Tuesday, November 22, 2016

NGUYỄN TUYẾT LỘC. * KỶ NIỆM ĐẠI HỌC HUẾ* VIỆT CỘNG * KINH TẾ * LÃO HỦ


Tuesday, July 7, 2015
NGUYỄN TUYẾT LỘC. * KỶ NIỆM ĐẠI HỌC HUẾ
NGUYỄN TUYẾT LỘC - 2 Lê Lợi (Huế) – địa chỉ khó quên!
(05/07/2015 03:16 PM) (Xem: 614)
Tác giả : Nguyễn Tuyết Lộc

Những tháng ngày đẹp nhất và có ý nghĩa nhất với tôi, không phải thời thơ ấu chỉ nghe và thấy cảnh chết chóc lúc cuộc chiến Việt – Pháp đang cao trào khi theo ba là bác sĩ chuyển nhiệm sở từ Huế ra Đồng Hới – Quảng Bình. Cũng không hẳn một thời tuổi dại chỉ biết nô đùa vui chơi ở 23 Âm Hồn cạnh Tòa Thượng Thẩm – Thành Nội Huế. Cũng không phải thời gian sống trong ngôi biệt thự xinh xắn 6 & 8 Lê Đình Dương sát bờ hữu ngạn sông Hương cùng ba mẹ kính yêu cưng chiều con gái như công chúa út. Chính ở đây, trong căn hộ hơn một trăm mét vuông, rất ấm cúng, đầy tình thương yêu của gia đình anh chị tôi – tiến sĩ vật lý Nguyễn Văn Thạch và tiến sĩ hóa Đào Ngọc Bích – thuộc cư xá Giáo sư Đại học, số 2 Lê Lợi sát cầu Ga, tôi nhận được phúc lợi lớn nhất của đời mình là việc được tiếp xúc, học hỏi một thế hệ trí thức tài năng, nhiệt huyết, vào một độ tuổi còn rất trẻ.
Khi vợ chồng anh chị Thạch từ Pháp về được mời giảng dạy Đại học Khoa học Huế cũng là lúc Cư xá Giáo sư vừa hoàn tất. Mỗi building gồm ba tầng. Đến ở đầu tiên là gia đình anh Thạch, tầng ba. Lần lượt anh Đỗ Long Vân giáo sư văn chương Pháp cùng vợ và hai con, một trai, một gái, tầng trệt. Người trẻ tuổi nhất ở tầng giữa là anh Trần Văn Toàn, giáo sư khoa triết. Building gắn kết đối diện cửa nhà anh Thạch là căn hộ dành cho một vị giáo sư thỉnh giảng từ Pháp, ông Pierre Đỗ Đình. Ông lớn tuổi nhất trong các vị ở đây, là người lịch duyệt, quý phái từ cách ăn mặc rất “chic”đến cách cư xử đằm thắm từ tốn với mọi người chung quanh. Du học nước ngoài từ nhỏ nên ông nói tiếng Việt không thông thạo lắm. Ông không vợ con, chỉ nhận một cháu trai về nuôi, khoảng bằng tuổi Tịnh, em trai út của tôi, độ mười hay mười hai tuổi. Tịnh rất vui vì có bạn trò chuyện vui chơi mỗi khi đi học về, lại cùng học tiếng Pháp khi ông Đỗ Đình dạy cho cháu. Tôi cũng qua nhà ông để tập nói tiếng Pháp. Ông đưa mẹ từ quê lên ở chung. Ông nói bố mất sớm, mẹ nuôi ăn học, gần nửa đời người ở nước ngoài không được gần mẹ, ông muốn thời gian còn lại dành cho mẹ. Bà cụ già yếu nằm một chỗ tuy có người giúp việc nhưng chính tay ông Đỗ Đình đút cơm cháo cho cụ. Ai cũng biết lòng hiếu thảo của ông đối với mẹ nên họ quý ông lắm. Ông về Việt Nam vừa giảng dạy bộ môn Pháp văn vừa để chăm sóc mẹ già. Nhưng thật không may, sau này ông lại là người phải ra đi trước.
Tầng giữa đối diện nhà anh Toàn dành cho anh Phan Văn Thiết dạy luật, có vợ người Pháp trẻ, xinh đẹp và hai con. Lúc mới bước chân vào cư xá trông cô rạng rỡ, yêu kiều ai cũng thích nhìn. Chiều nào dạy xong anh Thiết cũng dành thời gian dẫn vợ con đi dạo dọc theo Lê Lợi. Hai vợ chồng nắm tay nhau, hai đứa trẻ tung tăng trông rất hạnh phúc. Nhưng về sau anh Thiết bỗng dở chứng hay đánh vợ. Có lần anh nắm áo cô, tống đầu cô vào tường, đau quá cô chạy ra hành lang ngồi bệt xuống đất ôm mặt khóc, anh kéo cô vào nhà đánh đập như đang lên cơn điên. Anh Thạch và anh Toàn phải tông cửa vào kéo anh Thiết ra. Cô vợ người Pháp chịu đựng những cơn nóng giận của chồng không bao giờ to tiếng cãi lại, trông cô ngày càng gầy xơ xác, mọi người nói với nhau: “Sao cô ấy không ly dị đem con về nước, chồng Việt Nam hay vũ phu vậy lắm”. Cho đến khi anh Thiết đột ngột nhập viện, mọi người mới biết anh bị ung thư phổi. Người ta đoán rằng những cơn đau đớn hành hạ thân xác biến anh Thiết từ một giáo sư lịch sự, thương yêu vợ con thành một người vũ phu. Cô chăm sóc chồng cho đến khi anh Thiết mất mới đưa hai con về lại Pháp. Hình ảnh đẹp đẽ rỡ ràng của vợ chồng anh Thiết với đoạn kết bi thảm đã ám ảnh tôi nhiều năm.
Đối diện nhà anh Đỗ Long Vân ở tầng trệt là gia đình ông Lê Hữu Mục Gia đình này cũng lắm chuyện thú vị. Ông Lê Hữu Mục dạy văn, sáng tác nhạc, bản: “Chèo đi bơi đi” sáng tác năm 1938, lúc tôi chưa có mặt trên cõi đời này:
“Chèo đi bơi đi
Nước non đang chờ ta
Bơi đi vững lòng tay lái
Và hát vang lên cho lòng hăng hái…”
Hay “Con sáo đá” dịch từ bài “Alouette”, rồi bài “Con voi”… lúc học lớp năm ở Đồng Hới,cô giáo Hà Thúc Lãng vẫn thường dạy chúng tôi hát, giờ mới biết những bài ca đó là của ông Lê Hữu Mục. Tôi thích nhất bài “Hẹn một ngày về” mà chị Hà Thanh thường hát trên đài phát thanh Huế:
“Về đây trong hoa lá hỡi cánh chim giang hồ
Về đây trong hương sắc thắm tươi say mơ
Huế lờ lững dòng Hương
Năm tháng còn vương lời ai mong chờ
Huế trong tiếng dịu êm
Cô lái bên sông còn vang lời thơ…”
Giọng chị Hà trong trẻo, cao vút, mặn mà và “rất Huế”.
Ca từ này có thể quá cổ điển, thậm chí đối với người yêu âm nhạc hiện đại nó có vẻ quá trau chuốt, nhưng thật sự đây đúng là ngôn ngữ của một thời mộng mơ lãng đãng, rất nhiều người – đặc biệt những thế hệ lớn tuổi – vẫn còn yêu mến dư âm trong sáng đầy lãng mạn của nó và đây cũng là một bằng chứng về tài hoa đa dạng của ông (chưa kể đến lĩnh vực xã hội lịch sử… mà nghe nói những năm sau này ông rất quan tâm, tuy phải thú thật là tôi không có hứng thú theo dõi). Song khi tình cờ đọc thấy một lời đánh giá đóng góp âm nhạc của ông trên mạng, xếp ông ngang hàng với cố nhạc sĩ Phạm Duy thì tôi không khỏi chạnh lòng. Người giới thiệu có đại ngôn lắm không? Chưa nói đến đẳng cấp chất lượng và tính đa dạng nghệ thuật, chỉ nói một bên là một số nhạc phẩm – dù có giá trị – và một bên là một tên tuổi lẫy lừng với hơn một ngàn nhạc phẩm cùng các công trình nghiên cứu âm nhạc đặc sắc, có tính chuyên nghiệp cao, thì không thể nói chuyện đồng đẳng được. Đó là sự khác biệt giữa một sự nghiệp amateur tài hoa và một bên là sự nghiệp professional của một thiên tài âm nhạc. (Ở đây tôi chỉ đề cập vị trí trong làng âm nhạc Việt Nam, không bàn những lĩnh vực khác). Khen nhau như thế bằng mười hại nhau. Chưa nói một nhạc sĩ khác, ông Hoàng Thi Thơ – một nhạc sĩ có những ca khúc quê hương được quần chúng yêu mến – cũng được nêu như một tên tuổi đồng đẳng khác một cách có thể nói là cảm tính và gượng gạo về mặt học thuật.
Ông Lê Hữu Mục cũng từng chủ biên báo Rạng Đông mà năm học đệ ngũ tôi thường cộng tác. Nhiều tối từ nhà ông vẳng tiếng kèn clarinette hay tiếng saxophone do ông chơi, gợi nhớ những bài hát của người da đen trầm ấm đầy cảm xúc. Vậy mà chẳng hiểu sao những cuộc đấu khẩu giữa hai vợ chồng vang cả “xóm trí thức”. Giáo sư dạy bộ môn văn chương và đặt ca từ đẹp, nhưng mỗi lần như thế ông lại sử dụng một loại ca từ khác hẳn. Nhân vật thứ ba nguyên nhân của sự cố này chính là giáo sư dạy triết Nguyễn Văn Trung. Mỗi lần ông Trung từ Sài Gòn ra Huế dạy theo lời thỉnh giảng của trường đại học, giáo sư đồng nghiệp ở đây nhìn nhau tủm tỉm cười.
Vụ vợ cũ của giáo sư Lê Hữu Mục không phải là xì căng đan duy nhất của giáo sư Nguyễn Văn Trung. Loại chuyện này rất nhiều người ở Huế biết rõ, nghe nói đấy cũng là nguyên nhân việc phải chuyển vào Sài Gòn đột ngột của ông.
Nhưng chỉ gắn tên giáo sư Nguyễn Văn Trung với các vụ tình ái là không công bằng. Không thiếu những giới thiệu công phu – dưới dạng sách hay bài báo– về triết học Tây phương và riêng các tư trào triết học hiện đại như chủ nghĩa hiện sinh và hiện tượng học vào thời đó của các nhà nghiên cứu Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Lê Thành Trị… Ở dạng sách giáo khoa cho học sinh đệ nhất hay triết học nhập môn cho sinh viên ban triết thì có linh mục Cao Văn Luận, Trần Văn Hiến Minh. Nhưng phải thừa nhận giáo sư Nguyễn Văn Trung có tiếng nói và tạo được tên tuổi riêng của mình. Có lẽ trái tim còn “nặng nợ trần gian” của vị giáo sư trẻ tiếp nhận chủ nghĩa hiện sinh kiểu Jean Paul Sartre – người mà ông chịu ảnh hưởng sâu sắc cả về ngôn ngữ văn chương lẫn nội dung triết học, nếu không nói là mô phỏng thần tượng của mình một cách khá lộ liễu – thuận lợi cho ông hơn các vị giáo sư triết đồng nghiệp chủ yếu là những linh mục nghiêm túc, khả kính – và gần gũi với trình độ amateur thích giọng bay bướm khoa đại của tuổi trẻ. Tên tuổi của ông qua các công trình biên khảo như “Nhận định”, “Lược khảo văn học”, “Ca tụng thân xác”… được biết rộng rãi từ Sài Gòn ra Huế. Theo thiển ý, trong bất cứ lĩnh vực nào như y tế, triết học, tôn giáo bao giờ cũng có dạng hoạt động cộng đồng – Y tế cộng đồng, Tôn giáo cộng đồng – và có nên gọi thêm “Triết học cộng đồng” kiểu giáo sư Nguyễn Văn Trung dễ lan tỏa, tiếp cận trình độ quần chúng, bởi nói một cách nghiêm túc – trừ những bạn đọc có năng khiếu và công phu hơn người – thì hiểu biết triết học của đại bộ phận học sinh, sinh viên ngày đó ở mức độ quần chúng và hơn tí ti. Một điểm son của vị giáo sư đa tình này là chủ biên (thời đó gọi là chủ trương biên tập) Tạp chí Đại học đem lại uy tín cho Viện Đại học Huế, nếu không nói là giới Đại học miền Nam nói chung.
Điều đáng tiếc liên quan đến tên tuổi một thời này không phải ở chỗ mấy mươi năm sau đọc lại tôi không còn cảm giác thú vị háo hức như xưa, nhất là với những ai đã đọc kỹ Jean Paul Satre – ví dụ những tập “Situations” của triết gia này – để rõ tài xào nấu của soạn giả An Nam từ nguyên liệu Parisien. Việc đọc các tên tuổi phương Tây đương đại và tài xào nấu kịp thời vẫn là một công lao không nhỏ, nhất là với đa số độc giả trình độ Mauget I, II và nói riêng quý độc giả không có trình độ Pháp văn “oong” hay “đơ” gì cả. Cảm giác thất vọng của tôi là khi nghe chuyện – thực hay hư? – sau năm 1975 giáo sư Nguyễn Văn Trung phát biểu tố cáo hai giáo sư Lê Tôn Nghiêm và Trần Thái Đỉnh là những người truyền bá triết học hiện sinh để rao giảng lối sống buông thả, thiếu trách nhiệm trong tuổi trẻ miền Nam. Giáo sư Nguyễn Văn Trung đã nhận được câu trả lời lịch sự và đúng tư cách trí thức của linh mục Trần Thái Đỉnh, đại khái chúng tôi là những nhà chuyên môn làm nhiệm vụ giới thiệu triết học Tây phương một cách khách quan theo kiến thức của mình và tự thấy không có gì trái với lương tâm.
Nhân tiện tôi muốn nhắc sơ qua vài sự kiện và hoạt động trong giới giáo sư thuộc Viện Đại Học Huế hồi đó vốn đã tạo được ít nhiều ảnh hưởng, trước hết đối với địa phương. Có lẽ cao trào của các hoạt động này, nếu không kể đến các sự kiện trước 63, là vào những năm 64, 65 rộn ràng với tờ Lập Trường, tòa soạn nằm gần trường Providence (trường Thiên Hựu), gần cầu Kho Rèn với những tên tuổi như bác sĩ Lê Khắc Quyến, các giáo sư Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên… Chắc chắn tiếng tăm của tờ Lập Trường đã góp một phần lót đường cho ông Tôn Thất Hanh lọt vô vị trí thành viên của “Thượng Hội đồng Quốc gia” ở tận Sài Gòn. Ông được tiếng thẳng thắn, nhiệt tình. Sinh viên Huế hay nhắc giọng nói ồm ồm nghe như đại bác của ông và ông còn bị sinh viên bí mật đặt biệt danh là “Con yêu râu xanh”. Đúng là “nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò”, oan cho phẩm hạnh của vị giáo sư này. Nguyên nhân là vì bộ râu quai nón xanh rậm rì, mượt mà y như Tây của ông. Tờ báo Lập Trường công khai chỉ trích chính quyền Sài Gòn một cách nặng nề và rất được lòng quần chúng đang bất mãn, đặc biệt bán đắt như tôm tươi. Tôi nhớ mục được bà con khoái nhất là mục “Chén thuốc đắng” (không rõ có phải từ ý nghĩa của câu tục ngữ “Thuốc đắng dã tật” hay lấy hình ảnh ly thuốc đắng mà triết gia Hy Lạp Socrate đã can đảm uống cạn). Nghe nói cây viết chính cho mục này là giáo sư Lê Tuyên cũng du học ở Pháp về. Cũng nhắc thêm một “đại danh” khác là tiến sĩ Lê Văn Hảo vì một vài chi tiết bên lề tiểu sử chính trị của ông mà tôi không rõ mô tê chi lắm. Ông giảng bài không có chi hấp dẫn, chỉ có thói quen gọi thẳng bộ phận sinh dục nam nữ “Cặt” và “Lồn” làm chị em sinh viên con nhà lành ở Huế phải đỏ mặt. Có lẽ ông tiến sĩ nghĩ rằng các từ này có âm hưởng “dân tộc học” đúng bộ môn ông nghiên cứu. Tôi không dám khẳng định, nhân ngay vào thời đó tôi đã được nghe một số người quen và bạn bè – có người tham gia hoạt động khuynh tả, chống chính quyền, nghĩa là có lập trường giống ông Lê Văn Hảo – nói nhỏ rằng một số tư liệu giáo sư Lê Văn Hảo dùng để giảng dạy là tài liệu được chuyển từ miền Bắc.

