Wednesday, November 16, 2016

PHẬT GIÁO * HÀNH TRÌNH TỰ DO *

PHẬT GIÁO SAU 30-4-1975

Cuộc đàn áp quy mô Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất sau 30/4

Ỷ Lan, Phóng viên RFA, Paris
2015-04-27

Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
4892908803_c9f120b1b7.jpg
Từ trái sang phải: HT Thích Quảng Độ, Nhật Thường, Thích Nhật Ban, Đồng Ngọc, Thích Trí Lực, Thích Không Tánh tại TAND TPHCM tháng 8 năm 1995.
Photo courtesy of lehienduc.blogspot.com
Danh xưng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) ra đời tại Saigon ngày 4 tháng giêng 1964, sau cuộc đấu tranh đòi hỏi bình đẳng tôn giáo và tự do tín ngưỡng năm 63. Vì trước đó, Dụ số 10 của Pháp bó buộc phải hoạt động theo quy chế Hiệp hội.
Kể từ tháng 9 năm 75, cuộc đàn áp Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bắt đầu theo Chỉ thị số 20 của Đảng do ông Lê Duẩn ký năm 1960, khiến  Phật giáo miền Bắc bị tiêu vong. Nay đem thực hiện tại Miền Nam.
Cuối tháng 9 năm 75, Hoà thượng Thích Huyền Quang nhân danh Viện Hoá Đạo đã có văn thư phản đối Chủ tịch Cách Mạng Lâm thời về việc đập phá các tượng Phật lộ thiên.
Nhiều hiện tượng khác, như bắt treo hình Hồ Chí Minh trên bàn thờ tổ tiên, áp lực chư Tăng hoàn tục, hoặc đưa sang chiến trường Kampuchia, cấm treo cờ Phật giáo trong các chùa viện, cưỡng chiếm các cơ sở văn hoá, giáo dục, từ thiện Phật giáo, như Cô nhi viện Quách Thị Trang, Viện Đại học Vạn Hạnh, v.v…, hàng chục nghìn Tăng Ni, Phật tử bị đưa vào trại Cải tạo.
Trong lịch sử Việt Nam, chưa có thời đại nào mà số lượng Tăng Ni, Phật tử bị cầm tù đông đảo như dưới triều đại Hồ Chí Minh.
Tình trạng đàn áp bức thiết khiến 12 Tăng Ni tự thiêu tập thể ngày 2-11 năm 75 tại Thiền viện Dược Sư, tỉnh Cần Thơ, dưới hàng biểu ngữ “Chết vinh hơn sống nhục“. Đại đức Thích Huệ Hiền để lại chúc thư yêu sách chính quyền Cách mạng thực hiện nhân quyền, tự do tôn giáo, chấm dứt đàn áp GHPGVNTN.
Tình trạng đàn áp có chủ trương và chính sách này, không ai lên tiếng rõ hơn Đức cố Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu. Năm Mậu Thân 68, ngài bị cộng sản bắt đưa lên rừng rồi đưa ra Hà Nội áp lực tuyên truyền cho chế độ, nhằm đánh lừa dư luận quốc tế là Phật giáo ủng hộ Bắc Việt. Thế nhưng, trở về lại miền Nam, ngài từ nhiệm tất cả các chức vụ mà Hà Nội gán cho, lại còn tố cáo đàn áp Phật giáo và thảm sát cố Hoà thượng Thích Thiện Minh. Sau đây là tiếng Ngài qua một băng thu âm, được đăng tải trên tạp chí Quê Mẹ tại Paris :
“Từ khi giải phóng đến nay, Phật giáo đồ chúng tôi bị bao nhiêu khổ đau tan tác. Đi bất cứ đâu, đạo khác thì chúng tôi không biết, chớ về gặp các nhà chùa Phật giáo, cán bộ, bộ đội phát biểu “Hòa bình Độc lập rồi, tu mà làm gì nữa? Tuân thủ thờ Cách mạng hơn là thờ Phật“.
“Bắt đầu từ đó, sự vận động, khủng bố không cho họ được làm lễ. Phá hoại tượng Phật lộ thiên ở Gia Lai, Kontum, Ban Mê Thuột, Biện Hồ, Vũng Tàu, Quy Nhơn, Quảng Ngãi… Bộ đội cột giây lên kéo xuống, đập vỡ tan hết.
“Sau đây còn bắt các vị tu sĩ lấy lý do mấy ông Sư đó phản động theo CIA, theo Mỹ, theo Nguỵ. Rồi lần lượt bắt cho đến các vị lãnh đạo trong Viện Hoá Đạo nữa, Thượng toạ Huyền Quang, Thượng toạ Quảng Độ, rồi đến bắt Thượng toạ Thiện Minh nữa, để Thiện Minh chết nữa.
“Thiện Minh không có tội chi hết, thì tại sao chính phủ làm cái việc lạ lùng hết sức. Đi bắt tội người không có tội chi hết là Thiện Minh mà lại dung tha cho người có tội là cơ quan. Tôi thì không biết rõ luật quốc tế lắm. Nhưng tôi đoán chắc rằng, luật quốc tế không cho phép để cho người bị bắt chết trong trại giam. Mà đây Thiện Minh đã chết trong trại giam. Cơ quan nói Thiện Minh chết vì xuất huyết não. Tôi có thể kết luận, Thiện Minh chết không phải vì xuất huyết não, mà vì bàn tay tội ác chính trong cơ quan tạo ra. Là bởi được tin Thiện Minh chết, Viện Hoá Đạo về liền, thấy các ông bỏ trong hòm mà liệm rồi, chỉ chừa cái mặt. Viện Hoá Đạo xin đem về chôn cất, các ông không cho.
“Tại sao vậy ? Đây thấy rõ ràng quá. Rõ ràng như hai với hai là bốn. Là trong người của Thiện Minh đầy cả thương tích. Muốn che đậy thương tích đó, muốn che đậy lấp liếm cái việc làm của mình, bằng cách bỏ trong hòm liệm đi. Bởi vì sợ người ta thấy những cái vết thương mà các ông đã đánh đập.
“Là một công dân, tôi không thể để cho cơ quan làm những việc bất chính như vậy. Tôi xin nhắc lại ba điều yêu cầu:
“Một là yêu cầu chánh phủ trả tự do cho tất cả các tu sĩ bị bắt giam cầm đã lâu mà không can án;
“Thứ hai là đưa cái chết của Thượng toạ Thiện Minh ra ánh sáng, nghĩa là phải đưa người giết Thiện Minh ra ánh sáng. Không nói lôi thôi gì hết. Có người giết;
“Thứ ba phải chấm dứt tình trạng khủng bố các tín đồ ở các địa phương“.
Ngày 16-4-1977, Uỷ ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra Thông báo kêu gọi Phật tử Saigon đấu tranh chống lại GHPGVNTN. Thông báo cho rằng, “trong giới lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất phái Ấn Quang có nhiều người vốn có mưu đồ xấu chống cách mạng, chống Cọng sản” (…) “Số này đã thao túng Giáo hội âm mưu kích động Phật tử chống lại các chính sách của Nhà nước”. Thông báo còn hăm doạ ra tay đàn áp.
Hăm doạ biến thành sự thật, bảy vị lãnh đạo Viện Hoá Đạo bị bắt giam. Hoà thượng Huyền Quang, Quảng Độ bị giam 20 tháng, nhờ áp lực quốc tế mới được thả nhưng bị quản chế. Hoà thượng Thích Thiện Minh bị tra tấn đến chết tại Trại thẩm vấn X4, đường Nguyễn Trãi, Saigon, như Hoà thượng Đôn Hậu tố giác.
Suốt 5 năm đàn áp, khủng bố, nhưng không thành công tiêu diệt GHPGVNTN. Năm 1981, nhà cầm quyền Cộng sản chuyển qua chiêu bài mới, gọi là Thống nhất Phật giáo“, thành lập “Hội Phật giáo Việt Nam” tại chùa Quán Sứ, Hà Nội, ngày 4-11để làm công cụ chính trị cho Đảng và Nhà nước. Ép buộc Tăng Ni, Phật tử thuộc GHPGVNTN phải gia nhập.
Ông Xuân Thuỷ, Bí thư Trung ương Đảng kiêm Trưởng ban Dân Vận chỉ thị cho ông Đỗ Trung Hiếu, cán bộ tôn giáo vận, thực hiện cuộc Thống nhất Phật giáo này. Ông giải thích cho ông Hiếu vì sao phải dẹp bỏ GHPGVNTN như sau :
“Quan trọng là Đảng không bao giờ lãnh đạo được Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, mà ngược lại Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trở thành một tổ chức tôn giáo rộng lớn có đông đảo quần chúng, là một tổ chức có áp lực chính trị thường trực với Đảng và chính phủ Việt Nam”.
Năm 1994, hối hận việc làm sai lạc của mình, ông cho phát hành tập sách “Thống nhất Phật giáo” nói lên tất cả sự thật và tiết lộ :
thichquangdo11-400.jpg
Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ ban hành Thông điệp Hãy bảo vệ Thăng Long nhân 1000 Năm Thăng Long
“Cuộc thống nhất Phật giáo lần này, bên ngoài do các Hòa thượng gánh vác, nhưng bên trong bàn tay Đảng Cộng sản Việt Nam xuyên suốt quá trình thống nhất để nắm và biến Phật giáo Việt Nam trở thành một tổ chức bù nhìn của Đảng. (…) Nội dung hoạt động là do cúng bái chùa chiền, không có hoạt động gì liên quan tới quần chúng và xã hội. Hội Phật Giáo Việt Nam ở trong Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, tuân thủ luật pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Kể từ đó, GHPGVNTN bị đưa ra ngoài vòng pháp luật, dù Nhà nước không có văn kiện nào chính thức giải thể. Một cuộc đàn áp mới sắp khai trương.
Vài tháng sau Giáo hội Phật giáo nhà nước ra đời tại Hà Nội, ngày 24-2-1982, Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định trục xuất hai Hoà thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ về quản chế tại quê quán Quảng Ngãi và Thái Bình, không qua sự xét xử của toà án. Ngày 7-7 cùng năm, cưỡng chiếm chùa Ấn Quang là trụ sở của GHPGVNTN. Toàn bộ tư liệu, hồ sơ của Viện Hoá Đạo bị đốt sạch trong năm ngày mới hết.
Năm 1991, Đức cố Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu viên tịch tại chùa Linh Mụ, Huế. Nhà nước muốn lợi dụng tang lễ này tuyên truyền chính trị cho Đảng. Nhưng Di chúc Ngài ngăn cấm không tổ chức rầm rộ, không đọc điếu văn, ca tụng, v.v… Nên 50 Tăng Ni tuyệt thực phản đối tại chùa Linh Mụ. Có vị đòi tự thiêu. Ngài để lại khuôn dấu Giáo hội và trao quyền cho hai Hoà thượng Huyền Quang và Quảng Độ tiếp tục lãnh đạo GHPGVNTN để phục hồi quyền pháp lý cho Giáo hội. Mặc dù bị công an phong toả, cấm đoán, tại lễ tang, Hoà thượng Huyền Quang dõng dạc tuyên bố trước Linh đài quyết tâm thực hiện Di chúc giao phó :
Pháp lý là cái gì ? Giấy tờ chỉ được viết ra cho một tổ chức tân lập, còn Giáo hội ta đã có mặt trên dải đất này 2000 năm rồi. Đinh, Lê, Lý. Trần đã chấp nhận Phật giáo.
Pháp lý của Giáo hội là 2000 năm truyền đạo trên dải đất Việt Nam này. Địa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo hội.
Như vậy Pháp lý có thể cho ra và có thể thu lại. Vậy cho nên đừng đặt vấn đề pháp lý của thời đại, mà phải đặt lịch sử truyền đạo và sự chấp nhận của dân chúng Phật tử.
Trước sự bùng dậy của khối Phật giáo đồ sau tang lễ, tài liệu Tuyệt Mật của Bộ Nội vụ viết ngày 18-8-1992 chỉ thị 5 biện pháp đấu tranh chống khối Phật giáo Thống Nhất, đặc biệt là phân hoá cao hàng ngũ giáo sĩ ; “cắt đứt chân tay” với số cực đoan chống đối ; và thâm nhập đặc tình trong Tăng tín đồ Phật giáo.
Vì thực hiện và phổ biến Di chúc Ngài Đôn Hậu, chư Tăng chùa Linh Mụ bị đàn áp dữ dội, đưa tới cuộc biểu tình bốn mươi nghìn Phật tử Huế xuống đường ngày 24-5-1993 đòi hỏi nhân quyền và tự do tôn giáo. Đây là cuộc biểu tình lớn nhất chưa hề có dưới chế độ Cộng sản. Tại Hội nghị “Diễn biến Hoà bình” ở Hải phòng ngày 26.6 cùng năm, Tướng Đặng Vũ Hiệp đánh giá cuộc biểu tình của Phật tử Huế có “nguy cơ mất nước.
Sự kiện hi hữu xẩy ra là ngày 2-4-2003, Thủ tướng Phan Văn Khải tiếp Hoà thượng Thích Huyền Quang, nhân dịp ngài ra Hà Nội giải phẫu khối u ở mặt. Một thủ tướng tiếp một tù nhân ! Thủ tướng xin Hòa thượng hỉ xả cho chuyện đã qua, vì cán bộ cấp địa phương làm sai. Nhiều nhà quan sát tưởng rằng vấn đề Phật giáo được lắng yên.
Thế nhưng, sau Đại hội Phật giáo kỳ VIII do Hoà thượng Huyền Quang triệu tập tại Tu viện Nguyên Thiều, tỉnh Bình Định, ngày 1-10-2003, để bổ sung nhân sự vào hai Viện Tăng Thống và Viện Hoá Đạo, thì chuyến xe chở 10 vị giáo phẩm về lại Saigon bị chận bắt tại Lương Sơn hôm 8-10, trong số có hai ngài Huyền Quang và Quảng Độ. Tất cả đều bị bắt đi “làm việc” và ra khẩu lệnh quản chế.
Từ đó đến nay Giáo hội luôn bị đàn áp, sách nhiễu thường trực. Mọi hoạt động của 20 Ban Đại diện Giáo hội tại các tỉnh thành đều bị ngăn cấm. Chùa Giác Minh của Hoà thượng Thanh Quang ở Đà Nẵng bị phong toả thường trực, các Đại lễ Phật Đản, Vu Lan hay Tết bị ngăn cấm tổ chức.
Thế nhưng Giáo hội không ngừng lên tiếng cho những vấn nạn xã hội hay đất nước. Từ nơi quản chế Quảng Ngãi, ngày 20-11-1993, Hoà thượng Thích Huyền Quang ra Tuyên cáo Giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn, yêu sách bỏ điều 4 trên Hiến Pháp và bầu cử lại Quốc hội dưới sự giám sát của LHQ với sự tham gia của tất cả các đảng phái quốc gia.
Đầu năm 1994, Hoà thượng Thích Quảng Độ bị bắt khi dẫn phái đoàn Viện Hoá Đạo đi cứu trợ nạn bão lụt khủng khiếp ở đồng bằng sông Cửu Long. Bị kết án 5 năm tù, giam tại nhà tù Ba Sao. Được ân xá năm 1998, nhưng vẫn còn quản chế tại Thanh Minh Thiền Viện, Saigon. Ngài tuyên bố : “Tôi đi từ nhà tù nhỏ vào nhà tù lớn”.
Năm 2001 ngài công bố “Lời kêu gọi cho Dân chủ” với giải pháp 8 điểm thực hiện, mà ngài xem như giải pháp duy nhất cứu nguy dân tộc.
Ngày 17-5-2007, Hoà thượng Quảng Độ đến uỷ lạo và tiếp tế thực phẩm thuốc men cho Dân oan khiếu kiện trước tiền đình Quốc hội II ở Saigon. Việc làm bị báo chí truyền thông nhà nước tố cáo, hăm doạ trong vòng 3 tháng. Ngài cũng nhiều lần lên tiếng tố cáo về việc Trung quốc xâm lấn lãnh thổ và biển đảo, nạn bô xít Tây nguyên nơi Trung quốc nắm yết hầu quân sự, chiếm đóng Hoàng Sa Trường Sa, cho đến gần đây, năm 2014, biến cố giàn khoan Hải dương 981.
Nhiều vị Đại sứ các nước như Hoa Kỳ, Na Uy, Đức, Anh, Pháp… vẫn thường  xuyên đến vấn an, trao đổi với Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ. Liên tiếp nhiều năm, ngài được đề cử ứng viên Giải Nobel Hoà bình. Năm 2003, ngài và ngài Huyền Quang được trao Giải Nhân quyền của Tiệp dưới sự chủ trì của cựu Tổng thống Vaclav Havel, năm 2006 ngài được Giải Nhân quyền Quốc tế Rafto của Vương quốc Na Uy.
Nhờ sự lưu tâm quốc tế này mà ngài và hàng giáo phẩm Giáo hội không bị khủng bố, bắt giam tuỳ tiện như những năm sau 30 tháng Tư 75.
Ngài xác nhận lập trường Giáo hội suốt 40 năm qua không hề thay đổi như sau:
“Chừng nào mà chế độ Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam còn, thì Giáo hội không được sinh hoạt bình thường đâu.
“Họ dùng đủ cách để mà xoá sổ, xoá sạch cái danh nghĩa của Giao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trên đất nước Việt Nam. Mà chưa hết đâu, còn nhiều. Vì thế cho nên cứ sẵn sàng chuẩn bị tinh thần để đón nhận, để đương đầu.
“Cho nên trước khi tiễn đưa Đức Tăng Thống đến nơi an nghỉ cuối cùng, thì chúng tôi đã nói rồi : Chúng tôi sẽ tiếp tục con đường đi của Ngài.
“Còn rất nhiều khó khăn, còn rất nhiều chông gai, nhưng sẵn sàng vượt qua. Còn hơi thở thì vẫn cứ tiếp tục. Đó là cái chí nguyện của Giáo hội”.

THẠCH ĐẠT LĂNG * HÀNH TRÌNH TỰ DO


 CHUYỆN RUỒI BU CUỐI TUẦN
 THẠCH  ĐẠT LĂNG
Có lần tôi nghe được lời phản đối từ bên Mỹ về Luật S-219 của Canada lấy ngày 30-4 làm Ngày Kỷ Niệm cho "Canadians gốc Việt" đến định cư tại Canada không quên nguồ gốc và nguyên do di cư. Đạo luật này không hề có ý thay tên đổi họ cho cuộc diện chống CS toàn cầu, vẫn lấy tên cho ngày 30-4 là "Ngày Quốc Hận".
Dưới đây có bài viết phân tách. Xin chuyển.
Hôm qua, Thứ Bảy 25-4-15, dự Lễ Chào Cờ Vàng tại công viên Đô sảnh Toronto (thủ phủ của Tỉnh bang Ontario), ô. Kenny bộ trưởng Multiculturism kiêm Quốc phòng Canada đã đến dự Lễ, được quàng khăn choàn nền vàng 3 sọc đỏ, đã tuyên bố khẳng định "Canada cảm kích các công dân gốc Việt có quá trình định cư hữu ích vá xuất sắc từ 30-4-1975 cho đến nay". 
Về đến nhà tôi nhận được email của ông ta gởi đích danh đến cho tôi cùng khoảng trên 10 người nữa định cư lâu bền tại Toronto. Hơi ngạc nhiên, vì tôi chưa bao giờ muốn liên hệ chính trị với các đảng phái hay chính quyền Canada, nhưng cũng thấy thích thú có bức thư kèm theo đạo luật được đã được Thủ Tướng Harper của Canada ký.
Mong bạn hữu và thân nhân Mỹ gốc Việt hiểu rằng
Mong bạn hữu và thân nhân Mỹ gốc Việt hiểu rằng "Canadians rất vững vàng trong chiến dịch chống Cộng lâu dài bền bỉ", không ai có thể xoay chuyển sự kiên trì này.
Thân mến,
Hg`  

Chuyện ruồi bu cuối tuần
25/04/15
Thạch Đạt Lang
ông Nguyễn Hải Bình, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao VN phản đối đạo luật S-219
Ông Lê Hải Bình, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao VN phản đối đạo luật S-219
Ngày 22.04.2015 đạo luật S-219 được quốc hội Canada thông qua, lấy ngày 30.04 làm ngày Hành Trình Đến Tự Do của khoảng 300.000 người Canada gốc Việt. Đạo luật này nói rõ ngày Hành Trình Đến Tự Do là một ngày lễ kỷ niệm, không phải là một ngày nghỉ lễ chính thức (legal holiday or non-juridical day).
Mục đích của đạo luật S-219 chỉ nhắm nhắc nhở con cháu của người Canada gốc Việt các thế hệ sau hiểu được nguyên nhân vì sao họ hiện diện trên đất nước Canada.
Trong khi hầu hết mọi người Canada gốc Việt tị nạn cộng sản đều vui mừng, hân hoan đón nhận quyết định này của chính phủ Canada thì chế độ cộng sản Việt Nam lại tức giận, điên cuồng phản đối trong tuyệt vọng vì quyết định của chính phủ Canada.
Đúng là ruồi bu!
Vì lý do nào chế độ CSVN lại giận dữ phản đối quyết liệt một đạo luật chẳng dính dáng gì đến họ?
Sự thật chẳng có gì khó hiểu. Đây là một đạo luật dù không phơi bày rõ ràng sự độc tài, gian ác, nham hiểm, hèn hạ, đê tiện của chế độ CSVN nhưng nói lên những nguyên nhân khiến cho hàng triệu người VN từ 30.04.1975 phải bỏ nước ra đi vì không chấp nhận sự cai trị của chế độ, trong đó có 64.000 người đã được chính phủ Canada đón nhận.


Đạo luật S-219 nói rõ rằng quân CS Bắc Việt và quân Giải Phóng Miền Nam đã xé bỏ hiệp định Paris, xâm lăng miền Nam bằng vũ lực, trong đó Canada là một thành viên trong ủy hội quốc tế giám sát đình chiến theo hiệp định.
Trích:
„-Whereas on April 30, 1975, despite the Paris Peace Accords, the military forces of the People’s Army of Vietnam and the National Liberation Front invaded South Vietnam, which led to the fall of Saigon, the end of the Vietnam War and the establishment of the Socialist Republic of Vietnam Government;
Xét rằng vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, mặc dù đã có Hiệp định Hòa bình Paris nhưng quân đội nhân dân Việt Nam và Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam đã xâm lược Miền Nam và dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn, chấm dứt cuộc chiến và thiết lập nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam;“
Trích:
Whereas the United Nations High Commissioner for Refugees has reported that these events and the conditions faced by individuals in Vietnam, including deteriorating living conditions and human rights abuses, contributed to the exodus of approximately 840,000 Vietnamese people, who were referred to at the time as “Vietnamese boat people”, to neighbouring countries in the ensuing years;
Xét rằng Cao Ủy Liên Hiệp Quốc về tị nạn đã báo cáo rằng các biến cố đó và vì mỗi con người Việt nam phải đối mặt với nó và điều kiện sống ngày một xấu đi và cùng với việc bị xâm phạm nhân quyền, những điều đó đã khiến cho cuộc di cư của khoảng 840.000 người Việt nam mà chính họ vào thời gian đó là trở thành các “thuyền nhân Việt Nam “ di cư đến các quốc gia láng giềng của VN vào những năm sau đó;
Chính những điều này trong đạo luật S-219 đã khiến Hà Nội lồng lộn phản đối.
Chế độ CSVN lúc nào cũng kêu gào, yêu cầu quốc tế không nên can thiệp đến chuyện nội bộ của họ đối với vấn đề nhân quyền, tự do báo chí, tự do ngôn luận ở VN, nay họ lại phản đối một đạo luật ở Canada bằng mọi hình thức.
Ngay từ khi đạo luật còn đang chở hạ viện biểu quyết, thủ tướng Việt cộng Nguyễn Tấn Dũng đã gửi thư tới thủ tướng Harper của Canada để phản đối, khi đạo luật thông qua, chế độ Hà Nội triệu tập đại sứ Canada đến bộ ngoại giao để (làm việc) cũng như cho các báo, đài phát thanh, truyền hình trong nước lên tiếng phụ họa.
Phát ngôn viên bộ ngoại giao CSVN, Lê Hải Bình tuyên bố:
„-S-219 là một đạo luật hoàn toàn sai trái, chứa đựng nhiều nội dung xuyên tạc lịch sử cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế, trong đó có Canada ủng hộ. Việt Nam kiên quyết phản đối việc Canada thông qua đạo luật này.“
Không biết Lê Hải Bình đã đọc qua đạo luật này chưa hay chỉ nghe hơi nồi chõ rồi vội vã lên tiếng phản đối theo lệnh trên?
Phê phán một đạo luật của quốc gia khác là "sai trái, chứa đựng nhiều nội dung xuyên tạc…" chỉ là hành vi lỗ mãng không mang tính ngoại giao của những kẻ vô học, thiếu kiến thức hành xử ngoại giao.
Các thượng nghị sĩ, dân biểu của quốc hội Canada chắc chắn phải là những người có học, có bằng cấp, trình độ nhận thức cao. Trước khi bỏ phiếu chấp thuận, họ đã được đọc, nghe thuyết trình về nội dung, ý nghĩa, mục đích của đạo luật và có thời gian để suy nghĩ, tranh luận trước khi quyết định.
Cách làm việc của dân biểu, thượng nghị sĩ Canada trong nghị trường chắc chắn không giống cách làm việc của đại biểu quốc hội CSVN, vào họp chỉ ngủ gật, hoặc chỉ lên tiếng khi được gài độ, mua chuộc từ trước.
Báo chí lề phải trong nước, cũng được lệnh ồn ào lên tiếng, dây máu ăn phần, nhưng hầu hết không tờ nào có lập luận hợp lý, hợp tình mà chỉ sao chép y chang những gì Lê Hải Bình tuyên bố rồi cho thêm chút mắm muối, bột ngọt các cái bằng những tên ngoại quốc như Canadian Press, TNS James Cowan…
Trích:
„Tờ Canadian Press cũng đã lên tiếng bình luận về việc Canada thông qua đạo luật sai trái này và cho biết, trong thư gửi Ủy ban Nhân quyền Thượng viện Canada, Hội đồng Thương mại Canada-Việt Nam cho rằng, đạo luật này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới hợp tác kinh tế, thương mại giữa hai quốc gia vì nó có thể làm chia rẽ cộng đồng người Canada gốc Việt.
 
Thượng nghị sĩ James Cowan, Lãnh đạo đảng Tự do trong Thượng viện Canada nói rằng ông không thể hiểu nổi tại sao Chính phủ có thể thông qua đạo luật này khi Canada đang muốn thúc đẩy hợp tác với các nước châu Á, trong đó có Việt Nam.
„đạo luật này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới hợp tác kinh tế, thương mại giữa hai quốc gia vì nó có thể làm chia rẽ cộng đồng người Canada gốc Việt.-“
Có chia rẽ trong cộng đồng là chuyện đương nhiên, không có cộng đồng nào trên thế giới đoàn kết 100%. Cộng đồng người Việt tị nạn không thể chấp nhận được những kẻ qua Canada tị nạn nhưng lại đi trồng cần sa, buôn bạch phiến hay cướp của giết người, gây mất thiện cảm với người dân bản xứ, hoặc những kẻ mang danh tị nạn nhưng luôn tìm cách gây rối, phá hoại cộng đồng theo lệnh tòa đại sứ CS của Hà Nội.
Báo Sài Gòn Giải Phóng ( hay Sài Gòn Giải Tán ?) còn đăng như sau:
Trích:
„Đây là bước lùi trong quan hệ giữa hai nước, gây ảnh hưởng tiêu cực tới quan hệ đang phát triển tốt đẹp giữa Việt Nam và Canada, xúc phạm tình cảm của nhân dân Việt Nam cũng như một bộ phận lớn cộng đồng người Việt tại Canada. Trong nhiều năm qua, quan hệ Việt Nam – Canada đã được hai bên nỗ lực phát triển. Chúng tôi hy vọng phía Canada nhận thức rõ ảnh hưởng tiêu cực của việc thông qua đạo luật S-219, có các biện pháp khắc phục, không để xảy ra những sự việc tương tự. Ngày 24-4-2015, Bộ Ngoại giao đã triệu Đại sứ Canada tại Việt Nam để phản đối và nêu rõ quan điểm của Việt Nam về vấn đề này”.
„Xúc phạm tình cảm của nhân dân Việt Nam cũng như một bộ phận lớn cộng đồng người Việt tại Canada“.
Đọc mà cứ tưởng như thiệt. Nhưng nói vậy mà không phải vậy. Nếu có xúc phạm thì đạo luật S-219 chỉ xúc phạm, đập vào mặt đảng cộng sản VN và chế độ ( ăn cướp ) Hà Nội, bởi nó lột trần bộ mặt giả nhân, giả nghĩa của những tên lãnh đạo trong đảng CS và chính phủ hiện nay.
Thế "bộ phận" nào là "bộ phận lớn" cộng đồng người Việt tại Canada? Còn bộ phận nhỏ nằm ở đâu? Trong tòa đại sứ VN ở Ottawa hay Toronto?
„Chúng tôi hy vọng phía Canada nhận thức rõ ảnh hưởng tiêu cực của việc thông qua đạo luật S-219, có các biện pháp khắc phục, không để xảy ra những sự việc tương tự.“\

