Chuyến Đi Không Thành.
Thẻ ID Tạm Dung của Phạm Thắng Vũ cũng là tác giả của Hồi Ký này.
Tôi
có mặt tại điểm hẹn ở trạm xe buýt gần rạp hát Opera vào lúc 8:45 sáng
và theo lời dặn hễ thấy chiếc xe buýt nào mang số 225-434 ngừng gần thì
bước lên ngay. Tôi chờ mà lòng thấp thỏm lo sợ công an có thể đang phục
kích gần đâu đó. Giả vờ như khách bộ hành mệt mỏi ngồi nghỉ chân bên vệ
đường đang xem báo mà thực sự trong tôi cầu mong chiếc xe buýt đến đúng
giờ. 9 giờ rồi, đúng giờ hẹn mà xe vẫn chưa thấy. Lấy tờ báo trong túi
sách ra rồi cúi xuống vờ đọc thì vừa lúc một xe buýt trờ đến, tôi vơ vội
túi hành lý nhỏ nhưng hàng số bên hông xe không phải chiếc xe đón
người. Vài người trên xe buýt bước xuống, xe chạy đi ngay. Tôi nhìn đồng
hồ 9:10 rồi 9:20 và... 9:30 mà chưa thấy xe đâu. Lo lắng nhìn phía bên
kia đường, bắt được vài tia mắt nhìn vội về tôi rồi quay đi. Tia mắt của
những người ngồi gần gốc cây bên vệ đường và người nào cũng có một túi
xách nhỏ. Tự nhiên tôi cảm thấy bất an vô cùng vì biết họ cũng đang chờ
xe như tôi. Họ là bạn đồng hành với tôi qua thái độ và hành lý mang theo
bên mình. 9:45 phút mà vẫn chưa thấy xe! Lo quá! Làm gì bây giờ đây?
Phải quyết định ngay, tôi không thể chần chờ được. Nhớ lời dặn của chị
Thu nếu xe trễ 30 phút thì bỏ về ngay vì chuyến đi coi như đã bị trục
trặc. Nấn ná ở lại bị công an tó ráng chịu. Nhìn sang bên kia đường nơi
có các bạn đồng hành của tôi, họ đã biến mất hết. Giờ chỉ còn có một
mình tôi. Phải dọt ngay. Tôi đứng lên, định rảo bước thì tiếng xe thắng
gấp gần bên. Chiếc xe mang biển số 225 434 tôi đang mong. Hấp tấp, tôi
bước lên. Lơ xe ngó quanh quất chung quanh, miệng nói lớn: " Có ai nữa
không, lên xe ngay ". Lề đường vắng lặng, người lơ tiếp luôn: "Tới luôn,
hết khách rồi bác tài ". Tôi vội vàng ngồi ngay vào một ghế bên cửa sổ
như thói quen khi đi xe buýt. Nhìn ra bên ngoài, tôi thấy bên kia đường,
hai người trong số ngồi chờ xe lúc nãy đang chạy theo và cố sức ra dấu
để mong xe ngừng lại. Xe bỏ mặc và chạy thẳng.
Xe lần lượt ghé từng điểm hẹn để nhận khách rồi cứ thế chạy lần ra ngoại ô hướng về Thủ Đức và sau cùng trực chỉ Vũng Tàu. Đến thành phố biển Vũng Tàu vào giấc chiều và ngừng ở một bãi trống gần con đường mang tên Ba Cu. Tất cả khách trên xe được dặn nhỏ tạm thời tản ra, giả dạng khách du lịch đi lòng vòng đâu đó chơi nhưng phải quay về xe lúc 7:30 chiều.
Nhập vào dòng người du lịch, tôi đi lòng vòng qua các con phố rồi ghé vào tiệm uống cà phê ngồi xem báo để hết thời gian. Thời gian nầy Vũng Tàu có khá đông khách ngoại quốc từ các nước CS Đông Âu hoặc từ Liên Xô đến. Họ là chuyên viên trong các công ty khoan dầu hoặc các công trình khác ở miền Nam và đổ về đây để tắm biển để nghỉ ngơi... Quay về xe buýt lúc 7:10, tôi chọn một chỗ ngồi khá xa để phòng các bất trắc. Khi thấy khách kéo nhau lên xe buýt khá nhiều, tôi mới rời chỗ để lên xe. Trong xe chật cứng người, đám tổ chức đã nhét thêm khách cho chuyến hải hành tối nay. 7:30 chập choạng tối, xe buýt khởi hành nhưng chỉ chạy lòng vòng trong thành phố để chờ trời tối hẳn. Có lúc xe ngừng lại, tài xế và các lơ xe làm bộ sửa máy hoặc xem lại các bánh xe. Tôi ngồi im lặng, cầu mong mọi sự an lành.
Trời tối hẳn, xe chạy nhắm hướng bãi trước và khi vừa ngừng sát cạnh bờ biển thì đột nhiên toàn bộ điện đường ngay khu vực bị cúp hẳn. Trong bóng tối đen, nhóm tổ chức hối thúc khách rời khỏi xe và chạy ngay xuống mép nước. Chạy đến mép nước, dưới ánh lờ mờ của ngọn đèn hải đăng xoay trên đỉnh núi, một ghe khá lớn đã có mặt sát bờ tự lúc nào. Nhiều người đang bước bì bõm để ra ghe. " Cá lớn đó... Lội ra ngay đi bà con ", tiếng một người xì xào. Một đống dép, guốc của hành khách vất bỏ trên bãi cát chung với các túi xách. Kinh nghiệm của những lần vượt biên không thành từ trước, tôi không vất bỏ đôi dép mà cẩn thận lấy ra một sợi dây thủ sẵn trong túi. Luồn dây vào đôi dép rồi cột nó vào quai con đỉa của cái quần dài đang mặc, sau đó tôi bắt đầu lội từng bước ra ghe. Tối nay, không hiểu do một hiệu ứng gì mà mặt biến lấp lánh các vệt sáng màu xanh lá cây trông rất kỳ lạ. Các vệt sáng xanh phản chiếu những lọn sóng, thân người khi họ chuyển động gần bên ghe. Cố gắng hết sức để bước dần tới được cạnh ghe mà mực nước đã tới ngang cổ tôi. Sát bên ghe nhưng tôi không biết làm sao để có thể trèo lên được? Bất ngờ, tôi chạm phải một cạnh gỗ nằm ngang thân ghe và nhờ nó tôi có thể dựa vào để trèo lên. Một bàn tay của người đứng trên sàn đã nắm lấy tôi, kéo tôi lên rồi trong chớp mắt, người đó ấn tôi chui xuống ngay khoang hầm ghe. Trong khoang hầm chật cứng người. Chưa kịp nhìn rõ mọi thứ thì có thêm người nữa trèo xuống. Nước biển từ người họ văng tung toé vào thân, mặt tôi. Chợt máy ghe nổ to hơn và dường như nó chạy lùi rồi làm một vòng quay ra biển. Chuyến hải hành vượt biên đầu tiên trong đời tôi bắt đầu. Đó là 9 giờ tối của một ngày cuối tháng 7 năm 1984.
Tôi ngồi yên, lưng dựa vào vách gỗ thân ghe, mắt nhắm nghiền vì mệt và vì có mở mắt cũng chẳng thấy chung quanh rồi thiếp đi lúc nào không hay. Ghe vẫn chạy êm ả nhưng chuyến đi thật không suôn sẻ. Không gặp ghe công an biên phòng và tàu hải tặc Thái Lan nhưng sau 4 ngày 5 đêm, các tài công đã quay mũi để trở về Việt Nam khi vừa lượn quanh một dàn khoan dầu Mã Lai Á. Khách trên ghe không ai biết hành động của đám tài công cho mãi hơn một ngày sau họ nói ra thì mọi người mới biết. Khách, hết hăm doạ rồi năn nỉ thậm chí cả lạy lục đám tài công để họ từ bỏ ý định điên rồ mà tiếp tục chuyến vượt biên nhưng vô vọng. Tôi biết bản thân phải chuẩn bị đối phó với những bất trắc sẽ xảy ra khi chiếc ghe cập vào một bờ bãi nào đó của nước Việt.
Tài công-thợ máy của ghe gồm ba người. Hai anh em ruột và người kia là bạn của họ. Tất cả đều có bồ (bạn tình) nhưng đều vắng mặt trong chuyến đi. Sau 4 ngày 5 đêm hải hành, thấy những khách trên ghe có vợ, con đi theo làm họ nhớ đến các bạn tình. Đó là lý do khiến họ quyết định quay ghe trở về Việt Nam. Họ tính sẽ tắp ghe vào một bãi biển kín đáo nào đó để rồi từ chỗ trú ẩn tạm thời, họ đi về địa phương và đón bạn tình ra ghe xong sẽ khởi hành trở lại. Họ giải thích cho chúng tôi nghe về kế hoạch và cam đoan là sẽ không gặp khó khăn gì hết miễn là tất cả khách ém yên lặng dưới các khoang hầm trong thời gian dừng ghe. Một việc làm quá sức nguy hiểm và dại dột. Chúng tôi ai cũng biết nhưng không thể làm gì khác được vì họ khăng khăng không nghe. Hăm dọa sẽ đả thương nếu họ từ chối cũng không xong. Khách, ai cũng mệt mỏi vì say sóng nên đành thúc thủ trước các tài công khoẻ mạnh. Suy nghĩ đơn giản của các chàng ngư phủ ngang với trí não của người ít học. Lo lắng các tai ương sắp sửa ập xuống trên ghe mà lòng tôi vẫn thầm mong sẽ có sự may mắn xảy ra như ý muốn của ba tài công trẻ tuổi.
Chúng tôi ngồi yên nhìn nhau buồn bã chung một nỗi lo những bất trắc sẽ giáng xuống đầu mình.
Khi vừa thấy dạng đất liền, các tài công đã thúc hối mọi người trên sàn ghe phải chui ngay xuống các khoang hầm. Có người do say sóng quá sức nên không chịu chui xuống, viện lý do sức họ quá yếu nếu xuống khoang hầm lần nữa họ sẽ chết. Các tài công dùng vũ lực để xốc những người chống đối xuống lại khoang hầm. Nằm im trong khoang, chúng tôi phỏng đoán tình hình bên ngoài qua những lời tài công đối đáp. Có người lâm râm đọc kinh cầu nguyện. Thời gian trôi qua nặng nề. Tiếng máy vẫn nổ êm ả. Ghe đang ở trong vùng biển nào? Chỗ kín đáo tài công nói sẽ cho ghe tắp là đâu? Có thực an toàn không? Qua lời tài công trò chuyện, chúng tôi biết họ đã thấy hai chiếc ghe khác. Chúng tôi ai cũng lo lắng trong lòng. Hai ghe đó là ghe gì? Ghe đánh cá hay công an biên phòng? Đột nhiên tiếng súng vọng lại từ xa xa. Chết rồi. Tiếng người hét to cùng với tiếng khóc trong khoang hầm. Tài công tăng tốc cho ghe chạy thật nhanh. Tim tôi đập liên hồi, tay chân tự nhiên có lúc tê cóng. Tôi đang sợ. Thôi thế là chết. Đến được giàn khoan nước ngoài đã tưởng thoát để rồi quay về và bị rượt đuổi... " Giờ tụi mầy sáng mắt chưa. Thật một lũ ngu dốt ". Tiếng ai đó nói khá to gần tôi. Cuộc rượt đuổi bên ngoài diễn biến ra sao chúng tôi không ai biết nhưng sau cùng, một tiếng sầm thật lớn như ghe đâm vào vật gì đó bên ngoài. Tài công bỏ ghe nhẩy ùm xuống nước cùng với tiếng khóc tiếng la của khách trong khoang hầm làm mọi người càng sợ hơn. Cùng với các người khác, tôi vội đu người nhẩy lên ngay sàn ghe thì mới biết trời bên ngoài đã nhá nhem tối. Ghe đang trong khúc rạch hẹp, vắng lặng và không một bóng người. Chúng tôi nhẩy ngay xuống nước để lội vào bờ theo dấu tài công. Vừa leo được lên bờ đất tai đã nghe tiếng súng nổ gần bên và bóng dáng của hai ghe lạ đang lướt sóng chạy đến. Chúng tôi cắm đầu bỏ chạy cả đám, thân ai nấy lo. Trời tối rất nhanh. Thêm tiếng súng nổ kèm với tiếng thét tiếng khóc. Tôi chạy... chạy mãi nhưng chỉ một lát sau, tôi đã mất dấu với người chạy đằng trước. Cảm giác đau chân mới nhớ mình còn đôi dép cột bên người nên tôi vội vã cởi nó ra và mang ngay vào chân. Đôi dép da có quai đeo sau gót và nhờ nó, tôi mới có thể bước những bước chân lần mò trong đêm tối lờ mờ. Tôi đi lầm lũi cho đến lúc không còn thấy rõ cảnh vật chung quanh nữa. Trời đã hoàn toàn tối đen. Ngồi xuống nghỉ ngơi, tôi ngước mắt lên bầu trời đầy sao và tự hỏi đây ở đâu và bây giờ mình phải làm gì? Không thoát khỏi đây đêm nay, chắc chắn ngày mai tôi cũng sẽ bị bắt.
Phạm Thắng Vũ (còn tiếp)
(tiếp theo)
Xe lần lượt ghé từng điểm hẹn để nhận khách rồi cứ thế chạy lần ra ngoại ô hướng về Thủ Đức và sau cùng trực chỉ Vũng Tàu. Đến thành phố biển Vũng Tàu vào giấc chiều và ngừng ở một bãi trống gần con đường mang tên Ba Cu. Tất cả khách trên xe được dặn nhỏ tạm thời tản ra, giả dạng khách du lịch đi lòng vòng đâu đó chơi nhưng phải quay về xe lúc 7:30 chiều.
Nhập vào dòng người du lịch, tôi đi lòng vòng qua các con phố rồi ghé vào tiệm uống cà phê ngồi xem báo để hết thời gian. Thời gian nầy Vũng Tàu có khá đông khách ngoại quốc từ các nước CS Đông Âu hoặc từ Liên Xô đến. Họ là chuyên viên trong các công ty khoan dầu hoặc các công trình khác ở miền Nam và đổ về đây để tắm biển để nghỉ ngơi... Quay về xe buýt lúc 7:10, tôi chọn một chỗ ngồi khá xa để phòng các bất trắc. Khi thấy khách kéo nhau lên xe buýt khá nhiều, tôi mới rời chỗ để lên xe. Trong xe chật cứng người, đám tổ chức đã nhét thêm khách cho chuyến hải hành tối nay. 7:30 chập choạng tối, xe buýt khởi hành nhưng chỉ chạy lòng vòng trong thành phố để chờ trời tối hẳn. Có lúc xe ngừng lại, tài xế và các lơ xe làm bộ sửa máy hoặc xem lại các bánh xe. Tôi ngồi im lặng, cầu mong mọi sự an lành.
Trời tối hẳn, xe chạy nhắm hướng bãi trước và khi vừa ngừng sát cạnh bờ biển thì đột nhiên toàn bộ điện đường ngay khu vực bị cúp hẳn. Trong bóng tối đen, nhóm tổ chức hối thúc khách rời khỏi xe và chạy ngay xuống mép nước. Chạy đến mép nước, dưới ánh lờ mờ của ngọn đèn hải đăng xoay trên đỉnh núi, một ghe khá lớn đã có mặt sát bờ tự lúc nào. Nhiều người đang bước bì bõm để ra ghe. " Cá lớn đó... Lội ra ngay đi bà con ", tiếng một người xì xào. Một đống dép, guốc của hành khách vất bỏ trên bãi cát chung với các túi xách. Kinh nghiệm của những lần vượt biên không thành từ trước, tôi không vất bỏ đôi dép mà cẩn thận lấy ra một sợi dây thủ sẵn trong túi. Luồn dây vào đôi dép rồi cột nó vào quai con đỉa của cái quần dài đang mặc, sau đó tôi bắt đầu lội từng bước ra ghe. Tối nay, không hiểu do một hiệu ứng gì mà mặt biến lấp lánh các vệt sáng màu xanh lá cây trông rất kỳ lạ. Các vệt sáng xanh phản chiếu những lọn sóng, thân người khi họ chuyển động gần bên ghe. Cố gắng hết sức để bước dần tới được cạnh ghe mà mực nước đã tới ngang cổ tôi. Sát bên ghe nhưng tôi không biết làm sao để có thể trèo lên được? Bất ngờ, tôi chạm phải một cạnh gỗ nằm ngang thân ghe và nhờ nó tôi có thể dựa vào để trèo lên. Một bàn tay của người đứng trên sàn đã nắm lấy tôi, kéo tôi lên rồi trong chớp mắt, người đó ấn tôi chui xuống ngay khoang hầm ghe. Trong khoang hầm chật cứng người. Chưa kịp nhìn rõ mọi thứ thì có thêm người nữa trèo xuống. Nước biển từ người họ văng tung toé vào thân, mặt tôi. Chợt máy ghe nổ to hơn và dường như nó chạy lùi rồi làm một vòng quay ra biển. Chuyến hải hành vượt biên đầu tiên trong đời tôi bắt đầu. Đó là 9 giờ tối của một ngày cuối tháng 7 năm 1984.
Tôi ngồi yên, lưng dựa vào vách gỗ thân ghe, mắt nhắm nghiền vì mệt và vì có mở mắt cũng chẳng thấy chung quanh rồi thiếp đi lúc nào không hay. Ghe vẫn chạy êm ả nhưng chuyến đi thật không suôn sẻ. Không gặp ghe công an biên phòng và tàu hải tặc Thái Lan nhưng sau 4 ngày 5 đêm, các tài công đã quay mũi để trở về Việt Nam khi vừa lượn quanh một dàn khoan dầu Mã Lai Á. Khách trên ghe không ai biết hành động của đám tài công cho mãi hơn một ngày sau họ nói ra thì mọi người mới biết. Khách, hết hăm doạ rồi năn nỉ thậm chí cả lạy lục đám tài công để họ từ bỏ ý định điên rồ mà tiếp tục chuyến vượt biên nhưng vô vọng. Tôi biết bản thân phải chuẩn bị đối phó với những bất trắc sẽ xảy ra khi chiếc ghe cập vào một bờ bãi nào đó của nước Việt.
Tài công-thợ máy của ghe gồm ba người. Hai anh em ruột và người kia là bạn của họ. Tất cả đều có bồ (bạn tình) nhưng đều vắng mặt trong chuyến đi. Sau 4 ngày 5 đêm hải hành, thấy những khách trên ghe có vợ, con đi theo làm họ nhớ đến các bạn tình. Đó là lý do khiến họ quyết định quay ghe trở về Việt Nam. Họ tính sẽ tắp ghe vào một bãi biển kín đáo nào đó để rồi từ chỗ trú ẩn tạm thời, họ đi về địa phương và đón bạn tình ra ghe xong sẽ khởi hành trở lại. Họ giải thích cho chúng tôi nghe về kế hoạch và cam đoan là sẽ không gặp khó khăn gì hết miễn là tất cả khách ém yên lặng dưới các khoang hầm trong thời gian dừng ghe. Một việc làm quá sức nguy hiểm và dại dột. Chúng tôi ai cũng biết nhưng không thể làm gì khác được vì họ khăng khăng không nghe. Hăm dọa sẽ đả thương nếu họ từ chối cũng không xong. Khách, ai cũng mệt mỏi vì say sóng nên đành thúc thủ trước các tài công khoẻ mạnh. Suy nghĩ đơn giản của các chàng ngư phủ ngang với trí não của người ít học. Lo lắng các tai ương sắp sửa ập xuống trên ghe mà lòng tôi vẫn thầm mong sẽ có sự may mắn xảy ra như ý muốn của ba tài công trẻ tuổi.
Chúng tôi ngồi yên nhìn nhau buồn bã chung một nỗi lo những bất trắc sẽ giáng xuống đầu mình.
Khi vừa thấy dạng đất liền, các tài công đã thúc hối mọi người trên sàn ghe phải chui ngay xuống các khoang hầm. Có người do say sóng quá sức nên không chịu chui xuống, viện lý do sức họ quá yếu nếu xuống khoang hầm lần nữa họ sẽ chết. Các tài công dùng vũ lực để xốc những người chống đối xuống lại khoang hầm. Nằm im trong khoang, chúng tôi phỏng đoán tình hình bên ngoài qua những lời tài công đối đáp. Có người lâm râm đọc kinh cầu nguyện. Thời gian trôi qua nặng nề. Tiếng máy vẫn nổ êm ả. Ghe đang ở trong vùng biển nào? Chỗ kín đáo tài công nói sẽ cho ghe tắp là đâu? Có thực an toàn không? Qua lời tài công trò chuyện, chúng tôi biết họ đã thấy hai chiếc ghe khác. Chúng tôi ai cũng lo lắng trong lòng. Hai ghe đó là ghe gì? Ghe đánh cá hay công an biên phòng? Đột nhiên tiếng súng vọng lại từ xa xa. Chết rồi. Tiếng người hét to cùng với tiếng khóc trong khoang hầm. Tài công tăng tốc cho ghe chạy thật nhanh. Tim tôi đập liên hồi, tay chân tự nhiên có lúc tê cóng. Tôi đang sợ. Thôi thế là chết. Đến được giàn khoan nước ngoài đã tưởng thoát để rồi quay về và bị rượt đuổi... " Giờ tụi mầy sáng mắt chưa. Thật một lũ ngu dốt ". Tiếng ai đó nói khá to gần tôi. Cuộc rượt đuổi bên ngoài diễn biến ra sao chúng tôi không ai biết nhưng sau cùng, một tiếng sầm thật lớn như ghe đâm vào vật gì đó bên ngoài. Tài công bỏ ghe nhẩy ùm xuống nước cùng với tiếng khóc tiếng la của khách trong khoang hầm làm mọi người càng sợ hơn. Cùng với các người khác, tôi vội đu người nhẩy lên ngay sàn ghe thì mới biết trời bên ngoài đã nhá nhem tối. Ghe đang trong khúc rạch hẹp, vắng lặng và không một bóng người. Chúng tôi nhẩy ngay xuống nước để lội vào bờ theo dấu tài công. Vừa leo được lên bờ đất tai đã nghe tiếng súng nổ gần bên và bóng dáng của hai ghe lạ đang lướt sóng chạy đến. Chúng tôi cắm đầu bỏ chạy cả đám, thân ai nấy lo. Trời tối rất nhanh. Thêm tiếng súng nổ kèm với tiếng thét tiếng khóc. Tôi chạy... chạy mãi nhưng chỉ một lát sau, tôi đã mất dấu với người chạy đằng trước. Cảm giác đau chân mới nhớ mình còn đôi dép cột bên người nên tôi vội vã cởi nó ra và mang ngay vào chân. Đôi dép da có quai đeo sau gót và nhờ nó, tôi mới có thể bước những bước chân lần mò trong đêm tối lờ mờ. Tôi đi lầm lũi cho đến lúc không còn thấy rõ cảnh vật chung quanh nữa. Trời đã hoàn toàn tối đen. Ngồi xuống nghỉ ngơi, tôi ngước mắt lên bầu trời đầy sao và tự hỏi đây ở đâu và bây giờ mình phải làm gì? Không thoát khỏi đây đêm nay, chắc chắn ngày mai tôi cũng sẽ bị bắt.
Ngồi trong chốc lát cảm thấy bớt mệt, tôi đứng lên ngó chung quanh và thấy thấp thoáng xa xa có ánh đèn dầu. Nhìn chăm chú, ánh đèn dầu thật nhưng không biết nơi đó là gì? Nhà dân lành hay cán bộ CS? Đành nhắm hướng theo nó mà đi. Có đến gần mới biết. Ánh đèn lấp lánh trong đêm tối, tưởng gần nhưng thực sự rất xa. Tôi phải lần mò bước từng bước chân, tay vạch cây lá mà đi. Có lúc phải lội qua các vũng nước bất chấp gai cào và có khi bước hụt chân, lọt xuống các hố cạn. Tôi sợ ánh đèn dầu đó tắt mất và cả tiếng đồng hồ sau mới đến được. Nó chiếu ra từ căn nhà tranh nhỏ. Vừa đến trước cửa nhà, một con chó nhẩy xổ ra sủa inh ỏi làm tôi đứng yên không dám động đậy . Nghe tiếng chó, bóng một người từ trong nhà lách cửa bước ra nhìn. Thấy tôi đứng lù lù trong đêm tối, người đó hét lên một tiếng khá to rồi quay ngay vào bên trong. Tiếng hét của một phụ nữ. Chần chừ ít phút, tôi nói một hơi: " Chị à! tôi là người chứ không phải là ma quỷ, đừng sợ. Tôi lạc đường từ chiếu tới giờ cần chị giúp đỡ ". Tôi lập lại vài lần như vậy, người phụ nữ mở hẳn cửa bước ra nhìn chăm chăm rồi nói hãy đứng yên chờ để chị ta đi gọi chồng về.
Cầm cây đèn dầu bóng trứng vịt, người phụ nữ biến mất trong bóng đêm cùng với con chó để mình tôi ngồi trước căn nhà nhỏ. Chờ khá lâu có tiếng chó sủa và bóng hai người trong ánh đèn bước đến bên tôi. Người chồng cầm cây đèn đến gần, nhìn rõ mặt tôi rồi hỏi đi đâu mà có mặt ở đây trong đêm tối? Ông ta chưa biết sự việc của chiếc ghe vượt biên? Thầm nghĩ thật nhanh, tôi nghĩ phải nói thật cho họ biết sự việc. Tôi liền kể tóm tắt câu chuyện. Nghe câu chuyện, hai vợ chồng chủ nhà nhìn nhau trong chốc lát và người chồng lắc đầu bảo tôi phải đi ra xa khỏi căn nhà họ. Đi đâu thì đi, họ không muốn liên lụy với người vượt biên rồi cả hai vợ chồng bước vào nhà và kéo ngay tấm phên che cửa. Tôi thất vọng nhìn căn nhà nhỏ bé trong bóng tối lờ mờ. Gặp người trong vùng nhưng không chịu giúp. Căn nhà lợp lá dừa nước như hầu hết nhà trong vùng sông nước miền Nam với một lu nước bên cạnh và cửa ra vào là miếng phên lớn khép hờ. Họ, một cặp vợ chồng trẻ ở riêng, tôi chắc vậy. Họ ở đây vậy có nhà người khác nữa không? Rồi vì quá mệt, tôi cứ ngồi lỳ tại chỗ và sự thực tôi chẳng biết đi đâu? Con chó vẫn đi quanh quẩn bên tôi. Có lúc nó sủa hoặc gầm gừ nho nhỏ. Tôi nằm lăn trên đất rồi ngủ. Ngủ ngon lành cho đến khi có người lay vào vai làm tôi thức dậy. Một ông già tay cầm cây đèn dầu ngồi trước mặt, nở nụ cười móm xọm với tôi. Hai vợ chồng đứng sau lưng ông già.
- Tôi mời cậu vào nhà. Ông già nói.
Theo chân ba người đi vào bên trong căn nhà, người vợ cho biết thấy tôi cứ ngồi lỳ rồi nằm ngủ tại chỗ nên cả hai đã đi gọi cha họ đến. Ông già nói tôi hãy đi nơi khác đi, nhà họ không thể giúp đỡ hay chứa chấp tôi được. Công an và du kích sẽ đi lùng sục ngay sáng mai để lùng bắt người trốn chạy trong chiếc ghe vượt biên mắc cạn.
- Anh làm ơn đi nơi khác đi để cho tụi tui yên ổn làm ăn. Giúp anh rủi công an biết, chắc chắn gia đình sẽ bị liên lụy và có khi phải ở tù nữa. Nhà tui nghèo lắm, phải tìm đến phá đất lập nghiệp vùng sát biển như vầy anh biết rồi. Người chồng nói.
- Muốn giúp cậu cũng không biết phải giúp như thế nào? Công an có tai mắt khắp nơi... Sớm muộn gì chúng cũng biết. Giúp cậu, nhà cửa tụi tui sẽ tan nát hết. Cậu thương thì đi nơi khác... Coi như gia đình tui và cậu chưa biết nhau, mong cậu thông cảm. Giọng ông lão khẩn khoản.
Tôi im lặng nhìn chung quanh căn phòng. Chúng tôi ngồi ở một cái bàn gỗ nhỏ. Một tủ thờ cũ nằm sát bức vách ngay trước cái bàn. Trang thờ nhỏ nằm trên cao sát với mái lá có hình Phật Bà Quan Âm với bát hương với vài chân nhang đỏ. Hai ba hình mầu ca sĩ cắt từ các tấm lịch cũ dán trên bức vách. Sát bên vách nhà, một cái cái giường tre nhỏ với các vật dụng như cuốc, thuổng, đồ bắt cá... nằm lăn lóc dưới gầm. Một gia đình người miền Nam hiền lương thờ Phật. Không có dấu vết CS như các tấm bảng đỏ ghi công ta thường thấy trong nhà cán bộ. Nhìn ông lão và hai vợ chồng chủ nhà, tôi nài xin hãy tìm cách nào đó giúp đỡ, đừng xua đuổi tôi.
- Nếu bác và anh chị làm phước giúp tôi, Phật Bà Quan Âm sẽ phù hộ cho gia đình. Tôi vượt biên vì thuộc gia đình chế độ cũ VNCH. Sống không nổi trong chế độ mới, tôi vượt biên rồi chuyến đi không thành phải quay về. Tôi không muốn bị công an bắt chứ đâu phải thành phần bất hảo trộm cướp gì. Bác ơi! xin hãy giúp, không bao giờ gia đình con quên ơn việc bác và anh chị làm hôm nay. Tôi năn nỉ.
Cả ba người lắc đầu, nhất định không giúp còn tôi cứ ngồi lỳ một chỗ. Thấy không xong, họ kéo nhau ra ngoài sân, bỏ tôi ngồi một mình. Một lúc sau, cả ba quay vào và dặn tôi phải làm theo những gì họ sắp đặt. Nếu tôi trái lời để xẩy ra chuyện, tất cả đều chết với công an. Họ lăn một lu sành khá lớn từ bên ngoài và chuyển nó vào trong căn buồng của đôi vợ chồng trẻ. Họ ém tôi ngồi trong cái lu dưới lớp lưới, quần áo và các vật dụng lặt vặt trong nhà suốt cả ngày hôm sau và bốn ngày kế tiếp. Chỉ đêm khuya tôi mới được ra ngoài để ăn uống, rửa ráy qua loa, đi tiêu tiểu và thư giãn tay chân trong chốc lát. Sau đó phải vào ngồi lại trong lu sành. Trong lu sành ban ngày, tôi đã thót người khi nghe các mẩu đối đáp của dân trong vùng, du kích hoặc công an... ghé vào nhà nói chuyện với nhau về chiếc ghe vượt biên. Công an, bộ đội biên phòng và du kích đã bắt được toàn bộ người trên ghe kể cả các tài công-thợ máy. Tôi hồi tưởng lại các chuyện cũ đời mình. Đã nhiều lần vượt biên mà chưa lần nào tôi thoát ra khỏi nước. Đêm ngày 29 rạng 30 tháng 4 năm 1975 trong thủ đô Sài Gòn, mắt tôi đã tuyệt vọng nhìn máy bay trực thăng UH chở người từ các cao ốc bay di tản ra hướng biển. Người ngồi trên các trực thăng đó thật có phước. Còn tôi! Tôi làm sao để vào được các cao ốc như họ? Ra bến tàu nhưng cũng không vào được. Hàng rào kẽm gai cao vút và những họng súng của lính gác chỉa thẳng ra ngoài đã cản chân tôi cùng rất đông người đang có mặt tại đó. Khi trời quá trưa, tôi quay về nhà lúc bộ đội Việt Cộng làm chủ thành phố. Cuối năm đó, gia đình tôi đi vùng kinh tế mới ở Trị An-Đồng Nai. Chặt cây, phá rừng, cuốc đất dọn rẫy đến chai cả tay rồi những cơn sốt rét vật tôi quằn quại trên giường. Cái lạnh của cơn sốt dù trùm cả đống mền dầy lên người mà hai hàm răng vẫn đánh vào nhau lập cập. Cái lạnh thoát ra từ tận trong xương trong tủy tôi. Bỏ rừng về lại thành phố cũng chẳng yên. Những ngày phải sống trốn tránh vì đã cố tình vắng mặt trong buổi tuyển quân nghĩa vụ quân sự tại văn phòng phường đội. Không muốn chết oan ức hay bị tàn phế vô nghĩa tại chiến trường Kampuchia, tôi đã vượt biên. Những lúc hồi hộp nằm ém mình trong nhà dân để chờ ghe ta xi đón ra cá lớn để rồi phải quay về chờ chuyến khác. Giờ đây, thu mình trong lu sành, lúc nào tôi cũng sợ khi có tiếng chân người lại gần.
Ém trong lu sành, tôi biết đã quá may mắn khi vô tình chạy đến nhà cặp vợ chồng trẻ (tên anh chị Tư). Qua các câu chuyện họ đối đáp, đùa giỡn... lộ rõ là dân quê miền Nam hiền lương chất phác. Có đêm, tôi còn nghe tiếng ông lão niệm kinh Phật nữa. Hai cha con đã lấy quần áo cho tôi thay, múc nước mang khăn cho tôi rửa ráy người qua quýt hoặc ép tôi ăn thêm cơm nóng hổi. Mặt ba người đầy vẻ lo lắng cho tôi tưởng như đang săn sóc người thân thiết ruột thịt của họ. Bác Ba, tên ông lão, kể cho tôi biết những năm trước đây ông sống ở Bạc Liêu, làm việc trong một nhà máy xay lúa Hoa kiều. Khi chủ nhân ghi danh xuất cảnh ra nước ngoài, nhà máy bị chính quyền địa phương tịch thu được một thời gian phải đóng cửa vì cán bộ Việt Cộng điều hành kém cỏi. Không có việc làm, ông theo bạn bè vào đây khai đất làm các vuông nuôi tôm.
- Tui năm nay sáu mươi hai tuổi rồi cậu. Lập gia đình trễ, chỉ có ba đứa con. Đứa lớn là chị gái thằng Tư hiện đang sống với chồng con ngoài chợ cầu Cà Mau. Vợ tui sống chung với chúng. Bả buôn bán lặt vặt ở chợ kiếm thêm ít đồng. Cha con tui cũng thay nhau chạy ghe chở khách kiếm tiền ở ngoải... khi nào có việc thì vào đây như canh thay con nước. Thỉnh thoảng, tui đón vợ tôi vào sống ít ngày với vợ chồng thằng Tư cho vui. Đứa kế cũng gái... vắn số đã chết lúc còn nhỏ. Coi như chỉ còn có hai đứa. Thằng Tư, cậu gọi bằng Út cũng được, mới lo vợ cho nó hơn năm nay hà. Tối hôm cậu đến nhà, lúc đó tui và nó đang đi canh nước cho vào các vuông tôm. Cha con tui tự phá đất làm lấy nên vuông không được rộng mà cũng khá xa nhà. Đất chung quanh đây, cậu thấy... tuy còn bỏ hoang chứ có chủ hết rồi. Bác Ba bộc bạch. Hỏi ông lão, tôi mới biết ghe đã chạy vào vùng Cái Đôi của tỉnh Cà Mau.
Bác Ba và hai vợ chồng anh Tư cũng thắc mắc hỏi tôi tại sao ghe vượt biên lại bị mắc cạn tuốt trong vùng Cái Đôi vì từ đây ra tới cửa vàm ngoài biển cách cả cây số ngàn. Nếu ra được ngoài vàm thì ghe tiếp với biển lớn. Cứ vậy mà chạy, du kích hay công an biên phòng sao mà bắt được. Tôi kể cho ba người biết về nguyên do ghe bị mắc cạn, bác Ba cho biết: " Thảo nào tụi thằng Sáu thằng Mai du kích nói ghe vượt biên bị bộ đội biên phòng đuổi bắt đâu tuốt ngoài biển vào tới đây mắc kẹt. Cậu kể ra tui mới biết, mấy thằng tài công sao mà ngu quá mạng vậy. Đi đã khó... quay trở về còn khó gấp bội. Sao tụi nó lại làm vậy để hại thân còn gây khổ thêm bao nhiêu người nữa? ". Bác Ba cho tôi biết vùng Cái Đôi có khá nhiều gia đình cách mạng chế độ CS đến lập nghiệp. Phá đất làm vuông nuôi tôm, cất nhà ở cũng không xa trong vùng. Nghe chuyện, tôi biết quá sức may mắn vì gặp được nhà họ. Rủi gõ cửa đúng nhà dân chế độ mới, chắc chắn tôi đã nằm trong trại giam của bọn CS.
Sau bốn ngày đêm trốn tránh, bác Ba cho biết tình hình giờ thật yên ổn. Công an biên phòng đã giải giao người chúng bắt được ra trại giam huyện Cái Nước và bác nói sẽ thu xếp đưa tôi đi sớm. Nửa khuya về sáng ngày thứ năm, cả nhà thức dậy thật sớm. Ăn uống xong xuôi, hai cha con bác Ba xem xét thật kỹ lưỡng chung quanh căn nhà rồi dắt tôi xuống chiếc ghe nhỏ gắn máy đuôi tôm Kohler 4 nổ máy chờ sẵn. Ghe từ từ chạy một lúc lâu sau, bác Ba cho biết đã ra khỏi vùng Cái Đôi.
- Từ lúc này an toàn vì công an du kích chỉ để ý chận xét những ghe từ Cà Mau chạy ra vàm thôi. Ghe mình từ vàm chạy vào chúng không thèm ngó. Anh Út nói.
Tôi mặc lại bộ quần áo cũ, ngồi im trong ghe ngắm nhìn cảnh vật hai bên bờ vẫn còn mờ tối. Trời sáng dần, ghe vẫn êm ả chạy trong vùng sông nước miền quê tiếp giáp với biển yên ả. Những rặng cây chạy dài típ tắp hai bên bờ rạch. Thỉnh thoảng mới thấy vài mái ngói hoặc nếp nhà tranh xa xa. Xế trưa, anh Út tắp ghe vào một bóng mát kín đáo gần sát bờ để ăn uống qua loa và nghỉ ngơi chốc lát rồi sau đó lại chạy tiếp. Trời chạng vạng tối, ghe đến được chợ cầu Cà Mau vừa lúc phố xá trên bờ đã rực ánh đèn. " Đến đây bình an hoàn toàn ", anh Tư nói nhỏ. Tôi lấy trong mình ra chiếc khâu vàng 2 chỉ còn lại và nhờ sự chỉ dẫn của bác Ba, tôi đã đến một hiệu kim hoàn bán 5 phân vàng của chiếc nhẫn. Có tiền, tôi mời hai cha con bác Ba ăn hủ tiếu. Sau đó, tôi năn nỉ hai ân nhân vui lòng nhận 1 chỉ 5 phân vàng và tiền mặt còn lại. Tôi chỉ giữ ít tiền đủ để đón xe về Sài gòn trong ngày. Biết đến bao giờ mới có dịp gặp lại hai người. Không có họ giúp, làm sao tôi chắp cánh chạy thoát được. Nguyên ngày trời ngồi trong lòng ghe nhỏ, tôi thấy hai cha con bác Ba chạy quành phải, quẹo trái qua cả trăm con kênh con rạch mới đến được chợ cầu Cà Mau.
Về nhà sau gần nửa tháng vắng mặt, gia đình tôi mừng vô kể. Cả nhà đã biết chuyến đi không thành và đang dò hỏi trại giam để tìm cách thăm nuôi tôi. Ai cũng nghĩ tôi đã bị bắt. Không thể ngờ lại về được đến nhà an toàn. Chuyến vượt biên bất thành đó chỉ duy nhất một mình tôi thoát khỏi tay bọn công an, chị Thu người trong tổ chức cho biết.
Tới bây giờ, mỗi lần nhớ lại chuyện vượt biên năm xưa, tôi vẫn không quên khuôn mặt của bác Ba và vợ chồng anh chị Tư. Nhớ để sau đó là một nỗi buồn vì chưa lần nào tôi tìm đến vùng Cái Đôi Vàm thăm hỏi tin tức các ân nhân. Tuy nghèo vật chất nhưng họ rất giàu lòng bác ái thương người.
2
Chương Hai
Trở Về Từ Hoang Đảo.
Khi về nhà an toàn, tôi đã tìm được các đường dây vượt biên khác. Có chuyến phải đi ra tuốt miền Trung và thậm chí tận miền Bắc nữa nhưng trong các lần đó đều không thành và đành phải về không. Có chuyến, tôi bị công an bắt khi vừa đặt chân xuống bến xe địa phương và phải vào tù, đi lao động cả gần năm trời mới được thả. Lần lữa 4, 5 năm trời kẹt lại Việt Nam làm tôi rất thất vọng. Mình chắc không ra ngoại quốc được. Tôi tính, không vượt biên nữa khi bỏ tiền đi học lái xe tải và hùn vốn với bà con trong họ mua một chiếc xe chở hàng để sống. Vừa xong khóa học lái xe tải thì Dũng, một bạn thân đến nhà rủ tôi làm một chuyến vượt biên chung. Kỳ lạ thay, vừa nghe Dũng nói đã tìm ra chuyến đi, tôi gật đầu liền.
Khởi hành từ xa cảng miền Tây lúc 5 giờ sáng, tôi và Dũng đi xe tốc hành đến được bến Cần Thơ rồi từ đây chúng tôi đi tiếp đến thành phố Long Xuyên thì được sắp xếp vào trú tạm trong căn phòng nhỏ của một khách sạn tư nhân gần khu thị tứ thành phố để chờ người trong nhóm tổ chức sẽ đón đi tiếp. Có thể sáng hoặc trưa chiều ngày mai. Buổi tối, sau khi ăn uống rồi tắm rửa thay quần áo sạch sẽ, tôi và Dũng thả bộ dạo mát trên các con đường trong thành phố. Long Xuyên là một trong các thành phố lớn của miền Nam Việt Nam. Phố xá buôn bán khá sầm uất như vài con phố ở Sài Gòn. Chúng tôi ngồi nghỉ ở ghế đá trong một công viên nhỏ, ngắm nhìn thiên hạ chạy xe trên đường hoặc đang dạo bước trong công viên. Cũng không dám ngồi lâu, chúng tôi lại lang thang đi lòng vòng đây đó. Tôi ghé vào một hiệu sách bên đường mua quyển Sư Thúc Hòa Hảo (tác giả Nguyên Hùng viết về nhân vật Mười Trí và các tâng bốc địch vận của đảng CSVN về y với tôn giáo Hoà Hảo tại miền Nam VN trước đây), mang về phòng nằm đọc để giết thì giờ. Suốt đêm, thỉnh thoảng có tiếng gõ cửa phòng kêu chúng tôi mở cửa. Những lần đầu rất sợ vì nghĩ có chuyện không may sẽ xảy ra. Nhưng không, chỉ là các cô gái trẻ đẹp, hành nghề bằng vốn tự có, đang tìm khách vui vẻ trong chốc lát hoặc qua đêm. Còn lòng dạ nào để chúng tôi nghĩ đến những lời mời mọc của họ!
Theo lời dặn, sáng hôm sau chúng tôi tìm đến quán ăn Hào Hoa lúc 8 giờ sáng ăn điểm tâm, uống cà phê lai rai để chờ. Nhìn vài khách ngồi ở bàn gần bên, tôi thót giật người vì thấy một khuôn mặt quen biết là thằng Minh con bà Sáu bán cà phê trong khu phố gần nhà tôi. Minh nở nụ cười và dù kín đáo nháy mắt với tôi, tôi vẫn chưa hiểu tại sao nó có mặt ở đây? Không lẽ nó cũng trong chuyến đi? Là con trai mới lớn trong gia đình cán bộ, cha mẹ Minh hoạt động nằm vùng cho CS từ trước ngày 30-4-1975. Gia đình Minh là dân giàu trong phường. Thằng Minh tối ngày ăn no, đi chơi, nhậu nhẹt phá làng xóm đâu chịu học hành gì. Tuy vậy, Minh thường nói chuyện vui vẻ với tôi mỗi khi tới ngồi uống cà phê nơi quán nhà nó. Minh xuống đây để cùng vượt biên hay chỉ một chuyến đi chơi và tình cờ gặp tôi? Tôi kín đáo liếc nhìn hai người lạ mặt ngồi cạnh nó tuổi cũng ngang lứa mà không biết họ là ai? Chưa biết thì cứ ngồi tỉnh bơ xem sao dù trong lòng tôi cũng chút lo lắng. Dũng hỏi nhỏ:" Chắc cùng phe mình hả?". Tôi im lặng, không trả lời Dũng. Chợt bóng anh Thành (người trong nhóm tổ chức) đi ngang qua trước cửa quán, chúng tôi vội vã trả tiền và vọt theo sau liền. Đi được một quãng ngắn đường, có chiếc xe lôi từ đâu chạy lại ngừng gần bên. Anh Thành nhảy lên xe và sau đó là tôi, Dũng và cả bọn ba người của thằng Minh. Vậy đúng thằng Minh đi chung chuyến này với tôi. Nó và tôi nhìn nhau, khẽ gật đầu, mỉm cười hiểu ý. Xe lôi chạy qua xứ đạo Thiên Chúa Bò Ót rồi chạy thẳng đến ngã ba Lộ Tẻ thì ngừng hẳn. Từ đây, một xe Van 16 chỗ ngồi chở chúng tôi chạy tuốt xuống bến xe Rạch Sỏi để rồi sau đó chuyển chúng tôi sang một xe bus khá lớn. Anh Thành cho biết xe sẽ đến bãi hẹn nằm đâu đó trong vùng bờ biển Hà Tiên.
Trời chiều nhá nhem rồi tối hẳn. Hàng cây hai bên đường đen sẫm. Đường từ Rạch Sỏi chạy ra Hà Tiên thật xấu. Xe liên tục tránh các ổ gà lớn trên mặt đường nhựa trước xuống cấp thê thảm. Do chiến tranh và đã lâu mặt đường không được tu bổ. Ngồi trên xe, tôi cứ chao đảo vì đường hư hỏng quá. Xe chạy thật lâu và đã có người thò đầu ra bên ngoài cửa xe để ói mửa. Tôi cảm thấy bắt đầu mệt. Thình lình, xe thắng gấp sau một tiếng nổ nhỏ. Bánh xe xẹp rồi. Tài xế lẫn lơ xe vội vàng đội xe lên, tháo ngay cái bánh xe xẹp thay. Nhưng trên xe không có bánh sơ cua nào hết. Giờ phải làm sao đây? " Phải tìm chỗ vá ngay. Tổ chức chuyến đi mà làm ăn như vậy... chỉ có chết ", người nào đó trên xe lầm bầm. Đường thật vắng vẻ, tài xế và lơ tính chạy kiếm nhà dân để hỏi thăm vừa lúc gặp người chạy xe đạp đi tới. Có tiệm sửa xe cách đây không xa nhưng khuya quá, họ còn mở cửa không? Chúng tôi phải ngồi yên gần hai tiếng đồng hồ để chờ lơ xe lăn cái bánh đi vá rồi về ráp trở lại vào xe. Xe chạy qua nhà máy xi măng Kiên Lương rồi đến Vàm Rầy. Tài xế cho xe chạy rề rề chờ đợi. Rồi xe ngừng bên cạnh đường vì chẳng thấy người trong tổ chức đón như dự liệu. Trời bắt đầu sáng, làm gì bây giờ? Ai nấy tự hỏi mình. Có tiếng xe Honda chạy đến và rồi chúng tôi được lệnh phải rửa mặt cho sạch sẽ, thay quần áo khác làm bộ đi du lịch Hà Tiên. Vụ xe xẹp bánh hồi khuya nên chuyến đi đã tạm thời hủy bỏ vì xe đến điểm quá trễ. Cứ làm một chuyến đi du lịch Hà Tiên, thăm lăng Mạc Cửu, Thạch Động hoặc ghé Mũi Nai đi, chờ đám tổ chức liên lạc trở lại xem sao!
Chúng tôi đi qua bến phà nổi Tô Châu, ngắm nhìn dãy ghe đánh cá đậu san sát bên nhau trong dòng nước biển xanh mầu lá cây, thầm nghĩ không biết ghe mình đi có lớn có vững chắc như những chiếc ghe ở đây? Qua bến phà nổi, chúng tôi lên xe lôi chạy đến Thạch Động rồi ra Mũi Nai hóng mát. Do xe đến điểm trễ giờ nên tôi mới có dịp biết đến Thạch Động và bãi biển Mũi Nai Hà Tiên. Hà Tiên là nơi cư trú của vợ chồng nhà thơ Đông Hồ-Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội và cũng là quê quán của danh sĩ Mạc Thiên Tích ngày xưa. Tôi đang là khách du ghé thăm miền ước mơ trong bài hát Hà Tiên của nhạc sĩ Lê Dinh đây. Một thành phố nhỏ nhưng thật đẹp dù ở nơi tận cùng đất nước Việt.
Tôi và Dũng làm quen được với Ánh Phương và Mỹ An, hai cô gái trẻ trong chuyến đi Mũi Nai. Ánh Phương 26 tuổi còn Mỹ An mới 24. Cả hai đều độc thân và cũng mới làm bạn với nhau từ lúc lên xe bus. Tôi cặp kè với Ánh Phương còn Dũng với Mỹ An như những cặp nhân tình của chuyến du lịch. Chúng tôi đi ăn uống lai rai rồi đi lòng vòng trong những con phố nhỏ của Hà Tiên. Có lúc ngồi bên nhau, làm vẻ tâm tình trong các quán cà phê để chờ 7 giờ tối sẽ về lại xe bus. Lúc ở Mũi Nai, tôi thấy thằng Minh và hai người bạn nó ngồi nhậu trong một quán sát bờ biển. Minh đã mời tôi ngồi vào bàn, đưa ly bia cho tôi rồi nói: " Uống lai rai với tụi em cho vui anh Vũ, em đâu dè có anh trong chuyến này luôn. Anh em mình cùng bên nhau nghe anh ". Tôi cười, gật đầu đồng tình rồi từ chối: " Anh không uống bia được Minh. Uống vô chút xíu say liền, nhậu sương sương thôi... còn giữ sức nữa đó ". Tôi nhắn nhủ với cả bọn.
- Anh Vũ biết không, nhà em ở Quận 10 Sài Gòn. Thầy-U em người Bắc đạo Phật di cư từ 1954. Anh trai em đang sống ở Úc, em đi hôm nay lần thứ ba đó anh, các lần trước đi không được lại phải quay về. May không bị bắt. Anh trai em chỉ đi có một chuyến lại thoát. Ánh Phương nói với tôi.
Nhìn khuôn mặt Ánh Phương. Cô gái này đẹp thật, da lại trắng hồng, lời ăn tiếng nói ra vẻ con nhà hiền lành. Bản thân tôi đã ba mươi ba tuổi mà vẫn chưa lập gia đình. Nếu Ánh Phương là bạn tình của mình thì hay biết bao! Tôi lại nghĩ nếu mình có người yêu như Ánh Phương, liệu có dám cho nàng đi vượt biên không?
Khi chúng tôi quay trở về bến xe thì nhóm tổ chức đã thay xe cũ bằng một xe bus khác lớn hơn. Họ đã nhét thêm cả chục người khách mới ngồi sẵn trên xe từ lúc nào. Tôi và Ánh Phương chọn chỗ ngồi nơi dãy hai ghế sát cạnh cửa lên xuống ở phía sau xe. Lần lượt từng người khách quay về bước lên xe. Xe chật kín, hết ghế trống mà khách còn đứng ngồi lổn nhổn ở lối đi giữa xe. Tôi nhẩm tính trong đầu, với 10 hàng ghế mà mỗi hàng 5 người rồi thêm 4 ghế phía trước gần tài xế và 6 ghế cuối, ít nhất phải có 60 khách vượt biên trong chuyến đi đêm nay. Cá lớn đón chúng tôi dài rộng cỡ nào? Có bằng chiếc ghe năm xưa tôi đi hay nó nhỏ hơn? Bây giờ đã gần 8 giờ tối, xe bus bắt đầu lăn bánh ra khỏi bến và chạy về hướng Rạch Sỏi. Tôi nhìn ra hai vệ đường, đèn nhà dân hắt ra soi rõ những cây dừa mọc sát mặt lộ. Đây đó vài trẻ em đùa giỡn trước cửa nhà. Một tiệm cà phê lác đác người ngồi ở các bàn trống. Qua hết dãy nhà, xe đi vào vùng cây cối bãi bồi gần biển. Cảnh vật hiện lờ mờ như là bụi cây đước, một bãi bùn hay là bờ đất tiếp giáp với lề đường. Xe chạy đều đều khá lâu thì rẽ trái vào một con đường nhỏ rồi chạy thêm một đoạn ngắn nữa thì tắp vào một khu vườn. Xe tắt máy dừng hẳn. Cây trong vườn xum xuê như rừng nhưng quá tối, tôi không biết loại cây gì.
- Chúng ta phải chờ ở đây. Yêu cầu mọi người ngồi yên. Tiếng người lơ nói khá to trong xe.
Mọi người giữ im lặng. Thỉnh thoảng có ánh đỏ chớp lên từ đầu một điếu thuốc lá của ai đó. Tôi bảo Ánh Phương: " Em có mệt thì nhắm mắt ngủ đi, họ nói thế thì chắc mình phải chờ khá lâu ", thực sự thì cơn buồn ngủ đã làm mắt tôi nhíu lại. Tôi và Ánh Phương ngủ ngồi trên ghế xe cả tiếng đồng hồ thì choàng tỉnh khi nghe tiếng xe Honda từ xa vọng lại. Ánh đèn hai chiếc Honda đến gần. Cả thẩy bốn người tất cả. Một người trong bọn mặc sắc phục công an. Ba người còn lại, có kẻ tay vung vẩy cây súng AK47. Tôi nói khẽ với Ánh Phương: " Công an, chết mồ rồi Phương ơi! " Tim tôi đập thình thịch. Ánh Phươnh lộ vẻ thất sắc, tay nàng nắm lấy tay tôi run run. Chúng tôi đã vào rọ của công an? Bất chợt cánh cửa xe bật mở, tài xế và hai người lơ nhẩy xuống cùng nhập vào bọn bốn người mới đến. Tôi nghe rõ tiếng của anh Thành. Cả bọn ngồi bàn bạc trong chốc lát rồi một xe Honda chạy đi trước, kế tiếp chiếc xe bus. Ở một khoảng khá xa, chiếc Honda còn lại chạy bọc sau cùng .
Bây giờ tôi và Ánh Phương cũng như khách trên xe buýt mới hoàn hồn bớt lo. Chuyến đi có công an-du kích bán bãi như lời nhóm tổ chức đã nói. Một làn gió mát thổi vào mặt làm tinh thần tôi phấn chấn vì nghĩ đến sự an toàn tối nay. Ánh Phương nói: " Ban nãy em sợ muốn chết đó anh Vũ. Rủi họ không cùng phe mình, không biết em sẽ làm sao nữa? " rồi nàng cười vui vẻ.
Xe tiếp tục chạy ngược về hướng Hà Tiên và sau cùng ngừng lại sát cạnh bên vệ đường. Chỗ nầy vắng vẻ không một bóng người qua lại. Chúng tôi được lệnh xuống xe ngay lập tức và nối đuôi nhau theo ánh đèn pin của một người dẫn đường đi phía trước. Cả bọn yên lặng, đi êm ả trên các bờ đất trong đêm tối tĩnh mịch. " Đây là Vàm Rầy ", tiếng người thì thào trong bóng tối. Khách vừa xuống hết, xe bus liền biến mất trong bóng đêm. Chúng tôi rồng rắn đi với nhau cho đến cuối bờ đất thì chân bắt đầu đặt xuống một bãi sình. Tôi và Ánh Phương bước lõm bõm gần bên nhau chung với các người khác. Thêm một ánh đèn pin nữa lúc chớp lúc tắt xuất hiện ở phía trước xa xa. Chúng tôi lần từng bước về hướng ánh đèn pin. Đến nơi, đoàn người được phân tán ra thành từng nhóm nhỏ, ngồi nấp ngay sát cạnh những đám cây mọc trong vùng đất sình. Dũng, Mỹ An cùng tụi thằng Minh bây giờ đang ở đâu trong các bụi cây nơi mép biển? Trăng khuya bắt đầu mọc, soi ánh sáng vàng vọt leo lét trên toàn vùng. Nước triều đang từ từ dâng lên. Đứng ở trên mặt đường lộ bây giờ, không ai ngờ ngay dưới chân những bụi cây sát biển này đang có cả một nhóm người ẩn nấp để chờ vượt biên. Nước triều dâng mỗi lúc một cao hơn, chúng tôi vẫn ngồi yên trong nước biển. Đến lúc chúng tôi phải đứng lố nhố vì không thể ngồi được nữa thì một cái xuồng ba lá nhỏ xuất hiện. Ghe chèo nhè nhẹ đến gần chúng tôi. Tiếng đàn ông ngồi trên xuồng hối thúc chúng tôi lội ra ngay. Tôi nắm tay Ánh Phương cùng bước lội từng bước về phía cái xuồng. " Đừng leo lên, chỉ bỏ túi xách thôi. Anh chị bám theo xuồng này để ra ghe ", tiếng đàn ông trên xuồng nói. Tôi vất túi xách lên xuồng, tay bám và chân thì bước theo từng bước một. Ánh vàng vọt của trăng non, tôi thấy thấp thoáng một bóng một chiếc ghe nhỏ xa xa. Nước bắt đầu đến ngực rồi cổ. Chân tôi có lúc bước hụt xuống một hố khá sâu. May là trồi lên kịp. Ánh Phương tay bám chặt vào vai tôi. Sau cùng cả hai đến được sát bên ghe. Người đứng trên ghe cúi xuống nắm tay từng người dưới nước kéo lên. Đến lượt Ánh Phương, nàng cố gắng hết sức cũng không thể đưa tay tới được người trên ghe. Tôi phải giúp nàng bằng cách nhắm mắt, hụp hẳn xuống dưới nước và ôm thắt lưng nàng đẩy phụ lên. Lần đầu tiên tôi chạm vào thân thể Ánh Phương. Xong lượt nàng, đến lượt tôi lên được mặt sàn ghe. Tôi nhìn thật kỹ thân ghe, đúng nó nhỏ hơn chiếc ghe tôi vượt biên trong lần trước. Một gã đàn ông khác đã ấn tôi nhẩy xuống khoang trống. Không lẽ cá lớn đây thật sao? Tôi phân vân tự hỏi. Người mỗi lúc được nhét thêm xuống khoang chiếc ghe. Hơi nóng từ thân người hoà với mùi dầu gió xanh toả ra nồng nặc. Tuy trông không rõ mặt nhau trong bóng tối nhưng ai cũng biết khoang ghe đã chật cứng người. Ai ngồi đâu yên đó, không thể cục cựa được. Ánh đèn pin chợt loé lên từ cửa khoang và khuôn mặt của anh Thành hiện ra. Anh hỏi tên từng người khách cùng mật mã an toàn. Tôi nghe tiếng của Dũng, Mỹ An rồi Minh và Ánh Phương trong khoang ghe. Khi anh Thành vừa xong lượt tôi, tiếng một người vặn hỏi:
- Ê! Thành. Ghe nầy ghe taxi hay cá lớn vậy... Người đầy nhóc cả rồi?
- Taxi thôi. Nhỏ xíu vầy sao mà đánh chuyến được. Yên tâm đi đại huynh. Cá lớn chờ ngoài khơi kìa. Anh Thành quả quyết rồi sau khi lấy mật mã xong xuôi, anh chúc mọi người thành công trong chuyến đi đêm nay trước khi theo xuồng ba lá để quay vào bờ. Đêm đó, nửa khuya về sáng của một ngày cuối tháng 5-1990.
Ghe nổ máy rồi tấm nắp cửa khoang đã được đậy lại và qua chuyển động của thân ghe với làn nước bên ngoài, tôi biết ghe đã khởi hành. Trong khoang hầm tối đen, tiếng người niệm Phật lầm thầm chung với tiếng người khác thở dồn dập. Chợt tiếng đàn ông khi nãy đã vặn hỏi anh Thành vang lên: " Họ đánh bằng ghe này thật rồi bà con ơi, ai không tin cứ chờ thì biết ... Taxi gì mà tập trung hết tất cả khách vào đây ". Ông ta nói nhưng không một người nào lên tiếng trả lời. Tiếng máy ghe cứ chạy đều đều êm ả như vậy và tôi ngủ thiếp đi khá lâu mới tỉnh dậy. Bây giờ trời đã sáng. Có người nào đó hỏi giờ thì được người khác trả lời đã 8 giờ 15 phút sáng rồi. Dù có ánh sáng hắt từ khe hở cửa khoang và từ phía máy ghe nhưng tôi vẫn không thấy Ánh Phương, Mỹ An, Dũng và Minh đâu. Chung quanh tôi chật cứng người, có muốn xoay chân hay đảo người cho bớt mỏi cũng không thể. Một phụ nữ với mái tóc dài thỉnh thoảng gục đầu vào người tôi. Chị ta đang cơn say sóng. Vẫn còn tiếng người nôn oẹ đây đó trong khoang. Nhắm mắt lại vì mệt vì mũi tôi khó chịu với mùi thức ăn người ói ra pha trộn với mùi dầu máy ghe, mùi dầu xanh con Ó, mùi hơi người và cả mùi nách nữa... Cảm giác nôn nao trong người bắt đầu đến với tôi. Tôi muốn ói, cổ đã ợ hơi vài lần. Tôi ngẩng đầu lên cố chống lại cơn ói nhưng rồi biết mình không thể. Gục đầu xuống tôi ói ngay vào quần áo của mình. Thể xác mệt mỏi khiến tôi ngủ rồi lại thức mà không biết thời gian trôi qua bao lâu. Có lúc tự hỏi ghe chạy đến đâu rồi tôi lại ngủ tiếp sau đó. Cứ như vậy cho đến khi có người mở cửa hầm kèm theo tiếng nói mình ra khỏi hải phận Việt Nam rồi. Hé mắt nhìn lên, tôi thấy một mặt người lem luốc đầy dầu mỡ. Người đàn ông mở cửa hầm rộng hơn, cúi đầu sát xuống nhìn vào đám người chúng tôi rồi anh ta nở nụ cười nói:
- Bà con mệt dữ ha... Ráng chịu đựng đi nghen, có đồ ăn và nước đây, ai có khát có đói thì lấy dùng.
Mấy đòn bánh tét, vài xâu củ sắn và hai bình nhựa đựng nước được chuyền xuống rồi nắp cửa hầm đóng sập trở lại liền.
Ra khỏi hải phận Việt Nam rồi. Như vậy đây là cá lớn chứ không phải ghe taxi. Tự nhiên tôi cảm thấy lo lắng và bực bội khi biết anh Thành đã xí gạt chúng tôi nhưng bây giờ đã quá muộn. Câu nói quả quyết của anh: " Ghe nhỏ như vầy làm sao vượt biên được. Cá lớn chờ ngoài khơi kìa " trở về trong trí. Biết nói như vậy nhưng sao anh Thành lại vẫn dùng ghe bé tí cho chuyến vượt biên chúng tôi? Giờ có muốn đổi ý, muốn quay về cũng không được nữa. Thôi đành phó mặc cho số phận vậy. Ghe tiếp tục chạy như vậy rồi tự dưng tốc độ giảm dần và ghe dừng hẳn dù máy vẫn nổ. Nhiều tiếng nói lao xao bên ngoài vọng vào tai tôi. Chuyện gì đây? Trong tiếng máy ghe, tôi nghe thêm tiếng máy nổ khác. Có ghe hay tàu lạ ở gần bên ngoài. Chợt cả hai cánh cửa lớn khoang ghe được mở tung ra hoàn toàn. Ánh sáng bên ngoài tràn đầy vào trong làm mọi người phải nhắm ngay mắt lại. Lấy tay che mắt, tôi nhìn lên các khuôn mặt lạ đang quan sát chúng tôi. Họ là ai đây? Một người đàn ông mỉm cười, nói:
- Đông người dữ ha. Bà con đừng sợ, tụi tui cũng dân biển không hà. Chạy được tới đây coi như thoát rồi... có điều tối khuya nay trời có dông đó. Biển hơi động nghe bà con, ráng chịu cực thêm chút xíu qua cơn ghe chạy êm ru.
Vài người ngồi dưới khoang ghe nhân cơ hội ngỏ ý muốn trèo lên để đi tiểu và họ nhẩy lên thật. Tôi ráng hết sức cũng lách ra rồi đu người leo lên thành ghe. Một chiếc ghe kích cỡ bằng cá lớn đậu sát bên cạnh. Mấy người trong chiếc ghe đó cho biết họ là ngư dân của đảo Phú Quốc và vùng biển ở đây thuộc nước Khmer. Tôi nhìn chung quanh, ánh nắng chói chang trên đầu, nước biển mầu xanh lá cây xa tít tới tận chân trời. Chỉ toàn một màu xanh nước biển, không một bóng ghe một hòn đảo nào khác nữa. Tôi nằm vật xuống ngay trên thành ghe, tự nhủ chắc mình nằm đây luôn không chui xuống khoang hầm chật hẹp. Nằm trên sàn ghe thật dễ chịu! Những người trên chiếc ghe Phú Quốc đó xin chúng tôi cho họ tất cả tiền Việt Nam còn mang trong người, nói đến được trại tỵ nạn bên Thái cũng sẽ vất bỏ đâu có xài. Nghe vậy tôi ngồi dậy, móc tất cả tiền trong bóp ra cho họ. Tài công trên cá lớn cho các lưới đánh cá luôn. Sau đó, người trên ghe Phú Quốc cùng với tài công cá lớn chúng tôi bàn bạc nhau về hướng đi của ghe và cách đối phó khi gặp trời dông gió tối nay.
Chiếc ghe Phú Quốc chạy rồi, tài công buộc chúng tôi phải chui xuống khoang hầm trở lại trước khi ghe tiếp tục chuyến hải hành. Đúng như lời tài công ghe Phú Quốc nói. Nửa khuya, dông gió bắt đầu xuất hiện. Thoạt đầu ghe còn chạy bình thường. Mưa quất vào thân ghe thành một âm thanh đều đều nhưng rồi dông gió càng lúc càng to. Tiếng mưa gào thét cuồng nộ. Giọt mưa bào sát vào ghe kêu rào rạo. Tiếng chân của tài công chạy tới chạy lui trên mặt khoang ghe và tiếng họ gọi nhau í ới. Có lúc ghe lắc thật mạnh, ván thành ghe vặn vào nhau kêu ken két cùng với tiếng người khóc thét trong khoang hầm. Tôi tỉnh hẳn cơn mệt cơn say sóng vì quá sợ. Tôi không còn nhớ đến bất cứ chuyện gì ngoài những khuôn mặt của các thân nhân ruột thịt. Dông gió cứ như vầy hoài liệu ghe sẽ chịu được bao lâu? Tuy ngồi yên chỗ nhưng qua những cảm giác trong cơn dông gió, tôi biết cá lớn đang bị các cơn sóng dữ dội vùi dập bên ngoài. Cửa khoang hầm dù được đậy kín nắp nhưng nước bên ngoài vẫn hắt từng chập vào chúng tôi qua các kẽ ván hở. Người tôi bây giờ ướt sũng nước mặn. Cơn dông kéo dài như vậy suốt cả đêm. Kỳ lạ thay, chiếc ghe vẫn chịu được cho đến sáng giông gió bớt dần và rồi ngưng hẳn. Cửa khoang hầm được mở ra, tiếng tài công vui mừng: " Bà con ơi biển lặng rồi, mình đã thoát cơn dông ". Bây giờ, tài công cho phép ai muốn lên trên thành ghe hay ở dưới khoang hầm thì tùy. Tôi trèo lên nằm hẳn trên mặt sàn ghe. Ghe chạy êm ả trong vùng biến xanh lơ với những đảo lấp ló xa xa. Một tài công nói thấy đảo nhiều như vầy thì ghe sắp vào Thái Lan.
- Tụi tui phải ngủ lấy sức mới chạy tiếp được, mệt quá rồi. Lời tài công nói.
Họ cho ghe chạy từ từ vào sát một chỗ khuất của hòn đảo gần nhất. Máy ghe tắt hẳn, trả lại sự im lặng tĩnh mịch của khung cảnh. Trời buổi sáng sau cơn dông hồi hôm khiến không khí mát lạnh. Thỉnh thoảng có cơn gió thổi qua làm ai nấy cảm thấy dễ chịu. Tôi nhắm mắt ngủ tiếp, mơ hồ nhớ lời nói của người tài công nội ngày mai hay ngày mốt sẽ có mặt tại một bờ biển Thái Lan nào đó. Đâu ngờ những tai ương khiếp đảm sắp sửa đổ xuống cho cá lớn chúng tôi.
Mặt trời lên cao chiếu ánh nắng nóng làm tôi thức giấc và tỉnh ngủ hẳn. Tôi ngồi dậy nhìn chung quanh, mặt sàn ghe người ngồi người nằm la liệt. Tôi lách người đi lần về phía đuôi chiếc ghe. Một phi nhựa khá lớn có nắp đậy được cột chặt vào cạnh cửa buồng lái. Tôi mở nắp nhìn vào phi còn khá nhiều nước. Thấy chiếc ca nhỏ, tôi múc chút nước rửa sơ mặt mũi của mình rồi uống cạn phần còn lại. Từ lúc xuống ghe tới giờ tôi mới uống nước mà vẫn không cảm thấy khát. Vài can nhựa đựng dầu cạn không nằm lăn lóc đây đó. Trong buồng máy nhỏ, hai tài công đang ngủ say. Hai người còn mệt hơn chúng tôi nữa vì chạy ghe suốt từ tối hôm đó đến giờ họ mới được ngủ. Tôi nhìn vào phía đảo, không một dấu vết người sinh sống. Thỉnh thoảng tiếng thú kêu chim hót trong các tàng cây vọng lại. Tôi bước đến cạnh bên sườn ghe, nhìn xuống mặt nước trong vắt thấy rõ cát, đá cùng những mảnh vỏ ốc. Vài con cá nhỏ bơi lội tung tăng tận đáy. Chợt nghĩ đến Dũng đến Ánh Phương và Mỹ An, tôi quay về khoang hầm định tìm xem họ ra sao thì thấy Ánh Phương nằm ngay trên mặt sàn phía gần mũi ghe. Bước đến bên nàng, tôi khe khẽ: " Phương ơi Phương. Có khoẻ không, em sao rồi? ". Nghe tiếng, Ánh Phương mở hé mắt nhìn tôi. Nàng khẽ gật đầu rồi ngồi gượng dậy.Tôi ngồi xuống bên cạnh Ánh Phương, nhìn vào khuôn mặt nàng rồi nhìn lại thân thể tôi và những người khác. Chỉ có hai đêm dưới khoang hầm mà chúng tôi giờ trông khác hẳn. Người nào người nấy đầu tóc rũ rượi, quần áo nhếch nhác vì những vệt ói, bệt dầu mỡ cùng nước bẩn bám vào.
- Em tưởng chết tối hôm qua rồi. Ghê quá anh Vũ ơi. Chắc những chuyện ghe vượt biên bị chìm vì đã gặp dông gió như mình há anh? Ánh Phương thều thào.
Tôi thấy Dũng, Mỹ An và cả thằng Minh. Người nào cũng một vẻ bần thần mệt mỏi. Giờ, mọi người đều ở trên mặt sàn ghe, trong ca bin và cạnh buồng máy. Trời nắng nóng nhưng chẳng ai chịu ở xuống khoang hầm. Ai cũng mừng vì thoát được cơn dông hồi đêm. Ghe tuy nhỏ nhưng may mắn còn rất tốt. Tôi và Ánh Phương xuống khoang hầm thu lại các túi xách. Sàn khoang quá sức bề bộn, bê bết nước bẩn và có mùi hôi khăm khẳm. Trở lên sàn ghe đến bên Dũng và Mỹ An, Ánh Phương mở túi xách lấy ra ít thỏi kẹo chocolat bẹp dúm rồi mời cả bọn cùng ăn. Kẹo do anh ruột nàng gửi về từ bên Úc. Vài người thu gom những xâu bánh tét, các bịch bánh ngọt, củ sắn và mì gói để gọn lại một chỗ cho ai cảm thấy đói thì ăn.
Trời nắng chói chang nhưng nhờ có gió mát khiến chúng tôi không thấy nóng. Trên ghe đậu yên lặng, người nghỉ ngơi người chụm lại trò chuyện với nhau. Xế chiều, hai tài công thức dậy. Họ ăn uống qua loa rồi bắt đầu quay máy ghe để tiếp tục cuộc hành trình nhưng dù cố hết sức, máy ghe vẫn không nổ. Vài thanh niên khoẻ mạnh trên ghe loay hoay đến tiếp sức nhưng hoài công. " Tụi tui phải tháo máy ra xem nó hư chỗ nào ", hai tài công nói vậy và họ tháo tung máy ghe ra. Sau đó khi máy ráp lại, họ cũng không quay cho máy nổ được. Mệt mỏi mà chuyện không thành, tài công cùng người trên ghe quyết định vào sát đảo để mọi người bỏ ghe lên bờ kiếm nước tắm táp và tìm chỗ nghỉ ngơi trong đêm. Hai thanh niên nhẩy xuống nước bơi vào bờ nối dây vào ghe, kéo chiếc ghe đến chỗ cạn để mọi người có thể lội xuống được. Tôi, Dũng, Ánh Phương và Mỹ An theo những người trên ghe trèo xuống nước, bước dần vào bờ. Người lên bờ trước tìm thấy nước ngọt trong các hốc đá. Nước ngọt mát lạnh trong các vũng nước khá lớn chảy tràn ra ngoài. Chúng tôi dùng tay khoát nước rửa mặt, rửa người cho sạch các vết bẩn rồi lấy quần áo trong túi xách ra thay. Sau đó, giặt sạch các quần áo bẩn rồi phơi trên những cành cây thấp la đà. Xong xuôi, chúng tôi kiếm chỗ nằm gần chiếc ghe bây giờ trống không chẳng còn người trên đó. Chúng tôi ngồi, nằm thành từng nhóm nhỏ ba bốn người bên nhau. Anh Tấn, người đã hỏi anh Thành về ghe taxi hay cá lớn là người lớn tuổi nhất trong cả bọn, nhìn khắp lượt đám người chúng tôi rồi nói:
- Ai có chuyện riêng muốn đi vô trong rừng thì đừng đi một mình và cũng đừng đi quá sâu vào bên trong. Đảo này chắc chắn không cọp beo đâu nhưng rắn độc có đấy và có thể cả loài trăn gió nữa. Đi một thân một mình gặp trăn có thể bị nó quấn chết, do đó phải cẩn thận. Cũng chớ ăn trái cây rừng gì hết kẻo ngộ độc. Anh Tấn thêm là ban đêm mọi người phải nằm ngủ gần bên nhau từng nhóm để có chuyện còn giúp nhau được và chớ có xé lẻ nằm riêng một mình không tốt.
Tôi, Dũng, Ánh Phương và Mỹ An liền làm một nhóm với nhau. Chúng tôi chọn các bờ đá thấp thoai thoải không xa chiếc ghe. Dùng các cây bụi nhỏ quét sạch đất đá trên các bờ đá rồi bẻ các nhánh lá trải xuống và nằm nghỉ ngơi. Có người đề nghị nhóm lửa nấu mì gói ăn cho nóng nhưng phải bỏ ý định. Ban đêm đốt lửa rất nguy hiểm. Ghe tàu ngoài khơi xa sẽ dễ dàng biết có người ở trên đảo.
Trăng từ từ mọc soi ánh sáng vàng vọt. Chúng tôi nhìn lên bầu trời qua các tàn cây và nhìn những đốm lấp lánh chớp tắt trên mặt biển. Tài công cho biết đốm lấp lánh là loài sứa ăn đêm. Gió biển thổi vào bờ mát rượi làm chúng tôi dễ dàng chìm vào giấc ngủ. Đang ngủ ngon giấc, đột nhiên có tiếng người thét lên hoảng hốt khiến cả bọn chúng tôi choàng tỉnh ngồi bật dậy. Một cô gái vẻ mặt thất thần cho chúng tôi biết cô vừa trông thấy một đốm lửa lớn mầu xanh lá cây, loé sáng ở tảng đá gần chỗ vũng nước ngọt hồi chiều chúng tôi đã ghé vô đó rửa ráy tắm giặt. Anh Tấn đến gần bên cô gái, an ủi rồi trấn an mọi người:
- Đừng sợ. Đất có Thổ Công sông có Hà Bá. Đảo này không phải quê hương bản quán Việt Nam, mình đặt chân đến thì đốm sáng vừa thấy là hương hồn người khuất mặt ở đây muốn cho mình biết có sự hiện của họ. Ai đạo nào cầu nguyện theo đạo đó, xin người khuất mặt tha thứ cho những gì làm họ không vừa lòng và cầu nguyện xin che chở cho chuyến đi.
Chúng tôi ngồi yên, không biết chuyện cô gái vừa kể có thật hay không? Ai cũng cảm thấy rờn rợn.
- Có khấn có thiêng, có kiêng có lành. Thôi! Tất cả nằm xuống nhắm mắt ngủ tiếp đi. Từ ngày mai, nếu mình vẫn còn kẹt lại đây thì đừng ai làm chuyện gì tầm bậy tầm bạ nghe chưa!
Dứt lời, anh Tấn ngồi im lâm râm đọc kinh hay cầu nguyện lầm thầm. Vài người ngồi gần thấy cử chỉ của anh Tấn cũng bắt chước làm theo. Tự dưng bây giờ mọi người cảm thấy có điều huyền bí ở trên đảo. Tuy anh Tấn bảo mọi người nhắm mắt ngủ nhưng anh lại thức, nhập vào nhóm hai tài công để hút thuốc và trò chuyện. Tôi quay về, thấy Ánh Phương và Mỹ An bỏ chỗ cũ kéo đến nằm sát cạnh bên tôi và Dũng. Có lẽ trong lúc sợ hãi, người con gái thường quên hẳn những gì kín đáo, giữ ý trước mặt nam giới. Ánh Phương, Mỹ An và Dũng thấy tôi thì than nếu ghe vẫn còn chạy... bây giờ chắc cũng sắp đến Thái Lan rồi. Đâu phải nằm kẹt ở đây để sợ. Chúng tôi ngồi bên nhau nói những câu chuyện vụn vặt và cầu mong cho ngày mai sửa được máy để đi tiếp. Còn ở đây dù có thoải mái hơn dưới ghe nhưng thật bất ổn.
Sáng sớm hôm sau, tài công cùng anh Tấn và vài thanh niên trèo về lại ghe cố hết sức sửa máy nhưng vẫn không sao làm cỗ máy nổ lại được. Khi vào bờ nghỉ mệt, anh Tấn than: " Máy ghe trục trặc mà tài công tìm không ra. Mấy chả chỉ biết chạy ghe thôi. Máy hư nặng thì coi như bù trất ". Trưa đến, mọi người quyết định nấu nước nóng làm mì gói ăn. Dưới ghe có nồi lớn có cả gạo nhưng nếu nấu cơm thì lấy gì làm thức ăn? Ánh Phương và Mỹ An nhấm nháp kẹo chocolat còn lại, nói tụi em ăn vậy cảm thấy no rồi. Tôi và Dũng bẻ vụn gói mì ra ăn sống từng nhúm một. Chiều đến, tài công quay vào bờ cho mọi người biết họ không sửa được máy ghe. Nghe xong, ai cũng ngao ngán rồi buồn và lo lắng cho số phận. Vài phụ nữ đi dọc theo các ghềnh đá bắt được khá nhiều ốc mang về đập bể vỏ móc bỏ ruột rồi nấu món cháo ốc chia cho cả bọn cùng ăn. Trời tối, chúng tôi vẫn để lửa cháy, còn kiếm thêm các cành cây khô để ngọn lửa cháy lớn hơn nữa. Ai nấy phó mặc cho mọi sự ra sao thì ra. Quây quần bên nhau gần ngọn lửa khuya trong một khu hoang vắng, nhóm vượt biên chúng tôi trông không khác gì đang dự một buổi dã ngoại lửa trại về đêm. Cả một ngày trên đảo hoang mới biết ghe có 51 người bao gồm 33 nam và 18 nữ. Hai tài công mang vợ đi theo. Một chị tên Ân có cậu con trai 14 tuổi. Người còn lại đều độc thân một mình. Đến khuya ngọn lửa tàn dần, mọi người trở về chỗ của mình chờ giấc ngủ đến. Tôi và Ánh Phương kể cho nhau nghe về gia đình về bản thân của mỗi bên rồi sau đó cả hai nhắm mắt thiếp ngủ. Gió biển vẫn thoang thoang thổi vào bờ mát lạnh.
Chợt tay người lay tôi thức dậy. Tôi mở mắt nhìn thấy Dũng và anh Tấn. Theo chân hai người đi đến một chỗ trống. Anh Tấn chỉ một vệt sáng từ tuốt ngoài khơi xa chiếu thẳng vào bờ ngay chỗ cá lớn đậu. Vệt sáng là ngọn đèn pha từ một chiếc tàu lớn. Tôi quay vào, đánh thức Ánh Phương và Mỹ An dậy. Chúng tôi hỏi, anh Tấn cho biết con tàu đó có mặt từ lúc nào cũng không rõ. Cũng chẳng biết tàu nước nào, loại gì? Có người thức dậy thấy nó chiếu đèn vào bờ nên mới nói cho nhau biết. Chúng tôi ngồi yên lặng nhìn bóng chiếc tàu. Nó pha đèn rồi tắt rồi lại pha. Không biết có phải nó đang đánh tín hiệu Morse cho chúng tôi? Cuối cùng, đèn pha tàu lạ tắt phụt, chỉ thấy lờ mờ ngọn đèn nhỏ. Con tàu dần dần biến mất vào bóng đêm. Cả bọn vượt biên chúng tôi không ngủ nữa. Ngồi bên nhau, lòng lo lắng không biết ngày mai sẽ ra sao? Chúng tôi dự trù các diễn tiến xấu có thể xẩy đến và bàn các biện pháp đối phó.
- Chúng ta bị lộ rồi. Không thể nán lại đảo được nữa. Phải tìm mọi cách chạy ghe thôi. Anh Tấn nói, mọi người đều đồng ý.
Đêm chậm chạp qua đi, bình minh đến dần. Từ sáng sớm, hai tài công vội vã trở lại ghe để cố sức sửa máy cho bằng được. Lần này có thêm vài người khác nữa trong số có cả anh Tấn và tôi đi theo. Thực sự ngoài tài công, nhóm người chúng tôi tiếng ra theo phụ sửa máy nhưng cũng chẳng ai biết gì về máy móc cả. Có mặt trên ghe như một khích lệ hai tài công. Mong họ sửa được, cần người quay máy, chúng tôi có mặt sẵn tiếp sức. Cả bọn đang hì hụi bên nhau bất chợt nghe tiếng la từ phía trong bờ. Mọi người trên ghe dừng tay, nhìn vào bờ rồi nhìn ra hướng biển. Một chiếc tàu khá lớn đang từ từ tiến vào thẳng ngay phía ghe chúng tôi. Anh Tấn nói lớn vọng vào bờ:
- Đàn bà con gái lánh mặt trốn ngay đi. Nam giới ai nấy lo kiếm đồ thủ sẵn trong tay để mà chơi với tụi nó nghe.
Chúng tôi cũng vội tản ra ngay. Người cầm cây búa, người con dao hoặc đoạn dây lòi tói sắt... Tàu lạ tiến vào từ từ. Khi cách ghe chúng tôi khoảng 200m, nó ngừng lại. Nó không vào được. Sợ mắc cạn hoặc sợ bể tàu vì các rạn đá ở gần bờ, tôi nghĩ vậy. Im lặng một lúc, hai bóng người nhẩy xuống biển từ con tàu lạ và bơi về hướng ghe chúng tôi. Khi bơi đến gần ghe, chúng tôi thấy họ mang theo mỗi người một thùng nhựa khá lớn. Còn cách ghe chúng tôi khoảng 10m họ ngừng lại. Họ bơi đứng, nói bằng ngôn ngữ lạ chúng tôi không hiểu. Tay họ chỉ vào thùng nhựa mang theo và chỉ vào miệng. Anh Tấn khoát tay ra dấu cho hai người lạ bơi lại ghe. Họ đến sát bên ghe nhưng không dám leo lên vì bộ dạng chúng tôi với những thứ đang cầm trên tay. Hai tài công tiến lại gần người lạ và hỏi hai tiếng Thái Lan thì cả hai gật đầu. Họ đẩy các thùng nhựa lên cho tài công. Hai thùng nhựa được chuyền lên ghe. Ngay sau đó, hai người Thái Lan bơi nhanh về tàu họ. Họ leo trở lại con tàu. Ít phút sau, con tàu từ từ quay lui rồi tăng tốc chạy mất dạng trước sự ngỡ ngàng của đám chúng tôi. Chúng tôi tiến lại xem hai thùng nhựa. Anh Tấn mở nắp một thùng ra xem. Bên trong chứa đầy cơm nếp cùng tảng đường Thốt Nốt mầu vàng nhạt. Tôm thẻ rang chín chung với ớt đỏ. Dưới đáy thùng, một bọc nhựa đầy xoài xanh thái chỉ trộn với cá mắm cùng ớt và tỏi bằm chung. Thùng nhựa thứ hai chứa đầy tới miệng kẹo bánh, thuốc lá thơm hiệu Samit, Gold City và những lon nước ngọt Coca Cola.
Mang hai thùng đồ ăn vào bờ, anh Tấn tập họp mọi người ngồi thành một vòng tròn dưới những tàng cây mát. Chúng tôi chia thức ăn từ hai thùng nhựa đều cho mọi người trong nỗi vui mừng và ngạc nhiên vì thái độ quá sức thân thiện của hai thủy thủ Thái Lan ở con tàu lạ.
- Đâu phải tàu Thái Lan nào cũng hải tặc hết đâu... Có người này người khác chứ.
Ai cũng cho như vậy mà đâu biết những bất trắc từ con tàu lạ sẽ xẩy ra cho ghe chúng tôi... chỉ trong vài tiếng đồng hồ nữa.
-
- phamthangvu
- Status:Offline
- Posts: 2
- Has thanked: 0 time
- Have thanks: 0 time
- Joined: November 17th, 2009, 10:47 pm
Re: Con Sóng Dữ.
3 Đến đây, tôi nói sơ qua về chuyện ăn uống trên đảo. Phải nói nhờ có anh Tấn mà chuyện ăn uống mới có quy củ chứ không thì vẫn cảnh giành giựt mạnh ai nấy lấy, mạnh ai nấy ăn. Ít giờ trước đó, mấy phụ nữ vừa nấu xong một nồi cháo ốc cho bữa ăn sáng thì xẩy ra cảnh giành giựt. Cháo chín tới, ghe chỉ có vỏn vẹn bốn cái chén sành và một cái tô nhựa. Người nấu cháo đã nói lần lượt từng người tự giác ăn một chén còn để chừa phần cho người khác. Có hai gã thanh niên chen vào giành chén, múc cháo ăn trước tiên. Khi húp cạn chén cháo, hai gã tỉnh bơ múc đầy và ăn tiếp mà không chuyền cái chén cho người khác đang chờ đến lượt. Hết chén thứ hai sang chén thứ ba thì có người lên tiếng nhắc nhở. Hai gã vẫn gục mặt ăn tiếp làm như không nghe thấy gì hết. Một trận xô xát nhỏ đã xẩy ra giữa hai gã với những người khác. Hai gã thanh niên đó ở trong đám nhập chung với chúng tôi tại bến xe Hà Tiên khi nhóm tổ chức nhét thêm khách. Hai gã còn trẻ, to xác nhưng rất lười. Cứ nằm yên hay ngồi chơi tại chỗ. Mặc ai đi bắt ốc, ai đi gom củi nấu mì gói nấu cháo thì đi. Hai gã không hề giúp một tay. Khi nồi mì nồi cháo nấu xong, hai gã nhào vào ăn trước. Ăn rất hỗn, chẳng biết nhường phần người sau. Có người còn bắt quả tang hai gã lục túi xách của người khác khi còn ở dưới ghe. Xô xát xẩy ra. Hai thanh niên thật hung dữ, đuổi đánh những người chống lại... buộc anh Tấn phải vào cuộc. Anh Tấn chạy tới can ngăn thì bị một trong hai gã đánh luôn. Dù vóc dáng nhỏ con nhưng anh Tấn ra ngón võ thế nào mà chỉ loáng một cái, hai gã thanh niên nằm thẳng cẳng ngay đơ dưới đất. Vài người chạy đến hai gã tính đánh trả thù nhưng anh Tấn cản lại, không cho. - Đ.M hai thằng mày, thứ sâu bọ ham ăn giành uống như vậy sao không ở với Cộng Sản mà vượt biên làm gì? Cỡ chúng mày ra nước ngoài chỉ tổ làm người Việt nhục lây. Hôm nay tao tha nghe con. Muốn nhịn hai thằng mày mà không được. Còn cà chớn nữa tao sẽ lấy mỗi thằng một bóng đèn đó. Biết chưa? Anh Tấn hùng hổ quát. Hai gã thanh niên van lạy rối rít, xin anh Tấn và người trên ghe xí xoá lỗi của chúng đã làm. Nhờ vụ xô xát, tất cả người trên ghe đã răm rắp nghe theo lời anh Tấn. Tự nhiên anh đã thành leader. Ở đâu, trong bất cứ sắc dân nào cũng có bọn người lười biếng, ích kỷ như hai gã thanh niên. - Hù tụi nó cho sợ thôi. Cho bỏ cái tính côn đồ đi. Anh Tấn nói nhỏ với tôi và Dũng. Chúng tôi từ từ chia đều thức ăn trong hai thùng nhựa cho mọi người cùng ăn. Lần đầu tiên trong đời tôi nếm món ăn của Thái Lan. Hết cơm nếp nóng với tôm thẻ rang chung ớt đỏ khô cùng món xoài xanh bóp gỏi với cá mắm... lại ăn kèm với đường Thốt Nốt. Cuối bữa, chúng tôi nhai nhóp nhép bánh ngọt, kẹo và giải khát bằng các lon Coca Cola trong làn khói thơm của thuốc lá thơm Samit hoặc Gold City từ miệng mũi phả ra. Một bữa ăn quá sức ngon miệng. Ăn uống no nê, mọi người tản ra nằm hoặc ngồi dưới các bóng mát tán chuyện với nhau còn hai tài công cũng bỏ mặc không sửa máy ghe nữa. Họ no bụng nên muốn nghỉ ngơi hay thực sự biết không thể sửa cho máy chạy được? Tôi, Ánh Phương, Mỹ An và Dũng ngồi quây quần bên nhau... nói chuyện về chiếc tàu Thái Lan. Liệu có phải chiếc tàu tối hôm qua pha đèn vào mình không? Anh Tấn rồi nhóm người của hai tài công đang ở gần cũng bước lại ngồi nhập chung bọn, cho biết: - Không biết có phải nó hay không nữa? Trời khuya ai thấy rõ được nhưng tàu sáng nay là tàu Thái hiền, không phải tàu Thái hải tặc. Tiếc cái tàu họ chạy mất tiêu rồi. - Phải chi mấy ông nhờ hai người Thái này lên ghe coi hộ cái máy không chừng họ sửa dùm cho mình luôn đó. Tại sao mấy ông không làm vậy? Một phụ nữ ngồi gần chen vào. - Trời! Bà nói dễ nghe ha! Tụi tui biết họ định làm gì mà nói... Với lại, thấy tụi tui cầm dao búa trong tay, họ còn không dám lội lại gần kìa. Mà ai để cho họ leo lên ghe? Một tài công vặn lại. - Mấy ông quá dở thì có. Thấy cho mình đồ ăn, biết họ người hiền lành chứ... Phải chụp cơ hội nói họ giúp. Không biết tiếng Thái thì làm dấu để họ biết chuyện mình cần. Con không khóc mẹ nào cho bú. Phải không? Có mặt trên ghe tui làm như vậy liền. Mấy ông nhìn họ có đeo tượng Phật không? Người phụ nữ tiếp. - Thôi chị Hai ơi! Lúc đó chị cũng chạy núp mất tiêu rồi còn nói ngon. Người tài công đáp trả. Mặt trời giờ đã đứng bóng. Gió mát từ hướng biển thổi vào liên tục và nhờ ở dưới bóng các tàn cây nên không ai cảm thấy nóng. Có làn gió mát, mọi người tự động tản ra đi về chỗ của mình nằm ngủ trưa. Tôi đến bên Ánh Phương, nàng nhìn tôi và nói: - Anh đừng nằm xa chỗ em để có gì thì giúp em. Tự dưng gặp cái tàu pha đèn tối hôm qua rồi cái tàu cho đồ ăn ban nãy nữa làm em lo quá anh Vũ. Đừng để em một mình, em sợ lắm. Anh phải che chở cho em nha. Tôi nhìn khuôn mặt Ánh Phương. Một lần nữa nhủ thầm, cô gái quá đẹp. Tại sao Ánh Phương dám đi vượt biên? Sao mà lường hết các chuyện sẽ xẩy ra. Ghe có thể bị công an biên phòng bắt. Có thể bị chìm vì bão hoặc hư máy như hoàn cảnh hiện tại. Nhìn Ánh Phương, tôi không dám nghĩ đến câu có thể gặp hải tặc. Tôi cũng cảm thấy một niềm vui đang dâng tràn khi vừa nghe nàng nói. Có thể trong mấy ngày qua, chúng tôi kề cận bên nhau để nàng nghĩ tôi như người thân thiết bên cạnh. Cũng có thể đơn giản nàng chỉ xem tôi như anh trai ruột nàng. Còn tôi, nghĩ sao về Ánh Phương? Tôi thật chưa biết! Thấy tôi im lặng, Ánh Phương khe khẽ: - Anh Vũ! Anh phải che chở cho em nha. Che chở em. Tôi vội gật đầu, nàng nở miệng cười thật tươi trong ánh nắng chiếu xiên qua kẽ lá. Tận bây giờ, tôi vẫn nhớ khuôn mặt và nụ cười của Ánh Phương. Răng nàng trắng đều như bắp trong làn môi đỏ thắm. Khuôn mặt trái soan trắng hồng với vài gân máu li ti ở gò má cùng với cặp mắt sáng dưới hàng lông mi cong đen. Ánh Phương! Ánh Phương ơi! Em đẹp quá. Thật kỳ lạ! tôi có các em gái ruột trạc tuổi Ánh Phương. Cũng mặt mũi cũng vóc dáng như nàng. Có bao giờ tôi ngồi sát cạnh bên để nhìn rõ khuôn mặt các em gái tôi như đang ngồi đây với Ánh Phương. Tôi nhìn Ánh Phương lần nữa để biết con gái Việt Nam thật đẹp. Cầm đôi bàn tay của Ánh Phương rồi tự nhiên tôi đưa lên mũi tôi. Mùi hương con gái toả ra từ đôi bàn tay nàng. Ánh Phương để yên và có lẽ tôi cũng sẽ để yên như vậy rất lâu nếu như nàng không mắc cỡ, rụt tay lại. Ánh Phương lí nhí nói nhỏ: " Mỹ An nó đang nhìn kìa, mình nằm nghỉ đi anh Vũ ". Tôi biết Ánh Phương lo lắng khi thấy máy ghe hư không sửa được và nếu bị kẹt ở đảo rồi thân gái sẽ ra sao nếu như không có người thân thích bên cạnh? Nàng đã nói như vậy với tôi, tôi nhủ thầm: " Ánh Phương ơi! Dù em không nói ra, tôi cũng tự cảm thấy có bổn phận phải che chở cho em ". Tại sao vậy? Tôi đã có cảm tình với Ánh Phương hay vì mình đàn ông con trai phải xử sự như vậy với con gái. Tôi cũng lo lắng như nàng chứ. Tôi nghĩ thêm thức ăn rồi sẽ hết và sẽ ra sao? Nhìn các người khác đang yên lặng nằm mở mắt nhìn lên các tán lá cây. Dù không ai nói ra, tôi cũng biết người nào cũng lầm thầm trong bụng mong được gặp lại con tàu Thái Lan hồi sáng. Đang chìm trong giấc ngủ trưa, tôi tỉnh giấc vì tiếng hét lớn: " Cái tàu hồi sáng kia kìa bà con ơi ". Tôi và Ánh Phương choàng dậy ngay. Thật linh như thần khẩu. Đúng nó rồi. Con tàu chạy ngang trước mặt chúng tôi cũng một khoảng cách như lúc sáng. Mọi người chạy túa ra vẫy tay, miệng hét lớn. Không biết vì nghe thấy tiếng hét hoặc trông thấy chúng tôi vẫy tay mà chiếc tàu từ từ dừng lại. Một bóng người trên tàu nhẩy xuống biển lội vào bờ hướng về chỗ cả bọn chúng tôi. Không ai còn ý nghĩ phải tìm cách đề phòng chiếc tàu nữa. Gã thủy thủ Thái Lan bước từng bước lên bờ. Gã không phải người cho chúng tôi thức ăn hồi sáng. Gã mặc một quần thun bó sát với chiếc áo phao. Tướng tá trung bình, mầu da vàng như người Việt. Khi đến gần, gã xổ một tràng tiếng Thái Lan. Gã nói tiếp vài câu nữa nhưng vẫn không ai hiểu. Một chút yên lặng nghĩ ngợi, gã Thái Lan nói thêm vài câu khác. Đột nhiên có người trong chúng tôi vọt miệng trả lời y. Hai bên đối đáp qua lại từng câu. Thì ra gã thủy thủ là người Thái gốc Tàu Triều Châu. Người bên chúng tôi nói chuyện được với gã là cô gái Việt gốc Tàu vùng Bạc Liêu. Cô A Muối có tên Hồng Thu Lan. Chúng tôi nhờ cô cho gã thủy thủ Thái Lan biết về tình cảnh của cả bọn. Theo lời gã, tàu Thái Lan trên đường quay về Bangkok trông thấy chúng tôi vẫy tay, reo hò nên chủ tàu mới dừng lại rồi cho gã lội vào bờ tìm gặp chúng tôi. - Nói họ tiện thể chạy về Bangkok thì kéo ghe mình theo luôn đi A Chế... Mấy người vây chung quanh cô Hồng Thu Lan thúc hối. Gã Thái Lan quay ra biển, dùng tay làm dấu hiệu với con tàu. Lập tức, bóng người khác trên tàu lao xuống biển và bơi thẳng vào bờ đến chỗ chúng tôi. Gã thứ hai này là người đã cho chúng tôi thức ăn hồi sáng. Trên cổ tay gã quấn một nùi dây cước nhỏ mầu đỏ kéo dài tuốt ra biển xa. Gã lặng yên, kéo sợi dây cước liên tục. Chúng tôi nhìn mà không hiểu việc gã làm. Sợi cước nhỏ được nối với một dây thừng khá lớn của tàu. Có sợi thừng lớn, gã thủy thủ gốc Tàu nói cô Hồng Thu Lan biết chúng tôi phải cột sợi dây thừng vào mũi ghe ngay. Có làm vậy, họ mới kéo ghe chúng tôi đến sát con tàu được. Đúng như chúng tôi dự đoán khi trước, con tàu Thái Lan quá lớn nên không thể cặp vào sát bờ như ghe nhỏ chúng tôi. Toàn bộ chúng tôi cùng hai thủy thủ Thái Lan vội vã trở lại ghe. Tàu Thái Lan bắt đầu thu dây thừng lại. Trong chốc lát, ghe chúng tôi đã nằm ngay sau đuôi con tàu Thái Lan. Hai gã thủy thủ nhẩy xuống nước, bơi trở về tàu họ. Tàu Thái Lan nổ lớn máy chạy nhanh dần, kéo theo ghe chúng tôi đằng sau. Lúc đó khoảng 2 giờ trưa, mặt biển xanh lơ vắng lặng, êm ả không một bóng tàu ghe nào khác. Dù con tàu Thái Lan chạy rất nhanh so với tốc độ của ghe vượt biên nhưng chúng tôi vẫn cảm thấy chậm. Trước lúc mọi người trở về ghe, gã thủy thủ gốc Tàu cho cô Hồng Thu Lan biết do đang trong hải phận nước Khmer nên chuyện tàu đánh cá Thái Lan không thể kéo theo ghe vượt biên được. Nếu bị tàu tuần duyên hay tàu đánh cá Khmer phát giác, tàu gã sẽ gặp rắc rối. Gã cho biết thêm, tàu Thái Lan sẽ kéo ghe chạy rất nhanh cho đến khi cảm thấy an toàn mới thôi. Chúng tôi nhìn chung quanh trên mặt biển. Các đảo dần dần nhỏ hẳn. Con tàu Thái Lan tăng tốc độ chạy càng nhanh đến nỗi ai cũng phát sợ. Có lúc tàu chạy lượn vòng vèo hoặc giảm tốc độ rồi lại tăng đột ngột. Ai trên ghe phải bám cứng lấy nhau vì sợ rớt xuống biển. Nước biển văng mạnh lên sàn ghe tương tự trong đêm gặp dông bão. Có người phải nhẩy xuống nằm dưới khoang hầm cho an toàn. Tàu Thái Lan cứ chạy như vậy cả tiếng đồng hồ. Nhiều người có cảm giác chóng mặt, khó chịu. Có người chịu không nổi phát nôn. Vài người hét thật lớn mong tàu Thái Lan nghe thấy để giảm bớt tốc độ. Không thấy bóng thủy thủ Thái Lan nào trên con tàu. Kéo ghe chạy nhanh như vậy, ai cũng lo sợi dây kéo sẽ đứt vì quá căng. Tiếng gỗ kêu rin rít mỗi khi con tàu tăng tốc độ. Đột nhiên, con tàu chạy chậm dần rồi ngừng hẳn. Khoảng cách giữa ghe và tàu thu ngắn lại. Đậu sau đuôi con tàu Thái Lan, ghe chúng tôi quá nhỏ. Trên ca bin tàu cao vút, năm sáu gã đàn ông ngồi ngó xuống cả đám chúng tôi. Gã Thái Lan gốc Tàu nói với cô Hồng Thu Lan là thuyền trưởng con tàu muốn biết tổng số người trong ghe để họ lập danh sách trình cho chính quyền khi tàu cập vào Bangkok. Chúng tôi phải lên ngồi trên mặt sàn ghe để họ chụp hình làm bằng chứng nữa. Nghe họ nói, ai nấy đều hứng chí quên hết mệt mỏi. Tài công hối thúc người còn dưới khoang hầm phải lên mặt sàn ghe ngay. Tàu Thái Lan lấy máy hình ra chụp toàn bộ người chúng tôi đứng ngồi lố nhố trên ghe. Xong xuôi, tàu Thái Lan nói chúng tôi chuẩn bị rời ghe chuyển sang bên họ để nghỉ ngơi và ăn uống. Tàu Thái Lan chạy nhanh khi kéo ghe để chúng tôi ai cũng phải thấm mệt trước đã. Khi nói ngồi hết trên mặt sàn ghe, để họ biết nhân số đàn ông con trai mà tính chuyện sau này. Vì quá thật thà, cả tin nên không ai nghi ngờ hành động của tàu Thái Lan. Ánh Phương và tôi ngồi gần mũi ghe. Nhìn mặt nhau, cả hai đang bần thần dã dượi vì mệt. Chung quanh ghe chỉ một mầu nước biển. Không một hòn đảo hay bóng tàu ghe nào hết. Cả ghe ngồi như vậy cho đến khi gã Thái gốc Tàu cùng một gã khác xuất hiện nói chúng tôi từng người lần lượt trèo lên boong tàu ngay. Anh Tấn đòi leo lên tàu trước để thám thính. Anh bước vọt lên đầu mũi ghe, tay nắm sợi dây từ trên tàu thả xuống. Hai gã thủy thủ Thái Lan giúp anh Tấn leo lên boong nhanh chóng. Kế tiếp, người thứ hai rồi người thứ ba... Đến tôi người thứ năm leo lên con tàu Thái Lan. Có sợi dây và giúp sức của hai gã Thái Lan nhưng tôi đã chật vật mới leo lên được boong tàu. Sao bọn họ không kéo chiếc ghe sang cạnh lườn để chúng tôi dễ dàng trèo lên hơn là cột mé sau đít con tàu? Vừa lên tới nơi, tôi đứng tại chỗ, thâm tâm muốn phụ sức với hai gã Thái Lan để kéo tiếp những người khác dưới ghe. Tôi nghĩ trước tiên sẽ giúp cho Ánh Phương nên gọi nàng. Ánh Phương vừa đứng lên, gã thủy thủ gốc Tàu vội khoát tay ra dấu nàng ngồi xuống ngay. Y nói với cô Hồng Thu Lan nam giới leo lên trước sau mới tới lượt nữ giới. Tôi ngạc nhiên nhủ thầm: " Sao kỳ vậy? Có vụ người lên trước lên sau ". Cúi người xuống định kéo tay một thanh niên khác đang bắt đầu leo lên boong, gã thủy thủ Thái Lan đứng bên cạnh ra dấu, chỉ tôi đi về đằng phía trước con tàu. Tôi ngạc nhiên nhìn nhưng gã xua tay... muốn tôi phải đi ngay. Bằng một hành lang nhỏ nằm ngang thân tàu tương tự như một ban công của căn nhà lầu, tôi đi dọc theo hành lang về phía trước con tàu. Ngang qua hầm máy, tôi nhìn xuống thấy dàn máy tàu thật lớn đang nổ nhè nhẹ. Đi gần hết ca bin tàu tới ngay buồng lái, tai tôi nghe tiếng nhạc phát ra từ chiếc máy cassette khá lớn cạnh bên tay lái tàu. Không một bóng người nào ở trong căn buồng lái. Trước mặt tôi, một gã thủy thủ Thái Lan ngồi xổm giữa hành lang dường như y đang sửa chữa cái gì đó sát cạnh vách của buồng lái. Tôi từ từ đi tới, khẽ lách qua thân gã thì nhanh như một tia chớp, y ta đứng dậy, chộp một tay tôi và khoá quặt ra phía sau lưng. Tôi chưa biết chuyện gì vừa xẩy ra thì gã đẩy tôi đi tiếp một đoạn ngắn và xô tôi té nhào xuống mặt sàn tàu. Ngay tức khắc, một gã chờ sẵn ở đó vội đè lên người tôi để cho gã khác chạy đến trói tay trói chân lại. Xong xuôi, hai gã thủy thủ kéo tôi ngồi lên. Anh Tấn cùng ba người lên trước tôi đã bị họ trói chặt ngồi gần đó. Anh Tấn nhắm nghiền mắt, một vệt máu ở trên mũi và vết xưng bầm trên gò má trái anh. Ba người kia, vẻ mệt mỏi thất thần hiện rõ trên khuôn mặt họ. Ghe chúng tôi đã sa vào tay bọn hải tặc Thái Lan rồi. Lần lượt từng người trong ghe ló dạng gần mặt sàn tàu và đều bị bọn Thái Lan nầy bắt trói liên tiếp. Chúng trói chặt hai khuỷu tay chúng tôi ra sau lưng và cả hai cổ chân nữa. Trên tàu Thái Lan chỉ có bẩy tên hải tặc. Chúng đã lập kế lừa, tỉa bắt cả đám chúng tôi và đó là lý do chúng không kéo cái ghe sát cạnh lườn tàu để chúng tôi cùng trèo lên một lượt. Nếu làm như vậy, 32 đàn ông-thanh niên chúng tôi chắc chắn sẽ không bó tay quy hàng khi bọn chúng dở trò. Giờ biết chuyện đã quá muộn. Bọn hải tặc đặt chúng tôi ngồi sát bên nhau cạnh thành con tàu. Nhìn nhau mà mặt người nào người nấy tái xanh, đầy vẻ buồn bã, thất vọng, tức tối và cả lo sợ. Kế hoạch của bọn hải tặc quá gọn, nhanh chóng. Chắc chắn đây là con tàu đã pha đèn hồi hôm. Bọn chúng từng làm các chuyện như vậy trước nay. Không biết có bao nhiêu ghe vượt biên người Việt đã là nạn nhân của chúng Tôi ngồi yên trong tâm trạng bàng hoàng. Thật không ngờ, bây giờ đã tháng 5 năm 1990 mà vẫn còn hải tặc Thái Lan. Từ rất lâu, qua thư từ của người thân cũng như tin tức trên các đài BBC, VOA... tôi nghĩ là nạn hải tặc Thái Lan đã chấm dứt sau khi có quá nhiều vụ tấn công, cướp bóc, hãm hiếp và thảm sát người Việt. Cộng đồng quốc tế đã lên tiếng rồi chính phủ nước USA vào cuộc, buộc chính quyền Thái Lan hết phương lẩn tránh trách nhiệm với đám hải tặc. Tin tức của người sống sót khai báo với Cao Ủy Liên Hiệp Quốc khi đến trại tị nạn, các tàu hải tặc đã bị nhận dạng. Chính quyền Thái Lan không thể bao che và phải mạnh tay. Tàu đánh cá khi ra khơi đều phải ghi danh bạ, cho biết khu vực đánh cá, thời gian đi và về. Nhờ vậy, nạn hải tặc đã giảm hẳn gần như ai cũng nghĩ không nữa. Chính vậy nên tôi mới dám vượt biên bằng đường dây của anh Thành. Ngờ đâu thật xui xe. Số phận chúng tôi sẽ ra sao ? Tôi nghĩ đến mẹ tôi và các em tôi mà nước mắt chảy tràn trên khoé mắt. Gần bên tôi, người nào đó cũng đang khóc rấm rứt cùng với tiếng người khác khe khẽ niệm kinh Phật. Ba gã hải tặc da đen, vóc dáng cao lớn vạm vỡ đứng lảng vảng gần, trong tay gã nào cũng lăm lăm một con dao to bản hoặc thanh sắt khá lớn. Những thứ mà quất vào thân người chúng tôi thì chỉ có chết. Tính chuyện cánh nam giới chúng tôi xong xuôi, bọn hải tặc kéo chiếc ghe đến sát bên lườn tàu phía đối diện nơi chúng tôi ngồi. Đặt một cái thang nhỏ xuống ghe cho đàn-bà con gái leo hết lên mặt sàn tàu. Tiếng trò chuyện của đám đàn bà-con gái vọng đến nhưng họ vẫn chưa biết tình cảnh của đám nam giới. Cạnh buồng lái tàu đã che khuất hết cả. Bọn hải tặc Thái Lan nhanh chóng lùa hết nữ giới ra phía sau. Họ xuống hầm tàu hay vào trong ca bin? Sau đó có tiếng đập phá dưới ghe vượt biên. Bọn hải tặc đang lục soát để kiếm vàng, tiền Đô mà chúng nghĩ được cất dấu trong ghe. Rồi chúng quay đến bên đám chúng tôi. Dựng từng người đứng lên để lần mò kiếm dây chuyền, nhẫn vàng, đồng hồ và tiền Đô. Đồng hồ mới, đắt tiền chúng mới lấy, loại cũ chúng không thèm. Những thứ cướp được, bọn đàn em đều nộp hết cho gã đầu đảng cởi trần, mặt mũi đen xạm, râu ria lởm chởm. Báng cây súng lục lòi ra ở thắt lưng chiếc quần jean cũ y mặc. Gã Thái Lan gốc Tàu từ phía sau ca bin đi ra, bưng một thau cơm lớn và bưng thêm các thau thức ăn khác cùng chén, muỗng đặt chính giữa sàn tàu. Bọn chúng lần lượt tháo dây cho từng người chúng tôi để ăn cơm chóng vánh rồi sau đó trói lại ngay. Cũng thức ăn như hồi sáng chúng đã đem cho nhưng giờ có thêm món canh cá. Tôi lấy chén nhưng chỉ nhấm nháp qua loa và kín đáo nhìn bọn hải tặc, thử đoán thái độ chúng. Trên nóc ca bin, máy ra đa liên lạc vẫn đều đặn quay từng vòng. Ba tên hải tặc ngồi bàn bạc chuyện với nhau. Một gã dùng cái ống ngòm nhìn xa xa chung quanh. Một cột ròng rọc sắt khá cao, nằm cố định ngay chính giữa mặt sàn tàu để kéo các thùng cá xuống hoặc lên khỏi khoang hầm. Thân tàu làm bằng gỗ nhưng dày tới 30cm. Mũi tàu cả nguyên một khối gỗ to đùng. To lớn, cứng chắc như vậy khi tông vào ghe vượt biên là bể tan ngay. Có ngồi trên tàu hải tặc Thái Lan mới biết chuyện kể ghe vượt biên bị húc chìm không ngoa chút nào. Tôi nghĩ nếu bọn hải tặc cho ăn cơm thì hy vọng bọn chúng sẽ tha không giết. Nhìn ống nhòm liên tục, chắc chắn bọn chúng đang trông chờ cái gì đó. Chợt gã cầm ống nhòm xì xồ tiếng Thái Lan, tay chỉ một phía xa xa cho cả bọn biết. Ngay lập tức, chúng ngưng cái vụ cho ăn cơm. Tiếng máy tàu vọng lại gần và một tàu khác lớn hơn từ đâu chạy đến cập sát bên cạnh. Một tấm ván đặt nối giữa hai tàu. Những gã hải tặc bên tàu mới bước qua và đến nhìn đám người chúng tôi. Bọn chúng bàn chuyện với nhau rồi đi thẳng ra sau ca bin tàu. Sau đó, chúng lùa một số đàn bà-con gái qua con tàu lớn. Cả thẩy mười người. Trong số họ có Ánh Phương, Mỹ An cùng hai người vợ tài công. Mười người bất hạnh đó đã thấy chúng tôi tay chân bị trói chặt ngồi gọn một đám. Họ đã hiểu sự việc nên kêu gào cùng than khóc thảm thiết. Ánh Phương gọi to: " Anh Vũ... Anh Vũ " Mắt nàng thảng thốt, tay chân chới với vẫy tôi. Tôi làm gì được cho nàng? Buồn bã, tôi đưa mắt nhìn Ánh Phương nhìn Mỹ An và những người khác đang từng bước đi sang con tàu mới. Đám hải tặc chờ sẵn đã lùa mười người họ vào hết trong ca bin tàu. Con tàu tách ra chạy mất dạng. Đó là lần cuối cùng (cho đến tận bây giờ) tôi trông thấy Ánh Phương bằng xương bằng thịt. Bắt mười người trên ghe vậy còn tám người nữa còn ở dưới hầm tàu. Trong số họ có cô Hồng thu Lan. Chuyện gì sẽ xẩy ra cho Ánh Phương, Mỹ An và đám phụ nữ trên con tàu vừa chạy đi? Chắc chắn là chuyện không tốt rồi.Số phận chúng tôi còn lại đây sẽ ra sao? Trời đã gần chiều. Mây che kín nhiều chỗ trên bầu trời. Đám hải tặc Thái Lan tập trung lại đến gần chúng tôi. Ba gã trèo xuống ghe vượt biên, bốn gã còn lại đứng tiến đến chỗ chúng tôi. Lần lượt cứ hai gã hải tặc khiêng một người vất xuống cho hai gã khác đứng dưới ghe đón bắt lấy. Cứ đón được người nào trong đám chúng tôi thì hai gã bỏ nằm lăn quay trên mặt sàn ghe. Đến phiên tôi, chúng khiêng thật nhẹ và thẩy cái vù xuống cho đồng bọn. Tôi nhắm mắt vì quá sợ. Rủi đón hụt tay, mạng tôi sẽ đi đứt. Nếu người tôi không đập vào thành ghe thì cũng làm mồi cho Hà Bá. Tay chân bị trói làm sao bơi được. Nhưng không. Bọn hải tặc Thái Lan quá khoẻ. Chúng thẩy và bắt thân 32 người chúng tôi thật gọn thật dễ như người chơi bóng bắt trái banh. Chúng tôi bị vất nằm hoặc ngồi đè lên nhau và lên cả đống quần áo nằm vương vãi đầy trên mặt sàn ghe. Trong buồng lái, cháu trai con chị Ân ngồi im lìm một chỗ. Cháu bé này tuy 14 tuổi nhưng thân hình nhỏ đẹt, còi cọc. Khi bọn hải tặc lùa tất cả 18 phụ nữ lên con tàu lớn, cháu bé theo chị Ân lên tàu hay chúng để cháu ngồi một mình dưới ghe? Tiếng máy nổ lớn hơn, con tàu bắt đầu chạy, kéo ghe chúng tôi theo sau nó. Lần này con tàu chạy tốc độ bình thường. Khoảng một giờ đồng hồ sau, tôi bắt đầu thấy bóng các hòn đảo nằm xa xa. Mây càng lúc càng nhiều hơn làm cho bầu trời xám xịt. Trời sắp mưa đến nơi. Bọn hải tặc cho tàu chạy đến một đảo xa nhất. Đến gần đảo, bọn chúng đã cắt dây kéo để mặc chiếc ghe rồi chúng quay đầu bỏ chạy. Anh Tấn thét lớn: " Nó chạy lấy đà để húc vào ghe mình đó ". Tiếng người khác gọi cháu bé trai con chị Ân cởi dây trói. Lần lượt chúng tôi cởi dây cho nhau. Chúng tôi nhìn con tàu Thái Lan vẫn chạy xa xa trong lo sợ. Nếu tàu hải tặc quay lại húc bể ghe, người nào còn bơi trên biển nó sẽ chạy qua cán cho chết luôn. Nhưng con tàu càng lúc càng xa tít rồi mất dạng dưới đường chân trời. Bọn chúng bắt luôn số nữ giới còn kẹt trên tàu và bỏ mặc chúng tôi cùng chiếc ghe hư gần hòn đảo hoang. Anh Tấn hối mọi người lấy những thanh ván ghe bọn hải tặc bỏ vương vãi khi chúng lục soát kiếm vàng để làm mái dầm chèo ghe chạy vào đảo. Hòn đảo tuy trông rất gần nhưng phải chật vật cả tiếng đồng hồ mới chèo ghe vào sát bờ được. Kiếm chỗ cạn có bờ cát thoai thoải, chúng tôi ghé vào. Tài công nối những đoạn dây trói lại với nhau thành một sợi khá dài để cột chiếc ghe nối vào một cành cây trên bờ. Không có mỏ neo, tài công tìm một hòn đá nặng để neo chiếc ghe đứng lại. Chúng tôi tìm lại túi xách, tư trang cá nhân trong số đồ đạc vương vãi trên mặt sàn và dưới khoang hầm. Tôi tìm được cả túi xách và áo quần của Ánh Phương nữa. Khoác các túi xách lên vai rồi cùng những người khác rời khỏi chiếc ghe, tôi lội từng bước vào bờ. Lên đảo hoang, người nào cũng lừ đừ vì mệt vì suy sụp tinh thần. Chỉ một ngày hôm nay mà có quá nhiều chuyện xẩy ra với ghe. Từ những phấn khởi khi nghĩ đã may mắn gặp tàu Thái Lan giúp sẽ cặp bến Bangkok sớm cho đến nỗi kinh khiếp khi bị trói trên boong tàu chúng. Giờ đây, chúng tôi quay lại đảo hoang mà hoàn cảnh còn tệ hơn trước. Không ai buồn nói với ai một lời. Ai cũng tâm trạng buồn bã. Bước dọc theo bờ cát, đến một mặt đá lớn bằng phẳng, tôi vất các túi xách và nằm vật ra nghỉ. Lát sau, Dũng bước đến nằm xuống gần bên tôi. Dũng cầm túi xách của nó và của Mỹ An. Dũng nhắm mắt, nằm yên lặng lẽ. Những người đến trước đến sau đều tìm một chỗ nằm gần nhau trên các mặt đá phẳng. Không ai cảm thấy đói khát gì mà chỉ một nỗi thất vọng pha lẫn chán chường và mệt mỏi. Trời bắt đầu tối dần. Chúng tôi nằm yên lặng rồi ngủ thiếp đi. Nửa khuya về sáng, trời đổ mưa nhưng chẳng ai tìm chỗ tránh. Nằm ngủ tại chỗ, bất chấp mưa rơi trên mặt và làm ướt áo quần. Mưa tan đến các cơn gió lạnh nhưng mọi người vẫn nằm yên. Bình minh đến chung với tiếng chim, thú trên đảo kêu vang vang trong tia nắng sớm. Chợt có tiếng hét lớn thảng thốt: - Ghe mình trôi tuốt đằng xa rồi kia kìa! Làm sao đây bà con ơi? Dậy ngay đi. Tôi và Dũng vội choàng dậy và chạy ra xem. Chiếc ghe trôi tắp vào các ghềnh đá sát bờ không xa chỗ đổ bộ vào lúc chập choạng hôm qua. Ghềnh đá là chỗ chúng tôi đã tránh không vào. Sợi dây các tài công cột từ chiếc ghe nối vào cành cây trên bờ đã bị đứt. Đêm khuya khi nước triều dâng cao, đẩy ghe lên và hòn đá làm neo không đủ sức giữ ghe đứng yên tại chỗ. Vì vậy đã làm ghe dạt sang nơi khác. Dây nối vào bờ quá nhỏ, bị kéo căng nên đã đứt. Chúng tôi không liệu trước sự việc ghe bị trôi vào ghềnh đá. Cứ tưởng đã cột dây và có neo chiếc ghe sẽ an toàn. Nào ngờ. Chạy đến chỗ chiếc ghe vừa tắp vào. Sóng biển lùa ghe vào các bờ đá và thân ghe bị gẫy làm hai khúc. Nước theo từng lọn sóng nhỏ vẫn vỗ từng đợt từng đợt vào lòng ghe làm nó càng lúc càng nát thêm. Cả bọn nhìn nhau trong tuyệt vọng. Không còn ghe... vậy chuyện vượt biên sẽ ra sao đây hả trời? Thân chiếc ghe dập dềnh phần nổi phần chìm theo từng con sóng xô mạnh vào các ghềnh đá rồi lại theo từng con sóng giật ra ngoài làm càng lúc càng nát hơn cho đến khi nó bị hất lên, nằm kẹt hẳn lại ở một bờ đá nhỏ. Tất cả đám nam giới chúng tôi đứng rải rác ở trên bờ buông mắt nhìn những phần còn lại của chiếc ghe trong im lặng. Mỗi người theo đuổi riêng tư ý nghĩ của mình. Thế là hết, không còn chiếc ghe thì niềm hy vọng sẽ tiếp tục cuộc hải hành coi như đã chấm dứt. Chợt có tiếng người rít lên: - Đ.M ! Trước mắt phải đập cho hai thằng tài công một trận rồi chuyện khác tính sau. Đó là tiếng thằng Minh. Liền sau, những cú đấm cái đá cùng giọng người kêu thét. Anh Tấn vội nhẩy vào can thiệp vụ xô sát giữa mấy người trẻ tuổi. Tôi cũng đến bên thằng Minh, giữ chặt lấy tay nó. Minh nhìn tôi nhìn anh Tấn và các người khác rồi vừa thở vừa nói: - Các anh thử nghĩ tại sao em lại oánh hai thằng nó. Em với các anh là khách đi không biết chút gì về ghe về máy thì đã đành. Còn tụi nó tài công mà lại để cho ghe chết máy rồi bây giờ lại dạt vào đá tan tành như vậy thì hỏi sao em không tức. Hai thằng nó được đi chùa cả vợ lẫn chồng mà để ghe như vậy. Cũng do tụi nó cả đám mình mới vướng tay bọn hải tặc. Tôi thấy lời thằng Minh nói rất đúng. Ngày hôm qua máy ghe không bị hư thì chúng tôi đâu có vướng tàu hải tặc và không chừng giờ nầy, ghe chúng tôi đã đến được bờ biển nào đó của Thái Lan. Hai tài công mắt hoe đỏ trong dáng điệu thật thiểu não, một người nói với anh Tấn: - Anh coi, hai đứa em đã cố hết sức mà không sửa được. Cũng không biết nguyên do tại sao nữa. Mọi lần, máy có hư em sửa nó nổ lại liền. Không hiểu sao... Em cũng đâu có muốn như vậy. Vợ em bị hải tặc bắt mất rồi kìa... Hu hu ... Anh Tấn đứng cạnh hai người tài công, quay nói với thằng Minh: - Thôi em, chuyện đã xong đừng nhắc lại làm gì thêm buồn. Có lẽ ghe mình cái số của nó phải chìm xuống biển nên trời mới xui khiến bị như vậy. Chiều tối hôm qua ai cũng mệt mỏi không buồn nói chuyện, hơi đâu đi lo cho ghe. Anh thấy hai cậu đây cũng đã làm hết sức họ rồi. Máy móc còn mới toanh mà có khi vẫn bị trục trặc. Ai biết trước được đâu em. Bây giờ không còn ghe, mình hợp sức lại cùng tính chuyện khác. Đừng gây gổ với nhau nữa. Anh Tấn kín đáo ra dấu cho tôi dìu thằng Minh đi về hướng khác. Lần lượt từng người tản ra. Tôi, Dũng và thằng Minh đi trở về chỗ nằm cũ. Gió buổi ban mai từ hướng biển thổi vào bờ mát lạnh. Chỉ vài tiếng sau tôi đã biết sơ về hòn đảo. Nó nhỏ hơn hòn đảo ngày hôm qua khi ghe ghé vào và cũng có các nguồn nước ngọt từ trong các hốc đá chẩy ra. Cây cối trên đảo thưa thớt nhưng đều loại cây khá lớn. Các chùm lan Ngọc Điểm hoa tím mọc tầm gửi đó đây trên các cành hoặc trên thân cây cao. Bình thường mà trông thấy hoa phong lan, chắc chắn tôi sẽ tìm cách để trèo lên gỡ nó xuống cho bằng được nhưng giờ cũng chẳng thiết gì đến chúng. Gần trưa, ai nấy đều cảm thấy đói bụng. Đi trở lại chỗ chiếc ghe bị sóng đánh tan hoang, vài người chúng tôi cố men theo các ghềnh đá ra thu nhặt tất các túi xách phụ nữ, nồi niêu chén bát và ít gạo còn sót lại trong các thùng nhựa. Gạo mang lên bờ, anh Tấn đổ ra đong được cả thẩy 33 chén vừa đúng với số 33 người có mặt trên đảo. Bây giờ ngay cơn nước ròng, trơ ra các bãi cát, bờ đá. Anh Tấn liền phân công người đi thu nhặt ốc biển, lật các hòn đá để bắt Cua bắt Còng hoặc Cá nhỏ mắc cạn, người gom củi khô và nhóm bếp để nấu cháo ăn ngay. Anh Tấn nói: - Mỗi bữa chúng ta chỉ nấu một chén gạo thôi. Ba bữa cháo cho một ngày ăn cầm chừng xem sao đã. Chúng ta phải chấp nhận chịu đói một chút. Có đói gặp trái cây lạ trên đảo thì đừng ăn ngay. Không có bàn tay phụ nữ trong việc nấu ăn, đám nam giới chúng tôi chật vật khá lâu mới gầy được nồi cháo cho cả bọn. Cũng giống như lúc ở hòn đảo ngày hôm qua, chúng tôi bắt được khá nhiều ốc, cua, cá trong các chỗ cạn. Tuy vậy nồi cháo ít gạo vẫn loãng. Ngồi gần bếp lửa, tôi hỏi anh Tấn về vệt máu trên mũi và vết bầm nơi gò má anh thì anh cho biết ngay lúc vừa lên tới sàn tàu, khi bọn hải tặc giở trò, anh đã đánh trả lại chúng ngay và chỉ bị khuất phục bởi họng súng lục của gã đầu đảng. Anh nói: " Vết bầm ở gò má do thằng đầu đảng dùng báng súng đánh vào, tới giờ anh vẫn còn rêm ". Như vậy chỉ có anh Tấn bị bọn hải tặc đả thương. Cháo nấu chín, chúng tôi múc đều ra cho từng người ăn lần lượt. Anh Tấn ăn sau cùng. Xong, tôi kiếm một chỗ khuất để xem lại túi xách của Ánh Phương. Hai bộ quần áo cùng các áo ngực, quần lót của nàng còn đây mà bây giờ tình cảnh nàng ra sao không biết nữa? Mở xem lại chiếc bóp nhỏ xinh xắn. Tôi thấy hai thỏi son môi, một bút chì kẻ mắt, một cái gương soi bé tí nằm lẫn lộn với chai dầu gió Song Thập cùng vài viên kẹo và một lọ nhựa nhỏ đựng ít viên thuốc cảm, thuốc chống ói bên trong. Một phong bì cũ với địa chỉ anh trai nàng bên nước Úc. Tôi cầm xem tấm thẻ Chứng Minh Nhân Dân. Hoàng Thị Ánh Phương số nhà... phường 12, quận 10. Ánh Phương! Ánh Phương ơi! Tôi gọi nhỏ. Ánh mắt em khi nhìn tôi trong những giây phút cuối trên con tàu Thái Lan cũng như cái đau nhói trong tim tôi, chúng ta đã là một phần đời của nhau, ít nhất trong lúc này. Sẽ không bao giờ tôi quên được hình ảnh em. Bỏ quê hương, xa lìa người thân ruột thịt để trốn chạy bọn Cộng Sản vô luân, đâu ngờ chúng ta lại sa vào tay bọn hải tặc Thái Lan hung ác. Tội nghiệp thân em quá. Tôi nhìn hình Ánh Phương trên tấm thẻ rồi nhớ lại khuôn mặt nàng ngày hôm qua. Ánh Phương hiền lành khả ái... không lẽ phần số em bất hạnh quá vậy sao! Tôi ngồi im, thẫn thờ nhìn ra hướng biển. Con tàu Thái Lan khốn kiếp đã mang em đi nơi nào rồi? Tôi giữ tấm Chứng Minh Nhân Dân của Ánh Phương và nhờ nó cùng các vật dụng trong cái bóp nhỏ, gần mười năm sau tôi mới tìm lại được Ánh Phương. Theo phân công của anh Tấn, chúng tôi chia nhau thành hai nhóm năm người đi ngược về hai phía để thám sát hòn đảo. Mong rằng trên đảo sẽ có loại cây nào cho trái chín để chúng tôi ăn thêm. Chúng tôi trông thấy các vỏ kem đánh răng hiệu Như Ngọc, vỏ chai xì dầu hiệu Nam Dương... vất rải rác ở vài chỗ trên đảo. Gặp một cái bếp làm bằng ba hòn đá chụm lại nằm trong một chỗ kẹt kín gió. Tro đen, các mẩu củi nấu dở vẫn còn sót nguyên. Trên một tảng đá bằng phẳng nằm dưới một tàng cây bóng mát, trơ trọi hai cái chén và một cái nồi nhỏ đầy nước cùng rêu xanh bám quanh. Một cái áo kiểu Thanh Niên Xung Phong được máng chặt vào kẽ cành cây. Chiếc áo cũ mốc cứng ngắc. Người nào đó máng rồi bỏ quên? Người Việt vượt biên nào đã dùng bữa cơm trên tảng đá ở đây? Chúng tôi đi dọc theo bờ hòn đảo như vậy cho đến khi cả hai nhóm gặp lại nhau. - Ở gần bờ không có cây trái gì ăn được hết, bên phía trong thì không biết ra sao? Một người trong nhóm kết luận. Quay trở về chỗ cũ, loay hoay không làm gì mà trời đã bắt đầu xế chiều. Bữa ăn chiều của chúng tôi cũng duy nhất món cháo ốc hoặc ăn thêm vài con cua, cá bắt được. Một người chép miệng than... phải chi ghe còn các tay lưới thì bây giờ còn có cái để bắt cá mà ăn. Đương không lại đem cho ghe Phú Quốc hết cả. Ai cũng tiếc nhưng có ai biết trước chuyến đi để mà liệu được! Hai ngày trôi qua rồi ngày thứ tư và hôm nay ngày thứ năm chúng tôi đã sống trên đảo hoang. Mỗi khi chiều xuống, từng con dơi lớn bay ra kiếm ăn từ tàng cây cao trên đảo. Đây là loại dơi quạ. Thân hình chúng thật to với sải cánh khá rộng. Khi bay vút qua gần chúng tôi, ai cũng thấy rõ đầu chúng như đầu con chó nhỏ với cái miệng há lớn đỏ lòm cùng răng nanh trắng muốt. Có người thắc mắc những con dơi bay đi đâu kiếm ăn? Nghe tiếng kêu, tiếng vỗ cánh của đàn dơi, ai cũng sợ chúng đáp bám lên người rồi hút máu mình. Đêm về trời lạnh, có người lôi quần áo nữ giới ra đắp thay cho chăn. " Có úm chút hơi hám của các em, thấy ấm hơn nghe mấy cha ", một người nói đùa. Hai tài công cho là sẽ gặp lại các vợ mình. Theo họ, sau khi chán chê với đám đàn bà-con gái bắt được thì chúng sẽ đem họ trả lại đây. Nhưng năm ngày trôi qua vẫn không thấy bóng hai tàu Thái Lan. Trông mặt họ buồn bã thấy rõ. Ai cũng quả quyết hải tặc bắt được đàn bà-con gái vượt biên sẽ không bao giờ chúng quay lại để trả người. Thêm vào chuyện cháu bé trai con chị Ân. Cứ chiều đến thằng bé khóc đòi mẹ vì nhớ và vì đói bụng. Do vậy, chúng tôi mới biết còn có em ruột của chị Ân đi cùng ghe. Hoàng, tên người thanh niên này cho biết hoàn cảnh thằng bé: - Tên nó là Sang. Cha nó năm năm trước đây vượt biên mà không ai nghe được tin tức gì. Chắc ghe chìm hay bị hải tặc gì đó. Giờ đến lượt mẹ nó. Tội nghiệp thằng nhỏ! Sang ơi Sang! Mầy đừng khóc nữa. Mầy càng khóc càng làm cậu thêm đau lòng, rối trí lắm. Chuyện vượt biên chúng tôi tắt lịm. Giờ chỉ cầu mong có ghe hoặc tàu ghé vào đây để giải cứu chúng tôi. Nếu gặp được tàu ngoại quốc vào cứu rồi họ sẽ đưa chúng tôi đến một trại tị nạn trong vùng thì càng tốt. Nhưng trong vịnh Thái Lan và vì ở trên một hòn đảo nhỏ xa khuất, chuyện có tàu ngoại quốc ghé vào thật rất mong manh. Cầu có ghe, tàu nào đó biết có người lâm nạn kẹt trên đảo để vào giúp. Có thể sau đó sẽ đưa cả bọn vào nhà giam. Thà vậy còn đường sống hơn chết đói dần mòn ở đây. Sau khi họp tất cả 32 người lại bàn bạc, anh Tấn đã quyết định phải đốt các đống lửa lớn. Chúng tôi lấy thêm dầu ở dưới ghe rồi thu gom các cành cây khô và làm hai đống củi khá lớn ở gần bờ. Lửa đốt cháy liên tục. Kiếm thêm được củi thì vất ngay vào hai đống lửa. Anh Tấn nói chúng tôi căng các sợi dây để treo quần áo của đám đàn bà-con gái bỏ lại. Mong có ghe, tàu trông vào sẽ nghĩ có phụ nữ trên đảo thì nhiều cơ may được giúp hơn. " Mình phải làm vậy thôi ", anh Tấn kết luận. Sau, mới biết suy tính của anh rất chính xác. Sáng sớm ngày thứ bẩy tin báo có bóng tàu lảng vảng ngoài khơi xa. Chúng tôi vất thêm củi vào đống lửa cho cháy to hơn. Bóng tàu hướng vào bờ. Cả thẩy hai chiếc một lớn một nhỏ. Chiếc nhỏ cỡ ghe chúng tôi. Hai chiếc có màu xám đen, nhìn không giống ghe đánh cá. Khi chúng đến gần bờ mới biết là tàu nhỏ hải quân. Một cây súng đại liên 12 ly 7 gắn ở ngay đầu mũi chiếc lớn. Chiếc nhỏ có lá cờ nửa đỏ nửa xanh dương với hình 5 ngọn tháp vàng trên nóc buồng lái. Đảo chúng tôi ở thuộc lãnh hải nước Khmer rồi. Cả đám chạy núp sau các gốc cây lớn trong nỗi lo sợ khi thấy bốn người Khmer võ trang súng AK47, B41 và RPD từ chiếc tàu nhỏ bước lội từng bước vào bờ. Vừa đặt chân lên được bờ đảo, gã Khmer thủ cây súng RPD quỳ một chân xuống, tay y hướng nòng súng lên ngọn các hàng cây gần chỗ ẩn nấp chúng tôi và khạc một tràng liên thanh. Tiếng súng đinh tai, cành cây rơi gẫy cùng tiếng kêu táo tác của những con chim làm chúng tôi càng sợ thêm. Chuyện gì sẽ xẩy ra đây? Đốt lửa để mong có ghe tàu biết tình cảnh người lâm nạn trên đảo mà vào cứu. Giờ có người đến chúng tôi lại sợ. Kỳ lạ chưa ! Tôi, Dũng và anh Tấn ngồi núp chung một nơi không xa chỗ hàng ngày thường nấu cháo. Gần đó, hàng dây phơi quần áo mầu mè của đám đàn bà-con gái. Nhìn bốn người Khmer mà không biết lành dữ thế nào? Sau loạt đạn thị uy, bốn người Khmer đi thẳng lại chỗ đặt bếp. Họ nhìn cái nồi trống trơn sau đó đến hàng dây phơi và lật vài bộ quần áo ra xem. Không thấy bóng người nào trong chúng tôi, bốn người Khmer chụm vào nhau bàn bạc chốc lát rồi một người hướng mặt vào trong rừng gọi lớn: - Nghe đây, tất cả người Duôn (người Khmer gọi người Việt là Duôn) phải ra bên ngoài ngay. Hai tay đưa lên đầu, nghe rõ chưa. Người Khmer nói bằng tiếng Việt và y lập đi lập lại: " Chúng tôi đến đây để giúp người Duôn. Đừng sợ hãi. Ra ngay đi. Hai tay đưa lên đầu. Nghe chưa? ". Vài người đi ra rồi sau đó thêm nhiều người nữa. Nhóm thằng Minh, hai cậu cháu Hoàng-Sang và các thanh niên khác. Người đi ra làm thành một đám lố nhố đứng chung quanh bốn người Khmer. Người Khmer biết tiếng Việt lệnh đi kêu hết tất cả người đang trốn phải ra hết. Tiếng thằng Minh gọi lớn oang oang: - Anh Vũ, anh Tấn ơi... ra đi. Các anh khác nữa... Đừng bỏ trốn. Mấy người lính Kampuchia đến giúp mình chứ không làm hại mình đâu. Ra ngay đi. Tôi và Dũng đưa mắt nhìn anh Tấn, hỏi: " Tính sao bây giờ hả anh Tấn? Mình cũng ra chứ anh? ". Anh Tấn im lặng, nhìn hai chúng tôi không trả lời. Vừa lúc, hai tài công chạy đến nhập bọn chung với ba chúng tôi. Một tài công nói: - Đừng có ra. Coi chừng tụi Khmer Đỏ đó. Anh Tấn lắc đầu, trả lời: - Cờ nửa đỏ nửa xanh dương với 5 ngọn tháp vàng của phe Khmer Hiêng Xom Rin chứ không phải bọn PolPot-Iêng Sa Ri đâu. Đàn em tụi Việt Cộng. Thôi, mình ra cho rồi các em. Anh Tấn nói đúng, bọn đầu lãnh CS Hà Nội khi dựng đám Khmer tay sai đã vẽ cho họ một lá cờ y chang cờ của đám Việt Cộng tức Mặt Trận Giải Phóng trước đây trong thời chiến tranh Việt Nam. Tôi và Dũng đứng lên cùng một ý nghĩ chung với anh Tấn nhưng hai người tài công lại quyết định khác. Họ nói là phải trốn không ra để chờ, hy vọng vài ngày nữa thì các tàu hải tặc Thái Lan sẽ đem đám đàn bà-con gái về trả lại. Họ sẽ gặp mặt lại vợ họ rồi họ hỏi tôi và Dũng có trốn trong rừng chung với họ không? Tôi và Dũng cùng lắc đầu. - Mấy ông không thương vợ mấy ông sao? Một người tài công hỏi hai đứa tôi. Trời đất! Thì ra hai người tài công đã nghĩ Ánh Phương, Mỹ An là hai người vợ của tôi và của Dũng. Thảo nào họ mới chạy đến chỗ tôi và Dũng đang trốn để mong có thêm bạn đồng hành chung với họ.Tôi cho họ biết là hai cô gái đó với chúng tôi mới quen nhau khi xe phải ghé Mũi Nai vì trễ chuyến hẹn. Sự thân mật của tôi và Ánh Phương cũng như giữa Dũng và Mỹ An nên khiến hai người tài công đã nghĩ chúng tôi là các cặp vợ chồng cùng đi chung chuyến vượt biên như họ. - Tôi cũng nghĩ như mấy chú tài công, dè đâu cô cậu chỉ mới quen nhau thôi ... Không phải là vợ chồng. Anh Tấn ngập ngừng nói. - Vậy các anh định sẽ đi ra thật sao? Người tài công đó nhìn tôi và Dũng mà hỏi tiếp. - Phải đi ra thôi anh. Mình đốt lửa mấy hôm nay là để mong có người lại giải thoát mà. Theo tôi nghĩ thì các anh cũng nên ra đi, đừng tìm cách ở lại đảo không tốt và cũng đừng nghĩ là bọn hải tặc đó sẽ quay trở lại đây để trả người. Tôi ân cần trả lời. Nhưng hai người tài công vẫn nhất định trốn ở lại. Họ quả quyết chỉ vài ngày nữa thôi thì tàu hải tặc Thái Lan sẽ quay trở lại đảo hoang và rồi họ sẽ gặp lại các người vợ của họ. - Các chú chắc mọi việc sẽ xẩy ra như vậy? Anh Tấn chợt xen vào, hỏi. Hai người tài công nhìn nhau rồi nhìn ba người chúng tôi và khẽ gật đầu. Anh Tấn tiếp: - Nếu suy nghĩ của các chú là đúng đi rồi với 18 người đàn bà-con gái đó cộng thêm hai chú nữa thì lấy gì để ăn, lấy ghe đâu ra mà đi vượt biên tiếp? Tôi nghĩ mình nên ra cho xong. Trốn ở lại đây rồi cũng chẳng đi đến đâu. Hai người tài công dụ dự không trả lời nhưng khi ba chúng tôi chuẩn bị bước ra thì vội dặn chúng tôi đừng nói gì về họ cho đám người Khmer biết rồi cả hai chạy phắt ngay vào trong rừng luôn. Tôi hiểu tình cảnh của hai người tài công. Thật tội nghiệp! Họ quá thương vợ họ đến nỗi vẫn tin là bọn hải tặc Thái Lan sẽ quay lại đảo để trả đám đàn bà-con gái nhưng suy nghĩ của họ thật viển vông. Tôi chưa từng nghe chuyện hải tặc Thái Lan bắt được đàn bà-con gái Việt rồi sau đó lại đem trả người về cho ghe. Nói là nói vậy thôi chứ nếu Ánh Phương mà là vợ tôi thật thì có thể tôi cũng sẽ hành động giống như họ. Họ đã rối trí rồi. Cầu mong một phép mầu nào đó đến với hai người tài công chung tình. Ba chúng tôi là những người đi ra sau cùng. Người Khmer biết tiếng Việt thấy chúng tôi thì hất hàm, hỏi: " Đàn bà con gái Duôn đâu? Gọi họ ra đây luôn, trốn làm chi nữa ". Chúng tôi nói là không có phụ nữ nào cả thì y chỉ tay vào số quần áo nằm phơi trên dây hỏi vậy quần áo này ở đâu ra? Chúng tôi liền kể vắn tắt cho người Khmer biết sự việc đã xẩy ra trong ngày hôm đó. Y lắng nghe chăm chú rồi hỏi ai là leader của ghe thì nhiều người đưa mắt về phía anh Tấn nhưng anh Tấn thanh minh anh không phải là leader mà cũng chỉ là một khách đi bình thường như các người khác. Hỏi đến các tài công thì không thấy nên người Khmer đó nói chúng tôi phải gọi họ đi ra. Chúng tôi lại đi vào rừng tìm, cố sức gọi lớn mà cũng chẳng thấy họ đâu cả. Sau cùng, những người Khmer bảo chúng tôi dắt họ đến chỗ chiếc ghe bị hỏng. Họ trèo qua các ghềnh đá để vào xem xét chiếc máy của ghe rồi quyết định là chúng tôi phải tháo cái máy đó và mang ra chỗ bờ biển cho họ. Người Khmer biết tiếng Việt lấy tay chỉ định tôi, anh Tấn, Dũng, thằng Minh và 4 thanh niên khác cho việc tháo máy. Tháo máy ra thì không khó nhưng tám người chúng tôi đã chật vật vô cùng mới mang được cái máy ghe đến một bờ cát trống trải sát bờ nước biển theo lệnh của người Khmer đó. Tay chân chúng tôi ai cũng bị các mảnh sắc của loải sò bám cứng ở bề mặt các tảng đá cứa đứt nhiều chỗ, chảy máu khá nhiều. Khi có cái máy ghe nằm ở bờ cát rồi, những người Khmer dùng một sợi dây cáp nối từ ròng rọc trên tàu họ, cái máy của ghe chúng tôi đã được kéo thẳng lên tàu luôn. Xong xuôi, mấy người Khmer mang vào bờ cho chúng tôi ít gạo, hai hộp thịt heo kho, ít cá khô và một bắp cải tươi, bảo chúng tôi nấu cơm để ăn chung với họ. Chúng tôi vội nhóm bếp lại và gần một giờ đồng hồ sau đã có một bữa cơm ngon lành cho cả bọn. Ăn uống no nê, các người Khmer này đã gom hết tất cả quần áo của đám đàn bà-con gái trên dây phơi vào trong các túi xách của họ rồi ra lệnh cho chúng tôi chuẩn bị rời đảo hoang để theo họ về tàu. Không thấy hai người tài công đi ra, các người Khmer để lại nồi nấu cơm cùng một bao độ 10kg gạo và ít cá khô trên bờ đá cạnh chỗ nấu ăn rồi bảo chúng tôi viết ít chữ là 15 ngày nữa khi đi tuần tra thì tàu của họ sẽ ghé lại đây. Thôi vậy cũng được, mong rằng đến khi đó thì hai người tài công sẽ theo về với chiếc tàu tuần duyên Khmer. Tất cả chúng tôi bước lội từng bước theo chân những người Khmer để ra con tàu nhỏ. Từ con tàu nhỏ, chúng tôi được các người Khmer chuyển sang qua chiếc tàu lớn. " Tàu tụi tui sẽ chạy về đảo Cô Tan ", người Khmer biết tiếng Việt nói với chúng tôi. Dõi mắt nhìn đảo hoang một lần cuối, tôi vẫn thấy hai đống lửa trên bờ cháy nghi ngút với cột khói nhỏ. Chắc chắn là đâu đó dưới các tàng cây, bờ đá ... các tài công cũng đang nhìn hai chiếc tàu càng lúc càng xa dần họ. Cái nồi, bao gạo 10kg, gói cá khô vẫn còn nằm nguyên ở chỗ cũ. Chẳng thấy người tài công nào ra lấy chúng hết. Tôi cố nhìn mãi nhưng sau cùng, hình ảnh này xa dần, nhỏ dần và mất hẳn. Phạm Thắng Vũ (còn tiếp) |
-
- phamthangvu
- Status:Offline
- Posts: 2
- Has thanked: 0 time
- Have thanks: 0 time
- Joined: November 17th, 2009, 10:47 pm
Re: Con Sóng Dữ.
4 Tiếp theo..... Tàu sẽ chạy về đảo Cô Tan . Hai tiếng Cô Tan tôi thấy rất quen. Hình như tôi đã nghe một câu chuyện nào đó về cái tên đảo Cô Tan ở trong vùng vịnh Thái Lan nhưng mà là chuyện gì thì chịu, không nhớ ra được. Cố gắng lục lọi trí nhớ của mình mà cứ mài mại hoài vẫn không ra. Thôi! Đành nghĩ chuyện khác vậy. Quan sát chung quanh chiếc tàu đang chở chúng tôi. Chiếc nhỏ chạy song song mé phía sau nhưng tốc độ của nó cũng chẳng kém gì chiếc lớn. Đây là các loại tàu tuần duyên Hải Quân. Tuy nhỏ hơn chiếc tàu đánh cá Thái Lan và thân tàu bằng thép nhưng sức chạy của chúng rất nhanh để lại đằng sau hai vệt nước dài trắng xoá. Đúng là tàu Hải Quân. Tôi thầm đếm có cả thẩy là tám người Khmer trên con tàu lớn. Tàu nhỏ bên kia thì chỉ năm người. Vậy là đúng cấp số của một tiểu đội lính. Quần áo những người Khmer mặc là loại kaki màu phân ngựa. Chân họ đi loại giầy bata như loại giày của bộ đội Việt Cộng. Gần mũi tàu là một cây đại liên 12 ly 7 nòng chỉa thẳng về phía trước. Các khẩu súng AK47, B41 và RPD cùng các dây đeo băng đạn để nằm đây đó trên tàu. Đám 31 người chúng tôi ngồi sát bên nhau trên mặt sàn tàu và cả trong buồng lái nữa. Tôi nói nhỏ với anh Tấn: - Anh coi súng ống của họ kìa. Để sơ hở vậy không sợ bọn mình có thể chộp lấy các cây súng này mà uy hiếp cướp tàu họ luôn sao? - Lính Khmer là đầy tớ của đám Việt Cộng bên nước mình. Bọn Việt Cộng là chủ của tụi nó nên khi nó thấy mình người Việt chắc cũng nghĩ như vậy. Chủ thì có bao giờ tìm cách lật đổ thằng đầy tớ đâu, phải không? Anh Tấn cười cười, nói thêm: "Mình ghét bọn Việt Cộng thật nhưng phải nhìn nhận là chúng đã làm cho bọn Khmer sợ nên mình mới được đám Hải Quân Khmer đối xử như vầy chứ Vũ biết dân Khmer có đời nào ưa người Việt nước mình. Mối thù truyền kiếp mà . Do quan hệ ngoại giao cả thôi ... Y như mình không ưa bọn Tàu vậy đó". Ngừng một lát anh Tấn nói tiếp: "Sự thực là bọn Việt Cộng đâu có tử tế gì với người vượt biên mình. Chúng đã từng rượt theo ghe vượt biên rồi dùng cây 12 ly 7 bắn thẳng vào ghe nữa đó Vũ. Còn mình mà cướp tàu họ rồi làm sao mà lái đây. Tài công đâu? Có cái máy ghe hư còn bó tay thì có cho không cái tàu sắt này cũng đành đầu hàng thôi. Đám lính Khmer nầy họ cũng biết điều đó chứ bộ". Tàu chạy qua rất nhiều hòn đảo. Chúng tôi thấy khá nhiều tàu đánh cá Thái Lan y chang loại tàu đã trấn lột và bắt nữ giới trên ghe chúng tôi rồi tàu lướt qua những chiếc ghe nhỏ bé của ngư dân Khmer nữa. Trời chiều bảng lảng thì tàu chạy vào một vùng có nhiều hòn đảo liền lạc với nhau rồi nó từ từ chạy chung quanh một đảo lớn nhất. Đám lính Khmer trên tàu bắt đầu đeo các dây đạn vào người và cầm vũ khí của họ trở lại. Chúng tôi sắp sửa đặt chân lên đảo Cô Tan rồi đây. Tàu giảm tốc độ dần dần và cập vào một cầu tàu bằng bê tông xây cạnh ngay sát bờ đảo. Theo chân những người Khmer, toàn bộ 31 người chúng tôi đi trên con đường trải đầy đá sỏi dẫn vào bên trong đảo. Tiếng ai đó trong nhóm chúng tôi nói vui: "Chúng ta đang đi trên đường sạn đạo đó nha ". Vài người Khmer từ phía trong chạy ra đón những người lính trên tàu vừa đến. Tiếng họ nói líu lo với nhau mà cặp mắt trắng dã đôi lúc nhìn về phía người chúng tôi. Rồi một người còn khá trẻ trong đám lính khoát tay ra dấu cho chúng tôi phải đi theo. Gã Khmer đó dẫn chúng tôi băng qua vài dẫy nhà gạch lợp tôn rồi quẹo trái, đi thêm qua vài dẫy nhà nữa thì y dừng lại trước một căn nhà khá lớn. Gã lấy chìa khóa mở cửa, bật công tắc điện chiếu sáng trong phòng rồi quay ra nói và với chúng tôi bằng tiếng Việt thật sõi: - Tôi là Sok Sammath. Các anh ở tại đây đêm nay. Không ai được tự ý đi lang thang qua các nhà khác và chỉ được phép đi nhà đái nhà ỉa ngay phía đàng sau khi cần thôi. Điện sẽ tắt vào lúc 10 giờ tối. Tôi sẽ mang đèn dầu ngay cho các anh. Các anh tự sắp xếp lấy chỗ riêng cho từng người đi. Nghe rõ chưa? Nhiều cái đầu trong chúng tôi cùng gật, có người thì nói dạ. Gã Khmer quay ra ngoài căn nhà liền. Chúng tôi tản ra nhanh chóng để kiếm chỗ nằm riêng. Đây là một căn nhà thật lớn, rộng và không hề có giường, tủ mà thay vào đó là các hàng bàn ghế như loại bàn ghế học sinh trong trường học. Mỗi người chúng tôi liền chiếm lấy một cái bàn. Tôi, Dũng và anh Tấn lựa ba cái bàn nằm kề sát nhau ở gần cuối hàng. Chúng tôi phải lấy quần áo bẩn của riêng mình để phủi bụi bám ở trên mặt bàn. Căn nhà này đã bị bỏ phế không dùng từ lâu. Một cái bục gỗ loại dành cho người đứng diễn thuyết được đặt ngay ở bên trái một góc phòng. Tôi thấy một tấm bảng lớn mà ai đó đã tháo để nằm dưới mặt đất sát vách tường. Đến gần, thấy mặt sau bảng có viết dòng chữ gì đó, tôi vẫy anh Tấn lại cùng xem. Chúng tôi lật tấm bảng, một hàng chữ Nhà Truyền Thống mầu vàng trên nền đỏ chói. - Nơi đây đã từng là căn cứ của bọn Việt Cộng em à. Anh Tấn nói nhỏ. Tôi chưa kịp nói với anh Tấn thì tiếng một người nào đó vang lên: - Ê! Có báo cũ nữa nè mấy cha. Lấy ra mà lót nằm cho nó sạch. Thì ra ở dưới các hộc bàn có xếp đầy những tờ nhật báo Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân cũ. Tôi lấy ra vài tờ báo xem thử. Báo cũ thật. Số ra từ ngày 12 tháng 5 năm 1983 lận. Vài người lấy báo đang định trải trên mặt bàn thì ai đó lên tiếng: "Đừng tự ý lấy báo trải lên bàn. Phải hỏi xem họ có cho không đã". Người khác thì nói: "Báo chữ Việt tụi Khmer này biết cóc gì mà đọc". Tiếng người khác đáp lại: "Không biết tiếng Việt hả? Thế cha Khmer trên tàu và cha nội vừa rồi nói với mình bằng tiếng gì vậy? Theo tôi, cứ để yên đó rồi hỏi họ trước xem sao, phải không anh Tấn?". Anh Tấn gật đầu, trả lời: - Đúng, cứ để yên tại chỗ. Biết đâu người Khmer để dành báo Việt Nam như một kỷ niệm hữu nghị gì đó của họ. Đang trong tay họ thì chúng ta đừng làm cái gì khiến cho họ ghét. Vừa lúc, hai người Khmer bước vào, một người trên tay cầm cây đèn dầu khá lớn còn người kia thì tay ôm quả mít chín bốc mùi thơm nồng nặc. Một trong hai gã Khmer nói: "Tôi cho các anh quả mít chín, bây giờ cần ba người cùng đi theo tôi để lấy thức ăn nghe". |
-
- Duong Nam Anh
- Status:Online
- zodiac:
- Mood:
- Age: 75
- Posts: 11139
- Has thanked: 5596 times
- Have thanks: 5914 times
- Joined: June 29th, 2009, 8:47 am
- Last Visit: Online
- Country:
Re: Con Sóng Dữ.
5 (tiếp theo) Dũng, thằng Minh và một thanh niên khác liền đi theo hai gã Khmer. Không lâu sau đó, một nồi lớn mì sợi ăn liền đã nấu sẵn còn nóng, bốc hơi thơm lừng được Dũng và thằng Minh khệ nệ xách về. Cậu thanh niên một tay lỉnh kỉnh tô-muỗng, tay kia xách theo một ấm nước nóng. Chúng tôi chia mì ra cho mỗi người một tô khá đầy cùng ăn xong rồi quây quần ngồi bên nhau ăn mít chín. Đây là loại mít ướt khi chín rất mềm chỉ cần dùng tay lay cuống, tách vỏ ra rồi bốc từng múi ăn. Kể từ hôm xuống ghe vượt biên ở Vàm Rầy đến hôm nay chúng tôi mới được ăn trái cây tươi. Sok Sammath từ bên ngoài đi vào nhìn cả bọn chúng tôi đang ăn uống bên nhau, y khẽ mỉm cười. Gã cán bộ hải quân Khmer này có khuôn mặt đẹp trai và nụ cười rất tươi. Hàm răng y trắng đều làm tôi nhớ lại hình quảng cáo anh Bẩy Chà của hiệu kem đánh răng Hynos thời trước. Sok Sammath cho biết từng người chúng tôi sẽ phải làm việc với ban chỉ huy đảo về sự việc đã xẩy ra trong chuyến đi. Y cũng cho biết tối nào cứ đúng 10 giờ thì máy phát điện sẽ ngừng chạy. Do vậy, mọi người nên thu xếp làm các việc gì cần kíp ngay vì khi điện cúp rồi sẽ phải giới hạn chuyện đi lại. Anh Tấn hỏi về các tờ báo cũ thì Sok Sammath nói chúng tôi cứ việc lấy dùng nếu cần rồi y cho biết thêm khi bộ đội Duôn rút khỏi đảo Cô Tan, trại xếp chúng vào các hộc bàn cho gọn chứ cũng chưa biết để làm gì. Rồi y đi đến chỗ cháu Sang ngồi, hỏi thăm ít câu trước khi rời khỏi căn phòng. Ngày hôm sau, chúng tôi được phát gạo để tự nấu ăn lấy. Cá tươi từ các tàu đánh cá cung cấp cho đảo hàng ngày rất nhiều đến nỗi có lúc chúng tôi ăn không hết, phải đem vất bỏ. Có hôm được cả tôm thẻ, mực ống nữa. Rau tươi ngoài bắp cải, bí đỏ từ đất liền tiếp tế ra thì còn rau muống rau lang cùng bí, bâu... trồng đầy trên đảo. Những ngày kế, lần lượt chúng tôi được gọi đi làm việc thật. Làm việc là khai báo tất cả các sự việc đã xẩy ra. Đến phiên tôi, Sok Sammath hỏi tôi thật kỹ từng chi tiết từ ghe xuất bến tại đâu ở Việt Nam rồi đi bao lâu phải ngừng ở đảo và diễn tiến câu chuyện khi gặp các tàu hải tặc Thái Lan. Y hỏi bằng tiếng Việt, tôi trả lời xong, y ghi biên bản bằng chữ Khmer ngoằn ngoèo như chữ Thái Lan. Vậy mà cũng mất cả mấy tiếng đồng hồ mới xong. Sau khi chấm dứt buổi làm việc, y nói sẽ sắp xếp cho chúng tôi gặp ông lớn người chỉ huy đảo. Anh Tấn, Dũng thì gặp hai người Khmer khác làm việc cũng một cung cách như của Sok Sammath. Ngoài việc nói và nghe tiếng Việt trôi chảy, chúng tôi không biết những người lính Khmer đó có biết đọc biết viết chữ Việt hay không? Có phải họ gốc gác sinh ra từ một làng quê nào ở miền Nam Việt Nam mà người ta thường gọi họ là người Khmer Krom? Những ngày sau nữa, Sok Sammath gọi anh Tấn, tôi và vài người nữa lên gặp ông lớn. Đó là một người Khmer trung niên bụng phệ, có cái đầu hói. Ông lớn có dáng dấp như một thương gia hơn là một cán bộ quân đội. Sok Sammath là người phiên dịch trong buổi gặp. Ông lớn đã lấy ra một xấp hình chụp các con tàu đánh cá Thái Lan cho chúng tôi xem để nhận dạng hai chiếc tàu hải tặc nhưng chúng tôi thấy hầu hết các con tàu trong hình rất giống nhau nên chuyện nhận dạng không thành. Xem kỹ các hình, chúng tôi mới biết tàu đánh cá Thái Lan nào cũng có hàng số bên hông nằm ngay phía gần mũi. Tôi nhớ các tàu hải tặc khi đó đã ranh ma lấy tấm vải che kín số tàu nên chẳng ai thấy được. Manh mối duy nhất là trên tàu hải tặc nhỏ có một người đầu bếp biết tiếng Triều Châu và chỉ vậy thôi. Ông lớn cho biết có khoảng 200 tàu đánh cá Thái Lan trong vùng biển nước Khmer. Nếu chúng tôi biết con số ghi trên thân hai tàu Thái Lan đó thì bằng hệ thống viễn liên, ông sẽ cho gọi các tàu kể trên đến đảo để chúng tôi nhận dạng ngay. Ông cười với chúng tôi, nói: - Tụi tui cứ nửa tháng một lần cho tàu đi tuần tra các đảo xa. Đều là đảo hoang không có người ở. Các anh biết hôm đó, khi nghe tàu tuần báo cáo trông thấy các đám lửa lớn cầu cứu rồi lại có cả y phục phụ nữ nữa nên tui mới ra lệnh các chiến sĩ vào xem sao và họ đưa các anh về đây. Ngừng một chút ông tiếp: " Vài năm nay có xẩy ra vụ hải tặc nào đâu. Tui rất bực vì nghe chuyện đã xẩy ra trong vùng biển do mình trách nhiệm. Tui sẽ báo cho hải quân Thái Lan về các sự vụ này để mong họ hợp tác, phăng ra được các đầu mối mà giải thoát phụ nữ Duôn các anh". Ông lớn cũng nói bập bẹ được chút tiếng Việt và chiếu cố đặc biệt đến cháu Sang. Những ngày sống tại đảo Cô Tan, cháu Sang đã ăn chung bữa ăn với ông lớn. Những người lính Khmer cũng hay cho cháu Sang kẹo bánh hoặc dắt cháu đi chơi đây đó trên đảo. Có lẽ là lính đồn trú xa gia đình xa các người thân nên khi gặp cháu Sang, những lính Khmer ở đây coi cháu như con cái ruột thịt. Tôi nhìn người Khmer với làn da đen tóc quăn mắt trắng dã đầy vẻ man rợ rồi liên tưởng những câu chuyện kể về các vụ tàn sát người Việt mà họ gọi là Cáp Duôn trong các thời kỳ trước đây. Bây giờ, đối chiếu với hành động và thái độ tử tế của những người Khmer ở đây dành cho đám người Việt trong các ngày qua. Rõ là ở nước nào, cũng có người tốt người xấu, kẻ hiền lương thật thà và người cùng hung cực ác. - Ngay từ lúc đầu trên đảo hoang khi nghe họ nói bằng tiếng Việt thì mình hy vọng sẽ gặp việc lành mà quả thật như vậy. Anh Tấn hỏi thêm tôi và Dũng: "Các cậu biết sao không? Trong lòng có thích nước nào thì mới chịu khó học tiếng nước đó. Tâm lý con người ta là vậy". Ở gần một tuần lễ, chúng tôi được phép tự do thong dong đi lại trên đảo trong phạm vi gần doanh trại. Chúng tôi mới biết có hàng trăm cây mít, xoài và dừa được trồng dầy đặc ở trên đảo Cô Tan. Bây giờ thì chưa phải mùa xoài. Còn mít chín lúc nào cũng sẵn. Ai muốn ăn mít thì cứ chịu khó lội trong các hàng cây rồi khi ngửi thấy mùi thơm, lần tới được gốc thể nào cũng hái được quả chín. Có khát nước, muốn uống dừa tươi thì cứ việc trèo lên hái nhưng phải cẩn thận vì cây dừa ở đây thân rất cao. Gần các dãy nhà của ban chỉ huy trại, chúng tôi còn thấy trồng cả cây trà xanh. Từ thói quen uống nước trà tươi của người miền Bắc, tôi nghĩ chắc chắn cán bộ CS Bắc Việt khi đóng quân tại đảo đã trồng chúng. Không biết rõ số lính Khmer đóng ở Cô Tan có bao nhiêu cả thẩy vì quanh quẩn hàng ngày, gặp mặt nhau chỉ khoảng trên dưới 30 người thôi. Nhưng nhìn các dãy nhà cửa trong trại, thấy có nhiều căn nhà bỏ trống và cả trăm cây ăn trái được trồng rồi nhìn bề rộng của các ao rau muống, vườn lang.... Tôi biết khi bộ đội Việt Cộng còn đóng tại đảo, chắc chắn quân số phải rất đông. Một buổi trưa đang thiu thiu ngủ thì một người lính Khmer đến gọi chúng tôi dậy để ra ngoài cầu tàu gấp. Chúng tôi vội vã theo chân các người lính Khmer ngay. Ra đến cầu tàu, một chiếc tàu Hải Quân đậu ở đó đang chuyển hàng hóa tiếp liệu cho đảo cùng với các hàng quân sự. Công việc của chúng tôi là vác từng viên đạn đại bác 105 ly được đựng trong các ống giấy cứng tròn nhuộm đen từ tàu hải quân lên nhà kho tuốt trên đỉnh một ngọn đồi. Mỗi người chúng tôi chỉ được phép vác mỗi lần một quả đạn thôi còn các hộp đựng sáu ngòi nổ đầu đạn được lính Khmer vác riêng ra. Hôm đó, cá nhân tôi đã vác cả thẩy 12 viên đạn đại bác 105 ly. Đạn vác lên được cất trong kho một căn nhà hầm. Gần kho chứa đạn, tôi thấy các khẩu đại bác che kín nòng trong các ụ. Lần đi trở xuống đồi, tình cờ mắt tôi thấy khối sắt lớn có hình dáng như chiếc máy bay trực thăng nằm gần một bãi đá. Gặp Sok Sammath trên đường đi, hỏi thì y cho biết đó là xác của một trong các trực thăng Mỹ bị lính PolPot bắn rơi trong một trận chiến giải cứu tù binh tại đây từ khá lâu rồi. Qua lời kể vắn tắt của Sok Sammath, tôi nhớ lại cái tên đảo Cô Tan mà tai đã nghe từ đài BBC, VOA... vào giữa tháng 5 năm 1975 về chuyện một tàu buôn của Hoa Kỳ bị Hải Quân Khmer Đỏ bắt giữ. Đảo Cô Tan có tên tiếng Anh là Koh Tang. Các thương thuyết ngoại giao về con tin không thành và chính phủ Hoa Kỳ đã phải cho lực lượng biệt kích đổ bộ lên đảo để giải cứu các thương nhân tù binh Mỹ. Cuộc giao tranh đã xẩy ra rồi các thương nhân được cứu thoát nhưng phía Mỹ đã để lại xác các trực thăng và vài mạng lính Biệt Kích. Thương thuyền đó có tên Mayaguez. Nhìn xác chiếc trực thăng, trí tưởng tôi nghĩ về hình ảnh trận chiến chớp nhoáng trong ngày hôm đó. Tiếng súng nổ... thây người ngã vật... tiếng phành phạch của cánh quạt máy bay trực thăng. Đảo Cô Tan nổi tiếng với thế giới tương tự vụ đột kích giải cứu tù binh phi công của biệt kích Mỹ trong một nhà tù ở Sơn Tây gần Hà Nội năm xưa. Chuyển xong số đạn pháo, Sok Sammath cho đám chúng tôi hai thùng nước ngọt CoCa Cola, một thùng bánh bisquit và một cây thuốc lá Apshara kèm theo lời nhắn: - Hai ngày nữa tàu Hải Quân sẽ chở các anh về cảng Kompong Som. Họ sẽ chở chúng tôi về cảng Kompong Som bằng chiếc tàu Hải Quân chở hàng tiếp liệu và vũ khí cho đảo Cô Tan. Khi về đến cảng Kompong Som thì số phần chúng tôi sẽ ra sao? Ai cũng lo lắng, thắc mắc. Anh Tấn bảo: "Kệ cha nó, nghĩ nhiều thêm mệt. Cái gì đến nó sẽ đến. Mình có tính cũng chẳng được". Ngày kế tiếp, nhiều lính Khmer trên đảo bớt thì giờ của họ để đến thăm cả bọn chúng tôi. Họ mang cà phê, thuốc lá, bánh kẹo và mời chúng tôi cùng ăn cùng hút với họ cho vui. Ông lớn chỉ huy đã lấy máy ảnh ra chụp hình cả nhóm chúng tôi chung với lính trên đảo để giữ làm kỷ niệm. Có lẽ, chuyện chúng tôi ghé vào hòn đảo Cô Tan này là một việc hãn hữu. Dầu gì đi nữa chúng tôi cũng là người ngoại quốc ở trên đất nước họ. Anh Tấn có hỏi về số phận hai người tài công thì Sok Sammath cho biết theo tua tuần tra biển, vài ngày sắp tới sẽ có tàu ghé lại đảo để tìm họ. - Thật tầm bậy tầm bạ hết sức, mấy người đó bộ khùng điên rồi nên mới ở lỳ lại đảo không ra về theo các anh. Hết thực phẩm thì sẽ chết đói. Chúng tôi cố gắng tìm mang họ về đây. Nhưng về đây rồi, sẽ phải chờ khá lâu nữa mới có tàu từ Kompong Som đi ra. Sok Sammath chắt lưỡi. Hôm nay là ngày tàu nhổ neo chạy về Kompong Som. Nhà bếp tổ chức ăn chung cho toàn đảo ngay tại căn nhà Truyền Thống như một bữa tiệc nhỏ. Sau bữa cơm, chúng tôi và lính Khmer đã thân ái ôm chào tạm biệt nhau trong những giọt nước mắt. Ông lớn mắt rướm lệ trên khoé, thân ái cầm tay cháu Sang đi theo ra tận cầu tàu. Phút biệt ly đến làm ai cũng một tâm trạng buồn bã. Chỉ một thời gian sống chung với nhau ngắn ngủi mà tình cảm chúng tôi tự nhiên gắn bó với lính Khmer như người thân thích ruột thịt. Chia tay với ông lớn với Sok Sammath, người đầu bếp cùng các người lính Khmer trên đảo, chúng tôi bồi hồi bước lên con tàu. Tàu đột ngột kéo một hồi còi thật dài trước khi rời đảo. Từ trên boong, tôi quay đầu nhìn về phía cầu tàu nơi những người lính Khmer vẫn đang đứng yên tại chỗ. Tạm biệt các ân nhân... tạm biệt Cô Tan. Một hòn đảo với đầy kỷ niệm đẹp trong lòng tôi. Giờ đây, chúng tôi đứng ngồi hoặc nằm la liệt đây đó trên boong tàu rộng rãi. Tàu tuy lớn nhưng chỉ võ trang bằng hai cây súng đại liên 12 ly 7 ở trước mũi và phía sau lái. Dưới hầm và mặt boong tàu đầy nhóc những sọt cần xé dừa khô quà của đảo tặng cho các chiến sĩ trên tàu. Tàu chạy chậm rãi, êm ả khá lâu trên biển. Đó đây, vài cánh chim hải âu lướt vội qua đầu chúng tôi. Chập choạng tối, tàu tiến đến gần Kompong Som, hải cảng biển nước sâu duy nhất của quốc gia Khmer. Có một thời kỳ, Kompong Som mang tên Sihanoukville là tên vị quốc vương Norodom Sihanouk. Tôi biết Kompong Som có các bãi biển rất đẹp thu hút khách du nước ngoài nằm dọc theo cảng. Vì trời đã xẩm tối nên dù hết sức để ý, tôi chẳng thấy các bãi biển du lịch đâu cả. Sau cùng tàu vào hẳn trong cảng. Ánh sáng rực rỡ từ các con tàu bỏ neo nằm ở bến, từ các nhà kho và bãi trên bờ hắt mầu vàng lung linh trên mặt nước biển. Cảng Kompong Som xem ra phồn thịnh hơn so với cảng Bạch Đằng tại Sài gòn. |
-
- Duong Nam Anh
- Status:Online
- zodiac:
- Mood:
- Age: 75
- Posts: 11139
- Has thanked: 5596 times
- Have thanks: 5914 times
- Joined: June 29th, 2009, 8:47 am
- Last Visit: Online
- Country:
Re: Con Sóng Dữ.
6 (tiếp theo) Tàu cập bến, chúng tôi được lệnh trèo lên một chiếc xe tải nhà binh phủ bạt che kín nằm pha đèn ở trên bờ. Xe chở chúng tôi chạy thẳng vào một doanh trại của hải quân Khmer nằm không xa hải cảng. Xe ngừng tại một dãy nhà lớn, những người Khmer trên xe bàn giao chúng tôi cho vài cán bộ Khmer đứng chờ sẵn. Rồi, các cán bộ Khmer ra dấu cho chúng tôi đi vào một căn nhà to rộng nằm trong dãy nhà. Dưới ánh vàng vọt của bóng đèn tròn duy nhất gắn trên trần, nơi chúng tôi ở tối nay chỉ là nền nhà xi măng mà không có bất kỳ vật dụng nào khác. Cán bộ Khmer lại không biết tiếng Việt, chỉ lấy tay ra dấu. Trên tường có dán các tấm giấy ghi những câu tiếng Việt như: Không được đi ra khỏi khu vực. Luôn giữ trật tự trong sinh hoạt. Khai báo trung thực sự việc cho cán bộ. Những tấm giấy làm cho chúng tôi hoang mang, lo lắng. Mọi người tản ra, tự kiếm chỗ nghỉ ngơi trong căn nhà đêm nay. Căn nhà tương tự một phòng giam rộng lớn chỉ khác ở chỗ không có các song sắt và cửa khóa chặt cùng với công an canh gác bên ngoài. Có lẽ trước đây là một nhà kho hay một cơ xưởng gì đó của hải quân Khmer. Dũng ngồi gần bên tôi, nói nhỏ: - Tệ hơn lúc ngoài đảo Cô Tan. Coi bộ không khá mầy Vũ. Ai trong chúng tôi cũng chung một nhận xét như thằng Dũng. Lạ chỗ và lo lắng cho ngày sắp tới khiến tôi không sao chợp mắt, yên giấc. Nằm trằn trọc mãi vẫn không ngủ được, tôi và anh Tấn kéo nhau ra phía bên ngoài hành lang căn nhà ngồi nói chuyện cho qua đêm. Ánh sáng từ các nơi trong khu vực phản chiếu cho thấy căn nhà nơi chúng tôi ở biệt lập hẳn với các dãy nhà khác nằm khá xa chung quanh. Con đường phía trước căn nhà được trồng lẫn lộn những cây cao, thấp với khoảng cách đều nhau. Không biết loại cây gì nhưng nhìn chúng, làm tôi thấy lại hình ảnh đường phố Sài Gòn. Chỗ chúng tôi ở im vắng quá, lỡ có xẩy ra chuyện gì thì cũng chẳng ai biết cho và cũng không biết cầu cứu với ai nữa. Anh Tấn móc thuốc lá ra hút rồi kể chuyện về bản thân: - Tôi người tỉnh Cần Thơ quận Thốt Nốt, đi lính Sư Đoàn 25 Bộ Binh VNCH mình đó Vũ. Tôi đồn trú trong căn cứ Đồng Dù ở vùng Củ Chi-Hậu Nghĩa. Vũ biết Đồng Dù nguyên là căn cứ của một sư đoàn Mỹ bàn giao lại khi họ rút về nước. Thực ra căn cứ có tên Hoàng Diệu, còn Đồng Dù là bọn Việt Cộng gọi vậy. Ngày 29 tháng 4 năm 1975 đơn vị tôi theo chân sư đoàn rút bỏ Đồng Dù chạy về Sài Gòn sau khi Việt Cộng tràn ngập căn cứ. Cả đơn vị bỏ chạy nhưng khi vừa tới cầu Bông gần Hóc Môn-Thành Ông Năm thì kẹt lại. Đường phía trước mặt đã bị đặc công Việt Cộng chiếm mất, phía đằng sau thì đại binh của chúng đang truy đuổi sát nút. Bọn chúng tôi đành phải dạt vào một cánh đồng lúa rộng lớn khá xa đường lộ. Dàn trận tại đây trong các hố cá nhân đào vội dưới gốc cây của rặng trâm bầu sát cạnh các thửa ruộng hoặc nấp sau các thân xe tăng M113, xe GMC... Chúng tôi thấy từng đoàn quân xa Molotova, xe tăng T 54 của Việt cộng chạy trên mặt lộ không xa lắm. Đường về Sài gòn bị địch cắt đứt, chúng tôi kẹt ở giữa cánh đồng lúa. Cố sức liên lạc truyền tin với cấp chỉ huy cũng không được. Dường như không có người trực máy vì chúng tôi gọi tới gọi lui nhiều lần mà không có ai trả lời. Sau mới biết đám trực máy đã bỏ chạy di tản hết cả. Khi đó, chúng tôi hoang mang lắm, không biết sẽ phải làm gì? Đoàn xe Việt Cộng chạy khơi khơi trên đường lộ cũng trông thấy chúng tôi chứ Vũ nhưng chúng bỏ mặc, không đánh mà chỉ tiếp tục hành quân về Sài gòn thôi. Trận đánh lần đó rất lạ Vũ à! Làm như mục tiêu tiến chiếm của Việt Cộng là Sài gòn và chúng phải vào đó càng nhanh càng tốt. Hễ nơi nào mà phe bên mình chống lại thì chúng mới đánh, còn không thì chúng phớt lờ coi như không thấy. Rít thêm một hơi thuốc Apshara, anh Tấn kể tiếp trong làn khói trắng phà ra từ hai lỗ mũi. - Khoảng 4 giờ chiều hôm đó khi đang ngồi dưới hố cá nhân, tai tôi nghe tiếng trực thăng bay rất gần rồi gần hơn. Tôi vội nhổm dậy nhìn và thấy rõ ràng một UH đang bay thật thấp hướng về phía chúng tôi. Những người lính khác trong đơn vị cũng thấy chiếc trực thăng và đều nghĩ nó đến để yểm trợ đây. Có yểm trợ của trực thăng, tinh thần tụi tôi phấn chấn hẳn. Tôi nhìn lại vũ khí của mình rồi dõi mắt theo chiếc máy bay, miệng nhủ thầm chuẩn bị tinh thần để tác chiến. Chiếc trực thăng bay gần tới thì bị trúng đạn của bọn Việt Cộng từ hướng nào không rõ bắn lên. Một vệt khói đen từ máy bay tỏa ra và tiếng động cơ của nó đã khác. Máy bay lảo đảo thật thấp về phía đội hình chúng tôi và nó rớt sau một rặng cây không xa lắm. Tiếng máy bay im bặt trả lại sự im ắng của khu vực trong sự thương tiếc của tôi cùng những người lính có mặt. Vũ biết trong những lần tác chiến, mỗi khi trông thấy máy bay của phe mình từ phản lực cho đến trực thăng bị rớt vì hỏa lực của Việt Cộng thì trong lòng mình đau xót lắm chứ. Nó tương tự như mình vừa làm mất một món tài sản thật quý giá. Tôi cùng vài người lính khác vội chạy đến chỗ máy bay rớt xem sao. Băng qua các thửa ruộng và những rặng trâm bầu những bụi dứa dại cùng các lùm bình bát, chúng tôi đến gần chỗ xác máy bay. Nó vạch một đường khá dài trên mặt ruộng lúa và chúc đầu vào một doi đất tiếp nối với bờ đê của con rạch nhỏ. Tôi và các người lính bước bì bõm dưới ruộng lúa đến bên chiếc máy bay. Qua khung cửa mở của buồng lái, tôi thấy duy nhất viên phi công vẫn ngồi yên lặng trên ghế. Tôi cất tiếng gọi nhưng ông ta không trả lời. Nghĩ phi công đã bị thương nên tôi cùng với một người lính khác nhẩy ngay lên sàn tàu để tìm cách giúp đem ông ra khỏi máy bay nhưng đã muộn. Ông ta đã chết. Chút máu ộc từ miệng chảy ra thành vệt nhỏ trên mép. Tôi nhìn kỹ mặt, thân thể viên phi công và không thấy vết thương nào khác dù ông đã chết thật. Người ông lả ra, bất động. Khói từ phần đuôi máy bay vẫn còn nghi ngút tỏa lan theo chiều gió. Một người lính nói vội. - Coi chừng máy bay có thể nổ. Mình lôi cha nội phi công ra ngoài đi. Chúng tôi phụ tay cởi bỏ dây đai an toàn và chuyển xác phi công ra khỏi máy bay. Ì ạch khiêng ông lên bờ ruộng rồi đặt nằm ngay ngắn trên một bờ đất phẳng ở gần một con rạch. Tôi quay nhìn lại chiếc máy bay, hai cây đại liên 60 ly vẫn nằm yên gục đầu ở hai phía bên cửa trống với những dây đạn vàng choé. Cánh quạt lớn trên nóc máy bay vẫn đảo nhè nhẹ theo cơn gió đồng... - Anh có coi phía sau lưng người phi công không? Có thể ông ta bị trúng đạn hay miểng gì đó xuyên vào tim thì sao? Tôi cắt lời anh Tấn, hỏi. Nhìn tôi, anh Tấn khẽ lắc đầu rồi kể tiếp: - Không. Vũ à! Như tôi vừa kể, không có vết thương gì trên người ông ta hết. Ổng chết vì bị một chấn động quá mạnh mà những anh em khác trong đơn vị tôi lúc đó nói hiệu ứng G forces. Những máy bay khi rớt, người trên đó hay bị như vậy. Hình như chấn động lúc máy bay tiếp đất đã làm hệ thần kinh trong xương sống bị giãn ra rồi co lại đột ngột nên làm ông ta chết. Họ nói vậy... tôi cũng không rõ lắm. - Không có xạ thủ trên máy bay vậy trực thăng đến đó làm gì để cho bị bắn rớt? Tôi lại hỏi tiếp. - Tôi nghĩ có lẽ chiếc trực thăng bay đến để bốc ông tướng tư lệnh sư đoàn hoặc định bay về để đón thân nhân nào đó sống trong vùng Củ Chi-Hậu Nghĩa hay Trảng Bàng... nhưng đã hỏng nhiệm vụ. Có điều lạ, ông phi công không mặc đồ bay như vẫn thường thấy mà là bộ đồ sơ-vin dân sự áo trắng quần xanh. Cũng chẳng có Colt 45 hay ru lô trái khế gì trên người ông phi công nữa Vũ. Đặt xác phi công nằm yên trên mặt đất xong, tôi và mấy người lính quay trở về chỗ cũ của mình. Chiếc trực thăng nằm im lìm một đống lù lù trên mặt ruộng lúa, vẫn còn tỏa các vệt khói và chưa bị nổ tan như tụi tui nghĩ. Về lại chỗ đóng quân, cả ngàn người lính chúng tôi, súng ống còn đủ với hàng chục xe tăng M 113, súng cối, súng DKZ... bên cạnh mà phải án binh bất động suốt cả đêm trên cánh đồng lúa. Đêm dài qua chầm chậm, tai chúng tôi vẫn nghe tiếng súng tiếng nổ lớn từ hướng Sài Gòn vọng lại. Bình minh đến rồi gần trưa thì đơn vị tan đội hình khi nghe tin Tổng Thống Dương Văn Minh đầu hàng trên làn sóng phát thanh. Sau khi bàn bạc, các sĩ quan chỉ huy đã lệnh cho một binh sĩ trong chúng tôi phất cờ trắng ra hàng bọn Việt Cộng đang chờ sẵn ngay ngoài mặt đường lộ chính. Lần lượt chúng tôi bỏ các xe GMC, xe tăng vẫn còn nổ máy để kéo nhau đầu hàng tập thể. Súng ống, quân dụng vất thành đống bên bờ ruộng. Đủ cả... từ Colt 45, súng trường M16, súng phóng lựu M79, M72, mũ sắt cá nhân, máy truyền tin PRC 25, ba lô và cả giầy trận nữa. Vất, vất tuốt. Có người không chịu đầu hàng lại tự mình tự sát tại chỗ. Thật kiêu hùng và cũng thật bi thương cho những cái chết vào giờ cuối cuộc chiến. Có người khóc ngon lành, nước mắt ràn rụa trên má như trẻ thơ. Lúc đấy, tôi cũng hoang mang và tuyệt vọng lắm. Cả một đạo quân lớn mạnh như vậy mà phút chốc phải giải giáp quy hàng. Tôi cũng định... đoàng một phát cho rồi đời lính Cộng Hòa nhưng nghĩ mình còn mẹ già nên lại thôi. Nhìn anh Tấn, mái tóc có nhiều sợi bạc trên khuôn mặt dãi dầu sương gió từng trải, tôi hỏi: - Rồi sau đó thì sao nữa hả anh? Có bị tập trung tù cải tạo không? Khi đó anh cấp bậc gì? - Trả nợ tụi nó hơn bốn năm chứ ít gì. Tôi khi đó mới thiếu uý thôi mà còn bị vậy. Sau khi được thả, quay về địa phương bị đám công an nó trù dữ quá nên vượt biên nhiều lần mà không lọt. Giờ, ghe thoát ra khỏi nước thì tưởng đã êm nào ngờ. Số phận mình đen quá hả Vũ? Tôi nhìn lại anh Tấn nhủ thầm: " Số anh đen, tôi cũng đâu có đỏ gì cho cam. Anh Tấn ơi! Số phần tất cả người dân miền Nam VNCH bại trận đều đen như mõm chó kể từ sau cái ngày định mệnh 30 tháng 4 năm đó " rồi tôi ngồi im, chung nỗi buồn với anh. Chúng tôi quay trở lại chỗ nằm khi thấy có ánh đèn pha của một chiếc xe chạy gần. Tiếng xe chạy đến chỗ căn nhà chúng tôi thì chậm hẳn rồi sau đó nó bỏ chạy luôn. Có lẽ là chiếc xe tuần tiễu ban đêm. Về khuya, vài người ra ngoài nhà muốn đi tiểu nhưng tìm không thấy chỗ vệ sinh ở chung quanh. Đi đâu giải quyết chuyện cần kíp đây? Chúng tôi nhìn nhau ráng nín vậy. Trời sáng dần để thấy bên kia đường có một khu rừng nhỏ dầy đặc những cây bạch đàn. Thôi thì đành phải vào đó cho xong việc. Căn nhà cũng không có nước để rửa mặt mũi nữa. Tôi đi vòng ra bên ngoài nhà quan sát. Khu vực lính Khmer để chúng tôi trú ngụ đầy vẻ hoang phế xưa cũ với các dãy nhà trông in hệt căn cứ Hải Quân gần bến Bạch Đằng-Sài Gòn. Như vậy, chắc chắn nó được người Pháp xây từ rất lâu trước đây. Những con đường tráng nhựa năm xưa nay đã loang lổ những ổ gà lớn nhỏ trên mặt đường. Hai bên đường giờ mới trông rõ những gốc cây cổ thụ còn sót lại chung với những hàng cây xoài còn non tuổi. Nơi ở mới còn tệ hơn ngoài đảo Cô Tan vì cho đến quá trưa mà chúng tôi chẳng thấy bóng dáng một người Khmer nào cả. May chúng tôi có mang theo ít bánh ngọt bisquit và nước lã đóng chai khi rời đảo nên tạm giải quyết được cái khát cái đói. Mãi đến gần chiều mới có một chiếc xe quân đội như loại xe Dodge 4 chạy đến, chở một thùng nước nóng khoảng 30 lít và một sọt nhỏ các ổ bánh mì cùng ít nải chuối chín cho chúng tôi. Theo tay chỉ của hai gã lính Khmer trên xe, chúng tôi khệ nệ khiêng các thứ đó vào nhà. Xong việc, chiếc xe chạy mất hút để mặc chúng tôi tự lo liệu với nhau. Nhìn vào sọt, bánh mì đã cũ cứng ngắc, mỗi ổ dài khoảng hai gang tay. Cả thẩy là 37 ổ. Chia mỗi người một bánh mì và phần còn lại chúng tôi chia nhỏ đều cho từng người. Chuối cũng vậy nhưng may mắn đủ hai trái cho mỗi mạng. Nước, vì không có ly cốc, ai khát cứ kê miệng vào cạnh nồi mà uống. Từ đó cho đến tối khuya cũng chẳng thấy chiếc xe quay lại. Thêm một đêm dài qua đi. Ngày hôm sau, chúng tôi cũng phải chờ cho đến chiều mới gặp lại chiếc xe cùng hai người lính Khmer đó. Lần này, cũng một thùng thiếc đựng nước nóng tương tự nhưng cái sọt lót bằng lá chuối khiêng vào nhà thì không phải bánh mì và chuối như mọi người đã nghĩ. Đầy gần miệng sọt là các củ khoai mì khoai lang luộc chín cùng ít cá khô nướng chín. "Ăn uống kiểu gì kỳ lạ vậy ta!". Một người trong chúng tôi hỏi và có tiếng đáp: "Cơm cho tù mà ". Một gã lính Khmer theo chân chúng tôi vào căn nhà. Y giơ tay ra hiệu cho mọi người đứng tập trung lại gần với nhau. Lấy ra một xấp giấy từ túi vải đeo bên hông, y phân phát cho chúng tôi mỗi người một tờ. Đưa thêm cho hai cây viết mực nguyên tử, gã lính miệng nói tiếng Khmer, tay ra dấu ghi lên tờ giấy mới phát. Thấy vài người trong nhóm gật đầu tỏ ý hiểu lời nói, gã lính vội vã bỏ đi. Tai nghe tiếng xe chạy mà mắt nhìn xuống tờ giấy, tôi giật mình khi thấy hai chữ in Bản Khai to tướng ngay chính giữa cùng với những hàng nhỏ: Tên, Năm Sinh, Địa chỉ... theo thứ tự ở dưới. Bản Khai! Nơi đây đã từng giữ người Việt vượt biên bị bắt và có sự cộng tác với chính quyền CS Việt Nam. - Họ sẽ giải giao mình cho bọn công an. Chết cả đám rồi Vũ ơi! Anh Tấn nhìn tôi ngao ngán. Cầm tờ giấy Bản Khai trong tay, ai trong chúng tôi cũng thắc mắc ở mục ghi Quá Trình Vượt Biên rồi hỏi nhau mình phải khai như thế nào đây? Anh Tấn nói lớn cho tất cả cùng nghe với bản khai chữ Việt như vậy và nhìn các tấm giấy treo trên tường thì chắc chắn cả bọn mình sẽ gặp cán bộ Việt Cộng. Chỉ chưa biết là khi nào thôi. - Nhớ đây không phải như hồi ở ngoài đảo Cô Tan đâu nha. Ngoài đó cán bộ Khmer ghi biên bản bằng chữ của họ. Lần này, họ đưa giấy bảo mình tự khai thì ai viết ra lời khai thế nào thì ráng mà nhớ cho kỹ để rủi công an Việt Cộng khi bắt khai lại mới ăn khớp và càng ngắn gọn ít chi tiết thì càng tốt. Anh Tấn nói thêm. Quả là sự từng trải của người đã ở tù Việt Cộng trong nhiều năm trời. Hai cây viết mực nguyên tử lần lượt được chuyền tay. Không có bàn, chúng tôi phải dùng mặt xi măng láng ở nền nhà để đặt giấy viết. Đến lượt anh Tấn viết xong bản khai, dường như linh cảm một chia tay sắp đến với tôi và Dũng. Anh Tấn xé vỏ gói thuốc lá Apshara, viết địa chỉ của anh rồi đưa cho tôi và Dũng mỗi người một mẩu nhỏ rồi nói: "Đây là địa chỉ của anh, có dịp rảnh thì ghé xuống nhà anh chơi. Anh rất mến hai tụi em". Tôi và Dũng cũng trao cho anh địa chỉ của hai đứa. Như ngày hôm qua, đến chiều các gã lính Khmer mới xuất hiện. Dừng xe tắt hẳn máy, họ vẫy chúng tôi đến gần để khiêng hai thùng giấy khá lớn vào nhà. Đặt các thùng giấy nầy ngay trên mặt sàn xi măng, chúng tôi vội mở ra xem. Một thùng đầy nhóc những gói giấy còn thùng kia là các bịch nước mía đá lạnh cùng ống hút nhựa kèm theo. Hai gã lính Khmer đi theo chúng tôi lấy các gói, bịch nước mía ra đưa cho từng người một. Xong họ bỏ đi ra ngoài căn nhà đứng hút thuốc lá và trò chuyện với nhau. Tôi mở gói giấy ra xem. Cơm trắng trộn lẫn với trứng gà chiên-thịt kho-cà chua kiểu như loại cơm chiên Dương Châu trong món ăn Tàu. Chẳng có muỗng nĩa gì cả. Cứ vậy mà bốc ăn bằng tay thôi. Có tiếng người khen: - Nay cho mình ăn ngon quá vậy ta... Cả nước mía đá lạnh giải khát nữa chứ! Chúng tôi nhìn nhau mỉm cười. Ăn vừa xong bữa, có tiếng xe mô tô hai bánh ngừng ngay phía trước cửa. Hai người đàn ông phục sức rất gọn gàng, tay cầm cặp bước đến nói chuyện xì xào nho nhỏ với hai gã Khmer vài câu rồi cả bốn người họ bước vào hẳn bên trong căn nhà. Nhìn hai người mới đến, chúng tôi biết họ là người Việt Nam và quả đúng như vậy. Người mới đến nói giọng miền Bắc: - Chúng tôi Vũ Văn Dũng và Huỳnh Thới Kỳ thuộc Tổng Lãnh Sự Quán Việt Nam tại đây. Mọi người trong phòng im lặng nhìn hai gã cán bộ Việt Cộng. Đảo mắt khắp lượt chúng tôi, Vũ Văn Dũng hỏi: - Tại sao các anh lại vượt biên? Hử! Tại sao các anh bỏ nước ra đi? Nói tôi nghe. Không ai trong chúng tôi lên tiếng trả lời. Vũ Văn Dũng xổ luôn một hơi: - Nước nhà độc lập thống nhất từ lâu mà vẫn không chịu yên tâm lao động sản xuất. Hở ra là vượt biển vượt biên, gây xáo trộn cho xã hội. Bộ các anh nghĩ cứ sang được bên Mỹ thì bọn Mỹ sẽ coi các anh là ông nội lũ nó chắc. Ở đâu thì ai cũng phải làm mới có cái ăn nghe chưa. Chúng tôi thật xấu hổ khi gặp các anh trong tình cảnh như vầy. Hôm nay, chúng tôi đến để bảo lãnh các anh ra từ tay các đồng chí hải quân nước bạn. Nếu chúng tôi từ chối bảo lãnh, họ sẽ giam các anh cho đến chết. Các anh nghe chưa? Cũng vì tình thương đồng bào Việt Nam cả thôi... Các anh đâu biết. Nói xong, Vũ Văn Dũng mở miệng cười. Nghe giọng nói, tôi biết y gốc gác người Hà Nội. Chúng tôi nhìn nhau trong chốc lát. Gã cán bộ Việt Cộng còn lại cất giọng miền Nam: - Nước nhà còn nhiều khó khăn thì các anh phải thông cảm chứ. Đảng và chính phủ nào muốn vậy. Đừng vượt biên nữa nguy hiểm lắm. Các anh dùng bữa cả rồi phải không? Bản khai ngày hôm qua mọi người đã viết xong hết cả thì đưa đây ngay cho tui. |
-
- Duong Nam Anh
- Status:Online
- zodiac:
- Mood:
- Age: 75
- Posts: 11139
- Has thanked: 5596 times
- Have thanks: 5914 times
- Joined: June 29th, 2009, 8:47 am
- Last Visit: Online
- Country:
Re: Con Sóng Dữ.
7 (tiếp theo) Chúng tôi lục tục gom các tờ giấy đưa lại cho hai gã cán bộ Việt Cộng. Gã người Bắc sắp xếp gọn các tờ giấy rồi y cầm đọc lướt vài tờ xong ngẩng đầu lên nhìn đám chúng tôi, nói: - Lãnh Sự Quán sẽ theo từng địa chỉ ghi trong đây để gửi về địa phương thông báo sự vụ các anh. Nhưng chúng tôi biết các anh chỉ ghi láo ghi lếu cả thôi. Rồi y đọc tên một người cùng địa chỉ người đó trong tờ giấy và tiếp: "Đây nhá, thử đến ngay địa phương... rồi hỏi chính quyền xem biết liền. Có người tên như vầy thì cứ đem đầu tôi ra mà chặt". Xong, y cười hì hì, lộ vẻ khoái trá. Làm cho có thủ tục vậy thôi. Bây giờ các anh được trả tự do cả đấy". Tôi và anh Tấn khẽ nhìn nhau. Đúng y boong lời hắn nói. Không ai trong chúng tôi viết đúng tên cùng địa chỉ trong tờ giấy Bản Khai. Rõ ra kinh nghiệm của một cán bộ ngoại giao Việt Cộng đã từng tiếp xúc nhiều phen với người vượt biên trên đất Khmer. Một người trong chúng tôi giơ tay, hỏi vội: - Cán bộ nói chúng tôi được trả tự do, tôi rất mừng nhưng làm sao về được tới Việt Nam? Không ai còn đồng tiền trong người, hải tặc lột sạch hết cả. Vũ Văn Dũng nhìn người vừa hỏi sau đó đảo mắt qua cả đám chúng tôi, y gằn từng tiếng: - Chúng tôi không cần biết chuyện đó. Các anh sang đây được thì các anh phải về Việt Nam được. Bảo lãnh cho các anh ra khỏi đây, đã thể hiện tình cảm với các anh lắm rồi. Nghe gã cán bộ trả lời như vậy, tôi liền nói: - Cán bộ ơi, nghe giọng cán bộ tôi biết người gốc Hà Nội. Tôi cũng người gốc Hà Nội đây. Cán bộ nói tình thương đồng bào thì xin thương cho trót. Cố giúp chúng tôi có phương tiện để về tới Nông Pênh cũng được. Đến đó rồi chúng tôi sẽ liệu tiếp. Nhìn tôi, Vũ Văn Dũng lắc đầu, nói chậm rãi dứt khoát: - Lãnh Sự Quán không có tiền. Biết hoàn cảnh các anh chứ nhưng thực sự chúng tôi cũng không có tiền... Anh hiểu chưa! Tay Việt Cộng miền Nam nghe hai bên đối đáp như vậy liền xen vào, giọng y nhỏ nhẹ: - Mong các anh thông cảm. Ngân khoản của Lãnh Sự Quán hạn hẹp lắm. Bây giờ ít có vụ vượt biên chứ trước đây hầu như vài ngày tụi tui cứ phải đi lãnh người Việt ra hoài. Thôi! Các anh ráng xoay trở làm sao đó thì làm nghe. Tôi, anh Tấn và thằng Dũng nhìn nhau rồi kín đáo lắc đầu, thầm nghĩ cán bộ Việt Cộng nói như vậy thì hết cách. Vừa lúc, một xe tải nhà binh chạy đến và ngừng ngay ở ngoài sân phía trước căn nhà. Một lính Khmer bước xuống và ra dấu cho cả bọn chúng tôi trèo lên thùng xe. Hai cán bộ Việt Cộng vẫn đứng yên trên thềm nhà chuyện trò với lính Khmer của chiếc xe đến trước. Khi chúng tôi trèo lên thùng xe xong xuôi, xe tải nhà binh từ từ lăn bánh chạy vòng vèo trong khu vực. Đúng đây là một trại hải quân vì huy hiệu quân đội Khmer với cái mỏ neo ở chính giữa được treo trên cửa ra vào của một tòa nhà khá lớn. Nhà cửa nơi đây cùng một kiểu Pháp giống y khu hải quân tại cảng Bạch Đằng-Sài Gòn. Ba người Khmer đang đi dọc theo con đường và một trong số họ vẫy tay thân ái với chúng tôi. Đây đó, vài trẻ em Khmer chạy chơi, đùa giỡn gần các căn nhà. Khói lam từ một nhà bếp mang mùi thơm của thức ăn theo gió chiều đến tận xe chúng tôi. Hai phụ nữ, người quấn xà rông đang ngồi bên nhau trên ghế trước cửa một căn nhà dõi mắt nhìn chiếc xe chở chúng tôi chạy ngang qua. Trời bắt đầu xâm xẩm tối rồi. Gã lãnh sự Vũ Văn Dũng nói chúng tôi được trả tự do nhưng không biết xe sẽ chở cả nhóm đi đâu đây? Qua hết các dẫy nhà, xe bắt đầu ra khỏi cổng căn cứ hải quân và chạy vào vùng ngoại ô. Những ruộng lúa cùng các căn nhà sàn vách gỗ mái ngói đỏ nằm rải rác cạnh vệ đường. Nước Khmer sau hoạ diệt chủng của chế độ PolPot chỉ còn ít dân nên đất đai bỏ hoang rất nhiều. Xe vào thành phố, chạy vòng vèo trong các khu thị tứ hoặc trên các con đường với hai hàng cây tương tự như các con phố ở Sài Gòn. Các cửa tiệm đã mở đèn sáng chưng. Sau cùng, xe ngừng tại một bến xe nằm đối diện với một khu chợ khá sầm uất. Hai lính Khmer từ cabin bước xuống và ra dấu cho chúng tôi phải rời khỏi xe họ ngay. Lần lượt kẻ trước người sau nhẩy ngay xuống đất và tức khắc, xe tải nhà binh đánh một đường vòng rồi quay đầu bỏ chạy thẳng. Đứng ngồi lố nhố từng đám nhỏ trong cái bến xe, chúng tôi trông thật khác hẳn với dân Khmer đang có mặt. Vài người Khmer ngồi trong quán gọi nhau nói chuyện mà ánh mắt, ngón tay họ chỉ trỏ về hướng chúng tôi. Tôi, Dũng và anh Tấn nhìn nhau lo lắng. Không người quen trên xứ lạ, túi rỗng tiền mà trời thì sắp tối đến nơi. Chúng tôi sẽ ở đâu, làm gì trong đêm hôm nay? Chợt có tiếng còi tu huýt ré lên cùng giọng nói lớn: - Chết mẹ! Mấy cha kia bị công an Kampuchia bắt rồi kìa. Tôi hoảng hốt đưa mắt nhìn. Hai người Khmer đồng phục kaki vàng nghệ như công an Việt Cộng đang chận một nhóm bốn người thằng Minh ở ngay vệ đường trước cổng bến xe. Anh Tấn quay qua nói nhanh với tôi và Dũng: - Tản ra ngay thôi. Mình chia tay ở đây nghe các em. Tạm biệt Vũ, tạm biệt Dũng. Mỗi người liền vọt ngay một hướng. Bến xe không có xây tường bao chung quanh và các xe tải, xe chở khách đậu sát trước cửa nhà dân tương tự bến xe trong vùng ngã bẩy Petrus Ký-Sài Gòn. Do đó khi cắm đầu đi thẳng được một khúc đường, gặp có một hẻm nhỏ, tôi vội rẽ vào và bước dọc theo con hẻm dưới ánh sáng của các ngọn đèn đường. Trời bây giờ đã thật tối. Hẻm nhỏ dẫn tôi đi lòng vòng qua các con hẻm khác nữa rồi lại quay ra ngay phía hông cái chợ trước bến xe. Tôi vào trong chợ. Người ra kẻ vô khá đông và cũng chẳng ai để ý đến tôi. Có những gian hàng, người chủ đang thu dọn để nghỉ nhưng có gian hàng khác mới bắt đầu dọn ra bán. Tôi băng ngang qua một khu bán thức ăn. Những xe thùng bán hủ tiếu, cơm, chè, món nhậu... tương tự như bên nước Việt. Mùi xào nấu bốc thơm lừng mũi. Vài người bán hàng vẫy tay mời tôi ghé vào quầy hàng của họ nhưng tôi lắc đầu, im lặng lầm lũi bước. Đi tới lui mãi, sau cùng tôi ra khỏi chợ. Nhìn chung quanh không còn bạn đồng hành trong chiếc ghe với tôi nữa. Chân rảo bước trên con hẻm dọc theo chợ mà trong tôi đang lo lắng nơi nào mình sẽ đi tiếp đây. Gặp một rạp chiếu phim Video nhỏ với các tấm pano quảng cáo hình bộ phim đang chiếu bằng loại chữ Khmer và chữ Tàu, tôi dừng lại đứng gần đám đông người trước cửa rạp chiếu phim. Vờ xem các hình quảng cáo nhưng tôi kín đáo quan sát và lắng nghe tiếng trò chuyện của người chung quanh xem coi có đồng hương Việt Nam không. Không gặp người Việt nào cả. Tôi bỏ rạp chiếu phim, quay ra đi thẳng rồi băng ngang qua một ngã tư vào một khu phố với khá nhiều cửa tiệm đèn sáng choang. Dân Khmer sống ở phố chợ cũng giống người Việt Nam dùng mặt tiền nhà làm tiệm buôn bán. Dọc theo con phố, tôi đi ngang một tiệm cà phê có vài khách đang ngồi xem TV gắn ở trên tường. Tôi dừng chân nhìn các cảnh trên TV đang chiếu. Một cô gái trẻ ngồi ở chiếc bàn nhỏ ngay sát hàng hiên ngẩng đầu nhìn tôi, trong tay cô cầm một quyển sách khá dầy. Thấy tôi đứng nhìn vào quán, cô gái hỏi vài câu Khmer. Không hiểu lời cô gái, tôi mỉm cười với cô rồi nhìn xuống quyển sách. Những hàng chữ Việt trên các trang giấy. Tôi nhìn kỹ đúng là chữ Việt. Mừng quá đi! Buột miệng, tôi hỏi liền: - Cô là người Việt Nam... Phải không? Cô là người Việt Nam? Cô gái nghe tiếng tôi liền gật đầu, hỏi lại: - Anh! Anh... thuộc nhóm người Việt vừa có mặt ngoài bến xe lúc chập tối. Phải không? Tôi gật đầu nhưng thầm nghĩ tại sao cô ta lại biết tôi trong nhóm người Việt ở ngoài bến xe? Thấy tôi đứng yên, cô cho biết khách uống cà phê trong tiệm nói về một nhóm người Duôn vừa xuống xe tại bến đã bị công an Khmer bắt giữ. Công an Khmer bắt vì nghĩ người Duôn đến Kompong Som để tìm cách vượt biên sang Thái Lan. Khi nghe vậy, cô vội chạy ra chỗ bến xe để xem có người quen không. Bốn người đang bị giữ tại đồn công an ở gần cửa chợ còn các người khác bỏ chạy hết. Cô gái kéo ghế mời tôi ngồi, xưng tên Hường rồi tiếp: - Mấy thằng công an em quen mặt cả. Họ lại đây uống cà phê thường ngày. Em vô đồn công an gặp bốn người bị bắt và nghe họ kể chuyện ghe vượt biên rồi. Em đã nói cho công an Khmer biết nhưng bọn nó nói phải liên lạc với lãnh sự quán Việt Nam trước đã. Em nghĩ họ sẽ thả hết bốn người bọn anh, đừng lo. Nói xong, cô gái quay vào phía trong gọi khá lớn: "Liên, Liên ơi! Ra đây có chuyện này hay lắm". Một thiếu nữ từ bên trong quầy đi ra. Nhìn mặt hai cô gái, tôi đoán họ trạc tuổi với tôi. Hường nói qua loa với Liên về tôi rồi cả hai dẫn tôi ra phía đằng sau nhà. Ở đó có một phụ nữ Việt khá lớn tuổi đang ngồi ăn cơm tối. Hường, Liên nói là mẹ và giới thiệu tôi với bà. Bà cụ bảo tôi ăn cơm tối chung. Tôi vừa ăn vừa kể cho ba người nghe về chuyến đi bất thành. Sau bữa ăn, tôi xin đi tắm ngay vì từ lúc rời đảo Cô Tan không có nước để rửa ráy, thân thể rất bẩn. Tắm xong, Hường làm cho tôi ly cà phê đá. Uống nó thật ngon, nước lạnh chảy tới đâu tôi cảm thấy mát ngay tới đó. Bà cụ, mẹ của Hường và Liên kể thêm về hoàn cảnh: - Gia đình tôi đi vùng kinh tế mới tại huyện Vĩnh Cửu thuộc tỉnh Đồng Nai vào cuối năm 1975 sau khi nhà nước đổi tiền mới. Lên đó được vài năm, nhà tôi chết vì sốt rét rừng. Mẹ con tôi chán nản hết sức, muốn trốn về Sài gòn nhưng nhà cửa thì không còn. Chưa biết làm gì thời may gặp cái vụ nhà nước xây cái đập thủy điện Trị An. Một số nhà hàng ở Sài Gòn lên hỏi mua những khu đất gần chỗ xây cái đập để mở hàng quán cho đám công nhân xây dựng. Lô đất nhà tôi lại ngay chỗ nhà hàng cần mua. Họ cho người đến thương lượng. Gặp dịp tôi bán liền lại bán được giá thật hời. Tiền bán khu đất, lúc đầu tôi định về Sài Gòn kiếm mua căn nhà nhỏ rồi liệu kế làm ăn nhưng mấy đứa trong nhà lại nghe lời họ hàng rủ nhau vượt biên. Đám tổ chức vượt biên đường bộ bằng ngã Kampuchia. Một hai bảo đảm sẽ sắp xếp gia đình tôi đi lọt trong vòng tuần lễ. Tính chuyện rất dễ nhưng khi đến được Kompong Som gia đình tôi bị lừa mất sạch vàng. Không vượt biên được nữa, phải ở nhà trọ rồi kéo nhau đi làm thuê kiếm miếng ăn qua ngày, thảm lắm cậu. Bà cụ ngừng kể, mắt khẽ nhắm như đang hồi tưởng những ngày cũ. Một thoáng trôi qua, bà tiếp: "Gia đình đành phải sống dựa vào đám bộ đội Việt Cộng đóng quân ở đây, tội nghiệp nhất là hai đứa con gái tôi...". Bà cụ chợt im lặng. Hường ngồi gần tôi, tiếp lời mẹ: - Cả nhà em dành dụm mãi mới đủ tiền sang lại nhà và mở quán bán cà phê suốt từ đó. Trước đây còn khá đông bộ đội người Việt tụi em buôn bán rất ngon. Bây giờ họ rút về hết rồi thêm người mở quán cạnh tranh làm gia đình em buôn bán cũng kém. Chưa biết sẽ phải xoay trở làm ăn cái gì khác đây? Hầu như người Việt mình từ quê nhà sang Kompong Som đều tính chuyện vượt biên cả nhưng thấy vậy mà đi khó lọt lắm anh. Bị đám tổ chức gạt, có khi còn bị bắt rồi hết tiền không về quê nhà được giống gia đình em nên đành chấp nhận sống ở đây luôn. - Cái hồi gia đình tôi bị bỏ rơi ở Kompong Som may mắn bộ đội Việt Cộng không thèm bắt nữa. Mấy năm trước vượt biên sang đây đi lạng quạng ở các bến xe hoặc nhà trọ, công an Kampuchia bắt được giao cho bộ đội Việt Cộng giải về Việt Nam tống vô tù liền. Bà cụ kể. - Hồi đó gia đình em không bị bắt vì bộ đội Việt Cộng muốn nhiều người Việt mình sống ở nước Kampuchia trước khi họ phải rút về Việt Nam. Liên chen vào. Hường kéo tôi trở ra một bàn trong quán, vài khách địa phương ngồi gần nhưng không ai buồn để ý đến ai. Mắt họ dán vào màn hình TV. Tôi ngồi im lặng, thỉnh thoảng ngó ra bên ngoài mong gặp được anh Tấn, thằng Dũng hay người trong ghe. Chợt Liên đến ngồi chung bàn, kể chuyện: - Người Việt mình ở đây sống rải rác nhiều nơi nhưng ai cũng đều chung cảnh nghèo, đi làm thuê làm mướn cả. Chuyện quay về quê nhà lập nghiệp thật xa vời không ai nghĩ đến, do vậy mới lập Hội Việt Kiều để tương trợ lẫn nhau. Chị Hường em nói sáng mai sẽ đưa anh đi gặp hội, xem coi họ có thể giúp gì cho anh được không? Nói với Liên, tôi may mắn đã gặp được gia đình nàng chứ nếu không còn đang phải lang thang ở đâu đó. Trời về khuya quán sắp đóng cửa, Cao về tới. Cao làm thuê cho một tiệm ăn Tàu ở chợ và cũng vừa dọn dẹp ngoài đó xong xuôi. Nằm trong chiếc mùng Cao vừa căng cho tôi sát bên các bàn ghế trong quán, tôi hồi tưởng những chuyện xẩy ra trong ngày và câu Hường nói: "Anh đừng lo, những người bị công an bắt chập tối họ sẽ thả sớm sáng ngày mai". Thằng Minh ở trong số người bị bắt này. Dầu sao, nó cũng có chỗ ngủ đêm nay. Chỉ lo cho thằng Dũng và anh Tấn giờ đang ở đâu, ra sao? Cũng y như tiệm cà phê bên quê nhà, quán của hai chị em Hường-Liên ngày nào cũng mở rất sớm và đóng thật trễ. Mới 6 giờ sáng cả nhà đã lục tục dậy để dọn dẹp chuẩn bị cho một ngày mới. Tôi thức dậy cùng với gia đình và định phụ một tay nhưng hai chị em Hường-Liên bảo tôi cứ ngồi yên uống cà phê. Cao vẫn đang ngủ say. Hường nói ngày nào cũng vậy, Cao bắt đầu đi làm lúc gần trưa cho đến tối khuya mới xong việc. Bà cụ cũng dậy sớm, đang lúi húi làm món cơm chiên cho mọi người ăn sáng lót dạ. Khách lai rai vào uống cà phê, họ là dân lao động phải dậy đi làm sớm đầu ngày nên ghé vào quán uống vội một ly cho tỉnh ngủ cho ấm bụng rồi bỏ đi ngay. Ở xứ nào, dân lao động cũng vất vả như nhau. Khoảng xế trưa bớt khách, để Liên coi tiệm Hường dẫn tôi đi gặp các người Việt gần chợ Kompong Som. Đầu tiên, tôi và Hường đến nhà người đại diện Hội Việt Kiều. Ông ta tên Hai, trạc ngoài 50 tuổi, khuôn mặt hiền lành đầy vẻ nhẫn nại. Sau khi nghe tôi kể vắn tắt lại câu chuyện của mình, ông yên lặng, thở dài rồi cho biết người Việt sinh sống ở Kompong Som rất nghèo vì hầu hết đã mất tiêu tài sản cho canh bạc vượt biên không thành. Lưu lạc xứ người lại không nghề nghiệp trong tay nên ai cũng phải làm thuê vác mướn sống qua ngày. Có người phải dành dùm rất lâu mới có đủ tiền để về lại Việt Nam. Đó là người còn gia đình bên quê nhà. Không thân thích ruột thịt, đành chọn Kompong Som làm quê hương thứ hai. Ông Hai nói đúng y lời Hường và Liên đã kể. - Chúng tôi làm thuê bất cứ nghề gì mà người Khmer cần cậu à. Phu khuân vác, thợ hồ, thợ nề... Thậm chí làm cả người ở giúp việc trong nhà nữa. Nói ra cho cậu thấy hoàn cảnh chúng tôi. Sống ở xứ người nhưng có khấm khá gì đâu. Mong ngày đủ hai bữa cơm là tốt. Gặp cậu, thêm đồng hương tôi rất vui nhưng nói thật, muốn giúp cậu cũng chẳng biết phải giúp sao đây vì ai cũng nghèo túng cả. Cậu cứ tiếp xúc các người Việt khác đi rồi sẽ thấy. Gửi cậu 200 Riel mong cậu hiểu cho tình cảnh tôi. |
-
- Duong Nam Anh
- Status:Online
- zodiac:
- Mood:
- Age: 75
- Posts: 11139
- Has thanked: 5596 times
- Have thanks: 5914 times
- Joined: June 29th, 2009, 8:47 am
- Last Visit: Online
- Country:
Re: Con Sóng Dữ.
8 (tiếp theo) Nhờ có Hường hướng dẫn, tôi mới gặp được nhiều gia đình người Việt Nam. Gặp nhiều Việt kiều nhưng đúng như lời ông Hai, người Việt sinh sống tại Khmer quá sức nghèo. Có gia đình, cuộc sống của họ còn khổ hơn lúc còn ở Việt Nam. Tôi cảm thấy áy náy khi phải gõ cửa lòng nhân ái của họ, những người Việt tha hương bất hạnh. Từng là nạn nhân của các vụ lừa đảo vượt biên nên số Việt kiều tôi gặp dễ dàng thông cảm nhưng chính vì vậy lại đặt họ vào hoàn cảnh khó xử. Thật lòng họ muốn giúp nhưng túi không tiền. Mở miệng từ chối lại không nỡ. Có người thú thật trong nhà không còn một đồng bạc và đang chờ người thân đi làm về mới có cái mua đồ ăn. Có gia đình chỉ biết an ủi, giữ tôi và Hường ở lại ăn bữa cơm trưa. Thức ăn chỉ món mắm cùng canh chua bắp chuối hột nấu với ít cá lòng tong. Có nhà khi thấy tôi và Hường đến, họ liền đóng sập cửa không tiếp. Tới chiều tối, tôi và Hường mệt mỏi quay trở về quán. Toàn bộ tiền tôi xin được trong ngày hôm nay chỉ vỏn vẹn 1600 Riel. Hường cho biết từ Kompong Som về Nông Pênh bằng xe khách hạng bét là xe chở hàng Kamaz cũng phải mất 5000 Riel tương đương với 5 phân vàng y 24. Lạ một điều đi gặp Việt kiều suốt cả ngày, không nghe ai nói với tôi về những người khác trong chuyến ghe. Không lẽ chỉ có một mình tôi đi gặp họ? Tôi phân vân. Anh Tấn và thằng Dũng đã đi đâu sau lúc chia tay vội vã ở bến xe? Tôi lại nghĩ lúc còn ở trên ghe, anh Tấn, Dũng và các người khác đã nuốt kịp vàng vào bụng và nhờ vậy họ đã có cái để bán? Có tiền trong tay, thuê nhà trọ nghỉ chân và họ đã đón xe về Nông Pênh hết cả rồi. Có thể lắm! Mong họ được như điều tôi nghĩ. Bữa cơm tối, bà cụ kể thêm cho tôi nghe những cơ cực của những ngày đầu phải lưu lạc tại vùng Kompong Som sau chuyến vượt biên không thành. Từng lâm cảnh khổ vì bị gạt vượt biên nên gia đình Hường-Liên đã cố sức giúp tôi có tiền để về lại quê nhà. - Em chưa biết nếu ghe anh đi lọt sang được đất Thái sẽ ra sao chứ bằng đường bộ thì ai cũng phải vào mấy cái trại sát biên giới như Dongrek, Nong Chan hay Nong Samet... gì gì đó. Tuy mang tiếng trại tị nạn nhưng bọn lính Khmer và lính Thái ở đó coi mạng người vượt biên Việt không bằng một con gà. Đàn ông con trai người Việt mình, chúng muốn hành hạ hay giết thì tùy hứng. Đàn bà con gái thì thôi khỏi nói. Trước sau gì cũng bị... tay chúng hết. Gia đình em đi không lọt chứ lọt mà phải sống trong các trại tị nạn đó thì không biết số phận sẽ như thế nào. Người Việt mình sao thời bây giờ khổ quá anh, ở bên quê nhà đã khổ, sang đây cũng khổ. Hường buồn bã, chép miệng. Liên thuật cho tôi nghe mấy tay công an Khmer đến quán uống cà phê lúc quá trưa cho biết họ đã thả bốn người Duôn bị bắt tối hôm trước. Thằng Minh vậy đã được tự do. Nó ra sao bây giờ? Biết hoàn cảnh tôi, bà cụ bảo nếu không muốn về Việt Nam ngay thì cứ ở lại đây rồi theo Cao ra ngoài chợ xin việc làm trong các tiệm ăn! Có nhiều tiệm ở chợ nếu họ nhận cho làm, chịu khó tằn tiện rồi tôi cũng góp đủ tiền. Hường, Liên phụ họa: "Anh ráng ở đây một thời gian ngắn làm việc, đừng ngại chỗ ăn chỗ ở". Nghe vậy, tôi nghĩ mình không còn chọn lựa nào khác, tạm thời phải ở lại, đi kiếm việc làm. Ở trọ nơi quán cà phê được hai ngày, theo Cao đi hỏi các tiệm ăn trong chợ nhưng không ai cần thêm người làm, tôi đành quay về không. Tối nằm ngủ, tôi nghĩ phải tìm cách để về Nông Pênh. Gia đình Hường-Liên tuy tốt bụng nhưng tiệm cà phê khách chỉ có lai rai, ở nán lại trong nhà họ ngày nào coi như thêm gánh nặng ngày đó. Đường đi nước bước ở nơi miệng mình, chỉ kẹt tôi không biết tiếng Khmer. Tôi phân vân nhưng quyết định dứt khoát phải về. Trong lúc ăn cơm, nói điều mình định cho cả nhà biết, Hường và Liên liền giúp mỗi người 500 Riel nữa tổng cộng tôi có 2600 Riel. Tôi nhủ thầm, mình cứ liều thử đón xe xem sao. Có đi mới biết. Khi trời còn mờ sương buổi sớm mai, Hường đã dẫn tôi ra bến xe để tìm cách về Nông Pênh nhưng những xe khách ở đó đòi giá tới 6000 hoặc 7000 Riel cho một chỗ ngồi. Giá vé chênh lệch tùy theo tình trạng xe mới hay đã cũ nhưng khách phải trả tiền trước. Như đã kể, bến xe rất rộng phải đi tới lui loay hoay dò hỏi mãi rồi Hường cũng gặp được một xe đồng ý cho lên sau khi Hường nói tôi chỉ có 2500 Riel. Đây là một xe vận tải cũ hiệu Kamaz của các nước Đông Âu Xã Hội Chủ Nghĩa viện trợ cho các quốc gia trong khối CS như Việt Nam, Cu Ba và Kampuchia... Móc trong túi lấy toàn bộ tiền mình hiện có đưa cho gã lơ rồi sau đó theo ngón tay y, tôi vội vàng trèo lên cái rờ moọc khá lớn chất đầy hàng hóa kéo ở phía sau xe. Tôi hành khách duy nhất ngồi trên đống hàng hóa ở cái rờ moọc. Xe sắp sửa chạy, tài xế bóp còi và rú ga vài lần. - Về đi Hường, cho anh gửi lời thăm bà cụ, Liên và Cao. Không bao giờ anh quên được em và ngày hôm nay. Cầu xin Thượng Đế phù hộ cho gia đình em. Cảm ơn em rất nhiều. Mong rằng có một ngày nào đó anh sẽ gặp lại em cùng gia đình. Tôi thân mật nói lời từ biệt với cô gái tốt bụng khi xe Kamaz bắt đầu lăn bánh trên con đường gập gềnh, đầy ổ gà của bến xe Kompong Som. Hường đứng yên lặng bên vệ đường, khuôn mặt lộ vẻ buồn khi nhìn tôi và khẽ vẫy tay cho đến khi chiếc xe khuất sau một khúc quanh. Xe chạy dần ra phía ngoại ô, cảnh vật hai bên đường là các vùng đất vắng lặng nhưng vẫn thấy rõ dấu vết của làng mạc nay không còn người ở. Những khung nhà sàn đổ nát, hư cũ và các vệt vườn cây ăn trái còn sót lại ở nhiều nơi. Những vạt ruộng bỏ hoang cùng những bãi đất trống xuất hiện khi xe chạy ngang qua. Chế độ Polpot-Iêng Sa ri khi cầm quyền đã tận diệt các phát minh của nhân loại trên đất nước Khmer. Tiền, một trong số các điều mà bọn người Khmer CS này đã tiêu hủy. Không cho lưu hành tiền trong xã hội và còn dẹp luôn chuyện buôn bán. Người dân muốn có muốn cần cái gì trong cuộc sống, chỉ đơn thuần trao đổi với nhau như kiểu thời sơ khai. Nếu không có tiền hôm nay làm sao tôi có thể đón xe để về Nông Pênh được! Một xã hội không dùng tiền trong giao dịch thương mãi, giả dụ người có bò muốn có dê nuôi thì người đó sẽ phải đi đâu mới gặp người chăn dê đang tìm bò để cùng nhau trao đổi qua lại? Đến chết chưa chắc đã gặp. Phải có chợ buôn bán thì mọi việc mới ổn thỏa. Làng mạc bị bỏ hoang nhiều vì chế độ Khmer Đỏ đã tàn sát rất nhiều dân lành vô tội. Người thuộc chế độ cũ bị tàn sát vì thù hận đã đành nhưng các sư sãi đạo Phật các tu sĩ tôn giáo khác đã làm gì nên tội mà cũng bị giết? Coi như một gánh nặng cho phúc lợi xã hội, người tàn tật cũng bị dứt bỏ và ngay cả người đeo cặp kiếng trắng cũng bị tận diệt vì gán cho là thành phần trí thức. Được cha mẹ cho du học tại Pháp rồi về nước với mảnh bằng kỹ sư và những đưa đẩy của lịch sử, Polpot cầm quyền để rồi làm cho đất nước tan hoang chỉ sau ít năm gã cùng tay chân cai trị. Không hiểu vì mối thù hận gì mà những lãnh tụ Khmer Đỏ lại giáng lên đầu lên cổ người dân? Không lưu hành tiền, không còn các sinh hoạt xã hội như bao đời và phải sống tập trung như thời sơ khai... người dân Khmer sống trong giai đoạn cộng sản cầm quyền chắc chắn phải khổ sở vô cùng. Ngồi trên chiếc rờ moọc sau xe, tầm mắt tôi tiếp tục dõi mắt ngắm nhìn cảnh vật bên đường. Có những khu vực, cây Thốt Nốt được trồng hoặc mọc tự nhiên trải dài đến tận chân trời. Những cây Thốt Nốt nằm gần sát đường khoe các chùm trái mầu xanh hoặc nâu tím tròn bóng lưỡng và có một cái núm nhỏ như đôi vú của thiếu nữ đương thì. Có thấy những cánh đồng cây Thốt Nốt mới hiểu tại sao nước Khmer làm ra được nhiều loại đường mầu vàng ngà ngon nổi tiếng. Ở thùng xe Kamaz, khách Khmer chen chúc ngồi bó gối chật cứng trên đống hàng hóa. Hàng hóa là thổ sản địa phương như cá khô, dừa... chất trong các sọt cần xé hoặc các bao gạo. Các thùng thuốc lá hút ngoại quốc cùng những thùng carton bọc kín mít không biết chứa thứ gì bên trong. Ngồi một mình trên đống hàng hóa của cái rờ moọc, tôi thật không an toàn khi xe chạy. Những lúc xe Kamaz đổ dốc chạy rất nhanh qua cua gắt làm tôi phải bám chặt vào các kiện hàng vì sợ bị hất ngã văng xuống đường. Đường từ Kompong Som về Nông Pênh thật xấu. Xe chạy ngang qua các cầu bị phá hủy từ thời chiến tranh nay được chắp vá bằng thân cây lớn ghép lại. Lúc vượt cầu như vậy rất nguy hiểm, tài xế sơ sẩy chút xíu, xe sẽ lọt xuống dòng nước đang chảy bên dưới ngay. Đường hư hỏng, ngồi trên cái rờ moọc nên mỗi lần xe lọt ổ gà, người tôi thêm một phen ê ẩm. Đây là đường duy nhất nối liền hải cảng Kompong Som về thành phố Nông Pênh tương tự như quốc lộ 20 bên quê nhà từ Dốc Mơ đi Đà Lạt. Những vùng hoang vắng trên trục lộ giao thông xe đang chạy ngang, nơi nào từng là cánh đồng giết người trong thời PolPot cai trị? Mặt trời bắt đầu chói chang, tôi đổi hướng ngồi để tránh ánh sáng chiếu trực tiếp vào mặt. Đột nhiên, chiếc xe từ từ ngừng lại. Vài người Khmer võ trang đứng ở dưới đất tiến lại gần ngang bên hông, chỉ trỏ vào hàng hoá rồi nói chuyện với hai gã lơ-tài xế. Gã tài xế đưa tiền cho những người Khmer võ trang của cái chốt bên vệ đường. Đám võ trang cho xe chạy, chạy tiếp cho đến khi gặp chốt gác mới lại phải dừng xe. Mỗi lần gặp chốt võ trang lại diễn màn mặc cả tiền mãi lộ. Ngồi im lặng trên cái rờ moọc, tôi kín đáo quan sát đám người Khmer có vũ khí trong tay không biết họ là lính của phe nào. Khmer Hiêng Xomrin hay tàn quân PolPot-Iêng Sa Ri? Y phục họ mặc bát nháo giữa quần áo lính xanh, rằn ri chung với thường phục và xà rông. Người chân mang giầy trận, người chỉ đôi dép mỏng. Xe đã chạy được hơn hai tiếng đồng hồ. Hai bên đường hầu hết như rừng hoang vắng chỉ đôi lúc xe qua một xóm dân cư Khmer rất thưa thớt lèo tèo độ chục nóc nhà sàn. Đường quá xấu, xe chở nặng nên tốc độ rất chậm. Chạy kiểu nầy không biết còn bao nhiêu km đường, mấy giờ đồng hồ nữa xe mới đến được Nông Pênh? Chắc chắn khi đến được thì trời sẽ chiều tối. Tôi lo lắng mình sẽ ở đâu trong đêm tại Nông Pênh? Có gặp được người tốt bụng như anh chàng cán bộ Sok Sammath hay người đồng hương như chị em Hường-Liên? Vừa vượt qua một con dốc khá cao, chiếc xe ngừng lại. Hai gã lơ và tài xế bước xuống xe đến chỗ chiếc rờ moọc, lấy chỉ tay vào tôi và nói những câu Khmer xa lạ. Tiếng Khmer tôi mù tịt còn tiếng Việt hai gã lại không biết. Hai gã Khmer nói cái gì với mình vậy? Lúc đầu tôi không hiểu nhưng rồi qua cử chỉ, tôi biết hai gã muốn tôi phải trèo xuống khỏi cái rờ moọc. Không chở mình đi tiếp nữa! Tôi có chút sững sờ vì ở bến, hai gã Khmer đã đồng ý khi cho tôi lên xe. Cầm tiền Hường trả bây giờ lại đuổi tôi xuống. Biết nói gì bây giờ? Chợt nhớ tối hôm qua trước giờ ngủ, Hường và Liên đã cố sức chỉ cho tôi nói vài câu Khmer để phòng những lúc cần. Lúc chia tay ở bến xe Kompong Som, Hường đã nhét vội vào túi áo tôi một mảnh giấy dặn khi nào anh quên thì lấy ra đọc cho nhớ. Có bí kíp trong túi mà không biết dùng, tôi iền lấy nó ra trong lúc hai gã lơ-tài xế cùng những người Khmer khác đang nhìn chằm chằm. Như bao người Việt sinh sống tại xứ Chùa Tháp, chị em Hường-Liên chỉ biết nói và không biết viết cũng như đọc được chữ Khmer. Thấy tôi mở túi áo, nghĩ tôi lấy tiền nhưng không, chỉ một mẩu giấy nhỏ. Mở vội ra, tôi đọc to những câu viết thành chữ Việt trên giấy: - Bon cùm đâu nhum chênh lan (Anh đừng đuổi tôi xuống xe). Những khách Khmer nhìn tôi, có gã cười mỉm, vài người khác nói nhỏ câu gì đó với nhau. Nhìn hai gã lơ và tài xế rồi nhìn vào tờ giấy, tôi đọc tiếp một hơi: - Nhum oóc lui hơi (Tôi hết tiền rồi). - Nhum chon tư Nông Pênh (Tôi muốn đi Nông Pênh). - Bon chui nhum (Anh giúp tôi nghen). Thưa quý bạn đang đọc bài viết nhất là các bạn biết tiếng Khmer. Có thể tôi đã nhớ không đúng những câu Khmer mà Hường viết trong mẩu giấy. Nhiều năm trôi qua làm sao trí não có thể nhớ rõ được. Có sai sót, mong các bạn thông cảm. Đọc xong mẩu giấy, tôi nhìn các người Khmer và mỉm cười với họ. Tôi lập lại vài lần nữa nhưng thái độ của hai gã lơ-tài xế vẫn không thay đổi. Qua cử chỉ và lời to tiếng, tôi biết họ nhất quyết muốn tôi xuống khỏi cái rờ moọc. Vài khách Khmer khác thấy tôi làm mất thì giờ nên bắt đầu nổi cáu khi to tiếng giận dữ phụ hoạ chung với hai gã. Không cho mình đi nữa, tôi đành leo xuống khỏi cái rờ moọc. Chiếc xe Kamaz chạy dần xa xa mất dạng sau một khúc trũng trên đường. Lang thang một mình dọc theo đường lộ dưới trời trưa nắng cả tiếng đồng hồ, tôi gặp các xe khác chạy ngang hướng về Nông Pênh và đã giơ tay vẫy nhưng không một chiếc nào chịu ngừng lại cho quá giang. Đi dưới trời trưa nắng nóng, tôi phải dừng chân, bước vào các hố gần cạnh đường để vốc nước uống và rửa mặt cho đỡ cơn khát. Lấy cái áo trong giỏ xách ra, tôi nhúng ướt nước rồi trùm trên đầu cho dễ chịu. Cứ đi như vậy cho đến khi vừa qua khỏi khúc quanh đường, xa xa một bọn người đang đi ngược chiều với tôi trong tay họ vung vẩy cây súng AK47. Tôi dừng lại, tự hỏi những người đang đi phía trước mặt là ai? Chắc mình phải lánh mặt vào bên vệ đường xem sao nhưng đã muộn, những người đó đã trông thấy tôi. Họ gọi nhau í ới và chỉ tay về tôi. Tôi đứng yên tại chỗ, đưa hai tay choàng lên đầu mình. Đám Khmer đó lại gần, túa ra vây chung quanh và lăm lăm súng hướng thẳng vào người tôi. Mặt họ đen nâu đầy vẻ hung dữ. Khăn rằn quấn ở cổ, đầu đội mũ sắt hoặc mũ lưỡi trai. Chân họ đi giầy vải hoặc dép râu. Họ lăm lăm nhìn tôi rồi hỏi cả tràng tiếng Khmer. Tôi chỉ biết lắc đầu tỏ ý không hiểu. Một gã tiến đến, dùng tay nắn vào người tôi lục soát. Thấy không có gì, gã ấn tôi ngồi xuống đất. Chết mình rồi! Chung quanh đây vắng lặng, tôi nhủ thầm. Để tôi ngồi đó, cả đám Khmer quay ra nói chuyện với nhau. Khá lâu sau, một gã khác tiến sát lại gần bên, vỗ lên vai tôi và ra dấu đứng dậy. Nhìn thẳng vào mặt tôi, y tuôn ra một câu. - Anh làm gì có mặt ở đây? Nhìn gã Khmer, quá mừng vì gặp người nói được tiếng Việt, tôi lắp bắp quên trả lời câu y hỏi: - Ô! Anh... Anh là người Việt Nam? Anh nói được tiếng Việt... Gã Khmer lập lại câu hỏi. Tôi liền kể tóm tắt sự việc đã xẩy ra ở xe Kamaz nhưng dấu chuyến vượt biên bất thành. Thay vào đó, tôi bịa chuyện theo người quen đến Kompong Som làm ăn. Mới nhận được tin nhắn phải về Việt Nam gấp vì vợ đau nặng đang nằm nhà thương và rất cần có mặt tôi chăm sóc. - Tại sao xe Kamaz đuổi anh xuống giữa đường? Anh làm chuyện gì trên xe họ? Gã Khmer hỏi dồn. Tôi trả lời không biết lý do. Đuổi xuống thì xuống nhưng thâm tâm tôi nghĩ vì thiếu tiền vé nên tài xế cho đi nửa đoạn đường. Có thể xe Kamaz đã chi tiền mãi lộ dọc đường nhiều nên bực mình đuổi tôi xuống. Cũng một cách họ dằn mặt những người khách Khmer khác. Không có tiền thì đừng đi, trả tiền nửa chuyến đi nửa chuyến... không nói lôi thôi. Vả lại, tôi đâu phải dân Khmer mà cũng có thể hai gã lơ-tài xế đó không thích người Việt. Chỉ suy đoán vậy. Đám Khmer võ trang 7 người ngồi xuống gần bên tôi và quay qua, xì xồ nói chuyện với nhau. Họ lấy thuốc lá điếu ra hút và mời nhưng tôi lắc đầu từ chối. Ngồi cho đến khi hút tàn điếu thuốc thì cả bọn gọi nhau đứng lên và rảo bước quay về hướng cũ. Tôi được lệnh đi theo. Lầm lũi giữa đám Khmer, tôi đi nhưng không biết cái gì sẽ xẩy ra. Được một quãng đường khá xa, đám Khmer bỏ con đường nhựa và lội thẳng vào hướng rừng bên cạnh. Tôi bắt chuyện với gã lính biết tiếng Việt: - Mình đi đâu hả anh? Gã lính chỉ im lặng không trả lời. Khi nghe hỏi lại lần nữa, gã đứng ngay lại nói gằn từng tiếng: - Bảo anh đi là đi, không được hỏi lôi thôi với tui nghe chưa. Nhìn mặt gã Khmer thật khó đoán được tâm tính y. Gã tươi cười vui vẻ khi nói chuyện với đồng bọn. Với tôi, gã lại cộc cằn. Nước da gã đen, thân hình dong dỏng cao. Khuôn mặt gầy, tóc gã quăn tít có lọn lòa xòa trước trán. Nhìn mặt, tôi đoán gã khoảng 25, 26 tuổi và có vẻ chỉ huy bọn lính. Gã biết tiếng Việt, chắc cùng một dạng như Sok Sammath? Nghĩ vậy, tôi nhìn lại hoàn cảnh mình mà lo trong bụng. Bọn này dẫn mình vào rừng để làm gì? Chân bước đều theo bọn người Khmer nhưng trong tôi đang run lập cập. |
-
- Duong Nam Anh
- Status:Online
- zodiac:
- Mood:
- Age: 75
- Posts: 11139
- Has thanked: 5596 times
- Have thanks: 5914 times
- Joined: June 29th, 2009, 8:47 am
- Last Visit: Online
- Country:
Re: Con Sóng Dữ.
9 (tiếp theo) Tôi cùng đám lính lặng lẽ đi trên lối mòn trong một cánh rừng thưa được hơn 100m đường thì đến chỗ nước ngập, cả đám phải lội bì bõm trong nước. Có lúc nước cao tới đầu gối rồi qua khỏi chỗ ngập con đường dốc lên dần, cây cối cũng thưa thớt hơn. Đi len qua vài mỏm đá quanh co, gã lính biết tiếng Việt dẫn tôi tách riêng đi hướng khác rồi dừng bước trước một căn hầm lớn nằm dưới các tàng cây lớn. Nhìn căn hầm trông giống kiểu hầm chữ A. Ai đã từng bị chính quyền Cộng Sản bắt đi vùng kinh tế mới trên các vùng rừng miền Đông Nam Bộ sau ngày 30-4-1975 chắc có dịp trông thấy căn hầm chữ A Việt Cộng đào trú ẩn giữa rừng trong thời còn chiến tranh. Gọi hầm chữ A do hình dáng của nó. Vách hầm là hai hàng cây lớn dựng xiên vào nhau, đất được đổ kín, lèn chặt chung quanh và chỉ chừa một lối ra vào duy nhất. Hầm làm kiểu này sức chịu đựng với bom đạn khá chắc. Tôi theo gã lính bước vào trong. Căn hầm có các ô trống trên vách lấy ánh sáng bên ngoài vào trong. Một cái bàn gỗ lớn đóng dính liền với ghế nằm chình ình ở giữa sàn hầm. Một cái đèn dầu to tướng cùng vài quyển sổ, bút bi... bỏ nằm trên mặt bàn. Phía góc hầm khuất sau cái bàn, một gã to béo đeo kiếng mát, mặc áo thun quần short đang đung đưa mình trong cái võng mắt lưới. Sợi dây da nâu vắt qua vai gã với bao súng ngắn nằm gọn ngay dưới nách. Nhận ra có người lạ, gã bỏ kiếng nhìn tôi trong chốc lát cùng lúc tay lính nói vài tiếng Khmer. Tôi đứng yên nhìn căn hầm, nhiều khẩu súng được dựng đứng ở một góc. Gã to béo khoảng 40 tuổi, tôi đoán chỉ huy cả bọn lính và quả đúng như vậy. Gã lính quay qua với tôi: - Ông lớn chỉ huy đó, anh nói chuyện với ông ấy đi. Chưa kịp biết nói gì, người được gã lính gọi bằng ông lớn buột miệng hỏi tôi: - Anh ăn uống gì chưa? Có hút thuốc không? Tôi lắc đầu, ông lớn nói vọng ra bên ngoài vài câu Khmer. Một gã lính trẻ bước vào hầm, tay bưng cái nồi và lon đồ hộp. Đặt các thứ trên mặt bàn trước mặt tôi, gã mỉm cười rồi đưa cho tôi muỗng chén xong loay hoay mở lon đồ hộp. Ông lớn vẫn nằm trên võng nói: - Anh ăn cơm đi. Ăn hết luôn nghe... Chiều mấy lính sẽ nấu nồi khác. Tôi ngồi lại bàn, nhìn vào nồi cơm còn khá nhiều và món đồ hộp là thịt kho mặn. Từ sáng tới giờ trong bụng nào có hột gì đâu, cho tôi ăn như vầy quá sức ngon. Chưa biết kết cuộc rồi sẽ ra sao nhưng trước mắt phải no bụng đã. Nghĩ vậy, tôi múc cơm ăn liền. Gã lính đi cùng đến ngồi đối diện tôi rồi móc thuốc lá điếu ra hút và cùng ông lớn trò chuyện bằng tiếng Khmer. Thỉnh thoảng đầu họ gật gù với nhau khi cả hai đưa mắt nhìn về tôi. Hai người Khmer này đang bàn chuyện gì đó về mình? Bữa ăn chấm dứt mau chóng, gã lính trẻ quay vào dọn sạch nồi, lon không rồi đưa cho tôi lon nước cam. Bây giờ, ông lớn quay sang tôi: - Sarek nói tui biết câu chuyện của anh rồi. Anh đừng về Việt Nam nữa. Ở lại đây với chúng tui cho vui. Vài tháng hay cùng lắm vài năm anh cũng y chang tụi tui hà. Đừng có về Việt Nam nha anh bạn Duôn. Trời ơi! Thì ra họ muốn mình làm lính. Gã đi cùng, bây giờ tôi biết tên Sarek mỉm cười phụ hoạ với ông lớn: - Anh thích xài súng nào thì lựa cho mình một cây. Miệng nói, tay y chỉ về phía góc căn hầm nơi có đống súng AK 47, CKC, M 16, B 41... dựng sát cạnh bên nhau. Thấy tôi yên lặng, gã tiếp: "Anh biết không. Người Duôn trong quân đội Khmer đông lắm. Ở luôn đây nha anh. Không về Việt Nam nữa nghe". Y mỉm cười, giọng khẩn khoản. Ngồi yên trên ghế, tôi ngẫm nghĩ lời hai người Khmer vừa nói. Họ người Việt Nam nay đã thành dân Khmer? Khuôn mặt cùng vóc dáng họ không có vẻ gì người Việt Nam cả. Tóc xoăn, da đen, tướng tá rõ khác biệt với tôi. Không lẽ họ người Việt gốc Khmer như sắc dân Khmer Krom sống ở các làng quê miền Nam Việt Nam lâu năm rồi hoàn cảnh đưa đẩy họ đến đây và thành người lính. Nếu đúng vậy, hai người họ ở đây được vì dầu sao cũng bản quán thật. Còn tôi người Việt Nam. Quê hương, thân thuộc không ở đây. Phải từ chối. Nghĩ vậy tôi trả lời liền: - Tôi thích đi lính lắm, nhìn các khẩu súng này tôi cũng muốn chọn một cây nhưng không thể được. - Sao lại không được? Tại sao? Ông lớn hất cằm hỏi dồn. - Vợ tôi đau nặng mà chưa biết sống chết ra sao bên quê nhà. Tôi phải về ngay. Nếu còn độc thân thì dễ tính quá nhưng không được, tôi phải về gặp mặt vợ tôi. Các anh thông cảm. Đừng bắt tôi ở lại đây. - Anh không được ra khỏi đây. Đã đến thì ở lại với chúng tui luôn. Ông lớn quyết định như vậy. Đây là mệnh lệnh nghe chưa, không được cãi. Bây giờ không nói nữa, nằm nghỉ trưa đi. Sarek nhìn tôi, khoa tay dứt khoát. Xong, y nằm lăn ra trên băng ghế dài. Tưởng y làm một giấc ngủ trưa nhưng không, Sarek nằm đó trò chuyện với tôi. Tôi cũng nằm dài trên băng ghế, trong lòng lo lắng xen lẫn buồn bã. Sarek cho biết đơn vị y có cấp số tới hơn một đại đội và phân tán thành từng nút chận trải dài trên trục lộ giao thông suốt từ Kompong Som cho tới gần phi trường Pochentong, cửa ngõ vào thành phố Nông Pênh ở hướng Nam-Bắc. - Anh đi xe chắc có gặp các chốt chận dọc đường chứ? Sarek hỏi nhưng trả lời luôn: "Các chốt đó là lính của đơn vị tui". Im lặng trong chốc lát, Sarek tiếp: "Thực ra không phải tất cả các chốt chận đều thuộc lính ở đây. Bộ đội địa phương trong vùng cũng lập chốt và đôi khi cũng có cả tàn quân PolPot nữa". - Tàn quân PolPot. Tôi ngạc nhiên, hỏi lại Sarek: "Vẫn còn tàn quân PolPot sao! Họ có đông không, hoạt động gì dọc theo đường?". - Ít thôi, chủ yếu lén lút mò ra quấy phá cầu đường. Đó tại sao cây cầu nào cũng có lính đóng chốt. - Họ võ trang, quân phục ra sao anh? - Trước kia tụi nó mặc đồ đen, bây giờ tạp nham cũng như tụi tui. Võ trang chỉ AK 47, B 41 thôi... Yếu lắm, không có súng cộng đồng. - Sao anh biết họ tàn quân PolPot? - Biết chứ! Lính chúng tui biết mặt nhau hết. Với lại, bọn nó chạy vào rừng ngay khi thấy tụi tui. - Gặp vậy các anh có truy nã họ không? - Trước kia có đấy nhưng giờ đám tui chán cảnh đánh nhau lắm anh. Bọn nó cũng vậy, thấy tránh liền. Sarek kể lúc nhỏ y sống nguyên thời ấu thơ bên Việt Nam rồi theo cha mẹ về lại Khmer cho đến khi PolPot lên nắm quyền. Trên đường tản cư về miền quê theo lệnh của chính quyền mới, Sarek đã lạc gia đình. Về một vùng quê lạ, gã bị cán bộ Khmer Đỏ tập họp lại với các trẻ em khác sống chung trong khu tập trung có tên Phum Cùm Hu. Sarek phải dấu việc đã từng sống bên Việt Nam kể cả chuyện y biết tiếng Việt. Sarek thuật lại các vụ Khmer Đỏ hành quyết ghê rợn những người đã dính líu đến Việt Nam trong thời gian đó. Sống tập trung trong phum cho đến khi gặp bộ đội Việt Cộng. Biết tiếng Việt, Sarek được Việt Cộng chọn huấn luyện riêng nhưng sau đó gã đã trốn trại huấn luyện để đi tìm lại cha mẹ. Gã đi kiếm nhiều nơi nhưng hoài công. Khi về Nông Pênh để kiếm việc làm, tình cờ Sarek gặp lại bạn cũ và người đó dẫn y đến nhập lính ở đây. - Cha mẹ tui không còn sống đâu anh. Ang Ka dạy tụi tui phải biết căm thù người Duôn căm thù luôn cả những người Khmer có liên hệ với dân Việt Nam. Ang Ka giết người nhiều quá nên chắc ông bả chết cả rồi. Khmer bây giờ lớp người trẻ như tui mồ côi cha mẹ nhiều lắm, lớn mà không thân nhân cũng không biết gốc gác gia đình ở đâu ra. Sarek buồn bã kể chuyện sống trong phum thời PolPot nhưng khi nói về Việt Nam, giọng y vui vẻ hẳn: "Gặp được anh tui rất mừng. Tui vẫn nhớ những bạn người Duôn thuở xưa khi sống bên Việt Nam". Sarek kể lại thời niên thiếu sống trong làng ở miền Nam nước Việt, về các kỷ niệm với bạn bè lớp tiểu học. Mỗi lần phấn khích trong câu chuyện, y lập lại: "Anh ở đây chung với tụi tui nha. Chỉ có tui với ông lớn biết tiếng Việt giờ thêm anh nữa càng vui". Nhớ lại Sarek khô khan, lạnh lùng trong lần đầu mới gặp tôi thật khác hẳn với thái độ y bây giờ. Định mệnh cay nghiệt đã đổ xuống gia đình và bản thân y nên biến Sarek có lúc thành con người cộc cằn, thô lỗ nhưng tận cùng tôi nghĩ Sarek là người tốt. Ông lớn nằm yên không góp chuyện. Nghĩ ông đã ngủ say nhưng chợt tai tôi nghe một tiếng thở dài đánh sượt. Ai thở vậy? Tôi nhổm đầu dậy nhìn chung quanh. Ông lớn nằm yên trên võng, hai mắt thao láo nhìn lên trần hầm. Vẻ mặt ông trông thật hiền. Chuyện Sarek kể chắc tương tự chuyện riêng đời ông, đã dắt ông về các hoài niệm cũ làm ông nhớ các thân nhân và ông đã buồn. Chắc vậy! Không biết thời PolPot cai trị, hoàn cảnh riêng của ông ra sao? Câu chuyện quay về tôi khi Sarek một mực bảo phải ở lại và không về Việt Nam nữa. - Chúng ta bạn của nhau từ bây giờ. Anh xuống xe đò ngay chỗ tui đóng quân, có nghĩa số phận chúng ta gặp nhau và sẽ gắn liền sống chết bên nhau. Phải không? Sarek ngồi dậy, mỉm cười nhìn tôi và ông lớn sau câu nói. Ở lại đây và sống chết bên nhau với họ. Nếu hai người Khmer nầy muốn vậy thì làm sao mình về tới Việt Nam được đây. Biết cớ sự như vầy thà tôi nghe lời Hường-Liên ở nán lại còn hơn cố về nhà để mắc kẹt... Nhưng làm sao mà biết trước được để tránh. Tôi phân vân, rối trí quá. Mới vài tiếng đồng hồ trước còn ngồi trên xe hàng mà giờ phải bó tay trong căn hầm xa lạ này. Biết làm gì đây? Tôi thật sự tuyệt vọng và buồn cho hoàn cảnh mình. Tại không có đủ tiền xe mà ra... Tiếng Sarek cắt đứt mối suy tư của tôi. - Sao! Ở lại đây ha anh bạn. Im lặng là đồng ý mà...Ha ha... Tôi ngồi dậy nhìn hai người Khmer rồi khăng khăng nói phải về Việt Nam với lý do vợ bệnh nặng đang nằm chờ ở nhà thương. Khi bịa ra có vợ bệnh, trí óc tôi nghĩ đến Ánh Phương tự dưng làm tôi chảy nước mắt. Tiềm thức về số phận Ánh Phương khiến tôi khóc dễ dàng. - Thôi đừng khóc nữa... Đừng khóc nữa. Đủ rồi! Em thương con vợ bên quê nhà dữ ghê ha! Anh hiểu em rồi, em trai ơi! Ông lớn đột ngột thay đổi cách xưng hô. Ông cười to tiếng, bước rời khỏi chiếc võng và đến bên vỗ vào hai vai tôi. Sarek cũng im lặng nhìn không nói một lời. Vừa lúc, một gã lính chạy vào hầm, nói một tràng tiếng Khmer xong y quay chạy trở ra ngay. Ông lớn xốc dây súng trên người cho gọn gàng rồi với tay lấy cái ống nhòm treo trên vách và đội mũ vải hoa dù lên đầu. Sarek cầm khẩu AK 47, miệng y hối tôi đi theo ngay. Ba chúng tôi bước nhanh ra khỏi căn hầm chữ A đi đến một cái hầm khác nhỏ hơn có một gã lính ngồi cạnh cái bàn gỗ. Tay gã lính cầm ống nghe truyền tin áp sát vào tai bên phải. Gã đưa cái ống nghe cho ông lớn rồi cầm vào cái cần bên cạnh một hộp máy và quay liền vài vòng. Loại máy truyền tin dùng dynamo quay tay cổ lỗ trong quân đội khối Cộng Sản. Ít phút sau, tôi theo chân ông lớn và Sarek băng qua các vạt cây rừng cùng các tảng đá lên một bờ dốc cao. Đứng trên bờ dốc, ông lớn và Sarek dừng lại chuyền tay nhau cái ống nhòm nhìn ra một hướng thấp thoáng vài chiếc xe đậu xa xa. Tôi quay nhìn khu vực chung quanh, các hầm trú ẩn, bờ đá lô cốt phòng thủ cùng các lỗ châu mai còn sót lại của một căn cứ hay trại lính cũ. |
-
- Duong Nam Anh
- Status:Online
- zodiac:
- Mood:
- Age: 75
- Posts: 11139
- Has thanked: 5596 times
- Have thanks: 5914 times
- Joined: June 29th, 2009, 8:47 am
- Last Visit: Online
- Country:
Re: Con Sóng Dữ.
10 (tiếp theo) Theo con đường khác với lối cũ buổi trưa, tôi đi cùng ông lớn và Sarek ra trở lại mặt đường lộ. Một dãy xe vận tải lớn hiệu Hino-Isuzu của Nhật đang nổ máy, đậu dọc sát lề đường trước mặt tôi. Từng thùng mì gói, thuốc lá thơm 555, bia lon, kẹo bánh cùng đồ hộp được lính Khmer chuyển tiếp từ trên các xe tải này xuống bỏ nằm lăn lóc dưới đất. Nhìn đoàn xe vận tải, chiếc nào cũng ken các cọc cây khá cao để chở thêm hàng hóa. Hàng trên thùng xe hầu hết là mô tô Honda hư cũ, loại xe người trong nước gọi chung cái tên cúp hai bánh nghĩa địa. Chúng được nhập cảng vào nước Khmer từ các bãi phế thải ở Nhật Bản, Đài Loan hoặc Đại Hàn sau khi chạy được quãng đường 5000km. Đoàn xe vận tải vừa từ cảng Kompong Som về. Một gã Khmer to lớn mặc áo thun mỡ gà đến nhìn tôi xong khoát tay ra dấu theo y đi lại chiếc xe đầu. Loại xe ca bin đôi, gã Khmer mở cửa cho tôi trèo lên ngồi vào băng ghế rồi y bỏ đi. Thêm hai người Khmer trèo vào trong ca bin xe ngồi chung băng ghế với tôi. Nhìn bên ngoài, tôi chợt lo khi thấy Sarek và ông lớn cùng gã Khmer áo thun mỡ gà đến cạnh xe nhưng họ không lộ ra thái độ gì. Ông lớn, Sarek và gã Khmer đứng đó trò chuyện với nhau. Chốc lát sau gã Khmer leo lên xe, tôi nhìn ông lớn và Sarek, cả hai mỉm cười rồi vẫy tay từ biệt tôi. Đoàn xe từ từ lăn bánh tiếp tục chạy về hướng Nông Pênh. Xe chạy khá xa tôi mới thật yên tâm. Ông lớn đã đổi ý vào phút cuối và còn giúp tôi có phương tiện để về Nông Pênh. Tạ ơn Thượng Đế. Chuyện đời Sarek kể thêm các giọt nước mắt của tôi đã động lòng ông. Cuộc đời ông chắc từng biệt ly với người thân nên ông đã đồng cảm với hoàn cảnh tôi? Họ tuy dân Khmer nhưng nói tiếng Việt rất rành rọt. Khi gặp tôi, đã vui như gặp được đồng hương nơi xứ lạ nên muốn tôi ở lại với họ lâu dài. Tôi nghĩ họ từng có bạn người Việt và tình bạn giữa họ cùng những người Việt đó phải rất tốt nên họ mới có mối hảo cảm với cá nhân tôi. Nếu sống bình yên êm ả trong một thôn xóm, gặp người như họ để tôi làm bạn thiết cũng điều rất nên. Ca bin xe tổng cộng năm người. Tài xế và gã Khmer áo thun mỡ gà ở băng ghế trước. Băng sau, tôi và một đôi nam nữ khác ngồi chung. Đôi nam nữ nhắm mắt như ngủ vì mệt hoặc đang nghĩ về sự việc vừa xẩy ra cho cả đoàn xe? Băng trước, tài xế và gã Khmer áo thun mỡ gà cũng im lặng. Có lẽ họ biết tôi không nói được tiếng Khmer còn họ cũng không biết tiếng Việt. Ông lớn gửi gấm tôi cho họ sao đây? Muốn bắt chuyện để biết sự vụ nhưng tôi chịu, đành dõi mắt ra ngoài nhìn cảnh vật hai bên đường. Nước Khmer sau khi Việt Cộng rút về chỉ trong một thời gian ngắn, đời sống người dân khấm khá thấy rõ. Khi còn bên quê nhà, người dân Việt chạy xe Honda nghĩa địa nhập cảng từ ngoại quốc về. Có gặp đoàn xe vận tải, tôi mới biết chúng từ các lái buôn Khmer tập trung và chuyển về tiêu thụ bên Việt Nam. Tất cả xe Honda nghĩa địa ở Việt Nam đều một loại tay lái Cánh Én 50 phân khối cylinder. Ở Kompong Som, dân Khmer không thèm dùng loại xe cúp Cánh Én. Đa số họ chạy xe Honda Dream hay tệ hơn thì cũng xe Suzuki 100 phân khối. Có lẽ họ chê Honda Cánh Én vì xe nhỏ và trông không đẹp mắt. Càng về gần Nông Pênh đường lộ càng ít hư hỏng và nhờ vậy tốc độ xe chạy nhanh hơn. Vận tải xa Hino-Isuzu rất tốt, bỏ xa loại xe Kamaz của khối Đông Âu Cộng Sản. Sau chốt kiểm soát đó, đoàn xe không gặp thêm các chốt chận khác của lính Khmer hoặc phe Polpot nữa. Hai bên đường thấy nhiều khu nhà dân hơn trước rồi đoàn xe đi vào một trạm kiểm soát của công an-quan thuế Khmer. Những chiếc xe đò, xe chở hàng Kamaz tôi và Hường gặp hồi sáng sớm ở bến xe Kompong Som đang đậu dọc bên lề đường để chờ nhân viên đến xem xét. Khá đông người Khmer bán hàng rong vây chung quanh xe y như ở các trạm kiểm soát bên Việt Nam. Thấy đoàn xe Hino-Isuzu, vài người bán hàng chạy vội đến ngay. Tiếng họ rao vang vang chung quanh xe nhưng một nhân viên trong bộ đồng phục đã hướng dẫn đoàn xe chạy vào lối riêng khác. Người bán hàng rong không được phép đi theo vào với đoàn xe. Chạy từ từ dọc theo lối đi đến một dãi nhà dài và hẹp nằm cạnh một hàng cây rậm rạp, đoàn xe ngừng lại. Gã Khmer áo thun mỡ gà cùng vài người ở các xe khác xuống xe, đi vào trong gian nhà trình giấy. Chốc lát, cả bọn quay ra, trở về xe và tiếp tục chuyến đi. Ngang qua phi trường Pochentong, vài máy bay sơn trắng dân sự cánh quạt đậu yên trên phi đạo gần hàng rào kẽm gai sát vệ đường. Cảnh trông không khác ở phi trường Tân Sơn Nhứt ngay khu vực Bà Quẹo thuộc quận Tân Bình-Sài Gòn. Gặp phi trường Pochentong có nghĩa Nông Pênh cũng chẳng còn bao xa. Nông Pênh chính là Nam Vang trong tiếng Việt. Hồi còn ấu thơ bên quê nhà, nghe cha tôi kể thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, dân Việt chạy xe mô tô bình bịch từ Sài Gòn sang Nam Vang mua sắm hàng hóa, ăn hủ tiếu, du ngoạn... Đi và về chỉ nội nhật trong ngày nhưng khi đó đang trong các giai đoạn thanh bình của miền Nam VNCH. Đến Nông Pênh lúc 3:45 phút chiều, đoàn xe chạy vòng vèo trong các con phố, những con đường với vỉa hè không khác ở Sài Gòn. Người người bước dạo trên vỉa hè dưới các tàng cây trồng trước cửa tiệm. Xe cộ đó đây chạy ngược xuôi hú còi inh ỏi. Một rạp chiếu bóng trông bề ngoài giống hệt rạp Casino gần chợ Bến Thành cùng những tấm pano quảng cáo phim trước cửa. Sau rốt, đoàn xe chạy vào một sân bê tông rộng với bờ tường vây chung quanh và tắt máy ngừng hẳn. Gã Khmer áo mỡ gà ra dấu tôi rời khỏi ca bin. Nhiều xe vận tải khác đậu xa xa trong sân. Gã Khmer dẫn tôi đến một xe tải khác trong đoàn. Gã chuyện trò với ba người ở xe đó rồi một người trẻ trong số họ tách ra ngoắc tôi theo y ra tuốt bên ngoài cổng. Ra ngoài cổng, gã Khmer trẻ yên lặng nhìn xuôi ngược dòng xe hai bánh đang chạy trên đường như mong chờ ai đó. Chợt gã ngoắc tay, một xe Honda ôm quay đầu ngừng lại bên cạnh. Gã Khmer trẻ hất đầu ngầm bảo tôi trèo lên yên xe. Xe chở ba người chạy lòng vòng trong thành phố rồi ngừng lại cạnh một toà nhà khá lớn. Xuống xe, gã Khmer trẻ lấy tiền trả cho tài xế và ra dấu tôi đứng chờ phía trước của tòa nhà rồi y đi thẳng vào bên trong. Hơn 5 phút rồi 10 phút tôi chờ, vẫn chưa thấy gã Khmer trẻ quay ra. Tài xế xe Honda ôm sốt ruột hỏi vài câu Khmer nhưng tôi lắc đầu, khua tay tỏ ý không hiểu lời y. Rảo vài bước chân, tôi nhìn vào trong tòa nhà. Qua ô cửa kiếng rộng, hàng chữ Hotel de Bayon gắn nổi trên tường dưới ánh sáng đèn chiếu. Gã Khmer trẻ vào khách sạn này làm gì? Các mặt tường khách sạn ốp đá cẩm thạch mầu xanh lá cây cùng cửa kiếng mầu phớt tím bóng lộn trong suốt. Các nhân viên tiếp tân trong đồng phục xanh cúc mạ vàng đang đứng tại quầy trò chuyện với nhau. Chùm đèn trắng lớn buông thỏng từ trần nhà rọi sáng các bụi kiểng trang trí cùng vài bức tranh thật đẹp treo trên tường. Hai khách trọ từ phía trong đi ra nhưng không phải gã Khmer trẻ tôi đang chờ. Quay ra bên ngoài, tôi nhìn sang bên kia đường đối diện với khách sạn. Một công viên nhỏ với các hàng cây các bụi hoa được cắt tỉa thật đều, gọn đẹp. Vài khách du đang chậm rãi tản bộ trên các con đường nhỏ trong công viên và một người già ngồi xem báo ở băng ghế đá. Tôi đế ý đến khối kiến trúc khá lớn hình tròn sơn mầu vàng nằm phía cuối con đường cắt ngang một giao lộ. Không biết nó là chợ hay một trụ sở hành chánh của chính quyền nhưng kiến trúc đó trông khá lạ mắt. Vừa quay nhìn lại bên trong khách sạn, tôi thấy gã Khmer trẻ đi ra cùng với một người đàn ông khác. Trò chuyện với nhau xong, gã Khmer trẻ giơ tay ra dấu từ biệt người đàn ông rồi y leo lên xe Honda ôm vẫn chờ tại chỗ. Xe nổ máy chạy liền ngay, người đàn ông còn lại đến bên tôi, nói: - Chào anh. Anh khỏe không? Mình đi xuống bến Tắc Ca Mau ngay bây giờ nghe. Tôi gật đầu, mỉm cười với ông ta. Nhìn vào đồng hồ đeo tay, người đàn ông như chợt nhớ điều gì nói thêm: "Ồ! Bây giờ còn sớm lắm... Hay chúng ta đi ăn uống cái gì đã rồi tính sau nghe... Với lại, tui với anh cũng chưa biết gì về nhau mà. Phải không? Tui là Danh Ngạnh còn anh tên gì vậy?". Tôi nói tên và nhìn vào khuôn mặt ông. Danh Ngạnh chắc đã trên 40 tuổi, có vóc dáng vạm vỡ, khuôn mặt khắc khổ đen sạm nhưng cười rất tươi với hàm răng trắng đều đặn. Vừa lúc, một xe Honda ôm bỏ khách xuống ngay gần bên đường, ông vội ngoắc chiếc xe lại rồi mặc cả. Tài xế chở chúng tôi đến một khu vực bán hàng ăn uống khá rộng nằm không xa khách sạn Hotel de Bayon. Trời bây giờ chiều hẳn, đèn điện trong các cửa hàng trên đường và trong khu bán hàng đã cháy sáng. Khá đông thực khách đang ăn bữa chiều hay lai rai ba sợi y chang các điểm ăn nhậu bên Việt Nam. Hễ nước càng nghèo thì càng nhiều hàng quán bán đồ ăn uống, một người nào đó đã nói với tôi. Ngẫm nghĩ thật đúng. Mở hàng bán thức ăn, bữa nào rủi vắng khách thì gia đình chủ quán dùng ngay các món bán ế thay cho bữa cơm trong ngày. Danh Ngạnh đưa tôi lên tầng hai một cửa hàng và chọn chiếc bàn ẩn khuất sau bụi dừa kiểng. Ngồi đó, tôi thấy lại xa xa khối nhà lớn mầu vàng hình tròn lúc đứng chờ ở khách sạn. Hỏi, Danh Ngạnh cho biết đó là chợ Ô Sây, một chợ lớn nhất nhì ở Nông Pênh tương tự như chợ Bình Tây trong vùng Chợ Lớn-Sài Gòn. Một hầu gái trong quán tiến đến chào, đặt tờ thực đơn trên bàn. Danh Ngạnh nhìn tờ thực đơn nói tôi tùy ý chọn món. Ngỏ ý muốn ăn hủ tiếu Nam Vang để xem coi tại nơi gốc món này hương vị ra sao nhưng vừa nghe tôi nói, Danh Ngạnh xua tay liền: - Chọn món khác đi anh bạn. Hủ tiếu Nam Vang thường lắm, có gì lạ đâu. Đành để Danh Ngạnh chọn món ăn. Y gọi các món lươn, ốc... và cả bia nữa nhưng tôi nói không uống được bia xin cho thứ khác. Nghe vậy Danh Ngạnh mỉm cười, lắc đầu chê yếu quá vậy. Vừa ăn vừa nói chuyện, Danh Ngạnh hỏi về sự việc của tôi. Vắn tắt tôi thuật lại câu chuyện cho Danh Ngạnh nghe, từ lúc xuống cá lớn ở Vàm Rầy-Hà Tiên cho đến khi bị sa vào tay hải tặc Thái Lan. Những ngày ở đảo hoang cùng đảo Cô Tan rồi phải lang thang trên đường vì không đủ tiền vé trong chuyến xe Kamaz. Gặp toán lính Sarek cùng với ông lớn rồi được họ giúp cho quá giang đoàn xe Hino-Isuzu về Nông Pênh và sau cùng gặp được y. Nghe xong chuyện tôi kể, Danh Ngạnh ngồi yên trong chốc lát rồi nói: - Tui nghĩ anh quá sức hên là hên khi gặp Sarek. Nói thật, lúc lang thang trên đường nếu gặp bọn PolPot thì chưa biết mạng anh sẽ ra sao? Cầm chắc chúng sẽ kéo anh vào rừng rồi giết anh ngay. Giết chết tươi đó nghe. - Ghê vậy. Mình có làm gì họ đâu anh? Tôi hoảng hồn. - Vậy! Chúng muốn giết thì giết, muốn tha thì tha. Chả biết đâu mà lường trước được. Tụi lính Polpot, có thằng rất thù ghét người Việt nhưng có đứa lại không. Ai xui xẻo mới gặp mấy thằng hung thần đó... Ngay cả người Khmer tụi tui nó cũng không tha. Mà nghĩ cho cùng cũng do số phần cả thôi anh. Dứt câu, khuôn mặt Danh Ngạnh trầm ngâm lộ vẻ buồn buồn. Y ép tôi ăn uống cho mạnh vào để bù những ngày thiếu thốn vừa qua. Ăn xong, chúng tôi rời quán, đón một xe Honda ôm xuống bến tàu đò chạy đường sông Châu Đốc-Nông Pênh. Bến đò có tên Tắc Ca Mau hay còn gọi bến đò Cây Nhãn. Trời bắt đầu tối nhưng vẫn rõ cảnh nhộn nhịp trong bến tàu. Mấy chục ghe bầu khá lớn nằm liền bên nhau ở sát cạnh bờ. Người lên bờ, kẻ xuống ghe nườm nượp. Bảng hiệu ở các điểm giao dịch, các tiệm ăn trong bến và dọc sát bờ tuy viết bởi ba ngôn ngữ Khmer-Tàu-Việt nhưng tai tôi chỉ nghe lời trò chuyện, gọi nhau oang oang bằng tiếng Việt. Hình ảnh bến tàu, tiếng rao của dân bán hàng rong cùng tiếng phu khuân vác ơi ới khiến tôi có cảm tưởng đang đứng ở một bến đò nào đó bên quê nhà. Thấy tôi và Danh Ngạnh, vài người chạy vội đến nhao nhao: - Anh Hai đi ngay bây giờ hay đi chuyến kế để thằng em lo vé cho. Đệ tử có vé tốc hành đây, lấy một hay hai vé hả các huynh? Danh Ngạnh lắc đầu từ chối lời mời của các tay cò bán vé. Ông im lặng, đi dọc theo cạnh bờ nhìn vào các ghe bầu rồi đột ngột dừng lại ở một chiếc và bảo tôi đứng chờ. Danh Ngạnh theo tấm ván gỗ bắc thẳng từ trên bờ xuống dưới ghe. Cơn triều đang lên kéo theo một mùi tanh tanh của nước của cá và bùn non trong cơn gió bốc thẳng vào mũi tôi. Cái mùi của bến đò thủy không lẫn vào đâu được. Nhìn về hướng Tây, sao Hôm đã xuất hiện lấp lánh trong bầu trời chập choạng tối. Chợt nghe tiếng gọi, tôi vội quay đầu nhìn lại ghe. Danh Ngạnh ngoắc tay ra dấu cho tôi bước xuống. Chầm chậm từng bước tôi lần theo tấm ván, những giề lục bình cùng rác rưởi nổi rập dềnh theo con nước sát cạnh thân ghe. Một phụ nữ từ phía sau lưng Danh Ngạnh bước ra nhìn mặt tôi, hỏi: - Cậu này đây hả? Để tui lo cho, anh Hai cứ yên tâm. |
-
- Duong Nam Anh
- Status:Online
- zodiac:
- Mood:
- Age: 75
- Posts: 11139
- Has thanked: 5596 times
- Have thanks: 5914 times
- Joined: June 29th, 2009, 8:47 am
- Last Visit: Online
- Country:
Re: Con Sóng Dữ.
11 (tiếp theo) Chị phụ nữ vóc dáng cao ráo nước da bồ quân, người quấn xà rông đen cùng áo bó sát thân. Chị cười thật tươi phô hàm răng trắng, quay lưng đi trước dẫn Danh Ngạnh và tôi vào bên trong lòng ghe. Mái tóc chị đen bóng mượt, kẹp thành một lọn dài sau lưng phảng phất mùi dầu dừa. Ghe bầu ở bến đò Tắc Ca Mau thân to, rộng, dài và chia ra ba tầng. Tầng dưới và tầng trên cùng làm nơi chứa hàng hoá dân buôn. Tầng giữa, nơi khách đi ghe nghỉ ngơi. Hàng chục dân buôn nam nữ ngồi hoặc nằm trong các tấm võng căng sát cạnh nhau, mắt họ dán vào màn hình TV lớn đang chiếu một phim Video quyền thuật Hồng Kông. Đến một tấm võng bỏ trống, chị quay qua nói với tôi: - Cậu trẻ nằm ở võng này nghe. Muốn đi vệ sinh thì ra thẳng phía đằng sau ghe. Cần gì thì cứ hỏi tui nha cậu, đừng có ngại. Lúc nào mệt cứ nằm nghỉ như ở nhà. Danh Ngạnh cho tôi biết ghe sắp sửa rời bến, ông tiếp: "Sớm mai anh sẽ đặt chân lên Châu Đốc. Mọi việc sẽ ổn, tui về nghe". Danh Ngạnh vỗ vai tôi từ biệt. Đi theo ông ra phía bên ngoài phần mép chiếc ghe bầu nơi đặt tấm ván nối lên bờ, tôi lí nhí nói lời cảm ơn nhưng Danh Ngạnh chỉ khoa tay không trả lời. Đảo mắt nhìn những người khách đang nằm hoặc ngồi trong các chiếc võng ở lòng khoang ghe, Danh Ngạnh miệng cười tủm tỉm, cúi đầu nói nho nhỏ vào tai tôi: - Giấc khuya thấy mấy người ở đây làm trò gì đừng có ngạc nhiên nghe cha nội. Tôi im lặng nhìn Danh Ngạnh, ông ta nói vậy là sao? Thấy tôi chưa hiểu lời vừa nói nhưng Danh Ngạnh chỉ cười cười, vẫn không cho biết rõ. Tôi nhìn kỹ mặt Danh Ngạnh, lòng nhủ thầm ông quá tốt với tôi như những người Khmer Sok Sammath, ông lớn. Những chuyện kể về mối thù truyền kiếp giữa người Việt và người Khmer. Hình ảnh đoàn người Khmer tay lăm lăm vũ khí, mắt trắng dã man rợ đuổi bắt rồi tàn sát người Việt trong chuyện kể Cáp Duôn đã ít nhiều tan biến trong tôi. Chị phụ nữ tên Ba từ trong đi ra đến gần bên, nhìn hai chúng tôi trong yên lặng. Danh Ngạnh đến trước mặt tôi, đặt hai tay lên bờ vai, nói thân mật: - Sống ở đâu bên Việt Nam vậy, em trai? - Cần Thơ anh. Tôi buột miệng trước mặt hai người Khmer. Nghe tôi trả lời, mắt Danh Ngạnh sáng lên: - Cần Thơ. Ồ! Chỗ nào vậy? Anh từng sống một thời gian ở Cần Thơ đó. Trời ơi! Tại sao tôi lại nói dối với Danh Ngạnh. Chút ân hận, mắc cỡ trong lòng tôi. Thói quen luôn dấu diếm, nói dối nói trí trá loanh quanh trong xã hội cộng sản bên quê nhà đã lậm vào người tôi rồi. Nói dối cả lúc không cần thiết và ngay với các ân nhân của mình. Danh Ngạnh vừa đổi cách xưng hô, coi tôi như đứa em trai ông. Tôi bối rối và một thay đổi nho nhỏ trong tâm hồn, tôi biết mặt đã đổi sắc. Mong trời trong lúc xẩm tối, Danh Ngạnh và chị phụ nữ không thấy nét biến đổi trên mặt để biết tôi vừa nói láo với họ. Danh Ngạnh mỉm cười, tiếp tục câu chuyện: - Trước đây anh sống gần bến Ninh Kiều. Còn em ở đâu Cần Thơ, có gần đó không? Phóng lao phải theo lao, tôi tiếp tục vì đã lỡ: "Nhà em ở đường Mậu Thân anh à". - Ồ! Anh nhớ rồi. Nhà cửa chỗ đó khó kiếm lắm đa. Đánh số lộn xộn tùm lum hà. Nói xong câu, Danh Ngạnh chợt nhìn đồng hồ đeo tay nên vội quay đầu bước theo tấm ván lên bờ và nói vói lại: "Chị Ba đây sẽ lo cho em. Anh về nghe, chúc em thượng lộ bình an". Danh Ngạnh dần dần khuất khỏi con đường sát cạnh các ghe bầu. Trời đã tối nhưng sinh hoạt của bến đò vẫn nhộn nhịp. Tiếng máy đò vang vang đây đó cùng với tiếng gọi nhau của thương lái và phu khuân vác. Cứ vừa có ghe xuất bến thì một ghe khác ở đâu cặp vào thế chỗ liền. Tấm ván được phu khuân vác trên bờ kéo ra khỏi ghe bầu. Tiếng máy nổ lớn hơn, ghe từ từ chạy lui ra xong quay trở đầu vòng lại để bắt đầu chuyến hải hành. Tôi sắp sửa rời xa Nông Pênh, một cảm giác luyến tiếc trong lòng. Phải chi có tiền bạc cùng dư dả thì giờ chắc tôi sẽ ở lại để đi xem Chùa Tháp hoặc đi thẳng về hướng Tây, làm một chuyến viếng thăm hai ngôi đền cổ Angko Vat-Angko Thom nổi tiếng. Tôi quay vào trong đi lần ra phía đuôi ghe, một khoảng trống khá rộng sau buồng lái được dùng làm chỗ bán hàng ăn uống. Chị Ba cùng một bà lão Khmer đang lui cui nấu món ăn hoặc pha nước uống cho khách buôn trong ghe. Thấy tôi, chị hỏi muốn uống cà phê nước ngọt hay ăn uống gì để chị làm. Tôi mỉm cười với chị, lắc đầu nói vừa mới cùng Danh Ngạnh ăn xong trước khi xuống ghe nên bụng còn no. Ở đây có buồng tắm và phòng vệ sinh cho khách buôn và thấy sẵn nước, tôi vội vàng rửa ráy qua loa thân thể rồi thay bộ quần áo khác xong giúp chị Ba mang cà phê hoặc thức ăn cho khách buôn trong võng. Các người Khmer biết tiếng Việt tôi đã gặp như Sok Sammath, Sarek, ông lớn, Danh Ngạnh cũng như chị Ba đều nói bằng giọng miền Nam vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tôi chưa gặp người Khmer nào nói tiếng Việt bằng giọng miền Trung hoặc miền Bắc. Khi đã rảnh tay, chị Ba cho biết chị tên Thạch Sa Thi, người gốc Trà Vinh. Nghe chị hỏi về quan hệ với Danh Ngạnh, từ từ tôi thuật câu chuyện từ đầu đến cuối. Xong, chị nói: - Lúc đầu ổng xuống dưới ghe nhờ giúp cho cậu về Việt Nam được an toàn, tui cứ nghĩ cậu trong đường dây làm ăn của ổng rồi gặp chuyện rắc rối gì đó với công an nên phải về Việt Nam gấp gáp. Ai ngờ! Chị Sa Thi kể Danh Ngạnh trước đây nằm trong nhóm đưa người Việt và cả người Khmer vượt biên đường bộ sang đất Thái Lan. Tổ chức đi lọt được nhiều lần nhưng trong chuyến lo cho vợ con và bản thân của Danh Ngạnh thì lại bị kẹt. Đám Việt Cộng và bọn Khmer đỏ dắt đường vì trục trặc ăn chia sao đó đã bỏ khách giữa chừng. Vợ con của Danh Ngạnh mất tích chung với đám khách Việt trong rừng sâu Battambang. Danh Ngạnh bị bắt nhưng sau đó đường dây lo lót cho ông ra khỏi nhà giam. Khi làn sóng vượt biên giảm bớt, nhóm làm ăn của Danh Ngạnh xoay qua bắt mối tiêu thụ hàng tàu viễn duyên từ cảng Kompong Som về. Nghe chuyện, tôi hiểu tại sao Danh Ngạnh lộ vẻ buồn khi ở quán ăn và vì chung cảnh ngộ nên ông đã sốt sắng giúp đỡ tôi. "Do số phần cả thôi", tôi nhớ lại lời Danh Ngạnh nói ở quán ăn lúc chiều. Ghe chạy đều đều, êm ả trong đêm tối. Thỉnh thoảng kéo từng thôi còi dài khi gặp ghe chạy ngược chiều hoặc vượt mặt một chiếc khác. Ngang những khúc sông gần khu thị tứ, thấy rõ phố xá cùng xe cộ chạy gần bờ dưới ánh sáng của dàn đèn đường. Về khuya bớt việc, chị Sa Thi bảo tôi đi nghỉ cho khỏe vì phải gần sáng ghe mới đến bến xuống. Đung đưa trên võng, tôi quan sát những khách thương hồ chung quanh trong ánh sáng lờ mờ của màn hình TV. Võng đàn ông võng phụ nữ, người nằm kẻ ngồi xen kẽ căng sát cạnh nhau đang xem một đoạn phim Video ma Hongkong. Vừa xem họ vừa nói chuyện với nhau về công việc làm ăn hoặc về những đoạn tin thời sự. Gió sông thổi luồn vào khoang ghe thoảng mát không một tiếng muỗi vo ve. Thấy phim chiếu dở, tôi đổi chiều nằm trên võng định ngủ. Nằm yên lại nghĩ về Ánh Phương, về hai chị em Hường-Liên. Ánh Phương, Mỹ An cùng các cô gái khác trên tàu Thái ra sao rồi? Khi tàu hải quân của Sok Sammath ghé lại đảo hoang, hai tài công có chịu theo về Cô Tan hay tiếp tục trốn ở lại? Tôi nghĩ về Dũng, thằng Minh và anh Tấn. Họ ở đâu? Từ lúc gặp hai gã cán bộ lãnh sự quán Việt Cộng tới giờ đã được vài ngày chắc người trong đoàn ghe cũng đã về tới Việt Nam. Mong những suy nghĩ của tôi sẽ đúng. Ghẽ đung đu nhè nhẹ võng, ký ức tôi đảo đi đảo lại những chuyện vừa xảy ra. Lúc trưa tưởng phải ở luôn với đám lính Khmer nào ngờ nhờ vậy mà mình lại có mặt trong chiếc ghe bầu tối nay. Mới chiều tối hôm qua tôi và Hường còn ngồi với nhau dưới gốc cây trứng cá ở sân sau nhà nàng chứ có lâu la gì. Hường lấy tay hất mái tóc dài của nàng về đằng lưng, giọng buồn bã: - Em có lúc vẫn muốn đi tiếp nhưng chuyện vượt biên thành công thấy thật khó. Với lại em đi nữa thì gia đình sẽ ra sao? Liên coi vậy nhưng nó vụng lắm còn mẹ em đã yếu hơn trước. Chỉ mong có chuyến nào thật an toàn sẽ cho Cao đi nhưng mà... Hường bỏ lửng câu nhưng tôi biết điều nàng muốn nói. Làm sao biết chuyến đi nào sẽ thật an toàn để mà yên tâm vượt biên? Ngay cả nếu không bị lừa mất vàng thì chưa chắc trên đường đi ghe đã êm xuôi đến được trại tị nạn. Bà cụ đã bộc bạch muốn lo Cao thoát được ra nước ngoài để có tương lai nhưng lại sợ những rủi ro khi nói: "Gia đình tôi chỉ trông vào mình nó, nếu có mệnh hệ gì tôi ăn nói làm sao với ông nhà dưới suối vàng". Hình ảnh của Hường đứng bên vệ đường trong buổi sáng nay khi nàng tiễn tôi và đã chờ cho đến khi xe khuất bóng khỏi bến Kompong Som. Sau lúc đưa tôi mẩu giấy viết vài câu Khmer, Hường trải lòng: - Thân em bây giờ coi như bỏ đi, chỉ nghĩ cho mẹ cho gia đình thôi. Về nhà an toàn, có chuyến mới xin anh cố gắng báo cho em biết để gia đình lo cho Cao đi chung. Giả dụ nếu anh về, gặp khó khăn không yên với công an thì... chạy sang đây với gia đình em nha anh Vũ. Chỉ biết nói vậy thôi, em chúc anh mọi việc sẽ may mắn. Chưa biết khi về được tới nhà sẽ ra sao với bọn công an khu vực vì chuyến đi của tôi đã khá lâu và điều lo nhất trong ghe có người đã bị hải tặc Thái bắt mất. Tôi chìm vào giấc ngủ lúc nào cũng không biết. Thật lâu sau tôi chợt tỉnh giấc khi chung quanh im vắng cách lạ thường. Mắt tôi nhắm nhưng tai nghe tiếng rên rỉ từ đoạn phim trên màn hình. Chồm người dậy, tôi định bụng rời cái võng để ra phía đuôi ghe đi tiểu. Tôi thấy một việc lạ. Những tấm võng cạnh tôi bây giờ bỏ trống không người nằm. Khách buôn ở các võng đi đâu? Tôi biết ghe chạy chưa tới Châu Đốc mà. Tiếng phụ nữ ở màn hình rên rỉ tiếp. Tôi nhìn lên, phim Video đang chiếu một cảnh con nhà nghèo trong ánh sáng lờ mờ và tôi cũng thấy rõ ràng chuyện đang xẩy ra trong khoang ghe. Từng cặp người ôm nhau trên mặt sàn ghe ngay dưới các tấm võng. Không ai trong số họ thèm để ý chung quanh hoặc xem phim Video nữa. Một cô gái nằm bên dưới thân người đàn ông gần võng tôi chợt hé mắt nhìn lên. Bắt được tia mắt cô gái, tôi vội vàng thụp mình nằm xuống trở lại. Tôi bật cười, hiểu lời Danh Ngạnh trước phút chia tay. Khách thương hồ trong khoang ghe đang tự đóng phim riêng với nhau. Chắc chắn họ không phải vợ chồng và chỉ buôn hàng chung chuyến ghe. Tình nhân mới táo bạo, liều lĩnh như vậy. Đúng dân buôn hàng chuyến biên giới kiếm tiền dễ nhưng cũng dễ bỏ nhau như vài gia đình chạy hàng trong khu phố gần nhà tôi. Thảo nào! Tôi nằm yên xem phim, một cảnh ái ân thật cuồng bạo. Tình dục, món quà tặng của tình yêu có thực dữ dội, mãnh liệt và dung tục như đôi nam nữ đang diễn trong phim? Chỉ chốc lát ngắn ngủi tôi đã thấy chán và nhắm mắt ngủ lại. Muốn ngủ nhưng thực sự thật khó vì tiếng rên rỉ cùng tiếng động chạm xác thịt vẫn vọng đến tai, đã kích thích khiến tôi rạo rực định nhổm dậy khỏi võng để nhìn trộm những cặp người đang quấn chặt nhau dưới sàn buồng. Tôi lại sợ họ bắt gặp tại trận như ánh mắt cô gái vừa rồi nên thôi. Phim Video chấm dứt khá lâu nhưng tiếng động, rên, cười khoái trá vẫn tiếp diễn cho đến khi đèn trong khoang ghe đột ngột bật sáng sinh hoạt mới trở lại bình thường. Thật không khác trong một rạp phim, khách buôn ngồi lại trong võng, ai cũng vẻ mặt tỉnh queo làm như không hề có các chuyện vừa xẩy ra. Tôi rời võng để đi ra phía sau chiếc ghe và khi quay vào, gặp chị Ba đang lui cui sắp xếp các ly tách trong gian hàng. Thấy tôi, chị Sa Thi ngoắc tay dừng lại, nói: - Mình sắp đến trạm kiểm soát hỗn hợp của hai nước. Trước khi đến trạm, ghe sẽ ngừng lại để cho khách xuống và rước thêm các khách mới. Em sẽ phải xuống ngay. Nếu đi tiếp khi đến trạm kiểm soát, công an Khmer và công an Việt Nam sẽ biết em không phải khách buôn. Họ sẽ bắt em ngay. - Trời ơi! Phải rời ghe. Rồi em sẽ đi đâu tiếp? Tôi lo lắng. - Đừng sợ em trai. Đừng sợ! Mọi chuyện chị sẽ lo cho em. Em sẽ đặt chân lên Châu Đốc ngay sáng sớm cho xem. Chị Sa Thi cười rồi tiếp: "Lúc tối ngủ ngon chứ? Chị làm cà phê sữa đá cho em uống nha. Cứ ngồi yên chỗ, khi nào chị nói em xuống thì mới xuống". Khoảng tiếng đồng hồ sau, ghe bầu chạy chậm để đón khách lên hoặc xuống khỏi ghe. Tiếng người rao đổi tiền Việt sang tiền Khmer vang vang trong khoang ghe. Còn duy nhất trong người một tiền giấy 100 Riel mầu đỏ nhưng tôi giữ lại làm kỷ niệm vì giá trị nó quá nhỏ. Chị Sa Thi đến vẫy tay tôi theo chân chị xuống khỏi ghe bầu. Phía trước mặt, trong ánh đèn điện vàng vọt, các xuồng tắc rán nhỏ chở khách đang băng sang phía bên kia sông. Tắc rán nào cũng có một đèn bão treo lủng lẳng dưới mái che. Dẫn tôi đến gần một tắc rán chạy sát bờ, chị Sa Thi gấp gáp dặn: - Em theo tắc rán qua bên kia. Lên bờ rồi hễ gặp xe Honda ôm chạy về bến Cồn Tiên thì mới đi. Khi đến Cồn Tiên, em ngồi chờ khi nào thấy có chẹt thì đón ngay. Chẹt là phà nhỏ, sẽ chở em qua khỏi cồn. Qua được cồn, em đặt chân vào Châu Đốc. Kế tiếp, em đón xe Chành hay nếu gặp Honda ôm càng tốt. Bảo tài xế chở đến chỗ xe đò tốc hành chạy hướng Cần Thơ. Nhớ hết tất cả lời chị dặn chưa? Đây, chị gửi em ít tiền. Em xuống tắc rán bây giờ nha, nó đến rồi. Chúc em đi đường bình an. Xuồng tắc rán cập vào, tôi bước xuống với hai người khác cùng qua sông. Lên được bờ, đám chạy Honda ôm nhao nhao bằng tiếng Việt hoặc Khmer ghé đến tìm khách. Tôi chọn một người chạy xe ôm còn trẻ. Cậu ta phóng xe thật nhanh trong đêm tối chở tôi đến bến Cồn Tiên khi trời vẫn chưa sáng. Các quán ăn trên bờ đã mở hàng thật sớm. Chọn một quán gần bờ nhất để tầm mắt tôi có thể nhìn thấy được chiếc chẹt đón khách như lời chị Sa Thi dặn và ngồi đó nhâm nhi cà phê nóng như khách địa phương bình thường. Dù vậy, tôi vẫn mối lo vì còn ở trong địa giới nước Khmer. Qua được bên kia cồn an toàn hơn nhưng cũng chưa chắc. Trời bình minh dần, chỉ ít phút nữa tôi sẽ đặt chân vào Châu Đốc. Mọi sự sau đó diễn ra đúng như chị Sa Thi dự liệu. |
Wednesday, April 23, 2014
PHẠM ĐÌNH * CHUYỆN VUI BUỒN TÙ CẢI TẠO
Chuyện Vui Buồn « Tù Cải Tạo » Phạm Đình C/N 2011/02
Chuyện
tù cải tạo toàn là đau buồn chứ làm sao mà vui được nhỉ ? Ấy thế mà
cũng có đấy. Tôi xin « nhập đề lung khởi » một chút. Nhiều người đã viết
về chuyện buồn nát ruột ra rồi và viết hay nữa như Hà Thúc Sinh với Đại
Học Máu, Tạ Tỵ với Đáy Địa Ngục ... Thật ra, Đại Học Máu cũng có chuyện
cười ... ra nước mắt và Hà Thúc Sinh ở cùng trại Trảng Lớn (Tây Ninh)
nhưng khác tiểu đoàn với tôi nên tôi không muốn đi sâu vào chi tiết
những việc học tập mà sẽ kể dăm ba chuyện vui lẫn buồn đã thực sự xảy ra
trong khu vực tôi ở tù và theo trí nhớ của tôi. Do đó, chuyện vui lẫn
buồn này khó có khả năng hay cơ may gây cười cho người đọc nhưng cũng
không phải là chuyện nghe qua rồi bỏ bởi vì đó là tất cả sự thật ! Cười
hay mếu, theo thiển ý của tôi, chẳng quan trọng cho bằng sự thật chưa
được ai kể lại, dù có nhiều quyển hồi ký về tù cải tạo ngoài hai quyển
trên, chẳng hạn như Cùm Đỏ, Trại Trừng Giới, Những Bước Chân Tù ... Lý
do đơn giản là tiểu đoàn mà tôi đi tù cải tạo chưa có nhà văn nào chịu
viết ra nên tôi đành phải « múa rìu qua mắt thợ » vậy ! Chính vì « múa
rìu ... » nên tôi cũng chỉ kể lại đơn sơ dăm ba chuyện để góp phần vào
những chuyện tù cải tạo, sợ để lâu quên mất do trí nhớ giảm sút khi mình
ngày càng già đi.
... & ...
Trước khi nạp mình cho « cách mạng », tức là ngày 24/06/1975, tôi
cùng người anh họ đã chuẩn bị cho những ngày tù tội của mình hơi khác
với mọi người. Đó là buổi sáng dậy sớm ra ngồi quán cà phê cạnh nhà làm
một ly xây chừng rồi chở nhau bằng chiếc xe đạp cũ mới mua để lên nhìn
phố xá Sài Gòn một lần chót. (Chiếc xe Honda của tôi thì vẫn đứng nép
bên vách tường bà chủ nhà vì xăng bấy giờ thuộc nhà nước, tư nhân không
dám bán. Chiếc Honda trên cũng có số phận trùng hợp « nạp mình » giống y
như tôi sau đó khi rơi vào tay một y sĩ cán bộ !). Tôi không tin mình
sẽ về đúng kỳ hạn theo thông cáo của Uỷ Ban Quân Quản. Chẳng hiểu đó có
phải là do tôi bi quan hay có linh cảm về một tương lai bất trắc ở phiá
trước nên tôi đành hờ hững đạp xe dạo quanh phố phường xem như là lần
cuối cùng. « Cuối cùng cho một tình yêu » ... tự do đã mất chăng ? Đến
chiều, tôi mới chạy đến nhà bà chị họ lấy một lon Guigoz đựng ruốc gồm
đủ thứ hầm bà lằng như thịt, đậu phụng, gừng ... mà chị dặn mấy ngày
trước rồi lửng thửng dẫn xác đến địa điểm tập trung là một vận đồng
trường ở đường Nguyễn Kim. Đang ngồi mơ mơ màng màng tựa lưng vào tường
đến nửa đêm, bỗng tôi bị đánh thức dậy cùng với mọi người để lục tục xếp
hàng lên cả chục xe Molotova bít bùng đợi sẵn ở bên ngoài !
Chẳng ai đoán nổi xe sẽ chở đi đâu vì xe bị bịt kín và hai vệ binh lăm lăm cò súng ngồi sau cùng.
Đoàn xe chạy vòng vèo qua không biết bao nhiêu con đường đến tờ mờ
sáng, người tù cải tạo mở mắt ra mới biết là mình đang ở trong trại
Trảng Lớn, một căn cứ quân sự cũ, trông hoang vu đổ nát.
Thời gian đầu nhập trại có lẽ là giai đoạn hoang mang nhất của người
tù cải tạo. Hoang mang càng ngày càng tăng lên mãnh liệt, căn cứ vào
thông cáo của Uỷ Ban Quân Quản là mang theo lương thực đủ dùng trong 10
rồi 30 ngày. Hoang mang cực độ là phải vì trước đó hạ sĩ quan và binh sĩ
bị gom lại đi học tập 3 ngày ở phường đều đã được trở về nhà một cách
phấn khởi "hồ hởi". Bây giờ người tù cải tạo mới bật ngửa ra đó chỉ là
cái “mánh” để gom vào lưới toàn bộ sĩ quan, cán bộ chế độ cũ. Tuy thế,
sự hoang mang cũng bị hạn chế vì những lý do khách quan. Người tù cải
tạo buộc phải lao động ổn định nơi ăn chốn ở mới rất mệt mỏi, không
những cho mình mà cho cán bộ quản giáo tiểu đoàn, trung đoàn ... Tối về,
họ còn phải họp tổ để kiểm điểm, rút ưu khuyết điểm và đề ra phương
hướng khắc phục. Không khắc phục sao được khi chẳng có nhiều dụng cụ nào
như búa, kềm, cuốc, xẻng ... may lắm chỉ có vài ba cái thì làm sao hoàn
thành được chỉ tiêu công tác. Không đinh thì dùng kẽm gai cắt ra rồi
tán nhọn một đầu làm đinh. Dây kẽm thì dễ hơn, chỉ gở gai ra là làm dây
để cột. Quanh đi quẩn lại là lao động mệt phờ người rồi họp tổ làm rã
rời cả xác lẫn hồn khiến tù cải tạo không còn thì giờ nhiều để hoang
mang ... “toàn thời” như trước nữa. Đã thế, ăn uống quá thiếu thốn không
đủ sức lao động nên cái ăn là một ám ảnh kinh hoàng. Ai cũng chú ý đến
việc ăn, thậm chí so đo từng bó rau úa lá, từng miếng cơm cháy cho Đội,
cho Tổ của mình. Lý do cũng dễ hiểu là để có sức cầm cự, khỏi bỏ mạng ở
trại tù cải tạo trước khi được thả về với gia đình. Chính vì thế mà ăn
không có gì, tôi vẫn nuốt được và đôi khi cũng cảm thấy ngon. Tại sao ?
Có lẽ là có yếu tố tâm lý, triết lý trong đó. Ăn để tồn tại chứ không
phải tồn tại để ăn !
Lao động một thời gian, tù cải tạo cũng quen dần những việc trước đây
chưa ai từng mó đến. Lúc này người nào cũng mong đến ngày học tập, chứ
lao động hoài cũng chán. Học tập xong mới có ngày trở về, dù không ai
biết rõ học tập tốt là như thế nào để được về sớm như cán bộ lải nhải
« học tập tốt sẽ về sớm ». Câu trên nằm ở đầu môi chót lưỡi của cán bộ
quản giáo nhiều nhất là khi tù cải tạo bắt đầu khai lý lịch trên cái gọi
là bản lý lịch trích ngang. Thôi thì phải khai từ đời ông bà nội, ông
bà ngoại đến cha mẹ mình và của vợ. Họ đã ở đâu, làm gì, nếu chết thì
khai rõ do nguyên nhân nào mà họ hết muốn sống ... ? Khai không những
anh em ruột mình và của vợ mà còn cả những anh em ruột của cha mẹ mình
cùng con cái của họ nữa. Riêng quan hệ bạn bè thì ai dại gì mà khai, dù
có muốn « thấy sang bắt quàng ... » đi nữa, vì chẳng ai biết rõ họ cách
mạng thật hay giả lúc mình ở tù. Nhờ khai lý lịch mới biết thêm học tập
tốt là thành khẩn khai báo tất cả mọi liên hệ của mình để cách mạng
tạo điều kiện cho về sớm và giúp trở thành người tốt. Cũng có người mắc
mưu này nên phải nhường anh em khác về trước mình ... vài cuốn lịch !
Sau một thời gian, có lẽ hơn 1 năm khăn gói đi tù cải tạo ở trại
Trảng Lớn, một hôm bỗng tôi khám phá ra mình yếu sức rõ rệt khi tôi
không thể nào kéo gàu nước từ giếng lên một cách dễ dàng như nhiều lần
trước đó. Ban đầu, tôi cảm thấy như đôi tay của mình hoàn toàn mất hết
sinh lực, mềm đi, không thể co duỗi mạnh mẽ như cũ và hai chân chẳng
những không bám chắc được nền đất mà còn không thể dựa chặt vào thành
giếng để kéo gàu nước lên. Tôi đành để gàu không mà kéo lên từ từ, từng
đoạn. May là từ đáy đến miệng giếng không cao lắm. Tôi sợ hãi thực sự,
tưởng đời mình chưa gì đã tàn trong ngõ hẹp và cố gắng suy nghĩ nguyên
nhân tại sao tôi bị như vậy, nói đúng hơn là cái triệu chứng tôi đang
mắc là do bệnh gì mà có. Nhiều anh bạn cũng đã từng than vãn với tôi về
những triệu chứng như phù thủng, nặng và yếu chân tay ... nhưng bây giờ
chính tôi cũng bị một ít triệu chứng của bệnh beriberi như họ vậy. May
mắn là tôi không bị ghẻ lở như người khác. Đó là hai bệnh phổ biến mà
hầu như ai cũng mắc phải. Dù lúc ấy, tù cải tạo chưa được phép thăm nuôi
nhưng được phép nhận quà trong đó có thuốc trụ sinh, sinh tố ... nên
người nào được tiếp tế kịp thời thì có cơ may chữa lành còn anh nào chưa
được tiếp tế thì xin nhà bếp ban “ơn mưa móc” là cho nước vo gạo để trị
và rồi bệnh tôi cũng được khống chế. Duy có bệnh ghẻ thì nhiều anh cũng
phải gẩy đờn tịch tình tang dài dài vì con cái ghẻ hè nhau tấn công cơ
thể người tù trên ... mặt trận rộng. Có anh trèo lên nóc hầm tránh pháo
kích để tự điều trị cho thoải mái, sợ phô « của quý » ra làm « công xúc
tu sỉ » chăng ? Liều thuốc ... thần dược trước mắt hồi đó là thuốc súng
(có sẵn rải rác trong căn cứ quân sự Trảng Lớn) vì xem như nó có thể
thay thế cho lưu huỳnh nên anh nào anh nấy lo ... nạp thuốc từ trên cao,
vừa kín đáo vừa mát mẻ ! Thuốc trừ muỗi cũng là thần dược, theo lời một
số ... nạn nhân ghẻ !
Tất nhiên, tôi vốn có bệnh viêm xoang mãn tính từ bé thì không kể vì
tôi « chung sống hoà bình » với bệnh này lâu rồi, nó thường gây phiền
nhiễu, mà chẳng nguy hiểm gì ngay tức thời. Tôi chỉ sợ mình không đủ sức
lao động để sống sót. Đi tù thì cùng lắm ngồi gỡ hết vài tấm lịch là
biết ngày về chứ đi tù cải tạo thế này thì không án, hạn kỳ mơ hồ, chẳng
biết đâu mà mò ! Lo quá cũng không giải quyết được gì, lại dễ bị bệnh
thì khốn. Thôi thì ai cũng đành phải đổ lỳ ra mới sống nổi. Có anh còn
đề ra triết lý gói gọn trong bốn chữ « Đến đâu hay đó » ! Hình như những
người bi quan can đảm đã chọn cho mình mỗi người một cách kết liễu cuộc
đời ngay trong năm đầu tiên. Có một anh dược sĩ chế chất nổ để tự sát.
Có anh tự cho phép mình ra trại khi hết hạn kỳ tập trung của Ban Quân
Quản. Vệ binh gác cổng đuổi vào cũng cứ điếc không sợ súng mà bước, thế
là súng nổ và anh từ giã cõi đời có lẽ theo cách anh đã tự chọn từ
trước. Lại có anh coi như không có hàng rào kẽm gai mấy lớp nên đã lầm
lủi vượt qua lúc trời tối và mìn nổ thì xác anh tung lên phơi hàng rào
sáng hôm sau. Người tù vượt ngục Ngô Nghĩa tìm cái chết trước một đội
hành quyết là trường hợp nổi tiếng nhất đã được Hà Thúc Sinh ghi lại
trong Đại Học Máu. Có thể nói Trại Trảng Lớn là nơi tập trung hầu hết
thành phần đủ loại chuyên môn vào lò cải tạo. Bộ trưởng Bộ Chiêu Hồi
HVC, Thống đốc Ngân hàng Quốc gia LQU, khá nhiều giáo sư đại học, bác
sĩ, luật sư, nhà văn, ký giả, kỹ sư ... nghĩa là hầu như toàn bộ tinh
hoa VNCH. Thế nhưng cũng có dăm ba anh thuộc vào diện ... dở khóc dở
cười như bị tố cáo là CIA, dù chỉ là người câm (bẩm sinh) quét dọn trong
Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát hoặc mang lon sĩ quan giả để cua gái nên bị phường
gửi vào trại học tập cho ... bỏ ghét, có lẽ để cho anh chàng đền cái tội
đã lếu láo cuỗm mất người đẹp của cán bộ nằm vùng bây giờ làm lớn chăng
? Theo một hồi ký tình cờ tôi đọc được, có anh tự xưng là Trung Tướng
Tư lệnh Sư Đoàn 23A Bộ Binh (?) cũng bị tù cải tạo ở ngoài Bắc theo diện
Sĩ quan cấp Tướng ! Tên anh ta là Nguyễn Văn Huệ không hề có tên trong
hàng tướng lãnh VNCH. Đúng là chuyện khó tin mà có thật !
Tiểu đoàn tôi nghe nói có rất nhiều bác sĩ nhưng oái oăm thay, Đội
tôi đốt đuốc không tìm ra thầy thuốc nào cả ngoài tôi. Dược sĩ, nha sĩ
thì có nhưng họ có lý do hợp lý để từ chối nên tôi đành phải « ăn cơm tù
... và vác ngà voi ». Tuy công việc này chỉ là dẫn người có bệnh lên
cho y sĩ cán bộ khám bệnh nhưng thực ra là xin thuốc gồm một loại thuốc
tây độc nhất là Aspirin trị ... bá bệnh ! Đau đầu hay đau bụng gì cũng
dùng Aspirin tuốt tuồn tuột ! Đúng là thần dược (?) Những anh tù nào
chẳng may cần thuốc đặc trị thì đành phải dùng KaPemycin vậy ! Tức là
thuốc trụ sinh có tên đặc biệt là « Khắc Phục » ! ! ! Dẫn bệnh nhân xong
(1- 2 lần /tuần) là về làm đủ thứ việc linh tinh trong Đội. Nếu được
phụ trách về y tế thôi thì sướng quá, chẳng phải là việc nặng mà chỉ
nặng khi một lần tôi đứng đực mặt ra để nghe y sĩ cán bộ chưởi những lời
nặng như búa bổ xuống đầu mình. Nguyên lúc bấy giờ, tiểu đoàn yêu cầu
các đội báo cáo cho họ biết nguyện vọng về thuốc trị bệnh của cải tạo
viên. Với sự cố vấn kiểu « quân sư quạt mo » của vài người, tôi bèn viết
một tờ kê khai hơn chục loại thuốc dài như sớ Táo quân và chỉ ký tên
đàng hoàng ở phía dưới (không dám đóng dấu !) thế mà ông y sĩ bộ đội nổi
giận nặng lời cho rằng tôi có tội bôi bác cán bộ, bôi bác cách mạng !
Anh vào đây học tập cải tạo mà sao dám bố láo bố lếu viết chêm vào nhiều
chữ nước ngoài như thế ? Muốn viết tiếng nước ngoài thì phải đánh vần
ra tiếng VN. ta mà viết để cho trong sáng rõ ràng ! Anh cố tình bôi bác
vì đã đánh giá thấp khả năng chữa bệnh của cán bộ cách mạng. Đế quốc Mỹ
« giàu mà không mạnh » còn thua, các anh là cái thá gì ! Thật ra, họ giả
vờ làm như quan tâm đến sức khoẻ tù nhân vì tình trạng quá khan hiếm
thuốc, còn báo cáo chỉ là hình thức. Cũng may cho tôi, sau này các đội
tổ chức lại sau vài đợt biên chế nên tôi đã phải « tấm lòng trinh bạch
từ nay xin chừa » ! Còn tiểu đoàn cũng có y sĩ cán bộ mới là một người
Tày dễ chịu hơn nhiều và chính anh này chẳng biết tại sao lại biết tôi
có chiếc xe Honda mà đến hỏi gạ mua. Suy nghĩ mãi, tôi mới sực nhớ ra là
mình có kê khai tài sản trong mục liên quan “đặc quyền đặc lợi” của tờ
khai lý lịch trích ngang ! Khôn thật !
Chỉ năm đầu trong gần 3 năm nằm tù cải tạo, tôi mới biết duy nhất một
lần có lễ Giáng Sinh sắp diễn ra ở bên ngoài trại tù. Chuông nhà thờ ở
xóm đạo Cao Xá không xa Trảng Lớn bao nhiêu vọng về nghe rõ những hồi
chuông vừa quen thuộc vừa xa vắng làm tê tái cõi lòng ! Tê tái cũng phải
vì năm đó, thời tiết bổng trở lạnh hơn hẳn những mùa đông trước đây,
theo lời những anh bạn từng đóng quân ở Tây Ninh. Đêm Noel, nằm vắt tay
lên trán, tôi trằn trọc không sao ngủ được, một phần vì chỉ còn dăm ngày
nữa là hết năm. Chung quanh mình cũng có vài anh đã ngáy ầm lên hết sức
vô tư nhưng phần lớn là nói chuyện tầm phào làm « một đêm không ngủ »
cho qua lễ Giáng Sinh. Lan man từ chuyện nọ nhảy chuyện kia lung tung,
có lúc bàn ra tán vào chuyện đèn sách du học ... Tây (Ninh) mà « sinh
viên » có người từng là giáo sư thực thụ, giáo sư thỉnh giảng ... ở
ngoài đời. Mấy anh « quản giáo » cũng rét nên có anh phải xử dụng khẩu
súng để giương oai nói cứng ta đây bóp cò súng mà bắn kẻ thù thì chưa hề
run tay bao giờ ! Trí thức đã từng bị Đảng ta ưu tiên trù dập hồi Cải
Cách Ruộng Đất (Trí phú địa hào : đào tận gốc, trốc tận rễ) còn ngo ngoe
làm gì được cơ chứ ? Nói một cách công bằng, tinh thần phản kháng của
trí thức miền Nam, dù bị tù tội, vẫn chưa hoàn toàn bị huỷ diệt mà âm
thầm tồn tại dưới hình thức châm biếm. Tôi nhớ lúc trại được lệnh ăn
mừng ngày lễ lớn 02-9-1975 Ban quản lý trại mua sơn về cho tù cải tạo vẽ
một pa nô rất lớn, trên đó viết hàng chữ « Không có gì quý hơn độc lập
tự do ». Anh bạn phụ trách việc sơn đã bỏ dở nửa chừng ... xuân hai chữ
« độc lập » làm cho câu khẩu hiệu biến thành « Không có gì quý hơn đô
la » ! (Thật là một câu tiền định đã tiên tri mấy chục năm tình hình xã
hội VN. hiện nay !). Khi cán bộ xuống kiểm tra, anh bạn nói chận trước
sơn hết nên chưa hoàn thành xin cán bộ phải đi mua gấp để sơn cho kịp
ngày mừng lễ, dù rõ ràng tên cán bộ đã nhìn thẳng vào từng chữ khẩu hiệu
mà không kịp “lên lớp” chưởi mắng gì vì thời hạn mừng lễ đã « khẩn
trương » quá rồi. Có lẽ tên cán bộ sợ không đạt chỉ tiêu trên giao thì
sẽ mất cơ hội lập thành tích cá nhân hơn là quát mắng tù cải tạo thì
phải ?
Để tránh bị lên án kém tiến bộ, có anh trong khi thảo luận lại dựa
vào lời lẽ của quản giáo để nói “trả miếng” chơi. Chẳng hạn quản giáo đã
phóng đại cách tuyên truyền của miền Nam khi cho rằng VC không phải
người mà là con quỷ có đuôi. Anh bạn tù liền đưa ra một hình ảnh để mọi
người có thể hình dung là khi bị lụt ngập nước, chuột phải tìm nấp ở
những hang cao hơn, còn khô ráo, nhưng cuối cùng xoay trở cho lắm vẫn
không tài nào giấu được cái đuôi của mình thò ra trong hang (nghĩa là
vẫn « giấu đầu lòi đuôi ») ! Tôi không biết quản giáo có biết thâm ý của
anh ta không nhưng một anh bạn khác lại bị “dũa” thê thảm khi anh này
có lẽ muốn bênh vực cho việc cách mạng nói đi học tập 10 ngày đến 1
tháng mà đến nay chưa cho ai về cả. Anh ta biện hộ việc này cũng như
việc một bà mẹ trả lời cho đứa con nhỏ tuổi của mình khi nó hỏi « em con
sinh ra từ đâu hả mẹ ? » thì người mẹ tất nhiên sẽ nói qua quít cho
xong nhưng xem ra vô hại là « em con sinh ra từ nách » ! Thế là quản
giáo bắn ngay một tràng ... liên thanh nào là bà mẹ đó đuổi Pháp, Mỹ quá
đà đã chạy vào Nam năm 1954, nào là bà mẹ nói láo để lừa bịp đó không
phải bà mẹ yêu nước mà là phản động ... ! Chưa chắc anh này muốn bênh
vực nhưng muốn nhắc cho quản giáo biết là nói thật tốt hơn nói láo ngàn
lần chăng ? Vui nhất là một anh tự nhận là cháu nhà thơ Bùi Giáng lên
phát biểu. Sau khi nói cho đúng « thủ tục », anh ta xin phép đọc lên hai
câu thơ Lục Bát :
« Tôi ưa kiếp sống lang thang
Cà phê buổi sáng, khoai lang buổi chiều ! ».
Cà phê buổi sáng, khoai lang buổi chiều ! ».
Trong khi cả hội trường cười tán thưởng ... sự thành thật của anh thì
quản giáo chụp lấy micro oang oang chỉ trích phủ đầu là tư tưởng của
tàn dư Mỹ nguỵ độc hại thế này mà các anh không nhận ra à ?
Quản giáo trịnh trọng phân tích hai câu thơ như một nhà phê bình văn
học chính hiệu ... bà lang trọc ! Đúng là bọn đế quốc chống cộng tinh vi
và nham hiểm thật ! Kiếp sống lang thang là của ai ? Là của kẻ ăn bám,
không lao động, vô công rỗi nghề rồi nói xấu cách mạng. Bây giờ mơ tưởng
như thế là lạc hậu, phản động ! Tại sao cà phê buổi sáng và khoai lang
buổi chiều ? Đây là kiểu nói xỏ xiên, bôi đen, xuyên tạc cách mạng. Buổi
sáng có ý nói chế độ nguỵ quyền cũ thì các anh được thảnh thơi
ngồi uống cà phê còn buổi chiều ám chỉ chế độ cách mạng các anh chỉ được
ăn khoai lang, nghĩa là sống khổ cực hơn thời trước. Ý đồ của các anh
rõ ràng quá nhưng không qua mặt được cách mạng chúng tôi đâu. Đừng hòng !
Anh này phải được giáo dục thêm để cải tạo thành người tốt XHCN. Tôi
nhớ về sau người cháu của thi sĩ Bùi Giáng bị biên chế đi trại cải tạo
khác trong đợt đầu tiên.
Có anh chọn một cách phản kháng rất nguy hiểm là đóng vai người câm,
không thèm phát biểu trong bất cứ bài học nào. Trong sinh hoạt hàng ngày
cũng vậy, anh không hề mở miệng nói chuyện với anh em. Cũng may, anh có
lẽ là người duy nhất thành công trong kiểu này. Cách phản kháng trên có
thể là hậu quả của một căn bệnh tâm thần, chứ nói anh có chủ ý chống
đối thì cũng chưa chắc 100 %. Mình nghĩ thế thôi, còn đúng hay sai phải
hỏi anh mới biết rõ, nếu gặp lại anh. Thực tế mà nói, cũng có vài trường
hợp bệnh tâm thần, thật có giả có. Chẳng hạn một giáo sư trung học dạy
Toán trứ danh ở Sài Gòn thì thường đi thơ thẩn trong trại, bạ cái gì
cũng đưa vào miệng nhai tỉnh bơ ! ! !
Trong các câu chuyện tù cải tạo đáng nhớ thì câu chuyện sau đây là
buồn cười nhất, đã xảy ra vào năm đầu tiên, khi toàn trại bắt đầu học
tập 6 bài học chính trị căn bản. Học tập thực ra là nhồi nhét vì những
bài này đưa ra một định đề, như một chân lý, rồi từ định đề đó mà tha hồ
nói thánh nói tướng. Ngày kia, một gã cán bộ chẳng biết điếc không sợ
súng hay sao mà khoe « đỉnh cao trí tuệ » của mình bằng cách tiết lộ một
tin ... động trời như thế này. Đó là « ta đã trục xuất một tên cố đạo
nước ngoài phản động về nước hắn. Để che mắt công an ta, hắn lấy ba cây
tre, mai, le mọc nhiều ở ta làm tên của hắn ». Lúc đầu, chúng tôi ngơ
ngác nhìn nhau không hiểu anh ta nói gì nhưng sau khám phá ra rằng anh
ta đã đánh vần ngược tên của vị khâm sứ toà thánh bấy giờ là H Lemaitre.
Có vài anh bạn đồng tù kìm nén được, chỉ cười thầm nhưng nhiều anh bạn
lảng ra xa đã bật lên những tràng cười khanh khách khiến tên cán bộ đỏ
mặt biết mình có lẽ đã hố to vì câu chuyện này. Anh ta chạy vào dãy
nhà có tiếng cười và quát lên « Cười gì mà cười ? Nụ cười các anh là nụ
cười của kẻ bán nuớc phản động » Chúng tôi im lặng ngay khi nghe những
lời chưởi mắng mà anh ta đã thuộc lòng nhằm đánh trống lảng và chữa thẹn
rồi đỏ bừng mặt, anh ta quày quả trở về khu vực cán bộ quản giáo ở.
Người cán bộ đi rồi, lúc đó chúng tôi được dịp cười một bữa thoả thích
như quên hết mọi chuyện phiền muộn trong đời tù. Tôi không muốn suy diễn
tất cả cán bộ quản giáo đều cùng trình độ học vấn thấp kém như anh này,
tuy nhiên chắc chắn họ hơn thua không xa nhau lắm về kiến thức tổng
quát. Đa số họ có lẽ đều học thuộc cùng một bài nên nói cũng không khác
gì nhau. Họ nói ba hoa những chuyện đại loại nghe rất ngớ ngẩn như sau.
Có vài cán bộ huyênh hoang là thằng Nhật muốn mua khói nhà máy của ta ở
Hà Nội để làm bom nguyên tử nhưng ta chưa đồng ý vì chúng trả giá thấp
quá ? ! Hoặc dầu hoả Trung Đông có thấm thía gì so với dầu hoả của ta.
Biển Đông nước ta là cái rốn dầu hoả của thế giới, mọi dầu hoả khắp nơi
đều chảy vào chổ trũng là biển VN. ta. Họ nói chuyện ra vẻ cả quyết chứ
chẳng tỏ vẻ ngờ vực gì như thể « chân lý đó không bao giờ thay đổi »
vậy. Có lẽ họ học thuộc lời từ miệng của một quan chức nào đó phát biểu
kiểu đại ngôn rồi có dịp tự mình lặp lại để khoe khoang với người khác
là mình giỏi, hiểu biết nhiều. Thế thôi. Chẳng cần mất công suy luận sự
việc đó đúng hay sai gì cả !
Nói cho ngay, viên sĩ quan cấp tá kiêm cán bộ Trưởng Trại cũng không
hơn nhiều lắm. Khi đọc họ tên tù cải tạo có số quân bắt đầu bằng 54/1
... ông ta liền lên giọng mỉa mai kết án là những anh này có nhiều nợ
máu với nhân dân lắm đây vì đã di cư vào Nam năm 1954 ! Con số đó chỉ là
năm sinh cộng với 20 để thành số quân mà thôi, chẳng hạn ai sinh năm
1934 thì số quân là 34+20 = 54/ 123 ...
Như vậy, VC cũng chẳng biết gì nhiều về đối thủ của họ nhưng họ luôn
luôn chơi đòn tâm lý là cách mạng biết hết và biết rõ những tội ác « đất
không dung trời không tha » của nguỵ quân các anh, do đó các anh phải
thành khẩn khai báo lý lịch để được cách mạng khoan hồng cho về sớm !
Thật ra, cách thảo luận những bài học chính trị mà Ban Quản giáo áp
đặt mọi người phải tham gia ý kiến là một kiểu tuyên truyền “nhồi sọ”.
Anh tù nào cũng phát biểu một luận điệu giống nhau, trong một khuôn mẫu
lý luận đã vạch sẵn. Sự lặp đi lặp lại nhiều lần qua nhiều người khiến
cho ai cũng có thể thuộc lòng hay nói như cán bộ là quán triệt cả bài
học rồi. Dù bất đồng ý thế nào đi nữa, ai cũng giả vờ đóng kịch thông
hiểu hết vì sợ không những ảnh hưởng đến cá nhân mình mà còn sợ liên luỵ
đến thân nhân ở ngoài nữa. Cán bộ quản giáo thường vừa đe vừa vuốt là
các anh cố học tập cho tốt để gột bỏ mọi tàn dư phản động và nhờ đó cách
mạng cũng sẽ quan tâm giúp đỡ gia đình vợ con các anh phấn đấu xây dựng
cuộc đời mới !
Đến đây, tôi cũng xin được viết vài giòng về tình trạng « ăng ten »
mà đôi ba quyển hồi ký tù cải tạo có nói đến. Theo tôi, đúng cũng có mà
sai cũng không thiếu. Do đó, một số người đã không may biến thành nạn
nhân của sự nghi ngờ làm « ăng ten » này sau khi ra khỏi trại. Phải
chăng cái miệng làm hại cái thân hay chỉ là đòn « ân oán giang hồ » mà
anh em lâm nạn chơi nhau sát ván ? Trong Đội tôi cũng có tin đồn « ăng
ten » là một giáo sư đại học. Ai tin nổi không ? Thế mà cũng có người
tin mới lạ, tin đến nổi anh em còn đặt biệt danh cho ông ta là tiến sĩ
Mách (chơi chữ Maths, thực ra nghành của ông là động lực học và thuỷ
lợi). Của đáng tội, vị giáo sư này làm Đội trưởng đội tôi nhưng chẳng ai
biết tại sao những « bí mật đời tư » trong đội đều bị cán bộ quản giáo
phụ trách “nắm” hết. Chẳng ai biết nên anh em nghi ngờ lẫn nhau và cuối
cùng nghi cho đội trưởng. Thật là « oan Thị Kính » ! Sau này, có một hồi
ký mà tác giả tôi quên tên đã nghi nhà thơ quân đội PLGĐ làm « ăng ten »
trong trại Long Giao, tôi bán tín bán nghi tự hỏi chẳng lẽ hồi còn ở
trại Trảng Lớn PLGĐ giữ chức Đội phó Sinh Hoạt đã làm « ăng ten » chăng ?
Đội phó Học Tập là giáo sư VTH thì nhất định không rồi, vì ông là người
rất có tư cách của một vị giáo sư đại học Sài Gòn. Phần nhiều anh em tù
cải tạo bị nghi ngờ làm « ăng ten » là chức sắc của đội, tổ ... hàng
ngày phải lên tiểu đoàn báo cáo với cán bộ quản giáo, chứ còn những tù
cải tạo khác làm gì có cơ hội tiếp xúc thường xuyên với cán bộ để bị
nghi oan. Trừ ra trường hợp người nào tự hào có bà con cách mạng và có
hành vi tiếp xúc mờ ám với vệ binh hoặc cán bộ thì bị nghi làm « ăng
ten » quả là không oan ức lắm !
Phải thành thực mà thừa nhận những người CSVN. tuyệt đối tuân theo
mệnh lệnh của cấp trên, dù họ biết ngày nào tù nhân cải tạo được lệnh
chuyển trại, họ hoàn toàn không tiết lộ ra cho ai biết cả. Ngay việc
kiểm soát đồ đạc của tù nhân cũng xảy ra « đột xuất » không biết đâu mà
đỡ. Lâu lâu, họ bắt người tù phơi bày tất cả mọi đồ tuế nhuyễn, của
riêng tây để họ xem xét từng cái. Mọi người có dịp ra ngồi giữa trời
phơi nắng cả buổi và lo chẳng biết mình có bị kiểm điểm vì vi phạm quy
định gì không. Nếu có sẽ khó mà về sớm được vì học tập ... chưa tốt !
Tuy nhiên, tù cải tạo lo nhất là lần biên chế đầu tiên sau khi học xong
mấy bài chính trị. Ai đi và ai ở lại ? Lúc đó, tù cải tạo đã được phân
loại nghĩa là có nợ máu nhiều hay ít. Lần đầu thì biên chế đi Phú Quốc.
Lần khác thì biên chế đi Katum, đi Long Giao ... Nhờ những lần biên chế
này, tôi mới biết được bác sĩ đàn anh LTL qua nha sĩ VTD (anh của bác sĩ
đàn em VDS) và bác sĩ cùng khoá PTT đều ở chung một tiểu đoàn L1T2. Đa
số người đi các đợt biên chế trước đều “nặng tội” cả như chiến tranh
chính trị, phi công, pháo binh, thiết giáp ... còn lại là các sĩ quan
chuyên môn khoa học kỹ thuật đi đợt cuối cùng về Trảng Táo thuộc tỉnh
Long Khánh.
Chính ở nơi này mà tôi đã thấy thoáng qua đủ mặt « quần hùng », cùng
trường có, cùng lớp có, đang lang thang lúc thì đi lao động như cắt
tranh, vác gỗ, gánh củi ... lúc thì đi tìm chổ tắm giặt ở một lạch nước
cạnh rừng, không xa ga xe lửa Trảng Táo bao nhiêu. Ga Trảng Táo trông
thảm hại quá sức, nhỏ nhoi đến tội nghiệp, chỉ có trơ vơ một cái nhà xơ
xác cho trưởng ga và dăm ba cái chòi tranh lụp xụp và trống trải. Cũng
tại ga này mà những nàng « thương phu trích lệ » tự mình diễn xuất rất
đạt trong vai những bà bán hàng rong để mong được trực tiếp nhìn thấy
chồng cho thoả lòng nhớ thương sau bao ngày tháng. Bà thì bưng thúng
khoai, bà thì đội rổ trứng ... ngồi chờ đợi rải rác quanh ga Trảng Táo.
Cũng có bà ra đó báo tin cho chồng biết là con cái họ đã vượt biển thành
công, cứ chịu khó mà an tâm học tập, về được rồi sẽ tính sau.
Thời kỳ đi lao động cải tạo ở đây là thoải mái nhất nhưng cũng nặng
nhọc nhất. Thoải mái vì được tha hồ hít không khí núi rừng, được nhìn
ngắm những cánh hoa dại trong sương sớm, đẹp một cách tinh khiết hay
nhìn thấy cả một khu rừng cây bằng lăng nở đầy hoa tím mà chợt nhớ bài
thơ « Màu tím hoa sim » thời danh của Hữu Loan, dù hai màu tím đó đậm
nhạt khác hẳn nhau, bên thì nhẹ nhàng, bên thì đậm đà, tươi tắn. Tuy
nhiên, ai cũng cảm thấy mệt mỏi so với thời ở Trảng Lớn. Mỗi sáng sớm,
tù nhân cải tạo đi rừng như là đi hành quân, nai nịt gọn gàng nhưng nói
phải tội trông như một đám thổ phỉ vì áo quần thì vá chùng vá đụp, đầu
đội những chiếc nón tự chế không giống ai, người thì cầm rựa, anh cầm
dao mác ... lũ lượt từng đoàn tiến vào ... mặt trận nằm sâu trong rừng.
Một tổ 4 hay 6 người cùng nhau đốn tre, đốn cây hay đốn củi. Đúng là
« khó nhất đốn tre, khó nhì ve gái ». Cũng may có anh từng trải qua việc
này nên đạt chỉ tiêu lao động không mấy khó. Vác ba cây tre dài dưới 10
thước thì đi phom phom một đoạn ngắn nhưng đi cả 10 cây số ra khỏi rừng
là muốn đứt hơi, nói không ra tiếng, phải nằm há miệng mà thở chứ không
thể ngồi hay đứng được vì cái lưng như muốn gảy rời ra từng khúc. Sau
giai đoạn làm chổ trú ngụ cho chính mình ngay trên mảnh đất có những cái
gọi là nhà tranh trông xiêu vẹo và bệ rạc bị đồng bào đi kinh tế mới
vất bỏ trước đó, người tù cải tạo được lệnh phải dựng một hội trường để
làm nơi học tập chung cho cả tiểu đoàn. Hội trường này được phân công
cho kiến trúc sư DPL phụ trách. Mọi người phải đi sâu hơn vào rừng mới
kiếm được hàng chục cây làm cột nhà vừa cao vừa to đến nỗi 4, 5 người
mới khiêng nổi một cột. Tuy nhiên, cũng nhờ công trình này, một nhóm
trong đó có tôi may mắn được làm một chuyến ... « về trần » như Từ Thức.
Đó là được phép ra thị trấn Long Khánh để mua thêm vật liệu xây dựng
hội trường. Chúng tôi đi LK bằng xe đò chạy bằng than. Nhiều cô đi buôn
hàng, dù cũng biết chúng tôi là tù cải tạo nhưng họ rất có thiện cảm với
chúng tôi nên đã dám buông lời nửa như tán tỉnh nửa như chọc ghẹo rồi
cười giòn giã vang cả xe. Chúng tôi chỉ biết cười trừ giả vờ thoái thác
khi có cô dám bày tỏ cảm tưởng là nhớ tiếc chế độ cũ và thương mến các
quân nhân ngày xưa mặc quân phục oai hùng hơn bộ đội bây giờ rất nhiều.
Họ ăn nói không dè dặt gì cả làm chúng tôi đâm ra chột dạ nhưng cũng chỉ
đồng ý một cách âm thầm và kín đáo mà thôi ! Đến nơi, chúng tôi hẹn
nhau cố gắng đạt chỉ tiêu làm sớm, nghỉ sớm để vào quán cà phê tìm lại
hương vị của ngày xưa. Chẳng biết chúng tôi thả hồn đê mê vào « những
ngày xưa thân ái » quá lâu hay sao mà cán bộ tiểu đoàn tìm không ra
chúng tôi đã về trước, bắt anh kiến trúc sư ở lại tìm cho ra chúng tôi
để hộ tống về sau. Báo hại, chúng tôi gồm 3 người (tổ tam tam ?) phải
ngồi viết bản tự kiểm rồi mỗi người đọc lên để phê bình, thảo luận mất
mấy ngày về cái tội đã « quan hệ linh tinh » với những thành phần không
rõ ràng ngoài xã hội ! Thật là « đi thì vui, về thì xui » quá cỡ thợ
mộc. Lại lo không được thả sớm thì thật chán mớ đời ?
Một chuyện khó quên xảy ra ở ga Trảng Táo, nơi mà hầu như ngày Chủ
Nhật nào anh em tù cũng la cà ngoài đó. Lý do là được phép đi lại tắm
giặt hay mua đồ ăn trong những ngày được nghỉ lao động. Nhưng thường là
có nhiều lý do hơn cái « chính nghĩa » đó. Ra ga để nghe giọng nói, để
nhìn thiên hạ ngoài đời xuôi ngược trên những chiếc tàu hoả cũ kỹ quen
thuộc. Ra ga để tìm một ánh mắt, một nụ cười thân thương của ai đó mà cứ
tưỏng biết đâu có thể là của mẹ, của em, của người tình ... Chỉ tưởng
tượng thế thôi cũng đủ ấm lòng cho cuộc đời tù tội ! Chính những lần ra
chơi thơ thẩn ngoài ga như vậy mà tôi cùng một anh bạn sung sướng đến
rơi nước mắt khi được chứng kiến những gì đồng bào hành khách đi tàu đã
làm. Hôm đó, chúng tôi mua nải chuối về vừa qua khỏi đường rầy vài thước
thì đoàn tàu đi ngang và từ trên tàu ào ào vất xuống đủ thứ, nào mít
xoài chín, nào bánh kẹo ... và không ngờ có cả tiền nữa chứ ! Nhiều anh
em xúm nhau lượm, tôi và anh bạn vớ được mỗi người năm chục đồng bay tới
chổ chúng tôi đứng (thời đó 50 $ mới = 500$ cũ). Có anh còn kể đồng bào
nhiều lần thả gà vịt đã cột chân, có duy nhất một lần thả nguyên một
con heo mọi trong rọ xuống và anh em mang về trại mở tiệc ăn mừng. Hôm
đó, chúng tôi tản bộ về mà trong tâm trí vẫn còn như thấy hình ảnh những
nụ cười và những bàn tay vung vẩy dễ thương của đồng bào đi xe lửa !
Nếu ra ngoài ga, người tù cải tạo không cảm thấy mình bị xã hội bên
ngoài bỏ rơi thì đi rừng, họ lại học được khá nhiều kinh nghiệm chưa
từng bao giờ trải qua. Đi rừng thì đáng ngại nhất là đi lạc. Để tránh
lạc đường, mỗi lần đi rừng các nhóm phải xác định một điểm xuất phát
được làm dấu bằng mũi dao trên thân cây và các lối đi từ điểm xuất phát
cũng phải làm dấu như vậy. Rừng thưa cũng dễ làm lạc đường rồi, huống hồ
rừng dày đặc đủ loại cây cối che khuất ánh mặt trời thì làm người ta đi
lạc dễ như chơi. Lâu lâu, chúng tôi phải hú lên để dễ nhận ra phương
hướng của nhau. Còn điều đáng sợ nhất là gặp thú dữ, tuy nhiên cũng may
chưa ai gặp, riêng tôi một lần không phải vắt giò lên cổ chạy trốn thú
dữ mà là con ong, con vật nhỏ bé nhưng có vũ khí lợi hại là nọc độc. Lúc
đó, vì phải lo chặt những cây thấp làm củi cho đủ chỉ tiêu, tôi xăm xăm
phạt ngang gốc cây mà trên đó có tổ ong, thế là cả đàn ong bay tứ tung
rồi xúm vào chích tôi đau nhói cả người. Anh bạn đi cùng kêu to lên mày
bỏ mũ lại mà chạy, nghe xong tôi tức tốc làm theo lời anh mới đánh lừa
được bầy ong và thoát được. Tối về, tôi chỉ đau ê ẩm chứ không nặng lắm,
có lẽ vì liều thuốc độc chưa đủ đô, nếu nhiều con cùng « hợp đồng tác
chiến » thì tôi chắc đã sưng vù cả người lên rồi chứ nhỉ ? Điều kinh
hoàng nhất nữa là gặp cháy rừng. Lửa cháy nhanh không thể tưởng tượng
được, bốn bề bừng bừng lửa nóng đỏ chẳng biết đâu mà chạy. Cả tiểu đoàn
nhốn nháo cả lên chen lẫn tiếng hò hét ra lệnh và tiếng phụ hoạ ỏm tỏi.
Nhóm thì chạy đi vác tôn ra đè chung quanh chổ cháy. Nhóm khác thì tất
bật ùa vào chặt hết cây cối ở chổ lửa chưa cháy. Nếu không kịp thời chữa
cháy thì khu nhà tranh nằm cạnh rừng của đám tù cải tạo chúng tôi đã
tan thành tro bụi. Thật là một phen kinh hồn bạt vía. Sở dĩ có cháy rừng
là vì sau mỗi lần phát quang một khu vực nào đó thì lá rừng, cành khô,
gỗ vụn ... được un lại thành nhiều đống rồi đốt để làm tốt đất mà trồng
bắp, trồng sắn (khoai mì) ... Đốt không cẩn thận là tàn bay theo gió
nóng phát lửa táp nguyên cả một khu rừng trong khoảng khắc. Tuy nhiên,
trong hoạ có phúc như chuyện « Tái Ông thất mã ». Cháy rừng thui luôn
những con vật chạy không kịp nên hôm đó, tiểu đoàn thu được 1 số “chiến
lợi phẩm” ngoài kế hoạch. Đó là những con kỳ đà, rùa ... mà thịt thì ăn
ngon không thua thịt gà bao nhiêu. Đôi khi cũng có con mển, con hoẳng là
những con vật còn có thịt chứ còn những con vật nhỏ khác như thỏ, sóc,
chồn ... đã cháy là thành than luôn, ăn gì được ! Nhân nhắc đến thịt
rừng, tôi lại phải nói tới một lần cán bộ tiểu đoàn đi săn được một con
bò rừng béo tốt, ít ra trên mấy trăm ký. Thế là chúng tôi được ăn theo
một bữa thật thịnh soạn. Công đầu thuộc về một anh dược sĩ có tài đầu
bếp vào hạng cao thủ. Anh chế biến tài tình làm sao mà chúng tôi ăn được
thịt bò đủ 7 món ngay trong trại cải tạo. Ngon ơi là ngon ! Thịt bò 7
món nổi tiếng ở Sài Gòn ngày xưa chưa chắc đã ngon hơn. Nói thế chứ ngon
ở đây cũng là do yếu tố tâm lý. Đói quá ăn gì chẳng ngon nhưng
nên thành thực mà thừa nhận anh làm đủ món khi thiếu gia vị cũng là tay
thượng thừa rồi vậy !
Thiên nhiên nói chung hay rừng nói riêng còn dạy cho người luôn cả sự
hiểu biết. Đời tôi chưa hề biết con vắt là con gì nên khi gặp con vắt,
mình cảm thấy chúng nó đáng sợ thật. Chúng cổ ó biệt tài đánh hơi người ở
đâu là chúng sấn sổ chạy tới. Có khi cả một bầy đang nhắm hướng mình mà
cắm đầu cắm cổ bò đến trên lối đi. Nhìn từ xa, mình cứ tưởng bò chậm
như thế còn lâu chúng mới đến mình nhưng thoắt một cái chúng lọt vào
người mình khi nào không hay. Đang nhỏ như con giòi, nó vọt lên bằng con
đĩa căng tròn vì hút máu người. Vào rừng mà gặp vắt thì dù bó chặt quần
áo, đeo găng tay, vớ chân kín đáo cách gì cũng bị vắt chui vào hút máu.
Nhiều con vắt cùng ùa vào hút máu ... nhân dân lao động ốm đói thì « từ
chết đến bị thương », thế là mạnh ai nấy chạy. Chịu gì thấu hàng hàng
lớp lớp bọn ... khát máu này ! Phải tìm khu rừng khác, ai mà dám “đội
trời chung” với kẻ thù quái quỷ như thế ? Trong khi con vắt hút máu
người từ bên ngoài thì con muỗi lại truyền ký sinh trùng tàn phá máu âm
thầm ở trong cơ thể con người nên lại càng nguy hiểm hơn. Một số anh em
khi bị chỉ định đi Suối Kiết (Long Khánh) lấy lá dừa cạn về lợp mái nhà
thay tranh đã chẳng may bỏ mạng vì bệnh sốt rét Từ lâu, Suối Kiết đã
khét tiếng là nơi bệnh sốt rét hoành hành, theo lời của cán bộ thời ẩn
núp trong rừng cũng như anh em tù cải tạo từng hành quân ở đây : Ai đi
Suối Kiết thì nguy, muỗi mà chích tất sẽ đi luôn đời !
Học tập cải tạo chỉ qua hai nơi thôi mà một số anh em đã vĩnh viễn
nằm xuống, còn nhiều trại rải rác khắp cả nước sau 1975 chẳng rõ tổng số
có bao nhiêu con người đã mãi mãi một đi không trở về với gia đình, với
những người vợ mòn mỏi trông chồng, với những bà mẹ quặn lòng nhớ con,
với hằng hà sa số những đứa bé đã biết hay chưa hề biết mặt cha nhưng
vẫn ngày đêm mong cha chúng được trở về đoàn tụ gia đình.
Khi kể vài mẫu chuyện vui buồn trên, tôi thật lòng chỉ muốn nói đến
chuyện vui nhiều hơn chuyện buồn nhưng thực tế, tôi đã bất lực không thể
làm được. Phải chăng những sự đau khổ của con người bi đát quá đến nổi
vượt lên và lấn át cả ý định ban đầu của mình ? Trong những giòng cuối
này, tôi xin kể thêm vào một chuyện thương tâm trong hàng trăm, thậm chí
hàng ngàn câu chuyện của người tù cải tạo vô danh. Đó là câu chuyện
thắt cổ, trên cây cổ thụ trước sân tiểu đoàn, của một anh Trung Uý Không
Quân trẻ tuổi và khôi ngô tuấn tú khi hạn kỳ thả tù đang được lên danh
sách mà chính anh là người được tiểu đoàn cho tham gia viết họ tên người
tù nào sắp được thả về. Đến bây giờ, tôi vẫn còn bàng hoàng và thương
tiếc cho anh, người chung tiểu đoàn với tôi. Lẽ ra, anh không nên chết
trẻ một cách oan uổng như thế. Anh chưa được về đợt đầu thì các đợt kế
tiếp cũng có tên anh thôi khi chúng ta đang ở những tháng cuối cùng
trong trại Trảng Táo. Lúc đó, tất cả anh em tù cải tạo đều xúc động và
nghĩ rằng ai muốn tự tử thì đã thực hiện vào giai đoạn đầu mới vào trại
là hợp lý nhất (?) chứ còn anh thì chẳng ai hiểu được. Tôi cũng không
hiểu do nguyên nhân nào vào giờ chót anh đã tự tìm đến tử thần vội vã
như vậy, bằng cách thắt cổ, trước khi tôi được thả về 2 tuần sau đó. Anh
đã mang theo tất cả bí mật xuống đáy huyệt. Dù không hiểu gì đi nữa,
tôi cũng bắt buộc phải viết ra những lời tiếc thương anh, người tù cải
tạo đoản mệnh !
Phạm Đình, C/N 2011/02
JADE * MỘT CON ĐĨ CÒN TRINH
Một con đĩ còn trinh
by Jade
- Cô cởi đồ ra đi.
Nó trân mắt nhìn hắn, gương mặt không gợn chút cảm xúc nào đủ để có
thể gọi tên, rồi nhẹ nhàng cởi bỏ bộ đồ đang mặc trên người, nằm xuống
nệm. Khi cơ thể của hắn phủ lên nó, nó vẫn nhìn hắn một cách vô hồn như
vậy, và điều đó làm cho hắn không hài lòng.
- Cô cất cái ánh mắt đó đi. Khó chịu quá.
Nó quay đầu sang một bên, rồi nhắm mắt, chịu cả sức nặng của hắn đè lên thân thể, lẫn tâm trí nó.
Ngủ với một con đĩ.
Việc ấy hắn đã làm hơn chục lần và lần nào cũng thành thục, đạt được
cái mà hắn muốn, rồi thì đứng dậy, nhìn con đĩ vẫn còn đang nằm trên
giường, trâng tráo tỏ ra e thẹn, kéo nhẹ cái mền che ngang tấm thân trần
rũ rượi. Hắn cười khẩy. Một con đĩ có thể vì 10 đồng bạc cắc mà trở
thành món đồ chơi trong tay đàn ông, thì vờ vịt e thẹn làm chi cho bọn
đàn ông thêm khinh bỉ?
Đầu óc vu vơ nghĩ đến những chuyện ấy, hắn chợt nhận ra có thứ gì đó ở
nó không giống những lần trước hắn ngủ cùng một con đĩ. Thứ gì đó cản
trở. Hắn nhìn mặt nó. Nó vẫn đang quay mặt sang một bên, đôi mắt nhắm
nghiền, bờ môi nhỏ hé mở để lộ ra hàm răng đang cắn chặt. Nó đang đau
đớn.
Một thằng khách làng chơi có cần phải quan sát con đĩ của mình cảm
thấy thế nào trong cuộc truy hoan không? Không cần! Vì hắn là người bỏ
tiền ra để chơi và vui chứ nó không phải là kẻ nhận được tiền để được
yêu thương, trân trọng. Thế nên hắn vẫn tiếp tục làm công việc của mình,
như đã làm hàng chục lần trước đây. Cảm xúc, đau đớn của một con đĩ
không đủ sức kiềm hãm cơn động tình của giống đực.
Khi đã trút cả sinh lực vào cơ thể đàn bà của nó, hắn ngã người ra
giường, thở hồng hộc và nhìn lên ánh đèn vàng vọt của căn phòng khách
sạn đắt tiền. Nó, một con đĩ xinh đẹp được bọn đối tác tặng hắn thay lời
cảm ơn cho những mức thỏa thuận dễ dãi mà hắn đã chấp thuận. Đàn bà,
với hắn, ngoài cái chức năng làm vợ, làm mẹ, thì còn có thể dùng làm
“quà”. Đàn bà lắm điều!
Hắn đứng dậy vào nhà tắm, mở vòi sen để dòng nước âm ấm chảy dọc cơ
thể, cảm nhận sự dễ chịu của cơn thỏa mãn dục tính vừa trải qua. Lau khô
người, hắn quấn chiếc khăn tắm rồi bước ra phòng ngoài. Nó đã đứng dậy
sẵn, vội bước vào nhà tắm khi hắn vừa bước ra. Có lẽ hắn sẽ như những
lần trước, bảo nó có thể về trước để kiếm thêm vài người khách, trả lại
cho hắn cái không gian sang trọng của căn phòng khách sạn mà hắn không
muốn có mùi của một con đĩ làm ô uế. Nhưng hắn đã không thể làm vậy, vì
kịp nhìn thấy một thứ.
Một giọt máu.
Một giọt máu nằm trơ trọi giữa tấm drap giường trắng tinh, đỏ rực như
bông hoa giữa nền tuyết trắng xóa. Hắn chợt nhớ lại khuôn mặt nó khi
nãy. Cái nhăn mày, hàm răng cắn chặt, và đuôi mắt ươn ướt, cùng lời của
bọn đối tác, “bảo đảm anh sẽ bất ngờ”. Có lẽ nào…
- Cô còn trinh? – Câu đầu tiên hắn hỏi khi nó bước ra khỏi phòng tắm.
Nó nhìn hắn, bối rối như đang cố chọn một thứ cảm xúc phù hợp để trưng lên mặt trong tình huống này.
- Không… vài phút trước đây thì đúng là tôi còn trinh. – Cuối cùng nó
lại chọn khuôn mặt trơ lì cảm xúc khi lột bỏ bộ đồ ban nãy.
- Một con đĩ còn trinh trắng? – Hắn nhướn mày hỏi, như thể cái điều hắn vừa hỏi nó là điều kỳ lạ nhất trên cuộc đời này.
- Một con đĩ thì không được quyền còn trinh sao?
Hắn giật mình. Ngay cả trong từ điển tiếng Việt hay bất cứ cái định
nghĩa nào về Đĩ, có bao giờ người ta quy định rằng, một con đĩ thì không
được phép còn trinh trắng? Hay cái lằn ranh mong manh giữa Đĩ và Không
Đĩ vốn dĩ chỉ là cái chữ Trinh đeo bám kiếp đàn bà hơn ngàn năm nay?
Thấy hắn đơ ra, nó cười khẩy, nụ cười nhếch mép mà hắn hay quẳng cho
những con đĩ từng ngủ với hắn nay được nó quẳng thẳng vào mặt hắn. Hắn
im lặng, cảm giác mặt nóng ran như có ai vừa tát hắn một cú đau điếng,
rồi hắn nói với nó, giọng đầy bực dọc.
- Cô ra khỏi phòng đi, xong việc của cô rồi. Muốn đi đâu thì tùy.
Nó lại cười, nụ cười nhếch mép khó hiểu của một con đĩ. Và nó đi,
biến mất khỏi căn phòng khách sạn sang trọng. Để lại hắn trằn trọc với
những giấc mơ không hình hài. Trong giấc mơ nào đó, giọt máu trên giường
mà nó để lại bỗng dưng lan rộng, hóa thành một vũng lầy nhớp nháp, hắn
vẫy vùng trong đó, cố ngoi lên tìm cho mình con đường sống. Nó vẫn đứng
đó, nhìn hắn và cười khẩy.
***
Sáng, ánh nắng gay gắt len lỏi qua tấm màn khép chưa kín của khách
sạn làm hắn thức giấc. Hắn ngồi dậy, uể oải nhớ về những chuyện mình đã
trải qua đêm qua, rồi tâm trí hắn bừng cháy khi nhìn thấy giọt máu đỏ
vẫn còn trên drap nệm. Nó là thật. Một con đĩ còn trinh đã xuất hiện
giữa cuộc đời hắn.
Hắn lắc đầu vài cái để trấn an mình, móc điện thoại, gọi một cuộc gọi đối với hắn là quan trọng.
- Anh xin lỗi vì hôm qua không về nhà, nhậu với mấy đối tác rồi ngủ
lại nhà một đứa bạn, anh sợ về trễ làm phiền em. Ừ, anh đi làm luôn,
chiều về gặp em nhé.
Hắn cúp máy, lương tâm không dợn lên chút gì là áy náy, tội lỗi. Đàn
ông có thể ngủ với nhiều người đàn bà khác nhau nhưng luôn tự nhủ rằng
trái tim mình chỉ có một người đàn bà duy nhất, và điều đó không hề là
phản bội. Còn đàn bà? Đàn bà chỉ có thể ngủ với 1 người đàn ông duy
nhất, nhưng trong tim vẫn còn vấn vương những người tình cũ. Với đàn ông
và đàn bà, sự chung thủy được định nghĩa hoàn toàn khác nhau. Có lẽ vì
vậy mà đàn ông và đàn bà chưa bao giờ hiểu hết về nhau, và cũng chính vì
chưa hiểu hết về nhau, nên đàn bà và đàn ông vẫn luôn ma mị, ám ảnh
nhau trong những vòng tròn luẩn quẩn, không tìm ra lối thoát.
Hắn sửa lại cổ áo sơmi rồi vào công ty, ánh mắt của vài đồng nghiệp
nữ kín đáo nhìn theo hắn. Hắn vào phòng mình, vẫn còn nghe loáng thoáng
sau lưng lời bàn tán.
- Chết chưa, hôm nay sếp có mùi nước hoa lạ, mùi của nữ nhé.
Hắn đưa tay áo lên ngửi. Là mùi của nó, mùi đĩ. Hắn chau mày, lấy
chai nước hoa trên bàn làm việc ra rồi xịt vài phát vào áo, hi vọng rằng
chai nước hoa trị giá vài triệu bạc của hắn có thể xua đi cái mùi đĩ rẻ
tiền của nó. Có người gõ cửa phòng, rồi cô thư ký nhẹ nhàng bước vào,
trình cho hắn mớ hồ sơ cần giải quyết. Không hiểu bất cẩn thế nào, ly
cafê trên bàn hắn lại bị hất đổ, một giọt cafê văng vào áo hắn. Hắn ngẩn
người nhìn vết dơ vừa xuất hiện trên áo mình trong khi cô thư ký rối
rít xin lỗi, lau dọn.
Trong 1 tích tắc, vết cafê màu nâu sậm bỗng dưng hóa thành đỏ bầm, y
như vết máu nó lưu lại trong tâm trí hắn từ tối qua. Hắn nhắm mắt, đưa
tay bấm nhẹ vào thái dương, tất cả chỉ là ảo giác do cơn say còn sót
lại, hắn tự nhủ.
- Cô ra ngoài, mua cho tôi cái áo sơmi khác. – Hắn nói với cô thư ký.
Ngoài trời, dù nắng đang gay gắt nhưng phía xa vẫn dợn vài đám mây đen.
***
Hắn về nhà khá muộn vì mãi mê giải quyết mớ giấy tờ còn tồn đọng. Vợ hắn mỉm cười bên mâm cơm còn bốc khói.
- Anh vào thay đồ rồi ra ăn cơm cùng mẹ con em. Bin ơi, bố về rồi nè con.
Con hắn nhảy từ sofa xuống rồi lao ra ôm chầm lấy hắn, bỏ mặc chương
trình phim hoạt hình đang theo dõi. Hắn ôm con, hít lấy mùi da thịt trẻ
con ngọt như sữa. Bỗng hắn lại giật mình khi lẫn trong mùi trẻ con đó,
là mùi nước hoa của nó, mùi đĩ. Cái mùi nồng nồng, kích thích một cách
quái đản. Phải chăng đây là mùi chung của bọn đĩ dùng để khơi gợi những
ham muốn bên trong bọn đàn ông? Hắn rùng mình rồi nhanh chân vào nhà
tắm.
***
Hắn làm tình cùng vợ.
Vợ hắn là một người phụ nữ chuẩn theo quan niệm á đông, tức là dạng
phụ nữ không bao giờ thể hiện cảm xúc, suy nghĩ của mình trong việc gối
chăn, vì sợ. Sợ rằng chồng hay người yêu sẽ đánh giá phẩm hạnh của mình
qua những đòi hỏi thể xác mà đàn bà đáng lý phải được có. Vợ hắn thường
im lặng, nằm im mà chờ đợi hắn dìu dắt qua những cảm xúc khác nhau của
việc làm tình. Thỉnh thoảng, cô chỉ hưởng ứng bằng vài hơi thở gấp gáp
hơn bình thường.
Nhưng nực cười nhất trong cuộc đời, mẫu người phụ nữ chuẩn mực á đông
ấy, lại không còn trinh trắng khi về làm vợ hắn. Ngay đêm tân hôn, cô
thỏ thẻ cùng hắn rằng, một tai nạn lúc còn bé khiến cái màng bé nhỏ
tượng trưng cho tiết hạnh người phụ nữ của cô đã không còn. Hắn thoáng
suy nghĩ, dĩ nhiên trong đầu hắn lướt qua tất cả những hình ảnh tởm lợm
nhất mà thằng đàn ông có thể nghĩ đến khi nghe tin người mình yêu không
còn trong trắng. Nhưng rồi hắn lại tự trấn an mình, hắn biết cô đủ lâu
để hiểu rõ về con người cô, và hắn tin. Thế nên hắn vẫn luôn coi cô là
vợ, người đàn bà duy nhất trong tim hắn, nhưng không phải người đàn bà
duy nhất hắn ngủ cùng.
Hắn ghì chặt tay vợ mình xuống giường, một giọt mồ hôi từ người hắn
rơi xuống dù máy điều hòa trong phòng vẫn đang bật. Một luồng hơi lạnh
thổi qua lưng hắn, không gian và thời gian dường như đứng yên. Giọt mồ
hôi của hắn ngưng đọng giữa không gian, chuyển sang màu đỏ như máu rồi
vỡ tan trên gương mặt vợ hắn, cũng là lúc hắn bỏ cô ra, nằm thở từng hơi
nặng nhọc. Vợ hắn vội lấy cái chăn che ngang thân thể, hình như ngay cả
với chồng mình, cô cũng không thoải mái để lộ tấm thân trần.
- Anh… không được khỏe sao? – Cô ngập ngừng hỏi. Có lẽ trong giây
phút đó, cô hỏi thẳng hắn rằng, vì sao anh dừng lại khi đang làm tình
cùng em? Vì sao hắn không quan tâm đến việc cô đã thỏa mãn hay chưa, sẽ
làm cho hắn thoải mái hơn. Nhưng đằng này, cô chỉ quan tâm đến sức khỏe
của hắn.
- Ừ… anh… hơi mệt. Em tắm rồi ngủ đi.
Hắn bước khỏi giường, tránh ánh mắt của cô xoáy vào hắn từ phía sau.
Vẻ mặt của vợ hắn khi làm tình, có nét gì đó phảng phất giống y như nó.
Nhất là khi cô và nó khẽ nhăn mặt, cắn răng. Hắn thấy mình thật đốn mạt
và khốn nạn. Liệu có bao nhiêu thằng đàn ông trên đời này đem cảm giác
làm tình với vợ mình để so sánh với cảm giác làm tình cùng một con đĩ.
Thứ tồi tệ nhất trên đời này không phải là ngủ với một người khác người
mình yêu, mà là ngủ với người mình yêu trong khi tâm trí lại suy nghĩ về
một người khác.
Hắn bật nắp chai rượu mạnh, rót một ly đầy rồi tự huyễn hoặc mình
bằng thứ chất lỏng màu đỏ bên trong. Với hắn, từ lâu đã tách bạch con
đàn bà thành hai thứ rõ ràng là trinh tiết và trinh phẩm. Một người vốn
dĩ đã không còn trinh tiết như vợ hắn, nhưng bấy lâu nay vẫn giữ bản
thân mình đúng tròn trách nhiệm của một người đàn bà, với hắn thì đã là
đủ trinh phẩm. Nhưng một ả sinh viên nào đó dù chưa từng ngủ cùng ai
nhưng ăn mặc lố lăng, hở hang để mọi người nhìn vào và không tin rằng ả
còn trinh thì rõ ràng trinh tiết vẫn còn nhưng trinh phẩm đã mất.
Nói cho cùng, chữ trinh kia, ngoài người trong cuộc được biết tường
tận ra, thì nó chỉ nằm đại khái ở một tầng suy nghĩ, nhận thức nào đó
của những người xunh quanh mà thôi. Nhưng hắn không ngờ rằng cuộc đời
mình lại có lần va vào một con đàn bà còn trinh trắng như nó. Hắn cười,
cay đắng.
***
Gã đàn ông vẫn đứng, trân mắt nhìn nó rồi cười nhạt, mỉa mai, khạc vào mặt nó vài con chữ.
- Đồ đĩ.
Gã lại cười, nụ cười càng ngày càng rộng, méo mó đến kì dị.
Nó nằm rúm ró người trên tấm nệm nhàu nát, không mảnh vải che thân…
Nó giật mình, ngồi bật dậy, mồ hôi tuôn ra như tắm. Căn phòng trọ 9m2
chìm trong bóng tối đặc cứng, chỉ còn tiếng kim đồng hồ nhích từng giây
một, uể oải. Nó lò mò lấy điếu thuốc rồi bật lửa hút, tay vẫn còn run
rẫy. Giấc mơ bao nhiêu năm nay vẫn còn ám ảnh, khói thuốc lờ đờ xung
quanh, nó gục mặt, cảm giác đau từ tim lại tràn về, nhói buốt.
***
Hắn đi dự tiệc, việc mặc trên người một bộ vest sang trọng, lượn lờ
giữa những con người luôn coi mình là sang trọng đối với hắn không có gì
là lạ, không làm hắn vui nhưng cũng chả làm hắn chán, chỉ đơn thuần là
một việc cần làm. Nhưng khi hắn ra về, hắn chợt thấy nó, con đĩ còn
trinh ám ảnh gã mấy ngày nay. Nó đang chậm rãi bước sau một người đàn
ông đáng tuổi ba của hắn. Không cần suy nghĩ gì thêm, hắn biết rằng nó
đang làm việc của một con đĩ.
Hắn cố bước khỏi cầu thang của khách sạn kiêm nhà hàng đang có sự
kiện. Nhưng rồi chính bản thân hắn cũng không hiểu vì sao chân mình lại
chọn một đường đi khác. Hắn chạy như bay theo nó, kịp lúc thấy nó và lão
già đang đứng ở ngả rẻ của dãy phòng đánh số.
- Cô ta là bạn tôi và đêm nay cô ta có công việc phải giải quyết cùng tôi.
Hắn gằn từng tiếng một rồi kéo tay nó đi thật mạnh, trước sự ngạc nhiên của lão già.
- Anh làm cái gì vậy? Điên à? – Nó giật tay ra khỏi tay hắn khi cả hai đã đứng trong một con hẻm nhỏ cạnh khách sạn.
- Cô làm cái giống gì ở đây? – Nó hỏi, dù biết thừa câu trả lời.
- Làm đĩ. Anh biết chuyện đó mà.
- Cô ngủ với cả lão già đáng tuổi ông nội mình?
- Ai nói với anh rằng một con đĩ có quyền chọn khách?
- Cô… cô đúng là một con đĩ.
- Không, tôi nghĩ lại rồi, lúc này anh phải gọi tôi là một cô chân
dài, vì người tôi ngủ cùng là một đại gia. Còn khi tôi ngủ với anh, anh
có thể gọi tôi là một con đĩ. Giá trị của một con đĩ nằm ở thằng đàn ông
mà nó phục vụ, thế nên chỉ có bọn đàn ông thấp kém như anh mới mở miệng
gọi tôi là một con đĩ.
Bốp!
Hắn vung tay tát nó một cái nảy lửa, rồi run rẫy nhìn tay mình. Hắn
không hiểu vì sao lại tát nó, sĩ diện một thằng đàn ông bị đàn bà đay
nghiến, hay sĩ diện của một thằng giám đốc bị một con đĩ dạy đời.
Nó đưa tay chỉnh lại vết son môi bị lem vì cái tát của hắn, cười lạnh lùng rồi móc điện thoại ra trả lời.
- Em xin lỗi, chỉ vài việc cá nhân thôi, bây giờ em quay lại phòng ngay.
Nó nhìn hắn, im lặng, rồi đưa hắn một cái namecard.
- Nếu anh còn muốn gặp tôi thì cứ gọi số điện thoại này.
Và nó bỏ đi mất, để lại hắn đứng nhìn cái namecard rồi cười chua chát, một con đĩ mà cũng có namecard…
***
Quán cafê chiều chạng vạng, nó và hắn ngồi nhìn mưa rơi ngoài cửa sổ,
Sài Gòn lạ, mới nắng gay gắt rồi có thể trút mưa ầm ầm. Những con người
sống ở Sài Gòn cũng lạ, mới thù hận rồi có thể quay qua yêu thương
nhau.
- Anh muốn tôi chỉ ngủ với một mình anh?
- Ừ, và tôi sẽ đảm bảo cung cấp đủ tiền để cô sống.
- Anh muốn chứng minh rằng mình có thể biến tôi thành chân dài?
Hắn im lặng.
- Đừng tự ép buộc bản thân anh phải có trách nhiệm với sự trinh trắng của tôi. – Nó nói, lại nhếch mép cười mỉa mai.
Có lẽ nó nói đúng, hắn đang tự ép mình vào cái ý nghĩ bản thân phải
có trách nhiệm cho việc lấy đi sự trong trắng của nó. Nhưng hắn biết,
chỉ có làm vậy tâm trí hắn mới thanh thản, mới có thể thoát ra khỏi vũng
lầy nhớp nhúa màu đỏ sậm của máu mà đêm nào hắn cũng vẫy vùng tìm đường
sống. Nó ám ảnh hắn đến mức mê dại.
- Cô đồng ý chứ?
Nó thoáng suy nghĩ rồi gật đầu. Bao nhiêu con đĩ đủ khả năng từ chối
một thằng đàn ông muốn làm khách hàng độc quyền của mình? Làm đĩ nói cho
cùng cũng là một cuộc kinh doanh thân xác, khi thỏa thuận được các điều
khoản mà hai bên cùng chấp thuận, thì người sản xuất sẽ chỉ cung cấp
cho một người mua nhất định mà thôi.
***
Nó và hắn vẫn thường xuyên gặp nhau trong căn phòng khách sạn sang
trọng. Sau mỗi lần làm tình, hắn đã có thể ôm nó vào lòng và chìm vào
giấc mộng không còn vết máu đỏ. Đôi lần hắn tự hỏi, thứ mùi đĩ trên
người nó đã biến đâu mất? Hay giờ đây nó đã là một cô chân dài cặp kè
cùng đại gia là hắn nên sẽ không còn thứ mùi đó? Hắn kéo nó vào người,
cố hít một hơi thật sâu, nhưng vẫn không cảm nhận được thứ gì xa lạ.
Có lần, trong câu chuyện phiếm sau khi làm tình cùng nhau, hắn kể cho nó nghe.
- Hôm qua đi nhậu, bạn anh kể, chơi đĩ bây giờ rẻ thật, nó dắt một
con bé mới gặp lần đầu tiên đi ăn uống, cafê rồi thì con bé đồng ý về
khách sạn ngủ cùng nó, chưa tới 500 ngàn. – Hắn cười nhạt.
Nó chăm chú nhìn hắn, ánh mắt bỗng dưng kỳ lạ đến khó hiểu. Và nó nói, rất nhẹ nhưng đủ để đè lên tâm trí hắn.
- Sao anh không nghĩ, con nhỏ đó sẽ kể cho bạn nó nghe rằng, đĩ đực
bây giờ rẻ thật, chẳng tốn một xu nào cho nó mà nó còn phải dẫn mình đi
ăn và trả tiền khách sạn. Đĩ hay không đĩ, rẻ hay không rẻ, tùy vào vị
trí mình đang đứng mà nhận định thôi.
Nó nói rồi dụi đầu vào ngực hắn, nhắm mắt, cố kéo mình vào giấc ngủ…
để mặc cho hắn nằm đó, tâm trí kẹt trong cái vòng Đĩ và Không Đĩ.
***
Hắn và nó có lẽ sẽ tiếp tục mối quan hệ đó cho đến một ngày mà hắn
chán nó, hay nó kiếm được một đại gia có thể đưa ra số tiền nhiều hơn
hắn để biến nó thành của riêng. Nhưng đã có một người đàn bà đến gõ cửa
phòng trọ của nó, là cô, vợ hắn.
Thứ linh cảm, giác quan kỳ bí của đàn bà cho cô biết cô đang phải san
xẻ chồng mình cùng một người phụ nữ khác, và cũng cái giác quan bí ẩn
đó dẫn cô đến gặp nó.
Cô và nó ngồi ở ngay quán cafê mà nó và hắn đã ngồi lần đầu tiên,
thằng Bin con hắn chạy chơi ngoài sân quán. Cô nói không nhiều, chủ yếu
chỉ là những câu sáo rỗng của bọn đàn bà muốn giành chồng mình về từ tay
một con đĩ. Nó im lặng nhìn cô, tự hỏi cô là loại đàn bà gì mà có thể
hạ mình năn nỉ một con đĩ giành mất chồng mình, trong khi, cô có thể túm
lấy nó, vả cho vài bạt tai rồi cho thêm mấy lời đe dọa sống chết. Đàn
bà khi ghen, kinh khủng lắm.
Nhưng cô vẫn chỉ nói, cho đến câu cuối cùng thì cô khóc, vỡ òa. Câu nói mà nhiều năm sau nó vẫn ám ảnh.
- Có lần… anh quan hệ cùng tôi, nhưng… lại gọi nhầm tên cô.
Nó nhíu mày, còn cô thì khóc… thằng Bin thấy mẹ mình khóc liền chạy nhào tới, vừa nắm tay lại đánh nó, vừa khóc theo.
Nó ngồi yên cho thằng nhóc đánh, im lặng nhìn tấn trò đời trước mắt rồi hít một hơi dài, chỉ nói 3 chữ và dứng dậy ra về.
- Đồ đàn bà.
***
Nó nhắn tin cho hắn, một trong những lần hiếm hoi nó chủ động nhắn
tin đòi gặp hắn. Nó ngồi yên tại phòng khách sạn, nhìn gương mặt mình
qua tấm gương trang điểm, hình như từ khi quen hắn, nó bớt dùng phấn
son. Có lần, khi thức dậy bên hắn, nó lấy tay che mặt, hắn gỡ tay nó ra,
nhìn vào khuôn mặt không trang điểm của nó và nói nhẹ nhàng.
- Cái chất đàn bà trong em rất đậm đặc.
Nó không hiểu chất đàn bà trong nó là gì, cũng không hiểu hắn đã cảm
nhận được gì, nhưng nhìn nụ cười của hắn, nó hiểu đó là một lời khen. Có
tiếng gỏ cửa phòng và hắn bước vào, nhìn nó mỉm cười, như mọi lần gặp
nhau. Nó ôm lấy hắn rồi dìu hắn xuống giường, lớp quần áo vướng víu
nhanh chóng được rủ bỏ, để lại hai thân xác trần trụi bên nhau. Cơ thể
hắn vẫn vậy, cao to và phả thứ hơi ấm xua đi những băng giá trong tâm
hồn nó.
Khi hắn đi sâu vào người nó, nó im lặng, nhắm ghì mắt, nhưng vẫn kịp
thấy nét bối rối, hoang mang trên gương mặt hắn. Cuộc làm tình giữa nó
và hắn rơi vào một khoảng lưng chừng, rời rạc, hắn bỗng dưng xa cách,
nghi ngờ, trong khi nó vẫn nhìn hắn, ánh mắt vô hồn như lần đầu tiên gặp
nhau.
Tàn cuộc, hắn ngồi nhỏm dậy, ngập ngừng…
- Em…
Nó đứng dậy, trần truồng trước mặt hắn để hắn nhìn thấy một bên má
đùi nó là vệt máu đỏ. Hắn chau mày, như đang cố hiểu những gì đang diễn
ra trước mắt mình. Rồi thì hắn thấy trên giường đọng lại một giọt máu đỏ
thẫm, y như ngày đầu tiên hắn làm tình cùng nó.
Nó tới bên bàn trang điểm, mở giỏ xách, quẳng cho hắn tờ giấy màu
hồng nhạt. Là tờ thanh toán cho dịch vụ phục hồi màng trinh tại một thẩm
mĩ viện vớ vẩn nào đó ở đất Sài Gòn.
- Anh hiểu chứ, anh chả có trách nhiệm gì với sự trong trắng của tôi
đâu, đừng trở thành thằng ngốc trong trò chơi này nữa… Về với vợ con anh
đi.
Nó gom mớ quần áo còn trên sàn nhà, nhanh chóng mặc lại rồi bước ra
cửa. Hắn vẫn ngồi đấy, im lặng nhìn tờ thanh toán, khó khăn lắm mới cất
lên được 1 tiếng.
- Em!
Nó dừng bên cửa phòng, không quay mặt lại nhìn hắn, bờ vai nhỏ run run…
- Anh yên tâm đi, em là một con đĩ chuyên nghiệp, thế nên chắc chắn
không bao giờ có chuyện em đi yêu 1 thằng khách hàng của mình đâu. Về
đi!
Nó mở cửa và bước đi, lặng lẽ rời khỏi căn phòng sang trọng.
Xung quanh hắn mùi đĩ lại nồng nặc, nhấn chìm hắn trong mớ cảm xúc
hỗn độn không hình hài. Hắn thả người xuống nệm, rồi quay mặt nhìn giọt
máu đỏ nằm kế bên mình. Giọt máu chuyển sang thẫm đen trong ánh đèn vàng
vọt.
Và có lẽ cả cuộc đời hắn không bao giờ thấy được giọt nước mắt còn chưa kịp khô nơi cửa phòng…
END.
Sài Gòn, ngày nắng gắt.
PHAN * GĂP BỮA
Góc của Phan: Gặp bữa…
Có thể chỉ người miền Nam mới hiểu hai từ “gặp bữa”. Vì tôi chưa
nghe người Bắc, người Trung nào dùng hai từ này. Trong Nam, nói tới gặp
bữa có nghĩa là tình cờ mình qua nhà hàng xóm, hay ghé nhà bạn bè, vừa
lúc gia đình họ dọn cơm ăn bữa trưa, hay bữa chiều gì đó! Nếu là không
thân thì gia đình sẽ hoãn lại bữa ăn tới tiễn khách ra về rồi họ mới
dùng bữa sau đó. Nhưng đủ thân thì gia chủ sẽ nói, “Gặp bữa. Anh (chị,
hay em, thậm chí là ‘mày’) gặp bữa, ở lại ăn với gia đình chén cơm cho
vui…”
Có thể trong Nam chén cơm dễ có hơn hai miền ngoài nên người Nam bộ rộng rãi mời ăn. Đó là những suy nghĩ khi tôi đã lớn, nhưng hồi nhỏ thì tôi đã biết cách để hàng xóm mời tôi gặp bữa; vì bà vú nhà tôi cũng người Bắc; bà cũng nấu những món vừa ăn vừa khóc như mẹ tôi thôi! Ví như mấy con cá vô danh, nhỏ như cọng giá, đem nấu với cơm mẻ, thành một nồi nước đục như nước vo gạo, lều phều mấy lát cà chua ba chìm bảy nổi… Thế mà cứ rao là canh chua ngon lắm! Ăn mau đi con, không chúng ăn hết thì con lại thiệt! (Chúng là những anh em tôi).
Tôi từng tự nguyện chịu thiệt, vì cứ nghĩ tới mấy con đen đen, bò bò, ngoe nguẩy trong hũ mẻ đã phát lạnh xương sống thì làm sao ăn. Dòi không ra dòi mà sâu không ra sâu; chả biết là con gì – cứ đen xỉn và ngo ngoe phát ớn. Nhưng bà vú và cả mẹ tôi thường cho tôi ăn món khác thay cho canh chua là… ăn đòn.
Thế là tôi canh me nhà hàng xóm, cứ vừa dọn mâm cơm ra là tôi có việc quan trọng phải đến thông báo cho gia đình bác Năm, bà Bảy gì đó biết là con chó, con gà của nhà họ đang bị canh me bắt trộm! Thế là chẳng ai tiếc gì tôi mà không nói hai từ “gặp bữa…” với thằng nhỏ đầy tình chòm xóm như tôi.
…Cũng mấy con tép bạc nhỏ như cọng giá thôi! Xóm nghèo mà. Nhưng mấy con tép bạc nấu với bạc hà, cà chua, đậu bắp ngoài vườn. Đặc biệt là chất chua thanh dịu chứ không chua loét như cơm mẻ, hôm thì nắm đọt lá me non; hôm thì mấy trái khế chua ngoài vườn đem vô xắt lát, nấu canh chua; hôm lại giã giập mớ trái chầm ruột… mỗi vị chua của cây nhà lá vườn Nam bộ đều để lại trong tôi hương vị nhớ đời. -Ngậm mà nghe.
Chẳng phải con chối cha hay người quên nguồn đến đáng trách. Thực ra món Bắc cũng có món ngon. Nhưng điều tôi nhớ được thì thường là người trong Nam làm con cá, con gà rất kỹ. Nhưng nấu lại không đủ kiên nhẫn chờ như người ngoài Bắc. Cứ nấu chín là ăn, thậm chí đồ bồi của nồi canh chua thì không cần chín, nấu con cá đến có thể dùng đũa tách được thịt cá ra khỏi xương là coi như cá chín rồi. Khi ấy mới bỏ đồ bồi, là: bạc hà, giá, đậu bắp, cà chua, rau ôm… Bỏ vô nồi canh đang sôi là bắc xuống, ra mâm…
Có lẽ vậy nên người ăn được thưởng thức cái ngon chín tới. Tôm hay cá vừa đủ chín nên không mất ngọt bởi nấu lâu ra nước hết rồi còn gì. Khác với người Bắc rửa cá, thịt kỹ quá sợ mòn con cá hay con gà, miếng thịt thì phải. Nên nấu rất lâu, như cố tình để ăn luôn xương…, cho bổ xương bắc kỳ.
Về việc ăn trong giới bình dân, trong khi người Nam thường nói “ăn cho qua bữa”, tức ăn là phụ chơi mới là chánh, thì người Bắc lại xem trọng miếng ăn vì ở Bắc, thực phẩm quý hiếm như ngọc ngà. Cứ xem lại chuyện dân gian “con gà hai mề” thì đã rõ. Nhưng người Bắc lại thường nói, “Ôi! Dân chém to kho mặn, biết gì!”; để phê phán người ăn dễ dãi, để phân biệt với người sành ăn, ăn uống cầu kỳ như người Bắc. Riêng tôi nghĩ vì ngoài Bắc có quá ít thức ăn, nên họ nấu lâu để… ăn tâm lý no nê trước. Cái tâm lý là mình có thức ăn để nấu – đã hơn người, hơn đời. Xong, nấu thế nào để có thể ăn được cả xương của ngọc thịt, ngọc cá… vì thịt, cá là ngọc.
Có thể trong Nam chén cơm dễ có hơn hai miền ngoài nên người Nam bộ rộng rãi mời ăn. Đó là những suy nghĩ khi tôi đã lớn, nhưng hồi nhỏ thì tôi đã biết cách để hàng xóm mời tôi gặp bữa; vì bà vú nhà tôi cũng người Bắc; bà cũng nấu những món vừa ăn vừa khóc như mẹ tôi thôi! Ví như mấy con cá vô danh, nhỏ như cọng giá, đem nấu với cơm mẻ, thành một nồi nước đục như nước vo gạo, lều phều mấy lát cà chua ba chìm bảy nổi… Thế mà cứ rao là canh chua ngon lắm! Ăn mau đi con, không chúng ăn hết thì con lại thiệt! (Chúng là những anh em tôi).
Tôi từng tự nguyện chịu thiệt, vì cứ nghĩ tới mấy con đen đen, bò bò, ngoe nguẩy trong hũ mẻ đã phát lạnh xương sống thì làm sao ăn. Dòi không ra dòi mà sâu không ra sâu; chả biết là con gì – cứ đen xỉn và ngo ngoe phát ớn. Nhưng bà vú và cả mẹ tôi thường cho tôi ăn món khác thay cho canh chua là… ăn đòn.
Thế là tôi canh me nhà hàng xóm, cứ vừa dọn mâm cơm ra là tôi có việc quan trọng phải đến thông báo cho gia đình bác Năm, bà Bảy gì đó biết là con chó, con gà của nhà họ đang bị canh me bắt trộm! Thế là chẳng ai tiếc gì tôi mà không nói hai từ “gặp bữa…” với thằng nhỏ đầy tình chòm xóm như tôi.
…Cũng mấy con tép bạc nhỏ như cọng giá thôi! Xóm nghèo mà. Nhưng mấy con tép bạc nấu với bạc hà, cà chua, đậu bắp ngoài vườn. Đặc biệt là chất chua thanh dịu chứ không chua loét như cơm mẻ, hôm thì nắm đọt lá me non; hôm thì mấy trái khế chua ngoài vườn đem vô xắt lát, nấu canh chua; hôm lại giã giập mớ trái chầm ruột… mỗi vị chua của cây nhà lá vườn Nam bộ đều để lại trong tôi hương vị nhớ đời. -Ngậm mà nghe.
Chẳng phải con chối cha hay người quên nguồn đến đáng trách. Thực ra món Bắc cũng có món ngon. Nhưng điều tôi nhớ được thì thường là người trong Nam làm con cá, con gà rất kỹ. Nhưng nấu lại không đủ kiên nhẫn chờ như người ngoài Bắc. Cứ nấu chín là ăn, thậm chí đồ bồi của nồi canh chua thì không cần chín, nấu con cá đến có thể dùng đũa tách được thịt cá ra khỏi xương là coi như cá chín rồi. Khi ấy mới bỏ đồ bồi, là: bạc hà, giá, đậu bắp, cà chua, rau ôm… Bỏ vô nồi canh đang sôi là bắc xuống, ra mâm…
Có lẽ vậy nên người ăn được thưởng thức cái ngon chín tới. Tôm hay cá vừa đủ chín nên không mất ngọt bởi nấu lâu ra nước hết rồi còn gì. Khác với người Bắc rửa cá, thịt kỹ quá sợ mòn con cá hay con gà, miếng thịt thì phải. Nên nấu rất lâu, như cố tình để ăn luôn xương…, cho bổ xương bắc kỳ.
Về việc ăn trong giới bình dân, trong khi người Nam thường nói “ăn cho qua bữa”, tức ăn là phụ chơi mới là chánh, thì người Bắc lại xem trọng miếng ăn vì ở Bắc, thực phẩm quý hiếm như ngọc ngà. Cứ xem lại chuyện dân gian “con gà hai mề” thì đã rõ. Nhưng người Bắc lại thường nói, “Ôi! Dân chém to kho mặn, biết gì!”; để phê phán người ăn dễ dãi, để phân biệt với người sành ăn, ăn uống cầu kỳ như người Bắc. Riêng tôi nghĩ vì ngoài Bắc có quá ít thức ăn, nên họ nấu lâu để… ăn tâm lý no nê trước. Cái tâm lý là mình có thức ăn để nấu – đã hơn người, hơn đời. Xong, nấu thế nào để có thể ăn được cả xương của ngọc thịt, ngọc cá… vì thịt, cá là ngọc.
Nhiều khi ngồi nhớ lại những món ăn Nam bộ, nhất là thời đi ghe
thương hồ, là tôi thích nhất, với những món ăn sổi ở thì thế mà dư vị
khó quên, như mùi mắm linh mà ai đó vừa giựt nút lá chuối khô của hũ
mắm, để mùi mắm lan tỏa ra không khí hương vị nồng nàn của đặc sản
phương nam. Trên ghe mà, chỉ trải lá chuối tươi, rồi ăn bốc. Con bún vừa
mua của ghe bên cạnh, dưa leo xắt cọng, cà tím, cà dĩa… cứ lỉa dao ra
sao ăn vậy, rồi nào rau mùi đủ thứ, lát khế còn tươm nước vàng ươm… Cứ
gói gém các thứ với con mắm linh đã lên dầu, màu nâu đỏ của con mắm mới
bắt mắt làm sao, thì làm chung đế cái ót, rồi đưa cay cuộn hương đồng
gió nội ấy vào miệng là ta ăn cả đất trời sông nước mênh mông trên con
thuyền không bến.
Có những đêm đông nằm nghe tuyết vỗ vào kính cửa sổ phòng ngủ mà nhớ quê quặn lòng qua những món không cần nổi lửa trên ghe thương hồ; hay có dịp ngồi ăn thố gà ác hầm thuốc bắc trong nhà hàng tàu sang trọng ở hải ngoại, lại chạnh thèm canh bông sua đũa nấu tép bạc – coi bộ dễ tiêu hơn món cầu kỳ gia vị này.
Nhưng sáng xuân nồng hương cỏ mới; chiều ráng đỏ sang hè nơi biển sóng dạt trôi, ráng nhớ những món Bắc đã nuôi dưỡng thơ ngây thì mù mờ gốc gác; toàn nhớ cơm nhà hàng xóm. Vậy tôi là người Bắc hay Nam? Tôi con nhà di cư nhưng sanh đẻ trong Nam, coi như cha sanh mẹ dưỡng cho hai miền Nam Bắc thân thương. Tôi là thằng bún riêu vì món ấy có rau muống bào trộn chung với giá.
Có những đêm đông nằm nghe tuyết vỗ vào kính cửa sổ phòng ngủ mà nhớ quê quặn lòng qua những món không cần nổi lửa trên ghe thương hồ; hay có dịp ngồi ăn thố gà ác hầm thuốc bắc trong nhà hàng tàu sang trọng ở hải ngoại, lại chạnh thèm canh bông sua đũa nấu tép bạc – coi bộ dễ tiêu hơn món cầu kỳ gia vị này.
Nhưng sáng xuân nồng hương cỏ mới; chiều ráng đỏ sang hè nơi biển sóng dạt trôi, ráng nhớ những món Bắc đã nuôi dưỡng thơ ngây thì mù mờ gốc gác; toàn nhớ cơm nhà hàng xóm. Vậy tôi là người Bắc hay Nam? Tôi con nhà di cư nhưng sanh đẻ trong Nam, coi như cha sanh mẹ dưỡng cho hai miền Nam Bắc thân thương. Tôi là thằng bún riêu vì món ấy có rau muống bào trộn chung với giá.
Có lẽ tôi ngồi tán dóc với anh bạn ở vườn sau nhà anh ấy, sau khi đến
xin cây táo tàu về trồng, vì xin táo khô về ngâm rượu thuốc hoài cũng
kỳ! Chỗ bạn bè đã để anh ấy trồng, tưới, hái, chọn trái ngon mới phơi
khô. Rồi mình chỉ có công mở miệng hỏi xin thì khác gì khi xưa đi báo
hàng xóm coi chừng trộm chó, trộm gà, để gặp bữa!
Thế mà hôm nay tôi gặp bữa thật! Làm nhớ quá quê nhà và tuổi thơ.
Chị nhà ton ton ra vườn, tôi ước gì chị ấy đòi lại cây táo mà anh nhà đã đánh vô chậu cho tôi. Cứ nói ra đi, “Chị lỡ hứa với ai rồi, nhưng anh không biết!” Tôi sẽ thầm mang ơn chị cho tôi cái cớ khỏi trồng để bớt ngượng khi hỏi xin táo khô. Không ngờ người sao tánh vậy, chị đẹp lão như cây khế già thường cho quả ngọt. Chị nói khơi khơi, “Gặp bữa. Em vô nhà ăn với anh chị chén cơm cho vui. Có gì ăn nấy thôi. Vì cái bao tử của anh ấy không ăn trễ được.”
Đúng là gặp bữa! Mà gặp bữa ở hải ngoại mới càng quý. Vì bạn bè ở đây có mời tới nhà họ thì họ cũng đặt vài món ngoài nhà hàng rồi bưng về. Có khác là khác không khí bàn tiệc ở nhà ấm cúng, thoải mái hơn ngoài nhà hàng đông người không quen thôi!
Tôi ăn thiệt tình, ngon miệng, với bắp cải trắng luộc, giằm trái cà chua vô tô nước luộc. Bắp cải thì chấm trứng luộc giằm trong nước mắm chua… Món này mẹ tôi và bà vú nấu thường, nhưng không ngon bằng chị nhà đây! Vì chị luộc bắp cải vừa ăn, chín tới. Không nồng cải còn sống, nhưng còn giữ được độ giòn của bắp cải nên miếng cải còn ngọt. Không như mẹ tôi hay bà vú cứ nấu lấy nước để cải rục ra, bã chè. Trứng giằm nước mắm thì nước mắm mặn, nước mắm nguyên chất trong tĩnh chiết ra. Người Bắc không ăn nước mắm pha chanh, đường, cho chua chua, ngọt ngọt, mặn mặn nước mắm. Thật là thương về miền Bắc, địa dư làm cho con người kham khổ theo. Chanh, đường ngoài ấy đâu dễ có trong nhà người bình dân.
Bữa ăn thật là ngon. Lại thú vị khi chị nhà chợt nhớ ra món độc trong tủ lạnh. Chị nói, “Không biết em có biết ăn món Bắc không, nên chị không mời. Hay cứ hâm thử lên, rồi cùng ăn cho vui.”
Tôi nghe món Bắc nên không mặn mòi cho lắm! Nhưng dù sao cũng cần lịch sự. “Thì chị cứ hâm nguyên cái tủ lạnh lên cũng được. Món gì em cũng ăn được…”
Tôi chỉ thấy chị nhà đưa vào microway một hộp to go loại lớn. Không biết món gì, nhưng lòng chẳng quan tâm nên thây kệ! Nhưng lúc chị lấy ra thì gian bếp ấm lên mùi gừng thơm thoảng. Tiếp theo là mùi ốc. Suy ra ốc luộc có bỏ gừng cho bớt tanh, tẩy nhớt, là người Bắc ưa làm thế, người Nam thì bỏ sả cho thơm và cũng tẩy nhớt của ốc. Và luật âm dương trong ẩm thực truyền đời là ốc thuộc hàn, phải ăn với nước mắm gừng hay nước mắm sả thuộc hỏa để quân bình âm-dương…
Đến khi chị nhà bày ra đĩa và bưng ra bàn ăn thì tiên đoán của tôi chỉ còn đúng một nửa, vì là món ốc nhồi lá gừng. Tôi bần thần tâm tưởng như gặp lại chính mẹ tôi ngồi trên cái ghế cóc ngoài sàn nước. Lưng mẹ tựa hờ vào lu nước bằng đất nung mát lạnh cho đỡ mỏi và bớt nóng thời tiết quê nhà. Quanh mẹ nhiều rổ, rá bằng tre đan; bóng cây mảng cầu xiêm già xô đẩy thành gió; chứ không phải gió làm di động bóng mát của cây mà mẹ tôi đã nương theo bằng cách dời ghế ngồi để được mát.
Tuổi thơ tôi nghĩ thế để tuổi già còn gặp lại mẹ tôi đổ ra rổ lớn cả khạp da bò nhỏ, là những con ốc bươu mà mẹ đã ngâm nước vo gạo từ chiều qua cho nhả nhớt. Mẹ rửa ốc bằng bàn chải cho vỏ thật sạch. Con nào xong , được xếp vô rổ sạch khác.
Xong công đoạn ấy, mẹ tôi mới trổ tài. Cái tài lể ốc sống của mẹ từng làm tôi khâm phục. Với con dao nhỏ, bén. Mẹ tôi rất khéo lách được lưỡi dao vào lẩy cả cái mày ốc ra ngọt sớt! Không dễ đâu, vì ốc đã luộc còn dính mày khó gỡ nói chi ốc còn sống.
Từng con, từng con, cứ như mẹ sẽ bị đứt tay bất cứ lúc nào vậy! Tôi chờ tiếng “ái già…!” của mẹ tới thiu thỉu ngủ gục trên cây mãng cầu cổ thụ thì tôi đã lớn. Như hiểu được gái Bắc chiều chồng đáng phục.
Bấy giờ mẹ tôi mới làm màn ảo thuật với cây đũa tre – lể từng con, từng con ốc còn sống. Khó lắm! Tôi đã sớm biết mình vô dụng từ bé, nhưng máu anh hùng cứu mỹ nhân thì hệt cha tôi! Tôi tụt xuống khỏi cây mảng cầu, “Mẹ đưa đây, con làm cho”. Nhưng có làm được đâu. Nên ngồi đó tròn xoe đôi mắt kinh ngạc với nữ ảo thuật gia. Thật ra chiếc đũa đã được vót nhọn và hơi dẹp như đầu cây kim sào may bao bố. Mẹ ghim vào thành trong của vỏ ốc, lượn que một vòng điệu nghệ, rồi mới ghim vào thịt ốc để lể ra. Tính nghệ thuật rất cao trong công đoạn một tay giữ vỏ ốc, một tay điều khiển que tre dùng dằng với nhau nhưng phải khéo léo để lấy được phần cuối của con ốc ra mới được. Tôi thử, chỉ bứt được đầu ốc ra, “thế cứt đái bên trong, để cho bố mày ăn à!” Chắc cực quá nên mẹ tôi mắng yêu người tình của bà thôi!
Mẹ tôi lại rửa đến bên trong vỏ ốc, úp ngược hết vô rổ khác cho ráo nước. Kế đến, mẹ vặt phần đuôi của từng con ốc, phần chất đen, xảm như bùn trong con ốc bươu mà bỏ đi. Phần đầu ốc cho hết vào thau nhôm, bỏ thật nhiều muối bọt, và bóp đi bóp lại cho ra nhớt. Rửa đến mòn tay vì chồng con… Xong lại cho vô rổ khác để ráo nước rửa xả muối và nhớt ốc.
Bây chừ thì mẹ xài dao, thớt; để bằm thịt heo. Ngày xưa đâu có thịt xay sẵn như bây giờ. Thịt tảng phải ra lát, rồi lát ra sợi, chập sợi xắt nhống ra hạt lựu. Sau đó mới bằm. Khổ như dâu tằm, bị nhai mà không kêu rau ráu thì lại bị chê là dâu không ngon. Chả ai đổ lỗi cho con tằm kém sức nhai; chả ai trách đàn ông thích ăn món khó mà chỉ trách đàn bà không biết làm!
Tới nấm mèo ngày xưa cũng là nguyên tai nấm, được phơi khô thế thôi. Người nội trợ phải ngâm, rửa đã đời cho sạch đất cát. Mẹ tôi thì xắt sợi như loại có bán sẵn ngoài chợ bây giờ.
Đến mẹ bóc mớ củ hành đỏ như đọc nhật ký, nước mắt không muốn tươm lại rơi. Dúi mặt vào vai áo mình cho người tình trăm năm… Lại xắt, lại dần dao điệu đàng trên thớt để được chén hành đong đầy nước mắt làm vợ, làm mẹ
Thế mà hôm nay tôi gặp bữa thật! Làm nhớ quá quê nhà và tuổi thơ.
Chị nhà ton ton ra vườn, tôi ước gì chị ấy đòi lại cây táo mà anh nhà đã đánh vô chậu cho tôi. Cứ nói ra đi, “Chị lỡ hứa với ai rồi, nhưng anh không biết!” Tôi sẽ thầm mang ơn chị cho tôi cái cớ khỏi trồng để bớt ngượng khi hỏi xin táo khô. Không ngờ người sao tánh vậy, chị đẹp lão như cây khế già thường cho quả ngọt. Chị nói khơi khơi, “Gặp bữa. Em vô nhà ăn với anh chị chén cơm cho vui. Có gì ăn nấy thôi. Vì cái bao tử của anh ấy không ăn trễ được.”
Đúng là gặp bữa! Mà gặp bữa ở hải ngoại mới càng quý. Vì bạn bè ở đây có mời tới nhà họ thì họ cũng đặt vài món ngoài nhà hàng rồi bưng về. Có khác là khác không khí bàn tiệc ở nhà ấm cúng, thoải mái hơn ngoài nhà hàng đông người không quen thôi!
Tôi ăn thiệt tình, ngon miệng, với bắp cải trắng luộc, giằm trái cà chua vô tô nước luộc. Bắp cải thì chấm trứng luộc giằm trong nước mắm chua… Món này mẹ tôi và bà vú nấu thường, nhưng không ngon bằng chị nhà đây! Vì chị luộc bắp cải vừa ăn, chín tới. Không nồng cải còn sống, nhưng còn giữ được độ giòn của bắp cải nên miếng cải còn ngọt. Không như mẹ tôi hay bà vú cứ nấu lấy nước để cải rục ra, bã chè. Trứng giằm nước mắm thì nước mắm mặn, nước mắm nguyên chất trong tĩnh chiết ra. Người Bắc không ăn nước mắm pha chanh, đường, cho chua chua, ngọt ngọt, mặn mặn nước mắm. Thật là thương về miền Bắc, địa dư làm cho con người kham khổ theo. Chanh, đường ngoài ấy đâu dễ có trong nhà người bình dân.
Bữa ăn thật là ngon. Lại thú vị khi chị nhà chợt nhớ ra món độc trong tủ lạnh. Chị nói, “Không biết em có biết ăn món Bắc không, nên chị không mời. Hay cứ hâm thử lên, rồi cùng ăn cho vui.”
Tôi nghe món Bắc nên không mặn mòi cho lắm! Nhưng dù sao cũng cần lịch sự. “Thì chị cứ hâm nguyên cái tủ lạnh lên cũng được. Món gì em cũng ăn được…”
Tôi chỉ thấy chị nhà đưa vào microway một hộp to go loại lớn. Không biết món gì, nhưng lòng chẳng quan tâm nên thây kệ! Nhưng lúc chị lấy ra thì gian bếp ấm lên mùi gừng thơm thoảng. Tiếp theo là mùi ốc. Suy ra ốc luộc có bỏ gừng cho bớt tanh, tẩy nhớt, là người Bắc ưa làm thế, người Nam thì bỏ sả cho thơm và cũng tẩy nhớt của ốc. Và luật âm dương trong ẩm thực truyền đời là ốc thuộc hàn, phải ăn với nước mắm gừng hay nước mắm sả thuộc hỏa để quân bình âm-dương…
Đến khi chị nhà bày ra đĩa và bưng ra bàn ăn thì tiên đoán của tôi chỉ còn đúng một nửa, vì là món ốc nhồi lá gừng. Tôi bần thần tâm tưởng như gặp lại chính mẹ tôi ngồi trên cái ghế cóc ngoài sàn nước. Lưng mẹ tựa hờ vào lu nước bằng đất nung mát lạnh cho đỡ mỏi và bớt nóng thời tiết quê nhà. Quanh mẹ nhiều rổ, rá bằng tre đan; bóng cây mảng cầu xiêm già xô đẩy thành gió; chứ không phải gió làm di động bóng mát của cây mà mẹ tôi đã nương theo bằng cách dời ghế ngồi để được mát.
Tuổi thơ tôi nghĩ thế để tuổi già còn gặp lại mẹ tôi đổ ra rổ lớn cả khạp da bò nhỏ, là những con ốc bươu mà mẹ đã ngâm nước vo gạo từ chiều qua cho nhả nhớt. Mẹ rửa ốc bằng bàn chải cho vỏ thật sạch. Con nào xong , được xếp vô rổ sạch khác.
Xong công đoạn ấy, mẹ tôi mới trổ tài. Cái tài lể ốc sống của mẹ từng làm tôi khâm phục. Với con dao nhỏ, bén. Mẹ tôi rất khéo lách được lưỡi dao vào lẩy cả cái mày ốc ra ngọt sớt! Không dễ đâu, vì ốc đã luộc còn dính mày khó gỡ nói chi ốc còn sống.
Từng con, từng con, cứ như mẹ sẽ bị đứt tay bất cứ lúc nào vậy! Tôi chờ tiếng “ái già…!” của mẹ tới thiu thỉu ngủ gục trên cây mãng cầu cổ thụ thì tôi đã lớn. Như hiểu được gái Bắc chiều chồng đáng phục.
Bấy giờ mẹ tôi mới làm màn ảo thuật với cây đũa tre – lể từng con, từng con ốc còn sống. Khó lắm! Tôi đã sớm biết mình vô dụng từ bé, nhưng máu anh hùng cứu mỹ nhân thì hệt cha tôi! Tôi tụt xuống khỏi cây mảng cầu, “Mẹ đưa đây, con làm cho”. Nhưng có làm được đâu. Nên ngồi đó tròn xoe đôi mắt kinh ngạc với nữ ảo thuật gia. Thật ra chiếc đũa đã được vót nhọn và hơi dẹp như đầu cây kim sào may bao bố. Mẹ ghim vào thành trong của vỏ ốc, lượn que một vòng điệu nghệ, rồi mới ghim vào thịt ốc để lể ra. Tính nghệ thuật rất cao trong công đoạn một tay giữ vỏ ốc, một tay điều khiển que tre dùng dằng với nhau nhưng phải khéo léo để lấy được phần cuối của con ốc ra mới được. Tôi thử, chỉ bứt được đầu ốc ra, “thế cứt đái bên trong, để cho bố mày ăn à!” Chắc cực quá nên mẹ tôi mắng yêu người tình của bà thôi!
Mẹ tôi lại rửa đến bên trong vỏ ốc, úp ngược hết vô rổ khác cho ráo nước. Kế đến, mẹ vặt phần đuôi của từng con ốc, phần chất đen, xảm như bùn trong con ốc bươu mà bỏ đi. Phần đầu ốc cho hết vào thau nhôm, bỏ thật nhiều muối bọt, và bóp đi bóp lại cho ra nhớt. Rửa đến mòn tay vì chồng con… Xong lại cho vô rổ khác để ráo nước rửa xả muối và nhớt ốc.
Bây chừ thì mẹ xài dao, thớt; để bằm thịt heo. Ngày xưa đâu có thịt xay sẵn như bây giờ. Thịt tảng phải ra lát, rồi lát ra sợi, chập sợi xắt nhống ra hạt lựu. Sau đó mới bằm. Khổ như dâu tằm, bị nhai mà không kêu rau ráu thì lại bị chê là dâu không ngon. Chả ai đổ lỗi cho con tằm kém sức nhai; chả ai trách đàn ông thích ăn món khó mà chỉ trách đàn bà không biết làm!
Tới nấm mèo ngày xưa cũng là nguyên tai nấm, được phơi khô thế thôi. Người nội trợ phải ngâm, rửa đã đời cho sạch đất cát. Mẹ tôi thì xắt sợi như loại có bán sẵn ngoài chợ bây giờ.
Đến mẹ bóc mớ củ hành đỏ như đọc nhật ký, nước mắt không muốn tươm lại rơi. Dúi mặt vào vai áo mình cho người tình trăm năm… Lại xắt, lại dần dao điệu đàng trên thớt để được chén hành đong đầy nước mắt làm vợ, làm mẹ
…
Rổ ốc đã ráo nước, mẹ tôi lại xắt, lại chần lưỡi dao trên thớt… để tất cả: ốc, thịt, củ hành đều ở dạng hạt lựu. Riêng nấm mèo xắt sợi. Tất cả được trộn chung trong thau sạch, nêm muối, đường, tiêu xay, và cả tiêu hột. Thành một hỗn hợp dày công. Đến lúc bấy giờ mẹ tôi mới thực sự làm nghệ thuật, là từng chiếc lá gừng non trở thành cái xuồng tam bản, chuyên chở hỗn hợp ấy vào lại từng cái vỏ ốc đã sạch sẽ trong ngoài và khô ráo.
Giai đoạn cuối là chất khéo tay những con ốc đã nhồi nhân ấy vào cái chõ đồ xôi. Chất sao cho khi hấp, nước thịt tươm ra không bị chảy xuống chõ mà phải ở nguyên trong vỏ ốc.
Mẹ bắc bếp liu riu than đước, rồi đi dọn rửa cả cái sàn nước như chiến cuộc vừa tàn với rổ, rá, dao, thớt, linh tinh. Than đước đượm lửa hồng là cái tô mê mẩn thuở bé với thi thoảng có tiếng lách tách nổ khi than cháy mà không có người xem, nên nó gọi bạn. Vì thế tôi cứ ngồi nhìn bếp lửa than mà nghĩ chuyện hoang đường… Nhưng hôm đó mùi lá gừng non thơm thoảng bay ra, pha thêm mùi ốc bao nhiêu thì nước bọt trong miệng tôi cũng tươm ra ngần ấy. Tôi thù người Bắc cái thói nấu lâu, chín chắc rồi mà con ốc đã hứa cho con ăn thử của mẹ như cứ muốn nuốt lời! Cứ phải đợi rục đã-mới ngon.
Rổ ốc đã ráo nước, mẹ tôi lại xắt, lại chần lưỡi dao trên thớt… để tất cả: ốc, thịt, củ hành đều ở dạng hạt lựu. Riêng nấm mèo xắt sợi. Tất cả được trộn chung trong thau sạch, nêm muối, đường, tiêu xay, và cả tiêu hột. Thành một hỗn hợp dày công. Đến lúc bấy giờ mẹ tôi mới thực sự làm nghệ thuật, là từng chiếc lá gừng non trở thành cái xuồng tam bản, chuyên chở hỗn hợp ấy vào lại từng cái vỏ ốc đã sạch sẽ trong ngoài và khô ráo.
Giai đoạn cuối là chất khéo tay những con ốc đã nhồi nhân ấy vào cái chõ đồ xôi. Chất sao cho khi hấp, nước thịt tươm ra không bị chảy xuống chõ mà phải ở nguyên trong vỏ ốc.
Mẹ bắc bếp liu riu than đước, rồi đi dọn rửa cả cái sàn nước như chiến cuộc vừa tàn với rổ, rá, dao, thớt, linh tinh. Than đước đượm lửa hồng là cái tô mê mẩn thuở bé với thi thoảng có tiếng lách tách nổ khi than cháy mà không có người xem, nên nó gọi bạn. Vì thế tôi cứ ngồi nhìn bếp lửa than mà nghĩ chuyện hoang đường… Nhưng hôm đó mùi lá gừng non thơm thoảng bay ra, pha thêm mùi ốc bao nhiêu thì nước bọt trong miệng tôi cũng tươm ra ngần ấy. Tôi thù người Bắc cái thói nấu lâu, chín chắc rồi mà con ốc đã hứa cho con ăn thử của mẹ như cứ muốn nuốt lời! Cứ phải đợi rục đã-mới ngon.
Và tình huống nào cũng có bề trên thương xót! Mẹ tôi đã ngồi mấy tiếng đồng hồ để làm một món ăn. Nên khi có lệnh: “Con coi chừng chó, mèo, cho mẹ đi giải cái!”
Thế là tôi chỉ đợi cửa nhà xí khép lại, còn gì nữa mà không mở nắp chõ, chơi ngay hai con ốc nóng hổi vào vạt áo vì nóng quá! Bỏ lại sau lưng tình mẫu tử thiêng liêng và sự trừng phạt cũng đành. Tôi biến vào căn cứ địa của tôi thời bé là cái hầm tránh pháo kích. Lúc nào cũng ẩm lạnh, một tí sợ vu vơ như vô nhà mồ-nhưng còn hơn vô nhà mình-bởi ở đó lúc nào cũng có sẵn mấy thằng du côn anh em-dễ gì tụi nó để cho mình được ăn trọn vẹn.
Đầu tiên hết phải nói tới những giọt nước thánh trong vỏ ốc. Cứ húp tí thôi… mà nó vẫn hết vì chỉ có vài giọt. Cái ngọt, béo của thịt bị tẩm đẫm mùi ốc; lại tươm qua lớp lá gừng non… tạo thành một loại nước thánh đến cha sở cũng phải thèm vì nước thánh ở nhà thờ thì cha uống bao nhiêu chả được; còn nước ốc nhồi lá gừng thì cha phải nghỉ tu mới có người làm cho ăn. Chỉ mấy giọt nước ốc nhồi đó thôi mà nó thấm thía linh hồn tôi tới trọn đời.
Khi dòng đã cạn khô. Cứ từ từ nắm cuống lá gừng non mà kéo ra kỳ diệu. Thịt bằm thơm lừng mùi ốc với mùi gừng. Thỏi thịt như con tằm cuộn mình trong lá dâu; nhởn nhơ hạt tiêu hạt, đĩ thõa miếng nấm mèo bóng mỡ thì ai mà chịu được; lại ốc-thịt xôi đậu như trêu ngươi; miếng củ hành than ôi rệu rã…
Cắn một phát ngập răng là đủ lên thiên đàng. Mùi hương xông lên ngã tư quốc tế-mắt tai mũi họng; chúng loan báo cho nhau: Hãy ngậm mà nghe! Chỉ thằng thần kinh đểu giả là trốn vào ký ức để làm khổ về sau-vì không có nữa để ăn.
Ôi! Ốc giòn, thịt ngọt và béo. Lá gừng làm nước mắt rưng rưng như vợ giận. Đố ai biết được người khóc vui hay mừng! Lại nhá phải hạt tiêu thì khác nào thằng bạn nhậu mới trúng số. Gọi ra quán.
Thật ra là tôi chỉ nhớ cảm giác rất ngon, nhưng còn nhỏ quá và đã lâu quá nên không nhớ rõ từng cảm giác với từng chi tiết trong món, nên cà khịa vui thôi. Dù sao hai món ăn chơi của tuổi thơ.com tôi là hầm tránh pháo kích và hai con ốc ăn vụng của mẹ hiền. Nó ngon ngọt một đời và làm tôi lớn hơn tôi tưởng là món bắc cũng có món ngon. Tại mình không đủ may mắn để thưởng thức hết.
Có đã hơn bốn mươi năm tình cũ-tôi mới được thưởng thức lại món ngon miền Bắc. Thú thật là không ngon bằng mẹ tôi làm. Nhưng làm tôi nhớ mẹ quặn lòng. Tôi cũng đồng thời phát hiện ra mình chính xác là phàm phu tục tiểu tử vì có ăn mới nhớ mẹ hiền. Mẹ thì già và không còn nữa; con cũng không còn nữa theo thời gian. Nhưng tình mẹ với cha như cái con vẫn chưa tìm ra trong đời con. Vợ con đã mua cho con căn nhà con ưng, cái xe con thích; nhưng mẹ, chỉ mẹ mới làm được món ăn mà cha con thích. Câu nửa đùa nửa dạy khi con còn thơ, “cứt đái để cho bố mày ăn à?” con sẽ nghĩ hết đời con là câu mắng yêu của mẹ dành cho bố vì không yêu người thì mẹ không cực thân làm cái món công nhiều vạn lần của ấy cho bố ăn -chỉ vì bố thích.
Trở lại đời xa quê. Cảm ơn chị nhà đã không tiếc cậu em phiền nhiễu
này. Chỉ là quà do người bạn Bắc kỳ tặng chị; và anh nhà rất thích nhưng
chị cũng hy sinh cho em ăn. Cho dù chị có lầm tình cảm của em với anh
nhà thì em cũng chân thành khai báo là táo khô của anh ấy em dùng tiền
vẫn mua không được nên giả thương cho anh ấy cảm động mà ra táo. Cái
thật lòng là em viết ra để chị hết buồn lòng là không biết làm món chồng
mình thích. Có lẽ chị cũng đã nhận ra sự khác biệt của con ốc nhồi do
mẹ em làm là lá gừng non, khác với lát củ gừng non do bạn chị làm. Nhưng
ở Mỹ-có mùi gừng đã là hương vị quê nhà. Em còn nghe người vợ buồn
phiền vì không biết làm món chồng mình thích là ta chưa mất gốc.
Cảm ơn chị. Và chúc may mắn nha người chị như cây khế già…
Cảm ơn chị. Và chúc may mắn nha người chị như cây khế già…
Phan
NGUYỄN ĐẠT THỊNH * KỊCH BẢN CỦA BỊ CÁO
Kịch bản của Bị cáo
Nguyễn đạt Thịnh
Khán giả mà Pistorius cần thuyết phục là hai người – biện lý Gerrie Nel và chánh án Thokozile Masipa; người thứ nhất nổi tiếng là viên biện lý “hắc ám” nhất South Africa; nhưng người thứ nhì, chánh án Masipa, lại có vẻ quan tâm đến kịch bản của Pistorius, khi anh ngồi ghế nhân chứng trình bày việc anh bắn chết người yêu của anh- cô Reeva Steenkamp.
Phiên tòa diễn ra hôm thứ Ba mùng 8 tháng Tư, tại Pretoria, South Africa; nạn nhân bị giết, cô Steenkamp, lớn hơn Pistorius 1 tuổi, và hơn anh một bằng cấp đại học; cả hai cùng theo đuổi đại học, nhưng Pistorius bỏ ngang, trong lúc Steenkamp tốt nghiệp luật khoa. Tốt nghiệp trường luật, nhưng cô không hành nghề luật sư mà tiếp tục nghiệp người mẫu cô đã theo đuổi từ ngày còn là một nữ sinh trung học.
Có cặp chân rất đẹp, Steenkamp được nhiều người hâm mộ; đầu năm 2013 cô gặp Pistorius và yêu anh.
Đêm kinh hoàng 14 tháng Hai năm ngoái; theo kịch bản của anh, thì khoảng 7 giờ chiều hôm đó anh và Steenkamp ăn bữa tối trong phòng ăn ở tầng dưới căn nhà; ăn xong hai người lên lầu, mỗi người chúi mũi vào cái computer của mình, lui cui làm việc.
Khoảng nửa đêm họ lên giường, như thường lệ; nhưng chỉ nửa giờ sau, vì khí hậu nóng bức của Phi Châu, và máy lạnh lại trục trặc Pistorius ngồi dậy, bước xuống giường đi tìm cái quạt máy anh bỏ trong một góc phòng khác.
Đang quờ quạng tìm kiếm, anh nghe có tiếng động; diễn biến này làm anh hoảng hốt. Anh khai trước tòa, “Tôi khiếp đảm, tôi thét lớn lên bảo tên trộm ‘cút ngay đi, cút ngay ra khỏi nhà tao’; tôi lớn tiếng bảo Steenkamp nằm xuống đất để tránh nguy hiểm, tôi còn bảo nàng điện thoại gọi cảnh sát”.
Anh gỡ cặp chân giả, rồi đứng trên hai đầu gối, anh nói với chánh án Masipa, “Trên thao trường tôi là một lực sĩ, nhưng ngoài cuộc đời, tôi yếu ớt, không có sức tự vệ”. Anh sụt sùi khóc, nhiều người trong cử tọa khóc theo anh.
Kịch bản của Pistorius tối thiểu cũng đã thuyết phục được một nhân vật vô cùng quan trọng trong vụ án: bà June Steenkamp, mẹ của nạn nhân; bà June nói bà không đòi hỏi Pistorius phải ngồi tù, vì dù anh có lãnh bản án tối thiểu 28 năm tù giam cho tội cố sát, con gái bà cũng không vì thế mà sống lại.
Nhưng bà trách Pistorius là gặp bà ngoài tòa, anh làm mặt lạ, không chào hỏi bà. Trả lời câu hỏi của phóng viên truyền thông là nếu Pistorius chào bà thì phản ứng của bà ra sao; bà hơi ngần ngừ rồi trả lời, “Có lẽ tôi cũng chỉ gật đầu”.
Không chào bà hôm đầu tiên gặp bà tại tòa án, nhưng trong ngày thứ nhì của phiên tòa, Pistorius đã chính thức xin gia đình nạn nhân tha thứ cho anh. Biện lý Nel bảo bị can Pistorius đừng đóng kịch, vì “trong cuộc đời anh, ngoài anh ra, mọi người đều không đáng kể”.
Ông nói với tòa là bị can trình diễn tình yêu thương, lòng kính trọng của anh ta đối với người đàn bà mà anh giết chết trong những điều kiện tàn bạo nhất.
Sau phần trình bày của Pistorius, là phần chất vấn của biện lý Gel; qua những câu hỏi gay gắt, ông cố phá vỡ bức chân dung bị can tự vẽ cho mình như một người tật nguyền, khiếp sợ bạo lực, và một người yêu đang say đắm hưởng hạnh phúc bên người tình tuyệt sắc.
Đối với ông, Pistorius là một người “thờ súng”, rất “nhạy cò” và đầy mặc cảm trước những thành công dễ dàng của cô tình nhân Steenkamp.
Tuy nhiên cho đến ngày mùng 10 tháng Tư 2014 -ngày thứ ba của cuộc thẩm vấn- Gel vẫn chưa đưa ra được một chứng cứ nào về động lực ghen tuông, hoặc bất hòa, khiến Pistorius bắn chết người tình.
Ông yêu cầu Pistorius giải thích câu Steenkamp viết trong một lá điện thư trao đổi giữa hai người, “Đôi khi anh làm em sợ, nhất là những lúc anh nạt ngang em”; Pistorius nói, “Sợ là cảm giác của Steenkamp, mỗi khi tôi gạt ngang những điều cổ nói. Nhưng cổ vẫn biết là tôi hết lòng thương yêu cổ”. Lợi thế của Pistorius là việc anh bắn Steenkamp xảy ra trong một đêm tại nhà anh, chỉ có anh và nàng; giờ này nàng không còn nữa, Gel không có người để gọi ra đối chứng.
Nếu phần chất vấn chỉ quanh quẩn như vậy, và nếu Gel không có một lá thư tình, hay một cuộc hò hẹn của Steenkamp với một người đàn ông khác, có thể kịch bản của Pistorius thành công, anh tự vẽ mình như một người tình đang đắm đuối yêu thương Steenkamp, và như vậy anh không có một lý do nào để giết cô.
Chỉ riêng nhóm lãnh đạo Việt Cộng là không có nhu cầu viết kịch bản, họ không cần đính chánh việc họ đang ngồi xổm trên quyền làm người của gần 100 triệu đồng bào quốc nội, họ bất chấp những lời tố cáo họ dâng biển, dâng đất cho Tàu. Họ giải thích việc làm của họ bằng công an và trại giam.
Nguyễn đạt Thịnh
Kịch bản là một sáng tác phẩm -thường được gọi là “soạn phẩm”- chuyên
chở quan điểm của soạn giả. Đối tượng của kịch bản là khán giả, và mục
đích của soạn giả là -qua soạn phẩm- tạo cho khán giả những xúc động
theo ý mình.
Soạn giả trong trường hợp được trình bày trong bài báo này là anh Oscar Pistorius, 28 tuổi, mang hỗn danh là “người không chân, chạy nhanh nhất thế giới”; anh đoạt huy chương vàng Thế Vận Hội 2005, và được coi như một người hùng, khắc phục tật nguyền thể xác để đem vinh quang thể thao về cho đất nước anh – nước Nam Phi (South Africa).
Soạn giả trong trường hợp được trình bày trong bài báo này là anh Oscar Pistorius, 28 tuổi, mang hỗn danh là “người không chân, chạy nhanh nhất thế giới”; anh đoạt huy chương vàng Thế Vận Hội 2005, và được coi như một người hùng, khắc phục tật nguyền thể xác để đem vinh quang thể thao về cho đất nước anh – nước Nam Phi (South Africa).
Khán giả mà Pistorius cần thuyết phục là hai người – biện lý Gerrie Nel và chánh án Thokozile Masipa; người thứ nhất nổi tiếng là viên biện lý “hắc ám” nhất South Africa; nhưng người thứ nhì, chánh án Masipa, lại có vẻ quan tâm đến kịch bản của Pistorius, khi anh ngồi ghế nhân chứng trình bày việc anh bắn chết người yêu của anh- cô Reeva Steenkamp.
Phiên tòa diễn ra hôm thứ Ba mùng 8 tháng Tư, tại Pretoria, South Africa; nạn nhân bị giết, cô Steenkamp, lớn hơn Pistorius 1 tuổi, và hơn anh một bằng cấp đại học; cả hai cùng theo đuổi đại học, nhưng Pistorius bỏ ngang, trong lúc Steenkamp tốt nghiệp luật khoa. Tốt nghiệp trường luật, nhưng cô không hành nghề luật sư mà tiếp tục nghiệp người mẫu cô đã theo đuổi từ ngày còn là một nữ sinh trung học.
Có cặp chân rất đẹp, Steenkamp được nhiều người hâm mộ; đầu năm 2013 cô gặp Pistorius và yêu anh.
Pistorius sinh ra với khuyết tật không có xương ống chân; do đó mới
11 tháng tuổi anh đã bị cưa cả hai chân, từ khoảng dưới đầu gối trở
xuống.
Thế giới ca tụng ý chí phấn đấu của anh, vì tàn tật mà anh vẫn học đến đại học (dù không tốt nghiệp), và tạo được thành tích thể thao có một không hai trên thế giới. Tuy nhiên, 4 viên đạn anh bắn ra trong nửa phút ngắn ngủi -hành động mà chính anh xác nhận là anh không kịp suy nghĩ- có thể tiêu hủy mọi thành quả mà anh nỗ lực gây dựng trong suốt cuộc đời 28 năm của anh.
Ngồi trước tòa, anh nghẹn ngào xác nhận anh bắn chết cô Steenkamp, vì tưởng cô là gian nhân đột nhập vào căn nhà sang trọng mà anh với cô đang chung sống.
Thế giới ca tụng ý chí phấn đấu của anh, vì tàn tật mà anh vẫn học đến đại học (dù không tốt nghiệp), và tạo được thành tích thể thao có một không hai trên thế giới. Tuy nhiên, 4 viên đạn anh bắn ra trong nửa phút ngắn ngủi -hành động mà chính anh xác nhận là anh không kịp suy nghĩ- có thể tiêu hủy mọi thành quả mà anh nỗ lực gây dựng trong suốt cuộc đời 28 năm của anh.
Ngồi trước tòa, anh nghẹn ngào xác nhận anh bắn chết cô Steenkamp, vì tưởng cô là gian nhân đột nhập vào căn nhà sang trọng mà anh với cô đang chung sống.
Đêm kinh hoàng 14 tháng Hai năm ngoái; theo kịch bản của anh, thì khoảng 7 giờ chiều hôm đó anh và Steenkamp ăn bữa tối trong phòng ăn ở tầng dưới căn nhà; ăn xong hai người lên lầu, mỗi người chúi mũi vào cái computer của mình, lui cui làm việc.
Khoảng nửa đêm họ lên giường, như thường lệ; nhưng chỉ nửa giờ sau, vì khí hậu nóng bức của Phi Châu, và máy lạnh lại trục trặc Pistorius ngồi dậy, bước xuống giường đi tìm cái quạt máy anh bỏ trong một góc phòng khác.
Đang quờ quạng tìm kiếm, anh nghe có tiếng động; diễn biến này làm anh hoảng hốt. Anh khai trước tòa, “Tôi khiếp đảm, tôi thét lớn lên bảo tên trộm ‘cút ngay đi, cút ngay ra khỏi nhà tao’; tôi lớn tiếng bảo Steenkamp nằm xuống đất để tránh nguy hiểm, tôi còn bảo nàng điện thoại gọi cảnh sát”.
Anh gỡ cặp chân giả, rồi đứng trên hai đầu gối, anh nói với chánh án Masipa, “Trên thao trường tôi là một lực sĩ, nhưng ngoài cuộc đời, tôi yếu ớt, không có sức tự vệ”. Anh sụt sùi khóc, nhiều người trong cử tọa khóc theo anh.
Vụ xử Pistorius gây chấn động dư luận Nam Mỹ, với nhiều yếu tố thuận
lợi cho anh, như cảm tình của quần chúng đối với anh, và cuộc sống hằng
ngày nhiều bạo động. Quần chúng dễ dàng chấp nhận kịch bản anh bắn tên
trộm, mà Steenkamp là nạn nhân; phiên tòa dự trù sẽ kéo dài đến tháng
5/2014, với chế độ chánh án tự quyền quyết định, chứ không giống chế độ
bồi thẩm đoàn nhân dân định án như tại Hoa Kỳ.
Pistorius chỉ cần thuyết phục chánh án Masipa là anh không dụng ý giết Steenkamp, mà 4 viên đạn bắn vỡ toang đầu người đẹp chỉ là ngộ sát. Anh có trên một năm trời -tính từ ngày án mạng xảy ra cho đến ngày anh ra tòa- để cùng những luật sư biện hộ anh, gọt giũa mọi chi tiết để trình bày cảnh một đôi uyên ương đang trong thời điểm đằm thắm nhất của một cuộc tình; và như vậy, anh không có động lực để giết Steenkamp.
Pistorius chỉ cần thuyết phục chánh án Masipa là anh không dụng ý giết Steenkamp, mà 4 viên đạn bắn vỡ toang đầu người đẹp chỉ là ngộ sát. Anh có trên một năm trời -tính từ ngày án mạng xảy ra cho đến ngày anh ra tòa- để cùng những luật sư biện hộ anh, gọt giũa mọi chi tiết để trình bày cảnh một đôi uyên ương đang trong thời điểm đằm thắm nhất của một cuộc tình; và như vậy, anh không có động lực để giết Steenkamp.
Kịch bản của Pistorius tối thiểu cũng đã thuyết phục được một nhân vật vô cùng quan trọng trong vụ án: bà June Steenkamp, mẹ của nạn nhân; bà June nói bà không đòi hỏi Pistorius phải ngồi tù, vì dù anh có lãnh bản án tối thiểu 28 năm tù giam cho tội cố sát, con gái bà cũng không vì thế mà sống lại.
Nhưng bà trách Pistorius là gặp bà ngoài tòa, anh làm mặt lạ, không chào hỏi bà. Trả lời câu hỏi của phóng viên truyền thông là nếu Pistorius chào bà thì phản ứng của bà ra sao; bà hơi ngần ngừ rồi trả lời, “Có lẽ tôi cũng chỉ gật đầu”.
Không chào bà hôm đầu tiên gặp bà tại tòa án, nhưng trong ngày thứ nhì của phiên tòa, Pistorius đã chính thức xin gia đình nạn nhân tha thứ cho anh. Biện lý Nel bảo bị can Pistorius đừng đóng kịch, vì “trong cuộc đời anh, ngoài anh ra, mọi người đều không đáng kể”.
Ông nói với tòa là bị can trình diễn tình yêu thương, lòng kính trọng của anh ta đối với người đàn bà mà anh giết chết trong những điều kiện tàn bạo nhất.
Sau phần trình bày của Pistorius, là phần chất vấn của biện lý Gel; qua những câu hỏi gay gắt, ông cố phá vỡ bức chân dung bị can tự vẽ cho mình như một người tật nguyền, khiếp sợ bạo lực, và một người yêu đang say đắm hưởng hạnh phúc bên người tình tuyệt sắc.
Đối với ông, Pistorius là một người “thờ súng”, rất “nhạy cò” và đầy mặc cảm trước những thành công dễ dàng của cô tình nhân Steenkamp.
Tuy nhiên cho đến ngày mùng 10 tháng Tư 2014 -ngày thứ ba của cuộc thẩm vấn- Gel vẫn chưa đưa ra được một chứng cứ nào về động lực ghen tuông, hoặc bất hòa, khiến Pistorius bắn chết người tình.
Ông yêu cầu Pistorius giải thích câu Steenkamp viết trong một lá điện thư trao đổi giữa hai người, “Đôi khi anh làm em sợ, nhất là những lúc anh nạt ngang em”; Pistorius nói, “Sợ là cảm giác của Steenkamp, mỗi khi tôi gạt ngang những điều cổ nói. Nhưng cổ vẫn biết là tôi hết lòng thương yêu cổ”. Lợi thế của Pistorius là việc anh bắn Steenkamp xảy ra trong một đêm tại nhà anh, chỉ có anh và nàng; giờ này nàng không còn nữa, Gel không có người để gọi ra đối chứng.
Nếu phần chất vấn chỉ quanh quẩn như vậy, và nếu Gel không có một lá thư tình, hay một cuộc hò hẹn của Steenkamp với một người đàn ông khác, có thể kịch bản của Pistorius thành công, anh tự vẽ mình như một người tình đang đắm đuối yêu thương Steenkamp, và như vậy anh không có một lý do nào để giết cô.
Không chỉ Pistorius và những bị cáo khác mới có nhu cầu viết kịch
bản; các chính khách cũng cần chứng minh việc mình bênh vực người nghèo,
hay việc mình bảo vệ từng đồng bạc cho nhà giàu, là hành động yêu nước.
Các thương gia cũng cần chứng minh với khách hàng là mình nỗ lực bảo vệ
túi tiền của họ -trong lúc mình đang móc túi họ. Ngay đến cả quý đức
ông chồng cũng cần viết kịch bản đi họp, làm overtime, để giải thích
việc mình bỏ vợ ăn cơm tối cu ki.
Giá trị quan trọng nhất của kịch bản là sự thật, hoặc làm cho mọi người tin đó là sự thật; do đó Pistorius ngồi tù 28 năm vì tội cố sát, hay chỉ lãnh án treo tượng trưng vì tội ngộ sát là việc còn tùy vào khả năng của Gel, có chứng minh được kịch bản bị can đang trình diễn là fiction (giả tưởng) hay không.
Giá trị quan trọng nhất của kịch bản là sự thật, hoặc làm cho mọi người tin đó là sự thật; do đó Pistorius ngồi tù 28 năm vì tội cố sát, hay chỉ lãnh án treo tượng trưng vì tội ngộ sát là việc còn tùy vào khả năng của Gel, có chứng minh được kịch bản bị can đang trình diễn là fiction (giả tưởng) hay không.
Chỉ riêng nhóm lãnh đạo Việt Cộng là không có nhu cầu viết kịch bản, họ không cần đính chánh việc họ đang ngồi xổm trên quyền làm người của gần 100 triệu đồng bào quốc nội, họ bất chấp những lời tố cáo họ dâng biển, dâng đất cho Tàu. Họ giải thích việc làm của họ bằng công an và trại giam.
Nguyễn đạt Thịnh
NGƯỜI VIỆT ĂN CẮP
Người Việt ăn cắp lên truyền hình Nhật Bản
(Tin tức thời sự)
- Hai người Việt bị cảnh sát bắt giữ vì nghi ăn cắp đã lên truyền hình Nhật Bản.
- Nhân viên hàng không ăn cắp, buôn lậu có hệ thống?
- Người Việt mê hàng ăn cắp, hàng nhái, hàng trốn thuế,...
Ăn cắp lên ti vi
Nippon
TV (Nhật Bản) vào hôm 12/4 đã đưa tin kèm đoạn video quay tại hiện
trường cảnh 2 nghi phạm người Việt bị cảnh sát bắt giữ vì tình nghi ăn
cắp mỹ phẩm tại một cửa hiệu ở tỉnh Kagawa.
Theo
bản tin của Nippon TV, 2 nghi phạm nói trên (nam giới, 23 tuổi và 25
tuổi, trong đó nghi phạm 23 tuổi còn là một du học sinh) bị cảnh sát
Nhật bắt khi đang cố gắng chạy trốn.
Truyền hình Nhật Bản đưa tin bắt giữ hai người Việt ăn cắp |
Hai nghi phạm này thuộc nhóm 5 người Việt Nam bị cảnh sát Nhật theo dõi từ tháng 12/2013 đến tháng 1 năm nay vì hành vi ăn trộm mỹ phẩm và thực phẩm chức năng tại các nhà thuốc ở 2 thành phố Muragame và Mitoyo, tỉnh Kagawa.
Nippon TV ước tính số hàng hóa bị lấy cắp trị giá 188.000 yen Nhật, tức khoảng 39 triệu đồng.
Có thể nói, việc ăn cắp vặt không chỉ xảy ra với một vài người Việt, chỉ ở một vài nơi.
Tháng
6/2013, một bức ảnh chụp biển cảnh cáo hành vi ăn cắp vặt có in tiếng
Việt (dưới là dòng chữ dịch sang tiếng Nhật) gây xôn xao cộng đồng mạng.
Tấm
biển cảnh cáo có nội dung: “Ăn cắp vặt là phạm tội. Nếu ăn cắp vặt thì
bị phạt tù dưới 10 năm. Ngay khi phát hiện ăn cắp vặt thì chúng tôi sẽ
thông báo cho cảnh sát ngay lập tức…”,. Theo anh Đặng Công Trọng, một du
học sinh Nhật, tác giả bức ảnh này, bức ảnh được chụp trong một siêu
thị ở thành phố Saitama, Nhật Bản.
Đa phần cộng
đồng mạng đều cho rằng tấm biển chủ yếu nhắm tới đối tượng là khách hàng
Việt. Nhiều người cho rằng đây là điều đáng xấu hổ bởi nó là bằng chứng
rõ ràng về thói ăn cắp vặt của người Việt ở Nhật Bản.
Theo
anh Trọng, hành vi ăn cắp vặt của người Việt tại Nhật xảy ra phổ biến
đến mức “Lên tàu nhiều khi thấy người Việt, người Nhật còn kéo khóa túi
lại rồi ôm khư khư trước bụng”.
Tháng 12/2013, một
nhóm gồm 4 thanh niên Việt khoảng 20 tuổi đã bị phát hiện ăn cắp hàng
trong các siêu thị quần áo và mỹ phẩm tại Tokyo. Hàng chủ yếu của các
thương hiệu nổi tiếng như mỹ phẩm Shiseido, Uniqlo. Phần lớn hàng ăn cắp
được chuyển đến nhà của một phụ nữ Việt khoảng 30 tuổi rồi chuyển đến
một khách sạn gần sân bay Narita, nơi các thành viên đoàn bay ở. Chỉ
tính riêng trong tháng 1 đầu năm nay, quận Fukuoka đã bắt 5 nhóm trộm
cắp người Việt.
Không chỉ có tật ăn cắp vặt, thời
gian gần đây dư luận còn đưa tin khá nhiều về cuộc sống của một số người
Việt ở Nhật như thiếu trật tự, lộn xộn, trốn vé tàu…, thậm chí sống
ngược lại với văn hóa Nhật, tạo nên những kỳ thị của người Nhật với
người Việt Nam.
Khách tây khiếp sợ thói xấu người Việt
Không
chỉ chôm chỉa trên đất khách, hành nghề "hai ngón" từ lâu đã trở thành
nỗi khiếp sợ đối với du khách nước ngoài khi đến Việt Nam.
Với rất nhiều chiêu trò, một nhóm trộm cắp làm trò nhảy múa để chôm đồ của khách nước ngoài vào ngày 5/2.
Phát
hiện vợ chồng anh Natthachat Sanyaphan (SN 1970, quốc tịch Thái Lan)
đang ngồi trước số nhà 30 Nguyễn Hữu Huân, có để túi xách đựng máy ảnh,
nhóm trộm cắp tiến sát để "tác nghiệp". Bọn chúng đã nói chuyện và nhảy
múa để thu hút sự chú ý của vợ chồng anh Natthachat Sanyaphan nhằm tạo
sơ hở để 1 đối tượng lấy trộm chiếc túi xách và trốn thoát.
Cuối
tháng 7/2012, một số trang mạng đưa tin về một cô gái người Scotland là
nạn nhân của một vụ lấy trộm hộ chiếu ở phố cổ Hà Nội. Cô kể, chỉ vừa
cầm hộ chiếu trên tay đã bị mất.
Ai lấy hộ chiếu
của tôi vui lòng trả lại hoặc chỉ cho tôi cách nào lấy được. Tôi sẽ đưa
thật nhiều tiền” - cô gái vừa khóc vừa giơ cao tờ 100 đô la Mỹ.
Ngay
sau đó, một phụ nữ khoảng 35 tuổi bước đến khều nhẹ cô gái ngoại quốc
và chỉ tấm hộ chiếu ở trên nắp capo chiếc xe hơi đậu gần đó. Cô gái kiểm
tra kĩ càng lại tấm hộ chiếu của mình rồi đưa cho người phụ nữ ấy một
tờ 100 USD Mỹ. Câu chuyện về tấm hộ chiếu... 100 đô la Mỹ cho thấy thực
trạng đáng báo động về tình hình trộm cắp của người nước ngoài ở Việt
Nam.
Nạn trộm cắp, móc túi phổ biến tới mức thay vì phải xóa sổ thì người ta đành bất lực chấp nhận sống chung với nó.Tại Hà Nội, nạn móc túi, lấy trộm điện thoại đang gia tăng tại các bệnh viện lớn tại Hà Nội như viện C, Xanh Pol, Bệnh viện Nhi TW... trong khi các Ban quản lý bệnh viện dường như chưa có biện pháp nào để chấm dứt.
Bất
lực trước thực tế này, lãnh đạo các bệnh viện chỉ còn nước khuyến cáo
sự cảnh giác của người dân chính là biện pháp phòng ngừa hữu hiệu nhất.
Trong
khi đó, người dân tại Sài Gòn than thở và cho rằng "trộm cắp không phải
là vấn nạn cá nhân mà đã trở thành vấn nạn xã hội". Hiện nay ở Sài Gòn
nó giống như chuyện bình thường mỗi ngày.
Nữ tiếp viên hàng không buôn đồ ăn cắp bị cảnh sát Nhật bắt giữ
Nữ
tiếp viên Nguyễn Bích Ngọc của hãng hàng không Vietnam Airlines, người
bị tình nghi vận chuyển hàng hóa ăn cắp về Việt Nam, đã được phía Nhật
Bản phóng thích ngày 15/4.
Vụ việc khiến dư luận
quan tâm gần đây nhất là nữ tiếp viên hãng Hàng không Việt Nam (Vietnam
Airlines) Nguyễn Bích Ngọc bị cảnh sát Tokyo bắt giữ vào ngày 26/3. Nữ
tiếp viên này bị nghi ngờ vận chuyển 21 món hàng ăn cắp, trị giá khoảng
25,7 triệu đồng và được cho là có ý định buôn lậu quần áo ăn cắp theo
đặt hàng của một phụ nữ Việt 30 tuổi, sống ở Nhật.
Không
chỉ riêng Nguyễn Bích Ngọc, cảnh sát Tokyo còn nghi ngờ khoảng 20 nhân
viên khác của Vietnam Airlines cũng tham gia vào đường dây buôn lậu này.
Do vậy, họ đã kiểm tra văn phòng của Vietnam Airlines tại Tokyo.
Trước
đó, năm 2009 một cơ phó của Vietnam Airlines từng bị trục xuất về nước
cũng vì liên quan đến đường dây vận chuyển hàng ăn cắp từ Nhật về Việt
Nam. Tòa án quận Saitama đã tuyên phạt phi công Đặng Xuân Hợp 30 tháng
tù nhưng cho hưởng án treo, với thời gian thử thách là 4 năm, đồng thời
tuyên phạt phi công này 500.000 yen Nhật.
Sự việc
này một lần nữa làm dấy lên luồng ý kiến tranh cãi về thói xấu của người
Việt tại nước ngoài. Nhiều người cho rằng, chính những hành vi đó đang
làm xấu đi hình ảnh người Việt ở các nước bạn. Thậm chí ở nhiều quốc
gia, người ta còn tỏ vẻ kỳ thị mỗi khi gặp người Việt.
|
Clip
được phát trên Nippon TV và Yahoo tại Nhật sáng 13/4 hiện đang gây rúng động trong cộng đồng người Việt đang làm
việc, học tập sinh sống tại Nhật sau nhiều vụ việc tai tiếng gần đây.
Đó là những người Việt bị nghi ngờ đã ăn cắp một số
lượng lớn mỹ phẩm trong các hiệu thuốc ở tỉnh Kagawa. Cùng với vụ nữ tiếp viên
của Vietnam Airlines, Nguyễn Bích Ngọc (25 tuổi) bị bắt ở cuối tháng 3, do cảnh
sát Nhật nghi ngờ cô đã mua hàng có nguồn gốc trộm cắp từ Nhật Bản về Việt Nam;
uy tín của người Việt Nam tại Nhật đang xuống thấp hơn bao giờ hết.
Trong clip, một người tình nghi tên Đỗ Trung (quốc
tịch Việt Nam) đã bị cảnh sát bắt giữ tại thành phố Sakaide tỉnh Kagawa trong
khi đang chạy trốn. Bốn trong 5 người bị bắt đã bị khởi tố vì hành vi trộm cắp,
trong đó có một người là nữ giới.
Theo điều tra, từ tháng 12/2013 đến tháng 1/2014,
của cảnh sát Nhật Bản đã bí mật theo dõi một nhóm gồm 5 người Việt bị tình nghi
ăn trộm mỹ phẩm và thực phẩm chức năng tại các cửa hàng thuốc thuộc 2 thành phố
Muragame và Mitoyo, ước tính giá trị hàng hóa lên tới 188.000 yên (37 triệu
đồng).
Sau khi clip này được đưa lên facebook Cộng đồng
Nhật ngữ, đã tạo nên 2 nguồn dư luận. Đầu tiên là sự căm ghét vì hành động làm
nhục quốc thể của một nhóm người lười lao động, nhưng thích “ngồi mát ăn bát
vàng” dẫn tới hành động trộm cắp. Thứ hai là sự hoang mang của rất nhiều người
Việt đang sinh sống, học tập và làm việc tại đất nước mặt trời mọc.
Cư dân mạng hết sức "bức xúc" và
hoang mang
Một vài
người đổ lỗi cho hoàn cảnh, như: “Mấy thằng chúng mày chưa sang nên nói hay
lắm. Tao ví dụ chúng mày sang không có việc làm, không còn tiền thì mày về Việt
Nam hay đi ăn trộm; có người còn có số đỏ, số đen. Tao tin mày sang cũng sẽ đá
tàu với ăn cắp vặt thôi….”, liền nhận được rất nhiều gạch đá của dư luận: “Đã
óc * rồi còn tỏ ra nguy hiểm. Giờ tui hỏi một câu đơn giản: Trộm cắp là xấu hay
tốt”, hay "Có chết đói, mình cũng không ăn cắp. Biết là cuộc sống quá bon
chen, khó khăn, nhưng thiếu gì cách mà phải như vậy”.
Hầu hết
comment thể hiện sự tiếc nuối cũng như đau lòng khi thấy nhiều người Việt Nam
làm việc xấu trên đất Nhật.
“Đau lòng
khi Việt Nam có những kẻ như vậy”, em gái có nick Cobemua Dong bình luận. Còn
bạn Thanh Giau thì muốn có biện pháp mạnh hơn: “Tống về nước, phạt tiền thật
nặng cho chừa và cảnh cáo nhưng người chưa bỏ tật xấu này”. Có bạn còn khẳng
định: “Ở Việt Nam thì còn xem hoàn cảnh của bạn khổ đến mức nào. Chứ đi ra nước
ngoài thì khác. Chỉ cần bạn làm một việc xấu, người ta đánh giá cả dân tộc bạn
hiểu chưa”.
Nổi bật
nhất là sự lo lắng cũng như hoang mang của cộng đồng Việt tại Nhật. Cuộc sống
của họ vốn đã khó khăn, tủi nhục; sau những chuyện kia, có lẽ còn kinh dị hơn.
“Nói thế
nào đi nữa, ăn trộm ăn cắp là không được rồi, bênh vực gì chứ. Đủ chân đủ tay
không chịu lao động, ăn cướp sức lao động của người khác. Đi đâu nói là người
Việt cũng bị nhìn từ đầu đến chân. Con sâu làm rầu nồi canh. Chỉ khổ các du học
sinh sau này không có việc làm. Cuộc sống càng thêm khó khăn. Cứ thế này chắc
một thời gian nữa Nhật sẽ không dám nhận lao động Việt nữa”, bạn TanhThuc Love
quan ngại.
“Nhục như
chó! Đưa lên tivi thế này thì còn mặt mũi gì mà đi làm đây”, Nguyen Thuong, lao
động ở Nhật tức giận.
Còn bạn
Son Tran Huy bức xúc: “Nhục nhã đến mức này đấy. Cứ nhắc đến Việt Nam là chỉ
thấy ăn trộm, ăn cắp. Nhiều khi đi tàu mà không dám nói tiếng Việt, chỉ sợ
người Nhật nghe được họ ghét”.
Người
Nhật là dân tộc nổi tiếng về sự siêng năng, cần cù. Họ lao động vất vả gấp đôi
người Việt Nam chúng ta. Theo đó, họ cực ghét những kẻ ăn cắp vặt, lười lao
động, còn đánh cắp công sức của người khác. Thế nên, ở Nhật rất ít ăn cắp vặt,
cửa hàng hoặc quán xá nhỏ của họ ít biện pháp an ninh. Và đó là thời cơ để
nhiều người Việt Nam chúng ta ở Nhật thể hiện sự khôn lõi, lợi dụng sự lỏng lẻo
an ninh của người bản địa để ăn trộm. Khi sự khôn lõi của người Việt thể hiện
không đúng chỗ, khiến cả một một dân tộc phải xấu hổ; nhiều người Việt Nam khác
ở Nhật chịu sự kỳ thị không đáng có.
Xem thêm
clip: Nhật bắt nhóm người tuồn hàng ăn cắp cho tiếp viên Hàng không Việt Nam
(nguồn You Tube)
Báo
Nhật đưa tin một nữ tiếp viên hàng không của Vietnam Airlines bị tình
nghi buôn lậu hàng mỹ phẩm, quần áo từ một đường dây ăn cắp tại các siêu
thị Nhật.
Tờ Sankei Shimbun của Nhật ngày 27/2 đưa tin, một thành viên
phi hành đoàn của Vietnam Airlines bị tình nghi mua lại mỹ phẩm từ một
nhóm trộm cắp tại Nhật Bản và có thể đang tìm cách buôn lậu ra khỏi nước
Nhật.
Cơ quan cảnh sát cho biết vụ việc được phát hiện vào ngày 26/2 khi cảnh
sát mở rộng điều tra qua các cuộc thẩm vấn những kẻ ăn cắp.
Tháng 12 năm ngoái, một nhóm 4 thanh niên Việt Nam khoảng 20 tuổi đã bị
phát hiện ăn cắp hàng trong các siêu thị quần áo và mỹ phẩm tại Tokyo.
Cảnh sát phát hiện ra rằng phần lớn hàng hóa ăn cắp của nhóm này được
chuyển đến nhà của một phụ nữ Việt khoảng 30 tuổi.
Một siêu thị ở quận Saitama, phía bắc Tokyo phải treo biển bằng
tiếng Việt cảnh báo rằng camera đang hoạt động và nếu ai ăn cắp sẽ bị
cảnh sát bắt. Ảnh minh họa.
|
Trong bài báo này, Sankei Shimbun nhắc lại sự việc một cơ phó của Vietnam Airlines từng bị trục xuất về nước cũng vì liên quan đến đường dây vận chuyển hàng ăn cắp từ Nhật về Việt Nam hồi 2009.
Do nhu cầu cao các sản phẩm mang thương hiệu Nhật ở Việt Nam, việc buôn
lậu mặt hàng này hiện nay khá phổ biến. Việc bán hàng lậu đem lại mức
lời cao hơn do không phải chịu thuế.
Tại thủ đô Hà Nội của Việt Nam, tờ Sankei Shimbun viết, giá
một số loại mỹ phẩm Nhật còn rẻ hơn giá tại Nhật Bản, nhất là tại một
khu vực quanh trụ sở chính của hãng hàng không Vietnam Airlines. Nhiều
sản phẩm còn nguyên nhãn giá của các cửa hàng bên Nhật.
Theo cơ quan cảnh sát quốc gia của Nhật, số người Việt bị bắt vì ăn cắp
đồ siêu thị ngày càng tăng cao, chiếm tới 40% những vụ người nước ngoài
ăn cắp tại đây. Riêng trong tháng một đầu năm nay, quận Fukuoka đã bắt 5
nhóm trộm cắp người Việt. Cảnh sát nhấn mạnh việc khẩn cấp cần làm hiện
nay là nhổ tận gốc loại hình buôn bán này.
Trao đổi với VnExpress, đại diện Vietnam Airlines cho biết đã
nắm được sơ bộ vụ việc này qua báo chí. Danh tính người bị tình nghi và
chi tiết vụ việc đang được khẩn trương tìm hiểu. "Quan điểm của hãng từ
trước đến nay vẫn là xử lý đúng người đúng hành vi. Tùy mức độ vi phạm,
tiếp viên có thể bị cảnh cáo đến đuổi việc", đại diện của Vietnam
Airlines nói.
Anh Đức
Khánh Ly và chuyện tình bí mật với hai người đàn ông
Suốt thời son trẻ của bà toàn lận đận với chuyện tình yêu và chưa bao giờ được sống trọn vẹn với mơ ước của mình.
Có một quãng thời gian, nguồn tin nữ ca sĩ Khánh Ly
ở tuổi ngấp nghé 70 (bà sinh năm 1945 tại Hà Nội) sẽ về Việt Nam biểu
diễn theo lời mời của chủ nhân phòng trà Đồng Dao, TP.HCM đã gây xôn xao
dư luận. Cuối cùng, Khánh Ly đã không về. Một vài người trong giới ca
hát tiết lộ: Nhà tổ chức và Khánh Ly chưa đạt được thỏa thuận về giá cả
(cát-sê) và cách chi trả. Thế là chìm xuồng!
Sau
khi sang Hoa Kỳ định cư năm 1975, giọng hát của bà vẫn đứng đầu ở hải
ngoại. Từ đó đến nay, bà đã hai lần về Việt Nam với tư cách thăm viếng
người nhà. Lần sau cùng vào tháng 5.2000. Tài danh là thế, nhưng đường
tình cảm của Khánh Ly không được may mắn như sự nghiệp ca hát. Suốt thời
son trẻ của bà toàn lận đận với chuyện tình yêu và chưa bao giờ được
sống trọn vẹn với mơ ước của mình, và mối tình với hai người đàn ông Đà
Nẵng thì ít người biết đến.
Ông đại úy tay chơi
Sau
khi chia tay với người chồng đầu tiên và đã có với nhau hai mặt con,
chẳng bao lâu, Khánh Ly gặp người chồng thứ hai, một đại úy biệt kích và
là một tay chơi có hạng của đất Sài Gòn thời đó.
Ông
ta tên là Mai Bá Trác, con trai thứ trong một gia đình giàu có và tiếng
tăm ở Đà Nẵng, từng chỉ huy một trại biệt kích biên phòng ở biên giới
Tây Ninh vào những năm cuối thập niên 60. Là một người đàn ông có thân
hình to lớn, không thuộc thành phần đẹp trai, học giỏi, nhưng ông ta có
dáng dấp của một kẻ phong trần, bụi bặm và lì lợm.
Vốn
con nhà giàu, lại nắm chức vụ hái ra tiền, nên mang danh là lính biên
giới, nhưng tháng nào Mai Bá Trác cũng có mặt ở Sài Gòn mấy ngày để ăn
chơi xả láng với nhiều người đẹp. Dạo đó, ông ta đã sắm xe du lịch
Mustang mui trần để sẵn ở hậu phương làm phương tiện di chuyển thì ít mà
để tán tỉnh các em thì nhiều. Mai Bá Trác tỏ ra rất hào phóng với em
út, nên ít cô nào từ chối lời tỏ tình có điều kiện đi kèm của ông ta.
Nhưng đến khi gặp Khánh Ly thì Trác chết mê, chết mệt.
Mai Bá Trác – người chồng thứ hai của Khánh Ly
Thật
ra, lúc bấy giờ, chàng trai nào được là bạn của Khánh Ly thôi, cũng đã
hãnh diện lắm rồi, nói chi đến người tình. Thế là Mai Bá Trác, bỏ tất cả
để dồn hết khả năng vào việc chinh phục mục tiêu duy nhất. Phải công
bằng mà nói, thời vàng son của Khánh Ly, những người đeo đuổi bà tầm cỡ
như ông Trác, hoặc nhỉnh hơn đều không thiếu. Nhưng dầu sao, bà là một
nghệ sĩ nên không thiếu chất lãng mạn và dễ xiêu lòng nhưng Khánh Ly
cũng đủ cảm nhận Mai Bá Trác quá chân tình. Ngược lại, ông Trác cũng yêu
Khánh Ly tha thiết lắm, vì thế mà đồng ý làm đám cưới để thành vợ,
thành chồng với nhau.
Năm
1972, họ cho ra đời một bé gái. Ông Mai Bá Trác lấy tên thật của Khánh
Ly (là Nguyễn Thị Lệ Mai, bạn bè thường gọi là “Mai đen” bởi làn da
không được trắng) làm chữ lót, đặt tên con là Mai Mai Misa như để bày tỏ
hết lòng yêu thương của ông ta. Đến khi ván đã đóng thuyền, biết chắc
là của mình rồi, ông Trác lại ngựa quen đường cũ, không có ý bỏ vợ,
nhưng lại lén lút trăng hoa với nhiều người phụ nữ khác.
Cũng
vào năm 1972, ông Mai Bá Trác viện dẫn lý do bận rộn việc nhà binh nên
thường xuyên vắng nhà. Thật ra, ông đang chung sống với một người con
gái khác, tên là Thơ, còn rất trẻ và đẹp hơn Khánh Ly nhiều. Chuyện vụng
trộm này rồi cũng đến tai Khánh Ly. Trong lòng đã nguội lạnh nhiều rồi,
nhưng bà vẫn nhờ người theo dõi và biết rõ chỗ ở của ông Trác với tình
nhân.
Không
làm ồn ào, Khánh Ly đã âm thầm nhờ văn phòng Thừa Phát Lại ập vào bắt
quả tang để có chứng cứ ly dị. Thế là chia tay, ông Mai Bá Trác vẫn
thường xuyên về thăm con và rất muốn nối lại tình xưa, nhưng Khánh Ly
cương quyết từ chối. Chính vì thế mà sau này đã xảy ra trận đánh ghen
của ông Mai Bá Trác dành cho tình địch của mình. Và, cho đến bây giờ,
hơn 40 năm trời trôi qua, Khánh Ly đã có chồng khác, và Mai Bá Trác cũng
đã trải qua không biết bao nhiêu mối tình theo kiểu “già nhân ngãi, non
vợ chồng”, nhưng lúc nào ông ta cũng nhắc đến Khánh Ly một cách yêu quý
và tỏ ra thích thú khi có ai đó gọi mình bằng “ông Khánh Ly”.
Hiện
Mai Bá Trác định cư ở Mỹ và rất thường về Việt Nam để thăm nhà. Lần về
nào ông cũng lên Thủ Đức ghé thăm bà chị ruột của Khánh Ly đang sinh
sống tại đó.
“Mối tình tuyệt vời” của Khánh Ly
Năm
1972, sau khi nói lời chia tay với Mai Bá Trác, trong một lần ra Huế
hát phục vụ cho binh sĩ, Khánh Ly đã gặp Đỗ Hữu Tùng trong một bữa tiệc
khao quân.
Sinh
ra và lớn lên tại Đà Nẵng, sau khi học xong tú tài, Đỗ Hữu Tùng đã tình
nguyện vào học khóa 16, trường Võ bị Đà Lạt. Ra trường với cấp bậc
Thiếu úy, ông xin về Thủy quân Lục chiến và trở thành một sĩ quan nổi
tiếng của binh chủng được coi là thiện chiến nhất của Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa. Dáng người thấp nhưng chắc chắn và có làn da ngăm đen, khuôn
mặt hiền lành, không có vẻ gì là người của trận mạc. Ông ta lại ít nói,
có vẻ hơi thâm trầm.
Khi
gặp Khánh Ly, Đỗ Hữu Tùng đã 32 tuổi, mang hàm Trung tá, giữ chức vụ
Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6, rồi sau đó lên Quyền Lữ đoàn trưởng Lữ
đoàn 147 Thủy quân lục chiến. Lúc bấy giờ, ông ta đã có vợ và 1 con.
Người đàn bà này tên Nguyễn Thị Lan, vốn là một cô gái Huế nhưng lớn lên
tại Đà Nẵng và là bạn của Tùng từ thời mới lớn.
Sau
đó, ông Tùng mải theo đơn vị hành quân, ít có thời gian ở nhà với vợ.
Không biết có phải là định mệnh hay không mà ngay phút đầu gặp nhau, Đỗ
Hữu Tùng và Khánh Ly đã bị tiếng sét ái tình đánh trúng trái tim. Họ
dường như không còn biết đất trời là gì.
Dù
đã có vợ con nhưng ông Tùng tâm sự đây mới đích thực là mối tình đầu và
ông đã yêu một cách say đắm. Còn Khánh Ly cho đến mãi sau này, bà vẫn
xác định, mối tình với Đỗ Hữu Tùng là tuyệt vời hơn cả mà suốt đời không
dễ gì quên!
Khánh Ly, (thứ 2 từ trái qua) trong buổi biểu diễn văn nghệ 1972
Khi
chuyện tình của Đỗ Hữu Tùng và Khánh Ly đã đi đến chỗ mặn nồng, ông
Tùng có ý sẽ đi đến hôn nhân, thì bạn bè hỏi: “Còn bà Lan và thằng con
trai thì sao?”. Ông Tùng không trả lời thẳng câu hỏi mà kể, có lần ông
về Sài Gòn, ghé vào bệnh viện Từ Vũ tìm vợ thì bắt gặp bà ta đang tình
tứ với viên bác sĩ trực. Chuyện này có vẻ khó tin, vì khi đã muốn thay
lòng, đổi dạ, người ta phải viện dẫn một lý do nào đó để tự bào chữa cho
mình. Bởi lẽ, ông Tùng đến bệnh viện Từ Vũ thì lúc nào cũng được, nhưng
xông thẳng vào phòng trực mà không ai biết thì hơi lạ! Hơn nữa, ngay
khi chứng kiến tận mắt, tại sao ông Tùng lại không có phản ứng gì, để
rồi sau này mới nói cho bạn bè biết.
Suốt
năm 1973 cho đến ngày Mai Bá Trác đánh ghen, Khánh Ly thường xuyên bay
ra chung sống với Đỗ Hữu Tùng tại vị trí đóng quân. Hầu như tất cả sĩ
quan và thuộc cấp của Đỗ Hữu Tùng đều biết, ông ta đã đặt cho Khánh Ly
một cái tên được mật mã hóa là Kí-Lô, để tránh tai vách mạch rừng. Lần
cuối cùng Kí-Lô ra tìm Tùng và ở lại mấy ngày là giữa năm 1974, khi bộ
chỉ huy hành quân Lữ đoàn của Tùng đang đóng tại Mỹ Chánh. Vài tháng
sau, Đỗ Hữu Tùng được nghỉ phép về Sài Gòn thì đụng đầu với Mai Bá Trác.
Trận đánh ghen chớp nhoáng
Biết
chắc sau khi chia tay, Khánh Ly đã dan díu với Đỗ Hữu Tùng nên Mai Bá
Trác hết sức ghen tức. Nhưng lúc bấy giờ, Trác đã bị thuyên chuyển lên
Buôn Ma Thuột nên không biết làm cách nào để đối mặt tình địch. Chẳng
may thời gian Đỗ Hữu Tùng về phép thì Mai Bá Trác cũng có mặt tại Sài
Gòn. Ông ta theo dõi và biết Tùng thường xuyên có mặt tại phòng trà
Khánh Ly, nên rủ thêm vài chiến hữu, lặng lẽ mở cuộc đột kích.
Khi
Đỗ Hữu Tùng xuất hiện, mới bước vào bên trong, Trác đã bám theo và đánh
Tùng hai tát tai. Trước khi định móc súng ra để xiết cò, thì mọi người
kịp thời can ngăn. Đỗ Hữu Tùng đã nhanh chóng rút lui, nhưng ông đâu có
chịu nhục, nhất là khi Mai Bá Trác và Khánh Ly đã không còn là chồng vợ.
Ông ta vội huy động một số đàn em Thủy Quân Lục Chiến ở hậu cứ ra trả
đũa, nhưng Mai Bá Trác cũng đoán được ý đồ đó của Tùng nên cũng vội biến
khỏi đấu trường.
Mọi
chuyện không dừng ở đó. Nắm được vụ việc này, như bắt được vàng, ngày
hôm sau nhật báo Trắng Đen đã chạy tít 8 cột trang nhất, mô tả lại trận
đánh ghen mà họ đã vẽ rắn thêm chân cho ly kỳ hấp dẫn. Kết quả, Đỗ Hữu
Tùng thay vì đang chờ được cất nhắc lên Đại tá thì bị ngưng lại và mất
luôn chức Lữ Đoàn Trưởng 147, phải về làm Lữ Đoàn Phó 258 cho người bạn
cùng khóa là Nguyễn Xuân Phúc. Cả Đỗ Hữu Tùng và Nguyễn Xuân Phúc đều tử
trận vì đạn pháo kích ngày 29.3.1975 tại bờ biển Đà Nẵng.
Năm
1991, nhân kỷ niệm 30.4 trong một bài viết về chiến trường Đà Nẵng
những ngày cuối cùng trên báo Công An thành phố, có nhắc đến cái chết
của 2 Trung tá Thủy Quân Lục Chiến là Nguyễn Xuân Phúc và Đỗ Hữu Tùng.
Sau khi đọc bài báo này, bà Lan, vợ ông Tùng đã đến tòa soạn dò hỏi, với
hy vọng sẽ tìm được hài cốt của chồng mình. Bởi theo bà thì dầu ai có
phụ bạc ai đi nữa, thì một ngày cũng là nghĩa vợ chồng.
LS. NGUYỄN VĂN ĐÀI * 30 THÁNG 4
Nếu Việt Nam Cộng Hòa chiến thắng?
Cập nhật: 04:11 GMT - thứ hai, 29 tháng 4, 2013
Cuối năm 1989, tôi có cơ hội được sang CHDC Đức (cũ) và được chứng kiến người dân Đông Đức lật đổ chế độ cộng sản để thống nhất với chế độ tư bản, dân chủ ở Tây Đức. Tôi lại có dịp may mắn được sang Tây Berlin để xem cuộc sống sung túc và tự do của chế độ tư bản, dân chủ. Và tôi hiểu tại sao người dân Đông Đức đã không cam chịu sống dưới sự cai trị độc đoán, phi lý, lạc hậu của chế độ cộng sản.
Cùng thời điểm đó, tất cả người dân các nước Đông Âu đã vùng lên đập tan sự cai trị của các chế độ cộng sản. Và họ đã xây dựng lại từ đầu chế độ tư bản, dân chủ. Cho đến nay, tất cả các nước Đông Âu, người dân đều có cuộc sống sung túc và hạnh phúc trong một chế độ chính trị tự do và dân chủ mà không có sự cai trị của chế độ cộng sản.
Hoài nghi, nuối tiếc
Cuối năm 1990, tôi trở lại Việt Nam, kể từ đó cứ mỗi dịp 30-4, tôi không còn cảm xúc vui mừng, mà thay vào đó là sự hoài nghi và nuối tiếc.
"Nếu ngày 30-4-1975, bên chiến thắng là Việt Nam Cộng Hòa thì giờ đây trong khu vực châu Á, Việt Nam có thể chỉ thua duy nhất Nhật Bản về kinh tế, còn chắc chắn sẽ ngang bằng hoặc hơn Hàn Quốc về cả kinh tế và quân sự."
Năm 2001 và 2003, tôi có dịp được sang thăm Hàn
Quốc và thấy đó là một quốc gia hùng mạnh về kinh tế và quân sự. Ở đó
không bao giờ có sự hiện diện và tồn tại của đảng cộng sản. Trong khi
đó, Bắc Triều Tiên dưới sự cai trị độc đoán và tàn bạo của chế độ cộng
sản. Mỗi năm có cả trăm ngàn người chết đói mặc dù họ đã nhận được sự
giúp đỡ to lớn từ Hàn Quốc và cộng đồng quốc tế. Tôi cảm thấy buồn và
nối tiếc cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Nhìn lại Việt Nam chúng ta, sau ngày 30-4-1975,
trong chế độ quan liêu bao cấp, ngăn sông cấm chợ, nhân dân phải chịu
đói khổ, lầm than. Khi tiến hành công cuộc đổi mới, kinh tế có phát
triển, đời sống người dân khấm khá hơn, đủ ăn, đủ mặc, có được phương
tiện sinh hoạt và đi lại hiện đại. Nhưng tham nhũng đã trở thành quốc
nạn, thành giặc nội xâm của dân tộc. Sự suy thoái đạo đức và lối sống
diễn ra một cách toàn diện, trên mọi phương diện của đời sống xã hội từ
giáo dục, y tế, ngành tư pháp, cơ quan hành chính,... và trên mọi cấp độ
từ trung ương đến địa phương.
Nhiều người trong chúng ta đã từng chứng kiến
cảnh doanh nghiệp, quan chức chính quyền, các lực lượng vũ trang và xã
hội đen hợp sức với nhau để cưỡng chế người nông dân lấy đi tư liệu sản
xuất quan trọng nhất của họ là ruộng đất. Biết bao người dân vô tội khi
bước vào đồn công an thì khỏe mạnh, nhưng chỉ ít giờ sau, họ chỉ còn là
một cái xác không hồn. Và còn biết bao nhiêu những người dũng cảm đứng
lên đấu tranh đòi quyền tự do, dân chủ đã bị sách nhiễu, đánh đập, và bị
cầm tù. Thật sự đau lòng và xót xa.
Giờ đây, mọi người lại hỏi tôi “anh nghĩ và có cảm xúc như thế nào về ngày 30-4?”
Tôi trả lời: Một chế độ dân chủ và văn minh đã
thua một chế độ độc đảng toàn trị và lạc hậu. Cái ác đã chiến thắng. Còn
cảm xúc thì buồn và nuối tiếc cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa, bởi tôi và
rất nhiều người đều cho rằng nếu ngày 30-4-1975, bên chiến thắng là Việt
Nam Cộng Hòa thì giờ đây trong khu vực châu Á, Việt Nam có thể chỉ thua
duy nhất Nhật Bản về kinh tế, còn chắc chắn sẽ ngang bằng hoặc hơn Hàn
Quốc về cả kinh tế và quân sự.
Bài phản ánh quan điểm và văn phong của riêng tác giả, một luật sư bất đồng chính kiến sống tại Hà Nội.Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 308
SƠN NỮ GIỮA DÒNG SUỐI BIẾC
Sơn nữ tắm tiên giữa đại ngàn: quá khứ đã xa?
Khi
trời đã xám xịt sắp chuyển sang gam màu tối đen, trước mắt tôi: những
cô gái người Dao bắt đầu đi tới con suối ở hang Đất rồi từ từ trút bỏ
xiêm y... Cơ thể đầy đặn, trắng mịn nổi bật lên giữa màu u tối của đất
trời. Nghe qua thì với người bình thường hẳn đã là kỳ thú; còn với những
người ham thích phiêu lưu, khám phá thì được một lần chiêm ngưỡng vẻ
đẹp tinh khôi của các sơn nữ “tắm tiên” quả là một niềm hạnh phúc. Lại
nhớ mươi năm trước: anh Đào Tấn trong một lần làm phóng sự tại Mường Cờ
từng kể với tôi rằng: Bản ở cao, nơi đỉnh núi nhô lên trên mây, nơi đây
quanh năm có gió và mặt trời. Đám trâu rừng đứng loi nhoi giữa đường phà
hơi mũi mù mịt dương cặp
mắt to ngơ ngác nhìn khách lạ còn ngựa bản dậm chân lốc cốc, ngửi miệng
nhau không ngừng nhai tóp tép...
Anh Bung trưởng ban văn
hóa dẫn khách lội qua suối, các cô gái Thái tắm trần không thèm che ngực
non, áo trắng phơi trên bậu đá xám, nô đùa như bầy giặc tiên. Anh Bung
văn hóa hô rằng: ” Ngâm mình xuống suối đi thôi, không thì cán bộ xấu hồ
bây giờ”. Tiếng các cô cười trong trẻo như pha lê, ngọt và nõn như
nắng. Có cô tinh ranh đáp lại rằng: “Cán bộ thích kia mà”. Lại cười lên
khanh khách. Nước suối đương xuân thò tay xuống là lạnh thấu, nhưng mà
má sơn nữ thì nóng đỏ như lò than, có lẽ lòng khách cũng vậy...
Các
cô gái hòa mình với thiên nhiên đậm chất hoang sơ và huyền thoại như
ngắm ánh bình minh trong sương sớm, ngắm hoa ban khoe sắc mùa xuân, hay
thả hồn trong một tiếng chim lảnh lót đầu non, chẳng khác nào được nồng
say trong vũ điệu xòe, hay lâng lâng trong men rượu cần ngọt lịm như một
làn điệu trữ tình… Rồi một thông tin của một nguồn "chính qui" khác: Cứ
mỗi buổi chiều tà, khi ánh hoàng hôn vừa tắt, những cô gái dân tộc lại
túm năm tụm ba rủ nhau ra những con suối để xua đi những bụi bẩn sau một
ngày làm việc vất vả trên nương rẫy. Những bộ quần áo được trút bỏ một
cách nhẹ nhàng, mái tóc dài đen huyền búi lên cao, thân hình tuyệt mỹ
của các sơn nữ dân tộc từ từ chìm dần xuống dòng suối tinh
khiết. Làn da trắng ngần nhấp nhô, huyền ảo trong làn nước mát lạnh
trong xanh của thiên nhiên. Thanh thoát những tiếng cười sơn nữ vọng
giữa bốn bề toàn là núi, thoạt trông các cô gái như những tiên nữ trong
bức tranh thủy mặc mờ mờ ảo ảo.
Lại
nghe thơ rằng: Em gái Thái xuống suối Dầm đôi ngực trắng phau Em từ từ
nâng váy Lên cao tới đỉnh đầu Bỗng nhiên từ nơi ấy Bừng nở bông hoa đào.
Con chim hoang chào mặt trời đang về Về chốn núi xa nhẹ nhàng gió lơi
Mang trên vai đường về thoảng nghe gió đùa hôn, Hôn một chút nắng vương
nhẹ bay Cùng đùa vui theo suối hát Nước suối mát reo/ rộn bước chân em
tìm về… Say hồn trong nhẹ nhàng trong nước. Mây vẫn trôi.
Bây
giờ sơn nữ ra suối giặt giũ... Ấy thế nhưng bây giờ cái tục lệ từ ngàn
xưa ấy đang dần mai một và sắp biến mất vĩnh viễn bởi sự phồn vinh của
xã hội công nghiệp đã gõ tới từng cánh cửa nhà sàn. Những con đường được
nối dài đến các xóm, bản miền núi thỉnh thoảng vang tiếng xe máy gào rú
chạy ầm ầm qua các con suối, các tour du lịch đưa những đoàn khách thăm
quan từ đồng bằng ồ ạt đổ bộ lên miền sơn cước.
Những con người xa lạ,
hiếu kỳ khiến các cô gái đẹp như tiên nữ không còn cảm giác an toàn.
Thay vì ra những bến tắm như trước đây thì bây giờ họ múc nước về nhà
hay tìm những nơi thật kín đáo để tắm nhằm lẩn trốn những ánh mắt tò mò.
Phong tục tập quán độc đáo đang dần phôi pha, chìm vào quên lãng. Bây
giờ để tìm được nơi có những sơn nữ tắm tiên quả là một điều cực kỳ hiếm
hoi. Vậy nên mới có chuyện tôi được phân công làm một thiên phóng sự về
những dòng suối trên non cao từng một thời tẩy sạch bụi trần của những
sơn nữ đắm thân mình ngà ngọc mình trong dòng nước sau buổi là việc trên
nương; nét văn hóa ngày xưa liệu có còn như chuyện mươi năm trước?
Nhà
ở bản Bến Thân vẫn đơn sơ như ngày nào... Lần mò theo những dấu vết của
những bức ảnh chụp thiếu nữ tắm tiên, tôi tìm đến những dòng suối của
người dân tộc ở bản Bến Thân Đồng Sơn, Tân Sơn, Phú Thọ để mong được tận
mắt thấy lại vẻ đẹp huyền thoại của các sơn nữ. Bản Bến Thân nằm cách
trung tâm huyện Tân Sơn, Phú Thọ hơn 40km, bản nằm trên cao nên đường đi
đều là những con dốc cao ngoằn nghèo xuyên qua các khu rừng rậm ẩm ướt.
Những
tấm ảnh khó quên của ngày cũ... Rất nhiều những nhiếp ảnh gia đã từng
lặn lội đến đây và chụp được những bức ảnh để đời về vẻ đẹp thần tiên
của các cô gái miền sơn cước. Những dòng suối ở đây vẫn trong suốt và
chảy không ngừng... nhưng lòng cứ thầm nghĩ không biết các sơn nữ bây
giờ có còn tắm tiên ở đây không.
Cầm
chắc chiếc máy ảnh trong tay, tôi men theo dòng suối ở bản Thân suốt
một ngày trời nhưng chẳng thấy bóng dáng của một sơn nữ nào lảng vảng ra
đây chứ chưa nói đến chuyện tắm táp gì. Thi thoảng có vài người đàn ông
đi rừng ghé qua ngồi nghỉ ngơi hay lũ trẻ con rủ nhau đi câu. Đến lúc
chiều tối, bắt đầu có rất nhiều sơn nữ ra suối nhưng họ không ra tắm mà
ra chỉ để giặt quần áo, ngồi thêm một lúc thì tôi đành phải ra về vì
trời đã tối om, dù có tiên nữ đi tắm cũng không thể chụp được nữa.
Vào
trong bản, tôi tìm gặp trưởng bản Lý Văn Seng để hỏi chuyện thì được
ông cho biết: “Trước đây cả cái bản Bến Thân này từ người già đến trẻ
nhỏ, từ nam đến nữ cứ buổi chiều là ra suối tắm nhưng từ ba năm nay thì
chuyện đi tắm suối đã không còn nữa. Hầu hết người ta đều tắm ở nhà, chỉ
có ít người đàn ông đi làm tiện qua suối thì nhảy xuống cho mát mẻ rồi
về mà thôi”.
Với
những người đã từng ở Tây Bắc hoặc am hiểu văn hóa Thái thì cảnh con
gái Thái tắm tiên là một phần không thể tách rời trong văn hóa Thái và
nếu thiếu cảnh trữ tình, nên thơ ấy, suối ngàn Tây Bắc sẽ kém đi vẻ lung
linh huyền ảo... Khi tôi hỏi vì sao nét đẹp truyền thống đó không được
gìn giữ, trưởng bản cười và nói: “Từ hồi làm đường, với bản có điện,
nhiều người dưới xuôi bắt đầu lên đây làm ăn, lâu dần bản cũng tấp nập
người đi lại, nhiều người đi tắm suối cởi đồ hay bị người lạ nhìn thấy
rồi họ sẵn máy móc lôi ra quay phim, chụp ảnh cười ầm ĩ với nhau nên các
cô gái trong bản sợ không dám đi tắm tiên nữa mà thường gùi nước về tắm
tại nhà”.
Ông
trưởng bản cũng cho tôi biết thêm: “Nếu nhà báo muốn tìm sơn nữ tắm
tiên bây giờ chỉ có cách đi xuyên qua rừng quốc gia Xuân Sơn, tìm vào
xóm người Mường, người Dao ở Xuân Sơn, Tân Sơn, Phú Thọ... thì có lẽ vẫn
còn vì đường vào đó chưa làm hết. Các hộ dân hầu như vẫn sống biệt lập,
ít giao lưu với thế giới bên ngoài.” Câu nói của ông khiến tôi đang như
kẻ lạc lối giờ tìm ra con đường đi đúng hướng. Chào tạm biệt ông, tôi
đi xe hướng về Xuân Sơn nơi giáp ranh giữa Sơn La và Hòa Bình để tìm cho
kỳ được dòng suối vẫn còn lưu giữ nét đẹp tắm tiên của các cô gái miền
sơn cước.
Con
đường đi qua rừng quốc gia Xuân Sơn kéo dài gần 30km, xe đi phải cài số
1 mới đi lên được những đoạn dốc gần như thẳng đứng, trong rừng lại rất
nhiều vắt, chỉ cần đỗ xe lại một lúc thôi là sẽ bị những sinh vật này
bám vào. Càng đi sâu vào tận cùng xã Xuân Sơn, đường càng thêm heo hút,
nhiều đoạn đường nước suối chảy tràn lên chắn ngang đường, ngập đến nửa
bánh, đi không vững tay lái dễ bị cuốn trôi cả người lẫn xe xuống vực
như chơi. Qua sự hỏi thăm người dân nơi đây, họ cho tôi biết đúng là ở
Xuân Sơn người dân vẫn giữ được tục đi tắm suối, nhưng phải đi vào nơi
heo hút nhất của xã là bản Cỏi mới có thể được chiêm ngưỡng cảnh các cô
gái nô đùa dưới dòng nước suối
trong xanh mát lạnh buổi chiều tà… Vậy là tôi vào bản Cỏi. Bản Cỏi là
nơi cư trú của một bộ phận người Dao Tiền, bản nằm giáp với tỉnh Sơn La
và huyện Đà Bắc của Hòa Bình, cả bản hiện có 84 hộ, sinh sống bằng nghề
nông nghiệp trồng lúa và một số nghề phụ như đánh cá, hái măng, nuôi
gà…kinh tế vẫn còn rất nghèo và lạc hậu.
Đường
vào bản Cỏi liên tục những con dốc cao, dài nối tiếp nhau, mất rất
nhiều thời gian tôi mới đặt chân được đến nơi. Thật đúng như những gì
người dân nói: bản Cỏi thật hoang sơ và yên bình, những nếp nhà sàn ấm
cúng tập trung, lọt thỏm giữa rừng rậm, đồi núi trùng trùng, điệp điệp.
Nơi này chưa hề có dấu chân của nền văn minh bước tới, thật khó mà kiếm
được sự ồn ào, đua chen như ở thành thị. Khái niệm "nhà nghỉ" không có ở
đây nên tôi vào xin nghỉ nhờ ở nhà một người dân ở ngay phía đầu bản.
Biết tôi là nhà báo lặn lội từ dưới xuôi lên, họ rất niềm nở và bảo
thích nghỉ bao lâu thì nghỉ, ăn uống cùng gia đình, có gì ăn nấy không
phải lo. Thật vui lắm khi vừa mệt lả người
sau một cuộc hành trình lại có một chốn để nghỉ ngơi. Tìm gặp trưởng
bản Cỏi là ông Đặng Vĩnh Phúc, tôi được ông cho biết: “Tắm suối là nét
văn hóa có từ hàng ngàn năm trước. Trước đây cứ sau mỗi buổi lao động
vất vả trên nương, phụ nữ bản lại rủ nhau ra suối trầm mình xuống dòng
nước mát lạnh. Tắm suối không chỉ để gột rửa bụi bẩn, ngâm mình trong
dòng nước mát cho thư thái mà còn là thời gian để họ chuyện trò tâm sự,
chia sẻ mọi điều trong cuộc sống".
Nhen nhóm niềm hy vọng sẽ
được tận mắt chứng kiến vẻ đẹp hoang sơ, hiếm hoi nơi núi rừng tôi quay
trở lại căn nhà sàn để chuẩn bị đồ nghề đi "săn vẻ đẹp tiên nữ". May
mắn ở gia đình tôi xin ngủ nhờ có cậu con trai tên Lương năm nay vừa
đúng 18 tuổi, lúc nói chuyện cậu ta khoe với tôi: “Ở bản Cỏi này chẳng
chỗ nào em không biết”. Tôi thử hỏi có biết chỗ nào có con gái đẹp tắm
suối không... thì Lương cười khì khì nói “có đấy, nhưng hơi xa, tít tận ở
hang Đất, đường xấu xe máy không đi được, phải đi bộ lâu lắm. Với lại
đi nhìn người ta tắm ngại lắm, người ta biết mình rình mò thì xấu mặt”.
Sau khi nói rõ ràng và thuyết phục để cậu trai trẻ hiểu được mục đích
của tôi, Lương
đồng ý buổi chiều sẽ dẫn tôi đi để được tận mắt chứng kiến sơn nữ tắm
tiên giữa núi rừng. Đúng 5h chiều, tôi và cậu em Lương cuốc bộ từ nhà
đi; đoạn đường tới hang suối có “tiên nữ” là đường đồi, dù không dốc
nhưng rất lầy lội. Đường lót toàn những phiến đá to ụ, lởm chởm đi bộ
còn nhọc, xe máy đi lên đây thì chịu thua.
Bây
giờ các cô gái biết mắc cỡ, ngại ngùng trước ánh mắt người miền xuôi...
Gái đẹp 3 miền. Vừa đi Lương vừa cho tôi biết, ở bản Cỏi có nhiều chỗ
có sơn nữ tắm suối nhưng chỉ có chỗ hang Đất này mới có thể chụp ảnh
được vì những người ra đây tắm khi trời vẫn còn chút ánh sáng sắp cạn
của một ngày tàn. Mất gần một giờ đi bộ, chúng tôi mới đến được nơi. Sau
khi chọn địa điểm thích hợp, tôi ngồi ôm khư khư chiếc máy ảnh chầu
chực đợi đến khi “nhân vật chính” xuất đầu lộ diện.
Và
rồi cái gì đến cũng đến, khi trời đã xám xịt sắp chuyển sang gam màu
tối đen: những cô gái người Dao bắt đầu đi tới con suối ở hang Đất và từ
từ trút bỏ xiêm y. Cơ thể đầy đặn, trắng mịn nổi bật lên giữa màu u tối
của đất trời, một vẻ đẹp huyền ảo đã lộ ra trước mắt. Chiếc váy hoa
được các cô gái quấn cẩn thận lên đầu ôm gọn lấy mái tóc, ngâm mình dưới
là nước mát lạnh, bờ vai trần trắng ngần thấp thoáng theo những làn
sóng nước của con suối.
Sao anh lại rình
Trộm xem em tắm
Da của em ngần trắng
Da của mẹ,của cha
Tay của em lấm lem
Tay của than của bụi
Tay của rừng của núi
Tay của đất của nương
Em tắm xong lại sạch
Vẫn ngát thơm hoa rừng
Da của em trắng ngần
Là của anh tất cả
Không phải người xa lạ
Việc gì mà trộm xem
Em tắm suối giữa mường
Tắm trong mối yêu thương
Có anh đang đứng giữ
Chớ để Tây đến mường
(Bạc Văn Ùi)
Không
để lỡ cơ hội tôi bấm máy theo từng cử chỉ của “tiên nữ”. Những tưởng sẽ
không bao giờ còn được nhìn thấy nét đẹp ấy thế nhưng giờ đây vẻ đẹp
huyền thoại của núi rừng đang hiện diện thật sống động.
"Pây áp nậm" (tắm suối)
vừa xong. Trên đường về, tôi hỏi Lương còn các “sơn nam” trong bản thì
tắm ở đâu thì Lương cho biết “đàn ông trong bản thì cứ tiện đâu tắm đấy,
nhưng không bao giờ tắm gần bãi tắm của phụ nữ và tuyệt đối không ai đi
nhìn trộm sơn nữ tắm cả, đó như một quy luật bất thành văn ở đây”.
Chẳng thế mà các cô gái đều thoải mái trút bỏ xiêm ý, tha hồ nô đùa dưới
làn nước mát để tận hưởng cảm giác sảng khoái từ những làn nước tinh
khiết chảy ra từ núi.
Những
nét sinh hoạt của người Thái đều gắn liền với dòng nước từ giã gạo, ăn
uống, giết mổ và cả việc tắm táp. Khi nào trên các khe nước, suối nguồn
của Mường Pồn, Mường Lay, Mường Tè của Lai Châu mất đi bóng dáng của con
gái Thái đi "tắc nặm", "pây áp nậm"? Nếu thế thì khác gì núi rừng Tây
Bắc không còn hoa ban... Lần mở xem lại những tấm hình quý giá vừa ghi
lại được, tôi tự hỏi không biết liệu tục tắm tiên ở bản Cỏi sẽ còn lưu
giữ được đến bao giờ. Rồi đến khi nào nó sẽ lại bị tan biến bởi những
điều trần tục đang dần xâm chiếm cuộc sống nơi nguyên sơ này hay không?
Nếu như vậy thì những dòng suối trở nên chơ vơ vì không còn bóng dáng
“tiên nữ” nữa, mất cả hồn - phai
nhạt cả phong tục về huyền thoại tắm suối của những sơn nữ vùng cao.
Cảnh
mượn xà phòng vô cùng chân chất giữa đại ngàn... Muốn tìm thì khó nhưng
khi không tìm, tôi lại ngẫu nhiên phát hiện ra rằng không chỉ ờ Tây Bắc
đã từng tồn tại phong tục đẹp và nên thơ này. Trong một chuyến công tác
ở Tương Dương, một huyện miền núi của Nghệ An với 8 dân tộc chung
sống... thì tôi mới ngộ ra chuyện tắm tiên dưới suối cũng là việc quá
bình thường ở đây.
Tại
đây có những thôn bản mà chắc ai cũng mới chỉ nghe nói như Người Ơ Đu ở
ven dòng Nậm Nơn, người K. Mú sống ven các khe suối, người H. Mông ở
Mai Sơn..., hoặc ở các bản trong sâu như Đình Tài, Xốp Kho, nơi mà thu
nhập bình quân đầu người chưa tròn 200.000đồng/1 năm. Ở đây tôi đánh rơi
tiền cũng không ai nhặt vì người dân tộc chất phát và cũng ít trông
thấy tiền. Lên đây tự nhiên thấy mình là dân tộc thứ 9 ở vùng đất này,
tập ăn cơm nếp nương bởi ở đây người dân ăn nếp nương từ ngày này sang
tháng khác. Đó là khi no. Còn khi giáp hạt thì người ta ăn củ mài, ăn
sắn, thậm chí ăn cả củ nâu trong những ngày đói nhiều hơn ngày no.
Phụ
nữ ở đây phần lớn mù chữ, đàn ông học hết cấp 1 vài năm rồi cũng quên
luôn. Ngôn ngữ giao tiếp còn chưa thạo, vậy mà họ vẫn khao khát cho con
tới trường học cái chữ. Còn người dân Na Ngân (kể cả nam lẫn nữ), đôi
khi ra trung tâm xã Nga My thường trần trụi ngay từ ở nhà, áo váy cứ đội
lên đầu. Cắt rừng đi cho tới khi tới gần trung tâm xã mới mặc vào.
Nguyên do chỉ đơn giản là vì người ta chỉ có mỗi bộ quần áo lành lặn,
lội qua suối nếu ướt họ sẽ không có đồ thay.
Trong
rừng có lẽ chẳng có gì phải xấu hổ, đúng vậy. Bởi thế ở nơi này: chiều
chiều phụ nữ và nam giới cùng tắm chung một đoạn suối. Hôm mới lên đây,
tôi sững sờ khi ra đến bờ suối! Trước mặt bao nhiêu chàng trai, cô sơn
nữ đều nhất loạt lột phắt áo ra và ở trần lội xuống suối. Khi lên họ
thay quần áo ngay bên bờ suối, chẳng cần bờ cây nào che chắn - người ta
thật vô tư và trong sáng không nhuốm chút trần tục nào. Rừng và suối hồn
nhiên, trong trắng như nếp sống người dân tộc vùng cao - yên lành và
thanh thản dù cuộc sống vô cùng thiếu thốn theo ý nghĩ người "thành
thị".
Ở
Tây Bắc, có ba dấu hiệu để nhận biết sự có mặt của những cộng đồng
người Thái: thứ nhất là điệu múa xoè, thứ hai là những cọn nước ngày đêm
giã lúa, ngô và thứ ba là hình ảnh những người phụ nữ mang cả váy xoè
tắm dưới dòng suối thật gợi cảm và kín đáo... Người Thái quan niệm xem
những bến sông không chỉ là dòng nước gột bỏ dơ bẩn trên cơ thể mà còn
là không gian sinh hoạt cộng đồng, nơi hội tụ sự sung túc, phồn thực và
phô trương vẻ đẹp kín đáo, nhuần nhị. Do vậy trên những dòng suối chảy
qua những bản làng người Thái có thể thấy những sinh hoạt hàng ngày như:
giặt đồ, làm thịt súc vật, giã gạo, lấy nước và... tắm. Xét nét bằng
con mắt văn minh thì thấy chẳng vệ sinh nhưng
thử nhìn những dòng tóc khi người phụ nữ Thái cúi đầu phơi bờ vai trần
trắng mịn trước đất trời sẽ hiểu ngay, dòng nước rất sạch, mát và tinh
khiết như trích xuất từ nguồn núi cao. Thậm chí người ta còn hiểu được
tâm tính từng mùa trên dòng chảy của nó. Điệu xoè Thái uyển chuyển dường
như cũng mang tiết tấu tinh tế của những động tác người phụ nữ tắm.
Thoạt nhìn tưởng có thể sở hữu ngay những khoảnh khắc phơi lộ vẻ đẹp
thân thể, sự bí mật sau làn váy áo. Nhưng không đâu...
Ngày
nay, với một chiếc váy xoè đen thường mặc, các cô gái Thái biến nó
thành một phòng tắm di động kín đáo nhưng gợi cảm trên dòng sông. Với sự
thuần nhuyễn của những động tác hình thể uyển chuyển, các cô gái có thể
vừa mặc vừa tắm. Nghĩa là tắm đến đâu thì sẽ vén váy lên đến đó. Và váy
được vén lên buộc kín phần ngực để lần lượt từng phần cơ thể đều được
tiếp cận dòng nước tinh nghịch róc rách trên làn da trắng mịn. Cho đến
khi phần thân thể dưới ngực được tắm gội thì những cô gái tiếp tục thả
váy xuống và đứng gập người về phía dòng chảy, xoã tóc, tắm phần lưng
trần và gội đầu. Rất khéo, cho đến khi tắm xong, váy rất hiếm khi bị ướt
dù cơ thể thì đã no say mơn man
với dòng nước mát...
Khi
tắm tiên, các cô gái vừa tắm vừa có thể chuyện trò với những người tắm
bên cạnh hay có thể vừa tự nhiên nói chuyện với các chàng trai đang bơi
cạnh mình mà không sợ phơi lộ bất kỳ bí mật nào của “toà thiên nhiên”.
“Con gái Thái tắm rất kín đáo. Con trai Thái lớn lên ở làng, tắm chung
với các cô gái nhưng không bao giờ thấy được gì đâu mà. Họ khéo lắm. Tắm
là một nghệ thuật mà có lẽ họ học được từ thời biết thẹn thùng cơ!”
Tại nhiều bản làng mà
dòng sông Mã chảy qua vẫn còn bóng dáng những cô sơn nữ khỏa trần lúc
chiều tà. Sông Mã giản dị, dân dã - gắn liền với cuộc sống bản, với
những cô gái Thái, Mường vai trần tắm trên dòng nước đẹp hoang sơ giữa
núi rừng… Sau buổi lên nương, các cô chờ đến khi khoảng sông vắng bóng
qua lại thì dùng một tấm vải đen quây quanh người rồi bước xuống nước,
mực nước dâng đến đâu thì cuốn cao vải đến đấy cho tới khi làn nước
thanh khiết lóng lánh bao phủ hết làn da trắng ngần, đầy đặn... thì mảnh
vải ấy sẽ được cở bỏ và đặt lên bờ đá. Dụng cụ đơn giản nhưng hiệu quả
này cũng giúp các sơn nữ che tấm thân ngọc ngà khi xong buổi tắm, lên bờ
thay đồ. Vậy đấy,
người ta vẫn tắm tiên trên sông Mã nhưng kín đáo hơn để tránh những đôi
mắt tò mò ngày nay.
Những cô sơn nữ tắm trần
bên bờ suối, hình ảnh đôi khi gặp ở các vùng dân tộc Tây Nguyên. Đây là
một nét văn hoá buôn làng thuần túy nhưng cũng đang dần bị mai một cùng
với sự giao thoa văn hoá giữa các dân tộc. Ảnh chụp tại Khánh Sơn -
Khánh Hoà. Ở Tây nguyên ngàn xưa cũng vậy: người Ba Na, Gia Rai, Ê đê,
Cơ Ho, Mạ, Xơ Đăng, Mơ Nông... (trước năm 75 người ta gọi là người
Thượng) ăn mặc đơn giản, nam thường đóng khố, nữ thường cuốn váy ở trần.
Ảnh
thiếu nữ Tây Nguyên trên tạp chi Life. Váy là loại váy hở được dệt
trang trí hoa văn với những phong cách bố cục đa dạng. Còn về cuối năm,
mùa lạnh thì họ choàng thêm tấm mền cũ. Trang phục khi đi hội của người
dân thường được trang trí hoa văn nhiều màu sắc cả nam, nữ đều đeo vòng
bạc. Giản đơn trong cách ăn mặt nên cũng thuận tiện khi xong buổi làm
việc trên rẫy, trên rừng: các thiếu nữ bản làng cứ thoăng thoắt bước
xuống suối nô đùa với dòng nước mát mà không cần cởi bỏ thứ gì ngoại trừ
nếu muốn không ướt váy. Nếu muốn giặt váy áo thì sơn nữ sẽ cởi bỏ nó
giặt giũ ra khi thân mình đầy đặn đắm trong dòng nước tinh khiết và mát
lạnh giữa núi rừng Tây nguyên.
Bây giờ người ta phải dàn
dựng... Bây giờ thì người viết báo muốn tìm nguồn tin làm phóng sự thì
tìm đỏ mắt, nhiếp ảnh gia muốn sáng tạo ảnh nghệ thuật phải tìm chốn
thuê người làm mẫu cởi trần tắm suối như ngày xưa để có những tác phẩm
gọi là có hồn... Nhưng cái hồn ấy là sao có được sự tinh khôi thuần
khiết như tục tắm tiên ngày cũ với một bên là cái đẹp chân chất, trong
sáng đến mức thánh thiện trong cuộc sống đời thường, còn kia là sự gò ép
dàn dựng, khó có thể so sánh được.
Ru con. Âu cũng là cái
đương nhiên của sự phát triển để đánh đổi phần nào bản sắc dân tộc vùng
cao, vùng xa... và những cái mất đi sẽ chỉ còn tồn tại trong ký ức,
trong những tấm ảnh còn lại của ngày xưa hay hiếm hoi một đôi nơi xa
khuất ánh sáng hiện đại bây giờ. Nếu biết trân trọng phong tục cổ
truyền, nếu nhìn sự việc dưới ánh mắt nghệ thuật, biết chiêm ngưỡng vẻ
đẹp của suối nguồn Tây Bắc, Tây nguyên trong một chiều các cô sơn nữ tắm
tiên thì bạn sẽ thấy lòng mình trong sáng, thanh cao hơn như được hòa
mình cùng đất trời và người của vùng cao huyền thoại... Nhưng những cảnh
này còn được bao lâu dưới con mắt soi mói của cái gọi là "văn minh"
trần trụi của người miền xuôi? Du lịch, GO!
- Biên tập từ BĐVN, Zing, MTH Blog, Nguoinoitieng, SGTT và rất nhiều
nguồn khác.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2014/04/140410_letra_duongcong.shtml
Trong bối cảnh khủng hoảng Ukraina chưa tới hồi kết,
Washington xác định tin chuẩn bị tăng cường sự hiện diện của Hoa Kỳ tại
Trung và Đông Âu. Kế hoạch cụ thể sẽ được công bố trong một vài ngày
tới. Theo một số nguồn tin, Mỹ chuẩn bị đưa từ 150 đến 175 binh sĩ đến
khu vực, tham dự các cuộc thao diễn quân sự với các đồng minh Ba Lan và
Estonia.
Chỉ còn ít ngày nữa sẽ đến ngày đánh dấu cuộc ra đi lớn nhất của những người Việt tị nạn sau biến cố 30/4. Và cũng kể từ thời điểm này, nhiều sáng tác viết về miền đất mẹ của những nhạc sĩ hải ngoại mang âm hưởng bi tráng, trầm buồn pha lẫn những nỗi niềm đau đáu, chất chứa về một tương lai bất định ra đi để trở về hay ra đi là mãi mãi?
Và trong chương trình âm nhạc kỳ này, chúng tôi mời quí vị cùng nghe lại một số nhạc phẩm tiêu biểu viết về Sài Gòn của các nhạc sĩ hải ngoại sau năm 1975.
Một mình em lê bước trên đời
Nắng nơi đây cũng là nắng ấm
Nhưng ấm sao bằng nắng ấm quê hương
Từ những thập niên 60, 70 của thế kỷ trước, nghệ sĩ Thanh Lan đã trở thành hiện tượng trong làng văn nghệ Việt Nam, cô nổi danh không chỉ bởi tiếng hát ngọt ngào, vẻ đẹp mặn mà, quyến rũ mà còn bởi cô là nghệ sĩ hiếm hoi thực hiện thành công trên cả lĩnh vực điện ảnh, kịch trường và âm nhạc. Sang định cư tại Hoa Kỳ từ cuối năm 1993, nghệ sĩ Thanh Lan vẫn nổi tiếng với những ca khúc nhẹ nhàng, tình tứ, êm ái thuở nào. Trong chương trình âm nhạc kỳ này, cô dành cho Vũ Hoàng cuộc trò chuyện thân mật, mời quí vị cùng theo dõi.
Thanh Lan: Trước hết cho Thanh Lan gửi lời chào thân thương đến độc giả đài ACTD và chúc Vũ Hoàng một ngày tươi đẹp. Trả lời câu hỏi của Vũ Hoàng, phải nói rằng ngày xưa lúc mới lên truyền hình, hình ảnh của Thanh Lan nhí nhảnh với những bài hát nũng nịu, nhõng nhẽo… đến bây giờ vẫn nhiều khán giả còn nhắc đến hình ảnh của Thanh Lan ngày xưa nũng nịu, dễ thương, vì lúc đó, khi Thanh Lan lên truyền hình còn bé lắm, mới 15 – 16 tuổi đã lên truyền hình hát rồi.
Vũ Hoàng: Dạ thưa nghệ sĩ Thanh Lan, chị không chỉ nổi tiếng bởi tiếng hát rất ngọt ngào, truyền cảm mà còn bởi vẻ đẹp mặn mà, quyến rũ. Các cụ mình thường nói người phụ nữ đẹp bao giờ cũng truân truyên, chị có nghĩ là sự truân truyên đã “vận” vào lời ca của mình không ạ?
Thanh Lan: Thường thì nghệ sĩ trên sân khấu lúc nào cũng thấy huy hoàng, khán giả khi đi xem chỉ thấy những lúc người ca sĩ vui tươi nhất, nhưng biết đâu sau nụ cười đó là cả một tâm sự.
Monday, April 21, 2014
LÝ TỒNG * PHI VỤ CUỐI CÙNG
Phi Vụ Cuối
Cùng
Ngày 5 tháng 4 năm 1975, đang ngủ say trong phòng trực
chiến, chúng tôi giật mình thức giấc vì những trái đạn pháo kích đầu tiên trong
ngày của Việt Cộng. Có tiếng càu nhàu chửi thề vì bị phá rầy giấc ngủ ngon, có
kẻ kéo lại chiếc mền xô lệch, trùm bó người như một đòn chả, tiếp tục ru cơn ngủ
nướng. Pháo kích chỉ là chuyện thường tình đối với giới lính tráng. Một lịch sử
bốn ngàn năm chiến tranh, từ đánh Tàu, Tây, Nhật rồi Cộng Sản, đã sinh ra trong
máu người dân Việt một loại kháng tố. Bỗng tiếng chuông điện thoại reo inh ỏi.
Như bị dí một điếu xì gà đang cháy đỏ vào chân, tôi nhảy chồm về phía điện thoại.
Chỉ có tiếng gọi của nhiệm vụ mới đủ sức trấn áp cơn buồn ngủ và cơn giá lạnh
ray rức da thịt buổi sáng.
— Allo. Lý Tống tôi nghe.
— Chào Hitler (có người lại gọi tôi là Charlot vì bộ
râu của tôi). Rất tiếc đã quấy rầy bạn quá sớm, bạn cho một phi tuần cất cánh
ngay. Chi tiết nhận sau trên tần số Phong Giao.
Tôi đánh thức Võ Nguyên Bá, người được mệnh danh “sát
quân.” Các bạn đều sợ bay chung với Bá, và họ có lý do chính đáng. Sau Phi vụ
trở về một mình, để lại xác người "wing man" trên trận địa, Bá đã dẫn
hai wing men khác bay close formation đâm đầu vào núi chết không còn tìm thấy
chút thịt da. Bá thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, bay trở về Biên Hòa, phi cơ
hết xăng, rớt ngoài đầu phi đạo trong một buổi chiều giông gió cuồng loạn. Phi
đoàn chuyển Bá qua Phi đội bay Test, vì mọi người đều từ chối bay chung với Bá.
Trận chiến càng ngày càng ác liệt, sự thiếu hụt phi công trở nên trầm trọng.
Tôi tình nguyện dẫn Bá đi, tôi tự tin và tôi muốn giúp Bá vượt qua cơn khủng hoảng
tinh thần.
Chúng tôi chạy vội ra phi cơ, giầy chưa kịp cột giây,
áo bay còn banh ngực. Tôi quơ vội tay trên mặt cockpit lấy ít sương sớm rửa mặt
cho tỉnh táo. Không còn bị ràng buộc bởi qui tắc an phi trong giờ phút khẩn cấp,
phi cơ phóng nhanh trên taxi way, vừa quẹo vào runway, phi cơ gần đạt tốc độ cất
cánh. Tôi nhận đủ các chi tiết khi vừa nghiêng cánh chào phi trường, phi cơ
quan sát chưa cất cánh kịp. Vị trí đặt súng pháo kích im tiếng đã lâu. Công tác
chuyển sang đánh sập ba chiếc cầu có tên Ba Ngòi ở Cam Ranh để chận đường tiến
quân của Việt Cộng. Nha Trang thất thủ hai ngày trước và Việt Cộng chuẩn bị
đánh Phan Rang. Thật lạ lùng, ngay chính những nhà khí tượng chuyên nghiệp cũng
ngạc nhiên vì sự chuyển biến thời tiết quá đột ngột. Mây mù giăng khắp bầu trời
làm trở ngại hoạt động Không Quân, những người duy linh nghĩ rằng Trời buồn và
khóc cho số phận Nhân dân miền Nam.
Riêng tôi, tôi khẳng định, Việt Cộng đang sử dụng vũ
khí hóa học để làm mây nhân tạo, thay đổi thời tiết. Chúng tôi bay trên những tầng
mây trùng điệp chờ phi cơ L.19. Tôi bực mình nghe câu báo cáo đầu tiên:
— Phòng không kinh khủng quá.
Tôi buột miệng chửi thề không cưỡng được:
— Đù mẹ, các chú lạnh cẳng sớm thế.
Tôi ra lệnh cho Bá bay cover tại chỗ, rồi trượt cánh
xuyên mây xuống thẳng vị trí báo cáo có nhiều phòng không. “Bay trên ngọn cỏ,
dưới ngọn cây” là sở trường của tôi. Tôi làm hai low passes trên phi đạo Cam
Ranh, nơi được chiếc L19 ghi nhận hiểm nghèo nhất.
— Đâu? Phòng không đâu? Bạn thấy tôi không? Ráng bình
tĩnh chút xíu chứ!
Và để trừng phạt, tôi tống hết ga, bất thình lình
chui từ dưới bụng chiếc L19 phóng vụt qua mặt, để hai ông phản lực với một luồng
turbulance dữ dội cách windshield chừng vài thước. Trò đùa giỡn này tuyệt đối cấm
vì có thể làm phi cơ bạn bị stall, một tai nạn nguy hiểm. Tôi bắt đầu trở về mục
tiêu, chuẩn bị đánh bom, ra lệnh cho Bá tiếp tục ở chờ trên mây vì nếu bắt Bá
xuống dưới trần mây 1,500 feet đánh bom là một điều đau khổ nhất cho Bá. Những
hình ảnh chết chóc thê thảm đã đóng một dâu ấn quá sâu đậm vào đầu óc Bá, trong
cặp mắt Bá, nỗi kinh hoàng vẫn còn phảng phất chưa nguôi. Sau khi đánh xong,
tôi sẽ cho Bá xuống làm một pass, thế là ổn.
Đồng bào di tản chạy quá đông trên đường, trên cầu,
tôi không thể vô trách nhiệm đánh bừa để gây thiệt hại cho dân chúng. Tôi làm
low pass đầu tiên 50 feet để báo hiệu, tiếp tục đến low pass thứ ba mọi người mới
hoàn toàn tránh xa khỏi mục tiêu. Một số phòng không 12 ly 7, 23 ly, 37 ly bắn
rải rác đầy đó, tôi chẳng quan tâm vì tôi biết rõ khả năng và tinh thần của
pháo thủ cao xạ Việt Cộng: Những xích sắt khóa chân không thể nâng cao được tài
nghệ và sự can đảm.
Tôi lấy cao độ để biểu diễn một pha ngoạn mục đầu
tiên. Thật hoàn toàn bất ngờ, tiếng nổ tàn bạo dữ dội của một trái hỏa tiễn tầm
nhiệt SA7 đã cắt đứt đôi phi cơ tại ống thoát phản lực. Phần thân và đuôi tan
nát rơi lả tả như những chiếc lá vàng, Cockpit quay cuồng lồng lộn, những đụn
khói và tiếng réo sôi giận dữ của lửa, một lực G quá lớn dán chặt thân thể tôi
vào ghế ngồi. Tôi dồn hết tàn lực di chuyển bàn tay phải về chiếc cò bấm nhảy
dù hình chữ D đặt dưới cạnh bàn chân. Như một lực sĩ vất vả cố ép một lò xo quá
cứng ngoài khả năng mình, tôi chuyển động bàn tay. Sức nóng của trận bão lửa đã
kích thích hỏa pháo trong hệ thống ghế nhảy dù tự động, đã phóng tôi ra ngoài.
Chưa kịp cảm giác được lực 12 G phóng ghế lái, và sức xô bật ra khỏi ghế, bỗng
nhiên tôi thấy mình lơ lửng, đong đưa giữa trời, trong tiếng gào rú của trận cuồng
phong.
Đàng xa, mặt biển thấp thoáng bạt ngàn. Chưa kịp điều
chỉnh thân người sau bốn, năm lượt đưa võng, tôi đáp nguyên cả cạnh sườn phải
xuống bờ nấm mộ rất lớn có tên Mã Tướng vì nhảy dù ở cao độ quá thấp. Vội vã luồn
tay chân ra khỏi các sợi dây an toàn thay vì mở khóa, tôi bắt đầu chạy về hướng
an toàn rậm rạp. Trên đường chạy, bỗng nhiên tôi liên tưởng đến Alain Delon, đến
Charles Bronson, tôi mường tượng thấy họ đang chạy trốn trong các đoạn phim săn
đuổi hồi hộp. Tôi cảm thấy mình chạy khác kỹ thuật đóng phim của họ, tôi có cần
phải khom mình về phía trước, trán nhăn xếp, hằn vết suy tư, mắt đảo ngược xuôi
để quan sát tình hình? Tôi chợt mỉm cười vì sự so sánh liên tưởng, và vì ý nghĩ
khôi hài của mình. Tôi vẫn giữ cái dáng chạy lòng khòng của mình, đóng một phim
sống về cuộc trốn chạy theo kiểu riêng của mình, hoàn toàn thoải mái và hào hứng.
Tôi chui vào đám rừng mía dầy đặc, nằm xuống, lười biếng nhàn nhã cắn từng khúc
mía ngọt ngào. Take it easy, man! Tôi lẩm bẩm một mình, tôi nghỉ dưỡng sức và
nghe ngóng tình hình. Bỗng có tiếng gọi nhỏ, vừa khẩn trương, vừa thân thiết:
— Anh Phi công ơi! Anh mới đây đâu rồi?
Tôi len lén và nhẹ nhàng bò sâu vào phía trong, rủa
thầm:
— Bố mày! Bao nhiêu năm xông pha lửa đạn, ông kinh
nghiệm đầy mình. Ông đâu phải là con nít mà mày dụ kiểu đó!
Tôi cứ ngờ là Việt Cộng giả dạng. Tiếng người gọi xa
dần và mất hút. Bỗng một chiếc trực thăng từ Phan Rang xuất hiện, bay về hướng
tôi và đảo nhiều vòng quan sát. Đến giờ phút này, tôi mới thấm nỗi đau của những
kẻ hời hợt với sự an toàn của bản
thân mình. Biết bao nhiêu lần tôi bị Thiếu Tá Nguyễn
Tiến Xương, Trưởng phòng An Phi, cằn nhằn vì không chịu mang áo lưới. Tôi còn
coi thường không thèm lãnh cả súng P38 khi đổi về Phan Rang và tự biện hộ:
— Ông thề sẽ chẳng bao giờ nhảy dù. Nếu chúng mày bắn
đứt cánh, ông sẽ biểu diễn bay bằng một cánh trở về phi trường đáp đẹp!
Tôi ỷ vào cái thiên tài bay bổng của mình. Và giờ nầy!
Ước gì chỉ cần có một trái khói, không cần flare, kính hiệu hay radio, tôi đã
thừa phương tiện để đánh dấu vị trí của mình. Người bạn trực thăng thật tận tụy
nhưng cuối cùng đành quay trở về vì không tìm thấy dâu vết tôi, hơn nữa, phòng
không địch đang quăng những mẻ lưới lửa lớn vây bắt con chim lạc loài. Tôi đưa
tay lên trời, vẫy chào buồn bã:
— Thôi từ giã. Bạn yêu dấu!
Xuyên qua những cụm khói tử thần, tôi lẳng lặng nhìn
theo cánh chim bạn đến khi mất hút ở phương trời Phan Rang thân thương. Niềm hy
vọng cuối cùng đã tan vỡ, tôi biết rằng, từ giờ phút nầy, tôi chỉ còn một mình
với những hiểm nguy chồng chất. Tôi lom khom đứng dậy quan sát địa thế. Tôi
đang ở giữa lưng chừng đồi thoai thoải và dưới kia là Quốc lộ nhộn nhịp đông
người tranh nhau chạy loạn. Tôi nhớ đến bài học thoát hiểm đầu tiên: “Quốc lộ
là hướng an toàn nhất cho những phi công bị nạn.”
Tôi vạch kế hoạch đi len lỏi giữa các bụi mía để đến
gần đường rầy xe lửa, băng qua một quãng đồng trống trải và tiến về một chòi nhỏ
đầu tiên nằm lẻ loi tách biệt khỏi khu xóm nhà lúc nhúc. Lại có thêm một điều để
tiếc nuối. Ôi cuộc đời cứ thế mà tiếp tục để mỗi ngày ta lại khám phá ra một điều
mới để tiếc nuối! Ước gì tôi có một cái quần sọt và một cái áo thun. Tôi thuộc
loại người đơn giản hóa, trong chiếc áo bay đầy phù hiệu lộng lẫy hoa hòe mà chắc
chắn những thiếu nữ mộng mơ đã dệt bao nhiêu huyền thoại, bao mối cảm tình thầm
lặng đắm say, vâng! ở trong đó, dưới chiếc áo bay lập dị đó, tôi chỉ dành một
ân sũng duy nhất cho chiếc mini xì líp được phép đèo bồng và sáng nay, lúc vội
vã, tôi còn bỏ quên người bạn bé nhỏ đó! Không thể tồng ngồng đi giữa thanh
thiên bạch nhật, tôi đành phải mặc bộ đồ bay đặc biệt và trở thành mục tiêu lồ
lộ cho những cặp mắt rình rập theo đuổi. Người đầu tiên khám phá ra tôi, làm
phiền tôi, không phải là Việt Cộng mà là các em nhỏ, bắt đầu một đứa, hai đứa,
và sau đó, cả đám hội con nít chạy theo tôi reo hò: “Hoan hô anh Phi công!”
Chẳng thể nào ngăn cản được sự nồng nhiệt của các em,
tôi chịu đựng sự ngưỡng mộ trong niềm hạnh phúc khốn khổ! Tôi đã lách được vào
cái chòi dự trù, chớp được chiếc áo mưa tròng vào để giả dạng nhưng quá trễ! Một
họng súng đã chĩa vào lưng và một tiếng quát lớn:
— Đưa tay lên!
Nguời bắt tôi là một anh du kích già, tuy vẫn còn gân
guốc, nếu là bây giờ chắc tôi đã vặn cổ anh ta trong chớp mắt. Tôi quay lại và
bị đánh một báng súng vào cằm. Chưa từng có Phi công nào sống sót sau khi lãnh
nguyên một trái hỏa tiễn SA7, thế mà tôi xuống đất an toàn không rụng một sợi
lông, giờ đây, lại chính anh già du kích làm tôi rơm rớm máu. Có tiếng phản đối
của dân chúng khi họ bắt đầu tụ tập lại khá đông:
— Làm gì đánh người ta!
Lại có tiếng thì thầm:
— Hồi nãy em đi kiếm anh, kêu anh quá trời anh nghe
thấy không? Vừa thấy anh, chạy tới, là anh biến mất. Nếu gặp, giờ nầy em đã đưa
anh đi trốn tới đâu rồi!
Tôi lẳng lặng nghe và lẳng lặng đau đớn. Lần đầu tiên
trong đời mình, tôi không tin người và nhận một hậu quả trầm trọng. Tôi đã phải
trả một giá đắt cho một kinh nghiệm sống bằng sáu năm tù tội. Trong tù, tôi bắt
đầu làm quen với ngôn ngữ Cộng Sản, cách sử dụng từ ngữ, cách biểu lộ ý nghĩ.
Ôi! Làm sao Việt Cộng lại có được tiếng kêu tha thiết, ngọt ngào kia dù là một
diễn viên thượng thặng trên sân khấu!
Tôi bị dẫn ra đường quốc lộ, vẫn một mình anh du kích
già lẽo đẽo theo sau. Tôi bỗng phóng chạy khi thấy một chiếc xe lam chở đồ đạc
tiến gần nhưng chụp hụt thành xe vì quá trễ. Một chiếc Honda dame vừa tới nhưng
tiếc thay lốp xe sau bị xẹp! Tay du kích già bắt kịp, hăm dọa:
— Nếu chạy nữa, tôi sẽ bắn.
Cũng vừa lúc chiếc xe Dodge ngụy trang có nhiệm vụ
lùng kiếm tôi vừa tới. Họ bàn giao và tôi bị trói dẫn lên xe. Bầu trời bỗng náo
động vì nhiều phi cơ A37 xuất hiện. Các chiến hữu đang đi trả thù cho tôi, kẻ
được báo cáo và tin tưởng đã chết. Những trái bom bắt đầu rơi vung vãi khắp
nơi. Tôi ngạc nhiên thấy phi cơ tấn công cả những chiếc tàu thả neo ngoài biển
xa và gần nhất, bom đang rớt trên đầu tôi. Bộ đội trên xe vội nhảy xuống núp
vào hố cá nhân cạnh những gốc dừa. Tôi đứng “tương tư” giữa trời, nhìn những
cánh chim thân yêu. Một Phi công được chết dưới những trái bom bè bạn mình chắc
thú vị hơn chết trong tay kẻ thù. Tiếng mảnh bom xé ngang tai, vài đọt dừa trước
mặt bị tiện đứt, đổ xuống. Một tên Việt Cộng chạy ra, chộp tay kéo tôi vào nơi
trú ẩn. Tôi đi lừng khừng ngắm nhìn trận địa pháo nhả đạn và biết vì sao sáng
nay tôi không khám phá ra họ. Điều rõ ràng là họ đang thiếu đạn kinh khủng. Cuộc
tiến công quá dễ dàng, quá nhanh đã làm cho bộ phận tiếp tế không đáp ứng kịp.
Tôi quan sát cách họ bắn máy bay để thấy rằng "bắt chim trời cá biển"
không phải là chuyện dễ. Chỉ có hỏa tiễn tầm nhiệt là đáng ngại vì nó quá hiện
đại còn khả năng con người, nhất là con người Cộng Sản, thì hạn hẹp quá. Cuối
cùng là tỉ số 0-0. Huề. Những trái bom chỉ phạt đứt một số cây dừa, những quả đạn
phòng không chỉ góp thêm một tí bụi ô nhiễm vào không khí.
Cuộc tranh cãi bắt đầu gay gắt, các loại pháo phòng
không đang tranh công với nhau, anh 12 ly 7 khẳng định đã bắn rơi Lý Tống, anh
23 ly, 37 ly cực lực bảo vệ chiến công mình. Tôi cười thầm nghĩ đến xạ thủ SA7
nằm lăn lóc trên sườn đồi, anh ta sẽ điên tiết khi chiến công mình bị các pháo
bạn tranh giành cấu xé. Tôi nghĩ đến đoạn đấu khẩu trong cuốn truyện Vùng Trời
viết về Không Quân Bắc Việt do Hà Nội xuất bản, trong đó Thủ trưởng Pháo Binh
nói đùa với Thủ trưởng Không Quân:
— Nếu một ngày nào biển Đông cạn, tất cả chúng ta đều
vào tù ráo!
Vâng! Không có gì dễ bằng báo cáo đã hạ được nhiều
phi cơ địch, và tất cả đều rơi xuống biển Đông! Trên đường đi có vài tên bộ đội
hỗn láo bắt tôi cúi mặt xuống vì chúng không chịu được bản mặt nghênh nghênh
kênh kiệu của tôi. Tôi quắc mắt trừng các chú bé, tên lính áp giải kịp thời hòa
giải mọi xung đột. Chúng dẫn tôi ra đường, tập họp dân chúng để lập Tòa án Nhân
dân.
Chúng đã từng thành công với loại luật rừng nầy: Một
Nguyễn Du, Thiếu tá Phi công anh hùng Vùng I, chiếc đầu được treo giá bạc triệu,
bị bắn rơi và bị ném đá đến chết; Phi công danh tiếng Trần Thế Vinh, người bạn
cùng khóa 65A Không Quân với tôi và biết bao nhiêu người đã đi vào huyền sử.
Nhưng rõ ràng, lịch sử không được lập lại tại đây, nơi thành phố duyên hải đầy
thân thuộc nầy. Khu giải trí Cây số 9 đâu có ai lạ mặt tôi, họ thương cảm tôi,
một khách chơi quen, hào phóng đang lâm nạn, một chiến sĩ đang bị sa cơ. Những
tên cò mồi lăng xăng chạy đi chạy lại hò hét, khích động nhưng chẳng ai thèm hưởng
ứng. Cuốỉ cùng chúng chỉ thành công trong một cuộc dàn cảnh. Vài tên nhảy vào
đè tôi xuông, xỉa xói, chửi bới. Lúc đầu, tôi nhẫn nhục để làm nổi bật sự tàn bạo
dã man của Cộng Sản nhưng nửa chừng đổi ý, vùng đứng dậy, quắc mắt nhìn chúng
và nhổ nước miếng vào mặt tên đạo diễn thô bỉ. Khán giả khoái chí cười ồ, vì thế,
thay vì ném đá tôi, họ lại ném thuốc lá, bánh ngọt và các loại quà khác.
Tôi được chở lên đèo Rù Rì, trời nửa đêm sương mù lạnh
lẽo. Tầm nhìn xa không quá mười thước, tên tài xế mới ra nghề, chạy xe dục dặc
như ho gà. Tôi tính lừa thế đánh cái đầu vào mặt tên ngồi bên cạnh, đứng dậy dứt
một đá vào cổ tên tài xế trước mặt là xong. Thật dễ dàng trên một chiếc xe jeep
mui trần, nhưng xe bỗng ngừng ở một trạm gác. Tôi ngồi ngoài xe giữa đêm sương
giá, núi rừng âm u tăm tối đang chứa đựng một âm mưu sâu hiểm. Về sau, tôi được
biết đó là buổi họp quan trọng, một phe muốn xử bắn tôi ngay đêm đó tại trên
đèo, vì không moi được chút tin tức nào trong suốt những cuộc thẩm vấn dọc đường,
một phe muốn kiên trì thuyết phục. Cuối cùng tôi được chuyển đến Trại Chi Lăng
là nơi an dưỡng tạm thời của Việt Cộng. Lần đầu tiên tôi thấy được sự tác hại của
các loại bom napalm và bom bi vì chất cháy lân tinh và các viên đạn nhỏ không
chừa một hố nấp cá nhân nào trong tầm sát hại của nó. Tại đây, một Thủ trưởng Đặc
Công và một Thủ trưởng Pháo Binh thay phiên nhau thẩm vấn, hứa hẹn và dụ dỗ tôi
vẽ bản đồ phi trường Phan Rang:
—Anh sẽ được tha chết và được sử dụng phục vụ Không
Quân Cách Mạng.
Tôi cương quyết từ chối:
— Một mạng sống của Lý Tống không thể đánh đổi với
hàng trăm, hàng ngàn mạng của các chiến sĩ đang tử thủ trên tuyến đầu giữ nước.
Xin lỗi các ông, tôi không phải là loại người tham sinh úy tử để làm một hành động
phản bội ngu xuẩn như vậy!