Quay lại địa chỉ 2 Lê Lợi, ở một building khác, có căn hộ được phân cho Tổng trưởng Bộ Giáo dục giáo sư Bùi Tường Huân cùng vợ là chị Phương Thảo, em chị Hà Thanh ca sĩ Đài phát thanh Huế. Ông Tổng trưởng ở Sài Gòn thỉnh thoảng về Huế thăm vợ, cho đến khi chị PhươngThảo sinh đứa con đầu lòng mới chuyển vào Sài Gòn với ông.
Hai vợ chồng giáo sư bác sĩ người Đức Hort Gunther Kranick ở cùng building với ông Bùi Tường Huân, tiếp đến là bác sĩ Erich Wulff. Sau Tết Mậu thân 68, tôi nghe bạn bè cho biết hai vợ chồng bác sĩ Kranick bị giết chết, xác chôn ở gốc cây gần chùa Diệu Đế Gia Hội. Thực hư thế nào tôi không rõ.
Một khu cư xá mới cũng nằm trong khuôn viên 2 Lê Lợi vừa cất xong thì gia đình thư ký Viện Đại học Huế, giáo sư Lê Khắc Phò dạy môn sử địa về ở. Năm tôi học đệ nhất thầy dạy vài tiết rồi nghỉ luôn, có lẽ do sức khỏe kém, nghe nói thầy bệnh suyễn kinh niên khá nặng. Khu cư xá như rạng rỡ xinh tươi hẳn lên khi thêm một đóa hồng mảnh khảnh, tha thướt, yêu kiều xuất hiện: chị Lê Liên, vợ của thầy. Chị dạy sử địa ở trường Quốc Học. Tôi chưa bao giờ là học trò của chị, nhưng tôi “mê” chị, mê nụ cười thật tươi của chị. Mỗi khi chị cười, khuôn mặt chị trở thành đóa hồng ngời sáng. Và tôi mang theo mình nụ cười “không phải ai cũng sở hữu được” đó cho đến bây giờ.
Chiều nào anh Thạch, anh Toàn đi dạy về cũng tụ tập ở hiên nhà anh Đỗ Long Vân trò chuyện, những hôm mưa gió thì chuyển vào trong. Bộ ba này rất hợp ý nhau, không khí cởi mở thân mật. Đại học Huế như được thổi một làn gió mới với các vị giáo sư trẻ, trí thức, năng động. Người ăn mặc đàng hoàng lịch sự nhất là anh Trần Văn Toàn, áo quần sạch sẽ, tươm tất, nút cài kín cổ. Lúc mới về cư xá, tôi cứ nghĩ anh là linh mục. Hai người ăn mặc lôi thôi nhất là anh Thạch và anh Vân. Hình như họ chẳng để ý đến bề ngoài. Riêng anh Thạch, ba tôi phải mua áo quần, cà vạt, giày dép đến cả quần lót cho anh và thường nhắc nhở anh nhớ mặc áo quần cho tề chỉnh kẻo sinh viên cười. Anh dạ dạ cho ba mẹ vui lòng rồi đâu cũng vào đó. Giày thì hả miệng kêu lẹp kẹp, tóc bồng bềnh, dáng nghệ sĩ, vừa đi vừa chăm chú đọc báo vậy mà sinh viên rất yêu mến anh. Bạn nào rủ đi ăn cơm hến ngồi chò hỏ vỉa hè hay quán cóc, anh cũng vui vẻ tham gia. Anh gần gũi với sinh viên. Từ trường về nhà, chỉ trên một đoạn đường thẳng Lê Lợi, từ cầu Tràng Tiền đến cầu Ga các anh đợi nhau cùng đi bộ.
Anh Thạch, anh Hai có vài điểm giống nhau, nhưng hai tính cách khác nhau nhiều. Điểm tương đồng rõ nhất là cả hai anh đều có ý chí, quyết tâm ham học, học đến nơi đến chốn.
Những người biết anh Hai là giám đốc Nha Học chánh Cao Nguyên Trung Nguyên Trung Phần, khoa trưởng Khoa học, sau này là Viện phó Viện Đại học Huế, với tính cách nhiệt huyết mà nghiêm khắc, nóng nảy, dễ mất lòng người, nhưng ít ai biết anh Hai (cùng với anh Hòa em kế anh Hai về sau tập kết ra Bắc) đã tham gia Vệ Quốc Quân đi kháng chiến chống thực dân Pháp trước khi về thành. Sau này tôi mới được biết nhiều ý kiến ngược nhau ở Huế về anh Hai tôi khá phức tạp. Là quan hệ anh em nhưng tuổi tác lại rất xa, vả lại tôi là người có thiên hướng mơ mộng văn chương, triết học, tôi không để tâm đến chính trị. Tôi có một nhận xét riêng có thể là chủ quan, mối quan tâm bậc nhất của anh Hai tôi là tình yêu với khoa học, tri thức, và hoài bão đem khoa học, tri thức đóng góp cho đất nước, đặc biệt thông qua giáo dục bồi dưỡng cho các thế hệ tri thức trẻ. Tôi còn nhớ, dù là một viên chức cao cấp của thời đó, khi ông Ngô Đình Cẩn cho người gọi lên Phủ Cam để góp ý về giáo dục, răn đe xa gần các giáo sư sinh viên tiến bộ, vừa về đến nhà, anh Hai tỏ ra bực dọc, nói:
-Lão Cẩn dốt nát, không biết chi về giáo dục mà bày đặt góp ý về khoa học giáo dục!
Anh làm Mẹ phải hoảng hốt, dặn:
-Tai vách mạch rừng, con phải giữ mồm giữ miệng. Anh em nhà họ Ngô giết người không gớm tay đó con.
Và rất có thể tâm nguyện này giải thích vì sao khi ra nước ngoài, nhiều nhóm tổ chức Việt kiều mời anh Hai chủ trì đứng tên nhiều hoạt động phong trào, nhưng anh chối phắt, một phần vì anh bận dạy tại Đại học Kentucky, phần khác anh muốn toàn tâm toàn ý nghiên cứu Phật pháp. Anh chính là Hồng Dương, tác giả các tác phẩm“Luận giải trung luận: Tánh khởi và duyên khởi” (Nhà xuất bản Tôn giáo- 2003), “Nhân quả đồng thời” (Nguyệt san Phật học 2007), “Tìm hiểu trung luận: Nhận thức và Không tánh” và anh được thừa nhận là một nhà nghiên cứu Phật học có uy tín. Viết đến đây tôi bỗng nhớ có lần đang nghe tôi tâm sự về đại gia đình tôi, anh Nguyễn Thanh Văn bạn tôi bỗng nhận xét khá bất ngờ: “Những thế hệ trong họ tộc Tuyết Lộc đều có “gien” tôn giáo”. Và tôi có dịp ngẫm nghĩ lại, lờ mờ nhận ra ý kiến này khá hữu lý. Ngoài hoạt động hoằng pháp, xây dựng chùa chiền của mẹ, việc chuyển đạo làm Thầy Sáu của anh Thạch trong lúc đang hoạt động khoa học, việc anh Hai cuối đời toàn tâm toàn ý nghiên cứu Phật pháp như tôi đã nói ở trên là việc tôi còn một người chị đầu xuất gia lúc 7 tuổi tại chùa Sư Nữ Huế, pháp danh Thích Nữ Vi Diệu và trong khi tôi thấy mình có huynh hướng ma giáo, thì con gái tôi dù lập gia đình với người nước ngoài, sống nước ngoài nhưng lại dùng hầu hết thời gian để làm việc thiện, xây dựng các cơ sở tôn giáo, chuyên tâm học tập Phật pháp.
Anh Hai thương yêu gia đình, lo cho em út, muốn đứa nào cũng học giỏi nên người, nhưng cũng là mẫu anh Cả truyền thống rất nghiêm khắc, gần như độc đoán. Điều lạ là khi gặp chuyện khó xử, anh có thói quen đóng cửa phòng khóc một mình. Tôi nhớ chuyện anh Thạch lúc còn học ở Pháp gửi về cho ba mẹ tấm hình anh chụp trên bãi biển Nice, hai tay ôm hai cô gái nước ngoài. Mẹ bảo anh Hai gọi ngay anh Thạch về nước không học hành gì nữa. Anh Hai nói với tôi:
-Em văn hay chữ tốt, viết cho chú Thạch một lá thư giống như hồi chuông cảnh báo chú, chú phải lo học hành và viết ngay thư về cho Mẹ yên tâm.
Nói xong anh vào phòng riêng đóng cửa, khóc. Hoặc có lần anh Thạch xin phép anh Hai và ba mẹ tôi được rửa tội theo công giáo, anh đã nghiên cứu suy nghĩ kỹ càng từ khi cùng sinh viên đi hành hương viếng Đức Mẹ xứ Lourde trong thời gian học tại Pháp, chứ không phải vì xu thời hay vì áp lực nào cả. Gia đình tôi có truyền thống Phật giáo nhiều đời nên tin này làm chấn động mọi người trong nhà, nhất là mẹ. Điều đáng ngạc nhiên là mẹ tu tại gia và thường đi hoằng pháp ở các chùa, vậy mà chính mẹ là người đầu tiên đồng ý. Mẹ nghĩ tôn giáo nào cũng dạy con người hướng thiện, cũng có cái hay riêng. Nhưng anh Hai khi nghe anh Thạch rửa tội thì không nhìn mặt, không nói chuyện với anh Thạch nữa, đóng cửa phòng… khóc. Anh bị “sốc” vì em mình “bỏ đạo truyền thống của gia đình” theo đạo khác, và nghĩ là anh Thạch không vâng lời anh như trước. Anh Thạch sợ anh Hai giận nên nhờ mẹ giải thích cho anh Hai hiểu:
- Con theo đạo nhưng con vẫn giữ lòng hiếu thảo với Ba Mẹ và kính trọng thương yêu anh em con mà.
Sau một thời gian anh Hai nghe mẹ phân tích nói đi nói lại mãi có hơi xiêu lòng, anh Thạch mới dám gặp anh Hai.
Có hôm anh Thạch đang giảng cho Việt Châu con anh Hai về phương pháp giải một bài toán thật nhanh và với nhiều cách giải khác nhau. Xong buổi học, anh Thạch kể cho Việt Châu:
- Khi chú hành hương với sinh viên đến xứ Lourde về, chú đã có ý định rửa tội rồi. Lourde là một ngôi làng nhỏ ở miền Nam nước Pháp, nơi Đức Mẹ hiện ra với một thôn nữ tên Bernadette. Đây là điểm hành hương nổi tiếng…
Anh Hai đang đi vòng vòng trong vườn, tới ngay cửa đúng lúc anh Thạch nói về Đức Mẹ. Anh Hai tức giận, phản ứng ngay:
- Chú dạy gì cho cháu thì chú dạy, chứ không được truyền giáo lý Chúa Trời hay Đức Mẹ gì ở đây…
Anh Thạch quỳ xuống thưa:
- Dạ. Em chỉ kể cho cháu nghe điểm hành hương em đến lúc còn học ở Pháp. Xin anh đừng nói đến Đức mẹ của em…
Thế là những cái tát tới tấp giáng vào mặt mũi anh Thạch. Anh Thạch vẫn yên lặng quỳ để anh Hai đánh như hồi anh Hai dạy toán cho anh Thạch năm ở trung học vậy. Đánh em xong, anh Hai về đóng cửa phòng… khóc. Sáng hôm sau, anh Hai bảo vợ đem thức ăn lên cho anh Thạch ở trường Đại học Khoa học, Morin cũ. Chị về nói lại:
- Hai má chú sưng vù, nằm sốt không ăn chi hết.
Vậy là anh Hai vội vã vừa đi vừa chạy lên thăm em.
Đôi khi công việc quá căng thẳng làm cho anh trở nên nóng tính, nghiêm khắc, phải che giấu tình cảm của mình. Em út trong nhà hiểu và rất thương yêu anh, quý trọng anh. Mẹ thường nhắc nhở:
- Anh nói, em phải nghe. Anh nói sai cũng phải nghe. Không được cãi lại. Đợi khi anh hết nóng muốn giải bày chi thì giãi bày.
20, 70 hay 80 tuổi, anh em trong nhà ai cũng vâng lời anh Hai dù anh có mặt hay ở mãi tận phương trời xa nào đó.
Anh Thạch cũng không thua gì anh Hai về chuyện… khóc. Trong khi anh Hai khóc vì anh Thạch thì anh Thạch khóc vì tôi, con em gái duy nhất trong gia đình.
Từ khi có anh chị Thạch về, ba mẹ tôi thường du lịch đó đây, đôi khi cả tháng. Anh Hai tôi lại tiếp tục đi học nước ngoài, giao hai chị em tôi cho anh chị Thạch. Vào năm cuối cùng của trung học đệ nhị cấp tôi đang mùa ôn thi tú tài toàn phần.
Bàn ăn chỉ có bốn người anh chị Thạch, tôi và Tịnh. Cứ đúng 7 giờ tối là giờ cơm của gia đình, mọi việc trong ngày đều được đem ra kể lể tại đây, từ chuyện học hành của hai chị em tôi, đến việc dạy dỗ của anh chị ở đại học. Tôi là người hay bỏ bữa ăn tối vì học thêm ở Hội Việt Mỹ, hoặc tập kịch. Tôi phụ trách vai công chúa Tây Hạ cùng với Trần Quang Miễn học đệ tam, một học sinh rất cá tính đóng thật xuất sắc vai Thành Cát Tư Hãn trong vở kịch “Thành Cát Tư Hãn” của Vũ Khắc Khoan. Không những lo cho vai diễn của mình mà còn lo trang phục, đạo cụ, phông màn cho vở kịch,tôi phải liên hệ với bà o họ của tôi là chủ đoàn hát bội Đồng Xuân Lâu ở gần cuối đường Phan Bội Châu. Thầy giám học Văn Đình Hy nói đây là vở kịch chính dành cho quan khách quan trọng trong thành phố xem nhân dịp lễ phát thưởng học sinh giỏi cuối năm. Mỗi lớp từ đệ tam trở lên chỉ có 3 hoặc 4 học sinh được phần thưởng mới có vé vào. Lớp tôi đệ nhất C1(Pháp văn là sinh ngữ chính, Anh văn sinh ngữ phụ) chỉ có Thân Trọng Sơn, Trần Công Tín đều là bạn thân của tôi. Tôi còn nhớ khi lãnh phần thưởng do Viện trưởng Viện Đại học Huế – Linh mục Cao Văn Luận – trao, tôi vẫn còn mặc trang phục công chúa Tây Hạ. Cha Luận nói:
- Con gắng thi đậu, Viện đã lo giấy tờ cho con đi học ở Pháp rồi đó.
Vì lo nhiều thứ dồn vào cuối năm nên tôi thường vắng mặt trong bữa ăn tối. Nhiều hôm về, thấy trên bàn tờ giấy ghi: “Anh mong em về đúng giờ cơm”. Hôm thì ghi: “Gần đến ngày thi cử rồi, em phải tập trung học”. Không phải là tôi không biết lo. Không những tôi lo mà còn sợ nữa. Sợ mình thi hỏng tú tài thì tương lai sẽ đen tối như thế nào. Trong phòng riêng, trên tường tôi dán bao nhiêu là giấy: “Ta phải đậu, phải đậu”, “Tương lai sẽ ra sao khi ta thi hỏng?”, “Cuộc đời ta sẽ chấm dứt hay tiếp tục sau kỳ thi?”… Nhiều nữa. Nhưng ghi thì ghi, đi thì đi. Hôm đó, vừa bước chân vào phòng, tôi thấy ngay một tờ giấy với hàng chữ: “Lần cuối anh nhắc nhở em về đúng giờ, và ôn tập bài thi”. Chết rồi! Như vậy căng lắm rồi. Vì anh Thạch không bao giờ la rầy em như anh Hai, mà nhắc hoài nhắc mãi thế này là có vấn đề rồi đó. Tôi định khép cửa lại thì nghe tiếng khóc vọng ra từ phòng anh chị tôi. Tôi nhón nhén đến lén nhìn qua cửa phòng khép hờ của anh chị, anh Thạch đang ngồi ôm đầu khóc, chị Bích ngồi bên thoa đầu anh Thạch y như thoa đầu trẻ em, khóc. Tôi hốt hoảng chạy vào ôm anh khóc theo.
- Anh ơi, em nghe lời anh mà, em không đi chơi nữa mô.
Anh Thạch ôm tôi, vuốt tóc tôi:
- Ba Mẹ và anh Hai khi đi dặn dò anh phải chăm sóc em. Anh chỉ có mình em là em gái, anh thương em, nói em không nghe, anh buồn lắm. Em có bề chi, anh biết nói sao với Ba Mẹ và anh Hai.
Tôi thề sẽ học. Học ngày học đêm. Vì chỉ còn hai tháng nữa là ngày thi tú tài toàn phần, là lúc chấm dứt 12 năm tuổi học trò trung học, là lúc quyết định cuộc đời tôi. Đêm “tụng” bài oang oang đến 2, 3 giờ sáng. Ngày tới lớp thì ngủ gà ngủ gật đến nỗi thầy Trần Như Uyên dạy môn siêu hình học phải cảnh báo, vì đến giờ thầy dạy, giọng thầy đều đều: “Có Thượng Đế hay không?”, cái giọng “đuổi ruồi, ruồi chẳng thèm bay” đó làm cái đầu tôi trở thành u muội, và tôi lấy vở che mặt… ngủ đến nổi rơi vở cũng không hay. Bạn anh Thạch thì hỏi:
- Nhà “toi” ai học bài khuya thế, “moi” ngủ chẳng được.
Anh Thạch cười:
- Em gái “moi”, con Lộc đó. Cả năm ham chơi, giờ gần ngày thi nên học “nước rút”.
Tôi nghĩ thì ra hai anh tôi thương em út đến phải… khóc! Đó là những điểm hai anh giống nhau. Còn khác nhau cũng không ít.
Anh Hai luôn bận rộn căng thẳng với công việc lại còn quyết tâm học thêm nữa. Một bằng tiến sĩ Toán chưa đủ, anh Hai muốn có thêm những bằng tiến sĩ khác để hỗ trợ cho công việc giảng dạy và tổ chức của anh tốt hơn. Trong lúc ấy, anh Thạch chỉ thích đọc sách, ngoài việc dạy học anh dùng thời gian lo gia đình, em út, và lôi cuốn chị Bích vào việc dạy dỗ chăm sóc tôi với Tịnh.
Chị Ngọc Bích hiền như ma sœur. Chị tốt nghiệp tiến sĩ ngành Hóa, dạy SPCN (Sciences Physique, Chimie et Naturelles) ở đại học. Một tiếng đồng hồ mỗi ngày, tôi phải đọc truyện Pháp cho chị nghe. Hai chị em trao đổi bằng tiếng Pháp. Chị bảo tôi tóm tắt cốt truyện, cho lời bình theo quan điểm của mình. Chị ăn nói từ tốn. Giọng phát âm tiếng Việt của chị không được chuẩn lắm do chị du học từ nhỏ.
Từ khi có chị, tôi thấy lòng ấm áp. Tôi xem chị như chị ruột của mình, người có tri thức, và có khối kinh nghiệm sống.
Chiều chiều, chị rời trường từ trường Đại học, Morin cũ gần cầu Tràng Tiền đến nhà tôi chỉ một khoảng đường Lê Lợi ngắn, cách một công viên và khu Công Chánh, ghé thăm sức khỏe ba mẹ tôi. Chị mặc váy đầm dài rất xinh. Chị không đẹp, không trang điểm, tóc cắt ngắn, mắt một mí (anh Thạch nói khi mới làm quen, anh tưởng chị là người Nhật), khuôn mặt đầy đặn, dáng cao thon trông chị thật thanh thoát.
Một hôm không biết đi thăm về, mẹ tôi nói những gì mà sau đó chị may một loạt áo dài rộng, thẳng, thùng thình như ma sœur, mặc đi dạy. Anh Thạch hỏi, chị cười:
- Mẹ nói ở Tây Bích mặc gì cũng được, về Huế Bích đừng mặc đưa tay đưa chân ra, nhất là mình làm nghề dạy học, đứng trên bục giảng trước hàng chục con mắt sinh viên kỳ lắm. Vậy là
Bích may mấy bộ áo dài, mua một cái nón lá nữa. Mẹ thấy vậy khen Bích mặc kín đáo, dịu dàng. Thạch trông Bích mặc áo dài được không?
- Bích mặc chi cũng đẹp!
Anh Thạch hóm hỉnh. Chị cười híp mắt, trông bộ thích lắm:
-Vậy từ nay Bích sẽ mặc áo dài đi dạy.
Tôi thích chị mặc đầm hơn, gọn gàng rất “Tây”, hợp phong cách của chị. Nhìn chị trong chiếc áo dài sát đất, không chít eo, luộm thuộm lại đội cái nón trùm trụp nữa trông như bà cụ. Nhưng chị vẫn hấp dẫn với tôi vì phong cách sống nội tâm phong phú của chị. Chỉ việc chị là người chịu ảnh hưởng sâu đậm nền văn hóa phương Tây, mà biết lắng nghe, vâng lời một cách vui vẻ bà mẹ chồng khó tính, cũng đủ cho tôi ngày càng thương yêu và quý mến chị hơn.
Anh Hai có thói quen sau giờ làm việc, bước xuống xe hơi xách cặp vào nhà, tắm rửa xong ra phòng khách hoặc hành lang ngồi vừa nghe nhạc cổ điển hoặc Dalida, Doris Day… vừa đọc sách, tay luôn cầm cây viết chì trên tay. Hai chị em tôi, các cháu Minh Hà, Minh Phương, Việt Sơn, Việt Châu thấy vậy, đang chơi cũng phải bỏ hết chạy tới bàn lấy sách đọc, không học cũng phải ngồi vào bàn làm gì thì làm, không được ồn ào, im lặng cho đến giờ ăn. Đúng 7g tối, những chiếc ghế quanh bàn ăn không được trống chỗ. Cuối tháng học bạ đem về chúng tôi đưa anh Hai kiểm tra. Anh luôn nhắc nhở: “Đừng bao giờ để ai ngồi trên đầu mình mà…ị”. Như vậy, có nghĩa là phải đứng nhất lớp. Sống với anh Hai là “diệt” mọi cảm xúc riêng tư, không sáng tạo được. Làm thơ đăng báo cũng bị la rầy: “Không học lo làm văn thơ sau này đi… ăn mày”. Ăn rồi học, học rồi ăn, tôi có cảm tưởng mình như cái máy. Vì vậy, khi tôi và Tịnh được ở với anh chị Thạch, cảm tưởng mình giống như chim được “phóng thích” vậy.
Anh chị sống với nhau rất hòa thuận. Anh Thạch nói gì chị cũng nghe theo. Khi anh theo đạo rồi, anh cũng muốn chị rửa tội luôn, anh “truyền giáo” cho chị hằng ngày. Ba má chị ăn trường trai; gia đình chị truyền thống mấy đời theo Phật giống gia đình ba mẹ tôi. Nhưng chị nghe lời anh Thạch rửa tội và cải đạo luôn. Ngoài bằng tiến sĩ Vật lý, anh Thạch có thêm tiến sĩ Thần học. Hiện nay, anh chị hằng ngày làm việc đạo.
Dạo đó những vụ cải đạo khá “ngoạn mục’’ ngay trong đại gia đình tôi, của chính những người mà tôi yêu mến – bản thân tôi dù thuộc týp phi tôn giáo (ma giáo chăng?) nhưng vẫn có thiên hướng thích Phật pháp như Mẹ – làm tôi liên tưởng tới sự xung khắc giữa tín đồ Phật giáo và tín đồ Công giáo ở Huế thời đó cũng như thái độ còn “giữ kẽ” giữa họ với nhau. Phải nói đó là một sự thật không vui tí nào. Càng nghĩ tôi càng tâm phục mẹ với tư cách xử lý bằng trái tim người mẹ, vừa với tư cách một trí thức có tư tưởng bao dung tôn giáo rất sớm, đi trước thành kiến khá phổ biến ở địa phương.
Điều may mắn và thú vị nhất với tôi vào thời gian ở với gia đình anh chị Thạch ba năm, từ đệ tam đến đệ nhất là các giáo sư trên thế giới về đây, hội tụ tại khu Cư xá Đại học này mang theo nhiều quan điểm và phong cách phóng khoáng đã giúp tôi một cái nhìn khác, một cách sống khác. Dù biết lắng nghe điều phải trái, nhưng tôi không xem trọng dư luận “tủn mủn” hà khắc kiểu “cố đô”. Tư tưởng phóng khoáng đó đến với tôi từ khi tôi học môn triết. Và tủ sách của anh Trần Văn Toàn hằng ngày bồi dưỡng nuôi nấng ý chí tâm hồn tôi. Tôi thích cái điên của Phạm Công Thiện, bởi anh ta có những điểm abnormal giống tôi.Vào thời điểm đó Phạm Công Thiện đã nổi tiếng như cồn. Tôi đặc biệt phục họ Phạm về khả năng ngoại ngữ. Ngoại ngữ là chìa khóa mở mọi cánh cửa tri thức. Một số thầy cô giáo dạy triết bấy giờ chỉ mở sách giáo khoa của linh mục Cao văn Luận hay của giáo sư Nguyễn Văn Trung ra đọc cho chúng tôi chép, không cung cấp kiến thức mở rộng cho học sinh, ngay chính họ cũng không có vốn ngoại ngữ để làm bàn đạp mở ra tri thức thế giới cho mình và học trò.
Tôi mê triết, nhất là triết hiện sinh. Jean Paul Satre mê hoặc tôi. Tôi mê đến độ đi đâu cũng mang theo một cuốn truyện của ông trên tay, đứa nào có chút “máu nghệ sĩ” trong người cũng muốn dùng sách của Sartre như món đồ trang sức làm sang thêm cho mình, chứng tỏ ta đây đọc được sách tiếng nước ngoài, mà là sách về triết học nữa, có gì “oai” bằng! Thật ra đọc vài đoạn thôi, làm gì mà đọc được hết cuốn. Chỉ cần liếc qua La Nausée hay L’Étranger là thấy mình hiện sinh lắm rồi. Tôi may mắn không hiểu thì anh chị Thạch, nhất là anh Trần Văn Toàn hướng dẫn, giải thích cặn kẽ, căn bản, để từ đó đọc được những cuốn khác. Từ một tác giả anh Toàn giới thiệu thêm các tác giả cùng thời, cùng quan điểm hoặc chống đối, hoặc các tác giả bậc thầy của tác giả đó. Anh Toàn cũng giải thích cho tôi về chủ nghĩa hiện sinh của Sartre, và lối suy nghĩ sai lầm về Sartre của giới trẻ dẫn đến lối sống, hành động suy đồi. Nhiều người bắt chước style sống, ăn mặc theo phong trào hippie ở phương Tây, mà chẳng hiểu gì về phong trào đó. Phong trào hippie thực chất là sự phản kháng của giới trẻ về xã hội Mỹ lúc bấy giờ và cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Dân hippie muốn tìm ra con đường riêng của mình và ý nghĩa của cuộc sống. Họ tập trung vào sự tự do và ý muốn quay trở lại thiên nhiên.
Được gần gũi và trò chuyện với mấy anh tôi rất thích. Họ xuất thân từ các trường nổi tiếng ở Châu Âu. Phải nói là tôi rất may mắn được các anh là bậc thầy chỉ dẫn chu đáo. Sau này lớn lên, học và dạy, dạy và học, tôi chịu ảnh hưởng phong cách cũng như phương pháp học hành giảng dạy của các anh rất nhiều. Anh Đỗ Long Vân dạy văn chương, nhưng khi đề cập đến triết, là anh tranh cãi quyết liệt, gây một bầu không khí rất trí thức. Thích nhất là tủ sách triết của anh Toàn. Chiều tối đợi anh dạy về, tôi xin phép vào lục tìm, ghi chép. Thích thì ghi chép chứ không dám mượn. Anh Hai đã từng dặn không bao giờ được mượn sách của ai, lỡ mất của người ta không tìm mua được, mà cũng không cho ai mượn sách của mình. Đã muốn học thì tìm mua mà đọc, đừng tiếc tiền với sách, với tri thức. Vì vậy, thấy nhiều cuốn mình cần mà đâu dám mượn. Sách của anh Toàn đọc không hết, cần đến đâu hỏi đáp đến đó. Phần lớn tủ sách của anh bằng tiếng Pháp, rất hiếm tiếng Anh. Vốn ngoại ngữ Pháp văn của tôi không thể nào đọc hiểu các sách về triết học nên anh Toàn cũng mất rất nhiều thời gian giảng giải cho tôi. Anh Toàn tìm từ rất cẩn thận, thật chính xác để dịch cho tôi hiểu từng ý. Đã vào khu rừng sách thì sự hiểu biết của mình như hạt cát giữa biển khơi, nó mê hoặc lạ kỳ, muốn cái đầu của mình trong chốc lát chứa hết tất cả hiểu biết của thế giới, có khi tẩu hỏa nhập ma!
Ngoài Đại học Huế ra, anh Toàn còn dạy triết ở Sài Gòn, Đà Lạt trong thập niên 60, ở nước ngoài như Kinshasa (Congo), anh là nhà nghiên cứu triết học và là tác giả “Tìm hiểu triết học của Karl Marx” (nhà xuất bản Nam Sơn, Sài Gòn 1965) chính vào thời điểm mà việc đề cập chủ nghĩa Marx bị chính quyền miền Nam cấm đoán và kiểm duyệt gắt gao. “Xã hội và con người” hay “Hành trình vào triết học” dành cho lớp triết học nhập môn – trong cuốn này anh dùng từ dễ hiểu, khác hẳn với cuốn “Tìm hiểu triết học của Karl Marx” anh dùng từ sang trọng và hàn lâm. Ngoài ra còn có “Tìm hiểu về ý nghĩa của lao động và kỹ thuật”, hay “Tìm hiểu đời sống xã hội” (in tại Sài Gòn).
Khi thấy chính trường miền Nam không yên, anh Hai lấy bourse du học tại Đại học Grenoble (Pháp), là Đại học mà anh Thạch đã học và tốt nghiệp. Ban Giám đốc nhận thấy luận án của anh Hai rất xuất sắc nên giới thiệu anh Hai trình luận án ở Đại học Sorbonne và anh tốt nghiệp với hạng danh dự. Tại đây anh gặp giáo sư tiến sĩ Nguyễn Đình Ngọc. Anh Hai nói ông Ngọc là một sinh viên rất giỏi, tốt nghiệp tiến sĩ toán trước anh Hai một năm tại Nante. Hai người cảm mến nhau về việc học hành và đạo đức nên trở thành bạn thân của nhau. Cả hai lại cùng chung một thầy hướng dẫn luận án tốt nghiệp đó là viện sĩ Lichnérovi thuộc Viện Hàn Lâm thế giới. Theo nguyên tắc, anh Hai chỉ được phép gặp viện sĩ một lần trong năm để trình bày ý kiến của mình, sau đó học trò của viện sĩ sẽ trực tiếp chỉ dẫn anh Hai.
Năm 1967 chị Ngọc Bích đổi vào làm ở Bộ Giáo dục Sài Gòn, anh Thạch cũng vào theo, rồi cả hai vợ chồng xin chuyển về Đại học Cần Thơ. Anh Thạch làm khoa trưởng Khoa học ở đó. Vì thiếu giáo sư giảng dạy môn toán nên anh Thạch mời giáo sư tiến sĩ Nguyễn Đình Ngọc về dạy. Ông Ngọc thương yêu và xem anh Thạch như em trai vậy, nên khi anh Thạch mời, ông nhận lời ngay. Từ đó ông ở lại miền Nam Việt Nam dạy Đại học Sài Gòn cho đến năm 1975. Anh Thạch nói ông Ngọc là người rất dũng cảm không sợ một áp lực nào, cả chính quyền miền Nam Việt Nam lẫn CIA của Mỹ. Anh Thạch kể, một hôm nhân lúc Viện Đại học Sài Gòn đang họp bàn kế hoạch Viện, ông Ngọc bỗng đứng dậy, yêu cầu các giáo sư đứng dậy dành một phút im lặng để tưởng niệm. Ông Viện trưởng bấy giờ là bác sĩ Trần Quang Đệ cũng phải đứng lên theo. Không khí thật trang nghiêm. Sau phút im lặng đó, ông Ngọc tuyên bố: “Chúng ta vừa dành một phút tưởng niệm công ơn người đã hy sinh đời mình để dành độc lập tự do cho đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh”.
Cả hội đồng viện nhìn nhau sửng sốt, tái mặt, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và CIA biết nhưng không làm gì được ông nên lờ luôn chuyện này, một phần do các trường Đại học ở miền Nam bấy giờ như trường Đại học Huế, Cần Thơ, Sài Gòn được hưởng quyền tự trị, trở thành “bất khả xâm phạm”.
Theo anh Thạch, trong thời gian giảng dạy ông Ngọc ở tại cư xá dành cho giáo sư Đại học Sài Gòn, một ngày ăn một lần vào buổi tối và không tiếp khách. Có người nghĩ ông hoạt động bí mật cho chính quyền Miền Bắc.
Cuộc sống có những sự việc và mối quan hệ ngoài tầm hiểu biết của mình. Sau năm 75, năm 1997, tôi qua Mỹ thăm anh Hai tôi, anh Hai biết rất rành rẽ về ông Ngọc và nói tình thân giữa hai người, tôi mới biết giáo sư tiến sĩ Nguyễn Đình Ngọc đúng là một cán bộ hoạt động bí mật, và ông có hàm thiếu tướng, giữ chức Cục trưởng của Bộ Nội vụ. Với nhiều dè dặt, tôi mạo muội nhận xét rằng có thể những ấn tượng của một thời trai trẻ với không khí Vệ Quốc Đoàn ngày nào còn dư âm trong lòng anh Hai, và cũng có thể giữa những người con của Mẹ Việt Nam dù bão táp lịch sử xô dạt về nhiều phía, thậm chí có sự khác biệt về chỗ đứng, chính kiến giữa họ – những trí thức khoa học có đẳng cấp – cùng một tấm lòng tha thiết muốn đóng góp cho khoa học, cho tri thức, cho sự hưng thịnh tổ quốc của mình đã tạo ra mối quan hệ bằng hữu tương kính mà tình thân giữa tiến sĩ Nguyễn Đình Ngọc và tiến sĩ Nguyễn Văn Hai, anh tôi là một ví dụ. Ông Ngọc từng muốn bảo trợ, mời anh Hai về tiếp tục giảng dạy ở Việt Nam, nhưng anh tôi đã từ chối.
Khi anh Thạch rời Huế, anh Trần Văn Toàn, anh Đỗ Long Vân và các giáo sư khác cũng lần lượt mỗi người một phương trời. Anh Thạch sang Pháp tu nghiệp năm 1972 đến 75 không về Việt Nam được, phải làm giấy tờ bảo lãnh vợ con tám năm sau mới sum họp. Bây giờ hằng ngày anh chị lo việc đạo, mỗi năm về Sài Gòn vừa thăm tôi, vừa thăm mộ phần ba mẹ kết hợp nghỉ dưỡng ở dòng Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn ở Bãi Dâu, Vũng Tàu. Tại đây anh chị dành riêng một tháng đóng cửa phòng không tiếp ai để “Vào sa mạc” – đó là những ngày đơn độc một mình cầu nguyện.
Anh Đỗ Long Vân những ngày cuối đời thật bi thảm. Khi tôi gặp anh Vân ở Sài Gòn năm 1990-1991, anh ở một góc nhỏ trong nhà kho lợp tôn, nóng hừng hực. Chỗ anh nằm là một ghế bố cũ kỹ đã sờn đặt sát cửa ra vào của hiên nhà. Dưới ghế bố nồi niêu soong chảo, thức ăn lâu ngày nổi mốc meo, áo quần không giặt bốc mùi khó chịu, và con người của anh cũng dơ không kém, thậm chí khi mưa ào xuống làm áo quần anh ướt đẫm, anh cứ để nguyên thế mặc cho đến khi khô, tóc rối bù như tổ chim, kiếng cận xộc xệch sà xuống mũi anh cũng chẳng thèm chỉnh lại ngay ngắn, hai chân lê từng bước, tôi có cảm giác hai chân anh không còn đỡ nổi thân hình đã gầy giờ không còn chỗ gầy hơn được nữa.Anh có vẻ chán đời nếu không muốn nói là có dấu hiệu không được bình thường lắm. Một Đỗ Long Vân hoạt bát, đôi mắt tươi vui “tếu tếu” dưới chiếc kiếng cận dày mấy đi-ốp, một trí thức mà trước đây rất nhiệt tình, rất sôi nổi khi ở nước ngoài về Huế giảng dạy năm nao, không còn nữa. Anh nói anh ly dị vợ từ sau 75. Hai đứa nhỏ một trai một gái ở với mẹ giờ đã lớn, đi làm hàng tháng gửi tiền chu cấp cho anh. Anh nhận dịch sách của nhà xuất bản Trẻ nhưng tiền nhuận bút ít ỏi lại lâu lâu mới có một đầu sách để dịch nênkhông đủ đâu vào đâu.
Ít lâu sau tôi nghe tin anh mất trong chính căn nhà kho đó.
Riêng anh Toàn, tháng 9 năm 2014 tôi đang ở Singapore thì nghe anh Nguyễn Thanh Văn ở Sài Gòn gọi điện thoại báo tin cho biết anh Toàn vừa mất ở Lille, Pháp.
Anh Đỗ Long Vân, anh Trần Văn Toàn và anh Nguyễn Văn Thạch là bộ ba gắn bó với nhau một thời, nay chỉ còn anh Thạch tôi ở Pháp. Tuy biết rằng anh Toàn đã trên 80, sinh tử là lẽ đương nhiên, nhưng sự ra đi của một trí thức đôn hậu, khiêm cung mà tôi có may mắn tiếp cận làm tôi không khỏi bùi ngùi, xúc động. Và cùng với hình ảnh thân thương của anh Toàn là hình ảnh của một thế hệ từ bỏ đời sống đầy đủ tiện nghi ở xứ người, quay về phục vụ quê hương với tài năng và bao nhiêu tâm huyết mà không phải ai cũng có đoạn kết như ý, nay không còn mấy người, gợi lên trong lòng tôi bao nhiêu thương cảm, tiếc nuối.
Gẫm lại tôi đã học được rất nhiều, từ việc học chữ đến việc học làm người trong những tháng ngày ở với anh chị Thạch – Bích và nắm cơ duyên có một không hai, sớm tiếp xúc với những người thầy xuất sắc, “cổ điển” ở một địa chỉ và của một thời khó quên 2 Lê Lợi.
 NGUYỄN TUYẾT LỘC.
 http://www.dutule.com/D_1-2_2-139_4-6944/nguyen-tuyet-loc-2-le-loi-hue-dia-chi-kho-quen.html
Posted by sontrung at 3:34 PM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 371
KINH TẾ TRUNG QUỐC


