MẶC LÂM * TẾT QUA CUNG BẬC THỜI GIAN
Tết qua cung bậc thời gian
Ngày Tết là thời gian người Việt có dịp để nghỉ ngơi và thực hiện những hoạt động mà cả năm không có cơ hội như thăm thú lẫn nhau, tham gia vào các trò chơi đậm tính văn hóa thay đổi cách sống quen thuộc một thời gian ngắn và quan trọng nhất là xum họp gia đình.
Ngày tết đi kèm với phong tục. Dựng nêu, nấu bánh, lì xì đốt pháo… theo thời gian đã bị đời sống công nghiệp hóa khiến tết trở thành sơ cứng đối với những người hoài cổ. Thế nhưng không thể nói sự thay đổi ấy đã giết chết phong tục ăn tết của người Việt vì trong sinh hoạt vẫn có những ý tưởng mới thay vào khiến ngày tết đa dạng và sống động hơn trong một lĩnh vực nào đó.
Nếu người Hà Nội ăn tết vẫn còn giữ phần lớn nét truyền thống thì ngược lại người Sài Gòn hầu như do tiếp xúc với lối sống công nghiệp sát sao hơn và vì vậy tết cũng thay đổi nhiều theo nhịp thở ấy.
Tết vùng miền
Mặc Lâm có cuộc trao đổi với TS Nguyễn Thị Hậu, một nhà khảo cổ
học, hiện là giảng viên thỉnh giảng tại Đại học Nhân Văn thành phố. Bà
cũng là người nghiên cứu văn hóa học có rất nhiều bài viết về Tết trên
các tờ báo xuân hàng năm.
Tiến sĩ Nguyễn Thị Hậu vào Sài Gòn sau năm 1975 và bà đã sống, làm
việc và ăn những cái tết Sài Gòn từ đó đến nay. Trước tiên bà cho biết
sự khác nhau giữa Sài Gòn và Hà Nội nơi bà được sinh ra và trưởng thành
mặc dù nguyên quán tại miền Nam:
Tết của Sài Gòn chắc chắn khác Hà Nội ở chỗ thời tiết. Tết Sài Gòn nhằm vào mùa nắng và rất gay gắt cho nên bà con đổ ra đường chơi chứ không chỉ quây quần trong gia đình như ngày tết ở Hà Nội.
-TS Nguyễn Thị Hậu
TS Nguyễn Thị Hậu: Tết của Sài Gòn chắc chắn khác Hà Nội ở chỗ
thời tiết. Tết Sài Gòn nhằm vào mùa nắng và rất gay gắt cho nên bà con
đổ ra đường chơi chứ không chỉ quây quần trong gia đình như ngày tết ở
Hà Nội. Người Sài Gòn nói chung thích đi chơi tết hơn là ăn tết. Họ đi
ăn ngoài tiệm, bạn bè rủ nhau ra hàng quán chứ ít khi nấu nướng ở nhà.
Ở Hà Nội thì bạn bè thường đến nhà nhau, tổ chức ăn uống trong gia
đình hay nhà bạn bè chứ ít khi ra quán. Vì vậy cho nên ở Sài Gòn ngay từ
mồng một tết các hàng quán đều mở cửa bình thường, rất tấp nập vui vẻ
còn ở Hà Nội mùng một tết rất vắng vẻ, đấy là ngày chủ yếu ở nhà.
Có lẽ vì tính chất đô thị và do những dịch vụ tại Sài Gòn hoạt động
rất sớm vì vậy cho nên các loại thức ăn quà biếu người Sài Gòn có thể
mua ở các siêu thị mà không quá vất vả phải tự làm hay là tự gói đồ để
tặng nhau.
Mặc Lâm: Đó là phần vật chất trong ngày tết riêng về yếu tố tinh thần thì hai thành phố có gì khác nhau xa lắm hay không?
TS Nguyễn Thị Hậu: Theo tôi thấy người Sài Gòn rất trọng lễ
nghĩa nhưng lại không quá câu nệ vào việc phải đến nhà người thân hay bà
con vào đúng ngày tết. Có thể họ đến trước hay sau tết lúc nào thuận
tiện cho cả hai bên mà không bắt buộc nhau phải có mặt trong những ngày
tết.
Tết ở Sài Gòn mang tính hướng ngoại nhiều hơn. Họ có thể vui chơi
thậm chí hiện nay các bạn trẻ tầng lớp trung lưu chẳng hạn, ngày tết họ
đi du lịch nước ngoài chứ không nhất định phải ở trong gia đình mặc dù ý
nghĩa tết họ vẫn giữ trọn vẹn. Mấy ngày tết họ thăm viếng cha mẹ hay là
cúng ông bà, nói chung họ thu xếp để vẫn thực hiện những việc ấy nhưng
không quá bó buộc như truyền thống cổ xưa như Hà Nội hiện nay. Nói chung
họ vẫn còn giữ được nét truyền thống ấy.
Mặc Lâm: Theo như chúng tôi được biết thì TS
đã vào Sài Gòn gần 40 năm và trong những năm ấy có khi nào bà về vùng
đồng bằng sông Cửu Long ăn tết hay không, và bà quan sát những người
nông dân ăn tết khác người dân thành thị ở điểm nào?
TS Nguyễn Thị Hậu: Sau năm 75 từ Hà Nội về thì tôi có vài năm
ăn tết ở quê vùng Cao Lãnh, Chợ Mới An Giang. Phải nói cái tết quê nam
bộ khác cái tết quê ở Hà Nội nơi mà tôi sinh sống từ nhỏ. Nói chung ở
nam bộ thì mối liên hệ giữa bà con hàng xóm, những người ruột thịt được
thể hiện trong ngày tết rất rõ. Cùng nhau ăn tết, cùng nhau đi chơi hay
cùng nhau đi vui xuân hay lễ hội ....
Ở Sài Gòn thì như tôi nói lúc nãy, người ta đi chơi tết nhiều hơn
không hẳn chỉ là ăn tết và từ năm 75-76 cho tới bây giờ thì phong tục ăn
tết của người Sài Gòn càng ngày càng hiện đại hơn. Họ đi chơi nhiều
hơn, họ sử dụng dịch vụ nhiều hơn gần như là rất ít gia đình gói bánh
hay nấu các món ăn truyền thống ngày tết. Trái lại họ sử dụng dịch vụ để
mua bánh tết và các loại thức ăn công nghiệp. Tôi nghĩ đây là bước phát
triển hiện đại tuy nhiên bên cạnh đấy đứng dưới góc độ một người phụ nữ
nghiên cứu về văn hóa thì tôi có chút băn khoăn. Nếu cứ theo cái hướng
hiện đại như vậy thì rõ ràng rất nhiều nét văn hóa truyển thống ngày tết
của chúng ta sẽ mất đi.
Sự bận rộn lo lắng, sự chăm chút cho cái bếp của gia đình hay những
món quà biếu sẽ không còn nữa, do đó cảm giác gọi là ngày tết ở đô thị
lớn bây giờ không còn như ngày xưa mà mang tính chất công nghiệp cho nên
ăn tết cũng vội vàng hơn. Thế hệ của chúng tôi vẫn nói là có lẽ bây giờ
chỉ ngày ba mươi và mùng một tết, thế là xong. Sang mùng hai thì một số
đã trở lại bình thường vì họ không còn quá coi trọng nghi lễ hay ăn
uống như xưa.
Điều này có tác động khách quan đến với những nghi lễ xưa ở nông thôn
và kể cả thành phố thì hiện nay không còn. Những tục lệ du xuân hay
mùng bảy hạ nêu hay chục năm gần đây khi tiếng pháo tết không còn ngay
thời điểm giao thừa nữa.
Những truyền thống như vậy mất đi thì cuộc sống hiện đại, có thể hữu
ích về mặt vật chất, tuy nhiên về mặt giá trị tinh thần thì rõ ràng nó
không được lưu giữ trong thời điểm thiêng liêng trong ba ngày tết và
không được duy trì trong gia đình nữa.
Báo Xuân
Mặc Lâm: Từ năm 1935 thì Việt Nam đã có số
báo xuân đầu tiên và từ đó đến nay báo xuân là một vật phẩm không thể
thiếu trong gia đình người Việt khi tết đến xuân về. TS là người có rất
nhiều bài viết trên báo xuân mỗi năm, bà có thể chia sẻ điều gì mà tờ
báo xuân hấp dẫn độc giả đến nỗi hơn ¾ thế kỷ rồi mà người đọc vẫn không
thể thiếu nó mặc dù nội dung năm nào cũng như năm nào thưa bà?
Báo xuân là một ấn phẩm văn hóa mà người Việt Nam trông chờ mỗi khi tết đến. Nó gần như là một sản phẩm không thể thiếu được trong mỗi gia đình.-TS Nguyễn Thị Hậu
TS Nguyễn Thị Hậu: Tôi được biết báo xuân đã xuất hiện từ lâu
rồi khi mà nền báo chí ra đời từ những năm 30 thì đã có tờ báo xuân đầu
tiên. Đúng là báo xuân là một ấn phẩm văn hóa mà người Việt Nam trông
chờ mỗi khi tết đến. Nó gần như là một sản phẩm không thể thiếu được
trong mỗi gia đình. Nhà nào giàu hay nghèo thì cũng phải có một tờ báo
xuân trong nhà.
Nói chung báo xuân viết về phong tục tập quán của ngày tết và có thể
nói phong tục cổ truyền chỉ còn tồn tại trên các tờ báo tết. Một vài tờ
báo mang tính chất giới thiệu văn hóa của người Việt Nam mình với người
nước ngoài, và tôi không nghĩ bi quan như thế. Rõ ràng mật độ về phong
tục tập quán tết thì trên các tờ báo xuân rất đậm đặc. Nội dung thứ hai
nói về tình yêu quê hương của người Việt đặc biệt của người Việt xa xứ
thì gần như tờ báo nào cũng có những chuyên mục giới thiệu về quê hương
hay nỗi nhớ quê hương của người Việt xa xứ như vậy.
Nội dung thứ ba nói về tình hình đất nước và nhìn chung những bài báo
đều mang tính lạc quan. Phong tục của ông bà mình ngày đầu năm thì phải
tốt đẹp không nên chia sẻ những chuyện không may vì vậy cho nên có một
tờ báo xuân trong nhà, với trang bìa trang trí rất tươi tắn hoa hay hình
những cô gái rất đẹp thì người ta quan niệm nó sẽ mang may mắn vui vẻ
đến với gia đình trong dịp đầu năm.
Tôi không rõ khi người ta đọc họ có cảm thấy nhàm chán hay không
nhưng thị trường báo xuân năm nào cũng rất sôi động và hình như không
bao giờ ế hàng.
Một sạp báo xuân ở Việt Nam
Các vấn đề về tính truyển thống cũng có nhiều người nói
cứ khai thác mãi, nhưng cái mảng truyền thống ngày tết nói chung cũng
không nhiều. Hiện nay người ta quan tâm nhiều đến văn hóa của lớp trẻ.
Mặc Lâm: Như TS cũng biết nét đáng yêu trong
ngày mùng một tết là cha mẹ ông bà lì xì cho trẻ con khi chúng mừng
tuổi. Tuy nhiên trong xã hội hôm nay cụm từ văn hóa phong bì đã làm
nhiều người xem lại phong tục lì xì ngày tết vì nó gieo vào lòng trẻ con
một thói quen xấu có thể theo các em suốt đời. TS nghĩ sao về những
quan ngại như vậy?
TS Nguyễn Thị Hậu: Vâng, cái phong tục này nó bị biến tướng
rất nhanh và hiện nay có lẽ là điều không được hay lắm. Ngày xưa một cái
bao lì xì như vậy cho trẻ em mang số tiền rất nhỏ và toàn tiền mới với ý
nghĩa may mắn. Đồng tiền mới bắt đầu một năm có một chút gì đấy gọi là
lộc đầu năm hay mừng tuổi ông bà cho ông bà mạnh khỏe. Thế nhưng hiện
nay rõ ràng tiền lì xì đã biến tướng đi và rất nhiều gia đình không có ý
thức về giáo dục trẻ em cho nên các em bây giờ cũng bị ảnh hưởng điều
này. Nhiều em không biết ý nghĩa của tục lì xì mà chỉ biết giá trị đồng
tiền trong cái bao lì xì thôi cho nên nhiều em khi giở bao ra còn chê ít
chê nhiều.
Bản thân nhiều ông bố bà mẹ cũng có ý nghĩ như vậy cho nên giáo dục
trẻ em không tốt. Khi đã biến tướng, nó còn ẩn chứa một ý nghĩa khác bởi
nhiều người đến nhà cấp trên và cần nhờ vả điều gì thì họ dùng bao lì
xì cho con cái của sếp.
Về góc độ văn hóa đối với phong tục tập quán mỗi thời nó có sự thay
đổi để thích nghi với thời đại mới nhưng nếu không nhấn mạnh tinh thần
với ý nghĩa tốt đẹp nhưng theo hướng nhấn mạnh về vật chất, quá coi
trọng vật chất thì quả thật phong tục này càng ngày nó càng không hay.
Người lớn bây giờ nhiều người có ý tưởng phải giáo dục lại trẻ em và
thậm chí còn cho rằng không nên duy trì phong tục này nếu như nó đã bị
biến tướng không còn ý nghĩa như trước nữa.
Mặc Lâm: Xin cám ơn TS, xin chúc bà và gia đình một năm đầy may mắn.
NGUYỄN PHÚ THỨ * NĂM NGỌ NÓI CHUYỆN NGỰA
NĂM NGỌ NÓI CHUYỆN NGỰA
(Giáp Ngọ từ 31-01-2014 đến 18-02-2015)
(Trích dẫn tác phẩm Tử-Vi & Địa-Lý Thực-Hành của Gs Hàn Lâm Nguyễn-Phú -Thứ)
Sau năm Quý Tỵ chấm đứt, thì đến năm Giáp Ngọ được bàn giao từ giờ giao
thừa bắt đầu giữa đêm thứ năm, 30-01-2014 để cầm tinh đến 24 giờ đêm
18-02-2015. Năm Giáp Ngọ này thuộc hành Kim và mạng Sa Trung Kim, năm
này thuộc Dương, có can Giáp thuộc mạng Mộc và có chi Ngọ thuộc mạng
Hỏa. Căn cứ theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của Ngũ Hành, thì năm này
"Can Trời sanh Chi Đất" tức "mạng Mộc sanh mạng Hỏa ". Bởi vì : mạng Mộc
bị sanh xuất, mạng Hỏa tức Đất được sanh nhập. Do vậy, năm này tổng
quát rất tốt, thuận lợi, tiến triển về mọi mặt để đưa đến thành công như
ý. Trường hợp này, giống như người có : mạng Mộc gặp năm mạng Thủy -
mạng Thủy gặp năm mạng Kim.- mạng Kim gặp năm mạng Thổ - mạng Thổ gặp
năm mạng Hỏa và mạng Hỏa gặp năm mạng Mộc. Được biết năm Ngọ vừa qua là
năm Nhâm Ngọ thuộc hành Mộc, nhằm ngày thứ ba, 12-02-2002 đến
31-01-2003.
Căn cứ theo Niên Lịch Cổ Truyền Á Đông xuất hiện được minh định quảng bá từ năm 61 của đời Hoàng Đế bên Tàu, bắt đầu năm 2637 trước Công Nguyên, cho nên chúng ta lấy 2637 + 2014 = 4651, rồi đem chia cho 60 năm, thì có kết quả Vận Niên Lục Giáp thứ 77 và số dư 31 năm bắt buộc rơi vào Vận Niên Lục Giáp thứ 78 bắt đầu từ năm 1984 đến năm 2043. Do vậy, năm Giáp Ngọ 2014 này là năm thứ 31 của Vận Niên Lục Giáp 78 và năm Ngọ kế tiếp sẽ là năm Bính Ngọ thuộc hành Thủy, nhằm ngày thứ ba tính từ 17-02-2026 đến 05-02-2027.
Trong thành ngữ, tục ngữ người ta thường nói, xin trích dẫn như sau : Như Ngựa bất kham - Quất Ngựa truy phong - Thẳng như ruột Ngựa - Tàn che Ngựa cỡi - Ngựa bốn chân còn vấp - Ngựa chạy đường dài - Ngựa chạy về ngược - Ngựa háu đá - Ngựa gầy hỗ mặt người nuôi - Ngựa hỗn quen đường - Ngựa qua cửa sổ - Ngựa quen đường cũ - Ngựa xe như nước - Ngựa kéo Voi giày - Tái ông thất Mã (*) - Thiên binh vạn Mã (*) .v.v. (Thành Ngữ). (*) Ngựa tức Ngọ hay Mã có ý nghĩa giống nhau. yes;">Một con Ngựa đau cả tàu không ăn cỏ - Ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn - Đường dài mới biết Ngựa hay - Ngựa lẻ tẻ cũng đến bến giang - Ngựa hồ thương gió heo may .v.v. (Tục Ngữ).
thú vật xưa kia ở trong rừng và đã được loài người thuần hóa để trở thành gia súc như những thú vật trong nhà như : Chó, Mèo, Gà, Vịt v.v. Để rồi, con ngựa được giúp đở con người trong mọi công việc như di chuyển, chuyên chở cho đến chiến tranh v.v. chúng nó có những màu như sau :
Ngựa bạch = Ngựa có lông màu trắng.
Ngựa Kim = Ngựa có lông màu trắng mốc.
Ngựa Kim Than = Ngựa có lông trắng ít, đen nhiều.
Ngựa Kim Lem = Ngựa có lông trắng và đen pha trộn lẫn nhau.
Ngựa Kim Lân = Ngựa có lông đốm trắng đen.
Ngựa Bích = Ngựa có lông ngã màu xanh.
Ngựa Ô = Ngựa có lông màu đen tuyền.
Ngựa Tía = Ngựa có lông ngã màu đỏ tía.
Ngựa Hồng = Ngựa có lông ngã màu ửng hồng.
Ngựa Đạm = Ngựa có lông ngã màu vàng lợt.v.v.
Hơn nữa, mỗi loài ngựa có sanh hoạt riêng như sau :
Ngựa ruồi = Ngựa chạy.
Ngựa Tế = Ngựa chạy đua nước lớn.
Ngựa Kiệu = Ngựa chạy lúp xúp.
Ngựa sải = Ngựa nhảy sải.
Ngựa Sa Hoàng = Ngựa dữ, Ngựa đi quá sức.
Ngựa Bền = Ngựa chạy dai sức.
Ngựa Bở = Ngựa chạy yếu sức.
Ngựa Nục = Ngựa mập béo quá.
Ngựa Lao = Ngựa thường đau ốm mất sức.
Mặt Ngựa = Thường để chỉ những người có gương mặt dài giống như mặt ngựa...
Con Ngựa tức con Mã, cho nên có những từ ngữ như sau :
Mã Binh = Binh lính cỡi Ngựa
Mã Đề = Loại cây lớn lá, giống cái móng ngựa, thuờng dùng để làm vị thuốc mát.
Mã Tiên Thảo = Tức loại cỏ roi ngựa.
Thượng Mã = Lên ngựa.
Hạ Mã = Xuống ngựa.
Xa Mã = Xe ngựa.
Xa Song Mã = Xe 2 con ngựa.
Cung Mã = Cung ngựa, đồ kỵ mã.
Hành Thuyền Kỵ Mã Tam Phân Mạng = Đi thuyền, cỡi ngựa, mạng sống có ba phân, để chỉ sự nguy hiểm.
Long Mã Phụ Đồ = Ngựa rồng đội họa đồ. Vua Phục Hi nhờ đó vẽ nên Bát Quái.
Thượng Mã Phi Đệ = Chỉ người sãi ngựa mang giấy tờ đưa đi cho quan khẩn cấp.
Ngoài ra, chúng ta còn thấy các danh từ : Mã Giáp, Mã Não, Thợ Mã, Đồ Mã, Tốt Mã, Thượng Mã Phong hoặc trong dân gian thường nói như:
- Trường đồ tri Mã lực
- Tiên trường bất cập Mã phúc = Roi dài không thấu bụng Ngựa. ...v.v.
Đặc biệt, chúng ta còn thấy những giống mang tên Ngựa, nhưng có hình dạng đặc biệt khác loài Ngựa, xin trích dẫn như sau:
Con Hà Mã = L' hippototame (n.m) = The hippopotamus, có thân hình lớn con như: Voi hoặc Tê Giác hay Trâu, lại hiền lành thường trầm mình dưới nước nơi sông hồ ở Phi Châu cả ngày không biết lạnh, cho nên con Hà Mã có người gọi con Trâu Nước hay Ngựa Sông chăng?.
Con Hải Mã = Le cheval marin = The sea horse hoặc có người gọi con Cá
Ngựa = L' hippocampe = The hippocampus. Con Hải Mã thường ở vùng biển
ấm, nó lội đứng như ngựa sải, thân hình nó ít thịt nhiều xương. Tuy vậy,
người ta cũng bắt nó rồi đem phơi phô, rồi đốt tán nhuyễn để
trị bịnh suyễn hay tráng dương bổ thận.
Ở Hy Lạp thời xưa, cũng xuất hiện một giống Ngựa có đôi cánh để bay, được gọi là Phi Mã.
Đó là những loài Ngựa đặc biệt, hơn các loại Ngựa thông thường.
Trong năm Giáp Ngọ tức là năm do con Ngựa hay con Mã cầm tinh. Vậy, chúng ta thử tìm hiểu con Ngọ như thế nào?
Ngọ tức là con Ngựa = Le cheval, đứng hạng thứ 7 của 12 con vật trong Thập Nhị Địa Chi, chúng ta cũng thường thấy những từ ngữ nói về Ngọ như sau :
Giờ Ngọ = là giờ từ 11 giờ đến đúng 13 giờ.
Đúng Ngọ = 12 giờ trưa.
Thượng Ngọ = Đầu giờ Ngọ.
Trung Ngọ = Giữa giờ Ngọ.
Mạt Ngọ = Cuối giờ Ngọ.
Cúng Ngọ = Làm chay cúng khi mặt Trời đứng bóng giữa trưa.
Tháng Ngọ = là tháng năm của năm âm lịch. . . v.v.
Nhân đây, nói về Tết năm con Ngựa cầm tinh, xin trích dẫn một trong những món ăn liên quan đến con Ngựa, trong dịp Bà Từ Hi Thái Hậu, đời nhà Thanh Trung Hoa, khoản đãi phái đoàn sứ thần thuộc các quốc gia Tây Phương, nhân dịp mừng Xuân Canh Tý 1874. Tiệc được chuẩn bị 11 tháng 6 ngày trước, có 1750 người phục vụ, tốn kém 98 triệu hoa viên thời bấy giờ tương đương 374 ngàn lượng vàng ròng, gồm 400 thực khách và kéo dài suốt 7 ngày đêm bắt đầu giờ giao thừa Tết nguyên đán năm Canh Tý.
Đó là món Phương Chi Thảo như sau : Phương Chi Thảo là loại cỏ Phương Chi. Tương truyền Hoàng Đế Khang Hy nhà Thanh khi còn sanh tiền rất háo sắc, nhưng có tài y thuật cao cường. Vì vậy, dù có hằng trăm cung tần mỹ nữ cung phụng, nhà vua vẫn khỏe mạnh, vì tự bồi dưỡng cường lực bằng dược chất. Nhưng, lúc tuổi già vua mắc phải chứng bịnh khan háo trong ngũ tạng mà tự mình không thể chữa được, bao nhiêu ngự y đại tài của triều đình cũng bó tay, vua phải bố cáo tìm danh y, thần dược trong dân gian. Ngày nọ, có một dị nhân xin yết kiến rồi móc trong người ra một bó cỏ rất lạ, rễ xanh, lá dài như lá hẹ nhưng màu đỏ tía, ngọn lại trắng.