Họ lại kiên trì đưa đề nghị khác:
— Nếu anh lên đài phát thanh, kêu gọi chiến hữu của
anh đầu hàng, nhấn mạnh rằng Cách Mạng sẽ rộng lượng khoan hồng đối với tất cả
ai trở về hàng ngũ dân tộc, nhấn mạnh Chính sách Đại Đoàn kết, Chính sách Nhân
đạo của Cách Mạng...
Tôi ngắt lời:
— Thưa ông, có những con vật khi bị mắc bẫy còn biết
đánh tín hiệu để báo cho đồng loại tránh xa nơi đánh bẫy. Là con người, không lẽ
tôi lại thua loài vật, dẫn dụ bè bạn, chiến hữu vào cái bẫy nhân đạo, hòa hợp
giả hiệu của các ông sao ?
Tôi chuẩn bị để chết. Nhưng số phận vẫn bắt tôi sống.
Và tôi vẫn thích được mang chữ “cố,” cố Đại úy Phi công, bởi vì kỷ niệm của Phi
vụ cuối cùng.
LÝ
TỐNG
Sunday, April 20, 2014
PHAN CHÂU THÀNH * ĐỒNG CHINH GIÁP
10 điều giống nhau “ngẫu nhiên” của bộ ba “lãnh tụ con” Đồng-Chinh-Giáp
"Lãnh tụ cha" cùng 3 "Lãnh tụ con". Từ trái qua: Võ Nguyên Giáp, Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh.
Phan Châu Thành (Danlambao)
- “Lãnh tụ cha” của CSVN đã tự xưng là “cha già dân tộc”, sinh 1901
(hai lần tự khai với QTCS như vậy), mới 44 tuổi đã bắt cả dân tộc Việt
gọi là “cha già”, thì ai cũng biết rồi, đó là Hồ Chí Minh. Và “cha” Hồ
có hơn chục điều giống nhau kỳ lạ với lãnh tụ Hán-Việt gian Lai Teck của
đảng CS Malaysia thì tôi cũng đã nêu ra trong một bài khảo cứu gần đây
đăng trên Dân Làm Báo (xem “10 điều giống nhau kỳ lạ giữa HCM và đồng chí Lai Teck”).
“Lãnh tụ con” là các “học trò xuất sắc nhất” của “lãnh tụ cha già”,
ngay từ 1940, không ai khác là bộ ba Đồng-Chinh-Giáp. Một là Thủ tướng
lâu đời nhất của VN và của cả thế giới PVĐ (sinh 1906, thua “cha” 5
tuổi, làm TTg bù nhìn 32 năm từ 1946 đến 1978), một là TBT hai đời của
đảng CSVN - Trường Chinh (sinh 1907, thua “cha” 6 tuổi), và một là VNG
(sinh 1911, thua “cha” mình 10 tuổi) - đại tướng “huyền thoại” của CSVN,
kẻ “một mình đánh thắng” quân đội của cả 4 đại cường thế giới là Pháp,
Nhật, Mỹ, Tàu…
Bộ ba Đồng-Chinh-Giáp ấy là “ba cánh tay phải”, “ba chân kiềng” để/của
“cái nồi cha” HCM ngồi trên ngay từ những ngày đầu HCM về nước 1940 rồi
chuẩn bị và cướp chính quyền 1945 đến những năm 1960s HCM đưa đất nước
VN vào nội chiến đến tận 1975. Một người “nắm” chính phủ cho “cha”, một
phụ trách đảng cho “cha”, và một giữ quân đội của “cha”, tưởng chừng như
họ khá độc lập nhau, không có gì nhiều liên quan đến nhau, thế mà nhìn
lại thấy có khá nhiều điểm họ giống nhau một cách “ngẫu nhiên” kỳ lạ mà
tôi xin nêu ra ở đây mười (10) điểm sau.
Điểm giống nhau ngẫu nhiên thứ nhất của bộ ba Đồng-Chinh-Giáp là họ vô tình cùng là cựu học sinh trường Albert Saraut
vốn là một trường cao đẳng/đại học tốt nhất Việt Nam thời đó của Pháp
chủ yếu dành cho con em người Pháp và rất ít con em người Việt làm viên
chức cao cấp cho Pháp mới gửi con vào đó được (và phải có người Pháp bảo
lãnh). VNG được trùm phòng Nhì Pháp bảo lãnh nên được vào học ở đây.
Còn Trường Chinh và Phạm Văn Đồng vào Albert Saraut trước đó thì không
biết đã theo con đường nào, ai bảo lãnh (họ không báo cáo điều này với
đảng)? Đây có thể đúng là sự giống nhau hoàn toàn ngẫu nhiên giữa ba
người họ. Nhưng xét trong thực tế là trong hàng ngàn cựu sinh trường này
từ khi nó thành lập đến năm 1945 và trong hàng trăm cán bộ cộng sản cao
và trung cấp của VN cùng thời đó thì chỉ có ba người, và chỉ có đúng ba
người đó là cựu sinh viên Albert Saraut!? Một câu hỏi tò mò nhỏ đó khi
nghiên cứu lịch sử trường Albert Saraut đã dẫn tôi đến bài viết này. Ai
cũng có thể kiểm tra điều này trên Wiki.
Điểm giống nhau “ngẫu nhiên” thứ hai của bộ ba Đồng-Chinh-Giáp là tháng 5/1940 ba người này lại “ngẫu nhiên” gặp nhau và cùng rủ nhau sang TQ đi tìm và đón lãnh tụ lớn của cách mạng VN về nước.
Điều đó rất không bình thường vì đó phải là việc lớn và chính thức của
đảng, trong khi đó thì ông Giáp đang làm giáo vụ tại trường tư thục
Thăng Long ở Hà Nội và còn chưa hề tham gia đảng cộng sản VN, ông Đồng
thì vừa mới ra tù năm 1936 (với tư cách đảng viên đảng khác), mãi 4 năm
sau -1940 cũng mới vào đảng CSĐD cùng ông Giáp, hình như đều do “cha” Hồ
“kết nạp” bên TQ, còn ông Chinh thì đến tháng 11/1940 mới được vào TW
sau HN 7 ở Bắc Ninh mà Nguyễn Văn Cừ chủ trì và là TBT thì Ng Văn Cừ “tự
nhiên bị bắt” (và ngay tháng 8 năm 1941 bị Pháp tử hình cùng Hà Huy
Tập, Ng Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu… tại trường bắn Hóc
Môn) để Chinh nghiễm nhiên lên tự nhận quyền TBT.
Chữ ngẫu nhiên tôi bắt đầu phải cho vào ngoặc kép thành “ngẫu nhiên” từ
đây vì có nhiều câu hỏi đến nay chưa có lời giải. Và ở đây là: Tại sao
đoàn đi TQ đón lãnh tụ đảng (chưa biết là ai) lại do một người chưa vảo
TƯ đảng phụ trách (TC) cùng hai người chưa là đảng viên (VNG và PVĐ)? Ai
báo đã cho họ hay cho TW đảng CSVN (đảng CSĐD) là VN sắp có lãnh tụ
đảng lớn về nước và cần cử người sang TQ đón người đó về? Đó là tình báo
Pháp hay tình báo Hoa Nam? Nhưng chắc chắn đó không phải Quốc tế CS
Comintern. (Chuyện này cũng đã xảy ra giống hệt vụ đảng CS Malaysia đón
lãnh tụ Lai Teck “của mình” từ Singapore về sau những lời đồn đại của
“giới cách mạng người Hoa” ở Singapore…?! Còn đồn đại về “lãnh tụ đảng
lớn của Vn sắp về nước” cuối những năm 30s khi các lãnh đạo CSVN “tự
nhiên” bị Pháp bắt và giết hàng loạt là từ… Hồng Koong, Ma Cao và Chợ
Lớn).
Vậy, ai đã tổ chức cho họ (bộ ba Đ-C-G) gặp nhau, thông báo và giao
“nhiệm vụ”, bàn bạc rồi tổ chức cho họ sang TQ “đón lãnh tụ”? Tại sao
lại là ba người này sang TQ đón lãnh tụ lớn (còn mập mờ bí mật chưa biết
là ai?) mà không phải các can bộ cao cấp hơn và các ủy viên TW đảng
khác uy tín hơn Trường Chinh lúc đó (như Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Lương
Bằng, Hoàn Quốc Việt, Phùng Chí Kiên, Chu Văn Tấn, Lê Thiết Hùng, Nguyễn
Văn Tri…)? Và tại sao đó không phải việc do Tổng bí thư Hoàng Văn Thụ
phụ trách và chỉ đạo, chọn người đi? Tại sao ông Giáp và ông Đồng còn
chưa là đảng viên CS, ông Đồng thì ra tù rồi có 4 năm không làm gì cụ
thể (1936-1940), lại khơi khơi “rủ nhau” sang TQ cùng ông Chinh “đón
lãnh tụ”?
Và tất cả những điều mơ hồ về cuộc đời sự nghiệp của bộ ba
Đồng-Chinh-Giáp sau này có lẽ đều bắt nguồn từ hai điều giống nhau “ngẫu
nhiên và kỳ lạ” trên của họ. Tóm lại, sự xuất hiện của bộ ba trên cũng
kỳ lạ và “ngẫu nhiên” chả kém sự xuất hiện của “lãnh tụ cha” HCM là mấy…
Câu hỏi chúng là: ai đã chọn họ, ai ủng hộ họ, ai dọn đường cho họ, ai
đẩy họ lên quyền lực bên cạnh “cha già”?
Điểm giống nhau “ngẫu nhiên” thứ ba của bộ ba Đồng-Chinh-Giáp là cả ba ông đi đón lãnh tụ đều không biết “lãnh tụ” là ai, đều chưa bao giờ gặp HCM hay NAQ, đều chưa có kinh nghiệm hoạt động hải ngoại cho đảng ở nước ngoài nói chung, và cụ thể ở TQ
trong khi đảng CSVN lúc đó vẫn còn có những cán bộ biết rõ lãnh tụ NAQ,
đã làm việc và học tập với NAQ ở TQ và LX, có kinh nghiệm lâu năm hoạt
động ở TQ như Phùng Chí Kiên, Hồ Học Lãm (người sáng lập Việt Minh)…? Về phía “lãnh tụ”, chẳng có một sự giới thiệu hay chỉ đạo chính thức nào của Quốc tế CS cho HCM về VN lãnh đạo phong trào cả?. Thời
điểm đó QTSC hầu như bị Stalin làm tê liệt, còn bản thân Stalin và nước
Nga thì chuẩn bị và đi vào nội chiến để rồi giải tán QTSC ngay sau
chiến tranh… Thế thì, ai cử “lãnh tụ HCM” về trong khi đảng CSVN vẫn
đang còn có hàng loạt lãnh đạo cao cấp trên NAQ nhiều (NAQ chỉ là liên
lạc viên của CSVN với QTCS…). Câu hỏi của phần này là: ai thực sự đạo
diễn sự làm cỏ hàng loạt các lãnh tụ thực sự của CSVN những năm cuối 30s
đầu 40s và sự xuất hiện “về nước” của “lãnh tụ lớn” HCM năm 1940, để mà
sau đó có thể chọn và cử bộ ba ĐCG sang “đón lãnh tụ” về?
Điểm giống nhau “ngẫu nhiên” thứ tư của bộ ba Đồng-Chinh-Giáp là sau
khi sang TQ họ đều gặp HCM lần đầu tiên, lúc này dùng bí danh Hồ Quang,
và cả ba còn băn khoăn không biết HCM/Hồ Quang là ai, có phải là NAQ?
Thế mà cả ba được HCM tin dùng ngay và tin dùng nhất từ đó luôn đến hết
đời HCM, không ai được HCM tin dùng hơn ba người này sau đó nữa? Đầu
tiên là “cha” Hồ cho kết nạp ngay hai “con” Đồng và Giáo vào đảng ở
ngay TQ, rồi về hang Pác Bó (cách biên giới rừng núi với TQ chỉ khoảng
một ngìn mét…) “tổ chức NH TW 8” kết nạp ngay cả ba vao TW. Đây là điều
“ngẫu nhiên” rất lạ. Từ đó cả ba cùng HCM tạo nên bộ tứ khét tiếng và
toàn quyền của CSVn đến tận 1960. Chinh vẫn nắm đảng, lúc thì công khai,
lực thì “giải tán”, hai người kia là VNG và PVĐ thì vào Tổng bộ Việt
Minh tối cao chỉ có 5 người (ba người kia là Nguyễn Lương Bằng, Hồ Tùng
Mậu và Hoàng Hữu Nam thì HTM và HHN “vô tình/tự nhiên” chết khi đi công
tác bị Pháp giết…), toàn quyền trong tay ba lãnh tụ con TC, PVĐ và VNG
tức trong tay “lãnh tụ cha” HCM.
Điểm giống nhau “ngẫu nhiên” thứ năm của bộ ba Đồng-Chinh-Giáp là
ngay từ 1940 họ đã được HCM giao phụ trách những chức vụ quan trọng
nhất của chính quyền cộng sản mới là đảng, quân đội, tài chính kháng
chiến, tạo thành thế chân kiềng cho HCM, mặc dù họ không phải những
người cộng sản kỳ cựu nhất của VN lúc đó. Về đảng, do Trường Chinh
phụ trách, HCM giao cho Chinh chỉ có “nghiên cứu” và dịch lại các tài
liệu về đường lối, chính sách của đảng CSTQ và viết lại thành chính sách
của đảng CSVN. Về quân đội, HCM giao cho Giáp đi tiêu diệt ám sát, thủ
tiêu, bán thông tin cho Pháp... để diệt hết các lực lượng vũ trang của
VN vốn có trước đó, rối năm 1944 mới thành lập tạm VNTT GPQ để đợi đến
sau 1949 sẽ có quân đội TQ sang trang bị, tổ chức, đào tạo hoàn toàn cho
Quân đội VN… Về tài chính, do Đồng phụ trách, chỉ dựa vào hai nguồn:
lấy/cướp của dân và viện trợ của TQ (từ 1950 thì TQ viện trợ ồ ạt đến
trên 90 nhu cầu của VN).
Điểm giống nhau “ngẫu nhiên” thứ sáu của bộ ba Đồng-Chinh-Giáp là
họ cùng được HCM phân công làm những việc sai trái có hại (bẩn thỉu và
ác độc nhất) cho đất nước và dân tộc Việt và rồi họ cùng phải đứng ra
chịu trách nhiệm thay cho HCM về những tội ác đó. Đầu tiên là HCM
giao VNG tiêu diệt hết các đảng phái đân tộc dân chủ khác của VN bị lừa
vào tham gia Việt Minh chống Pháp giành độc lập. Bàn tay VNG vì thế đãm
máu các chí sĩ dân chủ phi cộng sản của dân tộc Việt đầu thế kỷ 20 và
đó là tội ác làm tuyệt nọc dân tộc dân chủ VN suốt cả thế kỷ sau mà trời
không dung đất không tha cho đảng CSVN, HCM và VNG! Sau đó là HCM giao
Trường Chinh phụ trách viết cương lĩnh “vấn đề dân cầy” rồi thực hiện
cuộc Cải cách ruộng đất đẫm máu trên miền Bắc những năm 1953-1955, đến
1956 khi đảng phải “sửa sai” thì Trường Chinh phải chịu trách nhiệm và
bị mất chức Tổng bí thư đảng. Năm 1958, HCM đã chỉ đạo cho Phạm văn Đồng
ký công hàm 1958 công nhận lãnh hải của TQ bao gồm cả Trường Sa và
Hoàng Sa của VN mà đến muôn đời sau PVĐ và HCM sẽ phải mang tiếng đã ký
công hàm bán nước đó, dù Đồng bị chịu tội thay HCM.
Điểm giống nhau “ngẫu nhiên” thứ bảy của bộ ba Đồng-Chinh-Giáp là
họ đều bị bọn Lê Duẩn-Lê Đức Thọ-Ng Chí Thanh triệt hạ vì muốn triệt hạ
thanh thế bộ tứ Hồ-Đồng-Chinh-Giáp, “vì bộ tứ này có tư tưởng xét lại”.
Duẩn-Thọ đã bắt đầu bằng việc tấn công VNG. Thế nhưng, HCM và TC, PVĐ
đã hoàn toàn thúc thủ, không bảo vệ mà hy sinh luôn sự nghiệp của Giáp
và tay chân Giáp trong vụ án “xét lại chống đảng” để yên thân. Từ đó
Giáp hoàn toàn việt vị - trở thành “đại tướng không quân” phụ trách “kéo
pháo ra” tức là sinh để có kế hoạch, Chinh cũng vậy sau CCRĐ và Đồng
chỉ là thủ tướng bù nhìn mà chính ông ta nhiều lần thú nhận. Họ cả ba đã bị bộ đôi Duẩn Thọ không chế hoàn toàn đến hết đời mà không âi dám kêu ca, dù họ đều sống lâu hơn Duẩn, Giáp thì sống lâu hơn Duẩn Thọ mấy chục năm!
Vâng, dù họ là hay vì họ là các đệ tử ruột của HCM nên họ cùng bị bộ
đôi Duẩn-Thọ khống chế, vô hiệu hóa và hạ nhục suốt đời ngay từ khi HCM
còn sống (HCM cũng bị vậy!) Tại sao Duẩn Thọ dám làm vậy và tại sao
lại có chuyện như vậy với bộ ba trong tứ trụ và “tam đại khai quốc công
thần” đó? Đó là một bí ẩn lớn của CSVN và của bộ ba này mà “ông” Lịch sử
sẽ còn bận rộn nhiều để làm sáng tỏ…?
Điểm giống nhau “ngẫu nhiên” thứ tám của bộ ba Đồng-Chinh-Giáp là cả ba đến khi chết vẫn không có một lời phản đối hay chống đối sự đối xử àn tệ với những “lãnh tụ con” của bộ đôi Duẩn Thọ.
Điều này nói lên nghi vấn có cơ sở rằng cả ba có những tỗi lỗi bí mật
chết người mà Duẩn Thọ nắm được và khống chế họ (và cả HCM cũng vậy). Đó
là những bí mật gì, cho đến nay vẫn cón là điều hoàn toàn… bí ẩn? VNG
cho đến những năm cuối đời mình, tức là mấy chục năm sau khi Duẩn Thọ đã
chết, mà vẫn chỉ yếu ớt xin đảng xem xét lạ vụ án “xét lại chống đảng”
của mình ngày xưa, và cũng không được ai xem xét lại! Còn Trường Chinh
sau khi Duẩn chết thì rón rén ra làm TBT lần thứ hai và tạm thời được
hơn 5 tháng…
Điểm giống nhau “ngẫu nhiên” thứ chín của bộ ba Đồng-Chinh-Giáp là cả
ba suốt cuộc đời chỉ cố gắng giữ cái tên, cái danh hão là “học trò
gương mẫu hay xuất sắc” của lãnh tụ HCM, núp bống HCM, tức là cái danh
“lãnh tụ con” của mình, như là họ bị cầm tù vào đó, mà không dám có
chính kiến hay phản đối ai bất cứ điều gì, dù họ là hạng “khai quốc công
thần”?. Tại sao họ phải cố thế? Có đáng không? Việc là đệ tử ruột
của HCM có điều gì mờ ám làm họ suốt đời rón rén dù trên danh nghĩa là
họ có quyền cao tột đỉnh? Tài sao quyền cao đó họ chỉ có thực trước 1960
khi bộ đôi Duẩn Thọ chưa từ Nam ra Bắc?
Điểm giống nhau “ngẫu nhiên” thứ mười (thêm cho nó chẵn!) của bộ ba Đồng-Chinh-Giáp là dù
cả ba ngay từ đầu sự nghiệp của họ, những năm 1940s, đã được bám theo
HCM và dễ dàng lên ngay tột đỉnh danh vọng tức là tham gia Tứ trụ Triều
đình cộng sản VN thế hệ đầu tiên, vậy mà con cháu họ - các thế hệ sau
của Đồng-Chinh-Giáp – lại đều không ai tham gia chính trị của cộng sản
tiếp theo, khác với đa số con cháu các “lãnh tụ” CS khác luôn cố gắng
khai thác lợi thế cha ông tạo ra để chen chân vào giới quyền lực chính
trị tiếp sau. (Tôi đã từng “vô tình và ngẫu nhiên” là bạn học của
cháu ngoại ông Giáp, là bạn café của con trai ông Chinh, nhưng chưa biết
con cháu ông Đồng, và bạn học của cháu ngoại ông Tôn nữa… Nhưng tôi
luôn cảm nhận thấy họ không vô tư trong sinh hoạt chính trị như bọn cùng
lứa chúng tôi, họ thể hiện một nỗi sợ “huyền bí gia tộc” nào đó giống
nhau mà chúng tôi không thể hiểu, chỉ cảm nhận…)
Tại sao thế? Đó chắc phải là kết quả “xương máu” của một/những bài học
bí mật từ sự nghiệp cộng sản rất thành danh của bộ ba Đồng-Chinh-Giáp?
Hay là có một lời nguyền hay tội lỗi gì đó lớn lắm khi họ là… đệ tử HCM?
Đó là những bài học bí mật gì hay lời nguyền gì? Hơn thế nữa, họ hàng,
con cháu – nói chung là thế hệ sau – của bộ ba Đồng-Chinh-Giáp hầu như
đều sống rất kín tiếng, dù vẫn rất sung túc. Không phải chỉ vì họ có đạo
đức và khiêm tốn, mà phải vì có những điều gì đó khác nữa mà họ sợ, mà
họ cần phải giữ và không thể nói ra? Đó là cái gì đã kết nối họ xung
quanh “lãnh tụ” HCM từ chuyến đi TQ định mệnh năm 1940 đó?
Bộ ba Đồng-Chinh-Giáp bắt đầu sự nghiệp vô tình giống nhau từ trường
Albert Sarraut của Pháp những năm 1930s, rồi suốt cả sự nghiệp mấy chục
năm đến tận 2010s vẫn giống nhau ở đời con cháu mà không ai chọn khởi
nghiệp từ các trường đảng mang tên Ng Ái Quốc để làm chính trị như ba vị
tiền bối “khai quốc công thần” của CSVN trên thì quả là… đáng đặt ra
câu hỏi thêm này.
Lịch sử có ngẫu nhiên hay có tình cờ mãi thế không với ba họ Đặng, Phạm,
Võ kia thì... chỉ có Lịch sử mới trả lời được. Tôi đây tự nhiên mấy hôm
nay húc vào chân Ông Lịch sử, xin ông rộng lòng ngày nào đó giải đáp
cho tôi, cho cả dân Việt biết ba họ kia cùng có duyên nợ gì không và với
ai? Công tội họ thế nào với dân nước Việt này mà họ phải sống kín như
bưng thế? Sao “lãnh tụ HCM anh minh vĩ đại” mà họ tôn thờ phục vụ suốt
đời không bảo vệ được mình và bảo vệ được họ trước các đồng chí cộng sản
Duẩn Thọ của họ ngay cả cho đến hôm nay, khi họ tất cả đã là người
thiên cổ?
LÊ TRÀ ** CON ĐƯỜNG TRƯỞNG CHINH
Đường cong là do lòng người không thẳng
Cập nhật: 04:43 GMT - thứ năm, 10 tháng 4, 2014
Mấy ngày nay lòng người dậy sóng
vì việc mở rộng cung đường huyết mạch của Thủ đô mang tên của cố Tổng
bí thư Trường Chinh. Sự việc lẽ ra đã không phải tốn nhiều giấy mực của
báo chí nếu sở quy hoạch kiến trúc không bẻ cong nó nhằm né nhà công vụ
và các cơ quan của Quân chủng phòng không không quân Việt Nam.
'Đường cong mềm mại'
Việc nắn lại đường này khiến cho cung đường không còn là đường thẳng mà là trở thành “đường cong mềm mại”, như lời của ông phó Giám đốc Sở Quy hoạch Kiến trúc Hà Nội.
Nếu như cho tôi quyền chất vấn ông
thì tôi sẽ hỏi rằng: “Đường cong như thế nào thì được gọi là đường cong
mềm mại? Có phải là uốn éo hình chữ S mới gọi là mềm mại phải không? Vậy
đường cong cỡ người mẫu Ngọc Trinh có gọi là ‘đường cong mềm mại’ chưa
thưa ông phó Giám đốc?”
Việc bẻ cong con đường này khiến chiều dài đoạn
đường cần thi công tăng lên, người dân phải đi chậm hơn trên quãng đường
dài hơn.
Việc mở rộng thay vì mở về phía Nam trúng các cơ
quan và nhà công vụ của Quân chủng phòng không không quân cho đường
được thẳng; thì sở quy hoạch kiến trúc lại chọn mở về phía Bắc không chỉ
trúng nhiều nhà dân mà làm con đường xấu đi bội phần.
Khi làm công tác quy hoạch giải tỏa, nếu gặp nhà dân thì giải tỏa thẳng trong khi gặp nhà cán bộ thì lại tránh.
Phải chăng nhà cửa của dân không đáng giá bằng nhà cửa cán bộ? Bồi thường nhà dân đỡ tốn kém hơn nhà cán bộ?
Nhìn người dân thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh
trong những năm gần đây luôn phải sống chung với lũ mỗi khi có mưa lớn
hoặc triều cường để thấy được tầm cỡ của cái cơ quan được gọi là sở quy
hoạch kiến trúc đến đâu.
"Xã hội bây giờ còn nhiều cái bị bẻ cong nữa; nào là lương tâm bị bẻ cong, chính sách bị bẻ cong, báo cáo bị bẻ cong, giá trị bị bẻ cong....rồi đến tự do bị bẻ cong, nhân quyền bị bẻ cong... Tất cả những thứ bị bẻ cong ấy cũng khiến niềm tin của người dân bị cong theo."
Việc quy hoạch thiếu đồng bộ, thiếu khoa học
cùng với việc thi công thiếu sự phối hợp giữa các đơn vị liên quan bên
cạnh việc đề cao lợi ích nhóm đã phá vỡ hạ tầng và hủy hoại môi trường
cảnh quan. Nếu như cứ quy hoạch như thế này thì đất nước cứ mãi lẩn
quẩn trong cái vòng kim cô phát triển hạ tầng mà không còn nguồn lực để
tập trung vào việc phát triển cái khác.
Đâu đâu cũng thấy “cong”
Tôi đem chuyện cung đường Trường Chinh ra trong
lúc trà dư tửu hậu với mấy anh em đồng nghiệp. Có người bảo rằng “Con
đường bị bẻ cong đâu có nhằm nhò gì; lịch sử, luật pháp mà người ta còn
bẻ cong được huống chi là con đường.”
Nghe đến đây tôi chợt giật mình khi mấy ngày qua
có người phanh phui sự thật về một nhân vật lịch sử được in trong sách
giáo khoa tuyên truyền suốt bao thế hệ, rồi đến việc năm công an đánh
chết dân nhưng viện kiểm sát chỉ đề nghị án treo.
Thiết nghĩ luật đã ban hành trên giấy trắng mực
đen trước toàn dân mà còn bẻ cong được huống hồ chi những việc mà chỉ có
một nhóm nhỏ quyết định. Họ muốn thẳng thì sẽ thẳng mà muốn cong thì sẽ
cong.
Xã hội bây giờ còn nhiều cái bị bẻ cong nữa;
nào là lương tâm bị bẻ cong, chính sách bị bẻ cong, báo cáo bị bẻ
cong, giá trị bị bẻ cong....rồi đến tự do bị bẻ cong, nhân quyền bị
bẻ cong...
Tất cả những thứ bị bẻ cong ấy cũng khiến niềm tin của người dân bị cong theo.
Có những đường cong nhìn đẹp mắt khiến người ta
thấy thích thú muốn khám phá. Nhưng cũng có những đường cong thấy chướng
mắt, nó giống như cái gai trong mắt mà người ta phải chịu đựng. Chắc
chắn có một ngày người ta chịu không nổi cái gai đó và sẽ nhổ nó quăng
đi.
Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả đang sinh sống và làm việc tại Sài Gòn.http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2014/04/140410_letra_duongcong.shtml
TIN THẾ GIỚI
Khủng hoảng Ukraina: Mỹ đưa quân tới Ba Lan và Estonia
Máy
bay trinh thám AWACS của NATO cất cánh từ sân bay Geilenkirchen, gần
biên giới Đức-Hà Lan, đi tuần tra không phận Rumani (Ảnh chụp ngày
16/04/2014)
REUTERS
Thông tín viên RFI Jean Louis Pourtet tường trình từ Washington :
Diễn biến tình hình ngày càng đáng ngại tại Ukraina, được cho
là do Nga khuấy động, đã buộc Liên minh Bắc Đại Tây Dương NATO phải
phản ứng. Vào hôm qua, 16/04/2014, khối này đã bắn đi một thông điệp
mạnh mẽ tới Nga khi quyết định tăng cường hệ thống phòng thủ các nước
Đông Âu đang càng lúc càng lo ngại trước cuộc khủng hoảng ở Ukraina.
Ngày 20/04/2014, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Itsunori Onodera cho rằng, máy bay quân sự Nga gia tăng một cách « không bình thường » các phi vụ bay sát không phận Nhật Bản trong những ngày gần đây.
Chính quyền hứa hẹn lượng điện do đập Tam Hiệp sản xuất có thể « chiếu sáng phân nửa đất nước Trung Quốc ». Và
một khi đi vào hoạt động, nhà máy thủy điện khổng lồ này sẽ giúp người
dân được xài điện với giá rẻ hơn.Tuy nhiên khi thủy điện Tam Hiệp hoàn
thành vào năm 2013, số lượng điện mà công trình này đóng góp vào mạng
lưới quốc gia chỉ chiếm có 1,6% mà thôi. Còn về lời hứa giảm giá điện
thì vẫn là lời hứa hão, trong khi lợi nhuận của tập đoàn phụ trách xây
dựng đập tăng lên vùn vụt.
Những lời hứa hão huyền
« Bộ trưởng Quốc phòng Ba Lan Tomasz Siemoniak, cách nay hai
ngày, trả lời báo Mỹ Washington Post, đã cho biết, Lầu Năm Góc đang
chuẩn bị gửi quân sang Ba Lan và các nước vùng Baltic. Tin trên đã được
một quan chức Hoa Kỳ xác nhận và cho biết thêm là lính Mỹ sẽ được điều
tới Estonia và Ba Lan.
Sau cuộc tiếp xúc giữa ông Tomasz Siemoniak và đồng nhiệm Mỹ
Chuck Hagel, phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Mỹ, ông John Kirby, khẳng định
Hoa Kỳ tham gia tập trận cùng với các đồng minh Đông Âu nhằm « tăng
cường khả năng ứng phó trên bộ, trên không và trên biển ». Một số hoạt
động trong cuộc thao diễn quân sự đó sẽ được « quyết định song phương
giữa phía Hoa Kỳ với các đồng minh trong NATO », một số khác sẽ do chính
các thành viên của Liên Minh Bắc Đại Tây Dương - NATO - tiến hành ».
Trên thực tế, quyết định nói trên của Washington nhằm trấn an các
nước Đông Âu đang rất lo ngại trước những diễn biến tình hình tại
Ukraina và những quốc gia đó đang tự hỏi là liệu họ sẽ có còn được Hoa
Kỳ hỗ trợ hay không trong trường hợp cần thiết.
Các quốc gia vùng Baltic đặc biệt đang rất lo lắng : Họ đã đã gia
nhập khối NATO từ ăm 2004 và luôn trong thế khó xử vì muốn tránh chọc
giận ông Putin. Kể từ sau vụ Nga thôn tính vùng tự trị Crimée của
Ukraina, Liên Minh Bắc Đại Tây Dương đã phải xét lại chính sách của mình
và đang có khuynh hướng tăng cường sự hiện diện quân sự tại Đông Âu,
bằng cách gửi máy bay và tàu tuần duyên đến vùng này nhiều hơn.
Việc Mỹ điều quân – dù chỉ rất khiêm tốn về mặt số lượng - sang
Ba Lan và Estonia đáp ứng nguyện vọng của ông James Jeffrey, cựu đại sứ
Hoa Kỳ tại Irak. Trong tuần, phát biểu trên nhật báo Washington Post,
ông này chủ trương Mỹ nên triển khai lực lượng trên bộ để bắn đi một tín
hiệu mạnh với đối phương. Theo ông Jeffrey, đưa quân tới hiện trường là
một biện pháp có hiệu quả hơn, đáng sợ hơn là việc triển khai máy bay
tiêm kích hay khu trục hạm để thị oai ».
Tình hình Ukraina xấu đi : NATO tăng cường hệ thống phòng thủ
Máy bay trang bị radar AWACS của Nato triển khai trên bầu trời Ba Lan và Rumani.
Reuters
Đích thân Tổng thư ký NATO, ông Anders Fogh Rasmussen đã loan
báo : « Chúng tôi sẽ có thêm máy bay trên bầu trời, tàu thuyền trên
biển, và lực lượng trên bộ sẽ tăng cường chuẩn bị ». Ông đồng thời tiết
lộ một loạt các biện pháp quân sự đã được 28 quốc gia thành viên khối
Bắc Đại Tây Dương quyết định.
Trước hết, ngay từ lúc này, khối NATO sẽ gia tăng gấp bội các phi vụ
tuần tra trên bầu trời các nước Baltic, và sẽ tăng cường lực lượng tàu
thuyền triển khai trên vùng biển Baltic và miền Đông Địa Trung Hải. Các
lực lượng võ trang cũng sẽ gia tăng tập luyện và tập trận chung.
Việc huy động lực lượng to lớn nói trên được cho là nhằm đối phó với
Nga. Tướng Mỹ Philip Breedlove – Tư lệnh tối cao của lực lượng NATO, vào
hôm qua, đã cáo buộc rằng Nga vẫn duy trì « một lực lượng hùng hậu » -
từ 35.000 đến 40.000 quân - gần biên giới Ukraina để sẵn sàng can thiệp.
Tuy vậy, theo giới phân tích, các biên pháp nói trên chủ yếu được
dùng để trấn an các nước NATO ở gần Nga và Ukraina như các quốc gia
Baltic, Ba Lan và Rumani. Những nước Đông Âu này cho đến nay không ngừng
đòi hỏi là Phương Tây phải cứng rắn hơn trong phản ứng chống lại Nga.
Họ sợ rằng nếu phương Tây không làm gì, tình hình bất ổn ở Ukraina -
do các thành phần thân Nga gây nên - có thể lây lan qua các vùng có cộng
đồng nói tiếng Nga rất đông đảo, như tại ba Quốc gia Baltic hay xa hơn
xuống phía Nam, tại các nước chung quanh Biển Đen.
Vào hôm qua, Tổng thư ký Liên minh Bắc Đại Tây Dương xác nhận : «
Vai trò trung tâm của NATO là che chở và bảo vệ các đồng minh ».
Phải nói là kể từ khi Nga thôn tính Crimée, NATO đã tăng cường tuần
tra trên không phận các nước vùng Baltic và cho triển khai máy bay trang
bị radar AWACS ở Ba Lan và Rumani. Hoa Kỳ cũng gửi thêm chiến đấu cơ và
chiến hạm đến khu vực.
Pháp cho biết sẽ đóng góp cho NATO 4 chiến đấu cơ Rafale kể từ tháng
Năm để tuần tra trên các nước vùng Baltic. Anh, Đức và Đan Mạch cũng đề
nghị tăng viện.
Các quan chức NATO khẳng định rằng các biện pháp tăng cường lực lượng
nói trên mang tính chất « hoàn toàn phòng thủ » và không hề là mối đe
dọa đối với Nga.
Theo một nhà ngoại giao được hãng tin Pháp AFP trích dẫn, « phản ứng
của NATO đến nay vẫn tương đối ôn hòa ». Nhân vật này nêu ra ví dụ là
các nước NATO đã không triển khai bộ binh, thiết lập căn cứ hay gia tăng
sự hiện diện tại Biển Đen, bất chấp đòi hỏi của một số thành viên.
Đối với giới phân tích, phản ứng chừng mực của NATO còn có thể được
giải thích bằng thực tế là Liên minh Bắc Đại Tây Dương không có nhiều
khả năng hành động tại Ukraina vì quốc gia này không phải là một thành
viên NATO, nhưng lại bị buộc phải làm một cái gì đó với hy vọng là tình
hình không xấu đi thêm.
Tokyo cảnh cáo máy bay quân sự Nga vào sát không phận Nhật
Bộ
trưởng Quốc phòng Nhật Bản Itsunori Onodera (G) đang thị sát trạm đồn
trú ở thành phố Yonaguni, thuộc Okinawa, ngày 19/04/2014
REUTERS
Theo Bộ Quốc phòng Nhật, cho đến hôm 19/04/2014, trong 7 ngày
liên tiếp, lực lượng phòng không đã phải điều máy bay chiến đấu chặn
đuổi máy bay quân sự Nga bay dọc theo quần đảo Nhật Bản.
Chỉ nội trong ngày thứ Sáu 18/04/2014, sáu chiếc oanh tạc cơ của Nga
loại TU 95 đã bay song song hai chiếc một và một cặp trong số đó đã bay
lượn trên bầu trời đảo Okinawa trước khi tiếp tục bay về phía bắc, dọc
bờ biển Thái Bình Dương.
Vẫn theo nguồn tin trên, hai cặp oanh tạc cơ của Nga còn lại đã bay
ngang qua vùng biển Nhật Bản nhưng không xâm phạm không phận của Nhật.
Đang có mặt tại thành phố Okinawa để dự lễ ra mắt một phi đội trinh sát
cảnh báo, Bộ trưởng Quốc phòng Itsunori Onodera cho rằng, phía Nga đang
thực hiện những chuyến bay quân sự mà Nhật Bản coi là « không bình thường và đây là điều chưa từng xảy ra ngay cả trong thời kỳ Chiến tranh lạnh ». Theo quan điểm của Tokyo, « ý
đồ của Nga không rõ ràng và quan chức Quốc phòng Nhật tại Nga đang cố
gắng làm sáng tỏ vấn đề (…) Nhật Bản theo dõi chặt chẽ tình hình ».
Thêm một quan chức Nhật Bản viếng thăm đền thờ Yasukuni
Sáng nay 20/04/201, Quốc vụ khanh đặc trách vấn đề người Nhật bị Bắc
Triều Tiên bắt cóc, kiêm Chủ tịch Ủy ban An ninh Quốc gia Nhật Bản, ông
Keiji Furuya, đã tới viếng đền Yasukuni vào dịp lễ hội mùa xuân diễn ra
từ ngày 31/03 đến 23/04/2014. Sau Bộ trưởng Nội vụ và Truyền thông
Yoshitaka Shindo, ông Furuya là Bộ trưởng thứ nhì của Thủ tướng Shinzo
Abe đến viếng đền Yasukuni trong vòng 10 ngày qua.
Giải thích với báo chỉ, Chủ tịch Ủy ban An ninh Quốc gia Nhật Bản cho
biết, ông thực hiện chuyến viếng thăm này nhằm ngỏ lời chia buồn và cầu
nguyện cho những người đã hy sinh tính mạng vì đất nước và đó là điều
bình thường. Tuy nhiên, việc các quan chức trong chính quyền Nhật Bản
viếng thăm ngôi đền này luôn khiến Trung Quốc và Hàn Quốc bất bình, do
trong số gần hai triệu rưỡi người lính được tổ quốc ghi công, có cả linh
vị của 14 tướng lĩnh và lãnh đạo Nhật Bản phạm tội ác chiến tranh trong
Đệ nhị Thế chiến.
Nhật dồn phi cơ trinh sát xuống phía nam đề phòng Trung Quốc
Trinh sát cơ E-2C
(wikipedia.org)
Quân đội Nhật Bản vừa quyết định tăng cường năng lực giám sát
trên không và trên biển tại khu vực phía nam quần đảo Okinawa. Theo
hãng tin Nhật Jiji và Kyodo vào hôm nay, 20/04/2014, một phi đội gồm 4
máy bay trinh sát cảnh báo sớm vừa được triển khai tại căn cứ không quân
Naha, thủ phủ tỉnh Okinawa. Việc dồn lực lượng trinh sát xuống miền nam
nằm trong chiến lược tăng cường phòng thủ trong bối cảnh tranh chấp
quần đảo Senkaku/Điếu Ngư với Trung Quốc.
Đây là lần đầu tiên mà chính quyền Nhật Bản cho triển khai loại
phi cơ do thám này trên đảo Okinawa. Theo hãng Kyodo, phát biểu trong
một buổi lễ xuất quân tại Naha, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Nhật Bản
Itsunori Onodera xác định rằng Tokyo đang phải đối mặt với một « tình huống nguy hiểm », với việc Trung Quốc đang tìm cách « thay đổi hiện trạng bằng vũ lực ».
Còn theo hãng Jiji, ông Onodera đã nói thêm : « Phi đội (bao gồm bốn chiếc máy bay) được triển khai để bảo vệ lãnh thổ Nhật Bản, trên đất đất liền, trên biển và trên không khí ».
Trinh sát cơ E-2C là loại máy bay cảnh báo sớm trên không, được trang
bị hệ thống radar hiện đại, có khả năng hoạt động trong mọi điều kiện
thời tiết. Không quân Nhật Bản hiện chỉ có 13 máy bay loại này, đặt căn
cứ tại Misawa, miền bắc nước Nhật. Bốn trong số đó như vậy đã được
chuyển xuống Naha.
Công việc của các phi cơ trinh sát ở miền nam được coi như sẽ không
thiếu, vào lúc Trung Quốc thường xuyên cho tàu, và cả máy bay, thâm nhập
vào không phận và hải phận Nhật Bản quanh đảo Senkaku/Điếu Ngư trong
thời gian gần đây. Bộ Quốc phòng Nhật cho biết là từ tháng Giêng đến
tháng Ba vừa qua, Nhật Bản đã phải cho chiến đấu cơ cất cánh 415 lần khi
được tin máy bay quân sự Trung Quốc đến hoạt động gần không phận Nhật
trong khu vực.
Việc triển khai trinh sát cớ E-2C tại Naha được xúc tiến đồng thời
với việc khởi công xây dựng một đài radar trên đảo Yonaguni để theo dõi
hoạt động của tàu thuyền và máy bay trong khu vực nhậy cảm này của biển
Hoa Đông. Yonaguni chỉ cách quần đảo Senkaku/Điếu Ngư đang bị Trung Quốc
tranh chấp khoảng 150 km về phía tây nam.
Tiền xây đập Tam Hiệp đi về đâu ?
Đập Tam Hiệp trên sông Dương Tử - REUTERS /STRINGER SHANGHAI
Tờ Courrier International số ra tuần này có bài viết mang tựa đề « Tiền từ đập Tam Hiệp đi về đâu ? » dịch
từ Đông Phương Tảo Báo (Dongfang Zaobao) xuất bản ở Thượng Hải, cho
biết việc thay đổi nhiều nhân sự quan trọng trong ban giám đốc Tam Hiệp
đã làm dấy lên trở lại những câu hỏi về tài chính của công trường này,
cùng với hệ quả trực tiếp của nó lên giá thành một kilowatt điện.
Đập Tam Hiệp hiện nay lại trở thành trung tâm tranh cãi dữ dội, với
những vấn đề được đặt ra từ nhiều năm trời vẫn chưa có câu trả lời.
Ngày 12/10/2009, một người dân Bắc Kinh tên là Nhâm Tinh Huy (Ren
Xinghui) đã đòi hỏi Bộ Tài chính Trung Quốc công khai tất cả các thông
tin liên quan tới những nguồn thu chi của Quỹ xây dựng đập Tam Hiệp
(QXDDTH), theo như luật pháp cho phép. Bộ này trả lời là do ông Nhâm
Tinh Huy không phải là người chịu ảnh hưởng trực tiếp nên không thể tham
khảo thông tin. Đến 28/12/2009, công dân này khiếu nại nhưng bị Bộ Tài
chính gạt sang một bên. Nhâm Tinh Huy bèn kiện lên tòa án Bắc Kinh hôm
26/01/2010. Hai tháng sau, tòa bác đơn của ông.
Song song đó, tuần báo Liêu Vọng (Liaowang) của Nhà nước đã nhiều lần
xin phỏng vấn về Quỹ xây dựng đập Tam Hiệp nhưng luôn bị Bộ Tài chính
từ chối. Còn tập đoàn phụ trách xây dựng đập này là CTGPC (China Three
Gorges Project Corporation) trả lời : « Quỹ này là một quỹ đặc biệt
được ghi trong ngân sách Nhà nước, tập đoàn chúng tôi chỉ là một trong
những tổ chức được quỹ tài trợ mà thôi. Thế nên chúng tôi thấy rằng
không thích hợp với yêu cầu phỏng vấn của tòa soạn ».
Rõ ràng là không thể có được một lời giải thích nào, cho dù yêu cầu
đến từ một công dân hay một phương tiện truyền thông lớn của Nhà nước.
Quỹ xây dựng đập Tam Hiệp được phép nhận tài trợ, qua một thông tư do
bốn bộ trong đó có Bộ Tài chính cùng ban hành ngày 30/12/1992. Việc
thành lập một quỹ chính phủ cho một công trình xây dựng là điều hết sức
hiếm hoi, cả ở Trung Quốc lẫn ở nước ngoài.Những lời hứa hão huyền
Nếu quyết định trên được nhân dân chấp nhận, đó là vì chính quyền đã
hứa hẹn ngay trước khi dự án được hoàn tất, lượng điện do đập Tam Hiệp
sản xuất có thể « chiếu sáng phân nửa đất nước Trung Quốc »
(Nhân dân Nhật báo ngày 11/06/2003). Và một khi đi vào hoạt động, nhà
máy thủy điện khổng lồ này sẽ giúp người dân được xài điện với giá rẻ
hơn.
Tuy nhiên khi thủy điện Tam Hiệp hoàn thành vào năm 2013, số lượng
điện mà công trình này đóng góp vào mạng lưới quốc gia chỉ chiếm có 1,6%
mà thôi (84,7 terawatt/giờ trên tổng số 5.245,1 terawatt/giờ). Còn về
lời hứa giảm giá điện thì vẫn là lời hứa hão, với những nguyên nhân
không rõ ràng như lạm phát và chi phí bảo trì lưới điện. Ngược lại, các
thần dân nhận thấy lợi nhuận của tập đoàn phụ trách xây dựng đập tăng
lên vùn vụt.
Thoạt đầu, thông tư quy định được trích 0,3 nhân dân tệ trên một
kilowatt/giờ cho Quỹ xây dựng đập Tam Hiệp, cùng với một sắc thuế cố
định. Nhưng sau đó số tiền trích cho quỹ được nâng lên 0,9 nhân dân tệ,
thậm chí 1,5 nhân dân tệ ở một số nơi. Trong quãng thời gian mà Nhâm
Tinh Huy chạy tới chạy lui từ cơ quan này sang cơ quan khác để đòi hỏi
sự minh bạch, công trường xây dựng đập Tam Hiệp đã hoàn thành. Người ta
tin tưởng một cách rất lô-gic là nhà máy xây xong thì việc trích nộp sẽ
chấm dứt, nhưng thông tư khẩn cấp trên lại không ghi thời điểm kết thúc.
Đến ngày 31/12/2009, chính quyền công bố « các biện pháp tạm thời liên quan đến cung ứng, sử dụng và quản lý quỹ xây dựng các công trình thủy điện lớn của quốc gia »,
bắt đầu từ ngày 01/01/2010. Như vậy trên thực tế đã lập ra một quỹ mới
để thay thế quỹ cũ, giúp kéo dài việc đánh thuế cho đến ngày 31/12/2019.
Dân chúng kêu rêu rất nhiều về cách làm này, nhưng không thể nào
khiến chấm dứt được việc trích quỹ. Và thực ra, khi một quy định liên
quan đến thuế được áp dụng ngay hôm sau khi được công bố, thì chính
quyền không chừa cánh cửa nào cho đối thoại.
Courrier International trích lời bình của một blogger trên trang web
của Tân Hoa Xã, cho rằng vấn đề tài chính của đập Tam Hiệp chỉ là phần
nổi của tảng băng. Hồi tháng Hai, Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng đã chỉ
trích sự mập mờ trong việc gọi thầu và bổ nhiệm các thành viên tập đoàn
CTGPC. Đến tháng Ba, Tổng giám đốc Tào Quảng Tinh (Cao Guangjing) và
Phó tổng giám đốc Trần Phi (Chen Fei) đã bị đổi đi nơi khác. Cùng lúc
đó, báo chí Trung Quốc tố cáo nhiều ca tham nhũng liên quan đến đập Tam
Hiệp, dẫn đến việc nhiều quan chức của tỉnh Hồ Bắc bị cách chức.
Ukraina : Thắng lợi chính trị của Putin
Liên quan đến tình hình đang sôi động ở Ukraina, Le Monde có bài xã luận mang tựa đề « Ukraina : Thắng lợi chính trị của Putin ». Tờ báo nhận xét, Nga đang dần áp đặt được chính sách của mình lên Ukraina.
Matxcơva thực hiện với một sự pha trộn giữa sự thô bạo kiểu Liên Xô
cũ và nghệ thuật ngoại giao. Thô bạo dành cho Crimée, bán đảo của
Ukraina mà Nga đã sáp nhập hồi tháng trước. Còn nghệ thuật ngoại giao,
là thỏa thuận đã ký kết hôm thứ Năm 17/04/2014 tại Genève.
Đã hẳn tất cả mọi người đều hoan nghênh hội nghị bốn bên Ukraina,
Nga, Hoa Kỳ và Liên hiệp châu Âu, có thể đánh dấu khởi đầu của việc
xuống thang trong cuộc khủng hoảng Ukraina. Điều này chưa đạt được,
nhưng « tuyên bố chung » được các bên tham gia ký kết đi theo hướng
này.Thông cáo kêu gọi giải giáp các nhóm vũ trang bất hợp pháp, ra lệnh
cho các nhóm này phải rời khỏi các tòa nhà chính phủ đang chiếm đóng,
chủ yếu ở miền đông. Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE) tập hợp
toàn thể các Nhà nước châu Âu, sẽ giúp đỡ chính quyền Kiev áp dụng các
biện pháp xuống thang.
Đã hẳn, khi đặt bút ký tên bên cạnh chữ ký của người đồng nhiệm
Ukraina là Andrei Dechtchitsa, Ngoại trưởng Nga Serguei Lavrov đã có một
cử chỉ hòa hoãn về phía Kiev. Đó là Matxcơva coi như đã ngầm công nhận
chính phủ Ukraina và là một bước đi đúng đắn.
Nhưng về bản chất, văn bản ký kết bên bờ hồ Léman đánh dấu chiến
thắng của điện Kremli. Vladimir Putin đã áp đặt được chính sách của
mình. Một mặt, « tuyên bố chung » không nêu tên Crimée, cứ như là việc
sáp nhập đã được chấp nhận rồi. Mặt khác, Nga áp đặt cách xử sự cho quốc
gia láng giềng của mình.
Ông Putin không muốn có một Ukraina có trọn vẹn chủ quyền, và muốn
làm chính quyền trung ương Kiev suy yếu. Matxcơva muốn Ukraina trở thành
một liên bang phải chịu đựng sức ép tại các vùng miền đông và đông nam
chủ yếu nói tiếng Nga, bị rơi vào vòng tay của Matxcơva. Ông ta đã thành
công một phần.
Bản tuyên bố dự kiến tổ chức một cuộc « đối thoại quốc gia » tại
Ukraina nhằm đảm bảo các quyền của công dân Ukraina. Mấy từ sáo rỗng đẹp
đẽ này mang một ý nghĩa rõ ràng, một khi được diễn dịch theo cách nói
thông thường : đó là quyền tự trị rộng rãi cho các địa phương miền đông.
Khi chiếm lấy Crimée rồi gây bất ổn cho miền đông Ukraina, với những
lời dối trá cấp Nhà nước và cho các đơn vị đặc nhiệm Nga xâm nhập, ông
Putin đã tổ chức việc biến đất nước này thành chư hầu. Ông có thể trông
cậy vào sự yếu kém tột độ của tân chính quyền Kiev và cả những sai lầm
chính trị của Ukraina, cũng như sự phức tạp của đất nước này. Nhưng
Putin đã nói ra những ý nghĩ bên trong của mình hôm thứ Năm 17/4, cùng
ngày với hội nghị bên Genève.
Trong một chương trình truyền hình, ông Putin đã đánh giá miền đông Ukraina là « nước Nga mới ». Ông ta nói :
« Kharkov, Lugansk, Donetsk, Odessa trong thời kỳ Sa hoàng không thuộc
về Ukraina. Có trời mới biết tại sao các vùng này lại bị chuyển sang cho
Ukraina năm 1920 ! ». Và Putin nhắc lại rằng vẫn dành quyền can thiệp quân sự vào Ukraina.
Một trong những dự định chiến lược của Tổng thống Putin là tái lập
vành đai dưới sự bảo hộ của Kremli xung quanh Nga. Những nước nào chớm
có ý định thoát ra khỏi mưu đồ đó đều phải biểt rằng sẽ trả giá đắt như
Ukraina.
Tân Thủ tướng Pháp đang ngồi trên núi lửa
Về tình hình nước Pháp, tuần báo L’Express đăng hình tân Thủ tướng Manuel Valls trên trang nhất với hàng tựa « Ông Valls ngồi trên núi lửa ».
Tuy đang rất được lòng dân, nhưng ông đang phải đối diện với những vấn
đề gai góc, là làm thế nào để làm việc được với Tổng thống François
Hollande, xoa dịu các xung đột ngay trong nội bộ đảng Xã hội, thành công
trong việc áp dụng hiệp ước trách nhiệm, tiết kiệm được 50 tỉ euro…
Tác giả bài viết nhận định, tân Thủ tướng hiện đang ở trên chín tầng
mây, trong khi thật ra ông đang trên một ngọn núi lửa. Tầng mây đó là từ
các cuộc thăm dò dư luận : người Pháp thích cá tính và phong cách nhìn
thẳng vào sự việc của ông. Còn hỏa diệm sơn chính là thực tế : một tình
hình kinh tế đáng thất vọng, rạn nứt xã hội trầm trọng, dân chúng bất
tín nhiệm chính phủ.
Thủ tướng Manuel Valls không thiếu can đảm lẫn bản lãnh chính trị.
Nhưng nhược điểm chính của ông là thiếu vắng một chủ thuyết. Cho đến
nay, « chủ nghĩa Valls » chỉ mới là thái độ. Ngày mai, ông không thể tự
hài lòng làm một chiếc cành đỡ cho đóa hoa « chủ nghĩa Hollande » đang
tàn úa, mà phải đóng vai trò một bàn tay sắt. Nếu ông không thể thuyết
phục được về sự hiệu quả của mình trong việc vực dậy đất nước, bằng cách
áp dụng chương trình của một người khác, Manuel Valls sẽ phải bày tỏ
niềm tin thực sự của mình về một chính sách khác. Tờ báo đặt câu hỏi,
liệu tân Thủ tướng có dám tiến hành cuộc nổi loạn này không, có dám làm
một cuộc đảo chính nắm lấy quyền hành một khi đã được giao cho quyền
hành ?
Ung thư còn giết người nhiều hơn cả SIDA
Trên lãnh vực y tế, Courrier International trích dịch một bài viết
trên tờ The Economist xuất bản tại Luân Đôn, về tình trạng dân số càng
lão hóa thì bệnh ung thư lại tăng lên ở những nước nghèo. Căn bệnh này
gây chết người còn nhiều hơn cả ba loại bệnh SIDA, sốt rét và bệnh lao
cộng lại.
Những người nghèo mắc bệnh ung thư không chỉ có nguy cơ tử vong, mà
còn phải chịu nhiều đau đớn trong khi không tiền chạy chữa. Khi các nhà
nghiên cứu hỏi chuyện các bệnh nhân người Tô Cách Lan đang trong giai
đoạn cuối, họ nói về sự khủng hoảng và tuyệt vọng tinh thần, trong lúc
bệnh nhân người Kenya kể về những đau đớn thể xác và âu lo về tiền bạc.
Ung thư giết hại nhiều nạn nhân hơn, nhưng lại không được hưởng các
nguồn tài chính dành cho việc chống lại bệnh SIDA, sốt rét và lao. Ba
trong số các « mục tiêu thiên niên kỷ về phát triển » liên quan đến lãnh
vực y tế, nhưng không hề nêu ra bệnh ung thư. Và hiếm có loại thuốc trị
ung thư thế hệ mới nào được Tổ chức Y tế Thế giới coi là chính yếu,
trong khi tình hình bệnh ung thư hiện nay có thể so sánh với SIDA của
thập niên 80.
Trên thực tế 80% số bệnh nhân lẽ ra không thiệt mạng nếu được chữa
trị đến nơi đến chốn, đều sống ở các nước có thu nhập thấp và trung
bình. Các bác sĩ ước tính có thể cứu được khoảng 80% người mắc bệnh ung
thư gan và 70% bệnh nhân ung thư cổ tử cung nếu họ được chủng ngừa viêm
gan siêu vi C và VPH, với chi phí rất thấp.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20140419-tien-xay-dap-tam-hiep-ve-dauVĂN NGHÊ HẢI NGOẠI
Những bài hát về Sài Gòn được viết sau 1975 từ hải ngoại
Chỉ còn ít ngày nữa sẽ đến ngày đánh dấu cuộc ra đi lớn nhất của những người Việt tị nạn sau biến cố 30/4. Và cũng kể từ thời điểm này, nhiều sáng tác viết về miền đất mẹ của những nhạc sĩ hải ngoại mang âm hưởng bi tráng, trầm buồn pha lẫn những nỗi niềm đau đáu, chất chứa về một tương lai bất định ra đi để trở về hay ra đi là mãi mãi?
Và trong chương trình âm nhạc kỳ này, chúng tôi mời quí vị cùng nghe lại một số nhạc phẩm tiêu biểu viết về Sài Gòn của các nhạc sĩ hải ngoại sau năm 1975.
Sài Gòn niềm nhớ không tên
Sài Gòn là chủ đề lớn trong âm nhạc Việt Nam, nhất là sau biến cố
30/4, khi hàng triệu người Việt lưu lạc khắp năm châu bốn bể, khi nỗi
nhớ quê nhà càng da diết thì những kìm nén càng dễ tuôn trào, để từ đó
có những nhạc phẩm nói lên sự thống thiết, buồn thương về một quá khứ ai
cũng từng yêu, từng nhớ. Những ca khúc ghi đậm một quãng đường lịch sử
mà chắc hẳn nhiều người Việt xa xứ đều ghi khắc trong tâm khảm, pha chút
chạnh lòng, bồi hồi, khắc khoải, tiếc thương như: Khi Xa Sài Gòn của Lê
Uyên Phương, Đêm Nhớ Về Sài Gòn của Trầm Tử Thiêng, Nắng Paris, Nắng
Sài Gòn của Ngô Thụy Miên, Mưa Sài Gòn Còn Buồn Không Em của Nguyệt Ánh,
hay Cho Thành Phố Mất Tên của Phạm Đình Chương và Sài Gòn Sáng Nắng
Chiều Mưa, Sài Gòn Vĩnh Biệt Tình Ta của Ngọc Trọng và nhiều series khác
viết về Sài Gòn của Phạm Duy hay Trần Chí Phúc… Còn nhiều nhiều lắm
những nhạc phẩm để đời, nhưng hình như vang vọng trong ký ức về một
khoảng trời xa vắng vẫn là những nỗi nhớ, niềm thương, ray rứt không gọi
thành tên:
Nắng bên này buồn lắm anh ơiMột mình em lê bước trên đời
Nắng nơi đây cũng là nắng ấm
Nhưng ấm sao bằng nắng ấm quê hương
Mưa Sài Gòn còn buồn không Em?
Sài Gòn hai mùa mưa nắng, Hòn Ngọc Viễn Đông một thuở xa vời… những ngày tháng tư, nhớ về Sài Gòn, nhiều người Việt tị nạn hẳn sẽ nhớ về những cơn mưa đến đi bất chợt mỗi chiều hè, nhớ cái nắng hoe vàng trên những con phố nhộn nhịp tiếng còi xe, nhớ những con đường đã đi vào văn thơ, tiểu thuyết: Nguyễn Du, Duy Tân, Lê Lợi… thơ mộng và phồn hoa… nhưng có lẽ hơn cả là nhớ giọng nói của người dân ngọt ngào, mềm mại đến nao lòng.
Với những người Sài Gòn, sẽ rất nhớ nhung khi không còn sống ở Sài
Gòn… vẫn biết tương lai tháng ngày còn rất dài nơi đất mới, nhưng lòng
vẫn đau đáu, âm ỉ về một quá khứ vàng son. Sau cuộc chiến kéo dài hơn 20
năm, bao người đã ngã xuống trên đất mẹ, bao người đã bỏ mình trên biển
cả, bao nhiêu cuộc đời tưởng chừng sẽ là dĩ vãng… nhưng không, chính
dòng nhạc viết về Sài Gòn của những nhạc sĩ hải ngoại đã khơi gợi, đã
nhắc nhở, đã để cho thế hệ sau biết rằng từng có một trang sử buồn. Và
trong dòng nhạc đó, tác phẩm Sài Gòn Ơi Vĩnh Biệt của nhạc sĩ Nam Lộc
được xem là đánh dấu cột mốc đầu tiên viết về chủ đề đó.
Sài Gòn ơi tôi đã mất người trong cuộc đời.
Sài Gòn ơi thôi đã hết thời gian tuyệt vời.
Giờ còn đây những kỷ niệm sống trong tôi.
Những nụ cười ngắt trên môi.
Những giọt lệ ôi sầu đắng
Sài Gòn ơi vĩnh biệt
Viết về Sài Gòn sau ngày 30/4, thường các nhạc sĩ trước hết nói lên
chính những suy tâm, hồi tưởng của mình về Sài Gòn, nhưng qua đó các tác
phẩm của họ lại đủ sức lay động con tim của những người cùng cảnh ngộ,
hầu như những ca từ mà các nhạc sĩ khắc khoải nhớ về cũng chính là những
chất chứa mà nhiều người Việt xa xứ, tị nạn muốn thốt lên cho thỏa nỗi
niềm, vì thế, những bài hát viết về Sài Gòn sau ngày 30/4 luôn mang giá
trị lan tỏa thật lớn trong cộng đồng người Việt hải ngoại.
Thực sự có sống trong những tháng ngày li loạn ấy mới thấu hiểu được
vì sao những nhạc phẩm viết về Sài Gòn sau ngày 30/4 có giá trị đến như
vậy, bởi với những nhạc sĩ như Nam Lộc, Việt Dzũng, Nguyệt Ánh, Phạm
Duy… họ đã kinh qua những giây phút đau thương, được chứng kiến sự sống
còn, và thấu hiểu được giá trị thực của sự tự do là thế nào.
Khi quá khứ đã khép lại, cuộc sống của người Việt dù là hải ngoại hay
tại quê nhà đều hướng đến tương lai, nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt từng
nói: Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn.
Vâng, trong những ngày tháng 4, một lần nữa chương trình âm nhạc xin
được gửi tới quí vị một chút lắng đọng, một chút hồi tưởng, để tri ân,
để nhớ về quá khứ và cũng để vui buồn cùng nhân tình thế thái, thời cuộc
hôm nay…
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/MusicForWeekend/oversea-comp-sg-songs-after-1975-vh-04192014102219.html
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/MusicForWeekend/oversea-comp-sg-songs-after-1975-vh-04192014102219.html
Nghệ sĩ Thanh Lan
Từ những thập niên 60, 70 của thế kỷ trước, nghệ sĩ Thanh Lan đã trở thành hiện tượng trong làng văn nghệ Việt Nam, cô nổi danh không chỉ bởi tiếng hát ngọt ngào, vẻ đẹp mặn mà, quyến rũ mà còn bởi cô là nghệ sĩ hiếm hoi thực hiện thành công trên cả lĩnh vực điện ảnh, kịch trường và âm nhạc. Sang định cư tại Hoa Kỳ từ cuối năm 1993, nghệ sĩ Thanh Lan vẫn nổi tiếng với những ca khúc nhẹ nhàng, tình tứ, êm ái thuở nào. Trong chương trình âm nhạc kỳ này, cô dành cho Vũ Hoàng cuộc trò chuyện thân mật, mời quí vị cùng theo dõi.
Quãng đường đã qua
Vũ Hoàng: Trước hết, Vũ Hoàng cám ơn nghệ sĩ Thanh Lan đã dành thời gian cho chương trình âm nhạc hôm nay, thưa chị, chị đã quá nổi danh hơn nửa thế kỷ nay rồi, khi nhìn lại quãng đường vừa qua, một Thanh Lan của hiện tại và một Thanh Lan của ngày xưa, điểm gì giống điểm gì khác, thưa nghệ sĩ Thanh Lan?Thanh Lan: Trước hết cho Thanh Lan gửi lời chào thân thương đến độc giả đài ACTD và chúc Vũ Hoàng một ngày tươi đẹp. Trả lời câu hỏi của Vũ Hoàng, phải nói rằng ngày xưa lúc mới lên truyền hình, hình ảnh của Thanh Lan nhí nhảnh với những bài hát nũng nịu, nhõng nhẽo… đến bây giờ vẫn nhiều khán giả còn nhắc đến hình ảnh của Thanh Lan ngày xưa nũng nịu, dễ thương, vì lúc đó, khi Thanh Lan lên truyền hình còn bé lắm, mới 15 – 16 tuổi đã lên truyền hình hát rồi.
Thường thì nghệ sĩ trên sân khấu lúc nào cũng thấy huy hoàng, khán giả khi đi xem chỉ thấy những lúc người ca sĩ vui tươi nhất, nhưng biết đâu sau nụ cười đó là cả một tâm sự.
-Nghệ sĩ Thanh Lan
Dĩ nhiên, hình ảnh của cô bé Thanh Lan ngày xưa khi còn trẻ và Thanh
Lan hiện nay dĩ nhiên phải khác rất nhiều. Nhưng có một điều là cho đến
hiện nay, dù là đi bất cứ nơi nào, hát bất cứ nơi nào… thì khán giả vẫn
yêu cầu hát lại những bài hát ngày xưa, cho nên, Thanh Lan luôn phải giữ
tâm hồn thật trẻ trung để thể hiện lại những bài hát mà mình đã hát từ
hồi mình mới lớn rất là trong sáng.
Vũ Hoàng: Cám ơn nghệ sĩ Thanh Lan, Vũ Hoàng cũng muốn hỏi
chị là tiếng hát của chị và của ca nhạc sĩ Nhật Trường đã gắn bó với
nhau rất lâu rồi, nhiều người ví giọng hát của 2 người sinh ra là cho
nhau. Một lần nữa, chị có thể chia sẻ về quãng đường rất quan trọng
trong sự nghiệp âm nhạc của mình được không ạ?
Thanh Lan: Dạ vâng, trong tất cả những gì mà Thanh Lan làm từ
trước tới giờ thật ra là do sự đam mê âm nhạc, chứ cũng không dám nghĩ
tới mình đi đến với bao nhiêu triệu người hay bao nhiêu triệu người sẽ
thích mình, Thanh Lan không bao giờ nghĩ đến chuyện đó. Chỉ biết rằng,
ngày xưa trước khi diễn chung với anh Nhật Trường, Thanh Lan cũng diễn
nhiều vở kịch trên đài truyền hình số 9 của Sài Gòn, anh Nhật Trường
thấy Thanh Lan ngoài giọng hát cũng diễn xuất được nên mới mời hát chung
với anh ấy. Điều quan trọng trong những chương trình của anh Nhật
Trường mời không phải là hát mà đòi hỏi diễn xuất rất nhiều. Sau khi
diễn với anh rồi, Thanh Lan mới khám phá ra rằng anh có tài viết kịch
bản và dàn dựng và cũng diễn rất nhuyễn. Cho nên nhiều khi 2 anh em diễn
với nhau mà chẳng cần phải dặn dò gì hết, vui lắm, anh cứ đưa những lời
đối thoại cho Thanh Lan học, xong rồi đến cứ bảo bắt đầu quay thế là
quay… Nói rằng “sinh ra để hát với nhau” cũng đúng vì chẳng cần dặn dò,
tập dượt gì cả, giống như 2 người tự nhiên ăn ý.Vũ Hoàng: Dạ thưa nghệ sĩ Thanh Lan, chị không chỉ nổi tiếng bởi tiếng hát rất ngọt ngào, truyền cảm mà còn bởi vẻ đẹp mặn mà, quyến rũ. Các cụ mình thường nói người phụ nữ đẹp bao giờ cũng truân truyên, chị có nghĩ là sự truân truyên đã “vận” vào lời ca của mình không ạ?
Thanh Lan: Thường thì nghệ sĩ trên sân khấu lúc nào cũng thấy huy hoàng, khán giả khi đi xem chỉ thấy những lúc người ca sĩ vui tươi nhất, nhưng biết đâu sau nụ cười đó là cả một tâm sự.
Thanh Lan cũng giống như những phụ nữ khác mà thôi, một nghề để làm
việc, một nghề để đến với khán giả khắp nơi trên thế giới, tuy nhiên đôi
khi nghĩ lại cũng thấy buồn chứ! Nghĩ tới chữ truân truyên đó, có thể
có tới hàng triệu người thích mình đi, nhưng mà cũng chưa tìm được một
tâm hồn nào 100% hợp với lòng mình, hợp với tâm tính mình, hợp với cách
suy nghĩ của mình để có những chuỗi ngày êm đềm bên nhau. Tại vì cuộc
đời, khi mình ra xã hội đã phải tranh đấu với biết bao nhiêu chuyện khác
rồi, khi về nhà, chỉ muốn có một mái ấm gia đình, một sự êm ái để cho
mình quên đi những khó khăn, mệt nhọc ngoài đường, ai cũng vậy mà, đúng
không?
Nỗi Lòng
Vũ Hoàng: Khi chị sang đến Hoa Kỳ định cư đến nay cũng hơn
20 năm rồi, từ năm 1993, sự nghiệp điện ảnh và sân khấu của chị đã thay
đổi như thế nào ạ?
Thanh Lan: Dạ vâng, khi nhắc đến điện ảnh lại khiến Thanh Lan
nhớ đến chuyện vui vừa qua cuối năm 2013, đầu năm 2014 này. Một cuốn
phim mà Thanh Lan đóng vai chính trong cuốn phim của Nhật và được hãng
phim của Nhật mời qua dự 2 festival, bộ phim Number 10 Blues đã được
giải Audience Award (cuốn phim được khán giả yêu thích nhất) tại
Hiroshima. Đầu năm 2014, đoàn phim Nhật lại gửi cuốn phim qua California
để dự Viet Film Fest của người Việt mình ở đây và Viet Film Fest cũng
tặng cho bộ phim này giải thưởng Spotlight Award vì bộ phim có giá trị
lịch sử trong đó, bởi vì bộ phim được quay hồi tháng 3 năm 1975, trong
đó có rất nhiều hình ảnh bây giờ mình thấy lại mình rất bùi ngùi, xúc
động. Đầu tháng 4 này, ngày 12/4 sẽ được trình chiếu tại thành phố
Anaheim, miền Nam California.
Từ khi qua tới giờ, Thanh Lan cũng đóng vai chính trên 10 vở kịch trên sân khấu kịch, nên cũng đỡ nhớ diễn xuất.
-Nghệ sĩ Thanh Lan
Từ khi Thanh Lan qua đến hải ngoại, Thanh Lan rất nhớ ống kính quay
phim, vì người Việt mình không sản xuất nhiều phim ở California, nên
không có dịp để đóng phim. Nhưng ngược lại, từ khi qua tới giờ, Thanh
Lan cũng đóng vai chính trên 10 vở kịch trên sân khấu kịch, nên cũng đỡ
nhớ diễn xuất.
Vũ Hoàng: Cám ơn nghệ sĩ Thanh Lan đã chia sẻ một giải
thưởng rất là cao quý và Vũ Hoàng nghĩ là trong những ngày tháng 4 sắp
tới, người Việt ở hải ngoại sẽ có cơ hội trải nghiệm lại những gì xảy ra
trong quá khứ. Thưa nghệ sĩ Thanh Lan, Vũ Hoàng đã dành thời gian của
chị nhiều rồi, trước khi chia tay với thính giả RFA, một điều gì chị có
thể chia sẻ để mọi người có thể hình dung ra một Thanh Lan rất năng động
trong thời điểm hiện nay?
Thanh Lan: Trong thời gian này, ngoài việc đi hát hay diễn
kịch, đôi khi buồn buồn thì Thanh Lan làm thơ, Thanh Lan cũng đã ra mắt
một tập thơ từ năm 2002 cơ nhưng không biết bao giờ mới có một đêm để ra
mắt tập thơ khác, bởi vì sau này quá bận không có thơ thẩn nhiều như
ngày xưa.
Ngoài ra, Thanh Lan cũng có dịch lời Việt một số bài hát Pháp, có một
điều thú vị là mới đây nhạc sĩ Hoàng Sa có nhờ Thanh Lan viết một số
lời Tiếng Anh cho những bài hát Tiếng Việt của ông, nên Thanh Lan cũng
có thời gian để tập dượt lại Tiếng Anh mà mình đã học hồi đại học, vì
ngành học của Thanh Lan hồi đó là cử nhân văn chương Anh, cho nên Thanh
Lan rất thích thơ và văn chương. Do vậy, mỗi khi diễn kịch, đóng phim
hay học một bài hát thì Thanh Lan phân tích rất kỹ càng từng lời, từng
chữ trong bài để diễn cho hết ý của tác giả.
Vũ Hoàng: Một lần nữa, Vũ Hoàng xin cám ơn chị rất nhiều và chúc chị thành công hơn nữa trên con đường nghệ thuật!
Thanh Lan: Dạ vâng xin gửi lời chào tất cả và hi vọng rằng một
ngày rất gần Thanh Lan lại có tiếng nói trên đài ACTD và đến thủ đô Hoa
Thịnh Đốn để gặp lại các khán giả thân thương từ mấy mươi năm qua.
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/MusicForWeekend/music-4-weekend-0316-vh-03152014101521.html