Các thượng nghị sĩ, dân biểu Canada có ngu dốt, đầu bò như đại biểu quốc hội VN đâu mà nói họ cần nhận thức rõ ảnh hưởng tiêu cực của đạo luật.
Khi bọn xâm lược Trung cộng kéo dàn khoan HD 981 vào thềm lục địa VN thăm dò dầu khí, cả đảng CSVN cũng như chế độ Hà Nội im thin thít, không dám mở miệng la lên một tiếng, cũng như lúc Dương Khiết Trì mắng chính quyền Hà Nội là lũ con hoang cũng không có một đứa nào dám hó hé nói gì, thế mà giờ đây chỉ vì một đạo luật ở một đất nước cách xa hàng chục ngàn dặm, không dính dáng gì đến mình mà từ thủ tướng đến bộ trưởng ngoại giao nhẩy lên như đỉa phải vôi.
Còn sự nhục nhã, hèn hạ nào hơn thế nữa?
Để cả thế giới đã nhìn thấy sự hèn nhát của mình, thiết nghĩ, những kẻ cầm quyền chế độ CS Hà Nội nếu còn một chút tự trọng, liêm sỉ thì nên dùng tiền thuế của dân, phương tiện của đất nước, lên tiếng phản đối quyết liệt cho những việc trọng đại hơn, những việc đang gây nguy hại cho nền an ninh đất nước là việc Trung cộng đang nỗ lực xây dựng phi trường, căn cứ trên các đảo ở Hoàng, Trường Sa, tuồn tiền giả, thức phẩm độc hại… vào Việt Nam hơn là đi phản đối một đạo luật của một quốc gia khác hay tìm cách phá bỏ những tấm gia kỷ niệm thuyền nhân VN ở các quốc gia khác.
Đạo luật S-219 được ban hành nhắm tới khoảng 300.000 người dân Canada gốc Việt, nếu CSVN không làm lớn chuyện, có lẽ nhiều người VN cũng không biết đến đạo luật này.
Đúng là lợi bất cập hại cho một chế độ chỉ giỏi hèn nhát, quỵ lụy kẻ thù nhưng lại hung hăng với người dân ngay cả khi họ đã ra tới nước ngoài.
Thay vì lo đi phòng thủ, chống trả lại con chó sói hung dữ đang gầm gừ, lăm le tấn công, ăn thịt mình, cộng sản Hà Nôi lại tìm cách trù dập những người dân hiền lành đã chạy thoát phạm vi kiểm soát của họ.
Đúng là làm chuyện ruồi bu!
© Thạch Đạt Lang
© Đàn Chim Việt



Monday, April 27, 2015


ITALIA, CÁI NÔI CỦA ÂU CHÂU



ITALIA, CÁI NÔI CỦA ÂU CHÂU

Nằm ở phía Nam của châu Âu, Không chỉ nổi tiếng là Kinh đô thời trang, đất nước Italy với những công trình kiến trúc mang dáng dấp của một vương quốc La Mã cổ xưa và huyền thoại, từ lâu đã là điểm đến mơ ước của nhiều du khách.


Văn hóa Italia được thể hiện qua những di tích, những thắng cảnh tuyệt vời có rất nhiều trên đất nước này, như đấu trường Coloseum, như đài phun nước Trevi, như Vatican, như giáo đường Duomo, như rất nhiều quảng trường hiện diện trên khắp các thành phố, thị trấn Italia…. Tìm hiểu văn hóa Italia, chúng ta sẽ thấy một đất nước với một chiều dài lịch sử và một nền văn hoá đồ sộ, cổ kính và lâu đời "có một không hai".
Italia là vùng đất của những huyền thoại, của vẻ đẹp kiến trúc - lịch sử - văn hóa vang danh một thời. Trải nghiệm và thích thú, chính là cảm giác không thể nào quên khi du khách đã từng một lần đặt chân đến vùng đất xinh đẹp và cổ kính này.
Italia - Cái nôi của nền văn minh Châu âu từng là nơi xuất phát của nhiều nền văn hoá châu Âu, như Etruscan và La Mã, và sau này cũng là nơi sản sinh ra phong trào Phục hưng Italia. Thủ đô Roma của Italia từng là trung tâm của nền Văn minh phương Tây, và là trung tâm của Giáo hội Công giáo La Mã.
Có người cho rằng người Italia đã sáng lập ra du lịch từ thế kỷ 16, nhưng chắc chắn không một quốc gia nào trên thế giới có thể để lại cho nhân loại nhiều biểu tượng văn hóa, ngành công nghiệp ôtô hàng đầu, kiến trúc, thời trang, các vở opera kinh điển, hội họa, điêu khắc và ẩm thực.
Mãi đến năm 1861, Italia mới trở thành một nước thống nhất từ nhiều lãnh thổ tự trị. Điều này đã hình thành nên các truyền thống và tập tục đặc trưng từng vùng, làm nên bản sắc văn hóa Italia ngày nay. Ngược lại với sự cô lập chính trị và xã hội của các vùng này, Italia vẫn có những đóng góp đáng kể vào di sản văn hóa và lịch sử của châu Âu và thế giới. Hiện nay Italia được coi là nơi lưu giữ nhiều công trình di sản văn hóa thế giới bậc nhất.
Văn hóa của Italia tiết lộ trong các di tích cổ và tàn tích lịch sử, phản ánh tinh thần giác ngộ và sang trọng
Kể từ khi ra đời, đất nước đã đóng góp đủ vào sự tiến bộ của nền văn hóa thế giới. Những người Italia, chuyên gia và hiệu quả trong tất cả các lĩnh vực văn hóa như văn học, âm nhạc, kiến trúc và điêu khắc là các tác giả của kiệt tác trong các lĩnh vực tương ứng. Mặc dù tất cả những khác biệt khu vực và địa hình, di sản văn hóa của Italia là điều mà các cherish Italia và tự hào về, và họ cảm thấy đặc quyền này để bàn giao di sản văn hóa phong phú cho tới thế hệ tới.
Sự mở rộng của Văn hóa của Italia đã bắt đầu chủ yếu trong thời Phục hưng đó bắt đầu một cuộc cách mạng toàn diện trong lĩnh vực văn hóa khác nhau trên toàn cầu. Hiệu quả của thời Phục Hưng ở châu Âu đã được trực tiếp cảm thấy trên bán đảo Italia.  Kết quả là, thời kỳ này đã chứng kiến một số thay đổi mạnh mẽ, vô cùng ảnh hưởng đến trí tưởng tượng, sáng tạo, hàng tồn kho và trí tuệ của con người nói chung.  Chuyển đổi đột ngột này, nhưng rõ ràng đã được hấp thu trực tiếp của dân Italia và tiết lộ trong các tác phẩm nghệ thuật sau này.
Điêu khắc, kiến trúc, nghệ thuật, khoa học, ngôn ngữ, văn học, thể thao, triết lItalia và âm nhạc được mua một chiều hướng mới trong các mặt văn hóa mới này và trỗi dậy ngoạn. Tác phẩm nổi tiếng đã được sản xuất bởi cá tính ưu việt của Italia. Trong lĩnh vực văn học, một số kiệt tác như "The Divine Comedy" được viết bởi Dante Alighieri. Một hình thức mới của phong cách thơ được gọi là "Sonnet" tiến hóa do thời Phục Hưng. Sonnet như là một hình thức nổi bật của phong cách văn học đã được giới thiệu của nhà thơ nổi tiếng Italia, Petrarch và sau đó theo sau Shakespeare. Nhà triết học của thanh danh như Niccolò Machiavelli với tạo đời đời của ông, "The Prince" đề xuất phương pháp mới của cầm quyền đất nước và dẫn đầu chính phủ. Machiavelli của việc thay đổi các chính trị Nhận định hiện hành và sửa đổi các quan điểm thiên vị đến một mức độ lớn. Tên của Michelangelo (người sáng tạo của David, Pietà và Môi-se), Leonardo da Vinci (họa sĩ của Monalisa), Titian và Raphael là inseparably liên kết với tác phẩm điêu khắc Italia và tranh vẽ.
Trong khi đó, tiến bộ trong lĩnh vực khoa học và công nghệ là lúc chiều cao của nó với sự đóng góp bao la Galileo Galilei trong thiên văn học. Các nhà vật lItalia nổi tiếng, Fermi nghiên cứu LItalia thuyết lượng tử, trong khi những vấn đề liên quan đến pin điện đã được đưa chăm sóc bởi Volta. Như nhà toán học Lagrange và Fabonacci, người đoạt giải Nobel như Marconi (phát minh ra đài phát thanh) và Antonio Mencci đóng góp vô cùng hướng tới sự phát triển văn hoá của Italia trong độ tuổi này.
Italia – Đa dạng các loại hình văn học nghệ thuật
Một loạt các trào lưu nghệ thuật và trí thức lan rộng khắp châu Âu bắt nguồn từ Italia, bao gồm Thời Phục hưng và Thời Ba-rốc, cùng với những nghệ sĩ đã đi vào huyền thoại như Michelangelo, Leonardo da Vinci, Donatello, Botticelli, Fra Angelico, Tintoretto, Caravaggio, Bernini, Titian và Raffaello.
   Về văn học:
Văn học Italia có truyền thống nổi tiếng lâu đời về tính chất sáng tạo mới mẻ và tính độc đáo. Truyền thống La tinh được các học giả lưu giữ, ngay cả sau khi đế chế La Mã phương Tây suy vong. Nền văn học Italia thể hiện một quá trình thay đổi lớn qua sự phát triển của thời kỳ phục hưng và đã được thể hiện qua những tác phẩm của Aligheiri Dante, Petrarch, và Boccaccio. Các tác phẩm Divine của Dante, Sonnets của Petrarch đến tác phẩm Decamerone của Laura và Boccaccio đều là những tác phẩm tiêu biểu đối với các nhà văn trong thời phục hưng sau này.
Ngôn ngữ Italia hiện đại xuất phát chủ yếu từ phương ngữ của vùng Firenze và một trong những người có công xây dựng tiếng Italia chính là Dante Alighieri, tác giả của tác phẩm danh tiếng "Divina Comedia" (Thần khúc), được coi là một trong những tuyên ngôn văn chương đầu tiên xuất hiện ở châu Âu và thời Trung đại.
Ngoài ra, một cách biểu đạt văn chương mới, thể loại sonnet, cũng được sáng tạo ra từ Italia, qua các tác giả văn học nổi tiếng như: Boccaccio, Giacomo Leopardi, Alessandro Manzoni, Tasso, Ludovico Ariosto, và Petrarch. Ngoài ra không thể không kể đến những triết gia điển hình như: Bruno, Ficino, Machiavelli, và Vico.
Tác giả văn học hiện đại đoạt giải Nobel là nhà thơ Giosuè Carducci vào năm 1906, Grazia Deledda năm 1926, Salvatore Quasimodo năm 1959 và nhà viết kịch sân khấu Dario Fo năm 1997.
Giai đoạn văn học của Italy lớn nhất là trong thế kỷ 14 Ba nhà văn quan trọng nhất là Dante, Petrarca và Boccaccio. Dante nổi tiếng với các Divine Comedy, đó là thực sự về Thiên đàng và địa ngục! Trong thực tế, mô tả của ông về cả Heaven và Hell rất nhiều liên kết với các khái niệm hiện đại của Petrarca làm việc hơn là triết học, được gọi là 'cha đẻ của nhân văn ".. Như một nhà thơ, ông hoàn thiện các Sonnet. Boccaccio đã viết một số tác phẩm vượt thời gian và' ông Decameron 'có thể được hưởng ngay cả của người đọc hiện đại .
    Về Âm nhạc:
 Claudio Monteverdi
Từ âm nhạc dân gian tới âm nhạc cổ điển, âm nhạc luôn đóng vai trò quan trọng trong văn hoá Italia. Là nơi sinh của opera, và ngôn ngữ của Italia đã cung cấp từ vựng âm nhạc, thiết lập nhiều nền tảng cho truyền thống âm nhạc cổ điển. Vào cuối thế kỷ XVI, các nhạc sĩ và thi sĩ thời Phục hưng ở Florence bắt dầu đưa thơ vào nhạc.
Những vở opera đầu tiên được sang tác vào đầu thế kỷ XVII tại Roma, Venice và Napoli. Khi sự yêu chuộng opera lan ra khắp nước, mỗi thành phố đã phát triển một phong cách opera của riêng mình. Nhà soạn nhạc Claudio Monteverdi, được coi là cha đẻ của opera hiện đại, là người đứng đầu trong số những nhà soạn nhạc thuộc trường phái Venice. Nhiều tác phẩm của ông được trình diễn trong nhá hát opera công cộng đầu tiên của Italia tại Venice năm 1637.
Chẳng mấy chốc, các nhạc sĩ hàng đầu châu Âu như Frideric Handel đã tới Italia để nghiên cứu opera. Vào cuối thế kỷ XVII, Alessandro Scalatti đã sang tác gần 100 bản opera và làm cho Napoli trở thành trung tâm của opera. Trong thế kỷ XVIII, phần kịch bản của opera trở nện quan trọng hơn, và những khúc nhạc cũng phức tạp hơn. Nhà hát opera nổi tiếng nhất châu Âu, La Scala, được khánh thành tại Milan năm 1778, và thậm chí cả Mozart vĩ đại cũng bắt đầu soạn những vở opera để trình diễn ở đây.
Thế kỷ XIX là thời kỳ âm nhạc thịnh vượng nhất tại Italia. Gioachino Antonio Rossini sang tác vở opera hài hước kinh điển Người thợ cạo thành Seville năm 1816. Giuseppe Verdi, được coi là nhà soạn nhạc tài năng nhất Italia, đã soạn 26 vở opera, trong đó có các vở Rigoletto (1851), Il Trovatore (1853), La Traviata (1853) và Aida (1871). Vở Aida được sáng tác ở Ai Cập, được trình diễn với những con lạc đà và voi thật trên sân khấu. Những vở opera của Verdi nổi tiếng bởi cốt truyện xúc động và các nhân vật chân thực. Một số vở opera của ông được rút ra từ những tác phẩm của Shakespeare và Victor Hugo, và các chủ đề của ông thường gắn với đấu tranh chống áp bức. Gia Puccini cũng là một nhà soạn nhạc tầm cỡ của thời kỳ này. Các vở La Boheme (1869) và Madame Butterfly (1904) của ông ngày nay vẫn còn được khán giả yêu thích bởi cốt truyện lãng mạn, xúc động và những giai điệu mượt mà.
Opera của Italia nguyên chỉ dành cho tầng lớp thượng lưu. Với việc mở cửa nhà hát opera công cộng tại Venice, nó trở thành nguồn giải trí của mọi người. Vào đêm khai mạc một vở diễn mới, đám đông khan giả lèn chặt nhà hát. Mọi người bàn luận về vở opera mới sau khi xem. Vào thế kỷ XIX, đi xem opera trở thành một sinh hoạt xã hội chủ yếu của người Italia. Thậm chí ngày nay, khán giả opera Italia vẫn thích bàn luận về opera hay những vấn đề khác trong buổi diễn; vài người theo dõi sát những diễn biến trên sân khấu, số người khác thì bình phẩm với người xung quanh.
Là nơi sản sinh ra dòng nhạc opera, Italia đã xây dựng nền tảng vững chắc cho truyền thống âm nhạc cổ điển. Các nhạc cụ cổ điển như dương cầm và viôlông được sáng tạo ra từ Italia và nhiều thể loại nhạc cổ điển như giao hưởng, côngxectô và xô nát cũng đã xuất hiện từ thế kỷ 16,17 trong nền âm nhạc nước này. Những nhà soạn nhạc tài ba của Italia trong thời kì Phục hưng là: Palestrina và Giusseppe Verdi, các nhà soạn nhạc Ba-rốc như: Alessandro Scarlatti và Vivaldi, các nhà soạn nhạc cổ điển như Rossini và Paganini, nhà soạn nhạc lãng mạn như Verdi và Puccini. Hai nhà soạn nhạc Berio và Nono cũng có góp quan trọng vào nền âm nhạc hiện đại với sự phát triển của nhạc điện tử thử nghiệm.
Các nhạc cụ gắn liền với âm nhạc cổ điển, và nhiều hình thức âm nhạc cổ điển hiện tại đều có thể tìm thấy nguồn gốc từ những phát minh ở thế kỷ 16 và 17 trong âm nhạc Italia (như symphony, concerto và sonata). Một số nhà soạn nhạc Italia nổi tiếng nhất gồm các nhà soạn nhạc thời Phục hưng Giovanni Pierluigi da Palestrina và Claudio Monteverdi, các tác gia phong cách Baroque Arcangelo Corelli và Antonio Vivaldi, các nhà soạn nhạc Cổ điển Niccolò Paganini và Gioacchino Rossini, và các nhà soạn nhạc Lãng mạn Giuseppe VerdiGiacomo Puccini. Các nhà soạn nhạc Italia hiện đại gồm Luciano Berio và Luigi Nono cũng đóng góp đáng kể cho sự phát triển của âm nhạc thể nghiệm và âm nhạc điện tử.
         Về Kiến trúc
Thành phố như Venice
Italia tự hào có một thời gian dài phong cách kiến trúc khác nhau, từ cổ điển La Mã và Hy Lạp, Gothic, Phục Hưng, Baroque, Neo-Classical, Art Nouveau để hiện đại. Kiến trúc Italiabắt đầu với Hy Lạp cổ đại, La Mã cổ đại và Etruscan, khi cả hai nền văn minh được xây dựng đền thờ, basilicae, cột, các diễn đàn, cung điện, aqueducts, tường và phòng tắm công cộng. Sau khi các nền văn minh cổ điển, tiếng Italia phát triển một kiến trúc nổi tiếng Gothic đặc biệt là hướng tới thế kỷ 12. Thành phố như Venice, Vicenza, Florence, Siena, Assisi và Pisa  chủ yếu là bị ảnh hưởng bởi thời kỳ kiến trúc Gothic và Roman.  Sau đó, trong thế kỷ 15 và 16, Italia đã trở thành nơi sinh của Phục hưng với Florence và Rome là trung tâm chính của nó. Sau đó,  Italia đã trở thành một trung tâm chính của châu Âu cho baroque, với đa dạng phong cách kiến trúc baroque mới nổi, đặc biệt là ở Sicily. Sau đó, trong tân thế kỷ 18 và 19-tòa nhà theo phong cách cổ điển bắt đầu xuất hiện tại Rome, Milan, Torino và tất cả xung quanh Italy. Hiện nay, kiến trúc và thiết kế ở Italia được coi là đẳng cấp thế giới và rất nổi tiếng với Milan là thủ đô của đất nước.  Nhiều kiến trúc sư người Italia hiện đại, như Renzo Piano, nổi tiếng trên toàn thế giới.

-         Kiến trúc Gothic

Kiến trúc Gothic xuất hiện ở Italy vào thế kỷ thứ 12.  Kiến trúc Gothic luôn luôn duy trì đặc thù mà phân biệt sự tiến hóa của nó từ đó ở Pháp, nơi mà nó có nguồn gốc, và ở các nước châu Âu khác. Đặc biệt, các giải pháp ardite kiến trúc và đổi mới kỹ thuật của nhà thờ Gothic Pháp không bao giờ xuất hiện: kiến trúc sư người Italia ưa thích để giữ truyền thống xây dựng thành lập tại các quốc gia trước đó. Thẩm mỹ, tại Italia sự phát triển theo chiều dọc là hiếm khi quan trọng.

-       Kiến trúc Phục Hưng

Italiacủa thế kỷ 15, và thành phố của Florence nói riêng, là quê hương của thời Phục Hưng. Đó là ở Florence rằng phong cách kiến trúc mới đã bắt đầu của nó, không phải từ từ tiến triển trong cách Gothic đã tăng trưởng trên Romanesque, nhưng Italia thức được đưa đến bởi kiến trúc sư cụ thể những người đã tìm cách khôi phục trật tự của một quá khứ "Golden Age". Phương pháp học đến kiến trúc của các cổ trùng hợp với sự hồi sinh chung của học tập. Một số yếu tố có ảnh hưởng lớn trong việc mang về điều này.
Sự hiện diện, đặc biệt là tại Rome, các kiến trúc cổ xưa vẫn còn hiển thị theo phong cách ra lệnh cổ điển được cung cấp một nguồn cảm hứng cho các nghệ sĩ tại một thời điểm khi triết lItalia cũng đã được chuyển về phía cổ điển.
    Về Bảo tàng
Bảo tàng Correr
Nghệ thuật và viện bảo tàng ở Italia giành được danh tiếng của nó trên toàn thế giới. Các viện bảo tàng Italia như một bộ sưu tập độc đáo của nghệ thuật và văn hóa mà nó có đúng được gọi là fide bona mở không khí nghệ thuật thư viện. Các bộ sưu tập của nghệ thuật và viện bảo tàng là những kho báu của Italia. Theo nguồn tin của UNESCO, Italia có hơn một nửa số bộ sưu tập của thế giới về nghệ thuật và viện bảo tàng.  Italia bao gồm nghệ thuật của nhà thờ, nhà thờ, tu viện pariches, convents, thánh đường, lâu đài và biệt thự.
Venice ở Italia có một số viện bảo tàng ngoài trời tuyệt vời. Venice của Bảo tàng nghệ thuật hiện đại và Bảo tàng Nghệ thuật phương Đông nổi tiếng với những bức tranh đẹp của nó. Các Bảo tàng Peggy Guggenheim và Bảo tàng Correr nổi tiếng về bức tranh nghệ thuật. Các Peggy Guggenheim Museum từng là nơi ở của những người Mỹ heiress Peggy Guggenheim. Bảo tàng có một số bức tranh đẹp của Picasso, Chagall, Mondrian, Kandinski và Đại Italia.
Các thư viện Accademia của Venice nổi tiếng với những bức tranh của các lần thứ 14 và thế kỷ thứ 15. Bộ sưu tập này có bức tranh của Titian, Tintoetto Canaletto Arsenale Bảo tàng. Có mô hình Serenissima Tàu và các mô hình khác trong lịch sử hải quân.
Bảo tàng Correr ở Venice lần đầu tiên bắt đầu năm 1830 với sự tài trợ của các bộ sưu tập nghệ thuật của Teodoro Correr. Các bức tranh của Carpaccio đã giành được danh tiếng cho bảo tàng này.. Bức tranh của những con người trẻ tuổi và hai nữ Venezia rất đáng xem. Còn bảo tàng nghệ thuật của Grande Scuola di San Rocco có một số bộ sưu tập tuyệt vời của bức tranh của Tintoretto.
     Điện ảnh Italia
Cùng với điện ảnh Pháp, điện ảnh Italia là một trong những nền điện ảnh lâu đời nhất thế giới và là trụ cột của ngành công nghiệp điện ảnh châu Âu.  Italia  và Pháp cũng là hai quốc gia dẫn đầu về số Giải Oscar cho phim ngoại ngữ hay nhất, vượt xa các nền điện ảnh lớn khác.
Chỉ vài tháng sau khi Anh em Lumière phát minh ra kỹ thuật điện ảnh, nền nghệ thuật mới này đã xuất hiện ở Roma,  Italia  khi Giáo hoàng Leo XIII được ghi hình trong thời gian vài giây trong khi đang cầu nguyện.
Công nghiệp điện ảnh  Italia được thực sự hình thành trong khoảng thời gian từ năm 1903 đến 1908 với 3 hãng phim lớn, Cines ở Roma, Ambrosio ở Turino và Itala Film. Các hãng phim khác cũng nhanh chóng được thành lập tại Milano và Napoli. Chỉ trong thời gian ngắn, các công ty này đã nhanh chóng sản xuất được những bộ phim có chất lượng và thực hiện việc xuất khẩu phim ra bên ngoài nước Italia. Sở trường thời bấy giờ của điện ảnh nước này là các bộ phim lịch sử với tác phẩm đầu tiên là La presa di Roma, 20 settembre 1870 được đạo diễn Filoteo Alberini thực hiện năm 1905. Các bộ phim tiếp theo nói về những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử như Bạo chúa Nero, Julius Caesar và Cleopatra được công chúng đón nhận nồng nhiệt. Bộ phim của Arturo Ambrosio, Gli ultimi giorni di Pompei (Ngày cuối cùng của Pompei, 1908) nổi tiếng tới mức chỉ sau đó 5 năm nó đã được làm lại một phiên bản khác do Mario Caserini đạo diễn. Các nữ diễn viên điện ảnh ngôi sao (tiếng  Italia: diva) đầu tiên của công nghiệp điện ảnh Italia có thể kể tới Lyda Borelli, Francesca Bertini và Pina Menichelli, trong đó Francesca Bertini có lẽ là một trong những diễn viên đầu tiên xuất hiện trên bán khỏa thân trong một bộ phim.
Trong khi điện ảnh Italia đang phát triển rực rỡ thì chính quyền Phát xít Italia bắt đầu tăng cường kiểm soạt các loại hình nghệ thuật phổ biến, bao gồm cả điện ảnh. Dưới sự ủng hộ của Benito Mussolini, một khu vực lớn ở phía Tây Nam Roma đã được dành riêng để xây dựng một khu phố điện ảnh (ex novo) cực lớn lấy tên là Cinecittà. Khu phố này được quy hoạch để có tất cả những cơ sở cần thiết cho một bộ điện ảnh, bao gồm các rạp phim, các khu trường quay, khu kĩ thuật và thậm chí là một trường dạy quay phim cho các nghệ sĩ trẻ. Cùng lúc này, Vittorio Mussolini, con trai của nhà độc tài cũng đứng ra thành lập một công ty sản xuất phim quốc gia để tạo điều kiện hoạt động cho tất cả các tài năng điện ảnh, từ đạo diễn, nhà biên kịch đến diễn viên. Kết quả của những chính sách khuyến khích điện ảnh này là sự ra đời của một thế hệ đạo diễn cực kì tài năng gắn với Cinecittà trong đó phải kể tới Roberto Rossellini, Federico Fellini và Michelangelo Antonioni.
-         Đề tài Chủ nghĩa hiện thực mới
Thế chiến thứ hai bùng nổ buộc điện ảnh Italia phải tập trung cho các bộ phim mang tính chất tuyên truyền cho quân đội Phát xít. Tuy vậy năm 1942 đạo diễn Alessandro Blasetti lại cho ra đời bộ phim về tầng lớp bình dân Quattro passi tra le nuvole đánh dấu sự ra đời của trào lưu Hiện thực mới (neorealismo) trong nghệ thuật điện ảnh Italia.
Trào lưu hiện thực mới thực sự bùng nổ và gây tiếng vang ngay sau khi chiến tranh kết thúc, chỉ trong thời gian cuối thập niên 1940, điện ảnh Italia đã chứng kiến sự ra đời của những bộ phim để đời như bộ ba Roma città aperta (1945), Paisà (1946), Germania anno zero (1948) của Roberto Rossellini. Tuy Cinecittà không thể hoạt động nhưng việc sản xuất phim vẫn được tiến hành ngoài trời, ngay trên những con đường bị tàn phá của một đất nước đã thua cuộc trong Thế chiến thứ hai. Những bộ phim khắc họa cuộc sống khó khăn của nước Italia sau chiến tranh và diễn xuất tuyệt vời của các diễn viên như Anna Magnani (diễn viên Italia đầu tiên giành Giải Oscar Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất) là một công cụ văn hóa quan trọng của chính quyền trong việc khích lệ tinh thần người dân.
Những năm sau chiến tranh cũng chứng kiến sự thăng hoa của một trong những đạo diễn Italia vĩ đại nhất, Vittorio De Sica, với một loạt bộ phim hiện thực kinh điển như Kẻ cắp xe đạp (Ladri di biciclette, 1948), Miracolo a Milano (1950) và Umberto D. (1952).
Với số lượng lớn tác phẩm đặc sắc, chỉ trong vòng hơn 10 năm từ 1947 đến 1959, điện ảnh Italia đã giành tới 5 Giải Oscar cho phim ngoại ngữ hay nhất cho các phim Sciuscià (1947), Kẻ cắp xe đạp (1949), Le mura di Malapaga (1950, sản phẩm hợp tác với Pháp), La strada (1956) và Le notti di Cabiria (1957) trong đó 2 phim đầu do De Sica đạo diễn còn 2 phim cuối do Federico Fellini đạo diễn.
-         Trào lưu hiện thực mới hồng và phim hài
Sau Umberto D., trào lưu hiện thực mới trong điện ảnh Italia gần như chấm dứt, có lẽ một phần do điều kiện kinh tế và xã hội được cải thiện đã hướng các đạo diễn tới những đề tài mới tươi sáng hơn là các tác phẩm mang gam màu tối về cuộc sống. Thế chỗ nó là trào lưu hiện thực mới hồng (neorealismo rosa), vẫn là các bộ phim lấy đề tài xã hội Italia nhưng có sự góp mặt của các nữ diễn viên xinh đẹp như Sophia Loren, Gina Lollobrigida, Silvana Pampanini, Lucia Bosé.
Trào lưu hiện thực mới hồng được tiếp nối bằng những bộ phim hài đặc trưng kiểu Italia (Commedia all'Italiana) có đề tài xã hội cực kì nghiêm túc nhưng lại được diễn đạt bằng những đoạn thoại và cảnh phim hài hước, trào phúng. Bộ phim mở đầu cho trào lưu này làIsoliti Ignoti (1958) của đạo diễn Mario Monicelli. Vittorio Gassman, Marcello Mastroianni, Ugo Tognazzi, Alberto Sordi, Claudia Cardinale, Monica Vitti và Nino Manfredi là những ngôi sao lớn của thể loại phim này, họ cũng là những diễn viên tiêu biểu cho thời kì phục hồi của kinh tế Italia. Mastroianni còn là diễn viên chính của một trong những bộ phim Italia xuất sắc nhất thế kỷ, La dolce vita (1960) của Fellini, tác phẩm đoạt giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Cannes năm 1960.
-         Phim miền Tây kiểu Italia
Những năm 1960 chứng kiến sự ra đời của một thể loại phim đặc sắc của Italia, những bộ phim miền Tây kiểu Italia (Spaghetti Western), vốn xuất phát từ những bộ phim miền Tây truyền thống của điện ảnh Hoa Kỳ nhưng lại được quay tại Italia với kinh phí thấp và kịch bản cũng như phong cách quay rất đặc sắc.
Đại diện tiêu biểu cho thể loại phim này là bộ ba phim dollar (Dollars Trilogy) của đạo diễn Sergio Leone gồm Per un pugno di dollari (1964), Per qualche dollaro in più (1965) và Il buono, il brutto, il cattivo (1966) đều do Clint Eastwood thủ vai chính và Ennio Morricone viết nhạc phim.
-         Giallo - Thể loại phim kinh dị
Giallo (màu vàng) là thể loại phim kinh dị kiểu Italia bắt đầu nổi lên trong thập niên 1960 và 1970 khi các đạo diễn Mario Bava, Riccardo Freda, Antonio Margheriti và Dario Argento thực hiện các bộ phim kinh dị và rùng rợn kinh điển sau này có ảnh hưởng lớn tới thể loại này của điện ảnh thế giới như La maschera del demonio (1960), Danza macabra (1964), Reazione a catena (1971) và L'uccello dalle piume di cristallo (1970).
Thể loại này được khai thác sâu hơn bằng những bộ phim điện ảnh kiểu tài liệu (Mondo movie) trong đó các cảnh quay được thực hiện bằng phong cách quay phim tài liệu với bối cảnh phim gần với hiện thực ở mức cao nhất. Tiêu biểu cho phong cách này là Mondo Cane (1962) của Gualtiero Jacopetti và đặc biệt là Cannibal Holocaust (1980) của Ruggero Deodato. Cannibal Holocaust được quay chân thực và kinh dị tới mức ở rất nhiều nước nó bị cấm phát hành và đạo diễn Deodato thậm chí còn bị mời hầu tòa vì các quan chức tưởng đây là một bộ phim tài liệu quay cảnh giết người thật (phim snuff - snuff film) và Deodato chỉ được thả sau khi đưa ra các bằng chứng cho thấy các diễn viên vẫn còn sống sau khi thực hiện các cảnh phim.
-         Cuộc khủng hoảng thập niên 1980
Từ cuối thập niên 1970 đến giữa thập niên 1980 điện ảnh Italia lâm vào tình trạng khủng hoảng kéo dài, các bộ phim nghệ thuật đăc trưng cho nghệ thuật thứ 7 Italia bị chia cắt khỏi dòng phim chính trên thị trường. Những bộ phim được ưa chuộng thời kì này thường chỉ là những bộ phim có chất lượng nghệ thuật thấp, thường là phim hài đề cập tới những điều cấm kị trong xã hội Italia, đặc biệt là về các đề tài tình dục.
Trong số ít ỏi các bộ phim có chất lượng nghệ thuật cao có thể kể tới tác phẩm hợp tác Hoàng đế cuối cùng (The Last Emperor) của đạo diễn Bernardo Bertolucci, bộ phim này đã giành Giải Oscar Phim hay nhất cùng 8 giải Oscar khác. Một bộ phim xuất sắc khác là C'era una volta in America của Sergio Leone.
-         Thập niên 1990 đến nay
Cuối thập niên 1980 một thế hệ đạo diễn mới đã bắt đầu đem lại sức sống cho các bộ phim Italia. Sự hồi sinh của điện ảnh Italia bắt đầu với bộ phim gây tiếng vang Rạp chiếu bóng Thiên đường (Nuovo Cinema Paradiso, 1988) của Giuseppe Tornatore, tác phẩm chiến thắng tại hạng mục Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất tại lễ trao Giải Oscar năm 1990. Cũng tại hạng mục này điện ảnh Italia còn hai lần chiến thắng khác vào thập niên 1990 với Mediterraneo (1991) của Gabriele Salvatores và Cuộc sống tươi đẹp (La vita è bella, 1998) của Roberto Benigni. Benigni cũng là người Italia đầu tiên giành tới 3 giải Oscar trong một năm với các giải Vai nam chính, Phim nói tiếng nước ngoài và Nhạc phim.