Vua biết là cỏ quí nên hỏi, dị nhân trả lời. Đó là cỏ Phương Chi mọc trên đỉnh Thái Hàng Sơn hướng về mặt trời, đặc biệt chỉ mọc một lần trên một tảng đá duy nhứt cao và chênh vênh vào dịp Trung Thu năm nhuần, cỏ này chỉ sống trong khoảng 30 đến 45 ngày, lúc gặp ngọn gió bấc đầu mùa thì lập tức bị khô héo. Việc hái cỏ cũng rất công phu, phải dắt theo một con Ngựa toàn bạch lên đỉnh núi cao trước một ngày, đợi khi mặt trời vừa mọc lên, mới đem Ngựa tới phiến đá để con Ngựa ăn cỏ Phương Chi, khi Ngựa vừa ăn xong, phải lập tức chém đầu và mổ bụng để lấy bao tử mang về chế thuốc phơi khô. Cỏ Phương Chi khi ăn vào làm cơ thể mát mẻ, đồng thời trị tuyệt các bịnh trầm kha hoặc hiểm nghèo. Trong đại tiệc do Từ Hi Thái Hậu khoản đãi, Phương Chi Thảo được nấu chung với Long Tu (Râu Rồng), thực khách ăn xong cảm thấy tinh thần vô cùng sảng khoái, cả tháng sau không khát nước cũng không mệt mỏi. (tài liệu này do Mọt Sách sưu tầm và tường thuật).
Trước khi tạm kết thúc bài này, tôi xin trích dẫn thời gian 10 năm những năm con Ngựa vừa qua và sắp tới có Hành như thế nào? để cống hiến quý bà con đồng hương nhàn lãm hoặc xem mình có phải sanh đúng năm Ngọ hay không như dưới đây :
Tên Năm Thời Gian Hành Gì?
Bính Ngọ 25-01-1906 đến 12-02-1907 Thủy
Mậu Ngọ 11-02-1918 đến 31-01-1919 Hỏa
Canh Ngọ 30-01-1930 đến 16-02-1931 Thổ
Nhâm Ngọ 15-02-1942 đến 04-02-1943 Mộc
Giáp Ngọ 03-02-1954 đến 23-01-1955 Kim
Bính Ngọ 21-01-1966 đến 08-02-1967 Thủy
Mậu Ngọ 07-02-1978 đến 27-01-1979 Hỏa
Canh Ngọ 27-01-1990 đến 14-02-1991 Thổ
Nhâm Ngọ 12-02-2002 đến 31-01-2003 Mộc
Giáp Ngọ 31-01-2014 đến 18-02-2015 Kim
Xuyên qua thời gian năm Ngọ ở trên, chúng ta thấy cứ 12 năm thì năm Ngọ trở lại, nhưng can khác nhau và cứ 60 năm thì năm Ngọ trở lại can giống nhau.
Nhân đây, xin trích dẫn Sấm Trạng Trình (*) dưới đây :
Long vĩ xà đầu khởi chiến chinh,
Can qua xứ xứ khởi đao binh.
Mã đề dương cước anh hùng tận,
Thân Dậu niên lai kiến thái bình.
(*) Ðối với Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) đã viết Sấm Giảng trên 5 thế kỷ kể từ khi Cụ sanh ra đời (1491-2011) làm sao đoán trúng năm nào là năm Ngọ (Mã) Cụ nói, chúng ta chỉ biết sau khi sự việc xảy ra mà thôi.
Kính chúc quý bà con đồng hương năm mới mọi nhà được An Lạc cùng Đắc Thành tất cả.
Hàn Lâm NGUYỄN-PHÚ-THỨ
Mừng Xuân Giáp Ngọ 2014
Trong năm Giáp Ngọ tức là năm do con Ngựa hay con Mã cầm tinh. Vậy, chúng ta thử tìm hiểu con Ngọ như thế nào?
Ngọ tức là con Ngựa = Le cheval, đứng hạng thứ 7 của 12 con vật trong Thập Nhị Địa Chi, chúng ta cũng thường thấy những từ ngữ nói về Ngọ như sau :
Giờ Ngọ = là giờ từ 11 giờ đến đúng 13 giờ.
Đúng Ngọ = 12 giờ trưa.
Thượng Ngọ = Đầu giờ Ngọ.
Trung Ngọ = Giữa giờ Ngọ.
Mạt Ngọ = Cuối giờ Ngọ.
Cúng Ngọ = Làm chay cúng khi mặt Trời đứng bóng giữa trưa.
Tháng Ngọ = là tháng năm của năm âm lịch. . . v.v.
Nhân đây, nói về Tết năm con Ngựa cầm tinh, xin trích dẫn một trong những món ăn liên quan đến con Ngựa, trong dịp Bà Từ Hi Thái Hậu, đời nhà Thanh Trung Hoa, khoản đãi phái đoàn sứ thần thuộc các quốc gia Tây Phương, nhân dịp mừng Xuân Canh Tý 1874. Tiệc được chuẩn bị 11 tháng 6 ngày trước, có 1750 người phục vụ, tốn kém 98 triệu hoa viên thời bấy giờ tương đương 374 ngàn lượng vàng ròng, gồm 400 thực khách và kéo dài suốt 7 ngày đêm bắt đầu giờ giao thừa Tết nguyên đán năm Canh Tý.
Đó là món Phương Chi Thảo như sau : Phương Chi Thảo là loại cỏ Phương Chi. Tương truyền Hoàng Đế Khang Hy nhà Thanh khi còn sanh tiền rất háo sắc, nhưng có tài y thuật cao cường. Vì vậy, dù có hằng trăm cung tần mỹ nữ cung phụng, nhà vua vẫn khỏe mạnh, vì tự bồi dưỡng cường lực bằng dược chất. Nhưng, lúc tuổi già vua mắc phải chứng bịnh khan háo trong ngũ tạng mà tự mình không thể chữa được, bao nhiêu ngự y đại tài của triều đình cũng bó tay, vua phải bố cáo tìm danh y, thần dược trong dân gian. Ngày nọ, có một dị nhân xin yết kiến rồi móc trong người ra một bó cỏ rất lạ, rễ xanh, lá dài như lá hẹ nhưng màu đỏ tía, ngọn lại trắng.
Vua biết là cỏ quí nên hỏi, dị nhân trả lời. Đó là cỏ Phương Chi mọc trên đỉnh Thái Hàng Sơn hướng về mặt trời, đặc biệt chỉ mọc một lần trên một tảng đá duy nhứt cao và chênh vênh vào dịp Trung Thu năm nhuần, cỏ này chỉ sống trong khoảng 30 đến 45 ngày, lúc gặp ngọn gió bấc đầu mùa thì lập tức bị khô héo. Việc hái cỏ cũng rất công phu, phải dắt theo một con Ngựa toàn bạch lên đỉnh núi cao trước một ngày, đợi khi mặt trời vừa mọc lên, mới đem Ngựa tới phiến đá để con Ngựa ăn cỏ Phương Chi, khi Ngựa vừa ăn xong, phải lập tức chém đầu và mổ bụng để lấy bao tử mang về chế thuốc phơi khô. Cỏ Phương Chi khi ăn vào làm cơ thể mát mẻ, đồng thời trị tuyệt các bịnh trầm kha hoặc hiểm nghèo. Trong đại tiệc do Từ Hi Thái Hậu khoản đãi, Phương Chi Thảo được nấu chung với Long Tu (Râu Rồng), thực khách ăn xong cảm thấy tinh thần vô cùng sảng khoái, cả tháng sau không khát nước cũng không mệt mỏi. (tài liệu này do Mọt Sách sưu tầm và tường thuật).
Trước khi tạm kết thúc bài này, tôi xin trích dẫn thời gian 10 năm những năm con Ngựa vừa qua và sắp tới có Hành như thế nào? để cống hiến quý bà con đồng hương nhàn lãm hoặc xem mình có phải sanh đúng năm Ngọ hay không như dưới đây :
Tên Năm Thời Gian Hành Gì?
Bính Ngọ 25-01-1906 đến 12-02-1907 Thủy
Mậu Ngọ 11-02-1918 đến 31-01-1919 Hỏa
Canh Ngọ 30-01-1930 đến 16-02-1931 Thổ
Nhâm Ngọ 15-02-1942 đến 04-02-1943 Mộc
Giáp Ngọ 03-02-1954 đến 23-01-1955 Kim
Bính Ngọ 21-01-1966 đến 08-02-1967 Thủy
Mậu Ngọ 07-02-1978 đến 27-01-1979 Hỏa
Canh Ngọ 27-01-1990 đến 14-02-1991 Thổ
Nhâm Ngọ 12-02-2002 đến 31-01-2003 Mộc
Giáp Ngọ 31-01-2014 đến 18-02-2015 Kim
Xuyên qua thời gian năm Ngọ ở trên, chúng ta thấy cứ 12 năm thì năm Ngọ trở lại, nhưng can khác nhau và cứ 60 năm thì năm Ngọ trở lại can giống nhau.
Nhân đây, xin trích dẫn Sấm Trạng Trình (*) dưới đây :
Long vĩ xà đầu khởi chiến chinh,
Can qua xứ xứ khởi đao binh.
Mã đề dương cước anh hùng tận,
Thân Dậu niên lai kiến thái bình.
(*) Ðối với Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) đã viết Sấm Giảng trên 5 thế kỷ kể từ khi Cụ sanh ra đời (1491-2011) làm sao đoán trúng năm nào là năm Ngọ (Mã) Cụ nói, chúng ta chỉ biết sau khi sự việc xảy ra mà thôi.
Kính chúc quý bà con đồng hương năm mới mọi nhà được An Lạc cùng Đắc Thành tất cả.
Hàn Lâm NGUYỄN-PHÚ-THỨ
Mừng Xuân Giáp Ngọ 2014
VŨ THẾ PHAN * TẾT MẬU THÂN
2014: Nhớ Mậu Thân 1968, Kẻ đồ tể & Nhân chứng sống
Vũ Thế Phan (Danlambao) -Lời người đăng: Tôi không là người Huế cũng chẳng quen biết anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường và Hoàng Phủ Ngọc Phan, nhưng qua những tài liệu tôi sưu tầm được về họ trong vụ thảm sát Mậu Thân 1968 ở Huế, và sau khi đối chiếu, cân nhắc, cập nhật, tôi nghĩ có dịp là phải cho đăng đi đăng lại bài này, chỉ để “nói có sách, mách có chứng” cùng cư dân mạng rằng hai anh em nhà Hoàng Phủ là hai tay bất nhất, nói láo như vẹm. Dám làm mà không dám chịu: công thì đã lãnh hưởng u ê, tội thì vẫn loay hoay chối quanh! Người ta không thể cùng lúc có miếng bơ và tiền của miếng bơ / On ne peut pas avoir à la fois beurre et l’argent du beurre. Còn ai muốn tiếp tục dùng văn chương bao che cho họ, cứ thẳng thắn lên tiếng phản bác bài của tôi trên Dân Làm Báo hay Thông Luận. Nếu họ có oán tôi thì tôi xin chịu, nhưng họ nên oán Internet thì đúng hơn! Hoàng Phủ Ngọc Phan: Tôi không hề giết ai
[“Sau chiến dịch Mậu Thân báo chí ở Sài gòn thường nhắc đến anh em Hoàng
Phủ Ngọc Tường và Hoàng Phủ Ngọc Phan như là hai tên đồ tể khát máu,
giết người không gớm tay ở Huế. Sự thực anh Tường không hề về Huế mà ở
lại trên căn cứ để làm nhiệm vụ tiếp đón các vị khách từ nội thành ra.
Tánh anh Tường rất hiền, không ưa đụng đến vũ khí, dầu chỉ để lau chùi.
Cơ quan cấp cho anh một khẩu súng ngắn K.59, anh không ngó ngàng gì tới
đến nỗi súng han rỉ, rồi đem cho một người bạn nào đó mượn đi công tác.
Người này làm mất súng khiến anh Tường bị phê bình – đúng ra đây là một
khuyết điểm đáng phải bị xử kỷ luật nặng. Nhưng anh Tường không ý thức
được điều đó. Anh cứ cãi khơi khơi là tại cơ quan giao súng cho anh chứ
anh đâu có yêu cầu. Công tác của anh chỉ cần ngòi bút. Người như thế mà
có thể giết ai được?”] (Hoàng Phủ Ngọc Phan).
Hoàng Phủ Ngọc Phan khẳng định: “Sự thực anh Tường không hề về Huế mà ở lại trên căn cứ để làm nhiệm vụ tiếp đón các vị khách từ nội thành ra”?
Ngày 24-08-2013, trên blog Quê Choa, nhà văn Nguyễn Quang Lập đã viết bài “Hoàng Phủ Ngọc Tường”, trong đó có đoạn, nguyên văn:
[Gần gũi anh Tường tròn ba chục năm mình chưa nghe ai trong nước nói
xấu về anh, chỉ một vài ông hải ngoại, chẳng rõ vì sao cứ đeo lấy anh
nói dai như đỉa, kẻ bảo anh cơ hội, người nói anh ác nhân, thật chẳng ra
làm sao.
Tiện đây nói luôn, tết Mậu Thân (1968) anh Tường ở lại căn cứ trên
rừng, không về Huế. Người ta thu băng lời kêu gọi của anh cho phát loa
trên xe chạy khắp thành phố, nên nhiều người tưởng anh về Huế thôi.
Chuyện này còn cả tấn người đang sống làm chứng, ít nhất có Trần Vàng
Sao, Nguyễn Khoa Điềm, Tô Nhuận Vĩ, ai không tin về Huế mà hỏi.] (1).
Thì đây, chúng ta hãy cùng nghe chính Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời phỏng vấn hệ thống WGBH, ngày 29 tháng 2 năm 1982:
[“Tôi đã đi trên con đường hẻm vào ban
đêm, và tôi tưởng rằng tôi đang dẫm trên đống bùn. Thế mà khi tôi bật
cái đèn pile lên, máu khắp mọi nơi. Cả một khu vực bị bỏ bom bởi bom đạn
Mỹ bắn phá. Và thế rồi, những ngày cuối cùng khi chúng tôi triệt thoái
ra khỏi thành phố, kẻ thù của chúng tôi đã thâu lại và đem đi chôn.”] (từ phút 5:55)
Toàn văn bằng video:
Lưu ý: Đầu thập niên 1980, bề ngoài Liên Xô và Đông Âu còn
mạnh như triều dâng, chủ nghĩa xã hội toàn cầu còn mơ huyền trong ảo
ảnh của cái gọi là Ba dòng thác cách mạng. Hoàng Phủ Ngọc Tường không
cần che giấu, tự xác nhận sự hiện diện của mình trong Tết Mậu Thân 1968,
coi đó như một thành tích...; nhưng rồi thật không may cho ông ta, qua
thập niên 1990, thành trì Liên Xô, vệ tinh Đông Âu đua nhau sụp đổ… Máy
vi tính và Internet bắt đầu phổ cập. Do đó, trong cuộc phỏng vấn của bà
Thụy Khuê trên đài RFI ngày 12 tháng 7 năm 1997, ông ta lại leo lẻo
180°:
[“Người ta cho tôi là một tên đồ tể Mậu Thân ở Huế thì đó là một sự bịa đặt mang ý định vu khống hoàn toàn. Sự
thực là tôi đã từ giã Huế lên rừng tham gia kháng chiến vào mùa hè năm
1966 và chỉ trở lại Huế sau ngày 26 tháng 3 năm 1975. Như thế nghĩa là
trong thời điểm Mậu thân 1968, tôi không có mặt ở Huế. Điều quan trọng
còn lại, tôi xin tỏ bày ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra
đi và đã trở về; ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về
những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải chịu cho
hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế vào năm Mậu Thân.
Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc
và nhìn từ quan điểm chiến tranh cách mạng”.]
[“Còn tôi thì có theo chiến dịch về hoạt động ở Thành nội Huế nhưng
tôi không hề giết ai cả, suốt gần 10 năm đi kháng chiến cũng không hề
làm thiệt mạng một con thú trên rừng chứ đừng nói là con người. Vì lẽ:
- Giết người không phải là chuyện nhỏ, không phải hễ có súng trong tay là có quyền giết người. Tôi không hề có quyền đó.
- Giết người không phải là chuyện dễ, không phải ai cũng có bản lĩnh
đó. Mặc dầu trong chiến tranh, trên chiến trường và ngay bây giờ vẫn
không thiếu gì những kẻ đáng tội chết nhưng nếu đưa cho tôi một kẻ đáng
tội nào đó bảo tôi giết thì nói thật… không dám đâu.
Chúng tôi theo cách mạng trước tiên là vì không thể sống chung với
cái ác. Nếu chịu làm ác thì cứ nhảy vào các binh chủng rằn ri của Thiệu -
Kỳ hay đầu quân dưới trướng của Liên Thành thì thiếu gì cơ hội?
Từ sau Tết Mậu Thân đến nay, đối phương không ngừng vu khống cho anh
em tôi đã tàn sát đồng bào vô tội ở Huế. Tôi nguyên là sinh viên Y khoa
nên họ còn trút luôn lên đầu tôi cái tội khi sư diệt tổ là giết các giáo
sư người Đức ở Đại học Y khoa Huế. Lúc đầu thì có nhiều người tin nhưng
hơn ba mươi năm nay, bà con bạn bè trong nước và cả những người ở nước
ngoài có dịp đi về đều đã hiểu được sự thật. Tất cả chỉ là tin đồn do
những người có ác ý gieo rắc, không cần chính xác và không ai phải chịu
trách nhiệm. Nhưng Liên Thành, là người cầm đầu nhiều cơ quan công lực,
rất có điều kiện để kiểm chứng các tin đồn. Vậy xin hỏi Liên Thành: ông
nói tôi say sưa lấy máu tươi, giết đồng bào vô tội nhưng chính xác tôi
đã giết những người nào? lúc nào? ở đâu?
Nếu ai đó nói chính mắt họ thấy tôi giết người thì chắc chắn đó là kẻ ăn gian nói dối.
Còn nếu Liên Thành hay bất kỳ ai đưa ra được bằng chứng không thể
chối cãi rằng tôi đã giết người – như kiểu tên ác ôn Nguyễn Ngọc Loan
giết anh Bảy Lốp – thì tôi xin tự vẫn ngay trước mặt họ để tạ tội với
đồng bào và khỏi làm nhục lây đến bà con dòng họ.”]
(Trích nguyên văn Hoàng Phủ Ngọc Phan: Nhân đọc bài “Trịnh Công Sơn và những hoạt động nằm vùng”), http://daohieu.com hoặc http://daohieu.wordpress.com.
***
- [“Còn tôi thì có theo chiến dịch về hoạt động ở Thành nội Huế nhưng
tôi không hề giết ai cả, suốt gần 10 năm đi kháng chiến cũng không hề
làm thiệt mạng một con thú trên rừng chứ đừng nói là con người… Chúng
tôi theo cách mạng trước tiên là vì không thể sống chung với cái ác…
(sic)! Nếu ai đó nói chính mắt họ thấy tôi giết người thì chắc chắn đó
là kẻ ăn gian nói dối. Còn nếu Liên Thành hay bất kỳ ai đưa ra được bằng
chứng không thể chối cãi rằng tôi đã giết người – như kiểu tên ác ôn
Nguyễn Ngọc Loan giết anh Bảy Lốp - thì tôi xin tự vẫn ngay trước mặt họ
để tạ tội với đồng bào và khỏi làm nhục lây đến bà con dòng họ.”] (HPNP).
“Tôi biết nó, thằng nói câu nói đó,
Tôi biết nó, đồng bào xứ Huế này biết nó;
Việc nó làm, tội nó phạm ra sao,
Nó là tên trùm đao phủ năm nào...” (2)
1. Nhân chứng sống thứ nhất: Bà Nguyễn Thị Thái Hoà: Hoàng Phủ Ngọc Phan là đao phủ giết người
[“Tôi xin tường thuật lại chi tiết những cái chết đau thương của ông nội
tôi, ba người anh, cùng một người bạn của họ, như là một nhân chứng còn
sống sót sau Tết Mậu Thân như là tiếng kêu oan cho gia đình tôi, cho
linh hồn của những người thân trong gia đình, gia tộc tôi cách riêng, và
cho những người dân Huế nói chung, thay cho tất cả những ai bị sát hại
trong Tết Mậu Thân 1968 bây giờ còn kẹt lại VN không có cơ hội để nói
lên những oan khiên mà họ đã gánh chịu bởi đảng Việt Gian Cộng Sản, và
bè lũ tay sai khát máu giết hại dân lành vô tội như anh em Hoàng Phủ
Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Thị Đoan Trinh v.v...
Năm 1968, tôi đang là sinh viên năm thứ nhất trường Cán Sự Điều Dưỡng
Huế. Ngoài những giờ học lý thuyết chung tại trường, bọn sinh viên chúng
tôi được chia thành nhiều toán. Mỗi toán từ 8 đến 10 người, luân phiên
thực tập ở các trại bệnh trong BV Trung Ương Huế.
Có những trại bệnh sinh viên thực tập theo giờ hành chánh. Có một vài
nơi, như phòng cấp cứu, phòng bệnh nội thương… thì giờ thực tập được
chia làm ba ca: sáng, chiều và đêm …
Ca sáng từ 7giờ đến 2 giờ chiều, ca chiều từ 2 giờ đến 9 giờ tối, và ca đêm từ 9 giờ tối cho đến 7giờ sáng hôm sau.
Mỗi một nơi chúng tôi được thực tập từ 2 đến 3 tuần lễ.
Hai tuần trước Tết, toán của tôi được chia phiên thực tập ở phòng cấp cứu. Ngày mồng hai, tôi và hai anh bạn vào ca đêm.
Tết năm nay ba tôi bận đi hành quân xa không về kịp ăn Tết.
Thường thì mấy anh em tôi năm nào cũng vậy, đều phải về nhà ông bà nội
từ trước ngày 30 Tết, ở luôn cho hết ngày mồng một, rồi sau đó mới được
tự do đi chơi, thăm viếng bạn bè…
Sau bữa cơm tối mồng một Tết, khoảng 8 giờ 30 anh Hải lấy xe Honda của anh đưa tôi tới BV, và nói sáng mai anh sẽ đến đón.
Tối mồng một Tết phòng cấp cứu hơi vắng, chúng tôi, mấy anh sinh viên y
khoa và hai người nhân viên phòng cấp cứu nói đùa với nhau rằng hôm nay
tụi mình… hên! Chúng tôi mang một ít mứt bánh ra vừa ăn vừa nói chuyện,
vừa thay nhau thăm chừng những bệnh nhân mới nhập viện từ đêm qua chưa
được chuyển trại.
Nhưng qua nửa đêm thì bắt đầu nghe có tiếng súng. Tiếng súng lớn, nhỏ,
từ xa rồi mỗi lúc một gần. Chúng tôi thốt giựt mình, băn khoăn nhìn
nhau, hoang mang lo sợ. Bầu không khí bắt đầu căng thẳng, mấy anh sinh
viên y khoa thì nghe ngóng bàn tán, thắc mắc không biết tiếng súng từ
đâu vọng lại…
Lúc đầu chúng tôi tưởng là thành phố Huế và BV bị pháo kích, nhưng không
ngờ, chừng 3, 4 giờ sáng, bất thần không biết tứ ngõ ngách nào có chừng
mười mấy người tràn vào phòng cấp cứu, họ xưng chúng tôi là quân giải
phóng. Đa số mặc áo quần đen, súng mang vai, bị rết ngang hông. Họ bắt
tất cả chúng tôi băng bó cho một số người bị thương, đồng thời hò hét
chia nhau lục soát, vơ vét, và lấy đi một số thuốc men, bông băng, dụng
cụ y khoa v.v… Họ lấy sạch không chừa lại một món nào, kể cả những bánh
mứt chúng tôi để trong phòng trực.
Trong lúc bọn họ đang tranh nhau lục lọi, thì ầm một cái, một tiếng nổ
rớt rất gần, đâu đó trong BV, rồi tiếng thứ hai, thứ ba…rớt ngay con
đường phía trước cổng chính BV, kề phòng cấp cứu… Điện trong phòng cấp
cứu vụt tắt. Thừa lúc bọn chúng nhốn nháo kéo nhau đi, chúng tôi mạnh ai
nấy tìm đường chạy thoát thân.
Ra khỏi phòng cấp cứu tôi cắm đầu chạy, tôi không định hướng được là
mình đang chạy đi đâu. Súng nổ tư bề, cứ nằm xuống trốn đạn, rồi đứng
lên chạy, cứ thế mà chạy. Chạy bất kể tả hữu. Cho tới khi tôi đâm sầm
vào một người, định thần ngó lại mới biết đó là cha Trung, tuyên úy của
BV. Cha từ phía một trại bệnh nào đó tình cờ chạy về phía tôi. Nét mặt
cha cũng thất thần, đầy vẻ lo âu, nhận ra tôi, cha hỏi “con ở mô chạy
lại đây?”
Tôi nói “từ phòng cấp cứu”.
Vừa nói vừa theo cha, chạy về phía nhà nguyện của BV và cũng là chỗ ở
thường ngày của cha. Đến đó thì đã có hai bà sơ dòng Áo Trắng và vài
người nữa không biết từ trại bệnh nào cũng chạy lại đây. Tôi nhận ra
trong số đó có sơ giám thị suốt trong sáu năm tôi nội trú tại trường
trung học Jeanne d’Arc.
Cha Trung quen biết ông nội và ba mạ tôi, thỉnh thoảng ngài có ghé đến
thăm ông nội nhà ở đường Hàm Nghi, nên ngài biết tôi. Không biết chạy đi
đâu nữa tôi ở lại đó với cha hai bà sơ, và mấy người nữa.
Bốn năm ngày liền chúng tôi chui rúc trong nhà nguyện, không dám chạy ra
ngoài và cũng không liên lạc được với một ai từ những trại bệnh khác.
Súng nổ tư bề nên ai ở thì cứ đâu ở đó.
Sau khi đám người xưng là “quân giải phóng” ở Cấp Cứu kéo nhau đi chúng
tôi không gặp, không thấy bọn VC nào nữa, hay chúng đang lẫn trốn trong
những trại bệnh khác thì tôi không biết.
Tới ngày thứ năm, ruột gan như lửa đốt, không biết ông bà nội, mạ và mấy
anh em tôi trên đường Hàm Nghi ra sao. Tôi nói với cha Trung, cha ơi
con muốn muốn về nhà. Cha bảo, không được, súng đạn tư bề, nguy hiểm
lắm, cứ ở đây với cha và mấy sơ đi đã, khi mô có lính mình xuất hiện thì
mới đi được. Tôi hỏi, khi mô thì lính mình mới tới, cha nói không sớm
thì muộn họ cũng sẽ phản công thôi, cha nói như để trấn an tôi và mọi
người thôi chứ trên mặt cha thì vẫn đầy vẻ lo âu…
Không biết nghe tin từ đâu mà một người trong nhóm nói người ta chạy vô ở
trong nhà thờ Phủ Cam đông lắm. Tôi nghe càng nóng lòng muốn chạy về
nhà. Muốn đi phần vì sốt ruột muốn gặp mạ với mấy anh em tôi, phần vì
đói. Đã mấy ngày không có gì ăn ngoài mấy ổ bánh mì cứng còng của
Caritas còn sót lại ở nhà nguyện chúng tôi chia nhau gặm…cầm hơi!
Tôi quyết định chạy về tìm gia đình. Tôi liều. Trên người tôi chỉ có bộ
đồ đồng phục dính đầy máu, tôi chạy ra phía sau cổng BV, tìm đường về
nhà. Vừa chạy vừa lo, ngó tới, ngó lui không một bóng người, nhưng tiếng
súng thì nghe rất gần. Không biết mấy lần vấp, tôi té xuống. Té rồi lồm
cồm bò dậy, vài bước lại vấp té. Tôi lạnh run, hai hàm răng đánh bò
cạp, nhìn cảnh tượng xác người nằm đây đó, máu me đóng vũng. Không biết
họ bị thương đâu đó ở bên ngoài chạy vào gục chết ở đây. Quá sợ hải, tôi
định chạy trở lại nhà nguyện thì bất thần thấy anh Văn hớt ha hớt hãi
từ cổng sau BV chạy vô.
Văn là bạn của anh Hải, anh kế tôi, hai người cùng học ở Văn Khoa. Nhà
Văn ở miệt trên, gần dòng Thiên An. Mặt mày Văn xanh xao, hai mắt thất
thần, trủm lơ, gặp tôi Văn lắp bắp, nói không ra hơi. Ti ơi, thằng Hải
bị bắn chết rồi. Hắn bị bắn ở bên Văn Khoa. Toàn thân run rẫy, tôi khuỵu
xuống. Văn đỡ tôi đứng lên. Lại có tiếng nổ rất gần. Văn hoảng hốt kéo
tôi chạy lại ngồi xuống bên trong bức tường sát cánh cổng sau BV. Hai
đứa tôi run rẫy ngồi sát vào nhau. Lát sau, tiếng được tiếng mất, anh
lắp bắp kể. Văn nói mấy đêm rồi Văn với mấy người anh của tôi trốn đạn
trong nhà thờ Chánh Tòa (nhà thờ Phủ Cam), nhưng rồi đêm qua có mấy sinh
viên của mình dắt một toán VC vô nhà thờ đọc một lô danh sách, họ lùa
người đi đông lắm, không biết họ đưa đi đâu. Văn kể một hơi mấy tên
“sinh viên của mình” nhưng bây giờ tôi không còn nhớ nổi.
Khi đám người bị lùa đi, thân nhân của họ khóc la thảm thiết.
Sau đó Văn, anh Hải cùng mấy người bạn rủ nhau trốn ra khỏi nhà thờ và mạnh ai nấy tìm đường trốn.
Ra khỏi nhà thờ, không biết trốn chui, trốn nhủi, chạy quanh, chạy co,
làm sao mà Văn với anh Hải lại tới được trường y khoa. Anh Lộc, anh Kính
đi lạc hướng nào không biết. Hai anh hè nhau chui vô phòng thí nghiêm
trốn thì thấy có vài người đã bị bắn chết từ bao giờ mà những vũng máu
đọng dưới họ còn tươi lắm. Văn, anh Hải hoảng hồn chạy trở ra.
Chưa ra khỏi cửa thì gặp Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn thị Đoan Trinh
cùng mấy sinh viên khác nữa Văn không biết tên, chỉ biết họ đồng bọn với
Hoàng Phủ Ngọc Phan. Văn biết mặt Phan là vì Văn có người anh học y
khoa cùng lớp với Phan.
Gặp Văn, Phan nạt nộ: tụi mi chạy trốn đi mô? Khôn hồn thì chạy qua bên Văn Khoa tập trung ở đó để đi tải thương!
Hải và Văn biết không thể nào thoát khỏi sự kiểm soát của bọn Hoàng Phủ
Ngọc Phan nên vội vàng chạy bộ xuống Văn Khoa, hy vọng bị bắt đi tải
thương chứ không bị giết.
Bọn Trinh, Phan chạy xe Honda nên họ tới trước, và cũng đã bắn trước một
số người khác rồi. Hải, Văn không biết nên lúc thúc chạy đến. Anh Hải
chạy vô trước, nghĩ là sẽ gặp được một số bạn bè khác, cùng đi tải
thương với nhau như lời Hoàng Phủ Ngọc Phan nói.
Vừa vô tới giảng đường thì anh Hải bị Hoàng Phủ Ngọc Phan bắn gục ngay.
Văn mắc đi cầu, tìm chổ phóng uế nên chạy vô sau anh Hải. Mới tới cửa
thì nghe tiến súng, tiếng hét của anh Hải, Văn quay đầu bỏ chạy. Chưa
kịp rượt theo Văn thì bỗng ầm, một tiếng nổ đâu đó, trong sân trường đại
học, khiến Hoàng Phủ Ngọc Phan và đồng bọn hoảng hốt leo lên xe Honda
tháo chạy.
Văn thoát chết, chạy như điên, như khùng, chạy vô BV, và tình cờ gặp tôi trong đó.
Nghe anh Hải bị bắn trong sân đại học Văn khoa, tôi bỏ ý định về nhà,
tôi muốn chạy qua Văn khoa tìm anh tôi, hy vọng anh chưa chết, tôi nghĩ
sẽ tìm cách đưa anh vô BV cấp cứu. Tôi khóc nói với Văn, em tới chổ anh
Hải. Văn can, Ti đừng đi, tụi nó có thể trở lại. Tôi mặc kệ Văn ngồi đó,
vùa khóc vừa chạy. Một lát nghe tiếng chân Văn sau lưng, miệng thì nói,
Ti ơi, vô BV trốn đi, Hải nó chết thiệt rồi, mà chân vẫn bước theo tôi.
Tôi như người mất hồn, vừa đi, vừa chạy, vừa khóc. Trời ơi, thật là
khủng khiếp, chỉ một đoạn đường từ cổng sau BV tới sân trường VK mà
không biết bao nhiêu là xác người, áo quần vung vãi khắp nơi.
Chúng tôi chạy mới tới trường trung học Jeane d’Arc, thì gặp bọn Hoàng
Phủ Ngọc Phan lấp ló trước cổng trường với một nhóm bộ đội Bắc Việt.
Người nào mặt mày đằng đằng sát khí. Gặp lại Phan, Văn run rẩy, Phan
chưa kịp nói thì Văn đã lắp bắp phân trần, em qua BV kiếm con Ti chớ em
không có trốn mô, và xin xỏ, anh cho em với con Ti đem xác thằng Hải về
nhà rồi em trở lại đi…tải thương!
Phan không trả lời Văn, hắn nhìn tôi ác độc: mi về nhà kêu thằng Lộc, thằng Kính xuống đây mà đem thằng Hải về.
Tôi líu lưỡi, em không biết hai anh em ở mô mà kêu. Trước đây tôi không
hề biết mặt Hoàng Phủ Ngọc Phan, mà cũng chưa hề nghe nói tới tên người
này vì trước năm 68 tôi còn là học sinh trung học. Có thể các người anh
của tôi thì biết, vì họ là những lớp sinh viên đàn anh, đã từng qua
những khó khăn đối đầu với đám sinh viên theo phe “tranh đấu, lên đường
xuống đường” của những năm trước.
Hoàng Phủ Ngọc Phan to nhỏ gì với những người đồng bọn rồi quay lại ra
lệnh cho tôi với anh Văn đem xác anh Hải về nhà. Chưa biết nghĩ cách nào
để đem xác anh Hải về thì Văn thấy một chiếc xích lô của ai bị bể bánh
xe sau, nằm chơ vơ cạnh vách tường trường Jeanne d’Arc.
Văn gọi tôi theo anh. Chúng tôi đẩy chiếc xích lô sứt cọng gẫy càng về
phía Văn khoa. Có chừng 10 xác người trong đó. Tôi không dám nhìn lâu.
Chúng tôi hè hụi khiêng Hải bỏ lên xích lô. Xác anh đã cứng. Đùm ruột
lòi ra ngoài trông rất khủng khiếp. Hai mắt vẫn còn mở trừng. Miệng vẫn
còn há ra.
Hoàng Phủ Ngọc Phan vừa đánh anh Văn bằng báng súng vừa chửi: Chuyến ni mi trốn nữa, mi gặp lại tau là mi chết!
Văn run rẫy lắp bắp: dạ lạy anh, em không dám nữa mô. Rồi chúng tôi hè
hụi đẩy chiếc xích lô mang xác người anh xấu số của tôi nhắm hướng cầu
Kho Rèn đi lên. Nhà tôi ở trên đường Hàm Nghi. Qua khỏi cầu một chút.
Suốt quảng đường từ đó về đến nhà, có rất nhiều đám lính bộ đội Bắc Việt
đứng tụm năm, tụm ba. Chúng tôi không bị bắt giữ lại vì có Hoàng Phủ
Ngọc Phan chạy đi trước ra dấu cho họ để cho chúng tôi đi.
Khúc đường ngang trường Thiên Hựu cũng có rất nhiều xác người nằm rải
rác. Nhiều vũng máu cũng như xác người bị ruồi bu đen. Đã mấy ngày không
có gì trong bụng, tôi vừa đi vừa ói khan. Văn cũng vậy. Chúng tôi rán
sức đẩy chíếc xích lô, trong lúc Hoàng Phủ Ngọc Phan cùng hai người đàn
bà nữa cứ chạy xe đảo tới, đảo lui hối chúng tôi mau lên. Tôi nghe chúng
nó hỏi nhau, bên Lý Thường Kiệt, Nguyễn Huệ còn ai nữa không? Có mấy
chiếc xe Honda chở gạo, bánh tét, đã tịch thu của nhà ai đó chạy thẳng
vô trường Thiên Hựu.
Lúc đó bỗng dưng có mấy chiếc trực thăng xuất hiện trên trời nhả đạn
xuống,Văn nói như reo bên tai tôi, Ti ơi, máy bay của mình. Mừng chưa
kịp no, thì trời ơi, từ những cửa sổ trên lầu của trường Thiên Hựu những
họng súng lớn nhỏ nhả đạn, nhắm hai chiếc trực thăng mà bắn, lúc đó
chúng tôi mới biết là VC đang ở trong trường Thiên Hựu quá nhiều.
Hoảng hồn tôi, Văn chạy lại ngồi sụp xuống bên tường rào của trường tránh đạn.
Phan và đồng bọn biến đâu mất. Tụi nó như ma, khi ẩn, khi hiện. Nhưng
chỉ được một lát, hai chiếc trực thang bay đâu mất. Chúng tôi thất vọng,
khi thấy Phan với đồng bọn xuất hiện hối chúng tôi đi.
Lên tới cầu Kho Rèn, thấy một đám người, đàn ông, đàn bà, con nít bị bắt
trói chung với nhau ngồi trên đầu cầu. Họ ngồi gục đầu xuống hai đầu
gối. Tiếng con nít khóc, tiếng mấy bà mẹ dỗ con: nín đi con ơi.
Đi ngang qua họ mà chúng tôi không dám nhìn. Có tiếng người trong đám
gọi tôi Ti ơi, quay lại tôi nhận ra chị giúp việc của mẹ tôi và vợ của
một chú cùng đơn vị với ba tôi ở tiểu đoàn 12 Pháo Binh Phú Bài. Tôi
đoán họ là những người từ trên Phủ Cam, chung quanh cầu Kho Rèn, Hàm
Nghi và những con đường chung quanh đó chạy xuống tìm đường trốn lên Phú
Lương thì bị bắt giữ.
Tôi định dừng lại hỏi thăm thì Hoàng Phủ Ngọc Phan trờ xe tới nạt nộ: “đi mau, ngó chi!”
Trên đoạn đường từ Văn Khoa ngang qua trường Thiên Hựu, cầu Kho Rèn, lên
tới nhà nội chúng tôi thấy nhiều người bị trói dính chùm vào với nhau
đi trước mấy người mặc đồ đen đi dép râu, mang súng.
Súng nổ tư bề mà sao không thấy bóng dáng lính mình ở đâu cả. Chỉ thấy lính bộ dội Bắc Việt khắp nơi.
Trên đường Hàm Nghi, Nguyễn Thị Đoan Trinh chạy ngang nhà nào mà y thị
gật đầu là y như rằng trong nhà đó có người bị bắt đem ra, người thì bị
bắn tại trước nhà, người thì bị dắt đi, mấy ông bà cụ trong nhà chạy
theo nằm lăn ra đường khóc la thảm thiết… Bọn lính Bắc thì cứ chửi thề
luôn miệng, đéo mẹ câm mồm, ông bắn bỏ mẹ bây giờ…
Hai chúng tôi cứ nghiến răng, cúi mặt, lầm lủi đẩy chiếc xích lô mang xác Hải đi tới.
Khi gần tới nhà tôi ở số 24 đường Hàm Nghi thì Hoàng Phủ Ngọc Phan và
con hồ ly Trinh rà xe lại gần bảo tôi: không được đẩy vô nhà mi. Đẩy lên
trên tê!
Đẩy lên trên tê, tôi hiểu đây là đẩy lên nhà ông bà nội tôi. Cũng trên
đường Hàm Nghi nhưng nhà nội tôi ở trên dốc, hướng đi lên Phủ Cam. Nhà
ba mạ tôi thì ở gần cầu Kho Rèn.
Tôi cũng không hề biết mặt Nguyễn Thị Đoan Trinh trước đó. Trong hoàn
cảnh này tôi mới biết mặt y thị là nhờ anh Văn nói. Tội nghiệp anh Văn,
cứ tưởng khi Hoàng Phủ Ngọc Phan biểu cùng tôi đẩy xác anh Hải về là
được tha chết. Anh Văn và tôi cũng không ngờ rằng đoạn đường từ Văn Khoa
lên tới nhà nội trên đường Hàm Nghi là đoạn đường sau cùng chúng tôi đi
chung với nhau trong cuộc đời này.
Lên tới nhà nội, chúng tôi đẩy Hải vô bên trong hàng rào chè tàu, bỏ Hải
ngoài sân tôi với Văn chạy vào nhà, nhà vắng ngắt, đi từ trước ra sau
bếp gọi ông ơi, mệ ơi.
Nghe tiếng ông nội yếu ớt từ trong buồng vọng ra, ai đó, đứa mô đó? Con
đây, ông nội. Nghe tiếng tôi, ông tôi hấp tấp chạy ra, bước chân xiêu
xiêu, ông tôi chạy lại ôm tôi, ông khóc, ông nói, lạy Chúa lạy Mẹ cháu
tui con sống. Tôi không khóc được, tôi run rẫy trong tay ông nội. Ông
tưởng tôi sợ nên an ủi, con còn sống mà về được đây là phúc lắm rồi, ở
đây với ông nội, không can chi mô! Nghe nói mạ mi đưa ba thằng em mi
chạy lên Phú Lương rồi, không biết đi tới mô rồi, có thoát được không?
Lạy Chúa, lạy Mẹ phù hộ.
Tôi không nói vì quá mệt, kéo tay ông nội ra ngoài, thấy Văn ngồi bệt dưới nền nhà, ông hỏi, đứa mô giống thằng Văn rứa bây?
Văn oà khóc, tôi khóc theo, kéo ông nội ra sân. Nhìn thấy xác Hải ông
nội tôi khuỵu xuống, miệng thì kêu trời ơi, trời ơi, răng mà ra nông nỗi
ni…
Chúng tôi đem Hải vào nhà, đặt anh trên divan. Ông nội lấy mền đắp lên xác Hải.
Hai người anh tôi đang trốn trên trần nhà đòi xuống nhìn mặt Hải. Ông
nội không cho. Anh Lộc giở nắp trần nhà sát góc tường, thò đầu xuống vừa
khóc vừa nói, Ti, đẩy cái ghế đẩu qua cho anh. Tôi nghe lời ra đằng sau
bếp lấy cái ghế đẩu mang lên để ngay góc phòng cho anh Lộc nhảy xuống.
Ông nội ngó lên, quơ quơ hai tay, giọng ông lạc đi, đừng xuống, ông nội
lạy con, đừng xuống, ở trên đó đi mà… Anh Kính đang ở trên đó, cũng đang
khóc. Lộc chưa kịp nhẩy xuống thì nghe tiếng nói, tiếng chân người
ngoài sân. Anh vội vàng đóng miếng ván lại thì bọn Hoàng Phủ Ngọc Phan
cũng vừa vào đến.
Thấy Phan bước vô, mặt Văn biến sắc, anh lắp bắp nói với ông nội, anh
Phan cho tụi con đem xác về đó ông ơi. Ông nội đứng im không nói. Hai
mắt cú vọ của nó ngó ông nội hỏi: thằng Lộc, thằng Kính ở mô?
Ông nội nói tui không biết. Phan gằn giọng: ông thiệt không biết tụi hắn
ở mô? Tụi hắn năm mô cũng về ăn Tết ở đây mà ông không biết răng được?
Ông nội nói, ba ngày tư ngày Tết, ăn xong thì tụi hắn đi chơi, đi thăm
bà con họ hàng chứ chẳng lẻ ở nhà hoài răng? Chừ thì tui biết tụi hắn ở
nhà mô mà chỉ!
Mắt Phan ngó láo liên khắp nơi, chợt thấy cái ghế đẩu ngay góc phòng, nó cười khan một tiếng.
Tôi đứng núp sau lưng ông nội, Hoàng Phủ Ngọc Phan hung hăng bước tới,
xô ông nội qua một bên, nó nắm lấy tóc tôi kéo tôi ra về phía hắn. Ngó
lên trần nhà la lớn: Lộc, Kính, Hiệp, tụi mày không xuống tau bắn con
Ti!
Nó vừa nói, vừa xoáy mái tóc dài của tôi trong tay, nó đẩy tới, đẩy lui.
Tôi đau điếng, tôi sợ, tôi run lẩy bẩy, nước mắt ứa ra nhưng không dám
la thành tiếng. Ông nội tôi chấp tay lạy nó như tế sao: tui lạy anh tha
cháu tui, con gái con lứa, hắn biết chi mô.
Thằng Phan càng la lớn: tau biết tụi mi trên đó, có xuống không thì nói, tau bắn con Ti.
Phan xô tôi té xuống, lấy chân đạp lên lưng. Chĩa mũi súng lên đầu tôi hô một, hai, ba…
Lập tức anh Lộc mở nắp trần nhà thò đầu xuống la to: đừng, đừng bắn em tau, tau xuống, để tau xuống…
Ông nội tôi chạy lại giữ cái ghế cho anh bước xuống, hai chân ông run,
ông té sấp, đang lúc anh Lộc tìm cách tuột xuống, thò hai chân xuống
trước, hai tay còn vịn trần nhà, khi đôi chân vừa chạm chiếc ghế đẩu thì
Hoàng PHủ Ngọc Phan đã nổ súng, đạn trúng ngay chính giữa cổ, máu phọt
ra, Lộc lăn xuống sàn nhà toàn thân anh dẫy dụa mấy cái rồi nằm im.
Mặc ông nội tôi la hét thất thanh, Phan chĩa súng bắn lên trần nhà, nghe
tiếng anh Kính lăn tới đâu, nó bắn tới đó, bắn nát trần nhà, hết đạn nó
giành lấy cây súng của một thằng khác bắn tiếp, cho tới khi anh Kính
tôi rớt xuống theo mấy miếng ván.
Anh Văn ngồi bệt xuống đất, nhắm mắt, bịt tai, run lẩy bẩy, ngồi kề bên
cạnh anh người tôi tê cóng, đái ỉa ra cả quần, ông nội tôi nhào tới ôm
anh Kính, hai mắt trợn trừng, anh đang thều thào những lời sau cùng, ông
khóc, ông chửi rủa thằng Phan, nó say máu, bắn luôn ông nội tôi. Ông
tôi đổ xuống bên cạnh anh Kính.
Bắn ông tôi xong chúng kéo nhau đi bắt anh Văn theo. Còn lại một mình, tôi bò lại ôm lấy ông nội, tôi khóc không ra tiếng, tôi thở không ra hơi, hai bàn tay tôi ướt đẫm máu, máu của ông nội tôi, tôi bò sang anh Lộc, bò sang anh Kính, tôi lay, tôi gọi, tôi gào, không ai nghe tôi hết, anh tôi không trả lời tôi, hai con mắt, bốn con mắt, sáu con mắt đều mở trừng, ông nội tôi nằm im, máu trong ngực ông vẫn tuôn ra từng vòi. Tôi gục đầu xuống xác ông lịm đi. Không biết bao lâu thì tôi tỉnh lại, nhưng không ngồi dậy nổi. Cứ nằm ôm lấy xác ông nội. Tóc tôi bết đầy máu, toàn thân tôi, máu, phân và nước tiểu đẫm ướt. Tôi không còn sức để ngồi lên. Không biết tôi nằm bên cạnh xác ông tôi với ba người anh như vậy là bao lâu.
Bắn ông tôi xong chúng kéo nhau đi bắt anh Văn theo. Còn lại một mình, tôi bò lại ôm lấy ông nội, tôi khóc không ra tiếng, tôi thở không ra hơi, hai bàn tay tôi ướt đẫm máu, máu của ông nội tôi, tôi bò sang anh Lộc, bò sang anh Kính, tôi lay, tôi gọi, tôi gào, không ai nghe tôi hết, anh tôi không trả lời tôi, hai con mắt, bốn con mắt, sáu con mắt đều mở trừng, ông nội tôi nằm im, máu trong ngực ông vẫn tuôn ra từng vòi. Tôi gục đầu xuống xác ông lịm đi. Không biết bao lâu thì tôi tỉnh lại, nhưng không ngồi dậy nổi. Cứ nằm ôm lấy xác ông nội. Tóc tôi bết đầy máu, toàn thân tôi, máu, phân và nước tiểu đẫm ướt. Tôi không còn sức để ngồi lên. Không biết tôi nằm bên cạnh xác ông tôi với ba người anh như vậy là bao lâu.
Khi tỉnh dậy thì thấy hai vợ chồng bác Hậu, vài người lối xóm nữa của với ông nội đang ở trong nhà.
Họ dọn dẹp, khiêng bộ ngựa trong nhà bếp ra trước phòng khách, đặt xác
ông nội cùng với ba người anh tôi nằm chung với nhau. Hai bác gái đem
tôi vào phòng tắm, phụ nhau tắm rửa cho tôi như một đứa con nít, bác Hậu
lấy áo quần của bác mặc cho tôi. Tâm trí tôi hoàn toàn tê liệt. Tôi
không còn khóc được, không còn mở miệng nói được câu nào. Ngày cũng như
đêm ngồi rũ rượi bên cạnh xác của ông tôi, các anh tôi. Tôi không còn sợ
chết. Nhưng sao tụi nó không giết luôn tôi? Trời hỡi, trời ơi!
Nhìn thấy tôi tiều tụy, mỗi ngày bác Hậu gái khuấy cho tôi vài muỗng bột bích chi ép tôi uống.
Thiệt ra nhà nội cũng chẳng còn chi. Gạo cơm, bánh mứt thì bị tụi nó
khiêng đi hết rồi. Bác Hậu còn giấu được ít gạo, ít than nấu cháo uống
cầm hơi với nhau.
Ngày hôm sau thằng Phan trở lại. Bác Hậu xin phép được chôn ông tôi và
mấy người anh sau vườn nhà nhưng nó không cho, nói cứ để đó.
Đã hơn bảy ngày, xác đã bắt đầu sình lên và nặng mùi. Mà Phan không trở lại.
Một buổi tối tụi bộ đội Bắc Việt đến lục lọi kiếm gạo. Bác Hậu xin chúng
nó đào huyệt sau nhà để chôn ông nội và ba người anh tôi. Chúng nó bảo ừ
thối quá rồi thì chôn đi, nhưng chỉ được đào một lỗ huyệt.
Vợ chồng bác Hậu khóc lóc năn nỉ: mấy anh ơi, người chết rồi biết chi,
anh cho tụi tui đào 4 huyệt. Chúng không cho. Chúng nó phụ bác Hậu đào
huyệt. Bảo đem cả bốn người bỏ xuống chung một lỗ. Lấp lẹ đi, thối quá.
Bác Hậu với mấy người trong nhà không ai muốn làm, ngó nhau mà khóc…
Chiều tối hôm đó Văn trở lại với Phan và mấy thằng bộ đội. Chúng nó bắt
Văn phụ với mấy thằng bộ đội khiêng từng người ra bỏ xuống huyệt. Hai vợ
chồng bác Hậu theo ra vườn.
Tôi kiệt sức nằm vùi một chỗ nhưng tai tôi vẫn nghe rõ những lời đối
thoại trong nhà. Tôi không đủ can đảm theo ra vườn chứng kiến cảnh vùi
lấp những người thân yêu của tôi. Nằm trong buồng ông bà nội nhưng tôi
nghe rõ từng tiếng cuổng xẻng đang đào đất. Tâm trí tôi quay cuồng, ruột
gan tôi đòi đoạn. Trời ở đâu, đất ở đâu? Tôi gọi ông tôi, gọi anh Lộc,
anh Kính, anh Hải, không ai nghe tôi hết…
Khi bốn cái xác người được bỏ xuống, miệng lỗ chưa được lấp, thì tôi
nghe tiếng súng nổ, tiếng kêu gào của vợ chồng bác Hậu, nhưng không nghe
tiếng của Văn. Tiếng bác Hậu kêu Văn ơi, Văn ơi giọng bác đòi đoạn, thì
tôi biết chuyện gì đã xảy ra cho Văn. Toàn thân tôi lẩy bẩy, tôi cảm
thấy khó thở, một lần nữa cứt và nước đái trong người tôi túa ra.
Tôi nghe tiếng mấy thằng bộ đội hò hét bảo lấp đất lại. Bác Hậu và những người hàng xóm của nội tôi đành phải làm theo.
Khi tụi bộ đội VC bỏ đi, bác Hậu chạy vào buồng vò đầu, bức tai, giọng
tức tưởi: thằng Văn nằm chung với ba thằng anh mi rồi con ơi! Trời ơi,
là trời ơi. Bác Hậu đấm ngực: không biết thằng Văn đã chết chưa mà hắn
bắt tui lấp. Văn ơi là Văn ơi, con tha tội cho bác, trời ơi người mô mà
ác như rứa…
Tôi lặng người, nghe bác Hậu khóc anh Văn.
Sau lần đó không đứa nào trong bọn chúng trở lại, kể cả tụi bộ đội.
Chắc nhà ông tôi chẳng còn người để mà giết, chẳng còn của cải chi để mà cướp nữa.
Hơn hai mươi ngày, tôi nằm liệt lào trong nhà nội. Bên ngoài súng đạn vẫn tư bề.
Hai vợ chồng bác Hậu không nỡ bỏ tôi lại một mình, trong lúc bác nghe
ngóng và biết đa số dân Phủ Cam đã tìm đường chạy thoát được xuống Phú
Lương. Bác năn nỉ tôi: rán ăn uống thêm một chút để có sức mà chạy,
không lẽ con nằm đây chờ chết? Con không muốn tìm mạ con răng?
Hôm sau nữa tôi theo gia đình bác Hậu tìm đường chạy lên Phú Lương vì
nghe nói lính Mỹ, lính mình đã thấy xuất hiện chung quanh đây rồi.
Đi xuống ngã cầu Kho Rèn thì cầu đã bị sập, bác theo đoàn người đi hướng
khác, tôi đi theo như người mất hồn, họ đi đâu tôi theo đó, tôi không
còn nhớ là mình đã đi qua được những nơi đâu. Có điều tôi lấy làm lạ,
trên đường chạy giặc, mỗi khi đạn pháo bắn khắp nơi mà người ta cứ gồng
gánh nhau mà đi, không ai chịu dừng lại kiếm chỗ tránh đạn, người ta nói
với nhau: khi mô mà có mọc chê hay đạn pháo chi đó thì bọn VC chui vô
nhà dân để trốn đạn, chúng nó không ra đường để chặn bắt dân lại, vì vậy
người ta cứ chạy bất kể, dưới lằn mưa đạn người ta càng chạy đi đông
hơn. Ôi những người dân tội nghiệp của xứ Huế thà chết dưới bom đạn còn
hơn để bị lọt vô tay quân sát nhân ác độc.
Cuối cùng thì tôi cũng về đến được Phú Lương gặp mạ và ba đứa em trai
của tôi. Quá đau khổ, Mạ tôi bị phát điên khi hay tin cái chết của ba
người anh và ông nội.
Ít lâu sau ba tôi trở về sau một đợt hành quân nào đó của tiểu đoàn 12
Pháo Binh Phú Bài. Thấy mạ tôi như vậy, biết không thể trở lại đường Hàm
Nghi ông mướn nhà ở tạm tại Phú Lương.
***
Sau khi Huế được giải thoát. Ba tôi nhờ bà con lối xóm cải táng Văn, ba
người anh, và ông nội tôi, tang lễ được cữ hành tại nhà thờ Phủ Cam do
cha Nguyễn Phùng Tuệ chủ tế.
Gia đình anh Văn đồng ý cho anh Văn được nằm lại trong miếng vườn nhà ông nội tôi cùng với ba người anh của tôi.
Ba tôi được giải ngũ khoảng giữa năm 69. Mạ tôi vẫn trong cơn điên loạn
không thuyên giảm. Ba tôi quyết định bỏ Huế đem hết gia đình vào Long
Khánh sinh sống. Nhà nội giao lại nhờ hai bác Hậu coi chừng. Nhà ở 24
Hàm Nghi (gần dường rầy xe lửa) thì bán cho ai đó tôi không rõ.
Thưa ông Liên Thành,
Đó là những cái chết oan khiên của những người ruột thịt thân yêu mà tôi
phải chứng kiến tận mắt với muôn ngàn đau đớn. Trong bà con thân tộc
nội ngoại hai bên của tôi có rất nhiều người bị bắt đi ở nhà thờ Phủ
Cam, một số bị bắt ở nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế. Số người bị chôn sống,
mất tích lên tới 70 người. Tất cả đều là học sinh, sinh viên, thường
dân, nông dân, buôn bán ở chợ An Cựu.
Sau Tết Mậu Thân, những người bà con còn lại của tôi quá đau khổ, sợ
hãi, họ đã âm thầm bỏ Huế, tản mác khắp nơi, thay tên đổi họ mà sống…
Sau biến cố tháng 4 đen 75, gia đình tôi lại là những nạn nhân của lũ
Việt Gian Cộng Sản ác độc, vô luân. Ba tôi và những đứa em trai còn lại
cũng đã chết sau mười mấy năm bị đày đọa trong lao tù CS.
Đã 40 năm qua, những vết thương đó vẫn còn tươi rói trong tôi. Nỗi đau
mỗi ngày một đầy. Đó là những cái chết oan khiên trong muôn ngàn cái oan
khiên của người dân Huế.
Tôi là người con duy nhất trong gia đình còn sống sót sau Tết Mậu Thân
cũng như sau những ngày mất nước. Nay viết lại những cái chết thương tâm
của những người Thân Yêu trong gia đình tôi với tư cách là một nhân
chứng và nạn nhân, để tố cáo Tội Ác của Việt Gian Cộng Sản, có như thế,
oan hồn của ông nội và anh em tôi mới có thể siêu thoát.
Tôi sẵn sàng ra làm nhân chứng trước tòa án quốc tế, cũng như xuất hiện trước các phương tiện truyền thông khi cần thiết.
Xin trình tên tuổi ông nội tôi, và của ba người anh bị sát hại:
Tên ông nội:
- Nguyễn Tín, 70 tuổi.
Ba người anh:
- Nguyễn Xuân Kính, sinh viên Y khoa, sinh năm 1942.
- Nguyễn Xuân Lộc, sinh viên Luật, sinh năm 1946.
- Nguyễn Thanh Hải, sinh viên Văn Khoa, sinh năm 1949.
Và Lê Tuấn Văn, sinh viên Văn Khoa, bạn của anh Hải tôi.”]
Toàn văn bức thư của Nhân chứng hiện còn sống Nguyễn Thị Thái Hòa:
***
2-. Nhân chứng sống thứ nhì: Audio ông Phan Văn Tuấn, bị Việt cộng dùng vũ lực ép phải đi đào hố chôn sống đồng bào tại Huế trong Tết Mậu thân 1968, trả lời phỏng vấn (Nam Dao).
Hoặc có thể tải xuống hay nghe tại đây, gồm 2 phần:
3.Nhân chứng sống thứ ba: Video bà Nguyễn Thị Công Minh nạn nhân trong biến cố Mậu Thân 1968 tại Huế.
Hoặc có thể tải xuống hay nghe tại đây:
4. Nhân chứng sống thứ tư: Thư bà Tâm Anh, em gái nạn nhân Nguyễn Cửu Bính, nói về anh em Hoàng Phủ.
Xin cám ơn anh, khi anh xuất hiện trên đài truyền hình với người anh của
bạn học ĐK với tôi là Lê Thị Tôn Kính thì tôi đã mê say theo dõi, rồi
sau đó bạn bè gởi đến cho tôi đọc về anh ra sách “Biến Động Miền Trung”,
tôi cảm thương cho ông anh của tôi là Nguyễn Cửu Bính bị bắt đi bởi
lệnh gián tiếp của tên Hoàng Phủ Ngọc Phan, vì hôm mùng 2 Tết Mậu Thân
khi thấy Hoàng Phủ Ngọc Phan đi ngang nhà, anh tôi đã mời Hoàng Phủ Ngọc
Phan vào nhà uống café, chỉ thời gian ngắn sau đó, ngày mùng 4 Tết, một
toán Việt Cộng đến nhà bắt anh tôi, tôi nghĩ nếu anh tôi không mời Phan
vào nhà uống café thì Việt Cộng làm gì biết anh tôi có mặt ở nhà mà đến
bắt.
Cha mẹ tôi đã đau buồn vì anh ấy là niềm yêu thương của gia đình chúng
tôi! Thiệt cho đến nay tôi vẫn khiếp sợ Cộng Sản và tự đặt câu hỏi: Cộng
Sản là ai? Là ma quỉ giết người vô tội để làm gì?
Anh tôi từ khi học trường Quốc Học đã kết nghĩa anh em với Trịnh Công
Sơn, Hoàng Tá Tích, và anh Trương Đình Ngôn. Những người nầy chuyên môn
túc trực trong nhà chúng tôi để ăn cơm gia đình. Tôi có anh rể là Thiếu
Tướng Tôn Thất Xứng đã coi mấy người nầy như em ruột. Nhưng sao Hoàng
Phủ Ngọc Tường là bạn chí thân của Trịnh Công Sơn mà có thể bắt chôn
sống anh của tôi được? Thiệt là oan uổng cho cha mẹ của tôi đã nuôi họ,
cho ăn uống đối xử với họ như anh Bính. Vậy thì CS Huế thân quen tại sao
đã biết anh của tôi không phải là lính VNCH, công an, cảnh sát hay CIA
mà đã giết anh ấy về tội gì? Anh ấy rất hiền lành và chẳng bao giờ làm
mất lòng ai? Đến nỗi khi CS mang dép râu vào nhà nói cha mẹ của tôi đưa
giấy khai gia đình ra cho họ xem, thì họ hỏi Nguyễn Cửu Bính ở đâu ra
trình diện. Tôi nghe mẹ của tôi nói rằng: “Con tôi lấy vợ ở Đà Lạt nên ở
trên đó” thì mấy thằng cha và con mẹ CS nói rằng: “Bà đừng có nói láo,
chúng tôi thấy ông Nguyễn Cửu Bính đi mua hoa mai chiều 30 Tết, mà mùng
một Tết không có máy bay đến, mùng hai thì chúng tôi đã chiếm thành phố
Huế thì làm sao mà đi Đà Lạt được?”. Nhưng tôi nghe mẹ tôi cứ nói: “Đó
là các anh, các chị đã thấy nhầm thằng anh của nó”. Một thằng trong bọn
cũng lạ hoắc nói rằng: “Nếu bà nói vậy, chúng tôi tìm ra thì bà chịu
gì?”. Mẹ tôi trả lời: “Nếu các anh tìm ra, thì các anh muốn làm sao cũng
được”. “Nếu bà nói như vậy thì nếu chúng tôi tìm ra thì chúng tôi bắn
chết cả nhà”. Mẹ tôi trả lời một cách thẳng thắn: “Dạ được rồi, tôi bằng
lòng”. Nhưng anh Bính ngồi trong tủ thờ có chạm trổ như một miếng gỗ có
chạm trổ hình con rồng sơn màu đen không phải là có khuy cửa để vào
được, nhưng lấy móng tay nâng vào khía cạnh chạm trổ hình mấy con rồng
đó thì chui vào trong tủ được. Ngồi trong đó thật an toàn. Anh Bính ngồi
trong nghe như vậy thì đã biết khi buổi sáng mùng hai Tết anh đứng
trước song cửa nhà thì gặp Hoàng Phủ Ngọc Phan đi ngang qua nên anh mời
vô nhà uống café cho nên khi nghe hai bên đối thoại kinh hoàng quá, thì
anh dong hai tay lên đầu và bọn CS trói cấp cánh dẫn đi.
Khi ấy anh bị bắt không mang theo thẻ kiểm tra, cho nên khi chúng tôi đi
di tản về từ vùng Bao Vinh trở lại nhà ở 47 Huỳnh Thúc Kháng-Huế thì
nghe nói CS đã đem những người bị bắt đi chôn sống.
Mẹ tôi ngày nào cũng đi mấy hầm chôn tập thể tìm kiếm, nhưng một phần vì
CS chôn hời hợt cạn quá (có lẽ chôn mau, chôn hối mà chạy) cho nên chó
ăn nhìn không được, chỉ trừ khi những người có mang theo thẻ kiểm tra
thì thân nhân mới nhận đem về được.
Anh ấy mất đi để lại người vợ trẻ sinh năm 1941 là chị Thu Lan, người Đà
Lạt, và cặp con sinh đôi con gái nay chúng đã có chồng con rồi.
Năm 1975 tôi có cảm giác như anh ấy bắt buột tôi phải theo đoàn người
rời khỏi VN ngay, cho nên tôi dõng mảnh cãi lại bất cứ ai bảo đừng đi vì
đã có người chết ở đảo Côn Sơn do máy bay MiG của Nga viện trợ cho CS
bay chỉ 5 phút thôi là thả một loạt bom chết 100%. Còn như ở lại thì đàn
ông có tội chúng nó có thể giết chết nhưng đàn bà và con nít vô tội thì
tha. Vả lại giết hết thì đất đâu mà chôn? Nhưng tôi trả lời: “Cho dù
chết dưới biển, nhưng tôi không muốn chết kiểu của anh Bính!”. Tôi có
cảm giác như lời nói đó của anh Bính đã hiện trong tôi nói như vậy. Khi
đó cả nhà anh Tôn Thất Xứng cùng đi thật là may mắn.
Tôi xin cám ơn anh đã cho tôi có dịp trả nợ cho hai cô bạn là Trần Lệ Hà
ở nước Đức, và Thu Tâm ở Gia Nã Đại. Họ muốn tôi kể chuyện nầy để họ
dịch ra bằng tiếng Pháp cho bạn của họ biết bộ mặt thật của Cộng Sản
Việt Nam như thế nào? Nhưng tôi có hẹn không biết bao giờ mới có! Vì kể
chuyện gì cũng do nhân duyên thích hợp mới được.
Kính chào anh và tôi cũng như bạn Kim Tri hứa sẽ ủng hộ trong những việc
làm sáng tỏ nỗi khổ đau của con dân xứ Huế quê mình.] (Tâm Anh)
Huế Mậu Thân 1968
- Tổng Số thường dân thương vong: 7.500 người;
- Số bị thương:1.900 người;
- Số thường dân tử vong: 844 người;
- Số người bị mất tích:1946 người;
- Theo thống kê của tác giả David T. Zabecki trong cuốn Encyclopedia of
the Vietnam war thì tại Huế số thi hài nạn nhân tìm được trong mồ chôn
tập thể là 2.810 người.
***
Giáp tết Quý Tỵ 2013, để ‘Mừng 40 năm chiến thắng Mậu Thân’, VTV1 đã cho
trình chiếu liên tục bộ phim tài liệu «Mậu Thân 1968» gồm 13 tập của nữ
đạo diễn Lê Phong Lan, nhằm ‘định hướng’ dư luận theo đảng tính, nhưng
tôi quyết tín rằng dù trời có sập sự thật vẫn là sự thật vì nói như báo
Nhân Dân [“sự thật rất cứng đầu cứng cổ, người ta không thể tha hồ
sắp xếp nó theo trình tự lớp lang nào tùy ý muốn của mình”. Nếu “nửa cái
bánh mì vẫn là bánh mì nhưng nửa sự thật đã là lời nói láo trọn vẹn /
Une demi-baguette est toujours du pain, mais une demi-vérité était un
mensonge entier” thì việc chọn lọc ghi chép một nửa quá khứ, một nửa lịch sử của một triều đại lại là sự lừa đảo cả một dân tộc.] (3).
Mỗi buổi sáng khi đánh răng chải đầu trang điểm, nữ đạo diễn Lê Phong
Lan không thể không thấy bộ mặt mộc của mình trong gương; hoặc tối tối
trước khi thiếp ngủ, đương sự không thể không trăn trở tự vấn về ‘tác
phẩm điêu’ nói trên của mình, vì tôi tin chắc bà ấy vẫn còn sót lại tí
chút cơ bản của kiếp làm Người (viết hoa) có tên là Lương tâm, tối thiểu
là đối với con cái do chính bà ấy sinh ra từ thiện duyên! Đừng để rồi
lại như ai kia phải thống thiết từ xe lăn “Ngô Minh ơi, mình thèm
tiếng người”,“ước được một trận say, được nói một câu tròn vành rõ
chữ... thậm chí ước được đi ỉa một mình không người săn sóc... chỉ ước
có rứa thôi mà trời kiên quyết không cho...” (1).
[“Ở làng quê nọ, có ông Bí thư rất độc ác, khi nghe tin ông đổi đi nơi
khác, dân làng hồ hởi, phấn khởi ăn mừng… Rồi ông Bí thư khác đến, vẫn
vậy, nếu không muốn nói còn ác độc hơn ông trước. Một hôm ông Bí thư lâm
bệnh mà chết. Đám ma được chính quyền tổ chức rầm rộ. Một bà cụ già,
nửa đêm ra đào mồ ông Bí thư, bị bắt, đem ra tòa xử. Tòa hỏi: cớ sao
người ta chết rồi, bà lại đào mồ lên làm gì? Bà cụ dõng dạc trả lời: Tội
ác không thể chôn đi, mà phải đào lên, phải được xử án, để mọi người
"học tập" hầu tránh xa Tội ác!”] (NguyenHa).
“Còn đây cái Tết Mậu Thân:
Việt cộng vào Huế giết Dân, đốt Chùa.
Huế ơi! Nhớ lấy năm xưa:
Việt cộng vào Huế đốt Chùa, giết Dân!”
(Ca dao Huế)
(Tổng hợp và cập nhật, 24-01-2014)
___________________________
Chú thích:
(1) Bài Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng có ở đây.
(2) Phỏng thơ Nguyễn Chí Thiện.
(3) Trần Thị Hải Ý: Lê Hồ huyết kỳ bí phổ. Nhớ anh Đặng Chí Hùng, soạn giả Những sự thật cần phải biết (phần 6) - Lê Duẩn: Kẻ đồng mưu với Hồ Chí Minh tàn sát nhân dân Mậu Thân 1968.
TIN VIỆT NAM
Sân bay Tân Sơn Nhất kẹt cứng vì quá tải-
Trương Khởi
Những
ngày cận Tết lại trùng hợp vào dịp cuối tuần nên lượng khách từ TP.HCM
đi về các tỉnh thành trong cả nước rất đông. Tại sân bay quốc tế Tân Sơn
Nhất đã xảy ra tình trạng quá tải.
Trong
ngày 25/1, hàng nghìn người đã xếp hàng chờ đợi hàng giờ tại khu vực
nhà ga, quầy làm thủ tục và cả khu vực kiểm tra an ninh.
Các
vị trí ghế ngồi, quán ăn trong ga đều chật kín người. Nhiều người đã
phải ngồi bệt, vật vờ chờ đợi – điều hiếm khi gặp tại sân bay Tân Sơn
Nhất trong những ngày thường.
Xếp hàng dài tại khu vực tầng trệt sảnh nội địa Tân Sơn Nhất để chờ lượt làm thủ tục lên máy bay. |
Trước quầy làm thủ tục, không còn một chỗ trống |
- Trương Khởi
*****
Nguồn:
No comments:
Post a Comment