TQ mất 2.800 tỷ đô la do cổ phiếu tuột giá không phanh
RFA 04.07.2015
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
    In trang này
    Chia sẻ
    Ý kiến của Bạn
    Email
Một ngưới Trung Quốc lo ngại nhìn vào giá của cổ phiếu (màu đỏ cho giá cả tăng cao và màu xanh lá cây cho giá xuống) tại một trung tâm môi giới chứng khoán ở thành phố Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang phía đông của Trung Quốc, 19 Tháng sáu 2015.
Một ngưới Trung Quốc lo ngại nhìn vào giá của cổ phiếu (màu đỏ cho giá cả tăng cao và màu xanh lá cây cho giá xuống) tại một trung tâm môi giới chứng khoán ở thành phố Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang phía đông của Trung Quốc, 19 Tháng sáu 2015.
 AFP
Trung Quốc mất trắng 2 ngàn tám trăm tỷ đô la do cổ phiếu của nước này đồng loạt tuột giá không phanh.
 Theo hãng tin Reuters cho biết tính đến sáng ngày hôm nay Ủy ban Thị trường Chứng khoán Trung Quốc xác nhận giới đầu tư của nước này đã thua lỗ khoảng 50% khi liên tiếp bị tuột dốc tới lần thứ ba trong vòng ba tuần lễ vừa qua.
Trong phiên giao dịch vào hôm nay các bảng điện tử niêm yết đều nổi lên màu đỏ và chỉ số Shanghai Composit giảm gần 6% tổng cộng tuột hơn 30% .
Giới đầu tư chứng khoán tại Trung Quốc cho rằng việc tuột dốc này sẽ còn tiếp tục trong những ngày tới vì thị trường đang chao đảo mạnh và các tay buôn cổ phiếu nhỏ và vừa đã dần hết vốn. Hầu hết đều cố bán tháo cổ phiếu để vớt vát được chút gì hay chút đó.
Ủy ban Chứng khoán Trung Quốc đang tiến hành mở các cuộc điều tra tìm xem có nguyên nhân lũng đoạn do các tay thao túng thị trường hay không. Tuy nhiên giới đầu tư nghi ngờ biện pháp này khó thành công.
Báo chí Trung Quốc cho biết chính phủ Trung Quốc đang mua 4 ngân hàng lớn cũng như hai tập đoàn dầu là PetroChina và Sinopec vào thứ Năm vừa qua cũng có phần tác động tiêu cực vào thị trường.
 https://ca-mg6.mail.yahoo.com/neo/launch?.rand=8280co582pf46#3559225143

Chứng khoán tuột dốc, Trung Quốc mất 2.800 tỉ USD
05/07/2015 09:31 GMT+7
TT - Tính đến ngày 4-7, giá trị chứng khoán của Trung Quốc mất khoảng 2.800 tỉ USD do cổ phiếu tuột giá thê thảm.

Nghe đọc bài: Chứng khoán tuột dốc, Trung Quốc mất 2.800 tỉ USD
Nhà đầu tư âu lo trên sàn chứng khoán Thượng Hải (Trung Quốc) ngày 3-7 khi các chỉ số tụt dốc - Ảnh: Reuters
Nhà đầu tư âu lo trên sàn chứng khoán Thượng Hải (Trung Quốc) ngày 3-7 khi các chỉ số tụt dốc - Ảnh: Reuters
Theo Ủy ban Chứng khoán Trung Quốc (CSRC), giới đầu tư chứng khoán nước này đã bị lỗ khoảng 50% khi các thị trường chứng khoán tuột dốc lần thứ ba kể từ giữa tháng 6 đến nay. Bất chấp những nỗ lực của chính phủ nhằm khôi phục niềm tin từ giới đầu tư, tình hình vẫn chưa mấy khả quan.
Hầu hết người chịu lỗ là các nhà đầu tư nhỏ. Hiện nay có khoảng 90 triệu dân Trung Quốc là các nhà đầu tư chứng khoán.
Sẽ còn sụt giảm
Trong phiên giao dịch ngày cuối tuần, hầu hết bảng điện tử niêm yết ở các thị trường chứng khoán của nước này đều có màu đỏ rực. Chỉ số chứng khoán quan trọng nhất Trung Quốc Shanghai Composite đã giảm đến 5,8% trong phiên giao dịch kết ngày 3-7.
Từ giữa tháng 6-2015 đến nay, chỉ số này giảm tổng cộng 30%. Giới đầu tư ồ ạt bán cổ phiếu khiến giá trị cổ phiếu của các công ty niêm yết mất khoảng 2.800 tỉ USD.
Chris Weston, người đứng đầu Công ty nghiên cứu IG Markets, dự đoán thị trường cổ phiếu của Trung Quốc có thể tiếp tục sụt giảm trong thời gian tới.
Chuyên gia này phân tích: hiện tượng cổ phiếu ở Trung Quốc tăng giá mạnh trong năm 2014 là do giới đầu tư rút tiền gửi ngân hàng mua cổ phiếu ồ ạt.
Giờ đây, các nhà đầu tư trên thu hồi các khoản tiền này vì quan ngại cổ phiếu đang bị thổi phồng giá quá cao. Họ bán tống bán tháo cổ phiếu để thu hồi vốn khiến thị trường lao dốc.
Theo báo Chứng Khoán Trung Quốc, dù giới chức quản lý Trung Quốc đã cam kết giải quyết các mối quan ngại về việc thao túng thị trường nhưng vẫn không ngăn được giá chứng khoán tiếp tục sụt giảm.
Giới chức trách ngành quản lý chứng khoán Trung Quốc đã cắt giảm phí và nới lỏng các quy định cho vay nhằm tạo điều kiện cho giới đầu tư mua cổ phiếu với giá rẻ hơn.
Họ hi vọng các biện pháp này sẽ khuyến khích giới đầu tư dừng việc bán đổ bán tháo cổ phiếu và lấy lại lòng tin của giới đầu tư, diễn ra từ ngày 12-6 đến nay.
Nghi vấn thao túng 
thị trường
Cùng lúc, CSRC cho biết sẽ mở cuộc điều tra liên quan đến những nghi ngờ có “bàn tay đen” thao túng thị trường và hiện tượng bán khống cổ phiếu.
Tuy nhiên, CSRC không cho biết cụ thể cuộc điều tra này sẽ kéo dài bao lâu và những tổ chức nào đang nằm trong vòng nghi vấn.
Truyền thông Trung Quốc cho biết CSRC cũng đang cắt 2/3 số doanh nghiệp mới xin niêm yết trên thị trường chứng khoán nhằm tạo động lực cho giá cổ phiếu tăng lại.
Một số nhà phân tích cho biết hiện tượng cổ phiếu Trung Quốc giảm giá mạnh từ tháng 6 đến nay là do ảnh hưởng từ sự chững lại của nền kinh tế nước này.
Sản lượng đầu ra của khối ngành sản xuất và xuất khẩu đã chậm lại từ đầu năm 2014, trong khi đó Bộ Tài chính Trung Quốc lại kiểm soát chặt chẽ hơn việc cho các doanh nghiệp nhà nước vay tiền cũng như sự đầu cơ tích trữ bất động sản trong chính quyền các địa phương.
Theo Reuters, một số chuyên gia Trung Quốc còn cáo buộc khả năng các nhà đầu tư nước ngoài đã điều khiển thị trường khiến giá cổ phiếu giảm bằng những loại chứng khoán bán khống trên các thị trường của Trung Quốc. Các nhà đầu tư này bán khống cổ phiếu ồ ạt với hi vọng mua lại chúng để hưởng lợi khi giá đã giảm.
Tuy nhiên, tờ Thời Báo Hoàn Cầu đã bác bỏ khả năng này khi cho rằng các nhà đầu tư nước ngoài chỉ là một phần nhỏ trong thị trường chứng khoán Trung Quốc. “Các nhà đầu tư nước ngoài vốn đang bị hạn chế tiếp cận thị trường chứng khoán Trung Quốc nên việc bán khống một số lượng lớn cổ phiếu là kịch bản không thể xảy ra” - tờ báo viết.
Thế nhưng nhà kinh tế trưởng tại Tập đoàn AMP Capital, ông Shane Oliver lạc quan và mô tả hiện tượng chứng khoán Trung Quốc giảm mạnh cho thấy thị trường này đang đi đúng hướng chứ không phải là một “cuộc lao dốc tài chính”.
Theo ông Oliver, chứng khoán Trung Quốc đã tăng quá nhanh, đi quá xa trong 12 tháng qua, tăng xấp xỉ 
140-150% so với thực tế vốn có 
của nó.
Trong phản ứng trước mắt, theo Reuters, hôm qua 21 công ty chứng khoán hàng đầu của Trung Quốc đã tuyên bố sẽ đầu tư 19,3 tỉ USD vào thị trường nhằm ổn định 
tình hình.
* Chuyên gia chứng khoán Hoàng Thạch Lân (TP.HCM):
Xuống mạnh vì... lên quá đà
Trong thị trường chứng khoán (TTCK), lên quá đà ắt cũng khiến xuống rất mạnh. Thị trường của Trung Quốc đã đi lên quá nóng trong hơn sáu tháng qua.
Mức tăng có thể nói là kinh khủng: từ tháng 11-2004 tới đầu tháng 6-2015, TTCK tính ra đã tăng gấp đôi. Một thị trường tăng nóng cỡ này luôn trong trạng thái sẵn sàng điều chỉnh xuống.
Và quá trình điều chỉnh xuống đã bắt đầu khi có một lý do đủ lớn: đó là khi sự hậu thuẫn của nhà nước với chứng khoán có phần giảm đi. Trước đây nhà nước hỗ trợ thị trường khá nhiều, từ bơm vốn tín dụng cho tới những hậu thuẫn cho các doanh nghiệp trong nước.
Tâm lý chung của giới đầu tư là chừng nào nhà nước còn hỗ trợ thì người ta còn mua. Giờ sự hỗ trợ giảm dần theo quy luật thị trường, nhà nước có hỗ trợ cũng chỉ tập trung một số doanh nghiệp nhà nước.
Ở chiều ngược lại, đã có những dấu hiệu siết chặt kỷ cương thị trường, đặc biệt là việc cơ quan nhà nước quyết định điều tra các hành vi thao túng giá. Sau đợt điều chỉnh kéo dài gần một tháng qua, chứng khoán Trung Quốc đã giảm 30% và chưa có dấu hiệu bình phục.
Lần khủng hoảng này trên TTCK Trung Quốc có lẽ không ảnh hưởng đáng kể gì tới thị trường Việt Nam do TTCK chúng ta, về mặt kỹ thuật, không có liên hệ gì mấy với bên đó.
Dòng tiền đầu tư qua lại giữa giới đầu tư hay đầu cơ hai nước cũng không đáng kể. Hơn nữa, thời điểm này TTCK Việt Nam chưa tới mức nóng như họ để phải điều chỉnh sâu.
Trong khi đó, trên thị trường tài chính thế giới, TTCK Trung Quốc chưa phải là nhân tố ảnh hưởng mạnh như Mỹ hay châu Âu. Nếu Mỹ hắt hơi, cả thế giới có thể sổ mũi, song Trung Quốc hắt hơi có thể chỉ là... chuyện riêng của họ.
* Ông Lê Quang Trí (giám đốc khối kinh doanh Công ty chứng khoán Trí Việt tại TP.HCM):
Ký ức buồn 2008
Những gì xảy ra ở TTCK Trung Quốc lần này khiến giới đầu tư từng trải ở TTCK Việt Nam nhớ lại những ký ức đau buồn hồi năm 2008.
TTCK Trung Quốc bắt đầu nổi cơn sốt cao từ cuối năm ngoái khi hàng loạt chuyên gia và các định chế tài chính trong và ngoài nước đánh giá rằng TTCK Trung Quốc đang ở mức rất rẻ so với tiềm năng, giống các chuyên gia đánh giá Việt Nam hồi năm 2007, để rồi sốt và lao dốc thảm hại vào giữa năm 2008.
Thời điểm ấy, các doanh nghiệp vẫn làm ăn với tốc độ bình thường chứ không thể đạt lợi nhuận vũ bão như đà tăng của cổ phiếu mang tên họ.
Ở Việt Nam lúc đó và Trung Quốc thời gian vừa qua, tín dụng đổ vào chứng khoán rất dễ dàng, ồ ạt. Người ta thi nhau vay tiền mua chứng khoán, nâng ngưỡng margin (vay mua chứng khoán) lên mức quá cao.
Đến khi khi margin lên cao quá, các công ty chứng khoán cũng như ngân hàng buộc phải thực hiện nghiệp vụ call margin (thu hồi vốn vay) khiến giới đầu tư buộc phải bán cổ phiếu đồng loạt để trả nợ. Làn sóng bán tháo như vậy sẽ bắt đầu nhanh chóng.
Lợi dụng xu thế bán tháo đó, ở Việt Nam năm 2008 và Trung Quốc hiện nay, nhiều nhà đầu cơ đã ra tay bán khống, góp phần đẩy thị trường xuống thêm và càng xuống thì các nhà bán khống càng lợi do sau này sẽ mua lại chứng khoán bù vào với mức giá thấp hơn.
Call margin bắt tay cùng bán khống hiện nay ở Trung Quốc không khác gì chuyện đã xảy ra ở Việt Nam năm 2008, có điều mức độ tàn khốc hơn nhiều, quy mô lớn hơn bội phần.
TTCK Trung Quốc hiện nay và Việt Nam hồi năm 2008 đều giống nhau ở chỗ nhà đầu tư non trẻ tham gia rất nhiều và đều nghĩ TTCK là nơi ghé vào hốt chút tiền rồi đi chỗ khác, như ghé qua sòng bài làm vài canh bạc. Kiểu đầu cơ đánh bạc như vậy luôn khiến TTCK lên bạo và xuống càng bạo.
Hơn nữa, từ khi Công ty Alibaba lên sàn quá hoành tráng ở Mỹ, biến nhiều người thành tỉ phú, đã kích hoạt một làn sóng dotcom kiểu mới ở Trung Quốc: người người đổ tiền vào doanh nghiệp ngành công nghệ, nhà nhà nghĩ về triển vọng toàn màu hồng của các hãng công nghệ.
Điều này đã thổi bong bóng chứng khoán lên rất nhanh và do vậy buộc phải xì hơi.
HỒNG QUÝ
Posted by sontrung at 10:36 AM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 371
LÊ QUANG VINH * BÀI THƠ "SẸO BIỂN”CỦA NGÔ MINH
ĐỌC BÀI THƠ "SẸO BIỂN”CỦA NGÔ MINH
  LÊ QUANG VINH

Thân phận người ngư dân lắt lay trước biển và xã hội "ưu việt" qua bài thơ “Sẹo biển” của Ngô Minh
Ngô Minh - Tên đầy đủ: Ngô Minh Khôi; là nhà thơ của miền Trung, quê ở làng Thượng Luật, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Ông là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và là nhà báo - Nguyên Trưởng đại diện của Báo Thương Mại (nay là Công Thương) tại Khu vực miền Trung - Tây Nguyên.
Nhà thơ Ngô Minh vừa được Đại hội Hội Nhà văn khu vực miền Trung - Tây Nguyên bầu là đại biểu chính thức đi dự Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ IX (từ ngày 9 đến 11/7/2015) tại Hà Nội.
Thời gian qua, Ngô Minh luôn có tên trong danh sách các kiến nghị phản biện của giới trí thức và đảng viên Cộn sản lão thành gửi các cấp lãnh đạo và chính quyền; trên Blog "Quà tặng xứ mưa" và một số trang mạng trong nước, có đăng các bài viết rất đáng chú ý của ông về tình hình văn hóa - văn nghệ đất nước cũng như Hội Nhà văn VN hiện nay, phơi bày bao nghịch lý và sự thối nát của thể chế, của Hội  Nhà văn VN; nhưng không hiểu sao vẫn "lọt được" để đi dự đại hội này. Bài thơ "Sẹo biển" mà nhà báo Lê Quang Vinh giới thiệu dưới đây được đánh giá là xuất sắc của thi sĩ Ngô Minh.

Nhà thơ - nhà báo Ngô Minh
Tại Reading - Vương quốc Anh, tôi đọc được bài thơ "Sẹo biển” trong chùm thơ “ĐÊM TAM TÒA” - Chùm thơ Ngô Minh, trên “Quà tặng xứ mưa” (ngominh.vnweblogs.com), và đã viết một comment. Nhưng rồi cảm thấy như “chưa đã”, nên lại mở máy viết thêm đôi điều để chia sẻ cùng thi sĩ Ngô Minh nơi quê nhà đang phải chịu nắng nóng lên trên 40 độ C.
SẸO BIỂN
Tặng anh trai Ngô Tấn Ninh
Trên bờ cát trắng mịn da trinh nữ
Anh tôi là vết chém của sóng
Anh ngả nghiêng đi như người từ hành tinh khác đến
Áo manh phấp phới ngọn cờ
Anh chẳng có bài ca để hát
Đời là vỏ ốc u u
Trên bờ cát trắng mịn màu thiên đường
Anh tôi là vết chém của sóng
Sự lựa chọn nào đã sinh ra anh với chiếc thuyền nan
Chiếc vỏ trấu nghìn đời không thể lớn
Anh và thuyền nan - biển chơi trò tung hứng
Phận cá là anh mắc lưới trời!
Tháng tám khoai non cháy ruột
Biển động chân trời rách tả tơi
Anh bên đàn con nhìn lửa
Lửa cười…
Trên bờ cát trắng mịn màu hạnh phúc
Anh tôi là vết chém của sóng
Từ muôn xưa lằn sẹo tới mai này…
Tôi đọc đi đọc lại bài thơ này mươi lần rồi và vẫn muốn đọc thêm nữa. Với tôi, bài thơ hay xuất sắc!
Ngô Minh đã “tạc” người anh trai bé nhỏ, nghèo khó của mình vào thế giới vô cùng vô tận (vô thủy vô chung) của biển, trời, cát trắng; của sóng, của gió... Cũng là thế giới mưu sinh lam lũ của bao thân phận và kiếp người. Chúng ta dễ dàng bắt gặp bóng dáng những người thân yêu trong gia đình ta trong bài thơ này - dù họ ở bất cứ phương trời nào.
Câu thơ mở đầu, Ngô Minh dành tả khung cảnh biển trời quê mình thật là êm đẹp đến...ngỡ ngàng: “Trên bờ cát trắng mịn da trinh nữ”. Vẻ nguyên sơ ấy có gì “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” (chung) với cảnh tả bờ biển Quảng Bình trong Nguyễn Du (Truyện Kiều) “Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”? Rõ ràng “Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia” là cảnh thực hiện hữu trước mắt ta, không phải cảnh thoát tục đến độ “trinh nguyên” như trên cõi tiên “trắng mịn da trinh nữ” (được ví von khác thường, có phần siêu thực; còn lặp lại ở đoạn sau với câu thơ “Trên bờ cát trắng mịn màu thiên đường” - đúng là "cõi tiên"!). Thế nhưng sau vẻ đẹp khác thường ấy thì lại là nghịch cảnh (đời thực) của một thân phận bẽ bàng: “Anh tôi là vết chém của sóng”. Tôi không hề (và) dám đặt sự so sánh giữa văn tài Nguyễn Du với Thi sĩ Ngô Minh; nhưng vẫn “liên tưởng” tới một sự giống nhau (trùng hợp – liệu do ngẫu nhiên không?) về "bút pháp": Thúy Kiều bị giam trong lầu Ngưng Bích, khi nàng nhìn ra ngoài, khung cảnh cũng nên thơ lắm: “Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân/ Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung/ Bốn bề bát ngát xa trông/ Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”. Nhưng tâm trạng của nàng thì: “Bẽ bàng mây sớm đèn khuya/ Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng” - nghịch cảnh trớ trêu đến khôn cùng. Và Ngô Minh: “Anh tôi là vết chém của sóng/ Anh ngã nghiêng đi như người từ hành tinh khác đến/ Áo manh phấp phới ngọn cờ/ Anh chẳng có bài ca để hát/ Đời là vỏ ốc u u”. Có điều, cảnh đẹp “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân”, dường như ít nhiều chia sẻ cùng Thúy Kiều (đồng cảm) “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”, còn “Trên bờ cát trắng mịn da trinh nữ” thì 100% là vô tình, cách biệt "như người từ hành tinh khác"; người anh đang đối mặt với một sự thật nghiệt ngã cũng “trớ trêu đến khôn cùng” như Thúy Kiều: “Anh ngã nghiêng đi như người từ hành tinh khác đến/ Áo manh phấp phới ngọn cờ/ Anh chẳng có bài ca để hát/ Đời là vỏ ốc u u”. Kịch tính được đẩy lên cao chót vót cùng nhịp điệu bất thường (phá cách) của câu thơ “Anh ngã nghiêng đi như người từ hành tinh khác đến” (một “Ronaldo” trong thi ca VN)! Tôi đã lạnh gáy khi đột ngột đón nhận câu thơ như chiếc đinh ba (loại đinh mình vuông to bằng ngón tay, đầu nanh, mũ quặp, dài gần hai tấc để đóng ghe biển) đóng vào số phận người anh lạnh lùng đến phũ phàng này: “Đời là vỏ ốc u u”! “Vỏ ốc” là thứ phải bỏ đi. Bỏ đi từ lâu rồi… “u u” trong gió rít. Hình tượng và ngôn từ được huy động đối lập nhau triệt để: “…bờ cát trắng mịn da trinh nữ”/ “Đời là vỏ ốc u u”.
Bài thơ thật lạ này, có những câu ngợp hồn người đọc, như: “Áo manh phấp phới ngọn cờ /Anh chẳng có bài ca để hát”.
Có lẽ đây là nét khắc (chạm) đơn giản, cụ thể nhưng khá biểu trưng về hình ảnh một người, một nghề lao động mệt nhọc đến cật lực như người anh trai Thi sĩ với nghề biển ở Quảng Bình. “Áo manh”, “ngọn cờ” vừa đăng đối (nghịch nghĩa) vừa thuận ý (do từ “phấp phới” dùng khá đắt trong thi cảnh tạo ra), gợi nên vẻ đẹp khoáng đạt, ngang tàng đến độ "lãng mạn" của bức chân dung trong lao động. Câu thơ trên là “lãng mạn” thực sự, thì câu dưới lại trả hình tượng (“khoáng đạt” này) về hiện thực "số không" đến cay lòng: “Anh chẳng có bài ca để hát”. Hiện thực "số không" ấy hay là kiếp người do ông Trời sắp đặt dưới chế độ XHCN ưu việt của chúng ta: “Anh tôi là vết chém của sóng /Sự lựa chọn nào đã sinh ra anh với chiếc thuyền nan /Chiếc vỏ trấu nghìn đời không thể lớn /Anh và thuyền nan – biển chơi trò tung hứng /Phận cá là anh mắc lưới trời!”. Phải chăng ông Trời định rồi ("phận cá"), nên thật khó thoát (“mắc lưới trời”). Đau và bất công quá! Câu thơ ngỡ như chỉ là sự giải bày an phận (than thân trách phận) nhưng cường độ và năng lượng là gào lên, dồn sức co chân để đạp tung cởi bỏ cái nghịc lý muôn đời đang hiện hữu ("chiếc vỏ trấu nghìn đời") chứ không riêng số kiếp người anh nhỏ hẹp ("vết chém của sóng"). Ý thơ có giá trị nhân văn và tố cáo cao, lại được gói ghém cực kỳ "hà tiện" bằng "hình tượng thơ" thật khôn (rất truyền thống: "thuyền nan", "vỏ trấu") và khéo đến tinh xảo (sắc, táo bạo: "vết chém của sóng"). Bài thơ đã lay động tâm can người đọc là vậy! "Hà tiện" là rất dè xẻn, kiệm lời (ngôn ngữ thơ), dứt khoát không thể để thừa mà lại phải đủ "gam" màu, đường nét trong bức chạm trổ này. Tôi đã cố "biên tập", thử bỏ đi một - hai từ trong vài câu thơ, nhưng chỉ làm xấu đi mà thôi...
Một loạt các cụm từ ở các câu sau (là nguyên cớ, là “tứ” - làm nên ý câu thơ, đoạn thơ tiếp theo) khiến tôi bồi hồi mãi: “Tháng tám khoai non cháy ruột /Biển động chân trời rách tả tơi /Anh bên đàn con nhìn lửa /lửa cười…”. Khoai tháng tám mới lớn bằng ngón tay, luộc lên chỉ có nước là nước, bụng đói mà ăn vô nóng lên tận cổ họng…“cháy ruột”!. Tháng tám miền Trung là mùa mưa bão, biển động ầm ào, chớp giật liên hồi kỳ trận ngày này sang ngày khác khiến “chân trời rách tả tơi”…là hoàn cảnh khách quan do thiên nhiên khắc nghiệt của mùa vụ nơi đây, càng đẩy cuộc sống bà con nghề biển tới cùng cực mọi bề: “Anh bên đàn con nhìn lửa /lửa cười…”. Sao "lửa"lại vô tình đến thế?
Hình ảnh “lửa cười”… Thôi chết rồi anh Ngô Minh ơi, nó vừa đau vừa trớ trêu mọi nhẽ. Nhớ lại hồi nhỏ, khi đun phải thanh củi chưa khô (còn tươi hoặc lấm nước), đến đoạn "mắt củi" khiến “lửa cười” là kiêng kỵ lắm, phải lấy nắm muối sống hạt to ném vô bếp lửa, muối nổ rang kêu lép tép, dòn tang để tránh mọi sự xui xẻo. Thế nhưng, (có lẽ vì thế), số phận người anh…mãi mãi vẫn là: “Trên bờ cát trắng mịn màu hạnh phúc /Anh tôi là vết chém của sóng /Từ muôn xưa lằn sẹo tới mai này…". “Lằn sẹo” hữu hạn ấy ở (một số phận) người anh, thành "SẸO BIỂN” của bông lung đất - trời - biển và kiếp người…
Ngô Minh là nhà thơ phải rất “RÀNH” những ngõ ngách tỉ mẫn (trong) cuộc sống thường nhật ở mọi nơi mọi chốn, mọi vùng miền…Anh luôn thâu tóm được hồn vía từng cảnh đời, từng số phận rất riêng (cùng bao thứ vụn vặt xung quanh họ) để chọn lọc rồi khéo đưa vào các sáng tác của mình, tạo nên những tứ thơ rất "thiệt" (tự nhiên) mà kỳ ảo như cổ tích “Trên bờ cát trắng mịn màu hạnh phúc /anh tôi là vết chém của sóng /Từ muôn xưa lằn sẹo tới mai này…", nên khác lạ đến độ "đáo để" - thật đáng yêu! Đó là khả năng tổng hợp, khai thác tài tình “cây đời mãi mãi xanh tươi”(*); rồi “trừu tượng hóa” (tư duy hình tượng) thành những thứ sâu kín, tinh tế cần chuyển tải (gửi gắm) qua sự thăng hoa sáng trạo và cảm xúc trong trái tim thi sĩ để đến với người đọc.
Lê Quang Vinh
Reading – 20 giờ 09’, ngày 1/7/2015
(*) Ý từ câu “Lý thuyết thì xám xịt, chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi” -  Goethe.

 Trackback URL: http://www.vnweblogs.com/trackback.php?id=482923
Posted by sontrung at 10:09 AM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 371

NGUYỄN HỮU VINH * VÀI ĐIỀU LO VỀ NGUYỄN PHÚ TRỌNG

Vài điều lo ngại khi Nguyễn Phú Trọng thăm Mỹ

Như vậy, dù phải vất vả, gò gẵng mãi, bộ phận ngoại giao hoạt động hết công suất, cuối cùng thì Nguyễn Phú Trọng, TBT Đảng CSVN cũng đặt chân được lên đến nước Mỹ vào ngày hôm nay.
Thiếu logic
Có lẽ, đây là điều mà nói theo giới trẻ Việt Nam đang học cách quảng cáo của một nhà bán điện thoại rằng: "Không thể tin nổi". Sở dĩ không thể tin nổi một sự kiện, dù đang diễn ra thực tế, đó chỉ là vì một TBT Đảng CS vốn là tiến sĩ xây dựng đảng, lại đặt chân đi thăm một đất nước mà cái Đảng CS Mỹ chỉ còn lại lèo tèo mấy mống trên danh nghĩa. Lẽ ra ông Nguyễn Phú Trọng có thể đến thăm cái đảng này và huấn luyện cho họ cách "xây dựng đảng" theo mô hình Việt Nam thì hẳn là hợp lý và hợp tình vì ông đang thực hiện cái gọi là "Nghĩa vụ quốc tế vô sản".
Nhưng không, ở chuyến thăm này ông đến thăm đất nước, chính phủ Hoa Kỳ, có kế hoạch gặp cả Tổng thống Obama, một thể chế chính trị mà mới cách đây 6 ngày, trong buổi kỷ niệm Nguyễn Văn Linh, ông ta vẫn "kiên định" rằng đây vẫn là một "đế quốc Mỹ xâm lược".
Nhiều bạn trẻ, vốn được giáo dục từ bé về Đế quốc Mỹ tàn bạo, nguy hiểm, về chủ nghĩa tư bản đang giãy chết, về "sự sáng suốt và kiên định chống đế quốc, thực dân của đảng ta mấy chục năm qua, góp phần công lao lớn cho phong trào Cộng sản quốc tế" đã thắc mắc rằng: Vậy ông Nguyễn Phú Trọng lại đến thăm Mỹ làm gì?
Thông thường, cha ông ta dạy rằng "Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã", vậy lẽ nào một thủ lĩnh cộng sản luôn tự cho mình là người "chống đế quốc xâm lược, thực dân, giải phóng thế giới" lại đi thăm và bắt tay với "bọn đế quốc xâm lược" có phải là điều tréo ngoe? Chẳng lẽ đảng ta từ chỗ vinh quang, kiêu hãnh đến thế giờ hạ mình chơi với những kẻ "không đội trời chung"? Thậm chí còn hy vọng rằng ông Tổng Bí thư có thể sang đó với sứ mệnh "phân hóa nội bộ Obama" - tiếp tục sự nghiệp mà Nguyễn Minh Triết trước đây đã làm dang dở mà chưa có kết quả chăng?
Những câu hỏi đó của các bạn trẻ, thật khó để trả lời trong thời điểm, giai đoạn hiện nay. Bởi việc "đảng ta" chuyển thù thành bạn, chuyển bạn thành thù là chuyện như trở bàn tay. Bởi trong thực tế, sau hai phần ba thế kỷ, cướp được chính quyền và "lãnh đạo tuyệt đối" đối với đất nước này, ngoảng đi ngoảnh lại Việt Nam chúng ta làm gì còn bạn? Đến như đàn em Campuchia, biết bao xương máu người dân đổ xuống trên đất nước họ, giờ cũng trở mặt cắn đàn anh không thương tiếc thì hòng gì chơi được với ai. Đến như ông anh họ Bành ở phương Bắc, ngon ngọt, thơn thớt vậy vẫn hoặc âm thầm, hoặc dùng súng đạn "thăn" dần của thằng em từng miếng đất, từng hòn đảo một và giờ thì ngang nhiên vẫy vùng trong ao nhà thằng em mà nhà cầm quyền Việt Nam vẫn phải nở những nụ cười như mếu ca ngợi 4 tốt và 16 chữ vàng. Đến như ông bạn vàng Cuba kia, đã từng thề nguyền "Cuba thức cho Việt Nam ngủ, Việt Nam gác thì Cuba nghỉ" - Nguyễn Minh Triết - giờ cũng bỏ gác luôn, kệ mẹ thằng Việt Nam ôm súng "canh giữ hòa bình cho thế giới" đấy thôi.
Dù sao, thì Nguyễn Phú Trọng cũng đã đặt chân đến nước Mỹ. Chúng ta chúc cho chuyến đi của ông thành công. Có thể ông ta học được điều gì ở đó ngoài việc xây dựng đảng CS là chuyên nghề của ông ta thì đất nước Mỹ, điển hình của Chủ nghĩa tư bản giãy chết sẽ để lại cho ông ấn tượng nào đó về cái "giãy chết" của nó mà rút cho mình vài bài học, ít nhất là trong lời ăn tiếng nói trước bàn dân thiên hạ, để cái danh hiệu "Lú" không được thường xuyên người dân sử dụng mỗi khi thấy ông mở miệng.
Đôi điều lo ngại
Khi nghe tin Nguyễn Phú Trọng sang Mỹ, nhiều người tỏ ra e ngại, dù nói ra hay không, nhưng những người dân Việt Nam có tự trọng và biết xấu hổ vẫn có những điều e ngại với chuyến đi này. Sở dĩ như vậy, là vì dù sao, ông ta cũng mang danh là người Việt Nam, lại còn tự xưng là một "Đại đầy tớ" của nhân dân. Mà cha ông ta đã dặn chẳng hay ho gì khi "Người dại để... thì người khôn xấu mặt".
Những e ngại của họ, bắt đầu từ những chuyến đi, những lời nói của ông Tiến sĩ xây dựng đảng này ở trong và ngoài nước thời gian qua. Không chỉ qua những chuyến đi của chính ông, mà cả những chuyến đi của đồng chí, đồng bọn của ông đến nước ngoài, cũng đã là những điều mà ông cần rút kinh nghiệm trong chuyến đi này.
Vốn tự cho mình cái quyền được "phán" nên nhiều khi ông chẳng phân biệt được trong hay ngoài nước, thần dân của mình hay quan khách ngoại giao... cứ vậy là ông vung tay chém gió để lại nhiều điều trong dư luận mà nhiều khi nghe, thấy thì là người Việt Nam, ai cũng thấy xấu hổ.
Chẳng hạn, cách đây 3 năm, khi trong nước mùa giáp hạt, người dân trong nước đang đói rã họng, ông mang theo 5.000 tấn gạo của dân sang cho Cuba để rồi ông phán về Chủ Nghĩa Xã hội. Thế rồi ở đó ông thả sức phóng miệng bạt mạng chẳng biết sờ gáy mình đã đành, nhưng cũng chẳng kiêng nể gì chủ nhà chút nào. Trong lúc Cuba đang đói xiêu vẹo và kinh tế thảm hại, ông phát biểu như thế này thì có như đấm vào mặt chủ nhà hay không: "Kinh tế suy thoái đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã hội tư bản chủ nghĩa: đời sống của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu nghèo càng lớn. Những tình huống "phát triển xấu", những nghịch lý "phản phát triển", từ địa hạt kinh tế - tài chính đã tràn vào lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội và ở không ít nơi từ tình huống kinh tế đã trở thành tình huống chính trị với biểu tình, bãi công, làm rung chuyển cả thể chế".
Hoặc ông nói về Chủ nghĩa Tư bản, nhưng người nghe chẳng khác gì ông đang nói chuyện nhà mình, rằng: " Cùng với khủng hoảng kinh tế - tài chính là khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái đang đặt ra những thách thức vô cùng lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại. Đó là hậu quả của một quá trình phát triển kinh tế - xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội".
Những động tác "chém gió" của ông tại Cuba đã gây nên sự tai hại, Tổng Thống Brazil Dilma Rousseff đã phải không ngần ngại cấm cửa ông, không cho ông vào đất nước họ, dù đã có một quá trình sắp xếp công phu và tốn kém và nhất là sĩ diện của một đất nước. Không rõ, khi đó ông nghĩ gì, vì sau đó khi được Vatican chấp nhận ông đến thăm, ông tự hào rằng thì là: "Mình có thế nào thì người ta mới đón mình như thế".
Vậy nên, điều lo ngại rằng không biết ông có rút ra được "bài học kinh nghiệm" như cái đảng của ông vẫn thường xuyên "rút" ở Việt Nam, cho chuyến thăm nước Mỹ này của ông hay không?
Còn nhớ, khi đến Mỹ mới đây, Phạm Quang Nghị đã mang tặng ngài Thượng nghị sĩ J.McCain hai tấm hình chụp chiếc bia, ghi hình ảnh ông là phi công đang giơ tay đầu hàng. Quả thật, quà tặng nói lên tư cách của người tặng. Món quà này, chẳng khác gì một cái tát và một sự chế diễu, thể hiện sự thô lỗ thiếu văn hóa của người tặng.
Người ta lo ngại với tư duy và cái đà này, Nguyễn Phú Trọng rất có thể sẽ tặng Obama tấm ảnh chụp những tấm Bia Căm thù đế quốc Mỹ gắn ở Nhà thờ Tam Tòa, hoặc hình ảnh chiếc trực thăng cuối cùng trên nóc nhà ĐSQ Mỹ tại Sài Gòn năm 1975 hay tấm hình những người lính Mỹ cuốn cờ về nước.
Cũng hy vọng rằng, ở Mỹ, Nguyễn Phú Trọng sẽ được nhìn thấy phần nào cái cơ chế, thể chế "nhà nước pháp quyền" được vận hành ra sao mà không cần cái đuôi XHCN. Để rồi không phải đưa ra những lời biện bạch cho nạn tham nhũng, hối lộ dưới sự "lãnh đạo sáng suốt của ĐCSVN" rằng thì là: "Đến Đường Tăng đi lấy kinh cũng phải hối lộ". Bởi những lời nói đó trước quan khách quốc tế, chẳng khác nào sự cổ vũ cho nạn hối lộ, tham nhũng thành không chỉ là quốc nạn, mà là quốc tế nạn.
Điều đáng lo ngại nữa, là khi ông Nguyễn Minh Triết sang Mỹ trước đây, phát biểu với báo chí nước ngoài một nẻo, về trong nước báo chí cắt xén thành đi một đàng. Nên lưu ý ông Trọng, thời này đã có internet, mà Internet thì người dân khắp nơi trên địa cầu đều có thể theo dõi và truy cập được từng động tác của ông, chứ không như thời rừng rú xưa kia muốn cắt là cắt, muốn xén là xén.
Một điều nữa, cần lưu ý ông Nguyễn Phú Trọng rằng, ở nước ngoài Mỹ, là đất nước đa nguyên, đa đảng, nếu theo quan điểm của ông thì đó là "suy thoái" thì cũng đừng nên lo "diễn biến nội bộ" của họ, mà trước hết hãy lo cho tư cách và vị thế của mình.
Và điều cuối cùng, xin ông dù có thất vọng, thì cũng không nên nói với Obama rằng: "Không biết đến cuối thế kỷ này, ở Việt Nam đã có Chủ nghĩa xã hội phát triển hay chưa" mà làm nản lòng ngay cả các thế lực thù địch.
Bởi, các thế lực thù địch" của đảng, đang mong ngày mong đêm, mong sao cho cái Chủ nghĩa xã hội kia càng sớm thành công, thì họ càng sớm nhìn thấy ngày tàn của Đảng Cộng sản.
Đó phải chăng cũng là ước mơ của cả đất nước, cả dân tộc.
Hà Nội, 7/7/2015, Ngày Nguyễn Phú Trọng lên đường thăm Mỹ
·       J.B Nguyễn Hữu Vinh
http://www.rfavietnam.com/node/2682

NGUYEN LAM * NỢ TRUNG CỘNG

Tổng số nợ của Tầu Cộng đã cao nhất thế giới ngày nay!  
     
Written by Editor 
(Nguyên Lam phỏng vấn Nguyễn Xuân Nghiã)
Thursday, 14 May 2015 13:17

Vì Sao Trung Cộng Mắc Nợ hơn Chúa Chổm?

Con Đường Tơ Lụa với dự án bạc tỷ (minh họa)


Xem attachment trang 8, D-L 161 - Hinh 1




Con Đường Tơ Lụa với dự án bạc tỷ (minh họa).


Trong khi lãnh đạo Bắc Kinh vận động các nước Á châu mở ra Con Đường Tơ Lụa với dự án bạc tỷ thì kinh tế Trung Quốc lại chìm dưới một núi nợ trị giá khoảng 28 ngàn tỷ đô la, thuộc loại cao nhất trong các nền kinh tế lớn của thế giới, và đấy là một nan đề nguy kịch. Vì sao lại như vậy và Trung Quốc có cách nào tránh được một vụ khủng hoảng chăng? Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu vấn đề này qua phần trao đổi sau đây của Nguyên Lam với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa.

Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do xin kính chào chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, sau nhiều sáng kiến dồn dập của lãnh đạo Trung Quốc từ mấy năm nay, nào là các quỹ cứu trợ tài chính, hai ngân hàng đầu tư và phát triển và cả kế hoạch rộng lớn nhằm khuếch trương mạng lưới gọi là  “Con Đường Tơ Lụa” trên lục địa và ngoài biển, giới chuyên gia quốc tế bỗng lại nói về những khoản nợ vĩ đại của Trung Quốc. Gần đây, tập đoàn tư vấn McKinsey & Company công bố báo cáo về tình hình vay nợ của thế giới và cung cấp một số liệu làm giật mình, theo đó thì tính đến cuối năm 2014, tổng số nợ của Trung Quốc lên tới 282% của sản lượng toàn quốc trong năm. Với sản lượng kinh tế Trung Quốc vào năm 2014 được ước lượng khoảng 10 ngàn tỷ Mỹ kim thì khoản nợ đó tương đương với 28 ngàn tỷ 200 triệu đô la. Do đó, tiết mục chuyên đề kỳ này của chúng ta đề nghị ông giải thích vì sao Trung Quốc lại mắc nợ như vậy, nội dung các khoản nợ đó là gì và lãnh đạo Bắc Kinh có cách nào giải quyết bài toán lớn lao này hay không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chuyện nước Tầu mắc nợ và có khi mắc loạn đã khởi sự từ năm 2008, mà lại có lý do sâu xa hơn từ chiến lược kinh tế của lãnh đạo Bắc Kinh và ngày nay gây ra hậu quả mà chưa chắc họ giải quyết được. Tôi xin đi từng bước về bối cảnh chung trước khi ta tìm hiểu thêm về nội dung và hậu quả.

- Thứ nhất, Tháng Chín năm 2008, vì các nguyên do sâu xa, Hoa Kỳ bị khủng hoảng tài chính qua biểu hiện là sự sụp đổ của tập đoàn đầu tư Lehman Brothers và nhiều doanh nghiệp tài chính khác, với hậu quả là ách tắc tín dụng và suy trầm toàn cầu, bị nhồi vào vụ khủng hoảng tương tự của Âu châu. Khi đó, Bắc Kinh sợ hiệu ứng suy trầm nên từ Tháng 11 quyết định tăng chi ngân sách cỡ 587 tỷ đô la cho các dự án xây dựng hạ tầng và công nghiệp. Song song, họ ra lệnh cho các ngân hàng ào ạt cấp phát tín dụng để kích thích kinh tế. Kết quả là trong giai đoạn khó khăn toàn cầu, sản lượng kinh tế xứ này tăng vọt và qua mặt Nhật Bản vào năm 2010. Khi ấy thế giới đã ngợi ca sự kỳ diệu này mà không thấy ra nguyên do sâu xa.
- Thứ hai, nguyên do đó nằm trong chiến lược kinh tế của Bắc Kinh là lấy đầu tư làm lực đẩy cho sản xuất để tránh thất nghiệp và động loạn xã hội, và sản xuất thừa thì xuất khẩu bằng mọi giá. Khi thế giới bị Tổng suy trầm vào các năm 2008-2009 thì xuất khẩu của Trung Quốc cũng bị giảm và sản xuất dư thừa có nghĩa là chất vào tồn kho ế ẩm mà vẫn cứ được bút ghi vào tổng sản lượng.


