, cửa ðóng then gài.
Về mặt xã hội là một tổ chức ổn ðịnh, ðã ðịnh hình và khép kín. Làng này không giống làng bên cạnh, có ngành nghề riêng biệt, cha truyền con nối. Chẳng hạn có làng Cốm Vòng,, gỏi Bằng, Tương Bần, Cá rô Ðầm Sét, Bún Mọc.
Người trong làng là nơi mà một ðứa trẻ sinh ra, lớn lên, ðược ðào tạo và nuôi dưỡng trong tinh thần xã thôn mà chúng trở thành máu mủ, ruột thịt.
Cho nên sự trừng phạt nặng nhất ðối với dân làng có thể là phải bỏ làng mà ði. Ra khỏi làng là rơi vào tình trạng tha phương cầu thực.
Cái lợi của làng là ổn ðịnh và trật tự, tính kế thừa truyền thống. Tuy nhiên cái hại của chế ðộ xã thôn là nạn cường hào ác bá, trên ðè dưới mà nạn nhân là thành phẩn nông dân nghèo khó hoặc ðàn bà con gái. Ðó là câu truyện Giông Tố của Vũ Trọng Phụng. Hay câu chuyện : Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn. Nằm vạ của Bùi Hiển. Chí Phèo của Nam Cao. Gần dây có câu chuyện của một nhà vãn miền Bắc nhan ðề :Mãnh ðất lắm người nhiều ma.
Về mặt vãn hóa thì miền Bắc ðược coi như cái nôi của vãn học mà tỷ lệ thi ðỗ thường cao nhất nước, nhất là 14 vùng chung quanh Hà Nội.
Chẳng hạn, ðàn bà chửa hoang ðôi khi phải cạo trọc ðầu, bôi vôi rồi ðành bỏ làng mà ði.
Nếu miền Bắc là cái nôi của vãn học thì miền Nam là miền ðất hứa. Nó hứa ðủ thứ. Nếu miền Bắc chỉ là những tiếng thở dài với nước mắt và mồ hôi thì miền Nam nó tạo ra một bản sắc cá biệt mà ta gọi sau này là Vãn minh miệt vườn.hay theo Sơn Nam gọi là Vãn minh Sông Rạch với nếp sống Hạ Bạc, một ðặc trưng của ðồng bằng sông Cửu Long.
Chữ nghĩa có thể không ðầy một cái lá me, nhưng biết trọng nghĩa, có khí phách của lớp người anh hùng hảo hớn. Tính nết thì cương trực, bảo có là có, bảo không là không, một chữ là một nghĩa, không quay quất, xiên sẹo.
Trên bước ðường lưu lạc của kẻ lưu dân,. Tình bạn là cao quý nhất cho nên ở ðâu có nhiều bạn thì quê hương ta ở ðó.
Hai nếp sống, hai nếp nghĩ Bắc Nam tạo ra những cú sốc vãn hóa, nhưng phần lợi là bổ túc cho nhau trong một liên hệ hỗ tương.
Nhưng theo tôi, kẻ hưởng ðược lợi nhất trong cuộc sống chung giữa Nam và Bắc lại chính là người phụ nữ miền Bắc..
Về mặt địa lý chính trị, trong Nam không có khung cảnh làng xã đóng kín- không có lủy tre phân định ranh giới từng đơn vị làng- Làng là một đơn vị mở mà trong mùa nước nó san phẳng địa lý ranh giới giữa làng này với làng kia.
Dân tình trong Nam phần đông là dân của miền đất mới, đến từ nhiều vùng.. Phong tục, tập quán, đạo lý có phần cởi mở
Hình như không mấy ai nhận ra điều này. Nhưng lại chính là sự thật. Từ nay, người phụ nữ miền Bắc không còn là một thứ vật cho người ta khinh miệt và xỉ vả.
Họ nay có thể trở thành ngang hàng với ðàn ông trong quan hệ vợ chồng, quan hệ gia ðình và quan hệ xã hội. Những tục tảo hôn không còn nữa. Chuyện cha mẹ ðặt ðâu, con ngồi ðó cũng dần dần không còn là một cưỡng bách trong hôn nhân.
Trước khi chấm dứt, người viết bài này lọc ra một số chữ miền Bắc mà nhiều chữ nay có dịp đọc lại cũng thấy hay
.Chữ nghĩa quả đúng là có cái thời của nó: Thời để sống và thời để chết nói ra như một luyến tiếc thời đã qua.
Những chữ tôi trích dẫn sau đây, nếu biêt dùng, đúng hoàn cảnh của nò cũng có giá trị thời sự và hiểu biết lắm. Để lảm phong phú tiếng Việt, chúng ta nên thu gom lại trong gia tài ngôn ngữ tiếng Việt.
Chẳng hạn những chữ như sau: Nó tẽn tò, sợ vãi ðái, nhịn như nhịn cơm sống. Mấy từ này lâu lâu gặp một bà Bắc kỳ ðặc dùng lại nghe cũng sướng cái lỗ tai. An uống vốn là lẽ sinh tồn của nguời dân Bắc nên ðược xử dụng tràn lan như : ãn phải ðũa, ãn cơm khoán, ãm cơm tứ chiếng, ãn chực, ãn ba vực như trong câu : ãn chẳng bao nhiêu, ãn vạ hay nằm vạ. Tuyền là thứ ðặc sản cả. Quý lắm ðấy. Thứ thiệt, thứ ròng chính hiệu con nai. Nào là bữa lưng bữa vực, rồi bà thổ ra, chả mấy khi, thế mà cấm khinh người, ông ta chúa pha trò, ông bỏ lỗi cho tôi, tôi nói khí không phải, khắc xong. Mấy từ này dùng ðến là ðắc ý. Nó ðứng một mình thì chả có gì ðáng nói, nhưng nó ðứng trong toàn cảnh một câu nói thì thật hay. Khí không phải vừa có vẻ nhún nhường, nhưng ðầy thách ðố và sẵn sàng ðối ðầu không thương nhượng. Này, lại tiếp một lô chữ nữa ghi lại kẻo quên : Con ðàn cháu ðống, ốm thập tử nhất sinh, cứ chõ mồm vào, le te chạy vào, bà ðã mà cả mà cập, rõ mồn một, việc lớn ta tính theo việc lớn, còn việc thỏn mỏn trong nhà tôi thu xếp khắc xong ( trích trong Những ðứa con trong gia ðình, Nguyễn Thi ) Về muộn mấy, vào chơi cái ðã nào, người chết như ngả rạ, quái nhỉ, quái nó ði ðâu, tối bức như lò than, người con gái trắng lôm lốp, ra sự rằng mình dỗi, giãy lên như ðỉa phải vôi, ngã lộn tùng phèo, lớn phổng phao, con ði ðằng này, ðằng này là ðằng nào, trả lời mà như không trả lời ( Không cho biết là ði ðâu, có ý dấu, có thể là nói dỗi) u hỏi làm gì những việc ấy, mặc con, không ðủ mặc thây, cái ðám ma cũng ðường trường lắm, con ðẻ rứt ruột ra còn thế, lời chửi rủa thì bao giờ cũng thừa bứa tứa tát, thở rít lên như tiếng bễ, gà gà mắt lên như người say thuốc lào, nhà cũng hoàn cảnh lắm ( Chữ này có thể là chỉ ðược dùng sau 54), khối anh, ông ðã diện oách, một tay bốc trời, nói khe khẽ, cô suýt bật cười, nào bác cả ra ðây, ðàn ông ðàn ang có biết gì ðâu, giặt giũ cơm nước chợ búa, trêu ngươi ai, cài toang xong ( ðóng cửa truồng trâu ), ngã xiểng liểng, nó khó bảo, ði ðong chịu, khi cần tiền vẫn giựt nóng, cái ngữ ðó, cái cơ ngơi, Nói ðến hơi hướng cái danh ông Dề, tao úp ðược con chó rồi, ði húi tóc, ra sự rằng mình dỗi, ði ở trọ, mẹ hờ con ( ru con, chữ cũng hay lắm ðấy chứ ) suốt ðêm, giã ðám, tuổi mụ, cầm bằng ông ta mà giận không che chở cho nhà ta ðể nhà binh Nhật xung công tất cả thì cứ xung công ( trích trong Cửa Biển của Nguyên Hồng ), nhưng nay mới tường mặt ( rõ mặt ), hàng bồ chuyện, bồ chữ, kíp thợ, ði ðóng ðáng,( Trích những ðứa con trong gia ðình, Nguyễn Thi ), xách ná thun ði bắn nó, làng vào ðám, thổi mòi rơm, trâu làng tôi mót ðâu ỉa ðó, chú Lựu quẩy hai gánh ði mót cứt trâu trên ðường. Hai chữ mót dùng trong một câu mang hai nghĩa khác nhau. ( Chuyện ở tỉnh lỵ của Vũ thư Hiên). Châm ðóm, thông ðiếu, xe ðíếu, nõ ðiếu, quán ðỏ ðèn suốt sáng,bắt rận, bắt chấy, cứ bỏ rẻ, ra ao tắm, ta nhắm vài miếng, mâm cỗ, bà ấy hay ốm lửng ( Giả vờ ốm ), chẳng biết ðâu mà lần, bật hồng là gì nào, ðốt ðuốc ðấy, tôi chạy ù xuống bếp, chú nghiêng ðầu dòm ông , có như vậy, nhược bằng không, gì chứ cái ấy không ðược, cô Gái là người vắt mảnh sành ra nước, nhưng cái khoản rượu bao giờ cũng biện ðủ, tháng chạp còn gọi là tháng củ mật ( tháng trộm cướp như rươi ), phóng * bút chì *. Không phải cái bút chì ðể viết ðâu( dùng cái mai buộc vào một sợi thừng dài dùng ðể phóng vào ðối thủ), có ãn phải có trả, sợ cô quở, ði biệt tãm tích, mời ông xơi, con mắt cùi nhãn, chơi ðánh chắt, những chùm quả lúc lỉu trên cành, chơi ðố lá, ðời thủa nhà ai, nhựa sung ðược dùng vào vô khối việc, sạch như ly như lau, mời ông ðưa cay, những ngày rau lụi ( hiếm rau), tôm he giã lấy nước ðánh lòng ðỏ trứng gà giả làm yến ( Trích Thời xa vắng, Lê Lựu ), lại gắp vài miếng , từng rủa không thiếu một lời, giỗ sống rồi, nói không ngoa, ðược mấy nả, không có cái chân ðảng trong làng, ông ðứng chân chủ họ, ông Phúc ðã ðánh trúng huyệt, trong việc làng, phần ðầu gà má lợn , hôn nhân ðiền thổ, vạn cố chi thù, ðã có người lân la hỏi chuyện gia cảnh, thế là cạch không ai dám hỏi, cạch ðến già, có những tiếng thật hay như : có tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt ra, thế mới biết sông có khúc, người có lúc, trống ðánh ðến hỏng dùi, ðã trót phải chét, tôi ðã trót ðẻ ra ông, chữ trót ði liền với ðẻ ra ông mới diễn tả ðược nỗi thất vọng như thế nào của ông bố ( Tả trong một trận ðấu tố), rửa qua quít, rán cá, thịt nạc kho rim, ãn uống húp háp xì xoạp, chửa xong, ðánh chén, cơm ðèn, cơm ðóm, cơm sáng trãng, có khi ãn cơm khan chỉ chan nước mưa, nước vối, ðộng thớt, hễ bên ðó ðụng ðũa, ðộng bát là biết ngay, muốn ãn thì lãn vào bếp, lên ãn boóng ðược nhiều bữa nhờn môi . Thật hay. ãn giả miệng, không dè, cái ðói giáp hạt, nấu cháo ðộn rau tập tàng, không dư dật, mấy ông uống nước cả cặn, ãn tợm lắm, con tì con vị ðược ðánh thức, cứ nhao nhao lên như chào mào ãn dom, con nào cũng lành chanh, lành chói, mồm nãm miệng mười, Biện là tên cúng cơm , chỉ có hai bữa cơm ðèn, làm ãn giật gấu vá vai, nó vác rá ðến xin ãn trước cũng túng, bóc ngắn cắn dài,rách như tổ ðĩa, người từ dưới xuôi, người trên mạn ngược, ãn hại ðái nát, họ lùa ra sân, lùa bát cơm vào mồm. Hai chữ lùa ðều có nghĩa khác nhau. Khóc như mưa như gió, sắc như tiếng dao cạo vào tinh nứa, nghe ðến ghê cả mình.
Có chữ nghe ðến lạ: dù có mùa ðông rét chết chim, hay * máu gái ðẻ * nó bất thường lắm hay vợ dậy lau lưỡi (lần ðầu tiên người viết thấy dùng như vậy ) và si con ðái (cũng ðắt lắm ) phải lai (ðèo sau xe ) vợ ðến sở, anh của Tuyên ðã ðánh xe ði ðón, những cái hắn sợ là hão cả, thế nào là mềm nắn rắn buông, ngồi chắp chân bằng tròn, chỉ nhớ ang áng, người ðã thất cơ lỡ vận, thì ra già néo ðứt giây, những thằng tứ cố vô thân giết ði thì dễ, anh bứa lắm, mỡ gầu lực xực, không chanh cốm, một thời ðã xa lắc xa lơ, con có nói gian thì trời chu ðất diệt, chúng cháu không dám chắc lép, nhưng quả là ít vốn, Bá Tứ ngồi rười rượi nhảy xuống trẫm mình, anh với Châu cọc cạch (ðộc thân,ám chỉ như ế vợ ) quá, bà bón cơm cho cháu, bà ãn cả thể nhá, sao im ắp ðến thế, cái máy ảnh cà khổ, xin dành cho chị tất, cái ô tô phanh ðến két một cái, bộ dui mè, có gì không nên không phải bảo nhau, sợ thọt dái lên cổ, thôi ta ãn khan một cái, thế hệ chém to kho nhừ ( lấy ãn no làm vui rồi )ụ, có ông chồng hâm, chị vẫn gọn gàng như người son rỗi, gạo vừa ðỏ vừa dớn, dáng chừng chị cả mấy lần nhấp nhỏm ðịnh nói, cái cạp sổ ruột, quanh nãm hết dật tạm lại vay nóng, làm lắm thì chầy vẩy ra chứ ãn thua gì, những thứ ấy chẳng kiếm ðược mấy nả tiền, bác Tú Mỡ ngày ngày chãm chút lau xe ðạp rồi buộc thừng treo lên, ngồi xuống chiếu, xếp bằng tròn, không ðể bánh xe chịn ðất, quay ði quay lại, làm chân ðiếu ðóm.
Quả thực chữ nghĩa nó phiền hà thật!!!
Viết bài nghiên cứu này, chúng tôi chỉ mong người Việt học cái hay của mỗi miền, tìm ðọc ðể làm giàu cho vãn học miền Nam.
Bài viết này mở ðầu cho cuốn sách vãn học miền Nam của tác giả sắp xuất bản.
© Nguyễn Văn Lục
© Đàn Chim Việt
—————————————————–
Chú thích:
(1) 50 năm Bắc Kỳ di cư, 1954-2004
(2) Trong từ điển Từ Việt cổ, nhà xuất bản văn hóa thông tin, Hànội 2001 các tác gia Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện cũng đã thu tập được gần một ngàn chữ cổ như các chữ vừa nêu trên..
(3) Trong lời mở đầu báo Nam Kỳ địa phận, số đầu tiên, năm 1907 có những câu như sau:
Triết gia Trần Đức Thảo chê ông Hồ ba điểm: theo Marx, theo Mao và thích chiến tranh. Con khỉ đi xe đạp thì ai cũng thích thú vì khỉ không bao giờ xe đạp.
Không ai ngạc nhiên khi nghe chó sủa gâu gâu, mèo kêu meo meo vì cái đó thuộc bản tính của nó rồi, không thể khác được. Cái quan trọng của triết gia cũng như người thường là phải nhận định đúng sự vật. Không thể bảo con cọp là con cừu. Người ta ngạc nhiên khi thấy cừu ăn thịt người chứ không bực bội khi thấy cọp ăn thịt người.
ĐÀO NHƯ * QUÊ HƯƠNG VÀ LƯU ĐÀY
QUÊ HƯƠNG VÀ LƯU ĐÀY
Đào Như
(Tên của các nhân vật đều là hư cấu. Nếu có sự trùng hợp xin đừng ngộ nhận)
Cuối năm 2004 tôi về thăm nhà. Lúc ấy anh tôi 73 tuổi. Anh trông yếu hẳn đi. Tóc anh bạc trắng. Xót cho anh, tôi nói:
- Mấy năm đi tù cải tạo bị ngược đãi, tóc anh bạc phơ.
- Đi tù cải tạo là tai-trời-ách-nước mà! Người miền Nam, bên này vĩ tuyến 17, sau 1975, ai mà không đi ‘tù cải tạo’, kẻ đó không phải là người Miền Nam. Không phải tại ngược đãi gì đâu. Tóc anh bạc, người anh gầy, vì anh giống má. Nói xong anh cười. Thấy tôi đang nhìn có vẻ quan sát nhà cửa của anh, vừa chỉ tay chung quanh, anh vừa nói:
- Tất cả là do tiền của mấy đứa con ở Florida gửi về, tụi nó yêu cầu tân trang lại nhà cửa và xây cất thêm phòng ốc để có chỗ cho tụi nó ở mỗi khi dẫn vợ con về thăm nhà. Vừa ngắm nghía bức tranh “Bến Hồng Quảng”của Nguyễn Gia Trí đang treo trên tường, anh vừa nói:
- Đó chỉ là phiên bản,immitation. Kỹ thuật ấn loát của họ bây giờ khéo đấy chứ? Chú còn nhớ cụ Trí? Cụ Trí thuộc Quốc Dân Đảng, có một thời sống lưu vong bên Trung quốc với NguyễnTường Tam, Nguyễn Tường Long, Nguyễn hải Thần...Sau 54, chạy nạn Cộng sản, cụ Trí di cư vào Nam, có cả người em trai của cụ nữa, sinh sống tại Saigòn. Ấy thế, mà mấy ông Cách mạng ‘gan’ thật, dám kéo cụ Trí về phía họ. Dám bảo cụ Trí là người của cách mạng, và họ ‘quốc hữu hóa’ các bức tranh của cụ Trí. Hay thật. Họ đâu có tước đoạt gì cụ Trí. Tài-sản-của-quốc-gia mà lại…
- Em chưa hề gặp cụ Trí ở Sàigòn, tôi nói, nhưng em biết cụ Trí sau khi di cư vào Nam, cụ có vẽ cho nhà thờ Mai Khôi, trong khung viên của Cercle Renaissance của em ở, một bức tranh rất đặc biệt: Chân Dung Đức Mẹ. Cụ Trí vẽ Đức Mẹ mặc áo tứ thân, đứng trên tòa sen. Bức tranh thật ấn tượng.
Những lúc ấy anh em chúng tôi nói chuyện với nhau rất nhiều, nhưng anh tôi tuyệt nhiên không nói gì đến thân phận bèo bọt của anh trong suốt những năm tháng sau ngày Thống nhất. Chị dâu của tôi có vẻ ấm ức, muốn anh nói cho tôi nghe những chịu đựng gian khổ của anh. Anh tôi chỉ mỉm cười:
- Không ai có thể chia sẻ trọn vẹn sự đau đớn của người khác được cả. Và cũng không có ai có thể nói hết được sư đau đớn của riêng mình. Họa chăng chỉ có thuyền mới hiểu được biển. Thuyền và biển đều câm nín cả. Đạo khả đạo phi thường đạo…Nói xong, anh cười phá lên.
Đến buổi ăn trưa, tôi có cảm tưởng anh chị thiết đải vợ chồng tôi, vì bữa ăn tại gia đình nhưng thịnh soạn. Chị dâu tôi nấu cơm gà Phanrang thơm lừng. Có mắm gừng. Có bia Heineken. Hình như đọc được ý nghĩ của tôi, anh tôi bảo:
- Dù sao, có chú thím về anh chị cũng phải…Nhưng sư thật thì bữa ăn hằng ngày của vợ chồng tôi được cải thiện rất nhiều trong 6 năm qua, kể từ ngày các con ở Mỹ ăn nên làm ra, tụi nó gửi tiền về… Anh nhìn vợ tôi, anh hỏi:
- Sau hơn 20 năm ở Mỹ, hôm nay lần đầu tiên thím ăn cơm trưa, chắc thím có cảm giác lạ lắm phải không? Thú thật với thím, tôi cũng vậy, hồi năm 62, trở về nhà, sau hơn một năm ở Mỹ, tôi ngạc nhiên hết sức khi thấy mình ngồi lại ăn cơm trưa với vợ con, với gia đình như người Mỹ ăn dinner vậy.
Câu chuyện anh vừa nói làm tôi nhớ lại anh là một sĩ quan Không Quân, đã có hai năm sống ở Mỹ: 1961, và 1970. Ấy thế mà năm 1975, anh nhất định không đi. Anh yêu nước biết dường nào.
Chị dâu tôi bảo:
- Cầm đũa mời hai em ăn đi ông, quá 12 giờ rồi…
- À, mời chú thím… mời bà, anh tôi bảo.
Vì thương anh tôi, chị dâu tôi muốn vợ chồng tôi, nhất là tôi, (vì anh chị tôi nuôi tôi từ hồi tôi còn nhỏ) phải chia sẻ những gian khổ của anh tôi trong hơn 20 năm qua sống dưới Chuyên Chính Vô Sản, chị nói trong ngậm ngùi và cả nước mắt nữa:
- Khi ông ấy được ‘lệnh tha’, ở trong trại tù, ăn đói, ông ốm nhôm, gió xô cũng ngã. Bữa cơm đầu tiên mẹ con tôi cũng nấu cơm gà cho ông ấy. Tay ông cầm đũa gắp miếng thịt gà mà cứ run run, ông đưa vào miệng ngậm một hồi lâu mà nước mắt ông ràng rụa ông ậm ực:“Ùm! Gần 10 năm!..”
Anh tôi đưa tay vuốt lưng chị dâu tôi, vỗ về:
- Thôi bà, đó là quá khứ. Quá khứ của nhầm lẫn…Chú thím, cũng như nhà tôi, nên quên cái thời đó để vui sống. Bây giờ là thời mở cửa, thời cởi trói, đổi mới rồi. Thời nào chúng ta sống theo thời đó cho nó ổn. Đâu có phải chỉ có những người tù cải tạo như chúng tôi là sống khổ, đói khát. Việt Minh họ cũng vậy. Tháng 10/1955 bộ đội Việt Minh về tiếp thu thủ đô Hà nội, trong một bữa tiệc khỏan đải, cụ Phan Khôi cầm đũa chỉ vào đĩa thịt gà nói một câu cay đắng:“ Chín năm nay, tao mới thấy mặt mày”! Thời nào cũng vậy, người trí thức sống dưới Chuyên Chính Vô Sản…cũng như chúng ta hôm nay thôi. Anh tôi bắt qua chuyện khác, anh hỏi tôi:
- Chú còn nhớ Trung tá Hạnh, phi công F105? Anh chàng hồi còn Trung úy, có một thời mê Nguyệt ‘Mắt Quạ’, tiệm ‘Phát Quang’, trên phố Độc lập, Nhatrang.
Thật sự tôi không nhớ được anh ấy, nhưng tôi cũng phài ẩm ờ. Chị dâu tôi bảo:
- Lâu quá, chắc chú quên rồi, chị nói tiếp:
- Vợ chồng tôi mới ra Hà nội tháng vừa rồi, để đi đám ma anh Hạnh. Trung tá Hạnh và gia đình thoát đi Mỹ vào ngày cuối cùng 29/4/75. Đến Mỹ anh làm việc cho hãng máy bay Lockheed tại Cali. Chị, vợ anh Hạnh, làm programmer cho American Express. Hai người con ăn học thành danh, tất cả theo nghề Business. Ai cũng có nhà cửa cơ ngơi sống thoải mái. Anh ấy cũng thường xuyên thư từ với vợ chồng tôi. Năm 2000, anh ấy đúng 68 tuổi, hãng Lockheed cho anh ấy về hưu. Chắc chú còn nhớ, anh ấy là người Bắc, di cư vào Nhatrang, nhà anh ấy bên cạnh nhà anh chị, hồi còn ở đường Prince Cảnh. Anh Hạnh có người em trai, đại tá ở phía bên kia, đã từng tham chiến trận Điện Biên. Sau bao nhiêu khó khăn, rào cản, mãi đến năm 1996, hai anh em mới bắt được liên lạc với nhau, và anh Hạnh mới hay bà cụ mẹ anh còn sống. Năm 1997, anh chị Hạnh về thăm bà cụ, và gia đình người em tại Hà nội. Anh Chi Hạnh giúp đỡ người em một số tiền để xây một cái nhà khá lớn và dành cho bà cụ một phòng, và anh chị cấp dưỡng cho bà cụ đều đặn hàng năm. Năm 2001, bất ngờ chị Hạnh qua đời vì tai biến đột quị. Từ khi người bạn đời vĩnh viễn ra đi, anh Hạnh cảm thấy hụt hẳn. Con cái thì ở xa, ai cũng thành gia thất. Anh ấy cũng
có cháu ngoại cháu nội. Người con gái thì ở Boston. Cậu con trai thì ở New York. Sau khi tham
khảo với các con và với người em trai ở Hà nội, năm 2002 anh quyết định hồi hương về sống gần với mẹ ngày nào mừng ngày ấy và hy vọng đến khi anh ấy qua đời cũng sẽ được an táng nơi quê nhà. Anh về Hà nội được 9 tháng thì bà cụ mất. Anh vẫn tiếp tục ở với người em trai. Hai người trông vẫn còn phong độ, đi du lịch đó đây. Mới đây, năm ngoái hai anh em có ghé thăm vợ chồng tôi, ăn ở đây gần 1 tuần, sau đó anh của chú và hai ông đó đi du lịch với nhau, vào Nam, ra Bắc cả tháng trời.. Nói tới đây chị nhìn anh như có vẻ trách móc. Anh tôi liền bảo:
- Đâu cả tháng, để xem nào, hình như có 25 hay 26 ngày…Nhưng đầu tháng vừa rồi anh Hạnh có gọi tôi, cho hay anh nghe trong người hơi khó ở. Nghe vậy tôi nghĩ chắc không đến nỗi nào. Không ngờ năm ngày sau, người em trai, đại tá Phúc gọi cho tôi hay là anh Hanh đang hấp hối, muốn gặp tôi gắp. Hai vợ chồng tôi bay ra liền, chỉ còn kịp để vuốt mắt anh ấy.