LÊ DIỄN ĐỨC* 30-4-1975



40 năm nguyên vẹn một vết thương rỉ máu


Lê Diễn Đức

Ngày 30 tháng Tư năm 1975 tôi ở trong nhà tù Hoả Lò ở Hà Nội. Tôi bị Toà án Nhân dân Hà Nội kết án hai năm tù giam về tội "trốn ở lại nước ngoài". Tôi bị giam giữ biệt lập ở trại tù Thanh Xuân gần một năm để điều tra và sau đó ở Hoả Lò cho đến khi được trả tự do.
Hôm ấy không khí trong nhà tù sôi động, sau khi ông Trung uý Huệ thông báo và mọi người tập trung ở ngoài sân nghe đọc báo Nhân Dân.
Tôi vẫn nhớ như in hình dáng của ông trung úy Huệ già, có mái tóc bạc trắng, một con người hiền lành và nhân hậu. Ông là người miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954, tôi chỉ biết có thế. Ông là giám thị của buồng 15, chứa khoảng hai trăm tù nhân, đa phần là cán bộ nhà nước tham ô, một phần nhỏ khác là giới xã hội đen, nhưng không thuộc loại nguy hiểm...
Có lần một tay anh chị trong đám này gây sự với tôi khi tắm, chưa kịp đánh nhau thì trật tự phòng can ngăn và báo cáo sự việc lên ông Huệ. Tôi bị gọi lên phòng ông làm việc. Ông pha trà và mời tôi hút thuốc. Ông nói với tôi gây sự trong tù sẽ bị kỷ luật và an toàn của bản thân bị đe doạ. Tôi thanh minh lỗi không phải từ phía tôi. Ông nói ông biết và chắc là nắm được lý lịch của tôi nên ông nói tiếc cho tôi quá, học sinh, sinh viên giỏi mà sao lại để ra nông nỗi này. Có vẻ ông chia sẻ với tôi hơn là trách móc, giáo dục. Rất có thể vì thấy tội nghiệp cho hoàn cảnh của tôi mà sau này ông đã sắp xếp tôi xuống bếp ăn của nhà tù, một công việc mơ ước của bao tù nhân khác, vì đã xuống bếp thì được sang ở khu khác, sinh hoạt thoải mái hơn, thỉnh thoảng còn được ra ngoài phố (lấy than) và quan trọng nhất là không bao giờ bị đói nữa.
Ngày 30 tháng Tư, ai ai cũng vui mừng vì chiến tranh kết thúc. Riêng tôi rất buồn. Tôi không nghĩ Bắc Việt sẽ chiến thắng dễ dàng như thế. Sau này khi ra tù, tôi sẽ tìm cách vượt tuyến vào Nam. Cách trốn qua sông Bắc Hải như thế nào, rồi tiến vào phía Nam qua sông Hàn ra sao trong lúc khói lửa đang ác liệt ở vùng Quảng Trị, Huế, tôi đã được một tù nhân khác ở cùng phòng một thời gian ngắn lúc ở trại giam Thanh Xuân, chỉ dẫn. Qua được sông Hàn là thoát, anh ta khẳng định như thế.
Mặc dù không hiểu biết bao nhiêu về chế độ Việt Nam Cộng Hoà nhưng tôi nghĩ rằng, một nạn nhân của miền Bắc, chỉ yêu với một cô gái Ba Lan và tìm cách ở lại nước ngoài mà bị tù đày, chắc chắn tôi sẽ được tiếp nhận. Tôi khao khát tự do và tôi tin rằng chế độ Việt Nam Cộng Hoà tự do hơn miền Bắc. Tôi chỉ có một con đường duy nhất ấy. Bởi vì với cái án tù, trong chế độ cộng sản, tôi sẽ chẳng thể nào có cơ hội vươn lên nữa. Chắc chắn tôi sẽ chịu thân phận con trâu đi trước, cái cày theo sau, sẽ bị xã hội khinh rẻ, đời sống sẽ chìm trong tủi nhục.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 chấm dứt mơ ước phiêu lưu của tôi, khép lại cánh cửa và để lại trước tôi một viễn cảnh đen tối. Làm sao tôi không buồn. Tôi không dám chia sẻ nỗi buồn với ai. Tôi im lặng gặm nhấm và xác định cho mình một tương lai khác. Một cái mốc xoay chuyển cuộc đời tôi!
Ngày 2 tháng 9 năm 1975, đại ân xá và tôi ra tù trước thời hạn 5 tháng. Nhận lại quần áo từ Ba Lan mang về bị giữ lại từ lúc bị bắt, cầm "Lệnh tạm tha" bước ra khỏi cổng chính nhà tù Hoả lò, tôi ngơ ngác nhìn quanh phố phường Hà Nội. Về đâu? Tôi rảo bước một cách vô thức, không biết đi đâu. Trời lất phất mưa. Cờ, khẩu hiệu giăng khắp phố. Những chiếc xe đạp qua lại, có những cô gái mặc áo dài, chắc đi dự ngày lễ ở đâu đó. Tôi không phải là dân Hà Nội, nên rất bỡ ngỡ. Trong túi không có đồng nào, tôi hỏi đường đi lên Bờ Hồ và nhảy lên tàu điện xuống Thanh Xuân, nơi có anh ruột đang học Đại học Tổng hợp. Một hành khách nhìn tôi nói anh ở nước ngoài về à (chắc nhìn tôi ăn mặc và xách cái túi du lịch), đi tàu hãy cẩn thận, dễ bị móc túi lắm. Tôi cám ơn. Thật là may mắn, chẳng thấy ai soát vé cả...
Hôm nay, 40 năm sau, tôi ngồi ở thành phố Houston, nước Mỹ, viết lại những dòng này. Tôi đã định cư và ổn định trên đất Mỹ. Bốn đứa con tôi, con trai đầu là công dân Australia đang sống và làm việc ở Melbourne, ba đứa khác đều là công dân Mỹ. Hạnh phúc ngập tràn, cái giấc mơ nhỏ nhoi vượt biên vào Nam ngày nào không thực hiện được thì giờ đây, như có phép lạ, tôi được sống ở Mỹ, đất nước đã có tới 58 ngàn chiến sĩ bỏ mạng để ngăn chặn làn sóng đỏ, bảo vệ tự do cho miền Nam Việt Nam!
Cuộc hành trình tìm đến tự do của tôi tuy không bi thảm như hàng triệu người miền Nam đã đối diện với hiểm nguy và cái chết trốn chạy khỏi chế độ cộng sản sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, nhưng cũng sóng gió và mạo hiểm, đòi hỏi một nỗ lực rất lớn, cộng với may mắn.
Tôi nhìn thấy một cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản ở Mỹ trưởng thành trong mọi lĩnh vực, nhiều người là những nhà khoa học, chuyên gia kỹ thuật, chính khách, thương nhân giỏi hội nhập vào dòng chính nước Mỹ, góp phần vào sự phát triển của nước Mỹ, quê hương thứ hai của họ, nơi đã che chở, bao dung họ trong những ngày chân ướt chân ráo đặt chân tới miền đất lạ.
Tôi chia sẻ với người Việt khi họ gọi ngày 30 tháng Tư là ngày "quốc hận", vì ngày ấy là ngày một quốc gia hợp pháp, một nền cộng hoà dân chủ non trẻ bị bức tử. Lá cờ vàng ba sọc đỏ của quốc gia đó, Việt Nam Cộng Hoà, gắn liền với những kỷ niệm đẹp một thời, rất nhiều người đã vì tự do mà ngã xuống lá cờ đó.
Quốc hận còn có nghĩa những người phụng sự cho quốc gia ấy đã bị chế độ cộng sản trả thù một cách vô nhân đạo. Hàng trăm ngàn quân cán chính của Việt Nam Cộng Hoà bị đưa đi tập trung cải tạo, không thông qua xét xử, gia đình của họ bị cô lập, bị phân biệt đối xử hà khắc, chính sách đi dân đi kinh tế mới, cải tạo công thương, ngăn sông cấm chợ đã đẩy cuộc sống vào bế tắc, khiến cả triệu người phải bỏ nứơc ra đi.  Đây là bản cáo trạng tội ác khủng bố của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam. Vết thương này quá lớn, nó là nguyên nhân của sự chia rẽ và vẫn sẽ tiếp tục rỉ máu, khi đất nước Việt Nam còn bị áp đặt sự thống trị độc quyền, độc tài, phi dân chủ của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ở Ba Lan, nơi tôi sinh sống nhiều năm, sau khi chế độ cộng sản sụp đổ vào năm 1989, không có vấn đề trả thù những người cộng sản. Thành công nhất của Ba Lan là xã hội mới trở thành mái nhà chung cho tất cả những người có chính kiến, quan điểm khác nhau. Những người cựu cộng sản Ba Lan đã lột xác, rũ bỏ ý thức hệ mác-xít, thành lập đảng Liên minh Cánh tả Dân chủ theo khuynh hương dân chủ-xã hội.
Tháng 12 năm 2005 Quốc hội Ba Lan đã ra nghị quyết về tình trạng thiết quân luật mà nhà cầm quyền Cộng sản Ba Lan ban hành ngày 13 tháng 12 năm 1981 nhằm dập tắt phong trào đối lập. Trong gần hai năm 1981-1983 đã có gần 10 ngàn người bị giam giữ và kết án, hàng trăm ngàn người đã rời bỏ Ba Lan chạy qua các nước phương Tây, được xem là một giai đoạn đen tối nhất của lịch sử Ba lan sau Chiến tranh Thế giới II.
Đề xướng nghị quyết lại chính là những người cựu Cộng sản Ba Lan trong quốc hội. Nghị quyết viết: “Quốc hội Ba Lan tỏ lòng thương tiếc và tưởng nhớ đến những người Ba Lan – những nạn nhân của sự truy bức, đàn áp chỉ vì họ muốn thực hiện ước mơ cho một Ba lan dân chủ và tự do. (…) Kinh nghiệm của quá khứ là bài học cho những người cầm quyền và xã hội rằng, bằng bạo lực không những không hạn chế được nhân quyền, tự do của công dân, mà cũng không thể giải quyết được các vấn đề cơ bản của nhà nước” (Nhật báo Gazeta Wyborcza ngày 16/12/2005).
Còn A. Kwasniewski, cựu Bộ trưởng trong chế độ Cộng sản, Tổng thống Ba Lan dân cử hai nhiệm kỳ (1995- 2005) đã xin lỗi nhân dân Ba lan về giai đoạn thiết quân luật, về sự chịu đựng và tổn thương mà nhân dân Ba Lan đã phải trải qua.
Trong một xã hội mà nhà nước không do nhân dân bầu chọn tự do, không thể nào có chỗ đứng cho sự hoà hợp hoà giải, bởi vì nhà nước ấy là đại diện cho một băng đảng đặc quyền đặc lợi, chỉ biết đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích dân tộc.
Trong một xã hội mà nhà cầm quyền lấy truy bức và đàn áp là phương tiện để duy trì quyền lực, cũng không có chỗ cho sự nhìn nhận sai lầm chân thực. Vì thế, nhân 40 năm ngày 30 tháng Tư, người ta vẫn cao ngạo duyệt binh, ăn mừng "chiến thắng"!  
40 năm vẫn nguyên vẹn một vết thương rỉ máu!
© Lê Diễn Đức - RFA

NGUYỄN VŨ BÌNH * 30-4-75


Viết cho ngày 30/4: nỗi đau nào lớn hơn?