Một lò sản xuất thép xuất khẩu ở tỉnh Hắc Long Giang phía đông bắc của Trung Quốc, ngày 11 Tháng 10, 2014
Xem attachment trang 8, D-L 161- Hinh 2







Một lò sản xuất thép xuất khẩu ở tỉnh Hắc Long Giang phía đông bắc của Trung Quốc, ngày 11 Tháng 10, 2014


- Thứ ba, trong các nền kinh tế lớn của địa cầu, Trung Quốc có cơ chế kinh tế chính trị lạ kỳ là dưới sự lãnh đạo của đảng thì nhà nước nắm nhiều quyền hạn trong tay, từ đất đai đến các phương tiện tài trợ và sản xuất. Nôm na là ngân hàng của nhà nước tài trợ cho doanh nghiệp của nhà nước ở trung ương hay các địa phương thực hiện các dự án sử dụng đất đai cũng do nhà nước quản lý. Nhờ vậy mà sản lượng kinh tế có tăng, nhưng các khoản vay nợ lại tăng còn mạnh hơn nữa.

Nguyên Lam: Hậu quả của ba nguyên nhân sâu xa từ chiến lược tăng tưởng, cơ chế quản lý tới chính sách bơm tiền kích thích sản xuất là Trung Quốc lại trở thành một nước mắc nợ rất lớn. Thưa ông Nghĩa, nội dung bên trong các khoản nợ này là những gì, xấu tốt ra sao mà có thể là vấn đề?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chuyện kỳ diệu là chẳng ai biết được nội dung các khoản nợ đó là xấu tốt đến cỡ nào và có bao nhiêu là loại nợ không sinh lời, khó đòi và sẽ mất. Khi tập đoàn McKinsey khảo sát và đưa ra số liệu hãi hùng về khối nợ của Trung Quốc là 282% của tổng sản lượng thì thiên hạ mới chú ý. Thứ nhất là nó đã tăng gấp bốn trong thời khoảng có năm năm. Thứ hai, các khoản nợ của nhà nước, của doanh nghiệp và các công ty tài chính lại liên hệ đến gia cư và địa ốc, tức là đến đất đai. Thứ ba, khoảng 30% tổng số nợ, không kể nợ của các công ty tài chính lại là nợ ngoại ngạch, nợ chui nằm ngoài sổ sách ngân hàng và có nhiều rủi ro, đa số cũng lại liên hệ đến đất đai và các nghiệp vụ đầu cơ về gia cư hay bất động sản. Vì vậy mà núi nợ ấy mới dễ sụp.

Nguyên Lam: Thưa ông, qua cách trình bày vừa rồi, thính giả của chúng ta có thể hiểu là một tỷ lệ rất cao của các khoản nợ đó lại liên hệ tới đất đai nên mới gây rủi ro lớn. Tại sao lại như vậy?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Ta không quên một thực tế là tính theo bình quân một đầu người thì diện tích khả canh, có thể canh tác được, của Trung Quốc chỉ bằng một phần ba của trung bình thế giới. Tức là đất nông nghiệp thật ra cũng giới hạn.

- Bây giờ ta châm thêm vào bài toán địa dư ấy vấn đề kinh tế chính khác là quyền phân bố đất đai. Về nguyên tắc, nhà nước Trung Quốc là chủ đất đai ngoài nông nghiệp, còn đất canh nông thuộc quyền quản lý của các đoàn thể nông dân. Thực tế thì các hợp tác xã này chẳng có quyền và mọi loại đất đai chuyên dùng hay nông nghiệp đều do các chính quyền địa phương phân bố. Họ giữ độc quyền cung cấp đất cho quốc dân.

-Từ đạo luật về ngân sách năm 1994, nhờ đất đai, chính quyền địa phương có thể thu về cho ngân sách chừng 40% là thuế và khoảng 6% nhờ các loại lệ phí. Họ có chủ đích xả đất thật chậm, những mảnh nhỏ trước, để tạo ra sự khan hiếm làm giá tăng rồi mới tung ra các khoản đất lớn hơn. Họ bán đất ấy vào mục tiêu gì? Vào mục tiêu có lợi nhất cho địa phương, là thị trường địa ốc.

- Nhìn vào vế bên kia, thì ai là người mua? Mua đất lại là các công ty đầu tư thật ra là bình phong do các chính quyền địa phương lập ra để vay tiền các ngân hàng cũng của nhà nước ở địa phương để phát triển các dự án được tiếng với cấp trên là tạo ra công ăn việc làm. Mọi người đều hài lòng với quy trình làm ăn đó vì nơi nơi mọc ra cao ốc, xa lộ, trung tâm thương mại, hay xưởng cán sắt, và mỗi khi thực hiện hay tu sửa vì chưa xong đã hỏng thì người ta tính vào tổng sản lượng.

Nguyên Lam: Thưa ông, có phải là với kết quả là các cơ sở địa phương đó vay tiền ngân hàng và ngày nay đang mắc nợ hay không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa là đúng vậy mà còn tệ hơn vậy. Vì yêu cầu đầu cơ, các địa phương tạo ra khan hiếm giả khi xả mảnh đất nhỏ trước để làm giá, sau đó dùng tiền bạc của ngân hàng của nhà nước tại địa phương mua các mảnh đất có giá trị hơn. Khi công ty đầu tư của địa phương nắm lấy bằng khoán mảnh đất ấy làm tài sản thế chấp, họ được vay nhiều hơn cho các dự án có quy mô lớn hơn, và người người lao vào thị trường ấy mà thổi lên bong bóng đầu cơ.

- Hậu quả là dân nghèo vẫn không có nhà có đất vì giá quá cao, mà các cơ quan của chính quyền tại địa phương thì thực hiện dự án ảo, sản xuất thừa và hệ thống ngân hàng của nhà nước thì có một khối dư nợ mà xấu tốt ra sao không ai biết được, từ Bộ Tài chính đến Ngân hàng Trung ương và các địa phương. Một thí dụ là McKinsey ước lượng số nợ của nhà nước là 55% Tổng sản lượng, là năm ngàn tỷ 500 triệu đô la. Nếu kể thêm các khoản nợ cũng của cơ quan nhà nước ở cấp địa phương thì phải cao hơn vậy, ít ra là hai ngàn tỷ nữa, mà đa số là nợ thối vì trái bóng đầu cơ đã bể, tài sản thế chấp là văn tự đất đai bị mất giá. Cho nên ta khó tách rời hai vấn đề đất đai và nợ xấu.

- Bây giờ mình mới nói đến các doanh nghiệp của nhà nước, từ cấp trung ương tới các địa phương. Trung Quốc có khoảng 155 nghìn cơ sở như vậy, từ các tập đoàn nổi danh thế giới đến các cơ sở nhỏ hơn ở mọi nơi. Các cơ sở này được tài trợ theo diện chính sách và vay tiền các ngân hàng cũng của nhà nước để xây dựng nhiều công trình hoành tráng mà ế ẩm. Khi McKinsey tính số nợ của doanh nghiệp vào khoảng sáu ngàn tỷ năm trăm triệu thì đa số là của doanh nghiệp nhà nước chứ tư doanh khó len vào thị trường tín dụng thực tế vẫn do nhà nước và tay chân trong đảng chi phối. Và vì cơ chế kinh tế chính trị bất thường ấy, các cơ sở quốc doanh hay công ty gọi là đầu tư của địa phương mặc sức vay mượn nhau và nếu cơ sở này vỡ nợ là gây hậu quả dây chuyền.

Nguyên Lam: Chắc hẳn rằng Chính quyền Bắc Kinh cũng đã thấy ra vấn đề, thưa ông họ có cách nào giải quyết không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trung Quốc từng gặp hiện tượng ấy nhiều lần trong quá khứ. Một lần là vào năm 1998 dưới thời Chủ tịch Giang Trạch Dân và Tổng lý Chu Dung Cơ với hậu quả kéo dài vài năm. Lần sau là năm 2003 dưới thời Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Thủ tướng Ôn Gia Bảo cũng với hậu quả kéo dài cho tới 2008. Khi các ngân hàng của nhà nước tài trợ ảo theo diện chính sách và bị mất vốn vì mất nợ thì nhà nước lại bơm tiền cấp cứu trước hết là bốn ngân hàng lớn của trung ương, lần đầu mất 45 tỷ đô la, lần sau thì vài trăm tỷ và ai ai cũng cho là mọi sự sẽ êm.

- Lần này thì sự thể lại khác vì quy luật “lượng biến thành phẩm” khi hệ thống tài trợ và đi vay đều là tay chân của nhà nước và chất lên một núi nợ mang kích thước lịch sử. Khi họ cho nhau vay thì đấy là một khoản vay giả tạo để thực hiện dự án ảo, mà mỗi lần trao tay lại là một lần có lợi cho đảng viên và thân tộc. Để giải quyết việc đó, trung ương đòi các doanh nghiệp nhà nước phải cổ phần hóa và bán một số vốn cho tư nhân để lấy tiền trả nợ. Nhưng tư nhân chỉ được mua một tỷ lệ thiểu số nên chẳng thể cải tiến hệ thống quản lý trong khi doanh nghiệp nhà nước thu tiền về  lại mở mang cơ sở với dự án mới, tức là vay thêm để lại làm bậy! Các cấp bộ địa phương cũng thế và hệ thống làm ăn chằng chịt này còn tạo ra mạng lưới cấu kết về quyền lợi mà luật lệ do Quốc hội ban hành cũng chẳng khai thông được.

- Người ta có thể thấy ra điều ấy qua những gì Quốc hội mới họp vào đầu năm công bố ra ngoài. Việc cải cách từ cơ cấu qua tới luật lệ hay việc bơm tiền chuộc nợ và tăng thuế không thể giải quyết được bài toán này. Chính là Chủ tích Tập Cận Bình và Bộ Chính trị phải có quyết định cũng triệt để như chiến dịch bài trừ tham nhũng, là ra lệnh giảm chi và bán tài sản quốc doanh cho tư nhân để bù nợ thì may ra mới có kết quả. Trong khi chờ đợi một quyết định táo bạo như vậy thì cái đồng hồ nợ vẫn chạy và viễn ảnh phá sản dây chuyền là một thực tế.

Last Updated on Thursday, 14 May 2015 13:22
(http://saigonhdradio.com/index.php?option=com_content&view=article&id=1836)


ĐẶNG TẤN HẬU * CHIẾN TRANH KINH TẾ

 Chiến Tranh
Kinh Tế Thương Mại
Đặng Tấn Hậu

Bài viết thử tìm hiểu về chiến tranh kinh tế thương mại giữa Hoa Kỳ và TC mà chúng tôi tin chắc phần thắng nghiêng về HK và TC sẽ thất bại nặng nề trong tương lai. Yếu tố “nhân công rẻ” của TC không còn là ưu điểm trong chiến trường kinh tế thương mại vì HK sẽ có kỹ thuật sản xuất tân tiến mới với máy in 3 chiều (printer 3D) sẽ làm giảm giá thành sản xuất và kỹ thuật đào dầu qua phiến đá (cracking oil) sẽ làm giảm chi phí vận chuyển hàng hóa của HK trong tương lai.

Kinh tế TC sẽ gặp nhiều khó khăn vì kinh tế TC lệ thuộc vào HK, vì HK sẽ hạn chế đầu tư và nhập cảng hàng hóa TC. Kinh tế TC sẽ chậm phát triển hay sẽ bị giảm phát trong tương lai, nhất là người dân TC có khuynh hướng để dành tiền nhiều hơn là tiêu xài. Kinh tế TC sẽ có hiện tượng bong bóng nổ, thị trường bất động sản sẽ bị sụp đổ. Người dân TC sẽ bị thất nghiệp trầm trọng; trong khi đó, HK hô hào “xã hội dân sự” nhằm bảo vệ quyền lợi của người dân và đề cao tinh thần tự do “dân chủ”; đó là khí giới chiến lược của HK sẽ kích thích niềm mơ ước chung của tất cả người dân sống trong chế độ độc tài như TC, CSVN, Cuba.  

Khái Niệm Chiến Tranh

Chiến tranh là sự phân tranh giữa hai bên hay nhiều bên. Chiến tranh quân sự có tính cách phân tranh giết người và tàn phá thành trì bằng bom đạn. Bên thắng thường áp đặt những gì họ muốn mà bên thua phải chịu thiệt, có khi trở thành nô lệ cho phe thắng cuộc; kể cả trường hợp họ có cùng huyết thống. Thí dụ, csBV và VNCH, nên có câu “vào, vơ, vét, về” của đảng cướp csBV hay chiếm lấy nhà cửa của người dân miền nam VN. Chúng ta chỉ cần nhìn các tiệm lớn phố xá ở Saigon ngày nay thì biết ai là dân cướp?

Chiến tranh kinh tế thương mại là sự phân tranh mua bán giữa các quốc gia. Kẻ thua thường bị phá sản, cũng có thể tình nguyện làm nô lệ cho đối phương; nhưng không có sự tàn phá giết chóc như chiến tranh quân sự. Thí dụ, csBV bại trận kinh tế nên xuất cảng thanh niên thiếu nữ VN đi làm nô lệ lao công và tình dục, nạn đĩ điếm tràn lan trong nước hay nạn lấy chồng Đài Loan, Đại Hàn hoặc các cô gái VN bị đem đi bán cho TC để họ lấy gan, thận của họ mà bán cho bệnh nhân giàu có cần thay gan, thận.

Kinh Tế Thương Mại

Cơ thể con người cần ăn uống, hít thở không khí trong lành để khoẻ mạnh và cần có tự do để tinh thần minh mẫn; đôi khi thể xác hay tinh thần có yếu đuối thì cần đến sự trợ duyên bên ngoài như thuốc men hay khung cảnh đẹp đẽ chung quanh giúp cho tinh thần thoải mái và an vui. Vấn đề kinh tế thương mại cũng không khác. Ngày nay, chúng ta có hai nền kinh tế “kiểu mẫu” là kinh tế tập trung và kinh tế tự do.

CS áp dụng kinh tế tập trung bảo vệ quyền lợi cho một nhóm nhỏ chóp bu cầm quyền; đại đa số quần chúng không có cái quần để mặc hay miếng cơm để ăn nên các quốc gia cộng sản thường có tên “xã hội chủ nghĩa”, viết tắt là “XHCN” tức là “xếp hàng cả ngày” để lãnh phần “ăn xin” do nhà cầm quyền ban phát. Mặt của người dân y như bánh bao chiều nên sự sáng tạo hay sản xuất của họ gần như không có. Người dân chỉ còn có con đường duy nhất là “đăng lính” đi làm ăn cướp mới có hy vọng có miếng cơm cho gia đình. Do đó, nền kinh tế tập trung CS kể như phá sản; thí dụ Liên Xô đã bị sụp đổ vào năm 1991 (Cách mạng Nga tháng 8-1991).

Kinh tế tự do dựa trên mức cung cầu, tiền lời kích thíc h thị trường và sáng kiến nên kinh tế tự do vừa phát triển mau chóng, vừa thoả mãn khách hàng. Chính phủ của các quốc gia tự do chủ trương “tổng số của các con buôn giàu có, thành công là sự cường thịnh của một quốc gia”. Người dân có công ăn việc làm; đôi khi sự cạnh tranh đưa tới bóc lột thợ thuyền nên chính phủ phải can thiệp và ban hành một số luật lệ cần thiết để cân bằng nền kinh tế thương mại trong xã hội. Thí dụ, luật cấm độc quyền (antitrust), luật bảo vệ người tiêu thụ hay tự do thành lập nghiệp đoàn “độc lập” bảo vệ quyền lợi thợ thuyền.

Đôi khi kinh tế tự do có xảy ra vài hiện tượng như “lạm phát” (inflation) vì đồng tiền mất giá, hàng hóa thiếu hụt (thí dụ, giá dầu cao) hay “giảm phát” (deflation) vì dù hàng bán thặng dư với giá rẻ, nhưng không có người mua nên kinh tế không phát triển và dân bị thất nghiệp.Người dân TC để dành tiền không tiêu xài cũng có thể đưa tới tình trạng giảm phát. Lúc đó, chính phủ phải dùng nhiều biện pháp can thiệp vào hệ thống kinh tế y như bệnh nhân cần uống thuốc hay cần bác sĩ mổ xẻ. Thí dụ,

- đánh thuế người dân để xây cầu cống, vừa tạo công ăn việc làm, vừa xây dựng cơ cấu hạ tầng cho sự giao thông nhanh chóng y như máu huyết lưu thông dễ dàng trong cơ thể;

- làm tăng hay giảm tiền lời để vay tiền của dân chúng hay khuyến khích dân chúng vay tiền để đầu tư sản xuất, vừa làm giàu cho quốc gia, vừa tạo công ăn việc làm cho dân chúng.

Chính phủ tự do chỉ can thiệp vào sinh hoạt kinh tế thương mại khi cần thiết y như uống thuốc hay mổ xẻ (nếu cần); chứ không phải lúc nào cũng uống thuốc hay trị bệnh kiểu mấy ông thầy thuốc lang băm. Chính phủ tuyệt đối không làm thương mại vì ai cũng biết “công chức” khó mà có khả năng cạnh tranh, làm việc có hiệu năng trong lãnh vực thương mại; điển hình là các ông cán bộ CSVN chỉ biết tham nhũng, lấy tiền công bỏ vào túi riêng của mình để làm cho các ngân hàng, các hãng đóng tàu, phi trường, hàng không v.v chỉ đi từ lỗ đến sập tiệm và làm cho người dân VN phải còng lưng trả nợ thế cho cán bộ CS.

Khi nói đến cạnh tranh buôn bán, thương gia phải có sự hiểu biết tối thiểu về hàng hóa, nhu cầu của người tiêu thụ và đối phương cạnh tranh; do đó, sự hiểu biết căn bản trong lãnh vực thương mại vẫn là biết nắm bắt thông tin; có khi chỉ nghe ngóng khách hàng nói chuyện hay ăn thử món ăn của tiệm cạnh tranh coi họ có bỏ thêm chất gì không mà làm cho khách hàng thích. Người Tầu thường có bí quyết dấu nghề. Người Ấn Độ chỉ truyền nghề cho những người cùng tầng lớp nên đưa tới sự phân chia giai cấp. Nếu quân sự có cơ quan tình báo thì thương mại còn cần hơn nữa việc làm thu thập tin tức đối phương.         

Xuất Nhập Cảng

Nếu thế giới chỉ có một quốc gia thì bài viết có thể chấm dứt nơi đây. Nếu quốc gia có đầy đủ tài nguyên thiên nhiên thì bài viết cũng không cần tiếp tục. Sự đời không đơn giản nên mới có sự giao thương trao đổi giữa các quốc gia, có đế quốc và có chế độ thực dân. Mục đích chánh của xuất nhập cảng là làm sao xuất cảng nhiều, nhập cảng ít để làm cho quốc gia giàu có thêm. Thực dân bắt quốc gia thuộc địa cung cấp tài nguyên cần thiết cho họ; ngược lại họ bắt dân thuộc địa mua hàng hóa do họ sản xuất. Thi dụ, thực dân Pháp nhập cảng cao su từ VN, bắt dân Việt mua rượu của Pháp và cấm dân Việt bán rượu đế. 

Khi chế độ thực dân chấm dứt, các tiểu quốc cộng sản phải nhập cảng súng ống của đế quốc cộng sản là Liên Xô để có súng đạn đi ăn cướp các quốc gia láng giềng như csBV. Các quốc gia tây phương có chính sách nhẹ nhàng hơn bằng cách bán thực phẩm thặng dư cho các quốc gia bị chiến tranh tàn phá hay cho vay để lấy tiền lời; thí dụ, kế hoạch Marshall hay ngân hàng thế giới (World Bank) mà người vay (thọ ơn) phải xử dụng đồng tiền của cường quốc cho vay để mua hàng của họ. Hai tổ chức cho vay lớn của Tây Phương là Qũy Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân Hàng Thế Giới (World Bank). Tóm lại, một bên bắt chư hầu đi vào cửa tử (đi ăn cướp) như Liên Xô; một bên cho vay lấy lời dựa trên sự tự do như HK.

Khi nói đến xuất nhập cảng là nói đến sự phân tranh giữa hai hay nhiều quốc gia trong lãnh vực thương mại. Nước nào cũng muốn xuất cảng thật nhiều, nhập cảng thật ít để có dự trữ  thặng dư (giàu có thêm) nên chính phủ của mỗi quốc gia thường ban hành thuế nhập cảng cao để giảm mức nhập cảng; ngược lại, chính phủ hỗ trợ cho các nhà xuất cảng để họ có thể xuất cảng với giá thấp hầu cạnh tranh với hàng hóa của xứ người. Có điều nếu ai cũng làm như vậy thì ai bán? ai mua? ai nhập cảng? ai xuất cảng?

Vì thế, các quốc gia thường tạo thế liên kết đồng minh với các điều khoản luật lệ vô cùng phức tạp; thí dụ, hàng nào được xuất cảng? hàng nào được nhập cảng? điển hình là thị trường chung Âu Châu, Hiệp định tự do mậu dịch giữa HK, Mễ và Canada gọi tắt là NAFTA (North America Free Trade Agreement) vì Canada có nhiều tài nguyên, chất xám; HK có vốn, chất xám và Mễ Tây Cơ có nhân công rẻ, thị trường tiêu thụ lớn; nhưng không phải người Mễ nào cũng có thể vào Canada hay HK làm việc dễ dàng vì luật lệ không cho phép.

Do đó, mặc dù hai quốc gia có tiếng là đồng minh, nhưng lãnh vực kinh tế thương mại thường không có đồng minh đúng nghĩa, họ có thể vừa là đồng minh, cũng có thể vừa là kẻ thù cạnh tranh. Thí dụ, Nhật Bản cho người dân đi ra nước ngoài để chụp hình các mẫu hàng HK mà họ có thể bắt chước sản
xuất cạnh tranh với HK. Họ bán hàng với giá rẻ mà chúng ta thường coi hàng Nhật là hàng “dỏm” dễ hư  trước đây (vào thập niên 50-60). Về sau, Nhật biết xử dụng kỹ thuật “phẩm chất” do tiến sĩ W. Deming chỉ dạy nên hàng hóa Nhật Bản mới đi từ dỏm trở nên có chất lượng đánh bại hàng hóa HK. Thí dụ, máy in, xe hơi Nhật.

Toàn Cầu Hóa

Đại chiến thứ hai chấm dứt. Chiến tranh lạnh không còn. Các quốc gia tây phương nhất là HK áp dụng các phương pháp sản xuất tinh vi như dây chuyền, người máy (robot), điện toán, thông tin (điện thoại không dây), các trang mạng (internet), chuyên chở nhanh chóng (phi cơ, tàu bè) v.v làm cho hàng hóa sản xuất gia tăng mà không cần xử dụng guồng máy nhân công khổng lồ. Nếu hàng hóa không có người tiêu thụ, nhân công sẽ thất nghiệp, kinh tế sẽ bị trì trệ; do đó, HK bắt buộc phải tìm thị trường mới vì người tiêu thụ HK không còn có nhu cầu mua thêm các món hàng cần thiết như tủ lạnh, xe hơi, máy giặt, TV.

Do đó, khái niệm “toàn cầu hóa” mới thành hình để có thị trường tiêu thụ mới và sự buôn bán xuất nhập cảng trở nên vô cùng phức tạp. Thí dụ, VN đặt mua máy điện tử từ người bán hàng ở Canada (đây là chuyện có thật đã xảy ra tại Toronto vào thập niên 80), người ở Canada đặt hàng mua ở Nhật, Nhật Bản mua đất hiếm và vật dụng cần thiết từ TC để sản xuất máy điện tử và chở hàng về VN. VN trả tiền cho người bán ở Canada và Canada trả tiền lại cho nhà sản xuất ở Nhật. Như vậy, Canada là nhà xuất cảng hay Nhật Bản là nhà xuất cảng?; còn người nhập cảng vẫn là VN. Vấn đề thuế má như thế nào? luật lệ đôi bên ra sao? (nếu khách hàng không vừa ý món hàng thì chuyện gì sẽ xảy ra? ai chịu trách nhiệm?). 

Lấy thí dụ khác, nếu Nhật mua khí giới sát thương của HK rồi bán cho CSVN, anh CSVN đem bán khí giới này cho TC để TC nghiên cứu ưu-khuyết của khí giới HK nhằm sáng chế ra khí giới khác tối tân hơn của HK để chống lại HK thì chuyện gì sẽ xảy ra? Thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng chửi Mỹ trong ngày diễn binh 30.4.2015 và người lính CSVN cầm súng M16 của Mỹ đi diễn hành. Như vậy, CSVN vừa chửi Mỹ, vừa xử dụng súng ống do HK bán (hay viện trợ? ). Luật lệ buôn bán toàn cầu rất phức tạp mà người định ra trò chơi buôn bán này trên thế giới, không ai khác hơn là HK.

Như đã trình bày, chiến tranh lạnh chấm dứt; bây giờ là chiến tranh thương mại. Nga Xô là quốc gia có địa lý lớn, nhưng dân số ít và nghèo vì không có nhiều đất trồng trọt, tài nguyên thiên nhiên gần như không có. Nga Xô chỉ có dầu khí  xuất cảng qua Âu Châu, nhưng giá dầu đã giảm trên thế giới nên ngân sách của Nga Xô bị giảm hơn phân nửa. Ông Putin chỉ còn nước năn nỉ CSVN mua vài cây súng sát thương và mấy chiếc tàu lặn để CSVN coi tàu của TC đi qua, đi lại trên Biển Đông. CSVN mới mua thêm vài phi đạn của Nga Xô để cho người dân đánh cá VN lên tinh thần mà vững tin đem thuyền thúng chống lại tàu TC vì ai cũng biết hải quân CSVN không bao giờ dám tham chiến chống lại “tàu lạ” trên Biển Đông.

Cơ quan phản gián của các quốc gia không còn đóng vai điệp viên James Bond 007 mà họ chỉ chú trọng đến lãnh vực kinh tế thương mại vì nếu đối phương đánh cắp tài liệu sáng chế của một hãng hay một người của một quốc gia có thể ảnh hưởng đến hàng tỷ mỹ kim của nước đó, có thể làm cho hàng triệu người dân của nước đó bị thất nghiệp. Các cơ quan phản gián như CIA, KGB,  v.v. đã thay đổi công việc từ chuyện thâu thập tin tức quân sự sang cách lấy tin tức từ kinh tế thương mại.

Nhật Bản là quốc gia đầu tiên trên thế giới biết xử dụng cơ quan phản gián sau thế chiến thứ hai vào trong lãnh vực kinh tế thương mại. Nhật Bản đã lập ra cơ quan JETRO để thâu lượm tin tức, phân tích và đề nghị cho các hãng xưởng của Nhật Bản sản xuất hàng hóa theo thị hiếu của khách hàng, nhất là đề nghị chiến lược “nhảy cóc” (leapfrog) vượt qua mặt đối phương. Thông thường, 90% tin tức có thể tìm thấy dễ dàng qua báo chí, hội thảo; chỉ có 10% tin tức có tính cách quyết định và thường là phạm pháp đánh cắp tài liệu của đối phương. Thí dụ, HK ra lệnh bắt chuyên viên điện toán Edward Snowden vì ông này đã công bố việc làm phi pháp của cơ quan CIA cho thế giới biết về chuyện CIA theo dõi điện thoại, lấy tin tức của các chính khách đồng minh của HK mà chính thủ tướng Đức là bà Angela Merkel đã lên tiếng đòi hỏi tổng thống HK phải giải thích việc làm sai trái của HK. Mục tiêu chính của CIA cũng không nằm ngoài sự theo dõi việc đánh cắp các tài liệu sáng chế “bí mật” của HK mà chúng ta biết TC chuyên ăn cắp tài liệu HK để chế ra hàng nhái hay hàng dỏm.

Ba Chiến Lược

Có người luận HK ngu si đem bán đồng minh của mình như Đài Loan, VNCH cho cộng sản, rồi còn đầu tư vào TC để cho người dân TC có công ăn việc làm và người dân HK bị thất nghiệp; cuối cùng TC lớn mạnh trở thành chủ nợ của HK với hơn 3,000 tỷ mỹ kim; lại còn thách thức sức mạnh quân sự và kinh tế của HK. Thực tế, nếu HK không đầu tư vào TC, chuyện gì sẽ xảy ra? Hàng hóa HK vẫn không có người mua vì mỗi nhà của người HK đã có (mua) dư thừa hàng hóa “cần thiết” như xe đạp, xe hơi, TV, tủ lạnh, máy điện thoại, máy giặt, máy sấy v.v. 

Do đó, kinh tế HK cũng không phát triển được và chắc chắn nạn thất nghiệp vẫn xảy ra. HK phải làm sao trước vấn nạn trên? HK chỉ còn nhắm vào thị trường rộng lớn của TC với hơn 1 tỷ người dân nghèo đói thiếu thốn đủ mọi thứ là khách hàng “tiềm năng” (potential customers) có thể giúp cho HK giải quyết vấn nạn phát triển kinh tế thương mại của HK qua 3 giai đoạn với 3 chiến lược như sau:

1. chiến lược đầu là “sức mạnh nhu” (soft power) tức là dụ địch dính “chấu” (mật ngọt chết ruồi) nên
TC đòi cái gì HK cũng đều chấp thuận; kể cả HK làm ngơ khi TC đàn áp sinh viên TC tại Thiên An Môn;

2. chiến lược hai là “sức mạnh cương” (hard power) tức là con ruồi đã quen ăn mật rồi thì bắt con ruồi dễ dàng dù cho con vật hết sức vùng vẫy tìm đường thoát thân;

3. chiến lược thứ ba là “sức mạnh khôn” (smart power) gồm có “nhu”và “cương” tức là con ruồi biết nguy hiểm, nhưng vẫn cứ nhào vô để bị đập cho chết.

* Chiến lược “sức mạnh nhu” (soft power)

Các quốc gia cộng sản như TC, CSVN nghèo đói, thiếu thốn đủ mọi thứ nên các nhà tư bản HK mượn chính bàn tay của chóp bu cộng sản (bộ chính trị CS) bóc lột chính người dân của họ để phục vụ cho người dân tư bản HK với lương thấp, không có nghiệp đoàn bảo vệ, không có hệ thống y tế lo cho họ (vì  chi phí y tế ảnh hưởng trực tiếp đến tiền vốn sản xuất) nên giá thành sản xuất tại TC rất thấp đưa tới nhiều lợi ích cho nền kinh tế HK như sau:

-  người dân HK có thể mua hàng với giá thấp đồng nghĩa với sự tăng lương; thí dụ, giá 1 chiếc xe đạp $2; bây giờ chỉ bằng $1 tức là với mức lương không thay đổi, giới tiêu thụ HK mua được 2 chiếc;

-  người thợ HK có thể di dân sang TC để làm cai (supervisor) chỉ dạy cho TC kỹ thuật “căn bản” sản xuất hàng hóa. Người HK có công ăn việc làm với lương cao, lại còn là thầy của người dân cộng sản;

- người thợ HK có thể học hỏi và xử dụng các kỹ thuật “tối tân” để sáng chế hay tạo ra các vật dụng đòi hỏi kỹ thuật cao mà người thợ TC không thể nào cạnh tranh lại; thí dụ, xử dụng máy móc robot;

- hãng HK có thể bán hàng hóa cho người dân TC (thị trường lớn với hơn 1 tỷ người) có nhu cầu mua các hàng hóa “căn bản” của HK như xe hơi, xe gắn máy, áo quần thời trang mà HK đã có thặng dư;

- các nhà tài phiệt, cổ đông HK có lời nhiều (vì bán hàng cho thị trường rộng lớn ở TC) nên có thể đóng
thuế nhiều cho chính phủ HK và làm giàu cho đất nước HK;

- các tay chóp bu TC đem tiền bỏ vào ngân hàng HK vì họ không tin vào chính thể “độc tài” tham nhũng của CS nên HK đã không những có tiền lời, lại còn lấy lại được cả tiền vốn đã đầu tư vào TC.

Vì thế, HK áp dụng chiến lược “sức mạnh nhu” (soft power) chấp nhận tất cả sự đòi hỏi của chính
phủ TC lúc ban đầu như đem tiền đầu tư vào TC, chấp nhận tiền Yuan của TC thấp (để họ có thể xuất cảng hàng với giá thấp), không đặt TC vào trong danh sách CPC, cho TC tham gia vào WTO (tự do mậu dịch thế giới), cho TC vay tiền từ ngân hàng thế giới (WB), làm ngơ trước sự độc tài, độc đảng của TC (thí dụ, HK không can thiệp vào TC khi Đặng Tiểu Bình ra lệnh cho quân đội tàn sát sinh viên TC tại Thiên An Môn).

Tưởng cần biết, GDP của TC vào năm 2000 trên mỗi đầu người có không tới 200 Yuan (tiền Nhân Dân Tệ, gọi tắt là Tệ). Nếu 8.8 tiền Yuan =$1US; tức là người dân TC không có tới $30 mỹ kim/năm. Chính nhờ HK cho TC vay, đầu tư và nhập cảng hàng sản xuất từ TC v.v nên GDP/mỗi đầu người của người dân TC tăng lên đến $5,500 mỹ kim ngày nay, nhưng vẫn không bằng 1/10 GDP/đầu người của HK. Tuy nhiên, nếu tính tổng số GDP của cả quốc gia thì TC đứng hàng thứ nhì trên thế giới sau HK dù dân số HK không bằng 30% dân số TC.

* Chiến lược “sức mạnh cương” (hard power)


TC là quốc gia tiên phong áp dụng “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” mà đám con cháu của TC là CSVN đã bắt chước theo. Họ tổng hợp phương thức “bóc lột”người dân (dưới nền kinh tế thị trường) đặt dưới sự kìm kẹp, độc tài tham nhũng của độc đảng cộng sản (XHCN) nên có một số ít đảng viên trong bộ chính trị cộng sản trở nên giàu có nhanh chóng; đại đa số người dân bị bóc lột, nghèo rớt mồng tơi, nhất là TC còn theo chế độ “hộ khẩu”, người dân nông thôn lên thành phố làm việc bị bóc lột đến tận xương tủy vì họ không có được bất cứ dịch vụ xã hội nào như y tế, nhà cửa, bảo hiểm, giáo dục.

Đặng Tiểu Bình đã từng khuyên con cháu của ông là “con rồng TC phải lặn sâu dưới nước chờ cho đến khi nào đủ mạnh thì mới cất cánh bay cao”. Nhưng con cháu của ông Đặng Tiểu Bình rất hiếu thắng cho con rồng bay lên trời xanh quá sớm để biểu dương lực lượng nên con rồng TC bị bay lộn ngược đầu.

Lần lượt, chúng ta đưa ra vài thí dụ lấy từ hình ảnh con rồng “lộn ngược” núp dưới bóng con chim bồ câu “hòa bình” TC để thách thức sức mạnh của con chim đại bàng HK.

- TC tham gia vào LHQ để lũng đoạn LHQ chống lại HK, nhưng không tham gia vào trật tự thế giới vì sợ tốn tiền và mất đồng minh (thí dụ, chống Nga Xô hay các quốc gia độc tài trên thế giới);

- TC tham gia vào thị trường Âu Châu, Á Châu và Phi Châu để tranh tài với HK trong việc khai thác tài nguyên và buôn bán hàng hóa với giá rẻ (lẽ tất nhiên là hàng “nhái” và “dỏm”);

- TC tham gia vào Qũy Tiền tệ Quốc Tế (IMF) để làm áp lực thế giới dùng tiền Yuan trong việc mua bán trên thế giới nhằm thay thế đồng tiền mỹ kim và Euro;

-TC vẫn tiếp tục giữ giá $1US= $8.8 tiền Yuan dù có áp lực của HK và thế giới đòi hỏi TC tăng giá trị đồng Yuan dựa theo thị trường để hạn chế bớt hàng xuất cảng của TC sang các quốc gia tây phương;

- Khi HK tung quân đánh vào Trung Đông sau ngày 9.11 thì TC đã chớùp thời cơ này giúp đỡ đối phương của HK để mua bán dầu, đồng thời xuất cảng các nhu cầu cần thiết của chiến tranh để làm giàu; thí dụ, TC bán mặt nạ chống khí độc tại Trung Đông.

- Khi HK vừa lo đối phó sự gia tăng cướp biển, vừa giữ gìn trật tự thế giới thì TC từ chối đóng góp tiền của hay tham gia vào các chương trình chống cướp biển và trật tự hòa bình do Liên Hiệp Quốc đề ra.

HK đã phản ứng lại TC bằng cách áp dụng chiến lược “sức mạnh cương”; thí dụ:

- HK bắt TC phải tăng giá trị của đồng tiền Yuan; tức là giá hàng xuất cảng của TC sẽ tăng lên cao và làm giảm mức xuất cảng của TC vào HK;

- HK phạt vạ rất nặng các món hàng “nhái” và “không có phẩm chất”, có hại cho sức khoẻ của người dân HK như thực phẩm và thuốc men;

- HK không hỗ trợ cho các hãng HK mở hãng sản xuất tại TC vì các hãng này không có tạo công ăn việc làm cho người dân HK;

- HK cho các phi cơ và tàu chiến đi vào vùng quốc tế ở Biển Đông để thách thức TC; kết quả tàu chiến và phi cơ TC làm ngơ trước sự đi lại của tàu chiến và phi cơ HK trên biển và trên không phận quốc tế tại Biển Đông;

- HK khuyến khích các hãng tư nhân HK đầu tư trở lại HK vì phẩm chất hàng do TC sản xuất rất kém, vì tiền chuyên chở cao (do giá dầu cao) và người thợ TC không có tay nghề kỹ thuật cao (high tech).

Để làm giảm áp lực của HK, TC phản ứng lại bằng cách:

- chỉ cho tăng tiền Yuan lên chút đỉnh, nhưng vẫn còn nằêm trong số 8 là con số mà  TC tin là con số may mắn “vì bát phát âm như phát”( CS theo chủ nghĩa duy vật, nhưng cũng là vua mê tín dị đoan);

- tạm thời chấp nhận tham gia giới hạn vào trách nhiệm trật tự thế giới và chống nạn cướp biển;

- tăng cường quân sự với tàu hàng không mẫu hạm Liêu Ninh và chuẩn bị sản xuất chiếc thứ hai để đe dọa nền hòa bình tại Biển Đông;

- thành lập nhiều trung tâm “Khổng học” trên thế giới nhằm đề cao “trật tự” và “trung hiếu” với TC; đặc biệt là cảnh cáo một vài người trong bộ chính trị CSVN vì những người này có cảm tình với HK;

- TC mua lại các kỹ thuật cũ của HK và canh cải lại món hàng cho phù hợp với nhu cầu của người dân TC nhằm mục đích độc quyền bán hàng tại TC và cạnh tranh trực tiếp hàng hóa của HK trên đất TC; thí dụ, máy điện tử Lenovo, các loại xe hơi HK được thu nhỏ lại cho phù hợp với đường xá ở TC v.v. 

* Chiến lược “sức mạnh khôn” (smart power)

TC và HK tranh chấp trong lãnh vực kinh tế thương mại mà HK sẽ áp dụng chiến lược “sức mạnh khôn” gồm có cả hai yếu tố “nhu” và “cương”.

a) yêu tố nhu

- hàng hóa HK, đại học HK, ngân hàng HK v.v vẫn là các món hàng “ưa chuộng” của người dân TC muốn mua hay đầu tư vì người dân TC biết cái gì của HK cũng đều có phẩm chất cao hơn hàng TC;

b) yếu tố cương 

- HK tiếp tục làm áp lực TC để tăng giá trị tiền Yuan nhằm giảm nhập cảng hàng hóa TC;

- HK cho thành lập TPP (1) để lôi kéo các quốc gia ở Thái Bình Dương và Biển Đông tham gia vào kinh tế thương mại cùng với HK chống lại nền kinh tế TC;

- HK cho thành lập ngân hàng để cho các quốc gia Á Châu vay; lẽ tất nhiên các quốc gia này trở thành đồng minh với HK.

- HK khuyến khích thành lập “xã hội dân sự”(2) và hỗ trợ chính sách tự do dân chủ (democracy) tại các quốc gia độc tài; kể cả TC và CSVN.

Ngoài ra, khi đề cập về kinh tế thương mại, nhà buôn cần biết “ngọn gió” đi theo trào lưu nào để có thể nắm bắt thời cơ đầu tư làm giàu. Danh từ “chiều hướng” dịch từ chữ “trend” gồm có 4 yếu tố chánh gọi tắt là “pest” tức là political, economical, social và technological” tức là chính trị, kinh tế, xã hội và kỹ thuật. Ngày nay, có 3 chiều hướng rất thuận lợi cho HK là:

1. khai thác dầu qua phiến đá (cracking oil) mà HK có số lượng dầu nhiều hơn số dầu ở Trung Đông; đó là lý do mà giá dầu giảm trong năm nay và làm cho Nga Xô mất hơn phân nửa ngân sách quốc gia;

2. kỹ thuật điều hành máy rôbô và máy in 3 chiều “printer 3D” có thể tạo thành các vật dụng cần thiết  từ máy điện tử nên không cần đến nhân công rẻ để sản xuất vật dụng. Thí dụ, một người chỉ cần bấm nút “in” (print) trên máy điện tử là máy in 3D (3 chiều) có thể sản xuất ra đồ vật trong thời gian ngắn mà không cần phải qua bàn tay của người thợ. Ngày nay, dù máy in 3D chưa hoàn hảo, nhưng có thể “in ra” (sản xuất) chiếc xe hơi (có thể chạy được) với chi phí $2,000 mỹ kim;

3. HK có nhiều mỏ “đất hiếm” giúp cho HK sản xuất các vật dụng cần thiết như máy điện tử, khí giới tối tân, làm vỏ sắt tàu bè và máy bay v.v. Quốc gia nào có nhiều mỏ “đất hiếm” trở nên giàu có, nhưng cũng có thể nguy hại nếu là tiểu quốc vì các cường quốc có thể đem quân tranh dành đất hiếm tại nơi đó. HK, Canada, Úc Châu, Phi Châu vẫn được coi là quốc gia có nhiều đất hiếm.

Tóm lại, trong một số năm tới, “nhân công rẻ và không chuyên môn” không còn là mối đe dọa cho nền kinh tế HK vì HK có thể sản xuất hàng qua kỹ thuật tối tân mới (printer 3D), không cần qua tay của người thợ. Sự giảm giá dầu làm cho sự chuyên chở hàng hóa HK giá hạ xuống nên có thể cạnh tranh trực tiếp với hàng hóa rẻ của TC. Lẽ tất nhiên hàng HK có phẩm chất tốt hơn hàng của TC nên hàng HK chiếm ưu thế trên thị trường quốc tế. CSVN có thể mất dịp may xử dụng nhân công rẻ và tham gia vào “Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương” (TPP) của HK để làm giàu và phát triển kinh tế cho nước nhà vì chế độ CS độc tài tham nhũng.    

Kết Luận
Nếu có chiến tranh quân sự giữa HK và TC tại Biển Đông hay tại bất cứ nơi nào ở Đông Nam Á là vận nước VN vẫn còn may mắn vì nếu CSVN theo TC thì HK bắt buộc phải dựng lên một nhân vật nào đó
ở hải ngoại hay ở trong nước làm đồng minh với HK và thành lập một quốc gia VN tự do dân chủ. Nếu CSVN theo HK thì đảng CSVN không còn độc quyền cai trị đất nước VN; toàn dân VN sẽ đoàn kết lại để chống ngoại xâm phương bắc. Thực tế, tôi tin HK và TC chỉ là hai anh võ sĩ đang dợt bài quyền với nhau (vờn qua lại) để rồi sau đó, họ chia nhau quyền lợi của họ tại Biển Đông mà kẻ bị thiệt chính là CSVN (3).   

Hiện nay, có vẻ đang có chiến tranh kinh tế thương mại giữa HK và TC vì ảnh hưởng trực tiếp  đến quyền lợi của họ. HK sẽ áp dụng chiến lược “sức mạnh khôn” gồm có 3 điểm chánh: (a) đề cao khái niệm xã hội dân sự, dân chủ tự do; (b) tiếp tục đẩy mạnh phẩm chất hàng hóa HK và (c) lập ra hàng rào “kinh tế thương mại” hội đủ điều kiện của điểm (a); thí dụ TPP. Như vậy, quốc gia nào muốn xuất cảng sang HK phải có hội đủ điều kiện “dân chủ” và xã hội dân sự (NGO) . CSVN thiếu điều kiện “dân chủ” vì quyền lợi của cá nhân và của đảng CS độc tài nên CSVN khó gia nhập vào trào lưu phát triển kinh tế thế giới.

Để đối phó lại HK, TC vừa bắt tay với Nga Xô để thống trị Đông Nam Á, vừa thành lập ACFTA (Asean China Free Trade Agreement) đương đầu với TPP của HK và ngân hàng AIIB chống lại ngân hàng thế giới (WB) của HK tại Á Châu. HK và Nhật Bản chống tổ chức ngân hàng AIIB, nhưng các quốc gia đồng minh HK như Anh Quốc, Úc Châu tham gia vào tổ chức AIIB vì quyền lợi quốc gia của họ. Các quốc gia ASEAN tham gia vào tổ chức của TC có thể xuất cảng hàng hóa vào TC; nhưng chúng ta nên đặt câu hỏi liệu TC là xứ xuất cảng hay nhập cảng? có lợi hay có hại cho chúng ta? đây là câu hỏi cần phải có câu trả lời.

Hai chiều hướng (trend) quan trọng (critical) đang và sẽ xảy ra trong vòng vài năm tới là kỹ thuật lấy dầu qua phiến đá (cracking oil) và máy in 3 chiều (printer 3D). Giá dầu giảm sẽ ảnh hưởng đến sự giảm giá của sự phân phối hàng hóa trên thế giới nên giá bán hàng hóa sẽ thấp trong tương lai, nhưng sẽ ảnh hưởng nặng đến sự sinh tồn của các quốc gia sống nhờ vào dầu hỏa như Nga Xô, Trung Đông và Biển Đông. Vì thế, Biển Đông sẽ mất đi giá trị tranh chấp dầu trong tương lai; ngoại trừ TC làm khó đàn em CSVN và bắt CSVN trở thành chư hầu của TC hay trở thành một tỉnh lỵ của TC qua sự thi hành Mật Ước Thành Đô năm 1990.

HK sẽ không tham gia vào trận chiến Biển Đông vì không ích lợi cho HK nếu TC không cản trở sự di chuyển tự do của tàu bè HK tại Biển Đông. HK và TC sẽ thương thuyết quyết định về vị trí Biển Đông trong tương lai và HK có thể giao Biển Đông cho TC để cho có “trật tự mới” trong vùng Biển Đông y như  cố thủ tướng csBV Phạm Văn Đồng vào năm 1958 dưới thời Hồ Chí Minh lãnh đạo đãødâng Hoàng Sa/Trường Sa cho TC.

Kỹ thuật máy in 3 chiều (printer 3D) sẽ giúp cho HK sản xuất hàng hóa mà không cần đến nhân công “rẻ và không chuyên môn”; do đó, các quốc gia chậm tiến như TC, CSVN có nhân công rẻ sẽ không còn là ưu điểm đe dọa cho nền kinh tế HK trong tương lai. Các quốc gia đồng minh với HK như Phi Luật Tân, Nhật Bản có lợi thế nằm trong sự bảo vệ của HK. Người dân của họ có được tự do và có được công ăn việc làm vì có thể xuất cảng hàng hóa qua HK với sự bang giao ký kết giữa các quốc gia đồng minh (4).

Kinh tế TC lệ thuộc vào hàng xuất cảng sang HK; nhưng nếu HK hạn chế nhập cảng hàng từ TC và hạn chế đầu tư vào TC thì kinh tế TC sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Hiện tượng bong bóng sẽ nổ tại các thành phố lớn ở TC như giá nhà đổ, hàng rẻ sẽ không có người mua; tức là TC sẽ bị nạn giảm phát
(deflation). Đó là chưa kể người dân TC có khuynh hướng để dành tiền hay bỏ tiền vào ngân hàng HK
nên sức tiêu thụ của TC sẽ giảm và gây ra nạn thất nghiệp trầm trọng trong nước vào các thập niên tới
tại TC.

Chú Thích:

1. Mục đích của TPP là các quốc gia ký kết có thể buôn bán với nhau không qua hàng rào quan thuế
(thực chất là xuất cảng sang HK); nhưng họ phải hội đủ một số điều kiện do HK yêu cầu như tôn trọng quyền lợi nhân công (cho thành lập công đoàn độc lập), bảo vệ môi trường, sở hữu trí tuệ  v.v Thực tế, sự ký kết giữa các quốc gia được giữ bí mật nên kết quả của sự ký kết thường dựa trên lý do chính trị; tức là CSVN “có thể” được gia nhập vào TPP mà không cần cải thiện nhân quyền. Do đó, kinh tế CSVN đang trên đà phá sản thì TPP của HK sẽ là cái phao cứu nguy cho CSVN y như hiệp định Paris 1973 đã giúp cho csBV khỏi phải tuyên bố đầu hàng, lại còn có cơ hội cưỡng chiếm miền nam tự do.  

2. Xã hội dân sự hay tổ chức phi chính phủ (NGO) đã có từ lâu tại các quốc gia tự do như HK, Canada
vì nhà cầm quyền không thể nào lo hết tất cả nhu cầu của người dân nên người dân tự thành lập tổ chức phi chính phủ để “thoả mãn” một số nhu cầu cần thiết cho họ. Thí dụ, tổ chức bảo vệ môi trường, bảo vệ thú vật hay đề cao nhân quyền. CSVN là một trong các quốc gia độc tài rất sợ tổ chức NGO vì họ sợ người dân lên tiếng về quyền lợi của thợ thuyền hay đề cao nhân quyền nên CSVN đã cho thành lập tổ chức GONGO (government organized NGO) tức là tổ chức “giả hình NGO” của chính phủ để chống lại tổ chức xã hội dân sự bênh vực cho quyền lợi của người dân.    

3. Biển Đông có 4 lợi ích quan trọng là: dầu hỏa, hải sản, hải cảng và giao thương hàng hải. Kỹ thuật
khai thác dầu qua phiến đá làm cho giá dầu giảm nên tầm quan trọng về dầu ở Biển Đông bị mất đi; nhưng sự giao thương hàng hải tại Biển Đông và Thái Bình Dương vẫn đóng vai trò quan trọng. Dù vậy, chiến tranh quân sự giữa HK và TC “khó có thể xảy ra” vì hải quân TC còn kém xa HK dù ngân sách quốc phòng của TC có thể tăng lên gấp đôi (hiện giờ ngân sách quốc phòng của TC  là 2% GDP so với HK là 4% GDP); do đó,  HK khó có thể tăng ngân sách quốc phòng; đó là chưa kể, HK cần tân trang lại một số tàu bè vì phần nhiều các tàu chiến của HK đã cũ và lỗi thời.

4. Nhật Bản là quốc gia đồng minh với HK. Thủ tướng Nhật Bản Abe muốn HK tiếp tục đóng quân ở Okinawa nhằm bảo vệ Nhật Bản chống lại TC dù người dân Okinawa phản đối sự có mặt của quân  đội HK tại nơi đây. Chính phủ Nhật vẫn biết “vạn vật vô thường”. Quân đội HK không thể nào ở mãi tại nước Nhật để bảo vệ Nhật Bản chống lại TC; do đó, Nhật Bản vẫn muốn HK cho Nhật Bản được “cởi bỏ” luật cấm Nhật Bản thành lập quân đội để họ có thể có một đội quân hùng mạnh hầu chống lại sự tấn công của TC trong tương lai.

GIA HỘI * CHÓ MÈO GÀ VỊT

Đài VOA thứ hai, 06/07/2015 đưa tin "Vụ chó cảnh Việt Nam ‘hóa gấu' gây chấn động Trung Quốc "Nội dung như sau:

Nữ diễn viên Maggie Q, đại sứ thiện chí về cứu hộ gấu ngựa ở Việt Nam, chơi với một chú gấu con tại trung tâm cứu hộ gấu Tam Đảo ở miền bắc Việt Nam hôm 14/5/2009. Tin về loại gấu ngựa ở Việt Nam thời gian qua đã xuất hiện nhiều trên báo chí quốc tế vì tình trạng ngược đãi loài này trong khi nuôi chúng trong điều kiện tồi tệ để lấy mật.
Một người Trung Quốc mới đây đã bàng hoàng khi phát hiện ra rằng hai con chó cảnh màu đen mua trên biên giới Việt Nam hai năm hóa ra lại là gấu ngựa.
Người đàn ông họ Vương sống ở tỉnh Vân Nam giáp với biên giới Việt Nam cho báo chí Trung Quốc biết rằng năm 2013, một người đàn ông Việt Nam tới mời ông mua và bảo đây là loại chó trông nhà rất cừ.
Ông Vương sau đó chăm sóc hai con vật rất kỹ càng, tắm rửa cho chúng hàng ngày. Nhưng khi chúng càng lớn, ông nhận thấy chúng không giống chó thường.
Báo chí Trung Quốc trích lời ông nói rằng hai con vật ông mua có biểu hiện bất thường, đói rất nhanh và bắt cả gà nuôi để ăn.
Một ngày ông tới xem triển lãm về động vật hoang dã tại địa phương và khi ấy, ông mới thực sự hay biết rằng ông đang nuôi hai con gấu nằm trong ‘sách đỏ’ và được nhà nước bảo vệ.
“Tôi rất yêu chúng. Một số người đã đề nghị mua với giá cao nhưng tôi không bao giờ đồng ý bán chúng,” ông Vương nói.
Người nông dân này sau đó đã liên hệ với cảnh sát môi trường của Trung Quốc, và mới đây, hai chú gấu đã được đưa tới Trung tâm Cứu hộ và Phục hồi Động vật hoang dã Vân Nam.
Quan chức của trung tâm này cho biết hai chú gấu, một đực và một cái, khoảng 3 năm tuổi, và hiện trong tình trạng sức khỏe tốt.

Tin về loại gấu ngựa ở Việt Nam thời gian qua đã xuất hiện nhiều trên báo chí quốc tế vì tình trạng ngược đãi loài này trong khi nuôi chúng trong điều kiện tồi tệ để lấy mật. 

 Theo Xinhua, South China Morning Post, China News
 http://www.voatiengviet.com/content/vu-cho-canh-viet-nam-hoa-gau-gay-chan-dong-trung-quoc/2848953.html

Chuyên thế thôi, có gì mà làm ầm ĩ. Việt Nam ta có câu "treo đầu dê, bán thịt chó' là vốn tổ truyền của một số dân Việt Nam, mà gần như phổ biến. Sau 1975, tôi đi lấy hàng  gạo lúa về bán tại nhà. Ra chợ tôi đi dạo khắp nơi. Tính tôi thích trồng cây và nuôi loài vật. Tôi thích nuôi vịt xiêm vì to lớn, thịt béo chứ không gầy ốm như vịt thường. Bữa nọ, tôi thấy một đứa bé ôm một con vịt xiêm mẹ với đàn con năm sáu con. Con vịt con trèo lên vịt mẹ đùa nghịch vui vẻ. Tôi bèn mua lấy mang về. Ba ngày sau, vịt con đổi lông thành vịt thường. Tôi vào chợ thì không thấy thằng bé đâu nữa!
 Ở Việt Nam từ vùng giải phóng cho đến vùng tề, trên đường cái quan thường có những tiệm phở. Saigon, Huế cũng vậy. Nhưng mấy ai biết đó là thịt trâu hay thịt ngựa? Tại vùng Việt Cộng, sau khi chia ruộng rồi đi xuống HTX, cộng sản đưa máy cày về, tuyên bố từ nay ta thoát ach trâu cày. Có máy cày, cần gì trâu bò, thế là ngày đêm ta liên hoan, vật trâu bò ăn thịt. Vài tháng sau, đảng thu máy cày, dân ta lại phải cày thay trâu. Lại nuôi trâu bò. Nhưng nông dân tìm cách làm cho trâu bò bị bệnh, hay thương tật để cùng nhau liên hoan. Tại miền Nam, ta phải nhập cảng trâu bò, cho nên thịt bò rất hiếm. Xưa nay ta ăn phở bò đúng ra phải nói là ăn phở ngựa hay phở trâu. 

Sau 1975, quốc tế viện trợ thực phẩm cho Việt Nam nhưng các cô bà mậu dịch được lệnh xé bỏ nhãn hiệu Mỹ, Pháp và nói là đồ Liên Xô viện trợ.  Đó cũng là cách treo đầu dê bán thịt chó của cộng đảng.

Trong xã hội cộng sản hàng thật cũng chết. Đã thế , cộng sản còn bày ra nhiều trò đê tiện, gian manh khác để lừa dối dân như chuyện mua sữa được Trần Đĩnh kể như sau:

Một chiều xếp hàng mấy tiếng ở Bách hoá tổng hợp mua săm lốp xe đạp Sao Vàng theo tem phiếu một đời xe may mới được cấp một lần, tôi chứng kiến một cảnh chắc chắn khắp thế giới không đâu có.

Cách chúng tôi đám người mua xăm lốp chừng mười mét là quầy sữa. Bảy tám chị em còn trẻ nhấp nhổm chờ ở đó đã khá lâu. Chốc lại nhăn nhó hỏi cô bán hàng sao lâu thế, con em ở nhà chẳng có người trông. Nghe đâu bị giữ ở đây bốn tiếng, chị em đã gọi đây là Hoả Lò ngoại trú. Khoảng nửa giờ sau, một người đàn ông thấp, vạm vỡ, hai cánh tay trần xăm xăm đi tới, miệng nói lớn. “Trật tự, lần lượt từng người, xếp hàng vào… Nào, đúng là đã chờ đủ bốn tiếng chứ?” vừa nói vừa nhặt một tờ giấy ghi tên những người đến vào giờ nào giờ nào để ở trên quầy lên xem. “Ai không đủ bốn tiếng thì về hôm khác đến…”.

Một ông xếp hàng cạnh tôi nói khẽ: Sửa trụ sở y tế phường nên chị em phải đem vú đến chỗ chợ búa thử thách xem tươi hay héo, rắn hay nhão. Chúng nó cấm về nhà vì sợ chị em cho con bú hay vắt kiệt sữa đi… Chốc sẽ còn bắt chị em uống nước thật nhiều cho sữa dễ rỉn ra.

Tôi thật sự không tin vào mắt mình. Những bà mẹ trẻ lần lượt trật vú ra cho người đàn ông bóp kiểm tra trữ lượng sữa sẽ nuôi các Phù Đổng tương lai. Hai tay hai bầu, mắt chằm chằm vào núm vú, anh ta nói:

– Cố nhịn đau đấy, tôi nhẹ tay thì lại bảo tôi ngoắc ngoặc, thiên lệch…

Cô bán hàng bên cạnh bỗng bình giá: “Bốn hộp!”. Người mẹ vừa nghiến răng xoa ngực vừa vội kêu lên: “Ối, bốn hộp thì con em bú sao đủ, tiền đâu mua sữa phe, khổ con em…”

Tôi quàng lốp vào cổ vội lách ra. Nghĩ đến tít xã luận báo Nhân Dân: “Hà Nội, thủ đô của phẩm giá con người” mà không thể không rủa thầm bố tiên sư nhà nó!  […]

Ít lâu sau, mấy chị em ở báo cho hay tay bóp vú ăn lương kia bị vợ li dị. Quen thói hoá thành quỷ bạo dâm với ngay vợ.

Cũng cho hay hôm nọ y tế lộ ra bí mật quốc gia là 90 % trẻ sơ sinh của ta bị ỉa chảy. Loại cho bóp vú được tám hộp sữa Liên Xô cũng điêu đứng. Sữa Nga để quá ba ngày là kém phẩm chất. Ăn vội được ba hộp còn năm lại đem ra Hàng Buồm cho phe đỡ hộ. Sữa Similac Nga ăn vào là trôn tháo cống ồ ồ ngay.(Trích Chương 40 trong "Đèn Cù" của Trần Đĩnh) 
Ngoài ra biết bao chuyện giả thật khác nữa. . Bác Hồ đâu học hết Tiểu học mà  khoe học Quốc Học Huế là trường Trung học , và   làm thầy dạy ở trường .Dục Thanh (Phan Thiết) ?. Bác Hồ nói tiếng bồi, làm sao  viết nổi một câu tiếng Pháp  mà xưng là Nguyễn Ái Quốc, và tác giả các bài văn của Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh. Bác sang Nga vỗ ngực là học trường Đông phương nhưng bà Sophie Judge Quinn tìm khắp nơi chẳng có tên bác!  Bác qua Trung Quốc lại tiếm danh Hồ Chí Minh của Hồ Học Lãm. Sau cùng, Nguyễn Tất Thành ( Nguyễn Ái Quốc )  chết năm 1932, Trung Cộng đưa Hồ Tập chương làm Hồ Chí Minh và lấy Ngục Trung Nhật Ký dương danh.. Quân Trung Cộng đánh Điện Biên Phủ và miền Nam, Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Chí Thanh.. chỉ là trướng giả cầy...
Đấy, tất cả đều là trò lục sở, treo dê bán chó, Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Hồ Chí Minh cũng một tuồng! Vậy thì chó hóa gấu cũng vậy thôi, có gì mà ầm ĩ!


Sunday, July 5, 2015


SƠN TRUNG * CA SĨ DUY KHÁNH

 
DUY KHÁNH, TÌNH YÊU HUẾ VÀ NỖI ĐAU VIỆT NAM  


Duy Khánh (1936-2003), tên thật Nguyễn Văn Diệp, còn có nghệ danh Tăng Hồng, Hoàng Thanh,quê ở làng An Cư, xã Triệu Phước , huyện Triệu Phong , tỉnh Quảng Trị, thuộc dòng dõi Quận công Nguyễn Văn Tường, Phụ chánh đại thần triều Nguyễn.Sau 1975, ông ở lại Việt Nam. Đến 1988, ông được bảo lãnh sang Hoa Kỳ, tại đây ông tiếp tục ca hát và sáng tác.  Thời gian ở lại Việt Nam, ông đau khổ, thường dùng men rượu để quên sầu. Vì vậy mà sức khoẻ của ông suy kém. Ông mất vào 12 giờ trưa ngày 12 tháng 2 năm 2003 tại bệnh viện Fountain Valley, Quận Cam, California, thọ 68 tuổi.
Ông nổi danh từ thập niên 1960, ban đầu với những bài hát mang âm hưởng dân ca, nhạc  quê hương, về sau ông được xem như là một trong bốn giọng nam nổi tiếng nhất của nhạc vàng thời kỳ đầu ("tứ trụ nhạc vàng"), ba người còn lại là: Nhật Trường, Hùng Cường, Chế Linh.
 Khoảng 1960, tôi được nghe Duy Khánh hát trong một buổi văn nghệ tại Huế. Tôi rất ngạc nhiên về giọng hát ngân  dài và cao vút của Duy Khánh. Ông không những là một ca sĩ thượng thặng mà còn là một nhạc sĩ hữu danh  với hơn 30 ca khúc. Tại Huế có nhiều nhạc sĩ, ca sĩ nhưng theo tôi Duy Khánh là người đậm đà chất Huế nhiều nhất. Thứ nhất là ông có nhiều bản nhạc, một số có chủ đề về Huế, về quê hương miền Trung như Ai ra xứ Huế , Thương về miền Trung, Lối về đất mẹ, Xin anh giữ trọn tình quê... Anh lên rừng núi cao nguyên.Sầu cố đô...
Ngoài chất Huế và miền Trung, những bài ca của ông nồng thắm tình người như
  • Anh về một chiều mưa (1964)
  • Bao giờ em quên (1963)
  • Biết trả lời sao (1965)
  • Chuyện buồn ngày xưa (1962)
  • Đâu bóng người xưa (1961)
  • Đêm bơ vơ
  • Đêm nao trăng sáng (1959)
  • Điệu buồn chia xa
. Và một điểm đặc biệt nữa là nhạc của ông phản ảnh nỗi đau khổ của Việt Nam chiến tranh như các bản: Trên 4 vùng chiến thuật", Xuân này con không về, Đêm tiền đồn, Một Mai Giã Từ Vũ Khí,Tôi Sẽ Về, Mấy Độ Thu Về, Lính nghĩ gì, Người Anh Giới Tuyến...



Trong các bản nhạc của Duy Khánh, bản Huế đẹp, Huế thơ của ông sáng tác năm 1978 đã làm tôi xúc động nhất. Bài này nói lên cảm nghĩ của ông về Huế đẹp và Huế thơ trước 1975, và Huế tàn tạ, héo uá sau 1975. Cảm nghĩ của ông rất thực, và tình cảm của ông rất thiết tha và đau khổ của một con dân Huế, con dân Việt Nam khi sống thực trong chế độ cộng sản vô nhân. Sau 1975, nhiều nhạc sĩ quốc gia sáng tác về hiện tình đất nước, phần lớn là nỗi đau chia ly người yêu, mẹ già và quê hương, nhưng hình như không ai có tính cách hiện thực xã hội như nhạc Duy Khánh. Bản nhạc của ông có thể nói là xấp xỉ với các tác phẩm truyện ký hiện thực của Ngô Tất Tố, Vũ Trong Phụng, Nam Cao, Bùi Hiển...

Trong bản nhạc này, Duy Khánh tỏ ra một người nhận thức tinh tế và có một cảm tình sâu sắc về nỗi đau của một tù nhân sống trong trại tù Việt Nam vi đại dưới ách cộng sản tàn bạo và chuyên chế.

Cái làm cho dân Huế nói riêng và dân Việt Nam nói chung là hình ảnh các ông cộng sản dép râu nón cối, vừa thô lỗ, vừa mọi rợ quê mùa nhưng không kém sắt máu đã ngự trị Huế và miền Nam. Hình ảnh dép râu, nón cối thay thế cho đôi guốc thanh tao và đôi giày lịch sự của xã hội miền Nam là một ấn tượng  vô cùng tàn bạo và phản mỹ quan  trong bức tranh xã hội miền Nam.

Ôi "tiếng dép Trị Thiên não nuột đêm truờng" đã gây kinh hoàng cho Huế đẹp và thơ! Hình ảnh  đã làm cho dân Huế bi thương vì buồn cho đời mình tàn tạ, và thương cho Huế đã mất đi vẻ Huế đẹp và thơ của ngày nào thanh bình, không có bóng dáng cộng sản quê mùa, dã man, tàn bạo....Tiếng dép Trị Thiên đã làm dân Huế kinh hoàng thì cái cái giọng đặc biệt  của Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An và Bắc Kỳ 75 lại càng gây ra nỗi hãi hùng cho dân Huế và dân miền Nam.

Không riêng Huế mà toàn thể miển Nam vô cùng chán ghét dép râu, mũ tai bèo và nón cối. Đó là biểu tượng của dã man cho nên nhân dân ta có câu:
Đôi dép râu dẫm nát đời trai trẻ/  Nón tai bèo che khuất nẻo tương lai.

Từ khi có dép râu, mũ tai bèo và nón cối thì xứ Huế không còn nét đẹp và thơ. Tất cả đã mất và tác gkiả đau đớn không biết bao giờ xứ Huế tìm lại cái thiên đường đã mất:
 
Tiếng ai sầu thương ôi xót xa bên dòng Hương,
Chừ xa rồi Huế đẹp của mình ơi !
Cộng sản vào, miền Nam có một thay đổi lớn lao là họ bắt dân miền Nam ăn khoai sắn. Từ thời Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thủận Hóa, dân Huế chưa bao giờ phải ăn độn sắn khoai. Thời Pháp thuộc, nước ta xuất cảng lúa gạo. Sau 1945, cộng sản chiếm thôn quê, bao vây  thành thị, nhưng thành thị vẫn đủ gạo ăn. Huế sản xuất lúa gạo it, phải ăn gạo Saigon chở ra.



Sau 1955, Cộng sản dùng bọn Giải Phóng gây chiến tranh, chúng phá cầu, giật mìn, bắn sẻ, gây trở ngại giao thông . Vì vậy miền Nam thiếu lúa gao, chính phủ miền Nam phải nhập cảng gạo Mỹ, gạo Thái Lan. Còn Cộng sản, TỪ 1945, bao nhiêu  lua gạo chúng xuất cảng lấy tiền bỏ túi. Vì vậy mà lương thực cả nước thiếu thốn. Sau 1975,  cộng sản ra sức bóp cổ nhân dân Miền Nam bằng thuế Nông Nghiệp và các thứ thuế khác. Cộng sản bắt dân đóng thuế  nặng nề vườn cây ăn trái ư? Dân chúng chặt hết vườn cây ăn trái.

Việt cộng đánh thuế nông nghịệp nhiều gấp chục lần chính phủ quốc gia ư? dân chúng không thèm cày cấy nhiều nữa, chỉ làm đủ ăn. Thế là cộng sản thua, quay trở lại chính sách canh tác tự do như thời trước. Từ đó, thóc lúa lại sản xuất nhiều, và cộng sản lại xuất cảng lúa gạo. Không biết thời Tây ra sao, chứ thời này xuất cảng lúa gạo mà dân nhà nông phải khốn đốn, chỉ làm giàu cho bọn tư sản đỏ.
Trong khoảng 1980, dân đói, Cộng sản không nhập cảng lúa gao mà mua bo bo là thức ăn gia súc về cung cấp cho dân.  Khắp nơi dân đói. Ngày trước, dân Huế thường lên chùa Từ Đàm, Bảo Quốc phải qua dốc Nam Giao.

Còn trai gái rủ nhau leo núi hoặc đi ăn bánh bèo thì lên núi Ngự Bình. Huế không có núi cao nhưng có nhiều đồi, nhiều dốc. Dốc Nam Giao, nuí Ngự Bình, Dốc An Cựu, dốc Bến Ngự, dốc Phú Cam, dốc Trường Tiền. Đi thăm người yêu ở Nam giao bằng xe đạp thì phải mắm môi nín thở, đạp thật mạnh để leo dốc. Đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới đến nhà người yêu. Sau 1975, leo dốc Trường Tiền, Nam Giao là nỗi khổ vì bụng đói. Duy Khánh đã nói đúng thực trạng nghèo đói của Huế và Việt Nam:
Đường lên Nam Giao chừ mới thiệt là cao
Bao năm ni dài khoai sắn
tấm thân còm cõi mần răng mà leo cho nổi
Ngự Bình với lại Nam Giao dốc chừ mới thiệt là cao!
Tại Saigòn, dân đói, trẻ con bèn đổi lời nhạc " Tình đất đỏ miền đông " thành nhạc chế:

"Tổ quốc ơi, ăn khoai mì ngán quá.
Từ  giải phóng vô đây
Ta ăn độn dài-dài

Nhà nước ơi! Ăn khoai mì chán quá!
Giặc ngoài Băc vô đây, ta ăn độn hoài hoài"
Và dân chúng cũng truyền miệng những bài ca dao mới:
Ai lên vũ-trụ thì lên
Còn tôi ở lại ghi tên mua mì
 Ai sinh cộng sản làm chi,
Bắt dân ta phải ăn mì, ăn khoai!
Ăn mà khổ thì mặc tất nhiên cũng khổ. Trước 1945, phụ nữ luôn mặc áo dài. Đi chợ, đi bán bún bò, chèo đò cũng bận áo dài. Sau 1945, người dân vùng Việt Minh phải cắt áo dài thành áo cộc cho có vẻ lao động. Không còn ai mặc áo trắng, quần trắng mà phải nhuộn đen hoặc nhuộm nâu cũng là để vô sản hóa và tránh máy bay Pháp  oanh kích. Tại Sài gòn, sau 1975, nhiều bà giáo, cô giáo mặc áo cộc đi dạy theo văn minh  cán bộ Bắc kỳ:
Áo trắng quần đen
Giống như con sen
Là cán bộ miền Bắc"
( Nhưng sau này, cộng sản lại theo vaăn hóa miền Nam, mang áo dài và Âu phục). Tại miền Nam, trước 1975, nhìn chung ai cũng ăn mặc lịch sự. Thời vua chúa cũng như thời Tây, không ai cấm đoán việc ăn mặc của dân chúng.Trước 1975, rất it cán bộ cộng sản đi Nga, Tiệp, Ba Lan. Nếu họ đi nhiều, họ phải biết cách ăn mặc của Sai Gòn cũng chỉ là âu phục mà bên Nga, Tiệp,Ba lan cũng vậy mà thôi. Họ cho rằng họ  là mẫu mực , là đạo đức cách mạng, tác phong cộng sản. Đào Duy Anh sau 1975 vào Sai gon, thấy con trai Sai gon để tóc khác miền Bắc, liền phán rằng thanh niên miền Nam  hư hỏng.

Vì họ ở trong rừng mặc đồ đen, vải dày cộm, khi ra thành thị, thấy dân miền Nam mặc áo mỏng lại hoa hoè, liền cho rằng phụ nữ miền Nam đồi trụy. Bởi họ cho rằng họ đạo đức cách mạng, còn dân Nam đồi trụy, họ hạ lệnh cho công an cầm kéo cắt phụ nữ mang ống quần loe! Rủi thay tên công an nọ gặp phải một anh thư miền Nam, chị ta tức giận, cởi tuột quần úp vào đầu thằng công an. Rốt cuộc cộng sản không dám đả động đến lông chân phụ nữ miền Nam.(Cũng khá khen tạiSaigon còn có những cán bộ tốt, biết tiến thoái, còn ngoài Trung và Bắc hành động như vậy là bị giết hoặc bị tù mọt gông!)
Saigon thì phóng khoáng hơn, còn các tỉnh là một màu tang thương. Con người, y phục, phong thái và quang cảnh cũng đổi khác như lời thơ Ôn Như hầu:
"Phong trần đến cả sơn khê,
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này"
 Duy Khánh đã tả rất đúng, rất thực màu đen và cảnh sắc tàn tạ, nghèo nàn của đất nước từ khi công sản vào chiếm miền Nam:
Đông Ba, Gia Hội quanh quanh đường vô Thành Nội
gió dập mưa vùi. ..Ơ ... ơ ... O ơi o, Xưa lên Kim Long xưa về Vỹ Dạ
Nón lá nghiêng nghiêng o cười thong thả
Áo o thì trắng quá nhìn không ra
Tại răng chừ áo cụt lại là mầu đen?