Nói đến đây, anh tôi gục đầu trên hai bàn tay. Tôi nghe anh tôi thều thào:Trung tá Hạnh chết cô đơn quá, không có vợ con bên cạnh, chỉ có quê hương…Tôi nghe chị tôi lập lại với giọng hờn dỗi hai tiếng “quê hương”, và chị nói:
- Tôi nghiệp anh Hạnh lắm chú thím. Chú thím có biết không? Mai táng anh Hạnh cũng gặp nhiều khó khăn với chế-độ lắm, mặc dù em anh Hạnh, nguyên Đại tá, đã từng tham chiến Điện Biên, đi B và cũng tham chiến cả chiến trường Kampuchia nữa. Họ cứ bảo anh Hạnh là ngoại kiều, họ đòi hỏi hạch sách đủ điều, đủ mọi thứ giấy tờ. Khó khăn lắm, tốn kém lắm, 4, 5 ngày sau, khi nắp quan tài gần bậc ra vì thi thể anh Hạnh bắt đầu sình rữa, mới lấy được giấy báo tử vì có giấy báo tử mới có thể chôn được ở nghĩa trang gia đình gần Hà Nội, bằng không thì họ không cho chôn. Ôi mấy ông cộng sản, hành hạ người dân, đến chết vẫn còn hành hạ.
- Nhưng bà biết, anh tôi nói, trước khi vĩnh viễn nhấm mắt, anh Hạnh có nói với anh Phúc là anh không bao giờ hối tiếc đã trở về Hà nội mặc dù có nhiều bạn bè ở Mỹ nghĩ là anh sai lầm, anh đã chọn quê hương làm chốn lưu đày. Anh đã thỏa mãn được giấc mơ của đời anh, là được chăm sóc kề cận mẹ anh trong tuổi bóng xế của bà và điều thứ hai nữa là anh được chết và chôn tại Hà nội.
- Ôi, sao ông còn lý tưởng quá, chị dâu tôi bảo. Ông bị mê hoặc bởi cụm từ: “Quê hương thần thoại”, vì thế ngày 24/4/75 cả gia đình vợ chồng con cái đã lên ngồi trên chiếc DC 10, tại căn cứ Phi Long, Nhatrang, sắp sửa cất cánh, ông nhất định kéo xuống hết và ông bảo với các con ở lại với đất nước, Việt Nam dù sao đi nữa vẫn là quê hương, vẫn là thiên đàn. Sau ngày 30/4/75 ông khăn gói trình diện đi tù cải tạo. Ông còn nhớ hay ông đã quên rồi ông? Sau câu nói, mặt chị dâu tôi sa sầm nước mắt. Anh tôi nhìn chị tôi yên lặng, không nói được một lời… Lặng thinh một hồi, anh tôi bảo:
- Có hai em về thăm…sau hơn 20 năm xa cách. Còn chuyện đó cũng đả gần 30 năm rồi. Tôi xin bà hiểu cho, ai cũng một lần vấp ngã. Rồi anh quay lại nói với hai vợ chồng tôi:
- Hôm nay là 21 tháng Chạp! Chỉ còn không đầy mười ngày nữa là đến Tết ta.
Chị dâu tôi bảo:
- Vậy Chú Thím ở lại đây ăn Tết với vợ chồng tôi, sau Tết rồi hãy về Mỹ.
Chúng tôi ở lại, chia sẻ với anh chị những ngày cuối năm. Có những buổi tối, anh em tôi mang mùng mền ngủ với nhau một phòng riêng. Những câu chuyện trao đổi những lúc tàn canh, tôi nghe giọng nói anh tôi hiu hắt buồn. Nhiều người bạn của anh đã về vĩnh cửu. Tinh thần anh có vẻ suy sụp sau khi chia tay với anh Hạnh, người bạn thân cuối đời anh. Bạn bè anh ở lại với đất nước, không còn mấy người sống sót. Sau khi được ‘lệnh tha’, một số qua Mỹ vào những năm 90 theo diện Từ Thiện (Humanitarian Operration: H.O.). Một số giống anh, từ chối diện ‘từ thiện’ (H.O). Họ ở lại, chết dần, chết mòn trong cảnh cơ hàn, bịnh tật, vì họ bị hành hạ quá nhiều lúc đi tù cải tạo. Anh cảm thấy cô đơn. Có những lúc anh nói như trong mơ “Anh không biết tính làm sao đây? À, hay là anh chị sẽ ‘move’ qua Mỹ ở, sống chết hôm sớm có bạn bè, có con cháu, có các em. Lặng thinh mộ hồi lâu, tôi nghe anh uốn mình trăn trở, anh tự trách mình, như vậy anh chị lại sẽ làm một hành trình ngược chiều với anh Hạnh sao?..
Lúc ấy ngoài hiên nhà trời đang hừng Đông. Tôi giật mình, lâu lắm tôi mới nghe lại tiếng gà gáy sáng…/.
Oct-2004
Oak park, Illinois USA
Đào Như
QUÊ HƯƠNG VIỆT NAM
Ảnh độc về trẻ em miền Nam 1967 qua ống kính người Mỹ
Những hình ảnh dưới đây do nhiếp ảnh gia người Mỹ Henk Hilterman thực hiện năm 1967 ở Sài Gòn và một số địa phương khác của miền Nam Việt Nam.
Những hình ảnh dưới đây do nhiếp ảnh gia người Mỹ Henk Hilterman thực hiện năm 1967 ở Sài Gòn và một số địa phương khác của miền Nam Việt Nam.
Trẻ em trong một khu chợ ở Sài Gòn.
Nữ sinh trong một ngôi trường xếp hàng vào lớp.
Ngày nay bé gái này là một quý bà U60!
Nữ sinh với áo dài và nón truyền thống.
Vẻ hồn nhiên của các nam sinh.
Học sinh chơi đánh đáo.
Những đứa trẻ vây quanh một gánh hàng quà vặt trên đường Phạm Ngũ Lạo, gần ga tàu hỏa.
Ông bố và những đứa con bên tàu Bệnh viện Helgoland của Đức, được Mỹ thuê trong thời gian chiến tranh leo thang tại Việt Nam.
Trẻ em tắm giặt ngay trên vỉa hè.
Trẻ em tắm giặt ngay trên vỉa hè.
Bơi lội và đùa giỡn trên sông.
Những đứa trẻ trên thuyền.
Trẻ em nghèo chờ đợi để nhận sữa tại chương trình phát sữa cho trẻ em nghèo do Hội Hồng Thập Tự tiến hành.
Trẻ em nghèo chờ đợi để nhận sữa tại chương trình phát sữa cho trẻ em nghèo do Hội Hồng Thập Tự tiến hành.
Trẻ em nghèo chờ đợi để nhận sữa tại chương trình phát sữa cho trẻ em nghèo do Hội Hồng Thập Tự tiến hành.
Trẻ em nghèo chờ đợi để nhận sữa tại chương trình phát sữa cho trẻ em nghèo do Hội Hồng Thập Tự tiến hành.
Lớp học dành cho trẻ em do Sư đoàn 5 Bộ Binh VNCH tổ chức.
Những đứa trẻ trong một trại trẻ do quân đội Mỹ quản lý. Cảnh lấy nước tại xe bồn của Mỹ. Hai cậu bé đứng trước một bức tường làm từ vỏ bình đựng xăng dầu. Những đứa trẻ thích thú khi được chụp ảnh. Trẻ em nghèo miền Nam Việt Nam. Trẻ em nghèo miền Nam Việt Nam. Trẻ em nghèo miền Nam Việt Nam. Những đứa trẻ chơi ô ăn quan. Những đứa trẻ chơi ô ăn quan. Cậu bé múc nước bằng xô thiếc. Những đứa trẻ chờ được ăn. Trẻ em lao động tại một công trường xây dựng. Bên trong một ngôi nhà ở ngoại ô. Người phụ nữ nghèo và những đứa trẻ bên túp lều của mình. Tại một đơn vị hậu cần của lính Mỹ, nơi trẻ em phụ giúp việc giặt quần áo. Những đứa trẻ bên trong một trại tản cư. Trẻ em và lính Mỹ tại một hiệu sửa xe. Một xóm chài bên bờ biển. Đến gần lính Mỹ xin kẹo. Những đứa trẻ bị tàn tật do hậu quả chiến tranh. Trẻ em bị dịch bệnh được chăm sóc tại một bệnh viện. Trong một phòng bệnh nhân. Các nữ tu người Mỹ đảm nhiệm công việc của y tá. HÀ NỘI 1940
Harrison Forman: Hình ảnh Hà Nội 1940
Những nét đặc trưng của 36 phố phường cùng những sự hiện diện của người Pháp ở Hà Nội trong khoảng năm 1940 - 1941 qua ống kính nhiếp ảnh gia Mỹ Harrison Forman.
Tàu điện trên phố Hàng Đào.
Những biển báo ở góc phố Hàng Đào - Cầu Gỗ.
Góc phố Hàng Gai - Hàng Đào.
Phố Cầu Gỗ với những pa-nô quảng cáo lớn trước các tòa nhà.
Phố Hàng Đào với đường xe điện ở giữa.
Phố Hàng Bạc.
Rạp phim Trung Quốc ở phố Hàng Bạc, nay là rạp Chuông Vàng.
Quầy giải khát bên bờ hồ Hoàn Kiếm.
Nhà hàng Thủy Tạ soi bóng xuống mặt nước hồ.
Bốt Hàng Trống bên bờ hồ.
Tháp Rùa giữa hồ Hoàn Kiếm.
Quầy bán hoa bên bờ hồ.
Một phụ nữ ngồi xe kéo đi qua bờ hồ.
Vườn hoa bên hồ Hoàn Kiếm chằng chịt hệ thống hầm hào quân sự.
Một hầm tránh bom đang được xây dựng gần bến Cầu Cháy (khu vực chân cầu Chương Dương ngày nay).
Một hầm tránh bom đang xây cất.
Nhân công người Việt, trong đó có cả trẻ em tham gia xây hầm trú ẩn.
Cổng vào ga Đầu Cầu, ngày nay là ga Long Biên.
Trạm biến thế và trạm tàu điện tại ngã năm Bờ Hồ.
Những thùng phuy xăng được vận chuyển trong thành phố bằng xe kéo.
Đường dẫn lên cầu Long Biên.
Bảng khoảng cách đường bộ từ Hà Nội đến các địa phương ở miền Bắc đặt tại đầu cầu Long Biên.
Những người phụ nữ từ khu vực ngoại thành vào Hà Nội qua cầu Long Biên.
Toàn cảnh cầu Long Biên, lúc này vẫn còn nguyên vẹn.
Gỗ bên bờ sông Hồng, gần cầu Long Biên.
Trạm xăng của hãng Texaco gần cầu Long Biên.
Phía trước một cửa hàng xăng dầu của hãng Standar Vaccuum tại Hà Nội.
Cửa hàng bách hóa Grands Magasins Reunis, ngày nay là Tràng Tiền Plaza.
Phố Paul Bert (Tràng Tiền).
Nhà hát Lớn Hà Nội.
Góc phố nơi giao giữa phố Paul Bert với đại lộ Francis Garnier (đường Đinh Tiên Hoàng ngày nay).
Ngã tư phố Paul Bert (Tràng Tiền) và đại lộ Henri Rivìere (Ngô Quyền) với nhà hát Lớn ở phía cuối.
Bờ hồ Hoàn Kiếm nhìn từ đầu phố Paul Bert.
Ngã ba Paul Bert - Fourès (ngày nay là Đinh Lễ).
Rạp Eden (nay là rạp Công Nhân) trên phố Paul Bert.
Một người Pháp ngồi trên xe kéo tay.
Ông lão hát xẩm mù trên hè phố.
Một góc phố Huế.
Tượng đài Thống chế Ferdinand Foch tại vườn hoa Canh Nông (nay là công viên Lê Nin).
Một khu phố mới của Hà Nội.
Quầy vé số trên vỉa hè Hà Nội .
Phố Hàng Khay.
Trụ sở hãng xe hơi Ford ở Hà Nội.
Trẻ em làm nhân viên phục vụ tại một trạm xăng.
Trụ sở ngân hàng Đông Dương ở Hà Nội - nay là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Trụ sở hãng xe hơi Simca (Pháp) ở Hà Nội, ngày nay là vũ trường New Century trên phố Tràng Thi.
Trụ sở công ty thương mại và hàng hải Viễn Đông ở Hà Nội.
Phòng khám bệnh của bác sĩ Phạm Văn Phan.
Phố Hàng Tre.
Hàng xăng dầu của hãng Texaco giữa phố Hàng Tre và Maréchal Pétain (phố Nguyễn Hữu Huân ngày nay).
Trở lại Sài gòn
Mời các thân hữu xem phim Trở lại Sài gòn để thấy lại những hình ảnh thân thương ngày xưa. Bộ tài liệu này dành cho những ai yêu Sài Gòn, cả ngày trước và bây giờ. Tác giả Frank Ford, một người lính Mỹ đã từng đứng bên kia chiến tuyến, qua serie này đã tái hiện một Sài Gòn cách đây hơn 30 năm rất đầy đủ, rất chân thật. Từ những quán ăn bình dân, những khu nhà ổ chuột, đến những khách sạn quốc tế, những nhà hàng nổi tiếng, những tượng đài kỷ niệm...Chắc chắn trong đây có những con đường, ngôi nhà mà các bạn đi ngang qua hằng ngày, nay bỗng thấy chúng thật khác lạ... và có những nơi chỉ còn lại trong những bức ảnh và ký ức của người Sài Gòn... Video chỉ mang tính chất cá nhân của tác giả, không có ý đồ chính trị hay đề cập đến những vấn đề nhạy cảm. Trình độ nghe dịch của tôi cũng chưa cao lắm nên có nhiều chỗ chưa hay, mong các bạn thông cảm và đóng góp để tôi hoàn thiện bộ tài liệu này. |
VĂN QUANG * NGƯỜI LƯƠNG THIỆN
Mấy hôm nay trời Sài Gòn bỗng trở lạnh. Người Sài Gòn ra đường sặc sỡ với những chiếc áo ấm có lẽ để dưới đáy tủ, bây giờ mới có dịp dùng. Người bình dân mua vội chiếc áo “hàng sida” bày bàn ở vỉa hè hoặc góc chợ với đủ các nhãn hiệu, đủ thứ chữ Anh bay bướm trên ngực. Nhưng quả thật cái lạnh đối với dân miền Nam là chuyện hiếm. Tôi nhớ năm 1954, khi đồng bào miền Bắc ồ ạt di cư vào Nam, tháng 12 năm đó trời cũng bất ngờ trở lạnh. Mấy người miền Nam nói dỡn với nhau “mấy anh Bắc kỳ mang theo cả cái “rét” của họ vào trong này”.
Nhưng cái lạnh năm nay thì không đổ thừa cho ai được nữa. Tôi cảm thấy thú vị như được hưởng lại cái lạnh chợt đến của cuối thu miền Bắc xưa. Mặc dù tuổi già bị lạnh đôi khi cũng sụt sịt, sổ mũi, ho khan. Nhưng chẳng mấy khi được hưởng cái không khí này dù biết chắc TP này vẫn ô nhiễm trầm trọng.
Khu chung cư tôi ở có 3 ông già gần tám chục tuổi lăn ra chết. Người ta bảo vì trời lạnh người già dễ chết. Có lẽ đó là sự thật chăng? (Cái này chắc tôi phải e mail hỏi mấy ông đốc tưa chuyên viết chuyện bệnh tật như ông Nguyễn Ý Đức hay ông Hà Xuân Du may ra mới biết). Thôi thì cứ cho là thế, nhưng mình còn sống nhăn đây mà, lo gì cái vặt.
Vào nhà hàng ăn sang trọng cũng bị móc bóp
Bây giờ là những ngày cuối năm, các cụ gọi là “tháng củ mật” phải đề phòng trộm cướp. Nhưng ở Sài Gòn thì khỏi phải đề phòng “tháng củ mật” bởi ngày nào cũng là “ngày củ mật”. Không đề phòng là… đi đời nhà ma ngay. Chuyện trộm cướp xảy ra bất cứ ở đâu, bất cứ giờ nào. Trộm trốn trong nhà đợi đêm hành sự, trộm khoét mái nhà đu dây xuống, trộm chui từ nhà này sang nhà khác, cướp giữa ban ngày… nói tóm lại hở ra là mất.
Bạn ngồi trong tiệm ăn sang trọng cũng bị móc bóp. Cụ thể là cách đây 2 năm bà A.N từ Mỹ về VN, đãi chúng tôi ăn ở một nhà hàng nổi tiếng về món cơm niêu, ấy thế mà khoác cái bóp trên ghế ngồi, đến lúc trả tiền, mất trắng 100 USD vừa đổi thành tiền VN. May mà bà không để nhiều tiền trong bóp.
Tuần trước chị TV đi ăn với bạn ở một nhà hàng cũng thuộc loại khá sang cũng bị móc bóp mất hết tiền tương tự bà A.N. Và gần đây nhất, mới tháng trước thôi, bà HXD cũng từ Mỹ về VN đi taxi, đến lúc trả tiền, anh taxi dùng tờ báo che cái bóp và móc mất hơn 1 triệu đồng. Vì số tiền
mất chỉ khoảng gần 2 triệu đồng VN nên các bà cũng không muốn làm cho ra chuyện.
Đó là mấy chuyện trước mắt tôi biết.
Còn biết bao nhiêu nơi, bao nhiêu cảnh như thế này nữa. Xin cảnh báo cùng quý bạn khi về VN, đi ăn ở các tiệm ăn dù là hạng sang cũng nên đề phòng cẩn thận đừng bao giờ lơ là với cái bóp của mình.
Và, chỉ còn mươi ngay nữa là hết năm đến Tết Âm Lịch, quen gọi là Tết Ta, sao nhiều chuyện lôi thôi quá. Mỗi năm tôi thường “bầu” cho 1 chuyện được cho là “hay” nhất trong năm, hầu hết là những chuyện vui, không phải chuyện lớn.
Và, chỉ còn mươi ngay nữa là hết năm đến Tết Âm Lịch, quen gọi là Tết Ta, sao nhiều chuyện lôi thôi quá. Mỗi năm tôi thường “bầu” cho 1 chuyện được cho là “hay” nhất trong năm, hầu hết là những chuyện vui, không phải chuyện lớn.
Làm người lương thiện khó quá
Điểm lại vài chuyện trong mấy năm gần đây, bạn đọc bận bịu chắc có thể quên hoặc chưa đọc, tôi tóm tắt sơ lược qua để bạn nhớ lại và thấy được rõ nét hơn về tâm trạng của người dân trong thời đại này.
- Chuyện thứ nhất là câu nói bà Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan cách đây 2 năm: “Người ta ăn của dân không từ một thứ gì”. Câu nói rất thực tế và đến nay còn quá đúng. Mới tuần trước mấy ông quan xã ăn chặn bò heo của dân, rồi việc 12 con dê của nhà nước hỗ trợ cho dân nghèo "lạc" vào trang trại của ông bí thư huyện ủy huyện Thạch Thành. Nếu dân không tố cáo thì nghiễm nhiên là dê của ông bí thư huyện rồi. Đó chỉ là một chuyện quá nhỏ trong ngàn thứ chuyện “bòn nơi khố rách đãi nơi quần hồng” của các quan từ xã đến huyện, đến tỉnh... Cho nên Theo Ngân hàng Thế giới, Việt Nam đứng thứ hai trong danh sách nhận được nhiều khiếu nại nhất liên quan đến tham nhũng, chỉ đứng sau Ấn Độ. May quá, nếu không có anh Ấn Độ cản mũi, VN mình về nhất đấy các cụ ạ!
- Chuyện thứ hai ngộ nghĩnh hơn xảy ra vào năm 2014, đó là chuyện “làm đơn xin được đánh lộn” của anh Hồ Văn Vệ. Anh Vệ 31 tuổi, ngụ xã Mỹ Quý Tây, hành nghề chạy xe ôm, vì quá phẫn nộ về việc bị một nhóm người đánh đến nỗi phải vào bệnh viện, tiêu tốn chi phí điều trị hàng chục triệu đồng, anh đã gửi đơn lên xã, huyện đề nghị giải quyết, nhưng hơn 6 tháng qua chưa thấy cơ quan chức năng nào “xử lý”.
Đơn xin đánh lộn của anh Vệ
Trong đơn, anh Vệ viết: “Đến nay nửa năm đã qua, nhưng không ai giải quyết dù tôi có gửi đơn lên xã và huyện. Chỗ nào cũng im re hết. Quá bức xúc nên tôi làm đơn này xin phép đánh lại mấy người kia bởi vì đợi hoài pháp luật không giải quyết”. Anh Vệ cũng khẳng định, nếu vụ việc không được cơ quan pháp luật giải quyết, anh sẽ tự giải quyết theo cách riêng của mình. Đánh anh thì anh đánh lại, không thèm nhờ luật pháp nữa.
Tuy là chuyện khôi hài nhưng thể hiện nỗi phẫn nộ âm thầm của người dân. Bởi sự oan ức đè nén lâu ngày, làm hàng chục lá đơn, đến hàng chục cơ quan mà chẳng ai thèm giải quyết. Anh Vệ không ngu và cũng không dở hơi khi làm lá đơn xin được đánh lộn. Anh biết pháp luật nên mới làm đơn và cũng thừa biết không ai dám ký tên cho phép anh đánh lộn, dù là chủ tịch nước.
Chẳng qua anh làm thế cho đỡ tức, một hành động không phải dỡn mặt với chính quyền mà là “bỉ mặt chính quyền”. Nỗi ấm ức ấy không chỉ của riêng anh Vệ mà là nỗi đau chung của những thân phận thấp cổ bé miệng ở nhiều nơi bị trù ém vùi dập. Bạn Lê Minh Hoàng (Tiền Giang) bình luận:
“Mọi sự so sánh đầu khập khiễng nhưng giá mà Nam Cao còn sống thì chắc chắc văn đàn Việt Nam lại sẽ có một kiệt tác văn chương như anh em sinh đôi với truyện ngắn "Chí Phèo" bởi chuyện anh Vệ làm " Đơn xin đánh lộn" gửi cơ quan công quyền cũng giống như Chí Phèo hỏi "Ai cho tao làm người lương thiện?"
- Chuyện thứ ba xảy ra vào cuối tháng 8 năm 2013 đã trở nên nổi tiếng, đó là chuyện bà Bà Nguyễn Thị Xuân Đào là bị đơn trong một vụ án tranh chấp quyền sở hữu tài sản, bồi thường thiệt hại và đòi lại tài sản đang được Tòa án TP Quy Nhơn thụ lý. Bà Đào cho rằng ông Dũng chỉ thị cho cấp dưới làm thiệt hại cho mình, như thế là có dấu hiệu tiêu cực (ăn hối lộ của người khác) nên bà Đào tức tối, lấy một chiếc quần đen bằng vải thun, loại dành cho phụ nữ, bất ngờ trùm xuống đầu ông chánh án.
Bà Nguyễn Thị Xuân Đào chụp quần lên đầu ông chánh án
Mọi việc càng trở nên phức tạp và khôi hài hơn nữa khi bà Đào lôi ông chánh án Dũng ra ngoài hành lang và la to cho…cả làng cả nước cùng biết.
Chẳng qua đây chỉ là một vụ “tức nước vỡ bờ” thôi, nó cũng nằm trong cái “hội chứng tự xử”. Người dân chỉ còn phản ứng đó để “giải phóng” cho những nỗi giận hờn. Hành động đó còn mạnh hơn súng đạn, nó “chụp” lên cả hệ thống pháp luật hiện nay.
Đến chuyện cuối năm nay
Câu chuyện đang gây ồn ào nhất lúc này cũng trong những sự kiện đáng buồn về pháp luật. Sự việc đã được hầu hết các báo trong và ngoài nước đăng tải chi tiết.
Đề nghị thu chứng chỉ hành nghề luật sư - Minh họa Ngọc Diệp
Tôi chỉ tóm lược lại.
Đó là vụ cả “3 tòa quan lớn” gồm công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân TP Tuy Hòa đã cùng có văn bản đề nghị Sở Tư pháp tỉnh Phú Yên, Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư đối với luật sư Võ An Đôn - người bảo vệ quyền lợi cho gia đình người bị hại trong vụ án 5 công an dùng nhục hình dẫn tới chết người. Và sau đó, có bao nhiêu văn phòng luật sư tại tỉnh Phú Yên, nhưng “ba tòa quan lớn” lại chỉ thanh tra văn phòng của LS Đôn. Điều đó càng chứng tỏ sự “trù dập” một người chân chính. Thời buổi này tìm được sự tử tế ngay ở những chốn được coi là trang trọng nhất cũng quá khó và muốn làm người lương thiện càng khó hơn. Chuyện này là tâm điểm nóng nhất trong năm vừa qua.
Tăng ca cả ngàn giờ khiến công nhân ngất xỉu
- Chuyện thứ hai cũng lại gần giống chuyện làm đơn xin đánh lộn của anh Vệ năm trước. Năm nay là chuyện anh công nhân viết thư cho ông bí thư thành ủy Sài Gòn.
Anh công nhân Lê Minh Phúc vì bị công ty bắt làm tăng ca (tức làm thêm giờ) khi đã kiệt sức, anh viết:
“Tôi nắn nót dòng chữ: Kính gởi đồng chí bí thư thành ủy... Viết xong lá đơn, tôi thấy lòng hân hoan khó tả. Chắc chắc lần này chuyện ép công nhân tăng ca đến ngất xỉu ở công ty tôi sẽ được giải quyết…”
Nhưng lá đơn đưa cho bị trưởng phòng nhân sự bắt viết đi viết lại cũng chưa vừa ý. Rồi đơn đưa đến ngài quản đốc cũng bị gạt ngang, không cho nghỉ. “Độc” hơn nữa là đơn gửi đến Phòng Lao động- Thương Binh- Xã Hội cũng bị ngâm tôm. Anh Phúc viết:
“Điều đó có nghĩa là tôi không được nghỉ dù việc tăng ca, làm việc vào ngày nghỉ là phải trên tinh thần tự nguyện và trong khuôn khổ pháp luật. Ấy vậy mà cái công ty của tôi bắt công nhân tăng ca cả ngàn giờ mỗi năm mà không hề thỏa thuận, không hề có sự đồng ý. Nói nôm na là ép công nhân tăng ca.
Điều tôi muốn nói ở đây là với những sai phạm đó của công ty, chúng tôi đã gởi đơn khiếu nại cả xấp, cả xấp... đến cơ quan quản lý lao động quận. Thế nhưng không có ai xử lý. Bức xúc quá nên lần gần đây nhất, chúng tôi nói thẳng trong đơn là Phòng LĐ-TB-XH quận đã "ngậm miệng ăn tiền", nếu không sao để sai phạm hoành hành như vậy? Tôi nói chuyện này không phải là vô căn cứ.
Tháng trước công nhân ngừng việc, đến ngày thứ ba thì có mấy người trên quận xuống, vô thẳng phòng giám đốc rồi hân hoan ra về. Sau đó mọi chuyện vẫn như cũ, thậm chí giám đốc còn "lên gân" với công nhân, thách thức công nhân đi kiện.
Công nhân Cty Cloth & People Vina ngừng việc đòi Cty giảm thời gian tăng ca
Chúng tôi gửi đơn khiếu nại lên cấp cao hơn và được mời lên làm việc. Lần lữa mãi chúng tôi mới thu xếp lên gặp. Trời xui đất khiến, trưa hôm đó 3 người chúng tôi vừa vô tới cổng cơ quan đó, đang còn loay hoay chưa kịp gởi xe thì thấy xe hơi của công ty chạy vào cổng, lát sau một quan chức của sở lên xe. Chúng tôi phóng theo. Chiếc xe chạy thẳng tới một nhà hàng sang trọng ngay trung tâm thành phố.
Từ hôm đó, tôi không bao giờ gởi đơn khiếu nại lên phòng, lên sở nữa... Tôi cầm tờ tường trình về, bực mình quá nên xé vụn vứt vào sọt rác. Bất giác, tôi nhớ hôm trước đọc báo thấy có chuyện oan ức 10 năm cấp quận, phường không giải quyết, lên tới bí thư thành ủy, 30 phút là xong.
Đầu tôi bỗng lóe sáng một tia hi vọng. Tôi nắn nót dòng chữ: "Kính gởi đồng chí bí thư thành ủy...". Viết xong lá đơn, tôi thấy lòng hân hoan khó tả. Chắc chắc lần này chuyện ép công nhân tăng ca đến ngất xỉu ở công ty tôi sẽ được giải quyết. Thế nhưng, do dự mãi, tôi vẫn không dám gửi…” Anh Phúc bèn cất lá thư làm kỷ niệm!!!
Bạn đọc đã thấy được những điều ký quái trong một xã hội luôn đề cao giai cấp công nhân, giai cấp nồng cốt của xã hội. Hóa ra ông chủ tư bản mới đích thực là ông chủ. Còn mấy ông công chức nhà nước, dường như chỉ có ông bí thư thành ủy làm việc còn bao nhiêu ông “sáng xách xe đi tối xách về”. Kể cả cái LĐ-TB-XH lập ra để bênh vực quyền lợi của người lao động cũng lại “ngậm miệng ăn tiền”. Thôi, thế thì công nhân đành viết đơn để đưa cho vợ con đọc vậy.
Nhìn qua về văn hóa
Tôi chỉ nêu vài vụ chính. Trong năm 2014, rất nhiều tờ báo bị phat, điển hình là 10 cơ quan báo chí bị xử phạt trong tháng 9 vì thông tin sai sự thật.
Theo thông tin từ Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT), tháng 9 năm 2014 vừa qua, đã có 10 cơ quan báo chí bị xử phạt vì thông tin sai sự thật với tổng số tiền xử phạt đối với 10 báo này (cả báo in và báo điện tử) là 450 triệu đồng.
10 cơ quan báo chí bị xử phạt gồm có 3 báo in: Báo Giáo dục & Thời đại, Kinh doanh & Pháp luật và báo Người cao tuổi; 7 báo điện tử thông tin sai sự thật gồm: VnExpress, Người đưa tin, Báo điện tử Pháp luật & Xã hội, Báo điện tử Tiền phong, Báo điện tử Đất Việt, báo điện tử Kiến thức và báo điện tử Trí thức trẻ.
Ngay cả đài Truyền hình VN (gọi tắt là VTV) cũng bị phạt tơi bời hoa lá vì thông tin sai sự thật trong nhiều vụ khác nhau. Ngày 21/11/2014, Đài truyền hình Việt Nam bị phạt 30 triệu đồng vì đã phát sóng câu chuyện "Nhặt xương cho thầy" đã xúc phạm các thày cô giáo.
VTV bị phạt 15 triệu vì vụ điều tra tuổi thật của cầu thủ Công Phượng.
VTV bị phạt 40 triệu đồng vì đã thông tin sai sự thật trong chương trình “Điều ước thứ 7” phát sóng trên kênh VTV3 ngày 10/1 vừa qua…
Nhìn những hình phạt trên đây tôi có cảm tưởng như ông thày nghiêm khắc nọc cậu con “ngoan nhưng chưa tốt” ra đánh đòn cho chừa cái tật xấu. Mấy anh phóng viên trẻ sợ xanh mặt là cái chắc.
“Sao kim” chọn ai làm chồng?
Trong tuần này các trận tennis giải Grand Slam Australian Open được chiếu trực tiếp trên đài Fox Sports HD, vì sân chơi ở Melbourne, cách VN đúng 4 tiếng nên dân VN được xem ban ngày suốt từ 07g sáng đến 19g chiều. Nhưng khi trận cuối trong ngày vừa hết, tôi dò tìm trên các đài truyền hình xem có gì hay. Bất ngờ tôi… bị xem một đoạn trong chương trình “Đến từ sao Kim” do 4 cô trong showbiz VN ngồi nói chuyện tâm tình giữa phái nữ (sao kim) và phái nam (sao hỏa). Lúc đó chương trình đưa ra vài “mẫu người” nam cho các cô “bình chọn”. (Mẫu người chứ không phải người mẫu). Tôi nhớ “mẫu người” đó là: một ông tỉ phú già, một anh đẹp trai và một anh trẻ khỏe nhưng nghèo. Tôi bỗng tá hỏa khi nghe một cô phát biểu thẳng thừng: “Em chọn chồng là tỉ phú nhưng ngoại tình với anh đẹp trai”. Một cô khác chọn “Em chọn anh đẹp trai và khỏe, khỏe để yêu mình”.
Có thể đó là tâm trạng thật của các cô gái này. Nhưng đó là chuyện chỉ có thể bù khú rất riêng tư giữa các cô đã từng có “kinh nghiệm đầy mình”. Tôi không hiểu nổi khi những lời đối thoại đó đi vào các gia đình tử tế và những cô con gái mới lớn sẽ ảnh hưởng tai hại như thế nào. Tôi vội vàng tắt máy.
Thúy Nga “chia sẻ” căn biệt thự có 112 cửa sổ ở Mỹ
Và câu chuyện còn đang um xùm là chuyện “danh hài” Thúy Nga từ Mỹ về VN đóng kịch hay đóng phim gì đó, cô đưa lên trang cá nhân “chia sẻ” căn nhà ở Mỹ có tới 112 cái cửa sổ!
Thúy Nga tố chồng cũ trên trang cá nhân
Đồng thời “danh hài” này cũng tố cáo ông chồng cũ cướp 350 ngàn đô la và đứa con không phải là con anh này. Ông chồng cũ là ông Nguyễn Văn Nam buộc phải “phản công” đưa ra những chuyện chẳng tốt đẹp gì của “danh hài”. Hai người đều hẹn sẽ đưa nhau ra tòa.
Ông Nguyễn Văn Nam muốn khởi kiện Thúy Nga ra tòa vì vu khống, hạ nhục
Bạn Vũ Thị The trên trang báo điện tử VN Express bình chọn: “Đây là vở hài kịch tệ nhất trong năm”. Chuyện của giới showbiz Việt thì có vô vàn thứ bi hài đằng sau sự thật. Như thế thì làm người lương thiện cũng khó quá, phải không các cụ?
Văn Quang
Trường Chinh: Đấu Tố Mẹ
“Tao với mi không mẹ không con mà chỉ là kẻ thù giai cấp của nhau" - Trường Chinh Đấu Tố Mẹ
Tiêu biểu là “đảng viên ưu tú” Trường Chinh đấu tố cha mẹ đến chết. Nhờ vậy y cũng được bia miệng ngàn năm khắc ghi câu đối tưởng niệm như thầy mình: “Đấu tố phụ mẫu, tôn thờ Mác Lê, nhục ấy đời chê thằng họ Đặng! Hãm hại sĩ nông, đảo điên văn hóa, tội kia sách chép đứa tên Khu!”. (Đặng Khu chính là Đặng Xuân Khu, tên thật của thằng tặc tử Trường Chinh).
Trường Chinh tên thật là Đặng Xuân Khu sinh ngày 9/2/1907 tại làng Hành Thiện, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, qua đời năm 1988 tại Hà Nội.
Tiếp đó, theo Đèn Cù, là Chu Văn Biên, bí thư đoàn ủy cải cách ruộng đất Nghệ Tĩnh. Bắc ghế ngồi trên thềm cao, y chỉ tay vào mặt mẹ đẻ chắp tay đứng dưới sân, gằn giọng: “Tao với mi không mẹ không con mà chỉ là kẻ thù giai cấp của nhau. Tao có phận sự tiêu diệt mi mà mi thì sẽ nhất định chống lại”. Bà mẹ cắn lưỡi không chết, ít lâu sau nhảy giếng tự tử. Nhờ thành tích giết mẹ đó, Chu Văn Biên được đảng trao chức Thứ trưởng Bộ nông nghiệp!
Trường Chinh tên thật là Đặng Xuân Khu sinh ngày 9/2/1907 tại làng Hành Thiện, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, qua đời năm 1988 tại Hà Nội.
60 năm một tội ác kéo dài !!!
Cuộc trưng bày chuyên đề Cải cách Ruộng đất (CCRĐ) 1946-1957 tại viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Hà Nội từ hôm 08-09-2014 với gần 150 hiện vật, tư liệu gốc, tư liệu ảnh đã được hí hửng giới thiệu: “Đây là một hoạt động góp phần tuyên truyền, giáo dục cho đông đảo tầng lớp nhân dân, đặc biệt thế hệ trẻ nhận thức đúng hơn về cuộc cách mạng ruộng đất trong tiến trình cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta những năm 1946-1957. Qua đó củng cố niềm tin, niềm tự hào về Đảng, Chính phủ và sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước hiện nay” (Thông báo của Bảo tàng). Trong ngày khai mạc, “Tiến sĩ” Nguyễn Văn Cường, Giám đốc Bảo tàng còn hùng hồn phát biểu: “Cải cách ruộng đất là một cuộc cách mạng dân chủ ‘long trời lở đất’, mang lại những giá trị to lớn của một xã hội mới, một chế độ mới, một cuộc sống mới cho người dân Việt Nam”.
Dĩ nhiên người dân Việt Nam và cả quốc tế, từ hơn 60 năm nay, đều biết đó là một biến cố trời long đất lở, thậm chí vào bậc nhất lịch sử dân tộc. Không trời long đất lở sao được khi có hơn 172 ngàn người (nói theo con số chính thức) bị gọi là “địa chủ” phải tan thây vì đạn bắn vỡ sọ, cày ủi đứt đầu, đùi đánh nát ngực, dây trói gãy cổ….; khi có gấp ba số người ấy (tính mỗi gia đình 4 nhân khẩu) chỉ vì là thân thuộc của “địa chủ” mà bị giam nhốt trong chuồng trâu, bị cấm ra chợ búa, bị khai trừ khỏi xã hội để rồi phải chết đói trong tức tưởi và uất hận. Không long trời lở đất sao được khi dưới sự che chở lẫn xúi giục của Bác và Đảng, từng đoàn từng đội cải cách tung hoành khắp nơi mọi chốn, quyền uy hơn cả Thượng Đế (“Nhất Đội nhì Trời”), tổ chức những phiên tòa không cần bằng chứng, chẳng thèm luật sư, cấm tự biện hộ, để vội vàng tuyên cáo tịch thu tài sản, tuyên bố bản án tử hình và thi hành bản án ngay tại chỗ! Không long trời lở đất sao được khi từng tốp “ông đội”, “bà đội” hoặc đi vào từng làng, đến các gia đình bần nông hay cố nông, “thăm nghèo, hỏi khổ” để khơi sâu thù hận, tiếp đó “bắt rễ, xâu chuỗi” để chiêu mộ bầy tố cáo, dạy cho chúng tập hài tội thật nhuần nhuyễn ngõ hầu khi hữu sự thì diễn ngon lành… hoặc đến chính những gia đình sắp thành nạn nhân, áp bức vợ tố chồng, bó buộc con tố cha, uổng ép tớ tố chủ, với trò lừa gạt “không chịu tố thì thân nhân sẽ bị tử hình”, nhưng dại dột tố xong thì đó là những bằng cớ rành rành để “đội cải cách” thi hành công lý: giết thể xác địa chủ và giết tâm hồn người thân của họ.
Thế nhưng, nhìn vào các hiện vật (y phục đồ đạc đắt tiền của địa chủ, nhà cửa áo xống tồi tàn của bần nông, hình ảnh nông dân thay trâu kéo cày, kẻ vô sản được đảng ban phát ruộng, gia đình nghèo đoàn tụ sau cuộc chia ly vì đi ở tớ…), người ta thấy chỉ là một trò tuyên truyền hoàn toàn bất chấp lịch sử, dù được trưng bày tại Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Trước hết, một số khách am tường đồ cổ và quá khứ đã cho biết có rất nhiều hiện vật và hình ảnh phục dựng, giả tạo, sai thời (năm 1958 chưa có nồi gang, đũa nhựa và thìa phíp trắng; bát tô tận thời bao cấp sau 78 mới xuất hiện; ảnh ông bố cởi trần kéo thứ cày của thập niên 70…). Tất cả biểu lộ thói khinh thường công luận của những “chuyên gia” trình bày, nhất là thói gian trá vốn thâm căn cố đế nơi người cộng sản, cái thói được thản nhiên bày tỏ chẳng những trong ứng xử cuộc sống mà cả trong giáo khoa, sử sách, tư liệu. Thứ đến, cuộc triển lãm chỉ nói tới những cái gọi là “thành tựu” của CCRĐ (vốn không có hay nếu có thì toàn những thành tựu cho riêng đảng, như sẽ nói dưới đây) mà hoàn toàn lãng quên những sai lầm lớn lao, những tội ác tầy trời và những hậu quả bi thảm cho con người và xã hội. Điều này là sự cố ý, vì chính giám đốc bảo tàng có nói: “Không nhất thiết phải phơi bày sai lầm của lịch sử” rồi còn biện minh cho việc giết người cách trâng tráo vô liêm sỉ, cho đó là sự hy sinh cần thiết: “Có thể những phần trưng bày này sẽ không thỏa mãn được hết mong muốn của người dân, đặc biệt là những dòng họ, gia đình có liên quan đến CCRĐ. Thế nhưng cuộc cách mạng có thắng lợi thì bao giờ cũng có những tổn thất. Mà những tổn thất đó thì không thể đi sâu và đưa vào trong một phạm vi triển lãm nhỏ như thế này. Nếu đưa quá nhiều thì lấn át chủ đề chính là những thành tựu chúng ta đã đạt được trong CCRĐ.
Thôi thì cũng phải nói với họ (172.000 nạn nhân CCRĐ) rằng sự hi sinh của họ mang lại nhiều điều tích cực cho đất nước thời kỳ đó.” Đấy là thói bất phục thiện (không bao giờ nhận lỗi) hầu như luôn tìm thấy nơi người cộng sản, nhất là hàng ngũ lãnh đạo. Chính thái độ bao che tội ác, lấp liếm sự thật này (giữa lúc một tác phẩm vạch trần vô số điều xấu xa, độc dữ, tồi tệ của đảng, đặc biệt trong CCRĐ, vừa xuất hiện trên thị trường và mạng lưới là Đèn Cù của Trần Đĩnh) đã gây nên sự công phẫn nơi đồng bào VN từ trong ra tới ngoài nước. Rất nhiều tài liệu lịch sử, công trình nghiên cứu từ lâu hay nhiều bài viết mới về biến cố đau thương này, soi chiếu nó dưới mọi khía cạnh, đã được đưa ra hay tái đưa ra cho công luận, khiến người ta thấy cuộc triển lãm mang nét thứ ba là ngu đần, và thầm khen taythầy dùi xúi tổ chức cuộc triển lãm đúng là “thằng đểu”. Hay như lời một người dân Hà Nội: “Chúng nó hết khôn dồn ra dại hay sao mà lại đi chọc “c...” ra để ngửi với nhau như thế hở!” Khiến cho cuộc triển lãm dự trù kéo dài 3 tháng phải đóng cửa chỉ sau 3 ngày!
Nhưng chính nhờ trò “chọc”, màn đểu vắn vỏi này mà công luận có dịp nhìn lại những tác giả gây ra và kéo dài tội ác “Cải cách” đó.
Trước hết là Hồ Chí Minh, “kẻ tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng VN”. Không cần tìm đâu xa, chỉ cần đọc bản cáo trạng “Địa chủ ác ghê” do chính tay y viết và đăng báo Nhân Dân ngày 21-07-1953 với bút hiệu CB (có lẽ là Của Bác) để kết án tử vị ân nhân số một của đảng, bà Nguyễn Thị Năm, người đầu tiên bị đem ra bắn để mở màn chiến dịch. Theo tác giả Bảo Giang trong bài “Cải cách hay đấu tố”, đó là “bản cáo trạng đẫm máu vô tiền khoáng hậu trong lịch sử… là sự kết tinh tổng hợp của tất cả những gian dối, bịa đặt và vu khống cộng lại. Nó đáng bị lên án. Bất hạnh thay, nó lại triển nở rực rỡ trong lòng đảng cộng sản. Nó trở thành kim chỉ nam, trở thành người hướng dẫn đầy sáng tạo để cho các đoàn đảng viên nhuần nhuyễn và thi hành. Nó trở thành khung, sườn cho mọi cuộc đấu tố. Dù ở bất cứ làng nào, xã thôn nào, huyện nào, tỉnh nào, mọi cuộc đấu đều phải rập khuôn theo đúng nội dung trong “địa chủ ác ghê” do HCM đề ra. Nó rập khuôn gian dối, bịa đặt, vu khống đến nỗi tất cả đều như một. Theo đó, nó không chỉ là một bản cáo trạng khởi đầu mùa đấu tố, đọc trước mặt nạn nhân Nguyễn Thị Năm, nhưng còn là một văn kiện khai mở ra nền tảng luân lý và đạo đức của chế độ cộng sản. Một chế độ phi nhân, sống dựa vào gian dối và tạo ra gian dối”, dựa vào bạo lực và tạo ra bạo lực. Chính vì thế, dân gian đã tặng cho Hồ câu đối để ghi khắc bia miệng ngàn năm: “Lở đất long trời cuộc phanh thây địa chủ, kìa đạo đức Nguyễn Ái Quốc Mác-Lê! Thần căm người hận màn đấu tố ân nhân, ấy tình thương Hồ Chí Minh Cộng sản!”.
Chính “tấm gương đạo đức Bác Hồ” đó -mà đảng viên, cán bộ và toàn dân bị buộc phải học tập từ đợt chiến dịch này tới đợt chiến dịch khác- đã đẻ ra đảng Cộng sản vốn cai trị đất nước từ 60 năm qua theo tinh thần và đường lối của Hồ. Trước hết là tinh thần độc tài toàn trị. Sử sách và chứng từ đã cho biết: đảng CS thực thi cuộc CCRĐ với ba mục tiêu. Mục tiêu chính trị là nắm toàn quyền trên xã hội. CCRĐ là một cách quét sạch những địa chủ, cường hào, nhân sĩ uy tín, những con người có mầm mống vươn lên ngoài vòng kiểm soát của đảng. Nghĩa là tất cả những gì mà cách mạng cho là đối nghịch, nguy hiểm trong tương lai và trong hiện tại. Quét sạch để xã hội trở nên một tờ giấy trơn, đảng muốn vẽ gì thì vẽ, trở nên một đàn cừu, đảng dẫn đi đâu thì đi. Mục tiêu kinh tế là tập trung đất đai tài nguyên vào tay đảng. Những người cày được chia ruộng (đảng khoác lác có gần 4 triệu nông dân lúc ấy được chia hơn 70 vạn hecta tịch thu từ địa chủ) chỉ vài năm sau là phải vào hợp tác xã, trả lại tất cả (ruộng, trâu, cày) cho nhà nước. Việc này nay được hiến định lẫn luật định rất rõ ràng: nhà nước là địa chủ duy nhất, sở hữu chủ toàn diện! Và cuối cùng là mục tiêu văn hóa. CCRĐ để phá vỡ cơ cấu thôn làng gia tộc, vốn là giềng mối của xã hội nông nghiệp ngàn năm, thay vào đó bằng đoàn đội sản xuất; ngoài ra, khi buộc con tố cha, vợ tố chồng, hàng xóm tố nhau, CCRĐ còn phá vỡ luân lý gia đình nói riêng và đạo đức xã hội nói chung, để đảng đưa ra một thứ đạo đức mới, đạo đức cách mạng, đạo đức bác Hồ, với nguyên tắc duy nhất: cứu cánh biện minh cho phương tiện. Bất cứ cái gì có lợi cho cách mạng, cho đảng, dù đó là gian dối, hận thù, đàn áp, dù đó là bóp méo sự thật, chà đạp công lý, tiêu diệt tình thương, thì đều là tốt là thiện cả!
Do đó và thứ đến là tinh thần “cách mạng tiến công”, nhiệt thành thực thi cuộc CCRĐ theo những quy tắc luân lý của riêng nó. Tiêu biểu là “đảng viên ưu tú” Trường Chinh đấu tố cha mẹ đến chết. Nhờ vậy y cũng được bia miệng ngàn năm khắc ghi câu đối tưởng niệm như thầy mình: “Đấu tố phụ mẫu, tôn thờ Mác Lê, nhục ấy đời chê thằng họ Đặng! Hãm hại sĩ nông, đảo điên văn hóa, tội kia sách chép đứa tên Khu!”. (Đặng Khu chính là Đặng Xuân Khu, tên thật của thằng tặc tử). Tiếp đó, theo Đèn Cù, là Chu Văn Biên, bí thư đoàn ủy cải cách ruộng đất Nghệ Tĩnh. Bắc ghế ngồi trên thềm cao, y chỉ tay vào mặt mẹ đẻ chắp tay đứng dưới sân gằn giọng: “Tao với mi không mẹ không con mà chỉ là kẻ thù giai cấp của nhau. Tao có phận sự tiêu diệt mi mà mi thì sẽ nhất định chống lại”. Bà mẹ cắn lưỡi không chết, ít lâu sau nhảy giếng tự tử. Nhờ thành tích giết mẹ đó, Chu Văn Biên được đảng trao chức Thứ trưởng Bộ nông nghiệp!
Những đảng viên tiếp nối gương Hồ và những “học trò xuất sắc” của y nay càng nhan nhản. Dù ở trung ương hay ở địa phương, chúng đang kéo dài tội ác CCRĐ đó. Nay nó mang cái tên mới: Giải Phóng Mặt Bằng. Nó không chỉ nhắm vào ruộng đất mà cả nhà cửa, không chỉ nhắm vào nông dân mà cả thị dân. Không chỉ là nửa triệu nạn nhân trực tiếp mà cả chục triệu dân oan, sống vô gia cư, chết vô địa táng, khiếu kiện từ đời ông cha đến đời con cháu, bị hành hung, kết án, tống ngục. Bọn địa chủ tham lam, tàn bạo thế hệ mới này còn dự tính dâng cả đất nước cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc để chúng hưởng quyền lực và quyền lợi lâu dài.
BBT
Bùi Lộc
Ông Trần Đĩnh kể là Bác Hồ bịt râu và Trường Chinh đeo kính râm đến tham dự buổi đấu tố bà Nguyễn Thị Năm. (Đèn Cù, trang 82). Trước khi đưa bà Năm ra pháp trường, chính ông Hồ đã viết bài kể tội bà (Địa chủ ác ghê) đăng trên Báo Nhân Dân với bút hiệu CB.
Để đạt cuộc cách mạng long trời lở đất, trí, phú, địa, hào đào tận gốc, trốc tận rễ, ông Hồ đã chỉ thị cho Trường Chính phải có những bài cổ động sự tham gia tích cực của nông dân, khơi dậy lòng căm thù của giai cấp bần cố. Mặt khác hài tội các địa chủ trên Báo Nhân dân.
Chính ông Hồ đã giấu mặt đi tham dự buổi đấu tố đấu nạn nhân đầu tiên là bà Nguyễn Thị Năm, một ân nhân lớn của cách mạng để đánh giá thành quả những bước đầu của chiến dịch. Cái nham hiểm của Ông là kéo Trường Chinh đi theo.
Ông Trường Chinh đã phải đeo kính râm trong suốt buổi đấu. Trong lòng chắc nổi lên trăm mối tơ vò. Vì những cán bộ nòng cốt Việt Minh khởi đầu đã nằm giầm giề, ăn những chén cơm do chính tay bà hầu hạ, không kể những lượng vàng gia đình bà đã đóng góp trong tuần lễ vàng.
Với cặp kiếng đen, Trường Chinh hy vọng có thể giấu bớt đi phần nào những phản ứng cảm xúc trên gương mắt. Nhưng liệu chúng có qua được cặp mắt ông Hồ không. Không cần nhìn thẳng mặt, ông Hồ chỉ hỏi dăm ba câu bâng quơ cũng thừa biết ông đang nghĩ gì. Trường Chinh có bố mẹ là địa chủ.
Qua chi tiết nhỏ này, Trần Đĩnh cho thấy được lòng nham hiểm của ông Hồ. Ông giương cung bắn ra một mũi tên trúng ba con chim: Bà Năm và cha mẹ của Trường Chinh.
Những thái độ và ánh mắt trao đổi giữa ông và Trường Chinh ngầm nói lên cho Trường Chinh biết là: "Chú mày thấy đấy con mẹ Năm như thế mà tao còn không tha, nên chú mày làm sao cho coi được với thằng bố và con mẹ địa chủ của chú mày."
Bước ra quân đầu tiên: Một đại ân nhân của Việt Minh và bố mẹ ruột của một nhân vật nòng cốt trong đảng, hỏi có anh nào còn giám ho he gì nữa không.
Muốn an thân, muốn thăng quan tiến chức, hãy hét lên những tiếng đấu tố điêu ngoa cho thật lớn, cho chúng bay thật cao, thật xa để những con vật bé nhỏ hiền lành đang nấp sâu trong hang cũng phải run lên vì sợ; và tiếp sau đó từ cán bộ cấp cao cho tới người cùng đinh thi nhau tố giác lẫn nhau và tạo nên một bầu không khí sắt máu hận thù khắp nơi.
Cho tới khi tiếng rên xiết thấu trời xanh. Ông lau nước mắt giữa ban ngày để chụp hình và xin lỗi những nạn nhân đã nằm yên dưới lòng đất sâu; đồng thời gọi là có kỷ luật với những người đã thi hành sai chính sách. Truyện xưa kể, mỗi khi một Hoàng đế Trung Hoa chết. Người ta dùng nhiều thợ tài giỏi để xây lăng. Khi mọi việc hoàn tất, xác vua đã nằm yên trong lăng, thì những người thợ tài giỏi này cũng bị thủ tiêu để bảo mật.
Vậy bao nhiêu cán bộ bị xử vì được cho là đã thi hành sai chính sách của đảng để bịt miệng.
Sau năm 75, tôi dò hỏi có phải người ta đã thế cha mẹ Trường Chinh bằng những tội nhân khác, nhưng chẳng ai xác nhận được và cứ theo như những tài liệu và những nhân chứng kể lại khi đấu tố thì không thể thay thế nạn nhân được. Vì những người đấu tố là những người ngay trong gia đình, những người hàng xóm, cùng làng nước, và đặc biệt là những người làm công sống lâu năm trong gia đình. Câu chuyện ông Trường Chinh giết bố mẹ trong chiến dịch này đã được nhiều người nói đến từ lâu. Ngày nay qua những dòng tường thuật rất ngắn của Trần Đĩnh đã soi rọi vào góc khuất này gián tiếp cho mọi người thấy.
Ông Hồ luôn chủ trương dùng những tay chân canh chừng lẫn nhau. Đó chính là chính sách “tam tam chế” trong các đơn vị hành chánh, công an và quân đội. Nếu một thuộc cấp của ông là trí thức, ông đã có những tay đầu đường xó chợ được ông ban ơn sẵn sàng tuyệt đối trung thành với ông để ông sử dụng trong những mưu đồ riêng của mình. Trần Quốc Hoàn thanh toán Nông Thị Xuân hay như tướng phòng không Phùng Thế Tài mà ở đất Bắc ai cũng biết rõ lý lịch. Ông dùng trí thức kiểm soát dân ngu, và dùng dân ngu thanh toán trí thức khi cần.
Những ai đã lỡ sa vào tổ chức của ông đều phải thi hành những gì ông muốn. Một khi thấy được những hành động của mình quá tội lỗi, muốn vũng vẫy thoát ra cũng không thể. Đọc “Nhật ký của một thằng hèn” của Tô Hải đã nói lên điều này. Một người rất thân cận với ông Hồ là Nguyễn Hữu Đang sau khi nhận ra mặt trái của ông Hồ, đã tìm đường trốn vào Nam, nhưng xui cho ông lại bị bắt lại và phải ngồi bóc lịch cho mãi những năm sau 75. Nguyễn Tuân nói: "Tao còn sống vì tao biết sợ," và Tôn đức Thắng đã từng là chủ tịch nước cũng không ngoại lệ: “Đ.M. Tao đây còn phải sợ”
Bùi Lộchttp://danlambaovn.blogspot.com/2014/09/truong-chinh-giet-bo-me.html9/24/2014
Trường Chinh giết bố mẹ
Bùi Lộc
Ông Trần Đĩnh kể là Bác Hồ bịt râu và Trường Chinh đeo kính râm đến tham dự buổi đấu tố bà Nguyễn Thị Năm. (Đèn Cù, trang 82). Trước khi đưa bà Năm ra pháp trường, chính ông Hồ đã viết bài kể tội bà (Địa chủ ác ghê) đăng trên Báo Nhân Dân với bút hiệu CB.Để đạt cuộc cách mạng long trời lở đất, trí, phú, địa, hào đào tận gốc, trốc tận rễ, ông Hồ đã chỉ thị cho Trường Chính phải có những bài cổ động sự tham gia tích cực của nông dân, khơi dậy lòng căm thù của giai cấp bần cố. Mặt khác hài tội các địa chủ trên Báo Nhân dân.
Chính ông Hồ đã giấu mặt đi tham dự buổi đấu tố đấu nạn nhân đầu tiên là bà Nguyễn Thị Năm, một ân nhân lớn của cách mạng để đánh giá thành quả những bước đầu của chiến dịch. Cái nham hiểm của Ông là kéo Trường Chinh đi theo.
Ông Trường Chinh đã phải đeo kính râm trong suốt buổi đấu. Trong lòng chắc nổi lên trăm mối tơ vò. Vì những cán bộ nòng cốt Việt Minh khởi đầu đã nằm giầm giề, ăn những chén cơm do chính tay bà hầu hạ, không kể những lượng vàng gia đình bà đã đóng góp trong tuần lễ vàng.
Với cặp kiếng đen, Trường Chinh hy vọng có thể giấu bớt đi phần nào những phản ứng cảm xúc trên gương mắt. Nhưng liệu chúng có qua được cặp mắt ông Hồ không. Không cần nhìn thẳng mặt, ông Hồ chỉ hỏi dăm ba câu bâng quơ cũng thừa biết ông đang nghĩ gì. Trường Chinh có bố mẹ là địa chủ.
Qua chi tiết nhỏ này, Trần Đĩnh cho thấy được lòng nham hiểm của ông Hồ. Ông giương cung bắn ra một mũi tên trúng ba con chim: Bà Năm và cha mẹ của Trường Chinh.
Những thái độ và ánh mắt trao đổi giữa ông và Trường Chinh ngầm nói lên cho Trường Chinh biết là: "Chú mày thấy đấy con mẹ Năm như thế mà tao còn không tha, nên chú mày làm sao cho coi được với thằng bố và con mẹ địa chủ của chú mày."
Bước ra quân đầu tiên: Một đại ân nhân của Việt Minh và bố mẹ ruột của một nhân vật nòng cốt trong đảng, hỏi có anh nào còn giám ho he gì nữa không.
Muốn an thân, muốn thăng quan tiến chức, hãy hét lên những tiếng đấu tố điêu ngoa cho thật lớn, cho chúng bay thật cao, thật xa để những con vật bé nhỏ hiền lành đang nấp sâu trong hang cũng phải run lên vì sợ; và tiếp sau đó từ cán bộ cấp cao cho tới người cùng đinh thi nhau tố giác lẫn nhau và tạo nên một bầu không khí sắt máu hận thù khắp nơi.
Cho tới khi tiếng rên xiết thấu trời xanh. Ông lau nước mắt giữa ban ngày để chụp hình và xin lỗi những nạn nhân đã nằm yên dưới lòng đất sâu; đồng thời gọi là có kỷ luật với những người đã thi hành sai chính sách. Truyện xưa kể, mỗi khi một Hoàng đế Trung Hoa chết. Người ta dùng nhiều thợ tài giỏi để xây lăng. Khi mọi việc hoàn tất, xác vua đã nằm yên trong lăng, thì những người thợ tài giỏi này cũng bị thủ tiêu để bảo mật.
Vậy bao nhiêu cán bộ bị xử vì được cho là đã thi hành sai chính sách của đảng để bịt miệng.
Sau năm 75, tôi dò hỏi có phải người ta đã thế cha mẹ Trường Chinh bằng những tội nhân khác, nhưng chẳng ai xác nhận được và cứ theo như những tài liệu và những nhân chứng kể lại khi đấu tố thì không thể thay thế nạn nhân được. Vì những người đấu tố là những người ngay trong gia đình, những người hàng xóm, cùng làng nước, và đặc biệt là những người làm công sống lâu năm trong gia đình. Câu chuyện ông Trường Chinh giết bố mẹ trong chiến dịch này đã được nhiều người nói đến từ lâu. Ngày nay qua những dòng tường thuật rất ngắn của Trần Đĩnh đã soi rọi vào góc khuất này gián tiếp cho mọi người thấy.
Ông Hồ luôn chủ trương dùng những tay chân canh chừng lẫn nhau. Đó chính là chính sách “tam tam chế” trong các đơn vị hành chánh, công an và quân đội. Nếu một thuộc cấp của ông là trí thức, ông đã có những tay đầu đường xó chợ được ông ban ơn sẵn sàng tuyệt đối trung thành với ông để ông sử dụng trong những mưu đồ riêng của mình. Trần Quốc Hoàn thanh toán Nông Thị Xuân hay như tướng phòng không Phùng Thế Tài mà ở đất Bắc ai cũng biết rõ lý lịch. Ông dùng trí thức kiểm soát dân ngu, và dùng dân ngu thanh toán trí thức khi cần.
Những ai đã lỡ sa vào tổ chức của ông đều phải thi hành những gì ông muốn. Một khi thấy được những hành động của mình quá tội lỗi, muốn vũng vẫy thoát ra cũng không thể. Đọc “Nhật ký của một thằng hèn” của Tô Hải đã nói lên điều này. Một người rất thân cận với ông Hồ là Nguyễn Hữu Đang sau khi nhận ra mặt trái của ông Hồ, đã tìm đường trốn vào Nam, nhưng xui cho ông lại bị bắt lại và phải ngồi bóc lịch cho mãi những năm sau 75. Nguyễn Tuân nói: "Tao còn sống vì tao biết sợ," và Tôn đức Thắng đã từng là chủ tịch nước cũng không ngoại lệ: “Đ.M. Tao đây còn phải sợ”
Bùi Lộchttp://danlambaovn.blogspot.com/2014/09/truong-chinh-giet-bo-me.html9/24/2014
BILL GERTZ * CHIẾN LƯỢC TRUNG CỘNG
KẾ HOẠCH , MƯU MÔ , CHIẾN LƯỢC TRUNG CỘNG BỊ PHƠI BÀY
Hình chụp binh sĩ trong ngày Biểu diễn Không quân đầu tiên tại thành phố Trường Xuân, phía đông bắc tỉnh Cát Lâm của Trung Quốc, ngày 1-9-2011 / AP
Chiến lược bí mật của Trung Quốc bị phơi bày
Posted by admin on February 5th, 2015
Tác giả: Bill Gertz
Người dịch: Trần Văn Minh
Bắc Kinh lập kế hoạch để qua mặt Hoa Kỳ trong thập niên sắp tới
Trung Quốc tiến hành một chương trình bí mật hiện đại hóa 100 năm và đã lừa dối chính quyền Mỹ nhiều nhiệm kỳ liên tiếp trong việc vô tình thúc đẩy chiến lược của Bắc Kinh để thay thế trật tự thế giới do Mỹ dẫn đầu với một hệ thống kinh tế và chính trị do cộng sản Trung Quốc thống trị, theo cuốn sách mới của một chuyên gia kỳ cựu của Ngũ Giác Đài nghiên cứu về Trung Quốc.
Trong hơn bốn thập niên, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã ru ngủ tổng thống, bộ trưởng, các nhà phân tích của chính phủ và các nhà hoạch định chính sách vào việc đánh giá sai lầm về Trung Quốc là một quyền lực ôn hòa, đáng nhận được sự hỗ trợ của Mỹ, ông Michael Pillsbury, một nhà phân tích nói tiếng Quan Thoại và làm việc trên lãnh vực chính sách và tình báo Trung Quốc cho chính quyền Mỹ từ thời Richard Nixon, cho biết.
Chiến lược bí mật, dựa trên phương cách quản lý quốc gia của Trung Quốc cổ đại, đã tạo ra một sự di chuyển tiền mặt, kỹ thuật và chuyên môn trên quy mô lớn, điều đã hỗ trợ các phần tử “diều hâu” trong đảng Cộng sản Trung Quốc, là kẻ hiện đang tiến hành các bước để bắt kịp và cuối cùng qua mặt Hoa Kỳ, Pillsbury kết luận trong cuốn sách được xuất bản tuần này.
Các chương trình chiến lược lừa đảo của Trung Quốc đã được Mao Trạch Đông khởi động vào năm 1955 và rêu rao khắp nơi ý tưởng sai lầm rằng Trung Quốc là một nước nghèo, lạc hậu, hướng nội. Pillsbury cho biết trong một cuộc phỏng vấn: “Và do đó Hoa Kỳ phải giúp đỡ và cho họ nhiều thứ, để bảo đảm rằng họ vẫn thân thiện. Điều này hoàn toàn sai lầm”.
Chiến lược của Trung Quốc cũng nhằm mục đích đạt được sự thống trị kinh tế toàn cầu, ông nói, lưu ý rằng sự tăng cường sức mạnh quân sự của Trung Quốc là một phần trong đó. Việc kết hợp sức mạnh kinh tế, chính trị, quân sự là để Trung Quốc trở thành một bá chủ mới của thế giới, và họ sẽ xuất khẩu hệ thống chính trị phi dân chủ và kiểu hành xử kinh tế cá lớn nuốt cá bé trên toàn thế giới.
Trong cuộc phỏng vấn, ông Pillsbury hiện là giám đốc của Trung tâm [nghiên cứu] chiến lược Trung Quốc thuộc viện Hudson, cho biết chi tiết mới chứa đựng trong cuốn sách đã được FBI, CIA và Bộ Quốc phòng thông qua và cho phép xuất bản, bao gồm chi tiết về các chỉ thị mật của các tổng thống trước đây, lời chứng từ những người đào tỵ Trung Quốc không được biết tới trước đây, và các chi tiết đáng báo động về các bài viết của phái diều hâu quân sự và chính trị có quyền hành của Trung Quốc.
Cuốn sách cũng tiết lộ lần đầu tiên rằng việc mở cửa cho Trung Quốc vào năm 1969 và năm 1970, được coi là một trong những bước mở đường chiến lược có ý nghĩa nhất của Hoa Kỳ, đã không phải do Cố vấn an ninh Henry Kissinger của Tổng thống Nixon thời đó khởi xướng. Thay vào đó, Pillsbury cho thấy rằng chính các tướng lãnh Trung Quốc đã mượn tay Hoa Kỳ chống lại Liên Xô, trong sự lo ngại bị Moscow tiến chiếm.
Một số chi tiết nhạy cảm đã bị chính phủ [Mỹ] loại bỏ khỏi bản thảo. Tuy nhiên, toàn bộ cuốn sách chứa đựng một công bố được cho phép về chiến lược bí mật của Trung Quốc, là một trong các phiên bản quan trọng nhất về các thông tin nội bộ của chính quyền Mỹ trong hơn một thập niên, Pillsbury nói.
Pillsbury cho biết trong một cuộc phỏng vấn: “Điều đó nhấn mạnh tầm quan trọng của cuốn sách. Và cuốn sách sẽ gửi một thông điệp đến Trung Quốc: Chúng tôi không ngớ ngẩn , ngu ngốc như bạn nghĩ”.........
Pillsbury cũng tiết lộ cách thức mà một người đào tỵ của chính phủ Trung Quốc diễn tả về chiến dịch vận động hành lang thành công của Bắc Kinh từ năm 1995 đến năm 2000, đã dẫn tới việc Quốc hội [Mỹ] chấp thuận cơ chế thương mại Tối Huệ Quốc cho Trung Quốc, nhiều năm sau khi Trung Quốc bị trừng phạt về vụ thảm sát đẫm máu của quân đội đối với những người biểu tình không vũ trang tại quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh.
Các hoạt động bí mật để gây ảnh hưởng được thực hiện tại một thời điểm khi mối quan tâm của Mỹ về các vi phạm nhân quyền của Trung Quốc ở mức cao. Tuy nhiên, Trung Quốc đã có thể khuyến dụ thành công các lãnh đạo Mỹ phải có những nhượng bộ thương mại chiến lược trọng yếu.
Chương trình gây ảnh hưởng bí mật đó đã được tiết lộ bởi một trong sáu người Trung Quốc đào tỵ do Pillsbury dò hỏi trong những năm qua, bao gồm một người được khám phá là một người đào tỵ giả – người này làm tai mắt cho FBI, Katrina Leung, đã bị bắt vào năm 2003.
“Tôi cố gắng đặt một cuộc phỏng vấn người đào tỵ vào đầu mỗi chương sách,” Pillsbury nói, với ghi chú rằng những người đào tỵ này vẫn ở trong chương trình bảo vệ nhân chứng và “nỗi lo sợ cho cuộc sống của họ” do khả năng trả thù của Trung Quốc.
Những người đào tỵ tiết lộ chi tiết về “những điều Trung Quốc đang cố gắng làm đối với nước Mỹ trong cách thức mà họ gọi là cuộc chạy đua đường dài 100 năm”, ông nói.
Về phần giới diều hâu Trung Quốc, Pillsbury cho biết các bài viết nội bộ của các nhà lãnh đạo quyền lực về chính trị và quân sự tiết lộ “họ rút ra bài học từ quá khứ xa xưa của Trung Quốc như thế nào… và làm cách nào họ có thể vượt qua mặt nước Mỹ mà người Mỹ không phản ứng”.
Pillsbury có chức cấp cao nhất trong chính quyền, là trợ lý thứ trưởng quốc phòng về hoạch định chính sách trong chính quyền của Tổng thống Ronald Reagan, ông cũng từng làm việc cho nhiều thượng nghị sĩ và từng là nhà tư vấn về chính sách Trung Quốc trong nhiều thập niên.
Trong cuốn sách, Pillsbury thừa nhận rằng ban đầu ông là một trong số những người ủng hộ mạnh mẽ nhất chính sách “tiếp cận xây dựng” của Mỹ đối với Trung Quốc được phát động hồi đầu vào năm 1969 như là một cách để ngăn chặn sự tiến chiếm Bắc Kinh của Liên Xô.
Được hỏi khi nào ông từ bỏ quan điểm “ôm gấu panda”, ủng hộ chính phủ Trung Quốc, ông cho biết: “Dần với thời gian … chủ yếu sau sự kiện Thiên An Môn” – ám chỉ sự đàn áp tàn bạo của quân đội [Trung Quốc] năm 1989 đối với những người biểu tình ủng hộ dân chủ tại quảng trường chính ở Bắc Kinh.
“Chúng ta tin rằng viện trợ của Mỹ cho một Trung Quốc yếu đuối mà các nhà lãnh đạo của họ suy nghĩ giống như chúng ta sẽ giúp Trung Quốc trở thành một cường quốc tự do , dân chủ và hòa bình, không có tham vọng thống trị khu vực hoặc thậm chí toàn cầu”, Pillsbury viết. Điều nầy đã chứng tỏ bị sai lầm nặng nề .
“Từng mỗi giả định đằng sau niềm tin đó là sai, nguy hiểm như thế”, ông nói, lưu ý rằng sức mạnh của phe cánh đang thắng thế ở Trung Quốc với chủ trương dân tộc cực đoan chống Mỹ đã bị đánh giá thấp.
Cuốn sách của Pillsbury, Cuộc chạy đua đường trường một trăm năm, tiết lộ chi tiết mới về sự hợp tác của CIA với Trung Quốc trong chương trình hành động bí mật tại Afghanistan và Angola, cũng như cuộc chuyển giao vũ khí trị giá gần 1 tỷ USD trong suốt thập niên 1980.
Sự hỗ trợ bí mật cho Trung Quốc, cùng với một dòng chảy liên tục của kỹ thuật Mỹ và tình báo trong vòng 45 năm qua, một thời từng là một trong những bí mật được bảo vệ chặt chẽ nhất của chính phủ Mỹ.
Cuốn sách cũng giải mã các chi tiết của một số bản ghi nhớ của tổng thống đằng sau các chính sách bí mật của Mỹ hỗ trợ Trung Quốc, mà Pillsbury cho rằng, đã tạo nên một trong những sai lầm chiến lược quan trọng nhất của Hoa Kỳ.
Các tài liệu và báo cáo tình báo được lén lút đưa ra khỏi Trung Quốc sau vụ thảm sát đẫm máu Thiên An Môn, khi xe tăng được gọi đến để giải tán hàng chục ngàn người biểu tình ủng hộ dân chủ không vũ trang, tiết lộ rằng các nhà lãnh đạo cao cấp Trung Quốc bị chia rẽ nghiêm trọng về việc hỗ trợ lời kêu gọi của sinh viên đối với cải cách chính trị dân chủ, theo cuốn sách.
Các đảng viên Cộng sản diều hâu quá khích trong quân đội và giới lãnh đạo đảng đã tìm cách đánh bại và cuối cùng bắt giữ những quan chức cao cấp của Đảng ủng hộ cải cách dân chủ và nhân bản ......
Cuốn sách cũng cung cấp những tiết lộ mới [được liệt kê] dưới đây về chiến lược của Trung Quốc đối với Hoa Kỳ:
- Phe cứng rắn Trung Quốc cổ súy cuốn sách của Đại tá Lưu Minh Phúc, “Giấc mơ Trung Quốc”, là nguồn cảm hứng đằng sau chính sách ngày càng ngã theo chủ nghĩa Mao của lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình hiện nay. Các bài viết khác của phe diều hâu tiết lộ một ý muốn về thế giới với Trung Quốc chiếm ưu thế trong tương lai, sẽ đặt giá trị của “trật tự , kỷ luật cao hơn tự do, quyền lực cao hơn luật pháp và sự quản trị chính quyền của giới ưu tú cao hơn dân chủ và nhân quyền”.
- Các cơ quan tình báo Mỹ trong nhiều thập niên đã đánh giá thấp ảnh hưởng của diều hâu Trung Quốc và tiếp tục chối bỏ quyền lực và ảnh hưởng họ như yếu tố bên lề.... Điều nầy thật sai lầm .
- Các nhận định tình báo hồi cuối thập niên 1980 đã không nhận ra bầu không khí ủng hộ dân chủ bên trong Bộ Chính trị cầm quyền đang lên mạnh cho đến khi bị nghiền nát sau cuộc đàn áp bất đồng chính kiến năm 1989.
- Sau Thiên An Môn, chính quyền Trung Quốc đã tạo ra một lịch sử giả tạo để che giấu sự hợp tác bí mật trong quá khứ với Hoa Kỳ.
- *** Vũ khí “chùy sát thủ” của Trung Quốc – tên lửa và các vũ khí kỳ lạ khác – đang được TC chế tạo để đánh hạ các vệ tinh và tiêu diệt tàu sân bay của Hoa Kỳ .... Trung Cộng đang sử dụng vũ khí công nghệ cao, bao gồm cả vũ khí điện từ trường.
- Như một phần trong việc cung cấp bí mật trợ giúp của Mỹ cho Trung Quốc trong thập niên 1970, CIA cắt viện trợ cho nhà lãnh đạo Tây Tạng lưu vong, Đức Đạt Lai Lạt Ma, và hủy bỏ các cuộc tuần tra của Hải quân Mỹ qua eo biển Đài Loan. Thay vào đó, CIA bắt đầu cung cấp thông tin tình báo về Liên Xô cho Trung Quốc.
- Reagan đã đồng ý bán sáu hệ thống vũ khí lớn cho Trung Quốc, nhưng đòi hỏi rằng sự tiếp tục viện trợ được đặt dưới điều kiện Trung Quốc phải không về phe với Moscow và tự do hóa hệ thống cộng sản. Cuộc chuyển giao vũ khí bị dừng lại sau Thiên An Môn.
- Sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới cho Trung Quốc đã không áp đặt điều kiện vào việc Trung Quốc tiến dần tới cải cách thị trường tự do. Kết quả là, chính phủ Trung Quốc ngày nay tiếp tục kiểm soát hầu hết các ngành công nghiệp.
- Trung Quốc sẽ làm suy yếu Liên Hợp Quốc và Tổ chức Thương mại Thế giới để “phá bỏ tính chính đáng” của trật tự thế giới do Mỹ dẫn đầu nhằm cổ động cho hệ thống toàn cầu của họ.
- Một cuộc họp bí mật nội bộ của cán bộ Trung Quốc thảo luận về ưu tiên chính sách đối ngoại quan trọng nhất của Trung Quốc về chủ đề “làm thế nào để quản lý sự suy thoái của Hoa Kỳ”, cho thấy rằng Trung Quốc đang cố gắng chống lại các lợi ích của Mỹ bằng cách hỗ trợ các quốc gia , các phe nhóm hiếu chiến , khủng bố và bán vũ khí cho kẻ thù của Mỹ.
Để chống lại những gì Pillsbury mô tả như là chiến lược “thời đại chiến quốc” của Trung Quốc để thống trị thế giới, là một phương pháp vạch ra cách thức làm thế nào để một thế lực yếu hơn có thể đánh bại một kẻ thù mạnh hơn, Hoa Kỳ cần phải nhận ra mối đe dọa này và khẩn cấp thực thi các bước để ngăn chặn Trung Quốc thống trị thế giới.
***** Pillsbury cho biết như là một phần trong nỗ lực chống lại sự tăng cường quân sự của Trung Quốc, ngân sách sắp tới của Ngũ Giác Đài nên bao gồm tài khoản lên tới 100 máy bay ném bom tầm xa mới, ngân quỹ để củng cố các vệ tinh của Mỹ chống lại các cuộc tấn công của Trung Quốc, và tiền bạc cho một chương trình của Hải quân để bảo vệ các tàu sân bay của Mỹ chống lại và phá hủy các tên lửa đạn đạo Đông Phong DF-21D là sát thủ phá tàu sân bay của Trung Quốc .........
Posted by sontrung at 8:24 PM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 350
NGUYỄN VĂN LỤC * DI CƯ 1945
Một cuộc hội nhập đầy hứng khởi
Một triệu người di cư là một vấn ðề chính trị như tổ chức di cư, ðịnh cư, ổn ðịnh ðời sống.
Nhưng việc hội nhập là vấn ðề của mỗi một người di cư. Tôi gọi ðó là một cuộc Hội nhập ðầy phấn khởi vì ở nơi ðó ðã không có một cuộc chống ðối ðổng loạt của bất cứ ðịa phương nào. Ðược như vậy vì vài lẽ sau ðây:
· Người di cư hiểu thân phận mình là kẻ mới ðến nên can ðảm và kiên trì. Cúi mình xuống ðể ðược nâng lên. Họ cũng hiểu rõ hơn luật thiểu số-ða số cũng như nhập gia tùy tục.
· Người dân bản ðịa cũng vốn là một di dân không lâu, có truyền thống lịch sử hiếu khách lại vốn có bản tính rộng lượng và biết phải quấy.
· Nhờ ðó sau 21 nãm của cuộc di cư, họ ðã mau chóng trở thành một khối dân thuần nhất gồm hơn 20 triệu người. Sự thuần nhất còn trở nên khắng khí, bền chặt hơn khi ðối diện với người chiến thắng. Không ai bảo ai, họ ðều cảm thức ðược họ là kẻ thua cuộc và họ nhìn kẻ thắng cuộc bằng cái nhìn xa lạ, nghi kỵ và cả bất mãn nữa.
· Ngay cả người Bắc di cư nãm 1954 và người Bắc vào miền Nam sau 1975 tưởng rằng họ cùng quê hương xứ sở, cùng họ hàng máu mủ, cùng chia xẻ một nền vãn hóa, nhất là cùng một giọng nói miền Bắc. Tưởng vậy thôi, nhưng là tưởng lầm. Giửa hai người Bắc 1954 và Bắc 1975 ðã không cùng có mẫu số chung. Khoảng cách phân chia giữa họ ðôi khi còn coi nhau như kẻ thù. Ngay cả việc tìm lại họ hàng máu mủ ruột thịt cũng là một trở ngại, vướng mắc khó vượt qua. Có những trường hợp, người con trai ở miền Nam ðã không muốn nhìn nhận lại người cha ruột của minh vì nghĩ rằng người cha ấy ðã không làm tròn bổn phận người chồng, người cha trong gia ðình. Ðó là một bi kịch của cuộc chia ðôi ðất nước.
· Nhưng bi kịch ấy ở mặt Hội Nhập của những người di cư vào miền Nam lại trở thành một niềm hy vọng và phấn khởi.
· Tôi chưa từng ðược nghe một người nào trong số một triệu người ði vào Mam than vãn là ðã quyết ðịnh lầm hay ðã dại dột vào Nam. Nỗi niềm hoang mang lúc ban ðầu cũng như phải vất vả với cuộc sống mới hầu như người nào cũng trải qua..
· Tôi vẫn phải tự hào nhận rằng, tôi là một trong những ðứa trẻ di cư ấy. Tôi ðã ðược ãn học ðến nơi, ðến chốn và là một trong những người di cư may mắn ðó. Và tự thâm tâm tôi tự coi mình là người miền Nam theo trọn nghĩa của nó. Từ sau 1975, chỉ có một cụm từ chỉ chung chúng tôi là : Người Miền Nam. Hay người Việt quốc gia. Chúng tôi suy nghĩ, kiên ðịnh lập trường, tranh ðấu, viết lách, sinh sống làm ãn thì cũng chung cái cãn cước ấy: Cãn cước Người miền Nam mà không cần lý lẽ biện biệt gốc miền nữa.
· Ðó là cái cãn cước chính trị chúng tôi tự nguyện ðã chọn lựa từ nãm 1954 và nay cũng chẳng có lý do chính ðáng gì ðể thay ðổi cả. Thay ðổi là tự ðánh mất cãn cước của mình. Thay ðổi là phản bội lại chính mình. Mặc dầu hiện nay, tôi có thể nói ðang có sự hình thành, một sự ló diện một trận chiến về cãn cước người tỵ nạn ở hải ngoại. Có những kẻ ðón gió, ðổi chiều. Tôi khinh bọn họ bất kể họ là ai. Và tôi nhìn thấy mối hiểm nguy của người Người di cư và cuộc hội nhậpViệt hải ngoại là họ ðang phải ðối ðầu với những kẻ thù dấu mặt ấy.
Người di cư và cuộc hội nhậpKhi tôi nhìn hình ảnh một người ðàn ông cụt cả hai chân, phải dùng hai bàn tay làm chân, lết lên chiếc tầu há mồm của quân ðội Mỹ, tôi cảm thức sâu xa ðược ý nghĩa cao ðẹp của cuộc di cư này. Cuộc di cư từ miền Bắc vào Nam ðã vô tình mang theo những con người bất hạnh như thế, hầu hết là tay trắng mà hành lý mang theo chỉ là mớ quần áo rách, nồi niêu xong chảo ðáng giá bao nhiêu.
Tuy nhiên, không ai ngờ rằng bên trong những con người, họ còn mang theo họ chữ viết, tiếng nói, nếp sống nếp nghĩ ðến phong tục tập quán cả ngàn nãm và cả tín ngưỡng của họ nữa.
Mỗi người di cư vào miền Nam ðược coi là người mất quê hương,mất cội nguồn và may mắn thay trong cuộc hội nhập ðầy phấn khởi này, họ ðã tìm lại ðược tất cả. Họ có thể mất tất cả, nhưng có thể tìm lại ðược tất cả.
Về mặt chính trị, họ nay là những người quốc gia có tự do, có dân chủ sống trong một chế ðộ cộng hòa, dân chủ và pháp trị. Ðiều chính yếu là không còn chế ðộ phong kiến cũng như chế ðộ thực dân thuộc ðịa.
Về mặt con người, họ là những người miền Nam trọn nghĩa, hương thụ một nền giáo dục nhân bản, khai phóng, lấy con người làm cứu cánh. Và nhất là cùng chia, chịu chung số phận sau 1975.
Trong hoạn nạn, họ có nhau, là nhau. Trong trại tù, trại tập trung, họ là anh em.
Ngoải trại tù, ở hải ngoại họ là những người dân miền Nam cùng chia xẻ số phận ðể mất miền Nam.
Nhận diện bộ mặt những người di cư
Xét bên ngoài họ là những người nghèo khổ, nhếch nhác. Họ ãn mặc lôi thôi lếch thếch, gồng gánh, bồng bế con thơ, hoặc ðứa lớn dắt ðứa bé, cả một ðàn nheo nhóc. Nét mặt họ phần ðông còn ngơ ngác, lo âu thể hiện trong ánh mắt.
Phần lớn bọn họ không có ðến nổi một ðôi dép. Họ ði chân ðất là chính. Phần ða số các bà thì chít khãn, ðầu ðội nón sùm sụp.
Nhìn ðám người nghèo nàn khốn khổ này, quê mùa và có vẻ quê mùa, khờ khạo, tự hỏi họ sẽ là gì trong tương lai? Ai dám ðặt ðể tương lai vào cái ðám người này, vào những ðứa trẻ còn ở chuồng, mặt mũi lem luốc trên?
Những cái cảnh bồng bế, dìu dắt nhau từng ðàn, bước lên tàu há mồm là những cảnh ðược quay lại một cách sống ðộng và có thực.
Nhiều khuôn mặt ðàn ông, ðàn bà như già nua trước tuổi. Nó tố cáo những ngày thắng ðầy gian truân và thử thách ðã qua hầu như vừa qua một cơn ác mộng. Nhiều ông bà cụ xem ra khờ khạo, lóng cóng, vụng về trong cử chỉ, nói nãng. Ðụng một tý là kêu: Dạ, không dám. Lạy Chúa tôi. Giê su ma vv.
Bề ngoài trông họ khờ khạo như thế, bên trong thì không biết ðược. Có thể là một ý chí quyết liệt, bất chấp mọi thử thách, bất chấp mọi ðe dọa của cộng sản. Họ có thể sẵn sàng chết ðể bảo vệ tự do con người. Những làng thuộc vùng khu 4, khu nãm, ðôi khi cả làng cùng nhau trốn cộng sản.
Số những người thanh niên, trí thức miền Bắc di cư vào Nam (1) thấy ít ỏi nên tôi không dám chắc bộ dạng của họ có như tôi mô tả ở trên hay không. Tôi xem lại một số hình ảnh trong cuốn sách 50 nãm Bắc Kỳ di cư. Tôi cố hình dung ra hình ảnh cô tài tử ðiện ảnh Kiều Chinh, nhưng không hình dung ra ðược.
Tôi chỉ còn cố ghi lại câu nói của ông Vũ Ðức Minh, tức Minh Võ ghi lại tóm tắt hành trình trên ðường chạy trốn khỏi cộng sản : Di cư một kỷ niệm ðắng cay, nhưng ngọt ngào.
Khuôn mặt của tín ngưỡng
Theo sự tính toán cân nhắc cẩn thận trong một Bài viết khác, tôi chỉ ước lượng vào khoảng 350.000 tín hữu theo ðạo công giáo di cư vào miền Nam. Tôi gạt bỏ những con số quá thổi phồng từ 750.000-800.000 người công giáo.
Nhưng bởi vì nhóm người này nó thành một tập ðoàn, một khối liên kết chặt chẽ nên nhiều người lầm tưởng họ ðông lắm. Tín ngưỡng có lẽ là một trong các món hành lý mang vào miền Nam còn giữ ðược thuần chất nhất. Tôi còn nhớ hình ảnh một thanh niên sau chuyến vượt thoát ðược cộng sản và lên ðược con tàu của Mỹ ðể ði ði vào miền Nam. Người thanh niên mệt mỏi nằm ngủ ngay trên sàn tàu. Nhưng trên ngực anh, một tay anh còn giữ chặt một cây Thánh giá lớn.
Hình ảnh ðó biểu tượng nhất và cũng lý tưởng nhất. Người thanh niên này bỏ nhà, bỏ cửa ði vào miền Nam vì anh tin rằng, anh có thễ giữ ðạo mà không bị ai cấm ðoán hay ngãn chặn anh nữa.
Người ta cũng nhận thấy ở các trại ðịnh cư một dấu hiệu hội nhập ðầy cá tính miền Bắc. Trại nào nhà cửa cũng ðược xây dựng có hàng lối. Tôi liên tưởng tới các nhà xây dựng có hàng lối ðược gọi là ‘Giồng’ ở miền Bắc. Ðằng trước mỗi nhà có sân nhỏ, ðằng sau có vườn nhỏ, có giếng nước.
Nhưng nay thì thiếu hàng rào dâm bụt quanh nhà. Thiếu hàng cây cau thẳng tắp và sân gạch Bát Tràng, bể nước mưa và hàng lu dọc theo sạn ðựng tương hay cà muối. Nhà cửa xong, họ nghĩ ngay ðến việc dành dụm tiền ðể gom vào xây một ngôi nhà thờ nhỏ, một trường học và một nghĩa ðịa. Có nơi mang ðược cả cái chuông nhà thờ từ miền Bắc ði vào miền Nam.
Nó nhắc nhở người di cư phải tiếp tục nếp sống Ðạo xưa. Khi còn ở ngoài Bắc, họ ðã xây cất ðược khoảng 50 ngôi nhà thờ chạy dọc theo quốc lộ số một từ Hà Nội về Phủ Lý, Nam Ðịnh, Ninh Bình,Thái Bình và Phát Diệm.
Ngày hôm nay, tiếng chuông nhà thờ lại có dịp vang lên mỗi ngày, tiếng cầu kinh sáng tối như muốn nhắc nhở mọi người về cái cãn cước người công giáo di cư của họ.
Phải chăng ðó là những nét ðẹp nhất của nếp sống ðạo miền Bắc ðã ði vào miền Nam.
Trong môi trường hội nhập, thích ứng và ðồng hóa mang tính biện chứng, người dân miền Bắc vì sống tụ tập với nhau nên vẫn giữ gìn ðược một số sắc thái chung như tính chịu khó làm ãn, tính tần tiện lo xa, tính an cư với việc ổn ðịnh ðời sống và nếp sống chung như làng xã ngoài Bắc, có tôn ty trật tự. Nhưng một mặt khác họ vẫn phải thích ứng vào hoàn cảnh mới.
Cuộc hội nhập với cái còn cái mất.
Người di cư vào miền Nam ðược cái gì và mất cái gì. Có thể gần một triệu người ðã không một ai hỏi câu hỏi ðó.
Họ không cần hỏi, chỉ vì hình như họ chỉ có ðược mà không có mất. Thật sự cũng có mất – nhưng có thể ðó là những thứ ðáng mất.
Trong quá trình hội nhập vào xã hội miền Nam, tiếng nói miền Bắc, nhất là các từ ðể chỉ thị các ðồ dùng, các câu chửi có vần ðiệu, các lối nói mát, nói mỉa hầu như dễ bị ðồng hóa nhất. Hầu như sau này, không mấy người sử dụng nữa.
Nãm 1954, thường người ta chỉ nhắc tới cuộc di cư người. Cũng ðúng. Nhưng Người ði thì tiếng nói cũng phải ði theo Người.
Chữ nghĩa, tiếng nói miền Bắc cũng lếch thếch nối ðuôi nhau lên tầu há mồm. Chuyến ði gian nan của nguời di cư thế nào thì chữ nghĩa có lẽ cũng vậy.
Chữ nào ở lại, chữ nào ra ði, chữ nào còn, chữ nào mất. Chữ nào không ðược dùng nữa. Chữ nào rơi vào quên lãng. Chẳng ai còn tâm trí ðâu ðể lưu tâm tới ðiều ðó.
Chữ ðược di cư vào miền Nam, chở ði rồi, bao nhiêu chữ ðã rơi rụng, vung vãi dọc ðường. Bao nhiêu chữ ðã sống còn sau khi ðã hội nhập với chữ nghĩa bản ðịa? Ðó là những câu hỏi cần có câu trả lời.
Và phải ðợi 21 nãm sau ngày 30 tháng tư 1975, người viết bài này mới chợt cảm thức ra là có một sự mất mát ðáng kể- nếu không nói là ðến gần một nửa số chữ, các câu nói, các cách xưng hô tùy theo tuổi tác, tùy theo chức vụ xã hội, các cách chào hỏi, cách chúc tụng nhau trong dịp tế nhất, cách thức mời nhau trước bữa cơm, tục hút thuốc lào, cách xỉa rãng, cách ãn mặc..ðã không biết bao nhiêu ðiều sau chừng 10 nãm ðã ðổi khác hoàn toàn.
Phần các từ, các chữ, tôi chỉ nhận ra sự thay ðổi khi có dịp ðọc lại các nhà vãn miền Bắc. Nhưng hình như cũng ít ai ðể ý ðến cái mất, cái còn của chữ nghĩa, vì có quá nhiều cái ðược lớn hơn.
Chẳng hạn, có những cái mất như chiếc khãn mỏ quạ miền Bắc không biết từ lúc nào ðã biến mất hẳn. Hàm rãng ðen dấu hiệu ðặc biệt của dân quê miền Bắc cũng dần dần không cón có dịp ðược nhìn thấy nữa.Người ta không còn ðược nhìn thấy chiếc khăn lượt quấn chữ Nhân trên ðầu các ông nữa. Tục hút thuốc lào của các ông cũng mất dần mà sau này họa hiếm mới thấy một số người còn hút. Tục ãn trầu cũng bớt hẳn. Những lối mời chào, khách sáo của người dần không còn nữa.
Trong nhà nay cũng thiếu những chiếc chiếu cạp ðiều, họa hiếm mới còn nhìn thấy những chiếc sập gụ gỗ lim.
Nhưng, chiếc áo cánh vải phin nõn không cài khua bó khít lấy thân thể người phụ nữ miền Bắc bên trong lộ ra dải yếm mới ðẹp và gợi cảm làm sao so với cái áo bà ba rộng thùng thình. Vậy mà chiếc áo cánh phin nõn cũng dần biến mất và chỉ còn ðược ghi giữ lại trong các bức ảnh nghệ thuật sau này mà thôi.
Nhưng có một ðiều chắc chắn nhất là chiếc áo dài miền Bắc xem ra trở thành cái ðược ưu thế thời thượng làm biến mất chiếc áo bà ba và chiếc quần ống rộng của xã hội miền Nam. Cũng xin ghi nhận cho rõ. Có ít nhất hai loại áo dài thông dụng ở ngoài Bắc. Một loại áo dài ở nhà quê có hai vạt ðằng trước và thắt núm ở khoảng giữa ngực. Loại này giống chiếc áo cánh không còn ai mặc nữa. Loại áo dài có hai vạt, một ðằng trước một ðằng sau mới trở thành thời thượng mà công ðầu phải dành ðể ghi ơn mấy ông chủ thợ may ở Saigon.
Họ đã có công làm đẹp gái Sài Gòn.
Ngoài người thợ may, công ấy dành cho nhà thơ như Nguyên Sa hay Phạm Thiên Thư:
Nắng Sài Gòn, anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh yêu mầu áo ấy vô cung
Hay:
Có phải em mang trên áo bay
Hai phần gió thổi, một phần mây
Hay là em gói mây trong áo
Rồi thở cho làn áo trắng bay
Điều đó cho thấy rằng trong quá trình hội nhập có kế thừa, có thải loại nhưng cũng có chọn lọc. Chiếc áo dài nay là biểu tượng của hình nét, sự thướt tha, sự gợi cảm, biểu lộ phái tính trong biện chứng khép mở. Nó có tính cách mời gọi và đặt để người con gái vào một vị thế như một đối tượng được chiêm ngưỡng trong đó những đường nét hằn lên tuổi dậy thì.
Chiếc áo dài con gái Việt Nam đẹp một cách quyến rũ vì nó thướt tha. Nó không cứng nhắc như áo Kimono của Nhật hay Đại Hàn.
Theo họa sĩ trần Cao Lĩnh, áo dài phụ nữ Việt Nam trở thành ðẹp vì có gió. Gió làm tà áo em bay,gió làm em mở phơi, tươi sáng và mời gọi.
Sức sống, tình yêu như được hiển lộ, khai mở.
Em còn áo trắng ngày xưa
Trông anh muôn thuở bao giờ lệ hoen.
(Thơ Phạm Thiên Thư)
Tôi đã không biết bao lần quên lối về bởi chiếc áo dài con gái Nha Trang, Huế, Biên Hòa, Sài gòn. Để rồi:
Hôm sau vào lớp
Nhìn em ngại ngần
( Phạm Thiên Thư)
Và nó cũng mở đầu cho thiên tình khúc tuyệt vời Ngày xưa … Hoàng Thị của Pham Thiên Thư:
Em tan trường về
Đường mưa nho nhỏ..
Anh đi theo hoài
Gót giày thầm lặng
Đường chiều úa nắng
Chẳng những thế, sau này chiếc áo dài nó trở thành tiêu biểu cho tuổi trẻ nữ sinh từ thành thị xuống ðến tận thôn quên. Và bây giờ thì nó trở thành cá tính dân tộc của toàn dân hai miền.
Nhưng cùng một lẽ ấy, ðôi guốc mộc, chiếc áo bà ba rộng thùng thình với chiếc quần rộng ống của các cô gái miền Nam không biết từ lúc nào cũng dần biến mất.Cái tật trồng rãng vàng của người miền Nam cũng dần trở thành họa hiếm.
Còn cái còn, cái ðược nữa là một số món ăn Hà Nội.
Nhà báo Vũ Bằng ðã dành cả một cuốn sách ðể nói về: Miếng ngon Hà Nội. Trong ðó nay có những món ðã không còn ngon nữa và hầu tuyệt tích giang hồ như các món Bánh khoái, Rươi, Cốm Vòng. Nói chi ðến những món như ngô rang, khoai lùi, bánh ðúc.
Ðó là những cái ngon của một Hà Nội nghèo ðói, túng thiếu,chạy lo từng bữa gạo.
Ông chỉ quên nói tới rau muống. Chỗ nào có dân Bắc Kỳ là có vài luống rau muống. Ðến ðộ rau muổng trở thành một ðề tài chế giiễu: Bắc Kỳ rau muống.
Sau này, rau muống trở thành món ăn của cả dân miền Nam. và ra hải ngoại, rau muống trở thành món sào thêm vào để bớt thịt, bớt cá.
Nhưng trong số món ngon Hà Nội không thể nào quên ðược. Ðó là hàng phở gánh Hà Nội ở bờ hồ Hoàn Kiếm, 5 ðồng một tô. Buổi sáng mùa ðông hơi se lạnh, mùi nước phở gánh bốc khói, thơm nức mùi nước phở. Chỉ ngửi ðã thèm rỏ dãi ra. Ăn phở sáng, còn gọi ðược là ãn quà là một tiêu xài xa xỉ phẩm.
Vào ðến Sài Gòn, món phở trở thành món ãn khoái khẩu hay ãn quà sáng theo thói quen của người Sài Gòn.
Phở ðể ăn sáng rồi có lúc ðể ãn trưa và rồi cả ãn tối và ãn lúc nào cũng thuận tiện cả. Nhiều tiệm phở mở sau 1954 cạnh tranh cả với các tiệm Hủ tiếu và Mằn thắn mì hoặc Bún bò Huế. Nhiều tiệm phở bò trở thành nổi tiếng và ðông khách như phở Hiền Vương, phở Công Lý, phở Lý Thái Tổ. Cái ngon của phở là nước, là mùi, là gia vị.
Sau này, ra hải ngoại, phở bò nổi tiếng như một thứ McDonald của người Việt. Tôi ðịnh vinh danh món phở Hà Nội, nhưng vinh danh ai ðây, vì tìm không ra người khai trương ra. Theo nhiều người, món phở bắt dầu từ vùng Nam Ðịnh sau ðến Hà Nội. Rất tiếc, ngưởi viết không biết làm thơ như Nguyên Sa ðể ca tụng món phở.
Vì vậy, Phở không có ai dẫn lối dẫn vào vãn học.
Và nếu có ðào sâu thêm về những nét phong tục, nề nếp cũ, trong các sinh hoạt hội hè ðình ðám của người miền Bắc qua cuốn Nêp Cũ (11 tập) của nhà vãn Toan Ánh. Nhiều câu chuyện nay cũng chỉ còn là câu chuyện trà dư tửu hậu của vang bóng một thời.
Ngược lại tìm ðọc Vương Hồng Sển trong Hơn Nửa Ðời Hư hay Nguyễn Vãn Hầu trong Diện Mạo Vãn Học Dân Gian Nam Bộ (hai tập). Và nhất là tìm ðọc Sơn Nam trong các bộ sách như Hương Rừng Cà Mâu, Vãn Minh miệt vườn.
Người ta sẽ thấy rằng những câu chuyện dân gian lý thú ấy nay hầu như chỉ còn ðược ðọc trong sách vở.
Tất cả trở thành ðủ món hổ lốn trong một nồi súp trong ðó có sự gạn lọc, phế bỏ và hầu như bị vuợt qua.
Mặc dầu chúng ta cũng vẫn phải nhìn nhận rằng hai nhà vãn một Bắc, một Nam-. Bắc với Toan Ánh- Nam với Sơn Nam ðã góp phần làm phong phú hai nếp sống của hai miền.
Hiện tượng Meltinh-pot trong sự hội nhập, thích ứng của miền Nam và miền Bắc ngày nay phải nhìn nhận là ðều có thật, không chối cãi ðược.
Trong quá trình hội nhập như thế có cái mất, cái ðược. Cái mất có thể chẳng ðáng tiếc, nhưng cái ðược thì lớn quá.
Ðó là cái lớn làm nên cá tính, cái cãn cước người phụ nữ Việt Nam sau này khi ði di tản. Nay cần làm sống dậy cái vẻ ðẹp con gái ấy qua chiếc áo dài. Nhưng người ta ðả ðẩy nó ði một bước quá trớn, lộ liễu quá bởi vì nó làm mất cái vẻ ðẹp quyến rũ của biện chứng khép mở. Chiếc áo dài con gái hở mà vẫn phải kín.
Kín mà vẫn phải hé lộ, mời gọi. Không hiểu triết lý biện chứng này, nhiều nhà vẽ kiểu áo dài ðã biến thân xác phụ nữ thành cái ðẹp lồ lộ, sự bóc trần của thân xác mà không có khả nãng diển tả ðược vẻ ðẹp của thân xác mà yếu tố chính là ðường nét của thân xác.
Tôi dám nói nhìn các cô ca sĩ trên Paris By Night, họ mặc mà như thấy họ cởi chuồng. Tôi cho là một lối ãn mặc kệch cỡm, thiếu tự tin.
Thà họ cởi truồng.
Trông các cô uốn éo biểu diễn, tôi có cảm giác họ mời gọi ta chơi họ chừ không phải ðể chiêm ngưỡng.Tự họ ðánh tụt giá người phụ nữ chứ không phải tôi.
Sự trình diễn nghệ thuật biến thành sự diễn hành phái tính mà ở nơi ðó gián tiếp nhắc nhở người nghe nhạc biến thành người nhìn cảnh cởi chuồng.
Và quan trọng hơn cả biến họ thành một món đồ chơi, dù là thứ đồ chơi đắt giá.
Trong bài viết này, người viết lạm bàn về số phận chữ nghĩa người di cư sau 1954 và triển khai rộng ra về một giao lưu vãn học, vãn hóa, ðịa lý, chính trị trong cuộc Hội Nhập vĩ ðại của lịch sử người Việt.
Tôi thầm cảm ơn người miền Nam và coi ðây là một cuộc Nam Tiến ðến sau kế sách Thuận Hóa cách dây hơn 500 năm.
Sự cọ sát ðầu tiên giữa hai miền là tiếng nói, chữ viết.
Tiếp xúc ðầu tiên giữa người hai miền là tiếng nói, nhất là giọng nói. Không hiểu nhau là một trở ngại cho cả hai phía. Có những giao tiếp trở thành gượng gạo ngỡ ngàng, người nọ hiểu lầm người kia.
Có sự không hiểu nhau một phần lớn là do giọng nói khác nhau.
Ngay tại miền Bắc, tiếng nói là thứ phương ngữ thay ðồi từng vùng.
Việc ði lại khó khãn giữa các vùng, không có giao tiếp trao ðổi ðưa dến trở ngại người ðịa phương này nói khác giọng với ðịa phương kia. Vùng Kẻ Noi cách Há Nội chừng vài cây số mà giọng nói rất khác lạ. Giọng họ líu lo như chim hót. Ngay hiện nay, tôi ở khu vực Montreal nói tiếng Pháp ðã trên 30 năm rồi, vậy mà khi họ nói với nhau, giọng ðịa phương tôi chỉ hiểu lõm bõm.
Đi vào từng vùng ở miền Bắc, có một số phát âm khác nhau, giọng người các tỉnh phía Nam thường nặng hơn giọng người Hà Nội.
· Dân Hà Ðông chuyển âm N thành L. Chẳng hạn cái nồi, cái niêu ðọc là cái Lồi, cái Liêu.
· Dân Hà Nam ðọc vần Tr thành Ch. Chẳng hạn Giá Trị ðọc thành Giá Chị. Tranh Chấp thành Chanh Chấp. Nhưng có thể ðọc sai mà viết vẫn ðúng.
· Dân Ninh Bình trở xuống xuôi như Yên Mô, Phúc Nhạc chuyển dấu ngã thành dấu nặng, hoặc dấu hỏi.. Vũ thành Vủ hoặc Vụ.
· Vùng Kim Sơn. Vần Tr thành T, vần L đổi thành N. Con trâu trắng thành con Tâu Tắng. Làm lụng vất vả thành Nàm Nụng vất vả.
· Vùng Thanh Hóa. Vần A đổi thành Oô. Tỉ dụ Ba Lòng đọc thành Ba Loong.
Vì thế, lúc bắt ðầu giao tiếp, nhiều người dân miền Nam lúc ban ðầu coi người di cư như một thứ người ngoại quốc.
Ngoài tiếng nói khác nhau thì tự nó, tiếng nói, chữ dùng cũng thay ðổi từng thời kỳ. Vì Thời gian có tác dụng làm xói mòn mọi thứ… Như sắt thì rỉ, gỗ thì mục, hoa thì tàn, lá úa. Trong tương quan con người-người, ngay cả Tình yêu riết rồi cũng có thể khô trồi, tình dục sôi sục rồi cũng có thể trở thành thói quen nhàm chán. Kỷ niệm ðầu ðời tưởng không bao giờ quên cũng theo mầu thời gian mà trở thành nhạt nhòa.
Cho dù không có cuộc di cư, chữ nghĩa cũng cách này cách khác bị xói mòn.
Chữ nghĩa như một vật dùng một lần thì còn ngon, nhưng dùng nhiều lần thì mòn hay cùn ði. Như cái kéo cắt mãi cũng phải cùn. Dao bãm mãi cũng lụt ði. Khen ði khen lại ðâm nhàm tai. Yêu nhau lắm, cắn nhau ðau, hay ít ra cũng chán.Ðùa dai hoài ðâm nhạt như nước ốc.
Hình như chữ nghĩa dị ứng với cái lập đi lập lại.
Tất cả những ngữ nghĩa trên chỉ ra một ðiều: Thời gian và sự ði lập lại có thể làm xói mòn, hoen rỉ chữ nghĩa. Tâm lý con người lại ưa chuộng cái mới, cái lạ. Như trong tình yêu, dùng chữ ðó với nhau lần ðầu, trọng lượng của chữ nặng lắm, thấm thía lắm, cảm ðộng lắm. Dùng lần thứ hai thấy nhẹ ði rồi. Phải tãng cường ðộ nghĩa bằng những chữ lắm, nhất, số một. Có khi cả bằng tay chân vẫn chưa ðủ. Tãng lời thề..
Hình như vẫn hụt.
Số mệnh chữ nghĩa mỏng manh như số phận con người.
Thời gian như thước ðo chiều dài ngắn của chữ nghĩa, ðồng thời cành báo về cái hữu hạn của nó. Sự sợ hãi của Nguyễn Du về sự quên lãng của người ðời phải chãng cũng từ ðấy mà ra.
Chữ có thế vắn số nên có nhiều chữ ðã trở thành chữ cổ ít ai nhắc tới.
Còn nhớ, hồi mới di cư dzô Nam, người Bắc sửng sốt nhất, nghe lạ tai nhất là chữ Mã Tà. Mã tà thời tây là gọi là Hiến Binh, sau này trong Nam gọi là Cảnh sát, ngoài Bắc gọi là Công An. Không biết vì lý do gì, chữ Mã tà sau khoảng hai năm gì đó, không còn nghe ai nói nữa.
· Cũng vậy, theo sách vở, chữ manh nghĩa là nhỏ mọn. Người ðời chỉ còn nhớ váng vất khi nó ði với chữ khác như mong manh, tan manh, chiếu manh, manh áo, manh mún.
· Một chữ khác như chữ Khem, nghĩa là kiêng cữ. Nếu nó không cặp bạn với chữ Kiêng thì người ta không còn nhận ra nó như Kiêng khem ra nắng, ra gió.
· Chữ khác như chữ Lụn, nghĩa là hết, người ta cũng chỉ dùng trong một số trường hợp hiếm hoi: Tim lụn có nghĩa tim ðèn cháy hết, lụn nãm, lụn ngày, mềm lụn, lụn xuống, lụn mạt.(2)
Mấy ai còn nhớ, còn biết, còn xử dụng những chữ cổ trên.
Nhưng có chết đi mới có sống lại, cái chết đi ung mầm ra cái mới.
Nhờ vậy mà chữ nghĩa thay ðổi và tiến bộ, mỗi ngày một ða dạng, một phong phú và chuẩn xác hơn.
Với cái nhìn nhân bản thì chữ nghĩa có một cuộc sống, có dòng sinh mệnh, có thể mất, có thể còn, trôi nổi như ðời sống một người. Nhiều chữ nay ðã chết, nằm chôn vùi trong nghĩa ðịa của các Bảo tàng hay sách cổ. Nói ra cũng ngậm ngùi.
Xin trích dẫn một số chữ nghĩa làm bằng chứng về sự mất còn này..(3)
Bạn ðọc thấy có nhiều chữ ðược xử dụng cách nay một thế kỷ ðã không còn ðược dùng nữa như bổn báo kỉnh cáo, nhựt trình, con nhà Annam, tấn tài tấn ðức, khia ðằng vãn minh.
Nhưng có nhiều chữ vẫn ðược dùng cho ðến ngày nay như Chữ Cha Sở và nhất là những chữ khá chuyên môn cách nay 70 nãm như giải phóng, phương diện thương mại và kỹ thuật.
Chữ và Nghĩa
Thời gian ðã là một nhẽ, cộng thêm dụng ý của người xử dụng chữ. Một chữ dùng nay bao hàm nhiều nghĩa, nhất là những từ chính trị. Từ nay, chữ có thêm không phải một mà nhiều nghĩa nghĩa.
Chữ dùng giống nhau, nhưng nghĩa thì mỗi người hiểu một nghĩa. Người miền Bắc dùng chữ mà lại chú trọng ðến cái nghĩa. Chữ thì chỉ có một, nhưng nghĩa thì có nhiều.
Cùng một chữ mà giọng kéo dài ra, thêm một ngữ từ nghĩa nó khác. Trong chữ: Cô giỏi lắm ðấy. Tùy theo cách nói, tùy theo dụng ý của người dùng mà có thể hiểu giỏi là chê bai, giỏi trở thành lời kết án nghiêm ngặt.
Và các nghĩa này, nó có quy luật của nó nằm trong bộ chữ như nói mát, nói kháy, nói ðãi bôi, khen mà ngụ ý chê.
Huyền thọai về việc xây tháp cổ Babel phải chãng là một bằng cớ báo trước về sự sa ðà của ngôn ngữ, chữ nghĩa và ðến cả số phận của nó nữa.(4)
Nhưng nói chung chữ nghĩa ở tầng cao- chữ nghĩa trong vãn học- của miền Bắc ðã thồi một luồng gió mới cho vãn học nói chung ở miền Nam.
Theo giáo sư Lê Vãn Lý, trong cuốn Le Parler Vietnamien, Chữ thay ðổi nghĩa khi ngữ vị của nó thay ðổi (5). Nghĩa biến hóa vô chừng.
· Nó đến không bảo sao?
· Nó đến bảo: không sao
· Nó bảo: sao không đến
· Nó đến bảo: sao không?
· Nó bảo đến không sao
· Nó bảo: không đến sao?
· Nó không bảo, sao đến?
· Nó không bảo đến sao?
· Nó không đến bảo sao?
· Bảo nó sao không đến?
· Bảo nó: không đến sao?
· Bảo sao nó không đến?
· Bảo nó đến, sao không?
· Không đến bảo nó sao?
· Không đến, nó bảo sao?
Và cứ thế tiếp tục với chữ nó, rồi chữ bảo và cuối cùng chữ sao..
Viết mấy dòng này ðể vinh danh một người thầy của nhiều thế hệ sinh viên Hà Nội, Sài gon cho ðến nãm 1975. Cuốn sách Le Parler Vietnamien, luận án tiến sĩ Ðại học Sorbonne của linh mục, giáo sư Lê Vãn Lý ðược dịch ra 17 thứ tiếng trên thế giới.
Giọng nói kiêu sa của người dân Hà Nội
Nếu tiếng nói miền Bắc có nhiều vùng và nhiều tiếng không dùng nữa thì ngược lại giọng Bắc Hà Nội trở thành tiếng nói kiêu sa của người Hà Nội.
Giọng người Hà Nội là một giọng không pha trộn, giọng thường cao lanh lảnh, lên xuống trầm bổng như trong âm nhạc, phát âm chuẩn, các sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng, chữ nào ra chữ đó, xử dụng từ có quy pháp- nghĩa là có những chuẩn ngữ- nhất là trong cách mời chào, giao tiếp.
Không lạ gì, các ca sĩ sau này ðều cố luyện ra giọng Bắc ðể hát. Các giáo sư dạy trung học nói giọng Bắc thường ðược học trò thích hơn.
Chữ nghĩa người Hà Nội trong vãn chương, trong sách báo, tiểu thuyết lại trở thành thứ ngôn ngữ chuẩn ðược người ðọc cả hai miền chấp nhận và bắt chước theo.
Tiêu biểu là một số nhà văn, nhà thơ từ miền Bắc qua tạp chí Sáng Tạo, Bách Khoa, Văn Hóa Ngày Nay được nhiều người tìm đọc.
Văn học miền Bắc như thổi một luống gió mới, mang sinh khí và sự hào hứng cho văn giới và người đọc thuộc giới trẻ ở miền Nam.
Theo tôi, ðây là nét ðẹp thứ ba của Hà Nội như món quà ra mắt người miền Nam.
Chữ của miền Bắc trở thành thời thượng, thành khuôn mẫu vẻ ðẹp, nét tế vi. Chữ trong vãn chương Mai Thảo mượt mà với ma thuật chơi chữ, gợi ý, gợi hình ảnh. Ðôi khi có chút màu mè, làm dáng, ngay cả lập dị trong cách chấm câu, cách dùng chữ.
Nó chẳng khác gì sau này nhiều chữ của Trịnh Công Sơn trong các bài hát của ông cũng mang ấn tín của ông trong cách chọn từ, cách ðổi vị trí từ trong câu. Mỗi câu, mỗi chữ như một thông ðiệp gửi ði làm rung ðộng lòng người. Với chất thơ, chất nhạc, hồn tính, ðộng não, chất thiền, chất âm và ngay cả chất gợi dục, gợi lòng.
Nắng có hồng bằng đôi môi em- Môi em cho ta một cánh hồng, lụa là phút ấy chưa quên- Dài tay em mấy- hạt bụi hóa kiếp thân tôi.
Phải nói ðó là ma thuật của ngôn ngữ.
Chữ nghĩa biểu tượng cho cái nhìn về vãn hóa, phong tục giữa hai miền
Khi lần ðầu tiên tiếp xúc lại với chữ nghĩa miền Bắc sau 20 nãm xa cách. Người viết có cái cảm giác sung sướng ðến ngạc nhiên,ðến bỡ ngỡ vì nhớ lại những chữ nghĩa tưởng chừng ðã quên nay nhớ lại.
Sau bao nãm xa cách, hình như bắt lại ðược mình, nối lại ðược dĩ vãng thân thuộc, gần gũi. Chẳng hạn, lúc ðọc nhà vãn miền Bắc Vũ thư Hiên trong cuốn Miền Thơ ấu và nhất là cuốn Chuyện ở tỉnh lỵ, hay Tô Hoài trong O chuột (1942), Nhà nghèo (1944) và nhất là Cát bụi chân ai (1992), Nguyên Hồng, trong Cửa Biển và trong Tuyển tập Nguyên Hồng , Những ngày thơ ấu, Nguyễn Tuân trong Người Lái ðò trên sông Ðà, Nam Cao với Chí Phèo, Ðôi Mắt. Nguyễn Khải với Mùa lạc. Lê Lựu với Một thời xa vắng. Và gần ðây thôi Nguyễn khắc Trường với Mảnh ðất lắm người nhiều ma.
Bên cạnh đó, tôi cũng tìm đọc lại Vũ Trọng Phụng, nhưng thích thú nhất là đọc lại Nam Cao, Trần Tiêu và Bùi Hiển.
Tôi không biết phải nói thế nào, nhưng thật sự phải lấy làm tiếc vì những tác giả như Bùi Hiển, Trần Tiêu, Nam Cao hay Nguyên Hồng là những nhà vãn Hiện thực xã hội dầy tính Nhân bản lại không mấy người biết ðến ở miền Nam.
Ðọc họ mới thấu hiểu hết nỗi lầm than của con người. Ðọc họ mới hiểu hết ðược chế ðộ làng xã, chế ðộ phong kiến ðã trói buộc ðầy ðọa kiếp người như thế nào- Ðặc biệt nạn nhân Là người phụ nữ-.Nhưng ðàng khác, ðọc họ mới hiểu ðược tình con người, tính nhân bản giữa những người cùng khổ như thế nào.
Tôi cho rằng, nếu không đọc lại những tác giả thời tiền chiến, sự hiểu biết về xã hội xã thôn miền Bắc sẽ là một thiếu xót lớn.
Họ, những nhà văn, đã làm sống lại từ trong mồ nhiều chữ mà người viết đã nghe, hoặc chính mình đã dùng và nay đã quên, đã không dùng nữa.
Người viết cảm động như một khám phá, như một sưởi ấm lại ký vãng đã quên.
Chẳng hạn thay vì nói, ông ấy bệnh nặng, sắp chết, hay ông ấy ðang hấp hối, ðã cấm khẩu, tay bắt chuồn chuồn. Nhưng hạ một câu: Ong ấy sinh thì rồi thì thật trọn vẹn.Và cứ như thế dàn trải ra khắp các cuốn sách quê hương cũ tìm về, dấu chân kỷ niệm và niềm thơ ấu sống lại.
Chữ nghĩa như có hồn ðược vực dậy, thổi thêm sinh khí. Phần lớn những thứ chữ này có vào thời tiền chiến và gần như bị * ðoạn tuyệt * với TLVÐ. TLVÐ chẳng những ðoạn tuyệt với phong tục, nếp sống cũ mà cả với chữ nghĩa cũ nữa.
Như vậy, song song với nhóm TLVĐ, vẫn còn sót lại một dòng văn học ngược chiều với nhóm Văn Hoá Ngày nay và cứ thế nó kéo dài đến bây giờ.
Và một lần nữa, nó lại phải đương đầu với những nhà văn trẻ, thế hệ sau 1975, thế hệ sau cởi trói hay sau nữa Hậu Hiện đại.
Cũng một cách thức tương tự, người ta tìm thấy ở miền Nam với Nhóm Sáng Tạo ðổi mới nội dung,giải phóng chữ nghĩa bằng cách xử dụng những từ có vóc dáng triết lý thời thượng.
Bên cạnh ðó có một dòng chảy vãn học chữ nghĩa như khe suối nguồn, lau lách, rỉ giỏ giữ lại cội nguồn, giữ lại bản sắc của mình với Sơn Nam, Bình nguyên Lộc và ðặc biệt nhất là nhà vãn Lê Xuyên.
Đây là một hiện tượng văn học có vóc dáng và đáng nể.
Các mất mát của dòng vãn học tiền chiến- mất mát ngậm ngùi.
Nhưng chuyện phải ðến ðã ðến. Càng ðọc lại các truyện của các nhà vãn miền Bắc thời tiền chiến, người ta mới nhận ra rằng nay ở trong Nam, các chữ ấy ðã không còn ðược dùng nữa.
Có nghĩa là chữ nghĩa và cả tâm tình, cả cái xã hội khốn khổ miền Bắc, nó không còn mấy ai nhắc nhở tới nữa.
Khi ðọc các nhà vãn này, xin chia làm hai giai ðoạn. Ta chỉ nên ðọc Nguyên Hồng, Bùi Hiển,Nam Cao, Trần Tiêu, Nguyễn Tuân về những tác phẩm họ viết thời kháng chiến, hay trước cách mạng tháng tám.
Giai ðoạn sau lại là một câu chuyện khác không cần ðề cập tới ở ðây
Các mất mát thông qua cái văn hóa chửi như một đoạn tuyệt với quá khứ phong kiến của miền Bắc
Ngưởi di cư vào miền Nam ðể co thể hội nhập vào xã hội miền Nam, họ phải vứt bỏ thói quen chửi. Một thói quen rất lâu ðời, ðược chấp nhận và không ai phản ðối. Thuong la nguoi ta chui chung chung, nhung cung co luc am chỉ gian tiếp vào người này, người kia mà chỉ những người trong cuộc mới ðược.
Chửi vốn là sắc thái vãn hoá ðặc trưng của miền Bắc. Ðặc thù và cá biệt. Ai chửi hay và chửi có bài bản, có nghệ thuật, có vần ðiệu, ví von, có tay nghề bằng miền Bắc. Chửi hay như thế nên có kẻ làm nghề chửi thuê kiếm ãn.
Chẳng hạn, trong chuyện Chí Phèo của Nam Cao, Chí Phèo chửi ðể lấy tiền uống rượu ðến tay sừng sỏ trong làng như lão Bá Kiến cũng chào thua.
Có những chữ nghĩa thuộc loại anh chị, kế thừa một truyền thống mở mồm ra Ðịt.. mẹ, ðịt bố, chửi có tay nghề ở miền quê. Vậy mà vào ðến miền Nam gặp anh Hai ở cầu Ba Cẳng hay các anh chị bến Tầu Sàigòn, chị Ba Cầu Muối, Chị Nãm chợ cá Trần quốc Toản ðành tắt tiếng.
Người di cư từ miền Bắc vào miền Nam học được thói quen không chửi nữa.
Hỉnh ảnh một phụ nữ miền Bắc, mặc váy, tay chống cạnh sườn ðứng dạng háng, tốc váy, hoặc vỗ ðồ bồm bộp, chửi ra rả cả ngày là một hình ảnh chỉ còn xuất hiện trên Tivi ở miền Nam ðể chọc cười thiên hạ.
Chí Phèo, nếu chẳng may có di cư vào miền Nam thì chắc phải ðổi nghề.
Tất cả những tiếng chửi tục ðủ loại ðã có một thời khét tiếng và quen thuộc ở miền Bắc tỉ như Tiên sư bố, tiên sư cha, tổ sư cha, bú cặc, bú buồi, ðịt nọ ðịt kia, liếm, sờ, chui. Không bao giờ ðược nghe nữa.
.Trong suốt 20 nãm sống ở miền Nam, sống chung ðụng với dân miền Bắc, người viết chưa nghe, dù một lần họ dám ðịt nọ, ðịt kia nữa.
Cùng lắm ðôi lần ðược nghe chửi trên Tivi vào những dịp tết (6).
.Vậy mà hiện nay có hiện tượng ngược chiều: Người miền Bắc ở Hà Nội họ chửi nhau om xòm trong các quan ãn, trong việc mua bán, Chỉ không vừa ý về giả cả là ðôi bên có thể chửi nhau rồi.
Họ còn mang cái nghèo khổ của người khác ra ðay nghiến:
Dân miền Bắc túng quẫn nên lấy cái ãn, cái uống làm ðầu. Lúc giận rủa nhau cũng mang cái ãn uống ra mà nhiếc móc nhau kể cũng không lấy làm lạ. Tỉ dụ diếc móc người ta như : nghèo rớt mồng tơi, nghèo lõ ðít, thí cho nó tý tiền, cứ gọi là ðói vàng mặt, ðói dã họng.
Nghe những chữ diếc móc trên đôi khi đau lòng còn quá chửi.
Vì thế, người ðời mới sợ tiếng diếc móc ðến cầm bát cơm lên ãn không nổi..Vì thế có tâm trạng khác nhau.
Khi nghe chửi, ta thấy tức giận, khi bị diếc móc, ta cảm thấy nhục.
Mỗi chữ ðều gợi lên một vãn ảnh và không chữ nào giống nghĩa chữ nào .
————————————————————
Tất cả ðòi hỏi sự khôn ngoan, tính toán và chải ðời. Ðó là thứ vãn hoá chửi mà không ãn mòn bát mòn ðĩa ở miền Bắc không hiểu thấu ðáo ðược. Vào ðến miền Nam sau này, người dân miền Nam với nếp sống giản dị ðã trấn áp người miền Bắc, quy kết là khôn ranh.
Người Nam thẳng thừng nói: Bỏ ði Tám. Ðù má, nói gì thì nói mẹ nó ði cho rồi, vòng vo tam quốc hoài, mệt quá.
Vậy là phải dẹp cái thói xỏ xiên, văn hoa chữ nghĩa.
Người miền Bắc di cư chỉ có mỗi một con ðường trong lối sống và cư xử mới là dẹp bỏ tất cả những từ chửi bới, diếc móc ở trên. Vì thế, mấy ai còn nhớ ðến những lối diếc móc trên.
- Dùng phương tiện phái tính :
Người phụ nữ miền Bắc vốn là nạn nhân của nhiều thứ, của đủ thứ đến cái gì xấu đích thị là của phụ nữ. Đến cái gì khen thì thật sự cái đó có lợi cho đàn ông. Khen tứ đức tam tòng là lời khen chết người, buộc chặt, trói chân người phụ nữ thành tên nô lệ không công. Khen tiết hạnh khả phong là lời khen trớ chêu nửa khóc, nửa cười. Khen trinh tiết làm đầu là một lối khen họan, khen thiến không hơn không kém, chẳng khác gì hoạn quan.
Nói tách bạch ra, con C… là chúa, là vua.
Nhưng những lời nguyền rủa quả không thiếu mà có thừa. (9)
Chẳng hạn có những câu diếc móc nhẹ nặng ðủ thứ, ðủ kiểu xuất phát từ tâm ðịa ðộc ác, hận oán : người ðâu có thứ người..sáng bảnh mắt còn nằm trương xác ra. Ðàn ông nằm ðến bảnh mắt thì không sao cả. Dạy muộn cũng là một tội lỗi. Hoặc nặng hơn nữa : ðồ thối thây, nó bơi tro chát trấu vào mặt, con gái con ðứa, con gái ðến thì là ðộng cỡn, cô ấy cong cớn, những cô này mới nứt mắt nảy nòi mà sao giống những mụ nạ dòng già ðời, da dẻ nó hon hỏn thế này.
Tất cả ðều nhắm vào phái tính hay ðĩ tính: Tự thân ðàn bà, phụ nữ sinh ra ðã có ðĩ tính : có chồng có cái khổ của có chồng : con ðó õn à õn ẹo, ðanh ðá lắm cơ, người ta bĩu môi chửi là gái nứng ði theo chồng (chỉ gái ðã ãn ở với người khác rồi), một cô gái giãng há, một lũ lĩ con gái, chữa buộm (chửa với người khác không phải với chồng ), chó dữ mất láng giềng, dâu dữ mất họ, mẹ cái hĩm, con bé tình ra phết, mà phải biết là ðỏng ðảnh.
Diện cũng chết mà không diện cũng chết : chết nỗi không tơ tuốt, chồng nó chê, con ðó phải lòng thằng khác, nó chỉ nhong nhóng suốt ngày, cơm bưng nước rót ðến tận mồm, nó lẳng lơ và nhẹ dạ, hai con rồi mà vẫn còn trẻ mau máu, trai làng hay chớt nhả và bẻm mép, cô gái mỏng mày ngày xưa bây giờ là ðàn bà sồ xề, cô ấy chúa ðời là khỏe.
Bên cạnh ðó, có nhiều chữ ðể chỉ bộ phận sinh dục của phái nữ như cái ðồ, cái ấy, cửa mình, cái lồn thì thô tục quá. Cái chỗ ấy mà thiếu chút chi cũng bỏ bố với thiện hạ: âm hộ vô mao, bần chí tử. Thiệt là khổ. Khổ ðầu, khổ ðuôi, khổ trên, khổ dưới, càng dưới càng khổ.
Nếu chưa chồng lại có cái khổ riêng : Chưa chồng có cái khổ riêng lại thêm cái khổ của miệng lưỡi thế gian: Già kén kẹn hom. Ãn mặc lơ ðễnh một chút cũng khổ: cái yếm xẹo xọ ðể trật ra cái sườn nây nẩy, cái người ðàn bà dại dột ðã nằm ềnh ệch ra ðấy, nói dại nếu mày chửa thì ãn nói làm sao, cái yếm cổ xây thật trắng, cái quần lụa buông chùng xuống tận gót, ãn bận sang ðến cô ðầu cũng không ãn ðứt, nó nhân tình ðến trãm thằng, bọn lý dịch chẳng anh nào không thậm thọt ra vào nhà nó, nó mặc áo cánh xát xí, nào yếm vải phin, nó tơ tuốt ghê lắm (diện).
Chẳng hạn, đàn bà chửa hoang đôi khi phải cạo trọc đầu, bôi vôi rồi đành bỏ làng mà đi.
Diện cũng chết mà không diện cũng chết : chết nỗi không tơ tuốt, chồng nó chê, con ðó phải lòng thằng khác, nó chỉ nhong nhóng suốt ngày, cơm bưng nước rót ðến tận mồm, nó lẳng lơ và nhẹ dạ, hai con rồi mà vẫn còn trẻ mau máu, trai làng hay chớt nhả và bẻm mép, cô gái mỏng mày ngày xưa bây giờ là ðàn bà sồ xề, cô ấy chúa ðời là khỏe. Bên cạnh ðó, có nhiều chữ ðể chị bộ phận sinh dục của phái nữ như cái ðồ, cái ấy, cửa mình, cái lồn thì thô tục quá.
Cái chỗ ấy mà thiếu chút chi cũng bỏ bố với thiện hạ : âm hộ vô mao, bần chí tử. Thiệt là khổ. Khổ ðầu, khổ ðuôi, khổ trên, khổ dưới, càng dưới càng khổ.
Kết Luận
Nhờ có cuộc di cư từ Bắc vào nam mà phụ nữ miền Bắc ðược giải phóng.
Có lẽ không ở ðâu, không ở nước nào cách xưng hô lại phức tạp lầy nhầy như miền Bắc. Mới ðây, trong một chương trình Vidéo, người viết thấy một cô ca sĩ trẻ ðược người ðiều khiển chương trình phỏng vấn.. Lúc phải trả lời, cô lúng ba, lúng búng, vì không biết phải xưng bằng anh, chú, bác hay nhà vãn với người ðiều khiển chương trình. Bác có vẻ già quá, anh thì có vẻ hơi xỗ xàng. Ông thì xa lạ. Cậu tớ thì xấc quá.
Trong cái cách học ãn, học nói của người Bắc thì bài học vỡ lòng là học cách xưng hô. Trẻ con nào mà không ðược bố mẹ dạy phải xưng hô tùy theo tuổi ðã ðành, theo quan hệ họ hàng, theo chức vụ và theo xã giao nữa.
Những tiếng thầy bu, thầy u, thầy ðẻ, thầy me, cậu mợ, ðằng ấy, cậu tớ, người nhớn, con nọỉ, con kia, huynh, ðệ, quan bác, thằng cu, con ðĩ, mẹ ðĩ nhà tôi, nhà con, ông mãnh, thằng trời ðánh thánh vật, thằng chết bãm chết bằm tùy trường hợp mà dùng. Nhưng bắt chước người Tầu, ta còn có chữ Gia phụ, Gia Mẫu, Gia Huynh, chỉ bực bề trên hay xá ðệ, xá muội chỉ bực dưới. Bấy nhiêu lối xưng hô vào ðến miền ðất mới như lạc lõng , thi nhau bị “cáp duồn” hết. Không ai nói nữa.
Do sức ép hay do tự mình cảm thấy lỗi thời, thấy dởm, thấy cầu kỳ, thấy rắc rối, thấy “không giống ai” thấy cần phải bỏ.
Có lẽ thấy cái không giống ai là lý do của sự ra đi không trở lại của các cách xưng hô trên.
Các chữ dùng để gọi, xưng danh quan tước chức sắc cũng nhiều lắm. Cũng phiền lắm. Nhiêu khê lắm. Không xưng đúng danh phận, có thể bị trách, bị giận, bị trù ếm nữa. Nhiều không đếm xuể. Hầu hết, việc hài chức vụ có dụng ý, tâng bốc nịnh nọt.
Nó đã dần biến mất khi vào đến trong Nam.
Thật ra, nó chỉ biểu tỏ một xã hội phong kiến, đẳng cấp, trên dưới không thích hợp ở miền Nam.
Người dân miền Nam cũng là di dân, có cái may mắn không thừa hưởng di sản của một xã hội phong kiến, hủ lậu. Xã hội đó lo kiếm miếng ăn, làm giầu, không nghĩ đến chữ nghĩa thánh hiền, cũng chẳng bận tâm đến kẻ trên người dưới..
Xã hội vừa ổn định, chưa mọc ra những mầm mống của thứ ổn định kiểu trên đè dưới, quan lại, thứ dân, giai cấp thống trị. Làng xã mở toang, không hàng rào vây kín.. Xã hội cũng mở toang mọi phía mà dân là chính, dân là chủ.
Sự xưng hô vì thế giản tiện và tuỳ tiện, đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Ba má thì là ba má. Khi cần gọi chung là ông già bà già.
Nội việc xưng hô cũng thấy miền Nam đuợc cởi trói nhiều theo tinh thần tự do, dân chủ.
Người Bắc từ xa tới, lẽ nào không thấy cái hay đó. Lẽ nào không theo, tự ý theo.
Để gọi một người ở, người trong Nam chỉ gọi chung chung là người làm, vừa dản dị, vừa không có khinh miệt, rẻ rúng. Vì thế, nếu còn ai gọi cụ đốc thì thay vì là một trân trọng, nó đã biến thành trò cười, mai mỉa.
Người Hànội có một thói quen khá kiêu xa (Theo Vũ ngọc Phan trong Nhà vãn hiện ðại ) là thay vì gọi tên một người, họ lại hài chức vị người ðó ra mà gọi.
Gọi như thế vừa là cách vinh danh người được gọi. Phần người gọi cảm thấy hãnh tiến vì có quan hệ quen biết với người được gọi. Chẳng hạn: ấy quan đốc nhà tôi, hay ngon hơn nữa : ấy anh Huyện X.
Chữ nhà tôi, tự bầy tỏ cái huyênh hoang, hãnh tiến, thấy sang bắt quàng làm họ. Thật đáng ghét. Đã là đốc học, đốc tở mà còn kèm theo chữ cụ hoặc chữ quan nữa thì rõ ràng là xu nịnh: quan đốc tờ, quan đốc học, cụ Nghị, cụ Hàn, cụ cử, cụ ký, cụ Thượng, cụ Tú, thầy đội xếp, thầy cai, cụ lang ta, cụ bang tá, thầy quản, anh Khóa, anh cung văn ( thư ký riêng của các gia đình giầu có), thầy đồ, sinh đồ hay cống sĩ, quan hiệu, quan châu, quan phủ doãn, hiến ty, dề điệu, quan thừa sứ, ông Hiến binh, ông Trùm, ông Chánh trương, ông hậu, ông Hàn, ông cửu, cụ Thượng, ông Lý, cụ Chánh.
Những chữ dùng để chỉ kẻ hầu người hạ đã tùy hoàn cảnh mà thay đổi.
Trong nhà đạo, khi dùng chữ Kẻ tôi tớ chỉ là lối nói khiêm tốn của kẻ bậc dưới với kẻ bậc trên như cuối lá thư thường viết *kẻ tôi tớ hèn mọn *. Chữ con nhài, nàng hầu tương đối lâu đời nhất được dùng trong các nhà quan.
Sang đến thời Pháp thuộc có chữ con sen, chị vú, anh phu xe, rồi anh tài xế..
Những chữ ðể chỉ việc chời bời như : ði nhà thổ, nhà chứa, me tây, làm ðĩ..
Trong Nam giản dị gọi chung là Gái ðiếm.
Những chữ chỉ nhà nó (chỉ vợ hoặc chồng ). Chữ người (chê bai). Nguời khó tính lắm ạ ðòi phải mua rau lấy Người mới xơi ðược (trích trong Chiểu Chiểu của Tô Hoài ).
Quan anh (ý nịnh bợ) có tắm không, mở bốn chục trai nước suối Viten ðổ vào thùng rồi pha nửa chai cô lôn ðể cụ giội lại, dọn cái buồng Thổ Nhĩ Kỳ ðể chớp bóng ðấy nhé (Trích Giông Tố của Vũ trọng Phụng ).
Thêm một chữ cô ả cũng mất tiêu không ai dùng nữa.
Một số chữ của nhà ðạo cũng không ðược dùng nữa : Thầy cả, cụ, cố, thầy kẻ giảng, ông bõ. Nam Cao ðã viết riêng một chuyện nhan ðề : tư cách mõ. Nhà vãn cho biết tại sao gọi là mõ, rồi lềnh, rồi Sãi. Chữ ông Trùm, ông Chánh Trương cũng không ai dùng nữa. Một số chữ bên Phật giáo như ông Bụt, ông sư, ông vãi, bà vãi, chú tiểu cũng ít ai dùng nữa.
Có nhiều người muốn phục hoạt lại chữ Bụt, ông Sư như chủ trương của thầy Nhất Hạnh.
Hóa cho nên, chữ nghĩa có cái thời của nó, thời ðể sống và thời ðể chết.
Khi nghĩ ðến thân phận người phụ nữ miền Bắc, tôi muốn ðứng ra, nghểnh cao cổ, hò hét bênh ðàn bà cũng không ðược.
Vì tìm đến nửa ngày cũng không kiếm đâu ra chữ để chửi bọn đàn ông.
Thử xem nào: ðồ ðàn ông ðĩ ngựa. Nghe không ổn. Ðồ lẳng lơ. Cũng không nghe ra tai. Cuối cùng tìm ra ðược vài chữ ðáng ðời : Ðồ súc sinh và một chữ dấm da dấm dớ : Ðồ cha cãng chú kiết. Thật ðến là tức, tự nhiên xổ ra ðược một lô chữ cho hạ hoả : ðồ du côn du kề, ðồ ãn mày ãn xin, ðồ gì nữa nào.. ðồ lính tráng. Chẳng hạn, ðàn bà chửa hoang ðôi khi phải cạo trọc ðầu, bôi vôi rồi ðành bỏ làng mà ði
Cái may của phụ nữ miền Bắc là vào đến trong Nam, họ đã không bao giờ còn bị ai diếc móc như thế nữa.
Ðó là cuộc giải phong thân phận người phụ nữ mà bình thường ðôi khi cần cả một thế kỷ mới tranh ðấu ðược.
Tôi thiển nghĩ ðây cũng là một mặt tích cực nhất mà ít ai lưu tâm cho ðủ. Nó phá vỡ những tồn tích của phong kiến, xả hội làng xã ðóng kín sau lũy tre làng của xã hội miền bắc.
Làng miền Bắc là một ðơn vị kinh tế tự lập về mọi mặt từ sản xuất ðến tiêu dùng, tự cung, tự cấp với một số ngành nghề cơ bản như cầy cấy, ðánh cá, nuôi tằm, dệt vải, trồng trọt, chãn nuôi. Về ðịa lý, mỗi làng mỗi xã có lũy tre bao bọc, có cổng làng ðóng kín vào buổi tối không ai ra vào ðược. Trong mỗi nhà cũng có rào dậu, cửa ngõ, cửa ðóng then gài.
Về mặt xã hội là một tổ chức ổn ðịnh, ðã ðịnh hình và khép kín. Làng này không giống làng bên cạnh, có ngành nghề riêng biệt, cha truyền con nối. Chẳng hạn có làng Cốm Vòng,, gỏi Bằng, Tương Bần, Cá rô Ðầm Sét, Bún Mọc.
Người trong làng là nơi mà một ðứa trẻ sinh ra, lớn lên, ðược ðào tạo và nuôi dưỡng trong tinh thần xã thôn mà chúng trở thành máu mủ, ruột thịt.
Cho nên sự trừng phạt nặng nhất ðối với dân làng có thể là phải bỏ làng mà ði. Ra khỏi làng là rơi vào tình trạng tha phương cầu thực.
Cái lợi của làng là ổn ðịnh và trật tự, tính kế thừa truyền thống. Tuy nhiên cái hại của chế ðộ xã thôn là nạn cường hào ác bá, trên ðè dưới mà nạn nhân là thành phẩn nông dân nghèo khó hoặc ðàn bà con gái. Ðó là câu truyện Giông Tố của Vũ Trọng Phụng. Hay câu chuyện : Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn. Nằm vạ của Bùi Hiển. Chí Phèo của Nam Cao. Gần dây có câu chuyện của một nhà vãn miền Bắc nhan ðề :Mãnh ðất lắm người nhiều ma.
Về mặt vãn hóa thì miền Bắc ðược coi như cái nôi của vãn học mà tỷ lệ thi ðỗ thường cao nhất nước, nhất là 14 vùng chung quanh Hà Nội.
Chẳng hạn, ðàn bà chửa hoang ðôi khi phải cạo trọc ðầu, bôi vôi rồi ðành bỏ làng mà ði.
Nếu miền Bắc là cái nôi của vãn học thì miền Nam là miền ðất hứa. Nó hứa ðủ thứ. Nếu miền Bắc chỉ là những tiếng thở dài với nước mắt và mồ hôi thì miền Nam nó tạo ra một bản sắc cá biệt mà ta gọi sau này là Vãn minh miệt vườn.hay theo Sơn Nam gọi là Vãn minh Sông Rạch với nếp sống Hạ Bạc, một ðặc trưng của ðồng bằng sông Cửu Long.
Chữ nghĩa có thể không ðầy một cái lá me, nhưng biết trọng nghĩa, có khí phách của lớp người anh hùng hảo hớn. Tính nết thì cương trực, bảo có là có, bảo không là không, một chữ là một nghĩa, không quay quất, xiên sẹo.
Trên bước ðường lưu lạc của kẻ lưu dân,. Tình bạn là cao quý nhất cho nên ở ðâu có nhiều bạn thì quê hương ta ở ðó.
Hai nếp sống, hai nếp nghĩ Bắc Nam tạo ra những cú sốc vãn hóa, nhưng phần lợi là bổ túc cho nhau trong một liên hệ hỗ tương.
Nhưng theo tôi, kẻ hưởng ðược lợi nhất trong cuộc sống chung giữa Nam và Bắc lại chính là người phụ nữ miền Bắc..
Về mặt địa lý chính trị, trong Nam không có khung cảnh làng xã đóng kín- không có lủy tre phân định ranh giới từng đơn vị làng- Làng là một đơn vị mở mà trong mùa nước nó san phẳng địa lý ranh giới giữa làng này với làng kia.
Dân tình trong Nam phần đông là dân của miền đất mới, đến từ nhiều vùng.. Phong tục, tập quán, đạo lý có phần cởi mở
Hình như không mấy ai nhận ra điều này. Nhưng lại chính là sự thật. Từ nay, người phụ nữ miền Bắc không còn là một thứ vật cho người ta khinh miệt và xỉ vả.
Họ nay có thể trở thành ngang hàng với ðàn ông trong quan hệ vợ chồng, quan hệ gia ðình và quan hệ xã hội. Những tục tảo hôn không còn nữa. Chuyện cha mẹ ðặt ðâu, con ngồi ðó cũng dần dần không còn là một cưỡng bách trong hôn nhân.
Trước khi chấm dứt, người viết bài này lọc ra một số chữ miền Bắc mà nhiều chữ nay có dịp đọc lại cũng thấy hay
.Chữ nghĩa quả đúng là có cái thời của nó: Thời để sống và thời để chết nói ra như một luyến tiếc thời đã qua.
Những chữ tôi trích dẫn sau đây, nếu biêt dùng, đúng hoàn cảnh của nò cũng có giá trị thời sự và hiểu biết lắm. Để lảm phong phú tiếng Việt, chúng ta nên thu gom lại trong gia tài ngôn ngữ tiếng Việt.
Chẳng hạn những chữ như sau: Nó tẽn tò, sợ vãi ðái, nhịn như nhịn cơm sống. Mấy từ này lâu lâu gặp một bà Bắc kỳ ðặc dùng lại nghe cũng sướng cái lỗ tai. An uống vốn là lẽ sinh tồn của nguời dân Bắc nên ðược xử dụng tràn lan như : ãn phải ðũa, ãn cơm khoán, ãm cơm tứ chiếng, ãn chực, ãn ba vực như trong câu : ãn chẳng bao nhiêu, ãn vạ hay nằm vạ. Tuyền là thứ ðặc sản cả. Quý lắm ðấy. Thứ thiệt, thứ ròng chính hiệu con nai. Nào là bữa lưng bữa vực, rồi bà thổ ra, chả mấy khi, thế mà cấm khinh người, ông ta chúa pha trò, ông bỏ lỗi cho tôi, tôi nói khí không phải, khắc xong. Mấy từ này dùng ðến là ðắc ý. Nó ðứng một mình thì chả có gì ðáng nói, nhưng nó ðứng trong toàn cảnh một câu nói thì thật hay. Khí không phải vừa có vẻ nhún nhường, nhưng ðầy thách ðố và sẵn sàng ðối ðầu không thương nhượng. Này, lại tiếp một lô chữ nữa ghi lại kẻo quên : Con ðàn cháu ðống, ốm thập tử nhất sinh, cứ chõ mồm vào, le te chạy vào, bà ðã mà cả mà cập, rõ mồn một, việc lớn ta tính theo việc lớn, còn việc thỏn mỏn trong nhà tôi thu xếp khắc xong ( trích trong Những ðứa con trong gia ðình, Nguyễn Thi ) Về muộn mấy, vào chơi cái ðã nào, người chết như ngả rạ, quái nhỉ, quái nó ði ðâu, tối bức như lò than, người con gái trắng lôm lốp, ra sự rằng mình dỗi, giãy lên như ðỉa phải vôi, ngã lộn tùng phèo, lớn phổng phao, con ði ðằng này, ðằng này là ðằng nào, trả lời mà như không trả lời ( Không cho biết là ði ðâu, có ý dấu, có thể là nói dỗi) u hỏi làm gì những việc ấy, mặc con, không ðủ mặc thây, cái ðám ma cũng ðường trường lắm, con ðẻ rứt ruột ra còn thế, lời chửi rủa thì bao giờ cũng thừa bứa tứa tát, thở rít lên như tiếng bễ, gà gà mắt lên như người say thuốc lào, nhà cũng hoàn cảnh lắm ( Chữ này có thể là chỉ ðược dùng sau 54), khối anh, ông ðã diện oách, một tay bốc trời, nói khe khẽ, cô suýt bật cười, nào bác cả ra ðây, ðàn ông ðàn ang có biết gì ðâu, giặt giũ cơm nước chợ búa, trêu ngươi ai, cài toang xong ( ðóng cửa truồng trâu ), ngã xiểng liểng, nó khó bảo, ði ðong chịu, khi cần tiền vẫn giựt nóng, cái ngữ ðó, cái cơ ngơi, Nói ðến hơi hướng cái danh ông Dề, tao úp ðược con chó rồi, ði húi tóc, ra sự rằng mình dỗi, ði ở trọ, mẹ hờ con ( ru con, chữ cũng hay lắm ðấy chứ ) suốt ðêm, giã ðám, tuổi mụ, cầm bằng ông ta mà giận không che chở cho nhà ta ðể nhà binh Nhật xung công tất cả thì cứ xung công ( trích trong Cửa Biển của Nguyên Hồng ), nhưng nay mới tường mặt ( rõ mặt ), hàng bồ chuyện, bồ chữ, kíp thợ, ði ðóng ðáng,( Trích những ðứa con trong gia ðình, Nguyễn Thi ), xách ná thun ði bắn nó, làng vào ðám, thổi mòi rơm, trâu làng tôi mót ðâu ỉa ðó, chú Lựu quẩy hai gánh ði mót cứt trâu trên ðường. Hai chữ mót dùng trong một câu mang hai nghĩa khác nhau. ( Chuyện ở tỉnh lỵ của Vũ thư Hiên). Châm ðóm, thông ðiếu, xe ðíếu, nõ ðiếu, quán ðỏ ðèn suốt sáng,bắt rận, bắt chấy, cứ bỏ rẻ, ra ao tắm, ta nhắm vài miếng, mâm cỗ, bà ấy hay ốm lửng ( Giả vờ ốm ), chẳng biết ðâu mà lần, bật hồng là gì nào, ðốt ðuốc ðấy, tôi chạy ù xuống bếp, chú nghiêng ðầu dòm ông , có như vậy, nhược bằng không, gì chứ cái ấy không ðược, cô Gái là người vắt mảnh sành ra nước, nhưng cái khoản rượu bao giờ cũng biện ðủ, tháng chạp còn gọi là tháng củ mật ( tháng trộm cướp như rươi ), phóng * bút chì *. Không phải cái bút chì ðể viết ðâu( dùng cái mai buộc vào một sợi thừng dài dùng ðể phóng vào ðối thủ), có ãn phải có trả, sợ cô quở, ði biệt tãm tích, mời ông xơi, con mắt cùi nhãn, chơi ðánh chắt, những chùm quả lúc lỉu trên cành, chơi ðố lá, ðời thủa nhà ai, nhựa sung ðược dùng vào vô khối việc, sạch như ly như lau, mời ông ðưa cay, những ngày rau lụi ( hiếm rau), tôm he giã lấy nước ðánh lòng ðỏ trứng gà giả làm yến ( Trích Thời xa vắng, Lê Lựu ), lại gắp vài miếng , từng rủa không thiếu một lời, giỗ sống rồi, nói không ngoa, ðược mấy nả, không có cái chân ðảng trong làng, ông ðứng chân chủ họ, ông Phúc ðã ðánh trúng huyệt, trong việc làng, phần ðầu gà má lợn , hôn nhân ðiền thổ, vạn cố chi thù, ðã có người lân la hỏi chuyện gia cảnh, thế là cạch không ai dám hỏi, cạch ðến già, có những tiếng thật hay như : có tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt ra, thế mới biết sông có khúc, người có lúc, trống ðánh ðến hỏng dùi, ðã trót phải chét, tôi ðã trót ðẻ ra ông, chữ trót ði liền với ðẻ ra ông mới diễn tả ðược nỗi thất vọng như thế nào của ông bố ( Tả trong một trận ðấu tố), rửa qua quít, rán cá, thịt nạc kho rim, ãn uống húp háp xì xoạp, chửa xong, ðánh chén, cơm ðèn, cơm ðóm, cơm sáng trãng, có khi ãn cơm khan chỉ chan nước mưa, nước vối, ðộng thớt, hễ bên ðó ðụng ðũa, ðộng bát là biết ngay, muốn ãn thì lãn vào bếp, lên ãn boóng ðược nhiều bữa nhờn môi . Thật hay. ãn giả miệng, không dè, cái ðói giáp hạt, nấu cháo ðộn rau tập tàng, không dư dật, mấy ông uống nước cả cặn, ãn tợm lắm, con tì con vị ðược ðánh thức, cứ nhao nhao lên như chào mào ãn dom, con nào cũng lành chanh, lành chói, mồm nãm miệng mười, Biện là tên cúng cơm , chỉ có hai bữa cơm ðèn, làm ãn giật gấu vá vai, nó vác rá ðến xin ãn trước cũng túng, bóc ngắn cắn dài,rách như tổ ðĩa, người từ dưới xuôi, người trên mạn ngược, ãn hại ðái nát, họ lùa ra sân, lùa bát cơm vào mồm. Hai chữ lùa ðều có nghĩa khác nhau. Khóc như mưa như gió, sắc như tiếng dao cạo vào tinh nứa, nghe ðến ghê cả mình.
Có chữ nghe ðến lạ: dù có mùa ðông rét chết chim, hay * máu gái ðẻ * nó bất thường lắm hay vợ dậy lau lưỡi (lần ðầu tiên người viết thấy dùng như vậy ) và si con ðái (cũng ðắt lắm ) phải lai (ðèo sau xe ) vợ ðến sở, anh của Tuyên ðã ðánh xe ði ðón, những cái hắn sợ là hão cả, thế nào là mềm nắn rắn buông, ngồi chắp chân bằng tròn, chỉ nhớ ang áng, người ðã thất cơ lỡ vận, thì ra già néo ðứt giây, những thằng tứ cố vô thân giết ði thì dễ, anh bứa lắm, mỡ gầu lực xực, không chanh cốm, một thời ðã xa lắc xa lơ, con có nói gian thì trời chu ðất diệt, chúng cháu không dám chắc lép, nhưng quả là ít vốn, Bá Tứ ngồi rười rượi nhảy xuống trẫm mình, anh với Châu cọc cạch (ðộc thân,ám chỉ như ế vợ ) quá, bà bón cơm cho cháu, bà ãn cả thể nhá, sao im ắp ðến thế, cái máy ảnh cà khổ, xin dành cho chị tất, cái ô tô phanh ðến két một cái, bộ dui mè, có gì không nên không phải bảo nhau, sợ thọt dái lên cổ, thôi ta ãn khan một cái, thế hệ chém to kho nhừ ( lấy ãn no làm vui rồi )ụ, có ông chồng hâm, chị vẫn gọn gàng như người son rỗi, gạo vừa ðỏ vừa dớn, dáng chừng chị cả mấy lần nhấp nhỏm ðịnh nói, cái cạp sổ ruột, quanh nãm hết dật tạm lại vay nóng, làm lắm thì chầy vẩy ra chứ ãn thua gì, những thứ ấy chẳng kiếm ðược mấy nả tiền, bác Tú Mỡ ngày ngày chãm chút lau xe ðạp rồi buộc thừng treo lên, ngồi xuống chiếu, xếp bằng tròn, không ðể bánh xe chịn ðất, quay ði quay lại, làm chân ðiếu ðóm.
Quả thực chữ nghĩa nó phiền hà thật!!!
Viết bài nghiên cứu này, chúng tôi chỉ mong người Việt học cái hay của mỗi miền, tìm ðọc ðể làm giàu cho vãn học miền Nam.
Bài viết này mở ðầu cho cuốn sách vãn học miền Nam của tác giả sắp xuất bản.
© Nguyễn Văn Lục
© Đàn Chim Việt
—————————————————–
Chú thích:
(1) 50 năm Bắc Kỳ di cư, 1954-2004
(2) Trong từ điển Từ Việt cổ, nhà xuất bản văn hóa thông tin, Hànội 2001 các tác gia Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện cũng đã thu tập được gần một ngàn chữ cổ như các chữ vừa nêu trên..
(3) Trong lời mở đầu báo Nam Kỳ địa phận, số đầu tiên, năm 1907 có những câu như sau:
” Bổn báo kỉnh cáo, tòa báo đã ước ao cho con nhà Annam, đua nhau tấn tài, tấn đức, thông phần đạo, ngoan việc đờ. Tờ báo có ý khai đàng văn minh cho nhân dân đặng tấn phát cho mọi bề, việc đạo việc đời đều thông thuộc.”
Xin trích dẫn một đọan khác :
” Lời rao cần kíp. Bổn báo gửi cho mỗi người hai số nhựt trình đầu hết mà xem thử, như ai bằng lòng mua thì đem ba đồng bạc đến mượn cha Sở mua dùm..”
Trong một trả lời bạn đọc, chúng ta nghe thử lời rao sau đây :” Bổn báo có nhận được một mandat của một ông nào đó không đề tên, không đề địa chỉ, nhưng yêu cầu gửi báo .”
Tức cười thật. Nhưng 25 năm sau, trong tờ L!Impartial viết vào ngày 20-11-1929, ta thấy lối viết đã nhẹ nhàng thông thoát hơn :
” Sự giải phóng người Annam về phương diện thương mại và kỹ thuật chỉ là một huyền thoại.”
Xin trích dẫn một đọan khác :
” Lời rao cần kíp. Bổn báo gửi cho mỗi người hai số nhựt trình đầu hết mà xem thử, như ai bằng lòng mua thì đem ba đồng bạc đến mượn cha Sở mua dùm..”
Trong một trả lời bạn đọc, chúng ta nghe thử lời rao sau đây :” Bổn báo có nhận được một mandat của một ông nào đó không đề tên, không đề địa chỉ, nhưng yêu cầu gửi báo .”
Tức cười thật. Nhưng 25 năm sau, trong tờ L!Impartial viết vào ngày 20-11-1929, ta thấy lối viết đã nhẹ nhàng thông thoát hơn :
” Sự giải phóng người Annam về phương diện thương mại và kỹ thuật chỉ là một huyền thoại.”
(4), (5): Lê Văn Lý, Le Parler Viet namien và Sơ thảo ngữ Pháp Việt Nam, Trung tâm học liệu Bộ Giáo dục, 1968
(6): Rất tiếc, nhà văn Toan Ánh đã né tránh vấn đề chửi tục của miền Bắc.
(7) Tùy theo trường hợp, còn những chữ diếc móc tuỳ thuộc cấp độ nặng nhẹ tùy thuộc rất nhiều vào tình huống, vào giọng nói, và nhất là vào người nói. Có những điều rơi vào miệng người này nó nặng trở thành chết người, nặng như búa bổ. Nhưng ở người khác thì lại chấp nhận được. Chắc là nhiều người đã có kinh nghiệm mấy bà mệnh phụ gốc Bắc, chỉ cần bà khen chê, kéo lê cái giọng thưỡn thẹo mà người viết ở đây đành chịu không cách chi mô tả cho đúng được. Cứ thử rồi biết. Chẳng hạn : ăn phải đũa nhà người ta, đồ ăn bám, thứ đó được mấy nả, theo voi ăn bã mía, có khối nó chịu nhả cho đấy, đồ đi bòn của, đồ tha phương cầu thực. Cho ăn uống ở nhờ đến lúc canh không lành cơm không ngọt thì rủa : ăn mòn đũa mòn bát nhà người ta, ăn chậm như sên, bà ấy nói như móc họng đến gần phải mửa cơm ra mà trả lại, thôi thì cũng phải vắt mũi đút miệng, được bữa hôm lo bữa mai. Tất cả những lối diếc móc, nói bóng nói gió chẳng hiểu bằng cách nào chúng biến mất. Người viết cũng không hiểu tại sao nữa.
(8). Con đĩa giẫy trở thành ý niệm cứ quýnh cả lên. Và cứ như thế có những chữ khác cũng theo quy trình đồ vật – ý niệm như: đồ nỡm, thằng nỡm, đồ giở quẻ, chạy như chó dái, nó cứ trêu ngươi, dấu như mèo dấu cứt, cứ ngồi chầu hẩu ra đó, tưởng kín bưng kỳ tình ai cũng biết, nói chua như dấm, chua lòm lòm, nói không đâu vào đâu, không có đầu cua tai nheo gì, thằng đó ba lăng nhăng, chẳng đâu vào mới đâu, làm gì cũng lau cha lau chau, đồ láu cá láu tôm, cứ lững tha lững thững, đứa nhãi ranh, vênh vênh váo váo. Chữ theo voi ăn bã mía gợi lên một văn ảnh rõ rệt : theo đuôi chỉ ăn đồ thừa, đuôi thẹo. Các chữ như : chỉ đâm ba chầy củ, đồ láu cá láu tôm, vênh vênh ngậu xị lên, đồ cám hấp, ngu như lợn, đồ miệng năm miệng mười, đồ dở hơi, quá thể lắm, đồ phải gió ở đâu, chuyên môn nói kháy, nói leo, cái giống nhà mày, thứ đó được mấy nả, trốn như trạch, đồ thông manh, đồ ông mãnh, đồ đi bòn của.
(9) Những lời nguyền rủa cũng lấy nữ giới làm đối tượng, mà đặc biệt do chính đàn bà rủa đàn bà. Quan niệm trọng Nam, khinh nữ của thời phong kiến tồn tích lại đẩy xô thân phận phụ nữ thành một phụ phẩm thấp kém, hèn hạ dựa trên những thói đời bất công, dựa trên nền đức lý hủ lậu giả hình, man trá đẩy họ xuống đất bùn
SƠN TRUNG * XÚI TRẺ ĂN CỨT GÀ
XÚI TRẺ ĂN CỨT GÀ
SƠN TRUNGTriết gia Trần Đức Thảo chê ông Hồ ba điểm: theo Marx, theo Mao và thích chiến tranh. Con khỉ đi xe đạp thì ai cũng thích thú vì khỉ không bao giờ xe đạp.
Không ai ngạc nhiên khi nghe chó sủa gâu gâu, mèo kêu meo meo vì cái đó thuộc bản tính của nó rồi, không thể khác được. Cái quan trọng của triết gia cũng như người thường là phải nhận định đúng sự vật. Không thể bảo con cọp là con cừu. Người ta ngạc nhiên khi thấy cừu ăn thịt người chứ không bực bội khi thấy cọp ăn thịt người.
Ông Hồ theo Marx cũng như ông thôi. Ông theo Marx đến khùng điên, cuối đời mới giác ngộ thì trách chi ông Hồ. Chính ông cũng nuốt cục cứt gà của Marx mà cứ khen thơm ngon, cho đến gần cuối đời mới thấy nó hôi thối, buồn nôn cho nên cuộc đời ông mới tang thương như thế. Nếu ông đừng cho mình tài giỏi, khinh mọi người, ngay cả cha mẹ ông là ngu dốt, là bán nước, là bóc lột, là tay sai đế quốc, cứ an phận nghiên cứu ở Pháp sống đời bình thường thì đâu đến nỗi! Ông tham mồi, vì khờ dại nên đã ngậm phải cục cứt gà của Marx, của Hồ! Theo Marx tất phải theo Mao vì trong thế giới cộng sản, Marx, Lenin, Stalin, Mao đều là những lãnh tụ vĩ đại, con phải vâng lời cha mẹ, trách chi ông Hồ quỳ lạy Marx, Mao?
Nếu ông đọc điều lệ Đệ tam quốc tế thì ông biết tổ chức này là triều đình của Đế quốc cộng sản, do Nga đứng đầu mà vị Đại đế là Stalin. Các đảng cộng sản các nước chỉ là hội viên. Tất cả phải theo nguyên tắc dân chủ tập trung nghĩa là mọi hội viên không có quyền dân chủ, cái quyền dân chủ đó đã tập trung trong tay lãnh tụ. Có hội viên lớn, hội viên bé. Hội viên bé như Việt Nam thì chỉ khoanh tay cúi đầu, vâng dạ. Thành thử khi ông Hồ và Việt Cộng gia nhập Comintern thì trở thành nô lệ Nga,Tàu. Ông Hồ tôn thờ Lenin, Stalin và Mao là chuyện đương nhiên như mèo ăn thịt chuột, chim kên kên rỉa xác chết, có gì đâu mà ông buồn?
Nếu ông đọc điều lệ Đệ tam quốc tế thì ông biết tổ chức này là triều đình của Đế quốc cộng sản, do Nga đứng đầu mà vị Đại đế là Stalin. Các đảng cộng sản các nước chỉ là hội viên. Tất cả phải theo nguyên tắc dân chủ tập trung nghĩa là mọi hội viên không có quyền dân chủ, cái quyền dân chủ đó đã tập trung trong tay lãnh tụ. Có hội viên lớn, hội viên bé. Hội viên bé như Việt Nam thì chỉ khoanh tay cúi đầu, vâng dạ. Thành thử khi ông Hồ và Việt Cộng gia nhập Comintern thì trở thành nô lệ Nga,Tàu. Ông Hồ tôn thờ Lenin, Stalin và Mao là chuyện đương nhiên như mèo ăn thịt chuột, chim kên kên rỉa xác chết, có gì đâu mà ông buồn?
Đã theo Marx, theo Mao tất phải theo đuổi chiến tranh, hết gây loạn trong nước thì làm nhiệm vụ quốc tế xuất cảng chiến tranh sang nước nọ nước kia. Trong Tuyên ngôn Cộng sản, cũng như qua nhiều bài viết của Lenin, ta thấy các lãnh tụ đã kêu gọi giết giai cấp tư sản khắp thế giới. Trotsky chủ trưong cách mạng thường trực. Vậy thì ông trách chi ông Hồ, Trường Chinh, Lê Duẩn hiếu chiến.
Cộng sản sống nhờ chiến tranh như bọ hung sống nhờ phân trâu bò. Không chiến tranh thì không xuất cảng cách mạng, không bành trướng thế lực. Phải dùng cứt gà đấu tranh giai cấp, xóa bỏ bóc lột, giải phóng giai cấp thì dân nghèo mới ủng hộ cộng sản! Không những người nghèo mà người trí thức, con nhà giàu sang cũng chạy theo cộng sản ầm ầm. Nghệ thuật marketing của Marx siêu việt là ở chỗ đó.
Lúc đó Trần Đức Thảo không biết tin ông Hồ là Hồ Tập Chương, người Đài Loan, gián điệp của Trung Cộng cài vào trong đảng Cộng sản Việt Nam để biến Việt Nam thành thuộc địa của Trung Cộng. Nếu ông biết, tất ông không phê phán ông Hồ sùng bái Mao!
Ông Hồ sang Moskva nhận lệnh về lập ra CCRD để giết người cướp của. Ông hứa hẹn sẽ chia ruộng đất cho dân nghèo, nhưng chia ruộng được vài tháng thì ông thu lại, bắt dân vào HTX, nghĩa là bắt toàn dân làm nô lệ. Khi dân vào HTX, ông đưa một số máy cày và tuyên bố từ đây nông dân thoát kiếp trâu cày, nhưng được it lâu, ông thu hồi máy cày. Dân chúng phải làm nô lệ cho cộng sản trong các HTX với lương thực chết đói. Ôi vì ăn mấy cục cứt gà của Cộng sản mà nhân dân ta suốt đời bị tước đoạt cơm áo, nhà cửa, ruộng đất và tự do, dân chủ.
Lúc này Khrushchev hạ bệ Stalin, ông Hồ sợ bọn thủ hạ cũng theo Khrushchev mà lật đổ ông. Ông ngại nhất là Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp. ông phải lập kế sửa sai, đổ tội cho Trường Chinh, lột áo mão Trường Chinh.
Tiếp theo, ông cho Võ Nguyên Giáp ăn cứt gà. Ông kêu Võ Nguyên Giáp vào giúp ông việc đảng và thay ông xin lỗi đồng bào. Võ Nguyên Giáp mứng húm vì tưởng ông ta sẽ được ông Hồ yêu quý giao chức Tổng bí thư, nhưng trong CCRD và Chỉnh Đốn đảng, một số chân tay của Võ Nguyên Giáp bị đốn, Võ Nguyên Giáp trở thành tướng không quân. Màn chót, ông kêu Lê Duẩn trong Nam ra làm Tổng Bí thư, Lê Duẩn thay ông đạp Võ Nguyên Giáp xuống đất đen! Kết quả một đời ăn cứt gà, Võ Nguyên Giáp có hồ hởi phấn khởi không ?
Sau khi chiếm lục địa, Mao khinh Mỹ cọp giấy, sao Mao không thừa thắng xông lên giải phóng Đài Loan, Hongkong, Thượng Hải và Macau để tiêu diệt tư bản và rửa quốc nhục mà lại xúi Việt Cộng đánh Pháp, đuổi Mỹ ? Đó là trò xúi trẻ ăn cứt gà để Việt Cộng phá nước, giết dân làm cho Trung Cộng dễ dàng xâm chiếm Việt Nam như hiện nay ta đã thấy!
Việt Cộng trước đây có hai hậu phương lớn là Nga Hoa. Sau 1949, Mao chiếm lục địa, cái hậu phương của Việt Cộng càng vững vàng lớn mạnh. Mao bảo nị tả đi ngộ sẽ giúp vũ khí, binh lính tiền bạc. Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm văn Đồng mừng húm , mở rộng biên giới đón hàng và quân Trung Cộng. Trung Cộng đưa hàng hóa, vũ khí, lương thực, quân đội qua biên giới, doanh trại hàng hàng lớp lớp đóng trong đất Việt Nam, và cấm người Việt lai vãng! Bọn Việt Cộng lớn bé được Mao cho ăn cứt gà lấy làm hồ hởi phấn khởi.
Vũ Thư Hiên viết tâm trạng Việt cộng lúc đó : Ngay lập tức sau khi biên giới hai nước được nối liền, người anh em cộng sản phương Bắc đã viện trợ cho nước Việt Nam kháng chiến đủ thứ - lương thực, vũ khí, quân dụng. Cùng với các thứ hàng hóa thiết yếu, đời sống tinh thần của chúng tôi phong phú hẳn lên với những điệu Ương ca tưng bừng, những buổi chiếu bóng lưu động ngoài trời với những bộ phim hấp dẫn : Bạch Mao Nữ, Nam Chinh Bắc Chiến, Chiến Sĩ Gang Thép...Chúng tôi được phát bát men, ca men thay cho cái gáo dừa khổ hạnh của nhà chùa. Trên ngực chúng tôi chói sáng huy hiệu Mao chủ tịch (Chương 9)
Nhưng tất cả chỉ là trò xúi trẻ ăn cứt gà, vì việc viện trợ này Trung Cộng ngang nhiên chiếm một phần đất biên giới mà bọn Việt Cộng không thể mở mồm phản đối. Vũ Thư Hiên là người đầu tiên tố cáo Trung Cộng chiếm đất Việt Nam. Hùynh Tâm cũng cho biết sau cuộc viện trợ đầu tiên mở mản cho chiến dịch biên giới 1953, và sau Điện Biên Phủ , Việt Nam mất hết đất đai.
Trong nhân dân loan truyền nhiều tin đồn về việc quân Trung Quốc lập nhiều kho vũ khí bí mật trong các hang động ở miền núi. Ðể làm gì khi vũ khí trực chiến có thể để trong các lán gần các vị trí chiến đấu ? Những vùng đóng quân của Trung Quốc chiếm diện tích rộng hơn mức cần thiết để làm gì ? Tại vùng mỏ Quảng Ninh quân Trung Quốc ngang nhiên bắt giữ các chuyên gia địa chất Liên Xô đi lạc vào vùng đóng quân của họ. Chỉ đến khi chính quyền Việt Nam can thiệp tích cực những chuyên gia này mới được thả. Trở về Hà Nội họ nói thẳng với thủ tướng Phạm Văn Ðồng : "Nếu đến Việt Nam công tác công dân Liên Xô phải xin visa(6) của Trung Quốc thì xin các đồng chí báo trước để về sau những việc tương tự không xảy ra nữa"... Việc Ðảng cộng sản Việt Nam mời quân đội Trung Quốc vào nước mình là chuyện mọi người đều biết. Sở dĩ tôi phải nói cho chính xác "Ðảng cộng sản Việt Nam mời" vì sự kiện quân đội Trung Quốc có mặt ở miền Bắc Việt Nam trước nay được hiểu như do Nhà nước Việt Nam mời vào. Thực sự không hề có một văn bản Nhà nước nào xác nhận vụ đó, cho dù Nhà nước Việt Nam trước nay vẫn là tay sai của Ðảng. Thỉnh thoảng Việt Nam Thông tấn xã lại phải ra một tuyên bố cải chính các nguồn tin nước ngoài về sự hiện diện của quân đội Trung Quốc tại Việt Nam.Trong công việc viết báo tôi thường có mặt ở những địa phương có quân Trung Quốc đóng(7), được nghe nhiều lời phàn nàn về chuyện Ðảng và Nhà nước để quân Trung Quốc vào. Người ta tin cậy hỏi tôi như hỏi một cán bộ hiểu biết, hi vọng tôi giải đáp cho họ câu hỏi nhức nhối đó. Khốn nạn, tôi có thể nói được gì cho họ trong khi chính tôi cũng không hiểu nổi những quyết định tự quyền của Duẩn-Thọ(8), mà theo chúng tôi, chỉ có những thằng điên mới hành động như thế (Ch.19)
Trong các tập Hồi Ký, các tướng Trung Cộng như Trần Canh, Vy Quốc Thanh, Lã Quý Ba đều nói rằng Trung Cộng viện trợ cho không Việt Nam, Mao cũng nói thế nhưng sự thực mọi thứ đều có giá cả. Cái giá để nhận viện trợ Trung Cộng là biên cương, biển đảo và tiền nợ. Bên cạnh mục đich xâm lăng, Mao Trạch Đông là hậu thân của Tần Thủy Hoàng tàn ác, của Lã Bất Vy lưu manh, coi chiến tranh là cơ hội buôn bán, biến Việt Nam thành thị trường, và con nợ của Trung Quốc. Mao Trạch Đông đã từng tuyên bố: "Việt Nam là một thị trường tốt, nay ta viện trợ đầu tư vào hàng hóa cho mai sau, đó chẳng qua trung giới trao đổi
越南是一个很好的市场,这帮助我们投资于大宗商品的未来,而不是介导的交流过去".( HUỲNH TÂM * GIẶC HÁN ĐỐT PHÁ NHÀ NAM III)
Vì tham danh vọng, vì bổn phận nô lệ, bọn Việt Cộng đã nuốt cục cứt gà của Trung Quốc, đã cúi đầu ký các văn tự bán nuớc, nhượng đất biển và vay nợ cao ngất, không biết đời nào nhân dân ta trả hết nợ.
Ngoài ra có những văn kiện nhượng đất đai, hoặc âm thầm nhượng đất.
-Hồ vay nợ chiến tranh cao ngất trời, phải nhượng những phấn đất cho Trung Quốc với tổng số trên 14 làng xã từ Tây Bắc qua Đông Bắc. Trung Quốc rất hài lòng với phương cách trả nợ của người vay nợ, đổ quân ào ạt vào Việt Nam, theo công bố tháng 11 năm 1968 của nhà nước Trung Quốc.
-Năm 1962, căn cứ biên phòng Bách Sắc chính thức được Mao Trạch Đông và nhà nước Trung Quốc (PLA) chấp nhận nâng cấp thành Trung tâm huấn luyện quân sự Bách Sắc, viện binh cho Hồ Chí Minh, có khả năng chứa 1 triệu tân binh, quân Trường hoạt động tuyệt mật, dưới một hình thức khu phi quân sự, hầu cách ly người dân địa phương, đến năm 1965 quân trường trở thành lò đào tạo tình báo, quân báo, biệt kích gồm tân binh người Hán và người Việt. Chính lúc này nhiều trung tâm huấn luyện, và các kho tàng viện trợ được xây cất tại biên giới cấm dân Việt Nam lui tới, thế là những đất này thuộc Trung Quốc.
- Ngày 16/1/1950, Hồ Chí Minh bí mật đến xã Bản Lợi, huyện Sùng Thiên biên giới Việt Nam, sau đó sang thăm Trung Quốc Năm 1941 huyện Sùng Thiên nơi đây đổi thành huyện Sùng Tà thuộc lãnh thổ Quảng Tây, Trung Quốc. Cho thấy từ lúc Hồ Chí Minh xuất hiện, và trước sau chỉ 2 năm, huyện Sùng Thiên biến mất trên bản đồ Việt Nam
-Hồ Chí Minh dâng đảo Bạch Long Vĩ cho Mao. Trung Quốc đã chi cho chiến tranh Việt Nam hơn 20 tỷ USD, tương đương khoảng 5.000 nghìn tỷ đồng nhân dân tệ, với thời giá năm 1978. Theo thống kê, kế toán của Trung Quốc, vật tư chi tiêu quân sự đã trực tiếp chuyển vào Việt Nam, tổng cộng hơn 20 tỷ USD, theo kế toán hiện có khoảng 5 nghìn tỷ nhân dân tệ. Tháng 2 năm 1963, Trung Quốc táo bạo vừa giả danh, vừa bí mật "bàn giao" cho Hồ Chí Minh một góc đảo Bạch Long Vĩ (白龙) thuộc vùng đảo Bạch Long Vĩ trong Vịnh Bắc Bộ để làm điểm trung chuyển, cung cấp hàng hóa và viện trợ quân sự cho Việt Nam. Thực chất Trung Quốc không chỉ đã cướp lãnh hải của Việt Nam, mà còn dùng Bạch Long Vĩ làm bàn đạp trong tương lai hứa hẹn động thủ chiếm miền Bắc của Việt Nam!
Âm mưu thâm độc của Trung Quốc đã có Hồ Chí Minh hổ trợ sau lưng : năm 1945 là giai đoạn đầu cướp chính quyền, bước kế tiếp, chiếm vùng đảo Vịnh Bắc Bộ, và làng xã biên giới. Lúc đó Trung Quốc đã lấy quyết định cướp cả vùng Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam, nếu người Việt Nam phản ứng sẽ có Hồ uy hiếp bằng nhiều thủ thuật. Trung Quốc không bận tâm về mặt này. Đầu tháng 4 năm 1957, chính phủ Trung Quốc gửi cho Hồ Chí Minh một văn thư kế hoạch nhượng đảo, Hồ đồng ý, ký vào với điều kiện bí mật. Lần đầu tiên, thỏa thuận nhượng (bán) đảo Họa Mi, đảo Bạch Long Vĩ được hoàn tất. Bắc Kinh vui mừng, Mao Trạch Đông hớn hở tuyên bố:
‒ Tôi nhận định tình hình Việt Nam đã khởi đầu sụp đổ, chúng ta đa tạ Chủ tịch đảng Cộng sản Việt Nam của Hồ. Tôi đã tiếp nhận được tin mới từ bạn Hồ sẽ cho một phái đoàn chính phủ và phái bộ quân sự Việt Nam đến Bắc Kinh, trao Công hàm dâng hiến những vùng đảo trong Vịnh Bắc Bộ và biển Đông để đổi lấy vũ khí, trong nội dung này có nhấn mạnh chủ quyền biển của Việt Nam, (chỉ có) 12 hải lý. Chỉ dấu, tương lai phần biển Đông còn lại của ta.
Cần nói thêm để làm sáng tỏ vấn đề. Trong bản Bạch Thư tố cáo Việt Nam, Trung Quốc kể công là đã giúp Việt Nam trong 30 năm qua một số nợ là 20 tỷ Mỹ kim, đã gửi sang Việt Nam từ tháng 1- 1965 dến tháng 3-1968 hơn 320,000 binh sĩ , có khi lên đến 175,000 binh sĩ mỗi năm bao gồm lính phòng không, công binh, tiếp vận (LES RELATIONS SINO-VIETNAMIENNES DU TEMPS DE LA RESISTANCE VIETNAMIENNE CONTRE LE COLONIALISME FRANÇAIS ET CONTRE L'AGRESSION AMERICAINE- TÀI LIỆU VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM -TRUNG QUỐC )
Khi Trung Quốc đem dàn khoan HD 981 đến hải phận Việt Nam, Đài phát thanh Trung Quốc lên tiếng yêu cầu Việt Nam xác nhận công hàm Phạm Văn Đồng công nhận Trường Sa, Hoàng Sa là của Trung Quốc. Họ yêu cầu hải quân Việt Nam phải rút lui khỏi khu vực dàn khoan, và họ cũng nói cho Việt Nam biết Việt Nam hiện mắc nợ 870,000 tỷ Mỹ kim
Tổng kết chiến tranh Việt Nam, Wikipedia cho biết Việt Nam thiệt mạng từ 800,000 đến 3 triệu người. Chủ nghĩa Marx, Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam quả đã phạm tội diệt chủng, làm cho nhân dân Việt Nam khốn khổ và đất nước Việt Nam suy vong.
Kết quả cục cứt gà ngày xưa bé tí nay đã thành cục ung thư lớn lên gấp vạn, gấp triệu lần, cái bụng tật nguyền của dân Việt Nam phải chịu đựng bao lâu để giải phẩu nó đi?