TRANG YẾN VY * TƯỞNG NIỆM
Trang Yến Vy
Câu chuyện xảy ra hồi tháng 5 năm 1981, vào thời gian mà các cơ cấu hành chánh cũng như dân sự của bạo quyền Cộng sản đang rộn ràng chuẩn bị kỷ niệm chongày lễ Lao Động, chuyện canh phòng nghiêm ngặt những chuyến chuyển người vượt biên có hơi lỏng lẻo thì cũng là lúc gia đình của chúng tôi đã phải vội vã và âm thầm chia tay nhau trong nước mắt. Bước chân tôi như có một sức mạnh vô tình trì kéo lại, khiến cho tôi không thể nào dễ dàng bước đi mà ngăn được những giọt nước mắt bùi ngùi, trong khi mẹ tôi cứ ghé sát bên tai tôi căn dặn đủ điều.
Một lần ra đi là một lần cách biệt. Không biết rằng chuyến đi này có còn cơ hội để chúng tôi gặp lại được nhau hay là một lần chia tay là một lần cách biệt nghìn trùng. Tôi đứng tần ngần với hai hàng nước mắt trào ra làm nhoè nhoẹt tất cả các cảnh vật chung quanh lúc đó, hai tay tôi cứ níu chặt lấy cánh tay mẹ giống y như ngày đầu tiên năm nào, mẹ dẫn tôi đến trường học. Hình như mẹ tôi cũng đang khóc. Đôi mắt mẹ như tối lại với ngấn lệ lưng tròng. Mẹ tôi căn dặn tôi đủ điều trong lúc hai cánh tay của mẹ vòng ra như muốn ôm trọn lấy người tôi mãi mãi không muốn rời, càng làm cho tôi cảm thấy thương mẹ, cần mẹ hôn bất cứ lúc nào. Cho nên giây phút chia ly đầy nước mắt này, tôi mới thấy thấm thía câu tục ngữ ca dao mà tôi đã học ngày nào :
" Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra..."
Nếu không vì những biến đổi độc tài khắt khe của nhà cầm quyền Cộng Sản nhằm đưa đẩy Miền Nam và cả nước vào con đường thụt lùi thoái hóa, đói khổ khốn cùng với một tương lai ngu dân cực kỳ đen tối, có lẽ bản thân tôi hoặc rất nhiều những gia đình khác đã không phải chua xót trải qua
- Không được ! Con phải ra đi vì đó là con đường
" Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra..."
Nếu không vì những biến đổi độc tài khắt khe của nhà cầm quyền Cộng Sản nhằm đưa đẩy Miền Nam và cả nước vào con đường thụt lùi thoái hóa, đói khổ khốn cùng với một tương lai ngu dân cực kỳ đen tối, có lẽ bản thân tôi hoặc rất nhiều những gia đình khác đã không phải chua xót trải qua
những giờ phút chia ly đầy nước mắt như thế này và chắc chắn sẽ không bao giờ phải liều mình nhắm mắt, lao thân vào một chuyến vượt biển rẫy đầy những gian lao thử thách, một sống chín chết như chuyến đi định mệnh mà tôi đã trải qua, chắc chắn sẽ chẳng có một đấng cha mẹ đành lòng nuốt trôi niềm đau đớn, đành đoạn để cho những đứa con thân yêu nhất của mình phải ra đi mà không biết đến ngày trở về.
Trước ngày ra đi, biết bao đêm tôi đã âm thầm khóc hết nước mắt, biết bao ngày tôi ủ rũ chẳng còn thiết tha đến mọi việc chung quanh chỉ vì trong lòng tôi không hề muốn xa rời cha mẹ thân yêu của mình, không hề muốn mất đi những tháng ngày êm đềm thần tiên trong ngôi nhà ấm áp có cha mẹ, có chúng bạn thường tung tăng vui vẻ chơi đùa, chỉ vì nỗi lo sợ
cùng cực khi tôi nghĩ đến những ngày đêm lênh đênh một mình trên con thuyền vượt biên bé nhỏ mà không một ai có thể đoán chắc được số phận may rủi sẽ như thế nào. Quả là một chuyến đi đầy thử thách, rủi ro... Có nhiều đêm tôi trằn trọc không tài nào ngủ được. Tôi trăn trở với những ý tưởng đầy nguy hiểm đe dọa và những xúc cảm khi nghĩ đến không có mẹ không có cha bên cạnh một chuyến đi hãi hùng, đến nỗi, có lần tôi gục mặt vào lòng mẹ mà thổn thức :
- Mẹ ơi ! Con có thể không đi có được không mẹ?
Giọng nói của tôi đầy nức nở nghẹn ngào càng làm cho nỗi lòng mẹ tôi thêm tan nát. Mẹ òa lên khóc lớn hơn khiến cho bà cô của tôi hốt hoảng, cô tôi lên tiếng can thiệp : Trước ngày ra đi, biết bao đêm tôi đã âm thầm khóc hết nước mắt, biết bao ngày tôi ủ rũ chẳng còn thiết tha đến mọi việc chung quanh chỉ vì trong lòng tôi không hề muốn xa rời cha mẹ thân yêu của mình, không hề muốn mất đi những tháng ngày êm đềm thần tiên trong ngôi nhà ấm áp có cha mẹ, có chúng bạn thường tung tăng vui vẻ chơi đùa, chỉ vì nỗi lo sợ
cùng cực khi tôi nghĩ đến những ngày đêm lênh đênh một mình trên con thuyền vượt biên bé nhỏ mà không một ai có thể đoán chắc được số phận may rủi sẽ như thế nào. Quả là một chuyến đi đầy thử thách, rủi ro... Có nhiều đêm tôi trằn trọc không tài nào ngủ được. Tôi trăn trở với những ý tưởng đầy nguy hiểm đe dọa và những xúc cảm khi nghĩ đến không có mẹ không có cha bên cạnh một chuyến đi hãi hùng, đến nỗi, có lần tôi gục mặt vào lòng mẹ mà thổn thức :
- Mẹ ơi ! Con có thể không đi có được không mẹ?
- Không được ! Con phải ra đi vì đó là con đường
tương lai của con đó !
Rồi cô tôi quay sang phía mẹ tôi, cô mắng khẽ :
- Chị phải bình tĩnh để cho cháu yên lòng ra đi...
Rồi tất cả mọi việc như đã an bài. Tôi không còn lòng dạ nào để yên ổn ngồi suy nghĩ vớ vẩn nữa. Chuyện gì phải đến sẽ đến. Dòng đời cứ thản nhiên đưa tôi đi tới những gì mà tôi sắp sửa phải đối diện. Ngày lên đường, tôi nghẹn ngào từ biệt cha mẹ gia đình để âm thầm bước chân cùng đi theo với những người khác.
Vào một đêm không trăng sao. Trời tối đen như mực. Tôi bước từng bước đi theo chân người đàn ông hướng dẫn, hồi hộp tận cùng bên cạnh những người thân yêu để vượt qua một cánh đồng trống. Vì lo sợ bị bại lộ, người đàn ông hướng dẫn chúng tôi dặn không ai được mang dép để nếu rủi ro có chuyện xảy ra thì mọi người có thể chạy thật nhanh. Nhóm người cùng đi với chúng tôi cùng lặng lẽ rảo bước theo nhau trong đêm tối, vụt qua những hào hố gập ghềnh, những cành cây khô đầy gai góc.
Hai bàn chân tôi dẫm lên không biết bao nhiêu lần những chông gai đau đớn, những mảnh sành cắt đứt từng vết dưới lòng bàn chân rướm máu để cuối cùng thì nhóm người của chúng tôi cũng tới được điểm hẹn. Những đau đớn và phập phồng lúc bấy giờ tuy có ghê gớm thật nhưng cũng chưa thấm thía gì so với những lo sợ vô vàn khi trước mặt tôi là một đại dương mênh mông đang ầm ì tiếng sóng mà tôi biết Chắc chắn rằng, rồi đây, không bao lâu nữa, số phận của chúng tôi sẽ phải giao phó cho một định mệnh không biết may rủi sẽ như thế nào sẽ như thế nào, chúng tôi sẽ may mắn tìm đến được bến bờTự Do hay sẽ vùi chôn xác trong lòng đại dương giá lạnh này. Tất cả cũng vì hai chữ TỰ DO.
Rồi cô tôi quay sang phía mẹ tôi, cô mắng khẽ :
- Chị phải bình tĩnh để cho cháu yên lòng ra đi...
Rồi tất cả mọi việc như đã an bài. Tôi không còn lòng dạ nào để yên ổn ngồi suy nghĩ vớ vẩn nữa. Chuyện gì phải đến sẽ đến. Dòng đời cứ thản nhiên đưa tôi đi tới những gì mà tôi sắp sửa phải đối diện. Ngày lên đường, tôi nghẹn ngào từ biệt cha mẹ gia đình để âm thầm bước chân cùng đi theo với những người khác.
Vào một đêm không trăng sao. Trời tối đen như mực. Tôi bước từng bước đi theo chân người đàn ông hướng dẫn, hồi hộp tận cùng bên cạnh những người thân yêu để vượt qua một cánh đồng trống. Vì lo sợ bị bại lộ, người đàn ông hướng dẫn chúng tôi dặn không ai được mang dép để nếu rủi ro có chuyện xảy ra thì mọi người có thể chạy thật nhanh. Nhóm người cùng đi với chúng tôi cùng lặng lẽ rảo bước theo nhau trong đêm tối, vụt qua những hào hố gập ghềnh, những cành cây khô đầy gai góc.
Hai bàn chân tôi dẫm lên không biết bao nhiêu lần những chông gai đau đớn, những mảnh sành cắt đứt từng vết dưới lòng bàn chân rướm máu để cuối cùng thì nhóm người của chúng tôi cũng tới được điểm hẹn. Những đau đớn và phập phồng lúc bấy giờ tuy có ghê gớm thật nhưng cũng chưa thấm thía gì so với những lo sợ vô vàn khi trước mặt tôi là một đại dương mênh mông đang ầm ì tiếng sóng mà tôi biết Chắc chắn rằng, rồi đây, không bao lâu nữa, số phận của chúng tôi sẽ phải giao phó cho một định mệnh không biết may rủi sẽ như thế nào sẽ như thế nào, chúng tôi sẽ may mắn tìm đến được bến bờTự Do hay sẽ vùi chôn xác trong lòng đại dương giá lạnh này. Tất cả cũng vì hai chữ TỰ DO.
Chiếc ghe vượt biển với một kích cỡ dự liệu chỉ vừa đủ cho khoảng 60 người. Nhưng cuối cùng, lại phải trở thêm tới hai mươi người "căn me"(tức là những người vượt biên không trả tiền ) nữa. Con số thặng dư này tạo rất nhiều xáo trộn trong lúc chuyển người lên ghe, khiến cho chủ tầu rất hoang mang và lo sợ.
Trong khi đó, lại vừa có một chiếc tầu tuần tiễu duyên phòng đi kiểm soát, càng khiến cho không những chủ tầu mà tất cả chúng tôi đều rất lo sợ công việc sẽ bị bại lộ, số phận tù đày cực khổ đã hiện ra trong đầu. Chiếc tầu tuần duyên chạy xình xịch chậm chạp và chiếu đèn rọi vào về phía chúng tôi. Tất cả mọi người đều lo sợ phập phồng và sẵn sàng để bị bắt. Nhưng dường như có một phép lạ vô cùng nhiệm mầu, khiến cho chiếc tầu tuần duyên đã không nhìn thấy chúng tôi. " Nó" đã chạy qua chỗ chiếc ghe vượt biên của chúng tôi, để lại những vệt sóng trắng xóa nhấp nhô trên con kinh nước chảy bâp bềnh.
Chiếc ghe của chúng tôi nhẹ nhàng chuyển mình rời bến đậu, từ từ vượt sóng tiến vào biển khơi. Qua được một đêm một ngày, chiếc ghe đã ra tới hải phận. Tôi ngoảnh mặt nhìn lại phía sau, chỉ thấy một chân trời mênh mông xa tắp, không hề nhìn thấy bến bờ xóm làng.
những ánh chớp cắt ngang lưng trời, tiếp theo là tiếng sấm, tiếng sét kinh hồn tỏa ra trên lòng biển đêm đen tăm tối. Cơn bão nhiệt đới kéo tới dập vùi con thuyền bé nhỏ của chúng tôi trong đêm đen đầy đe dọa. Từng đợt sóng lớn đánh mạnh xuống, làm cho thân ghe vặn vẹo tròng trành như muốn lật úp trên mặt đại dương đang đùng đùng dậy sóng. Mọi người trên ghe thất kinh thì thầm van vái Phật Trời...
Bỗng cả tầu kinh hoảng hơn nữa khi chúng tôi phát giác ra chiếc ghe bị ngập nước sắp chìm. Tất cả những người đàn ông trên ghe thay phiên nhau tát nước. Nhưng tình trạng không có dấu hiệu khá hơn. Cuối cùng, chúng tôi phải chọn giải pháp chỉ để lại trên ghe một can xăng với một can nước uống. Kỳ dư tất cả những vật dụng cá nhân đem theo đều được bỏ xuống mặt biển cho chiếc ghe nhẹ
hơn, mới mong vượt qua được cơn bão thập tử nhất sinh này và mạng người mới hy vọng được bảo đảm.
Sau khi mọi thứ đã được bỏ lại trong lòng đại dương, chiếc ghe mới lướt qua được từng đợt sóng cho đến sáng ngày hôm sau, chúng tôi mới thực sự thoát khỏi nanh vuốt đầy thịnh nộ của thủy thần. Đến lúc này, biển lặng sóng êm trở lại, những người trên ghe chúng tôi mới cảm thấy vừa đói, vừa khát vừa giá lạnh vô cùng. Cái lạnh đã thấm nhập vào tận mỗi tế bào của da thịt nhưng chúng tôi có còn gì đâu để mà giúp cho thân thể được ấm áp ngoài những lời cầu kinh và những điều tha thiết khấn vái. Phản ứng của tất cả mọi người chúng tôi là đi lục lọi tìm lại chút lương khô nào đó may ra còn sót lại. Nhưng hỡi ơi ! Tất cả gói to gói nhỏ mà chúng tôi
Trong khi đó, lại vừa có một chiếc tầu tuần tiễu duyên phòng đi kiểm soát, càng khiến cho không những chủ tầu mà tất cả chúng tôi đều rất lo sợ công việc sẽ bị bại lộ, số phận tù đày cực khổ đã hiện ra trong đầu. Chiếc tầu tuần duyên chạy xình xịch chậm chạp và chiếu đèn rọi vào về phía chúng tôi. Tất cả mọi người đều lo sợ phập phồng và sẵn sàng để bị bắt. Nhưng dường như có một phép lạ vô cùng nhiệm mầu, khiến cho chiếc tầu tuần duyên đã không nhìn thấy chúng tôi. " Nó" đã chạy qua chỗ chiếc ghe vượt biên của chúng tôi, để lại những vệt sóng trắng xóa nhấp nhô trên con kinh nước chảy bâp bềnh.
Chiếc ghe của chúng tôi nhẹ nhàng chuyển mình rời bến đậu, từ từ vượt sóng tiến vào biển khơi. Qua được một đêm một ngày, chiếc ghe đã ra tới hải phận. Tôi ngoảnh mặt nhìn lại phía sau, chỉ thấy một chân trời mênh mông xa tắp, không hề nhìn thấy bến bờ xóm làng.
những ánh chớp cắt ngang lưng trời, tiếp theo là tiếng sấm, tiếng sét kinh hồn tỏa ra trên lòng biển đêm đen tăm tối. Cơn bão nhiệt đới kéo tới dập vùi con thuyền bé nhỏ của chúng tôi trong đêm đen đầy đe dọa. Từng đợt sóng lớn đánh mạnh xuống, làm cho thân ghe vặn vẹo tròng trành như muốn lật úp trên mặt đại dương đang đùng đùng dậy sóng. Mọi người trên ghe thất kinh thì thầm van vái Phật Trời...
Bỗng cả tầu kinh hoảng hơn nữa khi chúng tôi phát giác ra chiếc ghe bị ngập nước sắp chìm. Tất cả những người đàn ông trên ghe thay phiên nhau tát nước. Nhưng tình trạng không có dấu hiệu khá hơn. Cuối cùng, chúng tôi phải chọn giải pháp chỉ để lại trên ghe một can xăng với một can nước uống. Kỳ dư tất cả những vật dụng cá nhân đem theo đều được bỏ xuống mặt biển cho chiếc ghe nhẹ
hơn, mới mong vượt qua được cơn bão thập tử nhất sinh này và mạng người mới hy vọng được bảo đảm.
Sau khi mọi thứ đã được bỏ lại trong lòng đại dương, chiếc ghe mới lướt qua được từng đợt sóng cho đến sáng ngày hôm sau, chúng tôi mới thực sự thoát khỏi nanh vuốt đầy thịnh nộ của thủy thần. Đến lúc này, biển lặng sóng êm trở lại, những người trên ghe chúng tôi mới cảm thấy vừa đói, vừa khát vừa giá lạnh vô cùng. Cái lạnh đã thấm nhập vào tận mỗi tế bào của da thịt nhưng chúng tôi có còn gì đâu để mà giúp cho thân thể được ấm áp ngoài những lời cầu kinh và những điều tha thiết khấn vái. Phản ứng của tất cả mọi người chúng tôi là đi lục lọi tìm lại chút lương khô nào đó may ra còn sót lại. Nhưng hỡi ơi ! Tất cả gói to gói nhỏ mà chúng tôi
mang theo bên mình đều đã quăng xuống biển trong đêm hết cả, để rồi giờ đây chỉ còn biết nhìn nhau ngậm ngùi chia xẻ từng cơn đói khát và giá lạnh. Giờ đây gia tài còn lại của tất cả chúng tôi chỉ là một ít gạo và một can nước, chỉ đủ nấu cháo để cùng chia ra mỗi người được nửa chén cầm hơi mà níu kéo sự sống qua thêm được một ngày.
Đêm thứ ba lại đến trên mặt biển đen vô tình tiếng sóng vỗ bì bạch vào thân ghe như tiếng ma quái đe dọa, khiến tôi đã sợ lại càng thêm sợ phập phồng khi nghĩ đến những câu chuyện linh thiêng của những người đi biển trước đây kể lại. Từng cơn đói khát lạnh lẽo dậy lên hành hạ khiến cho tôi liên tưởng tới mái ấm gia đình với cha mẹ và những bữa cơm no lòng, Với những đêm ngày ấm áp trong vòng tay thương yêu
bao bọc của cha mẹ, của làng xóm quê hương thân thiết. Không biết trong lúc này cha mẹ của tôi, các anh em của tôi có thể biết rằng tôi đang phải chịu đựng từng cơn đói khát lạnh lẽo cùng với biết bao lo sợ vô hình đến có thể lả người đi được.
Trong cơn mê đồng thiếp đó, bên tai tôi bỗng nghe có tiếng ai đó khóc than nghe thật não lòng ai oán ! Tôi vội lắng tâm nghe ngóng, nhận ra được có cả tiếng khóc bi thiết của trẻ thơ. Rồi những tiếng khóc đó mỗi lúc như mỗi xa dần, chỉ còn lại lãng đãng tiếng mõ cầu kinh. Tôi cho rằng, rất có thể chiếc ghe của chúng tôi đã trôi dạt và tới được một vùng đất liền nào đó. Tôi định lên tiếng hỏi người bên cạnh thì bỗng có tiếng của một thanh niên :
- Bà con ơi ! Chúng ta đã tới được Thái Lan
rồi...Có ai nghe tiếng gõ mõ tụng kinh không?
Tôi và mọi người cùng xác nhận :
- Có...!
Trả lời xong câu hỏi thì bọn con gái chúng tôi bỗng trở nên lo lắng khi liên tưởng tới thảm cảnh sẽ gặp, nếu chiếc ghe của chúng tôi trôi ngang qua hải phận Thái Lan và với lứa tuổi 17, 18 như tuổi của tôi thì chắc chắn không thoát khỏi bọn chúng. Theo phản ứng tự nhiên, tôi liền lấy nhớt đặc trên ghe để trét kín lên khuôn mặt của mình để bọn hải tặc Thái Lan khó lòng nhận diện, may ra thoát được tai nạn.
Tuy nhiên với anh tài công thì mọi việc lại không phải như chúng tôi đang lo nghĩ. Anh là người nắm chiếc la bàn đi biển trong tay, cho nên anh biết chiếc ghe của chúng tôi không đi về hướng Thái Lan. Với nhiều năm kinh nghiệm đi biển, hiểu rõ các hiển linh trên biển cả, với
những oan hồn uổng tử vùi thây trong lòng biển lạnh để rồi hiển linh báo mộng, cho nên anh tài công ôn tồn khẳng định :
- Bà con nên giữ bình tĩnh, ngồi yên một chỗ, đừng hoang mang di động quá rất dễ bị lật ghe. Chúng ta hiện còn xa đất liền . Ai là người Công Giáo thì hãy đọc kinh. Ai là người Phật Giáo thì cũng cầu siêu cho các oan hồn uổng tử còn đang vất vưởng trên mặt biển khơi.
Nghe đến đây, tôi muốn thét lên vì sợ. Nhưng tôi kịp trấn tỉnh, quay sang ôm cứng lấy người bên cạnh. Chúng tôi chẳng ai bảo ai cùng khóc thương cho những con người bất hạnh, những đồng bào ruột thịt của chúng mình đã vùi thân trong lòng biển lạnh cũng chỉ vì hai chữ Tự Do. Trên ghe chúng tôi phần nhiều là người Công Giáo cho nên chúng tôi cùng bảo nhau đọc kinh khấn nguyện, và
cầu siêu cho các linh hồn chết oan uổng trên mặt biển này.
Vì quá chăm chú cầu nguyện, cầm lòng cầm trí khấn khứa cho các linh hồn, nên tôi không biết những tiếng khóc ỉ ôi trên mặt biển vắng đã chấm dứt từ lúc nào. Chúng tôi chỉ thấy rằng, sau đó chiếc ghe trở chúng tôi đã như có một phép mầu nhiệm làm cho chạy rất nhanh và rất êm ái như đang lướt đi trên sông vắng để cuối cùng, vì đói, vì khát, vì lạnh quá mọi người đều thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn nhưng đầy sự bình an một cách kỳ lạ, cho đến khi những tia nắng ấm, êm dịu chiếu xuống chiếc ghe xơ xác của chúng tôi làm mọi người lúc bấy giờ mới bừng tỉnh giấc...Nắng ấm chan hòa khiến cho lòng tôi thêm an tịnh và thân thể cảm thấy khoẻ khoắn hơn.
Mọi người đã có thể nhìn nhau với nụ cười gượng gạo
Đêm thứ ba lại đến trên mặt biển đen vô tình tiếng sóng vỗ bì bạch vào thân ghe như tiếng ma quái đe dọa, khiến tôi đã sợ lại càng thêm sợ phập phồng khi nghĩ đến những câu chuyện linh thiêng của những người đi biển trước đây kể lại. Từng cơn đói khát lạnh lẽo dậy lên hành hạ khiến cho tôi liên tưởng tới mái ấm gia đình với cha mẹ và những bữa cơm no lòng, Với những đêm ngày ấm áp trong vòng tay thương yêu
bao bọc của cha mẹ, của làng xóm quê hương thân thiết. Không biết trong lúc này cha mẹ của tôi, các anh em của tôi có thể biết rằng tôi đang phải chịu đựng từng cơn đói khát lạnh lẽo cùng với biết bao lo sợ vô hình đến có thể lả người đi được.
Trong cơn mê đồng thiếp đó, bên tai tôi bỗng nghe có tiếng ai đó khóc than nghe thật não lòng ai oán ! Tôi vội lắng tâm nghe ngóng, nhận ra được có cả tiếng khóc bi thiết của trẻ thơ. Rồi những tiếng khóc đó mỗi lúc như mỗi xa dần, chỉ còn lại lãng đãng tiếng mõ cầu kinh. Tôi cho rằng, rất có thể chiếc ghe của chúng tôi đã trôi dạt và tới được một vùng đất liền nào đó. Tôi định lên tiếng hỏi người bên cạnh thì bỗng có tiếng của một thanh niên :
- Bà con ơi ! Chúng ta đã tới được Thái Lan
rồi...Có ai nghe tiếng gõ mõ tụng kinh không?
Tôi và mọi người cùng xác nhận :
- Có...!
Trả lời xong câu hỏi thì bọn con gái chúng tôi bỗng trở nên lo lắng khi liên tưởng tới thảm cảnh sẽ gặp, nếu chiếc ghe của chúng tôi trôi ngang qua hải phận Thái Lan và với lứa tuổi 17, 18 như tuổi của tôi thì chắc chắn không thoát khỏi bọn chúng. Theo phản ứng tự nhiên, tôi liền lấy nhớt đặc trên ghe để trét kín lên khuôn mặt của mình để bọn hải tặc Thái Lan khó lòng nhận diện, may ra thoát được tai nạn.
Tuy nhiên với anh tài công thì mọi việc lại không phải như chúng tôi đang lo nghĩ. Anh là người nắm chiếc la bàn đi biển trong tay, cho nên anh biết chiếc ghe của chúng tôi không đi về hướng Thái Lan. Với nhiều năm kinh nghiệm đi biển, hiểu rõ các hiển linh trên biển cả, với
những oan hồn uổng tử vùi thây trong lòng biển lạnh để rồi hiển linh báo mộng, cho nên anh tài công ôn tồn khẳng định :
- Bà con nên giữ bình tĩnh, ngồi yên một chỗ, đừng hoang mang di động quá rất dễ bị lật ghe. Chúng ta hiện còn xa đất liền . Ai là người Công Giáo thì hãy đọc kinh. Ai là người Phật Giáo thì cũng cầu siêu cho các oan hồn uổng tử còn đang vất vưởng trên mặt biển khơi.
Nghe đến đây, tôi muốn thét lên vì sợ. Nhưng tôi kịp trấn tỉnh, quay sang ôm cứng lấy người bên cạnh. Chúng tôi chẳng ai bảo ai cùng khóc thương cho những con người bất hạnh, những đồng bào ruột thịt của chúng mình đã vùi thân trong lòng biển lạnh cũng chỉ vì hai chữ Tự Do. Trên ghe chúng tôi phần nhiều là người Công Giáo cho nên chúng tôi cùng bảo nhau đọc kinh khấn nguyện, và
cầu siêu cho các linh hồn chết oan uổng trên mặt biển này.
Vì quá chăm chú cầu nguyện, cầm lòng cầm trí khấn khứa cho các linh hồn, nên tôi không biết những tiếng khóc ỉ ôi trên mặt biển vắng đã chấm dứt từ lúc nào. Chúng tôi chỉ thấy rằng, sau đó chiếc ghe trở chúng tôi đã như có một phép mầu nhiệm làm cho chạy rất nhanh và rất êm ái như đang lướt đi trên sông vắng để cuối cùng, vì đói, vì khát, vì lạnh quá mọi người đều thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn nhưng đầy sự bình an một cách kỳ lạ, cho đến khi những tia nắng ấm, êm dịu chiếu xuống chiếc ghe xơ xác của chúng tôi làm mọi người lúc bấy giờ mới bừng tỉnh giấc...Nắng ấm chan hòa khiến cho lòng tôi thêm an tịnh và thân thể cảm thấy khoẻ khoắn hơn.
Mọi người đã có thể nhìn nhau với nụ cười gượng gạo
đầy tình thân chia xẻ. Chúng tôi cùng nhìn ngắm từng bầy cá Heo như đang chia xẻ niềm vui vô tình. Chúng nhảy lên từng đợt theo hướng chiếc ghe đang chạy tới.
Cho đến giữa trưa, khi ánh nắng đã chan hòa trên mặt biển như không hề có chuyện gì thì bỗng nhiên có một chiếc tầu Anh xuất hiện. Chúng tôi đồng loạt la hét ầm ĩ cùng với dải khăn trắng có viết sẵn chữ S.O.S được giăng lên. Chiếc tầu Anh đã cặp sát tới cạnh chiếc ghe mong manh bé nhỏ của chúng tôi với một chiếc thang dây thả xuống để cho tất cả chúng tôi lần lượt được đặt chân lên chiếc tầu sắt to lớn đầy vững chãi mang ký hiệu của nước Anh đầy thân ái, đã ra tay cứu vớt chúng tôi từ một chiếc ghe vượt biển bé nhỏ như một chiếc lá giữa dòng biển rộng mênh mông đầy bất trắc hãi hùng.
Chúng tôi được
Cho đến giữa trưa, khi ánh nắng đã chan hòa trên mặt biển như không hề có chuyện gì thì bỗng nhiên có một chiếc tầu Anh xuất hiện. Chúng tôi đồng loạt la hét ầm ĩ cùng với dải khăn trắng có viết sẵn chữ S.O.S được giăng lên. Chiếc tầu Anh đã cặp sát tới cạnh chiếc ghe mong manh bé nhỏ của chúng tôi với một chiếc thang dây thả xuống để cho tất cả chúng tôi lần lượt được đặt chân lên chiếc tầu sắt to lớn đầy vững chãi mang ký hiệu của nước Anh đầy thân ái, đã ra tay cứu vớt chúng tôi từ một chiếc ghe vượt biển bé nhỏ như một chiếc lá giữa dòng biển rộng mênh mông đầy bất trắc hãi hùng.
Chúng tôi được
những người trên chiếc tầu Anh đón nhận một cách đầy tình người với những bữa ăn nóng hổi thịnh soạn mà tất cả chúng tôi, có lẽ chưa từng ai được hưởng kể từ khi Cộng sản vào chiếm Miền nam yêu dấu. Chúng tôi đứng trên boong của con tầu nhân đạo đưa mắt nhìn vào lòng biển rộng dưới kia, thấp thoáng trong ánh nắng rực rỡ chói lòa trên làn nước bạc là chiếc ghe bé nhỏ đã cưu mang, bảo bọc sinh mạng chúng tôi trong suốt mấy ngày nguy lao gian khó vừa qua. Chúng tôi chỉ biết ngửa mặt thầm tạ ơn Chúa Phật đã ban cho chúng tôi có được cơ may thoát hiểm. Nếu không có chiếc tấu Anh ra tay cứu vớt, không biết rồi sẽ ra sao, số phận chúng tôi rồi sẽ đi về đâu trong lòng biển cả vô tình...
Sau bao nhiêu năm dài sống trên vùng đất tự do no ấm, của cải dư đủ
Sau bao nhiêu năm dài sống trên vùng đất tự do no ấm, của cải dư đủ
thừa mứa, không biết trong chúng ta, có ai còn nhớ lại lời hứa khi chúng ta còn đang ngụp lặn trong mênh mang mưa bão và đói khát với gian nguy, với hàng vạn nỗi kinh hoàng?
Giờ đây, chúng ta hãy thắp lên một nén hương trầm để tưởng niệm những hương hồn của các thuyền nhân đã chìm sâu thân xác trong lòng biển lạnh năm xưa. Cầu mong cho các vong linh bất hạnh khốn khổ đó sớm siêu thoát vinh thăng, sớm được yên nghỉ trên đất nước trời. Những vong linh vì hai chữ Tự Do đã nói lên đầy ắp sự can trường bất khuất, chẳng khác gì các vị anh hùng hào kiệt rất xứng đáng được ghi danh vào trang sử của dân tộc Việt Nam vào thời kỳ biến động với cuộc hành trình biển Đông xảy ra có một không hai trong lịch sử của thế gian cũng như giống nòi, để cho các thế hệ sau này có thể biết được chiến sử hào hùng của những anh hùng vượt chết đi tìm Tự Do trên biển cả, với ước vọng mưu cầu nhân quyền dân chủ và cơm no áo ấm cho toàn dân mà hiện nay còn đang bị Cộng Sản Việt Nam chiếm đoạt. Cũng còn là một phương pháp ngăn chặn áp bức, những nghiệt ngã điên cuồng mà những người Cộng Sản với guồng máy độc ác đang cai trị trên quê hương yêu dấu của chúng ta.
Cầu xin các vong linh của những thuyền nhân Việt Nam đã vùi thây trong lòng Biển Đông hoang lạnh năm nào hãy về đây chứng dám cho tấm lòng của những đồng bào thân yêu đang tha thiết khấn nguyện và tưởng niệm về nỗi bất hạnh mà các hương linh này đã phải trải qua.
Cali, 4/2/03
(Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông)
Giờ đây, chúng ta hãy thắp lên một nén hương trầm để tưởng niệm những hương hồn của các thuyền nhân đã chìm sâu thân xác trong lòng biển lạnh năm xưa. Cầu mong cho các vong linh bất hạnh khốn khổ đó sớm siêu thoát vinh thăng, sớm được yên nghỉ trên đất nước trời. Những vong linh vì hai chữ Tự Do đã nói lên đầy ắp sự can trường bất khuất, chẳng khác gì các vị anh hùng hào kiệt rất xứng đáng được ghi danh vào trang sử của dân tộc Việt Nam vào thời kỳ biến động với cuộc hành trình biển Đông xảy ra có một không hai trong lịch sử của thế gian cũng như giống nòi, để cho các thế hệ sau này có thể biết được chiến sử hào hùng của những anh hùng vượt chết đi tìm Tự Do trên biển cả, với ước vọng mưu cầu nhân quyền dân chủ và cơm no áo ấm cho toàn dân mà hiện nay còn đang bị Cộng Sản Việt Nam chiếm đoạt. Cũng còn là một phương pháp ngăn chặn áp bức, những nghiệt ngã điên cuồng mà những người Cộng Sản với guồng máy độc ác đang cai trị trên quê hương yêu dấu của chúng ta.
Cầu xin các vong linh của những thuyền nhân Việt Nam đã vùi thây trong lòng Biển Đông hoang lạnh năm nào hãy về đây chứng dám cho tấm lòng của những đồng bào thân yêu đang tha thiết khấn nguyện và tưởng niệm về nỗi bất hạnh mà các hương linh này đã phải trải qua.
Cali, 4/2/03
(Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông)
ĐỖ QUỐC ANH THƯ * OAN HỒN NGƯỜI TÙ CẢI TẠO
OAN HỒN NGƯỜI TÙ CẢI TẠO
Vì nhà nghèo, nên sau khi học hết lớp 12, anh phải đi làm. Khi đến Xuân Hiệp định cư, anh may mắn, được tuyển chọn làm giáo viên, dạy ở trường tiểu học tư thục của xứ đạo này. Chắc hẳn, nhiều phụ huynh học sinh trường tiểu học Xuân Hiệp còn nhớ, anh Bộ lập gia đình với chị Lan, cô giáo viên xinh đẹp, cùng nghề dạy học với anh.
Phần tôi, khi nhắc đến chuyện cũ, ngoài nỗi đau thương, tôi không thể nào quên được kỷ niệm êm đềm hôm anh Bộ đến nhà, ngỏ ý xin bố tôi làm cha đỡ đầu khi anh theo đạo Công Giáo. Nhất là hình ảnh dễ thương của hai cháu bé Bình và Ban, con của anh Bộ và chị Lan.
Nhờ có liên hệ gia đình thân mật, nên tôi biết rõ chuyện oan khiên và vô cùng đau thương của anh Bộ sau ngày Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam — đúng như thi sĩ Khuyết Danh đã viết:
Hạnh phúc, miền mơ, nhân phẩm, luân thường
Đảng đến là tan nát tất cả!
Nhớ lại thời xa xưa. Vào khoảng đầu năm 1969, sau khi bố tôi được giải ngũ, ông mang gia đình đến Long Khánh định cư. Nhưng vài năm sau, nhờ có chút ít vốn liếng, bố tôi mua đất ở Xuân Hiệp, lập xưởng cưa cây, cung cấp vật liệu xây cất nhà cửa.
Thật ra, Xuân Hiệp là 'vùng đất mới' do chương trình 'khai hoang lập ấp' của chính phủ VNCH — mở rộng việc cấp phát ruộng đất cho dân nghèo, đặc biệt là dân miền Trung chạy giặc vào đó định cư, sau trận Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.
'Vùng đất mới' này có 4 ấp, thường gọi là Ấp 1, 2, 3 và Ấp 4, nằm sát bên Quốc Lộ 1, đoạn đường từ ngã ba Dầu Dây đi ra thị xã Phan Thiết.
Thời đó, dân cư ở đây đều có cuộc sống, tương đối tạm ổn. Nhưng không ngờ, Tháng Tư Đen 1975 ập đến quá nhanh. Nhiều người ở Xuân Hiệp, tìm đủ mọi cách đi lánh nạn Việt Cộng. Nhiều người khác, có lẽ vì bản chất hiền lành, chấc phác, hoặc là chưa có kinh nghiệm với VC, nên lầm tưởng cho rằng, không có điều gì phải lo sợ khi VC cầm quyền!
Như anh Bộ chẳng hạn. Anh chủ quan, nghĩ mình chỉ là giáo viên tiểu học của giáo xứ nghèo, nhất là không hề tham gia bất cứ việc gì của chính phủ VNCH thì có gì mà phải sợ hãi? Vả lại, anh bị khuyết tật bẩm sinh, chân cao chân thấp. Khi nhìn thấy vẻ mặt hiền lành, chân đi khập khiễng, không ai nỡ lòng hại anh.
Còn bố tôi, sau ngày miền Nam thất thủ thì tự an ủi cho rằng, ông đã già yếu và giải ngũ từ lâu thì không có gì mà phải e ngại!
Đồng thời, dư luận hồi đó bàn tán xôn xao về chuyện 'hoà hợp hòa giải' — ghi trong hiệp định Ba-Lê 1973 mà VC đã ký kết. Nên gia đình tôi cùng hàng triệu người khác tin tưởng, không có ai bị VC trả thù.
Thế nhưng, sự việc xẩy ra sau Tháng Tư Đen 1975 hoàn toàn trái ngược: Hàng trăm ngàn Quân Nhân, Công Chức và Cảnh Sát VNCH bị VC đầy đọa dã man trong ngục tù 'cải tạo', trong khi dân chúng bị xô đẩy vào thảm cảnh lầm than, nghèo khổ, ngày đêm lo sợ công an hạch hỏi. Ách cai trị Mác-Lênin sắt máu hơn ách cai trị thời Pháp thuộc bội phần.
Chứng cớ rõ ràng nhất là thời Pháp thuộc, mặc dù thực dân thâm độc, nhưng dân Việt vẫn được mua bán thực phẩm tự do, không hề có quỷ kế 'cai trị bằng bao tử' qua 'sổ hộ khẩu' như thời VC.
Hơn nữa, việc sử dụng bạo lực thời xưa qua hệ thống công an chìm và nổi, không thấm vào đâu so với thời VC. Hầu như ai cũng biết, hiện thời "Công An Nhân Dân" nắm quyền sinh sát 'nhân dân' trong tay. Nên bọn chúng coi mạng sống 'nhân dân' rẻ như bèo. Chuyện công an VC đánh đập, bắt bớ, tống giam, tra tấn, thủ tiêu, hối mại quyền thế, giết người vô tội v.v. đều là chuyện 'bình thường' trong thời XHCN.
Gần gũi nhất là gia đình tôi cùng dân cư ở Xuân Hiệp, ngày đêm bị bọn 'công an nhân dân' hăm dọa, khủng bố tinh thần, hạch hỏi đủ điều. Sau khi VC 'đánh tư sản' thì gia đình tôi trắng tay. Tài sản bị chúng cướp hết, chỉ còn vài rẫy đất để trồng trọt mà sống qua ngày.
Quý vị cao niên từng sống ở Xuân Hiệp, chắc hẳn còn nhớ khu vực này đặt dưới quyền cai trị của bọn công an từ miền Bắc vào, nói giọng Nghệ An, tên đầu xỏ là Trần Đắc.
Bọn này nắm quyền sinh sát dân cư trong tay. Suốt ngày đêm, chúng rình mò, hạch hỏi tất cả các sinh hoạt của từng người. Hễ ai bị tình nghi, hoặc bị chúng ghét thì thể nào cũng có ngày khốn đốn. Thông thường là bị chúng bắt giam, tra tấn, hoặc thủ tiêu.
Tuy nhiên, câu chuyện về anh Bộ xẩy ra - trước lễ Giáng Sinh năm 1975 khoảng vài tuần lễ – làm nhiều người ngỡ ngàng: Anh là người hiền lành như “thóc với khoai” mà cũng bị bọn ác ôn buộc tội là “phản động, cần đi học tập cải tạo”.
Tôi còn nhớ mấy ngày đầu, sau khi anh Bộ bị bắt thì cả Ấp 1 hoang mang. Người nói thế này thế khác. Trong khi đó, bố tôi buồn bực, thở vắn thở dài. Mấy hôm sau, ông mới nói nhỏ cho gia đình biết, anh Bộ bị bắt chỉ vì chị Lan.
Mặc dù đã có hai con với anh Bộ, nhưng chị Lan vẫn còn trẻ đẹp. Vì có nhan sắc, nên chị lọt vào đôi mắt cú vọ của “thằng khốn kiếp”. Đó là biệt danh mà dân cư Ấp 1 thường dùng khi nói chuyện với nhau về Trần Đắc –kẻ tàn ác nhứt khu vực Xuân Hiệp.
Đúng là như vậy. Ngay sau khi anh Bộ đi tù thì Trần Đắc đến nhà chị Lan thường xuyên. Khi thì gã hạch hỏi. Khi thì gã dụ dỗ hoặc dọa nạt chị Lan. Nhiều lần chị Lan sang nhà tôi sụt sùi khóc, rồi than thở hết chuyện này đến chuyện kia. Nhưng trong chế độ VC, ai cũng sợ hãi, không giúp chị được điều gì ngoài mấy lời an ủi.
Thế rổi, khoảng 5, 7 ngày sau, tên Trần Đắc trâng tráo, dọn đến ở trong nhà chị Lan. Đây là căn nhà rất khang trang trong xóm. Ngay khi biết chuyện này, cả nhà tôi cảm thấy buồn bực, rồi phẫn uất. Nhất là bố tôi. Phần vì thương anh Bộ và chị Lan. Phần vì căn nhà này, được tạo dựng là do tiền bạc và công sức của ông khi nhận làm cha đỡ đầu cho anh Bộ.
Từ đó, chị Lan có ý xấu hổ. Nên chị lẩn tránh họ hàng, nhất là bố mẹ tôi. Chắc là chị bị kẻ vô luân “hủ hóa”? Tình cờ gặp ai ở nhà thờ, chị tỏ vẻ thẹn thùng. Đôi mắt chị u sầu như đang ngấn lệ. Gia đình tôi và họ hàng đều thương cảm.
Thật sự, chị Lan chỉ là nạn nhân, không có gì đáng trách. Chuyện ghê tởm, can tội ác phá hoại hạnh phúc gia đình người khác, chính là tên Trần Đắc và đồng bọn công an “ác ôn côn đồ” trong khu vực.
Đây là bằng cớ cụ thể lần thử 1001 cho thấy, sau khi chiếm trọn miền Nam năm 1975, bọn chóp bu VC đã ngấm ngầm 'bật đèn xanh' cho thực hiện quỷ kế 'Hoa Hồng Đỏ' — Vừa để trả thù 'Ngụy Quân, Ngụy Quyền, Ngụy Dân', vừa để 'thưởng công chiến thắng' cho 'bộ đội', công an và 'cán bộ' hành chánh:
Hễ thấy gia đình nào ở miền Nam có thiếu nữ trẻ đẹp thì bọn chúng sử dụng mọi cách để dụ dỗ, lường gạt, hoặc dọa nạt. Dã tâm là chiếm đoạt, hay hủ hoá các cô gái độc thân. Nhất là phá hoại gia đình các thiếu phụ trẻ, có chồng trong ngục tù ‘cải tạo'.
Khi kể lại chuyện này, tôi không quên được thảm cảnh của hai cháu bé Bình và Ban. Trong khi cha đi tù thì mẹ bị tên Trần Đắc ‘hủ hoá‘. Hai cháu sống trong căn nhà, do ông cha dựng lên mà bị bạc đãi thảm thương. Vì bữa no bữa đói, nên hai cháu gầy gò, mặt xanh như lá cây, thường hay sang nhà tôi đòi ăn. Trong xóm thì ai cũng biết, chị Lan bất lực khi hai cháu bị tên Trần Đắc mắng chửi, dọa nạt và nhiều lần phạt không cho ăn. Cuối cùng, chúng bỏ học sang ở bên nhà tôi ‘tỵ nạn‘.
Trong thời gian này, chị Lan còn bị tên Trần Đắc cấm, không cho đi 'thăm nuôi' anh Bộ. Vì vậy, chị mới lén lút, nhờ thân nhân gởi quà cho anh ấy. Không may, chỉ được vài lần thì bại lộ. Nên chị bị tên Trần Đắc hành hung và hăm dọa, nếu tái phạm thì sẽ phải ‘đi học tập cải tạo’.
Chuyện bất hạnh trong gia đình tôi không ngưng ở đó. Phần kế tiếp diễn ra còn bi thảm hơn trước nhiều lần. Giữa đêm khuya, bọn công an VC đến gõ cửa, xông vào nhà bắt bố tôi và hai người anh. Cả nhà tôi hoảng hốt, gào khóc thảm thương.
Thế là gia đình tôi tan nát thêm lần nữa. Hai cháu bé, chưa hết nhớ cha, lại thêm nhớ ông nội. Ngày nào chúng cũng thay phiên nhau hỏi:
"Khi nào ba cháu về"? "Khi nào ông nội về"?
Buồn thê thảm nhất là mẹ tôi. Lúc nào bà cũng lo sợ cho tính mạng của chồng con, không biết VC đầy đoạ ở đâu và đến khi nào, chúng mới thả về.
Khoảng nửa năm Sau, mẹ tôi phải làm ’thủ tục đầu tiên', có nghĩa là 'thủ tục tiền đâu', hối lộ cho công an thì bọn chúng cấp giấy phép và cho biết thân nhân mình ở trại tù nào để đi ’thăm nuôi’.
Không lâu sau, ngoài chuyện mừng mừng tủi tủi — khi đến thăm thân nhân nơi ngục tù 'cải tạo’ – bản thân tôi cũng gia đình, liên tiếp sa vào đại họa, kể cả mấy lần tang gia bối rối. Tôi xin miễn tiến sâu vào chi tiết của những chuyện đau thương này, vì e ngại là 'tràng giang đại hải' và 'lạc đề'. Nên tôi chỉ cô đọng trong câu chuyện về anh Bộ mà thôi.
Thật là tội nghiệp cho anh ấy. Chỉ vì có cô vợ trẻ đẹp và căn nhà khang trang mà bị đầy đọa trong trại ngục tù Bù Gia Mập, tỉnh Phước Long, suốt 4 năm trời.
Khi trở về nhà, vóc dáng anh Bộ, tương tự như bố tôi – được thả trước anh vài tháng: Cả hai người đều đen thui, đôi mắt trũng sâu, gầy yếu đến nỗi chỉ còn da bọc xương.
Tuy nhiên, thương tâm nhất vẫn là anh Bộ. Tôi nhớ mãi hình ảnh anh lúc đến nhà tôi: Anh vừa đi khập khiễng, vừa đưa tay lên lau nước mắt. Khi gặp bố tôi và hai cháu bé, anh khóc nức nở.
Sau đó, anh vừa sụt sùi, vừa kể lại chuyện tàn nhẫn vừa mới xẩy ra. Cả nhà tôi chăm chú lắng nghe, trong lòng xót thương khôn tả.
Từ ngục tù 'cải tạo' trở về, anh Bộ vừa nhìn thấy mái nhà xưa thì mừng mừng tủi tủi, vội vàng bước vào tổ ấm để gặp lại vợ con. Nhưng hỡi ơi! Sự thật phũ phàng, không ngờ hiện rõ trước mắt anh: Tên Trần Đắc đang 'thân mật' ngồi ôm chị Lan, nghe radio trong phòng khách. Vừa nhìn thấy anh Bộ, hắn hùng hổ đứng lên, quát mắng:
“Ai cho mày vào đây? Thằng què ... thằng phản động này... tại sao không gõ cữa” ?
Dứt lời, hắn lại còn vênh mặt hống hách, đuổi anh Bộ ra khỏi nhà và cấm không cho anh bén mảng đến đó nữa! Chuyện này làm cả nhà tôi vừa uất hận, vừa đau lòng. Bố tôi nắm tay anh Bộ an ủi liên tục. Cuối cùng, ông bảo:
"Thôi thì...con ở đây với bố mẹ... Đói no gì, cứ ở đây, phụ làm rẫy mà nuôi hai đứa nhỏ, giả đui giả điếc mà sống... ".
Thú thật, khi kể lại câu chuyện oan khiên của anh Bộ đến đây, tôi vẫn còn cảm thấy thương tâm, nên vừa viểt vừa lau nước mắt. Tôi còn nhớ, sáng hôm sau ngày trở về, anh Bộ lại phải đến văn phòng công an 'làm việc'. Mặc dù anh có 'Giấy Ra Trại', nhưng anh vẫn là người tù 'cải tạo' – vì bị giam lỏng trong tình trạng 'quản chế ' 12 tháng.
Là người dân quê hiền lành, chất phác, anh Bộ âm thầm chịu đựng. Đêm thì khóc thầm. Ngày thì im lặng. Anh nương náu bên cạnh bố tôi, đi vào khu rẫy cũng với hai cháu bé, cuốc đất trồng bắp, trồng đậu.
Thế nhưng, ‘họa vô đơn chí'. Một hôm, Sau khi anh Bộ đi làm ở ngoài rẫy, đến chiều tối không thấy anh về thì cả nhà mong chờ. Hôm ấy bố tôi làm ở khu rẫy khác. Sau khi về nhà thì ông lầm tưởng là anh Bộ ngủ đêm ở rẫy để canh chừng, sợ kẻ trộm đến bẻ bắp, đào đậu. Vì dạo ấy, dân cư Ấp 1 thường rủ nhau cất chòi bên cạnh rẫy và ngủ lại trong đó để canh chừng mỗi khi hoa màu sắp đến kỳ thu hoạch.
Sáng hôm Sau, ra ngoài rẫy tìm kiếm, bố tôi không thấy anh Bộ đâu. Ông hoảng sợ, đi từ nơi này đển nơi khác hỏi thăm những người làm rẫy nhưng không ai thấy anh Bộ ở nơi nào. Bố tôi vội vàng vể nhà báo tin, khiến cả gia đình lo sợ. Hai cháu bé gào khóc, rồi ngây thơ hỏi:
"Ông nội ơi... ba cháu đi đâu rồi. Sao không...thấy ba cháu về"?
Nghe tiếng trẻ thơ gào khóc, bố tôi càng thêm đau lòng. Cả đêm hôm ấy ông thao thức, không sao ngủ được. Đến sáng hôm Sau, hai cháu lại khóc. Bố tôi bí thế, buộc lòng phải nói dối chúng để cho yên chuyện:
"Ba cháu về Sài Gòn, xin dạy học vì làm rẫy cực quá. Ba cháu yếu đuối, không làm nổi ".’
Nhờ vậy, hai cháu bé ngưng khóc. Nhưng rồi, chiều nào chúng cũng hỏi:
"Chừng nào ba cháu về|
Khoảng hơn tuần lễ trôi qua. Bố tôi tiếp tục, đi thăm hỏi khắp xóm Xuân Hiệp, kể cả chuyện đến phòng công an báo cáo, nhưng chuyện về anh Bộ vẫn “biệt vô âm tín”
Khoảng chừng mươi ngày sau, giữa đêm cháu Bình đang ngủ thì vùng dậy, rồi chạy qua, leo lên giường bố tôi. Nó nằm cạnh bên ông, rồi nói:
"Ông ơi, cháu nằm mơ, cháu gặp ba cháu".
Bố tôi nghĩ rằng, cậu bé nhớ ba nó quá độ, nên nằm mơ. Ông an ủi:
"Cháu nằm mơ vậy là ba sắp về rổi đó”.
Cậu bé yên tâm, rổi về giường nó ngủ tiếp. Đêm hôm sau, nó lại chạy qua giường, gọi bố tôi dậy, rồi nói:
"Ông ơi, cháu lại mơ thấy ba cháu nữa, nhưng mà mặt ba cháu ghê lắm, toàn máu không hà"!...
Bố tôi sợ hãi, ngổi dậy. Ông cho rằng, đó là chuyện báo mộng, xuất phát tâm linh cho thấy chuyện bất hạnh. Ông xót xa, ôm cháu bé trong vòng tay, rồi nghĩ ngợi miên man. Đển sáng hôm sau, Ông nói với nó rằng:
"Tối nay trước khi ngủ, cháu cầu nguyện rằng, ba ơi, ba đang ở đâu, ba cho con biết để con với ông nội đi tìm ba..."
Trước khi lên giường ngủ, cháu Bình làm theo với lời cầu khẩn.
Ngày hôm sau, cháu Ban ở nhà với mẹ tôi. Còn cháu Bình đi theo bố tôi lên rẫy phụ nhổ cỏ. Đến khi chiều tàn, hai Ông cháu bẻ bắp đem về để luộc cho că nhà ăn. Hồi đó, cả nhà tôi, ngày ăn hai bữa, chỉ có bắp, hay đậu phụng, khoai lang, hoặc khoai mì, họa may mới có bữa cơm trộn lẫn với bo bo.
Năm ấy, cháu Bình chưa tới 10 tuổi, nhưng phải làm lụng vất vả. Nhờ tính tình giống anh Bộ, cậu bé biết chịu đựng khổ cực và nhanh nhẹn hết sức. Thường ngày, hai tay nó xách hai giỏ bắp, mỗi bên chừng 10 trái mà đi thoăn thoắt.
Chiều hôm ấy, trên đường về nhà, cháu Bình theo bố tôi, đi qua cây Bằng Lăng - mốc ranh giới giữa hai phần đất khác nhau – khoảng mươi bước. Bỗng dưng nó vấp ngã thì gọi bố tôi:
"Ông nội ơi..... cháu té.
Bố tôi đang vác cuốc đi trước, nghe thấy tiếng gọi thì quay lại rầy la nó:
"Thủng thẳng mà đi, chạy chi rồi vấp té".
Cậu bé không cãi lại mà vội vàng, cúi xuống lượm mấy trái bắp cho vào giỏ rồi đi tiếp. Ngày hôm sau, cũng ngay chỗ ấy. Thêm lần nữa, nó không vấp vào cái gì, nhưng không hiểu sao lại bị té, bắp trong giỏ đổ tung, ngay chỗ cũ hôm qua. Nó lại gọi:
"Ông ơi.... chờ cháu với.
Bố tôi quay lại mắng cậu bé:
"Bộ con mắt cháu để sau ót hay sao? "
Lần này cậu bé cũng không nói gì. Như lần trước, nó lượm bắp cho vô giỏ rồi tiếp tục đi. Còn bố tôi thì bắt đầu hoài nghi. Nên sang ngày thứ ba, vào lúc xế chiều, trong khi bẻ bắp thì bố tôi nói với cháu bé:
"Hôm nay ông xách phụ cháu xem cháu còn té nữa không nghe?".
Cháu Bình cười, nhìn ông nội:
"Chắc cháu không té nữa đâu".
Nói xong, cậu bé cùng với bố tôi, dồn tất cả bắp vào cái giỏ lớn để mỗi người xách một bên, mang về nhà. Riêng bố tôi thì có thêm cái cuốc, vác trên vai.
Thật lạ lùng, không hề có khúc cây nào. Không hề có cục đá nào. Không hể có chướng ngại vật nào trên đường mà cậu bé bỗng dưng lại vấp ngã. Không những thế, nó ngã xuổng đúng chỗ cũ. Vì lần thứ ba, nên nó bực bội và tỏ ý thắc mắc, không hiểu tại sao cứ ngã ngay đúng chỗ này? Mặc dù e ngại bố tôi quở mắng, nhưng lúc ấy nó khóc rống lên, rồi hỏi bố tôi:
".... Ông ơi ông!...Sao cháu... ngã ở đây hoài vậy"?
Tự dưng bố tôi cảm thẩy rợn tóc gáy. Trong lúc ông quay lại, đỡ nó đứng lên thì cả người ông nổi da gà khi nhớ đến điềm báo mộng của cháu Bình hôm trước.
Thật ra, điềm báo mộng thuộc lãnh vực tâm Iinh, hiển nhiên là huyền bí, nên có người tin, có người không. Nhưng khi kể lại câu chuyện thật về nỗi oan khiên của anh Bộ, lương tri bắt buộc tôi phải tôn trọng, thuật lại những sự kiện xẩy ra mà tôi được biết
Vì bố tôi tin tưởng vào điềm báo mộng, nên ngay đêm hôm đó, sau khi hai cháu bé lên giường ngủ, ông đển gặp mấy ngưõi bạn thân trong xóm. Sau khi ông trình bày đầu đuôi câu chuyện huyền bí kể trên thì ai cũng đoán là anh Bộ bị bọn ác ôn giết, rồi chôn vùi đâu đó. Giả thuyết này làm bố tôi rùng mình nhớ đến thảm cảnh oan khiên thật sự của hàng ngàn lương dân đã bị VC bắn chểt tại chỗ, hay bắt đem đi chôn sống ở nhiều nơi trong thành phố Huế hồi Tết Mậu Thân 1968.
Thế rồi, đợi qua nửa đêm khuya, trong khi mọi người đã ngủ say, bố tôi cùng mấy người bạn trong xóm, âm thầm mang cuốc, xẻng, đi ra rẫy trồng bấp. Dưới ánh trăng sáng, khi đi đến cây Bằng Lăng thì mỗi người một chỗ, bới đất lên tìm kiểm xem có vểt tích, hay vật liệu nào khả nghi không?
Một lúc lâu sau, bỗng dưng có tiểng kêu lớn làm bố tôi giật mình.
"Ông ơi!.... Này các ông ơi.... lại đây xem".
Bố tôi hấp tấp chạy lại phía rẫy bên kia cây Bằng Lăng. Đây là nơi tình nghi vì có nhiều vết đất mới. Thể là cả toán xúm lại, người dùng xẻng đào, người dùng cuốc bới đất lên. Lớp đất khá dầy nên gần nửa tiếng sau mới nhìn thấy bao ni-lông.
Đúng là xác anh Bộ rồi! Xác anh nằm sấp, quấn trong bọc rất lớn.
Khi mở bọc ra để 'nhận diện' thì ai cũng cảm thấy rùng rợn: Anh Bộ bị đập bể sọ. Nểu không phải là bọn ác ôn Trần Đắc thì ai giết, rồi chôn vùi xác anh Bộ ở đây?
Bất chẩp mùi hôi thối xông lên nồng nặc, mấy ông hàng xóm nhân từ, tiếp tục giúp bố tôi mang xác anh Bộ về nhà. Tiếp theo, họ nhanh nhẹn, phụ bố tôi tẩy uế, rồi tẩm xác anh Bộ. Mọi việc đều thầm kín. Đợi đến sáng hôm sau, bố tôi mới lên phường xã, xin phép chôn cất tử thi.
Chắc chắn, bọn cán bộ VC trong phường xã Xuân Hiệp, nhất là đội ngũ công an, thừa biểt chuyện anh Bộ bị giết từ nhiều hôm trưởc. Nên chúng nhanh nhẹn, cấp giấy phép mà không hề thắc mắc, hỏi han hay kiểm chứng điều gì!
Hôm mai táng, cả nhà tôi sụt sùi khóc. Nhất là lúc tiễn đưa anh Bộ ra nghĩa địa, hai cháu bé Bình và Ban kêu gào thảm thương. Tôi không cầm lòng được, nên khóc theo khi hạ huyệt. Đó là lúc chiểu ngày 2-11-1979.
Sau ngày an táng anh Bộ, khoảng vài ba tuần thì đển lượt chị Lan bị Trần Đắc đuổi ra khỏi nhà. Lẽ dễ hiểu là gã đã thỏa mãn thú tính với chị ấy suốt 4 năm rồi. Hơn nữa, sau khi hoàn tất việc cướp đoạt căn nhà rất khang trang của anh Bộ và chị Lan thì hắn muốn mang vợ con từ Nghệ An đến ở. Chuyện này thì cả Ấp 1, giáo xứ Xuân Hiệp, đều là chứng nhân. Chắc hẳn nhiều vị lão thãnh ở đó vẫn còn nhớ. Ngay sau khi bị đuổi, chị Lan đến gặp bố mẹ tôi. Chị khóc sướt mướt rồi ngỏ lời, xin mang hai cháu bé về Phan Thiểt để nương náu bên bố mẹ ruột của chị ấy.
Mặc dù chị là nạn nhân đáng thương, không có gì đáng trách. Nhưng không hiểu vì sợ hãi bọn công an ác ôn hăm dọa? Hoặc vì đau thương quá nỗi? Hay vì lý do nào khác mà hôm ấy, chị không hề đề cập đến chuyện của anh Bộ - người chồng của chị đã chết cay đắng ở Xuân Hiệp? Dù sao, bố mẹ tôi vẫn e ngại chị chạnh lòng, nên không nói điều gì khác ngoài chuyện về hai cháu bé.
Đến nay, hàng chục năm trời đã trôi qua, nỗi đau thương đã “thuyên giảm” ít nhiểu. Tôi kể lại chuyện “Oan Hồn Người Tù Cải Tạo” này với hy vọng, có thể góp phần nhỏ bé, để lại chứng tích bên dòng lịch sử trong thời kỳ nước mất nhà tan -- sau Tháng Tư Đen năm 1975.
Do đó, tôi ước mong câu chuyện này được phổ biển rộng rãi và đến tay hai cháu Bình và Ban. Vì câu chuyện kết thúc năm 1979, cháu Bình chưa tới 10 tuổi, cháu Ban mới 8 tuổi. Nên tôi không hiểu, hiện thời hai cháu còn nhớ sự thật oan khiên này không?
Hơn nữa, VC lại có sở trường tuyên truyền lừa bịp thiện nghệ và nhồi sọ giới trẻ ở học đường. Nên nhiều thanh thiếu niên - chưa có nhiều kinh nghiệm về CS – dễ dàng lầm lẫn vể lịch sử, về BẠN và THÙ, về những tội ác tày trời do Hồ Chí Minh và đồng đảng liên tiếp gây ra từ 1945 đến nay.
ĐỖ QUỐC ANH THƯ
BS. LIÊU VĨNH BÌNH * HỒN MA
Hồn Ma trong Bệnh Viện
Trước khi đến bệnh viện Hồng Bàng tôi đã nghe các đàn anh nói là bệnh viện này có nhiều ma lắm. Tôi cũng đã đọc nhiều truyện ma của các bác sĩ đi trước viết từ trong bệnh viện này. Nhưng tôi chỉ mỉm cười, nhún vai, trong bụng nói rằng chỉ có tôi mới nhát ma người ta thôi, chớ ma nào mà dám nhát tôi. Nếu mà có ma thật như trong những truyện Liêu Trai Chí Dị thì tôi càng mong được gặp vì ít ra đời mình cũng còn có được những ngày vàng son rực rỡ bên cạnh những con ma duyên dáng xinh đẹp hiện ra chăm sóc cho mình vài hôm như trong những truyện kinh dị đó, rồi sau đó có lên thiên đàng luôn cũng được.
Bệnh viện Hồng Bàng chuyên về bệnh lao phổi, nằm ở góc đại lộ Hồng Bàng và đường Triệu Ðà. Bệnh viện rất rộng có nhiều dãy trại bệnh, mái lợp ngói đỏ cũ kỹ, 1 hoặc 2 tầng âm u lạnh lẽo cất theo kiểu Tây từ hồi Pháp còn cai trị ở VN, chỉ có 1 khu ở cuối bệnh viện mới cất sau này là rất khang trang, trang bị đầy đủ tiện nghi cho cả 4 tầng lầu sạch sẽ, lầu 2 dành cho sinh viên của các trường đại học ở Sài Gòn đến chữa bệnh, có cái cầu thang rộng rãi ngăn đôi, bên phải là khu sinh viên nam, bên trái là khu sinh viên nữ.
Trong bệnh viện có những lối đi bộ quanh co ngoằn ngoèo, nối từ trại bệnh này sang trại bệnh khác, bề ngang độ hơn 2 thước, nơi thì tráng nhựa, nơi thì trải đá mịn, nhưng tất cả đều loang lở vì không được tu bổ lâu ngày. Hai bên những con đường nho nhỏ quanh co này là những cây còng to lớn, có cây lớn đến đổi 2 người ôm không hết, cành lá xum xê, dày đặc, che kín lối đi, ngay cả ban ngày mà cũng đã thấy rờn rợn, lạnh lẽo, âm u. Ðây đó có những lùm bụi cao độ 1, 2 thước chen chúc nhau đủ thứ lá to lá nhỏ, lá dài lá ngắn, xanh đậm xanh lợt mọc vô trật tự… như cố tình che dấu các khu trại bệnh với tường quét vôi vàng ẩn hiện ở xa xa. Xung quanh bệnh viện là hàng rào làm bằng những cây song sắt đen xì cao khoảng 2 thước, trên có mũi nhọn như mũi tên, chỗ còn sơn, chỗ đã rỉ sét.
Phía hàng rào ở bên đường Triệu Ðà có một cái miễu nho nhỏ xây bằng gạch đỏ, ngói xanh, dựa lưng vào bệnh viện, lư hương bên trong đó có cắm rất nhiều chân nhang đỏ còn mới, và một nải chuối xanh, một cái bình trà bằng đất nâu đen và vài cái chung nho nhỏ, trông như có vẻ được cúng kiếng thường xuyên. Người ta nói bệnh nhân trong bệnh viện này tự tử nhiều lắm, vì các hồn ma phải kiếm người khác thay thế mới đi đầu thai sang kiếp khác được, nên họ phải thờ cúng để khỏi bị các oan hồn này quấy nhiễu. Riêng tôi thì nghĩ là những bệnh nhân bị lao phổi tinh thần họ rất sáng suốt, nhưng biết rằng bệnh của mình (hồi đó) chữa hoài không hết, nhà cửa túng thiếu, tiền bạc không còn, mọi người xa lánh, nên phần lớn chán nản mà tìm đến cái chết để phủi sạch nợ đời.
Ðêm đó tôi trực có một mình, phải đi tới đi lui từ trại bệnh này sang trại bệnh khác dưới những hàng cây âm u lạnh lẽo đó. Lúc thường thì tôi buồn ngủ sớm lắm, nhưng tối đó tôi tỉnh táo vô cùng, vì hồi chiều trước khi vào trực tôi chiều thằng Tâm, bạn học chung lớp, để đi đến quán cà phê Thúy Vân ở đầu ngõ, có cô hàng cà phê xinh xắn mà nó mê lắm, nhưng không dám đi một mình. Quán này chỉ có bán cà phê phin thôi, nên tôi đành phải uống một ly cà phê đắng, cắn răng nghe hết mấy bản nhạc tình buồn, thêm vào đó nhìn cái mặt u sầu, thất tình của nó, tôi càng thấy chán đời, bày đặt yêu đương làm chi cho khổ tấm thân.
Phần tôi, tôi biết chắc chắn là ly cà phê này sẽ làm cho tôi không ngủ được đêm nay, nhưng không sao, bề nào tôi cũng phải thức trực mà, điều tôi không ngờ là ly cà phê đắng này lại làm tôi tỉnh táo và sáng suốt vô cùng, cho nên chuyện tôi gặp ma không phải là chuyện mơ ngủ đâu.
Phần tôi, tôi biết chắc chắn là ly cà phê này sẽ làm cho tôi không ngủ được đêm nay, nhưng không sao, bề nào tôi cũng phải thức trực mà, điều tôi không ngờ là ly cà phê đắng này lại làm tôi tỉnh táo và sáng suốt vô cùng, cho nên chuyện tôi gặp ma không phải là chuyện mơ ngủ đâu.
Lúc đó là khoảng 12 giờ khuya, tôi được gọi sang một trại bệnh thật xa, ở cuối nhà thương, để ký giấy khai tử cho một ông già khoảng gần 60 tuổi. Ông này bị lao phổi rất nặng, lâu ngày ăn uống không được, thân thể gầy gò, khô héo còn da bọc xương, hai ngày trước đây căn bệnh đã ăn lan vào các mạch máu trong cuống phổi, nên ông ho ra máu nhiều, do đó người nhà chở từ Bến Lức lên để vào nhập viện, ai cũng biết là ông không sống được lâu.
Nhưng đêm nay, lựa đúng cái đêm tôi trực thì ông chết, chết đúng nửa đêm, làm tôi phải đi lang thang giữa trời khuya lạnh lẽo đến cái trại bệnh xa xăm của ông để khám nghiệm, sau khi chắc chắn là tim phổi và hệ thần kinh não bộ đều đã ngưng làm việc thì mới dám ký tên vào tờ giấy khai tử để bác y công đẩy cái xác không hồn này xuống phòng lạnh, chờ đến mai thông báo người nhà đến lãnh xác về chôn.
Thế là vào giữa đêm khuya khoắt thiêng liêng và lạnh lẽo này, tôi vừa mới tiễn thêm một người sang bên kia thế giới. Cái nghề thầy thuốc này lúc nào cũng đứng cheo leo ở giữa 2 thế giới: bên nay bờ là sự sống, bên kia bờ là cõi chết. Có người mới thấy đó mà đã vội vã đi sang bên kia, không kịp vẫy tay chào hay nói một lời vĩnh biệt. Có người sắp chết, sắp tới bờ bên kia thì mình giành giựt kéo lại thoát tay tử thần để trở về thế giới bên này, giữa cái chết và sự sống hình như có một sự ràng buộc nối tiếp nào đó, chớ không có đơn giản như người ta thường nghĩ.
Những ý nghĩ về sống chết, về thế giới bên này, thế giới bên kia, cứ lẩn quẩn trong đầu óc tôi, bước chân tôi thì cứ thẫn thờ đi dọc theo những con đường mòn rờn rợn, âm u, quanh co trở về phòng trực.
Ðêm nay trời Sài Gòn lành lạnh, thỉnh thoảng một cơn gió thốc thổi ùa qua khua động cành lá xum xuê của những cây còng ngạo nghễ to lớn, vang lên những tiếng kêu xào xạc thì thầm, như những tiếng gọi ma quái trêu ghẹo những người nhát gan trong đêm đen. Cách khoảng xa xa chừng mỗi 20 thước là một bóng đèn điện tròn mù mờ treo lủng lẳng dọc theo các lối đi không đủ soi sáng bước chân lần mò trên sỏi đá. Nhưng những con đường này tôi đã quen rồi, quen cả những tiếng rên siết vặn mình của những hòn sỏi nhỏ dưới gót giày đen; trong đêm tối hình như chúng gào thét lớn hơn có khi như nguyền rủa, có khi tạo ra những tiếng cười rờn rợn như những âm binh từ cõi vô hình để nhát những người yếu bóng vía.
Trên trời cao giữa những vì sao đêm thưa thớt, buồn bã là một vầng trăng lưỡi liềm già nua không làm sáng thêm một chút nào cái bóng tối dày đặc trong bệnh viện. Trời đêm nay ít sao, ánh sáng yếu ớt, lấp lánh như những ánh ma trơi len lỏi giữa những cành lá rậm rạp, đen sì, không ngừng run rẩy theo những cơn gió thốc chợt đến, chợt đi.
Khi tôi sắp sửa quẹo trái để trở về phòng trực, thì chợt thấy dưới ánh đèn mù mù xa xa bên tay phải có một bóng trắng ngồi trên băng đá dọc theo con đường nhỏ trước ngõ vào khu trại bệnh của sinh viên. Tôi đứng lại nhìn, nhưng xa quá nên không thể nào nhận ra bóng trắng trên băng đá là ai? Một chị y tá hay là bác y công chứ gì!
Nhưng lúc tôi ký giấy khai tử xong thì bác y công còn ở trong trại bệnh mà, đâu có ra đây trước tôi được, có lẽ một chị y tá nào ra ngồi hóng gió mát cho khỏe mà thôi. Tôi cất bước tiếp tục trở về phòng, mới đi có vài bước hình như tôi nghe có tiếng khóc thút thít hòa lẫn trong tiếng sỏi đá rên rỉ dưới chân tôi, tôi vội ngừng lại để lắng nghe, tiếng khóc khi đó nghe rõ hơn, đó là tiếng khóc của một người con gái, tiếng khóc chỉ nhẹ thôi, nhưng nghe thật rõ như ai đang khóc vào tai tôi, tiếng khóc nghe thật buồn, thật đau thương làm tôi thấy nhoi nhói trong tận đáy lòng.
Tôi đứng ngẩn ngơ tại chỗ phân vân không biết phải làm gì, không biết mình có giúp được gì cho người ta không, dĩ nhiên nếu người ta cần gì thì mình sẵn sàng giúp đỡ hết lòng, nhưng tôi cũng ngại lắm vì tánh tôi hồi đó nhát làm quen với mấy cô gái, nhất là gặp một cô lạ hoắc vào giữa đêm khuya khoắt như thế này thì chẳng biết phải ăn nói làm sao, nên tự bảo rằng đó là chuyện riêng tư của người ta, mình xía vô làm chi. Tôi lại tiếp tục cất bước chầm chậm ra đi.
Nhưng tiếng khóc thúc thít đó, một lần nữa dù rất nhỏ nhưng vẫn nghe thật rõ bên tai tôi, hình như nó cố tình bay theo để rót vào trong tai những lời nỉ non ai oán, thê lương từ một cõi u minh xa thẳm vọng về làm hai chân tôi không thể nào tiếp tục bước đi nổi, bước chân tôi bổng chợt chậm lại, chậm lại rồi ngừng hẳn, bóng trắng kia giờ đã khuất sau lùm cây rậm rạp nhưng tiếng khóc nỉ non vẫn tiếp tục tràn ngập đổ đầy tai tôi, lòng tôi chùn lại xót xa, tim tôi đau nhói từng hồi.
Khi đó gió từ đâu bỗng thổi tới ào ạt, liên tục, ầm ầm trên đầu tôi làm cho những chiếc lá nho nhỏ trên mấy cây còng già rơi rụng lả tả như mưa, cành lá nghiêng ngả xì xào vặn mình rên siết kẽo kẹt như trong cơn bão táp, nhưng tất cả những thứ ấy vẫn không át được tiếng người con gái khóc thút thít trong tai tôi. Mảnh trăng lưỡi liềm yếu ớt trên trời cao bỗng dưng núp sau đám mây đen làm cho cả bầu trời tối sầm lại, bóng đèn điện mù mờ lạc lõng trong bệnh viện lắc lư theo từng cơn gió thổi khiến nó vốn đã lờ mờ lại càng mờ ảo thêm. Bầu trời như sụp xuống thấp hơn, không gian tối đen quanh tôi như càng đậm đặc thêm.
Tôi thấy như có làn gió lạnh lùa vào trong chiếc áo choàng trắng đang mặc, rồi len lỏi thấm vào trong cột xương sống làm tôi rùng mình chợt cảm thấy lạnh lẽo vô biên, y như những truyện ma quỷ nhập vào người mà tôi đã đọc hồi còn nhỏ.
Khi tôi đến gần bóng trắng thì tự nhiên trời quang mây tạnh, vầng trăng lưỡi liềm lại nhô ra khỏi đám mây, sáng hơn khi nãy, xung quanh là muôn ngàn vì sao lấp lánh chớp tắt mừng vui giữa trời khuya, gió cũng ngừng thổi, tôi chợt ngửi thấy mùi hoa lài thoang thoảng đâu đây làm tôi rất ngạc nhiên, vì tôi biết chắc là trong nhà thương này không có trồng cây nào có bông cả, nhất là bông thơm như hoa lài, vì thường thì bệnh nhân hay thân nhân sẽ hái hết, cây cối sẽ trụi lủi, nên họ chỉ trồng cây không hoa, không trái mà thôi. Mùi hoa lài thì rất thân thuộc với tôi, có thể nói đó là mùi hoa duy nhất mà tôi thích, rất thân thuộc đến đỗi tôi có thể ngửi thấy mùi hoa này từ rất xa.
Lý do là vì hồi còn nhỏ trước nhà tôi có miếng vườn con con, má tôi đã trồng một cây hoa lài trong đó, tôi thường bắc ghế ngồi trong vườn đọc tiểu thuyết tình cảm, vô tình mùi hương thơm tinh khiết, ngọt ngào và nhẹ nhàng của loài hoa trắng ngây thơ này đã ngấm vào khứu giác tôi, hòa vào thân thể tôi, trở thành một với tôi và là hương thơm duy nhất trong đời mà tôi thích ngửi, nên khi lớn lên tôi không thích mùi nước hoa nào khác cả, mà tiếc thay mùi hoa lài thì chẳng thấy có tiệm mỹ phẩm nào bán.
Khi đến gần bóng trắng, mùi hoa lài êm dịu càng đậm đà hơn làm tôi cảm thấy khoan khoái, trong người lâng lâng, ngây ngất, dễ chịu vô cùng, tôi quên hết mọi cực khổ trong ngày, chợt thấy rất có cảm tình với người con gái này và bỗng dưng tôi cũng cảm thấy rất gần gũi với nàng y như là tôi đã quen với cô gái này từ lâu lắm rồi. Tiếng khóc nức nỡ khi đó chợt nhỏ lại có lẽ bóng trắng biết là có người đến gần.
Bóng đèn điện bên đường đã ngừng lung lay cho tôi thấy rõ bóng trắng đang ngồi trên băng đá là một người con gái gầy gầy, nho nhỏ, mái tóc đen dài óng mượt không uốn, xỏa xuống đến giữa lưng, đầu nàng hơi cúi nghiêng nghiêng về phía trước, làm cả một hàng tóc rũ thẳng xuống như một bức rèm thưa đen, che mập mờ nửa khuôn mặt trái soan. Nàng đang mặc chiếc áo bà ba trắng và chiếc quần lụa trắng mềm mại. Nhìn cách ăn mặc tôi biết nàng không phải là y tá hay nhân viên của bệnh viện, có lẽ là bệnh nhân mới nhập viện hay thân nhân có chuyện buồn nên ra đây ngồi than khóc một mình.
Khi tôi đến thật gần, mùi hoa lài càng thơm tho làm tôi thấy lòng mình thật là an tĩnh, tôi nhẹ nhàng hỏi:
– Xin lỗi… có gì làm cho… chị không vui, phải không?
Nàng từ từ ngẩng đầu lên thật chậm, nhìn tôi, tôi thấy mặt đất chung quanh tôi hơi rúng động, tôi đứng không vững lắm, vì trước mặt tôi là một người con gái đẹp tuyệt vời, tuổi chừng hai mươi, đôi mắt nàng thật buồn, màu đen huyền lóng lánh như đang chứa đựng cả ngàn vì sao lạc lõng lấp lánh trên trời cao, hai hàng lông mi dài đen, cong vút, rất ít khi thấy ở những cô gái Việt Nam.
Da mặt nàng trắng mịn màng, tôi chưa từng thấy ai không đánh phấn mà trắng như vậy bao giờ, nhưng đôi môi thì hơi nhạt màu như người thiếu máu, có lẽ nàng đang bị lao phổi nên phải vào đây chữa trị chăng? Những sợi tóc rối vương vấn trên vầng trán cao, một vài sợi dính vào bên má hình như còn thấm nước mắt của nàng, có lẽ nàng đã ngồi đây khóc lâu lắm rồi. Nàng chỉ nhìn tôi một chút rồi lại cúi xuống thút thít khóc, khi nãy tiếng khóc làm tôi xót xa một thì bây giờ tiếng khóc làm tôi đau đớn gấp mười lần, nhìn đôi vai gầy nho nhỏ run run dưới làn lụa trắng, mà ruột gan tôi như bị xé rách tơi bời. \
Tôi buồn quá, đứng lặng yên không biết nói gì, không gian quanh tôi tưởng chừng như bị đông thành băng giá, lạnh lẽo cứng ngắc tự ngàn năm như những tảng băng ở hai cực địa cầu, chừng một lúc lâu cố moi trong đầu óc ra những câu văn trong các cuốn tiểu thuyết tình cảm mà tôi đã đọc hồi còn nhỏ, tôi mới mở miệng nói được một câu:
– Thưa cô, tôi có thể làm gì được cho cô không?
Cô chỉ lắc đầu nhè nhẹ để những sợi tóc dài phất phơ nghiêng ngả, mà không nói gì. Thấy người ta đau khổ quá thì tôi chợt nổi máu anh hùng lên để giúp đời, nên tôi trở nên dạn dĩ hẳn ra, đầu óc sáng suốt trở lại, tôi khuyên lơn nàng:
– Cô về gường nằm nghỉ đi, đừng ở ngoài này lâu, sương khuya lạnh lắm, coi chừng bị bệnh khổ lắm đó.
Khi đó nàng mới nói, giọng của nàng thật êm, thật nhẹ nhưng rất buồn:
– Em đâu có giường mà đi nằm nghỉ. Em có còn gì nữa đâu. Anh Bình ơi, em đã chết rồi.
Khi đó tôi choáng váng muốn ngộp thở, thấy cả người lao đao, đứng không vững. Không phải vì sợ nàng nhát ma tôi, cho đến giờ phút đó thì đối với tôi thế gian này vẫn không thể nào có chuyện ma quỷ được, tôi còn cười thầm trong bụng vì cô này nhè tôi mà làm bộ nhát ma thì quả thật đã chọn lầm người, tôi không nhát ma cô là may phước lắm rồi.
Tôi choáng váng là vì không biết tại sao giữa đêm khuya khoắt lại có một người con gái đẹp như tiên nga giáng thế này, tự dưng lại biết tên mình. Tôi bỏ qua chuyện ma quỷ lẩm cẩm, vội vàng hỏi tên của cô là gì, làm sao cô lại biết tên tôi?
– Em tên là Lài, Trương Thị Lài, đang học đại học Văn Khoa năm thứ nhất thì bị bệnh, nên nằm trong khu nữ sinh viên cả tháng nay để chữa bệnh. Thấy anh thường vào thăm anh Trung, bạn của anh, nằm bên khu nam sinh viên mà anh Trung hay qua đàn cho tụi em hát nên quen, anh Trung nói anh hiền lắm nên tụi em để ý mà biết tên anh.
– Ðừng có tin ảnh, anh dữ như… cọp chớ hiền gì. Nè, mà tại sao em khóc? Sao khuya khoắt rồi mà lại ra đây có một mình, không sợ ma sao? Trời lạnh như vầy mà không mặc áo ấm, lỡ bị bịnh thì sao. Em ngồi ở đây từ hồi nào? Có đói bụng hông, anh mang bánh ra cho ăn. Bệnh viện này có ma nhiều lắm đó nghen, muốn anh kể vài chuyện cho nghe hông. Cho anh ngồi xuống được không, suốt đêm nay, đứng với đi không mỏi chân quá rồi, mà em đem hoa lài vô đây làm chi vậy? Anh thích hoa lài lắm, mùi thơm dễ chịu lắm em biết hông.
Lài cười khúc khích:
– Anh hỏi gì mà nhiều dữ vậy, làm sao em trả lời, vậy chớ đố anh biết làm sao em khóc.
– Con gái thì cái gì cũng khóc được, làm sao anh biết mà trả lời.
– Vậy chớ con trai mấy anh khóc ít lắm hả?
– Dễ ợt, chỉ có 3 thứ làm con trai khóc thôi. Thứ nhất là thi rớt, thứ nhì là mất xe, thứ ba là mất bồ.
Lài chợt cười lớn thành tiếng, tiếng cười của nàng trong trẻo kéo dài như pha lê, làm tôi thấy mừng không tả, chỉ mong nàng đừng trở về trại bệnh nghỉ ngơi theo lời khuyên dại dột của tôi khi nãy, mà tiếp tục ngồi đây nói chuyện với tôi lâu thêm một chút nữa. Lài cười hỏi:
– Tại sao mất bồ lại nằm hạng chót?
– Mất bồ thì có thể kiếm đứa khác, mất xe thì hết hy vọng có tiền mua chiếc nữa, thi rớt thì phải đi lính không biết ngày nào trở về, mà biết có còn sống không mà quay về, cho nên mất bồ chỉ được xếp hạng ba. Còn em tại sao mà khóc?
– Em tủi thân, vì em đã chết rồi.
– Em đừng có nói bậy, mặt mũi đẹp đẽ như vầy thì chết làm sao được.
– Em biết là nói ra anh hổng có tin, em chết đã 3 hôm rồi, nhưng vì chưa đúng hạn kỳ nên hồn em vẫn còn vất vưởng lẩn quẩn quanh đây. Vả lại em cũng muốn gặp anh, để trả chút ơn anh chăm sóc em khi xưa.
Ðến đây tôi vẫn nghĩ là Lài cố tình đùa dai nhát ma tôi, cũng như tôi đã từng đùa dai nhát ma người khác, tôi bèn chọc lại:
– Thì anh cũng là ma đây, vì anh vừa mới chết… ở trong lòng một ít. (1)
Lài cười thút thít:
– Vậy mà anh Trung cứ nói là anh hiền lắm.
– Hiền hay dữ thì tùy người đối diện. Lài lại khuyên tôi:
– Anh về phòng nghỉ đi, đừng có ngồi ở đây, sương khuya lạnh lắm.
– Bộ em không lạnh hả?
– Lạnh lắm chớ.
Tôi cầm lấy bàn tay Lài, bàn tay rất là mềm mại nhưng rất lạnh, y như bàn tay của những xác chết trong phòng lạnh mà tôi đã có dịp mân mê trong những giờ học khám nghiệm tử thi, nhưng tôi nghĩ là tại Lài ngồi quá lâu trong đêm khuya nên bị lạnh. Tôi vội vàng cởi chiếc áo choàng trắng của bệnh viện đang mặc choàng quanh lưng, trùm kín lấy 2 vai nàng, nàng đưa hai bàn tay lên luồn vào mái tóc mềm mại óng ả, lùa cả suối tóc đen ra bên ngoài chiếc áo choàng trắng. Lúc này mắt tôi đã quen với ánh sáng mờ ảo, nhìn kỹ tôi mới thấy Lài đẹp vô cùng, đẹp não nùng như những nàng tiên buồn trên thượng giới bị đày đọa xuống trần gian:
– Trời ơi, sao em để lạnh như vậy, ngồi ngoài trời lạnh như vầy mà không mặc áo lạnh lỡ bị bệnh thì sao, mặc đỡ cái áo choàng này đi, tay em lạnh lắm đó, hay là trở về trại bệnh đi.
Lài nói thật chậm rãi, tiếng nàng thật trầm, thật áo não như từ một cỏi âm ty xa thẳm vọng về:
– Em đã nói em chết thật rồi mà anh hổng chịu tin, em đâu có còn giường nữa đâu mà vô trại nằm. Hồi nãy anh hỏi em đem hoa lài vô đây làm chi vậy? Em đâu có đem hoa lài vô đây làm gì, chẳng qua là vì tiền kiếp em vốn là đóa hoa lài, nên sau khi em chết rồi thì em trở về với kiếp trước nên em có mùi thơm của hoa lài. Phần lớn tên gọi hay những sự việc xảy ra chung quanh không phải là ngẫu nhiên đâu, mà việc gì cũng có vô số cơ duyên hợp lại mà thành, những người đang còn sống như anh vì không có sự hiểu biết sâu sắc hay không có cơ hội tập trung thiền định để nhìn thật sâu thật kỹ những cơ duyên này cho nên cứ tưởng mọi việc tự nhiên mà có. Giống như em nè đâu phải tự dưng ba má em đặt tên cho em là Lài.
– Em phải để cho anh xét túi nếu không có hoa lài trong túi, mà em thơm thật thì anh mới tin.– Anh cứ xét đi.
Quả thật là chẳng có gì trong túi nàng, mà cái mùi thơm hoa lài nhẹ nhàng y như cứ từ trong tóc tay, da thịt, hơi thở nàng tỏa ra. Ðến lúc đó thì tôi tin nàng là ma thật. Nhưng rồi một ngày nào đó tôi cũng sẽ chết, sẽ là ma như nàng, mà ngồi bên cạnh một con ma xinh đẹp như vậy trong đêm thanh vắng với mùi hoa lài thơm tho nhẹ nhàng dễ chịu mà tôi ưa thích từ hồi còn nhỏ như vầy thì đâu có gì đáng sợ. Nên tôi cứ tiếp tục ngồi đó nói đủ thứ chuyện với Lài.