Cảnh vật u buồn, lòng người càng đau khổ. Cái chính là tâm.Khi tâm u buồn thì cảnh vật sao mà vui cho được như Nguyễn Du đã nói: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?"
 Huế làm sao vui được khi mười nhà thì tám nhà có người đi tù?"Miền Nam làm sao vui được khi quân cộng sản coi ta như chó như trâu? Huế và miền Nam vui sao được khi 90% dân chúng thất nghiệp phải bán bàn ghế, bát chén để ăn dần? Vui sao được khi ta sống trong cảnh lo sợ bị tù, bị giết, bị đói? Vui sao được khi ta phải sợ cảnh con tố cha, vợ đấu chồng, bạn bè vu khống nhau? Vì vậy mà con người Huế, con người miền Nam mất nụ cười, mất bạn bè, mất niềm tin. Đi đâu cũng cũng phải nhìn trườc nhìn sau, và nói năng phải giữ ý, giữ lời.
Người về ăn nói ngược xuôi,hỏi chừ ai biết tin ai
Tiếng cười răng đã im lìm
Đi mô (mà) tất tưởi mắt nhìn ngược xuôi
Bài thơ côi nón mô rồi
Mái tóc thề thốt gọi mời cũng đi mô !

Nói tóm lại, sau 1975, Huế đẹp và Huế thơ không còn nữa. Duy Khánh luyến tiếc, và ông chỉ biết kêu gào như con quốc kêu mùa hạ:
Huế đẹp Huế thơ ơi !
Huế mộng Huế mơ ơi!
Hỏi rằng khi mô chớ chừ mần răng
mà có Huế đẹp Huế thơ ơi
Huế mộng Huế mơ
Duy Khánh là một ca sĩ, một nhạc sĩ, một con người chứa chan tình yêu  quê hương . Nhạc của ông mang tính cách trữ tình nhưng là những lời kết án mạnh mẽ  chế độ cộng sản bạo tàn. Nhạc của ông mang hai tính chất lãng mạn và hiện thực.Rất it nhạc hiện đại mang cả hai tính chất đó như nhạc của Duy Khánh. Về nghệ thuật . Cái đặc sắc của Duy Khánh là giọng ca của Huế  pha lẫn tiếng hò của Huế, của miền Trung. Đó là ưu điểm nhưng cũng là khuyết điểm vì bài ca của ông có nhiều tiếng địa phương cho nên trừ người miền Trung, còn người Bắc và Nam không thể hiểu rõ ý nghĩa của lời ca thắm thiết và sâu sắc của ông.


XIN NGHE BẢN " HUẾ ĐẸP HUẾ MƠ" QUA GIỌNG CA TÁC GIẢ DUY KHÁNH




VIỆT CỘNG VÀ TTP

 Chuyến Mỹ du của tổng Trọng và Hiệp ước TPP
Nguyễn Thu Trâm, 8406 - Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, một trong số lãnh đạo chóp bu của Đảng Cộng sản còn tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác-Lê nin, với lý tưởng cộng sản và xem Trung Cộng về căn bản là đồng minh chiến lược trong khi vẫn tiếp tục cảnh giác cao đối với Hoa Kỳ, sẽ công du đến Mỹ từ ngày 6 tháng 7 đến ngày 10 tháng 7 tới đây, nhằm vận động để Việt Nam được tham gia Hiệp Định Đối Tác Kinh Tế Xuyên Thái Bình Dương TPP, nhằm cứu vãn nền kinh tế đang đối mặt nguy cơ sụp đổ, bởi TPP được xem là một chiếc phao cứu sinh mang tính sống còn đối với chế độ cộng sản Việt Nam.
1. Tại sao TPP có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với nền kinh kế Việt Nam
Hiệp Định Đối Tác Kinh Tế Xuyên Thái Bình Dương - Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement - TPP- là một thỏa thuận thương mại tự do với mục đích hội nhập các nền kinh tế thuộc khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Thỏa thuận ban đầu được các nước Brunei, Chile, New Zealand và Singapore ký vào ngày 03 tháng 06, 2005 và có hiệu lực ngày 28 tháng 05, 2006. Hiện tại, thêm 5 nước đang đàm phán để gia nhập, đó là các nước Australia, Malaysia, Peru, Hoa Kỳ, và Vietnam. Mục tiêu ban đầu của Hiệp định là giảm 90% các loại thuế xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên trước ngày 01 tháng 01, 2006 và cắt giảm bằng không tới năm 2015. Đây là một thỏa thuận toàn diện bao quát tất cả các khía cạnh chính của một hiệp định thương mại tự do, bao gồm trao đổi hàng hóa, các quy định về xuất xứ, can thiệp, rào cản kỹ thuật, trao đổi dịch vụ, vấn đề sở hữu trí tuệ, các chính sách của chính quyền. Mục tiêu tối thượng của TPP là xóa bỏ các loại thuế và rào cản cho hàng hóa, dịch vụ xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên. Vì lý do này TPP là một hiệp định mang tính bước ngoặt, sẽ làm thay đổi cuộc chơi trong nền thương mại Việt Nam và Quốc tế.
2. Cơ hội nào cho Việt Nam có thể tham gia TPP?
Trong chiến lược xoay trục về Thái Bình Dương, rõ ràng rằng Hoa Kỳ không muốn Việt Nam bị xáo động lớn về chính trị. Nói cách khác,Việt Nam ổn định là nhu cầu lớn của Hoa Kỳ. Dù vậy, việc vi phạm nhân quyền hiện vẫn đang là một cản trở Việt Nam để được Hoa Kỳ chấp thuận cho gia nhập TPP.
Khẳng định TPP là một thỏa thuận thương mại cấp tiến và có tiêu chuẩn cao nhất từ trước đến nay trong lịch sử, tổng thống Obama một lần nữa cho thấy nhân quyền vẫn đang là trọng tâm trong chính sách bang giao và thương mại của Hoa Kỳ:
Khi chúng ta xem xét một quốc gia như Việt Nam, vẫn đang trong quá trình đàm phán. Lần đầu tiên, Việt Nam sẽ phải thực sự thay đổi chính sách và cải thiện tiêu chuẩn cho người lao động. Họ phải thiết lập được mức lương cơ bản. Họ phải thông qua luật về điều kiện an toàn lao động và bảo vệ công nhân.”
Trong đó, vấn đề thành lập công đoàn độc lập bảo vệ người lao động Việt Nam cũng được Tổng thống Hoa Kỳ Obama nêu rõ:
“Lần đầu tiên, Việt Nam sẽ phải phải để cho người lao động tự do thành lập công đoàn bảo vệ quyền lợi. Điều này cũng sẽ tạo ra sự thay đổi. TPP sẽ giúp tạo ra sân chơi công bằng và mang lại lợi ích cho người lao động Việt Nam. Đó chính là sự tiến bộ. Nhưng không có nghĩa là sự thay đổi điểu kiện lao động của công nhân Việt Nam sẽ ngay lập tức ngang bằng với điều kiện ở đây - Nike. Hay ở ngay Portland này. Nhưng đó là mục tiêu đúng đắn mà chúng ta đang hướng đến.”
Bày tỏ lập trường của chính phủ Hoa Kỳ đối với vấn đề nhân quyền như là một điều kiện tiên quyết để Cộng Sản Việt Nam có thể được xem xét nhằm được gia nhập Hiệp Định Đối Tác Kinh Tế Xuyên Thái Bình Dương TPP, thông điệp của tổng thống Obama cũng chính là một lời cảnh cáo nghiêm khắc đối với CSVN rằng:
"Nếu một quốc gia muốn tham gia vào hiệp định này, quốc gia đó phải đáp ứng được các tiêu chuẩn cao hơn. Nếu không đáp ứng, quốc gia đó sẽ bị loại. Việt Nam, hay bất kỳ quốc gia thành viên nào khác trong hiệp định này không đáp ứng được các đòi hỏi đó, họ sẽ phải gánh chịu các hậu quả tương ứng. Nếu phá vỡ các quy định, quốc giá đó sẽ phải gánh chịu các hậu quả thực sự. Điều này tốt cho các doanh nghiệp và người lao động tại Hoa Kỳ, bởi vì chúng ta đã có những tiêu chuẩn cao hơn so với nhiều nơi khác trên thế giới, giúp tạo ra một sân chơi bình đẳng.”
Vậy nên, tình trạng nhân quyền Việt Nam hiện vẫn đang tiếp tục tồi tệ, với rất nhiều những vụ đàn áp, bắt bớ giam cầm các nhà hoạt động nhân quyền và những tiếng nói đối lập trong thời gian qua với những bản án hết sức man rợ, rõ ràng đã khiến cho cơ hội để cộng sản Việt Nam được trở thành thành viên của TPP càng trở nên mong manh hơn bao gờ hết.
3. Liệu Việt Nam sẽ đổi mới toàn diện như các nước cộng sản Đông Âu trước đây, sẽ thay đổi hẳn thể chế chính trị từ độc tài đảng trị thành chế độ dân chủ đa nguyên, sau khi gia nhập Hiệp Định Đối Tác Kinh Tế Xuyên Thái Bình Dương TPP.
Một số nhà hoạt động nhân quyền trọng nước cho rằng nên ủng hộ việc Việt Nam gia nhập TPP bởi đây là cơ hội bằng vàng để Việt Nam thoát khỏi mọi ảnh hưởng cả kinh tế lẫn chính trị từ phía Trung Cộng và là một dịp may để Việt Nam có thể giữ vẹn toàn lãnh thổ, lãnh hải, để có thể thoát khỏi thảm họa Hán Hóa khi trở thành một đồng minh của Mỹ. Và một khi Việt Nam đã hội nhập vào cộng đồng các quốc gia dân chủ, đã gia nhập vào sân chơi thì nhất định Việt Nam phải cải cách dân chủ, phải tôn trọng nhân quyền, tôn trọng các tiếng nói đối lập và phải tôn trọng quyền lợi của người lao động.
Tuy nhiên, cũng rất nhiều người đã nhận định một cách sáng suốt rằng, nếu được gia nhập TPP, chế độ CSVN lại sẽ tiếp tục đàn áp bắt bớ đối lập như kịch bản từng xảy ra sau khi gia nhập WTO. Thậm chí, ngay khi Việt Nam đã được bầu vào Hội Đồng Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc rồi và hiện đang là thành viên thường trực của Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc thì Việt Nam vẫn ngang nhiên chà đạp lên các hiệp định mà họ đã ký kết tình. Tình trạng nhân quyền Việt Nam vẫn đang tiếp tục tồi tệ bởi những thủ đoạn đàn áp, bắt bớ tinh vi và có hệ thống, vẫn tiếp tục dàn dựng các kịch bản một cách trắng trợn để truy tố, giam cầm các nhà hoạt động nhân quyền bằng các tội danh hoặc "trốn thuế" hoặc "gây rối trật tự công công với hai xe đi hàng ba". Mặc dù gần đây phía nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam có cố tình bày tỏ thiện chí với cộng đồng quốc tế bằng cách "trả tự do và cho đi Mỹ chữa bệnh" đối với các nhà hoạt động nhân quyền Trần Khải Thanh Thủy, Cù Huy Hà Vũ và Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, cũng như việc phóng thích người tù thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu, hay cho người tù lương tâm Đinh Đăng Định về nhà để chết sau khi đã ra tay đầu độc tiếng nói đối lập này, hay gần đây là việc trả tự do trước thời hạn cho tù nhân lương tâm Lê Thanh Tùng... xét cho cùng cũng chỉ là hành động "chịu đấm ăn xôi"của cộng sản như là một bản chất cố hữu của người cộng sản mà thôi. Người Việt Nam chúng ta đã mặc lừa cộng sản quá nhiều lần rồi, nhất định chúng ta sẽ không còn quá ấu trĩ để tiếp tục bị chúng lừa bịp thêm nữa.
Do vậy, về phía người dân Việt Nam trong và ngoài nước, chúng ta cần có thái độ dứt khoát và trách nhiệm trong vấn đề này. Chế độ độc tài toàn trị do đảng cộng sản Việt Nam cầm đầu hoàn toàn không xứng đáng gia nhập TPP. Chúng ta chỉ có thể ủng hộ Việt Nam gia nhập TPP khi và chỉ khi Việt Nam là một nước dân chủ đa nguyên và mọi quyền lực thực sự nằm trong tay người dân, mọi vấn đề liên quan đến chủ quyền quốc gia, đến vận mệnh của dân tộc đều do người dân quyết định chứ không phải do nhóm lợi ích, độc quyền cai trị đất nước và ngồi xỗm trên pháp luật quyết định như trong chế độ cộng sản hiện nay.
Trong dịp gặp Tổng Thống Obama tại tòa Bạch Ốc vào ngày 7 tháng 7 tới đây, chắc chắn tổng Trọng, một tên trùm cộng sản Việt Nam sẽ đi bằng đầu gối để van xin chính phủ Hoa Kỳ ban cho Cộng Sản Việt nam một ân huệ được gia nhập TPP nhằm cứu lấy chế độ cộng sản đang trên đà sụp đổ. Nhưng cộng đồng người Việt Quốc Gia tại Hoa Kỳ cũng như trên toàn thế giới chắc chắn sẽ ngăn chặn mọi hành vi sớm đầu tối đánh của cộng sản trong nổ lực tiếp tục lừa bịp chính phủ Hoa Kỳ và cộng đồng quốc tế, nhằm kéo dài sự độc tôn thống trị đất nước của tập đoàn cộng sản Việt Nam.
Boston, Massachusetts, ngày 5 tháng 7 năm 2015.

TPP có thể khiến cho điều kiện lao động ở Việt Nam tồi tệ hơn

Michelle Chen - Bao Thien (Danlambao) lược dịch - Thị trường tự do sẽ không phá vỡ được sự lệ thuộc của các nhà xưởng gia công tại đất nước này khỏi ách lao động cưỡng bức, lao động trẻ em, và chế độ tiền lương ảm đạm.
Đó là một hành trình dài vượt qua hậu quả của cuộc nội chiến ở Việt Nam, chuyển đổi từ thái độ phản đối sự xâm lăng của người Mỹ để hòa mình vào đế chế của chủ nghĩa Tân Tự Do kiểu Mỹ. 
Khi Tổng thống Obama đến thăm trụ sở chính của Nike tại Oregon và đưa ra dự báo TPP chính là một mối lợi cho quá trình tạo công ăn việc làm tại Hoa Kỳ, điều này được diễn giải ở Việt Nam thành ra một vận đỏ cho các công nhân đang nhận lãnh đồng lương thấp tại các nhà máy, những người làm công chiếm 1/3 lực lượng lao động toàn cầu của của thương hiệu này. 
Hiệp ước thương mại khổng lồ này được cho là giúp cân bằng các đối tác thương mại, và xem như mang lại các điều kiện bảo hộ cho người lao động Việt Nam theo đúng tiêu chuẩn quốc tế. Các bộ trưởng thương mại khẳng định những thỏa thuận như thế này sẽ bắt buộc các quốc gia thành viên cam kết cải thiện điều kiện lạo động, môi trường, và các quy định an sinh xã hội. Nhưng thật ra, lý do các nhà kinh doanh có xu hướng quan tâm đến những thỏa thuận tự do thương mại, và các công đoàn lao động có xu hướng ghét bỏ những thỏa thuận này, chính là sự tự do hóa thương mãi toàn cầu cho phép các công ty đa quốc gia dốc sức khai thác tận cùng sự thiếu hụt điều kiện bảo hộ cho người lao động thuộc các quốc gia nghèo khó. 
Trong khi các liên minh người lao động tại Hoa Kỳ lên án các thỏa thuận thương mại đang trong đàm phán sẽ dẫn đến tình trạng chuyển dịch công ăn việc làm ra khỏi biên giới Hoa Kỳ, thì cuộc khủng khoảng về công ăn việc làm đáng nói hơn chính là những loại công việc được chuyển đến những nơi nằm xa ngoài biên giới Hoa Kỳ. Tự do hóa thương mại đã phá vỡ ngành sản xuất nội địa Hoa Kỳ, và ảnh hưởng tiên liệu được của TPP lên người lao động tại Hoa Kỳ không đáng là gì khi so sánh với dòng thác “cơ hội” tạo ra cho người lao động tại Việt Nam, những người đang phải tranh đua giành giật các hợp đồng gia công với những đối tác có điều kiện cạnh tranh tốt hơn ở Trung Quốc cho các hợp đồng từ các công ty Tây phương. 
Hiển nhiên điều này có nghĩa là “cạnh tranh” theo chiều hướng đi xuống đối với điều kiện an toàn lao động và đảm bảo công ăn việc làm - minh chứng cho việc này là vụ đình công lớn xảy ra ở công ty giày Yue Yuen ở Đông Quản, Trung Quốc đầu năm nay do những lo sợ về kế hoạch chuyển dịch cơ cấu việc làm sang các nước láng giềng có mức lương thấp hơn (vâng, nghe có vẻ quen thuộc?) 
Vì thế, khi những công ăn việc làm trong chuỗi cung ứng hàng hoá cho Nike chuyển đến Việt Nam, một trong những nơi cung cấp chủ yếu hàng hóa cho công ty Hoa Kỳ này, họ mang đến đó những điều kiện làm việc hà khắc. Xem xét điều kiện của một công ty lớn có uy tín thì họ sẽ chọn lựa những nhà cung cấp hàng hóa cho họ với điều kiện đủ chuẩn nhân đạo, nhưng họ vẫn duy trì cách thức hợp tác với những nơi gia công có chế độ làm việc trả lương cho công nhân thấp với chỉ vài đô la một ngày (thấp hơn mức 1/3 mức lương căn bản), theo số liệu báo cáo của Liên minh Quyền lợi Người lao động (WRC). 
Các nhà xưởng thiết kế và quy hoạch nghèo nàn tại châu Á đầy rẫy những mối nguy như dễ cháy nổ, kết cấu kém an toàn, và những hiểm nguy đe dọa khác trong môi trường làm việc – tất cả giúp mang lại “hiệu quả chi phí” hơn là kiến tạo việc làm cao hơn như có thể xem xét tại Oregon. Nike thuê hơn 330.000 công nhân người Việt, nhiều người trong số họ là những lao động nhập cư từ các vùng nông thôn bị đô thị hóa, và trả công cho họ chừng 132 USD một tháng. 
Các nhà hoạt động nhận xét rằng để tạo ra thế thắng cho người lao động trong thương mại toàn cầu hơn là khiến cho họ bị thiệt thòi, các chính phủ phải đặt các chuẩn mực về thương mại ngang hàng với việc cải cách điều kiện cho người lao động, chẳng hạn như áp dụng các biện pháp để ngăn chặn việc tận dụng nhân công từ các trại lao động cải tạo cưỡng bức đối với người nghiện, việc này phải được xem như là một dạng bóc lột tàn độc đối với hàng ngàn người. 
Mặc dù ảnh hưởng chi phối của hệ thống chính trị lên nền kinh tế khó rõ ràng, nhiều người lao động đã báo cáo rằng họ bị “đối xử như xúc vật” trong khi họ phải sản xuất ra nhiều loại hàng hóa như banh da bóng đá, hạt điều thô, và đôi lúc phải làm việc cho cả những nhà thầu tư nhân. 
Báo cáo gần đây của Diễn đàn Quyền lợi Người lao động Quốc tế về lao động cưỡng bức tại Việt Nam khuyến cáo rằng trong quá trình đàm phán các hiệp ước thương mại, các nhà đàm phán Hoa Kỳ “không nên trao cho phía Việt Nam nhiều quyền lợi xâm nhập thị trường nội địa trừ khi chính phủ Việt Nam cam kết xóa bỏ chế độ lao động cưỡng bức và đóng cửa các trại giam cầm cai nghiện tập trung”, và nên xem xét đặt mặt hàng hạt điều thô Việt Nam vào danh sách đen của Bộ Lao động đối với các sản phẩm liên quan đến lao động cưỡng bức hoặc lao động trẻ em. Ngoài các trại lao động bắt buộc đối với tù nhân, quyền lợi của người lao động ngày một xấu đi do bởi bị lạm dụng thường xuyên. 
Theo một báo cáo năm 2013 của WRC, họ phải làm việc suốt ngày cho một ca, cưỡng bức lao động, và lao động trẻ em là những việc phổ biến xảy ra trong những nhà xưởng, nơi cung cấp chủ yếu các mặt hàng cho nhiều nhãn hiệu phương Tây. Người lao động bị bao vây trong vòng tròn thiên la địa võng như lương bổng bị cắt xén và bị phân biệt đối xử giới tính và điều kiện thai sản. Nếu họ phản đối điều kiện làm việc và thiết lập ra tổ chức công đoàn độc lập khỏi sự kiểm soát của nhà nước thì họ sẽ phải đối diện với rủi ro “bị sa thải, đưa vào danh sách đen, bị xâm hại thân thể và bị bắt giam”. 
Các nhà hoạt động nhận định rằng các tổ chức công đoàn nhà nước luôn phản ứng nhanh nhạy và ngăn cản những hoạt động mang đến lợi ích cho người lao động (con số thống kê các vụ đình công trên khắp Việt Nam không ngừng gia tăng từ 420 vụ lên 980 vụ trong thời gian từ năm 2011 đến 2012). Trong những năm gần đây, những vụ đình công tự phát kéo theo hàng ngàn người lao động tham gia tại những nhà xưởng gia công cho các nhãn hiệu như Keds, Adidas đã khiến cho nhiều người bị bắt giữ, bị đàn áp, và bị giam giữ không xét xử. Theo WRC “trong khi có hơn một nửa số doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có các thỏa ước lao động tập thể, thì gần như tất cả số còn lại chỉ đơn giản là đưa ra điều kiện và điều khoản mà người lao động được hưởng trong quy định của Luật Lao Động mà thôi”. Họ có thể chẳng đạt được bất kỳ điều kiện gì cho họ sau đó, bởi vì theo giải thích của một công nhân được WRC dẫn lại: “chúng tôi có thể làm việc liên tục và không còn sức khỏe, nhưng khi có bất kỳ người nào đứng lên yêu cầu được giảm giờ làm ngoài ca thì họ lập tức bị sa thải”. 
Dù TPP đang được xem xét trên bàn nghị sự tại Quốc Hội Hoa Kỳ, các nhóm bảo vệ quyền lợi người lao động vẫn tiếp tục thúc ép Việt Nam nhằm có được các điều kiện cải thiện đối với điều kiện căn bản cho người lao động trước khi ký kết bất kỳ một thỏa thuận thương mãi nào. Hai nhà hoạt động công đoàn Jim Keady và Trung Doan vừa qua đã đệ trình một thỉnh nguyện thư kêu gọi Quốc Hội Hoa Kỳ hãy tận dụng công cụ đàm pháp đối với thỏa thuận thương mãi này để thúc đẩy Việt Nam phải tuân thủ các tiêu chuẩn của Tổ chức Lao động Quốc tế, như gia tăng tiền lương thêm “50% - mức đáng kể để cải thiện cuộc sống của hàng trăm ngàn gia đình người lao động”. Doan, một nhà hoạt động sống ở Australia, cho biết các đồng sự của ông ở Việt Nam đã nổ lực thành lập công đoàn độc lập ở đó nhiều năm trước đây nhưng “tất cả họ điều bị ngăn cản bằng đàn áp trước khi các tổ chức này có thể hoạt động”. 
Khi được hỏi về điều kiện của người lao động trong nội dung TPP, Bộ trưởng Lao động Tom Perez cho phóng viên tờ The Washington Post biết rằng việc chấp hành các nguyên tắc về lao động của phía Việt Nam có thể được khuyến khích thông qua áp lực lên những nhà làm luật tại Việt Nam “để tạo ra những thay đổi đáng giá trong các bộ luật của họ”, không dựa trên các yêu cầu bắt buộc mà chỉ là yêu cầu tự đáp ứng tự nguyện, theo cách có thể được xem như “kế hoạch ngẫu nhiên” (có hay không có kết quả còn tùy thuộc vào tình hình thực tế). 
Giám đốc điều hành của WRC Scott Nova nhận định về sự phiền toái trong cái gọi là “ngẫu nhiên” đối với các nổ lực không thành khi giải quyết các bất cập của người lạo động như sau: “Việt Nam vẫn được xem là một trong những quốc gia tồi tệ nhất trên thế giới xét về điều kiện làm việc tại các nhà xưởng, và tổ chức công đoàn độc lập bị ngăn cấm bởi pháp luật. Các đòi hỏi về quyền lợi cho người lao động, sẽ được bao hàm trong nội dung của TPP, đã có hồ sơ theo dõi đầy trong thời gian dài chứng minh tính không hiệu quả của nó, và nó hoàn toàn không có một chút xơ múi gì trong việc cải thiện sự đối xử với người lao động ở một nơi như Việt Nam” 
Và với quy chế đàm phán nhanh dường như là một cách để đẩy người lao động ở Việt Nam vào một thế quen thuộc đáng lo ngại đã từng xảy ra trước đây: năm 2012 WRC đã ghi nhận việc Bộ Lao động “đã đưa danh mục hàng may mặc của Việt Nam vào danh sách các sản phẩm được sản xuất bởi lao động cưỡng bức và lao động trẻ em, khiến cho Việt Nam là một trong bảy quốc gia trên thế giới bị quy kết điều kiện tồi tệ này”. 
Và với tình hình này, Việt Nam đang được tham gia vào một nhóm danh giá khác bao gồm nhiều quốc gia: một trong những đối tác thương mại đáng tin cậy của Hoa Kỳ.
Nguồn: 
Bản tiếng Việt:

No comments: