Wednesday, April 29, 2015
TIN THẾ GIỚI
Mỹ- Nhật mở rộng hợp tác quốc phòng
Ngoại giao - Quốc phòng liên hệ gắn bó Mỹ- Nhật tại New York ngày 27/04/2015.Reuters
Trước lúc Thủ tướng Nhật Shinzo Abe bắt đầu chuyến thăm chính thức Mỹ, ngày 27/04/2015, Washington và Tokyo đã công bố thỏa thuận sửa đổi phương hướng hợp tác quân sự. Theo đó, quân đội Nhật chủ động mở rộng phạm vi hành động trên trường quốc tế.
Văn kiện điều chỉnh « phương hướng chủ đạo » hợp tác quốc phòng Mỹ-Nhật được thông qua sau hội nghị các bộ trưởng Ngoại giao và Quốc phòng của hai nước tại New York.
Thỏa thuận mới về hợp tác quốc phòng song phương lấy cơ sở là nội dung sửa đổi bản Hiến pháp hiếu hòa của Nhật đã được chính phủ Shinzo Abe đề nghị. Với thỏa thuận mới, quân đội Nhật được phép tham gia vào các chiến dịch quân sự ở bên ngoài đất nước nhằm hỗ trợ các đồng minh.
Một quan chức Mỹ giải thích, với « phương hướng chủ đạo » mới về quốc phòng, quân đội Nhật Bản có thể tham gia hỗ trợ quân đội Mỹ trong trường hợp bị nước thứ 3 đe dọa. Cụ thể quân đội Nhật có thể « bắn hạ tên lửa được bắn về nước Mỹ ngay cả khi Nhật không phải là mục tiêu ».
Được hỏi liệu có phải nguyên tắc mới trong hợp tác quốc phòng giữa hai nước có nhằm đối phó với những tham vọng gia tăng sức mạnh quân sự gần đây của Trung Quốc hay không, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter khẳng định thỏa thuận mới này « không nhằm vào cụ thể Trung Quốc ».
Tuy nhiên trong một phát biểu mới đây trên truyền hình Nhật, Thủ tướng Shinzho Abe đã tuyên bố : « Liên minh Nhật –Mỹ sẽ trở nên hiệu quả hơn và mạnh mẽ hơn. Vì thế mà sức răn đe sẽ tăng cường và tình hình khu vực sẽ được ổn định hơn ».
Ngoại trưởng Mỹ, John Kerry lưu ý : Liên minh quốc phòng giữa hai nước « bao trùm toàn bộ các phần lãnh thổ » thuộc Nhật Bản, « trong đó có cả quần đảo Senkaku ».
Phản ứng đầu tiên về thỏa thuận mở rộng hợp tác quốc phòng Nhật-Mỹ, đến từ nước láng giềng. Hàn Quốc cho biết rất quan tâm đến « phương hướng hợp tác quốc phòng Mỹ-Nhật », đồng thời đề nghị Tokyo và Washington phải tham khảo Seoul trong các vấn đề liên quan đến an ninh trên bán đảo Triều Tiên và vì lợi ích của Hàn Quốc.
Lần gần đây nhất Washington và Tokyo điều chỉnh hợp tác phòng thủ là vào năm 1997, theo đó đã mở rộng sự tham gia hỗ trợ quân đội Mỹ trong các chiến dịch quân sự, nhưng vẫn giới hạn trong các hoạt động tiếp liệu hậu cần.
Từ năm 1960, Hoa Kỳ đã ký với Nhật Bản Hiệp ước Quốc phòng, trong đó dự trù Hoa Kỳ có trách nhiệm bảo vệ Nhật trong trường hợp nước này bị tấn công. Đổi lại Mỹ được mở các căn cứ quân sự trên đất Nhật. Hiện có gần 47 nghìn quân Mỹ đồn trú thường trực trên lãnh thổ Nhật Bản.
http://vi.rfi.fr/chau-a/20150428-my-nhat-mo-rong-hop-tac-quoc-phong/
Mỹ -Nhật mở rộng hợp tác quân sự và kinh tế để làm đối trọng với Trung Quốc
Hôm thứ Ba, sau cuộc hội đàm với Thủ tướng Abe, Tổng thống Mỹ Barack Obama nói với các phóng viên rằng hai nước chia sẻ mối quan tâm về các hoạt động cải tạo đất và xây đảo nhân tạo của Trung Quốc ở Biển Đông và đã "tái khẳng định cam kết sẽ bảo vệ quyền tự do hàng hải theo tinh thần tôn trọng luật pháp quốc tế".
Nhà lãnh đạo Mỹ cho biết các hướng dẫn quốc phòng mới sẽ cho phép các lực lượng Mỹ và Nhật hoạt động linh hoạt hơn, và Nhật Bản sẽ "đảm nhận trách nhiệm và vai trò lớn hơn trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương".
Tuyên bố này nói: “Tuy ghi nhận tiến triển trong tham vấn về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), chúng tôi yêu cầu tăng cường tham vấn hơn nữa để bảo đảm nhanh chóng xây dựng được một Bộ quy tắc COC hiệu quả.”
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2015/04/150428_asean_china_bien_dong
Thỏa thuận mới về hợp tác quốc phòng song phương lấy cơ sở là nội dung sửa đổi bản Hiến pháp hiếu hòa của Nhật đã được chính phủ Shinzo Abe đề nghị. Với thỏa thuận mới, quân đội Nhật được phép tham gia vào các chiến dịch quân sự ở bên ngoài đất nước nhằm hỗ trợ các đồng minh.
Một quan chức Mỹ giải thích, với « phương hướng chủ đạo » mới về quốc phòng, quân đội Nhật Bản có thể tham gia hỗ trợ quân đội Mỹ trong trường hợp bị nước thứ 3 đe dọa. Cụ thể quân đội Nhật có thể « bắn hạ tên lửa được bắn về nước Mỹ ngay cả khi Nhật không phải là mục tiêu ».
Được hỏi liệu có phải nguyên tắc mới trong hợp tác quốc phòng giữa hai nước có nhằm đối phó với những tham vọng gia tăng sức mạnh quân sự gần đây của Trung Quốc hay không, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter khẳng định thỏa thuận mới này « không nhằm vào cụ thể Trung Quốc ».
Tuy nhiên trong một phát biểu mới đây trên truyền hình Nhật, Thủ tướng Shinzho Abe đã tuyên bố : « Liên minh Nhật –Mỹ sẽ trở nên hiệu quả hơn và mạnh mẽ hơn. Vì thế mà sức răn đe sẽ tăng cường và tình hình khu vực sẽ được ổn định hơn ».
Ngoại trưởng Mỹ, John Kerry lưu ý : Liên minh quốc phòng giữa hai nước « bao trùm toàn bộ các phần lãnh thổ » thuộc Nhật Bản, « trong đó có cả quần đảo Senkaku ».
Phản ứng đầu tiên về thỏa thuận mở rộng hợp tác quốc phòng Nhật-Mỹ, đến từ nước láng giềng. Hàn Quốc cho biết rất quan tâm đến « phương hướng hợp tác quốc phòng Mỹ-Nhật », đồng thời đề nghị Tokyo và Washington phải tham khảo Seoul trong các vấn đề liên quan đến an ninh trên bán đảo Triều Tiên và vì lợi ích của Hàn Quốc.
Lần gần đây nhất Washington và Tokyo điều chỉnh hợp tác phòng thủ là vào năm 1997, theo đó đã mở rộng sự tham gia hỗ trợ quân đội Mỹ trong các chiến dịch quân sự, nhưng vẫn giới hạn trong các hoạt động tiếp liệu hậu cần.
Từ năm 1960, Hoa Kỳ đã ký với Nhật Bản Hiệp ước Quốc phòng, trong đó dự trù Hoa Kỳ có trách nhiệm bảo vệ Nhật trong trường hợp nước này bị tấn công. Đổi lại Mỹ được mở các căn cứ quân sự trên đất Nhật. Hiện có gần 47 nghìn quân Mỹ đồn trú thường trực trên lãnh thổ Nhật Bản.
http://vi.rfi.fr/chau-a/20150428-my-nhat-mo-rong-hop-tac-quoc-phong/
Mỹ -Nhật mở rộng hợp tác quân sự và kinh tế để làm đối trọng với Trung Quốc
Tổng thống Barack Obama và thủ tướng Shinzo Abe tại đài tưởng niệm Lincoln tại Washington. Ảnh ngày 27/04/2015.REUTERS/Kevin Lamarque
Hoa Kỳ đón tiếp trọng thể thủ tướng Shinzo Abe. Lần đầu tiên một thủ tướng Nhật Bản phát biểu trước Quốc hội lưỡng viện. Đây là một vinh dự mà nước Mỹ chỉ dành cho một số ít lãnh đạo trên thế giới. Tăng cường hợp tác quân sự và kinh tế là hai mục tiêu chính trong chuyến công du dài ngày của ông Abe. Washington chờ đợi gì ở Tokyo ?
Trả lời trên đài RFI, bà Valérie Niquet, chuyên gia về chiến lược và cũng là tác giả cuốn « Chine –Japon : L’affrontement », Nhà xuất bản Perrin - xoáy vào sự đối đầu giữa Trung Quốc và Nhật Bản, trở lại với định hướng mới về hợp tác quốc phòng, mà Tokyo và Washington vừa đạt được ngày 27/04/2015 tại New York. Trong đó, Nhật Bản đồng ý đóng một vai trò năng động hơn để làm đối trọng với Trung Quốc trong khu vực.
« Mỹ-Nhật cùng định hướng về một chính sách quốc phòng mới. Đây sẽ là nền tảng của sự hợp tác quân sự song phương trong tương lai trong khuôn khổ hiệp ước phòng thủ đã được Washington và Tokyo ký kết từ năm 1960. Ngoài ra, thỏa thuận mới về quốc phòng Mỹ-Nhật cũng là một trong những mục tiêu được ông Shinzo Abe theo đuổi kể từ khi ông trở lại cầm quyền : Tokyo muốn chứng minh với Washington là mình sẵn sàng đóng một vai trò tích cực hơn, sẵn sàng đóng góp nhiều hơn. Để đổi lại, thủ tướng Abe muốn Mỹ coi Nhật Bản là cột trụ chiến lược trong chính sách xoay trục về Châu Á Thái Bình Dương của Hoa Kỳ. Trong mắt thủ tướng Abe, đây là một điều hết sức quan trọng đối với an ninh của Nhật Bản ».
Định hướng mới về hợp tác quốc phòng song phương cho phép Nhật Bản hỗ trợ Hoa Kỳ về mặt quân sự ở bất cứ nơi nào. Các lực lượng phòng vệ của Nhật cũng sẽ có quyền can thiệp tại một quốc gia thứ ba. Nói cách khác thỏa thuận song phương vừa được thông qua không còn giới hạn phạm vi can thiệp Mỹ-Nhật trong vùng chung quanh quần đảo Nhật Bản mà đã được mở rộng ra khắp nơi trên toàn cầu. Ngoại trưởng Hoa Kỳ, John Kerry đã nhấn mạnh : đây là một sự thay đổi lịch sử trong quan hệ chiến lược của trục Tokyo-Washington.
Tuy nhiên vế quân sự không là trọng tâm duy nhất chuyến công du Mỹ lần này của thủ tướng Nhật. Hoa Kỳ đang hướng tới thị trường rộng lớn của châu Á Thái Bình Dương. Nhật Bản là một điểm tựa của Mỹ để Washington nhanh chóng hoàn tất Hiệp ước Đối tác xuyên Thái Bình Dương, TPP. Về hồ sơ này, Mỹ-Nhật chia sẻ cùng quan điểm : cả hai cùng muốn giới hạn ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc trong khu vực. Bắc Kinh không ngừng lôi kéo các quốc gia trong vùng vào quỹ đạo của mình qua nhiều hiệp ước thương mại.
Giáo sư kinh tế, Mary Françoise Renard, giảng dậy tại đại học Clermont-Ferrand vùng Auvergne phân tích :
« Với Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, Hoa Kỳ muốn cô lập Trung Quốc về mặt kinh tế. Động cơ ban đầu không hẳn là kinh tế mà chủ yếu là chiến lược và quân sự, nhưng đương nhiên là sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế của Trung Quốc. Washington muốn tiếp tục nắm giữ một vai trò trọng yếu tại châu Á. Đó là điều mà Bắc Kinh không muốn trông thấy. Do vậy trong nhãn quan của Hoa Kỳ, Nhật Bản là đầu cầu để bắt vào thị trường châu Á » .
Đổi lại, Tokyo đề nghị với Washington một số những thỏa thuận có lợi cho cả đôi bên. Chẳng hạn như là dự án trang bị cho Hoa Kỳ xe lửa cao tốc của Nhật Bản (vận tốc tối đa có thể lên tới 600 km/ giờ). Mary Françoise Renard, đại học Clermont-Ferrand, Auverge cho biết thêm :
« Nhật Bản có mục đích mở rộng ảnh hưởng trên thị trường Mỹ, chủ yếu là để cưỡng lại sức cạnh tranh ngày càng lớn của các tập đoàn Trung Quốc. Có rất nhiều khả năng, đôi bên sẽ thảo luận về dự án xe lửa cao tốc. Cần phải nói là trong lĩnh vực này, Trung Quốc đang chiếm thế thượng phong và Nhật Bản thì đang tìm cách giành lại những thị trường đã mất. Ngoài ra, chuyến công du dài ngày của thủ tướng Abe lần này, cũng là cơ hội để Tokyo và Washington thảo luận về những hợp đồng kinh tế quan trọng khác ».
Điểm chót cần chú ý là hiện nay Hoa Kỳ đang khó xử về quá khứ quân phiệt của Nhật Bản, đặc biệt là đối với một đồng minh quan trọng khác của Mỹ ở châu Á là Hàn Quốc. Do vậy giới quan sát cho rằng, thủ tướng Shinzo Abe cần làm thay đổi hình ảnh của một nhà lãnh đạo có khuynh hướng diều hâu để trấn an Washington. Về điểm này bà Valérie Niquet, chuyên gia về chiến lược Châu Á, tác giả cuốn « Chine –Japon : L’affrontement » nhận định :
« Điều khiến Hoa Kỳ lúng túng, là hiềm khích giữa Nhật Bản với Hàn Quốc, hai đồng minh thân thiết của Mỹ tại châu Á. Đây cũng là những quốc gia, Mỹ đặt căn cứ quân sự. Washington muốn Tokyo và Seoul vượt qua những bất đồng về quá khứ »
Hãy chờ xem, trong bài phát biểu trước Quốc hội lưỡng viện của ông vào ngày mai 29/04/2015, thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe sẽ có chính thức xin lỗi về quá khứ quân phiệt đó hay không.
http://vi.rfi.fr/chau-a/20150428-my-nhat-mo-rong-hop-tac-quan-su-va-kinh-te-de-lam-doi-trong-voi-trung-quocNhật-Mỹ có thể thực hiện các cuộc tuần tiễu chung ở Biển Đông
Chiến đấu cơ FA-18 Hornet của Hải quân Mỹ trên boong tàu sân bay của tàu sân bay USS George Washington trong cuộc diễn tập hải quân chung thường niên trên biển với quân đội Nhật ngoài khơi miền nam Nhật Bản.
Tin liên hệ
TT Obama: Mỹ, Nhật tăng cường quan hệ không phải để gây hấn với TQ
Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama tuyên bố mối quan hệ đồng minh vững mạnh giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản không nên bị xem là một sự gây hấn đối với Trung Quốc
Reuters
29.04.2015
Quân đội Nhật Bản đang xem xét khả năng hợp tác với Hoa Kỳ để thực hiện các phi vụ tuần tiễu không phận Biển Đông như một phản ứng trước quyết tâm của Trung Quốc khẳng định chủ quyền trên hầu hết Biển Đông, được Tokyo và Washington cũng như nhiều quốc gia khác xem là thuỷ lộ thiết yếu cho các hoạt động thương mại quốc tế.
Hãng tin Reuters hôm nay trích các nguồn tin Nhật Bản và Mỹ hiểu biết về các cuộc thảo luận đang diễn ra giữa hai nước, nói rằng hai nước đồng minh đang cân nhắc giải pháp này trong bối cảnh hai bên vừa công bố các hướng dẫn quốc phòng mới nhân chuyến đi thăm Washington của Thủ tướng Shinzo Abe.
Chuyến công du Mỹ lần này được coi là phản ánh các kế hoạch của ông Abe, mong muốn Nhật Bản đóng một vai trò an ninh lớn hơn trong khu vực và trên thế giới, ngoài việc trực tiếp bảo vệ biển đảo của chính nước này.
Nguồn tin Nhật Bản cho biết tuy chưa có kế hoạch cụ thể nào được đưa ra, Nhật Bản có thể tham gia các cuộc tuần tra trên Biển Đông với Mỹ, hoặc thực hiện các cuộc tuần tra trong vùng biển trải dài từ đảo Okinawa tới vùng biển phía Đông Trung Quốc.
Cho tới nay các cuộc thảo luận chỉ diễn ra trong nội bộ quân đội Nhật Bản, nhưng kế hoạch này sẽ cần được sự phê chuẩn của các giới chức chính phủ.
Các phi vụ trinh sát Biển Đông sẽ được thực hiện trên khu vực mà Trung Quốc đang đẩy mạnh các công trình cải tạo đất, xây đảo, để thiết lập quyền kiểm soát trên thực tế vùng biển này. Nếu được thực hiện, kế hoạch của Mỹ và Nhật Bản có phần chắc sẽ làm cho Bắc Kinh phẫn nộ.
Nhưng các quan chức quốc phòng ở Tokyo lo ngại rằng nếu Tokyo và Washington để yên, thì Trung Quốc rốt cuộc sẽ áp đặt quyền kiềm soát của họ trên các tuyến hàng hải, ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động thương mại của Nhật Bản. Reuters trích nguồn tin Nhật Bản nói rằng: "Tokyo muốn Trung Quốc hiểu rằng họ không có quyền sở hữu nguyên vùng biển này".
Một nguồn tin quân sự Mỹ cho biết quyết định khởi sự các chuyến bay trên không phận Biển Đông có thể hối thúc Tokyo yêu cầu Philippines cho Nhật tiếp cận các căn cứ không quân dựa trên các quy định liên quan tới công tác huấn luyện cứu trợ tai nạn trên biển, và các cuộc diễn tập hỗn hợp khác. Nguồn tin này nói thêm rằng nếu được Philippines chấp thuận, các phi cơ của Nhật Bản sẽ có khả năng thực hiện các phi vụ tuần tiễu kéo dài hơn.
Tuy nhiên, theo Reuters, một nguồn tin quân sự cấp cao Philippines cho biết điều này không khả thi trong các điều kiện hiện tại, bởi vì Manila không có một thỏa thuận hợp tác quân sự với Tokyo tương tự như hiệp ước quốc phòng giữa Manila với Washington, qua đó, tàu hải quân Mỹ được phép sử dụng các căn cứ của Philippines để tiếp nhiên liệu và sửa chữa khẩn cấp.
Tuy nhiên, Tổng thống Philippines Benigno Aquino -- một trong những người mạnh mẽ chống đối các hoạt động lấn biển xây đảo của Trung Quốc, sẽ gặp gỡ Thủ Tướng Abe ở Tokyo vào tháng Sáu tới đây, và khi đó, các vấn đề Biển Đông chắc chắn sẽ được mang ra thảo luận.Hôm thứ Ba, sau cuộc hội đàm với Thủ tướng Abe, Tổng thống Mỹ Barack Obama nói với các phóng viên rằng hai nước chia sẻ mối quan tâm về các hoạt động cải tạo đất và xây đảo nhân tạo của Trung Quốc ở Biển Đông và đã "tái khẳng định cam kết sẽ bảo vệ quyền tự do hàng hải theo tinh thần tôn trọng luật pháp quốc tế".
Nhà lãnh đạo Mỹ cho biết các hướng dẫn quốc phòng mới sẽ cho phép các lực lượng Mỹ và Nhật hoạt động linh hoạt hơn, và Nhật Bản sẽ "đảm nhận trách nhiệm và vai trò lớn hơn trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương".
TQ lo ngại về tuyên bố của ASEAN
- 28 tháng 4 2015
Trung Quốc “vô cùng lo ngại” về Tuyên bố của ASEAN liên quan vấn đề Biển Đông, nhắc đến việc tôn tạo, bồi đắp đang diễn ra ở Biển Đông.
Hôm thứ Ba, người phát ngôn của Trung Quốc, Hồng Lỗi, nói Biển Đông không phải là vấn đề tranh chấp giữa ASEAN và Trung Quốc.
“Trung Quốc đã rất kiềm chế,” ông Hồng tuyên bố.
Ngày 28/4, sau khi bế mạc hội nghị cấp cao tại Malaysia, ASEAN đã ra Tuyên bố Chủ tịch về các vấn đề khu vực và quốc tế, trong đó có vấn đề Biển Đông.
Tuyên bố viết: “Chúng tôi chia sẻ quan ngại sâu sắc của các Lãnh đạo về việc tôn tạo, bồi đắp đang diễn ra ở Biển Đông, làm xói mòn lòng tin, sự tin cậy và phương hại đến hòa bình, an ninh và ổn định ở Biển Đông.”
“ Do đó, chúng tôi chỉ đạo các Bộ trưởng Ngoại giao khẩn cấp xử lý vấn đề này một cách xây dựng thông qua các khuôn khổ của ASEAN như quan hệ ASEAN -Trung Quốc cũng như nguyên tắc về cùng chung sống hòa bình.”
Các nguồn ngoại giao nói với hãng tin Reuters rằng Việt Nam và Indonesia đã nêu lo ngại khi họp, buộc chủ nhà Malaysia phải đưa vấn đề vào tuyên bố sau cùng.Tuyên bố này nói: “Tuy ghi nhận tiến triển trong tham vấn về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), chúng tôi yêu cầu tăng cường tham vấn hơn nữa để bảo đảm nhanh chóng xây dựng được một Bộ quy tắc COC hiệu quả.”
Saturday, April 25, 2015
PHẠM KIM * HỒI KÝ
Hồi Ký Về Những Giờ Phút
Chót
Tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân VNCH - cuối tháng 4-75
Phạm Kim
Tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân VNCH - cuối tháng 4-75
Phạm Kim
1- Tư Lệnh HQ, Đáp Ứng Tình Hình Di Tản Lễ nhậm chức và bàn giao của tân Tư Lệnh Hải Quân diễn ra vào trưa ngày 24 tháng 3-75 có khoảng 7 Tư Lệnh các vùng đứng một hàng ngang trước bàn có cờ 3 sao Tư Lệnh. Sĩ quan báo chí hiện diện góc cử bên cạnh Trung Tá Khanh để quan sát và tường thuật, trong văn phòng Tư Lệnh nhỏ nhắn trên lầu hai nằm bên tay mặt của trụ sở Bộ Tư Lệnh trông ra bến Chương Dương.
Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang lúc đó đang là Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô, một trong vài “chỗ” sáng giá, quan trọng nhất chung quanh Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Ông được đổi về gấp nhậm chức Tư Lệnh Hải Quân lần thứ nhì sau khi đã rời Hải Quân trên 10 năm về trước. Điều này cho thấy kế hoạch “di tản và lui binh” là mối quan tâm nhất của Tổng Thống Thiệu trong việc bổ nhậm chức vụ này. Ông Cang thổ lộ rằng “nếu tôi còn ở vị trí Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu, thì sẽ ở lại Sài Gòn tử thủ“.
Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang lúc đó đang là Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô, một trong vài “chỗ” sáng giá, quan trọng nhất chung quanh Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Ông được đổi về gấp nhậm chức Tư Lệnh Hải Quân lần thứ nhì sau khi đã rời Hải Quân trên 10 năm về trước. Điều này cho thấy kế hoạch “di tản và lui binh” là mối quan tâm nhất của Tổng Thống Thiệu trong việc bổ nhậm chức vụ này. Ông Cang thổ lộ rằng “nếu tôi còn ở vị trí Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu, thì sẽ ở lại Sài Gòn tử thủ“.
Lễ Bàn Giao trầm lắng, căng thẳng đó gồm cả những người đã có bất hoà trước đây với cá nhân tân Tư Lệnh cũng hiện diện còn có mặt khoảng 10 vị sĩ quan chỉ huy cao cấp trong đó có: Phó Đề Đốc Nghiêm Văn Phú (từ Đồng Tâm-Mỹ Tho), Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng (từ Cần Thơ)…, một vài vị khác như Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại rối bời tại BTL-HQ vùng I không về được…
Chỉ vài ngày sau ngày nhậm chức ông đã thành lập đơn vị Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 bao gồm những Giang Đoàn Ngăn Chặn và nhiều Căn Cứ Hải Quân do Đại Tá Lê Hữu Dõng là tư lệnh, với sự đóng góp đáng kể của Phó Đề Đốc “Phú Già“, là minh chứng cho sự xóa bỏ những dị biệt bất hòa thời “âm mưu đảo chánh trong Quân Chủng năm xưa“.
Tân Tư Lệnh Chung Tấn Cang lúc đó có cấp bậc cao nhất Quân Chủng, và ngang cấp với các tư lệnh quân-binh chủng khác, dễ dàng nói chuyện với Dinh Độc Lập và Bộ Tổng Tham Mưu. Trong những ngày giờ dầu sôi lửa bỏng đó, quả ông đã quan tâm thực sự đến kế hoạch “Di Tản” một cách chặt chẽ, với tiêu chuẩn phải mang đi được nhiều tướng lãnh, quân nhân của các quân binh chủng khác, cùng dân chúng và Hải Quân, dĩ nhiên.
Và ông thường xuyên có mặt trong Trung Tâm Hành Quân thuộc Bộ Tư Lệnh Hành Quân Lưu Động Biển, trong tầng Ba một cao ốc tân kỳ mới xây vài năm. Ông có phong thái bề thế chỉ huy oai nghiêm như một Tổng Tham Mưu Trưởng chiến trường Lục Quân. Phó Đô Đốc Cang liên lạc hàng ngang với Tổng Thống và giới chức cao cấp nhất của Tổng Tham Mưu, cũng như bên Biệt Khu Thủ Đô.
2- BTL/HQ Và Cuộc Di Tản QK1 & Tướng Trưởng
Tư Lệnh Chung Tấn Cang theo dõi giải quyết cuộc di tản và tình hình trận liệt ngoài Quân Khu 1 và Đà Nẵng từ Trung Tâm Hành Quân-BTL-HQ. Ông biết từng bước đi của Tướng Bộ Binh, Tướng Không Quân và các đơn vị tác chiến với những khi tạm trú trong căn cứ HQ Đà Nẵng hoặc TTHQ-SĐ/TQLC, hoặc với Phủ Tổng Thống mỗi ngày hoặc qua Trung Tá Khanh-Chánh Văn Phòng Tư Lệnh.
Tướng Trưởng, Tướng Lân, Tướng Khánh, Phó Đề Đốc Thoại… thường xuyên họp tham mưu tại TTHQ/ Sư Đoàn TQLC hiện đóng tại Non Nước (Đà Nẵng). Trong khoảng thời gian này hai sĩ quan của BTL Sư Đoàn TQLC vừa trúng pháo của VC khi đang trên mặt nước để lên chiến hạm, đó là Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc và Trung Tá Đỗ Hữu Tùng, theo như lời thổ lộ của Trung Tâm Trưởng TTHQ/SĐ/TQLC Trần Vệ và sĩ quan TQLC, Tô Văn Cấp. Vào phút chót Trung Tướng Trưởng đành bó tay, đã rời bỏ Quân Khu I… Nếp đạo đức, khôn ngoan và thói quen chịu đựng đau đớn cho thấy ông tướng danh tiếng này, vượt thắng hơn sự tính toán của TT Thiệu… Theo lời một sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến kể lại sau này viết lại trên trang Báo Đa Hiệu của Hội Cựu SVSQ Võ Bị Đà Lạt. Những chi tiết này cũng phù hợp với lời Tướng Thoại kể lại hình ảnh Đà Nẵng rối loạn chiều 28 tháng 3. “Tướng Trưởng ngồi lẻ loi trên ghế bố cùng với Đại Tá TLP/TQLC Nguyễn Thành Trí và độc nhất một anh lính truyền tin Bộ Binh, (từ chiều tối 28) chờ ôm poncho lội nước để lên Hải Vận Hạm 402 vào lúc 10 giờ sáng ngày 29-3, thay vì tin theo lời hứa hẹn của Sài Gòn là: “Cứ ở yên trong đó không lội ra khơi chờ đến khi có HQ 404 vô đón”. Và ông đã mặc bộ quân phục vải xám của Hải Quân trong suốt thời gian tạm trú trên tầu“.
Dù theo dõi chặt chẽ, nhưng thực ra Trung Tâm Hành Quân HQ ở Sài Gòn không nắm vững được phương vị di chuyển của Tư Lệnh Quân Đoàn 1, Tướng Ngô Quang Trưởng: Khi ông ra tới Chiến Hạm HQ 402 chuyển sang HQ 404. Trong lúc đó Tư Lệnh Hồ Văn Kỳ Thoại vẫn còn đang chỉ huy tóan thám sát với hai cận vệ, lên Núi Tiên Sa tìm bãi biển an toàn (vì lúc ấy các bãi biển Đà Nẵng quân dân chạy giặc đã trở thành vô cùng nguy hiểm, hỗn loạn). Dự trù bãi cát chân núi Tiên Sa an toàn, kín đáo để tàu Hải Quân có thể vô đón thân nhân HQ, Thủy Quân Lục Chiến và anh em SĐ3 BB. Toán “thám sát-tiền phương” bị kẹt lại mãi cho đến khi người bạn là Trung Tá Thiệp (cựu Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn 22 Xung Phong- Nhà Bè sau này chỉ huy Cảng Đà Nẵng) dùng Hải Thuyền vô đón, được chuyển lên PCF rồi lên HQ 802 cùng với Tư Lệnh SĐ3 BB-Nguyễn Duy Hinh về Quy Nhơn cùng tử thủ…
Em trai của Phó Đề Đốc Thoại là Thiếu Tá Hồ Văn Kỳ Tường, Hạm Phó HQ-5, đã cầm tận tay công điện Mật của chính Tổng Thống giao cho Tướng Trưởng và nói: “Tổng Thống muốn Trung Tướng theo tiểu đỉnh trở lại đất liền để tiếp tục chỉ huy”. Sau khi đọc công điện một lúc khá lâu, Tướng Trưởng đã xin với Sài Gòn để được cùng với TQLC “tiếp tục chỉ huy,) chuyển từ HQ 402 qua HQ 404 được gọi là: “Bộ Tư Lệnh Nổi: Hải Vận Hạm HQ 404″”… (Thực ra không ai rõ ngày giờ ấy: Tướng Trưởng đang ở chiến hạm nào? Những chi tiết này cũng được chính Tướng Thoại xác nhận.)
Những quyết định từ Trung Ương sau một khoảng thời gian chờ đợi, đồng ý cho Trung Tướng Trưởng được theo Hải Vận Hạm Hương Giang HQ 404 xuôi về Nha Trang, Phan Rang về đến Sài Gòn. Vào buổi chiều ngày 18 tháng 4, khoảng 4-5 giờ chiều gần đến giờ về nhà, Trung Tá Khanh cho gọi Sĩ Quan Báo Chí lên Trung Tâm Hành Quân. Tôi trình diện và ngồi cách Đô Đốc Tư lệnh một khoảng cách chỉ để ghi nhận và nghe ông căn dặn một vài việc. Nhưng tai tôi nghe qua tiếng máy loa khuếch âm: tin từ Đà Nẵng gọi về Trung Tâm Hành Quân (thuộc Khối Hành Quân-Hải Quân) cho Tư Lệnh Chung Tấn Cang theo dõi tin tức “một oanh tạc cơ không rõ của Không Quân VN hay Hoa Kỳ đã bắn lầm một Chiến Hạm (có tướng lãnh hiện diện trên HQ3, HQ 404 hay HQ 802-có hàng tướng lãnh như Tướng Trưởng, Tướng Minh hoặc Tướng Thoại?). Trên đường trên đường xuôi Nam về BTL ở SàiGòn..” Tôi thấy hình như ông không chen vào các tin tức nội bộ này. Tin này làm cho tôi liên tưởng tới một vụ (có lẽ A-37) oanh tạc nhầm Hộ Tống Hạm Vạn Kiếp trong giai đoạn biến động này, gây cho vài sĩ quan và thủy thủ tử vong… mà không ai nói tới sự kiện máy bay mình oanh tạc lầm… mà lại cho VC “công trạng” bắn trúng Tầu. Tôi thường kiểm chứng lại sự thực xảy ra nơi chiến trường, và cũng từ Tư Lệnh Hồ Văn Kỳ Thoại kể lại sau này…
Cũng khoảng thời gian này nghe tin vào khoảng sau 5 giờ chiều có tin chiến hạm trên đường xuôi Nam HQ 503 bị trúng đạn, gây cho khoảng 4 sĩ quan cùng với nhân viên, thủy thủ trúng thương và tử nạn.
… “Một sĩ quan-tử nạn”, chính tôi được nghe qua loa khuếch âm truyền tin báo cáo trúng đạn là “HQ Trung Úy CB Nguyễn Độ”, dân Sài Gòn cũng là bạn cùng thụ huấn quân trường. Tin chiến sự này cứ ám ảnh trong lòng như chưa quên…
Một sĩ quan trẻ và Tướng Thoại cũng xác nhận họ có nghe về các nguồn tin ấy, và nghĩ rằng “hai sự kiện máy bay oanh kích, và pháo kích trúng đài chỉ huy chiến hạm có thể cách nhau phút chốc thời gian, nhưng lại cách nhau trong không gian - nhiều hải lý?...”
Không đầy một tuần sau, cái ngày Hải Quân và TQLC rời bỏ Đà Nẵng hỗn loạn. Khi chiến hạm có Tướng Trưởng về đến cầu tầu Tư Lệnh HQ, Báo Chí HQ cũng theo ra đón Tướng Trưởng, chứng kiến cảnh tượng Tướng Chức thay mặt Tổng Thống Thiệu tỏ rõ thái độ. Có tin “đồn” là Tướng Trưởng sau đó bị quản thúc cùng với một số tướng khác qua lệnh của Tướng Trần Văn Đôn. Sau này gặp lại Tướng Chức, ông không muốn xác nhận lại chuyện cũ. Tướng Thoại thì kể rằng “ông Trưởng là sĩ quan cao cấp hơn, làm sao tôi “dám”!!”
3- “Tuyến Thép Phan Rang” và Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh
Chỉ vài ngày sau khi Đà Nẵng thất thủ, Bộ Tư Lệnh Hải Quân đã muốn Phòng Báo Chí chuẩn bị các bài diễn văn soạn sẵn của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Đại Tướng Viên và Tư Lệnh Hải Quân nhằm nêu cao vai trò “Tư Lệnh Tuyến Thép” và một Sĩ Quan Báo Chí theo ra Nha Trang giao trực tiếp để trao tận tay các diễn văn và đề cao chiến dịch mới: “Tuyến phòng Thủ cuối cùng dự định tại Nha Trang, mang tên Tuyến Thép, do PĐĐ Hoàng Cơ Minh là Tư Lệnh Chiến Trường- là vinh dự cho HQVN”, nhưng lễ nghi quân cách và lệnh chưa kịp chính thức loan tải và phát thanh thì lãnh thổ kiểm soát của VNCH đã phải cắt thêm về tới Tuyến Thép Phan Rang. Rồi cũng từ Phan Rang, chưa kịp thực hiện những nghi lễ mang tính tuyên truyền, tử thủ và bảo vệ Tuyến Thép thì Tư Lệnh Hoàng Cơ Minh, lẫn sĩ quan báo chí BTL-HQ đã phải xuống theo Chiến Hạm HQ-3 xuôi Nam dọc theo bờ duyên hải để đón quân-dân di tản từ Phan Rang và các thành phố khác nữa về BTL-HQ. Thỉnh thoảng, có các ghe chở người được cho phép cặp sát chiến hạm.. Có chiếc ghe nói là “người nhà của TT Thiệu” để “hy vọng” được lên chiến hạm.
Tại Cam Ranh, Hải Quân Đại Tá Bùi Cửu Viên, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Cam Ranh đã đưa được cả Trung Tâm Huấn Luyện về được Sài Gòn trên những tàu LST. Cùng lúc Thiếu Tướng Tư Lệnh Nguyễn Duy Hinh, các sĩ quan tham mưu và hơn trăm binh sĩ Sư Đoàn 3 Bộ Binh cũng được Đại Tá Viên đưa về Sài Gòn bằng tầu LST.
Tôi được nghe Trung Úy Y Sĩ -Phạm Anh Dũng kể lại, “SĐ3 chúng tôi có lệnh ra Bà Rịa trình diện. Nhưng khi tôi ra đến nơi, không gặp sĩ quan nào cả trong Tiểu Đoàn 3 Quân Y, nên phải về lại Sài Gòn.” Kế hoạch Tuyến Thép Cuối Cùng Phan Rang cũng thất bại).
Tuyến Thép thành tan hoang!
Tôi, sĩ quan được Trung Tá Linh cử đi công tác Báo Chí, chưa tới nơi gặp được Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh ở Phan Rang, thì có tin Nha Trang thất thủ. Trên chiến hạm về Sài Gòn tôi gặp Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh, có cơ hội gặp gỡ trong phòng ăn Sĩ Quan của Chiến Hạm, cùng những lúc chen chân giữa quân nhân tác chiến, và heo gà trên chiến hạm kêu oang oác, ồn ào. Tướng Minh và tôi là một trong số những người về trên chiến hạm HQ-3 khẩn cấp về Sài Gòn nhanh chóng hơn, thay vì ngừng lại ở một số nơi, như HQ 503 bị về bến chậm lại một vài ngày. Tôi có nghe tin một số chiến hạm đã đụng độ; HQ 11 và HQ 503 đã bị trúng đạn nặng nề, thê thảm (vào ngày 18-4).
Đây là dịp tôi có giờ trò chuyện riêng tư với Tướng Minh. Chúng tôi kể lại thời ăn cơm chung giữa chúng tôi với nhà văn HQ Trung Úy Chu Sĩ Lương từng là Sĩ Quan Báo Chí BTL HQ khoảng thời gian với Trung Úy Trần Trọng Thức (sau này rời Quân Đội sớm). Chu Sĩ Lương về phụ trách Báo Chí cho Tướng Minh, chúng tôi nhắc đến HQ Trung Úy Lê Rĩnh; HQ Trung Tá Lê Công Bình (người có mối liên hệ chặt chẽ với ông Chơn, sau này cả hai đều đi tù cải tạo nhiều năm); Thiếu Tá Phi Đoàn Trưởng Thần Trùy 211-Nguyễn Kim Hườn (vài năm đến Cali, đã sát cánh với Tướng Hoàng Cơ Minh), với Thiếu Úy KQ-ca sĩ Trần Thuỵ Chi (em vợ Trung Tá Trịnh Tiến Hùng) thường chở Tướng Minh trên trực thăng quan sát, những ngày tôi được quan sát cuộc hành quân Thủy Bộ. Ông tiếc cho buổi triển lãm tranh ở Hội Việt-Mỹ khai mạc đầu tháng Tư sẽ không có nhân vật chính là tôi về kịp tham dự… Tôi quý mến ông lắm, và nhìn thấy rõ nét thảm thương đau đớn. Chúng tôi ngậm ngùi chung về những mất mát…
Và chúng tôi lênh đênh như thế trên biển hơn 3 ngày, chen lẫn trong số hàng ngàn chiến binh: tướng tá di tản, trên cả 3 soái hạm, HQ 2, HQ 3, HQ 5 và bao gồm cả Dương Vận Hạm HQ 500
4- Hải Quân Họp Tiết Lộ Chi Tiết: Di Tản
Bộ Tư Lệnh Hải Quân và Đại Tá Nguyễn Xuân Sơn, Tư Lệnh Hạm Đội đã họp với khoảng 100 hạm trưởng các loại chiến hạm lớn nhỏ vào chiều ngày 26 tháng 4, ông Sơn tuyên bố rằng “lấy quyền: Tư Lệnh Hạm Đội thông báo đến quý vị hạm trưởng rõ ba chuyện: “1-Vũng Tầu, Phan Rang và Bộ Tổng Tham Mưu đã tan rã, 2- địa điểm Sư Đoàn 3 Không Quân đang bị dội bom, trong khi Hạm Đội HQ còn an toàn và nguyên vẹn, 3- chúng ta chuẩn bị tinh thần có thể di chuyển về Phú Quốc.”
Chỉ vài ngày sau hôm 28-4 Đại Tá Sơn bị “cách chức”, người thay thế là Đại Tá Khuê. Ông Khuê tuyên bố trong buổi họp đầu tiên để trấn an và đánh lạc hướng: “Di tản không còn là vấn đề phải đặt ra nữa vì Hoa Kỳ đã giúp ta thả bom CBU ở Xuân Lộc, … ta sẽ thắng...”
Vào sáng sớm ngày 29-4 lại có một cuộc họp tham mưu cao cấp cho biết: “nếu không có một phản lệnh nào khác, thì toàn bộ Hạm Đội sẽ rời Bộ Tư Lệnh Sài Gòn vào lúc “Không Giờ”- Khuya 29 rạng 30, các hạm trưởng cứ thế mà tuân hành.”
Trong khi đó thì Phó Đề Đốc Nguyễn Thanh Châu cũng có mặt gần Sài Gòn, ông thường xuyên có mặt tại “nút chặn” Căn Cứ Hải Quân Cát Lái, cùng với toán Quân Cảnh và toán nhân viên làm một nút chặn ngay tại ngoài tuyến đường lộ gần căn cứ, nơi được đặt là trại tị nạn cho quân nhân và đồng bào về từ Phú Quốc. Trong lúc đó có tin không chính thức sau buổi họp “HQ Đại Tá Trần Văn Triết điều khiển kiểm soát vòng đai Hải Quân Sài Gòn?“. Ông Triết có sẵn một tầu riêng đậu gần HQCX, đề nghị cho cả gia đình 3 người (mẹ già và vợ chồng ông Liễm) cùng đi với Trung Úy Vy cùng vợ con.
Vài sĩ quan cho biết: cũng như rất nhiều sĩ quan khác, đã bị ngăn cản không vào được “Nút Chặn-Trại Sĩ Quan Cửu Long” theo lệnh của Đại Tá Triết. Chỉ huy trưởng và vài nhân viên cuối cùng rời đơn vị được giao bảo vệ vào “giờ thứ 25” lúc 9 giờ tối 29-4. Trong giờ phút đen tối ấy, lại may mắn gặp Đại Tá Đỗ Kiểm đang liên lạc gia đình (thất lạc) vẫn chưa lên tàu, đi lòng vòng trong Hải Quân Công Xưởng- Đại Tá Kiểm lại hỏi “tại sao anh chưa đi?” và cho biết “Bộ Tư Lệnh HQ đã được lệnh giải tán từ 2 giờ chiều (ngày 29-4)“. Thiếu Tá Liễm, chỉ huy trưởng Biệt Đội Chiến Tranh Chính Trị-Hải Quân, trước đó cũng không được biết bất cứ một tin tức, không được ai, kể cả nhà thơ Phan Minh Hồng tại BTL-HQ hứa liên lạc khi có biến chuyển và lệnh “tan hàng”.
Ông Liễm vẫn còn bám trụ chỉ huy 4 đơn vị bao gồm Nút Chặn Trại Cửu Long và NewPort. Cả giờ sau khi gặp Đại Tá Đỗ Kiểm, giống như ông Hùng kể lại, người quân nhân mang lon thiếu tá Hải Quân, dù quen mặt cố gắng muốn được qua cầu (thì bị người sĩ quan gác cầu, không xa lạ, lại chĩa súng đòi bắn). May cho ông vừa đúng lúc, được Trung Úy Vy (phụ tá của Đại Tá Triết) trọ ở nhà ông Liễm, lái xe chở vợ con qua cầu vào HQCX, có chìa khóa riêng mở dây xích khóa hai bên cầu Ava-lăng vào HQCX. Một nhân chứng gặp được Thiếu Tá Bá Hạm Trưởng, quen biết nên được cho lên tầu HQ-801, tại vị trí 4, HQCX, và hạm trưởng cho LCVP về đón vợ con, đón Thiếu Tá Vũ Trạch người về từ Đà Nẵng, Cha Dụ, anh em Cha Vũ Thành. và mấy chục người bà con của LM Dụ từ Nhà Thờ Hiển Linh. Những nhân chứng này kể lại, họ lên Tầu đầy đủ, thì HQ 801… rời bến. Trước đó nhóm người xuống Tầu không đi kèm hạm trưởng, vẫn bị lính canh “đuổi lên”.
Mỗi khi Hạm Trưởng Bá đích thân dắt tay ai đến tận cầu thang thì mới được lên. Có người hỏi Hạm Trưởng Bá “chừng nào tầu rời bến?”, Hạm Trưởng Bá tránh né trả lời: “không biết bao giờ đi?”… Nhưng chỉ khoảng mươi phút sau, khi hạm trưởng đã lên HQ 801.. rồi, thì tầu rời bến.
Theo lời kể của HQ Đại Tá Bùi Cửu Viên, hạm trưởng kinh nghiệm về Dương Vận Hạm (loại LST có tên: Mỹ Tho, Cần Thơ…) thì “HQ 801 khi rời HQCX khoảng 8 giờ 30 tối, với một máy chánh bất khiển dụng… HQ 801 gặp Soái Hạm Trần Hưng Đạo mắc cạn ở Quatre bras – quá nửa đường Sài Gòn-Vũng Tàu)“.
Sự kiện HQ-1 bị mắc cạn được HQ 801 trợ giúp theo lời Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại: ”Có tin nói rằng Hạm Trưởng Soái Hạm Trần Hưng Đạo HQ1, Nguyễn Địch Hùng (khóa 4 Brest) về nhà đường Trần Hoàng Quân đón vợ đến hơi chậm sau 8 giờ tối mà chưa tới nên, bị “bỏ” ở lại; vì trên tầu được một trong hai ông Phó Đề Đốc hiện diện “lấy quyền” chỉ huy bắt HQ 1, rời bến sớm hơn- dù hạm trưởng chưa về kịp..”.
Riêng Hạm Trưởng Đinh Mạnh Hùng của HQ 2- mang tên Trần Quang Khải- còn nhớ lại: “Vào lúc 5 giờ 30 chiều 29-4-75, cơn mưa chiều vừa tạnh, khi chuẩn bị xuống chiến hạm, chuẩn bị công tác chiến dịch “Di Tản-Lui Binh”, có nhìn thấy vài Sĩ Quan từng quen thuộc trước đây ở tại Bộ Tư Lệnh.” Hơn ba thập niên sau, theo lời kể lại của Hạm Trưởng Hùng thì: “Ông Ưng Văn Đức cùng một Thiếu Tá nói với Hạm Trưởng Hùng “thi hành lệnh của Đại Tá Triết không cho hạm trưởng và nhân viên, hoặc bất cứ ai được xuống tầu di chuyển nếu không do chính Đại Tá Triết cho phép“..
Hạm Trưởng Đinh Mạnh Hùng (nay ở Seattle) cũng thuật lại tương tự ”chính tôi đã bị cản lại không được xuống tầu, tôi đã phải dùng máy liên lạc cho một tiểu đỉnh đến đón ở bờ sông trước nhà hàng Majestic, và lên tầu phía tả hạm, bằng thang dây..“.
Riêng Hạm Trưởng Đinh Mạnh Hùng của HQ 2- mang tên Trần Quang Khải- còn nhớ lại: “Vào lúc 5 giờ 30 chiều 29-4-75, cơn mưa chiều vừa tạnh, khi chuẩn bị xuống chiến hạm, chuẩn bị công tác chiến dịch “Di Tản-Lui Binh”, có nhìn thấy vài Sĩ Quan từng quen thuộc trước đây ở tại Bộ Tư Lệnh.” Hơn ba thập niên sau, theo lời kể lại của Hạm Trưởng Hùng thì: “Ông Ưng Văn Đức cùng một Thiếu Tá nói với Hạm Trưởng Hùng “thi hành lệnh của Đại Tá Triết không cho hạm trưởng và nhân viên, hoặc bất cứ ai được xuống tầu di chuyển nếu không do chính Đại Tá Triết cho phép“..
Hạm Trưởng Đinh Mạnh Hùng (nay ở Seattle) cũng thuật lại tương tự ”chính tôi đã bị cản lại không được xuống tầu, tôi đã phải dùng máy liên lạc cho một tiểu đỉnh đến đón ở bờ sông trước nhà hàng Majestic, và lên tầu phía tả hạm, bằng thang dây..“.
Thursday, February 19, 2015
VŨ TRỌNG PHỤNG * ĂN MỪNG
Ăn mừng
Bữa nay cụ Phán Uyên, đã được hiểu rõ cái gì là cái vinh quang, những đồ mừng quý giá, những tấm câu đối đỏ treo la liệt khắp tường, đã đủ an ủi về số tiền bỏ ra. Cái cảnh "ăn uống ầm ầm" hai hôm nay không khiến cụ sốt ruột nữa. Đọc những chữ chúc mừng rất văn chương bằng dạ đen trên nền đỏ, cụ mới khám phá ra rằng: chao ôi thì ra mình xưa nay vẫn có nhiều đức tính mà chính mình không biết, để mà sướng như một kẻ chết được lắm câu đối khóc có thể được thỏa cái vong hồn...
Thật là linh đình, và vui vẻ. Thật là vinh dự cho tổ tiên.Trong hai ngày ăn uống thì hôm qua để cho họ hàng và con cháu trong nhà. Chính hôm nay mới là để mời khách ở tỉnh. Đây, bàn các bạn đồng sự của cụ, phần nhiều là nhà nho, số đông đã có nhiều phẩm hàm, huy chương. Tô điểm cho dăm đám người ấy có một quan Bố và một quan Phủ, họ bên nhà vợ của cụ, và đã làm cho cụ tăng thêm sĩ diện. Kia là bàn các ông cũng tai to mặt nhớn thuộc tân học, bạn hữu của "anh tham" nghĩa là vào hàng con cháu cụ mà thôi. ở buồng xép bên cạnh thì các cô đốc, cô giáo, bạn hữu của con gái cụ vậy. Ai cũng về dự tiệc vui vẻ và đông đủ.
Thì phải biết cái cách xử thế xưa nay cụ là tròn trĩnh thế nào! Một khi cụ đã về làng thì cũng phải thế nào cho đẹp mặt với người làng! Khách tỉnh về tới tấp hết lượt này đến lượt khác, phần nhiều bằng xe nhà, và có cả hai chiếc xe hơi đỗ ngoài cửa đình nữa! Nghĩ như thế, cụ lại kiêu ngạo như một đứa bé con...
- Chúng mày đâu cả rồi! Rõ thế đấy! Ngần ấy con người để sai bảo mà gọi lấy thêm có một ít dấm nữa cũng không đứa nào đi lấy được đấy!Lời gắt của cụ lẫn lộn mất vào tiếng đàn, tiếng trống, tiếng hát, tiếng phách... Cụ nhìn trước nhìn sau, lắc đầu thở dài... Vì có ba tên người nhà thì hai đứa đương bưng những bát cỗ mới hâm cho những bàn ở xa, còn một đứa thì đương chới với, buộc bánh pháo dài vào ống máng.
Thật là linh đình, và vui vẻ. Thật là vinh dự cho tổ tiên.Trong hai ngày ăn uống thì hôm qua để cho họ hàng và con cháu trong nhà. Chính hôm nay mới là để mời khách ở tỉnh. Đây, bàn các bạn đồng sự của cụ, phần nhiều là nhà nho, số đông đã có nhiều phẩm hàm, huy chương. Tô điểm cho dăm đám người ấy có một quan Bố và một quan Phủ, họ bên nhà vợ của cụ, và đã làm cho cụ tăng thêm sĩ diện. Kia là bàn các ông cũng tai to mặt nhớn thuộc tân học, bạn hữu của "anh tham" nghĩa là vào hàng con cháu cụ mà thôi. ở buồng xép bên cạnh thì các cô đốc, cô giáo, bạn hữu của con gái cụ vậy. Ai cũng về dự tiệc vui vẻ và đông đủ.
Thì phải biết cái cách xử thế xưa nay cụ là tròn trĩnh thế nào! Một khi cụ đã về làng thì cũng phải thế nào cho đẹp mặt với người làng! Khách tỉnh về tới tấp hết lượt này đến lượt khác, phần nhiều bằng xe nhà, và có cả hai chiếc xe hơi đỗ ngoài cửa đình nữa! Nghĩ như thế, cụ lại kiêu ngạo như một đứa bé con...
- Chúng mày đâu cả rồi! Rõ thế đấy! Ngần ấy con người để sai bảo mà gọi lấy thêm có một ít dấm nữa cũng không đứa nào đi lấy được đấy!Lời gắt của cụ lẫn lộn mất vào tiếng đàn, tiếng trống, tiếng hát, tiếng phách... Cụ nhìn trước nhìn sau, lắc đầu thở dài... Vì có ba tên người nhà thì hai đứa đương bưng những bát cỗ mới hâm cho những bàn ở xa, còn một đứa thì đương chới với, buộc bánh pháo dài vào ống máng.
Cụ toan tiến bước xuống phía nhà bếp thì chợt một bàn tay nắm cụ lại, trước một câu nói sốt sắng thế này:- Cụ ơi, cụ hãy vào đây với con!Đó là một khách trẻ tuổi, mà cụ không nhớ rõ tên, âu phục chải chuốt khiến cụ kính nể lắm.- Con tấp tểnh cũng làm được một bài hát để mừng cụ, chẳng biết hay dở như thế nào, xong cũng xin mạn phép các quan khách đây một phen...Người ấy mời cụ ngồi xuống ghế, đưa ra một bài thơ bằng mực đen giấy trắng, lại nhét luôn cả cái dùi trống vào tay cụ nữa, nói tiếp:- Bài hát mừng cụ thì xin cụ thưởng thức mấy tiếng trống cho chúng con cùng nghe.
Thẹn quýnh cả người, cụ Phán Uyên đẩy cái trống ra, ấp úng:- Văn chương của ông... thì xin... để phần ông, vì thật tình, tôi cũng không biết đánh trống cô đầu.Rồi cụ giương mục kỉnh lên đọc bài hát nói ấy; xong mỗi câu lại thấy mặt cụ vui tươi thêm lên. Sau cùng, cũng không biết bình phẩm dài lời, cụ chỉ đưa trả tác giả bài hát với cái dùi trống và từ chối:- Hay lắm! Nhưng mà tiếc rằng tôi không biết đánh trống, để xin ông cho nghe... Văn hay lắm!Khi đưa cho đào nương mảnh giấy, cụ rất hổ thẹn, thấy rằng mình quê mùa một cách đáng giận, và thú ả đào quả thật là một thứ văn chương tao nhã thật, chứ không phải chỉ là những trò bậy bạ như người ta vẫn nói xưa nay.
Cố nhiên, tác giả những câu hát nói kia nhất quyết chối từ. Cuối cùng, danh dự thưởng văn về tay người cao chức nhất bàn tiệc, là quan Bố Chánh, ông anh họ nhà vợ của cụ chủ. Quan Bố gọi cụ Phán đến ngồi bên mình, rót một cốc rượu nhỏ để trước mặt cụ, giao hẹn bằng một thứ tiếng đồng sang sảng, nghiêm nghị và đáng sợ như những lệnh ban ra giữa công đường:- Đây, cứ mỗi tiếng chát thì ông lại cạn một cốc rượu, vì mỗi tiếng chát của tôi không những là thưởng một câu văn mà thôi, nhưng còn đồng ý với tác giả để ca tụng cái cảnh phú quý, an nhàn của ông nữa.
Cố nhiên, tác giả những câu hát nói kia nhất quyết chối từ. Cuối cùng, danh dự thưởng văn về tay người cao chức nhất bàn tiệc, là quan Bố Chánh, ông anh họ nhà vợ của cụ chủ. Quan Bố gọi cụ Phán đến ngồi bên mình, rót một cốc rượu nhỏ để trước mặt cụ, giao hẹn bằng một thứ tiếng đồng sang sảng, nghiêm nghị và đáng sợ như những lệnh ban ra giữa công đường:- Đây, cứ mỗi tiếng chát thì ông lại cạn một cốc rượu, vì mỗi tiếng chát của tôi không những là thưởng một câu văn mà thôi, nhưng còn đồng ý với tác giả để ca tụng cái cảnh phú quý, an nhàn của ông nữa.
Mọi người vỗ tay, rồi có đến hàng mấy chục người nữa vỗ tay theo. Bên buồng xép ở tận trong kia, đám phụ nữ cũng bỏ đũa bát để đứng thấp thoáng trong mành nhìn ra, chú ý đến cái đại sự ấy nó làm tăng phần trang trọng cho cuộc vui tuy vậy trước vẫn tẻ ngắt. Cụ Phán Uyên xoa tay xin lỗi một cách hiền lành đáng tức cười:- Bẩm, mỗi tiếng chát lại một cốc rượu thì có lẽ cũng nhiều quá, vậy xin cho xong bài thì hãy cho một cốc.
Tuy có một vài cụ phản đối lại cụ phán để về bè với quan Bố nhưng sau cùng các quý khách cũng biết nể cái sức khỏe của mái tóc hoa râm. Rồi thì cô đào e hèm dọn giọng, rồi bác kép vặn lại dây đàn, rồi quan Bố tom tom tom cho khách ngừng đũa lắng tai nghe để trở nên một cử toạ nghiêm chỉnh.
Cành mai hạc đậu thêm xinh,
Bốn mươi năm nữa, khang ninh còn dài,
Ngày xuân cảnh thế tươi cười,
Đào nguyên há để riêng người ngày xưa!
Gia nhân chinh cát,
Trên tiệc đào kẻ trước dắt người sau.
..Cuộc trăm năm trời có hẹn ai đâu?
Tuy có một vài cụ phản đối lại cụ phán để về bè với quan Bố nhưng sau cùng các quý khách cũng biết nể cái sức khỏe của mái tóc hoa râm. Rồi thì cô đào e hèm dọn giọng, rồi bác kép vặn lại dây đàn, rồi quan Bố tom tom tom cho khách ngừng đũa lắng tai nghe để trở nên một cử toạ nghiêm chỉnh.
Cành mai hạc đậu thêm xinh,
Bốn mươi năm nữa, khang ninh còn dài,
Ngày xuân cảnh thế tươi cười,
Đào nguyên há để riêng người ngày xưa!
Gia nhân chinh cát,
Trên tiệc đào kẻ trước dắt người sau.
..Cuộc trăm năm trời có hẹn ai đâu?
Con hạc trắng bấy lâu về bến Nhuệ,
Mai cốt cách mai già mai vẫn thế
Đào nhởn nhơ đào thắm vẻ thêm xuân.
Lắng tai nghe tiếng chúc lẫn cung đàn,
Cất chén cúc mừng người trên thọ tịch,
Khách bạch ốc nào ai tiên trích
Xin dang tay "giật phịch" quả đào tiên..
.Cõi trần cũng có Đào nguyên.
Quan Bố ngất ngưởng đánh luôn: tom tom tom chát tom!Đoạn cụ gật gù nói rõ to:- Hay thật đấy chứ! Văn chương như thế mới gọi là tân thời... "Xin dang tay giật phịch quả đào tiên". Thế có lẳng lơ không? Chuyến này thì cụ phán nhà tôi sẽ vì câu thơ ấy mà cải lão hoàn đồng!
Mai cốt cách mai già mai vẫn thế
Đào nhởn nhơ đào thắm vẻ thêm xuân.
Lắng tai nghe tiếng chúc lẫn cung đàn,
Cất chén cúc mừng người trên thọ tịch,
Khách bạch ốc nào ai tiên trích
Xin dang tay "giật phịch" quả đào tiên..
.Cõi trần cũng có Đào nguyên.
Quan Bố ngất ngưởng đánh luôn: tom tom tom chát tom!Đoạn cụ gật gù nói rõ to:- Hay thật đấy chứ! Văn chương như thế mới gọi là tân thời... "Xin dang tay giật phịch quả đào tiên". Thế có lẳng lơ không? Chuyến này thì cụ phán nhà tôi sẽ vì câu thơ ấy mà cải lão hoàn đồng!
Quan Bố ngừng một lát, trông trước nhìn sau, rồi vẫy tay gọi một cô trong bốn cô đào rượu mải tiếp cho các quan khác gần đấy: - Này, cô kia! Cô áo đỏ kia! Lại đây đỡ hộ chén rượu cho chủ nhân cạn hộ đi.Khi cô đào trẻ tuổi đến đứng bên cụ phán, bẽn lẽn nâng cốc rượu thì nhanh như cắt, quan Bố đã nắm lấy một bên cánh tay cụ phán mà quệt một cái vào ngực cô ả, để rồi cười nức nở cắt nghĩa: - Này thì đây: xin dang tay giật phịch quả đào tiên! Các ngài đã thấy chưa?
Lúc ấy cụ Phán Uyên đương mải hớp chén rượu, cho nên khi cụ vội lôi được tay ra, cái cử chỉ bó buộc kia cũng đã xong hoàn toàn. Cụ thẹn đỏ cả mặt, sung sướng, đến ứa nước mắt, vì lúc ấy, cử toạ khen cụ sốt sắng như khi họ đi xem đá bóng mà gặp lúc có quả vừa sút vào gôn. Cụ vội vàng đứng lên chạy tuy không biết định chạy đi đâu, như người muốn đi trốn. Sau cùng, cụ đánh trống lảng bằng cách gọi đầy tớ ra mà mắng:-
Lấy thêm ít dấm tây vào bàn này! Sao mày đốn thế, mày để tao gào rát cả cổ!Tuy nhiên giọng gắt của cụ thật tình lúc ấy cũng không dữ tợn là mấy, vì cụ vẫn còn thấy rõ cái cảm giác dịu dàng về một bên ngực cô đào trẻ nó chưa tiêu tan hẳn mà lại còn như đọng quyện lại ở cả năm đầu ngón tay già nua đã mấy chục năm rồi chẳng còn biết gì là mùi xuân.
Lúc ấy cụ Phán Uyên đương mải hớp chén rượu, cho nên khi cụ vội lôi được tay ra, cái cử chỉ bó buộc kia cũng đã xong hoàn toàn. Cụ thẹn đỏ cả mặt, sung sướng, đến ứa nước mắt, vì lúc ấy, cử toạ khen cụ sốt sắng như khi họ đi xem đá bóng mà gặp lúc có quả vừa sút vào gôn. Cụ vội vàng đứng lên chạy tuy không biết định chạy đi đâu, như người muốn đi trốn. Sau cùng, cụ đánh trống lảng bằng cách gọi đầy tớ ra mà mắng:-
Lấy thêm ít dấm tây vào bàn này! Sao mày đốn thế, mày để tao gào rát cả cổ!Tuy nhiên giọng gắt của cụ thật tình lúc ấy cũng không dữ tợn là mấy, vì cụ vẫn còn thấy rõ cái cảm giác dịu dàng về một bên ngực cô đào trẻ nó chưa tiêu tan hẳn mà lại còn như đọng quyện lại ở cả năm đầu ngón tay già nua đã mấy chục năm rồi chẳng còn biết gì là mùi xuân.
Chợt thấy quan Phủ gọi cụ rồi nói một hồi dài:- Này chủ nhân ơi! Nhà nho là thâm lắm đấy nhé! Thôi xin các ngài cũng đừng ai nỡ ép duyên ông anh tôi nữa. Ông anh tôi đã trình bày cái cảnh ngộ éo le, khó xử, của ông anh tôi, ra với thiên hạ rồi! Đấy các cụ xem: quan Bố tôi vừa mới ép duyên xong thì ông anh tôi tức khắc gọi người nhà lấy thêm dấm. Chao ôi, thế thì ông anh tôi đã đủ thâm trầm hay chưa? Vì rằng trong Kiều có câu: Dấm chua lại tội bằng ba lửa nồng!Rất nhiều người lại vỗ tay ran, cười to đến vỡ nhà vỡ cửa. Một cụ bảo cô đào non áo đỏ:-
Này em ơi, thôi thế thì em cứ cam chịu ở trầm luân khổ hải thôi chứ người quân tử chẳng vớt em đâu!Một người trẻ tuổi đứng lên nói:- Thưa các cụ trăm điều chẳng qua chỉ tại tác giả cái bài hát nói ấy.Ông khách âu phục trẻ tuổi từ nãy ngồi lặng im vừa thẹn vừa kiêu ngạo về cái bài văn của mình, đương lắng tai nghe xem có ai thì thào chỉ trích gì không, bấy giờ đành phải đứng lên, đón đỡ:-
Bẩm các cụ, chúng tôi không ngờ rằng cụ Bố tôi đây ngài lại hiểu bài văn ấy một cách kỹ đến thế để mà đem lý thuyết thực hành ngay như thế.Quan Bố cười khà khà, lên râu bảo thiếu niên:- Thế thì đôi ta tri kỷ lắm chứ còn gì nữa! à quên, xin các cụ thưởng một cốc cho tác giả bài văn hữu tình. Chị áo đỏ đâu, chị lại mời ông ấy cho tôi một cốc nữa.
Này em ơi, thôi thế thì em cứ cam chịu ở trầm luân khổ hải thôi chứ người quân tử chẳng vớt em đâu!Một người trẻ tuổi đứng lên nói:- Thưa các cụ trăm điều chẳng qua chỉ tại tác giả cái bài hát nói ấy.Ông khách âu phục trẻ tuổi từ nãy ngồi lặng im vừa thẹn vừa kiêu ngạo về cái bài văn của mình, đương lắng tai nghe xem có ai thì thào chỉ trích gì không, bấy giờ đành phải đứng lên, đón đỡ:-
Bẩm các cụ, chúng tôi không ngờ rằng cụ Bố tôi đây ngài lại hiểu bài văn ấy một cách kỹ đến thế để mà đem lý thuyết thực hành ngay như thế.Quan Bố cười khà khà, lên râu bảo thiếu niên:- Thế thì đôi ta tri kỷ lắm chứ còn gì nữa! à quên, xin các cụ thưởng một cốc cho tác giả bài văn hữu tình. Chị áo đỏ đâu, chị lại mời ông ấy cho tôi một cốc nữa.
Lại vỗ tay...Nhưng chợt một ông khác, cũng trẻ tuổi, mặt đỏ nhất tất cả, đứng lên trịnh trọng nói:- Bẩm trên các cụ, dưới các ông...Mọi người giật mình lắng tai nghe biết là sắp có chuyện. Ông kia tiếp:- Quan Bố chánh thưởng tác giả bài hát nói ấy cốc rượu là vì nó có tính cách hữu tình. Tôi cũng xin hoan nghênh. Nhưng mà xong rồi thì tôi xin các cụ và các ông cho tôi phạt nhà thi sĩ ấy ba chén vì đó là một nhà thi sĩ tham lam!
Vì sao? Vì cụ phán nhà tôi đây bữa nay chỉ có khánh thành nhà mới thôi, vậy mà bài hát mừng có câu mừng cả tiệc thượng thọ nữa, thì, cái lối "tiện dịp" như thế là có hại cho tôi, vì sang năm đúng sáu mươi mà cụ phán tôi không khao thượng thọ nữa thì là lỗi ở nhà thi sĩ ấy. Vậy thì phải phạt.Tác giả bài hát nhìn quanh một lượt thấy trong dăm chục quan khách có một số đông gật gù biểu đồng tình với ông phản đối kia, thì rất lấy làm lo, bèn cãi:- Tôi xin uống ba chén rượu ông phạt!
Nhưng nếu sang năm cụ Phán tôi lại khao thượng thọ nữa, thì ông sẽ đáp tôi ra sao? Và có lẽ ông chưa nghe kỹ bài hát!Ông kia gân cổ lên, hùng hồn chẳng kém:- Tôi cho ông phạt trước tôi ba chén nữa, sau khi ông uống ba chén mà các cụ phạt ông!Nhiều người lên tiếng xôn xao, không chịu nhận trách nhiệm về ba chén rượu phạt ấấy, ông kia lại nói:- Sao tôi lại chưa nghe kỹ! Ông chả có câu: "Cất chén chúc mừng người trên thọ tịch" là gì!
Vậy ông thử đọc tất cả câu đối đây xem có ai mừng thọ tịch không?Có một người cãi hộ:- Nhưng mà thọ tịch ở đây là ý phụ không phải ý chính!Tham Châu vỗ vai ông kia, khẽ gắt:- Thôi đi, tôi van ông nữa, ông đừng gây sự thế! Ông say lắm rồi! Và ông uống ít chứ!- Thưa chú, tôi chưa say, và trước mặt công chúng thế này, xin chú đừng mắng tôi! Chú còn là đàn em biết chưa!Ông ấy vừa nói được có thế thì đã đưa tay lên giữ cổ, khòm lưng xuống, rồi nôn ồng ộc ngay ra đấy như một cái ống máng!
Thiên hạ ghê tởm quay nhìn đi chỗ khác và nhà thi sĩ thì khẽ so vai một cái hả hê. Đầy tớ mau quét dọn, trong khi Tham Châu nhăn nhó ôm xốc ông quý khách ấy vào bàn đèn thuốc phiện:- Các ông mau tiêm cho ông ấy một điếu cho giã rượu... Rõ khổ quá, cứ uống như một cái phễu!Tao Đàn, số đặc biệt về Vũ Trọng Phụng, số 1; tháng 12. 1939
Vì sao? Vì cụ phán nhà tôi đây bữa nay chỉ có khánh thành nhà mới thôi, vậy mà bài hát mừng có câu mừng cả tiệc thượng thọ nữa, thì, cái lối "tiện dịp" như thế là có hại cho tôi, vì sang năm đúng sáu mươi mà cụ phán tôi không khao thượng thọ nữa thì là lỗi ở nhà thi sĩ ấy. Vậy thì phải phạt.Tác giả bài hát nhìn quanh một lượt thấy trong dăm chục quan khách có một số đông gật gù biểu đồng tình với ông phản đối kia, thì rất lấy làm lo, bèn cãi:- Tôi xin uống ba chén rượu ông phạt!
Nhưng nếu sang năm cụ Phán tôi lại khao thượng thọ nữa, thì ông sẽ đáp tôi ra sao? Và có lẽ ông chưa nghe kỹ bài hát!Ông kia gân cổ lên, hùng hồn chẳng kém:- Tôi cho ông phạt trước tôi ba chén nữa, sau khi ông uống ba chén mà các cụ phạt ông!Nhiều người lên tiếng xôn xao, không chịu nhận trách nhiệm về ba chén rượu phạt ấấy, ông kia lại nói:- Sao tôi lại chưa nghe kỹ! Ông chả có câu: "Cất chén chúc mừng người trên thọ tịch" là gì!
Vậy ông thử đọc tất cả câu đối đây xem có ai mừng thọ tịch không?Có một người cãi hộ:- Nhưng mà thọ tịch ở đây là ý phụ không phải ý chính!Tham Châu vỗ vai ông kia, khẽ gắt:- Thôi đi, tôi van ông nữa, ông đừng gây sự thế! Ông say lắm rồi! Và ông uống ít chứ!- Thưa chú, tôi chưa say, và trước mặt công chúng thế này, xin chú đừng mắng tôi! Chú còn là đàn em biết chưa!Ông ấy vừa nói được có thế thì đã đưa tay lên giữ cổ, khòm lưng xuống, rồi nôn ồng ộc ngay ra đấy như một cái ống máng!
Thiên hạ ghê tởm quay nhìn đi chỗ khác và nhà thi sĩ thì khẽ so vai một cái hả hê. Đầy tớ mau quét dọn, trong khi Tham Châu nhăn nhó ôm xốc ông quý khách ấy vào bàn đèn thuốc phiện:- Các ông mau tiêm cho ông ấy một điếu cho giã rượu... Rõ khổ quá, cứ uống như một cái phễu!Tao Đàn, số đặc biệt về Vũ Trọng Phụng, số 1; tháng 12. 1939
TIỂU TỬ * MADE IN VIET NAM
Tiểu Tử
Made in Việtnam
ẽ ra bữa nay bác sĩ Lê không nhận bịnh nhân vì là ngày nghỉ trong tuần của ông. Nhưng hôm qua, trong điện thoại, nghe giọng cầu khẩn của người bịnh ông không nỡ từ chối. Người đó – ông đoán là một cô gái còn trẻ – nói chuyện với ông bằng tiếng Mỹ. Cô ta hỏi ông nhiều lần : Có phải ông là bác sĩ Lee không ?
Tên ông là Lê. Cái tên Việt Nam đó ở xứ Mỹ này người ta viết là " Lee ", nên ông được gọi là " ông Lee " ( Li ).
Ông ôn tồn trả lời nhiều lần :
- Thưa cô, phải. Tôi là bác sĩ Lee đây.
- Phải bác sĩ Lee chuyên về châm cứu và bắt mạch hốt thuốc theo kiểu á đông không?
- Thưa cô phải.
- Có phải phòng mạch của bác sĩ ở đường Green Garden không ?
Bác sĩ Lê, đã ngoài sáu mươi tuổi, tánh rất điềm đạm, vậy mà cũng bắt đầu nghe bực ! Tuy nhiên, ông vẫn ôn tồn :
- Thưa cô phải. Xin cô cho biết cô cần gì ?
Giọng cô gái như reo lên :
- Vậy là đúng rồi ! Con Cathy bị bịnh suyễn nói bác sĩ chữa bịnh hay lắm. Cả nhà nó, kể luôn ba má ông bà nó đều đi bác sĩ hết.
Đến đây thì ông bác sĩ già đó không kềm được nữa, ông xẵng giọng :
Cám ơn cô. Bây giờ xin dứt khoát cho tôi biết coi cô muốn cái gì ?
Giọng bên kia đầu dây như lắng xuống :
- Tôi xin lỗi bác sĩ. Xin lỗi. Tôi muốn xin bác sĩ cái hẹn cho ngày mai. Tôi bịnh…
- Mai là ngày nghỉ trong tuần, phòng mạch không có mở cửa. Ngày khác vậy.
- Ngày mai cũng là ngày nghỉ của tôi nữa, bác sĩ à.
- Cô đã bịnh thì cứ xin nghỉ để đi bác sĩ, ngày nào lại không được !
Một chút im lặng ở đầu dây bên kia rồi giọng người con gái bỗng nghe thật buồn :
- Họ đâu có cho nghỉ, bác sĩ. Họ nạt vô mặt :" Mầy muốn nghỉ thì mầy nghỉ luôn đi. Thiếu gì đứa muốn vào làm chỗ của mày. Mày biết không ?"
Giọng nói như nghẹn ngang ở đó, rồi tiếp :
- Không có việc làm là chết, bác sĩ à…
Ông bác sĩ già làm thinh, suy nghĩ. Đầu dây bên kia, cô gái van lơn :
- Xin bác sĩ thông cảm. Tôi sợ bịnh nặng hơn, không đi làm nổi nữa là mất việc. Xin bác sĩ thông cảm. Xin thông cảm
- Ờ thôi, để tôi ráng giúp cô. Sáng mai, chín giờ. Phòng mạch của tôi ở số…
- Cám ơn bác sĩ. Cám ơn ! Con Cathy có chỉ phòng mạch của bác sĩ rồi.
- Xin lỗi. Cô tên gì ?
- Kim. K, I, M.
Bác sĩ Lê vừa ghi vào sổ hẹn vừa nghĩ :" Tội nghiệp ! Chắc lại đi làm lậu nên mới bị người ta hâm he như vậy. Theo cách phát âm thì cô này có vẻ là người á đông. Tên Kim chắc là Đại Hàn. Để mình phải phone lại cô Cathy hỏi cho chắc ý kẻo gặp thứ lưu manh thừa dịp ngày nghỉ không có cô phụ tá, nó 'su' mình thì khổ ! "
Đúng chín giờ, chuông cửa phòng mạch reo. Ông bác sĩ già bước ra mở cửa. Đứng trước mặt ông là một cô gái á đông còn trẻ, ăn mặc theo kiểu " punk " : quần áo có tua có tụi, tóc dựng đứng hỗn loạn như con gà xước, đeo nhiều vòng sên bằng bạc to như dây lòi tói, đầy cổ đầy hai cườm tay, mang cái xắc đỏ cũng có tua có tụi. Bác sĩ Lê, quá đỗi ngạc nhiên, chưa kịp hỏi gì, thì cô gái nói bằng tiếng Mỹ rất lưu loát :
- Chào bác sĩ. Tôi là Kim, bịnh nhân đã gọi điện thoại cho ông hôm qua. Tôi có làm cho bác sĩ chờ không ?
Bác sĩ Lê chưa hết ngạc nhiên, trả lời một cách máy móc :" Không ! Không !". Rồi ông bước tránh qua một bên :" Mời cô !"
Vào phòng mạch, ông đưa cho cô cái áo blouse trắng ngắn tay :
- Cô đến phía sau bình phong bỏ hết quần áo chỉ mặc quần lót thôi, rồi khoác ngược áo blouse này, lưng áo nằm về phía trước.
Trong lúc cô gái loay hoay làm theo lời dặn, ông bác sĩ già gọi phone về nhà, nói bằng tiếng Việt :
- Bịnh nhân của anh tới rồi, đang thay đồ. Chắc một giờ nữa là xong. Em đợi anh về rồi mình đi chợ.
Cô gái bỗng ló đầu ra khỏi bình phong mỉm cười nhìn ông, gương mặt thật rạng rỡ, định nói gì nhưng rồi không nói, thụt đầu vào tiếp tục cởi quần áo.
Một lúc sau cô ta bước ra, mắt ngời lên sung sướng, nói bằng tiếng Việt, giọng như reo lên :
- Bác sĩ là người Việt Nam mà con cứ tưởng là người Tàu ! Tên " Lee " nghe Tàu trân!
- Ủa ! Vậy mà tôi cứ nghĩ cô là người Đại Hàn chớ !
Rồi cả hai cùng cười, cái cười rất sảng khoái. Tình đồng hương trên đất khách bỗng thấy thật ấm, thật đầy…Ông bác sĩ già nhìn cô bịnh nhân trẻ mặc áo blouse trắng đứng trước mặt ông mà không còn thấy cô gái " punk" hồi nãy nữa !
Ông đưa cho cô cái dĩa, rồi vừa chỉ cái giường cao vừa nói :
- Cô cởi hết đồ nữ trang để vào đây, rồi lên nằm trên này để tôi chẩn mạch.
Cô gái làm theo như cái máy.
Cô gái làm theo như cái máy.
Phòng mạch được trang trí rất đơn sơ, nhưng thật yên tịnh. Trong không khí có mùi thơm dìu dịu của moxa ( ngải cứu, đốt lên để hơ huyệt ). Cái giường khám bịnh cao ngang tầm tay của bác sĩ. Ở một đầu giường có gắn thêm một vòng bằng da để chịu cái đầu của bịnh nhân, và khi bịnh nhân nằm sấp để châm cứu trên lưng thì mặt người bịnh nằm trọn trong vòng da. Như vậy, người bịnh không cảm thấy khó chịu nhờ khoảng trống ở giữa vòng da giúp người bịnh vẫn thở đều đặn và mắt được nhìn thoải mái xuống sàn nhà.
Bác sĩ đặt hai bàn tay lên cánh tay trần của cô gái, ôn tồn hỏi :
- Cô bịnh làm sao ? Nói tôi nghe.
- Con ngủ không được, đêm nào cũng trằn trọc tới khuya. Hay bị chóng mặt. Đang đứng làm việc, tự nhiên muốn sụm xuống làm sợ toát mồ hôi. Con lo quá, bác sĩ. Mất việc làm chắc con chết quá, bác sĩ !
Ông Lê bóp nhẹ cánh tay bịnh nhân :
- Cô yên tâm. Có tôi đây. Mà…cô có uống rượu không ?
- Không. Dạ thưa không.
- Cô có hút thuốc không ?
- Dạ thưa có. Hút cũng nhiều…
- Cô có xì ke ma túy gì không ? Nói thiệt tôi nghe.
Mấy thứ đó con không dám rớ. Hồi ở bên nhà thằng anh con chết vì ba cái thứ ôn dịch đó, bác sĩ à. Vì vậy, con sợ lắm !
- Cô le lưỡi tôi coi.
- Ùm. Được rồi. Bây giờ cô nằm yên, để hai tay xuôi theo thân mình, nhắm mắt, thở đều đặn.
Ông bác sĩ già đứng cạnh giường đặt mấy đầu ngón tay lên cườm tay cô gái, chăm chú bắt mạch. Một lúc sau, ông bước vòng qua phía đối diện bắt mạch tay bên kia. Bộ mạch nói lên một sự rối loạn tâm thần. Cô gái này chất chứa quá nhiều ẩn ức nên sanh bịnh. Ông nhìn cô gái đang nhắm mắt thở đều : gương mặt Việt Nam đó, bỏ đi món tóc "punk", vẫn toát ra nét nhu mì dễ thương.
Ông cảm thấy tội nghiệp cô bịnh nhân trẻ này và thắc mắc không biết hoàn cảnh nào đã đưa đẩy cô ta trôi qua xứ Mỹ để có một cuộc sống mà ông đoán là thật bấp bênh, qua cuộc nói chuyện trong điện thoại. Ông nói :
Ông cảm thấy tội nghiệp cô bịnh nhân trẻ này và thắc mắc không biết hoàn cảnh nào đã đưa đẩy cô ta trôi qua xứ Mỹ để có một cuộc sống mà ông đoán là thật bấp bênh, qua cuộc nói chuyện trong điện thoại. Ông nói :
- Bây giờ, cô nằm sấp xuống để tôi châm trên lưng.
Cô gái mở choàng mắt nhìn ông, mỉm cười, một nụ cười đầy tin tưởng. Ông bác sĩ nói tiếp :
- Cô đừng sợ. Châm không có đau. Còn nhẹ hơn kiến cắn nữa.
Cô gái trở mình nằm sấp, hai vạt áo blouse rớt xuống hai bên, bày ra cái lưng thon thon với nước da ngà ngà. Theo thói quen, trước khi châm, bác sĩ vuốt lưng bịnh nhân vài lần để bịnh nhân đỡ bị stress. Lần này, khi vuốt xuống thắt lưng, ông để ý thấy dưới làn vải mỏng của quần lót có một vết bầm nằm vắt ngang phía trên của mông. Ngạc nhiên, ông hỏi :
- Cô bị ai đánh hay sao mà bầm vậy ?
Cô gái cười khúc khích :
- Bác sĩ coi đi !
Ông già kéo quần lót xuống một chút, thì ra không phải vết bầm mà là hàng chữ xâm màu chàm : Made In VietNam ! Ông bật cười, vừa kéo lưng quần lót lên vừa nói :
- Cha…Bạo quá há !
Cô gái hơi rút cổ cười khúc khích vài tiếng nữa rồi im. Chắc cô đang sống lại với một vài kỷ niệm nào đó. Ông bác sĩ già áp hai lòng bàn tay lên lưng bịnh nhân, nhưng bây giờ sao ông không còn thấy cười được nữa. Hàng chữ " Made In VietNam" nhắc cho ông rằng con người nằm đây là sản phẩm của quê hương ông, cái quê hương đã mấy chục năm xa cách, cái quê hương mà ở đó ông không còn ai để nhớ, nhưng ông còn quá nhiều thứ để nhớ. Những thứ cũng mang dấu ấn " Made In VietNam ", từ con trâu cái cày, từ mảnh ruộng vườn rau, từ hàng cau rặng dừa, từ con đường đất đỏ đến con rạch nhỏ uốn khúc quanh quanh…Chao ơi ! Bỗng nhiên sao mà nhớ thắc thẻo đến muốn trào nước mắt…
Ông bác sĩ vuốt lưng cô bịnh nhân thật chậm để cho niềm xúc động lắng xuống tan đi. Ông có cảm tưởng như ông đang sờ lại được quê hương, có chỗ cao chỗ thấp, có phù sa đất mịn…Tự nhiên, ông muốn nói lên một tiếng " cám ơn ". Ông muốn cám ơn cô bịnh nhân đã mang quê hương đến với ông bằng hàng chữ nhỏ xâm trên bờ mông, chỉ vỏn vẹn có một hàng chữ nhỏ. Và ông cũng muốn nói với cô, nói một cách thật tình, không văn chương bóng bẩy, nói như ông nói cho chính ông,
Và ông cũng muốn nói với cô, nói một cách thật tình, không văn chương bóng bẩy, nói như ông nói cho chính ông, vỏn vẹn chỉ có một câu thôi :" Tôi cũng made in VietNam đây !". Nhưng rồi ông làm thinh tiếp tục vuốt lưng người bịnh. Ông biết rằng cô gái không thể nào hiểu được ông, một bác sĩ già vừa quá sáu mươi, đã gần nửa tuổi đời lưu vong trên xứ Mỹ, có đầy đủ tiền tài danh vọng mà cũng xâm hàng chữ " Made In VietNam", xâm ở trong lòng…
Bác sĩ im lặng dò huyệt châm kim. Bỗng cô bịnh nhân nói, giọng buồn buồn, làm như cô vừa xem lại hết một đoạn phim đời nào đó :
- Thằng bồ của con xâm cho con để làm kỷ niệm hồi tụi này còn ở Louisiana. Ảnh là thợ xâm…
- Ủa ! Rồi sao bây giờ cô ở đây ?
- Con theo ba má con dọn về Cali, ổng bả nói ở Cali bạn bè nhiều làm ăn dễ.
- Ờ…người Việt mình thích ở miền nam Cali lắm.
Ngừng một chút bác sĩ lại nói, trong lúc hai tay vẫn tiếp tục châm kim :
- Ở Cali khí hậu tốt hơn nhiều tiểu bang khác. Mà…ba má cô làm gì ?
Cô gái làm thinh một lúc mới trả lời, giọng ngang ngang :
- Qua đây rồi ổng bả đá đít nhau. Bả lấy thằng Mễ chủ pressing , còn ổng thì chó dắt ổng ôm được một bà Mỹ goá chồng có tài sản.
- Vậy rồi cô ở với ai ?
- Với ba con. Bà Mỹ cho con đi học college, ba con lái xe đưa rước.
- Vậy mà sao hôm qua, trong phone, cô nói cô đi làm ?
Giọng cô gái như nghẹn lại :
- Khổ lắm bác sĩ.
Cô ngừng một chút để nén xúc động rồi nói tiếp :
- Ba con ỷ có bà Mỹ nuôi, không chịu đi làm. Tối ngày cứ đi nhậu với bạn bè, rồi nay đổi xe, mai đổi xe…Con nói ổng, chẳng những ổng không nghe mà còn chửi con: "Tiên Tổ mày ! Tao đem mày qua đây đặng mày dạy đời tao hả !"
Lại ngừng một chút mới nói được, nói như trút hết ẩn ức còn lại :
- Có lần ổng xáng cho con mấy bạt tay đau điếng…
Rồi nghẹn ngào :
- Lần đó, con bỏ nhà đi hoang…
Nói xong, hít một hơi thật sâu rồi thở hắt ra một cái như vừa làm xong một việc gì thật khó !
Ông bác sĩ im lặng, tiếp tục châm, mà nghe thương hại cô bịnh nhân vô cùng. Cô ta cỡ tuổi con gái út của ông. Con gái út của ông đang học đại học, còn cô này thì đang sống trong hoàn cảnh quá bấp bênh. Cả hai đều Made In VietNam hết !
Châm xong, ông đặt tay lên cánh tay trần của bịnh nhân, vuốt vuốt như vuốt tay một đứa con đang cần được vỗ về an ủi :
- Cô cứ nằm yên như vầy độ mười lăm phút, nghen.
Tiếng " dạ " bỗng nghe như đầy nước mắt.
Sau khi gỡ kim, ông bác sĩ bóp tay bóp chân bịnh nhân một lúc rồi nói :
- Bây giờ thì cô mặc quần áo vào được rồi.
Cô gái ngồi lên nói " cám ơn " mà đôi mắt vẫn còn mọng nước. Cô bước vào sau bình phong, chậm rãi mặc quần áo, làm như cô muốn những xúc cảm hồi nãy có thời gian để thấm sâu vào lòng…
Khi cô bước ra, gương mặt cô đã trở lại rạng rỡ. Cô mỉm cười nhìn ông bác sĩ, rồi, vừa mở cái xắc đỏ vừa hỏi :
- Bao nhiêu vậy, bác sĩ ?
- Không có bao nhiêu. Chừng chữa xong rồi cô hãy trả.
- Bác sĩ cho con trả mỗi lần, chớ đợi hết bịnh, tiền đâu con trả. Cái thứ đi làm lậu như con…
- Cô yên tâm. Rồi mình tính.
Ông bác sĩ đưa dĩa nữ trang :
- Cô đừng quên mấy thứ này.
Cô gái phì cười, không đeo vào người mà trút hết vào xắc, rồi hỏi :
- Chừng nào con trở lại nữa, bác sĩ ?
- Tuần tới, cũng ngày này giờ này.
Bác sĩ mở tủ thuốc, chọn lấy ra hai chai có dán nhãn sẵn, trao cho bịnh nhân :
- Trên nhãn có ghi liều lượng: mỗi ngày, cô uống sáng trưa chiều, mỗi thứ hai capsule.
Ra đến cửa phòng mạch, ông bác sĩ già cầm bàn tay cô bịnh nhân trong hai bàn tay của ông, lắc nhẹ :
- Bớt hút thuốc đi, nghen ! Từ từ rồi tôi sẽ chữa cho cô vụ ghiền thuốc nữa.
Ngập ngừng một chút rồi ông nói, giọng ôn tồn :
- Tôi muốn nói với cô điều này…
Cô gái chớp chớp mắt chờ. Chắc là lần đầu tiên cô được một ông già cầm tay một cách ân cần như vậy. Bác sĩ nói :
- Mình là người Việt Nam, ăn măỉc theo " punk " không hạp với con người với bản chất của mình chút nào hết. Cô đâu có xấu mà cô làm cho xấu đi, uổng lắm ! Mình phải xứng đáng là Made In VietNam, chớ cô.
Cô gái nhìn vào mắt ông bác sĩ, không nói gì hết, chỉ siết tay ông già một cái thật mạnh, rồi bước ra xe, một chiếc xe hơi cũ mèm phải đề tới bốn lần mới nổ máy
* * *
Ông bác sĩ Lê ngồi uống cà phê với tôi ở khu Phước Lộc Thọ ( Orange County – Nam Cali ). Ông kể tiếp :
- Anh biết không, lần sau cô Kim đến phòng mạch, ăn mặc chải gỡ rất dễ thương. Chẳng có chút gì " punk " hết ! Lần khám bịnh đó, tôi có hỏi cổ sao không về sống với thằng bồ ở Louisiane có phải hơn là sống cù bơ cù bất ở Cali. Cổ nói như mếu :" Ảnh có vợ rồi ". Tôi biết : như vậy là cổ kẹt thiệt. Tôi đem chuyện này kể cho vợ tôi nghe. Bả cảm động lắm nên đề nghị giúp tiền cho cổ học một cái nghề gì đó, uốn tóc, làm nail chẳng hạn, để có công ăn việc làm vững chắc hơn là đi làm lậu tầm bậy tầm bạ.
Tôi nói chen vào :
- Chắc gì cổ chịu. Nghe anh kể, tôi đoán chị này cũng tự ái lắm.
- Anh nói đúng. Cổ từ chối hoài. Sau nhờ vợ tôi mời cổ về nhà khuyên nhủ, coi như là trong thân tình, cổ mới chịu. Hôm đó, cổ ôm vợ tôi vừa khóc vừa nói :" Con cám ơn ông bà. Cám ơn ông bà ".
- Sau đó cổ có đi học thiệt không ?
- Có. Học làm nail. Học giỏi nữa là khác
Cổ bây giờ ra sao rồi ?
- Mới đầu làm thợ, làm công cho người ta. Bây giờ vừa làm thợ vừa làm chủ. Khá lắm !
- Mừng cho cổ, há !
- Cổ xách đồ nghề tới làm nail cho vợ tôi, con út và hai con dâu tôi thường lắm. Làm không lấy tiền. Cổ cứ nói với mấy con tôi :" Tôi chịu ơn ông bà bác sĩ biết đời nào mới trả cho hết, mấy cô biết không ? Tôi không dám nói ra, chớ mỗi lần tôi cầm bàn tay của bà bác sĩ để làm nail, tôi vẫn nghĩ không có bàn tay này thì làm gì tôi thoát ra khỏi hoàn cảnh của tôi hồi đó để có những gì tôi có hôm nay…"
- Dễ thương quá !
- Noel, ngày Tết…cổ đều mang quà đến tặng vợ chồng tôi.
- Con người ở có tình có nghĩa quá, anh há !
- Đã hết đâu ! Cổ còn nhớ đến ngày giỗ của ba má tôi nữa. Mấy ngày đó tụi con tôi có đứa quên chớ cô ta không bao giờ cô ta quên. Ngày đó, cô đem đồ tới cúng và ở lại phụ vợ tôi nấu nướng dọn giẹp nữa. Cho nên vợ tôi quí cô ta lắm !
Nói xong, bác sĩ Lê vỗ vai tôi, cười :
- Anh thấy không ? Cô ta mới đúng là " Made In VietNam " đó ! Còn nguyên chất, hè !
Ông Lê vui vẻ cầm tách cà phê vừa nhâm nhi vừa nhìn quanh. Người Việt Nam đi đầy trong thương xá. Cung cách có hơi khác nhưng nói năng thì y hệt như ở bên nhà. Một vài tiếng chửi thề rớt rơi đâu đó, nghe rất tự nhiên. Bỗng ông quay sang hỏi tôi mà nghe như ổng tự hỏi ổng :
Không biết ở xứ Mỹ này, đồng hương lưu vong, có ai lâu lâu nhớ lại rằng mình "Made In VietNam ", không ?
- Có chớ anh ! Nhưng cũng có người chẳng những không nhớ mà còn tự đóng cho mình con dấu " Made In USA " nữa, anh à. Thứ đó bây giờ thấy cũng nhiều !
Tôi đưa tách lên môi uống ngụm cà phê cuối cùng, bỗng nghe cà phê sao mà thật đắng…
Tiểu Tử
HÀ THÚC SINH * QUỶ XƯỚNG VĂN
HÀ THÚC SINH
QUỶ XƯỚNG VĂN
Mới đây anh về Việt Nam một chuyến, về thăm cha già ốm đau và cải táng phần mộ mẹ anh. Cha anh ở Sài Gòn và mộ mẹ anh còn ngoài Thanh Hoá. Hơn bốn mươi năm mộ vẫn còn. Lạ? Không đâu, ấy là nhờ trong khối nhân dân bần cố còn sót một số trình độ tiếp thu tư tưởng cách mạng kém cỏi, nhồi cách mấy vẫn không thông chính sách cào bằng lấp sạch.
Anh mặc tang phục, mua hương nến, các thứ cần thiết thuê thợ cải táng. Áo quan mẹ anh xưa bằng gỗ vàng tâm, bền như sừng, thế mà khi mở xương khúc còn khúc mất. Anh nhìn xuống mộ huyệt khóc cười tuỳ lúc. Anh Mới, người kéo xe tay cho mẹ anh xưa, giờ đã là ông cụ hom hem ngoài bảy mươi, ngạc nhiên hỏi vào tai anh:
"Cậu khóc hay cười đấy?"
Anh nhìn kín nhiều người lạ mặt, đáp khẽ:
"Cả hai. Phải thích nghi hoàn cảnh."
Anh Mới hiểu, giọng gần với sự biếm nhẽ:
"Ngoài quy hoạch hết rồi. Cả nước đã tự do khóc, cậu khóc tí nữa không sao."
Thế là anh khóc, khóc to hơn cả ngày thơ ấu lúc mẹ anh mất.
Cải táng xong anh rời khách sạn, ôm lư sành nhỏ đựng cốt mẹ về Thọ Xuân, chỗ anh ra đời và chỗ sống của anh Mới hiện tại. Nghỉ thêm ít bữa, anh Mới hỏi có muốn quay lại thị xã thăm thú cơ ngơi cũ của gia đình ở phố nhà Chung không, có muốn về nhìn lại quê hương tổ tiên ở Ba Làng huyện Tĩnh Gia không? Anh Mới dù gì vẫn là nhân dân. Còn anh con cháu giai cấp nợ máu. Nhân dân khiến sao anh làm vậy. Và quả đúng như lời anh Mới nói: "Cả nước đã có tự do khóc." Bà con anh khóc lu bù.
Anh tính đáp xe lửa về lại Sài Gòn rồi từ đó trở sang Mỹ, nhưng anh Mới bảo chẳng biết bao giờ gặp lại, nên vào Nghệ một chuyến. Ở Nghệ anh Mới biết gia tộc anh còn nhiều chi họ nội ngoại. Suốt mấy mươi năm chuyên chính vô sản, thứ tình cảm tư sản độc hại lây từ gia tộc anh anh Mới chữa không dứt, vì thế vẫn lén lút duy trì mối liên hệ linh tinh với họ hàng chủ cũ -- những kẻ bị lịch sử vô sản tiêu diệt lốm đốm.
Anh Mới mua vé xe đem anh xuống Nghệ, dặn cứ y cách ở Thanh mà khu xử. Nhờ ơn bác đảng không còn là khẩu hiệu trí trá phổ thông với nhau nữa, giờ cứ nhờ ơn phong bao trong có ít tờ xanh xanh là nhất. Đó mới là tình nghĩa quốc tế keo sơn thứ thiệt.
Rời Thanh như rời một giấc mơ. Xuống Nghệ như đi vào giấc mơ khác. Anh cố nhẫn nhịn để câu thơ "Đường vô xứ Nghệ loanh quanh, non xanh nước biếc như tranh họa đồ" hướng dẫn thế mà không xong. Rừng thì phá, núi thì khoét, đường thì ổ gà; nói tóm lam nham như bức dư đồ rách. Cuối cùng anh tóm được trong anh cảm giác trung thực hơn cả: Chân không chấm đất, đầu không chạm trời, thần trí không chạm người. Anh thấy như anh đang phiêu diêu vào một cõi âm. Chỉ khi ôm sát vào lòng chiếc lư sành nhỏ đựng cốt mẹ anh, anh mới bừng tỉnh nhớ mình còn ở cõi dương. Nhưng điêu tàn đổ nát cũng có cái thẩm mỹ riêng của nó, vì thế cứ tức cảnh sinh tình anh đều đề trong óc một đoạn tứ tuyệt. Nhưng lạ, khuya đó ở nhà người cô họ, lấy giấy bút tính ghi lại thì đầu trắng bóc.
Buổi tối sau cơm nước, khi anh Mới đã ngáy như hùm anh mới hỏi han cô anh nhiều cố sự. Cô không nhớ gì nhiều, mà có thì lộn xộn lắm; đôi khi anh còn phải kín đáo điều chỉnh vài chuyện vụn ngay trong gia tộc, dù ngày còn bé anh chỉ nghe lóm.
"Vậy thì cháu nhắc nữa đi cho cô nhớ với," cô xúc động bảo. "Dĩ vãng chốn này tựa thú hiếm cháu ạ, nhiều thứ tuyệt chủng từ lâu, phiêu lưu vào nó thế nào cũng lộn mộng ra thực thực ra mộng."
Đêm ấy trên chiếc chõng tre anh băn khoăn quá. Hay đây đúng là nơi người ta dị nghị vùng đất ít người nhiều ma? Cô là con nuôi ông chú -- em ruột ông nội anh. Xưa ông chú anh giàu. Cha anh từng kể thời tiêu thổ kháng chiến Việt Minh phải đặt vè mà phá nhà ở Vinh: "Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, Hoan hô bộ đội phá nhà MT." Di sản ấy sót lại nơi đây là ít người như cô, một bà già ngoài sáu mươi ốm yếu, không chồng con, lam lũ như một bà nhà quê. Quyền làm người của cô là được sống sót. Nhưng giờ có vẻ cô sống thoải mái hơn. Nói kiểu biện chứng sự thoải mái ấy là nhờ cách mạng vừa thực hiện thành công cuộc đổi đời mới nhất và sau cùng nhất. Từ đổi mới, giai cấp vô sản -- kẻ cựu thù với giai cấp dưỡng phụ cô -- đã lặng lẽ hè nhau chạy túa theo con đường mưu cầu tư sản từ hồi nào, do đó chẳng ai còn rảnh rang, còn tai mắt đâu mà nhòm nhỏ dao thớt nhà cô, suy bì với lối sống "bóc lột" của gia tộc dưỡng phụ cô dù nó đã được mai táng từ nửa thế kỷ trước. Cô nghiễm nhiên trám chỗ hoàn toàn và triệt để khoảng trống vô sản bao la nhân dân vừa bỏ lại. Phần già chậm chân, phần kinh cung chi điểu, cô đành tận tụy với giai cấp mới nhưng vừa cũ mà xưa cô chỉ là kẻ tân tòng. Trong mắt anh, cô có nhiều triển vọng sẽ mang vinh dự người gác dan sau cùng trao chìa khoá thiên đường cộng sản cho một thế lực mới nào đó đến tiếp thu một ngày không xa.
Một hai ngày đầu anh nuốt không vào miếng cơm độn đã nhiều chục năm trở thành xa lạ. Anh dấm dúi phong bao cho cô, khá, thế mà quanh đi quẩn lại vẫn cơm độn với canh đủ xanh nấu cá trỏng khô, bữa nào dôi lắm có thêm tí trứng rán. Anh hiểu và thương. Thượng đế sinh con người có kèm một ân huệ phụ: Thói tập thành huyền diệu. Cách khác, mù mãi thân được bóng tối.
Nhà cô nằm bên bờ sông Lam có núi Thành không xa nhìn xuống. Căn nhà lá vách đất mới đây rùng mình biến thành căn nhà ngói vách ván. Nhờ phép lạ kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa? Cả nước để sống bắt chước nhau dối trá như cuội, riêng về sự khá giả lại thật như đếm. Cô siêu nhân sao mà dám đi ngược xu hướng thời đại. Cái khoản nhà ngói cây mít cô thú nhận họ hàng từ nước ngoài gửi tiền về giúp.
Một lần cúi vo gạo bờ ao, thấy một lão già thoáng qua, cô có vẻ thất sắc, vòng tay kéo ngay vạt áo lưng xuống. Trông dáng dấp một bà cụ ngoài sáu mươi làm trò thiếu nữ anh có ngạc nhiên hỏi:
"Ai thế?"
Cô không đáp, thầm thì:
"Lạ, sao dạo này lão về hoài."
Rồi cô quày quã mang rá gạo vào nhà, cài then cửa trước, không hé môi gì thêm.
Trưa sau anh lại thấy lão. Lúc ấy lão ngồi thả câu bên cái ao cá có tấm biển đề "Ao cá bác Hồ." Thấy lão trầm ngâm, râu ria đạo mạo anh tò mò lân la làm quen. Nhờ cái cần câu làm vội anh nhanh chóng được lão chấp nhận bạn câu. Lão phá đi sự câm lặng như cái cối xay dưới lòng ao để trò chuyện với anh. Lão mặc bộ quần áo nâu xuềnh xoàng nhiều túi, chân vẫn dép râu đầu vẫn nón cối. Dù sao nhìn chung lão có tí cốt cách, duy giọng đục, xa; sự đục và xa ngang với dĩ vãng của anh, một dĩ vãng dài hơn bốn mươi năm mới lại được về chỗ cũ ngồi dưới một gốc sung thả câu bâng quơ thế này. Nhìn những con nhện nước chạy ngang dọc trên mặt ao anh rùng mình. Thốt nhiên anh nhớ lại những nẻo đường anh từng chạy ngang dọc trên đất nước, trên mặt địa cầu.
Anh bắt chuyện trước:
"Đây ra sông mấy bước sao cụ câu ao?"
"Tuổi già nhìn nước trôi như nhìn thời gian, chóng mặt lắm."
"Ao có cá chứ cụ?"
"Đất nước ta rừng vàng biển bạc, cá thịt xuất khẩu không hết, câu cho vui, miếng ăn nào phải vấn đề."
Anh nghĩ thầm có lẽ lão là một cấp ủy chi đó đã hưu. Mà thế thì thôi. Xảo trá ăn vào xương một lão già chỉ thần chết cạo được. Anh tiếp tục, "Cụ bà và các anh các chị ở quanh đây cả chứ?"
Lão lạnh lùng:
"Cụ bà thì không còn con cháu rải rác đếm chi xuể. Vả ai đi làm cách mạng cũng thê tróc tử phược cậu nghĩ đem đất nước đến được kết quả thế này?"
Anh rút thuốc lá mời lão. Điếu thuốc Mỹ khiến cảm tình một người cách mạng lão thành dành cho anh nảy nhanh như bèo tấm mùa xuân.
Rít mấy hơi liền giọng lão có vui, bảo:
"Thơm, thuốc Mỹ vẫn thơm!"
Thấy lão già cũng phàm tục như ai, anh nổi máu đùa khá suồng sã:
"Cụ vừa bảo không cụ bà lại lắm con cháu là sao?"
Lão không đáp ngay câu hỏi mà mông lung kể một câu chuyện:
"Các cụ xưa có dạy ‘đàn bà ra chợ là vợ đàn ông.’ Mà nhảy vào cách mạng thời chúng tôi khác nào nhảy vào cái chợ quốc tế. Thôi thì mặc sức. Thời còn trẻ hoạt động tôi có thằng em song sinh đa tình, đi đâu vợ đó, sau hai trứng dái, xin lỗi cậu, lúc chết phát to như trứng dái dê." Đột ngột lão ta đổi giọng nghiêm chỉnh, "Cậu nước ngoài về?"
Anh chột dạ:
"Sao... cụ biết?"
Ngẫm nghĩ giây lát, lão thở dài:
"Tôi chán sự đánh giá người cách mạng của các cậu lắm. Luôn luôn các cậu tưởng chúng tôi ngu. Không đâu. Cả một đời đụng và thắng đủ các thế lực ngoại thù đế quốc thực dân, thủ tiêu hết các giai cấp nội thù phong kiến tư sản đảng phái Việt gian phản động, xin lỗi cậu, tai mắt mũi cách mạng không nhạy như chó thì nghe sao ra ý đồ xấu xa, thấy sao ra quyền biến mưu mẹo, ngửi sao ra vàng bạc châu báu chôn giấu? Phớt qua tôi biết cậu vừa cạo râu có bôi nước Old Spice; và gói thuốc của cậu nữa, sự bèo nhèo không tố giác cung cách kẻ quen thừa mứa hàng tiêu dùng đấy sao?"
Anh hơi lợm nhưng chợt hiểu rõ hơn một điều đã hiểu.
Thấy lưỡi câu của lão máy động, anh giục:
"Cá lớn đấy, giật đi cụ!"
Lão nhìn anh cười khỉnh:
"Mắt cách mạng không phải mắt dân thường. Máu còn chả khúc xạ được tia nhìn chúng tôi nữa là cái mặt nước ao. Cậu muốn tôi bắt một con giếc nhãi? Này thanh niên, đã cất công giật câu phải được cá kình!"
Cho là lão già kiêu ngạo gàn dở, anh toan đứng lên thì lão ghì anh lại bằng câu hỏi đột ngột, "Bên Mỹ thế nào? Sau bang giao cậu thấy sao?" Từ khi bước xuống phi trường Tân Sơn Nhất anh đã tự dặn lòng hai điểm phải tránh: Điều thứ hai không nói chính trị sau điều thứ nhất chớ đả động đến họ Hồ. Bên Mỹ thế nào, bang giao ra sao đều có tính chính trị. Anh đánh bài lờ. Thấy anh im lặng, lão liếc, nét tinh quái hiện trong khoé mắt. Một lát lão trổ giọng phủ du, "Giờ cởi mở. Với lại vùng này tôi tiên chỉ. Nói với ai cậu ngại chứ với tôi cứ tự nhiên. Ở đây tôi toàn quyền ngồi xổm trên mọi chính sách." Anh không quan tâm lắm đến những lời huênh trộn cay đắng của đám cán bộ già hết thời. Về đây chạm hạng này nhiều rồi.
Cố tỏ ra chút ngạc nhiên, anh hỏi:
"Thời xã hội chủ nghĩa làng xã cũng có tiên chỉ nữa sao?"
Lão cười:
"Hỏi bà gì ấy nhỉ, bà cô của cậu ấy khắc rõ."
Lão kéo câu gắn mồi mới. Anh lẩm bẩm, "Thế ra bình mới rượu cũ, vẫn tiên chỉ thứ chỉ!" Lão nghe lọt, nhìn anh như thương hại cho một con câu non, giải thích với giọng khá chân thành, "Làm cách mạng là để đạt được những cái xấu, cái tiêu cực thơm phức của giới cai trị mà khi chưa cướp được chính quyền người cách mạng thèm, xin lỗi cậu, như chó thèm xia, hà tất chỉ tí đầu lợn làng xã."
Cảnh giác ban đầu mất biến, anh nổi tò mò:
"Hoá ra cứu cánh là tư lợi phương tiện là cách mạng?"
Lão vung tay. Sợi dây bắn ra giữa mặt ao. Lão hỉnh mũi:
"Cậu đọc Hàn Phi, đọc Marchiavelli đấy chứ? Những liên hệ hữu cơ giữa người với người, giữa cai trị với bị trị đều vì tư lợi tuốt luốt. Ông tiên chỉ gắn với làng xã để hưởng cái đầu lợn, cách mạng gắn với nhân dân để hưởng sự toàn quyền ban phát những cái đầu lợn thừa mứa. Ấy là nói kiểu biểu tượng đấy thôi. Mà cậu xem. Con cá dưới ao tù còn phát triển, quyền lực lãnh đạo nửa thế kỷ qua cậu tưởng bị còi? Mồ hôi nước mắt nhân dân vô ích? Nảy nở không lường được nữa cao rộng không đo được nữa cậu ạ."
"Thụy kỳ chung..."
"Hà hà... thì thế. Đã gần đất xa trời quanh co với trẻ làm gì. Nói trắng với cậu chúng tôi phát động cách mạng là để lập lại chu kỳ lịch sử bằng cách tinh vi và khoa học hơn, có thế mới tồn tại, mới muôn năm trường trị được. Cậu vừa chê chúng tôi phong kiến? Trở lại phong kiến và biến phong kiến thành siêu đã từ lâu lắm."
Anh ngẫm nghĩ giây lát, hỏi dè chừng:
"Không nên không phải cụ bỏ qua cho, tôi nhớ Saint-Just có nói ‘chẳng ai cai trị mà không phạm tội ác.’"
Như một người thừa thông minh vặt, lão già cười hệch lên:
"Lời thú tội của một tên ấu trĩ! Lão luyện phải nói thế này, chẳng ai cai trị giỏi mà phạm tội ác."
"Tôi...."
"Đáng thông cảm. Trình độ cậu chưa hiểu nổi đâu. Cứ xem như quá trình cách mạng vô sản nước ta, đấy cậu thấy, bọn phản động công phá bao năm rồi thấm tháp gì. Như đồng chí Văn Cao viết, cách mạng chúng tôi có bao giờ nhợn chuyện ‘uống máu quân thù.’ Nhưng ai sẽ là kẻ bị lên án uống máu, uống từ vụ đấu tố cải cách ruộng đất, đến vụ Nhân Văn & Giai Phẩm, vụ xét lại chống đảng, sau này vụ tù cải tạo, vụ đánh tư sản, vụ đào mồ bốc mả cả miền Nam lên, vụ bách hại các tôn giáo, đàn áp trí thức văn nghệ sĩ, cả vụ bán dân cho cá mập biển Đông lấy vàng?"
Anh choáng váng thấy lão phun sự thật trong cung cách lạnh lùng vô cảm. Tay nhấp nhấp cần câu, miệng lão vẫn đều đều, "Giá như, tôi nói giá như thôi đấy nhá, lịch sử làm một cú lộn lèo thì kẻ lãnh án uống máu là ai? Óc nhân dân sáng tạo phục vụ Tổ quốc thì bao la nhưng khả năng nhận diện những kẻ uống máu thì hạn hẹp lắm. Tôi bảo đảm với cậu nếu lịch sử tráo trở sẽ khó tránh cảnh ‘đầu đường cổ lính treo cao, cuối đường cảnh sát dao vào sau lưng.’"
Vô cớ anh thốt la lên:
"Họ đâu là thủ phạm, họ thừa hành!"
Lão già trầm ngâm hẳn. Lão ngước nhìn trời. Thấy xế bóng lão khoan thai thu lại mớ đồ nghề câu. Có tiếng chim chích choè loé sau bụi tre. Anh ngửi thấy mùi cơm độn khoai toả sau mấy cây rơm. Và mùi canh đủ xanh nấu cá trỏng khô nữa. Anh ngước nhìn núi Thành xa xa, bất giác thấy giống một mộ bia cao ngất chạm trời, và rùng mình nhìn dòng Lam như vừa biến thành dải tang bất tận dưới màu chiều lạnh.
Lão già đã sửa soạn đứng lên. Rõ ràng lão không có ý thân thiện mời một người từ ngoại quốc về ghé thăm nhà lão. Lão nhấp miếng nước đựng trong một vỏ bầu khô. Anh ngửi thấy mùi rượu thơm khá quen thuộc. Nhưng lão không cho anh thêm thì giờ thám thính trên con người lão. Lão vuốt bộ râu dài chẳng để gỡ rối mà hình như vì thói quen. Ngoảnh mặt chỗ khác, lão nói khẽ, "Vì thế tôi mới hỏi cậu bên Mỹ lúc này thế nào, sau bang giao ra sao?" Anh lúng túng. Có lẽ đoán anh tối dạ, lão đội chiếc nón cối trắng lên đầu, tiếp, "Thường lãnh đạo thời nào cũng thế cậu ạ, đặc quyền đầu tiên là không phải trực tiếp xông pha hòn tên mũi đạn, kế nắm xã tắc trong tay, kế nữa tội ác chế độ có dê tế thần, và sau chót giá như con quỷ lịch sử trở mặt, họ luôn có chỗ dung thân an toàn cho cả chó mèo. Mà thôi, hỏi cậu vậy thôi, chứ Mỹ thế nào, sau bang giao ra sao đây thông cả. Giờ kiếu nhá. Già nó vậy, cơm rượu phải đúng cữ, muộn chút khó ở ngay."
Lão lửng thửng vác cần câu bước ra bờ sông Lam. Anh cũng đứng lên, bần thần, một lát sực nhớ, hỏi với theo:
"Thế cụ ở đâu, cụ làm gì sống?"
Lão như miễn cưỡng dừng lại, nhưng không đáp, mà hỏi ngược:
"Thế cậu về làm gì?"
"Dạ hốt cốt mẹ tôi."
Lão bật cười thành tiếng:
"Quả lạc hậu là bệnh di truyền khó chữa. Sao người ta cứ thích sống với người chết thế nhỉ! Này nhớ, không phải ai chết cũng đáng nhắc mãi, nhớ mãi; vinh dự ấy chỉ dành cho các lãnh tụ anh minh đã được sách sử đóng mộc thừa nhận sẽ sống mãi trong quần chúng thôi."
Đã hiểu "muốn có chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa," mà lão ta không là một con người xã hội chủ nghĩa thuần thành đó sao, anh thấy hề nếu biến đạo lý thành chuyện tranh luận, nên bấm bụng lập lại câu hỏi cũ:
"Thế cụ ở gần đây chứ?"
"Bảo gần không phải bảo xa cũng không đúng. Mà cậu hỏi làm gì?"
"Tôi còn ở đây ít ngày, muốn đến... chơi cụ."
Lão không giấu nổi nét nghi ngại, cười nhạt, giọng khá bí hiểm:
"Đảng đứng trên đứng ngoài chứ không đứng kề đứng giữa nhân dân bao giờ. Xáp gần là cách dẫn đến hoạ tru di tam tộc nhanh nhất. Tôi mong cậu hiểu cho châm ngôn bất di dịch của người làm cách mạng vô sản chuyên chính nhà nghề như chúng tôi, cho dù tôi đã hưu từ lâu lắm."
"Vâng, nhưng ít nhất..."
Như đoán ra câu hỏi, lão nói luôn:
"Hỏi cô của cậu ắt biết. Hàng năm tôi vẫn về Nam Đàn nghỉ mát. Gần đây thôi. Ném lẵng hoa cũng tới."
Rồi lão gãi tai xin anh thêm điếu thuốc, bảo ban trưa đãng trí bỏ quên gói thuốc ở nhà. Anh đưa hết gói thuốc Mỹ còn sót dăm điếu cho lão, ý cũng ngầm xem kỹ nét mặt lão lần nữa trước lúc lão ra đi. Nhưng như biết ý đồ anh, lão lẩn tránh bằng cách cúi đầu châm thuốc, nhả khói mờ cả mặt, thản nhiên quay gót.
Những ngọn cau ngọn dừa xô dạt. Mùi sông nước đồng áng khi không tanh tanh lẫn với mùi lịch sử khi không cũng tanh tanh. Anh đứng bất động nhìn theo lão già khuất sau một bụi tre gai. Một dải nắng chiều sáng loé. Hình ảnh cuối của lão anh ghi được chỉ là một khoé mắt rất lanh, nét môi dày và một vành tai bạt nhĩ; sau đó chỉ còn tiếng gió lộng như có lộn tiếng cười rền kỳ dị của lão.
Anh về. Cô hỏi đi đâu và bảo sửa soạn ăn tối. Anh đáp ngồi câu với lão già. Sực nhớ cả buổi quên hỏi tên lão, anh hỏi cô, cô im lặng. Nhìn ra ngoài trời chạng vạng, cô nói "Tháng này sương xuống sớm, tắt nắng đã u ám như bãi tha ma." Cô quay nhìn anh dặn cách khó hiểu, "Còn chơi đây ngày nào cháu nên thận trọng." Nói đoạn cô bước xuống bếp, lẩm bẩm, "Rõ thần suy quỷ lộng," và lặng lẽ lấy treo trước cửa một xâu tỏi đã mối mọt nhiều.
Alhambra 9-95
Anh mặc tang phục, mua hương nến, các thứ cần thiết thuê thợ cải táng. Áo quan mẹ anh xưa bằng gỗ vàng tâm, bền như sừng, thế mà khi mở xương khúc còn khúc mất. Anh nhìn xuống mộ huyệt khóc cười tuỳ lúc. Anh Mới, người kéo xe tay cho mẹ anh xưa, giờ đã là ông cụ hom hem ngoài bảy mươi, ngạc nhiên hỏi vào tai anh:
"Cậu khóc hay cười đấy?"
Anh nhìn kín nhiều người lạ mặt, đáp khẽ:
"Cả hai. Phải thích nghi hoàn cảnh."
Anh Mới hiểu, giọng gần với sự biếm nhẽ:
"Ngoài quy hoạch hết rồi. Cả nước đã tự do khóc, cậu khóc tí nữa không sao."
Thế là anh khóc, khóc to hơn cả ngày thơ ấu lúc mẹ anh mất.
Cải táng xong anh rời khách sạn, ôm lư sành nhỏ đựng cốt mẹ về Thọ Xuân, chỗ anh ra đời và chỗ sống của anh Mới hiện tại. Nghỉ thêm ít bữa, anh Mới hỏi có muốn quay lại thị xã thăm thú cơ ngơi cũ của gia đình ở phố nhà Chung không, có muốn về nhìn lại quê hương tổ tiên ở Ba Làng huyện Tĩnh Gia không? Anh Mới dù gì vẫn là nhân dân. Còn anh con cháu giai cấp nợ máu. Nhân dân khiến sao anh làm vậy. Và quả đúng như lời anh Mới nói: "Cả nước đã có tự do khóc." Bà con anh khóc lu bù.
Anh tính đáp xe lửa về lại Sài Gòn rồi từ đó trở sang Mỹ, nhưng anh Mới bảo chẳng biết bao giờ gặp lại, nên vào Nghệ một chuyến. Ở Nghệ anh Mới biết gia tộc anh còn nhiều chi họ nội ngoại. Suốt mấy mươi năm chuyên chính vô sản, thứ tình cảm tư sản độc hại lây từ gia tộc anh anh Mới chữa không dứt, vì thế vẫn lén lút duy trì mối liên hệ linh tinh với họ hàng chủ cũ -- những kẻ bị lịch sử vô sản tiêu diệt lốm đốm.
Anh Mới mua vé xe đem anh xuống Nghệ, dặn cứ y cách ở Thanh mà khu xử. Nhờ ơn bác đảng không còn là khẩu hiệu trí trá phổ thông với nhau nữa, giờ cứ nhờ ơn phong bao trong có ít tờ xanh xanh là nhất. Đó mới là tình nghĩa quốc tế keo sơn thứ thiệt.
Rời Thanh như rời một giấc mơ. Xuống Nghệ như đi vào giấc mơ khác. Anh cố nhẫn nhịn để câu thơ "Đường vô xứ Nghệ loanh quanh, non xanh nước biếc như tranh họa đồ" hướng dẫn thế mà không xong. Rừng thì phá, núi thì khoét, đường thì ổ gà; nói tóm lam nham như bức dư đồ rách. Cuối cùng anh tóm được trong anh cảm giác trung thực hơn cả: Chân không chấm đất, đầu không chạm trời, thần trí không chạm người. Anh thấy như anh đang phiêu diêu vào một cõi âm. Chỉ khi ôm sát vào lòng chiếc lư sành nhỏ đựng cốt mẹ anh, anh mới bừng tỉnh nhớ mình còn ở cõi dương. Nhưng điêu tàn đổ nát cũng có cái thẩm mỹ riêng của nó, vì thế cứ tức cảnh sinh tình anh đều đề trong óc một đoạn tứ tuyệt. Nhưng lạ, khuya đó ở nhà người cô họ, lấy giấy bút tính ghi lại thì đầu trắng bóc.
Buổi tối sau cơm nước, khi anh Mới đã ngáy như hùm anh mới hỏi han cô anh nhiều cố sự. Cô không nhớ gì nhiều, mà có thì lộn xộn lắm; đôi khi anh còn phải kín đáo điều chỉnh vài chuyện vụn ngay trong gia tộc, dù ngày còn bé anh chỉ nghe lóm.
"Vậy thì cháu nhắc nữa đi cho cô nhớ với," cô xúc động bảo. "Dĩ vãng chốn này tựa thú hiếm cháu ạ, nhiều thứ tuyệt chủng từ lâu, phiêu lưu vào nó thế nào cũng lộn mộng ra thực thực ra mộng."
Đêm ấy trên chiếc chõng tre anh băn khoăn quá. Hay đây đúng là nơi người ta dị nghị vùng đất ít người nhiều ma? Cô là con nuôi ông chú -- em ruột ông nội anh. Xưa ông chú anh giàu. Cha anh từng kể thời tiêu thổ kháng chiến Việt Minh phải đặt vè mà phá nhà ở Vinh: "Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, Hoan hô bộ đội phá nhà MT." Di sản ấy sót lại nơi đây là ít người như cô, một bà già ngoài sáu mươi ốm yếu, không chồng con, lam lũ như một bà nhà quê. Quyền làm người của cô là được sống sót. Nhưng giờ có vẻ cô sống thoải mái hơn. Nói kiểu biện chứng sự thoải mái ấy là nhờ cách mạng vừa thực hiện thành công cuộc đổi đời mới nhất và sau cùng nhất. Từ đổi mới, giai cấp vô sản -- kẻ cựu thù với giai cấp dưỡng phụ cô -- đã lặng lẽ hè nhau chạy túa theo con đường mưu cầu tư sản từ hồi nào, do đó chẳng ai còn rảnh rang, còn tai mắt đâu mà nhòm nhỏ dao thớt nhà cô, suy bì với lối sống "bóc lột" của gia tộc dưỡng phụ cô dù nó đã được mai táng từ nửa thế kỷ trước. Cô nghiễm nhiên trám chỗ hoàn toàn và triệt để khoảng trống vô sản bao la nhân dân vừa bỏ lại. Phần già chậm chân, phần kinh cung chi điểu, cô đành tận tụy với giai cấp mới nhưng vừa cũ mà xưa cô chỉ là kẻ tân tòng. Trong mắt anh, cô có nhiều triển vọng sẽ mang vinh dự người gác dan sau cùng trao chìa khoá thiên đường cộng sản cho một thế lực mới nào đó đến tiếp thu một ngày không xa.
Một hai ngày đầu anh nuốt không vào miếng cơm độn đã nhiều chục năm trở thành xa lạ. Anh dấm dúi phong bao cho cô, khá, thế mà quanh đi quẩn lại vẫn cơm độn với canh đủ xanh nấu cá trỏng khô, bữa nào dôi lắm có thêm tí trứng rán. Anh hiểu và thương. Thượng đế sinh con người có kèm một ân huệ phụ: Thói tập thành huyền diệu. Cách khác, mù mãi thân được bóng tối.
Nhà cô nằm bên bờ sông Lam có núi Thành không xa nhìn xuống. Căn nhà lá vách đất mới đây rùng mình biến thành căn nhà ngói vách ván. Nhờ phép lạ kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa? Cả nước để sống bắt chước nhau dối trá như cuội, riêng về sự khá giả lại thật như đếm. Cô siêu nhân sao mà dám đi ngược xu hướng thời đại. Cái khoản nhà ngói cây mít cô thú nhận họ hàng từ nước ngoài gửi tiền về giúp.
Một lần cúi vo gạo bờ ao, thấy một lão già thoáng qua, cô có vẻ thất sắc, vòng tay kéo ngay vạt áo lưng xuống. Trông dáng dấp một bà cụ ngoài sáu mươi làm trò thiếu nữ anh có ngạc nhiên hỏi:
"Ai thế?"
Cô không đáp, thầm thì:
"Lạ, sao dạo này lão về hoài."
Rồi cô quày quã mang rá gạo vào nhà, cài then cửa trước, không hé môi gì thêm.
Trưa sau anh lại thấy lão. Lúc ấy lão ngồi thả câu bên cái ao cá có tấm biển đề "Ao cá bác Hồ." Thấy lão trầm ngâm, râu ria đạo mạo anh tò mò lân la làm quen. Nhờ cái cần câu làm vội anh nhanh chóng được lão chấp nhận bạn câu. Lão phá đi sự câm lặng như cái cối xay dưới lòng ao để trò chuyện với anh. Lão mặc bộ quần áo nâu xuềnh xoàng nhiều túi, chân vẫn dép râu đầu vẫn nón cối. Dù sao nhìn chung lão có tí cốt cách, duy giọng đục, xa; sự đục và xa ngang với dĩ vãng của anh, một dĩ vãng dài hơn bốn mươi năm mới lại được về chỗ cũ ngồi dưới một gốc sung thả câu bâng quơ thế này. Nhìn những con nhện nước chạy ngang dọc trên mặt ao anh rùng mình. Thốt nhiên anh nhớ lại những nẻo đường anh từng chạy ngang dọc trên đất nước, trên mặt địa cầu.
Anh bắt chuyện trước:
"Đây ra sông mấy bước sao cụ câu ao?"
"Tuổi già nhìn nước trôi như nhìn thời gian, chóng mặt lắm."
"Ao có cá chứ cụ?"
"Đất nước ta rừng vàng biển bạc, cá thịt xuất khẩu không hết, câu cho vui, miếng ăn nào phải vấn đề."
Anh nghĩ thầm có lẽ lão là một cấp ủy chi đó đã hưu. Mà thế thì thôi. Xảo trá ăn vào xương một lão già chỉ thần chết cạo được. Anh tiếp tục, "Cụ bà và các anh các chị ở quanh đây cả chứ?"
Lão lạnh lùng:
"Cụ bà thì không còn con cháu rải rác đếm chi xuể. Vả ai đi làm cách mạng cũng thê tróc tử phược cậu nghĩ đem đất nước đến được kết quả thế này?"
Anh rút thuốc lá mời lão. Điếu thuốc Mỹ khiến cảm tình một người cách mạng lão thành dành cho anh nảy nhanh như bèo tấm mùa xuân.
Rít mấy hơi liền giọng lão có vui, bảo:
"Thơm, thuốc Mỹ vẫn thơm!"
Thấy lão già cũng phàm tục như ai, anh nổi máu đùa khá suồng sã:
"Cụ vừa bảo không cụ bà lại lắm con cháu là sao?"
Lão không đáp ngay câu hỏi mà mông lung kể một câu chuyện:
"Các cụ xưa có dạy ‘đàn bà ra chợ là vợ đàn ông.’ Mà nhảy vào cách mạng thời chúng tôi khác nào nhảy vào cái chợ quốc tế. Thôi thì mặc sức. Thời còn trẻ hoạt động tôi có thằng em song sinh đa tình, đi đâu vợ đó, sau hai trứng dái, xin lỗi cậu, lúc chết phát to như trứng dái dê." Đột ngột lão ta đổi giọng nghiêm chỉnh, "Cậu nước ngoài về?"
Anh chột dạ:
"Sao... cụ biết?"
Ngẫm nghĩ giây lát, lão thở dài:
"Tôi chán sự đánh giá người cách mạng của các cậu lắm. Luôn luôn các cậu tưởng chúng tôi ngu. Không đâu. Cả một đời đụng và thắng đủ các thế lực ngoại thù đế quốc thực dân, thủ tiêu hết các giai cấp nội thù phong kiến tư sản đảng phái Việt gian phản động, xin lỗi cậu, tai mắt mũi cách mạng không nhạy như chó thì nghe sao ra ý đồ xấu xa, thấy sao ra quyền biến mưu mẹo, ngửi sao ra vàng bạc châu báu chôn giấu? Phớt qua tôi biết cậu vừa cạo râu có bôi nước Old Spice; và gói thuốc của cậu nữa, sự bèo nhèo không tố giác cung cách kẻ quen thừa mứa hàng tiêu dùng đấy sao?"
Anh hơi lợm nhưng chợt hiểu rõ hơn một điều đã hiểu.
Thấy lưỡi câu của lão máy động, anh giục:
"Cá lớn đấy, giật đi cụ!"
Lão nhìn anh cười khỉnh:
"Mắt cách mạng không phải mắt dân thường. Máu còn chả khúc xạ được tia nhìn chúng tôi nữa là cái mặt nước ao. Cậu muốn tôi bắt một con giếc nhãi? Này thanh niên, đã cất công giật câu phải được cá kình!"
Cho là lão già kiêu ngạo gàn dở, anh toan đứng lên thì lão ghì anh lại bằng câu hỏi đột ngột, "Bên Mỹ thế nào? Sau bang giao cậu thấy sao?" Từ khi bước xuống phi trường Tân Sơn Nhất anh đã tự dặn lòng hai điểm phải tránh: Điều thứ hai không nói chính trị sau điều thứ nhất chớ đả động đến họ Hồ. Bên Mỹ thế nào, bang giao ra sao đều có tính chính trị. Anh đánh bài lờ. Thấy anh im lặng, lão liếc, nét tinh quái hiện trong khoé mắt. Một lát lão trổ giọng phủ du, "Giờ cởi mở. Với lại vùng này tôi tiên chỉ. Nói với ai cậu ngại chứ với tôi cứ tự nhiên. Ở đây tôi toàn quyền ngồi xổm trên mọi chính sách." Anh không quan tâm lắm đến những lời huênh trộn cay đắng của đám cán bộ già hết thời. Về đây chạm hạng này nhiều rồi.
Cố tỏ ra chút ngạc nhiên, anh hỏi:
"Thời xã hội chủ nghĩa làng xã cũng có tiên chỉ nữa sao?"
Lão cười:
"Hỏi bà gì ấy nhỉ, bà cô của cậu ấy khắc rõ."
Lão kéo câu gắn mồi mới. Anh lẩm bẩm, "Thế ra bình mới rượu cũ, vẫn tiên chỉ thứ chỉ!" Lão nghe lọt, nhìn anh như thương hại cho một con câu non, giải thích với giọng khá chân thành, "Làm cách mạng là để đạt được những cái xấu, cái tiêu cực thơm phức của giới cai trị mà khi chưa cướp được chính quyền người cách mạng thèm, xin lỗi cậu, như chó thèm xia, hà tất chỉ tí đầu lợn làng xã."
Cảnh giác ban đầu mất biến, anh nổi tò mò:
"Hoá ra cứu cánh là tư lợi phương tiện là cách mạng?"
Lão vung tay. Sợi dây bắn ra giữa mặt ao. Lão hỉnh mũi:
"Cậu đọc Hàn Phi, đọc Marchiavelli đấy chứ? Những liên hệ hữu cơ giữa người với người, giữa cai trị với bị trị đều vì tư lợi tuốt luốt. Ông tiên chỉ gắn với làng xã để hưởng cái đầu lợn, cách mạng gắn với nhân dân để hưởng sự toàn quyền ban phát những cái đầu lợn thừa mứa. Ấy là nói kiểu biểu tượng đấy thôi. Mà cậu xem. Con cá dưới ao tù còn phát triển, quyền lực lãnh đạo nửa thế kỷ qua cậu tưởng bị còi? Mồ hôi nước mắt nhân dân vô ích? Nảy nở không lường được nữa cao rộng không đo được nữa cậu ạ."
"Thụy kỳ chung..."
"Hà hà... thì thế. Đã gần đất xa trời quanh co với trẻ làm gì. Nói trắng với cậu chúng tôi phát động cách mạng là để lập lại chu kỳ lịch sử bằng cách tinh vi và khoa học hơn, có thế mới tồn tại, mới muôn năm trường trị được. Cậu vừa chê chúng tôi phong kiến? Trở lại phong kiến và biến phong kiến thành siêu đã từ lâu lắm."
Anh ngẫm nghĩ giây lát, hỏi dè chừng:
"Không nên không phải cụ bỏ qua cho, tôi nhớ Saint-Just có nói ‘chẳng ai cai trị mà không phạm tội ác.’"
Như một người thừa thông minh vặt, lão già cười hệch lên:
"Lời thú tội của một tên ấu trĩ! Lão luyện phải nói thế này, chẳng ai cai trị giỏi mà phạm tội ác."
"Tôi...."
"Đáng thông cảm. Trình độ cậu chưa hiểu nổi đâu. Cứ xem như quá trình cách mạng vô sản nước ta, đấy cậu thấy, bọn phản động công phá bao năm rồi thấm tháp gì. Như đồng chí Văn Cao viết, cách mạng chúng tôi có bao giờ nhợn chuyện ‘uống máu quân thù.’ Nhưng ai sẽ là kẻ bị lên án uống máu, uống từ vụ đấu tố cải cách ruộng đất, đến vụ Nhân Văn & Giai Phẩm, vụ xét lại chống đảng, sau này vụ tù cải tạo, vụ đánh tư sản, vụ đào mồ bốc mả cả miền Nam lên, vụ bách hại các tôn giáo, đàn áp trí thức văn nghệ sĩ, cả vụ bán dân cho cá mập biển Đông lấy vàng?"
Anh choáng váng thấy lão phun sự thật trong cung cách lạnh lùng vô cảm. Tay nhấp nhấp cần câu, miệng lão vẫn đều đều, "Giá như, tôi nói giá như thôi đấy nhá, lịch sử làm một cú lộn lèo thì kẻ lãnh án uống máu là ai? Óc nhân dân sáng tạo phục vụ Tổ quốc thì bao la nhưng khả năng nhận diện những kẻ uống máu thì hạn hẹp lắm. Tôi bảo đảm với cậu nếu lịch sử tráo trở sẽ khó tránh cảnh ‘đầu đường cổ lính treo cao, cuối đường cảnh sát dao vào sau lưng.’"
Vô cớ anh thốt la lên:
"Họ đâu là thủ phạm, họ thừa hành!"
Lão già trầm ngâm hẳn. Lão ngước nhìn trời. Thấy xế bóng lão khoan thai thu lại mớ đồ nghề câu. Có tiếng chim chích choè loé sau bụi tre. Anh ngửi thấy mùi cơm độn khoai toả sau mấy cây rơm. Và mùi canh đủ xanh nấu cá trỏng khô nữa. Anh ngước nhìn núi Thành xa xa, bất giác thấy giống một mộ bia cao ngất chạm trời, và rùng mình nhìn dòng Lam như vừa biến thành dải tang bất tận dưới màu chiều lạnh.
Lão già đã sửa soạn đứng lên. Rõ ràng lão không có ý thân thiện mời một người từ ngoại quốc về ghé thăm nhà lão. Lão nhấp miếng nước đựng trong một vỏ bầu khô. Anh ngửi thấy mùi rượu thơm khá quen thuộc. Nhưng lão không cho anh thêm thì giờ thám thính trên con người lão. Lão vuốt bộ râu dài chẳng để gỡ rối mà hình như vì thói quen. Ngoảnh mặt chỗ khác, lão nói khẽ, "Vì thế tôi mới hỏi cậu bên Mỹ lúc này thế nào, sau bang giao ra sao?" Anh lúng túng. Có lẽ đoán anh tối dạ, lão đội chiếc nón cối trắng lên đầu, tiếp, "Thường lãnh đạo thời nào cũng thế cậu ạ, đặc quyền đầu tiên là không phải trực tiếp xông pha hòn tên mũi đạn, kế nắm xã tắc trong tay, kế nữa tội ác chế độ có dê tế thần, và sau chót giá như con quỷ lịch sử trở mặt, họ luôn có chỗ dung thân an toàn cho cả chó mèo. Mà thôi, hỏi cậu vậy thôi, chứ Mỹ thế nào, sau bang giao ra sao đây thông cả. Giờ kiếu nhá. Già nó vậy, cơm rượu phải đúng cữ, muộn chút khó ở ngay."
Lão lửng thửng vác cần câu bước ra bờ sông Lam. Anh cũng đứng lên, bần thần, một lát sực nhớ, hỏi với theo:
"Thế cụ ở đâu, cụ làm gì sống?"
Lão như miễn cưỡng dừng lại, nhưng không đáp, mà hỏi ngược:
"Thế cậu về làm gì?"
"Dạ hốt cốt mẹ tôi."
Lão bật cười thành tiếng:
"Quả lạc hậu là bệnh di truyền khó chữa. Sao người ta cứ thích sống với người chết thế nhỉ! Này nhớ, không phải ai chết cũng đáng nhắc mãi, nhớ mãi; vinh dự ấy chỉ dành cho các lãnh tụ anh minh đã được sách sử đóng mộc thừa nhận sẽ sống mãi trong quần chúng thôi."
Đã hiểu "muốn có chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa," mà lão ta không là một con người xã hội chủ nghĩa thuần thành đó sao, anh thấy hề nếu biến đạo lý thành chuyện tranh luận, nên bấm bụng lập lại câu hỏi cũ:
"Thế cụ ở gần đây chứ?"
"Bảo gần không phải bảo xa cũng không đúng. Mà cậu hỏi làm gì?"
"Tôi còn ở đây ít ngày, muốn đến... chơi cụ."
Lão không giấu nổi nét nghi ngại, cười nhạt, giọng khá bí hiểm:
"Đảng đứng trên đứng ngoài chứ không đứng kề đứng giữa nhân dân bao giờ. Xáp gần là cách dẫn đến hoạ tru di tam tộc nhanh nhất. Tôi mong cậu hiểu cho châm ngôn bất di dịch của người làm cách mạng vô sản chuyên chính nhà nghề như chúng tôi, cho dù tôi đã hưu từ lâu lắm."
"Vâng, nhưng ít nhất..."
Như đoán ra câu hỏi, lão nói luôn:
"Hỏi cô của cậu ắt biết. Hàng năm tôi vẫn về Nam Đàn nghỉ mát. Gần đây thôi. Ném lẵng hoa cũng tới."
Rồi lão gãi tai xin anh thêm điếu thuốc, bảo ban trưa đãng trí bỏ quên gói thuốc ở nhà. Anh đưa hết gói thuốc Mỹ còn sót dăm điếu cho lão, ý cũng ngầm xem kỹ nét mặt lão lần nữa trước lúc lão ra đi. Nhưng như biết ý đồ anh, lão lẩn tránh bằng cách cúi đầu châm thuốc, nhả khói mờ cả mặt, thản nhiên quay gót.
Những ngọn cau ngọn dừa xô dạt. Mùi sông nước đồng áng khi không tanh tanh lẫn với mùi lịch sử khi không cũng tanh tanh. Anh đứng bất động nhìn theo lão già khuất sau một bụi tre gai. Một dải nắng chiều sáng loé. Hình ảnh cuối của lão anh ghi được chỉ là một khoé mắt rất lanh, nét môi dày và một vành tai bạt nhĩ; sau đó chỉ còn tiếng gió lộng như có lộn tiếng cười rền kỳ dị của lão.
Anh về. Cô hỏi đi đâu và bảo sửa soạn ăn tối. Anh đáp ngồi câu với lão già. Sực nhớ cả buổi quên hỏi tên lão, anh hỏi cô, cô im lặng. Nhìn ra ngoài trời chạng vạng, cô nói "Tháng này sương xuống sớm, tắt nắng đã u ám như bãi tha ma." Cô quay nhìn anh dặn cách khó hiểu, "Còn chơi đây ngày nào cháu nên thận trọng." Nói đoạn cô bước xuống bếp, lẩm bẩm, "Rõ thần suy quỷ lộng," và lặng lẽ lấy treo trước cửa một xâu tỏi đã mối mọt nhiều.
Alhambra 9-95
KIM NHẬT * TÌNH YÊU VÀ ÐẢNG
TÌNH YÊU VÀ ÐẢNG
theo Về R(*) - Kim Nhật
Ðối với con người, tình yêu trai gái bao giờ cũng là "một sự cần thiết", một thứ đam mê nghiệt ngã, không ai thoát khỏi sự cám dỗ của nó. Ngoại trừ những kẻ mất trí, những người bệnh hoạn.
Những kẻ có gia đình, những người lớn tuổi vẫn còn bị nó quyến rũ, lôi cuốn vào cơn lốc, thì đối với thanh niên nam nữ, chưa bước chân vào đường tình ái, sức cám dỗ của nó thật mãnh liệt, dữ dội.
Ở chiến khu, trong rừng núi, nó không khác vất cứ nơi nào trên trái đất. Tình yêu đối với nam nữ thanh niên, dù bị ý thức chính trị kiềm chế, Ðảng kiểm soát, Ðoàn triệt để ngăn ngừa nhưng tình yêu vẫn xảy ra, không ai ngăn cấm nổi. Không một vụ nào được "êm thắm", bình thường, không có sóng gió, bão tố dậy lên. Bởi vì "ái tình chỉ huy", ái tình có kiểm soát, lãnh đạo theo đường lối của Ðảng thì tự nó phải thế đấy. Quy luật mà! Tâm tình của con người bao giờ cũng mâu thuẫn với đường lối của Ðảng. Cho đến sự giao tiếp, nói chuyện với nhau cũng phải rập theo một khuôn mẫu định sẵn, theo cái người ta gọi là "quan hệ nam nữ"!
Vấn đề quan hệ nam nữ ở R cũng như các nơi khác, đều giống nhau trên lý thuyết. Nhưng thực tế, nó cũng không đồng nhất và tùy theo sinh hoạt, nếp sống của mỗi nơi, cũng như do những cán bộ chính trị, cán bộ Ðảng ở nơi đó nới rộng hay thu hẹp, khó hay dễ.
Thông thường trên nguyên tắc, người ta bảo vấn đề quan hệ nam nữ là sự giao tiếp giữa trai và gái phải đường hoàng, không được vượt quá phạm vi tình đồng đội, hay đồng chí, không được "thân mật quá độ". Không được ngồi riêng hai người nói chuyện ở chỗ vắng. Nếu cô cậu nào "vi phạm" nguyên tắc trên đây thì bị lôi ra phê bình, kiểm thảo, bị nhận xét là có tư tưởng dâm ô, có hành động "bất hợp pháp". Nếu có tình ý gì với nhau phải báo cáo cho đơn vị, cho tập thể, cho Ðoàn, cho Ðảng biết để Ðảng có ý kiến lãnh đạo, để tập thể có ý kiến, "giúp đỡ".
Khi đã có gia đình, Ðảng không chấp thuận chuyện phản bội nhau, không chấp thuận có vợ lẽ, vợ mọn, không được "quạt". "Quạt" nghĩa là trổ mòi thả ba lông thăm dò "đối phương", quấn quýt, nói chuyện thân mật với người khác phái. Tay nào được gán cho danh từ "quạt tưa tai", tức "quạt" đến rách cả lỗ tai thì phải hiểu ngay: nam thì nịnh đầm, "dê cụ", nữ thì mắt la mày lém, hết "câu" cậu này lại "câu" cậu khác.
Những trường hợp trên đây sẽ bị nhận xét "trùng đầu", không ngóc lên nổi. Nhưng cái gọi là "quan hệ nam nữ" hay "tình yêu trong cách mạng" không giống như mẫu lý thuyết được nêu ra trên kia.
Trong thời chín năm kháng chiến chống Pháp, khi nói đến đạo đức cách mạng, người ta chú trọng nhiều đến vấn đề "quan hệ nam nữ" hay yêu đương trái với nguyên tắc lãnh đạo của Ðảng. Ngày nay, ở miền Bắc được Ðảng "điều chỉnh", giải thích rằng: Khuyết điểm về "quan hệ nam nữ " không chính đáng, khuyết điểm về dâm ô, chỉ là khuyết điểm thuộc về sinh hoạt, không quan trọng. Không phải là khuyết điểm căn bản về tư tưởng hay đạo đức cách mạng.
Cán bộ mùa Thu từ Bắc vào Nam mang theo quan niệm đó, sự giải thích đó, truyền đạt lại cho những kẻ đi sau. Thực tế, vấn đề này nó không được người ta "xem nhẹ" như vậy. Nếu cho là khuyết điểm thuộc phạm vi sinh hoạt, khuyết điểm "râu ria", không phải là căn bản thì tại sao lại có chuyện cấm cán bộ không được yêu người này, lấy người kia, phá vỡ hạnh phúc người nọ. Rồi những cuộc kiểm thảo nặng nề, lôi những kẻ đang yêu kia ra nhận xét, phê phán, phân tích nhiều ngày liền, đến nỗi ngồi ngủ gục, rã xương sống, để đi đến kết luận là khai trừ, cảnh cáo ghi lý lịch, hạ tầng công tác và cách ly, "chia loan rẽ thúy" hoặc ép buộc, tổ chức "cưỡng hiếp" để buộc người con gái phải lấy một anh cán bộ già, tuổi vào hàng cha chú mình?
Về mặt lý thuyết hôn nhân, Ðảng nêu lên nguyên tắc cán bộ đảng viên phải thể hiện đảng tính, đảng kỷ qua lập trường giai cấp. Nói tóm lại, nghĩa là cán bộ đảng viên không được yêu, không được lấy con gái địa chủ, phú nông, tiểu tư sản, tư bản. Bởi những cô gái thuộc giai cấp này là giai cấp phản động, kẻ thù của công nông. Khổ nỗi con gái công nông làm đầu tắt mặt tối, không đủ phương tiện học hành, không biết làm đẹp, làm duyên thì làm sao trắng trẻo mịn màng, duyên dáng, thướt tha, ngọt ngào như con gái tiểu tư sản, địa chủ, phú nông? Ta nên làm một phát "đối chiếu" tí chăng?
Trong kháng chiến chín năm chống Pháp, Lê Duẩn được Trung Ương Ðảng cử vào lãnh đạo cuộc kháng chiến miền Nam, núp dưới danh hiệu "Hội nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác", rồi "Ðảng Lao động Việt Nam". Dáng người ốm xanh, trắng và cao. Bao giờ người ta cũng thấy toát ra ở con người đó một cái gì nghiêm nghị, đạo đức, khắc khổ, đầy mẫu mực chính trị. Người lãnh tụ Ðảng cao cấp nhất ở miền Nam dạo đó, và rồi Tổng Bí thư Trung Ương Ðảng ở miền Bắc ngày nay, nhất định phải là con người "Ðảng cùng mình", đảng tính, đảng kỷ siêu việt hơn ai hết.
Thuở ấy, người ta đồn đãi với nhau rằng anh Ba Duẩn làm cách mạng từ hồi tóc còn để chỏm, hoàn toàn hy sinh hết cho cách mạng, cho Ðảng. Nay vào tù, mai ra khám, suốt mười bốn năm liền nằm ép rệp ở Côn đảo, cho nên anh Ba hy sinh cả gia đình, hy sinh cả cuộc đời mình, quên di chuyện vợ con, không khác gì Hồ chủ tịch. Tội nghiệp cho anh Ba đã lớn tuổi rồi mà chưa hề biết đến cái thú ân ái, hạnh phúc gia đình. Ðùng một cái 1949, 1950 phong thanh người ta nghe nói anh Ba cưới vợ! Mặc dù chuyện cưới vợ của anh Ba được giữ bí mật, chỉ có một số cán bộ cao cấp mới biết được. Việc tổ chức hôn lễ của anh Ba thu hẹp trong một phạm vi nhỏ bé, nhưng rồi, mọi người đều hay.
Thì ra anh Ba cưới chị Thùy Nga, Chủ tịch Ban Chấp hành Phụ nữ Cứu quốc tỉnh Cần Thơ. Người ta tò mò tìm hiểu thêm, được biết chị Thùy Nga là con một đại địa chủ nổi tiếng ở Tây Ðô, được coi là hoa khôi số một, sắc nước hương trời, làm điên đảo anh hùng, thiên hạ chết mê chết mệt vì cái thiên kiều bả mị của người đẹp Tây Ðô, hết chư vị Trung đoàn trưởng này đến chư vị Tiểu đoàn trưởng kia, rồi anh tỉnh ủy nọ.
Mà thật, nếu được tả hình dạng theo kiểu tiểu thuyết thì: "vóc dáng tiên nga kia với suối tóc dài óng ả, khuôn mặt trái soan kiều diễm, đôi mắt nhung huyền lung lanh, mày lá liễu, đôi môi mọng đỏ hồng hồng, nước da trắng như trứng gà bóc, đôi ngực nở tròn, chiếc lưng ong bé nhỏ, mỗi bước đi làm cho người ta thấy những đường cong, những nét thanh tân dịu mềm và rung động gây nên sóng gió trong lòng khách anh hùng". Anh hùng hảo hán ở Tây Ðô chết mê chết mệt là phải. Ðố ai không thấy lòng mình "xiêu xiêu" khi người đẹp như vậy đi qua?
Dù sao, "tiên nữ" có cao giá, khép kín lòng mình đến thế nào đi nữa, cũng phải để lọt mắt xanh, rung cảm bởi một người. Chị Thùy Nga đã yêu một anh chàng Tiểu đoàn trưởng phong nhã hào hoa. Rồi giữa lúc tình yêu của hai người đang độ nồng thắm nhất thì có cuộc đại hội Phụ nữ Cứu quốc toàn Nam bộ Dĩ nhiên, chủ tịch Ban Chấp hành của một tỉnh, Thùy Nga cũng phải từ Thác Lác, Ông Vèo khăn gói xuông U Minh dự đại hội.
Ðêm đó, một đêm thu 1949, mưa như thác đổ, bên bờ sông Trẹm, con sông ranh giới U Minh thượng và U Minh hạ, tại một kinh ngang của xóm Tân Bằng, người ta đưa Thùy Nga đến gặp anh Ba để "nhận chỉ thị công tác". Chỉ có hai người, nhà vắng không ai, ngoài trời tối đen, mưa gió sấm chớp đùng đùng, anh Ba tha hồ "tự do chỉ thị" kịch liệt.
Dường như đêm đó thi hào Nguyễn Du chếnh choáng hơi men, đội mồ ngồi dậy, vỗ tay đồm độp cất giọng ngâm nga:
"...Tiếc thay một đoá trà mi Con ong đã tỏ đường đi lối về Một đêm mưa gió não nề" ................................................
Ðảng ra lệnh giữ bí mật vụ này, nhưng rồi tin đó cũng loan đi cho nhiều người biết. Kết quả, anh Ba Duẩn cưới chị Thùy Nga. Và chị Thùy Nga khóc sưng cả đôi mắt.
Chiến dịch đạt thắng lợi vẻ vang, ngoài sức tưởng tượng.
Câu chuyện tình của anh Ba tưởng đến đó là êm xuôi, cứ đều đều trôi theo thời gian như bao mối tình khác, nhưng không. Năm 1955 tập kết ra Bắc, có một thiếu phụ già chít khăn đen, áo nâu, quê mùa cục mịch dẫn theo một cậu con trai 18 tuổi đến hỏi tội Thùy Nga: "Tại sao mi dám giật chồng bà?" A, thì ra anh Ba đã có vợ con rồi. Cái chuyện chưa có gia đình, hy sinh tình cảm cá nhân để lo cho cách mạng chỉ là...(!) Lỡ rồi! Ðã có con với anh Ba rồi, đã "hết vốn" với anh Ba rồi, còn biết nói năng sao? Anh Ba thu xếp chuyện nhà không xong, Trung Ương Ðảng phải lo thu xếp hộ, dùng biện pháp cách ly, tạo căn cứ mới cho bà V2. Riêng anh Ba, bối rối khôn tả vì Thùy Nga bỏ ăn, khóc lóc đòi tự tử, phải năn nỉ dỗ dành mãi mới hơi tạm yên thì bà cả lại biết chỗ ở mới của Thùy Nga, đến làm "om lên" thật là đẹp mày đẹp mặt hết sức. Cuối cùng Trung Ương Ðảng phải giải quyết bằng cách "Ðảng chiếu cố cho đi du học", đưa Thùy Nga sang trường đại học Thiên Tân ở Trung quốc. Tháng tháng, anh Ba Duẩn sang "thăm". Ức lòng quá, Thùy Nga định ly dị mấy lần nhưng không lần nào ly dị nổi. Muốn "phá rào" nhưng bị Ðảng bộ ở Thiên Tân canh gác, giữ chặt chịa quá. Thùy Nga đành vô phương vùng vẫy. Rồi lại cứ có thai đều đều, đẻ sòn sòn năm một.
Nguyên tắc Ðảng, Ðảng tính, Ðảng kỷ đối với Tổng bí thư về vấn đề tình ái hôn nhơn là vậy. Sách gối đầu giường cho tất cả thanh niên nam nữ, được Ðảng ca tụng làm khuôn vàng thước ngọc để giáo dục về luyến ái là "Tân luyến ái quan" của Mao Trạch Ðông. Nó thể hiện tư tưởng cách mạng, tư tưởng Ðảng, đường lối đúng đắn nhất của Ðảng. Nhưng, Mao chủ tịch vĩ đại có đến ba vợ.
Trường hợp của ông nguyên chủ tịch Ủy ban kháng chiến Hành chánh Nam bộ thì lại khác: Luật sư Phạm văn Bạch. Từ 1946, theo kháng chiến, Luật sư Bạch được cử làm chủ tịch Ủy ban kháng chiến Hành chánh Nam bộ, đóng ở Ðồng Tháp Mười, trên kinh Dương văn Dương. Phạm văn Bạch cũng thứ Ba, một nhà trí thức cách mạng được Ðảng giáo dục và kết nạp vào Ðảng năm 1950. Về mặt chính quyền, anh ba Bạch là nhân vật quan trọng số một của miền Nam, nắm quyền hành sinh sát trong tay, một cán bộ "cao cấp nhất" như Luật sư Thọ ngày nay, Anh Ba có vợ đầm. Theo cách mạng theo Ðảng anh Ba ly dị bỏ hẳn người vợ Pháp đã sinh cho anh Ba một lô con cái để ở Sàigòn và ở Pháp.
Thực là hy sinh tình cảm riêng tư để lo cho Cách mạng, gương mẫu cho đàn em noi theo. Mọi vấn đề luyến ái, quan hệ nam nữ anh Ba đều dẹp sang một bên không nghĩ tớị Tuổi anh Ba cũng đã bốn mươi ngoài, đường tình ái cũng đã trải qua rồi thì cái chuyện trấn áp dục tình chắc anh Ba có thể làm được. Và nếu vấn đề sinh lý có hành anh Ba đi nữa thì cùng lắm cưới một chị phụ nữ nào đó là xong. Ðảng sẽ lo, Trung Ương cục sẽ lo như đã lo anh Ba Duẩn, vậy thôi.
Anh Ba Bạch không chịu cưới vợ, cốt chứng tỏ cho mọi người thấy anh Ba gương mẫu thực sự. Tình trạng đó êm xuôi từ Ðồng Tháp Mười cho đến mãi những năm sau này khi các cơ quan cấp Nam bộ được Tiểu đoàn 307 hộ vệ dời về Rừng U minh thuộc tỉnh Rạch Giá - Bạc Liêu cuối năm 1947.
Vào giữa năm 1951, sau những năm "dồn ép tình cảm", một đêm tĩnh mịch, anh Ba thao thức không ngủ được, bò vào mùng của cô thư ký đánh máy ở văn phòng Ủy Ban, bịt miệng cô ta lại và... "đánh máy". Cô thư ký đó tên Hoa, con của một ông Hội đồng địa hạt quê ở Sa Ðéc, theo kháng chiến từ những năm đầu cuộc chiến, được chọn và phân công về làm thư ký đánh máy cho văn phòng Ủy Ban, dưới quyền điều khiển chánh văn phòng Phạm Chung. Hoa dù con địa chủ, nhưng răng thì hô, người gầy đét, má gẫy, nói chung, dạo ấy đã 26, 27 tuổi rồi mà chẳng ma nào buồn mó đến.
Dù xấu xí, trong một phút bất thần, đối với anh Ba đó là chuyện người đẹp vô song, một sự cần thiết vô cùng. Chuyện đó được ém nhẹm lại. Cấp ủy chi bộ báo cáo lên Liên Chị Liên Chi báo cáo Trung ương Cục. Thế là anh Ba Bạch được anh Ba Duẩn gọi đến, tổ chức cuộc kiểm thảo thu hẹp trong vòng vài cán bộ cao cấp. Sau ba ngày bị kiểm thảo ngồi ngay lưng, anh Bạch đã khóc nhiều, trông mặt mày thật thiểu não. Ðể rồi sau đó một tuần, cái tin anh Ba Bạch cưới vợ được loan ra. Cậu em ruột của cô Hoa tên Hoà, lúc đó là y tá ở Viện An Dưỡng của bác sĩ Nguyễn văn Cương cũng được thông báo, được chị viết thư báo tin đến dự tiệc cưới bên kia bờ sông Ông Ðốc, vùng kinh Công Nghiệp. Cậu ta chưng hửng và buồn hiu. Ðáng lẽ mình bỗng nhiên được làm em vợ ông chủ tịch Ủy ban kháng chiến Hành chánh Nam bộ thì phải mừng chứ, nhưng khi nghe chị mình kể lại chuyện trên và biết anh Ba Duẩn ra lệnh cho anh Ba Bạch phải cưới người ta chứ không được làm ẩu rồi thôi, cậu Hoà chỉ còn biết thở dài.
Bây giờ, ở chức vị Chủ Tịch Tối Cao Pháp Viện của miền Bắc chắc anh Ba Bạch không khỏi rùng mình khi nghĩ lại những chuyện xưa.
Ðến trường hợp thứ Ba, trường hợp của đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung Ương Ðảng đặc nhiệm về tổ chức, kiêm Hiệu trưởng trường Ðảng cao cấp "Nguyễn Ái Quốc", ở Hà Ðông ngày nay. Ðó là Lê Ðức Thọ.
Trong cuộc kháng chiến chín nam chống Pháp, Trung ương đảng cử Lê Ðức Thọ vào Nam, đại diên cho Trung ương ở bên cạnh Lê Duẩn để tăng cường lãnh đạo cuộc kháng chiến ở Nam bộ Thọ cùng đi với một phái đoàn cán bộ đảng cao cấp khác, vượt Trường Sơn vào đến Nam bộ năm 1949. Lần đầu tiên xuất hiện trước đồng bào trong Lễ Ðộc Lập 2-9-1949 trên một lễ đài tại sân bóng tròn ở Tân Bằng, bên bờ sông Trẹm thuộc quận Thới Bình, Cà Mau ngày nay.
Vào Nam ngày ấy, đối với các cán bộ cấp dưới, Thọ cũng bảo rằng suốt đời mình hy sinh cho đất nước, vào tù ra khám liên miên, cho nên nay ngoài bốn mươi rồi vẫn chưa có gia đình. Qua năm sau, 1950, Thọ thấy cần phải cưới vợ. Thế là Trung ương Cục miền Nam phải đôn đáo cưới vợ cho Thọ. Hỏi Thọ chịu ai, Thọ chỉ đích danh cô Nguyễn Thị Chiếu, con gái út của một dịa chủ, nhà ở dưới Rạch Bàu, nằm bên bờ sông ông Ðốc, thuộc Cà Mau. Bởi trước đây, trong một lần đi công tác, Thọ có ghé ăn cơm ở đây, tình cờ nhìn thấy cô út của chủ nhà xinh như mộng ấy, tuổi mới 18 đôi mươi, vừa nghỉ học ở Bạc Liêu về nhà làm cô thợ may bất đắc dĩ.
Thực là thiên nan vạn nan, làm sao cho cô út xiêu lòng đây? Phải chi cô út là cán bộ thì dễ quá, dùng áp lực chánh quyền, áp lực đoàn thể, tạo cơ hội dược, đằng này là nhân dân quần chúng. May sao, qua thời gian điều tra, Trung ương Cục biết được cô út còn có một người anh ruột thứ năm tên Nguyễn Công Khanh hiện là một đảng viên, làm giáo sư ở trường trung học kháng chiến Nguyễn Văn Tố. Tức khắc Nguyễn Công Khanh được lệnh gọi về văn phòng Trung ương Cục. Vấn đề vận động, thuyết phục Khanh làm "nội tuyến" được nêu ra. Mặt khác, đứng về phương diện đảng, Khanh phải chứng tỏ sự trung thành với đảng và đảng sẽ cất nhắc Khanh trên đường cách mạng trong vấn đề hôn nhân cho Lê đức Thọ.
Kết quả với áp lực gia đình của Khanh, hôn lễ được tổ chức: cô út thợ may phản đối đến mấy đi nữa cũng buông xuôi hai tay đầu hàng. Khi ông ủy viên nhất định đổi nghề làm thợ may, giúp nàng cắm kim, đạp máy không biết mỏi trong đêm tân hôn.
Ðùng một cái, 1954 Hiệp định Genève ký kết, tập kết ra Bắc mới hay quê quán của Thọ ở Phương Liệt (Hà Ðông) ngoại ô Hà nội. Thọ đã có vợ rồi, bà cả còn sờ sờ ra đấy.
Trường hợp thứ tư là trường hợp của anh Tư Chi, tức Trung tướng Trần văn Trà.
Cũng trong cuộc kháng chiến chín năm chống Pháp, năm 1951, sau khi Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ được Ðảng "sắm" vợ địa chủ cho thì Trà nhất định lập gia đình. Trà vốn xuất thân là sinh viên, nên dù là một đảng viên cao cấp, cái tự ái trí thức cũng như lãng mạng tư sản vẫn còn hằn sâu trong nếp gấp của tư tưởng. Dĩ nhiên "người ta" biết cưới vợ trẻ, vợ dẹp để ôm ấp, để hưởng thụ thì Trà đâu dễ chịu thua.
Nhân lúc ấy, một số cán bộ trẻ được Bộ Tư lệnh Nam bộ phân công về công tác ở Phân Liên Khu miền Ðông, kể chuyện về sinh hoạt, nếp sống "vương giả" của miền Tây, trong đó có những chuyện tình cảm, yêu đương vớ vẩn trai gái. Nam nữ thanh niên lớn lên, đâu có chuyện gì hấp dẫn bằng những chuyện tình! Số cán bộ đó, có cậu đã từng biết mặt Lê Thoa, có cậu tiến xa hơn, từng chạy theo góp mặt vào "đám tín đồ yêu đương" vây quanh Lê Thoa như bầy phù du thiêu thân lao mình vào ngọn đèn dầu. Các cậu ca tụng Lê Thoa không tiếc lời. Ðiều đó gây một sự khích động lớn lao vào tình cảm, tâm lý cũng như tự ái của ông Tư lệnh Phân Liên Khu miền Ðông cũng là đồng chí ủy viên Trung Ương Cục, Bí thư Liên Khu ủy Phân Liên Khu miền Ðông.
Lê Thoa là cô con gái đầu lòng của cố luật sư Lê Ðình Chi, nguyên Giám đốc Sở Tư Pháp Nam bộ, bị máy bay Pháp bắn chết ở Thiên hộ năm 1947. Lúc đó, Thoa hãy còn là một đứa bé con mười bốn tuổi đầu, vừa vào Ðồng Tháp với cha. Khi tất cả cơ quan cấp Nam Bộ dời về U Minh cuối năm 1947, Thoa được đưa vào trường Thiếu sinh quân khu 8. Dạo ấy, Trà cũng đi thăm Truờng Thiếu sinh quân thuộc quyền cai quản của mình nhiều lần, nhưng đâu để ý oắt con làm gì, nếu có chỉ là mấy cô thiếu sinh quân 17, 18 mơn mởn đào tơ chứ đâu đến lượt Lê Thoa.
Năm Lê Thoa 16 tuổi, luật sư Phạm Ngọc Thuần Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Hành chánh Nam bộ, người nhận đỡ đầu chị em Lê Thoa, cho người đến khu 8 rước Thoa về khu 9, gởi vào Viện Văn Hoá kháng chiến Nam bộ của Hoàng Xuân Nhị, cùng với một số con em của hàng con ông cháu cha khác, học luyện thi để thi vào các trường Trung học do Viện Văn Hoá mở, như Trung học Nguyễn Văn Tố, Trung học Thái Văn Lung. Thoa đi thi và đậu vào trường Thái văn Lung.
Thời đó, ở khu 9, hầu hết tất cả học sinh hoặc nam nữ thanh niên ai cũng ôm mộng được vào học ở hai trường trung học đó. Cái nhãn hiệu học sinh Trung học Nguyễn Văn Tố hoặc học sinh trung học Thái Văn Lung có giá trị như một thứ "dân Tây" thời Pháp thuộc. Bởi lẽ đó, những gì lạ ở hai trường trung học này đều được giới thanh niên đồn đãi rất nhanh. Ở cái tuổi dậy thì, "trổ mã", Lê Thoa bỗng chói chang rực rỡ vượt lên trên đám nữ sinh của hai trường, tiếng đồn hoa khôi miền Tây xuất hiện từ dạo ấy.
Không phải Thoa là cô nữ sinh đẹp nhất của hai trường, Nguyễn Văn Tố còn có những cô đầm lai, những "kim chi ngọc diệp" xinh hơn nhiều nhưng không "xuất hiện giang hồ" qua những kỳ đại lễ, do Ủy Ban kháng chiến Hành chánh Nam bộ tổ chức trước quần chúng, hoặc do Trường hay Viện Văn Hoá tổ chức, nhằm vào các kỳ nghỉ hè, đi công tác quần chúng ở các tỉnh miền Tây trong hai tháng, do đó hãy còn "mai danh ẩn tích". Còn Thoa, vốn được đào luyện ở cái lò Marie Curie nên dạn dĩ đã quen, lại có giọng hát truyền cảm nên thường xuất hiện trước công chúng, nổi danh với các bài "Ðoàn quân đi", cho nên lính tráng "Vệ quốc đoàn", và các cậu ở các cơ quan mê Lê Thoa như điếu đổ. Cái sức hấp dẫn của tuổi dậy thì với đôi má mũm mĩm, đôi môi nhỏ xinh xinh, với tiếng nói nhỏ nhẻ, giọng oanh vàng thì ai chả muốn... cắn cho một miếng.
Cho đến năm 1950 thì không một cậu thanh niên nào ở các cơ quan, bộ đội thuộc vùng miền Tây mà không nghe nói đến "người đẹp Lê Thoa". Tháng 10 năm đó, Trung Ương Cục quyết định đóng cửa các trường trung học với lý do: "Sự hiện diện của trường trung học phản ánh một sự nhục mạ cách mạng, một hành động mất lập trường giai cấp trái với đường lối của Ðảng. Vì các trường đó, tuyệt đại đa số học sinh là con ông cháu cha, là người của các thành phần "trí, phú, địa, hào" và tư sản, tiểu tư sản". Mặt khác, còn gây nên sự hao tốn ngân quỹ nhiều quá. Ðiều đó không thể chấp nhận được. Ngoài hai trường Nguyễn Văn Tố và Thái Văn Lung, Viện Văn Hoá vừa mới mở thêm một trường mới nữa là trường Huỳnh Phan Hộ và trường Tiền Phong của Thanh niên cứu quốc Nam bộ. Tất cả các trường của Viện Văn Hoá đều nằm bên hữu ngạn sông Cái Tàu, một nhánh của sông Ông Ðốc, cắt ngang rừng U minh hạ. Giám đốc Viện văn Hoá kháng chiến là Hoàng Xuân Nhị, một Giáo Sư Tiến sĩ triết học dạy đại học ở Ðức, tại thủ đô Bá Linh, được vận động về tham gia kháng chiến, lần ấy cũng bị gọi về Trung Ương Cục kiểm thảo, giáo dục lại lập trường giai cấp. Viện Văn Hoá cũng bị Trung Ương Cục giải tán. Số cán bộ, nhân viên xáp nhập vào sở Giáo dục Nam bộ, rồi giải tán luôn cả Sở Giáo Dục, giao cho sở Tuyên Văn của Lưu quý Kỳ sau nàỵ
Học sinh các trường trung học được một ủy ban phân phối của Trung Ương Cục đến thu xếp, tuyển chọn và phân phối cho các cơ quan quân dân chính ở Nam bộ sử dụng. riêng Lê Thoa được theo mẹ về kinh 13 Tân Bằng nghỉ ngơi ít lâu. Người ta cũng không lấy làm lạ khi trường được dẹp, Thoa đá trái cho anh tình nhân cũ, bạn học của Thoa, "nối khố" từ trường thiếu sinh quân khu 8 đến Thái Văn Lung, dan díu với một anh nhân tình mới, xuất thân ở trường võ bị lục quân Trần quốc Tuấn (*). Thoa về kinh 13 vui vẻ với gia đình thì cậu kia, dù xin nghỉ phép không được cũng trốn luôn về ở đậu nhà nhân dân tại kinh 13 để hú hí với người đẹp.
Bà Lê Ðình Chi biết chuyện đó, chẳnh những không rầy mà còn tán đồng cho phép "hai trẻ vui chơi". Thỉnh thoảng, ngày một ngày hai, bà hết làm bánh xèo, tới bánh bò, rồi cháo gà, cháo cá, lần nào bà cũng cho mời thằng rể tương lai đến cùng ăn uống cho vui vẻ cửa nhà.
Trước đó, dù chưa được chiêm ngưỡng tận mắt người đẹp Lê Thoa bằng xương bằng thịt nhưng Trà đã cảm nặng hoa khôi miền Tây qua đại danh nổi như cồn từ miền Tây vọng đến. Trà thu xếp lên đường về Trung Ương Cục, hơn một lần tìm đến Thái Văn Lung, rồi đề nghị Ðảng thu xếp cưới Lê Thoa cho mình. Thế là, một hôm Lê Ðức Thọ đi ghe mui ống, bốn chèo với hai cậu vệ sĩ đến kinh 13, mời bà Lê Ðình Chi "tham gia" công tác lãnh đạo Phụ nữ Cứu quốc Nam bộ, sau đó đề cập đến cô trưởng nữ Lê Thoa. Chiến thuật "bánh khô đi trước, bánh ướt theo sau" mà! Lê Ðức Thọ đề cao Trần Văn Trà lên đến tuyệt đỉnh, rồi nói đến chuyện tương lai, nói chuyện Trung Ương Ðảng quan tâm chăm sóc đến gia đình cán bộ có công, hy sinh vì cách mạng v.v... Bà Lê Ðình Chi xiêu lòng, dù rằng bà đã phát biểu ý kiến rằng tuổi của Trà và Thoa chênh lệch quá, e không xứng đôi vừa lứa, thiên hạ ẽ đồn đãi tiếng không hay cho gia đình, mất danh dự của bà. Lợi lộc, danh vọng, địa vị, bao giờ cũng dễ làm mờ mắt người đời, huống hồ bà Lê Ðình Chi là một phụ nữ khuê các từng sống và lớn lên trong danh vọng và địa vị.
Vậy là, thái độ đối xử của bà Lê Ðình Chi thay đổi hoàn toàn đối với cậu rể hờ mà bà quý chuộng bấy lâu nay. Ðồng thời, bà báo cho Lê Thoa biết tin ông Tư lệnh miền Ðông cậy mai mối, cả Trung Ương Cục chính thức đến hỏi nàng làm vợ, và bà ta đã bỏ phiếu thuận. Phản ứng của Lê Thoa và người yêu cô ta trưa ngày hôm sau là cả hai leo lên cây tràm ở đầu kinh, ôm nhau nhảy xuống sông Trẹm tự tử. Nhưng tự tử theo cái kiểu trước mặt mọi người và cả hai đều biết lội thì không tài nào chết được.
Cả hai đều sống nhăn. Trung Ương Cục được báo tin này liền thu xếp cho người tới nửa đêm rước gia đình bà Lê Ðình Chi đi tuốt về kinh 30 ở Huyện Sử. Mục đích, cách ly cô cậu ra và đánh lạc hướng để cậu kia không hiểu sự thế ra làm sao nữa.
Mặt khác, ngoài việc bà Lê Ðình Chi khóc lóc, dùng tình cảm gia đình làm áp lực mua chuộc Thoa, còn có cả cái gánh môi giới của "các chị" trong Ban chấp hành phụ nữ Nam bộ và các bác ở Ủy ban kháng chiến Hành chánh Nam bộ tuyết phục, "tranh thủ tình cảm", vận động kịch liệt.
Cuối cùng, giữa năm 1951, cái tin bà Lê Ðình Chi và Trung Ương Cục cho người hộ tống "Chiêu quân Lê Thoa" từ U minh đi về miền Ðông cống cho "Hồ Trà" làm cho mọi người sửng sốt. Tức tối nhất có lẽ là cậu nhân tình của Thoa và các "cảm tình viên" từng thầm yêu người đẹp.
Qua bốn sự kiện về tình ái của bốn nhân vật có thể cho phép ta kết luận là các cán bộ lãnh đạo cao cấp của Ðảng đều được hưởng một chính sách, một chế độ riêng về luyến ái, có Ðảng tán trợ che chở và nó còn là một thứ tiêu chuẩn hưởng lạc mà Ðảng có nhiệm vụ phải chu toàn. Lấy vợ đôi, vợ ba, lấy gái tơ đáng tuổi con cháu mình, ép duyên không phải là một thứ hưởng lạc trên cả mọi sự hưởng lạc hay sao? Trong bốn người, chỉ có riêng mỗi luật sư Phạm Văn Bạch vì không phải là lãnh tụ, là cán bộ cao cấp của Ðảng nên mới bị kiểm thảo, khiển trách, không được hưởng tiêu chuẩn trên.
Cho nên cái lý luận: "khuyết điểm về quan hệ nam nữ, khuyết điểm về luyến ái chỉ là khuyết điểm về sinh hoạt râu ria, không căn bản. Ðạo đức cách mạng, căn bản là trung với Ðảng, hiếu với dân, hy sinh cho cách mạng v.v..." được đẻ ra để "bào chữa" cho những người lãnh đạo Ðảng. Nếu không tạo nên lý luận đó, hoá ra Ðảng chủ trương sao? Và sẽ ăn nói ra sao với quần chúng, với đảng viên cấp dưới khi họ chất vấn về hành động của các lãnh tụ, các cán bộ cao cấp lãnh đạo Ðảng? Một mặt, nó giữ được uy tín của lãnh tụ và đạo đức, một mặt nó giải trừ cái mâu thuẫn tai hại có tính cách nguyên tắc và giáo điều "sáng suốt", chế độ tốt của Ðảng" mà Ðảng đã dạy (!).
Tất cả các cán bộ mùa thu từ miền Nam tập kết ra Bắc rồi hồi kết trở về đều đã được "uốn nắn tư tưởng" lại cho đúng với nguyên tắc nàỵ Và họ đã cố gắng "truyền bá" phổ biến.
Nhưng sinh hoạt "râu ria" đó trong thực tại của cái gọi là cuộc cách mạng Miền Nam được diễn biến như thế nào? Ðể dễ tìm hiểu ta có thể chia ra làm hai loại: loại đảng viên và loại quần chúng.
Loại đảng viên, Quân Ủy Miền đã nhiều lần chỉ thị trên giấy tờ cho các cấp biết rằng Ðảng chủ trương theo "Tân luyến ái quan" của Mao Trạch Ðông, tôn trọng hạnh phúc cá nhân, tôn trọng tự do kluyến ái nhưng luyến ái đó phải đi đúng theo chính sách, đường lối của Ðảng; chịu sự kiểm soát, lãnh đạo của Ðảng.
Ði đúng theo chính sách, đường lối của Ðảng có nghĩa là tình yêu của bất cứ đảng viên nào cũng phải thể hiện cho kỳ được tình yêu giai cấp, lập trường giai cấp đấu tranh. Là đảng viên, tuyệt đối không được yêu ai ngoài hai giai cấp "công nông".
Ðảng viên phải quan niệm đứng đắn về tình yêu và hạnh phúc. Chỉ có tình yêu giai cấp, yêu đảng, yêu lãnh tụ, yêu nước mới là thứ tình yêu cao cả, tôn thờ, còn tình yêu trai gái, gia đình là thứ tình ích kỷ, cá nhân, phản bội lại quyền lợi của Ðảng, của tổ chức. Phải biết xem nhẹ tình yêu gia đình vợ con, xem nó là một thứ phụ thuộc không cần thiết, luôn luôn cảnh giác đề phòng vì nó luôn luôn là đầu mối của những tư tưởng xấu xa phản động, ảnh huởng đến công tác, đến đạo đức cách mạng.
Bởi vậy, khi bắt đầu yêu phải chọn những người thuộc giai cấp công nông, rồi báo cáo lên cho Ðảng biết người mình sẽ chọn để Ðảng điều tra, nghiên cứu lại là thuận hay không. Thuận thì đảng viên mới được phép tiến tới "xây dựng, củng cố" tình yêu, bằng cách giáo dục chính trị, giáo dục lập trường giai cấp, giáo dục lập trường đấu tranh cách mạng. Mọi hình thức âu yếm, ca tụng tình yêu, thủ thỉ tâm tình, quyến luyến là thứ lãng mạng tư sản. Ðảng không chấp nhận kiểu yêu đương đó. Tiêu chuẩn chọn lựa lứa đôi phải nhằm vào: người đó có là thành phần cơ bản không? Có phải là người tích cực công tác không? Có phải là người xung phong, gương mẫu, tiên tiến trong đơn vị không?
Khi đã được Ðảng chấp thuận, tổ chức làm lễ tuyên hôn rồi, vợ chồng phải khuyến khích lẫn nhau, giáo dục lẫn nhau, đấu tranh lẫn nhau để tích cực công tác hơn nữa, biết ơn Ðảng nhiều hơn nữa, vì nhờ Ðảng tác thành cho nên hai người mới nên vợ nên chồng. Sinh hoạt trong gia đình, câu chuyện giữa vợ chồng mỗi khi sum họp phải là công tác, phải là đấu tranh tư tưởng lẫn nhau. Nếu may mắn, trong công tác, hai vợ chồng được sống gần nhau thì hai người lại càng phải đề phòng tư tưởng hủ hoá, hưởng thụ hưởng lạc, ích kỷ, xem nặng hạnh phúc lứa đôi mà quên nhiệm vụ, thường ngày phải kiểm thảo phê bình, đấu tranh lẫn nhau để tiến bộ.
Nếu không may, ở xa nhau, khi nào có công tác kết hợp thì gặp nhau một đêm, một buổi cũng đã quá đủ rồị càng xa nhau, càng nhớ nhau lại càng phải công tác hăng hái, xung phong, để đóng góp cho thật nhiều thành tích, chóng đưa nước nhà đến thống nhất, chừng đó tha hồ gần gũi, tha hồ yêu ngày, yêu đêm. Chứ xa nhau, nhớ nhau ảnh hưởng đến sự suy giảm tinh thần chiến đấu, thiếu sự vui vẻ hồn nhiên thì nên đấu tranh tư tưởng lại, nên kiểm điểm bản thân. Nếu được tin vợ con hay chồng con có đau yếu, tai nạn thì cứ yên tâm, không cần gì phải lo cả, mọi sự viếng thăm không cần ích bằng trọng tâm công tác của đơn vị. Vợ hay chồng hoặc con mình có sắp chết đi nữa đã có đảng lo, tập thể lo. Sự thương nhớ vợ chồng, con cái không gì cụ thể và tiến bộ bằng chứng minh sự tích cực công tác tại đơn vị. Nó vừa làm đẹp lòng nhau, vừa làm tăng sự tín nhiệm đối với Ðảng v.v...
Thật là lý tưởng hết sức. Thật là cao quý tuyệt vời!
Ngược lại, từ buổi ban đầu đặt tình yêu không đúng chỗ thì sao? Dĩ nhiên Ðảng không thể chấp nhận được. Ðảng sẽ có biện pháp giáo dục và có kỷ luật để thi hành. Nhẹ thì kiểm thảo phê bình, hơn tí nữa là cảnh cáo ghi lý lịch. Còn nặng thì khai trừ, hạ tầng công tác cho đi "giáo dục" v.v... Nhưng thế nào là nhẹ, là vừa vừa, là nặng?
Nhẹ là chỉ mới đặt vấn đề, mới để ý "quạt" đối phương "cơ sở vòng ngoài". Hoặc bị Ðảng phát hiện ở vài tư tưởng "lòi đuôi" nào đó. Vừa vừa là công khai "tâm tình" với nhau, yêu nhau rồi mà giấu diếm Ðảng, không cho Ðảng biết. Hoặc khi Ðảng biết rồi, trả lời rằng không chấp thuận thì anh ta tỏ ý bất mãn, không hài lòng hay vô tình nói một câu có ý trách móc quyết định của Ðảng. Còn nặng thì lén lút "yêu" đại cho đến khi mang bầu, hoặc bị kẻ khác bắt gặp đang "mùi mẫn" với nhau. Hơn nữa, là những tay bất chấp, không coi hình thức bó buộc kỷ luật ra gì như câu thường nói đùa: "phê bình là nói láo, cảnh cáo là nói chơi, khai trừ là trò con nít".
Cũng cần phải nói thêm ở dâu, những đảng viên thường hoặc những đảng viên mà về mặt chính quyền mang cấp bậc từ Trung đội trưởng trở xuuống, thì đảng ủy Trung đoàn hoặc tỉnh ủy đủ quyền hạn quyết định thuận hay không thuận cho phép lập gia đình. Nhưng từ đại đội trở lên, huyện ủy trở lên đều do Cục Chính trị hoặc Quân Ủy và Khu ủy đồng ý, Trung ương Cục quyết định thuận thì mới được tiến hành. Các cấp dưới chỉ là cấp trung gian, chuyển đạt nhận xét của mình để ở trên dựa vào đó phán quyết.
Ta hãy nghe thêm vài sự kiện về "luyến ái" của số cán bộ đảng viên này để biết thực tại của nó ra sao.
Sự kiện thứ nhất là trường hợp của con gái Hai Cà Bí thư đảng ủy khu A, xảy ra 1963. Ông ta có cô con gái "rượu", tuổi mới 18, đưa đến gửi gấm cho học cứu thương rồi công tác ở tại một bệnh xá của khu A. Tại đây có một anh y sĩ, cán bộ mùa thu tập kết về, xuất thân là thợ hớt tóc (thành phần cơ bản đấy!) chịu trách nhiệm về khoa nội. Cô ta được Ban chỉ huy bệnh xá phân công công tác ở khoa này dưới quyền điều khiển của y sĩ nọ. "Lửa gần rơm không trèm thì trụa", ở đây hai cô cậu này không thoát khỏi câu châm ngôn dó. Y sĩ nhà ta tuy xuất thân là thợ hớt tóc, rồi được vào Ðảng, Ðảng cho đổi nghề đi học cứu thương, học y tá. Trước khi về Nam được cho đi học lớp y sĩ nên cái nghề nghiệp ở trong mát tạo cho anh ta cái nước da trắng trẻo dễ coi, gương mặt không đến nỗi "xí" gì cho lắm. Cô nọ lại đang ở cái tuổi thèm yêu, khao khát dục tình nên dù gặp anh y sĩ lớn hơn mình gần gấp đôi số tuổi, có bộ mã dễ coi, lại chưa có vợ, cứ "hát" những câu yêu đương, ân ái mãi cũng đâm ra xiêu lòng.
Câu chuyện đổ bể, chi bộ quân y báo cáo cho Ðảng ủy khu A biết. Hai Cà tức lắm, đòi cô con gái về nhà riêng đập cho một trận, cấm không được yêu nữa. Nhưng cô con gái cứ khăng khăng nhất định yêu cho kỳ được, vì đã lỡ "ấy" với nhau rồi. Hai Cà chết điếng, tức vô tả. Sau đó một ngày, triệu hồi anh y sĩ đến văn phòng hỏi tội, bảo thẳng cho biết là đứng về phương diện gia đình ông ta không chấp nhận. Ðứng về phía Ðảng ông ta cũng không đồng ý. Ông ta hét lên:
- Ðồng chí là thằng không ra gì. Ðảng đã giáo dục, dạy dỗ đồng chí như thế nào mà bây giờ đồng chí lại yêu đương một cách trái cựa vậy. Lập trường giai cấp của đồng chí để đâu?
Thì ra trong lúc quá nóng, Hai Cà nói không cần nghĩ nên mới bị anh y sĩ trả lời cho một câu nổ đom đóm mắt:
- Dạ, báo cáo đồng chí, Ðảng đã dạy rằng tự do luyến ái đúng lập trường giai cấp là yêu những người xuất thân ở giai cấp công nông, thì, trong trường hợp chúng tôi yêu nhau thật là đúng tiêu chuẩn do Ðảng đề ra. Người tôi yêu là con của một cán bộ, trung thành với cách mạng, xuất thân thành phần cơ bản. Chả lẽ con của đồng chí lại thuộc về giai cấp bóc lột, phản động sao?
Hai Cà cứng họng, đuổi anh ta ra và chỉ thị cho Ban Chính trị khai trừ anh y sĩ, hạ tầng công tác, thuyên chuyển công tác cho đi giữ kho muối và xúc tiến biện pháp kiểm thảo giáo dục, cảnh cáo toàn khu A. Trong khi Ban Chính trị thi hành thủ tục thì vợ Hai Cà đến cho hay: "Con gái mình lớn bụng rồi". Hai Cà chết sững. Bà vợ theo năn nỉ mãi, bảo đã lỡ rồi, nếu cứ làm cho nó hả tức thì tội nghiệp cháu ngoại nó không cha, không ai nuôi nó phải cực và danh dự gia đình chẳng còn gì.
Nhờ vậy quyết định vừa gửi đi được thu hồi lại ngay, thay bằng một quyết định khác: "khai trừ ra khỏi đảng sáu tháng, sụt một cấp từ Thiếu úy (C. phó) xuống còn Chuẩn úy (B trưởng) ghi lý lịch về tội "vô kỷ luật không chấp hành mệnh lệnh Ðảng" chứ không phải là tội dâm ô, vô kỷ luật, phản giai cấp, làm "hoen ố danh dự của Ðảng" như trước đây. Dưới quyết định vẫn kèm theo một câu: "cho phép làm lễ tuyên hôn nhưng phải thi hành kỷ luật trước, trong phạm vi nội bộ".
Trường hợp trên đây là trường hợp của đảng viên, lại là cán bộ mùa thu được tập kết ra Bắc rồi trở về Nam công tác, cảnh cáo lý lịch cũng chỉ vì yêu. Thì như vậy, ai có thể nghe được "khuyết điểm và quan hệ nam nữ, về tình ái chỉ là một khuyết điểm thuộc sinh hoạt "râu ria không đáng kể". Dĩ nhiên, đó chỉ là một lập luận được đẻ ra sau những vụ hôn nhân của các lãnh tụ, cán bộ cao cấp của Ðảng, nhằm bảo vệ uy tín Ðảng và cá nhân lãnh tụ.
Ðối với quần chúng ngoài Ðảng, những hình ảnh thông thường nhất ở tất cả đơn vị, cơ quan và các nơi được gọi là vùng giải phóng là việc ngồi nghe kiểm thảo ngay lưng "vì quan hệ nam nữ không đứng đắn" vì Ðảng không cho phép yêu, hay ngược lạị Cái cảnh dòm ngó, lén lút theo dõi, rình bắt những cuộc nói chuyện tay đôi ở chỗ vắng người như là một thói quen, một sinh hoạt cần thiết mà Ðảng giáo dục cho mọi người.
Bất kỳ một ai muốn yêu phải được phép của "tổ chức" dù là đảng viên, đoàn viên hay quần chúng cũng vậỵ Ái tình chỉ huy là thế. Nếu kể từ trường hợp, với những nét khác nhau của nó thì không sao kể xiết. Không một mối tình nào không được tạo bằng nước mắt.
Ở một trường hợp thông thường, như giữa hai quần chúng nam nữ yêu nhau, báo cáo lên tổ chức, tổ chức bảo rằng:
- Ðồng chí nữ có tác phong tiểu tư sản, công tác không tích cực và nhiều cá tính xấu, tổ chức không bằng lòng cho đồng chí xây dựng hôn nhân.
Hoặc:
- Ðồng chí nam kia tuy là thành phần cơ bản nhưng lập trường Cách mạng, lập trường giai cấp không vững, có tư tưởng cầu an, đôi lúc tỏ ra vô kỷ luật, vì vậy tổ chức xét trường hợp của hai đồng chí thấy không được. Nếu đồng chí lấy đồng chí nam kia, đồng chí không tiến bộ được.
Rồi những hình thức từ chối khác như:
- Tình hình hiện tại, tất cả toàn dân toàn quân tập trung nỗ lực vào chiến đấu chống kẻ thù. Ai ai cũng gác mọi chuyện riêng tư, tình cảm ích kỷ cá nhân ra, tại sao hai đồng chí lo tính chuyện hạnh phúc cá nhân, tình yêu đôi lứa? Tuổi của các đồng chí còn trẻ quá mà! Mới hai mươi ngoài việc chi đã vội?
Hay:
- Chiến trường ta đang chiến đấu là chiến trường du kích gian khổ khó khăn. Ðảng yêu cầu các đồng chí dẹp chuyện yêu đương, hôn nhân lại vì yêu phải lấy nhau, rồi sinh con đẻ cái, điều đó làm nặng nề thêm cho tổ chức. Cái chính là làm suy giảm tinh thần chiến đấu của các đồng chí. Các đồng chí không tiến bộ nổi. Chiến đấu mà còn nghĩ tới vợ con, chồng con thì chiến đấu nỗi gì?
Hoặc:
- Các đồng chí thấy đó, toàn miền Bắc đang phát động phong trào ba khoan, phong trào ba sẵn sàng thì tại sao ở tuyến dầu của Tổ quốc, các đồng chí còn có thể yêu nhau được chứ?
Dĩ nhiên đám nam nữ thanh niên họ bất mãn, thắc mắc. Càng bất mãn hơn khi thấy cán bộ mùa thu thì luôn luôn "quạt" đầu này, "tấn công tình cảm" đầu kia, "theo em" nơi nọ. Nhất là những nhân vật trong Ban chỉ huy đơn vị và cấp ủy Ðảng của đơn vị. Họ dàm làm thế là vì Quân ủy Miền đã có chỉ thị cho các cấp phải tích cực giúp đỡ, lo "kiếm vợ" cho những "cán bộ mùa thu" lớn tuổi còn độc thân.
Là Ban Chỉ huy, là cấp ủy của đơn vị tức người có quyền nhất ở đơn vị thì làm sao các cán bộ thường, chiến sĩ có quyền ngăn cản được? Cho nên dựa vào chủ trương của Quân ủy, lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình cũng như lợi dụng mấy cậu thanh niên "choai choai" bị cấm chỉ "quạt". Ban Chỉ huy, cấp ủy tha hồ dùng đủ mọi cách để lấy cho kỳ được các cô đẹp nhất, trẻ nhất đáng tuổi con cháu, có mặt tại đơn vị mình hay ở tại các đơn vị bạn, dưới sự ủng hộ tích cực của các Thủ trưởng và cấp ủy đơn vị. Nếu địa vị, danh vọng, lợi lộc không mua chuộc được lòng của các cô gái trẻ tuổi, mới lớn lên đang độ thèm... hơi hướng con trai, (nhưng con trai chịu bất lực) thì áp dụng biện pháp "quân sự". Khi toàn Ban Chỉ huy, toàn cấp ủy tán trợ, còn ai kêu ca vào đâu được. "Thành đã bị phá", mọi việc đã rồi thì cô gái đành cắn răng cam chịu mà thôi.
Mâu thuẫn trong phạm vi hưởng "quyền lợi tình ái", ở mọi cơ quan, đơn vị ngày càng lớn lên thêm giữa chỉ huy và lính, giữa cán bộ và chiến sĩ, giữa cấp ủy và đảng viên, giữa đảng viên và quần chúng.
Nhiều cậu thanh niên không nhịn được, nổi nóng hỏi anh Chỉ huy, hỏi cấp ủy tại sao có sự vô lý, bất công đó. Người ta giải thích rằng:
- Những cán bộ mùa thu họ đã hy sinh suốt cả quãng đời niên thiếu, mấy chục năm liền của mình cho Cách mạng, cho nhân dân. Vì lẽ đó, họ chưa lập gia đình. Ðảng có bổn phận phải lo hạnh phúc cho họ và an ủi họ. Tại sao họ già mà lấy mấy cô gái trẻ, nhỏ bằng nửa tuổi họ hả? Có gì đâu, tại hai người thoả thuận lấy nhau mà! Tự do luyến ái mà! Và dù họ có dùng hình thức này hay hình thức nọ để lung lạc đi nữa, thì các đồng chí xem trên quan điểm cách mạng, chẳng có gì đáng trách cả. Vì nhân dân, vì cách mạng tạo nên cái già thì cái già đó đâu thể gọi già. Quãng đời làm cách mạng, hy sinh cho đất nước phải trừ ra. Giả dụ như đồng chí A năm nay bốn mươi tuổi, tham gia cách mạng từ 1945 đến nay, vị chi là hai mươi hai năm. Trừ hai mươi hai năm làm cách mạng ra, đồng chí A năm nay xem như 18 tuổi thì đồng chí nữ kia năm nay 18, tức là hau người bằng tuổi nhau. Thanh niên 18 cưới thanh nữ 18 mà các đồng chí bất mãn cho là chênh lệch, không xứng đôi hả? Tư tưởng của các đồng chí thật là phi cách mạng, phi nhân dân, sai lầm vô cùng. Những đồng chí thanh nữ cũng phải thấy như thế mới là người tiến bộ, lập trường cách mạng vững vàng, tư tưởng xác đáng. Chẳng những vậy, các đồng chí nữ càng phải yêu hơn, tha thiết hơn, say mê 22 năm cách mạng đáng tôn thờ đó. Ðó là lập trường là lý luận của Ðảng đó! Nếu không vì cách mạng, năm ngoài 20 tuổi họ vẫn có vợ, có gia đình như bao nhiêu thanh niên khác.
Quả là lý luận cách mạng "tuyệt vời"! Thế mà các cậu thanh niên lại cho là kỳ quái, nhạo báng rùm beng, cười mỉa mai, nhức cả đầu cán bộ cấp ủy. Hành động đó sẽ dẫn đến kiểm thảo, cảnh cáo rồi khai trừ không sao tránh được. Không khí đã căng thẳng, giờ lại càng căng thẳng hơn.
Ðể đáp lại chủ trương và lập luận kể trên, ở tại các đơn vị R, thuộc các khu A, B, C, E, H, vùng rừng núi, đám nam nữ thanh niên kể từ giữa năm 1966 đâm ra liều mạng, thà chịu cảnh cáo, khai trừ mà được yêu, thoả mãn nhu cầu của tuổi trẻ. Họ cũng dùng lối "tốc chiến tốc thắng", "bao vây, thọc sâu, chia cắt", "công kiên chiến", "cường tập" v.v... Mỗi khi đưa ra kiểm thảo, cảnh cáo, họ làm ra vẻ hối hận, ăn năn, đau khổ vì lỗi lầm của mình trước buổi họp của toàn đơn vị như sau:
- Thưa các đồng chí, chúng tôi thành khẩn nhận khuyết điểm trước Ðảng, trước các đồng chí. Vì một phút nông nỗi, quên lời giáo dục của Ðảng, chúng tôi đã làm giảm phẩm chất cao quí mà tập thể đã nâng đỡ, rèn luyện cho bấy lâu naỵ Dù Ðảng bảo rằng "khuyết điểm về quan hệ nam nữ", về luyến ái chỉ là khuyết điểm sinh hoạt "râu ria", "không căn bản", nhưng chúng tôi nhận thấy đó là một lỗi lầm hệ trọng, biểu hiện tư tưởng dâm ô, vô kỷ luật, vô luân lý, ảnh hưởng tư tưởng phản động, lạc hậu của đế quốc phong kiến. Trước mặt các đồng chí hôm nay, tôi xin thay mặt cho hai đứa chúng tôi nhận khuyết điểm, hối hận, ăn năn thành khẩn hứa trước các đồng chí rằng từ nay chúng tôi quyết tâm sửa chữa không dám tái phạm. Chúng tôi xin cam chịu và nhận lãnh mọi biện pháp kỷ luật của Ðảng và tổ chức, không dám oán thán điều gì, vì chúng tôi nhận thấy được lỗi lầm của mình. Trước tiên, tôi xin thành thật báo cáo trước các đồng chí tuần tự diễn biến của sự kiện từ lúc đầu cho đến bây giờ. Sau đó xin phân tích khuyết điểm, nhận xét dựa theo bản tự kiểm của chúng tôi. ............... Như vậy, chúng tôi đã coi thường kỷ luật đảng, coi thường tập thể, có những hành động dâm ô, đã hủy hoại sinh mạng chính trị của riêng mình, đã mất lập trường giai cấp, lập trường cách mạng, đã xa rời tập thể, mất đạo đức, xấu xa để đến nỗi bây giờ đã có thai hai tháng. Chúng tôi hối hận vô cùng. Giờ trước sự thể xảy ra chỉ biết xin Ðảng thương, cho phép chúng tôi lấy nhau để cái thai kia được chăm sóc, và chúng tôi xin làm tròn bổn phận cha mẹ đối với con. Và từ nay về sau, hai chúng tôi xin thành khẩn hứa với các đồng chí không dám phạm phải khuyết điểm sai lầm này nữa.
Một tràng cười nổi lên trong cuộc họp, và có giọng nói át đi, hét lớn lên:
- Hai đồng chí đặt Ðảng, đặt tổ chức trước sự đã rồi. Dù có thi hành biện pháp kỷ luật nào thì các đồng chí cũng đã ăn nằm với nhau, đã lấy nhau rồi. Thành khẩn gì? Thành khẩn hứa không phạm khuyết điểm lần nữa khi hai người đã thành vợ chồng, đã lấy nhau? Các đồng chí thoả mãn rồi, còn phạm gì nữa chớ. Thật là ngụy biện, khó nghe, qua mặt Ðảng, qua mặt tổ chức, như là một trò đùa, đồng chí xem Ðảng là con nít hả?
Tất cả những điều trên đây chứng tỏ cho mọi người biết "khuyết điểm về quan hệ nam nữ, về luyến ái chỉ là khuyết điểm thuộc về sinh hoạt râu ria, không căn bản" không còn đúng nữạ Và "Tân luyến ái quan" của Mao Trạch Ðông, chủ trương tự do kết hôn của Ðảng chỉ là một quyển sách và một danh từ dùng để trang trí, làm đẹp cho hình thức bề ngoài của chế độ.
Có lẽ đứng ở một góc nhìn vào đó, người ta cho rằng tình yeu mà có nước mắt, có đau khổ mới đáng được gọi là yêu chăng? Trong công tác, trong cách mạng, đối với Ðảng, đối với dân đều cần phải có sự thử thách để chứng minh lòng trung thành tuyệt đối thì tại sao ở phạm vi luyến ái không cần sự thử thách bằng nước mắt?
Kết Luận Ðảng VC từ ngày thành lập chỉ là một đảng cướp với lý lẽ tuyên truyền láo khoét và đạo đức giả lừa gạt đồng bào.
Từ những tên chóp bu như Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ, Hà Huy Giáp, Trần Văn Trà, Võ Nguyên Giáp,... cũng như bọn đảng viên cao cấp trong Ðảng VC toàn là một bọn ma giáo đểu cáng và dùng bạo lực như các lãnh chúa thời Trung Cổ để chiếm đoạt gái đẹp núp dưới những chiêu bài vì cách mạng, vì nhân dân, vì tổ quốc. Theo thời gian, bộ mặt chúng đã bị phơi bầy. Chúng chỉ là những tên cướp sát nhân với tư cách đê tiện nhất.
Ðảng VC là 1 bất hạnh cho quê hương chúng ta. Chúng đã reo rắc bao lầm than, thống khổ cho dân tộc VN. Ðã đến lúc chúng ta, già cũng như trẻ, tất cả mọi người hãy đồng tâm đoàn kết giải thể chế độ độc tài, đảng trị này. Ðể chúng ta sẽ có một ngày về.
Một ngày về vinh quang, đoàn tụ trê quê hương yêu dấu.
----------------------------------
(*) R - căn cứ mật của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tổ chức bù nhìn do Hà Nội dựng nên để bịp dư luận thế giới. Căn cứ nầy nằm dọc theo biên giới Việt Miên.
Những kẻ có gia đình, những người lớn tuổi vẫn còn bị nó quyến rũ, lôi cuốn vào cơn lốc, thì đối với thanh niên nam nữ, chưa bước chân vào đường tình ái, sức cám dỗ của nó thật mãnh liệt, dữ dội.
Ở chiến khu, trong rừng núi, nó không khác vất cứ nơi nào trên trái đất. Tình yêu đối với nam nữ thanh niên, dù bị ý thức chính trị kiềm chế, Ðảng kiểm soát, Ðoàn triệt để ngăn ngừa nhưng tình yêu vẫn xảy ra, không ai ngăn cấm nổi. Không một vụ nào được "êm thắm", bình thường, không có sóng gió, bão tố dậy lên. Bởi vì "ái tình chỉ huy", ái tình có kiểm soát, lãnh đạo theo đường lối của Ðảng thì tự nó phải thế đấy. Quy luật mà! Tâm tình của con người bao giờ cũng mâu thuẫn với đường lối của Ðảng. Cho đến sự giao tiếp, nói chuyện với nhau cũng phải rập theo một khuôn mẫu định sẵn, theo cái người ta gọi là "quan hệ nam nữ"!
Vấn đề quan hệ nam nữ ở R cũng như các nơi khác, đều giống nhau trên lý thuyết. Nhưng thực tế, nó cũng không đồng nhất và tùy theo sinh hoạt, nếp sống của mỗi nơi, cũng như do những cán bộ chính trị, cán bộ Ðảng ở nơi đó nới rộng hay thu hẹp, khó hay dễ.
Thông thường trên nguyên tắc, người ta bảo vấn đề quan hệ nam nữ là sự giao tiếp giữa trai và gái phải đường hoàng, không được vượt quá phạm vi tình đồng đội, hay đồng chí, không được "thân mật quá độ". Không được ngồi riêng hai người nói chuyện ở chỗ vắng. Nếu cô cậu nào "vi phạm" nguyên tắc trên đây thì bị lôi ra phê bình, kiểm thảo, bị nhận xét là có tư tưởng dâm ô, có hành động "bất hợp pháp". Nếu có tình ý gì với nhau phải báo cáo cho đơn vị, cho tập thể, cho Ðoàn, cho Ðảng biết để Ðảng có ý kiến lãnh đạo, để tập thể có ý kiến, "giúp đỡ".
Khi đã có gia đình, Ðảng không chấp thuận chuyện phản bội nhau, không chấp thuận có vợ lẽ, vợ mọn, không được "quạt". "Quạt" nghĩa là trổ mòi thả ba lông thăm dò "đối phương", quấn quýt, nói chuyện thân mật với người khác phái. Tay nào được gán cho danh từ "quạt tưa tai", tức "quạt" đến rách cả lỗ tai thì phải hiểu ngay: nam thì nịnh đầm, "dê cụ", nữ thì mắt la mày lém, hết "câu" cậu này lại "câu" cậu khác.
Những trường hợp trên đây sẽ bị nhận xét "trùng đầu", không ngóc lên nổi. Nhưng cái gọi là "quan hệ nam nữ" hay "tình yêu trong cách mạng" không giống như mẫu lý thuyết được nêu ra trên kia.
Trong thời chín năm kháng chiến chống Pháp, khi nói đến đạo đức cách mạng, người ta chú trọng nhiều đến vấn đề "quan hệ nam nữ" hay yêu đương trái với nguyên tắc lãnh đạo của Ðảng. Ngày nay, ở miền Bắc được Ðảng "điều chỉnh", giải thích rằng: Khuyết điểm về "quan hệ nam nữ " không chính đáng, khuyết điểm về dâm ô, chỉ là khuyết điểm thuộc về sinh hoạt, không quan trọng. Không phải là khuyết điểm căn bản về tư tưởng hay đạo đức cách mạng.
Cán bộ mùa Thu từ Bắc vào Nam mang theo quan niệm đó, sự giải thích đó, truyền đạt lại cho những kẻ đi sau. Thực tế, vấn đề này nó không được người ta "xem nhẹ" như vậy. Nếu cho là khuyết điểm thuộc phạm vi sinh hoạt, khuyết điểm "râu ria", không phải là căn bản thì tại sao lại có chuyện cấm cán bộ không được yêu người này, lấy người kia, phá vỡ hạnh phúc người nọ. Rồi những cuộc kiểm thảo nặng nề, lôi những kẻ đang yêu kia ra nhận xét, phê phán, phân tích nhiều ngày liền, đến nỗi ngồi ngủ gục, rã xương sống, để đi đến kết luận là khai trừ, cảnh cáo ghi lý lịch, hạ tầng công tác và cách ly, "chia loan rẽ thúy" hoặc ép buộc, tổ chức "cưỡng hiếp" để buộc người con gái phải lấy một anh cán bộ già, tuổi vào hàng cha chú mình?
Về mặt lý thuyết hôn nhân, Ðảng nêu lên nguyên tắc cán bộ đảng viên phải thể hiện đảng tính, đảng kỷ qua lập trường giai cấp. Nói tóm lại, nghĩa là cán bộ đảng viên không được yêu, không được lấy con gái địa chủ, phú nông, tiểu tư sản, tư bản. Bởi những cô gái thuộc giai cấp này là giai cấp phản động, kẻ thù của công nông. Khổ nỗi con gái công nông làm đầu tắt mặt tối, không đủ phương tiện học hành, không biết làm đẹp, làm duyên thì làm sao trắng trẻo mịn màng, duyên dáng, thướt tha, ngọt ngào như con gái tiểu tư sản, địa chủ, phú nông? Ta nên làm một phát "đối chiếu" tí chăng?
Trong kháng chiến chín năm chống Pháp, Lê Duẩn được Trung Ương Ðảng cử vào lãnh đạo cuộc kháng chiến miền Nam, núp dưới danh hiệu "Hội nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác", rồi "Ðảng Lao động Việt Nam". Dáng người ốm xanh, trắng và cao. Bao giờ người ta cũng thấy toát ra ở con người đó một cái gì nghiêm nghị, đạo đức, khắc khổ, đầy mẫu mực chính trị. Người lãnh tụ Ðảng cao cấp nhất ở miền Nam dạo đó, và rồi Tổng Bí thư Trung Ương Ðảng ở miền Bắc ngày nay, nhất định phải là con người "Ðảng cùng mình", đảng tính, đảng kỷ siêu việt hơn ai hết.
Thuở ấy, người ta đồn đãi với nhau rằng anh Ba Duẩn làm cách mạng từ hồi tóc còn để chỏm, hoàn toàn hy sinh hết cho cách mạng, cho Ðảng. Nay vào tù, mai ra khám, suốt mười bốn năm liền nằm ép rệp ở Côn đảo, cho nên anh Ba hy sinh cả gia đình, hy sinh cả cuộc đời mình, quên di chuyện vợ con, không khác gì Hồ chủ tịch. Tội nghiệp cho anh Ba đã lớn tuổi rồi mà chưa hề biết đến cái thú ân ái, hạnh phúc gia đình. Ðùng một cái 1949, 1950 phong thanh người ta nghe nói anh Ba cưới vợ! Mặc dù chuyện cưới vợ của anh Ba được giữ bí mật, chỉ có một số cán bộ cao cấp mới biết được. Việc tổ chức hôn lễ của anh Ba thu hẹp trong một phạm vi nhỏ bé, nhưng rồi, mọi người đều hay.
Thì ra anh Ba cưới chị Thùy Nga, Chủ tịch Ban Chấp hành Phụ nữ Cứu quốc tỉnh Cần Thơ. Người ta tò mò tìm hiểu thêm, được biết chị Thùy Nga là con một đại địa chủ nổi tiếng ở Tây Ðô, được coi là hoa khôi số một, sắc nước hương trời, làm điên đảo anh hùng, thiên hạ chết mê chết mệt vì cái thiên kiều bả mị của người đẹp Tây Ðô, hết chư vị Trung đoàn trưởng này đến chư vị Tiểu đoàn trưởng kia, rồi anh tỉnh ủy nọ.
Mà thật, nếu được tả hình dạng theo kiểu tiểu thuyết thì: "vóc dáng tiên nga kia với suối tóc dài óng ả, khuôn mặt trái soan kiều diễm, đôi mắt nhung huyền lung lanh, mày lá liễu, đôi môi mọng đỏ hồng hồng, nước da trắng như trứng gà bóc, đôi ngực nở tròn, chiếc lưng ong bé nhỏ, mỗi bước đi làm cho người ta thấy những đường cong, những nét thanh tân dịu mềm và rung động gây nên sóng gió trong lòng khách anh hùng". Anh hùng hảo hán ở Tây Ðô chết mê chết mệt là phải. Ðố ai không thấy lòng mình "xiêu xiêu" khi người đẹp như vậy đi qua?
Dù sao, "tiên nữ" có cao giá, khép kín lòng mình đến thế nào đi nữa, cũng phải để lọt mắt xanh, rung cảm bởi một người. Chị Thùy Nga đã yêu một anh chàng Tiểu đoàn trưởng phong nhã hào hoa. Rồi giữa lúc tình yêu của hai người đang độ nồng thắm nhất thì có cuộc đại hội Phụ nữ Cứu quốc toàn Nam bộ Dĩ nhiên, chủ tịch Ban Chấp hành của một tỉnh, Thùy Nga cũng phải từ Thác Lác, Ông Vèo khăn gói xuông U Minh dự đại hội.
Ðêm đó, một đêm thu 1949, mưa như thác đổ, bên bờ sông Trẹm, con sông ranh giới U Minh thượng và U Minh hạ, tại một kinh ngang của xóm Tân Bằng, người ta đưa Thùy Nga đến gặp anh Ba để "nhận chỉ thị công tác". Chỉ có hai người, nhà vắng không ai, ngoài trời tối đen, mưa gió sấm chớp đùng đùng, anh Ba tha hồ "tự do chỉ thị" kịch liệt.
Dường như đêm đó thi hào Nguyễn Du chếnh choáng hơi men, đội mồ ngồi dậy, vỗ tay đồm độp cất giọng ngâm nga:
"...Tiếc thay một đoá trà mi Con ong đã tỏ đường đi lối về Một đêm mưa gió não nề" ................................................
Ðảng ra lệnh giữ bí mật vụ này, nhưng rồi tin đó cũng loan đi cho nhiều người biết. Kết quả, anh Ba Duẩn cưới chị Thùy Nga. Và chị Thùy Nga khóc sưng cả đôi mắt.
Chiến dịch đạt thắng lợi vẻ vang, ngoài sức tưởng tượng.
Câu chuyện tình của anh Ba tưởng đến đó là êm xuôi, cứ đều đều trôi theo thời gian như bao mối tình khác, nhưng không. Năm 1955 tập kết ra Bắc, có một thiếu phụ già chít khăn đen, áo nâu, quê mùa cục mịch dẫn theo một cậu con trai 18 tuổi đến hỏi tội Thùy Nga: "Tại sao mi dám giật chồng bà?" A, thì ra anh Ba đã có vợ con rồi. Cái chuyện chưa có gia đình, hy sinh tình cảm cá nhân để lo cho cách mạng chỉ là...(!) Lỡ rồi! Ðã có con với anh Ba rồi, đã "hết vốn" với anh Ba rồi, còn biết nói năng sao? Anh Ba thu xếp chuyện nhà không xong, Trung Ương Ðảng phải lo thu xếp hộ, dùng biện pháp cách ly, tạo căn cứ mới cho bà V2. Riêng anh Ba, bối rối khôn tả vì Thùy Nga bỏ ăn, khóc lóc đòi tự tử, phải năn nỉ dỗ dành mãi mới hơi tạm yên thì bà cả lại biết chỗ ở mới của Thùy Nga, đến làm "om lên" thật là đẹp mày đẹp mặt hết sức. Cuối cùng Trung Ương Ðảng phải giải quyết bằng cách "Ðảng chiếu cố cho đi du học", đưa Thùy Nga sang trường đại học Thiên Tân ở Trung quốc. Tháng tháng, anh Ba Duẩn sang "thăm". Ức lòng quá, Thùy Nga định ly dị mấy lần nhưng không lần nào ly dị nổi. Muốn "phá rào" nhưng bị Ðảng bộ ở Thiên Tân canh gác, giữ chặt chịa quá. Thùy Nga đành vô phương vùng vẫy. Rồi lại cứ có thai đều đều, đẻ sòn sòn năm một.
Nguyên tắc Ðảng, Ðảng tính, Ðảng kỷ đối với Tổng bí thư về vấn đề tình ái hôn nhơn là vậy. Sách gối đầu giường cho tất cả thanh niên nam nữ, được Ðảng ca tụng làm khuôn vàng thước ngọc để giáo dục về luyến ái là "Tân luyến ái quan" của Mao Trạch Ðông. Nó thể hiện tư tưởng cách mạng, tư tưởng Ðảng, đường lối đúng đắn nhất của Ðảng. Nhưng, Mao chủ tịch vĩ đại có đến ba vợ.
Trường hợp của ông nguyên chủ tịch Ủy ban kháng chiến Hành chánh Nam bộ thì lại khác: Luật sư Phạm văn Bạch. Từ 1946, theo kháng chiến, Luật sư Bạch được cử làm chủ tịch Ủy ban kháng chiến Hành chánh Nam bộ, đóng ở Ðồng Tháp Mười, trên kinh Dương văn Dương. Phạm văn Bạch cũng thứ Ba, một nhà trí thức cách mạng được Ðảng giáo dục và kết nạp vào Ðảng năm 1950. Về mặt chính quyền, anh ba Bạch là nhân vật quan trọng số một của miền Nam, nắm quyền hành sinh sát trong tay, một cán bộ "cao cấp nhất" như Luật sư Thọ ngày nay, Anh Ba có vợ đầm. Theo cách mạng theo Ðảng anh Ba ly dị bỏ hẳn người vợ Pháp đã sinh cho anh Ba một lô con cái để ở Sàigòn và ở Pháp.
Thực là hy sinh tình cảm riêng tư để lo cho Cách mạng, gương mẫu cho đàn em noi theo. Mọi vấn đề luyến ái, quan hệ nam nữ anh Ba đều dẹp sang một bên không nghĩ tớị Tuổi anh Ba cũng đã bốn mươi ngoài, đường tình ái cũng đã trải qua rồi thì cái chuyện trấn áp dục tình chắc anh Ba có thể làm được. Và nếu vấn đề sinh lý có hành anh Ba đi nữa thì cùng lắm cưới một chị phụ nữ nào đó là xong. Ðảng sẽ lo, Trung Ương cục sẽ lo như đã lo anh Ba Duẩn, vậy thôi.
Anh Ba Bạch không chịu cưới vợ, cốt chứng tỏ cho mọi người thấy anh Ba gương mẫu thực sự. Tình trạng đó êm xuôi từ Ðồng Tháp Mười cho đến mãi những năm sau này khi các cơ quan cấp Nam bộ được Tiểu đoàn 307 hộ vệ dời về Rừng U minh thuộc tỉnh Rạch Giá - Bạc Liêu cuối năm 1947.
Vào giữa năm 1951, sau những năm "dồn ép tình cảm", một đêm tĩnh mịch, anh Ba thao thức không ngủ được, bò vào mùng của cô thư ký đánh máy ở văn phòng Ủy Ban, bịt miệng cô ta lại và... "đánh máy". Cô thư ký đó tên Hoa, con của một ông Hội đồng địa hạt quê ở Sa Ðéc, theo kháng chiến từ những năm đầu cuộc chiến, được chọn và phân công về làm thư ký đánh máy cho văn phòng Ủy Ban, dưới quyền điều khiển chánh văn phòng Phạm Chung. Hoa dù con địa chủ, nhưng răng thì hô, người gầy đét, má gẫy, nói chung, dạo ấy đã 26, 27 tuổi rồi mà chẳng ma nào buồn mó đến.
Dù xấu xí, trong một phút bất thần, đối với anh Ba đó là chuyện người đẹp vô song, một sự cần thiết vô cùng. Chuyện đó được ém nhẹm lại. Cấp ủy chi bộ báo cáo lên Liên Chị Liên Chi báo cáo Trung ương Cục. Thế là anh Ba Bạch được anh Ba Duẩn gọi đến, tổ chức cuộc kiểm thảo thu hẹp trong vòng vài cán bộ cao cấp. Sau ba ngày bị kiểm thảo ngồi ngay lưng, anh Bạch đã khóc nhiều, trông mặt mày thật thiểu não. Ðể rồi sau đó một tuần, cái tin anh Ba Bạch cưới vợ được loan ra. Cậu em ruột của cô Hoa tên Hoà, lúc đó là y tá ở Viện An Dưỡng của bác sĩ Nguyễn văn Cương cũng được thông báo, được chị viết thư báo tin đến dự tiệc cưới bên kia bờ sông Ông Ðốc, vùng kinh Công Nghiệp. Cậu ta chưng hửng và buồn hiu. Ðáng lẽ mình bỗng nhiên được làm em vợ ông chủ tịch Ủy ban kháng chiến Hành chánh Nam bộ thì phải mừng chứ, nhưng khi nghe chị mình kể lại chuyện trên và biết anh Ba Duẩn ra lệnh cho anh Ba Bạch phải cưới người ta chứ không được làm ẩu rồi thôi, cậu Hoà chỉ còn biết thở dài.
Bây giờ, ở chức vị Chủ Tịch Tối Cao Pháp Viện của miền Bắc chắc anh Ba Bạch không khỏi rùng mình khi nghĩ lại những chuyện xưa.
Ðến trường hợp thứ Ba, trường hợp của đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung Ương Ðảng đặc nhiệm về tổ chức, kiêm Hiệu trưởng trường Ðảng cao cấp "Nguyễn Ái Quốc", ở Hà Ðông ngày nay. Ðó là Lê Ðức Thọ.
Trong cuộc kháng chiến chín nam chống Pháp, Trung ương đảng cử Lê Ðức Thọ vào Nam, đại diên cho Trung ương ở bên cạnh Lê Duẩn để tăng cường lãnh đạo cuộc kháng chiến ở Nam bộ Thọ cùng đi với một phái đoàn cán bộ đảng cao cấp khác, vượt Trường Sơn vào đến Nam bộ năm 1949. Lần đầu tiên xuất hiện trước đồng bào trong Lễ Ðộc Lập 2-9-1949 trên một lễ đài tại sân bóng tròn ở Tân Bằng, bên bờ sông Trẹm thuộc quận Thới Bình, Cà Mau ngày nay.
Vào Nam ngày ấy, đối với các cán bộ cấp dưới, Thọ cũng bảo rằng suốt đời mình hy sinh cho đất nước, vào tù ra khám liên miên, cho nên nay ngoài bốn mươi rồi vẫn chưa có gia đình. Qua năm sau, 1950, Thọ thấy cần phải cưới vợ. Thế là Trung ương Cục miền Nam phải đôn đáo cưới vợ cho Thọ. Hỏi Thọ chịu ai, Thọ chỉ đích danh cô Nguyễn Thị Chiếu, con gái út của một dịa chủ, nhà ở dưới Rạch Bàu, nằm bên bờ sông ông Ðốc, thuộc Cà Mau. Bởi trước đây, trong một lần đi công tác, Thọ có ghé ăn cơm ở đây, tình cờ nhìn thấy cô út của chủ nhà xinh như mộng ấy, tuổi mới 18 đôi mươi, vừa nghỉ học ở Bạc Liêu về nhà làm cô thợ may bất đắc dĩ.
Thực là thiên nan vạn nan, làm sao cho cô út xiêu lòng đây? Phải chi cô út là cán bộ thì dễ quá, dùng áp lực chánh quyền, áp lực đoàn thể, tạo cơ hội dược, đằng này là nhân dân quần chúng. May sao, qua thời gian điều tra, Trung ương Cục biết được cô út còn có một người anh ruột thứ năm tên Nguyễn Công Khanh hiện là một đảng viên, làm giáo sư ở trường trung học kháng chiến Nguyễn Văn Tố. Tức khắc Nguyễn Công Khanh được lệnh gọi về văn phòng Trung ương Cục. Vấn đề vận động, thuyết phục Khanh làm "nội tuyến" được nêu ra. Mặt khác, đứng về phương diện đảng, Khanh phải chứng tỏ sự trung thành với đảng và đảng sẽ cất nhắc Khanh trên đường cách mạng trong vấn đề hôn nhân cho Lê đức Thọ.
Kết quả với áp lực gia đình của Khanh, hôn lễ được tổ chức: cô út thợ may phản đối đến mấy đi nữa cũng buông xuôi hai tay đầu hàng. Khi ông ủy viên nhất định đổi nghề làm thợ may, giúp nàng cắm kim, đạp máy không biết mỏi trong đêm tân hôn.
Ðùng một cái, 1954 Hiệp định Genève ký kết, tập kết ra Bắc mới hay quê quán của Thọ ở Phương Liệt (Hà Ðông) ngoại ô Hà nội. Thọ đã có vợ rồi, bà cả còn sờ sờ ra đấy.
Trường hợp thứ tư là trường hợp của anh Tư Chi, tức Trung tướng Trần văn Trà.
Cũng trong cuộc kháng chiến chín năm chống Pháp, năm 1951, sau khi Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ được Ðảng "sắm" vợ địa chủ cho thì Trà nhất định lập gia đình. Trà vốn xuất thân là sinh viên, nên dù là một đảng viên cao cấp, cái tự ái trí thức cũng như lãng mạng tư sản vẫn còn hằn sâu trong nếp gấp của tư tưởng. Dĩ nhiên "người ta" biết cưới vợ trẻ, vợ dẹp để ôm ấp, để hưởng thụ thì Trà đâu dễ chịu thua.
Nhân lúc ấy, một số cán bộ trẻ được Bộ Tư lệnh Nam bộ phân công về công tác ở Phân Liên Khu miền Ðông, kể chuyện về sinh hoạt, nếp sống "vương giả" của miền Tây, trong đó có những chuyện tình cảm, yêu đương vớ vẩn trai gái. Nam nữ thanh niên lớn lên, đâu có chuyện gì hấp dẫn bằng những chuyện tình! Số cán bộ đó, có cậu đã từng biết mặt Lê Thoa, có cậu tiến xa hơn, từng chạy theo góp mặt vào "đám tín đồ yêu đương" vây quanh Lê Thoa như bầy phù du thiêu thân lao mình vào ngọn đèn dầu. Các cậu ca tụng Lê Thoa không tiếc lời. Ðiều đó gây một sự khích động lớn lao vào tình cảm, tâm lý cũng như tự ái của ông Tư lệnh Phân Liên Khu miền Ðông cũng là đồng chí ủy viên Trung Ương Cục, Bí thư Liên Khu ủy Phân Liên Khu miền Ðông.
Lê Thoa là cô con gái đầu lòng của cố luật sư Lê Ðình Chi, nguyên Giám đốc Sở Tư Pháp Nam bộ, bị máy bay Pháp bắn chết ở Thiên hộ năm 1947. Lúc đó, Thoa hãy còn là một đứa bé con mười bốn tuổi đầu, vừa vào Ðồng Tháp với cha. Khi tất cả cơ quan cấp Nam Bộ dời về U Minh cuối năm 1947, Thoa được đưa vào trường Thiếu sinh quân khu 8. Dạo ấy, Trà cũng đi thăm Truờng Thiếu sinh quân thuộc quyền cai quản của mình nhiều lần, nhưng đâu để ý oắt con làm gì, nếu có chỉ là mấy cô thiếu sinh quân 17, 18 mơn mởn đào tơ chứ đâu đến lượt Lê Thoa.
Năm Lê Thoa 16 tuổi, luật sư Phạm Ngọc Thuần Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Hành chánh Nam bộ, người nhận đỡ đầu chị em Lê Thoa, cho người đến khu 8 rước Thoa về khu 9, gởi vào Viện Văn Hoá kháng chiến Nam bộ của Hoàng Xuân Nhị, cùng với một số con em của hàng con ông cháu cha khác, học luyện thi để thi vào các trường Trung học do Viện Văn Hoá mở, như Trung học Nguyễn Văn Tố, Trung học Thái Văn Lung. Thoa đi thi và đậu vào trường Thái văn Lung.
Thời đó, ở khu 9, hầu hết tất cả học sinh hoặc nam nữ thanh niên ai cũng ôm mộng được vào học ở hai trường trung học đó. Cái nhãn hiệu học sinh Trung học Nguyễn Văn Tố hoặc học sinh trung học Thái Văn Lung có giá trị như một thứ "dân Tây" thời Pháp thuộc. Bởi lẽ đó, những gì lạ ở hai trường trung học này đều được giới thanh niên đồn đãi rất nhanh. Ở cái tuổi dậy thì, "trổ mã", Lê Thoa bỗng chói chang rực rỡ vượt lên trên đám nữ sinh của hai trường, tiếng đồn hoa khôi miền Tây xuất hiện từ dạo ấy.
Không phải Thoa là cô nữ sinh đẹp nhất của hai trường, Nguyễn Văn Tố còn có những cô đầm lai, những "kim chi ngọc diệp" xinh hơn nhiều nhưng không "xuất hiện giang hồ" qua những kỳ đại lễ, do Ủy Ban kháng chiến Hành chánh Nam bộ tổ chức trước quần chúng, hoặc do Trường hay Viện Văn Hoá tổ chức, nhằm vào các kỳ nghỉ hè, đi công tác quần chúng ở các tỉnh miền Tây trong hai tháng, do đó hãy còn "mai danh ẩn tích". Còn Thoa, vốn được đào luyện ở cái lò Marie Curie nên dạn dĩ đã quen, lại có giọng hát truyền cảm nên thường xuất hiện trước công chúng, nổi danh với các bài "Ðoàn quân đi", cho nên lính tráng "Vệ quốc đoàn", và các cậu ở các cơ quan mê Lê Thoa như điếu đổ. Cái sức hấp dẫn của tuổi dậy thì với đôi má mũm mĩm, đôi môi nhỏ xinh xinh, với tiếng nói nhỏ nhẻ, giọng oanh vàng thì ai chả muốn... cắn cho một miếng.
Cho đến năm 1950 thì không một cậu thanh niên nào ở các cơ quan, bộ đội thuộc vùng miền Tây mà không nghe nói đến "người đẹp Lê Thoa". Tháng 10 năm đó, Trung Ương Cục quyết định đóng cửa các trường trung học với lý do: "Sự hiện diện của trường trung học phản ánh một sự nhục mạ cách mạng, một hành động mất lập trường giai cấp trái với đường lối của Ðảng. Vì các trường đó, tuyệt đại đa số học sinh là con ông cháu cha, là người của các thành phần "trí, phú, địa, hào" và tư sản, tiểu tư sản". Mặt khác, còn gây nên sự hao tốn ngân quỹ nhiều quá. Ðiều đó không thể chấp nhận được. Ngoài hai trường Nguyễn Văn Tố và Thái Văn Lung, Viện Văn Hoá vừa mới mở thêm một trường mới nữa là trường Huỳnh Phan Hộ và trường Tiền Phong của Thanh niên cứu quốc Nam bộ. Tất cả các trường của Viện Văn Hoá đều nằm bên hữu ngạn sông Cái Tàu, một nhánh của sông Ông Ðốc, cắt ngang rừng U minh hạ. Giám đốc Viện văn Hoá kháng chiến là Hoàng Xuân Nhị, một Giáo Sư Tiến sĩ triết học dạy đại học ở Ðức, tại thủ đô Bá Linh, được vận động về tham gia kháng chiến, lần ấy cũng bị gọi về Trung Ương Cục kiểm thảo, giáo dục lại lập trường giai cấp. Viện Văn Hoá cũng bị Trung Ương Cục giải tán. Số cán bộ, nhân viên xáp nhập vào sở Giáo dục Nam bộ, rồi giải tán luôn cả Sở Giáo Dục, giao cho sở Tuyên Văn của Lưu quý Kỳ sau nàỵ
Học sinh các trường trung học được một ủy ban phân phối của Trung Ương Cục đến thu xếp, tuyển chọn và phân phối cho các cơ quan quân dân chính ở Nam bộ sử dụng. riêng Lê Thoa được theo mẹ về kinh 13 Tân Bằng nghỉ ngơi ít lâu. Người ta cũng không lấy làm lạ khi trường được dẹp, Thoa đá trái cho anh tình nhân cũ, bạn học của Thoa, "nối khố" từ trường thiếu sinh quân khu 8 đến Thái Văn Lung, dan díu với một anh nhân tình mới, xuất thân ở trường võ bị lục quân Trần quốc Tuấn (*). Thoa về kinh 13 vui vẻ với gia đình thì cậu kia, dù xin nghỉ phép không được cũng trốn luôn về ở đậu nhà nhân dân tại kinh 13 để hú hí với người đẹp.
Bà Lê Ðình Chi biết chuyện đó, chẳnh những không rầy mà còn tán đồng cho phép "hai trẻ vui chơi". Thỉnh thoảng, ngày một ngày hai, bà hết làm bánh xèo, tới bánh bò, rồi cháo gà, cháo cá, lần nào bà cũng cho mời thằng rể tương lai đến cùng ăn uống cho vui vẻ cửa nhà.
Trước đó, dù chưa được chiêm ngưỡng tận mắt người đẹp Lê Thoa bằng xương bằng thịt nhưng Trà đã cảm nặng hoa khôi miền Tây qua đại danh nổi như cồn từ miền Tây vọng đến. Trà thu xếp lên đường về Trung Ương Cục, hơn một lần tìm đến Thái Văn Lung, rồi đề nghị Ðảng thu xếp cưới Lê Thoa cho mình. Thế là, một hôm Lê Ðức Thọ đi ghe mui ống, bốn chèo với hai cậu vệ sĩ đến kinh 13, mời bà Lê Ðình Chi "tham gia" công tác lãnh đạo Phụ nữ Cứu quốc Nam bộ, sau đó đề cập đến cô trưởng nữ Lê Thoa. Chiến thuật "bánh khô đi trước, bánh ướt theo sau" mà! Lê Ðức Thọ đề cao Trần Văn Trà lên đến tuyệt đỉnh, rồi nói đến chuyện tương lai, nói chuyện Trung Ương Ðảng quan tâm chăm sóc đến gia đình cán bộ có công, hy sinh vì cách mạng v.v... Bà Lê Ðình Chi xiêu lòng, dù rằng bà đã phát biểu ý kiến rằng tuổi của Trà và Thoa chênh lệch quá, e không xứng đôi vừa lứa, thiên hạ ẽ đồn đãi tiếng không hay cho gia đình, mất danh dự của bà. Lợi lộc, danh vọng, địa vị, bao giờ cũng dễ làm mờ mắt người đời, huống hồ bà Lê Ðình Chi là một phụ nữ khuê các từng sống và lớn lên trong danh vọng và địa vị.
Vậy là, thái độ đối xử của bà Lê Ðình Chi thay đổi hoàn toàn đối với cậu rể hờ mà bà quý chuộng bấy lâu nay. Ðồng thời, bà báo cho Lê Thoa biết tin ông Tư lệnh miền Ðông cậy mai mối, cả Trung Ương Cục chính thức đến hỏi nàng làm vợ, và bà ta đã bỏ phiếu thuận. Phản ứng của Lê Thoa và người yêu cô ta trưa ngày hôm sau là cả hai leo lên cây tràm ở đầu kinh, ôm nhau nhảy xuống sông Trẹm tự tử. Nhưng tự tử theo cái kiểu trước mặt mọi người và cả hai đều biết lội thì không tài nào chết được.
Cả hai đều sống nhăn. Trung Ương Cục được báo tin này liền thu xếp cho người tới nửa đêm rước gia đình bà Lê Ðình Chi đi tuốt về kinh 30 ở Huyện Sử. Mục đích, cách ly cô cậu ra và đánh lạc hướng để cậu kia không hiểu sự thế ra làm sao nữa.
Mặt khác, ngoài việc bà Lê Ðình Chi khóc lóc, dùng tình cảm gia đình làm áp lực mua chuộc Thoa, còn có cả cái gánh môi giới của "các chị" trong Ban chấp hành phụ nữ Nam bộ và các bác ở Ủy ban kháng chiến Hành chánh Nam bộ tuyết phục, "tranh thủ tình cảm", vận động kịch liệt.
Cuối cùng, giữa năm 1951, cái tin bà Lê Ðình Chi và Trung Ương Cục cho người hộ tống "Chiêu quân Lê Thoa" từ U minh đi về miền Ðông cống cho "Hồ Trà" làm cho mọi người sửng sốt. Tức tối nhất có lẽ là cậu nhân tình của Thoa và các "cảm tình viên" từng thầm yêu người đẹp.
Qua bốn sự kiện về tình ái của bốn nhân vật có thể cho phép ta kết luận là các cán bộ lãnh đạo cao cấp của Ðảng đều được hưởng một chính sách, một chế độ riêng về luyến ái, có Ðảng tán trợ che chở và nó còn là một thứ tiêu chuẩn hưởng lạc mà Ðảng có nhiệm vụ phải chu toàn. Lấy vợ đôi, vợ ba, lấy gái tơ đáng tuổi con cháu mình, ép duyên không phải là một thứ hưởng lạc trên cả mọi sự hưởng lạc hay sao? Trong bốn người, chỉ có riêng mỗi luật sư Phạm Văn Bạch vì không phải là lãnh tụ, là cán bộ cao cấp của Ðảng nên mới bị kiểm thảo, khiển trách, không được hưởng tiêu chuẩn trên.
Cho nên cái lý luận: "khuyết điểm về quan hệ nam nữ, khuyết điểm về luyến ái chỉ là khuyết điểm về sinh hoạt râu ria, không căn bản. Ðạo đức cách mạng, căn bản là trung với Ðảng, hiếu với dân, hy sinh cho cách mạng v.v..." được đẻ ra để "bào chữa" cho những người lãnh đạo Ðảng. Nếu không tạo nên lý luận đó, hoá ra Ðảng chủ trương sao? Và sẽ ăn nói ra sao với quần chúng, với đảng viên cấp dưới khi họ chất vấn về hành động của các lãnh tụ, các cán bộ cao cấp lãnh đạo Ðảng? Một mặt, nó giữ được uy tín của lãnh tụ và đạo đức, một mặt nó giải trừ cái mâu thuẫn tai hại có tính cách nguyên tắc và giáo điều "sáng suốt", chế độ tốt của Ðảng" mà Ðảng đã dạy (!).
Tất cả các cán bộ mùa thu từ miền Nam tập kết ra Bắc rồi hồi kết trở về đều đã được "uốn nắn tư tưởng" lại cho đúng với nguyên tắc nàỵ Và họ đã cố gắng "truyền bá" phổ biến.
Nhưng sinh hoạt "râu ria" đó trong thực tại của cái gọi là cuộc cách mạng Miền Nam được diễn biến như thế nào? Ðể dễ tìm hiểu ta có thể chia ra làm hai loại: loại đảng viên và loại quần chúng.
Loại đảng viên, Quân Ủy Miền đã nhiều lần chỉ thị trên giấy tờ cho các cấp biết rằng Ðảng chủ trương theo "Tân luyến ái quan" của Mao Trạch Ðông, tôn trọng hạnh phúc cá nhân, tôn trọng tự do kluyến ái nhưng luyến ái đó phải đi đúng theo chính sách, đường lối của Ðảng; chịu sự kiểm soát, lãnh đạo của Ðảng.
Ði đúng theo chính sách, đường lối của Ðảng có nghĩa là tình yêu của bất cứ đảng viên nào cũng phải thể hiện cho kỳ được tình yêu giai cấp, lập trường giai cấp đấu tranh. Là đảng viên, tuyệt đối không được yêu ai ngoài hai giai cấp "công nông".
Ðảng viên phải quan niệm đứng đắn về tình yêu và hạnh phúc. Chỉ có tình yêu giai cấp, yêu đảng, yêu lãnh tụ, yêu nước mới là thứ tình yêu cao cả, tôn thờ, còn tình yêu trai gái, gia đình là thứ tình ích kỷ, cá nhân, phản bội lại quyền lợi của Ðảng, của tổ chức. Phải biết xem nhẹ tình yêu gia đình vợ con, xem nó là một thứ phụ thuộc không cần thiết, luôn luôn cảnh giác đề phòng vì nó luôn luôn là đầu mối của những tư tưởng xấu xa phản động, ảnh huởng đến công tác, đến đạo đức cách mạng.
Bởi vậy, khi bắt đầu yêu phải chọn những người thuộc giai cấp công nông, rồi báo cáo lên cho Ðảng biết người mình sẽ chọn để Ðảng điều tra, nghiên cứu lại là thuận hay không. Thuận thì đảng viên mới được phép tiến tới "xây dựng, củng cố" tình yêu, bằng cách giáo dục chính trị, giáo dục lập trường giai cấp, giáo dục lập trường đấu tranh cách mạng. Mọi hình thức âu yếm, ca tụng tình yêu, thủ thỉ tâm tình, quyến luyến là thứ lãng mạng tư sản. Ðảng không chấp nhận kiểu yêu đương đó. Tiêu chuẩn chọn lựa lứa đôi phải nhằm vào: người đó có là thành phần cơ bản không? Có phải là người tích cực công tác không? Có phải là người xung phong, gương mẫu, tiên tiến trong đơn vị không?
Khi đã được Ðảng chấp thuận, tổ chức làm lễ tuyên hôn rồi, vợ chồng phải khuyến khích lẫn nhau, giáo dục lẫn nhau, đấu tranh lẫn nhau để tích cực công tác hơn nữa, biết ơn Ðảng nhiều hơn nữa, vì nhờ Ðảng tác thành cho nên hai người mới nên vợ nên chồng. Sinh hoạt trong gia đình, câu chuyện giữa vợ chồng mỗi khi sum họp phải là công tác, phải là đấu tranh tư tưởng lẫn nhau. Nếu may mắn, trong công tác, hai vợ chồng được sống gần nhau thì hai người lại càng phải đề phòng tư tưởng hủ hoá, hưởng thụ hưởng lạc, ích kỷ, xem nặng hạnh phúc lứa đôi mà quên nhiệm vụ, thường ngày phải kiểm thảo phê bình, đấu tranh lẫn nhau để tiến bộ.
