TRỌNG NGHĨA PHỎNG VẤN BÀ VALERIE NIQUET
Căng thẳng ở Biển Đông thể hiện sự mong manh của chế độ Trung Quốc
Trọng Nghĩa
Theo RFI
Theo RFI
Ảnh bên:Tàu tuần dương Trung Quốc (màu trắng) cản mũi tàu cảnh sát biển Việt Nam
trong vùng biển của Việt Nam (ảnh chụp ngày 14/05/2014)
REUTERS
Trung Quốc trong thời gian gần đây đã gây căng thẳng với hầu hết các láng giềng, từ Nhật Bản cho đến Việt Nam, Philippines.
Trả lời nhật báo Công giáo La Croix ngày 16/06/2014, chuyên gia Pháp
Valérie Niquet, đứng đầu bộ phận châu Á của Hiệp hội Nghiên cứu Chiến
lược FRS (Fondation pour la Recherche stratégique) nhận định : Chế độ
Bắc Kinh - bị suy yếu từ bên trong - đã sử dụng chủ nghĩa dân tộc và
tham vọng bá quyền trên biển để lấy lại tính chính đáng. Chiến lược này,
theo bà, không phải là không có rủi ro.
Sau đây là toàn văn bài phỏng vấn :
La Croix : Yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc ở Biển Đông có chính đáng hay không ?
Valérie Niquet : Vấn đề chủ nghĩa bành trướng
Trung Quốc tại Biển Đông hay biển Hoa Đông đã được không chỉ các nước
láng giềng của Bắc Kinh (Việt Nam, Philippines,Nhật Bản) mà cả cộng đồng
quốc tế nêu lên bởi vì Trung Quốc chỉ đơn thuần giải thích các tuyên bố
chủ quyền của họ bằng nguyên nhân lịch sử.
Lập luận của Trung Quốc là gì ? Là kể từ thời Hán - hơn hai thế
kỷ trước Công nguyên - các thủy thủ Trung Quốc đã nhận biết khu vực này,
và trên cơ sở đó Bắc Kinh đòi chủ quyền trên toàn bộ biển bao quanh
Trung Quốc. Nếu như vậy, thì Hy Lạp cũng có thể đòi chủ quyền trên toàn
bộ biển Địa Trung Hải...
Vấn đề thứ hai là những tuyên bố chủ quyền khá mới mẻ đó lại
không được Trung Quốc xác định rõ ràng như Philippines và Việt Nam đã
yêu cầu. Ngày nay, Bắc Kinh dựa trên một đường chín đoạn đã được chính
quyền Trung Hoa vẽ ra một cách thô thiển và nhanh chóng vào năm 1948, để
đòi chủ quyền trên toàn bộ Biển Đông.
Nhưng người ta không biết là Trung Quốc đòi chủ quyền trên các
đảo với các khu vực đặc quyền kinh tế và lãnh hải xung quanh hay là họ
muốn toàn bộ Biển Đông mà không dựa vào một vùng lãnh thổ cụ thể nào.
La Croix : Các hành động của Trung Quốc - sự hiện
diện của các tàu tuần duyên, việc cắm các giàn khoan dầu... - có thể gây
nên hay không một cuộc chiến tranh cục bộ hay rộng lớn hơn, lôi kéo
Nhật Bản và Hoa Kỳ nhập cuộc ?
Valérie Niquet : Kể từ cuối những năm 2000 và
cuộc khủng hoảng kinh tế, Bắc Kinh đã thay đổi chiến lược trên Biển Đông
và quyết định thử sức phản ứng và quyết tâm đáp trả của các nước láng
giềng và Hoa Kỳ. Mục tiêu của Trung Quốc là tạo ra một tình huống để
phân tích quan hệ quyền lực trong khu vực chứ không phải là một cộng
đồng quốc tế được tổ chức hài hòa.
Phải đối mặt với chiến lược thử sức đó, các nền dân chủ như Nhật
Bản hay Hoa Kỳ không muốn Trung Quốc đi quá xa, nhưng cũng không sẵn
sàng lao vào một cuộc xung đột trực diện Bắc Kinh. Nhưng nguy cơ sự cố
đáng tiếc xảy ra không phải là không có : Từ đầu năm đến nay, tại Biển
Hoa Đông, Nhật Bản đã cho phi cơ cất cánh hơn 400 lần do các sự cố với
Trung Quốc.
Tại Biển Đông, tình hình khác hơn, và có thể xấu đi một cách
nhanh chóng. Ở đó, Bắc Kinh đang phải đối mặt với các quốc gia kém dân
chủ hơn, chẳng hạn như Việt Nam. Khi Trung Quốc hạ đặt một giàn khoan
dầu ở vùng biển mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền, chúng ta không nên quên
là nhiều cuộc biểu tình bạo động nhắm vào các cơ sở của Trung Quốc hay
Đài Loan đã xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam vào tháng trước.
Trung Quốc hiện nay như đang cho rằng họ ở một thế mạnh và có thể
đẩy quân cờ của mình về phía trước. Ta hoàn toàn có thể lo ngại rằng đó
là một tính toán sai lầm và cuối cùng Trung Quốc sẽ phải đối mặt với
phản ứng dữ dội từ Việt Nam, Nhật Bản hay Hoa Kỳ.
La Croix : Giới hạn mà Trung Quốc không được vượt quá là gì ?
Valérie Niquet : Tại vùng Biển Đông,
rất khó mà xác định điều này. Trung Quốc từ lâu đã hiện diện trên quần
đảo Hoàng Sa. Và Hoa Kỳ, dù đã tăng cường sự hiện diện quân sự của mình
trong khu vực với Philippines, Malaysia và Việt Nam, nhưng chưa sẵn sàng
đối đầu với Bắc Kinh để bảo vệ hai hoặc ba hòn đảo do Manila và Hà Nội
tuyên bố chủ quyền.
Một trong những lằn ranh mà Mỹ đã đề cập đến trong vấn đề Biển
Đông là việc Bắc Kinh thiết lập một vùng nhận dạng phòng không như họ đã
làm tại vùng Biển Hoa Đông.
Ngược lại, ở trên Biển Hoa Đông, Bắc Kinh sẽ vượt quá giới hạn
nếu dùng võ lực chiếm quần đảo Senkaku/Điếu Ngư do Nhật Bản quản lý.
Điều đó sẽ dẫn đến một phản ứng từ phía Hoa Kỳ. Chỉ mới gần đây thôi, Bộ
trưởng Quốc phòng Mỹ còn tuyên bố rằng quần đảo đó được che chở bằng
thỏa thuận quân sự giữa Washington với Tokyo.
La Croix : Những mối căng thẳng đó liệu có cơ may giảm bớt hay không ?
Valérie Niquet : Tình hình chỉ có thể thay đổi
với sự chuyển biến của chính quyền Trung Quốc. Thật vậy, chế độ Bắc Kinh
dù mở cửa về kinh tế, nhưng vẫn kiểm soát chặt chẽ về chính trị. Và
ngày nay nó xây dựng tính chính đáng trên nền tảng chủ nghĩa đân tộc,
điều được gọi là thực hiện giấc mơ về một nước Trung Quốc được phục
hưng.
Những tham vọng về một nước lớn đó dùng để bảo vệ tính chính đáng
của Đảng Cộng sản giải thích tại sao Trung Quốc rất hung hăng với các
láng giềng sát cạnh mình, để cố gắng áp đặt mình vào vị trí một cường
quốc không thể tranh cãi và lãnh đạo châu Á.
Các vấn đề tài nguyên, lãnh thổ, năng lượng và thủy sản chỉ là cái
cớ. Chúng ta đang phải đối mặt với một cường quốc bị suy yếu từ bên
trong và dựa trên chủ nghĩa dân tộc và tham vọng bành trướng để tìm lại
tính chính đáng của mình.
VĂN HÓA THẾ GIỚI
1883 : Nguồn gốc khai sinh dòng nhạc bolero
Các đôi nhảy cặp nhân một buổi khiêu vũ ngoài trời tại Pháp - Reuters
Chương trình RFI hôm nay được dành để nói về thể điệu bolero.
Ngoài hai liên khúc mà RFI hoà âm lại gồm các bản nhạc nổi tiếng nhất,
còn có Tristezas, nguyên là bản bolero đầu tiên được viết vào năm 1883.
Trong vòng nhiều thập niên, đã có một sự nhầm lẫn về nguồn gốc bolero.
Tuy có cùng một tên gọi, nhưng chữ bolero lại thể hiện hai điều khác hẳn
nhau.
Chữ bolero là một vũ điệu truyền thống của Tây Ban Nha, khai
sinh vào cuối thế kỷ XVIII. Còn tại Cuba, bolero là một trường phái âm
nhạc ra đời vào cuối thế kỷ XIX. Phạm trù và ngữ cảnh giúp cho ta phân
biệt một bên là vũ điệu của vương triều Tây Ban Nha, còn bên kia là điệu
nhạc dân gian đến từ Cuba. Tại Tây Ban Nha, người đầu tiên định hình
bolero như một điệu vũ hàn lâm là vũ sư Sebastián Lorenzo Cerezo.
Nhờ ông Sebastián Lorenzo Cerezo mà vũ điệu bolero trở nên thịnh hành dưới triều vua Charles đệ tam (trị vì từ năm 1759 đến 1788). Theo các nhà nghiên cứu, về mặt ngữ vựng, bolero có lẽ xuất phát từ chữ volero, biệt danh của vũ sư Tây Ban Nha do mỗi lần biểu diễn các điệu nhảy, ông thường lã lướt tung bay như thể gót chân tha thướt nhẹ nhàng không bao giờ chạm đất.
Tuy cách viết khác biệt, nhưng trong tiếng Tây Ban Nha hai chữ b và v đều có lối phát âm y hệt như nhau. Và khi đem ra so sánh với thể điệu khiêu vũ bolero mà ta thường thấy bây giờ, thì vũ điệu hàn lâm theo nghi thức truyền thống của Tây Ban Nha ít có liên quan gì với điệu nhảy cặp (khiêu vũ xã hội).
Chữ bolero xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1794 trong quyển sách biên khảo về nghệ thuật bolero trong vương triều Tây Ban Nha ‘’La Bolerologia … en la corte de España’’ của tác giả Juan Jasinto Rodríguez de Calderón. Năm năm sau (1799), đến phiên nhà nghiên cứu Juan Antonio Iza Zamácola phát hành một quyển sách khác nói về vũ điệu hàn lâm bolero. Cả hai tác giả đều đồng ý trên một điểm, bolero biến hóa từ vũ điệu seguidilla (tiếng Pháp gọi là séguédille hoặc séquidille), nguyên là một điệu nhảy truyền thống có từ thế kỷ XVII của vùng Andalucia.
Bất cứ điệu vũ nào cũng cần có tiếng nhạc và người đầu tiên sáng tác nhạc cho vũ điệu bolero là nghệ sĩ tây ban cầm cổ điển Fernando Ferandiere (1740-1816), mở đường sau này cho tác giả Manuel de Falla (1876-1946), một trong bốn gương mặt Tứ Quý của làng nhạc Tây Ban Nha. Lối sáng tác này gợi hứng sau đó cho nhiều nhà soạn nhạc cổ điển, điển hình là Frederic Chopin (1810-1849) hay Maurice Ravel (1875-1937), cho dù các tác phẩm của họ dù mang tên là ‘’bolero’’ nhưng cũng chẳng ăn nhập gì với điệu nhạc bolero mà ta thường nghe thời nay.
Nói như vậy thì điệu nhạc bolero mà ta thường nghe xuất phát nơi đâu và từ bao giờ ? Nếu xét đơn thuần về thể loại âm nhạc, thì trường phái bolero nẩy sinh từ Cuba vào cuối thế kỷ XIX và hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng nó có cùng một cội nguồn với điệu nhạc trova, một thể loại ‘‘du ca’’ của Tây Ban Nha. Cha đẻ của dòng nhạc bolero cubano là nhạc sĩ đàn ghi ta José Sánchez (1856 – 1918), mà nhiều người gọi một cách thân mật là Pepe Sánchez.
Sinh trưởng tại Santiago de Cuba, José Pepe Sánchez xuất thân từ một gia đình nghèo, không được cho ăn học tới nơi tới chốn, cho nên ông chọn học nghề thợ may. Nhờ có năng khiếu âm nhạc và lỗ tai rất thính, ông tự học nhạc bằng cách mò mẫm chơi đàn, ông sáng tác rất nhiều ca khúc nhưng tất cả đều là chơi thuộc lòng, chứ không có bài nào được ghi chép một cách bài bản. Chính cũng vì vậy mà sau ngày ông qua đời, có rất nhiều bài hát bị lãng quên, do không được lưu trữ qua dàn bè văn bản.
Theo nhà nghiên cứu Luis Antonio trong quyển sách nói về lịch sử của dòng nhạc bolero tại Cuba (Historia del bolero cubano), bản nhạc bolero đầu tiên trên thế giới ra đời vào năm 1883 do chính José Pepe Sánchez sáng tác mang tựa đề ‘’Me Entristeces, Mujer’’ mà sau này người ta thường hay gọi một cách ngắn gọn là ‘’Tristeza’’ (Nỗi Buồn). Bản nhạc này được diễn lần đầu tiên vào giữa thập niên 1880 trong ban nhạc Santiagueros Trovadores Quintet, gồm tổng cộng là 5 thành viên, ngoài nhà sáng lập José Pepe Sánchez còn có tay đàn Emiliano Blez, Pepe Figarola và hai anh em nhạc sĩ Ferrer và Luis Felipe Bernabe Portes. Nhưng mãi đến gần nửa thế kỷ sau bài hát mới được ghi âm trên đĩa nhựa.
Khai sinh từ Cuba, dòng nhạc bolero sau đó đã nhanh chóng lan tỏa và
bén rễ sang các quốc gia Nam Mỹ và ở vùng biển Caribê, tiêu biểu nhất là
Puerto Rico. Riêng tại Mêhicô, dòng nhạc bolero chính thức ra đời vào
đầu những năm 1920, thời mà các tác giả Trung Mỹ lao vào phong trào sáng
tác theo thể điệu này. Bản nhạc bolero đầu tiên nổi tiếng trên khắp Nam
Mỹ là bài Lágrimas Negras do nhạc sĩ Miguel Matamoros sáng tác vào năm
1929. Bản thứ nhì là bài El Manisero, ghi âm vào năm 1930, cả hai bài
này phá kỷ lục số bán với hơn một triệu bản.
Còn trên toàn thế giới bài bolero nổi tiếng đầu tiên nhờ các phiên bản chuyển dịch là nhạc phẩm Quiéreme Mucho của Gonzalo Roig sáng tác vào năm 1931, tức là một thập niên trước Besame Mucho của Consuelo Velázquez. Trước Besame Mucho cũng có nhạc phẩm Perfidia viết vào năm 1939, mà theo các nhà phê bình đánh dấu một bước ngoặt trong cách soạn nhạc bolero, từ lối soạn cấu trúc cho đến cách đặt ca từ.
Sức hấp dẫn của bolero không chỉ nằm trong giai điệu tình tứ ngọt ngào mà còn nằm trong nhịp điệu du dương lãng mạn, có thể hoà quyện nuôi dưỡng nhiều dòng nhạc khác để cho ra đời latin jazz, bolero són, bolero salsero, bolero ranchero … Một khi lên ngôi nhờ các bài hát như Besame Mucho (1941) và Historia de un Amor (1955) mỗi bài đều có hàng ngàn phiên bản ghi âm, dòng nhạc bolero trải qua một thời kỳ huy hoàng trong nhiều thập niên liền.
Cho dù dòng nhạc bolero sau đó có phần thoái trào tùy theo thị hiếu của khán thính giả, nhưng điệu nhạc bolero của người La Tinh vẫn tiếp tục làm cho bao tâm hồn nhức nhối suy ngẫm, bao trái tim thổn thức say đắm, bất kể những thăng trầm của dòng đời tháng năm.
Nhờ ông Sebastián Lorenzo Cerezo mà vũ điệu bolero trở nên thịnh hành dưới triều vua Charles đệ tam (trị vì từ năm 1759 đến 1788). Theo các nhà nghiên cứu, về mặt ngữ vựng, bolero có lẽ xuất phát từ chữ volero, biệt danh của vũ sư Tây Ban Nha do mỗi lần biểu diễn các điệu nhảy, ông thường lã lướt tung bay như thể gót chân tha thướt nhẹ nhàng không bao giờ chạm đất.
Tuy cách viết khác biệt, nhưng trong tiếng Tây Ban Nha hai chữ b và v đều có lối phát âm y hệt như nhau. Và khi đem ra so sánh với thể điệu khiêu vũ bolero mà ta thường thấy bây giờ, thì vũ điệu hàn lâm theo nghi thức truyền thống của Tây Ban Nha ít có liên quan gì với điệu nhảy cặp (khiêu vũ xã hội).
Chữ bolero xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1794 trong quyển sách biên khảo về nghệ thuật bolero trong vương triều Tây Ban Nha ‘’La Bolerologia … en la corte de España’’ của tác giả Juan Jasinto Rodríguez de Calderón. Năm năm sau (1799), đến phiên nhà nghiên cứu Juan Antonio Iza Zamácola phát hành một quyển sách khác nói về vũ điệu hàn lâm bolero. Cả hai tác giả đều đồng ý trên một điểm, bolero biến hóa từ vũ điệu seguidilla (tiếng Pháp gọi là séguédille hoặc séquidille), nguyên là một điệu nhảy truyền thống có từ thế kỷ XVII của vùng Andalucia.
Bất cứ điệu vũ nào cũng cần có tiếng nhạc và người đầu tiên sáng tác nhạc cho vũ điệu bolero là nghệ sĩ tây ban cầm cổ điển Fernando Ferandiere (1740-1816), mở đường sau này cho tác giả Manuel de Falla (1876-1946), một trong bốn gương mặt Tứ Quý của làng nhạc Tây Ban Nha. Lối sáng tác này gợi hứng sau đó cho nhiều nhà soạn nhạc cổ điển, điển hình là Frederic Chopin (1810-1849) hay Maurice Ravel (1875-1937), cho dù các tác phẩm của họ dù mang tên là ‘’bolero’’ nhưng cũng chẳng ăn nhập gì với điệu nhạc bolero mà ta thường nghe thời nay.
Nói như vậy thì điệu nhạc bolero mà ta thường nghe xuất phát nơi đâu và từ bao giờ ? Nếu xét đơn thuần về thể loại âm nhạc, thì trường phái bolero nẩy sinh từ Cuba vào cuối thế kỷ XIX và hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng nó có cùng một cội nguồn với điệu nhạc trova, một thể loại ‘‘du ca’’ của Tây Ban Nha. Cha đẻ của dòng nhạc bolero cubano là nhạc sĩ đàn ghi ta José Sánchez (1856 – 1918), mà nhiều người gọi một cách thân mật là Pepe Sánchez.
Sinh trưởng tại Santiago de Cuba, José Pepe Sánchez xuất thân từ một gia đình nghèo, không được cho ăn học tới nơi tới chốn, cho nên ông chọn học nghề thợ may. Nhờ có năng khiếu âm nhạc và lỗ tai rất thính, ông tự học nhạc bằng cách mò mẫm chơi đàn, ông sáng tác rất nhiều ca khúc nhưng tất cả đều là chơi thuộc lòng, chứ không có bài nào được ghi chép một cách bài bản. Chính cũng vì vậy mà sau ngày ông qua đời, có rất nhiều bài hát bị lãng quên, do không được lưu trữ qua dàn bè văn bản.
Theo nhà nghiên cứu Luis Antonio trong quyển sách nói về lịch sử của dòng nhạc bolero tại Cuba (Historia del bolero cubano), bản nhạc bolero đầu tiên trên thế giới ra đời vào năm 1883 do chính José Pepe Sánchez sáng tác mang tựa đề ‘’Me Entristeces, Mujer’’ mà sau này người ta thường hay gọi một cách ngắn gọn là ‘’Tristeza’’ (Nỗi Buồn). Bản nhạc này được diễn lần đầu tiên vào giữa thập niên 1880 trong ban nhạc Santiagueros Trovadores Quintet, gồm tổng cộng là 5 thành viên, ngoài nhà sáng lập José Pepe Sánchez còn có tay đàn Emiliano Blez, Pepe Figarola và hai anh em nhạc sĩ Ferrer và Luis Felipe Bernabe Portes. Nhưng mãi đến gần nửa thế kỷ sau bài hát mới được ghi âm trên đĩa nhựa.
Còn trên toàn thế giới bài bolero nổi tiếng đầu tiên nhờ các phiên bản chuyển dịch là nhạc phẩm Quiéreme Mucho của Gonzalo Roig sáng tác vào năm 1931, tức là một thập niên trước Besame Mucho của Consuelo Velázquez. Trước Besame Mucho cũng có nhạc phẩm Perfidia viết vào năm 1939, mà theo các nhà phê bình đánh dấu một bước ngoặt trong cách soạn nhạc bolero, từ lối soạn cấu trúc cho đến cách đặt ca từ.
Sức hấp dẫn của bolero không chỉ nằm trong giai điệu tình tứ ngọt ngào mà còn nằm trong nhịp điệu du dương lãng mạn, có thể hoà quyện nuôi dưỡng nhiều dòng nhạc khác để cho ra đời latin jazz, bolero són, bolero salsero, bolero ranchero … Một khi lên ngôi nhờ các bài hát như Besame Mucho (1941) và Historia de un Amor (1955) mỗi bài đều có hàng ngàn phiên bản ghi âm, dòng nhạc bolero trải qua một thời kỳ huy hoàng trong nhiều thập niên liền.
Cho dù dòng nhạc bolero sau đó có phần thoái trào tùy theo thị hiếu của khán thính giả, nhưng điệu nhạc bolero của người La Tinh vẫn tiếp tục làm cho bao tâm hồn nhức nhối suy ngẫm, bao trái tim thổn thức say đắm, bất kể những thăng trầm của dòng đời tháng năm.
Tính
tổng cộng sẽ có hơn 5.000 buổi trình diễn, hòa nhạc miễn phí nhân Lễ
hội âm nhạc (Fête de la Musique) tại Pháp - AFP / FRANK PERRY
Lễ hội âm nhạc, Fête de la Musique lần thứ 33 diễn ra đêm nay
21/06/2014 với hơn 5000 buổi trình diễn, hòa nhạc miễn phí. Chủ đề năm
nay là « Urban Music ». Đề chào mừng ngày đầu tiên bước sang mùa hè, các
sàn nhạc lớn, nhỏ mở ra trên khắp mọi nẻo đường với đủ mọi thể loại, từ
dòng nhạc rock đến cổ điển, từ jazz đến human beatbox.
Tại thủ đô Paris chẳng hạn tối nay, khuôn viên cung điện Palais
Royal ở quận 1 tối nay là điểm hẹn của giới yêu chuộng Urban Music từ
rap đến hip hop. Quảng trường Denfert-Rochereau quận 14 trong vài giờ
hóa thành bệ phóng cho những tài năng trẻ như ban nhạc rock Griefjoy,
hay tốp ca rap Odezenne.
Còn nếu muốn được hưởng không khí ấm áp của dòng nhạc Brazil thì giới
hâm mộ nhất định phải đổ về hướng quận 11, gần quảng trường Bastille,
nơi nhiều quán cà phê lên chương trình La Tinh với chủ đề chính là dòng
nhạc bossa nova.
Trong khi đó, ngôi làng Bercy ở quận 12 là điểm hẹn của giới mộ điệu
đã khám phá được dòng nhạc Mali qua tiếng hát của cặp song ca Amadou và
Mariam. Từ năm 2005, cặp bài trùng này đã nổi tiếng trên thế giới với
đĩa hát Dimanche à Bamako – Chủ Nhật ở Bamako.
Ngoài Paris, các thành phố khác từ Lille đến Bordeaux, từ Nantes đến
Strasbourg đều thức trắng đêm nay để chia sẻ với giới mộ điệu một ngôn
ngữ phổ quát bất kể màu da hay tuổi tác. Điều thú vị là lễ hội âm nhạc
không chỉ dành riêng cho các nhạc sĩ thực thụ mà đây là dịp để mọi người
cùng chia sẻ một thú đam mê.
Hai nghệ sĩ Việt Nam sẽ tham dự Lễ hội Quốc tế Vải sợi Độc đáo tại Pháp
Nguyễn Hữu Trâm Kha làm việc tại trường Trung học Marie Laurencin, ở Riom từ 02 đến 18/04/2014
DR
Lễ hội Quốc tế Vải sợi Độc đáo (FITE) sẽ diễn ra từ ngày 19
đến 28/09/2014 tại thành phố Clermont-Ferrand. Trong khuôn khổ năm Việt
Nam tại Pháp 2014, liên hoan FITE sẽ đón tiếp hai nghệ sĩ Việt Nam, đó
là Nguyễn Hữu Trâm Kha và Nguyễn Văn Hoàng.
Trong suốt thời gian diễn ra lễ hội FITE, các tác phẩm của nghệ
sĩ Nguyễn Hữu Trâm Kha sẽ được giới thiệu cho công chúng
Clermont-Ferrand tại nhà triển lãm Espace Victoire. Đó là những tác phẩm
mà Nguyễn Hữu Trâm Kha sẽ thực hiện tại trường trung học Marie Laurecin
ở Riom, vùng Auvergne, cùng với các học sinh của trường này, với sự hỗ
trợ của Viện Pháp (Institut Français) trong khuôn khổ năm Pháp tại Việt
Nam và năm Việt Nam tại Pháp.
Nguyễn Hữu Trâm Kha là một nghệ sĩ tốt nghiệp cử nhân Đại học Mỹ
Thuật Huế và Thạc sĩ tại Đại học Mahasarakham, Thái Lan. Hiện cô sống,
giảng dạy và thực hành nghệ thuật ở Đà Nẵng.
Còn trong thời gian từ 20 đến 28/09, tại vườn Lecoq, công chúng ở
Clermont-Ferrand sẽ có dịp khám phá những con diều bằng tre do nghệ nhân
Nguyễn Văn Hoàng (Huế) thực hiện ở Công viên Prafrance (nơi có trồng
rất nhiều tre). Nghệ nhân Nguyễn Văn Hoàng cũng sẽ giới thiệu những tác
phẩm khác làm bằng tre và lụa. Khách đến xem cũng sẽ được nghệ nhân
Nguyễn Văn Hoàng chỉ dẫn cách làm diều. Chương trình hợp tác này cũng só
sự hỗ trợ của Viện Pháp.
Trước đây, lễ hội FITE tại Clermont-Ferrand đã từng đón tiếp nhà
thiết kế Minh Hạnh mang đến đây các mẫu trang phục đặc biệt, toàn bộ làm
bằng loại vải dệt tay của người dân tộc và được Minh Hạnh thiết kế
thành những kiểu áo thời trang hiện đại.
Năm ngoái, Lễ hội Quốc tế Vải sợi Độc đáo cũng đã được tổ chức tại
Huế và các tác phẩm vải sợi được giới thiệu tại Clermont-Ferrand chính
là sự tiếp nối của những gì được thực hiện tại Huế.
Marianne Brown
Viết cho BBC từ Hà Nội
Cập nhật: 15:40 GMT - thứ hai, 23 tháng 6, 2014
Cuốn truyện sẽ chẳng phải là điều gì khác thường
ở châu Âu hay châu Mỹ nhưng tại Việt Nam, nơi ngành truyện tranh còn
đang trong trứng nước, đây là điều lạ thường.
Chuyện kể về một vị tướng đã đanh thắng quân Nguyên Mông hồi Thế kỷ 13.
Một trong các tác giả, ông Nguyễn Thanh Phong,
28 tuổi, nói ông muốn mang lại cho độc giả một phần cuộc sống trong bối
cảnh lịch sử thay vì cốt truyện giả tưởng hay hành động thường thấy dành
cho trẻ em.
"Chúng tôi muốn có thứ liên quan tới cuộc sống của chúng tôi," ông nói.
'Thách thức khốc liệt'
Nhiều nghệ sỹ như ông Phong đang tham gia viết truyện tranh nội địa.
Nhưng đây là một thách thức ở nơi mà truyện tranh Nhật Bản thống lĩnh và người đọc chủ yếu vẫn là trẻ em.
Ở Đông Nam Á, "đa số lớn lên với những truyện
tranh như Archie, Asterix, Tin Tin và Lão Phu Tử nhưng phần lớn không
đọc truyện tranh sau giai đoạn đó," nghệ sỹ truyện tranh từng được giải
thưởng đang sống ở Singapore Sonny Liew, tổng biên tập của Liquid City,
hợp tuyển nghệ thuật truyện tranh Đông Nam Á.
"Người ta có xu hướng xem chuyện tranh thuộc
diện các siêu anh hùng và truyện tranh cho trẻ nhỏ chứ không phải là thứ
cho người lớn," ông Liew nói.
Hầu hết các truyện tranh được sản xuất trong
vùng, bao gồm cả Việt Nam, có chất lượng thấp hơn truyện nhập khẩu vốn
có thể dễ dàng bị sao chép và bán với giá rẻ.
"Một phần của vấn đề là cơ sở hạ tầng; thiếu sự
hỗ trợ về nội dung hay là xưởng vẽ nơi các tác giả có thể học nghề," ông
Liew nói.
"Nếu so với Nhật Bản thì họ có những biên tập viên và tác giả có kinh nghiệm để hướng dẫn những người trẻ hơn."
Hơn nữa các nghệ sỹ truyện tranh Việt Nam thường
vẫn phải đối mặt với những "thách thức khốc liệt" trong đó có sự thiếu
thốn do chiến tranh gây ra và sự kiểm soát chặt chẽ của Đảng Cộng sản,
theo cây viết John A Lent, tác giả của cuốn Southeast Asian Cartoon Art:
History, Trends and Problems (Nghệ thuật Hoạt họa Đông Nam Á: Lịch sử,
Xu hướng và Vấn đề).
Mặc dù truyện tranh nở rộ ở miền nam Việt Nam
trong những năm 1960, kiểm duyệt trở nên chặt chẽ hơn sau khi đất nước
thống nhất dưới quyền của Đảng Cộng sản hồi năm 1975.
Việt Nam cũng vô cùng nghèo khó.
"Một vài trong số họ [nghệ sỹ truyện tranh] tiếp
tục [sáng tác] sau chiến tranh nhưng không có thị trường," theo ông Đỗ
Hữu Chí, nghệ sỹ minh họa và người đã viết về lịch sử truyện tranh Việt
Nam.
"Ai cũng lo đến chuyện ăn gì, sống ở đâu nên không còn thời giờ để tiêu khiển nữa."
'Thế hệ Manga'
Nhưng mọi chuyện bắt đầu thay đổi ở Việt Nam từ
cuối thập niên 1980 với sự mở cửa của Việt Nam thông qua hàng loạt cải
cách kinh tế.
Nhưng một số truyện tranh Việt Nam đã nhanh chóng bị loạt truyện Doraemon qua mặt khi xuất hiện vào năm 1992.
Cả ông Chí và ông Phong đều thuộc "thế hệ manga" vốn lớn lên với Doraemon, theo lời ông Phong.
Ông Chí, vốn xuất bản với bút danh Bút Chì, đang chuẩn bị cho ra mắt bộ truyện tranh ở Hoa Kỳ và sau đó sẽ xuất bản ở Việt Nam.
"Tôi không cho rằng người Việt Nam chưa sẵn sàng
bỏ tiền ra để mua sách gốc," ông nói. Nhưng ông cho rằng dự án của ông
Phong sẽ góp phần mang lại thay đổi.
Ông Phong và bạn học Nguyễn Khánh Dương xuất bản
Long Thần Tướng lần đầu trên một tạp chí hồi năm 2004 nhưng tạp chí này
đã ngưng loạt truyện tranh vì vấn đề tài chính.
Lần này ông Phong nhắm vào các độc giả khác. Ông
tin rằng những người lớn lên với truyện tranh như ông đã sẵn sàng đọc
những gì chín chắn hơn.
"Mười năm trước chúng tôi viết cho độc giả tuổi từ 13, 14 trở lên nhưng không già hơn 20," ông nói.
"Giờ chúng tôi muốn nhắm tới độc giả già hơn."
Nhưng kiểm duyệt vẫn là vấn đề không phải lạ lùng gì với ông. Hồi năm 2011 ông Phong được truyền thông quốc tế nhắc tới khi truyện tranh 'Sát thủ đầu mưng mủ' của ông bị cấm vì dùng ngôn ngữ "phản cảm".
Quyên tiền qua gọi vốn qua mạng sẽ tránh được
việc phải xin phép - và do vậy [tránh được] các vấn đề với những người
kiểm duyệt - nhưng ông Phong nói nhóm của ông vẫn có thể cần tới nhà
xuất bản để phân phối sách.
Khó có khả năng truyện tranh về nhân vật anh
hùng khả kính trong lịch sử sẽ là vấn đề với chính quyền nhưng điều đó
còn phụ thuộc và chuyện ông và nhóm sáng tác sẽ viết chuyện thế nào.
Uy tín của ông cũng đồng nghĩa với việc [độc giả] đặt nhiều mong đợi.
"Tôi nghĩ rằng dự án gọi vốn qua mạng sẽ là bước
khởi đầu rất tốt cho một kỷ nguyên mới. Không chỉ cho truyện tranh mà
còn cả sách minh họa, sách tranh và các loại nghệ thuật hài hước khác,"
nghệ sỹ Đỗ Hữu Chí nói.
"Chúng tôi có những nghệ sỹ giỏi và họ sẽ xuất
bản trong nhiều năm tới, ngay cả trong năm nay. Chúng tôi sẽ có khu vườn
mùa xuân và hoa mới vừa nở."
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2014/06/140623_vietnam_comic.shtml
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2014/06/140623_vietnam_comic.shtml
VĂN HÓA & XÃ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY
Quán ăn hai ngàn đồng : Lòng nhân ái vẫn như mạch nước ngầm
Ông John Kelly, tình nguyện viên người Mỹ nguyên là giám đốc bưu điện, đang phục vụ tại một quán Nụ Cười ở Saigon.
DR
Trong xã hội vẫn còn những tấm lòng, thậm chí như mạch nước
ngầm. Nếu mình khai đúng mạch thì sẽ tuôn chảy, thành thác, thành sông.
Cho nên gần hai năm rồi, mà quán tôi vẫn còn và sắp sửa mở mấy quán nữa,
thành thử có được niềm tin vào lòng nhân ái của con người...Những hôm
Ngày Thứ Năm Hạnh Phúc, mình bán bún bò, hủ tiếu, phở… một ngàn đồng
một tô. Có những gia đình bà vợ lượm ve chai, ông chồng chạy xe ôm chở
hai đứa con lại, đem theo 8 ngàn đồng mua 8 tô phở, họ nói là trong đời
chưa bao giờ cả gia đình đi ăn phở...
Hai ngàn đồng Việt Nam, món tiền lẻ nhiều khi không đủ để gởi
xe, nhưng cũng đủ cho một bữa cơm tươm tất, sạch sẽ nơi các quán mang
tên Nụ Cười ở Saigon. Với số tiền nhỏ bé này, người nghèo khi bước vào
các quán cơm từ thiện trên được phục vụ cơm trưa có ba món đầy đủ chất
dinh dưỡng cùng với món tráng miệng.
Giá trị thật của bữa ăn là từ 15 đến 20 ngàn đồng, nhưng được bán với giá hai ngàn đồng thay vì cho không để tôn trọng những người nghèo khổ nhưng giàu lòng tự trọng : họ bỏ tiền ra mua, chứ không phải đi xin. Bên cạnh đó cứ mỗi tuần vào ngày thứ Năm lại có bán những món nước như bún bò, phở…là những món xa xỉ đối với nhiều người lao động, chỉ với giá một ngàn đồng.
Bà Quỳnh Đông, nguyên là thành viên hội đồng biên tập báo Phụ Nữ Thành phố Hồ Chí Minh, hiện là người phụ trách quán Nụ Cười 2 giải thích về ý tưởng ban đầu của nhà báo Nam Đồng, người sáng lập hệ thống các quán Nụ Cười :
Thật ra anh Năm (Nam Đồng) có cái ý tưởng này lâu lắm rồi, vì thời xưa thời còn là sinh viên hồi trước giải phóng, anh cũng đã từng ăn những quán cơm như vậy. Vì vậy cho nên sau giải phóng, anh cùng với một số người như ông Mười Thôn, giám đốc Sở Tư pháp có ý định là sau này về hưu thì sẽ mở - không chỉ tính chuyện quán cơm, mà còn nghĩ đến việc mở phòng khám miễn phí, giống như nhà thương thí hồi xưa.
Nhưng khả năng huy động để mở ra được một nhà thương miễn phí như vậy thì quá trời tiền, to tát quá nên chưa được. Vì vậy cho nên mới có ý định mở quán cơm từ thiện, hai ngàn đồng thôi.
Khi nói ý tưởng đó với anh Chính bên công ty Sơn Ca, cũng là người rất quan tâm tới công tác xã hội, tới người nghèo, anh đã hưởng ứng rất tích cực. Anh Chính có một công ty truyền thông, anh em làm ngoài giờ để dành được 400 triệu, lấy số tiền đó để mở ra hoạt động lúc đầu, trong khi anh Năm vẫn tiếp tục đi xin giấy phép hoạt động. Anh xin bạn bè, rồi nhiều người khác ủng hộ…chắc cũng may là anh sống cũng liêm khiết, có uy tín nên người ta hỗ trợ tích cực.
Số tiền mà công ty Sơn Ca định nếu không vận động được tốt thì họ sẽ yểm trợ tạm thời để sống qua ngày. Nhưng từ đó tới bây giờ không phải đụng đến số tiền đó, mà từ một quán thành lập vào tháng 8/2012, đã có được năm quán rồi.
Nhà báo Nam Đồng, nguyên là Phó tổng biên tập báo Tuổi Trẻ rồi Tổng biên tập báo Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh, cho biết thêm cụ thể :
Giá thành (mỗi phần ăn) là 15 ngàn, đó là không tính công lao động, vì tất cả đều làm không lương, bán 2 ngàn thì bù lỗ13 ngàn. Hiện giờ ở thành phố này có năm quán, ở Quảng Ngãi có một quán nữa là sáu quán, mà mỗi ngày có quán bán 400, có quán bán 500 phần. Nhân số tiền bù lỗ lên thì ít nhất mỗi tháng hệ thống năm quán ở Saigon này phải khoảng nửa tỉ.
Thế số tiền nửa tỉ ở đâu ra ? Ban đầu một số anh em đóng góp lại trong Quỹ từ thiện Tình Thương để làm vốn khởi đầu nộp cho Nhà nước. Muốn làm một quỹ từ thiện NGO ở đây, trước đây là phải có nửa tỉ, bây giờ tỉ rưỡi, hai tỉ, đó là tiền ký quỹ. Tất nhiên Nhà nước không có lấy, nhưng mà Nhà nước bắt đóng, theo luật lệ thì mỗi năm phải tiêu hết số tiền ấy.
Ban đầu lấy tiền đó ra, nhưng sau khi quán hình thành rồi thì mọi người góp lại cho, người cho gạo, cho rau, cho gia vị, người đưa tiền. Đúng là lòng nhân ái, từ thiện của người dân rất rộng lớn, rất là mạnh mẽ. Cho nên tháng 10 năm nay là được hai năm kể từ khi quán số 1 ra đời, hình như chưa bao giờ phải thiếu hụt cả, mà vấn đề là phải lo lâu dài. Có quán hông đủ, nhưng mà bù qua sớt lại thì đủ.
Lâu nay người ta chỉ biết đến các quán Nụ Cười ở Saigon, nay lại mở thêm ở miền Trung ?
Khai trương vào ngày 20 tháng Ba năm 2014, lấy tên là Nụ Cười Sông Trà - Sông Trà là Trà Khúc đó.
Quán ở Quảng Ngãi xa xôi, liệu có được nhiều mạnh thường quân như ở Saigon không thưa ông ?
Ôi chao ôi, mấy « đại gia » Quảng Ngãi nhiều lắm, hoặc là người Quảng Ngãi làm ăn ở nơi khác, hoặc là nhân dân ở đó đóng góp : tiểu thương, người lao động…Người nghèo thì góp ít, mà mình chủ trương là không đi xin ai, tự động người ta nghe người ta tới góp. Mà hay lắm, sự đóng góp là của mọi người đủ thành phần hết.
Thưa ông, các quán Nụ Cười tồn tại được hai năm rồi, có lẽ là rất nhiều chuyện vui buồn ?
Gần hai năm hình thành, biết bao nhiêu chuyện. Chuyện buồn nói chung là ít, nhưng mà chuyện vui thì nhiều. Ví dụ có đứa bé cỡ 11 tuổi đến xin làm tình nguyện viên. Tôi hỏi cháu biết làm gì, rửa chén được hông, nó nói được ; lau bàn, bưng bê thức ăn cho khách được hông, trả lời được. Tôi hỏi bà mẹ, cháu có làm được không chị, chị có đồng ý cho làm không. Bà nói đó là một cách để tôi dạy cho nó hiểu biết về cuộc sống. Tôi thử biểu lau bàn, trời ơi cháu lau rất kỹ, lau hết chân bàn, chân ghế…
Một bà đi làm « ô-sin » theo giờ, đem lại góp một chai nước tương. Tôi hỏi sao chị có chai nước tương mà đem lại. Trả lời tôi đi làm ô-sin buổi sáng từ 6 giờ rưỡi cho tới 11 giờ, tới đây ăn thấy bà con như vậy tôi muốn góp một chút, góp chai nước tương 23 ngàn. Rất là dễ thương.
Rồi có bà bán vé số đi xe lăn, ăn rồi nói tôi không có gì để góp hết, thôi cho tôi góp hai tờ vé số, coi như tôi đóng cho quán. Thế mà hai tờ vé số đó chiều xổ trúng mỗi tờ 100 ngàn đồng, hai tờ 200 ngàn, trúng an ủi. Ghi lên mạng là người bán vé số ủng hộ hai vé, giờ đã trúng, đưa vô quỹ.
Có những hôm thứ Năm, gọi là Ngày Thứ Năm Hạnh Phúc, mình bán bún bò, hủ tiếu, phở… một ngàn đồng một tô. Có những gia đình bà vợ lượm ve chai, ông chồng chạy xe ôm chở hai đứa con lại, đem theo 8 ngàn đồng. Bốn người ngồi một góc, đem ra 8 tô phở, họ nói là trong đời chưa bao giờ cả gia đình đi ăn phở. Cần nhớ là phở mình bán 1 ngàn đồng là phở ngon bằng 30 ngàn ở ngoài.
Còn nhiều, nhiều lắm…Người nước ngoài đến, rồi mình đem tới cho những người khuyết tật, ốm đau, già cả…Có ông Mỹ đi tới đây, về Mỹ rồi một thời gian trở qua lại. Ban đầu là du lịch, nhưng thấy hay lại bị thuyết phục ở lại tham gia hai tháng xong rồi về Mỹ, lại trở qua hai tháng nữa và bây giờ về viết thư nói là Tết này ổng sẽ qua. Ông đó tên là John Kelly, ở San Jose, Cali.
Khách thường xuyên có lẽ đa số là người lao động ?
À, có thống kê, có đi tìm hiều - một cách xác suất nhưng tỉ lệ, cơ cấu này không thay đổi lắm, chỉ thay đổi vài phần trăm ở quán này, quán kia thôi. Đa số khoảng 25% là bán vé số, 30% là ve chai, 20% là xe ôm, 20% là những người mua bán linh tinh – có những người ở miền Trung vô, đeo một cái khung gỗ to mỗi bề cỡ thước, thước rưỡi, trên đó treo móc khóa, chìa khóa, bông ráy tai v.v…Rồi học sinh sinh viên, có nơi vào khoảng 20% nữa.
Có một vấn đề mà người ta hay e ngại, đó là sự lợi dụng. Tức là những người trung lưu trở lên, họ lại ăn. Tại vì ăn ở đây tuyệt đối sạch sẽ, nguyên liệu đều có nguồn gốc hết, và chỗ ngồi cũng bật quạt mát mẻ, ly uống nước dùng một lần rồi vứt ; cho nên có người nghĩ vậy thì sẽ bị lợi dụng chăng.
Ban đầu tôi cũng lo vậy, nhưng thực tế số đó có tuy nhiên rất ít, chưa tới 5%. Làm sao tôi biết được con số đó ? Có rất nhiều bữa tôi đếm thử số người, xem những ai đi giày và ăn mặc tươm tất, thì đếm được mỗi bữa chưa tới bảy, tám người, nghĩa là chưa tới 5%. Nhưng mà trong số đó có người đi ăn vì tò mò, họ muốn coi thử có thật như báo đăng không. Và ăn xong rồi họ ra đóng gấp mấy trăm lần số tiền hai ngàn đồng một bữa. Có người đóng một triệu, 500 ngàn, vài triệu v.v…
Nhưng cũng có vài trường hợp – mà đây là số rất ít và bây giờ đã chấm dứt rồi, như ở quán số 6 dưới Thủ Đức. Có một cơ sở sản xuất bìa kẹp giấy để làm sơ-mi, họ thuê công nhân bao ăn trưa. Nhưng từ khi quán mình mở ra gần đó, họ đưa hết công nhân tới đó ăn. Sau hai tuần tôi phát hiện ra, lại nói với ông giám đốc, sau đó thì chấm dứt. Nếu nói chuyện buồn thì chỉ có một chuyện duy nhất đó thôi, còn chuyện vui nhiều lắm và chuyện xúc động cũng nhiều lắm.
Như ông có nói, thỉnh thoảng cũng có những tình nguyện viên là người nước ngoài ?
Có những người khách nước ngoài đi du lịch để làm thiện nguyện, thế là họ đăng ký với một công ty ở Thái Lan, công ty này móc ráp với chúng tôi. Họ đưa người tới để làm thiện nguyện, mỗi bữa bốn năm người hoặc năm sáu người, đủ quốc tịch hết, thường là lớp trẻ. Người ta tới Nụ Cười 1, 2 hay 3,4, tháng nào cũng có. Rồi có những người đi du lịch tới đây thấy vậy nhảy vào làm, tất cả mình đều nhận hết.
Mà những người đó có đặc tính như thế này : làm việc hết sức nghiêm túc, lúc nào cũng tới đúng giờ, làm rất chăm chỉ và đặc biệt lúc nào cũng vui tươi, nở nụ cười.
Ông John Kelly là một ví dụ, có một chuyện xúc động về ông. Vô đó là phải đeo khẩu trang hết và phải mặc đồng phục. Một hôm ông hỏi tôi là cho ông cởi khẩu trang ra được không. Tôi hỏi tại nóng quá hay sao, ông nói không phải. Tại vì mấy người ăn ở đây họ cười với ổng, cho nên ông muốn cởi khẩu trang ra để cười lại với người ta.
Còn tình nguyện viên người Việt thì sao ?
Tình nguyện viên 70% là sinh viên các trường đại học, 30% còn lại gồm đủ thành phần : công chức, các bà nội trợ, những người làm ngành y…nhưng phần lớn là nội trợ. Họ làm việc, nói chung là về tình nguyện viên tôi chưa phải chê ai hết.
Có lẽ là do họ làm việc vì tự giác chứ không vì động cơ nào khác ngoài động cơ mong muốn phục vụ người nghèo, cho nên thái độ phục vụ rất tốt. Có những người làm việc cả năm rồi nhưng ngày nào cũng tới đúng giờ. Không có lương bổng gì hết, chỉ có điều ai tình nguyện thì 10 giờ rưỡi ăn cơm trưa tại chỗ, vậy thôi.
Hồi trước năm 1975 có quán cơm xã hội bán giá rẻ cho người nghèo. Các « quán cơm hai ngàn đồng » mới xuất hiện một hai năm gần đây nhưng cũng đã được ủng hộ, có lẽ cũng khiến người ta còn có được một ít hy vọng vào xã hội hiện nay – mà lâu nay vẫn bị phê phán về tính thực dụng, vô cảm…
Trước năm 1975 có những quán cơm xã hội, hồi đó bán 5 đồng hay 10 đồng tôi không nhớ rõ nhưng rất rẻ. Có điều là chính quyền Saigon cũ « tàn ác, bóc lột » bằng cách là cung cấp gạo ! Gạo thì Bộ Xã hội thời đó cho không, còn những người hảo tâm đứng ra tổ chức thì họ lấy rau, mắm muối, củ cải…từ các chợ, tiểu thương cho chẳng hạn. Còn bây giờ rất là « ưu việt », nghĩa là tôi đi xin cái giấy phép để mở quán ba tháng mà chưa xong. Hiện nay có mấy quán đương thương thảo thuế.
Tôi nói với cô, tình hình không đến nỗi bi quan. Tất nhiên có một số đối tượng phần nào đó họ vô cảm, không quan tâm đến người nghèo, không có lòng nhân ái. Nhưng đa số vẫn còn tấm lòng, thậm chí như mạch nước ngầm. Nếu mình khai đúng mạch thì sẽ tuôn chảy, thành thác, thành sông. Cho nên cô thấy gần hai năm rồi, mà quán tôi vẫn còn và sắp sửa mở mấy quán nữa, thành thử có được niềm tin vào lòng nhân ái của con người.
Có một điều lạ như thế này : tôi định mở ở Hà Nội nhưng không được – hồi đó đã tính hết rồi. Có ba nguyên nhân, tôi không phân biệt Bắc Nam theo nghĩa cực đoan đâu, nhưng do quá trình lịch sử xã hội hình thành nên như thế này. Tức là lòng nhân ái và ý thức công tác xã hội ở miền Bắc hiếm hơn, ít hơn miền Nam nhiều, bởi vì ba lý do.
Rất nhiều năm trong cái xã hội gọi là « xã hội chủ nghĩa » đó, mọi thứ người ta đều quan niệm là Nhà nước bao cấp lo hết. Tất cả những chuyện đó không phải chuyện của dân, cho nên họ không có thói quen làm. Thứ hai là niềm tin của họ đối với các tổ chức làm công tác xã hội không có. Họ nói, góp cái gì cho nó là nó ăn hết !
Còn ở miền Nam từ lịch sử, quá trình xây dựng xã hội Nam bộ - nói chung từ những lưu dân, họ phải câu kết lại với nhau, giúp đỡ lẫn nhau từ hồi xưa khi mới hình thành. Rồi qua nhiều năm tháng, ý thức về lòng nhân ái, quan tâm tới người khác, giúp đỡ, đã thành thói quen tự nhiên. Thêm nữa, người Nam bộ là người bộc trực, thẳng thắn, thấy chuyện gì phải thì làm ngay.
Cho nên thấy rõ nhất là mỗi lần bão lụt ở miền Trung – tôi đã đi làm công tác này nhiều năm, ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Ngãi, Bình Định, Tây Nguyên…Mỗi lần thiên tai như thế là ùn ùn hàng trăm, hàng ngàn chiếc xe mang biển số miền Nam hết. Từ đoàn Phật tử, đoàn tiểu thương chợ An Đông, chợ Cầu Ông Lãnh, chợ Cầu Muối, đoàn công tác xã hội của Thiên Chúa giáo…đủ hết, nhưng nhìn cái bảng số xe thì biết, không có bảng số xe nào của miền Bắc chở vô hết.
Điều đó, tôi đã suy nghĩ vì cái gì ? Thì những cái hồi nãy tôi nói đó. Cho nên niềm tin vào con người, sự quan tâm, lòng nhân ái… thì không nên thất vọng. Riêng tôi thì tôi rất tin, qua thực tiễn đã gần hai năm rồi và sắp tới còn làm nữa đây.
Nhưng nói với cô điều ấy, tôi cũng hơi ngại ngùng một chút. Bởi vì nếu mà cô đăng báo cô nên viết sao đó, chứ không thôi người ta nói dư quá rồi, hổng giúp đỡ nữa, thì quán phải đóng cửa !
Nhưng thưa ông, ngược lại nhiều người vẫn sợ rằng những quán cơm từ thiện không duy trì được bao lâu…
Thì ráng thôi, nhưng mà duy trì tốt. Cô biết, mỗi ngày như thế một quán ít nhất mất cũng hơn 5 triệu, nếu tính đủ vô thì 6 triệu mỗi quán. Mỗi một người khách vô ăn là coi như quán mất 13 ngàn đồng. Còn riêng Ngày Thứ Năm Hạnh Phúc, thì mất khoảng 17 ngàn, vì ngày đó là ngày « hạnh phúc », tức là ngày phở, bún, mì quảng, hủ tiếu…giá đều 1 ngàn đồng.
Nói chung hễ có khách bước vào là thấy « lỗ lã » ngay phải không ạ ?
Tất nhiên. Mục đích của mình mở ra là để « lỗ » mà. Thành ra theo thói quen người ta hỏi, sao, bữa nay quán đông khách không, mình cười, « mừng » là ít khách, nhiều khách thì càng tốn tiền.
Nói thì nói vậy, nhưng bây giờ chỉ có quán Nụ Cười 6 ở Thủ Đức, không ai giúp đỡ gì thì đáng lo thôi, nhưng cũng san sẻ qua lại được. Do một là ở trong hẻm ít người biết, hai là khu vực đó là khu xóm lao động, ba nữa là truyền thông ít ai nói tới, tìm cũng khó.
Dù số tiền tiết kiệm được khi ăn trưa ở các quán Nụ Cười không lớn, nhưng đối với người nghèo chạy ăn từng bữa, có lẽ cũng giúp được phần nào cho họ ?
Một bà bán ve chai thường xuyên ăn ở đó cả năm rồi, có bữa tôi hỏi, mấy bữa bình thường không có quán này chị ăn ở đâu. Bả nói ăn ở ngoài, cơm bình dân rẻ nhất là 15 ngàn, nhưng mà hổng ngon, hổng sạch sẽ bằng ở đây. Rồi dư ra tôi bỏ ống hết, mỗi ngày tôi bỏ 13 ngàn. Ông chồng tôi cũng ăn ở đây, cũng bỏ vô (bà đó quê ở Phú Yên). Trong vòng sáu tháng qua, toàn bộ học phí của con tôi học đại học từ tiền tiết kiệm được ở quán ăn này mà ra.
Rồi một bà khác ở Đồng Tháp nói phải vay nóng người ta, cứ kéo dây dưa và phải trả lãi, trả chậm lãi lại chồng lên. Bây giờ từ hồi ăn ở đây là bả trả được hết nợ, cứ hàng tuần bà để ra trả góp, nên hết được nợ.
Xin chân thành cảm ơn các nhà báo Nam Đồng và Quỳnh Đông ở Saigon đã vui lòng tham gia tạp chí xã hội hôm nay của RFI Việt ngữ.
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20140625-quan-an-hai-ngan-dong-long-nhan-ai-van-nhu-mach-nuoc-ngam
Giá trị thật của bữa ăn là từ 15 đến 20 ngàn đồng, nhưng được bán với giá hai ngàn đồng thay vì cho không để tôn trọng những người nghèo khổ nhưng giàu lòng tự trọng : họ bỏ tiền ra mua, chứ không phải đi xin. Bên cạnh đó cứ mỗi tuần vào ngày thứ Năm lại có bán những món nước như bún bò, phở…là những món xa xỉ đối với nhiều người lao động, chỉ với giá một ngàn đồng.
Bà Quỳnh Đông, nguyên là thành viên hội đồng biên tập báo Phụ Nữ Thành phố Hồ Chí Minh, hiện là người phụ trách quán Nụ Cười 2 giải thích về ý tưởng ban đầu của nhà báo Nam Đồng, người sáng lập hệ thống các quán Nụ Cười :
Thật ra anh Năm (Nam Đồng) có cái ý tưởng này lâu lắm rồi, vì thời xưa thời còn là sinh viên hồi trước giải phóng, anh cũng đã từng ăn những quán cơm như vậy. Vì vậy cho nên sau giải phóng, anh cùng với một số người như ông Mười Thôn, giám đốc Sở Tư pháp có ý định là sau này về hưu thì sẽ mở - không chỉ tính chuyện quán cơm, mà còn nghĩ đến việc mở phòng khám miễn phí, giống như nhà thương thí hồi xưa.
Nhưng khả năng huy động để mở ra được một nhà thương miễn phí như vậy thì quá trời tiền, to tát quá nên chưa được. Vì vậy cho nên mới có ý định mở quán cơm từ thiện, hai ngàn đồng thôi.
Khi nói ý tưởng đó với anh Chính bên công ty Sơn Ca, cũng là người rất quan tâm tới công tác xã hội, tới người nghèo, anh đã hưởng ứng rất tích cực. Anh Chính có một công ty truyền thông, anh em làm ngoài giờ để dành được 400 triệu, lấy số tiền đó để mở ra hoạt động lúc đầu, trong khi anh Năm vẫn tiếp tục đi xin giấy phép hoạt động. Anh xin bạn bè, rồi nhiều người khác ủng hộ…chắc cũng may là anh sống cũng liêm khiết, có uy tín nên người ta hỗ trợ tích cực.
Số tiền mà công ty Sơn Ca định nếu không vận động được tốt thì họ sẽ yểm trợ tạm thời để sống qua ngày. Nhưng từ đó tới bây giờ không phải đụng đến số tiền đó, mà từ một quán thành lập vào tháng 8/2012, đã có được năm quán rồi.
Nhà báo Nam Đồng, nguyên là Phó tổng biên tập báo Tuổi Trẻ rồi Tổng biên tập báo Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh, cho biết thêm cụ thể :
Giá thành (mỗi phần ăn) là 15 ngàn, đó là không tính công lao động, vì tất cả đều làm không lương, bán 2 ngàn thì bù lỗ13 ngàn. Hiện giờ ở thành phố này có năm quán, ở Quảng Ngãi có một quán nữa là sáu quán, mà mỗi ngày có quán bán 400, có quán bán 500 phần. Nhân số tiền bù lỗ lên thì ít nhất mỗi tháng hệ thống năm quán ở Saigon này phải khoảng nửa tỉ.
Thế số tiền nửa tỉ ở đâu ra ? Ban đầu một số anh em đóng góp lại trong Quỹ từ thiện Tình Thương để làm vốn khởi đầu nộp cho Nhà nước. Muốn làm một quỹ từ thiện NGO ở đây, trước đây là phải có nửa tỉ, bây giờ tỉ rưỡi, hai tỉ, đó là tiền ký quỹ. Tất nhiên Nhà nước không có lấy, nhưng mà Nhà nước bắt đóng, theo luật lệ thì mỗi năm phải tiêu hết số tiền ấy.
Ban đầu lấy tiền đó ra, nhưng sau khi quán hình thành rồi thì mọi người góp lại cho, người cho gạo, cho rau, cho gia vị, người đưa tiền. Đúng là lòng nhân ái, từ thiện của người dân rất rộng lớn, rất là mạnh mẽ. Cho nên tháng 10 năm nay là được hai năm kể từ khi quán số 1 ra đời, hình như chưa bao giờ phải thiếu hụt cả, mà vấn đề là phải lo lâu dài. Có quán hông đủ, nhưng mà bù qua sớt lại thì đủ.
Lâu nay người ta chỉ biết đến các quán Nụ Cười ở Saigon, nay lại mở thêm ở miền Trung ?
Khai trương vào ngày 20 tháng Ba năm 2014, lấy tên là Nụ Cười Sông Trà - Sông Trà là Trà Khúc đó.
Quán ở Quảng Ngãi xa xôi, liệu có được nhiều mạnh thường quân như ở Saigon không thưa ông ?
Ôi chao ôi, mấy « đại gia » Quảng Ngãi nhiều lắm, hoặc là người Quảng Ngãi làm ăn ở nơi khác, hoặc là nhân dân ở đó đóng góp : tiểu thương, người lao động…Người nghèo thì góp ít, mà mình chủ trương là không đi xin ai, tự động người ta nghe người ta tới góp. Mà hay lắm, sự đóng góp là của mọi người đủ thành phần hết.
Thưa ông, các quán Nụ Cười tồn tại được hai năm rồi, có lẽ là rất nhiều chuyện vui buồn ?
Gần hai năm hình thành, biết bao nhiêu chuyện. Chuyện buồn nói chung là ít, nhưng mà chuyện vui thì nhiều. Ví dụ có đứa bé cỡ 11 tuổi đến xin làm tình nguyện viên. Tôi hỏi cháu biết làm gì, rửa chén được hông, nó nói được ; lau bàn, bưng bê thức ăn cho khách được hông, trả lời được. Tôi hỏi bà mẹ, cháu có làm được không chị, chị có đồng ý cho làm không. Bà nói đó là một cách để tôi dạy cho nó hiểu biết về cuộc sống. Tôi thử biểu lau bàn, trời ơi cháu lau rất kỹ, lau hết chân bàn, chân ghế…
Một bà đi làm « ô-sin » theo giờ, đem lại góp một chai nước tương. Tôi hỏi sao chị có chai nước tương mà đem lại. Trả lời tôi đi làm ô-sin buổi sáng từ 6 giờ rưỡi cho tới 11 giờ, tới đây ăn thấy bà con như vậy tôi muốn góp một chút, góp chai nước tương 23 ngàn. Rất là dễ thương.
Rồi có bà bán vé số đi xe lăn, ăn rồi nói tôi không có gì để góp hết, thôi cho tôi góp hai tờ vé số, coi như tôi đóng cho quán. Thế mà hai tờ vé số đó chiều xổ trúng mỗi tờ 100 ngàn đồng, hai tờ 200 ngàn, trúng an ủi. Ghi lên mạng là người bán vé số ủng hộ hai vé, giờ đã trúng, đưa vô quỹ.
Có những hôm thứ Năm, gọi là Ngày Thứ Năm Hạnh Phúc, mình bán bún bò, hủ tiếu, phở… một ngàn đồng một tô. Có những gia đình bà vợ lượm ve chai, ông chồng chạy xe ôm chở hai đứa con lại, đem theo 8 ngàn đồng. Bốn người ngồi một góc, đem ra 8 tô phở, họ nói là trong đời chưa bao giờ cả gia đình đi ăn phở. Cần nhớ là phở mình bán 1 ngàn đồng là phở ngon bằng 30 ngàn ở ngoài.
Còn nhiều, nhiều lắm…Người nước ngoài đến, rồi mình đem tới cho những người khuyết tật, ốm đau, già cả…Có ông Mỹ đi tới đây, về Mỹ rồi một thời gian trở qua lại. Ban đầu là du lịch, nhưng thấy hay lại bị thuyết phục ở lại tham gia hai tháng xong rồi về Mỹ, lại trở qua hai tháng nữa và bây giờ về viết thư nói là Tết này ổng sẽ qua. Ông đó tên là John Kelly, ở San Jose, Cali.
Khách thường xuyên có lẽ đa số là người lao động ?
À, có thống kê, có đi tìm hiều - một cách xác suất nhưng tỉ lệ, cơ cấu này không thay đổi lắm, chỉ thay đổi vài phần trăm ở quán này, quán kia thôi. Đa số khoảng 25% là bán vé số, 30% là ve chai, 20% là xe ôm, 20% là những người mua bán linh tinh – có những người ở miền Trung vô, đeo một cái khung gỗ to mỗi bề cỡ thước, thước rưỡi, trên đó treo móc khóa, chìa khóa, bông ráy tai v.v…Rồi học sinh sinh viên, có nơi vào khoảng 20% nữa.
Có một vấn đề mà người ta hay e ngại, đó là sự lợi dụng. Tức là những người trung lưu trở lên, họ lại ăn. Tại vì ăn ở đây tuyệt đối sạch sẽ, nguyên liệu đều có nguồn gốc hết, và chỗ ngồi cũng bật quạt mát mẻ, ly uống nước dùng một lần rồi vứt ; cho nên có người nghĩ vậy thì sẽ bị lợi dụng chăng.
Ban đầu tôi cũng lo vậy, nhưng thực tế số đó có tuy nhiên rất ít, chưa tới 5%. Làm sao tôi biết được con số đó ? Có rất nhiều bữa tôi đếm thử số người, xem những ai đi giày và ăn mặc tươm tất, thì đếm được mỗi bữa chưa tới bảy, tám người, nghĩa là chưa tới 5%. Nhưng mà trong số đó có người đi ăn vì tò mò, họ muốn coi thử có thật như báo đăng không. Và ăn xong rồi họ ra đóng gấp mấy trăm lần số tiền hai ngàn đồng một bữa. Có người đóng một triệu, 500 ngàn, vài triệu v.v…
Nhưng cũng có vài trường hợp – mà đây là số rất ít và bây giờ đã chấm dứt rồi, như ở quán số 6 dưới Thủ Đức. Có một cơ sở sản xuất bìa kẹp giấy để làm sơ-mi, họ thuê công nhân bao ăn trưa. Nhưng từ khi quán mình mở ra gần đó, họ đưa hết công nhân tới đó ăn. Sau hai tuần tôi phát hiện ra, lại nói với ông giám đốc, sau đó thì chấm dứt. Nếu nói chuyện buồn thì chỉ có một chuyện duy nhất đó thôi, còn chuyện vui nhiều lắm và chuyện xúc động cũng nhiều lắm.
Như ông có nói, thỉnh thoảng cũng có những tình nguyện viên là người nước ngoài ?
Có những người khách nước ngoài đi du lịch để làm thiện nguyện, thế là họ đăng ký với một công ty ở Thái Lan, công ty này móc ráp với chúng tôi. Họ đưa người tới để làm thiện nguyện, mỗi bữa bốn năm người hoặc năm sáu người, đủ quốc tịch hết, thường là lớp trẻ. Người ta tới Nụ Cười 1, 2 hay 3,4, tháng nào cũng có. Rồi có những người đi du lịch tới đây thấy vậy nhảy vào làm, tất cả mình đều nhận hết.
Mà những người đó có đặc tính như thế này : làm việc hết sức nghiêm túc, lúc nào cũng tới đúng giờ, làm rất chăm chỉ và đặc biệt lúc nào cũng vui tươi, nở nụ cười.
Ông John Kelly là một ví dụ, có một chuyện xúc động về ông. Vô đó là phải đeo khẩu trang hết và phải mặc đồng phục. Một hôm ông hỏi tôi là cho ông cởi khẩu trang ra được không. Tôi hỏi tại nóng quá hay sao, ông nói không phải. Tại vì mấy người ăn ở đây họ cười với ổng, cho nên ông muốn cởi khẩu trang ra để cười lại với người ta.
Còn tình nguyện viên người Việt thì sao ?
Tình nguyện viên 70% là sinh viên các trường đại học, 30% còn lại gồm đủ thành phần : công chức, các bà nội trợ, những người làm ngành y…nhưng phần lớn là nội trợ. Họ làm việc, nói chung là về tình nguyện viên tôi chưa phải chê ai hết.
Có lẽ là do họ làm việc vì tự giác chứ không vì động cơ nào khác ngoài động cơ mong muốn phục vụ người nghèo, cho nên thái độ phục vụ rất tốt. Có những người làm việc cả năm rồi nhưng ngày nào cũng tới đúng giờ. Không có lương bổng gì hết, chỉ có điều ai tình nguyện thì 10 giờ rưỡi ăn cơm trưa tại chỗ, vậy thôi.
Hồi trước năm 1975 có quán cơm xã hội bán giá rẻ cho người nghèo. Các « quán cơm hai ngàn đồng » mới xuất hiện một hai năm gần đây nhưng cũng đã được ủng hộ, có lẽ cũng khiến người ta còn có được một ít hy vọng vào xã hội hiện nay – mà lâu nay vẫn bị phê phán về tính thực dụng, vô cảm…
Trước năm 1975 có những quán cơm xã hội, hồi đó bán 5 đồng hay 10 đồng tôi không nhớ rõ nhưng rất rẻ. Có điều là chính quyền Saigon cũ « tàn ác, bóc lột » bằng cách là cung cấp gạo ! Gạo thì Bộ Xã hội thời đó cho không, còn những người hảo tâm đứng ra tổ chức thì họ lấy rau, mắm muối, củ cải…từ các chợ, tiểu thương cho chẳng hạn. Còn bây giờ rất là « ưu việt », nghĩa là tôi đi xin cái giấy phép để mở quán ba tháng mà chưa xong. Hiện nay có mấy quán đương thương thảo thuế.
Tôi nói với cô, tình hình không đến nỗi bi quan. Tất nhiên có một số đối tượng phần nào đó họ vô cảm, không quan tâm đến người nghèo, không có lòng nhân ái. Nhưng đa số vẫn còn tấm lòng, thậm chí như mạch nước ngầm. Nếu mình khai đúng mạch thì sẽ tuôn chảy, thành thác, thành sông. Cho nên cô thấy gần hai năm rồi, mà quán tôi vẫn còn và sắp sửa mở mấy quán nữa, thành thử có được niềm tin vào lòng nhân ái của con người.
Có một điều lạ như thế này : tôi định mở ở Hà Nội nhưng không được – hồi đó đã tính hết rồi. Có ba nguyên nhân, tôi không phân biệt Bắc Nam theo nghĩa cực đoan đâu, nhưng do quá trình lịch sử xã hội hình thành nên như thế này. Tức là lòng nhân ái và ý thức công tác xã hội ở miền Bắc hiếm hơn, ít hơn miền Nam nhiều, bởi vì ba lý do.
Rất nhiều năm trong cái xã hội gọi là « xã hội chủ nghĩa » đó, mọi thứ người ta đều quan niệm là Nhà nước bao cấp lo hết. Tất cả những chuyện đó không phải chuyện của dân, cho nên họ không có thói quen làm. Thứ hai là niềm tin của họ đối với các tổ chức làm công tác xã hội không có. Họ nói, góp cái gì cho nó là nó ăn hết !
Còn ở miền Nam từ lịch sử, quá trình xây dựng xã hội Nam bộ - nói chung từ những lưu dân, họ phải câu kết lại với nhau, giúp đỡ lẫn nhau từ hồi xưa khi mới hình thành. Rồi qua nhiều năm tháng, ý thức về lòng nhân ái, quan tâm tới người khác, giúp đỡ, đã thành thói quen tự nhiên. Thêm nữa, người Nam bộ là người bộc trực, thẳng thắn, thấy chuyện gì phải thì làm ngay.
Cho nên thấy rõ nhất là mỗi lần bão lụt ở miền Trung – tôi đã đi làm công tác này nhiều năm, ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Ngãi, Bình Định, Tây Nguyên…Mỗi lần thiên tai như thế là ùn ùn hàng trăm, hàng ngàn chiếc xe mang biển số miền Nam hết. Từ đoàn Phật tử, đoàn tiểu thương chợ An Đông, chợ Cầu Ông Lãnh, chợ Cầu Muối, đoàn công tác xã hội của Thiên Chúa giáo…đủ hết, nhưng nhìn cái bảng số xe thì biết, không có bảng số xe nào của miền Bắc chở vô hết.
Điều đó, tôi đã suy nghĩ vì cái gì ? Thì những cái hồi nãy tôi nói đó. Cho nên niềm tin vào con người, sự quan tâm, lòng nhân ái… thì không nên thất vọng. Riêng tôi thì tôi rất tin, qua thực tiễn đã gần hai năm rồi và sắp tới còn làm nữa đây.
Nhưng nói với cô điều ấy, tôi cũng hơi ngại ngùng một chút. Bởi vì nếu mà cô đăng báo cô nên viết sao đó, chứ không thôi người ta nói dư quá rồi, hổng giúp đỡ nữa, thì quán phải đóng cửa !
Nhưng thưa ông, ngược lại nhiều người vẫn sợ rằng những quán cơm từ thiện không duy trì được bao lâu…
Thì ráng thôi, nhưng mà duy trì tốt. Cô biết, mỗi ngày như thế một quán ít nhất mất cũng hơn 5 triệu, nếu tính đủ vô thì 6 triệu mỗi quán. Mỗi một người khách vô ăn là coi như quán mất 13 ngàn đồng. Còn riêng Ngày Thứ Năm Hạnh Phúc, thì mất khoảng 17 ngàn, vì ngày đó là ngày « hạnh phúc », tức là ngày phở, bún, mì quảng, hủ tiếu…giá đều 1 ngàn đồng.
Nói chung hễ có khách bước vào là thấy « lỗ lã » ngay phải không ạ ?
Tất nhiên. Mục đích của mình mở ra là để « lỗ » mà. Thành ra theo thói quen người ta hỏi, sao, bữa nay quán đông khách không, mình cười, « mừng » là ít khách, nhiều khách thì càng tốn tiền.
Nói thì nói vậy, nhưng bây giờ chỉ có quán Nụ Cười 6 ở Thủ Đức, không ai giúp đỡ gì thì đáng lo thôi, nhưng cũng san sẻ qua lại được. Do một là ở trong hẻm ít người biết, hai là khu vực đó là khu xóm lao động, ba nữa là truyền thông ít ai nói tới, tìm cũng khó.
Dù số tiền tiết kiệm được khi ăn trưa ở các quán Nụ Cười không lớn, nhưng đối với người nghèo chạy ăn từng bữa, có lẽ cũng giúp được phần nào cho họ ?
Một bà bán ve chai thường xuyên ăn ở đó cả năm rồi, có bữa tôi hỏi, mấy bữa bình thường không có quán này chị ăn ở đâu. Bả nói ăn ở ngoài, cơm bình dân rẻ nhất là 15 ngàn, nhưng mà hổng ngon, hổng sạch sẽ bằng ở đây. Rồi dư ra tôi bỏ ống hết, mỗi ngày tôi bỏ 13 ngàn. Ông chồng tôi cũng ăn ở đây, cũng bỏ vô (bà đó quê ở Phú Yên). Trong vòng sáu tháng qua, toàn bộ học phí của con tôi học đại học từ tiền tiết kiệm được ở quán ăn này mà ra.
Rồi một bà khác ở Đồng Tháp nói phải vay nóng người ta, cứ kéo dây dưa và phải trả lãi, trả chậm lãi lại chồng lên. Bây giờ từ hồi ăn ở đây là bả trả được hết nợ, cứ hàng tuần bà để ra trả góp, nên hết được nợ.
Xin chân thành cảm ơn các nhà báo Nam Đồng và Quỳnh Đông ở Saigon đã vui lòng tham gia tạp chí xã hội hôm nay của RFI Việt ngữ.
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20140625-quan-an-hai-ngan-dong-long-nhan-ai-van-nhu-mach-nuoc-ngam
Hà Nội mùa vắng những cơn mưa
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam
2014-05-26
2014-05-26
“Hà Nội mùa vắng những cơn mưa” cũng là tên một ca khúc của
nhạc sĩ Trương Quí Hải viết về vẻ đẹp Hà Nội theo những mảnh rời ký ức,
hoài niệm và thực tại trong mối giao thoa của không gian, thời gian của
phố và người Hà Nội. Trong những ngày gần đây, thời tiết khắc nghiệt,
nắng nóng đã khiến cho người Hà Nội thèm một cơn mưa đúng điệu của mưa
Hà Nội. Đặc biệt, không khí đang nóng lên trong bối cảnh nước Nga đứng
về phía Trung Quốc và bênh vực cho Trung Quốc về vấn đề xâm chiếm biển
Đông, đặc biệt, bài báo mới nhất: “Những thỏa thuận giữa Moskva và Bắc
Kinh tốt hơn mọi thông báo” của tác giả Dmitri Kosyrev đăng trên trang
nhất của hãng tin RIA Novosti càng làm cho Hà Nội trở nên nóng bức, ngột
ngạt bởi sự phản kháng và thất vọng của nhân dân.
Hà Nội nóng bức, ngột ngạt
Một nhà văn ở phố Khâm Thiên, Hà Nội, chia sẻ: “Căng lắm! Mới đây
có cái bài của thằng Dmitri Kosyrev sinh năm 1955 của báo Novosti ấy, nó
viết rất bậy về Việt Nam. Nó nói Việt Nam như là Crimea, Ukraine của
Nga vậy, bố láo, làm gì có chuyện đó! Một là nó bẻ cong, hai là nó có
một vấn đề là sau khi Nga bị Mỹ và Châu Âu cấm vận thì Nga quay lưng lại
Châu Âu đã chuyển sang Trung Quốc, có thể hiểu là Nga đã đổi gió. Nga
và Tàu khựa mà cấu kết lại với nhau là đã được tính trước. Quá nguy hiểm
khi mà tất cả những bí mật quân sự của mình, khí tài của mình đều do
Nga cung cấp hết.”
Theo nhà văn này, thành phố Hà Nội mấy ngày gần đây trở nên nóng bức
và ngột ngạt không thể tả. Sự ngột ngạt này ngoài nguyên nhân thời tiết
còn do yếu tố tâm lý gây nên. Phần đông những người trí thức, người có
hiểu biết và chịu suy nghĩ về hiện tình đất nước trước nạn ngoại xâm đều
thấy lo âu, buồn bã và hoang mang.
Vấn đề là sau khi Nga bị Mỹ và Châu Âu cấm vận thì Nga quay lưng lại Châu Âu đã chuyển sang Trung Quốc, có thể hiểu là Nga đã đổi gió. Nga và Tàu khựa mà cấu kết lại với nhau là đã được tính trước. Quá nguy hiểm khi mà tất cả những bí mật quân sự của mình, khí tài của mình đều do Nga cung cấp hết
Một nhà văn ở phố Khâm Thiên
Bởi dù sao chăng nữa, thời thơ ấu của ông và thế hệ ông ở Hà Nội cũng
gắn liền với tờ báo RIA Novosti lúc đó, người ta thường gọi là báo Liên
Xô, in bằng giấy bóng, có hình màu và cách thiết kế, trình bày rất đẹp
mắt. Tờ báo đó cùng những hình ảnh của nó khiến cho ông luôn tin vào
thiên đường xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô xa xôi và ao ước khi lớn lên sẽ
được một lần ghé chân đến nước Liên Xô đàn anh xã hội chủ nghĩa, thiên
đường Cộng sản của thế giới.
Thế rồi càng lớn lên, ông càng nhận ra Liên Xô cũng chẳng có gì là
một thiên đường, tờ báo Liên Xô lúc tuổi thơ chỉ là một kỉ niệm đẹp ông
dùng để bao vở, gói sách. Mỗi khi nhìn thấy nó, một khoảng trời tuổi thơ
lại hiện về với tiếng tàu diện leng keng, phố cở nghèo nàn và thiên
đường gói gọn trong tờ báo giấy láng. Mãi cho đến vài ngày trước đây,
cái tên tờ báo này lại hiện ra với một bài viết hết sức bất ngờ, làm ông
đi từ thất vọng sang tuyệt vọng.
Ông thất vọng về cái gọi là đàn anh Liên Xô một thuở và ông tuyệt
vọng khi nhìn thấy Trung Cộng xâm lăng Việt Nam trong khi đó, Liên Xô
lại bắt tay với Trung Cộng và đưa ra luận điệu Việt Nam là một Ukraine
của Trung Quốc. Bài báo vừa mang tính bành trướng đại Hán, vừa phủi sạch
tình anh em Việt Nam – Liên Xô lại vừa kích động chủ nghĩa bành trướng Á
Đông.
Trong lúc dầu sôi lửa bỏng như thế này, Việt Nam vốn không có bất kỳ
nước nào là liên minh quân sự, phe trục, chỉ dựa vào Nga và Trung Quốc,
bây giờ Trung Quốc xâm chiếm, Nga đứng vỗ tay và đồng tình với sự xâm
chiếm của Trung Quốc thì Việt Nam chẳng khác nào một trái bóng ném trong
tay của họ. Ông cảm thấy quá buồn và tuyệt vọng cho tương lai con em
Việt Nam.
Và điều này cũng nói lên rằng khối Cộng sản chưa bao giờ tôn trọng
những khế ước của nó. Tất cả những mỹ từ như ‘Cộng sản Quốc tế’ hay
‘Quốc tế Cộng sản’ đều cho thấy chỉ là kiểu nói đẩy đưa để qui mọi thứ
tài nguyên của thế giới về một mối, trong đó có tài nguyên sức người và
tài nguyên thiên nhiên. Những đàn anh Cộng sản, suy cho cùng cũng chỉ là
những tên buôn lợn có số má và đầy mưu mô, xảo quyệt. Họ có thể đạp lên
danh dự và lương tri con người để đạt mục đích.
Chỉ vì mới bị Mỹ và các nước Châu Âu ly khai, Nga đã nghĩ ngay đến
thị trường hơn một tỉ rưỡi người ở Trung Quốc và sẵn sàng chà đạp lên
mối quan hệ quốc tế mấy chục năm nay với đàn em Việt Nam. Và cách hành
xử của Nga cho thấy Nga vẫn còn chìm đắm trong thứ tư duy Cộng sản độc
tài và bá quyền, vừa xâm chiếm Ukraine lại vừa cổ vũ cho Trung Quốc xâm
chiếm Việt Nam. Không còn gì đáng sợ hơn những loại tư tưởng tàn nhẫn
này.
Trung Quốc hung hăng không những với Việt Nam, khu vực mà cả trên thế giới nữa, lâu nay, đặc biệt là những năm trở lại đây, cái bài báo đó kích động cực cao và nguy hiểm. Hình ảnh Trung Quốc lâu nay đang nằm trong phạm vi hình ảnh của chủ nghĩa bành trướng, ác tặc như muốn biến thế giới thành nô lệ của mình
Một nhà giáo
Chủ nghĩa bành trướng bệnh hoạn
Một nhà giáo ở phố Hàng Bạc, Hà Nội, chia sẻ: “Thật là rối loạn,
tức là kích động chiến tranh. Nó làm cho con người nhất là những người
đang có thể có gì đó hung hăng, những người Trung Quốc hung hăng không
những với Việt Nam, khu vực mà cả trên thế giới nữa, lâu nay, đặc biệt
là những năm trở lại đây, cái bài báo đó kích động cực cao và nguy hiểm.
Hình ảnh Trung Quốc lâu nay đang nằm trong phạm vi hình ảnh của chủ
nghĩa bành trướng, ác tặc như muốn biến thế giới thành nô lệ của mình.
Chủ nghĩa bành trướng và sự tàn bạo.”
Theo vị nhà giáo này, ông cảm thấy mình đang sống trong một thế giới
bệnh hoạn mà căn bệnh này đã di căn trên toàn cơ thể của nó, khó có cơ
may cứu vãn. Dấu hiệu đầu tiên cho thấy căn bệnh này khó mà cứu vãn là
sự sủng bái thái quá những thần tượng vốn là lãnh tụ Cộng sản, từ Lê nin
cho đến Stalin, Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành, Hồ Chí Minh và
Fidelcastro… Tất cả những lãnh tụ này đều được thánh hóa và biến thành
lá bùa hộ mệnh của chế độ.
Mà sự nguy hiểm tột cùng trong cuộc sống lại nằm ở điểm này, nghĩa là
khi các thần tượng này lên ngôi và chính thức được thánh hóa, họ nghiễm
nhiên trở thành mẫu mực, chuẩn mực chung, những hành động nhỏ nhất của
họ cũng được phù phép thành vĩ đại và lấy làm tấm gương cho mọi thế hệ.
Chính vì thế, sự lựa chọn tư tưởng của họ dẫu có độc tài vẫn là chuẩn
mực của quốc gia, dân tộc. Và những gì liên quan đến họ đều có tính tiên
phong, lãnh đạo, vô tiền khoáng hậu.
Bởi vì quá sai lầm và bệnh hoạn trong lựa chọn hệ thống mà những lãnh
tụ Cộng sản các nước đàn anh tiếp tục nghĩ ra khái niệm Quốc tế Cộng
sản nhằm thu về một mối. Đương nhiên là những lãnh tụ của các nước đàn
anh này phải có máu bành trướng và ôm mộng hoàng đế dưới lớp vỏ lãnh tụ
quốc tế, chuyên chính vô sản. Sự tan vỡ của khối Cộng sản Đông Âu là một
bước tiến của lịch sử, tuy nhiên, những mầm mống độc tài và ôm mộng
hoàng đế thế giới vẫn còn âm ỉ cháy trong các con cháu của họ.
Mãi cho đến khi Liên Xô đã là nước giải trừ chủ nghĩa Cộng sản thì
một tổng thống Nga với tiền nhân là bộ sậu Trung ương Cộng sản đã ngang
nhiên sáp nhập Ukraine vào lãnh thổ Nga mặc dù người dân nước này không
muốn thế. Và chưa dừng ở đó, những người Nga nuôi mộng bành trướng thế
giới tiếp tục vỗ tay cổ động cho một nước bành trướng khác là Trung Quốc
với luận điệu trước đây 2000 năm, Việt Nam vốn là của Trung Quốc.
Với vị thầy giáo này, chưa bao giờ Hà Nội trở nên nóng bức, ngột ngạt
như thời điểm hiện nay, bởi vì Hà Nội là trung tâm của chuyên chính vô
sản hiện đại và là một thủ đô có diện tích cũng như thân phận chính trị
quá nhỏ nhoi trong khối Cộng sản hiện đại. Không có gì đáng sợ hơn nếu
như suy nghĩ bệnh hoạn của một tay nhà báo Nga lại trở thành hiện thực,
Việt Nam trở thành thuộc địa của Trung Quốc. Điều đó chẳng khác nào nhốt
tù thập thể quốc dân Việt Nam.
Hơn bao giờ hết, Hà Nội cần một cơn mưa làm mát lòng người, cơn mưa của dân chủ và tiến bộ!
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.
Những chuyến phà, tàu cao tốc miệt Tây Nam Bộ
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam
2014-04-21
2014-04-21
Nghe bài này
Với người dân Tây Nam Bộ, trong điều kiện sông nước chằng chịt, nhiều
nơi chưa có đường bộ dành cho xe hơi, phương tiện duy nhất để họ đi lại
chỉ có những chuyến xuồng ba lá hoặc tàu cao tốc, những chuyến tàu này
đóng vai trò thay thế xe bus cho cư dân ở đây. Và, ở một số nơi chưa xây
được cầu, những chuyến phà đóng vai trò huyết mạch, phà đưa cả người và
xe máy, xe hơi, xe tải sang sông. Và dường như tàu cao tốc hay phà, tất
cả đều tiềm ẩn một mối nguy hiểm mà có vẻ như người quản lý nó rất chủ
quan, không hay biết hoặc cố ý bỏ qua.
Tàu cao tốc trang bị cứu hộ hình thức
Ông Huy nói thêm rằng không hiểu lực lượng cảnh sát giao thông đường thủy người ta làm việc gì và chức năng của họ là gì mà nhiều chuyến đi, ông chỉ thấy họ đứng cầm gậy chỉ chỏ ở một trạm gác trên bờ, thỉnh thoảng chủ tàu dừng lại chạy vào nhét thứ gì đó vào túi của họ và lại tiếp tục đi chứ ông không hề thấy họ đến kiểm tra thử các tàu đã đủ an toàn, đã đạt tiêu chuẩn cứu hộ, chữa cháy khi di chuyển, lưu thông hay không. Chính vì sự làm việc rất qua loa của cảnh sát giao thông và cách ngành liên đới đã khiến cho các chuyến tàu cao tốc ở đây rất chủ quan và hình như là không quan tâm gì đến vấn đề an toàn của khách.
Một người chạy xe lôi ở Long Xuyên, An Giang, chia sẻ: “Mấy xe khách đa số bây giờ là khách không xuống xe luôn, nó đậu trên đó luôn, xe hợp đồng, xe máy nó qua phà là khách họ không xuống xe, ngồi trên đó luôn, nên khi sự cố xảy ra thì bó tay, làm sao chạy cho kịp, thành ra rất nguy hiểm.”
Tàu cao tốc trang bị cứu hộ hình thức
Một người dân Năm Căn, Cà Mau, tên Huy, chia sẻ: “Khi mà xuống phà
xảy ra nhiều tai nạn đáng tiếc lắm, như phà buông dây, rồi xe nó chở
nặng quá nó thắng đứt thắng, khi cái phà mình xuống đông quá nên nó va
chạm lung tung hết trơn a. Nói chung là đủ điều kiện xảy ra nhưng mà cái
chỗ qua phà nó không nghiêm khắc lắm! Bây giờ mình nói cũng không được,
mình thấy cũng nguy hiểm thật đó nhưng mình khó nói để nó khắc phục sữa
chữa. Khách thì mười người dễ gì còn một người để ý, họ xuống thì họ đi
lẹ, có đủ thứ công chuyện.”
Theo anh Huy, việc đi lại bằng tàu cao tốc là quá an toàn so với
những phương tiện khác trên sông nước miền Tây. Tuy nhiên, chính vì sự
an toàn này mà các tài công lái tàu có vẻ rất chủ quan, không hề có động
thái nào để phòng bị khi sự cố chìm tàu, cháy tàu xãy ra, hầu như mọi
thứ hỗ trợ từ phao cứu sinh cho đến bình chữa cháy đều chỉ mang tính
hình thức, gọi là để cho có mà thôi.
Những chuyến tàu cao tốc di chuyển từ Cà Mau đi Năm Căn, Đầm Dơi… hầu
như tàu nào cũng trang bị áo phao nhưng lại chưa bao giờ bóc nó ra khỏi
bọc và treo lên đúng hướng dẫn, thậm chí có nhiều tàu bày biện áo phao
ngay trên đầu hành khách nhưng lại dùng băng keo quấn nhiều lớp rất kĩ,
để mở được các lớp băng keo này ra, có lẽ tốn ít nhất cũng hơn năm phút.
Mà trong sự số, người ta chỉ có thể tính được từng giây hoặc nửa giây
đối với mạng sống chứ không có tai nạn nào chờ đủ năm phút, bảy phút cho
người ta mở xong áo phao rồi mới nhấn chìm tàu.
Khi mà xuống phà xảy ra nhiều tai nạn đáng tiếc lắm, như phà buông dây, rồi xe nó chở nặng quá nó thắng đứt thắng, khi cái phà mình xuống đông quá nên nó va chạm lung tung hết trơn
Một người dân Năm Căn
Đó là chưa kể đến tình trạng nhét hành khách chật cứng giống y hệt xe
bus trên bộ. Nhưng một khi tàu dưới nước chở quá tải thì mức độ nguy
hiểm gấp cả ngàn lần xe bus trên bộ. Vì trọng tải của tàu đã có chừng,
nếu chở quá tải, có thể trong điều kiện sóng gió bình thường thì tàu vẫn
có thể gắng gượng mà chạy. Nhưng một khi sóng to gió lớn hoặc gặp những
chiếc xà lan chạy ngược chiều tạo ra hàng loạt con sóng lớn, nguy cơ
chìm tàu có thể diễn ra trong tích tắc.
Trong khi đó, tàu cao tốc vốn thiết kế theo hệ kín nhằm mục đích
tránh bị nước tạt vào tàu trong lúc vận hành tốc độ cao. Mà với con tàu
kín bưng như vậy, cộng thêm số lượng người quá đông, ngồi chen lấn với
nhau nữa thì khi gặp sự cố sẽ trở nên rối rắm, lộn xộn và tự đám đông
hành khách lộn xộn, hốt hoảng này sẽ xô đạp, giẫm lên nhau hoặc bấu viu
vào nhau để chết chìm.
Chính vì thế, đối với ông Huy, việc đi lại trên các con kênh, con
rạch bằng tàu cao tốc thật sự hấp dẫn bởi tốc độ của nó cũng như quang
cảnh hai bên bờ sông, rừng đước, rừng sú, vẹt… Tuy nhiên, nếu như để ý
và suy nghẫm một chút về sự an toàn của nó, e rằng khó mà yên tâm khi
ngồi trên tàu.
Ông Huy nói thêm rằng không hiểu lực lượng cảnh sát giao thông đường thủy người ta làm việc gì và chức năng của họ là gì mà nhiều chuyến đi, ông chỉ thấy họ đứng cầm gậy chỉ chỏ ở một trạm gác trên bờ, thỉnh thoảng chủ tàu dừng lại chạy vào nhét thứ gì đó vào túi của họ và lại tiếp tục đi chứ ông không hề thấy họ đến kiểm tra thử các tàu đã đủ an toàn, đã đạt tiêu chuẩn cứu hộ, chữa cháy khi di chuyển, lưu thông hay không. Chính vì sự làm việc rất qua loa của cảnh sát giao thông và cách ngành liên đới đã khiến cho các chuyến tàu cao tốc ở đây rất chủ quan và hình như là không quan tâm gì đến vấn đề an toàn của khách.
Đó là chưa kể đến tình trạng nhét hành khách chật cứng giống y hệt xe bus trên bộ. Nhưng một khi tàu dưới nước chở quá tải thì mức độ nguy hiểm gấp cả ngàn lần xe bus trên bộ.Những chuyến phà nhồi nhét người
Một người chạy xe lôi ở Long Xuyên, An Giang, chia sẻ: “Mấy xe khách đa số bây giờ là khách không xuống xe luôn, nó đậu trên đó luôn, xe hợp đồng, xe máy nó qua phà là khách họ không xuống xe, ngồi trên đó luôn, nên khi sự cố xảy ra thì bó tay, làm sao chạy cho kịp, thành ra rất nguy hiểm.”
Theo ông này, những chuyến phà từ Đồng Tháp sang thành phố Long
Xuyên, còn gọi là bắc An Hòa trong thời gian gần đây quá nguy hiểm. Nhất
là khi dòng chảy của con sông ở đây càng lúc càng trở nên dữ dằng nhưng
hầu như không có qui định nào để đảm bảo khi gặp sự cố, hành khách
không gặp nguy hiểm.
Thường thì một chuyến phà được thiết kế hai tầng, tầng trệt dành cho
xe hơi và xe gắn máy, tầng lầu dành cho người đi bộ. Đương nhiên là các
chiếc phà được trang bị bình chữa cháy khá đầy đủ nhưng các bình này còn
hoạt động hay không thì không ai đảm bảo chuyện đó. Đặc biệt, mỗi
chuyến phà chở ít nhất hai trăm người và sáu chiếc xe tải cùng hàng loạt
xe gắn máy, số lượng hành khách rất đông nhưng nhìn mỏi mắt vẫn không
tìm ra vị trí áo phao cứu sinh.
những chuyến xe chở đến 40, 50 khách, khi di chuyển lên phà vẫn để nguyên khách ngồi trong xe...các chiếc xe này được sắp nằm sát đầu, sát hông với nhau...Chuyện mở cửa để bước ra ngoài là hoàn toàn không thể vì xe đậu quá khít. Và đây là mối nguy hiểm lớn nhất nếu gặp sự cố, hành khách sẽ bị nhốt cứng trong xe
Chuyện này vẫn chưa đáng sợ bằng những hành khách ngồi trên xe, có
những chuyến xe chở đến bốn chục, năm chục khách, khi di chuyển lên phà
vẫn để nguyên khách ngồi trong xe, có người ngủ gà ngủ gật. Và theo sắp
xếp của các tài công lái phà, các chiếc xe này được sắp nằm sát đầu, sát
hông với nhau, chỉ khi nào chiếc xe đậu trước chuyển bánh thì xe sau
mới nhích lên được một chút. Chuyện mở cửa để bước ra ngoài là hoàn toàn
không thể vì xe đậu quá khít.
Và đây là mối nguy hiểm lớn nhất nếu gặp sự cố, hành khách sẽ bị nhốt
cứng trong xe, không có đường để thoát thân, thậm chí có người đang
ngủ, không hay biết chuyện gì để xử lý. Giả sử như có một chuyến phà bị
sự cố giữa sông như trục trặc máy, không chạy được nữa chẳng hạn, thì
hành khách trên các xe hơi giường nằm buộc phải đập gương xe và len lỏi,
trèo qua trần xe khác để ra ngoài. Trường hợp nằm giường dưới thì phải
đợi cho giường trên thoát ra xong mình mới mượn chỗ phía trên để thoát
theo chứ phía dưới đã kẹp sát hông xe khác, không có cách gì để ra ngoài
được.
Thử nghĩ trong tình trạng có sự cố, hành khách có đủ bình tĩnh để xử
lý tình huống theo trình tự vừa nói? Và có bao nhiêu hành khách biết
bơi, có bao nhiêu trẻ em, người già cần cứu giúp? Hầu như bế tắc nếu gặp
sự cố và điều này không riêng gì một hay vài chuyến phà, chuyến tàu cao
tốc mà tỉ lệ không an toàn của nó rất cao.
Miền Tây sông nước, mọi vận chuyển, lưu thông đều dựa vào sông nước
là chủ yếu, nếu như nhà cầm quyền không có chính sách bảo đảm an toàn
cho hành khách thì một khi sự cố xãy ra, mức độ nguy hiểm sẽ khó mà
lường trước được!
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.
Vui buồn nghề nuôi bệnh thuê ở Sài Gòn
Ở các bệnh viện lớn trong thành phố, dường như bất kỳ ngày nào, bệnh
nhân cũng có thể gặp những người chuyên nuôi bệnh thuê đến hỏi thăm,
thậm chí gạ gẫm để được chăm sóc thuê và đưa ra mức chi phí vừa phải để
người nhà bệnh nhân chấp nhận cho họ chăm sóc người thân. Nghề nuôi bệnh
thuê là một nhóm nghề có thu nhập tương đối khá so với các nhóm lao
động khác nhưng bù vào đó, những người chuyên nuôi bệnh thuê có cuộc
sống và số phận hết sức trắc ẩn và tủi buồn.
Nghề nhiều nước mắt
Một người tên Loan, trôi dạt từ xứ Quảng vào Sài Gòn suốt mười bảy
năm với nghề bán mì quảng để rồi trong một cơn bạo bệnh, bà phải bán
sạch vốn liếng để điều trị, sau khi lành bệnh, không còn gì để sống, bà
chuyển sang nghề nuôi bệnh thuê và sống với nó suốt tám năm nay, chia
sẻ: “Mình thấy rứa mình cũng xót, vì mình thay gia đình họ chăm sóc
mà, mỗi khi họ lên cơn đau mình thấy mình xót lắm, điên cái ruột ấy chứ!
Mình không có tâm thì sao mình chăm họ được, mình phải thương họ như
cha mẹ mình ấy chứ! Ở bệnh viện có nhiều cảnh đau thương lắm, mình đã
nghèo mà họ còn nghèo hơn mình nữa, họ nằm viện mà bệnh không hết, họ
không có tiền trả tiền thuốc bệnh viện nên nửa đêm họ lén họ về, cơm họ
còn không có để ăn lấy gì họ trả tiền bệnh viện.”
Mình không có tâm thì sao mình chăm họ được, mình phải thương họ như cha mẹ mình ấy chứ! Ở bệnh viện có nhiều cảnh đau thương lắm, mình đã nghèo mà họ còn nghèo hơn mình nữa.
-Bà Loan
Theo Bà Loan, nghề nuôi bệnh thuê là cái nghề hết sức ngẫu nhiên và
buồn nhiều hơn vui. Cũng có thể nói thêm rằng đây là cái nghề mà người
ta có thể chiêm nghiệm sâu sắc về thân phận con người cũng như sự sống
nhỏ nhoi, heo hút của kiếp người nơi bệnh viện. Chính vì thế, bất kỳ một
người nào có đời sống nội tâm phong phú, họ sẽ làm công việc nuôi bệnh
thuê với tấm lòng chan chứa yêu thương và luôn xem mình là con cháu của
Hải Thượng Lãn Ông mặc dù họ không có chuyên môn về y học.
Bà Loan nói rằng sở dĩ những người nuôi bệnh thuê xem mình là con
cháu của Hải Thượng Lãn Ông bởi vì đức độ của Hải Thượng Lãn Ông cao
vời, Người đã cống hiến cuộc đời của mình để nghiên cứu, chữa chạy cho
người bệnh. Nếu như các bác sĩ giỏi thừa kế được phần tài năng của ngài
Hải Thượng để chữa bệnh, điều trị cho người bệnh thì những người nuôi
bệnh thuê phải thừa kế được phần đức của ngài trong vấn đề chăm sóc,
biết đau cùng cái đau của người bệnh và nâng niu, ân cần với người bệnh.
Bà Loan nói thêm rằng đương nhiên, trong xã hội hiện tại, không thiếu
những kẻ tuy làm nghề nuôi bệnh thuê nhưng tâm ý chỉ nghĩ đến đồng tiền
và không cần biết người bệnh đau đớn, cô đơn đến mức độ nào. Chuyện đau
đớn đối với người bệnh thì dễ hiểu, nhưng chuyện một người bệnh thiếu
vắng người thân chăm sóc, phải nhờ đến người nuôi bệnh thuê, đó là nỗi
đau ẩn khuất mà nếu người nuôi thuê không khéo léo sẽ khiến cho người
bệnh thêm nặng và nguy cơ tử vong là trong tầm tay.
Vốn là người trôi dạt, không còn đồng xu dính túi và sống dựa vào
những bữa cơm tình thương ở bệnh viện để lây lất qua ngày, tồn tại cho
đến lúc khỏe mạnh và ra trước tượng Hải Thượng Lãn Ông, vái lạy xin ngài
ban cho sức mạnh để làm một người nuôi bệnh thuê, nghề nuôi bệnh thuê
của bà Loan bắt đầu từ đó. Có nhiều trường hợp, bà nuôi với mức phí từ
200 ngàn đồng đến 250 ngàn đồng cho 24 giờ, cũng có trường hợp bà chỉ
nhận 100 ngàn đồng mỗi 24 giờ, và cũng không thiếu những trường hợp bà
chỉ nuôi miễn phí bởi cuộc đời và số phận của họ làm bà rơi nước mắt,
cám cảnh đến những ngày lây lất nơi bệnh viện của mình.
Trong quãng đời nuôi bệnh thuê gần mười năm của bà Loan, có hai lần
bà rơi nước mắt và không thể nén tiếng khóc, đó là lần một bệnh nhân
nghèo vốn là gái đứng đường lúc mạt vận, không xu dính túi, không người
thân đã liều lĩnh nhờ bà chăm sóc vì không còn lựa chọn nào khác khi mổ
ruột thừa. Đến ngày chị này tỉnh dậy, bệnh viện đòi viện phí, chị này đã
quì lạy và tình nguyện ở đợ cho bà hai tháng để trừ tiền công. Nghe
cảnh ngộ của chị ta, bà không thể kiềm nén xúc động, tuyên bố miễn phí
và tặng thêm một ít tiền để chị ra về. Và một lần người mẹ đã nhờ bà
chăm sóc đứa con để ra đứng đường kiếm tiền chạy chữa cho con. Lần đó bà
cũng chăm sóc miễn phí và cũng là lần mà bà cảm nhận ra cái nghèo và sự
sống nó thổn thức, đau thương đến mức độ nào.
Tràn lan dịch vụ nuôi bệnh thuê
Trường hợp của bà Loan là một trong những trường hợp hiếm hoi, có
lương tâm và có tôn chỉ, mục đích trong công việc nuôi bệnh thuê. Cũng
không thiếu những trường hợp bịp bợm và xã hội luôn tràn lan những kẻ vô
cảm làm nghề này. Một bệnh nhân tên Trung, ở Gò Vấp, Sài Gòn, chia sẻ: “Nuôi
bệnh thuê mỗi ngày đôi khi một trăm có, hai trăm có, ba trăm có, tùy
theo mỗi dịch vụ, thí dụ như họ lo đầy đủ, chăm sóc, giặt đồ… thì ba
trăm, chỉ tới chăm sóc mà không giặt giũ thì hai trăm, đôi khi một trăm
họ cũng tới, ngồi đó, chỉ gì làm đó thì một trăm. Cái giá tiền khác
nhau, như chuyển người qua giường thì họ cũng rành lắm, làm như y tá.
Nhưng cái nghề này cũng như osin thôi chứ có gì đâu, cũng vì tiền đi
giúp việc.”
Nuôi bệnh thuê mỗi ngày đôi khi một trăm có, hai trăm có, ba trăm có, tùy theo mỗi dịch vụ, thí dụ như họ lo đầy đủ, chăm sóc, giặt đồ… thì ba trăm, chỉ tới chăm sóc mà không giặt giũ thì hai trăm.
-AnhTrung
Theo ông Trung, chuyện nuôi bệnh thuê và nghề nuôi bệnh thuê hiện nay
đã tràn lan khắp các bệnh viện thành phố. Người nuôi bệnh có đạo đức
thì hiếm hoi nhưng kẻ lợi dụng thì nhiều vô kể. Sở dĩ có chuyện như thế
bởi vì ngành y tế Việt Nam đang ở giai đoạn khủng hoảng đạo đức trầm
trọng, ngay cả các bác sĩ, y tá được đào tạo bài bản, có tri thức mà vẫn
còn mè nheo, vòi vĩnh tiền của bệnh nhân thì huống gì những người nuôi
bệnh thuê được chăng hay chớ.
Như trường hợp ông gặp là một ví dụ đau lòng, ông bị viêm túi mật,
phải đi phẫu thuật ở bệnh viện nhân dân Gia Định, trong lúc các con và
vợ ông đang đi du lịch ở Mỹ. Không có người nhà, ông phải thuê một cô
nuôi thuê. Cô này lúc đầu thì hiền hòa, dễ mến. Nhưng khi chính thức bắt
tay vào công việc, cô đòi hỏi đủ thứ, ngoài khoản tiền 300 ngàn đồng
mỗi ngày, cô yêu cầu ông đóng thuế cho các hộ lý thông qua cô và chính
cô cũng là người gợi ý ông bỏ phong bì cho các bác sĩ, y tá có liên quan
đến ca mổ của ông.
Vì không có người thân, tâm trạng lại buồn bã sau khi mất đi một phần
trong cơ thể, sức lực yếu hẳn ra, cộng thêm sự vô cảm của người chăm
sóc khiến ông nhiều lần chẳng còn tha thiết sống. Nhưng nghĩ đến vợ và
các con ở xa, ông quyết cắn răng chịu đựng để sống cho đến ngày ra viện.
Ông Trung nói rằng người nuôi bệnh thuê rất đông nhưng ông chấp nhận
cắn răng chịu đựng bởi vì nếu ngưng hợp đồng với cô này để thuê một cô
khác, sẽ rất khó khăn cho ông bởi họ cùng hội cùng thuyền với nhau cả,
có thể người nuôi sau sẽ gây khó khăn cho ông nhiều hơn cả người nuôi
trước để bỏ ghét. Như vậy chẳng khác nào tiền mất mà tật mang. Cuối
cùng, ông quyết định cắn răng chịu đựng.
Xã hội đang ngày càng đông đúc, mọi thứ trở nên phì đại và con người
trở nên lẻ loi, cô đơn trước thế giới mình hiện hữu, nhất là khi đối
diện vợi bệnh tật, đối diện với các thiết bị y tế cùng với âm thanh của
nó cũng như đối diện với bức tường trắng và khoản sân côi cút của bệnh
viện… Hơn bao giờ hết, con người cảm nhận ra mình nhỏ nhoi và bất an, và
cũng hơn bao giờ hết, người bệnh cần sự chia sẻ, chăm sóc tận tình, ân
cần của đồng loại. Thế nhưng, câu chuyện của người nuôi bệnh thuê luôn
là một đề tài trắc ẩn!
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.
Mùa hè, không khí oi ả, nóng nực, ẩm độ lại cao vào ban đêm, đây cũng
là môi trường tốt nhất để các loại dịch bệnh phát triển. Đối với những
người cao tuổi, sống trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn, con bệnh lại
càng dễ kéo đến hoành hành cơ thể họ. Đối với các bệnh nhân nghèo cao
tuổi, không có gì đáng sợ hơn mùa hè phải nằm trong bệnh viện chật chội,
ngột ngạt, nằm chồng chất hai, ba người trên một giường, mọi điều kiện
sinh hoạt thiếu thốn bởi do nghèo khó.
Một bác sĩ tên Sơn, thuộc bệnh viện đa khoa Quảng Ngãi, chia sẻ:”Tại
vì mình thường thường hay có chuyện nể nang, rồi người dân mình hay chịu
đựng quen rồi nên bên y tá, trực… họ hay… Nhưng mà sắp tới đây sẽ không
có nữa, bây giờ người ta cũng đang hướng đến là không nói miệng nữa, sẽ
quy định ra rõ ràng, nhất là công việc làm bây giờ cũng căng lắm nên
người ta phải giữ nồi cơm của mình nữa. Tất cả đều ra kinh tế nên bây
giờ phải như thế, tất cả bây giờ không còn đức trị mà phải pháp trị.
Thật ra ai mà muốn cán bộ y tế như thế nhưng bây giờ phải như thế.. Bên
trong nó tự biết việc hành xử với người bệnh hay hành xử trái y đức thì
họ biết chứ nhưng không ai chỉnh sửa nó nên họ không sợ, chỉ cần có ai
chỉ toạt mặt ra thì họ rất sợ, vậy nên xã hội cũng cần có những đối
kháng những tiếng nói mạnh mẽ để họ hết vô cảm, họ sẽ sợ.”
Tất cả đều ra kinh tế nên bây giờ phải như thế, tất cả bây giờ không còn đức trị mà phải pháp trị. Thật ra ai mà muốn cán bộ y tế như thế nhưng bây giờ phải như thế
Theo bác sĩ Sơn, hiện tại, tất cả mọi bệnh viên trên toàn quốc đã có
chính sách ưu đãi cho người già neo đơn, nghèo khổ và đã thực hiện một
cách triệt để. Tuy nhiên hai chữ triệt để này cần hiểu theo nghĩa của
Việt Nam thời Cộng sản xã hội chủ nghĩa. Bởi vì mọi thứ triệt để thời
bây giờ đều có tính nửa vời và hàm chứa quá nhiều tiêu cực, trong đó có
cả bệnh thành tích và bệnh vô cảm.
Riêng về bệnh thành tích thì hầu như mọi bệnh viện, mọi cơ quan bảo
hiểm y tế đều mắc phải bởi chỉ tiêu thi đua ngành và chỉ tiêu của các
quan chức đứng đầu cơ quan nhằm chạy đua huân chương lao động, chiếm
phần tài trợ nhà nước và nâng cấp cơ sở hạ tầng để chấm mút… Có cả ngàn
lẻ một loại bệnh thành tích.
Và một khi bị bệnh thành tích, người ta sẽ làm qua loa, bỏ sót nhiều
đối tượng cần giúp đỡ, bỏ qua nhiều tiếng kêu của người đói khổ thật sự
mà dành phần ưu tiên cho con cháu cán bộ cùng ngành hoặc cùng chi bộ
đảng để lấy lòng nhau, chờ thời cơ lấy tiếng nói ủng hộ. Cũng vì bệnh
thành tích mà hằng năm, có hàng triệu bệnh nhân phải chật vật đấu tranh
với bệnh tật, cái đói, phải ăn xin từng bữa, trông chờ vào bữa cơm từ
thiện để cầm hơi. Trong khi đó, ngành y tế lúc nào cũng giơ cao bảng
thành tích trước khi nói về chuyên môn.
Cũng theo bác sĩ Sơn, căn bệnh thành tích tuy đáng sợ nhưng vẫn không
đáng sợ bằng căn bệnh vô cảm, căn bệnh này chi phối rất nặng ở ngành y
tế và ngành bảo hiểm cũng như một số cơ quan thuộc ngành lao động,
thương binh và xã hội. Bởi vô cảm, không còn biết suy tư về thân phận,
số phận của đồng loại mà một số quan chức, cán bộ của ngành lao động,
thương binh và xã hội sẵn sàng đạp lên lương tri, bỏ qua những người
nghèo cần chiếu cố, giúp đỡ của xã hội để tham nhũng, tư túi hoặc trao
những suất giúp đỡ đến người thân, bà con không đến nỗi nghèo khó, chưa
phải là người cần giúp đỡ.
Cũng vì bệnh thành tích mà hằng năm, có hàng triệu bệnh nhân phải chật vật đấu tranh với bệnh tật, cái đói, phải ăn xin từng bữa, trông chờ vào bữa cơm từ thiện để cầm hơi. Trong khi đó, ngành y tế lúc nào cũng giơ cao bảng thành tích trước khi nói về chuyên môn
Đặc biệt, ngành bảo hiểm y tế ở Việt Nam quá đặt nặng vào chuyện lãi
suất và cũng là ngành có nạn tham nhũng thuộc hàng nặng nề nên vấn đề
giả mạo những con số trong dược liệu, thuốc men, đặt ra những bệnh án ma
để nhận bảo hiểm và nhiều trò mèo khác đã đẩy những người nghèo đến
đường cùng. Khi người nghèo mắc bệnh, một số nơi, người ta phải đi mượn
thẻ bảo hiểm của hàng xóm hoặc bà con, người thân để đến bệnh viện. Và
để hợp thức hóa sự gian dối đầy trắc ẩn này, bệnh nhân nghèo chấp nhận
đổi tên, khai man tên tuổi của mình đúng với tên tuổi của người trong
bảo hiểm, thậm chí có người phải lột thẻ chứng minh, dán hình của họ lên
đó để qua mặt bệnh viện.
Đó là chuyện của ngành bảo hiểm và các ban ngành lao động, thương binh và xã hội. Còn chuyện vô cảm trong ngành y tế lại đáng buồn hơn rất nhiều.
Đó là chuyện của ngành bảo hiểm và các ban ngành lao động, thương binh và xã hội. Còn chuyện vô cảm trong ngành y tế lại đáng buồn hơn rất nhiều.
Nhân viên y tế trở thành cái máy chém
Một bác sĩ khác, yêu cầu giấu tên, chia sẻ:”Qua truyền hình, thông
tin, báo chí, bên đại chúng hoặc trực tuyến thì lương tâm bác sĩ không
ai bỏ rơi người già nhưng trên thực tế đến bệnh viện thì nhìn người già
sẽ thấy bác sĩ không phải ai cũng quan tâm đến người già, cái lương tâm
đó trong mười bác sĩ cũng chỉ có một bác sĩ thôi. Chẳng hạn như bệnh
người ta là ốm yếu, họ già họ có bệnh nhưng bác sĩ không tận tình, họ
nghĩ già nên… họ sẽ hỏi cái tuổi…như thế là không tốt, nhưng mình chỉ
biết thế thôi chứ mình, mình không thể nói được, nhiều khi mình nói
chuyện nhỏ nó sẽ ra chuyện lớn. Nói chung là có những cái không đồng
đều. Như bây giờ nhà nước yêu cầu người dân phải mua bảo hiểm y tế 100%,
đã mua hết bảo hiểm y tế 100% thì lực lượng của bác sĩ, nhân viên y tế
của tất cả các bệnh viện trên cả nước này có phục vụ được tốt như bảo
hiểm 100% không, còn mang tính chất đó không, còn nhiêu khê không, cái
đó mới quan trọng.”
Theo vị bác sĩ này, tình trạng tiêu cực trong ngành y tế hiện tại
không thể nào kiểm soát nổi và nó đã trở thành đại dịch của quốc gia.
Trong đó, mỗi bệnh viện là một cái ổ dịch tiêu cực và mỗi bác sĩ, nhân
viên y tế là một con bệnh vô cảm và tiêu cực. Đặc biệt là với một số bác
sĩ có năng lực yếu, chuyên môn kém, một số y tá có bằng giả, chuyên môn
duy nhất của họ là chích thuốc, truyền đạm và băng bó vết thương thì
tính tiêu cực ở họ có thể cao gấp nhiều lần so với những nhân viên y tế
có năng lực.
Giải thích thêm vấn đề, vị bác sĩ này nói rằng những bác sĩ có năng
lực sẽ có uy tín và dễ dàng mở phòng mạch tư, ở phòng mạch, họ có thể
chặt chém khách hàng nhưng đa phần là khách hàng có tiền và mức độ chặt
chém cũng không đến nỗi nặng nề nhằm giữ khách lâu dài. Riêng các phòng
mạch, cung cách phục vụ luôn rất tốt nhằm thu hút khách hàng, khác với ở
các bệnh viện.
Tình trạng tiêu cực trong ngành y tế hiện tại không thể nào kiểm soát nổi và nó đã trở thành đại dịch của quốc gia. Trong đó, mỗi bệnh viện là một cái ổ dịch tiêu cực và mỗi bác sĩ, nhân viên y tế là một con bệnh vô cảm và tiêu cực
Với các bệnh nhân nghèo cao tuổi, một phần vì nghèo khổ, túng thiếu,
phần khác vì neo đơn, không nơi nương tựa, họ phải đối diện với vô vàn
khó khăn, tủi nhục nơi bệnh viện bởi thái độ lạnh nhạt của các nhân viên
y tế. Nguyên nhân của thái độ lạnh nhạt này nằm ở chỗ họ không có tiền
để bỏ phong bì lót tay cho y tá, bác sĩ. Mặc dù đã có lệnh cấm nhận
phong bì, cấm nhận đút lót nhưng việc này vẫn diễn ra như đi chợ ở các
bệnh viện. Chính vì thế, các bệnh nhân nghèo, cao tuổi, nếu bị bệnh nặng
một chút có thể dẫn đến tử vong vì thiếu sự chăm sóc đúng mực và mặc
cảm, buồn bả, trì trệ tâm lý, khó phục hồi sức khỏe.
Theo vị bác sĩ này nhận định thì nguyên nhân tiên cực ở các bệnh viện
và đẩy các bệnh viện thành những cái ổ dịch vô cảm, tiêu cực lại nằm ở
giai đoạn giáo dục và xin việc sau khi tốt nghiệp. Ngay trong ngành giáo
dục, ở các đại học y khoa chưa bao giờ có một triết lý giáo dục đúng
nghĩa để đào tạo ra được những bác sĩ tâm đức. Đó là chưa muốn nói đến
có quá nhiều tiêu cực, mờ ám trong bằng cấp, đào tạo của ngành này. Sau
khi tốt nghiệp, các bác sĩ trẻ lại phải đút lót một số tiền không nhỏ để
kiếm chỗ làm. Và đương nhiên, khi kiếm được chỗ làm, họ phải lấy lại
những gì đã bỏ ra. Dần dần thành thói quen và bản chất, nạn chặt chém và
coi thường bệnh nhân cũng hình thành từ đó.
Mùa hè đã vào giai đoạn nắng nóng, ngột ngạt nặng nề nhất, bệnh nhân
cao tuổi nhà nghèo ở các bệnh viện ngày càng đông, các giường bệnh càng
thêm chật chội. Cầu mong sao cái nghèo và sự cô đơn cũng như cái nhìn kỳ
thị giàu nghèo nơi các bệnh viện không làm các bệnh nhân tội nghiệp này
thấy tủi khổ và mất ý chí vượt qua bệnh tật, đánh mất nỗ lực sinh tồn!
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.
Người nông dân trồng vải tìm đường thoát thân
Kể từ ngày giàn khoan HD 981 của Trung Quốc cắm vào vùng đặc quyền
kinh tế Việt Nam, hàng ngàn câu chuyện không tốt lành ập xuống nhân dân
Việt Nam, trong đó, đáng kể nhất vẫn là những người nông dân chân lấm
tay bùn quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời lại chịu thiệt hại
nặng nề nhất bởi cái gián khoan này. Những nông dân trồng vải ở Hưng Yên
và các tỉnh phía Bắc phải dở khóc dở cười ra sao với cái giàn khoan
này?
Trái vải bị bỏ rơi…
Một nông dân tên Tuất, ở Lục Ngạn, chia sẻ: “Nói chung là giá vải năm
nay không cao như năm ngoái, năm ngoái giá vải nó cao hơn thì thu hoạch
được nhiều hơn, năm nay thì không được mấy. Năm nay giá vải nó rẻ hơn,
năm nay tình hình như thế này thì mình không xuất cho nó – Trung Quốc,
mà nó cũng không lấy của mình. Nhưng mà năm nay giá không được tốt, đầu
mùa thì giá khoảng 20 ngàn một ký, còn giờ thì chỉ có gần mười ngàn một
ký thôi!”
Theo ông Tuất, mùa vải năm nay trái sung mãn, phải nói là bội thu về
sản phẩm, những trái vải tròn, căng mẩy và không có sâu bọ đã khiến ông
nhiều lần nhìn vườn vải thiều mà khấp khởi hy vọng rằng năm nay sẽ khấm
khá hơn mọi năm, chuyện sắm sửa trong nhà cũng như cho con cái tiền ăn
học sẽ rộng tay hơn một chút. Thế nhưng đến ngày thu hoạch, mọi chuyện
lại hoàn toàn khác!
Kế hoạch trồng trọt đều tùy thuộc vào chỉ định của thương nhân TQ. Chính vì thế, khi thương lái Trung Quốc bỏ thị trường Việt Nam thì người nông dân chỉ còn biết chép miệng và loay hoay tìm hướng để tự cứu mình
Nếu như năm ngoái, vải đầu mùa được thương lái mua với giá hai mươi
ngàn đồng trên mỗi kí lô, nhưng năm nay, vải đầu mùa chỉ bán được cao
nhất là mười lăm ngàn đồng trên một kí lô trong khi đó, chất lượng vải
năm nay đạt hơn rất nhiều so với năm ngoái. Và cũng khác với không khí
mua bán tấp nập mọi năm, mùa vải năm nay việc mua bán diễn ra chậm chạp,
nhiều vườn vải rơi vào tình trạng chín bói, chuyển sang trạng thái lên
men và gây thối… Và năm ngoái, vải giữa mùa bán được từ bảy đến mười hai
ngàn đồng trên một ký thì hiện tại, chỉ cần bán được với giá năm ngàn
đồng một ký là chủ vườn đã mừng khấp khởi. Vì nguồn vải thiều bị khủng
hoảng thừa trong khi đầu ra không có bởi thương lái Trung Quốc đã bỏ hẳn
thị trường vải thiều Việt Nam. Trong khi đó, mọi kế hoạch nông nghiệp ở
các tỉnh Tây Bắc đều phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, đầu ra cho
sản phẩm nông nghiệp ở đây từ cam, quýt, nhãn lồng, vải thiều… đều nhắm
đến Trung Quốc, kế hoạch trồng trọt đều tùy thuộc vào chỉ định của
thương nhân Trung Quốc. Chính vì thế, khi thương lái Trung Quốc bỏ thị
trường Việt Nam thì người nông dân chỉ còn biết chép miệng và loay hoay
tìm hướng để tự cứu mình.
Và hướng tự cứu của nhà nông Tây Bắc nói riêng cũng như các tỉnh miền
Bắc nói chung trong mùa vải thiều này chính là thị trường miền Nam. Mặc
dù không dần dập và chộn rộn như thị trường Trung Quốc, nhưng thị
trường miền Nam lại mang đến cho nông dân miền Bắc một niềm tin mới.
Miền Nam hứa hẹn
Nếu như trong những năm 1980, khi miền Bắc rơi vào nạn đói do nền
kinh tế tập trung bao cấp, nhiều gia đình miền Bắc không còn gì để sống,
phải dắt díu nhau vào miền Nam tìm đất hứa và miền Nam đã mở rộng vòng
tay hào hiệp để đón những người Bắc xa xứ bằng nhiều hướng khác nhau,
trong đó có người làm ăn thành đạt, cũng có người xin ăn lây lất qua
ngày… Thì hiện tại, thị trường miền Nam một lần nữa làm mảnh đất hứa cho
trái vải thiều miền Bắc.
Vì miền Nam ít trồng được cây vải mà người miền Nam lại rất thích trái vải, chính vì thế, việc tiêu thụ trái vải ở miền Nam trở nên dễ dàng, thuận lợi. Hơn nữa, người miền Nam rộng lượng và chi tiền không bị ki bo, keo kiệt
Một người chuyên bỏ mối vải thiều ở miền Trung và miền Nam, tên Hóa,
chia sẻ: “Hai bốn ký bỏ tại trên này thì ba trăm lẻ năm nghìn, sáng xuất
ra là ba trăm mốt, nhưng bỏ sỉ thì ba trăm lẻ năm nghìn, bảo đảm hàng
đẹp chứ không phải vải hư vải thối. Có hai loại là vải đai xanh với đai
đỏ, là vải thiều chứ không phải vải u, vải này hạt nhỏ. Năm nay được mùa
vải nên giá mới rẻ thứ chứ, mọi năm đâu có rẻ thế này, mọi năm tầm này
phải bán hai lăm ba mươi nghìn một ký chứ giờ có hai mươi, mười tám
nghìn một ký chứ mấy. Rẻ hơn nhiều, rẻ hơn năm bảy giá, do nó không sang
Trung Quốc được, mọi năm Trung Quốc nó thu mua nhiều thì hàng mình mới
đắt.”
Theo ông Hóa, ban đầu, cứ ngỡ rằng Trung Quốc không mua vải của người
Việt, nông dân sẽ chết đói vì không tiêu thụ được vải và một viễn cảnh
những gốc vải bị chặt tả tơi để trồng cây khác hiện dần trước mắt. Thế
nhưng khi những nhà buôn miền Bắc quyết định đổ xô vào miền Nam thì câu
chuyện đã hoàn toàn khác.
Vì miền Nam ít trồng được cây vải mà người miền Nam lại rất thích
trái vải, chính vì thế, việc tiêu thụ trái vải ở miền Nam trở nên dễ
dàng, thuận lợi. Hơn nữa, người miền Nam rộng lượng và chi tiền không bị
ki bo, keo kiệt, chính vì thế việc mua bán ít có chuyện “cò kè bớt một
thêm hai”, việc trả chác chua ngoa hiếm xãy ra, chỉ cần phải giá là mua,
không phải giá thì đi, chuyện mua bán đối với người miền Nam vừa dễ
thương vừa hào sảng, phóng khoáng.
Và có lẽ chính vì thế mà một số nhà buôn miền Bắc đã bỏ hẳn ý định
nối lại thị trường với Trung Quốc, đào sâu vào thị trường miền Nam.
Chính thị trường miền Nam đã cứu cây vải thiều xứ Bắc. Với giá thành
hiện tại, có những ngày nhà vườn mang vải ra chợ đầu mối quá nhiều, mỗi
kí lô vải sụt xuống còn ba ngàn đồng, nghĩa là một kí vải mua chưa được
nửa ổ bánh mì thịt. Nhưng tại các chợ miền Nam, giá mỗi kí vải vẫn dao
động từ hai mươi đến hai mươi lăm ngàn đồng, vẫn bán rất chạy và không
khí chợ miền Nam luôn làm cho nhà buôn miền Bắc lần đầu đưa vải vào miền
Nam lâng lâng hy vọng.
Khác với việc buôn bán với nhà buôn Trung Quốc, bắt nhà buôn Việt Nam
phải hầu hạ, chầu chực và đôi khi gài thế để ứ hàng, cuối cùng phải bán
đổ bán tháo… Các nhà buôn miền Nam luôn nói thẳng và cảm thấy không vừa
giá thì tuyên bố không mua, nếu đúng giá thì vui vẻ nhận hàng. Hầu như
làm việc với nhà buôn miền Nam luôn tạo cảm giác gần gũi, dễ sống gấp
triệu lần so với việc phải chơi với nhà buôn Trung Quốc.
Chính vì thế, theo ông Hóa, thị trường miền Nam sẽ thay thế cho thị
trường Trung Quốc trong nhiều năm tới và ông lấy làm hối tiếc tại sao
không nghĩ sớm đến việc đưa nông sản vào miền Nam mà bán để dễ dàng và
thuận tiện nhiều thứ mà lại dây dưa với người Trung Quốc quá lâu dài để
rồi hàng trăm thứ hệ lụy không đáng có đã ập lên đầu người dân Việt Nam.
Câu chuyện trái vải thời giàn khoan Trung Quốc xâm lược Việt Nam là
một câu chuyện dài, bởi nó liên quan đến người nông dân và nó phản ánh
tâm tư của nhà nông Việt Nam trước bối cảnh lịch sử hết sức rối ren của
đất nước mà trong đó, phần lỗi lại thuộc về một thứ gì đó thuộc cấp độ
vĩ mô.
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.Phong trào chơi súng tự chế ở Tây Nguyên
Giới trẻ Việt Nam nói chung và giới trẻ miền Trung – Tây Nguyên, đặc
biệt là các huyện miền núi thuộc các tỉnh Tây Nguyên đang say sưa với
loại súng tự chế từ những chiếc ống nhựa PVC và chai đựng nước suối.
Ảnh hưởng an ninh xã hội
Có thể nói rằng tuy cây súng chỉ chế tác thủ công rất đơn giản nhưng
nó được ứng dụng từ những tiêu chuẩn rất cao của ống và chai nhựa, chính
vì thế, mức độ sát thương và tầm ảnh hưởng của nó đối với an ninh xã
hội không phải là nhỏ.
Những cây súng tự chế đang dần được cải tiến. Một bạn trẻ ở huyện Chư Sê, Gia Lai, chia sẻ: “Làm
súng thì làm cho vui vậy thôi chứ bắn giết gì ai. Chẳng qua là mình
thấy không an toàn thì mình làm, đã làm thì phải có câu lạc bộ chứ đâu
phải tự nhiên mà làm. Đương nhiên là nhà nước nào mà cho mình làm, nhà
nước mình thì không cho mình làm rồi, nhưng mà mình tự làm, bức quá bị
bắt nộp phạt thì mình nộp phạt. Chứ xã hội mà tụi bắt trộm chó cũng có
súng để bắn thì mình cũng phải có để bảo vệ mình chứ, vậy thôi!”
Làm súng thì làm cho vui vậy thôi chứ bắn giết gì ai. Chẳng qua là mình thấy không an toàn thì mình làm, đã làm thì phải có câu lạc bộ chứ đâu phải tự nhiên mà làm.
-Một bạn trẻ
Bạn trẻ này nói chuyện một cách dí dỏm rằng biết chế súng và sử dụng
súng tự chế một cách thuần thục, điệu nghệ là có công lớn đối với đất
nước. Vì ít nhất bạn cũng có cái để tự bảo vệ khu vườn cà phê của gia
đình mình trên các rẫy, sườn núi và nếu kẻ xâm lăng Tàu Cộng xuất hiện,
dù gì đi nữa, bạn cũng có cây súng để làm mấy phát cho hả cái dạ của con
dân một nước bị coi là nhược tiểu, hèn kém.
Kể thêm, bạn trẻ này nói rằng kĩ thuật làm súng bằng nhựa PVC rất đơn
giản, chỉ cần một vỏ chai nước suối bằng nhựa dẻo, một chiếc bơm xe
đạp, một ống nhựa làm nòng súng, một con ruồi xe máy và vài miếng ruột
xe, coi như vật liệu để chế súng đã tạm đầy đủ. Việc tiếp theo là cưa
ống nhựa dài từ 80cm đến 1,2 mét, tùy yêu cầu viên đạn đi xa hay gần mà
cưa độ dài của ống nhựa tỉ lệ.
Nếu như ống nhựa ngắn, viên đạn sẽ đi gần, ống nhự dài thì viên đạn
đi xa hơn. Nhưng độ nén của bầu hơi cũng quan trọng không kém, nếu chỉ
là chai nước suối đơn giản thì không thể chế được súng có tầm đạn xa,
muốn có tầm đạn xa và sức công phá lớn, cần phải có một bình chứa khí
nén tương đối dày bằng nhựa tổng hợp hoặc bằng kim loại thì sức công phá
của viên đạn có thể xuyên tường một cách rất bình thường.
Một bạn trẻ khác ở Đắc Lắc, tên Hùng, biệt danh là Hùng Cá Mập, cho
chúng tôi biết thêm là ngoài các loại súng dùng bình nén bằng nhựa, súng
nén hơi cồn cũng đã ra đời và sức xuyên phá của viên đạn có thể đạt ở
tầm của súng trường AK, ví dụ như bắn xuyên mái tôn, bắn xuyên tường dày
10cm. Và với loại súng này, việc hạ sát một con khỉ, một con trâu hoặc
một con người là quá dễ dàng. Vấn đề còn lại chỉ là chuyện bắn chính xác
hay không mà thôi.
Và để có một cây súng tự chế bắn chính xác theo ý muốn, giới thanh
niên Tây Nguyên đã thành lập nhiều câu lạc bộ những người yêu thích súng
tự chế nhằm trao đổi kinh nghiệm chế tác, truyền đạt những kỹ thuật chế
tác mới được tìm tòi nhằm bổ sung cho nhau, tạo ra những cây súng có
công năng chẳng kém gì súng chiến đấu.
Theo Hùng nói, có lẽ sắp tới đây, có một nhóm trong câu lạc bộ của
Hùng tuyên bố sẽ chế ra cây súng bằng nhựa có thể bắn chết voi rừng, hổ,
cọp và có thể nhắm bắn vào ban đêm. Đương nhiên là cây súng này có giá
thành cao hơn nhiều so giá thành dao động từ 100 ngàn đồng đến 200 ngàn
đồng ở những cây súng đang sử dụng.
Nhà nước cấm nhưng dân vẫn làm
Nhà nước cấm nhưng câu lạc bộ vẫn cứ hoạt động mạnh Một người là
thành viên câu lạc bộ yêu thích súng tự chế ở thành phố Buôn Ma Thuột,
tỉnh Đắc Lắc, tên Nam Hải, chia sẻ: “Về nguyên lý là một là nó dùng
lò xo, hai là nó dùng hơi nén tức là đi qua một hệ thống làm cho áp lực
tăng lên đó, thì nó sẽ bắn đi thôi, nó phải dùng dòng điện nên mang lỉnh
kỉnh lắm. Ví dụ như vừa rồi nó bắt trộm chó nó bắn chết 3 người đó, thì
nó dùng xung điện. Nó bắn ra thì cái đầu đinh nó được nối với một đầu
dây bằng thép nên nó thu hồi lại được mà. Khi nó bắn ra thì nó nối cái
mạch điện lại nên người ta bị giật tê, chết. Mấy cây súng tự chế khác
cũng vậy, nó phải theo nguyên lý, một là dùng hơi, hai là dùng lò xo, để
nó bung cây kim hỏa ra, bung cây kim hỏa ra với lực mạnh thì nó đập vô
ngòi nổ, lúc đó viên đạn nó tống ra thôi.”
Đương nhiên là nhà nước nào mà cho mình làm, nhà nước mình thì không cho mình làm rồi, nhưng mà mình tự làm, bức quá bị bắt nộp phạt thì mình nộp phạt.
-Một bạn trẻ
Theo Nam Hải, mỗi câu lạc bộ yêu thích súng tự chế có một nguyên tắc,
tôn chỉ và mục tiêu riêng, và mỗi câu lạc bộ phân ra thành nhiều nhóm,
mỗi nhóm lại có mục tiêu theo đuổi riêng trong vấn đề chế tác cũng như
sản phẩm. Thậm chí mẫu súng cũng được các câu lạc bộ tự thiết kế một
dáng vẻ, mẫu mã riêng để tạo dấu ấn của họ.
Ví dụ như câu lạc bộ của Nam Hải thiên về súng hơi cồn, loại súng này
tốn kém hơn so với súng dùng bình nhựa chứa nước suối nhưng lại có công
năng dị biệt so với phong trào súng tự chế. Và như vậy, trừ những các
nhân lẻ tẻ tự chế súng thì không xếp vào hàng ngũ nào, chứ những câu lạc
bộ khác cũng có đặc trưng và mẫu mã của họ, nếu câu lạc bộ nào chế tác
súng hơi cồn, muốn cho thành công tốt đẹp thì phải cần đến sự tư vấn của
câu lạc bộ mà Nam Hải đang sinh hoạt. Bởi ở đây, khỏi phải mày mò gì
nhiều cũng có thể lấy được những công thức chế tác khiến cho sức công
phá và độ chính xác của nó đạt ở thang số rất cao.
Ngược lại, nếu như các câu lạc bộ khác muốn chế tác súng hơi cồn mà
không cần đến câu lạc bộ của Nam Hải để tư vấn, điều đó cũng đồng nghĩa
là họ đang tuyên chiến kỹ thuật với câu lạc bộ. Một khi đã tuyên chiến,
họ buộc lòng phải chế tác được những cây súng có hiệu dụng cao hơn, có
tính năng hiện đại hơn những cây súng do câu lạc bộ mà Nam Hải đang hoạt
động. Nếu không làm được vậy, họ phải tự động rút bỏ kế hoạch chế tác.
Đây là luật chơi bất di bất dịch của những nhóm chế tác súng.
Và, hiện tại, hầu như trẻ em cũng có thể tự chế cho mình một cây súng
mà chỉ tốn không tới 100 ngàn đồng và có thể chơi đùa, nhắm bắn trên
các ngọn cây, chim chóc một cách vô tư, không hề nghĩ đến hậu quả cũng
như những nguy hiểm do súng đạn gây ra. Còn các nhóm chế tác súng ở Tây
Nguyên, tuy đã bị bắt và nộp phạt nhiều lần nhưng họ vẫn chưa hề ngưng
hoạt động.
Sở dĩ có chuyện như vậy, theo một giáo sư ở đại học Tây Nguyên nhận
xét là do nhu cầu tự vệ của tuổi trẻ quá cao mà an ninh tâm lý của họ
lại quá thấp, họ không có niềm tin vào nền trị an của quốc gia trong bối
cảnh hiện tại. Chính vì thế, khi có điều kiện để phát triển những gì
liên quan đến bạo lực và sát thương, họ sẽ ngay lập tức biến thành trò
chơi nhằm thỏa mãn sự bất an vốn sâu thẳm bên trong tâm hồn họ.
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.http://www.rfa.org/vietnamese/reportfromvn/self-made-guns-in-west-highland-06272014121906.html
Bán phụ nữ Việt Nam sang Trung Quốc : Thêm một báo động
DR
Nhiều nhà quan sát cho rằng khó biết được chính xác con số thực tế
phụ nữ bị đưa bất hợp pháp sang Trung Quốc là bao nhiêu, vì tại nhiều
vùng nghèo khó, xa xôi, nhiều trường hợp bị bắt cóc hay bị lừa sang
Trung Quốc không được ghi nhận.
Theo giới chuyên gia và hoạt động nhân quyền, không chỉ Việt Nam, mà
các phụ nữ Lào, Cam Bốt, Miến Điện hay Bắc Triều Tiên cũng là các nạn
nhân của những đường dây buôn người đưa sang Trung Quốc, quốc gia đang ở
trong tình trạng mất cân bằng dân số nghiêm trọng. Chính sách ép buộc
mỗi gia đình chỉ được có một con và hủ tục trọng nam khinh nữ, khiến
hàng triệu đàn ông Trung Quốc hiện nay không tìm được vợ, là hai trong
số những nguyên nhân chính của tệ nạn này.
Ông Michael Brosowki, người sáng lập và chủ tịch Quỹ trẻ em Rồng Xanh (Blue Dragon Children's Fondation),
một tổ chức phi chính phủ hoạt động tại Việt Nam, các phụ nữ Việt Nam
thường bị bán sang Trung Quốc để làm vợ hay vào các động mại dâm, với
khoản tiền lên tới 5.000 euro. Kể từ năm 2007, Hiệp hội Rồng Xanh đã giải cứu 71 phụ nữ, là nạn nhân « buôn người ». Một nỗ lực lớn nhưng ắt hẳn còn rất nhỏ so với số lượng nạn nhân.
Trong một thời gian dài, nạn buôn phụ nữ và trẻ em sang Trung Quốc
không được chú ý thích đáng tại Việt Nam, trong khi đó, theo ông Phil
Robertson, Giám đốc khu vực Châu Á của tổ chức Human Rights Watch : “Chính quyền Trung Quốc đã dìm vấn đề này trong im lặng”.
Theo ghi nhận của một nhà hoạt động xã hội tại Việt Nam, chính quyền
Trung Quốc rất ít hợp tác trong việc hỗ trợ tìm kiếm những người « bị bán » sang Trung Quốc.
Nghèo đói, bần cùng và sự lừa dối của người thân
Những lời kể của các nạn nhân được giải cứu trở về Việt Nam cho thấy,
phụ nữ đặc biệt tại các vùng hẻo lánh thường là nạn nhân của các đường
dây đưa người qua biên giới, bởi họ « thiếu thông tin » về hiểm
họa đáng sợ này. Theo các nhà hoạt động xã hội, những kẻ mang lại tai
họa cho các thiếu nữ rất thường khi là thân nhân hay bạn bè của chính
nạn nhân.
AFP đã tiếp xúc với một số nạn nhân, trong đó có Kiab, một thiếu nữ
H’mông, người vừa trở về Việt Nam, sau khi trải qua một tháng tại nhà « chồng », cho biết chính người anh trai đã lừa cô sang Trung Quốc để bán.
Hiện tại, rất nhiều gia đình các khu vực miền núi phía bắc Việt Nam
nơm nớp sống trong nỗi lo sợ con gái, cháu gái trong gia đình bị bắt
sang Trung Quốc.
Theo AFP, chính quyền Việt Nam cho biết đã tiến hành nhiều chương
trình giáo dục tại các vùng nông thôn gần biên giới, để cảnh giác các em
gái không nên tin vào những người lạ. Nhiều nhà hoạt động xã hội chống
nạn buôn người tại Việt Nam ghi nhận, trong hiện tại, cảnh sát và chính
quyền Việt Nam đã nhìn nhận « một cách rất nghiêm túc » về vấn đề này.
Ông Nguyễn Tường Long, Chi cục trưởng Chi cục Phòng chống tệ nạn xã
hội Lào Cai, cho biết cuộc sống bần cùng, tình trạng thiếu đói là hoàn
cảnh của hơn mười em gái các dân tộc thiểu số, vừa được giải cứu từ
Trung Quốc, hiện đang được chăm sóc tại một trung tâm hỗ trợ của tỉnh.
Một số nhóm xã hội chống nạn buôn người tại Việt Nam cho rằng, thật
khó mà báo động được các thiếu nữ về các nguy cơ rình rập họ, khi như
chính thân nhân và bạn bè lại thường là những kẻ cố tình « bán »
đứng con em mình hay tiếp tay cho các đường dây buôn người. Nhiều người
cho rằng cần có các trừng phạt nặng hơn đối với thủ phạm các đường dây
buôn người, thậm chí cần truy tố và xét xử ngay tại địa phương, để nâng
cao ý thức của cộng đồng.
Nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em rất trầm trọng tại Việt Nam, nhất là
sang Trung Quốc, cần đến những phối hợp từ nhiều phía để có thể được
ngăn chặn và đẩy lùi, đặc biệt những nỗ lực để nhận thức sâu hơn, chính
xác hơn và đầy đủ hơn về thực trạng này.
Đưa
người sang các ổ mãi dâm và các luồng nhập cư khác sang Trung Quốc. Ảnh
UINIAP (United Nations Inter-Agency Project on Human Trafficking's)
|
HẠ MAI * VẠCH TRẦN ÂM MƯU NGUYỄN TẤN DŨNG
THỦ TƯỚNG CÓ THỰC SỰ KHÔNG MÀNG
“HỮU NGHỊ VIỂN VÔNG”?
1- Dàn dựng
Ngày 8-5-2014, Hội nghị Trung ương lần thứ 9 khai mạc, TBT Nguyễn Phú
Trọng – với chức trách của mình, đọc lời mở màn Hội nghị. Cả nước nín
thở trông chờ, hy vọng sẽ được nghe những tuyên bố xứng tầm, hoặc chí ít
thì cũng có những động thái nào đó về vấn đề biển Đông. Tuy nhiên,
giọng nói có phần rề rà, vẻ bình chân như vại của Tổng Bí thư và chủ đề
“lãng nhách” bàn về “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” trở nên phản cảm trên nền vấn đề Biển Đông
đang nóng rẫy (cho dù chắc chắn, Nguyễn Phú Trọng không động chạm đến
biển Đông vì Vua tập thể” (BCT) đã quyết định như vậy!). Những hy vọng,
trông đợi nhanh chóng chuyển thành ê chề, chán chường và tức giận, kết
quả là Nguyễn Phú Trọng hứng đủ mọi rủa xả, thóa mạ.
Trong lúc thái độ, phản ứng của các tầng lớp nhân dân căng như dây đàn,
ngày 11-5-2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tới Myanmar, có bài phát biểu
tại phiên họp toàn thể của các nhà lãnh đạo ASEAN. Chưa nguôi nỗi thất
vọng vì Nguyễn Phú Trọng, chẳng mấy ai trông đợi ở bài phát biểu của Thủ
tướng, song Thủ tướng đã có cú “lật cánh” ngoạn mục khi nhắc đến các
cụm từ “biển Đông”, “ngang nhiên”, “hung hăng”, “vi phạm đặc biệt nghiêm
trọng”….Trước khung thành không có thủ môn, Thủ tướng chỉ việc co chân
và… sút!
Dù đã có một vài cụm từ có vẻ cương quyết, nhưng nếu phân tích kỹ toàn
bài phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và đặt trong bối cảnh nguy
cơ, hiểm họa từ giàn khoan HYSY-981, sẽ chẳng thấy có nhiều điều đặc
biệt: Giọng điệu vừa phải, lời lẽ uyển chuyển, nhẹ nhàng, không động
chạm, tránh né, không dám gọi đúng tên sự việc… Sau hơn 10 ngày im lặng,
những gì mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu tại Myanmar là chưa đủ,
là điều ít nhất có thể làm. Chính kiến, thái độ của Thủ tướng là nhỏ bé
trong so sánh với những gì mà Bắc Kinh đang làm. Bất kỳ Nguyên thủ quốc
gia bình thường nào cũng có thể phát biểu mạnh mẽ, thuyết phục, cứng
rắn hơn thế; nhưng, bài phát biểu đã nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt
– nó đã đánh trúng tâm lý bức bối của người dân. Nó được tung hô hơn
giá trị đích thực, nhất là bởi bộ máy báo chí “định hướng XHCN” và đội
quân Dư luận viên (DLV) đông đảo.
Tiếp dòng sự kiện, chiều ngày 14-5 -2014, Hội nghị Trung ương lần thứ 9
bế mạc. Dù đã một lần thất vọng, người dân vẫn mong manh trông đợi những
thông điệp mới từ Tổng Bí thư, nhất là khi đã có một trong bốn tứ trụ
khai bước, mở đường. Nhưng, như Trần Hữu Dũng đúc kết thì “diễn văn bế
mạc của Nguyễn Phú Trọng có 7 đề tài chính. Hai đề tài đầu tiên (và dài
nhất) là: 1- Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam; 2- Tích cực đấu tranh
với những biểu hiện lai căng. Đề tài thứ 4 là ngắn nhất, nói về quốc
phòng, an ninh, đối ngoại… Không có bất cứ một chữ “Trung Quốc” nào và
chỉ có duy nhất một chữ “biển Đông” (còn từ “văn hóa” thì được nói đến
hơn 30 lần)”.
Một lần nữa người dân Việt Nam lại ngã ngửa! “Ấn tượng” Myanmar, vì thế,
càng khắc đậm dấu ấn. Mưa đá, bão đá tiếp tục trút ào ào về phía Nguyễn
Phú Trọng, nhất là khi trước đó (ngày 13-5-2014), thông tin về việc
người anh “bốn tốt” khước từ gặp gỡ Nguyễn Phú Trọng đã lan tràn trên
thế giới mạng (dù việc đề nghị gặp Tập Cận Bình, coi đó là một kênh để
giải quyết vấn đề cũng là lẽ thường).
Khi Nguyễn Phú Trọng (cùng với một loạt nhân vật khác) đã “chết lâm
sàng” và mười ngày sau sự kiện Myanmar – thời gian vừa đủ để “ấn tượng
Myanmar” bắt đầu nhàn nhạt (trong khi biển Đông ngày càng căng thẳng);
đồng thời, sau khi đã thỏa thuê ném đá, nhân dân cần tiếp một cú chích
“vitamin liều cao”, thì Manila và Diễn đàn kinh tế Thế giới về Đông Á
2014 là một cơ hội thích hợp.
Quả thật, Thủ tướng đã làm một động tác kích đẩy nhẹ nhàng chỉ với cụm từ “hữu nghị viển vông” và đã đạt hiệu suất ngoài mong đợi, trong phút chốc “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”, trở thành “anh hùng dân tộc” - thần tượng của một đất nước luôn khát khao thần tượng. Biển Đông đã nóng, những lời ca tụng Thủ tướng bằng những mỹ từ chói sáng nhất, vang vọng nhất, ngời ngợi nhất… còn nóng hơn gấp ngàn lần: “Phát biểu của Thủ tướng hội tụ khí phách Việt Nam”; “Thủ tướng nói lời non sông đất nước”; “phát ngôn của Thủ tướng mang sức hiệu triệu”; “tiếng nói dũng cảm của ông Thủ tướng cự tuyệt thứ "hòa bình hữu nghị viển vông" có giá trị như một lời hô thoát Hán”…
Quả thật, Thủ tướng đã làm một động tác kích đẩy nhẹ nhàng chỉ với cụm từ “hữu nghị viển vông” và đã đạt hiệu suất ngoài mong đợi, trong phút chốc “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”, trở thành “anh hùng dân tộc” - thần tượng của một đất nước luôn khát khao thần tượng. Biển Đông đã nóng, những lời ca tụng Thủ tướng bằng những mỹ từ chói sáng nhất, vang vọng nhất, ngời ngợi nhất… còn nóng hơn gấp ngàn lần: “Phát biểu của Thủ tướng hội tụ khí phách Việt Nam”; “Thủ tướng nói lời non sông đất nước”; “phát ngôn của Thủ tướng mang sức hiệu triệu”; “tiếng nói dũng cảm của ông Thủ tướng cự tuyệt thứ "hòa bình hữu nghị viển vông" có giá trị như một lời hô thoát Hán”…
Chỉ nghe Thủ tướng nói, chưa cần xem Thủ tướng làm, một bộ phận đông đảo
người Việt, trong đó có cả tầng lớp tinh hoa, đã vội vàng “dịch” lờiThủ
tướng thành bốn cơ hội/khả năng sau: 1- Thoát Hán; 2- Tổ quốc trên
hết!; 3- “Xoay trục” sang phương Tây; 4- Dân chủ. Bốn cơ hội “tự phiên”
đã thắp lên niềm tin, hy vọng về một Việt Nam chuẩn bị cất cánh và thậm
chí đã nghĩ đến cơ hội được bày tỏ lòng yêu nước, khi chính giới lãnh
đạo khẩn thiết “kêu gọi” nhân dân biểu tình…. Và ngần ấy cơ hội cũng
thừa để ve vuốt tinh thần, khát khao, ý chí của người Việt trong nhiều
ngày qua – điều mà Thủ tướng đã nhếch môi cười mỉm biết trước. Quả thật,
để “ghi điểm”, Thủ tướng không tốn nhiều công sức. Chỉ bằng một con
tính lớp một và vài ba thao tác kỹ thuật đơn giản, Thủ tướng đã kịp điều
chỉnh, định hướng dư luận theo cách có lợi nhất cho các mục tiêu, tính
toán của mình.
2- Đằng sau dòng sự kiện
Song, niềm tin và hy vọng chỉ có thể trở thành hiện thực khi được xây
trên nền tảng vững chắc là tính khả thi và mong muốn thực thi của chính
trị gia, chứ không phải là các thủ thuật hoặc tiểu xảo chính trị. Xếp
đặt, sàng lọc, lắng đọng và móc nối các sự kiện, phần chìm của tảng băng
dần lộ diện:
Ngày 5-5-2014, vài ngày sau khi HYSY-981 được ông bạn “16 chữ vàng” đặt
phịch vào sân nhà hàng xóm, Blogger AnhBaSam Nguyễn Hữu Vinh – chủ một
trang điểm thông tin với tinh thần nhà báo phải nói đúng sự thật bị bắt
khẩn cấp. Chủ trang mạng “từ khi khởi đầu đến nay đều ưu tiên cho những
thông tin về Trung – Việt, cảnh báo và phản đối những hành động xâm phạm
chủ quyền Việt Nam của Trung Quốc”[1]; đồng thời, dám đăng những bài điểm trúng huyệt đạo[2]
bị “tống kho” đã ngầm phản ánh “quyết tâm” chống Trung Quốc của Chính
phủ do Thủ tướng đứng đầu và ý định “đốn phạt” những người có thông tin,
có khả năng bình luận sắc sảo, “đi guốc vào trong bụng”.
Ngày 11-5-2014 (cũng là ngày Thủ tướng tới Myanmar và có bài phát biểu
trông đợi) – lần đầu tiên người dân Việt Nam được “bật đèn xanh” biểu
tình thể hiện lòng yêu nước (dù có hai loại “biểu tình nhân dân” và
“biểu tình quốc doanh”). Hai sự việc đặt cạnh nhau, khiến người Việt
phần nào quên điAnhBaSam, bắt đầu tin tưởng ở sự thay đổi của Chính phủ
(người Việt Nam vốn cả tin, nhẹ dạ).
Tuy nhiên, sự kiện bạo loạn Bình Dương (12-5), Vũng Áng, Hà Tĩnh (14-5)…
đã mang đến những dự cảm chẳng lành. Phóng sự “Đi giữa dòng bạo động”
của nhạc sĩ Tuấn Khanh đã giúp giải đáp nhiều nghi vấn. Quả thật, sự
lặng thinh và vắng mặt của các lực lượng an ninh theo kiểu thả nổi đám
đông, cũng như cách thức tổ chức, kích động biểu tình rất chuyên nghiệp
đã chỉ báo về một âm mưu, kế hoạch được sắp đặt tỉ mỉ, tính toán chu đáo
“từ trong ruột”. Việc đồn đoán “công an bất ngờ, trở tay không kịp” để
bạo động xảy ra đã bị đánh đổ, bị phủ định hoàn toàn bởi “lịch sử hào
hùng, vẻ vang” của lực lượng công an từng phá những vụ án hình sự nổi
tiếng, từng đánh sập, bóp nghẹt từ trong trứng nước mọi “âm mưu bạo
loạn” dù mong manh nhất.
Thêm vào đó, sau nhiều ngày điều tra, bộ máy an ninh tinh nhuệ, khổng
lồ, nghiệp vụ cứng đã kết luận Việt Tân là thủ phạm – một kết luận ngô
nghê, non nớt, vụng về đối lập với “tài năng” phá án và cùng với kết quả
điều tra người cầm đầu gây rối chủ yếu là các băng giang hồ, Bộ Công an
đã tự tố cáo. Tư duy “lùn” của bộ máy an ninh đứng dưới “bóng mát”
chiếc lọng vàng của Thủ tướng đã không chệch nguyên tắc “chủ nào, tớ ấy”
khi phù phép, biến Việt Tân thành “vật tế thần”.
Tuy nhiên, nếu chỉ đổ tội cho Việt Tân thôi thì có vẻ hổng hểnh. Sự đập
phá có lựa chọn, mang tính chủ đích “chỉ có 2 doanh nghiệp của Trung
Quốc bị đốt cháy” trong số “700 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
trực tiếp bị đe dọa và “trên 460 doanh nghiệp bị đập phá” đã kịp thời
lấp đầy lỗ hổng, bẻ quặt một bộ phận dư luận tin rằng có bàn tay của
Trung Nam Hải – đó cũng là cách đẩy nghi vấn sang phe Cung vua.
Ngày 17-5-2014 (một ngày trước khi cuộc xuống đường toàn dân được dự
kiến), các dòng tin nhắn “Thủ tướng chỉ thị…”; “Thủ tướng yêu cầu…”;
“Thủ tướng đề nghị…”, như cơn lũ ập vào hơn 120 triệu thuê bao di động.
Việc các nhà mạng (không hiểu vô tình hay hữu ý) “thi nhau sỉ nhục Thủ
tướng” (như Huỳnh Ngọc Chênh giễu cợt) đã chính thức phát đi tín hiệu
đau thương cho ngày toàn dân xuống đường. Thực vậy, ngày 18-5-2014, câu
chuyện biểu tình trở về vạch xuất phát ban đầu. Dưới sự chỉ đạo “xuất
sắc” của Thủ tướng, nhân danh tái lập trật tự, an toàn xã hội, người
biểu tình bị sách nhiều, bị giam giữ, bị lôi, kéo, khênh vứt lên xe,
thậm chí bị đánh đập…
Sau ngày 18-5 đến thời điểm hiện tại, không khí biểu tình xẹp lép. Bình
Dương, Vũng Áng đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử! Đến hết năm 2015
(không loại trừ còn lâu hơn nữa), Luật Biểu tình vẫn cứ là giấc mơ của
nhân dân Việt Nam. Xin mời Trung Quốc tiếp tục nghênh ngang xâm phạm chủ
quyền, lãnh thổ Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã bị dán băng keo vào mồm
theo một cách hết sức “hợp pháp”. Cuối cùng, người dân Việt Nam không
chỉ mất sạch cơ hội bày tỏ lòng yêu nước, phải bịt mồm, bịt chính kiến,
mà việcbắt bớ và theo dõi “bọn phản động” có tư tưởng dân chủ, tư tưởng
chống Trung Quốc cũng trở nên dễ dàng hơn.
Sự kiện ngày 18-5 đẩy sự bức bối vốn có lên một mức mới, nhưng chỉ ba
ngày sau, những bức xúc có chiều hướng gia tốc đã bị đè bẹp một cách
đĩnh đạc, thuyết phục bởi cụm từ “hữu nghị viển vông” (21-5-2014). Tiếp
nối những lời phát biểu được mệnh danh là “mang hồn thiêng sông núi”,
Thủ tướng “bồi” thêm vào niềm hy vọng của người Việt bằng một “chưởng”
kha khá: “Việt Nam chúng tôi đang cân nhắc các phương án để bảo vệ mình,
kể cả phương án đấu tranh pháp lý, theo luật pháp quốc tế”[3].
Sau một loạt những mánh lới chính trị, đã đến thời điểm lên tiếng của
các DLV. Hàng loạt bài báo chỉ trích phe Cung vua hèn kém, cam tâm nô
lệ, bán nước cho Tàu, đứng sau các vụ bạo loạn…và tung hô “thần tượng
mới”, gọi đó là “hiểm họa đối với Trung quốc trước mắt và lâu dài”…đã
dẫn dắt dư luận theo hướng Tuyên bố “hữu nghị viển vông” định sẵn.
Trong hành động “hậu diễn văn”:
Thứ nhất, Thủ tướng lập tức gửi thông điệp trấn an đối phương: 1- "Việt
Nam không tham gia bất cứ liên minh quân sự nào để chống lại một quốc
gia khác”[4]
(Thủ tướng thật khéo “đánh lận con đen”- câu hỏi không hề nói đến “liên
minh quân sự để chống lại một quốc gia khác”); 2- “Việt Nam không bao
giờ đơn phương sử dụng biện pháp quân sự, không bao giờ khơi mào một
cuộc đối đầu quân sự, trừ khi bị bắt buộc phải tự vệ”[5].
Tuyên bố của Thủ tướng có thể được hiểu như sau: 1- Trung Quốc hoàn toàn
yên tâm, Việt Nam sẽ không “xoay trục”, Mỹ và Nhật có muốn cũng không
cản được Trung Quốc ở biển Đông; 2- Trung Quốc bình tĩnh đặt giàn khoan,
cứ “nuốt” dần biển Đông, miễn là không nổ súng.
Thứ hai, đối với việc kiện Trung Quốc, Thủ tướng tìm kế hoãn binh: “Về
giải pháp đấu tranh pháp lý (…), chúng ta đã chuẩn bị hàng chục năm nay,
còn thời điểm nào hợp lý thì Bộ Chính trị sẽ quyết định”[6]. Tóm lại, không kiện là do Bộ Chính trị đấy chứ, không phải do tớ - điều Thủ tướng muốn nói là như vậy. Đổ thừa cho Bộ Chính trị cũng có nghĩa là phe Cung vua hứng tiếp mũi dùi dư luận.
Vài ngày sau, Đại tướng Phùng Quang Thanh nhũn nhặn “phun châu, nhả
ngọc” tại Hội nghị Shangri La (31-5-2014) khiến người dân Việt Nam phừng
phừng nổi giận, cho dù những gì rơi ra từ miệng Đại tướng đều là ý tứ
Bộ Chính trị (trong đó có Thủ tướng), đã được “Vua tập thể” nâng lên,
đặt xuống đến bấy bớt. Phát biểu của Phùng Đại tướng không chỉ trấn an
các “đồng chí Bốn tốt”, mà còn làm bệ phóng cho Tuyên bố “hữu nghị viển
vông” bay cao, bay xa. Nằm trong guồng vận hành của thể chế, khoác áo
quan võ, tơi tả trước búa rừu dư luận, Phùng Quang Thanh buộc phải trở
thành con tốt thí trên bàn cờ của Thủ tướng.
Như vậy, ngoài những lời tuyên bố, cho đến nay, Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng chẳng hề có bất cứ hành động thực tế mạnh mẽ nào trong khi Trung
Quốc ngày càng lộng hành trên biển Ðông. Hơn nữa, tuyên bố hay trả lời
phỏng vấn cho dù đanh thép và khí phách đến đâu cũng không thể thay thế
Tuyên bố chính thức của Chính phủ gửi đến đối phương tuyên ngôn về quan
điểm của một Nhà nước có chủ quyền – điều Thủ tướng có thể làm, song
vẫn chưa làm và sẽ không làm (nên nhớ, hành động của Trung Quốc, cũng
như thái độ, sự ủng hộ hoặc quay lưng của quốc tế phụ thuộc vào phản ứng
thực tế của Việt Nam!). Ngay cả đến việc đúng phép ngoại giao và thông
lệ quốc tế là triệu Đại sứ Trung Quốc đến để tỏ thái độ, Chính phủ của
Thủ tướng cũng không dám làm (trong khi báo chí, ti vi chỉ vừa đưa tin
hàng hóa Trung Quốc độc hại, kém chất lượng, Đại sứ Việt Nam đã lập tức
bị triệu hồi vào lúc nửa đêm để nghe huấn thị[7]).
Việc Thủ tướng “đùn” cho Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trả lời chất
vấn về biển Đông chính là dấu chấm cuối cùng trong Tuyên bố đậm tính viển vông.
3- Khi đã là bản chất…
Đến đây, bản thân dòng sự kiện đã là sự trả lời đầy đủ nhất cho câu hỏi:
Thủ tướng có thực sự không màng “hữu nghị viển vông”? Tuy nhiên, sau
những “phát biểu xứng tầm nguyên thủ quốc gia”, “hợp ý nguyện lòng dân”,
“gây xúc động hàng triệu con tim Việt”… của Thủ tướng trước họa phương
Bắc, rất có thể có một câu hỏi vẫn được đặt ra: Phải chăng, Thủ tướng đã thức tỉnh tinh thần dân tộc?
Nhưng, tinh thần dân tộc chỉ có thể thức dậy nếu nó có, dẫu chỉ là đôi
chút. Người ta không thể tin Thủ tướng có tinh thần dân tộc, bởi lẽ, một
trong những căn cứ tối thiểu, cơ bản nhất là dù ở bất cứ vị trí nào
(chưa nói đến vị trí Thủ tướng) cũng phải có ý thức làm lợi cho dân, cho
nước, hoặc chí ít là không làm hại, “làm nghèo đất nước, làm khổ nhân
dân”[8].
Còn Thủ tướng? Những “phát ngôn đanh thép” (?!) thời gian qua thực chất
là những tiểu xảo chính trị. Thủ tướng luôn biết chọn vấn đề, thời điểm
“ra đòn”, tung hỏa mù, làm nhiễu… để gây uy tín, “ghi điểm”, nhằm củng
cố địa vị hoặc bành trướng ảnh hưởng.
Còn nhớ, ngồi vào ngôi vị Thủ tướng nhiệm kỳ đầu, biết rằng tham nhũng
đang trở thành bức bối xã hội, Nguyễn Tấn Dũng đã nắm lấy điểm yếu
huyệt, lập tức tuyên bố trong Diễn văn nhậm chức: “Kiên quyết đấu tranh
ngăn chặn và đẩy lùi bằng được tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí”[9].
Thực tế thì gần hết hai nhiệm kỳ Thủ tướng, tình hình tham nhũng trầm
trọng thêm với những biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp. Năm 2013,
theo chỉ số tham nhũng, Việt Nam xếp thứ 116/176 quốc gia được khảo sát.
Các vụ đại án tham nhũng đều có bóng dáng của quan chức cấp cao, các
nhóm lợi ích đặc quyền, nhóm thân hữu. Tham nhũng tiền bạc, đất đai,
tham nhũng quyền lực, chính sách là hiện tượng phổ biến, thường ngày.
Những tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước làm ăn lỗ với những con số “khủng”
là kết quả xâu xé của tham nhũng[10].
Làn sóng “tái cấu trúc” hệ thống Ngân hàng (Eximbank, Techcombank,
Phương Nam, Bản Việt, Vietinbank, BIDV, Bắc Á…) hoặc để thôn tính, hoặc
để trốn nợ xấu cũng là dưới bàn tay “phù phép” của các nhóm thân hữu.
Tháng 2-2010, khi vụ việc Đoàn Văn Vươn đang gây nên một làn sóng phản
đối lan rộng, bức bối vì thiếu dân chủ dâng cao, Thủ tướng ra tay đúng
lúc, kết luận một cách “minh quân”: Chính quyền Tiên Lãng ngụy biện, sai
lầm, vô cảm... “quanh co khi phải đối diện với sự thật”. Thế là Thủ
tướng trở thành “người hùng”, người dân Tiên Lãng, người dân cả nước đặt
hy vọng, tin tưởng vào Thủ tướng”. Nhưng cuối cùng thì…Vươn vẫn hoàn
Vươn - người dân vào tù, sai nha thăng Tướng!
Năm 2013, biển Đông tiếp tục nóng lên trước những hung hăng gia tăng mạnh mẽ của Trung Quốc[11];
đồng thời, sự kiện 17-2 đang đến gần, lòng dân sôi sục, Thủ tướng –
“kịch nghệ” mở màn vở diễn mới. Ngày 30-12-2013, trong cuộc làm việc với
Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Thủ tướng tuyên bố hùng hồn: Hiện Bộ
Ngoại giao Việt Nam đang lên kế hoạch tưởng niệm 40 năm sự kiện Trung
Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa (1-1974) và 35 năm sự kiện Chiến tranh
bảo vệ biên giới phía Bắc (2-1979). Nhân dân hồ hởi, báo chí hào hứng
đợi chờ…. Thế rồi, mọi việc lại rơi tõm vào thinh không và khi dịp kỷ
niệm đã qua đi, ngày 19-2-2014, Thủ tướng vớt vát: “Đảng, Nhà nước không
bao giờ quên cuộc Chiến tranh biên giới phía Bắc, cũng không bao giờ
quên công lao của những đồng chí, đồng bào mình chiến đấu hy sinh để
giành thắng lợi trong cuộc chiến chống xâm lược ngày 17-2-1979”[12].
Hãy xem Thủ tướng giải thích về cái sự “không quên” và “quan tâm”: “Tất
cả chiến sĩ hy sinh đều nằm ở nghĩa trang, được nhang khói”[13] (?!).
Cái sự “phát biểu lấy được”, “phát biểu để đó” và “làm ngược lại” của
Thủ tướng được phản ánh bằng kết quả trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội
Việt Nam từ khi Thủ tướng nhậm chức đến nay:
Về chính trị, đây là thời kỳ tự do ngôn luận bị xiết chặt nhất trong các
đời Thủ tướng. Trong hai nhiệm kỳ tại vị, Thủ tướng đã ký hàng loạt
Nghị định, Quyết định, Công văn[14]…
giáng mạnh vào quyền tự do ngôn luận, đàn áp khốc liệt những người
“dám” phản biện, chất vấn hoạt động, chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước Việt Nam.
Dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng, 1.000 website bị tấn công trong năm 2009 (tăng lên gấp 10 lần so với năm 2008[15]); 300 trang web và blog "không phù hợp" đã bị đánh sập năm 2010[16].
Mặc dù Việt Nam trúng cử với số phiếu cao vào Hội đồng Nhân quyền nhiệm
kỳ 2014-2016, nhưng năm 2013, tình hình nhân quyền ở Việt Nam lại “xấu
đi nghiêm trọng”, một chiến dịch đàn áp khắc nghiệt đối với các ký giả,
blogger được tăng cường. Việt Nam đứng thứ năm trong danh sách top 10
quốc gia cầm tù ký giả tệ hại nhất trên thế giới, là nhà tù lớn thứ hai ở
châu Á sau Trung Quốc[17].
Thủ tướng đã “thành công” đưa Việt Nam vào trong danh sách Kẻ thù của
mạng Internet, xếp ở vị trí thứ 174/180 nước trong bảng danh sách tự do
báo chí[18].
Dưới “tài” chấp chính của Thủ tướng, nông dân bị cưỡng chế, đàn áp, bị
thu hồi đất; đặc biệt, đằng sau nhiều vụ cướp đất có bàn tay dính lứu
của những nhóm đặc quyền dưới ô dù của Thủ tướng với danh sách tên đất,
tên làng dài theo thời gian: Văn Giang, Dương Nội, Bắc Giang, Mễ Trì, Mỹ
Đức, Bắc Sơn (Thạch Hà, Hà Tĩnh), Vũng Áng, Đắc Nông, Ninh Thuận…. Về
tự do tôn giáo, Việt Nam là “nước vi phạm quyền tự do tôn giáo
tồi tệ nhất trên thế giới”[19].
Về tình hình nhân quyền Việt Nam, đại diện HRW John Sifton nhận xét:
“Một chính quyền tàn ác và đàn áp có hệ thống các quyền tự
do biểu đạt, tự do lập hội và tập hợp hòa bình, trấn áp
những người dám thách thức chính quyền hay dám kêu gọi dân
chủ”[20].
John Sifton cảnh báo: Đừng kỳ vọng “việc đưa ra đối thoại chiến
lược quân sự và đàm phán tự do thương mại với Việt Nam có thể
khuyến khích đất nước này thay đổi”[21]. Ông nhấn mạnh: “Nhà cầm quyền Việt Nam không hề thả lỏng nắm đấm của họ”[22].
Về kinh tế, dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng, nền kinh tế vĩ mô của Việt
Nam hết sức bất ổn, chứa đựng nguy cơ rủi ro, suy thoái; tăng trưởng GDP
giảm mạnh (năm 2007: 8,46%[23], năm 2011: 5,89%[24]; 2013: 5,4%[25]).
Nợ công của Việt Nam đã ở mức trên 81,885 tỷ USD, bình quân nợ công
theo đầu người là 905,18USD, chiếm 47,7% GDP, tăng 10,9% so với năm 2013
(tính đến ngày 13-6-2014)[26]. Việt Nam là một trong 20 nước có khả năng vỡ nợ lớn nhất trên thế giới[27], người dân Việt Nam có gánh nặng thuế và chi phí cao bậc nhất khu vực[28], tỷ lệ người lao động thu nhập thấp (dưới 2 đôla/ngày) chiếm 18,2% dân số/năm 2011 (16,1 triệu người/)[29].
Mọi yếu kém trên đây của nền kinh tế đã được Thủ tướng thừa nhận, nhận
trách nhiệm và xin lỗi trong kỳ họp thứ tư Quốc hội khóa XIII (10-2012)[30].
Về văn hoá- xã hội, xã hội Việt Nam ngột ngạt, tù túng, bế tắc, các giá
trị đảo lộn, văn hoá – giáo dục tụt dốc, đạo đức suy đồi, bệnh hình
thức, thành tích và giả dối tràn lan, len lách trong mọi ngóc ngách xã
hội. Phần lớn lớp trẻ bị chủ nghĩa vật chất chế ngự, giành giật, xâu xé
quyền lợi, chìm nghỉm trong ham muốn quyền lực, vùng vẫy trong bãi sình
lầy của “văn hóa đấm đá". Cơ chế tuyển dụng, sử dụng cán bộ không minh
bạch hình thành nên một lớp“thái tử đỏ”, “thế tử Đảng” bất tài, vô dụng,
tham lam, “ăn trên ngồi chốc”, thụ hưởng các đặc quyền, đặc lợi.
Tóm lại, Chính phủ của Thủ tướng đã hoàn thành “xuất sắc” nhiệm vụ đàn
áp con người về mặt đạo đức, ý thức chính trị, giết dần phẩm giá và nô
dịch tư tưởng, dung túng cho cái phi nhân, khiến người dân hoặc thờ ơ,
phó thác, bàng quan, vô cảm trước vận mệnh, tương lai đất nước, hoặc mắc
“bệnh sợ hãi chính trị” mãn tính, triền miên.
Về quan hệ với Trung Quốc, dưới hai nhiệm kỳ lãnh đạo của Thủ tướng,
Việt Nam lún sâu vào quỹ đạo của người láng giềng phương Bắc:
– Thứ nhất, chống Trung Quốc xâm lược là chống Chính phủ
Những lời nói, bài viết, quan điểm về Trung Quốc gây hấn, về chủ quyền
biển đảo Việt Nam, về đòi lại Hoàng Sa, Trường Sa… đều bị cấm đoán, đều
bị quy là tội phạm chính trị.
Mọi hành vi, thái độ lên án Trung Quốc đối với Chiến tranh biên giới
1979, cắt cáp tàu Việt Nam trên biển, xâm hại ngư dân Việt Nam…. bị cấm
kỵ, bị theo dõi, rình rập, dọa nạt, quy là phản động… Chính phủ của Thủ
tướng ngăn cấm, bắt bớ những người yêu nước biểu tình phản đối Trung
Quốc… Đó là những hành động tiếp tay cho Trung Quốc, chà đạp lên lợi ích
quốc gia, dân tộc. Chống Trung Quốc là chống Chính phủ - như thế, Chính
phủ đã đồng nhất mình với Trung Quốc.
– Thứ hai, kinh tế lệ thuộc vào Trung Quốc
Trung Quốc là thị trường nhập siêu lớn nhất của Việt Nam, tỷ lệ nhập
siêu tăng mạnh qua từng năm: 4,4 tỉ năm 2006; 11,5 tỉ năm 2009; 12,7 tỉ
USD năm 2011; 16,4 tỉ USD năm 2012; và 23,7 tỉ USD năm 2013[31].
Phân bón, thuốc bảo vệ thực vật nhập khẩu từ Trung Quốc chiếm khoảng
50% tổng lượng nhập khẩu của Việt Nam; đồng thời, 60-70% diện tích lúa
nông nghiệp gieo trồng giống lúa lai Trung Quốc[32].
Với việc nhập khẩu tràn lan, hàng kém chất lượng, chứa chất độc hại
tràn ngập đất nước, đồng Nhân dân tệ khuynh đảo thị trường tài chính
Việt Nam.
Trung Quốc trúng thầu tới 90% các công trình điện, khai khoáng, dầu khí,
luyện kim, hóa chất… của các dự án kinh tế Việt Nam trọng điểm, hoặc dự
án thượng nguồn, liên quan mật thiết tới tài nguyên quốc gia và an ninh
năng lượng. Các chủ đầu tư đều là trụ cột kinh tế như Tập đoàn Than -
Khoáng sản, Tập đoàn Dầu khí, Tập đoàn Điện lực, Tổng công ty Thép, Tổng
công ty Hóa chất[33]….
- Thứ ba, an ninh – quốc phòng bị đe dọa
Với 90% các công trình trúng thầu, tại các địa bàn xung yếu về quốc
phòng – an ninh (Quảng Ninh, Vũng Áng, Cửa Việt, Tây Nguyên…), người lao
động Trung Quốc sang Việt Nam lập làng, thâm nhập sâu, thậm chí lấy vợ,
sinh con, đồng hóa dân tộc.
Đến năm 2013, các công ty Trung Quốc được cấp 19 dự án trồng rừng ở 18 tỉnh với diện tích trên 398.374ha[34]
- đây đều là các dự án liên quan tới rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn hoặc
ở những vị trí, khu vực trọng yếu về quốc phòng, an ninh, nơi có nhiều
khoáng sản và kim loại quý[35].
Hiệp định vận tải đường bộ Việt Nam – Trung Quốc sửa đổi ngày 11-10-2011
đã mở rộng phạm vi di chuyển, hoạt động các phương tiện vận tải giữa
hai nước, cho phép phương tiện vận tải Trung Quốc qua lại 7 cặp cửa
khẩu, hoạt động trên 26 tuyến vận tải hành khách và hàng hóa (gồm 17
tuyến giáp biên giới và 9 tuyến vào sâu nội địa)[36].
Từ tháng 8-2012, các tuyến lần lượt được khai thông, có điều, mang
tiếng là vận tải hai chiều, song trên thực tế, do Trung Quốc đưa ra quá
nhiều quy định khắt khe, nên các doanh nghiệp Việt Nam đành “bó tay”.
Cuối cùng, chỉ có các doanh nghiệp Trung Quốc vận tải được hành khách,
hàng hóa vào sâu trong lãnh thổ của Việt Nam, biến tuyến vận tải hai
chiều thành tuyến một chiều.
Tựu chung lại, mới chỉ điểm qua vài nét khái quát, viện dẫn vài ba con
số đã thấy bức tranh chính trị, kinh tế, an ninh quốc phòng Việt Nam
hiện tại thật đáng lo ngại, ở mức nguy hiểm. Nó đồng thời cũng cho phép
đặt câu hỏi nghi ngờ về các mối liên hệ chặt chẽ của Chính phủ với Trung
Quốc. Và quả thật, tình “hữu nghị” mà Thủ tướng nói đến thực không hề
“viển vông”.
4-Thực chất đằng sau những tuyên bố…
Đối với đại bộ phận quan chức cấp cao Việt Nam hiện nay, nhất là những
quan chức đảm nhiệm vị trí quan trọng, then chốt trong bộ máy Đảng, Nhà
nước, mục đích và nhu cầu cấp thiết nhất là kéo dài thời gian tại vị,
hoặc nếu không thể kéo dài, thì phải đảm bảo “hạ cánh an toàn”.
Kéo dài thời gian tại vị cũng đồng nghĩa với việc làm phình to thêm khối
tài sản cá nhân kếch sù bằng nhiều con đường bất minh khác nhau; đồng
thời, tranh thủ thời cơ, gài con, gài cháu, sắp xếp thân tộc vào những
vị trí béo bở.
“Hạ cánh an toàn” là sau một quá trình trục lợi bằng quyền lực, rời khỏi
chính trường, khối tài sản to lớn phải được bảo toàn và khi không còn
chức quyền theo nghĩa chính thống, thì vẫn có thể đứng vào vị trí “cố
vấn”- “Thái Thượng Hoàng”.
Trên hai điểm quy chiếu nói trên, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là một hiện
thân đầy đủ nhất và câu chuyện “hữu nghị viển vông” cũng nằm trong toan
tính ấy, khi thời điểm Đại hội XII Đảng CSVN đang đến gần.
Nhìn tổng thể chính trường Việt Nam hiện nay có hai phe phái chính trị,
thường được gọi dưới cái tên “Cung Vua” - “Phủ Chúa”. Hội nghị Trung
ương 6 (10-2012) được coi là trận dàn quân đấu đá chính trị trong Đảng
CSVN căng thẳng, quyết liệt và nổi bật nhất thời kỳ đổi mới. Kết cục là
phe Cung Vua tuy giữ thế thượng phong, nhưng đến phút cuối Phủ Chúa
thoát hiểm ngoạn mục. Sau cú suýt đại bại trong gang tấc, Phủ Chúa chẳng
những không yếu đi, mà ngày càng mạnh lên, tuy nhiên, để giành phần
thắng tuyệt đối tại Đại hội XII, vẫn rất cần hạ bệ, làm mất uy tín phe
Cung Vua. Bên cạnh đó, mỗi bước đi chính trị, không thể không tính đến
phản ứng của nhân dân và quốc tế. Đúng lúc, trùng hợp, giàn khoan
HYSY-981 là một cơ may thích hợp.
Với ngần ấy toan tính, chi li trong hành động, trên thực tế, Thủ tướng
đã thành công: TBT Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang bạc
nhược, hoàn toàn mất điểm và rating của Thủ tướng tăng cao bất ngờ.
Không chỉ có vậy, giàn khoan HYSY-981 và “tinh thần dân tộc” của Thủ
tướng đã khiến những bức xúc, đè nén về dân quyền tạm nguôi lắng. Khi cả
nước đang mê trong giấc mơ “thoát Hán”, thì những người dân mất đất,
những blogger, những nhà hoạt động dân chủ bị giam cầm…. dường như cô
đơn hơn với nỗi đau của mình.
Cuối cùng, một kết cục nhìn thấy trước:
1-Ngày 15-8, tới đây, Trung Quốc rút trước mùa bão năm như đã định, Việt Nam và Trung Quốc cùng tuyên bố thắng lợi.
2- Năm 2016, tại Đại hội XII, một tam giác quyền lực mạnh nhất mọi triều
đại được hình thành: TBT Nguyễn Tấn Dũng - Thủ tướng Hoàng Trung Hải -
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh (hoặc nếu Nguyễn Tấn Dũng không
trở thành TBT, thì với hai “quả đấm sắt” Hoàng Trung Hải, Nguyễn Chí
Vịnh, Thủ tướng nghiễm nhiên ở ngôi “Thái Thượng Hoàng” buông rèm cùng
nhiếp chính).
5- Vĩ thanh
Hơn một tháng rưỡi trôi qua kể từ ngày Bắc Kinh đưa giàn khoan vào vùng
đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Cọ xát và va đập phũ phàng với hiện thực
khắc nghiệt, đa phần người Việt đã qua cơn ảo vọng “thoát Trung”, “xoay
trục”.
vì muốn “thoát Trung”, thì phải có dân chủ, mà dân chủ thì đối lập với
độc tài – liệu có lãnh đạo nào vì dân tộc, có đủ can đảm dẹp lợi ích cá
nhân, phe nhóm, bỏ qua những đặc quyền, đặc lợi khổng lồ thụ hưởng từ
thể chế? Câu trả lời đã có sẵn.
Trong cuộc chạy đua quyền lực, Thủ tướng có thể vượt vũ môn; tuy nhiên,
nếu tiếp tục cai trị đất nước theo kiểu “hèn với giặc, ác với dân”, xây
nên một Việt Nam nghèo đói, cô đơn, chia rẽ, Thủ tướng liệu có đi xa?
Cần nhớ rằng, lịch sử công bằng và khách quan, non sông, xã tắc sẽ phán
xét! Nếu không muốn trở thành tội đồ của lịch sử, nếu không muốn nợ
tương lai, Nguyên thủ chỉ có con đường đứng cùng dân tộc.
Ngày 22-6-2014.
*
[1] Nguyễn Trọng Tạo: Nghĩ về anh Ba Sàm khi anh Nguyễn Hữu Vinh bị bắt, Boxitvn, 08-05-2014.
[2]
Trang Basam đã từng đăng: “Ngay từ khi Thủ tướng nhậm chức, cho tới
nay, không ít lần ông thể hiện là mình không thân Tàu, mà hướng Tây
nhiều hơn, dù đằng sau đó là cái gì, có mấy ai tin hay không?” (Nguồn:
Dẫn theo Song Chi: Bộ mặt thật của Thủ tướng, Người Việt Online,
14-9-2012).
[3] Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài, VGP News, 22-5-2014.
[4] Như trên.
[5] Như trên.
[6] Bộ Chính trị sẽ quyết định thời điểm kiện Trung Quốc, VnEconomy, 29-5-2014.
[7] Trung Quốc, Việt Nam căng thẳng về chất lượng hàng, BBC Vietnamese ,29-8-2007.
[8] Từ chối lời khen của Thủ tướng Dũng, BBC Vietnamese, 9-1-2013.
[9]
Bài phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thay mặt Chính phủ nhiệm kỳ
khóa XII phát biểu nhậm chức, Thutuongchinhphu.vn, 18-8-2007.
[10]
Năm 2010, Vinashin lỗ 4,5 tỉ USD, năm 2011, EVN lỗ 3.500 tỷ đồng, năm
2012, các tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước lỗ khoảng 2.253 tỷ đồng… Tính
chung hai năm 2011- 2012, tổng số doanh nghiệp rời khỏi thị trường bằng
20 năm trước đó; trong số gần 500.000 doanh nghiệp đang hoạt động, tỷ
lệ thua lỗ cũng rất cao (Nguồn: Chi phí vốn của doanh nghiệp Việt cao
gấp 10 lần công ty đa quốc gia, Cafef.vn, 24-11-2012).
[11]
Trung Quốc tuyên bố cho khách du lịch đến quần đảo Hoàng Sa đang tranh
chấp với Việt Nam hồi đầu năm. Tháng 5-2013, Trung Quốc gửi 30 tàu cá
lớn từ đảo Hải Nam đến khu vực quần đảo Trường Sa để đánh bắt cá trong
vòng 40 ngày. Tàu hải giám của Trung Quốc liên tục thực hiện các chuyến
tuần tra trên biển Đông suốt năm. Trung Quốc cho lập vùng nhận dạng
phòng không dù không trực tiếp trên biển Đông nhưng có ảnh hưởng khá
lớn; đồng thời đã thực hiện một số cuộc diễn tập trên biển Đông.
[12] Thủ tướng: “Không bao giờ quên cuộc chiến biên giới 1979”, VnExpress.net, 19-2-2014.
[13] Như trên.
[14]
Đó là: Nghị định số 136/2006/NĐ-CP (14-11-2006, cấm khiếu nại tập thể);
Quyết định số 97/2009/QĐ-TTg (24-7-2009, không cho phép các nhóm tư
nhân nghiên cứu đánh giá về chính sách của Nhà nước); Nghị
định02/2011/NÐ-CP (06-01-2011);
Công văn hỏa tốc số 7169/VPCP-NC (12-09-2012, cấm không sử dụng, loan
truyền và phổ biến các thông tin đăng tải trên “các mạng phản động”,
trong đó có trang Web biển Ðông); Nghị định72/2013/NĐ-CP (31-7-2013, hạn
chế việc sử dụng blog và các phương tiện truyền thông xã hội, tạo điều
kiện trấn áp bất đồng chính kiến); Nghị định 174/2013/NĐ-CP
(13- 11 -2013, quy định các khoản xử phạt mới đối với cư dân mạng đã
phổ biến nội dung “tuyên truyền chống Nhà nước”, hoặc “tư tưởng phản
động” trên phương tiện truyền thông xã hội).
[15] Như trên.
[16] RSF gọi Việt Nam là "kẻ thù của Internet", BBC Vietnamese, 13-3-2011.
[17]
2013: Năm đàn áp khốc liệt đối với ký giả, blogger tại Việt Nam,
Voatiengviet.com, 21-06-2014. Trong danh sách này, Việt Nam xếp sau Thổ
Nhĩ Kỳ, Iran, Trung Quốc và Eritrea với 34 netizen đang bị giam cầm, chỉ
sau con số 70 của Trung Quốc.
[18] Như trên.
[19] Việt Nam bị chỉ trích mạnh về nhân quyền, BBC Vietnamese, 5-6-2013.
[20] Như trên.
[21] Như trên.
[22] Như trên.
[23]Tổng cục Thống kê: Kinh tế - xã hội thời kỳ 2006-2010 qua số liệu một số chỉ tiêu thống kê chủ yếu, www.gso.gov.vn.
[24] Tăng trưởng GDP năm 2011 đạt 5,89%, VnEconomy, 29-12-2011.
[25] GDP năm 2013 tăng hơn 5,4%, VnExpress.net, 23-12-203.
[26]
Nợ công ở ngưỡng nguy hiểm: Công bố các khoản nợ để xã hội giám
sát,nhanh.net.vn, 16-6-2014. Theo cách tính của Phạm Chí Dũng thì “khối
nợ xấu khổng lồ có thể lên đến trên 500.000 tỷ đồng; nợ công quốc gia có
thể lên đến 95-106% GDP -theo tiêu chuẩn Liên Hợp Quốc (Nguồn: Phạm Chí
Dũng: Liệu sẽ xảy ra khủng hoảng kinh tế dẫn đến khủng hoảng chính trị ở
Việt Nam? Tạp chí Thời đại mới, số 28/tháng 8-2013).
[27] Kinh tế Việt Nam, Wikipedia.
[28] Việt Nam nhiều dân nghèo gần nhất khu vực, BBC Vietnamese, 7-9-2012.
[29] Như trên.
[30]
Thủ tướng phát biểu như sau: “Với trọng trách là Ủy viên Bộ Chính trị,
Thủ tướng Chính phủ, tôi nghiêm túc nhận trách nhiệm chính trị lớn của
người đứng đầu Chính phủ và xin thành thật nhận lỗi trước Quốc hội,
trước toàn Đảng, toàn dân về tất cả những yếu kém, khuyết điểm của Chính
phủ trong lãnh đạo, quản lý, điều hành, nhất là những yếu kém, khuyết
điểm trong kiểm tra, giám sát hoạt động của tập đoàn kinh tế, tổng công
ty nhà nước; một số tập đoàn, tổng công ty, điển hình là Vinashin,
Vinalines, sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, có nhiều sai phạm, gây tổn
thất và hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt, ảnh hưởng lớn đến uy tín và
vai trò của kinh tế nhà nước” (Nguồn:Sáng nay khai mạc kỳ họp thứ tư
Quốc hội khóa XIII, VnExpress.net, 22-10-2012).
[31] Giật mình cán cân thương mại Việt Nam - Trung Quốc: Nhập siêu tăng 100 lần trong 10 năm, Dân trí, 21-6-2014.
[32]
Mỗi năm, Việt Nam chi khoảng 40 triệu USD để nhập khẩu 13.000-15.000
tấn lúa giống từ Trung Quốc, tương đương với xuất khẩu 100.000 tấn gạo
cao cấp (5% tấm) (Nguồn: Giật mình cán cân thương mại…, Dân trí,
21-6-2014).
[33] Trung Quốc trúng thầu 90% công trình thượng nguồn của Việt Nam, Vieetnam Economic Forum, 32-7-2010.
[34] Đang hoàn thiện quy hoạch đất quốc phòng an ninh, Đất Việt, 11-6-2014
[35]
Đó là các tỉnh: Lạng Sơn, Quảng Ninh, Cao Bằng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Bình
Định, Kon Tum, Khánh Hòa, Quảng Nam và Bình Dương, cụ thể là: Quảng Ninh
100.000ha, Nghệ An 70.000ha, Kon Tum 65.000ha, Lạng Sơn 36.000ha, Quảng
Nam 30.000ha và Thanh Hóa 21.000ha -tổng cộng là 349.000ha. Trung Quốc
họn thuê đất chủ yếu ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng Ninh, đặc biệt ở Nghệ
An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, nơi có trục đường 7, đường 8 sang Lào, đường đi
lên Tây Nguyên. Đặc biệt, ở các tỉnh có khoáng sản với các tạo quặng
trên mặt đất rất cạn, có thể khai thác dễ dàng bằng đào bới.
[36] Bị "ép", doanh nghiệp Việt Nam gặp khó, Báo Giao thông vận tải, 6-3-2014.
HẢI CHÂU * CÔNG HÀM PHẠM VĂN ĐỒNG
"Công thư 1958" qua đánh giá của các học giả quốc tế
Hải Châu
GS Carl Thayer phát biểu tại cuộc hội thảo (Ảnh: HC) |
Nhiều học giả, nhà nghiên cứu có tên tuổi trên thế
giới dự hội thảo quốc tế “Hoàng Sa – Trường Sa: Sự thật lịch sử” tại Đà
Nẵng đã phản bác luận điệu của Trung Quốc liên quan đến “Công thư Phạm
Văn Đồng 1958”
Theo GS Carl Thayer (nguyên GS Học viện
Quốc phòng Úc, chuyên gia về Việt Nam và Đông Nam Á), Công ước Liên hợp
quốc về Luật biển (UNCLOS) không chấp nhận yêu sách lịch sử hay sự biện
minh lịch sử như là yếu tố quyết định trong việc xác định chủ quyền đối
với các cấu trúc biển và các vùng biển.
Luật pháp quốc tế hiện đại cũng không
chấp nhận sự phát hiện mang tính lịch sử đối với các đảo, tính gần gũi
của các cấu trúc biển với đất liền, hay việc bao gồm các cấu trúc biển
đó trong những tấm bản đồ do quốc gia phát hành, coi đó là bằng chứng
đầy đủ để hỗ trợ cho một yêu sách chủ quyền.
“Luật pháp quốc tế đòi hỏi một quốc gia
yêu sách chủ quyền phải chứng minh việc chiếm hữu và quản lý liên tục” -
GS Carl Thayer nhấn mạnh. Từ đó, ông cùng nhiều học giả dự hội thảo đã
khẳng định, nhà nước phong kiến Việt Nam đã xác lập và thực thi chủ
quyền hoà bình, liên tục đối với Hoàng Sa và Trường Sa từ thế kỷ 17 -
18. Dưới thời thực dân, Pháp đã nhân danh Việt Nam thực thi chủ quyền
đối với hai quần đảo này và khi rút khỏi Việt Nam thì Pháp đã bàn giao
lại quyền quản lý cho Việt Nam
Trong khi đó, diễn giả Leszek Buszynski
đến từ Trường An ninh quốc gia, Đại học Quốc gia Úc nêu rõ: “Theo các
quan điểm hiện đại trên thế giới, Biển Đông chưa bao giờ là lãnh thổ của
Trung Quốc. Đó là một khu vực ở rất xa lục địa và thực sự không phải là
một phần của đế chế Trung Quốc”.
“Việt Nam đã chiếm hữu hiệu quả, lâu dài
và thực thi chủ quyền hoà bình, liên tục đối với Hoàng Sa, Trường Sa.
Trung Quốc không có bất cứ bằng chứng thuyết phục nào chứng minh họ
chiếm hữu hai quần đảo này trước khi dùng vũ lực đánh chiếm phi pháp
Hoàng Sa năm 1974 và một số bãi ngầm thuộc Trường Sa năm 1988” – GS Carl
Thayer nhấn mạnh.
Nhà nghiên cứu Jean-Pierre Ferrier (Đại
học Paris 2, Pháp) cũng khẳng định: “Nghiên cứu về lịch sử chiếm đóng
quần đảo Hoàng Sa cho thấy dưới góc nhìn của luật pháp quốc tế, Trung
Quốc chưa hề thực hiện “chiếm đóng hiệu quả, liên tục và bình thường”
cho tới sau cuộc tấn công và chiếm đóng trái phép năm 1974. Việc chiếm
đóng và triển khai quân sự của Trung Quốc đã vi phạm luật pháp quốc tế
(sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp), không thể hợp lý hóa việc
Trung Quốc thay thế quyền chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này”.
“Nghị định thư cấp Tỉnh” năm 1921 hoàn toàn vô giá trị!
Jean-Pierre Ferrier chỉ rõ: “Mặc dù
chiếm đóng kéo dài đã 40 năm nhưng cơ sở của việc chiếm đóng vẫn không
có gì thay đổi và không có gì khác để hỗ trợ, tăng cường hoặc thiết lập
bất kỳ giả định nào về chủ quyền của Trung Quốc!”. Bên cạnh đó, ông cũng
nêu rõ: “Chiếm đóng quân sự là chưa đủ để hợp thức hóa chủ quyền. Vẫn
còn thiếu ít nhất một yếu tố thứ hai trong việc xác minh chủ quyền bằng
lịch sử và đó là sự nhận thức của công chúng”.
Từ góc nhìn này, Jean-Pierre Ferrier xác
quyết: “Trung Quốc chưa bao giờ thực hiện bất kỳ hành động chính thức
nào đáp ứng theo quan điểm của luật pháp quốc tế. “Nghị định thư cấp
Tỉnh” năm 1921 là không đủ, bởi tác giả không phải là chủ thể luật quốc
tế; và nghị định này hoàn toàn mang mục tiêu kinh tế (cấp phép khai thác
phế thải chim biển, nguồn phốt pho trên quần đảo – PV)!”.
Nhà nghiên cứu Jean-Pierre Ferrier (trái) trả lời báo chí trong khuôn khổ cuộc hội thảo |
Theo ông Jean-Pierre Ferrier, ngày
2/4/1921, Thống đốc Quân sự Quảng Đông ra tuyên bố chủ quyền đối với
Hoàng Sa khi ban hành nghị định về vấn đề này trong Tạp chí chính thức
của tỉnh. Ông cho rằng: “Nhà cầm quyền chỉ định việc thiết lập chủ quyền
của một hòn đảo cần có đủ thẩm quyền để làm việc đó, và sau đó thì chủ
quyền mới được thực thi”.
Từ đó Jean-Pierre Ferrier đặt vấn đề:
“Vì sao chúng ta không loại bỏ hoàn toàn tuyên bố chủ quyền của Thống
đốc Quân sự Quảng Đông khi ông ta ban hành nghị định về vấn đề này trong
Tạp chí chính thức của Tỉnh ngày 2/4/1921?”.
Nhà nghiên cứu đến từ Đại học Paris 2 giải thích: “Ông
ta tuyên bố việc sáp nhập quần đảo Hoàng Sa vào đảo Hải Nam mà không có
một cơ sở mang tính hiệu lực nào (không có sự chiếm hữu của một “nhà
đương cục” Tỉnh, mặc dù có thể những ngư dân đảo Hải Nam, như ngư dân từ
các nơi khác, đã đôi lúc tạt vào vài giờ đồng hồ); hay cơ sở quốc tế
nào (thể hiện qua việc Quảng Đông không tồn tại trên bình diện quốc
tế)!”.
Về “Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958”
Theo ông Jean-Pierre Ferrier, “đã không
có một lời phản đối hay ủng hộ nào từ cộng đồng quốc tế đối với Nghị
định thư cấp Tỉnh 1921 của Thống đốc Quân sự Quảng Đông, mà cho dù có
thật sự diễn ra thì hành động đó có lẽ cũng không tồn tại mục tiêu nhất
định hay thu hút sự quan tâm rộng rãi!”.
Từ sự phân tích đó, trước những luận
điệu bám vào “Công thư Phạm Văn Đồng 1958” để bịa ra việc Việt Nam bỏ
Hoàng Sa và thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo này,
Jean-Pierre Ferrier nói: “Vào thời điểm
đó và cho tới thời điểm thống nhất Việt Nam năm 1975, ông Phạm Văn Đồng
không có quyền tài phán nào đối với quần đảo Hoàng Sa, mà lúc đó trực
thuộc Đà Nẵng của Việt Nam Cộng hòa (VHCH).
GS Erik Franckx trả lời phỏng vấn Infonet khi xem triển lãm "Hoàng Sa – Trường Sa: Phần lãnh thổ không thể tách rời của Việt Nam” |
GS Erik Franckx (Đại học Tự do Brussel -
Bỉ; thành viên Tòa trọng tài thường trực) tiếp tục nêu quan điểm về các
"bằng chứng lịch sử": “Bản đồ rất quan
trọng nhưng không có giá trị pháp lý cuối cùng và duy nhất nếu nó không
được đính kèm với những tài liệu ký kết giữa hai nước, các quốc gia và
các tổ chức quốc tế có liên quan. Nghĩa là một văn bản luật. Còn nếu bản
đồ chỉ đứng một mình, ví dụ như bản đồ do NXB này xuất bản năm đó, năm
kia cũng là những tư liệu, chứng cứ quan trọng nhưng không phải có giá
trị pháp lý cuối cùng”.
Tuy nhiên khi PV Infonet đặt tiếp câu
hỏi: “Vậy ông nhận định thế nào về “Công thư Phạm Văn Đồng 1958”? thì GS
Erik Franckx trả lời: “Cần tìm hiểu và đọc công thư này một cách hết
sức cẩn thận. Vì nội dung chính của nó thực ra là nói về lãnh hải 12 hải
lý mà Trung Quốc tuyên bố chứ không phải là nói về vấn đề chủ quyền đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Do đó chúng ta nên diễn giải
vấn đề theo tinh thần đó”.
Vai trò của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
Trong khi đó, GS Carl Thayer khẳng định "Bức
thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Trung Quốc không đề cập tới Hoàng
Sa hay Trường Sa, cũng như không hề thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc
đối với quần đảo Hoàng Sa. Năm 1958, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH)
vẫn hy vọng thống nhất Việt Nam theo các điều khoản chính trị của Hiệp
định Geneva 1954, còn VNCH duy trì sự hiện diện liên tục ở nhóm Nguyệt
Thiềm (thuộc quần đảo Hoàng Sa) từ năm 1956 tới tháng 1/1974”.
Ông nhắc lại "sự phản đối của Chính phủ
Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (PRG) ngay sau khi Trung
Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa và sau đó (ngày 26/1 và 14/2/1974), PRG
không những là một bên ký Hiệp định hòa bình Paris mà trước khi Việt Nam
chính thức thống nhất năm 1975 thì PRG là người đứng đơn cùng với
VNDCCH tham gia và trở thành thành viên của Liên hợp quốc. Sau khi thống
nhất, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trở thành quốc gia kế thừa và
tiếp tục chính sách của PRG liên quan đến biển Đông”.
BẢNG ĐỎ ** HỒ CHÍ MINH NHÀ BÁO GIÀU SỤ
Hồ Chí Minh: Bồi bút giàu nhất trong lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam
Bảng Đỏ (Danlambao)
- Trong loạt bài tuyên truyền nhân ngày báo chí cách mạng Việt Nam kết
hợp với việc đánh bóng tên tuổi Hồ Chí Minh, trang báo điện tử Infonet của Bộ Thông tin và Truyền thông
đã tiết lộ thông tin đáng chú ý: Năm 1967, ông Hồ đã tặng số tiền tương
đương 60 lượng vàng cho bộ đội phòng không Ba Đình để mua... nước ngọt.
Về nguồn gốc số tiền này, tác giả Thanh Hoa của Infornet giải thích rõ: “Đây không phải là lương, vì lương Chủ tịch nước của Bác chỉ vừa đủ tiêu. Số tiền này là nhuận bút mà các báo trả cho Bác”.
Nếu thông tin bài báo là đúng sự thật, nhiều khả năng ông Hồ sẽ xác lập
thêm một kỷ lục mới, chính thức trở thành bồi bút kiếm được nhiều tiền
nhất trong lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam.
Theo thư ký riêng của Hồ Chí Minh là ông Vũ Kỳ, sinh thời "bác" viết
tổng cộng 1205 bài báo, hầu hết đăng trên báo Nhân Dân. Làm một phép
tính nho nhỏ, 60 lượng vàng tương đương với số tiền hiện nay là 2 tỷ
220 triệu đồng. Như vậy, trung bình mỗi bài báo ông Hồ sẽ nhận được số
tiền nhuận bút là 1,84 triệu đồng (90 đô-la Mĩ).
Trong điều kiện kinh tế miền Bắc đói kém, mức nhuận bút mà báo Nhân dân
phải trả cho mỗi bài viết của ông Hồ là một số tiền rất lớn. Trong khi
trình độ viết lách của "nhà báo" Hồ Chí Minh chỉ ở mức dưới trung bình,
nếu không nói là rất dở.
Quả nhiên là báo chí cách mạng, đã nghèo mà lại chơi sang, "nhà báo" Hồ
Chí Minh thiệt là giàu. Chẳng bù với ông Trưởng Thôn nhà mình, lập
Danlambao gần 4 năm nhưng chưa có một đồng nhuận bút. Nghe bà con trong
thôn kể, đến nay ông Trưởng Thôn vẫn thuộc thành phần 'trên răng dưới...
dép'.
Nhân nói về sự nghiệp báo chí cách mạng của ông Hồ Chí Minh, nhân đây
xin tiết lộ với bà con một phát hiện mới: Tổ nghiệp của "nghề" bồi bút
và dư luận viên không ai khác chính là ông Hồ.
"Tổ nghiệp" Hồ Chí Minh hiện vẫn đang giữ kỷ lục là người có nhiều bút danh nhất Việt Nam. Không ai nhớ hết trong cuộc đời Hồ Chí Minh có bao nhiêu tên. Theo các tài liệu chính thức của ĐCSVN thì C.B. cũng là một trong nhiều bút danh của ông Hồ.
Qua bút danh C.B., ông Hồ đã viết ra bài báo "Địa chủ ác ghê" nhằm đấu tố bà bà Nguyễn Thị Năm trên báo Nhân dân ngày 21-7-1953. Bà bà Nguyễn Thị Năm - tức bà Cát Hanh Long là một ân nhân của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản. Tuy nhiên, sau bài đấu tố của C.B. Hồ Chí Minh, bà Nguyễn Thị Năm liền bị xử bắn đầu tiên trong cái gọi là "cải cách ruộng đất".
Không biết báo Nhân dân đã trả bao nhiêu tiền nhuận bút cho bài báo trên của "nhà báo" C.B. Hồ?
Ngoài bà Nguyễn Thị Năm, còn bao nhiêu nạn nhân khác trong "sự nghiệp viết báo" của C.B. Hồ?
Việc ông Hồ cho bộ đội phòng Ba Đình 60 lượng vàng để mua... nước ngọt có lẽ chỉ là chỉ là câu chuyện tuyên truyền, bởi kẻ cướp đâu dễ cho ai bao giờ.
"Tổ nghiệp" Hồ Chí Minh hiện vẫn đang giữ kỷ lục là người có nhiều bút danh nhất Việt Nam. Không ai nhớ hết trong cuộc đời Hồ Chí Minh có bao nhiêu tên. Theo các tài liệu chính thức của ĐCSVN thì C.B. cũng là một trong nhiều bút danh của ông Hồ.
Qua bút danh C.B., ông Hồ đã viết ra bài báo "Địa chủ ác ghê" nhằm đấu tố bà bà Nguyễn Thị Năm trên báo Nhân dân ngày 21-7-1953. Bà bà Nguyễn Thị Năm - tức bà Cát Hanh Long là một ân nhân của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản. Tuy nhiên, sau bài đấu tố của C.B. Hồ Chí Minh, bà Nguyễn Thị Năm liền bị xử bắn đầu tiên trong cái gọi là "cải cách ruộng đất".
Không biết báo Nhân dân đã trả bao nhiêu tiền nhuận bút cho bài báo trên của "nhà báo" C.B. Hồ?
Ngoài bà Nguyễn Thị Năm, còn bao nhiêu nạn nhân khác trong "sự nghiệp viết báo" của C.B. Hồ?
Việc ông Hồ cho bộ đội phòng Ba Đình 60 lượng vàng để mua... nước ngọt có lẽ chỉ là chỉ là câu chuyện tuyên truyền, bởi kẻ cướp đâu dễ cho ai bao giờ.
Bảng Đỏ
danlambaovn.blogspot.com
TRẦN TRUNG ĐẠO ** CỘNG SẢN VIỆT GIAN BÁN NƯỚC
Từ Nguyễn Bắc Việt đến Nguyễn Khoa Điềm, bàn về con người và cơ chế CS
Trần Trung Đạo (Danlambao) - Nhận bài thơ Đất nước những năm thật buồn dưới đây khá lâu. Đọc xong và tính viết một bài nhận xét nhưng bận quá quên đi. Mãi cho đến mới đây, nhờ Nguyễn Bắc Việt, Thường vụ Tỉnh ủy, Đại biểu Quốc hội đơn vị Bình Thuận với câu nói để đời về vụ giàn khoan HD981 “phải biết đau lòng với tình hình hiện nay của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế”, tôi mới sực nhớ đến bài thơ đó.
Nhắc lại hôm đọc xong bài phát biểu của Nguyễn Bắc Việt trước Quốc hội
CSVN, tôi phải google cho ra tấm hình để xem y dáng dấp ra sao. Tôi sẽ
thông cảm nếu đương sự là cụ già còn sót lại từ thế hệ Tân Trào hay Pác
bó. Không. Nguyễn Bắc Việt còn khá trẻ, sinh năm 1961, trình độ học vấn
thạc sĩ nhưng khi phát biểu lại giống như sinh năm 1930, trình độ học
vấn mù chữ.
Hôm nay trên quần đảo Hoàng Sa của tổ tiên để lại, Trung Cộng đã xây
dựng sân bay, khách sạn, thư viện, đường phố, bưu điện và mới đây còn
tiến hành xây trường học để phục vụ việc học hành cho gần hai ngàn dân
cư trên đảo mà Nguyễn Bắc Việt không biết nhục, không biết lo lại lo “Hai nước xã hội chủ nghĩa lình xình với nhau như thế này, ai có lợi?”.
Nếu không sống trong thời đại google, youtube, không chính tai nghe
Nguyễn Bắc Việt nói thật khó mà tin. Với một não trạng bị cơ chế hóa
trầm trọng như thế, không dễ làm cho anh ta thức tỉnh. Áp dụng kinh
nghiệm Liên Xô như Yuri Alexandrovich Bezmenov phát biểu trước đây, dù
có mang anh Nguyễn Bắc Việt này “tới tận Liên Xô và chỉ cho anh ta
thấy trại tập trung, anh ta cũng không tin... cho đến lúc anh ta bị đá
ngay vào đít, khi giày đinh đạp lên anh, rồi anh ta mới hiểu. Nhưng
không phải trước đó. Đó là thảm kịch của trình trạng bị băng hoại về đạo
đức trong con người.”
Trở lại với bài thơ Đất nước những năm thật buồn. Bài thơ chuyên
chở một nội dung rất bi quan về tương lai đất nước. Rất buồn. Từng câu,
từng chữ đều nói lên tâm trạng gần như chán chường của tác giả trong
một không gian cũng vô cùng quạnh hiu “yên vắng”.
Đất nước những năm thật buồn
Nửa đêm ngồi dậy hút thuốc vặt
Lần mò trên trang mạng tìm một tin lành
Như kẻ khát nước qua sa mạc
Chung quanh yên ắng cả
Ngoài đường nhựa vắng tiếng xe lại qua
Người giàu, người nghèo đều ngủ
Cả bầy ve vừa lột xác
Sao mình thức?
Sao mình mải mê đeo đuổi một ngày mai tốt lành?
Bây giờ lá cờ trên Cột cờ Đại Nội
Có còn bay trong đêm
Sớm mai còn giữ được màu đỏ?
Bây giờ con cá hanh còn bơi trên sông vắng
Mong gặp một con cá hanh khác?
Bao giờ buổi sáng, buổi chiều nhìn ra đường
Thấy mọi người nhẹ nhàng, vui tươi
Ấm áp ly cà phê sớm
Các bà các cô khỏe mạnh yêu đời
Hớn hở tập thể dục
Bao giờ giọt nước mắt chảy xuống má
Không phải gạt vội vì xấu hổ
Ngước mắt, tin yêu mọi người
Ai sẽ nắm vận mệnh chúng ta
Trong không gian đầy sợ hãi?
Những cây thông trên núi Ngự Bình thấp thoáng ngọn nến xanh
Đời đời an ủi
Cho người đã khuất và người sống hôm nay…
Nửa đêm thức dậy thắp điếu thuốc, đọc tin tức mong sao có một tin vui.
Nhưng không. Chung quanh tác giả chỉ là những tin buồn, tin xấu. Đất
nước cũng như tác giả chẳng khác gì một “kẻ khát nước qua sa mạc”,
đang lê bước giữa gió cát mênh mông, cô đơn, trống trải và hơn bao giờ
hết đang quá cần một giọt nước để hồi sinh. Dường như không ai, dù kẻ
nghèo hay người giàu, mang nặng lo âu và khát vọng sâu thẳm về đât nước
như tác giả. Nhà thơ viết như thét lên với bóng đêm “Ai sẽ nắm vận mệnh chúng ta. Trong không gian đầy sợ hãi?". Chữ “Ai” trong bài thơ chứa đầy phẫn uất của những oan hồn vọng lại giữa đêm khuya. Và “sợ hãi”,
một danh từ đồng nghĩa với bóng đen, xiềng xích, ngục tù, một loại vi
khuẩn mà ai sống dưới chế độ CS cũng bị cấy trong người.
Tác giả của bài thơ chứa đựng niềm u uất đó là ai?
Một trí sĩ ẩn cư như “cây thông trên núi Ngự Bình” âm thầm dùng
ngòi bút để diễn tả tâm trạng mình trước vận nước ngả nghiêng? Một nhà
cách mạng đang can đảm vượt qua nỗi sợ để đi về phía sự thật? Một nhà
thơ có trái tim nhân bản đang đau cùng nỗi đau đất nước?
Không phải. Tất cả đều sai. Tác giả bài thơ đó là Nguyễn Khoa Điềm.
Không xa lạ gì. Không chỉ người dân Huế mà cả nước đều biết tên tuổi ông
ta. Chỉ vài năm trước đó tác giả là ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Trung
ương đảng, Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin, rồi Trưởng ban Ban Tuyên
giáo Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong suốt mười năm, tác giả
kiểm soát mạch sống tinh thần của toàn xã hội Việt Nam.
Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng CSVN trong nội quy của đảng CS là “Cơ
quan tham mưu của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, trực
tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong công tác xây dựng
Đảng về chính trị, tư tưởng, về chủ trương, quan điểm và chính sách của
Đảng trong lĩnh vực tuyên truyền, báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ,
khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo và một số lĩnh vực xã hội;
đồng thời là cơ quan chuyên môn - nghiệp vụ về các lĩnh vực công tác này
của Đảng.”
Tuyên truyền cùng với khủng bố tạo thành xương sống của mọi chế độ độc
tài. Nếu Hitler không có bộ máy tuyên truyền của Joseph Goebbels chế độ
Đệ Tam Quốc Xã Đức không thể giết 6 triệu dân Do Thái và 50 triệu người
châu Âu trong thế chiến thứ hai. Trước Goebbels, trong cách mạng CS Nga
1917, công việc đầu tiên Lenin phải làm ngay là thành lập cơ quan tuyên
truyền và trong giai đoạn đầu còn do chính y đích thân lãnh đạo. Tại
Trung Cộng cũng vậy, trong đại hội đảng CS Trung Quốc lần đầu vào năm
1921 chỉ bầu ra vỏn vẹn ba ủy viên trung ương nhưng một trong ba ủy viên
đó chịu trách nhiệm tuyên truyền.
Hệ thống tuyên truyền CS tại Việt Nam kế thừa hai hệ thống tuyên truyền
Trung Cộng và Liên Xô tinh vi và độc hại. Chức vụ của Nguyễn Khoa Điềm
tương đương với chức vụ Bộ trưởng Tuyên truyền của Joseph Goebbels trong
thời Đức Quốc Xã, chức Giám đốc cơ quan Agitatsiya của R. Katanian do
Lenin thành lập vào tháng Tám năm 1920 hay chức Trưởng ban Tuyên truyền
thuộc trung ương đảng Cộng Sản Trung Quốc của Lý Đạt vào tháng Bảy năm
1921. Về tài năng Nguyễn Khoa Điềm, dĩ nhiên, không thể so sánh với
“Thiên tài đen” Joseph Goebbels hay R. Katanian người tin cẩn của Lenin
nhưng chức năng của Bộ Tuyên truyền Đức Quốc Xã và nhiệm vụ của Ban
Tuyên giáo Trung ương Đảng CSVN không khác gì nhau lắm.
Làm thế nào một người trước đó không lâu lãnh đạo một ban ngành có chức
năng đầu độc, tẩy não cả một thế hệ Việt Nam, ngăn chận mọi tự do sáng
tạo, cố giữ đất nước trong tận cùng lạc hậu và cô lập từ thế giới văn
minh bên ngoài lại nhanh chóng trở thành một người mang ước vọng vươn
lên cao, vượt ra biển rộng như diễn tả trong bài thơ Đất nước những năm
thật buồn?
Làm thế nào một người trước đó không lâu áp đặt một tư tưởng chính trị
lạc hậu lên cả nước, một nền giáo dục ngu dân chỉ đào tạo ra những con
vẹt như Nguyễn Bắc Việt lại nhanh chóng trở thành một kẻ có tâm hồn khắc
khoải trước thời thế, khóc thương cho vận nước nổi trôi trong bài thơ
Đất nước những năm thật buồn?
Có hai Nguyễn Khoa Điềm? Có hai nhân cách Nguyễn Khoa Điềm trong cùng
một con người theo kiểu bịnh tâm lý đa nhân cách (Multi Personality
Disorder)? Một Nguyễn Khoa Điềm nhưng đã lột xác, phản tỉnh? Một Nguyễn
Khoa Điềm sống thật và một Nguyễn Khoa Điềm sống giả?
Không. Chỉ một Nguyễn Khoa Điềm, không lột xác, không phản tỉnh, không
đa nhân cách, không giả hay thật nhưng chỉ sống trong hai thời điểm khác
nhau, khi còn trong bộ máy toàn trị và khi ở ngoài bộ máy cai trị. Đó
chính là sự khác nhau giữa con người và cơ chế CS.
Nguyễn Khoa Điềm thừa nhận điều này: “Bây giờ tôi chỉ còn chường cái
mặt tôi ra trong thơ. Thơ thì phải nói thật lòng mình, không thể giấu
mình, không thể nói dối... Việt Nam chúng ta lại quan niệm văn học là
đạo lý, trách nhiệm... nên gò bó sự sáng tạo cũng như hạn chế sự thổ lộ.
Trong khi văn chương phải thể hiện cái đẹp nội tâm của con người. Gần
đây ý thức như vậy đã có, nhưng chưa đủ. Vì vậy tôi đã nghỉ hưu, nhưng
nhiều người lãnh đạo mong tôi phải thế này thế kia, phải làm thơ ngợi
ca, phải hô hào tiến lên... Vừa rồi khi tôi công bố một số bài thơ trên
báo sau khi về Huế, có rất nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí có người chê
trách tôi “đổi giọng”, nhưng tôi không quan tâm.”
Trong năm 2011, Nguyễn Khoa Điềm còn đi xa hơn khi phê bình Quốc Hội
CSVN về chủ trương chống nhân dân biểu tình trong bài thơ Nhân Dân:
“…Nhưng trên diễn đàn cao nhất nước
Có người nói nhân dân chưa đủ trí tuệ
Để hưởng luật biểu tình!
Tôi nghĩ mãi
Ai đã bầu ra ông nghị này nhỉ?
Sao lại sợ nhân dân biểu tình?
Không!
Sự sợ hãi không cứu được chúng ta
Mà chính là sự can đảm
Đi tới dân chủ…”
Thế nhưng, khi còn là Trưởng Ban Văn Hóa Tư tưởng Trung ương Đảng Nguyễn
Khoa Điềm lại là người chủ trương trấn áp những tiếng nói biện hộ cho
quyền tự do, dân chủ. Nhà thơ Đỗ Hoàng viết trong blog của ông, Nguyễn
Khoa Điềm đã “trù úm Hoàng Minh Chính, bắt nhà văn Dương Thu Hương,
bôi nhọ Trần Độ, loại bỏ nhiều nhà bất đồng chính kiến, đàn áp những
người đòi tự do dân chủ, cấm mạng , cấm internet, đốt thành tro bụi
nhưng tập sách như Học phí trả bằng máu của Nguyễn Khắc Phục, Chuyện kể
năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, Chúa trời ngù gật của Nguyễn Dậu, Tâm sự
người lính của Đỗ Hoàng...”
Ngoài ra, nhà báo Trần Dũng Tiến trong bài “Chất Vấn Các Ông Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Hồng Vinh” viết nhân dịp Kỷ niệm 77 năm Ngày Nhà Báo Việt Nam: “Thật
là đáng nghi ngờ và đáng hổ thẹn cho những người cầm đầu Văn hóa Tư
tưởng của Đảng ta ! Đảng ta luôn nói vì nước vì dân và tôn trọng tự do
báo chí nhưng các ông Điềm, Vinh lại làm ngược lại. Từ ngày 2 ông lên
chức cầm đầu Ban VHTT/TƯ các ông đã gây bao nhiêu cảnh rối loạn trong xã
hội từ việc bắt giam cựu chiến binh Vũ Cao Quận đến việc quản chế nhà
văn Bùi Minh Quốc chỉ vì nhà văn đi thực tế ở mấy tỉnh biên giới mà họ
sợ anh sẽ viết về nỗi nhục nhượng đất đai tổ quốc của những người lãnh
đạo vừa qua. Từ vụ quản chế Hà Sĩ Phu, Trần Khuê, bỏ tù các trí thức trẻ
như Lê Chí Quang, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Khắc Toàn... đến việc cắt điện
thoại vừa trái luật pháp vừa trái đạo lý đến nỗi cắt mà không dám công
khai tuyên bố điên thoại của Hoàng Minh Chính, Phạm Quế Dương, Trần Dũng
Tiến, Hoàng Tiến, Nguyễn Thanh Giang, Nguyễn Vũ Bình...”
Không chỉ nhận xét của nhà thơ Đỗ Hoàng và nhà báo Trần Dũng Tiến mà
chính Nguyễn Khoa Điềm qua vô số bài phát biểu trong các hội nghị văn
hóa tư tưởng, các buổi học tập v.v. đều không khác tham luận của Nguyễn
Việt Bắc đọc trước Quốc Hội bao nhiêu. Một đoạn tường thuật từ Hội nghị
công tác tư tưởng văn hoá toàn quốc 2005, trong đó Nguyễn Khoa Điềm phát
biểu: “Xuất phát từ tình hình trên, công tác tư tưởng văn hoá năm
2005 có trách nhiệm rất quan trọng và nặng nề đòi hỏi sự thống nhất cao
về nhận thức tư tưởng trong toàn Đảng, phát huy tính năng động, cổ vũ
những điển hình tiên tiến, những nhân tố tích cực của toàn xã hội, phát
huy sức mạnh đại đoàn kết trong Đảng, đại đoàn kết toàn dân tộc. Công
tác tư tưởng văn hoá phải đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống lại các biểu
hiện tiêu cực, trong xã hội, đấu tranh chống lại âm mưu “diễn biến hoà
bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch”.
Một cô gái vì hoàn cảnh phải bán thân nuôi miệng nhưng không làm hại
nhiều người. Nguyễn Khoa Điềm bán lương tâm, nhân cách, sĩ khí để nuôi
miệng nhưng di hại đến nhiều thế hệ. Khác với hoàn cảnh của cô gái bán
thân, hành vi của Nguyễn Khoa Điềm không chỉ có tính cách cá nhân mà còn
mang trách nhiệm xã hội.
Trách nhiệm xã hội là gì?
Trách nhiệm xã hội là nguyên tắc mà một người hay một tổ chức phải
hành xử lợi ích riêng tư trong sự tôn trọng phúc lợi, an nguy chung của
cộng đồng xã hội. Nhà kinh tế Richard Whately phát biểu “Một kẻ
bị xem như là ích kỷ không phải vì y chỉ biết lo cho quyền lợi của cá
nhân mình nhưng bởi vì y bỏ qua quyền lợi của những người chung quanh”.
Nhân loại đang chạy đua phát minh khoa học kỹ thuật trong một thế giới
mỗi ngày càng nhỏ hẹp dần. Nhiều tiến bộ kỹ thuật được xem là cách mạng
hai, ba chục năm trước nay đã lỗi thời. Kỹ thuật hóa được phát triển
song song với toàn cầu hóa. Bên cạnh đó, các đổi mới kinh tế chính trị
cũng diễn ra nhanh không kém. Nhìn về hướng Đông Âu, các dân tộc đã hồi
sinh sau 70 năm dài nô lệ trong ý thức hệ CS.
Ba Lan là một bằng chứng hùng hồn về phát triển kinh tế. Cộng Hòa Ba
Lan, quốc gia bị cắt từng mảnh nhỏ trong mật ước Molotov-Ribbentrop Pact
giữa Đức và Liên Xô, quốc gia đầu tiên chịu đựng gót giày xâm lược của
Đức Quốc Xã trong thế chiến thứ hai, tuy nhiên, Ba Lan cũng là một nước
có nền kinh tế mạnh nhờ liên kết chặt chẽ với Đức hiện nay. Các lãnh đạo
Ba Lan học quá khứ nhưng không ai sống trong quá khứ như các lãnh đạo
CSVN.
Trong lúc “bóng ma chủ nghĩa cộng sản” mà Karl Marx dùng để thách thức
quyền lực của các nhà nước tư sản giữa thế kỷ 19 trong Tuyên Ngôn Đảng
Cộng Sản, đã chìm vào quá khứ và đại đa số nhân loại đang hăng say tiến
bước trên con đường dân chủ hóa, tại Việt Nam bịnh sùng bái cá nhân, tôn
thờ lãnh tụ vẫn còn đang chế ngự trong hầu hết các lãnh vực của đời
sống văn hóa và tinh thần đất nước. Không một giáo án, giáo trình, diễn
văn, tham luận, tuyên ngôn, tuyên cáo nào mà không trích dẫn vài câu
nói của các lãnh tụ CS. Sự nô lệ tri thức như là một loại vi trùng sinh
sôi và lan rộng trong từng con người, qua nhiều thế hệ, xói mòn và tàn
phá tính khai phóng, làm thui chột tính sáng tạo trong con người.
Trong lúc ở một phần lớn thế giới, những tác phẩm của Marx, Engels chỉ
còn trong thư viện nghiên cứu, hàng triệu học sinh, sinh viên Việt Nam
vẫn phải học thuộc một cách từ chương mỗi ngày những khái niệm, những
định nghĩa sai lầm và lỗi thời. Phương tiện internet đã giúp cho một số
người Việt có điều kiện đọc các nguồn tin mới nhưng con số những người
may mắn đó vẫn còn quá nhỏ so với 90 triệu dân Việt Nam. Đất nước tuy
không còn những đại lộ kinh hoàng, những cánh đồng nhuộm máu nhưng đã
mọc lên thêm rất nhiều nhà tù, nơi đó, hàng trăm, hàng ngàn người Việt
Nam yêu nước vẫn còn bị giam cầm chỉ vì nói lên khát vọng tự do dân chủ,
chỉ vì tranh đấu cho chủ quyền biển đảo Việt Nam.
Suốt 10 năm từ 1996 đến 2006, Nguyễn Khoa Điềm là người trực tiếp chịu
trách nhiệm cho sự băng hoại tri thức của cả một thế hệ trẻ Việt Nam,
biến nhiều trong số họ thành những kẻ bị tàn tật tâm thần, sống trong
hoang tưởng, mê muội như trường hợp Nguyễn Bắc Việt.
Trước một chủ nghĩa bành trướng Đại Hán quá mạnh, quá đông, quá giàu,
quá hung bạo, quá lưu manh không những có khả năng đánh Việt Nam từ trên
đầu, từ ngoài biển, từ trên không, lẽ ra Việt Nam phải mở tung mọi cánh
cửa, chạy đua với thời gian để học hỏi, thu thập mọi cái hay cái đẹp
của nhân loại làm vốn liếng cho mình. Nhưng không, suốt 10 năm, thời
gian nguy kịch của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm lại tìm cách che đậy, đóng
kín mọi nguồn thông tin, giết chết những cố gắng vươn xa của thế hệ
trẻ, nhồi nhét vào nhận thức của các em một thứ ý thức hệ CS mà phần lớn
nhân loại đã ném vào sọt rác.
Trong lúc phần đông những người thuộc thế hệ “nhảy núi” ở Huế bị lãng
quên và ngay cả có người bị bạc đãi như trường hợp Trần Vàng Sao, Nguyễn
Khoa Điềm may mắn được thăng quan tiến chức. Nhiều nguồn tin cho rằng
sau khi bị loại ra khỏi bộ máy quyền lực và danh lợi sớm hơn tuổi về
hưu, ông ta phẩn uất làm thơ “dân chủ” như một cách khiêu khích, châm
chọc vào điểm khó chịu của giới cầm quyền. Có lẽ ngoại trừ ông Trần Xuân
Bách, hầu hết các lãnh đạo CS chỉ nói đến dân chủ tự do sau khi bị cho
về vườn.
Những lời tố cáo, mỉa mai, châm biếm ông có thể đúng hay sai. Tuy nhiên,
nếu ông Nguyễn Khoa Điềm nếu bình tâm suy nghĩ, sẽ biết những bài thơ
ông mới viết dù ca ngợi tự do dân chủ thật sự cũng chẳng làm cho giới
lãnh đạo CS quan tâm, chẳng đánh tan được sự nghi ngờ, oán trách từ
những người vốn là nạn nhân của ông, chẳng nối lại tình bạn từ những
người ông tránh né họ trước đây và nhất là không thể xóa hết tội lỗi vì
đã góp phần hủy diệt, tàn phá đời sống tinh thần bao nhiêu triệu thanh
niên trong suốt 10 năm ông lãnh đạo ngành tẩy não.
Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng “Cầu nguyện không thay đổi được nghiệp mà chỉ hành động mới làm thay đổi nghiệp”.
Dĩ nhiên hành động trong ý ngài không phải là bỏ tù, trấn áp, bịt
miệng, khóa tay người khác nhưng là làm việc thiện, gieo mầm nhân lên
một đất nước đã quá nhiều chịu đựng. Trong tinh thần đó, mong rằng, ít
nhất một lần trong đời thay vì chỉ làm thơ , ông Nguyễn Khoa Điềm hãy
chứng minh bằng hành động lời ông nói “Sự sợ hãi không cứu được chúng ta. Mà chính là sự can đảm. Đi tới dân chủ…”. Can đảm lên để đi tới dân chủ. Mong lắm thay.
THỦ TƯỚNG CANADA TẤN CÔNG CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN
Ý thức hệ độc hại: Thủ tướng Canada tấn công chủ nghĩa cộng sản.
Colin Perker | Trà Mi lược dịch
Thủ tướng Stephen Harper trong bữa tiệc gây quỹ xây đài tưởng niệm nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản (Toronto, Ont., May 30, 2014.) Nguồn: THE CANADIAN PRESS/Darren CalabreseHôm thứ Sáu 30 tháng 5, năm 2014, tại Toronto, Thủ tướng Canada Stephen Harper đã nói chuyện với quan khách trong bữa tiệc gây quỹ dựng đài tưởng niệm nạn nhân chủ nghĩa cộng sản.TORONTO – Thủ tướng Stephen Harper đã mở cuộc tấn công toàn diện tội ác của chủ nghĩa cộng sản tại một buổi quyên góp hôm thứ Sáu đẻ xây đài tưởng niệm nạn nhân cộng sản.Trong một bài phát biểu dài trước bữa ăn tối, Thủ tướng Harper đã nhắm vào Tổng thống Nga Vladimir Putin và những tín đồ cũ của chủ nghĩa cộng sản.“Trong thế kỷ 20, ý thức hệ độc hại và sự thực hành tàn nhẫn của chủ nghĩa cộng sản đã từ từ gây nhiễm độc khắp nơi trên thế giới, trên hầu hết các châu lục,” Harper nói.“Kết quả là một thảm họa. Hơn 100 triệu người bị thảm sát – một con số gần như không thể hiểu nổi.”Mục tiêu của buổi tiệc nhằm giúp gây quỹ cho tổ chức “Tribute to Liberty” để dựng một đài tưởng niệm vĩnh viễn tại Ottawa, thủ đô Canada, để tưởng nhớ “hàng trăm triệu” linh hồn nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản.Trong năm 2010 , chính phủ của đảng Bảo thủ cho biết sẽ hỗ trợ chương trình dựng đài tưởng niệm này.Các thế hệ công dân tương lai của Canada, Thủ tướng Harper nói, phải được nhắc nhở rằng họ có được đời sống hòa bình đã nhờ những cuộc đấu tranh và sự hy sinh của người trước.Với ngôn nhữ giống như ở thời còn Chiến tranh Lạnh, Harper chỉ trích chủ nghĩa cộng sản là một ý thức hệ áp bức, thậm chí giết người.“Tội ác xuất hiện dưới nhiều hình thức và chúng có thể tái sinh,” ông nói.“Nhưng dù ở bất cứ hình dạng, nhãn hiệu nào – chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa Mác-Lênin, (tư tưởng Hồ Chí Minh? – TM) hay ngày hôm nay là chủ nghĩa khủng bố – tất cả đều có một điểm chung: sự hủy diệt, chấm dứt tự do của con người.”“Chúng ta cảm nhận sâu sắc nỗi đau này vì gần như một phần tư người dân Canada hay cha mẹ của họ, đã một thời mắc phải xích xiềng của cộng sản và họ chắc chắn hiểu được sự hủy hoại của chủ nghĩa cộng sản.”Thủ tướng Harper lặp lại việc ông ủng hộ Ukraine, và một lần nữa đả kích Putin, nói rằng tổng thống Nga đã “quen dần với những cuộc đối đầu” và “chủ nghĩa bành trướng và chủ nghĩa quân phiệt” của Nga đang đe dọa an ninh toàn cầu.Canada, ông cho biết, đã là nơi ẩn náu cho những chạy trốn sự đàn áp (của cộng sản).“Thay vì định mệnh nghiệt ngã trong chủ nghĩa cộng sản, họ tìm thấy cơ hội Canada.”Harper cho biết Canada và phương Tây đóng vai trò ủng hộ tự do trong Chiến tranh Lạnh, và ông đã nhắc đến cựu Thủ tướng Brian Mulroney cùng với cựu Thủ tướng Anh Margaret Thatcher và cựu Tổng thống Mỹ Ronald Reagan.Thủ tướng đã bày tỏ “sự hối tiếc lớn” rằng Canada đã không luôn luôn ứng xử xứng đáng với khát vọng cao cả của mình.Một ban giám khảo sẽ lựa chọn mẫu thiết kế tượng đài hạng nhất trong vòng vài tháng tới.© 2014 DCVOnlineNguồn: ‘Poisonous ideology’: Stephen Harper launches full-throated attack on communism at Toronto fundraiser. Colin Perkel, Canadian Press | May 30, 2014.
CHUYỆN VUI CƯỜI
Tôi chỉ nói có một câu mà bị vợ giận, cấm vận cả tuần.
Vợ bảo tôi đi mua cái chiếu trúc. Tôi vào siêu thị, nhặt một cái đóng hộp vuông vức rồi ra tính tiền. Về nhà mở ra, có vài mẩu trúc bị gãy. Vợ làu bàu:
- Chán anh thật đấy, đi mua hàng chẳng chọn kỹ gì cả. Lần trước mua cái ấm siêu tốc, dùng một tháng cũng hỏng.
- Ừ, anh thừa nhận mình chọn gì cũng đại khái. Đến chọn vợ cũng đại khái nữa mà.
Tôi gật đầu lia lịa biết lỗi, thế mà vợ vẫn giận.
Bóng đèn trong phòng ngủ không sáng. Tôi loay hoay tháo bóng ở phòng khách, lắp thử vào xem hỏng do bóng hay do đường dây điện. Cuối cùng, tôi vẫn phải đi mua thêm một bóng đèn nữa và sửa điện ở cả phòng ngủ lẫn phòng khách.
Vợ bị sai giữ cầu thang cho tôi sửa điện nên tỏ ra bực bội:
- Sao anh còn tháo bóng ở phòng khách làm gì? Hóa ra anh ngốc thật.
- Thế giờ em mới biết là anh ngốc à? Anh biết mình ngốc từ cái hôm lồng tay vào nhẫn cưới ấy.
Tôi đã cười rất tươi, thế mà vợ vẫn giận.
Vợ đọc một bài báo nói về ảnh hưởng của bố mẹ tới con cái, tóm tắt lại cho tôi:
- Khoa học chứng minh con thừa hưởng trí thông minh của mẹ và nét đẹp của bố...
- Thảo nào thằng Bo nhà mình đi học toàn bị cô chê dốt.
Tôi đã đồng tình với vợ, thế mà vợ lại giận.
Cuối tuần, vợ chồng tôi trốn con đi ăn chân gà nướng. Vợ gặm mãi cái chân gà không xong, e thẹn bảo:
- Con gà này già quá, em ăn không nổi.
- Còn anh thì gà già cũng không vấn đề gì. Cả đời anh đã quen ăn thịt già rồi.
Tôi buột miệng nói, không hề có ý ám chỉ vợ lớn tuổi hơn mình, thế mà vợ vẫn giận.
Vợ hỏi:
- Đố anh biết, đàn ông hay phụ nữ, ai thông minh hơn?
- Chắc là phụ nữ thông minh hơn.
Vợ có vẻ hài lòng. Tôi được đà nói tiếp:
- Phụ nữ thông minh nên em mới lấy được người như anh, còn đàn ông ngốc nghếch nên...
Tôi chưa kịp nói hết câu thì vợ đã hầm hầm đứng dậy và bỏ đi.
ỨNG XỬ CỦA CÁC HOA HẬU
Trong nhiều cuộc thi hoa hậu đủ loại đã diễn ra, phần ứng xử luôn để lại cho khán giả những cảm xúc kinh ngạc và kinh hoàng về sự thông minh của những câu hỏi và những câu trả lời.
Dưới đây, chúng tôi xin trích lại một số câu như thế để các bạn tham khảo.
Hỏi: Nếu đoạt vương miện, em có hiến dâng thân mình cho hòa bình thế giới không?
Trả lời: Em luôn luôn sẵn sàng. Nhưng muốn có hòa bình thì chiến tranh phải kết thúc. Nhiều cuộc chiến tranh kết thúc bằng đàm phán, vậy em xin hiến dâng thân mình cho đàm phán trước.
Hỏi: Nếu gặp một chàng trai giàu nhưng ngu ngốc và một chàng trai nghèo nhưng thông minh, em sẽ chọn ai?
Trả lời: Em sẽ chọn trai nghèo vì chàng chắc chắn không đủ tiền mua vé vào xem đêm chung kết, do đó không biết em nói gì hôm nay. Em sẽ yêu chàng tha thiết, nhưng chỉ bằng lòng làm đám cưới khi chàng đã giàu rồi.
Hỏi: Em hãy giải thích về bốn chữ “Công, dung, ngôn, hạnh”.
Trả lời: Công là chim công, ý muốn nói người con gái lúc nào cũng phải sặc sỡ và rực rỡ như con công lúc xòe đuôi.
Dung chỉ thêm một dấu huyền nữa sẽ thành Dùng, ý muốn nhắc phụ nữ hiện đại bất cứ vật gì cũng phải biết dùng.
Ngôn chỉ cần thêm một dấu sắc nữa sẽ thành Ngốn, ý muốn bảo con gái gặp gì cũng phải ăn ngốn ngấu cho hết, không được bỏ phí. Còn Hạnh là viết tắt của hai chữ “Hạnh nhân”. Thứ đấy làm nhân bánh rất ngon. Ý muốn nhắc nhở người con gái mỗi khi làm bánh không được quên bỏ thứ này vào. Nếu bánh mua thì phải kiểm tra xem hạnh nhân đó giả hay thật.
Hỏi: Xin em giải thích về “tam tòng, tứ đức”.
Trả lời: Tam là ba, tòng là Võ Tòng, một chàng trai rất to khỏe trong truyện Tàu. Ý câu này nhắc phụ nữ muốn an toàn phải làm quen với ba ông như Võ Tòng thì mới yên tâm trong cuộc sống.
Tứ là bốn, đức là nước Đức. Ý muốn nói phụ nữ hiện đại phải du lịch sang Đức bốn lần thì mới đủ tiêu chuẩn.
Hỏi: Hãy kể một câu chuyện mà em thích nhất và giải thích tại sao?
Trả lời: Chuyện em thích nhất là chuyện Tấm Cám. Em phải thích chuyện này vì bạn bè dặn là nếu nói thích một chuyện khác có thể ban giám khảo sẽ không hiểu.
Em còn thích vì em rất hay ăn cơm tấm, nhất là loại cơm tấm bì sườn. Tuy em không ăn được cám nhưng heo thích ăn và em thấy heo rất dễ thương khi nó còn bé.
Hỏi: Em hãy đọc hai câu mà em nhớ nhất trong Truyện Kiều và giải thích tại sao?
Trả lời: Dạ thưa ban giám khảo, đấy là hai câu: “Bên ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không dao”. Em thích hai câu này vì nó có “thớt” và “dao”. Đó là hai dụng cụ rất cần thiết cho người phụ nữ khi vào bếp làm nội trợ.
Em tin rằng phụ nữ không biết nội trợ cũng chả khác gì đàn ông không biết lái xe, gia đình chả an toàn được.
Hỏi: Nếu trở thành hoa hậu, em sẽ đội vương miện ở chỗ nào?
Trả lời: Kính thưa ban giám khảo, em còn phải xem vương miện làm bằng gì đã. Nếu nó bằng vàng hay kim cương thì em chỉ đội ở những nơi không có trộm cướp. Nếu bằng bạc em sẽ đội khắp nơi, cả khi đi ngủ. Còn nếu nó bằng cườm thì em chỉ đội khi nào không bước đi trên nền xi-măng, đề phòng nó bị rơi vỡ tan ra mất.
Hỏi: Em hãy cho biết giá trị của áo tắm đối với phụ nữ, và cách chọn áo tắm để làm nổi bật những phẩm chất của em?
Trả lời: Kính thưa ban giám khảo! Đầu tiên, em xin tuyên bố áo tắm có hai loại, loại mặc khi đi tắm và loại mặc khi đi thi. Loại đi tắm có thể mua hoặc thuê, còn loại đi thi do ban tổ chức phát, từ chối sẽ bị loại cho nên đừng dại gì từ chối. Cách chọn áo tắm hay nhất là không phải chọn cho mình mà chọn cho người khác. Làm sao để khi thấy mình tắm, ban giám khảo đều muốn tắm theo thì mới thành công!
(Saigon Echo)
Nhà ngoại giao nọ vốn nổi tiếng với tính hài hước. Một lần đi dự tiệc, khi ông ta đến mọi người đã ngồi kín bàn ăn, ông ta đành ngồi xuống một chiếc ghế thừa ở góc bàn.
Mới yên chỗ, ông ta đã lên tiếng:
- Tôi xin đố các vị giữa hai chân tôi là cái gì?
Bàn tiệc chợt im ắng hẳn, cánh đàn ông thì lấy khăn tay che miệng cười, cánh đàn bà thì ngượng nghịu ngó lơ.
Đợi cho yên ắng, ông mới giải đáp:
- Giữa hai chân tôi bây giờ là cái chân bàn. (Ý nói một quan khách như ông mà lại phải ngồi ở góc bàn).
Mọi người đều ồ lên thở phào. Chủ bữa tiệc biết ý liền mời ông vào vị trí giữa bàn.
Vừa ấm chỗ ông lại nói:
- Bây giờ đố các vị giữa hai chân tôi là cái gì?
Khác với lúc nãy, tiếng phỏng đoán nổi lên râm ran, người đoán chân ghế, người đoán thìa, nĩa… ông đều lắc đầu tất.
Đợi mọi người yên lặng, ông mới thủng thẳng trả lời:
- Giữa hai chân tôi bây giờ là cái mà các vị đoán lúc nãy ấy.
Có một vị sư một lần lên xe buýt “chẳng may” ngồi cạnh một em chân đã dài mà nhà lại nghèo.
-Sau một hồi trêu trọc nhà sư, cô gái hỏi:
-Bạch thầy, giữa hai chân thầy có cái gì ạ?
-Nhà sư nghĩ mình đi tu thi chỉ dùng có mỗi một chức năng (mono ấy mà) nên có cũng như chết rồi. Nghĩ vậy nhà sư trả lời cô gái: “ giữa hai chân ta có một xác chết”
-Cô cười bảo: “ Thế thì giữa hai chân em cũng có……”
-Nhà sư tò mò???? Có cái gì cơ…
-Cô gái: Thế mà cũng hỏi, có cái quan tài chứ cái gì nữa.
HÌNH ẢNH THẾ GIỚI
Diễn Hành Văn Hoá Quốc Tế tại Nữu Ước, Hoa Kỳ. Thứ Bảy, ngày 21 tháng 6 năm 2014.
International Immigrants Day Parade, noon Saturday, June 21, 2014, Sixth Avenue (Avenue of the Americas) from 43rd to 56th Street, New York, USA.
Photo courtesy of Destiny Nguyễn.
https://www.facebook.com/Destiny633/media_set?set=a.675623772493027.1073741889.100001362305076&type=1
https://www.facebook.com/Destiny633/media_set?set=a.675623772493027.1073741889.100001362305076&type=1
Ảnh đẹp về tuổi thơ Việt Nam
Ảnh đẹp về tuổi thơ
Tuổi thơ tôi là nắng cháy trên da trâu dắt ngoài đồng nước ngập mênh mông. Tuổi thơ tôi là đom đóm soi đêm những con đường làng hương lúa ngất ngây. Tuổi thơ tôi là năng tháng miên mang, vai cha thật gầy về khuya đi sớm. Mưa nắng tảo tần mẹ như cánh cò khắc khỏai trong đêm
"Tuổi thơ về đâu để lòng tôi man mác tiếng sao điều để đêm đêm ngọn đèn dầu vẫn sáng mái đầu trẻ thơ. Ôi tuổi thơ yêu dấu của tôi"
Tuổi thơ tôi là nắng cháy trên da trâu dắt ngoài đồng nước ngập mênh mông. Tuổi thơ tôi là đom đóm soi đêm những con đường làng hương lúa ngất ngây. Tuổi thơ tôi là năng tháng miên mang, vai cha thật gầy về khuya đi sớm. Mưa nắng tảo tần mẹ như cánh cò khắc khỏai trong đêm
"Tuổi thơ về đâu để lòng tôi man mác tiếng sao điều để đêm đêm ngọn đèn dầu vẫn sáng mái đầu trẻ thơ. Ôi tuổi thơ yêu dấu của tôi"
Là những cơn mưa che mình dưới lá chuối |
Là những lúc nô đùa cùng bạn thân |
Trò té nước - cái trò mà chúng tôi vẫn đùa nhau |
Ngồi câu cá, thả mình trong thiên nhiên |
Sở hữu những con vật của riêng mình |
Chạy xe dưới con đường ngập nước |
Té nước rộn ràng hơn |
Tuổi thơ tôi ... |
Cùng bạn bè... |
Những trận đấu dưới mưa |
Hay đơn giản là che mà không che... |
Quen thuộc quá con đường đến trường |
Thả diều |
Vẫn là như thế nhớ tuổi thơ ơi |
Cùng mẹ và em |
Những khi nô đùa |
Và chúng tôi là những thằng bạn |
Để làm nhau mát mẻ hơn |
Cùng bắt 1 con vịt |
Tắm ao sen... |
_
Vẻ đẹp của fan nữ Hàn Quốc tại World Cup
Các nữ cổ động viên của Hàn Quốc gây chú ý vì vẻ ngoài xinh xắn và thân hình chuẩn như người mẫu.
Ngất ngây vẻ đẹp của fan nữ Hàn Quốc tại World Cup
Không thể tới Brazil để trực tiếp xem đội tuyển Hàn Quốc thi đấu tại World Cup 2014 các fan nữ của xứ sở Kim Chi đã tìm đến các địa điểm công cộng như sân vận động, quảng trường - nơi có các màn chiếu lớn để cổ vũ cho các cầu thủ thân yêu của mình trong trận ra quân gặp đội tuyển Nga vào ngày hôm qua 18/5.
Mặc dù là phụ nữ nhưng niềm đam mê dành cho trái bóng tròn của những cô gái Hàn Quốc này không thua kém gì mày râu. Họ gào thét, cổ vũ cuồng nhiệt cho các cầu thủ Hàn Quốc và chưa dừng lại ở đó, các cô gái này còn thu hút sự chú ý bởi ngoại hình vô cùng xinh xắn, ăn mặc gợi cảm, đầy sức hút.
Hai fan nữ phấn khích sau khi Lee Keun-Ho ghi bàn mở tỷ số cho Hàn Quốc ở đầu hiệp 2.
Các fan nữ Hàn Quốc rất xinh xắn và có một ngoại hình ấn tượng như người mẫu
Họ cổ vũ cuồng nhiệt không thua kém gì mày râu
Những gương mặt dễ thương của các nữ CĐV Hàn Quốc
Độ nóng tại Hàn Quốc không thua kém gì "chảo lửa" Brazil
Hai chân dài thu hút với phong cách ăn mặc rất trẻ trung và gợi cảm
Bóng hồng trầm ngâm khi đội tuyển Hàn Quốc bị Nga gỡ hòa
Phong cách dễ thương của một nữ cổ động viên Hàn Quốc
Những nữ cổ động viên sở hữu gương mặt xinh xắn
Và rất dễ thương
Sự thất vọng đáng yêu của một nữ cổ động viên khi cẩu thủ Hàn Quốc đánh hụt một bàn thắng
Và cũng không dấu nổi nét hồi hộp, gay cấn trên gương mặt xinh đẹp
10 chuỗi cửa hàng được ưa thích nhất ở Mỹ
Dưới đây là 10 chuỗi cửa hàng có lượng khách đông nhất Mỹ, do Placed tổng hợp từ điều tra thực tế thị trường, doanh số bán hàng, cùng số liệu chi phí quảng cáo.
1. Walmart – Cửa hàng bán lẻ
Người sáng lập: Sam Walton
Năm thành lập: 31/10/1969
2. McDonald’s – Nhà hàng thức ăn nhanh
Người sáng lập: Richard và Maurice McDonald
Năm thành lập: 15/5/1940
3. Subway – Nhà hàng thức ăn nhanh
Người sáng lập: Fred DeLuca và Peter Buck
Năm thành lập: 28/8/1965
4. Starbucks – Cửa hàng đồ uống
Người sáng lập: Zev Siegl, Jerry Baldwin và Gordon Bowker
Năm thành lập:1971
5. Walgreens – Nhà thuốc
Người sáng lập: Charles R. Walgreen
Năm thành lập:1901
6. Target – Cửa hàng bán lẻ
Người sáng lập: George Dayton
Năm thành lập: 1902
7. CVS Caremark – Nhà thuốc
Chủ tịch và giám đốc điều hành hiện tại: Larry J. Merlo
Thành lập năm 2007 thông qua sáp nhập CVS Pharmacy và Caremark Rx
8. Burger King – Nhà hàng thức ăn nhanh
Người sáng lập: David Edgerton và James McLamore
Năm thành lập: 1954
9. Taco Bell – Nhà hàng thức ăn nhanh
Người sáng lập: Glen Bell
Năm thành lập: 21/3/1962
10. 7-Eleven – Cửa hàng bán lẻ
CEO hiện tại: Joseph DePinto
Năm thành lập: 1927
Xếp hạng năm 2013: 10
Xếp hạng trong lĩnh vực giao nhận: 2
(Xếp hạng lần trước: 2)
Tổng số điểm: 7,00
Lý do được chọn: Khi FedEx ra đời năm 1971, ý tưởng kinh doanh này đơn giản nhưng đã mang tới một cuộc cách mạng lớn trong ngành chuyển phát. Năm 2011, bất chấp việc các dịch vụ chuyển phát nhiều nơi đối mặt với khủng hoảng và suy thoái thì FedEx lại vẫn ăn nên làm ra.
Năm 2012, FedEx đã phải cắt giảm chi phí để đối phó với tình hình kinh tế toàn cầu đi xuống.
10 công ty danh tiếng nhất thế giới
Tạp chí Fortune vừa công bố danh sách những công ty được ngưỡng mộ nhất thế giới...
1. Apple
Xếp hạng năm 2013: 1
Xếp hạng trong lĩnh vực máy tính: 1
(Xếp hạng lần trước: 1)
Tổng số điểm: 8,24
Lý do được chọn: Gần đây, giá cổ phiếu của Apple rơi tự do và ứng dụng bản đồ của hãng bị chê tơi bời. Song, Apple vẫn có tiềm lực tài chính hùng hậu. Lãi ròng quý 4/2012 của hãng đạt 13 tỷ USD, đưa Apple trở thành công ty có lợi nhuận cao nhất thế giới trong giai đoạn đó. Apple có cơ sở khách hàng trung thành và vẫn từ chối chiến thuật cạnh tranh bằng giá cả, giúp iPhone, iPad được xem là những thiết bị uy tín.
Xếp hạng trong lĩnh vực máy tính: 1
(Xếp hạng lần trước: 1)
Tổng số điểm: 8,24
Lý do được chọn: Gần đây, giá cổ phiếu của Apple rơi tự do và ứng dụng bản đồ của hãng bị chê tơi bời. Song, Apple vẫn có tiềm lực tài chính hùng hậu. Lãi ròng quý 4/2012 của hãng đạt 13 tỷ USD, đưa Apple trở thành công ty có lợi nhuận cao nhất thế giới trong giai đoạn đó. Apple có cơ sở khách hàng trung thành và vẫn từ chối chiến thuật cạnh tranh bằng giá cả, giúp iPhone, iPad được xem là những thiết bị uy tín.
2. Google
Ảnh: Mashable
|
Xếp hạng năm 2013: 2
Xếp hạng trong lĩnh vực dịch vụ Internet và bán lẻ: 1
(Xếp hạng lần trước: 1)
Tổng số điểm: 8,01
Lý do được chọn: Hãng tìm kiếm trực tuyến khổng lồ ở thung lũng Silicon vẫn được xem là nơi hấp dẫn nhất để làm việc theo đánh giá năm 2013 của Fortune. Ngoài ra, năm nay, hệ điều hành Android dự kiến sẽ vượt qua iOS, trở thành nền tảng di động số 1 ở Mỹ và Canada, trong khi kho ứng dụng Google Play dự kiến qua mặt App Store của Apple về số lượng phần mềm cho điện thoại thông minh và máy tính bảng.
Xếp hạng trong lĩnh vực dịch vụ Internet và bán lẻ: 1
(Xếp hạng lần trước: 1)
Tổng số điểm: 8,01
Lý do được chọn: Hãng tìm kiếm trực tuyến khổng lồ ở thung lũng Silicon vẫn được xem là nơi hấp dẫn nhất để làm việc theo đánh giá năm 2013 của Fortune. Ngoài ra, năm nay, hệ điều hành Android dự kiến sẽ vượt qua iOS, trở thành nền tảng di động số 1 ở Mỹ và Canada, trong khi kho ứng dụng Google Play dự kiến qua mặt App Store của Apple về số lượng phần mềm cho điện thoại thông minh và máy tính bảng.
3. Amazon.com
Ảnh: Tech.
|
Xếp hạng năm 2013: 3
Xếp hạng trong lĩnh vực dịch vụ Internet và bán lẻ: 2
(Xếp hạng lần trước: 2)
Tổng số điểm: 7,28
Lý do được chọn: Với mức giá thấp, dịch vụ khách hàng hiệu quả và tăng trưởng nhanh về mặt địa lý, Amazon đã trở thành hãng thương mại điện tử có lợi nhuận lớn nhất thế giới. Năm ngoái, Fortune đã bình chọn CEO của Amazon là Jeff Bezos là "Doanh nhân của năm" nhờ mức tăng trưởng như vũ bão của công ty, đặc biệt ở mảng dịch vụ web của Amazon và bộ phận Kindle
Xếp hạng trong lĩnh vực dịch vụ Internet và bán lẻ: 2
(Xếp hạng lần trước: 2)
Tổng số điểm: 7,28
Lý do được chọn: Với mức giá thấp, dịch vụ khách hàng hiệu quả và tăng trưởng nhanh về mặt địa lý, Amazon đã trở thành hãng thương mại điện tử có lợi nhuận lớn nhất thế giới. Năm ngoái, Fortune đã bình chọn CEO của Amazon là Jeff Bezos là "Doanh nhân của năm" nhờ mức tăng trưởng như vũ bão của công ty, đặc biệt ở mảng dịch vụ web của Amazon và bộ phận Kindle
4. Coca-Cola
Ảnh: Drum.
|
Xếp hạng năm 2013: 4
Xếp hạng trong lĩnh vực đồ uống: 2
(Xếp hạng lần trước: 1)
Tổng số điểm: 7,32
Lý do được chọn: Coca-Cola vẫn là loại đồ uống được ưa chuộng cho dù nền công nghiệp này là một chiến trường cạnh tranh khốc liệt. Coke và Diet Coke vẫn là những loại đồ uống không cồn hàng đầu ở Mỹ. Doanh thu của hãng đã tăng trưởng 2 con số ở các nước như Ấn Độ, Thái Lan trong năm 2012.
Xếp hạng trong lĩnh vực đồ uống: 2
(Xếp hạng lần trước: 1)
Tổng số điểm: 7,32
Lý do được chọn: Coca-Cola vẫn là loại đồ uống được ưa chuộng cho dù nền công nghiệp này là một chiến trường cạnh tranh khốc liệt. Coke và Diet Coke vẫn là những loại đồ uống không cồn hàng đầu ở Mỹ. Doanh thu của hãng đã tăng trưởng 2 con số ở các nước như Ấn Độ, Thái Lan trong năm 2012.
5. Starbucks
Ảnh: Tech
|
Xếp hạng năm 2013: 5
Xếp hạng trong lĩnh vực dịch vụ ăn uống: 1
(Xếp hạng lần trước: 2)
Tổng số điểm: 7,94
Lý do được chọn: Ông Howard Schultz trở lại tập đoàn vào năm 2008 đã khôi phục hoạt động kinh doanh của thương hiệu do chính mình sáng lập này, đưa Starbucks lên một tầm cao mới và nâng cao doanh số bán hàng cũng như lợi nhuận kinh doanh. Năm ngoái, doanh thu của Starbucks đạt 13,3 tỷ USD, tăng 14% so với năm 2011.
Xếp hạng trong lĩnh vực dịch vụ ăn uống: 1
(Xếp hạng lần trước: 2)
Tổng số điểm: 7,94
Lý do được chọn: Ông Howard Schultz trở lại tập đoàn vào năm 2008 đã khôi phục hoạt động kinh doanh của thương hiệu do chính mình sáng lập này, đưa Starbucks lên một tầm cao mới và nâng cao doanh số bán hàng cũng như lợi nhuận kinh doanh. Năm ngoái, doanh thu của Starbucks đạt 13,3 tỷ USD, tăng 14% so với năm 2011.
6. IBM
Ảnh: Canada
|
Xếp hạng năm 2013: 6
Xếp hạng trong lĩnh vực dịch vụ công nghệ thông tin: 1
(Xếp hạng lần trước: 1)
Tổng số điểm: 7,37
Lý do được chọn: Bất chấp những thách thức trong lĩnh vực máy tính, IBM vẫn có được lợi nhuận vững chắc trên một số lĩnh vực. IBM đã có được sự tăng trưởng rõ ràng trong các lĩnh vực phân tích dữ liệu, điện toán đám mây và ở các thị trường mới nổi. Hãng cũng công bố mức tăng trưởng tới 11% ở các thị trường mới nổi như Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc.
Xếp hạng trong lĩnh vực dịch vụ công nghệ thông tin: 1
(Xếp hạng lần trước: 1)
Tổng số điểm: 7,37
Lý do được chọn: Bất chấp những thách thức trong lĩnh vực máy tính, IBM vẫn có được lợi nhuận vững chắc trên một số lĩnh vực. IBM đã có được sự tăng trưởng rõ ràng trong các lĩnh vực phân tích dữ liệu, điện toán đám mây và ở các thị trường mới nổi. Hãng cũng công bố mức tăng trưởng tới 11% ở các thị trường mới nổi như Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc.
7. Southwest Airlines
Ảnh: Gente
|
Xếp hạng năm 2013: 7
Xếp hạng trong lĩnh vực hàng không: 5
(Xếp hạng lần trước: 3)
Tổng số điểm: 5,52
Lý do được chọn: Lợi nhuận ròng của hãng hàng không giá rẻ này đã tăng 26% trong năm ngoái. Hãng cũng nhận được đánh giá cao của các khách hàng trung thành. Gần đây, Southwest Airlines đã công bố sẽ ra mắt một số loại hình dịch vụ mới hứa hẹn mang tới cho khách hàng sự thoải mái hơn.
Xếp hạng trong lĩnh vực hàng không: 5
(Xếp hạng lần trước: 3)
Tổng số điểm: 5,52
Lý do được chọn: Lợi nhuận ròng của hãng hàng không giá rẻ này đã tăng 26% trong năm ngoái. Hãng cũng nhận được đánh giá cao của các khách hàng trung thành. Gần đây, Southwest Airlines đã công bố sẽ ra mắt một số loại hình dịch vụ mới hứa hẹn mang tới cho khách hàng sự thoải mái hơn.
8. Berkshire Hathaway
Ảnh: Play
|
Xếp hạng năm 2013: 8
Xếp hạng trong lĩnh vực bảo hiểm bất động sản và rủi ro: 1
(Xếp hạng lần trước: 1)
Tổng số điểm: 7,18
Lý do được chọn: Warren Buffett là một trong những CEO được kính trọng nhất ở Mỹ. Ông đã cam kết chi một nửa số tài sản khổng lồ của mình cho các hoạt động từ thiện. Tập đoàn Berkshire Hathaway của ông cũng nằm trong số những doanh nghiệp được ngưỡng mộ nhất thế giới. Mới đây, Berkshire Hathaway đã công bố đạt thỏa thuận mua tập đoàn thực phẩm khổng lồ Heinz.
Xếp hạng trong lĩnh vực bảo hiểm bất động sản và rủi ro: 1
(Xếp hạng lần trước: 1)
Tổng số điểm: 7,18
Lý do được chọn: Warren Buffett là một trong những CEO được kính trọng nhất ở Mỹ. Ông đã cam kết chi một nửa số tài sản khổng lồ của mình cho các hoạt động từ thiện. Tập đoàn Berkshire Hathaway của ông cũng nằm trong số những doanh nghiệp được ngưỡng mộ nhất thế giới. Mới đây, Berkshire Hathaway đã công bố đạt thỏa thuận mua tập đoàn thực phẩm khổng lồ Heinz.
9. Walt Disney
Ảnh: Fan
|
Xếp hạng năm 2013: 9
Xếp hạng trong lĩnh vực giải trí: 1
(Xếp hạng lần trước: 1)
Tổng số điểm: 7,84
Lý do được chọn: Disney một lần nữa được chọn nhờ kế hoạch thâu tóm hãng LucasFilm trong năm 2012. Thương vụ này trị giá 4,05 tỷ USD. Năm 2006, Disney đã thu mua hãng phim hoạt hình Pixar và tới năm 2009 là hãng giải trí Marvel.
Tăng trưởng của Disney không chỉ giới hạn ở màn ảnh rộng, mà còn ở các khu vui chơi giải trí. Năm tài khóa 2012, doanh thu của Disney trên mảng công viên, khu vui chơi đã tăng 9%.
Xếp hạng trong lĩnh vực giải trí: 1
(Xếp hạng lần trước: 1)
Tổng số điểm: 7,84
Lý do được chọn: Disney một lần nữa được chọn nhờ kế hoạch thâu tóm hãng LucasFilm trong năm 2012. Thương vụ này trị giá 4,05 tỷ USD. Năm 2006, Disney đã thu mua hãng phim hoạt hình Pixar và tới năm 2009 là hãng giải trí Marvel.
Tăng trưởng của Disney không chỉ giới hạn ở màn ảnh rộng, mà còn ở các khu vui chơi giải trí. Năm tài khóa 2012, doanh thu của Disney trên mảng công viên, khu vui chơi đã tăng 9%.
10. FedEx
Ảnh: Tw
|
Xếp hạng trong lĩnh vực giao nhận: 2
(Xếp hạng lần trước: 2)
Tổng số điểm: 7,00
Lý do được chọn: Khi FedEx ra đời năm 1971, ý tưởng kinh doanh này đơn giản nhưng đã mang tới một cuộc cách mạng lớn trong ngành chuyển phát. Năm 2011, bất chấp việc các dịch vụ chuyển phát nhiều nơi đối mặt với khủng hoảng và suy thoái thì FedEx lại vẫn ăn nên làm ra.
Năm 2012, FedEx đã phải cắt giảm chi phí để đối phó với tình hình kinh tế toàn cầu đi xuống.
Từ tuần trước, người dân ở thành phố Ngọc Lâm, phía nam Trung Quốc, đã tụ tập ăn thịt chó với vải và uống rượu để mừng ngày hạ chí. Lễ hội truyền thống năm nay được họ tổ chức sớm hơn thường lệ để tránh sự chú ý của các nhà bảo vệ động vật.
Mỗi năm, có hàng nghìn con chó bị giết vào lễ hội thịt chó mừng ngày hạ chí ở Ngọc Lâm. Ảnh: REX
Theo truyền thống địa phương ở Ngọc Lâm, ăn thịt chó với vải thiều và uống rượu vào ngày dài nhất trong năm 21/6 sẽ giúp mọi người khỏe mạnh trong suốt cả mùa đông. Theo Guardian, mỗi năm, có hàng nghìn con chó bị đem ra giết để người dân cùng nhau thưởng thức vào ngày lễ này.
Những bức ảnh trên truyền thông quốc gia cho thấy người dân Ngọc Lâm tụ tập bên bàn tiệc tràn ngập thịt chó, rau và quả vải. Trong những bức ảnh khác, những con chó bị lột da, nấu chín được treo la liệt trên các hàng ven đường hoặc chất đống trên bàn.
Trong những năm gần đây, lễ hội thịt chó vấp phải sự lên án mạnh mẽ của các nhà hoạt động. Họ phản đối việc sát hại loài động vật gần gũi với con người bằng các bài viết trên mạng xã hội, các kiến nghị trực tuyến và các cuộc biểu tình bên ngoài những lò giết mổ hay các chợ bán thịt chó.
Phản ứng của dư luận cho thấy người Trung Quốc đang dần thay đổi thái độ và nhận thức về việc ăn thịt chó, một truyền thống bấy lâu nay.
Các nhà hoạt động về quyền động vật cho rằng thịt chó ẩn chứa nguy cơ gây bệnh cao bởi những con chó được giết mổ không hề qua kiểm dịch. Chúng hoặc chạy rông trên đường phố hoặc bị câu trộm từ các gia đình. Những con bị trúng bả độc có thể gây nguy hiểm cho người ăn.
Những con chó bị giết mổ để phục vụ lễ hội ở Ngọc Lâm không hề được kiểm dịch. Ảnh: REX
Ông Deng Yidan, một nhà hoạt động thuộc tổ chức Động vật châu Á, cho rằng hình ảnh của Ngọc Lâm nói riêng và Trung Quốc nói chung đang xấu đi trong mắt dư luận.
"Những tin tức tiêu cực ngày càng nhiều: trộm chó, tội phạm, vấn đề vệ sinh thực phẩm và sự lo ngại bệnh dại, chưa kể đến sự phân hóa trong xã hội giữa những người ủng hộ và phản đối lễ hội này, đều mang đến cho Ngọc Lâm những điều tiếng nhiều hơn là lợi ích kinh tế", ông Deng nói.
Chính quyền Ngọc Lâm trong khi đó thoái thác trách nhiệm về vấn đề này và phủ nhận sự tồn tại chính thức của lễ hội. Họ cho rằng đó chỉ là thói quen ẩm thực của một số người.
Truyền thông quốc gia cho hay chính quyền thành phố đã yêu cầu các nhà hàng loại món thịt chó ra khỏi thực đơn và bảng quảng cáo, nhưng không cấm bán và tiêu thụ món ăn này.
Áp lực từ dư luận đã khiến một lễ hội thịt chó khác ở tỉnh Chiết Giang phải hủy bỏ vào năm 2011, dù đây là một lễ hội có từ hàng trăm năm trước.
Monday, June 23, 2014
PHẠM CHÍ DŨNG * CỘNG SẢN BÁN NƯỚC PHẢN DÂN
Mua điện gấp 3 giá thường: Kẻ nào nối giáo cho Trung Quốc?
Phản nghịch!
Khác hẳn với làn sóng “thủy triều đỏ Trung Hoa” những năm trước, con
sóng cuồng bạo tàn dập mang tên HD 981 vào năm nay đã làm rách toạc đáy
con thuyền chính trị Việt Nam vốn đã mục nát, khiến bục tung những
khoảng tối tăm bẩn thỉu bị khuất tất lâu ngày.
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), từng được một tờ báo Anh vinh phong là
“cậm ấm hư hỏng” do người mẹ đỡ đầu của nó là Bộ Công thương, là tiếp
dẫn ngoan ngoãn vô song cho chiến dịch tiếp tay cho Trung Quốc đến mức
phản nghịch tình dân tộc.
Đất Việt – tờ báo của Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam và là
một trong những xung kích phản biện vượt qua sợ hãi nhất trong hệ thống
truyền thông nhà nước – mới đây đã cùng với GS TS Đặng Đình Đào –
nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, Đại học Kinh
tế quốc dân Hà Nội – hé lộ một “bí mật quốc gia”: từ nhiều năm qua, EVN
đã mua điện từ các doanh nghiệp Trung Quốc với giá gấp đến 3 lần mức
thông thường của doanh nghiệp Việt Nam.
Thậm chí, EVN mua điện của Trung Quốc với giá cao cả ở thời điểm nguồn
cung cấp trong nước dồi dào, vin vào lý do vì hợp đồng mua điện với
Trung Quốc được ký từ năm 2005 và chính thức mua điện từ 2009. Thái độ
kinh doanh bất chấp này đã bất chấp một thực tế là trong thời gian gần
đây, nguồn điện trong nước được tăng cường nhiều hơn, nhiều nhà máy điện
ngoài EVN chưa huy động hết công suất, có thời điểm điện dư thừa, giá
lại rẻ hơn nhiều giá điện Trung Quốc bán cho Việt Nam. Nhưng bởi lối
hành xử đầy ngờ vực, EVN đã cố tâm mua điện trong nước với giá chỉ bằng
1/3 giá mua điện của Trung Quốc, kèm theo các điều kiện rất khắt khe.
Đến năm 2013, giới chuyên gia phản biện độc lập đã không còn giữ nổi
bình thản: một lượng lớn điện thương phẩm mua từ Trung Quốc với giá cao
và có xu hướng tăng nhanh những năm gần đây đã làm méo mó quá nhiều thị
trường điện.
Cơ chế độc quyền vong bản đã phát triển đến mức trong khi nhiều doanh
nghiệp sản xuất điện của Việt Nam sẵn sàng chịu lỗ để hòa lưới điện, khi
suốt từ năm 2011 khi báo chí Việt Nam dồn dập phẫn nộ trực chỉ vào
trách nhiệm của EVN về quan điểm “người Việt dùng hàng Trung”, doanh
nghiệp thuộc loại độc trị theo cung cách thời chủ nghĩa tư bản dã man
này vẫn quay mặt làm ngơ với hình ảnh tàu Bình Minh bị Trung Quốc cắt
cáp và ngư dân Việt bị người “đồng chí tốt” đẩy vào vòng khốn quẫn ngay
trên vùng biển quê hương.
Bởi từ một góc nhìn khác, ai cũng biết Trung Quốc sở hữu khối doanh nghiệp có biệt tài “quà cáp” hẩu nhất thế giới.
Ai phải bù lỗ và gánh nợ?
Ở Việt Nam, EVN là một trong những dẫn chứng sống động và dối trá nhất
về việc người ta đã mượn lý thuyết kinh tế chỉ huy thời chiến để trục
lợi như thế nào vào thời bình. Trong điều kiện nền chính trị độc đảng,
thủ đoạn lợi dụng càng trở nên thâm ý hơn. Độc quyền và đặc lợi cũng vì
thế đồng nghĩa với tội đồ, đối với nền kinh tế và đời sống dân sinh.
Với trường hợp EVN, đó chính là tội ác.
Năm 2011, vào lúc nền kinh tế Việt Nam dợm chân vào suy thoái, sự đổ bể
của hai thị trường chứng khoán và bất động sản đã kéo theo một phát minh
không tiền khoáng hậu kể từ thời mở cửa 1990: những doanh nghiệp nhà
nước đặc trưng bởi chủ thuyết “giá chỉ có tăng chứ không giảm” như EVN
và Petrolimex (Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam) đã tạo thành cặp song sinh có
chung hậu môn. Hàng loạt chiến dịch đầu tư trái ngành của các tập đoàn
này vào chứng khoán, bất động sản và bảo hiểm rốt cuộc đã tích đọng gánh
nợ đến trên 40.000 tỷ đồng.
Trong suốt ba năm qua, toàn bộ số nợ nần đó đã được EVN và Petrolimex
tuồn qua tuyến đại tràng để đổ lên đầu người dân đóng thuế.
Nhưng cũng trong suốt ba năm qua, bất chấp những đợt tăng giá điện vô
tội vạ của EVN, đã không có bất cứ cuộc kiểm tra nào được làm tới nơi
tới chốn. Tất cả những dấu hiệu khuất lấp về tài chính và số lương
“nghèo khổ” ít nhất vài chục triệu đồng theo đầu người ở tập đoàn này mà
dư luận bức xúc từ năm 2011, đã hầu như không bị cơ quan chủ quản của
EVN là Bộ Công thương phản cảm. Không những thế, những lãnh đạo cao nhất
của Bộ Công thương như ông Vũ Huy Hoàng vẫn không ngơi nghỉ một chiến
dịch khác: PR cho “cậu ấm hư hỏng” của mình.
Đó là một dạng PR không mới, nhưng lại chỉ được dư luận người dân Việt
đặt tên chính thức từ năm 2012: PR chính sách. Chủ thể của hoạt động này
chính là cái tên “nhóm thân hữu” – một chủ đề mà chưa một ủy viên bộ
chính trị nào đủ can đảm hay liêm sỉ để mổ xẻ trước bàn dân thiên hạ.
Cũng không quá khó hiểu là những động thái PR chính sách đã xuất hiện không ít lần, kể cả ở cấp Chính phủ.
Nhóm thân hữu, về bản chất, lại có mối quan hệ ruột rà và móc xích giữa
các chính khách ở các cấp khác nhau, từ dưới lên và từ trên xuống. Trong
từng trải của người dân Việt Nam, thực tế sinh tồn của các doanh nghiệp
lệ thuộc vào chính sách từ nhiều năm qua đã chứng tỏ một nguyên tắc bất
thành văn: chỉ có chính sách mới tạo ra được lợi nhuận; để đến lượt
mình, lợi nhuận phải quay lại “nuôi” chính sách.
Cũng là “nuôi” các chính khách.
Công nghệ “giết sống”
Giá xăng dầu và điện lực phi mã tất yếu dẫn đến lạm phát đội mồ sống
dậy. Trong thực tế, chỉ số tiêu dùng CPI bị tác động không nhỏ và lập
tức kích hoạt hàng loạt đợt tăng giá của hàng tiêu dùng, thực phẩm, giá
vận tải hành khách và hàng hóa, giá nhà trọ…, làm khốn khó hơn cho đời
sống công nhân và dân nghèo vốn đã quá khó khăn.
Đời sống dân sinh ấy cũng liên đới quá đỗi hữu cơ với ít nhất 80% lực
lượng vũ trang và gần 3 triệu công chức viên chức nhà nước. Vài năm gần
đây, ngay cả cảnh sát giao thông còn bị “đói” thì giới nhân viên an ninh
không than thở mới là chuyện lạ.
Thế nhưng đối mặt với tất cả những trớ trêu và nghịch lý tận cùng ấy,
lãnh đạo Bộ Công Thương vẫn hầu như khóa khẩu, trong khi vài ba viên
chức cấp vụ của bộ này vẫn cố gắng “an dân” bằng thuyết minh việc tăng
giá xăng dầu và điện không ảnh hưởng nhiều đến CPI.
Nhưng vào năm 2013, một cuộc thanh tra của Thanh tra chính phủ đã phát
hiện trong bảng giá thành của mình, EVN đã hạch toán cả các công trình
xây bể bơi, sân tennis và biệt thự vào giá bán điện. Giá bán điện lại
được phổ cập cho mặt bằng dân trí thấp kém trong dân chúng. Và thêm một
lần nữa, người ta có được bằng chứng về cái được coi là “trận đánh đẹp”
của EVN: cuộc chiến bù lỗ vào dân.
Sau khi tăng giá liên tục trong ba năm qua, nợ ngân hàng của EVN đã được
rút bớt. Nhưng chỉ là bớt một ít. Với hơn 30.000 tỷ đồng thất bát từ
đầu tư trái ngành, EVN luôn phải đối mặt với tương lai phá sản nếu không
thanh toán được cho các chủ nợ.
Trong khi đó, một con số lần đầu tiên được công bố là EVN chính là doanh
nghiệp vay nợ ngân hàng lớn nhất Việt Nam, với hơn 118.000 tỷ đồng. Đây
là mức dư nợ lớn nhất mà hệ thống ngân hàng dành ưu ái cho một tập đoàn
nhà nước.
Với nợ nần khổng lồ và số lỗ do đầu tư trái ngành, người ta ước tính EVN
phải tăng giá điện liên tục đến năm 2017-2018 thì mới may ra “hòa vốn”.
Thế nhưng cái điểm hòa vốn ăn thịt lẫn nhau ấy lại có thể khiến những
người dân nghèo nhất phải quyên sinh. Bởi theo nguyên lý từ thời tư bản
dã man, nếu doanh nghiệp độc quyền có được lợi nhuận, nhân dân chắc chắn
phải mất đi phần lớn thu nhập của mình; còn nếu doanh nghiệp độc quyền
hòa vốn, nhân dân phải chịu lỗ hoặc phá sản.
Không chỉ mất tài sản, người dân còn phải trả giá bằng cả sinh mạng bởi
lối hành xử vô lương tâm của những quan chức độc quyền nhà nước. Vụ xả
lũ đồng loạt của 15 nhà máy thủy điện ở miền Trung vào cuối năm 2013 đã
“giết sống” đến năm chục mạng người nghèo nơi rốn lũ.
Tất cả đều biết cấp trên trực tiếp của các nhà máy thủy điện là EVN, còn
thủ trưởng trực tiếp của EVN là Bộ Công thương. Tuy nhiên sau vụ “giết
sống” trên, nhiều phóng viên báo chí quốc doanh đành nuốt nhục vì bị cơ
quan tuyên giáo “chặn họng”. Nhân quả là đã không có bất kỳ một quan
chức vô cảm và vô trách nhiệm nào phải đối mặt với vành móng ngựa, mặc
dù chính vào lúc người dân chết chìm trong nước lũ xả trắng mênh mông,
Bộ trưởng công thương Vũ Huy Hoàng còn bận “công du “ ở nước ngoài.
Tán tận lương tâm chắc chắn là từ ngữ hiển thị đầy đủ nhất tâm địa của
các doanh nghiệp độc quyền và những quan chức “tận Trung” trong những
năm suy thoái kinh tế qua. Kinh tế càng xuống dốc, đời sống người dân
càng túng quẫn, thái độ sống chết mặc bay càng lên ngôi, chủ nghĩa thực
dụng, lợi nhuận và vong quốc càng “hiển thánh”.
Tận Trung: Kẻ nào nối giáo?
Hãy trở về với câu chuyện tán tận lương tâm dân tộc khi EVN mua điện Trung Quốc cao gấp 3 lần giá bình thường.
Một lần nữa, báo chí nhà nước bùng lên câu hỏi: Những ràng buộc có nghi
vấn trong hợp đồng mua bán điện với Trung Quốc và sự cố Hiệp Hòa liên
quan tới việc sử dụng thiết bị Trung Quốc mới đây khiến dư luận đặt nghi
ngờ về sự hiện diện quá lớn của Trung Quốc trong ngành điện Việt Nam.
Phải lý giải điều này như thế nào, khi mà thiết bị Trung Quốc vốn bị coi
là chất lượng kém, bãi rác công nghệ của thế giới? Liệu có thể đặt nghi
vấn về lợi ích nhóm trong việc này?
Ông Đặng Đình Đào – nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát
triển khẳng định: Với tình trạng độc quyền như EVN hiện nay và thiếu
minh bạch trong kinh doanh trên thị trường điện ở Việt Nam, trách nhiệm
trong việc này trước hết là do chính cơ chế quản lý kiểu bộ chủ quản lâu
nay không được thay đổi, tiếp đó là các cơ quan quản lý nhà nước trong
ngành điện mà cụ thể là Bộ Công thương và cả EVN trong tổ chức và quản
lý điện Việt Nam. Mấu chốt của vấn đề phải là nhanh chóng xóa bỏ tình
trạng độc quyền của EVN, chấm dứt tình trạng một tay nắm cả mua bán,
phân phối, điều độ…
Nhưng xem ra, những câu hỏi trên vẫn còn quá hiền lành trong bối cảnh
quyền tự do báo chí vẫn trong “bước đi đầu tiên của thời kỳ đầu tiên của
giai đoạn quá độ” ở Việt Nam.
Bởi trong tận cùng của bản chất, tán tận lương tâm quan chức và hậu quả
của nó không thể không liên quan đến trách nhiệm của giới lãnh đạo chính
phủ, những người đã im lặng hoặc “bật đèn xanh” cho EVN gây nên các
chiến dịch tăng giá quốc nội và giảm giá quốc ngoại.
Sau ba năm kể từ lúc các chiến dịch “thủ ác” được kích phát dồn dập và
bất chấp oán thán dân tình, kẻ tội đồ EVN đã có đủ thời gian chứng tỏ nó
có năng lực gây ra tội ác ghê gớm đến thế nào, kể cả thành tích nối
giáo ngoại xâm kinh tế.
Không chỉ bị lên án dữ dội bởi dư luận trong nước, khối u độc quyền
doanh nghiệp quốc doanh ở Việt Nam còn bị nhiều chính phủ xã hội dân sự
trên thế giới và các tổ chức quốc tế chỉ trích kịch liệt, bởi hiện trạng
bệnh hoạn đó đi ngược lại với những cam kết về “xóa độc quyền và hoàn
thiện nền kinh tế thị trường” mà Chính phủ Việt Nam đã hùng dũng cam kết
trước cộng đồng quốc tế.
Hiện trạng bệnh hoạn trên lại không thể xa cách với bản thông điệp đầu
năm 2014 của người đứng đầu chính phủ. Đã sáu tháng trôi qua, cam kết
“xóa độc quyền” của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã không còn mang tăm hơi
nào của một thứ quyết tâm sủi bọt.
Phạm Chí Dũng
VƯƠNG TRÍ DŨNG * TRUNG QUỐC PHÂN RÃ
24/06/2014
PHONG TRÀO ĐỘC LẬP VÀ SỰ PHÂN RÃ TRUNG QUỐC
Vương Trí Dũng
Hợp rồi tan tan rồi hợp. Đó là quy luật của tự nhiên và xã hội.
Gần đây nhất, Liên bang Xô viết thành lập năm 1922 và tan rã năm 1991.
Năm
1949 nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, sáp nhập Tây Tạng
Tân Cương Nội Mông trở thành quốc gia có diện tích lớn thứ ba
thế giới.
Và hiện nay, nỗi sợ hãi lớn nhất của nhà cầm quyền Trung Quốc là sự tan rã.
Trung Quốc đang đối mặt với phong trào đòi độc lập, ngày một mạnh mẽ, của các khu vực sau đây.
1. Khu Tân Cương
Khu
Tân Cương là khu vực nóng bỏng nhất về tinh thần ly khai hiện
nay ở Trung Quốc. Tân Cương có truyền thống độc lập lâu đời
tách biệt khỏi người Hán. Tân Cương có diện tích 1,6 triệu km
vuông, chiếm 1/6 diện tích Trung Quốc. Người Uyghur chiếm đa số
ở Tân Cương. Trung Quốc chiếm được Tân Cương phần lớn từ đời
nhà Thanh trong thế kỷ 19. Trung Quốc chủ trương tăng nhanh dân số
người Hán, từ 7% năm 1949 lên 40% hiện nay.
Trung
Quốc đang đẩy mạnh Hán hóa vùng Tân Cương và đàn áp dã man
phong trào đòi độc lập của người Uyghur. Tân Cương sẽ là khu
vực đẫm máu của Trung Quốc trong nhiều năm tới.
2. Khu Tây Tạng
Tây
Tạng có lịch sử lâu đời và tồn tại các đế chế khác nhau
độc lập với người Hán. Tây Tạng có diện tích khoảng 1,3 triệu
km vuông chiếm gần 1/7 diện tích Trung Quốc. Tây Tạng bị nhà
Thanh thôn tính trong thế kỷ 18. Nhưng năm 1913 lại giành được
độc lập. Năm 1951 chính quyền Mao Trạch Đông đã tiến quân vào
Tây Tạng, sáp nhập Tây Tạng vào Trung Quốc.
Trung
Quốc cũng thực hiện Hán hóa gấp rút vùng Tây Tạng. Người
Tạng chỉ có khoảng 6 triệu. Nhưng từ năm 1951 chính quyền Trung
Quốc đã đưa ước tính hơn 7 triệu người Hán đến Tây Tạng.
Phong
trào đòi độc lập cho Tây Tạng được tiến hành rộng rãi không
ngừng từ sau cuộc nổi dậy bất thành năm 1959. Cuộc đấu tranh
đòi độc lập cho Tây Tạng được nhiều nước phương Tây ủng hộ.
Trung Quốc sẽ phải đối mặt không ngừng với vấn đề độc lập của Tây Tạng.
3. Khu Nội Mông Ninh Hạ
Khu
Nội Mông Ninh Hạ có diện tích gần 1.3 triệu km vuông, với dân
số hiện nay khoảng 31 triệu người, trong đó người Hán chiếm áp
đảo khoảng 80%.
Nội Mông Ninh Hạ trong
lịch sử nhiều ngàn năm là các quốc gia khác nhau không thuộc
Trung Quốc. Chỉ đến năm 1950, Mao Trạch Đông mới thôn tính hoàn
toàn và áp đặt khu Nội Mông Ninh Hạ trong sự cai trị toàn bộ
của Trung Quốc.
Với lịch sử độc lập
nhiều ngàn năm trước, tuy số dân Mông Cổ và các tộc khác chiếm
tỷ trọng ít, nhưng với phong trào ly khai ở các khu vực khác,
khu Nội Mông Ninh Hạ cũng luôn tiềm ẩn bùng phát phong trào đấu
tranh đòi độc lập khỏi Trung Quốc.
4. Khu Quảng Đông
Quảng
Đông hiện là tỉnh có số dân hơn 105 triệu, đông nhất Trung Quốc
và là tỉnh có thu nhập quốc dân lớn nhất Trung Quốc.
Tiếng
Quảng Đông rất khác biệt được người Quảng Đông sử dụng ở Trung
Quốc và nhiều nơi trên thế giới. Tiếng Quảng Đông từng được
Tôn Trung Sơn dự tính là tiếng chính thức của Trung Quốc. Chỉ
từ khi Mao Trạch Đông cầm quyền mới thiết lập được sự thống
trị của tiếng Mandarin ở Trung Quốc như hiện nay.
Đề
cập đến tiếng nói, văn hóa và kinh tế để thấy rằng khu vực
Quảng Đông là một vùng rất đặc biệt, và người Quảng Đông không
ngừng có tư tưởng độc lập với các tỉnh khác. Chính quyền
Bắc Kinh hiện nay đang lo lắng về sự trỗi dậy của Quảng Đông
như một “Quốc gia” có tiếng nói, văn hóa khác biệt lâu đời,
với một tiềm lực kinh tế hùng mạnh.
5. Khu Quảng Tây Vân Nam
Khu
Tự trị người Choang của Quảng Tây, các dân tộc vùng Vân Nam từ
xa xưa đều độc lập với vùng Hoa hạ. Bởi vậy, phong trào ly
khai luôn có thể xẩy ra bất cứ lúc nào khi thời cơ đến.
Chưa
kể đến vùng Thanh Hải Cam Túc đều thuộc các đế chế khác
trước đây, chưa nói đến vùng Tứ Xuyên chuyên mưu đồ riêng cơ
nghiệp, chỉ 5 khu vực có phong trào ly khai trực diện và ngấm
ngầm nêu trên đã chiếm đến khoảng ½ diện tích Trung Quốc. Đó
thực sự là nỗi lo và nỗi sợ hãi lớn nhất của chính quyền
bá quyền Trung Quốc.
Tại sao Trung Quốc đang hung hăng?
Sự
hung hăng của Trung Quốc hiện nay trên Biển Đông nói riêng và
trên trường quốc tế nói chung, ngoài tham vọng bành trướng
quyền lực và xâm chiếm tài nguyên lãnh thổ, còn có một lý do
khác, đó chính là đánh lạc hướng dư luận về những khó khăn
nội bộ, nhất là phong trào ly khai trực diện của Tân Cương, Tây
Tạng và làn sóng ly khai ngầm đang âm ỉ ở Quảng Đông.
Bao giờ thì Trung Quốc bị phân rã?
Phong
trào đấu tranh ly khai sẽ không bao giờ ngừng ở Trung Quốc.
Những dân tộc có truyền thống độc lập hàng ngàn năm trước khi
bị sáp nhập vào Trung Quốc ngày nay, sẽ không bao giờ chịu
khuất phục. Họ sẽ không ngừng tranh đấu cho một nền độc lập
dân chủ tự quyết của chính dân tộc mình.
Trung
Quốc sẽ bị phân rã trong tương lai, khi mà nhân loại càng văn
minh dân chủ, và khi mà nền dân chủ đích thực toàn thắng ở
Trung Quốc.
Biết được kẻ thù của Trung
Quốc để xác định đồng minh. Biết được điểm yếu của Trung Quốc
để không sợ Trung Quốc.
V.T.D
Tác giả gửi BVN
TS. NGUYỄN BÁ LONG * VIỆT NAM SOS
MUỐN CỨU
VN, PHẢI CÓ NHỮNG BỨC PHÁ CỦA MỘT LỰC QUYẾT ĐỊNH TỪ DÂN TỘC GIÚP VN THOÁT
KHỎI TÀU PHÙ. MẤT BIỂN ĐÔNG LÀ VN SẼ BỊ DIỆT VONG. VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG THEO
HIỆN TÌNH CẦN PHẢI ỨNG PHÓ NHANH MỚI KỊP. GIẢI PHÁP ĐỀ NGHỊ CỦA PHONG TRÀO
HC 2000
TS Nguyễn Bá Long
Học Giả Chuyên Về Lý Thuyết Cách Mạng
Tổng Đại Diện kiêm Phát Ngôn Viên Hiến Chương 2000
Trước sự cấp bách của một qũy thời gian đã cạn đối với VN để đối phó với
tình hình mất Biển Đông và mất nước về tay Trung Cộng; tác giả sẽ không
nói lan man mà bàn vào các trọng tâm chính và các giải pháp dứt khoát
để cứu nước.
Có 3 vấn đề lớn của VN trước hiện tình bi đát khó phương cứu gỡ:
- Hán Cộng bước sang giai đoạn "HẢI DƯƠNG NAM TIẾN", chuẩn bị chiếm Biển Đông và vượt Đường Lưỡi Bò, tiến ra Thái Bình Dương để cạnh tranh với Hoa Kỳ.
- VN chẳng những mất Hoàng Sa, mà cũng khó giữ được Trường Sa trong những ngày trước mắt, trước kế hoạch chiếm toàn bộ Biển Đông của Hán Cộng, nếu không phản ứng thật nhanh và hữu hiệu.
- Mất Biển Đông là VN sẽ bị DIỆT VONG vì toàn bộ kế hoạch phát triển đất nước trong tương lai dựa vào KẾ HOẠCH KINH TẾ BIỂN nhằm vào khoáng sản, dầu khí, ngư nghiệp, du lịch, công nghiệp đóng tàu, nhà máy chế biến hải sản, kỹ nghệ quân sự, huấn luyện hải quân, quốc phòng mặt biển và nhiều thứ khác nữa.
Bởi vậy, giàn khoan HD- 981 mới chỉ là bước đầu nghi binh và thăm dò của Hán Cộng thôi; bước kế tiếp là quân sự hóa và thiết lập vùng nhận dạng phòng không trên toàn bộ Biển Đông với việc cải biến các đảo đá ngầm và bãi đá như đảo Gạc Ma và bãi đá Chữ Thập thành các cơ sở với phi trường quân sự và cảng biển, sẽ đặt các lực lượng CSVN ở Biển Đông, đặc biệt ở Quần Đảo Trường Sa, vào thế PHẢI ĐẦU HÀNG do đối phương quyết định, khi Bắc Kinh đem bom đạn và khí giới tấn công tích lũy ở các đảo và cơ sở quân sự mới lập. Chỉ một đêm là chúng có thể bắt các cơ sở CSVN ở Trường Sa phải đầu hàng, nếu không chúng sẽ ném bom tiêu diệt hết (bom đã được tích lũy sẵn tại các phi trường quân sự và cảng biển tại Gạc Ma và bãi đá Chữ Thập , được biến cải quy mô thành các cơ sở quân sự lớn trong thời gian tới đây). Thành ra HD - 981 chỉ mới là nghi binh và thăm dò dư luận, thái độ; Gạc Ma và bãi đá Chữ Thập được cải tạo thành các cơ sở quân sự trọng yếu của Tàu Cộng mới là cái chết cho CSVN!
Có 3 vấn đề lớn của VN trước hiện tình bi đát khó phương cứu gỡ:
- Hán Cộng bước sang giai đoạn "HẢI DƯƠNG NAM TIẾN", chuẩn bị chiếm Biển Đông và vượt Đường Lưỡi Bò, tiến ra Thái Bình Dương để cạnh tranh với Hoa Kỳ.
- VN chẳng những mất Hoàng Sa, mà cũng khó giữ được Trường Sa trong những ngày trước mắt, trước kế hoạch chiếm toàn bộ Biển Đông của Hán Cộng, nếu không phản ứng thật nhanh và hữu hiệu.
- Mất Biển Đông là VN sẽ bị DIỆT VONG vì toàn bộ kế hoạch phát triển đất nước trong tương lai dựa vào KẾ HOẠCH KINH TẾ BIỂN nhằm vào khoáng sản, dầu khí, ngư nghiệp, du lịch, công nghiệp đóng tàu, nhà máy chế biến hải sản, kỹ nghệ quân sự, huấn luyện hải quân, quốc phòng mặt biển và nhiều thứ khác nữa.
Bởi vậy, giàn khoan HD- 981 mới chỉ là bước đầu nghi binh và thăm dò của Hán Cộng thôi; bước kế tiếp là quân sự hóa và thiết lập vùng nhận dạng phòng không trên toàn bộ Biển Đông với việc cải biến các đảo đá ngầm và bãi đá như đảo Gạc Ma và bãi đá Chữ Thập thành các cơ sở với phi trường quân sự và cảng biển, sẽ đặt các lực lượng CSVN ở Biển Đông, đặc biệt ở Quần Đảo Trường Sa, vào thế PHẢI ĐẦU HÀNG do đối phương quyết định, khi Bắc Kinh đem bom đạn và khí giới tấn công tích lũy ở các đảo và cơ sở quân sự mới lập. Chỉ một đêm là chúng có thể bắt các cơ sở CSVN ở Trường Sa phải đầu hàng, nếu không chúng sẽ ném bom tiêu diệt hết (bom đã được tích lũy sẵn tại các phi trường quân sự và cảng biển tại Gạc Ma và bãi đá Chữ Thập , được biến cải quy mô thành các cơ sở quân sự lớn trong thời gian tới đây). Thành ra HD - 981 chỉ mới là nghi binh và thăm dò dư luận, thái độ; Gạc Ma và bãi đá Chữ Thập được cải tạo thành các cơ sở quân sự trọng yếu của Tàu Cộng mới là cái chết cho CSVN!
Ta thử đi vào từng điểm một trong các điểm nêu trên, trước khi đề ra kế
hoạch là dân tộc VN phải làm gì để cứu đất nước sắp bị DIỆT VONG, vì quỹ
thời gian đã gần cạn cho việc cứu nước (xin xem thêm bài phỏng vấn TS
PHẠM CHÍ DŨNG: "Việt - Mỹ lộ dần những tín hiệu mới", bởi Thụy My - RFI,
ở trang nhất số Đối Lực 153 kỳ này để thấy về sự cạn kiệt của quỹ thời
gian này); lúc này Hán Cộng đang bung mạnh và quyết đi con đường "HẢI
DƯƠNG NAM TIẾN" ra Thái Bình Dương để cạnh tranh với Mỹ. Nếu cứ ngu ngơ
như TRỌNG LÚ tưởng rằng còn thời gian để mà cù cưa với Đảng CS Trung Hoa
là đất nước sẽ mất lúc nào không hay. Khi Tàu Cộng đã thiết lập các hệ
thống quân sự ở Trường Sa với các phi trường quân sự và cảng biển ở Gạc
Ma và bãi đá Chữ Thập thì có khi chỉ một đêm là toàn bộ các lực lượng
của CSVN ở Trường Sa PHẢI ĐẦU HÀNG. Tin đám Hán Cộng (như TRỌNG LÚ tin)
là phải chết! Giàn khoan Hải Dương 981 chưa làm TRỌNG LÚ sáng mắt ra
đâu!
I. HÁN CỘNG BƯỚC SANG GIAI ĐOẠN "HẢI DƯƠNG NAM TIẾN", CHUẨN BỊ CHIẾM BIỂN ĐÔNG
Để thực hiện "Giấc Mơ Trung Hoa" của Tập Cận Bình thì Tàu Cộng bó buộc phải chiếm Biển Đông để tiến hành cái gọi là "HẢI DƯƠNG NAM TIẾN", vượt khỏi Đường Lưỡi Bò, bung mạnh ra Thái Bình Dương (và Ấn Độ Dương) để cạnh tranh với Mỹ. Đường Lưỡi Bò chưa phải là toàn bộ tham vọng của Hán Cộng. Tham vọng của Hán Cộng là BÁ CHỦ THẾ GIỚI (với những kẻ tham vọng và phi đạo đức như Hán Cộng mà làm BÁ CHỦ THẾ GIỚI thì nhân loại chết hết, cho nên nhân loại bằng mọi cách phải chống lại). Biển Đông chắc chắn là nguy rồi mà lại gặp những kẻ tay sai Bắc Kinh và lú lẩn như TRỌNG LÚ lãnh đạo đất nước thì mất nước là chuyện hiển nhiên. Trong phần Tài Liệu Tham Khảo đính theo bài này, tác giả sẽ đăng các bài về tình hình hiện nay ở Đảo Đá Ngầm Gạc Ma mà Trung Cộng đã tấn công cưỡng chiếm của VN năm 1988 để cho thấy âm mưu của TC đối với Biển Đông đã quá rõ: CHIẾM TOÀN BỘ BIỂN ĐÔNG BẰNG CÁCH KHỐNG CHẾ QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA hiện do lực lượng CSVN đồn trú ở phần lớn các đảo. Phi Luật Tân đã khám phá ra các biến cải ở Đảo Gạc Ma thành cơ sở quân sự bởi Trung Cộng bằng không ảnh do không quân Phi Luật Tân chụp được trong thời gian gần đây.
I. HÁN CỘNG BƯỚC SANG GIAI ĐOẠN "HẢI DƯƠNG NAM TIẾN", CHUẨN BỊ CHIẾM BIỂN ĐÔNG
Để thực hiện "Giấc Mơ Trung Hoa" của Tập Cận Bình thì Tàu Cộng bó buộc phải chiếm Biển Đông để tiến hành cái gọi là "HẢI DƯƠNG NAM TIẾN", vượt khỏi Đường Lưỡi Bò, bung mạnh ra Thái Bình Dương (và Ấn Độ Dương) để cạnh tranh với Mỹ. Đường Lưỡi Bò chưa phải là toàn bộ tham vọng của Hán Cộng. Tham vọng của Hán Cộng là BÁ CHỦ THẾ GIỚI (với những kẻ tham vọng và phi đạo đức như Hán Cộng mà làm BÁ CHỦ THẾ GIỚI thì nhân loại chết hết, cho nên nhân loại bằng mọi cách phải chống lại). Biển Đông chắc chắn là nguy rồi mà lại gặp những kẻ tay sai Bắc Kinh và lú lẩn như TRỌNG LÚ lãnh đạo đất nước thì mất nước là chuyện hiển nhiên. Trong phần Tài Liệu Tham Khảo đính theo bài này, tác giả sẽ đăng các bài về tình hình hiện nay ở Đảo Đá Ngầm Gạc Ma mà Trung Cộng đã tấn công cưỡng chiếm của VN năm 1988 để cho thấy âm mưu của TC đối với Biển Đông đã quá rõ: CHIẾM TOÀN BỘ BIỂN ĐÔNG BẰNG CÁCH KHỐNG CHẾ QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA hiện do lực lượng CSVN đồn trú ở phần lớn các đảo. Phi Luật Tân đã khám phá ra các biến cải ở Đảo Gạc Ma thành cơ sở quân sự bởi Trung Cộng bằng không ảnh do không quân Phi Luật Tân chụp được trong thời gian gần đây.
Phi Luật Tân đã lên tiếng, còn CSVN vẫn không nói gì. Có thể nói giai
đoạn "HẢI DƯƠNG NAM TIẾN" của Trung Cộng bắt đầu từ thời điểm này với
việc phát triển các giàn khoan và hàng không mẫu hạm (gọi là giai đoạn
HẬU LIÊU NINH, Liêu Ninh là Hàng Không Mẫu Hạm đầu tiên của TC mua của
Ukraine tân trang lại). Bây giờ là lúc Hán Cộng bắt đầu khai triển các
giàn khoan (HD-981, HD-982...) và phát triển các cơ sở quân sự ở vùng
Trường Sa để khống chế toàn bộ Biển Đông, với hệ thống phi trường quân
sự, cảng tầu ngầm, cảng biển, và cơ sở quân sự liên hợp tại Tam Á (Hải
Nam), Phú Lâm (Hoàng Sa), Gạc Ma và Bãi đá Chữ Thập (Trường Sa); trong
khi Bắc Kinh tiếp tục chế tạo thêm các hàng không mẫu hạm sau Liêu Ninh
(mặc dù TC bác bỏ thông tin nước này đang chế tạo HKMH thứ hai tại
Thượng Hải, nhưng chúng ta phải hiểu rằng đó chỉ là vấn đề thời gian;
còn sự phát triển các cơ sở quân sự trên Biển Đông là Bắc Kinh đang làm,
vấn đề biến cải Đảo Gạc Ma đã không bị TC chối cãi).
Sách lược đối phó với việc TC biến Đảo Gạc Ma thành cơ sở quân sự là một
vấn đề nhức óc, vì Bắc Kinh quyết thực hiện tham vọng của mình, coi
thường luật pháp quốc tế, và sẵn sàng tiến hành biện pháp xâm lăng biển
đảo của các nước, chỉ với một lý luận đây là vùng biển lịch sử của Trung
Quốc từ thời xa xưa, tất cả những đảo và 80% vùng biển nằm trong Đường
Lưỡi Bò đều là của Tàu, không thể tranh cải được! (undisputable!). Nhìn
Đường Chín Đoạn đã thấy ứa gan, nghe lời nói của Bắc Kinh càng thấy ứa
gan hơn, bởi vì nó đi ra ngoài luật pháp quốc tế và phi đạo lý, chỉ biết
có mình! Thành ra một liên minh phòng thủ
gọi là Liên Minh Phòng Thủ Bắc Thái Bình Dương (Nhật, Úc, Mỹ...), chủ
đạo là Nhật, thế nào cũng phải hình thành sớm để đối phó với Tàu Phù.
Nếu Liên Minh này thành lập sớm và VN ngã sang liên minh này thì còn hy
vọng đấu tranh với TC trên Biển Đông, chứ còn theo cung cách hiện nay
với TRỌNG LÚ và đám Thái Thú Bắc Kinh tại Hà Nội làm tay sai cho Tàu,
thì thế nào Tàu Cộng cũng cưỡng chiếm Biển Đông của VN và VN sẽ tiến tới
DIỆT VONG (xáp nhập vào TC và bị xóa tên trên bản đồ thế giới) trong
thời gian không lâu. Phong Trào Hiến Chương 2000 sẽ đề xuất
một thế trận và chiến lược để đấu lại với TC trên Biển Đông, tiến hành
trong một thời gian rất ngắn chứ không kéo dài được vì qũy thời gian cho
VN để đối phó lại Tàu Phù quyết chiếm Biển Đông đã tới giai đoạn chót
rồi!
II. THEO HIỆN TÌNH TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG BÂY GIỜ, CSVN KHÓ GIỮ ĐƯỢC TRƯỜNG SA MỘT KHI TC BIẾN CẢI ĐẢO GẠC MA & BÃI D-A' CHỮ THẬP THÀNH CƠ SỞ QUÂN SỰ HÙNG HẬU VỚI PHI TRƯỜNG QUÂN SỰ VÀ CẢNG BIỂN
TC đưa giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 vào khu vực Đặc Quyền Kinh Tế
của VN chỉ là kế nghi binh và thăm dò phản ứng, thái độ của các bên để
định hình cho kế hoạch chiếm Biển Đông tương lai. HD-981 chưa phải là
cái chết của VN đâu. Đảo Gạc Ma và bãi đá Chữ Thập sau khi được quân sự
hóa thành phi trường quân sự và cảng biển bởi TC mới là cái chết của các
lực lượng CSVN đồn trú ở Trường Sa. TC sẽ chuyên chở bom đạn và khí cụ
chiến tranh ra các trung tâm hành quân đó, và khi đã đầy đủ hết rồi thì
chúng chỉ tìm một cái cớ gây hấn là sẽ ra lịnh tất cả các lực lượng đồn
trú của CSVN ở Trường Sa phải đầu hàng, nếu không chúng sẽ thả bom tiêu
diệt hết! Thế là xong, Biển Đông sẽ về tay Tàu Phù! Đây là một cuộc chạy
đua CHUYỂN ĐỔI: chúng cải tạo biển đảo thành cơ sở quân sự và tiến hành
khống chế Biển Đông; còn VN thì chuyển đổi chính thể thoát khỏi TC và
kết liên với Nhật, Mỹ, Úc trong Liên Minh Phòng Thủ Bắc Thái Bình Dương,
đặt Biển Đông (và quần đảo Trường Sa) dưới sự bảo vệ của Liên Minh này,
mời quân đội Liên Minh đến trú đóng tại quần đảo Trường Sa và các vùng
ven biển và có thể cả Cam Ranh nữa để chuẩn bị chống CHIẾN TRANH XÂM
LƯỢC BIỂN ĐẢO khó thể tránh khỏi của TC.
Nếu VN chạy đua kịp với TC trong
việc chuyển đổi CHÍNH THỂ và gia nhập kịp thời Liên Minh Phòng Thủ Bắc
Thái Bình Dương, đặt lực lượng VN ở Trường Sa dưới sự bảo vệ của Liên
Minh này, thì Biển Đông của VN có cơ tồn tại. Còn VN chiến đấu một mình
thì khỏi phải bàn, VN sẽ nộp trứng cho ác nhanh chóng. Vấn đề của VN rất
khó vì cùng lúc phải dẹp TRỌNG LÚ và CHUYỂN ĐỔI CHÍNH THỂ, cùng lúc đó
phải trở thành thành viên của Liên Minh Phòng Thủ Bắc Thái Bình Dương và
đặt lực lượng VN tại quần đảo Trường Sa dưới sự bảo vệ của Liên
Minh(tức có lực lượng của Liên Minh cùng với lực lượng VN tại Trường Sa,
nghiã là rất mạnh), thì mới bảo vệ được Biển Đông . Còn CSVN chiến đấu
một mình với Tàu Phù sau khi chúng thiết lập các cơ sở quân sự tại Gạc
Ma và bãi Chữ Thập (liên hợp với hệ thống của chúng tại Phú Lâm - Hoàng
Sa và Tam Á - Hải Nam) thì không cân xứng, chỉ còn cách ĐẦU HÀNG và GIAO
NỘP VÕ KHÍ khi chúng ra lệnh.
TRỌNG LÚ đang nghĩ đến GIẢI PHÁP LẠY VÀ GIAO ĐẤT NƯỚC cho Tàu Phù sau
một số năm; nhưng chúng cũng không cho nữa, vì chúng không muốn trì hoãn
trong kế hoạch chiếm Biển Đông. Sau khi chúng đã thiết lập các cơ sở
quân sự tại Đảo Gạc Ma và Bãi đá Chữ Thập là chúng sẽ tiến hành kế hoạch
chiếm Biển Đông của VN, mà chúng không có chờ, dù TRỌNG LÚ LẠY giao nộp
VN cho chúng trong năm 2020 theo thỏa hiệp Thành Đô. Chúng phải TIẾN
NHANH, TIẾN MẠNH theo như câu mà Đảng CSVN thường nói, chứ không chờ
đợi, vì chúng muốn làm BÁ CHỦ THẾ GIỚI nhanh hơn chứ không muốn kéo dài
thêm 6, 7 năm. Mặc dù chúng sẽ chết vì mộng BÁ CHỦ THẾ GIỚI, nhưng VN
thì đã chết trước rồi, chết vì những tay Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng,
Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú
Trọng...
Trong cuộc chạy đua này, cái gì là HY VỌNG
CUỐI CÙNG cho VN? Đó chính là cuộc ĐỨNG DẬY CỦA TOÀN DÂN theo khí thế
cuộc bạo động chống TC ngày 13, 14-5-2014 tại Bình Dương; nhưng mà đối
tượng thì thay đổi: thay vì là TC thì nhắm vào TRỌNG LÚ và GIÀN TAY SAI
của Bắc Kinh tại Hà Nội. Dẹp hết bọn nội ứng này và mời ngay nhóm người
CS tiến bộ và chống lại Đảng, những người BỎ ĐẢNG, ra cầm đầu chính
quyền mới. Nếu NTD thực sự muốn làm Yeltsin, cho hợp tác. Nếu NTD theo
Bắc Kinh, cho dứt điểm luôn. Hiện bây giờ, những con người có thể cứu
nước là PHẠM CHÍ DŨNG, TRẦN PHƯƠNG, NGUYỄN VĂN AN, ĐẶNG XƯƠNG HÙNG,
NGUYỄN ĐẮC DIÊN, Tướng HÀ THANH CHÂU, và các TRUYỀN NHÂN của NGUYỄN CƠ
THẠCH, TRẦN XUÂN BÁCH, NGUYỄN HỘ v.v.
Phong Trào Hiến Chương 2000 cũng có một vài kẻ sĩ hạt nhân ở trong nước sẽ tiếp sức với qúy vị; còn ở ngoài này, chúng
tôi sẽ vận động quốc tế để ủng hộ cho một giải pháp CHUYỂN ĐỔI VN từ
CHUYÊN CHÍNH sang DÂN CHỦ. Sau đó, chính thể mới tại VN tuyên bố trước
thế giới: KHÔNG CHẤP NHẬN CÁC HIỆP ƯƠC BẤT BÌNH ĐẲNG VÀ MẬT ƯỚC KÝ KẾT
GIỮA ĐẢNG CSVN VÀ ĐẢNG CSTH TRƯỚC ĐÂY, CÓ TÁC DỤNG ĐẶT VN VÀO VÒNG BẮC
THUỘC. Thế là một THỜI ĐẠI MỚI bắt đầu.
Chính thể mới tại VN sẽ bắt kịp Miến Điện và nhanh chóng cùng với Nhật Bản, Úc, Mỹ, Nam Hàn hình thành Liên Minh Phòng Thủ Bắc Thái Bình Dương (xin xem thêm bài của GS TS NGUYỄN PHÚC LIÊN trong số ĐL 153 về Liên Minh Phòng Thủ này). Từ cơ sở đó, đặt lực lượng VN tại quần đảo Trường Sa và các vùng trọng yếu ven Biển Đông dưới sự bảo vệ quân sự của Liên Minh. Chỉ có thế mới giữ được quần đảo Trường Sa và Biển Đông thôi! Chúng ta chỉ có một trong hai chọn lựa:
Chính thể mới tại VN sẽ bắt kịp Miến Điện và nhanh chóng cùng với Nhật Bản, Úc, Mỹ, Nam Hàn hình thành Liên Minh Phòng Thủ Bắc Thái Bình Dương (xin xem thêm bài của GS TS NGUYỄN PHÚC LIÊN trong số ĐL 153 về Liên Minh Phòng Thủ này). Từ cơ sở đó, đặt lực lượng VN tại quần đảo Trường Sa và các vùng trọng yếu ven Biển Đông dưới sự bảo vệ quân sự của Liên Minh. Chỉ có thế mới giữ được quần đảo Trường Sa và Biển Đông thôi! Chúng ta chỉ có một trong hai chọn lựa:
MỘT LÀ MẤT BIỂN ĐÔNG VÀO TAY TRUNG CỘNG sau khi các cơ sở quân sự của TC
tại Gạc Ma và bãi đá Chữ Thập thành hình, từ đó VN sẽ BỊ DIỆT VONG; HAI
LÀ PHẢI CHUYỂN ĐỔI CHÍNH THỂ TỨC THÌ và đặt QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA &
BIỂN ĐÔNG DƯỚI SỰ BẢO VỆ CỦA LIÊN MINH PHÒNG THỦ BẮC THÁI BÌNH DƯƠNG sẽ
được thành lập sớm tới đây. Quỹ thời gian rất là eo hẹp, toàn dân VN và
các lực lượng vì nước trong hàng ngũ CS cũng như ở ngoài xã hội phải
hành động tức thì, trước khi quá trễ.
III. CHÚNG TA CÒN CÁI GÌ ĐỂ SINH TỒN & CHỐNG LẠI HÁN CỘNG NẾU MẤT BIỂN ĐÔNG: HỌA DIỆT VONG LÀ NGAY TRƯỚC MẮT!
Sự phát triển của VN tương lai là dựa vào KINH TẾ BIỂN (tác giả sẽ xuất
bản một quyển sách về "Phát Triển Kinh Tế VN" nếu VN còn sinh tồn sau
đại biến chiến đấu với Hán Cộng kỳ này). Nếu mất Biển Đông, chỉ nói về
kinh tế không thôi, chưa bàn về những bình diện khác, thì VN cũng đi vào
ngõ cụt rồi, khi Tàu Cộng đã chế ngự Biển Đông về quân sự. Nó cũng
giống như là TC nhốt tù dân tộc VN chỉ có đi vào núi (cũng là ngõ cụt vì
Tây Nguyên chúng cũng chiếm ngự rồi: Bauxit Tây Nguyên!). HẾT ĐƯỜNG!
Chỉ có CHẾT THÔI! Dầu khí, khoáng sản, ngư nghiệp, du lịch, trung tâm
giải trí biển, kỹ nghệ chế biến, kỹ nghệ đóng tàu, kỹ nghệ quốc phòng,
trung tâm huấn luyện v.v., tất cả đều tiêu tùng hoặc đi vào ngõ cụt hết!
Lấy gì để phát triển cho một dân số cả trăm triệu người. Chính TC cũng
thấy cái chết của dân tộc Trung Hoa nếu thiếu "KHÔNG GIAN SINH TỒN" (xin
xem thêm bài của cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Trì Hạo Điền về không gian
sinh tồn của TC, có trên internet), do đó, chúng đã đẻ ra nào là "Đường
Lưỡi Bò", nào là kế hoạch "Hải Dương Nam Tiến", nào là nhận bừa Biển Nam
Trung Hoa (Biển Đông của VN) là Biển Lịch Sử, tức là của Trung Hoa từ
thời cổ đại, "không thể tranh cải", hệ quả là Hoàng Sa, Trường Sa,
Senkaku, Scarborough v.v. hay bất cứ cái gì trong biển đó đều là của TC.
Cách này của TC thế nào cũng gây chiến tranh và các nước sẽ hợp nhau
chống lại (Indonesia trước đây đứng trung lập bây giờ cũng ngã qua chống
lại Đường Lưỡi Bò rồi). TC làm quá, thành ra cuối cùng TC phải chết!
Chúng ta hãy mau thức tỉnh đứng vào hàng ngũ Liên Minh Phòng Thủ Bắc
Thái Bình Dương để bảo vệ KHÔNG GIAN SINH TỒN (là Biển Đông) của người
VN. Nếu nghe lời TRỌNG LÚ buông thả cho TC chiếm lấy Biển Đông là dân
tộc VN sẽ bị DIỆT VONG.
Phải hành động gấp vì quỹ thời gian cho
chúng ta để làm việc này đã sắp hết rồi! (xin xem thêm bài phỏng vấn TS
Phạm Chí Dũng của Thụy My - RFI đã dẫn ở trên). Quốc Nội - Hải Ngoại đều
một lòng đứng lên DẸP LOÀI BÁN NƯỚC, CHUYỂN ĐỔI CHÍNH THỂ NHANH CHÓNG,
thì chúng ta còn một tia hy vọng! Nếu không, chỉ trong vòng vài tháng
hay một hai năm nữa, Biển Đông sẽ lọt vào tay Tàu Phù. Lúc đó sẽ không
có một phương cách nào mà cứu vãn nổi.
Xin ơn trên phù hộ và cứu Dân Tộc VN!
Hải Ngoại ngày 16 tháng 6 năm 2014
TS NGUYỄN BÁ LONGXin ơn trên phù hộ và cứu Dân Tộc VN!
Hải Ngoại ngày 16 tháng 6 năm 2014
Học Giả Chuyên Về Lý Thuyết Cách Mạng
Tổng Đại Diện kiêm Phát Ngôn Viên Hiến Chương 2000
Chủ Nhiệm Diễn Đàn Quốc Tế Của Các Phong Trào Dân Chủ VN
THƠ VƯƠNG TÂN
Học trường làm
quan
Ra đời vừa làm
thơ vừa làm quanLàm quan vì thờ cụ Diệm phải đi tù
Làm thơ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đị vượt biển
Táng mạng trong hàm cá mập
Đời còn lại mấy tập thơ
Vương Tân
TRẦN MẠNH HẢO
Là dân Bùi Chu đi B
Làm thơ nổi tiếng từ thời chống MỹGặp Gíáng Tiên đọc báo Nhà Thờ
Trở lại với Chúa
Thành nhà thơ bất phục chế độ
Đưa thơ về với dân tộc
Làm thơ vì sự thật
Thơ vi vút vào đời
Thơ ngang tàng bất khuất
VƯƠNG TÂN
CẤN THỊ BICH NGỌC * CAY ĐẮNG NGƯỜI CON GÁI VIỆT
;
CAY ĐẮNG NGƯỜI CON GÁI VIỆT
CẤN THỊ BICH NGỌC
Có lúc trăng soi dạng lưỡi liềm, nhọn như dao, không khắc vào tim mà lòng vẫn nhói đau. Cũng có lúc trăng chênh chếch như giọt nước mắt khổng lồ thổn thức giữa bầu trời hiu quạnh đen tuyền màu u uẩn. Bao tiếng gió miên man rầm rì giữa hàng cây lá vẫn không làm trăng tươi. Trăng ủ rũ, trăng tư lự, trăng ngẩn ngơ buồn, trăng soi rọi tâm tư lũ con gái chúng tôi.
Tôi nằm bên chồng, nghe tiếng ngáy đều của
anh mà thấy lẻ loi, cô độc vô cùng. Chợt thấy thương má, thương mình. Má
đã bao nhiêu năm nằm một mình, hẳn má thấy lạnh lẽo, cô đơn trong đêm
về tịch mịch. Nhưng còn tôi, hơi thở của chồng xoắn xít quanh đây mà sao
sương đêm vẫn hoang lạnh?
Tôi phải tập yêu chồng tôi, vị cứu tinh cho
đời sống chật vật của gia đình tôi. Điều này trên lý thuyết cũng không
khó lắm. Nhưng trong trái tim ngoan cố của tôi, cho đến bây giờ sự biết
ơn vẫn còn rõ nét hơn nỗi rạo rực yêu thương.
Tôi như hàng vạn người con gái Việt Nam về quê hương chồng Đài Bắc này để tìm một lối thoát cho cuộc sống vô vọng đã đeo đuổi chúng tôi ngay từ thuở lọt lòng. Quê mẹ nghèo quá, bàn tay mẹ gầy guộc quá, vì thế dù lòng mẹ có thật bao la cũng không giữ được lũ con gái chúng tôi ở lại vùng đất quê hương.
Tôi như hàng vạn người con gái Việt Nam về quê hương chồng Đài Bắc này để tìm một lối thoát cho cuộc sống vô vọng đã đeo đuổi chúng tôi ngay từ thuở lọt lòng. Quê mẹ nghèo quá, bàn tay mẹ gầy guộc quá, vì thế dù lòng mẹ có thật bao la cũng không giữ được lũ con gái chúng tôi ở lại vùng đất quê hương.
Tôi ra đời sau thời chinh chiến. Nhưng má luôn đăm chiêu thở dài, hòa bình đã về nhưng sao đất nước lại đìu hiu tiêu điều hơn lúc nào hết. Ánh mắt má ngày càng da diết nỗi sầu muộn. Sau ngày thống nhất là ngày hận thù được thăng hoa, ba phải đi vào tù cải tạo. Má là cô giáo một trường tiểu học. Đất nước thanh bình, ai cũng nghèo, người ta cần gạo cơm chứ đâu cần chữ nghĩa nữa. Má như một kẻ thua trận, gồng gánh đưa lũ con về quê ngoại.
Má
giã từ Sài Gòn nhốn nháo, giã từ dĩ vãng, giã từ cuộc sống an bình ngày
xưa. Má tảo tần nuôi con, nuôi chồng. Rồi ba cũng về sau những tháng
ngày lao tù học làm người của xã hội chủ nghĩa. Rồi tôi ra đời. Và rồi
ba lại ra đi kiếm tìm tự do trên những con tàu chơi vơi. Ba đi tìm tương
lai cho cả gia đình, nhưng ba đã không bao giờ trở lại. Ba đã yên nghỉ
trong lòng đại dương. Đã không còn phiền não, không còn trầm tư trong
đôi mắt ôn nhu ngày nào. Chỉ thương cho Ba, ra đi trước khi được về thăm
quê nội ở bên kia bờ Bến Hải. (Tôi đã được nghe chuyện kể về một dòng
sông nhỏ nhưng đã có một thời là lằn ranh ngăn cách lãnh thổ độc tài
phía Bắc và vùng đất tự do phương Nam). Ba ghé nhân gian ngắn ngủi nhưng
để lại nỗi đau dài cho người cô phụ. Nụ cười hiếm hoi trên môi má đã
tắt lịm từ ngày ba vĩnh viễn ra đi. Má vượt qua nỗi chết của tâm hồn,
gắng gượng sống cho đàn con.
Má tôi vẫn mặc cảm, sợ lũ con thất học, cho nên vẫn cố gắng dạy chúng tôi học. Tựa như trong thời buổi gạo châu, củi quế, má bất lực không tìm được thức ăn đưa vào miệng mồm nên để bù lại má ra sức nhồi chữ nghĩa vào đầu chị em tôi. Bây giờ đôi khi nghĩ lại tôi vẫn thầm trách má làm những việc tào lao. Chút vốn liếng sách vở đã không đem được sự no ấm cho gia đình chúng tôi, có chăng chỉ rọi sáng tâm tư khắc khoải, nỗi hoài nghi trong một xứ sở đã thống nhất thanh bình. Nỗi bâng khuâng ngày càng lan tỏa, và cái nghèo túng như những mạng lưới chằng chịt, dù đã vùng vẫy chúng tôi vẫn không tài nào thoát khỏi sự bủa vây của túng quẫn, nhọc nhằn.
Má tôi vẫn mặc cảm, sợ lũ con thất học, cho nên vẫn cố gắng dạy chúng tôi học. Tựa như trong thời buổi gạo châu, củi quế, má bất lực không tìm được thức ăn đưa vào miệng mồm nên để bù lại má ra sức nhồi chữ nghĩa vào đầu chị em tôi. Bây giờ đôi khi nghĩ lại tôi vẫn thầm trách má làm những việc tào lao. Chút vốn liếng sách vở đã không đem được sự no ấm cho gia đình chúng tôi, có chăng chỉ rọi sáng tâm tư khắc khoải, nỗi hoài nghi trong một xứ sở đã thống nhất thanh bình. Nỗi bâng khuâng ngày càng lan tỏa, và cái nghèo túng như những mạng lưới chằng chịt, dù đã vùng vẫy chúng tôi vẫn không tài nào thoát khỏi sự bủa vây của túng quẫn, nhọc nhằn.
Chị em tôi bó gối nhìn nhau, nhìn má ngày
càng võ vàng vì những cơn bệnh trầm kha không phương tiện chữa trị. Để
rồi một ngày, tôi vùng mình đứng dậy, đốt hết những giấc mơ vốn dĩ rất
đơn giản đến tội nghiệp của mình, nhắm mắt, khép lòng đi tìm tương lai
trong những nơi chốn lạ lùng. Ở đó chúng tôi đã hết là người, đơn thuần
là những món hàng, quên hết kiêu hãnh ngượng ngùng, tôi đứng trơ khoe
bày tấm thân thể ngà ngọc, danh từ má gọi yêu thương ngày nhỏ. Tại nơi
chốn bát nháo đó, nơi mà ranh giới người và vật đã thật mờ nhạt, tôi gặp
chồng tôi.
Chồng tôi thoát chết sau một cơn cháy lúc còn bé. Tai nạn này đã để lại những vết tích không xoá được trên gương mặt nhăn nhúm của anh làm cho anh có vẻ dữ dằn, hung tợn.
Cũng may là còn đôi mắt lấp lánh tình người, đôi mắt thật đôn hậu tương phản với nét cau có gây nên bởi những vết sẹo phỏng năm xưa. Cũng may là ngày đầu gặp gỡ, giữa chốn chợ người, anh đã không sờ soạng, nắn bóp tôi cho tôi quên đi cái mặc cảm mình là món hàng biết khóc, biết nói, biết đau, biết tủi.
Mãi sau này tôi mới biết tại sao chồng tôi đã chọn ngay tôi gìữa bao nhiêu cô gái khác. Tôi đã biết tại sao anh đã chọn tôi mà không cần vạch mắt, căng miệng tôi ra khám xét như những người đàn ông khác. Tôi không đẹp nhưng tôi có cái may mắn nhang nhác giống cô láng giềng mà anh thầm yêu trộm nhớ ngày xưa. Sau này anh tâm sự, ngay khi chạm mặt tôi lần đầu anh đã giật mình tưởng được tao ngộ cùng cố nhân. Tất nhiên cố nhân đã thật xa ngoài tầm tay với của anh. Tất nhiên, người con gái ngày xưa đã chẳng bao giờ đoái hoài đến cậu thanh niên tật nguyền, dị dạng. Và bây giờ chồng tôi tìm niềm an ủi bên tôi.
Chồng tôi thoát chết sau một cơn cháy lúc còn bé. Tai nạn này đã để lại những vết tích không xoá được trên gương mặt nhăn nhúm của anh làm cho anh có vẻ dữ dằn, hung tợn.
Cũng may là còn đôi mắt lấp lánh tình người, đôi mắt thật đôn hậu tương phản với nét cau có gây nên bởi những vết sẹo phỏng năm xưa. Cũng may là ngày đầu gặp gỡ, giữa chốn chợ người, anh đã không sờ soạng, nắn bóp tôi cho tôi quên đi cái mặc cảm mình là món hàng biết khóc, biết nói, biết đau, biết tủi.
Mãi sau này tôi mới biết tại sao chồng tôi đã chọn ngay tôi gìữa bao nhiêu cô gái khác. Tôi đã biết tại sao anh đã chọn tôi mà không cần vạch mắt, căng miệng tôi ra khám xét như những người đàn ông khác. Tôi không đẹp nhưng tôi có cái may mắn nhang nhác giống cô láng giềng mà anh thầm yêu trộm nhớ ngày xưa. Sau này anh tâm sự, ngay khi chạm mặt tôi lần đầu anh đã giật mình tưởng được tao ngộ cùng cố nhân. Tất nhiên cố nhân đã thật xa ngoài tầm tay với của anh. Tất nhiên, người con gái ngày xưa đã chẳng bao giờ đoái hoài đến cậu thanh niên tật nguyền, dị dạng. Và bây giờ chồng tôi tìm niềm an ủi bên tôi.
Đã bao nhiêu lần, tôi vẫn cám ơn thượng đế về sự trùng hợp huyền diệu
này. Nó đã cho tôi cơm ăn, áo mặc, tiền thuốc men cho má và một mái gia
đình với một người chồng dù dị hình, xấu xí, dù không đồng ngôn ngữ,
không đồng quá khứ, dù gia đình chồng nhìn tôi bằng những ánh mắt lãnh
đạm, đôi khi rõ nét miệt khinh. Mà có sao đâu những cuộc hôn nhân lệch
lạc, má vẫn nói nghĩa vợ chồng bền chặt hơn tình yêu lãng mạn, mong rằng
tôi và chồng tôi vẫn sóng bước đồng hành để trong đời sống của tôi
không phải chỉ có những mất mát. Tôi nhớ ơn chồng nhưng chưa yêu anh
được. Cho đến bây giờ mỗi lần ân ái, tôi vẫn phải nhắm nghiền mắt để che
dấu nỗi e dè, ngại ngùng khi khuôn mặt nứt nẻ những vết thẹo dọc ngang
của anh thật cận kề. Có lẻ vì chưa yêu nên tôi chẳng hề ghen tuông với
người trong mộng của chồng. Hay khi người ta đã quá nghèo khổ, quá cơ
cực, quá tuyệt vọng thì điều chúng ta băn khoăn nhất không phải là những
yêu ghét giận hờn. Vả lại, ở xứ sở này, trong hoàn cảnh chúng tôi, cứ
hãy ngu ngơ như cỏ cây, và phẳng lì như phiến đá để tâm hồn được an tịnh
hơn là để những suy tư chao động cho lòng thêm chất ngất những niềm
đau.
Tuy nhiên cái nghèo đói quá độ cũng có những khuyết điểm của nó. Cái nghèo đã như màn đêm dày dặc chôn kín giấc mơ tươi đẹp thời con gái. Những cánh đóm lập loè trên cánh đồng chết không có đủ sức để thắp sáng những giấc mơ đầu đời. Và những ngọn gió èo uột đã không chở nổi những suy tư của chúng tôi ra khỏi tầm hạn cơm gạo đói no. Hình như vì thế tôi đã đánh mất thói quen mơ mộng, có lẽ như thế lại hay.
Có những buổi chiều ra chợ, tôi thoáng gặp những đồng hương. Những cô gái thất thểu, mỏi mệt lạc lõng giữa rừng người. Tim tôi luôn nao nao nỗi xúc cảm, không phải vì đôi khi phát giác ra những vết tím bầm trên mí mắt vành môi của một hai chị bạn mà là nét đặc thù của nhân dáng Việt Nam trên thành phố Đài Bắc này; những chiếc bóng xiêu xiêu chịu đựng, những ánh mắt thảng thốt, hoang mang và buồn vô tận. Tôi tưởng tượng trong vô vàn cảnh vật, tôi khó mà lẫn lộn được những hình hài tang thương và lẻ loi đó. Các chị nhìn tôi ước ao thèm muốn: chị may mắn, một chồng một vợ. Còn tụi tui không hơn một món hàng hết qua tay người này lại đến tay người khác. Riết rồi không còn biết ai mới thật là chồng…
Tuy nhiên cái nghèo đói quá độ cũng có những khuyết điểm của nó. Cái nghèo đã như màn đêm dày dặc chôn kín giấc mơ tươi đẹp thời con gái. Những cánh đóm lập loè trên cánh đồng chết không có đủ sức để thắp sáng những giấc mơ đầu đời. Và những ngọn gió èo uột đã không chở nổi những suy tư của chúng tôi ra khỏi tầm hạn cơm gạo đói no. Hình như vì thế tôi đã đánh mất thói quen mơ mộng, có lẽ như thế lại hay.
Có những buổi chiều ra chợ, tôi thoáng gặp những đồng hương. Những cô gái thất thểu, mỏi mệt lạc lõng giữa rừng người. Tim tôi luôn nao nao nỗi xúc cảm, không phải vì đôi khi phát giác ra những vết tím bầm trên mí mắt vành môi của một hai chị bạn mà là nét đặc thù của nhân dáng Việt Nam trên thành phố Đài Bắc này; những chiếc bóng xiêu xiêu chịu đựng, những ánh mắt thảng thốt, hoang mang và buồn vô tận. Tôi tưởng tượng trong vô vàn cảnh vật, tôi khó mà lẫn lộn được những hình hài tang thương và lẻ loi đó. Các chị nhìn tôi ước ao thèm muốn: chị may mắn, một chồng một vợ. Còn tụi tui không hơn một món hàng hết qua tay người này lại đến tay người khác. Riết rồi không còn biết ai mới thật là chồng…
Hay là: kiếp trước tui ở ác, nên bây giờ phải
chịu nghiệp quả. Mà thật, tôi đã quá may mắn, tôi không bị đánh đập,
không bị chuyền tay từ người đàn ông này qua người đàn ông khác. Nhưng
tim tôi vẫn khắc khoải, hồn tôi vẫn cô đơn, tâm tư tôi vẫn chia sẻ niềm
tủi nhục của những chị bạn. Có nơi nào trên trái đất tuổi đôi mươi đồng
nghĩa với những đường cùng ngõ hẹp như ở quê hương tôi? Tất cả chúng tôi
đều ôm ấp một niềm đau, chúng tôi đã không bao giờ có tuổi thanh xuân.
Hạnh phúc là một từ trừu tượng, tương lai đồng nghĩa với bấp bênh, vực
bẫy. Có ai hiểu những khuấy động trong tâm hồn đã chịu nhiều thương tổn
của lũ con gái chúng tôi mà xót xa tội nghiệp?? Chúng tôi thường đọc
thấy những nét rẻ khinh trong mắt người bản xứ, tôi thường phân vân tự
hỏi mình đã làm gì nên tội ngoài cái tội dám mơ ước thoát cảnh khốn
cùng. Chỉ mong sao những người cùng tiếng nói đừng khinh miệt những cánh
chim phiêu bạt đáng thương của lũ chúng tôi.
Có những chiều nhìn từng đàn chim bay về cuối trời, đôi khi nghe tiếng cánh vỗ chấp chới hai tiếng “về đâu”, “về đâu”; tim tôi rưng rưng khóc. Ở quê nhà tôi cũng nghe tiếng chim kêu trong nắng chiều chập choạng nhưng không thê lương như ở quê chồng. Về đâu, biết đâu mà về. Chúng tôi đã nhận nơi này làm quê hương nhưng tại nơi này biết bao nhiêu thân phận đàn bà Việt Nam đã bị vùi dập. Còn quê nhà tuy không xa tít mịt mờ nhưng như đã khép lối. Tôi nhớ hoài những ngày tuổi nhỏ, bên thân cầu, nhìn đám lục bình lênh đênh giữa dòng sông, lòng cứ thầm hỏi những cánh hoa tim tím này sẽ trôi về đâu. Bây giờ, bâng khuâng nhớ lại những cánh lục bình ngày xưa, tôi chợt ngậm ngùi, số phận mình đã như đám lục bình nổi trôi. Ôi những mảnh đời trôi giạt giữa dòng đời vô tình, biết sẽ ra sao ngày mai.
Thật ra tôi vẫn còn quyến luyến quê hương mình. Một quê hương đã không biết nuôi dưỡng, bảo vệ những người con gái yếu đuối, đa cảm.Để trong đêm về trên thành phố Đài Bắc, có bao tiếng khóc Việt Nam, tỉ tê nức nở, khóc cho mình, cho những giấc mơ sớm bị tàn lụi. Lỗi về ai, trách nhiệm về ai? Trên đất nước với ngọn cờ máu, không ai có can đảm nhận. Và từng đàn thiếu nữ tựa những thiêu thân vẫn cứ ào ạt ra đi như nước tràn thác lũ. Có bao nhiêu thiêu thân đã cháy rụi trong ngọn lửa hững hờ, và có bao nhiêu người được sự may mắn tình cờ như tôi.
Dẫu nhiều cay đắng, dẫu lắm oan khiên, quê hương ta đó, làm sao quên được.
Đến một ngày, tôi không có tháng, người uể oải, chếnh choáng với những cơn nôn mửa bất chợt. Rồi giật mình, mình sắp có con. Tôi nhớ mãi cái cảm giác ngất ngây trước những diệu kỳ của đời sống. Lần đầu tiên trong đời, lạc lõng nơi thành phố này, trong tôi có sự kết tạo, có nỗi chờ mong và một tình cảm tuy đang manh nha nhưng đã thật dạt dào, mãnh liệt. Đêm đã thôi âm u trầm mặc, ngày đã bớt lê thê muộn phiền. Tiếng khóc chào đời của con chưa rơi xuống trần, nhưng ước mơ hạnh phúc đã vội vã vươn cao. Ôi cái sinh linh nhỏ bé đang nhỏ từng giọt hồi sinh nhiệm mầu trên tâm hồn héo úa của tôi. Ngọn lửa đã được khơi dậy từ những tàn tro.
Có những chiều nhìn từng đàn chim bay về cuối trời, đôi khi nghe tiếng cánh vỗ chấp chới hai tiếng “về đâu”, “về đâu”; tim tôi rưng rưng khóc. Ở quê nhà tôi cũng nghe tiếng chim kêu trong nắng chiều chập choạng nhưng không thê lương như ở quê chồng. Về đâu, biết đâu mà về. Chúng tôi đã nhận nơi này làm quê hương nhưng tại nơi này biết bao nhiêu thân phận đàn bà Việt Nam đã bị vùi dập. Còn quê nhà tuy không xa tít mịt mờ nhưng như đã khép lối. Tôi nhớ hoài những ngày tuổi nhỏ, bên thân cầu, nhìn đám lục bình lênh đênh giữa dòng sông, lòng cứ thầm hỏi những cánh hoa tim tím này sẽ trôi về đâu. Bây giờ, bâng khuâng nhớ lại những cánh lục bình ngày xưa, tôi chợt ngậm ngùi, số phận mình đã như đám lục bình nổi trôi. Ôi những mảnh đời trôi giạt giữa dòng đời vô tình, biết sẽ ra sao ngày mai.
Thật ra tôi vẫn còn quyến luyến quê hương mình. Một quê hương đã không biết nuôi dưỡng, bảo vệ những người con gái yếu đuối, đa cảm.Để trong đêm về trên thành phố Đài Bắc, có bao tiếng khóc Việt Nam, tỉ tê nức nở, khóc cho mình, cho những giấc mơ sớm bị tàn lụi. Lỗi về ai, trách nhiệm về ai? Trên đất nước với ngọn cờ máu, không ai có can đảm nhận. Và từng đàn thiếu nữ tựa những thiêu thân vẫn cứ ào ạt ra đi như nước tràn thác lũ. Có bao nhiêu thiêu thân đã cháy rụi trong ngọn lửa hững hờ, và có bao nhiêu người được sự may mắn tình cờ như tôi.
Dẫu nhiều cay đắng, dẫu lắm oan khiên, quê hương ta đó, làm sao quên được.
Đến một ngày, tôi không có tháng, người uể oải, chếnh choáng với những cơn nôn mửa bất chợt. Rồi giật mình, mình sắp có con. Tôi nhớ mãi cái cảm giác ngất ngây trước những diệu kỳ của đời sống. Lần đầu tiên trong đời, lạc lõng nơi thành phố này, trong tôi có sự kết tạo, có nỗi chờ mong và một tình cảm tuy đang manh nha nhưng đã thật dạt dào, mãnh liệt. Đêm đã thôi âm u trầm mặc, ngày đã bớt lê thê muộn phiền. Tiếng khóc chào đời của con chưa rơi xuống trần, nhưng ước mơ hạnh phúc đã vội vã vươn cao. Ôi cái sinh linh nhỏ bé đang nhỏ từng giọt hồi sinh nhiệm mầu trên tâm hồn héo úa của tôi. Ngọn lửa đã được khơi dậy từ những tàn tro.
Tôi đã sống dậy từ bao nỗi chết. Trong tôi
bao phác họa muôn màu về một ngày mai khi đứa con bé nhỏ của tôi bước
những bước thơ ngây vào đời. Tôi lại bắt đầu nuôi dưỡng những giấc mơ.
Rồi từng ngày tháng trôi đi trong háo hức lẫn băn khoăn tư lự. Con chưa
mở mắt, nhưng tim đã ấp ủ bao lời tâm sự của má. Quê hương Việt Nam ngàn
trùng xa mà những điệu hò ru con đã rất nồng nàn quanh đây. Con sẽ được
nuôi dưỡng bằng dòng sữa mẹ, bằng trái tim tha thiết tình hoài hương.
Ước ao sao con sẽ yêu thương quê ngoại như má luôn trân trọng nơi chốn
má chào đời.
Nếu một ngày nào, theo bước của ba, con về quê ngoại tìm người bạn đời. Con hãy nhìn bằng mắt và bằng tim. Đừng sử dụng đôi tay mà gây vỡ vụn những trái tim mảnh khảnh, nhỏ nhít, đáng thương. Tội lắm cho người con gái. Con có biết sau những nụ cười gần như vô cảm là những tiếng nỉ non, thút thít đến não nề, ai oán. Con có hay sau những thân thể toàn vẹn là những tâm hồn tơi tả với những đắn đo, sợ hãi, tủi hờn bởi quá nhiều giông bão chung quanh.
Má ao ước, một ngày con lớn khôn, má để dành được tiền, ta về quê thăm ngoại. Về quê má, con sẽ hỏi tại sao quê ngoại nghèo quá, sao quê ngoại tiêu điều, buồn bã quá. Sao những người quê ngoại mang đôi mắt xa xăm, u hoài, như mắt của má. Má cũng như con đã không bao giờ biết đến một thời trên quê ngoại, mùa giáp hạt cũng là mùa nụ cười nở trên môi mọi người. Tiếng sáo diều dập dìu trên khắp nẻo quê hương, tiếng cười đùa trẻ thơ đã gảy nên những tấu khúc tuyệt vời của làng quê năm cũ, những năm quê ta chưa có ngọn cờ đỏ. Ta có sẽ bao giờ nghe được giọng hò trong thanh trên những cánh đồng thênh thang trĩu nặng bông lúa vàng của những ngày đất nước thật sự thanh bình. Ngày ấy có những thanh niên thiếu nữ sẽ để giấc mơ đầu đời, giấc mộng tình yêu bay bổng vươn cao qua gió ngàn, mênh mang trải trên những cánh đồng bát ngát để thấy tình mình cũng đơm hoa như những cánh đồng ngập lúa. Ôi những giấc mơ no ấm, an hòa bao giờ ta sẽ có…
Lời ngoại kể về quê hương êm đềm của ngày xưa cũ như một chuyện cổ tích. Nhưng má vẫn nuôi niềm mơ ước về một ngày mai quê ta hết nghèo đói cho những người đàn bà Việt Nam không phải thân cò lặn lội đường xa, làm dâu xứ lạ với những ê chề như những người trong thế hệ sinh sau ngày chiến thắng của phương Bắc.
Má sẽ đặt tên con là Sinh, sự Hồi Sinh của niềm hy vọng tưởng đã lụn tắt sau bao gió bão. Má sẽ dạy cho con làm người Việt Nam thật sự, những người sanh ra từ bên này biển Thái Bình với tâm tư chất chứa hồn Quốc Toản, Bắc, Giang. Qua bao đói no thăng trầm, qua bao hệ lụy thử thách, xa quê hương, hướng về quê mẹ, má chợt thấy mình chín chắn trưởng thành, lòng yêu mến quê cha đất tổ trỗi dậy thắm thiết. Hơn bao giờ hết má thấy mình thật gắn bó với quê nhà lận đận.
Việt Nam, Việt Nam, quê hương xa xôi quá, còn có bao giờ nhớ đến chúng tôi ? Xin một ngày quê tôi thật sự an bình để những người con Việt Nam có thể trở về nơi đất mẹ. Ngày ấy những giấc mơ sẽ thật sự được trổi mầm, cho trái tim Việt Nam được xanh một màu hy vọng, cho con người Việt Nam được kết sáng những giấc mơ kiêu hãnh. Ngày ấy đêm Đài Bắc sẽ thôi không còn tiếng khóc của những thiếu nữ lạc loài. Ngày ấy chúng tôi thôi hết kiếp luân lưu nhục nhằn.
Xin một ngày, giấc mơ trở thành hiện thực!
Cấn Thị Bích Ngọc
Nếu một ngày nào, theo bước của ba, con về quê ngoại tìm người bạn đời. Con hãy nhìn bằng mắt và bằng tim. Đừng sử dụng đôi tay mà gây vỡ vụn những trái tim mảnh khảnh, nhỏ nhít, đáng thương. Tội lắm cho người con gái. Con có biết sau những nụ cười gần như vô cảm là những tiếng nỉ non, thút thít đến não nề, ai oán. Con có hay sau những thân thể toàn vẹn là những tâm hồn tơi tả với những đắn đo, sợ hãi, tủi hờn bởi quá nhiều giông bão chung quanh.
Má ao ước, một ngày con lớn khôn, má để dành được tiền, ta về quê thăm ngoại. Về quê má, con sẽ hỏi tại sao quê ngoại nghèo quá, sao quê ngoại tiêu điều, buồn bã quá. Sao những người quê ngoại mang đôi mắt xa xăm, u hoài, như mắt của má. Má cũng như con đã không bao giờ biết đến một thời trên quê ngoại, mùa giáp hạt cũng là mùa nụ cười nở trên môi mọi người. Tiếng sáo diều dập dìu trên khắp nẻo quê hương, tiếng cười đùa trẻ thơ đã gảy nên những tấu khúc tuyệt vời của làng quê năm cũ, những năm quê ta chưa có ngọn cờ đỏ. Ta có sẽ bao giờ nghe được giọng hò trong thanh trên những cánh đồng thênh thang trĩu nặng bông lúa vàng của những ngày đất nước thật sự thanh bình. Ngày ấy có những thanh niên thiếu nữ sẽ để giấc mơ đầu đời, giấc mộng tình yêu bay bổng vươn cao qua gió ngàn, mênh mang trải trên những cánh đồng bát ngát để thấy tình mình cũng đơm hoa như những cánh đồng ngập lúa. Ôi những giấc mơ no ấm, an hòa bao giờ ta sẽ có…
Lời ngoại kể về quê hương êm đềm của ngày xưa cũ như một chuyện cổ tích. Nhưng má vẫn nuôi niềm mơ ước về một ngày mai quê ta hết nghèo đói cho những người đàn bà Việt Nam không phải thân cò lặn lội đường xa, làm dâu xứ lạ với những ê chề như những người trong thế hệ sinh sau ngày chiến thắng của phương Bắc.
Má sẽ đặt tên con là Sinh, sự Hồi Sinh của niềm hy vọng tưởng đã lụn tắt sau bao gió bão. Má sẽ dạy cho con làm người Việt Nam thật sự, những người sanh ra từ bên này biển Thái Bình với tâm tư chất chứa hồn Quốc Toản, Bắc, Giang. Qua bao đói no thăng trầm, qua bao hệ lụy thử thách, xa quê hương, hướng về quê mẹ, má chợt thấy mình chín chắn trưởng thành, lòng yêu mến quê cha đất tổ trỗi dậy thắm thiết. Hơn bao giờ hết má thấy mình thật gắn bó với quê nhà lận đận.
Việt Nam, Việt Nam, quê hương xa xôi quá, còn có bao giờ nhớ đến chúng tôi ? Xin một ngày quê tôi thật sự an bình để những người con Việt Nam có thể trở về nơi đất mẹ. Ngày ấy những giấc mơ sẽ thật sự được trổi mầm, cho trái tim Việt Nam được xanh một màu hy vọng, cho con người Việt Nam được kết sáng những giấc mơ kiêu hãnh. Ngày ấy đêm Đài Bắc sẽ thôi không còn tiếng khóc của những thiếu nữ lạc loài. Ngày ấy chúng tôi thôi hết kiếp luân lưu nhục nhằn.
Xin một ngày, giấc mơ trở thành hiện thực!
Cấn Thị Bích Ngọc
Sunday, June 22, 2014
HOA KỲ & BIỂN ĐÔNG
Hội nghị "Our Ocean" ở Washington DC
Hội nghị mang tên ‘Our Ocean- Đại dương của chúng ta’ vừa diễn ra
trong hai ngày 16 và 17 tháng 6 tại thủ đô Washington, DC Hoa Kỳ do Bộ
Ngoại giao Mỹ chủ trì.
Trong chuyên mục Khoa học- Môi trường kỳ này, mời quí vị theo dõi một
số thông tin liên quan hội nghị đó với chủ đích kêu gọi có những biện
pháp và hành động cụ thể giúp bảo tồn các đại dương trên Trái Đất hiện
đang bị suy thoái.
Cảnh báo
Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry đưa ra thông điệp trước khi hội nghị khai mạc như sau:
Đại ý theo ngoại trưởng John Kerry thì hiện nay nguồn tài nguyên đại
dương lớn lao, mà ông từng được trải nghiệm từ tuổi ấu thơ khi sống tại
vùng bờ biển bang Massachusette, đang bị đe dọa. Những tác nhân đe dọa
bao gồm hoạt động đánh bắt hải sản không bền vững, tình trạng ô nhiễm
môi trường, biến đổi khí hậu.
Con người trên hành tinh Trái Đất phải làm gì để đối phó với những
mối nguy đang đe dọa đến những đại dương hiện đang che phủ đến ¾ bề mặt
Trái Đất như thế?
Mục tiêu tối hậu là gìn giữ sao cho các đại dương được ‘lành mạnh’.
Một khi các đại dương được như thế thì cả Trái Đất cũng trở nên là môi
trường sống giúp con người được khỏe mạnh. Theo ngoại trưởng Hoa Kỳ John
Kerry thì các đại dương hiện đang cung cấp nguồn sống cho chừng 12%
người dân sinh sống trên địa cầu. Cá là nguồn cung cấp protein cần thiết
cho chừng ba tỉ người trên Trái Đất.
Hội nghị có sự tham gia của những nguyên thủ quốc gia và bộ trưởng từ
chừng 80 quốc gia trên thế giới, bên cạnh đó là các nhà khoa học hàng
đầu về đại dương cùng những chuyên gia thuộc các lĩnh vực cụ thể khác
nhau có liên quan công tác bảo vệ đại dương.
Các chủ đề được những người tham dự cùng bàn thảo là hoạt động đánh
bắt hải sản trên đại dương một cách bền vững, tình trạng ô nhiễm đại
dương, tình trạng đại dương bị acid hóa…
Ông John Kerry đưa ra cảnh báo có đến 500 điểm chết trên các đại dương của Trái Đất. Đó là những nơi mà sinh vật biển không còn nữa. Thống kê được đưa ra nói rõ có đến một phần ba nguồn cá của thế giới bị đánh bắt quá mức, và gần tất cả số còn lại đang bị khai thác ở mức hay gần mức bền vững thiết yếu
Ông John Kerry đưa ra cảnh báo có đến 500 điểm chết trên các đại
dương của Trái Đất. Đó là những nơi mà sinh vật biển không còn nữa.
Thống kê được đưa ra nói rõ có đến một phần ba nguồn cá của thế giới bị
đánh bắt quá mức, và gần tất cả số còn lại đang bị khai thác ở mức hay
gần mức bền vững thiết yếu.
Theo ngoại trưởng Hoa Kỳ nếu như sự việc tiếp tục diễn ra ở mức không
được kiểm soát thì một lượng đáng kể đời sống sinh vật biển có thể chết
vì chúng không còn thể nào sống trong môi trường nước đại dương nữa.
Hành động
Trong ngày khai mạc Hội nghị Đại Dương, ngoại trưởng Hoa Kỳ kêu gọi
cần đưa ra một kế hoạch nhằm chống lại tình trạng đánh bắt hải sản quá
mức, đối phó với biến đổi khí hậu và nạn ô nhiễm.
Một vị nguyên thủ đến tham dự hội nghị là tổng thống nước Kiribati ở
Thái Bình Dương, ông Anote Tong. Trong ngày đầu của hội nghị, tổng thống
Kiribati cho biết vào cuối năm nay lệnh cấm đánh bắt hải sản tại khu
vực bảo tồn Phoenix Islands của nước này có hiệu lực. Ông Anote Tong nói
rằng dù biết rằng khi lệnh cấm đánh bắt hải sản như thế được đưa ra thì
kinh tế của đất nước bị thiệt hại trước mắt, nhưng sau bao tính toán,
phân tích nước ông đi đến thực hiện những chiến lược bền vững hiệu quả.
Khu vực này có những đảo san hô còn hoang sơ với phong phú các loài
sinh vật biển. Đó là nơi trú ngụ của những loài như cá thu và rùa biển,
cá nhám mập và những loài cá chuyên sống trong các rạn san hô.
Kiribati là một trong nhóm một số quốc đảo mà theo quan ngại của Cao
ủy Nhân quyền Liên hiệp quốc có thể không còn là những quốc gia nữa vì
tình trạng biến đổi khí hậu khiến nước biển dâng lên nhấn chìm đảo.
Những đảo quốc kia là Tuvalu, Tokelau và the Maldives.
Hoa Kỳ, nước chủ nhà Hội nghị Đại Dương, trong này thứ ba 17 tháng 6
đã lên tiếng chung tay trong công tác bảo vệ đại dương với các nước
khác. Tổng thống Barack Obama- người với cam kết bảo vệ nguồn sống đại
dương- đã đưa ra kế hoạch mở rộng khu bảo tồn đại dương lớn nhất thế
giới thuộc Thái Bình Dương mà người tiền nhiệm của ông là tổng thống
George W. Bush đã định ra.
Theo tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama thì nhiệm vụ bảo vệ các đại dương của Trái Đất và những hệ sinh thái nằm sâu dưới lòng các đại dương là một nhiệm vụ lớn lao không thể chỉ một quốc gia có thể đảm đương được. Tuy nhiên Hoa Kỳ cần phải đi đầu trong công tác chung này
Hồi năm 2009, tổng thống George W. Bush đặc định một khu bảo tồn đại
dương rộng bao gồm cả khu vực những đảo nhỏ xa thuộc vùng trung nam Thái
Bình Dương nằm giữa Haiwaii và đảo Samoa của Hoa Kỳ. Đây là khu vực mà
theo đánh giá cho rằng những rạn san hô nhiệt đới và hệ sinh thái biển
rất dễ bị tổn thương bởi tình trạng biến đổi khí hậu và acid đại dương.
Việc hoạch định ra một vùng biển thuộc Thái Bình Dương được bảo vệ
nằm cách xa nước Mỹ đến hằng ngàn dặm như thế được đánh giá là một chiến
thắng quan trọng mạng tính biểu tượng đối với giới bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, theo Nhà Trắng thì quyết định cuối cùng về ranh giới của vùng
đó chỉ được đưa ra sau khi đã tham vấn đầy đủ các giới gồm ngư dân, các
nhà khoa học và các chuyên gia bảo tồn.
Theo tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama thì nhiệm vụ bảo vệ các đại dương
của Trái Đất và những hệ sinh thái nằm sâu dưới lòng các đại dương là
một nhiệm vụ lớn lao không thể chỉ một quốc gia có thể đảm đương được.
Tuy nhiên Hoa Kỳ cần phải đi đầu trong công tác chung này.
Kế hoạch mở rộng khu bảo tồn như vừa nêu của chính quyền của tổng
thống Barack Obama cùng với kế hoạch hành động của các nước như Kiribati
và Cook Islands sẽ giúp bảo vệ một tổng diện tích trên đại dương lên
đến khoảng 3 triệu kilomet vuông. Đó là những nơi không được đánh bắt
hải sản cũng như khai thác dầu khí.
Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry cho rằng những biện pháp cụ thể mà
từng quốc gia hay từng cộng đồng theo đuổi như hiện nay một cách độc lập
vẫn chưa hiệu quả. Những thử thách đại dương mà con người đang đối diện
cần cộng đồng các quốc gia chung tay thực hiện một chiến lược toàn cầu
và toàn diện chung với nhau.
Diễn viên điện ảnh Leonardo Di Caprio, người nổi tiếng với vai nam
chính trong bộ phim Titanic tại Hội nghị Đại Dương cam kết trong vòng
hai năm tới sẽ cung cấp 7 triệu đô la từ quỹ của Sáng hội mang tên anh
cho những dự án bảo tồn có ý nghĩa.
Vừa là một diễn viên điện ảnh và nhà hoạt động bảo vệ môi trường,
diễn viên Leonardo Di Carpio, kể lại kinh nghiệm mắt thấy tai nghe của
bản thân là trong lần lặn xuống khu vực rạn san hô lớn nhất thế giới ở
Úc, Great Barrier Reef, cách đây 20 năm và lần lặn cách đây hai năm cảnh
tượng đã thay đổi dữ dội. Trước kia nơi ấy là một thiên đường không thể
tưởng tượng nổi, nhưng chuyến lặn vừa qua bày ra những cảnh san hô chết
trắng đầy rẫy.
Diễn viên này khẳng định:
Theo anh thì từng ngày trôi qua, nhiều loại sinh vật đại dương đang
bị tổn hại. Nguyên do không phải do bất ngờ không đoán trước được của
thiên nhiên mà là do hoạt động của con người.
Nói chung Việt Nam nghiên cứu về đại dương chưa nhiều lắm. Thế giới đủ phương tiện để nghiên cứu chứ về đại dương Việt Nam còn lạc hậu lắm. Việt Nam chỉ nghiên cứu ven bờ thôi. Ngay cả con tàu ( nghiên cứu đại dương) cũng không có
Tiến sĩ Nguyễn Hữu Đại
Hôm ngày 18 tháng 6 vừa qua, Ủy ban Di sản Thế giới tại Doha ra quyết
định gia hạn cho nước Úc đến ngày 1 tháng 2 năm 2015 phải chứng minh
cho được nước này đang tiếp tục nổ lực bảo vệ rạn san hô Great Barrier
Reef. Nếu không tổ chức này sẽ đưa vào danh sách Di sản Thế giới đang
lâm nguy.
Biển nước Việt
Tình trạng đại dương của nhiều nơi trên thế giới được đánh động như thế, còn biển khơi của Việt Nam ra sao?
Tiến sĩ Nguyễn Hữu Đại, trưởng phòng thực vật biển, Viện Hải Dương Học Nha Trang có đánh giá:
Nói chung Việt Nam nghiên cứu về đại dương chưa nhiều lắm. Thế
giới đủ phương tiện để nghiên cứu chứ về đại dương Việt Nam còn lạc hậu
lắm. Việt Nam chỉ nghiên cứu ven bờ thôi. Ngay cả con tàu ( nghiên cứu
đại dương) cũng không có nên mọi nghiên cứu biển khơi của Việt Nam rất
dở!
Còn vùng nước ven bờ của Việt Nam với tầm nghiên cứu của Việt Nam
hiện nay khó mà cải thiện được. Môi trường càng ngày càng xấu đi hơn cải
thiện: cả về môi sinh, cả về sinh vật, cả về môi trường, cả về khí hậu.
Khó mà cải thiện; hoạt động của mình luôn đi ngược lại tính bền vững
của môi sinh.
Xu thế này thì Việt Nam và cả thế giới đều thấy. Mình ( Việt Nam)
cũng có những dự án nghiên cứu về biến đối khí hậu nhưng tôi nghĩ kinh
phí bỏ ra rất nhiều nhưng kết quả đạt được không như mong muốn.
Con người quá nhỏ bé trước thiên nhiên, nhưng cũng làm những công
việc ‘động trời’ nhưng thiên nhiên mạnh hơn con người. Phát triển bền
vững là điều con người muốn đạt đến nhưng thật sự rất khó khăn, mình chỉ
đạt một phần nhất định, rất nhỏ; chứ còn không thể nào ‘cãi ‘ được.
Biến đổi khí hậu, thay đổi của thiên nhiên, chúng ta chỉ có thể sửa đổi
một phần thôi. Tất cả hoạt động của chúng ta từ kinh tế, xã hội đến
chính trị đều đi ngược lại xu thế bền vững của thiên nhiên.
Những hoạt động như Ngày Đại Dương Thế giới, rồi những hội nghị có
tính cách hô hào nhiều hơn, chứ tôi thấy hiệu quả không phải lớn lắm. Ở
Việt Nam thế này, các nơi khác có cải thiện một phần thôi. Tôi hay đi
Nhật Bản dự những hội nghị về biển, về đại dương, rồi cả lĩnh vực về vật
lý, hóa học; mặc dù Nhật Bản cũng là một nước tiên tiến, nhưng tôi thấy
mức độ thành công của dự án cũng như những việc làm về khoa học theo
tôi cũng không phải làm thay đổi một cách cấp kỳ, cải thiện một cách rõ
ràng. Mà hoạt động của con người càng tìm cách phá vỡ cân bằng của thiên
nhiên; mặc dù có những tổ chức của thế giới tìm cách hạn chế những hiện
tượng nhà kính…; nhưng anh thấy đó có đi đến đâu, không thể nào toàn bộ
được!
Mục Khoa học- Môi trường kỳ này tạm dừng tại đây. Hẹn gặp lại các bạn trong chương trình kỳ tới.
Gia Minh chào tạm biệt.
Hội thảo quốc tế về Hoàng Sa-Trường Sa tại Đà Nẵng
Hội thảo quốc tế về Hoàng Sa-Trường Sa tổ chức tại Đà Nẵng vào ngày
hôm nay (21/6) hội tụ được nhiều học giả, chuyên gia quốc tế về Biển
Đông.
Cuộc hội thảo này cũng triển lãm một số văn bản Hán Nôm được ban hành
từ thế kỷ 17 tới thế kỷ 20 chứng minh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Những văn bản này cho thấy nhiều triều đại
phong kiến Việt Nam đã ý thức chủ quyền và liên tục tuyên bố từ trước
tới nay.
Đây là lần đầu tiên Việt Nam tổ chức triển lãm một cách quy mô các
bằng chứng lịch sử và pháp lý chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa là của Việt Nam.
Trong hội thảo lần này nhiều ý kiến của các chuyên gia cho rằng Việt
Nam cần phải đưa Trung Quốc ra tòa quốc tế và mặc dù có thể Trung Quốc
từ chối tham gia vụ kiện nhưng Việt Nam cũng chứng tỏ cho thế giới thấy
thiện chí của mình trước vần đề căng thẳng này, đồng thời cũng giúp cho
Philippines và các nước trong khu vực thấy được lập trường của Việt Nam
trong vấn đề tranh chấp với Trung Quốc.
Tự thiêu ở Mỹ để 'phản đối giàn khoan'?
Cập nhật: 04:55 GMT - thứ hai, 23 tháng 6, 2014
Tin cho hay một người gốc
Việt ở bang Florida, Mỹ, hiện đang trong tình trạng nguy kịch sau
khi tự thiêu, để lại thông điệp phản đối giàn khoan Trung Quốc.
Báo Bradenton Herald ở quận Manatee, tiểu bang Florida, hôm 21/6 đăng Bấm
bài tường thuật vụ một người đàn ông 71 tuổi tự thiêu bất thành vào một hôm trước đó.
Tờ báo này dẫn lời giới chức
địa phương nói người đàn ông không nêu danh tính đã tới cổng
trung tâm cộng đồng Silver Lake nằm ở góc đường Lockwood Ridge
cắt phố 59 Đông vào lúc 11:15 phút sáng thứ Sáu 20/6 và châm
lửa tự thiêu.
Một cặp vợ chồng đi ngang qua đó thấy ông
này nằm trên cỏ, người bốc cháy và bên cạnh là một can xăng.
Họ đã dập lửa cứu người đàn ông, trong khi ông ta được nói đã
kêu gào: "Tôi muốn chết, hãy để cho tôi chết".
Sau đó ông này được cấp cứu bằng trực thăng tới bệnh viện đa khoa Tampa và hiện đang trong tình trạng nguy kịch.
Cảnh sát cho hay ông đã để lại trên bảng
chỉ đường vào trung tâm cộng đồng Silver Lake hai tờ giấy "có
viết tiếng nước ngoài".
Hình chụp một tờ đăng trên Bradenton Herald
cho thấy đây là tiếng Việt, được viết bằng tay với nội dung:
"Hai Yang 981 phải rời khỏi VN hải phận. Anh hùng tử, chí hùng nào tử.
Thu Hùng", đi kèm chữ ký.
Hiện chưa rõ đây có phải lý do chính khiến người đàn ông tự thiêu hay không.
'Phật tử tự thiêu'
Cách đây một tháng, một nữ Phật tử tại TP HCM cũng đã tự thiêu với một số biểu ngữ viết tay phản đối Trung Quốc.
Bà Lê Thị Tuyết Mai, Phật tử thuộc Giáo hội
Phật giáo Việt Nam Thống nhất không được phép hoạt động ở trong
nước, đã châm lửa tự thiêu ngay trước Dinh Thống nhất ở trung
tâm thành phố ngày 23/5.
Ông Lê Trương Hải Hiếu, Phó chủ tịch Ủy ban
Nhân dân Quận 1 được báo Thanh Niên dẫn lời nói sau đó rằng “theo
điều tra ban đầu, nguyên nhân khiến người phụ nữ này tự thiêu là do bế
tắc về cuộc sống và bức xúc việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải
Dương-981 trái phép, xâm phạm chủ quyền Việt Nam”.
Quan điểm của Hoa Kỳ về Biển Đông
1. Mỹ có lợi ích quốc gia tại Biển Đông, đặc biệt là an ninh hàng hải, chủ yếu là từ eo biển Malacca.
2. Mỹ không đứng về phe nào trong việc tranh chấp chủ quyền, nhưng ủng hộ giải quyết bằng đàm phán hoà bình, ngoại giao đa phương, trên căn bản luật pháp quốc tế. Đặc biệt là Mỹ cam kết bảo vệ các quốc gia có hiệp ước với HK, như Philippines, Nam Hàn, Nhật Bản, Úc, New Zealand, và bảo vệ Đài Loan.
Bao nhiêu điều đó cho thấy HK có lý do để không đứng ngoải tranh chấp ở Biển Đông. Và cũng cho thấy, HK có thể đứng ngoài trong trường hợp TC dạy cho CSVN một bài học thứ hai, nếu như CSVN không chính thức lập quan hệ quốc phòng cụ thể với HK.
3. Mỹ tăng cường HQ vì trọng tâm kinh tế toàn cầu di chuyển về khu vực ĐNÁ, vì Mỹ có quyền lợi ở đây, nên điều chỉnh việc tập trung lực lượng quân sự là việc bình thường, không phải nhắm vào Trung Cộng.
4. Trong chuyến công du châu Á lần nầy, Bộ Trưởng QP/HK Panetta khẳng định cam kết bảo vệ các đồng minh của HK, đồng thời cũng mong muốn hợp tác với Trung Công.
7 Hoa Kỳ chủ trương “3 hơn” ở châu Á-Thái Bình Dương
Ngày 7-6-2012, trong cuộc họp báo, tướng Martin Dempsey cho biết, việc chuyển quân đến châu Á-TBD dựa trên nguyên tắc 3 hơn: Quan tâm hơn. Cam kết nhiều hơn. Chất lượng hơn.
Binh sĩ Mỹ sẽ luân phiên nhau, hơn là đóng quân tại căn cứ cố định.
Philippines , Thái Lan và Singapore đã có đóng góp tích cực và muốn chia xẻ trách nhiệm quốc phòng lớn hơn.
Hoa Kỳ khuyến khích khối ASEAN đóng vai trò tích cực hơn.
8 Kết
Chiến lược “tái cân bằng lực lượng quân sự” của Hoa Kỳ lợi hại thật, cho thấy Trung Cộng khó thoát khỏi thiên la địa võng mà Tổng Thống Obama đã bày ra.
Những căn cứ hoả tiễn của Hoa Kỳ, từ Alaska, Hạm Đội 3 ở Bắc TBD, Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, đảo Guam, Honolulu (Hawaii), Philippines, Úc, Thái Lan, đến Singapore, và từ 6 hàng không mẫu hạm nằm trên vành đai bao vây, đều chỉa hoả lực vào một mục tiêu cố định là Bắc Kinh, cho thấy TC chạy trời không khỏi nắng.
Ví dụ như một trận chiến xảy ra, thì ngoài vũ trụ, tàu con thoi không người lái X-37B, đang làm chủ không gian, làm tê liệt hệ thống định vị toàn cầu (GPS) của TC, thì hoả tiễn “sát thủ HKMH” DF-21 hoàn toàn vô dụng. Thêm vào đó, X-37B cũng có khả năng phóng hỏa tiễn xuống Bắc Kinh, đồng thời 3 siêu vũ khí tàng hình phá hủy chiến thuật “vùng cấm tiếp cận” của TC và nhất là từ 12 vị trí trên vòng đai bao vây, cùng khai hỏa một lúc nhắm vào Hoa Lục thì TC có ba đầu 6 tay cũng đành chịu, vì không thể phản công cùng một lúc đến 12 vị trí ở nhiều phương hướng khác nhau được.
Bộ Tư Lệnh Không Gian Ảo của HK nhập trận, phen nầy anh ba Tàu chết chắc. Hay ít ra cũng không còn lớn lối hăm he các nước nhỏ trong khu vực nữa.
TQ: ‘Đừng dựa vào nước lớn ở Biển Đông’
Cập nhật: 08:00 GMT - thứ hai, 23 tháng 6, 2014
Một lãnh đạo quân đội Trung
Quốc nói các nước nhỏ không nên phối hợp với các cường quốc
để làm bất ổn an ninh khu vực.
Thượng tướng hải quân Tôn Kiến Quốc, phó
tổng tham mưu trưởng Giải phóng quân Trung Quốc, đã đưa ra phát
biểu này trước các nhà ngoại giao và các chuyên gia an ninh tại
Diễn đàn Hòa bình Thế giới hàng năm tại Bắc Kinh hôm Chủ
nhật ngày 22/6, kênh truyền hình Nhật NHK đưa tin.Phát biểu này được xem là là lời cảnh báo đối với Việt Nam và Philippines đừng hợp tác với Mỹ và các nước khác để giải qyết các tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc trên Biển Đông.
Ông Tôn cũng cáo buộc chính phủ của Thủ tướng Nhật Shinzo Abe làm gia tăng căng thẳng trong khu vực.
Theo nhận định của NHK thì phát biểu này của ông Tôn là nhằm vào nỗ lực của ông Abe muốn thay đổi cách lý giải Hiến pháp Nhật như trước giờ để cho phép Nhật thực hiện quyền phòng vệ tập thể.
Bảo vệ giàn khoan
Trong khi đó, Thông tấn xã Việt Nam, cơ quan ngôn luận chính thức của Chính phủ Việt Nam, hôm 21/6 cho biết tại hiện trường đặt giàn khoan có ba tàu Trung Quốc là tàu tuần duyên 2168, hai tàu kéo số hiệu 263 và Hải Sơn đã ‘tăng tốc và tìm cách đâm vào tàu chấp pháp Việt Nam’ trong khi ‘tuyên truyền những luận điệu xuyên tạc về Việt Nam’.Tuy nhiên, Thông tấn xã cũng cho biết là tàu của Việt Nam đã đến gần giàn khoan ‘ở khoảng cách 12 hải lý’.
Ngoài ra, máy bay do thám số hiệu CMS-B3843 của Trung Quốc cũng bay cách tàu kiểm ngư của Việt Nam từ 200 đến 500 mét trên không, cũng theo hãng tin nhà nước của Việt Nam.
Cũng tới hôm 21/6, tổng cộng 'Trung Quốc có 118 tàu, trong đó có sáu tàu quân sự tham gia bảo vệ giàn khoan, Thông tấn xã dần nguồn từ Cục Kiểm ngư Việt Nam cho biết.
Theo đó, các tàu Trung Quốc ở khoảng cách từ 6 đến 9 hải lý cách giàn khoan và 'liên tục ngăn cản hoạt động thực thi pháp luật' của tàu Việt Nam.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2014/06/140623_china_warning_scs.shtml
Nga không ủng hộ Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông
Tàu
tuần dương Trung Quốc (màu trắng) cản mũi tàu cảnh sát biển Việt Nam
trong vùng biển của Việt Nam (ảnh chụp 14/05/2014) - REUTERS
Câu hỏi đặt ra là lập trường của Nga trong hồ sơ tranh chấp chủ
quyền ở Biển Đông ra sao ? Vào lúc Nga và Trung tăng cường quan hệ, đặc
biệt trong lĩnh vực kinh tế, thì Liệu Matxcơva có ủng hộ Bắc Kinh hay
không ?
Bài viết « Vì sao Nga không ủng hộ Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông », đăng trên tạp chí The Diplomat, đã giúp giải đáp phần nào các câu hỏi trên. Điều đáng chú ý, tác giả bài báo là nhà báo Trung Quốc Mục Xuân San (Mu Chunshan), làm việc tại Bắc Kinh.
Yếu tố đầu tiên lý giải sự im lặng của Nga, đó là vì Matxcơva và Bắc Kinh không phải là đồng minh, cho dù hai bên có quan hệ đối tác chiến lược. Nền tảng cơ bản của mối quan hệ song phương này là hai bên cùng có lợi và do vậy, không tác động nhiều đến chính sách của Trung Quốc trong khu vực Biển Đông và biển Hoa Đông.
Yếu tố thứ hai là Nga có quan hệ tốt với các nước trong khu vực Đông Nam Á và không muốn làm mất lòng các nước này để có được quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc. Hiện nay, Việt Nam và Philippines là hai nước lớn tiếng chỉ trích thái độ hung hăng của Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông. Nga có quan hệ hữu hảo với hai quốc gia này. Kế thừa mối quan hệ đặc biệt từ thời Liên Xô cũ, nước Nga hiện nay là đối tác chủ chốt của Việt Nam trong lĩnh vực quân sự.
Mặc dù là đồng minh của Hoa Kỳ, nhưng Philippines cũng có bang giao hữu hảo với Nga. Cách nay hai năm, ba tàu chiến Nga đã tới thăm Philippines.
Khu vực Đông Nam Á không phải là ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Nga ; mối quan tâm hàng đầu của Matxcơva là Châu Âu. Trong khi đó, Washington rất chú ý đến vùng Châu Á-Thái Bình Dương, đặc biệt là Biển Đông, nhấn mạnh sự cần thiết phải bảo đảm tự do lưu thông hàng hải vì đó là lợi ích của Hoa Kỳ. Do vậy, Nga không có lợi ích gì khi đối đầu với Mỹ, chỉ vì ủng hộ Trung Quốc.
Bên cạnh đó, còn có yếu tố cạnh tranh, canh chừng nhau giữa Matxcơva và Bắc Kinh. Tại Nga, vẫn có nhiều người lo ngại về tham vọng lãnh thổ, tài nguyên của Trung Quốc. Mặc dù Matxcơva tuyên bố lạc quan về tiềm năng phát triển quan hệ giữa hai nước trong việc khai thác vùng viễn đông Nga, nhưng Nga vẫn luôn luôn cảnh giác trước ý đồ bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc.
Dường như để trấn an công luận Trung Quốc, tác giả Mục Xuân San giải thích là bề ngoài, Nga và Trung Quốc đều có thái độ mập mờ trong các hồ sơ quốc tế, nhưng hai bên vẫn ủng hộ nhau.
Ví dụ, trong hồ sơ Crimée, Bắc Kinh không công khai lên án Matxcơva và vắng mặt trong cuộc bỏ phiếu tại Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Điều này không có nghĩa là Trung Quốc chống Nga. Theo cùng lô gích, trong hồ sơ Biển Đông, sự im lặng của Nga không có nghĩa là Matxcơva không ủng hộ Bắc Kinh và Nga có cách riêng ủng hộ Trung Quốc, chẳng hạn như cuộc tập trận chung giữa hai nước ở biển Hoa Đông trong thời gian qua.
Trong những ngày gần đây, báo chí Nga đưa tin là Việt Nam có thể ưu tiên để Nga sử dụng cảng Cam Ranh. Nếu thông tin này được khẳng định thì đây là một tính toán của Hà Nội : Matxcơva là đối tác toàn diện của Bắc Kinh và giữ thái độ trung lập trong hồ sơ Biển Đông, thì việc để cho Nga vào Cam Ranh, trên nguyên tắc, sẽ không gây ra phản ứng mạnh mẽ của Trung Quốc.
Vạn sự khởi đầu nan. Nga hiện diện tại Cam Ranh rồi thì tại sao lại không có các nước khác ? Năm 2010, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã từng tuyên bố Việt Nam tự xây dựng lại cảng Cam Ranh, mở cửa làm dịch vụ cho tất cả tàu bè nước ngoài. Có nghĩa là cảng Cam Ranh có thể đón tàu bè của Hoa Kỳ.
Bài viết « Vì sao Nga không ủng hộ Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông », đăng trên tạp chí The Diplomat, đã giúp giải đáp phần nào các câu hỏi trên. Điều đáng chú ý, tác giả bài báo là nhà báo Trung Quốc Mục Xuân San (Mu Chunshan), làm việc tại Bắc Kinh.
Yếu tố đầu tiên lý giải sự im lặng của Nga, đó là vì Matxcơva và Bắc Kinh không phải là đồng minh, cho dù hai bên có quan hệ đối tác chiến lược. Nền tảng cơ bản của mối quan hệ song phương này là hai bên cùng có lợi và do vậy, không tác động nhiều đến chính sách của Trung Quốc trong khu vực Biển Đông và biển Hoa Đông.
Yếu tố thứ hai là Nga có quan hệ tốt với các nước trong khu vực Đông Nam Á và không muốn làm mất lòng các nước này để có được quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc. Hiện nay, Việt Nam và Philippines là hai nước lớn tiếng chỉ trích thái độ hung hăng của Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông. Nga có quan hệ hữu hảo với hai quốc gia này. Kế thừa mối quan hệ đặc biệt từ thời Liên Xô cũ, nước Nga hiện nay là đối tác chủ chốt của Việt Nam trong lĩnh vực quân sự.
Mặc dù là đồng minh của Hoa Kỳ, nhưng Philippines cũng có bang giao hữu hảo với Nga. Cách nay hai năm, ba tàu chiến Nga đã tới thăm Philippines.
Khu vực Đông Nam Á không phải là ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Nga ; mối quan tâm hàng đầu của Matxcơva là Châu Âu. Trong khi đó, Washington rất chú ý đến vùng Châu Á-Thái Bình Dương, đặc biệt là Biển Đông, nhấn mạnh sự cần thiết phải bảo đảm tự do lưu thông hàng hải vì đó là lợi ích của Hoa Kỳ. Do vậy, Nga không có lợi ích gì khi đối đầu với Mỹ, chỉ vì ủng hộ Trung Quốc.
Bên cạnh đó, còn có yếu tố cạnh tranh, canh chừng nhau giữa Matxcơva và Bắc Kinh. Tại Nga, vẫn có nhiều người lo ngại về tham vọng lãnh thổ, tài nguyên của Trung Quốc. Mặc dù Matxcơva tuyên bố lạc quan về tiềm năng phát triển quan hệ giữa hai nước trong việc khai thác vùng viễn đông Nga, nhưng Nga vẫn luôn luôn cảnh giác trước ý đồ bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc.
Dường như để trấn an công luận Trung Quốc, tác giả Mục Xuân San giải thích là bề ngoài, Nga và Trung Quốc đều có thái độ mập mờ trong các hồ sơ quốc tế, nhưng hai bên vẫn ủng hộ nhau.
Ví dụ, trong hồ sơ Crimée, Bắc Kinh không công khai lên án Matxcơva và vắng mặt trong cuộc bỏ phiếu tại Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Điều này không có nghĩa là Trung Quốc chống Nga. Theo cùng lô gích, trong hồ sơ Biển Đông, sự im lặng của Nga không có nghĩa là Matxcơva không ủng hộ Bắc Kinh và Nga có cách riêng ủng hộ Trung Quốc, chẳng hạn như cuộc tập trận chung giữa hai nước ở biển Hoa Đông trong thời gian qua.
Trong những ngày gần đây, báo chí Nga đưa tin là Việt Nam có thể ưu tiên để Nga sử dụng cảng Cam Ranh. Nếu thông tin này được khẳng định thì đây là một tính toán của Hà Nội : Matxcơva là đối tác toàn diện của Bắc Kinh và giữ thái độ trung lập trong hồ sơ Biển Đông, thì việc để cho Nga vào Cam Ranh, trên nguyên tắc, sẽ không gây ra phản ứng mạnh mẽ của Trung Quốc.
Vạn sự khởi đầu nan. Nga hiện diện tại Cam Ranh rồi thì tại sao lại không có các nước khác ? Năm 2010, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã từng tuyên bố Việt Nam tự xây dựng lại cảng Cam Ranh, mở cửa làm dịch vụ cho tất cả tàu bè nước ngoài. Có nghĩa là cảng Cam Ranh có thể đón tàu bè của Hoa Kỳ.
-bien-dong
Tổng thống Obama loại trừ khả năng can thiệp quân sự ở Iraq
Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama bày tỏ quan ngại về việc các phần tử chủ chiến Sunni đã chiếm những phần đất ở phía bắc Baghdad.
23.06.2014
Tổng thống Barack Obama tiếp tục loại trừ khả năng triển khai lực
lượng tác chiến Mỹ tới Iraq nhưng bày tỏ quan ngại về việc các phần tử
chủ chiến Sunni đã chiếm cứ những phần đất rộng lớn ở phía bắc Baghdad.
Theo tường thuật của thông tín viên đài VOA Michael Bowman, cuộc khủng
hoảng ở Iraq đã khiến những tiếng nói chỉ trích chính sách đối ngoại của
ông Obama trở nên mạnh mẽ hơn, trong đó có kiến trúc sư cuộc chiến Iraq
năm 2003: cựu phó tổng thống Dick Cheney.
Hàng nghìn tín đồ Shia ở Iraq đã gấp rút tới Baghdad để bảo vệ thủ đô chống lại các phần tử chủ chiến của phong trào Nhà nước Hồi giáo của Iraq và vùng Levant…
Phe nổi dậy tiếp tục chiếm giữ các thị trấn và đe dọa các cơ sở dầu khí của nước này.
Nhiều khả năng sẽ xảy ra một cuộc khủng hoảng về người tị nạn trong bối cảnh thiếu hụt nhiên liệu và thuốc men ở một số nơi khác tại Iraq.
Tổng thống Obama nói rằng tình hình có thể lan rộng khắp Trung Đông, nhưng ông vẫn tiếp tục giới hạn mức độ can thiệp của Hoa Kỳ.
“Các lực lượng Mỹ sẽ không trở lại chiến đấu ở Iraq nhưng chúng tôi sẽ giúp người dân Iraq chiến đấu chống lại những kẻ khủng bố hiện đe dọa người dân Iraq, khu vực cũng như các quyền lợi của Mỹ”.
Nhưng theo cựu phó tổng thống Dick Cheney, nước Mỹ đang rút khỏi vũ đài quốc tế với các hệ quả tai hại.
“Chúng ta đã để lại một khoảng trống lớn ở Trung Đông sau khi rút quân khỏi Iraq mà không để lại bất kỳ lực lượng nào ở nước này. Và theo cam kết của ông Obama một vài tuần trước, chúng ta cũng sẽ hoàn toàn rút quân khỏi Afghanistan và cũng không để lại quân ở nước này. Chính quyền Obama hiện vẫn duy trì tuyên bố ngày trước cho rằng “Chúng ta đã tóm được bin Laden, vấn đề khủng bố đã được giải quyết”. Điều này không đúng vào lúc đó, và bây giờ còn ít đúng hơn”.
Cuộc chiến Iraq vẫn là một trong những cuộc tham chiến nhận được ít ủng hộ nhất ở Mỹ và các cuộc thăm dò ý kiến cho thấy ít ủng hộ về một sự can thiệp vũ trang khác của Mỹ ở Iraq. Thượng nghị sĩ thuộc đảng Dân chủ Harry Reid lên tiếng dè bỉu ông Cheney.
“Nếu có một điều đất nước chúng ta không cần, thì đó là lời khuyên từ Dick Cheney về chiến tranh”.
Nhưng nhiều dân biểu Cộng hòa, và một số thuộc đảng Dân chủ, nói rằng Hoa Kỳ phải cân nhắc một phản ứng mạnh mẽ hơn nữa để đáp lại phong trào chủ chiến lấy cảm hứng từ chủ nghĩa khủng bố hiện đang lan tràn ở Trung Đông. Thượng nghị sĩ John McCain nói:
“Chúng sẽ gây ra một mối đe dọa trực tiếp đối với an ninh của Mỹ. Tôi muốn nói với những người chỉ trích từng tuyên bố không làm gì và để cho người Iraq tự chiến đấu, đó là quý vị không thể giới hạn cuộc chiến này ở Iraq và Syria”.
Chính phủ Iraq đã yêu cầu Hoa Kỳ hỗ trợ không kích nhắm vào các phần tử chủ chiến Sunni, và Tổng thống Obama chưa bác bỏ hay chấp thuận yâu cầu này.
Tổng thư ký LHQ Ban Ki-moon nói rằng các cuộc không kích cũng không có ích gì nếu không có điều ông gọi là một ‘chính phủ gồm nhiều thành phần ở Iraq”.
Hàng nghìn tín đồ Shia ở Iraq đã gấp rút tới Baghdad để bảo vệ thủ đô chống lại các phần tử chủ chiến của phong trào Nhà nước Hồi giáo của Iraq và vùng Levant…
Phe nổi dậy tiếp tục chiếm giữ các thị trấn và đe dọa các cơ sở dầu khí của nước này.
Nhiều khả năng sẽ xảy ra một cuộc khủng hoảng về người tị nạn trong bối cảnh thiếu hụt nhiên liệu và thuốc men ở một số nơi khác tại Iraq.
Tổng thống Obama nói rằng tình hình có thể lan rộng khắp Trung Đông, nhưng ông vẫn tiếp tục giới hạn mức độ can thiệp của Hoa Kỳ.
“Các lực lượng Mỹ sẽ không trở lại chiến đấu ở Iraq nhưng chúng tôi sẽ giúp người dân Iraq chiến đấu chống lại những kẻ khủng bố hiện đe dọa người dân Iraq, khu vực cũng như các quyền lợi của Mỹ”.
Nhưng theo cựu phó tổng thống Dick Cheney, nước Mỹ đang rút khỏi vũ đài quốc tế với các hệ quả tai hại.
“Chúng ta đã để lại một khoảng trống lớn ở Trung Đông sau khi rút quân khỏi Iraq mà không để lại bất kỳ lực lượng nào ở nước này. Và theo cam kết của ông Obama một vài tuần trước, chúng ta cũng sẽ hoàn toàn rút quân khỏi Afghanistan và cũng không để lại quân ở nước này. Chính quyền Obama hiện vẫn duy trì tuyên bố ngày trước cho rằng “Chúng ta đã tóm được bin Laden, vấn đề khủng bố đã được giải quyết”. Điều này không đúng vào lúc đó, và bây giờ còn ít đúng hơn”.
Cuộc chiến Iraq vẫn là một trong những cuộc tham chiến nhận được ít ủng hộ nhất ở Mỹ và các cuộc thăm dò ý kiến cho thấy ít ủng hộ về một sự can thiệp vũ trang khác của Mỹ ở Iraq. Thượng nghị sĩ thuộc đảng Dân chủ Harry Reid lên tiếng dè bỉu ông Cheney.
“Nếu có một điều đất nước chúng ta không cần, thì đó là lời khuyên từ Dick Cheney về chiến tranh”.
Nhưng nhiều dân biểu Cộng hòa, và một số thuộc đảng Dân chủ, nói rằng Hoa Kỳ phải cân nhắc một phản ứng mạnh mẽ hơn nữa để đáp lại phong trào chủ chiến lấy cảm hứng từ chủ nghĩa khủng bố hiện đang lan tràn ở Trung Đông. Thượng nghị sĩ John McCain nói:
“Chúng sẽ gây ra một mối đe dọa trực tiếp đối với an ninh của Mỹ. Tôi muốn nói với những người chỉ trích từng tuyên bố không làm gì và để cho người Iraq tự chiến đấu, đó là quý vị không thể giới hạn cuộc chiến này ở Iraq và Syria”.
Chính phủ Iraq đã yêu cầu Hoa Kỳ hỗ trợ không kích nhắm vào các phần tử chủ chiến Sunni, và Tổng thống Obama chưa bác bỏ hay chấp thuận yâu cầu này.
Tổng thư ký LHQ Ban Ki-moon nói rằng các cuộc không kích cũng không có ích gì nếu không có điều ông gọi là một ‘chính phủ gồm nhiều thành phần ở Iraq”.
Mỹ chưa bình luận việc TQ đặt thêm giàn khoan ở Biển Đông
Tàu
Cảnh sát biển Trung Quốc gần giàn khoan Hải Dương 981 ở Biển Ðông,
khoảng 210 km (130 dặm) ngoài khơi bờ biển Việt Nam, ngày 14/5/2014.
Trung Quốc cung cấp cho giàn khoan đầu một đoàn hộ tống gồm 80 tàu dân
sự và tuần duyên đến địa điểm nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt
Nam.
23.06.2014
Hoa Kỳ cho biết họ sẽ tạm thời không bình luận về việc Trung Quốc đưa
thêm 4 giàn khoan dầu tới Biên Đông đang có tranh chấp. Theo tường thuật
của Thông tín viên Victor Beattie của đài VOA, Bắc Kinh đang tăng cường
hoạt động thăm dò dầu lửa và khí đốt, hai tháng sau khi đặt một giàn
khoan khổng lồ trong vùng biển mà Việt Nam cũng tuyên bố có chủ quyền.
Trung Quốc hôm thứ sáu loan báo sẽ đưa thêm 4 giàn khoan tới Biển Nam Trung Hoa mà Việt Nam gọi là Biển Đông. Phát ngôn viên Bộ ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh nói rằng những giàn khoan đó sẽ tiến hành những hoạt động mà bà gọi là “hoạt động bình thường” trong vùng biển ngoài khơi tỉnh Quảng Đông và tỉnh Hải Nam. Bà nói thêm rằng không có gì đáng nói về việc này.
Tháng trước, Trung Quốc đã gây ra một vụ tranh chấp với Việt Nam qua việc hạ đặt một giàn khoan ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa, nơi Việt Nam cho là thuộc khu vực đặc quyền kinh tế của mình. Các cuộc đàm phán cấp cao tại Hà Nội hồi tuần trước đã không giải quyết được vụ tranh chấp.
Hôm thứ 6, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Jen Psaki tuyên bố Washington biết tin Trung Quốc đưa thêm giàn khoan tới các địa điểm khác nhau ở Biển Đông.
"Tôi nghĩ rằng không có nhiều thông tin vào thời điểm này về vấn đề những giàn khoan được đưa tới đâu. Nếu một giàn khoan được đặt trong vùng biển có tranh chấp, thì đó là một việc gây quan tâm. Và chúng tôi chắc chắn là có quyền lợi quốc gia trong việc duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực. Vào lúc này chúng tôi không có đủ thông tin về điểm đến của các giàn khoan này. Do đó, chúng tôi tạm thời không phán đoán gì cho tới chúng tôi có thêm thông tin."
Việc Trung Quốc đặt giàn khoan thứ nhất gần quần đảo Hoàng Sa vào đầu tháng 5 đã bị Hoa Kỳ chỉ trích là khiêu khích và gây bất ổn.
Giáo sư Carl Thayer của Đại học New South Wales ở Australia vừa về nước sau khi tham dự một hộïi nghị về Biển Đông ở Việt Nam. Ông nói rằng Trung Quốc đặt nhiều giàn khoan chừng nào thì Việt Nam càng khó theo dõi chừng đó.
"Một, hai, ba, bốn giàn khoan sẽ làm cho các lực lượng bán quân sự và kiểm ngư của Việt Nam bị phân tán quá độ. Việt Nam không có nhiều tàu bè. Tôi nghĩ rằng họ có tổng cộng 40 chiếc tàu tuần duyên, và kích cỡ và trọng tải của những tàu đó chỉ bằng phân nửa của Trung Quốc. Do đó, sẽ có một cuộc tranh đua không cân sức nếu Việt Nam tìm cách thực hiện một chiến thuật phản kháng giống như hiện nay."
Giáo sư Thayer nói rằng Trung Quốc đã cho biết giàn khoan có tranh chấp ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa là đơn vị hoạt động thương mại và sẽ chỉ hoạt động từ ngày 2 tháng 5 đến ngàu 15 tháng 8, một phần là vì mùa bão sắp tới.
"Tuy nhiên, cũng qua việc giới hạn hoạt động của giàn khoan, họ có một cách để rút lui trong danh dự, không bị mất thể diện. Họ chỉ cần tuyên bố là các hoạt động thương mại giờ đây đã chấm dứt và giàn khoan sẽ được dời đi."
Ông Thayer nói rằng sau ngày 15 tháng 8 có thể sẽ có một phái đoàn cấp cao của Việt Nam đến Bắc Kinh để tìm cách cải thiện quan hệ. Ông nói thêm rằng các viên giám đốc cấp cao trong ngành dầu khí cho ông biết là địa điểm Trung Quốc đặt giàn khoan không phải là địa điểm lý tưởng để thăm dò dầu lửa và khí đốt.
Trung Quốc hôm thứ sáu loan báo sẽ đưa thêm 4 giàn khoan tới Biển Nam Trung Hoa mà Việt Nam gọi là Biển Đông. Phát ngôn viên Bộ ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh nói rằng những giàn khoan đó sẽ tiến hành những hoạt động mà bà gọi là “hoạt động bình thường” trong vùng biển ngoài khơi tỉnh Quảng Đông và tỉnh Hải Nam. Bà nói thêm rằng không có gì đáng nói về việc này.
Tháng trước, Trung Quốc đã gây ra một vụ tranh chấp với Việt Nam qua việc hạ đặt một giàn khoan ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa, nơi Việt Nam cho là thuộc khu vực đặc quyền kinh tế của mình. Các cuộc đàm phán cấp cao tại Hà Nội hồi tuần trước đã không giải quyết được vụ tranh chấp.
Hôm thứ 6, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Jen Psaki tuyên bố Washington biết tin Trung Quốc đưa thêm giàn khoan tới các địa điểm khác nhau ở Biển Đông.
"Tôi nghĩ rằng không có nhiều thông tin vào thời điểm này về vấn đề những giàn khoan được đưa tới đâu. Nếu một giàn khoan được đặt trong vùng biển có tranh chấp, thì đó là một việc gây quan tâm. Và chúng tôi chắc chắn là có quyền lợi quốc gia trong việc duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực. Vào lúc này chúng tôi không có đủ thông tin về điểm đến của các giàn khoan này. Do đó, chúng tôi tạm thời không phán đoán gì cho tới chúng tôi có thêm thông tin."
Việc Trung Quốc đặt giàn khoan thứ nhất gần quần đảo Hoàng Sa vào đầu tháng 5 đã bị Hoa Kỳ chỉ trích là khiêu khích và gây bất ổn.
Giáo sư Carl Thayer của Đại học New South Wales ở Australia vừa về nước sau khi tham dự một hộïi nghị về Biển Đông ở Việt Nam. Ông nói rằng Trung Quốc đặt nhiều giàn khoan chừng nào thì Việt Nam càng khó theo dõi chừng đó.
"Một, hai, ba, bốn giàn khoan sẽ làm cho các lực lượng bán quân sự và kiểm ngư của Việt Nam bị phân tán quá độ. Việt Nam không có nhiều tàu bè. Tôi nghĩ rằng họ có tổng cộng 40 chiếc tàu tuần duyên, và kích cỡ và trọng tải của những tàu đó chỉ bằng phân nửa của Trung Quốc. Do đó, sẽ có một cuộc tranh đua không cân sức nếu Việt Nam tìm cách thực hiện một chiến thuật phản kháng giống như hiện nay."
Giáo sư Thayer nói rằng Trung Quốc đã cho biết giàn khoan có tranh chấp ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa là đơn vị hoạt động thương mại và sẽ chỉ hoạt động từ ngày 2 tháng 5 đến ngàu 15 tháng 8, một phần là vì mùa bão sắp tới.
"Tuy nhiên, cũng qua việc giới hạn hoạt động của giàn khoan, họ có một cách để rút lui trong danh dự, không bị mất thể diện. Họ chỉ cần tuyên bố là các hoạt động thương mại giờ đây đã chấm dứt và giàn khoan sẽ được dời đi."
Ông Thayer nói rằng sau ngày 15 tháng 8 có thể sẽ có một phái đoàn cấp cao của Việt Nam đến Bắc Kinh để tìm cách cải thiện quan hệ. Ông nói thêm rằng các viên giám đốc cấp cao trong ngành dầu khí cho ông biết là địa điểm Trung Quốc đặt giàn khoan không phải là địa điểm lý tưởng để thăm dò dầu lửa và khí đốt.
Việt Nam và Philippines hợp tác gì để đối phó Trung Quốc
Những diễn tiến liên tiếp trên biển Đông trong thời gian gần đây đang khiến nhiều người đặt câu hỏi về khả năng hợp tác giữa Việt Nam và Philippines để đối phó với những hành động được coi là lấn lướt của Trung Quốc trước hai nước láng giềng nhỏ. Đâu là những lĩnh vực hợp tác có thể giữa hai nước? Những chuyên gia Việt Nam và Philippines nhận xét gì về khả năng hợp tác giữa hai nước? Việt Hà có bài tìm hiểu và tường trình
Dấu hiệu hợp tác
Philippines và Việt Nam, hai nước vốn đang có những tranh chấp về chủ quyền liên quan đến quần đảo Trường Sa, dường như đang gạt sang bên những bất đồng, tìm cách thắt chặt hơn nữa quan hệ hợp tác trước những đe dọa phát xuất từ các hành động lấn lướt gần đây của Trung Quốc trên biển Đông.Dấu hiệu hợp tác rõ ràng gần đây nhất là việc quân đội hai nước giao lưu uống bia, chơi bóng đá và bóng chuyền trên đảo Cay Tây Nam hay còn gọi là Song Tử Tây hiện do Việt Nam kiểm soát thuộc quần đảo Trường Sa, vào hôm 8 tháng 6 vừa qua. Hãng tin Aljazeera trích lời một giới chức cao cấp hải quân Philippines hôm 8 tháng 6 nói rằng bằng cuộc giao lưu này hai nước không chỉ phá bỏ bức tường của sự mất lòng tin và nghi ngờ mà còn xây dựng sự tin tưởng hướng đến việc giải quyết một cách hòa bình những tranh chấp về chủ quyền hiện có.
Song Tử Tây là đảo có diện tích khoảng 12 hectare và là đảo lớn thứ 6
trong số các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Đảo này đã từng có thời nằm
dưới quyền kiểm soát của Philippines nhưng sau đó đã bị Việt Nam Cộng
Hòa chiếm giữ. Hiện tại, cả Philippines, Việt Nam và Trung Quốc đều đòi
chủ quyền đối với hòn đảo này.
Liên minh quân sự rất là phức tạp và Việt Nam phải cân nhắc nhiều vấn đề… quan điểm của Việt Nam đã rất rõ ràng là Việt Nam không muốn liên minh với bên nào để chống lại bên khác.
- TS. luật Hoàng Việt
Trước đó trong chuyến thăm và làm việc tại Philippines vào ngày 21
tháng 5, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng của Việt nam nói với báo chí rằng hai
nước cùng nhất trí chống lại những hành động vi phạm gần đây của Trung
Quốc và kêu gọi các nước cùng cộng đồng quốc tế tiếp tục lên án mạnh mẽ
Trung Quốc và yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay những hành động vi phạm.
Lời nói mạnh mẽ này được đưa ra chỉ vài tuần sau khi Trung Quốc đặt
giàn khoan HD 981 vào gần quần đảo Hoàng Sa là khu vực đang tranh chấp
giữa Việt Nam và Trung Quốc. Việt Nam cáo buộc Trung Quốc đặt giàn khoan
vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Theo giáo sư Carl Thayer, thuộc học viện quốc phòng Úc thì đây cũng
là điều chưa từng xảy ra khi Việt Nam liên kết với một đồng minh của Mỹ,
trực tiếp lên tiếng kêu gọi sự giúp đỡ của quốc tế.
Khả năng về liên minh quân sự
Sau những sự kiện này, một số báo và blog đã có những bài phân tích
cho rằng hai nước, Việt Nam và Philippines đang xích lại gần nhau hơn và
có thể tiến tới một liên minh để đối phó với Trung Quốc. Tuy nhiên, một
số chuyên gia của cả Philippines và Việt Nam tỏ ra nghi ngờ về khả năng
này.
Giáo sư Renato Cruz de Castro, thuộc trường đại học De La Salle, Philippines nhận định:
Nó có ý nghĩa xây dựng lòng tin nhiều hơn. Nó giúp hai bên cảm
thấy thoải mái với nhau hơn nhưng tôi không nghĩ là sẽ có một liên minh
giữa Philippines và Việt Nam…. Philippines đã có Hoa Kỳ là liên minh
rồi… Việt Nam và Philippines có cách tiếp cận với Trung Quốc khác nhau.
Đây là vấn đề lịch sử và địa lý…
Philippines và Mỹ đã ký kết một hiệp ước phòng thủ chung từ năm 1951.
Mới đây nhân chuyến thăm Philippines vào cuối tháng 4 của Tổng thống
Hoa Kỳ Obama, hai nước đã ký một hiệp ước cho phép Hoa Kỳ gia tăng sự có
mặt của quân đội Mỹ tại Philippines. Theo nhận định của các chuyên gia
Philippines, thì thỏa thuận này giúp Philippines gia tăng khả năng quốc
phòng để đối phó với đe dọa từ Trung Quốc.
Trả lời phỏng vấn của đài Á châu Tự do qua email, giáo sư Aileen
Baveria thuộc trường đại học Diliman Philipines nhận định khả năng liên
minh của Philippines với các nước khác ngoài Mỹ là thấp tương đương
nhau:
Theo tôi cho đến lúc này vẫn chưa có cơ sở cho thảo luận về một
liên minh quân sự (giữa hai nước). Hợp tác và đối thoại giữa hai bộ quốc
phòng đã diễn ra trong khuôn khổ cuộc họp các Bộ trưởng Quốc phòng
ASEAN (ADMM) và ADMM cộng. Philippines cũng có những thỏa thuận hợp tác
quốc phòng ở mức thấp tương tự với các nước khác, bao gồm cả Trung Quốc.
...tôi không nghĩ là sẽ có một liên minh giữa Philippines và Việt Nam…. Philippines đã có Hoa Kỳ là liên minh rồi…
- GS. Renato Cruz de Castro
Trong khi đó, lập trường của Việt Nam từ trước đến nay là không liên
minh với bất cứ nước nào để chống lại một nước thứ ba. Điều này cũng cản
trở khả năng Việt Nam thiết lập một liên minh quân sự với Philippines
để đối phó với Trung Quốc. Thạc sĩ luật Hoàng Việt, một chuyên gia về
biển Đông của Việt Nam nhận định:
Liên minh quân sự rất là phức tạp và Việt Nam phải cân nhắc nhiều
vấn đề… quan điểm của Việt Nam đã rất rõ ràng là Việt Nam không muốn
liên minh với bên nào để chống lại bên khác.
Mặt khác, theo giáo sư Renato de Castro, liên minh quân sự giữa Việt
Nam và Philippines cũng khó có thể xảy ra do những lo ngại về đe dọa từ
Trung Quốc:
Tôi không nghĩ là Việt Nam và Philippines muốn cùng một lúc làm Trung Quốc tức giận.
Trước sự kiên quân đội hai nước giao lưu tại đảo Song Tử Tây, người
phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Hoa Xuân Oánh hôm mùng 9 tháng 6 đã
gọi buổi giao lưu giữa quân đội hai nước tại Trường Sa là một vở kịch
vụng về. Bà Hoa Xuân Oánh kêu gọi Việt Nam và Philippines phải dừng ngay
lập tức những hành động có thể gây tranh cãi và gây thêm rắc rối.
Về mặt kinh tế, Trung Quốc cũng là đối tác thương mại song phương lớn
nhất của Việt Nam. Theo số liệu thống kê được Bộ Công Thương Việt Nam
công bố gần đây, kim ngạch hai chiều 5 tháng qua đạt hơn 22 tỷ đô la.
Trung Quốc hiện cũng là thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn thứ hai của
Việt Nam sau Mỹ với tổng giá trị đạt hơn 6 tỷ đô la trong 5 tháng qua.
Điều này cũng khiến nhiều chuyên gia kinh tế Việt Nam lo ngại về sự lệ
thuộc của kinh tế Việt Nam vào Trung Quốc và những khó khăn mà Việt Nam
sẽ gặp phải nếu căng thẳng hai nước gia tăng ảnh hưởng xấu đến quan hệ
kinh tế hai nước.
Những hợp tác có thể
Trong khi khả năng về một liên minh quân sự giữa Việt Nam và Philippines vẫn chưa được định hình, một số hợp tác về quân sự giữa hai nước đã được bắt đầu và vẫn đang tiếp tục.Vào tháng 10 năm 2010, Philippines và Việt Nam đã ký một Bản ghi nhớ về hợp tác quốc phòng nhân chuyến thăm của Tổng thống Benigno Aquino tới Hà Nội.
Một năm sau đó, hai nước ký thỏa thuận tăng cường an ninh biển giữa
lực lượng tuần duyên Philippines và cảnh sát biển Việt Nam. Hợp tác về
hải quân giữa hai nước được đẩy thêm một bước vào tháng 3 năm 2012 trong
thảo luận tại Hà Nội giữa Phó đô đốc Alexander Pama của Philippines và
Đô đốc Nguyễn Văn Hiến của Việt Nam. Hai bên đã ký ghi nhớ về tăng cường
hợp tác và trao đổi thông tin giữa hải quân hai nước. Hai bên cũng đã
ký thỏa thuận cho phép hai bên thực hiện những tuần tra chung trên biển
tại vùng nước chồng lấn.
Tuy nhiên, ngay sau đó, Trung Quốc đã lên tiếng cảnh cáo bất cứ những
hoạt động tập trận chung giữa hải quân hai nước. Ngay sau đó ý tưởng về
những tuần tra chung giữa hai nước đã bị bỏ lại mà thay vào đó là những
buổi giao lưu chơi bóng đá và bóng chuyền giữa quân đội hai nước.
Trong chuyến thăm gần đây nhất của Phó đô đốc Jose Luis Alano đến Hà
Nội vào tháng 3 năm ngay, hai bên đã bày tỏ mong muốn thực hiện các đào
tạo chung, chia sẻ thông tin qua đường dây nóng và thực hiện các diễn
tập cứu nạn và tìm kiếm.
Theo nhận định của Giáo sư Carl Thayer, hợp tác quốc phòng giữa hai
nước kể từ năm 2010 đến nay đã có những bước tiến nhưng vẫn ở mức sơ
khai ban đầu. Hai nước vẫn chưa thực hiện một cuộc tập trận chung nào
trong khi hoạt động này được coi là một bước để cải thiện khả năng hoạt
động phối hợp giữa hai bên.
Tuy nhiên, giáo sư Baveria cho rằng thay vì có những diễn tập quân sự
chung, hai nước có thể phối hợp trong lập trường về ngoại giao bao gồm
cách thức duy trì hòa bình và an ninh trong khu vực thông qua luật quốc
tế.
Sau những căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc liên quan đến vụ
giàn khoan dầu HD 981, Thủ tướng Việt Nam mới đây cũng đã nói về khả
năng Việt Nam sẽ đưa Trung Quốc ra tòa quốc tế. Trước đó, vào đầu năm
2013, Philippines đã đưa đơn kiện Trung Quốc lên tòa Trọng tài Quốc tế
theo công ước về luật biển của Liên Hiệp Quốc.
'Dân không tin vào luận điệu của TQ'
Cập nhật: 10:06 GMT - chủ nhật, 22 tháng 6, 2014
Media Player
Thiếu tướng Nguyễn Trọng
Vĩnh, người từng làm đại sứ Việt Nam ở Trung Quốc, đã nói
với BBC về cách phản ứng của Đảng trong vấn đề tranh chấp chủ
quyền với Trung Quốc trên Biển Đông.
Ông nói ông đã nghe những lời tuyên bố của
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trong cuộc gặp Ủy viên Quốc vụ
viện Trung Quốc Dương Khiết Trì cũng như những phát biểu bảo
vệ chủ quyền của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang với Thông tấn
xã Việt Nam nhưng ông còn 'phải chờ hành động'.Tướng Vĩnh là người đã gửi một bức thư đến Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng hôm 17/6 kêu gọi ông Trọng 'cùng toàn dân đấu tranh quyết liệt để bảo vệ chủ quyền và độc lập, tự chủ, thoát ra khỏi vòng tay nham hiểm của bành trướng Đại Hán'.
Khi được hỏi về 'đại cục' mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc thường hay nhắc nhở Việt Nam, ông Vĩnh nói người dân Việt Nam không tin vào những 'lập luận bịp bợm' của Trung Quốc.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/multimedia/2014/06/140622_nguyentrongvinh_party_oilrig.shtml
Việt Nam ký kết xác nhận tư cách Tòa Trọng tài Thường trực
Tàu tuần duyên Việt Nam theo dõi tàu Trung Quốc 130 hải lý ngoài khơi Việt Nam 16/06/2014 - REUTERS /Nguyen Minh
Hôm nay 23/06/2014 Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Hồ Xuân Sơn
và Tổng thư ký Tòa Trọng tài Thường trực (Permanent Court of
Arbitration, PCA) Hugo Hans Siblesz đã ký kết Hiệp định nước chủ nhà và
Thư trao đổi về hợp tác giữa Hà Nội và định chế quốc tế này. Đây có thể
là một động thái hướng về việc giải quyết các tranh chấp lãnh thổ giữa
các quốc gia thông qua thủ tục trọng tài.
Qua việc ký kết các văn bản trên, Việt Nam đã chính thức xác
nhận tư cách pháp lý của Tòa Trọng tài Thường trực tại Việt Nam, cho
phép PCA tiến hành giải quyết các tranh chấp quốc tế một cách hòa bình
thông qua hoạt động trọng tài, trung gian hòa giải và điều tra. Bên cạnh
đó, PCA còn có những hỗ trợ khác liên quan đến việc hòa giải các tranh
chấp quốc tế của định chế này tại Việt Nam, cũng như hợp tác với Hà Nội.
Theo cổng thông tin điện tử của Chính phủ Việt Nam, Hà Nội sẽ tạo
điều kiện cho PCA hoạt động. Về phía PCA sẽ cung cấp các thông tin, tư
vấn về các thủ tục thuộc quy trình trọng tài quốc tế, giúp đào tạo cán
bộ pháp lý.
Tòa Trọng tài Thường trực là tổ chức quốc tế gồm 115 quốc gia thành
viên, có trụ sở tại La Haye, Hà Lan, được thành lập theo Công ước La
Haye năm 1899 nhằm giải quyết các tranh chấp giữa các nhà nước, tổ chức
liên chính phủ và thể nhân, kể cả tranh chấp lãnh thổ trên đất liền và
trên biển.
Hai ngôn ngữ chính thức là Anh và Pháp, nhưng các bên nhờ đến PCA
cũng có thể thỏa thuận sử dụng một thứ tiếng khác. Việc nhờ đến PCA là
một chọn lựa dựa trên các nguyên tắc chủ quyền của các Nhà nước và các
bên tranh chấo đồng ý nhờ đến trọng tài, nhưng một khi đã được ra PCA
thì phán quyết mang tính bắt buộc.
Philippines đã kiện Trung Quốc ra Tòa Trọng tài Thường trực về đường
lưỡi bò 9 đoạn do Bắc Kinh tự ấn định, vi phạm Công ước Quốc tế về Luật
Biển, nhưng Trung Quốc từ chối tham gia.
Một vụ kiện trước đây do Tòa Trọng tài Thường trực thụ lý là vụ tranh
chấp đảo Palmas giữa Hà Lan và Hoa Kỳ năm 1928. Đảo này ở giữa Mindanao
của Philippines và quần đảo Nanusa. Tây Ban Nha đã chiếm đảo năm 1606
nhưng rời bỏ vào cuối thế kỷ 17, sau đó Hà Lan thiết lập chủ quyền. Theo
Hiệp ước Paris 1898 sau chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha, Hoa Kỳ được quyền
cai trị Philippines trong đó có đảo Palmas.
Tòa Trọng tài Thường trực đã quyết định đảo Palmas thuộc về Đông Ấn
Hà Lan, nay là Indonesia. Quyết định này cho thấy trọng tài nghiêng về
phía quốc gia chiếm hữu thực tế hòn đảo và tuyên bố chủ quyền một cách
công khai, liên tục mà không có sự phản đối từ quốc gia phát hiện đầu
tiên cũng như các chủ thể khác.
PHẠM CHÍ DŨNG * KINH TẾ VIỆT NAM
Go away - Bỏ của chạy lấy người!
CỠ CHỮ
20.06.2014
Số 0 tròn trịa
“Sell in May and go away” - bán tháng Năm rồi đi chơi - như một lời chú
của giới đầu cơ phương Tây. Nhưng từ năm 2012 đến nay, câu thành ngữ này
lại đặc biệt đồng cảm với trường hợp Việt Nam.
Nửa đầu của năm 2014 đã vùn vụt lao qua, nhưng trong khi các chỉ số chứng khoán Mỹ vẫn đều đặn tăng tiến, thị trường tài chính Việt lại không bán được gì hết. Tất cả mọi thứ muốn bán và phải bán vẫn hầu như một con số 0 tròn trịa: không tín dụng, không bất động sản, không nợ xấu.
Rất phản cảm với “quyết tâm” của ban lãnh đạo Ngân hàng nhà nước và tình cảm hối thúc “quyết liệt” của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, gia tốc cho vay tín dụng vẫn không khác hình ảnh một con bò kéo xe lên dốc. Cho tới cuối tháng 5/2014, tín dụng chỉ tăng 1,31% so với đầu năm, bằng phân nửa tốc độ tăng của cùng kỳ năm ngoái và thấp hơn rất nhiều “mục tiêu điều hành cả năm là 12%-14%”. Cỗ xe bò kéo cũng vì thế đang bị biến thành một cái bẫy khổng lồ cho những kẻ ngu ngốc.
Cũng hết sức trái ngược với những tuyên bố của Thống đốc Nguyễn Văn Bình vài tháng trước về triển vọng tốc độ giải ngân tín dụng vẫn duy trì ở mức 7-8%, nền kinh tế lại phải chứng kiến một sự thay đổi chóng mặt giữa các con số bất nhất về cho vay, hoàn toàn không khác biệt với thực trạng biến ảo khôn lường của ít nhất 7 lần biến đổi về tỷ lệ nợ xấu quốc gia mà cơ quan Ngân hàng nhà nước làm công tác hỏa mù từ năm 2011 đến nay.
Chết trên đống tài sản
Tuy nhiên, 1,31% mức tín dụng cho vay mới chỉ là con số báo cáo của Ngân hàng nhà nước, chìm trong vô vàn số liệu phát ra của cơ quan này mà gần như không có cơ sở để kiểm chứng. Ở một thái cực khác, một số chuyên gia tài chính không nén nổi vẻ giễu cợt thê thảm khi cho rằng ứng với hiện tình nền kinh tế rất có thể đang nằm trong tình trạng giảm phát, mức tín dụng cho vay thực tế rất có khả năng còn ít hơn nhiều những gì mà Ngân hàng nhà nước báo cáo.
Cùng tắc biến, thị trường tín dụng Việt Nam đang vấp phải “vách đá tài chính” - nói một cách hoa mỹ theo văn phong giới chính trị Mỹ. Tín dụng quá tồi tệ, nhưng vốn huy động toàn hệ thống ngân hàng vẫn tiếp tục tăng 4,2%. Không biết đầu tư vào đâu và cũng chẳng còn mấy niềm tin để đầu tư, người người và nhà nhà chỉ còn biết bỏ tiền vào ngân hàng. Đó là một nghịch lý kinh khủng đang khiến cho rất nhiều ngân hàng có thể “chết trên đống tài sản” - nói theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam.
Vào đầu tháng 6/2014, Ngân hàng Vietcombank lại một lần nữa mở lối tiên phong giảm lãi suất huy động và khuấy động phong trào cực chẳng đã phải giảm lãi suất tiền gửi lan rộng ra các ngân hàng khác. Hầu như không thể cho vay, nhiều ngân hàng phải ôm tiền mua trái phiếu chính phủ kiếm bạc cắc, đợi đến một ngày nào đó sẽ thực hiện chính sách “lãi suất âm” như một số ngân hàng châu Âu đang làm.
Trong khi đó, các cơ quan quản lý vẫn ra sức PR cho một nền tín dụng giăng bẫy. Nếu so với thời điểm 2006 thì quả đúng như Ngân hàng nhà nước, Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư “phấn khởi”, lãi suất tiền gửi được kéo xuống rất mạnh đã khiến cho lãi suất cho vay trở về mức mà những năm 2010-2011 có mơ cũng không thấy.
Thế nhưng cơn ác mộng về một thứ lãi suất cho vay cắt cổ lên đến 20-25% cách đây ba năm vẫn làm giới doanh nghiệp sản xuất chết khiếp. Không thể liều mình vay mượn để một lần nữa bị biến thành con tin của ngân hàng, họ còn mục thị rõ như ban ngày là tình trạng có ít nhất vài trăm ngàn tỷ đồng đang nằm chết gí trong két sắt nhà băng mà không thể cho vay được. Nếu vào giữa năm 2012 khi bắt đầu ứ tiền, giới ngân hàng còn bày đủ loại thủ tục làm khó dễ doanh nghiệp muốn vay, thì từ giữa năm 2013, ngay cả giám đốc chi nhánh ngân hàng cũng có nguy cơ bị sa thải nếu không hoàn thành chỉ tiêu “săn tìm khách hàng”.
Kể từ câu chuyện “nhà thơ đi làm kinh tế” và cuộc đổ bể giá - lương - tiền giai đoạn 1985-1986, chưa bao giờ khối doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh Việt Nam lại ở vào vị thế đế vương như hiện thời, bất chấp hơn một nửa trong số đó đã bị phá sản và tự giải thể, cũng như hai phần ba số này chỉ còn rất ít khả năng đóng thuế để cống nạp cho bộ máy gần 3 triệu công chức nhà nước làm công tác “quản lý”.
‘Mong một sáng thức dậy không nợ nần’
“Tham thì thâm” - tục ngữ Việt chưa bao giờ ứng nghiệm đến thế với giới đầu cơ ngân hàng. Nếu ngay từ đầu năm 2011 khi tình hình kinh tế đã bắt đầu bi đát và thị trường tiêu dùng bắt đầu lộ ra tính khí trơ lì của nó, các ngân hàng tự biết tiết giảm mức lợi nhuận khổng lồ của mình, còn giới đầu cơ bất động sản không quá ảo tưởng vào mặt bằng giá nhà đất đô thị còn cao hơn cả Tokyo, hẳn họ đã có không ít cơ hội để tiêu tán hàng tồn kho chứ không bị chìm ngập vào tâm thế “mong một sáng thức dậy không nợ nần” như giờ đây.
Rốt cuộc đã không có một buổi sáng thanh sạch nào hết. Một sự thật quá đỗi tối tăm cần khẳng định như đinh đóng cột là từ năm 2011 đến nay, nợ xấu trong hệ thống ngân hàng đã không hề được giải quyết, dù chỉ một phần nhỏ. Không những thế, tỷ lệ thuận với các thông tư “đảo nợ” và “ân hạn nợ” của Ngân hàng nhà nước từ tháng 4/2012 đến nay, tình thế càng trở nên nguy cấp vì nợ + lãi phát sinh liên tục. Một vài trường hợp có vẻ thoát hiểm như doanh nghiệp thuộc loại cá mập là Hoàng Anh Gia Lai chỉ là rất hiếm hoi.
Ít nhất 500.000 tỷ đồng là con số nợ xấu mà các ngân hàng phải “gánh” - chỉ tính theo số liệu khiêm tốn mà hãng xếp hạng tín nhiệm quốc tế Moody’s công bố vào tháng 3/2014. Như vậy trong tổng số khoảng 3.400.000 tỷ đồng nợ ngân hàng, ít nhất 13% thuộc về nợ nhóm 5 - khu vực không thể thu hồi vốn và hiển nhiên mang trên mình thiên chức không cánh mà bay.
Cũng cho đến giữa năm 2014, triển vọng “cất cánh” của thị trường bất động sản - như vô số hứa hẹn của giới quan chức ngành xây dựng và ngân hàng - đã một lần nữa gãy sụp. Sau 4 tháng đầu năm thanh khoản thị trường này có vẻ “nhúc nhích” ở phân khúc nhà đất bình dân, tháng 5/2014 đã phải chứng kiến lượng giao dịch chỉ bằng 5% so với tháng trước đó - theo khảo sát mới nhất từ một hãng tư vấn.
Bất động sản lại là nguồn cơn sinh ra gần hết mọi chuyện. Không thể giải quyết hàng trăm ngàn căn hộ cao cấp đang phơi mình trong mưa nắng thì đương nhiên chẳng thể nói đến sứ mệnh xử lý nợ xấu mà công ty mua bán nợ (VAMC) đang không biết bán cho ai số nợ đã mua từ các ngân hàng thương mại.
Go away - Bỏ của chạy lấy người!
Việc gì phải đến đã đến. Vào gần giữa năm nay, một hiện tượng lạ đã xuất hiện: lần đầu tiên chính thống đốc Ngân hàng nhà nước Nguyễn Văn Bình “tiết lộ” về khả năng số lượng ngân hàng trong tương lai không xa sẽ được “tái cấu trúc” về 14 - 17 đơn vị.
Nhưng từ trước đó, vào đầu năm 2014, Quốc hội đã lần đầu tiên bàn về việc bổ sung một quy định cho Luật Phá sản Việt Nam. Trong bầu không khí nghiêm mặc chốn nghị trường, các đại biểu dân bầu gật gù về một điều khoản phá sản của ngân hàng.
Toát lên từ ngay cả một chốn kinh viện như Quốc hội, tương lai phá sản toàn diện có lẽ không còn là giáo điều. Nếu thực tế có đến hơn 90% doanh nghiệp đang “không biết vay để làm gì”, còn phần lớn túi tiền người dân còn phải lo đối phó với những nhu cầu thiết yếu và nguy cơ bão giá, làm sao niềm tin dân chúng còn được duy trì ở mức “ổn định” đối với một thị trường tài chính cùng một nhà nước quá thiếu minh bạch?
Lối hành xử vừa nhu nhược vừa bất nhất của chính thể trước tai họa Trung Nam Hải trong thời gian qua cũng càng tô điểm cho bức tranh mất niềm tin của tầng lớp công dân bị tước đoạt lòng yêu nước.
Phải chăng đó là những tín hiệu vừa cũ vừa mới, cho thấy trong một tương lai gần, sẽ có “một bộ phận” nào đó ngân hàng phải đội nón ra đi, khiến cho đường biểu diễn “hồi phục” của nền kinh tế sẽ rơi thẳng đứng?
Đến lúc đó hoặc ngay vào lúc này, liệu thành ngữ phương Tây “Go away…” có nên được biên dịch sang tục ngữ Việt Nam “Bỏ của chạy lấy người”?
Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Nửa đầu của năm 2014 đã vùn vụt lao qua, nhưng trong khi các chỉ số chứng khoán Mỹ vẫn đều đặn tăng tiến, thị trường tài chính Việt lại không bán được gì hết. Tất cả mọi thứ muốn bán và phải bán vẫn hầu như một con số 0 tròn trịa: không tín dụng, không bất động sản, không nợ xấu.
Rất phản cảm với “quyết tâm” của ban lãnh đạo Ngân hàng nhà nước và tình cảm hối thúc “quyết liệt” của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, gia tốc cho vay tín dụng vẫn không khác hình ảnh một con bò kéo xe lên dốc. Cho tới cuối tháng 5/2014, tín dụng chỉ tăng 1,31% so với đầu năm, bằng phân nửa tốc độ tăng của cùng kỳ năm ngoái và thấp hơn rất nhiều “mục tiêu điều hành cả năm là 12%-14%”. Cỗ xe bò kéo cũng vì thế đang bị biến thành một cái bẫy khổng lồ cho những kẻ ngu ngốc.
Cũng hết sức trái ngược với những tuyên bố của Thống đốc Nguyễn Văn Bình vài tháng trước về triển vọng tốc độ giải ngân tín dụng vẫn duy trì ở mức 7-8%, nền kinh tế lại phải chứng kiến một sự thay đổi chóng mặt giữa các con số bất nhất về cho vay, hoàn toàn không khác biệt với thực trạng biến ảo khôn lường của ít nhất 7 lần biến đổi về tỷ lệ nợ xấu quốc gia mà cơ quan Ngân hàng nhà nước làm công tác hỏa mù từ năm 2011 đến nay.
Chết trên đống tài sản
Tuy nhiên, 1,31% mức tín dụng cho vay mới chỉ là con số báo cáo của Ngân hàng nhà nước, chìm trong vô vàn số liệu phát ra của cơ quan này mà gần như không có cơ sở để kiểm chứng. Ở một thái cực khác, một số chuyên gia tài chính không nén nổi vẻ giễu cợt thê thảm khi cho rằng ứng với hiện tình nền kinh tế rất có thể đang nằm trong tình trạng giảm phát, mức tín dụng cho vay thực tế rất có khả năng còn ít hơn nhiều những gì mà Ngân hàng nhà nước báo cáo.
Cùng tắc biến, thị trường tín dụng Việt Nam đang vấp phải “vách đá tài chính” - nói một cách hoa mỹ theo văn phong giới chính trị Mỹ. Tín dụng quá tồi tệ, nhưng vốn huy động toàn hệ thống ngân hàng vẫn tiếp tục tăng 4,2%. Không biết đầu tư vào đâu và cũng chẳng còn mấy niềm tin để đầu tư, người người và nhà nhà chỉ còn biết bỏ tiền vào ngân hàng. Đó là một nghịch lý kinh khủng đang khiến cho rất nhiều ngân hàng có thể “chết trên đống tài sản” - nói theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam.
Vào đầu tháng 6/2014, Ngân hàng Vietcombank lại một lần nữa mở lối tiên phong giảm lãi suất huy động và khuấy động phong trào cực chẳng đã phải giảm lãi suất tiền gửi lan rộng ra các ngân hàng khác. Hầu như không thể cho vay, nhiều ngân hàng phải ôm tiền mua trái phiếu chính phủ kiếm bạc cắc, đợi đến một ngày nào đó sẽ thực hiện chính sách “lãi suất âm” như một số ngân hàng châu Âu đang làm.
Trong khi đó, các cơ quan quản lý vẫn ra sức PR cho một nền tín dụng giăng bẫy. Nếu so với thời điểm 2006 thì quả đúng như Ngân hàng nhà nước, Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư “phấn khởi”, lãi suất tiền gửi được kéo xuống rất mạnh đã khiến cho lãi suất cho vay trở về mức mà những năm 2010-2011 có mơ cũng không thấy.
Thế nhưng cơn ác mộng về một thứ lãi suất cho vay cắt cổ lên đến 20-25% cách đây ba năm vẫn làm giới doanh nghiệp sản xuất chết khiếp. Không thể liều mình vay mượn để một lần nữa bị biến thành con tin của ngân hàng, họ còn mục thị rõ như ban ngày là tình trạng có ít nhất vài trăm ngàn tỷ đồng đang nằm chết gí trong két sắt nhà băng mà không thể cho vay được. Nếu vào giữa năm 2012 khi bắt đầu ứ tiền, giới ngân hàng còn bày đủ loại thủ tục làm khó dễ doanh nghiệp muốn vay, thì từ giữa năm 2013, ngay cả giám đốc chi nhánh ngân hàng cũng có nguy cơ bị sa thải nếu không hoàn thành chỉ tiêu “săn tìm khách hàng”.
Kể từ câu chuyện “nhà thơ đi làm kinh tế” và cuộc đổ bể giá - lương - tiền giai đoạn 1985-1986, chưa bao giờ khối doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh Việt Nam lại ở vào vị thế đế vương như hiện thời, bất chấp hơn một nửa trong số đó đã bị phá sản và tự giải thể, cũng như hai phần ba số này chỉ còn rất ít khả năng đóng thuế để cống nạp cho bộ máy gần 3 triệu công chức nhà nước làm công tác “quản lý”.
‘Mong một sáng thức dậy không nợ nần’
“Tham thì thâm” - tục ngữ Việt chưa bao giờ ứng nghiệm đến thế với giới đầu cơ ngân hàng. Nếu ngay từ đầu năm 2011 khi tình hình kinh tế đã bắt đầu bi đát và thị trường tiêu dùng bắt đầu lộ ra tính khí trơ lì của nó, các ngân hàng tự biết tiết giảm mức lợi nhuận khổng lồ của mình, còn giới đầu cơ bất động sản không quá ảo tưởng vào mặt bằng giá nhà đất đô thị còn cao hơn cả Tokyo, hẳn họ đã có không ít cơ hội để tiêu tán hàng tồn kho chứ không bị chìm ngập vào tâm thế “mong một sáng thức dậy không nợ nần” như giờ đây.
Rốt cuộc đã không có một buổi sáng thanh sạch nào hết. Một sự thật quá đỗi tối tăm cần khẳng định như đinh đóng cột là từ năm 2011 đến nay, nợ xấu trong hệ thống ngân hàng đã không hề được giải quyết, dù chỉ một phần nhỏ. Không những thế, tỷ lệ thuận với các thông tư “đảo nợ” và “ân hạn nợ” của Ngân hàng nhà nước từ tháng 4/2012 đến nay, tình thế càng trở nên nguy cấp vì nợ + lãi phát sinh liên tục. Một vài trường hợp có vẻ thoát hiểm như doanh nghiệp thuộc loại cá mập là Hoàng Anh Gia Lai chỉ là rất hiếm hoi.
Ít nhất 500.000 tỷ đồng là con số nợ xấu mà các ngân hàng phải “gánh” - chỉ tính theo số liệu khiêm tốn mà hãng xếp hạng tín nhiệm quốc tế Moody’s công bố vào tháng 3/2014. Như vậy trong tổng số khoảng 3.400.000 tỷ đồng nợ ngân hàng, ít nhất 13% thuộc về nợ nhóm 5 - khu vực không thể thu hồi vốn và hiển nhiên mang trên mình thiên chức không cánh mà bay.
Cũng cho đến giữa năm 2014, triển vọng “cất cánh” của thị trường bất động sản - như vô số hứa hẹn của giới quan chức ngành xây dựng và ngân hàng - đã một lần nữa gãy sụp. Sau 4 tháng đầu năm thanh khoản thị trường này có vẻ “nhúc nhích” ở phân khúc nhà đất bình dân, tháng 5/2014 đã phải chứng kiến lượng giao dịch chỉ bằng 5% so với tháng trước đó - theo khảo sát mới nhất từ một hãng tư vấn.
Bất động sản lại là nguồn cơn sinh ra gần hết mọi chuyện. Không thể giải quyết hàng trăm ngàn căn hộ cao cấp đang phơi mình trong mưa nắng thì đương nhiên chẳng thể nói đến sứ mệnh xử lý nợ xấu mà công ty mua bán nợ (VAMC) đang không biết bán cho ai số nợ đã mua từ các ngân hàng thương mại.
Go away - Bỏ của chạy lấy người!
Việc gì phải đến đã đến. Vào gần giữa năm nay, một hiện tượng lạ đã xuất hiện: lần đầu tiên chính thống đốc Ngân hàng nhà nước Nguyễn Văn Bình “tiết lộ” về khả năng số lượng ngân hàng trong tương lai không xa sẽ được “tái cấu trúc” về 14 - 17 đơn vị.
Nhưng từ trước đó, vào đầu năm 2014, Quốc hội đã lần đầu tiên bàn về việc bổ sung một quy định cho Luật Phá sản Việt Nam. Trong bầu không khí nghiêm mặc chốn nghị trường, các đại biểu dân bầu gật gù về một điều khoản phá sản của ngân hàng.
Toát lên từ ngay cả một chốn kinh viện như Quốc hội, tương lai phá sản toàn diện có lẽ không còn là giáo điều. Nếu thực tế có đến hơn 90% doanh nghiệp đang “không biết vay để làm gì”, còn phần lớn túi tiền người dân còn phải lo đối phó với những nhu cầu thiết yếu và nguy cơ bão giá, làm sao niềm tin dân chúng còn được duy trì ở mức “ổn định” đối với một thị trường tài chính cùng một nhà nước quá thiếu minh bạch?
Lối hành xử vừa nhu nhược vừa bất nhất của chính thể trước tai họa Trung Nam Hải trong thời gian qua cũng càng tô điểm cho bức tranh mất niềm tin của tầng lớp công dân bị tước đoạt lòng yêu nước.
Phải chăng đó là những tín hiệu vừa cũ vừa mới, cho thấy trong một tương lai gần, sẽ có “một bộ phận” nào đó ngân hàng phải đội nón ra đi, khiến cho đường biểu diễn “hồi phục” của nền kinh tế sẽ rơi thẳng đứng?
Đến lúc đó hoặc ngay vào lúc này, liệu thành ngữ phương Tây “Go away…” có nên được biên dịch sang tục ngữ Việt Nam “Bỏ của chạy lấy người”?
Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
TS NGUYỄN PHUC LIÊN * TS.CÙ HUY HÀ VŨ
TS.CÙ
HUY HÀ VŨ TỰ TUYÊN BỐ:
“CHÍNH
PHỦ LƯU VONG LÀ VÔ ÍCH“
Giáo sư Tiến sĩ
NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva,
18.06.2014
Web: http://VietTUDAN.net
Các cuộc đấu tranh ở Hải ngoại không thể mang “Cách Mạng
về giải phóng Quê Hương“. Chỉ Lực Lượng toàn dân tại Quốc nội mới có khả năng
giải phóng mình khỏi cảnh sống nô lệ do Cơ chế CSVN áp đặt đầu dân chúng. Chính
vì vậy mà đã trải qua những chục năm trường, chúng tôi vẫn nói rằng những Chính
phủ lưu vong thành lập tại Hải ngoại không phải chỉ là vô ích mà còn mang đến
những hệ quả sau đây:
* Làm cho chính Cộng Đồng Việt Nam tỵ
nạn tại Hải ngoại dễ trở thành chia rẽ vì sự đố kỵ giữa những Nhóm, vì sự tranh
dành ảnh hưởng cá nhân lãnh đạo, nhất là vì tính cách “lưu bị“, nghĩa là làm
tiền giữa Cộng Đồng. Chính vì vậy mà chúng tôi thường gọi rằng đó là những
Chính phủ “lưu vong lưu bị“.
* Những Chính phủ lưu vong lưu bị này ,
qua những phương tiện truyền thông, tuyên truyền về Quốc nội như cuộc Cách Mạng
Giải phóng Quê Hương đã gần kề tạo một nguồn hy vọng khiến Lực Lượng chính yếu
tại Quê Hương giảm đi tinh thần chiến đấu tự giải phóng chính mình. Trước sự
đàn áp của CSVN và nuôi hy vọng từ Hải ngoại, người ta dễ dàng “nằm chờ sung rụng“ !
Khi Ts Cù Huy Hà Vũ đặt chân lên đất Mỹ, chúng tôi đã
viết liền một bài với tựa đề CÁI CHẾT CỦA TS.CÙ HUY HÀ VŨ KÉO THEO NHỮNG CÁI
CHẾT KHÁC. Đây là bài viết, cũng như bài viết về Giáo sư Nguyễn Chính Kết khi
đặt chân lên đất Mỹ, theo nguyên tắc, cho thấy rằng một người đấu tranh cho Dân
Tộc thì phải sống nằm gai nếm mật với quần chúng tại Quê Hương mới mong sau này
trở thành Lãnh đạo cuộc đấu tranh của quần chúng. Đào thải ra nước ngoài, uống
sữa ăn bơ trong yên lành để béo trắng mập, thì coi như đã chết trong việc lãnh
đạo quần chúng quốc nội phải cực nhọc đấu tranh.
Viết xong bài về CÁI CHẾT CỦA TS.CÙ HUY HÀ VŨ, chúng tôi
yên lặng chờ xem sẽ có những gì xẩy ra chung quanh cái chết này. Và những sự xẩy ra đang được quảng cáo:
=> Nào là Ts Cù Huy Hà Vũ được coi như nhân
vật hội tụ đủ trong một con người những yếu tố gà nòi của giòng giống tôn thờ
tên tội đồ Hồ Chính Minh, nào là đã phản tỉnh để đấu tranh cho Dân chủ (hay chỉ
đấu tranh chống Nguyễn Tấn Dũng vì không dành ghế Bộ trưởng cho mình), nào là
được một số Dân biểu, Nghị sĩ Mỹ đưa sang đây, nghĩa là được lòng của Mỹ quốc
viện trợ, nào là đã học tại Pháp và như vậy cũng được Thực dân pháp đào
tạo.
=> Một con người hội tụ đủ những yếu tố như
vậy đã được một số chính khứa cơ hội, như Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích hay Luật sư
Hoàng Duy Hùng... coi như là người lý tưởng để thực hiện Hòa Giải Hòa Hợp.
=> CSVN, trong thế bí phá sản Kinh tế hiện
nay, nhất là lúc này bị dân chúng Quốc nội nhìn rõ sự gian xảo lừa lọc bán nước
bán biển, cũng đẩy mạnh gian kế Hòa Giải Hòa Hợp để chúng có cơ hội tiếp tục Cơ
chế CSVN hiện hành mà tẩu táng tài sản, hạ cánh an toàn để hưởng thụ. Vì vậy
nhân vật Cù Huy Hà Vũ cũng thuận lợi để CSVN lợi dụng.
Trong lúc chúng tôi giữ sự yên lặng
chờ xem và trong lúc người ta ca tụng nhân vật Cù Huy Hà Vũ như hội đủ những
yếu tố thuận lợi cho gian kế Hòa Giải Hòa Hợp của CSVN, thì khi vào Diễn Đàn
Internet, chúng tôi thấy tin nhân vật ấy được Đài VOA phỏng vấn. Chúng tôi định
bỏ qua tin này để vẫn giữ sự yên lặng, nhưng
rồi đọc lời nhận định của Oâng Paul VĂN không thuận lợi cho nhân vật lý
tưởng Hòa Giải Hòa Hợp này, nên chúng tôi vì hiếu kỳ cũng vào Linhk VOA nghe
xem sao.
Chúng tôi xin đề cập đến những khía
cạnh sau đây:
@ Nhắc lại cái chết của Ts Cù Huy Hà Vũ
@ Nhận định vắn gọn của Oâng Paul VĂN về
Phỏng vấn của Đài VOA
@ Nhận định của chúng tôi khi nghe Phỏng
vấn của Đài VOA
Nhắc lại cái chết
của Ts Cù Huy Hà Vũ
Chúng tôi đã viết về Ts Cù Huy Hà Vũ
khi Tiến sĩ còn ở Việt Nam và vì đã phản đối Nguyễn Tấn Dũng. Chúng tôi tỏ lòng
ngưỡng mộ sự can đảm của Tiến sĩ và vui mừng thấy Lực Lượng đấu tranh tại Quốc
nội có thêm một Trí thức có lòng can đảm, chứ không chồn lùi. Nhưng khi Tiến sĩ
đặt chân lên đất Mỹ, thì chúng tôi viết nguyên văn như sau:
Cách đây một số năm, khi đọc bản tin về Giáo sư NGUYỄN
CHÍNH KẾT đến Hoa-kỳ, tôi đã viết liền một bài ngắn với tựa đề là GS.NGUYỄN
CHÍNH KẾT ĐÃ CHẾT. Đây là cái CHẾT của sự ngưỡng mộ của tôi đối với một chiến
sĩ đấu tranh. Khi chiến sĩ nằm tại Quê Hương đấu tranh, tôi gọi là chiến sĩ ấy
SỐNG để cùng Dân Tộc cùng vươn lên cuộc SỐNG phải có của một Dân Tộc. Nhưng khi
chiến sĩ ấy tự đào thải hay bị tà quyền đẩy ra nước ngoài, thì tôi gọi là chiến
sĩ đó đã CHẾT và làm giảm đi sức cố gắng của Dân Tộc đấu tranh mong thoát khỏi
cảnh chết về tinh thần và vật chất.
Rồi cách đây một số tháng, khi tôi nhìn tấm hình tại Phi
trường bên Mỹ của Ls.NGUYỄN THỊ DƯƠNG HÀ, vợ của Ts.Cù Huy Hà Vũ, được vây
quanh bởi một số nhân vật trong đó có Gs.NGUYỄN NGỌC BÍCH, người mà tôi đã viết
một bài cách đây một năm, ngày 17.04.2013, để phản đối Giáo sư về ý đồ đổi tên
NGÀY QUỐC HẬN 30/4 ra ngày MIỀN NAM VN hay NGÀY VNCH, nghĩa là muốn xóa NGÀY
QUỐC HẬN 30/4 một cách êm thắm. Đối với tôi, những ai muốn xóa NGÀY QUỐC HẬN
30/4 nhằm tiến gần đến với CSVN, tôi phải phản đối kịch liệt vì cái NGÀY 30/4
đã được những người ôm trong lòng mà chết dưới biển cả hay trong rừng sâu và đã
được khắc trong tim của gần 4 triệu người còn sống tỵ nạn, rồi đang truyền cho
hậu duệ con, cháu, chắt... mãi mãi để chúng nhớ rằng vì NGÀY 30/4 mà chúng đang
sống ở nước ngoài. Nhìn tấm hình vợ của Ts Cù Huy Hà Vũ sang Mỹ để đấu tranh
cho chồng, tôi nghĩ ngay rằng bà sang đây để cùng với một nhóm người đấu tranh
bên này với ý định lấy thế nhẩy bàn độc chính trị sau này khi có thế lực nào
dàn xếp “Hòa Giải Hòa Hợp “ với tà quyền CSVN, nhằm đưa Ts Cù Huy Hà Vũ sang
Mỹ, nghĩa là đi vào chỗ CHẾT tinh thần đấu tranh của chồng bà.
Bà Ls.Nguyễn Thị Dương Hà ở Việt Nam sống với cái SỐNG
của tinh thần CÙ HUY HÀ VŨ cùng với dân tộc VN mặc dầu thân xác của chồng bà
chỉ tạm thời bị ngăn cách trong trại giam hạng sang được bà cung cấp những thức
ăn uống mà đa số dân nghèo Việt Nam rất thèm thuồng và mơ ước đến nhỏ rãi.
Nhưng khi Ts Cù Huy Hà Vũ đặt chân trên đất Mỹ rồi, thì Bà Ls Nguyễn Thị Dương
Hà đứng trước cái CHẾT của tinh thần đấu tranh của chồng bà và chỉ còn ngày đêm
trông thấy một cái XÁC mập mạp không còn tinh thần đấu tranh được Dân Tộc tại
quốc nội và đồng bào tỵ nạn tại Hải ngoại ngưỡng mộ.
Nhận định vắn gọn của Ong Paul VĂN
về Phỏng vấn của Đài VOA
Ts. Cù Huy Hà Vũ đang được một số
người coi như một nhân vật hội tụ những điều kiện cho giải pháp Hòa Giải Hòa
Hợp mà CSVN đang đi tìm lối thoát cho hoàn cảnh Kinh tế, Chính trị hiện giơ,ø
đó là nhằm vẫn tiếp tục Cơ chế CSVN trước sức bùng lên của lòng uất hận quần
chúng. Khi vào các Diễn Đàn Internet, chúng tôi thấy tin tức là Ts.Cù Huy Hà Vũ
mới được Đài VOA phỏng vấn, chúng tôi muốn xóa tin tức này đi bởi vì không muốn
vào Link để nghe nội dung. Nhưng chính vì mấy dòng nhận định của Oâng Paul VĂN
mang tính cách coi thường về nhân vật mà một số người đang tung lên ca ngợi,
nên vì lòng hiếu kỳ, chúng tôi đã vào Link để nghe.
Lời nhận định coi thường nhân vật đang được tung lên như sau:
TS Hà Vũ: 'TQ chiếm nốt Trường Sa, chính
thể VN thay đổi, mới có liên minh quân sự Việt-Mỹ' (https://www.youtube.com/watch?v=xE-lFVf-iiE)
“Theo dõi cuộc phỏng vấn dưới đây, chúng tôi nhận thấy kiến thức chính trị
và thông tin thời sự của nữ phóng viên Trà Mi của đài VOA tỏ ra vượt trội so
với Ts Cù Huy Hà Vũ, cà lăm trong những từ ngữ khẩu hiệu sáo mòn tầm thường
thiếu nền tảng kiến thức của một trí thức. Nếu ai đó hy vọng hay xác định rằng
lãnh đạo cường quốc Âu MỸ thỏa thuận ủng hộ Cù cán Cận thành lập chánh phủ và
đảm nhận vị trí lãnh tụ, chúng tôi nghĩ rằng trò hề tung hứng của nhóm đầu cơ
chính trị nào đó sắp phá sản.”
pv (“Paul VAN” paul.van3060@gmail.com [DienDanPhuVan])
Link:
Như vậy, Oâng Paul VĂN đã dám coi thường một nhân vật
đang được nhóm chính khứa cơ hội tung ra
như : (i) người cứu tinh cho tình hình Việt Nam hiện nay; (ii) một Thủ tướng
lâm thời đang đi vận động thành lập Chính phủ lưu vong; (iii) một Tổng thống
tương lai cho Việt Nam mà chính Ts.Cù
Huy Hà Vũ đã tự hào giơ hai ngón tay hình chữ V chiến thắng khi đặt chân lên
Phi trường Mỹ. Những lời nhận định coi thường vị Tổng thống tương lai này về
những điểm sau đây:
* Ts. Cù Huy Hà Vũ có kiến thức chính
trị và thông tin thời sự còn thua xa sánh với nữ Phóng viên Trà Mi của Đài VOA
* Ts.Cù Huy Hà Vũ nói cà lăm trong những
từ ngữ khẩu hiệu sáo mòn tầm thường thiếu nền tẳng kiến thức của một trí thức. Thực
ra đây không phải là Ts.Cù Huy Hà Vũ mắc bệnh ăn nói cà lăm ở miệng phát âm,
nhưng là cà lăm trong tư tưởng khiến ông cứ phải lập đi lập lại mà không chắc ý
tưởng của mình có đúng hay không. Thường khi mình không nắm chắc những ý tưởng
nói ra, thì dễ lập lại một ý tưởng để có giờ liên kết với ý tưởng tiếp nối mà
mình không chắc đúng hay sai.
* Ts. Cù Huy Hà Vũ sẽ là phá sản cho những ai hy vọng và vận
động cường quốc Aâu Mỹ thỏa thuận ủng hộ nhân vật này thành lập Chính phủ và
đảm nhận Lãnh tụ tương lai. Lời nhận định này tương tự như việc một nhóm đầu cơ
chính trị nào đó đang làm trò hề tung hứng dậy “kẻ yếu đánh vật“!
Nhận định của chúng tôi
khi nghe Phỏng vấn của Đài VOA
Những nhận định của Oâng Paul VĂN
coi thường Ts.Cù Huy Hà Vũ như trên làm cho chúng tôi phải tò mò vào Linhk của
Đài VOA để nghe cuộc Phỏng vấn và nhất là những câu trả lời của nhà Trí thức
xuất thân từ Sorbonne của mẫu quốc Thực dân Pháp ra sao. Sau khi nghe đi nghe
lại ba lần cuộc Phỏng vấn này, chúng tôi xác nhận rằng những nhận định vắn gọn
của Oâng Paul VĂN trên đây là có nền tảng. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với những
nhận định này.
Chúng tôi muốn khai triển thêm về
kiến thức Chính trị và những khẳng định quá đơn giản và ấu trĩ của Ts.Cù Huy Hà
Vũ khiến người ta nghĩ về ông là một người tầm thường không xứng đáng là một
Lãnh tụ tương lai của một Quốc gia như Việt Nam với đầy những vấn đề phức tạp
cần phải được phân tích sâu xa và chín chắn để giải quyết. Chúng tôi thấy ông
trả lời một cách quá ấu trĩ về những vấn đề sau đây:
1) ĐỒNG HÀNH QUÂN SỰ GIỮA HOA
KỲ VÀ VIỆT NAM
Trà Mi: Đồng
hành quân sự giữa Mỹ và Việt Nam có khả thi hay không ?
CHHV: Hoàn
toàn khả thi vì Mỹ, một cường quốc của Thế giới, có bổn phận can thiệp quân sự
mọi nơi trên Thế giới khi có biến động xẩy ra.
Nhận định: Hoa
kỳ không phải là một mạnh thường quân, thấy đâu có biến cố quân sự đàn áp là Mỹ
nhắm mắt xông vào cứu. Việc can thiệp quân sự của Mỹ phải tùy những tính toán:
quyền lợi, chi tiêu và đối thủ mà Mỹ phải đối chọi. Mỹ không thể nhắm mắt bênh
đỡi Việt Nam mà không xét những liên hệ tương quan với Trung quốc. Ts.Cù Huy Hà
Vũ khẳng định quá đơn giản của một người hứng lên thì nói vậy, chứ không phải
của một người lãnh đạo chính trị với suy tư chín chắn khi trả lời.
2) HOA KỲ KHÔNG CÓ HÀNH ĐỘNG CỤ
THỂ VỀ QUÂN SỰ
Trà Mi: Thời gian gần đây, Mỹ chỉ có những tuyên bố ngoại giao chứ
không có hành động cụ thể. Tại sao ?
CHHV: Việc
Mỹ sẵn sàng can thiệp bảo vệ Việt Nam tùy thuộc vào điều kiện phải có sự ký kết
một Liên minh quân sự giữa Việt Nam và Mỹ.
Nhận định: Việc
ký kết một Liên minh quân sự giữa hai quốc gia không phải là dễ dàng như Ts.Cù
Huy Hà Vũ ngô nghê mơ mộng. Oâng đã
không biết đến tình hình thay đổi vòng đai bao vây Trung quốc đã nới rộng ra
vòng ngoài biển Hoa Nam và Biển Đông gồm
những nước: Nam Hàn, Nhật, Phi Luật Tân và Mã Lai. Vòng đai này đã loại Việt
Nam ra rồi. Mỹ ký Liên Minh quân sự với những nước thuộc vòng đai mới này mà
không có Việt Nam.
3) NHỮNG QUYỀN LỢI LIÊN KẾT GIỮ
HOA KỲ VÀ TRUNG QUỐC
Trà Mi: Mỹ có thể hy sinh quyền lợi rất lớn từ Trung quốc hay
không. Vậy Hoa kỳ có thể hy sinh để bảo vệ vẹn toàn lãnh thổ Việt Nam hay không
?
CHHV: Không
phải chỉ vì những quyền lợi thương mại/kinh tế
mà Mỹ có thể bỏ quá lý tưởng chính nghĩa, luân lý nhân bản mà không can
thiệp bảo vệ Việt Nam chống lại xâm lăng của Trung quốc. Mỹ còn mang chủ trương
chống lại Cộng sản. Mỹ phải theo lý tưởng của mình mà hành động quân sự bảo vệ
Việt Nam và chống lại bành trướng Trung quốc.
Nhận định: Câu trả lời của
Ts.Cù Huy Hà Vũ không phải là của một nhà chính trị, nhất là một người có tham
vọng trở thành Tổng thống. Đó là câu trả lời của một nhà đạo đức mang lý
tưởng ngây thơ. Chính câu trả lời đã nói
ngược lại ông. Thực vậy, tại sao Hoa kỳ
không phải vì lý tưởng đạo đức, luân lý
mà cắt đứt liên hệ thương mại/ kinh tế với chính Trung quốc, một nước có một Cơ
chế vô nhân ?
4) CHIA RẼ ĐẢNG TRONG VẤN ĐỀ
ĐỐI NGOẠI
Trà Mi: Những thái độ mới đây với những tuyên bố trái ngược nhau
chứng tỏ đảng CSVN không thống nhất về phương diện đối ngoại : thân Mỹ, thân
Tây hay thân Tầu ?
CHHV: Đảng
CSVN không có chia rẽ ra phe thân Tây, thân Mỹ hay thân Tầu, mà chỉ có một phe
là bảo vệ quyền độc tài của đảng. Tuy nhiên đảng phân công ra một đàng chiều
theo Tầu, một đàng kêu gọi Mỹ hỗ trợ.
Nhận định: Câu trả lời có
ý bênh vực cho những gian xảo lưu manh của đảng CSVN. Thực tế đảng có những
phân hóa trầm trọng về vấn đề đối ngoại.
Cái cách sử đụng việc đối ngoại đu đưa bên này bên kia đã làm cho Việt
Nam trở thành lẻ loi lúc này. Những nước ngoài không ngu đến nỗi không hiểu chính
sách lưu manh đối ngoại của CSVN.
5) ĐIỀU KIỆN ĐỂ VIỆT NAM THAY
ĐỔI
Trà Mi: Điều
kiện để Việt Nam thay đổi là gì ?
CHHV: Điều
kiện để Việt Nam thay đổi là Trung quốc chiếm trọn quần đảo Trường Sa, thì lúc
ấy dân chúng hay quân đội mới đứng lên buộc CSVN phải ra đi để thành lập Chính
phủ mới nhằm ký được Liên minh quân sự với Hoa kỳ.
Nhận định: Ts.Cù Huy Hà Vũ
bí lối với câu hỏi này nên vớ lấy bất cứ cái gì để trả lời. Thực vậy , tại sao
phải đợi đến việc Trung quốc chiếm trọn quần đảo Trường Sa thì lúc đó dân chúng
và quân đội mới nổi lên đập tan đảng CSVN hay sao? Tại sao quân đội và dân
chúng không đứng lên lúc này mà phải đợi đến việc Tầu chiếm trọn Trướng Sa.
Những chứng cớ Tầu chiếm Hoàng Sa, chiếm biển và săn giết dân đánh cá, xâm lăng
trên đất liền và hàng hóa Trung quốc được tự do giết chết Kinh tế VN không đủ
để dân chúng và quân đội nổi dậy chông vùi CSVN hay sao ? Câu trả lời của Ts.Cù
Huy Hà Hà Vũ là của một người bí lối vớ đâu trả lời đó, chứ không đứng đắn phân
tích kỹ lưỡng những lý do của người Trí thức, nhất là Trí thức có tham vọng làm
Lãnh tụ, với mộng làm Tổng thống. Câu trả lời quá tệ và hề chịu không nổi !
Nếu Ts.Cù Huy Hà
Vũ trả lời như vậy, nghĩa là việc lật đổ CSVN là do quân đội và khối dân chúng
quốc nội NỔI DẬY, thì tôi xin hỏi việc thành lập Chính phủ lưu vong lưu bị là
để làm gì ? Tôi xin giả thiết những trả lời sau đây dùm cho Ts.Cù Huy Hà Vũ:
* Câu trả
lời thứ nhất: Một số người trông ngóng nơi Chính phủ lưu vong lưu bị
này có thể lật được Cơ chế CSVN hiện hành. Bây giờ Tiến sĩ nói việc giải thể
này là do Quần chúng quốc nội sùng lên và đạp đổ nó. Như vậy chính Ts.Cù Huy Hà
Vũ tuyên bố rằng cái Chính phủ lưu vong lưu bị lập ra
là VÔ ÍCH.
* Câu trả
lời thứ hai: Nếu cái Chính phủ lưu vong lưu bị này được lập ra không
phải là để giải thế Cơ chế CSVN hiện hành mà nhằm đứng chung với CSVN để thực
hiện gian kế Hòa Giải Hòa Hợp , cốt ý nối dài Cơ chế CSVN, thì việc làm này
chính là tòng phạm với tội ác của CSVN. Dân Tộc Việt Nam sẽ khổng thể tha thứ
cho những kẻ tiếp tay với CSVN để tiếp tục tội ác.
* Câu trả
lời thứ ba: Nếu cái Chính phủ lưu vong lưu bị này được thành lập ra để
chờ thời nhẩy bàn độc, nghĩa là sau khi quân đội và dân chúng quốc nội lật đổ
xong xuôi Cơ chế CSVN như lời Ts.Cù Huy Hà Vũ nói trên đây, thì lúc ấy cái Chính
phủ lưu vong lưu bị này kéo nhau về Việt Nam để mượn đầu heo nấu cháo mà nhẩy
bàn độc tranh phần bánh vẽ. Đây là việc chờ thời bỉ ổi !
6) HOA KỲ
ĐÃ BỎ RƠI VIỆT NAM MỘT LẦN VÌ QUYỀN LỢI
CỦA MÌNH
Trà Mi: Hoa kỳ đã bỏ rơi Việt Nam một lần dù có Liên minh Quân sự
và dù với Lý tưởng Tự do. Vậy Mỹ có thể bỏ rơi Việt Nam một lần nữa hay không
vì quyền lợi dầu đã ký Liên minh Quân với Chính quyền tương lai VN sau này ?
CHHV: Khi
Việt Nam và Mỹ thực sự cần đến nhau thì không có việc bỏ rơi nhau. Mỹ và Việt Nam là bạn của nhau cùng hợp tác phát triển về
mọi lãnh vực chứ không phải riêng về Kinh tế.
Nhận định: Giữa các
Quốc gia, việc giao hảo hay Liên minh đều đặt trên tương tác quyền lợi, nhất là
quyền lợi vật chất cụ thể. Một Lãnh tụ chính trị, một Tổng thống tương lai mà
đặt giao hảo và liên minh trên nền tảng TÌNH BẠN thì đúng là quá ngây thơ đến
ngu xuẩn trong việc lãnh trách nhiệm về vân mệnh của một Quốc gia. Ts.Cù Huy Hà
Vũ không thấy bài học 16 chữ vàng và 4 tốt
TÌNH BẠN “nhẩy sol đố mì “ giữa Trung Cộng và Việt Cộng đang mang tai
hại cho Việt Nam mà chính CSVN đang bị Trung Cộng nhét thuốc độc vào mồm Việt
Cộng cho mà uống. Trung Cộng thấy quyền lợi dầu lửa thì quên hết TÌNH BẠN,
Ts.Cù Huy Hà Vũ đã thấy chưa hay vẫn còn ngô nghê mà vẫn tưởng mình sẽ là Tổng
thống được dân Việt trao vân mệnh đất nước cho!
Một
nhận định tổng quát bao bọc suốt những câu trả lời của Ts.Cù Huy Hà Vũ là ông
đã quên, hay chưa lãnh hội được câu nói
của Hoa kỳ rằng họ chỉ quan tâm đến vấn đề ở Biển Đông là CON ĐƯỜNG THƯƠNG MẠI,
chứ những vấn đề tranh chấp chủ quyền Đảo là do những nước liên hệ tự liệu giải
quyết với nhau. Trong suốt những câu trả lời của Ts.Cù Huy Hà Vũ, ông đã hoàn
toàn lẫn lộn giữa hai vấn đề đó. Như vậy, vị Tổng thống tương lai của Việt Nam
một là thiếu đọc tin tức để không biết đến lời tuyên bố quan trọng này của Mỹ,
hai là đã có đọc nhưng thiếu hiểu biết phân tích hai khía cạnh rất rõ rệt của
câu nói.
Giáo sư Tiến sĩ
NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva,
18.06.2014
Web: http://VietTUDAN.net
HÀ NỘI BIỂU TÌNH 19-6
Tường thuật cuộc biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội 19/6/2014
Dân Luận tổng hợpDân Luận: Việc Trung Quốc tiếp tục đưa giàn khoan thứ 2 ra biển Đông dấy lên một làn sóng phản đối trên mạng. Trước tình hình ngày càng ngang ngược này của Trung Quốc, một lời kêu gọi bất ngờ của No U Hà Nội được đưa ra với nội dung:
No-U Hà Nội: Thông báo biểu tình phản đối Trung Quốc tiếp tục leo thang xâm lược Biển Đông
Vào hồi: 16h30 ngày Thứ 5 – 19/6/2014
Tại: Tượng đài Lý Thái Tổ – Hồ Gươm – Hà Nội
Về việc: Phản đối việc nhà cầm quyền Trung Quốc liên tục leo thang xâm lược và yêu cầu chính quyền Việt Nam có hành động dứt khoát trước sự việc này!
Đề nghị chính quyền Hà Nội có biện pháp đảm bảo an ninh trật tự để mọi công dân yêu nước có thể thực thi quyền biểu tình chính đáng của mình.
Anh em No-U Hà Nội kính báo!
———
*Ấn F5 để liên tục cập nhật*
Cập nhật cuối cùng của FB Bạch Hồng Quyền: tất cả những người yêu nước biểu tình chiều nay tại Lý Thái Tổ đã được thả ra.
Chia sẻ của FB Hoàng Dũng Cdvn: TIN NGẮN
Được biết, đảng và nhà nước ta đang trọng thể đón tiếp ngài đồng chí
Yang JiéChí và cùng nhau ôn lại mối tình hữu nghị núi sông biển 981 năm
qua, một số người đã lợi dụng lòng yêu nước tụ tập đông người tại tượng
đài Lý Thái Tổ.
Bằng lực lượng đông đảo cùng cơ bắp và lòng căm thù kẻ lợi dụng lòng
yêu nước tột độ, kết hợp biện pháp nghiệp vụ đổ vạ tài tình, ta đã trấn
áp thành công cuộc biểu tình này và bắt quả tang tại chỗ ít nhất 8 tên.
Tám tên này tỏ ra là yêu nước nhất. Danh sách này ngài đồng chí Yang
đang nắm giữ. Ngài tỏ ra không hài lòng.
Do các nhà khoa học đang bận kết hợp với ĐBQH bàn bạc để sáng tạo ra
máy kiểm tra màng trinh huê hậu, nên chưa làm được máy đo nồng độ yêu
nước, nên 8 tên này đã may mắn thoát khỏi cuộc kiểm tra này.
Hiện ta đang khôn khéo đấu tranh khai thác vài tên còn lại, vì chúng
tỏ ra yêu nước cứng rắn. Riêng tên Lê Hoàng đã được ta khoan hồng thả ra
sớm, vì chiều nay hắn vừa chụp 1 bộ hình bên hoa sen rất đẹp.
Ta đã khuất phục được tên Lê Thiện Nhân. Hắn đã phải cúi đầu nhận tội yêu nước. Thế là ta thả hắn ra.
Tên yêu nước cuối cùng là Anh Chí cũng đã bị ta thả ra. Giữ hơi lâu
là vì có vẻ như râu hắn nhiều hơn râu trên chứng minh nhân dân. Ta phải
huy động cán bộ khéo tay đếm, hơi vất vả. Lần này ta thả hết ra sớm vì
ngân sách bên trên không duyệt làm thêm giờ, ăn tối. Tiền còn phải trả
bill tiếp ngài đồng chí Yang kính yêu vô vàn.
Anh em Hà Nội đi đòi người.
Lúc 18h31 cập nhật từ FB Sơn Nguyễn: Lê Hoàng đã ra khỏi đồn công an.
Chia sẻ của FB Gió Lang Thang: Những người anh của tôi, xin hãy bình an nhé. Đất mẹ đau thương lắm, tựa lưng vào đó, bạn sẽ được chở che. Xin lỗi, vì không ở bên cạnh các bạn lúc này…
Được biết số người tham gia trong cuộc biểu tình hôm nay khoảng 30-40 người gồm các thành viên No-U Hà Nội cùng bạn hữu, an ninh được huy động đông gấp 3 4 lần. Cuộc biểu tình chỉ diễn ra trong vòng 30 phút, nhà cầm quyền đã nhanh chóng giải tán đám đông.
Một số hình ảnh cuộc biểu tình chóng vánh chiều nay:
FB Ha Hong Le
TIN KHẨN:
Anh chị em No-U Hà Nội bất ngờ biểu tình chiều nay 19/6 để phản đối TQ. Hẹn nhau lúc 16:30.
Facebook hiện rất chập chờn, có bạn nói bị chặn từ 3g chiều.
Biểu tình chưa nổ ra, Lã Việt Dũng và Anh Chí đã bị an ninh bắt. Ngoài ra, theo FB Thanh Nghiên, số người bị bắt đã là 7, gồm:
- anh Trương Truong van Dung,
- chị Hạnh Tây Hồ Liberty,
- anh Lã Việt Dũng,
- cô giáo Đào Thu,
- anh Anh Chí,
- chú Nguyễn Văn Lịch,
- anh Lê Thiện Nhân
đã bị bắt vào đồn công an phuờng Lý Thái Tổ.
Theo FB Bạch Hồng Quyền, những người bị bắt tại vườn hoa Lý Thái Tổ đã bị đưa về CA phường Tràng Tiền.
Toàn cảnh an ninh đông đảo đàn áp anh em No-U Hà Nội, FB Bạch Hồng Quyền:
Cậu ở giữa mặc áo xanh đeo kính là người đã chỉ Lã Việt Dũng và Anh Chí là Việt Tân nên tất cả chúng lao vào bắt 2 anh. FB Mai Dũng: 17 giờ biểu tình chống Trung quốc nổ ra trước tượng đài Lý Thái Tổ. Số người tham gia khoảng 30-40. An ninh đông gấp 3-4 lần chưa kể các lực lượng chức năng khác. Chính quyền nhanh chóng giải tán biểu tình trong khoảng 29 phút. Vài người đã bị bắt đi trong đó có Facebooker Anh Chí.
Theo FB Bạch Hồng Quyền đưa tin vào lúc 11h20 cùng ngày, sau khi lời tuyên bố được đưa ra. Quanh khu vực tượng đài Lý Thái Tổ – Bờ Hồ có xe bus chờ sẵn, xe vòi rồng được điều đi tình hình có vẻ rất căng thẳng cho các biểu tình viên.
Nguồn:
http://www.danluan.org/tin-tuc/20140619/tuong-thuat-cuoc-bieu-tinh-chong-trung-quoc-tai-ha-noi-1962014
TUYÊN BỐ LÊN ÁN TRUNG QUỐC XÂM LƯỢC LÃNH THỔ VIỆT NAM
TUYÊN BỐ 6-2014 (cập nhập: 372 người ký)
TUYÊN BỐ LÊN ÁN TRUNG QUỐC XÂM LƯỢC LÃNH THỔ VIỆT NAM & YÊU CẦU NHÀ NƯỚC VIỆT NAM KIỆN TRUNG QUỐC RA TÒA ÁN QUỐC TẾ
TP Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 6 năm 2014
Từ
đầu tháng 5/2014 vừa qua, Trung Quốc đã cho hạ đặt giàn khoan HYSY 981
trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của Việt
Nam. Việc hạ đặt giàn khoan này nối tiếp các hoạt động có tính toán từ
trước nhằm xâm chiếm lãnh thổ của Việt Nam, đặc biệt là việc dùng vũ lực
đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa năm 1974, và đánh chiếm một phần
quần đảo Trường Sa năm 1988.
Tất cả hành vi vừa
nêu của Trung Quốc có thể gọi đúng tên là hành vi xâm lược, vi phạm
nghiêm trọng Điều 2(4) của Hiến Chương LHQ, Nghị quyết 1514 ngày
14/12/1960, Nghị quyết 26/25 năm 1970, Nghị quyết số 3314-XXXIX ngày
14.12.1974 của LHQ.
Vì vậy, chúng tôi, những người Việt Nam trong nước và đang sống ở nước ngoài đồng lòng ký tên vào bản tuyên bố này nhằm:
-
Cực lực lên án những hành vi có tính toán của Trung Quốc đang từng bước
xâm lược lãnh thổ Việt Nam và thực hiện âm mưu độc chiếm Biển Đông;
-
Yêu cầu Nhà Nước Việt Nam khẩn trương khởi kiện Trung Quốc ra tòa án
Quốc tế về những vi phạm chủ quyền nghiêm trọng của họ tại Biển Đông,
đặc biệt là kết hợp cùng Philippines đấu tranh pháp lý quốc tế để xóa bỏ
đường 9 đoạn (lưỡi bò) phi pháp và phi lý của Trung Quốc.
STATEMENT OF CONDEMNATION AGAINST CHINESE AGGRESSION OF VIETNAM’S TERRITORY
&
REQUEST TO THE VIETNAMESE GOVERNMENT TO TAKE CHINA TO INTERNATIONAL COURTS
Since
early May this year, China has illegally installed in the oil rig HYSY
981 in Vietnam’s exclusive economic zone (EEZ) and continental shelf of
Vietnam. This is part of a pre-planned series of aggressive actions
aimed at invading Vietnam’s territory, most notably the use of force to
occupy the entire Paracel Islands in 1974, and again to occupy part of
the Spratly Islands in 1988.
All of the
afore-mentioned actions by China can be rightly called acts of
aggression, seriously violating Article 2 (4) of the UN Charter,
Resolution 1514 dated 14.12.1960, Resolution 26/25 in 1970, and
Resolution No. 3314 UN-XXXIX dated 12.14.1974.
Therefore, we, patriotic Vietnamese worldwide, unanimously signed this statement to:
-
Strongly condemn the aggressive behaviors of China which have been
calculated to gradually invade the territory of Vietnam and realize
their scheme to monopolize the South China Sea;
-
Urgently request the government of Vietnam to take China to
international courts for their serious violations of Vietnam’s
sovereignty in the South China Sea, and to join hands with the
Philippines in the legal battle against China’s unjustified and illegal
cow’s tongue line (nine-dashed line).
Signatories:
Những người ký tên:
1. Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
2. Huỳnh
Tấn Mẫm, bác sĩ, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (trước
1975), Đại biểu Quốc hội khóa 6, Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam TP HCM
3. Lê Công Giàu, nguyên Tổng Thư ký Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn
1966, nguyên Phó Bí thư thường trực Thành đoàn Thanh niên Cộng sản TP
HCM, nguyên Giám đốc Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư (ITPC), TP
HCM
4. Trần Quốc Thuận, Luật sư, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn Phòng Quốc Hội
5. Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng Thư ký Hội Trí thức Yêu nước TP HCM
6. Bùi Tiến An, đảng viên hưu trí, nguyên CB Ban Dân vận Thành ủy tp HCM
7. Hồ An, nhà báo, TP HCM
8. Vũ Thị Phương Anh, Tiến sĩ giáo dục, nghiên cứu và dịch thuật tự do, hiện sống ở TP HCM
9. Đặng Thị Châu, cụ bà 92 tuổi, TP HCM
10. Huỳnh Kim Dũng, cử nhân phong trào sinh viên học sinh trước 1975
11. Hồ Hiếu, nhà giáo Sài Gòn, phong trào Tranh thủ Dân chủ Đà Lạt 1966, nguyên Chánh văn phòng Ban Dân vận Thành Ủy TP HCM
12. Ngô Kim Hoa, nhà báo tự do, Sài Gòn
13. Tô Hòa, nguyên Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP HCM
14. Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh
15. Hà Thúc Huy, PGS. TS. hóa học, giảng dạy đại học, TP HCM
16. Hoàng Hưng, nhà Thơ nhà báo Tự do, TP HCM
17. Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), nguyên Thư ký của đc Mai Chí Thọ, TP HCM
18. Võ Văn Thôn, nguyên Giám Đốc Sở Tư Pháp TPHCM
19. Lê Anh Tuấn, Cán bộ hưu trí
20. Trần Thế Việt, nguyên Bí thư Thành Ủy Đà lạt
21. Đinh Kim Phúc, nhà nghiên cứu Biển Đông, TP HCM
22. Giang Thị Hồng, vợ Luật gia Lê Hiếu Đằng
23. Lê Phú Khải, nguyên phóng viên thường trú Đài Tiếng nói Việt Nam tại miền Nam, TP HCM
24. Trần Hữu Kham, thương binh mù, cựu tù chính trị Côn đảo, TP HCM.
25. Trần Hữu Khánh, hưu trí, TP.HCM
26. Cao Lập, hưu trí, cựu tù chính trị Côn Đảo
27. Võ Thị Lan, nguyên cán bộ công an TP HCM
28. Nguyễn Văn Lê, nguyên Chánh văn phòng Ban Dân vận Thành ủy TP HCM
29. Trần
Văn Long, nguyên Tổng thư ký Ủy ban vận động cải thiện chế độ lao tù
miền Nam Việt Nam, nguyên Phó Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên Phó Giám đốc Tổng công ty Du lịch
Thành phố (Saigontourist).
30. Phan Đắc Lữ, nhà thơ, TPHCM
31. GBt. Huỳnh Công Minh, linh mục Giáo phận Sài Gòn
32. Tăng Thị Nga, cựu sinh viên luật phong trào sinh viên trước 1975
33. Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP HCM
34. Hạ Đình Nguyên, nguyên Chủ tịch Ủy ban Hành động thuộc Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (trước 1975), cựu tù chính trị Côn Đảo, TP HCM
35. Hồ Ngọc Nhuận, Phó chủ tịch Ủy ban Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam TP Hồ chí Minh, nguyên chủ bút nhật báo Tin Sáng Saigon
36. Hà Sĩ Phu, TS, nhà văn tự do, Đà Lạt
37. Trần Minh Quốc, nguyên hội viên CLB những người kháng chiến cũ thời cụ Nguyễn Hộ 1990, TP HCM
38. Tống Văn Công, nguyên Tổng Biên Tập Báo Lao Động
39. Nguyễn Thế Thanh, nhà báo, TPHCM
40. Nguyễn Kiến Phước, nhà báo, nguyên Đại diện báo Nhân Dân ở phía Nam
41. Bùi Minh Quốc, Nhà thơ, nhà báo, nguyên chủ tịch hội Văn Nghệ, tổng biên tập tạp chí Lang Biang, Đà Lạt, Lâm Đồng
42. Tô Lê Sơn, kỹ sư, TP HCM
43. Trần Công Thạch, nhà giáo nghỉ hưu, TP HCM
44. Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, TP HCM
45. Huỳnh Kim Thanh Thảo, doanh nhân, TP HCM
46. JM. Lê Quốc Thăng, linh mục Giáo phận Sài Gòn
47. Lê Thân, Hưu trí , TPHCM
48. Nguyễn Bá Thuận, Thầy giáo về hưu, Đan Mạch
49. Phan Văn Thuận, Giám đốc công ty Phú An Định, TP HCM
50. Nguyễn Thị Khánh Trâm, Nghiên cứu viên văn hóa, hiện sống ở Tp HCM
51. Phạm Đình Trọng, Nhà văn, Sài Gòn
52. Huỳnh Kim Tú, cử nhân phong trào sinh viên học sinh trước 1975
53. Lê Anh Tuấn, CB hưu trí, TP HCM
54. Lưu Trọng Văn, nhà báo, TP HCM
55. Nguyễn Đắc Xuân, nhà Văn, nhà nghiên cứu lịch sử Văn hoá Huế, hiện sống tại Huế
56. Võ Thị Bạch Tuyết, nguyên Giám Đốc Sở Lao động Thương binh xã hội TPHCM
57. Huỳnh Thị Minh Nguyệt, cán bộ hưu trí, TP HCM
58. Nguyễn Xuân Nghĩa, TS, giảng viên đại học, TPHCM
59. Nguyễn Minh Tấn, kiến trúc sư, Sài Gòn
60. Nguyễn Hồng Khoái, chuyên viên tư vấn tài chính, Hà Nội
61. Hoàng thị Nhật Lệ, CB hưu trí Bình Thạnh, TP. HCM
62. Phạm Gia Minh TS Kinh tế , hiện sống tại Hà Nội
63. Trần Minh Thảo, Viết văn, Bảo lộc Lâm đồng
Ký tên đợt 2
64. Huy Đức, nhà báo độc lập, TP HCM
65. Phạm Khiêm Ích, Nguyên Phó Viện trưởng Viện Thông tin khoa học xã hội. Hà Nội
66. André Menras Hồ Cương Quyết, nhà gíao, cựu tù chính trị chế độ cũ
67. Pham xuan Phuong: Dai ta Cuu chien binh-Ha Noi-Viet Nam
68. Huỳnh Ngọc Chênh, nhà báo, Sài Gòn
69. Lê Văn Tâm, Nguyên chủ tịch Hội người Việt Nam tại Nhật Bản
70. Hoàng Lại Giang, nhà văn, TP HCM
71. Tạ Duy Anh, nhà văn, công tác tại nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội
72. Phạm Thị Minh Đức, nhân viên Trung tâm Hợp tác Quốc tế Nhật Bản, Hà Nội
73. Giáng Vân, nhà báo, nhà thơ, Hà Nội
74. Nguyễn Quang A, kỹ sư, Hà Nội
75. Uông Đình Đức, Kỹ sư cơ khí (đã nghỉ hưu), t/p HCM
76. Trần Tiến Đức, nhà báo, đạo diễn truyền hình, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục-Truyền thông, UBQG Dân số và KHH Gia đình, Hà Nội
77. Nguyễn Văn Binh, cựu Dân biểu Quốc hội VNCH
78. Đoàn Khắc Xuyên, nhà báo, TPHCM
79. Vũ Thư Hiên, nhà văn, Paris, Pháp
80. Tô Nhuận Vỹ,nhà văn,Huế
81. Phùng Hoài Ngọc, thạc sỹ, nguyên giảng viên đại học, tỉnh An Giang
82. Phan Tấn Hải, nhà văn, California, Hoa Kỳ
83. Nguyễn Quang Nhàn Cán bộ công đoàn hưu trí, Đà Lạt
84. Nguyễn Duy Toàn, Giảng viên, đại học Nha trang, Khánh hòa
85. Hoàng Dũng, PGS TS, trường Đại học Sư phạm TP HCM, TP HCM
86. Nguyễn Thu Lan, dược sỹ, hưu trí, TPHCM
87. Ngô Thị Kim Cúc, Nhà văn, Nhà báo, TP HCM
88. Phùng Liên Đoàn, chuyên viên nguyên tử, Oak Ridge, TN 37830, USA
89. Văn Ngọc Tâm, Nhà báo tự do, Thành phố Sài Gòn
90. Ngô Văn Phước, sinh viên trường Đại học Văn hoá Thành phố Hồ Chí Minh
91. Bùi Phạm Hoàng Lượng, đảng viên hưu trí, nguyên Chủ tịch UBMTTQVN quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh
92. Lê Thăng Long, kỹ sư - doanh nhân, Sài Gòn
93. Phạm Toàn, nhà giáo nghỉ hưu, Hà Nội
94. Bùi Ngọc Tấn, Nhà văn, tp Hải Phòng
95. Lê Minh Hà, nhà văn, sống tại Đức
96. Nguyễn Văn Dũng. Nhà giáo, nhà văn, TP Huế.
97. Nguyễn Tường Thụy, Cựu chiến binh, Blogger, Hà Nội
98. đỗ trung quân - nhà thơ - tp HCM
99. Đào Thanh Thuỷ, Nghề nghiệp: cán bộ hưu trí
100. Nguyễn Duy, nhà thơ, TP. Hồ Chí Minh.
101. Bui Trong Kien, TS. Toan hoc, Vien Toan hoc, Vien Han Lam Khoa hoc va Cong nghe Viet Nam, Ha Noi
102. Nguyễn Trí Nghiệp, Giám Đốc Cty Nông Trang Island, Vĩnh Long
103. NGUYỄN CÔNG HỆ ,THUYỀN TRƯỞNG VIỄN DƯƠNG, TP HỒ CHÍ MINH
104. Đinh Đức Long, Tiến sĩ, bác sĩ, TP.HCM
105. Dương Tường, nhà thơ - dịch giả, Hà Nội
106. Nguyễn Lộc, Giảng dạy Đại học, TP Hồ Chí Minh
107. Ý Nhi, nhà thơ, TP Hồ Chí Minh
108. Lê Khánh Luận, TS Toán, nhà thơ, nguyên giảng viên trường ĐH Kinh Tế Tp.HCM
109. Dr. Trương Thanh Đạm, hưu trí, Hà Lan
110. Nguyễn Huệ Chi, GS, Hà Nội
111. Nguyễn Thế Hùng, GS TS ngành Thủy lợi, Phó Chủ tịch Hội Cơ học Thủy khí Việt Nam, TP Đà Nẵng
112. Nguyễn Phương Chi, biên tập viên chính, nguyên Phó phòng Tạp chí Nghiên cứu văn học, Viện Văn học, Hà Nội
113. Đặng Thị Hảo, TS, Hà Nội
114. Nguyễn Đình Nguyên, TS, Australia
115. Phan Thị Hoàng Oanh, TS, TP HCM
116. Nguyễn văn An, cán bộ hưu trí, TP.HCM
117. Hoàng Tụy, giáo sư, Viện Toán Học, Viện Hàn Lâm KH và CN Việt Nam, Hà Nội.
118. NGUYỄN TRỌNG HUẤN, Kiến trúc sư - Nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Kiến trúc & Đời sống, TP HCM
Ký tên đợt 3119. Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, hiện sống tại TP Hồ Chí Minh
120. Lý Kiến Trúc, nhà báo, Chủ nhiệm Câu Lạc Bộ Văn Hoá & Truyền Thông Quận Cam, Chủ nhiệm Văn Hoá Magazine-California, USA
121. Nguyễn Minh Thuyết, Giáo sư, Tiến sĩ ngữ văn, đại biểu Quốc hội các khóa XI và XII, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, Hà Nội
122. Hoàng Thị Hòa Bình, Phó giáo sư, Tiến sĩ giáo dục học, nghiên cứu viên chính Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, Hà Nội
123. Nguyễn Văn Chương, nhà giáo hưu trí, o f14, quận Tân Bình, Sài Gòn
124. Trương Đình Thảo, cán bộ hưu trí, TP HCM
125. Đào Tiến Thi, ThS, nhà văn, nhà giáo, Uỷ viên Ban chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội
126. Nguyễn Hữu Quý, kỹ sư, Đăk Lăk
127. Phan Quốc Tuyên, kỹ sư tin học, Place des Charmilles 1 1203 Genève - Thụy Sỹ
128. Võ Thương Việt, sinh sống làm việc tại Nga
129. Nguyễn Đắc Diên, bác sĩ Nha Khoa, TP HCM
130. Nguyễn Hòa, Cao-học hành-chánh Sài-Gòn, nghỉ hưu, Oakland, CA, USA
131. Tho Huynh, 11321 Chapman AveGarden Grove, CA.92840, USA
132. Nguyen Loan, nghe nghiep: Nail, USA
133. Lê Mạnh Năm, nghiên cứu viên chính, trú tại 47 ngõ 622 Minh Khai, Hai Bà Trưng, Hà Nội
134. Nguyễn Văn Dũng, Tiến sĩ Vật Lý, nguyên là cán bộ của Viện Khoa học Việt Nam, hiện đang định cư ở Mỹ
135. Nguyễn Trọng Hoàng, bác sĩ Y khoa, Paris, Pháp
136. Quan Vinh, chuyên viên tin học, Italia
137. Chu Văn Hoà, Cử nhân luật, Cộng hoà Liên bang Đức
138. Lam Thi Ngoc Diep, cựu sinh viênVăn khoa Sài Gòn, TP HCM
139. Trịnh Tuấn Dũng, kỹ sư, Hà Nội
140. Truong Vien, Technician, Florida, USA
141. Nguyen thi Kim Phuong, Inspector, Florida, USA
142. Nguyen thi Nhu Quynh,- Manager, Florida, USA
143. Nguyễn Trung, giáo viên ở Ninh Thuận
144. Phan Xuan Trinh, cuu SQQY Quan Luc VNCH, Hoa Ky
145. Nguyễn Ngọc Thạch, hưu trí, Tp Hồ Chí Minh
146. Tô Oanh, giáo viên nghỉ hưu tại TP Bắc Giang
147. Nguyễn Quang Đạo, cựu chiến binh, Hà Nội
148. MaiLy Nguyen, ky su ky thuat Bnk-VnaChicago, IL. USA
149. Terry The Pham, KCI Medical Canada 4263 William st, burnaby bc Canada
150. Trần Minh Thế, PGS Tiến sĩ, nguyên Viện trưởng Viện Thông tin Tư liệu Địa chất, Hà Nội
151. Lại Nguyên Ân, nhà nghiên cứu văn học, hiện sống và làm việc tại Hà Nội
152. Nguyễn Văn Nghiêm, thợ hớt tóc TP Hòa Bình, Hòa Bình
153. Đỗ Trọng Khơi, nhà thơ, Thái Bình
154. Lê Xuân Thiêm, kỹ sư Xây dựng, TP HCM
155. Luong Van Dung, hướng dẫn viên du lịch quốc tế, sống tại Hà Nội
156. Đào Văn Tùng, cán bộ nghỉ hưu, TP Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang
157. Trần Văn Đằng, 69 tuổi, hưu trí, Hải Phòng
158. Lê Văn, tiến sỹ vật lý, Sài Gòn
159. Dương Tất Thắng, giảng viên khoa Toán-Cơ-Tin học, Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học QGHN, Hà Nội
160. Nguyễn Hữu Toàn, kỹ sư đã nghỉ hưu, Hà Nội
161. Bùi Thị Phương Oanh, cán bộ Tài chính đã nghỉ hưu, Hà nội
162. Đặng Lợi Minh, giáo viên cấp 3, Hải Phòng
163. Nguyễn Vũ, kỹ sư, hành nghề tự do, 284/26 Lê Văn Sỹ, P.14, Q.3, TP. Sài Gòn
164. Bùi Văn Sáng, kỹ sư xây dựng công trình giao thông, TP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
165. Nguyễn Thượng Long, dạy học và viết báo, quận Hà Đông, Hà Nội
166. Hoàng Cảnh Hồng, kinh doanh, Nghệ An
167. Võ Lê Trường Thạch, kỹ sư xây dựng, 15 Tôn Thất Thuyết, Đông Hà, Quảng Trị
168. Chu Quốc Khánh, kỹ sư điện tử, cử nhân kinh tế, số 4, hẻm 208/12/15 Nguyễn Văn Cừ, Bồ Đề, Long Biên, Hà Nội
169. Vũ Thị Nhuận, tiến sĩ sinh hóa thất nghiệp, quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ
170. Nguyễn Thanh Giang, Tiến sĩ Địa Vật lý, Hà Nội
171. Nguyễn Hồng Quân, kỹ sư kết cấu, Fremont, CA 94536 – USA
172. Lê Phương Anh, kỹ sư điện toán, Garden Grove - California 92840 USA
173. Nguyen Huu Hiep, lái xe du lịch, 1600/42 Vo Van Kiet p7 q6, TP HCM
174. Cao Xuân Lý, nhà văn, Australia
175. Nguyễn Quang Lập, nhà văn, TP HCM
176. Đỗ Minh Tuấn, nhà thơ- đạo diễn Điện ảnh, Hà Nội
177. Pham Thi Phuc, 18 Ngo Thoi Nhiem, p7 q3, TP HCM
178. Tran Quoc Khanh, 18 Ngo Thoi Nhiem, p7 q3, TP HCM
179. Tran Le Huong, 18 Ngo Thoi Nhiem, p7 q3, TP HCM
180. Tran Khanh Linh, 18 Ngo Thoi Nhiem, p7 q3, TP HCM
181. Tran Khanh Ngoc, 18 Ngo Thoi Nhiem, p7 q3, TP HCM
182. Nguyễn Đức Quỳ, cựu giáo chức, Hà Nội
183. Nguyễn Hữu Tế, đã nghỉ hưu, 163 Đinh Tiên Hoàng, phường Dakao quận 1 TP HCM
184. Chu Văn Keng, Cử nhân Toán, Berlin, CHLB Đức
185. Nguyễn Anh Tuấn, PGS TS, cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khoa học trường ĐHBKHN, Hà Nội
186. Nguyễn Ánh Tuyết, chuyên viên viễn thông, Khâm Thiên, Đống Đa, Hà Nội
187. Nguyễn Tiến Đức, kỹ sư đang nghỉ hưu tại TP HCM
188. Bùi Kế Nhãn, nghề nghiệp tự do, đang sinh hoạt CCB & Cựu TNXP tại địa phương, Vũng Tàu
189. Nguyễn Xuân Thọ, kỹ sư điện tử, 50933 Cologne, CHLB Đức
190. Trần Đồng Minh, giáo viên đã hưu, nghiên cứu văn học, Hà Nội
191. Phan Văn Hiến, PGS TS Hà Nội
192. Phạm Thị Lâm, cán bộ hưu trí, sống tại Hà Nội
193. Bùi Thị Bích Ngọc, Tiến sỹ Nga ngữ, nhà báo, nhà giáo (đã nghỉ hưu), quận Bình Thạnh, TP HCM
194. Triệu Sang, nghề nghiệp: làm ruộng, sống tại tỉnh Sóc Trăng
195. Nguyễn Xuân Văn, kỹ sư, hiện đang công tác tại Thanh Hóa
196. Phạm Vương Ánh, kỹ sư kinh tế, cựu Sỹ quan QĐNDVN, TP Vinh, Nghệ An
197. Lương Nguyễn Trãi, giáo viên THPT, Sài Gòn
198. Nguyen Hung Son, cán bộ hưu trí, tiến sĩ sử học, Hà Nội
199. Lê Cát Tường, tiến sĩ Kỹ thuật (AUS), USA
200. Lê Anh Hùng, blogger, Thanh Xuân, Hà Nội
201. Lê Tuấn Huy, TS, TP. HCM
202. Nguyễn Kim Tuấn, kỹ sư, Sài Gòn
203. Nguyễn Đức Thành, nhân viên kinh doanh, Hà Nội
204. Phạm Mạnh Tuân, số 5 Ngõ Giữa, phố Nhà Chung, TP Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh
205. Dr. Nguyễn Sỹ Phương, Zschortauerstr. 18 04129 Leipzig, BRD
206. Đào Công Tiến, nguyên hiệu trưởng ĐH Kinh tế TpHCM, nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng, 55 Nguyễn Sơn Hà, P5, Q3, TpHCM
207. Trần Hưng Thịnh, kỹ sư đã nghỉ hưu, Hoàng Mai, Hà Nội
208. Nguyễn Thạch Cương, TS Nông nghiệp, nguyên chủ tịch HĐQT, giám đốc công ty cổ phần giống cây trồng Hà Tây, đảng viên, bí thư đảng ủy công ty cổ phần giống cây trồng Hà Tây, Hà Nội
209. KS Doãn Mạnh Dũng, Phó Chủ tịch- Tổng thư ký Hội Biển TP Hồ Chí Minh
210. Nguyễn Văn Hải, Kỹ sư, Cambodia
211. Nguyễn Đức Tùng, M.D., Canada
212. Phạm Văn Lộc, Nhân viên kế toán, Thành phố Hồ Chí Minh
213. Trần Trung Chính, nhà báo, Hà Nội
214. Nguyễn Đình Bá, Giảng vien Khoa Ngoai ngu, Đai hoc Duy Tân Đà Nẵng, Dien thoai: 0989077518
215. Trần Ngọc Tuấn, nhà báo, Levskeho37, Praha, CH Czech
216. Phạm Duy Hiển, hưu trí, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai
217. Đỗ Hoài Đức, giảng viên CĐSP Hà Nội, hiện đang là NCS tại UGent, Vương quốc Bỉ
218. Trần Văn Bang, kỹ sư, cựu chiến binh chống TQ xâm lược Biên giới phía Bắc, Q.Tân Bình, Sài Gòn
219. Nguyễn Lại Giang, Cử nhân Kinh tế, Sài Gòn-Bình Định
220. Hồ Sĩ Hải, kỹ sư, về hưu, Hà Nội
221. Trần Định, nhà báo, nghệ sĩ nhiếp ảnh, Hà Nội
222. Việt Linh, đạo diễn, TP HCM
223. Văn Thị Hạnh, TS Sinh học, hưu trí, TP. HCM
224. Nguyễn Gi Lăng, kỹ sư, Hungary
225. Phạm Xuân Vỹ, hưu trí, TP Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk
226. Ma Van Dung, Vietnam Promotions & PR, Australia
227. Tran Van Tan, kỹ sư, Elisabeth-Selbert Str. 13 12355 Berlin, Germany ( CHLBD )
228. Lê Chiến Thắng, hưu trí, Stuttgart, CHLB Đức
229. Võ Thị Cẩm Hồng (vợ ô. Lê Chiến Thắng), nội trợ, Stuttgart, CHLB Đức
230. Khải Nguyên, dạy học, viết văn, thành phố Hải Phòng
231. Nguyễn Văn Quang, kỹ sư, cán bộ hưu trí, Bạc Liêu
232. Bui Quang Trung, kỹ sư xây dựng, Chelles, Cộng hòa Pháp
233. Lê Phước Sinh, dạy học, nguyên Chủ tịch Ban Đại Diện Học viên Nông Lâm Súc Huế (1973-1974), thành viên Ban Đại Diện Học Sinh Liên Trường Thừa Thiên-Huế, Hiện sống tại Sài Gòn
234. Chu Quang Thứ, Tiến sĩ, Chủ tịch Hội người đi biển Việt Nam, nguyên Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam
235. Nguyen Huy Hung, kỹ sư cơ khí, Okazaki, Nhật Bản
236. Vũ Nhật Khải, PGS. TS. Triết học, nguyên Vụ trưởng, 39 ngõ 178 Tây Sơn Đống Đa Hà Nội
237. Đoàn Hữu Phố, công nhân, đang làm việc và sinh sống tại Bình Dương
238. Nguyen Trung Chi, bộ đội chiến trường K, phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà, TP Đà nẵng
239. Kim Son Vu, Dahlienweg 14d 3422 Kirchberg BE, Switzerland
240. Hong Van Vu, Dahlienweg 14d 3422 Kirchberg BE, Switzerland
241. Nguyễn Hoàng Long, hưu trí, cựu binh chiến trường K, Ngụ tại qu.12 tp. Hồ chí Minh
242. Nguyen Van Thinh, nha bao- nguyen TBT tap chi PHUONG MAI- Binh Dinh
243. Nguyễn Văn Hòa, Kỹ sư Điện Năng, Địa chỉ: 65307 -Koblenzer Strasse, Germany
244. Vũ Thu Hương, TS. địa vật lý, Hà Nội
245. Nguyen Thai Do, Sacramento, USA
246. Trần Quốc Phú, thương nhân, Hồ Chí Minh City
247. Thái Quang Sa, về hưu, nguyên giám đốc nhà máy Z181. Hiện ở Hà Nội
248. Lê Đức Trung, giáo viên, TP Huế
249. Trịnh Hồng Kỳ, nhân viên xuất nhập khẩu, TP. HCM
250. Ta Bac Son, kỹ sư, Quảng Trị
251. Nguyễn Quang Hưng, Quản lý dự án, TP. HCM
252. Trần Quang Hùng, cựu chiến binh, cán bộ hưu trí, Thành phố Nam Định
253. Nguyễn Văn Phúc, nhà giáo nghỉ hưu, Bình Dương
254. Lại Thị Ánh Hồng, doanh nhân, Sài Gòn
255. Lê Văn Điền, Tiến sĩ Toán học, Thành phố Krakow, Ba Lan
256. Nguyễn Hữu Phước, nhà báo, TP.HCM
257. Lê Ngọc Bình, cán bộ hưu trí, TP Hà Nội
258. Nguyễn Thu Trang, kỹ sư hóa, chủ doanh nghiệp tư nhân sản xuất keo chống thấm, Tân Bình, TPHCM
259. Trần Quang Đang, kỹ sư, Pháp
260. Bùi Quang Lộc, giáo viên hưu trí, TP HCM
261. Lê Hồng Nam, sỹ quan quân đội hưu trí, Hà Nội
262. Lê Kim Duy, kỹ sư, đang làm việc tại TP Huế
263. Thích Nguyên Hùng, Tu sĩ, Pháp quốc
264. Thân Hải Thanh, cán bộ đảng viên hưu trí, nguyên Tổng Giám đốc Benthanhtourist, hiện cư trú tại 6/16 Cách mạng tháng 8, phường Bến Thành, quận 1, TP HCM
265. Nguyễn văn Trợ, kinh doanh dịch vụ, TP HCM
266. Nguyễn-Minh-Kính, bộ đội Trường-Sơn, đã nghỉ hưu, hiện sống ở Mỹ
267. Nguyen Me Linh, TS, TP HCM
268. Trần Quốc Hùng, cựu giáo viên, TP HCM
269. Hà Đăng Câu, tàn tật, thương phế binh VNCH, Đồng Nai
270. Lê Văn Ngọ, kỹ sư, 60 Nguyễn Thiện Thuật, Nha Trang, Khánh Hoà
271. Nam Dao Nguyễn Mạnh Hùng, nguyên GS kinh tế, Đại học Laval, Canada
272. Ngô Trí Đức, phiên dịch, 2105/6 Brno,62800 – CZ, Cộng hòa Czech
Ký tên đợt 4
273. HUỲNH SƠN PHƯỚC, Nhà báo- Thành viên Viện IDS, Hội An - Quảng Nam
274. Vũ Quang Chính, Nhà lý luận phê bình phim, Hà Nội
275. Nguyen Minh Hien, nha bao, TPHCM
276. Trần Văn Khoản, nghề nghiệp tự do, Thành phố Vũng Tàu- Tỉnh Bà rịa Vũng Tàu
277. Vũ Ngọc Thăng, dịch giả, Canada
278. Lê Duyệt, lao động tự do, Quảng trị
279. Tư Đồ Thiện, Lập trình viên CNC, Mississauga, Canada
280. Đinh Huyền Hương, giáo viên, t/p HCM
281. Đào Tấn Anh Trúc, thợ điện, Pháp
282. ĐINH THỊ QUỲNH NHƯ, Tiến sỹ, Nguyên Giảng viên Đại học SP Tp HCM (hưu trí), TP HCM
283. Hung Doan - Store Manager, Anaheim, Orange County, California, USA
284. Trần Trung Sơn, Giáo viên, Tiến sỹ, Phó trưởng khoa MBDC trường SQKQ, Nha Trang, Khánh Hòa
285. Lý Đăng Thạnh, Người Chép Sử, TPHCM
286. Hà Quốc Chính, cựu chiến binh Campuchia, TP HCM
287. Thi Nguyen, Troy, Michigan, USA
288. Lê Đức Minh, kỹ sư Điện kỹ nghệ, Cộng Hòa Liên Bang Đức
289. Nguyễn Trường Lưu, Giáo viên, Lâm Đồng
290. Luc Le, Cu ngu tai thanh pho Edmonton, tinh Alberta, Canada
291. Nguyễn Văn Dũng - hiện ở tại thueringen , Cộng hòa liên bang Đức
292. Phạm Xuân Đào, Linh mục, Pháp quốc
293. Phạm Kỳ Đăng, Làm thơ, dịch thuật, viết báo tại CHLB Đức
294. Nguyễn Đào Trường, hưu trí, TP Hải Dương
295. Trần Quang Ngọc, Tiến sĩ, kỹ sư nghỉ hưu, Stuttgart, CHLB Đức
296. Đỗ Sơn Trường. Giáo Viên Điện. Quito, Ecuador
297. Nguyễn Quế Hương, Đồ họa kiến trúc, San Diego, CA 92816 - USA
298. Le Phuong Thao, hưu trí, Hoa Kỳ
299. Bùi Ngọc Thanh, hưu trí, Thụy Sĩ
300. Đặng Ngọc Tuấn, Kỹ sư, Hội An, Quảng Nam
301. Trần Văn Tùng, PGS.TS KInh tế, Hà Nội
302. Nguyen Minh Dang, ky su, 2/15 Truong Chinh, Q Tan Binh, TP HCM
303. Ngụy Hữu Tâm, tiến sĩ vật lý, nguyên cán bộ Việt Vật lý, Viện Khoa học Việt Nam, nay hành nghề tự do: viết sách, báo, dịch giả, hướng dẫn du lịch, Hà Nội
304. Hoàng Trường Sa, nhạc sĩ, California, Hoa Kỳ
305. Nguyễn Minh Phát, Kiến Trúc Sư, Bang New Brunswick, Canada
306. Nguyễn văn Tâm, hưu trí, Thành phố HCM
307. Phan Xuân Ca- Kỹ sư Tự động hóa, Quy Nhơn - Bình Định
308. Doan Kieu Anh – Engineer, Ho Chi Minh City
309. Nguyễn Quốc Minh, Nhà thơ, Hà Nội
310. Nguyễn Tiến Bính, nghỉ hưu tại 102 Thịnh Hào 3, Tôn Đức Thắng, Hà nội
311. Nguyễn Hoàng Công - Thạc sỹ đo lường điều khiển- Tây Hồ - Hà Nội
312. Lưu Hà Sĩ Tâm, Kinh doanh trang trại, Quỳnh Phụ - Thái Bình
313. Nguyễn Hữu Tuyến, kỹ sư hưu trí tại 456/19 Cao thắng, P12, Q10, Sài Gòn
314. Nguyễn huy Dũng, Dân thường Ngụ tại TP Vũng Tàu
315. Khánh Phương, Viết văn tự do, Pennsylvania, Hoa Kỳ
316. Trần công tâm, cử nhân kinh tế, tphcm
317. Nguyen Thi Tâm, huu tri, Ha noi
318. Võ Việt Nam, KIều bào tại Nga
319. Trần Đình Nam, nguyên Trưởng ban biên tập Nhà xuất bản Kim Đồng, Hà Nội
320. Nguyễn Đức Thắng, Kỹ sư, Tp. Hồ Chí Minh
321. Đoàn Nhật Hồng, nguyên giám đốc sở giáo dục Lâm Đồng, Đà Lạt
322. Võ Văn Chánh, nông dân, ấp 3, xã Quới Sơn, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre
323. Đoàn Văn Cánh, PGS TS, Giảng viên cao câp đã nghỉ hưu, Hà Nội
324. Tran Huu Ta, PGS TS, TPHCM
325. Vũ Trí Đức, Làm nghề tự do, Hà Nội
326. Hàn Công Khánh, Kỹ Sư Hóa Tổng Hợp, Nhà Doanh Nghiêp,Hội Viên Hội Nhà Văn, Hà Nội
327. CUNG CHÍNH ĐOÀN, Cựu chiến binh sư đoàn 968, Cán bộ báo Nhân Dân nghỉ hưu, 48 Nguyễn Huy Tưởng , Thanh Xuân , Hà Nội
328. Nguyễn Văn Đức, lao động đã nghỉ việc, Gò Vấp, TP HCM
329. Phạm thị Cư, Tiến sĩ, TP HCM
330. Trần Thành Đức, Tiến sĩ Luật, California, Hoa Kỳ
331. Nguyễn Xuân Diện, Tiến sĩ, Hà Nội
332. Tinh Phan, Ky Su, Anh Quoc
333. Nguyễn Minh Huy, Kỹ sư cơ khí, Tp. HCM
334. Đổ Thị Mẫn, nguyên cán bộ công an quận 1, cư ngụ tại 6/16 Cách Mạng tháng 8, Phường bến Thành, quận 1, TP HCM
335. Ngô Thúy, Họa Sĩ tự do, Hà Nội
336. Nguyễn Văn Hiểu, CBHT, Nha Trang, Khánh Hòa
337. Cao Vi Hiển nguyên phó giám đốc sở Thương Mại Du Lịch nghỉ hưu, thường trú tại 131 Lê Hồng Phong Tp Kon Tum, tỉnh Kon Tum
338. Phạm Văn Hiền, nguyên giảng viên LL trường Chính trị Tô Hiệu, Hải Phòng
339. Phạm vy Long, Cử nhân luật, hưu trí, Tp HCM
340. Tran Thanh, nhà giáo, tp HCM
341. Ngo kim Dung, bac si tai Phap
342. La Đại, Kỹ sư xây dựng, Tiến Lộc, Hậu Lộc, Thanh Hóa
343. Đỗ thị ngọc Lan, nội trợ, Tp HCM
344. Nguyen dong Hoa, cuu chien binh, 25/5 Tran dinh Xu, Quan 1, TP HCM
345. Nguyễn Văn Nghi, Tiến sĩ, 172 Lò Đúc, Hai Bà Trưng, Hà Nội
346. Vũ Quỳnh Giao, hưu trí, Thành phố Hồ Chí Minh
347. Lê đình Lương, hưu trí, Thành phố Hồ Chí Minh
348. Vũ thị Chỉnh, hưu trí, Thành phố Hồ Chí Minh
349. Vũ Huy Cường, hưu trí, thành phố Hồ chí Minh
350. Vũ Kim Cúc. hưu trí, Hà nội
351. Vũ thị Thảo, hưu trí, Hà nội
352. Vũ Như Cương, hưu trí, Hà nội
353. Vũ Hồng Hưng, hưu trí, Hà nội
354. Đỗ Như Ly, kỹ sư, hưu trí, t/p Hồ Chí Minh
355. Nguyễn Quyền, Công Nhân, München CHLB Đức
356. Pet. Xuân Nguyễn, CNTT, Kỳ đồng, P9, Quận 3, Tp HCM
357. Hồ Quang Huy, Kỹ sư, Nha Trang, Khánh Hòa
358. Trần Thanh Vân, KTS đã về hưu, Hà Nội
359. Lê Trần Minh, học sinh cấp 3 trường Hanoi Academy, Hà Nội
360. Le Duy Thien, Thac Sy, Brisbane Australia
361. Hồ Ngọc Nhân, Sinh Viên - Đại học Luật TP.HCM, Bình Định
362. Thân Lê Khuyên, Kinh Doanh, Đồng Nai
363. Nguyễn Hồng Khoái, Chuyên viên Tư vấn Tài chính, 36/55/124, đường Âu Cơ,cụm 5 , P Tứ Liên, Q Tây Hồ, Hà Nội
364. Lương Thanh Liêm, nguyên Tổng Thư ký Tổng đoàn Học sinh Đà Nẵng (1971-1975), cựu tù yêu nước
365. Đặng Trường Lưu, Họa sĩ- Nhà phê bình Mỹ Thuật, Hà Nội
366. Lê thị Xuân Hương, cán bộ hưu trí, Báo Saigon Giải Phóng, TP HCM
367. Nguyen Phu Vinh, Ky Su, tp Ho Chi Minh
368. Vân Hương PAILLET, Grenoble , Pháp
369. Ngô Thanh Hà -CBHT - Sài Gòn
370. Hồ Văn Nhãn, nhà giáo hưu trí, Thành phố Hồ Chí Minh
371. Nguyễn Quốc Ân, Dược sỹ, TP. Hà Nội
372. Hoàng Quý Thân, TS. ngành hệ thống điện, hưu trí, sống tại Hà nội
No comments:
Post a Comment