Wednesday, November 23, 2016

TUẦN KHANH * VÕ PHIẾN * TƯỞNG NĂNG TIẾN* TRẺ RANH *

TUẤN KHANH * THÔNG ĐIÊP SƠ HÃI

Thông điệp sợ hãi


 Câu chuyện cậu bé Ahmed Mohamed bị bắt vì chiếc đồng hồ điện tử tự chế của mình, đã có một kết cục dường như sáng sủa hơn khi được tổng thống Mỹ Obama gửi lời mời vào Nhà trắng để giới thiệu sản phẩm của mình. Kịch bản giải quyết khủng hoảng của ông Obama thật sự khéo léo và kịp thời trước khi những điều xấu nhất có thể bùng nổ. Nhưng cũng từ đó, bất kỳ ai cũng có thể thấy thông điệp của sợ hãi đang tràn ngập cả thế giới này, không chừa một điều gì.
Ngày 16/9, trên tất cả các trang tin tức, hầu như ai cũng thấy được gương mặt ngạc nhiên và sợ hãi của em học sinh người Mỹ gốc Trung Đông khi bị cô giáo hiểu lầm chiếc đồng hồ điện tử tự chế của em là bom hẹn giờ. Cha của em, ông Mohamed Elhassan Mohamed nói với báo giới rằng "Ngày 11/9 đã biến tất cả những ai có họ hay được đặt tên là Mohamed trở thành kẻ sai lầm". Tờ Gawker ngay trong ngày đó cũng có bài viết, cho biết trong cùng khoảng thời gian, có 7 học sinh ở đủ các nơi, từ North Carolina cho đến Florida mang đồng hồ điện tử tự ráp đến trường nhưng không hề gặp bất kỳ khó khăn gì, đơn giản vì các em không mang họ Mohamed.
Phản ứng của ông Obama nhanh đến chừng nào, người ta lại cảm nhận được sự sợ hãi của ông lớn đến chừng đó, về một viễn cảnh nước Mỹ sẽ xung đột và nội loạn từ câu chuyện này. Người ta giải quyết mọi chuyện thật nhanh vì nỗi sợ hãi âm ỉ trong tim mình, nên cũng đã biến các thầy cô giáo ở trường trung học MacArthur thành vật hy sinh, như những kẻ tệ hại, mắc sai lầm với chính học sinh của mình.
Nhưng đừng quên, các thầy cô giáo tội nghiệp ở trường trung học đó cũng sợ hãi, vì trách nhiệm mang nặng với hàng trăm học sinh khác đang ở trong ngôi trường của họ, nên đã phản ứng bằng cách cầu viện cảnh sát, cho một trường hợp mà họ không có kinh nghiệm gì ngoài những suy nghĩ mà thế giới thật luôn cảnh báo, và bị sự sợ hãi chiếm hữu.
Thế giới của chúng ta đang đầy sợ hãi như vậy đó. Con người không tin vào con người. Con người sẳn sàng thô bạo hay chà đạp con người chỉ vì sự sợ hãi của bản thân mình. Không chỉ riêng nước Mỹ mà bất cứ nơi đâu cũng vậy. Việt Nam cũng chắc chắn không là ngoại lệ.
Đã bao lâu rồi chúng ta không còn nhớ sự thanh thản và vô hoài nghi với đời sống? Rất nhiều người đi ngang những người ăn xin nơi đô thị, do dự thương hại vì không biết mình có bị rơi vào một mẻ lừa hay không? Có bao nhiêu người gọi một thằng bé đánh giày ở vỉa hè nhưng không căn vặn về giá cả, không lo lắng mình có thể gặp phải kẻ vòi vĩnh tiền bạc?
Chỉ vì sợ hãi lối nhận xét ngang ngược về trang phục của phụ huynh, mà một nhà trường có thể đuổi học đứa trẻ. Cách phản ứng đầy quyền lực và vô văn hoá đó cũng có thể nhìn thấy tận sâu thẳm của nó là sự sợ hãi và tham vọng khép kín sự kiện.
Với các nhà nước độc tài trên thế giới, người ta cũng nhìn thấy sự sợ hãi bất tận trước dòng chảy của sự sống. Dù họ được trang bị cảnh sát, quân đội, vệ binh... Và trấn áp liên tục bằng bạo lực lên chính nhân dân họ, thì đó của là một hiển số về mức độ sợ hãi cho sự tồn vong của chính họ. Bắc Triều Tiên là một điển hình cho hình thái toàn trị sợ hãi đó. Cuba đổi mới hiện nay cũng là sự thức tỉnh từ sợ hãi. Tháng 3/2014, Raul Castro nói với báo chí trong rằng "thay đổi là cơ hội cuối cùng của chúng ta", nếu đó không phải là một thông điệp vọng lên từ đáy sợ hãi, thì là gì?
Trên các trang mạng Việt Nam, rất dễ tìm thấy, người ta dặn dò nhau đừng giúp ai ở đoạn đường ấy, vì có thể bị đưa vào kịch bản cướp giật, trấn lột. Hoặc đừng đi lối đó, có thể sẽ mất tiền cho những kẻ vô lương tâm...v.v bên cạnh những lời cảnh báo, thường là những bình luận tức giận và nguyền rủa rất nặng nề. Sự sợ hãi dừng như cũng kích thích và thúc đẩy phần dữ tợn và bạo lực nhất của con người.
Chỉ vài năm trước đây thôi, chuyện trừng phạt kẻ cắp thường không diễn ra đáng sợ như lúc này. Người ta giới thiệu - một cách lạnh lùng - những hình ảnh một người bị tâm thần ăn cắp vặt bị đánh hội đồng đến máu me bê bết, chỉ còn đủ sức quỳ sụp xuống thẩn thờ. Hoặc mới đây, một cụ già khó khăn đi trộm gà bị đánh, trói và bắt quỳ với con gà buộc phải ngậm nơi miệng. Bao vây cụ là những người trẻ tuổi, có thể gọi cụ bằng ông. Người Việt sợ hãi cho tiền của, sợ hãi sự bất an của xã hội nên trút giận vào những gì mà họ có thể chà đạp được. Thậm chí miền Nam giàu có sản vật, miếng ăn được mời, thức uống được cho cũng đang dần khép lại, mở ra một khung cảnh mới đầy sợ hãi và bạo lực.
Những con đường dẫn đến Hungary đầy người tỵ nạn đáng thương và sợ hãi hôm qua, thì giờ đây đã trở thành nơi bạo động vì họ không còn được chấp nhận nữa. Từ nỗi sợ hãi chạy trốn khỏi loạn lạc, những người tỵ nạn biến nỗi sợ hãi vì không được chấp nhận của họ thành bạo lực, thành một cuộc chiến. Hình ảnh này nhắc cho chúng ta nhớ về những điều rất gần là hàng trăm ngàn công nhân Việt Nam tội nghiệp đang sống nghèo khó, bữa ăn bị đánh tráo bằng những tạp phẩm tồi tệ. Sự bất an và sợ hãi về tương lai của họ luôn có khả năng dẫn đến giận dữ và bạo lực.
Đây chỉ là một vài ghi chú của tôi. Về phần mình, bạn có thể ngồi xuống và gạch ra những ví dụ của riêng mình về thế giới này, đang đầy những thông điệp của sự sợ hãi?     


TÙY BÚT VÕ PHIẾN

Tùy Bút Võ Phiến – Rụp Rụp


Võ Phiến (1925 - 2015)
L.T.Đ: Từ California, nhà văn Phạm Xuân Đài vừa cho biết một tin buồn:
“ Võ Phiến đã qua đời vào lúc 7 giờ tối ngày 28 tháng Chín, 2015, tại Advanced Rehab Center of Tustin, Santa Ana, thọ 90 tuổi...
Nhà văn Võ Phiến là một tác giả quan trọng của văn học Việt Nam từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Trước 1975 ông là công chức thuộc bộ Thông Tin của Miền Nam, và đã cộng tác với tạp chí Bách Khoa cho đến 1975 với bút danh Tràng Thiên (một bút danh chung cho nhiều tác giả, nhưng từ sau 1965 hầu như chỉ dành cho một mình ông). Ông sang Hoa Kỳ từ 1975 và làm việc cho tòa Hành Chánh quận Los Angeles, California cho đến ngày về hưu. Tại hải ngoại, ông vẫn tiếp tục viết sách và cộng tác với các tạp chí văn học. Từ cuối thập niên 1970 ông đã chủ trương tờ Văn Học Nghệ Thuật, là tiền thân của tạp chí Văn Học sau này.
Võ Phiến là một tác giả đa dạng. Ông viết truyện ngắn, truyện dài, tạp luận, tùy bút, lý luận và phê bình văn học. Các tác phẩm đã xuất bản của ông gồm có, về truyện ngắn và tiểu thuyết: Chữ Tình, Người Tù, Mưa Đêm Cuối Năm, Về Một Xóm Quê, Đêm Xuân Trăng Sáng, Giã Từ, Thương Hoài Ngàn Năm, Thư Nhà...; về tùy bút, tạp bút: Tạp bút I, II, III, Đàn Ông, Ảo Ảnh, Phù Thế, Chúng Ta Qua Cách Viết, Đất Nước Quê Hương, Tùy bút I, II, Đàm Thoại v.v... Tại hải ngoại, ông đã bỏ công sức trong nhiều năm trời để soạn bộ Văn Học Miền Nam Tổng Quan nhằm lưu giữ nền văn học miền Nam đã bị Cộng Sản thiêu hủy từ sau 1975.”
Để tưởng niệm một vì sao vừa khuất, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu một tuỳ bút tiêu biểu của ông. Bài viết này được trích từ tập Đất Nước Quê Hương, do nhà Lửa Thiêng xuất bản lần vào năm 1973.
Tưởng Năng Tiến
Ông Bình Nguyên Lộc quả quyết rằng trong một bàn ăn mười ba người, gồm mười hai người Việt và một người Hoa, đồng vóc dáng, đồng trang phục, ngồi im không nói, ông cũng phân biệt được kẻ Việt người Hoa.
Như vậy đã là tài, nhưng ông còn đi xa hơn: có thể nhìn hình dáng mà phân biệt được người Tàu Phúc Kiến với người Tàu Quảng Ðông, người Tàu tỉnh này với người Tàu tỉnh khác.(1)
Cũng trong quán ăn, trong khi chờ đợi tô hủ tiếu, tôi có dăm ba lần theo dõi cử chỉ của người làm bếp, và chợt lấy làm ngạc nhiên về một nhận xét. Không phải ngạc nhiên về chuyện suy tưởng nhân chủng ưa liên quan với các tiệm ăn quán nhậu. Mà là vì tôi có cảm tưởng đôi khi có thể nhìn mà phân biệt một người Việt miền Nam với một người Việt miền Trung, tức một đồng bào ở miền ông Bình Nguyên Lộc với một đồng bào ở miền tôi. Nói cách khác, tôi có cảm tưởng mình cũng... tài giỏi như ông Bình Nguyên Lộc: cái mới kỳ cục!
Một buổi trưa, tại Cần Thơ, trong ngôi quán ở đầu một ngõ hẻm gần bến xe Lam, lần đầu tiên tôi chú ý đến điệu bộ có vẻ ngộ nghĩnh của người chủ quán.
Ngôi quán khá chật và tối. Giữa trưa, trong quán vẫn có ngọn điện vàng cạch thả toòng teng trên đầu người chủ. Người này mặc mai-ô quần lính, đầu đội chiếc mũ địa phương quân rộng vành, chân mang đôi giày da đen, không vớ. Tại sao phải giày và mũ trong một chỗ kín như thế? Có thể chỉ là một thói quen, hay chỉ là một trường hợp ngẫu nhiên nào đó, tức một chi tiết không có ý nghĩa gì. Tuy vậy tôi vẫn ghi lại, vì hình ảnh ấy tưởng còn hiển hiện trước mắt tôi lúc này. Hình ảnh một người khỏe mạnh, nhanh nhẹn, và làm việc hào hứng.
Mỗi người có một cách biểu lộ sự hào hứng. Riêng cái cách của người chủ quán hôm ấy, trời ơi, trông mà mê. Hai tay ông ta thoăn thoắt: chặt khúc xương, xắt lát thịt, gắp mớ ớt, múc vá nước từ trong thùng đổ ra tô, xóc xóc mớ hủ tiếu vừa mới trụng qua nước sôi, rắc một tí tiêu bột v.v. Tất cả bấy nhiêu cử chỉ đều rập ràng, hơi có vẻ nhún nhẩy. Mỗi cái quơ tay, cái nhấc lên hạ xuống đều như có gì quá mức cần thiết một chút. Mỗi cử chỉ bao hàm bảy tám phần cần thiết, lại thêm vài ba phần thừa thãi, chỉ để cho đẹp mắt, để biểu diễn sự thích thú trong công việc. Ðộng tác nghề nghiệp gần chuyển thành sự múa men. Một điệu vũ ca ngợi lao động.
Ðứng bên chủ quán là bà vợ, tôi đã tưởng bà làm công việc chạy bàn. Nhưng không: Lúc một cậu bé gầy gầy cưỡi chiếc xe đạp vụt về trước cửa, xách vào cục nước đá, thì đã rõ đây mới là người chạy bàn chính thức; người đàn bà chỉ tạm thời thay thế cậu ta trong chốc lát.
Khi đã đủ một vợ một con bên mình, chủ quán điều động càng hào hứng:
- Bàn trong. Một nhỏ một lớn. Rồi! Bưng.
- Bàn ngoài, số một. Tô lớn, khô. Rồi! Bưng, bàn số một.
- Bàn số ba tính tiền. Tám chục với ba lăm là trăm mười lăm. Trăm mười lăm với tám đồng là trăm hăm ba. Trăm rưởi trừ trăm hăm ba, còn lại...
Bà vợ nhắc:
- Hăm bảy.
- Hăm bảy. Nè!
Ông ta đưa món tiền lẻ, cậu con mang ra cho khách. Rảnh tay, ông ta chặt một miếng cánh gà, nho nhỏ, quăng gọn vào mồm, nhai. Lại nhanh nhẹn chặt luôn miếng khác, trao cho vợ. Người đàn bà thụt né vào sau cánh cửa; ăn xong lại ló ra, sẵn sàng...
- Tô nước, tô khô. Bàn số hai. Rồi!
Cứ thế, chủ quán làm việc, cắt đặt công việc, điều khiển vợ con v.v., điệu bộ vẫn lại cứ như có gì thừa thãi một chút. Bảy tám phần cần thiết, đôi ba phần để bày tỏ sự hài lòng, để biểu diễn sự hoạt động ăn khớp của một tổ chức hoàn hảo, một bộ máy hợp khuôn rập, chạy đều ro ro.
Vừa rồi có lẽ đã có sự lạm dụng: hầu hết mỗi câu nói của người chủ quán đều có một tiếng “rồi”. Nếu tôi ghi nhớ sai, ấy là vì đã quá chú ý đến tiếng đó. Nhưng hay nhất, ngộ nhất lại là cái tiếng “rồi” tưởng tượng phát ra từ mỗi cử chỉ. Mỗi cử chỉ - ngắt cọng rau, xóc mớ hủ tiếu v.v. - đến chỗ sau cùng thường được gằn mạnh. Như thể một tiếng “rồi” phát ra bằng động tác thay vì bằng âm thanh: Một tiếng câm.
Dầu sao lần ấy tôi không có một đối tượng quan sát im lặng như ông Bình Nguyên Lộc; nhưng các lần sau này thì họ im lặng.
Sau buổi trưa ở Cần Thơ, về Sài Gòn những lần vào quán hủ tiếu, tôi sực nhớ hình ảnh nọ, và tò mò nhìn theo chủ quán: thỉnh thoảng lại gặp những điệu bộ ấy. Có khi ở một người đàn bà, có khi ở một người đàn ông đứng tuổi. Họ nhanh nhẹn, mau mắn; nhưng cái đặc biệt là, trong cử chỉ, họ như muốn nhấn mạnh vào tính cách toàn hảo của những hoạt động rập ràng mau mắn ấy.
Những người ấy họ có cung cách làm việc giống nhau. Cung cách ấy, gọi nó ra sao? Tôi tìm một chữ để diễn tả. Tôi loay hoay tìm kiếm... A! Ðây rồi: “Rụp rụp”! Họ làm việc “rụp rụp”.
Chữ nghĩa sao mà thần tình. Lại chính là một tiếng địa phương ra đời ở miền Nam này. Thế mới biết sự xuất hiện của một tiếng nói mới không bao giờ là chuyện ngẫu nhiên, không lý do. Phải có một thực tại mới, đòi hỏi được mô tả sát đúng. Phải có một sự cần thiết réo gọi nó, đích danh nó.
“Rụp rụp” là một đáp ứng tài tình cho một đòi hỏi như thế. Làm rụp rụp không phải chỉ là làm mau mắn, mà còn với một vẻ hứng chí trong sự mau mắn.
- Nhưng tại sao lại bảo đó là của miền Nam? Ðâu phải người nào trong Nam cũng làm việc rụp rụp?
- Tất nhiên đó không phải là tác phong của toàn thể. Cũng không thể nào biết được là tác phong của một tỉ lệ người Nam lớn nhỏ ra sao. Có điều tác phong ấy không gặp thấy ở các miền ngoài. Vả lại, còn có chuyện khác...
- Nào, xem chuyện khác có gì rõ rệt hơn chăng.
Trong một bài tục ca của Phạm Duy, có câu: “Người dân nhìn thoáng hết hồn luôn”, lại có câu: “Lệch đi thì chết, cấm sờ luôn”. Những tiếng “luôn” dùng kiểu đó không có trong ngôn ngữ các miền ngoài.
Cũng thế, ở ngoài Trung mỗi khi xe đò dừng lại dọc đường, hành khách lên xe xong, anh “ết” hô to cho tài xế nghe: “Chạy!”; ở trong Nam, anh ta hô: “Chạy luôn!”.
Tại sao lại luôn? Những tiếng “luôn” ấy không có nghĩa, nhưng dĩ nhiên không phải không có công dụng. Trái lại, công dụng đó thường khi khiến nó còn được xem trọng hơn những tiếng có nghĩa rõ rệt đứng trước nó. Chẳng hạn trong trường hợp “chạy luôn”: tiếng “chạy” hô phớt qua, tiếng “luôn” được gằn mạnh. Người ta nghe “Ch... luôn!”; có khi chỉ nghe có một tiếng “Luôn!”.
Không chừng đó cũng là trường hợp đã xảy đến cho tiếng “vô”. Mời nhau uống rượu, anh em hô: “Dô!” Có lẽ thoạt tiên là tiếng “nhậu vô”, “uống vô” chăng? Dần dần tiếng trước bị lướt phớt qua rồi bị bỏ rơi. Chỉ còn lại tiếng sau; từ một tiếng trợ từ, nó tiến lên nhận lấy cái nghĩa của các tiếng nhậu, uống.
Trong “chạy luôn”, nghĩa ở tiếng chạy; trong “hết hồn luôn”, nghĩa ở hết hồn; trong “nhậu vô”, nghĩa ở nhậu v.v. Còn tiếng “luôn”? Nó thêm vào một thái độ phát biểu, không thêm gì vào cái ý nghĩa đã phát biểu. Trong “chạy luôn” chẳng hạn, “luôn” là một tiếng kêu hơn là một tiếng nói: nó phát lên để tỏ thái độ thúc giục, nó không nói gì về cái nội dung của sự thúc giục ấy. Nó có công dụng về ngữ khí, chứ không phải về ngữ ý.
Như vậy trong cách nói này cái nội dung, cái cần thiết, đôi khi bị lướt qua; cái phụ, có phần thừa thãi, lại được nhấn mạnh.
Lại cái thừa thãi.
Trong cử chỉ, một chút gì thừa, vượt quá sự cần thiết; trong lời nói, cũng một chút gì thừa, vượt quá sự cần thiết. Cử chỉ và lời nói đều được phóng đại lên...
- Vẫn không có gì rõ rệt.
- Không rõ, về mặt nào?
- Một dấu hiệu để phân biệt bản sắc địa phương như vậy không mấy cụ thể.
- Thực ra ở đây vấn đề không phải là đi tìm một dấu hiệu phân biệt. Cái đó đâu cần tìm kiếm nữa? Ðã có sự khác nhau thật rõ ràng, thật cụ thể, ấy là cái chỉ số sọ của ông Bình Nguyên Lộc: cuộc di cư của nhóm Trần Thắng Tài, Dương Ngạn Ðịch làm cho đồng bào ta ở miền Nam có xương sọ hơi dài thêm.(2) Kẻ Nam người Bắc tha hồ yên lặng, ông Bình Nguyên Lộc đo đạc là biết ngay.
Vậy ở đây không có chuyện tìm một dấu hiệu phân biệt. Chẳng qua là chộp bắt một nét cá tính phản ảnh trong phong cách, ngôn ngữ. Và hình như sự phản ảnh không dừng lại ở vài tiếng trợ từ, ở mấy điệu bộ. Hình như trên sân khấu cải lương, một bộ môn nghệ thuật của miền Nam, chúng ta có cảm tưởng nhận thấy cá tính ấy xuất lộ ở phong cách diễn xuất...
- Cảm tưởng? Không có gì rõ rệt.
- Quả nhiên.
Võ Phiến
________________
(1)
Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Bách Bộc xuất bản, Sài Gòn, 1971, trang 736, 737.
(2) Sđd., trang 453.


SỔ TAY TƯỞNG NĂNG TIẾN

Đang Lên, Đang Sôi & Đang Rên


S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
Người ta đang dối trá với chính mình/ trong đói nghèo vẫn hét toáng quang vinh.
Nguyễn Thông
Bông Hồng Tạ Ơn (tập I) là tác phẩm của nhà văn Nguyễn Đình Toàn, T&T tái bản năm 2012, viết về hai trăm ba mươi tư tác giả và nghệ sĩ Việt Nam. Trang bìa cuối có in những dòng giới thiệu ân cần:
Đây không phải là cuốn sách nghiên cứu hay phê bình văn học, nghệ thuật. Mục đích của người viết nhằm chia sẻ chút hiểu biết, những gì còn nhớ về tác phẩm, tác giả mình yêu thích, với những người có cùng cảm nghĩ, như một cách bầy tỏ lòng ngưỡng mộ, lòng biết ơn đối với những người đã dâng hiến những gì tốt đẹp nhất mình có thể làm ra được cho đất nước, nhờ đó, mọi người đã được thừa hưởng ...


