TUẤN KHANH * THÔNG ĐIÊP SƠ HÃI
Thông điệp sợ hãi
Thu, 10/01/2015 - 02:34 — tuankhanh
Câu chuyện cậu bé Ahmed Mohamed bị bắt vì chiếc đồng hồ điện tử tự chế của mình, đã có một kết cục dường như sáng sủa hơn khi được tổng thống Mỹ Obama gửi lời mời vào Nhà trắng để giới thiệu sản phẩm của mình. Kịch bản giải quyết khủng hoảng của ông Obama thật sự khéo léo và kịp thời trước khi những điều xấu nhất có thể bùng nổ. Nhưng cũng từ đó, bất kỳ ai cũng có thể thấy thông điệp của sợ hãi đang tràn ngập cả thế giới này, không chừa một điều gì.
Ngày 16/9, trên tất cả các trang tin tức, hầu như ai cũng thấy được gương mặt ngạc nhiên và sợ hãi của em học sinh người Mỹ gốc Trung Đông khi bị cô giáo hiểu lầm chiếc đồng hồ điện tử tự chế của em là bom hẹn giờ. Cha của em, ông Mohamed Elhassan Mohamed nói với báo giới rằng "Ngày 11/9 đã biến tất cả những ai có họ hay được đặt tên là Mohamed trở thành kẻ sai lầm". Tờ Gawker ngay trong ngày đó cũng có bài viết, cho biết trong cùng khoảng thời gian, có 7 học sinh ở đủ các nơi, từ North Carolina cho đến Florida mang đồng hồ điện tử tự ráp đến trường nhưng không hề gặp bất kỳ khó khăn gì, đơn giản vì các em không mang họ Mohamed.
Phản ứng của ông Obama nhanh đến chừng nào, người ta lại cảm nhận được sự sợ hãi của ông lớn đến chừng đó, về một viễn cảnh nước Mỹ sẽ xung đột và nội loạn từ câu chuyện này. Người ta giải quyết mọi chuyện thật nhanh vì nỗi sợ hãi âm ỉ trong tim mình, nên cũng đã biến các thầy cô giáo ở trường trung học MacArthur thành vật hy sinh, như những kẻ tệ hại, mắc sai lầm với chính học sinh của mình.
Nhưng đừng quên, các thầy cô giáo tội nghiệp ở trường trung học đó cũng sợ hãi, vì trách nhiệm mang nặng với hàng trăm học sinh khác đang ở trong ngôi trường của họ, nên đã phản ứng bằng cách cầu viện cảnh sát, cho một trường hợp mà họ không có kinh nghiệm gì ngoài những suy nghĩ mà thế giới thật luôn cảnh báo, và bị sự sợ hãi chiếm hữu.
Thế giới của chúng ta đang đầy sợ hãi như vậy đó. Con người không tin vào con người. Con người sẳn sàng thô bạo hay chà đạp con người chỉ vì sự sợ hãi của bản thân mình. Không chỉ riêng nước Mỹ mà bất cứ nơi đâu cũng vậy. Việt Nam cũng chắc chắn không là ngoại lệ.
Đã bao lâu rồi chúng ta không còn nhớ sự thanh thản và vô hoài nghi với đời sống? Rất nhiều người đi ngang những người ăn xin nơi đô thị, do dự thương hại vì không biết mình có bị rơi vào một mẻ lừa hay không? Có bao nhiêu người gọi một thằng bé đánh giày ở vỉa hè nhưng không căn vặn về giá cả, không lo lắng mình có thể gặp phải kẻ vòi vĩnh tiền bạc?
Chỉ vì sợ hãi lối nhận xét ngang ngược về trang phục của phụ huynh, mà một nhà trường có thể đuổi học đứa trẻ. Cách phản ứng đầy quyền lực và vô văn hoá đó cũng có thể nhìn thấy tận sâu thẳm của nó là sự sợ hãi và tham vọng khép kín sự kiện.
Với các nhà nước độc tài trên thế giới, người ta cũng nhìn thấy sự sợ hãi bất tận trước dòng chảy của sự sống. Dù họ được trang bị cảnh sát, quân đội, vệ binh... Và trấn áp liên tục bằng bạo lực lên chính nhân dân họ, thì đó của là một hiển số về mức độ sợ hãi cho sự tồn vong của chính họ. Bắc Triều Tiên là một điển hình cho hình thái toàn trị sợ hãi đó. Cuba đổi mới hiện nay cũng là sự thức tỉnh từ sợ hãi. Tháng 3/2014, Raul Castro nói với báo chí trong rằng "thay đổi là cơ hội cuối cùng của chúng ta", nếu đó không phải là một thông điệp vọng lên từ đáy sợ hãi, thì là gì?
Trên các trang mạng Việt Nam, rất dễ tìm thấy, người ta dặn dò nhau đừng giúp ai ở đoạn đường ấy, vì có thể bị đưa vào kịch bản cướp giật, trấn lột. Hoặc đừng đi lối đó, có thể sẽ mất tiền cho những kẻ vô lương tâm...v.v bên cạnh những lời cảnh báo, thường là những bình luận tức giận và nguyền rủa rất nặng nề. Sự sợ hãi dừng như cũng kích thích và thúc đẩy phần dữ tợn và bạo lực nhất của con người.
Chỉ vài năm trước đây thôi, chuyện trừng phạt kẻ cắp thường không diễn ra đáng sợ như lúc này. Người ta giới thiệu - một cách lạnh lùng - những hình ảnh một người bị tâm thần ăn cắp vặt bị đánh hội đồng đến máu me bê bết, chỉ còn đủ sức quỳ sụp xuống thẩn thờ. Hoặc mới đây, một cụ già khó khăn đi trộm gà bị đánh, trói và bắt quỳ với con gà buộc phải ngậm nơi miệng. Bao vây cụ là những người trẻ tuổi, có thể gọi cụ bằng ông. Người Việt sợ hãi cho tiền của, sợ hãi sự bất an của xã hội nên trút giận vào những gì mà họ có thể chà đạp được. Thậm chí miền Nam giàu có sản vật, miếng ăn được mời, thức uống được cho cũng đang dần khép lại, mở ra một khung cảnh mới đầy sợ hãi và bạo lực.
Những con đường dẫn đến Hungary đầy người tỵ nạn đáng thương và sợ hãi hôm qua, thì giờ đây đã trở thành nơi bạo động vì họ không còn được chấp nhận nữa. Từ nỗi sợ hãi chạy trốn khỏi loạn lạc, những người tỵ nạn biến nỗi sợ hãi vì không được chấp nhận của họ thành bạo lực, thành một cuộc chiến. Hình ảnh này nhắc cho chúng ta nhớ về những điều rất gần là hàng trăm ngàn công nhân Việt Nam tội nghiệp đang sống nghèo khó, bữa ăn bị đánh tráo bằng những tạp phẩm tồi tệ. Sự bất an và sợ hãi về tương lai của họ luôn có khả năng dẫn đến giận dữ và bạo lực.
Đây chỉ là một vài ghi chú của tôi. Về phần mình, bạn có thể ngồi xuống và gạch ra những ví dụ của riêng mình về thế giới này, đang đầy những thông điệp của sự sợ hãi?
TÙY BÚT VÕ PHIẾN
Tùy Bút Võ Phiến – Rụp Rụp
Wed, 09/30/2015 - 07:28 — tuongnangtien
Võ Phiến (1925 - 2015)
L.T.Đ: Từ California, nhà văn Phạm Xuân Đài vừa cho biết một tin buồn:
“ Võ Phiến đã qua đời vào lúc 7 giờ tối ngày 28 tháng Chín, 2015, tại Advanced Rehab Center of Tustin, Santa Ana, thọ 90 tuổi...
Nhà văn Võ Phiến là một tác giả quan trọng của văn học Việt Nam từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Trước 1975 ông là công chức thuộc bộ Thông Tin của Miền Nam, và đã cộng tác với tạp chí Bách Khoa cho đến 1975 với bút danh Tràng Thiên (một bút danh chung cho nhiều tác giả, nhưng từ sau 1965 hầu như chỉ dành cho một mình ông). Ông sang Hoa Kỳ từ 1975 và làm việc cho tòa Hành Chánh quận Los Angeles, California cho đến ngày về hưu. Tại hải ngoại, ông vẫn tiếp tục viết sách và cộng tác với các tạp chí văn học. Từ cuối thập niên 1970 ông đã chủ trương tờ Văn Học Nghệ Thuật, là tiền thân của tạp chí Văn Học sau này.
Võ Phiến là một tác giả đa dạng. Ông viết truyện ngắn, truyện dài, tạp luận, tùy bút, lý luận và phê bình văn học. Các tác phẩm đã xuất bản của ông gồm có, về truyện ngắn và tiểu thuyết: Chữ Tình, Người Tù, Mưa Đêm Cuối Năm, Về Một Xóm Quê, Đêm Xuân Trăng Sáng, Giã Từ, Thương Hoài Ngàn Năm, Thư Nhà...; về tùy bút, tạp bút: Tạp bút I, II, III, Đàn Ông, Ảo Ảnh, Phù Thế, Chúng Ta Qua Cách Viết, Đất Nước Quê Hương, Tùy bút I, II, Đàm Thoại v.v... Tại hải ngoại, ông đã bỏ công sức trong nhiều năm trời để soạn bộ Văn Học Miền Nam Tổng Quan nhằm lưu giữ nền văn học miền Nam đã bị Cộng Sản thiêu hủy từ sau 1975.”
Để tưởng niệm một vì sao vừa khuất, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu một tuỳ bút tiêu biểu của ông. Bài viết này được trích từ tập Đất Nước Quê Hương, do nhà Lửa Thiêng xuất bản lần vào năm 1973.
Tưởng Năng Tiến
Ông Bình Nguyên Lộc quả quyết rằng trong một bàn ăn mười ba người, gồm mười hai người Việt và một người Hoa, đồng vóc dáng, đồng trang phục, ngồi im không nói, ông cũng phân biệt được kẻ Việt người Hoa.
Như vậy đã là tài, nhưng ông còn đi xa hơn: có thể nhìn hình dáng mà phân biệt được người Tàu Phúc Kiến với người Tàu Quảng Ðông, người Tàu tỉnh này với người Tàu tỉnh khác.(1)
Cũng trong quán ăn, trong khi chờ đợi tô hủ tiếu, tôi có dăm ba lần theo dõi cử chỉ của người làm bếp, và chợt lấy làm ngạc nhiên về một nhận xét. Không phải ngạc nhiên về chuyện suy tưởng nhân chủng ưa liên quan với các tiệm ăn quán nhậu. Mà là vì tôi có cảm tưởng đôi khi có thể nhìn mà phân biệt một người Việt miền Nam với một người Việt miền Trung, tức một đồng bào ở miền ông Bình Nguyên Lộc với một đồng bào ở miền tôi. Nói cách khác, tôi có cảm tưởng mình cũng... tài giỏi như ông Bình Nguyên Lộc: cái mới kỳ cục!
Một buổi trưa, tại Cần Thơ, trong ngôi quán ở đầu một ngõ hẻm gần bến xe Lam, lần đầu tiên tôi chú ý đến điệu bộ có vẻ ngộ nghĩnh của người chủ quán.
Ngôi quán khá chật và tối. Giữa trưa, trong quán vẫn có ngọn điện vàng cạch thả toòng teng trên đầu người chủ. Người này mặc mai-ô quần lính, đầu đội chiếc mũ địa phương quân rộng vành, chân mang đôi giày da đen, không vớ. Tại sao phải giày và mũ trong một chỗ kín như thế? Có thể chỉ là một thói quen, hay chỉ là một trường hợp ngẫu nhiên nào đó, tức một chi tiết không có ý nghĩa gì. Tuy vậy tôi vẫn ghi lại, vì hình ảnh ấy tưởng còn hiển hiện trước mắt tôi lúc này. Hình ảnh một người khỏe mạnh, nhanh nhẹn, và làm việc hào hứng.
Mỗi người có một cách biểu lộ sự hào hứng. Riêng cái cách của người chủ quán hôm ấy, trời ơi, trông mà mê. Hai tay ông ta thoăn thoắt: chặt khúc xương, xắt lát thịt, gắp mớ ớt, múc vá nước từ trong thùng đổ ra tô, xóc xóc mớ hủ tiếu vừa mới trụng qua nước sôi, rắc một tí tiêu bột v.v. Tất cả bấy nhiêu cử chỉ đều rập ràng, hơi có vẻ nhún nhẩy. Mỗi cái quơ tay, cái nhấc lên hạ xuống đều như có gì quá mức cần thiết một chút. Mỗi cử chỉ bao hàm bảy tám phần cần thiết, lại thêm vài ba phần thừa thãi, chỉ để cho đẹp mắt, để biểu diễn sự thích thú trong công việc. Ðộng tác nghề nghiệp gần chuyển thành sự múa men. Một điệu vũ ca ngợi lao động.
Ðứng bên chủ quán là bà vợ, tôi đã tưởng bà làm công việc chạy bàn. Nhưng không: Lúc một cậu bé gầy gầy cưỡi chiếc xe đạp vụt về trước cửa, xách vào cục nước đá, thì đã rõ đây mới là người chạy bàn chính thức; người đàn bà chỉ tạm thời thay thế cậu ta trong chốc lát.
Khi đã đủ một vợ một con bên mình, chủ quán điều động càng hào hứng:
- Bàn trong. Một nhỏ một lớn. Rồi! Bưng.
- Bàn ngoài, số một. Tô lớn, khô. Rồi! Bưng, bàn số một.
- Bàn số ba tính tiền. Tám chục với ba lăm là trăm mười lăm. Trăm mười lăm với tám đồng là trăm hăm ba. Trăm rưởi trừ trăm hăm ba, còn lại...
Bà vợ nhắc:
- Hăm bảy.
- Hăm bảy. Nè!
Ông ta đưa món tiền lẻ, cậu con mang ra cho khách. Rảnh tay, ông ta chặt một miếng cánh gà, nho nhỏ, quăng gọn vào mồm, nhai. Lại nhanh nhẹn chặt luôn miếng khác, trao cho vợ. Người đàn bà thụt né vào sau cánh cửa; ăn xong lại ló ra, sẵn sàng...
- Tô nước, tô khô. Bàn số hai. Rồi!
Cứ thế, chủ quán làm việc, cắt đặt công việc, điều khiển vợ con v.v., điệu bộ vẫn lại cứ như có gì thừa thãi một chút. Bảy tám phần cần thiết, đôi ba phần để bày tỏ sự hài lòng, để biểu diễn sự hoạt động ăn khớp của một tổ chức hoàn hảo, một bộ máy hợp khuôn rập, chạy đều ro ro.
Vừa rồi có lẽ đã có sự lạm dụng: hầu hết mỗi câu nói của người chủ quán đều có một tiếng “rồi”. Nếu tôi ghi nhớ sai, ấy là vì đã quá chú ý đến tiếng đó. Nhưng hay nhất, ngộ nhất lại là cái tiếng “rồi” tưởng tượng phát ra từ mỗi cử chỉ. Mỗi cử chỉ - ngắt cọng rau, xóc mớ hủ tiếu v.v. - đến chỗ sau cùng thường được gằn mạnh. Như thể một tiếng “rồi” phát ra bằng động tác thay vì bằng âm thanh: Một tiếng câm.
Dầu sao lần ấy tôi không có một đối tượng quan sát im lặng như ông Bình Nguyên Lộc; nhưng các lần sau này thì họ im lặng.
Sau buổi trưa ở Cần Thơ, về Sài Gòn những lần vào quán hủ tiếu, tôi sực nhớ hình ảnh nọ, và tò mò nhìn theo chủ quán: thỉnh thoảng lại gặp những điệu bộ ấy. Có khi ở một người đàn bà, có khi ở một người đàn ông đứng tuổi. Họ nhanh nhẹn, mau mắn; nhưng cái đặc biệt là, trong cử chỉ, họ như muốn nhấn mạnh vào tính cách toàn hảo của những hoạt động rập ràng mau mắn ấy.
Những người ấy họ có cung cách làm việc giống nhau. Cung cách ấy, gọi nó ra sao? Tôi tìm một chữ để diễn tả. Tôi loay hoay tìm kiếm... A! Ðây rồi: “Rụp rụp”! Họ làm việc “rụp rụp”.
Chữ nghĩa sao mà thần tình. Lại chính là một tiếng địa phương ra đời ở miền Nam này. Thế mới biết sự xuất hiện của một tiếng nói mới không bao giờ là chuyện ngẫu nhiên, không lý do. Phải có một thực tại mới, đòi hỏi được mô tả sát đúng. Phải có một sự cần thiết réo gọi nó, đích danh nó.
“Rụp rụp” là một đáp ứng tài tình cho một đòi hỏi như thế. Làm rụp rụp không phải chỉ là làm mau mắn, mà còn với một vẻ hứng chí trong sự mau mắn.
- Nhưng tại sao lại bảo đó là của miền Nam? Ðâu phải người nào trong Nam cũng làm việc rụp rụp?
- Tất nhiên đó không phải là tác phong của toàn thể. Cũng không thể nào biết được là tác phong của một tỉ lệ người Nam lớn nhỏ ra sao. Có điều tác phong ấy không gặp thấy ở các miền ngoài. Vả lại, còn có chuyện khác...
- Nào, xem chuyện khác có gì rõ rệt hơn chăng.
Trong một bài tục ca của Phạm Duy, có câu: “Người dân nhìn thoáng hết hồn luôn”, lại có câu: “Lệch đi thì chết, cấm sờ luôn”. Những tiếng “luôn” dùng kiểu đó không có trong ngôn ngữ các miền ngoài.
Cũng thế, ở ngoài Trung mỗi khi xe đò dừng lại dọc đường, hành khách lên xe xong, anh “ết” hô to cho tài xế nghe: “Chạy!”; ở trong Nam, anh ta hô: “Chạy luôn!”.
Tại sao lại luôn? Những tiếng “luôn” ấy không có nghĩa, nhưng dĩ nhiên không phải không có công dụng. Trái lại, công dụng đó thường khi khiến nó còn được xem trọng hơn những tiếng có nghĩa rõ rệt đứng trước nó. Chẳng hạn trong trường hợp “chạy luôn”: tiếng “chạy” hô phớt qua, tiếng “luôn” được gằn mạnh. Người ta nghe “Ch... luôn!”; có khi chỉ nghe có một tiếng “Luôn!”.
- Cảm tưởng? Không có gì rõ rệt.
- Quả nhiên.
Võ Phiến
________________
(1) Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Bách Bộc xuất bản, Sài Gòn, 1971, trang 736, 737.
(2) Sđd., trang 453.
L.T.Đ: Từ California, nhà văn Phạm Xuân Đài vừa cho biết một tin buồn:
“ Võ Phiến đã qua đời vào lúc 7 giờ tối ngày 28 tháng Chín, 2015, tại Advanced Rehab Center of Tustin, Santa Ana, thọ 90 tuổi...
Nhà văn Võ Phiến là một tác giả quan trọng của văn học Việt Nam từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Trước 1975 ông là công chức thuộc bộ Thông Tin của Miền Nam, và đã cộng tác với tạp chí Bách Khoa cho đến 1975 với bút danh Tràng Thiên (một bút danh chung cho nhiều tác giả, nhưng từ sau 1965 hầu như chỉ dành cho một mình ông). Ông sang Hoa Kỳ từ 1975 và làm việc cho tòa Hành Chánh quận Los Angeles, California cho đến ngày về hưu. Tại hải ngoại, ông vẫn tiếp tục viết sách và cộng tác với các tạp chí văn học. Từ cuối thập niên 1970 ông đã chủ trương tờ Văn Học Nghệ Thuật, là tiền thân của tạp chí Văn Học sau này.
Võ Phiến là một tác giả đa dạng. Ông viết truyện ngắn, truyện dài, tạp luận, tùy bút, lý luận và phê bình văn học. Các tác phẩm đã xuất bản của ông gồm có, về truyện ngắn và tiểu thuyết: Chữ Tình, Người Tù, Mưa Đêm Cuối Năm, Về Một Xóm Quê, Đêm Xuân Trăng Sáng, Giã Từ, Thương Hoài Ngàn Năm, Thư Nhà...; về tùy bút, tạp bút: Tạp bút I, II, III, Đàn Ông, Ảo Ảnh, Phù Thế, Chúng Ta Qua Cách Viết, Đất Nước Quê Hương, Tùy bút I, II, Đàm Thoại v.v... Tại hải ngoại, ông đã bỏ công sức trong nhiều năm trời để soạn bộ Văn Học Miền Nam Tổng Quan nhằm lưu giữ nền văn học miền Nam đã bị Cộng Sản thiêu hủy từ sau 1975.”
Để tưởng niệm một vì sao vừa khuất, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu một tuỳ bút tiêu biểu của ông. Bài viết này được trích từ tập Đất Nước Quê Hương, do nhà Lửa Thiêng xuất bản lần vào năm 1973.
Tưởng Năng Tiến
Ông Bình Nguyên Lộc quả quyết rằng trong một bàn ăn mười ba người, gồm mười hai người Việt và một người Hoa, đồng vóc dáng, đồng trang phục, ngồi im không nói, ông cũng phân biệt được kẻ Việt người Hoa.
Như vậy đã là tài, nhưng ông còn đi xa hơn: có thể nhìn hình dáng mà phân biệt được người Tàu Phúc Kiến với người Tàu Quảng Ðông, người Tàu tỉnh này với người Tàu tỉnh khác.(1)
Cũng trong quán ăn, trong khi chờ đợi tô hủ tiếu, tôi có dăm ba lần theo dõi cử chỉ của người làm bếp, và chợt lấy làm ngạc nhiên về một nhận xét. Không phải ngạc nhiên về chuyện suy tưởng nhân chủng ưa liên quan với các tiệm ăn quán nhậu. Mà là vì tôi có cảm tưởng đôi khi có thể nhìn mà phân biệt một người Việt miền Nam với một người Việt miền Trung, tức một đồng bào ở miền ông Bình Nguyên Lộc với một đồng bào ở miền tôi. Nói cách khác, tôi có cảm tưởng mình cũng... tài giỏi như ông Bình Nguyên Lộc: cái mới kỳ cục!
Một buổi trưa, tại Cần Thơ, trong ngôi quán ở đầu một ngõ hẻm gần bến xe Lam, lần đầu tiên tôi chú ý đến điệu bộ có vẻ ngộ nghĩnh của người chủ quán.
Ngôi quán khá chật và tối. Giữa trưa, trong quán vẫn có ngọn điện vàng cạch thả toòng teng trên đầu người chủ. Người này mặc mai-ô quần lính, đầu đội chiếc mũ địa phương quân rộng vành, chân mang đôi giày da đen, không vớ. Tại sao phải giày và mũ trong một chỗ kín như thế? Có thể chỉ là một thói quen, hay chỉ là một trường hợp ngẫu nhiên nào đó, tức một chi tiết không có ý nghĩa gì. Tuy vậy tôi vẫn ghi lại, vì hình ảnh ấy tưởng còn hiển hiện trước mắt tôi lúc này. Hình ảnh một người khỏe mạnh, nhanh nhẹn, và làm việc hào hứng.
Mỗi người có một cách biểu lộ sự hào hứng. Riêng cái cách của người chủ quán hôm ấy, trời ơi, trông mà mê. Hai tay ông ta thoăn thoắt: chặt khúc xương, xắt lát thịt, gắp mớ ớt, múc vá nước từ trong thùng đổ ra tô, xóc xóc mớ hủ tiếu vừa mới trụng qua nước sôi, rắc một tí tiêu bột v.v. Tất cả bấy nhiêu cử chỉ đều rập ràng, hơi có vẻ nhún nhẩy. Mỗi cái quơ tay, cái nhấc lên hạ xuống đều như có gì quá mức cần thiết một chút. Mỗi cử chỉ bao hàm bảy tám phần cần thiết, lại thêm vài ba phần thừa thãi, chỉ để cho đẹp mắt, để biểu diễn sự thích thú trong công việc. Ðộng tác nghề nghiệp gần chuyển thành sự múa men. Một điệu vũ ca ngợi lao động.
Ðứng bên chủ quán là bà vợ, tôi đã tưởng bà làm công việc chạy bàn. Nhưng không: Lúc một cậu bé gầy gầy cưỡi chiếc xe đạp vụt về trước cửa, xách vào cục nước đá, thì đã rõ đây mới là người chạy bàn chính thức; người đàn bà chỉ tạm thời thay thế cậu ta trong chốc lát.
Khi đã đủ một vợ một con bên mình, chủ quán điều động càng hào hứng:
- Bàn trong. Một nhỏ một lớn. Rồi! Bưng.
- Bàn ngoài, số một. Tô lớn, khô. Rồi! Bưng, bàn số một.
- Bàn số ba tính tiền. Tám chục với ba lăm là trăm mười lăm. Trăm mười lăm với tám đồng là trăm hăm ba. Trăm rưởi trừ trăm hăm ba, còn lại...
Bà vợ nhắc:
- Hăm bảy.
- Hăm bảy. Nè!
Ông ta đưa món tiền lẻ, cậu con mang ra cho khách. Rảnh tay, ông ta chặt một miếng cánh gà, nho nhỏ, quăng gọn vào mồm, nhai. Lại nhanh nhẹn chặt luôn miếng khác, trao cho vợ. Người đàn bà thụt né vào sau cánh cửa; ăn xong lại ló ra, sẵn sàng...
- Tô nước, tô khô. Bàn số hai. Rồi!
Cứ thế, chủ quán làm việc, cắt đặt công việc, điều khiển vợ con v.v., điệu bộ vẫn lại cứ như có gì thừa thãi một chút. Bảy tám phần cần thiết, đôi ba phần để bày tỏ sự hài lòng, để biểu diễn sự hoạt động ăn khớp của một tổ chức hoàn hảo, một bộ máy hợp khuôn rập, chạy đều ro ro.
Vừa rồi có lẽ đã có sự lạm dụng: hầu hết mỗi câu nói của người chủ quán đều có một tiếng “rồi”. Nếu tôi ghi nhớ sai, ấy là vì đã quá chú ý đến tiếng đó. Nhưng hay nhất, ngộ nhất lại là cái tiếng “rồi” tưởng tượng phát ra từ mỗi cử chỉ. Mỗi cử chỉ - ngắt cọng rau, xóc mớ hủ tiếu v.v. - đến chỗ sau cùng thường được gằn mạnh. Như thể một tiếng “rồi” phát ra bằng động tác thay vì bằng âm thanh: Một tiếng câm.
Dầu sao lần ấy tôi không có một đối tượng quan sát im lặng như ông Bình Nguyên Lộc; nhưng các lần sau này thì họ im lặng.
Sau buổi trưa ở Cần Thơ, về Sài Gòn những lần vào quán hủ tiếu, tôi sực nhớ hình ảnh nọ, và tò mò nhìn theo chủ quán: thỉnh thoảng lại gặp những điệu bộ ấy. Có khi ở một người đàn bà, có khi ở một người đàn ông đứng tuổi. Họ nhanh nhẹn, mau mắn; nhưng cái đặc biệt là, trong cử chỉ, họ như muốn nhấn mạnh vào tính cách toàn hảo của những hoạt động rập ràng mau mắn ấy.
Những người ấy họ có cung cách làm việc giống nhau. Cung cách ấy, gọi nó ra sao? Tôi tìm một chữ để diễn tả. Tôi loay hoay tìm kiếm... A! Ðây rồi: “Rụp rụp”! Họ làm việc “rụp rụp”.
Chữ nghĩa sao mà thần tình. Lại chính là một tiếng địa phương ra đời ở miền Nam này. Thế mới biết sự xuất hiện của một tiếng nói mới không bao giờ là chuyện ngẫu nhiên, không lý do. Phải có một thực tại mới, đòi hỏi được mô tả sát đúng. Phải có một sự cần thiết réo gọi nó, đích danh nó.
“Rụp rụp” là một đáp ứng tài tình cho một đòi hỏi như thế. Làm rụp rụp không phải chỉ là làm mau mắn, mà còn với một vẻ hứng chí trong sự mau mắn.
- Nhưng tại sao lại bảo đó là của miền Nam? Ðâu phải người nào trong Nam cũng làm việc rụp rụp?
- Tất nhiên đó không phải là tác phong của toàn thể. Cũng không thể nào biết được là tác phong của một tỉ lệ người Nam lớn nhỏ ra sao. Có điều tác phong ấy không gặp thấy ở các miền ngoài. Vả lại, còn có chuyện khác...
- Nào, xem chuyện khác có gì rõ rệt hơn chăng.
Trong một bài tục ca của Phạm Duy, có câu: “Người dân nhìn thoáng hết hồn luôn”, lại có câu: “Lệch đi thì chết, cấm sờ luôn”. Những tiếng “luôn” dùng kiểu đó không có trong ngôn ngữ các miền ngoài.
Cũng thế, ở ngoài Trung mỗi khi xe đò dừng lại dọc đường, hành khách lên xe xong, anh “ết” hô to cho tài xế nghe: “Chạy!”; ở trong Nam, anh ta hô: “Chạy luôn!”.
Tại sao lại luôn? Những tiếng “luôn” ấy không có nghĩa, nhưng dĩ nhiên không phải không có công dụng. Trái lại, công dụng đó thường khi khiến nó còn được xem trọng hơn những tiếng có nghĩa rõ rệt đứng trước nó. Chẳng hạn trong trường hợp “chạy luôn”: tiếng “chạy” hô phớt qua, tiếng “luôn” được gằn mạnh. Người ta nghe “Ch... luôn!”; có khi chỉ nghe có một tiếng “Luôn!”.
Không chừng đó cũng là trường hợp đã xảy đến cho tiếng “vô”. Mời nhau uống rượu, anh em hô: “Dô!” Có lẽ thoạt tiên là tiếng “nhậu vô”, “uống vô” chăng? Dần dần tiếng trước bị lướt phớt qua rồi bị bỏ rơi. Chỉ còn lại tiếng sau; từ một tiếng trợ từ, nó tiến lên nhận lấy cái nghĩa của các tiếng nhậu, uống.
Trong “chạy luôn”, nghĩa ở tiếng chạy; trong “hết hồn luôn”, nghĩa ở hết hồn; trong “nhậu vô”, nghĩa ở nhậu v.v. Còn tiếng “luôn”? Nó thêm vào một thái độ phát biểu, không thêm gì vào cái ý nghĩa đã phát biểu. Trong “chạy luôn” chẳng hạn, “luôn” là một tiếng kêu hơn là một tiếng nói: nó phát lên để tỏ thái độ thúc giục, nó không nói gì về cái nội dung của sự thúc giục ấy. Nó có công dụng về ngữ khí, chứ không phải về ngữ ý.
Như vậy trong cách nói này cái nội dung, cái cần thiết, đôi khi bị lướt qua; cái phụ, có phần thừa thãi, lại được nhấn mạnh.
Lại cái thừa thãi.
Trong cử chỉ, một chút gì thừa, vượt quá sự cần thiết; trong lời nói, cũng một chút gì thừa, vượt quá sự cần thiết. Cử chỉ và lời nói đều được phóng đại lên...
- Vẫn không có gì rõ rệt.
- Không rõ, về mặt nào?
- Một dấu hiệu để phân biệt bản sắc địa phương như vậy không mấy cụ thể.
- Thực ra ở đây vấn đề không phải là đi tìm một dấu hiệu phân biệt. Cái đó đâu cần tìm kiếm nữa? Ðã có sự khác nhau thật rõ ràng, thật cụ thể, ấy là cái chỉ số sọ của ông Bình Nguyên Lộc: cuộc di cư của nhóm Trần Thắng Tài, Dương Ngạn Ðịch làm cho đồng bào ta ở miền Nam có xương sọ hơi dài thêm.(2) Kẻ Nam người Bắc tha hồ yên lặng, ông Bình Nguyên Lộc đo đạc là biết ngay.
Vậy ở đây không có chuyện tìm một dấu hiệu phân biệt. Chẳng qua là chộp bắt một nét cá tính phản ảnh trong phong cách, ngôn ngữ. Và hình như sự phản ảnh không dừng lại ở vài tiếng trợ từ, ở mấy điệu bộ. Hình như trên sân khấu cải lương, một bộ môn nghệ thuật của miền Nam, chúng ta có cảm tưởng nhận thấy cá tính ấy xuất lộ ở phong cách diễn xuất...- Cảm tưởng? Không có gì rõ rệt.
- Quả nhiên.
Võ Phiến
________________
(1) Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Bách Bộc xuất bản, Sài Gòn, 1971, trang 736, 737.
(2) Sđd., trang 453.
SỔ TAY TƯỞNG NĂNG TIẾN
Đang Lên, Đang Sôi & Đang Rên
Thu, 10/01/2015 - 09:55 — tuongnangtien
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
Người ta đang dối trá với chính mình/ trong đói nghèo vẫn hét toáng quang vinh.
Nguyễn Thông
Bông Hồng Tạ Ơn (tập I) là tác phẩm của nhà văn Nguyễn Đình Toàn, T&T tái bản năm 2012, viết về hai trăm ba mươi tư tác giả và nghệ sĩ Việt Nam. Trang bìa cuối có in những dòng giới thiệu ân cần:
Đây không phải là cuốn sách nghiên cứu hay phê bình văn học, nghệ thuật. Mục đích của người viết nhằm chia sẻ chút hiểu biết, những gì còn nhớ về tác phẩm, tác giả mình yêu thích, với những người có cùng cảm nghĩ, như một cách bầy tỏ lòng ngưỡng mộ, lòng biết ơn đối với những người đã dâng hiến những gì tốt đẹp nhất mình có thể làm ra được cho đất nước, nhờ đó, mọi người đã được thừa hưởng ...
Đây rõ ràng là một việc làm ý nghĩa và cao đẹp. Tuy thế, giữa những bông hoa tạ ơn của Nguyễn Đình Toàn – đôi lúc – người đọc hơi bị bất ngờ khi gặp phải gai. Những gai hồng dù rất nhỏ (và dù đã được chăm chút bởi một ngòi viết tài hoa, thông tuệ lẫn bao dung) vẫn khiến cho độc giả thoáng chút ngỡ ngàng, cùng thương xót.
Nguyễn Tuân: Chuyến ông đi thăm chiến trường miền Nam, thấy một người lính Mỹ chết, ông đã cắm điếu thuốc nhét vào miệng anh ta bảo “hút đi!” (S.đ.d trang 494).
Xuân Diệu: Mỗi lần đứng lên nói về thơ Bác, tôi phải khóc để người ta phát cho tôi cái phiếu hai lạng rưỡi thịt heo. (S.đ.d trang 508).
Tương tự, Tô Hoài – cũng đã có lần – phải diễn một show khó coi không kém:
“Khoảng hai trăm tù binh phi công Mỹ xếp hàng đầy hết lòng đường đi tới. Quần áo bà ba mầu xám khói nhạt. Tôi giật mình: tất cả đoàn người bị trói kia sao quá giống hệt nhau? Ở chiều cao, ở khổ người, ở dáng đi, ở nét mặt, ở tư thế và thần thái. Lầm lũi ngửng đầu nhìn thẳng vào cái không gian bao quanh đằng đằng sát khí và tiếng la ó...
Nguyễn Thông
Bông Hồng Tạ Ơn (tập I) là tác phẩm của nhà văn Nguyễn Đình Toàn, T&T tái bản năm 2012, viết về hai trăm ba mươi tư tác giả và nghệ sĩ Việt Nam. Trang bìa cuối có in những dòng giới thiệu ân cần:
Đây không phải là cuốn sách nghiên cứu hay phê bình văn học, nghệ thuật. Mục đích của người viết nhằm chia sẻ chút hiểu biết, những gì còn nhớ về tác phẩm, tác giả mình yêu thích, với những người có cùng cảm nghĩ, như một cách bầy tỏ lòng ngưỡng mộ, lòng biết ơn đối với những người đã dâng hiến những gì tốt đẹp nhất mình có thể làm ra được cho đất nước, nhờ đó, mọi người đã được thừa hưởng ...
Đây rõ ràng là một việc làm ý nghĩa và cao đẹp. Tuy thế, giữa những bông hoa tạ ơn của Nguyễn Đình Toàn – đôi lúc – người đọc hơi bị bất ngờ khi gặp phải gai. Những gai hồng dù rất nhỏ (và dù đã được chăm chút bởi một ngòi viết tài hoa, thông tuệ lẫn bao dung) vẫn khiến cho độc giả thoáng chút ngỡ ngàng, cùng thương xót.
Nguyễn Tuân: Chuyến ông đi thăm chiến trường miền Nam, thấy một người lính Mỹ chết, ông đã cắm điếu thuốc nhét vào miệng anh ta bảo “hút đi!” (S.đ.d trang 494).
Xuân Diệu: Mỗi lần đứng lên nói về thơ Bác, tôi phải khóc để người ta phát cho tôi cái phiếu hai lạng rưỡi thịt heo. (S.đ.d trang 508).
Tương tự, Tô Hoài – cũng đã có lần – phải diễn một show khó coi không kém:
“Khoảng hai trăm tù binh phi công Mỹ xếp hàng đầy hết lòng đường đi tới. Quần áo bà ba mầu xám khói nhạt. Tôi giật mình: tất cả đoàn người bị trói kia sao quá giống hệt nhau? Ở chiều cao, ở khổ người, ở dáng đi, ở nét mặt, ở tư thế và thần thái. Lầm lũi ngửng đầu nhìn thẳng vào cái không gian bao quanh đằng đằng sát khí và tiếng la ó...
Dân hai bên đường hò hét, đánh đấm, ném đá. Những cái đầu tù binh quay ngoắt tránh đá, tránh đấm rất nhanh. Những con mắt không một lúc nào cầu van, nao núng...
Ba chúng tôi đứng lặng trên hè. Tương quan sức mạnh quá chênh nhau tự nhiên làm se lòng. Đoàn tù binh đã đến đoạn cuối, chợt Tô Hoài nhào xuống đường, nhảy vội lên đấm một cái trượt vào mặt một người tù binh đi ở ngoài cùng.
Anh trở lại, tôi hỏi khẽ:
- Đánh người ta làm gì?
- Xung quanh căm thù như thế chả lẽ ba đứa mình đứng yên? ” (Trần Đĩnh. Đèn Cù, tập I. Người Việt, Westminster, CA: 2014).
Diễn là động tác tự giác, gần như một thứ vô thức tập thể, tự phát bởi hầu hết công dân trong chế độ hiện hành. Bởi vậy, không có gì ngạc nhiên khi ông Hồ Quang Lợi – Trưởng Ban Tuyên Giáo Thành Ủy Hà Nội – vừa múa may một màn (trên báo Nhân Dân) để “biểu diễn lập trường” chính trị của mình:
“Năm 2015 đánh dấu thêm một mốc son rạng rỡ trong chiều dài lịch sử Việt Nam hiện đại: 70 năm Nhà nước Việt Nam mới ra đời; 40 năm giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước; sau gần 30 năm đổi mới đầy cam go và thách đố, đất nước đang đi tới với sức bật mới... Từ bệ phóng 70 năm đất nước độc lập, 40 năm thống nhất đất nước và 30 năm đổi mới, sức đột khởi Việt Nam ngày nay được bồi đắp, nâng cánh từ thế nước đang lên.”
Thế nước đang lên: Ảnh:tuoitrenews
Cái nhìn lạc quan (“thế nước đang lên”) của ông Hồ Quang Lợi, tất nhiên, không được mọi người chia sẻ.
Blogger Dương Hoài Linh chế giễu (thế nước đang sôi) trên trang Dân Luận:
Phải công nhận rằng "Đảng ta" càng ngày càng vui tính. Trên thế giới không thấy một đảng cầm quyền nào có tính trào lộng như "Đảng ta". Hầu hết bọn "giãy chết" đều nghiêm túc, chán bỏ xừ. Người có tính hài hước nhất Đảng lại là đồng chí đứng đầu Đảng mà dân ta quen gọi là"Trọng Lú". Thật ra đồng chí ấy chả "lú" chút nào. Chẳng qua là đồng chí ấy luôn có tinh thần "lạc quan cách mạng", dầu trong hoàn cảnh nào cũng có thể đùa được, trào phúng, tự sướng đến nỗi người ta bảo đồng chí ấy mặt dày, không biết xấu hổ, trơ trẽn, trâng tráo, trắng trợn... cũng chẳng sao.
Trong tất cả những điều về "thế nước" đó, điều khôi hài nhất là Đảng luôn tự nhận mình là "nhân dân". Khổ nỗi nhân dân lại coi Đảng là giặc"nội xâm" nguy hiểm gấp ngàn lần giặc "ngoại xâm". Nhân dân đang muốn dìm Đảng xuống nước mà chưa biết cách nhưng đảng vẫn nhận vơ, nhận bừa như cái thuở"đào hầm nuôi đảng" năm nào.
Suy cho cùng bi kịch lớn nhất của một dân tộc cũng lại chính là hài kịch lớn nhất: Chấp nhận tấn trò đời dối trá như một sự trào lộng bởi chưa thể chuyển hóa chúng được khi chiếc bẫy vô hình cứ siết ngày một chặt hơn. Đó cũng là bi kịch và hài kịch của trò "TREO ĐẦU DÊ BÁN THỊT CHÓ".
Cái này phải gọi là "THẾ NƯỚC ĐANG SÔI" thì có lẽ đúng hơn.
Blogger Mạnh Kim cũng mỉa mai và đắng cay không kém:
Khi vẫn còn mải miết rổn rảng với những “hoa ngôn”, cái gọi là “national identity” của quốc gia tự mãn đó sẽ luôn đóng khung với hình ảnh một đất nước ngập chìm trong vũng lầy hôi thối của lạc hậu và nghèo nàn.
Công luận, xem ra, có vẻ khắt khe. Không ai chịu hiểu cho là ông Trưởng Ban Tuyên Giáo Hà Nội chỉ lên gân (hay lên giây cót) chơi thôi, chứ tự thâm tâm đương sự cũng biết rõ là đất nước đang ...rên. Cũng chả ai chịu đặt mình vào hoàn cảnh, cùng công tác (rất khó khăn) của ông Hồ Quang Lợi.
Ngày 9 tháng 12 năm 2012, nhân vật này long trọng tuyên bố:
“Tổ chức nhóm chuyên gia trực diện bút chiến trên internet trong việc đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.”
Đúng là một tin mừng khiến mọi người mừng hụt. Cái được mệnh danh là “nhóm chuyên gia” này, chỉ sau một thời gian ngăn ngắn, đã hiện nguyên hình là một đám người vô lại, chỉ chuyên “đấu tranh” bằng cái thứ ngôn ngữ bẩn thỉu và hạ cấp:
Do bênh đau dạ dày (bao tử) cộng thêm tuyệt thực trong trại giam lâu ngày sinh ra ung thư?; Nếu như ông Đinh Đăng Định đang là giáo viên sẽ được đi khám bệnh định kỳ hàng năm, thì đã phát hiện bệnh sớm và được chữa kịp thời sẽ không có sự nguy kịch như hôm nay. Đấu tranh = nằm chờ chết...
Kết quả của sự ảo tưởng, chống đối nhà nước nên bản thân Đinh Đăng Định thời gian sống tính từng ngày. Hôm nay được vài nhóm người đến thăm, tung hô nhưng sau 49 ngày chết sẽ hết. Lúc đó “con bị mồ côi, nhà mất trụ cột”. Có thể cái nhà gỗ kia cũng phải bán và con thằng khác sai, vợ thằng khác xài, nhà thằng khác ở. Mai kia những những người con gái của Đinh Đăng Định sẽ ra sao?, có bị thằng khác lừa không?, lại ôm bầu thương nhớ. Ra đi có thanh thản không?
Với “văn phong” và “văn tài” (thượng dẫn) thì kỳ vọng vào chuyện “trực diện bút chiến trên internet” đã trở thành ảo vọng. Lực lượng dư luận viên của chế độ hiện hành đã tự biến mình thành một đám côn đồ thô lỗ và vô giáo dục. Bọn giá áo túi cơm này, có cố gắng hết sức – may ra – cũng chỉ có thể làm được mỗi việc là tụng ca, hay nói cách khác là ... “đánh bóng chân đèn” thôi.
Ngày 26 tháng 4 năm 1975, Nguyễn Thiện Nhân (Chủ Tịch Ủy Ban Trung Ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam) "chân thành" và "tha thiết" ngỏ lời:
“Chúng tôi chỉ mong tất cả đồng bào Việt Nam ở nước ngoài nếu trong 40 năm qua chưa có dịp về nước thì nên về. Đất mẹ luôn sẵn sàng mời tất cả những người con trở về nhìn lại làng xã của mình, chắc chắn sẽ thấy nó phát triển.”
Vậy là ba hôm sau đám lâu la của ông Hồ Quang Lợi đều nhất loạt đồng ca:
“Lời bộc bạch, lời mời tha thiết, chân thành của Chủ tịch Nguyễn Thiện Nhân khiến nhiều người xúc động. Xúc động lắm chứ, con người ai cũng hướng về nơi chôn rau cắt rốn, ai cũng hướng về cội nguồn máu thịt, ai chả có lòng tự hào dân tộc!
Ai ở xa mà chẳng sởn da gà, lâng lâng cảm xúc mỗi khi nghe Quốc ca Việt Nam, mỗi khi thấy người Việt Nam được vinh danh!”
Tương tự, sau khi ông CTN Trương Tấn Sang chém gió (“Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của gần 30 năm đổi mới mà nhân dân ta đạt được khiến chúng ta hãnh diện và tự hào, bạn bè quốc tế ngưỡng mộ” ) và ông TBT Nguyễn Phú Trọng hãnh diện khoe mẽ (“Mình phải như thế nào người ta mới mời chứ!” ) thì ông Hồ Quang Lợi liền phải hét theo: Việt Nam Thế Nước Đang Lên!
Thế nước đang lên: Ảnh: wikivn.org
Ở vào hoàn cảnh của ông Hồ Quang Lợi thì ai cũng phải “hét toáng” lên như thế, chứ biết làm sao khác?
TRẺ RANH * CHUYỆN NƯỚC NON
CHUYỆN NƯỚC NON
TRẺ RANH
Truyện dài đấu đá trong hang ngũ lãnh đao Đảng CSVN
Sau khi đi Mỹ về Tổng bí thư Đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng bắt đầu cho lệnh trưởng ban tổ chức trung ương Tô Huy Rứa phải làm sao hạ uy thế của phe thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong đai hội 12,thế là ông Rứa con gà nòi của nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu ra tay sắp xếp người của mình thay người phe thủ tướng Dũng,nhưng ông Rứa loại người nào thì thủ tướng Dũng lại đưa người đó về chính phủ cho làm thứ trưởng
Coi bộ vụ sắp lại nhân sự của ông Rứa không đi đến đâu,ông bắt đầu làm nhân sự tại đại hội các tỉnh,nhưng càng làm ông càng bị người và tiền của phe thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng qua mặt cái vù.Tình hình này cầm chắc thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ “ẵm” chưc Tổng bí thư Đảng CSVN sau đai hội 12 ,và hội nghị 12 sẽ diễn ra khá ly kỳ và hấp dẫn với nhiều màn đấu đá cụp lạc
Chơi bảnh
Khởi đầu là 50 trí thức trong đó có cựu bộ trưởng bộ tư pháp Nguyễn Đình Lộc ký một cái kiến nghị đòi nhà nước Việt Nam dẹp chế độ “độc đảng” và,chỉ trong vòng một ngày kiến nghị này có 500 chữ ký hưởng ứng.Cựu bộ trưởng tư pháp Nguyễn Đình Lộc tuyên bố”hệ thống đa đảng sẽ tốt đẹp hơn hệ thống độc đảng”
Nguyễn Sinh Hùng mạnh miệng
Theo báo Gíao Dục VN điện tử thì trong khi chủ tọa phiên họp của Uỷ ban thường vụ quốc hội thảo luận về việc sửa đổi bộ luật hình sự chủ tịch quốc hội Nguyễn Sinh Hùng người vừa đi Mỹ về và có tin sau đại hội 12 nghỉ hưu đã tuyên bố hùng hồn”tôi nóivề việc sửa đổi bộ luật hình sự chủ tịch quốc hội Nguyễn Sinh Hùng người vừa đi Mỹ về và có tin sau đại hội 12 nghỉ hưu đã tuyên bố hùng hồn”tôi nói thật là ta phát biểu nhiều khi cũng vi phạm ,bắt cũng được đấy.Nói như vậy để thấy là không thể để mãi cái tội chống phá nhà nước qui định chung chung như vậy,muốn bắt ai thì bắt đâu có được”
Đi Mỹ ông Hùng đã” tự chuyển biến” hay sắp về hưu ông Hùng muốn” giựt le” nói huych toẹt những chuyện bố láo ra với đời,chỉ biết ông Hùng dám nói thực sự điều 88 bộ luật hình sự là không ngửi được
Điều ly kỳ là bộ trưởng tư pháp Hà Hùng Cường trong phiên họp này đã ủng hộ quan điểm của chủ tịch Hùng là phải sửa luật về tội chống phá nhà nước không thể qui định tội danh này chung chung mà phải nói rõ chi tiết thế nào là chống phá nhà nước.