Nếu không may, ở xa nhau, khi nào có công tác kết hợp thì gặp nhau một đêm, một buổi cũng đã quá đủ rồị càng xa nhau, càng nhớ nhau lại càng phải công tác hăng hái, xung phong, để đóng góp cho thật nhiều thành tích, chóng đưa nước nhà đến thống nhất, chừng đó tha hồ gần gũi, tha hồ yêu ngày, yêu đêm. Chứ xa nhau, nhớ nhau ảnh hưởng đến sự suy giảm tinh thần chiến đấu, thiếu sự vui vẻ hồn nhiên thì nên đấu tranh tư tưởng lại, nên kiểm điểm bản thân. Nếu được tin vợ con hay chồng con có đau yếu, tai nạn thì cứ yên tâm, không cần gì phải lo cả, mọi sự viếng thăm không cần ích bằng trọng tâm công tác của đơn vị. Vợ hay chồng hoặc con mình có sắp chết đi nữa đã có đảng lo, tập thể lo. Sự thương nhớ vợ chồng, con cái không gì cụ thể và tiến bộ bằng chứng minh sự tích cực công tác tại đơn vị. Nó vừa làm đẹp lòng nhau, vừa làm tăng sự tín nhiệm đối với Ðảng v.v...
Thật là lý tưởng hết sức. Thật là cao quý tuyệt vời!
Ngược lại, từ buổi ban đầu đặt tình yêu không đúng chỗ thì sao? Dĩ nhiên Ðảng không thể chấp nhận được. Ðảng sẽ có biện pháp giáo dục và có kỷ luật để thi hành. Nhẹ thì kiểm thảo phê bình, hơn tí nữa là cảnh cáo ghi lý lịch. Còn nặng thì khai trừ, hạ tầng công tác cho đi "giáo dục" v.v... Nhưng thế nào là nhẹ, là vừa vừa, là nặng?
Nhẹ là chỉ mới đặt vấn đề, mới để ý "quạt" đối phương "cơ sở vòng ngoài". Hoặc bị Ðảng phát hiện ở vài tư tưởng "lòi đuôi" nào đó. Vừa vừa là công khai "tâm tình" với nhau, yêu nhau rồi mà giấu diếm Ðảng, không cho Ðảng biết. Hoặc khi Ðảng biết rồi, trả lời rằng không chấp thuận thì anh ta tỏ ý bất mãn, không hài lòng hay vô tình nói một câu có ý trách móc quyết định của Ðảng. Còn nặng thì lén lút "yêu" đại cho đến khi mang bầu, hoặc bị kẻ khác bắt gặp đang "mùi mẫn" với nhau. Hơn nữa, là những tay bất chấp, không coi hình thức bó buộc kỷ luật ra gì như câu thường nói đùa: "phê bình là nói láo, cảnh cáo là nói chơi, khai trừ là trò con nít".
Cũng cần phải nói thêm ở dâu, những đảng viên thường hoặc những đảng viên mà về mặt chính quyền mang cấp bậc từ Trung đội trưởng trở xuuống, thì đảng ủy Trung đoàn hoặc tỉnh ủy đủ quyền hạn quyết định thuận hay không thuận cho phép lập gia đình. Nhưng từ đại đội trở lên, huyện ủy trở lên đều do Cục Chính trị hoặc Quân Ủy và Khu ủy đồng ý, Trung ương Cục quyết định thuận thì mới được tiến hành. Các cấp dưới chỉ là cấp trung gian, chuyển đạt nhận xét của mình để ở trên dựa vào đó phán quyết.
Ta hãy nghe thêm vài sự kiện về "luyến ái" của số cán bộ đảng viên này để biết thực tại của nó ra sao.
Sự kiện thứ nhất là trường hợp của con gái Hai Cà Bí thư đảng ủy khu A, xảy ra 1963. Ông ta có cô con gái "rượu", tuổi mới 18, đưa đến gửi gấm cho học cứu thương rồi công tác ở tại một bệnh xá của khu A. Tại đây có một anh y sĩ, cán bộ mùa thu tập kết về, xuất thân là thợ hớt tóc (thành phần cơ bản đấy!) chịu trách nhiệm về khoa nội. Cô ta được Ban chỉ huy bệnh xá phân công công tác ở khoa này dưới quyền điều khiển của y sĩ nọ. "Lửa gần rơm không trèm thì trụa", ở đây hai cô cậu này không thoát khỏi câu châm ngôn dó. Y sĩ nhà ta tuy xuất thân là thợ hớt tóc, rồi được vào Ðảng, Ðảng cho đổi nghề đi học cứu thương, học y tá. Trước khi về Nam được cho đi học lớp y sĩ nên cái nghề nghiệp ở trong mát tạo cho anh ta cái nước da trắng trẻo dễ coi, gương mặt không đến nỗi "xí" gì cho lắm. Cô nọ lại đang ở cái tuổi thèm yêu, khao khát dục tình nên dù gặp anh y sĩ lớn hơn mình gần gấp đôi số tuổi, có bộ mã dễ coi, lại chưa có vợ, cứ "hát" những câu yêu đương, ân ái mãi cũng đâm ra xiêu lòng.
Câu chuyện đổ bể, chi bộ quân y báo cáo cho Ðảng ủy khu A biết. Hai Cà tức lắm, đòi cô con gái về nhà riêng đập cho một trận, cấm không được yêu nữa. Nhưng cô con gái cứ khăng khăng nhất định yêu cho kỳ được, vì đã lỡ "ấy" với nhau rồi. Hai Cà chết điếng, tức vô tả. Sau đó một ngày, triệu hồi anh y sĩ đến văn phòng hỏi tội, bảo thẳng cho biết là đứng về phương diện gia đình ông ta không chấp nhận. Ðứng về phía Ðảng ông ta cũng không đồng ý. Ông ta hét lên:
- Ðồng chí là thằng không ra gì. Ðảng đã giáo dục, dạy dỗ đồng chí như thế nào mà bây giờ đồng chí lại yêu đương một cách trái cựa vậy. Lập trường giai cấp của đồng chí để đâu?
Thì ra trong lúc quá nóng, Hai Cà nói không cần nghĩ nên mới bị anh y sĩ trả lời cho một câu nổ đom đóm mắt:
- Dạ, báo cáo đồng chí, Ðảng đã dạy rằng tự do luyến ái đúng lập trường giai cấp là yêu những người xuất thân ở giai cấp công nông, thì, trong trường hợp chúng tôi yêu nhau thật là đúng tiêu chuẩn do Ðảng đề ra. Người tôi yêu là con của một cán bộ, trung thành với cách mạng, xuất thân thành phần cơ bản. Chả lẽ con của đồng chí lại thuộc về giai cấp bóc lột, phản động sao?
Hai Cà cứng họng, đuổi anh ta ra và chỉ thị cho Ban Chính trị khai trừ anh y sĩ, hạ tầng công tác, thuyên chuyển công tác cho đi giữ kho muối và xúc tiến biện pháp kiểm thảo giáo dục, cảnh cáo toàn khu A. Trong khi Ban Chính trị thi hành thủ tục thì vợ Hai Cà đến cho hay: "Con gái mình lớn bụng rồi". Hai Cà chết sững. Bà vợ theo năn nỉ mãi, bảo đã lỡ rồi, nếu cứ làm cho nó hả tức thì tội nghiệp cháu ngoại nó không cha, không ai nuôi nó phải cực và danh dự gia đình chẳng còn gì.
Nhờ vậy quyết định vừa gửi đi được thu hồi lại ngay, thay bằng một quyết định khác: "khai trừ ra khỏi đảng sáu tháng, sụt một cấp từ Thiếu úy (C. phó) xuống còn Chuẩn úy (B trưởng) ghi lý lịch về tội "vô kỷ luật không chấp hành mệnh lệnh Ðảng" chứ không phải là tội dâm ô, vô kỷ luật, phản giai cấp, làm "hoen ố danh dự của Ðảng" như trước đây. Dưới quyết định vẫn kèm theo một câu: "cho phép làm lễ tuyên hôn nhưng phải thi hành kỷ luật trước, trong phạm vi nội bộ".
Trường hợp trên đây là trường hợp của đảng viên, lại là cán bộ mùa thu được tập kết ra Bắc rồi trở về Nam công tác, cảnh cáo lý lịch cũng chỉ vì yêu. Thì như vậy, ai có thể nghe được "khuyết điểm và quan hệ nam nữ, về tình ái chỉ là một khuyết điểm thuộc sinh hoạt "râu ria không đáng kể". Dĩ nhiên, đó chỉ là một lập luận được đẻ ra sau những vụ hôn nhân của các lãnh tụ, cán bộ cao cấp của Ðảng, nhằm bảo vệ uy tín Ðảng và cá nhân lãnh tụ.
Ðối với quần chúng ngoài Ðảng, những hình ảnh thông thường nhất ở tất cả đơn vị, cơ quan và các nơi được gọi là vùng giải phóng là việc ngồi nghe kiểm thảo ngay lưng "vì quan hệ nam nữ không đứng đắn" vì Ðảng không cho phép yêu, hay ngược lạị Cái cảnh dòm ngó, lén lút theo dõi, rình bắt những cuộc nói chuyện tay đôi ở chỗ vắng người như là một thói quen, một sinh hoạt cần thiết mà Ðảng giáo dục cho mọi người.
Bất kỳ một ai muốn yêu phải được phép của "tổ chức" dù là đảng viên, đoàn viên hay quần chúng cũng vậỵ Ái tình chỉ huy là thế. Nếu kể từ trường hợp, với những nét khác nhau của nó thì không sao kể xiết. Không một mối tình nào không được tạo bằng nước mắt.
Ở một trường hợp thông thường, như giữa hai quần chúng nam nữ yêu nhau, báo cáo lên tổ chức, tổ chức bảo rằng:
- Ðồng chí nữ có tác phong tiểu tư sản, công tác không tích cực và nhiều cá tính xấu, tổ chức không bằng lòng cho đồng chí xây dựng hôn nhân.
Hoặc:
- Ðồng chí nam kia tuy là thành phần cơ bản nhưng lập trường Cách mạng, lập trường giai cấp không vững, có tư tưởng cầu an, đôi lúc tỏ ra vô kỷ luật, vì vậy tổ chức xét trường hợp của hai đồng chí thấy không được. Nếu đồng chí lấy đồng chí nam kia, đồng chí không tiến bộ được.
Rồi những hình thức từ chối khác như:
- Tình hình hiện tại, tất cả toàn dân toàn quân tập trung nỗ lực vào chiến đấu chống kẻ thù. Ai ai cũng gác mọi chuyện riêng tư, tình cảm ích kỷ cá nhân ra, tại sao hai đồng chí lo tính chuyện hạnh phúc cá nhân, tình yêu đôi lứa? Tuổi của các đồng chí còn trẻ quá mà! Mới hai mươi ngoài việc chi đã vội?
Hay:
- Chiến trường ta đang chiến đấu là chiến trường du kích gian khổ khó khăn. Ðảng yêu cầu các đồng chí dẹp chuyện yêu đương, hôn nhân lại vì yêu phải lấy nhau, rồi sinh con đẻ cái, điều đó làm nặng nề thêm cho tổ chức. Cái chính là làm suy giảm tinh thần chiến đấu của các đồng chí. Các đồng chí không tiến bộ nổi. Chiến đấu mà còn nghĩ tới vợ con, chồng con thì chiến đấu nỗi gì?
Hoặc:
- Các đồng chí thấy đó, toàn miền Bắc đang phát động phong trào ba khoan, phong trào ba sẵn sàng thì tại sao ở tuyến dầu của Tổ quốc, các đồng chí còn có thể yêu nhau được chứ?
Dĩ nhiên đám nam nữ thanh niên họ bất mãn, thắc mắc. Càng bất mãn hơn khi thấy cán bộ mùa thu thì luôn luôn "quạt" đầu này, "tấn công tình cảm" đầu kia, "theo em" nơi nọ. Nhất là những nhân vật trong Ban chỉ huy đơn vị và cấp ủy Ðảng của đơn vị. Họ dàm làm thế là vì Quân ủy Miền đã có chỉ thị cho các cấp phải tích cực giúp đỡ, lo "kiếm vợ" cho những "cán bộ mùa thu" lớn tuổi còn độc thân.
Là Ban Chỉ huy, là cấp ủy của đơn vị tức người có quyền nhất ở đơn vị thì làm sao các cán bộ thường, chiến sĩ có quyền ngăn cản được? Cho nên dựa vào chủ trương của Quân ủy, lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình cũng như lợi dụng mấy cậu thanh niên "choai choai" bị cấm chỉ "quạt". Ban Chỉ huy, cấp ủy tha hồ dùng đủ mọi cách để lấy cho kỳ được các cô đẹp nhất, trẻ nhất đáng tuổi con cháu, có mặt tại đơn vị mình hay ở tại các đơn vị bạn, dưới sự ủng hộ tích cực của các Thủ trưởng và cấp ủy đơn vị. Nếu địa vị, danh vọng, lợi lộc không mua chuộc được lòng của các cô gái trẻ tuổi, mới lớn lên đang độ thèm... hơi hướng con trai, (nhưng con trai chịu bất lực) thì áp dụng biện pháp "quân sự". Khi toàn Ban Chỉ huy, toàn cấp ủy tán trợ, còn ai kêu ca vào đâu được. "Thành đã bị phá", mọi việc đã rồi thì cô gái đành cắn răng cam chịu mà thôi.
Mâu thuẫn trong phạm vi hưởng "quyền lợi tình ái", ở mọi cơ quan, đơn vị ngày càng lớn lên thêm giữa chỉ huy và lính, giữa cán bộ và chiến sĩ, giữa cấp ủy và đảng viên, giữa đảng viên và quần chúng.
Nhiều cậu thanh niên không nhịn được, nổi nóng hỏi anh Chỉ huy, hỏi cấp ủy tại sao có sự vô lý, bất công đó. Người ta giải thích rằng:
- Những cán bộ mùa thu họ đã hy sinh suốt cả quãng đời niên thiếu, mấy chục năm liền của mình cho Cách mạng, cho nhân dân. Vì lẽ đó, họ chưa lập gia đình. Ðảng có bổn phận phải lo hạnh phúc cho họ và an ủi họ. Tại sao họ già mà lấy mấy cô gái trẻ, nhỏ bằng nửa tuổi họ hả? Có gì đâu, tại hai người thoả thuận lấy nhau mà! Tự do luyến ái mà! Và dù họ có dùng hình thức này hay hình thức nọ để lung lạc đi nữa, thì các đồng chí xem trên quan điểm cách mạng, chẳng có gì đáng trách cả. Vì nhân dân, vì cách mạng tạo nên cái già thì cái già đó đâu thể gọi già. Quãng đời làm cách mạng, hy sinh cho đất nước phải trừ ra. Giả dụ như đồng chí A năm nay bốn mươi tuổi, tham gia cách mạng từ 1945 đến nay, vị chi là hai mươi hai năm. Trừ hai mươi hai năm làm cách mạng ra, đồng chí A năm nay xem như 18 tuổi thì đồng chí nữ kia năm nay 18, tức là hau người bằng tuổi nhau. Thanh niên 18 cưới thanh nữ 18 mà các đồng chí bất mãn cho là chênh lệch, không xứng đôi hả? Tư tưởng của các đồng chí thật là phi cách mạng, phi nhân dân, sai lầm vô cùng. Những đồng chí thanh nữ cũng phải thấy như thế mới là người tiến bộ, lập trường cách mạng vững vàng, tư tưởng xác đáng. Chẳng những vậy, các đồng chí nữ càng phải yêu hơn, tha thiết hơn, say mê 22 năm cách mạng đáng tôn thờ đó. Ðó là lập trường là lý luận của Ðảng đó! Nếu không vì cách mạng, năm ngoài 20 tuổi họ vẫn có vợ, có gia đình như bao nhiêu thanh niên khác.
Quả là lý luận cách mạng "tuyệt vời"! Thế mà các cậu thanh niên lại cho là kỳ quái, nhạo báng rùm beng, cười mỉa mai, nhức cả đầu cán bộ cấp ủy. Hành động đó sẽ dẫn đến kiểm thảo, cảnh cáo rồi khai trừ không sao tránh được. Không khí đã căng thẳng, giờ lại càng căng thẳng hơn.
Ðể đáp lại chủ trương và lập luận kể trên, ở tại các đơn vị R, thuộc các khu A, B, C, E, H, vùng rừng núi, đám nam nữ thanh niên kể từ giữa năm 1966 đâm ra liều mạng, thà chịu cảnh cáo, khai trừ mà được yêu, thoả mãn nhu cầu của tuổi trẻ. Họ cũng dùng lối "tốc chiến tốc thắng", "bao vây, thọc sâu, chia cắt", "công kiên chiến", "cường tập" v.v... Mỗi khi đưa ra kiểm thảo, cảnh cáo, họ làm ra vẻ hối hận, ăn năn, đau khổ vì lỗi lầm của mình trước buổi họp của toàn đơn vị như sau:
- Thưa các đồng chí, chúng tôi thành khẩn nhận khuyết điểm trước Ðảng, trước các đồng chí. Vì một phút nông nỗi, quên lời giáo dục của Ðảng, chúng tôi đã làm giảm phẩm chất cao quí mà tập thể đã nâng đỡ, rèn luyện cho bấy lâu naỵ Dù Ðảng bảo rằng "khuyết điểm về quan hệ nam nữ", về luyến ái chỉ là khuyết điểm sinh hoạt "râu ria", "không căn bản", nhưng chúng tôi nhận thấy đó là một lỗi lầm hệ trọng, biểu hiện tư tưởng dâm ô, vô kỷ luật, vô luân lý, ảnh hưởng tư tưởng phản động, lạc hậu của đế quốc phong kiến. Trước mặt các đồng chí hôm nay, tôi xin thay mặt cho hai đứa chúng tôi nhận khuyết điểm, hối hận, ăn năn thành khẩn hứa trước các đồng chí rằng từ nay chúng tôi quyết tâm sửa chữa không dám tái phạm. Chúng tôi xin cam chịu và nhận lãnh mọi biện pháp kỷ luật của Ðảng và tổ chức, không dám oán thán điều gì, vì chúng tôi nhận thấy được lỗi lầm của mình. Trước tiên, tôi xin thành thật báo cáo trước các đồng chí tuần tự diễn biến của sự kiện từ lúc đầu cho đến bây giờ. Sau đó xin phân tích khuyết điểm, nhận xét dựa theo bản tự kiểm của chúng tôi. ............... Như vậy, chúng tôi đã coi thường kỷ luật đảng, coi thường tập thể, có những hành động dâm ô, đã hủy hoại sinh mạng chính trị của riêng mình, đã mất lập trường giai cấp, lập trường cách mạng, đã xa rời tập thể, mất đạo đức, xấu xa để đến nỗi bây giờ đã có thai hai tháng. Chúng tôi hối hận vô cùng. Giờ trước sự thể xảy ra chỉ biết xin Ðảng thương, cho phép chúng tôi lấy nhau để cái thai kia được chăm sóc, và chúng tôi xin làm tròn bổn phận cha mẹ đối với con. Và từ nay về sau, hai chúng tôi xin thành khẩn hứa với các đồng chí không dám phạm phải khuyết điểm sai lầm này nữa.
Một tràng cười nổi lên trong cuộc họp, và có giọng nói át đi, hét lớn lên:
- Hai đồng chí đặt Ðảng, đặt tổ chức trước sự đã rồi. Dù có thi hành biện pháp kỷ luật nào thì các đồng chí cũng đã ăn nằm với nhau, đã lấy nhau rồi. Thành khẩn gì? Thành khẩn hứa không phạm khuyết điểm lần nữa khi hai người đã thành vợ chồng, đã lấy nhau? Các đồng chí thoả mãn rồi, còn phạm gì nữa chớ. Thật là ngụy biện, khó nghe, qua mặt Ðảng, qua mặt tổ chức, như là một trò đùa, đồng chí xem Ðảng là con nít hả?
Tất cả những điều trên đây chứng tỏ cho mọi người biết "khuyết điểm về quan hệ nam nữ, về luyến ái chỉ là khuyết điểm thuộc về sinh hoạt râu ria, không căn bản" không còn đúng nữạ Và "Tân luyến ái quan" của Mao Trạch Ðông, chủ trương tự do kết hôn của Ðảng chỉ là một quyển sách và một danh từ dùng để trang trí, làm đẹp cho hình thức bề ngoài của chế độ.
Có lẽ đứng ở một góc nhìn vào đó, người ta cho rằng tình yeu mà có nước mắt, có đau khổ mới đáng được gọi là yêu chăng? Trong công tác, trong cách mạng, đối với Ðảng, đối với dân đều cần phải có sự thử thách để chứng minh lòng trung thành tuyệt đối thì tại sao ở phạm vi luyến ái không cần sự thử thách bằng nước mắt?
Kết Luận Ðảng VC từ ngày thành lập chỉ là một đảng cướp với lý lẽ tuyên truyền láo khoét và đạo đức giả lừa gạt đồng bào.
Từ những tên chóp bu như Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ, Hà Huy Giáp, Trần Văn Trà, Võ Nguyên Giáp,... cũng như bọn đảng viên cao cấp trong Ðảng VC toàn là một bọn ma giáo đểu cáng và dùng bạo lực như các lãnh chúa thời Trung Cổ để chiếm đoạt gái đẹp núp dưới những chiêu bài vì cách mạng, vì nhân dân, vì tổ quốc. Theo thời gian, bộ mặt chúng đã bị phơi bầy. Chúng chỉ là những tên cướp sát nhân với tư cách đê tiện nhất.
Ðảng VC là 1 bất hạnh cho quê hương chúng ta. Chúng đã reo rắc bao lầm than, thống khổ cho dân tộc VN. Ðã đến lúc chúng ta, già cũng như trẻ, tất cả mọi người hãy đồng tâm đoàn kết giải thể chế độ độc tài, đảng trị này. Ðể chúng ta sẽ có một ngày về.
Một ngày về vinh quang, đoàn tụ trê quê hương yêu dấu.
----------------------------------
(*) R - căn cứ mật của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tổ chức bù nhìn do Hà Nội dựng nên để bịp dư luận thế giới. Căn cứ nầy nằm dọc theo biên giới Việt Miên.
Kim Nhật
HỘI CHỢ TẾT HẢI NGOẠI
40 năm cộng đồng người Việt San Francisco
Cổng chào ở Little Saigon San Francisco -Ảnh Bùi Văn Phú
Cuối tuần qua tôi đi chơi Hội Tết San Francisco. Đây là Hội Tết lần thứ 19 của cộng đồng người Việt tại thành phố này, những năm trước được tổ chức tại khu Little Saigon trên đường Larkin, từ hai năm qua dời về United Nations Plaza, gần toà thị chính.
Năm nay là Tết Ất Mùi. Đã bốn lần qua can Ất kể từ Tết Ất Mão 1975 là cái Tết cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa. Đó cũng là dấu mốc thời gian 40 năm từ ngày người tị nạn Việt đến Hoa Kỳ định cư.
Ngày nay nhắc đến cộng đồng người Mỹ gốc Việt, được biết đến nhiều nhất là Quận Cam ở miền nam Caifornia và San Jose ở miền bắc. Nhưng San Francisco đã là tụ điểm sinh hoạt đấu tranh của người Việt California trong những năm đầu, trước cả Quận Cam, trước cả San Jose vì tính cách quốc tế của thành phố này.
Ngày Chủ Nhật 8/2 tại thư viện chính của thành phố có chương trình “40 Years: a Commemoration of the Vietnamese Refugee Resettlement” – 40 Năm: Kỷ niệm Định cư Người Việt Tị nạn – gồm triển lãm, hội thảo, văn nghệ do Trung tâm Văn hoá Âu Cơ và thư viện San Francisco phối hợp tổ chức.
Là một trong số những người Việt đầu tiên đến định cư tại vùng Vịnh San Francisco, tôi tham gia hội thảo cùng với kỹ sư Khương Hữu Điểu, cựu thứ trưởng kinh tế Việt Nam Cộng hoà và luật sư Mỹ Linh Nguyễn, là hai người thuộc thế hệ thứ nhất và thứ hai còn tôi thuộc thế hệ 1.5.
Kỹ sư Điểu nói về nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa và lí do người Việt ra đi là vì “Kissinger đã bán đứng miền Nam cho cộng sản, sau chuyến đi Trung Quốc uống chè với Chu Ân Lai vào năm 1972”. Luật sư Mỹ Linh Nguyễn, con gái của một gia đình thuyền nhân vượt biển được sinh ra ở Mỹ, tốt nghiệp Đại học Berkeley và trường luật Hasting, nói về nguyên do tại sao cô gắn bó với truyền thống văn hoá Việt.
Phần trình bày của tôi về hành trình đến Mỹ và trải nghiệm, hiểu biết của mình về cộng đồng người Việt San Francisco, bắt đầu từ cuộc di tản năm 1975 với 130 nghìn người; làn sóng vượt biển, vượt biên với hơn một triệu trong đó khoảng 300 nghìn người đã không đến được bến bờ; rồi chương trình định cư cựu tù cải tạo H.O., định cư con lai, vượt biển hồi hương ROVR.
Tôi rời Việt Nam chiều 29/4/1975 trên một con tàu không máy. Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển và ba tháng qua nhiều trại tị nạn, tôi đến định cư tại thành phố Berkeley vào tháng 8/1975 cùng với gia đình ông anh họ là thẩm phán Trần An Bài.
Lúc đó không quen ai ở San Francisco, thành phố du lịch nổi tiếng với cây cầu Golden Gate bắc ngang cửa vịnh và chỉ cách Berkeley 15 phút lái xe. Còn San Jose cách Berkeley một giờ xe vẫn là nơi xa lạ.
Đi học ESL ở Berkeley Adult School gặp vài người Việt như gia đình cô Nga Vũ, ông bà Đỗ Điện Thoại là chủ cơ sở Kim Sơn ấn quán chuyên in vé số ở Sài Gòn, có ông giáo Nguyễn Văn Sáng nguyên là trưởng ấp ở khu Ngã ba Ông Tạ, quê tôi. Có kỹ sư Chương mới từ Đức qua. Vào đại học cộng đồng College of Alameda biết thêm anh Chương (còm), anh Thông Trần, chị Bích anh Thuận, anh em Sơn Trần là những đồng hương đầu tiên quanh vùng Đông Vịnh (East Bay).
Năm 1977 chuyển lên Đại học Berkeley, khi đó mới quen vài sinh viên từ San Francisco như các anh Dư Minh Trọng, Nguyễn Trọng Vũ, Khánh Nguyễn là những người được bầu vào ban chấp hành Hội Sinh viên Việt Nam tại Đại học Berkeley sau khi hội thành lập đầu năm 1979. Anh Trọng làm tổng thư ký đầu tiên, sau đó anh Vũ làm trưởng ban sinh hoạt và anh Khánh làm chủ tịch. Tôi làm trưởng ban văn hoá và trưởng ban học tập vài nhiệm kỳ. Tôi và anh Khánh, nay là một trong những cột trụ của của Trung tâm Âu Cơ, đã cùng nhau tham dự nhiều sinh hoạt cộng đồng.
Mỗi độ tháng Năm trong trường có tuần lễ di sản văn hoá châu Á Thái Bình Dương, chúng tôi qua San Francisco mượn đồ kỷ niệm từ Việt Nam như lư đồng, tranh ảnh của gia đình anh Vũ hay của bác Nguyễn Phú Biên, nguyên giám đốc Mỹ Vân Film ở Sài Gòn, để trưng bày tại Spoul Plaza cùng với các hội sinh viên bạn.
Sinh viên làm văn nghệ lần đầu tiên vào tháng Tư 1980 với kịch thơ Hận Nam Quan và phải mượn khăn đóng áo dài của học giả Đào Đăng Vỹ, nhờ Đoàn vũ Gia đình Phật tử Oanh Vũ từ San Francisco giúp cho chương trình vài màn múa. Đàn tranh nhờ chị Ngọc Dung, cựu giáo sư trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn; sáo trúc nhờ anh Bùi Duy Long từ San Jose.
Vào thời điểm đó thật là khó kiếm ra nón lá, áo tứ thân hay những nhạc cụ Việt. Mấy bạn sinh viên nam nữ hát hò ba miền, mặc áo bà ba cũng phải đi mượn từ nhiều nơi.
Qua sinh hoạt sinh viên và cộng đồng tôi biết được một số người Việt sống ở San Francisco, có đô trưởng cuối cùng của Sài Gòn là Chuẩn tướng Đỗ Kiến Nhiễu, có cựu Đại tá Nguyễn Khuyến, các giáo sư Lê Thức Lân, Chung Hoàng Chương, bác Lê Văn Hoàn là một dịch giả, anh Đặng Đức Cảnh là cựu sĩ quan. Có anh Nguyễn Đức Long từ trường City College of San Francisco cũng thích làm báo sinh viên nên chúng tôi thân nhau.
Với người Việt tị nạn lúc đó, San Francisco là trung tâm để đấu tranh cho nhân quyền ở quê nhà vì có các cơ sở ngoại giao và đông du khách.
Dịp 30/4 biểu tình trước toà thị chính. Ngày Quốc tế Nhân quyền 10/12 biểu tình tại United Nations Plaza rồi tuần hành ra đường Market là trung tâm du lịch.
Tổng lãnh sự quán của Liên bang Xô-Viết trên đường Green cũng là nơi đồng bào tập họp biểu tình cùng với những sắc dân Lithuania, Latvia, Estonia vào tháng Bảy, dịp tưởng niệm “Ngày những Quốc gia bị Cộng sản Chiếm đóng”.
Từ năm 1998, khi có Tổng Lãnh sự quán Việt Nam thì các cuộc biểu tình tập trung về đây. Cơ sở ngoại giao của Trung Quốc trong một thập niên qua cũng thường có người Việt kéo đến biểu tình phản đối Bắc Kinh hung hăng gây hấn trên Biển Đông.
Về ẩm thực, những năm cuối thập niên 1970 quanh Berkeley, Oakland chưa ai mở quán ăn Việt. Khi đó tôi chỉ biết San Francisco có ba nhà hàng Việt là Golden Turtle, Mai và Cordon Bleu. Rùa Vàng nổi tiếng với bún bò Huế, Mai với những món xào. Tiệm Mai là nơi tôi hay đưa các bạn Mỹ đến để giới thiệu với họ về ẩm thực Việt Nam. Hai tiệm này ở khu đường Geary, Clement, giữa các đường số 5 và 12. Cordon Bleu trên đường Polk bán thức ăn Việt nấu kiểu Pháp và giá cao nên sinh viên ít ghé. Khu Tenderloin có một số người Việt nhưng chưa thấy quán ăn.
Ngày nay với đông người Việt sinh sống, khu Tenderloin hiện có 3 trăm cửa hàng của người Việt trên những phố loanh quanh đó. Trụ sở tuần báo Mõ San Francisco của ông Huỳnh Lương Thiện, đã phát hành đến số 1430, cũng ở đây. Năm 2004, thành phố chính thức đặt tên khu vực đường Larkin từ Eddy đến O’Farrell là Little Saigon.
Nơi đây có đủ các món ăn bình dân của người Việt, lâu đời có phở Thái Bình Dương, phở bắc chính gốc là Tower Turtle đã 15 năm tuổi, có Bánh mì Lee’s, có cơm phở Hà Nam Ninh, dịch vụ chuyển tiền, tiệm tạp hóa, rau cỏ, cây trái.
Ở những khu sang trọng trong thành phố cũng có quán Việt như Slanted Door của Charles Phan đã hân hạnh đón Tổng thống Bill Clinton ghé ăn, có nhà hàng Ana Mandara với đầu bếp nổi tiếng Khải Dương, có quán Le Colonial.
Xuân về, những năm đầu xa xứ người Việt San Francisco đón tết trong hội trường một trường học ở khu Sunset do Trung tâm Định cư Đông Nam Á tổ chức, lúc đó ông Michael Huỳnh làm giám đốc, rồi đến ông Vũ-Đức Vượng, ông Philip Nguyễn. Hội chợ chỉ chừng hơn chục gian hàng, bán vải áo dài, hoa, bánh chưng, giò lụa. Chưa có các loại mứt. Văn nghệ đơn sơ cây nhà lá vườn.
San Francisco đất hẹp nhưng người đông, với 840 nghìn cư dân. Cư dân gốc Việt khoảng 20 nghìn, không đông như San Jose, nhưng từ 15 năm qua Hội Tết San Francisco tại Little Saigon đã là một sinh hoạt văn hoá thu hút hàng vạn khách du xuân đến từ nhiều nơi và lễ khai mạc đều có sự tham dự của thị trưởng, nhiều giám sát viên, quan chức thành phố và dân cử tiểu bang.
Trung tâm Văn hóa Âu Cơ hoạt động từ 25 năm qua, với các lớp dạy tiếng Việt, nhạc cụ cổ truyền, ca vũ cho các em thiếu nhi. Qua tham gia sinh hoạt với trung tâm, luật sư Mỹ Linh Nguyễn đã có thể nói tiếng Việt suông sẻ và biết trân quí những nét đẹp của văn hoá Việt.
Âu Cơ đã cùng với Trung tâm Cộng đồng Việt Nam, Hội H.O., Hội Cao niên, Hội Phụ nữ đóng góp nhiều cho Hội Tết, Trung Thu, Giỗ tổ Hùng Vương và cho các sinh hoạt đa văn hoá của thành phố để phô diễn những nét đẹp truyền thống Việt.
Năm 2008 một người gốc Việt là ông Steve Ngô trúng cử Hội đồng Giáo dục San Francisco Community College và tái đắc cử năm 2012. Làm việc tại tòa thị chính, cuối thập niên 1970 đã có ông Vũ Đắc. Hơn một thập niên qua có ông Phạm Thư Đăng là một công chức cấp cao.
Hôm đi chơi Hội Tết Ất Mùi tình cờ gặp anh Hoàng là một người đã sống và làm việc ở San Francisco lâu năm. Anh là nhân viên sở xã hội, sau đó làm cho sở nhân lực thành phố và nay đã về hưu. Nói chuyện mới biết hành trình đến Mỹ của chúng tôi có nhiều điểm giống nhau. Anh là cựu chiến sĩ hải quân, rời Việt Nam đến Subic Bay ở Philippines, rồi qua Guam, qua trại tị nạn Camp Pendleton, trước khi được bảo trợ ra định cư ở Santa Cruz. Ở đó không lâu thì anh dọn về San Francisco.
Tôi cũng đã có những ngày đầu xa quê hương sống trong những trại tị nạn đó. Gặp nhau kể lại hành trình đến Mỹ, ôn lại kỷ niệm đời sống trại tị nạn với những tối đi xem phim hoạt hình, những trận đá bóng, những dụ dỗ xách động đòi hồi hương cách đây bốn mươi năm nhưng vẫn còn xôn xao trong trí nhớ như mới xảy ra hôm qua. Từ ngày rời Camp Pendleton đến nay tôi mới gặp được một người láng giềng cùng trại 5 với mình.
Ngày 25/4 tới đây bộ chỉ huy Camp Pendleton sẽ mở cửa cho người tị nạn trở lại thăm. Tôi sẽ về lại nơi đó. Sau 40 năm.
© 2015 Buivanphu.wordpress.com
Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Bùi Văn Phú
HỘI CHỢ TẾT Ở WASHINGTON
Hội chợ Tết là một hoạt động của cộng đồng người Việt ở Washington và các vùng lân cận trước mỗi dịp xuân về hàng năm để mọi người mua sắm và gặp gỡ cũng như kết nối cộng đồng. (Ảnh: VOA/Hồng Hoa)
18.02.2015
Mỗi năm khi Tết đến, người Việt Nam sống ở nước ngoài lại hướng về quê hương nơi có người thân và bạn bè. Không khí đón xuân trước mỗi dịp Tết luôn luôn theo họ dù sống ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Hội chợ Tết là một hoạt động của cộng đồng người Việt ở Washington và các vùng lân cận trước mỗi dịp xuân về hàng năm để mọi người mua sắm và gặp gỡ cũng như kết nối cộng đồng. Linh Đan của VOA Việt Ngữ đã tới thăm hội chợ và được biết cộng đồng Việt đang lớn mạnh và kết nối mạnh mẽ hơn với khu vực.
Đó là tiếng trống khai mạc hội chợ Tết cộng đồng vừa được tổ chức ở Falls Church, Virgina, cuối tuần qua. Cũng như mọi năm, đây là dịp để những người Việt sinh sống tại Washington, DC và các vùng phụ cận tụ hội về để mua sắm cho dịp Tết truyền thống và cũng để gặp gỡ bạn bè, đồng hương, chúc Tết và đón xuân.
Ông Đoàn Hữu Định, chủ tịch cộng đồng người Việt ở Washington DC và các vùng phụ cận, đã khai trương hội chợ Tết sau màn múa lân. Ông cho VOA Việt Ngữ biết:
“Đây là cơ hội để đồng hương gặp gỡ nhau, hưởng lại hương vị mùa xuân và mua sắm Tết quê nhà…. Mặc dù không thỏa mãn 100% nhưng cố gắng làm một mối nối và sinh hoạt truyền thống cho cộng đồng người Việt ở đây.”
Ông Nguyễn Văn Đặng, tổng thư ký hội người Cao Tuổi và là một thành viên của ban tổ chức hội chợ Cộng Đồng cũng nói rằng hội chợ đã tạo ra sự gắn kết, tình đồng hương xa sứ khi nhiều người từ các nơi như New York, Maryland, Virginia… đến để mua sắm và gặp gỡ.
“Tết là dịp bà con tụ họp chúc mừng nhau.. nhiều người nhờ đi chợ Tết mà gặp được những người bạn sau 30-40 năm xa cách từ 1975.”
Mặc dù hội chợ diễn ra vào một trong những ngày lạnh nhất của mùa đông năm nay, mọi người, từ nhiều tiểu bang lân cận đã đến chật kín tham dự hội chợ được tổ chức tại phòng ăn của trường trung học Jeb Stuart.
Có đến gần 70 gian hàng bán bánh mứt Tết, thức ăn, bún chả, bánh chưng bánh tét cùng những món ăn thuần túy truyền thống khác của Việt Nam được ăn trong dịp Tết. Ngoài ra còn có các gian hàng của các hội đoàn đại diện cho nhiều tôn giáo.
Hội Y Tế Miền Đông Hoa Kỳ cũng đã tổ chức khám sức khỏe và làm một số xét nghiệm miễn phí cho những người đến tham gia hội chợ.
Ông Đặng cho biết một trong những cái mới trong hội chợ năm nay là có nhiều đảng phái như Cộng Hòa và Dân Chủ đến quảng cáo lấy phiếu ủng hộ cho đảng của họ vì sắp tới mùa bầu cử. Tuy nhiên đây cũng là dịp để đại diện của các đảng tìm hiểu và kết nối với cộng đồng Việt hơn.
Bà Jennifer Chronis, một người thuộc đảng Cộng Hòa đang ra tranh cử vào ban tư vấn quận Fairfax của tiểu bang Virginia, cũng đã đến tham dự hội chợ.
“Tôi tin rằng cộng đồng người Việt ở đây là một phần rất lớn và rất quan trọng của quận Fairfax vì vậy mà tôi đến đây hôm nay để gặp gỡ mọi ngườ để hiểu biết nhiều hơn về văn hóa và để nói chuyện với mọi người về những điều họ bận tâm về quận Fairfax.”
Bà Chronis cũng cho biết cộng đồng người Việt đóng góp nhiều vào sự phát triển kinh tế của Fairfax thông qua các doanh nghiệp nhỏ và một trong những trọng tâm của bà trong chiến dịch tranh cử là làm cho quận Fairfax thu hút được nhiều doanh nghiệp hơn. Bà cho rằng cộng đồng Việt Nam là một yếu tố quan trọng trong lĩnh vực này.
Ông Nguyễn Xuân Tú, một người dân đã sống trên 20 năm ở Virginia, cho biết ông đến hầu hết các hội chợ Tết không những để mua sắm, gặp gỡ bạn bè mà cũng để tìm hiểu về các hội đoàn chính trị của các đảng.
“Mục đích của hai đảng Cộng hòa, Dân chủ muốn sự ủng hộ của cộng đồng mình, muốn nhiều phiếu bầu càng tốt. Chính quyền địa phương càng thấy có nhiều người Việt Nam đi bầu thì càng quan tâm đến tiếng nói của mình để biết được những sự đòi hỏi về người dân Việt ở đây. Đảng chính trị Việt Nam thì quan tâm đến vấn đề dân quyền ở Việt Nam. Sự vận động là cách tốt nhất để người dân biết đến họ.”
Chủ tịch Đoàn Hữu Định cho biết trong buổi ra mắt của cộng đồng gần đây vào tháng 1, các thành phần dân cử của các đảng Cộng Hòa và Dân Chủ đã đến tham dự và nhận thấy cộng đồng Việt Nam đang phát triển mạnh hơn, có nhiều nhân tài trong cộng đồng và họ thấy có thể dùng được.
“Rõ ràng là thế hệ thanh niên người Việt đã trở thành những người lãnh đạo trong cộng đồng của chúng ta và sẽ tiếp tục là những người lãnh đạo trong cộng đồng này trong nhiều phương diện từ kinh doand đến công nghệ đến giáo dục.”
Kể từ khi thành lập cộng đồng người Việt năm 1989, hội chợ Tết đã được tổ chức hàng năm và là dịp để các tiểu thương người Việt giới thiệu các mặt hàng của họ trực tiếp tới cộng đồng.
Bà Phan Thị Bốn, một tiểu thương tham gia chợ Tết tại đây trong hơn 10 năm qua, mang đến các mặt hàng ăn truyền thống như bánh chưng, bánh tét, bánh ít lá gai, mứt gừng…Bà nói năm nay bà đưa đến hội chợ một nửa số bánh chưng mà mọi năm làm vì có gấp đôi số gian hàng bán bánh chưng ở hội chợ này so với các năm trước do đó lượng khách bị chia ra. Bà nói bánh chưng trở nên phổ biến hơn và thậm chí có người Mỹ cũng đã biết ăn bánh chưng. Và sau hơn nửa ngày, số bánh của bà, được biết tới là Bánh Chưng Cô Bốn, đã bán gần hết.
Trong khi đó một người Việt sống ở Maryland cũng tham gia một gian hàng ở hội chợ. Ông Nguyễn Minh Phụng, một người trồng và tạo cảnh cây mai cho dịp Tết, nói đây là lần đầu tiên ông tham gia hội chợ cộng đồng với các mặt hàng là đồ trang trí cho cây mai – như pháo, chuông, cá chép, bao lì xì.“Bao lì xì có hình con dê biểu tượng cho năm nay là năm Ất Mùi. Còn các chép tượng trưng cho sự may mắn.”
Ông Phụng nói các sản phẩm đều được gửi từ Việt Nam sang do đó nếu năm sau có những sản phẩm mới, ông sẽ tiếp tục đến tham dự bán hàng. Ông Phụng rất ấn tượng với không khí vui náo nhiệt của hội chợ.
Sư cô Viên Huệ của chùa Thiên Ân ở Maryland cũng có nhận xét tương tự.
“Theo sự có mặt của sư cô trong 10 năm qua, thì thấy lúc nào dù thời tiết tốt hay là khắc nghiệt nhưng người Việt Nam của mình có những ngày lễ truyền thống như thế này thì ai cũng tranh thủ thời gian để tham dự nên lượng người không có gì thay đổi – khi nào cũng rất là đông."
Sư cô cùng với nhiều quý phật tử của chùa Thiên Ân có một quầy hàng tại hội chợ phục vụ đồ cúng chay trong dịp Tết và gây quỹ để xây dựng một ngôi chùa lớn hơn để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, văn hóa và phong tục của người Việt nơi xứ người.
“Với tấm lòng của một người hành đạo, sư cô hy vọng có những dịp truyền thống văn hóa như thế này khiến cho họ đến gặp gỡ chia sẻ tình cảm, quan tâm và gìn giữ được truyền thống của người Việt Nam – nhất là tại xứ người. Cầu mong rằng ai cũng luôn có một tấm lòng như vậy để gìn giữ được truyền thống văn hóa của dân tộc chúng ta.”
Và đó cũng là ước mong của nhiều người Việt đang sinh sống ở nước ngoài khi bước sang năm mới Ất Mùi.
Một mùa xuân mới lại về và đang gõ cửa từng nhà.
http://www.voatiengviet.com/content/cho-tet-cong-dong-noi-ket-noi-nguoi-viet-voi-cong-dong-so-tai/2647676.html
Hội chợ Tết Ất Mùi ở Maryland
Thanh Trúc, phóng viên RFA
2015-02-12
2015-02-12
Tết của người Việt ngoài này, nhất là ở Mỹ, rơi vào khoảng trung tuần tháng Hai Dương Lịch. Trong lúc người Việt ở miền Tây Hoa Kỳ như California tưng bừng đón Tết trong nắng ấm thì người Việt miền Đông như Virginia, Washington DC và Maryland chẳng hạn, có khi đón Tết Nguyên Đán trong tuyết phủ bốn bề.
“Rất hãnh diện, giới trẻ nên dấn thân nên làm những chuyện đrẻ rất đặc biệt.”
Mike: “Tôi tên Mike ở Maryland, đây là gia đình tôi gồm vợ tôi là Michel, con gái tôi là Grace và con trai là Nathan. Vì mẹ tôi là à người Việt Nam, tôi mang giòng máu Việt Nam nên tôi nghĩ tôi phải dạy cho con tôi hiểu Việt Nam là gì, chỉ có vậy thôi.”
Toàn: “Em lai Việt Nam với Kampuchia. Ba Kampuchia, mẹ Việt Nam, mà ở xứ Mỹ này thì mình là Mỹ rồi.”Phiên chợ Tết lần thứ 28 của AVA
Năm nay, Tết Ất Mùi, Maryland là nơi mở hội chợ Tết sớm nhất hôm Chúa Nhật 9 tháng Hai vừa qua.
“Dù ở vùng này nói là địa phương nhưng thực ra có rất nhiều đồng hương các nơi khác đến đây. Rất phấn khởi vì đúng theo truyền thống người Việt Nam mình hễ mà có hội họp lại thì đồng hương đều quây quần với nhau, đó là điểm son mà chúng ta cố gắng duy trì.”
Đó là lời ông Đoàn Hữu Định, chủ tịch Cộng Đồng Việt Nam tại Virginia, Maryland và Washngton DC, có mặt tại hội chợ từ lúc sớm. Như lệ thường hàng năm qua, đứng ra kêu gọi và tổ chức hội chợ Tết hàng năm thường là Hội Cao Niên. Tuy nhiên theo ông Đoàn Hữu Định, chợ Tết Maryland năm nay gần như do người trẻ Mỹ gốc Việt nằm giữ, điều ông cho là một niềm hãnh diện:
Dù ở vùng này nói là địa phương nhưng thực ra có rất nhiều đồng hương các nơi khác đến đây. Rất phấn khởi vì đúng theo truyền thống người Việt Nam mình hễ mà có hội họp lại thì đồng hương đều quây quần với nhau, đó là điểm son mà chúng ta cố gắng duy trì.
-Đoàn Hữu Định
Hội chợ Tết Ất Mùi năm nay do Hội Người Mỹ Gốc Việt Maryland AVA phối hợp cùng Hội Kết Đoàn qui tụ phần lớn sinh viên học sinh của Đại Học Maryland và Đại Học Virginia, đã kêu gọi được sự tham gia từ những đoàn thể và cơ sở kinh doanh, cơ sở tôn giáo của người Việt trong ba bang Maryland, Virginia và Washington DC. Một thành viên chính trong ban quản trị Hội Người Mỹ Gốc Việt mà tên gọi trước đó là Hội Ái Hữu Người Việt Maryland, anh Đặng Đức Hân Hoan, cho biết đây là phiên chợ Tết lần thứ 28 của AVA tổ chức:
“Hội Người Mỹ Gốc Việt sinh hoạt đã 35 năm, Hội Kết Đoàn thì sinh hoạt cũng hơn 10 năm rồi. Hội Kết Đoàn có nhiều người trẻ có sức và có năng lực, họ tổ chức rất hay. Về văn nghệ mấy em Kết Đoàn rất giỏi và rất có tài về nhạc về đóng kịch. Có mấy em tham dự thì cái đó là tốt tại vì những thế hệ khác nhau mà làm việc chung với nhau. Hai hội làm việc rất cực, rất khó khăn nhưng mình thấy mình phải làm tại vì cũng 40 năm rồi, mình phải ráng giữ cái phong tục Việt Nam của mình mà Tết là ngày quan trọng nhất trong năm. .
Một số hội tham dự bán chợ Tết để gây quĩ, có Hội Hướng Đạo Liên Đoàn Potomac, Hội Vovinam, Hội Cao Niên Maryland, Việt Toons , Nhà Thờ Giáo Xứ Mẹ Việt Nam, có chùa Xá Lợi, chùa Viên Ân, và cũng có đông những gian hàng bán sách Việt Nam, nhạc Việt Nam… Đồ ăn thì đủ thứ đồ ăn Tết.”
Thu hút nhiều quan khách
Quả thật khách đi chợ Tết phải lấy làm thích thú khi thấy một số đông quan khách người Mỹ là viên chức địa phương, thích thú khi nhìn thấy rất nhiều giới trẻ Mỹ gốc Việt là những người có thể giải thích tường tận cho người Mỹ hiểu thế nào là ý nghĩa của Tết Việt Nam.
Hội chợ tưng bừng khai mạc với màn múa lân truyền thống, kế đến là những màn ca múa do Hội Kết Đoàn trình bày, rồi thì xổ số lấy quà, thi Trẻ Em Đẹp và thi Hoa Hậu Áo Dài.
Bạn Trẻ Phan Đình Hào Kiệt, hiện là chủ tịch Hội Kết Đoàn:
“Năm nào người trẻ cũng đông hết tại vì Tết Maryland có đặc điểm so với Tết bên Virginia hay ở DC thì Tết Maryland có chương trình ca nhạc và giải trí. Có hội NOVA Thường thường nếu mà chuẩn bị Tết là bắt đầu từ thang Chín năm vừa rồi. Năm nào cũng có đầu tiên là thi Trẻ Em Đẹp tại vì hội chợ Tết thì lúc nào cũng có gia đình mà gia đình đi thì lúc nào cũng có trẻ em thì cái này là một sinh hoạt mà trẻ em có thể tham gia được.
Contest thứ nhì là Miss Áo Dài, những sinh viên Việt Nam ở Mỹ lên thi về ý nghĩa áo dài Việt Nam, tượng trưng cho cái gì. Đó là phong tục tập quán của Việt Nam luôn luôn, bao nhiêu ngàn năm rồ lúc nào cũng có áo dài.
Hội chợ Tết nào cũng phải có kế hoạch, sắp đặt cái gì cũng khó khăn, nhưng mà thấy quan khách thích thú thì mình cũng thấy đúng vì cuối cùng là cho cộng đồng Việt Nam của mình.”
Điều đáng nói của hội chợ Tết Maryland năm nay là sự có mặt của nhiều gia đình không hoàn toàn Việt Nam, điển hình như một gia đình 4 người sau đây:Mike: “Tôi tên Mike ở Maryland, đây là gia đình tôi gồm vợ tôi là Michel, con gái tôi là Grace và con trai là Nathan. Vì mẹ tôi là à người Việt Nam, tôi mang giòng máu Việt Nam nên tôi nghĩ tôi phải dạy cho con tôi hiểu Việt Nam là gì, chỉ có vậy thôi.”
Michel: “Chúng tôi ăn Tết mỗi năm vì Tết nhắc cho các con tôi về văn hóa và nguồn gốc của chúng. Chợ Tết năm này thật đông quá đi nhưng cái quan trọng là nó mang lại cho Mike, cho chúng tôi và cho mấy đứa nhỏ cảm giác gần gũi với nguồn cội và văn hóa của mình.
Chúng tôi thích tận hưởng Tết mà cũng mong muốn hòa hợp nếp văn hóa và truyền thống của Mike cũng như của tôi khi cùng tham dự những sự kiện ý nghĩa như thế này.”
Grace: “Tôi tên Grace, với tôi Tết là dịp để nối kết mình lại một lần nữa vơi nguồn gốc Việt mà tôi nghĩ nó như một huyền thoại mà tôi cần phải học hỏi. Với lại tôi thấy Tết cũng vui lắm vì người ta thích cho nhau sự may mắn.”
Riêng với cậu bé Nathan thì Tết Việt Nam đối với em có một ý nghĩa đặc biệt:
Nathan: “Xin chào, tên em là Nathan, em nhớ năm ngoái khi còn đi Vườn Trẻ, cô giáo đã chọn em ra nói chuyện với các bạn là em từ đâu tới, cô giáo bảo em dạy cho các bạn chúc Tết Happy New Year bằng tiếng Việt như thế nào. Em cũng phát cho các bạn mỗi đứa một phong bao, trong đó là tiền lì xì, để cho ai cũng được may mắn.”
Anh Toàn, đi cùng vợ là Heather người Mỹ, mang con nhỏ đến dự chợ Tết Maryland, hãnh diện khoe là gia đình ăn Tết Việt Nam, Tết Kampuchia và cả Tết Mỹ vì:
Tiếp lời ông chồng người Việt lai Kampuchia của mình, Heather nói:
Heather: “Chúng tôi ăn Tết mỗi năm vì Tết là tục lệ tôi học được từ chồng tôi. Nhà của gia đình chồng tôi khá lớn nên chúng tôi có thể tiếp đón khách đến ăn Tết. Chúng tôi bày những trò vui trong mấy ngày Tết và tôi thực sự thích không khí Tết ở nhà.”
Chúng tôi ăn Tết mỗi năm vì Tết nhắc cho các con tôi về văn hóa và nguồn gốc của chúng. Chợ Tết năm này thật đông quá đi nhưng cái quan trọng là nó mang lại cho Mike, cho chúng tôi và cho mấy đứa nhỏ cảm giác gần gũi với nguồn cội và văn hóa của mình.Thế còn không khí của hội chợ Tết năm nay thì sao? Heather trả lời:
-Michel
Heather: “Ồ tôi thực sự rất thích. Tôi thích tất cả thức ăn bày bán ở đây, thích những màn ca múa, đặc biệt múa lân là cái mà tôi thích nhất, rồi tới cuộc thi Hoa Hậu Áo Dài nữa. Con trai chúng tôi mới 9 tháng tuổi, đây là Hội Tết đầu tiên của cháu. Cô thấy cháu đang mặc bộ cánh truyền thống Việt Nam mà tôi sắm cho cháu không. Hôm nay không chỉ có tôi với Toàn mà cả đại gia đình nội ngoại cùng tới đây ăn Tết.”
Có thể nói năm nay số khách người Mỹ đi dự chợ Tết nhiều hơn mọi năm, và hình như càng ngày những hội chợ Tết của người Việt ở Mỹ càng lúc càng đông vui hơn so với những cái Tết chân ướt chân ráo đến xứ người ba bốn chục năm về trước.
Cô Mỹ Ly, theo chồng mới cưới người Mỹ về Maryland năm ngoái, bày tỏ:
Mỹ Ly: “Đây là lần đầu tiên ông xã mình biết về Tết Việt Nam, mình muốn chỉ cho ông xã biết thế nào là Tết Việt Nam. Hôm nay mình cũng tới đây để trang điểm và làm tóc cho các cô thi Miss Áo Dài. Không khí rất vui nhộn, mình cảm giác là rất gần quê hương của mình, một không khí giống như là Tết ở Việt Nam vậy đó. Ông xã cũng rất nôn nóng khi mà mấy ngày trước mình nói mình sẽ tới đây dự chợ Tết.”
Và đây là ông chồng tên Scott của Mỹ Ly:Scott: “Theo tôi hiểu đây là Tết Âm Lịch, là dịp quan trọng ở Việt Nam. Với tôi buổi hôm nay giống như một phiên chợ, mọi thứ hãy còn quá mới đối với tôi nên cái gì cũng khiến tôi chú ý, thực sự tôi thấy cũng vui.
Đương nhiên tôi thích dù như tôi không biết nhiều lắm nhưng tôi tin chợ Tết phản ảnh văn hóa Việt Nam. Vả lại tôi cần học hỏi, ủng hộ và yêu mến nét văn hóa của vợ tôi. Mọi sự còn mới quá nhưng thời gian sẽ trả lời.”
Bao lì xì mang văn hóa của người Việt
Tại chợ Tết Maryland hôm Chúa Nhật ngày 9 vừa qua, người ta có thể thấy mình đi giữa một không gian bát ngát âm thanh nhạc xuân từ trên sân khấu xuống đến những gian hàng bánh chưng, bánh tết, dưa món, một rừng hoa thật chen vai thích cánh bên những cành hoa giả đủ màu sắc.
Thế nhưng có hai gian hàng mời gọi được sự chú ý của mọi người là một bàn của Việt Toons với tranh ảnh lịch sử và những bao lì xì hoàn toàn mang chất Việt Nam. Họa sĩ Hoàng Vi Kha, người anh cả của Việt Toons, một tổ chức văn hóa và nghệ thuật trong vùng, giải thích:
Hoàng Vi Kha: “Anh em chúng tôi có được sự gợi ý từ các vị thân hữu là nhân dịp Tết mình làm những phong bao lì xì mang văn hóa của người Việt để thứ nhất là mình vận động bà con không dùng bao lì xì của người Tàu. Do đó dùng bao lì xì màu vàng thay vì màu đỏ thường thấy của Tàu, thừ nhì là hình ảnh thể hiện những tranh vẽ thuần tuy như cảnh bà mẹ nấu bánh chưng, chủ đề Hoàng Sa Trường Sa, bên cạnh những mẫu lịch sử chẳng hạn như Vua Hùng, Mỵ Châu, và những anh hùng lịch sử mà Việt Toons đã thực hiện hơn 70 bức tranh trải từ đời Âu Lạc cho tới thời kháng chiến chống Pháp Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh. Mới lần đầu tiên làm mà rất được sự ủng hộ của bà con, phải nói là khắp mọi nơi chứ không riêng gì Hoa Kỳ mà từ Úc, Canada, Âu Châu và cả Việt Nam. Đây là cả một sự phấn khích.”
Tại bàn đọc sách tiếng Việt gần đó, nhà văn Cung Lan, một trưởng Hướng Đạo vùng thủ đô, một nhân viên của chương trình giáo dục Head Start và cũng là một người nặng lòng với tiếng mẹ đẻ, cho rằng tiếng Việt và trẻ em là hai yếu tố quan trọng đối với cộng đồng Việt Nam hải ngoại mà nhất là trong những dịp lễ Tết như những kỳ hội chợ này: Cung Lan: “Năm nay trong quầy sách của Cung Lan thì sách thiếu nhi bằng tiếng Việt rất nhiều. Cung Lan để cái bảng là “Nếu bé muốn một cuốn sách thiếu nhi thì hãy viết một câu tiếng Việt nơi đây”. Lan chuẩn bị giấy và viết cho các em thì nãy giờ các em viết rất là nhiều và mỗi em chọn một cuốn sách. Đó là cách động viên các em học tiếng Việt.
Bất kể các em học tiếng Việt ở trường nào và ở nơi đâu, nhưng khi các em viết được tiếng Việt chứng tỏ ba mẹ các em muốn các em biết tiếng Việt, nói tiếng Việt và yêu mến tiếng Việt. Như vậy chứng tỏ tiếng Việt vẫn sống tại đất Mỹ này.”
Trong không khí bổng dưng ấm áp hẳn lên của một ngày mùa đông vùng Đông Bắc Hoa Kỳ, hội Tết Maryland kéo dài cho tới chiều mà vẫn thu hút đông đảo khách từ mọi nơi.
Có rất nhiều bậc ông bà cha mẹ, tuy không mặc áo dài mà chỉ đóng bộ âu phục, nhưng lại cho con trai hoặc con gái xúng xính trong những chiếc áo dài lụa hoa hoặc gấm thật xinh xẻo và thật bắt mắt.
Đó là những nét lạ trong cái thân quen của những hợp chợ Tết Việt Nam ở Mỹ, ở đây là hội chợ tết vùng Maryland. Từ giờ cho đến ngày 19 tháng Hai, chạy ngày mùng Một Tết Ất Mùi, bà con ở Maryland lại có dịp đi trẩy hội Tết ở Virginia, do Hội Người Việt Cao Niên cũng như Cộng Đồng Việt Nam vùng DC thay nhau tổ chứốn mươi năm xa nhà, trong cái mới của Tết truyền thống còn gói ghém tâm tình và sự cố gắng thu vén cho mình một cái Tết tươm tất, an toàn và thắm đượm tình quê hương đối với nhau. Thanh Trúc chân thành gởi về bà con bên nhà một cái Tết đầy đủ, an toàn và cũng thắm đượm tình quê như vậy.
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/OverseasVietnamese/tet-festival-in-maryland-tt-02122015144141.html
Bất kể các em học tiếng Việt ở trường nào và ở nơi đâu, nhưng khi các em viết được tiếng Việt chứng tỏ ba mẹ các em muốn các em biết tiếng Việt, nói tiếng Việt và yêu mến tiếng Việt. Như vậy chứng tỏ tiếng Việt vẫn sống tại đất Mỹ này.”
Trong không khí bổng dưng ấm áp hẳn lên của một ngày mùa đông vùng Đông Bắc Hoa Kỳ, hội Tết Maryland kéo dài cho tới chiều mà vẫn thu hút đông đảo khách từ mọi nơi.
Có rất nhiều bậc ông bà cha mẹ, tuy không mặc áo dài mà chỉ đóng bộ âu phục, nhưng lại cho con trai hoặc con gái xúng xính trong những chiếc áo dài lụa hoa hoặc gấm thật xinh xẻo và thật bắt mắt.
Đó là những nét lạ trong cái thân quen của những hợp chợ Tết Việt Nam ở Mỹ, ở đây là hội chợ tết vùng Maryland. Từ giờ cho đến ngày 19 tháng Hai, chạy ngày mùng Một Tết Ất Mùi, bà con ở Maryland lại có dịp đi trẩy hội Tết ở Virginia, do Hội Người Việt Cao Niên cũng như Cộng Đồng Việt Nam vùng DC thay nhau tổ chứốn mươi năm xa nhà, trong cái mới của Tết truyền thống còn gói ghém tâm tình và sự cố gắng thu vén cho mình một cái Tết tươm tất, an toàn và thắm đượm tình quê hương đối với nhau. Thanh Trúc chân thành gởi về bà con bên nhà một cái Tết đầy đủ, an toàn và cũng thắm đượm tình quê như vậy.
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/OverseasVietnamese/tet-festival-in-maryland-tt-02122015144141.html
PHAN HẠNH * CON DÊ BIẾT NÓI
Con dê biết nói
Phan Hạnh
Một câu chuyện dân gian
Trong một cuộc họp làng ở vùng quê xứ Liberia Phi Châu khoảng năm 1984, vị trưởng làng có kể câu chuyện “Con Dê Biết Nói.” Ông cố gắng giải thích cho dân làng rằng, mặc dù họ đã phải chờ đợi trong một thời gian dài cho việc xây dựng một bệnh xá khám sức khỏe công cộng, họ sẽ sớm được tưởng thưởng và họ phải kiên nhẫn. Nhận thấy câu chuyện này mang ý nghĩa luân lý khá hay, John Acree -một thành viên của Đoàn Chí Nguyện Hòa Bình làm việc ở đấy- đã ghi chép lại để phổ biến và thường được kể cho học sinh các trường tiểu học Hoa Kỳ.
Liberia, một quốc gia chỉ lớn hơn tiểu bang Hoa Kỳ Tennessee đôi chút, nằm dọc theo Đại Tây Dương ở khu vực nhiệt đới Tây Phi giữa Sierra Leone và Cote d’Ivoire. Liberia là nơi cư trú của một số bộ lạc bản địa. Theo bảng thống kê của Ngân Hàng Thế Giới năm 1999, hơn một nửa dân số Liberia trên 15 tuổi không biết đọc biết viết, và gần 55% dân số Liberia sống ở những làng hẻo lánh, xa các tiện nghi hiện đại và dịch vụ công cộng. Trong thập niên 1990s, Liberia trải qua một cuộc nội chiến đầy cay đắng. Ngày nay, một chính phủ mới đang ra sức thiết lập lại trật tự cho quốc gia này.Câu chuyện dân gian khởi đi một cách đơn giản, được truyền tụng, kể lại bằng miệng, từ người này đến người khác, đời này qua đời khác. Dân bộ lạc bản xứ ở khắp mọi nơi trong nước thường bảo tồn văn hóa bằng cách truyền khẩu như vậy. Những câu chuyện dân gian bắt đầu như một nỗ lực nhằm giải thích để hiểu về thế giới tự nhiên và thế giới thần linh. Bạn hãy mường tượng, vào những đêm trời đầy trăng sao, nhóm dân làng ngồi quanh đống lửa ấm áp dệt những câu chuyện không những chỉ để giải trí mà còn giúp làm cho họ hiểu thêm về thế giới của họ đang sống. Những câu chuyện này đã được truyền lại qua nhiều thế hệ với những chi tiết thay đổi hoặc thêm thắt bởi mỗi người kể. Chuyện dân gian dần dần bắt đầu xuất hiện ở dạng văn bản và tồn tại trong mọi nền văn hóa ngày nay.
Kể chuyện là một dạng thức văn hóa phổ thông toàn cầu, từ những xã hội truyền thống cho đến xã hội hiện đại. Câu chuyện dân gian thường phản ảnh giá trị và phong tục của nền văn hóa mà từ đó nó phát sinh. Bởi vì câu chuyện dân gian nói chung có liên quan với các chủ đề phổ quát của cuộc sống, thường vượt qua nguồn gốc văn hóa và cho thấy sự tương đồng của kinh nghiệm con người. Mặc dù câu chuyện bắt nguồn từ nhiều nguồn văn hóa khác nhau, cấu trúc của câu chuyện dân gian thường tương tự, chất chứa những con người đặc sắc, những con vật biết nói, những sự kiện hài hước, hồi hộp, sôi động, và luôn luôn với một kết luận nhất định. Kết luận thường dạy một bài học luân lý hay khuyên bảo. Đôi khi câu chuyện dân gian kết thúc đơn giản chỉ với một câu rất quen thuộc: “Và từ đó về sau, họ sống hạnh phúc bên nhau mãi mãi.”
Vào chuyện
Ngày xưa ở nước Liberia Phi châu nọ có một phú hộ tên là Tugba. Khi ông xuất hiện trước công chúng, người ta luôn luôn thấy ông mặc những chiếc áo choàng đẹp và hợp thời trang. Mỗi ngày ông đều thảnh thơi đi dạo qua thị trấn nhỏ này, lúc nào cũng tay trong tay với bà vợ tao nhã. Dân làng nín thở trầm trồ chiêm ngưỡng vì trước đó trong đời họ chưa bao giờ nhìn thấy một cặp vợ chồng đẹp sang như thế.
Bên cạnh sự ngưỡng mộ vóc dáng khôi ngô xinh đẹp của vợ chồng Tugba, những nông dân cư ngụ quanh vùng còn muốn lặn lội băng nhiều dặm đường để một lần đến xem trang trại của Tugba cho thỏa mãn sự tò mò, chỉ vì mọi thứ ở đây đều tốt: bắp ngô vàng ngọt hơn, cà chua căng mọng hơn, khoai sắn phong phú đầy đặn hơn bất kỳ nơi nào khác. Gia súc của Tugba cũng vậy, con nào con nấy đều mạnh mẽ béo tốt. Ông có hai con bò, năm con gà mái, hai con gà trống, ba con lừa, và bốn con dê.
Tugba có được tài sản trù phú này không phải chỉ vì ông ta may mắn. Thật ra, ông là một người có bản tính rất tốt và cần cù chăm chỉ. Ông luôn luôn nhớ cảm ơn những hạt giống để trồng và cảm ơn trời đã cho mưa thuận gió hòa. Và Tugba còn cẩn thận để bảo đảm cho gia súc của ông nuôi được ăn uống đầy đủ và được chăm sóc tử tế. Một điều lạ là ông chú ý đặc biệt tới một con dê cái, luôn luôn mang thêm cho nó một bó cỏ tươi hay một mớ trái cây cho nó nhai. Ông thương nó như thú cưng yêu thích nhất vì ông đã nhặt được nó khi nó còn bé con bị lạc mẹ và bị thương trong rừng.
Một năm nọ, trời mưa ít hơn nhiều khiến cho cả vùng hoa mầu không đủ nước bị còi cọc khô quắt; gia súc gầy còm vì khát nước, chỉ trừ có đất đai nông trại của Tugba vẫn màu mỡ và không bị thiệt hại gì cả. Giờ đây vợ chồng Tugba không còn phải đi qua làng mỗi ngày vì dân chúng bây giờ cùng nhau kéo đến xin thứ để ăn. Mặc dù Tugba luôn luôn tốt bụng nhín ra lương thực còn dư như ngô sắn để cho những người thiếu thốn, nhưng vợ ông không hào phóng rộng lượng như vậy. Không thể thuyết phục chồng làm theo ý mình, và trong một lúc giận dữ, bà rời bỏ Tugba, mang theo tất cả vàng vòng châu báu để đi tìm nơi có khí hậu và đời sống thoải mái hơn.
Ở lại một mình, Tugba tiếp tục giúp đỡ dân làng nghèo đói, chia sớt cho họ hầu như tất cả những gì ông có, kể cả bầy gia súc cũng lần lượt được xẻ thịt để làm lương thực cứu đói, chỉ trừ có con dê ông yêu quí nhất. Đến một ngày lương thực hầu như cạn kiệt, ông quyết định khoác áo lên vai và dắt con dê thú cưng rời trang trại trống không xơ xác để lên đường làm một chuyến vào rừng. Sau nhiều dặm đường trắc trở mệt nhọc, Tugba và con dê tìm thấy một cái hang nên dừng chân chọn nơi đó làm chỗ cư trú tạm. Ban ngày, ông đi tìm hái dâu dại, thu nhặt hạt trái rừng hay rau cỏ hoặc bất cứ thứ gì có thể ăn được cho đỡ đói. Ban đêm, có khi ông ngồi bên bờ suối ngước mắt chiêm ngưỡng bầu trời đầy trăng sao.
Bảy năm đã trôi qua. Đôi khi, Tugba nhớ lại cuộc sống ấm no đầy đủ và hạnh phúc nơi trang trại tiện nghi trong quá khứ, những ngày ông còn mặc thay đổi những chiếc áo trang nhã cùng người vợ đẹp sang dạo qua làng. Chẳng bù với hiện tại, ông chỉ có mỗi một cái áo da cừu sờn rách che thân. Ngày xưa mỗi đêm ông nằm ngủ trên giường rộng bên người vợ đẹp; bây giờ, bạn đồng hành duy nhất của ông chỉ là một con dê. Ông từng thu hoạch các loại nông phẩm ngon nhất từ mảnh đất vườn màu mỡ; bây giờ, ông chỉ sống sót cầm hơi bằng rau trái dại. Nhưng Tugba vẫn là một con người tốt bụng và chịu khó làm việc, một người chủ luôn luôn chăm sóc lo lắng cho con dê yêu thích của ông có lá non ngon tốt để ăn.Thế rồi vào một ngày nọ, trong lúc Tugba lúi húi lo nhặt hái hạt quả trong rừng, rõ ràng ông nghe con dê nói tiếng người:
– “Ông Tugba ạ. Cảm ơn ông đã cứu tôi. Ông là một người rất tốt.”
Tugba đứng bất động vì quá kinh ngạc bất ngờ. Suốt thời gian dài khi còn ở trang trại hay bảy năm nay ở trong rừng, con dê đâu có tỏ ra dấu hiệu đặc biệt khác thường nào đâu. Tugba sửng sốt hỏi lại:
– “Mầy nói đó hả dê?”
Dê đáp:
– “Đúng vậy. Tôi nói ông là một người tốt. Và tôi cảm ơn ông đã cứu tôi.”
Tugba nói với vẻ chịu thua vì không thể hiểu:
– “Một con dê nói tiếng người? Không thể tin nổi.”
Con dê trả lời một cách bình tĩnh:
– “Một lần nữa, cảm ơn ông.”
Nói xong, con dê quay trở lại với bữa ăn là đống lá non mà Tugba đã hái cho nó.
Tugba vô cùng mừng rỡ kêu lên:
– “Một con dê biết nói! Vận may của mình đã tới! Đời mình sẽ thay đổi!”
Tugba ngửa mặt vung tay reo vui sung sướng. Ông ngồi xuống bên cạnh một gốc cây, phác thảo ra một kế hoạch và ngẫm nghĩ: “Nếu mình đưa con dê này về thị trấn, chẳng bao lâu mình sẽ giàu có trở lại như trước. Chắc chắn thiên hạ hiếu kỳ sẽ chịu trả tiền để được nghe con dê của mình nói chuyện. Rồi mình lại sẽ có đủ tiền để mua một ngôi nhà mới và một trang trại mới.”
Sáng hôm sau, Tugba cột dê biết nói vào một thân cây và chạy bay về ngôi làng mà ông đã bỏ đi bảy năm trước.
Khi Tugba đến quảng trường làng, ông mới biết rằng rằng tất cả dân làng mà ông từng quen biết đều đã chết trong trận hạn hán. Một nhóm người từ bộ lạc khác đã kéo đến định cư, và chẳng ai biết hoặc nghe nói đến câu chuyện về người đàn ông giàu có Tugba. Mặc dù thất vọng vì chẳng còn ai nhớ đến mình, Tugba vẫn giữ thái độ điềm tĩnh và yêu cầu được nói chuyện với tù trưởng và các bô lão.
Trong vòng một giờ sau, vị trưởng làng và những người lớn tuổi mặc lễ phục chỉnh tề đến quảng trường làng để chào đón người lạ. Nhìn bộ dạng xác xơ trong chiếc áo da cừu sờn rách tả tơi của Tugba, các trưởng lão mời Tugba uống nước. Sau khi đã hết khát, Tugba hân hoan tuyên bố:
– “Tôi có một con dê biết nói!”
Trưởng làng và các bô lão chú ý lắng nghe Tugba kể đầu đuôi về vụ ông bỏ làng đi sống bảy năm trong rừng và con dê bỗng dưng biết nói. Nghe Tugba nói xong, vị trưởng làng và các bô lão thảo luận riêng một vài phút. Sau đó, ông nói với Tugba:
– “Nếu câu chuyện của ông là thật thì đây quả là một tài sản tuyệt vời. Nhưng nếu không đúng thì ông đã làm lãng phí thì giờ của chúng tôi và xem như ông đã gạt gẫm chúng tôi để nghe ông.”
Các bô lão đều gật đầu đồng ý. Vị trưởng làng nói tiếp:
– “Nếu dê của ông biết nói, chúng tôi sẽ cung cấp cho ông phân nửa tất cả của cải trong làng. Nếu câu chuyện của ông là sai, chúng tôi sẽ áp dụng luật làng là bắt giữ ông, trói ông, đánh đập ông, và treo cổ ông. Ông có chịu điều kiện như vậy không?”
Tugba đổ mồ hôi vì nóng mệt thì ít mà vì căng thẳng thì nhiều. Đây là chuyện nguy hại cả tính mạng chớ chẳng chơi. Nghĩ rằng cả đời mình đã luôn luôn làm điều tốt với mọi người và đặc biệt đối xử tử tế với con dê, Tugba dõng dạc đáp “Tôi đồng ý.”
Nhìn thẳng vào mắt Tugba, trưởng làng ra lệnh:
– “Vậy ông hãy mau dắt con dê của ông đến đây!”
Tugba nhanh bước quay trở lại rừng, cố gắng đi nhanh hết sức mình, trở lại sân làng, tay dắt theo con dê. Dân làng đã được báo tin lạ nên tất cả đã kéo nhau ra đứng chờ xem đông nghẹt.
Giây phút căng thẳng hồi hộp sắp xảy ra. Tugba vuốt đầu con dê bảo nó:
– “Nói đi dê. Nói với họ đi.”
Nhưng con dê ngó dáo dác im lặng. Vị trưởng làng và các bô lão cau mày tỏ vẻ ngờ vực.
Tugba tiếp tục năn nỉ con dê:
– “Nói đi dê, xin mày làm ơn làm phước cho tao.”
Con dê như chẳng nghe thấy lời của chủ vì nó còn mải mê cắn chiếc áo choàng của vị trưởng làng khiến cho ông ta nổi giận giật áo lại và gầm lên với Tugba:
– “Này ông kia! Ông định đem con dê của ông tới đây để giỡn mặt với chúng tôi phải không? Ông coi chúng tôi là một đám khờ khạo phải không? Ông đáng tội đánh cho chết!”
Quay sang đám người thân cận, trưởng làng ra lệnh:
– “Trói hắn lại! Đánh hắn đi!”
Tugba lấy làm kinh hãi đưa mắt nhìn con dê hoang mang không hiểu trong lúc cảm thấy hai tay hai chân mình đang bị những vòng dây siết chặt. Tiếp liền theo đó, Tugba nhận mấy lằn roi quất vào da thịt mình đau điếng. Đám người lôi Tugby lên một ngọn đồi, nơi có một cây to lớn. Dọc đường đi, có người phun nước bọt vào mặt Tugba hoặc chọi đá. Tugba ngoái nhìn con dê bằng ánh mắt thiết tha. Con dê ngơ ngác.
Trong lúc đám thuộc hạ của tù trưởng chuẩn bị tròng vòng dây vào cổ Tugba để treo lên cây, con dê từ phía sau chạy nhanh lên, dừng lại dưới gốc cây, nói bằng một giọng người thật rõ ràng, thật to, át tất cả những tiếng ồn ào:
– “Dừng tay lại! Đừng giết chủ tôi! Hãy để chủ tôi đi!”
Đám dân làng đang ồn ào chợt tất cả đều im lặng há hốc, kinh ngạc. Con dê biết nói! Đó là sự thật! Con dê nói tiếng người! Thế rồi mọi người reo lên mừng rỡ, kể cả vị tù trưởng. Tức khắc ông tự tay đến mở trói cho Tugba, ôm Tugba và ngỏ lời xin lỗi. Sau đó ra lệnh cho đám trai tráng kiệu Tugba lên vai và mọi người cùng nhau đi trở lại quảng trường làng. Nơi đó, tù trưởng bảo thân nhân trải một tấm thảm cho Tugba nằm nghỉ, sai các phụ nữ chăm sóc các vết thương cho Tugba.
Tù trưởng giữ lời hứa, ra lệnh đêm phân nửa tài sản của làng dâng cho Tugba. Tugba nằm trên tấm thảm, mệt mỏi, mơ màng rồi thiếp đi. Khi tỉnh dậy mở mắt ra thấy con dê đứng chực chờ một bên, Tugba ngắm nghía nó và hỏi:
– “Sao mầy hành động lạ lùng vậy?”
Con dê nhìn chủ im lặng. Tugba đứng lên chỉ các vết thương trên người và tiếp:
– “Sao mầy chờ cho tao bị đánh đập suýt chết như vầy rồi mầy mới chịu nói hả dê?”
Con dê trả lời một cách rành mạch:
– “Ông không nghe người ta thường nói sao? Ai có trải qua gian khổ rồi mới biết trân quý lúc sung sướng.”
Tù trưởng giữ lời hứa, ra lệnh đêm phân nửa tài sản của làng dâng cho Tugba. Tugba nằm trên tấm thảm, mệt mỏi, mơ màng rồi thiếp đi. Khi tỉnh dậy mở mắt ra thấy con dê đứng chực chờ một bên, Tugba ngắm nghía nó và hỏi:
– “Sao mầy hành động lạ lùng vậy?”
Con dê nhìn chủ im lặng. Tugba đứng lên chỉ các vết thương trên người và tiếp:
– “Sao mầy chờ cho tao bị đánh đập suýt chết như vầy rồi mầy mới chịu nói hả dê?”
Con dê trả lời một cách rành mạch:
– “Ông không nghe người ta thường nói sao? Ai có trải qua gian khổ rồi mới biết trân quý lúc sung sướng.”
Phan Hạnh (phỏng dịch theo The Talking Goat của John Acree)