Đây rõ ràng là một việc làm ý nghĩa và cao đẹp. Tuy thế, giữa những bông hoa tạ ơn của Nguyễn Đình Toàn – đôi lúc –  người đọc hơi bị bất ngờ khi gặp phải gai. Những gai hồng dù rất nhỏ (và dù đã được chăm chút bởi một ngòi viết tài hoa, thông tuệ lẫn bao dung) vẫn khiến cho độc giả thoáng chút ngỡ ngàng, cùng thương xót.
Nguyễn Tuân: Chuyến ông đi thăm chiến trường miền Nam, thấy một người lính Mỹ chết, ông đã cắm điếu thuốc nhét vào miệng anh ta bảo “hút đi! (S.đ.d trang 494).
Xuân Diệu: Mỗi lần đứng lên nói về thơ Bác, tôi phải khóc để người ta phát cho tôi cái phiếu hai lạng rưỡi thịt heo. (S.đ.d trang 508).
Tương tự, Tô Hoài – cũng đã có lần –  phải diễn một show khó coi không kém:
“Khoảng hai trăm tù binh phi công Mỹ xếp hàng đầy hết lòng đường đi tới. Quần áo bà ba mầu xám khói nhạt. Tôi giật mình: tất cả đoàn người bị trói kia sao quá giống hệt nhau? Ở chiều cao, ở khổ người, ở dáng đi, ở nét mặt, ở tư thế và thần thái. Lầm lũi ngửng đầu nhìn thẳng vào cái không gian bao quanh đằng đằng sát khí và tiếng la ó...
 Dân hai bên đường hò hét, đánh đấm, ném đá. Những cái đầu tù binh quay ngoắt tránh đá, tránh đấm rất nhanh. Những con mắt không một lúc nào cầu van, nao núng...
Ba chúng tôi đứng lặng trên hè. Tương quan sức mạnh quá chênh nhau tự nhiên làm se lòng. Đoàn tù binh đã đến đoạn cuối, chợt Tô Hoài nhào xuống đường, nhảy vội lên đấm một cái trượt vào mặt một người tù binh đi ở ngoài cùng.
Anh trở lại, tôi hỏi khẽ:
 - Đánh người ta làm gì?
- Xung quanh căm thù như thế chả lẽ ba đứa mình đứng yên? ” (Trần Đĩnh. Đèn Cù, tập I. Người Việt, Westminster, CA: 2014).
 Diễn là động tác tự giác, gần như một thứ vô thức tập thể, tự phát bởi hầu hết công dân trong chế độ hiện hành. Bởi vậy, không có gì ngạc nhiên khi ông Hồ Quang Lợi – Trưởng Ban Tuyên Giáo Thành Ủy Hà Nội – vừa múa may một màn (trên báo Nhân Dân) để “biểu diễn lập trường” chính trị của mình:
“Năm 2015 đánh dấu thêm một mốc son rạng rỡ trong chiều dài lịch sử Việt Nam hiện đại: 70 năm Nhà nước Việt Nam mới ra đời; 40 năm giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước; sau gần 30 năm đổi mới đầy cam go và thách đố, đất nước đang đi tới với sức bật mới... Từ bệ phóng 70 năm đất nước độc lập, 40 năm thống nhất đất nước và 30 năm đổi mới, sức đột khởi Việt Nam ngày nay được bồi đắp, nâng cánh từ thế nước đang lên.”
Thế nước đang lên: Ảnh:tuoitrenews
Cái nhìn lạc quan (“thế nước đang lên”) của ông Hồ Quang Lợi, tất nhiên, không được mọi người chia sẻ.
Blogger Dương Hoài Linh chế giễu (thế nước đang sôi) trên trang Dân Luận:
Phải công nhận rằng "Đảng ta" càng ngày càng vui tính. Trên thế giới không thấy một đảng cầm quyền nào có tính trào lộng như "Đảng ta". Hầu hết bọn "giãy chết" đều nghiêm túc, chán bỏ xừ. Người có tính hài hước nhất Đảng lại là đồng chí đứng đầu Đảng mà dân ta quen gọi là"Trọng Lú". Thật ra đồng chí ấy chả "lú" chút nào. Chẳng qua là đồng chí ấy luôn có tinh thần "lạc quan cách mạng", dầu trong hoàn cảnh nào cũng có thể đùa được, trào phúng, tự sướng đến nỗi người ta bảo đồng chí ấy mặt dày, không biết xấu hổ, trơ trẽn, trâng tráo, trắng trợn... cũng chẳng sao.
Trong tất cả những điều về "thế nước" đó, điều khôi hài nhất là Đảng luôn tự nhận mình là "nhân dân". Khổ nỗi nhân dân lại coi Đảng là giặc"nội xâm" nguy hiểm gấp ngàn lần giặc "ngoại xâm". Nhân dân đang muốn dìm Đảng xuống nước mà chưa biết cách nhưng đảng vẫn nhận vơ, nhận bừa như cái thuở"đào hầm nuôi đảng" năm nào.
Suy cho cùng bi kịch lớn nhất của một dân tộc cũng lại chính là hài kịch lớn nhất: Chấp nhận tấn trò đời dối trá như một sự trào lộng bởi chưa thể chuyển hóa chúng được khi chiếc bẫy vô hình cứ siết ngày một chặt hơn. Đó cũng là bi kịch và hài kịch của trò "TREO ĐẦU DÊ BÁN THỊT CHÓ".
Cái này phải gọi là "THẾ NƯỚC ĐANG SÔI" thì có lẽ đúng hơn.
Blogger Mạnh Kim cũng mỉa mai và đắng cay không kém:
Khi vẫn còn mải miết rổn rảng với những “hoa ngôn”, cái gọi là “national identity” của quốc gia tự mãn đó sẽ luôn đóng khung với hình ảnh một đất nước ngập chìm trong vũng lầy hôi thối của lạc hậu và nghèo nàn.
Công luận, xem ra, có vẻ khắt khe. Không ai chịu hiểu cho là ông Trưởng Ban Tuyên Giáo Hà Nội chỉ lên gân (hay lên giây cót) chơi thôi, chứ tự thâm tâm đương sự cũng biết rõ là đất nước đang ...rên. Cũng chả ai chịu đặt mình vào hoàn cảnh, cùng công tác (rất khó khăn) của ông Hồ Quang Lợi.
Ngày 9 tháng 12 năm 2012, nhân vật này long trọng tuyên bố:
“Tổ chức nhóm chuyên gia trực diện bút chiến trên internet trong việc đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.”
Đúng là một tin mừng khiến mọi người mừng hụt. Cái được mệnh danh là “nhóm chuyên gia” này, chỉ sau một thời gian ngăn ngắn, đã hiện nguyên hình là một đám người vô lại, chỉ chuyên “đấu tranh” bằng cái thứ ngôn ngữ bẩn thỉu và hạ cấp:
Do bênh đau dạ dày (bao tử) cộng thêm tuyệt thực trong trại giam lâu ngày sinh ra ung thư?; Nếu như ông Đinh Đăng Định đang là giáo viên sẽ được đi khám bệnh định kỳ hàng năm, thì đã phát hiện bệnh sớm và được chữa kịp thời sẽ không có sự nguy kịch như hôm nay. Đấu tranh = nằm chờ chết...
Kết quả của sự ảo tưởng, chống đối nhà nước nên bản thân Đinh Đăng Định thời gian sống tính từng ngày. Hôm nay được vài nhóm người đến thăm, tung hô nhưng sau 49 ngày chết sẽ hết. Lúc đó “con bị mồ côi, nhà mất trụ cột”. Có thể cái nhà gỗ kia cũng phải bán và con thằng khác sai, vợ thằng khác xài, nhà thằng khác ở. Mai kia những những người con gái của Đinh Đăng Định sẽ ra sao?, có bị thằng khác lừa không?, lại ôm bầu thương nhớ. Ra đi có thanh thản không?
Với “văn phong” và “văn tài” (thượng dẫn) thì kỳ vọng vào chuyện  “trực diện bút chiến trên internet” đã trở thành ảo vọng. Lực lượng dư luận viên của chế độ hiện hành đã tự biến mình thành một đám côn đồ thô lỗ và vô giáo dục. Bọn giá áo túi cơm này, có cố gắng hết sức – may ra – cũng chỉ có thể làm được mỗi việc là tụng ca, hay nói cách khác là ... “đánh bóng chân đèn” thôi.
Ngày 26 tháng 4 năm 1975, Nguyễn Thiện Nhân (Chủ Tịch Ủy Ban Trung Ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam) "chân thành" và "tha thiết" ngỏ lời:
“Chúng tôi chỉ mong tất cả đồng bào Việt Nam ở nước ngoài nếu trong 40 năm qua chưa có dịp về nước thì nên về. Đất mẹ luôn sẵn sàng mời tất cả những người con trở về nhìn lại làng xã của mình, chắc chắn sẽ thấy nó phát triển.”
Vậy là ba hôm sau đám lâu la của ông Hồ Quang Lợi đều nhất loạt đồng ca:
“Lời bộc bạch, lời mời tha thiết, chân thành của Chủ tịch Nguyễn Thiện Nhân khiến nhiều người xúc động. Xúc động lắm chứ, con người ai cũng hướng về nơi chôn rau cắt rốn, ai cũng hướng về cội nguồn máu thịt, ai chả có lòng tự hào dân tộc!
Ai ở xa mà chẳng sởn da gà, lâng lâng cảm xúc mỗi khi nghe Quốc ca Việt Nam, mỗi khi thấy người Việt Nam được vinh danh!”
Tương tự, sau khi ông CTN Trương Tấn Sang chém gió (“Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của gần 30 năm đổi mới mà nhân dân ta đạt được khiến chúng ta hãnh diện và tự hào, bạn bè quốc tế ngưỡng mộ” ) và ông TBT Nguyễn Phú Trọng hãnh diện khoe mẽ (“Mình phải như thế nào người ta mới mời chứ!” ) thì ông Hồ Quang Lợi liền phải hét theo: Việt Nam Thế Nước Đang Lên!
Thế nước đang lên: Ảnh: wikivn.org
Ở vào hoàn cảnh của ông Hồ Quang Lợi thì ai cũng phải “hét toáng” lên như thế, chứ biết làm sao khác?


TRẺ RANH * CHUYỆN NƯỚC NON




CHUYỆN NƯỚC NON 
TRẺ RANH



Truyện dài đấu đá trong hang ngũ lãnh đao Đảng CSVN 

Sau khi đi Mỹ về Tổng bí thư Đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng bắt đầu cho lệnh trưởng ban tổ chức trung ương Tô Huy Rứa phải làm sao hạ uy thế của phe thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong đai hội 12,thế là ông Rứa con gà  nòi của  nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu ra tay sắp xếp người của mình thay người phe thủ tướng Dũng,nhưng ông Rứa loại người nào thì thủ tướng Dũng lại đưa người đó về chính phủ cho làm thứ trưởng


Coi bộ vụ sắp lại nhân sự của ông Rứa không đi đến đâu,ông bắt đầu làm nhân sự tại đại hội các tỉnh,nhưng càng làm ông càng bị người và tiền của phe thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng qua mặt cái vù.Tình hình này cầm chắc thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ “ẵm” chưc Tổng bí thư Đảng CSVN sau đai hội 12 ,và hội nghị 12 sẽ diễn ra khá ly kỳ và hấp dẫn với nhiều màn đấu đá cụp lạc


Chơi bảnh 


Khởi đầu là 50 trí thức trong đó có cựu bộ trưởng bộ tư pháp Nguyễn Đình Lộc ký một cái kiến nghị đòi nhà nước Việt Nam dẹp chế độ “độc đảng” và,chỉ trong vòng một ngày kiến nghị này có 500 chữ ký hưởng ứng.Cựu bộ trưởng tư pháp Nguyễn Đình Lộc tuyên bố”hệ thống đa đảng sẽ tốt đẹp hơn hệ thống độc đảng”


Nguyễn Sinh Hùng mạnh miệng 


Theo báo Gíao Dục VN  điện tử thì trong khi chủ tọa phiên họp của Uỷ ban thường vụ quốc hội thảo luận về việc sửa đổi bộ luật hình sự chủ tịch quốc hội Nguyễn Sinh Hùng người vừa đi Mỹ về và có tin sau đại hội 12 nghỉ hưu đã tuyên bố hùng hồn”tôi nóivề việc sửa đổi bộ luật hình sự chủ tịch quốc hội Nguyễn Sinh Hùng người vừa đi Mỹ về và có tin sau đại hội 12 nghỉ hưu đã tuyên bố hùng hồn”tôi nói thật là ta phát biểu nhiều khi cũng vi phạm ,bắt cũng được đấy.Nói như vậy để thấy là không thể để mãi cái tội chống phá nhà nước qui định chung chung như vậy,muốn bắt ai thì bắt đâu có được”
Đi Mỹ ông Hùng đã” tự chuyển biến” hay sắp về hưu ông Hùng muốn” giựt le” nói huych toẹt những chuyện bố láo ra với đời,chỉ biết ông Hùng dám nói thực sự điều 88 bộ luật hình sự là không ngửi được
Điều ly kỳ là bộ trưởng tư pháp Hà Hùng Cường trong phiên họp này đã ủng hộ quan điểm của chủ tịch Hùng là phải sửa luật về tội chống phá nhà nước không thể qui định tội danh này chung chung mà phải nói rõ chi tiết thế nào là chống phá nhà nước. 
Ngồi xổm lên sự thật 
Báo Tuổi Trẻ cơ quan ngôn luận của Thành đoàn Thanh niên cộng sản TPHCM làm kỷ yếu 40 năm ra đời, nhà văn Nguyễn Đông Thức đã viết bài nói về những cộng tác viên từng cộng tác với Tuổi Trẻ nhiều năm như nhà thơ Đỗ Trung Quân,nhưng khi kỷ yếu ra đời thì tên Đỗ Trung Quân bị xóa.Nhà văn Nguyễn Đông Thức bực bội về chuyện này nên đem lên Face book than phiền.Thật bất ngờ không chỉ Đỗ Trung Quân bị bôi tên mà nhà báo Huy Đức,và nhạc
sĩ Tuấn Khanh cũng bị bôi tên.Ngồi xổm lên sự thật vốn là nghề của Cộng Sản mà than phiền làm gì cho tốn nước miếng 

Chiến tranh giữa Nguyễn Tấn Dũng và Lê Thanh Hải 
Nguyễn Tấn Dũng là người từng cứu Lê Thanh Hải khỏi rớt đài khi ông “sui” của  Lê Thanh Hải  là Huỳnh Ngọc Sĩ bị lãnh án tới 8 năm tù vì tội ân hối lộ của nhà thầu Nhật Bản,thế mà nay Nguyễn Tấn Dũng lại chơi Lê Thanh Hải hết cho Bình” ruồi” thống đốc ngân hàng nhà nước hạ đo ván ngân hàng Đông Á của Lê Thanh Hải lại cho thanh tra chính phủ thanh tra thành ủy HCM của Lê ThanhHải, cú chơi mới nhất là điều Lê Trương Hải Hiếu ra khỏi lãnh địa quận nhất thành phố HCM  về quận 12 
Phe ông Dũng chơi con ông Phùng Quang Thanh 
Vũ khí lợi hại nhất của phe ông Nguyễn Tấn Dũng là thanh tra chính  phủ.Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa cho lệnh thanh tra chính phủ sờ gáy các công ty
kinh doanh của bộ quốc phòng do đai tá Phùng
Quang Hải làm chủ xị.Ai cũng biết các tổng công ty của bộ quốc phòng là nguồn vú sữa của gia đình đại tướng Phùng Quang Thanh nay nó bị sờ gáy chắc chắn nhiều chuyện bê bối nhiều ngàn tỷ sẽ bị phơi ra
Cuộc đấu đá giữa thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và gia đình đại tướng Phùng Quang Thanh hứa hẹn sẽ  tiếp diễn nhiều pha gay cấn nhiều màn cụp lạc


Ca sĩ Từ Dung công bố hồi ký viết về nhà văn Lý Thắng Lê VănTiến 


Ca sĩ Từ Dung là con gái út nhà văn Hoàng Đao đã vừa cho công bố một hồi ký viết về nhà văn Lý Thắng Lê Văn Tiến.Một hồi ký viết rất hay đánh tan những dư luận về cuộc tình giữa Lý Thắng Lê Văn Tiến và quả phụ Hoàng Đạo,nói rõ Lê Văn Tiến là em nuôi nhà văn Hoàng Đao trong trường hợp nào và là con nuôi mẹ vợ nhà văn Hoàng Đao thời điểm nào.Hồi ký cũng tiết lộ mục đích cuối đời ở Mỹ của Lý Thắng Lê Văn Tiến là hoàn thành trường giang tiểu thuyết Khói Sóng nhưng đã không làm được


Hai nhà báo gặp nạn vì văn chương diễu cợt 

 
Nhà báo Đỗ Hùng phó tổng thư ký tòa soan báo Thanh niên điện tử bị mất chức và bị thu hồi thẻ nhà báo vì viết bài diễu cợt Hồ chí Minh  trên Face book
Nhà báo Lê Đức Diễn bị đài phát thanh Á  Châu Tự Do hủy hợp đồng cộng tác vì viết bài diễu cố Đề Đốc hải quân VNCH Hoàng Cơ Minh và quân đội VNCH
Viết văn diễu là quyền của nhà báo sao những người quản lý báo chí lại không chịu hiểu hơi tý là thổi còi quyền tự do ngôn luận bị xâm phạm đấy\


Nguyễn Như Phong tố cáo  lăng Hồ Chí Minh bị lọt tầm nhắm 


Nguyễn Như Phong đại tá công an tổng biên tập báo Năng Lượng Mới của tập đoàn dầu khí VN vừa có bài báo tố cáo việc tập đoàn TC 1 Group xây tòa cao ốc 18 tầng tại số 18 Lê Trực khu Ba Đình làm cho khu Ba Đình  bỗng nhiên bị tòa cao ốc mới xây lấn át mất hết uy thế.Ngài đại tá Nguyễn Như Phong đòi dẹp cái tòa cao ốc 18 tầng vì đã làm khu Ba Dình mất mặt.Nói thật khu Ba Đình làm quái gì có mặt mà mất,đem quách cái sác thiếu tá tình báo Hoa Nam Hồ Quang quăng vào sọt rác,rối dẹp cái lăng nhơ nhuốc may ra khu BaĐình của hoàng thành Thăng Long còn coi được ,chừ để cái lăng như chuồng xí thời La Mã nằm lù lù ở khu Ba Đình thì khu này chỉ thêm dơ dáy thôi 
Qủa bom Trần Phương 
Gíao sư Trần Phương tên khai sinh Vũ Văn Dung từng là đảng viên đảng Cộng Sản Đông Dương trước năm 1945,từng là ủy viên trung ương Đảng Cộng Sản VN Phó chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng từng học về chủ nghĩa Mác Lê ở Bắc Kinh thế mà trong Hội Nghị Khoa Học Xã Hội ông đã tuyên bố thẳng thừng chủ nghĩa Mác Lê là chủ nghĩa lừa bịp,chủ nghĩa cộng sản chỉ là chủ nghĩa ảo tưởng, thế mà quốc hội VN lại đem nó vào hiến pháp2013 để bịp dân đó là hiện  tượng  lố bịch và trắng trợn ngoài sức tưởng tượng của mọi người 
Theo  nhà văn Võ thị Hão Việt Nam cần một quốc khánh khác ngày 2 tháng 9\


Nhà văn Võ Thị Hảo quả quyết ngày 2 tháng 9 là quốc khánh đau thương và lọc lừa,Việt Nam cần phải có một ngày quốc khánh khác.Nói phải củ cải cũng nghe, chúng ta đã bị lừa gạt dối trá bịp bợm đổ bao nhiêu xương máu chịu bao nhiêu đau thương rồi hãy quăng ngày 2 tháng 9 năm 1945 vào sọt rác lich sữ đi là vừa


Lê Thanh Hải gốc “ba  Tầu” 


Báo điện tử Dân Làm báo vừa có một bài cho biết Lê Thanh Hải gốc người Hoa họ Lã,và đang chạy để ở lại bộ chánh trị Đảng CSVN thêm một nhiệm kỳ nữa.Chính Lê Thanh Hải đã chống lưng cho Tất Thanh Cang tham nhũng cả ngàn tỷ ở Thủ Thiêm quận 2.Nhờ có Lê Thanh Hải chống lưng Tất Thành Cang rời quận 2 về làm phó chủ tịch TPHCM  và tương lai nếu Lê Thanh Hải ở lại bộ chánh trị sau đai hội 12,Tất Thành Cang sẽ “ẵm” chức chủ tịch TPCHM


Thượng nghị sĩ Mỹ Bill Cassidy gửi thư  vinh danh tù lương tâm Bùi Minh Hằng 


Ngày 9 tháng 9 vừa rồi thượng nghị sĩ MỹBill Cassidy đã gủi một bức thư vinh danh tù nhân lương tâm Bùi Minh Hằng đang thụ án ba năm tù vì tội gây rối trật tự  công cộng tại trại gian Gia Trung tỉnh Gia Lai Tây Nguyên,bức thư viết”Tôi viết thư cho bà với trái tim trĩu nặng lo lắng vì tình cảnh bà  bị lâm vào hiện nay.Tôi hoan nghênh tinh thần can đảm và mạnh mẽ của bà”Được biết trước đó bà Hằng và cô Tạ Phong Tân đươc LHQ vinh danh cùng 20 phụ nữ Á Phi đang bị tù đầy và đòi VN phải trả tự do cho Bùi Minh Hằng và Tạ Phong Tân


Trung Cộng đã xâm nhập Đà Nẵng từ 2006 


Năm 2006 bộ kế hoach đầu tư đã cho công ty Silver Shores của Trung Cộng vào Đà Nẵng đầu tư và giao cho công ty này 1 km bờ biển Đà Nẵng từ Sơn Trà tới Điện Ngọc ,năm 2009 Trẻ Ranh ra du lich Đà Nẵng hương dẫn viên du lich của công ty Saigon Tourist đã nói với Trẻ Ranh là công ty Silver Shores xây dựng một loạt công trình tại bờ biển Đà nẵng với toàn bộ công nhân và kỹ su Tầu họ đã thiết lập cả một hệ thống quan sát kiểm soát toàn bộ vùng biển Đà nẵng.Sau đó Silver Shores đầu tư tại vùng đèo Hải Vân và xây dựng nhiều công trình khiến giới quốc phòng thắc mắc họ phải ngưng.Tại Đà Nẵng tuy Silver Shores kinh doanh Casino nhưng thật sự là làm công việc do thám vùng trời vùng biển Đà nẵng
Hai câu ca dao hay
Trong dân gian đang lưu truyền hai câu ca dao tuyệt cú sau đây
Bẩy mươi năm quốc khánh nước Rồng
Từ đất nước lớn mà không có gì
Nước Rồng là nước ta đấy,quốc khánh 70 năm thành nước lớn dân gần trăm triệu nhưng tài sản thì toàn nợ với nợ thôi,nơ công sơ sơ 65 phần GDP,dân ta  già trẻ lớn bé mỗi người phải mang gánh nặng


Đồ tể đang ngáp ngáp 


Người ta gọi anh em  Hoàng Phủ NgọcTường Hoàng Phủ Ngọc Phan là những tên đồ tể,vì đã giết  quá nhiều người trong vụ tết Mậu Thân 1968,nhưng cả Hoàng Phủ Ngọc Tường lẫn Hoàng Phủ Ngọc Phan đều chối bai bải.Nay sắp chết Hoàng Phủ Ngọc Tường trở về Huế nằm chờ chết,tướng cướp quăng gươm đầu Phật có thể thành bồ tát ,đồ tể chờ chết sám hối chắc Phật cũng không chấp và tha thứ hết nhưng nhân dân thì không thể nào quên những tên đồ tể


Nhà phê bình chủ tịch Hội nhà văn Hà nội chơi bảnh 


Chủ tịch Hội nhà văn Hà nội nhà phê bình Phạm xuân Nguyên dám tổ chức Hội nghị nhà văn trẻ lần thứ hai sau mấy chục năm gián đoạn, ông đã liên kết với tỉnh Yên Bái làm chuyện này và ông chơi ngon dám dẫn nhà văn trẻ tới viếng mộ liệt sĩ Nguyễn Thái Học.Dám tổ chức hội nghị nhà văn trẻ lại dám dẫn các nhà văn trẻ tới viếng mộ liệt sĩ
Nguyễn Thai Học đúng là Phạm xuân Nguyên chơi trội thật


Hi sinh đời bố củng cố đời con 


Ông Lê Phước Thành bí thư tỉnh Quảng Nam tới tháng 6 năm 2016  mới phải nghỉ hưu nhưng ông đưa cậu quí tử Lê Phước Hoài Bão mới 30 tuổi “ẵm”đươc chức giám đốc sở Kế Hoach Đầu Tư tỉnh Quảng Nam thì ông vội làm đơn xin nghỉ hưu sớm.Ly kỳ là cậu Bão năm 2013 mới làm trưởng phòng quản lý khu kinh tế Chu Lai năm 2014 thăng phó chủ tịch huyện Thăng Bình tháng 4  năm 2015 lên phó giám đốc sở kế hoach đầu tư và nay trước khi bí thư nghỉ hưu cậu Bão lên giám đốc Sở Kế Hoach Đầu Tư ,đúng là hi sinh đời bố củng cố đời con


Hoan nghênh Nguyễn Quốc Trụ 


Nhà văn nhà thơ Nguyễn Quốc Trụ [Sơ Dạ Hương thủa nào]vừa viết trên báo điện tử Tin Văn của ông một bài ngắn nói về tên cớm chìm Việt Cộng
Nguyễn Ngọc Giao vừa bịa ra chuyện bố nhà báo Trần Hạnh đi  tù cải tạo về đã nói với Trần Hạnh rằng”Nếu bên mình thắng,có lẽ đối xử với bên kia còn tệ hơn” ,cớm chìm VC bịa chuyện vô liêm sỉ bị nhà thơ Nguyễn Quốc Trụ vạch mặt chỉ tên đã im như thóc


Đảng Dân Xã ra công khai 


Ngày 21 tháng 9 Đảng Dân Xã tức Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng do Đức Huỳnh giáo chủ sáng lập đã làm lễ ra công khai dưới thời Cộng Sản độc đảng.Trả lời phỏng vấn của Đài phát thanh Đáp Lời sông núi tại Mỹ ông Trần Nguyên Hưỡn tục Bẩy Hưỡn lãnh tụ Dân Xã tuyên bố Dân Xã  quyết tâm đối trọng với Cộng Sản phá thế xã hội độc đảng ở VN


Bố láo 


Giảng viên môn lịch sử tại trường Đại học khoa học Huế ông Hà Văn Thịnh vừa tuyên bố rằng lich sử hiện đại tại VN chỉ có 30 phần trăm là sự thật ,70 phần trăm là giả dối vì 30 năm đánh nhau với Pháp
rồi Mỹ lịch sử VN ghi VN không thua một trận nào cả là không thể chấp nhận được
Ôi lich sử với Duy vật sử quan là như thế đó,nói làm gì cho tốn nước miếng


Mặc Đỗ Quang Bình không còn nữa


Nhà văn Măc Đỗ Đỗ Quang Bình vừa rời cõi thế tại Mỹ ngày 20 tháng 9,nhà thơ Vương Tân và nhà thơ Nguyễn Thùy Song Thanh có bài thơ “điếu”như sau
Chỉ thiếu một năm ông đi qua cuộc đời này một  thế kỷ
Sao chỉ còn lại mấy cái truyện ngắn dù viết rất nhiều
Đứng Ngồi  Không Yên
Lòng luôn tiếc nuối những tác phẩm ưng ý
Bị thiêu hủy
Bốn chục năm khắc khoải
Xa nước non
Phải làm một cái gì cho quê hương
Lực bất tòng tâm đành xuôi tay nhắm mắt



Nhà văn Võ Phiến cũng đã ra đi



Nhà văn Võ Phiến tên khai sinhĐoàn Thế Nhơn sinh năm 1925 tại Bình Đinh đã rời cõi thế tại Mỹ ngày 28 tháng 9 ông là nhà văn lớn ra đi để nhiều tiếc thương trong bạn đọc,nhà thơ Vương Tân có bài điếu như sau
Quê đất võ  cưới Viễn Phố viết văn thành Võ Phiến
Rời cõi thế sau Tạ Chí Diệp hơn nửa thế kỷ
Lưu vong sang Mỹ vinh  danh Việt ngữ
Viết rất nhiều nhưng chỉ  còn  trong người đọc mấy tập tùy bút
Phê bình văn học thì hỏng hết
Một đời văn bị con “đấu tố” sổ toẹt sạch
Oan nghiệt cuộc đời là như thế đó
Chết không nhắm mắt được dù là nhà văn lớn

TRẺ RANH
                                                                               



NGUYỄN THIÊN THỤ * MỘT NỀN VĂN HỌC HẢI NGOẠI




MỘT NỀN VĂN HỌC HẢI NGOẠI
NGUYỄN THIÊN THỤ

Trước 1975, người Việt Nam đã đi ra nước ngoài. Đời Trần, Trần Ích Tắc bỏ sang Trung Quốc, trong đó có Lê Tắc đã viết quyển An Nam Chí Luợc. Đến nhà Hồ, Hồ Hán Thương đã viết Nam Ông Mộng Lục. Sau khi thực dân Pháp chiếm Việt Nam, một số nhà cách mạng đã sang Trung Quốc hoạt động, như Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Tăng Bạt Hổ đã dùng thi văn kêu gọi lòng yêu nước của nhân dân. Trước và sau 1945, nhiều người Việt Nam đã sang Pháp và đã viết bằng tiếng Việt hay tiếng Pháp như Phan Chu Trinh, Phạm Duy Khiêm, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Trần Huân, Nguyễn Văn Cổn, Hoàng Văn Chí . . .Nhưng họ vẫn là một thiểu số it ỏi, không phải là một quần thể như những lớp người sau 1975. Con số di dân rất cao mà số văn thi sĩ cũng rất lớn.



Dù thế nào đi nữa, người Cộng sản vì chủ quan, kiêu căng và tuyên truyền, cho rằng thơ văn Hồ Chí Minh, Tố Hữu và vài văn nô như Tô Hoài (Truyện Tây Bắc), Nguyễn Thi (Người mẹ cầm súng ), Nguyên Ngọc ( Đất nước đứng lên ) ... là siêu việt, ngoài ra tự cổ chí kim, không có ai nũa. Họ lớn tiếng chỉ trich văn học quốc gia là lạc hậu, phản động, đồi truỵ. Họ mạt sát văn học miền nam và văn học hải ngoại.  Một số \có gốc phản chiến  hoặc ninh hót cũng  chỉ trích văn học miền Nam và văn học hải ngoại. Nguyễn Văn Lục cho rằng văn học hải ngoại èo uôt, lão hóa. Ông cũng dẫn lời anh ông, Nguyễn Văn Trung  trong số Văn Học, tháng 8,1995, xác định rõ ràng Văn học Việt Nam hải ngoại là một hiện thượng bất thường mà chính những người làm ra nó không mong gì hơn là càng chấm dứt nó mau chóng bao nhiêu càng hay bấy nhiêu.[1]


Một nền văn học được thành lập là do ba yếu tố:

-Việc sáng tác có mạnh mẽ hay không
-Nội dung tác phẩm có phong phú hay nghèo nàn.
-Có chánh nghĩa và được nhân dân ủng hộ hay không.

Trong ba yếu tố trên, yếu tố thứ nhất quan trọng nhất.


Trước 1975, số nhà văn ở Pháp và Mỹ khá đông nhưng không có quần chúng ủng hộ. Hơn nữa, một số nhà văn định cư tại Pháp trước 1975 là thiên cộng. Như về văn học Việt Nam, họ giới thiệu văn học cộng sản, ca tụng Hồ Chí Minh, Tố Hữu mà bỏ quên hoặc nói rất sơ lược về văn học miền Nam. Vi họ không có chánh nghĩa và không được quần chúng ủng hộ. Trái lại, phong trào Duy Tân, Đông Du ở Nhật và Trung Quốc lại được sự đón nhận nồng nhiệt của đồng bào trong nước vì Phan Bội Châu có chánh nghỉa quốc gia.


Nền văn học hải ngoại được thành lập ra sao? Dường như người Trung Quốc ra hải ngoại việc đầu tiên là mở cửa hàng còn người Việt Nam việc đầu tiên là làm báo, sáng tác văn tho và lập chùa chiền.

Bà Thụy Khuê cho biết ngay trong năm 1975, phong trào báo Việt ngữ đã bùng lên như lửa cháy rừng:


Báo chí là hởi điểm cho sự đọc, sự viết, cho một đời sống tinh thần. Ngay từ khi còn ở đảo Guam hoặc mới bước chân lên những trại tỵ nạn đầu tiên trên đất Mỹ, người Việt đã có báo. Minh Đức Hoài Trinh, trên báo Hồn Việt Nam, số 1, phát hành tại Paris ngày 15/10/1975, nhắc đến chuyện đã "đọc báo Chân Trời Mới ở các trại như Pendleton, Guam, Asan vào giai đoạn đầu của cuộc ly hành mùa xuân Ất Mão", và bà còn cho biết "theo báo Đất Mới: Một nhóm các người làm báo ở Hoa Thịnh Đốn đang thành lập một ủy ban để giúp các người làm báo Việt Nam tìm người bảo trợ và công việc làm ăn tại Hoa Kỳ."


Võ Phiến, trong bài Xuất Trại nhắc nhở đến tờ "Đất Lành cuối tháng 8-75, liên tiếp mấy số liền, có những bài đăng ở trang nhất, cố gắng giải thích, khuyên nhủ, dỗ dành, mỉa mai, rồi... hăm dọa, nhằm thúc đẩy dân tỵ nạn mạnh dạn ra đi lập lại cuộc đời mới."

Từ những Chân Trời Mới, những Đất Lành, ... người Việt đã thành lập những tờ báo có tính chất văn học nghệ thuật. Nhìn lại giai đoạn tiên khởi này, những tờ báo có khuynh hướng văn học nghệ thuật xuất hiện sớm nhất ở hải ngoại có thể là:


- Nguyệt san Hồn Việt Nam của Minh Đức Hoài Trinh, số 1 ra ngày 15/10/1975 ở Paris, số chót Xuân Mậu Ngọ 1978.

- Báo Quê Mẹ của Võ Văn Ái ở Paris, số 1 đầu năm 76, chuyên về văn học nghệ thuật. Sau đó ngừng. Tiếp theo là tạp chí Quê Mẹ, chuyên về thời sự, chính trị, đấu tranh, có thêm trang văn học.

- Báo Quê Hương của Du Tử Lê, Đinh Thạch Bích, Võ Văn Hà, Phạm Cao Dương ở Costa Mesa, đầu năm 76, ra được ba số thì đình bản. Sau đó Du Tử Lê chủ thương tờ Nhân Chứng. Nhân Chứng tồn tại được hai năm, ra khoảng 20 số.


- Báo Đất Mới với Huy Quang Vũ Đức Vinh, Nguyễn Văn Giang là một trong những tờ báo đầu tiên xuất bản tại Hoa Kỳ từ tháng 7/75. Đến tháng 4/76, Thanh Nam được mời cộng tác. Rồi từ 79 đến 81 có thêm Mai Thảo.


- Báo Hồn Việt của Nguyễn Hoàng Đoan ở San Diego, ra đời đầu năm 76 mà số Xuân Đinh Tỵ (1977) đã có đầy đủ tư thế của một tờ văn học nghệ thuật với sự đóng góp bài vở của Lê Tất Điều, Võ Phiến, Thanh Nam, Tạ Ký, Nhất Tuấn, Cung Tiến, Nguyên Sa, Túy Hồng...

- Võ Phiến ở Santa Monica và Lê Tất Điều ở San Diego cho xuất bản nguyệt san Văn Học Nghệ Thuật từ tháng 4 năm 1978, ra được 13 số thì đóng cửa vào tháng 9/1979. Tái bản bộ mới số 1, tháng 5/85 đến tháng 12/86 đình bản, trao lại cho Nguyễn Mộng Giác đổi thành Văn Học.

- Tờ Việt Chiến do Giang Hữu Tuyên, Hoàng Xuân Sơn và Ngô Vương Toại chủ trương ở Hoa Thịnh Đốn.


- Cùng thời điểm này, Đỗ Ngọc Yến sáng lập tờ Người Việt, số báo đầu tiên phát hành tháng 12/78 ở quận Cam, California. Người Việt là tờ thông tin nghị luận, mới đầu là báo hàng tuần, sau trở thành báo hàng ngày, có nhiều độc giả nhất trong cộng đồng người Việt ở Mỹ và là cơ sở nuôi sống nhiều nhà văn, nhà báo.[2]


Dù ở trong nhà tù nhỏ, hay trong nhà tù lớn, tất cả đang viết để bày tỏ tâm tư và tỉnh cảm. Nhiều tác giả đã viết về văn học hải ngoại, sưu tập văn học hải ngoại:


- Hoàng Ngọc Ẩn . Tuyển Tập Thơ Văn 90 tác Giả Việt Nam Hải Ngoại, Văn Hữu, CA, 1982. Quyển này có 28 nhà văn viết sau 1975.
-Thi Vũ. Bốn Mươi Năm Thơ Việt Nam. Quê Mẹ, Paris. 1985.
-Thái Tú Hạp. Thơ Văn Việt Nam Hải Ngoại. Sông Thu. USA.1985. Tập 1 đã phát hành có 60 tác giả, trong đó có 12 tác giả mới. Tập 2 chưa phát hành có 44 tác giả, trong đó có 21 tác giả mới.
-Tuyển Tập 23 Người Viết Sau 1975. Văn Nghệ. USA. 1988.
-Trang Châu. Tuyển Tập Văn Bút Quebec. Canada, 1992.
-Nguyễn Văn Sâm. Tuyển Tập Văn Thơ .Văn Bút Nam Hoa Kỳ xb. Houston, 1993.
-Tác giả Tác Phẩm. Thế Giới Lưu Vong Hôm Nay xb. CA. 1989.
- Trần Văn Ngô và Phú Văn Đức. Tuyển Tập Văn Bút Âu Châu I, II., Pháp, 1989, Đức 1993.

-Tập Truyện Ngắn Hai Mươi Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại. Văn Bút VNHN, USA, 1995.
-Văn Học Miền Đông. Văn Bút Miền Đông. USA 1997.
-Võ Đức Trung. Một Phần Tư Thế Kỷ Thi Ca Việt Nam Hải Ngoại 7 tập. Văn Hóa Pháp Việt , France. 2002- 2007. Bộ này gồm khoảng 326 thi sĩ
-Võ Đức Trung. Ba Mươi Năm Văn Học Niềm Đau Còn Đó. Thi Ca Lưu Vong. Văn Hóa Pháp Việt. France, 2006.
Năm 2013, nhà thơ Thanh Thanh tưc Lê Xuân Nhuận đã xuất bản Tuyển Tập Thi Ca Việt Nam
Vietnamese Choice Poems”, thơ tiếng Anh (ISBN 978-1-4931-2196-0 & 978-1-4931-2197-7 ), Xlibris, 2013. , giới thiệu 80 thi sĩ, trong đó có vài thi sĩ quốc nội.


Hầu hết văn nghệ sĩ hải ngoại là thuyền nhân. Họ là những văn nghệ sĩ chán ghét cộng sản mà bỏ nước ra đi. Một số đã ra đi theo Mỹ hoặc các tàu hải quân và thương thuyền Việt Nam trong những ngày 30-4-1975 như Nguyễn Ngọc Huy, Phan Lạc Tiếp, Cao Tiêu, Cao Thế Dung, Du Tử Lê, Duy Thanh, Nguyên Sa. . .Số lớn đi đường biển như Võ Phiến, Mai Thảo, Võ Kỳ Điền, Nguyễn Văn Sâm, Nguyên Sa, HàThúc Sinh, Lê Xuân Giáo. Một số đi đường bộ như Đặng Phùng Quân, Hàn Song Tường. Một số đi theo diện ODP mà người ta còn gọi là HO. Đây là những cựu sĩ quan miền Nam tự do, đã bị cộng sản giam giữ nhiều năm, nay được Liên Hiệp quốc can thiệp mà đi dịnh cư tại Mỹ như Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Mai Trung Tĩnh.


Một số văn nghệ sĩ được các tổ chức quốc tế can thiệp mà sang Mỹ như Doãn Quốc Sỹ, Uyên Thao, Nhã Ca, Trần Dạ Từ. Những thuyền nhân, và những sĩ quan ra đi theo diện ODP khi ra ngoại quốc lã bảo lãnh gia đình. Vì vậy một số văn nghệ sĩ ra ngoại quốc theo diện bảo lãnh. Hầu hết những người bỏ nước ra đi đều là những nạn nhân của cộng sản, đã bị tù đày trong nhà tù nhỏ và nhà tù lớn của cộng sản. Họ cùng chung một kẻ thù là cộng sản, và chung một niềm đau thất quốc. Ra hải ngoại, nhiều người trở thành văn thi sĩ. Ở hải ngoại, chúng ta có khoảng hai triệu người rải rác khắp nơi trên thế giới, nhưng tỷ lệ số văn thi sĩ rất cao.


Một lực lượng cả cũ lẫn mới thật đông đảo. Những công trình trên đã xác nhận có một nền văn học hải ngoại. Chúng tôi thiết nghĩ sau 1975, văn học nghệ thuật Việt Nam vẫn hiện hữu ở hải ngoại. Chúng ta đã có khoảng bốn trăm văn thi sĩ, và đã có một số thơ văn sáng tác, có nhiều báo chí, có đài phát thanh, có những nhà in, nhà phát hành sách, và một lượng độc giả. Chúng ta có một số nhà văn, nhà thơ cũ sau 1975 vẫn tiếp tục sáng tác như Nguyên Sa, Nguyễn Tất Nhiên, Thanh Nam, Doãn Quốc Sỹ, Nhã Ca, Viên Linh . . . Và chúng ta cũng có một số đông đảo nhà văn mới xuất hiện như Võ Kỳ Điền, Nguyễn Ngọc Ngạn, Kiệt Tấn, Võ Phước Hiếu, , Ngô Minh Hằng, Nguyễn Tấn Hưng, Bùi Bich Hà, Bùi Bảo Trúc. . .

Một số nhà biên khảo trước đây nay cũng bước sang lãnh vực sáng tác như Nguyễn Khắc Hoạch, Nguyễn Đình Hòa, Nguyễn Văn Sâm. Một số nhà giáo nay cầm bút làm thơ viết truyện như Võ Kỳ Điền, Nguyễn Ngọc Ngạn, Ngô Minh Hằng. Đa số là quân nhân. Các tướng, tá Việt Nam nay viết hồi ký như Nguyễn Chánh Thi, Trần Văn Đôn, Võ Đại Tôn, Phạm Ngọc Lũy, Lý Tòng Bá . . . Một số nữa là bác sĩ, kỹ sư. Và một lực lượng đặc biệt là các cựu đảng viên và cán bộ cộng sản nay ra nước ngoài như Vũ Thư Hiên, Bùi Tín, Trần Thư, Phạm Thị Hoài . .

Họ không phải là người quốc gia nhưng ở hải ngoại và có một vài ý hướng tự do cho nên liệt họ vào văn học hải ngoại. Tất cả là những lực lượng mới bổ sung cho lực lượng cũ đã hao mòn. Chúng ta không biết tương lai tiếng Việt tại Canada có giống tiếng Pháp tại Montreal, tiếng Việt tại California sẽ trở thành một thứ tiếng Anh tại Mỹ hay không, nhưng chắc chắn hiện nay chúng ta đang có một nền văn học hải ngoại, dù hay dù dở nó vẫn tồn tại và đang phát triển.


Bài của ông Nguyễn Văn Lục viết tháng ba năm 2015 do Tiếng Quê Hương của Uyên Thao đăng tải còn bài của Nguyễn Văn Trung viết năm 1995. Nguyễn Văn Lục nói đến hai hạng lão hóa. Một là lão hóa do tuổi tác của nhà văn. Ông nói điều này đúng vì khi ra hải ngoại, một số nhà văn đã già yếu, bênh họan như Bình Nguyên Lộc, Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền, Bùi Xuân Bào, Doãn quiốc Sỹ đã ngưng cầm bút hoặc di tản sang một thế giới khác. Nhưng điều đó là chuyện bình thường trong vòng sinh lão bệnh tử. Cổ nhận ta đã nói "tre già măng mọc". Bình Nguyên Lộc, Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền, Bùi Xuân Bào.. . đã ra đi nhưng Võ Phiến, Cao Tần, Doãn Quốc Sỹ... còn đó.


Lớp trẻ hơn nữa có Trần Trung Đạo, Luân Hoán,Trần Mộng Tú, Nguyễn Bá Trạc, Ngu Yên, Hồ Trường An, Kiệt Tấn, Mai Kim Ngọc, Hồ Đình Nghiêm, Phan Thị Trọng Tuyến, Đặng Phùng Quân,Nguyễn Văn Sâm, Võ Kỳ Điền... Sau đó là ai, tương lai sẽ trả lời. Một vài nhà văn trẻ xuất hiện, viết tiếng Anh. Nhưng không nên lấy chuyện già mà bỉ bai. Trong văn nghệ tài năng là chính. Quân đội và đại học thường đông đảo thanh niên nhưng Văn học, nghệ thuật và chính trị, các bậc lão thành thường được kính trọng. Dù họ bệnh tật mà ngưng hoạt động cũng là chuyện thường kháp năm châu, đâu phải là cái nhục cho cộng đồng Việt Nam hải ngoại!

  Trên kia đã trình bày về số lượng thi văn sĩ hải ngoại,.Con số đó là một minh chứng cho số lượng đông đảo văn nghệ sĩ. Riêng có số thi phẩm đã cho biết sức sáng tác mạnh mẽ của các thi sĩ hải ngoại. Chúng ta thử xem qua:

Du Tử Lê chiếm giải nhất về số lượng thi phẩm.
Trước 1975, ông có 20 tác phẩm, sau 1975, khoảng 30 thi phẩm:

1. Thơ Du Tử Lê, thơ. Tác giả xuất bản, 1964.
2. Tình khúc tháng mười một, thơ. Nhân Văn xb, 1965.
3. Năm sắc diện, năm định mệnh, ký sự nhận định. Tao Đàn xb, 1965.
4. Tay gõ cửa đời, thơ. Nguyễn đình Vượng xb, 1967.
5. Chung cuộc, tập truyện. Trình Bày xb, 1969.
6. Mắt thù, truyện dài. Văn Uyển xb, 1969.
7. Ngửa mặt, truyện dài. Đại Ngã xb, 1969.
8. Vốn liếng, một đời, truyện dài. Đại Ngã xb, 1969.
9. Qua hình bóng khác, truyện dài. Khai Phóng xb, 1970.
10. Mùa thu hoa cúc, truyện thiếu nhi. Mây Hồng xb, 1971.
11. Sân trường mắt biếc, truyện thiếu nhi. Mây Hồng xb, 1971.
12. Chú cuội buồn, truyện thiếu nhi. Mây Hồng xb, 1971.
13. Hoa phượng vàng, truyện thiếu nhi. Mây Hồng xb, 1971.
14. Mắt lệ cho người, truyện dài. Sống Mới xb, 1972.
15. Ở một đời riêng, truyện dài. Tân Văn xb, 1972.
16. Thơ Du Tử Lê (1967-1972,) thơ. Gìn Vàng Giữ Ngọc xb, 1972.
(Giải thưởng văn chương toàn quốc, bộ môn thơ, 1973)
17. Mùa hoa móng tay, tập truyện. Tân Văn xb, 1973.
18. Với nhau, một ngày nào, truyện dài. Ngạn Ngữ xb, 1974.
19. Đời mãi ở phương đông, thơ. Gìn Vàng Giữ Ngọc xb, 1974.
20. Một chỗ cuối sông tương, truyện dài. Mây Hồng xb, 1975.
21. Tan theo ngày nắng vội, tập truyện. Tủ sách Vh Nhân Chứng xb, 1984.
22. Thơ tình, thơ. Tủ sách Vh Nhân Chứng xb, 1984.
23. Ở chỗ nhân gian không thể hiểu, thơ. Tủ sách VH Nhân chứng xb, 1989.
24. Đi với về, cũng một nghĩa như nhau, thơ. Tủ sách VH Nhân Chứng xb, 1991.
25. Du Tử Lê, Tác giả & tác phẩm #1, nhiều tác giả. Đời xb, 1992.
26. Tôi với người, chung một trái tim, truyện vừa. Thiên Nga xb, 1992.
27. Chấm dứt luân hồi: em bước ra, thơ. Tủ sách VH Nhân Chứng xb, 1993.
28. Nhìn nhau chợt thấy ra sông núi, thơ. Tủ sách VH Nhân Chứng xb, 1994.
29. Em và, Mẹ và, Tôi là một nhé, tùy bút. Tủ sách VH Nhân Chứng xb, 1994.
30. Chỗ một đời em vẫn để, dành, tùy bút. Tủ sách VH Nhân Chứng xb, 1995.
31. Sông núi người thơm nỗi nhớ nhà, thơ. Tủ sách Vh Nhân Chứng, xb, 1996.
32. Chỉ như mặt khác tấm gương soi, thơ. Tủ sách Vh Nhân Chứng, xb, 1997
33. Du Tử Lê, Tác giả & tác phẩm # 2, nhiều tác giả. Tủ sách VH Nhân Chứng, xb, 1997.
34. Tiếng kêu nào bên kia thời tiết, tập truyện. Tủ sách VH Nhân Chứng, xb, 1997.
35. K. Khúc của Lê, tuyển tập thơ phổ nhạc. Thân hữu DTL xb, 1998.
36. Du Tử Lê, Tác giả & tác phẩm # 3, nhiều tác giả. Tủ sách VH Nhân Chứng xb, 1998.
37. Hoa nào tin quả đắng đến không ngờ!!! thơ. Tủ sách VH Nhân Chứng xb, 1999.
38. Tôi, ấu thơ và, mẹ, tùy bút. HT Productions xb, 2000.
39. Vì em, tôi đã làm sa di, thơ thiền tính. Tống Châu xb, 2001.
40. Du Tử Lê, Tác giả & tác phẩm, # 4, nhiều tác giả. HT Productions xb, 2002.
41. Mẹ về biển đông, thơ. HT productions xb, 2002.
42. Toàn tập thơ Du Tử Lê I (1964-1975,) thơ. HT Productions xb, 2002.
(Gồm tất cả những thi phẩm được ấn hành tại Việt Nam. Gần 400 trang.)
43. Người nhón gót, thả điều chưa nói hết, tùy bút. HT Productions xb, 2002.
44. Qua môi em: tôi thở biết bao đời, thơ thiền tính tập 2. HT Productions xb, 2004.
45. Thơ Tình Du Tử Lê (In ở Việt Nam)
46. Giờ điểm danh cuối cùng, của những cậu học trò trên sáu mươi tuổi, tùy bút. HT productions xb, 2006.
47. (Nếu cần,) hãy cho bài thơ một tên gọi!?!, thơ. HT Productions xb, 2006.
48. Toàn tập thơ Du Tử Lê II (1975-1993,) thơ. HT Productions xb, 2007.
(Gồm 5 thi phẩm được ấn hành tại Hoa Kỳ. Gần 500 trang.)
49. Du Tử Lê / 50, nhiều tác giả: Tư liệu, nhận định, đời thường DTL. Hội VHKHVN/ Houston, TX, Xb. 2007,
(nhằm Vinh danh 50 năm thơ Du Tử Lê.)
50. Mất hay còn, chưa hẳn khác nhau đâu!?! (thơ thiền tính tập 3). HT Productions.
(Với 23 bức tranh minh hoạ của họa sĩ Đinh Cường .) HT Productions xb, 2008.
51. Lại chuyện vãn, (lần này, ít thôi,) với bệnh ung thư. thơ. HT Productions xb. 2008.
52. Năm chữ du tử lê và, 9 bài thơ, mới. HT Productions.
(với 31 tranh minh họa của hoạ sĩ Đinh Cường), thơ. HT Productions. 2009
53. Giữ Đời Cho Nhau - Tùy Bút (minh họa Nguyễn Đình Thuần). HT Productions. tháng 9-2010
54. Trên Ngọn Tỉnh Sầu - (minh họa Duy Thanh). HT Productions. tháng 9-201

Hà Huyền Chi.Tính từ năm 1963 đến nay ông đã có 17 tập thơ được xuất bản, mà một số bài thơ được phổ nhạc

Saut Ðêm (1963)
Khu Vườn Chim Sẻ (1970)
Những Nụ Gai Mòn (1970)
Rừng Ái Ân (1970)
Vũng Tối Ðầy (1970)
Còn Gì Cho Anh (1971)
Bước Ðam Mê (1971)
Mưa Ðêm Trong Chiến Hào (1971)
Thằng Thái Bình (1974)
Trên Cánh Ðồng Mây (1975)
Cho Mặt Trời (1975)
Tên Nô Lệ Mới (1979)
Như Ðá Ngàn Năm (1981)
Cõi Buồn Trên Ta (1984)
Ðời Bỗng Dưng Thừa (1987)
Hành Trình 30 Năm Thơ Hà Huyền Chi (1988)
Thơ Ðen (1991)
Thơ Kẽm Gai (1994)
Tháng Một Buồn (1994)
Thơ Trong Da Ngựa (1995)
Một Túi Bình Sinh Một Túi Thơ (1996)
Ðồng Thiếp (1996)
Bão Ðầy (1998)
Bên Trời Mài Kiếm (thơ song ngữ Anh-Việt) (1999)
Sóng Ngầm (2003)

Tiếp theo là Luân Hoán . Từ thập niên 80 cho đến nay ông đã có 8 thi phẩm

-Hơi Thở Việt Nam. Sông Thu, USA, 1986.
-Đưa Nhau Về Đến Đâu, Sông Thu, USA, 1989.
-Ngơ Ngác Cõi Người. Nhân Văn, USA. 1989.
-Cảm Ơn Đất Đã Trổ Thơ. Lòng Ta Hạt Bụi Vu Vơ Bám Hoài. Kinh Đô.USA. 1991.
Mời Em Lên Ngựa. Sông Thu. USA.1994.
Nuôi Thơm Chùm Kỷ Niệm Xanh. Thơ. Canada.1995.
-Cỏ Hoa Gối Đầu. Sóng Văn. USA, 1997.
-SôngNúi Cùng Người Thơm Ngát Thợ Thơ. Canada, 2002.

Dư thị Diễm Buồn có 6 thi phẩm:

-Nỗi lòng Người Em Nhỏ, 1991
- Một Thoáng Hương Xưa, 1996.
-Những Ngày Xưa Thân Ái ,1997.
-Quê hương Ngày Em Lớn 2000.
-Một Thoáng Hương Xưă Cassette ngâm thơ)
-Nỗi Lòng Người Đi , 2001.

Hà BìnhTrung có 6 thi phẩm:

-Khói Lửa, USA, 1987
-Yêu Mãi Ngàn Năm, USA, 1990
Đãu Chân Viễn Khách, USA,1995.
-Cánh Thời Gian,USA, 1997.
-Ngàn Dặm Thương Yêu. USA, 1999.
-Vẫn Mãi Yêu Em, USA,2000.

Thái Tú Hạp có 6 thi phẩm:

-Tuyển tập Sông Thu (cùng Thành Tôn, Hoàng Quy)
-Thèm Về (thơ 1970)
-Chim Quyên Lạc Ngàn (thơ 1982)
-Miền Yêu Dấu Phương Ðông (thơ 1987)
-Thơ Văn Phật Giáo (tuyển tập 1993)
-Hạt Bụi Nào Bay Qua (thơ 1995)


Trần Hồng Châu có 4 thi phẩm

-Nửa Khuya Giấy Trắng (thơ Thanh Văn, USA 1992)
-Nhớ Ðất Thương Trời (thơ, Thế Kỷ USA 1995)
-Hạnh Phúc Ðến Từng Giây (thơ, Văn Học, USA 1999)
-Suối Tím. Văn Nghệ, USA , 2003


Vân Nương đã đóng góp 4 thi phẩm :

-Con Đường Lý Tưởng , 1990
-Nhớ Một Người Đi, 1996.
-Mây Viễn Phố, 1996
-Trăng Viễn Phố, 2001.

Lâm Háo Dũng có 4 thi phẩm
-Ngày Đi Thương Sợi Khói Bên Nhà (1985),
- Đi Giữa Thời Tan Nát (1989),
-Tóc em dài em cài bông hoa lý (XB tại Canada, 1989)
-Những bài thơ của tôi (XB tại Australia, 2013)



Hàn Song Tường : 2 thi phẩm:

-Viên Sỏi Quê Hương (1986),
-Trong Nỗi Nhớ Một Ngày (2012)
Và ba tập truyện
- Một Dặm Tương Thân (viết với Ðặng Phùng Quân, 1988),
-Phía Bên Kia Mặt Trời (1995),
-Ở Một Nơi Khác (CA: Van Moi, 2003)

Ngô Minh Hằng có 3 thi phẩm:
- Tiếng Lòng (1996)
-Dư Âm (1998)
-Gọi Đàn (1998)


Những dữ kiện trên chưa phải là đầy đủ, và ghi chép đã lâu có lẽ đã sai lạc vì sau này các tác giả đã sáng tác thêm. Nhưng chừng ấy phác họa cũng cho thấy thi ca hải ngoại, văn học hải ngoại rất phong phú.

Điều thứ nữa là các đề tài của nêền văn học hải ngoại rạt phong phú và mới mẻ. Vượt biên, ngồi tù , xã hội cộng sản, chế độ cộng sàn là những đề tài chưa có trong lịch sủ Việt MNam và thế giới ngoại trừ các văn sĩ Nga, Trung Quốc.

Nguyễn Mộng Giác viết: Cứ thử dở lại những tạp chí văn chương như Văn, Văn Học, Làng Văn, Nhân Văn những năm 1985, 1986, 1987 để so sánh với mấy năm gần đây, chúng ta sẽ thấy điều ấy rất rõ. Hồi đó, sức sáng tác của những nhà văn cũ từng thành danh ở Miền Nam trước 1975 lẫn những nhà văn mới cầm bút ở hải ngoại đều dồi dào. Tình hình xuất bản tuy chưa ổn định như hiện nay, nhưng trên tạp chí văn chương, rõ ràng nhiệt tình tràn đầy trên từng trang giấy. Sau một thời gian chết lịm tuyệt vọng vì cảnh lưu vong bất ngờ, dường như những người cầm bút tìm lại được một niềm tin, một sinh lực. Từ tâm trạng hoài niệm đau đớn, lớp thuyền nhân mới mang qua hải ngoại những kinh nghiệm mới, những cảm thức mới.


 Quê hương không còn là những tấm ảnh kỷ niệm cũ. Quê hương hiện ra trong văn chương rõ nét hơn với những tù ngục, đày đọa, khóc cười, máu, nước mắt, thế thái nhân tình diễn ra từ ngày Cộng sản thôn tính Miền Nam. Cuộc sống lưu vong mang một ý nghĩa mới, khuynh hướng đấu tranh thành hình, mang nhiều lửa nhiệt tình vào từng câu văn, câu thơ. Xin giở lại những số NhânVăn trong thời kỳ ấy. Nếu không có một thứ lửa nóng nồng nhiệt và niềm tin cao độ, Tưởng Năng Tiến, Võ Hoàng, Bắc Phong không thểviết được những bài phóng bút, những truyện ngắn, những vần thơ như vậy. Ngay trên những tạp chí văn chương ít dấn thân vào các hoạt động chính trị (như tờ Nhân Văn), trên Văn, Làng Văn, Văn Học, những tạp chí văn chương chấp nhận đăng tải văn thơ theo tiêu chuẩn rộng rãi hơn, chúng ta vẫn thấy chung chung một không khíhào hứng, nhiệt tình.

Một số đông đảo những cây bút mới xuất hiện vào thời kỳ này, và cho đến nay, những truyện ngắn, những bài thơ hay nhất của họ vẫn là những tác phẩm họ viết hồi đó. Trong vòng có ba bốn năm, một nền văn học định hình, trưởng thành, với đầy đủtác giả, tác phẩm, khuynh hươớng, thể loại, một nền văn học màngười Việt hải ngoại có quyền hãnh diện vì chứng tỏ được sức mạnhcủa tự do tư tưởng.[...]. Những đợt thuyền nhân vượt biển ồ ạt đặt chân lên bến bờ tự do từ 1979 trở về sau, mang theo tin tức về một quê hương nghèo đói, đoạ đày, khốn cùng dưới chế độ cộng sản, đã thay đổi hẳn tâm cảm của người cầm bút. Rõ rang mọi người tìm lại được lẽ sống, tìm lại đượcniềm tin.

Cuộc đời mình, khả năng sáng tạo của mình, không còn vô nghĩa vô ích nữa. Từ tự ti, người cầm bút có mặc cảm tự tôn. Người ta bàn luận, nói nhiều về sứ mệnh, về trách nhiệm của người cầm búttrước hiện tình đất nước. Sự hào hứng nhiệt tình của những năm 1984, 1985, 1986, 1987 trong sinh hoạt văn học hải ngoại xuất phát từ mặc cảm tự tôn này. Rõ nhất là khuynh hướng văn nghệ tranh đấu.Người ta nói nhiều tới mặt trận văn hóa văn nghệ, tiến xa hơn nữa,người ta còn muốn mỗi văn nghệ sĩ là một cán bộ tuyên vận. Những tác phẩm và tác giả nổi bật nhất của giai đoạn này đều có một nét chung: là tố cáo chính sách và hành động phi nhân của chính quyền cộng sản, và mơ ước một cuộc giải phóng. Phần tố cáo đạt được tiêu chuẩn nghệ thuật cao nhờ dựa vào những kinh nghiệm thực tế, còn phần dự tưởng tương lai thì tùy từng tác giả, khi rõ nét khi chỉ là hyvọng chung chung, mơ hồ. [3]


Nếu hai ông viết vào năm 1975-80 thì có lẽ đúng vì buổi đầu khó khăn, tâm trạng hoang mang, nhất là những lớp vượt biên hay theo tàu Mỹ di tản đầu tiên Vạn sự khởi đầu nan. Người Tin Lành sang Mỹ đầu tiên phải chịu trăm cay ngàn đắng vì thời tiết khắc nghiệt ở Mỹ. Dân ta khi theo chúa Nguyễn khai phá đất Đồng Nai cũng chỉ với bàn tay trắng và những túp lều tranh. Các chùa chiền ngày nay nguy nga nhưng khởi đầu thường là nhửng am tranh vách đất. Nhưng từ 1985, hàng trăm ngàn HO đã đến Mỹ trong đó có những nhà văn như Trần Hồng Châu, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng.. thì văn học hải ngoại được tiếp sức. Sau này nó biến chuyển ra sao, nó trở thành văn chương Pháp ở Canada hay chờ ngày dẹp tan cộng sản, văn học quốc nội và hải ngoại trở thành một thể, hoặc thành ra hình thái nào thì cũng là quy luật sinh trụ hoại diệt.. Dầu sao, từ 1985 về sau, văn học hải ngoại đã hình thành và phát triển.


Ngoài hai Nguyễn tiên sinh ra còn có vài ý kiến chỉ trich văn học hải ngoại. Huỳnh Phan Anh, một nhà văn miền Nam đã di tản sang Mỹ nhưng đi về Việt Nam luôn. Ông trả lời phong viên báo Tuổi Trẻ ở Việt Nam: Trước hết, tôi xin khẳng định một điều là cho dù tôi có sống tại Mỹ một vài năm hay trong suốt phần còn lại của cuộc đời thì tôi cũng khó hội nhập được vào nước Mỹ! Tôi không bao giờ là một nhà văn lưu vong. Tôi là một nhà văn VN sinh sống tại Mỹ do hoàn cảnh riêng của gia đình. Tôi biết rằng có một vài người tại Mỹ tự bỏ tiền ra in tác phẩm của mình rồi tự xưng là nhà văn lưu vong... Nhưng tôi đã và vẫn sẽ là một người VN[4]. .


Nói như vậy ông tự xưng ông là giông dơi, phi cầm phi thú Hay nói rõ hơn, ông là Việt kiều yêu nước, không phải là tay sai Mỹ ngụy Ông nhận định về văn học hải ngoại “Đặc điểm lớn nhất của những cây bút hải ngoại, cụ thể ở Mỹ là họ sống ở ngoại quốc nhưng lại viết về tâm trạng Việt Nam. Nhưng họ có hít thở bầu không khí Việt Nam đâu mà viết! Tôi vẫn nhớ lời nhà văn Boris Paternak nói rằng một nhà văn không thể xa rời tổ quốc mình[5]


Nói như vậy là Huỳnh tiên sinh chỉ biết nghệ thuật duy thực và không biết gì về lý thuyết văn học quốc tế. Tiên sinh cũng chẳng biết gì về nghệ thuật sáng tạo. Trường phái nghệ thuật nào đi nữa cũng có một hoặc hai yếu tố là sự thực và tưởng tượng.Trong thư viện ngày nay, người ta chia ra hai hạng tiểu thuyết: Tiểu thuyết tưởng tượng (fiction) và tiểu thuyết không tưởng tượng.( non-fiction) . Cứ theo Huỳnh Phan Anh thì Tô Hoài có phải là dế đâu mà viết Dế Mèn Phiêu Lưu Ký, Nguyễn Tất Thành làm bồi tàu trên biển rồi sang Nga làm tay sai cho đệ tam quốc tế, cho Stalin rồi Mao Trạch Đông   đâu có ở Việt Nam mà khoe mẽ là tìm đường cứu nước!

Nên đem Jules Verne ( Hai vạn dặm dưới đáy biển Vingt mille lieues sous les mers), J. K. Rowling (Harry Porter) và các ông lưu vong như Milan Kundura, như Joseph Brodsky, như Aleksandr Solxhenitsyn,… vào trại cải tạo tư tưởng, hoặc lên dàn hỏa thiêu... Chỉ có các vị ở Việt Nam , nhất là các “đồng chí” thấm nhuần tư tưởng Mác Lê mới có độc quyền viết về Việt Nam, các ông bà hải ngoại đừng hòng! Hơn nữa, Huỳnh Tiên sinh hiểu sai lời văn Boris Paternak. Một nhà văn không thể xa rời tổ quốc mình nghĩa là phải luôn nhớ tổ quốc, nhớ đồng bào đang quằn quại dưới ach thống trị cộng sản, và phải tranh đáu cho tự do dân chủ của nhân dân trong nước. còn khi bạo quyền ra lệnh trục xuất như các trí thức Nga thời Lenin, Stalin, hoặc bị săn đuổi, chém giết và bỏ tù như trường hợp Việt Nam thì nhà văn phải bỏ đi thôi.

Yêu tổ quốc, không muốn xa tổ quốc nhưng làm sao được. Nếu ông hiểu Boris Paternak như thế, và nếu ông nặng lòng với đất nước cộng sản, sao ông còn chạy theo” Mỹ ngụy” . Sang Mỹ thấy trái với lý tưởng phục vụ XHCN sao không trở về. Lúc ra đi , ông cũng ở tuổi tam thập nhi lập, đã đi dạy học, có phải trẻ con lên ba mà bị cha mẹ hay vợ nhà cưỡng bách di tản? Tội nghiệp cho hai cụ và cô nàng xinh xinh bị đổ thừa! Ông bảo “Trước khi làm nhà văn, phải học làm người. Có nhiều loại người: người thiện, kẻ ác, người trung, kẻ nịnh. Trước mặt hiện nay có hai loại người người cộng sản và người quốc gia. Ông đã là nhà văn, tất ông đã thành người , vậy ông thuộc hạng người nào?


Nguyễn Duy, một nhà thơ trong nước, thành viên nồng cốt của Hội Nhà Văn VN, người đã được đi xuất ngoại nhiều lần với tư cách là đại biểu của giới cầm bút trong nước, đã nói “người Việt ở hải ngoại không thể đóng góp vào văn học Việt Nam được vì họ đang mất dần sự thuần chất của ngôn ngữ, mất cái tiếng đang được nói và viết ở Việt Nam.”(Ibid).


Các lớp trẻ về sau tất giỏi Anh, Pháp cũng có thể giỏi cả Việt Anh Pháp, ông nhà thơ đừng coi thường! Còn lớp Võ Phiến, Hồ Trường An, Đặng Phùng Quân, Nguyễn Văn Sâm, Phan Ni Tấn, Trần Mộng Tú, Nguyễn Thị Hoài, Ngô Minh Hằng ..chưa quên tiếng Việt, sao ông nỡ truất quyền viết của người ta? Cũng như Huỳnh Phan Anh và các vị khác, nhà thơ ta có oc cục bộ, địa phương, tuyên bố thẳng thừng là bọn hải ngoại hãy xê ra!

Trong khi các ông đầu gấu bán nước cho Trung Cộng, cướp nhà cướp đất của dân, các ông văn nghệ sĩ quốc nội thì kỳ thị và có óc chuyên chính độc tài , thế thì ai dám tin hòa hợp hòa giải? Các ông văn nghệ sĩ hải ngoại đừng thấy các “đồng chí “ lên tiếng đòi dân chủ, chỉ trích đảng mà vội lân là đến gần làm quen. Niềm kiêu hãnh và óc độc tài vẫn còn ngự trị trong ý thức và tiềm thưc người cộng sản. , Marx hô hào xóa bỏ giai cấp nhưng cuộc đời bao giờ cũng núi cao biển rộng, không phải là bình nguyện, Dưới mắt cộng sản các ông hải ngoại muôn đời vẫn là dân ngụy, tay sai đế quốc, còn họ là anh hùng bách chiến bách thắng. Trừ bọn nịnh hot, các ông văn nghệ sĩ chân chính nên tự hiểu mình:

“ Gối rơm theo phận gối rơm, / Có đâu dưới thấp lại chồm lên cao”.

Thật ra, chỉ một số "cà cuống đến đít còn cay", vẫn tự hào bách chiến bách thắng và đĩnh cao trí tuệ của loài người, còn phe quốc gia là trộm cướp, dĩ điếm, dốt nát, và văn học miền Nam là văn học đồi trụy. Gần thế kỳ trước, Vũ Hoàng Chương đã thấy được người quốc gia bị khinh bỉ, bi giết, bị tống gam phải bỏ nước mà trôi dạt trên sóng đai dương:

Lũ chúng tôi lạc loài dăm bảy đứa,
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh!
Bể vô tận sá gì phương ghướng nữa,
Thuyền ơi thuyền, theo gió hãy lênh đênh. 

Và hơn một thế ky trước, đầu thế kỷ XX, cư sĩ Nguyễn Văn Thới đã thấy dân Bác Kỳ cục kỳ ngạo mạn,  đốt sách, xuyên tạc lịch sử,  ngang ngược tạo ra một nền văn học dối trá, miệt thị văn học miền Nam:
Trách thay Bắc địa lộng tình
Tác thơ kinh sử bất bình trung can
Đêm nằm nát một lá gan
Oán thù nịnh tặc chẳng an trong lòng.
(Thừa nhàn)

Số đó chỉ là số it, còn tuyệt đại đa số nhân dân  tôn trọng người chiến sĩ quốc gia và văn học nghệ thuật quốc gia. Bằng chứng rõ rệt là sau 1975, ngtười Băc vào Nam nhận hàng, trong các món hàng như vải voc, áo quần, xe đạp, radio, TV..., họ cũng mang về kinh Phật, tiểu thuyết, và các sách văn học, triết học. Ngày nay, nhân dân Miền Bắc rất thích nhạc vàng, và say mê nghe các giọng hát Thái Thanh, Thanh Thúy,Thanh Tuyến, Hà Thanh... Rõ rệt nhất lá anh em của Phan Lạc Tiếp đã đón tiếp ông rất nồng hậu và bảo vệ ông trong thời gian ông về Sơn Tây (Quê Nhà 40 Năm Trở Lại). Trong khi một vài anh chàng vẫn thờ Mac, Mao, Stalin, vẫn có nhiều người hoàn toàn đồng tâm, đồng chí với người quốc gia. Chúng ta sẽ cùng họ chiến đấu diệt cộng sản, xây dựng một nền tự do, dân chủ cho Việt Nam.

Dẫu sao, trong giai đoạn nhá nhem tranh tối tranh sáng,  ta vẫn phải thận trọng kẻo bi hố. Đừng  ôm chầm lấy họ, "hồ hởi phấn khởi"  vỗ tay đòm độp , gửi tiền bạc cho họ, tôn họ làm lãnh tụ..Chúng ta không buồn khi nghe bọn vô thần báng bổ thần thánh nhưng cũng chẳng nên híp mắt khi nghe các ông Việt Cộng nói những lời đường mật giả dối. Trong khi thiên hạ xây dựng cung vàng điện ngọc, chúng ta là những nạn nhân chiến tranh, bỏ làng xóm mà đi, đến đất mới lập ra những túp lều tranh để nươngn náu. Ta không nên tự tôn mà cũng chẳng tự ty vì nó là công lao của ta, là kỷ niệm hạnh phuc buổi đầu của người “ di tản buồn”. Khi cái tâm đã thiên lệch thì "yêu nên tốt ghét nên xấu". Cộng sản có thói căm thù quốc gia, nhưng ta là người quốc gia, phải ủng hộ công cuộc xây dựng cộng đồng hải ngoại Sao lại khinh khi, dèm xiểm công cuộc xây dựng văn hóa nghệ thuật và bảo tồn văn hóa dân tộc của các cộng đồng hải ngoại?

Văn học nghệ thuật ngày nay hoàn toàn không nuôi sống ai, trừ rất ít một số có tài kinh doanh. Chúng ta bây giờ xem nghề văn, thơ là nghề tay trái. Ngày nay, chúng ta dường như hiếm thấy những văn chuyên nghiệp. Chúng ta ngày nay viết truyện, làm thơ và ca hát vào những lúc rảnh rang. Còn thì giờ chính chúng ta phải lo sinh kế. Nhiều khi không phải là một nghề. Nhà văn, nhà thơ lại còn phải bỏ tiền ra in, truyện, thơ và sách, báo.
Theo con đường văn học nghệ thuật không có lợi mà chỉ có hao tốn. Nói một cách khác, chúng ta bây giờ làm văn hóa là hoàn toàn bất vụ lợi. Chúng ta bây giờ hy sinh cho lý tưởng như một tín đồ khổ hạnh, như những thánh tử đạo vì con đường chúng ta đi đầy khốn khó đau thương! Chúng ta phải trở lại thời Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Du, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú viết mà không nghĩ đến lợi nhuận. Chúng ta ở hải ngoại có mọi thứ tự do, không bị ai ra lệnh, bị ai kiểm soát và bị bỏ tù như trong chế độ cộng sản. Chúng ta cắt da xẻ thịt phục vụ văn học nghệ thuật, chẳng có ai yểm trợ trừ số it được các đại học yểm trợ.


Sự sút giảm này do là chúng ta không có khách hàng và thị trường. Chúng ta ngày nay khác hẳn thời kỳ trong nước. Tại miền Nam từ đầu thế kỷ XX cho đến 1975, nghề văn thơ dù thanh đạm vẫn kiếm ra tiền. It nhất viết một bài báo cũng được một bát phở! Ngày nay chúng ta không có độc giả, không có thị trường. Chỉ còn những ông già, bà lão biết chữ quốc ngữ là còn đọc thơ văn Việt Nam. Và trừ một vài vùng nhiều người Việt như California, Houston (Mỹ) lớp trẻ còn nói và đọc tiếng Việt, còn các nơi khác, lớp trẻ chỉ học Anh Văn, hoặc rất ít học tiếng Việt. Chúng ta có khoảng hai triệu người Việt rải rác trên thế giới, nhưng số độc giả tiếng Việt không biết được là bao, nhưng chắc chắn là rất khiêm nhường!


Các nhà nghiên cứu Pháp như Albert Camus, J.Paul Sartre đã đặt câu hỏi viết để làm gì? Viết cho ai? Câu hỏi này lại trở thành quan trọng hơn khi nói đến văn học Việt Nam hải ngoại.
Người nghệ sĩ cảm nhận âm thanh, màu sắc và cảm giác khi tiếp xúc với ngoại giới. Cũng có thể tự trong tim mình phát xuất những ý niệm, hình ảnh. Cũng như những phụ nữ mang thai, những vấn đề, những hình ảnh, những cảm xúc càng ngày càng phát triển mạnh, thôi thúc nghệ sĩ phải đem nó ra ngoài cuộc đời. Nhà văn, nhà thơ phải viết, phải ngâm, nhà họa sĩ phải vạch thành đường nét, nhà điêu khắc phải tạo thành hình khối, và các nhạc sĩ phải tạo thành âm thanh. Để làm gì? Có nhiều mục đích. Trước tiên là để tự mình thưởng thức, và khám phá cái đẹp và cái bí mật của vũ trụ. Sau đó là để truyền bá trong đại chúng để đại chúng thưởng thức, và đóng góp phần mình vào kho tàng văn học, nghệ thuật và khoa học của quốc gia và nhân loại.


Những văn nghệ sĩ Liên Xô, Đông Âu, Việt Nam đã cùng chung cảnh ngộ. Họ bị chế độ cộng sản phi nhân bắt bớ, giam cầm và tước đoạt mọi thứ tự do và quyền lợi, trong đó có quyền tự do ngôn luận và quyền sống . Quan trọng hơn hết, họ bị chế độ bạc đãi và đày ải ra khỏi quê hương. Nhân dân và văn nghệ sĩ ta không bị chế độ đuổi ra khỏi nước như Liên Xô, Đông Âu. Ta tự bỏ nước ra đi vượt bao nguy hiểm qua rừng sâu và biển cả để đến bến bờ tự do. Dù khác nhau, các văn nghệ sĩ vẫn giống nhau về một nỗi đau lưu đày biệt xứ.


Tại quốc gia của họ, họ bị cấm viết, nay ra ngoại quốc, họ liền thực hiện quyền tự do thiêng liêng này. Họ phải viết vì viết là sở thích, là nguồn sống, là lý tưởng của họ. Họ cần viết vì viết đã trở thành một nhu cầu. Nếu Pascal nói 'Tôi suy nghĩ vậy tôi hiện hữu'' thì các văn nghệ sĩ cũng có thể nói: Tôi viết, vậy tôi hiện hữu'' hay ''tôi sáng tác, vậy tôi hiện hữu''. Văn nghệ sĩ chỉ hiện hữu, chỉ thực sự là mình khi sáng tác.
Còn mọi sự khác chỉ là tạm bợ. Muốn thực hiện điều này, văn nghệ sĩ phải vượt qua bao khó khăn về vật chất và tinh thần để đứng vững, và ngồi vững trong cuộc đời mà cầm bút. Họ cần viết để ghi nhớ lại cuộc đời họ và đất nước họ. Họ cần viết để tố cáo tội ác cộng sản trước dư luận thế giới. Họ lên tiếng để tranh đấu cho tự do, dân chủ và quyền làm người đang bị chà đạp tại quê nhà. Đồng bào quốc nội đang bị đàn áp, khủng bố, họ mong muốn những người đã đến bến bờ tự do, phải tranh đấu cho tự do, dân chủ ở quê nhà.
Họ cũng mong muốn các văn nghệ sĩ khi ở trong nuớc không được viết, không đuợc phát biểu tư tưởng và tình cảm của mình, nay ra nước ngoài, phải hoạt động trở lại, phải làm một cái gì cho dân tộc và văn học. Do đó, lớp văn nghệ sĩ đầu tiên mang bao tâm trạng uất ức, mang theo trong tim bao hoài niệm quê hương cho nên ai cũng muốn viết ra, nói lên trong những trang sách. Vì vậy mà dậy lên một phong trào sáng tác. Nhà nhà làm thơ, người người làm văn. Ai cũng tự nhiên thành thi văn sĩ. 
Văn học nghệ thuật hải ngoại là đồng khởi, là đột xuất, là tự biên, tự diễn, không do ai lãnh đạo, không do ai bỏ tiền ra yểm trợ như một số người suy nghĩ theo thói quen vu vạ và chụp mũ, như những người xã hội chủ nghĩa trên báo chí cho rằng Võ Phiến là người lãnh đạo văn học hải ngoại ( cũng như Tố Hữu là trùm văn học và tư tưởng cộng sản trước đây), mà thế lực đàng sau là đế quốc Mỹ bỏ tiền ra để chống phá chế độ cộng sản.
Họ nghĩ sai. Bao thập niên qua, Mỹ không còn coi cộng sản là kẻ thù. Hồi giáo mới là kẻ thù của họ. Họ đã đưa tài sản, máy móc, hãng xưởng qua Trung Quốc, Việt Nam . Chỉ có người quốc gia chân chính mới thù ghét chế độ tàn ác và độc tài cộng sản. Khi đã coi cộng sản nếu không là bạn thì cũng là công cụ cho việc sản xuất và kinh doanh của họ, họ sẽ không có kế họạch nào cần thiết để bỏ tiển ra cho những công việc chống cộng. Sau hiệp định Paris 1973, mọi kế hoạch chống cộng đã xếp lại rồi. Chỉ riêng người quốc gia vẫn tiếp tục ý chí đấu tranh của mình dù không có Pháp hay Mỹ viện trợ. Nói tóm lại, với các văn nghệ sĩ lưu vong, sáng tác là :


-phản kháng chính sách nô dịch văn hóa của cộng sản
-phản kháng sự ngăn chận tự do ngôn luận, tự do sáng tác của cộng sản.
-trình bày sự thật của lịch sử, tố cáo tội ác của cộng sản trước đồng bào và nhân dân thế giới, đồng thời chống lại chủ trương bóp méo và xuyên tạc sự thật của cộng sản.
-tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại quê hương.


Ở lời nói đầu trong tập truyện Miền Thương Uyển Xưa, Đặng Phùng Quân viết:
Hành trạng của viết phác lên tiếng thương đau cho những người cầm bút giờ đây còn đang bị đầy đọa trong cái thế giới 'cơm,áo, gạo, tiền' rất hiện thực, cũng rất phi nhân, giờ đây không thể biết đến viết là gì.


Nhân vật nữ tại Việt Nam trong Ngày Tháng Bồng Bềnh của Nguyễn Văn Sâm đã nói:
Ở đây có quá nhiều chuyện bất công, quá nhiều điều xấu. Qua được bên đó, anh hãy viết thế nào cho mọi người nhận chân được lẽ chính tà, khơi dậy được suy nghĩ về số phận bi thảm của dân tộc mình (11).
Khi ở trong tù, Hà Thúc Sinh tự nhủ rằng nếu được sống trở về sẽ làm'' một đời thằng mõ không công'' . Cũng trong Lời nói đầu của Đại Học Máu, Hà Thúc Sinh viết rằng tác phẩm của ông là một bản phúc trình của một người lính Việt Nam Cộng Hòa bị bỏ rơi, bị ở tù cộng sản rồi được thoát ra ngoài . . .