Nàng cho biết là tôi với nàng đã có duyên với nhau trong nhiều kiếp trước, nên đêm nay nàng mới hiện ra để gặp lại tôi. Nàng chính là đóa hoa lài trong vườn nhỏ của nhà tôi khi xưa, mà mỗi chiều tôi thường đến ngồi bên nàng, thường nâng niu và hôn nhẹ lên cánh hoa. Lài biết tôi thích mùi thơm của nàng, nên thường khép cánh cố giữ mùi hương lại chờ đến chiều tôi về nàng mới để cho cánh hoa hé mở tỏa hương thơm ngan ngát. Còn tôi, khi xưa thì rất yêu hoa lài, nên lúc nào cũng nhẹ nhàng cẩn thận chăm sóc tưới nước, bón phân.
Lài nói, nàng cảm kích nghĩa cử đó, nên giờ muốn gặp lại để ngỏ lời cám ơn cái duyên hội ngộ khi trước. Khi xưa, ngồi bên nhau, dù không nói một câu gì, nhưng chúng tôi đã rất thân với nhau, đã chăm sóc và thương yêu nhau bằng một tình yêu rất nhẹ nhàng và thanh khiết. Ðêm nay, chúng tôi ngồi kề bên nhau, kẻ âm người dương, tuy thuộc về hai thế giới rất xa xôi, nhưng không những thân xác thật gần gũi như dính chặt vào nhau, mà hai tâm hồn như đã quấn quít lấy nhau từ kiếp nào rồi, chúng tôi rất quý trọng nhau, cùng kể cho nhau nghe những buồn vui đã xảy ra trong cuộc đời, chúng tôi hợp với nhau lắm, nên suốt đêm đó nói không bao giờ dứt. Tuy nhiên miệng tôi khi đó đắng chát, ruột gan tôi thì tan nát tơi bời vì tôi biết rằng người con gái dịu hiền xinh đẹp vừa mới gặp mà tôi thấy lòng như đã thương yêu từ bao kiếp trước này chỉ là một hồn ma và chỉ trong chốc lát nữa đây, chúng tôi sẽ xa nhau nghìn trùng, biền biệt ở hai thế giới khác, không biết bao giờ mới gặp lại nhau.
Biết tôi đang buồn, Lài mới từ từ giải thích rằng thật sự chúng tôi đã có duyên với nhau từ nhiều kiếp trước. Chúng tôi đã từng là đôi chim tung tăng suốt ngày bay lượn giữa trời cao; chúng tôi đã từng là đôi bướm lững lờ, chập chờn đuổi bắt nhau giữa rừng sâu; tôi đã từng là bóng cây đứng bên bờ suối che mát cho Lài, còn nàng là dòng suối ngọt ngào suốt ngày róc rách ca hát cho tôi nghe. Chúng tôi đã từng gặp nhau và đã xa nhau trong nhiều kiếp nhưng vì tình cảm quá đậm đà nên chúng tôi cứ còn trở lại để gần nhau. Nhưng dù trong những lúc xa nhau chúng tôi vẫn mang theo hoài hình ảnh của người kia ở trong lòng.
Lài lấy thí dụ: tôi cũng như một tảng mây trắng lơ lững bay giữa trời xanh, còn Lài như là một dòng sông êm đềm chảy nhẹ nhàng qua bao đồng lúa, qua bao cánh rừng, dù đứng ở đâu ta cũng thấy dưới lòng sông lúc nào cũng ôm ấp chứa đựng hình ảnh của đám mây, còn mây có bay đi đến tận nơi nào thì cũng đều mang theo những giọt nước mát mẻ ngọt ngào của dòng sông. Ðứng ở ngoài cứ tưởng dòng sông và mây trắng là hai thực thể cách biệt muôn trùng, nhưng thật ra chúng tôi đang có mặt trong nhau từng phút giây, rồi thì mây cũng sẽ trở về với dòng sông một ngày nào đó. Lài khuyên tôi đừng buồn, hãy rán giữ gìn sức khỏe, ở một kiếp lai sinh nào đó thì chúng tôi sẽ lại gặp nhau.
Ðêm đã gần tàn, tôi biết giờ chia ly cũng sắp đến, tôi cũng vừa nếm được ý nghĩa đớn đau đã nằm sẵn trong câu ngàn thu vĩnh biệt; rồi đây trong cõi đời mù mịt còn lại tôi vẫn phải tiếp tục lê những bước chân độc hành lang thang trên những con đường vắng mà nghe tiếng sỏi đá rên siết vặn mình dưới gót giày cô đơn trong đêm tối, như tôi đã bước đi trên những con đường lạnh lẽo trong đêm qua ở bệnh viện này. Tuy nỗi buồn đang làm tan nát cả ruột gan, nhưng tôi cố gắng không biểu lộ ra ngoài, vậy mà Lài cũng hiểu, nàng khuyên tôi đừng buồn, hãy coi đây như là một chuyến đi xa, rồi mai kia mình sẽ quay về, sẽ còn gặp lại. Trước khi từ biệt, Lài tặng tôi một bài thơ ngắn, tiếng nàng thật nhỏ, thật trầm, hình như nàng cũng buồn không kém gì tôi. Tôi học ban toán và khoa học từ nhỏ nên rất dốt về thơ, vậy mà bài này nghe nàng đọc có một lần thôi tôi còn nhớ mãi đến bây giờ.
\
Vẫn biết đây là cõi vô thườngNhưng tình yêu ai cứ vấn vương
Mai mốt luân hồi em trở lại
Ngàn năm anh hỡi vẫn còn thương
Trước khi chia tay Lài cám ơn tôi đã làm cho nàng bớt buồn, tôi cám ơn Lài đã dành cho tôi một đêm thật đẹp, cho tôi ngửi lại mùi hoa thơm tho nhẹ nhàng mà tôi đã yêu thích từ hồi còn nhỏ, tôi nguyện sẽ mang những kỷ niệm này theo mãi đến cuối đời. Tôi mong sẽ sớm gặp lại nàng trong một kiếp lai sinh.
Lài nói nàng thương má lắm và mang cái áo len mỏng màu đỏ xếp gọn gàng để bên cạnh nãy giờ nhưng tôi không nhìn thấy, trao cho tôi và nhờ tôi mang đến nhà cho má nàng, căn dặn má nàng phải mặc cho ấm trong những ngày trời lạnh…
*********
– Ông thầy! ông thầy! ông thầy!!!
Tôi nghe như có tiếng ai gọi bên tai, mở mắt dậy thì trời đã hừng sáng, tôi thấy lạnh lắm, nhìn lên thì thấy chị y tá Hương đang trố mắt kinh ngạc đứng đó nhìn mình trừng trừng, chiếc áo choàng trắng của tôi nằm vắt bên cạnh trên thành dựa lưng của chiếc ghế đá trước đường vào khu trại bệnh sinh viên mà tôi đang ngồi. Tôi vội đứng dậy khoác áo choàng vào cho đỡ lạnh, mùi thơm hoa lài nhè nhẹ từ trong áo bay vào mũi khiến lòng tôi ngây ngất, tôi biết Lài còn quanh quẩn đâu đây.
– Chị Hương, gọi có gì hông?
– Chèn ơi, đi kiếm ông thầy suốt đêm hông thấy, ông thầy ngồi đây lâu chưa? Em đi ngang qua đây hai ba lần sao hổng thấy.
– Bộ trong trại có bệnh nặng hả chị Hương?
– Hổng phải. Tại tụi em nấu 1 nồi chè đậu xanh ở ngoài phòng trực, tính mời ông thầy ăn chung cho vui, đi kiếm hết mọi chỗ mà hông thấy, bây giờ chắc là chè nguội hết rồi, ông thầy đi đâu vậy. Bác Bảy y công nói ông thầy ký giấy khai tử hồi khuya xong là biến mất, hỏi chú Tư gác cổng thì cũng hổng thấy ông thầy ra khỏi bệnh viện, vào phòng trực của ông thầy thì cũng vắng ngắt, mấy chị em chia nhau đi kiếm ông thầy khắp nơi cũng không gặp, ông thầy ở đâu vậy?
\
Tôi cũng ngẩn ngơ:
– Tôi ngồi ở băng đá này từ hồi khuya tới giờ mà có thấy ai đi qua đâu?
– Chèn ơi, chính em đi ngang qua đây 3 lần, hai lần trước thì đi chung với chị Hà tại em sợ ma hổng dám đi một mình, bây giờ hừng sáng rồi mới dám đi một mình, ông thầy ngồi đây thiệt hả, chắc là tụi em phải đeo kiếng cận thị quá.
Tôi theo chị Hương về phòng trực, mặt mày ngơ ngác, đầu óc còn đang quay cuồng với muôn ngàn câu hỏi về hai nẻo âm dương, về một tình yêu thanh khiết đầu tiên trong đời, với một người con gái đẹp tuyệt vời… nhưng chỉ đến và đi nhanh hơn một giấc mơ, không thể nào giải thích được. Từ lâu tôi đã cố luyện cho mình thành một người cứng cỏi, một trái tim sắt đá không thể bị xao động bởi những chuyện yêu đương vớ vẩn để lúc nào cũng vững bước hiên ngang đi vào cuộc đời như những vị anh hùng dũng cảm xa xưa, nên lòng tôi lúc nào cũng dửng dưng trước những quyến rũ của sắc đẹp.
Ðôi khi tôi còn chê trách những thằng bạn mặt mày ủ rũ thất tình, hoặc cười chọc phá những đứa mê mệt với tình yêu quên cả giờ tập họp nên thường hay bị bỏ tù lúc còn ở quân trường, như BS Trương Chí Vân, BS Nguyễn Hữu Tường, … Phần tôi thì tâm hồn luôn thanh thản, lúc nào cũng siêng năng rèn luyện thân thể, chăm chỉ hăng hái chu toàn mọi bổn phận và trách nhiệm của mình, nhưng lần này thì tôi bị ngã quỵ, trái tim sắt thép của tôi bị tan rã thành một vũng nước bèo nhèo như một tảng băng giá vừa được đưa ra dưới ánh nắng rực rỡ của mặt trời. Trái tim tôi đang thổn thức theo từng nhịp đập của yêu thương, lòng tôi thì nức nở mang theo một nỗi buồn áo não, tiếc thương cho một người con gái dịu hiền đẹp tuyệt trần có mùi thơm hoa lài phảng phất đã sớm về âm thế…
Tôi vừa mới bước vào phòng trực, thì mọi người lập tức yên lặng, mọi cặp mắt đều chiếu thẳng vào tôi như những cặp đèn pha sáng rực của xe hơi trong đêm tối, họ muốn biết chuyện gì đã xảy ra suốt đêm qua trên gương mặt thất thần của tôi. Tôi chẳng nói một lời nào, lập tức ngồi xuống bàn, với tay kéo chén chè đậu xanh duy nhất còn lại ở giữa bàn, không cần phải xã giao lịch sự gì cả, bởi vì tôi thấy đói bụng khủng khiếp, phần thì lạnh quá xá, chén chè cũng đã nguội ngắt, nhưng tôi ăn một mạch sạch trơn rất là ngon lành.
Một vài tia nắng sớm yếu ớt lấp ló ngoài khung cửa sổ, có tiếng chim hót nho nhỏ xa xa trên cành cây cao báo hiệu bình minh sắp đến, tôi định thần từ từ nhìn hết mọi người, bốn cô y tá đứng cạnh nhau, đầu tóc quần áo đã sửa soạn tươm tất, chờ chút nữa giao ban xong là về nhà nghỉ ngơi, nhưng trong giờ phút này đây ai nấy cũng đang hồi hộp đợi chờ, muốn biết chuyện gì đã xảy ra cho tôi suốt đêm qua. Chị Liễu, y tá trưởng lo lắng ấp úng hỏi:
– Ðêm qua có chuyện gì vậy ông thầy?
Tôi chưa vội trả lời, từ từ đứng dậy uể oải bước đến cái tủ lạnh lớn trong góc phòng, mở cửa đổ đầy một ly nước lạnh, uống xong một hớp lớn, tôi chậm rãi kể hết những chuyện xảy ra hồi hôm, ai nấy cũng trợn trừng mắt, há hốc mồm kinh ngạc, chị Liễu nói:
– Tội nghiệp cho cô Lài lắm, lúc vào đây cổ khóc hoài.
– Phải cô Lài ở khu nữ sinh viên không?
– Ðúng rồi, cổ chết đã 3 hôm rồi. Cổ đẹp lắm, đẹp nhất trong trại đó, nhiều cậu sinh viên trong này mê cổ lắm, mà hình như cổ hổng có để ý đến ai cả. Ông thầy trước đây có… quen với cổ không?
– Không, lần đầu tiên tôi mới gặp cổ đó.
– Vậy thì ông thầy có số đào hoa lắm đó.
– Ðào hoa cái con khỉ gì! Từ trước tới giờ lúc nào cũng lủi thủi một mình, đến chừng mới quen được một người thì người ta chết đã 3 bữa rồi…
Mắt tôi bỗng dừng lại khi thấy chiếc áo len đỏ xếp ngay ngắn trên một cái kệ kê sát bên tường, tôi bước vội đến cầm lên xem. Ðúng rồi, chiếc áo len đỏ mà Lài đã nhờ tôi mang về cho má. Tôi hỏi:
– Áo này của ai đây?
Chị Liễu nói không biết áo của ai để đó đã 3 hôm rồi. Tôi mới giải thích đó là áo của Lài nhờ tôi gởi về cho má, thì ai nấy cũng lắc đầu lè lưỡi.
Tôi lật vội cuốn sổ bệnh để trên bàn trực, dò lấy tên Trương Thị Lài, đây rồi, địa chỉ nhà số… đường Trương Minh Giảng, Quận Tân Bình. Tôi chép vào miếng giấy nhỏ, cẩn thận bỏ vào trong túi áo, xong rồi ôm chiếc áo len đỏ lững thững rời phòng trực bước ra ngoài mà nghe cõi lòng tan nát, bước chân đi như một thân xác không hồn, quên cả việc phải ở lại giao ban ngày hôm đó.
Liêu Vĩnh Bình
(1) Chú thích cho các bạn trẻ: ý dựa theo bài thơ Yêu của Xuân Diệu, hồi thời đó sinh viên học sinh ai cũng đều thuộc nằm lòng:
TIN THẾ GIỚI
Nhật hỗ trợ hàng hải cho VN, Philippines giữa tranh chấp Biển Đông
Nhật Bản tuyên bố sẽ giúp Đông Nam Á duy trì quyền tự do hàng hải và hàng không trong khu vực.
12.03.2015
Nhật Bản đang âm thầm quay trở lại Biển Đông, củng cố quan hệ với Việt Nam và Philippines trong nỗ lực ngăn chặn các hành động của Trung Quốc giữa lúc Hà Nội và Manila đang tìm cách đương đầu với các tham vọng chủ quyền của Bắc Kinh.
Hợp tác an ninh giữa Tokyo với Việt Nam và Philippines được mở ra trên diện rộng. Ngoài việc cung cấp tàu tuần tra cho hai nước Đông Nam Á này, trong vài tháng tới , Nhật Bản sẽ tổ chức các cuộc diễn tập hải quân đầu tiên với Philippines. Các bác sĩ quân y của Nhật cũng tập huấn cho lực lượng thủy thủ vận hành tàu ngầm của Việt Nam.
Nhật Bản đang dính vào vụ tranh chấp chủ quyền với Bắc Kinh ở Biển Hoa Đông.
Dù không có tranh chấp ở Biển Đông, nhưng Nhật Bản lo ngại bị cô lập nếu Trung Quốc thống lĩnh đường thủy lộ mà nhiều tàu bè của Nhật thường qua lại.
Hỗ trợ của Nhật Bản dành cho hai nước Việt Nam và Philippines theo sau bài diễn văn hồi tháng 5 năm ngoái của Thủ tướng Shinzo Abe tuyên bố rằng Nhật Bản sẽ giúp Đông Nam Á duy trì quyền tự do hàng hải và hàng không trong khu vực.
Reuters ngày 12/3 dẫn lời chuyên gia về an ninh khu vực Ian Storey tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore nói xu hướng này ngày càng trở nên rõ ràng và ông không cho là Tokyo sẽ lùi bước, bất chấp những quan ngại của Bắc Kinh.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã lên tiếng rằng Bắc Kinh hy vọng Nhật Bản sẽ hành động và phát biểu cẩn trọng về vấn đề Biển Đông và lưu ý rằng Nhật không phải là một bên có tranh chấp trong vấn đề này.
Chiếc tàu đầu tiên trong số 10 tàu tuần duyên Nhật Bản đang đóng cho Philippines sẽ được bàn giao vào cuối năm nay.
Một giới chức Nhật Bản không nêu tên nói với Reuters rằng Nhật Bản có thể cũng sẽ hỗ trợ các hoạt động cải thiện cơ sở hạ tầng xung quanh một căn cứ quân sự của Philippines ở đảo Palawan, một trong những khu đất gần với Trường Sa nhất.
Phát ngôn nhân lực lượng vũ trang Philippines, Restituto Padilla, hoan nghênh các động thái của Nhật và nói thêm rằng ‘Philippines và Nhật cùng giúp nhau bảo đảm các thủy lộ này là một điều tự nhiên.’
Chính phủ Việt Nam chưa lên tiếng bình luận về sự hỗ trợ nhận từ Nhật, trong đó có 6 tàu tuần tra hải quân đã qua sử dụng cùng với sự tập huấn y tế cho thủy thủ Việt Nam giữa lúc Hà Nội tiếp tục nhận thêm các tàu ngầm mua từ Nga.
Truyền thông nhà nước hôm nay loan tin Hà Nội và Tokyo hôm 11/3 vừa ký thỏa thuận về chương trình đào tạo giảng viên hàng hải của Việt Nam.
Trang web Cục Hàng Hải Việt Nam dẫn lời Cục trưởng Nguyễn Nhật cho hay từ năm 1994 đến nay, có nhiều thuyền viên Việt Nam tham dự khóa đào tạo của Trung tâm Tuyển dụng thuyền viên Nhật Bản (SECOJ).
Ông Nhật thừa nhận chất lượng thuyền viên của Việt Nam hiện tại còn thấp và bày tỏ hy vọng Tokyo sẽ tiếp tục tăng cường hỗ trợ Việt Nam trong công tác đào tạo thuyền viên và giảng viên hàng hải trong tương lai.
Nguồn: IBBTimes, Reuters
Mỹ lo ngại Việt Nam để Nga sử dụng Cam Ranh
Vịnh Cam Ranh từng là nơi Nga đóng căn cứ Hải Quân (1979-2001). Ảnh chụp trong chuyến thăm vịnh của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta ngày 3/6/ 2012.REUTERS/Jim Watson/Pool
Hãng tin Reuters, ngày 11/03/2015, đưa tin, Washington đã đề nghị Hà Nội không để quân đội Nga sử dụng căn cứ quân sự Cam Ranh làm điểm tiếp dầu cho các máy bay ném bom chiến lược Nga. Trong thời gian gần đây, các máy bay này đã xuất hiện với tần suất lớn trong vùng Châu Á Thái Bình Dương
Một quan chức quốc phòng Mỹ xin giấu tên cho biết, gần đây, Nga đã gia tăng nhiều chuyến bay quân sự trong vùng Châu Á Thái Bình Dương và Washington đã « đề nghị phía Việt Nam bảo đảm là Nga không được sử dụng căn cứ quân sự trong vịnh Cam Ranh để tiến hành các hoạt động có thể gây căng thẳng trong vùng » . Quan chức này cũng nói thêm, chính quyền Mỹ hiểu Việt Nam có quyền quan hệ với bất kỳ đối tác nào phù hợp với họ.
Trả lời câu hỏi của Reuters, tướng Vincent Brooks, Tư lệnh quân đội Mỹ tại Thái Bình Dương tố cáo Nga có hành động « khiêu khích » khi thực hiện, trong thời gian gần đây, hàng loạt phi vụ trong những vùng được cho là nhạy cảm như xung quanh đảo Guam, nơi có căn cứ quân sự lớn của Mỹ. Ông Brooks khẳng định, máy bay ném bom chiến lược của Nga áp sát được không phận Guam là nhờ sự hỗ trợ của các máy bay tiếp liệu lấy dầu từ căn cứ quân sự Cam Ranh.
Nhận định về đề nghị trên của Washington, hôm nay, chuyên gia Nga Igor Korotchenko, Tổng Giám đốc Trung tâm phân tích thương mại vũ khí thế giới nói, chính quyền Việt Nam sẽ không đáp ứng yêu cầu này của Washington và hợp tác quân sự Nga-Việt vẫn là ưu tiên của Hà Nội.
Ngày 04/01/2015, Bộ Quốc phòng Nga thông báo, năm ngoái, bốn máy bay tiếp liệu loại IL-78 đã sử dụng căn cứ Cam Ranh để tiếp dầu cho các máy bay ném bom chiến lược của Nga TU-95 « Bear ».
Sau khi hết hợp đồng cho Liên Xô thuê ( từ 1979-2002), cảng Cam Ranh đã được nhiều nước nhòm ngó muốn thuê để phục vụ các hoạt động quân sự, trong đó có Nga, Mỹ và Trung Quốc.
http://vi.rfi.fr/20150312-my-vn//
Sputnik là cơ quan truyền thông quốc tế do chính phủ Nga sở hữu và quản lý theo một nghị định từ năm 2013 của Tổng thống Putin.
Cơ quan truyền thông này khai trương hồi tháng 11/2014 và thay thế hãng thông tấn RIA Novosti và Đài phát thanh Quốc tế Nga.
Vào hôm 11/03 hãng tin Reuters có bài đặc biệt mô tả Hoa Kỳ yêu cầu Việt Nam ngưng cho Nga sử dụng cảng Cam Ranh để tiếp nhiên liệu cho chiến đấu cơ của Nga.
Đề nghị của Mỹ được một quan chức Bộ Ngoại giao Mỹ tiết lộ nói máy bay có khả năng mang vũ khí hạt nhân của Nga đã có các chuyến bay nhằm biểu thị sức mạnh trước Mỹ ở châu Á- Thái Bình Dương.
Ông Igor Korotchenko nói: “Đề nghị của chính phủ Hoa Kỳ là sự thô lỗ quá rõ.
"Việc ám chỉ phi cơ Nga có thể được tiếp nhiên liệu từ căn cứ ở Vịnh Cam Ranh và rằng các phi cơ này có khả năng mang đầu đạn hạt nhân là tuyên bố khiêu khích và vô căn cứ.
"Sứ mệnh của các máy bay ném bom của Nga tại vùng châu Á- Thái Bình Dương không gây ra sự đe dọa nào,” ông Korotchenko nói vào hôm thứ 11/03.
Ông cũng nói thêm rằng nhà chức trách Việt Nam sẽ không đép ứng yêu cầu của Washington vì hợp tác quân sự Nga Việt và hợp tác kỹ thuật quân sự vẫn là ưu tiên của Hà Nội.
Ông Korotchenko cũng nói rằng việc Hoa Kỳ đang triển khai các hệ thống phòng vệ chống hỏa tiễn tại châu Á- Thái Bình Dương có thể tạo mối đe dọa thực sự cho an ninh khu vực này.
“Hoa Kỳ và đồng minh của họ có thể khiêu khích tạo bất ổn trong vùng với hoạt động của hệ thống chống hỏa tiễn và động thái này chỉ khuấy động căng thẳng và châm ngòi cho chạy đua vũ trang,” ông Igor Korotchenko nói.
Trong bài viết ‘Quân sự Mỹ-Việt và chính sách "ba không"’ gửi BBC tiếng Việt hồi năm 2013, GS Carlyle A. Thayer, Học viện Quốc phòng Australia viết:“Khả năng quân đội Hoa Kỳ trở lại Cảng Cam Ranh trong tương lai gần là khó xảy ra.
“Việt Nam có chính sách "ba không" - không liên minh quân sự, không căn cứ quân sự và không sử dụng quan hệ song phương nhắm vào nước thứ ba.”
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2015/03/150312_russia_us_vn_cam_ranh_request_reaction
Trả lời câu hỏi của Reuters, tướng Vincent Brooks, Tư lệnh quân đội Mỹ tại Thái Bình Dương tố cáo Nga có hành động « khiêu khích » khi thực hiện, trong thời gian gần đây, hàng loạt phi vụ trong những vùng được cho là nhạy cảm như xung quanh đảo Guam, nơi có căn cứ quân sự lớn của Mỹ. Ông Brooks khẳng định, máy bay ném bom chiến lược của Nga áp sát được không phận Guam là nhờ sự hỗ trợ của các máy bay tiếp liệu lấy dầu từ căn cứ quân sự Cam Ranh.
Nhận định về đề nghị trên của Washington, hôm nay, chuyên gia Nga Igor Korotchenko, Tổng Giám đốc Trung tâm phân tích thương mại vũ khí thế giới nói, chính quyền Việt Nam sẽ không đáp ứng yêu cầu này của Washington và hợp tác quân sự Nga-Việt vẫn là ưu tiên của Hà Nội.
Ngày 04/01/2015, Bộ Quốc phòng Nga thông báo, năm ngoái, bốn máy bay tiếp liệu loại IL-78 đã sử dụng căn cứ Cam Ranh để tiếp dầu cho các máy bay ném bom chiến lược của Nga TU-95 « Bear ».
Sau khi hết hợp đồng cho Liên Xô thuê ( từ 1979-2002), cảng Cam Ranh đã được nhiều nước nhòm ngó muốn thuê để phục vụ các hoạt động quân sự, trong đó có Nga, Mỹ và Trung Quốc.
http://vi.rfi.fr/20150312-my-vn//
Đề nghị của Mỹ về Cam Ranh là thô lỗ'
- 12 tháng 3 2015
Việt Nam sẽ không thực hiện đề nghị của Hoa Kỳ muốn Hà Nội ngưng dùng Cam Ranh là nơi hỗ trợ cho chiến đấu cơ của Nga, theo một chuyên gia Nga.
Bình luận được ông Igor Korotchenko, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Mua bán Vũ khí, một viện nghiên cứu phi chính phủ nằm tại Moscow, đưa ra vào hôm 12/03 trong bài của hãng thông tấn Sputnik.Sputnik là cơ quan truyền thông quốc tế do chính phủ Nga sở hữu và quản lý theo một nghị định từ năm 2013 của Tổng thống Putin.
Cơ quan truyền thông này khai trương hồi tháng 11/2014 và thay thế hãng thông tấn RIA Novosti và Đài phát thanh Quốc tế Nga.
Vào hôm 11/03 hãng tin Reuters có bài đặc biệt mô tả Hoa Kỳ yêu cầu Việt Nam ngưng cho Nga sử dụng cảng Cam Ranh để tiếp nhiên liệu cho chiến đấu cơ của Nga.
Đề nghị của Mỹ được một quan chức Bộ Ngoại giao Mỹ tiết lộ nói máy bay có khả năng mang vũ khí hạt nhân của Nga đã có các chuyến bay nhằm biểu thị sức mạnh trước Mỹ ở châu Á- Thái Bình Dương.
Ông Igor Korotchenko nói: “Đề nghị của chính phủ Hoa Kỳ là sự thô lỗ quá rõ.
"Việc ám chỉ phi cơ Nga có thể được tiếp nhiên liệu từ căn cứ ở Vịnh Cam Ranh và rằng các phi cơ này có khả năng mang đầu đạn hạt nhân là tuyên bố khiêu khích và vô căn cứ.
"Sứ mệnh của các máy bay ném bom của Nga tại vùng châu Á- Thái Bình Dương không gây ra sự đe dọa nào,” ông Korotchenko nói vào hôm thứ 11/03.
Ông cũng nói thêm rằng nhà chức trách Việt Nam sẽ không đép ứng yêu cầu của Washington vì hợp tác quân sự Nga Việt và hợp tác kỹ thuật quân sự vẫn là ưu tiên của Hà Nội.
Ông Korotchenko cũng nói rằng việc Hoa Kỳ đang triển khai các hệ thống phòng vệ chống hỏa tiễn tại châu Á- Thái Bình Dương có thể tạo mối đe dọa thực sự cho an ninh khu vực này.
“Hoa Kỳ và đồng minh của họ có thể khiêu khích tạo bất ổn trong vùng với hoạt động của hệ thống chống hỏa tiễn và động thái này chỉ khuấy động căng thẳng và châm ngòi cho chạy đua vũ trang,” ông Igor Korotchenko nói.
Trong bài viết ‘Quân sự Mỹ-Việt và chính sách "ba không"’ gửi BBC tiếng Việt hồi năm 2013, GS Carlyle A. Thayer, Học viện Quốc phòng Australia viết:“Khả năng quân đội Hoa Kỳ trở lại Cảng Cam Ranh trong tương lai gần là khó xảy ra.
“Việt Nam có chính sách "ba không" - không liên minh quân sự, không căn cứ quân sự và không sử dụng quan hệ song phương nhắm vào nước thứ ba.”
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2015/03/150312_russia_us_vn_cam_ranh_request_reaction
Đại sứ Mỹ tại Việt Nam chống việc Bắc Kinh cải tạo thực trạng Biển Đông
Ông Ted Osius trước khi được bổ nhiệm làm Đại sứ Mỹ tại Việt Nam.@US embassy Jakarta
Trong bài nói chuyện vào hôm qua, 06/03/2015 tại Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam đã phác họa triển vọng tốt của quan hệ Mỹ-Việt vào lúc hai nước chuẩn bị kỷ niệm 20 năm bình thường hóa bang giao. Hồ sơ Biển Đông đương nhiên đã được gợi lên khi Đại sứ Mỹ nhấn mạnh quan điểm xuyên suốt của Washington chống lại việc dùng sức mạnh để áp đặt chủ quyền. Các hành động của Trung Quốc bồi đắp đảo nhân tạo cũng bị nêu bật.
Trong bài phát biểu được Đại sứ quán Mỹ ở Hà Nội công bố, Đại sứ Ted Osius đã giành nguyên một đoạn để đề cập đến Biển Đông, từ ngữ được ông dùng ngay bên cạnh tên gọi quốc tế tiếng Anh là South China Sea. Ông khẳng định : « Cũng như Việt Nam, Hoa Kỳ mong muốn có hoà bình và ổn định trong khu vực, đặc biệt là tại Biển Đông ».
Đại sứ Mỹ đã nhắc lại tuyên bố mới đây của Ngoại trưởng Mỹ John Kerry tại Diễn đàn An ninh Khu vực ASEAN (ARF), theo đó : « Việc đe doạ, cưỡng ép hoặc sử dụng vũ lực bởi bất kỳ bên tuyên bố chủ quyền nào… là điều không thể chấp nhận được ».
Các hoạt động bồi đắp đảo nhân tạo do Trung Quốc rốt ráo tiến hành trong thời gian gần đây tại vùng Trường Sa đã được ông Ted Osius đặc biệt nhấn mạnh, dù không nêu đích danh Bắc Kinh. Đại sứ Mỹ đã « kêu gọi tất cả các bên tuyên bố chủ quyền thực hiện tự kiềm chế - đặc biệt là về các hoạt động cải tạo thực địa quy mô lớn để biến đổi các bãi đá và bãi ngầm thành những tiền đồn có thể dễ dàng quân sự hoá ».
Về một giải pháp hòa bình cho cuộc tranh chấp, Đại sứ Mỹ cho rằng Hiệp hội Đông Nam Á ASEAN và Trung Quốc « cần sớm hoàn tất một bộ Quy tắc Ứng xử có ý nghĩa tại Biển Đông ».
Phát biểu của Đại sứ Mỹ tại Việt Nam là phản ứng mới nhất của Chính quyền Mỹ sau khi một loạt thông tin với ảnh vệ tinh làm bằng chứng cụ thể được tiết lộ, cho thấy quy mô to lớn và tốc độ nhanh chóng của công việc Trung Quốc đang tiến hành ở vùng Trường Sa : bồi đắp 7 bãi ngầm đang chiếm đóng thành đảo nhân tạo lớn hơn gấp bội, bên trên xây dựng những loại cơ sở bị cho là có thể dùng vào mục tiêu quân sự.
Ông Nguyễn Phú Trọng sẽ là Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên thăm Mỹ
Trong bài phát biểu của mình, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam còn xác nhận hai chuyến công du quan trọng của lãnh đạo Việt Nam qua Mỹ trong năm nay.
Trước hết là chuyến công du của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng mà theo ông Ted Osius, là « theo lời mời của phía Hoa Kỳ ».
Giới phân tích từng nhấn mạnh rằng ông Trọng sẽ là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên đi thăm Hoa Kỳ, phản ánh đà tăng cường quan hệ nhanh chóng giữa hai bên, đặc biệt là sau vụ Trung Quốc kéo giàn khoan HD-981 vào cắm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế vào tháng Năm 2014.
Một chuyến thăm khác cũng quan trọng được Đại sứ Mỹ tiết lộ, chuyến công du của Tướng Trần Đại Quang, Bộ trưởng bộ Công an Việt Nam, nhưng thời điểm chưa được xác định.
Ông Ted Osius tuy nhiên khẳng định rằng Bộ trưởng Công an Việt Nam sẽ « gặp gỡ các quan chức cao cấp Hoa Kỳ để trao đổi ý kiến về một loạt các vấn đề, trong đó có vấn đề nhân quyền ».
Hồ sơ nhân quyền được cho là cản lực quan trọng nhất trong tiến trình xích lại gần nhau giữa Hà Nội và Washington.
Đại sứ Mỹ đã nhắc lại tuyên bố mới đây của Ngoại trưởng Mỹ John Kerry tại Diễn đàn An ninh Khu vực ASEAN (ARF), theo đó : « Việc đe doạ, cưỡng ép hoặc sử dụng vũ lực bởi bất kỳ bên tuyên bố chủ quyền nào… là điều không thể chấp nhận được ».
Các hoạt động bồi đắp đảo nhân tạo do Trung Quốc rốt ráo tiến hành trong thời gian gần đây tại vùng Trường Sa đã được ông Ted Osius đặc biệt nhấn mạnh, dù không nêu đích danh Bắc Kinh. Đại sứ Mỹ đã « kêu gọi tất cả các bên tuyên bố chủ quyền thực hiện tự kiềm chế - đặc biệt là về các hoạt động cải tạo thực địa quy mô lớn để biến đổi các bãi đá và bãi ngầm thành những tiền đồn có thể dễ dàng quân sự hoá ».
Về một giải pháp hòa bình cho cuộc tranh chấp, Đại sứ Mỹ cho rằng Hiệp hội Đông Nam Á ASEAN và Trung Quốc « cần sớm hoàn tất một bộ Quy tắc Ứng xử có ý nghĩa tại Biển Đông ».
Phát biểu của Đại sứ Mỹ tại Việt Nam là phản ứng mới nhất của Chính quyền Mỹ sau khi một loạt thông tin với ảnh vệ tinh làm bằng chứng cụ thể được tiết lộ, cho thấy quy mô to lớn và tốc độ nhanh chóng của công việc Trung Quốc đang tiến hành ở vùng Trường Sa : bồi đắp 7 bãi ngầm đang chiếm đóng thành đảo nhân tạo lớn hơn gấp bội, bên trên xây dựng những loại cơ sở bị cho là có thể dùng vào mục tiêu quân sự.
Ông Nguyễn Phú Trọng sẽ là Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên thăm Mỹ
Trong bài phát biểu của mình, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam còn xác nhận hai chuyến công du quan trọng của lãnh đạo Việt Nam qua Mỹ trong năm nay.
Trước hết là chuyến công du của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng mà theo ông Ted Osius, là « theo lời mời của phía Hoa Kỳ ».
Giới phân tích từng nhấn mạnh rằng ông Trọng sẽ là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên đi thăm Hoa Kỳ, phản ánh đà tăng cường quan hệ nhanh chóng giữa hai bên, đặc biệt là sau vụ Trung Quốc kéo giàn khoan HD-981 vào cắm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế vào tháng Năm 2014.
Một chuyến thăm khác cũng quan trọng được Đại sứ Mỹ tiết lộ, chuyến công du của Tướng Trần Đại Quang, Bộ trưởng bộ Công an Việt Nam, nhưng thời điểm chưa được xác định.
Ông Ted Osius tuy nhiên khẳng định rằng Bộ trưởng Công an Việt Nam sẽ « gặp gỡ các quan chức cao cấp Hoa Kỳ để trao đổi ý kiến về một loạt các vấn đề, trong đó có vấn đề nhân quyền ».
Hồ sơ nhân quyền được cho là cản lực quan trọng nhất trong tiến trình xích lại gần nhau giữa Hà Nội và Washington.
http://vi.rfi.fr/viet-nam/20150307-dai-su-my-tai-viet-nam-chong-viec-bac-kinh-cai-tao-thuc-dia-tren-bien-dong/
Trung Quốc gia tăng ngân sách quốc phòng chủ yếu để mua vũ khí mới
Thủ tướng Lý Khắc Cường đọc diễn văn khai mạc phiên họp Quốc hội 05/03/2015.REUTERS/Jason Lee
Tại phiên khai mạc kỳ họp Quốc hội hôm nay 05/03/2015, Thủ tướng Lý Khắc Cường đã chính thức thông báo ngân sách quân sự của Trung Quốc năm 2015 sẽ tăng 10,1%. Cụ thể, Bắc Kinh dự trù tổng chi tiêu quân sự năm nay sẽ là 886,9 tỷ nhân dân tệ ( tương đương 142 tỷ đôla ).
Mức tăng nói trên chậm lại thấy rõ so với mức tăng cao liên tục của ngân sách quốc phòng Trung Quốc trong nhiều năm trước ( 11,2% năm 2012, 10,7% năm 2013 và 12,2% năm 2014 ). Hôm qua (04/03/2015), khi thông báo trước mức tăng ngân sách quốc phòng 2015, phát ngôn viên của Quốc hội Trung Quốc, bà Phó Oánh đã khẳng định: “ Hiện vẫn còn sự cách biệt lớn giữa quân đội Trung Quốc với quân đội các nước đối tác về mặt thiết bị quân sự. Chúng tôi vẫn cần có thêm thời gian.” Bà Phó Oánh cũng tuyên bố: “Thua kém các nước khác sẽ khiến một quốc gia dễ bị tấn công. Đó là bài học mà chúng tôi đã rút ra từ lịch sử”.
Trong bài diễn văn hôm nay, Thủ tướng Lý Khắc Cường nói rõ hơn mục tiêu của Trung Quốc trong lĩnh vực quân sự: “ Chúng ta sẽ củng cố toàn diện hậu cần, đẩy mạnh nghiên cứu quốc quốc phòng, phát triển các vũ khí thiết bị công nghệ cao mới và phát triển các công nghệ và khoa học liên quan đến quốc phòng”. Nhưng cụ thể ngân sách quân sự của Trung Quốc được dùng vào những việc gì? Theo trang mạng Sina Military Network, có trụ sở tại Bắc Kinh, một phần quan trọng ngân sách quốc phòng của Trung Quốc sẽ được dùng để trả lương và các chi phí sinh hoạt cho 23 triệu binh lính và sĩ quan của Quân đội Giải phóng Nhân dân, nhất là năm nay, mức lương trong quân đội tăng thêm.
Nhưng điều mà các nhà quan sát chú ý nhất là Bắc Kinh sẽ dành bao nhiêu tiền trong ngân sách quân sự năm nay để mua các vũ khí và thiết bị mới. Theo các chuyên gia, ngân sách tăng thêm trong năm nay rất có thể sẽ được dùng để trang bị cho hải quân Trung Quốc các chiến hạm diệt tàu ngầm và phát triển thêm hàng không mẫu hạm, ngoài chiếc Liêu Ninh, chiếc duy nhất đang được sử dụng.
Thật ra, do Bắc Kinh vẫn giữ bí mật về các chi tiết về chi tiêu quân sự, nên hiện nay chưa có thông tin thật sự chính xác và đầy đủ về những thiết bị quân sự mà Trung Quốc sẽ mua thêm. Nhưng người ta được biết là không quân và hải quân Trung Quốc muốn tu bổ khoảng 50 chiến đấu cơ phản lực J-10 và J-11, cũng như từ 20 đến 30 oanh tạc cơ và máy bay lớn. Mỗi năm, hải quân Trung Quốc cũng sẽ trang bị thêm một hoặc hai chiếc khu trục hạm Type 052C/DD, hai hoặc ba chiếc hộ tống hạm Type 54A và ba hoặc bốn chiếc hộ tống hạm nhỏ Type 056, cũng như một số không rõ là bao nhiêu tàu ngầm quy ước và tàu ngầm hạt nhân.
Theo Sina Military, điều hành các chiến đấu cơ và chiến hạm cũng rất tốn kém. Một chuyến bay của chiến đấu cơ J-10 tốn khoảng 300 ngàn nhân dân tệ ( 48 ngàn đôla ), chi phí một chuyến bay của chiếc J-11 còn cao hơn, vì chiến đấu cơ này nặng hơn J-10. Cũng theo Sina Military, hiện rất khó thẩm định chi phí của việc triển khai một chiến hạm của hải quân Trung Quốc, nhưng với con số các cuộc tập trận riêng và chung trên biển đang gia tăng, tổng chi phí điều hành các chiến hạm chắc chắn là rất lớn.
Trong bài diễn văn hôm nay, Thủ tướng Lý Khắc Cường nói rõ hơn mục tiêu của Trung Quốc trong lĩnh vực quân sự: “ Chúng ta sẽ củng cố toàn diện hậu cần, đẩy mạnh nghiên cứu quốc quốc phòng, phát triển các vũ khí thiết bị công nghệ cao mới và phát triển các công nghệ và khoa học liên quan đến quốc phòng”. Nhưng cụ thể ngân sách quân sự của Trung Quốc được dùng vào những việc gì? Theo trang mạng Sina Military Network, có trụ sở tại Bắc Kinh, một phần quan trọng ngân sách quốc phòng của Trung Quốc sẽ được dùng để trả lương và các chi phí sinh hoạt cho 23 triệu binh lính và sĩ quan của Quân đội Giải phóng Nhân dân, nhất là năm nay, mức lương trong quân đội tăng thêm.
Nhưng điều mà các nhà quan sát chú ý nhất là Bắc Kinh sẽ dành bao nhiêu tiền trong ngân sách quân sự năm nay để mua các vũ khí và thiết bị mới. Theo các chuyên gia, ngân sách tăng thêm trong năm nay rất có thể sẽ được dùng để trang bị cho hải quân Trung Quốc các chiến hạm diệt tàu ngầm và phát triển thêm hàng không mẫu hạm, ngoài chiếc Liêu Ninh, chiếc duy nhất đang được sử dụng.
Thật ra, do Bắc Kinh vẫn giữ bí mật về các chi tiết về chi tiêu quân sự, nên hiện nay chưa có thông tin thật sự chính xác và đầy đủ về những thiết bị quân sự mà Trung Quốc sẽ mua thêm. Nhưng người ta được biết là không quân và hải quân Trung Quốc muốn tu bổ khoảng 50 chiến đấu cơ phản lực J-10 và J-11, cũng như từ 20 đến 30 oanh tạc cơ và máy bay lớn. Mỗi năm, hải quân Trung Quốc cũng sẽ trang bị thêm một hoặc hai chiếc khu trục hạm Type 052C/DD, hai hoặc ba chiếc hộ tống hạm Type 54A và ba hoặc bốn chiếc hộ tống hạm nhỏ Type 056, cũng như một số không rõ là bao nhiêu tàu ngầm quy ước và tàu ngầm hạt nhân.
Theo Sina Military, điều hành các chiến đấu cơ và chiến hạm cũng rất tốn kém. Một chuyến bay của chiến đấu cơ J-10 tốn khoảng 300 ngàn nhân dân tệ ( 48 ngàn đôla ), chi phí một chuyến bay của chiếc J-11 còn cao hơn, vì chiến đấu cơ này nặng hơn J-10. Cũng theo Sina Military, hiện rất khó thẩm định chi phí của việc triển khai một chiến hạm của hải quân Trung Quốc, nhưng với con số các cuộc tập trận riêng và chung trên biển đang gia tăng, tổng chi phí điều hành các chiến hạm chắc chắn là rất lớn.
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 354
TƯỜNG AN * DƯƠNG THU HƯƠNG
Nhà văn Dương Thu Hương: 40 năm, nhìn lại về ngôn từ
Trong hồi ức 40 năm, đài Á Châu Tự Do hỏi chuyện nhà văn Dương Thu Hương về quan điểm của bà về những vấn đề liên quan đến cuộc chiến Bắc-Nam cũng như những hệ luỵ của nó.
Tường An: Thưa bà, cách đây đã lâu, trong một bài viết, bà có nói ngày 30/4, vào đến miền Nam bà đã ngồi trên vỉa hè và khóc. Nhân đây bà có thể giải thích về những giọt nước mắt ngày 30/4, 40 năm về trước không ạ ?
Dương Thu Hương: Vào miền Nam tôi khóc vì sao? Là bởi vì tôi hiểu đạo quân chiến thắng ở miền Bắc phụ thuộc vào một chế độ man rợ. Rất nhiều dân tộc văn minh bị tiêu diệt bởi một chế độ man rợ hơn, bởi vì họ hung hăng hơn, vì họ có thể văn minh hơn vì văn hoá nhưng họ kém về phương diện tổ chức quân sự.
Sau này tôi mới hiểu tôi cũng ngây thơ tôi khóc thế thôi. 30/4 tôi còn khóc vì một lý do khác nữa là vì chúng tôi bị lừa. Chúng tôi đi không nghĩ ngày về, nhưng mà chúng tôi tưởng chiến thắng quân ngoại xâm nhưng thực sự hoàn toàn là không phải. Và tất cả tuổi trẻ của chúng tôi đã bị tiêu huỷ đi. Và vì vậy mà tôi khóc, trong những giọt nước mắt của tôi có cái phần chung cho dân tộc và có phần riêng của chúng tôi, của những người bạn tôi đã chết và của bản thân tôi đã hy sinh tuổi xuân một cách vô ích.»
Tường An: Thưa bà, cuộc chiến dài 21 năm mà miền Bắc gọi là «Chống Mỹ cứu nước» đã chấm dứt vào ngày 30/4, bà có nhận xét gì về cái ngày mà Việt Nam ngưng tiếng súng, ngày mà đại tướng Văn Tiến Dũng gọi là «thiên anh hùng ca vĩ đại của chiến tranh nhân Việt Nam trong thế kỷ XX » ạ?
Tại sao cùng một thời điểm, người Mỹ tạo ra những điều kiện để tạo ra chính sách dân chủ của 2 nơi : miền nam Việt Nam và miền Nam Hàn Quốc. Tại sao Hàn Quốc chiến thắng mà Việt Nam chiến bại?
- Bà Dương Thu Hương
Dương Thu Hương: Đối với tôi ngày 30/4 có 2 phía : phía những người Việt ở miền nam thì gọi là ngày «Quốc hận», phía những người Việt ở miền Bắc thì gọi là «ngày Giải phóng của dân tộc» thì tất cả 2 cái đó thì tôi cho là cần phải xét lại ngôn từ , bởi vì ngôn từ nó cũng bấp bênh và nó cũng chao đảo với thời gian, nói tuỳ theo quan niệm con người , tuỳ theo cách nhìn con người để mà thay đổi.
Về phía những người miền Bắc tưởng rằng đó là một sự sung sướng, một chiến công lừng lẫy, một thắng lợi vô tiền khoáng hậu trong lịch sử. Bây giờ nhìn lại tôi thấy nó chỉ là một ánh đèn loé lên trên một chặng đường, mà cái chặng đường ấy phía sau khi ánh đèn ấy loé lên thì nó đã dần dần trôi vào bóng tối. Thắng lợi ngày 30/4 là một thứ mà người ta gọi là « illusion » tức là một ảo ảnh. Bởi vì sau cái ảo ảnh ấy thì có những thực tại chồm đến và người Cộng sản ngập trong những cái thực tại ấy.
Sự thất bại liên tục của họ trên tất cả những chính trường, trên ngoại giao cũng như là đối nội.
Tường An: Bà có thể giải thích tại sao từ một chiến thắng mà người Cộng sản gọi là «cuộc kháng chiến thần thánh » họ lại trở nên thất bại sau này như bà nhận định ?
Dương Thu Hương: Cái sự chiến thắng đó đem cho họ một lòng kiêu hãnh quá độ. Cho nên cái chiến thắng ấy là mở màn cho tất cả những thất bại sau này. Và bây giờ, mặc dù họ còn giữ được chính quyền nhưng cái thất bại thì rõ ràng không ai có thể chối cãi được là họ đã trở thành một bộ phận nô lệ của triều đình Cộng sản phương Bắc và cái sự bán nước của họ dù diễn ra trong bóng tối, nhưng nhân dân và tất cả nh người có lương tâm đều đoán được một cách chính xác.
Chiến thắng 30/4 khiến cho những người Cộng sản có món mồi bở béo giống như ông Nguyễn văn Trấn viết trong cuốn «Viết cho Mẹ và Quốc hộ » - tôi cho ông Nguyễn văn Trấn là một người rất chính trực - ông ấy nói : nhà của người ta lấy, vợ của người ta ngủ v.v… và tức là một sự chiếm đoạt về mặt tài sản đối với tất cả những người mà đã chiến bại.
Họ đã thực hiện phương sách của Mao Trạch Đông, tức là «Toạ sơn quan hổ đấu» tức là để chọ người Việt đánh nhau với người Mỹ, một cuộc chiến tranh sức tàn lực kiệt để mà dễ biến thành một thứ thuộc địa nghìn năm Bắc thuộc lần thứ hai.
Tường An: Tại sao bà cho là phải xét lại chữ «Quốc hận" của những người miền Nam, những người đã thua trong cuộc chiến này, thưa bà ?
Dương Thu Hương: Về mặt những người miền Nam mà gọi là « Quốc hận » thì họ cũng phải nhìn lại. Tại sao ? Tại sao lại là « Quốc hận » Trước khi hận những người khác họ phải hận chính họ . Tại sao cùng một thời điểm, người Mỹ tạo ra những điều kiện để tạo ra chính sách dân chủ của 2 nơi : miền nam Việt Nam và miền Nam Hàn Quốc. Tại sao Hàn Quốc chiến thắng mà Việt Nam chiến bại ? Tại sao cùng một cơ hội lịch sử như thế, người Nam Triều Tiên họ đã chớp lấy cơ hội để biến đất nước của họ thành một xứ sở văn minh phồn thịnh, còn miền Nam thì không ? Cái đó phải xét lại.
Tường An: Từ khi sang Pháp năm 2006 cho đến nay, có vẽ như bà ít tiếp xúc với cộng đồng người Việt hải ngoại, phe chống Cộng cũng như phe thân Cộng, chắc là phải có lý do nào đó có phải không ạ?
Tóm lại, tôi thấy cần phải chống Cộng, nhưng trước hết cần phải soi lại bản thân mình. Thế còn người Cộng sản nhìn lại ngày 30/4 như một điều hãnh diện thì tôi đó là sự ngu ngốc.- Bà Dương Thu Hương
Dương Thu Hương: Bây giờ nhìn lại những phong trào chống Cộng của người Việt hải ngoại, ta thấy cái gì ? Trừ những vụ treo đầu dê bán thịt chó như Hoàng Cơ Minh ra, rất nhiều chính khách khác chỉ chờ cơ hội để về Việt Nam thương thuyết với Cộng sản để chia ghế. Những nhà chống Cộng ở đây tôi biết thì hoàn toàn là một thứ trò du hí để thoả mãn cái lòng tự tôn của họ. Bởi vì sống ở nước ngoài họ không có một gương mặt hãnh diện, một vị trí xứng đáng cho nên là họ nêu chiêu bài chống Cộng, nhưng lúc nào cũng ngóng chờ Cộng sản chìa tay ra để trở về chia ghế. Và có những ông Cộng sản chưa cần mời đã vội vàng đến sứ quán làm lành trước . Vì sao . vì họ thấy đấu tranh mệt mỏi quá, hàng Cộng sản đi kiếm được một chút vui thú trong cuối đời. Cho nên bây giờ muốn chiến thắng Cộng sản thì trước tiên phải chiến thắng chính bản thân mình.
Bây giờ rất nhiều Việt kiều ở nước ngoài chửi Cộng sản nhưng về trong nước lại vui thú, cho làm ăn, cho kiếm tiền, cho chơi gái rẻ. Cho nên cái tinh thần chống Cộng của tôi cũng giống như cái đuôi con chó, vẫy lên rồi vẫy xuống theo cái lợi ích của họ.»
Tường An: Từ sự phân tích những tiêu cực của phe Cộng sản cũng như phe chống Cộng, bà có kết luận gì về cuộc đấu tranh trên chiến trường mới này ạ ?
Dương Thu Hương: Tóm lại, tôi thấy cần phải chống Cộng, nhưng trước hết cần phải soi lại bản thân mình. Thế còn người Cộng sản nhìn lại ngày 30/4 như một điều hãnh diện thì tôi đó là sự ngu ngốc . Bởi vì bây giờ, cái đứa ngu nhất thì cũng hiểu là họ đang bán nước và sẽ còn bán nước một cách trầm trọng hơn. Và nếu không có một sự kiện nào có thể thay đổi được vận mệnh quốc gia thì chắc chắn 1000 năm Bắc thuộc lần thứ hai sẽ diễn ra. Không phải với một đoàn quân phương Bắc kéo sang nữa mà là một sự khống chế toàn bộ về mặt chính trị và kinh tế bắt đầu từ đảng Cộng sản Trung quốc đối với đảng Cộng sản Việt Nam và sau đó là hai nhà nước cùng một hệ thống mà tôi gọi là một thứ phong kiến trá hình.
Tường An: Xin cám ơn bà đã dành thì giờ cho đài Á Châu Tự
Thursday, March 12, 2015
TS. NGUYỄN VĂN LƯƠNG * TÂM THƯ
TÂM THƯ ĐẦU NĂM 2015:
chỉ có tổng nổi dậy mới có lối thoát cho Dân Tộc khỏi bị diệt vong về tay Tàu Phù!
TS. Nguyễn Văn Lương
Attachment: BAI 3 TRANG NHA^’T - Hinh 1
Dân Oan các tỉnh biểu tình tại Hà Nội ngày 20-1-2015Florida 08 tháng 02 năm 2015
Kính thưa quí vị:
Tình trạng VN rất là nguy ngập vì sự đồng hóa của Trung Cộng đã và đang đến đất nước Việt-Nam... Một sự chiếm đoạt đất nước Việt-nam mà không mất một viên đạn, không có một tiếng súng, chỉ bằng sự ngoại giao, thương thuyết trong tình hữu nghị, thân thiện giữa cộng sản Việt-Nam và cộng sản Trung Hoa. Một chiêu bài, mà chế độ VN đang muốn trở thành một tỉnh lị tự trị của Trung Cộng, với một giấc mơ là CSVN sẽ giữ được chế độ CSVN, và cha truyền con nối, núp dưới cái dù của Trung Cộng để hưởng thụ; CSVN không hiểu được rằng; chế độ CSVN cũng sẽ bị loại bỏ, dân tộc VN cũng sẽ bị tiêu diệt, đất nước Việt- Nam bị sáp nhập vào Trung Cộng, quốc gia Việt-Nam sẽ bị đồng hoá trong những ngày tháng sắp tới, và chiều hướng này đang gia tăng nhanh chóng.
Nguồn tin này, không phải chỉ đến từ những người đấu tranh của đất nước VN, không phải đến từ những người chống đối chế độ CSVN, không phải đến từ những người muốn dẹp bỏ chế độ CSVN, muốn canh tân nước Việt-Nam. .. mà nguồn tin này, đã được đăng tải, lập đi lập lại nhiều lần trên những báo chí nổi tiếng của Trung Cộng, Hồng Kông, và do kết quả những cuộc phỏng vấn những người lãnh đạo đất nước của cả hai quốc gia, đã về hưu trí,,, đưa ra. Nói một cách khác đi, đây là những nguồn tin rấtø xác thực, mà thí dụ rõ rằng nhất là HỘI NGHỊ THÀNH ĐÔ, năm 1990, CSVN đã chủ xướng khi không còn bám víu vào quan thầy Nga Sô của chúng nữa; Trung Cộng đã lợi dụng cơ hội này, đưa Việt-Nam vào sự nô lệ toàn diện... Hiện tại, Trung cộng gia tăng, đẩy mạnh sự kềm kẹp Việt-Nam về tất cả mọi lãnh vực: Quân Sự, Chính Trị, Xã Hội, Văn Hóa, và Kinh tế.
Trung Cộng không còn do dự đưa người vào Việt-Nam qua những hình thức nhân công, du lịch đến ở Việt-Nam dài hạn, lập gia đình với người Việt-Nam gia tăng, và dùng kế hoạch tuỳ thuộc kinh tế để yểm trợ cho sự đồng hóa này. Để được hữu hiệu hơn, họ đã không ngần ngại có những kế hoạch để dẹp bỏ doanh nghiệp, doanh thương VN bằng những hình thức kinh tế phá sản, chận đứng nguồn hải sản vô biên của nước VN bằng những hành động giết hại và phá hủy thuyền bè của ngư dân Việt-Nam, với sự đồng lõa của chế độ CSVN … mà chế độ này đã không có những phản ứng nào để bảo vệ người dân; ngược lại, CSVN không ngần ngại đàn áp những phong trào chống Trung Cộng, lãnh đạo đã không tham dự những ngày lễ trọng đại tưởng niệm Hoàng Sa, anh hùng liệt sĩ chống Trung Cộng mà còn cản trở, cho tay sai ngăn cấm, phá hoại… Họ không ngần ngại, làm hài lòng quan thầy Trung Cộng bằng những sự tổ chức trá hình ngàn năm Thăng Long để vui mừng ngày Quốc Khánh Trung Cộng, hay bắt dân chúng treo cờ để làm hài lòng bọn thái thú Trung-Cộng,… Thêm vào đó, những sự phản ứng vô hiệu quả, chỉ có mục đích là ru ngủ người dân trong nước mà thôi; để tránh những sự phẫn uất và nổi dậy của người dân VN; Thí dụ rõ ràng nhất là chờ đợi cho phi trường Phú-Lâm, cũng như những sự xây cất, phát triển của Trung Cộng hoàn tất tại quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa rồi mới lên tiếng… mua một số vũ khí chỉ với mục đích là đóng kịch quân sự mà không dám tham gia trực tiếp vào những sự yểm trợ của những quốc gia trên thế giới để cô lập Trung Cộng tại biển Đông.
Thử hỏi rằng, khi Việt nam trở thành một tình lị tự trị trong tương lai của Trung-Cộng, Việt-Nam có tồn tại được không? Sự trả lời đơn giản, và chắc chắn đó là không bao giờ Việt-Nam còn tồn tại, VN sẽ bị hủy diệt vì những lý do dã man sau đây:
1) Đối với chế độ CSVN mơ ước trở thành tỉnh lị tự trị của Trung Cộng:
a) Hãy nhìn Hồng Kông bây giờ, một quốc gia hai hệ thống chính trị, Trung Cộng đang xúc tiến để sáp nhập Hồng Kông vào hệ thống chính trị của Trung Cộng, mặc dù Trung Cộng có những cam kết với Anh Quốc.
b) Cuộc thanh trừng tham nhũng đã và đang xảy ra tại Trung Cộng, khiến những người cao cấp CS Trung Cộng cùng bị tù đầy, tịch thu tài sản, hàng ngàn đảng viên cao cấp bị giết chết hoặc tự sát,,, thì với guồng máy tham nhũng hiện tại của CSVN, lãnh đạo Trung Công có chấp nhận hay không? Hay là họ cũng sẽ xử dụng chiêu bài này để dẹp bọn CSVN đang cầm quyền để thay thế vào bằng một guồng máy cai trị của Trung Cộng?
2) Đối với dân tộc Việt-Nam:
a) Trung Cộng sẽ tiêu diệt dân tộc Việt-Nam trong những ngày tháng đầu tiên vì bài học của Tân Cương, Tây Tạng đang diễn ra… Họ sẽ tiêu diệt dân tộc Việt-Nam để tránh những sự đàn áp khối đấu tranh trong tương lai của người Việt như họ đang đối diện với Tân Cương, Tây Tạng bây giờ!
b) Trở thành tính lị tự-trị của Trung Cộng, người Tàu sẽ di dân đến Việt-Nam, thay vì đuổi người dân miền Nam đi vùng kinh tế mới để chiếm đoạt tài sản như CS miền bắc vào miền Nam năm 1975 đã làm; những gia đình người Tàu di dân này, sẽ giết những gia đình người Việt-Nam để chiếm đoạt tài sản; chỉ có thế, họ sẽ tránh được sự đòi lại chủ quyền tài sản trong tương lai của người Việt, nếu còn sống.
c) Xử dụng khối người đàn ông trên 200 triệu, không có đàn bà để làm vợ tại Trung Cộng, họ sẽ áp bức đàn bà con gái Việt Nam là những nơi để giải quyết sinh lý hay là lấy chúng, biến đàn bà VN trở thành những cái máy sinh đẻ, đồng hoá Việt-Nam như CSVN đã áp dụng cho Kampuhia vào năm 1978 khi chiếm đóng xứ chùa tháp nầy,
d) Để tiến trình được hữu hiệu và thành công nhanh chóng, Trung Cộng sẽ thắt chặt kinh tế VN đang bị tuỳ thuộc Trung Cộng, để người dân Việt-Nam đói khổ và quì lụy, nô lệ Trung Cộng vì miếng ăn. Thế giới lên tiếng chăng? Chuyện này không bao giờ xảy ra, vì trong quá khứ, lãnh đạo Kampuchia thân Trung Cộng đã giết hơn 2 triệu dân số xứ chùa tháp nầy; và trong hiện tại, Trung Cộng đang đàn áp, xử tử, hành quyết những sự nổi dậy của người dân Tây Tạng, Tân Cương có quốc gia nào lên tiếng đâu… Phong trào đấu tranh đòi quyền tự do tại Hong Kong cũng tương tự như vậy . ..Trung Cộng áp dụng mọi kế hoạch triệt hạ những nhà đấu tranh, khao khát với tự do, với âm mưu duy nhất là hoàn tất mục tiêu sáp nhập Hồng Kông vào hệ thống chính trị của Tàu như đã dự tính!
Do đó, muốn Việt-Nam được tồn tại, người dân trong nước không còn chờ đợi nữa, không thể có một sự vô tâm, vô cảm... chỉ chờ đợi những người khác đấu tranh cho sự thủ lợi và an toàn của chính mình. Vì sự sống còn của mọi người trong đất nước Việt-Nam, vì sự tồn vong của dân tộc Việt-Nam, ngay từ bây giờ, tất cả phải có cuộc tổng nổi dậy để dẹp bỏ chế độ CSVN hiện tại, một chế độ hoàn toàn nô lệ cho Trung Cộng để thủ lợi cho bè phái cá nhân, đưa nước Việt-Nam đến sự diệt vong. Phải lật đổ chế độ CSVN đã không nghĩ đến sự độc lập, vinh quang, hưng thịnh của đất nước Việt-Nam, mà chỉ nghĩ đến sự thủ lợi của đảng CSVN, không nghĩ đến hậu quả của tổ quốc Việt-Nam mà cha ông chúng ta đã tạo được và hãnh diện gìn giữ.
Hiện tại, xã hội Việt-Nam đang xáo trộn chưa từng có vì đói khổ với nền kinh tế đang kiệt quệ không lối thoát. Do đó, đây là cơ hội để người Việt hải ngoại tiếp tay, yểm trợ người dân trong nước tiến đến tổng nổi dậy:
Ai cũng cho rằng, CSVN nhận được nhiều tiền viện trợ, tiền thuế của người dân, tiền người lao động gửi về, tiền xuất cảng hàng hóa... tổng số tiền này lên đến hàng trăm tỉ mỹ kim, nên số tiền của người Việt hải ngoại gửi về không đáng giá là bao… Và đây là luận điệu tuyên truyền của bọn CS, bè lũ việt-gian chỉ với cách thuyết phục người Việt hải ngoại gửi về càng nhiều càng tốt để cứu sống chế độ. Điều đặc biệt chúng ta phải nhận xét một cách chính xác và rất thực tế, đó là tiền của người Việt hải ngoại gửi vào trong nước,có khi chỉ vài trăm, hoặc những đồng tiền từ thiện, nhân đạo, những sự đầu tư để chạy những đồng tiền trốn thuế, giấu diếm bất hợp pháp tại hải ngoại,,, là nguồn tài khoản duy nhất đang nuôi sống chế độ CSVN… Người Việt hải ngoại chính là trung tâm trợ cấp vô điều kiện để bọn Cộng sản Việt có ngoại tệ và sống còn để cai trị 93 triệu người Việt trong nước.
Tại sao tôi dám nói thẳng như thế? Bởi vì, số tiền mà CSVN kiếm được qua hình thức viện trợ, đầu tư của người ngoại quốc, hoặc tiền ép bức người lao động gửi về, tiền lợi tức vì xuất cảng hàng hóa... Tổng số tiền lên đến hàng trăm tỉ dollars, nhưng số tiền này lớn lao nầy đã không đủ để trả nợ; có nghĩa là sự thâm thủng, thiếu hụt của quốc gia Việt-Nam đang chồng chất cao ngất hàng năm đã chứng mình điều đó… Nợ xấu gia tăng, nợ công nhiều to hơn núi… chúng đã tìm cách bán tài sản quốc gia, bán thêm trái phiếu …để trả nợ nhưng vẫn không đủ!
Chỉ số tiền mà người Việt hải ngoại gửi về Việt-Nam, có tính cách đều đặn hàng tháng để giúp cho nền kinh tế Việt-Nam lưu chuyển, giúp cho xã hội Việt-Nam ổn định được phần nào vì có miếng ăn; và những số tiền trá hình bởi những chiếc nón cối, chiếc mũ có tính cách từ thiện, nhân đạo như chương trình cảm ơn Thương Phế Binh QLVNCH, giúp trẻ mồ côi, khuyết tật, xây dựng, sửa chữa chùa chiền, nhà thờ. .. là những số tiền quyên góp để giúp cho chế độ CSVN sống còn, mà không có một chút hiệu quả nào cho sự đấu tranh của xã hội Việt Nam hiện nay.
Càng quyên giúp, CSVN càng tạo ra những tệ đoan xã hội để người Việt hải ngoại quyên góp gửi về giúp đỡ, số tiền như thế này, đã giúp cho CSVN được sống còn …
Chúng ta cũng phải quan tâm đến ảnh hưởng của ngoại quốc vào biển Đông, và ảnh hưởng trực tiếp đến Việt-Nam vì vị trí mà tổ tiên chúng ta đã chọn lựa và lập ra tổ quốc Việt-Nam. Hoa Kỳ là một quốc gia mạnh nhất và có ảnh hưởng nhiều nhất. Hoa Kỳ không thể chờ đợi, kéo dài tình trạng biển Đông như thế này, sự giải quyết bằng biện pháp kinh-tế sẽ đưa đến một Trung Cộng sụp đổ trong những năm tới... Song song với kế hoạch này, Hoa-Kỳ muốn sự tình nguyện của CSVN là đồng minh và gia nhập khối quốc gia cô lập Trung Cộng trong những thời gian ngắn sắp tới. Tuy nhiên, nếu chuyện này, CSVN, không tham gia lực lượng đồng minh để cô lập Trung cộng thì Hoa Kỳ cũng có thể đòi hỏi tôn trọng sự thi hành Hòa Đàm Ba Lê, miền Nam Việt-Nam sẽ bảo vệ chủ quyền biển Đông. Biết được như vậy, chúng ta cũng cần phải chủ động về đất nước Việt-Nam của người Việt chúng ta. Đồng minh lo chuyện của biển Đông, người Việt phải nhìn vào sự nô lệ, đồng hoá của Tàu Cộng đang xảy ra mà chế độ CSVN đang dâng hiến cho Tàu Cộng.
Do đó, để cứu đất nước Việt Nam thoát khỏi sự diệt vong, người Việt hải ngoại phải ý thức là giúp đở phần nào cho thân nhân trong nước chứ không phải là sự trợ cấp người trong nước đầy đủ; do đó, người Việt hải ngoại phải đồng lòng:
1) Không hoặc giảm thiểu gửi tiền về Việt-Nam cho thân nhân, người Việt hải ngoại làm nhiệm vụ giúp đỡ một phần nào cho người trong nước sinh sống; không phải là một trách nhiệm trợ cấp đầy đủ
2) Không du lịch đi Việt-Nam,
3) Không đầu tư vào Việt-Nam,
4) Không mua hàng hoá xuất cảng từ Việt-Nam
5) Cộng đồng hải ngoại phải yêu cầu hành pháp Hoa-Kỳ, sở thuế vụ (IRS), điều tra sự trốn thuế đầu tư ngoại quốc (Foreign Investment Tax) của bọn Việt-Nam hải ngoại đã và đang đầu tư tại Việt Nam...
6) Không đóng góp cho bất cứ chương trình nhân đạo, từ thiện, dưới bất cứ hình thức nào (Tôn giáo, đoàn thể vô vụ lợi, tổ chức đấu tranh…) mà gửi tiền vào trong nước Việt Nam… vì đây là số tiền ngoại tệ, giúp CSVN sống qua hình thức mua nhu yếu phẩm như săng nhớt, hoặc trả nợ nhưng ngân khoản tiền lời,,, mà như quí vị đã thấy: Nợ xấu chồng chất, nợ công gia tăng nền kinh tế Việt Nam đang đi đến bờ vực thẳm mà người Việt hải ngoại đang tiếp tay để cứu sống chế độ CSVN này bằng cách giúp Việt-Nam có ngoại tệ đã 40 năm qua.
Tóm lại, CSVN thu được nhiều tiền của từ nguồn đầu tư, từ tiền viện trợ, từ tiền xuất cảng lao động, từ tiền xuất cảng hàng hoá, và ngay cả từ tiền thuế của người dân trong nước nhưng tổng số tiền này, không đủ để trang trải nợ nần. Đó là kết quả của nợ xấu gia tăng, nợ công chồng chất; do do, số tiền gửi về Việt-Nam và du lịch Việt-Nam của người Việt hải ngoại,.. chính là những đồng tiền đã và đang giúp chế độ CSVN được sống còn; chính tiền cung cấp của người Việt hải ngoại đã giúp cho CSVN tiếp tục cai trị đất nước Việt Nam cho đến khi sự đồng hóa của Trung Cộng được hoàn tất… Ngày Viet-Nam bị hủy diệt, nô lệ vào tayTrung Cộng sẽ không xa nếu người dân trong nước không có sự TỐNG NỔI DẬY, và người dân Việt hải ngoại vẫn vì những ích kỷ cá nhân, chỉ nghĩ đến cá nhân mình, cá nhân gia đình, không đặt ưu tiên chính yếu là dẹp bỏ chế độ CSVN vào hàng đầu thì như thế, kết quả sẽ đưa đến sự hủy diệt dân tộc Việt-Nam một cách khốc liệt , sự nô lệ Trung Cộng sẽ đến với Quốc Gia Việt-Nam là điều sẽ xảy ra.
Không tạo điều kiện để Việt-Nam có ngoại tệ, nền kinh tế sẽ bị ngưng trệ, xã hội bị hỗn loạn; người dân sẽ tích cực tham gia với lực lượng dân oan để có một cuộc tổng nổi dậy, và CSVN sẽ bị sụp đổ như Đông ÂU và Liên Bang Sô Viết vào đầu thập niên 1990s
Nhiều quốc gia trên thế giới đã nghĩ rằng :”người Việt hải ngoại tiếp tục du lịch và gửi tiền vào Việt-Nam, người Việt trong nước không nổi dậy để lật đổ chế độ CSVN hiện tại, điều nầy chứng tỏ rằng: người Việt-Nam (tất cả trong nước cũng như ở hải ngoại) đã hài lòng, chấp nhận, đồng ý, và ủng hộ chính sách của chế độ CSVN hiện tại” … và họ tôn trọng quyền tự quyết của dân tộc Việt-Nam. Đây là một sự hiểu lầm rất là tai hại cho đất nước Việt-Nam...
Xin tất cả chúng ta, hay đồng lòng, cứu đất nước Việt-Nam trong giai đoạn sắp tới. Người Việt hải ngoại phải giảm gửi tiền, không đầu tư và không du lịch Việt-Nam. Người Việt trong nước, sự nghèo khó đã tạo ra những sự cướp bóc trong xã hội...xin đừng cướp bóc lẫn nhau và những người nghèo vô tội...nếu có thể được, tập trung vào những sự cướp bóc với những trọng tâm nhắm vào bọn công an đứng thu tiền tại đầu đường xó chợ, đại gia, những kẻ du lịch Việt-Nam, không gửi ngoại tệ vào ngân hàng Việt Nam.. và đặc biệt là tích cực, tham gia, ủng hộ những lực lượng dân oan để có một cuộc tổng nổi dậy, dẹp bỏ chế độ CSVN... Thêm vào đó, một bài viết của Dân Làm Báo trong nước, đã nêu rõ ràng: một trong những yếu tố dẹp bỏ chế độ CSVN là kêu gọi người Việt hải ngoại hợp tác, không du lịch, không gửi tiền vào trong nước dưới bất cứ hình thức nào... Điều này chứng minh được sự chi tiêu phung phí của người trong nước đã ảnh hưởng rất lớn, làm giảm tiềm năng đấu tranh của người dân với chế độ CSVN hiện nay. .. Hãy nhìn những dân oan biểu tình khắp nơi và thường xuyên, hãy nhìn sự đình công của công nhân trong nước... người Việt hải ngoại sẽ thấy được tầm quan trọng nuôi sống chế độ CSVN vì sức mạnh của mãi lực... Đây là những đồng tiền của người Việt hải ngoại gửi vào trong nước. Hoa Kỳ đang áp dụng sự cắt giảm mãi lực tại Trung-Công bằng cách bài trừ hàng hoá Trung Cộng, tạo nhiều sự khó khăn đang xảy ra cho xứ Tàu Chệt này và TC sẽ gặp những sự khủng hoảng, biến chuyển lớn xảy ra bất cứ lúc nào trước năm 2017.
Sau đó, tất cả chúng ta, người Việt hải ngoại với một lực lượng chuyên gia hùng hậu, với bộ ngoại giao có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ, vì chúng ta ở khắp bốn biển năm châu, tài chánh dư thừa, và quốc gia Việt-Nam với ruộng lúa phì nhiêu, hải sản vô biên sẽ không sợ đói khổ; cùng với khối người Việt cần cù, chịu đựng trong nước; tất cả người Việt cùng nhau xây dựng một quốc gia Việt-Nam với nền kinh tế hùng mạnh, sẽ trở thành số một của Đông Nam Á châu trong một thời gian vừa phải.
Nhân dịp dầu năm xin kính chào tất cả quí vị, và cầu xin sự thực tình, đồng lòng của tất cả người Việt Nam với sứ mạng dẹp bỏ CSVN, cứu đất nước Việt-Nam khỏi ách thốâng trị của CSVN, đập tan sự nô lệ Trung Cộng trong những ngày tháng sắp đến.
TS Nguyễn Văn Lương,
Florida, 2015
chỉ có tổng nổi dậy mới có lối thoát cho Dân Tộc khỏi bị diệt vong về tay Tàu Phù!
TS. Nguyễn Văn Lương
Attachment: BAI 3 TRANG NHA^’T - Hinh 1
Dân Oan các tỉnh biểu tình tại Hà Nội ngày 20-1-2015Florida 08 tháng 02 năm 2015
Kính thưa quí vị:
Tình trạng VN rất là nguy ngập vì sự đồng hóa của Trung Cộng đã và đang đến đất nước Việt-Nam... Một sự chiếm đoạt đất nước Việt-nam mà không mất một viên đạn, không có một tiếng súng, chỉ bằng sự ngoại giao, thương thuyết trong tình hữu nghị, thân thiện giữa cộng sản Việt-Nam và cộng sản Trung Hoa. Một chiêu bài, mà chế độ VN đang muốn trở thành một tỉnh lị tự trị của Trung Cộng, với một giấc mơ là CSVN sẽ giữ được chế độ CSVN, và cha truyền con nối, núp dưới cái dù của Trung Cộng để hưởng thụ; CSVN không hiểu được rằng; chế độ CSVN cũng sẽ bị loại bỏ, dân tộc VN cũng sẽ bị tiêu diệt, đất nước Việt- Nam bị sáp nhập vào Trung Cộng, quốc gia Việt-Nam sẽ bị đồng hoá trong những ngày tháng sắp tới, và chiều hướng này đang gia tăng nhanh chóng.
Nguồn tin này, không phải chỉ đến từ những người đấu tranh của đất nước VN, không phải đến từ những người chống đối chế độ CSVN, không phải đến từ những người muốn dẹp bỏ chế độ CSVN, muốn canh tân nước Việt-Nam. .. mà nguồn tin này, đã được đăng tải, lập đi lập lại nhiều lần trên những báo chí nổi tiếng của Trung Cộng, Hồng Kông, và do kết quả những cuộc phỏng vấn những người lãnh đạo đất nước của cả hai quốc gia, đã về hưu trí,,, đưa ra. Nói một cách khác đi, đây là những nguồn tin rấtø xác thực, mà thí dụ rõ rằng nhất là HỘI NGHỊ THÀNH ĐÔ, năm 1990, CSVN đã chủ xướng khi không còn bám víu vào quan thầy Nga Sô của chúng nữa; Trung Cộng đã lợi dụng cơ hội này, đưa Việt-Nam vào sự nô lệ toàn diện... Hiện tại, Trung cộng gia tăng, đẩy mạnh sự kềm kẹp Việt-Nam về tất cả mọi lãnh vực: Quân Sự, Chính Trị, Xã Hội, Văn Hóa, và Kinh tế.
Trung Cộng không còn do dự đưa người vào Việt-Nam qua những hình thức nhân công, du lịch đến ở Việt-Nam dài hạn, lập gia đình với người Việt-Nam gia tăng, và dùng kế hoạch tuỳ thuộc kinh tế để yểm trợ cho sự đồng hóa này. Để được hữu hiệu hơn, họ đã không ngần ngại có những kế hoạch để dẹp bỏ doanh nghiệp, doanh thương VN bằng những hình thức kinh tế phá sản, chận đứng nguồn hải sản vô biên của nước VN bằng những hành động giết hại và phá hủy thuyền bè của ngư dân Việt-Nam, với sự đồng lõa của chế độ CSVN … mà chế độ này đã không có những phản ứng nào để bảo vệ người dân; ngược lại, CSVN không ngần ngại đàn áp những phong trào chống Trung Cộng, lãnh đạo đã không tham dự những ngày lễ trọng đại tưởng niệm Hoàng Sa, anh hùng liệt sĩ chống Trung Cộng mà còn cản trở, cho tay sai ngăn cấm, phá hoại… Họ không ngần ngại, làm hài lòng quan thầy Trung Cộng bằng những sự tổ chức trá hình ngàn năm Thăng Long để vui mừng ngày Quốc Khánh Trung Cộng, hay bắt dân chúng treo cờ để làm hài lòng bọn thái thú Trung-Cộng,… Thêm vào đó, những sự phản ứng vô hiệu quả, chỉ có mục đích là ru ngủ người dân trong nước mà thôi; để tránh những sự phẫn uất và nổi dậy của người dân VN; Thí dụ rõ ràng nhất là chờ đợi cho phi trường Phú-Lâm, cũng như những sự xây cất, phát triển của Trung Cộng hoàn tất tại quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa rồi mới lên tiếng… mua một số vũ khí chỉ với mục đích là đóng kịch quân sự mà không dám tham gia trực tiếp vào những sự yểm trợ của những quốc gia trên thế giới để cô lập Trung Cộng tại biển Đông.
Thử hỏi rằng, khi Việt nam trở thành một tình lị tự trị trong tương lai của Trung-Cộng, Việt-Nam có tồn tại được không? Sự trả lời đơn giản, và chắc chắn đó là không bao giờ Việt-Nam còn tồn tại, VN sẽ bị hủy diệt vì những lý do dã man sau đây:
1) Đối với chế độ CSVN mơ ước trở thành tỉnh lị tự trị của Trung Cộng:
a) Hãy nhìn Hồng Kông bây giờ, một quốc gia hai hệ thống chính trị, Trung Cộng đang xúc tiến để sáp nhập Hồng Kông vào hệ thống chính trị của Trung Cộng, mặc dù Trung Cộng có những cam kết với Anh Quốc.
b) Cuộc thanh trừng tham nhũng đã và đang xảy ra tại Trung Cộng, khiến những người cao cấp CS Trung Cộng cùng bị tù đầy, tịch thu tài sản, hàng ngàn đảng viên cao cấp bị giết chết hoặc tự sát,,, thì với guồng máy tham nhũng hiện tại của CSVN, lãnh đạo Trung Công có chấp nhận hay không? Hay là họ cũng sẽ xử dụng chiêu bài này để dẹp bọn CSVN đang cầm quyền để thay thế vào bằng một guồng máy cai trị của Trung Cộng?
2) Đối với dân tộc Việt-Nam:
a) Trung Cộng sẽ tiêu diệt dân tộc Việt-Nam trong những ngày tháng đầu tiên vì bài học của Tân Cương, Tây Tạng đang diễn ra… Họ sẽ tiêu diệt dân tộc Việt-Nam để tránh những sự đàn áp khối đấu tranh trong tương lai của người Việt như họ đang đối diện với Tân Cương, Tây Tạng bây giờ!
b) Trở thành tính lị tự-trị của Trung Cộng, người Tàu sẽ di dân đến Việt-Nam, thay vì đuổi người dân miền Nam đi vùng kinh tế mới để chiếm đoạt tài sản như CS miền bắc vào miền Nam năm 1975 đã làm; những gia đình người Tàu di dân này, sẽ giết những gia đình người Việt-Nam để chiếm đoạt tài sản; chỉ có thế, họ sẽ tránh được sự đòi lại chủ quyền tài sản trong tương lai của người Việt, nếu còn sống.
c) Xử dụng khối người đàn ông trên 200 triệu, không có đàn bà để làm vợ tại Trung Cộng, họ sẽ áp bức đàn bà con gái Việt Nam là những nơi để giải quyết sinh lý hay là lấy chúng, biến đàn bà VN trở thành những cái máy sinh đẻ, đồng hoá Việt-Nam như CSVN đã áp dụng cho Kampuhia vào năm 1978 khi chiếm đóng xứ chùa tháp nầy,
d) Để tiến trình được hữu hiệu và thành công nhanh chóng, Trung Cộng sẽ thắt chặt kinh tế VN đang bị tuỳ thuộc Trung Cộng, để người dân Việt-Nam đói khổ và quì lụy, nô lệ Trung Cộng vì miếng ăn. Thế giới lên tiếng chăng? Chuyện này không bao giờ xảy ra, vì trong quá khứ, lãnh đạo Kampuchia thân Trung Cộng đã giết hơn 2 triệu dân số xứ chùa tháp nầy; và trong hiện tại, Trung Cộng đang đàn áp, xử tử, hành quyết những sự nổi dậy của người dân Tây Tạng, Tân Cương có quốc gia nào lên tiếng đâu… Phong trào đấu tranh đòi quyền tự do tại Hong Kong cũng tương tự như vậy . ..Trung Cộng áp dụng mọi kế hoạch triệt hạ những nhà đấu tranh, khao khát với tự do, với âm mưu duy nhất là hoàn tất mục tiêu sáp nhập Hồng Kông vào hệ thống chính trị của Tàu như đã dự tính!
Do đó, muốn Việt-Nam được tồn tại, người dân trong nước không còn chờ đợi nữa, không thể có một sự vô tâm, vô cảm... chỉ chờ đợi những người khác đấu tranh cho sự thủ lợi và an toàn của chính mình. Vì sự sống còn của mọi người trong đất nước Việt-Nam, vì sự tồn vong của dân tộc Việt-Nam, ngay từ bây giờ, tất cả phải có cuộc tổng nổi dậy để dẹp bỏ chế độ CSVN hiện tại, một chế độ hoàn toàn nô lệ cho Trung Cộng để thủ lợi cho bè phái cá nhân, đưa nước Việt-Nam đến sự diệt vong. Phải lật đổ chế độ CSVN đã không nghĩ đến sự độc lập, vinh quang, hưng thịnh của đất nước Việt-Nam, mà chỉ nghĩ đến sự thủ lợi của đảng CSVN, không nghĩ đến hậu quả của tổ quốc Việt-Nam mà cha ông chúng ta đã tạo được và hãnh diện gìn giữ.
Hiện tại, xã hội Việt-Nam đang xáo trộn chưa từng có vì đói khổ với nền kinh tế đang kiệt quệ không lối thoát. Do đó, đây là cơ hội để người Việt hải ngoại tiếp tay, yểm trợ người dân trong nước tiến đến tổng nổi dậy:
Ai cũng cho rằng, CSVN nhận được nhiều tiền viện trợ, tiền thuế của người dân, tiền người lao động gửi về, tiền xuất cảng hàng hóa... tổng số tiền này lên đến hàng trăm tỉ mỹ kim, nên số tiền của người Việt hải ngoại gửi về không đáng giá là bao… Và đây là luận điệu tuyên truyền của bọn CS, bè lũ việt-gian chỉ với cách thuyết phục người Việt hải ngoại gửi về càng nhiều càng tốt để cứu sống chế độ. Điều đặc biệt chúng ta phải nhận xét một cách chính xác và rất thực tế, đó là tiền của người Việt hải ngoại gửi vào trong nước,có khi chỉ vài trăm, hoặc những đồng tiền từ thiện, nhân đạo, những sự đầu tư để chạy những đồng tiền trốn thuế, giấu diếm bất hợp pháp tại hải ngoại,,, là nguồn tài khoản duy nhất đang nuôi sống chế độ CSVN… Người Việt hải ngoại chính là trung tâm trợ cấp vô điều kiện để bọn Cộng sản Việt có ngoại tệ và sống còn để cai trị 93 triệu người Việt trong nước.
Tại sao tôi dám nói thẳng như thế? Bởi vì, số tiền mà CSVN kiếm được qua hình thức viện trợ, đầu tư của người ngoại quốc, hoặc tiền ép bức người lao động gửi về, tiền lợi tức vì xuất cảng hàng hóa... Tổng số tiền lên đến hàng trăm tỉ dollars, nhưng số tiền này lớn lao nầy đã không đủ để trả nợ; có nghĩa là sự thâm thủng, thiếu hụt của quốc gia Việt-Nam đang chồng chất cao ngất hàng năm đã chứng mình điều đó… Nợ xấu gia tăng, nợ công nhiều to hơn núi… chúng đã tìm cách bán tài sản quốc gia, bán thêm trái phiếu …để trả nợ nhưng vẫn không đủ!
Chỉ số tiền mà người Việt hải ngoại gửi về Việt-Nam, có tính cách đều đặn hàng tháng để giúp cho nền kinh tế Việt-Nam lưu chuyển, giúp cho xã hội Việt-Nam ổn định được phần nào vì có miếng ăn; và những số tiền trá hình bởi những chiếc nón cối, chiếc mũ có tính cách từ thiện, nhân đạo như chương trình cảm ơn Thương Phế Binh QLVNCH, giúp trẻ mồ côi, khuyết tật, xây dựng, sửa chữa chùa chiền, nhà thờ. .. là những số tiền quyên góp để giúp cho chế độ CSVN sống còn, mà không có một chút hiệu quả nào cho sự đấu tranh của xã hội Việt Nam hiện nay.
Càng quyên giúp, CSVN càng tạo ra những tệ đoan xã hội để người Việt hải ngoại quyên góp gửi về giúp đỡ, số tiền như thế này, đã giúp cho CSVN được sống còn …
Chúng ta cũng phải quan tâm đến ảnh hưởng của ngoại quốc vào biển Đông, và ảnh hưởng trực tiếp đến Việt-Nam vì vị trí mà tổ tiên chúng ta đã chọn lựa và lập ra tổ quốc Việt-Nam. Hoa Kỳ là một quốc gia mạnh nhất và có ảnh hưởng nhiều nhất. Hoa Kỳ không thể chờ đợi, kéo dài tình trạng biển Đông như thế này, sự giải quyết bằng biện pháp kinh-tế sẽ đưa đến một Trung Cộng sụp đổ trong những năm tới... Song song với kế hoạch này, Hoa-Kỳ muốn sự tình nguyện của CSVN là đồng minh và gia nhập khối quốc gia cô lập Trung Cộng trong những thời gian ngắn sắp tới. Tuy nhiên, nếu chuyện này, CSVN, không tham gia lực lượng đồng minh để cô lập Trung cộng thì Hoa Kỳ cũng có thể đòi hỏi tôn trọng sự thi hành Hòa Đàm Ba Lê, miền Nam Việt-Nam sẽ bảo vệ chủ quyền biển Đông. Biết được như vậy, chúng ta cũng cần phải chủ động về đất nước Việt-Nam của người Việt chúng ta. Đồng minh lo chuyện của biển Đông, người Việt phải nhìn vào sự nô lệ, đồng hoá của Tàu Cộng đang xảy ra mà chế độ CSVN đang dâng hiến cho Tàu Cộng.
Do đó, để cứu đất nước Việt Nam thoát khỏi sự diệt vong, người Việt hải ngoại phải ý thức là giúp đở phần nào cho thân nhân trong nước chứ không phải là sự trợ cấp người trong nước đầy đủ; do đó, người Việt hải ngoại phải đồng lòng:
1) Không hoặc giảm thiểu gửi tiền về Việt-Nam cho thân nhân, người Việt hải ngoại làm nhiệm vụ giúp đỡ một phần nào cho người trong nước sinh sống; không phải là một trách nhiệm trợ cấp đầy đủ
2) Không du lịch đi Việt-Nam,
3) Không đầu tư vào Việt-Nam,
4) Không mua hàng hoá xuất cảng từ Việt-Nam
5) Cộng đồng hải ngoại phải yêu cầu hành pháp Hoa-Kỳ, sở thuế vụ (IRS), điều tra sự trốn thuế đầu tư ngoại quốc (Foreign Investment Tax) của bọn Việt-Nam hải ngoại đã và đang đầu tư tại Việt Nam...
6) Không đóng góp cho bất cứ chương trình nhân đạo, từ thiện, dưới bất cứ hình thức nào (Tôn giáo, đoàn thể vô vụ lợi, tổ chức đấu tranh…) mà gửi tiền vào trong nước Việt Nam… vì đây là số tiền ngoại tệ, giúp CSVN sống qua hình thức mua nhu yếu phẩm như săng nhớt, hoặc trả nợ nhưng ngân khoản tiền lời,,, mà như quí vị đã thấy: Nợ xấu chồng chất, nợ công gia tăng nền kinh tế Việt Nam đang đi đến bờ vực thẳm mà người Việt hải ngoại đang tiếp tay để cứu sống chế độ CSVN này bằng cách giúp Việt-Nam có ngoại tệ đã 40 năm qua.
Tóm lại, CSVN thu được nhiều tiền của từ nguồn đầu tư, từ tiền viện trợ, từ tiền xuất cảng lao động, từ tiền xuất cảng hàng hoá, và ngay cả từ tiền thuế của người dân trong nước nhưng tổng số tiền này, không đủ để trang trải nợ nần. Đó là kết quả của nợ xấu gia tăng, nợ công chồng chất; do do, số tiền gửi về Việt-Nam và du lịch Việt-Nam của người Việt hải ngoại,.. chính là những đồng tiền đã và đang giúp chế độ CSVN được sống còn; chính tiền cung cấp của người Việt hải ngoại đã giúp cho CSVN tiếp tục cai trị đất nước Việt Nam cho đến khi sự đồng hóa của Trung Cộng được hoàn tất… Ngày Viet-Nam bị hủy diệt, nô lệ vào tayTrung Cộng sẽ không xa nếu người dân trong nước không có sự TỐNG NỔI DẬY, và người dân Việt hải ngoại vẫn vì những ích kỷ cá nhân, chỉ nghĩ đến cá nhân mình, cá nhân gia đình, không đặt ưu tiên chính yếu là dẹp bỏ chế độ CSVN vào hàng đầu thì như thế, kết quả sẽ đưa đến sự hủy diệt dân tộc Việt-Nam một cách khốc liệt , sự nô lệ Trung Cộng sẽ đến với Quốc Gia Việt-Nam là điều sẽ xảy ra.
Không tạo điều kiện để Việt-Nam có ngoại tệ, nền kinh tế sẽ bị ngưng trệ, xã hội bị hỗn loạn; người dân sẽ tích cực tham gia với lực lượng dân oan để có một cuộc tổng nổi dậy, và CSVN sẽ bị sụp đổ như Đông ÂU và Liên Bang Sô Viết vào đầu thập niên 1990s
Nhiều quốc gia trên thế giới đã nghĩ rằng :”người Việt hải ngoại tiếp tục du lịch và gửi tiền vào Việt-Nam, người Việt trong nước không nổi dậy để lật đổ chế độ CSVN hiện tại, điều nầy chứng tỏ rằng: người Việt-Nam (tất cả trong nước cũng như ở hải ngoại) đã hài lòng, chấp nhận, đồng ý, và ủng hộ chính sách của chế độ CSVN hiện tại” … và họ tôn trọng quyền tự quyết của dân tộc Việt-Nam. Đây là một sự hiểu lầm rất là tai hại cho đất nước Việt-Nam...
Xin tất cả chúng ta, hay đồng lòng, cứu đất nước Việt-Nam trong giai đoạn sắp tới. Người Việt hải ngoại phải giảm gửi tiền, không đầu tư và không du lịch Việt-Nam. Người Việt trong nước, sự nghèo khó đã tạo ra những sự cướp bóc trong xã hội...xin đừng cướp bóc lẫn nhau và những người nghèo vô tội...nếu có thể được, tập trung vào những sự cướp bóc với những trọng tâm nhắm vào bọn công an đứng thu tiền tại đầu đường xó chợ, đại gia, những kẻ du lịch Việt-Nam, không gửi ngoại tệ vào ngân hàng Việt Nam.. và đặc biệt là tích cực, tham gia, ủng hộ những lực lượng dân oan để có một cuộc tổng nổi dậy, dẹp bỏ chế độ CSVN... Thêm vào đó, một bài viết của Dân Làm Báo trong nước, đã nêu rõ ràng: một trong những yếu tố dẹp bỏ chế độ CSVN là kêu gọi người Việt hải ngoại hợp tác, không du lịch, không gửi tiền vào trong nước dưới bất cứ hình thức nào... Điều này chứng minh được sự chi tiêu phung phí của người trong nước đã ảnh hưởng rất lớn, làm giảm tiềm năng đấu tranh của người dân với chế độ CSVN hiện nay. .. Hãy nhìn những dân oan biểu tình khắp nơi và thường xuyên, hãy nhìn sự đình công của công nhân trong nước... người Việt hải ngoại sẽ thấy được tầm quan trọng nuôi sống chế độ CSVN vì sức mạnh của mãi lực... Đây là những đồng tiền của người Việt hải ngoại gửi vào trong nước. Hoa Kỳ đang áp dụng sự cắt giảm mãi lực tại Trung-Công bằng cách bài trừ hàng hoá Trung Cộng, tạo nhiều sự khó khăn đang xảy ra cho xứ Tàu Chệt này và TC sẽ gặp những sự khủng hoảng, biến chuyển lớn xảy ra bất cứ lúc nào trước năm 2017.
Sau đó, tất cả chúng ta, người Việt hải ngoại với một lực lượng chuyên gia hùng hậu, với bộ ngoại giao có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ, vì chúng ta ở khắp bốn biển năm châu, tài chánh dư thừa, và quốc gia Việt-Nam với ruộng lúa phì nhiêu, hải sản vô biên sẽ không sợ đói khổ; cùng với khối người Việt cần cù, chịu đựng trong nước; tất cả người Việt cùng nhau xây dựng một quốc gia Việt-Nam với nền kinh tế hùng mạnh, sẽ trở thành số một của Đông Nam Á châu trong một thời gian vừa phải.
Nhân dịp dầu năm xin kính chào tất cả quí vị, và cầu xin sự thực tình, đồng lòng của tất cả người Việt Nam với sứ mạng dẹp bỏ CSVN, cứu đất nước Việt-Nam khỏi ách thốâng trị của CSVN, đập tan sự nô lệ Trung Cộng trong những ngày tháng sắp đến.
TS Nguyễn Văn Lương,
Florida, 2015
CUNG TRẦM TƯỞNG * TRẦN VĂN THẠCH
TRẦN VĂN THẠCH, NHÀ ĐẤU TRANH LỖI LẠC VÀ DŨNG CẢM
CUNG TRẦM TƯỞNG
Trước mùa Giáng sinh, chúng tôi được một người bạn ở Pháp gửi tặng một tác phẩm viết về một nhân vật lịch sử Việt Nam mà trước đó chúng tôi đã chỉ có một ý niệm rất loáng thoáng, rất lờ mờ, để không nói là hầu như không biết gì cả - một thiếu sót đáng trách - về thân thế và sự nghiệp của nhân vật này.
Đó là cuốn “Trần Văn Thạch, Cây Bút chống Bạo quyền Áp bức” của Trần Mỹ Châu và Phan Thị Trọng Tuyến.
Trước khi nhập đề, xin tiết lộ một điều: đó là, chỉ đến khi nhận được sách thì chúng tôi mới biết người tặng cũng chính là đồng tác giả của cuốn sách. Đây quả là một bất ngờ thú vị mà cũng là một vinh dự cho người được tặng. Xin cám ơn.
Nhờ cuốn sách có một giá trị khảo sử cao, chứa đựng một lượng thông tin dồi dào, hữu ích và được biên soạn một cách công phu, có phương pháp, và khoa học tăng hiệu năng tiếp thu nơi người đọc mà chúng tôi có được một sự hiểu biết phong phú hơn, thấu đáo hơn, ngọn nghành hơn, chính xác hơn về sự đóng góp lớn lao và hi sinh cao cả của Trần Văn Thạch cùng các đồng hành đồng chí Đệ tứ Quốc tế của ông cho công cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và Đệ tam Quốc tế Cộng sản Việt Nam nhằm giành lại độc lập cho quê hương và xây dựng một xã hội tự do, vắng bóng độc tài chuyên chế cho đồng bào mình.
Chúng tôi trân quý chủ trương và đường lối đấu tranh ôn hoà, bất bạo động của Trần Văn Thạch lấy sức mạnh mềm của đạo đức người quân tử, của trí tuệ am tường và của lời nói lẫn câu văn của lương tri và lẽ phải làm vũ khí chống bạo quyền thực dân và sự khủng bố tinh thần lẫn đe doạ tính mạng mà người cộng sản đệ tam đang rắp tâm lén lút chĩa về phía mình.
Bây giờ, sau bảy thập niên không thiếu những đảo lộn kinh hoàng gây ra cho đất nước bởi các người cộng sản cuồng tưởng, cuồng tín, ngu trung, bán hồn cho ngoại bang, nhìn lại thì mới thấy rõ tầm vóc lớn của nhân cách và sự sáng suốt rực rỡ của tư tưởng Trần Văn Thạch.
Tư tưởng Trần Văn Thạch là một tổng hoà chiết trung gạn lọc những phần tinh hoa nhân bản của chủ nghĩa quốc tế ông hằng theo đuổi, lồng chúng vào khung cảnh một chủ nghĩa quốc gia dân tộc phóng khoáng, tiến bộ và hiếu hoà. Khác với người cộng sản đệ tam, ông không hi sinh tình yêu nước thương nòi của mình vì một chủ nghĩa quốc tế mơ hồ, chung chung cho dù nó có cao cả đến đâu chăng nữa. Nói theo cách nói thời nay, ông không đánh hộ cho người Nga hay người Tàu.
Chúng ta thấy, nếu non tay và thiếu sáng suốt, một người của muôn nơi dễ hoá một người không là của một nơi nào cả, tức một người không có chỗ để trở về - một người vong bản. Mà như kinh nghiệm của người cộng sản Việt Nam cho thấy, vong bản dễ trượt thành vong thân, tức một hình thái sa đoạ nhân cách ở mức độ tồi tệ nhất.
Nay, dưới đà đẩy khó cưỡng lại của đam mê quyền lực và bạo lực vốn có, với căn bệnh mù quáng mãn tính gây nên bởi sự tôn thờ một chủ nghĩa giáo điều cực đoan và với sự sụp đổ hoàn toàn nơi hắn của hệ giá trị nhân bản truyền thống, người cộng sản vong thân trở thành một tên giết người. Mà càng giết càng cảm thấy bất an nên phải tiếp tục giết, giết nữa: hắn hoá thành một tên giết người hàng loạt.
Về mặt bệnh học, hiện tượng vong thân cấp tính trên - sự khốn đoạ của người xuống hàng muông thú - xuất phát từ một ám ảnh tận thế (catastrophique) muốn “đốt sạch, hoá Sài Gòn ra tro, Nam Bộ thành sa mạc” (như Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ Trần Văn Giàu đã từng muốn) mà hơn một lãnh tụ cộng sản đã mắc phải. Thứ ám ảnh tật nguyền làm con bệnh cảm thấy như bị bao vây bởi hàng ngàn con hydra (thuỷ tức) nhô lên từ thuỷ phủ.
Cơ bản, người cộng sản vong thân cấp tính là một con bệnh nhân cách (psychopath), tức một người chống xã hội (sociopath), “ít có khả năng tạo được các liên hệ cảm xúc với những người khác (Phạm Ngọc Trí, Từ điển Y học Anh-Việt, 1997) và không cảm thấy có tội khi làm hại hay giết người”. Khi có quyền lực tuyệt đối trong tay, dưới tác động của hội chứng thuỷ tức và nỗi ám ảnh tận thế trên, để tự vệ, hắn phải giết người thả giàn và trên một quy mô tập thể mà không thấy ghê tay: hắn phạm tội chống loài người.
Quyển sổ đỏ ghi: trực tiếp hay gián tiếp, quán quân Mao Trạch Đông giết 75 triệu người; Stalin, 60 triệu; Hồ Chí Minh, 6 triệu ( gồm cả số nạn nhân bị y ném vào lò lửa chiến tranh); Kim Nhật Thành, 3.5 triệu; Pol Pot, 3 triệu…
Tổng cộng: 150 triệu sinh linh hiến tế cho nghiệp đoàn cuồng sát thủ.
Ngoài bệnh phân liệt tâm thần có khuynh hướng bạo hành trên, người cộng sản vong thân cấp tính còn mắc phải một khuyết tật bản thể khác: khả năng lí luận của họ bị hút nhập vào một ý nghĩ duy nhất đóng cặn trong đầu, dồn cục trong máu, hoá đá trong tim, khoá chặt họ vào nhà tù của một chủ nghĩa giáo điều hoang tưởng. Nó đóng sập cánh cửa tâm hồn mở ra vùng trời của những ý tưởng tự do, thông thoáng, lồng lộng, cáí chìa khoá, động cơ của sự phát triển sung mãn của trí tuệ.
Sự hạn chế của khả năng lí luận của người cộng sản - một triệu chứng của bệnh thao cuồng đơn ý (monomania) - là nguồn căn của những luận điểm lệch lạc, võ đoán. bóp méo sự thật họ đưa ra để biện bạch cho tội ác của mình.
Một trong những luận điểm ấy là luận điểm về mối liên hệ giữa phương tiện và cứu cánh.
Họ cho rằng, nếu cứu cánh tốt, thì ta có thể làm bất cứ điều gì, kể cả những điều bất lương, miễn chúng giúp ta đạt được cứu cánh ấy. Dựa trên lí luận này, nhân danh một chủ nghĩa mà họ cho là nhân đạo, họ giết người với một lương tâm ổn thoả. Kể cả trường hợp những người vô tội bị giết lầm, họ cũng không cảm thấy dao động.
Rõ ràng là cái lí luận cứu cánh biện minh cho phương tiện ấy là một quỷ biện. Từ này được hiểu ở đây theo hai nghĩa: vừa là một nguỵ biện vừa là sự biện bạch của quỷ. Bởi vì khi được lặp đi lặp lại với một tần số cao, quỷ biện hoá kẻ lạm dụng nó thành một con quỷ.
Quỷ là gì? – Là sự hiện thân của hư vô. Một mất trắng, cả lương tri lẫn trái tim, tức khả năng phân biệt thiện ác và tạo sự mủi lòng. Với nỗi ám ảnh tận thế và hội chứng thuỷ tức mắc phải, quỷ cộng sản không thể không giết người. Là như thế cái logic tự thân của quỷ biện kiểu Giàu – Mai - Trấn.
Bộ ba ấy đã nhúng tay vào vụ giết Trần Văn Thạch.
Ở Trần Văn Giàu, Chủ tịch Lâm uỷ Hành chánh Nam Bộ, chúng ta tìm thấy một phiên bản của mẫu vật (specimen) cộng sản được nhận dạng ở trên.
Trước mắt Giàu, Trần Văn Thạch là một cái gai phải nhổ. Bởi vì ông là sự tương phản trắng đen của hắn. Một tấm gương quang minh chính đại sáng ngời, khiến hắn cảm thấy bị nhức mắt, bực mình, khó ở, mất mặt, hạ thấp, bé đi, bị đe doạ: hắn đâm ra sợ. Sợ bị đè bẹp dưới tầm vóc vĩ đại của người quân tử Trần Văn Thạch.
Quá trình chuyển biến tâm lí nơi hắn diễn ra như sau:
Dưới tác dụng ngấm tận tuỷ não của ý thức hệ chính trị, sự tị hiềm cá nhân hoá hận thù giai cấp. Cũng như hận thù tôn giáo hay hận thù chủng tộc, hận thù giai cấp khốc liệt, man rợ gấp bội so với các dạng hận thù khác. Nó châm mồi lửa cho ý đồ giết người. Và, dưới tác động của hội chứng du kích vốn có cùng với tâm địa tiểu nhân, hắn tác nghiệp với sự a tòng của bóng tối, ưa chém gáy, đâm lưng, bắn lén, ám sát, thủ tiêu, phi tang, giấu xác: chiến lợi phẩm của hắn là những nấm mồ tập thể.
Nhà tư tương chính trị Trần Văn Thạch có một tầm nhìn xa với những tia chớp tiên tri loé lên kì diệu.
Trong “Một giấc mơ độc đáo” được viết ở tuổi 22 (1927) lúc đang còn là một sinh viên du học tại Pháp, ông đã khẳng định: “(Đảng của tôi) không nhận (lệnh) bất cứ từ đâu, không nhận từ Mạc Tư Khoa hay Quảng Đông. Chúng tôi sợ nhất là người Tàu,” (Trần Văn Thạch, Cây bút chống Bạo quyền Áp bức, trang 187). Nỗi sợ này, một thứ linh cảm, 80 năm sau được lịch sử xác nhận là có cơ sở: nó chính là nỗi sợ da diết của hậu duệ ông khi thấy đất nước, do sự phản bội nhục nhã của Đảng Cộng sản, đang đứng trước hiểm hoạ bị thôn tính bởi kẻ thù truyền kiếp bắc phương.
Cũng vào năm 1927, ông tiên đoán sự thống trị của thực dân Pháp tại Việt Nam sẽ chấm dứt vào năm 1956 hay 1957. Hai sự kiện lịch sử sau cho thấy lời tiên đoán của ông gần sát sự thật: Cộng sản thật sự làm chủ hoàn toàn miền Bắc vào ngày 16-5-1955, ngày những toán lính Pháp cuối cùng rút khỏi Cát Bà, Vinh Hạ Long (sđd, tr 182, phần cước chú); còn ở miền Nam, chế độ thực dân Pháp thật sự chấm dứt hoàn toàn với sự thành lập vào ngày 26-10-1956 của nước Việt Nam Cộng Hoà.
Còn có một sự kiện nữa nói lên tài tiên tri của ông Thạch. Đó là, vào tháng 7-1945, trước khi giã từ trưởng nam Trần Văn Tự, ông nói: “Tây bỏ tù ba mà không giết. Đệ tam sẽ giết ba.” (sđd, tr 140&141) Ba tháng sau, lời dự cảm ấy trở thành hiện thực: ông bị tay chân của Trần Văn Giàu thủ tiêu vào ngày 23-10-1945.
Sau khi dẫn câu “Beaucoup d’internationalisme ramène à la patrie” của nhà lãnh đạo kiêm tư tưởng gia Jean Jaurès của Đảng Xã hội Pháp, ông Trần Văn Ân, bạn thân của ông Thạch, coi ba ông Thâu, Hùm, Thạch là “những nhà ái quốc thành tâm và cũng là những nhà xã hội chân chính bởi vì họ đã ý thức tới nơi tới chốn học thuyết quốc tế để trở về gần với tổ quốc mình hơn.” (sđd, tr 125)
Với tư cách một người xã hội chủ nghĩa chân chính, Trần Văn Thạch không chủ trương đấu tranh giai cấp bằng bạo lực của chuyên chế vô sản kiểu đệ tam mà bằng các phương thức đấu tranh hoà bình tiệm tiến trong khuôn viên nghị trường, trên mặt bằng báo chí hay thông qua những cuộc biểu tình, đình công ôn hoà trong công xưởng, ngoài đường phố dưới sự tổ chức và điều động của các nghiệp đoàn được sự ủng hộ tích cực của nhóm Tranh Đấu của ông.
Theo ông, bạo động, lật đổ là không cần thiết bởi vì “tư bản và lao động tuy xung khắc mà tương sinh”. Quan điểm này mở ra một triển vọng thoả hiệp thoả đáng nhằm xây dựng một đồng thuận trong tinh thần tương nhượng và tự nguyện. Suy luận này có cơ sở bởi vì chúng ta thấy ở ông Thạch một mẫu người phục thiện, trọng lẽ phải, giàu viễn kiến, có đầu óc phóng khoáng, tư tưởng chiết trung và một thiện chí dung hoà không mệt mỏi. Tức những đức tính người làm chính trị cần có để xây dựng đồng thuận với người đối tác của mình.
Xin mở một dấu ngoặc để nói thêm về thiện chí dung hoà của ông Thạch được ông biểu lộ qua chủ trương “chấp nhận quyền tư hữu tư sản, ít nhất trong một số điều ứng dụng nào đó” của mình (sđd, tr 187). Chủ trương này, theo chúng tôi, không khác mấy, ở những nét cơ bản, với chủ trương của Đệ nhị Quốc tế là tôn trọng quyền sở hữu tư nhân về một số tư liệu sản xuất quy mô, có tầm vóc quốc gia trong khuôn khổ của một nền kinh tế chỉ đạo và kế hoạch hoá. Ông Thạch chủ trương giải quyết sự mâu thuẫn giữa hai giai cấp tư bản và lao động trong tinh thần hiếu hoà, nhân đạo và huynh đệ - có người gọi ông là một trái tim bồ tát; còn ĐNQT coi mâu thuẫn ấy không có tính đối đầu, nghĩa là hai bên có thể tương sinh mà không loại trừ nhau.
Nói chung, chúng ta thấy giữa ĐNQT và Đệ tứ Quốc tế kiểu Trần Văn Thạch có một mẫu số chung: đó là chủ trương giải quyết sự mâu thuẫn giai cấp bằng một đường lối chiết trung và một thiện chí dung hoà vì lợi ích chung và lí tưởng tiến bộ.
Chủ trương chiết trung của ĐNQT làm cho nó bớt tính thiên tả vốn có và mang nó về một vị trí trung tâm, ở đây, chúng ta thấy một sự dung hoà quan điểm giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Sự dung hoà này không chỉ do sự chuyển hướng của CNXH mà có mà còn vì chính CNTB tự nó cũng có sự điều chỉnh quan trọng làm cho nó nghiêng về phía trung tâm hơn. Sự tương sinh bớt tính xung khắc giữa giai cấp tư bản và giai cấp lao động tạo tiền đề cho sự hình thành tiệm tiến của chủ nghĩa tư bản xã hội hiện đang được áp dụng tại các nước dân chủ xã hội hiện đại Bắc Âu. Nó là một điển hình sống động của xu hướng tiến bộ của loài người. Phiên bản chính trị của chủ nghĩa toàn cầu hoá đương đại đang không ngừng phát triển trên mọi mặt: kinh tế, tài chánh, thị trường, mậu dịch, truyền thông đại chúng, văn hoá giải trí, cung cách hưởng thụ, bảo vệ môi trường, phòng ngừa dịch bệnh, cứu trợ nhân đạo, và còn nữa.
Thiển nghĩ, với cái khuynh hướng chiết trung và tinh thần phóng khoáng vốn có của mình, nếu sống lại, nhà đệ tứ quốc tế Trần Văn Thạch hẳn sẽ không có nghịch cảm với cái mô thức tư bản xã hội trên.
Tưởng cũng nên nói đến một đóng góp khác của ông Thạch cho chủ nghĩa quốc tế ông hằng theo đuổi. Đó là, với tấm lòng vị tha, tình yêu nước thương nòi, tinh thần khoáng đạt, tầm nhìn xa, tri thức mở, tư tưởng chiết trung và thiện chí dung hoà của mình, ông đã làm cho chủ nghĩa đệ tứ bớt tính viễn mơ không tưởng, cực tả phiêu lưu, mang nó về gần thực tế dân tộc mình và lồng vào cho nó một bộ mặt người nhân đạo hơn, nhân ái hơn, bao dung hơn.
Trần Văn Thạch, nhà trí thức tài cao đức rộng. Một trái tim chứa chan nhân từ. Chàng hiệp sĩ của người thợ mỏ, phu đồn điền, anh công nhân xưởng đóng tầu, người cày thuê cuốc mướn, bác xe lôi, chị buôn thúng bán mẹt, những người lao động đầu tắt mặt tối mà không kiếm nổi ba bữa cơm mỗi ngày cho gia đình.
Trần Văn Thạch, tiếng nói dũng cảm bênh vực kẻ bị bóc lột. Hồ sơ bên nguyên kiện tới tận cửa quyền cao nhất, Phủ Toàn quyền Đông Dương, Dinh Thống đốc Nam Kỳ, biết rằng sau đó mình sẽ bị đày đi Côn Đảo.
Trần Văn Thạch, ông đồ tây chơi chữ lỗi lạc, nhà u mặc uyên thâm, ngòi bút sắc bén, dí dỏm nâng văn châm biếm lên thành một thể loại chính quy. Các ông tây, thuộc địa lẫn mẫu quốc, cũng phải tìm đọc để xem mình bị chọc quê, chế giễu hay đến mức nào.
Trần Văn Thạch thế đứng thẳng đối mặt với họng súng, chất vấn Trần Văn Giàu về xuất xứ và tính hợp pháp của cái Lâm uỷ Hành chánh Nam Bộ hắn tự tôn lên làm chủ tịch, biết rằng sau đó hắn sẽ cho tay sai giết mình.
Trần Văn Thạch, người anh hùng nâng chủ nghĩa hiếu hoà lên hàng một tôn giáo. Không một tấc sắt trong tay khi kẻ thù đến bắt mình dẫn đi thủ tiêu. Đã thuần thành với đạo mình tới hơi thở cuối cùng - một tử vì đạo. Long lanh tinh khiết như những giọt lệ ngần - larmes pures - của thi ca René Char.
Ông hi sinh vào ngày 23 tháng 10 năm 1945. Ở tuổi 40, tuổi đang sung sức và còn nhiều tiềm lực cống hiến cho quê hương.
“Mạng ấy yểu mà danh ấy thọ” Vương Hồng Sển khóc bạn.
Kết từ bài này nói về một điểm son của tác giả Trần Mỹ Châu, thứ nữ của liệt sĩ Trần Văn Thạch.
Đó là cái tâm khoan dung, tấm lòng cao thượng thừa hưởng từ người cha mà bà biểu lộ từ tốn, lịch sự, ôn hoà qua cuộc gặp gỡ với Trần Văn Giàu (ở tuổi 95 vẫn còn hung hãn), 61 năm sau ngày cha bà bị tay chân của Giàu sát hại. Với một “thoáng mong ước” ôm theo suốt cuộc hành trình 30 năm đi tìm cha, tìm được ở Giàu, một chứng nhân “cho biết chút ít về cái chết của ba tôi. (Đúng là một ước mong quá ngây thơ.)” (sđd, tr 35)Phan Thị Trọng Tuyến đã viết ra những câu văn ý nghĩa và đẹp: “Khi đọc phần chị Châu kể chuyện, tôi xúc động bàng hoàng trước sự trầm tĩnh của chị và lập tức nhớ lại cưộc gặp gỡ giữa ông Giàu và cha chị hơn 60 năm về trước. Một bàn tay vỗ lên báng súng và ngón tay chĩa vào trán xỉa xói, hăm doạ và lời lẽ không phải để dẫn giải bày tỏ mà là để đe doạ và át tiếng. Hai cử chỉ một con người bên thắng cuộc với khoảng cách thời gian thật dài và với hai thế hệ bên thua cuộc, nhỏ bé, bất động, trên tay chỉ có ngòi bút và tâm trí sáng ngời. Cuộc song hành lửa bạo lực và nước kiên nhẫn vẫn còn tiếp diễn, trong bối cảnh khác nhau.” (sđd, tr 402)
Phan Thị Trọng Tuyển luận về cuộc song hành này: “[T]ôi nhìn thấy nơi sự im lặng của chị, đường hoàng và ngay thẳng, luồng ánh sáng soi rõ cuộc chém giết thuở xưa…Vị anh hùng tài ba ấy thì ra cũng chỉ là một cục đá, một con dao. Thiếu một tâm hồn, một trái tim. Lửa bạo lực chỉ gây chết chóc, tàn phá và sợ hãi còn nước tĩnh lặng, rạch ròi, kiên nhẫn nhắc nhở để nhớ lại nhưng khoan dung và nuôi nấng.” (sđd, tr 402)
Minnesota mùa Giáng sinh năm 2014
CUNG TRẦM TƯỞNG
CUNG TRẦM TƯỞNG
Trước mùa Giáng sinh, chúng tôi được một người bạn ở Pháp gửi tặng một tác phẩm viết về một nhân vật lịch sử Việt Nam mà trước đó chúng tôi đã chỉ có một ý niệm rất loáng thoáng, rất lờ mờ, để không nói là hầu như không biết gì cả - một thiếu sót đáng trách - về thân thế và sự nghiệp của nhân vật này.
Đó là cuốn “Trần Văn Thạch, Cây Bút chống Bạo quyền Áp bức” của Trần Mỹ Châu và Phan Thị Trọng Tuyến.
Trước khi nhập đề, xin tiết lộ một điều: đó là, chỉ đến khi nhận được sách thì chúng tôi mới biết người tặng cũng chính là đồng tác giả của cuốn sách. Đây quả là một bất ngờ thú vị mà cũng là một vinh dự cho người được tặng. Xin cám ơn.
Nhờ cuốn sách có một giá trị khảo sử cao, chứa đựng một lượng thông tin dồi dào, hữu ích và được biên soạn một cách công phu, có phương pháp, và khoa học tăng hiệu năng tiếp thu nơi người đọc mà chúng tôi có được một sự hiểu biết phong phú hơn, thấu đáo hơn, ngọn nghành hơn, chính xác hơn về sự đóng góp lớn lao và hi sinh cao cả của Trần Văn Thạch cùng các đồng hành đồng chí Đệ tứ Quốc tế của ông cho công cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và Đệ tam Quốc tế Cộng sản Việt Nam nhằm giành lại độc lập cho quê hương và xây dựng một xã hội tự do, vắng bóng độc tài chuyên chế cho đồng bào mình.
Chúng tôi trân quý chủ trương và đường lối đấu tranh ôn hoà, bất bạo động của Trần Văn Thạch lấy sức mạnh mềm của đạo đức người quân tử, của trí tuệ am tường và của lời nói lẫn câu văn của lương tri và lẽ phải làm vũ khí chống bạo quyền thực dân và sự khủng bố tinh thần lẫn đe doạ tính mạng mà người cộng sản đệ tam đang rắp tâm lén lút chĩa về phía mình.
Bây giờ, sau bảy thập niên không thiếu những đảo lộn kinh hoàng gây ra cho đất nước bởi các người cộng sản cuồng tưởng, cuồng tín, ngu trung, bán hồn cho ngoại bang, nhìn lại thì mới thấy rõ tầm vóc lớn của nhân cách và sự sáng suốt rực rỡ của tư tưởng Trần Văn Thạch.
Tư tưởng Trần Văn Thạch là một tổng hoà chiết trung gạn lọc những phần tinh hoa nhân bản của chủ nghĩa quốc tế ông hằng theo đuổi, lồng chúng vào khung cảnh một chủ nghĩa quốc gia dân tộc phóng khoáng, tiến bộ và hiếu hoà. Khác với người cộng sản đệ tam, ông không hi sinh tình yêu nước thương nòi của mình vì một chủ nghĩa quốc tế mơ hồ, chung chung cho dù nó có cao cả đến đâu chăng nữa. Nói theo cách nói thời nay, ông không đánh hộ cho người Nga hay người Tàu.
Chúng ta thấy, nếu non tay và thiếu sáng suốt, một người của muôn nơi dễ hoá một người không là của một nơi nào cả, tức một người không có chỗ để trở về - một người vong bản. Mà như kinh nghiệm của người cộng sản Việt Nam cho thấy, vong bản dễ trượt thành vong thân, tức một hình thái sa đoạ nhân cách ở mức độ tồi tệ nhất.
Nay, dưới đà đẩy khó cưỡng lại của đam mê quyền lực và bạo lực vốn có, với căn bệnh mù quáng mãn tính gây nên bởi sự tôn thờ một chủ nghĩa giáo điều cực đoan và với sự sụp đổ hoàn toàn nơi hắn của hệ giá trị nhân bản truyền thống, người cộng sản vong thân trở thành một tên giết người. Mà càng giết càng cảm thấy bất an nên phải tiếp tục giết, giết nữa: hắn hoá thành một tên giết người hàng loạt.
Về mặt bệnh học, hiện tượng vong thân cấp tính trên - sự khốn đoạ của người xuống hàng muông thú - xuất phát từ một ám ảnh tận thế (catastrophique) muốn “đốt sạch, hoá Sài Gòn ra tro, Nam Bộ thành sa mạc” (như Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ Trần Văn Giàu đã từng muốn) mà hơn một lãnh tụ cộng sản đã mắc phải. Thứ ám ảnh tật nguyền làm con bệnh cảm thấy như bị bao vây bởi hàng ngàn con hydra (thuỷ tức) nhô lên từ thuỷ phủ.
Cơ bản, người cộng sản vong thân cấp tính là một con bệnh nhân cách (psychopath), tức một người chống xã hội (sociopath), “ít có khả năng tạo được các liên hệ cảm xúc với những người khác (Phạm Ngọc Trí, Từ điển Y học Anh-Việt, 1997) và không cảm thấy có tội khi làm hại hay giết người”. Khi có quyền lực tuyệt đối trong tay, dưới tác động của hội chứng thuỷ tức và nỗi ám ảnh tận thế trên, để tự vệ, hắn phải giết người thả giàn và trên một quy mô tập thể mà không thấy ghê tay: hắn phạm tội chống loài người.
Quyển sổ đỏ ghi: trực tiếp hay gián tiếp, quán quân Mao Trạch Đông giết 75 triệu người; Stalin, 60 triệu; Hồ Chí Minh, 6 triệu ( gồm cả số nạn nhân bị y ném vào lò lửa chiến tranh); Kim Nhật Thành, 3.5 triệu; Pol Pot, 3 triệu…
Tổng cộng: 150 triệu sinh linh hiến tế cho nghiệp đoàn cuồng sát thủ.
Ngoài bệnh phân liệt tâm thần có khuynh hướng bạo hành trên, người cộng sản vong thân cấp tính còn mắc phải một khuyết tật bản thể khác: khả năng lí luận của họ bị hút nhập vào một ý nghĩ duy nhất đóng cặn trong đầu, dồn cục trong máu, hoá đá trong tim, khoá chặt họ vào nhà tù của một chủ nghĩa giáo điều hoang tưởng. Nó đóng sập cánh cửa tâm hồn mở ra vùng trời của những ý tưởng tự do, thông thoáng, lồng lộng, cáí chìa khoá, động cơ của sự phát triển sung mãn của trí tuệ.
Sự hạn chế của khả năng lí luận của người cộng sản - một triệu chứng của bệnh thao cuồng đơn ý (monomania) - là nguồn căn của những luận điểm lệch lạc, võ đoán. bóp méo sự thật họ đưa ra để biện bạch cho tội ác của mình.
Một trong những luận điểm ấy là luận điểm về mối liên hệ giữa phương tiện và cứu cánh.
Họ cho rằng, nếu cứu cánh tốt, thì ta có thể làm bất cứ điều gì, kể cả những điều bất lương, miễn chúng giúp ta đạt được cứu cánh ấy. Dựa trên lí luận này, nhân danh một chủ nghĩa mà họ cho là nhân đạo, họ giết người với một lương tâm ổn thoả. Kể cả trường hợp những người vô tội bị giết lầm, họ cũng không cảm thấy dao động.
Rõ ràng là cái lí luận cứu cánh biện minh cho phương tiện ấy là một quỷ biện. Từ này được hiểu ở đây theo hai nghĩa: vừa là một nguỵ biện vừa là sự biện bạch của quỷ. Bởi vì khi được lặp đi lặp lại với một tần số cao, quỷ biện hoá kẻ lạm dụng nó thành một con quỷ.
Quỷ là gì? – Là sự hiện thân của hư vô. Một mất trắng, cả lương tri lẫn trái tim, tức khả năng phân biệt thiện ác và tạo sự mủi lòng. Với nỗi ám ảnh tận thế và hội chứng thuỷ tức mắc phải, quỷ cộng sản không thể không giết người. Là như thế cái logic tự thân của quỷ biện kiểu Giàu – Mai - Trấn.
Bộ ba ấy đã nhúng tay vào vụ giết Trần Văn Thạch.
Ở Trần Văn Giàu, Chủ tịch Lâm uỷ Hành chánh Nam Bộ, chúng ta tìm thấy một phiên bản của mẫu vật (specimen) cộng sản được nhận dạng ở trên.
Trước mắt Giàu, Trần Văn Thạch là một cái gai phải nhổ. Bởi vì ông là sự tương phản trắng đen của hắn. Một tấm gương quang minh chính đại sáng ngời, khiến hắn cảm thấy bị nhức mắt, bực mình, khó ở, mất mặt, hạ thấp, bé đi, bị đe doạ: hắn đâm ra sợ. Sợ bị đè bẹp dưới tầm vóc vĩ đại của người quân tử Trần Văn Thạch.
Quá trình chuyển biến tâm lí nơi hắn diễn ra như sau:
Dưới tác dụng ngấm tận tuỷ não của ý thức hệ chính trị, sự tị hiềm cá nhân hoá hận thù giai cấp. Cũng như hận thù tôn giáo hay hận thù chủng tộc, hận thù giai cấp khốc liệt, man rợ gấp bội so với các dạng hận thù khác. Nó châm mồi lửa cho ý đồ giết người. Và, dưới tác động của hội chứng du kích vốn có cùng với tâm địa tiểu nhân, hắn tác nghiệp với sự a tòng của bóng tối, ưa chém gáy, đâm lưng, bắn lén, ám sát, thủ tiêu, phi tang, giấu xác: chiến lợi phẩm của hắn là những nấm mồ tập thể.
Nhà tư tương chính trị Trần Văn Thạch có một tầm nhìn xa với những tia chớp tiên tri loé lên kì diệu.
Trong “Một giấc mơ độc đáo” được viết ở tuổi 22 (1927) lúc đang còn là một sinh viên du học tại Pháp, ông đã khẳng định: “(Đảng của tôi) không nhận (lệnh) bất cứ từ đâu, không nhận từ Mạc Tư Khoa hay Quảng Đông. Chúng tôi sợ nhất là người Tàu,” (Trần Văn Thạch, Cây bút chống Bạo quyền Áp bức, trang 187). Nỗi sợ này, một thứ linh cảm, 80 năm sau được lịch sử xác nhận là có cơ sở: nó chính là nỗi sợ da diết của hậu duệ ông khi thấy đất nước, do sự phản bội nhục nhã của Đảng Cộng sản, đang đứng trước hiểm hoạ bị thôn tính bởi kẻ thù truyền kiếp bắc phương.
Cũng vào năm 1927, ông tiên đoán sự thống trị của thực dân Pháp tại Việt Nam sẽ chấm dứt vào năm 1956 hay 1957. Hai sự kiện lịch sử sau cho thấy lời tiên đoán của ông gần sát sự thật: Cộng sản thật sự làm chủ hoàn toàn miền Bắc vào ngày 16-5-1955, ngày những toán lính Pháp cuối cùng rút khỏi Cát Bà, Vinh Hạ Long (sđd, tr 182, phần cước chú); còn ở miền Nam, chế độ thực dân Pháp thật sự chấm dứt hoàn toàn với sự thành lập vào ngày 26-10-1956 của nước Việt Nam Cộng Hoà.
Còn có một sự kiện nữa nói lên tài tiên tri của ông Thạch. Đó là, vào tháng 7-1945, trước khi giã từ trưởng nam Trần Văn Tự, ông nói: “Tây bỏ tù ba mà không giết. Đệ tam sẽ giết ba.” (sđd, tr 140&141) Ba tháng sau, lời dự cảm ấy trở thành hiện thực: ông bị tay chân của Trần Văn Giàu thủ tiêu vào ngày 23-10-1945.
Sau khi dẫn câu “Beaucoup d’internationalisme ramène à la patrie” của nhà lãnh đạo kiêm tư tưởng gia Jean Jaurès của Đảng Xã hội Pháp, ông Trần Văn Ân, bạn thân của ông Thạch, coi ba ông Thâu, Hùm, Thạch là “những nhà ái quốc thành tâm và cũng là những nhà xã hội chân chính bởi vì họ đã ý thức tới nơi tới chốn học thuyết quốc tế để trở về gần với tổ quốc mình hơn.” (sđd, tr 125)
Với tư cách một người xã hội chủ nghĩa chân chính, Trần Văn Thạch không chủ trương đấu tranh giai cấp bằng bạo lực của chuyên chế vô sản kiểu đệ tam mà bằng các phương thức đấu tranh hoà bình tiệm tiến trong khuôn viên nghị trường, trên mặt bằng báo chí hay thông qua những cuộc biểu tình, đình công ôn hoà trong công xưởng, ngoài đường phố dưới sự tổ chức và điều động của các nghiệp đoàn được sự ủng hộ tích cực của nhóm Tranh Đấu của ông.
Theo ông, bạo động, lật đổ là không cần thiết bởi vì “tư bản và lao động tuy xung khắc mà tương sinh”. Quan điểm này mở ra một triển vọng thoả hiệp thoả đáng nhằm xây dựng một đồng thuận trong tinh thần tương nhượng và tự nguyện. Suy luận này có cơ sở bởi vì chúng ta thấy ở ông Thạch một mẫu người phục thiện, trọng lẽ phải, giàu viễn kiến, có đầu óc phóng khoáng, tư tưởng chiết trung và một thiện chí dung hoà không mệt mỏi. Tức những đức tính người làm chính trị cần có để xây dựng đồng thuận với người đối tác của mình.
Xin mở một dấu ngoặc để nói thêm về thiện chí dung hoà của ông Thạch được ông biểu lộ qua chủ trương “chấp nhận quyền tư hữu tư sản, ít nhất trong một số điều ứng dụng nào đó” của mình (sđd, tr 187). Chủ trương này, theo chúng tôi, không khác mấy, ở những nét cơ bản, với chủ trương của Đệ nhị Quốc tế là tôn trọng quyền sở hữu tư nhân về một số tư liệu sản xuất quy mô, có tầm vóc quốc gia trong khuôn khổ của một nền kinh tế chỉ đạo và kế hoạch hoá. Ông Thạch chủ trương giải quyết sự mâu thuẫn giữa hai giai cấp tư bản và lao động trong tinh thần hiếu hoà, nhân đạo và huynh đệ - có người gọi ông là một trái tim bồ tát; còn ĐNQT coi mâu thuẫn ấy không có tính đối đầu, nghĩa là hai bên có thể tương sinh mà không loại trừ nhau.
Nói chung, chúng ta thấy giữa ĐNQT và Đệ tứ Quốc tế kiểu Trần Văn Thạch có một mẫu số chung: đó là chủ trương giải quyết sự mâu thuẫn giai cấp bằng một đường lối chiết trung và một thiện chí dung hoà vì lợi ích chung và lí tưởng tiến bộ.
Chủ trương chiết trung của ĐNQT làm cho nó bớt tính thiên tả vốn có và mang nó về một vị trí trung tâm, ở đây, chúng ta thấy một sự dung hoà quan điểm giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Sự dung hoà này không chỉ do sự chuyển hướng của CNXH mà có mà còn vì chính CNTB tự nó cũng có sự điều chỉnh quan trọng làm cho nó nghiêng về phía trung tâm hơn. Sự tương sinh bớt tính xung khắc giữa giai cấp tư bản và giai cấp lao động tạo tiền đề cho sự hình thành tiệm tiến của chủ nghĩa tư bản xã hội hiện đang được áp dụng tại các nước dân chủ xã hội hiện đại Bắc Âu. Nó là một điển hình sống động của xu hướng tiến bộ của loài người. Phiên bản chính trị của chủ nghĩa toàn cầu hoá đương đại đang không ngừng phát triển trên mọi mặt: kinh tế, tài chánh, thị trường, mậu dịch, truyền thông đại chúng, văn hoá giải trí, cung cách hưởng thụ, bảo vệ môi trường, phòng ngừa dịch bệnh, cứu trợ nhân đạo, và còn nữa.
Thiển nghĩ, với cái khuynh hướng chiết trung và tinh thần phóng khoáng vốn có của mình, nếu sống lại, nhà đệ tứ quốc tế Trần Văn Thạch hẳn sẽ không có nghịch cảm với cái mô thức tư bản xã hội trên.
Tưởng cũng nên nói đến một đóng góp khác của ông Thạch cho chủ nghĩa quốc tế ông hằng theo đuổi. Đó là, với tấm lòng vị tha, tình yêu nước thương nòi, tinh thần khoáng đạt, tầm nhìn xa, tri thức mở, tư tưởng chiết trung và thiện chí dung hoà của mình, ông đã làm cho chủ nghĩa đệ tứ bớt tính viễn mơ không tưởng, cực tả phiêu lưu, mang nó về gần thực tế dân tộc mình và lồng vào cho nó một bộ mặt người nhân đạo hơn, nhân ái hơn, bao dung hơn.
Trần Văn Thạch, nhà trí thức tài cao đức rộng. Một trái tim chứa chan nhân từ. Chàng hiệp sĩ của người thợ mỏ, phu đồn điền, anh công nhân xưởng đóng tầu, người cày thuê cuốc mướn, bác xe lôi, chị buôn thúng bán mẹt, những người lao động đầu tắt mặt tối mà không kiếm nổi ba bữa cơm mỗi ngày cho gia đình.
Trần Văn Thạch, tiếng nói dũng cảm bênh vực kẻ bị bóc lột. Hồ sơ bên nguyên kiện tới tận cửa quyền cao nhất, Phủ Toàn quyền Đông Dương, Dinh Thống đốc Nam Kỳ, biết rằng sau đó mình sẽ bị đày đi Côn Đảo.
Trần Văn Thạch, ông đồ tây chơi chữ lỗi lạc, nhà u mặc uyên thâm, ngòi bút sắc bén, dí dỏm nâng văn châm biếm lên thành một thể loại chính quy. Các ông tây, thuộc địa lẫn mẫu quốc, cũng phải tìm đọc để xem mình bị chọc quê, chế giễu hay đến mức nào.
Trần Văn Thạch thế đứng thẳng đối mặt với họng súng, chất vấn Trần Văn Giàu về xuất xứ và tính hợp pháp của cái Lâm uỷ Hành chánh Nam Bộ hắn tự tôn lên làm chủ tịch, biết rằng sau đó hắn sẽ cho tay sai giết mình.
Trần Văn Thạch, người anh hùng nâng chủ nghĩa hiếu hoà lên hàng một tôn giáo. Không một tấc sắt trong tay khi kẻ thù đến bắt mình dẫn đi thủ tiêu. Đã thuần thành với đạo mình tới hơi thở cuối cùng - một tử vì đạo. Long lanh tinh khiết như những giọt lệ ngần - larmes pures - của thi ca René Char.
Ông hi sinh vào ngày 23 tháng 10 năm 1945. Ở tuổi 40, tuổi đang sung sức và còn nhiều tiềm lực cống hiến cho quê hương.
“Mạng ấy yểu mà danh ấy thọ” Vương Hồng Sển khóc bạn.
Kết từ bài này nói về một điểm son của tác giả Trần Mỹ Châu, thứ nữ của liệt sĩ Trần Văn Thạch.
Đó là cái tâm khoan dung, tấm lòng cao thượng thừa hưởng từ người cha mà bà biểu lộ từ tốn, lịch sự, ôn hoà qua cuộc gặp gỡ với Trần Văn Giàu (ở tuổi 95 vẫn còn hung hãn), 61 năm sau ngày cha bà bị tay chân của Giàu sát hại. Với một “thoáng mong ước” ôm theo suốt cuộc hành trình 30 năm đi tìm cha, tìm được ở Giàu, một chứng nhân “cho biết chút ít về cái chết của ba tôi. (Đúng là một ước mong quá ngây thơ.)” (sđd, tr 35)Phan Thị Trọng Tuyến đã viết ra những câu văn ý nghĩa và đẹp: “Khi đọc phần chị Châu kể chuyện, tôi xúc động bàng hoàng trước sự trầm tĩnh của chị và lập tức nhớ lại cưộc gặp gỡ giữa ông Giàu và cha chị hơn 60 năm về trước. Một bàn tay vỗ lên báng súng và ngón tay chĩa vào trán xỉa xói, hăm doạ và lời lẽ không phải để dẫn giải bày tỏ mà là để đe doạ và át tiếng. Hai cử chỉ một con người bên thắng cuộc với khoảng cách thời gian thật dài và với hai thế hệ bên thua cuộc, nhỏ bé, bất động, trên tay chỉ có ngòi bút và tâm trí sáng ngời. Cuộc song hành lửa bạo lực và nước kiên nhẫn vẫn còn tiếp diễn, trong bối cảnh khác nhau.” (sđd, tr 402)
Phan Thị Trọng Tuyển luận về cuộc song hành này: “[T]ôi nhìn thấy nơi sự im lặng của chị, đường hoàng và ngay thẳng, luồng ánh sáng soi rõ cuộc chém giết thuở xưa…Vị anh hùng tài ba ấy thì ra cũng chỉ là một cục đá, một con dao. Thiếu một tâm hồn, một trái tim. Lửa bạo lực chỉ gây chết chóc, tàn phá và sợ hãi còn nước tĩnh lặng, rạch ròi, kiên nhẫn nhắc nhở để nhớ lại nhưng khoan dung và nuôi nấng.” (sđd, tr 402)
Minnesota mùa Giáng sinh năm 2014
CUNG TRẦM TƯỞNG
TS. MAI THANH TRUYẾT *MÔI TRƯỜNG VN SAU 40 NĂM
TÌNH TRẠNG MÔI TRƯỜNG VN SAU 40 NĂMTS Mai Thanh Truyết
Hi`nh 1 (xin xem attachment)
Sau năm 1975, từ khi đất nước hoàn toàn thống nhất, CS Việt Nam đã bắt đầu đặt kế hoạch phát triển trên toàn thể quốc gia. Từ kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, đến kế hoạch 5 năm lần thứ hai. Nhưng trong hai kế hoạch ngũ niên đầu tiên nầy, mọi cố gắng của Việt Nam đã đưa đất nước lâm vào tình trạng thực sự kiệt quệ và bế tắc.
Sinh hoạt kinh tế hầu như thất bại hoàn toàn. Việt Nam gần như đứng bên lề vực thẳm.
Năm 1986, trước hiểm họa diệt vong, chính sách phát triển của Việt Nam đã rẽ sang một bước ngoặc, Việt Nam bắt buộc phải mở cửa để chào gọi đầu tư ngoại quốc hầu cứu nguy nền kinh tế đang kiệt quệ. Từ đó, kinh tế Việt Nam lần lần đi lên từng bước một. Nông ngư nghiệp phát triển và nông dân bắt đầu tương đối có đủ lương thực và không còn ăn độn như những năm trước đó nữa.
Lợi tức đầu người từ 180 Mỹ kim (1980) tăng dần từ 7 đến 9% mỗi năm tiếp theo. Nhưng cho đến năm 1997, mức tăng trưởng khựng lại vào khoảng 4- 5% cho đến những năm sau 2000. Từ đó Việt Nam bắt đầu lại vươn lên và đạt được mức tăng trưởng trung bình hàng năm vào khoảng 7- 9% trong nhiều năm.
Bên cạnh việc phát triển và tăng trưởng kinh tế kể trên, Việt Nam lại phải đối mặt với vấn nạn môi trường do phát triển ngày càng trầm trọng thêm ra. Và vấn nạn nầy là một thách thức lớn nhất của Việt Nam trong những ngày sắp đến.
Mục đích của bài nói chuyện hôm nay là trình bày lần lượt 3 yếu tố nổi bật ảnh hưởng đến môi trường qua gần 40 năm phát triển của Việt Nam.
Đó là sự phá rừng, sự gia tăng dân số, và sự phát triển không cân bằng với việc bảo vệ môi trường cùng những hệ lụy nảy sinh do ba yếu tố trên.
1- Ảnh hưởng môi trường qua việc phá rừng
Trước chiến tranh thứ hai, diện tích rừng nguyên sinh của Việt Nam là 19 triệu mẫu chiếm 58% diện tích cả nước. Cho đến năm 1943 rừng chỉ còn lại 14,1 triệu mẫu (43%); và đến năm 1990 tình trạng càng tệ hại hơn nữa, diện tích rừng chỉ còn 9,1 triệu mẫu (27,7%). Theo báo cáo năm 2002 của Ngân hàng Thế giới (WB), kể từ năm 1999 trở đi, hàng năm mức độ đốn rừng để xẻ gỗ được ước tính là 2 triệu m3. Ngoài ra còn phải kể đến việc cháy rừng vào mùa khô và việc chuyển đổi rừng trong việc nuôi tôm như vùng rừng tràm, đước ở Cà Mau.
Việt Nam cũng có chương trình trồng rừng sau khi nhận thức được nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường trong việc phá rừng bừa bãi. Do đó, “chương trình trồng rừng 327” đã được phát động từ năm 1994 đến nay.
Chỉ tiêu cho đến năm 2010 là cố gắng trở lại mức bình thường vào thời điểm 1943, nghĩa là từ bây giờ cho đến cuối kế hoạch (2015) phải trồng thên 5 triệu mẫu rừng, chưa kể đến số diện tích rừng bị hủy diệt hàng ngày. Chi phí trồng rừng được ước tính là 1,1 triệu Mỹ kim/mẫu.
Và Việt Nam nếu muốn đạt chỉ tiêu nầy thì hàng năm phải trồng thêm 1.000.000 mẫu rừng. Do đó tính khả thi của chương trình trồng rừng 327 khó có khả năng thực hiện được.
Về ĐBSCL, trong hiện tại chỉ còn 5% rừng che phủ và đã mất đi khoảng 175.000 mẫu rừng ngập mặn tính đến 2003. Cho đến năm 2012, ước tính vê việc phá rừng ngập măn lên trên 250.000 hecta. Rừng ngập mặn ở nơi nầy thể hiện nhiều lợi điểm sau đây:
• 1- chống lại sự xói mòn của biển, cùng sự hạn chế cường độ của bão nhiệt đới,
• 2 - hạn chế được sự nhiễm mặn vào sâu trong vùng đất liền,
• 3 - nhất là bảo vệ được đa dạng sinh học cho toàn vùng. Kỹ nghệ nuôi tôm và cá basa đã đánh mất đi các lợi điểm nầy và hiện đang để lại một di hại không nhỏ cho toàn vùng hiện tại,
• 4 – đây là nơi trú ngụ và sinh sản của cua,tôm, cá cùng nghêu sò v.v…
Ảnh hưởng lên đất: Hậu quả trước mắt ảnh hưởng từ việc phá rừng là sự thoái hóa của đất. Đất mất đi độ phì nhiêu và sự cân bằng dinh dưỡng. Lớp đất thịt trên mặt sẽ bị cuốn trôi sau những cơn mưa lũ vì không còn cây và rễ để giữ đất lại. Điều nầy được tỏ rõ trong năm 2001, lần đầu tiên trong lịch sử nước sông Hương (Huế) đã biến thành đục và độ pH trở thành kiềm trong mùa khô. Và hàng năm, nước mặn ngày càng vào sâu trong đất liền vào mùa khô. Năm 2013, nước mặn đã vô khỏi Cần Thơ ở Hậu Giang và vùng Mỹ Tho, Bến Tre cùng sông Vàm Cỏ Đông cũng bị nhiễm mặn.
Ngoài sự thoái hóa của đất do nguyên nhân trên, sau gần 30 măm mở cửa và phát triển ồ ạt trong nông nghiệp, Việt Nam mất đi 2 tỷ tấn đất/năm (nguyên nhân chính yếu là do việc phá rừng) hay tính trung bình đất bị sói mòn tùy theo vùng và đã thất thoát từ 50 – 3200 tấn/mẫu/năm ảnh hưởng đến 23 triệu mẫu trên toàn quốc, chiếm 70% diện tích quốc gia.
Ảnh hưởng lên nước mặt: Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo Quốc gia về Cung cấp Nước sạch và Vệ sinh môi trường năm 2003, nguồn nước ở Việt Nam ngày càng bị khan hiếm và ô nhiễm. Sự thoái hóa nầy tăng theo tỷ lệ thuận với mức tăng trưởng kinh tế, nhất là những năm gần đây. Nhu cầu nước cho nông nghiệp chiếm 88%, và cho kỹ nghệ chiếm 7%.
Hinh 2 (xin xem attachment)
Theo một báo cáo năm của Sustainable Việt Nam 2012, sông Tiền đang bị ô nhiễm trầm trọng vì nước thải sinh hoạt và nước thải kỹ nghệ làm cho DO (Oxygen Demand) trong nước giảm, COD (Chemical Oxygen Demand), và BOD5 giảm. Tất cả chảy thằng vào các mạch chính của sông và các phụ lưu, ảnh hưởng lên sức khỏe của người dân ở các tỉnh Đồng Tháp, Vĩnh Long, và Tiền Giang
• Các nguồn nước thải từ khu gia cư, từ các trung tâm kỹ nghệ, khu chế xuất, đất nông nghiệp v.v...đã xâm nhập vào nguồn nước mặt, nước ngầm, thậm chí ảnh hưởng đến phẩm chất nước ở vùng duyên hải nữa. Nước sinh hoạt gia cư, nước thải kỹ nghệ, và nước rỉ từ các bãi rác là nguyên nhân chính yếu cho việc ô nhiễm hữu cơ trong nguồn nước mặt đặc biệt ở các thành phố lớn như Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ v.v... căn cứ theo báo cáo trên. Theo một nghiên cứu vào năm 2012, vùng Hà Nội và phụ cận gồm 200 hồ và sông trong số đó 98% đã bị ô nhiễm nặng.
• Về vùng duyên hải, trong vòng 3 thập niên trở lại đây, hơn 96% san hô của Việt Nam đều bị ảnh hưởng do tác động của con người như đánh bắt cá bằng thuốc nổ, bằng hóa chất độc hại như cyanur, hoặc bị nhiễm độc do phế thải, đặc biệt ở vịnh Hạ Long, Cát Bà (Hải Phòng), Ninh Thuận, Bình Thuận, và Khánh Hòa.
• Theo một nghiên cứu thăm dò từ năm 1994 đến 1997 tại 142 địa điểm san hô dọc theo bờ biển Việt Nam, kết luận của bảng thăm dò cho thấy chỉ còn độ 1% tổng lượng san hô chưa bị ô nhiễm xâm nhập mà thôi. Riêng tại khu vực duyên hải miền Bắc, theo ước tính của Hải học Viện Nha Trang thì trong vòng 20 năm trở lại đây, công nghệ khai thác than Quảng Ninh và các vùng phụ cận đã hủy diệt trên 50% lượng san hô ở vùng biển nầy. Và ảnh hưởng trầm trọng nhứt là vùng cá nục nổi tiếng ở vùng biển Phan Thiết lần lần bị tuyệt chủng vì cá đã di dần qua vùng biển Trường Sa và Phi Luật Tân.
2- Ảnh hưởng do sự gia tăng dân số
Với diện tích 325.000 Km2 trong đất liền và 336.000 Km2 nếu tính luôn các hải đão, Việt Nam phải đối mặt với sự gia tăng dân số trầm trọng từ 44 triệu vào năm 1975 lên đến trên 92 triệu năm 2014.
Mật độ trên 1 Km2 tăng từ 135 người đến 283 người, đứng hàng thứ tư về mật độ cao trên thế giới. Toàn thể Việt Nam hiện tại có khoảng 12 triệu mẫu đất canh tác cho trồng trọt và chăn nuôi.
Chính sự gia tăng dân số quá nhanh ngay sau khi chiến tranh vừa chấm dứt là một trong những nguyên nhân chính cho việc phá rừng. Cùng với mức gia tăng trên, và do nhu cầu sinh tồn, con người đã làm cho môi trường ngày càng xuống cấp nhanh hơn qua việc đốt rừng làm rẫy, độc canh trên đất dốc, đồi núi mà không có biện pháp chống sói mòn.
Về trồng trọt, vì không được hướng dẫn cho nên việc luân canh không có kỹ thuật, không hợp lý cũng như không có kế hoạch, nhất là các loại cây công nghệ như: mía, khoai mì, khóm, lúa, đậu v.v...
Thêm nữa, cũng vì mức gia tăng dân số cho nên đất đã bị xử dụng liên tục, không có thời gian nghĩ ngơi để lấy lại sự cân bằng thiên nhiên.
Cũng như vì nhu cầu tưới tiêu, cho nên nông dân không ngần ngại xử dụng nguồn nước thiếu phẩm chất như nước phèn, nước lợ....và hậu quả tất nhiên của việc làm nầy là mức độ nhiễm mặn, nhiễm phèn lấn sâu vào lục địa và đất đang có nguy cơ trở thành sa mạc hóa trong tương lai, và không thể phục hoạt được. Theo ước tính năm 2007 của Chương trình Môi trường Liên Hiệp Quốc, nguy cơ đất bị hoang hoá hay sa mạc hóa ở Việt Nam có thể lên 7 triệu mẫu.
Việc di dân từ các vùng cao miền Bắc vào cao nguyên Trung phần không có kế hoạch rõ rệt cũng như không có nguồn trợ lực về tài chính và kỹ thuật cho việc di dân lúc ban đầu càng làm tăng thêm mức độ suy thoái của đất trong chăn nuôi và trồng trọt. Thêm nữa, mức độ ô nhiễm qua việc xử dụng hóa chất và thuốc bảo vệ thực vật bừa bãi làm cho tiến trình hủy hoại môi trường càng nhanh hơn.
3- Phát triển không cân bằng với việc bảo vệ môi trường
Báo cáo “Hiện trạng môi trường Việt Nam 2000” soạn thảo do Chương trình Môi trường LHQ và Trung tâm Tài nguyên Khu vực Á châu Thái Bình Dương (UNEP-RRCAP) nêu lên ngay trong phần mở đầu, có nhận định như sau:”Nói chung, cho đến nay (2000) chưa nảy sinh các vấn đề môi trường đối với các khu công nghiệp (KCN) mới”.
Hinh 3(xin xem attachment)
Nhưng, mọi sự việc đã hoàn toàn thay đổi sau 10 năm phát triển ồ ạt tại Việt Nam. Năm 2007, trên cả nước có tất cả 89 KCN hoặc KCX, và hiện nay, 2014, có 265 KCX hiện diện trên dãi đất hình chữ S thân yêu. Và tệ hại hơn cả là trong ngần ấy KCX, chưa tới 1% nhà máy có khả năng thanh lọc phế thải khí, rắn, và lỏng…
Hình 4(xin xem attachment)
Sông Sài Gòn và sông Đồng Nai hàng ngày tiếp nhận trên dưới 500.000 m3 nước thải do đó tình trạng ô nhiễm nguồn nước ngày càng trầm trọng thêm ra.
Còn phế thải rắn đi vào các bãi rác lộ thiên mà không qua công đoạn gạn lọc hay biến chế.
Tại những nơi có KCN đang hoạt động không khí bị ô nhiễm hạt bụi và thậm chí có những khí độc thoát ra như khí clor, khí sulfurơ (SO2), và hơi chì, thủy ngân v.v...Hà Nội được WHO ghi nhận là mức ô nhiễm không khí ngang hàng với thành phố New Delhi và Karachi.
Hàng năm đều có báo cáo ghi nhận “chưa nảy sinh ra vấn đề môi trường”, thử hỏi những vấn nạn môi trường vừa nêu trên chưa phải là vấn đề môi trường hay sao?
Hinh 5(xin xem attachment)
Trong “Chiến lược Bảo vệ Môi trường Quốc gia 2010 – 2020” do Bộ Khoa học, Công nghệ & Môi trường thực hiện đã được nghiên cứu trong nhiều năm, được sự tham gia đóng góp ý kiến của nhiều nhà quản lý, nghiên cứu của hầu hết Bộ/Ngành ở trung ương và nhiều Ban/Ngành ở các địa phương.
Nhiều nhà tài trợ và chuyên gia nước ngoài cũng đã tham gia tư vấn và hoàn thành chiến lược nầy... Và Chiến lược đã rút ra 9 giải pháp để thực hiện việc bảo vệ môi trường Việt Nam trong tương lai nhu sau:
1- Tăng cường giáo dục và nâng cao nhận thức về môi trường;
2- Tăng cường vai trò của cộng đồng, doanh nghiệp, tư nhân trong bảo vệ môi trường;
3- Tăng cường và đa dạng hóa đầu tư bảo vệ môi trường;
4- Tăng cường năng lực quản lý nhà nước về môi trường;
5- Mở rộng hợp tác quốc tế và thu hút sự tài trợ của quốc tế;
6- Kết hợp chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia với chiến lược phát triển kinh tế xã hội;
7- Lựa chọn hành động ưu tiên;
8- Giám sát và đánh giá việc thực hiện chiến lược;
9- Trách nhiệm và các cơ quan thực hiện;
Tính đến nay, 2015, theo sự quan sát của nhiều chuyên gia nội địa và hải ngoại, 9 giải pháp đề ra vẫn chưa được thực hiện đúng mức vì chỉ là những giải pháp tô vẽ trên giấy tờ và không được khai triển ra từng kế hoạch chi tiết để có thể phối hợp hành động.
Ngay cả trong phạm vi quản lý của nhà nước là ưu tiên hàng đầu mà luật lệ và việc phân công, phân nhiệm còn trồng tréo nhau, gây thêm khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất.
Luật Môi trường đã được cải sửa lần thứ 17 (2004) mà vẫn còn quá nhiều kẻ hở tạo điều kiện thuận lợi thêm cho những móc ngoặc và tham nhũng, cũng như nhà nước phải chịu nhiều thất thu qua các tệ trạng kể trên.
Một điều căn bản chính yếu trong luật môi trường là quy định các nhà sản xuất công, kỹ nghệ phái thiết lập “báo cáo” tác động môi trường” (EIA – Environmental Impacts Assessment) trước khi dự án được chấp thuận và cấp giấy phép. Nhưng cho đến nay, có trên dưới hàng triệu cơ sở công nghiệp lớn nhỏ trên toàn quốc đang hoạt động, vẫn chưa có nơi nào nộp bảng nghiên cứu tác động môi trường theo đúng quy định của luật, đặc biệt là việc kkhai thác bauxite tại Cao nguyên Trung phần Việt Nam, và các khu công nghiệp dành riêng cho TC khai thác như Khu Vũng Áng (Hà Tỉnh) thiết lập các nhà máy gang thép, một công nghệ tạo ra rất nhiều phế thải khí và lỏng mà không qua thanh lọc!
Kết Luận
Bộ luật Nước đã được Quốc hội CS phê chuẩn năm 2013, gồm 10 Chương và 75 Điều, trong đó:
• Điều 12-2 ghi rõ:”Việc quy hoạch và quản lý các khu công nghiệp, khu du lịch, khu dân cư tập trung, bịnh viện, khu chăn nuôi và giết mỗ gia súc có quy mô lớn, bãi chứa chất thải, khu chôn cất phóng xạ, rác thải, khu nghĩa trang…phải tuân theo các quy định của Luật nầy và pháp luật về Bảo vệ môi trường, bảo đảm không gây ô nhiễm nguồn nước”.
Luật như thế đó, trên bình diện cả nước hiện nay có thể nói, tất cả sông ngòi từ Bắc chí Nam hầu như bị nhiễm độc hoàn toàn, thậm chí nhiều sông không còn dòng chảy nữa như khu vực sông Nhuệ, sông Đáy, sông Cầu ở miền Bắc và vài khúc sông Đồng Nai, Sài Gòn ở miền Nam…Và sông Thu Bồn ở miền Trung, chỉ một khúc sông chưa đầy 20Km mà đã xây dựng hàng 5,6 đập…gây tai nạn vỡ đập và xả đập hàng năm mỗi khi mùa mưa đến, làm thiệt hại tài sản và nhân mạng rất nhiều.
Trong Chiến lược quốc gia về Tài nguyên Nước đến năm 2020, cũng vừa được Quốc hội CS phê chuẩn, có ghi trong Mục B.b, B.c, và B.d:
• Bảo đảm dòng chảy tối thiểu, duy trì hệ sinh thái thủy sinh theo quy hoạch, trọng điểm là các hồ chứa nước, đập dâng lớn, quan trọng;”
• Bảo vệ tình toàn vẹn và sử dụng có hiệu quả các vùng đất ngập nước, và của sông cho các trọng điểm, các tầng chứa nước quan trọng;”
• Chấm dứt tình trạng thăm dò khai thác, sử dụng tài nguyện nước, và xả nước thải vào nguồn nước…”
Luật là luật, nhưng việc kiểm soát, thanh tra hầu như được bỏ ngỏ trong mọi vi phạm…vì thế lực, vì “phong bì”…tạo nên tình trạng vô tổ chức trong việc sử dụng nguồn nước.
Một quốc gia như Việt Nam với vũ lượng hàng năm trung bình từ 1.500 mm đến 2.000mm và hệ thống sông ngòi chằng chịt từ Bắc chí Nam mà người dân không có đủ nguồn nước sạch để sinh hoạt.
Đó là một bất hạnh lớn của dân tộc!
Quả thật tình trạng nầy chỉ xảy ra ở Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mà thôi!
Nhìn lại gần 40 năm quản lý môi trường của một quốc gia Việt Nam thống nhất, đất nước đã được gồm thu vào một mối, và công cuộc điều hành quốc gia được tóm gọn vào một chiều hướng duy nhất là: “Phát triển quốc gia theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Dù có cố gắng tối đa để cho một nhận xét tích cực, nhưng quả thật, Đất Nước Việt Nam đang đi dần đến bế tắc, nhất là gần 30 năm sau khi có kế hoạch mở cửa từ năm 1986 trở đi..
Phát triển Việt Nam trong nông nghiệp và chăn nuôi để phục vụ cho nhu cầu xuất cảng để có một số ngoại tệ nặng, nhưng cán cân chi thu vẫn làm cho Việt Nam càng thiếu hụt thêm ra theo thời gian mặc dù có rất nhiều nguồn vốn đầu tư do ngoại quốc đổ vào.
Việc xuất cảng hàng năm trung bình 6,7 triệu tấn gaọ, thu nhập vào khoảng 2 tỷ Mỹ kim, liệu có cân bằng được việc nhập cảng 10 triệu tấn phân bón, cùng hàng trăm ngàn tấn hóa chất bảo vệ thực vật để có được lượng gạo xuất cảng trên hay không?
Hay đó chỉ là một chính sách quản lý bao tử của người dân bằng cách bảo đảm một mức sống tối thiểu cho hàng chục triệu nông dân trên cả nước?
Việc xuất cảng hàng năm 1 tỷ Mỹ kim qua việc xẻ gỗ đã để lại quá nhiều vấn nạn môi trường cho sự thất thoát rừng và những hệ lụy đã được phân tích ở phần trên, và mức thu nhập nầy có thể khỏa lấp được những mất mát do vấn nạn trên hay không? Hay nguồn tài nguyên căn bản của đất nước đang bị hao mòn dần?
Theo một báo cáo về Chỉ số Môi trường Bền vững 2006 (2006 Environmental Sustainability Index) do Diễn đàn kinh tế nhóm họp tại Davos (Thụy Sĩ) vào tháng 3, 2006, Việt Nam đã đứng cuối bảng trong 8 quốc gia ASEAN. Đó là Malaysia đứng đầu với 54,0 điểm, Miến Điện 52,8, Lào 52,4, Campuchia 50,1; và Việt Nam đứng chót bảng với 42,3 điểm. Chỉ số trên đo đạc do nhóm giáo sư ở Đại học Yale và Columbia (Hoa Kỳ) thực hiện, căn cứ vào 21 chỉ số môi trường như sau: khí thải nhà kính, phẩm chất nước, không khí, đất, sức khỏe môi trường, trình độ khoa học và công nghệ, khả năng quản lý tài nguyên, khả năng giải quyết áp lục môi trường v.v...
Và Chỉ số Môi trường bền vững 2012 tại Davos ghi nhận:
• Phẩm chất không khí ở Việt Nam được xếp hạng 123rd trên 132 quốc gia được khảo sát;
• Nguồn nước ảnh hưởng lên sức khỏe chiếm hạng 80th trên 132 quốc gia;
So với 146 quốc gia đang phát triển trên thế giới, Việt Nam được xếp vào hạng 127. Trong lúc đó, Chỉ số Tự do kinh tế năm 2008 (2008 Index of Economic Freedom) cho thấy Việt Nam đứng vào hạng 135 trên 157 nến kinh tế trên thế giới. Chỉ số nầy căn cứ theo 10 tiêu chuẩn bao gồm các lãnh vực kinh doanh, đầu tư, mậu dịch, tài chính, tiền tệ, lao động công quyền, tham những và quyền sở hữu tài sản. Hai điều trên cho thấy tình trạng phát triển của Việt Nam còn đầy rẩy nhiều nghịch lý và không đi đồng bộ với việc bảo vệ môi trường.
Tóm lại, mọi kế hoạch, định hướng, chiến lược đã được Việt Nam đề xướng từ 40 năm qua đã không được thi hành nghiêm chỉnh và đúng đắn, cũng như việc phát triển quốc gia hoàn toàn không đi đôi với việc bảo vệ môi trường.
Do đó, hệ quả đương nhiên là tình trạng môi trường ngày càng xuống cấp tệ hại và cho đến nay, mọi biện pháp cứu chữa hầu như không thể thực hiện được.
Và kết luận hiển nhiên là phát triển quốc gia không đi kèm với việc quản lý và kiểm soát môi trường sẽ đưa đất nước đến tình trạng kiệt quệ về tài nguyên và môi trường bị thoái hóa.
Phát triển quốc gia không đi kèm với dân chủ hóa và nhân quyền hóa xã hội sẽ đưa đất nước đến kề cận với thảm họa diệt vong.
Vì, một khi cánh cửa dân chủ chưa được mở ra, thì tất cả tài nguyên, tài sản quốc gia sẽ tích lũy trong tay của một nhóm thiểu số cầm quyền; do đó, phúc lợi nầy sẽ không được chia sẻ đồng đều và công bằng theo nhu cầu của xã hội.
Và đây, cũng là một bế tắc chính yếu cần phải tháo gở của Việt Nam do công cuộc điều hành Đất và Nước không ứng hợp với chiều hướng phát triển bền vững từ 40 năm qua.
Môi trường Việt Nam từ không khí, đến đất đai, nguồn nước đã bị ô nhiễm nặng nề; và có thể nói đã đến giới hạn tới hạn (threshold limit), nghĩa là thiên nhiên sẽ không còn khả năng để tự điều tiết, sàng lọc và thanh lọc môi trường được nữa…Do đó:
• Đất đai sẽ bị hoang hoá, khô cằn, hay sự sa mạc hoá ngày càng tăng nhiều hơn.
• Nguồn không khí dơ bẩn sẽ là một gánh nặng y tế cho Việt Nam một khi phải cưu mang thêm hàng triệu nạn nhân do các bịnh về đường hô hấp .
• Sau cùng, nhất là nguồn nước, trung tâm của mọi sinh hoạt của con người, sẽ là nguồn bịnh tật cho mọi bịnh về đường tiêu hoá và vô số bịnh ung thư qua việc bị nhiễm độc các hóa chất độc hại trong nguồn nước và thực phẩm.
Thử hỏi, với chừng ấy vấn nạn căn bản kể trên, người Việt tại quốc nội làm sao có đủ khả năng để tự cứu lấy chính mình?
Và câu hỏi cho những người cầm quyền hiện tại là, ngoài việc lo củng cố quyền lực và “tích lũy" tài sản cá nhân, có còn lưu tâm đến những vấn nạn môi trường đang xảy ra trên toàn cõi Việt Nam hay không?
Mai Thanh Truyết
Viết cho Melbourne
Tha'ng 3-2015Hi`nh 1 (xin xem attachment)
Sau năm 1975, từ khi đất nước hoàn toàn thống nhất, CS Việt Nam đã bắt đầu đặt kế hoạch phát triển trên toàn thể quốc gia. Từ kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, đến kế hoạch 5 năm lần thứ hai. Nhưng trong hai kế hoạch ngũ niên đầu tiên nầy, mọi cố gắng của Việt Nam đã đưa đất nước lâm vào tình trạng thực sự kiệt quệ và bế tắc.
Sinh hoạt kinh tế hầu như thất bại hoàn toàn. Việt Nam gần như đứng bên lề vực thẳm.
Năm 1986, trước hiểm họa diệt vong, chính sách phát triển của Việt Nam đã rẽ sang một bước ngoặc, Việt Nam bắt buộc phải mở cửa để chào gọi đầu tư ngoại quốc hầu cứu nguy nền kinh tế đang kiệt quệ. Từ đó, kinh tế Việt Nam lần lần đi lên từng bước một. Nông ngư nghiệp phát triển và nông dân bắt đầu tương đối có đủ lương thực và không còn ăn độn như những năm trước đó nữa.
Lợi tức đầu người từ 180 Mỹ kim (1980) tăng dần từ 7 đến 9% mỗi năm tiếp theo. Nhưng cho đến năm 1997, mức tăng trưởng khựng lại vào khoảng 4- 5% cho đến những năm sau 2000. Từ đó Việt Nam bắt đầu lại vươn lên và đạt được mức tăng trưởng trung bình hàng năm vào khoảng 7- 9% trong nhiều năm.
Bên cạnh việc phát triển và tăng trưởng kinh tế kể trên, Việt Nam lại phải đối mặt với vấn nạn môi trường do phát triển ngày càng trầm trọng thêm ra. Và vấn nạn nầy là một thách thức lớn nhất của Việt Nam trong những ngày sắp đến.
Mục đích của bài nói chuyện hôm nay là trình bày lần lượt 3 yếu tố nổi bật ảnh hưởng đến môi trường qua gần 40 năm phát triển của Việt Nam.
Đó là sự phá rừng, sự gia tăng dân số, và sự phát triển không cân bằng với việc bảo vệ môi trường cùng những hệ lụy nảy sinh do ba yếu tố trên.
1- Ảnh hưởng môi trường qua việc phá rừng
Trước chiến tranh thứ hai, diện tích rừng nguyên sinh của Việt Nam là 19 triệu mẫu chiếm 58% diện tích cả nước. Cho đến năm 1943 rừng chỉ còn lại 14,1 triệu mẫu (43%); và đến năm 1990 tình trạng càng tệ hại hơn nữa, diện tích rừng chỉ còn 9,1 triệu mẫu (27,7%). Theo báo cáo năm 2002 của Ngân hàng Thế giới (WB), kể từ năm 1999 trở đi, hàng năm mức độ đốn rừng để xẻ gỗ được ước tính là 2 triệu m3. Ngoài ra còn phải kể đến việc cháy rừng vào mùa khô và việc chuyển đổi rừng trong việc nuôi tôm như vùng rừng tràm, đước ở Cà Mau.
Việt Nam cũng có chương trình trồng rừng sau khi nhận thức được nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường trong việc phá rừng bừa bãi. Do đó, “chương trình trồng rừng 327” đã được phát động từ năm 1994 đến nay.
Chỉ tiêu cho đến năm 2010 là cố gắng trở lại mức bình thường vào thời điểm 1943, nghĩa là từ bây giờ cho đến cuối kế hoạch (2015) phải trồng thên 5 triệu mẫu rừng, chưa kể đến số diện tích rừng bị hủy diệt hàng ngày. Chi phí trồng rừng được ước tính là 1,1 triệu Mỹ kim/mẫu.
Và Việt Nam nếu muốn đạt chỉ tiêu nầy thì hàng năm phải trồng thêm 1.000.000 mẫu rừng. Do đó tính khả thi của chương trình trồng rừng 327 khó có khả năng thực hiện được.
Về ĐBSCL, trong hiện tại chỉ còn 5% rừng che phủ và đã mất đi khoảng 175.000 mẫu rừng ngập mặn tính đến 2003. Cho đến năm 2012, ước tính vê việc phá rừng ngập măn lên trên 250.000 hecta. Rừng ngập mặn ở nơi nầy thể hiện nhiều lợi điểm sau đây:
• 1- chống lại sự xói mòn của biển, cùng sự hạn chế cường độ của bão nhiệt đới,
• 2 - hạn chế được sự nhiễm mặn vào sâu trong vùng đất liền,
• 3 - nhất là bảo vệ được đa dạng sinh học cho toàn vùng. Kỹ nghệ nuôi tôm và cá basa đã đánh mất đi các lợi điểm nầy và hiện đang để lại một di hại không nhỏ cho toàn vùng hiện tại,
• 4 – đây là nơi trú ngụ và sinh sản của cua,tôm, cá cùng nghêu sò v.v…
Ảnh hưởng lên đất: Hậu quả trước mắt ảnh hưởng từ việc phá rừng là sự thoái hóa của đất. Đất mất đi độ phì nhiêu và sự cân bằng dinh dưỡng. Lớp đất thịt trên mặt sẽ bị cuốn trôi sau những cơn mưa lũ vì không còn cây và rễ để giữ đất lại. Điều nầy được tỏ rõ trong năm 2001, lần đầu tiên trong lịch sử nước sông Hương (Huế) đã biến thành đục và độ pH trở thành kiềm trong mùa khô. Và hàng năm, nước mặn ngày càng vào sâu trong đất liền vào mùa khô. Năm 2013, nước mặn đã vô khỏi Cần Thơ ở Hậu Giang và vùng Mỹ Tho, Bến Tre cùng sông Vàm Cỏ Đông cũng bị nhiễm mặn.
Ngoài sự thoái hóa của đất do nguyên nhân trên, sau gần 30 măm mở cửa và phát triển ồ ạt trong nông nghiệp, Việt Nam mất đi 2 tỷ tấn đất/năm (nguyên nhân chính yếu là do việc phá rừng) hay tính trung bình đất bị sói mòn tùy theo vùng và đã thất thoát từ 50 – 3200 tấn/mẫu/năm ảnh hưởng đến 23 triệu mẫu trên toàn quốc, chiếm 70% diện tích quốc gia.
Ảnh hưởng lên nước mặt: Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo Quốc gia về Cung cấp Nước sạch và Vệ sinh môi trường năm 2003, nguồn nước ở Việt Nam ngày càng bị khan hiếm và ô nhiễm. Sự thoái hóa nầy tăng theo tỷ lệ thuận với mức tăng trưởng kinh tế, nhất là những năm gần đây. Nhu cầu nước cho nông nghiệp chiếm 88%, và cho kỹ nghệ chiếm 7%.
Hinh 2 (xin xem attachment)
Theo một báo cáo năm của Sustainable Việt Nam 2012, sông Tiền đang bị ô nhiễm trầm trọng vì nước thải sinh hoạt và nước thải kỹ nghệ làm cho DO (Oxygen Demand) trong nước giảm, COD (Chemical Oxygen Demand), và BOD5 giảm. Tất cả chảy thằng vào các mạch chính của sông và các phụ lưu, ảnh hưởng lên sức khỏe của người dân ở các tỉnh Đồng Tháp, Vĩnh Long, và Tiền Giang
• Các nguồn nước thải từ khu gia cư, từ các trung tâm kỹ nghệ, khu chế xuất, đất nông nghiệp v.v...đã xâm nhập vào nguồn nước mặt, nước ngầm, thậm chí ảnh hưởng đến phẩm chất nước ở vùng duyên hải nữa. Nước sinh hoạt gia cư, nước thải kỹ nghệ, và nước rỉ từ các bãi rác là nguyên nhân chính yếu cho việc ô nhiễm hữu cơ trong nguồn nước mặt đặc biệt ở các thành phố lớn như Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ v.v... căn cứ theo báo cáo trên. Theo một nghiên cứu vào năm 2012, vùng Hà Nội và phụ cận gồm 200 hồ và sông trong số đó 98% đã bị ô nhiễm nặng.
• Về vùng duyên hải, trong vòng 3 thập niên trở lại đây, hơn 96% san hô của Việt Nam đều bị ảnh hưởng do tác động của con người như đánh bắt cá bằng thuốc nổ, bằng hóa chất độc hại như cyanur, hoặc bị nhiễm độc do phế thải, đặc biệt ở vịnh Hạ Long, Cát Bà (Hải Phòng), Ninh Thuận, Bình Thuận, và Khánh Hòa.
• Theo một nghiên cứu thăm dò từ năm 1994 đến 1997 tại 142 địa điểm san hô dọc theo bờ biển Việt Nam, kết luận của bảng thăm dò cho thấy chỉ còn độ 1% tổng lượng san hô chưa bị ô nhiễm xâm nhập mà thôi. Riêng tại khu vực duyên hải miền Bắc, theo ước tính của Hải học Viện Nha Trang thì trong vòng 20 năm trở lại đây, công nghệ khai thác than Quảng Ninh và các vùng phụ cận đã hủy diệt trên 50% lượng san hô ở vùng biển nầy. Và ảnh hưởng trầm trọng nhứt là vùng cá nục nổi tiếng ở vùng biển Phan Thiết lần lần bị tuyệt chủng vì cá đã di dần qua vùng biển Trường Sa và Phi Luật Tân.
2- Ảnh hưởng do sự gia tăng dân số
Với diện tích 325.000 Km2 trong đất liền và 336.000 Km2 nếu tính luôn các hải đão, Việt Nam phải đối mặt với sự gia tăng dân số trầm trọng từ 44 triệu vào năm 1975 lên đến trên 92 triệu năm 2014.
Mật độ trên 1 Km2 tăng từ 135 người đến 283 người, đứng hàng thứ tư về mật độ cao trên thế giới. Toàn thể Việt Nam hiện tại có khoảng 12 triệu mẫu đất canh tác cho trồng trọt và chăn nuôi.
Chính sự gia tăng dân số quá nhanh ngay sau khi chiến tranh vừa chấm dứt là một trong những nguyên nhân chính cho việc phá rừng. Cùng với mức gia tăng trên, và do nhu cầu sinh tồn, con người đã làm cho môi trường ngày càng xuống cấp nhanh hơn qua việc đốt rừng làm rẫy, độc canh trên đất dốc, đồi núi mà không có biện pháp chống sói mòn.
Về trồng trọt, vì không được hướng dẫn cho nên việc luân canh không có kỹ thuật, không hợp lý cũng như không có kế hoạch, nhất là các loại cây công nghệ như: mía, khoai mì, khóm, lúa, đậu v.v...
Thêm nữa, cũng vì mức gia tăng dân số cho nên đất đã bị xử dụng liên tục, không có thời gian nghĩ ngơi để lấy lại sự cân bằng thiên nhiên.
Cũng như vì nhu cầu tưới tiêu, cho nên nông dân không ngần ngại xử dụng nguồn nước thiếu phẩm chất như nước phèn, nước lợ....và hậu quả tất nhiên của việc làm nầy là mức độ nhiễm mặn, nhiễm phèn lấn sâu vào lục địa và đất đang có nguy cơ trở thành sa mạc hóa trong tương lai, và không thể phục hoạt được. Theo ước tính năm 2007 của Chương trình Môi trường Liên Hiệp Quốc, nguy cơ đất bị hoang hoá hay sa mạc hóa ở Việt Nam có thể lên 7 triệu mẫu.
Việc di dân từ các vùng cao miền Bắc vào cao nguyên Trung phần không có kế hoạch rõ rệt cũng như không có nguồn trợ lực về tài chính và kỹ thuật cho việc di dân lúc ban đầu càng làm tăng thêm mức độ suy thoái của đất trong chăn nuôi và trồng trọt. Thêm nữa, mức độ ô nhiễm qua việc xử dụng hóa chất và thuốc bảo vệ thực vật bừa bãi làm cho tiến trình hủy hoại môi trường càng nhanh hơn.
3- Phát triển không cân bằng với việc bảo vệ môi trường
Báo cáo “Hiện trạng môi trường Việt Nam 2000” soạn thảo do Chương trình Môi trường LHQ và Trung tâm Tài nguyên Khu vực Á châu Thái Bình Dương (UNEP-RRCAP) nêu lên ngay trong phần mở đầu, có nhận định như sau:”Nói chung, cho đến nay (2000) chưa nảy sinh các vấn đề môi trường đối với các khu công nghiệp (KCN) mới”.
Hinh 3(xin xem attachment)
Nhưng, mọi sự việc đã hoàn toàn thay đổi sau 10 năm phát triển ồ ạt tại Việt Nam. Năm 2007, trên cả nước có tất cả 89 KCN hoặc KCX, và hiện nay, 2014, có 265 KCX hiện diện trên dãi đất hình chữ S thân yêu. Và tệ hại hơn cả là trong ngần ấy KCX, chưa tới 1% nhà máy có khả năng thanh lọc phế thải khí, rắn, và lỏng…
Hình 4(xin xem attachment)
Sông Sài Gòn và sông Đồng Nai hàng ngày tiếp nhận trên dưới 500.000 m3 nước thải do đó tình trạng ô nhiễm nguồn nước ngày càng trầm trọng thêm ra.
Còn phế thải rắn đi vào các bãi rác lộ thiên mà không qua công đoạn gạn lọc hay biến chế.
Tại những nơi có KCN đang hoạt động không khí bị ô nhiễm hạt bụi và thậm chí có những khí độc thoát ra như khí clor, khí sulfurơ (SO2), và hơi chì, thủy ngân v.v...Hà Nội được WHO ghi nhận là mức ô nhiễm không khí ngang hàng với thành phố New Delhi và Karachi.
Hàng năm đều có báo cáo ghi nhận “chưa nảy sinh ra vấn đề môi trường”, thử hỏi những vấn nạn môi trường vừa nêu trên chưa phải là vấn đề môi trường hay sao?
Hinh 5(xin xem attachment)
Trong “Chiến lược Bảo vệ Môi trường Quốc gia 2010 – 2020” do Bộ Khoa học, Công nghệ & Môi trường thực hiện đã được nghiên cứu trong nhiều năm, được sự tham gia đóng góp ý kiến của nhiều nhà quản lý, nghiên cứu của hầu hết Bộ/Ngành ở trung ương và nhiều Ban/Ngành ở các địa phương.
Nhiều nhà tài trợ và chuyên gia nước ngoài cũng đã tham gia tư vấn và hoàn thành chiến lược nầy... Và Chiến lược đã rút ra 9 giải pháp để thực hiện việc bảo vệ môi trường Việt Nam trong tương lai nhu sau:
1- Tăng cường giáo dục và nâng cao nhận thức về môi trường;
2- Tăng cường vai trò của cộng đồng, doanh nghiệp, tư nhân trong bảo vệ môi trường;
3- Tăng cường và đa dạng hóa đầu tư bảo vệ môi trường;
4- Tăng cường năng lực quản lý nhà nước về môi trường;
5- Mở rộng hợp tác quốc tế và thu hút sự tài trợ của quốc tế;
6- Kết hợp chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia với chiến lược phát triển kinh tế xã hội;
7- Lựa chọn hành động ưu tiên;
8- Giám sát và đánh giá việc thực hiện chiến lược;
9- Trách nhiệm và các cơ quan thực hiện;
Tính đến nay, 2015, theo sự quan sát của nhiều chuyên gia nội địa và hải ngoại, 9 giải pháp đề ra vẫn chưa được thực hiện đúng mức vì chỉ là những giải pháp tô vẽ trên giấy tờ và không được khai triển ra từng kế hoạch chi tiết để có thể phối hợp hành động.
Ngay cả trong phạm vi quản lý của nhà nước là ưu tiên hàng đầu mà luật lệ và việc phân công, phân nhiệm còn trồng tréo nhau, gây thêm khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất.
Luật Môi trường đã được cải sửa lần thứ 17 (2004) mà vẫn còn quá nhiều kẻ hở tạo điều kiện thuận lợi thêm cho những móc ngoặc và tham nhũng, cũng như nhà nước phải chịu nhiều thất thu qua các tệ trạng kể trên.
Một điều căn bản chính yếu trong luật môi trường là quy định các nhà sản xuất công, kỹ nghệ phái thiết lập “báo cáo” tác động môi trường” (EIA – Environmental Impacts Assessment) trước khi dự án được chấp thuận và cấp giấy phép. Nhưng cho đến nay, có trên dưới hàng triệu cơ sở công nghiệp lớn nhỏ trên toàn quốc đang hoạt động, vẫn chưa có nơi nào nộp bảng nghiên cứu tác động môi trường theo đúng quy định của luật, đặc biệt là việc kkhai thác bauxite tại Cao nguyên Trung phần Việt Nam, và các khu công nghiệp dành riêng cho TC khai thác như Khu Vũng Áng (Hà Tỉnh) thiết lập các nhà máy gang thép, một công nghệ tạo ra rất nhiều phế thải khí và lỏng mà không qua thanh lọc!
Kết Luận
Bộ luật Nước đã được Quốc hội CS phê chuẩn năm 2013, gồm 10 Chương và 75 Điều, trong đó:
• Điều 12-2 ghi rõ:”Việc quy hoạch và quản lý các khu công nghiệp, khu du lịch, khu dân cư tập trung, bịnh viện, khu chăn nuôi và giết mỗ gia súc có quy mô lớn, bãi chứa chất thải, khu chôn cất phóng xạ, rác thải, khu nghĩa trang…phải tuân theo các quy định của Luật nầy và pháp luật về Bảo vệ môi trường, bảo đảm không gây ô nhiễm nguồn nước”.
Luật như thế đó, trên bình diện cả nước hiện nay có thể nói, tất cả sông ngòi từ Bắc chí Nam hầu như bị nhiễm độc hoàn toàn, thậm chí nhiều sông không còn dòng chảy nữa như khu vực sông Nhuệ, sông Đáy, sông Cầu ở miền Bắc và vài khúc sông Đồng Nai, Sài Gòn ở miền Nam…Và sông Thu Bồn ở miền Trung, chỉ một khúc sông chưa đầy 20Km mà đã xây dựng hàng 5,6 đập…gây tai nạn vỡ đập và xả đập hàng năm mỗi khi mùa mưa đến, làm thiệt hại tài sản và nhân mạng rất nhiều.
Trong Chiến lược quốc gia về Tài nguyên Nước đến năm 2020, cũng vừa được Quốc hội CS phê chuẩn, có ghi trong Mục B.b, B.c, và B.d:
• Bảo đảm dòng chảy tối thiểu, duy trì hệ sinh thái thủy sinh theo quy hoạch, trọng điểm là các hồ chứa nước, đập dâng lớn, quan trọng;”
• Bảo vệ tình toàn vẹn và sử dụng có hiệu quả các vùng đất ngập nước, và của sông cho các trọng điểm, các tầng chứa nước quan trọng;”
• Chấm dứt tình trạng thăm dò khai thác, sử dụng tài nguyện nước, và xả nước thải vào nguồn nước…”
Luật là luật, nhưng việc kiểm soát, thanh tra hầu như được bỏ ngỏ trong mọi vi phạm…vì thế lực, vì “phong bì”…tạo nên tình trạng vô tổ chức trong việc sử dụng nguồn nước.
Một quốc gia như Việt Nam với vũ lượng hàng năm trung bình từ 1.500 mm đến 2.000mm và hệ thống sông ngòi chằng chịt từ Bắc chí Nam mà người dân không có đủ nguồn nước sạch để sinh hoạt.
Đó là một bất hạnh lớn của dân tộc!
Quả thật tình trạng nầy chỉ xảy ra ở Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mà thôi!
Nhìn lại gần 40 năm quản lý môi trường của một quốc gia Việt Nam thống nhất, đất nước đã được gồm thu vào một mối, và công cuộc điều hành quốc gia được tóm gọn vào một chiều hướng duy nhất là: “Phát triển quốc gia theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Dù có cố gắng tối đa để cho một nhận xét tích cực, nhưng quả thật, Đất Nước Việt Nam đang đi dần đến bế tắc, nhất là gần 30 năm sau khi có kế hoạch mở cửa từ năm 1986 trở đi..
Phát triển Việt Nam trong nông nghiệp và chăn nuôi để phục vụ cho nhu cầu xuất cảng để có một số ngoại tệ nặng, nhưng cán cân chi thu vẫn làm cho Việt Nam càng thiếu hụt thêm ra theo thời gian mặc dù có rất nhiều nguồn vốn đầu tư do ngoại quốc đổ vào.
Việc xuất cảng hàng năm trung bình 6,7 triệu tấn gaọ, thu nhập vào khoảng 2 tỷ Mỹ kim, liệu có cân bằng được việc nhập cảng 10 triệu tấn phân bón, cùng hàng trăm ngàn tấn hóa chất bảo vệ thực vật để có được lượng gạo xuất cảng trên hay không?
Hay đó chỉ là một chính sách quản lý bao tử của người dân bằng cách bảo đảm một mức sống tối thiểu cho hàng chục triệu nông dân trên cả nước?
Việc xuất cảng hàng năm 1 tỷ Mỹ kim qua việc xẻ gỗ đã để lại quá nhiều vấn nạn môi trường cho sự thất thoát rừng và những hệ lụy đã được phân tích ở phần trên, và mức thu nhập nầy có thể khỏa lấp được những mất mát do vấn nạn trên hay không? Hay nguồn tài nguyên căn bản của đất nước đang bị hao mòn dần?
Theo một báo cáo về Chỉ số Môi trường Bền vững 2006 (2006 Environmental Sustainability Index) do Diễn đàn kinh tế nhóm họp tại Davos (Thụy Sĩ) vào tháng 3, 2006, Việt Nam đã đứng cuối bảng trong 8 quốc gia ASEAN. Đó là Malaysia đứng đầu với 54,0 điểm, Miến Điện 52,8, Lào 52,4, Campuchia 50,1; và Việt Nam đứng chót bảng với 42,3 điểm. Chỉ số trên đo đạc do nhóm giáo sư ở Đại học Yale và Columbia (Hoa Kỳ) thực hiện, căn cứ vào 21 chỉ số môi trường như sau: khí thải nhà kính, phẩm chất nước, không khí, đất, sức khỏe môi trường, trình độ khoa học và công nghệ, khả năng quản lý tài nguyên, khả năng giải quyết áp lục môi trường v.v...
Và Chỉ số Môi trường bền vững 2012 tại Davos ghi nhận:
• Phẩm chất không khí ở Việt Nam được xếp hạng 123rd trên 132 quốc gia được khảo sát;
• Nguồn nước ảnh hưởng lên sức khỏe chiếm hạng 80th trên 132 quốc gia;
So với 146 quốc gia đang phát triển trên thế giới, Việt Nam được xếp vào hạng 127. Trong lúc đó, Chỉ số Tự do kinh tế năm 2008 (2008 Index of Economic Freedom) cho thấy Việt Nam đứng vào hạng 135 trên 157 nến kinh tế trên thế giới. Chỉ số nầy căn cứ theo 10 tiêu chuẩn bao gồm các lãnh vực kinh doanh, đầu tư, mậu dịch, tài chính, tiền tệ, lao động công quyền, tham những và quyền sở hữu tài sản. Hai điều trên cho thấy tình trạng phát triển của Việt Nam còn đầy rẩy nhiều nghịch lý và không đi đồng bộ với việc bảo vệ môi trường.
Tóm lại, mọi kế hoạch, định hướng, chiến lược đã được Việt Nam đề xướng từ 40 năm qua đã không được thi hành nghiêm chỉnh và đúng đắn, cũng như việc phát triển quốc gia hoàn toàn không đi đôi với việc bảo vệ môi trường.
Do đó, hệ quả đương nhiên là tình trạng môi trường ngày càng xuống cấp tệ hại và cho đến nay, mọi biện pháp cứu chữa hầu như không thể thực hiện được.
Và kết luận hiển nhiên là phát triển quốc gia không đi kèm với việc quản lý và kiểm soát môi trường sẽ đưa đất nước đến tình trạng kiệt quệ về tài nguyên và môi trường bị thoái hóa.
Phát triển quốc gia không đi kèm với dân chủ hóa và nhân quyền hóa xã hội sẽ đưa đất nước đến kề cận với thảm họa diệt vong.
Vì, một khi cánh cửa dân chủ chưa được mở ra, thì tất cả tài nguyên, tài sản quốc gia sẽ tích lũy trong tay của một nhóm thiểu số cầm quyền; do đó, phúc lợi nầy sẽ không được chia sẻ đồng đều và công bằng theo nhu cầu của xã hội.
Và đây, cũng là một bế tắc chính yếu cần phải tháo gở của Việt Nam do công cuộc điều hành Đất và Nước không ứng hợp với chiều hướng phát triển bền vững từ 40 năm qua.
Môi trường Việt Nam từ không khí, đến đất đai, nguồn nước đã bị ô nhiễm nặng nề; và có thể nói đã đến giới hạn tới hạn (threshold limit), nghĩa là thiên nhiên sẽ không còn khả năng để tự điều tiết, sàng lọc và thanh lọc môi trường được nữa…Do đó:
• Đất đai sẽ bị hoang hoá, khô cằn, hay sự sa mạc hoá ngày càng tăng nhiều hơn.
• Nguồn không khí dơ bẩn sẽ là một gánh nặng y tế cho Việt Nam một khi phải cưu mang thêm hàng triệu nạn nhân do các bịnh về đường hô hấp .
• Sau cùng, nhất là nguồn nước, trung tâm của mọi sinh hoạt của con người, sẽ là nguồn bịnh tật cho mọi bịnh về đường tiêu hoá và vô số bịnh ung thư qua việc bị nhiễm độc các hóa chất độc hại trong nguồn nước và thực phẩm.
Thử hỏi, với chừng ấy vấn nạn căn bản kể trên, người Việt tại quốc nội làm sao có đủ khả năng để tự cứu lấy chính mình?
Và câu hỏi cho những người cầm quyền hiện tại là, ngoài việc lo củng cố quyền lực và “tích lũy" tài sản cá nhân, có còn lưu tâm đến những vấn nạn môi trường đang xảy ra trên toàn cõi Việt Nam hay không?
Mai Thanh Truyết
Viết cho Melbourne
HUY`NH NGỌC TUẤN * NGOẠI GIAO TIỂU XẢO
NỀN NGOẠI GIAO TIỂU XẢO CUỐI CÙNG SẼ BIẾN VN THÀNH MỘT TÂN CƯƠNG, TÂY TẠNG THỨ HAI...
HUY`NH NGỌC TUẤN
Một bài xã luận trên tờ báo Quân Giải phóng của TC viết:
“Những điều mà các binh sĩ không thể đạt được khi nổ súng trên chiến trường thì không bao giờ đạt được bằng miệng lưỡi các nhà ngoại giao trên bàn đàm phán. Số phận của một quốc gia chưa bao giờ lại liên hệ chặt chẽ với sức mạnh và điểm yếu của quân đội cũng như chiến thắng hay thất bại trên chiến trường như hiện nay".
Nghê Lạc Hùng, một nhà bình luận quân sự từ Thượng Hải cho biết, bài xã luận trên tờ Quân giải phóng nhằm thúc đẩy niềm tin Trung Quốc đã thể hiện sức mạnh của họ. "Nó muốn nói rằng chúng ta không nên có bất kỳ ảo tưởng nào về giải quyết hòa bình mà phải sẵn sàng cho chiến tranh". (nguồn Giaoduc.net)
Đây là một sự thay đổi căn bản chính sách của TC thể hiện mưu đồ bá chủ thế giới bằng vũ lực.
Cho nên hiểm họa đối với sự tồn vong của đất nước và dân tộc VN ngày hôm nay lớn hơn bất cứ giai đoạn nào trong một lịch sử đầy những va chạm giữa hai dân tộc Việt –Hán.
Trong lịch sử chúng ta có thể đánh bại những đội quân xâm lược của người Hán hùng mạnh về số lượng nhưng cân bằng về “công nghệ” quốc phòng. Lúc đó chỉ có cung tên và giáo mác, ngựa chiến, sức người và mưu lược. Còn bây giờ với những vũ khí tối tân mà Trung cộng thủ đắc, Nhật Bản cũng phải lo sợ nên tìm sự bảo vệ trong ô dù an ninh của Mỹ thì quân đội CSVN có thể làm gì được đây để bảo vệ đất nước ?
Đối đầu với một kẻ thù hùng mạnh như Trung cộng mà chỉ dựa vào ý chí và “hào quang của lịch sử” là một chuyện khôi hài. Chiến tranh không có chổ cho sự lãng mạn , quá khứ thắng trận trong thời võ khí đơn giản và dựa vào tuyên truyền là chủ yếu không thể giúp VN thắng được sức mạnh quân sự áp đảo của TC thời nay…
Hiện tình của đất nước chúng ta đòi hỏi phải có sự tập hợp sức mạnh toàn dân tộc cộng với một chính sách ngoại giao mở rộng và định hướng, liên minh với các đối tác có chung quyền lợi, nhưng CSVN hiện nay đã yếu về quốc phòng lại chủ trương cô lập về ngoai giao, hành động của họ giống như một thuyền trưởng vô trách nhiệm và bị bệnh hoang tưởng đang điều khiển một con tàu sắp chìm trong cơn bão dữ..
CSVN chủ trương làm đối tác chiến lược với rất nhiều quốc gia như Nga, Ấn Độ, Trung cộng, Nhật bản và cả Hoa kỳ, những quốc gia này có lập trường và quyền lợi chiến lược trái ngược nhau. CSVN làm bạn với tất cả nhưng không với ai cả..!
Có một sự hoang tưởng rất lớn trong đường lối đối ngoại của CSVN, đó là vẫn coi Trung cộng như một nước “Xã hội chủ nghĩa anh em” và mục tiêu “xây dựng Chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới” vẫn là kim chỉ nam trong ý thức hệ của những người CSVN…bất chấp mọi thực tế phủ phàng TC chỉ là một kẻ chinh phục với quyền lợi quốc gia và dân tộc đại Hán là tối thượng !.
Trong cuộc khủng hoảng Biển Đông và đối diện với hiểm họa từ Trung cộng, trong lúc môi trường quốc tế đầy mâu thuẩn đầy biến động và tiềm ẩn nguy cơ chiến tranh , nhưng CSVN không hề có một tầm nhìn chiến lược để hoạch định chính sách ngoại giao, họ chỉ kêu gọi sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế nhưng không chọn lựa đứng về phía thế giới tự do trong cuộc tranh chấp không khoang nhượng này. CSVN vẫn đứng giữa ngã ba đường với ước mơ về một “thiên đường CS” không có thật và một nỗi sợ hãi mênh mông về tương lai bất định.
Không có niềm tin, không còn chổ dựa, mất định hướng, CSVN chỉ còn biết cầu may với một đối sách ngoại giao mang tính tình thế với nhiều thủ đoạn vặt vãnh , người ta gọi đó là nền ngoại giao “tiểu xảo”.
Nền ngoại giao “tiểu xảo” kiểu kỳ nhông đổi màu sẽ không thể đáp ứng được thách thức nghiệt ngã của thời cuộc hiện nay cho nên nó sẽ phá sản thảm hại và CSVN không sớm thì muộn sẽ phải thay đổi chính sách ngoại giao tiểu xảo đó, nhưng trước mắt nền Ngoại giao tiểu xảo này sẽ đẩy đất nước và dân tộc đến thảm họa và đã đến lúc dân tộc Việt phải chọn cho mình một hướng đi, một đích đến, một liên minh khả tín và hiệu quả để có thể tồn tại được trước tham vọng bá quyền Trung cộng .
Nếu chúng ta cứ tiếp tục để cho thằng “đầy tớ” phản phúc này quyết định thay cho chúng ta thì trong nay mai sẽ có thêm một Tân Cương, một Tây Tạng nữa. Trách nhiệm này thuộc về tất cả chúng ta, cái gia tài mà cha ông chúng ta xây dựng và gìn giữ bằng xương máu mấy ngàn năm sẽ thuộc về người khác…!
Huỳnh ngọc Tuấn.
5/8/2014
HUY`NH NGỌC TUẤN
Từ khi Trung cộng đem giàn khoan HD 981 cắm sâu vào vùng biển Việt nam, một làn sóng phản ứng dữ dội nổi lên làm rung chuyển xã hội Việt nam vốn rất im lìm với phương châm “đèn nhà ai nấy sáng” và luôn được định hướng từ ban Tuyên giáo Trung ương và sự chỉ mặt cảnh báo của công an từ mấy chục năm nay rằng người dân không được quan tâm và bình luận về chính trị vì sẽ “phạm chính trị” và hãy để cho “đảng và nhà nước lo”…
Cuộc khủng hoảng HD 981 đã đặt đảng CS trước một bài toán nan giải, nếu cứ tiếp tục “án binh bất động” ngậm miệng ăn tiền thì sẽ khó biện minh với sự chất vấn của người dân và nhất là với giới bất đồng chính kiến mà họ (VC) coi là “thế lực thù địch” đang tìm cách “kích động diễn biến hòa bình”.
Trước viễn cảnh người dân VN sẽ đặt nghi vấn về sự lãnh đạo “sáng suốt- tài tình” của đảng nên một số nhà lãnh đạo VC trong đó có ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phải lên tiếng là sẽ “xem xét” về “khả năng” kiện Trung cộng ra Tòa án quốc tế và đặt lại vấn đề về mối “quan hệ hữu nghị viễn vông”. Nhưng sau đó mọi việc vẫn chìm xuồng như không có gì xảy ra và ông ta chưa nói điều gì…!!
Chuyến công du của Ngoai trưởng Hoa kỳ John Kerry sang VN trong thời điểm khủng hoảng biển Đông cũng làm dấy lên một tin đồn là Ngoại trưởng VC ông Phạm Bình Minh sẽ sang Hoa kỳ để tìm kiếm một mối quan hệ mới với kẻ cựu thù, một chuyến đi mang đầy những dự phóng về một tương lai mới cho nhân dân VN. Những nhà phân tích thì đánh giá chuyến đi sắp tới của ông Phạm Bình Minh như một tín hiệu của sự chuyển dịch chiến lược ngoại giao và quốc phòng. Nhưng mãi cho đến nay không có một nhà lãnh đạo nào của VC sang Hoa kỳ với một sứ mệnh như người dân mong đợi.
Nhu cầu bảo vệ đất nước trước sức mạnh vượt trội và tham vọng bá chủ của Trung cộng là một điều hiển nhiên và cấp bách đòi hỏi Việt nam phải tìm kiếm một phương pháp phòng vệ tập thể. Nhưng đối với CSVN việc gia nhập vào một liên minh phòng vệ tập thể sẽ chấm dứt vai trò độc tôn lãnh đạo của họ vì Hoa Kỳ chưa có tiền lệ liên minh quân sự với một chế độ cộng sản.
Hơn nữa việc tìm kiếm sự bảo vệ đất nước từ phía Hoa kỳ như Nhật bản, Phi Luật Tân đã làm đồng nghĩa với việc khẳng định rằng “cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước” vừa qua tốn biết bao nhiêu xương máu và tàn phá đất nước chỉ là một chiêu bài mỵ dân. Điều này sẽ đặt ra một thách thức vô cùng to lớn và không thể vượt qua về tính chính danh của chế độ hiện nay và vai trò của đảng CS.
Chính vì những lý do “chết người” đó nên CSVN chỉ đưa ra những “hứa hẹn” này, “khả năng” kia nhưng họ không làm gì cả, họ tìm mọi cách ngấm ngầm thương lượng với Trung cộng để hạ nhiệt khủng hoảng bằng một cái giá mà chỉ có họ và TC mới biết.
Đang ở thế tiến thóai lưỡng nan VC lại gặp một may mắn bất ngờ.
Ngày 10/7/2014 Thượng Viện Hoa kỳ ra Nghị quyết về biển Đông, yêu cầu Trung cộng rút giàn khoan HD 981 khỏi biển VN, Nghị quyết còn lên án và cảnh báo Trung cộng dừng ngay những hành động gây hấn và không được thay đổi nguyên trạng trong vùng..
Ngày 16/7/2014 Trung cộng đơn phương rút giàn khoan về đảo Hải Nam chấm dứt hơn hai tháng khủng hoảng, VC thở phào nhẹ nhỏm và không quên cao giọng tự ca ngợi thành tích ngoại giao “khôn khéo” của đảng CS..!?
Có nhiều đánh giá về mục đích của phía Mỹ, nhưng phải nói rằng họ- người Mỹ đã thành công vang dội về mặt ngoại giao khẳng định thế thượng phong của Mỹ so với Trung cộng, nhưng một thành công còn lớn lao hơn nhiều đó là dư luận người dân VN ủng hộ việc liên minh quân sự với Mỹ để bảo vệ đất nước rất là mãnh liệt trong thời gian gần đây.
Tuy nhà cầm quyền CSVN gặp may mắn vì Nghị quyết của Thượng viện Mỹ như một hành động rút con dao cắm sâu vào cơ thể VN giúp CSVN tránh được một cuộc khủng hoảng niềm tin đối với nhân dân, nhưng giờ đây họ phải đối diện với một khối đông dân chúng muốn VN xích lại gần với Mỹ và đoạn tuyệt với Bắc Kinh- người đồng chí của đảng CS, người giúp đảng csVN cướp được chính quyền trên cả nước.
Bao nhiêu nguồn lực quốc gia mà nhà cầm quyền Hà nội dùng để tuyên truyền chống Mỹ từ bấy lâu nay trở nên ngớ ngẫn thảm hại..
Hành động của Trung cộng cũng được các nhà phân tích thời cuộc đánh giá là “khôn ngoan” vì khi rút giàn khoan ra khỏi biển VN, điều đó chứng tỏ TC không muốn đẩy CSVN vào chân tường vì không một ai trung thành với Bắc Kinh bằng nhà cầm quyền Hà nội hiện nay và một lý do nữa là không tạo lý cớ cho Mỹ can thiệp sâu hơn vào biển Đông .
Nhưng cho dù vì bất cứ lý do gì thì nhân dân và đất nước VN vẫn là bên bị thiệt vì hôm nay Trung cộng rút giàn khoan về điều đó không có nghĩa là TC đã chấm dứt dã tâm thôn tính VN, vì độc chiếm biển Đông là mục tiêu cực kỳ quan trọng đã được hoạch định từ Trung nam Hải và nó nằm trong một chiến lược to lớn hơn nhiều đó là thực hiện “giấc mơ Trung hoa”. CSVN không thể dùng “tiểu xảo” trong ngoại giao để đối phó với một chiến lược dài hạn và quan trọng như vậy của người Hán.
Nhìn lại ba thập niên qua chiến lược ngoại giao của Trung cộng đồng hành với từng giai đoạn phát triển. Từ khi Trung cộng mở cửa hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, Đặng Tiểu Bình chủ trương “ẩn mình chờ thời”, đến khi Trung cộng có một nền kinh tế với sức cạnh tranh mạnh và phát triển vũ bão trong thời của Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào Trung cộng chủ trương “trổi dậy hòa bình”. Cho đến hôm nay Trung cộng đã là nền kinh tế lớn thứ hai sau Mỹ và trong tương lai không xa sẽ soán ngôi vị số 1 của Hoa kỳ .
Trung cộng dùng sức mạnh kinh tế làm nền tảng và động lực cho chính sách ngoại giao - quốc phòng và “Giấc mơ Trung hoa” là một lựa chọn tất yếu của thời Tập Cận Bình và cũng thể hiện tính “truyền thống” của dân tộc Trung hoa..
Một bài xã luận trên tờ báo Quân Giải phóng của TC viết:
“Những điều mà các binh sĩ không thể đạt được khi nổ súng trên chiến trường thì không bao giờ đạt được bằng miệng lưỡi các nhà ngoại giao trên bàn đàm phán. Số phận của một quốc gia chưa bao giờ lại liên hệ chặt chẽ với sức mạnh và điểm yếu của quân đội cũng như chiến thắng hay thất bại trên chiến trường như hiện nay".
Nghê Lạc Hùng, một nhà bình luận quân sự từ Thượng Hải cho biết, bài xã luận trên tờ Quân giải phóng nhằm thúc đẩy niềm tin Trung Quốc đã thể hiện sức mạnh của họ. "Nó muốn nói rằng chúng ta không nên có bất kỳ ảo tưởng nào về giải quyết hòa bình mà phải sẵn sàng cho chiến tranh". (nguồn Giaoduc.net)
Đây là một sự thay đổi căn bản chính sách của TC thể hiện mưu đồ bá chủ thế giới bằng vũ lực.
Cho nên hiểm họa đối với sự tồn vong của đất nước và dân tộc VN ngày hôm nay lớn hơn bất cứ giai đoạn nào trong một lịch sử đầy những va chạm giữa hai dân tộc Việt –Hán.
Trong lịch sử chúng ta có thể đánh bại những đội quân xâm lược của người Hán hùng mạnh về số lượng nhưng cân bằng về “công nghệ” quốc phòng. Lúc đó chỉ có cung tên và giáo mác, ngựa chiến, sức người và mưu lược. Còn bây giờ với những vũ khí tối tân mà Trung cộng thủ đắc, Nhật Bản cũng phải lo sợ nên tìm sự bảo vệ trong ô dù an ninh của Mỹ thì quân đội CSVN có thể làm gì được đây để bảo vệ đất nước ?
Đối đầu với một kẻ thù hùng mạnh như Trung cộng mà chỉ dựa vào ý chí và “hào quang của lịch sử” là một chuyện khôi hài. Chiến tranh không có chổ cho sự lãng mạn , quá khứ thắng trận trong thời võ khí đơn giản và dựa vào tuyên truyền là chủ yếu không thể giúp VN thắng được sức mạnh quân sự áp đảo của TC thời nay…
Hiện tình của đất nước chúng ta đòi hỏi phải có sự tập hợp sức mạnh toàn dân tộc cộng với một chính sách ngoại giao mở rộng và định hướng, liên minh với các đối tác có chung quyền lợi, nhưng CSVN hiện nay đã yếu về quốc phòng lại chủ trương cô lập về ngoai giao, hành động của họ giống như một thuyền trưởng vô trách nhiệm và bị bệnh hoang tưởng đang điều khiển một con tàu sắp chìm trong cơn bão dữ..
CSVN chủ trương làm đối tác chiến lược với rất nhiều quốc gia như Nga, Ấn Độ, Trung cộng, Nhật bản và cả Hoa kỳ, những quốc gia này có lập trường và quyền lợi chiến lược trái ngược nhau. CSVN làm bạn với tất cả nhưng không với ai cả..!
Có một sự hoang tưởng rất lớn trong đường lối đối ngoại của CSVN, đó là vẫn coi Trung cộng như một nước “Xã hội chủ nghĩa anh em” và mục tiêu “xây dựng Chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới” vẫn là kim chỉ nam trong ý thức hệ của những người CSVN…bất chấp mọi thực tế phủ phàng TC chỉ là một kẻ chinh phục với quyền lợi quốc gia và dân tộc đại Hán là tối thượng !.
Trong cuộc khủng hoảng Biển Đông và đối diện với hiểm họa từ Trung cộng, trong lúc môi trường quốc tế đầy mâu thuẩn đầy biến động và tiềm ẩn nguy cơ chiến tranh , nhưng CSVN không hề có một tầm nhìn chiến lược để hoạch định chính sách ngoại giao, họ chỉ kêu gọi sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế nhưng không chọn lựa đứng về phía thế giới tự do trong cuộc tranh chấp không khoang nhượng này. CSVN vẫn đứng giữa ngã ba đường với ước mơ về một “thiên đường CS” không có thật và một nỗi sợ hãi mênh mông về tương lai bất định.
Không có niềm tin, không còn chổ dựa, mất định hướng, CSVN chỉ còn biết cầu may với một đối sách ngoại giao mang tính tình thế với nhiều thủ đoạn vặt vãnh , người ta gọi đó là nền ngoại giao “tiểu xảo”.
Nền ngoại giao “tiểu xảo” kiểu kỳ nhông đổi màu sẽ không thể đáp ứng được thách thức nghiệt ngã của thời cuộc hiện nay cho nên nó sẽ phá sản thảm hại và CSVN không sớm thì muộn sẽ phải thay đổi chính sách ngoại giao tiểu xảo đó, nhưng trước mắt nền Ngoại giao tiểu xảo này sẽ đẩy đất nước và dân tộc đến thảm họa và đã đến lúc dân tộc Việt phải chọn cho mình một hướng đi, một đích đến, một liên minh khả tín và hiệu quả để có thể tồn tại được trước tham vọng bá quyền Trung cộng .
Nếu chúng ta cứ tiếp tục để cho thằng “đầy tớ” phản phúc này quyết định thay cho chúng ta thì trong nay mai sẽ có thêm một Tân Cương, một Tây Tạng nữa. Trách nhiệm này thuộc về tất cả chúng ta, cái gia tài mà cha ông chúng ta xây dựng và gìn giữ bằng xương máu mấy ngàn năm sẽ thuộc về người khác…!
Huỳnh ngọc Tuấn.
5/8/2014
NGUYỄN BÁ CHỔI * TRỌNG LÚ ĐI MỸ
Cả Lú đi Mỹ là đúng quy trình
Nguyễn Bá Chổi (Danlambao) - Dưới sự lãnh đạo tài tình của đảng ta, chuyện gì "muốn" xảy ra cũng phải "đúng quy trình". Chuyến đi Mỹ sắp tới của Cả Lú cũng không thoát khỏi luật "biện chứng" ấy của CSVN.
Đã gọi là đúng quy trình, thì sự việc phải xảy ra đúng lúc đúng chỗ. Từ chuyện nhỏ đến việc to. Chuyện nhỏ như xã lũ các đập thủy điện năm ngoái năm kia; xả nước trong hồ chứa đúng lúc mùa nước lũ đang đe dọa làng mạc phía dưới đang dầm dề mưa bão; đến chuyện vừa vừa như ông tướng Ngọ, Thứ trưởng Công An, phải chết đúng quy trình ngay sau khi vụ xử án tham nhũng Nguyễn Chí Dũng đang diễn tiến phát hiện dấu hiệu liên quan đến tướng Trần Đại Quang là xếp sòng CA; rồi tiếp theo là cái chết đúng quy trình của "Hốt Tất Liệt" Nguyễn Bá Thanh, Phó trưởng ban thường trực Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống "chuột" vào thời điểm "bình" bị đe dọa "có khả năng" bị đập bể; và nay lên hàng đại to là chuyện Cả Lú "đảng"(công) du Hoa Kỳ.
Vậy chuyến "cu dông" sang nước Mỹ Cút của đảng trưởng CSVN đúng quy trình ở chỗ nào?
Đó là chỗ "anh Cả/ anh Hai" trên đầu đang ra tay đập chuột, không chừa mống nào, kể cả "Hổ Vường Trung Hoa" cũng đang "sắp sa lưới" (*)
Xem thế, "đúng theo quy trình" tất yếu theo tinh thần của "Mười sáu chữ vàng" và "Bốn Tốt" làm kim chỉ nam, anh Cả/anh Hai đứng trên đầu đã hạ quyết tâm đập chuột thì, nhất định thằng em nằm dưới chân cũng phải làm theo.
Làm theo đàn anh phương Bắc là bổn phận của đàn em đã thành truyền thống kế từ ngày "cha già" phải băng rừng vượt suối bắc du để đích thân làm "kiểm điểm" trước chủ tịch Mao nhều (xem Đèn Cù của Trần Đĩnh); Hội nghị Thành đô về sau chỉ là tái khẳng định thân phận khuyển mã "ông cụ" đã tiên phong làm "ma đưa lối, quỷ đưa đường", nhưng theo anh Cả /anh Hai để đập chuột nhà mình kiểu "hổ vương" cũng không trừ như anh cả Tập (Cận Bình) đang làm, thì nhất định "bình" sẽ tan tành mây khói, là điều không thể được đối với "đảng CSVN quang vinh muôn năm".
Có người cho rằng, trước nguy cơ "bể bình", Bí Lú đang tìm đường giải bí khỏi bị bình bể, bèn nhắm mắt đánh liều ba bảy cũng liều xin đại một chuyến công du là cu dông sang "thằng Mỹ Cút", ở đó có tượng đài tưởng niệm hàng trăm triệu nạn nhân CS trên toàn thế giới được dựng ngay giữ thủ đô Hoa Thịnh Đốn, không biết Lú ta có bị TT Mỹ Obama dẫn đến "tham quan" nạn nhân mà "bác cháu ta" đã có công góp phần hàng triệu sinh mạng đồng bào Việt Nam
PHAN CHÂU THÀNH * 3 X
3X lại “bóp chim” Trọng lú… mạnh hơn
Nhân danh chống tham nhũng để tham nhũng
Khi vừa lên Tổng, Lú đã ra ngay Thông báo Kết luận số 37-TB/TW ngày 26/5/2011 của Bộ Chính trị về việc “Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình dịch vụ sự nghiệp công” với mục tiêu chống 3X lợi dụng các đơn vị sự nghiệp công lập để bòn rút tham nhũng (viện cớ vừa phải làm kinh doanh vừa phải làm nhiệm vụ chính trị xã hội…)
3X vì thế, hơn 1 năm sau, phải miễn cưỡng ra Nghị quyết 49/NQ-CP ngày 08/9/2012 ban hành Chương trình hành động của CP thực hiện Thông báo Kết luận số 37 của Lú, chỉ để chống chế, cũng lợi dụng cho ra đời hàng loạt (trên 200) trường cao đẳng đại học tư và bán công, cho đàn em trong các Bộ KHĐT, GD ĐT, TC, XD… vơ một mớ đậm, rồi bỏ lửng Kết luận của Lú đó 3 năm nay…
Trong các đơn vị sự nghiệp công thì chỉ có “xã hội hóa” giáo dục đào tạo là món mồi béo bở nhất lúc đó – vì mỗi trường tư (bản đỏ) mới luôn đi kèm hàng chục đến hàng trăm ha đất ngon lành nhất ở các thành phố trung tâm quốc gia và các vùng, nên bè lũ 3X lập tức thả câu làm toàn dân mắc câu, và từ nay cống nộp (cho con em ăn học) nuôi thêm trên 200 con bạch tuộc đỏ hút máu học sinh sinh viên (dân nghèo)… Còn “xã hội hóa” văn hóa ư, thể thao ư… làm sao đọ với Interrnet hay Facebook… mà moi tiền các lớp trẻ được? May ra thì có Mc Donnals… nhưng đó là văn hóa… đớp - mà bọn 3X là sư phụ mà McDonnals phải gọi là “cụ” rồi... Có một thứ cần xã hội hóa toàn diện thì 3X lờ tịt vì khó nhai: Y tế cộng đồng (Chỉ tập trung đi sâu phục vụ Y tế cho đảng thôi, như áp dụng tia phóng xạ chả hạn…)
Nhân danh cải cách, “bóp chim”các đồng chí mình
Nay Nhà nước CSVN bước vào năm 2015 với túi tiền trống rỗng và sổ nợ cao ngất do tài ăn cắp ăn cướp hạng “kinh bang tế thế” của chính phủ 3X và cả bộ máy đảng, Nhà nước (Cuộc hội, Mặt trơ (trận), đoàn thể cướp…), và sẽ còn hứa hẹn “trống rỗng và cao ngất“ hơn trong các năm 2015, 2016… tới, nên 3X lại khai thác Thông báo số 37 của Lú năm xưa còn nguyên hiệu lực - mà 3X đã tích cực có Chương trình hành động như trên…
Lần này, 3X tuyên bố “đổi mới cơ chế hoạt động” của các đơn vị sự nghiệp công lập là chúng phải “hoạt động tự chủ” tức chúng phải tự kiếm ăn (tự chủ tài chính là… tự cung tự cấp, tự kiếm ăn – không bú… “con tự do” tao nữa, nghe con…). Và 3X tuyên bố áp dụng cho tất cả các bộ ngành, thực hiện ngay từ đầu 2015, không thí điểm nữa, làm thật luôn. Bộ Tài chính đã của 3X đã thực hiện chỉ thị, cát hết các khoản phải chi đó cho các bộ, và các Vụ Tài chính của 29 bộ ngành đồng loạt nhảy lên như đàn con thia lia…
Nhảy dựng nhất và la to nhất lại không phải là bộ La To (La Thăng), mà là hai bộ Thể thao-Văn hóa-Du lịch và Y tế. Một, vừa nhảy vừa la vì bị bóp chim đau nhất – Bộ TT-VH-DL. Một, nhảy cẫng lên vì được “chém” (bằng giá dịch vụ) và giết (bằng thuốc dổm) dân nghèo thả dàn, nhưng không dám la to…- Bộ Y tế. Đó cũng là hai đích chính mà 3X nhằm đến để “bóp chim” Lú lần này.
3X có đến bốn lý do để bóp chim Lú mà Lú không dám kêu gì, còn phải đỏ mặt trợn mắt khọm chân lại mà khen X giỏi, X tích cực thực hiện chỉ đạo của Lú, đó là: 1)Năm 2015 chắc chăn ngân sách sẽ thiếu hụt trên 500 ngàn tỷ đồng, lấy đâu mà chi tràn lan nữa? 2) 3X có tránh nhiệm thức hiện Kết luận 37 của Lú mà X đã có Chương trình hành động từ lâu…; 3) 3X muốn/phải tách bạch làm kinh tế thị trường với nhiệm vụ chính trị xã hội (mà các đơn vị hành chính sự nghiệp công lập phải lo…) ra; và 4) Năm 2015 phải dồn ngân sách cho Đại họa 12 mà Lú đã chỉ đạo rộng khắp cả đảng phải dồn tận lực (đánh nhau cú chót, được ăn cả, ngã về mo…), không chỉ mình 3X và CP được chỉ đạo thế…
3X ra tuyệt chiêu “bóp chim” này lại là một mũi tên trúng nhiều đích, vì có thể kéo ả “Kim Tiền” hay “Kim tiêm độc” về phe mình, vì đã cứu ả vừa thoát chết, vừa có tiền mua ghế cho thêm nhiệm kỳ sau Đại họa 12, vừa có thể đánh tơi tả - bóp họng lũ quân “sự nghiệp công lập” của Lú, xưa nay vốn ăn cơm Chúa lại chỉ múa cho Vua như bộ TT-VH-DL – xem lũ “xướng ca vô loài” đó không có cơm Chúa nuôi nữa thì múa hát cho Vua thế nào?...
Ngay trong Bộ TT-VH-DL đó cũng có nhiều bọn hành sĩ, tỏi sĩ (à quên: nghệ sĩ) thấy sẽ có lợi riêng hơn khi được “hoạt động tự chủ” nên đã bắt đầu nhẩy lên hoan hô Chúa anh minh, mà Lú căm lắm vẫn không làm gì được. Đó là bọn như 12 nhà hát lớn trung ương hay các viện bảo tàng Hồ, đảng, Tôn… có cơ sở vật chất to vật vã ở trung tâm các thành phố lớn luôn để không (trên 90% thời gian trong năm) và dàn nhân lực nghệ sĩ/tỏi sĩ/hành sĩ khủng… đang sống bằng ca hát thuê “chui” (cho các lễ hội văn hóa dân tộc theo đặt hàng của đảng…) nay sẽ được ca hát thuê “ưỡn mặt ra”, lại còn công khai cho thuê mặt bằng nữa chứ, đời sẽ lên hương nữa… Đó còn là hơn 2 ngàn công ty tổ chức sự kiện, sân sau của các quan đỏ “văn hóa” vốn để rút tiền lễ hội, kỷ niệm… nay sẽ chính thức được khai thác tận thu mọi cơ sở vật chất, con người khác của các văn phòng và hội trường các bộ đang rất lộng lẫy nguy nga chỉ để dành cho 1 việc: hội nghị tổng kết và phát động thi đua hàng năm…
Kết gì được đây?
Nói chung là, với cú “bóp chim” này 3X lại sẽ toàn thắng… Phen này, vào Đại họa 12, Lú và đảng của Lú sẽ thành lũ…pê đê hết mất, vì “cái con tự do” bị bóp nát hết trơn à?
TIN THẾ GIỚI
Mỹ yêu cầu VN ngưng cho phép Nga sử dụng căn cứ Cam Ranh
RFA 11.03.2015
Hãng thông tấn Reuters loan tin này hôm qua và dẫn thêm lời viên chức ngoại giao vừa nêu rằng nước Mỹ tôn trọng quyền của Việt Nam được hợp tác với bất cứ quốc gia nào, nhưng Hoa Kỳ yêu cầu Việt Nam bảo đảm không để Nga sử dụng căn cứ Cam Ranh nhằm tiến hành những hoạt động có thể làm tăng căng thẳng trong vùng.
Phát biểu của viên chức ngoại giao giấu tên của Hoa Kỳ được đưa ra vào khi tướng Vincent Brooks chỉ huy lục quân Mỹ tại Thái Bình Dương nói là các máy bay ném bom của Nga gia tăng những chuyến bay tại một khu vực đầy căng thẳng giữa Trung Quốc, Nhật Bản và một số quốc gia Đông Nam Á. Ông này còn nói rõ máy bay Nga còn có những chuyến bay mang tính khiêu khích đến quanh đảo Guam, nơi có căn cứ không quân lớn của Mỹ ở Thái Bình Dương.
Tướng Vincent Brooks không nói rõ là có bao nhiêu chiếc máy bay Nga thực hiện các chuyến bay khiêu khích như thế, và thực hiện vào lúc nào. Nhưng ông khẳng định rằng điều đó bắt đầu xảy ra sau khi bắt đầu có căng thẳng giữa Nga và Mỹ sau những diễn biến chính trị tại Ukraine, nơi Nga sát nhập bán đảo Crimea và trợ giúp quân ly khai tại miền đông nước này.
Cũng theo lời tướng Brooks thì những chuyến bay này ngoài việc phô trương sức mạnh còn dùng để thu thập tin tức tình báo.
Hãng thông tấn Reuters nhắc lại là hồi tháng giêng năm nay Bộ quốc phòng Nga có nói rằng một máy bay tiếp liệu kiểu Ilyushin 78 đã sử dụng căn cứ không quân Cam Ranh của Việt Nam để tiếp nhiên liệu cho máy bay ném bom Con Gấu Tupolev 95.
Chưa thấy Việt Nam lên tiếng về lời đề nghị của phía Hoa Kỳ mà viên chức ngoại giao giấu tên vừa được Reuters loan đi.
Căn cứ Cam Ranh vốn là căn cứ quân sự của Mỹ thời chiến tranh Việt Nam. Sau chiến tranh Việt Nam Cam Ranh trở thành một căn cứ của hải quân Liên Xô. Vào năm 2001, tổng thống Vladimir Putin loan báo chấm dứt hợp đồng, rời khỏi căn cứ Cam Ranh.
Trong thời gian gần đây căn cứ này cũng đã mở cửa cho các tàu chiến Mỹ vào để sửa chữa.
http://www.rfa.org/vietnamese/vietnamnews/us-asks-vn-stop-helping-russian-bombers-flights-03112015143915.html
Mỹ đã yêu cầu Việt Nam ngừng cho phép Nga sử dụng căn cứ trước đây của Mỹ ở Vịnh Cam Ranh để tiếp nhiên liệu cho máy bay có khả năng ném bom hạt nhân của Nga đang phô trương sức mạnh trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Hãng tin Reuters dẫn lời một quan chức Bộ Ngoại giao Mỹ không muốn nêu danh tính nói rằng Washington tôn trọng quyền của Hà Nội ký kết những thỏa thuận với các nước khác, nhưng nói thêm rằng: “Chúng tôi đã hối thúc giới chức Việt Nam bảo đảm rằng Nga không thể sử dụng khả năng tiếp cận Vịnh Cam Ranh để thực hiện những hoạt động có thể gây căng thẳng trong khu vực.”
Reuters cho biết chính phủ Việt Nam chưa đưa ra phản hồi ngay lập lức bình luận về yêu cầu này từ phía Mỹ.
Phát biểu này được đưa ra giữa lúc các quan chức ngoại giao của Mỹ nói rằng những máy bay ném bom của Nga đã gia tăng những chuyến bay trong một khu vực vốn đã đầy căng thẳng giữa Trung Quốc và Nhật Bản, một đồng minh của Mỹ, và những nước Đông Nam Á.
Tướng Vincent Brooks, Tư lệnh Lục quân Mỹ ở Thái Bình Dương, nói với Reuters rằng những máy bay của Nga đã thực hiện những chuyến bay "khiêu khích," trong đó có những chuyến bay quanh lãnh thổ Guam của Mỹ ở Thái Bình Dương, nơi Mỹ đặt một căn cứ không quân lớn.
Đây là lần đầu tiên các giới chức Mỹ xác nhận vai trò của Vịnh Cam Ranh, một cảng nước sâu tự nhiên, trong hoạt động của máy bay ném bom Nga mà gần đây đã gia tăng khắp thế giới.
Ông Brooks nói trong một cuộc phỏng vấn rằng những chuyến bay này cho thấy Nga, đồng minh thời Chiến tranh Lạnh của Việt Nam, xử sự như một “kẻ phá bĩnh những lợi ích của [Mỹ] và của những nước khác.”
Tư lệnh lực lượng không quân của Mỹ ở Thái Bình Dương hồi tháng 5 năm ngoái nói rằng sự can thiệp của Nga tại Ukraine theo sau bởi một sự gia tăng đáng kể hoạt động trên không của Nga tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương để phô trương sức mạnh và để thu thập thông tin tình báo.
Bộ Quốc phòng Nga cho biết vào ngày 4 tháng 1 vừa qua rằng máy bay chở dầu Il-78 đã sử dụng Vịnh Cam Ranh vào năm 2014, tạo điều kiện cho việc tiếp nhiên liệu cho máy bay chiến lược TU-95 có khả năng ném bom hạt nhân, một phát biểu cũng được truyền thông nhà nước Việt Nam loan tải.
Sự việc này cho thấy vị thế phức tạp của Hà Nội trong một cuộc đối đầu địa chính trị giữa một bên là Trung Quốc và Nga và một bên là Mỹ, Nhật Bản và nhiều nước Đông Nam Á khác.
Năm ngoái Việt Nam đã chứng kiến một loạt những chuyến thăm cấp cao của giới chức Mỹ. Thứ Sáu tuần trước, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam loan báo Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam trong năm nay sẽ có chuyến công du lịch sử sang Mỹ.
Dù đang tìm cách thắt chặt quan hệ với Mỹ trước những hành động gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông, Việt Nam vẫn là đối tác thân thiết với Nga trong lĩnh vực hợp tác quốc phòng và năng lượng.
http://www.voatiengviet.com/content/my-yeu-can-vietnam-ngung-ho-tro-tiep-lieu-cho-may-bay-nem-bom-nga/2676224.html
VN chưa hồi đáp đề nghị của Mỹ 'ngưng cho Nga sử dụng căn cứ Cam Ranh'
Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội cho biết chưa thấy hồi đáp từ chính phủ Việt Nam đối với đề nghị của Hoa Kỳ yêu cầu Hà Nội ngưng cho phép Nga sử dụng một căn cứ để tiếp nhiên liệu cho các máy bay ném bom đang thực hiện những chuyến bay khiêu khích vòng quanh lãnh thổ của Mỹ ở Thái Bình Dương.
Viên chức phụ trách báo chí của sứ quán, bà Lisa Wishman, hôm nay (12/3) cho VOA biết Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cuối tuần qua đã truyền đạt các quan ngại của mình với chính phủ Việt Nam trong vòng riêng tư.
Bà Wishman nhấn mạnh dù chính phủ Hoa Kỳ tôn trọng quyền của Việt Nam bước vào các thỏa thuận với những nước khác, nhưng Washington muốn Hà Nội đảm bảo rằng Vịnh Cam Ranh không bị quân đội Nga tận dụng để ‘tiến hành các hoạt động có thể làm leo thang căng thẳng trong khu vực.’
Trước đó, hai đối tác quốc phòng nhiều chục năm nay là Việt Nam và Nga đều thừa nhận rằng máy bay tiếp dầu II-78 dùng Cam Ranh để tiếp tế nhiên liệu cho các máy bay ném bom chiến lược ‘Gấu’ Tupolev Tu-95 có tầm bay xa 15 ngàn cây số không cần tiếp liệu.
Vịnh Cam Ranh, nơi từng là căn cứ của Hoa Kỳ và trong quá khứ cũng từng bị hải quân Pháp và Nhật kiểm soát, nằm cách Sài Gòn 290 km về hướng Đông Bắc là một cảng nước sâu tự nhiên.
Hôm qua, chỉ huy lục quân Mỹ tại Thái Bình Dương, Tướng Vincent Brooks, nói với hãng thông tấn Reuters rằng các máy bay của Nga đã thực hiện những chuyến bay ‘khiêu khích’ trong đó có các chuyến bay xung quanh Guam, lãnh thổ của Mỹ ở Thái Bình Dương, nơi đặt căn cứ không quân Andersen, cách Việt Nam 4.000 cây số về hướng Đông.
Các giới chức NATO cho hay những máy bay ném bom ‘Gấu’ gần đây cũng bị phát hiện trên khu vực English Channel trong khi quân đội Nga thực hiện nhiều cuộc tuần tiễu trên biển và trên không thường xuyên hơn và táo bạo hơn gần biên giới của các nước trong khối NATO.
Tháng 11 năm ngoái, Nga loan báo kế hoạch đưa các máy bay ném bom tầm xa ra tuần tra các vùng biển ở Bắc Mỹ, theo kiểu thời kỳ Chiến tranh lạnh.
Hãng thông tấn RIA hôm nay (12/3) dẫn nguồn tin từ Bộ Quốc phòng ở Moscow nói rằng quân đội Nga đã bắt đầu các cuộc diễn tập quân sự ở miền Nam nước Nga; ở các khu vực tách ra khỏi Georgia gồm Nam Ossetia và Abkhazia; và tại Crimea, bán đảo Nga sáp nhập từ Ukraine hồi năm ngoái.
Hoa Kỳ đã giao chiến với lực lượng Bắc Việt từ đầu thập niên 60 cho tới khi rút lui vào năm 1973 dẫn tới sự sụp đổ cũa chính phủ miền Nam Việt Nam ở Sài gòn hai năm sau đó.
Hà Nội và Washington thiết lập quan hệ ngoại giao từ năm 1995. Bất chấp các mối quan hệ chặt chẽ giữa Hà Nội với Moscow từ thời Xô Viết, hai nước Việt-Mỹ trong những năm gần đây đang xích lại gần nhau giữa lúc Hà Nội ngày càng lo ngại trước hiểm họa từ Trung Quốc, nước láng giềng khổng lồ phương Bắc.
Trong nhiều thế kỷ, nhiều phần của Việt Nam chịu sự ảnh hưởng của Trung Quốc. Cuộc chiến tranh biên giới gần đây nhất giữa hai nước Việt-Trung nổ ra vào năm 1979. Cuộc chiến dù ngắn ngủi, nhưng ước tính đã cướp đi sinh mạng của 30.000 binh sĩ của cả hai phía. Hà Nội và Bắc Kinh cũng có các tuyên bố chủ quyền chồng chéo nhau ở Biển Đông.
Hoa Kỳ và Việt Nam tổ chức các cuộc thao dượt nhân đạo chung vào cuối năm ngoái và trong tháng này sẽ có thêm các hoạt động như vậy.
Mỹ cũng đồng ý cung cấp ít nhất 5 tàu tuần tra hiện đại cho Việt Nam, dự kiến các tàu này sẽ được bàn giao vào năm sau. Đây là một phần trong gói hỗ trợ trị giá 18 triệu đô la mà Ngoại trưởng John Kerry loan báo hồi năm 2013 nhằm giúp Việt Nam tăng cường khả năng an ninh hàng hải.
Trong bài diễn văn tại Đại học Hà Nội thứ sáu tuần trước, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Ted Osius nói ông hiểu rằng Hà Nội tìm kiếm ‘các đối tác lịch sử’ về an ninh và Mỹ cũng có ‘nhiều thứ để cung cấp…nhằm tăng cường an ninh của Việt Nam trong ngắn, trung, và dài hạn.’
http://www.voatiengviet.com/content/vietnam-chua-hoi-dap-de-nghi-ngung-cho-nga-su-dung-can-cu-cam-ranh/2677319.html
Trung Quốc lên án nhà ngoại giao Việt Nam
Chính quyền Bắc Kinh hôm nay đã tỏ ra tức giận về những lời phát biểu phản đối đường lưỡi bò 9 đoạn của ông Lê Lương Minh, hiện giữ chức Tổng thư ký ASEAN.
Trả lời tờ Manila Times tuần trước, nhà ngoại giao kỳ cựu của Việt Nam nói rằng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á phản đối chính sách sử dụng đường đứt đoạn để khẳng định chủ quyền trên biển Đông của Trung Quốc.
Ông Minh cũng nói thêm rằng sự hội nhập kinh tế của ASEAN sẽ bị ảnh hưởng bởi “bất kỳ sự thù nghịch hay xung đột” có thể bùng ra trên vùng biển tranh chấp.
Phát biểu tại một cuộc họp báo thường kỳ hôm nay, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi nói rằng Bắc Kinh luôn ủng hộ sự hội nhập kinh tế của ASEAN, nhưng hiệp hội này không phải là một trong các bên tranh chấp ở biển Đông.
“Ông Lê Lương Minh là Tổng thư ký ASEAN, và trong vấn đề biển Đông, đã nhiều lần có những phát biểu mang tính bè phái, không đúng thực tế hoặc không phù hợp với vị trí của ông”.
Phát ngôn viên của Trung Quốc nói thêm rằng điều đó “xa rời với vị trí trung lập của ASEAN, và làm tổn hại tới hình ảnh một tổ chức quốc tế khu vực của ASEAN”.
Ông Hồng nói thêm rằng vị tổng thư ký người Việt nên “bảo đảm rằng ASEAN tuân thủ các cam kết trung lập, và không sử dụng vị trí của mình cho mục đích riêng”.
Tới tối ngày 11/3, ông Lê Lương Minh chưa lên tiếng trước lời chỉ trích của phát ngôn viên Trung Quốc.
Việt Nam cũng chưa có tuyên bố nào đối với lời phát biểu mới đây của Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị, trong đó nói rằng các hành động bồi đắp của Trung Quốc ở biển Đông là “hợp pháp và chính đáng”.
Ông Vương nói rằng Bắc Kinh “không chấp nhận chỉ trích từ bất kỳ ai vì chúng tôi chỉ xây dựng các cơ sở trong sân nhà của mình”.
Một nhà nghiên cứu tại Australia từng nói với VOA Việt Ngữ rằng thái độ “khó lường” của chính quyền Bắc Kinh về vấn đề biển Đông đã gây ra một cuộc chạy đua vũ trang ở châu Á.
Trong khi đó, báo chí quốc tế dẫn lời các quan chức Trung Quốc xác nhận rằng nước này đang đóng một hàng không mẫu hạm thứ hai với hệ thống phóng cải tiến hơn.
Nguồn: Reuters, Manila Times, CNA
http://www.voatiengviet.com/content/trung-quoc-len-an-nha-ngoai-giao-vietnam/2675758.html
http://www.rfa.org/vietnamese/vietnamnews/us-asks-vn-stop-helping-russian-bombers-flights-03112015143915.html
Mỹ yêu cầu VN ngừng hỗ trợ tiếp liệu cho máy bay ném bom Nga
Washington xác nhận ông Nguyễn Phú Trọng thăm Mỹ trong năm 2015
Đại diện ngoại giao cấp cao nhất của Mỹ ở Hà Nội mới cho biết rằng Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ sang thăm Mỹ trong năm nay, nhưng không nói rõ thời điểm.
Reuters
Cập nhật: 12.03.2015 02:54
Hãng tin Reuters dẫn lời một quan chức Bộ Ngoại giao Mỹ không muốn nêu danh tính nói rằng Washington tôn trọng quyền của Hà Nội ký kết những thỏa thuận với các nước khác, nhưng nói thêm rằng: “Chúng tôi đã hối thúc giới chức Việt Nam bảo đảm rằng Nga không thể sử dụng khả năng tiếp cận Vịnh Cam Ranh để thực hiện những hoạt động có thể gây căng thẳng trong khu vực.”
Reuters cho biết chính phủ Việt Nam chưa đưa ra phản hồi ngay lập lức bình luận về yêu cầu này từ phía Mỹ.
Phát biểu này được đưa ra giữa lúc các quan chức ngoại giao của Mỹ nói rằng những máy bay ném bom của Nga đã gia tăng những chuyến bay trong một khu vực vốn đã đầy căng thẳng giữa Trung Quốc và Nhật Bản, một đồng minh của Mỹ, và những nước Đông Nam Á.
Tướng Vincent Brooks, Tư lệnh Lục quân Mỹ ở Thái Bình Dương, nói với Reuters rằng những máy bay của Nga đã thực hiện những chuyến bay "khiêu khích," trong đó có những chuyến bay quanh lãnh thổ Guam của Mỹ ở Thái Bình Dương, nơi Mỹ đặt một căn cứ không quân lớn.
Đây là lần đầu tiên các giới chức Mỹ xác nhận vai trò của Vịnh Cam Ranh, một cảng nước sâu tự nhiên, trong hoạt động của máy bay ném bom Nga mà gần đây đã gia tăng khắp thế giới.
Ông Brooks nói trong một cuộc phỏng vấn rằng những chuyến bay này cho thấy Nga, đồng minh thời Chiến tranh Lạnh của Việt Nam, xử sự như một “kẻ phá bĩnh những lợi ích của [Mỹ] và của những nước khác.”
Tư lệnh lực lượng không quân của Mỹ ở Thái Bình Dương hồi tháng 5 năm ngoái nói rằng sự can thiệp của Nga tại Ukraine theo sau bởi một sự gia tăng đáng kể hoạt động trên không của Nga tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương để phô trương sức mạnh và để thu thập thông tin tình báo.
Một chiếc máy bay chiến lược TU-95 của Nga bay trên không phận phía tây bắc đảo Okinoshima.
Sự việc này cho thấy vị thế phức tạp của Hà Nội trong một cuộc đối đầu địa chính trị giữa một bên là Trung Quốc và Nga và một bên là Mỹ, Nhật Bản và nhiều nước Đông Nam Á khác.
Năm ngoái Việt Nam đã chứng kiến một loạt những chuyến thăm cấp cao của giới chức Mỹ. Thứ Sáu tuần trước, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam loan báo Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam trong năm nay sẽ có chuyến công du lịch sử sang Mỹ.
Dù đang tìm cách thắt chặt quan hệ với Mỹ trước những hành động gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông, Việt Nam vẫn là đối tác thân thiết với Nga trong lĩnh vực hợp tác quốc phòng và năng lượng.
http://www.voatiengviet.com/content/my-yeu-can-vietnam-ngung-ho-tro-tiep-lieu-cho-may-bay-nem-bom-nga/2676224.html
VN chưa hồi đáp đề nghị của Mỹ 'ngưng cho Nga sử dụng căn cứ Cam Ranh'
Máy bay chiến lược TU-95 của Nga bay ngang không phận phía tây bắc đảo Okinoshima của Nhật. Các giới chức Mỹ nói rằng những máy bay ném bom của Nga đã gia tăng những chuyến bay trong một khu vực vốn đã đầy căng thẳng giữa Trung Quốc và Nhật Bản, và những nước Đông Nam Á khác.
12.03.2015
Viên chức phụ trách báo chí của sứ quán, bà Lisa Wishman, hôm nay (12/3) cho VOA biết Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cuối tuần qua đã truyền đạt các quan ngại của mình với chính phủ Việt Nam trong vòng riêng tư.
Bà Wishman nhấn mạnh dù chính phủ Hoa Kỳ tôn trọng quyền của Việt Nam bước vào các thỏa thuận với những nước khác, nhưng Washington muốn Hà Nội đảm bảo rằng Vịnh Cam Ranh không bị quân đội Nga tận dụng để ‘tiến hành các hoạt động có thể làm leo thang căng thẳng trong khu vực.’
Trước đó, hai đối tác quốc phòng nhiều chục năm nay là Việt Nam và Nga đều thừa nhận rằng máy bay tiếp dầu II-78 dùng Cam Ranh để tiếp tế nhiên liệu cho các máy bay ném bom chiến lược ‘Gấu’ Tupolev Tu-95 có tầm bay xa 15 ngàn cây số không cần tiếp liệu.
Vịnh Cam Ranh, nơi từng là căn cứ của Hoa Kỳ và trong quá khứ cũng từng bị hải quân Pháp và Nhật kiểm soát, nằm cách Sài Gòn 290 km về hướng Đông Bắc là một cảng nước sâu tự nhiên.
Hôm qua, chỉ huy lục quân Mỹ tại Thái Bình Dương, Tướng Vincent Brooks, nói với hãng thông tấn Reuters rằng các máy bay của Nga đã thực hiện những chuyến bay ‘khiêu khích’ trong đó có các chuyến bay xung quanh Guam, lãnh thổ của Mỹ ở Thái Bình Dương, nơi đặt căn cứ không quân Andersen, cách Việt Nam 4.000 cây số về hướng Đông.
Tướng Vincent Brooks nói rằng các máy bay Nga đã thực hiện những chuyến bay ‘khiêu khích’ trong đó có các chuyến bay xung quanh Guam, lãnh thổ của Mỹ ở Thái Bình Dương, nơi đặt căn cứ không quân Andersen.
Tháng 11 năm ngoái, Nga loan báo kế hoạch đưa các máy bay ném bom tầm xa ra tuần tra các vùng biển ở Bắc Mỹ, theo kiểu thời kỳ Chiến tranh lạnh.
Hãng thông tấn RIA hôm nay (12/3) dẫn nguồn tin từ Bộ Quốc phòng ở Moscow nói rằng quân đội Nga đã bắt đầu các cuộc diễn tập quân sự ở miền Nam nước Nga; ở các khu vực tách ra khỏi Georgia gồm Nam Ossetia và Abkhazia; và tại Crimea, bán đảo Nga sáp nhập từ Ukraine hồi năm ngoái.
Hoa Kỳ đã giao chiến với lực lượng Bắc Việt từ đầu thập niên 60 cho tới khi rút lui vào năm 1973 dẫn tới sự sụp đổ cũa chính phủ miền Nam Việt Nam ở Sài gòn hai năm sau đó.
Hà Nội và Washington thiết lập quan hệ ngoại giao từ năm 1995. Bất chấp các mối quan hệ chặt chẽ giữa Hà Nội với Moscow từ thời Xô Viết, hai nước Việt-Mỹ trong những năm gần đây đang xích lại gần nhau giữa lúc Hà Nội ngày càng lo ngại trước hiểm họa từ Trung Quốc, nước láng giềng khổng lồ phương Bắc.
Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Osius nói ông hiểu rằng Hà Nội tìm kiếm ‘các đối tác lịch sử’ về an ninh và Mỹ cũng có ‘nhiều thứ để cung cấp…nhằm tăng cường an ninh của Việt Nam trong ngắn, trung, và dài hạn.’
Hoa Kỳ và Việt Nam tổ chức các cuộc thao dượt nhân đạo chung vào cuối năm ngoái và trong tháng này sẽ có thêm các hoạt động như vậy.
Mỹ cũng đồng ý cung cấp ít nhất 5 tàu tuần tra hiện đại cho Việt Nam, dự kiến các tàu này sẽ được bàn giao vào năm sau. Đây là một phần trong gói hỗ trợ trị giá 18 triệu đô la mà Ngoại trưởng John Kerry loan báo hồi năm 2013 nhằm giúp Việt Nam tăng cường khả năng an ninh hàng hải.
Trong bài diễn văn tại Đại học Hà Nội thứ sáu tuần trước, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Ted Osius nói ông hiểu rằng Hà Nội tìm kiếm ‘các đối tác lịch sử’ về an ninh và Mỹ cũng có ‘nhiều thứ để cung cấp…nhằm tăng cường an ninh của Việt Nam trong ngắn, trung, và dài hạn.’
http://www.voatiengviet.com/content/vietnam-chua-hoi-dap-de-nghi-ngung-cho-nga-su-dung-can-cu-cam-ranh/2677319.html
Trung Quốc lên án nhà ngoại giao Việt Nam
11.03.2015
Trả lời tờ Manila Times tuần trước, nhà ngoại giao kỳ cựu của Việt Nam nói rằng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á phản đối chính sách sử dụng đường đứt đoạn để khẳng định chủ quyền trên biển Đông của Trung Quốc.
Ông Minh cũng nói thêm rằng sự hội nhập kinh tế của ASEAN sẽ bị ảnh hưởng bởi “bất kỳ sự thù nghịch hay xung đột” có thể bùng ra trên vùng biển tranh chấp.
Phát biểu tại một cuộc họp báo thường kỳ hôm nay, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi nói rằng Bắc Kinh luôn ủng hộ sự hội nhập kinh tế của ASEAN, nhưng hiệp hội này không phải là một trong các bên tranh chấp ở biển Đông.
“Ông Lê Lương Minh là Tổng thư ký ASEAN, và trong vấn đề biển Đông, đã nhiều lần có những phát biểu mang tính bè phái, không đúng thực tế hoặc không phù hợp với vị trí của ông”.
Phát ngôn viên của Trung Quốc nói thêm rằng điều đó “xa rời với vị trí trung lập của ASEAN, và làm tổn hại tới hình ảnh một tổ chức quốc tế khu vực của ASEAN”.
Ông Hồng nói thêm rằng vị tổng thư ký người Việt nên “bảo đảm rằng ASEAN tuân thủ các cam kết trung lập, và không sử dụng vị trí của mình cho mục đích riêng”.
Tới tối ngày 11/3, ông Lê Lương Minh chưa lên tiếng trước lời chỉ trích của phát ngôn viên Trung Quốc.
Việt Nam cũng chưa có tuyên bố nào đối với lời phát biểu mới đây của Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị, trong đó nói rằng các hành động bồi đắp của Trung Quốc ở biển Đông là “hợp pháp và chính đáng”.
Ông Vương nói rằng Bắc Kinh “không chấp nhận chỉ trích từ bất kỳ ai vì chúng tôi chỉ xây dựng các cơ sở trong sân nhà của mình”.
Một nhà nghiên cứu tại Australia từng nói với VOA Việt Ngữ rằng thái độ “khó lường” của chính quyền Bắc Kinh về vấn đề biển Đông đã gây ra một cuộc chạy đua vũ trang ở châu Á.
Trong khi đó, báo chí quốc tế dẫn lời các quan chức Trung Quốc xác nhận rằng nước này đang đóng một hàng không mẫu hạm thứ hai với hệ thống phóng cải tiến hơn.
Nguồn: Reuters, Manila Times, CNA
http://www.voatiengviet.com/content/trung-quoc-len-an-nha-ngoai-giao-vietnam/2675758.html
Kinh tế Trung Quốc hụt hơi, công nghiệp khai mỏ Úc bị đe dọa
BHP Billiton khai thác quặng sắt ở Tây Úc.reuters
Theo AFP, các công ty khoáng sản Úc – đặc biệt là các công ty nhỏ - đang phải đối mặt với một năm khó khăn : mức tăng trưởng kinh tế Trung Quốc thấp nhất từ khoảng hai thập niên.
Chính quyền Trung Quốc vừa thông báo giảm triển vọng tăng trưởng xuống khoảng 7% trong năm 2015, sau khi chỉ đạt mức 7,4% năm 2014. Trung Quốc là quốc gia sản xuất thép thô và nhà nhập khẩu than đứng số một thế giới. Việc kinh tế Trung Quốc hụt hơi đi liền với việc nhu cầu sắt thép chững lại.
Lần đầu tiên kể từ 6 năm, Úc phải chấp nhận bán quặng sắt với giá dưới 60 đô la/tấn, sau khi giá quặng đạt mức đỉnh điểm vào năm 2011, với 191,70 đô la/tấn. Xuất khẩu quặng sắt và than là hai mặt hàng số một của nước Úc. BHP Billiton và Rio Tinto, hai tập đoàn khai mỏ Úc-Anh nằm trong số các công ty khai khoáng đứng đầu thế giới.
Quặng sắt nói riêng và khoáng sản nói chung là phép mầu từng giúp Úc không phải chịu các thiệt hại của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008. Tuy nhiên, từ giờ trở đi, theo các nhà phân tích, tương lai của ngành công nghiệp khai khoáng Úc không có gì là sáng sủa.
Tình hình các trở nên tồi tệ hơn, khi cả bốn tập đoàn lớn trong lĩnh vực này, BHP và Rio Tinto Anh-Úc, tập đoàn Fortescue của Úc, cùng tập đoàn Brazil Vale đồng loạt đổ hàng ra thị trường để bảo vệ thị phần của mình.
Các công ty nhỏ phải chịu hệ quả đầu tiên : năm vừa qua giá cổ phiếu của Atlas Iron, BC Iron và Mount Gibson sụt giảm từ 78% đến 90%. Tình hình nghiêm trọng đến mức mà nhiều công ty khác đã buộc phải ngừng sản xuất, vì không hy vọng giá cả hồi phục. Nhà phân tích Rob Brierley của Petersons Securities dự báo, ngay cả người khổng lồ Rio Tinto cũng không chắc đã trụ được trên đấu trường một mất một còn này.
Một tác nhân lớn khác đe dọa ngành khoáng sản Úc là việc giá dầu sụt giảm, bởi Úc đang trên đường trở thành nhà sản xuất khí hóa lỏng (GNL/LPG) lớn nhất thế giới, dự kiến sẽ qua mặt Qatar, từ nay tới 2020. Trong thời gian sắp tới, bảy trong số 11 dự án lớn của thế giới thuộc về Úc, với tổng vốn đầu tư 180 tỷ đô la, và sản lượng dự kiến khoảng 60 triệu tấn/năm. Việc giá nhiên liệu hạ bốc hơi sẽ buộc các doanh nghiệp nhỏ phải chấp nhận bị mua lại.
http://vi.rfi.fr/chau-a/20150311-kinh-te-trung-quoc-hut-hoi-cong-nghiep-khai-mo-uc-bi-de-doa/Lần đầu tiên kể từ 6 năm, Úc phải chấp nhận bán quặng sắt với giá dưới 60 đô la/tấn, sau khi giá quặng đạt mức đỉnh điểm vào năm 2011, với 191,70 đô la/tấn. Xuất khẩu quặng sắt và than là hai mặt hàng số một của nước Úc. BHP Billiton và Rio Tinto, hai tập đoàn khai mỏ Úc-Anh nằm trong số các công ty khai khoáng đứng đầu thế giới.
Quặng sắt nói riêng và khoáng sản nói chung là phép mầu từng giúp Úc không phải chịu các thiệt hại của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008. Tuy nhiên, từ giờ trở đi, theo các nhà phân tích, tương lai của ngành công nghiệp khai khoáng Úc không có gì là sáng sủa.
Tình hình các trở nên tồi tệ hơn, khi cả bốn tập đoàn lớn trong lĩnh vực này, BHP và Rio Tinto Anh-Úc, tập đoàn Fortescue của Úc, cùng tập đoàn Brazil Vale đồng loạt đổ hàng ra thị trường để bảo vệ thị phần của mình.
Các công ty nhỏ phải chịu hệ quả đầu tiên : năm vừa qua giá cổ phiếu của Atlas Iron, BC Iron và Mount Gibson sụt giảm từ 78% đến 90%. Tình hình nghiêm trọng đến mức mà nhiều công ty khác đã buộc phải ngừng sản xuất, vì không hy vọng giá cả hồi phục. Nhà phân tích Rob Brierley của Petersons Securities dự báo, ngay cả người khổng lồ Rio Tinto cũng không chắc đã trụ được trên đấu trường một mất một còn này.
Một tác nhân lớn khác đe dọa ngành khoáng sản Úc là việc giá dầu sụt giảm, bởi Úc đang trên đường trở thành nhà sản xuất khí hóa lỏng (GNL/LPG) lớn nhất thế giới, dự kiến sẽ qua mặt Qatar, từ nay tới 2020. Trong thời gian sắp tới, bảy trong số 11 dự án lớn của thế giới thuộc về Úc, với tổng vốn đầu tư 180 tỷ đô la, và sản lượng dự kiến khoảng 60 triệu tấn/năm. Việc giá nhiên liệu hạ bốc hơi sẽ buộc các doanh nghiệp nhỏ phải chấp nhận bị mua lại.
REUTERS/Aly Song
Trong tháng Giêng và tháng Hai, sản xuất công nghiệp của Trung Quốc đã giảm mạnh trong bối cảnh chỉ số tiêu dùng cũng đi xuống. Đây là những dấu hiệu mới cho thấy sự hụt hơi của nền kinh tế thứ hai trên thế giới. Tuy nhiên, Bắc Kinh trấn an rằng đó là một « quy chuẩn mới » trong lĩnh vực tăng trưởng.
Theo số liệu được cơ quan thống kê Trung Quốc công bố hôm nay, 11/03/2015, sản xuất công nghiệp tính gộp cả tháng Giêng và tháng Hai do có kỳ nghỉ Tết dài trong tháng Hai, chỉ tăng 6,8% so với cùng thời kỳ này năm ngoái. Đây là mức tăng thấp nhất kể từ 2008.
Sản xuất công nghiệp của Trung Quốc, tính cả năm 2014, tăng 7,9%.
Chỉ số bán lẻ, thước đo mức độ tiêu dùng của các hộ gia đình, trong thời gian hai tháng đầu năm, cũng tăng chậm, 10,7%, tính theo tỉ lệ cả năm, mức thấp nhất kể từ tháng 02/2006.
Vẫn theo Bắc Kinh, đầu tư tư bản cố định (thước đo mức đầu tư vào hạ tầng cơ sở) tăng 13,9% trong hai tháng đầu năm. Đây cũng là tỉ lệ thấp nhất kể từ 13 năm qua. Năm 2014, tỉ lệ này là 15,7% và năm 2013, xấp xỉ 20%.
Các số liệu thống kê phản ánh sự chao đảo của nền kinh tế Trung Quốc, phải đối mặt với xu hướng tiêu thụ nội địa giảm, xuất khẩu không tăng, ngành công nghiệp chế biến gần như đình trệ, tạo áp lực thoái lạm ngày càng mạnh.
Việc giá bán lẻ không tăng, hoặc tăng chậm, có thể dẫn đến tình trạng nguời tiêu dùng đẩy lùi thời hạn mua hàng và các doanh nghiệp chưa muốn đầu tư thêm.
Giới chuyên gia thuộc ngân hàng Nomura phân tích : Các số liệu này cho thấy sự năng động tăng trưởng kinh tế còn tiếp tục suy giảm và làm rõ một thực tế là Trung Quốc đang đối mặt với những vấn đề cơ cấu, như thị trường bất động sản bị « đông cứng », sản xuất công nghiệp vượt quá nhu cầu…
Tuy nhiên, Bắc Kinh giải thích rằng các số liệu thống kê cho thấy Trung Quốc áp dụng một quy chuẩn mới, giảm bớt tốc độ tăng trưởng và đây là nỗ lực tái cân bằng mô hình kinh tế cũ, bị coi là lạc hậu, giảm bớt sự độc quyền của các doanh nghiệp Nhà nước cũng như quy mô các ngành công nghiệp không có lãi.
Trong năm 2014, tăng trưởng của Trung Quốc chỉ là 7,4%, mức thấp nhất kể từ 25 năm qua. Trong năm nay, Bắc Kinh đề ra mục tiêu chỉ là 7%. Thế nhưng, các chuyên gia thuộc ngân hàng ANZ lại nhận định là Trung Quốc khó có thể đạt được mức này : Dựa trên các số liệu được công bố hôm nay, 11/03, tăng trưởng dự báo của Trung Quốc trong quý một 2015 có thể dưới 7%.
Để thúc đẩy hoạt động kinh tế, trong những tháng vừa qua, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã đưa ra nhiều biện pháp nới lỏng kiểm soát tiền tệ, hai lần giảm lãi suất và nhiều lần bơm thêm thanh khoản vào nền kinh tế. Song kết quả đạt được khá khiêm tốn.
Bởi vì theo công ty tài chính Trung Quốc CICC, được AFP trích dẫn, cho dù Ngân hàng Trung ương có nới lỏng các chính sách tiền tệ, lãi suất đi vay trên thực tế vẫn rất cao, do vậy, các doanh nghiệp không muốn tăng đầu tư tư bản cố định vì tốn kém.
Mặt khác, theo các chuyên gia ngân hàng ANZ, chính sách ngân sách năng động của chính phủ Trung Quốc vẫn chưa mang lại kết quả. Bắc Kinh cam kết chấp nhận thâm thủng ngân sách ở mức 2,7% tổng sản phẩm quốc nội trong năm nay (năm ngoái là 2,1%), tức là chấp nhận tăng chi ngân sách cho các dự án hạ tầng cơ sở được đánh giá có tầm quan trọng chiến lược như xe lửa, thủy điện, nhà giá rẻ cho người nghèo…
Do vậy, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc sẽ phải tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ. Ngân hàng Nomura dự báo, Bắc Kinh sẽ giảm lãi suất, ít nhất là ba lần, từ nay đến cuối năm 2e015
Sản xuất công nghiệp của Trung Quốc, tính cả năm 2014, tăng 7,9%.
Chỉ số bán lẻ, thước đo mức độ tiêu dùng của các hộ gia đình, trong thời gian hai tháng đầu năm, cũng tăng chậm, 10,7%, tính theo tỉ lệ cả năm, mức thấp nhất kể từ tháng 02/2006.
Vẫn theo Bắc Kinh, đầu tư tư bản cố định (thước đo mức đầu tư vào hạ tầng cơ sở) tăng 13,9% trong hai tháng đầu năm. Đây cũng là tỉ lệ thấp nhất kể từ 13 năm qua. Năm 2014, tỉ lệ này là 15,7% và năm 2013, xấp xỉ 20%.
Các số liệu thống kê phản ánh sự chao đảo của nền kinh tế Trung Quốc, phải đối mặt với xu hướng tiêu thụ nội địa giảm, xuất khẩu không tăng, ngành công nghiệp chế biến gần như đình trệ, tạo áp lực thoái lạm ngày càng mạnh.
Việc giá bán lẻ không tăng, hoặc tăng chậm, có thể dẫn đến tình trạng nguời tiêu dùng đẩy lùi thời hạn mua hàng và các doanh nghiệp chưa muốn đầu tư thêm.
Giới chuyên gia thuộc ngân hàng Nomura phân tích : Các số liệu này cho thấy sự năng động tăng trưởng kinh tế còn tiếp tục suy giảm và làm rõ một thực tế là Trung Quốc đang đối mặt với những vấn đề cơ cấu, như thị trường bất động sản bị « đông cứng », sản xuất công nghiệp vượt quá nhu cầu…
Tuy nhiên, Bắc Kinh giải thích rằng các số liệu thống kê cho thấy Trung Quốc áp dụng một quy chuẩn mới, giảm bớt tốc độ tăng trưởng và đây là nỗ lực tái cân bằng mô hình kinh tế cũ, bị coi là lạc hậu, giảm bớt sự độc quyền của các doanh nghiệp Nhà nước cũng như quy mô các ngành công nghiệp không có lãi.
Trong năm 2014, tăng trưởng của Trung Quốc chỉ là 7,4%, mức thấp nhất kể từ 25 năm qua. Trong năm nay, Bắc Kinh đề ra mục tiêu chỉ là 7%. Thế nhưng, các chuyên gia thuộc ngân hàng ANZ lại nhận định là Trung Quốc khó có thể đạt được mức này : Dựa trên các số liệu được công bố hôm nay, 11/03, tăng trưởng dự báo của Trung Quốc trong quý một 2015 có thể dưới 7%.
Để thúc đẩy hoạt động kinh tế, trong những tháng vừa qua, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã đưa ra nhiều biện pháp nới lỏng kiểm soát tiền tệ, hai lần giảm lãi suất và nhiều lần bơm thêm thanh khoản vào nền kinh tế. Song kết quả đạt được khá khiêm tốn.
Bởi vì theo công ty tài chính Trung Quốc CICC, được AFP trích dẫn, cho dù Ngân hàng Trung ương có nới lỏng các chính sách tiền tệ, lãi suất đi vay trên thực tế vẫn rất cao, do vậy, các doanh nghiệp không muốn tăng đầu tư tư bản cố định vì tốn kém.
Mặt khác, theo các chuyên gia ngân hàng ANZ, chính sách ngân sách năng động của chính phủ Trung Quốc vẫn chưa mang lại kết quả. Bắc Kinh cam kết chấp nhận thâm thủng ngân sách ở mức 2,7% tổng sản phẩm quốc nội trong năm nay (năm ngoái là 2,1%), tức là chấp nhận tăng chi ngân sách cho các dự án hạ tầng cơ sở được đánh giá có tầm quan trọng chiến lược như xe lửa, thủy điện, nhà giá rẻ cho người nghèo…
Do vậy, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc sẽ phải tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ. Ngân hàng Nomura dự báo, Bắc Kinh sẽ giảm lãi suất, ít nhất là ba lần, từ nay đến cuối năm 2e015
VƯỜN THƠ
Nếu em là tuyết trắng
Anh xin làm mùa đông
Ủ nhau trong giá lạnh
Giữa đất trời mênh mông...
Nếu em là đồng cỏ
Anh xin làm dòng sông
Tưới nước lên đồng cỏ
Những ngày hè nắng hong...
Nếu em là dòng suối
Ban nước ngọt đời anh
Yêu em, yêu đắm đuối
Dời dâu bể cũng đành...
Nếu em là đường sắt
Anh xin làm tàu đêm
Phá canh trường vắng lặng
Trên đường dài triền miên...
Nếu răng em lược ngà
Anh dừng bước phong ba
Nhờ lược em chải tóc
Sáng sớm đến chiều tà...
Nếu môi em trái đắng
Anh nguyện hứng giọt cay
Nếu em là rượu nồng
Anh sẽ uống thật say...
Yêu em, yêu mãi mãi
Không bao giờ tàn phai
Ở kiếp sống hôm nay
Và nghìn kiếp về sau...
Tình yêu dù đắng cay
Nhưng hương vị ngất ngây
Càng nếm càng thêm say
Quên thời gian tháng ngày...
Nếu em là chiếc cầu
Nối liền sông Nam Bắc
Anh là người thứ nhất
Đặt chân lên chiếc cầu...
Nếu em là cơn gió
Anh xin làm làn mây
Cùng chim trời bay lượn
Qua đồi núi rừng cây...
Nếu em là trang giấy
Anh xin làm bài thơ
Tô thắm cho tình ta
Cho đời thêm mộng mơ...
Nếu em là kiếp sống
Anh xin lùi thời gian
Cho thương yêu vĩnh viễn
Cùng với gió mây ngàn...
Nếu em cánh én mỏng
Cho nghiêng xuống đời anh
Cho lòng anh xao động
Dịu nỗi sầu lưu vong...
Nêu em là chim biển
Anh sẽ là đại dương
Nếu em là dòng nước
Anh sẽ là biển cả
Là sông, là hồ,
là suối, là giọt sương...
I F
If you were white snow,
I would beg to be wintertime
in the immense universe
to warm each other in the cold clime.
If you were a meadow,
I would become a sweet stream
to water the prairie
against each summer sunbeam.
If you were a brook
that provides me with fresh source,
I would love you passionately
through all vicissitudes' course.
If you were the railroad,
I would be the night train
on the long infinite path
to pierce the silent night domain.
If your teeth were an ivory comb,
I would stop my last venturous stride
to have you do my hair
from morning until eventide.
If your lips were a bitter fruit,
I would volunteer to taste the tart.
If you were the warm wine,
I would drink it with my whole heart.
I love you the eternal love
never ever to degenerate
during this subsistence on earth
and thousand future lives of my fate.
Love although vinegary
has its excited flavor's prime:
More to taste, more to get infatuated
until total oblivion of time.
If you were the bridge
to tie the North to the South section,
I would be the first traveler
to put my feet on that connection.
I you were the wind,
I would make myself a cloud
to fly with the wild birds
over mountains and forests so proud.
If you were a blank page,
I would write a poetic theme
to deepen our love
and enrich our existence as a dream.
If you were life itself,
I would get times backwards revolve
to render our love everlasting
in the vast universe to dissolve.
If you were the slight swallow wing
that slants on my days its flight,
It would move my heart
to lighten my nostalgic plight.
If you were a seagull,
I would be the big blue.
If you were the stream,
I would be the great oceanic hue,
the river, the lake,
the brook, the drop of dew...
Translation by THANH-THANH
Đọc đối-chiếu Bài Thơ NẾU của Trọng Lễ
thơ dư thị diễm buồn
*1- VỚI SA PA
Đã thầm hẹn lên Sa Pa nghỉ mát
Ra "Cầu Mây" cùng đứng tựa rung rinh
Thỏa mắt ngắm Phăng Xi Păng bát ngát
Trời thần tiên riêng của chúng mình.
Sa Pa mộng đẹp hơn cả mộng
Sa Pa mơ hơn cả giấc mơ
Mây thì cứ vẩn vơ phiêu lãng
Cõi diệu huyền thực thực hư hư.
Ừ dạo cảnh một mình đơn lẻ quá
Chơi "chợ tình" ai đó kéo cùng co
Cứ như thể buổi đầu "cho" mắc cỡ
Ở dưới kia Cốc Lếu đợi mong chờ.
Sa Pa đấy thả hồn thơ bay bổng
Cứ như là hẹn đến để mà yêu
Một chén rượu uống trong chiều lạnh cóng
Một nụ hôn sương khói ở bên đèo.
Mùng 1 tháng 8 Bính Tý.
*
*2- NGƯỜI H'MÔNG (1)
Như con Ngựa phi trên đỉnh núi
Chân người H'mông không biết mỏi bao giờ
Như con Gấu ở đầu ngọn suối
Nhà người H'mông ở giữa sương mù
Như Mặt Trời cất trong hang tối
Đời người H'mông xưa bếp lửa âm u...
Đã đi cày phải cày lật đất
Đã đi săn phải bắn được Nai
Đã đi chợ phải ăn "thắng cố"
Đã yêu ai phải "cướp" được ai
Đã đi học phải hay con chữ
Đi đó đây
kể cả nước ngoài.
Cãi "lý" với người H'mông phải mệt
Một ông Đồ Nghệ hóa thành hai.
Người H'mông mình hiên ngang lắm chứ
Vai đeo "lù cở"
tay súng dài...
Đã trèo dốc
"đá tai mèo" phải vỡ
Đã xay Ngô thành bột mới thôi
Tay kéo bễ khoan nòng súng thép
Rèn lưỡi gươm chẳng sợ cường quyền
Với đồng tộc bà con thân thiết
Người H'mông ta khẳng khái dịu hiền.
Cắt khúc Nứa cất thành tiếng Sáo
Chúm làn môi thành một tiếng đàn
Đưa ánh mắt dang vòng tay thành múa
Chắp những đoạn Tre thổi rộn rã tiếng Khèn...
Người H'mông mình bỏ cây Thuốc Phiện
Tìm cái cây đổi mới cuộc đời
đuổi ma đói, xây Mường bản mới
Vườn cây xanh điện sáng ngang trời.
Giữa tháng Chạp, em lẩy lá mai
Đàn én lưng trời tíu tít bay
Lá rơi tua tủa như đàn bướm
Vườn động nên ngàn bươm bướm bay
Nhánh trụi lá
Cây trơ cành
Đầu mùa xuân
Hoa mai nở
Cả khu vườn thanh thoát màu vàng anh
Gió mang mác
Sương long lanh
Bầu trời xanh
Xuân phơi phới
Nắng lấp lánh suối nước uốn quanh
Thương chàng lính chiến chốn xa xăm
Tết nầy chắc hẳn chẳng về thăm
Vọng gác đêm xuân ngoài biên trấn
Đồn vắng, Ba Mươi thiếu chị hằng
Hương xuân đào, cúc… thọảng bâng khuâng
Ánh hỏa châu rơi, vọng gác gần
Tiếng súng đì đùng thay tiếng pháo
“Kẻng” thay phiên gác, lính chờ xuân…
Chợ hoa em bán ngày cuối năm
Dập dìu người đến thưởng hoa xuân
Em giữa ngàn hoa khoe sắc thắm…
Không thắm bằng em thoáng thẹn thùng!
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
TỪ TA DIỆN BÍCH BÊN NGƯỜI
Giờ tôi diện-bích-hư-không
Nghe hươu nai chạy bên giòng cuồng lưu
Xung quanh là những bụi mù
Lang thang con bướm hồi cư tìm đường
Chợt nghe gió thoảng mù sương
Bao nhiêu không sắc cũng phường lao xao
Tôi ngồi diện-bích-chiêm-bao
Bao nhiêu cánh cửa ba đào mở toang
Trăm năm vừa thấy hân hoan
Cuối cùng nhắm lại hàng hàng vô vi
Chợt nghe ngoài bến gọi đi
Cánh cửa khép lại còn gì nghìn xưa
Từ ta diện-bích-bên-người
Ôi thôi mưa nắng ướt tờ lịch xanh
Chừ ta ngộ chữ ba sinh
Hoàng hôn chưa tới, bình minh chưa về
Thôi thì hai đứa bến mê
Bên cầu nghe gió thổi về. Hồn bay!
NGHIÊU MINH
NGUYỄN KHÔI - THƠ SƠN CƯỚC
-----------
Lời dẫn : NK sinh ở Yên Bái(1938) , lớn lên ở Thái Nguyên, làn việc ở Sơn La 21 năm, 1984 về Hà Nội giúp việc Hội Đồng Dân Tộc...nên có điều kiện cảm nghĩ nhiều về vùng Dân tộc- miền núi.-----------
*
kể cả nước ngoài.
Ôi, Mương bản quê hương Mèo Vạc
Từ Bắc Hà đi tới Quế Phong
Ở đâu xanh cánh rừng mới mọc
Ngựa hí vào Mường bản người H'mông.
-------
(1) Ngườì H'mông = người Mèo, một tộc người vô Tổ Quốc ( như người Di Gan bên Châu Âu, người Kurd ở Trung Đông luôn bị xua đuổi, đàn áp, chèn ép...?) sống rải rác ở Trung Quốc, Việt Nam. Lào, Thái Lan, Myanma. - Sơn La 1993
*
*
*3- TRƯA MƯỜNG ẢNG
Trưa Mường Ảng cam vàng và lúa chín
Về Sơn La còn ghé viếng bạn xưa
Nắng như cả khoảng trời tây đổ xuống
Một màu vàng no ấm ngập trời trưa.
Ai đó hát ngất ngư Phố Bản
Lũ nghé tơ nhảy giỡn rộn bờ khe
Ngọn gió quẩn thổi tung viền váy đỏ
Làm ngả nghiêng lơi lả cánh rừng tre.
Suối như nghỉ, chỉ tiếng gà tao tác
Ai đó ra bến tắm thả Hạc vàng
Thả cả tiếng "đàn môi" sang xứ khác
Trời Điện Biên mấy trắng lang thang...
Chẳng ai nói...nghe thầm thì từ đất
Tình thoảng qua chất ngất tựa Pha Đin
Trưa Mường Ảng hồn nhiên và hoang ngát
Một tiếng lòng thao thiết phải không em ?
Một tiếng lòng thao thiết phải không em ?
Lai Châu 3-11-2000
*
*
*4- GỬI YÊN BÁI
Tặng : Nhà văn Thế Phong (1)
Nơi mẹ sinh tôi đầu nguồn nước lũ
Đi biệt tăm chẳng có ngày về...
*
*
Ơi Yên Bái, người đi không ngoái lại
bỏ lại vầng trăng, câu hát lưng đèo
Về Hà Nội giữa dòng đời ngang trái
đi tìm hoài một dáng thương yêu.
Đâu hương Quế, hương Hồi chiều xanh ngát ?
Giữa phố phường chật chội sặc hơi Tiền
Giữa chen chúc lòng ngắc ngư câu hát
Thèm một khoảng rừng ở góc Công viên.
Ta là người điên - kẻ quên quá khứ
Trong cơn mê lảnh một tiếng còi Tàu
cứ ngỡ đêm rừng qua ga Phú Thọ
Lứa lập lòe ai đợi bến Âu Lâu ?
Nơi sông Thao đổ vào đầu Phố
Cây Đa mé chợ : nơi "đoạn đầu đài" (2)
Phố là Phố của người đi chẳng nhớ
Tiếng súng đùng đoàng chạng vạng hôm mai (3)
Ai đi xa có ngày về Yên Bái
Tôi đi xa là trốn biệt nơi này
Là kẻ phụ tình, đứa quên xứ sở
Để cõi lòng rỉ máu, buốt đôi tay.
----
----
(1) Nhà văn Thế Phong (1932) quê Yên Bái cùng sinh ra ở nhà thương phố Yên Thái - Thị xã Yên Bái, trước NK 6 năm đều là những kẻ bỏ đi biệt xứ.
(2) nơi xử tử Nguyễn Thái Học & các chiến sĩ VNQDĐ 1930.
(3) Yên Bái là nơi quyết chiến khốc liệt giữa Việt Minh & Quốc Dân Đảng năm 1946.
*
*
*5- VẲNG TIẾNG ĐÀN BẦU
"Chữ nghèo chẳng dễ hiểu đâu
Xa sâu như tiếng đàn Bầu trong đêm"
-thơ Lý Phương Liên
Đàn Bầu vẳng tiếng phiêu diêu
Một dây tưng tửng bao nhiêu là tình
Mình nghe mình thấu đời mình
Cái duyên quê kiểng tình tinh phận nghèo.
- Ai không có lúc bị nghèo ?
"Ăn chia tem phiếu" (1) đối meo một thời
Lương còm, xài "Lý tưởng" thôi
Tương lai xa tít chân trời Liên Xô (3)
Giao thừa thưởng thức "tiếng thơ" (4)
Đàn Bàu thánh thót lửng lơ bổng trầm
Nhớ quê, chẳng thể về thăm
Kiến bò bụng lép...âm thầm thương ai
Đường đi bom đạn dặm dài
Những mong đỡ khổ : ngày mai Hòa Bình .
- Bây giờ sống đã vung vinh
"Thị trường" rộng mở...đâu mình với ta ?
Nhà giầu thả sức xa hoa
Dân nghèo nheo nhóc...nhẩn nha tối ngày.
Bây giờ tay chẳng bắt tay
Mặt vênh Phố thị, Ngâu vầy dáng quê.
-Đàn Bầu ai gảy ai nghe
Gió lùa nhà trống...tái tê tiếng đàn.
----
----
(1) Thời bao cấp Xã Hội Chủ Nghĩa (xếp hàng cả ngày)
(2) Liên Xô - CCCP (cho các cháu phá, đã có Liên Xô chịu)
(3)Nghe thơ chúc tết ...
Quê, mùa đông bão giá & lạm phát 2011
NGUYỄN KHÔI
Nhà văn Hà Nội
Quê : Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh
Nr : 259/39 phố Vọng, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
E-mail <khoidinhbang@gmail.com>
TÔ HẢI * NHẬT KÝ 130
Nhật ký mở lần thứ 130:
Ngày 15/2/2015
XẤC XƯỢC, TRÂNG TRÁO, COI THƯỜNG DÂN CHÚNG NGÀY CÀNG MANG TÍNH CHẤT THÁCH THỨC?
Có thằng chủ tịch xã còn chửi dân công khai trước nhà báo khi bị phỏng vấn về vụ sắm xe hơi đời mới là: Dân ở đây… ”bố láo” lắm. Chuyên bới móc chuyện của cấp ủy đảng viên!”…
Với hàng ngàn, hàng vạn lời nói và hành động kiểu vừa nêu, đã đến lúc có thể kết luận:
VỮNG TIN Ở SỨC MẠNH CHUYÊN CHÍNH VÔ CÙNG HÙNG HẬU DO CHÚNG TRẢ LƯƠNG HẬU HĨNH, bọn chúng đã công khai thách thức: QUYỀN CỦA CHÚNG TAO LÀ ĐƯỢC NÓI THẾ, LÀM THẾ ĐẤY! ĐỨA NÀO LÀM GÌ ĐƯỢC CHÚNG TAO NÀO?”
Để cụ thể hóa hơn cái “quyền uy miễn bàn cãi” của bọn chúng, hàng loạt các lâu đài, biệt điện chẳng hề thua Trung Ương Ủy Viên Tổng Thanh Tra Nhà Nước Truyền văn Nhiễm, Chín (tử) Cung vua Bình Dương, …”Vương triều”, ”đế chế” của các tướng quân đội, tướng công an, tướng phó chính phủ và gia đình họ tộc cũng bị phơi bầy trên mạng với đầy đủ giấy tờ mua sắm, chuyển nhượng, sổ đỏ với tên tuổi vợ chồng đàng hoàng….Nhưng…..chẳng một tên nào cần “thanh minh- thanh nga” gì xất! Không phải là sự “Im lặng đáng sợ!” nữa mà là “Ừ thì là của tao đấy! Đứa nào dám làm gì tao thì làm nào!
Bất quá cũng chỉ đến… “cảnh cáo” là cùng!
Tất cả mọi sự tiêu cực té ra đã được cái nghị quyết 4 bảo kê bằng vũ khí “Phê và tự phê” và….nhất là lời chỉ đạo của anh đảng trưởng có tên Trọng Người Giầu, sau khi bị mất chỗ dựa NBT, người muốn “Bắt hết! hốt hết!” nên đành phải “hạ giọng”: “phê bình nhau nhưng….tránh bè phái, mất đoàn kết”, rằng thì là “đến thầy Đường Tăng đi thỉnh kinh cũng còn phải hối lộ nữa là! ...”! Nổi tiếng nhất và làm chỗ dựa an tâm đục khoét nhất cho “các đồng chí tình thương mến thương” là” “Ném chuột tránh để vỡ bình quí”!
Thế là, mọi sự tiêu cực cứ thế… tích cực tiến lên, bọn “nội-ngoại xâm” cứ nghênh ngang, hống hách coi trời bằng vung, coi dân như bọn nô lệ ngu đần, mặc sức thi nhau nói vung nói vít và vơ vét không ngừng nghỉ mà chẳng sợ bị…trừng trị!
Đặc biệt những ngày đầu năm tết con dê, một “anh thợ rừng trúng số” được lên ngôi báu một thời, nay đã trở thành “thái thượng hoàng về hưu” nhưng vẫn tỏ ra “tao đây vẫn là vua”, đã cho các nhà báo đến quay phim, chụp ảnh cảnh lũ lau nhau “thà bỏ tổ tiên, cha mẹ, chứ không bỏ đảng bác Nông” đến chầu giữa một cung vua huy hoàng vàng son theo kiểu thời vua Louis XIV. Toàn cảnh nơi hạ triều, cũng như các ngự phòng của bà vợ trẻ.. đã được tung lên mạng! Một cú nổ kinh hoàng như bom A bom H vang khắp thế gian! Một cú vỗ ngực nhắc nhở thần dân của một tên vua hề, sợ người đời quên lãng “Như t…a…a đ.ây..í…i…i.. là đệ nhất vua xứ An Nam chính cống! Các cháu thanh niên hãy nhớ công ơn cha con ta đã lãnh đạo nước non nà…y í, ỉ, ì, i…”
Cũng có thể là một thủ thuật nhắc nhở mấy chú Thanh Niên con, cháu bác hãy noi gương và làm theo lời ta, sẽ được hưởng vinh quang phú quí muôn đời: ”TA ĐANG HƯỞNG THEO NHU CẦU ĐÂY NÈ!” Muốn gì có nấy, vợ trẻ, ngai vàng…! Ta lên thiên đường cộng sản trước còn các chú mày hãy cố gắng… lên sau nhé! ”
Và những tấm ảnh thách thức trắng trợn này, dù đã có lệnh phải gỡ bỏ đi lập tức, cũng đủ thời giờ cho hàng vạn, thậm chí hàng triệu người khắp trái đất kịp “chiêm ngưỡng” để rồi phải bàng hoàng về sự xấc xược cộng sản (arrogance communiste) kinh hoàng hiếm thấy sau vụ tiết lộ dinh thự của Tổng Phiêu với ngà voi, trống đồng, vườn tự động hồi Tết Kỷ Sửu 2009! (Xin xem lại chi tiết ở đây)
Hàng loạt bài viết lên án, thậm chí chửi bới thô tục đã được tung lên mạng và được bình luận, phân tích, phê phán bằng đủ loại ngôn từ….
Có thể nói: Chưa bao giờ CHỈ VỚI NHỮNG TẤM ẢNH VƯƠNG TRIỀU HỌ NÔNG BỊ TUNG LÊN MẠNG CÒN HƠN CẢ VẠN BÀI LÝ LUẬN BÁC BỎ CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN BẤY LÂU NAY!
Cũng có thể nói: Chưa bao giờ, toàn dân bị trị, nhìn rõ bộ mặt thật của cái đảng LẤY PHỤC VỤ NHÂN DÂN LÀM LẼ SỐNG lại lại bị bêu rếu một cách tồi tệ và rõ nét như bây giờ.
-Cũng chưa bao giờ, từ người dân bình thường nhất, anh xe ôm, chị bán bún bò, đến ông trí thức xưa nay.. ngủ vùi, đến “nhà” này, “nhà” nọ lâu nay nhắm mắt, bịt tai, khi xem qua mấy tấm ảnh tội đồ đó lại không phải thốt lên vài câu.
Biết kìm nén thì cũng phải là: ”Lũ khốn nạn!”…Không cần tế nhị, tế tam gì thì cũng “Tổ cha bọn bịp bơm!” Còn bộc trực, bình dân hơn thi “ đ… m… cộng sản! Cộng sản gì bọn mày! Đi mà chết mẹ mày đi!”
Riêng với mình, mình đã ngộ ra rằng:
-Với khả năng có hạn, với hoàn cảnh bị đóng đanh tại chỗ không thể đi đâu quá căn phòng 24 mét vuông mà không có trợ giúp,
- với sự ngu dốt về xử dụng các công cụ thông tin điện tử,
…Mình vẫn chỉ là một kẻ chưa làm gì đáng giá để có thể “kích động” được lòng tự ái, tự hào của một dân tộc bị bọn đầu óc ngoại lai đã ngang nhiên thống trị đất nước này để xây nên một “xã hội cộng sản phong kiến toàn trị” còn tệ hơn thời phong kiến tập quyền “Chỉ một nhà vua, chỉ một luật pháp, chỉ một niềm tin” (un seul roi, une seule loi, un seul foi) thời louis XIV!
XẤC XƯỢC, TRÂNG TRÁO, COI THƯỜNG DÂN CHÚNG NGÀY CÀNG MANG TÍNH CHẤT THÁCH THỨC?
Cái tính chất THÁCH THỨC này, ngày càng trở nên trắng trợn, công khai, đã hơn một lần mình, chẳng ngại 2 cái thằng 88 hoặc 258 mà, qua những entries, vạch trần những vụ phát biểu văng mạng, bố láo… mang đầy tính chất: ”Chúng tao thế đấy! Thằng nào làm gì được tao nào! ”…
”chúng tao lên chủ nghĩa cộng sản LÀM (HAY KHÔNG LÀM)… TÙY SỨC, HƯỞNG THEO NHU CẦU MUỐN GÌ CÓ NẤY trước bọn bay là điều tất nhiên! Đừng có mà rậm rịch đua đòi với những đỉnh cao trí tệ chúng tao”
Mục đích tối thượng (và rất….phản động với bọn họ!) của mình là: KÍCH ĐỘNG LÒNG TỰ ÁI CỦA CÀNG NHIỀU NGƯỜI CÀNG TỐT: Hãy cùng nhau thấy sự khốn khổ, đắng cay, nhục nhã của thân phận con người VIỆT NAM bị một nhóm kẻ cai trị COI THƯỜNG CHẲNG KHÁC CHI LŨ LỪA, NGỰA, muốn dạy dỗ, roi vọt thế nào cũng phải cúi đầu..”Vâng! Dạ!”
Đặc biệt năm 2014 vừa qua, sự lộng hành trắng trợn, vô liêm sỷ đến mức không coi ai ra gì của lũ bán linh hồn cho tà đạo nước ngoài càng phát tác như thách thức cả gần 90 triệu dân “bản xứ” (trừ cái số đoảng viên của họ đã được cho ăn cà tấn cà….dốt!)
Kể từ trên cao tít tứ trụ triều đình, không một anh nào không có những câu nói mang tính chất “Tôi cần….đếch gì các anh có đồng ý hay không đồng ý!”
Đâu có phải là anh Tổng của họ …”lú” khi tuyên bố công khai “Xét cho cùng hiến pháp chẳng qua cũng chỉ để thể chế hóa đường lối chính sách của đảng!?” hoặc “quốc hội của ta là quốc hội do đảng lãnh đạo, “đảng ta là đảng cầm quyền”, “chủ nghĩa Mắc Lê Nin mãi mãi là con đường đứng đắn nhất”, “chủ nghĩa xã hội vẫn mãi mãi là khát vọng của loài người”…v.v… (không đúng nguyên văn nhưng đúng 100% cái ý của hắn ta), luôn luôn được hắn nhắc đi, nhắc lại khi có dịp xuất hiên trước đám “quần (của) chúng được chọn lọc” và trước ống kính truyền hình!.
Còn những tể tướng tay chân cũng chẳng sợ mất niềm tin của dân mà… chửi dân thẳng cánh như “Quốc Hội là của dân, do dân bầu ra, quốc hội làm sai thì dân kiện ai?”
Xuống đến lũ đàn em cấp dưới nữa, cỡ bộ, thứ trưởng cũng coi dân như những đồ vô tri, giác mất, mà tuyên bố phứa văng mạng, kiểu “chạy chức chạy quyền là chuyện bình thường! Obama cũng còn chạy vào Nhà Trắng, Poutine cũng chạy vào “nhà đỏ” nữa là… …hoặc “đầu tư 10 tỉ, thất thoát 1 tỷ thế là tốt lắm rồi!?” hoặc “nghèo mà sao không chịu chỉ dùng….một bóng đèn, dùng cả tủ lạnh, tivi nhưng thấy tiền điện tăng là kêu ca ầm ỹ!” hoặc “nghèo cũng cần xem pháo hoa cho quên đi nỗi đói nghèo! ” v.v… và v.v…
Không phải chỉ là những tuyên bố….”xanh rờn nữa, mà là ….chửi thẳng vào mặt dân: ”Đồ ngu! Không biết gì mà cứ lắm ý kiến!”
Xuống nữa tới cấp lý trưởng, chánh tổng cũng xây nhà lầu, đi xe mẹc, mặc com-lê, cà vạt, giầy bốt-tin đen đi thăm đồng có chụp ảnh quay phim…chẳng khác gì các vua Trung Ương! Có anh còn xây nhà lầu xừng xững giữa những túp lều rách nát của bầy bần cố nông nô lệ
”chúng tao lên chủ nghĩa cộng sản LÀM (HAY KHÔNG LÀM)… TÙY SỨC, HƯỞNG THEO NHU CẦU MUỐN GÌ CÓ NẤY trước bọn bay là điều tất nhiên! Đừng có mà rậm rịch đua đòi với những đỉnh cao trí tệ chúng tao”
Mục đích tối thượng (và rất….phản động với bọn họ!) của mình là: KÍCH ĐỘNG LÒNG TỰ ÁI CỦA CÀNG NHIỀU NGƯỜI CÀNG TỐT: Hãy cùng nhau thấy sự khốn khổ, đắng cay, nhục nhã của thân phận con người VIỆT NAM bị một nhóm kẻ cai trị COI THƯỜNG CHẲNG KHÁC CHI LŨ LỪA, NGỰA, muốn dạy dỗ, roi vọt thế nào cũng phải cúi đầu..”Vâng! Dạ!”
Đặc biệt năm 2014 vừa qua, sự lộng hành trắng trợn, vô liêm sỷ đến mức không coi ai ra gì của lũ bán linh hồn cho tà đạo nước ngoài càng phát tác như thách thức cả gần 90 triệu dân “bản xứ” (trừ cái số đoảng viên của họ đã được cho ăn cà tấn cà….dốt!)
Kể từ trên cao tít tứ trụ triều đình, không một anh nào không có những câu nói mang tính chất “Tôi cần….đếch gì các anh có đồng ý hay không đồng ý!”
Đâu có phải là anh Tổng của họ …”lú” khi tuyên bố công khai “Xét cho cùng hiến pháp chẳng qua cũng chỉ để thể chế hóa đường lối chính sách của đảng!?” hoặc “quốc hội của ta là quốc hội do đảng lãnh đạo, “đảng ta là đảng cầm quyền”, “chủ nghĩa Mắc Lê Nin mãi mãi là con đường đứng đắn nhất”, “chủ nghĩa xã hội vẫn mãi mãi là khát vọng của loài người”…v.v… (không đúng nguyên văn nhưng đúng 100% cái ý của hắn ta), luôn luôn được hắn nhắc đi, nhắc lại khi có dịp xuất hiên trước đám “quần (của) chúng được chọn lọc” và trước ống kính truyền hình!.
Còn những tể tướng tay chân cũng chẳng sợ mất niềm tin của dân mà… chửi dân thẳng cánh như “Quốc Hội là của dân, do dân bầu ra, quốc hội làm sai thì dân kiện ai?”
Xuống đến lũ đàn em cấp dưới nữa, cỡ bộ, thứ trưởng cũng coi dân như những đồ vô tri, giác mất, mà tuyên bố phứa văng mạng, kiểu “chạy chức chạy quyền là chuyện bình thường! Obama cũng còn chạy vào Nhà Trắng, Poutine cũng chạy vào “nhà đỏ” nữa là… …hoặc “đầu tư 10 tỉ, thất thoát 1 tỷ thế là tốt lắm rồi!?” hoặc “nghèo mà sao không chịu chỉ dùng….một bóng đèn, dùng cả tủ lạnh, tivi nhưng thấy tiền điện tăng là kêu ca ầm ỹ!” hoặc “nghèo cũng cần xem pháo hoa cho quên đi nỗi đói nghèo! ” v.v… và v.v…
Không phải chỉ là những tuyên bố….”xanh rờn nữa, mà là ….chửi thẳng vào mặt dân: ”Đồ ngu! Không biết gì mà cứ lắm ý kiến!”
Xuống nữa tới cấp lý trưởng, chánh tổng cũng xây nhà lầu, đi xe mẹc, mặc com-lê, cà vạt, giầy bốt-tin đen đi thăm đồng có chụp ảnh quay phim…chẳng khác gì các vua Trung Ương! Có anh còn xây nhà lầu xừng xững giữa những túp lều rách nát của bầy bần cố nông nô lệ
Căn nhà 2 tầng khang trang, bề thế, to nhất làng An Thư của "quan xã" Mai Hiển Dũng đang giai đoạn hoàn thiện. Chỉ với mức lương 1,4 triệu đồng / tháng, nhưng "quan xã" Mai Hiển Dũng / cán bộ Lao động – Thương binh và Xã hội xã Trịnh Xá, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, vẫn xây được căn nhà 2 tầng bề thế, khang trang, to nhất ở làng An Thư. Trong khi những người tàn tật bị ông Dũng chiếm đoạt tiền trợ cấp đang sống trong căn nhà tồi tàn, rách nát - tin & ảnh by Dân Trí, Thứ Tư, 04/02/2015 |
Có thằng chủ tịch xã còn chửi dân công khai trước nhà báo khi bị phỏng vấn về vụ sắm xe hơi đời mới là: Dân ở đây… ”bố láo” lắm. Chuyên bới móc chuyện của cấp ủy đảng viên!”…
Với hàng ngàn, hàng vạn lời nói và hành động kiểu vừa nêu, đã đến lúc có thể kết luận:
VỮNG TIN Ở SỨC MẠNH CHUYÊN CHÍNH VÔ CÙNG HÙNG HẬU DO CHÚNG TRẢ LƯƠNG HẬU HĨNH, bọn chúng đã công khai thách thức: QUYỀN CỦA CHÚNG TAO LÀ ĐƯỢC NÓI THẾ, LÀM THẾ ĐẤY! ĐỨA NÀO LÀM GÌ ĐƯỢC CHÚNG TAO NÀO?”
Để cụ thể hóa hơn cái “quyền uy miễn bàn cãi” của bọn chúng, hàng loạt các lâu đài, biệt điện chẳng hề thua Trung Ương Ủy Viên Tổng Thanh Tra Nhà Nước Truyền văn Nhiễm, Chín (tử) Cung vua Bình Dương, …”Vương triều”, ”đế chế” của các tướng quân đội, tướng công an, tướng phó chính phủ và gia đình họ tộc cũng bị phơi bầy trên mạng với đầy đủ giấy tờ mua sắm, chuyển nhượng, sổ đỏ với tên tuổi vợ chồng đàng hoàng….Nhưng…..chẳng một tên nào cần “thanh minh- thanh nga” gì xất! Không phải là sự “Im lặng đáng sợ!” nữa mà là “Ừ thì là của tao đấy! Đứa nào dám làm gì tao thì làm nào!
Bất quá cũng chỉ đến… “cảnh cáo” là cùng!
Tổ ấm hiện nay (2012) của ngài Nguyên TBT Nông Đức Mạnh là căn biệt thự rộng 850 mét vuông, nằm trên con đường ven Hồ Tây |
Căn biệt thự thô khi Nguyễn Hòa Bình mua vào thời điểm tháng 5/2013 với giá 21,8 tỷ đồng |
...và mất thêm hàng chục tỷ nữa để hoàn thiện |
Và đây ngà voi của vua Phiêu, tác rả của "Mênh mang tiền dân" đang trự ngắm mình - Tết Kỷ Sửu 2009 |
vua Lông đang ngự triều và được phép chụp hình, quay phim thoải mái |
Nội cung của Vua họ Lông được cho phép tham quan chụp ảnh thoải mái |
đúng là không ai có thể dám có cái bản lãnh và trí tuệ đến mức có thể có được ngai vàng,vợ trẻ như thế này |
Tất cả mọi sự tiêu cực té ra đã được cái nghị quyết 4 bảo kê bằng vũ khí “Phê và tự phê” và….nhất là lời chỉ đạo của anh đảng trưởng có tên Trọng Người Giầu, sau khi bị mất chỗ dựa NBT, người muốn “Bắt hết! hốt hết!” nên đành phải “hạ giọng”: “phê bình nhau nhưng….tránh bè phái, mất đoàn kết”, rằng thì là “đến thầy Đường Tăng đi thỉnh kinh cũng còn phải hối lộ nữa là! ...”! Nổi tiếng nhất và làm chỗ dựa an tâm đục khoét nhất cho “các đồng chí tình thương mến thương” là” “Ném chuột tránh để vỡ bình quí”!
Thế là, mọi sự tiêu cực cứ thế… tích cực tiến lên, bọn “nội-ngoại xâm” cứ nghênh ngang, hống hách coi trời bằng vung, coi dân như bọn nô lệ ngu đần, mặc sức thi nhau nói vung nói vít và vơ vét không ngừng nghỉ mà chẳng sợ bị…trừng trị!
Đặc biệt những ngày đầu năm tết con dê, một “anh thợ rừng trúng số” được lên ngôi báu một thời, nay đã trở thành “thái thượng hoàng về hưu” nhưng vẫn tỏ ra “tao đây vẫn là vua”, đã cho các nhà báo đến quay phim, chụp ảnh cảnh lũ lau nhau “thà bỏ tổ tiên, cha mẹ, chứ không bỏ đảng bác Nông” đến chầu giữa một cung vua huy hoàng vàng son theo kiểu thời vua Louis XIV. Toàn cảnh nơi hạ triều, cũng như các ngự phòng của bà vợ trẻ.. đã được tung lên mạng! Một cú nổ kinh hoàng như bom A bom H vang khắp thế gian! Một cú vỗ ngực nhắc nhở thần dân của một tên vua hề, sợ người đời quên lãng “Như t…a…a đ.ây..í…i…i.. là đệ nhất vua xứ An Nam chính cống! Các cháu thanh niên hãy nhớ công ơn cha con ta đã lãnh đạo nước non nà…y í, ỉ, ì, i…”
Cũng có thể là một thủ thuật nhắc nhở mấy chú Thanh Niên con, cháu bác hãy noi gương và làm theo lời ta, sẽ được hưởng vinh quang phú quí muôn đời: ”TA ĐANG HƯỞNG THEO NHU CẦU ĐÂY NÈ!” Muốn gì có nấy, vợ trẻ, ngai vàng…! Ta lên thiên đường cộng sản trước còn các chú mày hãy cố gắng… lên sau nhé! ”
Và những tấm ảnh thách thức trắng trợn này, dù đã có lệnh phải gỡ bỏ đi lập tức, cũng đủ thời giờ cho hàng vạn, thậm chí hàng triệu người khắp trái đất kịp “chiêm ngưỡng” để rồi phải bàng hoàng về sự xấc xược cộng sản (arrogance communiste) kinh hoàng hiếm thấy sau vụ tiết lộ dinh thự của Tổng Phiêu với ngà voi, trống đồng, vườn tự động hồi Tết Kỷ Sửu 2009! (Xin xem lại chi tiết ở đây)
Hàng loạt bài viết lên án, thậm chí chửi bới thô tục đã được tung lên mạng và được bình luận, phân tích, phê phán bằng đủ loại ngôn từ….
Có thể nói: Chưa bao giờ CHỈ VỚI NHỮNG TẤM ẢNH VƯƠNG TRIỀU HỌ NÔNG BỊ TUNG LÊN MẠNG CÒN HƠN CẢ VẠN BÀI LÝ LUẬN BÁC BỎ CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN BẤY LÂU NAY!
Cũng có thể nói: Chưa bao giờ, toàn dân bị trị, nhìn rõ bộ mặt thật của cái đảng LẤY PHỤC VỤ NHÂN DÂN LÀM LẼ SỐNG lại lại bị bêu rếu một cách tồi tệ và rõ nét như bây giờ.
-Cũng chưa bao giờ, từ người dân bình thường nhất, anh xe ôm, chị bán bún bò, đến ông trí thức xưa nay.. ngủ vùi, đến “nhà” này, “nhà” nọ lâu nay nhắm mắt, bịt tai, khi xem qua mấy tấm ảnh tội đồ đó lại không phải thốt lên vài câu.
Biết kìm nén thì cũng phải là: ”Lũ khốn nạn!”…Không cần tế nhị, tế tam gì thì cũng “Tổ cha bọn bịp bơm!” Còn bộc trực, bình dân hơn thi “ đ… m… cộng sản! Cộng sản gì bọn mày! Đi mà chết mẹ mày đi!”
Riêng với mình, mình đã ngộ ra rằng:
-Với khả năng có hạn, với hoàn cảnh bị đóng đanh tại chỗ không thể đi đâu quá căn phòng 24 mét vuông mà không có trợ giúp,
- với sự ngu dốt về xử dụng các công cụ thông tin điện tử,
…Mình vẫn chỉ là một kẻ chưa làm gì đáng giá để có thể “kích động” được lòng tự ái, tự hào của một dân tộc bị bọn đầu óc ngoại lai đã ngang nhiên thống trị đất nước này để xây nên một “xã hội cộng sản phong kiến toàn trị” còn tệ hơn thời phong kiến tập quyền “Chỉ một nhà vua, chỉ một luật pháp, chỉ một niềm tin” (un seul roi, une seule loi, un seul foi) thời louis XIV!
Với các bạn trẻ, mình chỉ mong muốn, các bạn hãy tìm mọi cách dùng các công cụ smart phone, Iphone, Ipad đưa lên Internet tất cả những cảnh gì tố cáo được cái sự vô lý, bất công, dối trá, đểu cáng, tham lam, kiếm chác của những tên vua, quan, văn dốt, vũ nhát đang chia nhau quyền lực cai trị muôn năm đất nước này! Và nếu có thể phổ biến nó bằng mọi cách tới thật nhiều người…
Chẳng cần nhiều lời, lắm lý lẽ và chỉ cần mấy chữ “Đây! Bộ mặt thật của CSVN”
Còn, đối với những người có hoàn cảnh bị hạn chế như mình, chúng ta hãy tập trung chú ý vạch trần mọi sự xấc xược, coi toàn dân như cỏ rác của đảng trưởng cái đảng của những tên “đỉnh cao trí tệ” thời nay mặc dầu bọn chúng đã tự vạch trần bộ măt thật gớm ghiếc của chúng nhiều đến.. lúc nhúc như giòi bọ chưa từng thấy
Vua Trọng giõng dạc, tuyên bố không một chút e ngại:
“Ở Việt Nam không có một lực lượng chính trị nào khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách cam go để đưa dân tộc đến bến bờ vinh quang.”
Mặc đầu đã có hai “vua cộng” bị chính nội bộ vách trần là bọn “vô công rồi nghề, ngồi không ăn bám, cuộc sống hoang đàng” Vậy mà Tổng Trọng của họ, dù cũng sắp theo chân 2 anh Tổng trước về vườn, vẫn huênh hoang không biết ngượng đến thế”
Có phải là đại kiêu ngạo, đại xấc xược, đại trơ tráo không các bạn?
Chẳng cần nhiều lời, lắm lý lẽ và chỉ cần mấy chữ “Đây! Bộ mặt thật của CSVN”
Còn, đối với những người có hoàn cảnh bị hạn chế như mình, chúng ta hãy tập trung chú ý vạch trần mọi sự xấc xược, coi toàn dân như cỏ rác của đảng trưởng cái đảng của những tên “đỉnh cao trí tệ” thời nay mặc dầu bọn chúng đã tự vạch trần bộ măt thật gớm ghiếc của chúng nhiều đến.. lúc nhúc như giòi bọ chưa từng thấy
Vua Trọng giõng dạc, tuyên bố không một chút e ngại:
“Ở Việt Nam không có một lực lượng chính trị nào khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách cam go để đưa dân tộc đến bến bờ vinh quang.”
Mặc đầu đã có hai “vua cộng” bị chính nội bộ vách trần là bọn “vô công rồi nghề, ngồi không ăn bám, cuộc sống hoang đàng” Vậy mà Tổng Trọng của họ, dù cũng sắp theo chân 2 anh Tổng trước về vườn, vẫn huênh hoang không biết ngượng đến thế”
Có phải là đại kiêu ngạo, đại xấc xược, đại trơ tráo không các bạn?
vào lúc 01:52:00
HUỲNH ÁI TÔNG * TIỂU THUYẾT MIỀN NAM
CÁC CÔNG TRÌNH QUỐC NGỮ MIỀN NAM: TIỂU THUYẾT
HUỲNH ÁI TÔNG
I.- Ðại Cương và thời điểm tiểu thuyết ra đời : Tiểu thuyết miền Nam tuy sinh sau đẻ muộn hơn báo chí, thơ, truyện Tàu, nhưng nó đã mang lại cho văn học miền Nam thêm một bước tiến trong quá trình của chữ quốc ngữ.
Tiểu thuyết miền Nam khai sinh từ lúc nào ? Ấy là một điểm quan trọng cần được tìm hiểu.
Theo các nhà văn hay các nhà khảo cứu thì tiểu thuyết sơ khai được in trong các tập sách quảng bá của các nhà thuốc Tây (Pharmacie) hay nhà thuốc Nhị Thiên Ðường thời bấy giờ, những quyển sách ấy cũng chỉ còn lại trong ký ức của họ, sách xuất hiện vào khoảng những năm 1910.
Khi nghiên cứu về Hồ Biểu Chánh, chúng ta biết rằng quyển tiểu thuyết đầu tay của ông là quyển Ai Làm Ðược khởi thảo từ năm 1911, là thời gian ông làm việc tại Cà Mau và bối cảnh chuyện cũng được ông chọn nơi đó, theo sự tiết lộ của gia đình thì quyển tiểu thuyết nầy ông khởi hứng viết sau khi đọc chuyện Hoàng Tố Oanh Hàm Oan của Gilbert Trần Chánh Chiếu. Như vậy Trần Chánh Chiếu còn viết tiểu thuyết sớm hơn Hồ Biểu Chánh. Nhưng sau nầy người ta lại còn tìm thấy Truyện Thầy LAZAZO Phiền của Nguyễn Trọng Quản đã được ấn hành năm 1887.
Như vậy có thể nói rằng tiểu thuyết trong văn học Quốc ngữ miền Nam có từ năm 1887, nhưng nó không gây được ảnh hưởng gì cho người sáng tác và giới thưởng ngoạn, nó bị chìm trong lãng quên, mãi cho tới khoảng 25 năm sau, tiểu thuyết mới gây được phong trào sáng tác và thưởng ngoạn.
Không kể Nguyễn Trọng Quản, những nhà văn tiền phong viết tiểu thuyết như Trần Chánh Chiếu, Lê Hoàng Mưu, Nguyễn Chánh Sắt là những tiểu thuyết gia truyền thống miền Nam, tiếp nối có Hồ Biểu Chánh, Phú Ðức, Tân Dân Tử, Hồ Hữu Tường, Phi Vân, sau nầy còn có Bình Nguyên Lộc và Sơn Nam.
Cho họ là tiểu thuyết gia truyền thống miền Nam, bởi vì văn chương của họ có những nét đặc thù miền Nam, nó không mang tính chất diễm lệ qua lối hành văn, không tiểu thuyết hóa những câu đối thoại. Một vài nhà văn như Hồ Biểu Chánh chẳng hạn, chúng ta thấy văn chương của ông là thứ văn ‘‘ ròng miền Nam ‘’, có lẽ vì đặc tính ấy mà trước đây những nhà khảo cứu đã bỏ quên hay xem nhẹ tiểu thuyết miền Nam.
Trong phần nầy, mặc dù chúng tôi cố gắng trình bày những hiểu biết của mình để làm rõ nét vai trò tiểu thuyết miền Nam trong văn học chữ quốc ngữ, nhưng cũng là để đặt lại đúng vị trí tiểu thuyết miền Nam trong nền văn học nước nhà.
Công việc tập trung các tài liệu thật là khó khăn, bởi vì những quyển tiểu thuyết ban đầu không còn nữa, báo chí buổi sơ khai càng quí hiếm, các bài khảo cứu trong thập niên 70 cũng chỉ trưng ra được một số ít chi tiết nhờ vào ký ức các bậc lão thành, nhà văn tiền bối, nhờ vậy, chúng ta mới có cơ sở để khảo cứu.
II.- Các tiểu thuyết gia đầu tiên : Trong tiết nầy, chúng tôi thiết nghĩ phải đành cho Nguyễn Trọng Quản nhà văn tiên phong một chỗ xứng đáng là tiểu thuyết gia đầu tiên của miền Nam, tiếc rằng tiểu thuyết của ông không gây được ảnh hưởng cho nền văn học tiểu thuyết, có lẻ vì chưa có nhịp cầu nối liền từ nền văn học cũ sang nền văn học mới. Kế đó Gilbert Trần Chánh Chiếu, vì ông chẳng những là nhà văn viết tiểu thuyết gây được ảnh hưởng cho phong trào viết tiểu thuyết, mà còn là nhà cách mạng có tâm huyết với nước nhà.
1.- P.J.B. Nguyễn Trọng Quản : Cho đến nay chưa có tài liệu tra cứu rõ ràng về ông, chỉ biết ông là học trò Trương Vĩnh Ký, bạn đồng học với ông Diệp Văn Cương, từng du học tại Lycée d’Alger, có làm Hiệu Trưởng Trường Sơ Học tại Sàigòn. Ngoài Truyện Thầy LAZAZO Phiền, có lẽ ông còn có những bài viết đăng trên Gia Ðịnh Báo, tiếc rằng chúng ta chưa có tài liệu tra cứu thêm.
Truyện Thầy Lazazo Phiền được Nguyễn Trọng Quản sáng tác năm 1886, ông viết tựa đề ngày 1 tháng 12 năm 1886, và được nhà in J. Limage, Librairie - Editeur, đường Catinat (1) Sàigòn, ấn hành năm 1887 (2)
Về tiểu thuyết Truyện Thầy Lazazo Phiền thuộc loại thuật sự, cốt truyện như sau : Ðêm 12-1-1884, tác giả xuống tàu tại bến Sàigòn đi Bà rịa, lúc lên pont (sàn) tàu, tác giả gặp một thầy tu Lazazo Phiền, thầy Phiền có tâm sự buồn đi Vũng Tàu nghỉ dưỡng bệnh. Thầy Phiền tâm sự năm 1850 Thầy được 13 tuổi thì mẹ mất, sống với cha là Trùm họ đạo ở Ðất Ðỏ Bà rịa. Năm 1860, Pháp đánh Biên Hòa các người có đạo bị bắt cầm tù, khắc trên mép tai 4 chữ ‘’ Biên Hòa tả đạo ‘’. Năm 1862 Pháp đến Bà rịa thì nhà tù bị quan Annam đốt thiêu ba trăm tù nhân, số còn sống chạy thoát chừng 10 người trong ấy có thầy. Hai chân bị phỏng, thầy té xỉu bên bụi cây, được quan ba Pháp cứu sống và nuôi dưỡng sau đó quan ba Pháp về nước gửi thầy cho đức cha Lefèvre, Thầy được học chữ Quốc ngữ đến năm 1864 vào học trường chữ La tinh. Ở trong trường Thầy kết nghĩa với người bạn là Vero Liễu, Liễu có người em bạn dì, sau cha mẹ Liễu gả cho Thầy. Thầy xuất thân trường College d’Adran nên đi làm thông ngôn tại Bà rịa. Khi làm thông ngôn Thầy có quen quan Pháp nên hay vào đồn ăn cơm, có vợ viên quan ba Pháp là người Việt sanh tâm yêu Thầy, Thầy trốn tránh.
Trong khi đó Liễu thôi làm việc ở Sàigòn, xuống Bà rịa buôn ngựa hay ở nhà Thầy, Thầy được thơ nặc danh tố cáo bạn và vợ xằng bậy, nên Thầy lập tâm dẫn lính phục kích bắn chết Liễu, rồi nữa tháng sau Thầy lại dùng thuốc độc của người Thượng dạy bỏ vào siêu thuốc của vợ Thầy, vợ Thầy uống lầm bệnh ngày càng trầm trọng hơn 11 ngày thì mất. Trước khi vợ Thầy mất, có lẽ hiểu được mưu độc của Thầy, nhưng người đàn bà ấy đã nói : ‘‘ Tôi biết vì làm sao mà tôi phải chết, song tôi cũng xin chúa thứ tha cho Thầy.’’
Sau khi chôn cất vợ xong, Thầy Phiền xin thôi việc về Sàigòn xin vào nhà dòng Tân Ðịnh tu và chuyến tàu ấy Thầy đi dưỡng bệnh.
Khi tác giả về đến Sàigòn ngày 27-1-1884 thì được thơ của Thầy Phiền viết từ Bà rịa ngày 25-1-1884 thuật lại là khi Thầy về đến nơi, người vợ của quan ba Pháp kia hối hận nên có được thư của cô ta viết cho Thầy thuật lại là chính cô ta đã cáo gian cho vợ Thầy và Vero Liễu Và Thầy Lazazo Phiền chết ngày 27-1-1884.
Truyện nầy tác giả viết in ra 28 trang khổ 12 x 19 cm
Trích văn :
Ai xuống Bà rịa mà có đi ngang qua đất thánh ở trong cát tại làng Phước Lễ thì tôi xin bước vô đất thánh ấy, kiếm cái mồ có cây thánh giá bằng ván, sơn nửa đen nửa trắng gần một bên nhà thờ những kẻ Tử đạo mà thăm mồ ấy kẻo tội nghiệp Vì đã hai năm nay không ai thăm viếng, không ai màng ngó tới.
Mồ đó là mồ một Thầy đã chịu lương tâm mình cắn rứt đã mười năm, bây giờ mới đặng nằm yên nơi ấy.
...................
Ðồng hồ nhà thờ nhà nước (3) vừa đánh 8 giờ; đồ tôi đã đem xuống tàu mà đi Bà rịa rồi.
Chiếc Jean Depuis định 10 giờ mới chạy, nên còn 2 giờ chẳng biết làm đi gì. Lên đến sân thấy trăng thanh gió mát ( Rằm tháng chạp Annam là 12 Janvier 1884), thì tôi lại đứng nơi be tàu mà hóng gió.
Ðứng đó lòng buồn một ít vì phải xa cách cửa nhà vợ con hơn tám bửa cho nên dẫu mà trên bờ đèn sáng như ngày, kẻ qua người lại xe ngựa rầm rầm, nhà hàng dẫy đầy những kẻ vui chơi, tôi cũng chẳng đem trí mà xem các sự ấy, cứ một xem phía bên sông Thủ Thiêm mà thôi; vì phía đó chẳng chơi sự sang trọng vui chơi, chẳng tỏ bày sự phàm xác thịt. Nơi ấy là nơi nghèo khổ làm ăn ban ngày, thong thả mà nghỉ ngơi ban đêm, nên còn một hai chỗ còn đèn leo lét mà chỉ vài nhà chưa ngủ mà thôi.
Còn dưới sông mặt trăng dọi xuống làm cho nước giọng ra như tấm lụa vàng có kim sa.
Ðọc đoạn văn trích trên đây, chúng ta sẽ có dịp so sánh với các nhà văn sau nầy như Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Chánh Sắt viết sau ông trên dưới 30 năm, Nguyễn Trọng Quản đã hành văn trong sáng.
Lời tựa đề tặng Diệp Văn Cương và các bạn người Việt cùng học ở Lycée d’Alger; ngoài ước muốn cho Miền Nam có tương lai rực rở, tiến bộ và văn minh, ông còn viết :
‘’ ...Tôi một có dụng ý lấy tiếng thường mọi người hàng ngày nói mà làm ra một truyện hầu cho kẻ sau coi mà bày đặt cùng in ra ít nhiều truyện hay; trước là làm cho con trẻ ham vui mà tập đọc, sau là làm cho dân các xứ biết rằng : người Annam sánh trí sánh tài thì cũng chẳng thua ai ‘’.
Qua lời tựa nầy, chúng ta xác định được, trước ông chưa có ai viết tiểu thuyết, cũng như Trương Vĩnh Ký, trước ông chưa có ai viết ‘’ Chuyện đời xưa ‘’ vậy, thứ nữa là dùng tiếng thường nói sao viết vậy : Ðó chính là truyền thống của văn chương miền Nam.
2.- Trần Chánh Chiếu (1868-1919):
Trần Chánh Chiếu (1867-1919)
Trần Chánh Chiếu tự Gilbert Chiếu, bút hiệu Tố Hộ và Trần Nhựt Thăng, ông sinh tại làng Vân Tập, sau đổi là Vĩnh Thanh Tân, tỉnh Rạch Giá, cha là Trần Thọ Cửu, hương chức trong làng.
Gia đình ông khá giả, sau khi học xong trường tỉnh, ông lên Sàigòn học trường College d’Adran và khi thành tài, ông làm giáo học rồi làm thông ngôn cho Tham biện Chủ tỉnh Rạch giá (4).
Ông có khẩn đất vùng Tràm Vẹt, có phố xá tại chợ Rạch giá, nên sau đó ông thôi làm công chức, trở về làng làm Xã trưởng (5) một thời gian, ông được phong chức Phủ hàm và gia nhập Pháp tịch.
Khoảng năm 1906, ông lên Sàigòn hoạt động trong phong trào Minh Tân - Danh từ nầy có lẽ lấy chữ trong sách Ðại Học. ‘’ Ðại học chi đạo, tại minh minh đức. tại tân dân tại chí ư thiện ‘’, phong trào Minh Tân là một bộ phận trong phong trào Duy Tân.
Năm 1906 và 1907, ông làm Chủ bút tờ Nông Cổ Mín Ðàm và năm 1907 tờ Lục Tỉnh Tân Văn ra đời, ông Làm Chủ bút tờ nầy dưới bút hiệu Trần Nhựt Thăng. Ông có hoạt động bí mật với Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể, ở Sàigòn ông lập Minh Tân Công Nghệ Xã, Nam Trung khách Sạn, ở Mỹ Tho có Minh Tân khách sạn là những nơi mà ông muốn người Việt Nam kinh doanh, để đương đầu với người nước ngoài, và cũng là nơi gặp gỡ của những người trong phong trào.
Vì hoạt động bí mật và cạnh tranh thương mại, nên ông bị người Pháp theo dõi, đến tháng 10 năm 1908 ông bị bắt cho đến tháng 4 năm 1909 ông mới được thả ra, sau đó ông vẫn hoạt động bí mật trong phong trào Ðông du, và ông mất tại Sàigòn năm 1919.
Ngoài việc làm báo, hoạt động cách mạng ra, ông dịch và viết một số tác phẩm sau :
- Tiền căn hậu báo (dịch le Comte de Monte-Cristo của Alexandre Dumas), trước đăng trong Lục Tỉnh Tân Văn. Năm 1914, nhà in Imprimerie de l’Union ấn hành sách.
- Hoàng Tố Oanh hàm oan.
- Văn ngôn tập giải.
- Gia phổ (1917)
Trích văn :
Thương hải tang điền
Trải qua một cuộc bể dâu, những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Theo luật lệ tạo hóa, hễ hữu hình thì hữu hoại. Vật chi hễ có hình, hoặc chẳng lâu thì mau cũng phải hư nát. Còn trong đám trần ai hễ hữu sanh thì hữu tử, có sanh sản thì có tử táng, có sống thì có chết.
Vã lại, sông biển núi non cũng hay đổi dời, ruộng dâu hóa ra biển, biển cạn bày đất thành ruộng dâu. Núi cao sập lỡ thành ao hồ, non nhỏ có ngày cao lớn. Mỗi người đều thấy, hễ chiêm nghiệm thì đều hiểu.
Nói sang qua phong tục thì lại thấy nó mỏng manh hơn bánh tráng. Xưa vẽ mình, ở dã, ở bãi, nhờ ba con cá nuôi lỗ miệng, đầu trọc, mình đóng khố. Sau lần lần bắt chước lân bang, Sắm áo quần ngày càng tao nhã thanh lịch. Nay lại muốn bỏ đồ xưa, đổi áo thay xiêm, đổ dài thay vắn, cúp tóc cho gọn. Xưa đi giày hàm ếch lượt bượt. Nay đi giày đính gót gọn gàng. Xưa bịt khăn, nay đội nón. Muôn việc cũng đều bắt chước các nước, còn việc cơ xão, việc thông minh, bày vẽ cho cận tiện thì mình thua sút xa thăm thẳm.
Nghĩ lại sự bắt chước cũng không mau được, ban đầu thì xài quần tây, đến sau cúp tóc, đội nóm, bây giờ muốn đổi áo. Mấy ông tưởng vậy là đủ cuộc trí thời thức thế sao ?
Tôi tưởng chưa, là vì việc hủ lậu còn đầy, sự nghi nan còn nặng. Việc đọc sách, đọc nhựt trình còn sơ, việc cơ xão công nghệ còn hẹp. Nay lo chuyện sua se là dọn quần đánh áo. Hà tất duy tân. Ấy là có vỏ nõ có ruột. Phải ráng mà bươn chải với đời, lo cho con nhà nước Nam thông nghề buôn, giỏi nghiệp nghệ, tiện tặn chắt lót, thủ quyền lợi vì hễ có hằng sản mới có hằng tâm; bằng tay không chân rồi, dầu có mặc áo gấm cũng chẳng làm chi, bất quá thì hơn con công một thí mà thôi.
Xin tri túc thường túc. Có 10$ ăn 5$ dành để 5$. Ðến khi có gặp điều phải mà thi ân được. Chớ ‘’ đồng rằng trong túi vắng hoe, thì ắt là kiến nghĩa nan vi, lâm nguy nan cứu ‘’.
Tố Hộ
Bài nầy in ra chắc có các vị Minh Tâm công luận. Phận tôi làm chủ bút sẽ cầm cân.
Chủ Bút
Số 2, ngày 21-11-1907
3.- Trương Duy Toản (1885-1957)
Trương Duy Toản
Trương Duy Toản tự Mạnh Tự, bút hiệu Đổng Hổ, sinh năm 1885, quận Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Thuở nhỏ học ở tỉnh rồi lên học trường lớn ở Sàigòn, năm 1905 ra trường làm Kinh lịch tại tòa Khâm sứ Pháp ở Nam Vang. Năm 1907 đổi về Sàigòn, ông tham gia vào hội Minh Tân của Trần Chánh Chiếu, ông có sang Nhật làm thông ngôn cho Phan Bội Châu và Cường Để ở Nhật và Pháp. Năm 1908, Nhật trục xuất du học sinh, ông theo Cường Để sáng Âu Châu. Có lẽ trong thời gian này, ông viết tiểu thuyết Tiết phụ gian truân do F.H. Scheneider – Imprimerie, editeur 1910 – Saìgòn xuất bản.
Năm 1914, ở Âu châu ông trở về Thượng Hải, Singapore rồi lại sang Pháp, tại Paris ông liên lạc với Phan Chu Trinh rồi bị Pháp bắt dẫn độ về Sàigòn, ông bị giam cầm một thời gian rồi được trả tự do. Sau đó ông sống bằng nghề cầm bút. viết tuồng cải lương.
Năm 1924-1933, ông làm chủ báo Trung Lập, Sài Thành nhựt báo. Những năm kháng chiến chống Pháp, ông sống ở Sàigòn với nghề làm báo, năm 1955, ông còn viết hồi ký về Phong trào cách mạng trong Nam đăng trên tuần báo Tiến Thủ với bút hiệu Đổng Hổ và tiểu Thuyết Phan Yên Ngoại sử tức Tiết Phụ gian truân đã in năm 1910.
Ông mất năm 1957 tại Sàgòn, thọ 72 tuổi, an táng tại quận Tam Bình tỉnh Vĩnh Long.
Tác phẩm của ông gồm có:
- Phan Yên ngoại sử (1910)
- Truyện Đơn Hùng Tín An Nam tục kêu Ba Tính (1925)
- Phong trào cách mạng trong Nam (1956)
- Truyện Đơn Hùng Tín An Nam tục kêu Ba Tính (1925)
- Phong trào cách mạng trong Nam (1956)
Các tuồng hát:
- Kim Vân Kiều
- Lục Vân Tiên
- Hạnh Nguyên cống Hồ
- Trang Tử cổ bồn ca
- Trang Châu mộng hồ điệp
- Lưu Yến Ngọc cứu cha đại hiếu.
- Lục Vân Tiên
- Hạnh Nguyên cống Hồ
- Trang Tử cổ bồn ca
- Trang Châu mộng hồ điệp
- Lưu Yến Ngọc cứu cha đại hiếu.
4. Nguyễn Chánh Sắt (1869-1947) :
Nguyễn Chánh Sắt (1869-1947)
Ông từng làm chủ bút Nông Cổ Mín Ðàm, là một nhà dịch truyện Tàu, cũng là một trong những nhà viết tiểu thuyết buổi sơ khai. Lần thứ hai làm chủ bút Nông Cổ Mín Ðàm, truyện Tàu đã được dịch nhiều rồi, và tiểu thuyết bắt đầu ló dạng buổi bình minh, nên ông chuyển sang viết tiểu thuyết đăng trong Nông Cổ Mín Ðàm. Tiểu thuyết Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên làm cho ông nổi tiếng hơn cả, người ta gọi ông với biệt danh là Monsieur Chăn Cà Mun, đó là tên của nhân vật chính trong chuyện.
Muốn hiểu rõ hơn về cuộc đời của ông, xin xem lại tiểu sử ông ở Tiết 4, mục III, tiểu mục 2.
Về tiểu thuyết của ông sáng tác gồm có :
- Gái trả thù cha (trinh thám tiểu thuyết, 4 quyển 220 trang, năm 1920)
- Tài mạng tương đố (tâm lý tiểu thuyết, 2 quyển)- Lòng người nham hiểm (xã hội tiểu thuyết, 1 quyển)
- Nghĩa hiệp kỳ duyên (năm 1920) ( 6 )
- Trinh hiệp lưỡng mỹ
- Lê Thái Tổ (4 quyển, năm 1931)
Trích văn :- Tài mạng tương đố (tâm lý tiểu thuyết, 2 quyển)- Lòng người nham hiểm (xã hội tiểu thuyết, 1 quyển)
- Nghĩa hiệp kỳ duyên (năm 1920) ( 6 )
- Trinh hiệp lưỡng mỹ
- Lê Thái Tổ (4 quyển, năm 1931)
Vậy sao? Cơ khổ dữ chưa, vậy mà tôi không biết, chớ anh nhà cửa ở đâu? Sao mà biết con hai ở đây? Trịnh-thế-Xương chưa kịp trả lời, Lâm-thế-Viễn liền rước mà nói rằng: ‘’ Ông bác đây là người giàu có lớn bên chợ Tân Châu ‘’. Rồi đó Lâm-trí-Viễn mới thuật hết đầu đuôi sự tích lại cho Dì Tư bán cá nghe. Dì tư bán cá miệng nhai trầu tích hoát, tay xỉa thuốc ba ngoai mà nói rằng: ‘’ Trời đất ơi! Ðây với đó có bao xa mà không biết, phải tôi dè vậy thì tôi nhắn cho ông anh hay đã lâu rồi chớ đâu mà để cho tới ngày nay. Từ ngày tôi gặp con hai nó đi lơ thơ ngoài chợ, tôi thấy vậy tôi thương nên tôi đem nó về mà ở với tôi đây đã mấy tháng nay. Dì cháu hẩm hút với nhau thiệt tôi thấy tánh nết nó thiệt thà tôi thương nó quá. Lúc đêm hôm rảnh rang tôi cũng hỏi thăm gốc gát cha mẹ nó thì nó không biết chi hết, vì lúc họ chở nó đi thì nó còn nhỏ quá ‘’. Trịnh thế Xương bèn thò tay vào túi lấy ra (100 đồng) một trăm đồng bạc, trao cho Dì tư bán cá mà nói rằng: ‘‘ Con gái tôi nó đùm đậu ở đây trong mấy tháng thiệt cũng nhờ cái lòng tốt của chị, mà bởi tôi đi thình lình nên không có bạc đem theo nhiều, vậy thì xin chị nhận đỡ lấy một trăm đồng bạc nầy, gọi là của tôi đền đáp ơn dày của chị, vui lòng đặng tôi đem con gái tôi về, kẻo để tắt tưởi cái tấm thân nó tội nghiệp’’.
Trích Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên
Từ bài trích Mộ Tào Tháo ở Tiết Báo Chí, đến phần trích trên đây, chúng ta thấy Nguyễn Chánh Sắt hành văn nhẹ nhàng, nhưng vẫn thể hiện nét đặc thù của truyền thống văn chương miền Nam.
5. Lê Hoằng Mưu (1879-1941): Sinh tại Cái Cối tỉnh lỵ Bến Tre, ông có bút hiệu Mộng Huê Lầu, ông bắt đầu sáng tác vào khoảng năm 1917-1918, đến năm 1921 ông làm chủ bút tờ Lục Tỉnh Tân Văn cho đến năm 1930, sau đó ông là chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ báo Long Giang, tờ báo này đình bản năm 1943. Ông mất tại Sàigòn thọ 62 tuổi.
Tác phẩm của ông gồm có :- Hà Hương phong nguyệt. (7)
Ba gái cầu chồng (1915) - Oán hồng quần tức Phùng Kim Huê ngoại sử (1920)
- Tô Huệ Nhi ngoại sử (1920)
- Oan kia theo mãi tức Ba mươi hai đêm Hồ Cảnh Tiên tự thuật (1922)
- Ðêm rốt của người tử tội ( 1930 ?)
- Người bán ngọc (1931)
- Ðầu tóc mượn
Oán Hồng Quần
... Trên chữ đề Tân Hiệp nhà ga, dưới chạo rạo người ta lên xuống.
Huê khát nước thấy dừa muốn uống, tính xuống mua mà xuống lại e, may đâu con bán dừa đem lại gần xe, cho hành khách tiện bề mua lấy. Huê mừng dạ mau chân bước lại, kêu hỏi thăm một trái mấy đồng. Xãy đâu gần bên nàng có một thầy thông, chợt thấy khách má hồng bủn rũn. Trơ đôi mắt hỏi thầm trong bụng: ‘’ Có phải Túy Kiều xưa, nay sống lại chăng ? Thầy mới lần tay toan mở túi gió trăng, kiếm lời ghẹo ả Hằng cung nguyệt ‘’.
Lê Hoằng Mưu hành văn theo lối biền ngẫu, đó là ảnh hưởng của cổ văn Trung Hoa, dùng trong thi phú từ chương.Một đoạn văn xuôi của ông, chúng tôi thử xuống dòng ở các chấm câu, nó gần trở thành một bài phú.
‘’...Chung thờ thần mày trắng, mười mấy năm mới bỏ ra đi.
Trốn mà đi Nam Vang, ngỡ cải nghiệp điếm đàng sửa sang tánh hạnh.
Có dè đâu lên Nam Vang cũng chẳng tiếc phấn son một mảnh; không thẹn điều lá gió chim cành; hết Tống Ngọc tới Trường Khanh, vui theo cuộc lầu xanh ang ná (9)...’’
So với văn của Nguyễn Chánh Sắt, rồi lần tới Hồ Biểu Chánh, chúng ta sẽ thấy rõ sự chuyển thể từ thi ca sang văn xuôi, cần phải có một nhịp cầu, ấy là truyện Tàu.Ðọc lại đoạn văn trên chúng ta thấy ông hành văn từng câu ngắn, có người cho đó là văn nhát gừng. Nhưng trong buổi giao thời ấy, ông là một nhà văn sáng giá, theo như bài viết của Lãng Tử đăng trong tuần báo Mai số 68 phát hành ngày 6-1-1939, viết về Lê Hoằng Mưu như sau :
Sánh truyện hồi đó ông viết ra thật nhiều và đều bán chạy như tôm tươi giữa buổi sớm, ông nổi danh quá lắm, làm cho ông Nguyễn Văn C (10) trong một lúc vui sướng vì đã có người giúp việc quí giá đã hứa với ông rằng sẽ giữ ông lại trong tờ báo trọn đời. (11).
III. Ðặc tính của tiểu thuyết sơ khai: Chúng ta chưa biết nhiều về Lê Hoằng Mưu, Trần Phong Sắc nhưng Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Chánh Sắt, và Nguyễn Trọng Quản thì họ đều là những người có học Quốc Ngữ và Pháp Văn, do đó ít nhiều họ cũng bị ảnh hưởng văn chương Tây Phương, nhưng cổ văn, Thơ, truyện Tàu vẫn có ảnh hưởng đến họ, chính vì vậy mà tiểu thuyết thuở ban đầu ấy, đã chịu một số ảnh hưởng sau đây :
1.- Chịu ảnh hưởng chương hồi của tiểu thuyết Trung Quốc: Về chương hồi của truyện Tàu, chúng tôi đã nói qua ở Tiết 4, mục V. Tưởng cũng cần nhắc lại, mỗi truyện Tàu chia thành nhiều chương, hồi. Trước mỗi hồi đều có một hay hai câu thơ giới thiệu tổng quát nội dung của hồi đó.
Tiểu thuyết miền Nam buổi sơ khai cũng vậy, có chương hồi. Bản Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên do nhà văn Sơn Nam sưu tầm và cho in lại trong tạp san Nhân Loại (12), không thấy có phân chia thành hồi, nhưng từng đoạn có ghi :
Lâm trí Viễn dụng mưu.
Một chước rất mầu.
Còn tiểu thuyết Nhơn Tình Ấm Lạnh của Hồ Biểu Chánh, do Tín Ðức Thư Xã in năm 1928 có phân chia thành hồi như :
Hồi thứ II
Phi Phụng tỏ tình buồn dạ khách,
Duy Linh tức trí kiếm đường vinh.
hoặc Hồi thứ XVI
Từng cay đắng mới biết thế tình gian dối,
Lắm thảm sầu nên nhìn người ngọc quặn đau.
Sau nầy Hồ Biểu Chánh cho in lại, ông đã bỏ bớt các câu thơ giới thiệu các hồi.Giọt Máu Chung Tình của Tân Dân Tử do nhà Phạm Văn Thìn in năm 1954 vẫn còn in chương hồi theo cũ :
Hồi thứ nhất
Thành Bình-Ðịnh thuật sơ sự tích,
Võ-đông-Sơ lướt dặm quan hà.
Như vậy cho thấy, ban sơ tiểu thuyết chịu ảnh hưởng truyện Tàu về hình thức cũng phân chia thành chương hồi.
2. Chịu ảnh hưởng văn chương Trung quốc : Chúng ta ai cũng biết rằng miền Nam không phảo là mảnh đất chịu ảnh hưởng lâu đời về văn chương Trung Quốc, miền Nam chỉ có năm ba ông Cử, vài ông tiến sĩ, rồi Pháp chiếm lấy miền Nam, nền văn học Quốc ngữ được phát sinh. Quốc ngữ chỉ là phương tiện cai trị của người Pháp, còn con đường quan lại nhất thiết phải học chữ Pháp, bởi vì các Nghị Ðịnh, công văn đều viết bằng Pháp văn, chữ Quốc ngữ chỉ dùng ở báo chí, văn chương. Những người làm báo, sáng tác tiểu thuyết đều biết Pháp văn, Hán Văn và Quốc ngữ.
Mặc dù học Hán văn không nhằm mục đích thi cử, nhưng mà học để biết nghĩa lý thánh hiền, học cho hiểu để đàm luận văn chương, cho nên nhà văn thời đó còn chịu ảnh hưởng rơi rớt lại văn chương biền ngẫu của Trung Hoa.
Ðây là đoạn mở đầu bộ Giọt Máu Chung Tình của Tân Dân Tử :
Lửa hạ vừa tàn, gió thu đổ lá, kèn xe hơi rỉ rả, tiếng ngâm sầu nhặt nhặt khoan khoan. Nội cỏ bóng le the, trang vẻ cảnh vàng vàng dợt dợt, kìa xóng róng một đám rừng thông cụm liễu cây đứng xơ rơ, trợn mắt trơ trơ, dường như giận cái phong cảnh tiêu điều, mà phai màu xủ lá. Nọ một giãi trường sơn vọi vọi, nằm dọc theo mé biển Ðông dương, dơ sống phơi sườn, thiêm thiếp yêm liềm ở dưới trời Nam, dường như buồn thảm cái thời tiết đổi dời nên không động dạng...
Còn đoạn mở đầu Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên của Tân Châu Nguyễn Chánh Sắt :
Vừa cuối tiết thu, trời chiều mát mẻ, trên nhành chim kêu chiu chít, dưới sông cá lội vởn vơ; Lâm trí Viễn tay cầm nhựt báo, tay xách ba-ton (baton), rảo bước thung dung, thơ thẩn lối cầu đường núi Sam là chỗ hẹn hò với tình nhân mà trao lời tâm sự. Gần trót giờ lâu, chẳng thấy dạn nàng, anh ta buồn ý, liền dở tờ nhựt báo xem chơi cho tiêu khiển...
3. Chịu ảnh hưởng về nền luân lý của Trung Hoa: Mặc dù chịu ảnh hưởng phần nào của Tây phương nhưng ảnh hưởng về luân lý của Trung Hoa vẫn nặng nề, nhưng đó cũng là nền nếp, phong hóa của Việt Nam ta từ lâu đời.
Những tam cang, ngũ thường, tam tòng, tứ đức đã ăn sâu vào đời sống người Việt Nam, khi người ta nói đến lễ nghĩa, đối xử với nhau trong xã thôn và làng nước. Nó là chuẩn mực cho tác giả xây dựng nhân vật, hoàn cảnh. Thậm chí đến nhân vật của Nguyễn Chánh Sắt, ông đặt tên biểu trưng cho từng cá tánh nhân vật.
Kẻ mưu sâu hiểm độc thì tên là Lâm-trí-Viễn, người giả mạo, sau nầy phải chạy trốn tên là Ðào-phi-Ðáng, kẻ hết lòng hết dạ cứu giúp người tên là Trần-trọng-Nghĩa, kẻ có lòng thương người tên là Trịnh-thế-Xương, kẻ phải chịu phiêu bạt tên là Trịnh Phương Lang, còn tên cờ bạc ăn cắp vặt tên là Trịnh-bất-Thanh.
Hồ Biểu Chánh cũng vậy, người con gái trinh trắng ông đặt tên là Bạch Tuyết, kẻ có chí ông đặt cho tên Chí Ðại ...
4. Hành văn trơn tuột như lời nói : Có một đặc tính cho văn chương miền Nam, nó đã tạo thành truyền thống, khởi đầu từ Trương Vĩnh Ký, đặc tính ấy là hành văn trơn tuột, nói sao viết vậy, Chẳng hạn như đoạn trích trong Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên ở trước:
...‘’ Trời đất ơi! Ðây với đó có bao xa mà không biết, phải tôi dè vậy thì tôi nhắn cho ông anh hay đã lâu rồi chớ đâu mà để cho tới ngày nay. Từ ngày tôi gặp con hai nó đi lơ thơ ngoài chợ, tôi thấy vậy tôi thương nên tôi đem nó về mà ở với tôi đây đã mấy tháng nay. Dì cháu hẩm hút với nhau thiệt tôi thấy tánh nết nó thiệt thà tôi thương nó quá. Lúc đêm hôm rảnh rang tôi cũng hỏi thăm gốc gát cha mẹ nó thì nó không biết chi hết, vì lúc họ chở nó đi thì nó còn nhỏ quá ‘’...
Một đoạn trích trong Ai Làm Ðược của Hồ Biểu Chánh, sáng tác năm 1912, nhuận sắc in năm 1922, để chúng ta thấy rõ đặc tính văn chương miền Nam.... Quan Phủ đã nổi giận mà bà còn châm chích thêm, chẳng khác nào lửa cháy mà bà còn chế thêm dầu, bởi vậy quan Phủ lấy roi biểu Bạch Tuyết nằm xuống ông đánh hơn một chục roi, cắn răn trợn mắt không cho Bạch Tuyết khóc.
Ông vừa đánh vừa nói rằng :- Mầy lấy thằng Chí Ðại làm nhục nhã tao, tội ấy tao chưa nói, bây giờ tao định gã mầy cho mầy khỏi mang tiếng xấu, mầy lại làm hơi khôn lanh, muốn chống cự với tao nữa à.Bạch Tuyết nghe mấy lời ấy thì chưng hửng, không biết lấy chi mà đối nại được, kêu oan rằng :
- Oan ức con lắm cha ôi Mẹ ôi Mẹ ở dưới cửu tuyền xin mẹ chứng dùm con, kẻo tội nghiệp thân con lắm, mẹ ôi !...IV. Các nhà văn tiếp nối:
Mặc dù Bình Nguyên Lộc và Sơn Nam đều có tham gia vào văn chương, báo chí trước năm 1954, nhưng chúng tôi không xếp các ông vào trong các nhà văn tiếp nối ở miền Nam vì Bình Nguyên Lộc chỉ nổi tiếng với tác phẩm Ðò Dọc, sau khi ông được giải thưởng Văn Chương toàn quốc năm 1958-1959, còn Sơn Nam thì nổi tiếng sau khi xuất bản quyển Hương Rừng Cà Mau năm 1962. Mặc dù Bình Nguyên Lộc với chuyện Rừng Mắm, còn Sơn Nam với quyển Hương Rừng Cà Mau, đều là những truyện có giá trị mang chứa tình yêu quê hương đậm đà, nhưng vì giới hạn văn chương miền Nam từ cuộc Nam tiến cho đến năm 1954, cuộc di cư vĩ đại ấy đã pha trộn văn chương, làm cho văn chương miền Nam có sắc thái khác, thành ra một thời kỳ trong Văn học Việt Nam.
Phần nầy chúng tôi đề cập đến các nhà văn Hồ Biểu Chánh, Tân Dân Tử, Phú Ðức, Phi Vân và Hồ Hữu Tường. Người được đề cập đến trước tiên là nhà văn Hồ Biểu Chánh.
1. Hồ Biểu Chánh (1885-1958):
Hồ Biểu Chánh (1885-1958)
Hồ Biểu Chánh tên thật là Hồ Văn Trung, sinh ngày 1 tháng 10 năm 1885, tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công, trong một gia đình nghèo.
Năm lên 8, Hồ Biểu Chánh học chữ Nho, năm lên 12 ông bắt đầu học Quốc ngữ và chữ Pháp tại trường tổng Vĩnh Lợi, rồi sau học trường tỉnh Gò Công. Nơi đây ông được cấp học bổng để theo học tại trường Chasseloup-Laubart ở Sàigòn. Cuối năm 1905 ông thi đậu bằng Thành Chung.
Năm 1906, ông thi đổ làm Ký lục tại Soái phủ Nam Kỳ (Sàigòn), tòng sự tại Dinh Hiệp Lý, năm 1912,1913 tòng sự tại toà bố tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau. Năm 1914, tòng sự tại tòa bố tỉnh Long Xuyên. Năm 1917, Hội Khuyến Học Long Xuyên xuất bản Ðại Việt tạp chí, ông có cộng tác với tạp chí nầy, viết về khoa học, kinh tế, lý tài.
Năm 1919, đổi về làm việc tại tòa bố Gia Ðịnh. Năm 1920, làm việc tại văn phòng Thống Ðốc Nam Kỳ. Cuối năm 1921 thi đậu Tri Huyện.
Năm 1927 thăng tri phủ, đổi đi làm Quận Trưởng quận Càn Long, tỉnh Trà Vinh. Năm 1932, đổi đi làm Quận Trưởng quận Ô Môn, tỉnh Cần Thơ. Năm 1934, đổi đi làm Quận Trưởng quận Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ.
Năm 1935, đổi về Sàigòn làm Phó Chủ Sự phòng 3, kiểm soát ngân sách tỉnh và thành phố. Năm 1936, thăng Ðốc Phủ Sứ, trong năm nầy ông làm đơn xin hưu trí, nghị định cho về hưu tháng Giêng năm 1937, nhưng mãi đến năm 1941, ông mới được về hưu.
Ngày 4-8-1941, ông được cử làm Nghị Viên Hội Ðồng Liên Bang Ðông Dương, đến ngày 26-8-1941, ông được cử làm Nghị viên kiêm Phó Ðốc Lý thành phố Sàigòn. Cuối năm 1941, thành phố Sàigòn - Chợ Lớn sáp nhập làm một, ông làm Nghị viên trong Ban Quản Trị thành phố Sàigòn cho đến năm 1945.
Năm 1946, ông làm Chánh Văn phòng cho Chánh phủ Nam kỳ của Thủ tướng Nguyễn Văn Thinh. Sau khi Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh quyên sinh. Hồ Biểu Chánh mới từ bỏ hẳn cuộc đời công chức.
Sau khi về hưu, ông ở Gò Công một thời gian, rồi trở lại Sàigòn, ông vẫn tiếp tục sáng tác cho đến khi nhắm mắt lìa đời ngày 4 tháng 11 năm 1958, tại biệt thự Biểu Chánh, đường Hồ Biểu Chánh (gần ngã tư Ngô Ðình Khôi và Trần Quang Diệu). Phú Nhuận, tỉnh Gia Ðịnh.
Khi ông mất, thi sĩ Ðông Hồ lấy tên các tác phẩm của ông, làm câu đối đi viếng tang ông như sau :
- Cay đắng mùi đời, Con nhà nghèo, Con nhà giàu, tác phẩm viết trăm lẻ năm thiên, Vì nghĩa vì tình, Ngọn cỏ cứng gió đùa, Tỉnh mộng, mấy Ai làm được.
- Cang thường nặng gánh, cơn Khóc thầm, cơn Cười gượng, thanh cần trải bảy mươi bốn tuổi, Thiệt giả giả thiệt, Vườn văn xưa Ghé mắt, Ðoạn tình còn Ở theo thời. (14)
Trong đời công chức, ông có những huy chương sau :
- 28-12-1920: Khuê bài danh dự bằng bạc
- 06-04-1921: Kim Tiền
- 26-08-1924: Monisaraphon
- 25-03-1927: Ordre Royal du Dragon de l’Annam
- 02-09-1937: Ordre Royal du Cambodge
- 09-08-1941: Chevalier de la Légion d’Honneur
Về văn nghiệp, ngoài tiểu thuyết ra, ông còn viết nhiều thể tài khác như khảo cứu về tôn giáo, chánh trị, tiểu thuyết. Viết tuồng cải lương, hát bội...
Năm 1942 và 1943, Hồ Biểu Chánh làm chủ nhiệm Bán nguyện san Ðại Việt Tạp Chí (13) và Nam Kỳ Tuần Báo xuất bản tại Sàigòn.
Về tiểu thuyết, ông đã sáng tác những tác phẩm sau đây :
1. Ai làm được sáng tác năm 1912,
nhuận sắc năm 1922
2. Chúa tàu Kim Qui 1922
3. Cay đắng mùi đời 1923
4. Tỉnh mộng 1923
5. Một chữ tình 1923
6. Nam cực tinh huy 1924
7. Nhơn tình ấm lạnh 1925
8. Tiền bạc, bạc tiền 1925
9. Thầy thông ngôn 1926
10. Ngọn cỏ gió đùa 1926
11. Chút phận linh đinh 1928
12. Kẻ làm người chịu 1928
13. Vì nghĩa vì tình 1929
14. Cha con nghĩa nặng 1929
15. Khóc thầm 1929
16 Nặng gánh cang thường 1930
17. Con nhà nghèo 1930
18. Con nhà giàu 1931
19. Ở theo thời 1935
20. Ông Cử 1935
21 Một đời tài sắc 1935
22. Cười gượng 1935
23. Dây oan 1935
24. Thiệt giả, giả thiệt 1935
25. Nợ đời 1936
26. Ðóa hoa tàn 1936
27. Lạc đường 1937
28. Từ hôn 1937
29. Tân phong nữ sĩ 1937
30. Lời thề trước miễu 1938
31. Tại tôi 1938
32. Bỏ chồng 1938
33. Ý và tình 1938
34. Bỏ vợ 1938
35. Người thất chí 1938
36. Tìm đường 1939
37. Hai khối tình 1939
38. Ðoạn tình 193939. Ái tình miếu 1941
40. Cư kỉnh 1941
41. Mẹ ghẻ, con ghẻ 1943
42. Thầy Chung trúng số 1944
43. Hai Thà cưới vợ 194444. Một đóa hoa rừng 1944
45. Ngập ngừng 1944
46. Chị Hai tôi 1944
47. Bức thư hối hận 1953
48. Trọn nghĩa vẹn tình 1953
49. Nặng bầu ân óan 1954
50. Ðỗ nương nương báo oán 1954
51. Lá rụng hoa rơi 1954-1955
52. Tơ hồng vương vấn 1955
53. Hai chồng 1955
54. Hai vợ 1955
55. Ðại nghĩa diệt thân 1955
56. Trả nợ cho cha 195557. Những điều nghe thấy 1955-195658. Ông Cả Bình Lạc 1955-1956
59. Một duyên hai nợ 195660. Trong đám cỏ hoang 1956-1957
61. Vợ già chồng trẻ 1956
62. Hạnh phúc lối nào 1957
63. Sống thác với tình 1957
64. Nợ tình 1957
65. Ðón gió mát, nhắc chuyện xưa 1957
66. Chị Ðào, chị Lý 1957
67. Nợ trái oan 1957
68. Tắt lửa lòng 1957
69. Lẫy lừng hào khí 1957-195870. Lần qua đời mới 1958-?71. Hy sinh 1958--?
Ðáng lẽ chúng tôi đặt nhà văn Hồ Biểu Chánh vào hàng các tiểu thuyết gia đầu tiên, nhưng chúng tôi nghĩ từ năm 1912, ông sáng tác Ai Làm Ðược, nhưng phải đợi 10 năm sau, ông mới sửa chữa và cho in ra, thời gian 10 năm ấy vật đổi sao dời, tiểu thuyết đã đi được những bước vững chắc rồi.
Lối hành văn của ông vượt hẳn các nhà văn lớp trước, tuy những quyển tiểu thuyết của những năm đầu, thỉnh thoảng ông cũng dùng lối biền ngẫu, như đoạn sau đây trong Nhơn Tình Ấm Lạnh :
‘‘... Ðêm đã khuya nên trên đường chẳng còn ai đi nữa, trăng thật tỏ mà mấy nhà ở dọc theo đường lại kín cửa ngủ hết. Duy Linh ra khỏi cửa ngỏ của ông Huyện hàm rồi, thì thủng thẳng huởn bước mà về. Ði vài chục bước ngó ngoái lại một lần, thì thấy vách tường trắng toác, nóc lầu hồng hồng, trước cửa lầu ngọn đèn chiếu sáng trưng, sau nhà bếp dạng người còn náo nức. Bóng trăng vì nhanh áng nên chỗ mờ chỗ tỏ, cây cỏ bị ngọn gío đàng nên lắc lại lắc quạ Dọng ngâm nga nghe tiếng dế khóc bên chân, bay sập sận thấy cánh chim quơ trước mặt ...’’
Tuy nhiên tiểu thuyết của ông đã có ranh giới phân biệt rõ ràng thời kỳ sơ khai đã chấm dứt, cho nên chúng tôi đưa ông vào các nhà văn tiếp nối.
Nghiên cứu tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, chúng tôi thấy những nét đặc biệt bằng bạc trong hầu hết các tác phẩm của ông.
Về luân lý, ông vẫn theo luân lý Khổng Mạnh, nhưng luôn muốn có cải cách, uyển chuyển cho phù hợp với hoàn cảnh chớ không quá câu nệ, chẳng hạn như trong Vì Nghĩa Vì Tình :
‘‘... Tối lại cô ngủ không được, cô nằm suy tới tính lui, làm thân đàn bà con gái, nếu tỏ với đàn ông con trai một lời không đoan chánh, thì thẹn thùa xấu hổ có chi bằng, mà nếu mình vì danh tiết, không đành khêu tình, đặng mà cứu cái sanh mạng của người ta thì té ra mình trọng chữ ‘‘ trinh ‘’ hơn là chữ ‘‘ nhơn ‘’, làm người dường ấy chưa phải là người đứng đắn. Cô cân phân từ chút, cô xét nét từ hồi, nếu cô giữ vẹn tiết trinh thì Chánh Tâm phải chết, rồi Trọng Quí phải mang cái quả báo. Cô là người có lòng nhân từ, cô không nở vì phận cô mà cô để cho kẻ khác bị hại, thà là cô mang tiếng thất tiết mà cô cứu người ta, chớ cô cố chấp danh tiết của cô thì cái lỗi bất nhơn nó còn nặng hơn cái lỗi thất tiết nhiều lắm. Mà tại sao lại gọi rằng thất tiết? Phận gái phải gìn giữ nết na, mình liếc mắt trêu hoa, mình tỏ lời ghẹo nguyệt, mình làm giả dối đặng cho khách buồn rầu động tình mà quên nổi vợ con vậy thôi, chớ mình dại gì mà để rơm gần cho lửa bắt, thọc tay vào cho chàm dính, mà sợ xủ tiết ô danh ‘’.
Nhân vật của Hồ Biểu Chánh phần nhiều đều có khuynh hướng phiêu lưu, từ Chí Ðại trong Ai Làm Ðược, Phan Văn Quí trong Mẹ Ghẻ Con Ghẻ, Duy Linh trong Nhân Tình Ấm Lạnh, Châu Tất Ðắc trong Từ Hôn, Lân trong Lời Thề Trước Miễu, cho đến thằng Hồi, thằng Quì trong Vì Nghĩa Vì Tình, thằng Ðược, thằng Bỉ trong Cay Ðắng Mùi Ðời, thằng Hiệp, thằng Cao trong Lạc Ðường là những nhân vật phiêu bạt, lang thang để :‘‘ đi một ngày đàng, học một sàng khôn ‘’. Những nhân vật phiêu lưu ấy thường chọn con đường thương mại để nên người. Chắc chắn ông muốn thay đổi tạp quán, khuyến khích người ta nên rời khỏi con trâu, cái cày, mảnh vườn, đám ruộng để đi đó đi đây, dùng con đường thương mãi tiến thân.
Xã hội tiểu thuyết của ông phần lớn là xã hội của những điền chủ, Hội đồng ở thôn quê, của ông Phủ, ông Phán, thầy Thông, cô Ký ở thành thị, bên cạnh những Ba Có bán chè trong Nợ Ðời, Tư Cu trong Vì Nghĩa Vì Tình, Lý Trường Mậu trong Lạc Ðường... lớp trưởng giả đầy rẩy những lường lọc, bất công, xa hoa, còn trong khuê phòng các con ông Hội đồng, điền chủ chịu nhiều nổi gian truân, nào là Cẩm Vân trong Vì Nghĩa Vì Tình, Phi Phụng trong Nhân Tình Ấm Lạnh, Thu Hà trong Khóc Thầm, Bạch Tuyết trong Ai Làm Ðược..., còn những người nghèo khó rất đáng thương tâm như Trần Văn Sửu trong Cha Con Nghĩa Nặng, hương Hào Ðiều trong Khóc Thầm.
Ông cũng đã phá về quan niệm hôn nhân của người xưa như môn đăng hộ đối...Nhưng không phải đổi mới hoàn toàn như Ðoạn Tuyệt của Nhất Linh, hay ngược lại một sự cảm hóa như Cô Giáo Minh của Nguyễn Công Hoan, ông muốn kêu gọi sự thức tỉnh về quan niệm hôn nhân như trong Tại Tôi, một tiếng kêu trầm thống cho bà cả Kim, đại diện
cho lớp trưởng giả miền Nam thời bấy giờ, không phải một sự phản kháng, không phải do may rủi tình cờ, mà là trường hợp điển hình gây ra nổi thương tâm ray rức cho bậc cha mẹ.
Từ năm 1927, ông là bậc ‘’ Dân chi phụ mẫu ‘’, vậy mà tiểu thuyết ông tả những chuyện loạn luân, giết người như Lý Trường Mậu giết Mái Chín Cúng giựt tiền cho vợ con, sau vợ con sa đọa, mãn tù anh ta trở về lại giết vợ là Ba Trâm và con là Cô Ba Hào, rồi anh ta tự tử trong Lạc Ðường (1937), Trinh giết bà Lợi để cướp tiền trong Người Thất Chí (1938), Hương Hào Ðiều giết Vĩnh Thái và Thị Sen là đôi gian phu dâm phụ trongKhóc Thầm (1929).
Tiểu thuyết của ông có hậu, quả báo nhãn tiền, mọi việc đều để răn dạy, phải chăng nó phản ánh cái xã hội ngang tàng thời đó ? của thứ anh hùng ‘‘ thế thiên hành đạo ‘’; nếu tiểu thuyết để giáo hóa con người thì nó cũng có khả năng làm cho người ta bắt chước, nghĩa là nó có ảnh hưởng tốt và xấu tuỳ theo trình độ và trường hợp của mỗi người. Nhưng phải công nhận đây là sự táo bạo của nhà văn lớp trước.
Nhiều tiểu thuyết của ông đã phóng tác theo tiểu thuyết Tây phương rất tài tình, như quyển Ai Làm Ðược, ông mô phỏng theo quyển André Cornelis của P. Bourget, Chúa Tàu Kim Qui phỏng theo Le Comte de Monte-Cristo của Alexandre Dumas, Ngọn Cỏ Gió Ðùa phỏng theo Les Miserables của Victor Hugo, Cay Ðắng Mùi Ðời phỏng theo San Famille của Hecto Mailot, Người Thất Chí phỏng theo Tội Ác Và Hình Phạt của Destoievski...
Trong Tội Ác Và Hình Phạt của Dostoievski ám chỉ ý tưởng hình phạt do luật định, không làm tội nhơn sợ hải nhiều như những nhà làm luật tưởng, trừ khi chính hắn đòi hỏi hình phạt đó trong tinh thần, nhưng cuối cùng rồi Dostoievski cũng đưa Raskôlnikốp trở về nhà giam của xã hội con người ở Tây Bá Lợi Á với bản án tám năm tù khổ sai, còn Hồ Biểu Chánh đẩy Trinh tự phạt mình hơn mười năm xa lánh con người trong dãi Thất Sơn, vì chàng ta tự đòi hỏi cái hình phạt ấy cho mình, ông đã vượt quá Dostoievski.
Văn chương của Hồ Biểu Chánh cũng giản dị như những nhà văn lớp trước, nhiều khi ông kể chuyện hơn là tả chuyện, ông cũng dành lấy quyền nói cho mình quá nhiều mà không để cho những tình tiết tạo thành câu chuyện. Chẳng hạn một đoạn trong Nhân Tình Ấm Lạnh, ông sử dụng lối ấy: ... Ở đời có nhiều cái vận hội lạ lùng có khi việc nên đã thấy trước mà rồi lại hóa ra hư, việc quấy đã tỏ tường mà ai cũng cho là phải. Mà việc quấy thiên hạ cho là phải, ấy là tại bụng người dua bợ nên chẳng luận làm gì, chí như việc gần nên mà hóa ra hư, nghĩ thiệt không biết sao mà liệu trước ...
Bối cảnh tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh phần nhiều ở Lục Tỉnh, Sàigòn và Gia Ðịnh, đó là những nơi ông đã sống, làm việc có nhận xét, có nhiều ấn tượng để viết, nên khi tả cảnh ông ghi được những nét tinh tế, do đó ông tả cảnh thôn quê, chúng ta thấy như một bức tranh đẹp có nhiều màu sắc linh động. Một cảnh ông tả Xóm Tre ở Gò Công.
‘ ‘ Ðến nữa tháng năm, trời mưa dầm dề ngày nào cũng như ngày nấy. Chiều bửa nọ, trận mưa mới tạnh, bóng mặt trời chói chói phía bến đò; trong xóm nhà nhúm lửa nấu cơm chiều khói lên ngui-ngút; tre níu nhau mừng trời mát lá giũ phất phơ. Ngoài đồng náo nức nông phu, bạn cầy thá ví tiếng vang vầy, công cấy hát hò hơi lảnh lót. Dưới sông bao ngược ghe chài chở lúa trương buồm rồi thả trôi theo giòng nước, chiếc nào chở cũng khẳm lừ. Trên lộ Cây Dương xe ngựa đưa người núc nít chạy chậm xì, tiếng lục lạc nhỏ khua xa xa nghe như tiếng nhái.’’
Về tả người, chúng ta xem qua kỹ thuật của ông, tả Huỳnh Phi Phụng trong Nhân Tình Ấm Lạnh : ‘‘... Cô tuổi vừa mới 17, nước da trắng đỏ, đầu tóc đen huyền, hàm trăng trắng mà đều như hột bầu, ngón tay dài mà lại non như da giấy, mình mặc áo lãnh màu bông phấn quần lụa bom-bay mới tinh, chơn đi giày thêu cườm, bông tay cà rá, dây chuyền đều nhận hột xoàn sáng ánh.’’
Tả Ba Trâm, vợ cập rằng Mậu trong Lạc Ðường :
‘’... Ba Trâm tóc tai dã dượi ở trong buồn bước ra. Tuy cô hẩm hút trong cái chòi lá, tuy cô mặc cái áo cụt vải trắng với mộyt cái quần lãnh đen củ xì, nhưng mà nước da trắng trong, mái tóc dợn sóng, tay chân dịu nhiễu, môi má ửng hồng, tuổi đã quá ba mươi mà sắc vẫn còn xinh đẹp. Nhan sắc nầy lẽ thì phải ở nhà lầu, ngồi xe hơi mới xứng đáng.’’
Ðến khi Ba Trâm lấy chồng khác, đã ở nhà lầu, đi xe hơi rồi, ông tả lại cô ta :
‘’ ... Cô bận một bộ đồ mát bằng lụa mỏng, màu bông hường; nước da của cô đã trắng; mà nhờ màu áo giọi thêm, làm cho nhan sắc của cô pha vẻ lả lơi với vẻ nghiêm nghị, nên coi đẹp đẻ vô cùng...’’
Cái lối viết trơn tuột của ông, tưởng chỉ cần nghe thằng Ðược nói với Ba Thời :
‘’- Sướng a ! Tía tôi vìa đây tôi biểu tía tôi mua thép uốn lưỡi câu rồi tôi đi câu với tía tôi chơi. Nầy má, hôm trước thằng Phát đi câu với tía nó, nó câu được một con cá trê lớn quá, mà à...’’
Còn nếu cần nữa, chung ta đọc luôn bức thư của tên Hữu, gửi cho Ba Thời cũng trong Cay Ðắng Mùi Ðời.
Xà-No, le 16 Decembre 19..
Tao gửi lời về thăm mầy được mạnh giỏi. Tao ở dưới nầy bình an như thường. Năm nay tao làm ăn cũng khá khá. Như mầy có nghèo lắm thì bán cái nhà lấy bạc đi qua Mỹ Tho rồi ngồi tàu mà xuống đây.
Mà nếu mầy đã có nơi nào khác rồi thì phải gửi thơ cho tao biết. Nói dùm tao gửi lời thăm anh Hai chị Hai và bà con lối xóm hết thảy.
Hữu ký
Nói chung, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh rấp hấp dẫn lớp độc giả trung lưu và bình dân thời bấy giờ, do cốt truyện đều đáng thương tâm vì những hoàn cảnh éo le ngang trái. Nhân vật đồng quê có, thành thị có phô bày xã hội đương thời thích hợp với nhiều tầng lớp. Truyện của ông đều nhằm mục đích hướng thượng, ông luôn luôn để cho những nhân vật thiện của ông nhắc nhở hành động của mình để đi tới con đường lương thiện.
Kỹ thuật xây dựng truyện của ông khá cao, ông dồn đẩy những nhân vật chính vào các trạng huống thương tâm, những tình tiết dồn dập dễ gây cảm xúc cho độc giả.
Gần 50 năm sống và viết, viết cho đến hơi thở cuối cùng, ông đã để lại cho văn học miền Nam 71 quyển tiểu thuyết, văn nghiệp thật hiếm có đối với một nhà văn. Trong văn học sử, người ta lãng quên nhiều nhà văn lớp trước của miền Nam, nhưng người ta không thể quên được tên tuổi, văn nghiệp của Hồ Biểu Chánh. Ðộc giả trộng tuổi vẫn còn ưa chuộng tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh vì cốt chuyện, và vì người ta còn tìm thấy dĩ vãng xã hội mình một thời đã sống an.
2. Tân Dân Tử ( 1875-1955 ):
Tân Dân Tử tên thật là Nguyễn Hữu Ngỡi, sinh năm Ất Hợi 1875, tại Thủ Đức tỉnh Gia Định, ông thông Hán văn và Pháp văn, làm Kinh lịch (là một chức quan: Theo Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Huình Tịnh Của) ở Chợ Lớn, được thăng thưởng Huyện hàm, ông có viết bài, làm thơ đăng trên Nông Cổ Mín Đàm, Lục Tỉnh Tân Văn ..., lúc về già ông bị á khẩu, nằm một chỗ trên hai năm rồi mất năm Ất Mùi 1955, thọ 80 tuổi.
Nói về tiểu thuyết miền Nam, không thể bỏ qua Tân Dân Tử, ông chuyên viết về lịch sử tiểu thuyết, nó giống y như truyện Tàu. Cũng là một thứ tiểu thuyết có chương hồi, cũng dựa vào sự kiện lịch sử. Tiểu thuyết ông sáng tác khoảng 1920-1924, gồm những bộ truyện rất nổi tiếng, riêng bộ Giọi Máu Chung Tình năm 1954, in đến lần thứ 8 và lần nầy in 5.000 quyển.
Văn nghiệp của ông gồm có :
- Giọt máu chung tình (1926)
- Hoàng tử Cảnh như Tây (1926)
- Gia Long tẩu quốc (1928)
- Gia long phục quốc (1928)
Chúng tôi trích một đoạn trong Giọt Máu Chung Tình :
Hồi Thứ Hai Mươi Bảy
Ðền nợ nước, anh hùng ra tử trận
Trọn ân tình, liệt nữ quyết liều thân.
Vừng ô thấm thoát phúc lặng đài tây, gương nguyệt lấp lòa đã treo bóng thỏ, đoạn Võ đông Sơ cùng Thu Hà đương ngồi trước hoa viên đàm đạo, bỗng thấy mọt tên Ngự lâm quân ngoài cửa, vội vả bước vô, cúi đầu chào Ðông Sơ và nói: Bẩm Ðô húy, thánh chỉ dạy đòi về việc binh tình cấp cấp.
Ðông Sơ nghe nói liền bước lại tiếp lấy thánh chỉ đọc coi, thì thấy nói như vầy:
‘‘ Nay nhơn Thanh triều ỷ thế, nước mạnh binh nhiều, muốn xâm phạt lấn nước ta, vì vậy trẫm phải ngự giá thân chinh, quyết đánh cùng quân Tàu một trận .
Vậy truyền cho Ðông Sơ Ðô húy lập tức đến tỉnh Lạng Sơn quảng xuất các đạo võ tam quân, và theo trẫm mà lãnh chức ngự tiền Hộ giá ‘’.
Ðông Sơ đọc rồi thì nét mặt có sắc buồn dào dào, đứng ngó Thu Hà một cách sửng sờ và nói : Ái khanh ôi ! Cũng tưởng hai ta đã hết cơn ly biệt, đến lúc trùng phùng, đặng cùng nhau vui cuộc lương duyên, cho toại chí lúc bình sanh sở nguyện, chẳng dè cái thời điên vận đảo, nó cứ theo đuổi buộc ràng, hờn thay cuộc thế đa đoan, khiến cho gặp buổi nước nhà hữu sự, vì vậy cho nên triều đình hạ chỉ đòui tôi ra hộ giá Thánh hoàng, làm cho đôi ta phải rẻ phụng lìa loan, thì biết chừng nào mới đặng vầy vui giai ngẫu.
Thu Hà nghe nói thì động lòng ly biệt, càng thêm xót dạ ân tình, rồi nghĩ cho nhà nước đương gặp buổi hoạn nạn truân chuyên, thì gượng gạo lấy lời hơn thua mà tỏ bày khuyến nhủ, rồi nói :
Lang quân ôi Hai ta vẫn đương lúc tình nồng nghĩa mặn, mà thình lình khiến cho én lạc nhạn xa, thì dẫu ai gan sắt dạ đồng gặp lúc nầy cũng phải đau lòng đứt ruột, nhưng mà tôi khuyên mình phải lấy chữ ân làm trước, rồi sau sẽ nói đến chuyện tình, ân là ân quốc gia thủy thổ, tình là tình ân ái vợ chồng, nay nước nhà đương gặp lúc hữu sự phân vân, và mấy vạn đồng bào ta đương đâu cật đâu lưng trong cõi chiến trường, mà xông pha giữa chốn lằn tên mũi đạn. Vậy thì lang quân là một đấng nam nhi phận sự, lại thọ ơn phước lộc triều đình, thế phải ra mà đỡ vạt nâng thành, lấy một gan đởm mà bồi đắp cho quê hương trong cơn nước lửa, tôi cũng ngày đêm khấn vái mà cầu chúc cho lang quân đặng bình an vô dạng trong chốn mũi đạn lằng tên. Ngõ mau mau trở bước khải hoàng, chừng ấy đôi ta sẽ hiệp mặt phòng lang, và vui tình nệm gối, thì cũng chẳng muộn...’’ (15)
Các bộ tiểu thuyết của Tân Dân Tử, ông viết chẳng khác gì truyện Tàu từ hình thức đến nội dung, văn chương của ông nhẹ nhàng hơn Lê Hoằng Mưu, những đọc giả đã quen đọc truyện Tàu, khi đọc tới tiểu thuyết lịch sử của Tân Dân Tử, người ta rất ưa chuộng, mặc dù tiểu thuyết của Gilbert Chiếu, Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Chánh Sắt đang trên đà tiến triển tốt đẹp, cho nên quyển Giọt Máu Chung Tình được in đến lần thứ 8, trong khi toàn bộ tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, chỉ có những bộ sau đây được in đến 8 hay 9 lần:
- Tỉnh mộng in lần thứ 8
- Ngọn cỏ gió đùa in lần thứ 8
- Cay đắng mùi đơì in lần thứ 9 (16)
Những bộ còn lại cũng chỉ in từ 1 đến 3 lần, một số chỉ đăng trên báo, và một số chưa xuất bản lần nào (17).
Tiểu thuyết của Tự Lực Văn Ðoàn, chưa chắc đã có quyển nào tái bản nhiều như thế, cho nên mặc dù là văn biền ngẫu, nhưng cốt truyện đề cao trung, hiếu, tiết, nghĩa lại lồng trong một chuyện tình bi thương, vì Võ Ðông Sơ và Bạch Thu Hà đều chết sớm, kẻ hy sinh cho tổ quốc để bảo vệ non sông, người chết cho thủy chung với tình yêu của mình.
Như thế chuyện hóa ra không có hậu, nên cuối chuyện tác giả có thêm phần nhà vua ngự phê tác hợp lương duyên cho hai linh hồn, nhưng người đọc, sau khi khép sách lại vẫn còn ray rức tiếc thương.
Ảnh hưởng của tiểu thuyết Tân Dân Tử đối với lớp thanh niên ở thôn quê thời bấy giờ không phải là không có, một là nó gieo vào tâm hồn giới thanh niên một mẫu người lý tưởng của thanh niên như Võ Ðông Sơ, một trang anh hùng phò vua giúp nước, hai là mối tình chung thủy của Bạch Thu Hà, mối tình của trai tài gái sắc, làm cho biết bao thanh niên ấp ủ hoài bão trở thành người anh hùng như Võ Ðông Sơ, nó chính là động cơ thúc đẩy biết bao nhiêu thanh niên đồng quê miền Nam, gia nhập vào đội ngũ thanh niên tiền phong, rồi các lực lượng võ trang ở miền Nam sau đó.
3. Phú Ðức (1901-1970): Nói tới Hồ Biểu Chánh là nói tới tiểu thuyết tình cảm, xã hội, còn nói tới tiểu thuyết kiếm hiệp phải nói tới Phú Ðức, đó là đặc trưng của hai nhà viết tiểu thuyết danh tiếng ở miền Nam.
Phú Đức (1901-1970)
Nhà văn Phú Ðức tên thật là Nguyễn Ðức Nhuận ( 18 ), sinh ngày 24-9-1901 tại xã Bình Hòa tỉnh Gia Ðịnh, tên bổn mạng là Joseph, ông từ trần ngày 4-3-1970 tại Gia Ðịnh, hưởng thọ 70 tuổi. Thân phụ ông là Nguyễn Ðức Tuấn từng làm Ðốc học trường Sơ học tỉnh lỵ Gia Ðịnh và Cai tổng Tổng Bình Trị Thượng tỉnh Gia Ðịnh.
Trước khi trở thành nhà văn, Phú Ðức là một nhà giáo, dạy tại trường Gia Ðịnh do thân phụ ông làm Hiệu trưởng. Năm 1925 nhà giáo Nguyễn Ðức Nhuận viết một truyện ngắn Câu Chuyện Canh Trường, gửi đăng trên nhật báo Trung Lập. Lúc đó tờ Trung Lập do Trương Duy Toản và Phi Vân đang phát động phong trào tẩy chay hàng Bombay ở Sàigòn rất có hiệu quả, do ngược lại chủ trương của thực dân Pháp, họ thúc ép tờ Trung Lập phải ngưng phong trào nầy, nên chủ bút Mạnh Tự Trương Duy Toản phải nghĩ cách thu hút độc giả, do nhận thấy tờ Ðông Pháp Thời Báo nhờ tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh được nhiều độc giả, nên cụ Mạnh Tự đãmời tác giả Câu Chuyện Canh Trường, cộng tác viết tiểu thuyết cho tờ Trung Lập.
Phú Ðức bắt đầu viết ‘‘ Cái Nhà Bí Mật ‘’ rồi sau đó viết tiếp Châu Về Hiệp Phố, một quyển tiểu thuyết đã đưa tên tuổi Phú Ðức lên cao. Năm 1926, ông rời bỏ nghề dạy học và bắt đầu làm chủ bút tờ Công Luận, sau nầy khoảng thập niên 50, ông cộng tác với các Nhật báo Thần Chung, Tiếng Chuông, rồi làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tuần báo Bình Dân và chủ nhiệm nhật báo Dân Thanh.
Ông hâm mộ thể thao, chơi quần vợt, bóng tròn, ông cũng có luyện tập võ nghệ, nhờ đó ông viết đúng các thế võ thuật, ông thích xem chiếu bóng và đọc truyện trinh thám của Pháp nhứt là tác giả Michel Zevaco. Những sở thích ấy, giúp cho ông viết thành những chi tiết được độc giả thích thú và hâm mộ.
Như đã nói, tiểu thuyết Châu Về Hiệp Phố làm cho Phú Ðức nổi tiếng nhứt, lần đầu đăng trên báo Trung Lập, Công Luận, său đó nhà xuất bản Xưa Nay in thành sách rồi sau nầy các nhật báo Thần Chung, Tiếng Chuông, Ðuốc Nhà Nam đăng lại vẫn được độc giả ưa chuộng.
Theo như ông trả lời cuộc phỏng vấn của báo Ngày Mới năm 1959, ông đã sáng tác trên 70 bộ tiểu thuyết trong vòng 35 năm và những tiểu thuyết của ông ngày nay người ta còn biết được:
- Cái nhà bí mật.
- Châu về hiệp phố.
- Tiểu anh hùng Võ Kiết.
- Lửa lòng.
- Một mặt hai lòng.
- Non tình biển bạc.
- Tình trường huyết lệ.
- Một thanh bửu kiếm.
- Chẳng vì tình.
- Mít Si Ma...
Trong làng báo, nhiều ký giả viết về Phú Ðức, họ có quan điểm như nhau, Phú Ðức là một hiện tượng lạ trong làng báo :
- Chỉ có viết tiểu thuyết mà làm chủ bút một tờ báo ( làm chủ bút mà không cần nắm chủ trương, đường lối, không viết xã luận, mỗi ngày chỉ viết tiểu thuyết mà thôi )
- Một tuần báo Bình Dân chỉ đăng toàn tiểu thuyết của ông, nó bán rất chạy và đủ nuôi tờ nhật báo Dân Thanh (thật ra tuần báo Bình Dân còn có đăng về các kỳ đua ngựa, những người mê đánh cá ngựa có thể vừa theo dõi các trận đua, vừa đọc tiểu thuyết giải trí).
- Chỉ có bổn cũ Châu Về Hiệp Phố soạn lại, mà ông tạo ra xe hơi, nhà lầu.
Ðúng ra ông là tiểu thuyết gia đẻ bọc điều, trong làng báo miền Nam, ông viết tiểu thuyết không chú trọng về văn chương, những cảnh ông tả chỉ để xác định không và thời gian, trong bối cảnh phải có mà thôi, chẳng hạn như đoạn Hiệp Liệt cứu Hiếu Liêm trong Châu Về Hiệp Phố.
...’‘ Ðêm hôm sau vào lúc 9 giờ, tại nhà Hoàn Ngọc Ẩn, Năm Mạnh và Lục Tặc đang trò chuyện, thì bên ngoài một trận mưa to, gió lớn đang đổ nước xuốn ào ào ...’’
Ông thường hành văn hí ngôn, trong câu đối thoại, dù thực tế hiếm có xảy ra như đoạn sau đây giữa thám tử Ðỗ Hiếu Liêm và Ðội Tài :
- Thầy Ðội hôm nay có chuyện gì mà thầy đi vào đây có gương mặt buồn teo như thế ?
Ðội Tài thở dài:
- Rua xếp ! Thật vậy ông xếp thấy cái mặt tôi hôm nay nhăn nhó như cái xíu mại khó thương làm sao.
- Có thím Ðội lẽ nào ngâm câu : ‘’ Anh đi đàng anh, em đi đàng em ‘’ chớ gì ?
Ðội Tài mĩm cười :
- Phải như thế thì tôi ‘’ măng phú ‘’ xếp à, đàn bà như trấu xay tôi kể gì. Hôm nay tôi đến thăm xếp đặng báo một cái tin đặc biệt.
- Tin chi vậy hở thầy Ðội ?
- Một vụ cướp táo bạo nhà máy Huỳnh Long ở Bình Tây bị bọn cướp khoét tủ sắt không còn một xu con.
- Bọn cướp thật hung ác, chúng đâm anh Chà ban cà lì đổ ruột chết lòi cà ri không kịp ngáp.
Tiểu thuyết của Phú Ðức được nhiều độc giả ưa chuộng vì có nhiều nguyên nhân :
- Ông lợi dụng phong trào võ ta và quyền anh có sự thách thức giữa võ sĩ Tạ Ánh Xém và Amadou vào khoảng năm 1924.
- Tiểu thuyết kiếm hiệp có pha lẫn loại trinh thám, một thể tài mới lạ và cũng có phần gần gủi với truyện Tàu.
- Thể tài nầy không kén lựa độc giả như loại tiểu thuyết tình cảm hay luận đề.
Nghiên cứu về tiểu thuyết miền Nam, không thể bỏ qua nhà văn Phú Ðức, nói đến tiểu thuyết tình cảm xã hội phải nói đến Hồ Biểu Chánh, nói đến tiểu thuyết trinh thám võ hiệp phải nói đến Phú Ðức, bởi vì ông là một hiện tượng đặc biệt trong làng báo miền Nam.
4. Phi Vân (1917-1977)
Phi Vân (1917-1957)
Phi Vân tên thật là Lâm Thế Nhơn sanh năm 1917 trong một gia đình trung lưu ở Cà Mau, ông chuyên viết chuyện ngắn và phóng sự. Năm 1943, quyển Ðông Quê của ông đoạt giải nhất trong cuộc thi văn chương do Hội Khuyến Học Cần Thơ tổ chức, từ đó cho tới năm 1970, quyển nầy đã được in 5 lần. Ngoài ra ông còn những tác phẩm :
- Dân quê
- Cô gái quê
- Hồn quê ( truyện dài chưa xuất bản )
- Nhà quê trong khói lửa ( hồi ký chưa xuất bản )
Ông còn là một nhà báo, từng cộng tác với nhiều nhật báo và tuần báo, ông cũng từng điều khiển ban biên tập các nhật báo Tiếng Chuông, Dân Chúng, Tiếng Dân, Dân Quí, Thủ Ðô, Cấp Tiến, cũng đã giữ chức Tổng Thư Ký Nghiệp đoàn ký giả Nam Việt trong Liên đoàn ký giả quốc tế (I. F. J)
Ông mất tại Sàigòn vào đầu thập niên 70.
Như đã nói, quyển Ðồng Quê của ông được nhiều người ưa chuộng vì tác giả đã tả lại xã hội thôn quê miền Nam vào tiền bán thế kỷ 20, nào là phong tục đám cưới, thầy pháp, thầy bùa, hò đối đáp, đi câu trộm...
Mỗi một truyện của ông vẽ lại góc nhỏ của xã hội đồng quê, cho ta thấy vài khía cạnh của phong tục tạp quán, những bọn cường hào ác bá, đầu trộm đuôi cướp làm cho đời sống dân quê chịu nhiều nổi áp bức. Nhưng dân quê vẫn sống với đồng ruộng, tình nghĩa hàng xóm bên chung rượu chén trà, giải trí với những gánh hát bội, giọng hò câu hát trên sông trong những đêm trăng thanh gió mát hữu tình, hay những lúc ngày mùa nhộn nhịp. Muốn hiểu phong tục tạp quán miền Nam không thể không đọc qua tác phẩm của ông.
Bối cảnh tác phẩm Ðồng Quê của Phi Vân là vùng đất Cà Mau, thôn quê là đề tài phong phú cho nhà văn, hơn nữa nơi đó rừng sâu nước độc, là chân trời mới, có sức hấp dẫn lạ lùng cho độc giả ở thành thị, phần khác một số độc giả gốc ở thôn quê nay đến sinh sống nơi thành thị, nhớ cảnh nhớ quê, nhớ mái nhà xưa, nhớ tiếng dế nỉ non canh trường, nhớ tiếng ếch nhái trong những đêm mưa rỉ rã, họ nhớ mùa lúa chín, nhớ cộng rơm, gốc rạ, cho nên họ đọc Ðồng Quê để tìm hiểu, để nhớ kỷ niệm xưa.
Cà Mau, còn những nhà văn khai thác những đề tài hấp dẫn lạ lùng, như Sơn Nam dựng chuyện ở vùng Rạch Giá Cà Mau trong Hương Rừng Cà Mau, Bình Nguyên Lộc với Rừng Mấm chứa đầy triết thuyết về xã hội miền Nam.
Chuyện Phi Vân viết có tánh cách trào lộng, dí dỏm, thử đọc một đoạn của truyện ngắn Ðạo:
‘’ Riêng ông giáo Xệ chủ nhà, đã yếu rượu mà ráng theo mấy ông khách gần hụt hơi.
Bỗng Phó Xã Việt cười khè :
- Xin lỗi Chủ , Sư Muôn giải nghĩa chữ Ðạo trật lất còn Chủ chiết tự ra còn... sái nát hơn nữa!
Ông Chủ giật mình, mặt đang đỏ gay, gần như tái lại. Ông trợn mắt :
- Thằng Phó Xã mầy nói sao? Tao giải trật à ? Tao mà trật ? Ừ chữ nghĩa mầy già hơn, giảng thế nào cho trúng nghe thử ?
- Bẩm Chủ, tự nhiên, chê được là giải được. Chủ đừng quá nóng. Tôi đã nói ‘’ nghĩa lý không tư vị ‘’ kia mà! Ðây về chữ Ðạo, thì tự tôi thích ra như vầy :
Hai chấm phết là âm dương, gạch ngang là hiệp nhất, dưới chữ tự, bên chữ chi phảy, là ‘’ Tự mình chi đó ‘’ !
Tự mình thông tri âm dương, biết phân phải trái, biết lẽ chánh tà, mới phải là Ðạo hoàn toàn chớ Ấy là tôi chiết tự sơ sơ như thế, chớ nếu phải giải cho rành thì phải cắt nghĩa tại sao chữ Ðạo có liên tiếp đến 12 nét, mười hai hội của khí vận tuần hườn, từ ‘’ chí, sửu ‘’ chí ư ‘’ tuất, hợi ‘’...
Phó xã Việt như hừng chí, hăng tiết cắm đầu nói, nói mãi quên dòm sau trước, chừng trực nhìn lại, mấy ông khách và chủ nhà, anh ta trợn tròng, dứt ngay : Kẻ gục qua, người gục lại, riêng Ðình Uýnh đã ngoẻo đầu ngáy khò khò ...
Ðêm đã về khuya. Người nhà đều ngủ mất, xa xa có tiếng chó sủa ở đầu làng.
Ông Chủ đang ngửa mình sau thành ghế vùng ụa ra một tiếng rất lớn, rồi chúi nhủi xuống bàn, cố gượng :
- Ðạo! Hay... hay ... ! Bọt phe thằng Phó Xã ! Bọt phe thằng Phó Xã....’’
Chuyện của Phi Vân, người ta có thể đọc đi đọc lại, nó vẫn có sự hấp dẫn, lôi cuốn y như mới đọc lần đầu. Ngoài những chuyện tình cảm, Phi Vân dùng ngọn bút của mình để đả phá những chuyện mê tín dị đoan của người dân quê như chuyện Sanh nghề tử nghiệp, Mét Văn Quang, một ông thầy tướng số nửa quê, nửa chợ đã bị một tên điền chủ cho một trận đòn nên thân.
Chuyện Ông tướng thầy Ba hay Châu Xương cử thanh long đao, cũng là những chấm phá đậm nét trong bức tranh tả chân của ông, qua đó chúng ta thấy dưới ngòi bút dí dỏm, Phi Vân đã vạch rõ những điều mê tín dị đoan ấy, và cho thấy người ta đã lợi dụng lòng mê tín của dân quê, để lừa dối một cách trắng trợn.
Dựng lên câu chuyện tình trong Phóng sự tiểu thuyết, Phi Vân cũng không bỏ qua sự đã phá mê tín dị đoan, nhưng sự áp bức của nạn cường hào ác bá, lợi dụng những cơ hội người ta sa cơ thất thế, hay những người hiền lành để dở hết những mánh lới lợi dụng và bóc lột, chuyện ấy ai cũng biết và thường thấy xãy ra, nhưng Phi Vân cho ta thấy khía cạnh của cuộc đời, đau thương, nhục nhã đè nặng lên đời sống hàng ngày của người dân chất phác, nghèo nàn.
Bút pháp Phi Vân ngắn gọn. Ông sử dụng chấm, phẩy gẩy gọn làm cho văn của ông rõ ràng, động tác nhanh như đoạn sau đây trong Phóng sự tiểu thuyết:
- Hay là thừa lúc nầy mình thử bùa?... _y bậy nà ! Con của Thầy mình ! Thầy thì Thầy chớ, ‘‘ thử’’ chớ phải ‘‘ thiệt ‘’ sao ?... Cha, rủi Thầy mình biết?...Biết làm sao được, chỉ có hai đứa ở nhà...Rủi Thầy mình về bất tử ?
Tôi phập phòng hỏi :
- Cô hai ơi, Thầy thím sao chưa về ?
- Em cũng không biết nữa. Hồi đi nói về sớm mà tới bây giờ ...
Tôi nhóng :
- Thôi thì tôi về vậy, khuya rồi !
- Ý ở lại với em chút nữa anh Sáu à !
Trong giọng nói có chút một chút gì như van lơn quyến luyến.
Bốn bề lặng lẽ như tờ. Phía sau lửa cháy lách tách. Tôi quả quyết, cắn môi : Thây kệ, thử càn...
Toàn thân tôi bỗng run lên, trống ngực tôi đánh rầm rầm. Hai hàm răng tôi cắn khít lại, rồi ... ‘ ‘ Ôm mà xơ rốp... ‘’
Cô hai ơi, lại tôi chỉ cái nầy !
Thì lạ lùng thay, linh nghiệm thay, tôi gọi vừa dứt lời, cô Yến vươn mình bước xuống đất, ngoan ngoản như con mèo sau bếp...
Thình lình có tiếng chó sủa, rồi chó mừng. Tôi giựt mình đứng dậỵ
- Ba má về...!
Ðang đi lại tôi, cô Yến trở mình ‘‘ cái vụt ‘’ mừng reo, chạy ồ ra mở cửa.
Từ ông dùng rất gợi hình : ‘‘ lúa đã trổ đuôi chín. Cả đồng vun một màu vàng mơ .’’ hay ‘‘ Vào một đêm không trăng, trời chuyển mịt mù tối đen, rồi mưa rỉ rả. ‘’
Những đoạn trích trên, phần nào chứng tỏ được Phi Vân là một nhà văn truyền thống miền Nam, nhưng cái đặc thù của ông là bút pháp dí dỏm, trào lộng, thậm chí cho đến cái chết của Mét Văn Quang, ông cũng dùng bút pháp ấy, và nhờ vậy nó làm rỏ nét đặc thù của ông.
Hai hôm sau, ‘’ Mét Văn Quang ‘’ đoán số mình không còn sống nổi nữa, nên đã trút linh hồn tại xứ Năm Căn: cái xứ mà ‘’ Mét ‘’đã phụ vào một chút công làm trôi mất chất quê mùa!
Tưởng cần trích thêm đoạn kết trong Phóng sự tiểu thuyết, để thấy rõ tâm hồn và quan niệm sống của Phi Vân.
Năm năm tù và mười năm biệt xứ không dài bao nhiêu, nhưng nó thay trọn cuộc đời tôi. Tôi muốn người ta cho tôi ngồi trong khám mãi để quên đi, quên biệt, còn hơn cho tôi trở về với người đời.
Năm năm trong tù tôi học rành chữ Quốc ngữ và mon men được chút đỉnh chữ Tây.
Mười năm biệt xứ khiến tôi có dịp dạn dày với cuộc đời và nới rộng tầm con mắt.
Tù hạn trả xong, tôi lần về làng cũ. Cảnh vật không còn như xưa nữa. Ông và bà thầy pháp đã vào cảnh Tiên, Phật; thằng Út đã đi theo cải lương; đất chủ Nghĩa bán cho người khác; con tám Én đã có chồng với một dọc con dài, chồng nó là thằng tư Bồ.
Tôi cất tạm một căn nhà trên hòn Ðá Bạc. Ở đó, ngày ngày nghe tiếng gió thét, sóng gầm. Chỉ có gió thét sóng gầm mới an ủi được lòng tôi.
Và chiều chiều, khi vừng thái dương sắp chìm vào nước biển, tôi leo lên một mỏm đá cao chót vót đứng nhìn về phía đất liền.
Sau rặng cây xanh bên ấy, chạy dài đồng nầy sang đồng kia, ruộng nầy sang ruộng khác. Trong những đồng ruộng mênh mông, hiền lành đó, ẩn trú biết bao nhiêu là tá điền và chủ điền..
Mà thôi, dĩ vãng đã chết, còn nhắc lại làm gì nữa ! ...
Họ không phải là người gây nên tội ác, họ chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh xã hội và của một thời kỳ...
5. Hồ Hữu Tường (1910-1980)
Hồ Hữu Tường (1910-1980)
Ông sanh tại làng Trường Thạnh, quận Châu thành tỉnh Cần Thơ ngày 8-5-1910 trong một gia đình nông dân tá điền. Học trường làng rồi trường tỉnh. Năm 1926 tham gia vào cuộc tranh đấu với thực dân Pháp nhân dịp tang lễ Phan Chu Trinh, và lãnh đạo cuộc bãi khóa tại trường Cần Thơ để chống bản án Nguyễn An Ninh, nên bị đuổi học. Sau nhờ bà con cho tiền sang Pháp học ( 19). Năm 1930, chuẩn bị thi thạc sĩ Toán thì phong trào cách mạng ở Việt Nam bùng nổ, được kiều bào đưa ra lãnh đạo cuộc chống đối bản án tử hình 13 liệt sĩ ở Yên Bái. Ðầu năm 1931 về Việt Nam, da,y học, viết báo, tham gia vào phong trào cách mạng cùng những bạn học cũ bị trục xuất trước khi ông về nước. Sáng lập tả phái đối lập ở Ðông dương, và làm lý thuyết gia cho tổ chức ấy. Năm 1932, bị bắt và bị kết án ba năm tù treo.
Năm 1933, cùng với Phan Văn Hùm chủ trương tạp chí Ðồng Nai. Năm 1934, cùng với nhiều nhà cách mạng như Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm ... sáng lập nhóm La Lutte. Năm 1936 chủ trương Phong Trào Ðông Dương Ðại Hội. Năm 1938, tách ra khỏi nhóm La Lutte, thành lập tờ báo Militant, tạp chí Tháng Mười và chủ trương tuần báo Tia Sáng (sau thành nhật báo). Giữa năm 1939 ly khai Ðệ tứ Quốc tế Cộng Sản và rời bỏ chủ nghĩ Marx. Tháng 9 năm ấy bị bắt và bị án tù 4 năm, bị đày ra Côn đảo, đến năm 1944 mới được thả về.
Khi bị an trí tại Cần thơ, có gặp giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, bàn luận về tiền đồ dân tộc, Sau đó ra Hà nội, Việt minh cướp chính quyền, bị kẹt ở đó đến cuối năm 1947, mới trốn đượvc về Sàigòn, trong thời gian ở Hà nội, ông có sáng tác một loạt tác phẩm, sau mang về xuất bản ở miền Nam. Trong đó có Tương lai văn hóa Việt Nam, Tương lai kinh tế Việt Nam, Muốn hiểu chánh trị, Phi lạc sang Tàu (Ngàn năm một thuở, tựa in lần đầu năm 1949). Năm 1948 gia nhập vào làng báo Việt Nam, sát cánh với thi sĩ Ðông Hồ, viết cho nhiều tờ báo ở Sàigòn, cộng tác với nhóm Sống Chung, gồm có Sơn Khanh Nguyễn Văn Lộc, Lý Văn Sâm... xuất bản Thu Hương, Chị Tập, Ngàn Năm Một Thuở.
Năm 1949 sang Pháp, ra tờ Cảo thơm, mở lớp làm báo hàm thụ, xuất bản tạp chí song ngữ Anh, Pháp Pacific theo chủ trương thuyết đã gẫm trong tù ‘‘ Ðường lối thứ ba ‘’. Năm 1954, nhơn có hội nghị Genève, đứng ra chủ trương nhật báo Phương Ðông ở Sàigòn để phổ biến ‘‘ Trung lập chế ‘’.
Năm 1955 muốn ngăn sự Nam Bắc tương tranh sang Bình Xuyên ( 20 ) giải hòa giữa Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia gồm : Cao Ðài, Hòa Hảo và Bình Xuyên với Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm, bị mắc kẹt trong binh lửa giữa mặt trận Quốc Gia với Bình Xuyên, rồi bị bắt. Năm 1957 bị kết án tử hình, án chưa thi hành nên bị giam ở Côn Ðảo. Cuộc Cách Mạng 1-11-1963 lật đổ chế độ Ngô Ðình Diệm, ông và một số tù chánh trị được Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng đưa về Sàigòn, đến năm 1964, án tử hình giảm xuống còn án tù 13 năm.
Năm 1965, giữ chức Phó Viện Trưởng Viện Ðại Học Vạn Hạnh, dạy môn Xã hội học tại Phân Khoa Văn Học và Khoa Học Nhân Văn, nơi đây ông cũng chủ trương phổ biến khoa EOMIR.
Thời gian nầy ông cho tái bản một số tiểu thuyết cũ như Phi Lạc Sang Tàu và cho xuất bản một số tác phẩm mới viết như Nói Chuyện uân, Thằng Thuộc Con Nhà Nông, Trầm Tư Của Một Tên Tội Tử Hình, Kế Thế, Hồi Ký 41 Năm Làm Báo ...
Năm 1967, án tử hình của ông được ân xá. Ðắc cử Dân Biểu tại Sàigòn, năm 1970, xuống tóc tu tại gia theo phái Bửu Sơn Kỳ Hương của đức Phật Thầy Tây An, từ năm nầy trở đi, ông chuyên hoạt động về văn hóa, đề tài ông thường diễn thuyết để đề cao nền Văn hóa Dân tộc. Ông có trí nhớ, hiểu biết sâu rộng về nhiều lãnh vực, do đó ông được nhiều người tôn trọng là một học giả.
Sau ngày 30-4-1975, ông bị Học Tập Cải Tạo, được thả ra rồi mất tại Sàigòn năm 1980.
Cuộc đời của ông lúc còn nhỏ con nhà nghèo, học giỏi, được giúp đỡ sang Pháp du học, ông có bằng Cao Học Toán, suốt đời hoạt động chánh trị và văn hóa, ông dùng văn chương chỉ là phương tiện để hổ trợ cho hoạt động chánh trị và văn hóa của, ông chủ trương dùng văn hóa để dành chiến thắng trong chiến tranh Quốc Cộng.
Một loạt tiểu thuyết Ngàn Năm Một Thuở, Phi Lạc Sang Tàu, Phi Lạc Ðại Náo Hoa Kỳ, Phi Lạc Bởn Nga nói lên những suy tư chánh trị của ông.
Ông cũng muốn làm sáng tỏ huyết thống của mình, dòng dõi của Hồ Thơm Nguyễn Huệ, con cháu của Hồ Quí Ly của Ðế Thuấn. Chỉ cần đọc lại đoạn cuối của Phi Lạc Sang Tàu chúng ta cũng thấy rõ điểm nầy.
Số là mấy tháng trước đây, khi bom nguyên tử chưa nổ làm cho Nhật đầu hàng, thì có một người quê quán ở Nam bộ, đi ra Bắc, định vượt biên giới sang Nam kinh, Trùng Khánh mà du thuyết. Ðến Hà Nội thì bị Nhật bắt, vì Nhật biết người ấy là tay lợi hại. Người ấy chạy trốn nơi làng Phù Ninh, nhờ tôi cứu và giấu dùm trong làng. Vì muốn trả ơn cho tôi và thấy tôi ưa nói khoác, người ấy mới bày ra chuyện trào phúng, du thuyết mà nói cho tôi nghe chơi cách du thuyết bên Tàu, phải làm gì, nói gì cho các nhân vật bên Tàu phục. Ðến đây, tôi chỉ nhai lại tràng lý luận trào phúng ấy chơi, chớ tôi nào có phải là tay du thuyết gì đâu ?
Còn như tôi lỡ làm cho chú, ủa quên ... làm cho ngài lầm mà nhìn bà con, thì tôi xin nhận lỗị Mà nghĩ cho kỳ cùng lý đã, dầu tôi có thiệt là họ Hồ hay chăng điều đó có quan hệ chi?
Giả danh họ Hồ, mà làm cho rạng danh họ Hồ thì là một điều đáng cho Ngài mang ơn vậy ... Cũng như ai họ Nguyễn, phải mang ơn người Tây Sơn áo vải là Hồ Thơm đã làm rạng danh họ mình với cái tên Nguyễn Huệ.
Ðoạn chót của truyện ngắn Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp, Hồ Hữu Tường cho chúng ta thấy phần nào lý thuyết văn nghệ ông chủ trương :
- Chúng tôi đây là bọn chơi văn giỡn chữ, quanh năm chỉ lấy việc đem ý hay lời đẹp mà làm cho vui lòng kẻ đọc mình, rồi lấy sự vui của người làm sự sung sướng của mình, cho đó là sự ‘đắc đạo’ của mình. Nếu phải mong muốn điều gì, thì cố gắng trình bày cho bóng bẩy, văn hoa: được thời tốt; bằng không thì thôi, chớ chẳng hề khi nào phạm đến tự do của người...
Nghe đến đó, thì một điểm linh quang bắt đầu hiện trong trí con thằn lằn. Người khách thứ hai nói tiếp:
- Xưa nay, trong bọn chúng tôi cũng được một vài tay lỗi lạc, kể một chuyện lý thú, hát một bài thơ hay, chuyện ấy thơ nầy được truyền ở hàng triệu miệng. Vậy, nếu ngươi có lòng muốn độ hằng hà sa số chúng sanh, thì cố gắng trau dồi văn tài cho tương xứng, văn ngươi tung ra là có thể cảm hóa triệu triệu người... Rồi, cũng phải luyện văn tâm, để cho văn ngươi có thể nhen nhúm được trong lòng mỗi người một điểm lửa thiêng. Lửa bắt cháy, văn của ngươi như dầu rót thêm vào, làm cho ngọn lửa sáng lên...
Văn nghiệp của ông gồm có :
- Thu Hương,
- Chị Tập.
- Phi Lạc Sang Tàu (còn có tên là Ngàn Năm Một Thuở, in lần đầu tiên năm 1949)
- Phi Lạc Ðại Náo Hoa Kỳ.
- Phi Lạc Bởn Nga.
- Thằng Thuộc Con Nhà Nông.
- Hồn Bướm Mơ Hoa.
- Kế Thế.
- Trầm Tư Của Một Tên Tội Tử Hình.
- Hồi Ký 41 Năm Làm Báo.
- Nói Chuyện Tại Phú Xuân.
Trích văn : Truyện ngắn
Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp
Giữa một con đường truông thăm thẳm, vắng vẻ âm u, không một xóm nhà, ít người qua lại, có một cái am nhỏ. Am ấy mới cất, độ non ba năm thôi. Trong am chỉ có một sư cụ già, thui thủi một mình quanh năm chẳng được ai thăm viếng. Trước am, nơi giữa sân, chất sẵn một đống củi, vừa lớn, vừa cao ngất; củi xếp rất vuông vắn, thẳng thắn, dường như được săn sóc chẳng khác một vườn kiểng do một vị lao trưởng giả chăm nom.
Một hôm trời đa tối rồi, nhà sư vừa lên đèn được một chặp, thì có hai người khách đến trước ngưỡng cửa, vái mà thưa rằng:
- Bạch sư cụ, nhờ ngọn đèn dắt dẫn, chúng tôi mới doi đến đây. Mong nhờ sư cụ cho tá túc một đêm, sáng mai chúng tôi sẽ lên đường.
Nhà sư ung dung, chắp tay đáp:
- Mô Phật. Cửa thiền bao giờ cũng mở rộng cho người lỡ bước.
Rồi dừng một phút, dường như để trấn tĩnh nỗi vui đương sôi nổi trong lòng, nhà sư tiếp:
- Ngót ba năm nay, tôi mở am nơi nầy, không được một ai đến viếng. Ngày nay là ngày ước nguyện may được hai ngài quá bước, ghé ngh` chân. Âu cũng là duyên trước...
Nói xong, nhà sư dọn cơm chay cho khách dùng, và câu chuyện không đề, vô tình dẫn khách đến câu hỏi:
- Bạch sư cụ, chẳng hay sư cụ thích tụng kinh nào?
Vui sướng, ví như gặp bạn tri âm, nhà sư đáp:
- Tôi quy y Phật pháp từ thuở bé, rừng thiền có thể nói rằng đã viếng khắp nơi. Cách ba năm nay, lòng huệ được mở ra... Và từ ấy tôi chỉ tụng kinh Di Lặc.
Một người khách hỏi:
- Sư cụ có thể cho tôi biết duyên cớ vì sao chăng?
- Mô Phật. Chỉ có lời nói, mà độ được người, tôi sao dám tiếc lời! Vậy tôi xin vui lòng mà nói cho hai ngài rõ. Bởi tôi đọc qua các kinh sách, thấy rằng Phật Thích Ca khi đắc đạo, có dạy: Hai nghìn năm trăm năm về sau, Phật pháp sẽ đến chỗ chi li: Ấy là hồi mạt pháp. Di Lặc sẽ xuống trần, cứu độ chúng sanh và chỉnh đạo lại. Nay kể cũng gần đến kỳ hạn. Chắc là Phật Di Lặc đã xuống trần mà độ kẻ thành tâm tu hành. Bởi lẽ ấy cho nên tôi có nguyện tụng đủ một nghìn lần kinh Di Lặc. Nếu lời nguyện được y, ấy là tôi sẽ đắc đạo.
Người khách thứ hai hỏi:
- Sư cụ đã tụng được bao nhiêu lần rồi?
- Ðã được chín trăm chín mươi chín lần rồi. Bây giờ, chỉ cần lần thứ một nghìn, lần tụng của đêm nay. Chắc hai ngài trước có duyên lành, đêm nay đến mà chứng kiến tôi tụng lần thứ một nghìn ấy.
Ðến đây, bữa cơm chay đã mãn, khách mệt mỏi, xin ngả lưng. Nhà sư dọn dẹp trong am cho thanh khiết, rồi bước lại trước bàn Phật, khêu bấc đèn dầu, mở kinh ra mà khởi sự tụng. Tiếng tụng kinh chậm rãi, như nện vào không gian. Thỉnh thoảng một tiếng chuông ngân lên đánh dấu chuỗi tiếng mõ dài đằng đẵng...
Trước khi nhắm mắt ngủ, hai người khách còn trao đỗi vài câu:
- Tội nghiệp thay cho sư cụ già, quá mê tín, mất sáng suốt, mà không giác ngộ. Phật pháp lập ra đã hai nghìn năm trăm năm về trước, tránh sao cho chẳng có chỗ lỗi thời. Nhận thấy chỗ lỗi thời, các môn đệ ắt phải lo tài bồi, phát xiển mối đạo. Thế là có tư tưởng này, học thuyết nọ; rồi sinh ra môn, ra phái, ấy là nguồn gốc của sự chi li. Nay rừng thiền có hơn tám mươi bốn nghìn cội khác nhau, ấy là lẽ dĩ nhiên vậy.
- Tôi cũng đồng ý với anh về chỗ đó, và nghĩ thêm rằng: nếu bây giờ có một vị Di Lặc xuống trần, thì vị ấy có trọng trách cất nhắc Phật pháp cho cao kịp với sự tiến hóa của mọi sự việc từ hơn hai nghìn năm nay. Và trách nhiệm của mỗi tín đồ của Phật là dọn mình cho sẵn, để đón rước cái pháp mới sắp ra đời. Chớ mê mải trong việc gõ mõ tụng kinh, há chẳng phải là phụ lòng mong mỏi của Thích Ca chăng?
Lời nói của hai người khách, giữa một cái am vắng vẻ, không dè có kẻ trộm nghe. Kẻ nghe trộm nầy là một con thằn lằn, đến ở am, khi am vừa mới dựng lên, và đã từng nghe chín trăm chín mươi chín lần kinh, nên có linh giác, nghe được tiếng người, biết suy nghĩ và phán đoán. Câu phê bình của hai người khách đa giúp cho con thằn lằn giác ngộ. Nó vốn biết nguyện vọng của nhà sư: là hễ tụng xong lần thứ một nghìn, thì nhà sư sẽ lên dàn hỏa mà tự thiêu... Rồi nó nghĩ: nhà sư lòng còn mê tín, chưa được giác, phỏng có thiêu thân thì làm sao nhập được Niết Bàn. Hay là ta tìm thế ngăn người, đừng để cho người thiêu thân, đợi chừng nào người giác, rồi sẽ hay.
Rồi con thằn lằn quyết định: phải ngăn ngừa, đừng để cho nhà sư tụng xong lần thứ một nghìn. Nó nghĩ được một kế: ấy là bò lên bàn Phật, đến đĩa đèn dầu, rán mà uống cạn đĩa dầu. Bấc sẽ lụn, đèn tắt, nhà sư không thấy chữ mà tụng nữa.
Một sức mầu nhiệm đa giúp con thằn lằn đạt được ý nguyện: chỉ trong một hơi mà đĩa dầu đa cạn; bộ kinh chỉ mới tụng quá nửa mà thôi. Ðèn tắt, nhà sư ngạc nhiên nhưng nghĩ: hay là hai người khách là kẻ phàm tục, không được duyên lành chứng giám việc đắc đạo của mình? Âu là xếp kinh, nghỉ, chờ ngày mai khách lên đường, sẽ tụng lần thứ một nghìn ấy.
Nhưng sau đó, đêm nào cũng vậy, buổi kinh đọc chưa xong mà đèn lại tắt đi. Nhà sư có lúc tính tụng kinh lần nầy vào khoảng ban ngày, nhưng nhớ lại rằng khi xưa đa có lời nguyện tụng kinh vào khuya, tĩnh mịch, nên không dám đổi.
Và một đêm kia, dằn lòng không được, tuy tụng kinh mà mắt chốc chốc nhìn đĩa dầu để xem sự thể do đâu, nhà sư bắt gặp con thằn lằn kê mỏ mà uống dầu. Nổi giận xung lên, nhà sư dừng gõ mõ, mà mắng rằng:
- Loài nghiệt súc! Té ra mi ngăn ngừa không cho ta được đắc đạo!
Rồi tay cầm dùi mõ, nhà sư nhắm ngay đầu con thằn lằn mà đập mạnh. Con thằn lằn bị đánh vỡ đầu, chết ngay. Hôm ấy, nhà sư tụng xong lần kinh, bước lên dàn hỏa, tự châm lửa mà thiêu mình.
Và cũng đêm ấy, hai cái linh hồn được đưa đến trước tòa sen của Phật. Uy nghiêm, ngài gọi nhà sư mà dạy:
- Nhà ngươi theo cửa thiền từ thuở bé, mà chẳng hiểu bài học vở lòng của Pháp ta là thế nào! Pháp ta đa dạy phải trừ hết dục vọng thì mới đắc đạo, mà ngươi dục vọng lại quá nhiều: bởi việc muốn đắc đạo, để được thành Phật kia cũng là một cái dục vọng. Có dục vọng ấy là THAM; bởi tham nên giận mắng con thằn lằn ấy là SÂN; bởi sân nên tưởng rằng trừ được con thằn lằn thì tha hồ tụng kinh, rồi đắc đạo, ấy là SI. Có đủ THAM, SÂN, SI, tất phải phạm tội sát sanh, thì dầu ăn chay trường trọn đời cũng chưa bù được.
‘Tội của ngươi lớn lắm, phải tu luyện rất nhiều mới mong chuộc được. Vậy ta truyền cho Kim Cang, La Hán hốt hết đống tro ấy tung khắp bốn phương trời. Mỗi hột tro đó sẽ hóa sanh làm một người. Chừng nào mọi người ấy đắc đạo, đám chúng sanh ấy sẽ được qui nguyên, trở lại hiệp thành một, thì nhà ngươi sẽ đến đây mà thành chánh quả’
Rồi Phật cho gọi hồn con thằn lằn mà dạy:
- Nhà sư chưa được giác mà làm tội, tội ấy đáng giá là một mà thôi. Còn nhà ngươi, được nghe lời hai người khách, được giác một phần rồi, mà làm tội, tội ấy đáng kể là mười.
Hồn con thằn lằn lạy mà thưa rằng:
- Bạch Phật tổ, lòng của đệ tử vốn là muốn độ nhà sư, dầu nát thân cũng không tiếc. Chẳng hay đệ tử có tội chi?
Phật phán:
- Muốn độ người, kể thiếu chi cách, sao ngươi ngăn đón việc tụng kinh của người? Ðã đành rằng tụng kinh như nhà sư là một việc mê tín, song vẫn là một tín ngưỡng. Coi Phật vốn là coi tự tại, nếu phạm đến tự do tín ngưỡng, gọi để dắt người vào, thì làm sao cho được? Bởi ngươi không dùng phương pháp tự do, người là kẻ mất tự do, thì cả hai làm sao được vào coi tự tại?
Một lần nữa, con thằn lằn được giác, quì lạy mà xin tội:
- Xin Phật Tổ mở lòng từ bi, cho đệ tử hóa sanh một kiếp nữa, để dùng phương pháp tự do mà độ vô số chúng sanh do những hột tro, mà các vị Kim Cang, La Hán vừa tung ra đó.
Phật đáp:
- Ta cho ngươi được toại nguyện.
Hồn con thằn lằn vừa muốn lạy Phật mà đi đầu thai, thì sực nhớ lại, nên bạch rằng:
- Xin Phật Tổ dạy đệ tử phải hóa sanh làm kiếp chi?
Phật đáp:
- Nhà ngươi đã gần bến giác, phải tự mình chọn hình thể mà hóa sanh. Tự do chọn lựa mới có thể luyện mình để bước vào coi tự tại.
Hồn con thằn lằn từ ấy trôi theo mây gió, không biết trụ vào đâu, để có thể vừa dùng phương pháp tự do mà độ người, vừa có thể độ được đông người, số người đông như số hột tro do một cái xác thiêu ra. Thật chưa hề lúc nào có một linh hồn bị trừng phạt phải đau khổ đến thế.
Một hôm, trong hồi xiêu bạt, nó trông thấy bóng của hai ông khách khi xưa đã đến ngủ ở am. Vội va, nó bay theo, vái chào và kể nỗi niềm đau đớn:
- Hai ngài đã giúp cho tôi giác ngộ được một ít, có hay đâu tôi phải mang cái nghiệp vô định này. Ðã trót làm ơn, xin độ cho tôi đến bờ bến.
Hai ông khách đáp:
- Chúng tôi đâu dám lên mặt thầy đời mà dạy người, huống chi lại dám đèo bòng mang lại một giải pháp cho một vấn đề nan giải. Nhưng đã lỡ gieo trong trí ngươi một ý nghĩ làm cho ngươi phải khổ như bây giờ, thì phải góp ý kiến để cho ngươi suy xét mà gỡ rối. Ấy gọi là chuộc lỗi.
Hồn con thằn lằn gật đầu, cảm ơn trước. Một người khách nói:
- Chúng tôi đây là bọn chơi văn giỡn chữ, quanh năm chỉ lấy việc đem ý hay lời đẹp mà làm cho vui lòng kẻ đọc mình, rồi lấy sự vui của người làm sự sung sướng của mình, cho đó là sự ‘đắc đạo’ của mình. Nếu phải mong muốn điều gì, thì cố gắng trình bày cho bóng bẩy, văn hoa: được thời tốt; bằng không thì thôi, chớ chẳng hề khi nào phạm đến tự do của người...
Nghe đến đó, thì một điểm linh quang bắt đầu hiện trong trí con thằn lằn. Người khách thứ hai nói tiếp:
- Xưa nay, trong bọn chúng tôi cũng được một vài tay lỗi lạc, kể một chuyện lý thú, hát một bài thơ hay, chuyện ấy thơ nầy được truyền ở hàng triệu miệng. Vậy, nếu ngươi có lòng muốn độ hằng hà sa số chúng sanh, thì cố gắng trau dồi văn tài cho tương xứng, văn ngươi tung ra là có thể cảm hóa triệu triệu người... Rồi, cũng phải luyện văn tâm, để cho văn ngươi có thể nhen nhúm được trong lòng mỗi người một điểm lửa thiêng. Lửa bắt cháy, văn của ngươi như dầu rót thêm vào, làm cho ngọn lửa sáng lên...
Hồn con thằn lằn gật đầu ba cái để tạ ơn và nói rằng:
- Con đường ấy khó đi cho đến hết được, song chắc chắn là đi cùng đường, ắt có thể đến trước tòa sen mà chầu Phật Tổ. Vậy tôi xin cố gắng.
III .- Kết luận : Những nhà viết tiểu thuyết miền Nam còn có Lý Văn Sâm với Kòn-Trô, Vita với Mây Ngàn, Phan Văn Hùm với Ngồi Tù Khám Lớn, Việt Tha với Tôi Bị Ðày Ði Bà Rá, Sơn Khanh Nguyễn Văn Lộc với Tàn Binh, văn nghiệp của họ không đáng kể so với những nhà văn đã trình bày trong chương nầy, sau nầy còn có Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, văn nghiệp của hai nhà văn nầy rất đáng kể, tuy nhiên tác phẩm của họ xuất bản hầu hết sau 1954, vì vậy chúng tôi không đưa vào phần những nhà viết tiểu thuyết miền Nam, theo như mục đích trình bày của quyển sách nầy.
Nhìn lại tiểu thuyết miền Nam, chúng ta thấy rõ, trước tiên chịu ảnh hưởng truyện Tàu, sau ảnh hưởng tiểu thuyết của các nhà văn Pháp, dần dần mới có hướng đi trở về với đồng quê, đất nước và phong tục tạp quán của người Việt chúng ta. Nhờ đó mang lại cho người thưởng ngoạn thích thú vì nội dung gần gủi với chúng ta hơn. Ðó là bước tiến trên con đường dài hơn nữa thế kỷ tiểu thuyết miền Nam.
Ghi chú :( 1 ) Ðường Catinat : Ðường Tự Do sau 1975 đổi ra Ðồng Khởi.
( 2) Trích theo Bùi Ðức Tịnh Phần Ðóng Góp của văn học miền Nam.
( 3 ) Nhà thờ nhà nước : Là nhà thờ Ðức Bà hay Vương Cung Thánh Ðường Sàigòn
( 4 ) Thời Pháp, toà tỉnh trưởng gọi là Tòa Bố, quan đứng đầu tỉnh gọi là Chánh Tham Biện hay Ông Chánh.
( 5 ) Thời Pháp thuộc, tổ chức hành chánh trong Nam Kỳ có chứcThống Ðốc, đứng đầu Nam Kỳ, dưới có Chánh Tham Biện, đứng đầu một tỉnh, dưới có quận truởng, đứng đầu một quận, dưới có Chánh Tổng đứng đầu một số làng, dưới có Ban Hội Tề của làng, gồm có : Hương Cả hay Ðại Hương Cả, Hương Chủ, Hương Sư, Hương Trưởng, Hương Chánh, Hương Thân, Xã Trưởng, Hương Quản, Hương Hào, Hương Thôn, Chánh Lục Bộ. Ban Hội Tề thì Hương Cả là chức vị lớn nhất trong làng khi hội họp, nhưng Xã Trưởng là người thừa hành, có nhiều quyền hạn, kế đó hương Quản là người trông nom về an ninh trật tự, có quyền bắt bớ, giam cầm điều tra. Những người giúp việc ghi chép gọi là Biện (Thư ký), không có chân trong Ban Hội Tề.
( 6 ) Tín Ðức Thư Xã in quyển nầy vào năm 1927 hay 1928, Sơn Nam có sưu tầm và cho in lại trong Nhân Loại Tạp San bộ mới năm 1960( 7 ) Có thể ông sáng tác năm 1917 hay 1918
( 8 ) Phần đóng góp của văn học miền Nam của Bùi Ðức Tịnh
( 9 ) Danh từ người Cam pu chia gọi người Việt Nam.( 10 ) Nguyễn Văn Của chủ nhà in Imprimerie de l’Union và chủ báo Lục Tỉnh Tân Văn.( 11 ) Tờ báo Lục Tỉnh Tân Văn.( 12 ) Nhân Loại, Bộ mới, số 4, phát hành ngày 22 tháng 8 năm 1958
( 13 ) Trong Lịch Sử Báo Chí Việt Nam, Huỳnh Văn Tòng cho là Hồ Biểu Chánh làm Chủ bút Ðại Việt Tạp Chí của Hội Khuyến Học Long Xuyên, thật ra Ðốc Phủ Liêm làm chủ bút, Phạm Quỳnh có viết bài hồi ký Một Tháng Ở Nam Kỳ, có đăng cả ảnh trong Nam Phong Tạp Chí năm 1918-1919, trong đó có ghi lại chuyến đi thăm Tạp Chí Ðại Việt ở Long Xuyên.
( 14 ) Chữ nghiêng là tên tác phẩm của Hồ Biểu Chánh.
( 15 ) Chép nguyên văn bản in năm 1954
( 16 ) Tính đến năm 1975( 17 ) Thập niên 90, nhiều nhà xuất bản ở Việt Nam, như Thanh Niên, Ðồng Nai, Ðồng Tháp ... cho in lại nhiều tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, và có in những tác phẩm đã đăng báo hay chưa in trước kia.( 18 ) Trong làng báo Sàigòn, có hai ông Nguyễn Ðức Nhuận : Phúc Ðức Nguyễn Ðức Nhuận, và ông Nguyễn Ðức Nhuận chồng bà Bút Trà chủ nhiệm Nhật báo Sàigòn Mới.( 19 ) Theo lời ông thuật lại, trong thời gian ở Pháp, ông có gia nhập đảng Cộng sản và cùng với Hồ Chí Minh, Nguyễn Thế Truyền ... viết trên tờ Le Paria lấy chung bút hiệu những bài báo là Nguyễn Ái Quốc.
( 20 ) Lực lượng quân sự do Bảy Viễn lãnh đạo, Tổng hành dinh đặt ở bên kia cầu chữ Y, Sàigòn.
( 2) Trích theo Bùi Ðức Tịnh Phần Ðóng Góp của văn học miền Nam.
( 3 ) Nhà thờ nhà nước : Là nhà thờ Ðức Bà hay Vương Cung Thánh Ðường Sàigòn
( 4 ) Thời Pháp, toà tỉnh trưởng gọi là Tòa Bố, quan đứng đầu tỉnh gọi là Chánh Tham Biện hay Ông Chánh.
( 5 ) Thời Pháp thuộc, tổ chức hành chánh trong Nam Kỳ có chứcThống Ðốc, đứng đầu Nam Kỳ, dưới có Chánh Tham Biện, đứng đầu một tỉnh, dưới có quận truởng, đứng đầu một quận, dưới có Chánh Tổng đứng đầu một số làng, dưới có Ban Hội Tề của làng, gồm có : Hương Cả hay Ðại Hương Cả, Hương Chủ, Hương Sư, Hương Trưởng, Hương Chánh, Hương Thân, Xã Trưởng, Hương Quản, Hương Hào, Hương Thôn, Chánh Lục Bộ. Ban Hội Tề thì Hương Cả là chức vị lớn nhất trong làng khi hội họp, nhưng Xã Trưởng là người thừa hành, có nhiều quyền hạn, kế đó hương Quản là người trông nom về an ninh trật tự, có quyền bắt bớ, giam cầm điều tra. Những người giúp việc ghi chép gọi là Biện (Thư ký), không có chân trong Ban Hội Tề.
( 6 ) Tín Ðức Thư Xã in quyển nầy vào năm 1927 hay 1928, Sơn Nam có sưu tầm và cho in lại trong Nhân Loại Tạp San bộ mới năm 1960( 7 ) Có thể ông sáng tác năm 1917 hay 1918
( 8 ) Phần đóng góp của văn học miền Nam của Bùi Ðức Tịnh
( 9 ) Danh từ người Cam pu chia gọi người Việt Nam.( 10 ) Nguyễn Văn Của chủ nhà in Imprimerie de l’Union và chủ báo Lục Tỉnh Tân Văn.( 11 ) Tờ báo Lục Tỉnh Tân Văn.( 12 ) Nhân Loại, Bộ mới, số 4, phát hành ngày 22 tháng 8 năm 1958
( 13 ) Trong Lịch Sử Báo Chí Việt Nam, Huỳnh Văn Tòng cho là Hồ Biểu Chánh làm Chủ bút Ðại Việt Tạp Chí của Hội Khuyến Học Long Xuyên, thật ra Ðốc Phủ Liêm làm chủ bút, Phạm Quỳnh có viết bài hồi ký Một Tháng Ở Nam Kỳ, có đăng cả ảnh trong Nam Phong Tạp Chí năm 1918-1919, trong đó có ghi lại chuyến đi thăm Tạp Chí Ðại Việt ở Long Xuyên.
( 14 ) Chữ nghiêng là tên tác phẩm của Hồ Biểu Chánh.
( 15 ) Chép nguyên văn bản in năm 1954
( 16 ) Tính đến năm 1975( 17 ) Thập niên 90, nhiều nhà xuất bản ở Việt Nam, như Thanh Niên, Ðồng Nai, Ðồng Tháp ... cho in lại nhiều tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, và có in những tác phẩm đã đăng báo hay chưa in trước kia.( 18 ) Trong làng báo Sàigòn, có hai ông Nguyễn Ðức Nhuận : Phúc Ðức Nguyễn Ðức Nhuận, và ông Nguyễn Ðức Nhuận chồng bà Bút Trà chủ nhiệm Nhật báo Sàigòn Mới.( 19 ) Theo lời ông thuật lại, trong thời gian ở Pháp, ông có gia nhập đảng Cộng sản và cùng với Hồ Chí Minh, Nguyễn Thế Truyền ... viết trên tờ Le Paria lấy chung bút hiệu những bài báo là Nguyễn Ái Quốc.
( 20 ) Lực lượng quân sự do Bảy Viễn lãnh đạo, Tổng hành dinh đặt ở bên kia cầu chữ Y, Sàigòn.
Tài liệu tham khảo:
Hồ Biểu Chánh, Nhân Tình Ấm Lạnh, Trí Ðức thư xã, Sàigòn, 1928
Nhân Loại Tạp San Bộ mới, Sàigòn, 1958
Vương Hồng Sễn, Saigòn Năm Xưa, Khai Trí, Sàigòn, 1960
Phi Vân, Ðồng Quê, Lửa Thiêng xuất bản lần IV, Sàigòn, 1970
Bùi Ðức TỊnh, Phần Ðóng Góp Của Văn Học Miền Nam, Lửa Thiêng, 1975
Tập Truyện Ảo Tưởng, Lá Bối, Sàigòn, 1966
Hồ Hữu Tường, Phi Lạc Sang Tàu, Trí Ðăng, Sàigòn, 1972Huỳnh Văn Tòng, Lịch Sử Báo Chí Việt Nam, Trí Ðăng, Sàigòn. 1973
Nhân Loại Tạp San Bộ mới, Sàigòn, 1958
Vương Hồng Sễn, Saigòn Năm Xưa, Khai Trí, Sàigòn, 1960
Phi Vân, Ðồng Quê, Lửa Thiêng xuất bản lần IV, Sàigòn, 1970
Bùi Ðức TỊnh, Phần Ðóng Góp Của Văn Học Miền Nam, Lửa Thiêng, 1975
Tập Truyện Ảo Tưởng, Lá Bối, Sàigòn, 1966
Hồ Hữu Tường, Phi Lạc Sang Tàu, Trí Ðăng, Sàigòn, 1972Huỳnh Văn Tòng, Lịch Sử Báo Chí Việt Nam, Trí Ðăng, Sàigòn. 1973
Bình Nguyên Lộc (1914-1988)
Sơn Nam (1926- 2008 )
TÌNH HÌNH VIỆT NAM
Kỳ vọng gì với chuyến thăm Mỹ của TBT Nguyễn Phú Trọng?
Anh Vũ, thông tín viên RFA
2015-03-08
2015-03-08
Việc TBT Đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng sẽ thăm chính thức Mỹ trong năm 2015 nhân dịp hai nước kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan hệ là một sự kiện được đánh giá là hết sức quan trọng.
Theo truyền thông nhà nước cho biết, nhân dịp kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan hệ Việt nam và Mỹ, nhằm tạo đà phát triển và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ giữa hai nước, Tổng bí thư Đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng sẽ thăm chính thức Mỹ trong năm nay.
Hai nước cần nhau hơn
Tổng BT Nguyễn Phú Trọng sẽ là người lãnh đạo cao cấp nhất đứng đầu Đảng CSVN lần đầu tiên chính thức thăm Mỹ, một quốc gia vốn là cựu thù của VN.
Đánh giá về mối quan hệ Việt – Mỹ vào thời điểm hiện nay, ông Đặng Xương Hùng, nguyên lãnh sự Việt Nam tại Genève trong nhiều năm cho biết nhận xét của mình, ông nói:
“Đồng ý đón ông Trọng trong năm nay cũng là việc cho thấy rằng hai nước đã có những thay đổi để mà chấp nhận những sự thay đổi khác với ngày trước hơn. Tức là hai nước cần nhau hơn và cần nhau một cách cấp thiết hơn, phía Mỹ thì cần VN có vai trò trong quan hệ để đối phó với các ảnh hưởng của Trung quốc ở Biển Đông và Thái Bình Dương làm ảnh hưởng đến quyền lợi của Mỹ. Còn phía VN cũng thấy rằng cần Mỹ hơn, vì cũng cần phải có chỗ dựa với người Mỹ để đối phó trong một chừng mực nào đó trong mối quan hệ với Trung quốc hiện nay.”
LS. Vũ Đức Khanh chuyên gia nghiên cứu về chính trị Việt Nam, quan hệ quốc tế và luật pháp quốc tế tại Đại học Ottawa – Canada nhận định:
“Mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đang ở một cái độ chín muồi và tôi nghĩ rằng các chính khách của cả hai quốc gia đều mong muốn có một mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước. Rõ ràng là phía Hoa kỳ đã làm tất cả những gì mà họ có thể làm được. Cho nên tôi nghĩ rằng mối quan hệ Việt nam – Hoa kỳ đang ở mức rất tốt, tuy nhiên chúng ta cần phải xem phía VN đáp ứng trở lại thiện chí của Hoa kỳ thế nào?”
Mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đang ở một cái độ chín muồi và tôi nghĩ rằng các chính khách của cả hai quốc gia đều mong muốn có một mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước.
- LS. Vũ Đức Khanh
Theo báo Tuổi Trẻ, GS. Jonathan London, thuộc Trung tâm Nghiên cứu Ðông Nam Á tại Ðại học Thành Thị Hong Kong nhận định rằng chuyến đi của Tổng BT Nguyễn Phú Trọng sang Mỹ sẽ là một sự kiện rất quan trọng trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước.
Nhận xét về chuyến thăm Mỹ của TBT Nguyễn Phú Trọng, LS. Vũ Đức Khanh cho rằng theo ông chuyến thăm này sẽ gặp rất nhiều trở ngại, mà cần phải vượt qua. Ông nói với chúng tôi:
“Ông Nguyễn Phú Trọng sẽ đến (Hoa kỳ) với tư cách TBT Đảng CSVN, thực ra phía Hoa kỳ chưa bao giờ tuyên bố Tổng thống Obama mời TBT Nguyễn Phú Trọng, mà chỉ nói Chính phủ Hoa kỳ mời. Tuy nhiên tôi không nghĩ rằng ông Obama sẽ tiếp TBT Nguyễn Phú Trọng trong tòa Bạch ốc, mà theo các nguồn tin tôi có thì có thể ông Obama sẽ tiếp ông Nguyễn Phú Trọng ở một nhà nghỉ mát nào đó trên đất Mỹ, trong một khuôn khổ không chính thức, mặc dầu chuyến đi của TBT Nguyễn Phú Trọng là chính thức. Đó là cái phía VN đang phân vân, và không biết nên đi hay không nên đi và nếu không đi thì ai sẽ là người thay thế ông Nguyễn Phú Trọng trong chuyến đi sắp tới.”
Chuyến thăm Hoa Kỳ của ông TBT sẽ giúp củng cố các nỗ lực của ông Nguyễn Phú Trọng, khi ông muốn trở thành nhân vật lãnh đạo chủ chốt của VN trước thềm Đại hội Đảng lần tới. Ông Đặng Xương Hùng khẳng định:
“Việc ông Nguyễn Phú Trọng, người đứng đầu Đảng CSVN đi Mỹ nhằm tạo cho dư luận thấy rằng hy vọng nó sẽ có cái thay đổi hình thức bên ngoài để từ đó dẫn đến sự thay đổi nội dung từ bên trong. Trong tình hình đấu đá nội bộ hiện nay ở VN thì việc ông Trọng đi Mỹ nhằm tạo nên hình ảnh vai trò của ông Tổng BT quyết định mọi vấn đề. Nhằm chứng tỏ với dư luận rằng họ sẵn sàng nhanh chóng phát triển quan hệ với Mỹ mà không chỉ dựa vào Trung quốc thôi. Cái này nó xuất phát từ việc nhu cầu đối ngoại của VN luôn tỏ ra là cân bằng trong quan hệ giữa hai nước lớn.”
Kỳ vọng gì?
Khi được hỏi, ông có hy vọng gì từ chuyến thăm Mỹ của TBT Nguyễn Phú trọng lần này?
Ban lãnh đạo Đảng CSVN không muốn một mối quan hệ quá thân thiết hay gần gũi với Hoa Kỳ vì sợ làm phật lòng người anh em Trung Quốc. Ông Đặng Xương Hùng khẳng định:
“Hy vọng của tôi là sẽ xây dựng được mối quan hệ tin cậy đối với phía Mỹ, nghĩa là đã có những bước phát triển đích thực để tạo ra mối quan hệ tin cậy, đủ để Mỹ có thể bảo vệ quan hệ Mỹ - Việt như bảo vệ quan hệ của mình. Chỉ có mối quan hệ tin cậy thì người Mỹ mới quan tâm đến quan hệ Mỹ - Việt và quan tâm bảo vệ lợi ích như của chính họ, thì nó mới có giá trị về mặt thay đổi, về mặt lợi ích cho quốc gia. Còn hy vọng thấp hơn thì hy vọng là sẽ có một sự chuyển biến. Tuy nhiên chuyến đi này, theo tôi chưa đạt được cái mức đối tác chiến lược trong quan hệ với Mỹ, vì người Mỹ cũng rất thận trọng trong quan hệ với VN. ”
Với một thái độ không mấy lạc quan, LS. Vũ Đức Khanh cho biết nhận xét của mình, ông nói:
Trong tình hình đấu đá nội bộ hiện nay ở VN thì việc ông Trọng đi Mỹ nhằm tạo nên hình ảnh vai trò của ông Tổng BT quyết định mọi vấn đề.
- Ông Đặng Xương Hùng
“Trước thềm Đại hội 12 mà ông (TBT Nguyễn Phú Trọng) ấy không có khả năng trở lại chức vụ Tổng BT thì ông ấy cũng chẳng có những tuyên bố được coi là quá lớn. Vả lại những thành tích của ông ấy, chẳng hạn được cho là người giáo điều, tin vào Chủ nghĩa CS hoặc thân Trung quốc thì thử hỏi ông ấy sẽ nói gì ở Hoa kỳ? Điều đó cho thấy VN sẽ không có sự thay đổi lớn nào qua lời của TBT Nguyễn Phú Trọng về vấn đề chính cấp đối với Hoa kỳ được. Do đó, tôi vẫn không nghĩ rằng ông Trọng sẽ đi trong chuyến đi này, nhưng giả thuyết ông Trọng có đi chăng nữa thì ông Trọng cũng chỉ tuyên bố những vấn đề chung chung mà chúng ta đều biết. Tôi nghĩ rằng ông ta sẽ nói: chúng ta mong muốn rằng Việt nam và Hoa kỳ sẽ kết thúc đàm phán về TPP và hai nước sẽ tăng cường mối quan hệ này kia. Và nếu có nói thêm về vấn đề Biển Đông thì ông ta sẽ nói những gì đã tuyên bố. Cho nên tôi không có hy vọng bất kỳ điều gì từ chuyến đi của TBT Nguyễn Phú Trọng.”
Trả lời câu hỏi sau chuyến đi này của TBT Nguyễn Phú Trọng tình hình nhân quyền và dân chủ ở VN sẽ được cải thiện hơn hay không?
Ông Đặng Xương Hùng cho biết:
“Nếu như chuyến đi này được thực hiện trên cơ sở của một sự thay đổi nhận thức, tức là muốn tăng cường quan hệ với Mỹ trên cơ sở tin cậy và niềm tin với nhau, thì vấn đề nhân quyền chắc chắn sẽ có tiến bộ. Còn nếu chuyến đi này chỉ tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại mềm dẻo và khôn khéo thì và chỉ là sự cân bằng quan hệ Mỹ - Việt nam và Trung quốc thì tôi khẳng định không có tiến bộ gì về nhân quyền. Nếu có thì chỉ là chút ít mang tính hình thức.”
Trong lúc này, lợi ích của VN đang nằm trong việc đa dạng hóa các mối quan hệ của mình để vượt ra ngoài sự kiềm tỏa của Trung Quốc, trong khi Hoa Kỳ thì muốn ve vãn đồng minh mới ở Hà Nội như là một phần trong các chuyển dịch nhằm tăng cường ảnh hưởng ở châu Á của mình để đối trọng với sự trỗi dậy của Bắc Kinh. Vấn đề được đặt ra là liệu Đảng CSVN đã sẵn sàng cho cuộc chơi mới này tới đâu?
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/general-secretary-of-pcv-will-visit-the-us-what-respect-av-03082015100817.htmlViệt Nam phải làm gì với hành động của Trung Quốc?
Mặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok
2015-03-10
2015-03-10
Sáng ngày 8 tháng Ba vừa qua, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị nói rằng “Trung Quốc đang tiến hành những hoạt động xây dựng cần thiết trên đảo và bãi đá của Trung Quốc. Việc xây dựng này không nhắm hay ảnh hưởng đến ai” . Có thật là việc xây dựng này không ảnh hưởng đến ai hay không? Mặc Lâm trao đổi với nhà nghiên cứu Biển Đông Trương Nhân Tuấn để tìm hiểu thêm về sự kiện này.
Mặc Lâm: -Thưa ông là người nghiên cứu Biển Đông trong hàng chục năm qua theo ông Trung Quốc đang công nhiên xây dựng trên các bãi đá ngầm tại Trường Sa thì hành động này có đi ngược lại với DOC năm 2002 yêu cầu phải giữ nguyên trạng các vùng đang tranh chấp hay không?
Trương Nhân Tuấn: Trung Quốc đã lợi dụng việc Phi đi kiện, tháng giêng năm 2013, cho rằng Phi đã vi phạm Tuyên bố chung giữa ASEAN và Trung Quốc năm 2002 gọi là DOC, từ đó lấy cớ tiến hành việc xây dựng các đảo nhân tạo tại các cấu trúc địa lý tại Trường Sa.
Vụ giàn khoan 981 đặt trên thềm lục địa VN vào tháng 5 năm ngoái thật ra chỉ là kế “giương đông kích tây”. Cùng thời điểm đó Trung Quốc đưa tàu bè hút cát, nạo vét đại dương đến Trường Sa để thực hiện các công trình một cách rầm rộ như thế mà phía Việt Nam, cả năm sau, hoàn toàn không có một phản ứng nào. Biến cố giàn khoan 981 có thể đã che mắt mọi người, nhưng không thể che mắt nhà cầm quyền.
Vụ giàn khoan 981 đặt trên thềm lục địa VN vào tháng 5 năm ngoái thật ra chỉ là kế “giương đông kích tây”. Cùng thời điểm đó TQ đưa tàu bè hút cát, nạo vét đại dương đến Trường Sa để thực hiện các công trình một cách rầm rộ
Trương Nhân Tuấn
Trung Quốc đã chiếm các bãi đá của Việt Nam từ năm 1988, sau đó cho xây dựng một số công trình có tầm vóc nhỏ vài trăm mét vuông. Tình trạng đó kéo dài cho đến đầu năm 2014, tức là tuyên bố DOC có hiệu lực được 12 năm. Việc xây dựng hiện nay đã làm thay đổi nguyên trạng ở Biển Đông. Các đảo nhân tạo mà Trung Quốc đang xây dựng, như công trình trên đá Chữ Thập khi hoàn tất có thể lên đến vài chục cây số vuông. Nếu các đảo đó được quân sự hóa, tương quan lực lượng giữa các bên sẽ thay đổi lớn lao. Trung Quốc, dựa vào các đảo vừa xây dựng, có thể tuyên bố vùng “nhận diện phòng không”, đồng thời phong tỏa để chiếm các đảo khác hiện đang trong tay của Việt Nam và Phi, và có thể cả Đài Loan.
Hành động này của Trung Quốc dĩ nhiên đi ngược lại tinh thần của Tuyên bố DOC 2002. Nhưng văn bản này vốn không có giá trị ràng buộc. Do đó cũng không nước nào làm gì được Trung Quốc.
Mặc Lâm: Theo ông thì sự im lặng của Việt Nam có thể được xem là từ bỏ chủ quyền theo luật quốc tế. Có cách nào để sửa sai hay ít ra điều chỉnh lại hay không?
Trương Nhân Tuấn: Theo một số phán lệ của Tòa án quốc tế, thái độ im lặng trong một số trường hợp có thể được xem là sự “đồng thuận”. Sự đồng thuận có thể “mặc thị” hay “ám thị”. Đây là một nguyên tắc quan trọng trong luật học, gọi là “acquiescement “, có hiệu lực tương tự như nguyên tắc “Estoppel “.
Những hành vi của Việt Nam, có thể xem là các dấu hiệu “acquiescement-đồng thuận”, công nhiên hay mặc nhiên nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại các đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Thứ nhứt là công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng. Thứ hai là thái độ im lặng của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong biến cố 17-1-1974 khi Trung Quốc đưa quân xâm lăng quần đảo Hoàng Sa. Thứ ba, thái độ của Việt Nam vào tháng 3 năm 1988 khi Trung Quốc chiếm một số bãi đá ở Trường Sa.
Về công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng, Việt Nam hiện nay có khuynh hướng diễn giải nội dung chỉ công nhận 12 hải lý về hải phận chứ không có ý nghĩa về nhìn nhận chủ quyền. Tuy nhiên, nội dung tuyên bố của Trung Quốc năm 1958 không phải chỉ nói về hải phận 12 hải lý mà còn nói về chủ quyền của Trung Quốc tại các đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ta có thể xem là Việt Nam đã “im lặng” trước tuyên bố về chủ quyền của Trung Quốc.
Theo luật quốc tế, trong những trường hợp đòi hỏi quốc gia liên hệ phải có một thái độ dứt khoát, thì sự im lặng đó có thể được hiểu như là sự đồng thuận. Tức là, theo nguyên tắc “acquiescement”, Việt Nam đã mặc nhiên đồng thuận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Theo luật quốc tế...thì sự im lặng đó có thể được hiểu như là sự đồng thuận. Tức là, theo nguyên tắc “acquiescement”, Việt Nam đã mặc nhiên đồng thuận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường SaTrương Nhân Tuấn
Trường hợp tháng giêng năm 1974, trước hành vi Trung Quốc xâm lăng lãnh thổ của VN, hai chính phủ Nam và Bắc Việt Nam đều có trách nhiệm như nhau trong vấn đề bảo vệ lãnh thổ chung. Rốt cục miền Bắc, đã không tìm cách can thiệp vào cuộc xâm chiếm đó mà còn từ chối đứng chung với miền Nam để ra một tuyên bố chung chống lại Trung Quốc. Hành vi Trung Quốc xâm chiếm lãnh thổ bắt buộc chính phủ các bên phải có thái độ. Việc giữ im lặng ở đây cũng được xem là dấu hiệu của “acquiescemnt”, mặc nhiên nhìn nhận lý lẽ và hành vi xâm chiếm Hoàng Sa của Trung Quốc là chính đáng.
Trường hợp ngày 14 tháng 3 năm 1988, Trung Quốc đem quân xâm lăng một số đá, bãi của Việt Nam tại Trường Sa. Dĩ nhiên Trung Quốc đã sử dụng bạo lực. Vấn đề là phía Việt Nam đã không sử dụng quyền “tự vệ chính đáng” được Hiến chương LHQ qui định để chống trả lại. Phía Việt Nam được lệnh là không được nổ súng bất kỳ giá nào. Nhà nước Việt Nam cũng từ chối mọi thủ tục pháp lý có sẵn để tranh đấu chống lại Trung Quốc ở thời điểm đó. Mặc dầu nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam lúc đó có đầy đủ tư cách pháp nhân để thực hiện. Các công hàm phản đối dĩ nhiên không có hiệu lực bằng các phương tiện pháp lý.
Nếu đưa ra một trọng tài quốc tế, chắc chắn thái độ của các chính phủ VNDCCH hay CHXHCNVN trong quá khứ chắc chắn sẽ gây bất lợi cho Việt Nam. Việt Nam có thể thua kiện.
Theo tôi, để Việt Nam hiện nay có nhiều xác suất thắng kiện, nhà nước Việt Nam cần phải thực thi những thủ tục để “kế thừa” di sản của VNCH trước kia. Chỉ khi nào đứng dưới tư cách người thừa kế chính đáng của VNCH thì danh nghĩa chủ quyền của VN mới được củng cố.
“Liên minh” với Mỹ để trở thành một nước giàu và mạnh, ít ra như Đại Hàn. Vì một Việt Nam nghèo đói sẽ không ngăn cản được TQ mà còn là một gánh nặng cho Mỹ. Chỉ có liên minh với Mỹ về quốc phòng thì VN mới có thể bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổTrương Nhân Tuấn
Riêng về hiệu lực của công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng, theo tôi là không thể giải thích theo lối hiện nay. Vì giải thích thế nào thì cũng nhìn nhận nó có hiệu lực, chỉ nhiều hay ít. Mà cách tốt nhứt phải phủ nhận hoàn toàn hiệu lực của nó, bằng cách dựa vào hai Hiệp định Genève 1954 và Hiệp định Paris 1973. Theo nội dung hai hiệp định này thì các nước nhìn nhận Việt Nam là một quốc gia duy nhứt và lãnh thổ toàn vẹn. Vịn vào đó, các tuyên bố, các hành vi nào của một bên nếu xâm phạm đến sự “toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam” thì nó vô giá trị.
Mặc Lâm: Ông nghĩ thế nào nếu Việt Nam liên minh với Mỹ? ngoài chỗ dựa vào quân sự thì nước Mỹ sẽ giúp cho Việt Nam các phương tiện như luật sư, kinh nghiệm, luật quốc tế để đối phó với Trung Quốc trên mặt trận pháp lý mà điều này thì Việt Nam cần không kém khả năng quân sự?
Trương Nhân Tuấn: Theo tôi, mình thấy Việt Nam hiện nay đã đi vào quĩ đạo của Trung Quốc mà việc này dài lâu sẽ giam hãm Việt Nam vĩnh viễn trong nghèo đói và chậm tiến.
Trên quan điểm địa chiến lược của Trung Quốc, nước này chỉ có thể trở thành “đại quốc” khi các nước chung quanh “yếu”, không thể đe dọa được an ninh cũng như sự phát triển của họ.
GDP của Trung Quốc hiện nay lên hàng thứ nhì và ngân sách quốc phòng cũng hàng thứ nhì. Ngân sách này chính thức vào khoảng 150 tỉ đô. Số thật sự có thể lên gấp đôi.
Một cái nhìn khác, Mỹ lại không muốn thấy một “đại cường” Trung Quốc đối trọng với Mỹ trong khu vực. Mỹ không thể tái dựng lại “chiến tranh lạnh” nhằm cô lập Trung Quốc mà chỉ có thể giúp các nước đồng minh như Nhật, Đại Hàn, Phi, Thái Lan… giàu mạnh để thiết lập một hàng rào các nước đồng minh để bao vây Trung Quốc. Việt Nam như thế có hai lựa chọn:
Một là không liên minh với ai hết như hiện nay. Kết quả là nghèo đói và chậm tiến, lãnh thổ mất lần hồi, vì đó là mục tiêu chiến lược của Trung Quốc.
Hai là “liên minh” với Mỹ để trở thành một nước giàu và mạnh, ít ra như Đại Hàn. Vì một Việt Nam nghèo đói sẽ không ngăn cản được Trung Quốc mà còn là một gánh nặng cho Mỹ. Chỉ có liên minh với Mỹ về quốc phòng thì Việt Nam mới có thể bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, vùng trời của quốc gia mình.
Ngoài ra, về pháp lý, Hoa Kỳ, với một lực lượng luật gia hùng hậu, cũng là nước duy nhất có thể giúp Việt Nam thắng được mặt trận pháp lý đối với Trung Quốc.
Mặc Lâm: Xin cám ơn nhà nghiên cứu Biển Đông Trương Nhân Tuấn.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/what-cn-wnt-n-vn-sh-do-03102015052604.html
Từng làm việc ở Việt Nam hồi thập niên 1990, Đại sứ Mỹ nói khi đó “tôi không nghĩ rằng có ai lại dự đoán được rằng chúng ta có thể tiến xa như hiện nay”.
Ông nhắc lại lời Ngoại trưởng Mỹ John Kerry khi thăm Việt Nam năm 2013, rằng không có hai nước nào khác “nỗ lực hơn, làm được nhiều hơn, và làm được tốt hơn để cố gắng đến với nhau, thay đổi lịch sử và thay đổi tương lai”.
Nhiều chuyến thăm cấp cao giữa hai bên đã diễn ra.
Đại sứ Mỹ nhắc lại Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng sẽ thăm Mỹ trong năm nay, mặc dù ông không nói về thời gian.
Ông nói: “Những chuyến thăm như vậy cũng là một phương thức để duy trì đối thoại cởi mở và thẳng thắn về những vấn đề mà chúng ta phải đối mặt.”
Ông cũng tiết lộ Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang sẽ “sớm thăm” Mỹ để bàn nhiều vấn đề, trong đó có nhân quyền.
Diễn văn của ông Ted Osius điểm lại những lĩnh vực quan tâm chung và hợp tác chính giữa hai nước.
Trong lĩnh vực hợp tác quốc phòng, ông tiết lộ cuối tháng Ba, quân đội hai nước sẽ cùng tiến hành các hoạt động cứu trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa trong khuôn khổ chương trình Thiên thần Thái Bình Dương.
Đến tháng Tám, hải quân hai nước sẽ cộng tác trong chương trình Đối tác Thái Bình Dương.
‘Không có điều gì là không thể’ Nhìn về tương lai, Đại sứ Ted Osius, trong diễn văn, nhiều lần dùng câu ‘Không có điều gì là không thể’, có vẻ gợi nhắc khẩu hiệu “Yes, we can” của Barack Obama khi ông ra tranh cử nhiệm kỳ đầu chức vụ tổng thống Mỹ năm 2008.
Hôm thứ Bảy, Tiến sỹ Phạm Chí Dũng, Chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam, một hiệp hội trong xã hội dân sự độc lập vốn không được sự thừa nhận của nhà nước, nói:
"Chuyện này quá dễ hiểu, không có một giả thuyết nào khác ngoài chuyện phá bĩnh mối quan hệ Việt - Mỹ có vẻ như đang nồng ấm hơn, để làm cho cái gọi là mối quan hệ Việt - Trung 'keo sơn' hơn.
"Tôi cho là những chính khách thân Bắc Kinh, họ không muốn nhìn thấy Hà Nội ngả về Washington dù chỉ là hình ảnh.
"Và mỗi lần có những động thái như thế nào đó giữa Hà Nội và Washington để gắn kết hoặc tái lập, bình thường hóa một số phương diện nào đó, thì lập tức lại bị một số chính khách thân Bắc Kinh phản ứng," ông Dũng nêu quan điểm, trong khi bình luận về sự kiện Đại sứ Mỹ mới có bài phát biểu cỗ vũ tăng cường quan hệ Việt - Mỹ tại Đại học Quốc gia Hà Nội (VNU).
Ra khỏi media player. Bấm enter để quay lại hay tab để tiếp tục.
Mỹ sẵn sàng tiếp sức cho VN’
- 6 tháng 3 2015
Đại sứ Mỹ tại Việt Nam có bài phát biểu quan trọng, tuyên bố “không có điều gì là không thể” trong quan hệ giữa hai nước.
Ông Ted Osius phát biểu trước sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội hôm 6/3 nhân kỉ niệm 20 năm quan hệ ngoại giao với Việt Nam.Từng làm việc ở Việt Nam hồi thập niên 1990, Đại sứ Mỹ nói khi đó “tôi không nghĩ rằng có ai lại dự đoán được rằng chúng ta có thể tiến xa như hiện nay”.
Ông nhắc lại lời Ngoại trưởng Mỹ John Kerry khi thăm Việt Nam năm 2013, rằng không có hai nước nào khác “nỗ lực hơn, làm được nhiều hơn, và làm được tốt hơn để cố gắng đến với nhau, thay đổi lịch sử và thay đổi tương lai”.
Quan hệ Đối tác Toàn diện
Việt Nam và Hoa Kỳ đã thiết lập quan hệ Đối tác Toàn diện trong chuyến thăm Nhà Trắng năm 2013 của Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang.Nhiều chuyến thăm cấp cao giữa hai bên đã diễn ra.
Đại sứ Mỹ nhắc lại Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng sẽ thăm Mỹ trong năm nay, mặc dù ông không nói về thời gian.
Chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ sẵn sàng tiếp thêm sức mạnh cho Việt Nam bay cao và bay xa hơn nữa.
Ông cũng tiết lộ Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang sẽ “sớm thăm” Mỹ để bàn nhiều vấn đề, trong đó có nhân quyền.
Diễn văn của ông Ted Osius điểm lại những lĩnh vực quan tâm chung và hợp tác chính giữa hai nước.
Trong lĩnh vực hợp tác quốc phòng, ông tiết lộ cuối tháng Ba, quân đội hai nước sẽ cùng tiến hành các hoạt động cứu trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa trong khuôn khổ chương trình Thiên thần Thái Bình Dương.
Đến tháng Tám, hải quân hai nước sẽ cộng tác trong chương trình Đối tác Thái Bình Dương.
‘Không có điều gì là không thể’ Nhìn về tương lai, Đại sứ Ted Osius, trong diễn văn, nhiều lần dùng câu ‘Không có điều gì là không thể’, có vẻ gợi nhắc khẩu hiệu “Yes, we can” của Barack Obama khi ông ra tranh cử nhiệm kỳ đầu chức vụ tổng thống Mỹ năm 2008.
Ông đặt ra một số câu hỏi: “Liệu Việt Nam và Hoa Kỳ có thể tiến hành các bước đi để cho phép tiến hành các chuyến bay thẳng giữa hai nước chúng ta?
Liệu Hoa Kỳ có thể trở thành nhà đầu tư số 1 tại Việt Nam như vị trí xếp hạng đầu tư Hoa Kỳ hiện nay tại các nước ASEAN nói chung?
Liệu Việt Nam có thể cải cách các quy định pháp luật về thị thực để tạo thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh tại Việt Nam?”
Và ông khẳng định: “Có, chúng ta có thể, bởi vì không có điều gì là không thể.”
Ông kết thúc với cam kết: “Chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ sẵn sàng tiếp thêm sức mạnh cho Việt Nam bay cao và bay xa hơn nữa.”
Trong chuyến thăm Đại học, ông Ted Osius cũng trồng cây lưu niệm tại khuôn viên trường.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2015/03/150306_dai_su_my_phat_bieu_dai_hoc_hn
Ai đang cản trở quan hệ Việt - Mỹ?
- 8 tháng 3 2015
Các mối quan hệ Mỹ - Việt trong thời gian gần đây, đặc biệt từ sau khi tân Đại sứ Hoa Kỳ, ông Ted Osius, tới nhận nhiệm vụ ở Việt Nam, đã được tiến triển khá 'nhanh chóng', 'tích cực' và 'nồng ấm hơn', theo một nhà bình luận và phân tích tình hình chính trị - xã hội Việt Nam từ trong nước.
Tuy nhiên, vẫn theo ý kiến này, mỗi khi có một động thái tiến bộ trong quan hệ Mỹ - Việt, thì lại có dấu hiệu của những động thái cản trở 'thọc gậy bánh xe' ở trong nội bộ lãnh đạo, nhà cầm quyền Việt Nam, đặc biệt là 'trong ngành an ninh'.Hôm thứ Bảy, Tiến sỹ Phạm Chí Dũng, Chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam, một hiệp hội trong xã hội dân sự độc lập vốn không được sự thừa nhận của nhà nước, nói:
Có một thực tế là sự phát triển hùng mạnh của Việt Nam, dường như, có vẻ như không phù hợp lắm với mong muốn của Trung Quốc
"Tôi cho là những chính khách thân Bắc Kinh, họ không muốn nhìn thấy Hà Nội ngả về Washington dù chỉ là hình ảnh.
"Và mỗi lần có những động thái như thế nào đó giữa Hà Nội và Washington để gắn kết hoặc tái lập, bình thường hóa một số phương diện nào đó, thì lập tức lại bị một số chính khách thân Bắc Kinh phản ứng," ông Dũng nêu quan điểm, trong khi bình luận về sự kiện Đại sứ Mỹ mới có bài phát biểu cỗ vũ tăng cường quan hệ Việt - Mỹ tại Đại học Quốc gia Hà Nội (VNU).
Trung Quốc muốn gì?
Cũng hôm thứ Sáu, nguyên thành viên Hội đồng Lý luận Trung ương của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, xác đinh với BBC tính phức tạp trong quan hệ tay ba Việt - Mỹ - Trung, mà theo ý kiến này, có dấu hiệu cho thấy Trung Quốc không muốn quan hệ Việt - Mỹ 'ấm lên' và hai bên 'xích lại gần nhau'.Ra khỏi media player. Bấm enter để quay lại hay tab để tiếp tục.
"Tôi nghĩ rằng ý đó ai đó nói tôi không có căn cứ gọi là tư liệu, nhưng về mặt logíc là hoàn toàn có thể. Bởi vì tôi đã đọc, nghiên cứu thời kỳ Việt Nam gia nhập WTO (Tổ chức Thương mại Thế giới) nhiều năm trở về trước, thì Trung Quốc cũng có những động thái để làm cho Việt Nam chậm trễ quá trình này.
"Thế nhưng mà cuối cùng (Việt Nam) vẫn gia nhập WTO. Có một thực tế là sự phát triển hùng mạnh của Việt Nam, dường như, có vẻ như không phù hợp lắm với mong muốn của Trung Quốc.
"Điều này tôi thấy trong lịch sử đã như vậy rồi, và cái này các loại giáo trình, giáo án rồi tài liệu nghiên cứu đã nói rồi.
Tôi luôn có cảm giác là có chuyện thọc gậy bánh xe, từ năm 2013 tới giờ. Thực ra có những thông tin đồn đoán, ngoài lề, những chuyện 'thọc gậy bánh xe' hoặc 'phá đám' đã diễn ra từ năm 2006-2007
"Từ thời kỳ Việt Nam đấu tranh giải phóng dân tộc, cho đến thời kỳ xây dựng đất nước, thì có một thực tế mình (Việt Nam) có nói rằng Việt Nam luôn luôn muốn xây dựng mối quan hệ rất tốt đẹp với Trung Quốc, và cái đó là thật tâm, cái đó là cái từ xa xưa ông cha của người Việt Nam đã làm và trong thực tế cũng đã làm.
"Nhưng mà dường như đối với những gì mà Trung Quốc thể hiện, họ có những mục tiêu có tính chất quốc gia, dân tộc của họ, thì những nước xung quanh hùng mạnh, hình như không phù hợp lắm với cái mà họ mong muốn.
"Vì vậy, có những động thái nào đó làm cho nó chậm trễ, hay là gây khó khăn cho Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế và phát triển, thì tôi cho có thể cái đó chỉ là suy luận, nhưng suy luận ấy là có lý và đôi khi rằng nhiều người trên thế giới này cho rằng là suy luận ấy là hoàn toàn có căn cứ," Giáo sư sử học Vũ Minh Giang nói với BBC.
'Thọc gậy bánh xe'
Tiến sỹ Phạm Chí Dũng nhìn thêm vào nội bộ ở Việt Nam và cho rằng luôn có sự 'thọc gậy bánh xe' của một thế lực nào đó, mà ông đơn cử trong ngành an ninh, công an, đối với các tiến triển quan hệ song phương Việt - Mỹ.
Ông nói với BBC: "Tôi luôn có cảm giác là có chuyện thọc gậy bánh xe, từ năm 2013 tới giờ. Thực ra có những thông tin đồn đoán, ngoài lề, những chuyện 'thọc gậy bánh xe' hoặc 'phá đám' đã diễn ra từ năm 2006-2007, vào thời điểm đó là Việt Nam chuẩn bị gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới và lúc đó ông Nguyễn Minh Triết đi Hoa Kỳ.
"Còn trong những năm vừa qua, từ năm 2013 tới giờ, xuất hiện hiện tượng đó, tuy vậy nhưng mà không có bằng chứng, thành thử khó nói được chuyện này. Chỉ có một điều tôi biết chắc chắn rằng có một bộ phận an ninh Việt Nam, họ rất thiếu văn hóa.
"Và họ vẫn thường đối xử như vậy, sách nhiễu, (gây) khó khăn, chửi bới, đánh đập đối với một số nhân vật bất đồng chính kiến. Cứ mỗi khi những nhân vật này tổ chức hội họp, dù là hội họp theo Hiến pháp quy định quyền Hiến định của công dân, thì lại bị phía lực lượng an ninh gây khó dễ và thậm chí có thể bắt bớ, câu lưu".
Việt Nam sẽ kiên trì thực hiện việc đa phương hóa các mối quan hệ, tạo sự cân bằng và sự thu hút và tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế để tăng cường tiềm lực quốc phòng của mình, để sẵn sàng có thể bảo vệ Tổ quốc của mình trước bất kỳ một kẻ, hành động xâm lược nào
Tuy nhiên khi được hỏi Trung Quốc có thể sẽ cảm thấy ra sao và có thể hành động gì nếu quan hệ Việt - Mỹ khăng khít hơn, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) nói:
"Theo như tôi hiểu thì Trung Quốc rất muốn là Việt Nam chỉ tăng cường mối quan hệ đối với Trung Quốc mà thôi và không nên tăng cường quan hệ với bất kỳ đối tác nào khác, kể cả Ấn Độ hay là Hoa Kỳ, cho nên tôi nghĩ các nỗ lực của Trung Quốc sẽ là cố gắng... thuyết phục Việt Nam chỉ phát triển mối quan hệ đối với Trung Quốc.
"Và điều ấy, như chúng ta đã thấy, dẫn đến tình trạng Việt Nam về mặt xuất nhập khẩu thì phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc, và về một số mặt Việt Nam hiện nay đang nhập siêu quá nhiều của Trung Quốc và còn có nhiều vấn đề khác nữa.
"Cho nên tôi nghĩ rằng Việt Nam sẽ kiên trì thực hiện việc đa phương hóa các mối quan hệ, tạo sự cân bằng và sự thu hút và tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế để tăng cường tiềm lực quốc phòng của mình, để sẵn sàng có thể bảo vệ Tổ quốc của mình trước bất kỳ một kẻ, hành động xâm lược nào," Tiến sỹ Lê Đăng Doanh nói với BBC.
TRUNG QUOC
Trung Quốc có nguy cơ khủng hoảng tài chính
Một công trường xây dựng tại Thượng Hải ngày 05/03/2015.REUTERS/Aly Song
Hai cơ quan bảo hiểm tín dụng quốc tế cảnh báo giới đầu tư về khả năng thanh toán và nguy cơ xí nghiệp khánh tận hàng loạt tại Trung Quốc. Tiếp theo Euler Hermes đến lượt cơ quan bảo hiểm đầu tư Coface của Pháp báo động nguy cơ Trung Quốc gặp rủi ro tài chính từ thiếu khả năng thanh toán nợ đến phá sản trong bối cảnh kinh tế tăng trưởng chậm lại.
Theo bản nghiên cứu công bố hôm 09/03/2015, đại đa số công ty Trung Quốc ( 79,8% ), báo động thanh toán hóa đơn chậm trong năm 2014. Đây là kết quả khảo sát lần thứ 12 của Coface tại Hoa lục với 882 xí nghiệp. Xu hướng chung là số nợ xấu gia tăng cộng với tín dụng đáng ngờ tăng thêm theo thứ tự là 42,3% và 58,8%.
Coface dự kiến tăng trưởng Trung Quốc năm nay là 7% , tỷ lệ thấp nhất trong 25 năm qua. Chuyên gia Rocky Tung, tuy ghi nhận Bắc Kinh thi hành một số sáng kiến để chuyển dòng tiền mặt đầu tư vào kinh tế thực nhưng ông lưu ý là cần nhiều thời gian các biện pháp này mới mang lại kết quả.
Theo Coface, các lãnh vực sẽ gặp nhiều rủi ro nhất là kỹ nghệ hóa học, xây dựng, sản xuất giấy và luyện kim. Tháng 12 năm ngoái, cơ quan bảo hiểm tín dụng Euler Hermes đã cho biết nhận được « tín hiệu báo động » từ khắp mọi tầng sinh hoạt kinhh tế ở Trung Quốc.
Coface dự kiến tăng trưởng Trung Quốc năm nay là 7% , tỷ lệ thấp nhất trong 25 năm qua. Chuyên gia Rocky Tung, tuy ghi nhận Bắc Kinh thi hành một số sáng kiến để chuyển dòng tiền mặt đầu tư vào kinh tế thực nhưng ông lưu ý là cần nhiều thời gian các biện pháp này mới mang lại kết quả.
Theo Coface, các lãnh vực sẽ gặp nhiều rủi ro nhất là kỹ nghệ hóa học, xây dựng, sản xuất giấy và luyện kim. Tháng 12 năm ngoái, cơ quan bảo hiểm tín dụng Euler Hermes đã cho biết nhận được « tín hiệu báo động » từ khắp mọi tầng sinh hoạt kinhh tế ở Trung Quốc.
Tuesday, March 10, 2015
Trung Quốc giảm mức dự báo tăng trưởng xuống còn 7 %
Hôm nay, 05/03/2015, khai mạc kỳ họp thứ ba, khóa 12 của Quốc Hội Trung Quốc, trước gần 3000 đại biểu, Thủ tướng Lý Khắc Cường cam kết « làm hết sức mình » để bảo vệ môi trường và thiên nhiên. Nhưng Bắc Kinh không đưa ra những biện pháp cụ thể. Lần đầu tiên lãnh đạo Trung Quốc nhìn nhận lệ tăng trưởng của nước này rơi xuống còn 7 %, mức thấp nhất trong gần 30 năm qua. Từ Bắc Kinh, thông tín viên đài RFI, Heike Schmidt gửi về bài tường trình:
« Bắc Kinh dự phóng tăng trưởng kinh tế cho năm nay chỉ đạt 7 %. Đây là mức khiêm tốn nhất chưa từng thấy. Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường phải nhìn nhận những thách thức đặt ra quá lớn so với chờ đợi. Ông nói : ‘Kinh tế thế giới chỉ mới phục hồi một cách rất chậm và đang đứng trước đầy rẫy những trở ngại. Các nền kinh tế quan trọng nhất toàn cầu phát triển theo những hướng rất khác nhau. Về mặt đối nội, chúng ta phải đương đầu với nhiều khó khăn và thử thách. Các hoạt động kinh tế liên tục bị chựng lại’.
Để xoa dịu công luận, chính quyền Trung Quốc đưa ra một khái niệm mới, kêu gọi toàn dân hướng tới một sự phát triển lành mạnh hơn, ổn định hơn và lâu bền hơn. Thủ tướng Lý Khắc Cường nhấn mạnh, sự khan hiếm các nguồn tài nguyên thiên nhiên, hiện tượng môi trường bị tàn phá, người lao động đòi tăng lương, là những yếu tố gây trở ngại cho tăng trưởng của Trung Quốc.
Tới nay, tăng trưởng kinh tế của nước này chủ yếu dựa vào các luồng vốn đầu tư dồi dào, và cần tiêu thụ rất nhiều năng lượng. Ông Lý Khắc Cường cam kết, phát triển các nguồn năng lượng sạch trong tương lai sẽ trở thành một trong những cột trụ của guồng máy kinh tế Trung Quốc. Để chứng minh điều đó, Bắc Kinh thông báo tăng đến 40 % ngân sách phát triển năng lượng sạch và giúp các nhà sản xuất tiết kiệm năng lượng »
Quốc tế nghi ngờ Trung Quốc về việc cấm lấy nội tạng tử tù
Về mặt chính thức, Trung Quốc đã cấm việc lấy nội tạng từ các tử tù, nhưng giới chuyên gia quốc tế nghi ngờ về việc thực hiện lệnh cấm này, bởi vì rất có thể là các nội tạng của những tử tù này sẽ được xếp vào loại « hiến tặng ».
Trung Quốc đã cấm buôn bán nội tạng từ năm 2007, nhưng nhu cầu cấy ghép nội tạng tại đất nước gần 1,4 tỷ dân này quá cao so với mức cung, cho nên có rất nhiều nội tạng là do cưỡng bức hiến tặng và buôn bán trái phép. Người dân Trung Quốc cũng rất ít người chịu hiến tặng nội tạng vì nhiều người tin rằng sau khi chết họ sẽ đầu thai kiếp khác, nên cần phải giữ cho cơ thể được nguyên vẹn.
Do nhu cầu ghép nội tạng hiện rất cao và do thường xuyên thiếu nguồn nội tạng hiến tặng, cho nên các tử tù tại Trung Quốc trong nhiều năm nữa rất có thể sẽ là vẫn là nguồn cung cấp nội tạng chủ yếu ở nước này. Trong bài trả lời phỏng vấn báo chí Trung Quốc bên lề kỳ họp Quốc hội, được công bố hôm nay, 10/03/2015, ông Hoàng Khiết Phu (Huang Jiefu), Giám đốc Ủy ban Hiến tặng và Cấy ghép Nội tạng Trung Quốc, cho biết là kể từ đầu năm nay, chính quyền đã yêu cầu toàn bộ các bệnh viện ngưng sử dụng nội tạng lấy từ các tử tù bị hành quyết.
Ông Hoàng Khiết Phu khẳng định : « Công nghiệp hiến tặng nội tạng của Trung Quốc đã bước vào một giai đoạn phát triển mới, với việc hiến tặng tự nguyện là nguồn cung cấp nội tạng duy nhất ». Thế nhưng, theo hãng tin AFP, giới chuyên gia quốc tế nghi ngờ về cam kết nói trên của Bắc Kinh. Họ cho rằng các nội tạng sẽ tiếp tục được lấy từ các tử tù, chỉ có khác là các nội tạng này sẽ được xếp vào loại « hiến tặng ».
Trong một bức thư gởi đến tạp chí y khoa « The Lancet », một nhóm năm nhà chuyên môn y khoa từ các nước Mỹ, Anh và Úc, trong đó có giám đốc Hiệp hội Bác sĩ chống mổ cướp nội tạng ( Doctors Against Forced Organ Harvesting ), viết rằng « những tuyên bố hiện nay từ Trung Quốc không có gì là mới lạ ». Họ lưu ý rằng, khi trả lời phỏng vấn của tờ Beijing Times vào năm 2014, chính ông Hoàng Khiết Phu đã khẳng định rằng « các tử tù vẫn là những công dân và như vậy họ có quyền hiến tặng nội tạng ». Ông còn nói rõ rằng các nội tạng lấy từ tử tù sẽ được liệt kê như nội tạng hiến tặng tự nguyện.
Bác sĩ Tường Ngạn Vĩnh, người đã từng tố cáo việc bưng bít thông tin về dịch SARS ở Trung Quốc vào năm 2003, trả lời phỏng vấn trên kênh truyền hình Cable TV của Hồng Kông, cũng vừa tố cáo các bệnh viện quân đội Trung Quốc tham gia vào việc mổ cướp nội tạng các tử tù, mà trong đó có một số người bị mổ lấy nội tạng lúc còn sống.
Vào năm 2013, Hiệp hội Các bác sĩ chống mổ cướp Nội Tạng đã mở một chiến dịch thu thập chữ ký trên toàn cầu để đệ trình lên Cao Ủy Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc kêu gọi chấm dứt ngay lập tức việc cưỡng bức lấy nội tạng từ các học viên Pháp Luân Công ở Trung Quốc, nạn nhân chủ yếu của việc mổ cắp nội tạng. Ngày 12 Tháng 12 năm 2013, Nghị viện Châu Âu cũng đã thông qua một nghị quyết khẩn cấp về mổ cắp nội tạng ở Trung Quốc
http://vi.rfi.fr/chau-a/20150310-quoc-te-tq-noi-tang-tu-tu/
Bí thư Tân Cương Trương Xuân Hiền cảnh báo những phần tử tôn giáo cực đoan bỏ ra nước ngoài để gia nhập nhóm Nhà nước Hồi giáo giờ đây đã trở về Trung Quốc. Do nhu cầu ghép nội tạng hiện rất cao và do thường xuyên thiếu nguồn nội tạng hiến tặng, cho nên các tử tù tại Trung Quốc trong nhiều năm nữa rất có thể sẽ là vẫn là nguồn cung cấp nội tạng chủ yếu ở nước này. Trong bài trả lời phỏng vấn báo chí Trung Quốc bên lề kỳ họp Quốc hội, được công bố hôm nay, 10/03/2015, ông Hoàng Khiết Phu (Huang Jiefu), Giám đốc Ủy ban Hiến tặng và Cấy ghép Nội tạng Trung Quốc, cho biết là kể từ đầu năm nay, chính quyền đã yêu cầu toàn bộ các bệnh viện ngưng sử dụng nội tạng lấy từ các tử tù bị hành quyết.
Ông Hoàng Khiết Phu khẳng định : « Công nghiệp hiến tặng nội tạng của Trung Quốc đã bước vào một giai đoạn phát triển mới, với việc hiến tặng tự nguyện là nguồn cung cấp nội tạng duy nhất ». Thế nhưng, theo hãng tin AFP, giới chuyên gia quốc tế nghi ngờ về cam kết nói trên của Bắc Kinh. Họ cho rằng các nội tạng sẽ tiếp tục được lấy từ các tử tù, chỉ có khác là các nội tạng này sẽ được xếp vào loại « hiến tặng ».
Trong một bức thư gởi đến tạp chí y khoa « The Lancet », một nhóm năm nhà chuyên môn y khoa từ các nước Mỹ, Anh và Úc, trong đó có giám đốc Hiệp hội Bác sĩ chống mổ cướp nội tạng ( Doctors Against Forced Organ Harvesting ), viết rằng « những tuyên bố hiện nay từ Trung Quốc không có gì là mới lạ ». Họ lưu ý rằng, khi trả lời phỏng vấn của tờ Beijing Times vào năm 2014, chính ông Hoàng Khiết Phu đã khẳng định rằng « các tử tù vẫn là những công dân và như vậy họ có quyền hiến tặng nội tạng ». Ông còn nói rõ rằng các nội tạng lấy từ tử tù sẽ được liệt kê như nội tạng hiến tặng tự nguyện.
Bác sĩ Tường Ngạn Vĩnh, người đã từng tố cáo việc bưng bít thông tin về dịch SARS ở Trung Quốc vào năm 2003, trả lời phỏng vấn trên kênh truyền hình Cable TV của Hồng Kông, cũng vừa tố cáo các bệnh viện quân đội Trung Quốc tham gia vào việc mổ cướp nội tạng các tử tù, mà trong đó có một số người bị mổ lấy nội tạng lúc còn sống.
Vào năm 2013, Hiệp hội Các bác sĩ chống mổ cướp Nội Tạng đã mở một chiến dịch thu thập chữ ký trên toàn cầu để đệ trình lên Cao Ủy Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc kêu gọi chấm dứt ngay lập tức việc cưỡng bức lấy nội tạng từ các học viên Pháp Luân Công ở Trung Quốc, nạn nhân chủ yếu của việc mổ cắp nội tạng. Ngày 12 Tháng 12 năm 2013, Nghị viện Châu Âu cũng đã thông qua một nghị quyết khẩn cấp về mổ cắp nội tạng ở Trung Quốc
http://vi.rfi.fr/chau-a/20150310-quoc-te-tq-noi-tang-tu-tu/
TQ: Các phần tử cực đoan Tân Cương gia nhập IS đã trở về nước
10.03.2015
Giới chức hàng đầu của đảng Cộng Sản Trung Quốc ở Tân Cương cho biết ông tin rằng những phần tử tôn giáo cực đoan ra nước ngoài để gia nhập nhóm Nhà nước Hồi giáo giờ đây đã trở về Trung Quốc. Theo tường thuật của thông tín viên Bill Ide của đài VOA tại Bắc Kinh, phát biểu đó nêu bật mối quan tâm của Trung Quốc về chủ nghĩa cực đoan tôn giáo trong khối người Uighur ở Tân Cương, nhưng những người chỉ trích nói rằng chính sách đàn áp của Trung Quốc ở Tân Cương là một phần của vấn đề.
Bí thư Tân Cương Trương Xuân Hiền không cho biết bao nhiêu phần tử cực đoan ở vùng này đã bỏ ra nước ngoài để gia nhập hàng ngũ của nhóm khủng bố Nhà nước Hồi giáo. Nhưng ông nói rằng sự tham gia đó nêu bật một thực tế là những phong trào cực đoan trên thế giới đang ảnh hưởng tới vùng Tân Cương.
Tại cuộc họp báo ngày hôm nay ở Bắc Kinh bên lề hội nghị thường niên của Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc, ông Trương Xuân Hiền nói rằng một số chiến binh chiến đấu cho Nhà nước Hồi giáo ở nước ngoài giờ đây đã quay về Trung Quốc.
Các tổ chức nhân quyền nói rằng những chính sách hà khắc của chính phủ Trung Quốc ở Tân Cương là nguyên do chính tạo ra bất ổn và bạo động ở khu vực Tân Cương.
Bí thư Tân Cương Trương Xuân Hiền không cho biết bao nhiêu phần tử cực đoan ở vùng này đã bỏ ra nước ngoài để gia nhập hàng ngũ của nhóm khủng bố Nhà nước Hồi giáo. Nhưng ông nói rằng sự tham gia đó nêu bật một thực tế là những phong trào cực đoan trên thế giới đang ảnh hưởng tới vùng Tân Cương.
Tại cuộc họp báo ngày hôm nay ở Bắc Kinh bên lề hội nghị thường niên của Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc, ông Trương Xuân Hiền nói rằng một số chiến binh chiến đấu cho Nhà nước Hồi giáo ở nước ngoài giờ đây đã quay về Trung Quốc.
"Hồi gần đây giới hữu trách đã phá vỡ một vụ án của những người mới trở về. Nhà chức trách cho đến nay vẫn chưa nói gì về vụ này vì họ cần có thời giờ để phá án, hạn chế thương vong và bảo vệ an ninh."
Hiện chưa rõ có bao nhiêu người ở Tân Cương hoặc ở Trung Quốc đã gia nhập Nhà nước Hồi giáo. Các nhà phân tích nói rằng con số đó không lớn. Nhưng theo tường thuật của truyền thông nhà nước hồi cuối năm ngoái, khoảng 300 phần tử hiếu chiến trong khu vực Tân Cương đang có mặt tại Syria và Iraq để chiến đấu hoặc để tham gia các khóa huấn luyện.
Họ cho biết hầu hết những người đó là thành viên của Phong trào Hồi giáo Đông Turkestan (gọi tắt là ETIM). Tổ chức này bị Hoa Kỳ xem là một tổ chức khủng bố. Bắc Kinh thường xuyên quy trách nhiệm cho những phần tử của nhóm ETIM về những vụ tấn công ở Trung Quốc.
Trung Quốc cho rằng ETIM muốn thành lập một quốc gia riêng ở Tân Cương, nhưng những người chỉ trích đã nêu nghi vấn về cơ cấu tổ chức và năng lực thật sự của nhóm này.
Các tổ chức nhân quyền nói rằng những chính sách hà khắc của chính phủ Trung Quốc ở Tân Cương là nguyên do chính tạo ra bất ổn và bạo động ở khu vực Tân Cương.
Các tổ chức của người Uighur lưu vong và những nhân vật tranh đấu nhân quyền nói rằng những chính sách hà khắc của chính phủ Trung Quốc ở Tân Cương là nguyên do chính tạo ra bất ổn và bạo động ở vùng này. Sau những vụ rối loạn sắc tộc năm 2009, Trung Quốc đã siết chặt những hạn chế đối với sinh hoạt của người Hồi giáo trong vùng, trong đó có việc cấm đội khăn trùm đầu, cấm để râu rậm và cấm chay tịnh trong tháng Chay Ramadan.
Trung Quốc thường xuyên bị tố cáo vi phạm tự do tôn giáo ở Tân Cương. Tuy nhiên, các giới chức tại cuộc họp báo ngày hôm nay nhấn mạnh rằng đối phó với mối đe dọa của chủ nghĩa cực đoan tôn giáo là một thách thức mà nhiều nước trên thế giới phải đối mặt.
Một vụ tăng mạnh của bạo động trong hai năm qua đã cướp đi sinh mạng của mấy trăm người và giới hữu trách cho rằng thủ phạm là những phần tử cực đoan tôn giáo. Cũng có những vụ tấn công ở những nơi nằm cách Tân Cương rất xa như thủ đô Bắc Kinh và thành phố Côn Minh trong tỉnh Vân Nam.
Năm ngoái, chính quyền Tân Cương đã phát động một chiến dịch mạnh tay kéo dài một năm để chống khủng bố. Hàng trăm người đã bị bắt giữ vì dính líu tới những hoạt động khủng bố, theo truyền thông nhà nước và website của chính quyền địa phương. Những vụ xét xử và những bản án tử hình đã được thực hiện một cách nhanh chóng.
Trung Quốc đã siết chặt những hạn chế đối với sinh hoạt của người Hồi giáo trong vùng, trong đó có việc cấm đội khăn trùm đầu, cấm để râu rậm và cấm chay tịnh trong tháng Chay ramadan.
Trung Quốc đã siết chặt những hạn chế đối với sinh hoạt của người Hồi giáo trong vùng, trong đó có việc cấm đội khăn trùm đầu, cấm để râu rậm và cấm chay tịnh trong tháng Chay ramadan. Chính phủ cũng treo những giải thưởng cho những người cung cấp thông tin để giúp nhà chức trách ngăn chận những vụ tấn công.
Một số đại biểu tại cuộc họp báo hôm nay nói rằng công chúng đang đóng một vai trò lớn hơn trong việc giúp ngăn chận những vụ tấn công.
Phó bí thư Tân Cương Shohrat Zakir cho biết ông tin là con số các âm mưu khủng bố trong năm nay sẽ ít hơn.
"Nhiều vụ đã được ngăn chận từ giai đoạn lập kế hoạch, nhưng một phần tử cực đoan ngoan cố vẫn có thể tiến hành những vụ tấn công."
Mặc dù vậy, ông Trương Xuân Hiền đã cho biết những con số mà ông nói là nêu bật tình hình nguy hiểm ở Tân Cương.
"Trong năm 2013 có 230 cán bộ địa phương đã hy sinh trong lúc thi hành nhiệm vụ. Con số cao hơn rất nhiều con số bình quân của cả nước."
Ông Trương cũng nói rằng khi so sánh với những khu vực khác năm trong nội địa ở Trung Quốc, số cảnh sát viên thiệt mạng ở Tân Cương cao hơn tới 5,4 lần.
'Hổ Vương' Trung Hoa sắp sa lưới?
Ngày 28/2/2015 báo Nhân dân Giải phóng quân của quân đội Trung Quốc đưa tin 14 viên tướng của Trung Quốc đã bị bắt giữ, tước quân hàm, chờ ngày xét xử vì đã bị tố cáo, điều tra về tội phạm pháp, phạm kỷ luật nghiêm trọng, tham nhũng và sống sa đọa.
Trong các viên tướng trên có Thiếu tướng Quách Thanh Lương, con trai của Thượng tướng Quách Bá Hùng, từng là Phó Bí thư Quân ủy Trung Ương, là cận thần của nguyên Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước Giang Trạch Dân. Trước đó vào tháng 1/2015, Tướng Quách Bá Hùng đã bị quản thúc, giam lỏng để chờ ngày xét xử. Hãng Reuters (25/2) nhận xét Tướng Từ Tài Hậu và Tướng Quách Bá Hùng là 2 viên tướng cao cấp nhất, đều là Phó Bí thư quân ủy khi ông Giang Trạch Dân là Tổng Bí thư kiêm Bí thư Quân ủy Trung ương, cũng là 2 người được xem là thân tín nhất của ông Giang.
Ngày 3/3/2015, báo Tranh Minh (Hồng Kông) cho biết ông Tăng Khánh Hồng, nguyên Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị, vốn là cánh tay phải của ông Giang Trạch Dân, đã bị Ủy ban Thanh tra và Kỷ luật của đảng CS Trung Quốc giam lỏng vì bị tố cáo về nhiều tội: ăn hối lộ, tham nhũng, hối mại quyền thế. Mạng Đại Kỷ Nguyên cho biết Tăng Khánh Hồng từng thực hiện đắc lực chủ trương đàn áp Pháp Luân Công của Giang Trạch Dân, đặc biệt là trong tội ác mổ tử thi các tù nhân Pháp Luân Công để bán các bộ phận cơ thể của họ.
Ngày 4/3/ 2015 cũng báo Tranh Minh (Hồng Kông) cho biết sau khi con trai cả của ông Giang Trạch Dân là Giang Miên Hằng bị mất chức Phó Chủ tịch Viện hàn lâm khoa học Trung Quốc kiêm Chủ tịch Phân viện Thượng Hải, nay cháu ruột ông là Nghê Phát Hoa, Phó Chủ tịch tỉnh An Huy, đã bị truy tố về tội tham nhũng nghiêm trọng. Vợ ông Nghê Phát Hoa họ Bành là con gái của Giang Trạch Tuệ, em gái ruột của ông Giang Trạch Dân. Báo China News ngày 2/3/2015 còn cho biết Tòa án nhân dân thành phố Đông Dinh tỉnh Sơn Đông đã công bố tội trạng của Nghê Phát Hoa nhận hối lộ đến 13 triệu Nhân dân tệ (bằng 2 triệu US$), tài sản ông này đã bị tịch thu sung vào công quỹ.
Các báo tự do ở Hồng Kông nói trên nhận định rằng cuộc săn con hổ lớn nhất - Hổ Vương - tức nguyên Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước Giang Trạch Dân đã gần kề, chỉ còn là vấn đề thời gian. Trong 2 năm qua, hàng vạn cán bộ đảng viên đã bị sa lưới, khai trừ khỏi đảng CS trong chiến dịch “săn hổ diệt ruồi, bắt sói trốn chạy, thu hồi tài sản bất minh”, trong đó có hơn 20 tướng lãnh từ thiếu tướng đến thượng tướng, hơn 50 cán bộ lãnh đạo cấp cao từ thứ trưỏng, bí thư tỉnh ủy trở lên đến ủy viên thường vụ Bộ Chính trị và phó bí thư Quân ủy Trung ương.
Ông Giang Trạch Dân được coi là lãnh tụ tối cao xếp hàng thứ 3 của đảng CS Trung Quốc, chỉ sau Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình. Vụ trọng án chính trị tham nhũng “Giang Trạch Dân và đồng bọn”, nếu được mở ra và xét xử, sẽ là vụ án cực kỳ chấn động.
Vụ bao vây, săn Hổ Vương của ông Tập Cận Bình trong chiến dịch chống tham nhũng, từ lớn nhất đến nhỏ nhất, từ hổ đến ruồi, còn bao gồm cả việc săn lùng bọn tham nhũng chạy ra nước ngoài và thu hồi mọi tài sản bất minh cho công quỹ, cho đến nay là thuận buồm xuôi gió, do được xã hội TQ hoan nghênh, tuy về thực chất là sự kình địch của các phe nhóm trong đảng CS. Riêng việc chống tham nhũng dù mạnh mẽ đến đâu cũng không thể cứu đảng CS khỏi thảm cảnh khủng hoảng, do đây là khủng hoảng toàn diện của cả một hệ thống chính trị, kinh tế, tài chính, văn hóa, đạo đức, mà nguyên nhân cơ bản là bản chất độc đoán, phản dân chủ, phi nhân quyền, phản các dân tộc Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng, đi ngược lại những giá trị dân chủ - nhân văn của thời đại văn minh.
Một số bạn Trung Quốc đối lập dân chủ tôi vừa gặp ở Pháp cho biết ông Tập Cận Bình có tham vọng vượt lên thành lãnh đạo vĩ đại, còn cao hơn cả Mao và Đặng khi hoàn thành “giấc mộng Trung Hoa”, thực hiện thống nhất Đài Loan vào một nước Trung Quốc phồn vinh, nhưng đó chỉ là không tưởng vì Trung Quốc hiện có quá nhiều căn bệnh hiểm nghèo chưa có thuốc chữa. Thêm nữa ông Tập Cận Bình đang có động cơ cá nhân, rất cay cú khi khám phá ra âm mưu đảo chính cung đình do chính Giang Trạch Dân cùng Chu Vĩnh Khang và đồng lõa dự định thực hiện hồi 2011 - 2012 nhằm đưa nhóm Bạc Hy Lai, Tăng Khánh Hồng, Giả Khánh Lâm… lên thay Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo, gạt Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường ra. Nay Tập thực hiện một đòn thù, “giáng trả bọn phản nghịch”.
Trông người lại nghĩ đến ta. Lãnh đạo đảng CS Việt Nam từng hứa sẽ học những kinh nghiệm tốt, tích cực của đảng CS Trung Quốc, Riêng về chống tham nhũng thì đảng CS Việt Nam dơ cao đánh khẽ, đánh như phủi bụi, vì sợ “vỡ bình”, sợ nát đảng, nhút nhát không kém gì chống bành trướng. Ủy ban chống tham nhũng bị tê liệt khi ông Nguyễn Bá Thanh không vào được Bộ Chính trị, rồi bị bệnh chết sớm, chết theo là 6 vụ án lớn bị chôn vùi luôn.Tướng Phạm Quý Ngọ cũng bị buộc phải chết để ỉm việc Đại tướng Trần Đại Quang ăn tiền của Dương Chí Dũng lên đến nửa triệu đôla.
Ủy ban Thanh tra và Kỷ luật của đảng CS Trung Quốc là cơ quan chủ yếu chống tham nhũng, do tổng bí thư trực tiếp nắm, có bộ máy điều hành đầy quyền lực, đi đến đâu có uy lực đến đó, điều tra có bài bản, truy lùng thư từ, hoá đơn, đối thoại trên máy cầm tay, hỏi cung kỹ từ thư ký, lái xe, hàng xóm, người tình, bè bạn, gia đình của can phạm, tiến hành bởi một bộ máy chuyên nghiệp trung thành được huấn luyện kỹ. Còn trong đảng CS Việt Nam thì ban tương đương là Ủy ban Kiểm tra Trung ương có trách nhiệm như vậy, nhưng lại là ban vô tích sự nhất, không có uy quyền gì, hoàn toàn vô trách nhiệm, đến người cầm đầu lẽ ra phải năng động có quyền uy thì lại là ông Hà Văn Dụ, ủy viên Bộ Chính trị, ươn hèn đến thảm hại, hầu như không ai biết đến, không hề có một lời phát biểu nào về trách nhiệm của mình trong việc duy trì kỷ luật đảng, có 5 tay phó ban cũng hầu như bất động nốt.
Hãy chờ xem trong Dự thảo Báo cáo chính trị, họ sẽ ăn nói ra sao về chống tham nhũng trong 5, 10 năm qua, khi mà có người lãnh đạo cho rằng đầu tư 10 tỷ mà thất thoát 1 tỷ là chuyện bình thường, không có gì phải lo!
Chính do đó mà Luật phòng chống tham nhũng không đe nẹt được ai, tuy có điều khoản ai tham nhũng lên đến 1 tỷ đồng (bằng 50.000 đôla) là có thể bị tử hình,. Nếu luật được tôn trọng nghiêm ngặt, nếu như quả thật ông Trần Đại Quang ăn đến nửa triệu đôla từ Dương Chí Dũng thì ông Quang phải có đến 10 cái đầu mới đền hết tội.
Ta hãy chờ xem pha vây hãm Hổ Vương ở Trung Quốc sẽ diễn ra như thế nào, sau khi người hùng họ Tập đã lần lượt bóc các vỏ cứng bên ngoài, phá tan các hàng rào giây kẽm gai bao bọc hang hùm, ở giữa thủ đô Bắc Kinh.
* Blog của Nhà báo Bùi Tín là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
12/03/2015
Vì sao dữ liệu nền kinh tế Trung Quốc không đáng tin?
Lu Chen
(Epoch Times)
Một nhà đầu tư đi ngang qua bảng chỉ số tại một công ty chứng khoán ở Vũ Hán, Trung Quốc (China Photos/Getty Images).
Dữ liệu về nền kinh tế Trung Quốc đã làm dấy lên bao hoài nghi suốt những năm qua. Nhưng quả là hiếm thấy khi một kiểm toán viên hàng đầu Trung Quốc lại lên tiếng về vấn đề này.
Nguyên Phó Tổng Kiểm toán nhà nước Trung Quốc kiêm Ủy viên Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc (CPPCC) - cơ quan cố vấn chính trị cao nhất Trung Quốc, ông Đổng Đại Thắng đã đưa ra một số nhận xét táo bạo về vấn đề này tại một cuộc họp của CPPCC vào ngày 4 tháng 3 vừa qua.
Hội nghị này diễn ra hàng năm ở Bắc Kinh, cùng với kỳ họp Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc - cơ quan lập pháp của Trung Quốc.
Sự thừa nhận của ông Đổng về việc làm giả các số liệu kinh tế đang diễn ra tràn lan tại Trung Quốc trong nhiều năm qua có vẻ như liên quan đến một động thái chung của các quan chức Trung Quốc, gây cụt hứng cho những ai kỳ vọng về sự tăng trưởng nhanh chóng trong tương lai. Động thái này bao gồm việc đưa ra hướng dẫn thận trọng về các số liệu kinh tế, và tìm cách làm giảm đi sức nóng của các cuộc thảo luận gần đây về việc Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.
Ông Đổng nói “Nhiều con số là số ảo”, tức là những con số này bị làm giả hoặc phóng đại lên. Ông nói thêm rằng những con số giả rất phổ biến: bao gồm tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), nguồn thu ngân sách, dữ liệu xuất nhập khẩu, dữ liệu tín dụng và các dữ liệu khác.
Các số liệu chính thức của Trung Quốc cho thấy tốc độ tăng trưởng GDP đạt 7,4% trong năm 2014 - mức thấp kỷ lục trong vòng 24 năm qua. Tuy nhiên, ông Đổng cho biết con số này vẫn còn cách xa so với thực tế, nhưng “tương đối thực tế hơn so với các con số trong những năm qua”.
Một số chuyên gia kinh tế chỉ ra rằng tỷ lệ tăng trưởng thực tế của Trung Quốc trong một vài năm qua chỉ khoảng 4% và sẽ còn giảm nữa do tăng trưởng từ việc đầu tư không hiệu quả đã chạm đáy.
Ông Đổng nhắc đến một số cuộc đàm luận khi ông gặp gỡ các quan chức trên khắp cả nước - những người đã “nhào nặn” các con số để phù hợp với những tuyên truyền tích cực về nền kinh tế.
“Những con số trong những năm qua đã được đội lên quá cao. Nếu chúng ta giảm xuống cùng một lúc, thì sẽ giống như nhảy xuống từ vách đá. Vì vậy, chúng ta cần phải giảm dần qua từng năm”, ông Đổng dẫn lời một quan chức địa phương.
Số liệu giả về kinh tế Trung Quốc không có gì đáng ngạc nhiên, nếu như chúng ta lưu ý rằng việc tăng trưởng kinh tế - cả những nhận thức về tăng trưởng kinh tế - là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng nhất của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong nhiều thập kỷ qua. Đảng phần lớn đã đánh cược cả tính hợp pháp của số liệu kinh tế về việc phát triển kinh tế thành công, có nghĩa là các quan chức địa phương theo đuổi các chính sách làm tăng chỉ số GDP ngay cả khi chúng không mang lại hiệu quả kinh tế. Phần lớn các cán bộ địa phương cũng được cho là đã thao túng các con số, và đã xuất hiện những giai thoại về việc đe dọa các doanh nghiệp để đảm bảo họ trình lên những chỉ số “tốt”.
“Nhiều con số là số ảo”
(Ông Đổng Đại Thắng - nguyên Phó Tổng Kiểm toán nhà nước Trung Quốc)
Lời thú nhận của ông Đổng là một trong những bình luận đầu tiên, bởi một quan chức Trung Quốc, công khai việc làm giả các dữ liệu kinh tế. Mặc dù các nhà kinh tế phương Tây (và nhiều người Trung Quốc) từ lâu đã xem số liệu chính thức với sự hoài nghi, giai thoại thường được dẫn chứng nhiều nhất về sự mất lòng tin nội bộ đối với các con số xuất phát từ Thủ tướng Lý Khắc Cường. Trước khi làm thủ tướng, vào năm 2007, ông Lý nói với đại sứ Mỹ rằng GDP của Trung Quốc là “do con người tạo ra và vì vậy không đáng tin cậy”. Lúc đó ông còn là Bí thư tỉnh Liêu Ninh nên những nhận xét của ông Lý đã được ghi lại trong bản ghi chép chính thức của một nhà ngoại giao Mỹ, và sau này được trang WikiLeaks công bố vào năm 2010. Hóa ra, ông Lý đã xem xét dữ liệu về điện lực và vận tải đường sắt để đưa ra những kết luận xác đáng hơn về tăng trưởng kinh tế.
Các khía cạnh khác về dữ liệu của Trung Quốc cũng đang bị đặt nghi vấn trong thời gian gần đây. Chẳng hạn như lời tuyên bố (thường được dẫn chứng) rằng tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đã đạt trung bình 10% một năm trong vòng ba thập kỷ qua, qua đó cho thấy Trung Quốc trở thành nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong những năm gần đây .
Trong một bài báo được công bố vào năm ngoái, chuyên gia kinh tế Harry X. Wu - một cố vấn cấp cao của nhóm nghiên cứu The Conference Board có trụ sở tại New York, ước tính tăng trưởng của Trung Quốc có nhiều khả năng đạt trung bình 7,2% mỗi năm từ năm 1978 đến năm 2012 — vẫn thấp hơn so với Nhật Bản và Đài Loan.
Vào đầu tháng 2, truyền thông nhà nước Trung Quốc Tân Hoa Xã đưa tin rằng làm giả dữ liệu nền kinh tế đang diễn ra tràn lan tại khắp các chính quyền địa phương. Để lót đường cho những triển vọng chính trị của các nhà lãnh đạo địa phương, các cuộc vận động (của các quan chức này) gắn liền với sự xuất hiện của các số liệu tăng trưởng sản xuất mạnh mẽ, vốn có thể bị đẩy lên bởi tầm quan trọng của cuộc vận động, thậm chí là các tập đoàn bị phá sản lâu rồi vẫn báo cáo có doanh thu.
Tân Hoa Xã kết luận: “Chính quyền địa phương Trung Quốc đang biến các dữ liệu sản xuất công nghiệp thành một trò chơi con số”.
L.C.
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 01:24
Nhãn: Trung Quốc
NỖI BUỒN 30 THÁNG 4
Những ngày cuối tháng 4 của 40 năm về trước, hàng ngàn sinh viên du hoc ở Pháp, Đức, Bỉ..v.v.. đã đón nhận những bản tin dồn dập đến từ quê hương với tâm trạng hụt hẫng, hoang mang. Từ những thanh niên đang ở độ tuổi hồn nhiên, bỗng chốc họ trở thành những kẻ vô Tổ quốc với những lo toan cho một tương lai vô định. Anh Nguyễn Đình Hải, sinh viên du học tại Bỉ từ năm 1969 bày tỏ :
«Trước đó tụi này theo dõi tình hình trên báo chí và đài truyền thanh, truyền hình rất cặn kẽ. Ngày 30/4 khi nghe tin Sài Gòn thất thủ thì phải nói là tụi này rất là hoang mang, mình không biết mình phải làm gì trong thời điểm đó. Sau đó là một cơn buồn ray rứt bởi vì khi mình đi ra khỏi đất nước, mình đi với hoài bão một ngày nào đó mình sẽ trở về để mình đóng góp, xây dựng, lúc bấy giờ mình cảm thấy mình rất là bơ vơ và hoang mang. Nhưng mà liền sau đó thì tụi này nghĩ mình vẫn phải tiếp tục làm cái gì đó để hữu ích cho đất nước, thì lúc đó tụi này đứng ra thành lập «Nhân bản dân tộc văn nghệ đoàn.»
Những câu hỏi được đặt ra cho tương lai của mình, những thanh niên còn rất trẻ, một sớm một chiều trở thành bơ vơ trên một nơi không phải là quê hương. Anh Trần Ngọc Giáp, cựu sinh viên du học tại Pháp chia sẻ :
«Lúc đó mình coi như illégal (bất hợp pháp) không biết mình có bị bắt trở về Việt Nam hay không ? Có phải lên toà đại sứ Việt cộng làm lại giấy tờ hay không ? không biết là chính phủ Pháp có chấp nhận mình hay không ? lúc đó mình không biết được , lúc đó thì không ai biết gì hết ! »
Và tiếp đó là nỗi lo vật chất khi mà nguồn tiếp tế từ Việt Nam đã bị gián đoạn. Anh Nguyễn Sơn Hà, một sinh viên du học ở Pháp từ năm 1974 nói :
«Lúc đó rất là hoang mang, nhất là theo dõi trên các đài truyền hình Pháp nói về tình hình ở bên nhà, về sự thất thủ của các tỉnh, các thành phố và nhất là sự tuyệt vọng của miền Nam đã làm ảnh hưởng đến tinh thần sinh viên lúc đó. Nhiều đoàn thể sinh viên đã nghĩ đến chuyện giải tán, mỗi cá nhân tự lo bản thân mình bởi vì lúc đó tiền viện trợ từ gia đình bị gián đoạn, còn toà đại sứ VNCH thì lo tháo chạy. Vì không có tiền viện trợ từ Việt Nam , anh (Trần văn ) Bá đem các anh em về ở với anh, lo cho anh em từ cái ăn, chỗ ở. Năm đó, mùa lạnh, Hà không có áo lạnh, anh Bá không nói một lời, đưa cho Hà cái áo lạnh. Anh em thiếu ăn, ảnh liền đưa một cái ticket ( phiếu ăn) cho các anh em. »
Hoang mang, buồn rầu và uất hận dẫn đến sự tuyệt vọng về tương lai. Có người thì tâm trạng cực kỳ bi quan như anh Trương Quốc Trung, lúc đó đang học năm thứ 5 về ngành kiến trúc tại Pháp :
“Riêng tôi thì tôi nghĩ tôi thuộc về một thế hệ bỏ đi, không làm được cái gì hết. Như mình là chân hỏng trên một đất nước không phải của mình. Và với cái tài năng mình có, cái học thức mình có, mình trở thành vô dụng”
Có người thì muốn chọn dòng sông Seine như một giải pháp. Anh Lê Như Quốc Khánh cho biết :
«Những người đi du học hoàn toàn tự dưng mất liên lạc với Bố Mẹ, không còn lãnh lương, không còn gì hết, không biết ra làm sao. Có người ra bờ sông ngồi tính tới chuyện tự tử nữa.”
Đức, nơi có gần 2000 sinh viên du học ở thời điểm đó. Anh Trần Huê, lúc đó đang học năm thứ 5 y khoa tại Munchen cũng cùng chung 1 tâm trạng :
“Ngày 30/4, cái tin đó làm cho tôi rất là buồn vì trong thời gian tôi du học tại Âu châu thì tôi đã được rất nhiều những thông tin về những chế độ Cộng sản ở Đông âu, ở Liên xô, cũng như ở Trung quốc, thành ra chuyện miền Nam bị mất vô tay của người Cộng sản tôi thấy là nó có những dấu hiệu không tốt cho đất nước của mình.
Kể từ khi mà giấy thông hành cũ của VNCH hết hạn thì mình sẽ được một giấy thông hành của người Đức họ cấp cho. Luật quốc tế nó có một loại (luật) dành cho những người không có quốc gia đó.”
Anh Vũ Quốc Thao, lúc đó là một chàng sinh viên còn rất trẻ, chưa ý thức ngay được sự mất mát đem đến do biến cố 30/4, anh nói:
«Riêng tôi, cho tới ngày 30/4 tôi chưa hoàn toàn ý thức được rằng mình không còn có một chỗ đứng trên quê hương mình nữa lúc đó. Phải vài ngày sau khi cùng với anh em trong Tổng hội Sinh viên tới lãnh sự quán để giúp thiêu huỷ các hồ sơ. Hồ sơ tương đối mật thì mình đốt hết, còn phim ảnh, tài liệu sứ quán thì đem tải đi nơi khác.”
Sự thống nhất đất nước ở bên kia, đưa đến sự phân chia rõ rệt ở bên này bờ đại dương. Tại Paris sau ngày 30/4 đã diễn ra nhiều cuộc đánh đấm giữa hai phe sinh viên thân Cộng và Quốc gia. Nhóm sinh viên thân cộng tấn công những sinh viên quốc gia đi riêng rẽ. Anh Nguyễn Sơn Hà kể lại:
«Không thể để cho các anh em đó bị hại, anh Bá kêu các anh em đi bảo vệ các anh em này, ngay điểm hẹn chỗ Cité U ( Cité Université) đánh rất là mãnh liệt. Vì anh Bá là một người quân tử ảnh cấm các anh em mang vũ khí, mình không được làm tổn thương ngay cả người địch của mình. Chính vì vậy mà làm cho bên phe mình bị thương rất nhiều vì bên phe kia họ cầm gậy, cầm sắt, cầm vũ khí để đánh lại mấy anh em.»
Sinh viên quốc gia bên Đức cũng chịu chung số phận. Nếu ở Việt Nam có những thành phần được gọi là « thành phần cờ đỏ, thành phần 30/4 » xuất hiện sau ngày miền Nam đổi chủ thì tại Đức cũng có những sinh viên thân cộng đảm nhận nhiệm vụ 30/4 này (tuy không mang băng đỏ). Anh Trần Huê nói :
«Bên Tây Đức có toà đại sứ (VNCH) ở Bonn, còn bên Đông đức cũng có toà đại sứ của miền Bắc. Những sinh viên theo Cộng sản : nhóm Đoàn kết rất là nhiều thì họ trở thành nhân viên của toà đại sư. Giấy thông hành thì mình phải qua mấy người đó, họ phải chứng nhận căn cước của mình là người như thế nào. Họ đòi giải tán tất cả những đoàn thể sinh viên, nhất là những đoàn thể sinh viên chống Cộng.»
Trước tình hình thay ngôi đổi chủ tại Việt Nam, các toà đại sứ cũng chịu cùng chung số phận. Anh Trương Quốc Trung cho biết tình hình tại toà đại sứ Pháp lúc đó :
«Toà đại sứ Việt Nam của mình thì….(cười…) những người đàn anh của chúng tôi đã bỏ trốn hết tất cả, họ không lo cho chúng tôi cái gì cả, chúng tôi là những người lên toà đại sứ để thu thập tất cả những hồ sơ, thu thập những gì còn lại để đem về Tổng Hội sinh viên để lưu trữ.»
Lo sợ trở thành một kẻ vô tổ quốc, ngày 30/4 , anh Nguyễn Quốc Nam lúc đó đang du học tại thành phố Lille, miền bắc Pháp, đã cùng gia đình đến toà đại sứ ở Paris để tự mình đóng dấu gia hạn hộ chiếu, anh Nguyễn Quốc Nam kể lại :
«Chúng tôi đến đó thì nhân viên toà đại sứ không còn ai nữa chúng tôi phải tự làm lấy. Một người thì viết trên sổ thông hành ngày 30/4/1975. Tôi thì đóng mộc và ký tên trên đó. Sau khi mà tôi đã gia hạn sổ thông hành rồi, suy nghĩ lại thì tôi mới biết là VNCH mình không còn nữa thì sổ thông hành của tôi cũng không giá trị. Préfecture de police (sở cảnh sát) ra cho tôi một cái tên là « Apatride » tức là người không có tổ quốc. Ngày nay chúng tôi còn giữ lại sổ thông hành đó làm kỷ niệm, đó là những kỷ niệm không thể nào quên được dù đã 40 năm qua .»
Anh Nguyễn Đình Hải cho biết những gì xảy ra tại toà đại sứ Bỉ sau ngày 30/4 :
«Lúc tụi này lên thì toà đại sứ nói với chúng tôi là : Chúng tôi đã hết phận sự rồi, cái phận sự còn lại của chúng tôi là phải trao tất cả những gì chúng tôi có trong tay cho những người thuộc chế độ mới sau này. Tôi nhớ hồi đó một số anh chị em đã rất bực mình vì chuyện đó, chúng tôi không đồng ý, chúng tôi yêu cầu anh ra khỏi toà đại sứ và chúng tôi tiếp thu toà đại sứ để tiếp tục cái công cuộc đấu tranh, phục vụ cho đất nước và dân tộ c.»
Những chàng thanh niên trẻ ngày xưa, ra đi với « sách trong tay, ước mộng chất đầy hồn » bỗng chốc trở thành những con thuyền mất phương hướng trên dòng sông lịch sử. Nếu mỗi khúc ngoặc của cuộc đời là một định mệnh thì có những con thuyền đã giữ vững tay chèo để đến bến bờ, nhưng cũng có những con thuyền đã phải ngập sóng giữa dòng. Bốn mươi năm nhìn lại, những mái đầu giờ đã bạc chắc cũng ngậm ngùi.
nơi gửi USA
Hãy noi gương Trần Văn Bá trên mọi nẻo đường tha hương! Chánh nghĩa VNCH sẽ chiến thắng! Ngày nay csvn đang vào con đường cùng. Chúng sẽ phải tan rả trước lòng dân VN và thế giới đã biết rõ bộ mặt vô nhân của chúng. hồ chí minh vừa được Daily Mail của Anh Quốc nêu tên trong danh sách những kẻ diệt chủng tàn ác nhất thế kỷ 20. Bọn csvn sẽ trả lời trước Dân Tộc VN về tội ác này trong nay mai với đà chiến đấu không ngừng của Dân VN trong và ngoài nước.FREEDOM IS NOT FREE. Vào youtube nghe Nah Nguyễn Vũ Sơn,một sinh viên trẻ du học tại Mỹ,đã can đãm vạch trần bộ mặt gian ác,bán nước của csvn.
09/03/2015 14:34
Hồi ức 30/4 của người Việt tại Đông Âu
Miền Bắc Việt Nam, nơi những người đã từng môt thời cống hiến tuổi xuân của mình cho cuộc chiến được gọi là thần thánh. Trước mặt họ và trong đầu họ chỉ có một con đường Nam tiến để diệt giặc Mỹ cứu đồng bào ruột thịt miền Nam. Với bầu tâm huyết đó, họ đã hiến tuổi trẻ của mình vào những năm tháng chiến tranh. Những người một thời đã yêu và đã chết cho lý tưởng đó, họ nghĩ gì khi hôm nay dòng sông Bến Hải giờ đã không còn chia cắt đôi bờ ?
Ông Phạm Hoàng, một văn nghệ sĩ, thời điểm 30/4/75 ông đang ở Quảng trị, trên đường tiến vào Nam cùng với đoàn văn công, sau 75, ông đi học tập ở Bungarie và di tản qua Đức sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ, ở đó, ông chủ trương báo Cánh Én. Từ Munchen, ông Phạm Hoàng kể lại:
“Chúng tôi nhớ là bắt đầu khi quân miền bắc tiến vào Huế thì chúng tôi cũng đi theo vào Huế. Và cái hiện trạng chiến tranh vẫn hiện rõ trước mắt tôi. Tôi lúc ấy là một chàng thanh niên Hà Nội, cho dù lúc đó chiến tranh trên cả đất nước Việt Nam đã mấy năm trước rồi mà tôi là một người lính Hà Nội mà mơ hồ về cuộc chiến. Chúng tôi nhìn về phía miền Nam, về phía Sài gòn như là một vùng đất tự do còn lại của Việt Nam để mà khi cuộc sống quá mức đến độ không chịu đựng được nữa thì có thể lấy nó như là một miền đất hứa.
30/4 như là bắt đầu một đại hoạ của một dân tộc chứ nó không còn mang ý nghĩa ban đầu mà tôi cảm nhận.
- Ông Lã Đức Trung, Ba Lan
Phần lớn những bạn bè của tôi trong giới văn nghệ sĩ đều thấy một sự tàn khốc của một cuộc chiến tranh. Hơn nữa là một sự thất vọng khi người ta thấy rằng cái mảnh đất hứa, cái mảnh đất tự do, lúc đó, khi mà cái chấm Sài gòn, cái chấm đỏ cuối cùng, cái màu đỏ nó cứ chiếm dần từng vùng đất một và cái vùng đất hứa của những chàng trai Hà Nội như chúng tôi ngày càng thu hẹp lại, thì lúc đó cũng là gần như sự thất vọng.»
Ngày 30/4/75 anh hãy còn là một đứa trẻ lên 10, chiến thắng năm nào chỉ là một ký ức khá mờ nhạt. Lớn lên, anh Đỗ Xuân Cang dần dần nhận ra, lý tưởng độc lập tự do chỉ là gương mặt trần trụi sau lớp phấn son khi màn kịch được khép lại. Hiện cư ngụ tại Praha, cộng hoà Sec, Anh Đỗ Xuân Cang chia sẻ:
«Cái hồi ức khá là mờ nhạt vì lúc đó tôi mới có 10 tuổi thôi. Thực ra, lúc đó chiến tranh kết thúc thì những gia đình có thân nhân là bộ đội trở về và những câu chuyện về chiến trường. Chỉ biết rằng sau đó miền Bắc có những sự thay đổi mà từ trước đến nay không có : như là những cái áo màu, vải mầu, những con búp-bê mà miền Nam đưa ra. Về phía nhà nước thì họ tạo ra một không khí mang tính chất kỷ niệm, thuyết trình, đài thì cũng lên những bài ca chiến thắng, về phía dân chúng thì gặp lại thân nhân, gia đình, đó là điều quan trọng .
Sau khi lớn lên, thì đến một lúc nào đó, tôi cảm nhận ngày 30/4 dù sao cũng là một ngày kết thúc chiến tranh, chấm dứt một cuộc chiến kéo dài khá mệt mỏi và kiệt quệ về nhân lực cũng như về vật chất. Sau đó thì tôi gặp gỡ, tiếp xúc và biết rất nhiều thông tin ngoài cái thông tin chính thống của nhà nước : hàng triệu người dân bỏ nước ra đi.
Khi biết được đời sống miền Nam trước 1975 về mọi mặt, vật chất cũng như tinh thần thì tôi có một cái nhận định khá khác với những gì ban đầu, đó là gì ? 30/4 như là bắt đầu một đại hoạ của một dân tộc chứ nó không còn mang ý nghĩa ban đầu mà tôi cảm nhận. Và khi biết rằng đến ngày nay đất nước chúng ta ngày nay vẫn còn bị xâm lấn, bị lệ thuộc thì rõ ràng những mục đích mà nhà nước đặt ra ban đầu đã không đạt được.»
Ông Lã Đức Trung qua Ba Lan du học năm 1974 kể rằng ngày 30 tháng 4 được du sinh tại đó tiếp nhận một cách thờ ơ, vì họ nghĩ rằng sau khi Mỹ rời khỏi Việt Nam thì việc miền Nam thất thủ là một chuyện nằm trong tầm tay, một chuyện dĩ nhiên nên họ không ngạc nhiên lắm khi đón nhận tin này, ngày đó đối với hàng ngàn người Việt ở Ba Lan lúc đó cũng chỉ là một ngày bình thường như bao ngày khác. Ông Lã Đức Trung nhớ lại :
«Tôi nhớ lại thì tôi thấy tôi cũng không có cảm giác gì đặc biệt lắm. Hầu như ngày hôm ấy không có cái gì mang tính chất gọi là đặc biệt, tức là tin tức nó rất là bình thường, nó không có gì gọi là phấn khởi hoặc là mang ấn tượng gì cả về một đất nước sau chiến tranh đã gọi là thống nhất.
Hồi đó tôi nhớ là những ngày đi học bình thường, những ngày làm việc bình thường. Tôi thấy đối với người dân ở Ba Lan cũng như học sinh ở đây, không thấy có cái gì gọi là hồ hởi lắm, chứ không có tổ chức, không có ăn mừng gì hết. Và thực sự từ trước đến nay, tôi cũng không có tổ chức ăn mừng ngày 3 tháng 4 bao giờ ( ý nói ngày 30/4 - RFA) Như tôi, tôi cảm thấy đấy không phải là một sự chiến thắng. Đất nước bao nhiêu năm chiến tranh, bao nhiêu sự mất mát về mọi mặt của dân tộc Việt Nam mà người dân Việt Nam vẫn chưa được thực sự là một đất nước tự do nên bản thân tôi, tôi chưa thấy gì là vui mừng cả.»
Nhà báo Trần Quang Thành, cựu phóng viên đài phát thanhTiếng nói Việt Nam và đài Truyền hình Việt Nam, hiện định cư tại Bratisslava, thủ đô của Slovakia. Là nạn nhân của một sự trả thù tàn khốc dưới chế độ Cộng sản, cho nên ông đã sớm thấy đó là một chế độ dã man, những cũng phải đợi đến năm 2008, ông mới được đi đoàn tụ cùng con. Nhà báo Trần Quang Thành nhìn lại :
Nhìn lại 40 năm cuộc chiến gọi là chống Mỹ cứu nước nhưng thực tế nó lại là một cuộc chiến về ý thức hệ của những người Cộng sản lừa dối nhân dân ta, thực tế nó là một cuộc hiến huynh đệ tương tàn.
- Nhà báo Trần Quang Thành
“Khi tôi nghe đài phát thanh Tiếng Nói Việt Nam đưa tin ông Dương văn Minh đầu hàng, lúc đó tôi đang ở trên cầu Phan Than
TIN THẾ GIỚI
Bắc Kinh không úp mở : Biển Đông là sân nhà của Trung Quốc
Trong một cuộc họp báo ngày 08/03/2015 tại Bắc Kinh, Ngoại trưởng Vương Nghị đã bác bỏ thẳng thừng những phản đối của nước khác về việc Trung Quốc đang đẩy mạnh các công trình bồi đắp đảo nhân tạo tại vùng quần đảo Trường Sa, nơi có tranh chấp với các láng giềng trong đó có Việt Nam. Ông Vương Nghị đã không ngần ngại khẳng định : Biển Đông là « nhà » và là « sân » của Trung Quốc.
Dựa theo câu hỏi của Tân Văn Xã (China News Service) - hãng tin chính thức thứ hai tại Trung Quốc sau Tân Hoa Xã - theo đó phải chăng là hoạt động bồi đắp các bãi đá và rạn san hô của Trung Quốc ở Biển Đông báo hiệu một sự thay đổi trong chính sách của Trung Quốc đối với Biển Đông và thậm chí đối với cả các láng giềng, ông Vương Nghị đã tại khẳng định là chính sách Trung Quốc không thay đổi.
Vấn đề là Ngoại trưởng Trung Quốc đã nhân dịp này đả kích các nước đã phản đối Trung Quốc và nói thẳng Bắc Kinh có quyền làm tất cả những gì mình muốn trong vùng lãnh thổ thuộc về mình. Giới quan sát đặc biệt ghi nhận lời khẳng định rằng khu vực đang xây dựng là « nhà » và « sân » của Trung Quốc.
Theo bản tin tiếng Anh trên trang web của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc, ông Vương Nghị nói nguyên văn : « Chúng tôi không giống như một số quốc gia khác đã xây dựng trái phép trong nhà của người khác. Và chúng tôi không chấp nhận những lời chỉ trích từ người khác khi mà chúng tôi chỉ xây dựng các cơ sở trên sân riêng của chúng tôi. »
Tuyên bố không úp mở của Ngoại trưởng Trung Quốc, tại một cuộc họp báo quốc tế, về quan điểm từng bị tố cáo là Bắc Kinh muốn biến Biển Đông thành ao nhà của mình, đã làm dấy lên nhiều chỉ trích. Trả lời phỏng vấn nhanh của RFI qua email, Giáo sư Thayer, chuyên gia tại Học viện Quốc phòng Úc. không che giấu thái độ sửng sốt trước một tuyên bố vừa « thô bạo - brazen », vừa « ngạo mạn - arrogant », vừa phản lịch sử vì chính Trung Quốc mới là nước chiếm đóng nhà của người khác.
Thayer : "Tôi vô cùng kinh ngạc khi đọc thấy ý kiến của Ngoại trưởng (Trung Quốc). Đưa ra (vài hôm) trước ngày kỷ niệm 27 năm cuộc tấn công của Hải quân Trung Quốc vào tàu hậu cần Việt Nam ở khu vực quanh Đá Gạc Ma (Johnson South Reef) ngày 14 tháng 3 năm 1988. Nhận xét của ông Vương Nghị vừa thô bạo, vừa ngạo mạn.
Cần phải nhớ lại rằng, vào thời điểm đó, không có sự hiện diện của Trung Quốc tại quần đảo Trường Sa. Hành động của Trung Quốc tấn công và tàn sát 64 thủy thủ Việt Nam phải bị coi là một hành vi xâm lược trắng trợn nhưng lại không bị cộng đồng quốc tế trừng phạt. Tàu chiến Trung Quốc khi ấy đã được phái đến nơi cùng với một hạm đội nhỏ mà nhiệm vụ trên danh nghĩa là thiết lập một trạm quan sát nhân danh Ủy ban Liên chính phủ về Hải dương học của UNESCO.
Sau trận hải chiến, Trung Quốc bắt đầu chiếm đóng các rạn san hô và bãi ngầm khác trong quần đảo Trường Sa, một hành động được tiếp tục cho đến ngày nay. Có tin là chỉ huy của đội tàu Trung Quốc đã bị khiển trách vì sử dụng võ lực mà không được lệnh. Tuy nhiên, Trung Quốc đã hoàn toàn sẵn sàng khẳng định chủ quyền trên các thực thể mà họ đã chiếm bằng vũ lực, vi phạm luật lệ quốc tế. Trong thực tế, Trung Quốc đã chiếm « nhà của người khác ».
Tuyên bố của ông Vương Nghị là một ví dụ về việc Trung Quốc sử dụng chiến tranh thông tin nhằm bóp méo sự thật lịch sử và luật pháp quốc tế".
RFI : Đây có phải là lần đầu tiên mà một quan chức Trung Quốc cao cấp như vậy cho rằng Biển Đông là « nhà » và « sân » - hay nói cách khác là « ao nhà » - của Trung Quốc ?
Thayer : "Nếu tôi nhớ không lầm thì đây là lần đầu tiên Trung Quốc mô tả các thực thể địa lý ở Biển Đông như là « nhà » của họ. Cách dùng từ ngữ này cho thấy là Trung Quốc đã leo thang trong hành động biện minh cho các hành động của họ, chuyển từ việc khẳng định « chủ quyền lịch sử » đối với các đảo và « vùng biển tiếp giáp », sang việc tuyên bố quyền sở hữu không hơn không kém đối với với các thực thể như đảo đá, rạn san hô hay các bãi ngầm khác".
RFI : Với kiểu khẳng định như kể trên, liệu Trung Quốc có sẽ chủ động hơn trong các cuộc đàm phán về Bộ Quy tắc Ứng xử tại Biển Đông COC với ASEAN hay không ? Bởi vì điều đó có nghĩa chấp nhận « luật nước ngoài » trên sân riêng của mình ?
Thayer : "Dĩ nhiên Trung Quốc sẽ tiếp tục lôi kéo ASEAN vào một chuỗi các cuộc đàm phán vô tận về một Bộ Quy tắc Ứng xử. Trung Quốc vẫn khăng khăng cho rằng Bản Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) phải được thực hiện tốt theo như ý của Bắc Kinh trước đã. (Có điều) là Bản Hướng dẫn thực thi DOC đã được thông qua từ 4 năm rồi, nhưng chưa hề có một hoạt động hợp tác nào được chấp thuận hay bắt đầu.
Lời lẽ thô bạo của Ngoại trưởng Trung Quốc là nhằm mục đích cô lập Philippines và Việt Nam, và hù dọa các thành viên ASEAN khác để buộc họ phục tùng. Trung Quốc hy vọng là các thành viên « nhút nhát hay lo » của ASEAN sẽ khuyên nhủ là phải tự kiềm chế, và việc tham khảo sẽ tiếp tục bất tận.
Thời gian đang đứng về phía Trung Quốc, với từng gàu cát lấy từ biển lên cho phép họ mở rộng diện tích các đảo nhân tạo và tăng cường năng lực kiểm soát – và cưỡng chế nếu cần - của Trung Quốc. Trung Quốc đang thay đổi « thực tế trên hiện trường », qua đó làm cho bất kỳ quyết định nào của Tòa án Trọng tài về đơn kiện của Philippines trở nên vô nghĩa".
http://vi.rfi.fr/20150309-tq-bien-dong//Đại sứ Mỹ tại Việt Nam chống việc Bắc Kinh cải tạo thực trạng Biển Đông
Ông Ted Osius trước khi được bổ nhiệm làm Đại sứ Mỹ tại Việt Nam.@US embassy Jakarta
Trong bài nói chuyện vào hôm qua, 06/03/2015 tại Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam đã phác họa triển vọng tốt của quan hệ Mỹ-Việt vào lúc hai nước chuẩn bị kỷ niệm 20 năm bình thường hóa bang giao. Hồ sơ Biển Đông đương nhiên đã được gợi lên khi Đại sứ Mỹ nhấn mạnh quan điểm xuyên suốt của Washington chống lại việc dùng sức mạnh để áp đặt chủ quyền. Các hành động của Trung Quốc bồi đắp đảo nhân tạo cũng bị nêu bật.
Trong bài phát biểu được Đại sứ quán Mỹ ở Hà Nội công bố, Đại sứ Ted Osius đã giành nguyên một đoạn để đề cập đến Biển Đông, từ ngữ được ông dùng ngay bên cạnh tên gọi quốc tế tiếng Anh là South China Sea. Ông khẳng định : « Cũng như Việt Nam, Hoa Kỳ mong muốn có hoà bình và ổn định trong khu vực, đặc biệt là tại Biển Đông ».
Đại sứ Mỹ đã nhắc lại tuyên bố mới đây của Ngoại trưởng Mỹ John Kerry tại Diễn đàn An ninh Khu vực ASEAN (ARF), theo đó : « Việc đe doạ, cưỡng ép hoặc sử dụng vũ lực bởi bất kỳ bên tuyên bố chủ quyền nào… là điều không thể chấp nhận được ».
Các hoạt động bồi đắp đảo nhân tạo do Trung Quốc rốt ráo tiến hành trong thời gian gần đây tại vùng Trường Sa đã được ông Ted Osius đặc biệt nhấn mạnh, dù không nêu đích danh Bắc Kinh. Đại sứ Mỹ đã « kêu gọi tất cả các bên tuyên bố chủ quyền thực hiện tự kiềm chế - đặc biệt là về các hoạt động cải tạo thực địa quy mô lớn để biến đổi các bãi đá và bãi ngầm thành những tiền đồn có thể dễ dàng quân sự hoá ».
Về một giải pháp hòa bình cho cuộc tranh chấp, Đại sứ Mỹ cho rằng Hiệp hội Đông Nam Á ASEAN và Trung Quốc « cần sớm hoàn tất một bộ Quy tắc Ứng xử có ý nghĩa tại Biển Đông ».
Phát biểu của Đại sứ Mỹ tại Việt Nam là phản ứng mới nhất của Chính quyền Mỹ sau khi một loạt thông tin với ảnh vệ tinh làm bằng chứng cụ thể được tiết lộ, cho thấy quy mô to lớn và tốc độ nhanh chóng của công việc Trung Quốc đang tiến hành ở vùng Trường Sa : bồi đắp 7 bãi ngầm đang chiếm đóng thành đảo nhân tạo lớn hơn gấp bội, bên trên xây dựng những loại cơ sở bị cho là có thể dùng vào mục tiêu quân sự.
Ông Nguyễn Phú Trọng sẽ là Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên thăm Mỹ
Trong bài phát biểu của mình, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam còn xác nhận hai chuyến công du quan trọng của lãnh đạo Việt Nam qua Mỹ trong năm nay.
Trước hết là chuyến công du của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng mà theo ông Ted Osius, là « theo lời mời của phía Hoa Kỳ ».
Giới phân tích từng nhấn mạnh rằng ông Trọng sẽ là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên đi thăm Hoa Kỳ, phản ánh đà tăng cường quan hệ nhanh chóng giữa hai bên, đặc biệt là sau vụ Trung Quốc kéo giàn khoan HD-981 vào cắm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế vào tháng Năm 2014.
Một chuyến thăm khác cũng quan trọng được Đại sứ Mỹ tiết lộ, chuyến công du của Tướng Trần Đại Quang, Bộ trưởng bộ Công an Việt Nam, nhưng thời điểm chưa được xác định. Ông Ted Osius tuy nhiên khẳng định rằng Bộ trưởng Công an Việt Nam sẽ « gặp gỡ các quan chức cao cấp Hoa Kỳ để trao đổi ý kiến về một loạt các vấn đề, trong đó có vấn đề nhân quyền ».
Hồ sơ nhân quyền được cho là cản lực quan trọng nhất trong tiến trình xích lại gần nhau giữa Hà Nội và Washington.
Vì an ninh quốc gia, Manila tẩy chay chuyên gia Trung Quốc
Yêu sách của Bắc Kinh Biển Đông khiến người Philippines cảnh giác với Trung Quốc.REUTERS/Romeo Ranoco
Phủ Tổng thống Philippines vào hôm nay 28/02/2014, đã chính thức lên tiếng bảo vệ quyết định mới đây của Bộ Năng lượng nhằm đình chỉ sự tham gia của kỹ thuật viên Trung Quốc vào sự phát triển và vận hành của màng lưới điện quốc gia Philippines. Lý do được nêu lên là vấn đề an ninh quốc gia, nhưng giới quan sát cũng gắn liền quyết định này với tranh chấp giữa Bắc Kinh và Manila về Biển Đông.
Theo báo chí Philippines, trên một đài phát thanh địa phương, Phó Phát ngôn viên của Tổng thống Aquino, bà Abigail Valte khẳng định rằng : Khi quyết định không triển hạn công tác cho 16 cán bộ kỹ thuật Trung Quốc đang làm việc tại Tập đoàn Lưới điện Quốc gia Philippines NGCP, Bộ Năng lượng Philippines đã có nghiên cứu kỹ lưỡng về những ưu và khuyết điểm của vấn đề.
Bà Valte đã tuyên bố như trên sau khi Bắc Kinh lên tiếng đòi Manila phải xử sự công bằng đối với Tập đoàn NGCP – có 40% vốn Trung Quốc – vào việc xây dựng màng lưới điện toàn quốc của Philippines. Theo Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi, thì tập đoàn này đã có nhiều đóng góp quan trọng, và Manila phải bảo đảm quyền lợi hợp pháp của tập đoàn đó.
Tranh cãi đã nẩy sinh từ hôm thứ Tư, 25/02 khi Bộ Năng lượng Philippines loan báo là sẽ chấm dứt công việc của số cán bộ kỹ thuật Trung Quốc đang làm việc trong hệ thống điện toàn quốc, vì những lý do đặc biệt về an ninh quốc gia.
Phát biểu với hãng tin Pháp AFP, Bộ trưởng Bộ Năng lượng Jericho Petilla xác nhận là 16 kỹ thuật viên Trung Quốc đang công tác tại Tập đoàn Lưới điện Quốc gia Philippines NGCP sẽ không được triển hạn visa vào tháng 7 tới đây và sẽ phải hồi hương.
Là một công ty tư nhân Philippines, NGCP có tới 40% phần hùn đến từ Tập đoàn Lưới điện Nhà nước Trung Quốc, tập đoàn quốc doanh đang quản lý hệ thống phân phối điện tại Trung Quốc.
Khi được hỏi là phải chăng vấn đề an ninh quốc gia bị đe dọa đã khiến cho chính quyền Manila quyết định như trên, vị Bộ trưởng Philippines đã xác nhận rằng vấn đề đó « hiển nhiên là một mối quan tâm ».
Đối với chính quyền Manila, màng lưới điện quốc gia Philippines phải do chính người Philippines điều hành và người Philippines hiện có đủ năng lực chuyên môn để đảm trách phần việc do người Trung Quốc thực hiện.
Ngoài lý do an ninh nói trên, một số nhà quan sát đã gắn liền quyết định không cho chuyên gia Trung Quốc tiếp tục làm việc trong màng lưới điện quốc gia Philippines với hồ sơ tranh chấp Biển Đông giữa Manila và Bắc Kinh.
Các hành vi lấn lướt của Trung Quốc nhắm vào Philippines trong những năm gần đây, từ vụ giành quyền kiểm soát thực tế trên bãi cạn Scarborough Shoal, cho đến vụ phong tỏa đường tiếp tế cho lính Philippines đồn trú trên bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal), đã làm quan hệ song phương xấu hẳn đi.
Theo báo chí Philippines, hôm thứ tư vừa qua, Bộ trưởng Bộ Năng lượng Philippines cũng thừa nhận rằng tranh chấp Biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc đã tạo nên mối quan ngại về sự có mặt của chuyên gia Trung Quốc trong một tập đoàn chiến lược như tập đoàn lưới điện NGCP.
http://vi.rfi.fr/chau-a/20150228-vi-an-ninh-quoc-gia-manila-tay-chay-chuyen-gia-trung-quoc/
Bà Valte đã tuyên bố như trên sau khi Bắc Kinh lên tiếng đòi Manila phải xử sự công bằng đối với Tập đoàn NGCP – có 40% vốn Trung Quốc – vào việc xây dựng màng lưới điện toàn quốc của Philippines. Theo Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi, thì tập đoàn này đã có nhiều đóng góp quan trọng, và Manila phải bảo đảm quyền lợi hợp pháp của tập đoàn đó.
Tranh cãi đã nẩy sinh từ hôm thứ Tư, 25/02 khi Bộ Năng lượng Philippines loan báo là sẽ chấm dứt công việc của số cán bộ kỹ thuật Trung Quốc đang làm việc trong hệ thống điện toàn quốc, vì những lý do đặc biệt về an ninh quốc gia.
Phát biểu với hãng tin Pháp AFP, Bộ trưởng Bộ Năng lượng Jericho Petilla xác nhận là 16 kỹ thuật viên Trung Quốc đang công tác tại Tập đoàn Lưới điện Quốc gia Philippines NGCP sẽ không được triển hạn visa vào tháng 7 tới đây và sẽ phải hồi hương.
Là một công ty tư nhân Philippines, NGCP có tới 40% phần hùn đến từ Tập đoàn Lưới điện Nhà nước Trung Quốc, tập đoàn quốc doanh đang quản lý hệ thống phân phối điện tại Trung Quốc.
Khi được hỏi là phải chăng vấn đề an ninh quốc gia bị đe dọa đã khiến cho chính quyền Manila quyết định như trên, vị Bộ trưởng Philippines đã xác nhận rằng vấn đề đó « hiển nhiên là một mối quan tâm ».
Đối với chính quyền Manila, màng lưới điện quốc gia Philippines phải do chính người Philippines điều hành và người Philippines hiện có đủ năng lực chuyên môn để đảm trách phần việc do người Trung Quốc thực hiện.
Ngoài lý do an ninh nói trên, một số nhà quan sát đã gắn liền quyết định không cho chuyên gia Trung Quốc tiếp tục làm việc trong màng lưới điện quốc gia Philippines với hồ sơ tranh chấp Biển Đông giữa Manila và Bắc Kinh.
Các hành vi lấn lướt của Trung Quốc nhắm vào Philippines trong những năm gần đây, từ vụ giành quyền kiểm soát thực tế trên bãi cạn Scarborough Shoal, cho đến vụ phong tỏa đường tiếp tế cho lính Philippines đồn trú trên bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal), đã làm quan hệ song phương xấu hẳn đi.
Theo báo chí Philippines, hôm thứ tư vừa qua, Bộ trưởng Bộ Năng lượng Philippines cũng thừa nhận rằng tranh chấp Biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc đã tạo nên mối quan ngại về sự có mặt của chuyên gia Trung Quốc trong một tập đoàn chiến lược như tập đoàn lưới điện NGCP.
http://vi.rfi.fr/chau-a/20150228-vi-an-ninh-quoc-gia-manila-tay-chay-chuyen-gia-trung-quoc/
THIỀN ĐỊNH
Thiền định và Khoa học thần kinh
***
Trong các ngành khoa học, rất có thể khoa học thần kinh (neurosciences) sẽ là ngành phát triển mạnh và gây nhiều ảnh hưởng nhất trong những thập niên tới. Đó là nhận định của hai nhà khoa học lớn của thế kỷ XX, Francis Crick (giải Nobel Y học1962) và François Jacob (giải Nobel Y học 1965).
Theo François Jacob, "Thế kỷ vừa qua quan tâm nhiều đến acid nucleic và protein. Thế kỷ sắp tới sẽ tập trung vào ký ức và sự ham muốn. Liệu chúng ta sẽ trả lời được những câu hỏi đó chăng?".
Francis Crick còn khẳng định một cách rõ rệt hơn: "Thế kỷ XX là thế kỷ của di truyền học, thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ của khoa học thần kinh". Điểm đặc biệt là chính ông, người đã cùng với James Watson năm 1953 gây nên một cuộc cách mạng sinh học khi khám phá ra mật mã gen qua cấu trúc của ADN, đã 30 năm sau chuyển hướng nghiên cứu sang khoa học thần kinh cho đến tận cuối đời.
Lý do có lẽ là, trong mọi sự vật có mặt trong vũ trụ, còn có gì phức tạp, tinh vi và kỳ diệu hơn là hệ thần kinh con người? Còn công trình nào được kiến tạo công phu, rốt ráo hơn trong suốt lịch sử tiến hóa của các loài vật? Và đối với con người, còn điều gì hệ trọng hơn là hiểu biết được sự vận hành tâm não của chính mình, với bao nhiêu hậu quả trên đời sống cá nhân, gia đình và xã hội?
Từ lâu, sợi dây bí mật nối liền tâm thức và thần kinh, linh hồn và thể xác, cái mà Schopenhauer gọi là "chiếc nút của thế giới", đã được con người mải mê tìm kiếm, nhưng vẫn còn bị bao phủ bởi một màn sương mù dầy đặc.
Ngay từ thời kỳ Cổ đại, con người đã tìm hiểu về tâm thức, khi tâm lý học (psychologie) bắt đầu tách rời khỏi triết học, tuy rằng những hiểu biết về tâm lý còn hết sức sơ sài. Nhưng phải đợi tới thế kỷ XVI, thần kinh học (neurologie) mới xuất hiện, với các mô tả giải phẫu học bởi André Vésale, và cuối thế kỷ XVIII, y học tâm thần (psychiâtrie) mới chính thức ra đời, khi Philippe Pinel cho phép tháo bỏ gông cùm của những kẻ "điên" và bắt đầu xếp loại các bệnh tâm thần.
Cuối cùng, khoa học thần kinh (neurosciences) mới thực sự nổi lên từ vài chục năm nay, nhờ những tiến bộ vượt bực của các phương tiện chẩn đoán hình ảnh và thăm dò chức năng. Não không còn là một chiếc "hộp đen" đóng kín, không nhìn thấy gì từ bên ngoài, mà đã trở thành một bộ phận có thể quan sát và đo lường được, trong lúc hoạt động một cách bình thường hay rối loạn vì bệnh tật.
Những tiến triển này còn ở trong giai đoạn ban đầu, nhưng mỗi ngày một gia tăng tốc độ, đồng thời được thúc đẩy bởi các áp dụng công nghệ, phối hợp người máy (robot) và trí thông minh nhân tạo, như máy móc hay xe lăn điều khiển bằng tư tưởng, v.v.
Trong các đề mục nghiên cứu, thiền định đã được đặc biệt chú ý bởi các nhà khoa học thần kinh. Nơi truyền thống ngàn năm đó, đặc biệt phát triển trong đạo Phật, họ đã tìm thấy một phương pháp tập luyện tâm não có khả năng điều trị một số bệnh tật và rối loạn tâm thần, bằng cách thay đổi lâu dài một số chức năng về nhận thức cũng như về cảm xúc.
Song song với các công trình nghiên cứu khoa học, đã có một phong trào xuất hiện tại Tây phương, nhằm tạo điều kiện thuận lợi để trao đổi, bắc cầu giữa các ngành khoa học thần kinh và đạo Phật. Viện"Tâm thức và Sự sống" (Mind and Life Institute) được thành lập năm 1987, hội tụ một số chuyên gia về khoa học thần kinh và tâm lý học chung quanh đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, Tenzin Gyatso, với những hội thảo thường niên về các vấn đề tâm não, tâm linh và đạo đức xã hội.
Mở đầu hội thảo đầu tiên, năm 1987, đức Đạt Lai Lạt Ma đã có lời nhắn nhủ: "Trước hết, xin quí vị hãy nghiên cứu về những tác dụng tích cực của thiền định. Nếu thấy kết quả tốt, xin hãy dậy lại điều đó cho xã hội, trong tinh thần hoàn toàn thế tục, để cho mọi người đều lợi lạc". Ngài còn bổ túc thêm: "Đây không phải là một vấn đề đức tin và tín ngưỡng, mà đúng hơn là một ưu tư về đạo đức và luân lý. Trách nhiệm làm người thúc đẩy chúng ta phải dùng trí tuệ để hiểu biết thiên nhiên và sự vận hành của tâm thức".
Trong tinh thần đó, đã có một số đóng góp tích cực của các tăng sĩ, thiền sư vào các thí nghiệm khoa học, như ghi và đo hoạt động các vùng não trong khi thiền định, bằng những máy móc tối tân như điện não đồ (EEG) đa điện cực, cắt lớp phát positons (PET-scan) và cộng hưởng từ chức năng (fMRI).
Những trao đổi, cộng tác này đã đưa tới những kết quả, tuy còn hạn hẹp vì mới tiến hành từ khoảng hai chục năm nay, nhưng rất thực tiễn và đầy triển vọng. Đồng thời hai bên cũng không tránh khỏi gây nên tương quan ảnh hưởng lẫn nhau, đạo Phật trên khoa học cũng như khoa học trên đạo Phật.
Trong bài này, chúng ta sẽ lần lượt xem xét:
1- Định nghĩa của neurosciences và một vài từ gần cận.
2- Tổng quan về sự hình thành và tổ chức của hệ thần kinh.
3- Tầm quan trọng của cảm xúc trong đời sống thường nhật.
4- Những điểm tương đồng và những khác biệt giữa đạo Phật và khoa học thần kinh.
5- Những kết quả nghiên cứu về tác động của thiền định trên sự vận hành của tâm não.
6- Chiều hướng nghiên cứu trong tương lai về thiền định.
2- Tổng quan về sự hình thành và tổ chức của hệ thần kinh.
3- Tầm quan trọng của cảm xúc trong đời sống thường nhật.
4- Những điểm tương đồng và những khác biệt giữa đạo Phật và khoa học thần kinh.
5- Những kết quả nghiên cứu về tác động của thiền định trên sự vận hành của tâm não.
6- Chiều hướng nghiên cứu trong tương lai về thiền định.
I. Neurosciences là gì ?
|
Đáng lẽ ra, neurosciences phải dịch ra tiếng Việt là thần kinh học, nhưng vì từ này đã thường được dùng cho neurologie, cho nên từ thích hợp nhất có lẽ là khoa học thần kinh.
Trên nguyên tắc, khoa học thần kinh bao gồm tất cả những môn học liên quan tới hệ thần kinh, như:
- Giải phẫu học thần kinh (neuroanatomie),
- Sinh hóa học thần kinh (neurobiochimie),
- Sinh lý học thần kinh(neurophysiologie),
- Nội tiết học thần kinh (neuroendocrinologie),
- Thần kinh học tế bào (neurosciences cellulaires),
- Thần kinh học phân tử (neurosciences moléculaires), v.v.
Nhưng thông thường người ta dùng từ neurosciences để gọi tắt thần kinh học nhận thức (neurosciences cognitives), một môn học xuất hiện vào cuối thập niên 70 tại Hoa Kỳ, để đánh dấu sự kết hợp giữa hai môn sinh học thần kinh (neurobiologie) và tâm lý học (psychologie), với mục đích tìm hiểu trực tiếp sự vận hành của tâm não bằng các phương pháp khoa học (như lý, hóa, v.v.).
Trước đó, phong trào khoa học nhận thức (sciences cognitives) được ra đời vào cuối thập niên 50, đi ngược lại với phong trào tâm lý học ứng xử (psychologie béhavioriste), thuộc tâm lý học thực nghiệm(psychologie expérimentale) thống trị tại Tây phương từ cuối thế kỷ XIX, cho rằng mọi quá trình tâm lý phức tạp đều có thể đo được bằng thí nghiệm và sự quan sát ứng xử.
Trong thập niên 60, môn tâm não học (neuropsychologie) được thành lập, nhằm nghiên cứu những chức năng cao của não bộ sau các thương tổn, nhưng cũng không mấy khác biệt với neurosciences.
Gần đây, một ngành mới được tách ra là thần kinh học tình cảm (neurosciences affectives), đặt trọng tâm vào cảm xúc và tình cảm. Ngoài ra, từ thần kinh học mặc niệm (neurosciences contemplatives) cũng được dùng để chỉ ngành khoa học thần kinh chuyên sâu về thiền định.
Hiện nay, những tiến bộ của khoa học thần kinh không khỏi gây ảnh hưởng mạnh trên tâm lý học và đặc biệt phân tâm học (psychanalyse) đang bị lung lay đến tận gốc rễ.
Chúng ta cũng không nên quên rằng chính Sigmund Freud, người cha đẻ của phân tâm học, cũng đã khởi đầu bằng con đường nghiên cứu giải phẫu học thần kinh, và đã từng tuyên bố năm 1914: "Chúng ta phải nhớ rằng tất cả những ý kiến tạm thời của chúng ta về tâm lý học sẽ có thể tìm thấy một ngày kia một cấu trúc hữu cơ (organique) làm nền tảng".
Có người đã đưa ra giả thuyết là, nếu vào thời đó đã có những phát triển đáng kể về thần kinh học, thì Freud đã không chuyển hướng sang y học tâm thần và đã không sáng lập ra phân tâm học...
II. Tổng quan về sự cấu tạo và tổ chức của hệ thần kinh
|
Trước khi đề cập tới những tương quan giữa khoa học thần kinh và đạo Phật, chúng ta hãy xét lại một số điểm căn bản về sự cấu tạo và tổ chức của hệ thần kinh.
1) Hệ thần kinh, trên mọi động vật, là kết quả của một qui hoạch gen.
Mỗi phôi có một bộ gen (génome), gồm những nhiễm sắc thể (chromosomes), trên đó có gắn các gen. Trong suốt thời gian phát triển phôi thai, bộ gen kiểm soát sự tăng trưởng tế bào, qui định vị trí, kích thước, hình dạng các bộ phận, và riêng đối với não, những liên kết (connexions) giữa các vùng não.
Tổ chức chung của cơ thể, sự xếp đặt các bộ phận theo một trật tự rõ rệt được điều hành bởi các gen kiến trúc Hox, chung cho tất cả mọi động vật có xương sống, trong khi sự cấu tạo của não được kiểm soát bởi các gen phát triển.
Điều này giải thích vẻ đồng nhất trong sự tổ chức tổng thể của hệ thần kinh, đồng thời những khác biệt lớn lao về giải phẫu học não bộ giữa các loài khác nhau. Ngược lại, trong một loài, những cơ cấu trong não (như các nhân và bó sợi) đều giống nhau.
2) Ở loài người, khi mới sinh ra não chưa trưởng thành và tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong những năm đầu, dưới ảnh hưởng mỗi ngày một quan trọng hơn của môi trường, gia đình và xã hội.
Trọng lượng não của trẻ sơ sinh chỉ bằng 30 % trọng lượng não người lớn (trong khi ở loài khỉ là 75 %), nhưng gia tăng rất nhanh, gần bằng não người lớn sau 4 năm. Lý do không phải là sự gia tăng của số nơ ron (có phần giảm đi), mà là những liên kết nơ ron mỗi ngày một thêm đông đảo, rậm rạp.
3) Những đặc điểm của não loài người so với các động vật khác :
- Điểm thứ nhất, về trọng lượng cũng như thể tích, não loài người lớn nhất trong các loài (so với cơ thể). Ngoài ra, não cũng là bộ phận chuyển hóa (métabolisme) cao nhất, tiêu thụ 20 % oxy và các chất dinh dưỡng, trong khi trọng lượng não chỉ bằng 2 % của trọng lượng toàn thân.
- Điểm thứ hai, vỏ não (cortex) là phần phát triển mạnh nhất, đặc biệt tại thùy trán (lobe frontal), chiếm 1/3 diện tích của vỏ não.
Trong quá trình tiến hóa của các loài, não không ngừng gia tăng, từ các loài không xương sống, loài cá, loài bò sát, loài chim, rồi các loài có vú, bậc thấp (như chuột, mèo), rồi bậc cao (như các loài khỉ), cuối cùng tới loài người, là loài xuất hiện cuối cùng trên chiếc thang tiến hóa.
Ngay khi so sánh sọ của các loài trước người (préhominiens) và loài người, người ta cũng thấy thể tích của sọ tăng rất nhanh, từ Australopithecus (3 triệu năm, khoảng 500 cm3), tới Homo erectus (800 ngàn năm, khoảng 1000 cm3), và cuối cùng tới loài người Homo sapiens (200 ngàn năm, khoảng 1400 cm3).
Sự gia tăng đó mạnh nhất là ở vỏ não trước trán (cortex préfrontal), chiếm 3,5 % diện tích vỏ não ở loài mèo, 7 % ở loài chó, 11,5 % ở loài khỉ Rhesus, 17 % ở loài tinh tinh (chimpanzé), và 29 % ở loài người.
Như vậy, có thể nói rằng chính vỏ não, và đặc biệt vỏ não trước trán, là đặc điểm làm cho loài người vượt trội lên so với các loài động vật khác. Điều đó cũng không làm chúng ta ngạc nhiên, vì khả năng trí tuệ một phần lớn nằm ở vỏ não trước trán.
4) Đơn vị căn bản của não là nơ ron (neurone), tế bào thần kinh
Não loài người có khoảng 100 tỉ nơ ron, tổ chức rất chặt chẽ thành những mạng lưới (réseaux) nơ ron, thông tin với nhau bằng tín hiệu điện-hóa (signaux électro-chimiques) tại các xinap (synapses).
Trong quá trình tiến hóa của các loài động vật, số nơ ron không ngừng gia tăng: trong khi giun C. elegans chỉ có 300 nơ ron, sên biển có 20 ngàn, ruồi 250 ngàn, ong 850 ngàn, chuột 40 triệu. Voi và cá voi có đến 200 tỉ nơ ron, nhưng so với trọng lượng cơ thể thì vẫn còn thua loài người rất xa.
5) Vai trò quan trọng của xinap trong hoạt động của não
Xinap chính là nơi các nơ ron liên kết với nhau: dưới một sự kích thích, thế điện màng (potentiel de membrane) của một nơ ron trở thành thế điện tác dụng (potentiel d'action) truyền qua sợi trục (axone) tới một xinap. Tại đây, nó làm các túi (vésicules) chứa đựng các chất truyền thần kinh (neuro-transmetteurs) thả ra các chất này trong không gian xinap (espace synaptique). Các chất này gây nên, nơi nơ ron sau, một thế điện tác dụng tiếp tục truyền qua các nơ ron khác.
Mỗi nơ ron có từ 1000 đến 10000 xinap, như vậy tổng cộng não một con người có hơn 1 triệu tỉ xinap.
Đặc điểm của các xinap là có khả năng nhân lên hay tự hủy một cách vô cùng nhanh chóng, gây nên những thay đổi liên kết giữa các mạng lưới nơ ron, và giải thích tính chất mềm dẻo của não (neuroplasticité). Các xinap được dùng thường xuyên sẽ tồn tại và mạnh hơn, trong khi các xinap ít dùng sẽ yếu dần và tự hủy, theo nguyên tắc "dùng thì phát triển, không dùng thì bị loại bỏ" (use it, or loose it), một loại thuyết Darwin áp dụng cho hệ thần kinh. Điều đó giải thích vì sao người ta có thể phục hồi chức năng nhờ kiên trì tập luyện, sau khi một phần não đã bị hủy diệt bởi một cơn tai biến mạch máu chẳng hạn.
Như vậy, mỗi con người sanh ra với một bộ não tổ chức giống nhau, một cách hết sức chính xác do bộ gen qui định, nhưng ngay từ khi mới sanh ra đã bắt đầu có những liên kết, những xinap khác biệt, do những hoạt động của não khác nhau, do sự tương tác với thế giới chung quanh, do ảnh hưởng giáo dục, văn hóa, môi trường.
Mỗi người chúng ta là một cá nhân đặc biệt, với một bộ não duy nhất. Theo Joseph Ledoux, một nhà nghiên cứu chuyên về cảm xúc, "Chúng ta là những xinap của chúng ta" (We are our synapses).
6) Vai trò quan trọng và phức tạp của các chất truyền thần kinh (neuro-transmetteurs) và các hormon
Mỗi chất truyền thần kinh, còn gọi là thần kinh trung gian (neuro-médiateurs) như: acétylcholine, adrénaline, noradrénaline, dopamine, sérotonine, glutamate, GABA, endorphines, v.v., bài tiết bởi một số cơ cấu của não, có một cơ quan nhận (récepteur) riêng biệt. Chúng tác động trên các vùng não khác nhau và có những chức năng khác nhau.
Noradrénaline, endorphines, endocannabinọdes và nhất là dopamine, đóng một vai trò quan trọng trong sự ban thưởng và sự thích thú. Sérotonine có một ảnh hưởng quyết định trong sự điều hòa tính khí, trong bệnh trầm cảm, sự lo lắng, sự thèm ăn và bạo động. Đối chọi lại với hệ thống làm gia tăng sự thích thú, có một hệ thống gây nên sự khó chịu (déplaisir), hai hệ thống này ngăn chặn nhau, giữ thăng bằng với nhau.
Hệ thần kinh cũng đóng một vai trò thiết yếu trong sự điều hòa bài tiết các hormon, qua các nhân vùng hạ đồi (hypothalamus) và tuyến yên (hypophyse). Mặt khác, chính những hormon này cũng có ảnh hưởng đến hoạt động của não, trong sự điều hòa các chức năng sinh tồn (fonctions vitales) và một số cảm xúc.
7) Những phương tiện hình ảnh chức năng mới
Trước kia, cho đến những năm 1970, sự hiểu biết về khoa học thần kinh chủ yếu dựa trên giải phẫu bệnh trên tử thi, thí nghiệm trên động vật, và sự kích thích các vùng não trong khi mổ.
Từ thập niên 70, với sự xuất hiện của chụp cắt lớp vi tính (CT scanner), rồi cộng hưởng từ (MRI), các vùng não đã có thể quan sát được trên người sống. Từ thập niên 80 và nhất là thập niên 90, thăm dò chức năng đã có những bước tiến khổng lồ, đưa tới một cuộc cách mạng trong sự hiểu biết về sự vận hành của não, đặc biệt về các hoạt động nhận thức cao.
Các phương pháp hình ảnh chức năng thần kinh (neuro-imagerie fonctionnelle) này có thể chia ra làm 2 loại:
- a/ Đo lưu lượng máu cục bộ (débit sanguin local) bằng PET-scan (cắt lớp phát positons, positons emission tomography), và fMRI (cộng hưởng từ chức năng, functional magnetic resonance imaging). Vùng nào lưu lượng máu càng cao, thì vùng đó hoạt động càng mạnh.
- b/ Đo điện trường (champ électrique) bằng EEG (điện não đồ, electroencephalo-graphy), hoặc từ trường (champ magnétique) bằng MEG (từ não đồ, magnetoencephalo-graphy), phát ra do sự hoạt động của những mạng lưới nơ ron. Hoặc đo thế điện gây nên (ERP, event related potential) bởi một sự kích thích hay một hành động.
Những ưu, khuyết điểm của các phương pháp hình ảnh chức năng đó là:
- PET-scan: độ phân giải thấp (4-8 mm); thời gian đo khá lâu (1 phút - 1 phút rưỡi); không dùng được nhiều lần (vì tiêm chất phóng xạ vào cơ thể).
- fMRI: độ phân giải cao (1 mm), càng cao khi nam châm càng mạnh; thời gian đo tuy ngắn (1 giây) nhưng vẫn là dài so với hoạt động nơ ron.
- EEG: độ phân giải rất thấp; tín hiệu rất nhanh so với hoạt động nơ ron (vài chục ms). Muốn tăng độ phân giải, thì phải tăng số điện cực (124 - 256), và dùng một phần mềm "định vị nguồn" (localisateur de source), nhằm đo sâu hơn trong não.
Các nghiên cứu thường được thực hiện tại một số ít phòng thí nghiệm được trang thiết bị đầy đủ, dùng nhiều phương pháp phối hợp với nhau.
Việc khai thác các dữ liệu nhận được không phải là đơn giản, bởi vì thường có nhiều vùng não hoạt động cùng một lúc. Mỗi mạng lưới chức năng bao gồm nhiều vùng não, đồng thời mỗi vùng có thể dùng trong nhiều mạng lưới khác nhau.
III. Tầm quan trọng của cảm xúc trong đời sống thường nhật. Trong các hoạt động của não, cảm xúc đóng một vai trò quan trọng, vì chúng ảnh hưởng lên toàn bộ sự vận hành của não. Cảm xúc có một ảnh hưởng quyết định, đôi khi mạnh hơn lý trí, trong sinh hoạt thường nhật của con người.
Không có cảm xúc thì sẽ không có động cơ thúc đẩy hành động, không có sáng tác, không có thi vị, con người sẽ không là con người...
Và sở dĩ con người khác máy vi tính, khác người máy, cũng chính là nhờ có cảm xúc. Người ta có thể lập chương trình cho người máy biểu hiện cảm xúc, biết khóc, cười, giận hờn, yêu ghét, v.v., nhưng đó không phải là cảm xúc thực sự, cảm nhận bởi tâm thức con người. Hiện nay, phẫu thuật đã có thể thay nhiều bộ phận cơ thể bằng bộ phận giả : từ răng, vú, thủy tinh thể, háng, đầu gối, cho tới thận, tim nhân tạo... nhưng có thể nào một ngày kia thay não bằng não giả, với những cảm xúc giả? Đã có thể ghép thận, ghép tim, ghép phỏi, ghép gan..., nhưng có thể nào ghép não, mà sau đó người nhận vẫn là chính mình?
Nhưng dĩ nhiên, cảm xúc cũng đặt nhiều vấn đề, khi chúng trở thành tiêu cực, phá hủy, hay lấn áp, không kiểm soát nổi.
Đối với đạo Phật, cảm xúc chính là đầu mối, là trung tâm của các vấn đề đặt ra cho con người. Khổ là gì, nếu không phải là một cảm xúc? Và trong "tam độc", thì ít ra "tham" và "sân" cũng đều thuộc về cảm xúc...
Đối với nhà khoa học thần kinh cũng vậy, một phần lớn các bệnh tâm thần là do rối loạn cảm xúc, từ lo lắng (anxiété), trầm cảm (dépression), cho tới bệnh tâm thần phân liệt (schizophrénie).
1) Các vùng não liên quan đến cảm xúc
Cũng như mọi chức năng cao phức tạp khác, cảm xúc không phụ thuộc vào một vùng não duy nhất, mà là vào nhiều vùng, hoạt động một cách tương ứng, phối hợp với nhau.
Tại não bộ, những vùng thường được kích hoạt trong cảm xúc là (Hình 1):
- Vỏ não trước trán (cortex préfrontal), đặc biệt vùng bụng giữa (ventro-médian),
- Hồi đai (gyrus cingulaire) trước và sau,
- Thùy đảo (insula),
- Hạ đồi (hypothalamus),
- Trung não (mésencéphale) và
- Cầu não (pont).
- Hồi đai (gyrus cingulaire) trước và sau,
- Thùy đảo (insula),
- Hạ đồi (hypothalamus),
- Trung não (mésencéphale) và
- Cầu não (pont).
Hình 1 : Sơ đồ mặt cắt dọc não
1: trung não ; 2: cầu não ; 3: hành não ; 5: đồi thị ; 6: hạ đồi
Ngoài ra còn có hai vùng đặc biệt quan trọng đối với cảm xúc:
- Amiđan hay hạnh nhân (amygdale), là một nhân hình hạnh nhân, nằm hai bên sâu trong não, về phía nền. Amiđan đóng một vai trò thiết yếu trong một số cảm xúc tiêu cực, đặc biệt sự là sợ hãi.
- Hải mã (hippocampe) là một cơ quan hình dài nằm ngay phía sau amiđan, liên quan tới trí nhớ. Hải mã cần thiết cho cảm xúc, vì nó cho phép nhận ra bối cảnh của sự vật.
Những bất thường của hải mã có thể gây nên rối loạn cảm xúc, đặc biệt là trầm cảm và stress sau chấn thương (stress post-traumatique). Người ta đã nhận thấy trong các trường hợp đó một sự teo hẹp của hải mã, có thể ngăn ngừa được bằng thuốc chống trầm cảm.
Những vùng đó thuộc đường vòng viền (circuit limbique), đóng một vai trò quan trọng trong cảm xúc (Hình 2).
Hình 2 : Sơ đồ đường vòng viền
Amygdala (hạnh nhân) ; Hippo
- Varela F., Thompson E., Rosch E., L'inscription corporelle de l'esprit - Sciences cognitives et expérience humaine, Seuil, Paris, 1993
- Vincent JD., Voyage extraordinaire au centre du cerveau, Odile Jacob, Paris, 2007
- What is consciousness ?, The Brain from Top to Bottom
***
Thiền Định Phật Giáo Và Khoa Học Hiện Đại
Thiền Định Phật Giáo Và Khoa Học Hiện Đại
Tác Giả: Dalai Lama, Tenzin Gyatso
Bài báo này dựa vào bài nói chuyện của Đức Đạt Lai Lạt Ma tại phiên họp thường niên của Hội Khoa Học Thần Kinh ngày 12- 11- 2005 ở Washington D.C.
Trong một vài thập niên vừa qua, chúng ta đã chứng kiến nhiều tiến bộ lớn lao trong việc tìm hiểu một cách khoa học về não bộ và cơ thể con người nói chung. Hơn nữa, với sự xuất hiện của ngành di truyền học hiện đại, kiến thức của khoa thần kinh học về hoạt động của những cơ cấu sinh học giờ đây đã đạt đến mức độ vi tế nhất của các di truyền tử riêng biệt. Điều này đã mang lại kết quả trong những khả năng kỹ thuật chưa từng thấy dùng để vận dụng những mã số của sự sống, từ đó phát sinh tiềm năng sáng tạo ra những thực thể hoàn toàn mới mẻ cho nhân loại nói chung.
Ngày nay, vấn đề tương giao giữa khoa học với toàn thể nhân loại không còn là chuyện được giới hàn lâm chú ý mà thôi, vấn đề phải được coi là khẩn cấp đối với những ai quan tâm đến số phận của hiện hữu con người. Vì thế tôi cảm thấy một cuộc đối thoại giữa khoa thần kinh học và xã hội có thể mang lại những lợi ích sâu xa ở chỗ nó có thể giúp chúng ta đào sâu những hiểu biết cơ bản về ý nghĩa của hiện hữu con người và trách nhiệm của chúng ta đối với thế giới tự nhiên mà chúng ta chia sẻ với những loài hữu tình khác. Như một phần của mối tương giao rộng lớn này, tôi rất vui mừng ghi nhận rằng hiện nay các nhà thần kinh học ngày càng quan tâm đến việc tham gia đối thoại sâu sắc hơn với ngành Thiền học của Phật giáo.
Mặc dù sở thích về khoa học của tôi bắt đầu bằng tính tò mò của một cậu bé hiếu động lớn lên từ Tây Tạng, dần dần tôi đã nhận ra tầm quan trọng lớn lao của khoa học và kỹ thuật trong việc tìm hiểu thế giới hiện đại. Không những tôi tìm cách nắm được những tư tưởng khoa học đặc biệt mà tôi còn cố gắng khám phá ra những hàm ý rộng lớn hơn của những tiến bộ mới trong kiến thức nhân loại và sức mạnh của kỹ thuật do khoa học đem lại.
Những lãnh vực khoa học đặc biệt mà tôi đã tìm hiểu nhiều nhất trong những năm qua là ngành vật lý hạ-nguyên-tử, vũ trụ học, sinh học và tâm lý học. Đối với những hiểu biết giới hạn của tôi về những lãnh vực đó, tôi rất biết ơn các nhà khoa học Carl Von Weizacker và cố giáo sư David Bolm đã dành thời giờ quý báu để chia sẻ với tôi, tôi xem hai vị này là bậc thầy cuả tôi về ngành cơ học lượng tử; và trong lãnh vực sinh học, nhất là khoa thần kinh học thì có cố giáo sư Robert Livingstone và Francis Varela.
Tôi cũng rất biết ơn nhiều nhà khoa học xuất chúng mà tôi có được đặc ân tham gia những cuộc đối thoại với họ dưới sự bảo trợ của Viện Nghiên Cứu Tâm Thức và Đời Sống, nơi đã khởi xướng các cuộc hội nghị về Tâm Thức và Đời Sống bắt đầu từ năm 1987 tại trú xứ của tôi tại Dharamsala ở Ấn Độ. Những cuộc đối thoại này vẫn còn tiếp diễn trong nhiều năm, và thật ra cuộc đối thoại mới nhất của Viện Nghiên Cứu Tâm Thức và Đời Sống vừa mới kết thúc tại đây ở Washington ngay trong tuần này.
Những lãnh vực khoa học đặc biệt mà tôi đã tìm hiểu nhiều nhất trong những năm qua là ngành vật lý hạ-nguyên-tử, vũ trụ học, sinh học và tâm lý học. Đối với những hiểu biết giới hạn của tôi về những lãnh vực đó, tôi rất biết ơn các nhà khoa học Carl Von Weizacker và cố giáo sư David Bolm đã dành thời giờ quý báu để chia sẻ với tôi, tôi xem hai vị này là bậc thầy cuả tôi về ngành cơ học lượng tử; và trong lãnh vực sinh học, nhất là khoa thần kinh học thì có cố giáo sư Robert Livingstone và Francis Varela.
Tôi cũng rất biết ơn nhiều nhà khoa học xuất chúng mà tôi có được đặc ân tham gia những cuộc đối thoại với họ dưới sự bảo trợ của Viện Nghiên Cứu Tâm Thức và Đời Sống, nơi đã khởi xướng các cuộc hội nghị về Tâm Thức và Đời Sống bắt đầu từ năm 1987 tại trú xứ của tôi tại Dharamsala ở Ấn Độ. Những cuộc đối thoại này vẫn còn tiếp diễn trong nhiều năm, và thật ra cuộc đối thoại mới nhất của Viện Nghiên Cứu Tâm Thức và Đời Sống vừa mới kết thúc tại đây ở Washington ngay trong tuần này.
Có lẽ một số người tự hỏi “ Nhà sư Phật giáo này làm gì mà lại quan tâm đến khoa học như thế? Có thể có liên hệ nào giữa Phật giáo, một truyền thống tâm linh và triết lý của Ấn độ cổ đại, với khoa học hiện đại? Có thể có lợi ích gì cho một ngành khoa học như là khoa thần kinh học trong việc tham gia đối thoại với Phật giáo?”
Mặc dù truyền thống Thiền định Phật giáo và khoa học hiện đại đã xuất phát từ nhiều nguồn gốc văn hóa, nhận thức và lịch sử khác nhau, tôi tin rằng trong cốt lõi, cả hai đều chia sẻ những điểm giống nhau đáng kể, nhất là trong quan điểm triết học cơ bản và phương pháp học. Về phương diện triết học, cả Phật giáo lẫn khoa học hiện đại đều chia sẻ mối nghi ngờ sâu xa đối với bất cứ một ý niệm nào về sự tuyệt đối, dù được khái niệm hóa như một thực thể siêu nhiên, một nguyên lý bất biến vĩnh cửu như linh hồn, hoặc như một nền tảng cơ bản của thực tại. Cả Phật giáo lẫn khoa học đều muốn giải thích sự tiến hóa và xuất hiện của vũ trụ và đời sống theo mối tương quan phức tạp của các định luật nhân quả tự nhiên. Từ góc độ phương pháp nghiên cứu, cả hai truyền thống đều nhấn mạnh đến vai trò của chủ nghĩa thực nghiệm.
Mặc dù truyền thống Thiền định Phật giáo và khoa học hiện đại đã xuất phát từ nhiều nguồn gốc văn hóa, nhận thức và lịch sử khác nhau, tôi tin rằng trong cốt lõi, cả hai đều chia sẻ những điểm giống nhau đáng kể, nhất là trong quan điểm triết học cơ bản và phương pháp học. Về phương diện triết học, cả Phật giáo lẫn khoa học hiện đại đều chia sẻ mối nghi ngờ sâu xa đối với bất cứ một ý niệm nào về sự tuyệt đối, dù được khái niệm hóa như một thực thể siêu nhiên, một nguyên lý bất biến vĩnh cửu như linh hồn, hoặc như một nền tảng cơ bản của thực tại. Cả Phật giáo lẫn khoa học đều muốn giải thích sự tiến hóa và xuất hiện của vũ trụ và đời sống theo mối tương quan phức tạp của các định luật nhân quả tự nhiên. Từ góc độ phương pháp nghiên cứu, cả hai truyền thống đều nhấn mạnh đến vai trò của chủ nghĩa thực nghiệm.
Ví dụ, trong truyền thống nghiên cứu của Phật giáo, giữa ba nguồn kiến thức được công nhận - kinh nghiệm, lý luận và bằng chứng - thì kinh nghiệm thực tại đứng hàng đầu, kế đến là lý luận và cuối cùng là bằng chứng. Điều này có nghĩa là trong cuộc khảo cứu thực tại của Phật giáo, ít nhất là trên nguyên tắc, kinh nghiệm thực tại phải vượt trên lý thuyết kinh điển, cho dù kinh điển được sùng kính đến đâu đi nữa. Ngay cả trong trường hợp kiến thức xuất phát từ lý luận hay suy diễn, cuối cùng giá trị của nó phải được rút ra từ những thực chứng kinh nghiệm đã được quan sát. Vì lập trường phương pháp nghiên cứu này, tôi thường lưu ý các đồng nghiệp Phật giáo của tôi rằng những kiến thức đã được minh chứng trong thực tế về vũ trụ học và thiên văn học hiện đại bắt buộc chúng ta bây giờ phải điều chỉnh, hoặc trong môt vài trường hợp, phải bác bỏ nhiều phương diện của khoa vũ trụ học như đã được tìm thấy trong văn bản kinh điển Phật giáo.
Bởi vì động lực trước tiên thúc đẩy việc khảo sát thực tại của Phật giáo là cuộc tìm kiếm cơ bản để vượt thoát khổ đau và toàn thiện điều kiện sống của con người, cho nên định hướng sơ khởi của truyền thống nghiên cứu Phật giáo là hướng đến sự hiểu biết về tâm thức con người và các chức năng của nó. Ở đây, chúng tôi nhận định rằng, bằng cách đạt được những hiểu biết sâu sắc về tâm lý con người, chúng ta có thể tìm ra những phương cách để chuyển hóa tư tưởng, tình cảm và những khuynh hướng tiềm ẩn để có thể tìm ra một lối sống toàn thiện và trọn vẹn hơn. Chính trong bối cảnh này mà truyền thống Phật giáo đã đặt ra một bảng phân loại phong phú về các trạng thái tinh thần cũng như các kỹ thuật Thiền định để rèn luyện những phẩm chất tinh thần đặc biệt.
Vì thế một cuộc trao đổi đích thực những kiến thức và kinh nghiệm đã được tích lũy giữa Phật giáo và khoa học hiện đại về một số vấn đề rộng lớn liên hệ đến tâm thức con người, từ tri thức và tình cảm đến sự hiểu biết khả năng chuyển hóa bẩm sinh nơi não bộ con người, sẽ vô cùng hấp dẫn và có tiềm năng mang lại nhiều lợi ích lớn lao. Theo kinh nghiệm của riêng tôi, tôi cảm thấy kiến thức mình phong phú hơn rất nhiều nhờ những cuộc đàm thoại với các nhà thần kinh học và tâm lý học về một số vấn đề như là bản chất và vai trò của những tình cảm tích cực và tiêu cực, sự chú ý, khả năng tượng hình, cũng như tính nhu nhuyến của não bộ. Bằng chứng có sức thuyết phục cao từ khoa thần kinh học và y khoa về vai trò then chốt của sự xúc chạm thể chất đơn giản đối với việc phát triển sinh lý của não bộ thai nhi trong vài tuần đầu tiên đã minh chứng hùng hồn cho sự liên quan mật thiết giữa lòng từ bi và hạnh phúc con người.
Vì thế một cuộc trao đổi đích thực những kiến thức và kinh nghiệm đã được tích lũy giữa Phật giáo và khoa học hiện đại về một số vấn đề rộng lớn liên hệ đến tâm thức con người, từ tri thức và tình cảm đến sự hiểu biết khả năng chuyển hóa bẩm sinh nơi não bộ con người, sẽ vô cùng hấp dẫn và có tiềm năng mang lại nhiều lợi ích lớn lao. Theo kinh nghiệm của riêng tôi, tôi cảm thấy kiến thức mình phong phú hơn rất nhiều nhờ những cuộc đàm thoại với các nhà thần kinh học và tâm lý học về một số vấn đề như là bản chất và vai trò của những tình cảm tích cực và tiêu cực, sự chú ý, khả năng tượng hình, cũng như tính nhu nhuyến của não bộ. Bằng chứng có sức thuyết phục cao từ khoa thần kinh học và y khoa về vai trò then chốt của sự xúc chạm thể chất đơn giản đối với việc phát triển sinh lý của não bộ thai nhi trong vài tuần đầu tiên đã minh chứng hùng hồn cho sự liên quan mật thiết giữa lòng từ bi và hạnh phúc con người.
Từ lâu Phật giáo đã tranh luận về tiềm năng chuyển hóa lớn lao hiện hữu tự nhiên nơi tâm thức con người. Với cứu cánh này, truyền thống Phật giáo đã phát triển một loạt những kỹ thuật hành thiền, hay Thiền tập, đặc biệt nhắm đến hai mục tiêu – nuôi duỡng lòng từ bi và tu tập khả năng quán chiếu sâu xa vào bản chất của thực tại, thường được đề cập đến như là sự kết hợp của từ bi và trí tuệ. Trọng tâm của các phương pháp thiền tập có hai kỹ thuật chính yếu, một mặt là tinh luyện sức chú ý và duy trì nó trong một thời gian dài, mặt khác là việc điều hành và chuyển hóa tình cảm.
Trong cả hai trường hợp, tôi cảm thấy có thể có tiềm năng lớn lao để hợp tác nghiên cứu giữa truyền thống Thiền định Phật giáo và khoa thần kinh học. Ví dụ, khoa thần kinh học hiện đại đã phát triển sự hiểu biết phong phú về cơ cấu não bộ liên kết với sự chú ý và tình cảm. Mặt khác, nếu xét đến lịch sử lâu dài chú trọng đến việc rèn luyện tâm linh thì truyền thống Thiền định Phật giáo cung cấp những kỹ thuật thực tiển để tinh luyện sự chú ý và điều hành và chuyển hóa tình cảm. Vì vậy, cuộc gặp gỡ của khoa thần kinh học và ngành Thiền học Phật giáo có thể đưa đến khả năng nghiên cứu tác động của các sinh hoạt tinh thần có chủ đích trên các kinh mạch của não bộ vốn đã được nhận diện là rất thiết yếu cho các tiến trình hoạt động tinh thần đặc biệt. Ít nhất thì cuộc gặp gỡ liên ngành như vậy có thể giúp nêu lên những vấn đề quan trọng trong nhiều lãnh vực chủ yếu.
Ví dụ, có phải mỗi cá nhân có khả năng cố định để điều hành tình cảm và sự chú ý, hoặc, như truyền thống Phật giáo tranh luận, khả năng điều hành những tiến trình tinh thần đó có thể dễ dàng thay đổi, như vậy sẽ đưa đến gợi ý là có thể có một mức độ thay đổi tương tự trong hệ thống não bộ và cách ứng xử liên kết với các chức năng đó? Một lãnh vực mà truyền thống Thiền định Phật giáo có thể có sự đóng góp quan trọng là những kỹ thuật thực tiển mà họ đã phát triển để rèn luyện lòng từ bi. Đối với việc rèn luyện tâm thức và điều hành sự chú ý và tình cảm, tôi thấy cũng rất quan trọng khi đặt vấn đề không biết có những kỹ thuật đặc biệt nào mà hiệu năng của nó mang tính nhạy cảm với thời gian, để người ta có thể thiết kế những phương pháp điều chỉnh thích hợp với nhu cầu tuổi tác, sức khỏe, và các yếu tố đổi thay khác.
Trong cả hai trường hợp, tôi cảm thấy có thể có tiềm năng lớn lao để hợp tác nghiên cứu giữa truyền thống Thiền định Phật giáo và khoa thần kinh học. Ví dụ, khoa thần kinh học hiện đại đã phát triển sự hiểu biết phong phú về cơ cấu não bộ liên kết với sự chú ý và tình cảm. Mặt khác, nếu xét đến lịch sử lâu dài chú trọng đến việc rèn luyện tâm linh thì truyền thống Thiền định Phật giáo cung cấp những kỹ thuật thực tiển để tinh luyện sự chú ý và điều hành và chuyển hóa tình cảm. Vì vậy, cuộc gặp gỡ của khoa thần kinh học và ngành Thiền học Phật giáo có thể đưa đến khả năng nghiên cứu tác động của các sinh hoạt tinh thần có chủ đích trên các kinh mạch của não bộ vốn đã được nhận diện là rất thiết yếu cho các tiến trình hoạt động tinh thần đặc biệt. Ít nhất thì cuộc gặp gỡ liên ngành như vậy có thể giúp nêu lên những vấn đề quan trọng trong nhiều lãnh vực chủ yếu.
Ví dụ, có phải mỗi cá nhân có khả năng cố định để điều hành tình cảm và sự chú ý, hoặc, như truyền thống Phật giáo tranh luận, khả năng điều hành những tiến trình tinh thần đó có thể dễ dàng thay đổi, như vậy sẽ đưa đến gợi ý là có thể có một mức độ thay đổi tương tự trong hệ thống não bộ và cách ứng xử liên kết với các chức năng đó? Một lãnh vực mà truyền thống Thiền định Phật giáo có thể có sự đóng góp quan trọng là những kỹ thuật thực tiển mà họ đã phát triển để rèn luyện lòng từ bi. Đối với việc rèn luyện tâm thức và điều hành sự chú ý và tình cảm, tôi thấy cũng rất quan trọng khi đặt vấn đề không biết có những kỹ thuật đặc biệt nào mà hiệu năng của nó mang tính nhạy cảm với thời gian, để người ta có thể thiết kế những phương pháp điều chỉnh thích hợp với nhu cầu tuổi tác, sức khỏe, và các yếu tố đổi thay khác.
Tuy nhiên, có một điều cần phải lưu ý. Khi hai truyền thống nghiên cứu cực kỳ khác nhau như Phật giáo và khoa thần kinh học ngồi lại với nhau trong một cuộc đối thoại liên ngành, điều này sẽ liên hệ đến những vấn đề thường hay gặp phải do việc trao đổi xuyên biên giới văn hóa và chuyên ngành. Ví dụ, khi chúng ta nói về “ khoa học Thiền định” chúng ta cần phải nhạy cảm đối với ý nghĩa đích thực của từ ngữ này. Về phía các nhà khoa học, tôi cảm thấy cần phải nhạy cảm trước những ý nghĩa khác nhau của một từ quan trọng như là “ Thiền định” trong bối cảnh truyền thống của nó.
Ví dụ, trong bối cảnh truyền thống, thì từ ‘Thiền’ theo tiếng Phạn (Sancrit) là ‘bhavana’ hoặc là ‘gom’ theo tiếng Tây tạng. Tiếng Phạn mang ý nghĩa về sự tu tập, như là tu tập một thói quen hay một cách thế hiện hữu đặc biệt nào đó, trong lúc từ ‘gom’ của Tây tạng mang ý nghĩa tu tập sự quen thuộc với một đối tượng. Vì vậy, nói một cách ngắn gọn, trong bối cảnh truyền thống của Phật giáo, Thiền định có nghĩa là một hoạt động tinh thần có chủ đích, liên quan đến việc tu tập sự quen thuộc với một đối tượng, dù đó là một đối tượng được lựa chọn, một sự kiện, một chủ đề, một thói quen, một quan điểm hay một cách thế hiện hữu.
Nói rộng ra, có hai kiểu Thiền tập - một kiểu tập trung vào việc làm tỉnh lặng tâm, và kiểu kia tập trung vào các phương pháp quán chiếu để hiểu biết sâu xa về một đối tượng. Cả hai được đề cập đến như là (i) thiền chỉ và (ìi) thiền quán. Trong cả hai trường hợp, thiền tập có thể có nhiều hình thái khác nhau. Ví dụ, Thiền có thể mang hình thái là dùng một cái gì đó như là một đối tượng để hành giả quán chiếu, như là thiền về tính hay thay đổi của chính mình. Hay Thiền có thể mang hình thái tu tập một trạng thái tinh thần đặc biệt, như là lòng từ bi, bằng cách làm phát triển lòng vị tha, thành tâm ước mong loại trừ khổ đau cho kẻ khác. Hoặc, thiền có thể mang hình thái tưởng tượng, để khám phá tiềm năng con người trong việc làm phát sinh những ảnh tượng tinh thần có thể được dùng bằng nhiều cách khác nhau để nuôi dưỡng niềm an lạc tinh thần. Vì vậy, tôi thấy rất cần biết rõ những hình thái Thiền định đặc biệt nào mà con người có thể khảo sát khi tham gia vào việc hợp tác nghiên cứu, để cho các hình thái Thiền tập phức tạp được sử dụng trong nghiên cứu phù hợp với tính chất tinh tế của công trình nghiên cứu khoa học.
Một lãnh vực khác đòi hỏi các nhà khoa học phải nhìn vấn đề từ một góc độ rất quan trọng, đó là khả năng phân biệt những khía cạnh thực nghiệm của của tư tưởng Phật giáo và Thiền tập và những nhận định siêu hình và triết lý liên kết với những phương pháp Thiền tập đó. Nói cách khác, trong phương pháp khoa học, chúng ta phải phân biệt giữa những giả định lý thuyết, những quan sát thực tại dựa trên thí nghiệm và các diễn giải sau đó; cũng quan trọng như vậy trong việc phân biệt những nhận định lý thuyết, những biểu hiện của trạng thái tinh thần có thể xác minh bằng thực nghiệm, và những diễn dịch mang tính triết lý trong Phật giáo. Nói rộng ra, có hai kiểu Thiền tập - một kiểu tập trung vào việc làm tỉnh lặng tâm, và kiểu kia tập trung vào các phương pháp quán chiếu để hiểu biết sâu xa về một đối tượng. Cả hai được đề cập đến như là (i) thiền chỉ và (ìi) thiền quán. Trong cả hai trường hợp, thiền tập có thể có nhiều hình thái khác nhau. Ví dụ, Thiền có thể mang hình thái là dùng một cái gì đó như là một đối tượng để hành giả quán chiếu, như là thiền về tính hay thay đổi của chính mình. Hay Thiền có thể mang hình thái tu tập một trạng thái tinh thần đặc biệt, như là lòng từ bi, bằng cách làm phát triển lòng vị tha, thành tâm ước mong loại trừ khổ đau cho kẻ khác. Hoặc, thiền có thể mang hình thái tưởng tượng, để khám phá tiềm năng con người trong việc làm phát sinh những ảnh tượng tinh thần có thể được dùng bằng nhiều cách khác nhau để nuôi dưỡng niềm an lạc tinh thần. Vì vậy, tôi thấy rất cần biết rõ những hình thái Thiền định đặc biệt nào mà con người có thể khảo sát khi tham gia vào việc hợp tác nghiên cứu, để cho các hình thái Thiền tập phức tạp được sử dụng trong nghiên cứu phù hợp với tính chất tinh tế của công trình nghiên cứu khoa học.
Bằng cách này, cả hai phía trong cuộc đối thoại có thể tìm thấy điểm chung đối với các sự kiện về tâm thức con người có thể quan sát thực nghiệm, mà không bị lôi cuốn vào việc rút gọn khuôn khổ của ngành này vào ngành kia. Mặc dù có thể có sự khác nhau giữa hai truyền thống nghiên cứu về những tiền đề triết lý và cách diễn dịch những khái niệm ấy, đối với vấn đề liên quan đến sự kiện thực tại, thì thực tại bao giờ cũng là thực tại, cho dù người ta có chọn chúng để mô tả bằng cách nào đi nữa. Cho dù sự thật về bản chất chung cuộc của ý thức là gì đi nữa – cho dù cuối cùng bản chất ấy có thể được giảm thiểu thành những tiến trình vật lý hay không – tôi tin rằng có thể chia sẻ những hiểu biết về thực tại kinh nghiệm đối với nhiều khía cạnh khác nhau của tri giác, tư tưởng và tình cảm của chúng ta.
Với những suy xét thận trọng này, tôi tin rằng một sự hợp tác chặt chẽ giữa hai truyền thống nghiên cứu có thể thực sự đóng góp vào việc mở rộng hiểu biết của con người về thế giới phức tạp của kinh nghiệm chủ quan nội tại mà chúng ta gọi là tâm thức. Những lợi ích của sự hợp tác như vậy đang bắt đầu được thể hiện. Theo các phúc trình sơ khởi, kết quả của việc rèn luyện tâm thức, như là việc thực tập đều đặn phép tỉnh thức đơn giản, hay là việc cố gắng tu tập lòng từ bi như đã được triển khai trong Phật giáo, đang đem lại những thay đổi có thể quan sát được trên não bộ con người, tương ứng với những trạng thái tinh thần tích cực có thể đo lường được. Những khám phá gần đây của khoa thần kinh học đã chứng tỏ tính nhu nhuyến bẩm sinh của não bộ, gồm cả việc nối kết giữa các tế bào thần kinh lẫn việc sản sinh những tế bào thần kinh mới,
như là kết quả của sự tiếp nhận những kích thích bên ngoài, chẳng hạn tự nguyện luyện tập thể dục và được sống trong một môi trường phong phú hơn. Truyền thống Thiền định Phật giáo có thể giúp mở rộng lãnh vực nghiên cứu khoa học này bằng cách đề nghị những kiểu rèn luyện tâm thức có thể liên hệ đến tính nhu nhuyến của não bộ. Như truyền thống Phật giáo đã gợi ý rằng việc rèn luyện tinh thần ảnh hưởng đến những đổi thay của tế bào thần kinh có thể quan sát được ở não bộ, điều này có thể mang nhiều hàm ý rộng lớn. Kết quả của những công trình nghiên cứu ấy sẽ không chỉ giới hạn vào việc mở rộng hiểu biết của chúng ta về tâm thức con người, mà có lẽ quan trọng hơn là chúng có thể mang ý nghĩa lớn lao đối với hiểu biết của chúng ta về vấn đề giáo dục và sức khỏe tinh thần. Cũng vậy, như truyền thống Phật giáo đã tuyên bố, nếu việc tu tập lòng từ bi có thể dẫn đến sự thay đổi lớn lao trong quan điểm của mỗi người, đưa đến việc mở rộng lòng xót thương đồng cảm đối với người khác, thì điều này có ý nghĩa rộng lớn đối với xã hội nói chung.
như là kết quả của sự tiếp nhận những kích thích bên ngoài, chẳng hạn tự nguyện luyện tập thể dục và được sống trong một môi trường phong phú hơn. Truyền thống Thiền định Phật giáo có thể giúp mở rộng lãnh vực nghiên cứu khoa học này bằng cách đề nghị những kiểu rèn luyện tâm thức có thể liên hệ đến tính nhu nhuyến của não bộ. Như truyền thống Phật giáo đã gợi ý rằng việc rèn luyện tinh thần ảnh hưởng đến những đổi thay của tế bào thần kinh có thể quan sát được ở não bộ, điều này có thể mang nhiều hàm ý rộng lớn. Kết quả của những công trình nghiên cứu ấy sẽ không chỉ giới hạn vào việc mở rộng hiểu biết của chúng ta về tâm thức con người, mà có lẽ quan trọng hơn là chúng có thể mang ý nghĩa lớn lao đối với hiểu biết của chúng ta về vấn đề giáo dục và sức khỏe tinh thần. Cũng vậy, như truyền thống Phật giáo đã tuyên bố, nếu việc tu tập lòng từ bi có thể dẫn đến sự thay đổi lớn lao trong quan điểm của mỗi người, đưa đến việc mở rộng lòng xót thương đồng cảm đối với người khác, thì điều này có ý nghĩa rộng lớn đối với xã hội nói chung.
Cuối cùng, tôi tin rằng sự hợp tác giữa khoa thần kinh học và truyền thống Thiền định Phật giáo có thể làm sáng tỏ vấn đề rất quan trọng về mối tương giao giữa đạo đức và khoa thần kinh học. Không kể đến bất cứ khái niệm nào con người có thể có về mối quan hệ giữa đạo đức và khoa học, trong thực tế, trước tiên khoa học đã phát triển như một ngành học thực nghiệm với lập trường trung lập, không chịu ảnh hưởng của các giá trị đạo đức. Bản chất của khoa học đã được xem như là một phương pháp tìm tòi nghiên cứu để đạt được những hiểu biết chi tiết về thế giới thực tại và những định luật cơ bản của thiên nhiên. Trên quan điểm khoa học thuần túy, việc phát minh vũ khí nguyên tử là một thành quả đáng kinh ngạc. Tuy nhiên, vì việc phát minh này có tiềm năng tạo nên nhiều khổ đau với sự chết chóc và tàn phá không thể tưởng tượng được, chúng tôi xem đó là thứ vũ khí huỷ diệt. Chính sự đánh giá về đạo đức sẽ quyết định cái gì là tích cực và cái gì là tiêu cực. Mãi cho đến gần đây, phương pháp tách rời đạo đức và khoa học hình như đã thành công khi cho rằng khả năng con người suy nghĩ về đạo đức phát triển song song với kiến thức của nhân loại.
Ngày nay, tôi tin rằng nhân loại đang đứng trước một khúc quanh quan trọng. Những tiến bộ lớn lao trong khoa thần kinh học và đặc biệt là ngành di truyền học vào cuối thế kỷ thứ 20 đã dẫn đến một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại. Kiến thức của chúng ta về não bộ và cơ thể con người xét ở mức độ tế bào và di truyền tử, cùng với việc cung cấp những khả năng kỹ thuật tương ứng để vận dụng các tế bào, đã đạt đến một giai đoạn làm nẩy sinh những thách thức đạo đức nghiêm trọng đối với những tiến bộ khoa học ấy. Rõ ràng là những suy nghĩ về đạo đức của chúng ta không thể nào bắt kịp với những tiến bộ nhanh chóng trong việc tiếp thu kiến thức và sức mạnh kỹ thuật. Tuy nhiên hậu quả của những khám phá mới và việc áp dụng chúng đã quá rộng lớn đến nỗi chúng liên hệ đến chính cái khái niệm về bản chất con người và việc bảo tồn chủng loại con người.
Vì thế, chúng ta thấy không còn thích hợp khi chấp nhận quan điểm cho rằng trách nhiệm của chúng ta như một xã hội chỉ là cứ tiến xa hơn trong lãnh vực kiến thức khoa học và nâng cao sức mạnh của kỹ thuật, còn việc lựa chọn phải làm gì với kiến thức và sức mạnh này nên đặt vào tay của từng cá nhân. Chúng ta phải tìm ra một phương cách để đưa những suy xét cơ bản về đạo đức và nhân đạo vào hướng phát triển khoa học, nhất là trong các ngành khoa học về đời sống. Bằng cách viện dẫn những nguyên tắc đạo đức cơ bản, tôi không cổ xúy cho việc sáp nhập đạo đức tôn giáo vào việc nghiên cứu khoa học.
Đúng hơn là tôi đang nói về cái mà tôi gọi là “ “đạo đức thế gian”, bao gồm những nguyên tắc đạo đức cơ bản, như là lòng từ bi và bao dung, một thái độ ân cần, biết quan tâm đến kẻ khác, và việc sử dụng kiến thức và sức mạnh với tinh thần trách nhiệm - những nguyên tắc vượt qua ranh giới của những người có đức tin và những người không có đức tin, tín đồ của tôn giáo này hay tôn giáo khác. Riêng cá nhân tôi, tôi thích tưởng tượng tất cả sinh hoạt của con người, kể cả khoa học, giống như những ngón tay của cả bàn tay. Bao lâu mà mỗi ngón tay vẫn còn được nối kết với lòng bàn tay của vị tha và bác ái căn bản của con người, chúng sẽ tiếp tục phục vụ cho lợi ích của nhân loại.
Thật sự chúng ta đang sống trong cùng một thế giới. Kinh tế, truyền thông điện tử, du lịch quốc tế, cũng như những vấn đề môi sinh hiện đại, tất cả nhắc nhở chúng ta hằng ngày rằng thế giới ngày nay đã tương quan mật thiết với nhau như thế nào. Các cộng đồng khoa học đóng một vai trò quan trọng trong thế giới tương quan này. Cho dù vì bất cứ lý do lịch sử nào đi nữa, ngày nay các khoa học gia được hưởng sự kính trọng và tín nhiệm lớn lao trong xã hội, lớn hơn nhiều so với ngành triết lý và tôn giáo của chúng tôi. Tôi kêu gọi các khoa học gia đưa vào công tác chuyên môn của họ những mệnh lệnh của các nguyên tắc đạo đức cơ bản mà tất cả mọi người chúng ta đều cùng nhau chia sẻ.
Vì thế, chúng ta thấy không còn thích hợp khi chấp nhận quan điểm cho rằng trách nhiệm của chúng ta như một xã hội chỉ là cứ tiến xa hơn trong lãnh vực kiến thức khoa học và nâng cao sức mạnh của kỹ thuật, còn việc lựa chọn phải làm gì với kiến thức và sức mạnh này nên đặt vào tay của từng cá nhân. Chúng ta phải tìm ra một phương cách để đưa những suy xét cơ bản về đạo đức và nhân đạo vào hướng phát triển khoa học, nhất là trong các ngành khoa học về đời sống. Bằng cách viện dẫn những nguyên tắc đạo đức cơ bản, tôi không cổ xúy cho việc sáp nhập đạo đức tôn giáo vào việc nghiên cứu khoa học.
Đúng hơn là tôi đang nói về cái mà tôi gọi là “ “đạo đức thế gian”, bao gồm những nguyên tắc đạo đức cơ bản, như là lòng từ bi và bao dung, một thái độ ân cần, biết quan tâm đến kẻ khác, và việc sử dụng kiến thức và sức mạnh với tinh thần trách nhiệm - những nguyên tắc vượt qua ranh giới của những người có đức tin và những người không có đức tin, tín đồ của tôn giáo này hay tôn giáo khác. Riêng cá nhân tôi, tôi thích tưởng tượng tất cả sinh hoạt của con người, kể cả khoa học, giống như những ngón tay của cả bàn tay. Bao lâu mà mỗi ngón tay vẫn còn được nối kết với lòng bàn tay của vị tha và bác ái căn bản của con người, chúng sẽ tiếp tục phục vụ cho lợi ích của nhân loại.
Thật sự chúng ta đang sống trong cùng một thế giới. Kinh tế, truyền thông điện tử, du lịch quốc tế, cũng như những vấn đề môi sinh hiện đại, tất cả nhắc nhở chúng ta hằng ngày rằng thế giới ngày nay đã tương quan mật thiết với nhau như thế nào. Các cộng đồng khoa học đóng một vai trò quan trọng trong thế giới tương quan này. Cho dù vì bất cứ lý do lịch sử nào đi nữa, ngày nay các khoa học gia được hưởng sự kính trọng và tín nhiệm lớn lao trong xã hội, lớn hơn nhiều so với ngành triết lý và tôn giáo của chúng tôi. Tôi kêu gọi các khoa học gia đưa vào công tác chuyên môn của họ những mệnh lệnh của các nguyên tắc đạo đức cơ bản mà tất cả mọi người chúng ta đều cùng nhau chia sẻ.
NGUYỄN LÝ TƯỞNG * TRẠI NAM HÀ
ĐÊM GIAO THỪA TẾT BÍNH DẦN (1986) TẠI TRẠI NAM HÀ (BẮC VN)
Nguyễn Lý-Tưởng
Tháng 3-1983, sau bảy năm bị giam giữ tại trại Hà Tây (tỉnh Hà Sơn Bình), chúng tôi được chuyển về trại Nam Hà (tỉnh Hà Nam Ninh). Tôi vừa bị kỷ luật cùm một chân cả tháng trời kể từ ngày 25 tháng 9 năm 1982 vì lý do tổ chức đường giây gởi thư “chui” từ trong trại ra ngoài mà không qua sự kiểm duyệt của Công An, sức khỏe chưa bình phục thì lại chuyển đến trại Nam Hà là một trại ở miền núi, khí hậu khắc nghiệt.
Trại nằm trên vùng núi đá vôi, nơi đó thường gọi là cao nguyên Chi-Nê và dưới chân núi là vùng đầm lầy, có cái tên rất nổi danh “Đầm Đùn”. Danh từ “Chi-Nê Đầm Đùn” đã được mọi người biết đến vào thời Việt Minh, trước 1954, vì đây là chiến khu cũ của chúng. Đây cũng là xã Khả Phong, một địa danh đã có từ thời Đinh Tiền Hoàng với những huyền thoại “cờ lau” mà khi chúng tôi vừa đến nơi đã thấy trên núi rất nhiều cây lau mọc trắng xóa.
Từ xa trông lên, địa thế rất hùng vỹ: những lớp vôi mềm bị nước xói mòn, cuốn trôi đi, còn lại đá cứng lởm chởm, hình thế kỳ dị; chỗ thì giống như rồng nằm, chỗ thì giống như cọp ngồi; nơi thì giống hình con rùa đang leo lên giốc. Dưới chân núi, có con sông và cánh đồng rộng lớn, 5 ngọn núi mọc lên giữa đồng bằng trông như năm hòn đảo nhỏ, có miếu Ba Cô, có đền Liễu Hạnh Công Chúa...Mùa mưa, nước mênh mông như cái hồ lớn hay biển, thuyền bè có thể đến được, dân đánh cá tập trung ở đây. Mùa khô, nước rút đi hết chỉ còn một lạch sông, dân quanh vùng canh tác chỗ đất cao để trồng lúa, trồng rau. Đi sâu vào rừng, những chỗ đất bằng phẳng hay dọc theo sườn núi, đều có trồng chuối, sắn, khoai, bắp, đậu, bí bầu, rau v.v. đặc biệt có một khu vực trồng cây mơ là loại cây quý, trái chín thơm ngon dùng làm rượu mơ.
Khu vực quanh trại nơi gọi là “hiện trường lao động”, mỗi ngày công an và cảnh vệ (võ trang) dẫn tù ra đây làm việc, tăng gia sản xuất để tự túc. Ngoài ra cũng có những nhóm tù làm nghề mộc, xẻ gỗ làm bàn ghế, tủ giường, đồ đạc hay làm nhà ở; có những nhóm đi làm thợ nề, xây nhà, xây tường; có những nhóm thợ rèn sản xuất dao, rựa, cuốc, xẻng, làm khung cửa, làm đinh và các thứ cần dùng khác; một nhóm đập đá làm gạch xây tường, lấy đá vôi làm hồ, làm vữa thay cho xi-măng; có số anh em đi trồng cói để làm chiếu, làm bao bị lác; có anh em đi nuôi cá, nuôi heo, nuôi trâu, bò, gà vịt v.v. Cách trại chừng nămbảy cây số, sâu vào trong rừng có làng của người bị bệnh phong cùi, họ sống với nhau ở đó và không được đi ra khỏi vùng này. Họ cũng phải chăn nuôi, trồng trọt để tự túc.
Năm 1976, những anh em đầu tiên được đưa từ miền Nam ra đây gồm có số tù tại trại Long Thành, Thủ Đức và khoảng mấy trăm thanh niên, sinh viên “Phục Quốc” là những người hoạt động chống lại chế độ CSVN sau 30-4-1975.
Lúc đầu họ ở trong những lều vải hay những nhà làm tạm bằng tranh tre, sau đó họ phải đi chặt cây, xẻ gỗ làm nhà, dùng mìn phá đá làm gạch để xây tường. Hàng ngàn, hàng vạn người, năm này đến năm khác đã xây dựng nên khoảng hai chục dãy nhà chiều dài khoảng 30 mét, chiều ngang khoảng 6 mét, cao 4-5 mét...san bằng những chỗ đất đá gồ ghề để làm sân, xây bệnh viện, nhà kỷ luật, nhà kho, nhà bếp, đào hàng chục cái giếng trên núi và vĩ đại nhất là xây một bức tường thành bằng đá bao quanh trại chu vi đến mấy cây số. Bên trong trại, cứ mỗi khu, mỗi buồng lại có tường ngăn nữa. Trên tường thành rào kẽm gai và có bắt điện ban đêm để phòng tù trốn ra khỏi trại. Từ xa nhìn lên núi trông như một khu lâu đài với tường xây và mái ngói đỏ chót.
Vị trí Trại Nam Hà phía Nam giáp Thanh Hóa, phía Tây là Lào, phía Bắc là Hòa Bình. Cách trại chừng vài chục cây số là vùng chùa Hương rất danh tiếng nằm cạnh con sông, nước trong veo, thấy suốt đáy sâu nên gọi là sông Đáy. Cách trại chừng 5 cây số là vùng Ba Sao, và đi xa hơn chục cây số nữa là ga xe lửa Phủ Lý.
Vừa đến trại Nam Hà thì nghe anh em rỉ tai nhau: “chúng mình sẽ được tha về và sẽ được cho định cư với gia đình hoặc cho tỵ nạn chính trị tại nước ngoài”. Nam Hà cũng có hội cầu cơ gọi là “Thi Đàn Tùng La” và nghe đâu cụ Phan Đình Phùng có giáng bút nhiều bài thơ tiên doán về thời cuộc. Một số anh em rất tin tưởng. Nhiều người không hiểu hai chữ “Tùng La” có nghĩa gì. Tôi có hỏi một anh bạn quê ở Hà Tĩnh, anh cho biết đó là làng Tùng Ảnh và sông La giang là hai địa danh thuộc quê hương của cụ Phan Đình Phùng. Sông La ở Hà Tĩnh khác với sông Lam ở Nghệ An.
La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp đã từng được vua Quang Trung mời hợp tác với nhà Tây Sơn cũng lấy tên La giang, La Sơn làm biệt hiệu.
Anh em cũng truyền tụng câu:
“Bao giờ tường đá nở hoa;
Nam Hà tụ hội thì ta ra về”.
Bão tố qua rồi, biển lặng tanh,
Trời chìm đáy nước một màu xanh.
Núi rừng bao bọc như thành quách,
Nhà cửa trùng trùng tợ hỗ tranh.
Cao ngất mặt hồ nhiều đảo nhỏ,
Cánh buồm xuôi gió vẫn trôi nhanh.
Tiều phu xuống núi, gà xa gáy,
Bến cũ mây hồng hướng lộ trình.
Tháng Ba năm 1983, trời rét quá, nhà cửa trống trải, tôi nằm gần cửa, mưa gió hắt vào lạnh thấu xương. Do ảnh hưởng của hai lần bị cùm chân trong nhà kỷ luật và gần bảy tháng biệt giam tại nhà giam Hỏa Lò (Hà Nội) nên mới về đây chưa được mấy tuần thì tôi bị bệnh nặng phải vào cấp cứu tại Bệnh xá của trại. Giây thần kinh bị kẹt giữa hai đốt xương sống nên rất đau và không đi lại được, tôi phải nằm một chỗ trên giường.
Bác sĩ Trương Văn Quýnh là một anh em tù được cho vào làm việc tại bệnh xá, đã hết lòng giúp đỡ săn sóc cho tôi,nhưng vì ăn uống thiếu thốn, thuốc men không có nên sức khỏe khó phục hồi nhanh được. Thầy Khuê, Đại Đức Tuyên Úy Phật Giáo, trước đây là huấn luyện viên võ thuật tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, đã dùng phương pháp riêng của một võ sư để chữa trị cho tôi và Bác sĩ Trương Văn Quýnh đã 14 lần chích thuốc Novocain vào đốt xương sống của tôi.
Anh em nghe tin tôi bị đau nặng, mỗi ngày sau khi đi lao động về, thường ghé vào bệnh xá thăm và tìm cách giúp đỡ. Trong thời gian đó, Thượng Tọa Thích Thanh Long (sau nầy là Hòa Thượng ở chùa Giác Ngạn), nguyên Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo trong Quân Đội VNCH cũng bị bệnh nằm bệnh xá nên thường đến thăm và trò chuyện với tôi. Anh Nguyễn Tường Ánh, con trai của nhà văn Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), bị bệnh nằm chung phòng với tôi, là người giúp đỡ săn sóc cho tôi mỗi ngày, vì tôi không thể ngồi dậy và đi lại được.
Trong khi tôi nằm bệnh xá, thì một số anh em được lệnh chuyển trại vào miền Nam và một số ở trại C, trại Mễ gần đó được tập trung về trại A Nam Hà. Nghe tin đó, chúng tôi rất hy vọng được chuyển về Nam, khí hậu ấm áp, được gần gia đình, sẽ được gặp vợ con dễ dàng hơn. Nhưng sau đợt chuyển trại đó, từ tháng 4-1983 đến tháng 2-1986, không thấy có biến chuyển nào khác ngoài một vài người được tha về có tính cách nhỏ giọt. Tên Thắng Chuột (mặt như mặt chuột) là sĩ quan An Ninh trại rình mò, theo dõi anh em thường xuyên, không khí ngột ngạt, căng thẳng. Công An thường tổ chức kiểm tra đồ đạc, lục xét giấy tờ, sách vở, ghi chép của anh em tù; nhiều người bị tra vấn, khó dễ đủ điều. Mỗi lần có thân nhân trong Nam ra thăm, anh em nhận được những tin tức phấn khởi từ bên ngoài đưa vào lại phổ biến cho nhau biết.
Tháng 12 năm 1985, anh em tổ chức hát thánh ca, bí mật họp nhau cầu nguyện khi nơi nầy nơi khác vào ban đêm hay ngày nghỉ. Có lần tại Buồng 4 khu A, anh Lương Việt Cương (Giáo Sư, thuộc Lực Lượng Phục Quốc) và anh Trần Văn Hưởng (Trung Ương Tình Báo), sau khi tổ chức mừng Lễ Giáng Sinh xong, vẫn còn để lại cây Thông trong buồng. Bất thình lình có phái đoàn Bộ Nội Vụ ở Hà Nội đến thanh tra trại, và sau đó cả hai anh “bị kêu lên làm việc với cán bộ”...Các anh đã khai là sắp đến Tết nên có sáng kiến làm “cây nêu” chơi cho vui... Hai anh bị cán bộ bắt làm kiểm điểm.
Trước Tết, có một cuộc họp gồm đại diện các buồng, các đội và Ban Giám Thị Trại để phổ biến về tổ chức vui chơi cũng như ăn uống dành cho anh em tù trong ba ngày Tết. Trại có bán rượu mơ là loại rượu do trại sản xuất và một số bánh kẹo, trà, mứt v.v.
theo tiêu chuẩn cho từng buồng. Các thứ hàng đó, phẩm chất rất kém, nhưng hoàn cảnh tù mà có được các thứ đó thì cũng là quý rồi.
chương trình đón giao thừa thì tôi quá buồn và đắp chăn nằm ngủ. Nhưng bạn bè, có người hiểu hoàn cảnh tôi, đã khuyên tôi nên tham dự với anh em, không nên tỏ ra quá buồn phiền.
Hôm đó, hai anh Nguyễn Trí Tuệ (Trung Tá Hải Quân) và Phạm Duy Tuệ (Dân Biểu) làm MC. Anh Trí Tuệ giới thiệu chương trình còn anh Duy Tuệ thì kể chuyện tiếu lâm. Các anh Vũ Văn Quý (Dân Biểu) đàn Hạ Uy Cầm, anh Nguyễn Mạnh Đĩnh (Đại Tá) chơi đàn Tây Ban Cầm , anh Nguyễn Xuân Thảo (Thiếu Tá CTCT), vừa đàn vừa hát. Các anh Vĩnh Biểu (Đại Tá), anh Chín Nỉ (sĩ quan Cảnh sát), Bùi Bằng Đoàn (Phục Quốc) và một số các bạn khác, lâu ngày tôi không nhớ tên vừa hát vừa kể chuyện hoặc ngâm thơ...Số người trong buồng khoảng 60 người, tôi còn nhớ một vài người như Thượng Tọa Thích Minh Tâm (trụ trì chùa Thới Hòa gần Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, Tuyên Úy Phật Giáo tại Biệt Khu Thủ Đô Sài Gòn), Ông Chu Tử Kỳ (VNQDĐ), Ông Trần Văn Quá (Nghị sĩ), một số Đại Tá như Phan Trong Thiện, Bùi Đức Tài, Trần Hữu Độ, Phạm Văn Phô, Phạm Văn Thuần, Huỳnh Thanh Sơn, Trần Văn Việt...các anh Phan Văn Phương (Hải quân), Lê Thanh Phước (Cảnh sát), Nguyễn Đình Thanh (Thám Sát), Sơn (điếc), Huỳnh Chí Tài, Nguyễn Văn Khuôn v.v.
Bọn võ trang vẫn đi tuần tra bên ngoài thỉnh thoảng đến gần cửa sổ nhìn vào, anh em cũng có mời nước trà, thuốc lá v.v. Nhưng sau đó, vì anh em ham nghe ca hát nên không chú ý mời mọc gì chúng hết. Đúng giờ giao thừa, tôi tung chăn vùng dậy, mang mặt nạ ra đứng giữa buồng, tay cầm một miếng giấy trắng, không có chữ gì trên đó và bắt đầu đọc “Sớ Táo Quân”. Đọc xong một đoạn thì anh Nguyễn Trí Tuệ cầm cái đĩa nhôm đánh ba tiếng “phèng, phèng, phèng” và anh em vỗ tay hoan hô... Đọc xong tôi liền trở về chỗ, nằm trùm chăn như trước...
Chừng một giờ đồng hồ sau, trong lúc anh em đang ca hát, kể chuyện, ăn uống với nhau thì công an đến gọi buồng trưởng là anh Bùi Đức Tài (Đại Tá Tỉnh Trưởng Tây Ninh) ra và hỏi:
• Anh nào vừa làm ông táo đó ?
Anh Tài trả lời rất nhỏ, chỉ những người ở gần mới nghe được:
• Anh Nguyễn Lý-Tưởng.
Tên cán bộ công an:
• Các anh trách móc nhà nước đã hành hạ các anh, bắt các anh phải chịu đói, chịu rét, bắt các anh đi lao động khổ sai,
Đêm giao thừa (8-2-1986), sau khi cán bộ đóng cửa buồng và đi xa rồi thì anh em bắt đầu nấu nước sôi pha trà, cà phê và ai có thức gì thì đem ra để trên cái bàn nhỏ đặt giữa buồng cùng vui Tết với nhau. Nơi đó cũng có một cành mai giả do anh em tự trang trí với những cánh thiệp chúc Tết, tràng pháo (giả), bánh chưng, câu đối và có một hình ông Táo ốm o, gầy còm, rách rưới do anh Quát (Trung Ương Tình Báo) vẽ... Một số anh em biết đánh đàn thì mang đàn ra chơi, một số anh em hát, kể chuyện vui để cùng nhau đón giao thừa.
Mọi năm, tôi có làm một bài Sớ Táo Quân, đợi đến giờ giao thừa thì đọc cho anh em nghe. Tôi cũng bí mật chuyển cho bạn bè ở các buồng khác để phổ biến cho anh em trong giờ đó. Nhưng năm nay, mẹ tôi qua đời ngày 30-10-1985 tại Long Khánh mà hơn ba tháng sau, tôi mới nhận được tin vào những ngày gần Tết, nên tôi rất buồn và không muốn vui chơi. Chiều 30 Tết, anh Trần Văn Hưởng đến nài ép tôi làm cho một bài Sớ Táo Quân, tôi đọc cho anh ấy chép và dặn phải cẩn thận vì bọn “chó vàng” (tức bọn công an mặc áo vàng) đang theo dõi...Tôi chỉ đọc thuộc lòng chứ không viết ra giấy. Khi anh em bắt đầu
cướp đi cuộc sống của các anh...Các anh phát ngôn bừa bãi, tư tưởng phản động...gây ảnh hưởng xấu cho anh em trong buồng. Ngày mai các anh sẽ ra “làm việc với cán bộ...” Anh là buồng trưởng, anh phải chịu trách nhiệm, anh phải báo cáo lại rõ ràng diễn tiến nội vụ...
Anh Bùi Đức Tài chỉ dạ dạ, vâng vâng cho qua chuyện...Anh em trong buồng im lặng, dọn dẹp đồ đạc và đi ngủ. Lúc đó cũng vào khoảng 2,3 giờ sáng rồi. Tôi liền đứng dậy nói với anh em trong buồng:
• Tôi vừa có tang mẹ, mấy năm nay không có thân nhân đến thăm nên quá buồn. Cả đời tôi không hề uống rượu, vừa rồi có uống chút rượu mơ, bị say rượu, tôi đã nói gì cũng không nhớ. Tôi xin chịu trách nhiệm về hành động và lời nói của tôi. Tôi thành thật xin lỗi anh em. Xin anh em cứ sự thật như vậy mà khai báo với cán bộ.
Mọi người im lặng không ai nói thêm điều gì. Anh em đều hiểu ý của tôi là phải đồng lòng nhau khai như vậy, chỉ một mình
cờ, tôi được trở về buồng với anh em đúng vào ngày kỷ niệm của tôi. Tôi tin rằng đó là nhờ Thánh Bổn Mạng của tôi phù hộ...
Sau ba lần bị cùm và gần 13 năm trong nhà tù cải tạo của Cộng Sản VN, sức khỏe tôi suy yếu cho đến nỗi ngày về (13-2-1988) tôi không đủ sức leo lên tàu, phải nhờ anh Nguyễn Văn Tăng (Trung Tá) dìu đi. Nhưng tinh thần tôi vẫn không hề nao núng, tôi tin tưởng một cách tuyệt đối rằng anh em chúng tôi sẽ được cứu thoát và sẽ đến đất tự do. Trong những thư “chui” viết về cho vợ con, tôi vẫn luôn luôn tin tưởng như vậy. Ngày hôm nay, niềm tin đó đã thành sự thật, tôi và gia đình đã thoát khỏi chế độ CSVN và được định cư ở Hoa Kỳ. Anh em có mặt tại Buồng 5 khu A trại Nam Hà vào đêm giao thừa Tết Bính Dần (đêm 8 qua ngày 9-2-1986) hiện nay mỗi người một nơi, có người đã qua đời, nhưng không một ai quên được hình ảnh “ông Táo” với niềm tin “chính nghĩa quốc gia sẽ thắng Cộng Sản”. Tôi xin gởi đến các bạn cũ cùng chung hoạn nạn lời cầu chúc “Năm Mới bình an, hạnh phúa”.
Sau đây tôi xin chép lại “SỚ TÁO QUÂN” mà tôi đã sáng tác và đọc trong đêm 8 qua ngày 9-2-1986 tại trại Nam Hà nhân dịp Tết Bính Dần, để quý vị cùng thưởng thức.
SỚ TÁO QUÂN
Ngọc Hoàng Vạn Tuế !
Ngọc Hoàng Vạn Tuế !
(Thùng,thùng, thùng...)
*
Muôn tâu Ngọc Hoàng,
Thần Táo Việt Nam,
Nam Hà chi trại,
Buồng 5, Khu A,
Tháng Chạp 23,
Xin về bái yết...
(Thùng, thùng, thùng...)
*
Vậy xin tâu hết,
Khổ ơi là khổ !
(Thùng thùng thùng...)
*
Lạ người, lạ chỗ,
Lạ nước, lạ non,
Lòng những mỏi mòn,
Cũng đành chịu vậy.
Trông ra phía Tây,
Mấy ông rồng nằm,
Trông ra phía Đông,
Năm ông hổ phục,
Trông ra phía Bắc,
Núi cao chất ngất,
Mây trôi lãng đãng.
Trông ra phía Nam,
Rùa chưa tới đỉnh...
(thùng, thùng, thùng...)
*
Từ lúc bình minh,
Đến khi chiều xuống,
Gánh phân ra ruộng,
Đập đá làm vôi,
Vượt thác trèo đồi,
Vào rừng đốn củi,
Áo quần rách rưới,
Bụng đói cồn cào,
Ai có thuốc lào,
Cho hít một hơi,
Ốm như ma trơi,
Khổ ơi là khổ !
(Thùng, thùng, thùng...)
*
Tiền ghi vào sổ,
Giữ đó không xài,
Ăn thì sắn khoai,
Chan thêm nước muối,
Mấy năm ở đó,
Chẳng gặp vợ con,
Bệnh hoạn từng cơn,
Không có thuốc men,
Khổ ơi là khổ !
(Thùng, thùng, thùng...)
*
Nghe đồn buồng nọ,
Có gởi thư chui,
Tính tới tính lui,
Cũng liều một nước.
Nếu chúng bắt được,
Thì phải bị cùm,
Trong nhà kỷ luật,
Khổ hơn súc vật,
Chẳng khác chó heo,
Nghĩ phận tù nghèo,
Khổ ơi là khổ !
(Thùng, thùng, thùng)
*
Nghe đồn thầy số,
Đã đoán Tử Vi,
Chắc chắn năm ni,
Anh em về hết.
(Thùng, thùng, thùng...)
*
Qua mấy lần Tết,
Chẳng thấy hơi tăm.
Có người đến thăm,
Đem tin: ở Mỹ,
Đã có hội nghị,
Cam kết đôi bên:
“Về cho đi liền”,
Anh em phấn khởi.
Xây lại cuộc đời,
Yên phận làm người,
Thảnh thơi đôi chút !
(Thùng, thùng,thùng...)
*
Thân tù côi cút,
Dại dột tâu lên,
Thượng Đế Thương Tình,
Hoàn thành ý nguyện.
(Thùng, thùng, thùng...)
*
Chỉ bấy nhiêu chuyện,
Báo cáo đã xong,
Từ giã Ngọc Hoàng,
Thần xin trở xuống.
Bai, Bai.(By, By)
Thùng thùng thùng.....
N.L.T.
Subscribe to: Post Comments (Atom
No comments:
Post a Comment