Ngồi xổm lên sự thật
Báo Tuổi Trẻ cơ quan ngôn luận của Thành đoàn Thanh niên cộng sản TPHCM làm kỷ yếu 40 năm ra đời, nhà văn Nguyễn Đông Thức đã viết bài nói về những cộng tác viên từng cộng tác với Tuổi Trẻ nhiều năm như nhà thơ Đỗ Trung Quân,nhưng khi kỷ yếu ra đời thì tên Đỗ Trung Quân bị xóa.Nhà văn Nguyễn Đông Thức bực bội về chuyện này nên đem lên Face book than phiền.Thật bất ngờ không chỉ Đỗ Trung Quân bị bôi tên mà nhà báo Huy Đức,và nhạc
sĩ Tuấn Khanh cũng bị bôi tên.Ngồi xổm lên sự thật vốn là nghề của Cộng Sản mà than phiền làm gì cho tốn nước miếng
Chiến tranh giữa Nguyễn Tấn Dũng và Lê Thanh Hải
Nguyễn Tấn Dũng là người từng cứu Lê Thanh Hải khỏi rớt đài khi ông “sui” của Lê Thanh Hải là Huỳnh Ngọc Sĩ bị lãnh án tới 8 năm tù vì tội ân hối lộ của nhà thầu Nhật Bản,thế mà nay Nguyễn Tấn Dũng lại chơi Lê Thanh Hải hết cho Bình” ruồi” thống đốc ngân hàng nhà nước hạ đo ván ngân hàng Đông Á của Lê Thanh Hải lại cho thanh tra chính phủ thanh tra thành ủy HCM của Lê ThanhHải, cú chơi mới nhất là điều Lê Trương Hải Hiếu ra khỏi lãnh địa quận nhất thành phố HCM về quận 12
Phe ông Dũng chơi con ông Phùng Quang Thanh
Vũ khí lợi hại nhất của phe ông Nguyễn Tấn Dũng là thanh tra chính phủ.Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa cho lệnh thanh tra chính phủ sờ gáy các công ty
kinh doanh của bộ quốc phòng do đai tá Phùng Quang Hải làm chủ xị.Ai cũng biết các tổng công ty của bộ quốc phòng là nguồn vú sữa của gia đình đại tướng Phùng Quang Thanh nay nó bị sờ gáy chắc chắn nhiều chuyện bê bối nhiều ngàn tỷ sẽ bị phơi ra
Cuộc đấu đá giữa thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và gia đình đại tướng Phùng Quang Thanh hứa hẹn sẽ tiếp diễn nhiều pha gay cấn nhiều màn cụp lạc
Ca sĩ Từ Dung công bố hồi ký viết về nhà văn Lý Thắng Lê VănTiến
Ca sĩ Từ Dung là con gái út nhà văn Hoàng Đao đã vừa cho công bố một hồi ký viết về nhà văn Lý Thắng Lê Văn Tiến.Một hồi ký viết rất hay đánh tan những dư luận về cuộc tình giữa Lý Thắng Lê Văn Tiến và quả phụ Hoàng Đạo,nói rõ Lê Văn Tiến là em nuôi nhà văn Hoàng Đao trong trường hợp nào và là con nuôi mẹ vợ nhà văn Hoàng Đao thời điểm nào.Hồi ký cũng tiết lộ mục đích cuối đời ở Mỹ của Lý Thắng Lê Văn Tiến là hoàn thành trường giang tiểu thuyết Khói Sóng nhưng đã không làm được
Hai nhà báo gặp nạn vì văn chương diễu cợt
Nhà báo Đỗ Hùng phó tổng thư ký tòa soan báo Thanh niên điện tử bị mất chức và bị thu hồi thẻ nhà báo vì viết bài diễu cợt Hồ chí Minh trên Face book
Nhà báo Lê Đức Diễn bị đài phát thanh Á Châu Tự Do hủy hợp đồng cộng tác vì viết bài diễu cố Đề Đốc hải quân VNCH Hoàng Cơ Minh và quân đội VNCH
Viết văn diễu là quyền của nhà báo sao những người quản lý báo chí lại không chịu hiểu hơi tý là thổi còi quyền tự do ngôn luận bị xâm phạm đấy\
Nguyễn Như Phong tố cáo lăng Hồ Chí Minh bị lọt tầm nhắm
Nguyễn Như Phong đại tá công an tổng biên tập báo Năng Lượng Mới của tập đoàn dầu khí VN vừa có bài báo tố cáo việc tập đoàn TC 1 Group xây tòa cao ốc 18 tầng tại số 18 Lê Trực khu Ba Đình làm cho khu Ba Đình bỗng nhiên bị tòa cao ốc mới xây lấn át mất hết uy thế.Ngài đại tá Nguyễn Như Phong đòi dẹp cái tòa cao ốc 18 tầng vì đã làm khu Ba Dình mất mặt.Nói thật khu Ba Đình làm quái gì có mặt mà mất,đem quách cái sác thiếu tá tình báo Hoa Nam Hồ Quang quăng vào sọt rác,rối dẹp cái lăng nhơ nhuốc may ra khu BaĐình của hoàng thành Thăng Long còn coi được ,chừ để cái lăng như chuồng xí thời La Mã nằm lù lù ở khu Ba Đình thì khu này chỉ thêm dơ dáy thôi
Qủa bom Trần Phương
Gíao sư Trần Phương tên khai sinh Vũ Văn Dung từng là đảng viên đảng Cộng Sản Đông Dương trước năm 1945,từng là ủy viên trung ương Đảng Cộng Sản VN Phó chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng từng học về chủ nghĩa Mác Lê ở Bắc Kinh thế mà trong Hội Nghị Khoa Học Xã Hội ông đã tuyên bố thẳng thừng chủ nghĩa Mác Lê là chủ nghĩa lừa bịp,chủ nghĩa cộng sản chỉ là chủ nghĩa ảo tưởng, thế mà quốc hội VN lại đem nó vào hiến pháp2013 để bịp dân đó là hiện tượng lố bịch và trắng trợn ngoài sức tưởng tượng của mọi người
Theo nhà văn Võ thị Hão Việt Nam cần một quốc khánh khác ngày 2 tháng 9\Nhà văn Võ Thị Hảo quả quyết ngày 2 tháng 9 là quốc khánh đau thương và lọc lừa,Việt Nam cần phải có một ngày quốc khánh khác.Nói phải củ cải cũng nghe, chúng ta đã bị lừa gạt dối trá bịp bợm đổ bao nhiêu xương máu chịu bao nhiêu đau thương rồi hãy quăng ngày 2 tháng 9 năm 1945 vào sọt rác lich sữ đi là vừa
Lê Thanh Hải gốc “ba Tầu”
Báo điện tử Dân Làm báo vừa có một bài cho biết Lê Thanh Hải gốc người Hoa họ Lã,và đang chạy để ở lại bộ chánh trị Đảng CSVN thêm một nhiệm kỳ nữa.Chính Lê Thanh Hải đã chống lưng cho Tất Thanh Cang tham nhũng cả ngàn tỷ ở Thủ Thiêm quận 2.Nhờ có Lê Thanh Hải chống lưng Tất Thành Cang rời quận 2 về làm phó chủ tịch TPHCM và tương lai nếu Lê Thanh Hải ở lại bộ chánh trị sau đai hội 12,Tất Thành Cang sẽ “ẵm” chức chủ tịch TPCHM
Thượng nghị sĩ Mỹ Bill Cassidy gửi thư vinh danh tù lương tâm Bùi Minh Hằng
Ngày 9 tháng 9 vừa rồi thượng nghị sĩ MỹBill Cassidy đã gủi một bức thư vinh danh tù nhân lương tâm Bùi Minh Hằng đang thụ án ba năm tù vì tội gây rối trật tự công cộng tại trại gian Gia Trung tỉnh Gia Lai Tây Nguyên,bức thư viết”Tôi viết thư cho bà với trái tim trĩu nặng lo lắng vì tình cảnh bà bị lâm vào hiện nay.Tôi hoan nghênh tinh thần can đảm và mạnh mẽ của bà”Được biết trước đó bà Hằng và cô Tạ Phong Tân đươc LHQ vinh danh cùng 20 phụ nữ Á Phi đang bị tù đầy và đòi VN phải trả tự do cho Bùi Minh Hằng và Tạ Phong Tân
Trung Cộng đã xâm nhập Đà Nẵng từ 2006
Năm 2006 bộ kế hoach đầu tư đã cho công ty Silver Shores của Trung Cộng vào Đà Nẵng đầu tư và giao cho công ty này 1 km bờ biển Đà Nẵng từ Sơn Trà tới Điện Ngọc ,năm 2009 Trẻ Ranh ra du lich Đà Nẵng hương dẫn viên du lich của công ty Saigon Tourist đã nói với Trẻ Ranh là công ty Silver Shores xây dựng một loạt công trình tại bờ biển Đà nẵng với toàn bộ công nhân và kỹ su Tầu họ đã thiết lập cả một hệ thống quan sát kiểm soát toàn bộ vùng biển Đà nẵng.Sau đó Silver Shores đầu tư tại vùng đèo Hải Vân và xây dựng nhiều công trình khiến giới quốc phòng thắc mắc họ phải ngưng.Tại Đà Nẵng tuy Silver Shores kinh doanh Casino nhưng thật sự là làm công việc do thám vùng trời vùng biển Đà nẵng
Hai câu ca dao hay
Trong dân gian đang lưu truyền hai câu ca dao tuyệt cú sau đây
Bẩy mươi năm quốc khánh nước Rồng
Từ đất nước lớn mà không có gì
Nước Rồng là nước ta đấy,quốc khánh 70 năm thành nước lớn dân gần trăm triệu nhưng tài sản thì toàn nợ với nợ thôi,nơ công sơ sơ 65 phần GDP,dân ta già trẻ lớn bé mỗi người phải mang gánh nặng
Đồ tể đang ngáp ngáp
Người ta gọi anh em Hoàng Phủ NgọcTường Hoàng Phủ Ngọc Phan là những tên đồ tể,vì đã giết quá nhiều người trong vụ tết Mậu Thân 1968,nhưng cả Hoàng Phủ Ngọc Tường lẫn Hoàng Phủ Ngọc Phan đều chối bai bải.Nay sắp chết Hoàng Phủ Ngọc Tường trở về Huế nằm chờ chết,tướng cướp quăng gươm đầu Phật có thể thành bồ tát ,đồ tể chờ chết sám hối chắc Phật cũng không chấp và tha thứ hết nhưng nhân dân thì không thể nào quên những tên đồ tể
Nhà phê bình chủ tịch Hội nhà văn Hà nội chơi bảnh
Chủ tịch Hội nhà văn Hà nội nhà phê bình Phạm xuân Nguyên dám tổ chức Hội nghị nhà văn trẻ lần thứ hai sau mấy chục năm gián đoạn, ông đã liên kết với tỉnh Yên Bái làm chuyện này và ông chơi ngon dám dẫn nhà văn trẻ tới viếng mộ liệt sĩ Nguyễn Thái Học.Dám tổ chức hội nghị nhà văn trẻ lại dám dẫn các nhà văn trẻ tới viếng mộ liệt sĩ
Nguyễn Thai Học đúng là Phạm xuân Nguyên chơi trội thật
Hi sinh đời bố củng cố đời con
Ông Lê Phước Thành bí thư tỉnh Quảng Nam tới tháng 6 năm 2016 mới phải nghỉ hưu nhưng ông đưa cậu quí tử Lê Phước Hoài Bão mới 30 tuổi “ẵm”đươc chức giám đốc sở Kế Hoach Đầu Tư tỉnh Quảng Nam thì ông vội làm đơn xin nghỉ hưu sớm.Ly kỳ là cậu Bão năm 2013 mới làm trưởng phòng quản lý khu kinh tế Chu Lai năm 2014 thăng phó chủ tịch huyện Thăng Bình tháng 4 năm 2015 lên phó giám đốc sở kế hoach đầu tư và nay trước khi bí thư nghỉ hưu cậu Bão lên giám đốc Sở Kế Hoach Đầu Tư ,đúng là hi sinh đời bố củng cố đời con
Hoan nghênh Nguyễn Quốc Trụ
Nhà văn nhà thơ Nguyễn Quốc Trụ [Sơ Dạ Hương thủa nào]vừa viết trên báo điện tử Tin Văn của ông một bài ngắn nói về tên cớm chìm Việt Cộng
Nguyễn Ngọc Giao vừa bịa ra chuyện bố nhà báo Trần Hạnh đi tù cải tạo về đã nói với Trần Hạnh rằng”Nếu bên mình thắng,có lẽ đối xử với bên kia còn tệ hơn” ,cớm chìm VC bịa chuyện vô liêm sỉ bị nhà thơ Nguyễn Quốc Trụ vạch mặt chỉ tên đã im như thóc
Đảng Dân Xã ra công khai
Ngày 21 tháng 9 Đảng Dân Xã tức Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng do Đức Huỳnh giáo chủ sáng lập đã làm lễ ra công khai dưới thời Cộng Sản độc đảng.Trả lời phỏng vấn của Đài phát thanh Đáp Lời sông núi tại Mỹ ông Trần Nguyên Hưỡn tục Bẩy Hưỡn lãnh tụ Dân Xã tuyên bố Dân Xã quyết tâm đối trọng với Cộng Sản phá thế xã hội độc đảng ở VN
Bố láo
Giảng viên môn lịch sử tại trường Đại học khoa học Huế ông Hà Văn Thịnh vừa tuyên bố rằng lich sử hiện đại tại VN chỉ có 30 phần trăm là sự thật ,70 phần trăm là giả dối vì 30 năm đánh nhau với Pháp
rồi Mỹ lịch sử VN ghi VN không thua một trận nào cả là không thể chấp nhận được
Ôi lich sử với Duy vật sử quan là như thế đó,nói làm gì cho tốn nước miếng
Mặc Đỗ Quang Bình không còn nữa
Nhà văn Măc Đỗ Đỗ Quang Bình vừa rời cõi thế tại Mỹ ngày 20 tháng 9,nhà thơ Vương Tân và nhà thơ Nguyễn Thùy Song Thanh có bài thơ “điếu”như sau
Chỉ thiếu một năm ông đi qua cuộc đời này một thế kỷ
Sao chỉ còn lại mấy cái truyện ngắn dù viết rất nhiều
Đứng Ngồi Không Yên
Lòng luôn tiếc nuối những tác phẩm ưng ý
Bị thiêu hủy
Bốn chục năm khắc khoải
Xa nước non
Phải làm một cái gì cho quê hương
Lực bất tòng tâm đành xuôi tay nhắm mắt
Nhà văn Võ Phiến cũng đã ra đi
Nhà văn Võ Phiến tên khai sinhĐoàn Thế Nhơn sinh năm 1925 tại Bình Đinh đã rời cõi thế tại Mỹ ngày 28 tháng 9 ông là nhà văn lớn ra đi để nhiều tiếc thương trong bạn đọc,nhà thơ Vương Tân có bài điếu như sau
Quê đất võ cưới Viễn Phố viết văn thành Võ Phiến
Rời cõi thế sau Tạ Chí Diệp hơn nửa thế kỷ
Lưu vong sang Mỹ vinh danh Việt ngữ
Viết rất nhiều nhưng chỉ còn trong người đọc mấy tập tùy bút
Phê bình văn học thì hỏng hết
Một đời văn bị con “đấu tố” sổ toẹt sạch
Oan nghiệt cuộc đời là như thế đó
Chết không nhắm mắt được dù là nhà văn lớn
TRẺ RANH
NGUYỄN THIÊN THỤ * MỘT NỀN VĂN HỌC HẢI NGOẠI
NGUYỄN THIÊN THỤ
Trước 1975, người Việt Nam đã đi ra nước ngoài. Đời Trần, Trần Ích Tắc bỏ sang Trung Quốc, trong đó có Lê Tắc đã viết quyển An Nam Chí Luợc. Đến nhà Hồ, Hồ Hán Thương đã viết Nam Ông Mộng Lục. Sau khi thực dân Pháp chiếm Việt Nam, một số nhà cách mạng đã sang Trung Quốc hoạt động, như Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Tăng Bạt Hổ đã dùng thi văn kêu gọi lòng yêu nước của nhân dân. Trước và sau 1945, nhiều người Việt Nam đã sang Pháp và đã viết bằng tiếng Việt hay tiếng Pháp như Phan Chu Trinh, Phạm Duy Khiêm, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Trần Huân, Nguyễn Văn Cổn, Hoàng Văn Chí . . .Nhưng họ vẫn là một thiểu số it ỏi, không phải là một quần thể như những lớp người sau 1975. Con số di dân rất cao mà số văn thi sĩ cũng rất lớn.
Dù thế nào đi nữa, người Cộng sản vì chủ quan, kiêu căng và tuyên truyền, cho rằng thơ văn Hồ Chí Minh, Tố Hữu và vài văn nô như Tô Hoài (Truyện Tây Bắc), Nguyễn Thi (Người mẹ cầm súng ), Nguyên Ngọc ( Đất nước đứng lên ) ... là siêu việt, ngoài ra tự cổ chí kim, không có ai nũa. Họ lớn tiếng chỉ trich văn học quốc gia là lạc hậu, phản động, đồi truỵ. Họ mạt sát văn học miền nam và văn học hải ngoại. Một số \có gốc phản chiến hoặc ninh hót cũng chỉ trích văn học miền Nam và văn học hải ngoại. Nguyễn Văn Lục cho rằng văn học hải ngoại èo uôt, lão hóa. Ông cũng dẫn lời anh ông, Nguyễn Văn Trung trong số Văn Học, tháng 8,1995, xác định rõ ràng Văn học Việt Nam hải ngoại là một hiện thượng bất thường mà chính những người làm ra nó không mong gì hơn là càng chấm dứt nó mau chóng bao nhiêu càng hay bấy nhiêu.[1]
Một nền văn học được thành lập là do ba yếu tố:
-Việc sáng tác có mạnh mẽ hay không
-Nội dung tác phẩm có phong phú hay nghèo nàn.
-Có chánh nghĩa và được nhân dân ủng hộ hay không.
Trong ba yếu tố trên, yếu tố thứ nhất quan trọng nhất.
Trước 1975, số nhà văn ở Pháp và Mỹ khá đông nhưng không có quần chúng ủng hộ. Hơn nữa, một số nhà văn định cư tại Pháp trước 1975 là thiên cộng. Như về văn học Việt Nam, họ giới thiệu văn học cộng sản, ca tụng Hồ Chí Minh, Tố Hữu mà bỏ quên hoặc nói rất sơ lược về văn học miền Nam. Vi họ không có chánh nghĩa và không được quần chúng ủng hộ. Trái lại, phong trào Duy Tân, Đông Du ở Nhật và Trung Quốc lại được sự đón nhận nồng nhiệt của đồng bào trong nước vì Phan Bội Châu có chánh nghỉa quốc gia.
Nền văn học hải ngoại được thành lập ra sao? Dường như người Trung Quốc ra hải ngoại việc đầu tiên là mở cửa hàng còn người Việt Nam việc đầu tiên là làm báo, sáng tác văn tho và lập chùa chiền.
Bà Thụy Khuê cho biết ngay trong năm 1975, phong trào báo Việt ngữ đã bùng lên như lửa cháy rừng:
Báo chí là hởi điểm cho sự đọc, sự viết, cho một đời sống tinh thần. Ngay từ khi còn ở đảo Guam hoặc mới bước chân lên những trại tỵ nạn đầu tiên trên đất Mỹ, người Việt đã có báo. Minh Đức Hoài Trinh, trên báo Hồn Việt Nam, số 1, phát hành tại Paris ngày 15/10/1975, nhắc đến chuyện đã "đọc báo Chân Trời Mới ở các trại như Pendleton, Guam, Asan vào giai đoạn đầu của cuộc ly hành mùa xuân Ất Mão", và bà còn cho biết "theo báo Đất Mới: Một nhóm các người làm báo ở Hoa Thịnh Đốn đang thành lập một ủy ban để giúp các người làm báo Việt Nam tìm người bảo trợ và công việc làm ăn tại Hoa Kỳ."
Võ Phiến, trong bài Xuất Trại nhắc nhở đến tờ "Đất Lành cuối tháng 8-75, liên tiếp mấy số liền, có những bài đăng ở trang nhất, cố gắng giải thích, khuyên nhủ, dỗ dành, mỉa mai, rồi... hăm dọa, nhằm thúc đẩy dân tỵ nạn mạnh dạn ra đi lập lại cuộc đời mới."
Từ những Chân Trời Mới, những Đất Lành, ... người Việt đã thành lập những tờ báo có tính chất văn học nghệ thuật. Nhìn lại giai đoạn tiên khởi này, những tờ báo có khuynh hướng văn học nghệ thuật xuất hiện sớm nhất ở hải ngoại có thể là:
- Nguyệt san Hồn Việt Nam của Minh Đức Hoài Trinh, số 1 ra ngày 15/10/1975 ở Paris, số chót Xuân Mậu Ngọ 1978.
- Báo Quê Mẹ của Võ Văn Ái ở Paris, số 1 đầu năm 76, chuyên về văn học nghệ thuật. Sau đó ngừng. Tiếp theo là tạp chí Quê Mẹ, chuyên về thời sự, chính trị, đấu tranh, có thêm trang văn học.
- Báo Quê Hương của Du Tử Lê, Đinh Thạch Bích, Võ Văn Hà, Phạm Cao Dương ở Costa Mesa, đầu năm 76, ra được ba số thì đình bản. Sau đó Du Tử Lê chủ thương tờ Nhân Chứng. Nhân Chứng tồn tại được hai năm, ra khoảng 20 số.
- Báo Đất Mới với Huy Quang Vũ Đức Vinh, Nguyễn Văn Giang là một trong những tờ báo đầu tiên xuất bản tại Hoa Kỳ từ tháng 7/75. Đến tháng 4/76, Thanh Nam được mời cộng tác. Rồi từ 79 đến 81 có thêm Mai Thảo.
- Báo Hồn Việt của Nguyễn Hoàng Đoan ở San Diego, ra đời đầu năm 76 mà số Xuân Đinh Tỵ (1977) đã có đầy đủ tư thế của một tờ văn học nghệ thuật với sự đóng góp bài vở của Lê Tất Điều, Võ Phiến, Thanh Nam, Tạ Ký, Nhất Tuấn, Cung Tiến, Nguyên Sa, Túy Hồng...
- Võ Phiến ở Santa Monica và Lê Tất Điều ở San Diego cho xuất bản nguyệt san Văn Học Nghệ Thuật từ tháng 4 năm 1978, ra được 13 số thì đóng cửa vào tháng 9/1979. Tái bản bộ mới số 1, tháng 5/85 đến tháng 12/86 đình bản, trao lại cho Nguyễn Mộng Giác đổi thành Văn Học.
- Tờ Việt Chiến do Giang Hữu Tuyên, Hoàng Xuân Sơn và Ngô Vương Toại chủ trương ở Hoa Thịnh Đốn.
- Cùng thời điểm này, Đỗ Ngọc Yến sáng lập tờ Người Việt, số báo đầu tiên phát hành tháng 12/78 ở quận Cam, California. Người Việt là tờ thông tin nghị luận, mới đầu là báo hàng tuần, sau trở thành báo hàng ngày, có nhiều độc giả nhất trong cộng đồng người Việt ở Mỹ và là cơ sở nuôi sống nhiều nhà văn, nhà báo.[2]
Dù ở trong nhà tù nhỏ, hay trong nhà tù lớn, tất cả đang viết để bày tỏ tâm tư và tỉnh cảm. Nhiều tác giả đã viết về văn học hải ngoại, sưu tập văn học hải ngoại:
- Hoàng Ngọc Ẩn . Tuyển Tập Thơ Văn 90 tác Giả Việt Nam Hải Ngoại, Văn Hữu, CA, 1982. Quyển này có 28 nhà văn viết sau 1975.
-Thi Vũ. Bốn Mươi Năm Thơ Việt Nam. Quê Mẹ, Paris. 1985.
-Thái Tú Hạp. Thơ Văn Việt Nam Hải Ngoại. Sông Thu. USA.1985. Tập 1 đã phát hành có 60 tác giả, trong đó có 12 tác giả mới. Tập 2 chưa phát hành có 44 tác giả, trong đó có 21 tác giả mới.
-Tuyển Tập 23 Người Viết Sau 1975. Văn Nghệ. USA. 1988.
-Trang Châu. Tuyển Tập Văn Bút Quebec. Canada, 1992.
-Nguyễn Văn Sâm. Tuyển Tập Văn Thơ .Văn Bút Nam Hoa Kỳ xb. Houston, 1993.
-Tác giả Tác Phẩm. Thế Giới Lưu Vong Hôm Nay xb. CA. 1989.
- Trần Văn Ngô và Phú Văn Đức. Tuyển Tập Văn Bút Âu Châu I, II., Pháp, 1989, Đức 1993.
-Tập Truyện Ngắn Hai Mươi Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại. Văn Bút VNHN, USA, 1995.
-Văn Học Miền Đông. Văn Bút Miền Đông. USA 1997.
-Võ Đức Trung. Một Phần Tư Thế Kỷ Thi Ca Việt Nam Hải Ngoại 7 tập. Văn Hóa Pháp Việt , France. 2002- 2007. Bộ này gồm khoảng 326 thi sĩ
-Võ Đức Trung. Ba Mươi Năm Văn Học Niềm Đau Còn Đó. Thi Ca Lưu Vong. Văn Hóa Pháp Việt. France, 2006.
Năm 2013, nhà thơ Thanh Thanh tưc Lê Xuân Nhuận đã xuất bản Tuyển Tập Thi Ca Việt Nam
Vietnamese Choice Poems”, thơ tiếng Anh (ISBN 978-1-4931-2196-0 & 978-1-4931-2197-7 ), Xlibris, 2013. , giới thiệu 80 thi sĩ, trong đó có vài thi sĩ quốc nội.
Hầu hết văn nghệ sĩ hải ngoại là thuyền nhân. Họ là những văn nghệ sĩ chán ghét cộng sản mà bỏ nước ra đi. Một số đã ra đi theo Mỹ hoặc các tàu hải quân và thương thuyền Việt Nam trong những ngày 30-4-1975 như Nguyễn Ngọc Huy, Phan Lạc Tiếp, Cao Tiêu, Cao Thế Dung, Du Tử Lê, Duy Thanh, Nguyên Sa. . .Số lớn đi đường biển như Võ Phiến, Mai Thảo, Võ Kỳ Điền, Nguyễn Văn Sâm, Nguyên Sa, HàThúc Sinh, Lê Xuân Giáo. Một số đi đường bộ như Đặng Phùng Quân, Hàn Song Tường. Một số đi theo diện ODP mà người ta còn gọi là HO. Đây là những cựu sĩ quan miền Nam tự do, đã bị cộng sản giam giữ nhiều năm, nay được Liên Hiệp quốc can thiệp mà đi dịnh cư tại Mỹ như Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Mai Trung Tĩnh.
Một số văn nghệ sĩ được các tổ chức quốc tế can thiệp mà sang Mỹ như Doãn Quốc Sỹ, Uyên Thao, Nhã Ca, Trần Dạ Từ. Những thuyền nhân, và những sĩ quan ra đi theo diện ODP khi ra ngoại quốc lã bảo lãnh gia đình. Vì vậy một số văn nghệ sĩ ra ngoại quốc theo diện bảo lãnh. Hầu hết những người bỏ nước ra đi đều là những nạn nhân của cộng sản, đã bị tù đày trong nhà tù nhỏ và nhà tù lớn của cộng sản. Họ cùng chung một kẻ thù là cộng sản, và chung một niềm đau thất quốc. Ra hải ngoại, nhiều người trở thành văn thi sĩ. Ở hải ngoại, chúng ta có khoảng hai triệu người rải rác khắp nơi trên thế giới, nhưng tỷ lệ số văn thi sĩ rất cao.
Một lực lượng cả cũ lẫn mới thật đông đảo. Những công trình trên đã xác nhận có một nền văn học hải ngoại. Chúng tôi thiết nghĩ sau 1975, văn học nghệ thuật Việt Nam vẫn hiện hữu ở hải ngoại. Chúng ta đã có khoảng bốn trăm văn thi sĩ, và đã có một số thơ văn sáng tác, có nhiều báo chí, có đài phát thanh, có những nhà in, nhà phát hành sách, và một lượng độc giả. Chúng ta có một số nhà văn, nhà thơ cũ sau 1975 vẫn tiếp tục sáng tác như Nguyên Sa, Nguyễn Tất Nhiên, Thanh Nam, Doãn Quốc Sỹ, Nhã Ca, Viên Linh . . . Và chúng ta cũng có một số đông đảo nhà văn mới xuất hiện như Võ Kỳ Điền, Nguyễn Ngọc Ngạn, Kiệt Tấn, Võ Phước Hiếu, , Ngô Minh Hằng, Nguyễn Tấn Hưng, Bùi Bich Hà, Bùi Bảo Trúc. . .
Một số nhà biên khảo trước đây nay cũng bước sang lãnh vực sáng tác như Nguyễn Khắc Hoạch, Nguyễn Đình Hòa, Nguyễn Văn Sâm. Một số nhà giáo nay cầm bút làm thơ viết truyện như Võ Kỳ Điền, Nguyễn Ngọc Ngạn, Ngô Minh Hằng. Đa số là quân nhân. Các tướng, tá Việt Nam nay viết hồi ký như Nguyễn Chánh Thi, Trần Văn Đôn, Võ Đại Tôn, Phạm Ngọc Lũy, Lý Tòng Bá . . . Một số nữa là bác sĩ, kỹ sư. Và một lực lượng đặc biệt là các cựu đảng viên và cán bộ cộng sản nay ra nước ngoài như Vũ Thư Hiên, Bùi Tín, Trần Thư, Phạm Thị Hoài . .
Họ không phải là người quốc gia nhưng ở hải ngoại và có một vài ý hướng tự do cho nên liệt họ vào văn học hải ngoại. Tất cả là những lực lượng mới bổ sung cho lực lượng cũ đã hao mòn. Chúng ta không biết tương lai tiếng Việt tại Canada có giống tiếng Pháp tại Montreal, tiếng Việt tại California sẽ trở thành một thứ tiếng Anh tại Mỹ hay không, nhưng chắc chắn hiện nay chúng ta đang có một nền văn học hải ngoại, dù hay dù dở nó vẫn tồn tại và đang phát triển.
Bài của ông Nguyễn Văn Lục viết tháng ba năm 2015 do Tiếng Quê Hương của Uyên Thao đăng tải còn bài của Nguyễn Văn Trung viết năm 1995. Nguyễn Văn Lục nói đến hai hạng lão hóa. Một là lão hóa do tuổi tác của nhà văn. Ông nói điều này đúng vì khi ra hải ngoại, một số nhà văn đã già yếu, bênh họan như Bình Nguyên Lộc, Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền, Bùi Xuân Bào, Doãn quiốc Sỹ đã ngưng cầm bút hoặc di tản sang một thế giới khác. Nhưng điều đó là chuyện bình thường trong vòng sinh lão bệnh tử. Cổ nhận ta đã nói "tre già măng mọc". Bình Nguyên Lộc, Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền, Bùi Xuân Bào.. . đã ra đi nhưng Võ Phiến, Cao Tần, Doãn Quốc Sỹ... còn đó.
Lớp trẻ hơn nữa có Trần Trung Đạo, Luân Hoán,Trần Mộng Tú, Nguyễn Bá Trạc, Ngu Yên, Hồ Trường An, Kiệt Tấn, Mai Kim Ngọc, Hồ Đình Nghiêm, Phan Thị Trọng Tuyến, Đặng Phùng Quân,Nguyễn Văn Sâm, Võ Kỳ Điền... Sau đó là ai, tương lai sẽ trả lời. Một vài nhà văn trẻ xuất hiện, viết tiếng Anh. Nhưng không nên lấy chuyện già mà bỉ bai. Trong văn nghệ tài năng là chính. Quân đội và đại học thường đông đảo thanh niên nhưng Văn học, nghệ thuật và chính trị, các bậc lão thành thường được kính trọng. Dù họ bệnh tật mà ngưng hoạt động cũng là chuyện thường kháp năm châu, đâu phải là cái nhục cho cộng đồng Việt Nam hải ngoại!
Trên kia đã trình bày về số lượng thi văn sĩ hải ngoại,.Con số đó là một minh chứng cho số lượng đông đảo văn nghệ sĩ. Riêng có số thi phẩm đã cho biết sức sáng tác mạnh mẽ của các thi sĩ hải ngoại. Chúng ta thử xem qua:
Du Tử Lê chiếm giải nhất về số lượng thi phẩm.
Trước 1975, ông có 20 tác phẩm, sau 1975, khoảng 30 thi phẩm:
1. Thơ Du Tử Lê, thơ. Tác giả xuất bản, 1964.
2. Tình khúc tháng mười một, thơ. Nhân Văn xb, 1965.
3. Năm sắc diện, năm định mệnh, ký sự nhận định. Tao Đàn xb, 1965.
4. Tay gõ cửa đời, thơ. Nguyễn đình Vượng xb, 1967.
5. Chung cuộc, tập truyện. Trình Bày xb, 1969.
6. Mắt thù, truyện dài. Văn Uyển xb, 1969.
7. Ngửa mặt, truyện dài. Đại Ngã xb, 1969.
8. Vốn liếng, một đời, truyện dài. Đại Ngã xb, 1969.
9. Qua hình bóng khác, truyện dài. Khai Phóng xb, 1970.
10. Mùa thu hoa cúc, truyện thiếu nhi. Mây Hồng xb, 1971.
11. Sân trường mắt biếc, truyện thiếu nhi. Mây Hồng xb, 1971.
12. Chú cuội buồn, truyện thiếu nhi. Mây Hồng xb, 1971.
13. Hoa phượng vàng, truyện thiếu nhi. Mây Hồng xb, 1971.
14. Mắt lệ cho người, truyện dài. Sống Mới xb, 1972.
15. Ở một đời riêng, truyện dài. Tân Văn xb, 1972.
16. Thơ Du Tử Lê (1967-1972,) thơ. Gìn Vàng Giữ Ngọc xb, 1972.
(Giải thưởng văn chương toàn quốc, bộ môn thơ, 1973)
17. Mùa hoa móng tay, tập truyện. Tân Văn xb, 1973.
18. Với nhau, một ngày nào, truyện dài. Ngạn Ngữ xb, 1974.
19. Đời mãi ở phương đông, thơ. Gìn Vàng Giữ Ngọc xb, 1974.
20. Một chỗ cuối sông tương, truyện dài. Mây Hồng xb, 1975.
21. Tan theo ngày nắng vội, tập truyện. Tủ sách Vh Nhân Chứng xb, 1984.
22. Thơ tình, thơ. Tủ sách Vh Nhân Chứng xb, 1984.
23. Ở chỗ nhân gian không thể hiểu, thơ. Tủ sách VH Nhân chứng xb, 1989.
24. Đi với về, cũng một nghĩa như nhau, thơ. Tủ sách VH Nhân Chứng xb, 1991.
25. Du Tử Lê, Tác giả & tác phẩm #1, nhiều tác giả. Đời xb, 1992.
26. Tôi với người, chung một trái tim, truyện vừa. Thiên Nga xb, 1992.
27. Chấm dứt luân hồi: em bước ra, thơ. Tủ sách VH Nhân Chứng xb, 1993.
28. Nhìn nhau chợt thấy ra sông núi, thơ. Tủ sách VH Nhân Chứng xb, 1994.
29. Em và, Mẹ và, Tôi là một nhé, tùy bút. Tủ sách VH Nhân Chứng xb, 1994.
30. Chỗ một đời em vẫn để, dành, tùy bút. Tủ sách VH Nhân Chứng xb, 1995.
31. Sông núi người thơm nỗi nhớ nhà, thơ. Tủ sách Vh Nhân Chứng, xb, 1996.
32. Chỉ như mặt khác tấm gương soi, thơ. Tủ sách Vh Nhân Chứng, xb, 1997
33. Du Tử Lê, Tác giả & tác phẩm # 2, nhiều tác giả. Tủ sách VH Nhân Chứng, xb, 1997.
34. Tiếng kêu nào bên kia thời tiết, tập truyện. Tủ sách VH Nhân Chứng, xb, 1997.
35. K. Khúc của Lê, tuyển tập thơ phổ nhạc. Thân hữu DTL xb, 1998.
36. Du Tử Lê, Tác giả & tác phẩm # 3, nhiều tác giả. Tủ sách VH Nhân Chứng xb, 1998.
37. Hoa nào tin quả đắng đến không ngờ!!! thơ. Tủ sách VH Nhân Chứng xb, 1999.
38. Tôi, ấu thơ và, mẹ, tùy bút. HT Productions xb, 2000.
39. Vì em, tôi đã làm sa di, thơ thiền tính. Tống Châu xb, 2001.
40. Du Tử Lê, Tác giả & tác phẩm, # 4, nhiều tác giả. HT Productions xb, 2002.
41. Mẹ về biển đông, thơ. HT productions xb, 2002.
42. Toàn tập thơ Du Tử Lê I (1964-1975,) thơ. HT Productions xb, 2002.
(Gồm tất cả những thi phẩm được ấn hành tại Việt Nam. Gần 400 trang.)
43. Người nhón gót, thả điều chưa nói hết, tùy bút. HT Productions xb, 2002.
44. Qua môi em: tôi thở biết bao đời, thơ thiền tính tập 2. HT Productions xb, 2004.
45. Thơ Tình Du Tử Lê (In ở Việt Nam)
46. Giờ điểm danh cuối cùng, của những cậu học trò trên sáu mươi tuổi, tùy bút. HT productions xb, 2006.
47. (Nếu cần,) hãy cho bài thơ một tên gọi!?!, thơ. HT Productions xb, 2006.
48. Toàn tập thơ Du Tử Lê II (1975-1993,) thơ. HT Productions xb, 2007.
(Gồm 5 thi phẩm được ấn hành tại Hoa Kỳ. Gần 500 trang.)
49. Du Tử Lê / 50, nhiều tác giả: Tư liệu, nhận định, đời thường DTL. Hội VHKHVN/ Houston, TX, Xb. 2007,
(nhằm Vinh danh 50 năm thơ Du Tử Lê.)
50. Mất hay còn, chưa hẳn khác nhau đâu!?! (thơ thiền tính tập 3). HT Productions.
(Với 23 bức tranh minh hoạ của họa sĩ Đinh Cường .) HT Productions xb, 2008.
51. Lại chuyện vãn, (lần này, ít thôi,) với bệnh ung thư. thơ. HT Productions xb. 2008.
52. Năm chữ du tử lê và, 9 bài thơ, mới. HT Productions.
(với 31 tranh minh họa của hoạ sĩ Đinh Cường), thơ. HT Productions. 2009
53. Giữ Đời Cho Nhau - Tùy Bút (minh họa Nguyễn Đình Thuần). HT Productions. tháng 9-2010
54. Trên Ngọn Tỉnh Sầu - (minh họa Duy Thanh). HT Productions. tháng 9-201
Hà Huyền Chi.Tính từ năm 1963 đến nay ông đã có 17 tập thơ được xuất bản, mà một số bài thơ được phổ nhạc
Saut Ðêm (1963)
Khu Vườn Chim Sẻ (1970)
Những Nụ Gai Mòn (1970)
Rừng Ái Ân (1970)
Vũng Tối Ðầy (1970)
Còn Gì Cho Anh (1971)
Bước Ðam Mê (1971)
Mưa Ðêm Trong Chiến Hào (1971)
Thằng Thái Bình (1974)
Trên Cánh Ðồng Mây (1975)
Cho Mặt Trời (1975)
Tên Nô Lệ Mới (1979)
Như Ðá Ngàn Năm (1981)
Cõi Buồn Trên Ta (1984)
Ðời Bỗng Dưng Thừa (1987)
Hành Trình 30 Năm Thơ Hà Huyền Chi (1988)
Thơ Ðen (1991)
Thơ Kẽm Gai (1994)
Tháng Một Buồn (1994)
Thơ Trong Da Ngựa (1995)
Một Túi Bình Sinh Một Túi Thơ (1996)
Ðồng Thiếp (1996)
Bão Ðầy (1998)
Bên Trời Mài Kiếm (thơ song ngữ Anh-Việt) (1999)
Sóng Ngầm (2003)
Tiếp theo là Luân Hoán . Từ thập niên 80 cho đến nay ông đã có 8 thi phẩm
-Hơi Thở Việt Nam. Sông Thu, USA, 1986.
-Đưa Nhau Về Đến Đâu, Sông Thu, USA, 1989.
-Ngơ Ngác Cõi Người. Nhân Văn, USA. 1989.
-Cảm Ơn Đất Đã Trổ Thơ. Lòng Ta Hạt Bụi Vu Vơ Bám Hoài. Kinh Đô.USA. 1991.
Mời Em Lên Ngựa. Sông Thu. USA.1994.
Nuôi Thơm Chùm Kỷ Niệm Xanh. Thơ. Canada.1995.
-Cỏ Hoa Gối Đầu. Sóng Văn. USA, 1997.
-SôngNúi Cùng Người Thơm Ngát Thợ Thơ. Canada, 2002.
Dư thị Diễm Buồn có 6 thi phẩm:
-Nỗi lòng Người Em Nhỏ, 1991
- Một Thoáng Hương Xưa, 1996.
-Những Ngày Xưa Thân Ái ,1997.
-Quê hương Ngày Em Lớn 2000.
-Một Thoáng Hương Xưă Cassette ngâm thơ)
-Nỗi Lòng Người Đi , 2001.
Hà BìnhTrung có 6 thi phẩm:
-Khói Lửa, USA, 1987
-Yêu Mãi Ngàn Năm, USA, 1990
Đãu Chân Viễn Khách, USA,1995.
-Cánh Thời Gian,USA, 1997.
-Ngàn Dặm Thương Yêu. USA, 1999.
-Vẫn Mãi Yêu Em, USA,2000.
Thái Tú Hạp có 6 thi phẩm:
-Tuyển tập Sông Thu (cùng Thành Tôn, Hoàng Quy)
-Thèm Về (thơ 1970)
-Chim Quyên Lạc Ngàn (thơ 1982)
-Miền Yêu Dấu Phương Ðông (thơ 1987)
-Thơ Văn Phật Giáo (tuyển tập 1993)
-Hạt Bụi Nào Bay Qua (thơ 1995)
Trần Hồng Châu có 4 thi phẩm
-Nửa Khuya Giấy Trắng (thơ Thanh Văn, USA 1992)
-Nhớ Ðất Thương Trời (thơ, Thế Kỷ USA 1995)
-Hạnh Phúc Ðến Từng Giây (thơ, Văn Học, USA 1999)
-Suối Tím. Văn Nghệ, USA , 2003
Vân Nương đã đóng góp 4 thi phẩm :
-Con Đường Lý Tưởng , 1990
-Nhớ Một Người Đi, 1996.
-Mây Viễn Phố, 1996
-Trăng Viễn Phố, 2001.
Lâm Háo Dũng có 4 thi phẩm
-Ngày Đi Thương Sợi Khói Bên Nhà (1985),
- Đi Giữa Thời Tan Nát (1989),
-Tóc em dài em cài bông hoa lý (XB tại Canada, 1989)
-Những bài thơ của tôi (XB tại Australia, 2013)
Hàn Song Tường : 2 thi phẩm:
-Viên Sỏi Quê Hương (1986),
-Trong Nỗi Nhớ Một Ngày (2012)
Và ba tập truyện
- Một Dặm Tương Thân (viết với Ðặng Phùng Quân, 1988),
-Phía Bên Kia Mặt Trời (1995),
-Ở Một Nơi Khác (CA: Van Moi, 2003)
Ngô Minh Hằng có 3 thi phẩm:
- Tiếng Lòng (1996)
-Dư Âm (1998)
-Gọi Đàn (1998)
Những dữ kiện trên chưa phải là đầy đủ, và ghi chép đã lâu có lẽ đã sai lạc vì sau này các tác giả đã sáng tác thêm. Nhưng chừng ấy phác họa cũng cho thấy thi ca hải ngoại, văn học hải ngoại rất phong phú.
Điều thứ nữa là các đề tài của nêền văn học hải ngoại rạt phong phú và mới mẻ. Vượt biên, ngồi tù , xã hội cộng sản, chế độ cộng sàn là những đề tài chưa có trong lịch sủ Việt MNam và thế giới ngoại trừ các văn sĩ Nga, Trung Quốc.
Nguyễn Mộng Giác viết: Cứ thử dở lại những tạp chí văn chương như Văn, Văn Học, Làng Văn, Nhân Văn những năm 1985, 1986, 1987 để so sánh với mấy năm gần đây, chúng ta sẽ thấy điều ấy rất rõ. Hồi đó, sức sáng tác của những nhà văn cũ từng thành danh ở Miền Nam trước 1975 lẫn những nhà văn mới cầm bút ở hải ngoại đều dồi dào. Tình hình xuất bản tuy chưa ổn định như hiện nay, nhưng trên tạp chí văn chương, rõ ràng nhiệt tình tràn đầy trên từng trang giấy. Sau một thời gian chết lịm tuyệt vọng vì cảnh lưu vong bất ngờ, dường như những người cầm bút tìm lại được một niềm tin, một sinh lực. Từ tâm trạng hoài niệm đau đớn, lớp thuyền nhân mới mang qua hải ngoại những kinh nghiệm mới, những cảm thức mới.
Quê hương không còn là những tấm ảnh kỷ niệm cũ. Quê hương hiện ra trong văn chương rõ nét hơn với những tù ngục, đày đọa, khóc cười, máu, nước mắt, thế thái nhân tình diễn ra từ ngày Cộng sản thôn tính Miền Nam. Cuộc sống lưu vong mang một ý nghĩa mới, khuynh hướng đấu tranh thành hình, mang nhiều lửa nhiệt tình vào từng câu văn, câu thơ. Xin giở lại những số NhânVăn trong thời kỳ ấy. Nếu không có một thứ lửa nóng nồng nhiệt và niềm tin cao độ, Tưởng Năng Tiến, Võ Hoàng, Bắc Phong không thểviết được những bài phóng bút, những truyện ngắn, những vần thơ như vậy. Ngay trên những tạp chí văn chương ít dấn thân vào các hoạt động chính trị (như tờ Nhân Văn), trên Văn, Làng Văn, Văn Học, những tạp chí văn chương chấp nhận đăng tải văn thơ theo tiêu chuẩn rộng rãi hơn, chúng ta vẫn thấy chung chung một không khíhào hứng, nhiệt tình.
Một số đông đảo những cây bút mới xuất hiện vào thời kỳ này, và cho đến nay, những truyện ngắn, những bài thơ hay nhất của họ vẫn là những tác phẩm họ viết hồi đó. Trong vòng có ba bốn năm, một nền văn học định hình, trưởng thành, với đầy đủtác giả, tác phẩm, khuynh hươớng, thể loại, một nền văn học màngười Việt hải ngoại có quyền hãnh diện vì chứng tỏ được sức mạnhcủa tự do tư tưởng.[...]. Những đợt thuyền nhân vượt biển ồ ạt đặt chân lên bến bờ tự do từ 1979 trở về sau, mang theo tin tức về một quê hương nghèo đói, đoạ đày, khốn cùng dưới chế độ cộng sản, đã thay đổi hẳn tâm cảm của người cầm bút. Rõ rang mọi người tìm lại được lẽ sống, tìm lại đượcniềm tin.
Cuộc đời mình, khả năng sáng tạo của mình, không còn vô nghĩa vô ích nữa. Từ tự ti, người cầm bút có mặc cảm tự tôn. Người ta bàn luận, nói nhiều về sứ mệnh, về trách nhiệm của người cầm búttrước hiện tình đất nước. Sự hào hứng nhiệt tình của những năm 1984, 1985, 1986, 1987 trong sinh hoạt văn học hải ngoại xuất phát từ mặc cảm tự tôn này. Rõ nhất là khuynh hướng văn nghệ tranh đấu.Người ta nói nhiều tới mặt trận văn hóa văn nghệ, tiến xa hơn nữa,người ta còn muốn mỗi văn nghệ sĩ là một cán bộ tuyên vận. Những tác phẩm và tác giả nổi bật nhất của giai đoạn này đều có một nét chung: là tố cáo chính sách và hành động phi nhân của chính quyền cộng sản, và mơ ước một cuộc giải phóng. Phần tố cáo đạt được tiêu chuẩn nghệ thuật cao nhờ dựa vào những kinh nghiệm thực tế, còn phần dự tưởng tương lai thì tùy từng tác giả, khi rõ nét khi chỉ là hyvọng chung chung, mơ hồ. [3]
Nếu hai ông viết vào năm 1975-80 thì có lẽ đúng vì buổi đầu khó khăn, tâm trạng hoang mang, nhất là những lớp vượt biên hay theo tàu Mỹ di tản đầu tiên Vạn sự khởi đầu nan. Người Tin Lành sang Mỹ đầu tiên phải chịu trăm cay ngàn đắng vì thời tiết khắc nghiệt ở Mỹ. Dân ta khi theo chúa Nguyễn khai phá đất Đồng Nai cũng chỉ với bàn tay trắng và những túp lều tranh. Các chùa chiền ngày nay nguy nga nhưng khởi đầu thường là nhửng am tranh vách đất. Nhưng từ 1985, hàng trăm ngàn HO đã đến Mỹ trong đó có những nhà văn như Trần Hồng Châu, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng.. thì văn học hải ngoại được tiếp sức. Sau này nó biến chuyển ra sao, nó trở thành văn chương Pháp ở Canada hay chờ ngày dẹp tan cộng sản, văn học quốc nội và hải ngoại trở thành một thể, hoặc thành ra hình thái nào thì cũng là quy luật sinh trụ hoại diệt.. Dầu sao, từ 1985 về sau, văn học hải ngoại đã hình thành và phát triển.
Ngoài hai Nguyễn tiên sinh ra còn có vài ý kiến chỉ trich văn học hải ngoại. Huỳnh Phan Anh, một nhà văn miền Nam đã di tản sang Mỹ nhưng đi về Việt Nam luôn. Ông trả lời phong viên báo Tuổi Trẻ ở Việt Nam: Trước hết, tôi xin khẳng định một điều là cho dù tôi có sống tại Mỹ một vài năm hay trong suốt phần còn lại của cuộc đời thì tôi cũng khó hội nhập được vào nước Mỹ! Tôi không bao giờ là một nhà văn lưu vong. Tôi là một nhà văn VN sinh sống tại Mỹ do hoàn cảnh riêng của gia đình. Tôi biết rằng có một vài người tại Mỹ tự bỏ tiền ra in tác phẩm của mình rồi tự xưng là nhà văn lưu vong... Nhưng tôi đã và vẫn sẽ là một người VN[4]. .
Nói như vậy ông tự xưng ông là giông dơi, phi cầm phi thú Hay nói rõ hơn, ông là Việt kiều yêu nước, không phải là tay sai Mỹ ngụy Ông nhận định về văn học hải ngoại “Đặc điểm lớn nhất của những cây bút hải ngoại, cụ thể ở Mỹ là họ sống ở ngoại quốc nhưng lại viết về tâm trạng Việt Nam. Nhưng họ có hít thở bầu không khí Việt Nam đâu mà viết! Tôi vẫn nhớ lời nhà văn Boris Paternak nói rằng một nhà văn không thể xa rời tổ quốc mình”[5]
Nói như vậy là Huỳnh tiên sinh chỉ biết nghệ thuật duy thực và không biết gì về lý thuyết văn học quốc tế. Tiên sinh cũng chẳng biết gì về nghệ thuật sáng tạo. Trường phái nghệ thuật nào đi nữa cũng có một hoặc hai yếu tố là sự thực và tưởng tượng.Trong thư viện ngày nay, người ta chia ra hai hạng tiểu thuyết: Tiểu thuyết tưởng tượng (fiction) và tiểu thuyết không tưởng tượng.( non-fiction) . Cứ theo Huỳnh Phan Anh thì Tô Hoài có phải là dế đâu mà viết Dế Mèn Phiêu Lưu Ký, Nguyễn Tất Thành làm bồi tàu trên biển rồi sang Nga làm tay sai cho đệ tam quốc tế, cho Stalin rồi Mao Trạch Đông đâu có ở Việt Nam mà khoe mẽ là tìm đường cứu nước!
Nên đem Jules Verne ( Hai vạn dặm dưới đáy biển Vingt mille lieues sous les mers), J. K. Rowling (Harry Porter) và các ông lưu vong như Milan Kundura, như Joseph Brodsky, như Aleksandr Solxhenitsyn,… vào trại cải tạo tư tưởng, hoặc lên dàn hỏa thiêu... Chỉ có các vị ở Việt Nam , nhất là các “đồng chí” thấm nhuần tư tưởng Mác Lê mới có độc quyền viết về Việt Nam, các ông bà hải ngoại đừng hòng! Hơn nữa, Huỳnh Tiên sinh hiểu sai lời văn Boris Paternak. Một nhà văn không thể xa rời tổ quốc mình nghĩa là phải luôn nhớ tổ quốc, nhớ đồng bào đang quằn quại dưới ach thống trị cộng sản, và phải tranh đáu cho tự do dân chủ của nhân dân trong nước. còn khi bạo quyền ra lệnh trục xuất như các trí thức Nga thời Lenin, Stalin, hoặc bị săn đuổi, chém giết và bỏ tù như trường hợp Việt Nam thì nhà văn phải bỏ đi thôi.
Yêu tổ quốc, không muốn xa tổ quốc nhưng làm sao được. Nếu ông hiểu Boris Paternak như thế, và nếu ông nặng lòng với đất nước cộng sản, sao ông còn chạy theo” Mỹ ngụy” . Sang Mỹ thấy trái với lý tưởng phục vụ XHCN sao không trở về. Lúc ra đi , ông cũng ở tuổi tam thập nhi lập, đã đi dạy học, có phải trẻ con lên ba mà bị cha mẹ hay vợ nhà cưỡng bách di tản? Tội nghiệp cho hai cụ và cô nàng xinh xinh bị đổ thừa! Ông bảo “Trước khi làm nhà văn, phải học làm người. Có nhiều loại người: người thiện, kẻ ác, người trung, kẻ nịnh. Trước mặt hiện nay có hai loại người người cộng sản và người quốc gia. Ông đã là nhà văn, tất ông đã thành người , vậy ông thuộc hạng người nào?
Nguyễn Duy, một nhà thơ trong nước, thành viên nồng cốt của Hội Nhà Văn VN, người đã được đi xuất ngoại nhiều lần với tư cách là đại biểu của giới cầm bút trong nước, đã nói “người Việt ở hải ngoại không thể đóng góp vào văn học Việt Nam được vì họ đang mất dần sự thuần chất của ngôn ngữ, mất cái tiếng đang được nói và viết ở Việt Nam.”(Ibid).
Các lớp trẻ về sau tất giỏi Anh, Pháp cũng có thể giỏi cả Việt Anh Pháp, ông nhà thơ đừng coi thường! Còn lớp Võ Phiến, Hồ Trường An, Đặng Phùng Quân, Nguyễn Văn Sâm, Phan Ni Tấn, Trần Mộng Tú, Nguyễn Thị Hoài, Ngô Minh Hằng ..chưa quên tiếng Việt, sao ông nỡ truất quyền viết của người ta? Cũng như Huỳnh Phan Anh và các vị khác, nhà thơ ta có oc cục bộ, địa phương, tuyên bố thẳng thừng là bọn hải ngoại hãy xê ra!
Trong khi các ông đầu gấu bán nước cho Trung Cộng, cướp nhà cướp đất của dân, các ông văn nghệ sĩ quốc nội thì kỳ thị và có óc chuyên chính độc tài , thế thì ai dám tin hòa hợp hòa giải? Các ông văn nghệ sĩ hải ngoại đừng thấy các “đồng chí “ lên tiếng đòi dân chủ, chỉ trích đảng mà vội lân là đến gần làm quen. Niềm kiêu hãnh và óc độc tài vẫn còn ngự trị trong ý thức và tiềm thưc người cộng sản. , Marx hô hào xóa bỏ giai cấp nhưng cuộc đời bao giờ cũng núi cao biển rộng, không phải là bình nguyện, Dưới mắt cộng sản các ông hải ngoại muôn đời vẫn là dân ngụy, tay sai đế quốc, còn họ là anh hùng bách chiến bách thắng. Trừ bọn nịnh hot, các ông văn nghệ sĩ chân chính nên tự hiểu mình:
“ Gối rơm theo phận gối rơm, / Có đâu dưới thấp lại chồm lên cao”.
Thật ra, chỉ một số "cà cuống đến đít còn cay", vẫn tự hào bách chiến bách thắng và đĩnh cao trí tuệ của loài người, còn phe quốc gia là trộm cướp, dĩ điếm, dốt nát, và văn học miền Nam là văn học đồi trụy. Gần thế kỳ trước, Vũ Hoàng Chương đã thấy được người quốc gia bị khinh bỉ, bi giết, bị tống gam phải bỏ nước mà trôi dạt trên sóng đai dương:
Lũ chúng tôi lạc loài dăm bảy đứa,
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh!
Bể vô tận sá gì phương ghướng nữa,
Thuyền ơi thuyền, theo gió hãy lênh đênh.
Và hơn một thế ky trước, đầu thế kỷ XX, cư sĩ Nguyễn Văn Thới đã thấy dân Bác Kỳ cục kỳ ngạo mạn, đốt sách, xuyên tạc lịch sử, ngang ngược tạo ra một nền văn học dối trá, miệt thị văn học miền Nam:
Trách thay Bắc địa lộng tình
Tác thơ kinh sử bất bình trung can
Đêm nằm nát một lá gan
Oán thù nịnh tặc chẳng an trong lòng.
(Thừa nhàn)
Số đó chỉ là số it, còn tuyệt đại đa số nhân dân tôn trọng người chiến sĩ quốc gia và văn học nghệ thuật quốc gia. Bằng chứng rõ rệt là sau 1975, ngtười Băc vào Nam nhận hàng, trong các món hàng như vải voc, áo quần, xe đạp, radio, TV..., họ cũng mang về kinh Phật, tiểu thuyết, và các sách văn học, triết học. Ngày nay, nhân dân Miền Bắc rất thích nhạc vàng, và say mê nghe các giọng hát Thái Thanh, Thanh Thúy,Thanh Tuyến, Hà Thanh... Rõ rệt nhất lá anh em của Phan Lạc Tiếp đã đón tiếp ông rất nồng hậu và bảo vệ ông trong thời gian ông về Sơn Tây (Quê Nhà 40 Năm Trở Lại). Trong khi một vài anh chàng vẫn thờ Mac, Mao, Stalin, vẫn có nhiều người hoàn toàn đồng tâm, đồng chí với người quốc gia. Chúng ta sẽ cùng họ chiến đấu diệt cộng sản, xây dựng một nền tự do, dân chủ cho Việt Nam.
Dẫu sao, trong giai đoạn nhá nhem tranh tối tranh sáng, ta vẫn phải thận trọng kẻo bi hố. Đừng ôm chầm lấy họ, "hồ hởi phấn khởi" vỗ tay đòm độp , gửi tiền bạc cho họ, tôn họ làm lãnh tụ..Chúng ta không buồn khi nghe bọn vô thần báng bổ thần thánh nhưng cũng chẳng nên híp mắt khi nghe các ông Việt Cộng nói những lời đường mật giả dối. Trong khi thiên hạ xây dựng cung vàng điện ngọc, chúng ta là những nạn nhân chiến tranh, bỏ làng xóm mà đi, đến đất mới lập ra những túp lều tranh để nươngn náu. Ta không nên tự tôn mà cũng chẳng tự ty vì nó là công lao của ta, là kỷ niệm hạnh phuc buổi đầu của người “ di tản buồn”. Khi cái tâm đã thiên lệch thì "yêu nên tốt ghét nên xấu". Cộng sản có thói căm thù quốc gia, nhưng ta là người quốc gia, phải ủng hộ công cuộc xây dựng cộng đồng hải ngoại Sao lại khinh khi, dèm xiểm công cuộc xây dựng văn hóa nghệ thuật và bảo tồn văn hóa dân tộc của các cộng đồng hải ngoại?
Văn học nghệ thuật ngày nay hoàn toàn không nuôi sống ai, trừ rất ít một số có tài kinh doanh. Chúng ta bây giờ xem nghề văn, thơ là nghề tay trái. Ngày nay, chúng ta dường như hiếm thấy những văn chuyên nghiệp. Chúng ta ngày nay viết truyện, làm thơ và ca hát vào những lúc rảnh rang. Còn thì giờ chính chúng ta phải lo sinh kế. Nhiều khi không phải là một nghề. Nhà văn, nhà thơ lại còn phải bỏ tiền ra in, truyện, thơ và sách, báo.
Theo con đường văn học nghệ thuật không có lợi mà chỉ có hao tốn. Nói một cách khác, chúng ta bây giờ làm văn hóa là hoàn toàn bất vụ lợi. Chúng ta bây giờ hy sinh cho lý tưởng như một tín đồ khổ hạnh, như những thánh tử đạo vì con đường chúng ta đi đầy khốn khó đau thương! Chúng ta phải trở lại thời Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Du, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú viết mà không nghĩ đến lợi nhuận. Chúng ta ở hải ngoại có mọi thứ tự do, không bị ai ra lệnh, bị ai kiểm soát và bị bỏ tù như trong chế độ cộng sản. Chúng ta cắt da xẻ thịt phục vụ văn học nghệ thuật, chẳng có ai yểm trợ trừ số it được các đại học yểm trợ.
Sự sút giảm này do là chúng ta không có khách hàng và thị trường. Chúng ta ngày nay khác hẳn thời kỳ trong nước. Tại miền Nam từ đầu thế kỷ XX cho đến 1975, nghề văn thơ dù thanh đạm vẫn kiếm ra tiền. It nhất viết một bài báo cũng được một bát phở! Ngày nay chúng ta không có độc giả, không có thị trường. Chỉ còn những ông già, bà lão biết chữ quốc ngữ là còn đọc thơ văn Việt Nam. Và trừ một vài vùng nhiều người Việt như California, Houston (Mỹ) lớp trẻ còn nói và đọc tiếng Việt, còn các nơi khác, lớp trẻ chỉ học Anh Văn, hoặc rất ít học tiếng Việt. Chúng ta có khoảng hai triệu người Việt rải rác trên thế giới, nhưng số độc giả tiếng Việt không biết được là bao, nhưng chắc chắn là rất khiêm nhường!
Các nhà nghiên cứu Pháp như Albert Camus, J.Paul Sartre đã đặt câu hỏi viết để làm gì? Viết cho ai? Câu hỏi này lại trở thành quan trọng hơn khi nói đến văn học Việt Nam hải ngoại.
Người nghệ sĩ cảm nhận âm thanh, màu sắc và cảm giác khi tiếp xúc với ngoại giới. Cũng có thể tự trong tim mình phát xuất những ý niệm, hình ảnh. Cũng như những phụ nữ mang thai, những vấn đề, những hình ảnh, những cảm xúc càng ngày càng phát triển mạnh, thôi thúc nghệ sĩ phải đem nó ra ngoài cuộc đời. Nhà văn, nhà thơ phải viết, phải ngâm, nhà họa sĩ phải vạch thành đường nét, nhà điêu khắc phải tạo thành hình khối, và các nhạc sĩ phải tạo thành âm thanh. Để làm gì? Có nhiều mục đích. Trước tiên là để tự mình thưởng thức, và khám phá cái đẹp và cái bí mật của vũ trụ. Sau đó là để truyền bá trong đại chúng để đại chúng thưởng thức, và đóng góp phần mình vào kho tàng văn học, nghệ thuật và khoa học của quốc gia và nhân loại.
Những văn nghệ sĩ Liên Xô, Đông Âu, Việt Nam đã cùng chung cảnh ngộ. Họ bị chế độ cộng sản phi nhân bắt bớ, giam cầm và tước đoạt mọi thứ tự do và quyền lợi, trong đó có quyền tự do ngôn luận và quyền sống . Quan trọng hơn hết, họ bị chế độ bạc đãi và đày ải ra khỏi quê hương. Nhân dân và văn nghệ sĩ ta không bị chế độ đuổi ra khỏi nước như Liên Xô, Đông Âu. Ta tự bỏ nước ra đi vượt bao nguy hiểm qua rừng sâu và biển cả để đến bến bờ tự do. Dù khác nhau, các văn nghệ sĩ vẫn giống nhau về một nỗi đau lưu đày biệt xứ.
Tại quốc gia của họ, họ bị cấm viết, nay ra ngoại quốc, họ liền thực hiện quyền tự do thiêng liêng này. Họ phải viết vì viết là sở thích, là nguồn sống, là lý tưởng của họ. Họ cần viết vì viết đã trở thành một nhu cầu. Nếu Pascal nói 'Tôi suy nghĩ vậy tôi hiện hữu'' thì các văn nghệ sĩ cũng có thể nói: Tôi viết, vậy tôi hiện hữu'' hay ''tôi sáng tác, vậy tôi hiện hữu''. Văn nghệ sĩ chỉ hiện hữu, chỉ thực sự là mình khi sáng tác.
Sự sút giảm này do là chúng ta không có khách hàng và thị trường. Chúng ta ngày nay khác hẳn thời kỳ trong nước. Tại miền Nam từ đầu thế kỷ XX cho đến 1975, nghề văn thơ dù thanh đạm vẫn kiếm ra tiền. It nhất viết một bài báo cũng được một bát phở! Ngày nay chúng ta không có độc giả, không có thị trường. Chỉ còn những ông già, bà lão biết chữ quốc ngữ là còn đọc thơ văn Việt Nam. Và trừ một vài vùng nhiều người Việt như California, Houston (Mỹ) lớp trẻ còn nói và đọc tiếng Việt, còn các nơi khác, lớp trẻ chỉ học Anh Văn, hoặc rất ít học tiếng Việt. Chúng ta có khoảng hai triệu người Việt rải rác trên thế giới, nhưng số độc giả tiếng Việt không biết được là bao, nhưng chắc chắn là rất khiêm nhường!
Các nhà nghiên cứu Pháp như Albert Camus, J.Paul Sartre đã đặt câu hỏi viết để làm gì? Viết cho ai? Câu hỏi này lại trở thành quan trọng hơn khi nói đến văn học Việt Nam hải ngoại.
Người nghệ sĩ cảm nhận âm thanh, màu sắc và cảm giác khi tiếp xúc với ngoại giới. Cũng có thể tự trong tim mình phát xuất những ý niệm, hình ảnh. Cũng như những phụ nữ mang thai, những vấn đề, những hình ảnh, những cảm xúc càng ngày càng phát triển mạnh, thôi thúc nghệ sĩ phải đem nó ra ngoài cuộc đời. Nhà văn, nhà thơ phải viết, phải ngâm, nhà họa sĩ phải vạch thành đường nét, nhà điêu khắc phải tạo thành hình khối, và các nhạc sĩ phải tạo thành âm thanh. Để làm gì? Có nhiều mục đích. Trước tiên là để tự mình thưởng thức, và khám phá cái đẹp và cái bí mật của vũ trụ. Sau đó là để truyền bá trong đại chúng để đại chúng thưởng thức, và đóng góp phần mình vào kho tàng văn học, nghệ thuật và khoa học của quốc gia và nhân loại.
Những văn nghệ sĩ Liên Xô, Đông Âu, Việt Nam đã cùng chung cảnh ngộ. Họ bị chế độ cộng sản phi nhân bắt bớ, giam cầm và tước đoạt mọi thứ tự do và quyền lợi, trong đó có quyền tự do ngôn luận và quyền sống . Quan trọng hơn hết, họ bị chế độ bạc đãi và đày ải ra khỏi quê hương. Nhân dân và văn nghệ sĩ ta không bị chế độ đuổi ra khỏi nước như Liên Xô, Đông Âu. Ta tự bỏ nước ra đi vượt bao nguy hiểm qua rừng sâu và biển cả để đến bến bờ tự do. Dù khác nhau, các văn nghệ sĩ vẫn giống nhau về một nỗi đau lưu đày biệt xứ.
Tại quốc gia của họ, họ bị cấm viết, nay ra ngoại quốc, họ liền thực hiện quyền tự do thiêng liêng này. Họ phải viết vì viết là sở thích, là nguồn sống, là lý tưởng của họ. Họ cần viết vì viết đã trở thành một nhu cầu. Nếu Pascal nói 'Tôi suy nghĩ vậy tôi hiện hữu'' thì các văn nghệ sĩ cũng có thể nói: Tôi viết, vậy tôi hiện hữu'' hay ''tôi sáng tác, vậy tôi hiện hữu''. Văn nghệ sĩ chỉ hiện hữu, chỉ thực sự là mình khi sáng tác.
Còn mọi sự khác chỉ là tạm bợ. Muốn thực hiện điều này, văn nghệ sĩ phải vượt qua bao khó khăn về vật chất và tinh thần để đứng vững, và ngồi vững trong cuộc đời mà cầm bút. Họ cần viết để ghi nhớ lại cuộc đời họ và đất nước họ. Họ cần viết để tố cáo tội ác cộng sản trước dư luận thế giới. Họ lên tiếng để tranh đấu cho tự do, dân chủ và quyền làm người đang bị chà đạp tại quê nhà. Đồng bào quốc nội đang bị đàn áp, khủng bố, họ mong muốn những người đã đến bến bờ tự do, phải tranh đấu cho tự do, dân chủ ở quê nhà.
Họ cũng mong muốn các văn nghệ sĩ khi ở trong nuớc không được viết, không đuợc phát biểu tư tưởng và tình cảm của mình, nay ra nước ngoài, phải hoạt động trở lại, phải làm một cái gì cho dân tộc và văn học. Do đó, lớp văn nghệ sĩ đầu tiên mang bao tâm trạng uất ức, mang theo trong tim bao hoài niệm quê hương cho nên ai cũng muốn viết ra, nói lên trong những trang sách. Vì vậy mà dậy lên một phong trào sáng tác. Nhà nhà làm thơ, người người làm văn. Ai cũng tự nhiên thành thi văn sĩ.
Văn học nghệ thuật hải ngoại là đồng khởi, là đột xuất, là tự biên, tự diễn, không do ai lãnh đạo, không do ai bỏ tiền ra yểm trợ như một số người suy nghĩ theo thói quen vu vạ và chụp mũ, như những người xã hội chủ nghĩa trên báo chí cho rằng Võ Phiến là người lãnh đạo văn học hải ngoại ( cũng như Tố Hữu là trùm văn học và tư tưởng cộng sản trước đây), mà thế lực đàng sau là đế quốc Mỹ bỏ tiền ra để chống phá chế độ cộng sản.
Họ nghĩ sai. Bao thập niên qua, Mỹ không còn coi cộng sản là kẻ thù. Hồi giáo mới là kẻ thù của họ. Họ đã đưa tài sản, máy móc, hãng xưởng qua Trung Quốc, Việt Nam . Chỉ có người quốc gia chân chính mới thù ghét chế độ tàn ác và độc tài cộng sản. Khi đã coi cộng sản nếu không là bạn thì cũng là công cụ cho việc sản xuất và kinh doanh của họ, họ sẽ không có kế họạch nào cần thiết để bỏ tiển ra cho những công việc chống cộng. Sau hiệp định Paris 1973, mọi kế hoạch chống cộng đã xếp lại rồi. Chỉ riêng người quốc gia vẫn tiếp tục ý chí đấu tranh của mình dù không có Pháp hay Mỹ viện trợ. Nói tóm lại, với các văn nghệ sĩ lưu vong, sáng tác là :
-phản kháng chính sách nô dịch văn hóa của cộng sản
-phản kháng sự ngăn chận tự do ngôn luận, tự do sáng tác của cộng sản.
-trình bày sự thật của lịch sử, tố cáo tội ác của cộng sản trước đồng bào và nhân dân thế giới, đồng thời chống lại chủ trương bóp méo và xuyên tạc sự thật của cộng sản.
-tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại quê hương.
Ở lời nói đầu trong tập truyện Miền Thương Uyển Xưa, Đặng Phùng Quân viết:
Hành trạng của viết phác lên tiếng thương đau cho những người cầm bút giờ đây còn đang bị đầy đọa trong cái thế giới 'cơm,áo, gạo, tiền' rất hiện thực, cũng rất phi nhân, giờ đây không thể biết đến viết là gì.
Nhân vật nữ tại Việt Nam trong Ngày Tháng Bồng Bềnh của Nguyễn Văn Sâm đã nói:
Ở đây có quá nhiều chuyện bất công, quá nhiều điều xấu. Qua được bên đó, anh hãy viết thế nào cho mọi người nhận chân được lẽ chính tà, khơi dậy được suy nghĩ về số phận bi thảm của dân tộc mình (11).
Khi ở trong tù, Hà Thúc Sinh tự nhủ rằng nếu được sống trở về sẽ làm'' một đời thằng mõ không công'' . Cũng trong Lời nói đầu của Đại Học Máu, Hà Thúc Sinh viết rằng tác phẩm của ông là một bản phúc trình của một người lính Việt Nam Cộng Hòa bị bỏ rơi, bị ở tù cộng sản rồi được thoát ra ngoài . . .
Mở đầu quyển Hỏa Ngục Đỏ, Mối Tình Tôi, Lucien Trong viết:
…Tôi không viết quyển sách này để thỏa mãn sự căm giận. Đã bị đẩy đến tận cùng của tuyệt vọng, giờ không còn gì hơn ngoài sự mệt mỏi chán chường. Quyển “Enfer Rouge, mon amour” tôi viết bằng tiếng Pháp là để bày tỏ cùng Quốc tế tiếng nói uất nghẹn của một dân tộc đang bị kềm kẹp, còn quyển sách viết ra tiếng Việt nầy mới là lời tâm sự với những người đồng hương hiện cùng mang chung với tôi tâm trạng đau thương của người dân mất nước, nay đã trở thành hỏa ngục Đỏ, mối tình tôi….
Bàn về văn học hải ngoại, người cộng sản quốc nội hay thiên cộng, bợ đỡ cộng sản ở hải ngoại đã cho rằng không có một nền văn học hải ngoại, và họ cũng bắt chước Marx mà bảo văn học hải ngoại đang dẫy chết. Họ không biết rằng hiện nay tại quốc nội, tình trạng văn học nghệ thuật đang xuống dốc. Văn nghệ sĩ không muốn sáng tác và độc giả đã và đang lìa bỏ họ.
Sau ngày bỏ chính sách bao cấp, theo đường lối kinh tế thị trường, các nhà xuất bản (tất cả là quốc doanh) phải tính lời lỗ, chứ không như trước. Nhà xuất bản chỉ in những sách do đảng quyết định mặc dầu những sách này không ai mua như Lenin Toàn Tập, Hồ Chí Minh Toàn Tập. . .Những cá nhân bình thường muốn in sách thì phải bỏ tiền in và nộp tiền cho nhà xuất bản ( nhà xuất bản Quân Đội, Thông Tin, Văn Hóa, Phụ Nữ, Lao Động ) để mua lấy giấy phép. Khi xin được phép, dở bản thảo ra, người ta mới té ngữa ra là từ nhan đề cho đến nội dung đã đổi khác vì nhà xuất bản có quyền kiểm duyệt, và người kiểm duyệt muốn chứng tỏ họ có học vấn cao, có tài văn chương trác tuyệt và nhất là có trình độ chính trị Mác Lê Nin cao ngất ngọn tre! Sau khi in, tác giả phải lo việc phát hành mà chắc chắn là lỗ.
-phản kháng chính sách nô dịch văn hóa của cộng sản
-phản kháng sự ngăn chận tự do ngôn luận, tự do sáng tác của cộng sản.
-trình bày sự thật của lịch sử, tố cáo tội ác của cộng sản trước đồng bào và nhân dân thế giới, đồng thời chống lại chủ trương bóp méo và xuyên tạc sự thật của cộng sản.
-tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại quê hương.
Ở lời nói đầu trong tập truyện Miền Thương Uyển Xưa, Đặng Phùng Quân viết:
Hành trạng của viết phác lên tiếng thương đau cho những người cầm bút giờ đây còn đang bị đầy đọa trong cái thế giới 'cơm,áo, gạo, tiền' rất hiện thực, cũng rất phi nhân, giờ đây không thể biết đến viết là gì.
Nhân vật nữ tại Việt Nam trong Ngày Tháng Bồng Bềnh của Nguyễn Văn Sâm đã nói:
Ở đây có quá nhiều chuyện bất công, quá nhiều điều xấu. Qua được bên đó, anh hãy viết thế nào cho mọi người nhận chân được lẽ chính tà, khơi dậy được suy nghĩ về số phận bi thảm của dân tộc mình (11).
Khi ở trong tù, Hà Thúc Sinh tự nhủ rằng nếu được sống trở về sẽ làm'' một đời thằng mõ không công'' . Cũng trong Lời nói đầu của Đại Học Máu, Hà Thúc Sinh viết rằng tác phẩm của ông là một bản phúc trình của một người lính Việt Nam Cộng Hòa bị bỏ rơi, bị ở tù cộng sản rồi được thoát ra ngoài . . .
Mở đầu quyển Hỏa Ngục Đỏ, Mối Tình Tôi, Lucien Trong viết:
…Tôi không viết quyển sách này để thỏa mãn sự căm giận. Đã bị đẩy đến tận cùng của tuyệt vọng, giờ không còn gì hơn ngoài sự mệt mỏi chán chường. Quyển “Enfer Rouge, mon amour” tôi viết bằng tiếng Pháp là để bày tỏ cùng Quốc tế tiếng nói uất nghẹn của một dân tộc đang bị kềm kẹp, còn quyển sách viết ra tiếng Việt nầy mới là lời tâm sự với những người đồng hương hiện cùng mang chung với tôi tâm trạng đau thương của người dân mất nước, nay đã trở thành hỏa ngục Đỏ, mối tình tôi….
Bàn về văn học hải ngoại, người cộng sản quốc nội hay thiên cộng, bợ đỡ cộng sản ở hải ngoại đã cho rằng không có một nền văn học hải ngoại, và họ cũng bắt chước Marx mà bảo văn học hải ngoại đang dẫy chết. Họ không biết rằng hiện nay tại quốc nội, tình trạng văn học nghệ thuật đang xuống dốc. Văn nghệ sĩ không muốn sáng tác và độc giả đã và đang lìa bỏ họ.
Sau ngày bỏ chính sách bao cấp, theo đường lối kinh tế thị trường, các nhà xuất bản (tất cả là quốc doanh) phải tính lời lỗ, chứ không như trước. Nhà xuất bản chỉ in những sách do đảng quyết định mặc dầu những sách này không ai mua như Lenin Toàn Tập, Hồ Chí Minh Toàn Tập. . .Những cá nhân bình thường muốn in sách thì phải bỏ tiền in và nộp tiền cho nhà xuất bản ( nhà xuất bản Quân Đội, Thông Tin, Văn Hóa, Phụ Nữ, Lao Động ) để mua lấy giấy phép. Khi xin được phép, dở bản thảo ra, người ta mới té ngữa ra là từ nhan đề cho đến nội dung đã đổi khác vì nhà xuất bản có quyền kiểm duyệt, và người kiểm duyệt muốn chứng tỏ họ có học vấn cao, có tài văn chương trác tuyệt và nhất là có trình độ chính trị Mác Lê Nin cao ngất ngọn tre! Sau khi in, tác giả phải lo việc phát hành mà chắc chắn là lỗ.
Nên biết rằng trong chế độ cộng sản, người ta đề ở bìa số in là hàng chục ngàn nhưng thực tế được là bao thì khó biết. Nghề dạy học nói chung, đặc biệt là nghề dạy và học văn học đã suy đồi thê thảm, vì không ai muốn làm những cán bộ tuyên vận, làm những kẻ đánh đĩ mồm, ca tụng đảng trong khi thực tế quá rách nát! Còn sinh viên, học sinh coi giờ văn là giờ tra tấn. Người ta không còn thích đọc sách nữa. Không bao giờ còn cái cảnh văn học thịnh trị của miền Nam trước 1975. Không bao giờ ta thấy cảnh nhà xuất bản, nhà in mọc như nấm, và nhà xuất bản trả tác quyền cho nhà văn. Và một nhà văn viết một lần mười cái feuilletons.
Không bao giờ ta thấy cảnh mấy bác xích lô trưa hè dừng xe dưới gốc cây đọc báo hay ngủ trưa, hoặc bàn luận những tin tức thời sự! Dân ta bây giờ tám mươi triệu, đuợc mấy người mua sách báo? Ông Khai Trí trở về Việt Nam là muốn chờ ngày thay đổi để ông có thể sống lại với cơn đam mê xuất bản của ông. Cái thị trường to lớn với tám mươi triệu dân là một niềm mơ ước và là những tính toán lớn lao! Khoảng 1980, cộng sản cho tái bản sách Tự Lực Văn Đoàn, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng để kiếm tiền, và dân chúng cũng đã mua nhiều bởi vì người ta chán cộng sản, đi tìm quá khứ. Trong quyển Hồi Ức 40 Năm Làm Báo, Nguyễn Thụy Long viết về tình hình văn nghệ tại Việt Nam hiện nay:
Tiẻu thuyết truyện ngắn, truyện dài, thơ văn thời bây giờ thật khó tiêu thụ, chẳng nhà in nào chịu in ấn, nếu nhà văn, nhà thơ nào đó có mộng bán tác quyền cho nhà xuất bản, hoặc đầu nậu bỏ tiền ra in để kiếm lời, không còn chuyện đó đâu, hết rồi thuở người ta tìm tiểu thuyết của những nhà văn để xin in, trả tiền tác quyền cho tác giả ( Thời Báo số 1109, 16-9-2004,132. Toronto).
Nhìn chung, vạn sự khởi đầu nan, công việc xậy dựng văn học hải ngoại ở buổi đầu khá vất vả. Có nhiều nguyên nhân :
-Các nhà văn đã già nua, bệnh họan.
-Họ đau khổ vì cuộc sống tạm dung ở đất khách quê người.
-Một số bận mưu sinh
-Kinh tế yếu kém, không có hoặc it có Mạnh Thường Quân yểm trợ.
Ấy thế mà các văn nghệ sĩ đã làm được nhiều việc, quả là thần kỳ !
Tiẻu thuyết truyện ngắn, truyện dài, thơ văn thời bây giờ thật khó tiêu thụ, chẳng nhà in nào chịu in ấn, nếu nhà văn, nhà thơ nào đó có mộng bán tác quyền cho nhà xuất bản, hoặc đầu nậu bỏ tiền ra in để kiếm lời, không còn chuyện đó đâu, hết rồi thuở người ta tìm tiểu thuyết của những nhà văn để xin in, trả tiền tác quyền cho tác giả ( Thời Báo số 1109, 16-9-2004,132. Toronto).
Nhìn chung, vạn sự khởi đầu nan, công việc xậy dựng văn học hải ngoại ở buổi đầu khá vất vả. Có nhiều nguyên nhân :
-Các nhà văn đã già nua, bệnh họan.
-Họ đau khổ vì cuộc sống tạm dung ở đất khách quê người.
-Một số bận mưu sinh
-Kinh tế yếu kém, không có hoặc it có Mạnh Thường Quân yểm trợ.
Ấy thế mà các văn nghệ sĩ đã làm được nhiều việc, quả là thần kỳ !
Bởi vì nhiều lý do. Ở trong nước, chúng ta bị kìm kẹp, nay ra hải ngoại, có quyền tự do, chúng ta viết để hưởng thụ quyền tự do trong một thế giới nhân bản và văn minh. Chúng ta mang trong tim tình yêu quê hương, và bao kỷ niệm êm đềm và đắng cay, nay những cái đó thôi thúc chúng ta viết lên trang giấy. Chúng ta phải viết để nói với thế giới bên ngoài về thực trạng bưng bít trong nước. Và cuối cùng, chúng ta cần viết để xây dựng một nền văn hóa mới, vì ở đâu, con người cần phải có thi ca, tiểu thuyết, âm nhạc, báo chí và thông tin. Dân tộc Việt Nam đã ồ ạt bỏ nước đi tìm tự do, và nay, chúng ta đồng lòng viết để nói lên tiếng nói của tình yêu, tự do và dân chủ.
Ngày nay văn học quốc nội và quốc ngoại đều đình trệ. Sau này không biết sẽ chuyển vần như thế nào nhưng văn học hải ngoại đã có một thời phát triển từ 1980 đến nay dù mấy năm nay việc xuất bản khó khăn...
_____
_____
CHÚ THICH
[1] Nguyễn Văn Lục . Tình trạng lão hóa của văn học Hải Ngoại. https://tiengquehuong.wordpress.com/2015/03/07/van-hoc-hai-ngoai-2/
[2]Thụy Khuê. Thử tìm một lối tiếp cận văn sử học về Hai mươi nhăm năm văn học Việt Nam hải ngoại 1975-2000 http://thuykhue.free.fr/tk99/tiepcan.html
[3] Nguyễn Mộng Giác. Nghĩ về văn học hải ngoại. Văn Mới, California USA, 30-32
[4]http://tuoitre.vn/tin/van-hoa-giai-tri/van-hoc-sach/20040113/nha-van---dich-gia-huynh-phan-anh-toi-da-va-van-se-la-mot-nguoi-vn/16150.html
[5] Nguyễn Mạnh Trinh. Những cái nhìn Văn Học Việt Nam Hải Ngoại từ trong Nước.
https://nguoitinhhuvo.wordpress.com/2015/03/22/nhung-cai-nhin-van-hoc-viet-nam-hai-ngoai-tu-trong-nuoc-nguyen-manh-trinh/
(Trich NGUYỄN THIÊN THỤ * VIỆT NAM VĂN HỌC SỬ TOÀN THƯ-
6 tập - 5000 trang- sẽ xuất bản nay mai)
[1] Nguyễn Văn Lục . Tình trạng lão hóa của văn học Hải Ngoại. https://tiengquehuong.wordpress.com/2015/03/07/van-hoc-hai-ngoai-2/
[2]Thụy Khuê. Thử tìm một lối tiếp cận văn sử học về Hai mươi nhăm năm văn học Việt Nam hải ngoại 1975-2000 http://thuykhue.free.fr/tk99/tiepcan.html
[3] Nguyễn Mộng Giác. Nghĩ về văn học hải ngoại. Văn Mới, California USA, 30-32
[4]http://tuoitre.vn/tin/van-hoa-giai-tri/van-hoc-sach/20040113/nha-van---dich-gia-huynh-phan-anh-toi-da-va-van-se-la-mot-nguoi-vn/16150.html
[5] Nguyễn Mạnh Trinh. Những cái nhìn Văn Học Việt Nam Hải Ngoại từ trong Nước.
https://nguoitinhhuvo.wordpress.com/2015/03/22/nhung-cai-nhin-van-hoc-viet-nam-hai-ngoai-tu-trong-nuoc-nguyen-manh-trinh/
(Trich NGUYỄN THIÊN THỤ * VIỆT NAM VĂN HỌC SỬ TOÀN THƯ-
6 tập - 5000 trang- sẽ xuất bản nay mai)
Tuesday, 1 November 2016
CÀFÉ = BIỂN ĐÔNG
Saturday, October 3, 2015
CÀFÉ HANOI
Thưởng thức cà phê nhớ Hà Nội xưa
\
Toàn bộ bàn ghế trong quán đều là những bộ bàn ghế học sinh cũ từ rất nhiều năm về trước, những tấm áp phích cùng khẩu hiệu, xe máy cổ, tivi, máy ảnh cũ, những tác phẩm hội họa,…
Đến với quán, những lo toan, đua chen không còn nữa. Mọi người đến đây như tìm lại chút thư thái, lắng đọng trong tâm hồn và hoài niệm về những chuyện xưa cũ.
Hà Nội xưa trong quán cà phê bên bờ hồ
Nếu từng rất thích chỗ ngồi ngoài ban công của quán cà phê Đinh nhưng thường xuyên không còn chỗ trống, bạn có thể lựa chọn một địa điểm khác, gần đó nhưng tầm nhìn đẹp không kém, đó là Hanoi Time.
Quán nằm trên gác hai của dãy nhà cổ ở đường Đinh Tiên Hoàng nên bạn phải đi sâu vào con ngõ hẹp và tối mới lên được đây. Lối đi chỉ vừa cho hai người đi bộ tránh nhau, có chỉ dẫn nên bạn cứ theo bậc cầu thang quét vôi vàng là tới.
Với mong muốn đem đến một không gian xưa, quán sử dụng bàn ghế da kết hợp gỗ và các món đồ trang trí với tông màu nâu trầm, cổ điển. Cách sắp xếp chỗ ngồi phù hợp cho khách đi 2-4 người.
Chỗ ngồi được yêu thích trong phòng chính là các ghế gần cửa sổ. Tại đây, quán sử dụng ghế sắt tạo nét thanh mảnh cho hai ô cửa lớn, đón ánh sáng mặt trời.
10 quán cà phê giới trẻ nô nức check in ở Hà Nội
Bên cạnh những quán cũ như Cộng, The Kafe, Cosa Nostra, các quán mới như Runam, D'alice, hay Nhà 9NKC cũng là chốn quen của nhiều người.
Ngay cả khi ngồi ở tầng 1, khách cũng có thể chọn góc sát cửa sổ, nhìn ra ngã ba đường, để nhâm nhi tách trà, nhìn nắng chiều xiên qua ô cửa sổ trong một buổi chiều thanh thản, bình yên. Giá cả ở Cosa Nostra ở mức hợp lý, có phục vụ đồ ăn.
Nhà 9NKC là cách viết tắt của địa chỉ số 9 Nguyễn Khắc Cần. Quán có không gian khá đa dạng: trong nhà, sát cửa sổ, giếng trời, trên sân thượng. Được đầu tư khá kỹ về mặt design, Nhà được đánh giá là một trong những quán cà phê đẹp nhất Hà Nội, dù không có nhiều không gian ngoài trời.
CAFÉ SAI GON
Cà phê Sài Gòn xưa
Bạn đã uống cà phê nhiều, bạn biết muốn pha một ly cà phê tuyệt vời đâu có khó. Cà phê loãng nước nhưng đậm mùi thơm, cà phê mít đặc quánh mà vô vị, hãy chọn một tỷ lệ pha trộn thích hợp là đã đi được 70% đoạn đường rồi; muốn kẹo thêm nữa hả? Muốn hưởng cái cảm giác chát chát, tê tê đầu lưỡi phải không? Dễ mà, thêm vào chút xác cau khô là xong ngay. Bạn muốn có vị rhum, thì rhum; bạn thích cái béo béo, thơm thơm của bơ, cứ bỏ chút bretain vào. Bạn hỏi tôi nước mắm nhĩ để làm gì à? Chà, khó quá đi, nói làm sao cho chính xác đây!
Thì để cho nó đậm đà. Đậm làm sao? Giống như uống coca thì phải có thêm chút muối cho mặn mà đầu lưỡi ấy mà. Uống chanh đường pha thêm chút rhum cho nó ra dáng tay chơi. Như kẻ hảo ngọt nhưng vẫn cắn răng uống cà phê đen không đường cho lập dị. Thèm đá muốn chết nhưng cứ chốn bạn nhậu thì nằng nặc đòi uống chay không đá cho giống khác người, cho đẳng cấp. Tôi không biết, không tả được, mời bạn hãy thử và tự cảm nhận lấy. Bạn đòi phải có tách sứ, thìa bạc; bạn nói phải nghe nhạc tiền chiến, phải hút Capstan (dộng vài phát hết gần nửa điếu và rít đỏ đầu), Ruby hay Basto xanh mới đã đời, thú vị phải không? Bạn đã có đủ những gì bạn cần, sao lại cứ thích đi uống cà phê tiệm? Tôi không trách bạn đâu. Cà phê ngon chỉ mới được một nửa, nhưng chúng ta đâu chỉ cần uống cà phê, chúng ta còn ghiền “uống” con người tại quán cà phê; “uống” không khí và cảnh sắc cà phê; “uống” câu chuyện quanh bàn cà phê và nhiều thứ nữa. Vậy thì mời bạn cùng tôi trở lại không khí cà phê Sài Gòn những năm cuối 1960 và đầu 1970.
Sài Gòn những năm giữa thập niên 1960 đến đầu thập niên 1970 tuổi trẻ lớn lên và tự già đi trong chiến tranh. Những “lưu bút ngày xanh” đành gấp lại; những mơ mộng hoa bướm tự nó thành lỗi nhịp, vô duyên. Tiếng cười dường như ít đi, kém trong trẻo hồn nhiên; khuôn mặt, dáng vẻ tư lự, trầm lắng hơn và đầu óc không thể vô tư nhởn nhơ được nữa. Những điếu thuốc đầu tiên trong đời được đốt lên; những ly cà phê đắng được nhấp vào và quán cà phê trở thành nơi chốn hẹn hò để dàn trải tâm tư, để trầm lắng suy gẫm.
Có một chút bức thiết, thật lòng; có một chút làm dáng, thời thượng. Đối với một thanh niên tỉnh lẻ mới mẻ và bỡ ngỡ, Sài Gòn lớn lắm, phồn vinh và náo nhiệt lắm. Phan Thanh Giản đi xuống, Phan Đình Phùng đi lên; hai con đường một chiều và ngược nhau như cái xương sống xuyên dọc trung tâm thành phố giúp định hướng, tạo dễ dàng cho việc di chuyển. Cứ như thế, cái xe cọc cạch, trung thành như một người bạn thân thiết lê la khắp Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định.
Những ngày này, tôi là khách thường trực của quán Cà phê Thu Hương đường Hai Bà Trưng. Quán nằm ở một vị trí đẹp, chiếm ba lô đất ngó chéo qua phía trại hòm Tobia; nơi đây có một căn phòng hẹp vừa đặt quầy thu tiền, vừa là chỗ ngồi cho những ai thích nghe nhạc với âm thanh lớn, phần còn lại là một sân gạch rộng, có mái che nhưng không ngăn vách, từ trong có thể nhìn rõ ra đường qua những song sắt nhỏ sơn xanh với một giàn hoa giấy phủ rợp. Ngồi đây có thể nghe được văng vẳng tiếng nhạc vọng ra từ bên trong; cảm được chút riêng tư cách biệt, nhưng đồng thời cũng có thể nhận ra được sức sống bừng lên mỗi sáng, dáng vẻ mệt mỏi, u ám mỗi chiều đang lặng lờ chảy qua trên đường phía ngoài.
Chủ quán ở đây là một người đặc biệt: Khó chịu một cách dễ thương. Hình như với ông, bán cà phê chỉ như một cách tiêu khiển và pha cà phê là một nghệ thuật kỳ thú. Ông hãnh diện với tên tuổi của Thu Hương và muốn bảo vệ nó. Bạn là khách uống cà phê phải không? Xin cứ ngồi yên đó. Cà phê được bưng tới, ông chủ sẽ ngồi đâu đó quan sát và sẽ xuất hiện đúng lúc cạn phin, sẽ bỏ đường, khuấy đều cho bạn và sẽ lịch sự “xin mời” khi mọi việc hoàn tất.
Ly cà phê như vậy mới là cà phê Thu Hương, đó là cung cách của Thu Hương, đặc điểm của Thu Hương. Trong lãnh vực kinh doanh quán cà phê, có người dùng âm thanh; có người dùng ánh sáng và cảnh trí; có người nhờ sự duyên dáng của tiếp viên; có người dùng phẩm chất của cà phê để hấp dẫn khách. Ông chủ Thu Hương đã chọn cách cuối cùng, cách khó nhất và ông đã thành công. Khách đến với Thu Hương là ai? Nhiều lắm, nhưng dù từ đâu họ đều có điểm giống nhau là tất cả đều trẻ và đều có vẻ “chữ nghĩa” lắm; “ông”, “bà” nào cũng tha tập cours quằn tay, cộng thêm các tập san Sử địa, Bách khoa, Văn và vân vân...
Bạn thường ăn phở gà Hiền Vương, phở Pasteur; bạn thường đi qua đi lại liếc liếc mấy bộ đồ cưới đẹp ở nhà may áo dài Thiết Lập, vậy bạn có biết cà phê Hồng ở đâu không? Thì đó chứ đâu, gần nhà may Thiết Lập, cách vài căn về phía đường Nguyễn Đình Chiểu, ngó xéo qua mấy cây cổ thụ ở bờ rào Trung tâm Thực nghiệm Y khoa (Viện Pasteur). Tôi phải hỏi vì tôi biết có thể bạn không để ý. Quán nhỏ xíu hà, với lại cái tên Hồng và tiền diện của nó trông ủ ê cũ kỹ lắm, chứ không sơn phết hoa hòe, đèn treo hoa kết gì cả.
Từ ngoài nhìn vào, quán như mọi ngôi nhà bình thường khác, với một cái cửa sổ lúc nào cũng đóng và một cánh cửa ra vào nhỏ, loại sắt cuộn kéo qua kéo lại. Quán hẹp và sâu, với một cái quầy cong cong, đánh verni màu vàng sậm, trên mặt có để một ngọn đèn ngủ chân thấp, với cái chụp to có vẽ hình hai thiếu nữ đội nón lá; một bình hoa tươi; một con thỏ nhồi bông và một cái cắm viết bằng thủy tinh màu tím than. Phía sau, lúc nào cũng thấp thoáng một mái tóc dài, đen tuyền, óng ả, vừa như lãng mạng phô bày vừa như thẹn thùng, che giấu.
Cà phê Hồng, về ngoại dáng, thực ra không có gì đáng nói ngoài cái vẻ xuề xòa, bình dị, tạo cảm giác ấm cúng, thân tình và gần gũi; tuy nhiên, nếu ngồi lâu ở đó bạn sẽ cảm được, sẽ nhận ra những nét rất riêng, rất đặc biệt khiến bạn sẽ ghiền đến và thích trở lại.
Hồi đó nhạc Trịnh Công Sơn đã trở thành một cái “mốt”, một cơn dịch truyền lan khắp nơi, đậu lại trên môi mọi người, đọng lại trong lòng mỗi người. Cà phê Hồng đã tận dụng tối đa, nói rõ ra là chỉ hát loại nhạc này và những người khách đến quán - những thanh niên xốc xếch một chút, “bụi” một chút (làm như không bụi thì không là trí thức)- đã vừa uống cà phê vừa uống cái rã rời trong giọng hát của Khánh Ly. Không hiểu do sáng kiến của các cô chủ, muốn tạo cho quán một không khí văn nghệ, một bộ mặt trí thức hay do tình thân và sự quen biết với các tác giả mà ở Cà phê Hồng lâu lâu lại có giới thiệu và bày bán các sách mới xuất bản, phần lớn là của hai nhà Trình Bày và Thái Độ và của các tác giả được coi là dấn thân, tiến bộ.
Lại có cả Time, Newsweek cho những bạn nào khát báo nước ngoài. Quán có ba cô chủ, ba chị em; người lớn nhất trên hai mươi và người nhỏ nhất mười lăm, mười sáu gì đó. Nói thật lòng, cả ba cô đều chung chung, không khuynh quốc khuynh thành gì, nhưng tất cả cùng có những đặc điểm rất dễ làm xốn xang lòng người: Cả ba đều có mái tóc rất dài, bàn tay rất đẹp và ít nói, ít cười, trừ cô chị. Những năm 1980, Cà-phê Hồng không còn, tôi đã thường đứng lại rất lâu, nhìn vào chốn xưa và tự hỏi: Những người đã có thời ngồi đây mơ ước và hy vọng giờ đâu cả rồi? Còn chị em cô Hồng: những nhỏ nhẹ tiểu thư, những thon thả tay ngà, những uyển chuyển “chim di” giờ mờ mịt phương nào?
Viện Đại học Vạn Hạnh mở cửa muộn màng nhưng ngay từ những năm đầu tiên nó đã thừa hưởng được những thuận lợi to lớn về tâm lý, cùng với những tên tuổi đã giúp cho Đại Học Vạn Hạnh được nhìn vừa như một cơ sở giáo dục khả tín, vừa như một tập hợp của những thành phần trẻ tuổi ý thức và dấn thân. Tuy nhiên, dường như cái hồn của Đại Học Vạn Hạnh được đặt tại một tiệm cà phê: Quán Nắng Mới ở dốc cầu, ngó xéo về phía chợ Trương Minh Giảng. Quán Nắng Mới có nhiều ưu thế để trở thành đất nhà của dân Vạn Hạnh, trước nhất vì gần gũi, kế đến là khung cảnh đẹp, nhạc chọn lọc và cuối cùng, có lẽ quan trọng nhất là sự thấp thoáng của những bóng hồng, có vẻ tha thướt, có vẻ chữ nghĩa. Các nhóm làm thơ trẻ đang lên và đang chiếm đều đặn nhiều cột thơ trên báo chí Sài Gòn ngồi đồng từ sáng đến tối để... làm thơ. Nhưng đông hơn cả, ấm áp hơn cả là những nhóm hai người, một tóc dài, một tóc ngắn chờ vào lớp, chờ tan trường và chờ nhau. Nắng Mới đã sống với Vạn Hạnh cho đến ngày cuối cùng. Nắng Mới nay không còn. Những con người cũ tứ tán muôn phương.
Có một quán cà phê thân quen nữa không thể không nhắc đến: Quán chị Chi ở gần đầu đường Nguyễn Phi Khanh, kế khu gia cư xưa cũ, rất yên tĩnh và rất dễ thương, nằm phía sau rạp Casino Đa Kao. Ở đó có những con đường rất nhỏ, những ngôi nhà mái ngói phủ đầy rêu xanh, những hàng bông giấy che kín vỉa hè, trầm lắng cô liêu và im ả tách biệt lắm mà mở cửa ra là có thể nghe người bên trái nói, thấy người bên phải cười và có cảm tưởng như có thể đưa tay ra bắt được với người đối diện bên kia đường. Quán chị Chi độ chín mười thước vuông, chỉ đủ chỗ để đặt ba bốn chiếc bàn nhỏ.
Quán không có nhạc, không trưng bày trang trí gì cả ngoại trừ một bức tranh độc nhất treo trên vách, bức tranh đen trắng, cỡ khổ tạp chí, có lẽ được cắt ra từ một tờ báo Pháp. Tranh chụp để thấy một bàn tay giắt một em bé trai kháu khỉnh, vai đeo cặp sách, miệng phụng phịu làm nũng, hai mắt mở to nhưng nước mắt đang chảy dài theo má, phía dưới có hàng chữ nhỏ:
“Hôm qua con đã đi học rồi mà”. Khách đến với chị Chi không phải coi bảng hiệu mà vào, cũng không phải nghe quảng cáo, mà hoàn toàn do thân hữu truyền miệng cho nhau để đến, nhiều lần thành quen, từ quen hóa thân và quyến luyến trở lại. Chị Chi có bán cà phê nhưng tuyệt chiêu của chị là trà; loại trà mạn sen, nước xanh, vị chát nhưng có hậu ngọt và mùi thơm nức mũi. Trà được pha chế công phu trong những chiếc ấm gan gà nhỏ nhắn, xinh xinh. Ấm màu vàng đất, thân tròn đều, láng mịn, vòi và quai mảnh mai, cân đối.
Mỗi bộ ấm có kèm theo những chiếc tách cùng màu, to bằng ngón tay cái của một người mập, vừa đủ cho hốp nước nhỏ. Ấm có ba loại, được gọi tên ra vẻ “trà đạo” lắm: độc ẩm, song ẩm và quần ẩm, nhưng hồi đó chúng tôi thường “diễn nôm” theo kiểu “tiếng Việt trong sáng” thành ấm chiếc, ấm đôi và ấm bự. Trà được uống kèm với bánh đậu xanh - loại bánh đặc biệt của chị Chi- nhỏ, màu vàng óng và mùi thơm lừng. Nhắp một ngụm trà, khẽ một tí bánh, cà kê đủ chuyện trên trời dưới đất, trông cũng có vẻ phong lưu nhàn tản và thanh cao thoát tục lắm. Quán chị Chi giờ đã biến tướng ít nhiều nhưng dù sao cũng xin cảm ơn chị và xin đại diện cho những anh chị em đã từng ngồi quán chị bày tỏ lòng tiếc nhớ đến chị và đến những ngày khó quên cũ.
Những năm cuối thập niên 60 Sài Gòn có mở thêm nhiều quán cà phê mới, và thường được trang hoàng công phu hơn, có hệ thống âm thanh tối tân hơn và nhất là quán nào cũng chọn một cái tên rất đẹp, phần lớn là dựa theo tên những bản nhạc nổi tiếng: Cà phê Hạ Trắng, Lệ Đá, Diễm Xưa, Hương Xưa, Hoàng Thị, Biển Nhớ, Hoài Cảm, Da Vàng... Tuy nhiên, ở một con đường nhỏ - Hình như là Đào Duy Từ - gần sân vận động Thống Nhất bây giờ, có một quán cà phê không theo khuôn mẫu này, nó mang một cái tên rất lạ: Quán Đa La.
Đa La là Đà Lạt, quán của chị em cô sinh viên Chính Trị Kinh Doanh, có lẽ vừa từ giã thác Cam Ly, hồ Than Thở để về Sài Gòn học năm cuối tại nhà sách Xuân Thu hay sao đó, mở ra. Trường kinh doanh quả là khéo đào tạo ra những môn sinh giỏi kinh doanh: Tin mấy cô sinh viên mở quán thật tình là không được chính thức loan báo ở đâu cả; tuy nhiên, cứ úp úp mở mở như vậy mà tốt, nó được phóng lớn, lan xa, tạo ấn tượng mạnh và quán được chờ đón với những trân trọng đặc biệt, những náo nức đặc biệt.
Những cô chủ chắc có máu văn nghệ, đã cố gắng mang cái hơi hướm của núi rừng Đà Lạt về Sài Gòn: Những giò lan, nhưng giỏ gùi sơn nữ, những cung tên chiến sĩ đã tạo cho quán một dáng vẻ ngồ ngộ, dễ thương; rồi những đôn ghế, những thớt bàn được cưa từ những gốc cây cổ thụ u nần, mang vẻ rừng núi, cổ sơ đã giúp cho Đa La mang sắc thái rất ... Đa La. Ngày khai trương, Đa La chuẩn bị một chương trình văn nghệ hết sức rôm rả, với những bản nhạc “nhức nhối” của Lê Uyên Phương, Nguyễn Trung Cang, Lê Hựu Hà... Đa La đông vui, chứng kiến sự nở hoa và tàn úa của nhiều mối tình. Nhưng Đa La vắng dần những người khách cũ và đóng cửa lúc nào tôi không nhớ.
Cà phê Hân ở Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao là quán thuộc loại sang trọng, khách phần lớn ở lớp trung niên và đa số thuộc thành phần trung lưu, trí thức. Bàn ghế ở đây đều cao, tạo cho khách một tư thế ngồi ngay ngắn, nghiêm chỉnh và bàn nào cũng có đặt sẵn những tạp chí Pháp ngữ số phát hành mới nhất. Câu chuyện ở Hân chắc là quan trọng lắm, lớn lắm; nhìn cái cách người ta ăn mặc; trông cái vẻ người ta thể hiện là biết ngay chứ gì; có lẽ cả thời sự, kinh tế tài chánh, văn chương, triết học đều có cả ở đây. Một chỗ như vậy là xa lạ với dân ngoại đạo cà phê. Nhưng Hân là một nơi hết sức đáng yêu, đáng nhớ của nhiều người, dù ngồi quầy là một ông già đeo kính như bước ra từ một câu chuyện của văn hào Nga Anton Chekov. Về sau, đối diện với Hân có thêm quán cà phê Duyên Anh của hai chị em cô Hà, cô Thanh; cô em xinh hơn cô chị và được nhiều chàng trồng cây si. Hai tiệm cà phê, một sang trọng chững chạc, một trẻ trung sinh động, đã trở thành một điểm hẹn, một đích tới mà khi nhắc đến chắc nhiều anh chị em ở trường Văn Khoa, trường Dược, trường Nông Lâm Súc ngay góc Hồng Thập Tự - Cường Để còn nhớ, cũng như nhớ món bánh cuốn ở đình Tây Hồ bên trong chợ Đa Kao thờ cụ Phan, nhớ quán cơm “lúc lắc” trong một con hẻm nhỏ đường Nguyễn Bỉnh Khiêm mà nữ sinh viên vừa đi lên căn gác gỗ vừa run khi được mấy chàng mời cơm.
Bạn nào muốn gặp các nhà văn nhà thơ, muốn nhìn họ ngậm ống vố, đeo kính cận nói chuyện văn chương thì mời đến quán Cái Chùa, anh em nào muốn có không khí trẻ trung đầm ấm mời đến Hầm Gió; anh em nào muốn có chỗ riêng tư tâm sự thì cứ theo đường Nguyễn Văn Học chạy tuốt lên Gò Vấp, vào quán Hương Xưa, ở đó có vườn cây đẹp, các cô chủ đẹp và cái cách người ta đối đãi với nhau cũng rất đẹp. Cũng đừng quên nhắc đến quán Chiêu, hẻm Cao Thắng. Rồi còn cà phê hàng me Nguyễn Du, cũng Beatles, cũng Elvis Presley như ai ; và cả pha chút Adamo quyến rũ. Giá ở đây thật bình dân nhưng thường xuyên chứng kiến những pha so găng giữa học sinh hai trường nghề Cao Thắng và Nguyễn Trường Tộ.
Chán cà phê thì đi ăn nghêu sò, bò bía, ăn kem trên đường Nguyễn Tri Phương, góc Minh Mạng hoặc bên hông chợ Tân Định. Phá lấu đã có góc Pasteur-Lê Lợi, nhưng chỉ dành cho các bạn có tiền. Rủng rỉnh tí xu dạy kèm cuối tháng có Mai Hương (nay là Bạch Đằng Lê Lợi). Quán Mù U, hẻm Võ Tánh, chỗ thương binh chiếm đất ở gần Ngã tư Bảy Hiền dành cho những bạn muốn mờ mờ ảo ảo. Muốn thưởng thức túp lều tranh mời đến cà phê dựa tường Nguyễn Trung Ngạn gần dòng Kín, đường Cường Để. Rồi quán cà phê Cháo Lú ở chợ Thị Nghè của một tay hoạ sĩ tên Vị Ý. Cao cấp hơn có La Pagode (đổi thành Hương Lan trước khi giải thể), Brodard, Givral. Thích xem phim Pháp xưa, phim Mỹ xưa và ngồi... cả ngày xin mời vào rạp Vĩnh Lợi trên đường Lê Lợi để chung vai với đám đồng tính nam.
Vào Casino Sài Gòn có thể vào luôn hẻm bên cạnh ăn cơm trưa rất ngon tại một quầy tôi đã quên tên. Nhưng rạp Rex vẫn là nơi chọn lựa nhiều nhất của SV, cả nghèo lẫn giàu. Cuộc sống SV cứ thế mà trôi đi trong nhịp sống Sài Gòn. Nghèo nhưng vui và mơ mộng. Tống Biệt hành, Đôi mắt người Sơn Tây sống chung với Cô hái Mơ. Đại bác ru đêm sánh vai với Thu vàng. Ảo vọng và thực tế lẫn vào nhau. Thi thoảng lại pha thêm chút Tội ác Hình phạt, Zara đã nói như thế! Che Guervara, Garcia Lorca. Tất cả những gì tôi nhắc tới là một chút ngày cũ, một chút cảnh xưa, một phần hơi thở và nhịp sống của Sài Gòn trong trí nhớ. Xin tặng anh, tặng chị, tặng em, đặc biệt là tặng tất cả những ai tha hương có lúc bỗng bàng hoàng nhận thấy, dường như một nửa trái tim mình còn đang bay lơ lửng ở cà phê Hồng, Thu Hương, hay đâu đó ở quê nhà.
Nguồn: http://www.quehuongngaymai.com/forums/showthread.php?218159-C%C3%A0-ph%C3%AA-S%C3%A0i-G%C3%B2n-x%C6%B0a
5 quán cà phê "không đụng hàng" ở Sài Gòn
Ngoài đem cát biển về Sài thành, quán còn xây cả một hồ nước nhỏ và có máy tạo sóng thế nên tại đây, thay vì tiếng nhạc, bạn sẽ được thư giãn bằng tiếng sóng biển rì rào và tiếng chim hải âu như thể đang ở biển đích thực. Đặc biệt, để đảm bảo cho khách có không gian thư giãn thoải mái, quán tuy rộng nhưng chỉ kê có 12 ghế bởi vậy nếu muốn có ghế ngồi, bạn phải đặt chỗ trước vài tiếng.
Tại đây bạn sẽ được vùi chân xuống cát trắng, tận hưởng không khí mát mẻ của điều hoà....
.. để thoải mái thư giãn, đọc sách. - Ảnh: Zing
Hàng ngày quán đón hàng trăm lượt khách, chủ yếu là bạn trẻ. Họ đến không chỉ thưởng thức cà phê mà còn tận hưởng sự yên tĩnh, không gian mát lạnh và tha hồ nghịch cát, nghịch nước. Ngoài sự mới lạ về không gian, giá đồ uống ở đây cũng ghi điểm cộng với mức giá từ 20 – 35 ngàn/ phần nước.
Quán cà phê này còn có máy tạo sóng, tạo cho khách cảm giác như ở biển đích thực.
Quán cà phê này còn có máy tạo sóng, tạo cho khách cảm giác như ở biển đích thực.
Đến quán cà phê này, bạn sẽ được những cô hầu gái phục vụ.. Tại quán, ngay từ cửa bạn đã được một "nàng hầu" đứng chờ sẵn, chào đón. Khi khách đã vào đến nơi, các cô "hầu" sẽ cư xử với khách hàng như thế đây là chủ nhân thực sự của mình bằng cách xưng hô "cô chủ, cậu chủ" như "cô chủ dùng gì?", "cậu chủ có cảm thấy vui không?". Theo quy định, họ không chỉ phục vụ đồ uống, đồ ăn mà còn phải nói chuyện với khách khoảng 10, 15 phút nếu các "cô chủ, cậu chủ" muốn trò chuyện. Thậm chí, các "nàng hầu" cũng sẽ bày nhiều trò chơi với khách như chơi bài, bói bài, chơi game...
\
Khách được được các cô hầu phục vụ như thể họ là chủ nhân đích thực.
Ngoài đồ chơi, ở đây còn có cả đàn cho người yêu nhạc. Địa chỉ: Tôn Thất Đạm, Q.1
Không gian quán được thiết kế theo hơi hướng... nhà vệ sinh."Bàn ghế của quán được "cải tạo lại từ bồn cầu, bồn rửa mặt.\
Bàn ghế của quán được "cải tạo lại từ bồn cầu, bồn rửa mặt. Mô hình toilet này khiến nhiều người cảm thấy kì quặc nhưng cũng có rất nhiều người thích thú và muốn trải nghiệm, đặc biệt với các khách hàng trẻ. Tại TP. Hồ Chí Minh, quán Toilet Kingdom hiện là nơi duy nhất kinh doanh theo hình thức táo bạo này, thực đơn của quán khá đa dạng với 30 món nước uống, đồ ăn, giá đồ ở quán từ 25 ngàn đến 65 ngàn đồng/mỗi món.
Ngay cả đồ ăn, đồ uống cũng được phục vụ trong những vật dụng "tái hiện" lại của bồn cầu. - Ảnh: Zing
Cà phê container
Nằm trên một bãi đất trống ở khu dân cư Trung Sơn, nhìn ra rạch Ông Lớn – một nhánh sông Sài Gòn (H.Bình Chánh, TP.HCM), quán cà phê này khiến nhiều người phải tò mò bởi được tạo nên từ hai chiếc vỏ container cũ.
Quán có nhân viên phục vụ nhưng bạn cũng có thể tự pha chế đồ uống theo ý thích của mình...
Quán cà phê dành cho người Sài Gòn xưa ở chung cư cũ
Nằm trên con đường một chiều Thái Văn Lung, quận 1, quán cà phê Người Sài Gòn được xem như căn nhà quen thuộc chào đón những vị khách tìm đến sự bình yên. Chung cư nhìn bên ngoài khá cũ kỹ và cầu thang lên hơi tối do ánh sáng đèn vàng mang lại cảm giác bí ẩn. Khi bước qua những bậc thang, ngay tại tầng 1 bạn sẽ gặp ngay biển hiệu của quán.
Cách trang trí nhẹ nhàng ở bên ngoài quán.
Quán chơi nhạc acoustic vào mỗi tối thứ 5 và thứ 7 hàng tuần. Góc chơi nhạc cũng rất mộc và nhỏ gọn
Quán đậm chất Sài Gòn xưa với những mảng tường bong tróc, cửa gỗ, tivi trắng đen và chiếc xe đạp treo trên tường.
đọc sách
Bạn có thể thư giãn đầu óc, trốn khỏi bộn bề lo toan với một ấm trà hoa thơm nức ngay ở ban công và ngắm phố xá vào cuối ngày.
\
Quán có nhiều món ngon để bạn thưởng thức như cơm tấm, bún bò, bánh ướt, thực đơn gia đình... đặc biệt còn có món mì quảng sẽ được phục vụ vào mỗi thứ 7 hàng tuần. Giá món ăn và thức uống ở đây dao động từ 40.000 đến 80.000 đồng.
2015
NHỮNG QUÁN CÀ PHÊ NỔI TIẾNG
Cafe de Flore
Cafe de Flore luôn thu hút giới trí thức Rive Gauche (khu vực bờ nam sông Seine trong TP Paris) hơn một thế kỷ qua. Đây từng là nơi gặp gỡ của hai nhà văn - nhà triết học nổi tiếng của Pháp Simone de Beauvoir và Jean-Paul Sartre. Ngày nay, Flore vẫn giữ được vẻ quyến rũ kín đáo vốn có.
2. Aux Folies (số 8 phố Belleville)
Quán bar rực rỡ này của khu phố Belleville bar mang đến cho du khách một lát cắt văn hóa đa dạng của đời sống Paris. Bất kể ngày hay đêm, lúc nào cũng có một đám đông ồn ào ngồi chật ngoài mái hiên vỉa hè của quán.
Là quê hương của nữ ca sĩ huyền thoại Edith Piaf và ca sĩ - diễn viên Maurice Chevalier, ngày nay phố Belleville đã trở thành một phố Tàu đích thực cùng với những quầy hàng ăn Bắc Mỹ và những nhà hàng couscous (một món ăn của Bắc Phi, gồm bột mì nấu với thịt hoặc nước thịt).
3. Au Petit Fer a Cheval (số 30 phố cổ Temple)
Quán Au Petit Fer a Cheval nằm trên con phố Temple ở phía tây khu phố Le Marais - phần cổ nhất ở Paris với những cung điện và biệt thự sang trọng có từ thế kỷ 18. Khách du lịch thường lũ lượt kéo đến khu phố này tìm hiểu văn hóa và mua sắm.
Au Petit Fer a Cheval là một nơi thân thiện, rất hấp dẫn những khách hàng kiểu cách. Đặc biệt, du khách đến đây thường “tranh” chỗ ngồi ở những chiếc bàn được kê ngoài vỉa hè để ngắm phố cổ Temple - điểm hấp dẫn chính của khu phố Le Marais.
4. Le Sancerre (35 đường nhà ga Abbesses)
Quán Le Sancerre nổi bật trong số những quán bar hấp dẫn khách du lịch quanh nhà thờ Sacré-Coeur ở khu phố Montmartre. Mở cửa từ 7g-14g vào tất cả các ngày trong tuần, quán Le Sancerre thu hút rất nhiều loại khách, từ những người dân địa phương tự do tự tại đến những người đi xe đạp, từ sinh viên đến khách du lịch. Ngồi ngoài mái hiên vỉa hè, bạn sẽ có một tầm nhìn thông thoáng trong khi thưởng thức một cốc rượu, bia hoặc cocktail.
Top 10 quán cà phê vỉa hè ở Paris
5. Chez Prune (36 phố Beaurepaire)
Các quán bar, cà phê, cửa hàng nhỏ và nhà hàng nằm cạnh bờ sông dọc kênh đào Saint-Martin đã làm biến đổi một phần vốn vắng vẻ của TP Paris nằm ẩn mình bên quảng trường République thành một trong những điểm sôi động nhất TP. Quán Chez Prune nhìn ra bờ kênh Saint-Martin, vì vậy bạn nhớ đến sớm nếu muốn “chộp lấy” một bàn bên ngoài.
6. Pause Café (41 phố Charonne)
Pause Café
Có rất nhiều quán cà phê vỉa hè nằm quanh quảng trường Bastille nhưng để thực sự cảm nhận hương vị cà phê vỉa hè, bạn nên đến quán Pause Café nằm cạnh khu phố ồn ã Faubourg-Saint-Antoine. Với mái hiên đầy nắng, đây là một nơi hoàn hảo để nhâm nhi bữa sáng với nước cam vắt, cà phê sữa và bánh sừng bò.
7. Le (99 đại lộ Boulevard du Montparnasse)
Quán cà phê văn học huyền thoại Le từng là nơi lui tới thường xuyên của nhà văn Hemingway, danh họa Picasso và nhà văn Henry Miller nằm ở khu Montparnasse (bờ nam sông Seine). Le thực sự không thay đổi nhiều lắm từ khi được mở cửa năm 1925. Chắc chắn là quán rất đông khách, nhưng đến đây du khách sẽ được trải nghiệm cuộc sống đích thực đầy thú vị ở bờ nam sông Seine.
8. Cafe de la Paix (số 5 quảng trường Place de l'Opera)
Nếu du khách thực sự muốn thấy những tài xế Paris lái xe “điên cuồng” như thế nào, chẳng có chỗ ngồi quan sát nào tốt hơn mái hiên của quán cà phê lịch sử Cafe de la Paix vì ngay trước mặt quán là ngã tư quảng trường Place de l'Opera.
Cafe de la Paix
Đến đây, du khách đừng bỏ lỡ món hàu và rượu vang Chablis. Cafe de la Paix là một phần của khách sạn Le Grand Hotel, được xây dựng năm 1858 bởi kiến trúc sư Charles Garnier - tác giả của nhà hát nguy nga Opera Garnier. Bạn đừng quên ngắm một vòng không gian đẹp đến không thể tin được của quán và khu vườn mùa đông tuyệt đẹp bên trong khách sạn.
9. Cafe Charbon (109 phố Oberkampf)
Oberkampf là một con phố hẹp và dài chạy từ quảng trường Bastille tới phố Belleville. Là một nơi thoải mái và yên tĩnh ban ngày nhưng khi hoàng hôn buông xuống, phố Oberkampf lại biến thành một trong những khu có đời sống về đêm sôi động nhất Paris.
Du khách có thể chọn những điểm đến hiện đại như quán bar Mecano, quán cà phê Chez Justine và phòng hòa nhạc Nouveau Casino, nhưng chính Cafe Charbon mới là nơi ấn tượng nhất. Một chiếc bàn ở mái hiên vỉa hè của quán luôn là nơi mỹ mãn để ngắm cảnh và người qua lại.
10. Cafe Beaubourg (43 phố Saint-Merri)
Anh em nhà Costes là những nhà thiết kế có uy tín lớn, tác giả của nhiều mô hình quán cà phê, bar và khách sạn ở Paris suốt hai thập kỷ qua, ban đầu là những quán cà phê Costes rồi đến những khách sạn Costes sang trọng trên phố St-Honoré. Nhưng Cafe Beaubourg mới là nơi mang đậm dấu ấn phong cách thiết kế của Costes.
10 điểm đến lý tưởng nhất dành cho những người yêu cà phê trên thế giới
7 cách để cải thiện chất lượng dịch vụ
6 bí quyết kinh doanh nhà hàng từ đầu bếp nổi tiếng Tyson Cole
12 kỹ năng chăm sóc khách hàng mà bất cứ nhân viên nào cũng cần
VINH DANH NGUYEN DU
Trong khi đó, bản tin của Hãng thông tấn TMN News số 148 phổ biến cuối tuần qua, đăng tải trên 2 tuần báo Seattle Việt Times và Việt Báo Miền Nam, chúng tôi ghi nhận được nguyên văn sau đây:
Phát ngôn nhân của Cơ Sở này, nữ ký giả Nguyễn Thị Thanh Vân cho biết như trên, và thêm rằng: Đây là một sinh hoạt văn học nghệ thuật tầm vóc lần đầu tiên được tổ chức tại Miền Tây Bắc Hoa Kỳ & Canada.
Chương trình độc đáo này sẽ diễn ra từ 2:00G tới 6:00G chiều Thứ Bảy ngày 10 tháng 10 năm 2015, tại hội trường của Cổ Lâm Pagoda (ngôi chùa Việt Nam đồ sộ nhất tiểu bang Washington).
Ban Tổ Chức gồm 6 nam nữ văn nghệ sĩ, đã & đang chuẩn bị hình thức và nội dung chương trình rất đặc biệt.
Nhóm Diễn Giả đảm trách bởi 4 thi sĩ thâm cứu Truyện Kiều Nguyễn Du, gồm: Song Xuyên, Lam Nguyên, Trần Thế Phong và Quốc Nam. Trong số này, có 2 diễn giả thông thạo chữ Nho và chữ Nôm.
Danh trống Văn-Thịnh, với hơn nửa thế kỷ trong nghệ thuật "trống" và sáng tạo một số nhạc cụ mới cho âm nhạc cổ truyền, từng biểu diễn trên màn hình Thuý Nga Paris + nhiều nơi khắp nước Việt Nam & 4 châu lục Âu, Úc, Á, Phi trong thời gian qua.
THÔNG TIN & BÌNH LUẬN QUỐC TẾ
Mỹ không chấp nhận hạn chế ở Biển Đông
1 tháng 10 2015 Cập nhật lúc 18:27 ICT
Trước đó, hôm 28/9 Chủ tịch Việt Nam ông Trương Tấn Sang trong một phỏng vấn với hãng tin AP đã cáo buộc Trung Quốc vi phạm luật pháp quốc tế khi tiến hành cải tạo một số đảo và bãi đá tại quần đảo Trường Sa.
Trung Quốc đã ngay lập tức có phản ứng bằng tuyên bố của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao rằng việc xây dựng cơ sở vật chất đó là hợp pháp và chính đáng nhằm làm tốt hơn trách nhiệm của Trung Quốc tại khu vực.
Hàng năm một lượng hàng hóa trị giá 5 ngàn tỉ đô la được chuyên chở qua tuyến đường biển này.
http://www.bbc.com/vietnamese/multimedia/2015/10/151001_scs_john_kerry_asean
Mỹ sẵn sàng ứng phó nếu chủ quyền Philippines bị thách thức
Chuẩn Tướng Paul Kennedy, chỉ huy Lữ đoàn 3 Thủy quân lục chiến Mỹ Viễn chinh, bảo đảm với binh sĩ Philippines về cam kết của Mỹ sẵn sàng hỗ trợ nước này khi đối mặt với những mối đe dọa từ bên ngoài, trong khi tiến hành cuộc Diễn tập Đổ bộ Philippine lần thứ 32 (Phiblex).
Ông nói: "Nếu ai đó thách thức chủ quyền của đất nước này, những người bạn tốt nhất của các bạn trong khu vực này sẽ ứng phó trong vòng chỉ vài giờ. Và đây không phải là lời hứa suông."
Ông Kennedy cũng bác bỏ những nghi ngờ rằng binh sĩ Mỹ đang nỗ lực tận dụng những cuộc tập trận chung để có những căn cứ lâu dài tại Philippines.
Thiếu Tướng Alexander Balutan của Thủy quân lục chiến Philippines cho biết cuộc tập trận hàng năm này sẽ tập trung vào huấn luyện trên thực địa và hỗ trợ nhân đạo.
Tổng cộng 748 thủy quân lục chiến Philippine và 868 thủy quân lục chiến Mỹ sẽ tham gia vào cuộc tập trận Phiblex năm nay, bắt đầu từ ngày 1 tháng 10 cho đến ngày 9 tháng 10.
Philippines hiện đang đối mặt với những tranh chấp chủ quyền lãnh hải ở Biển Đông với Trung Quốc, nước tuyên bố gần 90% vùng biển có tiềm năng dầu khí lớn ở Đông Nam Á.
(ABS-CBN, The Philippine Star)
http://www.voatiengviet.com/content/my-san-sang-ung-pho-neu-chu-quyen-philippines-bi-thach-thuc/2989293.html
TQ: Nước thứ ba không được quyền thăm dò dầu khí ở Biển Đông
Tờ Hindustan Times dẫn phản hồi của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 1/10 đáp các câu hỏi của báo này khẳng định Bắc Kinh có ‘chủ quyền không thể tranh cãi tại Trường Sa và các vùng biển lân cận cũng như chủ quyền và quyền tài phán đối với phần đáy biển và tầng đất liên quan. Trung Quốc phản đối bất kỳ hoạt động thăm dò dầu khí của quốc gia hay tập đoàn nào trong các vùng biển thuộc quyền tài phán Trung Quốc mà không được phép của Trung Quốc”.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc không nêu đích danh Ấn Độ trong bình luận này nhưng Bắc Kinh trước nay nhiều lần phản đối hợp đồng khai thác dầu khí của New Dehli với Hà Nội tại các lô dầu khí ngoài khơi bờ biển Việt Nam.
Bắc Kinh nói các cơ chế hiện hành đang vận hành tốt để kiềm chế những tranh chấp và Trung Quốc sẽ không cho phép các nước bên ngoài khu vực can thiệp vào chuyện Biển Đông.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng khẳng định Bắc Kinh theo đuổi nguyên tắc ‘5 kiên trì’ bao gồm kiên trì duy trì hòa bình ổn định Biển Đông, kiên trì giải quyết tranh chấp với các nước liên quan dựa trên luật quốc tế và tôn trọng chứng cứ lịch sử qua các cuộc thương lượng song phương, kiên trì dựa trên hệ thống luật lệ để kiểm soát tranh chấp, kiên trì gìn giữ tự do hàng không-hàng hải ở Biển Đông và kiên trì thực hiện chính sách cùng thắng lợi thông qua hợp tác.
Phản hồi của Trung Quốc được đưa ra sau khi Hoa Kỳ, Nhật Bản và Ấn Độ hôm 30/9 nhấn mạnh cần giải quyết tranh chấp theo luật quốc tế và tuyên bố tăng cường hợp tác để bảo đảm an ninh hàng hải trong khu vực.
Nguồn: Hindustan Times, Maritime Security.
http://www.voatiengviet.com/content/tq-nuoc-thu-ba-khong-duoc-quyen-tham-do-dau-khi-o-bien-dong/2988863.html
Tàu Hải quân Ấn Độ thăm Việt Nam
Hải quân Ấn cho hay con tàu lớp Shvalik đang thực hiện nhiệm vụ ‘bố trí vận hành’ ở Biển Đông và Tây Bắc Thái Bình Dương, một phần trong chính sách ‘Hướng Đông’ và ‘Hành động hướng Đông’ của Ấn giữa các động thái bành trướng của Trung Quốc tại khu vực.
Các giới chức Ấn cho hay trong thời gian ghé thăm Việt Nam, thủy thủ đoàn trên tàu sẽ tiến hành các hoạt động nhằm tăng cường hợp tác giữa hải quân hai nước.
Báo nhà nước nói đây là năm thứ 3 liên tiếp tàu hải quân Ấn Độ thăm hữu nghị Đà Nẵng.
Hai nước Việt - Ấn ký Tuyên bố chung về ‘Thiết lập Đối tác Chiến lược’ năm 2007 và Bản ghi nhớ Hợp tác Quốc phòng năm 2009.
Nguồn: One India.com, newkerala.com
Các bộ trưởng triển hạn đàm phán, quyết tâm đạt được thỏa thuận TPP
Các quan chức quyết định triển hạn cuộc đàm phán mà lúc đầu dự kiến sẽ kết thúc vào ngày thứ Năm trong một nỗ lực đầy quyết tâm nhằm tạo nên một bước đột phá cho thỏa thuận Quan hệ Đối tác Xuyên Thái Bình Dương, sẽ khai phóng thương mại ở 40% nền kinh tế thế giới cho một khu vực trải dài từ Việt Nam đến Canada.
“Không ai muốn rời hội nghị mà không có được thỏa thuận,” Bộ trưởng Kinh tế Mexico Ildefonso Guajardo cho hãng tin Reuters biết sau cuộc họp toàn thể thứ hai của các quan chức đến từ 12 quốc gia. “Tin tốt là chúng tôi sẽ không rời khỏi nơi này mà không có thỏa thuận.”
Các nhà quan sát chỉ ra tiến bộ về vấn đề xe ôtô, cam kết của Canada bồi thường cho những nông dân bị tổn hại vì hàng nhập khẩu và những dấu hiệu của một sự thỏa hiệp khả dĩ về vấn đề bảo vệ bằng sáng chế cho những loại thuốc mới là những bằng chứng cho sự tiến bộ - mặc dù vẫn còn một vấn đề khúc mắc chính yếu.
"Chúng tôi đang bắt đầu thấy một con đường hướng tới một thỏa thuận và đã nhất trí ra sức cuối cùng," Bộ trưởng Kinh tế Nhật Bản Akira Amari nói với các phóng viên.
Một số quan chức cho biết một thỏa thuận cuối cùng có thể nhanh chóng đạt được tùy thuộc vào kết quả của các cuộc đàm phán song phương về bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với thuốc men và hoạt động buôn bán sữa và xe hơi.
Ông Amari cho biết thời hạn độc quyền đối với những loại thuốc sinh học làm từ tế bào sống là vấn đề khó khăn nhất còn lại. Các nước TPP có thời gian bảo hộ mậu dịch khác nhau, từ 12 năm tại Mỹ cho tới năm năm ở các nước như Úc và Chile.
Đạt được thỏa thuận này sẽ là một thành tích mang tính định hình di sản cho Tổng thống Mỹ Barack Obama. Nhưng thỏa thuận thương mại này bị coi là một mối đe dọa bởi những nhóm lợi ích từ những công nhân ôtô ở Mexico đến những nông dân chăn nuôi bò sữa Québec cho tới những bệnh nhân ung thư lo lắng thỏa thuận này có thể đẩy chi phí của những loại thuốc điều trị mới vọt lên khỏi tầm tay.
http://www.voatiengviet.com/content/cac-bo-truong-trien-han-dam-phan-quyet-tam-dat-duoc-thoa-thuan-ttp/2989257.html
Yếu tố toàn cầu ngăn đà tạo công ăn việc làm tại Mỹ
Nền kinh tế Mỹ chỉ tạo ra được 142.000 việc làm trong tháng trước, thấp hơn dự báo nhiều. Con số cho tháng 8 đã được điều chỉnh xuống còn 136.000 người, cả hai tháng đều thấp hơn so với mức trung bình trong những tháng trước đây trong năm. Tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức 5,1%, chỉ vì nhiều công nhân viên đã ngưng đi tìm việc làm và rời thị trường nhân dụng.
Các kết quả đáng thất vọng vừa kể có lẽ cho thấy đà tăng trưởng èo uột của nền kinh tế thế giới đã làm giảm mạnh số đơn đặt hàng tại các hãng xưởng ở Hoa Kỳ. Nền kinh tế Trung Quốc đang chậm lại. Châu Âu đang chật vật xoay sở và các nền kinh tế mới xuất hiện tăng trưởng một cách không đáng kể.
Tòa Bạch Ốc nêu ra rằng đây là tháng thứ 67 nền kinh tế Mỹ tăng trưởng liên tiếp, thời gian tăng trưởng kinh tế kéo dài nhất từ khi các số liệu được thu thập. Tuy nhiên ông Jason Furman, Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Kinh tế nói rằng tình trạng bất định trên toàn cầu đòi hỏi các lãnh đạo chính trị phải tránh khoa trương và các biện pháp thắt lưng buộc bụng, ý muốn nhắc tới các cuộc tranh chấp về vấn đề chi tiêu tại quốc hội.
Các chuyên gia tài chính mô tả phúc trình về tình trạng nhân dụng của chính phủ trong tháng 9 là ‘đáng thất vọng’. Họ cho rằng kết quả của phúc trình có thể gây khó khăn cho các kế hoạch của Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang Janet Yellen, người hồi tuần trước nói rằng Ngân hàng Trung tương Hoa Kỳ có phần chắc sẽ tăng lãi suất trước cuối năm nay.
Nhà văn Võ Phiến qua đời tại California
2015-09-29
GS Nguyễn Hưng Quốc: Tôi hoàn toàn không đồng ý. Trước năm 1975 ở miền Nam Võ Phiến có viết nhiều thể loại khác nhau trong đó ông viết bình luận văn học, bình luận về chính trị. Ngoài ra ông còn viết tùy bút, truyện dài, truyện ngắn. Thành tựu lớn nhất của Võ Phiến là tùy bút, truyện ngắn thế nhưng người ta bị ám ảnh nhiều về những bài bình luận chính trị của Võ Phiến và người ta cho ông là cây bút chống cộng.
GS Nguyễn Hưng Quốc: Thật ra có lẽ những người chịu ảnh hưởng của Võ Phiến cũng khá nhiều nhưng bàng bạc đây đó rất khó ghi nhận. Võ Phiến vốn là một nhà văn lặng lẽ tuy ông có phong cách xuất sắc riêng rất độc đáo nhưng rất lặng lẽ cho nên ảnh hưởng của Võ Phiến đối với người sáng tác khác ở hải ngoại có lẽ không rõ ràng lắm trừ chuyện ông chuyển lửa cho họ bằng sự đam mê, nồng nhiệt của mình. Khuyến khích họ cầm bút, khuyến khích họ tiếp tục sáng tác.
Mặc Lâm: Riêng về giới viết lách và nghiên cứu văn học trong thế hệ của GS có ai xem Võ Phiến là ngọn nến soi rọi trên sáng tác hay nghiên cứu của họ không?
CHUYỆN TÙ & VƯỢT BIÊN =
DUNG 2 * HỒI KÝ TÙ
Học tập mười ngày.
Tôi chở vợ đến cổng trường Pétrus-Ký lúc năm giờ chiều, và hai vợ chồng chia tay. Mặc dù cả hai chúng tôi đều sinh trưởng ở Sàigòn suốt từ thuở ấu thời, lúc đó tôi vẫn cảm thấy vợ mình thật bé nhỏ và lạc lõng, lòng chợt thương nhớ nàng vô hạn, dù chúng tôi chỉ vừa xa nhau chưa đầy một phút, và bóng nàng còn chưa khất hẳn. Nhìn nàng thật mỏng manh tội nghiệp trên chiếc xe đạp một mình quay về nhà. Chiếc xe đạp nhỏ này là kỷ niệm quí giá duy nhất còn lại của hai vợ chồng sau ngày ba mươi tháng tư 1975. Khi chúng tôi mới lấy nhau, tôi thích chở nàng bằng chiếc xe đạp này chứ không dùng xe gắn máy.
Khi bóng nàng khuất hẳn, tôi quay mình thẫn thờ đi vào khuôn viên nhà trường trình diện cải tạo. Đúng như thông báo của ủy ban quân quản thành phố Sàigòn “mang theo mười ngày lương thực. Học tập tốt sẽ được trở về với gia đình”. Lòng tôi như chùng xuống, ân hận đã không chờ thêm một lúc nữa hãy trình diện, như vậy còn được ở bên cạnh vợ thêm vài tiếng nữa. Tội cho vợ tôi mới lấy chồng hồi giữa tháng một, đầu tháng năm đã phải xa nhau. Chính tôi cũng cảm thấy mắt mình nhòa đi, hỏi nàng sao khỏi đau buồn.
Tháng năm trời Sàigòn dù về đêm vẫn oi ả không dịu bớt chút nào, những chiếc Molotova căng bạt bít bùng, làm sao chúng tôi chẳng lo sợ? Bắt đầu lên xe từ mười một giờ đêm, đến gần hai giờ sáng mới xong, chúng tôi bị dồn vào những chiếc Molotova tối thui. Mỗi xe nhét khoảng ba chục anh em và hai bộ đội trang bị AK47 ngồi ở hai góc cuối xe chỉa súng nhăm nhăm. Anh em ngồi chặt cứng như những bó giò, muốn xoay trở một chút thật là cả một vấn đề khó khăn. Không khí trong xe rất ngột ngạt, phần vì hai họng AK đen ngòm, phần vì xe được bao kín mít, ngay cả đằng sau chỗ hai tên bộ đội ngồi cũng có phủ bạt, không để hở. Tinh cảnh này càng làm cho sự lo sợ của mọi người tăng lên gấp bội. Đi học tập sao lại phải bịt kín mít, và di chuyển đêm, để che mắt dân chúng?
Đêm Sàigòn dạo này đường phố vắng tanh vắng ngắt. Vốn từng được mệnh danh thành phố về đêm, đèn mầu luôn rực sáng, xe cộ tấp nập, du khách dập dìu. Từ ba mươi tháng tư, Sàigòn ban đêm đã hoàn toàn đổi hẳn, không khác nào một bãi tha ma. Có phải Sàigòn vẫn còn kinh hoàng vì cái ngày đau thương ba mươi tháng tư? Hay Sàigòn đã kiệt sức qua những máu lửa ngụt trời? chán chường cho cuộc đổi thay? Và chuyến ra đi âm thầm của chúng tôi, Sàigòn không hề hay biết.
Tiếng xì xào chuyền tai nhau, bắt nguồn từ hai anh bạn ngồi ở hai góc phía đầu xe, họ đã nhận ra lộ trình chuyến đi qua khe hở nhỏ của miếng bạt phía trước. Từ Pétrus Ký, đoàn xe theo đại lộ Cộng Hòa ra đường Lê Văn Duyệt hướng thẳng về phía Tây Ninh. Họ đưa chúng tôi lên biên giới Kampuchia!
Tám giờ sáng hôm sau đoàn xe vào Trảng Lớn, căn cứ pháo binh của Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa. Chúng tôi tạm trú ở đây và được chia ra thành từng nhóm:
Nhóm một, gồm các sĩ quan từ cấp Thiếu tá trở lên.
Nhóm hai, cấp trung úy trở xuống của các binh chủng Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Lực Lượng Đặc Biệt, Tình Báo, và Chiến Tranh Chính Trị.
Nhóm ba, từ Trung úy trở xuống của hai Quân chủng Không Quân, Hải Quân và các binh chủng Thiết Giáp, Pháo Binh.
Riêng cấp đại úy cũng có một số được xếp vào nhóm hai ở các trại tù trong miền nam. Tuy nhiên nếu là đại úy thuộc Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Dộng Quân và Chiến Tranh Chính Trị, đều bị đưa vào nhóm một với cấp tá. Sau này tôi được biết Việt Cộng đã liệt các vị thuộc nhóm một vào thành phần Ngụy quân cấp cao cực kỳ ác ôn, và đưa ra các trại tù cải tạo miền bắc, nhóm hai thành phần cực kỳ ác ôn có nhiều nợ máu, nhóm ba Thành phần cực kỳ ác ôn, nhóm bốn Thành phần ác ôn.
Sau thời gian tạm trú khoảng một tháng, đội ngũ đuợc chia xong. Đại đội họ gọi là đội, trung đội là B, tiểu đội là A. Chúng tôi bị đưa đi lao động khổ sai khắp các trại tù dọc biên giới Việt, Miên, Lào. Tôi thuộc tiểu đoàn đến trại Long Khánh. và cuộc đời tù binh thực sự khởi đầu từ đó.
Quê hương ta rừng vàng biển bạc.
Đến Long Khánh lúc chập choạng tối. Theo một vài bạn tù cho biết, đây vốn là trại gia binh của sư đoàn 18 bộ binh lúc trước. Một ý nghĩ khôi hài chợt hiện đến làm tôi chua xót cuời thầm. “Có ai như chúng tôi, khăn gói tự động trình diện để được vào tù, mặc dù mình chưa hề làm nên tội lỗi gì“.
Dù không tin vào bản thông cáo mười ngày học tập, khi đi trình diện, tôi vẫn ngây thơ nghĩ: mình chỉ phải xa nhà cùng lắm là khoảng một tới ba tháng, nên đã chuẩn bị hành trang thật nhẹ nhàng. Mang theo vỏn vẹn chỉ một bộ quần áo cùng hai bộ đồ lót để thay đổi, một ít đồ dùng lặt vặt như bàn chải, kem đánh răng , khăn lau mặt. Tất cả để trong một túi nylon cho nhẹ. Một buổi trưa rất nóng ở Trảng Lớn, tôi vào một lô cốt tránh nắng đã tìm được một đôi giầy vải, một chiếc ba-lô và một xấp năm bao cát. Tất cả đều còn mới. Ba-lô và đôi giày vải đã trở nên vật dụng tiện lợi và cần thiết nhất cho tôi những ngày tháng sau này.
Tuần lễ đầu chúng tôi ổn định chỗ ăn ở, thu dọn trại mà lòng lúc nào cũng băn khoăn không biết số mạng mình rồi sẽ ra sao? Long Khánh là vùng cao nguyên. Trời nắng hè, bụi đất đỏ luôn phủ đầy cây lá và mọi vật dụng nhà cửa. Khi mưa xuống, đất dính bết vào giầy dép, làm cho chân người đi càng lúc càng nặng. Ngày đầu mới đến, trời đã đổ một cơn mưa thật lớn. đôi dép cũ không còn chịu nổi nữa, quai dép sau nhiều lần tuột lên tuột xuống đã đứt mất. Tìm một miếng gỗ thông mỏng, tôi hì hục mãi, đẽo được một đôi guốc gỗ. Không hiểu vì sao guốc gỗ lại ít bị dính đất, và chuyện đi đứng đã dễ dàng hơn. Một tuần lễ sau chúng tôi được báo chuẩn bị hôm sau lên hội trường học tập. Mọi người đều mừng rỡ, nghĩ đã đến lúc học tập tất cũng sẽ có lúc học xong. Nghĩa là chúng tôi còn hy vọng có ngày về.
Do một thượng úy ủy viên chính trị từ trung đoàn xuống giảng bài đầu tiên với tựa đề thật bóng bẩy: “Quê hương ta giàu đẹp nhân dân ta anh hùng”. Anh cán bộ chính trị này thao thao bất tuyệt trên hội truờng:
“Quê hương ta rừng vàng biển bạc. Cả ba miền bắc, trung, nam, đều không thiếu gì sông biển bạc, và rừng rậm vàng tươi…. Nhân dân ta anh hùng, lại có sự lãnh đạo tài tình trong bao nhiêu năm của bác và đảng … Đảng là đỉnh cao trí tuệ của loài người đã lãnh đạo khéo léo đánh cho Mỹ cút ngụy nhào … bộ đội ta có óc sáng tạo khi đánh Mỹ, chỉ với súng lục và súng trường đã bắn rơi cả máy bay B52 của địch …”.
Tôi nghe tới đó ngẩn người tự nghĩ: “Không lẽ anh cán bộ ủy viên chính trị này coi chúng tôi là trẻ nhỏ thất học? Nhìn anh ta với vẻ thành khẩn nghiêm nghị, chắc hẳn đang say xưa với việc thuyết giảng. Không hiểu anh ta có thực sự hiểu mình đang nói gì? hay chỉ học thuộc lòng bài viết sẵn và đọc thao thao như thế. Có một điều tôi dám quả quyết: anh ta tuyệt đối tin tưởng những gì mình đang nói. Đến mục nêu câu hỏi, tôi đã liều đứng lên.
- Nhờ Cán bộ nói rõ thêm chỗ nước ta rừng vàng biển bạc một chút nữa tôi không hiểu rõ lắm.
- Thế là anh nghe giảng không được tập trung lắm rồi nhá. Trong bài tôi đã nói rõ ràng, miền bắc nước ta sông ngòi rất nhiều ngày đêm chảy ra biển không ngừng. Mà biển nước ta thì lạ lắm, mênh mông lúc nào cũng lóng lánh như bạc, đẹp không thể nào tả xiết được. Rừng thì bao phủ khắp cao nguyên bắc phần chạy dọc miền trung vào trong nam chỗ nào cũng có rừng. Rừng nước ta rất nhiều loại gỗ quí như gõ, trắc, gụ, lim vân vân. Các loại gỗ qúy này mầu sắc vàng tươi xuất cảng ra nước ngoài rất được ưa chuộng.
Anh còn hỏi gì khác nữa không?
- Máy bay B52 bay rất cao, súng lục chỉ có thể bắn được xa nhất là khoảng năm chục thước, nếu bắn ngược lên cao, tầm bắn có thể còn ngắn hơn thế nữa, vậy làm thế nào mà súng lục bắn rơi được máy bay?
- Đó là tại các anh không biết đấy thôi. Các đồng chí anh hùng lái máy bay Mig của ta đã sáng tạo ra một cách để diệt các máy bay Mỹ. Khi ra trận họ tìm một cụm mây to rồi nấp vào trong đấy tắt máy nằm chờ, như thế còn tiết kiệm cả xăng nữa đấy nhá. Bất thình lình khi chiếc máy bay B52 vừa trờ đến là đồng chí ấy mở máy rồi bay ra chẹt ngay đằng đầu mà bắn làm cho chúng nó không kịp giở tay và bị rơi rất nhiều. Về sau tụi giặc lái Mỹ hoảng vía không dám bay cao nữa, cứ khi nào vào đến vùng thả bom thì nó bay xà xà xuống thật thấp, và bị quân dân ta dùng súng trường và súng lục bắn rơi. Chính tôi cũng đã dùng khẩu súng này hạ được một chiếc hồi chiến dịch mùa hè đấy nhá. Nói đến đây anh cán bộ giảng viên chính trị đưa tay trỏ vào khẩu K54 đang đeo bên hông với vẻ mặt đầy kiêu hãnh.
Đánh tư sản.
Bỗng dưng sáng nay Long Khánh trở lạnh . Những làn gió sớm cao nguyên lùa vào trại làm mọi người đều rùng mình. Tôi lặng lẽ đi làm, đầu óc suy nghĩ vẩn vơ. Đi chung toán với Tạo, Tạo nguyên là trung úy nhẩy dù, rất gan dạ, khi còn trẻ thường hay ngang tàng phá phách coi trời bằng vung. Sáng nay Tao tuy có hơi co ro nhưng vẫn tươi cười xông xáo như thường lệ, quả không hổ danh thiên thần mũ đỏ.
Nguyên cả A không ai là không nao núng sau buổi tối qua, chỉ có anh bạn dù này là không tỏ vẻ gì chán nản cả. Tôi cẩn thận đảo mắt nhìn quanh, khi chắc chắn không ai ở gần có thể nghe được đối thoại của chúng tôi mới hỏi.
“Chắc mày biết rành khu này hả Tạo?”
Tạo cũng đảo mắt vòng quanh như tôi rồi tủm tỉm
“Vùng này, trước đây tao đã dẫm nát cả rồi“.
Tôi và Tạo không những cùng chung A, chỗ ngủ còn ở ngay bên cạnh nhau nữa, vì vậy tuy mới hơn ba tháng mà tình bạn đã thân thiết lắm.
Đưa tay rờ gấu áo, thấy chiếc nhẫn cưới vẫn nằm ẩn an toàn trong đó, lòng cảm thấy ấm lại đôi chút. Chiếc nhẫn cưới này tôi quyết không nộp ra.
Hôm qua chúng tôi được lệnh phải nộp tất cả tài sản cá nhân cho tiểu đoàn cất giữ. Bao gồm mọi thứ như đồng hồ đeo tay, nhẫn cưới, dây chuyền, tiền mặt v . . v . . . Chỉ trừ quần áo và đồ ăn. Tôi nghĩ: tù nhân, mạng còn chưa biết sống nay chết mai ra sao, lo gì đến những vật ngoại thân đó, tuy vậy nhưng lòng lại ấm ức. Nộp tiền có thể cho là đúng đi, vì trong trai tù kín mít cũng không thể mua bán gì được, nhưng đồng hồ hay nhẫn cưới cũng phải nộp thì vô lý qúa. Thủ tục gom đồ nộp cũng không minh bạch, không có danh sách liệt kê các món đồ và tên người nộp. Nếu sau này học tập xong được cho về, liệu cán bộ có chịu lục tìm trong đống đồ lung tung như thế không? và nếu chịu tìm, làm sao có thể tìm ra được món đồ không có ghi tên đây? biết bao nhiêu cái đồng hồ giống hệt như nhau? Nhẫn cưới hoặc dây chuyền lại càng khó phân biệt hơn? Nếu tìm không ra rồi mới tính sao? Thêm nữa, các món này có bảo đảm còn nguyên vẹn cho đến lúc chúng tôi về hay không? Hoặc mấy ngày nữa chúng tôi lại chuyển trại thì sao đây? Cuối cùng tôi đã quyết định dấu chiếc nhẫn cưới vào gấu áo, dấu đồng hồ vào quai ba-lô và may lại như cũ.
Buổi chiều nộp đồ xong cũng đã gần tối. Đêm đó khoảng hai giờ rưỡi sáng bỗng có lệnh di chuyển. Chúng tôi được lệnh ra sân tập họp với tất cả hành trang trong vòng mười lăm phút để lên xe. Cũng may tôi không có nhiều thứ lỉnh kỉnh. Một tấm chăn tự làm bằng vải bao cát mà tôi đã nhặt được từ Trảng Lớn, một chiếu nylon nhỏ mang theo từ ngày đầu trình diện, một lon sữa Guigo dùng để nấu nước uống. Tôi nhét tất cả vào ba-lô, ra sân nhìn quanh mới có hai ba người. Lạ thật, mới vừa ổn định trại và dù đã bắt đầu học tập chính trị, nhưng mới có một bài sao đã di chuyển? và chuyển trại sao không thấy xe cộ gì cả? mấy nghi vấn này của tôi không bao lâu đã được giải đáp ngay.
Các anh mỗi người đứng cách xa nhau một khoảng nhỏ và bày hết đồ của mình ra trước mặt. Mọi thứ đều phải mở ra sẵn sàng.
Khi mọi người đã đủ, cuộc khám xét bắt đầu. Đại đội của tôi do một thiếu úy cán bộ Việt cộng làm đại đội trưởng. Anh cán bộ này bắt chúng tôi phải lộn trái hết các túi áo túi quần để xét. Một số anh em hồi chiều còn dấu tiền và dây chuyền không chịu nộp, giờ không những bị lấy hết mà hôm sau còn bị họp kiểm thảo: Nặng tư tưởng tư bản, không tin tưởng vào cách mạng. Ba-lô của tôi cũng bị lộn trái ra lục kỹ lưỡng. Té ra chúng tôi chẳng có di chuyển đi đâu cả. Đây chỉ là cách để chúng tôi phải lộ hết những đồ còn dấu chưa chịu nộp hồi sáng cho họ lột sạch, vì họ không tin chúng tôi chịu dễ dàng nộp hết mọi thứ.
Tối đó mọi người phải lên hội trường họp. Cả tiểu đoàn nghe chửi về tội không thật lòng tin tưởng vào đảng và nhà nước.
“Các anh đã dấu diếm không chịu nộp hết những đồ tiểu đoàn ra lệnh nộp. Đây là vì các anh đã không tin tưởng cán bộ, không tin tưởng đảng và chính sách của nhà nước. Như vậy làm sao các anh học tập mau tốt được? Hơn thế nữa, những của cải của các anh đang có cũng do bóc lột nhân dân mà ra, nay còn luyến tiếc, chưa dứt được đầu óc tư bản. Các anh phải kiểm điểm lại. Tối nay về họp A thảo luận cho kỹ càng. Có từ bỏ được những tư tưởng tư sản thì các anh mới học tập tiến bộ được”.
Sau này, tôi không hề nghe có người tù cải tạo nào ra về được trả lại những gì đã nộp. Qủa thật là một lối ăn cướp thật tinh vi. vừa ăn cướp vừa la làng, kết quả tội vẫn đổ lên đầu chúng tôi.
Học tập.
Thời gian ở Long Khánh, chúng tôi không đi lao động xa trại quá một cây số. Làm những việc lặt vặt trong phạm vi doanh trại, như cuốc đất làm vườn, trồng trọt, hoặc làm cỏ khai hoang. Có lẽ vì còn đang ở giai đoạn đầu. Các sư đoàn bộ đội sau cuộc chiến chiếm miền nam chưa hoàn toàn ổn định. Việc tổ chức quản trị các trại cải tạo chưa được sắp xếp hoàn tất.
Học tập cải tạo chính trị chỉ là một cách nói bóng bẩy của đảng Cộng Sản Việt Nam để trấn an người dân Sàigòn nói riêng, và dân miền nam nói chung. Thật sự chúng tôi không có bài học nào nói về thể chế chính trị, về nền hành pháp, hoặc tư pháp của chính quyền đương thời. Cũng không hề nói gì về sự thành lập của đảng cộng sản và nhà nước Việt cộng. Không nói về hiến pháp cũng như quyền lợi và trách nhiệm của người dân, không hề nói về chủ thuyết cộng sản. Tất cả đều tập trung vào ba mục đích chính.
1- Bắt chúng tôi phải công nhận đảng Cộng Sản Việt Nam do Hồ chí Minh sáng lập, là đỉnh cao trí tuệ loài người, đã đánh đuổi Mỹ ngụy, lo cho dân tộc ấm no hạnh phúc. Chúng tôi phải tuyệt đối tin tưởng vào đường lối đảng đề ra không thắc mắc, lại càng không được chỉ trích, vì chỉ trích là phản động gây rối.
2- Phải tự nhận, là những người đã làm tay sai cho Đế Quốc Mỹ, giết hại đồng bào. Nay được cách mạng khoan hồng cho đi học tập cải tạo.
3- Phải tích cực lao động đóng góp cho xã hội chủ nghĩa. Và phải tuyệt đối an tâm học tập.
Thấm thoát đã hơn năm tháng qua. Không hiểu các bạn khác ra sao? Riêng tôi những ngày tháng này thật buồn thảm. Nhớ nhà, thương cha mẹ và đàn em nhỏ, không rõ cuộc sống dưới chế độ mới cơ cực như thế nào? Và nhất là thương nhớ người vợ mới cưới. Ngày cũng như đêm, khi làm việc cũng như lúc ngồi nghỉ. Lúc nào đầu óc cũng có bóng dáng người vợ mà tôi hết lòng yêu thương. Không hiểu bây giờ nàng đang làm gì ? Ở đâu ? Có được bình an? hay đang phải vất vả vật lộn với cuộc sống kìm kẹp khó khăn mà Đảng Cộng Sản Việt Nam áp đặt lên đầu người dân miền nam? Nàng có nhớ đến tôi như tôi hiện đang nhớ nàng quay quắt.
Mỗi ngày lao động một gắt gao, nặng nhọc thêm. Lao động khiến chúng tôi không còn thì giờ rảnh rang suy nghĩ. Thời gian dường như muốn dừng hẳn lại. Phần ăn mỗi ngày một ít đi, ăn uống thiếu thốn khiến mọi người không còn sức phản kháng, dù chỉ là phản kháng bằng lời nói. Ba tháng đầu chúng tôi còn được phát gạo. Không hiểu gạo đã chôn ở đâu? từ bao lâu? hạt gạo vừa vàng vừa xốp. Khi vo gạo nấu cơm nếu chà mạnh tay một chút, hạt gạo lập tức vỡ tan ra thật dễ dàng. Những anh em phụ trách nấu ăn trong ngày thường đổ đầy nước vào chảo gạo thật lớn, quấy sơ sơ mấy vòng cho gạo lắng xuống rồi gạn nước. Một số những con sâu gạo mập mạp ngộp nước nổi lên được gạn đi. Gạn như thế khoảng hai ba lần, chảo gạo có thể nấu, vì nếu làm nhiều lần gạo sẽ hết cám. Có một số anh em nay đã bị phù thủng rất cần vitamin C trong cám. Ban đầu, ban nấu ăn còn ngồi nhặt sâu. Những con sâu không biết sống trong các bao gạo này từ bao giờ đã to gấp bốn năm lần hạt gạo, chúng nhả tơ làm tổ dính quyện những hạt gạo vào thành một cục to bằng đầu ngón tay cái.
Sau vì nhặt sâu vừa mất qúa nhiều thời gian, lại tốn mất nhiều gạo, vì số lượng sâu nhiều vô kể, nên anh em đã đồng ý không nhặt sâu nữa. Sau vài lần gạn nước cho bớt sâu, còn lại cứ để nguyên thế mà nấu. dù sao thì cũng là sâu gạo! lúc đầu ăn còn thấy sợ, sau đói qúa cũng phải nuốt tuốt. Ăn riết rồi cũng quen. Ngày hai buổi sau khi lãnh cơm, chia mỗi người được hơn một chén nhỏ. Nếu để cả sâu hy vọng chén cơm có thể đầy thêm một chút. Buổi sáng được phát nửa chén cháo toàn nước, đi làm đến giữa trưa. Thức ăn mỗi tháng một lon muối hột đen ngòm những đất, muốn dùng được phải hòa tan ra nước, lọc sạch rồi đem đun sôi. Hai tháng một lần mỗi A được phát một bó rau muống. Bắt đầu khoảng hai tháng nay, chúng tôi không còn được phát rau nữa. Gạo cũng đã hết, và thay bằng Bo-Bo. Lúc đầu ăn Bo-Bo không quen nên chúng tôi càng đói thêm. Tuy không quen nhưng nhờ bo-bo còn mới nên những anh em bị phù cũng dần dần được lành lại.
Hy vọng ba tháng học tập của tôi đã thực sự trở thành hão huyền. Vả lại lao động và họp kiểm thảo càng ngày càng gắt gao. Một chút rảnh rỗi nhớ về gia đình và người vợ mới cưới cũng không đủ, còn thời gian đâu để nghĩ về chuyện khác.
Liên tục một tuần nay, theo lệnh cán bộ. Tối nào tôi cũng bị đưa ra A để anh em phê bình kiểm thảo về tội dám chất vấn cán bộ chính trị về thời gian học tập, làm lung lạc tinh thần của anh em cải tạo. Nguyên sau buổi học tập về đề tài “Tất cả những ai trong quân đội VNCH đều là tay sai đế quốc Mỹ và đều có tội với nhân dân“. Tôi đã nêu lên câu hỏi:
- Thưa anh, khi nhà nước ra thông cáo cho toàn thể chúng tôi đem theo lương thực đủ ăn muời ngày, đi học tập trở thành công dân tốt của xã hội mới. Học tập tốt, sẽ được thả về đoàn tụ với gia đình. Chúng tôi đã thi hành triệt để, trình diện đúng ngày. Nhưng nay đã hơn sáu tháng, vẫn chưa nghe nói gì cả. Vậy học tập thế nào là tốt? Và bao giờ chúng tôi mới được thả? Hay nhà nước đã quên thông cáo lúc trước?
- Anh xuyên tạc thông cáo của nhà có ý định tuyên truyền để làm xao động lòng anh em phải không nào? Nhà nước nói đem theo lương thực đủ ăn mười ngày, đâu có nói các anh sẽ đi học tập mười ngày. Anh rõ ràng là ngoan cố không chịu an tâm học tập chỉ mong ngóng ngày về. Tối nay về họp A, anh phải kiểm thảo lại lỗi lầm của mình cho thông suốt“.
Tôi nghĩ thầm, tên cán bộ này đã nói hắn có thể dùng súng K54 để hạ được máy bay B52, làm sao mình có thể lý luận lại với hắn. Hơn nữa vậy cũng coi như câu hỏi đã được trả lời, tôi đành ngồi xuống. Cũng chỉ vì câu hỏi đó tôi đã bị chú ý, và sau này bị hành hạ khổ sở.
Ngụy phá hoại làm nổ kho đạn.
Cả tuần nay trời nắng gắt, cỏ xung quanh trại vàng khô, nhất là phía bên kia hàng rào, chỗ dẫy Barrack luôn luôn đóng kín cửa, sau này tôi mới biết đó là kho đạn, cỏ khô dầy, cao ngang đầu gối. Sát vòng rào kẽm gai, tháng trước chúng tôi đã đào một giao thông hào khá rộng, lấy đất gánh về giữa trại vun luống trồng khoai lang và khoai mì. Đào giao thông hào cạnh vòng rào trại không phải chỉ để lấy đất, bởi chúng tôi có thể cuốc đất vun thành luống ngay tại chỗ, mục đích có lẽ nhằm làm nản chí những ai trong chúng tôi mang ý định vượt trại, vì sẽ phải vượt thêm một chướng ngại vật nữa, Và cũng có lẽ nhằm làm cho chúng tôi thêm mỏi mệt, không còn nghĩ đến việc chống đối, hay bạo động. Vừa phải làm việc nặng quần quật cả ngày lại thêm ăn uống thiếu thốn, dù ai to lớn khoẻ mạnh cách mấy, tất cũng phải mềm nhũn thôi.
Hôm nay tôi lãnh công tưới rau cho B. Ra phía sau trại lấy thùng và đòn gánh, thoáng thấy một bộ đội đang châm lửa đốt cỏ khô phía ngoài hàng rào. Nắng gắt mấy ngày liền, cỏ cháy rất mau. Khi tôi tưới được gần hai luống rau, bãi cỏ bên hông barrack cháy đã gần phân nửa, trong đám cháy thỉnh thoảng có tiếng đạn nổ. Lẫn trong cỏ có những viên đạn, có khi nguyên cả dây dạn đã rớt từ hôm ba mươi tháng tư trong lúc hỗn loạn, lâu lâu chúng tôi vẫn thường thấy khi làm cỏ. Do đó lửa cháy, đạn phát nổ không làm chúng tôi mấy ngạc nhiên. Chợt có tiếng nổ làm mọi người đều giật mình, vì tiếng nổ khá lớn, và chỉ vài giây sau lại có thêm những tràng nổ tiếp tục dòn dã, khiến mọi nguời đều dừng tay ngẩng nhìn. Chỗ đang cháy nguyên day đạn đại liên phòng không 50 ly đang nổ, đầu đạn bay tứ tung. Một viên bay xẹt ngang đầu làm tôi theo phản xạ tự nhiên vội cúi rạp xuống. Có mấy viên khác bay thẳng vào dẫy Barrack, và sau đó, cả dẫy Barrack cũng bắt đầu phát nổ. Tôi quăng thùng nước tại chỗ, ngồi sụp xuống giữa hai luống rau. Kho đạn chính thức bắt đầu nổ khoảng mười giờ trưa. Anh em tù ai cũng bỏ dụng cụ làm việc chạy tìm chỗ núp.
Đủ mọi loại đạn lớn nhỏ, đạn đại liên phòng không, đạn súng cối 60 và 81 ly, đạn đại pháo 105, 155 ly của Việt Nam Cộng Hòa, đạn súng cối 61 và 82 ly, đạn hỏa tiễn chống chiến xa B40, B41, hỏa tiễn 122 ly của Việt Cộng. Đạn bay tứ tung. “Phịch”, tôi đang nằm giữa hai vồng lang chợt nghe tiếng trái đạn rớt rất gần, vội ngẩng nhìn. Một viên đạn cối 81 ly rớt ngay trước mặt, chỉ cách khoảng hai thước. Lăn vội qua vồng lang bên cạnh, hai tay ôm kín đầu, chờ một phút sau viên đạn vẫn chưa nổ. Chắc số tôi chưa đến lúc chết, trái đạn không nổ. Tôi liền chồm dậy cắm đầu chạy ra phía giao thông hào. Nhẩy xuống đó thấy có sẵn một số anh em khác nhanh chân tới trước. Đạn nổ suốt ngày, mãi đến gần nửa đêm mới hết. Không hiểu đây là kho đạn cũ của Việt Nam Cộng Hòa để lại hay kho đạn mới do Việt Cộng vừa gom vào? mà đạn có đủ mọi loại của cả đôi bên.
Trong vụ nổ kho đạn, tiểu đoàn tôi có anh bạn đại úy bắc sĩ quân y chết. Trái lựu đạn rớt trúng ngay chỗ núp, nổ liền khiến anh không kịp tránh, miểng lựu đạn xuyên giữa ngực, anh đã chết liền tại chỗ. Hai tiểu đoàn bên cũng có mỗi tiểu đoàn hai người chết. Người cán bộ đốt cỏ, chết vì trúng đạn đại liên 50 ly ngay từ phút đầu. Anh em chúng tôi bị thương nặng nhẹ rất nhiều. Mấy ngày sau lên tiểu đoàn khai bệnh xin thuốc trị thương được phát mỗi người một gói muối hột. Vẫn biết, dù khai bất cứ bị bệnh gì cũng thế, từ sốt rét ngã nước, cảm cúm, tiêu chảy, đến trật gân gẫy xương, hay ói mửa trúng độc, đều chỉ được phát duy nhất một thứ thuốc đó là muối hột. Nhưng trong tù không có thuốc sát trùng, chúng tôi đành khai bệnh lấy muối pha nước rửa vết thương.
Ba ngày sau, Cán bộ tiểu đoàn tập họp chúng tôi lên hội trường để giải thích về vụ nổ như sau: Các anh đã chính mắt thấy rõ ràng đấy nhá, bọn Mỹ Ngụy thật là độc ác, đã bị đập tan từ lâu mà vẫn còn tìm đủ mọi cách để phá hoại. Chúng đã cho đặc công lén lút làm nổ kho đạn. Tuy tiểu đoàn đã bắt được hai tên phá hoại, nhưng kết quả một cán bộ đảng viên cũng đã chết. Và trong các anh cũng có mấy người chết vì vụ nổ này.
Cả tháng sau đó, chúng tôi họp A vẫn phải học tập về tội ác Mỹ Ngụy đã làm nổ kho đạn. Sau này trong một dịp thăm nuôi, vợ tôi cho biết vụ nổ đã làm xao động dân chúng ngoài trại. Nhà nước Việt Cộng loan báo cùng dân chúng Sài Gòn: có một bọn ngụy quân phá hoại làm nổ kho đạn trong trại tù, nhưng cán bộ quản trại đã bắt được bọn phá hoại và bảo vệ an toàn cho cải tạo.
Cây Cà Chớn.
Những ngày cuối năm 1975, với tôi, là những ngày lê thê nhất trong đời. Tết Mậu Thân khi Việt Cộng tràn vào Sàigòn, cướp đi mùa xuân an lành, vui tươi của người dân miền nam. Đường phố tấp nập, dập dìu muôn mầu áo bay lượn của các cô gái, chen lẫn mầu sắc của hàng ngàn đóa hoa trong chợ hoa dọc đường Nguyễn Huệ, hòa với những cánh bướm chập chờn trong nắng, như muốn đua sắc cùng những bông hoa biết nói, gợi lên nỗi rộn rã tưng bừng đầy êm ấm vào lòng người, đã thay bằng im lặng, vắng vẻ, đầy lo âu. Thỉnh thoảng một vài người vội vã trên đường về, khuôn mặt vừa lo âu vừa hốt hoảng. Những tiếng pháo nổ vang thay bằng tiếng súng AK47 và hỏa tiễn pháo kích. Cái tết máu lửa đó vĩnh viễn nằm trong tiềm thức tôi. Nhưng những ngày đó vẫn không dài lê thê ảm đạm như những ngày tết trong tù cải tạo.
Chúng tôi đều là những người đã dày dạn khói lửa. Có người từng trải qua những giây phút thập tử nhất sinh xác chết cận kề, vẫn không hề nháy mắt cau mày. Có người trọn đêm dài chong mắt trên biển vắng hải hành, đưa chiến hạm tuần tiễu bảo vệ vùng biển quê hương, và đôi mắt vẫn đầy tinh anh. Nay trong vòng rào trại tù, hình như mắt anh em ai cũng rưng rưng uất nghẹn. Anh Lạc, người lớn tuổi nhất trong tiểu đội được cử làm anh nuôi, phát cho mỗi chúng tôi một vắt cơm nếp anh đã nấu từ tờ mờ sáng. Hôm qua mỗi tiểu đội được lãnh một lít nếp, cán bộ nói đó là nhờ lòng ưu ái của đảng và nhà nước.
Tết năm trước, tuy chiến tranh đang đè nặng trên toàn quốc, SàiGòn vẫn tưng bừng đón xuân. Tôi đã chở vợ, lúc đó còn là người yêu chưa cưới, đi Lăng Ông xin xâm. Nhìn nàng tha thướt trong tà áo lụa vàng, thật vui tươi, thật hồn nhiên mà lòng tôi cũng nao nức rộn rã. Giờ đây xa nhau tôi mới nhận thức được, nàng chính là nguồn sống của đời mình. Nhớ đến nàng, miếng cơm tôi vừa bỏ vào miệng bỗng như nghẹn ở cổ, mắt tôi mờ hẳn đi. không muốn các bạn thấy mình bật khóc, và nhìn quanh ai cũng rưng rưng. Tôi bỏ nắm cơm xuống chỗ đầu nằm, chạy vội ra ngoài rủ Tạo đi coi đấu cờ tướng cho khuây khỏa. Trại được nghỉ lao động ba ngày tết, đã tổ chức các trận đấu bóng chuyền, túc cầu, cờ tướng, giữa các B với nhau cho anh em vui tết. Tôi vẫn thấy những ngày tết này thê lương và dài dằng dặc, vui sao được mà vui! Tết này gia đình tôi ngoài đó có vui vẻ như xưa? Vợ tôi đang ở đâu? Nàng có vui vẻ hồn nhiên như ngày chúng tôi còn bên nhau? Khi tôi đi nàng vừa có mang, nay đã sanh chưa? Nếu đã sanh, sức khỏe mẹ con nàng ra sao? Đứa con đầu lòng của chúng tôi là trai hay gái? Chắc dễ thương lắm? Những câu hỏi này cứ quẩn quanh trong đầu ngày đêm không thể giải đáp. Lòng nhớ nhung người vợ trẻ làm tôi cứ thẫn thờ, và tết đã trở nên vô nghĩa.
Cái tết buồn thảm ấy rồi cũng qua đi. Chúng tôi vẫn tiếp tục cuộc sống nhục nhằn. Ngày ngày làm việc nặng nhọc quần quật từ sáng tới tối, còn phải nghe những lời trái tai vô lý của những người cai tù thâm hiểm, phải làm vẻ ngu khờ gật đầu đồng ý để sống cho qua kiếp tù đày. Sống với niềm hy vọng mong manh, một ngày nào đó sẽ được thoát về. Nhiều lúc tôi có cảm tưởng như mình đang bị bao vây giữa một đám người tiền sử ngô nghê, không văn hóa. Với vũ khí trong tay họ cưỡng ép chúng tôi phải tin chung niềm tin với họ.
Nhưng chính họ cũng không hiểu rằng họ đã bị giới lãnh đạo đầu độc lâu ngày, nhồi vào đầu họ những hiểu biết nông cạn vô lý, hoặc có khi còn đi ngược hẳn với lý lẽ thông thường. Cán bộ chuyền radio vào loa trên cột cao hai góc trại, suốt ngày đi làm mệt mỏi, tối về phải nghe những lời dối trá bịp bợm của bọn cầm quyền Việt Cộng trên đài phát thanh tới nửa khuya, thiệt là dở khóc dở cười. Một phút trước đài loan tin: năm nay dân ta chịu nhiều thiên tai, ba tháng trước miền Trung có bão lớn dọc từ Thanh Hoá xuống Thừa Thiên. Tháng trước bão lại thổi qua miền Thanh Hóa Nghệ Tĩnh, và tuần này khắp đồng bằng miền nam đang bị lụt lớn. Một phút sau đài đã trắng trợn tuyên bố: kết quả vụ thu hoạch lúa mùa năm nay so với năm ngoái, miền bắc tăng gấp ba, miền nam tăng gấp đôi.
Một buổi chiều , tôi và Tạo vừa tưới xong mấy cây cà chua, đang định cùng nhau ra giếng lấy thêm nước. Một cán bộ đi ngang qua lên tiếng khen thưởng:
- Hai anh này giồng được mấy cây cà chua chất lượng đấy nhỉ. Các anh có bón phân nhiều không mà cây lắm quả thế?
Tôi đảo mắt nhìn quanh trước khi trả lời
- Chào cán bộ. Tôi chẳng phải tưới phân gì cả đâu, chi tưới độc có nuớc đái thôi đấy!
- Ờ, thế thì phải rồi! Trách gì cà anh cấy sai quả, nhưng quả lại không được to. Các anh phải tưới phân thì quả mới to được. Ở ngoài Bắc có nhiều người giồng cà chua, tưới phân đúng cách quả ra to gần bằng quả bóng đá vậy đấy.
Tạo nhìn tôi, nháy mắt và nói:
- Ô! Tôi biết loại cà mà cán bộ nói rồi! Nhưng loại cà này khó trồng lắm! Ở miền Nam hình như đã bị mất giống rồi. Nghe bà nội tôi nói loại cà đó tên là “cà chớn”.
Nghe Tạo nói, tôi giật mình đảo mắt nhìn quanh nghĩ bụng “cái anh chàng Nhẩy Dù này quả nhiên rất gan lì”. May mắn, vẫn chỉ có hai chúng tôi cùng anh cán bộ đang mỉm cuời khoái chí kia, nếu không, “Ang-ten“ nghe được, chắc chắn hai đứa tôi sẽ phải ốm đòn.
- Anh này nói đúng rồi đấy, đúng là cà chớn đấy.
Hú vía!!! mọi người ai nấy đều bận với công việc đang làm, không chú ý đến cuộc nói chuyện của chúng tôi.
Lon Guigo đựng cơm.
Tôi thuộc đại đội một, Hạ ở đại đội ba. Tuy là bạn cùng khóa Hải Quân nhưng chúng tôi không mấy thân, nay dù ở cùng trại tù, gặp nhau cũng chỉ chào hỏi sơ sài. Vả lại từ chỗ tôi qua chỗ Hạ, phải đi ngang trạm gác và bộ chỉ huy cán bộ coi tù, nếu không vì đi công tác lao động, hay vì chuyện cần thiết, thường ai cũng ngại đi ngang đó.
Lúc còn ở quân trường , Hạ thường trầm lặng ít nói, không phá phách đùa giỡn. Đôi khi bị các bạn chọc phá, Hạ chỉ cười bẽn lẽn. Khi ra trường, Hạ nhận đơn vị đầu tiên là giang đoàn 70, thuộc Hải Đội 5 Lực Lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân. Năm 1973, trong một dịp đơn vị tôi hộ tống tàu dầu vào tiếp tế cho căn cứ Nam Căn. Gặp Hạ lúc đó thấy anh đã thay đổi nhiều. Tuy vẫn dáng gầy gầy nhưng nước da đã sam đen, trông khoẻ mạnh hẳn ra. Anh đã hoàn toàn mất hẳn cái dáng công tử yếu đuối của ngày mới nhập ngũ ở trại tạm trú Bạch Đằng Hai. Có lẽ những tháng năm lăn lóc dày dạn chiến trường, với những trận chạm trán sống chết cùng Việt Cộng ở vùng đầm lầy nước mặn đã nung đúc anh trở nên rắn rỏi với đầy nét cương nghị.
Chiều nay đột nhiên Hạ đến thăm và ngỏ ý muốn đổi tấm chăn của anh cùng nải chuối chín lấy chiếc áo mưa. Anh nói vì không có áo mưa, mùa hè Long Khánh lại hay mưa tầm tã suốt ngày, khi đi lao động thường bị ướt. Tôi đưa tặng Hạ tấm poncho mới đã nhặt được khi còn ở trại Trảng Lớn. Hạ không chịu lấy không, nhất định ép tôi phải nhận vật trao đổi. Kết quả tôi đành nhận tấm chăn, dù sao tôi cũng đang cần chăn, và bẻ mấy quả chuối cùng ăn với Hạ cho anh ta vui. Nhìn thấy mắt Hạ sáng hẳn lên khi cầm chiếc poncho trong tay tôi cũng cảm thấy an ủi.
Ba giờ rưỡi sáng đêm đó, toàn trại bỗng có lệnh điểm danh bất thuờng. Khi các đại đội đã tập họp đầy đủ ngoài sân, cán bộ vào lục lọi trong trại rất kỹ luỡng, tuy không rõ vì sao, nhưng chúng tôi cũng đoán được đã có chuyện bất thường xẩy ra trong đêm. Sáng sớm khi chuẩn bị đi lao dộng, nghe anh bạn B trưởng nói tôi mới biết đêm trước đã có năm người trốn trại, trong số đó có Hạ. Thì ra Hạ cần áo mưa và ép tôi nhận tấm chăn là vì thế. Tôi thầm mong cho anh trốn thoát, đừng gặp trở ngại. Một tuần sau, trong số người trốn trại có ba người bị bắt lại cùng với Hạ.
Hạ bị bắt lại hai ngày sau thì tôi bị gọi lên tiểu đoàn. Trong lòng hồi hộp không biết vì chuyện gì, khi bị dẫn vào phòng kín có bốn tên bộ đội đeo AK đứng canh bốn góc, tôi biết lần này thiệt dữ nhiều lành ít.
- Cách mạng khoan hồng cho anh học tập cải tạo sao không biết hối cải còn định trốn?
- Tôi còn đang đứng đây mà, đâu có trốn trại đâu?
- - Chúng tôi biết rõ anh móc nối, trốn trại mà vẫn còn chối hả. Anh phải nên khai cho rõ ràng đi, đã móc nối được những ai nào ?
Nếu chúng biết rõ ràng sao còn phải tra hỏi mình làm gì? chứng tỏ chúng chỉ nghi ngờ và muốn tìm cách chặn đầu mình thôi.
Tôi không hề có ý trốn trại, cũng chẳng có móc nối hay tổ chức gì cả.
Chưa dứt lời bỗng như có ai đập mạnh vào lưng làm mắt tôi hoa lên. Chắc hẳn tôi đã bị tên đứng phía sau dộng một báng AK ngay lưng trong lúc đang nói. Tôi không còn nhìn rõ tên bộ đội trước mặt, mắt tôi đã mờ hẳn đi, và đầu óc choáng váng, ngã chúi về truớc. Tuy thế tôi vẫn thoáng thấy tên đứng phía trước đưa chân đá cho tôi bật ngược dậy. Theo phản ứng tự nhiên tôi vòng tay ôm ngực và co người lại bảo vệ chỗ nhược. Bị cú đá đó bật nghiêng người qua phải, tôi chưa kịp gượng lại đã bị tên bên phải đạp bồi một đạp vào vai, tôi té qụy xuống.
- Mày vẫn còn ngoan cố à? thế ai đã tiếp tế áo mưa cho thằng Hạ trốn trại nào?
Thấy tên cán bộ đã đổi giọng lỗ mãng mày tao, không biết hắn vì tức giận đã không làm được cho tôi khai theo ý muốn, hay vì muốn tỏ sự hung hãn để tôi sợ mà khai. Tôi chờ một chút, để trấn tỉnh rồi mới trả lời:
- Tại tôi có dư một cái áo mưa, anh Hạ dùng chuối để đổi, tôi thích chuối mới chịu đổi thôi, chứ đâu có biết anh ta chuẩn bị đồ dùng vượt trại đâu.
Đúng đã có “angten” mách lẻo nên tụi nó mới biết chuyện tôi đưa áo mưa cho Hạ.
Trong lúc bị đánh, tôi được biết, họ liệt tôi vào thành phần ngoan cố không chịu hối cải học tập, còn có ý nêu những câu hỏi bóp méo chính sách cải tạo của cách mạng, cố tình sách động, gây hoang mang cho anh em. Bằng chứng là trong buổi học tập chính trị đầu tiên, tôi đã chất vấn cán bộ về lệnh học tập muời ngày. Giờ đây còn thêm tội tổ chức tiếp tế cho người trốn trại.
Tôi trước sau chỉ nói: Vì mình không hiểu rõ nên mới hỏi như thế, không phải cố ý bóp méo hay sách động chi cả, và cũng không hề giúp ai vượt trại hết. Có lẽ họ chỉ nghe “angten” báo cáo thấy tôi đưa poncho cho Hạ, nên tra hỏi xem tôi có là đồng lõa muốn trốn trại với Hạ không, và cũng nhân dịp này moi luôn việc tôi đã hỏi khó tên cán bộ chính ủy Trung đoàn, để có thêm cớ đập tôi một trận nhừ tử. Sau ba ngày liên tục tra hỏi đánh đập, cuối cùng đánh chán cũng không hỏi được gì hơn, đành thả tôi về trại.
Hạ bị nhốt trong một “connect” ngoài bãi dất trống sau trại. Giờ trưa ở vùng cao nguyên nắng lửa mưa dầu này, trời nóng như nung. Connect bằng sắt vuông vức mỗi bề khoảng hai thước, dù có một anh em nào đó lén chặt đâu được hai tàu lá dừa úp lên trên nóc, tôi nghĩ nhiệt độ bên trong chắc vẫn nóng khủng khiếp lắm, rất có thể làm người bị nhốt điên lên được.
Mỗi ngày hai lần, một anh em cải tạo do bộ đội có súng hộ tống đưa cơm cho Hạ và cũng chính với lon Guigo đựng cơm này, Hạ phải dùng để đi đại tiện khi cần. Hai tháng sau, Hạ bị chuyển đi đâu không rõ, nhưng cho đến nay tôi không còn được tin gì của anh nữa.
Kàtum hết về.
Cuối năm đó tôi chuyển đi Katum. Đây là một trong những trại lao động khủng khiếp hàng đầu của tù cải tạo trong miền nam Việt Nam lúc đó. Kàtum thuộc Quận Bổ Túc tỉnh Tây Ninh, Trại nằm sâu trong khu rừng gìa, gần biên giới Việt Miên.
Đoàn xe chở chúng tôi mỗi lúc một sâu vào rừng. Khi xe ngừng, trời đã xế trưa. Có lẽ đây là một khu xóm cũ của người Thượng đã bỏ hoang vì chiến tranh. Nhìn quanh, tôi còn thấy dấu vết của mấy chòi tranh sót lại đã rách bươm.
Tuy sinh ra ở ngoại ô Hà Nội, nhưng khi mới lên năm đã theo gia đình chạy trốn Cộng Sản, di cư vào Nam năm 1954, vì thế có thể nói là tôi sinh trưởng tại SàiGòn. Cuối năm thứ nhất Luật Khoa, thi rớt phải nhập ngũ. Tôi đã tình nguyện vào Hải Quân. Đời lính toàn lênh đênh trên biển cả, nếu có thấy rừng chỉ là nhìn từ xa chứ đâu bao giờ biết đến rừng rú như thế này. Xuống Molotova, xung quanh rừng dầy bạt ngàn. Chỗ chúng tôi đứng là một khoảng trống nhỏ, có hai chòi tranh đã rách nát lâu đời. Bên phải là một trảng trống lớn, cỏ tranh cao ngang thắt lưng. Bên trái là khu rừng chồi thưa, lỗ chỗ mấy hố bom B52 từ bao giờ nay đã đầy nước. Tôi có cảm tuởng như mình đang bị đi đày với án khổ sai biệt xứ. Chúng tôi căng bạt dưới gốc cây ở tạm tuần lễ đầu, sau đó mới đốn cây, đào gốc dọn chỗ đắp nền nhà, chia nhau vào rừng chọn cây đốn làm cột, kèo, chặt le làm rui mè, cắt tranh đánh tấm lợp mái, dựng nhà.
Dụng cụ dùng trong tiểu đoàn toàn bộ chỉ có 5 con dao, 3 cuốc, và 3 xẻng. Chúng tôi tìm được ngoài bìa rừng một ít cọc sắt hàng rào kẽm gai, đập dẹp biến chế thêm dao, xẻng, cuốc. Những cây to một hai người ôm, chúng tôi đốn xuống, đào gốc, và dọn chỗ làm nền nhà, đều dùng các dụng cụ này.
Ba tháng tới trạI, tôi có cảm tuởng đã như ba năm. Ban đêm dù mệt nhoài vì phải làm việc quần quật suốt ngày, tôi vẫn thao thức khó ngủ. Tối nào cũng nằm trằn trọc nhớ mãi người vợ nhỏ yêu thương đang vất vả cô đơn, và nghe tiếng tắc kè trong bọng cây kêu từng hồi như tiếng thở dài não nề: “TTTTắắc… kèè… TTTắc...kkèè... Tắắc...kkèèèèèèè...“ Có vài bạn nói: Nghe càng lâu càng giống như “hhhhhếết… vvềề…. Hhhếết…vvềề…. Hết…vvềềềềềềềềề..“ Tít ngoài xa, vẳng tiếng vượn hú lanh lảnh, càng làm tăng cái cảm giác cô quạnh cho phận tù nhân hơn nữa. Mãi đến thật khuya tôi mới có thể thiếp đi trong mệt nhọc.
Đồng hồ không người lái.
Tôi lãnh nhiệm vụ đi cắt tranh sáng nay. Chỉ tiêu đủ mười lăm tấm nộp trong ngày. Húp vội chén nước cháo, rồi xách gậy và liềm đi ngay vào rừng. Tôi biết, bên trái khu rừng chồi trước trại, rừng rất dày, nhiều gai Mây và Song, nhưng chỉ là một giải rừng hẹp, tuy rậm rạp khó đi, nhưng nếu chịu khó len lỏi qua được phía bên kia sẽ thấy một trảng tranh lớn, vẫn còn nhiều tranh dài có thể đánh tấm. Đến đó sẽ không phải đi tìm xa và không sợ thiếu thời gian. Tuy nhiên tôi vẫn muốn vào rừng sớm một chút, hôm qua khi chặt le về phát giác cây cám to đã có qủa chín nằm khuất trong cánh rừng le bên phải khu rừng chồi. Đêm qua gió khá lớn, nhất định sẽ có trái chín rụng đầy mặt cỏ, có trái rừng ăn no, còn có thể để dư cho buổi chiều. Tù cải tạo lúc nào bụng cũng đói meo, có dịp kiếm được ít trái cây rừng nhét bụng, khi nào tôi chịu bỏ qua. Toán lao động vừa ra khỏi trại, tôi tách rời anh em, rảo bước như chạy về phía khu rừng chồi. Băng ngang giải rừng song tới gần cây cám, từ xa đã ngửi mùi thơm ngào ngạt của trái chín. Dưới gốc cây có hai anh bạn ở trại khác cũng vừa chạy tới. Chúng tôi lục tìm trong cỏ nhặt những trái chín rớt xuống đêm qua. Tôi được khoảng mười trái, ăn ba còn lại bỏ cả vào túi và đi cắt tranh, tính chiều nay về trại sẽ chia cho Điển mấy trái. Điển là bạn học cùng trường trung học, tôi đã gặp hôm mới tới đây.
Khi ra lại khu rừng chồi để băng ngang qua bên kia, tôi thấy có một bộ đội tách rời toán tù chặt cây và lẽo đẽo theo sau tôi quẹo phải. Qua rừng chồi, xuyên ngang giải rừng rậm đầy gai góc hắn ta vẫn theo sau. Tới trảng tranh hắn ngồi trên một gốc cây đổ chăm chú nhìn tôi cắt tranh. Khi tôi ngưng lại uống nước xả hơi, hắn tới gần hỏi:
- Anh này cắt tranh cũng khá chất lượng đấy nhỉ! Anh ở đội nào thế?
- Chào anh, Tôi ở đội một.
- Anh cho tôi mượn xem cái đồng hồ anh đang đeo được không?
Tôi vốn đang lo không biết hắn muốn gì mà vác súng theo tôi cả buổi, giờ hiểu ra mới biết hắn mê cái đồng hồ đeo tay. Tôi gật đầu và tháo đưa cho hắn coi. Hắn ta ngắm nghía một lúc và hỏi?
- Đồng hồ này cũng khá đẹp đấy, mười ba nến, hai cửa sổ, nhưng mà đồng hồ này của anh có người lái không?
Tôi ngẫn người không biết hắn ta nói gì. Mười ba nến hai cửa sổ là sao?
- Tôi không biết thế nào là có, hay không có người lái? Nhưng đồng hồ này của tôi chạy rất đúng giờ.
- Thế anh lúc xưa trong quân đội ngụy cấp bậc gì?
Nghe hỏi vậy, tôi lại càng không hiểu tên này muốn gì. Cấp bậc của tôi có liên quan gì đến việc này? Tôi vẫn biết trong đầu óc bộ đội, tù cải tạo chúng tôi cấp bậc càng cao tội càng lớn. Nhưng tại sao khi không lại hỏi cấp bậc của tôi?
- Xưa tôi là Trung úy.
- Trung úy ngụy các anh sao mà dốt thế! đồng hồ không người lái mà cũng không biết. Này nhá! đồng hồ không người lái là mình không phải lái gì hết cả, cứ để mặc nó cũng vẫn chạy như thường đấy.
- Ồ, vậy đồng hồ của tôi không người lái.
- Anh có bán không? tôi mua cho anh giá cao.
- Tôi không bán.
Nghĩ nếu có tiền cũng chẳng xài gì được trong tù, nên dù hắn ta nói thế nào tôi cũng không chịu bán. Thích quá, hắn giữ lại ngắm nghía mãi mới chịu trả. Sau lần đó, tôi bỏ đồng hồ trong túi và không bao giờ đeo ở tay nữa, sợ sẽ gây nhiều chú ý.
Trăn của nhân dân.
Một sáng sớm, Điển và tôi đi rừng lấy cột nhà. Tiêu chuẩn cột phải thẳng, phải tương đối đều, không thể gốc quá to ngọn quá nhỏ, vì sẽ rất khó đục mộng dặt kèo, đường kính từ hai mươi hai đến hai mươi lăm cm, dài bẩy mét và phải là gỗ tốt.
Các loại cây Dầu, Chai hay Bứa đều là những cây cao thẳng tắp, muốn tìm được cây thẳng dài trên bẩy thước thiệt không khó khăn chút nào, khi hạ xong chỉ cần róc một chút vỏ phía dưới gốc làm chỗ nắm và kéo ngược lên trên, nguyên lớp vỏ sẽ lột ra thành từng dây dễ dàng nhanh chóng, không như các loại cây khác, muốn lột vỏ, phải dùng một khúc gỗ đập vào thân cây, vỏ ở chỗ bị đập sẽ dập nát ra, đập như thế trên toàn bộ cây cột mới chặt cho hết vỏ, thường đập khoảng ¼ cây đã ê ẩm cả cánh tay. Chai, Bứa, cũng như Dầu, nhựa cây tuôn ra rất nhiều ngay lúc lột vỏ, khiến cho cây nhẹ hẳn đi, vác từ rừng về trại tuy cũng rất mệt nhưng không đến nỗi đôi vai bị tê nhức tới ngày hôm sau như vác các loại cây nặng khác. Khổ một nỗi, các loại cây đó đều không được nhận, vì gỗ của nó rất được mối ưa thích. Cây rừng tươi, gỗ tốt thường rất nặng, phải hai hay ba người mới vác nổi về trại.
Mãi gần trưa chúng tôi mới tìm được một cây trường vừa ý. Mở ngàm cho cây đổ đúng hướng và hì hục thay nhau chặt. Cây ngả, tôi đo đủ bẩy thước và chặt ngọn. Khi đo tôi thấy có con trăn lớn, dài gần ba thước bị đè chặt dưới ngọn cây đang cố tìm cách thoát ra. Có lẽ lúc nó đang trên cây, cây ngả chạy không kip nên bị đè. Chúng tôi liền đập chết trăn và tiếp tục chặt ngọn, lóc vỏ cây, sau đó cuốn trăn vào cây và dùng dây rừng cột chặt, hớn hở cùng nhau về trại. Hai chúng tôi bảo nhau: sẽ có thịt cho nguyên tuần lễ sắp tới. Về dến ngang chòi canh cổng trại, Người bộ đội gác cổng chỉa súng chặn chúng tôi lại và sừng sộ:
- Hai anh kia đứng lại ngay cho tôi coi nào, sao hai anh dám bắt trăn của nhân dân?
- Con trăn này trong rừng. Lúc chúng tôi chặt cây thấy nó kẹt chết dưới cây đổ nên lấy về, chúng tôi đâu có bắt trăn của dân đâu.
- Anh còn ngoan cố hả! trăn trong rừng là của nhân dân đó biết không?
- Anh nói thế tôi thấy không đúng! Trong khu rừng này đâu có nhà dân, mà dân đâu có ai nuôi trăn bao giờ.
- Rừng là tài sản của dân, vậy trăn trong rừng cũng là của nhân dân chứ còn gì nữa. Bọn tù các anh quen thói bóc lột của nhân dân vẫn không chừa. Mau đưa con trăn cho tôi ngay.
- Nếu vậy chúng tôi đem thả nó ở chỗ đã bắt được.
- Bộ đội chính là từ nhân dân mà ra. Các anh đã học tập chính trị bao nhiêu lâu nay còn chưa thông suốt sao. Cứ để con trăn xuống đó, tôi đem nó lên báo cáo cho cấp trên biết không?
Điển và tôi đành hậm hực tháo trăn bỏ xuống đất. Dù uất ức cũng phải chịu. Làm sao cãi được với những lý lẽ chày cối như thế, lại thêm họng AK đen ngòm nữa. Đã tưởng sẽ có một ít thịt, nhưng miếng thịt đã như đến miệng vẫn còn bị họng súng móc ra mất.
Tự túc lương thực.
Chúng tôi phá rừng làm rẫy, trồng khoai mì, khoai lang theo kế hoạch tự túc lương thực. Câu nói “quê hương ta đất đai mầu mỡ” quả nhiên rất đúng cho lúc này. Những gốc mì lên nhanh như thổi, chẳng bao lâu các dải đồi đã biến thành cánh rừng mì xanh ngát cao gấp hai người dứng, và chúng tôi đã có thêm công tác nhổ khoai mì. Nghe thật nhẹ nhàng, nhưng khi vác bao khoai len lỏi trong rừng mì ra chỗ cân nộp cho đội thật không dễ dàng như tôi tuởng. Đất tốt, mỗi gốc mì ít nhất cũng có trên bốn năm củ đâm ngang. Gò lưng nắm gốc mì kéo lên phải vận dụng toàn bộ sức lực mới keo nổi, mà sức thì đã mỏi mòn từ mấy năm nay. Nhất là khi trời vừa tạnh mưa, tay còn dính đất khi bẻ các củ khoai bỏ vào bao, gốc cây mì trở nên trơn tuột như lươn, nắm nhổ được lên càng phải tốn sức nhiều hơn nữa.
Áp dụng đúng chủ thuyết xã hội chủ nghĩa, mọi tài sản đều là của chung, các đội nộp toàn bộ số khoai thu hoạch cho tiểu đoàn, và tiểu đoàn sẽ phân phối đồng đều trở lại theo tiêu chuẩn làm nhiều ăn nhiều, làm ít ăn ít. Sau mỗi lần thu hoạch, tiểu đoàn cho chúng tôi một tuần khoai mì điểm tâm thay cho nước cháo. Cán bộ nói đó là lòng ưu ái của đảng đối với anh em cải tạo. Hàng bao nhiêu tấn khoai không cánh đã bay mất nhanh hơn cả ảo thuật.
Ngay từ ngày đầu cải tạo, bữa ăn luôn luôn thiếu lại không có chất dinh dưỡng, sức lực anh em càng ngày càng lụn bại. Bụng đói triền miên đó là chuyện thường, khi bị thương các vết thương phải mất thời gian lâu gấp đôi gấp ba mới có thể lành. Cóc, nhái, thằn lằn, chuột, bọ, rắn rết, hay bất cứ con vật gì có thể cung cấp chất thịt cải tạo viên đều không chừa. Đã có nhiều anh em chết vì ngộ độc cóc tía, nấm độc v.v...
Sau Khi việc dựng nhà ở, hội truờng cho trại tạm xong, chúng tôi đắp lò rèn, đúc dụng cụ mộc. Cưa, đục, bào, đủ loại. Từ đó, chuyển sang đóng đồ dùng trong nhà. Lúc đầu bàn ghế còn thô sơ bằng gỗ tròn, dùng trong hội trường và nhà ở, dần dần chúng tôi phải vào sâu trong rừng tìm hạ các loại gỗ quí, như gõ, cẩm lai, Trắc v.v… Nghề dậy nghề, kỹ thuật đóng đồ gỗ của anh em cải tạo càng ngày càng cao. Mặc dù toàn bộ dụng cụ dùng đều do tự chế, chúng tôi vẫn xẻ ván từ những cây to hai ba người ôm, đóng thành những bộ sa-long, bàn ghế, tủ dựng quần áo, hay những chiếc giường thật đẹp, không thua gì những đồ bày bán trong các tiệm đồ gỗ nổi tiếng dọc đường Hồng Thập Tự ở Sàigòn trước năm 1975. Đồ sản xuất rất nhiều, cán bộ lấy đem về nhà riêng, hoặc đem bán kiếm tiền. Tiểu đoàn nào sản xuất được nhiều cán bộ tiểu đoàn đó giầu, lâu ngày trở thành một phong trào ganh đua giữa các cán bộ. Thi nhau bắt cải tạo đóng đồ gỗ đem bán.
Lần đầu tiên chúng tôi được viết thư cho gia đình cũng từ trại KàTum. Trước khi viết thơ, cả tiểu đoòn phải học tập về điều lệ và nội dung bức thơ được chấp thuận cho gởi. Những thơ không hội đủ tinh thần sẽ bị giữ lại.
1- Nội dung không được than thở, trái lại phải động viên tinh thần thân nhân, khuyên họ luôn nghiêm chỉnh chấp hành luật pháp chính quyền địa Phương
2- Cổ võ tinh thần người thân khuyên họ phải tin tưởng vào chính sách cải tạo của đảng Cộng Sản Việt Nam.
3- Cho thân nhân biết, cai tạo viên được đối đãi tử tế, được cấp phát quần áo và lương thực rất đầy đủ.
Thăm nuôi.
Ba tháng trước, Chúng tôi được lệnh dựng một khu nhà tranh ngoài bìa rừng cách trại khoảng năm cây số. hai dẫy dài nối đuôi nhau thành hình chữ L, nằm lọt ở giữa là một căn nhà nhỏ, ba vách, vách trước để trống quay về hướng hai dẫy nhà dài, tất cả nằm trong một vòng rào kín, nay được biết đó là khu thăm nuôi. Căn nhà nhỏ nằm gần cửa hàng rào, làm chỗ cho thân nhân khi đến trại vào đăng ký. Lúc dựng căn này, tôi đã thấy hơi lạ, cán bộ muốn chúng tôi để trống bức vách nhìn ra hai dẫy nhà dài. Đến ngày có người nhà lên thăm tôi mới hiểu. Từ căn nhà nhỏ có thể dễ dàng kiểm soát mọi động tĩnh bên hai dẫy nhà ngang.
Đa số khi viết thơ về gia đình, ai cũng xin đồ ăn. Không ngoại lệ, tôi cũng xin nhà một lọ mắm ruốc, nghĩ thứ đó rẻ và có thể để được lâu không hư, một chai nước mắm, thuốc ngừa sốt rét, và một chút mật gấu nếu có. Được báo có người nhà tới thăm, tôi vừa mừng vừa lo. Mừng vì sắp được gặp mặt người thân, lo vì không biết vợ con tôi có đi được không? Từ bao lâu nay tôi luôn mong ước được thấy lại người vợ mà tôi ngày đêm nhung nhớ. Chuyến thăm đầu, có ba tôi và đứa em trai. Nhưng tôi vui mừng hơn cả có lẽ vì có vợ tới, nàng còn bồng cả con gái đầu lòng của chúng tôi theo nữa.
Gia đình tôi quây quần cả bên cái bàn trong một gian của dẫy nhà ngang. Trong góc gian phòng, có bộ đội đeo AK ngồi canh nên chúng tôi đặc biệt cẩn thận từng lời nói. suốt hai tiếng đồng hồ tôi không rời vợ và đứa con gái vừa được hơn ba tháng. Nàng cứ nhìn tôi mà khóc chẳng nói được gì. Ba tôi đã gìa nhiều, ngày tôi đi ông còn rất trẻ trung . nay mới năm mươi mà tóc bạc trắng như đã trên lục tuần. Ông cứ thắc mắc mãi, vì sao tôi xin mật gấu. Cuối cùng tôi hạ nhỏ giọng cho ông biết tôi bị tra tấn cần mật gấu để trị nội thương . Vợ tôi nghe được, nước mắt càng dàn dụa. Hai tiếng thăm nuôi sao ngắn qua, giống như chỉ hai phút. Lúc chia tay tôi không ngăn được cảm xúc. Ba tôi cũng bùi ngùi dặn tôi nên bảo trọng. Vợ tôi bịn rịn chẳng muốn rời. Đường từ khu thăm nuôi về trại sao dài thăm thẳm. Các bạn khác vì xin quá nhiều đồ ăn phải gồng gánh nặng nề, có người phải đi dây chuyền hai gánh nên đi thật chậm. Tôi chỉ có một bao nhỏ xách tay cũng được nên không khó nhọc lắm trên đường về.
Tôi ở Katum ba năm, được thăm nuôi hai lần , mỗi lần ba tiếng . Lần thứ nhì vợ tôi đi cùng mẹ và đứa em gái lên trại.
Canh da trâu.
Sang nay tiểu đoàn họp sớm, chúng tôi không những không phải đi rừng, còn được phát mỗi người một bộ đồ kaki mới. Tiểu đoàn ra lệnh:
1- Hôm nay không phải lao động, nhưng mọi người không đuợc mặc đồ cũ, rách rưới. Trong vòng 2 ngày, bất cứ lúc nào, sẽ có phái đoàn quốc tế gồm đại diện các nước Nga, Anh, Pháp, Hòa lan, Bungary tới thăm trại.
2- Trong trại phải hoạt động bình thường, và vui vẻ cười nói, không được nhăn nhó chán nản.
3- Cấm tuyệt đối không được tự ý tiếp xúc trò chuyện hay nêu câu hỏi với phái đoàn. Cán bộ đã chỉ định người và chuẩn bị sẵn các câu hỏi cho mấy người này.
4- Đặc biệt nếu ai dùng tiếng nước ngoài như Anh, Pháp v.v… nêu câu hỏi hay nói gì với phái đoàn sẽ bị trừng phạt nặng nề.
5- Người đã được chọn sẵn, phải nêu đúng những câu hỏi cán bộ soạn trước, không được sửa đổi lệch lạc .
Sau khi họp, về trại nghỉ nguyên ngày. Thật bất ngờ, các anh em trong tổ anh nuôi được lệnh đi lãnh đồ ăn. Mỗi đội ba ký lô da trâu và một rổ rau muống. Đã mấy năm không có thịt cá chi hết, nay bỗng có canh rau muống nấu da trâu, cộng thêm một bộ đồ kaki mới, còn được nghỉ xả hơi khỏi lao động. Đúng là đảng có lòng ưu ái cải tạo. Nhưng suốt hôm đó chẳng có ma nào tới. Gần trưa hôm sau mới thấy phái đoàn gồm ba nguời ngoại quốc được cán bộ đón đi xem hội trường. Họ đứng nói chuyện trên hội truờng một lúc, sau đó đi thăm nhà cán bộ rồi ra về. Không thắc mắc, không thăm viếng, không có câu hỏi cũng chẳng có trả lời.
Sau buổi đóng kịch hụt, ngoài việc lao động từ sáu giờ sáng đến sáu giờ tối, Kàtum không còn gì đáng nhớ. Tôi ở trại này khoảng trên ba năm, cuối năm thứ ba có mười mấy anh em được thả, số còn lại chuyển về Thành Ông Năm Hóc Môn. Tôi về Hóc Môn càng buồn hơn, một số bạn được đi phép năm ngày thăm nhà, tôi không có may mắn đó. Trại gần thành phố nên được canh giữ rất kỹ luỡng, không có lao động xa, chỉ làm việc trồng trọt dọn dẹp lặt vặt trong vòng rào trại. Tôi giết thời gian ở đây bằng cách học guitar với Linh, một anh bạn mới quen. Một buổi tối tôi buồn và nhớ vợ, ra sau dẫy nhà ngủ, ngồi một mình dưới gốc cây hát cho vơi sầu. Bài “chiều hành quân”, Linh nghe được dem cay dan da chiến ra dệm cho toi. Từ đó chúng tôi thường quây quần lén hát nhạc vàng cho nhau nghe. Tạ Kỳ Linh, là con trai lớn của nhà văn Tạ Tỵ, chúng tôi đổi ngược tên thật của anh lại thành “Tinh Kỳ lạ” cho hợp với cái tài chơi đàn xuất chúng, dù chỉ với cây đàn do chúng tôi tự dùng ván thông và gò nhôm làm thành. Ngoài ra tôi còn cắt nhôm làm kẹp tóc, lược, lắc đeo tay và khắc hình hay chữ trên đó. Khoảng mấy tháng ở đây vì ít phải lao động cực nhọc sức khoẻ tôi đã phần nào hồi phục.
Hơn ba năm từ ngày Cộng Sản chiếm Sàigòn, thành phố tráng lệ của miền Viễn Đông. Chúng tôi, những người con hiên ngang gánh vác trách nhiệm bảo vệ tự do cho miền Nam đã không dứt áo ra đi, đã không nỡ xa rời quê mẹ. Dù sao cũng vẫn cùng một giống nòi Hồng Lạc. Đất nước hợp nhất, không còn chiến tranh. Chiến tranh dứt thù hận cũng tiêu tan. Ở lại dù có khổ sở thế nào cũng vẫn là người dân nước Việt sống trên quê hương Việt Nam. Không lẽ Việt Cộng nay đã lấy được trọn cả nước lại đi giết tập thể hàng trăm ngàn người dân chúng tôi sao?
Vì ý nghĩ đó, chúng tôi đã tự nguyện ở lại đem thân vào chốn lao tù, làm việc khổ sai đày đọa, cách biệt hẳn với xã hội bên ngoài. Nhưng hỡi ôi! Việt cộng dưới quyền lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam không giết chúng tôi tập thể. Chúng chưa muốn người dân Việt Nam kinh hãi, và nhìn rõ bộ mặt thật của Cộng Sản. Đảng đã thâm hiểm hơn gấp trăm gấp ngàn lần, đã đánh lừa gom những người con ưu tú của miền Nam vào các trại tù khổng lồ, và che mắt mọi người bằng mỹ danh trại “Cải Tạo”. Xã hội sẽ không còn người chống đối phản kháng những việc làm bán nước hại dân của chúng. Trong trại tù chúng không những hành hạ bắt làm việc nặng nhọc ngoài sức chịu đựng của con người, còn cướp hết những lương thực sản phẩm do tù nhân làm ra để họ ngày một đói, không chết vì rừng thiêng nước độc, bệnh hoạn không thuốc men, cũng chết dần vì thiếu đói, vì kiệt quệ, hao mòn trong lao động khổ sai, triền miên. không còn lầm lẫn nào lớn hơn lầm lẫn này. Cái ý nghĩ cùng một giống nòi Hồng Lạc mới mỉa mai làm sao!!! Cuối năm thứ tư tôi bị chuyển đi Phước Long.
Phước Long.
Phước Long là vùng cao nguyên, Trại cải tạo nằm sâu trong rừng, về sáng sương mù và khí lạnh rất lâu tan. Những khu rừng lồ ô thường nằm dưới thung lũng, thấp và thiếu ánh sáng nên ẩm ướt càng thêm ẩm ướt, lá lồ ô rụng thành một lớp dầy, lâu ngày mục nát rất thích hợp cho vắt sinh sống. Tôi ghét cay ghét đắng công tác lấy lồ ô, không phải vì nặng nhọc, chỉ vác hai cây dài đã nặng quằn vai, trong trại tù, có công tác nào mà không nặng nhọc? cũng không phải vì rừng lồ-ô ở khá xa trại, chặt dủ bốn cây vác về đã mất hơn hẳn nửa ngày còn mệt bở hơi tai, nghỉ nguyên buổi chiều cũng không lại sức. Tôi ghét đi lấy lồ ô vì rừng lồ ô đầy vắt. Bất cứ ngừa cách nào, bó chặt tay áo, cột kín ống quần v.v.. đều không thể tránh bị vắt cắn. Mỗi lần đi lấy lồ ô ít nhất cũng bị năm ba con hút no máu to phồng, đó là chưa kể hàng chục con khác mới vừa bắt đầu hút máu đã bị phát giác và bị giết ngay tại chỗ, thật khốn khổ hơn nữa nếu không may ta bị một con chui vào tai hay hậu môn.
Có lần chặt xong hai cây, róc sơ cành lá cho khỏi vướng, tôi gò lưng, è cẳng kéo ra ngoài trống chỗ có ánh sáng mặt trời, vì biết vắt rất kỵ ánh nắng, cảm thấy trên mu bàn chân vừa ngứa vừa đau vội cởi giầy ra xem, vừa lột được chiếc vớ tôi đã rùng mình, tóc gáy dựng dứng. Một cảm giac ớn lạnh thật khó tả, suốt đời tôi không bao giờ quên, chạy doc xương sống làm trán toát mồ hôi. Thấy trên bàn chân chín, mười con vắt bu kín đang đua nhau hút máu, con nào cũng đã căng tròn. Tôi vội vàng dùng luỡi dao gạt hết xuống, bằm nát, rồi lấp đất lên để khỏi phải nhìn máu của chính mình loang đầy mặt đất.
Một lần khác, nộp lồ ô xong trời đã chiều, ra giếng tắm, cởi áo mới thấy con vắt to căng tròn máu rớt từ sau lưng xuống, vì quá no không còn hút thêm được đã căng tròn như một viên bi nên tự động rớt ra.
Chúng tôi đã gầy gò vì thiếu ăn lâu ngày, bị mất máu như thế, với tôi là một cực hình ghê sợ nhất. Cái tệ hại bị vắt cắn không những chỉ mất số lượng máu đã bị hút, chỗ vắt cắn thường rất lâu lành, máu vẫn tiếp tục chảy dù con vắt đã bị chúng ta lấy ra. Trên miệng vắt tiết ra chất chống đông máu. Khi vắt đã nhả, trung bình phải mất ít nhất từ hơn nửa tiếng đến một tiếng máu mới có thể ngừng chảy.
Từ khi đến Phước Long, Tinh Kỳ Lạ và tôi ở khác đội, ít có dip gặp nhau. Việc học đàn với anh phải tạm gác lại. Các bạn cùng đội biết tôi từng mê chuyện kiếm hiệp Kim Dung, mỗi tối đều tìm cách mời tôi kể lại, họ nấu chè hoặc bất cứ món ăn gì có thể tìm được, đặc biệt để dành cho “thầy kể chuyện”. Tối nay buổi kể chuyện cũng tạm ngưng vì tập họp điểm danh bất thường. Hồi sáng đi cuốc cỏ ruộng mì tôi có gặp Linh, tôi chỉ chào hỏi qua loa và nhận ra Linh có vẻ vội vã. Không rõ như thế nào, nhưng Linh đã âm thầm sắp xếp với vợ qua mấy lần nuôi, và hôm nay chị Linh chạy xe Honda vào tận khu rừng thưa mang quần áo civil cho anh thay, hai người giả trang dân trong vùng cùng nhau trốn thoát về SàiGòn. Sau này tôi có đến khu chung cư Minh Mạng thăm nhưng không gặp linh, lúc đó đã đi Cà Mâu dò đường vượt biên, gặp chị Linh, tôi có gởi lời hỏi thăm anh. Nghe đâu anh cũng vượt biên an toàn và nay đang định cư tại Mỹ.
Xuyên Mộc, trại cuối cùng.
Chuyển về Xuyên Mộc chúng tôi ai cũng mặt mày ủ dột. Đây là trại tù do Công an coi. Ngày đầu vào trại một cán bộ khi tập họp chúng tôi đã tuyên bố rõ ràng: Các anh ngụy quân ngụy quyền chuyển về trại này đều thuộc thành phần còn ngoan cố, học tập lâu vẫn không có kết quả tốt. Đã qua nhiều lần thanh lọc còn lọt lại. Những ai học tập tốt đều đã được cho về đoàn tụ với gia đình. Còn các anh có thể phải ở đây mãi mãi.
Ở Xuyên Mộc khoảng năm tháng, người Thiếu úy cán bộ đại đội gọi tôi lên để nói chuyện rieng. Trong lòng hồi hộp không biết mình đã ăn nói sơ hở gì để ang-ten báo cáo. Kinh nghiệm mấy lần, khi bị gọi lên gặp riêng với cán bộ lần nào tôi cũng mang cái thân ốm đòn trở về. Cũng may lần này anh chàng cán bộ đại đội trưởng này cho tôi biết anh ta nghe một người bạn tù giới thiệu, tôi khéo tay, biết vẽ và xủi đồ nhôm. Anh ta muốn nhờ tôi xủi hình một cô gái và đóa hoa hồng vào mặt hộp quẹt máy cho anh. Tôi nhận lời ngay vì đây là dịp may khỏi bị đào đất khiêng cây hoặc làm những việc nặng nhọc khác. Hết quẹt máy này anh ta đưa quẹt máy khác, hết quẹt đến vòng, lắc, kẹp tóc v.v… Một thời gian mấy tháng tôi luôn được ngồi trong gốc cây mát làm đồ riêng cho anh ta. Một hôm đang cùng các bạn đào gốc cây anh ta lại đến gọi tôi ra nói chuyện riêng. Lần này vừa mở lời đã chặn đầu: Anh phải làm tốt một việc sau đây, tháng sau anh sẽ được đề nghị cho về, và nhớ phải giữ kín chuyện tôi nói với anh hôm nay, nếu không anh sẽ bị giữ lại học tập thêm. Tôi rất ngạc nhiên, hôm mới vào trại có một cán bộ đã nói tụi tôi có thể sẽ phải học tập suốt đời ở đây. Anh ta tiếp: Trong vòng một tuần anh phải viết cho tôi bài báo cáo về tất cả những hanh dộng va tu tuởng sai trai phản dộng của mọi nguời trong đội. Nếu bản báo cáo tốt anh sẽ được về. Tuyệt đối không được dấu diếm che đậy chuyện gì cả .
Đêm đó tôi trằn trọc mãi. Thi ra hắn muốn mình làm ang-ten. Thiệt là khôi hài, muốn tôi làm ăng-ten bán rẻ anh em, đừng hòng tôi làm chuyện đó! Nhưng nếu lỡ hắn ta nói thật thì sao đây? nghĩa là nếu tôi không viết báo cáo hắn có thể giữ tôi lại không? Không thể bỏ uổng dịp may hiếm có cũng không thể làm hại anh em. Vợ con tôi ở ngoài đang trông đợi tôi về, còn có gia đình tôi nữa. Thật là một đòn thâm độc. Suy nghĩ mãi tôi đã quyết định chờ tới ngày chót mới viết báo cáo. Trong báo cáo tôi viết: Tôi nhận thấy các bạn trong đội người nào cũng cố gắng hết sức lao động, học tập, chăm chỉ. Người nào cũng nôn nóng mong học tập mau về. Họ cố gắng nhiều quá nên mệt nhọc, công việc có hơi chậm lại. Ban đêm họ đều mệt, ngủ say không bàn tán xì xào gì được cả .
Một tuần sau, buổi sáng sớm khi tiểu đoàn tập họp đi lao động, 12 người được giữ lại trại cho lãnh giấy ra về trong đó có tôi. Về đến nhà gặp cha mẹ vợ con mấy tháng sau có người dắt mối nhờ lái ghe vượt biên. Tôi không ngần ngại nhận lời ngay. Cuối năm 1980 may mắn đã đưa được gia đình thoát nạn tới Indonesia và đi định cư năm 1981 . Một thời kinh hoàng tủi nhục của đời người đã qua, nay nhớ lại tôi vẫn còn kinh tởm cộng sản vô cùng.
Dung2
Trở lại đầu
TRẦN KIM BẰNG * VƯỢT BIÊN BẲNG ĐƯỜNG BỘ
Tác giả Trần Kim Bằng, cư dân vùng Little Saigon là một nhạc sĩ, đã phát hành tập nhạc và CD Duyên. Bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của ông là một hồi ký về hành trình vượt biên đường bộ năm 1980.
Từ Khao I Đăng đến Sikew, 1980
Đầu năm 1980, nhóm người Việt vượt biên đường bộ đầu tiên đươc chuyển đến trại Sikew khoảng 600 người, một số từ các trại sát biên giới Thái Miên, số khác từ trại Arrange Pathet (trại tù lao công đào binh), đa số còn lại từ trại Khao I Đăng section 13. Tất cả được sắp xếp cho vào các Building 1,2 v à 3. Mỗi Building (B) có trưởng và phó Building do một số cựu quân nhân QL-VNCH được đồng bào bầu ra để đại diện người tị nạn tiếp xúc, liên lạc với người Thái trong mọi công việc về mặt đời sống.
Trại Sikew có lính gác, có trại trưởng và trại phó do quân nhân Thái đảm trách. Gặp 2 người này là phải đứng nghiêm, khoanh tay cúi đầu, cung kính chào: Savadi Khấp!". Đã có nhiều người bị đánh, cá nhân mình cũng suýt bị ăn gậy vì thấy tên phó trại mà làm bộ ngơ ngác, không chào. Thấy nhóm tị nạn trông đen đủi và cô hồn quá nên trưởng trại cho tập họp, cảnh cáo ngay và cho biết đây cũng là một trại tù của lính Thái, nên kỷ luật rất nghiêm nhặt, áp dụng cho dân tị nạn giống như quân đội, vi phạm kỷ luật sẽ bị cạo trọc đầu, giam vô chuồng cọp, chuồng beo... tù vô thời hạn.
Người Thái giống việt cộng ở chỗ bắt sĩ quan, quân dân cán chính VNCH đi học tập cải tạo mút mùa mà không cho biết thời hạn phải tù bao lâu. Ở trại Sikew nếu bị tù thì chua lắm bởi dù phái đoàn có đến gọi tên lên phỏng vấn hay bạn có danh sách đi định cư thì cũng miễn đi, ở tù đã...
Trại Sikew sẽ có chào cờ ngày 2 lần sáng chiều, mọi người đều phải học thuộc và ca quốc ca Thái Lan, còn nhớ lúc đó anh Trần Thịnh* sau này là danh hề nổi tiếng hải ngoại cứ ca nhại "gà dây thung ta nấu cho thành xé phai,... đi đứng lang bang, 2 tay đút vô túi quần..". làm bà con cứ bò lăn ra cười.
Sikew có 8 building lớn, ngoài 3 building đầu thì các building 4,5,6 dành riêng cho người tị nạn Lào gốc Việt, đến từ trại Nong Khai phía Đông Bắc Thái. Họ nói tiếng Thái (tiếng Lào và Thái xài chung ) và nói tiếng Việt rặt giọng Bắc nghe ngồ ngộ, nhưng dễ hiểu và hiền hòa. Nhìn chung thấy bảnh lắm, vì nước da họ trắng tuốt, quần áo tươm tất, sạch sẽ. Những cô gái Lào gốc Việt ai cũng khá đẹp, và thường quấn xà- rông cho tiện. Phe ta mới đến, nhào qua thăm hỏi tình hình thì họ cho biết người Việt ở Lào đi tị nạn dễ lắm, chỉ bơi qua một con sông là sang đất Thái, qua trại Nòng Khai, ở riết chán, thấy khổ thì lại lẻn bơi về. Nhưng sau này cao ủy chuyển về Sikew. Hỏi tới mới biết họ ở trại Sikew này, người ít nhất, sơ sơ cũng trên 1 năm, còn 3, 4 năm thì nhiều, được đi định cư thì phải là may mắn. Lý do: họ lý luận, đơn giản thôi, người Thái không cho phái đoàn các nước vào trại phỏng vấn?
Vì tị nạn ở trại càng lâu thì càng đẻ ra nhiều công ăn việc làm cho dân Thái. Tiền do cao ủy trả, điều này có lý khi nhìn vào trại Khao I Đăng, trại khá lớn mà người Thái cấm đào giếng và nước phải do họ cung cấp, bạn tính xem, nhiều trăm chuyến xe do công nhân Thái chở nước vào mỗi ngày ngày cho 5 chục ngàn người Kampuchia ròng rã trong nhiều năm...?
Trại Khao I Đăng, được biết chỉ được định nghĩa là nơi để "lánh nạn" chứ không phải là "tị nạn" nên không có phái đoàn đến trại phỏng vấn, bởi vậy khi chuyển trại, có một vài người Miên giả làm người Việt tỉnh queo, lên xe đi theo, sau này định cư thành công.
Khao I Đang có Section 13 mới xây thêm, dành riêng cho nhiều nhóm người Việt đầu tiên vượt biên bằng đường bộ. May là thời gian ở đây chỉ vài tuần ngắn ngủi. Cũng có thể do "trâu cột ghét trâu ăn" hay vì cộng sản Việt Nam đang xâm lăng Kampuchia? nên xảy ra vài đụng chạm nhỏ giữa Miên và Việt, nhờ vậy Cao ủy tị nạn phải di tản đám người Việt về trại Sikew gấp sợ có chuyện.
Nhìn chung thấy đường tương lai sao mù mịt quá! Ở Sikew khoảng vài tháng sau này mới thấy thấm thía hai chữ may mắn mà lúc mới tới không ai để ý. Khi có một gia đình người Lào Việt được đi Đức, loa phóng thanh reo:"Sau đây là danh sách những người... may mắn có tên được đi định cư ở đệ tam quốc gia". Thôi thế thì cứ yên tâm sống đời tị nạn mà xem tình hình biến chuyển thế nào? Ai siêng chịu khó cắp sách đi học thêm sinh ngữ do các thày tị nạn tự nguyện đứng ra dạy và ráng giữ gìn sức khoẻ chờ thời! Nói giữ gìn sức khoẻ là vì góc trại Sikew cũng có nghĩa trang nhỏ, nơi đó có 12 người tị nạn vĩnh viễn chọn làm nơi an nghỉ!
Thời gian 1980, những người vượt biên đường bộ khá tuyệt vọng vì chưa được thế giới biết đến nhiều bằng những người Việt vượt biên đường biển hiện rầm rộ có mặt khắp nơi tại các nước láng giềng ngoài Thái như Indonesia, Malaysia, Philippine, Hong Kong...
Sikew có Building 8 (B8), rất đặc biệt vì nằm bên kia trại, cửa ra vào đều bị khóa, kiểm soát chặt chẽ, nội bất xuất, ngoại bất nhập, lính gác có súng. Người tị nạn là những cán binh, bộ đội, trong đó có nhiều người thuộc dân con cái "ngụy" tức phe ta chính gốc VNCH, nhà nghèo không tiền lo lót, bị bắt đi nghĩa vụ quân sự, nhân cơ hội vọt luôn qua Thái xin tị nạn. Những người này trước khi tới trại đều được đưa về Bang kok khai thác chán chê rồi mới đưa về Sikew, và có tin đồn họ sẽ vĩnh viễn ở lại đất Thái, phần nữa cũng không quốc gia nào dám nhận cho phe nón cối, dép râu đi định cư? Chuyện người ta đề phòng tình báo phản gián mà. Thiệt là thê thảm!
Lúc đó mình gặp lại đứa em trong xóm thuộc diện này, nay trở thành bộ đội vượt biên hiện nằm trong B8. Mừng quá vì nhà nó chỉ được báo cáo mất tích, mọi người ai cũng nghĩ nó bị tiêu rồi! Chú em bắn tiếng qua hàng rào kẽm gai nhờ mình tìm cách báo về Sài Gòn cho má biết là còn mạnh khỏe.
B8, Tìm Bạn Bốn Phương
Nói về nhân vật của B8, bạn phải nghiêng mình thán phục, nhiều chuyện khôi hài, hồi hộp hay táo tợn. Nhớ có hiện tượng mà toàn trại Sikew ai cũng biết và cười. Các cụ B8 có lạc bước nơi đây, đọc xong xin đại xá..
B8 mặc dù là những người vượt biên tìm Tự Do nhưng đối với người Thái đầy nghi kỵ nên vẫn bị hăm he về chuyện không có ngày đi định cư. Đời sống trong trại tù túng, thiếu thốn không có tương lai kể khá bi đát. Cách hay nhất là viết thư gõ cửa các hội thiện nguyện khắp nơi tìm an ủi, hổ trợ hay sponsor. Kẻ có thân nhân thì nhờ báo chí hải ngoại tiếp tay đăng tìm giúp và có lẽ vụ tìm bạn bốn phương cũng bắt đầu từ đó.
Không biết ai khởi xướng nhưng chỉ thời gian ngắn sau trăm hoa nở rộ... tức là, trự nào ở B8 cũng có một vài người yêu khắp nơi trên thế giới để mà tâm tình, trò truyện, nhưng quan trọng nhứt là có thêm thu nhập tài chánh.
Trên mục kết bạn tâm thư báo Văn Nghệ Tiền Phong và báo Hồn Việt tại hải ngoại, California lúc nào cũng đăng tin rất nhiều các em gái trong trắng, ít tuổi đời, lạc bố mất mẹ trên đường vượt biên, hay goá phụ ngây thơ, nữ sinh Gia Long, Marie Curie, Trưng Vương,... nói chung nhan sắc mặn mà, trên trung bình, con nhà gia giáo, hiện độc thân, cô đơn lắm... đang mong chờ mòn mỏi các ân nhân phương xa ra tay cứu giúp, em nguyện sẽ nâng khăn sửa túi, đáp đền khi gặp lại. Thư từ liên lạc xin gửi về em tên.... Địa chỉ trại Sikiu Camp,...Building 8... Panat Nikhon, Ratchasima- Thailand.
Sau 1975 các đấng liền ông thoát được ra hải ngoại đi tìm các cô mà lấy làm vợ, con mắt đổ ghèn tìm hỏng ra nương nào! Mấy cô tiểu thư dù nhan sắc khiêm nhường, chỉ cần hơi trắng da dài tóc là trước ngõ vương tôn công tử đầy kẻ thập thò, tha hồ mà chọn. Úi chao! sao cái B8 - Sikew này tự dưng có lắm người đẹp thế! Thế là thư từ đáp ứng cứ nườm nượp thay phiên nhau đổ về.
Tình hình lúc ấy "nóng" quá, không ra tay sớm kẻ khác cuỗm mất, người khôn là người biết ra tay cứu vớt các em từ thủa bơ vơ!
Thùy Trang, 26 tuổi, 1 con, bị chồng ruồng bỏ. Hiền, thùy mỵ, đẹp xấu tùy người đối diện, vừa may mắn cùng con thoát được đến bờ tự do, không thân thuộc bảo lãnh. Hiện rất cô đơn, muốn yên phận để nuôi con trưởng thành. Tìm nơi nương tựa, chỉ dẫn Trang bước đầu nơi xứ người. Mong gặp đối tượng thành thật để tính chuyện lâu dài. Xin đừng đùa giỡn, Trang hứa sẽ hồi âm và gửi hình dù thư đến trễ. Thư về Thùy Trang, B8 - Sikiu.
Rồi sao? Người đẹp "trai" Thùy Trang, có ngày nhận cả 2 chục lá thơ gửi tới, tuyên bố ngon lành, anh nào không thực tế, nói toàn chuyện yêu đương tha thiết, lỉnh kỉnh là dẹp, thơ nào check có mấy choạc, tức là dưới trăm đô, cũng dẹp. Thiệt tình Đời tị nạn thành đời vương giả ít ra nơi mặt vật chất!
Màn đại bịp rộ khắp trời Sikiu. Cả nước B8, các đấng nam nhi chuyển giống qua gien "nữ"!
Hình ảnh để làm tin cho các anh yêu nơi phương trời xa xôi thì như phần trên đã nói về các cô gái Lào gốc Việt ở Building 4,5,6, họ giống lai giòng nên ai cũng "đép đẹp", nói theo lối của họ. Tóm lại, duyên may đưa đẩy...Trai Sài Gòn gặp gái Viêng Chân như cá gặp nước, mê nhau như điếu đổ, dù B8 mỗi ngày chỉ có mấy trự được phép thay phiên nhau qua bên này đi chợ ở khu B4, và thời gian thì không nhiều, nhưng có cô nào mà không thích được chụp hình để các anh coi cho đỡ...nhớ! Thiệt là thiên thời địa lợi, hình các em gái Lào được các "cô" B8 dùng gởi đến quý anh giai bốn phương trời.
Dân hành nghề nhiếp ảnh thời ấy cứ là kiếm khối tiền!
Vượt biên một phút
Những người bộ đội tị nạn Việt Nam tại B8 thì mỗi người đều có một hoàn cảnh vượt thoát khac nhau. Câu chuyện có thật của Nguyễn Tấn X, cấp bậc binh nhất, diện Nghĩa Vụ Quân Sự, anh thuộc sư đoàn 5 ninh 8, trung đoàn 123, đại đội 3 (?) trực diện đêm ngày tại tuyến đầu với tàn quân Polpot trong rừng, ngay sát biên giới Thái.
Vì đóng quân án ngữ ngay bìa rừng cạnh biên giới nên ngày ngày lính biên phòng Thái và bộ đội Việt Nam đều nhìn thấy nhau. Cả hai bên đều canh chừng tàn quân Polpot ở trong rừng. Tuy không có giao tranh nhưng người Thái luôn đề phòng và bố trí lực lượng khá hùng hậu nơi này. Giữa hai đội quân khác màu áo chỉ khoảng hơn trăm thước là một bãi mìn dầy đặc như để phân ranh giới do cả hai bên thay phiên nhau thay đổi vị trí gài đặt mỗi buổi chiều.
Mỗi sáng, phía Thái có chào cờ thì bên này cũng tập họp để nghe chính trị viên đại đội cà kê huấn thị. Bữa kia có chuyện...
Như thường lệ buổi sáng thức dậy trời tờ mờ còn ngái ngủ ra tập họp, đồng chí X lợi dụng lúc mọi người còn đang uể oải, chưa vào hàng đầy đủ đã làm 1 cú lịch sử, đột ngột chạy băng qua bãi mìn trước mắt những người lính của cả 2 bên. Mọi người đều bất động, nín thở chờ mìn nổ, quên cả nằm xuống vì bất ngờ quá. Lúc chính trị viên đại đội phát giác la lên thì mọi người tỉnh hẳn và không tin chuyện xảy ra trước mắt: Hắn la lên: "Đồng chí X, trở lại ngay không tôi bắn..." Đã quá trễ, X cứ chạy, vừa chạy vừa giơ hai tay lên cao tỏ ý đầu hàng để lính Thái khỏi bắn ẩu. Lúc đó phía hàng quân Thái đang tập họp nhìn ra vấn đề ngay và họ lập tức điều động quân lính gờm súng chuẩn bị đáp ứng tình thế. Như một phép lạ, càng chạy càng nhanh.
Sau này anh cho biết cảm tưởng lúc đó chân như không còn chạm đất mà cũng không sợ đạp trúng phải mìn nữa, mọi chuyện đều phó mặc định mệnh an bày. Thời gian chưa đầy 1 phút mà rất dài, mọi người ai cũng nín thở nhìn theo chờ nghe tiếng mìn nổ, và rồi cuối cùng, mìn... không nổ. Anh đã thành công khi liều mạng chạy băng qua bãi mìn để đổi lấy sự Tự Do. Khi chạy đến phần đất Thái, viên sĩ quan Thái ra hiệu anh tiếp tục chạy xuyên qua hàng lính của họ và tự mình đứng chắn trước lối anh vừa qua...
Họ nhanh chóng khám xét anh rất nhanh và cho người áp tải đi vô sâu trong đất Thái. Phía bô đội tức tốc gởi người qua và đòi lính Thái phải giao trả về... "No way Jose!" Bạn ơi làm gì có chuyện này!
Đồng chí X được lên xe Jeep chở ra khỏi vùng hỏa tuyến và ngay chiều đó được chuyển về Bang kok. Khoảng tháng sau khi an ninh Thái điều tra với những thủ tục cần làm, họ chuyển anh về Building 8 Sikew. Như vậy, có thể nói cuộc vượt biên bằng chân vượt qua bãi mìn dầy đặc, đánh cược với tử thần đổi lấy Tự Do này thiệt vô tiền khoáng hậu. Thời gian giữa sống và chết chỉ trong khoảng chưa đầy 1 phút, quá nhanh, như vậy xứng đáng được ghi vào sách những kỷ lục lịch sử Guiness thế giới.
Anh cho biết thêm, trong vụ này thực ra có 2 người, kẻ đưa ra ý kiến vượt qua bãi mìn này lại là người bạn bộ đội gốc Bắc kỳ của đồng chí X. Họ trở thành thân nhau trong dịp anh X cứu anh Y thoát chết trong 1 trận giao tranh (đồng chí Y sau này cũng vượt thoát được khi bộ đội cộng sản đánh tràn qua đất Thái đuổi tàn quân Pôn Pốt khoảng giữa năm 1980).
Anh Y cho biết cả hai đã tính toán trước, chuẩn bị cuộc vượt biên liều mạng này lâu rồi và chỉ chờ dịp thuận tiện... Thường buổi chiều hôm trước nếu được giao nhiệm vụ gài mìn, lúc gài đặt phải lén đánh dấu và cố nhớ kỹ chỗ mình gài để biết mà tránh. Đó là bên này, chưa kể vùng mìn rác ở giữa, và mìn gài bên phía lính Thái thì sẽ tính toán theo sác xuất, quan sát, nhưng họ dĩ nhiên thường hay thay đổi... coi như đánh cuộc số mệnh.
Anh Y cho biết thêm người chính trị viên đại đội đã nhắm bắn anh X nhưng không hiểu sao cuối cùng lại không nổ súng? Anh suy đoán có lẽ hắn cũng hồi hộp không dám bắn thẳng vào anh X vì nếu trật, trúng lính Thái thì sẽ có đáp lễ và thành to chuyện ngay, có điều cả đại đội ai cũng biết tay đó bắn rất giỏi?
Anh Y cho biết đêm đó cá nhân anh nhận phiên gác khá xa, bàn giao trễ nên về tới chỉ kịp lúc thoáng thấy anh X đã chạy rồi.
Trại Sikew Được Phỏng Vấn
Quay trở lại nhóm 6 trăm người đến Sikew từ Khao I Đăng, khoảng đầu tháng hai 1980 được dồn vào các Building 1, 2 v à 3. Rất may mắn vì trong nhóm có người biết tin tức, địa điểm nơi quân nhân mất tích (M.I.A. = missing in action) nên người Mỹ hầu như tuần nào cũng ghé vào trại để làm việc vài ngày. Nhờ vậy nên người Thái cũng phần nào e dè, bớt khắt khe hơn với tị nạn?
Ngoài ra nhóm đầu tiên đa số là dân Sài Gòn, khá nhiều sĩ quan mới học tập cải tạo về, có bác sĩ, giáo sư, luật sư, nhiều cô bác từng làm việc cho sở Mỹ... Trình độ tiếng tây tiếng u như gió. Quả thực là may mắn được ở chung với nhiều người giỏi, vì vậy nhóm 6 trăm chinh phục được nhiều giới chức, các cô chú còn nhờ cao ủy đi gõ cửa các tòa đại sứ giùm, đánh động phương tây giúp can thiệp định cư.
Cho đến khoảng tháng 8, 9 có tin trại Sikew cho phép các phái đoàn vào phỏng vấn sau nhiều đánh tiếng lên tới cả nhà vua Thái. Dân con côi cũng được phái đoàn Mỹ phỏng vấn theo diện "xì bông xô hốt rác" nếu kiên quyết chờ và không có thân nhân các nước khác. Lúc ấy thì "thung thướng" lắm. Thêm chuyện vui là giấy tờ xin phỏng vấn muốn khai sao thì khai, nên một số rút kinh nghiệm ở Việt Nam sợ đến tuổi phải đi lính sớm, hiên ngang rút tuổi xuống cho trẻ, có kẻ "kéo quá hóa co" bởi cái hại sau này là lúc qua Mỹ rồi rất khó khi làm đơn bảo lãnh gia đình đi đoàn tụ. Kỳ rồi quán phở ngoài Bolsa có một cựu Sikew xưa ở chung Building, râu đã dài tới rốn, người qua tuổi lãnh hưu trí từ lâu mà vẫn cứ phải bưng tô, đi cày tiếp bởi xưa hơi quá tay, rút tới mười tuổi lận! Cụ nức nở phân trần:"đời ai biết mà ngờ".
Rời Thailand
Nhóm 6 trăm cuối cùng cũng được "may mắn" rời Sikew làm 3 đợt, mình đi đợt 2 tháng 1 năm 1981 đến trại Panat Nikhom, ở 1 ngày rồi lên trại Lumpini Transit Center, tại thủ đô Bangkok chuẩn bị ra phi trường qua Pulau Galang RPC tức Refugee Processing Center để học Anh ngữ và bước đầu hội nhập đời sống Hoa Kỳ. Đến trại này rủi mà lại vui vì không hiểu sao hồ sơ bị trục trặc nên phải ở lại hơn hai tháng đâm ra tối ngày lông nhông trốn ra Bankok chơi... Vì là trại chuyển tiếp đến và đi, tất cả người tị nạn bắt buộc phải ghé ngang trước khi rời khỏi xứ Thái. Điều kiện sinh hoạt trại Lumpini khá tốt về ăn uống và nước tắm. Ở đây gặp và kết thân được nhiều bạn đến từ các trại đường biển như Songkhla, Leamsing. Thường người nào bị kẹt lâu lắm cũng chỉ 1,2 tuần, với thâm niên gần 2 tháng mình trở thành trưởng trại, sắp học thuộc được tiếng Thái... "Nừng xoỏng xám xì ha hộc...đếm từ một tới mười thì lên đường.
Trại Transit Center thường có những vụ trả thù giữa những người tị nạn, tay người Việt kia gây nhiều bất công, ăn chặn tiền ăn bạc, hà hiếp đồng bào lúc có tí chức quyền nơi trại cũ, khi lên tới Lumpini này bị đồng hương tị nạn vác dao rượt chạy có cờ. Một ông cựu trưởng ban an ninh từ trại đường biển, khi lên đây phải đút lót tiền cho cảnh sát Thái xin được ở chung nơi trạm gác, không dám lò dò vào bên trong để mà lấy cơm về ăn hay đi tắm rửa, cứ vậy cho tới khi lên xe buýt ra phi trường.
Từ trại chuyển tiếp Lumpini lên máy bay qua Singapore, nhân tiện xin được thay mặt tất cả những người tị nạn đã đi qua trại Lumpini thời đó và sau này đã từng nhận được sự giúp đỡ về mặt thơ từ, để nói lời cám ơn chân thành đến Madame Simon Thúy. Một người Việt sinh sống nơi Bangkok, có chồng người Anh, làm trong lãnh sự quán Anh Quốc, ông qua đời vì tai nạn xe. Chị Thúy sống luôn tại Bankok nuôi con, và đã ngày ngày tình nguyện vào trại Lumpini giúp chuyển giao và nhận, cùng gửi thư tín đi khắp nơi qua địa chỉ nhà của chị cho đồng bào được yên tâm. Âm thầm hy sinh làm liên tục trong nhiều năm. Hy vọng Chị Thúy có dịp đọc được mấy lời này.
Galang 2, 1981
Đến Singapore, được tàu nhỏ đưa vô đảo Galang. Nhóm mình là những người đầu tiên được vào ở Galang 2, lúc đó mới vừa hoàn thành. Cứ bốn thanh niên được dồn vào 1 Barack mới toanh còn thơm phức mùi cây gỗ. Y như khách sạn dành riêng cho Summer Vacation để ngắm cảnh ở Mỹ, tệ lắm cũng được 3 sao dù không căn nào có cửa. Qua thời đi tới đâu cũng cả trăm mống chung một nhà. Ăn uống có đồ hộp, cao ủy phát trước vài ngày 1 lần, tuy thiếu chất tươi nhưng sao cũng được, có tiền thì có thể ra chợ ngoài Galang 1 mua thêm rau do bà con tị nạn tới trước trồng, nhưng tụi này mà có tiền thì tối ngày lại thích ra quán ngồi đấu láo cho vui. Nhớ lúc đó cơm cao ủy khi ăn lâu lâu nhai nghe cái "cộp" 1 phát thiếu điều gãy răng, lè ra mới thấy nguyên cái ghim bấm giấy (stapler) bằng sắt, mà vụ này bị hoài à? Cũng may là nhai trúng, chớ không thì chắc phải giải phẩu thay mấy cái bao tử mới??? Phòng vệ sinh sạch sẽ, có khu tắm tập thể nước bông sen. Vấn đề nước rất quan trọng nên bà con phê quá, tị nạn lúc đó thấy như thiên đàng, bụng nghĩ giá có phải ở lâu tí cũng OK. Các đấng chuyên tán phét ngoài quán cà phê thì cho rằng đây là nơi đặc biệt, chỉ dành riêng cho những tị nạn đã có vé vô Hoa Kỳ, đến để ăn ngủ, học Anh ngữ, hướng nghiệp rồi lên đường định cư...nên họ phải lo cho thật chu đáo, đầy đủ, ưu tiên hơn những nơi khác! RPC khác với những người chưa được phái đoàn tới phỏng vấn, oai lắm đấy. Nghe sao mà ớn quá! Vấn đề nước tắm nhớ kỹ lại thì hình như chỉ được tuần đầu, tuần sau thì tắm...khô vì sau một vài ngày thỏa thê mát mẻ ấy chả hiểu vì sao không bao giờ thấy nước chảy ra từ vòi sen nữa! tịt hẳn! họ chỉ biểu diễn lúc đầu để tính tiền cao ủy? cũng may gần đó có suối, chịu khó chờ thứ tự cũng không đến đỗi nào...
Vấn đề học Anh văn phải lấy test để phân chia trình độ cao thấp, lớp phải do các thày người Indonesia dạy, thày Việt chỉ được cho làm trợ giáo, không lương. Lớp học tiếng Anh của mình, gen thô mân (gentleman) lâu lâu thày giáo Inh đô dạy phang bừa thành "giăng tơ lơ măng" làm cả lớp có đứa xém phải khiêng lên bệnh viện vì chết sặc, cười...
Môt buổi tối tụi này đang chuẩn bị ngủ thì nghe có buớc chân rầm rầm chạy lên cầu thang, rồi 2 cô cậu chạy ào vào phòng như cơn gió, tiện tay vồ luôn cái chăn nơi cửa tụi này gấp lại dùng để chùi chân, trùm vô cho kín, giả bộ...đang ngủ ngon. Người nam đưa ngón tay trỏ lên miệng suỵt suỵt, ra dấu nói bà con giữ im lặng giùm...
Khoảng nửa phút sau có tiếng xe máy hung hãn rồ ga, ánh đèn pin nhá nhá, rồi tiếng tây tếng u, tiếng Indo, tiếng... Đan Mạch la hét loạn xạ ngầu, như chửi bới cay cú lắm. Lúc này nhận ra anh mới chạy vào phòng là người quen cùng trại bên Sikew, qua Galang từ trước hiện đang ở Galang 1. Anh cho biết mò từ ngoài đó vô thăm người yêu mới sang ở Galang 2. Cô cậu đang hú hí trên đồi thì an ninh Inđo đi xe ngang rọi đèn pin thấy và rồ ga lên đồi để bắt quả tang dám... hò hẹn trong giờ giới nghiêm. Chả hiểu sao, bữa đó trời không trăng! thiệt xui cho nó mà hên cho cậu mợ, lúc rượt theo thì đất đỏ gặp giời mưa mấy bữa trước vốn trơn trợt nên cu an ninh bị té xe khá nặng, trợt từ trên đồi xuống nên hai người mới thoát được. Chuyện tình Romeo + Juliet này dính như keo nhưng bị bên họ hàng của ổng ngoài Galang 1 phát giác, họ nhao lên phản đối quá xá, sau này khi định cư ở Mỹ thì mối nhân duyên mới chấm dứt bởi... vợ ổng từ Việt Nam lò dò dắt theo mấy đứa con qua đoàn tụ! Cái này gọi là Cali tình xù chớ Galang tình...không xù, nói theo kiểu bác Liêm, người rất nhiệt thành, hiện đứng ra thực hiện đặc san, tổ chức những buổi hội ngộ cho Thuyền nhân, Bộ nhân xưa.
Galang 2, 1981 về mặt tôn giáo cũng có linh mục làm lễ mỗi Chủ Nhật. Bà con Công giáo và kể cả người không công giáo cũng đến tham dự thánh lễ, ngồi đứng đầy trên đồi Golgotha, mọi người ai cũng sốt sắng lắm, đọc kinh rõ là to, chắc cầu cho mau đi định cư? Lúc đấy mình có quen 1 anh bạn làm giúp lễ, cách đây khoảng 2 năm, anh qua Cali chơi đi thăm con chiên ngoài... Phước Lộc Thọ tình cờ gặp. Anh cho biết hiện đang là 1 linh mục tuyên úy trong quân đội Hoa Kỳ. Ngài cho ít thông tin về những người quen xưa, đặc biệt nhất là tin về ông cha thời đầu tiên ở Galang 2 thường cử hành thánh lễ mỗi Chủ Nhật. Lúc cha qua Mỹ thì đã thôi chức linh mục và trở về đời thường. Cởi áo chùng thâm, mặc tuxedo lên xe bông đám cưới, âm thầm theo tiếng gọi con tim về nhà vợ, đến nay cũng đã có nhiều con lớn...
Tóm lại Galang với mình chỉ nhớ được chút ít vì ở không lâu, đâu khoảng 2,3 tháng gì đó là đi rồi. Thời gian ở đây ngắn ngủi quá, tình còn chưa có lấy chi xù hả các bác?
Từ Galang qua Singapore rồi qua Mỹ, cuộc sống mới bắt đầu với nhiều nỗ lực hòa nhập, những người bạn cũ ở gần đôi lúc vẫn tìm đến nhau, hay phone thăm hỏi nếu ở xa. Rồi thời gian thưa thớt dần vì xứ người khá bận rộn, cánh độc thân nơi ăn chốn ở hay thay đổi...
Lâu lâu vẫn có tin về trại cũ do người đi sau may mắn được qua định cư kể lại. Thời gian những năm sau này trở nên thê thảm hơn khi các nước từ chối nhận thêm người tị nạn đến định cư, bắt đầu thanh lọc, ai rớt sẽ bị trả lại về Việt Nam. Đồng bào trong các trại tị nạn phản đối qua nhiều hình thức như biểu tình, tuyệt thực, kể cả liều thân, mổ bụng tự sát... Về B8, rất may mắn, vì trước đó, khoảng giữa năm 81, người đi tị nạn vào đất Thái bằng hai ngả đường biển và đường bộ ngày càng đông, tạo nhiều áp lực, người Thái và cao ủy tị nạn quyết định đóng cửa những trại tị nạn rải rác trên đất Thái và dồn hết về trại Sikew, nên phải giải tỏa, cứu xét cho những người ở quá lâu đi, có tin cho biết tất cả những người của B8 đều được phỏng vấn bởi các phái đoàn, riêng những bộ đội tị nạn cộng sản gốc miền Bắc nếu họ muốn đi theo diện nhân đạo sẽ được chính phủ Áo nhận tất cả. Cựu vượt biên đường bộ trại Sikew ở Mỹ báo tin cho nhau và chia xẻ sự vui mừng cho những anh em B8. Tạ ơn Trời Phật.
Tuy nhiên, trong niềm vui vẫn thấy lòng se thắt... Một số người trong B8 đã đi theo tiếng gọi non sông, lên đường trở về đất mẹ....
Phần cuối
"Old solders will never die, they just fades away... "
General Douglas MacAthur
Một buổi chiều tại thành phố Westminster - California, khoảng thời gian 1982 - 1984..? Trời u ám buồn, người bạn cũ từ trại Sikeu rủ tới Biên Thùy Quán trên đường Westminster, cho biết có sinh hoạt đặc biệt. Khi đến thấy trong quán có khoảng hơn 2 chục ngưòi đang thì thào nói chuyện, ai cũng đăm chiêu. Trên vách tường treo một lá cờ Việt Nam Cộng Hoà, dưới bàn có một chén nhỏ đựng gạo cắm những cây nhang nghi ngút khói. Không khí như lắng đọng khi được biết đây là buổi tưởng niệm cho một số chiến sĩ phục quốc bị cộng sản sát hại khi trở về lại Việt Nam chiến đấu. Người may mắn thoát được trong trận phục kích đã liên lạc báo tin sang Hoa Kỳ. Đau lòng thay, một trong số những người hy sinh có trưởng Building 8 của trại Sikew thời đó, anh Vũ Đình Khoa.
Anh Khoa dáng người tầm thước, mặt vuông, cằm bạnh, vẻ quả cảm, toát ra phong cách hào hùng nhưng lại rất yêu văn nghệ, khi nói chuyện niềm nở, thu hút. Nên biết, phải uy tín thế nào mới được bầu làm trưởng B8, một Building với những tay cựu binh sừng sỏ nam bắc, đội đá vá trời và coi lính Thái chả ra quái gì! Trưởng trại Sikew cũng biết như vậy nên cần người như anh để mà yên tâm về B8. Đặc biệt, anh đi khắp nơi trong trại mà không cần phải phép tắc gì, ai gặp cũng đều phải e dè, nể vì, kể cả trưởng và phó trại. Đó là hình ảnh cựu Trung úy Trinh sát, gốc Võ Bị Đà Lạt. Anh Khoa lâu lâu ghé qua lều gần mình thăm bạn, đốt điếu thuốc, chia sẻ dăm ba kinh nghiệm hành quân bắt sống việt cộng. Nghe ké những chuyện kể khó quên trong đời của anh rất thú vị.
Được biết, nhóm của anh bị phục kích, trận chiến không cân xứng lực lượng, hỏa lực của khoảng hơn trung đội chọi với cả tiểu đoàn có xe tăng nằm chờ sẵn. Anh Khoa bị thương ngay từ đầu, nhưng cương quyết ở lại để cầm chân cho một vị yếu nhân chỉ huy cùng người cận vệ vượt thoát... Khi kể lại câu truyện này trên Face Book thì nhận được thêm tin nhắn của một cựu B8 dấu tên, cho biết nguyên văn như sau... “Xin lỗi anh, mình đường đột lộ diện để bổ túc thêm info về anh Khoa của tụi mình B8, Vũ Đình Khoa from Đà lạt đã gãy cánh ở Hạ Lào cùng với người bạn thân đồng sanh tử là Nguyễn văn Lộc trong chiến dịch mở đường cho Võ Đại Tôn nhưng có một người cùng đi với hai người trên được định cư tại Canada tên là Trương Quang Vịnh*. Dĩ vãng thì buồn nhưng có những người can đảm như anh nhắc lại thì mình phải đối diện. Rất là cám ơn anh những chuyện bên lề về Sikew và B8, anh kể hoàn toàn chính xác vì nhóm chúng tôi là những người bộ đội vào trại đầu tiên tháng 5 - 1979 sau nhiều tháng ở Bangkok làm việc với Bộ Quốc phòng Thái và CIA - USA...”
Ai cũng nghĩ các anh yên ổn định cư ở một đệ tam quốc gia, nào ngờ! Những người trai thế hệ, được hun đúc bởi hồn thiêng sông núi, người quân nhân ưu tú của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Với lý tưởng Tự Do cho đồng bào, quê hương Việt Nam, đã từ bỏ tất cả, từ chối tương lai tươi sáng trước mắt để anh dũng trở về cầm súng chiến đấu và hy sinh. Thật cảm động và hào hùng. Nhân ngày tháng Tư lại đến, chúng ta cùng nhau dành đôi chút thời gian, thắp nén hương lòng, tưởng niệm đến các anh nói riêng, và tất cả những người quân dân cán chính đã hy sinh vì hai chữ Tự Do.
Khoảng đời tị nạn tưởng đã quên sau bao năm, nhưng khi ngồi ôn chuyện cũ, có nhiều hình ảnh hiện lên rất rõ. Dù Sikew, Galang, hay bạn sống ở những trại tị nạn khác rải rác khắp Đông Nam Á, cũng là một thời qua với nhiều kỷ niệm. Cám ơn Face Book tạo cơ hội cùng nhau hồi tưởng về những tháng ngày long đong, lận đận. Giọt nước mắt mừng vui, đau khổ, hay tuyệt vọng. Có tên đi định cư hay rớt thanh lọc? biểu tình phản đối, tuyệt thực, bị trả về lại...
Hiện đã có đặc san Galang Một Thủa, 40 năm Thuyền Nhân Viễn Xứ,... kế hoạch tổ chức hội ngộ do một số anh chị hy sinh đứng ra làm việc để dù chân trời góc bể, cựu trại tị nạn cũ qua đó sẽ có dịp tìm đến được với nhau, chia sẻ, kể lại những chuyện vui buồn ngày xưa. Mong rằng trong sâu xa hơn, sẽ không bao giờ quên nguồn gốc mình là người tị nạn cộng sản vì hoàn cảnh phải bỏ nước ra đi, và luôn nghĩ về quê hương, nơi đồng bào chúng ta vẫn chưa thực sự có Tự Do, Dân Chủ.
Ghi chú:
- Một số tên nhân vật đã được thay đổi*
- Thời gian làm phai mờ nhiều chi tiết, mong các bạn ở cùng thời bổ túc nếu có sai sót
VƯỢT BIÊN BẲNG ĐƯỜNG BỘ
Trần Kim Bằng
Thursday, October 8, 2015
HỒ TRƯỜNG AN * ĐẶNG PHÙNG QUÂN
Hồ Trường An
Đặng Phùng Quân
với Miền Thượng Uyển Xưa
và Một Dặm Tương Thân
Khi tôi ng? ý muốn đề cập tới một số truyện ngắn trong hai tập truyện Miền Thựợng Uyển Xưa (chung với các truyện ngắn của Nguyễn văn Sâm) và Một Dặm Tương Thân (chung với các truyện ngắn của Hàn Song Tường) thì Đặng Phùng Quân có gửi thư cho tôi biết một cách khái quát hành trình và hành trạng văn chương của anh trong hai tác phẩm ấy như sau:
Miền Thượng Uyển Xưa:
Mưa núi là truyện ngắn đầu tiên viết năm 1975 - bẵng một thời gian năm năm không sáng tác vì hoàn cảnh thời thế - viết tại đảo Galang. Tôi gọi nó là văn chương thời thế - ở vào giai đoạn nhà văn không là một hiện tượng riêng lẻ nhưng là một tập thể, viết để khôi phục một khí hậu văn chương đã mất, một ngôn ngữ đang băng hoại.
Trong Tiểu thuyết khả hữu, tôi giải thích: trong những đoản thiên tiểu thuyết, tôi chuyển từ nhân vật tôi sang chàng/ nàng không phải như những nhân xưng trong tiểu thuyết quy ước, mà là sự xóa bỏ cấp độ nhân xưng, vô danh trong nghệ thuật tha hóa.
Trong nỗi nhớ của một ngày, Một dặm tương thân hành trạng của nhân vật ở cùng một lịch sử, đối nghịch với nhân vật Mưa núi, Ở một phương trời xa như hai mặt thực tại.
Đọc những đoản thiên tiểu thuyết trong Miền thượng uyển xưa theo một mạch nhất quán. Những thế giới của chàng đang chập chờn đan lẫn vào nhau... những tâm cảm rung động dạt dào của tự do mới đến... hạnh phúc khi nghĩ đến một người, có một người để nghĩ đến... đó không phải là thiên đường, mà một miền hạnh phúc nào đó trong một đời chỉ bắt gặp một lần nhưng sẽ nhọc nhằn nhớ mãi không nguôi... bao nhiêu năm, tìm kiếm một cái gì thất lạc. Nhưng không sao nhớ ra được... như một khung cảnh rất xưa trong đời. Nàng lái xe theo con lộ mới mở ngang qua cầu, trời vẫn còn mưa sớm, nàng dừng xe lại bên lề, đi xuống phía bờ sông, ngồi trên kè đá nhìn giòng nước chảy lững lờ, bất giác nàng đưa hai tay bưng lấy mặt như muốn ôm lấy cái hạnh phúc vừa bắt gặp... tiếng gọi thôi thúc trở lại chốn cũ, như tìm lại một giòng sông trong cuộc đời.
Một Dặm Tương Thân:
Một dặm tương thân khởi đầu từ: Thuở nàng còn là một thiếu nữ mới lớn, tuổi của con nàng bây giờ... xác định một thuyết thoại ở thời hiện tại, song nhân vật sống hay chết như trong truyện kể vẫn còn mơ hồ. Không thể xác định cảnh trạng ở ngôi vị nào: thật tội nghiệp nếu nàng biết cuộc gặp gỡ ấy chẳng phải tình cờ trong ba phân cảnh chính, hai phân cảnh đầu về nàng và nàng không hiện hữu ở phân cảnh cuối. Gián cách của cảnh trạng và liên tục của thuyết thoại.
Người đàn bà ở Ch. Ha là một tiểu thuyết lịch sử, nếu hiểu lịch sử là một ý thức. Hình ảnh những cánh tay giơ cao theo ngọn cờ độc lập, tự do chập chờn dưới màn khói tử thi xương trắng la liệt khắp nơi. Lịch sử như thế đó.
Dung nhan và Tìm kiếm một người nào là những tiểu thuyết phá thể viết trong khí hậu ‘’ tiểu thuyết mới’’ và kết thúc ở Dung nhan và Tìm kiếm một người nào là những tiểu thuyết phá thể viết trong khí hậu ‘’ tiểu thuyết mới’’ và kết thúc ở Đêm lạ là một câu văn duy nhất viết một mạch, tưởng chừng nhưng không/ thời gian chỉ là một ý niệm, là một, là không. Đêm lạ là một câu văn duy nhất viết một mạch, tưởng chừng nhưng không/ thời gian chỉ là một ý niệm, là một, là không.
Mạch sáng tác của Đặng Phùng Quân ngừng lại vào năm 1987. Phải đợi tới năm 1997, anh trở lại với độc giả qua cuốn Tự Truyện. Dù trải qua 10 năm, anh sáng tác ít oi, nhưng s? nghiệp văn chương của anh (thành quả sáng tác cộng với công trình biên khảo) vẫn là một tòa kiến trúc nguy nga trong văn giới.
Miền Thượng Uyển Xüa gồm có 8 truyện ngắn của Đặng Phùng Quân : Müa Núi, Thư Nhà, Trong Nỗi Nhớ Của Một Ngày, Bên Trời Lăn Đận, Ở Một Phương Trời Xa, Miền Thượng Uyển Xüa, Cơn Bão Lạ, Sau Cuộc Hội Nghị.
Một Dặm Tương Thân gồm có 6 truyện ngắn của Đặng Phùng Quân : Một Dặm Tương Thân, Người Đàn Bà Ở Ch. Ha, Dung Nhan, Tìm Kiếm Một Người Nào, Tưởng, Tưởng Nhớ và Đêm Lạ.
??c sách của Đặng Phùng Quân (biên khảo, tiểu luận, truyện ngắn, ngay cả thơ nữa) chúng ta phải vận dụng trí óc để tìm kiếm những dấu vết của thần trí sáng tạo, những sợi đan sợi dệt của tinh thần canh tân mà tác giả hằng đeo đuổi. Tác giả phủ nhận điều nầy, nhắm tới để tiền pháo hậu xung những điều kia. Hành trạng cách viết của anh rất ít nhà văn dám động tới. Tuy nhiên giọng điệu anh không hung hăng, sự tấn công của anh không rền nổ, công trình kiến trúc cái mới của anh rất bình thản. Nhưng đó là những đợt sóng ngầm dưới đáy vực sâu, những cơn đ?a chấn nằm im dưới tầng sâu vạn trượng của quả đ?a cầu.
Trong công cuộc tìm hiểu và thưởng ngoạn văn chương anh, độc giả phải vật lộn với hành trình của chữ nghĩa cùng cách diễn tả của anh. Và nhờ thiện chí lẫn kiên nhẫn, họ sẽ tìm ra nhiều điều lý thú. Công việc đó đã từng có Nguyễn Nghiệp Nhượng, Huỳnh Phan Anh làm cuộc văn chương song hành cùng anh. Anh không lẻ loi. Anh ung dung tiến bước trên lộ trình sáng tác lẫn biên khảo của mình suốt một phần ba thế kỷ.
Từ lâu, cái thói quen cố hữu c?a ng??i ?àn ông s?ng m?t mình là ?a xê d?ch, ngay c? cái ?o?n ???ng ?i v? m?i ngày c?ng thay ??i l? trình. D??ng nh? chàng không mu?n nhìn l?i nh?ng d?u hi?u ch? ???ng quen thu?c ?i?u khi?n. C?ng không n?i ? c? ??nh. Phòng tr? ??n chi?c, không tr? con, không nuôi thú.Nh?ng ng?n ?èn tù mù l?i vào hành lang c? xá th?m th?m, t?nh m?ch nh? m?t tu vi?n. Chàng ?ã giam kín c? nh?ng tình c?m sôi s?c m?t th?i. B?t ng?, c?n mê x?a th?c gi?c. t?i sao nàng. Chàng v?n ngh? ng??i ?àn bà ?y ?ã yên ph?n ? m?t khung tr?i êm ?, trên mi?n ??t xa l? này.Cu?c s?ng h?n cu?n hút con ng??i ph?i h?i nh?p, b?ng lòng v?i nh?ng t?p t?c m?i, b?n r?n, máy móc.
Có nh?ng ?êm chàng lái xe lên ??i cao, ng?i ngoài tr?i l?ng gió u?ng r??u và ngó mông xu?ng vùng không gian bao la, l?i ch?y ra bi?n, l?i ??a vào n?i ??a, ng?m hút say mê nh?ng giòng ánh sáng ngo?n ngoèo di ??ng xa xa c?a ?oàn xe ch?y xuôi ng??c, t??ng t??ng nh?ng linh h?n trong cái xã h?i l?nh l?o này c?ng nh? nh?ng ng?n ?èn ?y ?i mãi không bao gi? g?p nhau. Thu? nh?, chàng hay t? m? quan sát nh?ng ?oàn ki?n leo t??ng, châu ??u vào nhau r?i l?i ti?p t?c b? ?i không bi?t v? n?i hang ? nào. Trong cái ki?n trúc tr?t t? ??u ??n ?y, chàng c?m nh? th?y cái bu?n n?n c?a ??i ng??i. Nh?ng ngày ??u ??n ??nh c? ? thành ph? ?n ào này, chàng c?ng l?ng l? ?n thân ?? ng?m nhìn thiên h?. C?nh s?ng v? ra phía tr??c ng?n n?p, nh?ng kho?ng lên cái h?t ho?ng trong tâm h?n chàng. Li?u mình có c??ng l?i ???c gu?ng máy ?? k?p gìn gi? cái t? do quay tr? v?. Chàng nh?, m?t ng??i b?n tr? c?ng có cái ph?n ?ng t? nhiên nh? v?y. H?n mu?n di chuy?n mãi, v?i nh?ng ??ng b?c cu?i cùng ?? mua m?t cái vé xe, m?t m?u bánh k?p và (may m?n) cu?n s? ?i?n tho?i ghi nh?ng n?i vô ??nh s?p t?i. Cái mù loà ch?p cho?ng ? phía tr??c ch? ph?n ?nh l?i cái quá kh? ch?p chùng, n?ng ch?u nh?ng ?am mê, thân yêu vàng ng?c. B?i th?, ??n n?i ? m?i c?a chàng v?n nh? m?t hình ?nh yêu d?u ?y hi?n di?n nh?ng chàng v?n ??ng ng?nh nhốt kín trong kỷ niệm.
(Miền Thượng Uyển Xưa, các trang 145, 146)
Đa số độc giả đọc sơ sài các tác phẩm văn chương của Đặng Phùng Quân vội đổ hô anh làm văn chương như một ông Tây, ông Mỹ với tư tưởng ngoại lai bắt nguồn từ những trường phái triết học Tây Phương. Họ lầm! Bé cái l?m vì đều võ đoán một cách bất công. Những thắc mắc siêu hình, những thôi thúc của tri thức đã tạo cho nhân vật của anh trong truyện ngắn Một Dặm Tương Thân nầy một chiều hướng lao tới Phật giáo nói riêng, lao tới tư tưởng và triết học Đông Phương Á Châu nói chung. Cho nên trong đoạn chót của lá thư mà tác giả gửi cho tôi, tôi rất tâm đắc với anh qua những dòng như sau: Dung nhan và Tìm kiếm một người nào là những tiểu thuyết phá thể viết trong khí hậu ‘’ tiểu thuyết mới’’ và kết thúc ở Đêm lạ là một câu văn duy nhất viết một mạch, tưởng chừng nhưng không/ thời gian chỉ là một ý niệm, là một, là không. Đêm lạ là một câu văn duy nhất viết một mạch, tưởng chừng nhưng không/ thời gian chỉ là một ý niệm, là một, là không.
Trong giáo lý của kinh điển Đại Thừa tất cả vạn pháp đều là Không, tất cả đều quy về Một. Không gian và thời gian chỉ là huyễn hoặc, chỉ hiện hữu do mê vọng của chúng sinh. Ở nhận định nầy, Đặng Phùng Quân chứng tỏ anh nắm bắt khá nhiều tinh thần then chốt của Phật giáo, của Lão giáo và ngay cả cái then chốt giáo của phái Soufisme (của Hồi giáo) là chối bỏ cái tinh thần nhị nguyên. Lại nữa, những giáo chủ tư tưởng Đông Phương như ông Thích Ca, ông Lão tử, ông Trang tử hay một vài đạo sư các tôn giáo, các giáo phái hay các hệ phái bên Ấn Độ rất kỵ sách vở từ chương. Đối với họ, những nét tạo hình, những hình ảnh biểu kiến, những gì năm giác quan chúng ta tiếp xúc, những ý nghĩ (ý niệm, tư tưởng) mà các học giả uyên bác đưa vào sách vở, thật ra chỉ đưa chúng ta vào một thế giới vô thường quen thuộc. Đó là cảnh giới mộng ảo của người mê vọng, đoạn lìa với cái thực tại tuyệt đối tức là cái thực tại thường hằng và bất biến. Trong khi đó, chân lý (còn cái tên sự thật tuyệt đối, sự thật cuối cùng) thì lọt ra khỏi cái thế giới quen thuộc đó. Ở đây, Đặng Phùng Quân lại cho rằng không gian và thời gian chỉ là ý niệm. Nếu là ý niệm thì không phải là sự thật tuyệt đối, một thực thể thường hằng. Chỉ bởi cái mê vọng của chúng ta nên sự thật bị cắt chia từng manh mún, cho nên thời gian cũng bị phân chia thành ba giai đoạn gồm quá khứ, hiện tại và vị lai. Cũng thế, không gian cũng bị cắt rời thành chỗ này, chỗ kia, chỗ khác. Đối với nguời chứng ngộ thì bản thể của vạn pháp vốn là không (cái không tuyệt đối, chứ không phải cái không đối nghịch với cái có) thì làm gì còn vướng víu thêm ý niệm? Làm gì có sự thời gian và không gian để bị chia chẻ? Chúng ta có thể tự hỏi: Đành rằng nhà văn Đặng Phùng Quân tiêm nhiễm triết học Tây phương nhiều hơn triết học Đông phương Á Châu, nhưng vì sao anh đã đi vào một hành trình khá sâu của tư tưởng Phật giáo qua truyện Đêm Lạ? Có phải Phật pháp là cái chìa khóa passe partout đã từng mở mọi ổ khóa, luôn cả những ổ khóa rắc rối? Hay đây là trường hợp những tư tưởng lớn gặp nhau? Dù tác giả còn cho rằng thời gian và không gian chỉ là một ý niệm; nhưng anh đã đưa hai yếu tố ấy đạt tới cái gọi là một là không thì đã đến gần tư tưỏng nhà Phật rồi.
Trong truyện ngắn Đêm Lạ, Đặng Phùng Quân một mạch bằng một câu văn duy nhất làm tôi nghĩ đến các họa gia theo pháp môn Thiền bên Nhật Bản. Họ chỉ vẽ một mạch bằng một nét duy nhất để làm hiển lộ tinh thần bất nhị (le non-deux, le non-dualisme), cái cốt tủy của kinh điển Đại Thừa. Và bút giả cũng không quên bốn câu thơ thấm nhuần Thiền phong Thiền vị trong bài thơ bất hủ của Thiền Sư Chân Nguyên (1846- 1726) như sau:
Hữu thuyết giai thành báng
Vô ngôn diệc bất dung
Vị Quân thống nhất tuyến
Nhật xuất lĩnh đông hồng
Họa gia kiêm văn gia Võ Đình dịch như sau ( trong quyển Hương Thiền) :
Nói ra là bị kẹt
K hông nói cũng chẳng xong
Vì anh đưa một nét
Đầu núi ánh dương hồng.
Chỉ một nét vạch ra mà tâm thức của Thiền sư sáng bừng trong vòng một sát-na để đi vào đốn ngộ. Một nét vạch ấy tức là một hành động quyết liệt do một trực giác thù thắng và tuyệt vời hướng dẫn để Thiền giả đưa vạn hữu và vạn pháp quy về một mối.
Truyện ngắn Đêm Lạ gồm 8 trang trong hai phân đoạn, mỗi phân đoạn chỉ có dấu phẩy (,), không có dấu chấm (.), kkông có dấu chấm hỏi (?) và cũng không có dấu chấm than (!). Cuối phân đoạn đầu lại có nhiều chấm (...) ở chữ chót. Để làm sáng tỏ lối viết theo tôn chỉ mà tác giả dã nêu ra, tôi xin trích ra một vài dòng trong phân đoạn chót:
Chàng không nhớ rõ ra khỏi khu phố chợ, đi trên con đưòng nhỏ trồng những rặng cây găng san sát như hàng dậu ngăn cách những căn nhà thấp thoáng ánh đèn phía sau, tiếng giầy chạm lên những viên đá nhỏ, mùi dạ lan quyện trong không trung đưa chàng phiêu bồng vào một cõi xa lạ, lần đầu trong đời chàng cảm thấy hơi thở của thiên nhiên chạm vào da thịt, khứu giác như mở ngỏ đón nhận huơng đêm, phân biệt mùi lá cỏ, khí trời sắc bén đến độ tế vi, chàng nhận ra thân xác cũng nhẹ nhỏm, như thể một phần nào đang mờ nhạt trong bóng tối, có thể lý trí vẫn linh hoạt, tiếng nhủ thầm của người nói chuyện một mình, hay phần não b? cựa quậy, bước chân đi mộng du vào cảnh trí mời gọi, đêm ngăn trở tầm thị giác, nhưng đêm mở rộng những chiều kích thực tại, chàng quên hẳn phương hướng, dường như một ngọn đèn lẩn khuất đâu đó, cũng là dấu mốc, tai nghe như muôn điệu âm thanh đang chìm dần mất hút vào hư vô, có lúc một điệu nhạc dìu dặt vọng ra từ căn nhà nào đó khuất trong những lùm cây kia, điệu nhạc không rõ lời chắc hẳn phát xuất từ đài bá âm thành phố, ý nghĩ lại miên man - khoảng cách của đời sống, thu gọn trong một khoảnh khắc, những ảnh tượng nơi trí nhớ có phải ký ức thực sự, chàng không rõ, bỗng dưng khuôn mặt người đàn ông cận thị vừa gặp ban chiều ở văn phòng nhà trường lại hiện ra, liệu ông ta có gia đình chưa, tại sao ông lại chỉ chàng đến một nơi tạm trú chàng không hề được giới thiệu, chàng cũng quên bẳng hỏi tên người học trò đó, khuôn mặt ông như đã quen thuộc trong cuộc đời, và lúc này chàng nghĩ, ông ta có còn nhớ đến chàng, nên quay trở lại tìm kiếm ông, hẳn ông đang đợi chàng ở một điểm hẹn, ông ta thử thách chàng, lối đi trước mặt có thể dẫn đến ngôi trường - chàng nhớ lại, ông ta nói ở đây không an ninh vì gần cơ sở đồn trú quân sự, thỉnh thoảng xảy ra những đợt pháo kích, ông ta có dọa nạt chàng, bóng đêm thị trấn thật hiền hòa, vùng đất đặt chân lên như chao xuống một thung lũng dấu kín hình thể, rồi trong màn đen một vệt sáng từ từ tiến về phía chàng, tiếng máy nổ lớn dần, những người lính ngồi thu mình trên chiếc xe tuần tiễu, ánh đèn quét một vòng qua mặt chàng nhưng không ai lên tiếng hỏi, ánh sáng lại lui dần vào phía sau lưng, dấu tích tao loạn đánh thức chàng trở lại vùng kỷ niệm thất lạc đã lâu, hình ảnh người đàn bà thoát khỏi đời chàng, cơn mộng mị triền miên rơi vào khoảng trống, nỗi mất mát đau đớn, khiến chàng ăn năn để nàng ra đi, cơn sốt toàn thân trở lại lúc này...
(Đêm Lạ, các trang 188, 189)
Tôi tạm dùng nhiều chấm (...) sau chữ này để tạm ngưng phân đoạn chót của Đêm Lạ. Cách viết tuy có luông tuồng, nhưng nhờ những dấu phẩy (,) phân câu nên đọc tới đâu chúng ta hiểu tới đó. Chúng ta không cần mằn mò để hiểu từng chi tiết nhỏ. Chúng ta chỉ biết nhân vật chàng đứng trong bóng đêm của vùng bất an ninh, đầu óc suy nghĩ lung tung, kỷ niệm từng đợt lao xao như cánh bướm đậu trên dòng suy tư triền miên của chàng. Cái thơ mộng (hương dạ lan, điệu nhạc) xen lẫn những dấu tích tao loạn qua cuộc tuần tiễu trộn vào nhau, tạo cho đoạn văn trên cái đẹp bi thương qua hình ảnh cô Trà Hoa Nữ mang bệnh lao phổi, qua hình ảnh thảm cỏ mượt nhung ngụy trang mìn bẫy, hố chông.
Không kiên nhẫn, không tìm ra thú đọc sách đặc thù, chúng ta sẽ cảm thấy văn chương Đặng Phùng Quân phiền nhiễu, rối rắm. Nắm bắt được hai đức tánh khi đọc sách như đã nói trên đây, chúng ta sẽ tìm gặp văn chương anh có một cái hậu vị ngọt đằm thắm của miếng cơm nhạt nhẽo nhai lâu trong miệng, như bắt gặp nước gỗ của bộ ván nằm lâu năm bóng ngời lên vóc lụa.
Tôi không dám bảo rằng mình hiểu khá nhiều đường lối và cái vũ trụ văn chương của Đặng Phùng Quân. Cũng thời một vận sự mà tác giả nêu ra, tôi hiểu theo chiêu cảm của tôi, người khác hiểu theo chiêu cảm của người khác. Ở đâu đó, tôi bắt gặp một câu của nhà văn Albert Camus; hình như trong cuốn Những Nhà Văn Nữ Việt Nam của Uyên Thao thì phải; tôi hoàn toàn không đồng ý với nhà văn nước Pháp đã từng đoạt giải Nobel kia. Rằng: En écoutant ces appréciations sur mon livre, un sentiment singulier me vient: ce n’est pas cela! (nghe những lời nhận định về quyển sách của tôi, một cảm giác lạ lùng đến tôi: nào phải vậy!). Bởi sao? Đọc loại văn chương sâu sắc, độc giả chỉ có thể có một vài cảm nhận tương đồng với những gì trên mặt chữ mà tác giả đã viết ra. Nhưng sau lưng mặt chữ, hay dưới tầng lớp sâu kín của mặt chữ, mỗi người có một chiêu cảm riêng, một khai phóng và óc tưởng tượng riêng. Tóm lại thế giới trong loại văn chương mới không chỉ ở những điều mà tác giả đã viết ra mà còn ở những điều do độc giả liên tưởng và mường tượng nữa. Đem vấn đề thưởng ngoạn qua câu chữ đâu nghĩa đó trong văn chương mới, tôi e rằng đọc sách như vậy không nắm bắt được gì nhiều ở vũ trụ văn chương của tác giả.
Tác giả đã cho chúng ta biết rằng: Mưa núi là truyện ngắn đầu tiên viết năm 1975 - bẵng một thời gian năm năm không sáng tác vì hoàn cảnh thời thế - viết tại đảo Galang. Tôi gọi nó là văn chương thời thế - ở vào giai đoạn nhà văn không là một hiện tượng riêng lẻ nhưng là một tập thể, viết để khôi phục một khí hậu văn chương đã mất, một ngôn ngữ đang băng hoại. Trong truyện nầy, tác giả kể chuyện chàng đã vượt biên và hiện đang ở đảo, gặp nàng (một kẻ vượt biên như chàng). Cả hai rằng buộc bởi một tình cảm mù mờ, có thể là tình yêu, có thể là đồng cảnh tương lân. Mối tình đó như một vệt sương mỏng hay một bóng mây nhẹ lướt qua thế giới tình cảm của họ nhưng cũng đủ làm say mê và thấm thía cho độc giả nào có tâm hồn lãng mạn. Tuy nhiên điểm chính câu chuyện là con người đi tìm điểm tựa cho tình cảm và điểm tựa cho tinh thần để tạm khỏi đối diện với cô đơn. Truyện thứ hai là truyện Thư Nhà kể lại chuyến vượt biên gian khổ của chàng cùng đứa con trai khi họ luồn lách theo đuờng bộ qua ngả Căm-bốt. Và xen vào đó là những đoạn bức thư của vợ chàng kể lể nỗi nhớ nhung ở quê nhà và vụ mất chiếc xe đạp, cả một tài sản của kẻ sống nhục nhằn dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa. Trong truyện Trong Nỗi Nhớ Của Một Ngày, độc giả bắt gặp chàng (một kẻ theo Cộng Sản và thoát ly Cộng Sản) từ trại tị nạn đi máy bay đến phi trường El Paso để gặp gỡ nàng. Và có thể để chung sống với nàng luôn hay trong một thời hạn nào đó.
Nếu sắp thứ tự thì Sau Cuộc Hội Nghị phải xuất hiện đầu tiên, kế đó là Thư Nhà, Mưa Núi, Trong Nỗi Nhớ của Một Ngày. Có thế, biến cố của lịch sử đời chàng mới xuôi một dòng luân lưu theo dòng thời gian. Các truyện ngắn của Đặng Phùng Quân trong tập truyện Miền Thượng Uyển Xưa rốt cuộc chỉ là ba chương trong một quyển tiểu thuyết. Còn những truyện ngắn như Bên Trời Lận Đận, Ở Một Phương Trời Xa, Miền Thượng Uyển Xưa, Cơn Bão Hạ, nếu chúng ta sắp kế tiếp theo 4 truyện ngắn vừa nêu trên, nhưng phải theo dấu mốc của thời gian thì sẽ làm cho truyện dài thêm dài hơn, xuôi theo một đường thẳng mạch lạc. Cái nhất quán trong văn chương của Đặng Phùng Quân là đó.
Theo tác giả: Trong Tiểu thuyết khả hữu, trong những đoản thiên tiểu thuyết, tôi chuyển từ nhân vật tôi sang chàng/ nàng không phải như những nhân xưng trong tiểu thuyết quy ước, mà là sự xóa bỏ cấp độ nhân xưng, vô danh trong nghệ thuật tha hóa.
Đây không phải là công việc làm mới mẻ. Ở vài truyện ngắn của các nhà văn thời thượng như Nguyễn thị Hoàng, Nguyễn Đình Toàn, Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Nghiệp Nhượng, ngay cả nhà luôn văn áp dụng bút pháp cổ điển như Võ Phiến qua một vài bài tùy bút trong hai quyển Phù Thế và Ảo Ảnh cũng đã làm công việc nầy. Vâng, công việc đó xóa bỏ cấp độ danh xưng, không tôi, không anh, không chúng tôi, không các anh, không bọn họ... Nhưng lại kẹt ở ngôi thứ ba trong cấp độ nhân xưng (nàng/ chàng hoặc nó, hắn, y ta, y thị, ả, đương sự...). Nhưng đây là bước đầu của sự phủ nhận mà ngành văn nghệ mới thường chủ trương và xiểng dương, tức là xóa bỏ quy ước trong cách xưng hô mà loại văn chương cổ điển, văn chương quy ước thường áp dụng. Nhân vật trở thành vô danh, ai nghĩ sao cũng được. Và vì đó là nhân vật vô danh nên hắn có hình dáng, chân dung, thân thế, hành trạng bập bềnh trong sương khói mông lung của cõi mường tượng và cõi ấn tượng của độc giả. Nó là nhân vật đơn thuần tức là có thật trong cuộc đời (le vrai personnage) hay là nhân vật hư cấu tức là nhân vật giả tưởng (le personnage fictif), điều đó không quan hệ. Có quan hệ chăng là nó làm cho thế giới tuởng tượng của độc giả thêm mênh mông, lưu lượng ý tưởng của họ thêm dồi dào và lênh láng như con sông mùa tuyết tan băng rã. Vậy thì có phải nhờ vô danh, nhân vật có thể là người này, người nọ hay người khác trong cái mà tác giả gọi là nghệ thuật tha hóa? Và trong một bức thư Đặng Phùng Quân bảo tôi rằng nghệ thuật trong cái thế giới tha hóa là nghệ thuật trong cái thế giới điên loạn (le monde aliéné/ le monde cassé). Có thể chăng đây là một manh nha, một khởi thủy của phong trào phủ nhận nhân vật? Đúng ra, tác giả chỉ phủ nhận cái tên của nhân vật chứ chưa phủ nhận chủng loại hoặc sự hiện hữu của nhân vật. Lâu lắm rồi, tôi có đọc một đoạn văn trong quyển L’Ère du Soupçon của bà Nathalie Sarraute do học giả Nguyễn văn Trung dịch ra tiếng Việt. Eo ơi, bà ta tả một sinh vật người không ra người, con bạch tuột không ra con bạch tuột, tôi không hiểu bà ta muốn xếp sinh vật ấy vào chủng loại nào? Đây là quái vật đúng hơn sinh vật. Nhưng có người bảo đó là máu, là phún xuất thạch (tức là magma) Và tôi tự hỏi bà ta có chủ ý chủ tâm làm cái gọi là phủ nhận nhân vật hay không?
Nhưng dù gì thì dù, đọc văn của Đặng Phùng Quân độc giả không chú ý lắm nhân vật chàng và nàng lắm đâu. Họ chỉ để tâm trí theo dấu chân ngôn ngữ và ý tình cùng nhân sinh quan và đôi khi tư tưởng triết học của tác giả hơn.
Trong Sau Cuộc Hội Nghị, tác gi? trình bày thân phận các nhà trí thức miền Nam sau khi bị Cộng quân miền Bắc cưỡng chiếm. Họ phải l?ng nghe và cỗ vỏ một cuốn sách của tên Viện trưởng viết theo chỉ thị của Đảng:
Không có báo cáo khoa học nào ???c ??c trong h?i ngh?.Viên th? kỶ ??a ra m?t b?n ?úc k?t theo m?t quan ?i?m nh?t ??nh, phù h?p v?i ???ng l?i và tình hình hi?n t?i. Ng??i ta tin r?ng có nh?ng ?n Ỷ trong các báo cáo, nên t?t h?n h?t là không nên ??c tr??c di?n ?àn. Vi?n tr??ng m? ??u cu?c th?o lu?n. H?n nh?n m?nh, ?ây là m?t h?i ngh? chuyên môn trong n?i b?, các ??ng chí c? m?nh d?n phát bi?u m?i suy ngh?. M?t ng??i ng?i bên c?nh, ghé tai chàng thì th?m. C?u bi?t không, cái tên ? ngoài n? v?a trình làng cu?n sách do Vi?n xu?t b?n ?ã ?i g?p m?y tên 30 ?? ?i b? nh? anh em là ??ng ?em sách c?a y ra ch? trích. Y vi?t theo yêu c?u v?n ?? chuyên môn c?a anh em mình nên bi?t tr??c là nói mò nhi?u l?m. Nh?ng làm th? nào h?n. S?c hi?u bi?t h?n ch?. Quy?n sách c?a y Ố chàng hi?u - ch? là m?t lo?i ??n ??t hàng. m?t s?n ph?m ph?i qua nh?ng giai ?o?n ki?m tra v? tính ??ng, có l?ng vào ???c trong ?ó nh?ng trích d?n c?a lãnh ??o không.
V?n ?? ?ang xoay quanh th?o lu?n v? nh?ng ?i?m tích c?c. M?t ng??i ? góc bàn bên kia ?ang bênh v?c quan ?i?m tích c?c. Y phát bi?u, ?i?u ?ó ?ã giúp y giác ng? con ???ng ??u tranh. Gi?ng nói ch?a s? b?c t?c. Chàng thoáng hi?u, có m?t giai ?o?n y ???c ch?c th? tr??ng trong cái chính ph? lâm th?i ?ã b? khai t?. Bây gi? là d?p con chim hót l?n cu?i cùng. Hót ph?n kháng v?i m?t c??ng ?i?u y?u ?t, u?t h?n. Chàng liên t??ng ??n bên kia tr?i Âu, nh?ng trí th?c khuynh t? ?ang t?nh m?ng. Trong m?t t? báo l?t v?, chàng ??c th?y cu?c v?n ??ng M?t con tàu cho Vi?t nam, d?u hi?u ??u tiên c?a s? th?c t?nh. ?i?u ?ó có liên h? gì v?i h?i ngh? hôm nay. Rà l?i ?ám trí th?c c? ? ?ây. Hay ch? ?? hoàn t?t m?t công tác ?ã ?? xu?t trong k? ho?ch, cán b? Vi?n ?ã l?nh ti?n công tác phí ra vào trong Nam. Cái vòng ?ã v? s?n, tri th?c ?ã ch?t. Không th? có tri th?c, t?t c? nh?ng gì khác ch? là ch? ngh?a xét l?i. Nh?ng khuôn m?t chìm d?n trong ánh sáng vàng v?t c?a c?n phòng h?i.
T?i nghi?p thân ph?n trí th?c. Nh?ng hình ?nh kh?n kh?. Khuôn m?t x??ng x?u c?a viên Vi?n tr??ng Ngo?i v?n nói tr??c ?ám c? t?a trí th?c khi nh?c ??n giai ?o?n ??u t?, chính ông b? c?a y c?ng b? ?em ra t? kh?. Trong thoáng giây mau ?ó, y kh?ng l?i nh? ?? nu?t trôi c?c ngh?n ? c? h?ng. Khuôn m?t ?i?m râu tóc b?c ph? c?a nhà s? h?c già nua bùi ngùi nh?c l?i quãng ??i Nhân V?n, nh? m?t k? ?ào ng? không ???c gi?ng d?y ph?i v? ng?i nghiên c?u, trong m?t h?i ngh? hôm nào. Hình ?nh k? ch?p bút vi?t ba ngàn trang b?n th?o cho lãnh t? c?ng ch? là m?t th? công c?. Khi quy?n l?c ??c chi?m c? ti?ng nói v?n hóa. V?n hóa c?ng c?n tuy?t, nh? cái ch?t t?c t??i c?a m?t ng??i ??ng nghi?p d??i l??i búa kh?o c? m?i ?ây, trả lại cái nghiệp chưa trọn.
(Sau Cuộc Hội Nghị, các trang 195, 196)
Trong Mưa Núi có tả thảm cảnh xã hội dưới chế độ Cộng Sản, có cảnh vượt biên của đàn bà trẻ con b?ng đường bộ sau khi bọn dẫn độ bằng đường thủy bỏ rơi.
Phải là người đàn bà can ??m l?m m?i ra ?i riêng mình, v?i m?y ??a nh?. Chàng ngh? ??n nh?ng ch?ng ???ng kh? ?i nàng ?i qua. Xu?ng ghe v??t biên gi?i theo con kinh ?ã có t? tr?m n?m ?i ng??c lên giòng sông l?n. B?n d?n ???ng b? r?i ? d?c ???ng. C? ?oàn ch? toàn ?àn bà và tr? con ?i b? c? tr?m cây s? ???ng, có lúc t??ng ?ã g?c ngã vì ki?t s?c. Th?m nh?t là ng??i ?àn bà có ??a con tám tháng còn nuôi b?ng s?a m?. G?p toán v? trang làm th? ph? trong r?ng. Nh?ng bàn tay thô b?o s? n?n thân th?, c?i b? áo qu?n ?? khám xét tr??c nh?ng cái c??i man dã. R?i c?ng qua ?i nh? c?n ác m?ng.
Con ng??i có ph?i ra ?i ?? ch?p nh?n ?au kh?. Chàng ngh? (và nàng c?ng ngh? th?). Nh?ng ?i?u ?au kh? l?n nh?t v?n n?m trong tình yêu. S? cô ??n m?i ?áng s?.
Ý ngh? c?a nh?ng t?i tìm ??n nhau, ?i d?o trên nh?ng con ???ng không có tàng cây t?a bóng d??i tr?ng sáng. Ch? có bóng hai ng??i ngã xu?ng theo b??c chân.
Chàng v?a tìm l?i thoáng êm ??m c?a n?m x?a tưởng chừng quên lãng.
(Mưa Núi, trang 28)
Trong Thư Nhà có cảnh hai cha con vượt biên bằng đường bộ qua đất Miên , qua những cánh rừng già Đế Thiên Đế Thích.
...Chàng đã sống những phút giây hồi hộp. thê th?m nh?t trong ??i. T??ng nh? g?n k? cái ch?t. T? lúc b??c xu?ng khoang ghe ch? ??y g?o và li?p, khoác lên ng??i chi?c áo ?en ?ính d?y nút v?i tr??c ng?c, ??u ??i chi?c nón c?i r?ng vành ?? bi?n thành m?t tên khách th??ng xuôi ng??c sông h? biên gi?i, còng l?ng ng?i thu hình trong khoang ghe có mái li?p ch? ?? che kín hai cha con, chàng ?ã th?c su?t ?êm tát n??c vào ??y trong khoang không ng?ng ngh?. Phía ngoài, nh?ng bao g?o ch?t l?p hai ??u mui. Chàng hình dung ng??i nông dân già mi?n Tân Châu d?n ???ng cho chàng ?ang ng?i ? ??u lái, co ro trong chi?c m?n d? chùm vai, th? h?n theo khói thu?c rê. Ti?ng m?y ??a nh? Miên chèo ghe th?nh tho?ng v?ng lên, tho?ng qua h?i gió. Ghe ng??c giòng, ti?ng máy n? âm vang l?n ti?ng sóng trong ?êm thâm u huy?n ho?c. R?i t?ng tr?m xét. Ch? nghe nh? nh?ng ti?ng trao ??i thì th?m. Ghe ghé l?i m?t b? l? vào n?a khuya. Chàng và ??a con ? l?i trong khoang. Ng??i d?n ???ng và m?y ??a nh? Miên lên b? ki?m ch? ng?. ?êm l?nh tanh. Bóng tr?ng h? huy?n th?p thoáng ngoài kia, trên m?t n??c. L?n ??u trong ??i, chàng nghe âm thanh c?a ?i?u tr?ng lâm thôn, d?n d?p, kh?c kho?i. Ng?i d?a l?ng vào m?n thuy?n, chàng ng?m nhìn ??a con n?m còng queo trên t?m ván g? h?p, gi?a ??ng li?p và túi qu?n áo, cá khô b?a b?n, gi?c ng? h?n nhiên với hơi thở trẻ thơ nhẹ nhàng.
(Thư Nhà, các trang 42, 43)
Tuy nhiên những đoạn trong ba truyện ngắn đó tuy sống thực và tuy rất suspens, nhưng chỉ tạo cho tác giả trở thành một nhà văn tả chân già dặn, một nhà văn thời thế tuyệt vời. Nhưng đó không phải là điều mà tác giả mong mỏi. Có lẽ đa số độc giả sẽ tâm đắc với tác giả qua câu chuyện văn hóa và thân phận văn nghệ sĩ dưới chế dộ Xã Hội Chủ Nghĩa trong truyện ngắn Sau Cuộc Hội Nghị. Vì sao? Đa số các nhà văn hải ngoại chỉ thích trình bày thảm cảnh những lớp quần chúng ở các lãnh vực gần gũi với bậc trung lưu từ cấp thấp trở xuống. Và hình như chưa có tác giả nào khai thác nỗi nhục nhằn của giới trí thức, giới làm văn hóa dưới ch? độ Cộng Sản cả.
Những nét đặc thù trong văn chương Đặng Phùng Quân là anh tạo cho văn chương thời thế của mình những nhân vật chính đều có cái thế giới ưu tư riêng l?. Ưu t? bám sát họ không rời, họ thắc mắc, họ nhìn ngoại cảnh và xã hội chung quanh, họ nhìn sâu vào nội giới của mình. Nói rõ hơn, họ suy nghĩ về cá nhân, về gia đình, về tổ quốc, về các biến động trên dòng sinh mệnh của đồng bào, trên những chặng lộ trình cam go tiếp nối của lịch sử v.v... Họ lại còn suy nghĩ về phận người, thắc mắc những vấn đề siêu hình, những trái cựa của tâm cảm và nội giới cùng những cái nghịch lý và phi lý của cuộc đời. Cho nên chẳng có nhân vật nào được hạnh phúc cả.
Những lúc ngồi với nhau ? b? gi?ng, ánh tr?ng ph?n chi?u xu?ng m?t n??c, trên cao ??i s?n ch?y dài th?m th?m trong ?êm t?i, ng?n cách v?i bên này qua nh?ng vòng rào k?m gai, nàng l?i nh?.
Nh?ng ngày công tác ? nông tr??ng. Ngh? l?i th?t bu?n c??i. Thi ?ua vun s?i cho bo bo lên cao, tr? bông. R?t cu?c c?ng hoang phí nh? tu?i tr?. Nông tr??ng thí i??m ??u tiên c?a thành ph?, d?ng lên trên ru?ng ??t c?a nông dân vùng kháng chi?n. Nh?ng k? l?n l?i trong các h?m ??a ??o, ngây ng?t v?i danh x?ng ??t thép thành ??ng và m?t gi?c m? nho nh?, ngày nào thành công s? ???c c?y trên m?nh ru?ng nh? bé c?a mình. ?? r?i ngày th?ng l?i, ch? ?n nh?ng cái bánh v? kh?u hi?u v?i ch? ngh?a, l?i ??u tranh b?ng b?o l?c. Dùng súng b?n máy c?y. T?i nghi?p cho nh?ng ??ng ??i c?a nàng, c?ng ngây ng?t tiêm nhi?m li?u ma túy ph? b?ng m? kinh k? lao ??ng ?? m? hôi s?c l?c, hóa thân làm nô l? cho m?t tr?n tuy?n chính sách, k? ho?ch mà bên trong là s? xung ??tth?m l?ng nh? b?n gi?a hai ?ám B?c, Nam.
Nàng tâm s?, ngày ??u t?i em còn mang ?o t??ng là mình ?ang ?i xây d?ngnh?ng kibbutz nh? ki?u Do Thái l?p qu?c. ??a Ỷ ngh? ?ó ra b? ki?m th?o gay g?t. R?i t? an ?i v?i nhau, ph?i h?c t?p ?? bi?n ??i cái thói quen thành th? t? s?n. Ph?i bi?n xanh thành chuyên h?ng. Xa thành ph? c? n?m tr?i, không ch?ng ki?n nh?ng c?nh ??i ??i quái ??n ?ang di?n ra trên ??t n??c. L?p c?m quy?n m?i th?ng tr? trên s?t máu b?o l?c, c?ng ?ê hèn nô l? ngo?i bang, c?ng tham nh?ng th?i nát nh? b?n c?m quy?n tr??c kia. ?i?u u?t ?c c?a tu?i tr? là s? d?i trá l?i ???c v? v?i b?ng nh?ng lỶ t??ng hoang ???ng mà chính k? ??ng trên b?c gi?ngc?ng ?ang t? bi?t nói nh?ng ?i?u l?a ng??i, l?a mình. Cho ??n khi nông tr??ng hoàn toàn th?t b?i, c? v? thu ho?ch l?n Ỷ ngh?a. Viên giám ??c b? h? t?ng công tác, bao nhiêu công lao trí v?n ngày x?a ??i l?y m?t s? hy sinh c?a m?t con c? trên m?t tr?n chính tr?. Ngày tr? v? thành ph?, em t??ng nh? m?t ng??i r?ng. Không ph?i g?p cái không khí xa hoa thành th?, nh?ng t?i tinh th?n mình l?c h?u tr??c m?t quang c?nh xã h?i ?iêu tàn ngoài trí tưởng tượng của mình...
(Bên Trời Lận Đận, các trang 91, 92)
Nói thế, không phải các nhân vật chàng luôn sống trong dằn dặt đau thương không nguôi đâu. Thỉnh thoảng họ cũng bắt gặp một mảnh vụn hay bóng dáng hạnh phúc. Nhưng theo tác giả thì: Những thế giới của chàng đang chập chờn đan lẫn vào nhau... những tâm cảm rung động dạt dào của tự do mới đến... hạnh phúc khi nghĩ đến một người, có một người để nghĩ đến... đó không phải là thiên đường, mà một miền hạnh phúc nào đó trong một đời chỉ bắt gặp một lần nhưng sẽ nhọc nhằn nhớ mãi không nguôi... bao nhiêu năm, tìm kiếm một cái gì thất lạc. Nhưng không sao nhớ ra được... như một khung cảnh rất xưa trong đời. Như thế, dù chàng nầy vượt biên thành công, dù chàng kia khi ở đảo có một mối tình, dù chàng khác nữa sớm được sang Hoa Kỳ định cư, dù chàng thứ 5 hay thứ 6, thứ 7 khác nữa tìm gặp lại vài cố nhân mà họ đã từng gắn bó tình cảm thiết tha, nhưng chưa chắc độc giả tin rằng có chàng nào được hạnh phúc. Hạnh phúc hiện lên cuộc đời họ trong một thời hạn nào đó qua bóng dáng, qua mảnh vụn. Bóng dáng thì có bao giờ mà được trường tồn hay vĩnh cửu? Còn mảnh vụn chỉ là một phần cái có thật, chứ không thể là một sự thật nguyên vẹn. Ưu tư làm các chàng thống khổ, dĩ vãng trên cố hương làm các chàng bị dằn dặt không nguôi. Làm sao họ tìm gặp một thiên đường giữa cơn xáo trộn của lịch sử, trong cái lạc lõng bơ vơ dù đã tìm gặp đất nước tự do để dung thân?
Tác giả đã cho tôi biết: Trong nỗi nhớ của một ngày, Một dặm tương thân hành trạng của nhân vật ở cùng một lịch sử, đối nghịch với nhân vật Mưa núi, Ở một phương trời xa như hai mặt thực tại.
Nhân vật chàng ở Trong Nỗi Nhớ Của Một Ngày và nhân vật chàng trong Một Dặm Tuơng Thân thuộc thành phần bên kia giới tuyến của chủ nghĩa Quốc Gia. Còn nhân vật chàng trong Mưa Núi thuộc người Quốc Gia vượt biên tìm tự do và nhân vật chàng trong Ở Một Phương Trời Xa là người Quốc Gia du học ở Hoa Kỳ rồi trở về nước và kẹt luôn sau bức màn tre khi miền Nam lọt vào tay Cộng Sản. Các chàng đều trưởng thành trong cuộc nội chiến, đều tham dự vào các cuộc biến động lịch sử dù ở bên này hay bên kia. Khuynh hướng chính trị, nhân sinh quan, thời điểm xuất hiện của họ trong văn chương của Đặng Phùng Quân tuy có khác, nhưng các điểm chung của họ là cùng trong một giai đoạn lịch sử, cùng là mẫu người ưa phân tích mọi vấn đề, luôn luơn quay mòng bởi những vấn nạn của thời cuộc hay những vấn đề thuộc về siêu hình (như tự do tinh thần bị tước đoạt, như sự tìm kiếm cái hạnh phúc đích thực, như sự phản kháng trước những giả trá lừa lọc của chủ nghĩa...).
Thế giới dưới mắt chàng, là một con đường hầm hun hút. B?o hành ph?c kích cùng kh?p.Trong ?êm t?i, chúng ta ?i tìm nhau. Hay ?i tìm ngõ thoát. T? cái cu?c s?ng êm ? này, con ng??i ?ang thiêm thi?p trong m?t khoang xe ??y h?i ng?t. Qu? qu?ng nh? k? m?ng du. Chuy?n tàu v?n ch?y, v?n m?i mi?t lao vào bão l?a. C?n h?ng th?y m?p mé trên nh?ng quãng ???ng chúng ta ?i qua. Hình ?nh ?y hi?n ra trong trí t??ng, t? lúc chàng tr? l?i ho?t ??ng. Có ph?i, n?i tâm th?c m?i con ng??i chúng ta, n?i b?t ?n thao th?c ?y thúc gi?c chúng ta không th? b? cu?c. Ni?m ?m áp nh? m?t thoáng gió nam mát r?i trong lòng, chàng ngh?, ? m?t n?i nào ?ó, nàng và ng??i b?n ??i c?a nàng c?ng ?ang có m?t. Trên tr?n tuy?n m?i. Nh?ng cu?c bi?u tình. Ph?n kháng. V?n ??ng. Thuy?t ph?c. Nh?ng s?i m?t xích ?ang k?t h?p thành dàn công s? s?t thép. Kh?i ??u c?a s?c m?nh. Ch? có s?c m?nh m?i ch?ng l?i ???c b?o ng??c. T? ?? ?ó, nàng không vi?t thêm gì n?a. Sinh ho?t nh? tri?u bi?n dâng ?ã t?o thành nh?ng thnôg báo thay cho cánh th?. Còn g?n g?i h?n. B?i vì, kho?ng xa c?a ngàn trùng cách bi?t ch?ng còn Ỷ ngh?a. Chúng ta ?ang th?y nhau ? tuy?n ??u. D?u ánh sáng ch?a hi?n ra ? cu?i chân tr?i mù m?t. D?u chúng ta ?ang th?p t?ng ng?n l?a nh?. D?u l?i ?i v?n là s?n ??o gian truân. D?u m?t ngày, nh? nh?ng chi?n s? ti?n phong khác trong vòng vây thù ngh?ch, c?nh d?u sôi l?a b?ng, ng??i b?n ??i c?a nàng c?ng bi?t tích n?i r?ng già gi?ng ??y cạm bẫy của kẻ thù...
(Ở Một Phương Trời Xa, trang 124)
Trước khi sang qua quyển Một Dặm Tuơng Thân, chúng ta hãy cùng đọc những gì tác giả Đặng Phùng Quân viết cho bút giả về nội dung các truyện ngắn của anh trong tác phẩm nầy:
Một dặm tương thân khởi đầu từ: Thuở nàng còn là một thiếu nữ mới lớn, tuổi của con nàng bây giờ... xác định một thuyết thoại ở thời hiện tại, song nhân vật sống hay chết như trong truyện kể vẫn còn mơ hồ. Không thể xác định cảnh trạng ở ngôi vị nào: thật tội nghiệp nếu nàng biết cuộc gặp gỡ ấy chẳng phải tình cờ trong ba phân cảnh chính, hai phân cảnh đầu về nàng và nàng không hiện hữu ở phân cảnh cuối. Gián cách của cảnh trạng và liên tục của thuyết thoại.
Người đàn bà ở Ch. Ha là một tiểu thuyết lịch sử, nếu hiểu lịch sử là một ý thức. Hình ảnh những cánh tay giơ cao theo ngọn cờ độc lập, tự do chập chờn dưới màn khói tử thi xương trắng la liệt khắp nơi. Lịch sử như thế đó.
Dung nhan và Tìm kiếm một người nào là những tiểu thuyết phá thể viết trong khí hậu ‘’ tiểu thuyết mới’’ và kết thúc ở Dung nhan và Tìm kiếm một người nào là những tiểu thuyết phá thể viết trong khí hậu ‘’ tiểu thuyết mới’’ và kết thúc ở Đêm lạ là một câu văn duy nhất viết một mạch, tưởng chừng nhưng không/ thời gian chỉ là một ý niệm, là một, là không. Đêm lạ là một câu văn duy nhất viết một mạch, tưởng chừng nhưng không/ thời gian chỉ là một ý niệm, là một, là không.
Tôi đã đề cập ít nhiều tới Đêm Lạ ở phần trên. Truyện ngắn nầy được coi như phần kết thúc của ba truyện ngắn phá thể: Dung Nhan, Tìm Kiếm Một Nguời Nào và Đêm Lạ.
Tiếp theo đây, tôi chỉ cần nói qua 5 truyện ngắn của Đặng Phùng Quân trong tác phẩm Một Dặm Tương Thân. Đó là: truyện ngắn cùng tựa với tập truyện cùng Người Đàn Bà Ở Ch. Ha, Dung Nhan, Tìm Kiếm Một Người Nào, cùng Tưởng,Tưởng Nhớ và Đêm Lạ.
Người Đàn Bà Ở Ch. Ha được tác giả xem như một tiểu thuyết lịch sử nếu hiểu lịch sử như một ý thức. Đây là câu chuyện chàng và đứa con trai vượt biên bằng đường bộ qua ngả đất Chùa Tháp. Trên lộ trình, chàng gặp nhiều người tốt như người dẫn đư?ng, người chủ nhà ở thị trấn địa đầu và người đàn bà ở Ch. Ha. Đây là người đàn bà Miên thuộc thành phần trí thức, lấy chồng Việt nhưng anh ta sống trên đất Miên từ nhỏ. Chồng du học bên Pháp, rồi tr? về Nam Vang làm công chức cao cấp bên phe Quốc Gia. Còn nàng theo Khờ-me đỏ. Sau khi Khờ-me đỏ cưỡng chiếm Cao Miên, chồng nàng bay ra ngoại quốc. Còn nàng ở lại để làm nhân chứng cuộc tàn sát diệt chủng cũa lũ Miên Cộng.
Hãy kể cho em nghe cu?c s?ng c?a anh trong su?t quãng ???ng ??i ?ã qua, hình dung m?t ng??i ??n t? mi?n xa l?, mang theo nh?ng th?ng tr?m h?n d?u trên mái tóc ?i?m s??ng, nh?ng nét nh?n c?a khuôn m?t, khóe m?t còn m?t m?i. Ánh sáng ?ã lu m? theo ng?n b?c l?i d?n không ?? soi vòng tay trong nhau, h?i ng? tình c? t? thu? nào. Chàng không k?p ngh? ??n t?i bóng t?i ??ng lõa, hay ni?m thân m?t c?a con ng??i ??ng tình trong c?nh hu?ng l?n ??n ?ã th?y n?i nhau chia s? n?i an ?i ? m?t tâ tr?ng kh?n khó bên v?c th?m th?i th?. Chàng v?n là ng??i khách l?. Không ch? trong ?êm nay. Khi chào ??i, ?ã không ???c quy?n ch?n l?a n?i sinh tr??ng, l?n lên trong c?nh ??t n??c qua phân, xu?t thân ? m?t gia ?ình nghèo nh?ng cha m? c?ng c? g?ng lo cho h?c hành t?t, h?p th? n?n giáo d?c ph??ng Tây nh? nàng, c?ng n?p s?ng, n?p ngh? l?c lõng tr??c khi th?c t?nh tìm th?y l?i nh?ng gì thân quen quên lãng. Nh?ng bi?n c? tri?n miên c?a x? s? n?i chi?n khi?n tâm th?c nghiêng ng?a tr??c nh?ng ng? ???ng ??i l?p. B?n bè, sách v? quanh ta, thôi thúc, d?n v?t, thách ??. C?ng nh? nàng, th? gi?i chung quanh th?t l? m?t v?i chàng h?n vùng tr?i xa xôi. Tr??c ngày lên ???ng, chàng còn xao xuy?n khi d?n thân vào n?i ??t ngh?ch. Lúc v??t ngang tr?m biên phòng, ghe d?ng l?i nh?ng b?n n??c ?ìu hiu, ng??c nhìn qua khe li?p th?y con d?c xoai xo?i lên phía ??i cao hoang v?ng, cây cành xum xuê, khung c?nh t? nhiên g?i l?i trong lòng quê h??ng ?ã m?t, tâm h?n bâng khuâng nh? mu?n níu kéo l?i s?i t? tr?i mong manh c?a kho?nh kh?c t? l??ng chùng chình, c? giây phút v??t qua t??ng thành nhà ga l?t vào trong khuôn viên ?? ?áp chuy?n xe l?a lên mi?n B?c, nhìn nh?ng ng??i Miên lam l? ?ang v?i vã ch?y ng??c xuôi tìm m?t ch? ??ng trong khoang, hay xô ??y nhau leo lên nóc xe, cái hình ?nh ?ám ?ông h?n ??n trong bu?i s?m chen chúc nhau ?y - gi?a nh?ng ti?ng súng b?n ch? thiên d?a n?t c?a lính canh ngoài c?ng - g?i lên trong lòng chàng n?i ?u u?t c?m hoài v? thân ph?n dân t?c b? áp b?c ??i ??i ki?p ki?p ? vùng tr?i kh?n khó này. N?i ?âu, con ng??i c?ng qu?n qu?i d??i b?o l?c. Chàng liên t??ng ??n nh?ng dinh th? r?p bóng c? và bi?u ng?, nh?ng b?c chân dung lãnh t? ?? s? di?u c?t ?ám qu?n chúng cùng kh?. Hình ?nh nh?ng cánh tay gi? cao theo ng?n c? ??c l?p, t? do ch?p ch?n d??i màn khói t? thi x??ng tr?ng la liệt khắp nơi.
(Người Đà Bà Ở Ch. Ha, các trang 91, 92)
Một chàng trí thức Việt Nam khước từ một đất nước bị khống chế tự do, một người thiếu phụ Miên cũng thuộc thành phần trí thức lại còn là mẫu người lý tưởng, nhưng bị chủ nghĩa Cộng Sản gạt gẫm; cả hai gặp nhau để cùng hàn huyên tâm sự về chủ nghĩa, về tình người. Họ nhìn về cái ánh sáng tự do chiếu lộng lẫy trên các đất nước Tây Âu để rồi thông cảm nhau, để chàng Việt Nam khi từ giã nàng và tiếp nối tiếp lộ trình vượt biên sẽ nhớ mãi tới nàng mà không cần biết tên nàng. Chàng chỉ biết nơi nàng ẩn cư là Ch. Ha để có một kỷ niệm tuyệt vời, để thỉnh thoảng gợi nó ra và để cho tâm hồn phì nhiêu tình ý.
... Sau chiến thắng, cuộc hồng thủy thanh trừng nội bộ, nh?ng k? ?iên lo?n di?n t?p chính sách cai tr? k? d? (phân bi?t dân m?i - c?, l?p công xã và nh?ng nhà tù tàn sát t?p th? ki?u Tuol Sleng...) Chàng v?n còn th?y v? kinh hoàng c?a nh?ng ng??i s?ng sót sau c?n kh?ng c? trên m?i nét m?t ng??i d?c ???ng. Chàng h?i, lúc b?y gi? nàng ? ?âu? Cha m? m?t tích trong ?ám ?ông b? l?u ?ày vào vùng công xã xa xôi nào ?ó. L?i m?t l?n n?a, nàng r?i b? thành ph? tr?n lên mi?t biên gi?i, t?n m?t th?y nh?ng ??ng x??ng tr?ng vô ??nh, thoát kh?i nh?ng cu?c lo?n dâm t?p th?, nh?ng ??ng chí ?ã cùng chia s? m?t th?i gian kh? gi? ?ây tr? thành v? binh ?? cu?ng tín. N?i ?au rã r?i c?a k? m?t trí. Nàng mong m?i cu?c ??i thay - ni?m hy v?ng m? h? c?a k? b?t l?c. ?ôi lúc, tâm th?n giao ??ng kinh hoàng vì ng? v?c ph?n b?i, nàng t? h?i, còn ai mu?n s?ng trong cuộc tự sát dân tộc này....
(Người Đàn Bà ? Ch. Ha, trang 94)
Cuộc vượt biên bằng đuờng bộ trong truyện ngắn Người Đàn Bà Ở Ch. Ha kéo dài trên 6 trang, phản ảnh rất sống thực cuộc vượt biên của tác giả. Nó nằm trong lịch sử của cuộc đời tác giả. Tác giả có thể thuyết phục độc giả tin rằng đây là câu chuyện có thật 99% một cách trơn tru, dễ dàng. Nhưng từ lúc người đàn bà Miên xuất hiện thì hiệu quả của sự thuyết phục yếu dần vì ai biết được chỗ nào hư cấu, chỗ nào có thực? Nếu trong hàng ngũ độc giả có 50% người tin tưởng cũng là quý lắm rồi. Do đó, đây là một chuyện dã sử đúng hơn nếu nói theo bản chất. Dã sử thì dựa vào những chi tiết, những biến cố, những phân đoạn của lịch sử để tác giả dựng lên một câu truyện hư cấu giả tuởng. Nhưng nếu tác giả dùng ý thức để xem Người Đàn Bà Ở Ch. Ha thành một câu truyện lịch sử thì đây là một biến cố trong lịch sử của cuộc đời Đặng Phùng Quân đúng hơn, chứ không phải là giai đoạn lịch sử của dân tộc Việt Nam hay lịch sử của 3 chủng tộc Việt Miên Lào. Nhưng mà thôi, dù lịch sử hay dã sử gì gì đi nữa thì đây là một truyện ngắn có tầm vóc nguy nga của một tòa kiến trúc bất hủ, gieo trong lòng độc giả một dư âm lưu luyến thiết tha khó nguôi ngoai khi họ đọc xong. Và dù có bịa ở đoạn người đàn bà Miên xuất hiện thì tác giả bịa rất khéo, y như là ghi chép một đoạn biến cố có xảy ra thực sự. Văn chương vốn cần bịa khéo như thật chứ không cần ghi chép sự thật một cách khô cứng và vụng về, có phải?
Dung Nhan là một truyện ngắn thật đặc thù. Nhân vật xưng tôi, trong một buổi sinh hoạt của nhóm người trẻ tuổi có gặp một cô thiếu nữ. Độc giả không hiểu cái mức độ quyến luyến họ như thế nào, nhưng nhân vật xưng tôi đặc biệt chú ý tới nàng khi ngắm nàng nằm ngủ sau khi ăn cơm trưa. Rồi cả hai cùng về thành phố. Trước khi chia tay, cô gái yêu cầu đuợc gặp lại đương sự. Nhân vật sau đó đến một khu tịch mạc gần trại cưa để tìm nàng. Tác giả không nói rõ nhân vật xưng tôi đã vào trong ngôi nhà nàng hay không, nhưng đương sự cho nguời dùng để đối thoại (gọi người ấy bằng bạn) biết nhà nàng bày biện như thế nào. Bạn sẽ bắt gặp nàng tắm xong, nhưng chưa lau khô mình mẩy mà đến bàn phấn chải tóc, soi gương và uống một ly rượu. Ở đoạn mô tả đó, nhân vật xưng tôi cố tình vắng mặt để ngôi thứ hai (bạn) xuất hiện trên trang sách và quan sát bên trong nhà nàng và dự khán cái sinh hoạt của nàng. Nhưng độc giả sẻ thắc mắc: Cái bên trong ngôi nhà và sinh hoạt của nàng có phải đúng như sự thực mà nhân vật xưng tôi mô tả cho bạn biết hay không? Hay đó chỉ là sản phẩm của óc tưởng tượng và vẫn còn nằm trong dự phóng, trong cõi mường tượng sa đà của đương sự? Tác giả không nói rõ. Anh muốn độc giả chúng ta nêu lên một nghi vấn. Người bạn dùng để đối thoại có phải chăng là cái tôi dự phóng của nhân vật xưng tôi, chứ chưa hẳn là người có thật để đương sự dùng làm kẻ đối thoại? Thế có nghĩa đó không phải là cái tôi đích thực mà là cái tôi dùng để chứng kiến bên trong ngôi nhà và cái sinh hoạt của nữ chủ nhân do nhân vật xưng tôi tưởng tượng ra. Đọc Dung Nhan, độc giả dễ bị chi phối bởi sự trà trộn giữa cái thực và điều tưởng tượng trong thế giới dự phóng hay trong cõi mường tượng của nhân vật xưng tôi. Và qua Dung Nhan, bút giả không hiểu đó có phải là loại văn chương phá thể hay không? Vì rằng ở truyện nầy lằn mức hư thực bị xóa mờ. Do đó cái cấu trúc của nó lạ lẫm, vượt loại văn chương quy ước bằng những nét sắc sảo.
Tìm Ki?m Một Người Nào là một câu truyện tình giữa anh chàng vừa thi hành xong nghĩa vụ quân sự và trở về định cư trong thành phố và một người đàn bà lang bạt kỳ hồ (une aventurière) từ ngoại quốc về thăm thành phố (có thể là thành phố Sài Gòn hay một thị trấn nào trên miền Nam đất nước). Còn thời điểm thì sao? Tác giả cũng không xác định giai đoạn nào trên dòng cuồng lưu của lịch sử. Dưới ngòi bút của Đ?ng Phùng Quân thì tình yêu của họ mơ hồ quá, dù tác giả có gài vào trang áp chót (trang 142) ba chữ nỗi đam mê. Nhưng ba tiếng ấy đó không gợi cho độc giả một ngọn lửa nóng bỏng trên từng phân đoạn, trên từng dòng chữ như những mối tình say đắm của văn chương thông thường. Cả hai hôn nhau trong rạp hát, cả hai đưa nhau đi ăn, đi bát phố, rồi làm tình khi cả hai về nhà chàng. Chàng còn có đi tắm theo kiểu người Thổ Nhĩ Kỳ. Tới ngày nàng phải lên đường để trở về với công viêc ở ngoại quốc thì nàng hủy bỏ chuyến bay. Rồi cả hai mướn một biệt thự để sống chung nhau. Nhưng rồi cả hai phải chia tay nhau. Cuộc chia tay cũng không được diễn tả, chỉ được nói qua quít một câu ngắn ngủn. Xin đọc:
.... Như kỳ hạn sống chung của chúng tôi đã lần lữa kéo dài. Thói quen m?i không th? thi?u, n?i thân m?t riêng t? m?i ngày nh?c l?i v?n nh? khám phá ?i?u còn ?n gi?u, nàng th??ng g? ?ôi kính c?a tôi ỡ ?? nhìn s? v?t cho b?t rõ ữ - khi hai thân xác g?n bên nhau, ?i?u thu?c lá ??t lên, ??u l?a ?? cháy soi không gian t?ch m?ch - nh?ng ng??i xa ? n?i nào, bây gi? d??ng nh? nghe nói ??n t?a h? tuy?t âm hao, hay th?ng th?t chia cách gi?a ?ôi biên gi?i không có hy v?ng nào trùng phùng tái ng?. Trong bi?t th?, mà chúng tôi t??ng ch?ng nh? xa cách v?i th? gi?i ng??i t? lâu l?m. B?n h?u ?ã b? ?i c?. Nh?ng lá th? l??i bi?ng h?i âm c?ng b?t d?n. Thành ph? ? th?t xa. N?i ?am mê ngày càng làm trí nh? quên d?n. s? thích thú t?ng d?n lên v?i lòng b?n ch?, chúng tôi càng nóng n?y. Nàng ?ã nh?n ???c nh?ng th? t?c làm xong có th? lên ???ng ?i Âu Châu nh?n vi?c m?i, ngày kh?i hành còn không bao lâu nh?ng nàng v?n ??ng ng?nh ch? ??i s? chia ly b?t ng?. D?p kia ?ã x ?y ??n khi tôi nh?n ???c l?nh g?i ?i th? hu?n. Chúng tôi ?ã lên đường cùng ngày.
(Tìm Ki?m Một Người Nào, trang 142)
Cuộc tình và diễn biến được thuyết thoại nhiều hơn là mô tả. Nhưng xen vào những dòng kể lể là những câu nổi bật những đường nét tạo hình rất sống thực, rất sắc sảo cứa mạnh vào ấn tượng độc giả. Đây là một truyện ngắn đắm chìm trong cái không khí uể oải, với động tác chậm chạp và buồn bã của nhân vật làm bút giả liên tưởng tới những séquences trong các cuốn phim Ý như Le Bel Antonio của Mauro Bologhini (1960) hay phim Huit Et Demi của Federico Fellini.
Theo tôi, Tưởng, Tuởng Nhớ không phải là một truyện ngắn mà là một tùy bút có nhiều đoạn rất thơ mộng. Đây là một bài tác giả gửi gấm tâm tình của mình vào công việc viết văn. Công việc đó theo thiển ý của tôi, gồm có hai yếu
tố chính là thần trí sáng tạo (esprit de création) và cảm hứng (les inspirations).
Từ bấy lâu nay, bút giả có cái định kiến như sau: Muốn khích động hai yếu tố
đó, mỗi nhà văn có một thái độ riêng: có kẻ cuồng nhiệt coi văn chương như
một tôn giáo, có kẻ hành xử một cách hung hăng như theo kiểu bạo dâm (le
sadisme), có kẻ khổ hạnh, có kẻ lâng lâng thống khoái như kẻ làm cuộc hành
hương tận ngôi thiền tự trên đỉnh núi v.v... Đâu đó, tôi bắt gặp hai câu tuyên
ngôn của nhà văn Huỳnh Phan Anh: Viết là đâm nổ mặt trời/ Viết là thách thức
thần linh. Những hành trạng cá biệt của kẻ cầm bút, tôi không dám phê phán.
Nhưng tôi biết chắc rằng muốn thắp sáng thần trí sáng tạo, muốn khơi dậy cảm
hứng, nhà văn thuờng lôi kéo cuộc sống nội tâm lệch lạc qua một bên để tìm
những khe trống cho ngọn lửa thần bí soi sáng và khơi dậy hai yếu tố đã kể trên
đây. Một cuộc sống nội tâm ngăn nắp quá, lành lặn quá thì làm sao nứt nẻ ra
những khe trống?
Riêng nhà văn Đặng Phùng Quân thì hiền lành quá đỗi, có thể bảo là ngoan
lành và điềm đạm một cách dễ thương trong công việc viết lách. Vậy mà thần
trí sáng tạo của anh vẫn bừng tỏa, cảm hứng của anh vẫn tràn trề lênh láng. Anh
chỉ cần tưởng và tưởng nhớ là bắt gặp hai cái nhu cầu của mọi nhà văn.
... Chưa bao giờ chàng thấy đêm diệu kỳ nh? lúc này khi hai ng??i ti?p t?c l?i câu chuy?n v?a ??t quãng, b?i m?t Ỷ t??ng v?a lén ??ng t?i lúc h? cùng nh?c l?i m?t k? ni?m, c?a vùng kỶ ?c nào ?ó miên man theo ngày tháng, nh?ng quãng s?ng dày ??c t??ng nh? gánh n?ng c?a m?t ??i, có ph?i, xe v?n ch?y, nh?ng tàng tích nào quá kh? v?a qu?t kh?i, nh?ng giai ?o?n tr?m mình trong ??n ?au th? thách c?a th?i th?, b?o hành l?ng kh?i, quy?n l?c th?p hèn, t?t c? r?i c?ng qua nh? m?t trò ?ùa, b?i vì sau cùng ng??i ch?ng ?ã thoát ra bên ngoài, nhìn l?i không th?y mình, không th?y ng??i, ch? th?y nh?ng ho?t c?nh câm nín, không l?i; có ch?ng, cái còn l?i là nh?ng ?i?u ?ã vi?t ra, vi?t d??ng nh? không th? ng?ng l?i, vi?t nh? ?i hoang vu vào cõi sa mù nào ?? tìm l?i ??ng v?ng, b?ng d?ng chàng nói v?i b?n v? nh?ng c?nh hu?ng g?p nhau, v? m?t nhà xu?t b?n mang tên 68, th?i ?i?m c?a m?t cu?c n?i d?y, v? m?t ng??i ?àn bà Zdena ; vi?t nh? m?t h?n ??c trùng phùng trên nh?ng h?i ?i?m vô hình, vi?t trong m?t luân h?i v?nh vi?n ?i trên nh?ng s?i dây ?u cao th?, vi?t ?? th?y nh?p ??p c?a tim còn co th?t tr??c nh?ng t?n áp chuyên chính, vi?t ?? g?i l?i l?i kh?n ?i trong ?êm sao b?ng tàn kh?c, vi?t nín cùng h?i th? d?n d?p c?a tình yêu chia cách, vi?t c?a m?t cái b?t tay b?ng h?u t? mi?n Trung ?ông Âu mù ám, c?ng ho?n n?n, c?ng m?t mùng, vi?t cho nhau nghe nh?ng th?ng kh? ng?c tù, nh?ng kinh nghi?m xe t?ng và ??i bác xâm l??c, vi?t lên tìm ki?m vòng quay l?ch s? tân dân ch? nhi?u nh??ng, vi?t cùng ng??i, cùng ta, cùng thù ngh?ch, cùng ??n ?ài, l?ng mi?u xác hoa và da th?t, hóa thân trong m?t cu?c truy hoan vô tính, vi?t ch?ng nh? bay lên cùng tr?i ??t. Có nh?ng ?i?u vi?t m??i m?y n?m v?n còn ám ?nh, v?n ?i tìm, nh? th? hành tr?ng m?t ??i, vi?t trong khung h?p c?a m?t th?i, vi?t ?? m? ra c?a ngõ sáng tạo.
(Tưởng, Tưởng Nhớ, các trang 163, 164)
Đặc sắc nhất trong các truyện ngắn của Đặng Phùng Quân trong tập truyện
Một Dặm Tương Thân là truyện ngắn cùng tựa.Trong truyện, nàng là một cô
thiếu nữ có nếp sống khép kín, phức tạp, dường như tiêm nhiễm cái triết lý khắc
kỷ . Nàng bám chặt một ý định, hay một lý tưởng và sống chết với nó cho tới
cùng. Cho nên trong cuộc tình phất phơ, ngô không ngô, khoai chẳng ra với
chàng, nàng vẫn xem đó là một mối tình thiên thu hiện hữu bởi một định mệnh
oan nghiệt do nghiệp lực từ thời tiền kiếp nào đưa đẩy:
... Tuổi dậy thì, bằng hữu thủ thỉ cho nhau nghe nh?ng ?i?u hi?u bi?t v? m?t th? gi?i bên ngoài, nh?ng chuy?n tình lí thú, nh?ng t??ng t??ng v? m?t ??i t??ng khác phái, thân xác ?àn ông, nh?ng n? hôn ??u v?ng d?i, nh?ng c?m xúc hi?u ??ng, th?m thú trong khung c?nh h?n hò hoang s? c?a tu?i tr?. Nàng c?ng tò mò l?ng nghe nh?ng câu chuy?n g?u c?a b?n bè. Hình ?nh ng??i ?àn ông qua hi?n thân chàng l?i tha thi?t trong cõi riêng nàng. Có l?n m?t ng??i b?n h?i nàng ?ã bi?t yêu ch?a, nàng ch? m?m c??i không tr? l?i. Nói th? nào v? ng??i yêu, nàng t??ng ch?ng nh? ?ã v?nh vi?n trao thân g?i ph?n cho chàng. ?i?u bí m?t ?y c?a riêng nàng. Ngày tháng qua, v?t th??ng lòng nh? dao c?t không lành t??ng ch?ng nh? tu?i ??i ?ã già c?i, t??ng ch?ng nh? ng??i yêu không còn trên th? gian này. Nàng th?y mình th?t l?n, nh?ng kh? d?i. Có l?n ng??i b?n gái m?i quen ? n?m cu?i cùng b?t Trung h?c nh?t ??nh ?òi nàng nghe m?t chuy?n th?m kín. Nàng yêu ng??i th?y h?c c?, cu?c tình ?p ? ?ã hai n?m. Làm th? nào ?? ng??i mình yêu hi?u tâm s?, cô b?n h?i. Nàng l?i nh? chàng, Ỷ ngh? thoáng ??n trong tâm t??ng nghi ho?c v? chuy?n c?a mình. Li?u chàng có th?t yêu nàng hay nàng ch? là m?t ng??i b?n nh? bé ch?a bao gi? ghi kh?c trong trái tim chàng. N?u chàng yêu, dù khó kh?n cách tr? chàng c?ng ph?i tìm v? nàng. Nh? giây phút thân m?t, chàng l?i vùng b? tr?n. Nàng mu?n ng? v?i b?n, nh?ng nàng ng?i nh?ng ?i?u nói ra làm th??ng t?n hình ?nh chàng, khi?n nàng ng? v?c cu?c tình c?a mình. Ng??i b?n gái qu? quy?t, nh?t ??nh s? chi?m h?u hoài v?ng c?a mình. R?i m?t ngày mình ph?i ???c yêu, d?u có th? nào. Tình yêu ch? ??n m?t l?n, nàng ch?ng bi?t ch? ??ng. Và k? ni?m nh? chìm sâu. Nh?ng gi?t n??c m?t s?u mu?n d?ng d?ng khi nàng ng?i th? th?n m?t mình tr??c nh?ng t?p sách v? trên bàn h?c. Nàng vi?t nh?ng Ỷ ngh? l?n ??u trên m?t cu?n s? nh?, t??ng ch?ng nh? ?? nói v?i chàng, ?? chinh ph?c chàng (nh?ng Ỷ ngh? ??n t? m?t vùng tr?i thân ái, th?t táo b?o, khi ng? cho chàng hi?u tâm h?n th? ?ã dào d?t nh?ng say ??m ?am mê ngày g?p g?, nh?ng Ỷ ngh? thám hi?m cõi yêu mông lung ??y ác m?tng, nh?ng gi?n d? n?i lo?n ??i, nh?ng thoáng k? ni?m trong c?n nhà c?, nh?ng nét phác h?a d? dang m?t không gian su?i hoa m?t ng?t nào c?a t??ng lai, song ?i?u chân th?t sâu kín nh?t c?a nàng là ni?m nh? mãi khi hai thân xác g?n k? v?n ám ?nh không r?i, nàng nh? chàng, n?i nh? của một người tình chăn gối...)
(Một dặm Tương Thân, các trang 22, 23)
Còn chàng thì khác, ưa thay đổi, ưa nổi loạn phản kháng, không tìm được cho
mình một chỗ đứng, một lý tưởng thích nghi. Do đó mà chàng không hạnh phúc,
chàng khổ sở vì bị dằn co với những t? tưởng phức tạp, phiền toái. Cái hệ lụy ấy do
chàng chủ trương, chàng chính là nạn nhân của cái nghịch lý của đời sống mình,
cái mâu thuẩn của nội tâm mình.
...Thế giới của chàng. Không, nàng nghĩ, cái thế giới ấy phải của hai đứa, với một biên cương ngăn cách với xã hội bên ngoài. Từ cái lối đi qua một phố chợ, những bức tượng tôn giáo cao hơn người thật bày ngổn ngang bên lề đường của mấy tiệm tạc tượng, khi mưa đầu mùa tới làm ngập lụt, nàng phải vén cao ống quần trắng, tay xách dép khi tới căn nhà của chàng. Căn nhà lá phủ một lớp tôn trên mái, cửa nhìn ra bụi chuối bên một con mương đầy lá xanh. Thế giới của chàng đó, những nét vẽ đầy khắp, trên vách, trên hai cánh cửa, trên giá gỗ ở ngoài trời. Những mẫu phác họa vội vã, còn nguyên sơ hình ảnh vừa bắt gặp, như những sợi tơ trời bay lượn trong không gian tinh khôi. Và bây giờ, thêm sự hiện diện của nàng. Con người chàng, sự nổi loạn vô trật tự. (Tại sao anh đang theo học Y khoa, lại bỏ ngang sang Văn Khoa. Rồi chưa đầy một năm, anh lại xin vào Mỹ Thuật. Tai sao anh lại bỏ học. Những th?c m?c tìm hiểu về sự hoang đàng phá phách đang diễn ra trong tâm hồn chàng)... Những kinh kệ - nói theo ngôn ngữ của chàng - như ám ảnh chàng thường trực, ru chàng vào một vòng lưới hoài nghi khôn cùng. Kiến thức đời không giữ gìn chàng yên phận. Chàng không muốn giam mình trong bốn bức tường trắng bệnh viện, khi những vết đau da thịt không trầm trọng bằng cơn nội thương xã hội - con người cá thể có nghĩa lý gì trong hạnh phúc toàn bộ đại thể đang đắm chìm trong khổ nạn. Mà xã hội, viên thày thuốc không còn đủ thiên chức, khi mảnh bằng chuyên môn được đánh giá bằng tiền bạc. Sách vở từ chương cũng chẳng tạo thêm niềm tin cho thế giới trước mặt hiện tại. Học vẽ, không gian của thẩm mỹ như đưa nhãn quan vào một cảnh giới khác, những tạo hình như đoạn lìa trước mặt. Trốn lánh thực tế trước mặt có phải? Không, chàng đang đi tìm một chân trời tự do chưa hiện nét. Nàng với trực giác linh khiếu nào đó, như thầm hiểu điều đó. Như tình yêu vừa chớm nở. Kể cả, tính bướng bỉnh vô cùng của chàng. Trong cái guồng máy xã hội nhập nhằng, những quán lệ bàn giấy giăng mắc, cuộc chiến tàn bạo đến đâu, chàng đã từ khước tuân hành, kể cả một thủ tục đơn giản như khai báo bằng cấp....
(Một Dặm Tương Thân, các trang 14, 15)
Cuộc sống ở ngoài xã hội và cuộc sống nội tâm của cả hai (chàng và nàng) không đơn giản. Cuộc sống ngoài cuộc đời của họ với những xã hội phồn tạp do một mãnh lực huyền bí lôi kéo họ vào, nhận chìm họ, đọa đày họ. Nếu hiểu theo thuyết nhà Phật tâm cảnh tương ưng thì đây là một thí dụ điển hình.
Tác giả kể mọi diễn biến ở thời hiện tại. Truyện có ba phân cảnh chính. Hai phân cảnh đầu nói về nàng. Còn phân cảnh thứ ba nói về chàng. Tuy nhiên, ở phân cảnh một vẫn có một đoạn nói cuộc gặp gỡ giữa chàng và nàng tại một quán sách: nàng nhờ chàng dịch cho nàng nghe một đoạn trong tập thơ của Saint
John Perse. Và tác giả cũng có nói qua loa về thân thế, tánh nết, cuộc sống nội tâm cũng hoài bão và nhân sinh quan của chàng, cái kỷ niệm ôm ấp yêu đương ngắn ngủi của cả hai trước khi chàng bị bắt vì tội bất phục tùng nghĩa vụ quân sự. Nhưng ở phân cảnh nầy chàng chưa xuất đầu lộ diện đâu.
Phân cảnh hai bị nàng chiếm trọn. Ở đây, độc giả biết được một vài đoạn đời của nàng. Nàng lấy chồng do mẹ nàng sắp đặt. Nàng không yêu chồng, vẫn hoài hoài tuởng nhớ tới chàng. Nỗi lòng nàng, những ý tưởng của nàng hướng về chàng được ghi trên tập nhật ký bị bại lộ. Chồng nàng ghen và mới hiểu rõ tại sao cuộc chung sống lứa đôi củavợ chồng mình không hạnh phúc. Cảnh đồng sàng dị mộng kéo dài không biết bao giờ mới hết. Nàng bồng đứa con gái trở về sống với mẹ của nàng. Chồng nàng leo cao trên chiếc thang danh vọng, càng quên vợ con. Riêng nàng, nàng vẫn tìm cách gặp chàng. Và rồi cuộc tái ngộ cũng đến, nhưng chàng bị giam trong trại kỷ luật vì tội hành hung một viên cố vấn Mỹ. Nàng chỉ biết đứng ngoài vòng rào nhìn chàng. Sau cùng, nàng trao cho chàng quyển nhật ký của mình.
Phân đoạn ba là phân cảnh dành trọn vẹn cho chàng. Ở đoạn đầu, tác giả có nhắc tới chút ít những sinh hoạt của chàng trước khi gặp nàng và yêu nàng. Chàng theo sinh viên biểu tình chống M? khi lực lượng thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ lên Đà Nẳng. Có thể, theo bút giả (chứ không phải tác giả) suy luận, chàng tiêm nhiễm nhận định ngây thơ về chính trị và lòng nhân đạo mù quáng của lũ trí thức Tây Âu nên thấy quân đội Mỹ có cái tinh thần kiêu căng và cái thói ưa giật dây dụi để điều khiển kẻ khác (la manipulation) nên chàng gia nhập vào nhóm sinh viên phản chiến. Khi bị cưỡng bức nhập ngũ, chàng càng thấy lính Mỹ đáng ghét hơn vì : Nơi bãi trận rộng lớn, chàng tận mắt thấy những lính Mỹ biểu hiện tinh thần Yankee đối với dân bản xứ, đùa rỡn diễu cợt trên xác chết (sic). Chàng hành hung với tên cố vấn Mỹ, rồi bị trọng cấm. Rồi chàng bỏ hàng ngũ Quốc Gia theo người giao liên vào mật khu Cộng Sản và hoạt động cho họ. Trong gian lao khổ ải, khi cận kề cái chết, chàng có quyển nhật ký của nàng bên mình. Chàng gặp một thiếu nữ từ ngoài Bắc tình nguyên vào lực lượng thanh niên xung phong để chiến đấu trong Nam. Thế là cả hai kết hôn nhau. Nhưng ở trong hàng ngũ Cộng Sản, chàng bỡ ngỡ và đi đến thất vọng khi thấy:
.... Cuộc sống đôi lứa chẳng bình thường nh? th?i hòa bình, m?i ng??i m?t ph?n v? công tác, có nh?ng lúc nàng ? h?n bên ??n v? khác, h? c?ng ch?ng có th?i gi? ?? ngh? ??n nhau, n?i nh? c?a ng??i tình ch?n g?i. Và tình th? g?p rút theo nh?ng bi?n ??ng chung trên toàn ??t n??c - t? cu?c chi?n lan r?ng nh?ng m?t khu ven gi?i, tin t?c v? nh?ng tr?n không chi?n ác hi?m, nh?ng l?c l??ng chính quy t? mi?n B?c t?ng vi?n v?i nh?ng ?oàn c? gi?i ngày ?êm di ??ng trên kh?p n?o ???ng mòn...M?t b?u không khí kh?n tr??ng dàn tr?i Ố Ỷ ngh?a cu?c chi?n toàn di?n thay ??i h?n. V? th? c?a l?c l??ng ??a ph??ng thu h?p (t? th?t b?i c?a cu?c n?i d?y mùa Xuân, hàng ng? tan tác, song các c?p ?y v?n gia s?c tuyên hu?n v? sách l??c tr??ng k? t?t th?ng, ?? cao hy sinh cho ??i cu?c). Chàng nh? b?i theo giòng l?...Chung quanh chàng d?n d?n m?t hút nh?ng b?ng h?u bám tr?, s?ng yêu th??ng t?ng hàng kinh, r?ch, ru?ng, ??ng, s?ng cho m?t lỶ t??ng ??n s? giành l?i quê h??ng kh?i áp b?c b?t công. Nh?ng ??ng ??i m?i ??n t? m?t xã h?i ?ã thi?t l?p ?n ??nh, bi?u l? m?t thái ?? bàn gi?y l? lùng. ??i s?ng không ph?i n?m trong Ỷ ngh?a chi?n ??u, mà n?m trong sách l??c nh?t ??nh c?a ??ng...L?n th? hai trong ??i, chàng l?i nhói lên trong tâm kh?m cái b?t ?n rã r?i nh? khi lìa bỏ gia đình ra đi...
(Một Dặm Tương Thân, các trang 48, 49)
Rồi cuốn nhật ký của nàng bị thất lạc. Rồi vợ chàng sang Đông Âu du học. Khi miền Nam lọt vào tay Cộng Sản, chàng theo toán người tiếp thu về thành phố.Chàng vẫn mang sự bất mãn và tinh thần phản kháng trầm kha nên chàng bị giam giữ. Một người bạn cũ làm an ninh cho tòa Đai Sứ nhận ra chàng, giúp chàng làm thủ tục định cư ở nước thứ ba. Và rồi trên đất nước Hoa Kỳ chàng mường tượng lại khuôn mặt nàng và vẽ lại chân dung nàng với cái tựa trích trong câu thơ của Perse: Un grand poème né de rien . Thế là vào hôm triễn lãm, chàng gặp một cô thiếu nữ xưng là con gái của nàng sau khi ngắm bức tranh. Cháu biết tên bác rồi. Ngưòi trong tranh là mẹ cháu (sic). Cô gái cho biết r?ng mẹ cô trước khi lâm chung có yêu cầu ông ngoại bà ngoại cô giúp cô vượt biên. Kết cuộc câu truyện được tác giả hạ bút như sau :
... Trong những ngày sau cùng, cô bé nói, m? cháu y?u ?u?i ??n ?? suy nh??c. M? ch? mu?n ?i th?t xa, thoát kh?i cái th? gi?i ?? nát v?i nh?ng m?nh v?n tan tành c?a khung kính v?n hoa ?ã v?. M? mu?n tr?n ch?y m?t ??i s?ng gi? trá. M?t quá kh? ch?p chùng. Moôt ng??i ??i ch? trong tuy?t v?ng. L?ng nghe con gái nàng tâm s?, nh?ng hình ?nh d? vãng hi?n v? d?u tích mê l?m ?? l?i n?i k? m?ng du không tr?n v?n. Chi?u xa d?n kho?ng trùng d??ng bao la, cõi ??t ng??i thu h?p l?i t?m m?t. Chàng nh? tìm l?i b?n thân, m?t hình th? khác ?o? ?ày. Cô ??n th?ng thi?t, khi ng??i thi?u n? chia tay tr? v? campus. L?i m?t cu?c tr?n ch?y nh?ng gì thân yêu nh?t, chàng ?? l?i b?c h?a chân dung ?y cho con gái nàng, g?i l?i tâm h?n mình l?c lõngtrong chuyến lên đưòng.
(Một Dặm Tương Thân, các trang 58, 59)
Chúng ta có thể coi truyện ngắn Một Dặm Tương Thân như một truyện tình
thời chiến dựa trên một xâu chuỗi biến cố của lịch sử để dựng nên những bối
cảnh lót nền cho câu chuyện thêm màu sắc thời đại. Tác giả trong thâm tâm, anh
không cố tình viết truyện tình thời chiến như Nhã Ca trong Tình Ca Trong Lửa
Đỏ hay như Từ Tốc trong Tinh Tinh Nguyệt Lượng Thái Dương (mà Liêu Quốc
Nhĩ dịch với cái tựa Những Tinh Cầu Cô Độc). Anh muốn đi thật xa hơn cái
trạm mà các tác giả viết chuyện tình nhắm tới trên lộ trình cam go của văn
chương. Vì sau mặt chữ của câu chuyện trong Một DặmTương Thân có
những điều viễn
thâm chôn giấu khá nhiều. Đó là những xung đột của tâm cảnh, của lý tưởng.
Đó là những điều dằn co của khuynh hướng vào đời, những xâu xé nội tâm,
những thần tượng và chủ nghĩa mới bừng sáng cho người hằng chuộng lý tưởng
chẳng được bao lâu lại sụp đổ tan hoang. Và đó cũng là bạo lực được ngụy trang
bằng mặt nạ đẹp đẽ, bằng xảo ngữ điêu ngôn để rồi bị phơi bày khuôn mặt thật
ghê tởm ra.
Đặng Phùng Quân viết văn với tinh thần của một nhà thám hiểm. Anh nhìn trước nhìn sau, nhìn ngang nhìn dọc, nhìn trong nhìn ngoài đối tượng quan sát. Chưa đủ! Anh còn sục sạo tìm những cái bí ẩn mà những trào lưu, những trường phái văn chương có tinh thần cầu tiến đòi hỏi. Anh muốn xóa bỏ những quy ước, những lối cũ đường mòn đã từng làm cho văn chương hóa thạch, đã từng làm cho tinh thần sáng tạo chai cứng và đóng băng. Anh miệt mài soi tìm những hang ổ, những tụy đạo sâu kín dưới bình diện phẳng lặng của hiện hữu để tìm những cái bí nhiệm trong cuộc sống, trong nội tâm con nguời, để đưa vào văn chương. Cuộc hành hương và lộ trình của anh không có mấy ai muốn dấn thân. Cho nên anh ít có bạn đồng hành và cũng ít có ai chịu hướng mắt theo dõi.
Share on Facebook Share on Twitter Share on Google Plus