Mở đầu quyển Hỏa Ngục Đỏ, Mối Tình Tôi, Lucien Trong viết:
…Tôi không viết quyển sách này để thỏa mãn sự căm giận. Đã bị đẩy đến tận cùng của tuyệt vọng, giờ không còn gì hơn ngoài sự mệt mỏi chán chường. Quyển “Enfer Rouge, mon amour” tôi viết bằng tiếng Pháp là để bày tỏ cùng Quốc tế tiếng nói uất nghẹn của một dân tộc đang bị kềm kẹp, còn quyển sách viết ra tiếng Việt nầy mới là lời tâm sự với những người đồng hương hiện cùng mang chung với tôi tâm trạng đau thương của người dân mất nước, nay đã trở thành hỏa ngục Đỏ, mối tình tôi….


Bàn về văn học hải ngoại, người cộng sản quốc nội hay thiên cộng, bợ đỡ cộng sản ở hải ngoại đã cho rằng không có một nền văn học hải ngoại, và họ cũng bắt chước Marx mà bảo văn học hải ngoại đang dẫy chết. Họ không biết rằng hiện nay tại quốc nội, tình trạng văn học nghệ thuật đang xuống dốc. Văn nghệ sĩ không muốn sáng tác và độc giả đã và đang lìa bỏ họ.


Sau ngày bỏ chính sách bao cấp, theo đường lối kinh tế thị trường, các nhà xuất bản (tất cả là quốc doanh) phải tính lời lỗ, chứ không như trước. Nhà xuất bản chỉ in những sách do đảng quyết định mặc dầu những sách này không ai mua như Lenin Toàn Tập, Hồ Chí Minh Toàn Tập. . .Những cá nhân bình thường muốn in sách thì phải bỏ tiền in và nộp tiền cho nhà xuất bản ( nhà xuất bản Quân Đội, Thông Tin, Văn Hóa, Phụ Nữ, Lao Động ) để mua lấy giấy phép. Khi xin được phép, dở bản thảo ra, người ta mới té ngữa ra là từ nhan đề cho đến nội dung đã đổi khác vì nhà xuất bản có quyền kiểm duyệt, và người kiểm duyệt muốn chứng tỏ họ có học vấn cao, có tài văn chương trác tuyệt và nhất là có trình độ chính trị Mác Lê Nin cao ngất ngọn tre! Sau khi in, tác giả phải lo việc phát hành mà chắc chắn là lỗ.
Nên biết rằng trong chế độ cộng sản, người ta đề ở bìa số in là hàng chục ngàn nhưng thực tế được là bao thì khó biết. Nghề dạy học nói chung, đặc biệt là nghề dạy và học văn học đã suy đồi thê thảm, vì không ai muốn làm những cán bộ tuyên vận, làm những kẻ đánh đĩ mồm, ca tụng đảng trong khi thực tế quá rách nát! Còn sinh viên, học sinh coi giờ văn là giờ tra tấn. Người ta không còn thích đọc sách nữa. Không bao giờ còn cái cảnh văn học thịnh trị của miền Nam trước 1975. Không bao giờ ta thấy cảnh nhà xuất bản, nhà in mọc như nấm, và nhà xuất bản trả tác quyền cho nhà văn. Và một nhà văn viết một lần mười cái feuilletons.
Không bao giờ ta thấy cảnh mấy bác xích lô trưa hè dừng xe dưới gốc cây đọc báo hay ngủ trưa, hoặc bàn luận những tin tức thời sự! Dân ta bây giờ tám mươi triệu, đuợc mấy người mua sách báo? Ông Khai Trí trở về Việt Nam là muốn chờ ngày thay đổi để ông có thể sống lại với cơn đam mê xuất bản của ông. Cái thị trường to lớn với tám mươi triệu dân là một niềm mơ ước và là những tính toán lớn lao! Khoảng 1980, cộng sản cho tái bản sách Tự Lực Văn Đoàn, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng để kiếm tiền, và dân chúng cũng đã mua nhiều bởi vì người ta chán cộng sản, đi tìm quá khứ. Trong quyển Hồi Ức 40 Năm Làm Báo, Nguyễn Thụy Long viết về tình hình văn nghệ tại Việt Nam hiện nay:


Tiẻu thuyết truyện ngắn, truyện dài, thơ văn thời bây giờ thật khó tiêu thụ, chẳng nhà in nào chịu in ấn, nếu nhà văn, nhà thơ nào đó có mộng bán tác quyền cho nhà xuất bản, hoặc đầu nậu bỏ tiền ra in để kiếm lời, không còn chuyện đó đâu, hết rồi thuở người ta tìm tiểu thuyết của những nhà văn để xin in, trả tiền tác quyền cho tác giả ( Thời Báo số 1109, 16-9-2004,132. Toronto).

Nhìn chung, vạn sự khởi đầu nan, công việc xậy dựng văn học hải ngoại ở buổi đầu khá vất vả. Có nhiều nguyên nhân :
-Các nhà văn đã già nua, bệnh họan.
-Họ đau khổ vì cuộc sống tạm dung ở đất khách quê người.
-Một số bận mưu sinh
-Kinh tế yếu kém, không có hoặc it có Mạnh Thường Quân yểm trợ.


Ấy thế mà các văn nghệ sĩ đã làm được nhiều việc, quả là thần kỳ !
Bởi vì nhiều lý do. Ở trong nước, chúng ta bị kìm kẹp, nay ra hải ngoại, có quyền tự do, chúng ta viết để hưởng thụ quyền tự do trong một thế giới nhân bản và văn minh. Chúng ta mang trong tim tình yêu quê hương, và bao kỷ niệm êm đềm và đắng cay, nay những cái đó thôi thúc chúng ta viết lên trang giấy. Chúng ta phải viết để nói với thế giới bên ngoài về thực trạng bưng bít trong nước. Và cuối cùng, chúng ta cần viết để xây dựng một nền văn hóa mới, vì ở đâu, con người cần phải có thi ca, tiểu thuyết, âm nhạc, báo chí và thông tin. Dân tộc Việt Nam đã ồ ạt bỏ nước đi tìm tự do, và nay, chúng ta đồng lòng viết để nói lên tiếng nói của tình yêu, tự do và dân chủ.
  
Ngày nay văn học quốc nội và quốc ngoại đều đình trệ. Sau này không biết sẽ chuyển vần như thế nào nhưng văn học hải ngoại đã có một thời  phát triển  từ 1980 đến nay dù mấy năm nay việc xuất bản khó khăn...
_____
CHÚ THICH
[1] Nguyễn Văn Lục . Tình trạng lão hóa của văn học Hải Ngoại. https://tiengquehuong.wordpress.com/2015/03/07/van-hoc-hai-ngoai-2/
[2]Thụy Khuê. Thử tìm một lối tiếp cận văn sử học về Hai mươi nhăm năm văn học Việt Nam hải ngoại 1975-2000  http://thuykhue.free.fr/tk99/tiepcan.html
[3] Nguyễn Mộng Giác. Nghĩ về văn học hải ngoại. Văn Mới, California USA, 30-32
[4]http://tuoitre.vn/tin/van-hoa-giai-tri/van-hoc-sach/20040113/nha-van---dich-gia-huynh-phan-anh-toi-da-va-van-se-la-mot-nguoi-vn/16150.html
[5] Nguyễn Mạnh Trinh. Những cái nhìn Văn Học Việt Nam Hải Ngoại từ trong Nước.
https://nguoitinhhuvo.wordpress.com/2015/03/22/nhung-cai-nhin-van-hoc-viet-nam-hai-ngoai-tu-trong-nuoc-nguyen-manh-trinh/

(Trich NGUYỄN THIÊN THỤ * VIỆT NAM VĂN HỌC SỬ TOÀN THƯ-
6   tập - 5000 trang- sẽ xuất bản nay mai)


Tuesday, 1 November 2016


CÀFÉ = BIỂN ĐÔNG

Saturday, October 3, 2015



CÀFÉ HANOI

 

Thưởng thức cà phê nhớ Hà Nội xưa

Hà Nội nay đã khác nhiều rồi, hiện đại hơn, tấp nập hơn, song những người con đất Hà Thành và những người yêu Hà Nội vẫn luôn đi tìm hình bóng cũ. Bên cạnh những góc phố, các kiến trúc cổ thì đôi khi họ lại bắt gặp lại nét cũ thân thương trong những quán cà phê mang phong cách hoài niệm.
Cà phê Giảng - 39 Nguyễn Hữu Huân và 106 Yên Phụ\
Nói đến cà phê ở xứ Hà Thành thì không thể không nhắc đến Cà phê Giảng, nơi được cho là khai sinh ra món cà phê trứng thơm ngậy được người dân thủ đô yêu thích, thậm chí còn được lan sang nhiều nước trên thế giới.
Quán Café Giảng do cụ Nguyễn Văn Giảng là một nhân viên pha chế ở khách sạn Metropole thời Pháp thuộc mở ra năm 1946. Ban đầu quán nằm ở 90 phố Cầu Gỗ, sau cải cách năm 1955 thì quán chuyển qua số 7 Hàng Gai. Khi ấy, quán nhỏ và khá đơn sơ với những bộ bàn ghế gỗ nhỏ nhắn, những chiếc tách xinh xắn, nhưng luôn đầy kín khách. Cà phê ở đây đậm sánh và rất thơm. Khi xưa, chưa có nhiều thiết bị giữ nhiệt nên trong những ngày giá rét, quán giữ ấm cho ly cà phê bằng cách ngâm tách cà phê trong bát nước sôi. Và nay, dù đã có nhiều cách hiện đại hơn, song quán vẫn giữ truyền thống này. “Món tủ” của quán chính là cà phê trứng được cụ Giảng biến thể từ đồ uống Capuchino hồi đó.
Nay hai người con của cụ Giảng đã tách ra kinh doanh ở hai địa điểm khác nhau là 39 Nguyễn Hữu Huân và 106 Yên Phụ.\
\
Hương vị cà phê của hai quán giờ đây không giống nhau. Tuy nhiên, sự hòa quyện giữa cái béo của trứng và sữa, mùi thơm của cà phê tạo cho bạn cảm giác thú vị mà không tìm thấy ở bất cứ quán nào khác.
Cà phê Xí nghiệp - 60A-TT11, Văn Quán, Hà Đông
Quán cà phê này nằm trong một con ngõ nhỏ của khu đô thị Văn Quán – Hà Đông. Mọi thứ ở quán đều toát lên vẻ xưa cũ. Quán có hai tầng, nhưng chỉ tầng một là café, còn tầng hai lại là nơi tổ chức các lớp học đàn guitar, mỹ thuật, typography.

Toàn bộ bàn ghế trong quán đều là những bộ bàn ghế học sinh cũ từ rất nhiều năm về trước, những tấm áp phích cùng khẩu hiệu, xe máy cổ, tivi, máy ảnh cũ, những tác phẩm hội họa,…
Trong căn phòng cao rộng, tĩnh lặng, chỉ có ánh sáng thiên nhiên từ bên ngoài rọi qua ô cửa sổ lớn, dường nhưlàm xoa dịu sự mệt mỏi của những vị khách khi tới đây.
Cà phê Hanoi Time – 39 Đinh Tiên Hoàng
Quán nằm trên gác hai của dãy nhà cổ trong hẻm nhỏ ở đường Đinh Tiên Hoàng, được bao phủ bởi tông màu vàng, mang âm hưởng cổ kính cũ kĩ, với những bộ bàn ghế gỗ lót đệm da êm ái.Những ô cửa sổ xanh dài, đèn dầu, máy đánh chữ, quạt bốn cánh bằng đồng, hay những bức tranh nhỏ trên tường chỉ có hai gam màu đen trắng mang đậm dấu ấn lịch sử về 36 phố phường Hà Nội xưa. 
Khách đến quán thích nhất hàng ghế bên cửa sổ và khu vực ngoài ban công. Từ ban công của quán có thể nhìn ngắm nhìn Hồ Gươm hay đường phố, dòng người qua lại.


Đến với quán, những lo toan, đua chen không còn nữa. Mọi người đến đây như tìm lại chút thư thái, lắng đọng trong tâm hồn và hoài niệm về những chuyện xưa cũ.
Ngoài ra, những người ghiền thức uống có vị đắng này và yêu Hà Nội còn có thể tìm đến những quán cà phê “truyền thống” như Café Đinh trên gác hai ở phố Đinh Tiên Hoàng, hay cà phê Lâm trên phố Nguyễn Hữu Huân, cà phê Nhĩ phố Hàng Gà…
 

Hà Nội xưa trong quán cà phê bên bờ hồ

Quán cà phê nhỏ nép mình trên tầng 2 của dãy nhà cổ ven hồ Hoàn Kiếm vẫn ngày ngày là điểm đến yêu thích của nhiều du khách thích ngắm phố phường Hà Nội.

     
     
    Nếu từng rất thích chỗ ngồi ngoài ban công của quán cà phê Đinh nhưng thường xuyên không còn chỗ trống, bạn có thể lựa chọn một địa điểm khác, gần đó nhưng tầm nhìn đẹp không kém, đó là Hanoi Time.
    Quán nằm trên gác hai của dãy nhà cổ ở đường Đinh Tiên Hoàng nên bạn phải đi sâu vào con ngõ hẹp và tối mới lên được đây. Lối đi chỉ vừa cho hai người đi bộ tránh nhau, có chỉ dẫn nên bạn cứ theo bậc cầu thang quét vôi vàng là tới.
Đẩy cánh cửa nhỏ như của một ngôi nhà riêng, bạn bước vào sẽ thấy quán khá nhỏ xinh và thân thuộc. Nơi đây được chia thành nhiều không gian gồm quầy pha chế, phòng chính, gác xép và ban công ngoài trời.  Đẩy cánh cửa nhỏ như của một ngôi nhà riêng, bạn bước vào sẽ thấy quán khá nhỏ xinh và thân thuộc. Nơi đây được chia thành nhiều không gian gồm quầy pha chế, phòng chính, gác xép và ban công ngoài trời.

Với mong muốn đem đến một không gian xưa, quán sử dụng bàn ghế da kết hợp gỗ và các món đồ trang trí với tông màu nâu trầm, cổ điển. Cách sắp xếp chỗ ngồi phù hợp cho khách đi 2-4 người.

 

Chỗ ngồi được yêu thích trong phòng chính là các ghế gần cửa sổ. Tại đây, quán sử dụng ghế sắt tạo nét thanh mảnh cho hai ô cửa lớn, đón ánh sáng mặt trời.
Ngoài những tấm ảnh đen trắng về Hà Nội xưa được đóng khung treo trên bức tường vàng, quán còn tạo điểm nhấn với việc tái hiện phố phường Hà Nội trong quá khứ trên lan can gác xép. Bức tranh nổi với những ngôi nhà hai tầng mái đỏ, cột điện cao, du khách như được trở về miền xưa cũ.
Gác xép là nơi đặt hai bộ salon lớn, dành cho các nhóm đi đông.
Nếu đi một mình, chỗ ngồi ngoài ban công là lựa chọn hợp lý, nhất là vào tiết trời mùa thu mát mẻ như hiện này. Bạn có thể thả hồn vào thiên nhiên và ngắm dòng xe cộ tấp nập ven hồ phía dưới. Tại đây, ghế được sử dụng là loại cao, tạo sự trẻ trung, mới mẻ.
Quán mở cửa từ 7h sáng đến tối khuya, thường khá đông vào dịp cuối tuần. Trà, cà phê khoảng 35.000 đồng, nước hoa quả có giá trung bình 40.000 - 60.000 đồng, cocktail, mocktail giá từ 80.000 đồng trở lên. Ngoài ra, quán còn phục vụ cả đồ ăn như cơm, sandwich, salad, bánh mì...

  10 quán cà phê giới trẻ nô nức check in ở Hà Nội

Bên cạnh những quán cũ như Cộng, The Kafe, Cosa Nostra, các quán mới như Runam, D'alice, hay Nhà 9NKC cũng là chốn quen của nhiều người.

Cộng Tràng Tiền
Nằm trong chuỗi quán cà phê bao cấp nổi tiếng của Hà Nội, Cộng Tràng Tiền luôn là tụ điểm hot nhất thủ đô, từ khi quán mở buổi sáng, tới 22h đêm vẫn có khách mới vào. Đã có thời điểm, muốn có một chỗ ngồi đẹp bên ngoài, khách phải xếp hàng chờ đến lượt.
cf3.jpg
Ban công ngoài trời của Cộng Tràng Tiền được đánh giá là đắt giá nhất Hà Nội. Ảnh: Nguyên Chi
Tọa lạc ở một trong những vị trí đắt giá nhất Hà Nội là lý do khiến cơ sở này luôn đông khách hơn những địa điểm còn lại. Quán nằm trên tầng 2, góc đường Tràng Tiền - Nguyễn Xí, một đầu nhìn ra hồ Gươm, một đầu nhìn ra Nhà hát Lớn.
cf-5.jpg
Địa chỉ: 46 Tràng Tiền.
Runam cafe
"Nhập khẩu" từ Sài Gòn vào Hà Nội cuối năm 2014, Runam cafe từng là địa chỉ hot nhất trong những ngày đầu năm khi mang phong cách sang chảnh, thượng lưu, lại mở xuyên những ngày nghỉ lễ. Quán nằm ngay gần Nhà thờ Lớn, mặt tiền không rộng, nhưng diện tích bên trong cũng kê được kha khá bàn, đủ chỗ cho nhiều vật dụng trang trí.
cf-19.jpg
Ảnh: Nguyên Chi
Runam cafe nổi tiếng nhất với loại cà phê thượng hạng được pha bằng máy chuyên dụng đắt tiền. Các loại trà bánh, đồ ăn trưa, ăn tối cũng luôn được phục vụ với yêu cầu khá khắt khe, so với một nhà hàng không chuyên. Dù vậy, giới trẻ tới đây để check in nhiều hơn là để thưởng thức đồ ăn. Giá cả thuộc mức cao so với mặt bằng chung.
cf30.jpg
Ảnh: Instagram Runam
Địa chỉ: 13 Nhà Thờ.
Cosa Nostra
Nằm ở góc phố được giới trẻ ưu ái gọi là "góc châu Âu trong lòng Hà Nội", Cosa Nostra chưa từng vắng khách suốt thời gian qua, trong đó, không ít khách là những người đam mê chụp ảnh. Có thể nói, quán có view đẹp nhất trong những quán cà phê ở Hà Nội, với tầm nhìn thoáng, rộng xuống vườn hoa xanh mát mắt, nằm bên hông Nhà hát Lớn, không hề có nhà cao tầng chắn tầm mắt.
cf-6_1436955655.jpg
Quán nằm ở ngã ba Tông Đản - Lý Đạo Thành. Ảnh: 5beo


Ngay cả khi ngồi ở tầng 1, khách cũng có thể chọn góc sát cửa sổ, nhìn ra ngã ba đường, để nhâm nhi tách trà, nhìn nắng chiều xiên qua ô cửa sổ trong một buổi chiều thanh thản, bình yên. Giá cả ở Cosa Nostra ở mức hợp lý, có phục vụ đồ ăn.
cf-7.jpg
Ban công thoáng rộng của Cosa Nostra. Ảnh: Hanhchipp
Địa chỉ: 24 Tông Đản, cắt Lý Đạo Thành.
Nhà 9NKC
cf8.jpg


Nhà 9NKC là cách viết tắt của địa chỉ số 9 Nguyễn Khắc Cần. Quán có không gian khá đa dạng: trong nhà, sát cửa sổ, giếng trời, trên sân thượng. Được đầu tư khá kỹ về mặt design, Nhà được đánh giá là một trong những quán cà phê đẹp nhất Hà Nội, dù không có nhiều không gian ngoài trời. 
Cũng chính bởi thiết kế độc đáo mà quán thường xuyên xuất hiện trong hình ảnh check in đẹp mắt của các hotgirl, fashionista.
cf10.jpg
Khu vực giếng trời độc đáo của Nhà 9 NKC. Ảnh: Voldzalla Hahaha
Giá cả ở đây khá đắt so với chất lượng. Quán có cả đồ ăn trưa, ăn tối.
Địa chỉ: 9 Nguyễn Khắc Cần.
The KAfe
Cách đây gần 2 năm, The KAfe trên đường Điện Biên Phủ thuộc hàng hot số một bởi không gian bài trí rất giản tiện nhưng lại hiện đại. Thời điểm đó, The KAfe đi đầu cho phong cách trang trí quán với ô cửa sổ lớn, nội thất gỗ trơn rất Tây.
cf27-changgjerry.jpg
Không gian đã trở nên quen thuộc với giới trẻ Hà Nội. Ảnh: Changgjerry
cf28.jpg
Ảnh: Instagram The Kafe
Hiện nay, The KAfe đã có thêm nhiều chi nhánh như nhà hàng, quán đồ ăn nhanh... nhưng địa chỉ ở Điện Biên Phủ vẫn rất hút khách do vị trí ở ngay trung tâm.
Địa chỉ: 18 Điện Biên Phủ.

CAFÉ SAI GON



Cà phê Sài Gòn xưa


Bạn đã uống cà phê nhiều, bạn biết muốn pha một ly cà phê tuyệt vời đâu có khó. Cà phê loãng nước nhưng đậm mùi thơm, cà phê mít đặc quánh mà vô vị, hãy chọn một tỷ lệ pha trộn thích hợp là đã đi được 70% đoạn đường rồi; muốn kẹo thêm nữa hả? Muốn hưởng cái cảm giác chát chát, tê tê đầu lưỡi phải không? Dễ mà, thêm vào chút xác cau khô là xong ngay. Bạn muốn có vị rhum, thì rhum; bạn thích cái béo béo, thơm thơm của bơ, cứ bỏ chút bretain vào. Bạn hỏi tôi nước mắm nhĩ để làm gì à? Chà, khó quá đi, nói làm sao cho chính xác đây! 

Thì để cho nó đậm đà. Đậm làm sao? Giống như uống coca thì phải có thêm chút muối cho mặn mà đầu lưỡi ấy mà. Uống chanh đường pha thêm chút rhum cho nó ra dáng tay chơi. Như kẻ hảo ngọt nhưng vẫn cắn răng uống cà phê đen không đường cho lập dị. Thèm đá muốn chết nhưng cứ chốn bạn nhậu thì nằng nặc đòi uống chay không đá cho giống khác người, cho đẳng cấp. Tôi không biết, không tả được, mời bạn hãy thử và tự cảm nhận lấy. Bạn đòi phải có tách sứ, thìa bạc; bạn nói phải nghe nhạc tiền chiến, phải hút Capstan (dộng vài phát hết gần nửa điếu và rít đỏ đầu), Ruby hay Basto xanh mới đã đời, thú vị phải không? Bạn đã có đủ những gì bạn cần, sao lại cứ thích đi uống cà phê tiệm? Tôi không trách bạn đâu. Cà phê ngon chỉ mới được một nửa, nhưng chúng ta đâu chỉ cần uống cà phê, chúng ta còn ghiền “uống” con người tại quán cà phê; “uống” không khí và cảnh sắc cà phê; “uống” câu chuyện quanh bàn cà phê và nhiều thứ nữa. Vậy thì mời bạn cùng tôi trở lại không khí cà phê Sài Gòn những năm cuối 1960 và đầu 1970.

Sài Gòn những năm giữa thập niên 1960 đến đầu thập niên 1970 tuổi trẻ lớn lên và tự già đi trong chiến tranh. Những “lưu bút ngày xanh” đành gấp lại; những mơ mộng hoa bướm tự nó thành lỗi nhịp, vô duyên. Tiếng cười dường như ít đi, kém trong trẻo hồn nhiên; khuôn mặt, dáng vẻ tư lự, trầm lắng hơn và đầu óc không thể vô tư nhởn nhơ được nữa. Những điếu thuốc đầu tiên trong đời được đốt lên; những ly cà phê đắng được nhấp vào và quán cà phê trở thành nơi chốn hẹn hò để dàn trải tâm tư, để trầm lắng suy gẫm. 


Có một chút bức thiết, thật lòng; có một chút làm dáng, thời thượng. Đối với một thanh niên tỉnh lẻ mới mẻ và bỡ ngỡ, Sài Gòn lớn lắm, phồn vinh và náo nhiệt lắm. Phan Thanh Giản đi xuống, Phan Đình Phùng đi lên; hai con đường một chiều và ngược nhau như cái xương sống xuyên dọc trung tâm thành phố giúp định hướng, tạo dễ dàng cho việc di chuyển. Cứ như thế, cái xe cọc cạch, trung thành như một người bạn thân thiết lê la khắp Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định. 

Những ngày này, tôi là khách thường trực của quán Cà phê Thu Hương đường Hai Bà Trưng. Quán nằm ở một vị trí đẹp, chiếm ba lô đất ngó chéo qua phía trại hòm Tobia; nơi đây có một căn phòng hẹp vừa đặt quầy thu tiền, vừa là chỗ ngồi cho những ai thích nghe nhạc với âm thanh lớn, phần còn lại là một sân gạch rộng, có mái che nhưng không ngăn vách, từ trong có thể nhìn rõ ra đường qua những song sắt nhỏ sơn xanh với một giàn hoa giấy phủ rợp. Ngồi đây có thể nghe được văng vẳng tiếng nhạc vọng ra từ bên trong; cảm được chút riêng tư cách biệt, nhưng đồng thời cũng có thể nhận ra được sức sống bừng lên mỗi sáng, dáng vẻ mệt mỏi, u ám mỗi chiều đang lặng lờ chảy qua trên đường phía ngoài.

Chủ quán ở đây là một người đặc biệt: Khó chịu một cách dễ thương. Hình như với ông, bán cà phê chỉ như một cách tiêu khiển và pha cà phê là một nghệ thuật kỳ thú. Ông hãnh diện với tên tuổi của Thu Hương và muốn bảo vệ nó. Bạn là khách uống cà phê phải không? Xin cứ ngồi yên đó. Cà phê được bưng tới, ông chủ sẽ ngồi đâu đó quan sát và sẽ xuất hiện đúng lúc cạn phin, sẽ bỏ đường, khuấy đều cho bạn và sẽ lịch sự “xin mời” khi mọi việc hoàn tất.


 Ly cà phê như vậy mới là cà phê Thu Hương, đó là cung cách của Thu Hương, đặc điểm của Thu Hương. Trong lãnh vực kinh doanh quán cà phê, có người dùng âm thanh; có người dùng ánh sáng và cảnh trí; có người nhờ sự duyên dáng của tiếp viên; có người dùng phẩm chất của cà phê để hấp dẫn khách. Ông chủ Thu Hương đã chọn cách cuối cùng, cách khó nhất và ông đã thành công. Khách đến với Thu Hương là ai? Nhiều lắm, nhưng dù từ đâu họ đều có điểm giống nhau là tất cả đều trẻ và đều có vẻ “chữ nghĩa” lắm; “ông”, “bà” nào cũng tha tập cours quằn tay, cộng thêm các tập san Sử địa, Bách khoa, Văn và vân vân... 



Bạn thường ăn phở gà Hiền Vương, phở Pasteur; bạn thường đi qua đi lại liếc liếc mấy bộ đồ cưới đẹp ở nhà may áo dài Thiết Lập, vậy bạn có biết cà phê Hồng ở đâu không? Thì đó chứ đâu, gần nhà may Thiết Lập, cách vài căn về phía đường Nguyễn Đình Chiểu, ngó xéo qua mấy cây cổ thụ ở bờ rào Trung tâm Thực nghiệm Y khoa (Viện Pasteur). Tôi phải hỏi vì tôi biết có thể bạn không để ý. Quán nhỏ xíu hà, với lại cái tên Hồng và tiền diện của nó trông ủ ê cũ kỹ lắm, chứ không sơn phết hoa hòe, đèn treo hoa kết gì cả.


 Từ ngoài nhìn vào, quán như mọi ngôi nhà bình thường khác, với một cái cửa sổ lúc nào cũng đóng và một cánh cửa ra vào nhỏ, loại sắt cuộn kéo qua kéo lại. Quán hẹp và sâu, với một cái quầy cong cong, đánh verni màu vàng sậm, trên mặt có để một ngọn đèn ngủ chân thấp, với cái chụp to có vẽ hình hai thiếu nữ đội nón lá; một bình hoa tươi; một con thỏ nhồi bông và một cái cắm viết bằng thủy tinh màu tím than. Phía sau, lúc nào cũng thấp thoáng một mái tóc dài, đen tuyền, óng ả, vừa như lãng mạng phô bày vừa như thẹn thùng, che giấu.

Cà phê Hồng, về ngoại dáng, thực ra không có gì đáng nói ngoài cái vẻ xuề xòa, bình dị, tạo cảm giác ấm cúng, thân tình và gần gũi; tuy nhiên, nếu ngồi lâu ở đó bạn sẽ cảm được, sẽ nhận ra những nét rất riêng, rất đặc biệt khiến bạn sẽ ghiền đến và thích trở lại. 


Hồi đó nhạc Trịnh Công Sơn đã trở thành một cái “mốt”, một cơn dịch truyền lan khắp nơi, đậu lại trên môi mọi người, đọng lại trong lòng mỗi người. Cà phê Hồng đã tận dụng tối đa, nói rõ ra là chỉ hát loại nhạc này và những người khách đến quán - những thanh niên xốc xếch một chút, “bụi” một chút (làm như không bụi thì không là trí thức)- đã vừa uống cà phê vừa uống cái rã rời trong giọng hát của Khánh Ly. Không hiểu do sáng kiến của các cô chủ, muốn tạo cho quán một không khí văn nghệ, một bộ mặt trí thức hay do tình thân và sự quen biết với các tác giả mà ở Cà phê Hồng lâu lâu lại có giới thiệu và bày bán các sách mới xuất bản, phần lớn là của hai nhà Trình Bày và Thái Độ và của các tác giả được coi là dấn thân, tiến bộ.


 Lại có cả Time, Newsweek cho những bạn nào khát báo nước ngoài. Quán có ba cô chủ, ba chị em; người lớn nhất trên hai mươi và người nhỏ nhất mười lăm, mười sáu gì đó. Nói thật lòng, cả ba cô đều chung chung, không khuynh quốc khuynh thành gì, nhưng tất cả cùng có những đặc điểm rất dễ làm xốn xang lòng người: Cả ba đều có mái tóc rất dài, bàn tay rất đẹp và ít nói, ít cười, trừ cô chị. Những năm 1980, Cà-phê Hồng không còn, tôi đã thường đứng lại rất lâu, nhìn vào chốn xưa và tự hỏi: Những người đã có thời ngồi đây mơ ước và hy vọng giờ đâu cả rồi? Còn chị em cô Hồng: những nhỏ nhẹ tiểu thư, những thon thả tay ngà, những uyển chuyển “chim di” giờ mờ mịt phương nào? 


Viện Đại học Vạn Hạnh mở cửa muộn màng nhưng ngay từ những năm đầu tiên nó đã thừa hưởng được những thuận lợi to lớn về tâm lý, cùng với những tên tuổi đã giúp cho Đại Học Vạn Hạnh được nhìn vừa như một cơ sở giáo dục khả tín, vừa như một tập hợp của những thành phần trẻ tuổi ý thức và dấn thân. Tuy nhiên, dường như cái hồn của Đại Học Vạn Hạnh được đặt tại một tiệm cà phê: Quán Nắng Mới ở dốc cầu, ngó xéo về phía chợ Trương Minh Giảng. Quán Nắng Mới có nhiều ưu thế để trở thành đất nhà của dân Vạn Hạnh, trước nhất vì gần gũi, kế đến là khung cảnh đẹp, nhạc chọn lọc và cuối cùng, có lẽ quan trọng nhất là sự thấp thoáng của những bóng hồng, có vẻ tha thướt, có vẻ chữ nghĩa. Các nhóm làm thơ trẻ đang lên và đang chiếm đều đặn nhiều cột thơ trên báo chí Sài Gòn ngồi đồng từ sáng đến tối để... làm thơ. Nhưng đông hơn cả, ấm áp hơn cả là những nhóm hai người, một tóc dài, một tóc ngắn chờ vào lớp, chờ tan trường và chờ nhau. Nắng Mới đã sống với Vạn Hạnh cho đến ngày cuối cùng. Nắng Mới nay không còn. Những con người cũ tứ tán muôn phương.

Có một quán cà phê thân quen nữa không thể không nhắc đến: Quán chị Chi ở gần đầu đường Nguyễn Phi Khanh, kế khu gia cư xưa cũ, rất yên tĩnh và rất dễ thương, nằm phía sau rạp Casino Đa Kao. Ở đó có những con đường rất nhỏ, những ngôi nhà mái ngói phủ đầy rêu xanh, những hàng bông giấy che kín vỉa hè, trầm lắng cô liêu và im ả tách biệt lắm mà mở cửa ra là có thể nghe người bên trái nói, thấy người bên phải cười và có cảm tưởng như có thể đưa tay ra bắt được với người đối diện bên kia đường. Quán chị Chi độ chín mười thước vuông, chỉ đủ chỗ để đặt ba bốn chiếc bàn nhỏ. 



Quán không có nhạc, không trưng bày trang trí gì cả ngoại trừ một bức tranh độc nhất treo trên vách, bức tranh đen trắng, cỡ khổ tạp chí, có lẽ được cắt ra từ một tờ báo Pháp. Tranh chụp để thấy một bàn tay giắt một em bé trai kháu khỉnh, vai đeo cặp sách, miệng phụng phịu làm nũng, hai mắt mở to nhưng nước mắt đang chảy dài theo má, phía dưới có hàng chữ nhỏ:


 “Hôm qua con đã đi học rồi mà”. Khách đến với chị Chi không phải coi bảng hiệu mà vào, cũng không phải nghe quảng cáo, mà hoàn toàn do thân hữu truyền miệng cho nhau để đến, nhiều lần thành quen, từ quen hóa thân và quyến luyến trở lại. Chị Chi có bán cà phê nhưng tuyệt chiêu của chị là trà; loại trà mạn sen, nước xanh, vị chát nhưng có hậu ngọt và mùi thơm nức mũi. Trà được pha chế công phu trong những chiếc ấm gan gà nhỏ nhắn, xinh xinh. Ấm màu vàng đất, thân tròn đều, láng mịn, vòi và quai mảnh mai, cân đối. 


Mỗi bộ ấm có kèm theo những chiếc tách cùng màu, to bằng ngón tay cái của một người mập, vừa đủ cho hốp nước nhỏ. Ấm có ba loại, được gọi tên ra vẻ “trà đạo” lắm: độc ẩm, song ẩm và quần ẩm, nhưng hồi đó chúng tôi thường “diễn nôm” theo kiểu “tiếng Việt trong sáng” thành ấm chiếc, ấm đôi và ấm bự. Trà được uống kèm với bánh đậu xanh - loại bánh đặc biệt của chị Chi- nhỏ, màu vàng óng và mùi thơm lừng. Nhắp một ngụm trà, khẽ một tí bánh, cà kê đủ chuyện trên trời dưới đất, trông cũng có vẻ phong lưu nhàn tản và thanh cao thoát tục lắm. Quán chị Chi giờ đã biến tướng ít nhiều nhưng dù sao cũng xin cảm ơn chị và xin đại diện cho những anh chị em đã từng ngồi quán chị bày tỏ lòng tiếc nhớ đến chị và đến những ngày khó quên cũ.

Những năm cuối thập niên 60 Sài Gòn có mở thêm nhiều quán cà phê mới, và thường được trang hoàng công phu hơn, có hệ thống âm thanh tối tân hơn và nhất là quán nào cũng chọn một cái tên rất đẹp, phần lớn là dựa theo tên những bản nhạc nổi tiếng: Cà phê Hạ Trắng, Lệ Đá, Diễm Xưa, Hương Xưa, Hoàng Thị, Biển Nhớ, Hoài Cảm, Da Vàng... Tuy nhiên, ở một con đường nhỏ - Hình như là Đào Duy Từ - gần sân vận động Thống Nhất bây giờ, có một quán cà phê không theo khuôn mẫu này, nó mang một cái tên rất lạ: Quán Đa La. 


Đa La là Đà Lạt, quán của chị em cô sinh viên Chính Trị Kinh Doanh, có lẽ vừa từ giã thác Cam Ly, hồ Than Thở để về Sài Gòn học năm cuối tại nhà sách Xuân Thu hay sao đó, mở ra. Trường kinh doanh quả là khéo đào tạo ra những môn sinh giỏi kinh doanh: Tin mấy cô sinh viên mở quán thật tình là không được chính thức loan báo ở đâu cả; tuy nhiên, cứ úp úp mở mở như vậy mà tốt, nó được phóng lớn, lan xa, tạo ấn tượng mạnh và quán được chờ đón với những trân trọng đặc biệt, những náo nức đặc biệt. 


Những cô chủ chắc có máu văn nghệ, đã cố gắng mang cái hơi hướm của núi rừng Đà Lạt về Sài Gòn: Những giò lan, nhưng giỏ gùi sơn nữ, những cung tên chiến sĩ đã tạo cho quán một dáng vẻ ngồ ngộ, dễ thương; rồi những đôn ghế, những thớt bàn được cưa từ những gốc cây cổ thụ u nần, mang vẻ rừng núi, cổ sơ đã giúp cho Đa La mang sắc thái rất ... Đa La. Ngày khai trương, Đa La chuẩn bị một chương trình văn nghệ hết sức rôm rả, với những bản nhạc “nhức nhối” của Lê Uyên Phương, Nguyễn Trung Cang, Lê Hựu Hà... Đa La đông vui, chứng kiến sự nở hoa và tàn úa của nhiều mối tình. Nhưng Đa La vắng dần những người khách cũ và đóng cửa lúc nào tôi không nhớ. 


Cà phê Hân ở Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao là quán thuộc loại sang trọng, khách phần lớn ở lớp trung niên và đa số thuộc thành phần trung lưu, trí thức. Bàn ghế ở đây đều cao, tạo cho khách một tư thế ngồi ngay ngắn, nghiêm chỉnh và bàn nào cũng có đặt sẵn những tạp chí Pháp ngữ số phát hành mới nhất. Câu chuyện ở Hân chắc là quan trọng lắm, lớn lắm; nhìn cái cách người ta ăn mặc; trông cái vẻ người ta thể hiện là biết ngay chứ gì; có lẽ cả thời sự, kinh tế tài chánh, văn chương, triết học đều có cả ở đây. Một chỗ như vậy là xa lạ với dân ngoại đạo cà phê. Nhưng Hân là một nơi hết sức đáng yêu, đáng nhớ của nhiều người, dù ngồi quầy là một ông già đeo kính như bước ra từ một câu chuyện của văn hào Nga Anton Chekov. Về sau, đối diện với Hân có thêm quán cà phê Duyên Anh của hai chị em cô Hà, cô Thanh; cô em xinh hơn cô chị và được nhiều chàng trồng cây si. Hai tiệm cà phê, một sang trọng chững chạc, một trẻ trung sinh động, đã trở thành một điểm hẹn, một đích tới mà khi nhắc đến chắc nhiều anh chị em ở trường Văn Khoa, trường Dược, trường Nông Lâm Súc ngay góc Hồng Thập Tự - Cường Để còn nhớ, cũng như nhớ món bánh cuốn ở đình Tây Hồ bên trong chợ Đa Kao thờ cụ Phan, nhớ quán cơm “lúc lắc” trong một con hẻm nhỏ đường Nguyễn Bỉnh Khiêm mà nữ sinh viên vừa đi lên căn gác gỗ vừa run khi được mấy chàng mời cơm.

Bạn nào muốn gặp các nhà văn nhà thơ, muốn nhìn họ ngậm ống vố, đeo kính cận nói chuyện văn chương thì mời đến quán Cái Chùa, anh em nào muốn có không khí trẻ trung đầm ấm mời đến Hầm Gió; anh em nào muốn có chỗ riêng tư tâm sự thì cứ theo đường Nguyễn Văn Học chạy tuốt lên Gò Vấp, vào quán Hương Xưa, ở đó có vườn cây đẹp, các cô chủ đẹp và cái cách người ta đối đãi với nhau cũng rất đẹp. Cũng đừng quên nhắc đến quán Chiêu, hẻm Cao Thắng. Rồi còn cà phê hàng me Nguyễn Du, cũng Beatles, cũng Elvis Presley như ai ; và cả pha chút Adamo quyến rũ. Giá ở đây thật bình dân nhưng thường xuyên chứng kiến những pha so găng giữa học sinh hai trường nghề Cao Thắng và Nguyễn Trường Tộ. 



Chán cà phê thì đi ăn nghêu sò, bò bía, ăn kem trên đường Nguyễn Tri Phương, góc Minh Mạng hoặc bên hông chợ Tân Định. Phá lấu đã có góc Pasteur-Lê Lợi, nhưng chỉ dành cho các bạn có tiền. Rủng rỉnh tí xu dạy kèm cuối tháng có Mai Hương (nay là Bạch Đằng Lê Lợi). Quán Mù U, hẻm Võ Tánh, chỗ thương binh chiếm đất ở gần Ngã tư Bảy Hiền dành cho những bạn muốn mờ mờ ảo ảo. Muốn thưởng thức túp lều tranh mời đến cà phê dựa tường Nguyễn Trung Ngạn gần dòng Kín, đường Cường Để. Rồi quán cà phê Cháo Lú ở chợ Thị Nghè của một tay hoạ sĩ tên Vị Ý. Cao cấp hơn có La Pagode (đổi thành Hương Lan trước khi giải thể), Brodard, Givral. Thích xem phim Pháp xưa, phim Mỹ xưa và ngồi... cả ngày xin mời vào rạp Vĩnh Lợi trên đường Lê Lợi để chung vai với đám đồng tính nam. 


Vào Casino Sài Gòn có thể vào luôn hẻm bên cạnh ăn cơm trưa rất ngon tại một quầy tôi đã quên tên. Nhưng rạp Rex vẫn là nơi chọn lựa nhiều nhất của SV, cả nghèo lẫn giàu. Cuộc sống SV cứ thế mà trôi đi trong nhịp sống Sài Gòn. Nghèo nhưng vui và mơ mộng. Tống Biệt hành, Đôi mắt người Sơn Tây sống chung với Cô hái Mơ. Đại bác ru đêm sánh vai với Thu vàng. Ảo vọng và thực tế lẫn vào nhau. Thi thoảng lại pha thêm chút Tội ác Hình phạt, Zara đã nói như thế! Che Guervara, Garcia Lorca. Tất cả những gì tôi nhắc tới là một chút ngày cũ, một chút cảnh xưa, một phần hơi thở và nhịp sống của Sài Gòn trong trí nhớ. Xin tặng anh, tặng chị, tặng em, đặc biệt là tặng tất cả những ai tha hương có lúc bỗng bàng hoàng nhận thấy, dường như một nửa trái tim mình còn đang bay lơ lửng ở cà phê Hồng, Thu Hương, hay đâu đó ở quê nhà. 
Lương Thái Sỹ - An Dân














































 
Quán cà phê này còn có máy tạo sóng, tạo cho khách cảm giác như ở biển đích thực.

Nằm trong 1 chung cư cũ trên đường Tôn Thất Đạm (Q.1), The Other Person là một trong những quán đầu tiên ở Sài Gòn phục vụ khách theo mô hình "nàng hầu" với những cô gái phục vụ ăn mặc theo phong cách cosplay Nhật Bản gồm đầm lửng, đeo tạp dề ren trắng thậm chí còn đeo cặp tai thỏ trên tóc. Ngay từ khi mới xuất hiện, sự mới lạ của cà phê độc đáo này đã thu hút được nhiều bạn trẻ tìm đến quán.
"Đến quán cà phê này, bạn sẽ được những cô hầu gái phục vụ..


quán cà phê, cà phê Sài Gòn

Đến quán cà phê này, bạn sẽ được những cô hầu gái phục vụ.. Tại quán, ngay từ cửa bạn đã được một "nàng hầu" đứng chờ sẵn, chào đón. Khi khách đã vào đến nơi, các cô "hầu" sẽ cư xử với khách hàng như thế đây là chủ nhân thực sự của mình bằng cách xưng hô "cô chủ, cậu chủ" như "cô chủ dùng gì?", "cậu chủ có cảm thấy vui không?". Theo quy định, họ không chỉ phục vụ đồ uống, đồ ăn mà còn phải nói chuyện với khách khoảng 10, 15 phút nếu các "cô chủ, cậu chủ" muốn trò chuyện. Thậm chí, các "nàng hầu" cũng sẽ bày nhiều trò chơi với khách như chơi bài, bói bài, chơi game...
\
quán cà phê, cà phê Sài Gòn


Khách được được các cô hầu phục vụ như thể họ là chủ nhân đích thực.
Không chỉ ghi điểm bằng phong cách lạ mà không gian nhẹ nhàng, lãng mạn của quán cà phê này cũng hấp dẫn được rất nhiều bạn trẻ. Ngoài những mô hình bánh macaron, bánh kem khổng lồ, trong quán có một cây đàn piano dành cho khách yêu âm nhạc và luôn có sẵn những chiếc tivi mở thể loại amine (hoạt hình) của Nhật, thậm chí quán còn thường xuyên tổ chức những buổi cosplay để đáp ứng nhu cầu của khách đến quán. Đồ uống của quán có giá từ 35 ngàn đến 55 ngàn, được đánh giá là phù hợp với không gian độc đáo, mới mẻ.
"Quán cà phê này được trang trí trẻ trung.

quán cà phê, cà phê Sài Gòn quán cà phê, cà phê Sài Gòn 

Ngoài đồ chơi, ở đây còn có cả đàn cho người yêu nhạc. Địa chỉ: Tôn Thất Đạm, Q.1


Cà phê "toilet"
Nếu lần đầu bước vào quán cà phê mang tên Toilet Kingdom (đường D2, quận Bình Thạnh), bạn có thể sẽ bị "shock" bởi những là những bộ bàn ghế được làm bằng... bồn cầu sứ và hàng loạt món đồ trang trí khác được làm từ bồn cầu, bồn rửa, vòi hoa sen… Chưa dừng lại ở đó, ngay cả những vật dụng được dùng trong "công tác" phục vụ khách như ly, chén, đĩa... cũng được mô phỏng theo các đồ dùng trong toilet với đủ bồn cầu, bồn tắm… nhưng kích thước nhỏ hơn và có màu sắc tươi tắn.
Không gian quán được thiết kế theo hơi hướng... nhà vệ sinh.




quán cà phê, cà phê Sài Gòn


Không gian quán được thiết kế theo hơi hướng... nhà vệ sinh."Bàn ghế của quán được "cải tạo lại từ bồn cầu, bồn rửa mặt.\



quán cà phê, cà phê Sài Gòn


Bàn ghế của quán được "cải tạo lại từ bồn cầu, bồn rửa mặt. Mô hình toilet này khiến nhiều người cảm thấy kì quặc nhưng cũng có rất nhiều người thích thú và muốn trải nghiệm, đặc biệt với các khách hàng trẻ. Tại TP. Hồ Chí Minh, quán Toilet Kingdom hiện là nơi duy nhất kinh doanh theo hình thức táo bạo này, thực đơn của quán khá đa dạng với 30 món nước uống, đồ ăn, giá đồ ở quán từ 25 ngàn đến 65 ngàn đồng/mỗi món.


quán cà phê, cà phê Sài Gòn


Ngay cả đồ ăn, đồ uống cũng được phục vụ trong những vật dụng "tái hiện" lại của bồn cầu. - Ảnh: Zing
Địa chỉ: đường D2, quận Bình Thạnh
Cà phê Kujuz
Quán cà phê Kujuz nằm trên một con đường nhỏ yên ắng của Sài Gòn. Đặc trưng của quán là toàn bộ phần "tường" được tạo nên từ vô số cánh cửa, ô cửa sổ cũ. Những cánh cửa được sắp xếp một cách ngẫu nhiên vừa xưa cũ, vừa dễ thương lại rất yên bình, thế nên khách đến đây, ngay lập tức có thể cảm nhận được những điều rất thân thuộc của nếp nhà ngày xưa. 
Địa chỉ: Trần Quý Khoách, Q.1
Cà phê container
Nằm trên một bãi đất trống ở khu dân cư Trung Sơn, nhìn ra rạch Ông Lớn – một nhánh sông Sài Gòn (H.Bình Chánh, TP.HCM), quán cà phê này khiến nhiều người phải tò mò bởi được tạo nên từ hai chiếc vỏ container cũ.


quán cà phê, cà phê Sài Gòn 

quán cà phê, cà phê Sài Gòn 
Quán tách biệt với không gian với bên ngoài bằng một chiếc cổng luôn đóng nên rất yên tĩnh.

quán cà phê, cà phê Sài Gòn

Sự yên tĩnh và không gian xưa cũ, êm đềm khiến quán cà phê này trở thành địa điểm lý tưởng để bạn thư giãn, đọc sách hay tập trung làm việc giữa Sài Gòn xô bồ, náo nhiệt. Các món thức uống ở đây đều đồng giá 50 ngàn. Tuy nhiên, nếu bạn chi 100 ngàn thì có thể uống bao nhiêu nước tùy thích và có thể đi rồi quay trở lại trong một ngày như thể đây là ngôi nhà của mình vậy. Một điều hay nữa ở quán cà phê độc đáo này là đến đây, bạn có thể... tự phục vụ chính mình. Dưới sự chỉ dẫn của nhân viên, bạn tự chọn nước uống mình thích và tự mày mò cách pha chế và thậm chí có thể tự rửa ly nếu thấy thích. 

quán cà phê, cà phê Sài Gòn
Quán có nhân viên phục vụ nhưng bạn cũng có thể tự pha chế đồ uống theo ý thích của mình...quán cà phê, cà phê Sài Gòn
Hoặc theo công thức được hướng dẫn ở quầy.
Quán cà phê độc đáo làm bằng vỏ container. Khác với vẻ bụi bặm ở bên ngoài, bên trong quán được lắp đặt tấm cách nhiệt, cùng với điều hòa tạo ra không khí mát mẻ, sang trọng. Các ô cửa kính của hai thùng container được bố trí rất hợp lý để ánh sáng tự nhiên lọt vào vừa phải, ấm cúng. Tuy nhiên cùng với bàn ghế gỗ, chủ quán còn tận dụng những phụ tùng bỏ đi của mô tô, xe hơi, xe tải như vỏ xe, mâm, sên cam, vòng bi, bạc đạn... làm thành những chiếc ghế, đồ trang trí độc đáo.

quán cà phê, cà phê Sài Gòn quán cà phê, cà phê Sài Gòn 
Quán cà phê này không chỉ thu hút nhiều người trẻ thích khám phá mà còn điểm hẹn dành cho các câu lạc bộ, nhóm chơi xe, nhiếp ảnh… Vào sáng chủ nhật hàng tuần, quán đều tổ chức các buổi offline cho những người mê chơi xe mô tô, xe jeep, nhiếp ảnh… cùng giao lưu, chia sẻ. Nước uống, đồ ăn của quán rất phong phú với mức giá từ 20 ngàn đến 90 ngàn. 
quán cà phê, cà phê Sài Gòn "image_desc">Ngoài không gian trong nhà, quán còn có không gian ngoài trời khá rộng. Địa chỉ: Huyện Bình Chánh
(Theo Trí thức trẻ)

Quán cà phê dành cho người Sài Gòn xưa ở chung cư cũ

Với tấm biển "người Sài Gòn mến mời" treo ngay cửa, bạn sẽ như có cảm giác bước vào một ngôi nhà ấm áp, tĩnh lặng đủ để thoát khỏi bộn bề bên ngoài. 
1-8792-1441945463.jpg



Nằm trên con đường một chiều Thái Văn Lung, quận 1, quán cà phê Người Sài Gòn được xem như căn nhà quen thuộc chào đón những vị khách tìm đến sự bình yên. Chung cư nhìn bên ngoài khá cũ kỹ và cầu thang lên hơi tối do ánh sáng đèn vàng mang lại cảm giác bí ẩn. Khi bước qua những bậc thang, ngay tại tầng 1 bạn sẽ gặp ngay biển hiệu của quán.

2-8322-1441946427.jpg Cách trang trí nhẹ nhàng ở bên ngoài quán.

3-2593-1441946427.jpg Ngay khi bước qua cánh cửa bạn sẽ thấy một không gian tràn ngập ánh sáng từ các cửa sổ. Cách bài trí khá đơn giản nên tuy diện tích nhỏ nhưng vẫn rất riêng tư. Quầy thanh toán được trang trí lạ mắt với bốn màu nổi bật.4-8231-1441946427.jpg

Quán chơi nhạc acoustic vào mỗi tối thứ 5 và thứ 7 hàng tuần. Góc chơi nhạc cũng rất mộc và nhỏ gọn

5-5694-1441946427.jpg


Quán đậm chất Sài Gòn xưa với những mảng tường bong tróc, cửa gỗ, tivi trắng đen và chiếc xe đạp treo trên tường. 
Gu nhạc của quán là nhạc xưa và nhẹ nhàng nên có khá nhiều vị khách trung niên tới thư giãn hay
 đọc sách


.11755746-921942221186229-550773489451603


Bạn có thể thư giãn đầu óc, trốn khỏi bộn bề lo toan với một ấm trà hoa thơm nức ngay ở ban công và ngắm phố xá vào cuối ngày.
mi-quang-nguoi-sai-gon_1441946833.jpg
\
Quán có nhiều món ngon để bạn thưởng thức như cơm tấm, bún bò, bánh ướt, thực đơn gia đình... đặc biệt còn có món mì quảng sẽ được phục vụ vào mỗi thứ 7 hàng tuần. Giá món ăn và thức uống ở đây dao động từ 40.000 đến 80.000 đồng.

Bùi Ngọc Hà


2015


NHỮNG QUÁN CÀ PHÊ NỔI TIẾNG

TOP 10 QUÁN CÀ PHÊ VỈA HÈ Ở PARIS .
                  Nhâm nhi nước uống và thả hồn bên mái hiên quán cà phê vốn là truyền thống của người Paris (Pháp). Dưới đây là một số quán vỉa hè lâu đời và nổi tiếng nhất Paris.


 1. Cafe de Flore (172 đại lộ Saint Germain)

Cafe de Flore

Thưởng thức một tách cà phê và bánh sừng bò ở một chiếc bàn có bóng râm trên vỉa hè bên ngoài Cafe de Flore - một trong những quán cà phê tuyệt vời nhất đại lộ Saint Germain là một trong những trải nghiệm Paris không thể thiếu. Dù giá cả khá cao nhưng nơi đây cũng rất đáng để bạn “phung phí” ít nhất một lần trong đời.

Cafe de Flore luôn thu hút giới trí thức Rive Gauche (khu vực bờ nam sông Seine trong TP Paris) hơn một thế kỷ qua. Đây từng là nơi gặp gỡ của hai nhà văn - nhà triết học nổi tiếng của Pháp Simone de Beauvoir và Jean-Paul Sartre. Ngày nay, Flore vẫn giữ được vẻ quyến rũ kín đáo vốn có.

2. Aux Folies (số 8 phố Belleville)

Quán bar rực rỡ này của khu phố Belleville bar mang đến cho du khách một lát cắt văn hóa đa dạng của đời sống Paris. Bất kể ngày hay đêm, lúc nào cũng có một đám đông ồn ào ngồi chật ngoài mái hiên vỉa hè của quán.



Là quê hương của nữ ca sĩ huyền thoại Edith Piaf và ca sĩ - diễn viên Maurice Chevalier, ngày nay phố Belleville đã trở thành một phố Tàu đích thực cùng với những quầy hàng ăn Bắc Mỹ và những nhà hàng couscous (một món ăn của Bắc Phi, gồm bột mì nấu với thịt hoặc nước thịt).

3. Au Petit Fer a Cheval (số 30 phố cổ Temple)
Quán Au Petit Fer a Cheval nằm trên con phố Temple ở phía tây khu phố Le Marais - phần cổ nhất ở Paris với những cung điện và biệt thự sang trọng có từ thế kỷ 18. Khách du lịch thường lũ lượt kéo đến khu phố này tìm hiểu văn hóa và mua sắm.



Au Petit Fer a Cheval là một nơi thân thiện, rất hấp dẫn những khách hàng kiểu cách. Đặc biệt, du khách đến đây thường “tranh” chỗ ngồi ở những chiếc bàn được kê ngoài vỉa hè để ngắm phố cổ Temple - điểm hấp dẫn chính của khu phố Le Marais.

4. Le Sancerre (35 đường nhà ga Abbesses)

Quán Le Sancerre nổi bật trong số những quán bar hấp dẫn khách du lịch quanh nhà thờ Sacré-Coeur ở khu phố Montmartre. Mở cửa từ 7g-14g vào tất cả các ngày trong tuần, quán Le Sancerre thu hút rất nhiều loại khách, từ những người dân địa phương tự do tự tại đến những người đi xe đạp, từ sinh viên đến khách du lịch. Ngồi ngoài mái hiên vỉa hè, bạn sẽ có một tầm nhìn thông thoáng trong khi thưởng thức một cốc rượu, bia hoặc cocktail.
Top 10 quán cà phê vỉa hè ở Paris

Le Sancerre

5. Chez Prune (36 phố Beaurepaire)

Các quán bar, cà phê, cửa hàng nhỏ và nhà hàng nằm cạnh bờ sông dọc kênh đào Saint-Martin đã làm biến đổi một phần vốn vắng vẻ của TP Paris nằm ẩn mình bên quảng trường République thành một trong những điểm sôi động nhất TP. Quán Chez Prune nhìn ra bờ kênh Saint-Martin, vì vậy bạn nhớ đến sớm nếu muốn “chộp lấy” một bàn bên ngoài.

6. Pause Café (41 phố Charonne)


Pause Café

Có rất nhiều quán cà phê vỉa hè nằm quanh quảng trường Bastille nhưng để thực sự cảm nhận hương vị cà phê vỉa hè, bạn nên đến quán Pause Café nằm cạnh khu phố ồn ã Faubourg-Saint-Antoine. Với mái hiên đầy nắng, đây là một nơi hoàn hảo để nhâm nhi bữa sáng với nước cam vắt, cà phê sữa và bánh sừng bò.

7. Le (99 đại lộ Boulevard du Montparnasse)




Quán cà phê văn học huyền thoại Le từng là nơi lui tới thường xuyên của nhà văn Hemingway, danh họa Picasso và nhà văn Henry Miller nằm ở khu Montparnasse (bờ nam sông Seine). Le thực sự không thay đổi nhiều lắm từ khi được mở cửa năm 1925. Chắc chắn là quán rất đông khách, nhưng đến đây du khách sẽ được trải nghiệm cuộc sống đích thực đầy thú vị ở bờ nam sông Seine.

8. Cafe de la Paix (số 5 quảng trường Place de l'Opera)

Nếu du khách thực sự muốn thấy những tài xế Paris lái xe “điên cuồng” như thế nào, chẳng có chỗ ngồi quan sát nào tốt hơn mái hiên của quán cà phê lịch sử Cafe de la Paix vì ngay trước mặt quán là ngã tư quảng trường Place de l'Opera.


Cafe de la Paix

Đến đây, du khách đừng bỏ lỡ món hàu và rượu vang Chablis. Cafe de la Paix là một phần của khách sạn Le Grand Hotel, được xây dựng năm 1858 bởi kiến trúc sư Charles Garnier - tác giả của nhà hát nguy nga Opera Garnier. Bạn đừng quên ngắm một vòng không gian đẹp đến không thể tin được của quán và khu vườn mùa đông tuyệt đẹp bên trong khách sạn.

9. Cafe Charbon (109 phố Oberkampf)
Oberkampf là một con phố hẹp và dài chạy từ quảng trường Bastille tới phố Belleville. Là một nơi thoải mái và yên tĩnh ban ngày nhưng khi hoàng hôn buông xuống, phố Oberkampf lại biến thành một trong những khu có đời sống về đêm sôi động nhất Paris.


Cafe Charbon

Du khách có thể chọn những điểm đến hiện đại như quán bar Mecano, quán cà phê Chez Justine và phòng hòa nhạc Nouveau Casino, nhưng chính Cafe Charbon mới là nơi ấn tượng nhất. Một chiếc bàn ở mái hiên vỉa hè của quán luôn là nơi mỹ mãn để ngắm cảnh và người qua lại.

10. Cafe Beaubourg (43 phố Saint-Merri)
Anh em nhà Costes là những nhà thiết kế có uy tín lớn, tác giả của nhiều mô hình quán cà phê, bar và khách sạn ở Paris suốt hai thập kỷ qua, ban đầu là những quán cà phê Costes rồi đến những khách sạn Costes sang trọng trên phố St-Honoré. Nhưng Cafe Beaubourg mới là nơi mang đậm dấu ấn phong cách thiết kế của Costes.


Cafe Beaubourg

10 điểm đến lý tưởng nhất dành cho những người yêu cà phê trên thế giới

Cà phê là thức uống phổ biến nhất trên thế giới, chính bởi vậy, không quá bất ngờ khi mà nó có nhiều fan đến như vậy. Khắp mọi nơi đều thấy sự hiện diện của loại hạt này. Tuy nhiên, dưới đây mới thực sự là 10 điểm đến thiên đường cho những người yêu cà phê trên toàn thế giới.
#1 Sacramento, Mỹ
sacramento
Sacramento được mệnh danh là “thành phố cà phê” tại Hoa Kỳ. Thị trường này vốn đã khá sầm uất dưới danh tiếng của California. Hầu hết những người dân địa phương ở đây đều là chủ tiệm cà phê; chẳng mấy ai phải mua ngoài loại thức uống này. Chính bởi vậy, người ta phục vụ chủ yếu những vị khách du lịch trong và ngoài nước. Theo một nghiên cứu gần đây nhất, Sacramento là thành phố có chất lượng các quán cà ohee độc nhất tốt nhất nước Mỹ và có khả năng đứng Top đầu thế giới.
Với nhiều tổ chức, hiệp hội rang xay cà phê dẫn đến cà phê ở đây được đánh giá rất cao như Temple Coffee Roasters, dẫn đầu về chất lượng cà phê hay theo sau đó là Coffee Review, Old Soul Co., Insight Coffee Roasters, Fluid Espresso Bar,…
#2 Manila, Philippin
manila
Thị trường cà phê đang phát triển mạnh ở Manila với những sắc màu rực rỡ, vốn vội vã của Philippines. Duck & Buvette, nằm tại Shangri-La Plaza, là một trong những quán cà phê sóng thứ ba mọc lên khắp thành phố, phục vụ loại cà phê V60 cũng những món ăn đầy sáng tạo như vịt confit và thịt xông khói.
Ở đây, người ta cũng ưa chuộng cà phê Cappuccino truyền thống. Craft Coffee Revolution là cửa hàng dẫn đầu trào lưu này với văn hóa uống cà phê có những thời điểm lên tới 25,5 triệu người ở trung tâm Manila.
#3 Vancouver, Canada
vancouver
Vancouver là trung tâm cà phê của Canada. Ở đây có thể là Starbucks hoặc Tim Hortons, sử dụng những hạt cà phê được nhập trực tiếp từ người dân địa phương.
Bên cạnh đó, ở đây cũng còn một số đại gia lớn trong ngành công nghiệp cà phê rang xay như  Revolver, Prado, Kafka’s Coffee và 49th Parallel. Có một cà phê tại Vancouver – phục vụ chủ yếu Espresso.
#4 Dublin, Ireland
dublin
Dublin là một thành phố nổi tiếng với rượu hơn là cà phê. Tuy nhiên, thành phố sầm uất của Ireland dường như đang trong “cơn say” với loại thức uống này khi mà hầu hết các cửa hàng mở ở trung tâm thành phố phục vụ Espresso như Vic Coffee Inc., The Fixx, Bald Barista,…
#5 Đài Bắc, Đài Loan
taipei
Một người bạn của tôi sống ở Đài Bắc nói rằng giới trẻ ở đây không thích đến những quán bar, họ thích tụ tập ở những quán cà phê hơn. Không giống như những đô thị sầm uất khác, đây là thành phố cà phê ngập tràn – nó dường như có thể trở thành di sản quốc gia và nêu rõ ý thức về bản sắc.
Fong Da là các cửa hàng lâu đời nhất và nổi tiếng nhất trong thành phố. Đài Loan nổi tiếng với loại cà phê đá. GetMoreLab và OKLao Farms là một trong những cửa hàng mới nhập khẩu hạt chất lượng cao từ các nhà sản xuất  cà phê rang xay quốc tế và phục vụ cho những người trẻ tuổi. Sẽ không khó khăn gì để bạn tìm thấy một quán cà phê làm điểm dừng chân trong thành phố này, theo thống kế thì có đến hàng trăm điểm cho bạn lựa chọn.
#6 Oslo, Na Uy
oslo
Những cốc cà phê ở Oslo thật sự đặc biệt. Người ta đổ nước lên những hạt cà phê chất lượng cao chưa được rang và để nhỏ giọt đó vào cốc của bạn. Oliver Strand là quán cà phê tiêu biểu nhất tại đây. Mọi người dẫn những đứa trẻ của họ đến đây, tìm cho chúng những quyển sách và tự thư giãn bên những ly cà phê kinh loại hình trụ thật đặc biệt.
#7 Denver, Mỹ
denver
Theo một cuộc khảo sát, Denver đứng thứ 4 trong những thành phố tiêu thụ nhiều cà phê nhất nước Mỹ. Ở đây hội tụ nhiều chuyên gia pha chế có kinh nghiệm lâu năm, sử dụng loại cà phê của địa phương mà nổi bật trong số đó là cà phê Novo.
Tại đây còn có thương hiệu cà phê rang xay tốt nhất nước Mỹ năm 2014, Coda Coffee Co.
#8 Paris, Pháp
paris
Paris thường sánh đôi với Rome trong bất cứ danh sách nào. Tuy nhiên, đây là một trường hợp ngoài lệ khi văn hóa uống cà phê ở Paris thực sự khiến người ta ngỡ ngàng. Hầu hết các quán cà phê của Paris đều dải những chiếc ghế gỗ tựa dọc vỉa hè thành phố, là nơi mọi người nói chuyện, hút thuốc lá,…
Một số quán cà phê nổi tiếng như Spyglass, Télescope, Coutume Café và Ten Belles mọc lên bên cả hai mặt của dòng sông Seine.
#9 Moscow, Nga
moscow
Văn hóa uống cà phê đến với Moscow quá muộn và dường như nó chưa thực sự phát triển nhanh, nhưng trong vài năm trở lại đây, người ta đã chứng kiến những cửa hàng cà phê đắt tiền mọc lên hàng loạt ở thành phố này – loại cà phê đen đặc biệt.
#10 Bangkok, Thái Lan
bangkok
Thái Lan là đại diện duy nhất của Đông Nam Á trong Top 10 này. Đất nước này mạnh về du lịch hơn bất cứ đất nước nào trên thế giới. Họ chào đón những vị khách bằng cà phê.
Mọi công đoạn để tạo ra cốc cà phê ngon đều được thực hiện gói gọn từ thu hoạch, sấy khô đến rang,…Một số quán cà phê nổi tiếng của Bangkok như Casa Lapin, Tribeca Restobar và Rocket Coffeebar phục vụ chủ yếu Espresso. Do Thái Lan có khí hậu nhiệt đới nên một số phục vụ cà phê đá kèm kem.

VINH DANH NGUYEN DU

 
Đại tác phẩm Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du lần đầu tiên được long trọng vinh danh tại Tây Bắc Mỹ Châu.
Hàng ngàn năm nữa, người Việt trong & ngoài nước Việt xin nhớ câu "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn".
HOA KỲ.- Năm 2000, Tổng Thống Mỹ Bill Clinton đã có mặt tại Hà Nội, và tặng Tổng Bí Thư VC Lê Khả Phiêu 2 câu Kiều:
"Sen tàn cúc lại nở hoa,
Sầu dài ngày ngắn trông đà sang xuân".
15 năm sau, tại Washington D.C. Phó Tổng Thống Mỹ Joe Biden cũng tặng Tổng Bí Thư VC Nguyễn Phú Trọng 2 câu Kiều rằng:
"Trời còn để có hôm nay,
Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời".
Cả hai trường hợp, 2 Tổng Bí Thư VC đều nín thinh không thể nói được một câu Kiều nào để đáp lễ. Lý do dễ hiểu là họ ít học và có bao giờ được đọc những câu thơ bất hủ của Truyện Kiều đâu!
Truyện Kiều tức Đoạn Trường Tân Thanh của đại thi hào Nguyễn Du (1766-1820) gồm 3254 câu thơ lục bát tuyệt tác, được mọi giới đồng bào coi như "Thánh Kinh" của dân tộc Việt Nam. Cố học giả Phạm Quỳnh (1892-1945) đã khẳng định rằng: "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn".
Tuy vậy, dưới sự thống trị của Đảng CSVN trong hơn 40 năm qua, hầu hết các em học sinh trong nước rất ít được học đại tác phẩm bất hủ Truyện Kiều. Ngay cả các lớp Việt Ngữ tại hải ngoại, các câu thơ Truyện Kiều cũng ít được giảng dậy.
Trước tình trạng bi đát này, Cơ Sở Văn Hóa Đông Phương (Đông-Phương Foundation, since 1976) đã cùng với một số văn nghệ sĩ Miền Tây Bắc Hoa Kỳ quyết định thực hiện một sinh hoạt văn học nghệ thuật chủ đề "Truyện Kiều với đại thi hào Nguyễn Du" để đốt lên một ngọn lửa cho mọi con dân Việt tìm đọc và nhắc nhở các thế hệ tương lại hãy bảo tồn nền văn hóa Việt-Tộc với Truyện Kiều Nguyễn Du tới hàng ngàn năm nữa. Cụ Nguyễn Du đã  chào đời trên quê hương Việt Nam cách đây 249 nặm, và hưởng dương 54 tuổi.
Kính mong quý vị tiếp tay phổ biến Bản Tin sau đây tới đồng bào chúng ta trong và ngoài nước VN tại Link:
Trân trọng.
NGUYỄN THỊ THANH-VÂN
Chủ Biên Tin Miền Nam Agency (since 1970)
C/o: Global Saigon HD Radio
P.O.Box 18104 Seattle, WA 98118-0104
 Đại tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du được vinh danh ở Tây Bắc Mỹ Châu. PDF Print E-mail Written by Editor    Wednesday, 30 September 2015 19:01
alt
Đoàn văn nghệ dân tộc Hướn g Việt.
Ngày song thập năm thứ 22 của Saigon HD Radio mang chủ đề văn hóa lớn: Chiều thơ nhạc ‘Truyện Kiều với đại thi hào Nguyễn Du’.
SEATTLE (TMN News).- Một tin ngắn trên báo chí và đài phát thanh Việt Ngữ trong 2 tuần lễ vừa qua, đã gây xôn xao dư luận quý đồng hương trong các cộng đồng Người Việt tại 2 tiểu bang Washington & Oregon. Một số vị cựu sĩ quan QLVNCH ngỏ ý rất quan tâm tới một sinh hoạt văn hóa đầy mầu sắc về đại thi hào Nguyễn Du & Truyện Kiều. Một nhân vật trong Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tiểu bang Oregon, cựu Thiếu Tá CTCT Trịnh Đình Bội (nguyên Chủ Trương Bộ Biên Tập nguyệt san Tuổi Xanh của Phong Trào Hướng Đạo Sinh Quân Đội VNCH) viết cho Ban Tổ Chức rằng: ‘Buổi thơ nhạc về Truyện Kiều với Đại Thi Hào Nguyễn Du, do quý anh chị sắp tổ chức tại Seattle, lòng tôi phấn khởi đã trào dâng. Và ước thế nào cũng phải có mặt. Tôi rất thích những dẫn chứng độc đáo về món quà lịch sử, dành cho quốc khách từ 2 vị Tổng Thống và Phó Tổng Thống của nước Mỹ, là những câu thơ Kiều bất hủ của Cụ Nguyễn Du, và chỉ tiếc rằng ‘đàn đã gẩy tai trâu’ gửi đến các lãnh tụ VC, như hàm ý của anh Quốc Nam. Quý vị cho tôi ghi danh giữ chỗ trước cho 2 người nhé. Ngàn năm một thủa! Trước đây, tôi quá may mắn đã được dự ngày kỷ niệm 200 năm Đại thi hào Nguyễn Du với siêu tác phầm Truyện Kiều, vào thập niên 1960 tại Trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài-gòn. Diễn giả lúc ấy là Thi Sĩ Bàng Bá Lân, và trong số các nghệ sĩ diễn ngâm, có nữ nghệ sĩ Hồ Điệp. Và đây, Seattle là cơ hội bằng vàng thứ hai, lúc cuối đời’.
alt
Trong khi đó, bản tin của Hãng thông tấn TMN News số 148 phổ biến cuối tuần qua, đăng tải trên 2 tuần báo Seattle Việt Times và Việt Báo Miền Nam, chúng tôi ghi nhận được nguyên văn sau đây:
Miền Tây Bắc Mỹ Châu rực rỡ màu sắc văn hóa Việt qua chương trình ‘Truyện Kiều với đại thi hào Nguyễn Du’.
Nhân dịp kỷ niệm Saigon HD Radio 22 năm phục vụ đồng bào, Cơ Sở Văn Hóa Đông Phương (Đông-Phương Foundation since 1976) sẽ thực hiện Chương Trình thơ nhạc chủ đề ‘Truyện Kiều với đại thi hào Nguyễn Du’ vào ngày 10 tháng 10 năm 2015.
Phát ngôn nhân của Cơ Sở này, nữ ký giả Nguyễn Thị Thanh Vân cho biết như trên, và thêm rằng: Đây là một sinh hoạt văn học nghệ thuật tầm vóc lần đầu tiên được tổ chức tại Miền Tây Bắc Hoa Kỳ & Canada.
Chương trình độc đáo này sẽ diễn ra từ 2:00G tới 6:00G chiều Thứ Bảy ngày 10 tháng 10 năm 2015, tại hội trường của Cổ Lâm Pagoda (ngôi chùa Việt Nam đồ sộ nhất tiểu bang Washington).
Ban Tổ Chức gồm 6 nam nữ văn nghệ sĩ, đã & đang chuẩn bị hình thức và nội dung chương trình rất đặc biệt.
Nhóm Diễn Giả đảm trách bởi 4 thi sĩ thâm cứu Truyện Kiều Nguyễn Du, gồm: Song Xuyên, Lam Nguyên, Trần Thế Phong và Quốc Nam. Trong số này, có 2 diễn giả thông thạo chữ Nho và chữ Nôm.
alt
Nữ ca nhạc sĩ Hoài Trang.
Phần phụ diễn ca nhạc và ngâm thơ, gồm các nữ ca sĩ: Hoài Trang (nhạc sĩ tài sắc), Kim Khuê, Mi Lăng, Thanh Loan; cùng các nghệ sĩ: Chính Tâm, Phương Thu, cây sáo trúc Phan Uy Nghi, danh trống Văn Thịnh; và Đoàn Văn Nghệ Dân Tộc Hướng Việt dẫn đầu bởi nhạc sĩ đàn tranh/bác sĩ Việt Hải.
alt
Đôi nghệ sĩ Phương Thu và Phan Uy Nghi.
Sân khấu và bàn thờ đại thi hào Nguyễn Du được thiết trí bởi Họa sĩ Nguyễn Đại Giang, thi sĩ Song Xuyên và nhà báo Bùi Quốc Hùng.
alt
Nữ ca sĩ Kim Khuê.
Chương trình tổng quát: Phần trình diễn nhạc sẽ gồm 3 nhạc phẩm của nhạc sĩ/tiến sĩ Quách Vĩnh Thiện (Viện sĩ Hàn Lâm Viện Âu Châu) phổ thơ Truyện Kiều và nhạc phẩm Tình Ca của Phạm Duy; phần ngâm thơ sẽ gồm 3 đoạn hấp dẫn nhất trích từ Truyện Kiều 3254 câu thơ lục bát bất hủ của đại thi hào Nguyễn Du.
alt
Nữ ca sĩ My Lăng.
Được biết Cơ Sở Văn Hóa Đông Phương thành lập từ năm 1976, đã phục vụ đồng bào và nền văn hóa dân tộc Việt liên tục hơn 39 năm qua. Vào tháng tư đen năm 2015, Cơ Sở này đã tổ chức thành công rực rỡ ‘Ngày Hội Ngộ Văn Hóa Phụ Nữ Việt Nam Toàn Cầu 40 năm tị nạn’ tại Thủ đô tị nạn Little Saigon (Westminster, miền Nam California).
alt
Danh trống Văn-Thịnh, với hơn nửa thế kỷ trong nghệ thuật "trống" và sáng tạo một số nhạc cụ mới cho âm nhạc cổ truyền, từng biểu diễn trên màn hình Thuý Nga Paris + nhiều nơi khắp nước Việt Nam & 4 châu lục Âu, Úc, Á, Phi trong thời gian qua.
Nay, Cở Sở Văn Hóa Đông Phương cộng tác cùng Nhóm Văn Nghệ Sĩ Miền Tây Bắc Hoa Kỳ thực hiện chương trình thơ nhạc với chủ đề lớn ‘Truyện Kiều với đại thi hào Nguyễn Du’ vào ngày Song Thập năm thứ 22 của Global Saigon HD Radio tại đô thị Seattle.
Ngoài ra, phát ngôn nhân Nguyễn Thị Thanh-Vân cũng tiết lộ: Vào tháng ba năm 2016, Cơ Sở này sẽ thực hiện Chương Trình đánh dấu 40 năm phục vụ (1976-2016) trải dài trong 3 ngày sinh hoạt tại Orange County (CA), với 3 chương trình gồm: 1) Tiếp Tân ân nhân & quan khách tại hội trường một đài truyền hình để trực tiếp phát hình tới đồng bào khắp thế giới; 2) Triển lãm hàng ngàn hình ảnh và tài liệu 40 năm phục vụ của Cơ Sở Văn Hóa Đông Phương; 3) Đại Hội Áo Dài Quê Hương kỳ 2 với rừng áo dài Nam & Nữ tràn đầy màu sắc văn hóa.
Muốn biết thêm chi tiết, quý vị có thể email về: tuong vangvn@gmail.com, hoặc gởi thư đến: Đông-Phương Foundation P.O.Box 18104 Seattle, WA 98118-0104 USA.

THÔNG TIN & BÌNH LUẬN QUỐC TẾ

 

 Mỹ không chấp nhận hạn chế ở Biển Đông


1 tháng 10 2015 Cập nhật lúc 18:27 ICT
Ngoại trưởng Mỹ, ông John Kerry vừa nhắc lại quan điểm cứng rắn của nước này rằng sẽ không chấp nhận bất cứ giới hạn nào về việc sử dụng hàng hải và không lưu trên Biển Đông.
Phát biểu tại cuộc họp các Ngoại trưởng khối ASEAN hôm 30 tháng 9, bên lề phiên họp lần thứ 70 Đại hội đồng LHQ tại New York, ông Kerry đưa ra một thông điệp nhắm vào Trung Quốc nước đang có tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông với một số nước trong vùng, bao gồm Việt Nam, Philippines, Malaysia, Đài Loan, Brunei.
Trước đó, hôm 28/9 Chủ tịch Việt Nam ông Trương Tấn Sang trong một phỏng vấn với hãng tin AP đã cáo buộc Trung Quốc vi phạm luật pháp quốc tế khi tiến hành cải tạo một số đảo và bãi đá tại quần đảo Trường Sa.
Trung Quốc đã ngay lập tức có phản ứng bằng tuyên bố của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao rằng việc xây dựng cơ sở vật chất đó là hợp pháp và chính đáng nhằm làm tốt hơn trách nhiệm của Trung Quốc tại khu vực.
Hàng năm một lượng hàng hóa trị giá 5 ngàn tỉ đô la được chuyên chở qua tuyến đường biển này.
 http://www.bbc.com/vietnamese/multimedia/2015/10/151001_scs_john_kerry_asean

Mỹ sẵn sàng ứng phó nếu chủ quyền Philippines bị thách thức

Chuẩn Tướng Paul Kennedy (giữa), chỉ huy Lữ đoàn 3 Thủy quân lục chiến Mỹ Viễn chinh, Thiếu Tướng Thủy quân lục chiến Philippines Alexander Balutan (phải),  và Đại tá Thủy quân lục chiến Philippines Nathaniel Casem khoác tay sau lễ khai mạc cuộc tập trận Phiblex.
Chuẩn Tướng Paul Kennedy (giữa), chỉ huy Lữ đoàn 3 Thủy quân lục chiến Mỹ Viễn chinh, Thiếu Tướng Thủy quân lục chiến Philippines Alexander Balutan (phải), và Đại tá Thủy quân lục chiến Philippines Nathaniel Casem khoác tay sau lễ khai mạc cuộc tập trận Phiblex.
Mỹ hôm thứ Năm tuyên bố sẽ tiếp ứng Philippines “trong vòng vài tiếng đồng hồ” trong trường hợp chủ quyền của nước này bị thách thức.
Chuẩn Tướng Paul Kennedy, chỉ huy Lữ đoàn 3 Thủy quân lục chiến Mỹ Viễn chinh, bảo đảm với binh sĩ Philippines về cam kết của Mỹ sẵn sàng hỗ trợ nước này khi đối mặt với những mối đe dọa từ bên ngoài, trong khi tiến hành cuộc Diễn tập Đổ bộ Philippine lần thứ 32 (Phiblex).
Ông nói: "Nếu ai đó thách thức chủ quyền của đất nước này, những người bạn tốt nhất của các bạn trong khu vực này sẽ ứng phó trong vòng chỉ vài giờ. Và đây không phải là lời hứa suông."
Ông Kennedy cũng bác bỏ những nghi ngờ rằng binh sĩ Mỹ đang nỗ lực tận dụng những cuộc tập trận chung để có những căn cứ lâu dài tại Philippines.


Thiếu Tướng Alexander Balutan của Thủy quân lục chiến Philippines cho biết cuộc tập trận hàng năm này sẽ tập trung vào huấn luyện trên thực địa và hỗ trợ nhân đạo.
Tổng cộng 748 thủy quân lục chiến Philippine và 868 thủy quân lục chiến Mỹ sẽ tham gia vào cuộc tập trận Phiblex năm nay, bắt đầu từ ngày 1 tháng 10 cho đến ngày 9 tháng 10.
Philippines hiện đang đối mặt với những tranh chấp chủ quyền lãnh hải ở Biển Đông với Trung Quốc, nước tuyên bố gần 90% vùng biển có tiềm năng dầu khí lớn ở Đông Nam Á.
(ABS-CBN, The Philippine Star)
 http://www.voatiengviet.com/content/my-san-sang-ung-pho-neu-chu-quyen-philippines-bi-thach-thuc/2989293.html

TQ: Nước thứ ba không được quyền thăm dò dầu khí ở Biển Đông

Nơi khai thác dầu thô của Ấn Độ ở vịnh Bengal. Mặc dù không nêu đích danh Ấn Độ, nhưng Bắc kinh lâu nay phản đối hợp đồng khai thác dầu khí của New Delhi với Hà Nội.
Nơi khai thác dầu thô của Ấn Độ ở vịnh Bengal. Mặc dù không nêu đích danh Ấn Độ, nhưng Bắc kinh lâu nay phản đối hợp đồng khai thác dầu khí của New Delhi với Hà Nội.
Trung Quốc tuyên bố không một nước thứ ba nào có quyền thăm dò dầu khí trên Biển Đông trong những vùng thuộc quyền tài phán của Bắc Kinh mà không được Bắc Kinh cho phép.
Tờ Hindustan Times dẫn phản hồi của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 1/10 đáp các câu hỏi của báo này khẳng định Bắc Kinh có ‘chủ quyền không thể tranh cãi tại Trường Sa và các vùng biển lân cận cũng như chủ quyền và quyền tài phán đối với phần đáy biển và tầng đất liên quan. Trung Quốc phản đối bất kỳ hoạt động thăm dò dầu khí của quốc gia hay tập đoàn nào trong các vùng biển thuộc quyền tài phán Trung Quốc mà không được phép của Trung Quốc”.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc không nêu đích danh Ấn Độ trong bình luận này nhưng Bắc Kinh trước nay nhiều lần phản đối hợp đồng khai thác dầu khí của New Dehli với Hà Nội tại các lô dầu khí ngoài khơi bờ biển Việt Nam.
Bắc Kinh nói các cơ chế hiện hành đang vận hành tốt để kiềm chế những tranh chấp và Trung Quốc sẽ không cho phép các nước bên ngoài khu vực can thiệp vào chuyện Biển Đông.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng khẳng định Bắc Kinh theo đuổi nguyên tắc ‘5 kiên trì’ bao gồm kiên trì duy trì hòa bình ổn định Biển Đông, kiên trì giải quyết tranh chấp với các nước liên quan dựa trên luật quốc tế và tôn trọng chứng cứ lịch sử qua các cuộc thương lượng song phương, kiên trì dựa trên hệ thống luật lệ để kiểm soát tranh chấp, kiên trì gìn giữ tự do hàng không-hàng hải ở Biển Đông và kiên trì thực hiện chính sách cùng thắng lợi thông qua hợp tác.
Phản hồi của Trung Quốc được đưa ra sau khi Hoa Kỳ, Nhật Bản và Ấn Độ hôm 30/9 nhấn mạnh cần giải quyết tranh chấp theo luật quốc tế và tuyên bố tăng cường hợp tác để bảo đảm an ninh hàng hải trong khu vực.
Nguồn: Hindustan Times, Maritime Security.
 http://www.voatiengviet.com/content/tq-nuoc-thu-ba-khong-duoc-quyen-tham-do-dau-khi-o-bien-dong/2988863.html

Tàu Hải quân Ấn Độ thăm Việt Nam

Tàu hải quân Ấn Độ INS Sahyadri. Con tàu lớp Shvalik đang thực hiện nhiệm vụ ‘bố trí vận hành’ ở Biển Đông và Tây Bắc Thái Bình Dương.
Tàu hải quân Ấn Độ INS Sahyadri. Con tàu lớp Shvalik đang thực hiện nhiệm vụ ‘bố trí vận hành’ ở Biển Đông và Tây Bắc Thái Bình Dương.
Tàu hải quân Ấn Độ INS Sahyadri cập cảng Tiên Sa (Đà Nẵng) bắt đầu chuyến thăm chính thức kéo dài 4 ngày khởi sự từ hôm nay 2/10.
Hải quân Ấn cho hay con tàu lớp Shvalik đang thực hiện nhiệm vụ ‘bố trí vận hành’ ở Biển Đông và Tây Bắc Thái Bình Dương, một phần trong chính sách ‘Hướng Đông’ và ‘Hành động hướng Đông’ của Ấn giữa các động thái bành trướng của Trung Quốc tại khu vực.
Các giới chức Ấn cho hay trong thời gian ghé thăm Việt Nam, thủy thủ đoàn trên tàu sẽ tiến hành các hoạt động nhằm tăng cường hợp tác giữa hải quân hai nước.
Báo nhà nước nói  đây là năm thứ 3 liên tiếp tàu hải quân Ấn Độ thăm hữu nghị Đà Nẵng.
Hai nước Việt - Ấn ký Tuyên bố chung về ‘Thiết lập Đối tác Chiến lược’ năm 2007 và Bản ghi nhớ Hợp tác Quốc phòng năm 2009.
Nguồn: One India.com, newkerala.com
http://www.voatiengviet.com/content/tau-hai-quan-an-do-tham-viet-nam/2988901.html


Các bộ trưởng triển hạn đàm phán, quyết tâm đạt được thỏa thuận TPP

Bộ trưởng Thương mại Mexico Ildefonso Guajardo.
Bộ trưởng Thương mại Mexico Ildefonso Guajardo.
Reuters
Các bộ trưởng thương mại từ một chục nước Thái Bình Dương đang hội họp tại thành phố Atlanta đã triển hạn cuộc đàm phán về thỏa thuận thương mại TPP cho đến ngày thứ Bảy trong một nỗ lực nhằm đạt được một thỏa thuận cuối cùng cho hiệp định thương mại tham vọng nhất từng có suốt một thế hệ.
Các quan chức quyết định triển hạn cuộc đàm phán mà lúc đầu dự kiến sẽ kết thúc vào ngày thứ Năm trong một nỗ lực đầy quyết tâm nhằm tạo nên một bước đột phá cho thỏa thuận Quan hệ Đối tác Xuyên Thái Bình Dương, sẽ khai phóng thương mại ở 40% nền kinh tế thế giới cho một khu vực trải dài từ Việt Nam đến Canada.
“Không ai muốn rời hội nghị mà không có được thỏa thuận,” Bộ trưởng Kinh tế Mexico Ildefonso Guajardo cho hãng tin Reuters biết sau cuộc họp toàn thể thứ hai của các quan chức đến từ 12 quốc gia. “Tin tốt là chúng tôi sẽ không rời khỏi nơi này mà không có thỏa thuận.”
Các nhà quan sát chỉ ra tiến bộ về vấn đề xe ôtô, cam kết của Canada bồi thường cho những nông dân bị tổn hại vì hàng nhập khẩu và những dấu hiệu của một sự thỏa hiệp khả dĩ về vấn đề bảo vệ bằng sáng chế cho những loại thuốc mới là những bằng chứng cho sự tiến bộ - mặc dù vẫn còn một vấn đề khúc mắc chính yếu.
"Chúng tôi đang bắt đầu thấy một con đường hướng tới một thỏa thuận và đã nhất trí ra sức cuối cùng," Bộ trưởng Kinh tế Nhật Bản Akira Amari nói với các phóng viên.
Một số quan chức cho biết một thỏa thuận cuối cùng có thể nhanh chóng đạt được tùy thuộc vào kết quả của các cuộc đàm phán song phương về bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với thuốc men và hoạt động buôn bán sữa và xe hơi.
Ông Amari cho biết thời hạn độc quyền đối với những loại thuốc sinh học làm từ tế bào sống là vấn đề khó khăn nhất còn lại. Các nước TPP có thời gian bảo hộ mậu dịch khác nhau, từ 12 năm tại Mỹ cho tới năm năm ở các nước như Úc và Chile.
Đạt được thỏa thuận này sẽ là một thành tích mang tính định hình di sản cho Tổng thống Mỹ Barack Obama. Nhưng thỏa thuận thương mại này bị coi là một mối đe dọa bởi những nhóm lợi ích từ những công nhân ôtô ở Mexico đến những nông dân chăn nuôi bò sữa Québec cho tới những bệnh nhân ung thư lo lắng thỏa thuận này có thể đẩy chi phí của những loại thuốc điều trị mới vọt lên khỏi tầm tay.
 http://www.voatiengviet.com/content/cac-bo-truong-trien-han-dam-phan-quyet-tam-dat-duoc-thoa-thuan-ttp/2989257.html

Yếu tố toàn cầu ngăn đà tạo công ăn việc làm tại Mỹ

Người tìm việc nộp hồ sơ cho các nhà tuyển dụng trong một hội chợ việc làm ở bang California, Mỹ.
Người tìm việc nộp hồ sơ cho các nhà tuyển dụng trong một hội chợ việc làm ở bang California, Mỹ.
Các vấn đề trong nền kinh tế thế giới dường như đã tác động tới đà tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ. Trong tháng 9, giới chủ nhân mướn hàng chục ngàn người ít hơn so với trông đợi của các chuyên gia kinh tế, giữa lúc các số liệu về đà kiến tạo công việc làm ăn của chính phủ cho tháng 8 đã được điều chỉnh lại hôm nay, thấp hơn nhiều so với dự kiến.
Nền kinh tế Mỹ chỉ tạo ra được 142.000 việc làm trong tháng trước, thấp hơn dự báo nhiều. Con số cho tháng 8 đã được điều chỉnh xuống còn 136.000 người, cả hai tháng đều thấp hơn so với mức trung bình trong những tháng trước đây trong năm. Tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức 5,1%, chỉ vì nhiều công nhân viên đã ngưng đi tìm việc làm và rời thị trường nhân dụng.


Các kết quả đáng thất vọng vừa kể có lẽ cho thấy đà tăng trưởng èo uột của nền kinh tế thế giới đã làm giảm mạnh số đơn đặt hàng tại các hãng xưởng ở Hoa Kỳ. Nền kinh tế Trung Quốc đang chậm lại. Châu Âu đang chật vật xoay sở và các nền kinh tế mới xuất hiện tăng trưởng một cách không đáng kể.


Tòa Bạch Ốc nêu ra rằng đây là tháng thứ 67 nền kinh tế Mỹ tăng trưởng liên tiếp, thời gian tăng trưởng kinh tế kéo dài nhất từ khi các số liệu được thu thập. Tuy nhiên ông Jason Furman, Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Kinh tế nói rằng tình trạng bất định trên toàn cầu đòi hỏi các lãnh đạo chính trị phải tránh khoa trương và các biện pháp thắt lưng buộc bụng, ý muốn nhắc tới các cuộc tranh chấp về vấn đề chi tiêu tại quốc hội.
Các chuyên gia tài chính mô tả phúc trình về tình trạng nhân dụng của chính phủ trong tháng 9 là ‘đáng thất vọng’. Họ cho rằng kết quả của phúc trình có thể gây khó khăn cho các kế hoạch của Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang Janet Yellen, người hồi tuần trước nói rằng Ngân hàng Trung tương Hoa Kỳ có phần chắc sẽ tăng lãi suất trước cuối năm nay.
http://www.voatiengviet.com/content/yeu-to-toan-cau-ngan-da-tao-cong-an-viec-lam-tai-my/2989099.html

 Nhà văn Võ Phiến qua đời tại California
Mặc Lâm, biên tập viên RFA,
2015-09-29
Nhà văn Võ Phiến qua đời tại California, ngày 28 tháng 9, 2015
Nhà văn Võ Phiến qua đời tại California, ngày 28 tháng 9, 2015
Photo Huynh Ngoc Dan/NguoiViet
Nhà văn Võ Phiến vừa qua đời vào chiều hôm qua ngày 28 tháng 9 tại thành phố Santa Ana California hưởng thọ 90 tuổi.
Võ Phiến là cây bút nổi tiếng của văn học Việt Nam từ thập niên 60 khi cuộc chuyển mình giữa hai luồng tư tưởng tự do và cộng sản lên tới đình cao nhất. Tác phẩm của ông để lại cho Văn học Việt Nam đồ sộ không những ở con số của các trang sách mà trong từng trang sách ấy chứa đựng sự sáng tạo, trăn trở với văn học, với con đường đất nước đã lặn lội qua nhiều chế độ.
Để tưởng nhớ ông, Mặc Lâm có cuộc trao đổi với nhà phê bình văn học Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc, người đã theo dõi và viết nhiều chuyên đề về nhà văn Võ Phiến.
Mặc Lâm: Thưa GS, là người theo dõi, viết nhiều về nhà văn Võ Phiến xin ông cho biết ấn tượng nào của ông về văn nghiệp của nhà văn được xem là lớn và nhiều ảnh hưởng nhất của Văn học Việt Nam hiện đại này.
GS Nguyễn Hưng Quốc: Tôi có ấn tượng rất tốt về Võ Phiến, đó là sự quan tâm của ông đối với văn chương. Ông say mê viết lách đã đành, ông còn có niềm say mê đọc những người khác. Mỗi lần thấy người nào viết hay ông trầm trồ, khen ngợi, động viên khuyến khích họ. Ông không hề có một chút gì ghen tỵ hay khó chịu.
Mỗi lần tôi ra một cuốn sách hay viết một bài báo nào đó mà ông đọc được thì ông trầm trồ khen ngợi bằng những bức thư dài 3, 4 trang để bình luận về một bài báo của tôi. Tôi nghĩ là ở Võ Phiến ngoài cái tài của ông thì điều mà người ta không thể phủ nhận được còn cái tâm của ông đối với giới viết lách, văn chương. Tôi nghĩ hiếm có người nào mà vừa say mê văn chương lại vừa rộng lượng với người khác như Võ Phiến.
Mặc Lâm: Nhà văn Võ Phiến từ nhiều chục năm qua được nhiều người cho rằng là ngòi viết chống cộng, dĩ nhiên các quan chức văn nghệ Việt Nam là những người ủng hộ cho ý kiến này nhất. Riêng GS ông có cho rằng Võ Phiến xem việc chống cộng cho mục tiêu viết lách của mình hay không?
GS Nguyễn Hưng Quốc: Tôi hoàn toàn không đồng ý. Trước năm 1975 ở miền Nam Võ Phiến có viết nhiều thể loại khác nhau trong đó ông viết bình luận văn học, bình luận về chính trị. Ngoài ra ông còn viết tùy bút, truyện dài, truyện ngắn. Thành tựu lớn nhất của Võ Phiến là tùy bút, truyện ngắn thế nhưng người ta bị ám ảnh nhiều về những bài bình luận chính trị của Võ Phiến và người ta cho ông là cây bút chống cộng.
Tôi nghĩ điều này thật ra xuất phát từ chỗ không phải Võ Phiến viết bài chống cộng nhiều nhưng mà chủ yếu ở chỗ Võ Phiến viết bài chống cộng hay anh ạ. Sau này tôi đọc lại những bài bình luận chính trị của Võ Phiến viết về chủ nghĩa cộng sản cũng như cộng sản miền Bắc nói chung từ những năm 60-61-62… trong giai đoạn đó Võ Phiến hiểu rất rõ, rất tinh tế những âm mưu, ý đồ của cộng sản miền Bắc.
Tôi nghĩ rằng người ta gán cho Võ Phiến danh xưng nhà văn chống cộng bởi vì người ta sợ ông, sợ sự sắc sảo của ông. Bởi vậy không có gì ngẫu nhiên sau năm 1975 khi chiếm được miền Nam thì Võ Phiến được coi là cây bút đứng đầu trong danh sách chống cộng, những cây bút được coi là phản động là biệt kích chống cộng…và toàn bộ sách của ông bị cấm xuất bản thậm chí bị tịch thu, thiêu hủy.
Mặc Lâm: Giáo sư có quan hệ mật thiết với nhiều nhà văn trong nước ông thấy thái độ của họ thế nào? Họ có đồng thuận với cáo buộc của nhà nước cho rằng tác phẩm của Võ Phiến là tiền đồn chống cộng hay không?
Tôi có ấn tượng rất tốt về Võ Phiến, đó là sự quan tâm của ông đối với văn chương. Ông say mê viết lách đã đành, ông còn có niềm say mê đọc những người khác. Mỗi lần thấy người nào viết hay ông trầm trồ, khen ngợi, động viên khuyến khích họ. Ông không hề có một chút gì ghen tỵ hay khó chịu
GS Nguyễn Hưng Quốc
GS Nguyễn Hưng Quốc: Một cách chính thức trên sách báo xuất phát từ bộ máy tuyên truyền của nhà cầm quyền Việt Nam thì tôi nghĩ là mọi người ai cũng thấy Võ Phiến bị lên án, bị công kích và phê phán rất nhiều, thế nhưng trong những cuộc gặp gỡ riêng tư tôi lại thấy người ta rất nể phục Võ Phiến. Ví dụ trước năm 79 hay 80-81 gì đó tôi có dịp gặp nhà thơ Chế Lan Viên một lần tại Sài Gòn ông có nhắc đến Võ Phiến và rất khen ngợi Võ Phiến. Sau này gặp nhiều người khác tôi cũng nghe người ta rất khen Võ Phiến. Một trong những người khen Võ Phiến nhiệt tình nhất là nhà văn Nguyễn Khải.
Cách đây khoản 10 năm Nguyễn Khải có dịp sang Mỹ thì ông có viết thư cho Võ Phiến và bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình đối với Võ Phiến. Nhà văn Võ Phiến có giao bức thư của nhà văn Nguyễn Khải cho tôi để tôi giữ làm tài liệu. Khá nhiều người cầm bút ở miền Bắc cũng như trong nước sau 1975 bộc lộ niềm ngưỡng mộ đối với Võ Phiến.
Mặc Lâm: Trong sự nghiệp văn chương của Võ Phiến có lẽ thành tựu lớn nhất của ông là tập Văn học Miền Nam Tổng quan, là người nghiên cứu và giảng dạy văn học Việt Nam Giáo sư đánh giá công trình này như thế nào?
GS Nguyễn Hưng Quốc: Vâng, sau năm 1975 ở hải ngoại Võ Phiến viết nhiều thể loại khác nhau. Ông viết truyện dài, truyện ngắn, tùy bút, tạp bút thậm chí ông làm thơ nữa! Theo tôi thành tựu lớn nhất của Võ Phiến sau năm 1975 ở hải ngoại chính là bộ Văn Học Miền Nam, trong đó bao gồm nhiều tập mà tập anh vừa nêu là tập đầu tiên, giới thiệu toàn bộ bối cảnh sinh hoạt văn học miền Nam trước năm 75 cũng như những thành tựu, những xu hướng, trường phái khác nhau trong 20 năm văn học miền Nam. Tuy nhiên sau đó ông xuất bản thêm khá nhiều tập khác, có mấy tập chuyên về thơ, về tiều thuyết, tùy bút, kịch….
Nói chung đó không những là thành tựu lớn nhất của Võ Phiến sau 1975 mà thậm chí đó là thành tựu lớn nhất của cả hải ngoại nói chung về văn học miền Nam trước 75. Cho tới bây giờ chưa có người nào viết về văn học miền Nam một cách đầy đủ, sắc sảo, tinh tế đến như vậy anh ạ.
Cho đến bây giờ khi đọc lại cuốn Văn học Miền Nam Tổng quan của Võ Phiến cũng như những bài nhận xét của Võ Phiến về một số nhà thơ, nhà văn miền Nam thì tôi nghĩ người ta sẽ hiểu hơn một nền văn học bị trù dập, bị âm mưu xóa bỏ sau 1975.
Sau năm 1975 ở hải ngoại Võ Phiến viết nhiều thể loại khác nhau. Ông viết truyện dài, truyện ngắn, tùy bút, tạp bút thậm chí ông làm thơ nữa! Theo tôi thành tựu lớn nhất của Võ Phiến sau năm 1975 ở hải ngoại chính là bộ Văn Học Miền Nam
GS Nguyễn Hưng Quốc
Mặc Lâm: Riêng tại hải ngoại GS có nghĩ rằng nhiều người theo dõi, đọc và bị ảnh hưởng tác phẩm của nhà văn hay không?
GS Nguyễn Hưng Quốc: Thật ra có lẽ những người chịu ảnh hưởng của Võ Phiến cũng khá nhiều nhưng bàng bạc đây đó rất khó ghi nhận. Võ Phiến vốn là một nhà văn lặng lẽ tuy ông có phong cách xuất sắc riêng rất độc đáo nhưng rất lặng lẽ cho nên ảnh hưởng của Võ Phiến đối với người sáng tác khác ở hải ngoại có lẽ không rõ ràng lắm trừ chuyện ông chuyển lửa cho họ bằng sự đam mê, nồng nhiệt của mình. Khuyến khích họ cầm bút, khuyến khích họ tiếp tục sáng tác.
Mặc Lâm: Riêng về giới viết lách và nghiên cứu văn học trong thế hệ của GS có ai xem Võ Phiến là ngọn nến soi rọi trên sáng tác hay nghiên cứu của họ không?
GS Nguyễn Hưng Quốc: Thế hệ chúng tôi khác hơn Võ Phiến nhiều chỗ bởi vì chúng tôi trưởng thành và ra hải ngoại sớm bởi vậy thành thật mà nói những tác phẩm chúng tôi đọc thì có lẽ của phương Tây nhiều hơn là văn học Việt Nam. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là chúng tôi không chịu ảnh hưởng của Võ Phiến. Chúng tôi chịu ảnh hưởng nhiều từ phong cách viết lách của ông. Chịu ảnh hưởng từ đam mê của ông, từ thái độ nghiêm túc đối với chuyện viết văn, làm thơ. Ảnh hưởng của ông đối với thế hệ chúng tôi có lẽ sâu đậm mà còn cần thời gian chúng ta mới nhận ra nó cụ thể như thế nào.
Mặc Lâm: Xin được một câu hỏi cuối, với tư cách cá nhân là người tiếp xúc thường xuyên với nhà văn Võ Phiến, GS có chia sẻ gì về sự ra đi của ông?
GS Nguyễn Hưng Quốc: Với tư cách cá nhân của tôi do quen biết khá nhiều văn nghệ sĩ ở miền Nam trước 1975 cũng như ở hải ngoại sau 1975 thì người gần gũi nhất với tôi là Võ Phiến. Lý do gần gũi bởi vì từ năm 1996 tôi có xuất bản một chuyên khảo viết về Võ Phiến. Trước đó để cung cấp tài liệu thì Võ Phiến gửi thư cho tôi hầu như hàng tuần hoặc hàng tháng. Tôi nhận được hàng trăm bức thư khác nhau của ông trong đó ông kể về cuộc đời, về quan niệm của ông đối với chuyện sáng tác. Về những kỷ niệm của ông trong sinh hoạt nghệ thuật ở miền Nam trước và sau năm 1975, cho nên qua những thư từ trao đổi như vậy tôi thấy rất gần gũi với Võ Phiến.
Tôi có cảm giác Võ Phiến không phải là nhà văn ở ngoài mà là người thân trong gia đình, bởi vậy khi nghe tin Võ Phiến mất thành thật mà nói tôi rất xúc động, bàng hoàng có cảm giác nghẹn ngào như nghe một người thân của mình vừa mới qua đời.
Đó là chỗ riêng tư còn nói một cách tổng quát tôi cho sự ra đi của Võ Phiến là một mất mát với nền văn học Việt Nam nói chung. Không thể hoài nghi được trong suốt thế kỷ 20 thì Võ Phiến là một nhà văn xuất sắc nhất của chúng ta. Mất ông chúng ta mất đi một đại thụ trong văn học Việt Nam.
Mặc Lâm: Xin cám ơn GS Nguyễn Hưng Quốc.
 http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/great-writ-vophien-pass-awy-09292015110444.html

No comments: