NHÀ SƯ MÔNG CỔ
Nhà sư ướp xác tại Mông Cổ ‘chưa chết’
Xác ướp của một nhà sư được bảo quản nguyên vẹn và được phát hiện tại Mông Cổ tuần trước đang khiến những người tìm thấy ông kinh ngạc và bối rối.
Các phật tử nói nhà sư này, được tìm thấy trong tư thế ngồi hoa sen, đang trong thể trạng thiền rất sâu chứ không phải đã chết.
Kiểm tra pháp y đang được tiến hành với xác được tìm thấy quấn trong da trâu bò ở mạn bắc miền trung Mông Cổ.
Các nhà khoa học còn phải xác định xem làm sao nhà sư này đã được bảo quản tốt như vây, mặc dù thời tiết lạnh của Mông Cổ có thể là lý do.
Thế nhưng bác sĩ Barry Kerzin, một bác sĩ của lãnh tụ tinh thần Tây tạng, Đức Dalai Lama, nói với tờ Thời báo Siberia rằng vị sư đó đang ở một trạng thái thiền rất hiếm có tên gọi là “tukdam”.
“Nếu người ngồi thiền này có thể tiếp tục duy trì trạng thái thiền định này, ông có thể trở thành một đức Phật," bác sĩ Kerzin nói.
Vị sư được tìm thấy sau khi bị một người đàn ông đánh cắp với dự định sẽ bán ra chợ đen.Cảnh sát Mông Cổ đã bắt người đàn ông ăn cắp và vị sư nay được bảo vệ tại Trung tâm Quốc gia về Giám định pháp y.
Thờ phượng vĩnh viễn
Danh tính của nhà sư hiện vẫn chưa được xác định mặc dù có đồn đoán ông là thầy của Lama Dashi-Dorzho Itigilov, người cũng được tìm thấy đã được ướp xác.
Năm 1927, Dashi-Dorzho Itigilov, từ vùng láng giềng Buryatia mà khi đó thuộc Liên bang Xô Viết, được cho là đã nói với đệ tử của rằng ông sắp chết và rằng họ phải đào xác ông lên sau 30 năm.
Đức Lama này bắt đầu ngồi thiền ở tư thế hoa sen và viên tịch.
Khi người ta đào xác ông lên, tương truyền rằng xác ông vẫn được bảo tồn nguyên vẹn.
Do sợ bị chính quyền Xô Viết can thiệp, những tín đồ của ông lại chôn ông xuống cho tới năm 2002. Người ta đào xác ông lên với nhiều thủ tục ồn ào và khi đó thi hài ông cũng vẫn nguyên vẹn.
Vị Lama này sau đó được đặt tại một ngôi đền Phật giáo để được thờ cúng vĩnh viễn.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2015/02/150204_mummified_monk_mongolia
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 349
THANH DŨNG * GIÁ XĂNG DẦU
Những ẩn số đàng sau giá xăng
Xăng dầu có thể nói là đề tài năng lượng được chú ý nhất trên thế giới trong vài tháng qua. Kẻ được người mất khác nhau, khi giá xăng cao và ổn định kéo dài cả thập niên, thình lình xuống giá ngoạn mục.
Trên trang báo này, mời quý độc giả cùng chúng tôi tìm hiểu những ẩn số đằng sau vụ xăng dầu rớt giá, những toan tính chánh trị của các xứ xuất cảng dầu hỏa, và liệu giá xăng sẽ tiếp tục thấp và trong bao lâu. Ngược dòng thời gian, mới hồi tháng 6-2014, giá dầu thô toàn thế giới vẫn còn ở mức $115 mỗi thùng. Đến Thứ Sáu, 23-1-2015, lúc trang báo này lên khuôn, giá dầu thô chỉ còn phân nửa, xuống đến mức $49 mỗi thùng.
Như chúng tôi cũng đã có ghi nhận trước đây, tình cảnh này bắt buộc kỹ nghệ khai thác dầu hỏa tại Hoa Kỳ phải điều chỉnh. Vào tuần lễ cuối năm 2014, số mỏ dầu trên lục địa Hoa Kỳ giảm đi 37, chỉ còn 1,499 mỏ hoạt động. Một tuần trước đó, 10 mỏ dầu đã đóng cửa, và tuần trước nữa có 29 mỏ dầu ngừng bơm dầu hỏa. Hãng ConocoPhillips, một trong những công ty năng lượng lớn nhất, công bố trong năm 2015 chỉ đầu tư phát triển $13.5 tỉ, giảm 20% so với 2014. Tất cả những diễn biến này đều có phần tác động bởi thực tế mức cung cấp dầu trên toàn cầu, tính trung bình, thặng dư đến 2 triệu thùng dầu mỗi ngày.
Như chúng tôi cũng đã có ghi nhận trước đây, tình cảnh này bắt buộc kỹ nghệ khai thác dầu hỏa tại Hoa Kỳ phải điều chỉnh. Vào tuần lễ cuối năm 2014, số mỏ dầu trên lục địa Hoa Kỳ giảm đi 37, chỉ còn 1,499 mỏ hoạt động. Một tuần trước đó, 10 mỏ dầu đã đóng cửa, và tuần trước nữa có 29 mỏ dầu ngừng bơm dầu hỏa. Hãng ConocoPhillips, một trong những công ty năng lượng lớn nhất, công bố trong năm 2015 chỉ đầu tư phát triển $13.5 tỉ, giảm 20% so với 2014. Tất cả những diễn biến này đều có phần tác động bởi thực tế mức cung cấp dầu trên toàn cầu, tính trung bình, thặng dư đến 2 triệu thùng dầu mỗi ngày.
Một cơ sở khai thác dầu hỏa tại tiểu bang California.
Khi suy xét những uẩn khúc đằng sau vụ biến động giá xăng dầu, cần thiết tra lại lịch sử. Thập niên 1970 đánh dấu một bước ngoặt quyết định trong mối tương quan giữa dầu hỏa và cường lực trên trường thế giới. Trong vụ khủng hoảng dầu hỏa 1973, các xứ Ả Rập trong khối OPEC sản xuất dầu hỏa giảm thiểu xuất cảng nhằm trả đũa Tây Phương hậu thuẫn Do Thái. Đến 1979, biến đổi thời cuộc, với phe Hồi Giáo cực đoan tiếm quyền tại Iran, nguồn cung cấp dầu hỏa lại thêm 1 phen thất tán.
Phản ứng trên sàn chứng khoán khi xăng dầu tiếp tục xuống giá.
Sau đó, các cường quốc kỹ nghệ Tây Phương điều chỉnh chánh sách đối ngoại, tiếp cận và ràng buộc chặt chẽ với các xứ xuất cảng dầu hỏa để tránh biến động dầu hỏa. Đây là lý do vì sao dầu hỏa rớt giá như hiện tại đang làm điêu đứng vài quốc gia mà ngân khố dựa chánh yếu vào xuất cảng dầu hỏa như Venezuela. Khi một thùng dầu thô xuống dưới $100, buôn bán lỗ lã, giá xăng mới và thấp thậm chí còn hiệu quả hơn cả các biện pháp cấm vận phức tạp và tốn kém, làm suy kiệt ngân sách các nước này.
Một nhân vật chánh trong vụ khủng hoảng giá xăng dầu hiện tại là nhóm nước xuất cảng dầu hỏa OPEC. Ngày 27-11-2014, nhóm này tuyên bố vẫn tiếp tục bơm dầu hỏa vào thị trường thế giới với tốc độ không đổi. Sau quyết định này, giá dầu hỏa xuống thêm 35% mỗi thùng. Không phải các nước OPEC liều lĩnh. Đây là nước cờ thương mại siêu thâm. Trong khi các nước OPEC thâm thủng ngân sách trong năm 2015 (đoản kỳ), sách lược của họ nhằm bảo vệ thị phần năng lượng cho nhiều năm sắp tới (trường kỳ).
Thất thu từ nguồn xuất cảng dầu hỏa, Venezuela bắt đầu có rối loạn xã hội.
Các xứ xuất cảng dầu hỏa trên thế giới ngày nay sản xuất chiếm 40% lượng dầu hỏa toàn cầu. Nói chung, dầu hỏa chiếm trung bình 65% doanh số xuất cảng của họ. Giá xăng xuống thấp do đó sẽ gây thiệt hại cho 12 nước thành viên OPEC tổng cộng $257 tỉ.
Nếu dầu hỏa tiếp tục rớt giá, nước Nga sẽ bị mất chừng $100 tỉ. Xuất cảng dầu hỏa và khí đốt chiếm trên 2/3 thu nhập quốc gia.
Tuy nhiên, tình cảnh của mỗi nước rất khác nhau. Nếu Venezuela bên bờ vực hỗn loạn thì Quỹ tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund) ước tính 3 quốc gia chánh yếu trong OPEC là Saudi Arabia, United Arab Emirates (Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất) và Kuwait cùng nhau nắm giữ dự trữ ngoại tệ trên $2,000 tỉ. Lợi thế này làm cho họ có dự trữ tài chánh trong khi... chịu trận, chịu lỗ trong vụ khủng hoảng giá xăng dầu.
Malaysia hạ dự báo phát triển kinh tế năm 2015, cảnh báo có thể thâm thủng tài chánh khi kỹ nghệ xuất cảng dầu hỏa bị thua lỗ.
Sách lược của các nước này là buông thả cho giá xăng tiếp tục rớt thêm nữa nhằm bức tử kỹ nghệ khai thác dầu hỏa bằng kỹ thuật “khoan ngang” (Fracking) tại Hoa Kỳ, cũng như nhiều nơi khác. Bộ Trưởng Dầu Hỏa của Kuwait vào giữa tháng 12-2014 đã thẳng thừng nói kỹ nghệ khai thác dầu “Shale” của Hoa Kỳ, hay các mỏ dầu ở Brazil, Tây Phi, Bắc Cực... tốn kém vận hành rất cao, xăng dầu xuống giá sẽ hạn chế sản xuất. Thực tế kỹ nghệ năng lượng riêng tại Hoa Kỳ cắt giảm mỏ dầu xác minh lập luận này.
Đây cũng không phải lần đầu tiên các nhà khai thác dầu hỏa Hoa Kỳ bị gài vô thế bí trong cuộc chiến giành giật thị phần của khối OPEC. Năm 1986, Saudi Arabia bán tống bán tháo toàn bộ kho dự trữ dầu hỏa khiến chỉ trong vòng 4 tháng giá xăng dầu giảm đến 67%, xuống xấp xỉ $10 mỗi thùng. Lần đó, kỹ nghệ khai thác dầu hỏa của Hoa Kỳ sụp đổ, kéo theo hệ lụy 1/4 thế kỷ sau đó mức sản xuất dầu hỏa tại Hoa Kỳ giảm dần, cùng lúc Saudi Arabia tái chiếm vị thế cường quốc xuất cảng dầu hỏa mạnh nhất.
Cảnh tại một cây xăng ở Lahore, Pakistan, hôm 20-1-2015.
Liệu giá dầu hỏa trên thế giới sẽ vẫn giữ ở mức thấp như hiện nay? Hoàn toàn không dễ đoán. Trên bề mặt, nếu nhu cầu xăng dầu vẫn thấp, trong lúc tốc độ sản xuất vẫn cao, thì giá xăng có thể không nhích lên lại một thời gian dài. Chính CEO của hãng British Petroleum đã dự báo giá xăng dầu sẽ duy trì ở mức thấp trong ‘hai hoặc ba năm nữa”. Hai trong số những nền kinh tế lớn nhất thế giới là Liên Âu và Nhật Bổn kinh tế vẫn đang lao đao, ít có nhu cầu năng lượng.
Nhưng mặt khác, chiến tranh, biến loạn rất có thể dễ dàng bùng nổ, tại Libya hay Iraq chẳng hạn, sẽ gây đình trệ sản xuất dầu ở đó. Âu Châu có thể thình lình trỗi dậy. Thậm chí Saudi Arabia đổi ý, cắt bớt hoạt động khai thác dầu hỏa, v.v... Tất cả những điều này có thể dễ dàng đẩy giá xăng nhích lên trở lại.
Một giếng dầu gần Sweetwater, Texas. Đã có vài thị trấn thình lình có nhiều người bị lay-off vì giới đầu tư rút đi.
Thanh Dũng (BÁO MAI)
DƯƠNG TRUNG QUỐC * CÔNG CHỨC VIỆT CỘNG
So sánh số lượng công chức giữa hai Quốc gia , các bạn đừng hỏi vì sao nước ta cứ nghèo mãi nghèo , thu không đủ chi vì đâu ? Không nợ ngập đầu mới là chuyện lạ
tham nhũng. Vậy nhưng chính quyền VN không đủ dũng khí để giảm biên chế vì sợ đụng chạm và gây hỗn loạn. Có vẻ như vấn nạn này còn kéo dài chừng nào đcs còn "lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện". Bởi vậy, ai cũng hiểu nguyên nhân sâu xa của sự nghèo, lạc hậu nằm ở đâu và bằng cách nào có thể giải quyết vấn đề tận gốc?
Nếu đem người VN so sánh với người Mỹ. Xét từng cá thể, có thể có một số người VN thông thái trên nhiều lĩnh vực như người Mỹ , nhưng nếu xét toàn cục (mà Nếu đem người VN so sánh với người Mỹ. Xét từng cá thể, có thể có một số người VN thông thái trên nhiều lĩnh vực như người Mỹ , nhưng nếu xét toàn cục (mà người ta hay gọi là trình độ dân trí), chắc là người VN còn đi sau Mỹ (và châu Âu) vài thế kỷ.Chính vì lẽ đó nên người VN vẫn quay về điểm xuất phát là kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Như vậy, muốn giải quyết vấn nạn này, không phải chỉ cải cách nửa vời mà phải làm cuộc cách mạng. Vâng, cách mạng-thay đổi toàn bộ hệ thỗng từ gốc rễ chứ không chỉ cải cách nửa vời như "đảng ta" vẫn làm bấylâu nay. Ai có thời gian và hứng thú, hãy tìm đọc các bài viết, nói về "Tái cơ cấu nền kinh tế" đang làm nóng cả diễn đàn quốc hội hiện nay, đại ý là đã "tái" mấy năm rồi, nay vẫn "tái", còn "tái" nữa, "tái" mãi chưa biết tái" mãi chưa biết đến bao giờ, mà rồi kết quả vẫn sẽ chỉ là VŨ NHƯ CẨN, bởi người ta chỉ hô hào cho vui chứ không làm hoặc chỉ làm nửa vời).
Ngồi tính thử chơi thôi nhé. Lấy con số khiêm nhường, mỗi công chức lương trung bình to nhỏ mỗi tháng 5 triệ=250 đô la, một năm 3000 đô la. Với 2,8 triệu công chức: 2,8 triệu cán bộ x 3000 đô la/năm = 8,4 tỉ đô la ( con số thực tế cao hơn nhiều). Chưa kể hội họp, đi công tác...Người dân cám ơn sự quản lý lãnh đạo sáng suốt tài tình của đảng ta !
FB Dương Trung Quốc
BANG GIAO VIỆT MỸ
Kết quả vòng đàm phán thứ 7 về chính trị, an ninh, quốc phòng Việt-Mỹ
2015-02-04
Kết quả đàm phán
Vấn đề Biển Đông
Việt Nam trong chiến lược Á Châu của Mỹ
20 năm bang giao Mỹ-Việt
Mỹ trao tàu tuần tra, tăng cường hỗ trợ tuần duyên VN
Tin liên hệ
Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ đi về đâu?
Đảng cộng sản Việt Nam hôm nay kỷ niệm 85 năm ngày thành lập, trong bối cảnh có nhiều tiếng nói kêu gọi 'đa nguyên, đa đảng' và 'cạnh tranh bình đẳng'Ông Puneet Talwar, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ về các vấn đề quân sự và chính trị, cũng cho biết thêm rằng Mỹ sẽ tiếp tục hỗ trợ củng cố lực lượng tuần duyên mà Việt Nam gọi là cảnh sát biển.
Nhà ngoại giao này xác nhận như vậy trong một cuộc phỏng vấn với VOA tiếng Việt hôm 4/2, ít lâu sau khi tới Việt Nam tham dự cuộc đối thoại lần thứ bảy về quốc phòng, an ninh và chính trị song phương.
Ông cho biết: “Chúng tôi đã và đang tăng cường hợp tác để giúp đỡ Việt Nam phát triển lực lượng tuần duyên. Chúng tôi rất tự hào về điều đó, và chúng tôi cũng hy vọng rằng phía đối tác Việt Nam sẽ đánh giá như vậy. Đúng, chúng tôi đã cung cấp cho Việt Nam tàu tuần tra và chúng tôi sẽ tiếp tục thực hiện điều đó để giúp lực lượng tuần duyên của Việt Nam cải thiện khả năng”.
Tuyên bố của nhà ngoại giao hàng đầu của Mỹ được đưa ra trong bối cảnh Trung Quốc có nhiều hành động mạnh mẽ nhằm xác nhận chủ quyền trên biển Đông.
Hồi đầu năm 2014, trong một cuộc phỏng vấn dành riêng cho VOA Việt Ngữ, Tư lệnh lực lượng tuần duyên Mỹ, Đô đốc Bob Papp cho biết ý định cử một sĩ quan của lực lượng này tới Đại sứ Mỹ ở Hà Nội.
Khi ấy, ông Papp cũng cho biết rằng phía Hoa Kỳ sẽ cấp cho Việt Nam các tàu tuần tra mà Mỹ đã ‘ngưng sử dụng’.
Chủ đề quan trọng
Trợ lý Ngoại trưởng Talwar cho biết rằng an ninh biển, nhất là vấn đề tự do hàng hải, là một trong các vấn đề quan trọng trong cuộc đối thoại thường niên Việt – Mỹ.
Thời gian qua, có nhiều đồn đoán về loại vũ khí mà Việt Nam sẽ mua của phía Mỹ sau khi Washington dỡ bỏ một phần lệnh cấm vận vũ khí sát thương.
Khi được hỏi rằng phía Việt Nam có đề cập tới các thiết bị quân sự mà họ muốn mua của Mỹ hay không, ông Talwar nói: “Chuyến thăm của chúng tôi tới Việt Nam không phải nhằm mục đích bán bất kỳ một loại vũ khí nào đó hay để giao dịch. Chuyến đi này thể hiện chiều sâu ngày càng lớn trong mối quan hệ đối tác giữa Việt Nam và Hoa Kỳ".
Hồi tháng 11 năm ngoái, Hoa Kỳ chính thức sửa đổi quy định về quản lý xuất khẩu vũ khí quốc tế liên quan tới Việt Nam, mở đường cho việc bán các vũ khí sát thương cho quốc gia cựu thù.
Văn bản mới được đăng tải trên trang web của Cục Văn thư Liên bang Hoa Kỳ có đoạn viết, Bộ Ngoại giao Mỹ đã xác định rằng “vì các lợi ích đối ngoại Mỹ, an ninh quốc gia và vì các quan ngại nhân quyền mà việc xuất khẩu các thiết bị quốc phòng mang tính sát thương và các dịch vụ quốc phòng cho Việt Nam có thể được cho phép trên cơ sở từng trường hợp một nhằm tăng cường an ninh và trinh sát trên biển”.
Trinh sát biển
Hiện chưa rõ Việt Nam sẽ mua gì, nhưng giới chức quân sự cấp cao của Mỹ từng được báo chí dẫn lời nói rằng hai quốc gia đang bàn thảo về “các tàu tuần tra, các thiết bị trinh sát, tình báo” và “có thể là cả một số vũ khí cho hạm đội mà Việt Nam chưa có”.
Trong khi đó, trả lời báo giới, giáo sư Carl Thayer, nhận định Việt Nam đang muốn mua máy bay tuần tra biển P3 của Mỹ. Ngoài ra, chuyên gia về Việt Nam này còn cho rằng Hà Nội cũng quan tâm tới radar ven biển, giúp tăng cường khả năng giám sát biển của Hải quân Việt Nam.
Việt Nam đã thả blogger Điếu Cày ít lâu trước khi Hoa Kỳ có quyết định trên với quốc gia cựu thù nhưng sau đó lại bắt ít nhất 3 blogger khác hồi cuối năm 2014.
Khi được hỏi rằng các nhà quan sát nhật định rằng Hà Nội dường như đang sử dụng các nhà bất đồng chính kiến trong cuộc mặc cả với Washington, Trợ lý Ngoại trưởng Puneet Talwar nói rằng nhân quyền luôn là một thành phần quan trọng trong bang giao giữa hai nước.
Ông Talwar nói thêm: "Chúng tôi đã thảo luận với phía Việt Nam về những vấn đề nhân quyền hiện nay, vì đó là một điều quan trọng đối với Mỹ. Chính sách chung của chúng tôi đối với Việt Nam là Hoa Kỳ ủng hộ một quốc gia Việt Nam hưng thịnh và độc lập, tôn trọng nhân quyền và pháp quyền. Chúng tôi tin rằng việc tôn trọng nhân quyền sẽ giúp Việt Nam lớn mạnh hơn”.
Khi phóng viên VOA Việt Ngữ hỏi rằng phía Mỹ có đề cập cụ thể tới trường hợp bắt giữ mới nhất này hay không, ông Talwar chỉ nói rằng Hoa Kỳ “thảo luận nhiều khía cạnh về tình hình nhân quyền ở Việt Nam”.
Trong chuyến thăm Việt Nam năm ngoái, rợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ về Dân chủ, Nhân quyền và Lao động, ông Tom Malinowski nói rằng Mỹ không muốn có “quan hệ đổi chác” với Việt Nam.
Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ cho rằng mối quan hệ Hà Nội - Washington cần phải “dựa trên những giá trị chung”, và đó là lý do vì sao Hoa Kỳ “nhấn mạnh rất nhiều tới vấn đề nhân quyền”.
Cuộc đối thoại lần thứ bảy về quốc phòng, an ninh và chính trị Việt – Mỹ tiếp theo sẽ diễn ra ở thủ đô Washington của Hoa Kỳ vào năm 2016.
http://www.voatiengviet.com/content/my-trao-tau-tuan-tra-va-tang-cuong-ho-tro-luc-luong-tuan-quyen-vietnam/2629184.html
TRUC GIANG MN* BỘ TƯ LỆNH THÁI BÌNH DƯƠNG
Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương và Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ Trong Chiến Lược Xoay Trục Của Mỹ
P-8A Poseidon là phi cơ chống tàu ngầm hiện đại nhất hiện nay.
Hai tàu LCS (Littoral Combat Ship) được xử dụng là USS Independence LCS-2 và USS Freedom LCS-1. Khả năng tàng hình tối ưu, hỏa lực cực mạnh, đuôi tàu có sàn đáp và chứa 2 trực thăng diệt tàu ngầm SH-60 Seahawk và 4 xe bọc thép hoặc xe humvee, xem như tàu đổ bộ mini. Bốn chiếc loại tàu nầy được triển khai ở eo biển Malacca, Singapore, để kiểm soát tuyến đường hàng hải huyết mạch từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương.
Siêu khu trục hạm tàng hình Zumwalt DDG-1000
Phi cơ dẫn đầu 3 liên đoàn tác chiến tàu sân bay
Thiếu tá TQLC Elizabeth Phạm
6.1. Hàng không mẫu hạm USS George Washington
Hàng không mẫu hạm USS George Washington có 4 tầng để chứa phi cơ các loại. 4 máy lọc nước 400,000 gallons (1,500,000 lít) nước uống mỗi ngày. Một HKMH được thiết kế để xử dụng 50 năm, mỗi chiếc trị giá 4.5 tỉ USD theo thời giá năm 2007.
Thủy thủ đoàn 6,250 người. Thức ăn ngày 3 bữa gồm 18,000 khẩu phần.
Hàng không mẫu hạm USS George Washington được trang bị bằng những dàn phóng hỏa tiễn hiện đại nhất HK. Hỏa tiễn đạn đạo hay liên lục địa (Ballistics), hỏa tiễn tinh khôn hay tự dẫn và hỏa tiễn điều khiển.
Hai hệ thống kỹ thuật chiến tranh tối tân nhất là “Hệ thống chiến đấu Aegis” và “Hệ thống xác định vị trí toàn cầu” được đặt trên HKMH và trên các phi cơ, tàu chiến.
Không đoàn trên HKMH gồm 90 phi cơ và trực thăng có khả năng thực hiện 150 phi vụ không kích ngay lập tức và tập kích trên 700 mục tiêu khác nhau trong cùng một ngày.
6.2. Liên đoàn tác chiến hàng không mẫu hạm
Một HKMH thường được triển khai với một số tàu chiến khác tạo thành một Liên đoàn tác chiến HKMH. Các tàu hỗ trợ (hộ tống hạm) gồm có từ 3 đến 4 tuần dương hạm và khu trục hạm có trang bị hệ thống tác chiến Aegis, một khu trục hạm nhỏ, 2 tàu ngầm tấn công. Các tàu hỗ trợ nầy có nhiệm vụ bảo vệ HKMH chống lại các mối đe dọa từ trên không, từ dưới biển và trên mặt biển. Ngoài ra, còn có một số tàu vận tải hỗn hợp, hỗ trợ về mặt tiếp vận quân trang, quân dụng và các thứ cần thiết khác.'
7* Hệ thống chiến đấu AEGIS
(AEGIS=Automatic Electronic Guided-missile Intercept System)
Là hệ thống trang bị cho HQ/HK, chủ yếu là phối hợp với những kỹ thuật khác để phát hiện, bắn chận, tiêu diệt hỏa tiễn địch trên đường đi đến các mục tiêu của Hoa Kỳ. Tổng cộng có 108 chiến hạm HK đã được trang bị hệ thống Aegis nầy. Hệ thống nầy rất tinh vi, nó có thể phân biệt được đầu đạn thật và giả, đâu là đầu đạn chim mồi…
Cuộc thử nghiệm mới nhất hồi tháng 6 năm 2006 thực hiện trên chiến hạm USS Shiloh rất thành công.
8* Hệ Thống Xác Định Vị Trí Toàn Cầu
Hệ Thống Định Vị Toàn Cầu (Global Positioning System- GPS) là hệ thống dẫn đường đi đến mục tiêu chính xác, dựa trên 24 vệ tinh đặt trên quỹ đạo của trái đất. Là hệ thống xác định vị trí chính xác nhất, sai biệt chỉ có từ 1đến 3 mét.
GPS còn có tên gọi là NAVSTAR, hoạt động trong mọi thời tiết, ở mọi nơi trên trái đất, 24 giờ một ngày.
Hệ thống GPS có 3 phần:
Thủy Quân Lục Chiến & Navy Seal
Chiến lược “tái cân bằng lực lượng quân sự” của Hoa Kỳ đã tạo một vành đai bao vây chiến lược chuỗi ngọc trai của Bắc Kinh.
TRẦN ĐỖ CUNG * TRUYỆN TÙ CẢI TẠO
29-9-2007
Một bạn thân ở Montréal Canada vừa gửi cho tôi cuốn Pháp Ngữ Souvenirs et Pensées, viết bởi Bà Bác Sỹ Nguyễn Thị Đảnh và được Bác Sỹ Từ Uyên chuyển qua Việt Ngữ. Bạn lại khuyến khích tôi nếu có thì giờ thì chuyển qua Anh Ngữ theo sự mong muốn của tác giả. Sau khi đọc tôi thấy đặc biệt ở chỗ tù cải tạo này là một chuyên viên tài chính ngân hàng, khác hẳn trường hợp thường thấy của các sỹ quan trong quân lực. Ông Thảo bị đầy đọa sáu năm rưỡi trời để hy vọng moi các hiểu biết của ông về tài sản Ngân Hàng Quốc Gia.
Bà Bác Sỹ Đảnh nay định cư tại Oslo Na Uy là một phụ nữ miền Nam, Tây học. Phu quân Đỗ Văn Thảo cũng là người Nam, sinh ngày 21 tháng 8 năm 1927 tại Gò Công. Sau khi tốt nghiệp Đại Học tại Pháp ông Thảo đã về làm việc tại Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam từ tháng Tư năm 1955. Ông đã giữ chức Giám Đốc Nha Ngoại Viện rồi Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng Quốc Gia cho đến ngày 30 tháng Tư năm 1975. Ông bị đi tù cải tạo tháng 6 năm 1975 rồi bị lưu đầy ra Bắc cho đến tháng 9 năm 1980. Đến tỵ nạn chính trị tại Bergen, Na Uy tháng 12 năm 1981, ông tạ thế tháng Giêng năm 2001 tại Oslo, Na Uy vì trụy tim.
Câu chuyện Bà Bác Sỹ Đảnh kể lại về sự tù tội Việt Cộng của đức lang quân cho thấy đặc biệt có ba khía cạnh. Là người Nam thuần túy, là chuyên viên được huấn luyện công phu và chưa bao giờ liên quan đến quân đội. Nhưng Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam đã hành xử như quân xâm lăng, cầm tù những chuyên viên rồi vơ vét của cải đem về như Phát Xít Đức Quốc Xã khi tiến vào Paris. Sự thiển cận của họ đã đưa đến sự kiệt quệ tột cùng cho đến bây giờ vẫn chưa ngóc đầu lên ngang hàng với các nước lân bang. Nay mở miệng mời chào người Việt nước ngoài trở về đem chất xám giúp nước thì thử hỏi có nghe được không?
Câu chuyện do bà Đảnh kể lại trong thời kỳ gia đình bị kẹt vì lỡ chuyến ra đi của tầu Việt Nam Thương Tín. Những ôn tưởng chỉ được ông Thảo thỉnh thoảng nhắc đến vì ông không muốn trải qua một lần nữa những hình ảnh dã man mà ông đã trải qua. Bà hết sức căm nước Pháp đã hùa theo Việt Cộng chỉ vì thù Mỹ đã không giúp họ xâm chiếm lại xứ Việt Nam trù phú sau khi Thế Chiến II chấm dứt. Bất hạnh cho Việt Nam, trong khi cộng sản Nga Hoa chỉ ngầm giúp Hà Nội thì Mỹ ồn ào đổ quân vào làm mất chính nghĩa của chúng ta đã bị nhóm thiên tả và CS cơ hội bóp méo thành chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Bà viết để vinh danh những ai đã trải qua địa ngục trần gian tù cải tạo Việt Cộng. Và cũng để nói lên lời an ủi tới những ai đã bị phân tán ra bốn phương trời, làm cho không những mất gốc mà còn mất cả cá tính nữa.
Bà cùng gia đình bị kẹt lại trong cư xá sang trọng của Ngân Hàng nằm trên đường nhỏ hướng ra cầu xa lộ mới. Bà thấy rõ sự chiến đấu dũng cảm của một Trung Đội Nhẩy Dù với 20 binh sĩ chỉ huy bởi một Thiếu Úy trẻ măng có vẻ mới ra trường. Nhìn các quân nhân rắn chắc, nét mặt kiêu hùng và người chỉ huy Thiếu Úy trẻ nhưng chững chạc, bà đã chia xẻ đồ ăn với họ và có cảm tưởng đã cùng họ chiến đấu. Cuối cùng tất cả quân sỹ đã bị hy sinh một cách tức tưởi. Bà nói, “Ai dám bảo là quân ta không chịu chiến đấu”? Trong khi ấy những phát súng lẻ tẻ của du kích Mặt Trận Giải Phóng quấy rối giữa những tiếng nổ đại pháo. Ngoài đường một sự hỗn loạn không tưởng tượng được khi bọn hôi của nhào vào các nhà vắng chủ và du kích Việt Cộng ngày càng hung hăng tàn ác.
Rồi ông Thảo phải ra trình diện theo lệnh của quân quản Sài Gòn. Ông thật thà nghĩ rằng vì vợ chồng ông là các chuyên gia thuần túy nên chính thể mới sẽ cần đến những bàn tay xây dựng lại quốc gia. Ông nói với vợ rằng, “Nếu họ không ưa chúng ta thì họ cũng không thể xử tệ với chúng ta. Họ không thể giết hết tất cả”. Một Pol Pot đã làm như vậy, nhưng họ đã thấy là không có lợi gì hết. Tuy nhiên Việt Cộng đã làm những việc tệ hại hơn nhiều. “Chúng tôi không hiểu rõ cái thực tế của cộng sản. Chúng tôi đã nuôi ảo tưởng rằng cộng sản là một xác tín cao đẹp. Song đem cái xác tín ấy vào đời sống con người bằng võ lực đã làm mất hào quang lý tưởng và thơ mộng. Và như vậy nó trở nên tầm thường, bẩn thỉu, ích kỷ và man rợ”.
Ngày 15 tháng Sáu năm 1975 bà Đảnh đã chở ông Thảo và các con trên chiếc xe VW Variant đến một ngôi trường bỏ không gần Sở Thú. Ông gập một bạn cũ cùng đi trính diện nên thấy đỡ cô đơn hơn. “Khi chia tay tôi nhìn thấy trong ánh mắt anh ấy sự tiếc nuối, lo âu và tình yêu đằm thắm. Anh chưa biết rằng sự chia tay này kéo giài cả hơn sáu năm rưỡi trời. Ánh mắt sâu thẳm ấy theo tôi mãi mãi ngày đêm và không bao giờ tôi quên được. Hầu hết các gia đình đều chịu hoàn cảnh như vậy, không cha, không chồng. Tôi may mắn thuộc thành phần không làm điều gì sai quấy và được đồng sự mến, không phải loại có nợ máu lớn với nhân dân, nên được gọi đi cải tạo trong một tuần lễ”.
Rồi xẩy ra việc vơ vét toàn diện. Tại Bộ Giáo Dục cũ không một cái gì là bị bỏ sót, cục tẩy, cái bút BIC, giấy, tập vở đều bị thu gom chở về Bắc trên các xe vận tải nhà binh đầy ắp. Những cán bộ miền Nam thấy bất bình, “Chúng ta bây giờ thống nhất vậy của cải miền Nam phải được để lại miền Nam vì ở đây cũng cần các phương tiện để xây dựng lại chớ”? Bà nói, “Khi tôi nghĩ dến những đứa con miền Nam đã gia nhập MTGPMN tôi không khỏi khinh bỉ và tội nghiệp. Một số ít có thể là những người yêu nước thật sự tuy nuôi một lý tưởng ngu đần để bị VC xập bẫy. Họ đã làm gì để giúp đỡ quê cha đất tổ? Hay là giúp tay xa lìa sự trù phú, sự phồn thịnh và cả tự do nữa”?
Các cán bộ cộng sản thường vào tư gia mượn những thứ cần dùng. Họ được đối xử tử tế nhã nhặn. Nhưng một hôm một cấp chỉ huy vào nhà. Bà lịch sự rót một cốc nước mát mời thì ông ta túm lấy vai đứa con trai nhỏ bắt húp một ngụm trước. “Tôi đâu có ngu gì mà đầu độc họ ngay tại nhà tôi? Họ ra vào nhiều lần và tôi cảm thấy họ muốn cái gì, có lẽ muốn cái nhà của tôi? Ý tưởng đào thoát manh nha trong đầu tôi. Với sự hiện diện của báo chí và những quan sát viên, nên VC còn tỏ ra dè dặt, không dám ra mặt tham lam áp chế dân chúng. Cũng may là chẳng bao lâu sau cả đoàn quân CS bị chuyển qua Cao Mên”.
Một tháng sau khi trình diện học tập cải tạo không thấy một ai được về nhà. Cậu con trai lớn luôn luôn đạp xe quanh ngôi trường mà cha cậu trình diện thì thấy vắng tanh. Khi đem người trưởng gia đình đi thì tạo ra một không khí bất an và đạt được hai mục đích, vô hiệu hóa người chồng người cha và cùng một lúc kiểm soát được mọi người trong gia đình. Nhiều gia đình chỉ trông cậy vào đồng lương cha chồng đem về hàng tháng thì bây giờ túng quẫn. Và sau hai lần đổi tiền, những người giầu có nay thành nghèo và những ai đã nghèo nay lại càng xơ xác. Sau một tháng quy định chẳng ai được trở về. Thỉnh thoảng có một vài người có lẽ thuộc loại có móc nối hay không nợ máu thấy lẻ tẻ trở về. Một người quen cho biết là chồng bà bị chuyển tới trại Long Thành.
Một loạt xe vận tải nhà binh đến chở các tù nhân đi. Họ không biết là đi tới đâu. Trong đêm tối đến một khu rừng mà họ không biết là Long Thành và bị lùa vào mấy gian trại bằng tre lá và lèn chặt như cá hộp. Ngay sáng hôm sau tù phải bắt tay xây cất các trại giam khác cho những người tới sau. Có cảm tưởng là Việt Cộng không có kế hoạch gì cả, chỉ thực hiện theo nhu cầu xẩy đến và tù nhân phải dựng lấy trại giam cho mình. Mục tiêu quan trọng lúc đó là gom lại và vô hiệu hóa các thành viên của chế độ cũ. Mục đích thứ hai là cách ly quân đội với hành chính. Các cấp hành chính do cán bộ canh giữ còn các quân nhân bị đặt dưới bộ đội và các sỹ quan Việt Cộng canh chừng. Chỗ nào cũng là rừng nên không ai biết được bao nhiêu trại tù rải rác ở đâu.
Mỗi nhà giam có thể lèn chừng 50 tù, mỗi người có được chừng 80 phân để nằm ngủ ngay trên mặt đất. Về đêm phải chịu hơi lạnh của núi rừng và khi mưa phải chịu ướt át. Bà hỏi chồng có nhớ đến cái mùng mà anh cẩn thận gói theo. Anh nói, “Trong hoàn cảnh ấy mùng đâu có ích gì và một anh bạn khéo tay đã giúp cắt ra may thành một áo trấn thủ dầy dặn với nhiều lớp vải mùng khiến cho anh qua được cảnh rét mướt”! Mỗi đêm có điểm danh trước khi cho vào đi ngủ sau khi cán bộ đã khóa chặt nhà tù.
Đồ ăn thật đơn sơ nhưng còn có gạo nên không bị đói. Cơm được nấu trong các chảo to nên có nhiều cháy là một món ngon mà đứa bé con cô cán bộ nhà bếp luôn luôn chầu chực. “Nhà tôi sực nhớ đến đứa con nhỏ ở nhà mà lòng bồi hồi xúc động”! Vấn đề nước khó khăn hơn vì chỉ có mỗi một cái giếng và khi lao động về phải sắp hàng tắm rửa. Những người lớn tuổi chậm chân nên đến lượt mình thì đã tới giờ điểm danh trở về phòng nên không bao giờ được dùng nước.
Tù phải viết bản báo cáo mỗi ngày, nói rõ những gì bản thân họ đã phạm trước kia và những gì cha hay thân nhân họ đã làm. Nay mới thấy sự ích lợi của các cây bút BIC. Các bản báo cáo trở thành ác mộng của tù nhân. Viết ít chừng nào tốt chừng ấy và phải nhớ những gì đã viết để có thể viết lại những báo cáo sau. Ý đồ của quản trại là bắt tù từ bỏ niềm tin, chối bỏ lý tưởng và gia đình, khinh rẻ chế độ cũ và chửi rủa các cấp lãnh đạo cũ. Thật là khó khăn cho những ai thẳng thắn với những nguyên tắc có sẵn hay những người bản chất hiền hòa không biết chửi bậy. Song viết ngắn quá cũng bị nghi ngờ là thiếu thành thật và tù bị gọi lên hạch hỏi đủ điều, chữa đi chữa lại. Kết quả là tù phạm tội nặng hơn để rơi vào bẫy sửa sai không ra thoát.
Có lệnh cho đi thăm tù. Những người như bà Đảnh là công nhân viên phải có giấy phép của cơ quan ghi rõ lý do nghỉ phép. Và chỉ được đem theo tối đa 5 kí thực phẩm và mỗi gia đình chỉ có ba người được đi thăm. Với bốn đứa con, đem đứa nào đi, để đứa nào lại? Trong khi thăm chồng phải ngồi hai bên bàn dài cùng những người khác, có cán bộ đứng đàu bàn lắng nghe. Phải nói to, không được dùng ngoại ngữ. Vợ chồng trao đổi những vấn đề sức khỏe và kinh tế gia đình, bán chác quần áo cho các bà miền Bắc bây giờ ham chưng diện lắm. Khi hết giờ thăm, tù đứng giậy nhặt gói quà trở về nhà giam. Có người còn bị mắng vì ôm hôn người thân hay căn dặn thêm vài điều. Trong phòng những tiếng òa khóc nổi lên như sóng gió trong cơn mưa bão. “Tôi cố nhịn khóc nhưng khi về đến nhà vào phòng tôi bật khóc lệ tràn như suối”.
Từ tháng 10/11, 1976 bà Đảnh không nhận được thư nào của chồng nữa và biết là chồng không còn ở Long Thành. Từ nay gửi thư cho anh phải qua một địa chỉ mới tại hòm thư A-40 khám Chí Hòa. Thư từ quà bánh tối đa 3-5 kí phải gửi qua một địa điểm ở một ngôi trường không xử dụng nữa. Hai đứa con lớn phải đi thi hành các nghĩa vụ công ích không lương, tối phải tạm trú tại những chỗ nào tạm che mưa nắng. Đã có dấu hiệu chống đối ngầm trong giới trẻ. Nhưng chúng bị răn đe, phải cố gắng theo chỉ thị thì cha anh mới được mau chóng tha về. Thật là xảo trá, lợi dụng lòng thương xót cha anh để ép chúng phục vụ.
Một ngày đen tối nhất của tháng 10 năm 1976, các tù được lệnh đổi trại giam. Đây là lúc cán bộ lục lọi khám xét thủ tiêu mọi chuyện. “Chồng tôi ghi chép nhật ký trong một cuốn sổ tay nhỏ hầu mong kể lại cho con những điều đã trải qua. Anh đã vội vã thủ tiêu cuốn sổ”. Tù đươc chất trên các xe vận tải, tay xích người nọ với người kia. Sau hàng giờ đi vòng vo họ bi lùa xuống hầm tầu thủy và chân bắt đầu bị khóa. Tầu đi ngang qua một khu mà nhìn qua lỗ hổng hầm tầu anh nhận ra cây cầu gần nhà, nơi đây vợ con đang ở, rất gần anh nhưng xa, xa lắm. Nước mắt anh dâng trào, không biết đang đi về đâu, xa Sài Gòn vì đây là Tân Cảng.
Chừng 7 tháng sau cái địa chỉ kỳ quái Chí Hòa, có một người tới gập bà Đảnh nhưng không dám vào nhà. Ngó trước ngó sau, phải trái, rồi anh vội nói, “Chồng chị đang bị giam tại miền cực Bắc. Tôi cũng bị giam ở đó nhưng vì vợ tôi là người Đức nên đã nhờ tòa Đại Sứ Tây Đức can thiệp”. Mắt tràn lệ, anh nói tiếp, “Chị biết chúng bắt tôi và anh làm gì không? Ngày ngày gánh phân bón rau và đó là việc nhẹ dành cho người yếu sức”! Bà bật khóc thảm thiết, ngồi bệt xuống vệ đường rồi anh bạn bỏ đi thật nhanh để khỏi bị nhòm ngó.
“Chồng tôi chẳng phải là một ông lớn tại miền Nam mà cũng không phải là các Tướng Lãnh uy quyền. Nhưng anh thuộc loại có thể khai thác được. Họ muốn biết vàng, đô la hay các kho tàng của miền Nam chôn dấu ở đâu. Họ hạch hỏi khai thác bắt làm việc đều đều, nhưng cho là không thành khẩn khai báo nên đầy ra miền Bắc cộng sản”. Hầm tầu chật chội với các chất thải vệ sinh của tù nên tạo ra một mùi hôi hám khủng khiếp không tả nổi. Hành trình rất dài không ai nhớ rõ. Sau cùng cũng tới hình như Hải Phòng và chuyển lên các xe tải, chân vẫn xiềng xích. Xe chạy qua một số làng xóm, dân làng đua nhau la ó chửi bới và mọi người biết đây là đất địch. Có các bà chửi, “Đồ Tàu Phù khốn kiếp”! Thì ra họ tưởng là tù binh Trung Quốc.
Cán bộ la to, “Đây không phải là tù binh Trung Quốc”. Nhưng họ cũng không dám bảo là tù miến Nam vì họ sợ phản ứng của dân quê thật thà, thương hại hay cùng chia xẻ nỗi đau buồn. Đêm tới thì đến một ven rừng bát ngát. Tù được tháo cùm và lùa sâu vào rừng rậm, đi bộ dăm bẩy cây số và đến một hàng rào bao quanh một số trại. Các cán bộ vào trại, để mặc tù lo liệu chỗ ngủ qua đêm. Sáng hôm sau tù bỏ tay vào xây cất lấy trại tù cho chính mình.
Đúng 31 tháng Chạp Dương Lịch các gia đình tù nhận đưôc một món quà chính thức cuối năm, một lá thư của thân nhân đang bị giam tại trại Bắc Thái. Ông Thảo không gập lại những bạn tù Long Thành và phải bắt đầu làm quen với các bạn tù mới. Tù được lệnh trao cho một cán bộ gái tất cả tài sản, đồng hồ, bút máy, nhẫn vòng tay, dây chuyền và tiền mặt để được liệt vào một cuốn sổ ghi tên sở hữu. Ông Thảo nhất định không đưa chiếc nhẫn cưới với lý do vì lâu ngày không kéo ra được. Sau khi dùng xà bông mà cũng không xong thì họ văng tục và thôi không thử tháo nữa. Ông nói dù họ có cố rút ra nhưng nếu ông cố ý giữ thì cũng vô hiệu vì ông nhất định không rời cái nhẫn cưới mà ông coi là tượng trưng quý báu.
Ban quản trại đều là người Bắc khắc nghiệt và khó tính. Tù thấy luôn luôn bị theo rõi sát nút. Báo cáo hằng ngày bị phân tách kỹ lưỡng, thảo luận và bị phê bình. Các cán bộ hung dữ và lộng quyền, không ngớt tỏ ra là người chiến thắng. Nhưng đừng lầm tưởng họ thèm muốn những gì chúng ta có, họ thấy chúng ta giỏi hơn họ trên mọi phương diện. Họ luôn khiêu khích, nói xiên nói xỏ, đả kích chê bai và phê bình. Và đây là tình trạng khủng bố tinh thần kinh khủng.
Về phương diện vật chất vì quá đông người nên trong phòng một tiếng động nhỏ cũng vang âm. Một tiếng ho, một cái hắt xì cũng khiến một số tù nhân thức giấc. Nhiều bạn tù trong cơn ác mộng đã rên la, gào khóc. Không ai quên được một bạn già cỡ sáu chục, góa vợ với đứa con thơ dại nên đêm đêm nức nở khi đi ngủ thương xót đứa con bỏ lại miền Nam không ai săn sóc. Giếng nước duy nhất rất gần trại nên phải nấu sôi để uống. “Chồng tôi làm công tác hôi thối gánh phân nên cần tắm rửa mỗi chiều tối. Nhưng nước lạnh cóng khi xối lên người thi da đỏ ửng. Anh còn đùa rằng, “thật may là da và phổi còn tốt”.
Nhưng cái đói thật là kinh khủng. Khi còn ở miền Nam thì nắm cơm còn thực là nắm cơm đầy đủ gạo. Ở đây, cơm phải trộn những hạt bo bo vỏ thật cứng thường phải xay ra để cho súc vật ăn. Một số lớn không muốn hy sinh bộ răng cấm nên phải ngồi nhặt các hột bo bo ra để chỉ còn lại được một muỗng cơm trong bát cơm độn. Nhiều người bị lủng củng tiêu hóa và bị tháo dạ. Cái đói thật khủng khiếp ngày đêm làm cho con người bớt sáng suốt, dảm ý chí và mất óc phán đoán. “May mắn là cả bốn đội trưởng đều là bạn thân của em tôi. Nếu không nhờ các bạn đó và các y sĩ đồng nghiệp của tôi giúp đỡ thì chắc gì anh đã sống đến ngày được thả”!
“Tôi cố tìm hiểu vì sao mà anh bị giam giữ lâu thế? Phải chăng anh được nhiều bạn tù cảm mến nên anh bị giữ lâu? Anh luôn luôn được gọi lên yêu cầu hợp tác để giúp trại sinh hoạt tốt. Nếu nhận lời thì sẽ được cấp phần ăn như cán bộ, được miễn lao động và hưởng nhiều ưu đãi. Nhưng anh đã từ chối và bị giam giữ lâu hơn”.
Đầu tháng 9 năm 1978 ông Thảo gửi thư về cho biết quản trại đã phổ biến tin cho thân nhân đi thăm và tù được nhận thực phẩm. Ông cũng dặn nếu muốn ra Bắc thì liên lạc với một bà gốc Bắc có chồng cùng bị giam giữ với ông. Bà này biết rành Ha Nội và biết rõ manh mối chạy chọt giấy tờ di chuyển và cũng biết cách xoay xở vé xe lửa khứ hồi. Và từ nay bà Thảo biết các mánh khóe luồn lọt thật mất thì giờ, khó khăn và tế nhị. Tất cả các sự việc đều có thể mua bằng tiền, chạy đúng chỗ và không để lộ ra vì hối lộ là một trọng tội. Đối với bà lại còn khó khăn hơn vì trước kia đã phục vụ ngụy quyền và chồng đang bị tù cải tạo.
Mãi mới xin được giấy phép nghỉ nhưng chưa biết cách nào đi. May thay có một ông bạn có cô em trước làm tiếp viên phi hành cho Air Vietnam cũ và nay còn được lưu dụng bởi hãng Vietnam Airlines mới chưa có ai đủ khả năng thay thế. Cô này rất tháo vát và đã kiếm cho bà một vé máy bay vào tháng 11. Khi ra máy bay với xách đồ ăn khô cô ta đã giới thiệu là dì ruột và đưa bà lên máy bay, căn dặn là đừng tỏ ra sợ sệt quá. “Khi đã lên máy bay, không ai biết được là mình không có quyền xử dụng máy bay và khi về thì đã có người cho phép đi nên không có ai dám cản trở về”.
Khi đến phi trường Gia Lâm nhỏ xíu bà lên xe quân sự chờ đón khách. Bà gọi một xe xích lô đạp về nhà cán bộ giáo dục trẻ Sơn mà bà được bà thủ trưởng Sâm giới thiệu. Cha mẹ Sơn đều là giáo sư Đại Học tiếp bà ân cần và thông cảm. Họ được ở ngôi biệt thự cũ gần hồ Hoàn Kiếm tuy chỉ dược xử dụng có một căn phòng với một cầu tiêu lối cổ. Ông đã cơi lên một gác xép làm chỗ ngủ cho ông và con trai. “Tối đến họ dẹp bàn ghế vào tường và trải một chiếc chiếu rộng dưới sàn cho bà mẹ, cô chị dâu, cháu gái nhỏ và tôi nằm. Trong khi tôi thao thức vì sắp gập chồng sau hơn hai năm xa cách thì ai cũng ngủ ngon lành”.
Khi đợi người hướng dẫn đến bằng xe lửa phải mất ba tuần lễ, bà Đảnh ra phố quan sát thấy các nhóm người bán đồ lậu. Cái gì họ cũng có, phần nhiều là các gói nhỏ đường, trà, cà phê, bao thuốc lá và các thỏi chocolat nhỏ đựng trong các túi xách. Bà mua các gói kẹo chocolat vì mang từ Sài Gòn ra không tiện. Họ nói mua gì cũng có trữ tại nhà vả trả tiền xong là hôm sau họ sẽ giao. Người hướng dẫn cho bà đến nhập bọn ngủ dêm để sáng hôm sau ra ga lúc 5 giờ cho kịp chuyến xe lửa Đông Bắc. Người đông như kiến, chen lấn lộn xộn và “tôi cùng bà chiếm được hai chỗ trên bực ngoài toa cho đến sau khi qua nhiều ga xép mới mò vào được bên trong để ngồi xệp xuống sàn tầu đầy rác, đỡ nạn bụi khói và mưa phùn giá lạnh”.
Từ trạm xe lửa đi đến vùng Bắc Thái phải dùng xe bò. May thay bà hướng dẫn đã nhanh nhẩu quá giang được một xe chở dầu nhà binh với tiền thù lao nhỏ 20 đồng. Đến ven rừng phải thuê một xe bò tới trại giam qua một con đường gập ghềnh với giá 15 đ một người. Tới cổng trại, một căn nhà lợp tranh thì cán bộ xét giấy và cho hai người một vào ngồi đợi ở một cái bàn nhỏ chữ nhật. Hai mưoi phút sau thân nhân được dẫn ra, yếu ớt, thân hình tiều tụy xác xơ trông thật đau lòng. Cán bộ đứng ở đầu bàn và phải nói to cũng như không được dùng ngoại ngữ. “Tôi không biết được gập anh bao lâu nhưng mục đích tôi là xin phép anh đưa các con trốn khỏi nước. Tôi có bổn phận báo cho anh biết là phải liều lĩnh như tự sát vì chừng 50% đến được bến tự do”. Nhưng làm sao để không cho cán bộ biết?
“Tôi nghĩ cách nói là mẹ con muốn đi vùng kinh tế mới”, thi anh xúc động hỏi lại, “Bộ chúng không đủ ăn sao”? Bà chậm rãi trả lời, “Chúng muốn làm lại cuộc đời mới và gập lại hai bà gì đã đến đó trước rồi”. Ông Thảo suy nghĩ rồi chợt hiểu là chị và em tôi đã định cư ở Âu Châu từ lâu và dặn dò, “Đừng để cho các con bơ vơ, em phải đi với các con còn quá nhỏ”! “Chúng tôi chuyện trò đủ chuyện Sài Gòn trước đây, nhà cửa, tình trạng gia đình thân nhân nội ngoại và anh không thổ lộ gì về hoàn cảnh của anh và số phận hiện tại”.
Sau một giờ thì cán bộ thổi còi chấm dứt thăm nuôi. Các tù nhân đứng lên lượm gói quà và sắp hàng về phòng giam. “Chồng tôi ôm tôi và thì thầm, em phải đi với các con và như vậy trong tương lai có thể dễ tìm lại nhau”. Lần thăm nuôi chỉ có bốn người đi thăm khốn khổ. Không một lời phản kháng hay thất vọng. Nước mắt có chảy cũng trong thầm lặng. Nơi đây hy vọng còn ít hơn ở Long Thành. “Rã rời tôi có cảm tưởng như sống những giây phút cuối cùng và tôi không còn biết tôi là ai nữa. Nếu tôi ra đi cùng các con thì rồi đây ai săn sóc anh, và biết có gặp lại nữa không”?
Chiều về tới Hà Nội, tôi e họ sẽ không cho tôi ghi vé trở về. Cha anh Sơn chở tôi bằng xe đạp ra trạm hàng không. Họ hỏi tôi đủ điều, lý do đi thăm, trú ngụ ở đâu, thấy thủ đô ra sao và đã đi thăm lăng Hồ Chủ Tịch chưa? “Tôi phải vui vẻ tỏ ra mãn nguyện và phải chấp nhận bất cứ cách giả dối nào để về với các con tôi. Tôi đã thành công và được về trên chuyến bay hai ngày sau”. Còn hơn một ngày tôi mướn một xe xích lô đi một vòng quanh Hồ Gươm. Hồ quá nhỏ, nước đen ngòm mà mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Không thấy dấu hiệu hư hại vì oanh tạc chỉ có cây cầu Doumer và đôi chút ở một bệnh viện mặc dầu họ tuyên truyền ầm ĩ là bị phi cơ hủy hoại. Tôi đã nói dối ở trạm hàng không. Tôi đã không đi thăm lăng chủ tịch mà chỉ đi xích lô phớt qua. Không có gì đậc sắc, chỉ là một kiến trúc lạc loài bê tông cốt sắt với các cột lạnh lẽo như trong thời cổ. Nhưng nếu tôi vào trong để nhìn thấy con người mà họ cho là thần thánh thì tôi đã ớn lạnh về sự lọc lừa phản bội của ông ta đã đưa nước nhà vào một cuộc chiến tàn khốc, tạo nên mối chia rẽ toàn dân và cả nước”!
Hà Nội một thành phố cổ kính thì nay đã tiều tụy, không được coi như một bà già mà là một đứa con nít thiếu dinh dưỡng lâu ngày, bụng ỏng, đít eo, chân tay khẳng khiu mang chứng bệnh còm cõi và già nua sớm không phương cứu chữa. “Tôi không muốn những ai đã rời Hà Nội năm 1954 trở lại để thấy sự điêu tàn khắc nghiệt vì tiền của nhân lực đều xung vào chiến tranh. Cha mẹ Sơn cũng như người hướng dẫn tôi đều hình như thổ lộ là họ đã sống qua ngày hướng về miền Nam. Nhưng nay miền Nam đã xụp đổ, thế là hết cả. Cuôc viếng thăm rất có kết quả vì tôi đã nói được với nhà tôi một điều cần thiết. Và tinh thần nhà tôi hình như đã vững hơn, bắt đầu yêu đời hơn và thấy hy vọng”.
Bà Đảnh đã đưa bốn đứa con vượt biển ngày 1 tháng 5 năm 1979 lợi dụng sơ hở vì mải liên hoan ngày lễ. Cả gia đình lênh đênh trên biển cả thì gập một chiếc tầu chờ dầu Na Uy vớt. Vì vậy khi ông Thảo được thả về thì nhà đã mất và phải tạm trú nhà bà chị. Ông bị các đè ép từ các cơ quan công an phường, quận. Không có hộ khẩu nghĩa là không được phiếu mua thực phẩm và các đồ lặt vặt như thuốc đánh răng. Phải luôn luôn trình diện và đẩy đi vùng kinh tế mới. Nhưng nếu xa Sài Gòn thì làm sao có được tin tức nên ông đã chán nản nghĩ liều đi trốn. Bà Đảnh phải nhắn về xin yên tâm đừng liều mạng vì đã có chương trình bảo lãnh và Cao Ủy tị nạn đã đặt thêm một văn phòng ở Sài Gòn. Bà gửi về các giấy tờ cho nhiều nơi để khỏi thất lạc.
Cuối cùng, sau nhiều lần chạy chọt khó khăn và nhiêu khê, ông Thảo đã được giấy phép xuất cảnh. Bà Đảnh nói, “Không chối cãi việc Việt Cộng đã trả lại người thân cho chúng tôi. Nhưng họ đã ra sao khi được thả? Một số đông đã chết như anh đội trưởng giúp đỡ tận tình bạn tù. Anh chết tức tưởi trong tuổi hoa niên của cuộc đời. Qua hành hạ thể xác độc địa nhằm triệt tiêu nhân phẩm, Việt Cộng không tàn phá nổi thể xác nhưng đã để lại trong tâm hồn tù nhân nhiều rạn nứt in hằn. Lập trường chính trị, tín ngưỡng, lòng yêu nước không bao giờ xóa tẩy được”. Bà Đảnh kết luận, “Tôi chấm dứt bằng một câu xúc tích của chồng tôi khi anh đặt chân xuống đất Na Uy”: “Chúng tôi vẫn sống, hy vọng của chúng tôi đã đạt được. Tôi đã có vợ con quanh tôi, hạnh phúc tôi tràn đầy. Từ nay các con tôi được bảo đảm tương lai trên một đất nước cao đẹp, tự do như Na Uy mà chúng tôi coi là miền đất hứa”.
Vài cảm nghĩ.- Cộng sản Việt Nam sùng bái Hồ Chí Minh như thánh sống. Ai cũng biết là họ Hồ mạo danh nhóm ái quốc ở Paris khi viết báo Le Paria đã dùng tên chung Nguyễn Ái Quốc (Nguyen le Patriot). Hồ đã từng nộp đơn xin làm việc với Bộ Thuộc Địa rồi đi theo cộng sản Nga để được huấn luyện thành cán bộ Đông Dương Cộng Sản. Khi qua Tầu lại lấy danh tính một người chết để thành Hồ Chí Minh. Không có lấy cái bằng sơ học, chỉ lặp lại những danh từ Sô Viết rồi Tầu Mao, lợi dụng khí thế ái quốc chống Pháp để đổi Việt Minh thành đảng Lao Động Cộng Sản và hãm hại các người yêu nước cũng như nhiều người trong vụ đấu tố.
Ông ta đã học thuộc lòng câu “Hồng hơn Chuyên” của Mao nên cũng nói “Trí Thức là Cục Phân” cho nên khi chiếm Sài Gòn chính trị bộ Hà Nội đã bỏ tù các chuyên viên của miền Nam mà huấn luyện mất bao nhiêu thời gian và công của. Hệt như “bước nhẩy vọt” của Tầu Mao trong kế hoạch sản xuất thép tiểu công trong các làng xã phí phạm bao nhiêu nhân lực đưa đến phá sản kinh tế và môi trường. Cho nên ta thấy các Y Khoa Bác Sỹ phải đi quét chợ và chuyên viên kinh tài như ông Đỗ Văn Thảo bị giam cầm trong nhiều năm. Phí phạm chất xám như vậy để cho ba chục năm thống nhất đất nước vẫn lạc hậu. Bây giờ kêu gọi trí thức và chất xám trở về xây dựng lại nước thì thật khôi hài và có tin được chăng?
TRÚC GIANG MN * CHƯƠNG TRÌNH DẠ LAN
Ngành Chiến Tranh Chính Trị VNCH Và Chương Trình Dạ Lan
Ngành Chiến Tranh Chính Trị thực hiện các hình thức binh vận, dân vận, đồng minh vận và địch vận, thông qua những hình thức tuyên truyền, nổi bật nhất là chương trình Dạ Lan, những em gái hậu phương và những anh trai tiền tuyến.
Về địch vận, chiêu hồi được nâng lên tầm cao thuộc chính sách quốc gia. Từ năm 1963 đến tháng tư 1975 đã kêu gọi được 230,000 hồi chánh viên trở về với chính nghĩa quốc gia.
2* Chương trình Dạ Lan: “Em gái hậu phương”, “anh trai tiền tuyến”
2.1. Nội dung chương trình Dạ Lan
Đêm đêm trên làn sóng điện của đài phát thanh Quân Đội, từ 7 giờ đến 9 giờ, giọng nói rất đặc biệt của “người em gái hậu phương”, rất thiết tha, truyền cảm, “nhỏng nhẻo”, tình tứ có mãnh lực thu hút tình cảm của các binh sĩ trên bốn vùng chiến thuật. “Em gái hậu phương”, “anh trai tiền tuyến” là những từ ngữ rất quen thuộc được nghe thấy trong những bài thơ, bản nhạc thịnh hành thời đó.
Chương trình Dạ Lan là một nét độc đáo của Nha Chiến Tranh Tâm Lý, cộng với nét đặc biệt của giọng nói Dạ Lan, đã được anh em quân nhân hoan nghênh, nhất là những chiến sĩ độc thân, xa nhà.
Không ai ngờ được người xướng ngôn viên mang tên Dạ Lan nói giọng Bắc lại là người con gái Quảng Nam, có một thời sống ở Huế, tên là Hoàng Thị Xuân Lan.
Ấn tượng nhất, đi sâu vào lòng các chiến sĩ trên khắp bốn vùng chiến thuật, nhất ở các tiền đồn xa xôi, đèo heo hút gió, là giọng nói của người em gái hậu phương Dạ Lan đêm đêm gởi tâm tình đến những anh trai tiền tuyến.
Với giọng nói rặt Bắt Kỳ rất êm đềm, tha thiết đầy trìu mến. Giọng ngọt xớt đôi khi tình tứ lãng mạn, gởi tâm tình và sự quan tâm từ hậu phương ra tiền tuyến cảm thông tình trạng gian khổ và chấp nhận hy của người trai thời loạn trước sự nguy vong của đồng bào miền Nam.
Những binh sĩ từ cấp bậc thấp nhất cũng cảm thấy là họ không bị bỏ quên, vì lúc đó có nhiều thiếu nữ đặt yêu cầu rất cao: “phi sĩ quan bất thành phu phụ.”
2.2. Tổ chức thực hiện
Chương trình Dạ Lan bao gồm các mục: tin tức, thời sự, điểm báo, văn nghệ và thư tín.
Phần hấp dẫn nhất là nhạc và thư tín. Dạ Lan giới thiệu từng bản nhạc, trả lời từng bức thơ từ tiền tuyến gởi về KBC 3168. Trả lời riêng biệt tên từng anh, đơn vị, vị trí đóng quân…không ai bị bỏ quên cả.
Thơ từ tiền đồn xa xôi tới tấp gởi về đến nổi đài Quân Đội phải tuyển dụng thêm nhiều nữ nhân viên đọc thơ và viết bài trả lời để cho Dạ Lan đọc.
2.3. Vài nét về Đại tá Trần Ngọc Huyến
Đại Tá Trần Ngọc Huyến 1952 Khóa 2 Trường Sĩ Quan Thủ Đức* Nha CTTL
Cha đẻ của chương trình Dạ Lan là Đại tá Trần Ngọc Huyến.
Năm 1964, Đại tá Trần Ngọc Huyến được cử giữ chức Giám đốc Nha Chiến Tranh Tâm Lý thuộc Bộ Quốc Phòng, sau đổi lại Cục Tâm Lý Chiến, nằm trong Tổng Cục CTCT, thuộc Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH.
Đại tá Huyến là người có óc sáng tạo. Nhiều sáng kiến của ông đã làm thay đổi hình thức và nội dung tuyên truyền đã có từ trước.
Ông có cử nhân Văn Khoa trước khi gia nhập quân đội.
Ngoài chương trình Dạ Lan, ông còn làm thay đổi hai tờ báo quân đội là Thông Tin Chiến Sĩ và Văn Nghệ Chiến Sĩ, thành tờ Chiến Sĩ Cộng Hòa và Tiền Phong.
Đại tá Huyến cho biết, người quân nhân VNCH có quá nhiều gian khổ, khô cằn nên báo chí phải mang sự tươi đẹp của các kiều nữ. Hở hang một chút cũng không sao. Nội dung phải có hí họa, chuyện cười, văng tục một chút cũng OK.
2.4. Đi tìm xướng ngôn viên cho chương trình Dạ Lan
1). Dạ Lan 1
Chương trình mang tên Dạ Lan của đài phát thanh Quân Đội được hình thành trước khi có xướng ngôn viên của chương trình.
Dạ Lan được hiểu là hương thơm quyến rũ về đêm của một loài hoa.
Thiếu tá Nguyễn Văn Nam được giao nhiệm vụ đi tìm xướng ngôn viên (XNV) cho chương trình.
Qua thử giọng bằng máy thu âm của một vài ứng viên, một nữ XNV của đài Gươm Thiêng Ái Quốc, được chọn.
Đài Gươm Thiêng Ái Quốc đặt tại Đông Hà, phát thanh qua bên kia vĩ tuyến 17 trong chương trình địch vận, do Thiếu tá Phạm Huấn, tức nhà thơ Nhất Tuấn làm quản đốc và Hà Huyền Chi làm phó.
Một sự trùng hợp là xướng ngôn viên cũng tên Lan, Hoàng Thi Xuân Lan. Dạ Lan 1.
2). Dạ Lan 2
Hơn một năm sau, XNV Hoàng Thị Xuân Lan (Dạ Lan 1) nghỉ việc. Đài phát thanh Quân Đội chọn nữ XNV thay thế.
Lại có những trùng hợp, XNV mới cũng có tên Lan, Hồng Phương Lan (Dạ Lan 2) tức Mỹ Linh, cũng có giọng nói giống hệt như Dạ Lan 1.
Mỹ Linh là nhân viên của đài Quân Đội, phụ trách chương trình nhạc ngoại quốc yêu cầu.
Dạ Lan 2 phụ trách chương trình Dạ Lan cho đến ngày 29-4-1975. Di tản sang Mỹ, hiện định cư tại bang South Carolina (Mỹ).
Dạ Lan 1 hiện đang sống ở Sài Gòn.
3). Cuộc đời lận đận lao đao của Dạ Lan 1
Hoàng Hải Thủy
Cô rời Sài Gòn với cái bào thai mấy tháng mà tác giả cái thai là ca sĩ Anh Ngọc (Từ Ngọc Tản).
Năm 1968, Hoàng Thị Xuân Lan trở về Sài Gòn, phụ trách việc hành chánh ở đài phát thanh Sài Gòn.
Nhà văn Hoàng Hải Thủy, bút hiệu Công Tử Hà Đông cho biết, có một thời gian cô sống chung rất hạnh phúc với nhà văn Văn Quang nhưng vài năm sau đó thì họ chia tay. Văn Quang là cựu trung tá Nguyễn Quang Tuyến, quản đốc đài phát thanh Quân Đội từ 1969 đến 30-4-1975.
Dạ Lan 1 hiện là một cư sĩ tại ngôi chùa ở ngoại ô Sài Gòn. Cô đam mê làm công tác thiện nguyện, đi đến mọi nơi để giúp đỡ đồng bào nghèo.
2.5. Thành phần của chương trình Dạ Lan
Xướng ngôn viên: Hoàng Thị Xuân Lan (Dạ Lan 1) và Hồng Phương Lan (Dạ Lan 2)
Câu chuyện hàng ngày: Lưu Nghi.
Điểm báo: Nguyễn Triệu Nam
Phần nhạc: Hai nhạc sĩ Đan Thọ và Ngọc Bích.
Chọn bài và dẫn nhạc: Huy Phương.
Phần tin tức: Ban tin tức của đài Quân Đội
Thư tín: Cô Ngọc Xuân và một số cô phụ trách, chọn lựa thơ, viết bài trả lời cho XNV Dạ Lan đọc.
Ngoài ra còn có nhiều văn nghệ sĩ đã từng tham gia, đóng góp cho chương trình Dạ Lan như các nhạc sĩ: Ngọc Bích, Đan Thọ, Anh Ngọc, Xuân Tiên, Xuân Lôi, Canh Thân, Nguyễn Đức, Văn Đô, Trần Thiện Thanh, Trần Trịnh, Đào Duy, Thục Vũ... Các nhà văn, nhà thơ như Huy Phương, Nguyễn Triệu Nam, Nhất Tuấn, Nguyễn Quốc Hùng (thầy khóa Tư), Dương Phục, Phạm Huấn, Châu Trị, Lâm Tường Dũ, Nguyễn Xuân Thiệp, Tô Kiều Ngân…
Chương trình Dạ Lan là một sáng tạo độc đáo, một bước đột phá thu hút thính giả với một số lượng lớn mà trước kia không có.
Nhiều anh em binh sĩ viết thơ tỏ tình với Dạ Lan. Nhiều bạn đi phép về Sài Gòn, đến đài phát thanh Quân Đội tìm gặp Dạ Lan, nhưng chưa có ai được diễm phúc gặp Dạ Lan bằng xương bằng thịt cả.
Dạ Lan trở thành một huyền thoại.
Giọng nói của hai cô Dạ Lan đã in sâu vào lòng người chiến sĩ một thời, trong cuộc chiến giữ nước chống độc tài Cộng Sản. Hai Dạ Lan đã cống hiến tài năng của mình trong cuộc chiến đầy chính nghĩa là bảo vệ tự do và dân chủ cho miền Nam.
3* Người sĩ quan chiến tranh chánh trị trong QLVNCH
Trung tướng Trần Văn Trung *Phù hiệu trường Đại Học CTCT
Chương trình Dạ Lan do Cục Tâm Lý Chiến thực hiện, nằm trong kế hoạch tuyên truyền của Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị. Ngoài ra, Tổng Cục CTCT cũng đào tạo sĩ quan để phục vụ cho ngành nầy.
Do nhu cầu cấp bách, trường Đại Học Chiến Tranh Chánh Trị được thành lập, và bắt đầu hoạt động từ ngày 1-1-1967, do Sắc luật số 48/SL/QP ký ngày 18-3-1966.
Thí sinh có bằng Tú tài toàn phần, qua một kỳ thi tuyển, được huấn luyện 2 năm, tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. SVSQ/CTCT được huấn luyện về văn hóa, chính trị, quân sự, có thể nói là một sĩ quan đặc biệt so với từ trước, có khả năng căn bản toàn diện, cả văn lẫn võ. Những môn học về kinh tế, chính trị, triết học, lịch sử và nhất là về luật pháp, bao gồm dân luật, hình luật, luật tài chánh, hành chánh, luật quốc gia, luật quốc tế…
Số sĩ quan ra trường từ khoá 1 năm 1969 đến khóa 6 tan hàng ngày 30-5-1975 đã cung ứng khoảng 1,000 CTCT, một con số tương đối nhỏ so với quân số trên dưới một triệu của QLVNCH. Vì thế, SQ/CTCT chưa phát huy rộng rãi được khả năng đã thụ huấn. Hơn nữa, những năm sau cùng, cuộc chiến trở nên khốc liệt ở quy mô lớn, chủ yếu là xử dụng sức mạnh hoả lực của vũ khí và quân số. Nhiều sĩ quan tốt nghiệp Đại Học Chiến Tranh Chính Trị chỉ huy đại đội trực tiếp chiến đấu.
VNCH thất trận vì hết bom, hết đạn, hết xăng dầu cho xe tăng, thiết giáp, máy bay…chớ không phải do hết ý chí và tinh thần bảo vệ đất nước.
Đồng minh phản bội, lực yếu, thế cô, thất trận là tất yếu.
3* Người chính ủy trong quân đội Cộng Sản Việt Nam
Người SQ/CTCT Việt Nam Cộng Hòa không đại diện cho một đảng phái chính trị nào cả, họ chỉ có nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc với tinh thần trách nhiệm và danh dự của người quân nhân. Trái lại, người chính ủy trong quân đội CSVN chỉ bảo vệ Đảng của họ, với một thiểu số 3 triệu người, đè đầu cởi cổ một dân tộc 84 triệu.
Chính đảng CSVN đã công khai tuyên bố, quân đội và công an là lực lượng chuyên chính vô sản của đảng, là công cụ bảo vệ đảng, thực hiện cuộc cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa trên đất nước VN. Nhưng mỉa mai thay, công cụ trấn áp 84 triệu nhân dân lại mang tên là “Quân Đội Nhân Dân”, “Công An Nhân Dân”. Và từ đó, đảng tự nhận rằng Đảng là Tổ quốc VN, Đảng là dân tộc VN, CNXH cũng là Tổ Quốc, người nào không yêu CNXH là phản bội Tổ Quốc. Thật là một thứ lý luận ngu dốt và trơ trẻn hết nước nói. Sách vở và tài liệu còn ghi rõ ràng như thế.
4* Đảng Cộng Sản VN không còn tin tưởng đảng viên
Đảng CSVN lãnh đạo quân đội một cách toàn diện. Các cấp chỉ huy đơn vị phải là đảng viên, như thế còn chưa đủ, Nghị Quyết 51-NQ/TW ngày 20-7-2005 của Bộ Chính Trị, đã lập lại chức chính ủy với cấp bậc và quyền lực ngang bằng với người chỉ huy trưởng đơn vị, từ cấp đại đội trở lên. Trước kia, chính ủy chính thức giữ vai trò cấp phó của đơn vị. Như thế, một đảng viên nầy nằm sát bên cạnh một đảng viên kia, trong một đơn vị có hai chỉ huy trưởng, mục đích dò xét, canh chừng lẫn nhau, chứng tỏ đảng không còn tin tưởng vào sự trung thành của đảng viên mình như trước kia nữa. Trái lại, đảng viên cũng không còn tuyệt đối trung thành vào đảng, bằng chứng là, những “lão thành cách mạng”, những tướng lãnh nghỉ hưu, và ngay cả những đảng viên trẻ cũng chống đảng, vì cái thời kỳ bưng bít sự thật không còn nữa. Thời đại thông tin hiện tại đã phơi bày ra ánh sáng những trò lừa bịp, gian trá của đảng.
Luật sư Lê Thị Công Nhân trước kia cũng đã từng được kết nạp vào đảng, và mới đây, người đảng viên Nguyễn Chí Đức, đi biểu tình chống Trung Cộng ngày chủ nhật 17-7-2011, đã bị đồng chí là Đại úy Công an với biệt danh là “Minh Đạp” sút cho những cú đạp như trời giáng. Nguyễn Chí Đức trả lời phỏng vấn đài BBC như sau, “Tôi bị khống chế như một con lợn, và nhận 4 cú sút, trong đó 2 phát được “ăn bánh giày” vào mồm, một phát qua cổ và một phát vào ngực”.
Hình ảnh Linh Mục Lý bị bịt miệng trước toà, hình ảnh “Minh đạp” cho ăn gót giày được tuyền đi khắp nơi trên thế giới, cho thấy bộ mặt hung tàn của chế độ Hà Nội.
Đảng CSVN hiện nay chỉ nhờ vào bạo lực trấn áp để tồn tại. Đó là cái bi đát của một chế độ sắp bị diệt vong.
5* Hoạt động của ngành Chiến Tranh Chánh Trị trong Quân Lực VNCH
Ngành CTCT của QLVNCH được tổ chức theo cơ cấu và nội dung của CTCT Trung Hoa Dân Quốc. Nội dung của Lục Đại Chiến là đúc kết những kinh nghiệm đấu tranh chống CS của Tưởng Giới Thạch chống lại Mao Trạch Đông. Lục Đại Chiến áp dụng thích hợp vào chiến tranh VN, vì Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp áp dụng chiến tranh nhân dân, du kích và nổi dậy của Trung Cộng.
Tổng Cục CTCT được chia thành 5 cục với một trường Đại Học Chiến Tranh Chánh Trị.
1. Cục Chính Huấn phụ trách huấn luyện
2. Cục Tâm Lý Chiến đảm trách tuyên truyền
3. Cục Xã Hội chăm sóc gia đình binh sĩ, giáo dục con em quân nhân, quản lý các Nha Tuyên úy.
4. Cục An Ninh Quân Đội bảo vệ an ninh nội bộ và phản gián
5. Cục Quân Tiếp Vụ cung cấp nhu yếu phẩm miễn thuế
6. Trường Đại Học Chiến Tranh Chánh Trị đào tạo sĩ quan trẻ có đầy đủ năng lực đảm trách công tác CTCT ở các đơn vị.
6* Lục đại chiến
Nội dung hoạt động căn bản của ngành Chiến Tranh Chánh Trị là “Lục đại chiến”, tức là 6 trận chiến lớn chống đối phương, bao gồm: Tư tưởng chiến, Mưu lược chiến, Tổ chức chiến, Tình báo chiến, Tâm lý chiến và Quần chúng chiến.
6.1. Tư tưởng chiến.
Tư tưởng là yếu tố quan trọng nhất, vì tư tưởng hướng dẫn hành động, có tư tưởng đúng mới hành động đúng và tích cực.
Nổ lực của ngành CTCT trong QLVNCH là làm cho nhân dân và chiến sĩ hiểu rõ được cuộc chiến đấu của quân dân Miền Nam là chính nghĩa, cụ thể là bảo vệ tự do, dân chủ cho nước Việt Nam Cộng Hòa, trước cuộc xâm lược của Cộng Sản Bắc Việt. Đảng CSVN là tay sai của Cộng Sản Nga, Tàu trong mưu đồ bành trướng của CNCS, nhuộm đỏ thế giới của CSQT. Điều nầy được kiểm nhận là đúng, đó là ngày 1-5-1975, một ngày sau khi chiếm được miền Nam, Phạm Văn Đồng tuyên bố, “thống nhất đất nước để đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH”.
Quân dân miền Nam chiến đấu tự vệ chống lại bọn người “Sinh Bắc tử Nam”, đã vượt vĩ tuyến 17, vượt sông Bến Hải, vượt Trường Sơn, vượt đường mòn HCM, vào tận miền Nam, dùng vũ khí của Nga, Tàu và các nước CS, để giết hại đồng bào miền Nam đã tập họp lại trong những đơn vị của quân đội, chiến đấu giữ tự do, dân chủ, giữ nhà, giữ nước. Chính nghĩa sáng ngời của cuộc chiến tranh là ở những mục đích cao cả đó. Chương trình Dạ Lan của đài phát thanh Quân Đội đã làm việc đó, và góp phần nâng cao tinh thần chiến đấu của người thanh niên thế hệ, trước hiểm họa mất nước.
6.2. Mưu lược chiến
Nhận thức đúng, hành động đúng, nhưng phải hành động như thế nào để đạt kết quả to lớn mà tổn thất rất nhỏ thì mới hữu hiệu. Đó là phải dùng “cái trí”, mưu trí trong việc dụng binh cũng như ở tất cả hình thức đấu tranh.
Trong phép dụng binh, thì cái nguyên tắc “bất chiến tự nhiên thành”, thắng lợi mà không giao chiến, mới là thượng sách. Mưu lược cổ điển nhắc tới 36 kế, xem ra một số mưu kế vẫn còn giá trị xử dụng, và nhiều tướng lãnh VNCH đã áp dụng thành công những kế sách đó.
Mưu lược chiến nói chung là những suy nghĩ sáng tạo trong việc áp dụng chiến thuật, chiến luợc đối với kẻ thù.
Trong lịch sử, để nâng cao tinh thần chiến đấu của quân sĩ trước thế mạnh của quân xâm lược nhà Tống, danh tướng Lý Thường Kiệt đã cho thực hiện một mưu kế rất thần tình, ông sai người giả làm Thần Thánh, núp trong đền Trương Hát, khi trời sấm chớp, thì đọc bài thơ mắng chửi quân giặc như sau:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”.
Dịch nghĩa:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bây sẽ bị đánh tơi bời.
Binh sĩ nghe Thần phán những câu ấy, nức lòng đánh giặc, dứt khoát là phải cho quân giặc tơi bời như Thần linh đã phù trợ.
Cũng tương tự, Nguyễn Trãi vạch ra kế sách dùng mỡ (mật ong) viết trên lá cây câu chữ “Lê Lợi vi quân-Nguyễn Trãi vi thần” (Lê Lợi làm vua-Nguyễn Trãi làm tôi thần), để cho kiến ăn, hiện ra mặt chữ, rồi đem thả cho trôi sông, tạo ra một “điềm” trời, khẳng định yếu tố “thiên mệnh” khiến cho dân chúng nhanh chóng về Lam Sơn, tham gia nghĩa quân.
Ngành CTCT xem Nguyễn Trãi như là Thánh Tổ, dùng hai câu trong bài Bình Ngô Đại cáo:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Ngô Tất Tố dịch từ chữ Hán, “Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn, Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo”.
Mục đích nhấn mạnh, cuộc chiến đấu của quân dân miền Nam là đại nghĩa, đầy chính nghĩa, phù hợp với thiên lương đạo lý, là cuộc chiến tranh tự vệ chính đáng chống lại cường quyền, tàn bạo là chủ nghĩa Cộng Sản. Vũ khí giết đồng bào miền Nam, do các nước Cộng Sản cung cấp, là một chứng minh hùng hồn nhất. Cái tàn bạo của Cộng Sản thể hiện rõ ràng, cụ thể nhất trong dịp Tết Mậu Thân năm 1968 ở Huế. Hơn nữa, Hồ Chí Minh là “người Nga gốc Việt”, được Nga nuôi dưỡng, giáo dục, làm việc và ăn tiền của Cộng Sản Quốc Tế, là điều không thể chối cãi được.
6.3. Tình báo chiến
Tình báo được định nghĩa tổng quát là những hành động thu thập, nghiên cứu, tổng hợp, xử lý những tin tức và tài liệu bí mật về quân sự, chính trị, quốc phòng, an ninh, khoa học kỹ thuật…của đối phương.
Tình báo là thu thập, báo cáo tình hình của địch, một yếu tố rất quan trọng, không những trong chiến tranh mà còn quan trọng trong những cạnh tranh về mọi mặt trong xã hội. Quan điểm căn bản được Tôn Tử ghi như sau:
Tri kỷ tri bỉ bách chiến bách đãi
Bất tri bỉ, nhi tri kỷ, nhất thắng nhất phụ
Bất tri bỉ, bất tri kỷ mỗi chiến tất bại.
(Biết người biết ta trăm trận không nguy. Không biết người mà chỉ biết ta, một trận thắng, một trận thua. Không biết người, không biết ta, mọi trận đều bại). Ý nghĩa trên được rút gọn trong câu “Tri kỷ tri bỉ bách chiến bách thắng”, đó là quan niệm căn bản, chớ không có ý nghĩa tuyệt đối, bởi vì việc thắng bại còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa, như trường hợp một trong hai bên tham chiến, không có quyền lựa chọn giữa đánh hay không đánh, như bị vây đánh hội đồng chẳn hạn. Năm bảy thằng Cộng Sản vây đánh một người Việt Nam Cộng Hòa, thì mình không bị chột cũng bị què.
Tổng thống Obama bổ nhiệm ông Leon Panetta, Giám đốc CIA vào chức vụ Bộ trưởng Quốc phòng là thích hợp nhất, vì khả năng biết người, biết ta của ông cao hơn những người ngoài khu vực an ninh, tình báo.
6.4. Tổ chức chiến
Tổ chức (Organize) là sắp xếp các bộ phận cho có hệ thống, hoạt động ăn khớp với nhau trong việc thực hiện một công tác, một chiến dịch. Công việc càng phức tạp, có liên hệ đến nhiều cơ quan, thì cần phải được tổ chức thật chu đáo, mang tính hợp lý và khoa học, như trong một bộ máy, những trục, những bánh xe răng phải hoạt động ăn khớp chặt chẽ với nhau thì máy mới vận hành được.
Vai trò của việc “tổ chức” trong công tác tiếp vận cho một chiến trường lớn rất quan trọng, trong đó, vũ khí, đạn dược, thuốc men, thực phẩm, nhiên liệu… cần phải có sự phối hợp ăn khớp với nhau của các ngành như quân cụ, quân nhu, quân vận, quân y, phi cơ và tàu bè vận tải của không quân và hải quân, lực lượng quân đội bảo vệ lộ trình, bảo vệ an ninh bãi đáp, bảo vệ bầu trời chống lại phòng không của địch…mà Tổng Cục Tiếp Vận đóng vai trò chính và Cục Truyền Tin là phương tiện chủ yếu.
Tóm lại ngành CTCT, người sĩ quan CTCT phải có óc tổ chức để thực hiện từng công tác về dân vận, binh vận, địch vận, tuyên truyền, phản tuyên truyền cho thích hợp với từng hoàn cảnh cụ thể đang xảy ra.
6.5. Tâm lý chiến
Cục Tâm Lý Chiến là cái xương sống của ngành CTCT trong QLVNCH. Chiến tranh tâm lý là chiến tranh về tư tưởng, dùng tư tưởng đánh bại tư tưởng, ý chí và tinh thần của quân địch, đồng thời nâng cao tinh thần quyết thắng của binh sĩ ta. Phương tiện chính của CTTL là tuyên truyền và phản tuyên truyền.
Có hai loại tuyên truyền: tuyên truyền công khai và tuyên truyền bí mật.
6.5.1. Tuyên truyền trắng
Tuyên truyền công khai còn gọi là tuyên truyền trắng, là dựa vào những tin tức chính thức, có nguồn gốc rõ ràng như những lời tuyên bố của các chức sắc cao cấp như thủ tướng, bộ trưởng hoặc phát ngôn viên chính phủ…từ đó triển khai, phân tích để chứng minh một điều gì muốn tuyên truyền. Ví dụ như ngày 1-5-1975, một ngày sau khi chiếm miền Nam, thủ tướng Phạm Văn Đồng tuyên bố “thống nhất đất nước để đưa cả nước, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH. Đảng CSVN là lá cờ đầu, là đội quân tiên phong của Cộng Sản Quốc tế tiến hành cuộc cách mạng vô sản thế giới”. Đó là lời tự thú có giá trị, chứng minh CSVN là tay sai của Đệ Tam Quốc Tế CS. Xâm chiếm miền Nam để bành trướng CNCS trong mưu đồ nhuộm đỏ thế giới của CS. Hết chối cãi. Lòi bộ mặt giả dối, lừa bịp là chiêu bài “giải phóng dân tộc”. Lộ liễu hơn nữa, đảng Xã Hội lấy lại bản chất thật sự của nó, là chính thức mang tên Đảng Cộng Sản Việt Nam. Ngày nay, đảng Cộng Sản hết thời, vì chủ nghĩa Cộng Sản đã bị nhân loại ném vào sọt rác.
Tuyên truyền trắng lấy những câu thơ nâng bi của Tố Hữu chứng tỏ thân phận tay sai của Liên Xô, cụ thể như sau:
Vui biết mấy khi con tập nói
tiếng đầu lòng con gọi Stalin…
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười.
Cái độc đáo của tài nâng bi là, con nít VC biết học nói “tiếng người nước ngoài” trước khi biết nói tiếng Việt, đó là biết phát âm tên ông Stalin. Người không có học “tiếng người nước ngoài” thì chỉ phát âm như sau, “ông Ăn Tờ rô Bốp Mốc Cu ra Đớp”, ông Ni Cô Lai Nhai Quai Dép hoặc ông Ê Rích Hôi Nách Cơ…
Tuyên truyền bí mật có hai dạng là tuyên truyền đen và tuyên truyền xám.
6.5.2. Tuyên truyền đen
Tuyên truyền đen là dựa vào những tin tức có nguồn gốc “gần như có thật”, từ đó phân tích, bổ sung, tăng cường, thêm mắm dậm muối, làm cho đối phương hoang mang, bất mãn.
6.5.3. Tuyên truyền xám
Tuyên truyền xám là dựa vào tin tức “không có nguồn gốc rõ ràng”, hoặc căn cứ vào những sự việc đang xảy ra mà bịa thêm câu chuyện, như: bà con đồn rằng, dư luận cho rằng, người giấu tên cho biết…
Tuyên truyền xám mang tính đánh phá nhẹ nhàng, tưởng chừng như vô hại, nhưng tác dụng rất thâm hậu. Cái “không có” mà được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, khiến cho người nghe, từ hoang mang cho đến chỗ tin là “có thật”. Trong Cổ học tinh hoa, có câu chuyện Tăng Sâm giết người. Tăng Sâm là người con lương thiện, thuần hòa hiếu thảo, người có học sách thánh hiền, tôn trọng đạo lý. Một hôm, có người chạy đến báo với bà mẹ, “Tăng Sâm giết người”. Bà mẹ thản nhiên tiếp tục dệt vải. Người thứ hai đến báo, bà mẹ vẫn tin con mình không sát nhân. Người thứ ba đến báo, bà mẹ lo lắng, chạy đi tìm hiểu vì không còn niềm tin.
Tuyên truyền là một vũ khí đấu tranh rất lợi hại. Một ví dụ về tuyên truyền của tay sai VC ở hải ngoại, như muốn đánh phá các cựu quân nhân của QLVNCH, thì trước hết đánh phá Tổng Tư Lịnh quân đội là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Và để che dấu thân phận tay sai VC, chứng tỏ khách quan, công bằng, nên chúng một mặt ca ngợi Tổng thống Ngô Đình Diệm, một mặt đánh phá Tổng thống Thiệu. Người đọc tưởng như khách quan, công bằng, nhất là khi người viết tự nhận mình là một cựu SQ/QLVNCH…
Hiện nay VC trong nước rất sợ sự thật, cho rằng đó là các loại tuyên truyền xuyên tạc, là “diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch”, và lo ngại, cảnh giác, sợ rằng các đơn vị “tự diễn biến”.
Mikhail Gorbachev (Tổng Bí Thư Xô Viết)
I have devoted half of my life for communism.
Today, I am sad to say that The Communist Party only spreads propaganda and deceives..
Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản. Hôm nay tôi đau buồn mà thú nhận rằng: cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá.
6.5.4. Phản tuyên truyền
Phản tuyên truyền là căn cứ vào những lời tuyên truyền của địch về những chương trình, những chủ trương sẽ đem ra thi hành, từ đó, diễn dịch, phân tích mặt sai trái, tiêu cực, tác hại… mục đích cản trở, phá hỏng kế hoạch của đối phương.
Chiến tranh tâm lý được thực hiện trên mọi lãnh vực của xã hội. Hiện nay, Internet và điện thoại vệ tinh là phương tiện được xử dụng hữu hiệu nhất.
6.6. Quần chúng chiến
Quần chúng chiến là việc tranh thủ, vận động sự ủng hộ, hợp tác, tham gia của quần chúng nhân dân. Vai trò của quần chúng rất quan trọng trong Chiến Tranh VN, vì cuộc chiến khởi đầu bằng chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân, gốc của Mao Trạch Đông được HCM và Võ Nguyên Giáp đem áp dụng vào VN. Trong thời gian đầu, VC sống được là nhờ bám vào dân, ăn chực của dân ở nông thôn, nên lấy lòng dân bằng chủ trương cùng ăn, cùng ở, cùng làm song song với hành động khủng bố tàn nhẩn để trấn áp người dân, nhất là ở những vùng nông thôn hẻo lánh.
Vai trò của quần chúng rất quan trọng nên người thi hành công tác TLC phải hiểu biết rõ về tâm lý quần chúng. Trong chương trình chính huấn có những bài học về tâm lý quần chúng, tâm lý đám đông…
Tóm lại Lục Đại Chiến là những kinh nghiệm xương máu và đắng cay về Cộng Sản mà Tưởng Giới Thạch của Trung Hoa Dân Quốc đã rút tỉa ra được sau khi thua trận, và sẵn sàng phổ biến lại cho đồng minh VNCH.
7. Chương trình Chiêu hồi của Việt Nam Cộng Hòa
Tung cánh chim tiềm về tổ ấm
Một thành tích của ngành CTCT là Chiêu Hồi. Chiêu hồi thuộc diện địch vận, được nâng lên tầm mức quốc gia. Chiêu hồi được thực hiện từ năm 1963, áp dụng kinh nghiệm của Philippines trong việc chiêu dụ Cộng Sản Hukbalahap, và kinh nghiệm của Sir Robert Thompson thuộc quân đội Anh để bình định Malaysia.
Chương trình Chiêu Hồi kêu gọi những thành phần VC trong Mặt Trận Giải Phóng MN và CSBV trở về với chính nghĩa quốc gia. Từ năm 1963 cho đến ngày tàn cuộc chiến 1975, Chiêu hồi trải qua nhiều cơ cấu tổ chức khác nhau, kêu gọi được hơn 230,000 hồi chánh viên, buông súng trở về với “quốc gia”.
7.1. Tổ chức và thành quả
Ngày 17-4-1963, Tổng thống Ngô Đình Diệm ban hành Quyết định thành lập Chương trình Chiêu hồi, theo đề nghị của Cơ Quan Nghiên Cứu Việt-Mỹ và Viện Trợ Mỹ (USOM).
Ý kiến ban đầu do Sir Robert Thompson, chuyên viên Tâm Lý Chiến của cơ quan viện trợ Anh Quốc đề xướng.
Năm 1968, chương trình phát triển mạnh, kết quả tốt nên được nâng lên thành một Bộ trong chính phủ, Bộ Chiêu Hồi, mỗi tỉnh có một Ty Chiêu Hồi. Ngân sách Bộ Chiêu Hồi do viện trợ Mỹ đài thọ.
7.2. Hoạt động
Bộ Chiêu Hồi (BCH) phối hợp với Bộ Quốc Phòng, Bộ Thông Tin, Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, các quân binh chủng, cơ quan Thông Tin HK (JUSPAO), cơ quan viện trợ USOM, Cố Vấn Mỹ, Tổng Cục CTCT, Cục Trung Ương Tình Báo, Cục An Ninh QĐ, Tổng nha Cảnh Sát QG, Sở Công Tác Nha Kỹ Thuật Bộ TTM, Chiến Dịch Phượng Hoàng, các đài phát thanh và truyền hình, đài Gươm Thiêng Ái Quốc, đài Mẹ Việt Nam và báo chí.
Bản nhạc Ngày Về của Hoàng Giác được dùng làm nhạc hiệu của các chương trình chiêu hồi.
Nhiều truyền đơn được phi cơ thả xuống các vùng VC, kể cả tờ Giấy Thông Hành có in hình quốc kỳ VNCH và của các quốc gia đồng minh. Quân đội Úc có truyền đơn riêng dùng trong các cuộc hành quân Tâm Lý Chiến, mang tên “Xuân Đoàn Tụ” kêu gọi hồi chánh.
Ngày 18-2-1973, Bưu Điện phối hợp với BCH phát hành con tem 10$ để kỷ niệm người hồi chánh thứ 200,000.
7.3. Chính sách Hồi Chánh
Giúp đở tái định cư, đoàn tụ gia đình, xử dụng tài năng tương xứng với công việc ở bên kia chiến tuyến.
Thiếu Tướng Nguyễn Bảo Trị, Tổng Bộ Thông Tin Chiêu Hồi ký tên tờ Cam Kết ghi rõ như sau:
1. Đối xử đúng đắn
2. Hưởng quyền công dân
3. Chăm sóc thuốc men tại Trung tâm Chiêu Hồi
4. Đoàn tụ gia đình
5. 30$ tiền ăn cho mỗi hồi chánh viên, vợ và mỗi con lớn. Con nhỏ 15$ mỗi ngày.
6. Hàng tháng 200$ tiền tiêu vặt. 100$ cho mỗi người trong gia đình cư trú tại TT/CH
7. Tiền thưởng về vũ khí mang về từ 500$ đến 75,000$
8. Hai bộ quần áo mới hoặc 1,000$
9. Tiền hoàn hương cho gia đình 1,000$
10. Giúp đỡ kiếm công ăn việc làm
11. Những hồi chánh viên định cư trong các Ấp Chiêu Hồi được cấp xi măng, mái và 1,000$ tiền mặt để xây nhà, 2,000$ sắm vật dụng trong nhà và 6 tháng gạo.
Ghi chú: Một đô la Mỹ năm 1963 bằng 35$ VN. Những năm 1970, giá khoảng 200VNĐ
7.4. Những nhân vật hồi chánh
1. Thượng tá Tám Hà, Trần Văn Đắc, Chính ủy sư đoàn 5
2. Thượng tá Huỳnh Cự
3. Trung tá Phan Văn Xướng
4. Bác sĩ Đặng Văn Tân
5. Nhà văn Xuân Vũ, Bùi Quang Triết
6. Nhạc sĩ Phan Thế
7. Diễn viên Cao Huynh
8. Mai Văn Sổ (Em song sinh với Mai Văn Bộ)
9. Bùi Công Tương, Ủy viên Tuyên huấn tỉnh Bến Tre
10. Ca sĩ Đoàn Chính (Con của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn) và nhạc sĩ Bùi Thiện.
Thượng tá Tám Hà (Trần Văn Đắc), chính ủy sư đoàn 5, hồi chánh ở Bình Dương năm 1970. Ông làm việc tại TC/CTCT và toà Đại sứ Mỹ. HK bốc sang Mỹ năm 1975.
Thượng tá Phan Văn Xướng và binh đoàn Cửu Long hồi chánh tập thể ở Đồng Ông Cộ, cách toà hành chánh Gia Định 3 km, khu vực Ngã tư Hàng Xanh, trong cuộc tấn công đợt hai hồi năm Mậu Thân 1968. Ngoài trung tá Xướng ra, còn có 2 ca sĩ nổi tiếng là Đoàn Chính và Bùi Thiện.
Ông Phan Văn Xuớng được Bộ Chiêu Hồi bổ nhiệm vào chức tham nghị với lương bổng và phụ cấp của một giám đốc. Đoàn Chính và Bùi Thiện được tiếp tục hát ở các đài phát thanh và truyền hình.
Trung tá Lê Xuân Chuyên thuộc quân đội chính quy Bắc Việt, hồi chánh năm 1967 tại Bình Tuy. Ông giúp Bộ CH khai sinh các Đội Võ Trang Tuyên Truyền, được cử giữ chức vụ ngang hàng với một Tổng giám đốc, kiêm Chỉ huy trưởng Võ Trang Tuyên Truyền Trung Ương.
Trung tá Huỳnh Cự, hồi chánh ở Quảng Ngãi, được cử giữ chức Tham nghị, tương đương với một giám đốc, Trường đoàn Thuyết Trình Trung Ương.
Ông Bùi Công Tương, hồi chánh ở Kiến Hòa năm 1970, ông giúp BCH hoàn thành cuốn Bạch Thư tố cáo tội ác của VC. Ông cung cấp những hình ảnh mà VC Bến Tre đã ngụy tạo ra cảnh cán bộ CS đóng vai linh mục trong thánh lễ, dàn dựng ra cảnh binh sĩ VNCH đánh đập phụ nữ, cầm đuốc đốt nhà trước vẻ mặt căm giận của một cụ già. Những hình ảnh ngụy tạo đó được VC phổ biến và báo chí phản chiến Tây phương chụp lấy để đánh phá VNCH.
7.5. Câu chuyên chiêu hồi
Vào buổi saáng cuối tuần tháng 5 năm 1967, tiểu khu Phước Tuy nhận được tin VC đào đường, đấp mô trên quốc lộ 15. Theo thông lệ, Trung tá tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Lê Đức Đạt cử Đ/U Dung, phó tỉnh trưởng nội an và Đ/U Hiệp, chỉ huy BĐQ đi mở đường tái lập giao thông.
Khoảng 1 giờ trưa, một cán binh VC hớt hải chạy ra hồi chánh và yêu cầu đuợc gặp Trung tá tỉnh trưởng gấp để báo tin 2 sư đoàn VC là công trường 5 và công trường 7 đã tập kết ở núi Thị Vải, với kế hoạch tấn công đơn vị dọn đường trên đường về, và đánh vào tỉnh lỵ.
Một kế hoạch hành quân được nhanh chóng thực hiện với sự tham gia của cố vấn Mỹ. Lịnh báo động toàn tỉnh Phước Tuy được ban hành.
Mở màn trận đánh. Được các phi cơ quan sát hướng dẫn, những chiếc F-4 và F-105 ném các loại bom một cách chính xác vào đội hình của VC. Trực thăng, pháo binh luân phiên nhau tấn công vào các mục tiêu đã xác định. Chiều tối, B-52 trãi thảm vào đám tàn quân.
Sự xuất hiện đúng lúc của người hồi chánh viên đã tiêu hủy phần lớn sinh lực của 2 sư đoàn 5 và 7 của VC.
Các hồi chánh viên chống cộng một cách tích cực và dũng cảm, vì các anh đã vạch rõ bộ mặt ghê tởm của CS, nên chúng xem các anh là kẻ thù, vì thế, cuộc chiến của các anh không có chỗ lùi. Các anh chỉ biết tiến tới, hoặc chiến thắng, hoặc chết, chết theo quân dân và đất nước VNCH.
8* Kết luận
Chế độ Cộng Sản đã nâng cao các hình thức tuyên truyền lên tầm mức quốc gia, đó là chế độ giáo dục nhồi sọ con người từ lúc mới sanh cho đến chết. Ở nhà trẻ nghe cái điệp khúc “hôm qua em mơ gặp bác Hồ”. Về già, công nhân viên chức cũng phải học tập theo gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Trước tiên bức màn sắt, bức màn tre buông xuống để cô lập nhân dân với thế giới bên ngoài. Bưng bít thông tin để cho bọn văn nô, bồi bút tha hồ bịa chuyện thần thánh hoá lãnh tụ. Những tên đồ tể, tay đẫm máu đồng bào của mình như Stalin, Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành, Kim Chánh Nhật, kim chi, Fidel Castro và Hồ Chí Minh đều trở nên thần thánh cả.
Ở Việt Nam, thế hệ thanh niên bị nhồi sọ chỉ biết “cầm gươm ôm súng xông tới” “sanh Bắc Tử Nam”. Đến khi mọi dối trá được phơi bày ra ánh sáng thì tất cả đều bật ngữa, nhưng để bảo vệ miếng cơm manh áo, che dấu những sai làm, mù quáng của bản thân nên ngậm đắng nuốt cay âm thầm chịu đựng.
Tay tổ Cộng Sản là Mikhail Gorbachev thú nhận: “Hôm nay tôi đau buồn mà thú nhận rằng: Cộng Sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá.”
Chiến Tranh Chính Trị Việt Nam Cộng Hòa làm nổi bật chính nghĩa sáng ngời của người dân miền Nam là “đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo” để bảo vệ dân chủ, tự do cho đồng bào và Tổ quốc Việt Nam.
Trúc Giang
PHẠM LƯU VŨ * CHỊ CẢ BỐNG
ĐOÀN DỰ * CÔNG CHÚA PHI CHÂU
Cô “công chúa” ngày ấy bây giờ ra sao
I. Tiểu sử của Bokassa
Họ tên đầy đủ của Bokassa là Jean Bedel Bokassa, thuộc bộ tộc M’Baka ở Phi châu và sinh ngày 22-2-1921 tại làng Bobangui, cách thủ đô M’Baiki của nước Phi Châu Xích Đạo (Equatorial Africa) khoảng 80 cây số về phía bắc. Ông là con của một công nhân làm việc cho Công ty Lâm nghiệp Pháp. Năm 1927, cha của Bokassa bị bắt và bị kết án tử hình về tội phá rối trị an. Ít lâu sau, mẹ của cậu Bokassa cũng tự tử chết vì nghèo và tuyệt vọng. Thời điểm đó cậu bé đang học Tiểu học tại trường Sainte Jeane d’Arc ở M’Baiki, rồi tiếp theo là trường Trung học Saint Louis ở Bangui, do các tu viện Pháp tài trợ.
Cuộc đảo chánh thành công, ngày 20-9-1979, David Dacko lên làm tổng thống và lấy lại tên nước là Cộng hòa Trung Phi. “Hoàng đế” Bokassa phải bỏ chạy sang nước Cộng hòa Bờ Biển Ngà (Republic of lvory Coast), rồi sau đó sang Pháp, nơi ông có nhiều lâu đài nguy nga tráng lệ. Ông bị chính quyền mới của Tổng thống David Dacko kết án tử hình khiếm diện.
Trong thời gian 3 năm làm “hoàng đế”, Bokassa có máu mê sưu tập vàng bạc, kim cương, đá quý. Trong số những đồ châu báu mà ông thu thập được, có 2 viên kim cương thô rất lớn nhưng chưa bao giờ ông đồng ý cho mài giũa.
Để mua chuộc các chính khách trong đó có cả Tổng thống Pháp Valéry Giscard d’Estaing (làm tổng thống từ 1974 tới 1981), ông đã dùng kim cương làm phương tiện hối lộ. Sau này, Bokassa tố cáo Tổng thông d’Estaing đã đứng đằng sau cuộc đảo chánh lật đổ ông và cuỗm mất “Hoàng hậu” Cathérine người da trắng rất đẹp của ông (?!).
Để thể hiện quyền lực của mình, Bokassa đặt tên cho nhiều công trình ở thủ đô Bengui bằng tên mình. Ví dụ, Cung thể thao Jean Bedel Bokassa, Đại lộ Jean Bedel Bokassa, Đại học Tổng hợp Jean Bedel Bokassa v.v… Bên cạnh đó, Bokassa còn cho xây dựng nhiều dinh thự dùng cho tổng thống như Villa Kolongo, Villa Berengo, đồng thời làm chủ nhiều nhà hàng ăn uống, xưởng dệt, trại nuôi gia súc. Hai hãng hàng không dân sự và một hãng độc quyền buôn bán ngà voi cũng là của ông.
Theo báo Le Figaro, Bokassa tự phong cho mình là “Đệ nhất nông dân” và “Đệ nhất thương gia” của Vương quốc Trung Phi.
Những người từng có thời gian thân cận với Bokassa kể lại rằng, ông ta tự cho mình có quyền làm hoàng đế suốt đời, kiêm nhiệm Bộ trưởng Tư pháp, Bộ trưởng Quốc phòng, Bộ trưởng Nội vụ và nhiều bộ khác. Nhà văn S.Th. thời gian đó là giám đốc cơ quan đối ngoại thuộc Bộ Nội vụ VNCH, có dịp sang Trung Phi và nhiều nước khác, kể rằng Bộ Quốc Phòng của Tổng thống Bokassa là mấy căn nhà tôn bé tí, còn nhỏ hơn một trại gia binh loại nhỏ của VNCH.
Nhiều người trong số họ được các nhà lãnh đạo sở tại “tặng” cho Bokassa khi ông ta công du các quốc gia này, chẳng hạn bà vợ bé người Tàu là “quà tặng” của Tưởng Giới Thạch, lúc ấy là tổng thống Đài Loan. Tại Gabon, trong phái đoàn ra sân bay đón tiếp “Hoàng đế Bokassa”, ông đặc biệt chú ý đến một cô gái tên là Joelle. Bỏ qua mọi nghi thức ngoại giao, Bokassa dặn Joelle “đừng đi đâu hết” rồi tiến đến trước mặt Tổng thống Omar Bongo và nói: “Hồi nãy tôi đến với tư cách quốc khách, còn bây giờ tôi gặp anh với tư cách riêng để xin cưới một công dân của anh làm vợ”. Dù muốn dù không, Tổng thống Omar Bongo cũng phải đồng ý.
Câu chuyện lừa dối… tầm cỡ quốc tế này rất phức tạp, nhờ có nhà báo Việt Định Phương chủ nhiệm nhật báo Trắng Đen khám phá ra, tìm thấy cô Martine Nguyễn “thật” đang làm công nhân, suốt ngày oằn lưng khuân vác các bao xi-măng giống như đàn ông, nên liên lạc với Tổng thống Bokassa rồi cùng với vợ đích thân đưa cả bà Huệ lẫn cô Martine Nguyễn sang Trung Phi. Tổng thống Bokassa tiếp đón vợ chồng nhà báo Việt Định Phương như bậc thượng khách. Chúng ta sẽ theo dõi câu chuyện này trong phần II nói về cô Martine Nguyễn và xem đời sống của cô hiện nay ra sao. Bây giờ tiếp tục về chuyện vị tổng thống “trung sĩ nhất Lê dương” Bokassa.
Ngay cả “ông bạn thân” Omar Bongo, người đã từng tặng cô gái đẹp Joelle cho Bokassa, cũng vắng mặt. Bokassa cho rằng những người bạn này không đến vì họ ghen tị với ông.
Sau cuộc đảo chính của “tổng thống cũ” David Dacko lật đổ Bokassa diễn ra vào ngày 20-9-1979, phần lớn các tài sản của Bokassa đều bị tích thâu. Nhiều nước từ chối cho ông tị nạn. Chỉ có tổng thống nước Bờ Biển Ngà là Felix Boigny chịu chứa chấp ông vì áp lực của Pháp. Ít lâu sau, Bokassa sang Pháp.
Lúc xuống sân bay Bangui, Bokassa định đọc một bài diễn văn xác định mình vẫn còn là “Hoàng đế Bokassa Đệ nhất” thì bị bắt giữ. Tám tháng sau, tòa án Cộng hòa Trung Phi tuyên án ông bị tử hình. Nhưng do sự can thiệp của chính phủ Pháp, án được giảm xuống còn tù chung thân, rồi 6 năm sau, Pháp can thiệp tiếp, ông được thả.
Tổng thống Bokassa tìm con
Vào năm 1972, Jean Bedel Bokassa, Tổng thống nước Cộng hòa Trung Phi, nhờ Bộ Ngoại giao Pháp tìm kiếm giùm đứa con rơi, kết quả của mối tình giữa ông thời đi lính Lê dương tham chiến tại Việt Nam với một cô gái ở Sài Gòn, mà bây giờ 19 năm đã trôi qua, vốn không biết tiếng Việt, ông không còn nhớ nhà cha mẹ cô ở đâu.
Jean Bedel Bokassa đi lính cho Pháp từ năm 18 tuổi, lúc nước Trung Phi còn là thuộc địa của Pháp. Bokassa trong đội quân lê dương có mặt tại nhiều quốc gia trước khi đến Việt Nam vào năm 1953, lúc ấy ông 32 tuổi, mang lon trung sĩ nhất và đóng tại Chánh Hưng, Sài Gòn (quận 8 bây giờ). Có thời gian Bokassa được tăng cường về Biên Hòa làm nhiệm vụ gác cầu ở Cù Lao Phố (cầu Gành). Hồi đó, những làng mạc xa xôi hẻo lánh, người dân rất sợ các toán quân “Tây đen”, phụ nữ không may gặp họ trên đường họ hành quân là coi như hết thời.
Rồi cô dạy cho Bokassa nói tiếng Việt. Cô không còn cảm thấy ngại ngùng mỗi khi đối diện với anh lính Phi châu này nữa, mà những lúc nghỉ ngơi cô còn có ý muốn gặp anh. Lương của lính Pháp tương đối rất khá, Bokassa cũng biết cách lấy lòng phụ nữ, lúc thì anh mua tặng cô xấp vải, chiếc khăn, lúc thì chai dầu thơm, có khi anh còn cho cô cả tiền nữa, những số tiền này cô phải gánh nước oằn lưng cả tuần mới có thể có được. Hai bên dần dần yêu nhau, những ngày cuối tuần Bokassa rủ cô Huệ về Sài Gòn chơi…
Kết quả của mối tình Phi-Việt đó là cô Huệ mang thai. Ngày ấy con gái chửa hoang là một điều hết sức nhục nhã, nhất là lại có chửa với một gã lính da đen. Cha cô không chịu nổi lời đàm tiếu, đánh cô một trận rồi bỏ nhà ra đi. Mẹ cô nước mắt lưng tròng, phần thì thương con, phần cũng giận con. Bà nói: “Đấy, mày muốn tính sao thì tính, đi đâu thì đi, đừng làm cho tao thêm nhục…”.
Bokassa đưa người tình về Tân Thuận Đông, quận Nhà Bè, nơi đơn vị anh đóng quân gần cầu Tân Thuận. Anh thuê nhà cho người yêu ở. Hai người sống với nhau như vợ chồng.
Sau cuộc chia tay, Huệ sống lủi thủi một mình trong căn nhà thuê. Rồi cô sinh đứa con gái và đặt tên là Nguyễn Thị Martine theo họ mẹ, vì không có giấy hôn thú nên không thể khai sinh theo họ cha. Số tiền Bokassa để lại cũng không còn được bao nhiêu. Hết tiền, lại có con nhỏ, đời sống hết sức túng quẫn, cô quyết định bế con về sống với mẹ ở Cù lao Phố như cũ. Bà mẹ rất mừng vì bà vẫn thương con. Lúc này người cha cũng đã trở về từ lâu. Ông đã già, không còn khó tánh như trước nhưng nhà quá nghèo nên không lấy gì giúp đỡ cho con được…
Việc chuyển hồ sơ Martine qua cho tổng thống Trung Phi được đặc phái viên Trắng Đen ở Paris thực hiện.
Hồ sơ, hình ảnh của bà Huệ và Martine được Bokassa công nhận rằng chính ông và bà Huệ là người trong hình. Thế là hai công điện được gửi cho chính phủ VNCH (dưới quyền của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu) và báo Trắng Đen. Đại diện của tổng thống Trung Phi tới Sài Gòn để xúc tiến việc đưa Martine sang đất nước của cha. Chính quyền và Bộ Ngoai giao VNCH bị “hóc xương” vì chuyện đã lừa dối, đưa cô “con lai” khác sang. Nhật báo Trắng Đen thành công vang dội.
Một đại diện cao cấp khác của Cộng hòa Trung Phi sang Việt Nam hướng dẫn phái đoàn đưa Martine qua gặp cha. Phái đoàn gồm 5 người: Vợ chồng ông bà Việt Định Phương chủ nhiệm báo Trắng Đen, bà Nguyễn Thị Huệ, cô Martine, và một tùy viên sứ quán Pháp vừa đại diện cho Bộ Ngoại giao Pháp vừa làm thông dịch viên.
Tổng thống Trung Phi tiếp phái đoàn báo Trắng Đen như thượng khách. Ông rất vui mừng đón nhận Martine và bà Huệ. Martine ở lại làm công chúa. Bà Huệ trở về Việt Nam vì bà đã có chồng khác. Riêng cô Baxi thì được ông nhận làm con nuôi.
Sau khi về nước, bà Huệ được Tổng thống Bokassa trợ cấp mỗi tháng 200,000$, lãnh tại Pháp Á ngân hàng Sài Gòn. Số tiền nầy tương đương với khoảng 5 lượng vàng vào thời đó.
Năm sau, 1973, Tổng thống Bokassa công bố mở hội kén rể, chọn chồng cho con gái ruột là Martine và con gái nuôi là Baxi. Buổi lễ được tổ chức long trọng tại dinh thự quốc gia, với sự tham dự của lãnh đạo các cơ quan chính phủ. Hàng trăm thanh niên Trung Phi ghi tên tham dự.
Kết quả, hai thanh niên được chọn là bác sĩ quân y Jean-Bruno Dévéavode làm chồng Martine, đại úy Fidel Obrou làm chồng Baxi. Sau đó, một đám cưới được tổ chức linh đình cũng tại dinh thự quốc gia.
Martine Bokassa sanh được 3 con: con trai tên Jean-Barthélémy Bokassa Dévéavode (thường được gọi tắt là JBB), hai con gái tên Marie Catherine Bokassa Dévéavode và Marie-Jeanne Bokassa Dévéavode.
Số phận của Baxi
Người biết rõ Baxi không phải là con của Bokassa chính là bà Ba Thân ở Xóm Gà Gia Định, vì bà không có liên quan gì với Bokassa. Baxi chỉ là con mồi được các nhân viên Bộ Ngoại giao lúc đó đưa ra để gỡ thế bí. Tuy nhiên, từ một đứa con lai thuộc một gia đình nghèo khó, cô được Tổng thống Bokassa nhận làm con nuôi rồi cũng trở thành một công chúa, sống trong cảnh giàu sang được một thời gian sau đó số phận hết sức bi đát.
Năm 1976, chồng của Baxi là đại úy Fidel Obrou, chỉ huy trưởng đội quân bảo vệ hoàng cung nhưng lại âm mưu lật đổ Bokassa và bị Bokassa xử tử.
Ngày chồng chết cũng là ngày Baxi sanh một đứa con trai, nhưng hai tuần sau, đứa bé bị bác sĩ quân y Jean-Bruno Dévéavode chồng của Martine Bokassa giết chết theo lệnh của Bokassa, bằng cách chích một mũi thuốc độc.
Đúng một năm sau ngày chồng bị xử tử, Baxi được Bokassa cho phép trở về Việt Nam, nhưng vì có tiền mang theo nên cô bị hai thuộc hạ của Bokassa giết chết để cướp của và giấu thi thể ở một nơi nào đó trên đường ra phi trường. Cô hưởng vinh hoa phú quý được khoảng 7 năm.
Ngày 21-9-1979, Pháp giật dây cho David Dakco tổ chức lật đổ “Hoàng Đế Bokassa Đệ nhất” và buộc ông phải sống lưu vong tại Côte d’Ivoire (Ivory Coast theo tiếng Anh). Chồng của Martine tức bác sĩ quân y Jean-Bruno Dévéavode bị David Dakco ra lệnh xử tử về tội đã “theo đuôi” Bokassa, giết chết con của “người anh hùng” chống Bokassa là đại úy Fidel Obrou, chồng của Baxi, và thuộc gia đình có nhiều tội ác. Martine và 3 đứa con trốn thoát qua Pháp, sống trong lâu đài của họ là Hardricourt. Bà Huệ mẹ của Martine ở bên Việt Nam sau này được Martine bảo lãnh sang Pháp sống với con và các cháu.
Martine thấy cái họ Dévéavode của chồng “xui xẻo” quá nên xin đổi tên mới là Martine Kota. Hiện nay cô làm chủ hai nhà hàng rất lớn, một ở Paris và một ở đảo Corse (do người con gái lớn đã lấy chồng ở đấy trông coi).