Viết cho ngày 30/4: nỗi đau nào lớn hơn?

     Hàng năm, cứ đến ngày 30/4 là nhà cầm quyền Việt Nam lại tổ chức kỷ niệm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước bằng các lễ mít tinh, diễu hành, diễu binh, duyệt binh. Đối với đồng bào người Việt hải ngoại, và rất nhiều đồng bào miền Nam ở trong nước, đây là ngày quốc hận, là nỗi đau chưa hề nguôi ngoai. Người ta đã nói nhiều tới nỗi đau của người dân miền Nam sau biến cố 30/4/1975 này, và đó là những sự thật hiển nhiên. Một quốc gia (Việt Nam Cộng Hòa), với chính nghĩa sáng ngời, tinh thần nhân bản đã bị cưỡng chiếm một cách đau đớn, tức tưởi. Từ sự kiện này, hàng triệu quân, dân, cán, chính của Việt Nam Cộng Hòa đã phải vào các trại cải tạo, lao tù. Hàng chục vạn người đã phải bỏ nước ra đi, vượt biên vì không thể sống nổi trên quê hương. Hàng chục ngàn người đã nằm trong bụng cá và dưới đáy biển sâu…đó là số phận, là nỗi đau của bên thua cuộc.
     Tuy nhiên, ngoại trừ sự thất bại của cuộc chiến tranh (có nguyên nhân quan trọng từ việc đồng minh Mỹ bỏ rơi) mà người dân miền Nam ít nhiều có trách nhiệm, thì những nỗi đau khác, sự thống khổ, bi ai của người dân miền Nam là kết quả của những chính sách thâm độc, hiểm ác và tàn bạo của chế độ cộng sản Việt Nam. Đó là nỗi đau của nạn nhân, nỗi đau có sự thương xót và đồng cảm của đồng loại.
     Nhưng ngày 30/4 cũng chính là bước ngoặt và đưa tới một nỗi đau tột cùng cho bên thắng cuộc, cho những người được mệnh danh giải phóng người khác. Rất ít người nhận ra nỗi đau âm ỉ, dồn nén và không nói lên được của hầu hết những người thắng trận năm xưa, của những thế hệ dấn thân cho đất nước, cho dân tộc luôn nghĩ mình có chính nghĩa và lý tưởng nhưng cuối cùng lại không phải như vậy.
     Nỗi đau của bên thắng cuộc là nỗi đau từ từ, âm ỉ. Nó lớn lên cùng với nhận thức của chính những người trong cuộc, từ sự so sánh giữa lý tưởng và hiện thực, giữa lời nói và việc làm. Sau 30/4/75, đất nước sạch bóng quân thù, cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội….một sự vỡ mộng, bẽ bàng khủng khiếp từ từ xâm lấn tâm hồn bên thắng cuộc. Với độ lùi 40 năm sau ngày 30/4 đó, tất cả đã hiển hiện, bức tranh toàn cảnh của Việt Nam dưới sự lãnh đạo tài tình của đảng cộng sản: Sự toàn vẹn lãnh thổ không còn, đất đai, hải đảo, lãnh hải bị mất và xâm phạm nghiêm trọng; nợ gấp đôi GDP và không có khả năng thanh toán; đạo đức, nền tảng xã hội bị băng hoại và phá hủy hoàn toàn; sự dồn nén cùng cực của tất cả mọi tầng lớp nhân dân…đây phải chăng là kết quả của niềm vui chiến thắng?
     Chưa hết, nỗi đau còn nhân lên gấp bội khi sự rộng mở của hệ thống Internet toàn cầu đưa tới những sự thật kinh khủng: Hồ Chí Minh bán Phan Bội Châu cho Pháp để lấy 10 vạn quan tiền; kế hoạch sửa sai có trước khi Cải cách ruộng đất diễn ra (sách Từ Thực dân tới Cộng sản – tác giả Hoàng Văn Chí)…tất cả những sự thật khủng khiếp đó được hé lộ đã khẳng định một điều. Hóa ra, có một sự thật có hệ thống từ khi đảng cộng sản xuất hiện đã chi phối và không chế hoàn toàn dòng chảy của lịch sử Việt Nam. Sự thật này khởi nguồn từ việc cướp chính quyền, tiêu diệt toàn bộ các đảng phái không phải cộng sản; tạo ra cuộc Cải cách ruộng đất long trời lở đất; cải tạo công thương nghiệp miền Bắc; Nhân văn Giai phẩm; cưỡng chiếm miền Nam; đày đọa hàng triệu quân, dân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa; cải tạo công thương nghiệp miền Nam; hai lần đổi tiền để cướp của người dân; cướp đất đai của người dân tạo ra hàng triệu dân oan trên cả nước (thời kỳ đổi mới); đàn áp mọi tôn giáo, sắc tộc….một sự liệt kê chưa đầy đủ này đã làm câm họng tất cả những kẻ nói rằng chủ trương đường lối là đúng, thực hiện sai; bản chất là đúng, là tốt nhưng quá trình thực hiện có sai lầm; thế hệ trước là đúng, là tốt, sau này mới tha hóa, xấu xa…
     Những sự thật này đã đẩy bên thắng cuộc tới tận cùng của nỗi đau: cả cuộc đời, cả sự nghiệp của họ là vứt đi, thậm chí có tội với dân tộc, với đất nước. Còn nỗi đau nào lớn hơn khi ngay từ những năm 14-15 tuổi làm liên lạc viên cho Việt Minh, cả cuộc đời cống hiến, lên tới chức vụ trưởng, thứ trưởng, bộ trưởng…khi đã về hưu, khi sự thật được phơi bày mới biết rằng mình đã bị lừa, những điều mình làm không hề đem lại điều tốt đẹp cho nhân dân, đất nước mà còn góp phần gây ra thảm họa cho dân tộc, cho nhân dân, cho đất nước.
     Vậy thì, nỗi đau nào lớn hơn?
Hà nội, ngày 25/4/2015
N.V.B

CỘNG SẢN PHẢN ĐỐI HÀNH TRÌNH TỰ DO

CSVN tức tối vì Canada thông qua đạo luật 'Ngày Hành trình đến Tự do'






CTV Danlambao - Nhà cầm quyền CSVN đã tỏ ra tức tối trước việc Quốc Hội Canada vừa chính thức thông qua đạo luật S-219 ‘Ngày Hành trình đến Tự do’. Đây là đạo luật có ý nghĩa công nhận ngày 30/4 hàng năm là ngày quốc lễ Canada để tưởng nhớ những nạn nhân của đảng CSVN đã phải liều chết vượt biên tìm tự do.
Chiều ngày 24/4/2015, người phát ngôn bộ ngoại giao VN, ông Lê Hải Bình mạnh mẽ chỉ trích đạo luật S-219 là ‘sai trái’, ‘xuyên tạc’ và ‘xúc phạm’.

Cùng ngày, bộ ngoại giao CSVN tuyên bố đã ‘triệu tập’ đại sứ quán Canada tại Việt Nam để phản đối.

Thủ tướng Canada, Stephen Harper. Hình Thời báo Toronto.
Thông tấn xã Việt Nam trích lời ông Lê Hải Bình nói: "S-219 là một đạo luật hoàn toàn sai trái, chứa đựng nhiều nội dung xuyên tạc lịch sử cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế, trong đó có Canada ủng hộ. Việt Nam kiên quyết phản đối việc Canada thông qua đạo luật này."

Người phát ngôn CSVN gọi đây "là bước lùi trong quan hệ giữa hai nước, gây ảnh hưởng tiêu cực tới quan hệ đang phát triển tốt đẹp giữa Việt Nam và Canada, xúc phạm tình cảm của nhân dân Việt Nam cũng như một bộ phận lớn cộng đồng người Việt tại Canada."

Ông Lê Hải Bình cũng đồng thời cảnh báo Canada phải "nhận thức rõ ảnh hưởng tiêu cực" "có các biện pháp khắc phục, không để xảy ra những sự việc tương tự" đối với đạo luật S-219.
Theo báo chí Canada, hồi cuối năm 2014, thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng đã trực tiếp gửi thư cho thủ tướng Canada, ông Stephen Harper để bày tỏ nỗi ‘bức xúc’ trước đạo luật S-219.
Điều 2, đạo luật S-219 nêu rõ: “Khắp đất nước Canada, hàng năm và mỗi năm, ngày thứ Ba mươi của tháng Tư (30/4) sẽ được biết đến như là “Ngày Hành trình đến Tự do”.
Đạo luật ‘Ngày Hành trình đến Tự do’ được sự bảo trợ của thượng nghị sỹ gốc Việt, ông Ngô Thanh Hải. 
Chiều ngày 22/4/2015, đạo luật đã chính thức được quốc hội Canada biểu quyết thông qua, đúng vào thời điểm dánh dấu 40 năm cộng sản cưỡng chiếm miền Nam.
Hiện có khoảng 300 ngàn người gốc Việt đang sinh sống tại Canada, đa số đều là những người tị nạn phải bỏ nước ra đi sau ngày 30/4/1975. 
Đây là một tin vui lớn đối với cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản khắp nơi trên thế giới, đồng thời cũng là minh chứng cho sức mạnh và sự trỗi dậy của cộng đồng người Việt tại Canada.

LÊ ĐÌNH CAI * KÝ SỰ BÁC ÂU



Ký sự:

          Chuyến viếng thăm các quốc gia vùng Bắc Âu
         Lê Đình Cai ghi.


Giữa tháng tư năm 2014, chúng tôi có tham dự chuyến đi Florida do anh em Quốc Hoc Đồng Khánh tổ chức hơn một tuần để họp mắt 50 năm gặp lại tại hải ngoại. Nhân dịp này , anh Nguyễn Mậu Hưng, trưởng ban tổ chức đã cho chúng tôi đi viếng thăm Disney World, thăm trung tâm NASA và đặc biệt là tham dự ba đêm trên du thuyền Enchantment of the Seas, ghé thăm cảnh đẹp của tiểu quốc Bahamas (nằm trong khối thịnh vượng chung Anh Quốc).

Dù vẫn còn tâm trạng e ngại khi đi tham quan các thắng tích của thế giới bằng du thuyền, vợ chồng chúng tôi vẫn hưởng ứng chuyến đi của nhóm Quốc Gia Hành Chánh do anh Nguyễn Đức Khoát (Nam Cali) và anh Quách Đại Thành (Oregon) đứng ra tổ chức vào giữa tháng 6/2014.

1.      Trạm dừng chân đầu tiên: Thủ đô Copenhagen của Đan Mạch (Denmark)


Chúng tôi ở Bắc Cali gồm anh chị Võ Đăng Đài, anh chị Đỗ Hữu Đồng, anh chị Lê Đình Cai đáp chuyến Southwest Airlines đi từ phi trường San Jose đến Los Angeles lúc 3:15 chiều ngày 12/06/2014. Rồi đáp chuyến bay của hãng Norwegian Airlines lúc 7:30 tối và đến phi trường Copenhagen sau gần 11 tiếng đồng hồ bay. Taxi đưa chúng tôi về ngay khách sạn Omena Hotel Copenhagen.Bây giờ, đồng hồ (địa phương) chỉ đúng 5:30 chiều ngày 13/06/2014. Tại đây, chúng tôi gặp được hầu hết anh chị từ khắp nơi trên đất Mỹ đến, như anh chị Nguyễn Đức Khoát (Nam Cali), anh chị Nguyễn Đức Nam (ở miền Đông Hoa Kỳ); anh chị Lý Văn Quan, anh chị Lê Đức Thạc (ở Minnesota); anh chị Quách Đại Thành (ở Oregon); anh chị Thành Lê, anh chị Phạm Nguyên Khôi (Bắc Cali); đặc biệt có gia đình anh chị Nguyễn Đức Du từ Úc Châu xa xôi cũng về tham dự với đoàn, lại có cháu Cindy Nguyễn, con anh chị Du, vừa tốt nghiệp đại học ở Úc cũng theo ba mẹ trong chuyến đi này. 

Cả thảy chúng tôi có 23 thành viên sẽ cùng lênh đênh trên biển cả hơn 10 ngày để thăm viếng 6 quốc gia vùng Bắc Âu: Denmark, Germany, Estonia, Russia, Finland và Sweden.
Thủ đô của Denmark, nơi chúng tôi đặt chân đến đầu tiên, Copenhagen, là một thành phố khá đẹp, nhưng giá sinh hoạt thì rất đắt đỏ. Sau khi tắm rửa nghỉ ngơi, tất cả chúng tôi đi tìm nhà hàng ăn tối. May thay trên con đường gần khách sạn có nhà hang ăn cho người Việt Nam làm chủ, có bán phở, mì sợi và một số đồ ăn Á Châu khác, chỉ đi bộ mất vài phút, mang tên Kivi Vietnamese Bistro. Vợ chồng chủ nhân còn trẻ, khoảng trên 50 tuối. Anh chị đến lập nghiệp vào đầu 1980 và mở cửa hàng từ đó cho đến nay, cửa hàng được trao lại cho con trai đầu quản lý, anh chị chỉ thỉnh thoảng đến giúp thêm ý kiến mà thôi. Khi chúng tôi có mặt thì cửa hàng hầu như không còn chỗ trống, phải chờ sắp chỗ.Cả trên lầu và dưới lầu số khách chứa được khoảng dưới 50 người.Khi biết chúng tôi là người Việt từ Hoa Kỳ đến, anh chị hết lòng giúp đỡ. Sau khi ăn xong, anh ch
dẫn chúng tôi ra khu nhà ga gần đó, nơi có một khu buôn bán sầm uất, đủ mọi thứ cần thiết cho đời sống. Vật giá ở đây cao ngất ngưỡng. Tô phở giá gần 20 đô, một quả táo (apple): 1 đô, một chai Pepsi giá 22,95 karounes (gần 5 đô), một chai nước uống giá 15 karounes (gần 3,5 đô).
Hôm sau, vợ chồng chúng tôi đến ăn tại một tiệm tàu gần khách sạn. Bữa cơm trưa cho cả hai vợ chồng gồm tô canh, 1 dĩa cá, một dĩa xào, với đĩa cơm trắng, giá phải trả gần 45 đô. Một điều đặc biệt, muốn đi “restroom” phải trả tiền, chứ không “free” như ở nước Mỹ (mỗi lần phải trả 5 karounes tức 1 đô, lại phải sắp hàng chờ đợi đến mượt mình). Đây là một cực hình đối với du khách, ngay khi đến các nước Bắc Âu khác cũng vậy.  Nhớ lại bài viết của tác giả Phượng Vũ: “Nước Mỹ số một vì “toilet”?” mới thấy những cái nhất, không quốc gia nào sánh bằng, đặc biệt là vấn đề đi “Toilet”. Rồi tác giả kết luận: “Đúng là có đi ra ngoài mới thấy tiện nghi ở nước Mỹ là số một. Đó là chưa kể đến vụ so sánh giá cả, hàng hóa ở Mỹ và Châu Âu. Hàng hóa ở Mỹ vừa nhiều vừa, vừa rẻ…” (Sống Mới, số ra ngày 12/07/2014, tr.82).Chúng tôi ở lại thủ đô Copenhagen hai ngày hai đêm trước khi xuống tàu Norwegian Star nên đã cố gắng viếng thăm một số thắng cảnh trong vùng này. Nhà cửa ở đây cũng như các quốc gia khác mà chúng tôi đến thăm đều xây theo kiến trúc nhà chung cư, ít có nhà tư nhân biệt lập như Hoa Kỳ, cả thành phố như những chiếc hộp hình chữ nhật xếp nằm cạnh nhau với các con đường ngang dọc chung quanh. Cây xanh trên các phướng phố là điều hiếm thấy. Copenhagen còn được mệnh danh là thành phố của xe đạp. Các cô cậu đi hàng đoàn trên xe đạp, nói cười vui vẻ, họ được hưởng luật ưu tiên khi di chuyển trên đường so với xe hơi. Hai bên đường các trạm gởi xe đạp kề sát nhau tạo thành một cảnh tượng vui mắt đối với các du khách vì cảnh này hầu như không có ở Mỹ. Sáng sớm ngày 14/06/2014, cả mọi người ra khu nhà ga, gần khách sạn để cùng nhau ăn sáng.Một số đi trước, trong đó có anh chị Lý Văn Quan. Bỗng anh Quan la lên: “Ăn cướp! Ăn cướp!”, rồi anh ôm chặt chàng thanh niên da đen, va lấy lại được cái bóp của anh. Anh Quan đã kể lại là thấy chàng thanh niên này đi bê

bên cạnh cố ý làm quen, anh đã nghi rồi, nhưng khi sờ lại túi quần mới biết là mất bóp. Anh đuổi theo và la lên. Thấy đông người hỗ trợ, cậu ta trao lại bóp và bỏ chạy. Tôi ở toán người đi sau, cũng gặp một anh chàng de đen, quàng vai, rồi bắt tay. Nhà tôi đi sau, la lên “Coi chừng anh!” Chàng thanh niên này, thấy tôi để tay lui túi quần đề phòng, nên anh ta đi thẳng. Thật hú hồn… Ăn sáng xong, chúng tôi mua vé lên cùng một chuyến xebuýt “Hop on hop off” để tham quan vòng quanh thành phố.
Copenhagen là thành phố đông dân nhất của Denmark, với tổng số cư dân thủ đô lên đến gần 2 triệu người (theo ghi nhận kể từ tháng 04/2014). Ngồi trên xe buýt “Hip on hip off”, mỗi người chúng tôi được phát một bộ “Listen-up”, đeo vào tai để nghe hướng dẫn viên du lịch giới thiệu từng địa điểm đi qua. Xe chở chúng tôi đi dọc kênh đào (Christianshavn Canal), rồi tới khu Vesterbro bắt đầu với khu vườn Tivoli (Tivoli Garden), nhìn thấy nhà hát Pantomime Theater, thành lập 1874;rồi đến khu phun nước Gefion Fountain rất kỳ vĩ, hoàn thành năm 1908. Xe chạy ngay quang tòa nhà Frederiksberg Palace, rồi viện bảo tàng quốc gia (National Museum), chuyên trưng bày về khảo cổ và về lịch sử văn hóa của Denmark.Chúng tôi dừng lại để xem tượng người cá (hình người đàn bà lõa thể với đuôi cá) đang ngồi trên một phiến đá lớn. Đây là địa điểm thu hút rất nhiều du khách ngoại quốc. Xe buýt còn chở chúng tôi đi qua một số địa điểm nữa rồi trở về điểm xuất phát gần nhà ga. Tất cả mọi người trở về khách sạn nghỉ ngơi để chuẩn bị ngày mai xuống tàu Norwegian Star, khởi đầu cho 10 ngày lênh đênh trên biển cả và viếng thăm các quốc gia kế tiếp.
1.      Ghé thăm bến cảng Warnemunde của Đức (Germany)
Hôm nay, chủ nhật ngày 15/06/2014, tất cả phái đoàn đều đã có mặt trên tàu để dùng  cơm trưa. Khoảng 4 giờ tất cả phải tham gia buổi thực tập cấp cứu. Vợ chồng tôi đã quen với việc thực tập này trên chuyến du thuyền đến thăm tiểu quốc  Bahamas vào tháng 04/2014 vừa qua và không còn cảm giác lo sợ nữa. Khoảng 5 giờ chiều, chiếc du thuyền Norwegian Star sửa soạn rời bến.Du khách bắ

bắt đầu tham dự các trò vui chơi giải trí trên t`au, nhưng cũng có người đi ngủ sớm. Du thuyền nào cũng giống nhau về việc tổ chức và phối trí các khu giải trí, vui chơi, ăn uống… đáp ứng mọi thị hiếu của du khách.
Sau gần 15 tiếng hải hành, chiếc du thuyền đã đến bến cảng của khu nghỉ mát Warnemunde, Germany sáng ngày thứ hai (16/06/2014) lúc 7:30 sáng (giờ địa phương).Khoảng 9:30 sáng mọi người rời du thuyền. Một số ghi danh chuyến đi thăm Berlin bằng tàu tốc hành và cuộc hành trình mất ít nhất 2 giờ 29 phút.Rieng anh chị trong nhóm Quốc Gia Hành Chánh thì quyết định đi bộ viếng thăm thành phố biển này. Tôi đã có dịp ghé Frankfurt và thăm Berlin cách đây 6 năm về trước nên thấy nhà của ở đây, cách xây cất, kiểu mẫu cũng tựa như hai thành phố ấy. Những con đường trong thành phố và dọc bờ biển thường lát bằng gạch hay đá, ít khi được rãi nhựa.Warnemunde bắt đầu phát triển thành một trung tâm nghỉ mát quan trọng. Ngày nay, dân số vùng này khoảng 8,400 người, dựa vào ngành ngư nghiệp và gần đây phát triển mạnh về du lịch. Việc xây cất một trung tâm tiếp đón du thuyền hiện đại (Modern Cruise Line Center) vào năm 2005 đã biến Warndemunde thành một hải cảng quan trọng bậc nhất trong ngành kỹ nghệ phát triển du thuyền ở Đức ngày nay. Tại vùng đất cảng này du khách có thể viếng thăm tháp hải đăng (lighthouse), được xây dựng vào năm 1897. Ngọn hải đăng này cao chừng 37 thước (121 feet), cho phép du khách đưa tầm nhìn bao quát cả vùng biển Baltic và trông thấy rõ cả các quận phía Bắc thành phố Rostock này. Khu nhà hàng Teepott với lối kiến trúc rất tân kỳ (mái vòm hình cong), biểu tượng cho lối kiến trúc của vùng Đông Đức, được xây cất từ năm 1960 và được canh cải lại năm 2002, gồm nhiều cửa hàng ăn, quán cà phê và những nơi trưng bày triển lãm. Bãi biển Warndemunde đầy cát mịn, dài và rộng nhất trên bờ biển Baltic, kéo dài hơn 3 cây số.
Khí hậu rất dễ chịu. Đời sống dân cư ở đây có vẻ sung túc và an bình. Đoàn chúng tôi đi vào khu nhà ga và gặp những chuyến tàu đang chuyển bánh đi các nơi. Các con tàu có vẻ cũ kỹ. Moi nguoi chụp nhiều hình kỷ niệm ở đây.Chúng tôi đi bộ khá xa và đã được m

mấy tiếng đồng hồ nên thấm mệt. Các anh chị khác còn đi sâu vào trung tâm của thị trấn này nhưng vợ chông tôi ,anh chị Nguyễn Đức Du và cháu Cindy thì tìm đường trở lại du thuyền, kết thúc một ngày thăm viếng ngắn ngủi một bến cảng của Đức quốc.

1.      Viếng thăm thành phố thời trung cổ Tallinn của Estonia:
Vào ngày 24/02/1919, người Nga bị đánh đuổi khỏi Estonia và 02/02/1920, quốc gia này được tuyến bố độc lập. Nhưng vào ngày 17/06/1940, Nga lại xâm lăng Estonia và đưa quốc gia này vào Liên Bang Xô Viết. Đầu thập niên 90, Liên Bang Xô Viết sụp đổ và Estonia tuyên bố độc lập vào ngày 06/09/1991.Hiện nay Estonia là 1 quốc gia nhỏ nhưng rất thịnh vượng và năm 2005 đã tham gia vào Liên hiệp Âu Châu. Tallinn mà chúng ta đang thăm viếng hôm nay là thủ đô và là thành phố lớn nhất, nằm trên bờ biển phía Bắc của Estonia, chiếm hữu một vùng đất rộng 159.2 cây số vuông, với dân số 431,184 người. Thành phố cổ Tallinn được tổ chức UNESCO liệt vào “Di sản của Thế giới”, và năm 2011 được coi là thủ đô văn hóa của Âu Châu. Du thuyền Norwegian Star đã cập bến vào ngày 18/06/2014 lúc 9 giờ sáng. Đoàn chúng tôi không “book” tours theo như chương trình thông báo của du thuyền, mà chỉ đi xe buýt vào trung tâm thành phố, rồi sửdụng bản đồ để đi bộ tham quan các di tích lịch sử của khu phố cổ này. Du khách có thể tham dự chuyến viếng thăm viện bảo tàng hàng hải, khu sở thú, khu thương mại Tornimae hay khu buôn bán sầm uất Rotermann, thăm Viện đại học kỹ thuật Tallin, hay đến ngắm khu chợ Giáng Sinh (Christmas market) ở công viên tòa thị chính, hoặc viếng thăm ngôi nhà thờ Thánh Olaf với đỉnh tháp nhọn cao ngất ngưỡng nổi tiếng thế giới. 
Tallinn quả là một thành phố cổ kính, hai bên đường cây xanh che phủ im mát, nhà cửa khang trang, không xây theo lối hình hộp thành từng dãy nhà dài như đã thấy ở thủ đô Copenhagen hay sau này như ở thành phố Saint Petersburg, Helsinki hay Stockholm.
2.      Thăm Saint Petersburg của nước Nga:

19/06/2014 lúc 8 giờ thì đến bến cảng Saint Petersburg. Khác với mấy lần trước, lần này anh Trưởng đoàn Nguyễn Đức Khoát đã “book” vé đi tours hai ngày và sử dụng luôn một chiếc xebuýt để đưa phái đoàn đi thăm viếng các di tích của Đế đôSa Hoàng một thời. Saint Petersburg với nhiều lâu đài lộng lẫy, nhiều lăng tẩm hoành tráng, đã thu hút chúng tôi ngay từ đầu. Khoảng 9:30 sáng, đoàn chúng tôi sắp hàng để qua cổng an ninh do chính quyền Nga kiểm soát. Cảm tưởng của mọi người là mình đang đi vào một xứ của cộng sản độc tài, dù Nga đã chuyển đổi trên danh nghĩa qua chế độ dân chủ khi Liên Bang Xô Viết sụp đổ vào đầu thập niên 90. Công an Nga nhìn chằm chằm vào chúng tôi, không chút gì thân thiện và chúng tôi cũng không nghĩ tốt về họ ngay từ đầu.Đoàn chúng tôi mất gần hơn nửa giờ mới qua khỏi cổng kiểm soát vì trong đoàn có anh chị Lý Văn Quan không ghi tên kịp cho chuyến vào tham quan Saint Petersburg. Mãi đến khi cô hướng dẫn viên du lịch người nga, Natasha, năn nĩ mãi công an hải quan mới cho qua. Chiếc xe buýt mà anh Khoát thuê cho đoàn đã đợi sẵn và cô hướng dẫn viên nói tiếng Anh khá trôi chảy bắt đầu thuyết trình chương trình thăm viếng và các địa điểm mà đoàn sẽ lần lượt đến trong hôm nay và ngày mai. 
Saint Petersburg là đế đô được Nga hoàng Peter đại đế thành lập vào 27 tháng 05, 1703, trải qua hơn 200 năm.Và không còn là đế đô nữa sau cuộc cách mạng tháng 10 Nga năm 1917.(Lenin lật đổ đế chế Nga và thành lập nhà nước Nga Xô Viết). Khi xe buýt chạy qua các đường phố, chúng tôi thấy bức tượng người cỡi ngựa bằng đồng (được biết là hình ảnh của Peter đại đế), Khải hoàn môn Narva ở công trường Stachek, và dọc theo bờ biển của thành phố, chính quyền ở đây còn giữ chiếc thuyền Rạng Đông (Aurora) như là một biểu tượng của cuộc cách mạng tháng 10, để cho khách du lịch đến tham quan. Du khách ngồi trên xe buýt còn nhìn thấy cả bức tượng Lê-nin, cao lớn đang được dựng ở quảng trường (chúng tôi ngạc nhiên không hiểu sao bức tượng vẫn tồn tại trong khi nước Nga không còn chế độ cộng sản nữa). Đoàn được hướng dẫn cho xuống chụp hình tại ngôi nhà thờ nơi mà Sa Hoàng Alexander II đã bị ám sá
Du thuyền rời Tallinn 5:30 chiều và vào sáng hôm sau ngày 19




Phải nói đế đô Saint Petersburg, cảnh sắc rất đẹp, với vô số các địa điểm du lịch mà đoàn chỉ có hai ngày nên anh trưởng đoàn quyết định chỉ thăm hai nơi chính là Cung điện Mùa Đông và Cung điện Mùa Hè, và một nơi khác là nhà thờ thánh Peter và thánh Paul, nơi gia đình Nga hoàng được chôn cất.
·   Cung điện Mùa Đông của Sa Hoàng (Winter Palace)
Đoàn chúng tôi bước vào cổng thì được thông báo phải bỏ lại tất cả hành lý kềnh càng ở phòng gởi đồ, không được mang vật liệu kim khí bén nhạy… và được lưu ý cẩn thận giữ chặt đồ quý giá trong người, đề phòng kẻ gian trà trộn… Chúng tôi choáng ngợp với hàng hàng lớp lớp du khách đang chen chúc nhau vào cổng, rất dễ lạc nhau. Dòng người di chuyển vào ra cuồncuộn như thác. Chúng tôi cố gắng đeo bám cô hướng dẫn để theo kịp đoàn. Thật khó để ghi nhận được hết những đặc điểm của cung điện.Chỉ biết đây quả là một cung điện vô cùng xa hoa lộng lẫy và đồ sộ.Vàng dát đầy trên các bức tường và cột trụ là vàng ròng 24 karat. Mái vòm hình khum được trang trí bằng những hình vẽ chạm trổ theo nghệ thuật 3 chiều (3 D. art work). Cung điện này từ năm 1732 đến 1917 là nơi ngự trị của các triều đại Sa Hoàng, được xây cất trên một phạm vi rộng lớn, hoành tráng nhằm phô trương quyền uy của đế chế Sa Hoàng (Tsar). Cung điện Mùa Đông này gồm 1786 cửa ra vào (doors), 1945 cửa sổ (windows), với 1500 phòng (rooms) và 117 cầu thang lên xuống (staircases). Các du khách cần đến cả thời gian lâu mới thăm viếng hết cả khu cung điện này, còn chúng tôi chỉ có hơn nửa ngày để tham quan thì cũng chỉ “cưỡi ngựa xem hoa” mà thôi vậy.
·   Cung điện Mùa Hè của hoàng hậu Catherine (Summer Palace)
Ngày hôm sau (20/06/2014), hướng dẫn viên dẫn đoàn đến thăm cung điện của hoàng hậu Catherine, phải mất hơn một giờ xe buýt mới đưa chúng tôi đến nơi. Cung điện này xây cất cũng theo lối kiến trúc của cung điện mùa đông nhưng không rộng bằng, tuy vẫn uy nghi và lộng lẫy, tọa lạc trên một vùng đất thuộc thị trấn Tsarskoye Selo, nằm cách phía đông nam của Saint Petersburg 25

cây số, được dùng làm nơi cư ngụ của gia đình Sa Hoàng vào mùa hè. Cung điện này khởi sự xây cất vào năm 1717, có hơn 100kg vàng được dung để dát lên mặt tiền của cung điện và phủ lên các bức tượng khắc trên trần nhà.Đằng trước cung điện là khu vườn được xây dựng rất công phu làm nổi bật cảnh quan lộng lẫy của kiến trúc đặc biệt này. Chúng tôi lần lượt được dẫn đi thăm đại sảnh đường (Grand Hall) nơi mà các cuộc đại yến hay lễ lược được tổ chức với những khắc chạm hình nỗi trên tường đều dát bằng vàng thật. Phòng ăn lớn với những bát, đĩa, bình trà, tách trà… đều nhập từ Trung Quốc. Phòng đánh cờ của vua và hoàng hậu, phòng triển lãm chân dung các vị hoàng đế, hoàng hậu, các hoàng tử và công chúa… Phòng ngủcủa vua và hoàng hậu. Phòng làm việc, phòng tiếp các sứ thần, phòng giải trí của hoàng gia… Khi trình bày vài nét về Cung điện Mùa Đông, chúng tôi không nhắc đến cách thiết kế các phòng ốc bên trong của cung điện nhưng khi ghé thăm Cung Điện Mùa Hè, với cách bài trí như vừa nói, các bạn cũng tưởng tượng ra được vì cả hai cung điện này gần như rập khuôn nhau, chỉ khác nhau về kích thước mà thôi.Có đi mới thấy hết cuộc sống hết sức xa hoa và phung phí của các vua chúa ngày xưa. Ngoài hai địa điểm chính trên đây, hướng dẫn viên còn dẫn chúng tôi viếng thăm vài nơi khác như khu Fountain Park (khu này phải đi bộ hơn 1 tiếng đồng hồ, tôi cảm thấy mệt không tham dự và nhà tôi dù muốn đi theo đoàn nhưng phải ở lại với tôi). Còn một điểm du lịch nữa là khu lăng mộ chôn cất gia đình Nga hoàng bị sát hại sau khi Lê-nin lên cầm quyền vào tháng 10, 1917. Đó là lãnh địa của nhà thờ lớn mang tên thánh Peter và thánh Paul, với khu nhà mồ của các vị vua thời Sa Hoàng, bao gồm luôn cả lăng mộ của Peter đại đế, hoàng hậu Catherine và vị vua cuối cùng là Nicolas đệ nhị. Đỉnh nhọn nhô lên từ tháp chuông nhà thờ cao đến 404 thước Anh (feet), tạo thành một cảnh quan kỳ vĩ cho thành phố. Khu thành lũy này do Peter đại đế xây cất vào năm 1703 và khu nhà thờ ở đây được tôn phong vào ngày 01/04/1704. Các lăng mộ vua chúa hoành tráng thường được dân chúng đến viếng thăm và dâng hoa hằng ngày. Khi đoàn đến đây thì số người


đang sắp hàng dài và phải mất gần một tiếng mới hoàn tất cuộc viếng thăm.Du khách trở lại du thuyền để đêm nay khởi hành đi Finland vào lúc 7 giờ tối.

1.      Thăm thủ đô Helsinki của Phần Lan (Finland)
Bảy giờ sáng ngày 21/06/2014, chiếc du thuyền Norwegian Star cập bến cảng phía Tây, ở cầu tàu Melkki số 4. Mọi người lần lượt lên bờ để viếng thăm thành phố Helsinki, thành lập năm 1550, được mệnh danh là “Ái nữ của vùng biển Baltic” (Daughter of the Baltic), và năm 1812 trở thành thủ đô của Phần Lan. Có nhiều thắng tích lôi cuốn du khách đến thăm như nhà thờ chính được xây bằng đá tảng, công viên Sibelins, hòn đảo Suomenlina, quảng trường Nghị viện (Senate Square)… Mọi người mua vé xe buýt “Hop on Hop off” để đi viếng thăm 14 địa điểm khác nhau (vé chỉ mua một lần rồi đi suốt cả ngày). Bến xe buýt “Hop on Hop off” nằm ngay quảng trường nghị viện với ngôi nhà thờ lớn được xây cất dưới thời cai trị của Sa Hoàng Nicolas đệ nhất. Xe chở chúng tôi lần lượt đi qua khu bảo tàng viện Mannerheim, rồi tới khu phố xinh đẹp Eira, nơi cư trú của

sứ thần ngoại giao và trụ sở của các tòa đại sứ. Xe tiếp tục chở chúng tôi đi ngang bến cảng Hernesaari, nơi dung chân của các du thuyền quốc tế, khu chợ trời Hietalahti nổi tiếng với những món ăn thuần túy địa phương. Xe cũng chạy ngang qua cầu tàu Melkki mà du thuyền Norwegian Star của chúng tôi đang đỗ ở đó. Chúng tôi xuống xe ở gần nhà thờ Rock Church. Nhà thờ này là một kiến trúc độc đáo xây bằng đá tảng lớn, phía trong nhà thờ trang trí bằng những tác phẩm khắc chạm rất công phu. Chúng tôi lên xe buýt đến thăm tượng đài nhà soạn nhạc tài ba Sibelius. Xe chạy ngang qua tòa nhà quốc hội, viện bảo tàng quốc gia, chúng tôi xuống địa điểm này để chụp hình, quay phim. Rồi lên xe đến thăm khu shopping lớn nhất của thành phố với tòa lâu đài bằng kính hết sức ấn tượng.
Còn một chuyện đáng nhớ trong chuyến thăm viếng Helsinki là khi bà con ghe lai khu chợ trời (Market Square) gần bến đỗ của tàu thuyền neo đậu, nằm gần khu bán vé Royal Line, và đường Katariinankatu. Tại đây, mọi người sắp hàng dài để đi “restroom”, phải đóng 1 đô để đi “đại tiện”, còn “tiểu tiện” thì sắp hàng ở bên phải và khỏi đóng tiền. Lúc này anh chị N.Đ. Nam cũng vừa đến. Với nét mặt “hớt hơ hớt hải”,anh kể lại rằng thật may mắn vì anh chị đã tìm lại được “backpack” bỏ quên ở khu chợ trời khi đang bận chụp hình. Hơn nữa giờ sau, anh tìm lại chỗ cũ thì thấy cái túi xách gồm vật dụng cá nhân, giấy tờ và laptop vẫn còn đó.Thật là hú hồn.Anh em đều sẻ chia niềm vui với anh chị Nam. Đoàn chúng tôi lên xe buýt trở về lại nơi xuất phát là quảng trường nghị viện, chấm dứt chuyến viếng thăm thủ đô xứ Phần Lan đầy thơ mộng.
1.      Thăm thủ đô Stockholm của Thụy Điển (Sweden)
Du thuyền Norwegian Star rời cảng lúc 4 giờ chiều và đã đến bến cảng Stadsgarden 167 của Stockholm (Thụy Điển) vào sáng sớm 8 gio ngày 22/06/2014. Tại đây chúng tôi vẫn lấy vé lên xe buýt loại “Hop on Hop off” để đi viếng thăm thành phố. Công ty du lịch “Hop on Hop off” với loại xe buýt hai tầng (double-decker buses) này chúng tôi đều gặp khi ở Copehagen, ở Tallinn, rồi đến Saint Petersburg, đến Helsinki và bây giờ là ở Stockholm. Đi một “tour” quanh thành phố, giá cả cũng phải chăng. Đoàn lấy vé và khởi hành ngay tại trạm xe buýt trung ương (Central Station) để đi qua 21 điểm thăm viếng và mọi người được giới thiệu qua ống nghe “listen-up” được phát sẵn để đeo vào tai. Xe đi qua khu Gallerian để viếng thăm các cuộc triển lãm đang mở ra tại nhà văn hóa thủ đô, hay tham quan các khu mua sắm tại đây. Sau đó, du khách có thể lên bất cứ xe buýt nào của công ty, để đến tiếp điểm 3, khu nhà hát hoàng gia (the Royal Swedish Opera), hay điểm 4, khu phố cổ (Old Town) với nhiều gian hàng mua sắm, tiệm cà phê và nhà hàng ăn. Du khách có cơ hội viếng thăm cung điện hoàng gia (Royal Palace) để thấy lối kiến trúc cổ kính rất đặc biệt ở đây.Tôi bỏ qua một số địa điểm không đáng nhớ.Xe đi ngang qua khu Karlaplan và chúng tôi được giới thiệu về viện bảo tàng lịch sử quốc gia.Kể đến là khu phố đêm Stureplan nằm ở trung tâm của thủ đô.Điểm đến cuối cùng của cuộc du ngoạn này là khu thị chính của thành phố, nơi tổ chức phát t

thưởng giải Nobel hằng năm, nổi tiếng toàn thế giới.
Đến đây, chúng tôi coi như đã thăm viếng thủ đô cuối cùng trong chuyến thăm các nước Bắc Âu bằng du thuyền Norwegian Star. Mỗi nơi đoàn chúng tôi có được nhiều lắm là 10 tiếng nếu rời tàu sớm và trở lại tàu trễ (nhưng phải trước giờ tàu khởi hành); ngoại trừ, được thăm viếng thành phố Saint Petersburg hai ngày, theo tours của công ty du lịch và có hướng dẫn viên, cô Natasha đi theo đoàn. Du thuyền rời bến cảng Stockholm lúc 4 giờ chiều ngày 22/6/ 2014 hướng về thủ đô Copenhagen và chúng tôi lênh đênh trên biển cả suốt ngày 23/06/2014 với nhiều thú vui, giải trí trên du thuyền. Anh Khoát, trưởng đoàn, có xin được sử dụng căn phòng trên Deck 10 để sinh hoạt trong dịp này. 23 thành viên của đoàn lần lượt giới thiệu vài nét về mình và nói cảm tưởng về chuyến đi.Không khí rất thân tình và cởi mở, cùng hẹn nhau sẽ gặp lại trong những chuyến đi kế tiếp. Vào ngày 24/06/2014, du thuyền đã cập bến cảng Copenhagen lúc 7:00 sáng. Đoàn chúng tôi được phép rời tàu sớm để chuẩn bị ra phi trường đáp chuyến bay về Mỹ. Chúng tôi gồm anh chị Đài, anh chị Đồng và vợ chồng tôi, phải trễ chuyến bay về Los Angeles đến hai tiếng. Và vì thế trễ luôn chuyến máy bay của Southwest từ L.A đến San Jose lúc 9 giờ đêm. Đêm đó tất cả chúng tôi đều ở lại trong phi trường vì xe khách sạn mà chúng tôi đã “book” phòng để đón chúng tôi quá khuya, trong khi chuyến bay ngày mai khởi hành quá sớm (lúc 5 giờ sáng đã phải chuẩn bị lên tàu). Chúng tôi quyết định qua đêm trong phi trường .Một đêm ngủ gà ngủ gật với kinh nghiệm nhớ mãi không quên.
Chuyến viếng thăm một số quốc gia Bắc Âu dù chỉ hai tuần ngắn ngủi nhưng đã ghi lại trong lòng tôi nhưng ấn tượng hết sức sâu đậm. Trước cảnh quan kỳ vĩ của cung điện Mùa Đông, trước kiến trúc đồ sộ lộng lẫy xa hoa của cung điện Mùa Hèvới đế chế Sa Hoàng trong hơn 200 năm, lòng tôi se lại khi nghĩ đến, mỗi căn phòng của cung điện này, mỗi bức tường của đại sảnh kia là máu xương, là mồ hôi của bao thế hệ dân đen khốn khổ phải chịu đựng để hoàn thành…

San Jose, những ngày vào Thu.
 

No comments:

Post a Comment

No comments: