Friday, March 7, 2014
TƯỞNG NĂNG TIẾN * TỘI NÓI THẬT
Tội Nói Thật
Wed, 03/05/2014 - 08:29 — tuongnangtien
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
Tư duy người cộng sản Việt Nam vẫn lạc hậu trong bối cảnh nhiều chế độ độc tài đã và đang diệt vong.
Nguyễn Ngọc Già
Có hôm, tôi nghe Vũ Thư Hiên chép miệng:
Với người Việt ta, ở tù không phải sự lạ. Thiên hạ gặp nhau thấy
ngờ ngợ thì không hỏi quê quán, họ hàng mà hỏi: mình gặp nhau ở trại
nào nhỉ?
Ổng nói, rõ ràng, hơi quá. Thế mà vẫn có một nhà văn (khác) chia sẻ hết sức tận tình:
Gặp ai, ở đâu hắn cũng tưởng như gặp lại bạn tù cũ. Nhìn những
người trên đường, hắn giật mình: “Quái nhỉ, ở trại nào nhỉ. Quen quá.
Không biết đã gặp ở đâu rồi. Được về bao giờ nhỉ”.
Đó là một cảm giác kỳ lạ. Hắn luôn gặp những khuôn mặt tù quen
quen. Những khuôn mặt tù ngờ ngợ. Không biết ở trại nào. Hẳn họ cũng như
hắn. Mới được ra trại. Thoạt đầu hắn cho là hắn mắc bệnh quên. Trí nhớ
hắn suy giảm, nên hắn không nhớ được những người bạn tù ấy. Nhưng rồi
hắn giật mình: “Chẳng lẽ nhiều người đi tù về đến thế? Đất nước lắm
người đi tù đến thế?” ...” (Bùi Ngọc Tấn. Chuyện Kể Năm 2000, tập I. CLB Tuổi Xanh, Westminster, CA: 2000).
Đoạn văn thượng dẫn được viết hồi cuối thế kỷ trước, sau
khi tác giả đã trải qua nhiều năm tù vì tội “tuyên truyền
phản cách mạng” và “bôi đen chế độ” – theo như lời ông tự
thuật:
Hoá hỏi:
- Anh là cộng sản à?
- Cả nhà tôi là cộng sản. Là đảng viên. Nhưng tôi thì chưa. Tôi là quần chúng.
- Vì sao anh chưa được kết nạp?
- Đã có lúc tôi phấn đấu, nhưng chưa được vào.
Hoá nhìn hắn từ đầu đến chân. Định nghĩa cái nhìn ấy là: Anh nói thật. Tôi quí anh vì anh nói thật.
- Vì sao anh bị vào đây? Tôi có tò mò quá không?
- Tôi bị bắt với tội danh “Tuyên truyền phản cách mạng”. - Ở đây anh em gọi là tội nói sự thực. Đó là một lời khen. Nói sự thực là một việc khó khăn, nguy hiểm. Từ xưa đến nay vẫn thế. Bao giờ cũng là một việc nguy hiểm.(sđd, trang 58).
- Cả nhà tôi là cộng sản. Là đảng viên. Nhưng tôi thì chưa. Tôi là quần chúng.
- Vì sao anh chưa được kết nạp?
- Đã có lúc tôi phấn đấu, nhưng chưa được vào.
Hoá nhìn hắn từ đầu đến chân. Định nghĩa cái nhìn ấy là: Anh nói thật. Tôi quí anh vì anh nói thật.
- Vì sao anh bị vào đây? Tôi có tò mò quá không?
- Tôi bị bắt với tội danh “Tuyên truyền phản cách mạng”. - Ở đây anh em gọi là tội nói sự thực. Đó là một lời khen. Nói sự thực là một việc khó khăn, nguy hiểm. Từ xưa đến nay vẫn thế. Bao giờ cũng là một việc nguy hiểm.(sđd, trang 58).
Tuy “nguy hiểm” đến thế nhưng người Việt vẫn có nhiều kẻ
mạo hiểm đều đều. Nhân vật mới nhất, vừa bị lôi ra toà và
kết án tù vào hôm 4 tháng 3 vừa qua (vì tội danh “bôi đen chế
độ” hay “nói thật”) cũng là một người cầm viết.
Bản Bản Cáo Trạng
của Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao, đề ngày 17 tháng 12 năm
2013, ghi rõ nhà báo Trương Duy Nhất đã “lợi dụng quyền tự do
dân chủ ... bôi nhọ lãnh đạo” làm "giảm uy tín, mất lòng tin của
nhân dân đối với cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức, xã hội và công dân"
và “hạ thấp uy tín cá nhân của Tổng Bí Thư, Chủ Tịch Nước,
Thủ Tướng Chính Phủ, Chủ Tịch Quốc Hội, làm đến uy tín của
Đảng, Nhà Nước, Quốc Hội, Chính Phủ nước CHXHCN Việt Nam.”
Trước sự kiện này blogger Huỳnh Ngọc Chênh có lời bàn (ra) nghe hơi cay đắng:
Sau 7 tháng, một công dân chỉ cầm bút viết blog mà bị bắt giam
biệt tích với cả người thân trong gia đình để chịu sự điều tra căng
thẳng, để cuối cùng cơ quan điều tra nêu ra một số cáo buộc mà khi đọc
vào ai cũng thấy rằng chẳng cần phải bắt bớ, giam cầm, điều tra gì cũng
có thể nêu ra được, vì mọi thứ blogger Trương Duy Nhất viết ra đều đường
đường chính chính công khai minh bạch trên blog cá nhân của mình.
Blogger Vũ Đông Hà không chỉ cay đắng mà còn ... cay nghiệt:
Blogger Trương Duy Nhất dứt khoát không phạm tội.
Cho dù ông có muốn phạm tội cũng dứt khoát ông không thể làm được.
Ông không thể làm giảm uy tín một thứ không có uy tín.
Cá nhân ông không thể làm giảm lòng tin của 90 triệu người vốn đã mất niềm tin.
Ông không thể làm một người không có chiều cao bớt lùn.
Ông chỉ vô tình đóng góp thêm một điều ngoài ý muốn của ông: bản
cáo trạng "vì ông mà có" đã thêm một lần nữa chứng minh cái đảng và nhà
nước hiện nay là tập hợp của những tên lùn nhưng có ảo tưởng mình rất
cao và sẵn sàng tống vào tù những ai đá động đến chữ LÙN.
Cùng lúc, ở lề bên kia, lác đác cũng có vài tiếng anh vỗ tay tán thưởng. Trên Petro Times, ông Bảo Sơn (nào đó) khẳng định:
Vụ án Trương Duy Nhất cũng là một bài học cảnh tỉnh cho một số
người hiện nay đang dùng blog để xuyên tạc chủ trương chính sách của
Đảng, Chính phủ.
Tương tự, trong trang Người Con Yêu Nước cũng có một vị tuy không dám nêu danh nhưng rất lớn tiếng:
Bản cáo trạng đã quá rõ ràng, những bài viết làm chứng cứ vẫn
còn được lưu giữ. Chẳng có ai chống Tàu mà lại đi bôi nhọ thể chế, công
kích cá nhân, bêu rếu danh dự, nhân phẩm của các cán bộ cấp cao như vậy...
Vì vậy truy tố Trương Duy Nhất theo điều 258 là một quyết định đúng đắn
để răn đe, trừng trị người phạm tội cũng như bảo vệ sự vững mạnh của
thể chế.
Ngôn ngữ và giọng điệu của hai nhân vật (vô danh và ẩn
danh) vừa kể khiến tôi nhớ đến vài vị văn nghệ sĩ (tên tuổi)
khác đã từng hùng hồn lên tiếng trong chiến dịch đấu tố “nhóm
phá hoại Nhân Văn – Giai Phẩm,” từ hơn năm mươi năm trước:
- Huyền Kiêu:
Cuối năm 1956, trong lúc tình hình cách mạng gặp khó khăn, thì
một số phần tử xấu trong giới trí thức văn nghệ, tưởng rằng thời cơ “làm
ăn béo bở” đã đến, vội vã dương lá cờ rách Nhân văn nhảy lên võ đài,
khua môi múa mỏ, với dã tâm, bóp méo, xuyên tạc những khuyết điểm của ta
về văn nghệ, tấn công vào sự lãnh đạo của Đảng trong văn nghệ, và từ
địa hạt văn nghệ, lan sang các mặt văn hóa, xã hội, chính trị, bôi xấu,
vu cáo toàn bộ sự lãnh đạo của Đảng, hòng cản trở bước tiến lên xã hội
chủ nghĩa của miền Bắc nước ta...để bôi đen chế độ miền Bắc, xuyên tạc sự lãnh đạo của Đảng.
- Đỗ Nhuận :
Trần Dần dùng ngòi bút viết lên bao thứ bài thơ như “Nhất định thắng”, chuyện “Cò Lấm”, “Lão Rồng”, “Em bé làm văn” v.v…, để bôi đen miền Bắc và con người của chế độ ta...
Năm 1952 anh đi theo đường lối văn nghệ của Đảng và theo kinh
nghiệm của đường lối văn nghệ Trung Quốc, nên anh đã có một số sáng tác
dùng được; vài năm sau anh nói với tôi rằng: “Không nên theo đường lối
Trung Quốc vì như thế là đi đường vòng quanh, phải đi đường thẳng”.
Đường thẳng là thế nào? Khi anh sang Trung Quốc, anh rất thích
cái lý luận của tên phản động Hồ Phong ở Trung Quốc, anh nhập cái tư
tưởng phản động của Hồ Phong vào người và ban phát nó cho một số người
bạn của anh vì theo anh đó là con đường thẳng. Hồ Phong dùng hình ở mũi
dao cắm vào lưng người văn nghệ sĩ để mạt sát và chống lại sự lãnh đạo
văn nghệ của Đảng Cộng sản Trung Quốc, thì trong bài thơ “Nhất định
thắng” anh cũng dùng hình ảnh “Con dao dựa cùn chém trộm ngang lưng” để
vu khống, xuyên tạc sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam.
Trần Dần sinh năm 1926, Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934, Trương Duy
Nhất ra đời 20 năm sau nữa. Cả ba đều sống chung trong một môi
trường xã hội mà “dối trá” là “phương châm” để sinh tồn. Tuy
thế, họ đã lựa chọn một thái độ sống khác:
Phải làm một người chân thật…
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu...
Người làm xiếc đi giây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu...
Người làm xiếc đi giây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Cái giá để đi trọn đời trên con đường chân thật, tất nhiên, không rẻ. Phùng Quán
đã phải trả bằng cả một cuộc đời (cá trộm, rượu chịu, văn
chui) cùng với vài “ba chục năm sống trong nơm nớp, nghe tiếng
chó sủa lạ cũng giật mình thon thót” – theo lời của Nguyễn Quang Lập.
Dù sao, thế vẫn hơn mười lăm năm tù và mười lăm năm quản chế
mà Đảng và Nhà Nước đã dành cho Thụy An cùng Nguyễn Hữu Đang –
với tội danh ... gián điệp!
Những hình phạt hay những bản án khắc nghiệt mà chế độ
hiện hành đã quen dùng trong mấy chục năm qua – xem ra – không
“cảnh tỉnh” và cũng chả “răn đe” được người dân, như mong đợi.
Thể chế cũng chả vì thế mà “vững mạnh” hơn, nếu chưa muốn
nói là hoàn toàn ngược lại: mỗi ngày một thêm lụn bại và
rệu rã!
Nhà đương cuộc Hà Nội không thể bắt giam hết cả ngàn
Trương Duy Nhất đang có mặt khắp nơi. Và dù họ có làm được như
vậy chăng nữa thì sẽ có hàng chục ngàn Trương Duy Nhất khác
sẽ xuất hiện trong những ngày tháng tới.
Wednesday, March 5, 2014
TS. NGUYỄN PHÚC LIÊN *ĐÒI QUYỀN SỐNG
THÚC ĐẨY CHO BÙNG NỔ CUỘC
ĐẤU TRANH KINH TẾ ĐÒI QUYỀN SỐNG LÀ CON ĐƯỜNG NGẮN NHẤT CHẤM DỨT CSVN
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Attachment: Ba`i 3, trang 1, D-L 150
Hình GS TS NGUYỄN PHÚC
LIÊN
Geneva, 06.02.2014
Lực lượng chủ yếu đấu tranh là Khối 95 triệu người nằm tại Quê Hương, còn Hải ngoại chỉ là phụ thuộc hỗ trợ cho Lực lượng Quốc nội. Nếu Hải ngoại tự coi mình là Lực lượng chính yếu đấu tranh mong đem Cách Mạng về giải phóng Quê Hương, thì đó là sai lầm.
Việc DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN hiện hành là cấp bách, vì vậy chúng ta lựa chọn con đường đấu tranh ngắn nhất và cụ thể nhất cho Quần chúng Việt Nam. Chúng tôi thấy con đường đó là con đường KINH TẾ nhắm vào Tử huyệt kinh tế Mafia CSVN mà tấn công liên hồi "như thiết như tha, như trác như ma, như quốc kêu mùa hè, như mài son, như đánh giặc". Phải tập trung lực vào Tử huyệt này. Con đường đó phải được phổ biến rộng rãi trong Quần Chúng Việt Nam nguyên do về phá sản của nền Kinh tế Quốc dân để Dân Tộc NỔI DẬY DÙ VỚI BẠO ĐỘNG dứt bỏ hẳn Cơ chế CSVN.
Chúng tôi xin viết tóm tắt sau đây những điểm thuộc con đường đấu tranh ấy. Chúng tôi sẽ vào những Hội Luận Paltalk để qua những Hội Luận này truyền thông con đường đấu tranh ngắn nhất và cụ thể nhất về cho đồng bào Quốc nội.
1) Con đường đấu tranh Kinh tế: NGƯỜI DÂN ĐÒI QUYỀN SỐNG
* Quyền sống thân xác là ưu tiên trên mọi Nhân Quyền
Mọi sinh vật, từ cây cỏ, động vật,
con người, không phải chỉ có cái quyền mà còn có bổn phận phải tự kiếm những
phương tiện vật chất để nuôi sống thân xác mình.
* ĐÒI QUYỀN SỐNG không phải là đấu
tranh chính trị
Khi người Công nhân cho thuê sức Lao
động, tư hữu tuyệt đối của họ, để có được miếng cơm manh áo, họ có cái quyền
thương lượng về giá cả của sức Lao động. Không ai có quyền tước đoạt một cách
độc đoán sức Lao động của họ để bán đứng cho người khác. Cũng vậy, người Nông
dân có cái quyền tư hữu một miếng đất để trồng cấy sinh sống. Không ai có quyền
tước đoạt cái phương tiện tối thiểu đất đai trồng cấy của họ. Khi người Công
nhân đòi thương lượng về cái giá của Lao động và người Nông dân đòi miếng đất
tối thiểu để cầy cấy, thì đó là hoàn toàn thuộc về đấu tranh ĐÒI QUYỀN SỐNG, chứ
không thể được cắt nghĩa gán ghép là họ đấu tranh Chính trị nhằm lật đổ cường
quyền.
* Tổ chức Chính trị—Luật pháp chỉ là
Môi trường phù hợp (Environnement Adéquat) cho phát triển Kinh tế
Thực vậy, tất cả những Tổ chức Chính
trị—Luật pháp đích thực phải được hiểu như tạo một Môi trường thuận tiện nhằm
nâng đỡ sự phát triển những sinh hoạt Kinh tế của Xã hội trong việc tìm phương
tiện nuôi sống thân xác, chứ không được hiểu như một khuôn khổ sống phát xuất từ
giới nắm quyền lực Chính trị áp đặt độc đoán lên những tác nhân Kinh tế đang tìm
phương tiện nuôi thân.
* Những cuộc Cách Mạng Lịch sử lấy
QUYỀN SỐNG làm động lực chính yếu NỔI DẬY
Cuộc Cách Mạng Pháp 1789. Cuộc Cách
Mạng 1917 tại Nga. Những cuộc Cách Mạng chung quanh mốc 1990 lật đổ Cộng sản Nga
và Đông Âu. Những cuộc Cách Mạng Hoa Nhài Bắc Phi và Trung Đông trong khoảng
2010-2012.
2) Hai Mô hình Kinh tế đối chọi:
TẬP QUYỀN CHỈ HUY và TỰ DO CẠNH TRANH
* Mô hình Kinh tế Tự do và Thị
trường với Môi trường Chính trị—Luật pháp Dân chủ phù hợp (Environnement
Politico-Juridique Démocratique Adéquat)
* Mô hình Kinh tế Tập quyền Chỉ huy
với Môi trường Chính trị—Luật pháp Độc tài (Environnement Politico—Juridique
Dictatorial)
* Mô hình Kinh tế tréo cẳng ngỗng
của CSVN : Kinh tế Tự do và Thị trường định hướng XHCN với Môi trường Chính
trị—Luật pháp Độc tài (Environnement Politico—Juridique Dictatorial)
3) Hậu quả của những Mô hình Kinh tế: PHÁ SẢN KINH TẾ QUỐC DÂN CỦA MÔ HÌNH TẬP QUYỀN CHỈ HUY và THỊNH VƯỢNG CỦA KINH TẾ TỰ DO THỊ TRƯỜNG
* Phồn thịnh của Mô hình Kinh tế Tự do Thị trường và nền Xã hội Dân chủ xây dựng vững chãi từ Mô hình Kinh tế ấy.
* Thất bại của Mô hình Kinh tế Tập
quyền Chỉ huy: Tan rã của Đế quốc Cộng sản: Nga và Đông Âu
* Tham nhũng Lãng phí lan tràn từ Mô
hình Kinh tế Tự do Thị trường định hướng XHCN.
* Tha hóa trầm trọng Giáo dục và Xã
hội với Mô hình Kinh tế tréo cẳng ngỗng của CSVN.
4) Hiện tình Kinh tế và Xã hội tại Quê Hương Việt Nam
* Tha hóa trầm trọng Giáo dục và Xã hội
* Phá sản đến vỡ nợ của nền Kinh tế quốc dân
* Bất lực cải cách tận căn nguyên của Mô hình Kinh tế tréo cẳng ngỗng của CSVN
* Một tương lai đen tối của Tha hóa Giáo dục và Xã hội với sự thụt lùi Kinh tế sánh với những nước trong vùng.
5) Cấp bách cứu nước:
QUẦN CHÚNG NỔI DẬY DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN
Tình trạng Kinh tế hấp hối, Giáo dục & Xã hội sa đọa, việc tẩu thoát Tài sản và người của Lãnh đạo CSVN ra nước ngoài thúc đẩy Dân Tộc phải cấp bách NỔI DẬY DÙ VỚI BẠO ĐỘNG để dứt bỏ Cơ chế CSVN.
* Những bất công chất chồng cấp số nhân nơi Quần chúng tạo thùng thuốc súng sẵn sàng bùng nổ.
Sự BẤT MÃN đối với Cơ chế CSVN mỗi ngày mỗi tăng, nhất là trong năm 2013. Việc tố cáo nhau trong đảng Cộng sản và việc công kích chính Cơ chế đã lên tới hàng ngũ Lãnh đạo đảng. Phong trào bỏ đảng được tăng cường. Quần chúng Nông dân, Công nhân, Giới Trẻ, đến Trí thức, đã công khai bầy tỏ sự BẤT MÃN.
Ký giả Thomas FULLER, một nhân chứng nước ngoài cho sự BẤT MÃN ấy:
"Tin New York - Ký giả Thomas Fuller của New York Times đã đến tận Saigon, đã tiếp xúc với nhiều người và cho biết người dân Việt Nam nay không còn tin vào đảng Cộng sản nữa. Theo tác giả, Đảng Cộng sản Việt Nam đang đối mặt với sự giận dữ ngày càng tăng của người dân về sự trượt dốc của nền kinh tế, và nội bộ Đảng đang bị chia. Bài báo cho rằng giờ đây sự chỉ trích Đảng đã bùng nổ trên toàn xã hội. Bài báo nhận xét Đảng Cộng sản Việt Nam đã suy đồi cả về tinh thần lẫn đạo đức. Sự mục nát sẽ dẫn đến chỗ Đảng sụp đổ. Những người đã từng tham gia vào phong trào phản chiến trong những năm 60 và 70 nên treo cổ trong tủi hổ và nên xin lỗi người dân Việt Nam."
Tình trạng BẤT MÃN của quần chúng tăng lên mỗi ngày mỗi mạnh. Trước sự đàn áp không ngừng của bạo quyền, sự BẤT MÃN ấy mau trở thành sự UẤT ỨC chất chồng như thùng thuốc nổ đợi dịp nổ tung ra.
* Những ngáng trở cho cuộc NỔI DẬY
CSVN "cướp chính quyền" bằng bạo lực và sau đó tổ chức một guồng máy cai trị dân hoàn toàn bằng một bạo lực kềm kẹp, hù dọa, khủng bố dân. Ngày nay, trước sự BẤT MÃN, UẤT ỨC của quần chúng sẵn sàng NỔI DẬY, cái bạo lực đàn áp của CSVN vẫn nằm đó. Đây là tình trạng có thể đưa đến va chạm đẫm máu.
* Ngòi nổ cho thùng thuốc súng: DÂN OAN VIỆT NAM
Như trên chúng tôi đã cắt nghĩa, sự BẤT MÃN, lòng UẤT ỨC nơi quần chúng đang được tích lũy như thùng thuốc nổ. Cần một cái ngòi nổ để thùng thuốc súng quần chúng nổ tung ra. Cái ngòi nổ lúc này dễ dàng bắt nguồn từ khối DÂN OAN VN. Những người Dân Oan đã mất hết không còn gì để thương tiếc. Họ cũng gần kề cảnh chết đói nên không sợ chết nữa. Đó là những điều kiện khách quan khiến DÂN OAN VN dễ dàng trở thành ngòi nổ cho NỔI DẬY.
* Cuộc NỔI DẬY có thể trở thành BẠO ĐỘNG
Cuộc NỔI DẬY của quần chúng chỉ là hệ quả định mệnh của tích lũy BẤT MÃN và UẤT ỨC. Cuộc NỔI DẬY có thể trở thành BẠO ĐỘNG đẫm máu khi mà CSVN vẫn duy trì sức mạnh bạo lực nhằm đàn áp.
* Những trợ lực từ Khối Người Việt Hải ngoại cho cuộc NỔI DẬY tại Quốc nội
Từ đầu bài, chúng tôi đã nhấn mạnh rằng Lực lượng NỔI DẬY chủ lực là toàn dân Quốc nội, còn Hải ngoại chỉ là phụ thuộc làm công việc hỗ trợ, như:
=> Phổ biến rộng rãi về Quê Hương cho dân, nhất là dân nghèo, thấy rõ rằng cái thủ phạm chính yếu của tha hóa Xã hội và của phá sản Kinh tế là cái Cơ chế chủ trương Độc tài Chính trị nắm Chủ đạo Kinh tế. Cơ chế ấy tự nó làm phát sinh và lan tràn Tham nhũng, Lãng phí. THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ chính là thủ phạm phá sản Kinh tế và tha hóa Xã hội.
=> Không thể cải thiện cái Cơ
chế, mà phải dứt bỏ chính cái Cơ chế, nghĩa chấm dứt đảng và guồng máy cai trị
do đảng CSVN áp đặt lên Dân Tộc.
=> Tăng cường mọi hệ thống truyền
thông từ Hải ngoại về Việt Nam: hệ thống thông tin Internet toàn cấu, hệ thống
thảo luận Paltalk triền mên về trong nước.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
THƯ GỬI QUỐC TẾ NHÂN QUYỀN
VIETNAM - Audio messages to the UN
Human Rights Council, from Thich Quang Do and Le Cong
Cau
Forwarded to vietmarketing
by: David Kilgour , 2/11/2014, 8.44AM.
On 11 February 2014 08:29,
Vietnam Committee on Human Rights
wrote:
VCHR Que Me : Action for
Democracy in Vietnam
Vietnam Committee on Human
Rights
B.P. 60063 - 94472 Boissy Saint
Leùger cedex (France) - Tel.: (Paris) (331) 45 98 30 85
Fax : Paris (331) 45 98 32 61
- E-mail : vietnam.committee@gmail.com, Web : http://www.queme.net -
Facebook: https://www.facebook.com/queme.net
For immediate
release
Paris, 11 February
UBCV leader Thich Quang Do and
Buddhist Youth leader Le Cong Cau: Message to the United Nations Human Rights
Council
PARIS, 11 February 2014 (Vietnam
Committee) – The Vietnam Committee on Human Rights is honoured to present
exclusive audio messages by prominent dissident Thich Quang Do, leader of the
Unified Buddhist Church of Vietnam (UBCV), and Le Cong Cau, head of the
UBCV-affiliated Buddhist Youth Movement. The messages were made public at a
meeting on "Banned Civil Society Voices" at the United Nations in Geneva on
Tuesday 4 February 2014, organized by the VCHR and the International Federation
of Human Rights (FIDH).
Thich Quang Do, Patriarch of the
Unified Buddhist Church in Vietnam (UBCV) and 2014 Nobel Peace prize nominee,
sent this message in English from the Thanh Minh Zen Monastery where he has been
under de facto house arrest since 2003. Le Cong Cau sent this message in
Vietnamese from Hue.
AUDIO MESSAGE FROM THICH QUANG
DO
Video:http://www.queme.net/eng/news_detail.php?numb=2233
Message from Thich
Quang Do
Ladies and Gentlemen,
It is an honour for me to address
this meeting at the United Nations today. My name is Thich Quang Do, I am a
Buddhist monk from Vietnam. I am sorry that I cannot be with you in person – I
am under house arrest at the Thanh Minh Zen Monastery in Saigon, Vietnam. This
message was recorded in secret, and it is thanks to the courage of many people
that it reaches your meeting today.
Tomorrow, Vietnam will be examined
at the Human Rights Council for its second Universal Periodic Review. You will
hear the Vietnamese government’s report on human rights. But you will not hear
the voices of the victims. I am speaking here for those whose voices are stifled
in Vietnam simply because of their dissenting opinions or beliefs.
My own case is a typical example. I
have spent the past three decades under different forms of detention – ten years
in internal exile, seven years in prison and the rest under house arrest without
charge. What is my "crime"? That of calling on Vietnam to respect its people’s
rights to freedom of expression, association, peaceful assembly, religion and
belief.
When I was released from prison and
placed under house arrest in 1998, I said: "I have come from a small prison into
a larger one". Today I am truly a prisoner in my own monastery. Police keep
watch on me day and night, my communications are monitored and I cannot travel.
My visitors are harassed and intercepted. I cannot even preach in my Monastery.
In January 2014, my personal assistant Venerable Thich Chon Tam was assaulted by
Police and ordered to leave Saigon. Vietnam’s aim is to isolate me completely,
cut off my contacts with the outside world, and ultimately silence my
voice.
To be deprived of one’s freedom is
intolerable under any circumstances. To be under house arrest without charge,
isolated and never knowing when you will be released, is a most cruel form of
torture, both mental and physical. I have endured this for the past ten years.
But I am not alone. In Vietnam today, hundreds of dissidents and human rights
defenders are subjected to the torture of house arrest without any due process
of law. Last year, Vietnam signed the UN Convention Against Torture. We hoped
this was a step forward. But in reality, nothing has changed.
Why should Vietnam try so hard to
silence us? Because the Communist regime can tolerate no criticism of the
one-Party state. Since its last Universal Periodic Review, Vietnam promised to
improve human rights. But on the contrary, it has launched a crack-down on
critics and dissidents on an unprecedented scale. Young bloggers, journalists,
defenders of worker rights, land rights, or the rights of women and children
have suffered harassments and imprisonment as never before.
This crack-down has also targeted
the religious communities. Religious freedom is important everywhere – it is
enshrined in Article 18 of the Universal Bill of Rights, and also in the
Vietnamese Constitution. It is a right that cannot be waived, even in times of
war. But in Vietnam, religious freedom is particularly important. In the absence
of opposition parties, free trade unions or independent NGOs, the religious
movements are essential voices of civil society, putting forth the people’s
grievances and pressing for reforms.
As head of the Unified Buddhist
Church of Vietnam, which is not recognized by the authorities, I have not only
called for religious freedom, but also for the right to multi-party democracy,
to publish independent newspapers, to demonstrate freely, to express one’s views
without fear. I have called for abolition of the death penalty, more social
equity, and the end to the system of the "hoä khaåu", or family residence
permit, which is used as a tool of discrimination and control. I will continue
to press for human rights and democratic freedoms in Vietnam, whatever price I
have to pay.
At tomorrow’s Universal Periodic
Review, I call upon all governments to speak out for those whose voices are
stifled in Vietnam. I urge you to press for concrete improvements, such as the
recognition of the legal status of the Unified Buddhist Church of Vietnam and
all other non-recognized religions, the release of religious and political
prisoners, and the abolition - once and for all - of the practice of arbitrary
house arrest without charge. Thank you for your attention.
Thich Quang Do
MESSAGE FROM LE CONG CAU
Video:http://www.queme.net/eng/news_detail.php?numb=2232
Message from Le Cong Cau
Distinguished guests and Human
Rights Defenders:
My name is Leâ Coâng Caàu, and I
live in Hue, central Vietnam. I am a human rights defender, and head of the
Buddhist Youth Movement (BYM). The BYM is an educational movement founded in the
1940s. It is modeled on the Scouts association, and is affiliated to the Unified
Buddhist Church of Vietnam (UBCV). Because the UBCV is not recognized by the
Communist government, the BYM does not have an official status. However, our
activities are tolerated because we provide much-needed education for young
people. The BYM has some 300,000 members in Vietnam today.
Recently, we began to include human
rights education as part of our activities. At a summer camp in central Vietnam
this year, we held a seminar on Internet freedom to discuss the role of new
technologies in expanding our knowledge. Vietnam is a signatory to United
Nations instruments such as the International Covenant on Civil and Political
Rights, and human rights are enshrined in our Constitution. We believe that
young people should learn about human rights if they are to become good citizens
of Vietnam.
Because of this, the authorities
have begun to crack-down on our movement. I am particularly targeted. In March
last year, I was arrested and interrogated non-stop for three days. Police
accused me of writing articles calling for human rights and criticizing
government policies. They threatened to imprison me on charges of "circulating
anti-Socialist propaganda", a crime that carries up to 20 years in prison.
This year, on January 1st, I was
arrested again at Phu Bai airport near Hue as I set off to meet members of my
movement in Ho Chi Minh City. Police took me off the plane on the pretext that I
was suspected of carrying "terrorist" materials in my suitcase. Of course, they
found nothing, but they confiscated my laptop computer, flash-drives and cell
phone and subjected me to intensive interrogations. Although I am not charged
with any crime, I am now under house arrest at my home in Hue. Police are posted
outside my door, and I am summoned continuously for Police interrogations.
During a recent interrogation, a Security officer said he just had to sign
warrant and I would be thrown into jail.
Following my arrest, several other
members of the Buddhist Youth Movement in Hue were subjected to harassments.
Nguyen Tat Truc was detained for questioning from 6 to 9 January and accused of
"violating the law" because he signed letters on behalf of our movement. He is
now under house arrest. As a result, his family is now in grave financial
difficulty, because they rely on his wife’s earnings in order to survive, yet he
is forbidden to drive outside his district to take her to work. Another senior
BYM member, Hoang Nhu Dao, was interrogated by Police and also accused of
"illegal activities". Police are now posted outside his home, frightening his
wife and young children. As I speak to you today, more than one hundred members
of the Buddhist Youth Movement from Hue and the central provinces are under
house arrest without any justification or charge, simply for exercising their
legitimate right to association and peaceful assembly.
I am launching this message at the
United Nations today as a cry of alarm. This may be my last opportunity to speak
out, as I am told that I may be arrested in the coming days. I do not fear
imprisonment. I take full responsibility for my legitimate and peaceful acts,
and I am ready to face the consequences, whatever they may be. Last week, after
20 days under house arrest without charge, I wrote to the local Security Police
protesting my arbitrary detention. I demanded that they formally indict me and
put me on trial – if not, they must release me immediately. But they made no
reply. I am appalled that Vietnam can treat its citizens so unfairly, and I
refuse to remain silent in face of such injustice.
The Buddhist Youth Movement is
committed to education, for we believe that knowledge and understanding form the
very basis of progressive and dynamic society. The right to education is
enshrined in the UN International Covenant on Economic, Social and Cultural
Rights, to which Vietnam is a state party. By repressing my members and
prohibiting our activities, Vietnam is violating its binding commitments to its
citizens and to the international community.
As you meet to consider the second
Universal Periodic Review of Vietnam, I call on all governmental delegations to
examine the plight of human rights defenders, and press Vietnam to take concrete
steps to improve our situation. Specifically, Vietnam should bring domestic
legislation into line with its international treaty commitments, and respect the
principle of the harmonization of laws enshrined in the Law on the Ratification
and Implementation of International Treaties adopted in 2005.
Vaguely-worded "national security"
provisions in the Criminal Code such as Article 88 on "spreading anti-Socialist
propaganda" should be repealed, for they enable the State to imprison people at
will, with total impunity. Human rights must be protected by the rule of law,
otherwise, they are meaningless. Vietnamese human rights defenders should be
entitled to pursue their activities freely, and not be forced to live in silence
and slavery by the one-Party State.
Le Cong Cau, Hue, 25 January
2014.
Saturday, March 1, 2014
TỈNH THÀNH VIỆT NAM XƯA
Tỉnh thành xưa ở Việt Nam
Lời giới thiệu
Cuốn sách này chủ yêu gồm các bài tuyển chọn từ tuần báo INDOCHINE.
Indochine là một tờ báo bằng tiếng Pháp của Hội Alexandre de Rhodes. Báo ra từ đầu năm 1940 tới cuối năm 1944 thì đình bản.
Cộng
tác viên của báo chủ yếu là người Pháp. Có người là hội viên của Học
viện Pháp quốc Viễn Đông như G.Coedes, Louis Malleret, có người đúng đầu
một cơ quan chuyên môn như Paul Boudet, Giám đốc Sở lưu trữ và các Thư
viện, J.Y. Claeys, Giám đốc Sở Khảo cổ...
Cộng tác viên người Việt có: Trần Đăng, Dương Quảng Hàm, Nguyễn Văn Huyên, Huỳnh Tôn, Nguyễn Tiên Lãng, Nguyễn Việt Nam, Trịnh Thục Oanh, Hoàng Thiếu Sơn, Dương Minh Thới, Đặng Phúc Thông, Lê Tài Trường, Nguyễn Mạnh Tường.
Các họa sĩ minh họa người Việt có: Ngô Thúc Dụng, Nguyễn Huyên, Nguyễn Tiên Lợi, Nam Sơn, Vũ văn Thu, Tô Ngọc Vân.
Về nội dung Indochine có nội dung rất đa dạng: địa chí, nhân vật phong tục, dân tộc học, ngôn ngữ, giáo dục, giao thông, xây dưng, thủy lợi... với rất nhiều tranh ảnh minh họa đúng như tiêu đề hebdomadaire illustré của báo. Thật hiếm có một tờ báo lúc đó có nội dung rộng và phong phú như Indochine.
Các bài của Indochine có chất lượng cao do được viết bởi các thành phần trí thức ưu tú Pháp và Việt lúc đó, nhất là bởi những người làm nghiệp vụ chuyên môn. Do đó đối tượng của báo chủ yếu là trí thức. Chúng tôi chọn dịch các bài của Indochine vì các bài đó mô tả khá đầy đủ diện mạo mọi mặt của nước Việt xưa.
Ngoài các bài tuyển chọn từ Indochine, chúng tôi chọn thêm, rất ít, một số bài khác ngoài nguồn Indochine, trong đó có một bài duy nhất viết bằng Việt ngữ là bài Người đầm của Thạch Lam. Các bài chọn thêm này đều được ghi rõ xuất xứ để phân biệt với các bài của Indochine.
Các bài không ghi tên tác giả xin hiểu là bài riêng của Indochine.
Để bảo đảm tính thời đại của từ ngữ và, xin thú thực, đôi khi không tra cứu được, chúng tôi để một số danh từ riêng ở dạng nguyên văn, chẳng hạn Laokay thay vì Lào Cai. Chúng tôi nghĩ rằng bạn đọc sẽ dễ dàng nhận biết những từ đó.
Về dung lượng cuốn sách, chúng tôi tạm bằng lòng với số lượng bài như bạn đọc sẽ thấy trong cuốn sách và hy vọng sẽ ra tiếp được một tập nữa.
Các tranh ảnh trong cuốn sách này là chính tranh ảnh các tác giả bài viết đã sử dụng.
Để hoàn thành cuốn sách này chúng tôi xin cám ơn ông bà Bùi Thế Kỷ, ông Vương An Lợi và cô Nguyễn Thị Phương.
Người tuyển và dịch
______________________
Nhà xuất bản Hải Phòng, 5 Nguyễn Khuyến - TP Hải Phòng.
Trung tâm VHNN Đông Tây, 8/91 Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội
In 700 cuốn khổ 13x19 tại Công ty in Khuyến học
Giấy phép xuất bản số: 53-531/XBQLXB cấp ngày 20/5/2003
In xong và nộp lưu chiểu Quý 2, năm 2004
Tổng đại lý phát hành: Nhà sách Đông Tây Số 466 Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội.
Tel/fax: (04) 7733041
32 Bà Triệu, Hà Nội
Tel/fax: (04) 8251374
Tỉnh thành xưa ở Việt Nam
Louis Malleret
Trong một bài mới đây chúng tôi đã mô tả cảnh quan tỉnh thành Sài gòn vào khoảng năm 1860. Nói đúng ra Sài gòn lúc đó là một điểm dân cư gồm các làng nửa An - Nam, nửa Tầu. Sau đó có những biến đổi rất nhanh. Nhưng trước hết chúng tôi thấy cần phải dẫn độc giả tới một số tỉnh thành của Đông Dương như những gì chúng hiện ra trước mắt các du khách thăm xứ này từ 1870 tới 1880.
Khoảng tháng 7-1872, bác sĩ Morica từ Pháp tới Đông Dương sau một chuyến đi dài 45 ngày. Ông đi thăm các nơi với sự tò mò của một nhà tự nhiên học.
Thoạt tiên, ông thăm Sài gòn, sau đó là Chợ Lớn. Trong số các điểm hấp dẫn ông đi thăm có các khu vườn nuôi cá sấu, mỗi vườn có từ 200 tới 300 con để cung cấp thịt cho khách ăn. Hồi đó người ta rất thích thịt cá sấu.
Ba tháng sau, ông đi thăm Gò Công, một trong những trung tâm trồng lúa quan trọng. Lúc đó Gò Công được xem là một tỉnh đông dân với 33.000 dân tập trung trong 45 làng. Tỉnh lỵ chẳng có gì khác mấy so với các khu phố toàn nhà lá ở Sài gòn. Một số nhà lá vẫn còn ôm lấy một phần bến tầu và người ta có thể thấy vắt qua sông là một cây cầu theo kiểu Trung Hoa (hình 2). Đầu tiên, ông đi thăm Sở Thanh tra. Sở này nằm sau một con lạch và thông vào làng qua một chiếc cầu. Đó là một ngôi nhà cổ và sang trọng kiểu Tàu có một hàng hiên rất đẹp. Pháo đài liền ngay với Sở và chỉ cách nhau một hàng rào. Chỗ lượn của con lạch và nhiều đầm lầy bao lấy Sở ở các mặt còn lại.
Lúc đó tỉnh Gò Công đã là một miền dễ chịu và yên bình nhờ lãnh binh Tân. Ông này mời bác sĩ Morice ăn cơm. Tại nhà viên lãnh binh, bác sĩ được chiêm ngưỡng các loại đồ nội thất khảm xà cừ và dự một bữa tiệc thịnh soạn trong khi một người mã-tà ở phía sau nhịp nhàng kéo chiếc quạt làm bằng lông chim. Gió quạt mạnh đến nỗi làm nghiêng ngả những nến. Bác sĩ còn đi thăm một ngôi chùa trong tỉnh. Giống như nhiều chùa khác ở Nam Kỳ, ngôi chùa có rất nhiều dơi. Bác sĩ lưu lại Gò Công ba tháng; sau đó, trở lại Sài gòn để đi Hà Tiên trên chiếc tàu hơi nước Valco.
Tới Châu Đốc, bác sĩ Morice dùng thuyền tới. Giang - thanh theo kênh Vĩnh Tế. Con kênh này do viên quan Nguyễn Ngọc Thoại đào dưới triều vua Minh Mạng. Mộ của ông hiện còn ở vùng núi gần tỉnh lỵ Hà Tiên, lúc bác sĩ Monce tới, chỉ gồm một nhóm nhà lá rải rác trong các vườn cây (hình 3). Thành tỉnh ba mươi thắng cảnh được Mạc Thiên Tích Ca ngợi làm bác sĩ rất thích. Ông viết: “Tôi muốn là nhà thơ để mô tả phong cảnh tráng lệ hiện ra trước mắt. Các đồi cây xanh tươi ôm lấy bờ biển phía Tây. Dưới chân đồi, một hồ đổ nước vào vịnh Xiêm La. Trước mặt chúng tôi, về phía xa xa là Hà Tiên lờ mờ. Tỉnh thành này nửa nằm trên hồ, nửa nằm trên biển”. Từ Sở Thanh tra trên đồi, có thể phóng tầm nhìn xuống vịnh và các đồi xung quanh. Một hàng phi lao dài chạy xuyên qua chỗ xưa kia là thành men theo các bức tường của lâu đài họ Mạc ngày xưa dẫn tới thành tỉnh nằm trên đầm nước mặn có những ngôi nhà lá trát đất bùn. Tại Hà Tiên, bác sĩ Morice ở trong một cái túp xung quanh là đầm lầy. Ông viết “một trong những nét đặc trưng của Hà Tiên là nó giống nhu Vơ-ni-dơ.
Một phố thẳng và dài nối hồ với biển, hai bên phố là nhũng ngôi nhà làm bằng bùn lấy ở cửa sông. Để có thể đi bộ giữa hai hàng nhà kỳ lạ đó, người ta làm một con đường lát ván dài khoảng hai trăm mét. Đổ vào con đường lát ván này là nhiều con đường lát ván khác nhỏ hơn từ các túp đơn độc dẫn tới”. Trong cái thành phố nửa đất nửa nước này, bác sĩ Morice đã được thưởng thức tết với tiếng pháo và những trò chơi như ném lao qua một chiếc vòng đặt trên ba chân cách xa từ sáu tới tám mét, trò ném cầu và đá cầu.
Sau một tháng lưu lại Phú Quốc và một chuyến đi thăm ngắn ngủi Kampot, nơi đường điện tín nối với Hà Tiên rất khó bảo vệ khỏi sự giận dữ của voi rừng, nhà tự nhiên học của chúng ta quay về Châu Đốc và tiến hành nghiên cứu loài bò sát núi Sam. Sau đó ông tới Vĩnh Long (hình 4). Lúc đó Vĩnh Long là một quân trấn trong đó thành, giống như thành Châu Đốc và nhiều thánh khác ở Nam Kỳ, sao rập kiểu thành Van ban mà Olivier de Puymanuel và Théodore Brun truyền cách xây dựng cho người xứ này. Tuy nhiên, sự sao rập được đơn giản hoá và có những biến tấu mang tính cách châu Á. Bác sĩ Morice viết: “Phía sau các hồ bùn và tường đất cắm chông dày đặc là nhà sĩ quan và dãy nhà dành cho binh lính và bệnh viện. Tre và các bụi cỏ rậm rạp che kín một phần tường luỹ. Thỉnh thoảng người ta lại giết được những con trăn rất to trong đám cỏ đó trong khi rắn đeo kính ngủ trong các bụi cây ẩm ướt mọc lộn xộn trong các hố. Ngoài pháo đài là khu dân cư với vài dãy phố đẹp được những cây dừa cao to phủ mát. Vĩnh Long là một trung tâm nhộn nhịp, tới nay vẫn còn tiếng. Nó là lỵ sở của một tỉnh giầu có gồm 222 làng với 162.000 nhân khẩu.
Bác sĩ Morice quay lại Sài gòn qua Mỹ Tho và Tân An. Mỹ Tho lúc đó bắt đầu có bộ mặt của một thành phố lớn, còn Tân An là “một trong những nơi chán nhất của thuộc địa”.
Từ Sài gòn, bác sĩ Morice đi Tây Ninh. Được xây dựng ở chân pháo đài trên nền đất khô, Tây Ninh là một trung tâm khá vui, nhưng đêm đêm vẫn có hổ đi quanh nhà. Trong những năm đầu ở Nam Kỳ, “nhiều binh lính của chúng ta bị hổ bắt ở các vùng phụ cận Sài gòn. Con vật kinh khủng này thường vào các làng tha người đi. Ngày nay vào ban đêm, người ta vẫn nghe thấy tiếng hổ gầm ở sát các pháo đài ở miền Đông như Bà Rịa, Biên Hoà, Tây Ninh. Ơ Tây Ninh, tôi thường nghe thấy rất rõ tiếng hổ quanh nhà và nhiều lần thấy dấu chân hổ cách đồn không xa”.
Theo một tài liệu lưu trữ của Nam Kỳ, chỉ riêng ở một làng gần Gò Công từ ngày 3-5 tới ngày 11-11-1868 người ta đã bắt và giết được 64 con hổ. Sự có mặt của động vật hoang dã gần các điểm dân cư rất phong phú và vị du khách của chúng ta đã bắn hạ ngay gần Tây Ninh một con tê giác, một loài ngày nay đã biến mất. Sau một chuyến quan sát bội thu, bác sĩ Morice quay lại Sài gòn. Chỉ sau mấy tháng xa cách, Sài gòn đã có nhiều biến đổi sâu sắc. Mặc dù Sài gòn duy trì sự phát triển lâu dài theo nhiều hướng, nó vẫn cung cấp những kinh nghiệm sống cho các trung tâm nhỏ ở Nam Kỳ, các ly sở của các tỉnh rộng, nơi dân cư không dày đặc lắm.
Các tỉnh thành khác ở Đông Dương cũng không khác mấy so với Sài gòn hoặc các thị tứ ở miền Tây Nam Kỳ xưa kia. Năm 1875, Brossard de Corbigny, trong chuyến đi công cán ở Huế, đã để lại cho chúng ta những hình ảnh đẹp đầy sắc màu của hoàng cung ở Huế. Tuy nhiên, khu phố buôn bán gần hoàng thành vẫn còn nghèo nàn và xấu xí. Ông viết “phố chính khá buồn. Nhà cửa nói chung bằng đá, đen thui và tối tăm, nối tiếp nhau, không có hàng lối. Mặt đường đầy rác và các vũng nước mỗi khi mưa không biết đặt chân xuống đâu nữa”. (hình) Tình trạng như trên cũng là tình trạng của Phnompenh, một thành phố hiện nay rất đáng yêu với những mài nhà dát vàng. Trung uý hải quân Da-vin mô tả thành phố này năm 1888 “có vẻ nghèo khổ, chỗ nào cũng đen đúa và tối tăm. Các cung điện hư hại, đền đài đô nát, nhà bằng sàn ghép cẩu thả hoặc đơn giản chỉ là nhà lợp rạ”. (hình). Còn các tỉnh thành ở Bắc kỳ, để biết bộ dạng xưa kia của chúng như thế nào chỉ cần giở lại tập báo illustration hoặc Tour du Monde sẽ thấy, ngoài toà thành và mấy ngôi chùa cổ rất quyến rũ, các tỉnh thành đó chẳng có gì đẹp ngoài những ngôi nhà lá buồn tẻ nằm dọc theo con đường đất (hình).
Tôi đã mô tả một số nơi những người châu Âu đầu tiên tới Đông Dương nhìn vào thấy lúng túng đối với phần châu Á ở tận cùng này, nơi từ lâu được Gérard de Nerval tô vẽ là một phương Đông lý tưởng. Là nạn nhân của trí tưởng tượng và của những mô tả sáng lạn theo con mắt lãng mạn, họ không biết rằng các thành phố châu Á chỉ là những phố xá lầy lội hoặc những túp nhà khốn khổ, tối tăm đâu phải các cung điện lộng lẫy và những đám rước long trọng họ vẫn mơ tưởng.
Tuy nhiên có cần phải bực mình không khi gợi nhắc lại các thành trấn không mấy cảm tình này, những thành trấn vẻ cổ kính của chúng trong các bức hình như dấu đi sự xấu kinh người trong thực tế các dấu tích câm lặng này mãi mãi còn xa mới thơ mộng. Người ta hiểu rằng sự buồn chán lặp đi lặp lại có thể làm thất vọng người mới tới. Thực tế, Đông Dương xưa chẳng có gì ngoài cảnh sắc quyến rũ. Cuộc sống ở đây khó khăn đối với mọi người và chính việc biến đổi cuộc sống đó từ một ý chí thống nhất đã gắn bó người Đông Dương với người Pháp.
Cộng tác viên người Việt có: Trần Đăng, Dương Quảng Hàm, Nguyễn Văn Huyên, Huỳnh Tôn, Nguyễn Tiên Lãng, Nguyễn Việt Nam, Trịnh Thục Oanh, Hoàng Thiếu Sơn, Dương Minh Thới, Đặng Phúc Thông, Lê Tài Trường, Nguyễn Mạnh Tường.
Các họa sĩ minh họa người Việt có: Ngô Thúc Dụng, Nguyễn Huyên, Nguyễn Tiên Lợi, Nam Sơn, Vũ văn Thu, Tô Ngọc Vân.
Về nội dung Indochine có nội dung rất đa dạng: địa chí, nhân vật phong tục, dân tộc học, ngôn ngữ, giáo dục, giao thông, xây dưng, thủy lợi... với rất nhiều tranh ảnh minh họa đúng như tiêu đề hebdomadaire illustré của báo. Thật hiếm có một tờ báo lúc đó có nội dung rộng và phong phú như Indochine.
Các bài của Indochine có chất lượng cao do được viết bởi các thành phần trí thức ưu tú Pháp và Việt lúc đó, nhất là bởi những người làm nghiệp vụ chuyên môn. Do đó đối tượng của báo chủ yếu là trí thức. Chúng tôi chọn dịch các bài của Indochine vì các bài đó mô tả khá đầy đủ diện mạo mọi mặt của nước Việt xưa.
Ngoài các bài tuyển chọn từ Indochine, chúng tôi chọn thêm, rất ít, một số bài khác ngoài nguồn Indochine, trong đó có một bài duy nhất viết bằng Việt ngữ là bài Người đầm của Thạch Lam. Các bài chọn thêm này đều được ghi rõ xuất xứ để phân biệt với các bài của Indochine.
Các bài không ghi tên tác giả xin hiểu là bài riêng của Indochine.
Để bảo đảm tính thời đại của từ ngữ và, xin thú thực, đôi khi không tra cứu được, chúng tôi để một số danh từ riêng ở dạng nguyên văn, chẳng hạn Laokay thay vì Lào Cai. Chúng tôi nghĩ rằng bạn đọc sẽ dễ dàng nhận biết những từ đó.
Về dung lượng cuốn sách, chúng tôi tạm bằng lòng với số lượng bài như bạn đọc sẽ thấy trong cuốn sách và hy vọng sẽ ra tiếp được một tập nữa.
Các tranh ảnh trong cuốn sách này là chính tranh ảnh các tác giả bài viết đã sử dụng.
Để hoàn thành cuốn sách này chúng tôi xin cám ơn ông bà Bùi Thế Kỷ, ông Vương An Lợi và cô Nguyễn Thị Phương.
Người tuyển và dịch
______________________
Nhà xuất bản Hải Phòng, 5 Nguyễn Khuyến - TP Hải Phòng.
Trung tâm VHNN Đông Tây, 8/91 Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội
In 700 cuốn khổ 13x19 tại Công ty in Khuyến học
Giấy phép xuất bản số: 53-531/XBQLXB cấp ngày 20/5/2003
In xong và nộp lưu chiểu Quý 2, năm 2004
Tổng đại lý phát hành: Nhà sách Đông Tây Số 466 Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội.
Tel/fax: (04) 7733041
32 Bà Triệu, Hà Nội
Tel/fax: (04) 8251374
Tỉnh thành xưa ở Việt Nam
Louis Malleret
Trong một bài mới đây chúng tôi đã mô tả cảnh quan tỉnh thành Sài gòn vào khoảng năm 1860. Nói đúng ra Sài gòn lúc đó là một điểm dân cư gồm các làng nửa An - Nam, nửa Tầu. Sau đó có những biến đổi rất nhanh. Nhưng trước hết chúng tôi thấy cần phải dẫn độc giả tới một số tỉnh thành của Đông Dương như những gì chúng hiện ra trước mắt các du khách thăm xứ này từ 1870 tới 1880.
Khoảng tháng 7-1872, bác sĩ Morica từ Pháp tới Đông Dương sau một chuyến đi dài 45 ngày. Ông đi thăm các nơi với sự tò mò của một nhà tự nhiên học.
Thoạt tiên, ông thăm Sài gòn, sau đó là Chợ Lớn. Trong số các điểm hấp dẫn ông đi thăm có các khu vườn nuôi cá sấu, mỗi vườn có từ 200 tới 300 con để cung cấp thịt cho khách ăn. Hồi đó người ta rất thích thịt cá sấu.
Ba tháng sau, ông đi thăm Gò Công, một trong những trung tâm trồng lúa quan trọng. Lúc đó Gò Công được xem là một tỉnh đông dân với 33.000 dân tập trung trong 45 làng. Tỉnh lỵ chẳng có gì khác mấy so với các khu phố toàn nhà lá ở Sài gòn. Một số nhà lá vẫn còn ôm lấy một phần bến tầu và người ta có thể thấy vắt qua sông là một cây cầu theo kiểu Trung Hoa (hình 2). Đầu tiên, ông đi thăm Sở Thanh tra. Sở này nằm sau một con lạch và thông vào làng qua một chiếc cầu. Đó là một ngôi nhà cổ và sang trọng kiểu Tàu có một hàng hiên rất đẹp. Pháo đài liền ngay với Sở và chỉ cách nhau một hàng rào. Chỗ lượn của con lạch và nhiều đầm lầy bao lấy Sở ở các mặt còn lại.
Lúc đó tỉnh Gò Công đã là một miền dễ chịu và yên bình nhờ lãnh binh Tân. Ông này mời bác sĩ Morice ăn cơm. Tại nhà viên lãnh binh, bác sĩ được chiêm ngưỡng các loại đồ nội thất khảm xà cừ và dự một bữa tiệc thịnh soạn trong khi một người mã-tà ở phía sau nhịp nhàng kéo chiếc quạt làm bằng lông chim. Gió quạt mạnh đến nỗi làm nghiêng ngả những nến. Bác sĩ còn đi thăm một ngôi chùa trong tỉnh. Giống như nhiều chùa khác ở Nam Kỳ, ngôi chùa có rất nhiều dơi. Bác sĩ lưu lại Gò Công ba tháng; sau đó, trở lại Sài gòn để đi Hà Tiên trên chiếc tàu hơi nước Valco.
Tới Châu Đốc, bác sĩ Morice dùng thuyền tới. Giang - thanh theo kênh Vĩnh Tế. Con kênh này do viên quan Nguyễn Ngọc Thoại đào dưới triều vua Minh Mạng. Mộ của ông hiện còn ở vùng núi gần tỉnh lỵ Hà Tiên, lúc bác sĩ Monce tới, chỉ gồm một nhóm nhà lá rải rác trong các vườn cây (hình 3). Thành tỉnh ba mươi thắng cảnh được Mạc Thiên Tích Ca ngợi làm bác sĩ rất thích. Ông viết: “Tôi muốn là nhà thơ để mô tả phong cảnh tráng lệ hiện ra trước mắt. Các đồi cây xanh tươi ôm lấy bờ biển phía Tây. Dưới chân đồi, một hồ đổ nước vào vịnh Xiêm La. Trước mặt chúng tôi, về phía xa xa là Hà Tiên lờ mờ. Tỉnh thành này nửa nằm trên hồ, nửa nằm trên biển”. Từ Sở Thanh tra trên đồi, có thể phóng tầm nhìn xuống vịnh và các đồi xung quanh. Một hàng phi lao dài chạy xuyên qua chỗ xưa kia là thành men theo các bức tường của lâu đài họ Mạc ngày xưa dẫn tới thành tỉnh nằm trên đầm nước mặn có những ngôi nhà lá trát đất bùn. Tại Hà Tiên, bác sĩ Morice ở trong một cái túp xung quanh là đầm lầy. Ông viết “một trong những nét đặc trưng của Hà Tiên là nó giống nhu Vơ-ni-dơ.
Một phố thẳng và dài nối hồ với biển, hai bên phố là nhũng ngôi nhà làm bằng bùn lấy ở cửa sông. Để có thể đi bộ giữa hai hàng nhà kỳ lạ đó, người ta làm một con đường lát ván dài khoảng hai trăm mét. Đổ vào con đường lát ván này là nhiều con đường lát ván khác nhỏ hơn từ các túp đơn độc dẫn tới”. Trong cái thành phố nửa đất nửa nước này, bác sĩ Morice đã được thưởng thức tết với tiếng pháo và những trò chơi như ném lao qua một chiếc vòng đặt trên ba chân cách xa từ sáu tới tám mét, trò ném cầu và đá cầu.
Sau một tháng lưu lại Phú Quốc và một chuyến đi thăm ngắn ngủi Kampot, nơi đường điện tín nối với Hà Tiên rất khó bảo vệ khỏi sự giận dữ của voi rừng, nhà tự nhiên học của chúng ta quay về Châu Đốc và tiến hành nghiên cứu loài bò sát núi Sam. Sau đó ông tới Vĩnh Long (hình 4). Lúc đó Vĩnh Long là một quân trấn trong đó thành, giống như thành Châu Đốc và nhiều thánh khác ở Nam Kỳ, sao rập kiểu thành Van ban mà Olivier de Puymanuel và Théodore Brun truyền cách xây dựng cho người xứ này. Tuy nhiên, sự sao rập được đơn giản hoá và có những biến tấu mang tính cách châu Á. Bác sĩ Morice viết: “Phía sau các hồ bùn và tường đất cắm chông dày đặc là nhà sĩ quan và dãy nhà dành cho binh lính và bệnh viện. Tre và các bụi cỏ rậm rạp che kín một phần tường luỹ. Thỉnh thoảng người ta lại giết được những con trăn rất to trong đám cỏ đó trong khi rắn đeo kính ngủ trong các bụi cây ẩm ướt mọc lộn xộn trong các hố. Ngoài pháo đài là khu dân cư với vài dãy phố đẹp được những cây dừa cao to phủ mát. Vĩnh Long là một trung tâm nhộn nhịp, tới nay vẫn còn tiếng. Nó là lỵ sở của một tỉnh giầu có gồm 222 làng với 162.000 nhân khẩu.
Bác sĩ Morice quay lại Sài gòn qua Mỹ Tho và Tân An. Mỹ Tho lúc đó bắt đầu có bộ mặt của một thành phố lớn, còn Tân An là “một trong những nơi chán nhất của thuộc địa”.
Từ Sài gòn, bác sĩ Morice đi Tây Ninh. Được xây dựng ở chân pháo đài trên nền đất khô, Tây Ninh là một trung tâm khá vui, nhưng đêm đêm vẫn có hổ đi quanh nhà. Trong những năm đầu ở Nam Kỳ, “nhiều binh lính của chúng ta bị hổ bắt ở các vùng phụ cận Sài gòn. Con vật kinh khủng này thường vào các làng tha người đi. Ngày nay vào ban đêm, người ta vẫn nghe thấy tiếng hổ gầm ở sát các pháo đài ở miền Đông như Bà Rịa, Biên Hoà, Tây Ninh. Ơ Tây Ninh, tôi thường nghe thấy rất rõ tiếng hổ quanh nhà và nhiều lần thấy dấu chân hổ cách đồn không xa”.
Theo một tài liệu lưu trữ của Nam Kỳ, chỉ riêng ở một làng gần Gò Công từ ngày 3-5 tới ngày 11-11-1868 người ta đã bắt và giết được 64 con hổ. Sự có mặt của động vật hoang dã gần các điểm dân cư rất phong phú và vị du khách của chúng ta đã bắn hạ ngay gần Tây Ninh một con tê giác, một loài ngày nay đã biến mất. Sau một chuyến quan sát bội thu, bác sĩ Morice quay lại Sài gòn. Chỉ sau mấy tháng xa cách, Sài gòn đã có nhiều biến đổi sâu sắc. Mặc dù Sài gòn duy trì sự phát triển lâu dài theo nhiều hướng, nó vẫn cung cấp những kinh nghiệm sống cho các trung tâm nhỏ ở Nam Kỳ, các ly sở của các tỉnh rộng, nơi dân cư không dày đặc lắm.
Các tỉnh thành khác ở Đông Dương cũng không khác mấy so với Sài gòn hoặc các thị tứ ở miền Tây Nam Kỳ xưa kia. Năm 1875, Brossard de Corbigny, trong chuyến đi công cán ở Huế, đã để lại cho chúng ta những hình ảnh đẹp đầy sắc màu của hoàng cung ở Huế. Tuy nhiên, khu phố buôn bán gần hoàng thành vẫn còn nghèo nàn và xấu xí. Ông viết “phố chính khá buồn. Nhà cửa nói chung bằng đá, đen thui và tối tăm, nối tiếp nhau, không có hàng lối. Mặt đường đầy rác và các vũng nước mỗi khi mưa không biết đặt chân xuống đâu nữa”. (hình) Tình trạng như trên cũng là tình trạng của Phnompenh, một thành phố hiện nay rất đáng yêu với những mài nhà dát vàng. Trung uý hải quân Da-vin mô tả thành phố này năm 1888 “có vẻ nghèo khổ, chỗ nào cũng đen đúa và tối tăm. Các cung điện hư hại, đền đài đô nát, nhà bằng sàn ghép cẩu thả hoặc đơn giản chỉ là nhà lợp rạ”. (hình). Còn các tỉnh thành ở Bắc kỳ, để biết bộ dạng xưa kia của chúng như thế nào chỉ cần giở lại tập báo illustration hoặc Tour du Monde sẽ thấy, ngoài toà thành và mấy ngôi chùa cổ rất quyến rũ, các tỉnh thành đó chẳng có gì đẹp ngoài những ngôi nhà lá buồn tẻ nằm dọc theo con đường đất (hình).
Tôi đã mô tả một số nơi những người châu Âu đầu tiên tới Đông Dương nhìn vào thấy lúng túng đối với phần châu Á ở tận cùng này, nơi từ lâu được Gérard de Nerval tô vẽ là một phương Đông lý tưởng. Là nạn nhân của trí tưởng tượng và của những mô tả sáng lạn theo con mắt lãng mạn, họ không biết rằng các thành phố châu Á chỉ là những phố xá lầy lội hoặc những túp nhà khốn khổ, tối tăm đâu phải các cung điện lộng lẫy và những đám rước long trọng họ vẫn mơ tưởng.
Tuy nhiên có cần phải bực mình không khi gợi nhắc lại các thành trấn không mấy cảm tình này, những thành trấn vẻ cổ kính của chúng trong các bức hình như dấu đi sự xấu kinh người trong thực tế các dấu tích câm lặng này mãi mãi còn xa mới thơ mộng. Người ta hiểu rằng sự buồn chán lặp đi lặp lại có thể làm thất vọng người mới tới. Thực tế, Đông Dương xưa chẳng có gì ngoài cảnh sắc quyến rũ. Cuộc sống ở đây khó khăn đối với mọi người và chính việc biến đổi cuộc sống đó từ một ý chí thống nhất đã gắn bó người Đông Dương với người Pháp.
______________________
Cảnh đẹp Bắc Kỳ
Arnaud Barthouet
Trong một lần nói đùa, có người nào đó kêu lên: “Cảnh đẹp Bắc Kỳ à? Làm gì có! Cứ đều đều, nói đúng ra là đơn điệu. Chỉ có bốn cảnh: đồng bằng, miền biển, trung du, thượng du; những cảnh như vậy đầy trong các ảnh...”.
Chúng tôi không chê bai các ảnh đó và chúng tôi không hề xem chúng là những thứ bỏ đi. Trong cỗ máy của cuộc đời thường nhật này, cảnh đẹp có khắp nơi và có lẽ chỉ những người nói liều hay tinh quái là những người khăng khăng cho rằng bản thân cảnh không chứa cái đẹp.
Cảnh đẹp có ở khắp nơi, khắp lúc. Trong những cảnh đẹp của Bắc Kỳ, trước tiên phải kể tới Hà Nội, thủ đô của toàn xứ Đông Dương. Hà Nội, đô thị kiến trúc tinh tế, cư dân chọn lọc, sức sống thanh xuân mạnh mẽ ngập tinh thần thể thao trong các trường. Nhà thờ, đền chùa, nhà bảo tàng, câu lạc bộ, các phố buôn bán, thợ thuyền và thợ thủ công, hàng trăm nghìn người hiếu kỳ lang thang qua các phố trong những ngày lễ lớn. Nét yêu kiều của những chiếc hồ, các ốc đảo xanh tươi - các công viên, những bồn cây, vườn cây ăn quả, các vùng ven đô, những mùa thu dịu hồn, những mùa đông xiết bao dịu dàng... Chúng tôi sẽ không nói thêm gì nữa về Hà Nội, người ta không thể tàn nhẫn đến nỗi vặt hết cỏ ở các thảm cỏ hay hoa ở các vườn cây.
Tiếp đến, cảnh đẹp Bắc Kỳ nằm trong thiên nhiên, trong các cánh đồng, cánh rừng mà chúng tôi hân hạnh được nêu ra ở đây một số hình ảnh và một số nét. Những cảnh đẹp đó rất đáng xem trước khi đánh giá dứt khoát hay phát biểu nhận xét. Này đây:
Biển lúa ở vùng châu thổ thật đẹp khi các hạt lúa nặng trĩu hứa hẹn một vụ thu hoạch tốt cho những người nông dân cần cù đang vội vã trong những ốc đảo xanh của vựa lúa Bắc Kỳ. Vịnh Hạ Long, quần đảo tuyệt vời và vui tươi của bờ biển Đông Dương.
Những đồi núi của miền trung du, các tầng cây vui tươi, những con suối trong cuộn nước đôi khi làm tung bọt.
Mùa xuân thần tiên ở vùng núi biên giới Trung Quốc - Bắc Kỳ với bạt ngàn hoa của những cánh rừng đào và mận, của phong lan, huệ; sự tương phản tinh tế giữa mầu xanh đậm của các loài cây nhiệt đới với mầu xanh của cây xuân thay lá. Mùa thu ở thượng du với bầu trời trong xanh, với những thời khắc bình minh và hoàng hôn, như một phép mầu, làm tôn giá trị những đường viền đa dạng của các chỏm núi.
Các phiên chợ thượng du ở mạn Tuyên Quang, Bắc-kạn, Cao Bằng, Lạng Sơn với mầu sắc đa dạng của các bộ lạc miền núi: Thái, Mán, Mèo, Lô Lô.
Những cánh rừng ở khu vực Kép-Lang-Met-Thanh-Moi, dưới chân dẫy Cai Kinh, nguyên sơ tuyệt vời. Chúng tôi có thể kể những khu rừng khác nữa, nhưng thôi.
Những rừng hạt dẻ của xứ Cao Bằng còn phong phú hơn rừng thông bá hương ở Liban. Và vẫn tại Cao Bằng, cạnh thác Bản Giốc, một Niagara của chúng ta, trong một con sông chẩy từ dẫy núi Quay-son-chau (núi quý) ở Trung Quốc sang có một giống cá có hương thơm. Dĩ nhiên là sẽ có những người nói rằng họ không nhận ra hương thơm này ta nên trả lời họ rằng phải có một sự cảm nhận nào đó và không phải ai cũng có được cảm nhận đó ngay một lúc.
Những cây hồ đào ở Đồng Văn, điểm cực Bắc của Bắc Kỳ. Ở đây phải đi ngựa và khi ta từ phía Đông tiến vào hay khi gặp cánh đồng thuốc phiện của người Mèo, ta sẽ gặp một gam mầu phong phú bất tận và mê hoặc với những mầu sắc dịu dàng mờ mờ uốn lượn theo sự mơn trớn cua gió xuân. Trên con đường đó, ta phải leo qua một cái đèo gọi là đèo Ma-pi-leang (đèo yên con ngựa có mũi đẹp, nghĩa của từ đủ nói giá trị của đèo). Phía trên đèo khoảng vài trăm mét, trong một khu bằng phẳng như thềm nhà có một loại cải soong chỉ có ở vùng ôn đới. Bạn ơi, nếu tới được đây, bạn hãy xuống ngay ngựa, bỏ hết những thứ trong túi bên hông ngựa ra, hái cho đầy túi vì đi xa hơn sẽ không có nữa và chuyện được ăn món sa lát cải soong đó do tự tay mình hái bên đường ở vùng nhiệt đới cũng là một chuyện đáng nói.
Tại biên giới Trung Quốc - Bắc Kỳ, các lô cốt và các chòi canh nổi trên nền trời như những tổ chim ưng là những đồn người xưa dựng lên để theo dõi những vùng đất xung quanh và đánh thuế các băng từ Trung Quốc sang. Việc bình định xong hàn Bắc Kỳ, xứ quan trọng nhất của Liên bang Đông Dương, xuất phát từ vùng này. Chúng ta đang ở một thời kỳ khác và các lô cốt, mãi mãi là một phần của sự trang trí, giờ đây là những chứng vật; những viên đá của chúng có tiếng nói mạnh mẽ hơn những diễn văn, thậm chí hơn cả những bài viết.
Sẽ là vô ích nếu nói nhiều hơn nữa; chúng tôi chỉ lướt qua vì đề tài không bao giờ cạn; đó là tặng vật của mùa xuân bất tận. Cầm một đầu của sợi dây ba sợi sự nhạy cảm, sự yêu thích mầu sắc, sự nồng thắm - buộc chúng ta với cảnh đẹp của Bắc Kỳ, ta có thể kéo dài nó ra mãi mãi vì đó là một sợi dây mềm mại hơn lụa và dẻo hơn vàng. Không thể tìm thấy sợi dây này trong các cửa hàng hay tại nhà các thương nhản vì chính chúng ta là những người làm ra nó và kéo nó.
Thực tế, chúng ta không biết hết sự giầu có của chúng ta, một sự giầu có rõ ràng minh bạch mà không phải chịu một khoản thuế nào. Các bạn đọc các bạn hãy tin tôi. Có đầy rẫy cảnh đẹp ở Bắc Kỳ. Ta có thể thưởng thức nó với niềm hân hoan chẳng cần phải đi đâu xa, chỉ cần mở mắt nhìn.
______________________
Hà Nội 1911
Claude Bourrin
Claude Bourrin tới Đông Dương năm 1898 làm công chức ngành quan thuế nhưng rất ham mê các hoạt động văn học và kịch nghệ. Ông ở Đông Dương khá lâu, nhất là ở Bắc Kỳ, và đi lại nhiều nên đã viết các cuốn Xứ Bắc Kỳ Xưa (Le Vieux Tonkin), Người và việc ở Đông Dương (Choses & Gens en Indochine), Pháp Á (France d' Asie), Môlie và người An Nam (Molière ét Les Annammites).
Cuốn Người và việc ở Đông Dương gồm 3 tập: tập I (1898 - 1908), tập II (1908 - 1916), tập III (1917- 1927).
Đoạn dưới đây trích dịch từ cuốn Choses & Gens en Indochine (1908-1916) do nhà xuất bản IDEO ở Hà Nội in năm 1941.
... Nhân dịp Van Der Born, phi công người Hà Lan, vừa thực hiện thành công một số cuộc bay biểu diễn ở Sài gòn và Băng Cốc, tháng hai năm 1911, Besse, Chủ tịch hiệp hội Thuyền Buồm mở cuộc lạc quyên để tổ chức một tuần lễ hàng không ở Hà Nội. Bắc Kỳ phải mời cho được Van ghé qua biểu diễn trước khi anh đi Hồng Công. Trước đây đã có một số phi công đàm phán với Bắc Kỳ nhưng họ đòi ít nhất từ 30.000 tới 40.000 quan trong khi Van bằng lòng với cái giá từ 15.000 tới 20.000. Ý đồ của Besse không thành nhưng lại được thực hiện dưới hình thức khác. Số là khi đó một Uỷ ban do Trú sứ Trung Bắc Kỳ là Henn de Monpezat làm chủ tịch quyết định mua một chiếc máy bay cho Liên đoàn Hàng không. Uỷ ban gồm toàn người Pháp trong đó có dược sĩ, trưởng phòng vô tuyến điện báo, quản trị khách sạn Métropole, một kỹ sư, một ông cò phụ mãi tận cuối năm 1912 chuyến bay đầu tiên mới được thực hiện trên bầu trời sân đua ngựa ở Hải Phòng mà lại do một người Nga tên là Cuminski lái. Người Pháp tự an ủi cho rằng người Nga là bạn và đồng minh của mình; hơn nữa động cơ máy bay là động cơ Blériot của Pháp. Mỗi lần bay kéo dài khoảng 10 phút. Vài ngày sau đó, buổi biểu diễn bay được thực hiện ở Hà Nội trước một cử tọa đông đảo và nồng nhiệt. Chỉ có người Trung Quốc không có mặt vì nhận được lệnh tẩy chay. Nguyên nhân tẩy chay là quốc tịch của phi công.
Mãi năm sau, chuyến bay trên bầu trời Bắc Kỳ mới do phi công Pháp thực hiện. Phi công này tên là Marc Pourpe. Ngày 13 tháng 6 năm 1913, Marc Pourpe tụ hội bạn bè ở Hải Phòng. Ngày hôm sau, anh bay đi Hà Nội và hạ cánh thành công. Ngày 16 anh bay đi Lạng Sơn nhưng bị chói nắng khi hạ cánh nên phải quay lại Kép và hạ cánh trên một thửa ruộng ở Seno(? ND) không có hư hại gì. Vài ngày sau đó, anh lại bay đi Lạng Sơn và hạ cánh an toàn vì đã tính toán để quay lưng lại phía mặt trời khi hạ cánh.
Cũng trên bầu trời Đông Dương, bạn của Marc là Verminck đã không được may mắn: anh bị chết trong lần bay biểu diễn ở Nam Kỳ. Có lẽ đây là phi công đầu tiên chết trên bầu trời Đông Dương. Song song với hoạt động hàng không là hoạt động sân khấu. Tháng hai năm 1911, Besse mở lạc quyên thì ngày 1 tháng tư, nhóm kịch nghiệp dư của người Pháp, trong đó có Claude Bourrin, tổ chức vở Ami Fritz của Erckmann-chatrian để lấy tiền giúp Liên trách hộ tịch một thời là phi công, một nhà thầu khoán và một số nhà buôn, tất nhiên có Besse. Sau khi có máy bay, người ta triệu một phi công Pháp sang để chuyến bay đầu tiên được thực hiện bởi phi công Pháp, chứng tỏ nước Pháp đã có một bước đáng kể trên thế giới về mặt hàng không. Cuối cùng thì đoàn Hàng không Hà Nội. Buổi diễn được thực hiện ở rạp Philharnonique vì lúc đó Nhà hát lớn Hà Nội đang được hoàn thành.
Từ nhiều năm qua, thành phố Hà Nội đã thực hiện việc xây dựng một nhà hát thành phố xứng đáng với thủ đô hành chính của Đông Dương hơn cái phòng diễn cổ lỗ ở phố Takou (Hàng Cót - ND). Mặc dù chưa hoàn thành đầy đủ do thiếu kinh phí, cuối cùng thì tòa nhà cũng dùng được. Tuy việc sơn quét các phòng, hành lang và nhiều thứ khác không bao giờ được thực hiện nhưng như thế là mừng rồi. Tòa nhà có vóc dáng to lớn với những nét thô xấu của lâu đài Garnier (có lẽ là nguyên mẫu của là Hát lớn Hà Nội - ND) và khách dạo chơi trên đường Paul Bert (tức Tràng Tiền) tự hỏi khi nào khai trương nhà hát mới. Nhóm kịch Philharmonique có tham vọng gắn tên tuổi của họ vào ngày lễ khánh thành. Nhóm quyết định diễn vở hài kịch Chuyến đi của ông Perrichon (Le voyage de M.Perrichon) trong ngày khánh thành Nhà hát lớn với mục đích lấy tiền ủng hộ trẻ em lai lang thang. Thành phố trao cho nhóm kịch một sân khấu trống trơn, không màn kéo, không thiết bị trang trí. Một diễn viên là thú y sĩ sửa chữa những khiếm khuyết đó bằng một sự năng động ghê gớm: ông đã làm màn kéo và vẽ trên đó cảnh Hồ Gươm có Tháp Rùa. Chiếc màn kéo này được cách tân vào năm 1927 và mãi tới tận năm 1932 mới được thay thế bằng chiếc màn nhung kiểu Ý.
Ngày 9-12-1911, Nhà Hát thành phố Hà Nội được khánh thành với vở hài kịch Chuyến đi của ông Perrichon.
Hải phòng 1884
Bonnal
Trú sứ Hải Phòng
trích Au Tonkin 1872-1881-1886
Sau sáu tháng sống leo lắt ở Sơn Tây, tôi được bổ làm Trú sứ Hải Phòng, một vị trí quan trọng và thú vị hơn. Sau này tôi mới biết Thống tướng (Général en chef) nâng đỡ tôi vì ông hài lòng về việc tôi đã tuyển mộ thành công, nhưng không phải không khó khăn, 1500 phu ở Sơn Tây phục vụ quân đội hành quân đi Lạng Sơn.
... Khi bước chân lên Hải Phòng, tôi ngạc nhiên thấy tòa lãnh sự bị viên chỉ huy quân sự tỉnh thành chiếm mặc dù chỗ đó đã chính thức dành riêng cho Trú sứ để làm nhiệm vụ lãnh sự. Tố cáo chỉ vô ích vì lúc đó ở Bắc Kỳ đang thịnh hành nguyên tắc “tôi đã ở đây rồi thì anh hãy tránh ra”. Rất may, lúc đó tòa nhà của viên quan đứng đầu địa phương bỏ trống nên tôi cùng với văn phòng đóng ở đó sau khi tưởng sẽ phải thuê một cái nhà lá trong cánh đồng. Hải Phòng không thay đổi gì so với lúc tôi tới đây vào tháng 7-1883. Cũng như 18 tháng trước đây, hiện nay cái thiếu nhất của cái người ta gọi là tỉnh thành Hải Phòng là nhà ở và mặt bằng khô ráo để xây nhà. Lúc này, Hải Phòng không còn đội quân của Francis Garnier nữa và, theo hiệp ước 1874, Hải Phòng phải tạo ra một vùng đất nằm giữa con sông và sông Tam Bạc, tức là tạo ra một vùng bằng phẳng được các đê sông bảo vệ khỏi thủy triều nhưng lại hoàn toàn không bị ngập úng trong mùa mưa.
Để xây dựng tòa lãnh sự và các công trình phụ trợ, các văn phòng, trại lính và bệnh viện, các sĩ quan công binh chẳng có cách nào hơn là đào một hố rộng để lấy đất đắp nền. Để bảo đảm vệ sinh, họ cho hố thông với sông nhờ các van chuyển động. Do việc mở thương cảng ở Hải Phòng nên nhiều người châu Âu kéo tới đây. Họ xây nhà trên cánh đồng ngập nước bằng cách áp dụng quy trình như trên, tức là đào hố lấy đất để tôn nền. Các hố đào sâu và nhiều tới mức các hố xen kẽ lộn xộn với các nền nhà và ngay trong mùa khô cũng đầy nước. Những chỗ ở khiêm tốn như vậy chỉ được nối liền với khu nhượng địa hoặc đê bằng những con đường đất hay bằng các bờ ruộng lúa rải rác đây đó trong cánh đồng ngập nước.
Từ 1875, sự xuất hiện của các công trình lớn do Chính phủ Nam Kỳ (chỉ chính quyền của Thống Đốc Nam Kỳ - ND) thầu sau hiệp ước 1874 và sự có mặt của Lãnh sự Pháp, của đơn vị pháo binh hải quân bảo vệ tòa lãnh sự... đã thu hút tới đây một số lượng lớn phu khuân vác và thợ An Nam. Cho tới lúc này, các đơn vị bản xứ có mặt tại đây chỉ là một số lính ít ỏi ăn lương của các quan ở Hải Dương để trấn giữ một pháo đài nhỏ bằng đất tại cửa sông Tam Bạc đổ vào sông Cửa Cấm. Một số thương nhân Tầu nhanh chóng tới ở trong cảng mới mở. Họ xây dựng những ngôi nhà bằng gạch ở hai bên bờ sông Tam Bạc, trong đó bờ trái nhiều hơn tạo ra khu Hạ Lý.
Bonnal
Trú sứ Hải Phòng
trích Au Tonkin 1872-1881-1886
Sau sáu tháng sống leo lắt ở Sơn Tây, tôi được bổ làm Trú sứ Hải Phòng, một vị trí quan trọng và thú vị hơn. Sau này tôi mới biết Thống tướng (Général en chef) nâng đỡ tôi vì ông hài lòng về việc tôi đã tuyển mộ thành công, nhưng không phải không khó khăn, 1500 phu ở Sơn Tây phục vụ quân đội hành quân đi Lạng Sơn.
... Khi bước chân lên Hải Phòng, tôi ngạc nhiên thấy tòa lãnh sự bị viên chỉ huy quân sự tỉnh thành chiếm mặc dù chỗ đó đã chính thức dành riêng cho Trú sứ để làm nhiệm vụ lãnh sự. Tố cáo chỉ vô ích vì lúc đó ở Bắc Kỳ đang thịnh hành nguyên tắc “tôi đã ở đây rồi thì anh hãy tránh ra”. Rất may, lúc đó tòa nhà của viên quan đứng đầu địa phương bỏ trống nên tôi cùng với văn phòng đóng ở đó sau khi tưởng sẽ phải thuê một cái nhà lá trong cánh đồng. Hải Phòng không thay đổi gì so với lúc tôi tới đây vào tháng 7-1883. Cũng như 18 tháng trước đây, hiện nay cái thiếu nhất của cái người ta gọi là tỉnh thành Hải Phòng là nhà ở và mặt bằng khô ráo để xây nhà. Lúc này, Hải Phòng không còn đội quân của Francis Garnier nữa và, theo hiệp ước 1874, Hải Phòng phải tạo ra một vùng đất nằm giữa con sông và sông Tam Bạc, tức là tạo ra một vùng bằng phẳng được các đê sông bảo vệ khỏi thủy triều nhưng lại hoàn toàn không bị ngập úng trong mùa mưa.
Để xây dựng tòa lãnh sự và các công trình phụ trợ, các văn phòng, trại lính và bệnh viện, các sĩ quan công binh chẳng có cách nào hơn là đào một hố rộng để lấy đất đắp nền. Để bảo đảm vệ sinh, họ cho hố thông với sông nhờ các van chuyển động. Do việc mở thương cảng ở Hải Phòng nên nhiều người châu Âu kéo tới đây. Họ xây nhà trên cánh đồng ngập nước bằng cách áp dụng quy trình như trên, tức là đào hố lấy đất để tôn nền. Các hố đào sâu và nhiều tới mức các hố xen kẽ lộn xộn với các nền nhà và ngay trong mùa khô cũng đầy nước. Những chỗ ở khiêm tốn như vậy chỉ được nối liền với khu nhượng địa hoặc đê bằng những con đường đất hay bằng các bờ ruộng lúa rải rác đây đó trong cánh đồng ngập nước.
Từ 1875, sự xuất hiện của các công trình lớn do Chính phủ Nam Kỳ (chỉ chính quyền của Thống Đốc Nam Kỳ - ND) thầu sau hiệp ước 1874 và sự có mặt của Lãnh sự Pháp, của đơn vị pháo binh hải quân bảo vệ tòa lãnh sự... đã thu hút tới đây một số lượng lớn phu khuân vác và thợ An Nam. Cho tới lúc này, các đơn vị bản xứ có mặt tại đây chỉ là một số lính ít ỏi ăn lương của các quan ở Hải Dương để trấn giữ một pháo đài nhỏ bằng đất tại cửa sông Tam Bạc đổ vào sông Cửa Cấm. Một số thương nhân Tầu nhanh chóng tới ở trong cảng mới mở. Họ xây dựng những ngôi nhà bằng gạch ở hai bên bờ sông Tam Bạc, trong đó bờ trái nhiều hơn tạo ra khu Hạ Lý.
PHẠM QUỲNH * MỘT THÁNG Ở NAM KỲ
Một tháng ở Nam kỳ-Phần I
Phạm Quỳnh
Phạm Quỳnh
Làm trai đã đáng nền trai, Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng từng.
Cứ
theo lời ca dao đó thì tôi đây có lẽ cũng đã đủ tư cách làm một “nền
trai” đất Nam Việt vậy. Mùa xuân năm nay đã trải qua mười ngày ở Huế,
mùa thu này lại từng ở một tháng Nam Kỳ,... không kể trong ngoại hai
mươi năm trời đã sinh trưởng ở chốn Thăng Long đô cũ, trong khoảng sông
Nhị núi Nùng; nếu có thế mà đủ làm trai Nam Việt, thì tôi đây thật đã
thập phần xứng đáng rồi. Nhưng mà đoái nghĩ: nghề làm trai ở đời, nhất
là làm trai nước Nam này, há phải dung dị lắm rư? Lời ca dao kia há có
thiển nghĩa thế ru? Ôi! Đương buổi Quốc Triều gây dựng cơ đồ, đánh nam
dẹp bắc, thiếu gì những kẻ tang bồng hồ thỉ, chí khí nam nhi, nay tòng
quân ở Thuận Hóa, mai viễn thú đất Đồng Nai, vào sinh ra tử chốn sa
tràng, mong lập công danh cùng xã tắc: lời ca dao kia là tả cái chí của
những bậc vô danh anh hùng đó, chớ có đâu lại hợp với cái cảnh một kẻ
thư sinh nhỏ mọn như bỉ nhân đây, thừa lúc trong nước còn hiếm người
mới ra lạm một phần ngôn luận với quốc dân, nghĩ mình lắm lúc đã thẹn
thay, có đâu lại mê cuồng đến đem lời khen của cổ nhân mà tự gán cho
mình!...
Song Đi cho biết đó biết đây Ở nhà với mẹ đến ngày
nào khôn. ca dao cũng lại có câu như thế, thì tuy ở Huế mười ngày, Nam
Kỳ một tháng, chưa đủ làm được “nền trai” Nam Việt, mà cũng đủ học
“khôn” được ít nhiều. Huống tuy khác xứ mà cũng đất nước nhà, tuy người
lạ mà cùng là anh em, thời càng quen biết lại càng đậm đà cái tình máu
mủ, càng đằm thắm cái nghĩa quê hương; như thế thì mấy phen du lịch
cũng là mấy lần đi học cho biết cái nghề làm trai nước nhà vậy.
Lần trước đã từng thuật những sự tư tưởng cảm giác ở Trường An, lần này lại xin kể những sự kinh lịch kiến văn ở Lục Tỉnh; không phải là muốn khoe với ai cái văn chương sốc nổi, chỉ muốn đem lời thành thực mà giãi bày bàn bạc cùng quốc dân, hoặc lòng nhiệt thành có người cảm, lời bàn ngay có kẻ nghe, ấy là mãn nguyện vậy.
Nhưng trước khi kể chuyện Nam Kỳ, tưởng nên giải qua cái tính cách hai cuộc du lịch trước sau khác nhau thế nào. Lần trước là đi vãn cảnh một nơi đất cũ, còn đầy những dấu tích đời xưa, mỗi bước như động đến tấm lòng hoài cổ, chạnh những nông nỗi cố hương; nghe tiếng chim kêu trên bãi cát mà nỗi thương nước nhớ nhà không thể cầm được, ngắm bức phong cảnh chốn tôn lăng mà lòng cảm hoài về lịch sử như chan như chứa; bao nhiêu những giọng ngậm ngùi ai oán thủa bình sinh không ngờ mà lâm li trên tờ giấy, khiến người đọc cũng phải lạnh lẽo trong lòng. Đương buổi thế giới cấp tiến, người đời xô đuổi nhau vào con đường tương lai vô hạn, quay đầu lại nhìn về đời trước, còn gì buồn bằng! Lần này thì thật khác: cái khí vị lạnh lẽo kia đã đổi ra cái khí vị nồng nàn rồi. Nam Kỳ là một nơi đất mới, mới đủ đường: địa chất, lịch sử, văn hóa đều là mới cả; người ta đương hăm hở về đường tiến thủ, muốn bước cho chóng, lên cho mau, chưa từng bận lòng đến những nỗi thương cũ tiếc xưa, phiền xa buồn muộn. Đất cũng không từng có những dấu vết cũ, như tòa thành cổ, góc miếu xưa, đủ nhắc cho người ta tấm lòng nhớ cũ, mà chỉ mênh mang những đồng rộng không cùng, sức người mở mang không xuể. Lại thêm Tạo vật đãi người quá hậu, cho cái đất kia phì nhiêu có một, cách làm ăn không khó nhọc mà đường sinh hoạt được thảnh thơi; tiền bạc đã nhiều, tiêu dùng càng lắm, đời người như lấy sự khoái lạc làm cái mục đích không hai. Khoái lạc lại khoái lạc mà suốt năm như bữa tiệc một ngày! Cho nên cái cảm giác của người mới bước chân tới đây là cái cảm giác vui, vui mà tin cậy ở cái tương lai, chớ không phải buồn mà thương tiếc cho sự ký vãng.
Ấy hai cuộc du lịch khác nhau như thế, lời kỷ thuật tất cũng không in một giọng. Đó là một lẽ tự nhiên, không lấy gì làm lạ. Song sự vui sự buồn tuy gốc tự lòng người mà thực bởi cảnh vật khiến nên. Hoặc giả có kẻ nói có biết nghĩ mới biết buồn, muốn vui ắt phải vô tâm, thì lỗi ấy tác giả cũng xin nhận một phần, mà cảnh vật xứ Nam Kỳ mới thật là đáng quá nửa vậy.
No comments:
Post a Comment