LÂM CHƯƠNG * LÊ THƠM
Lê Thơm
Lâm Chương
Lời mở: Tôi ra khỏi trại cải tạo, mười lăm năm rồi. Tôi vẫn nhủ với
lòng, hãy quên những ngày khốn khổ ấy đi. Quên để mà sống. Trí nhớ của
tôi bây giờ tồi lắm. Tôi quên nhiều chuyện, nhưng chuyện trong tù tôi
không sao quên được. Nó hằn sâu trong tâm tôi, như cây đinh đóng vào cột
xương sống, làm dấu mốc thời gian. Mỗi lần trí nhớ cục cựa, là mỗi lần
đau.
Sau mỗi lần viết về trại tù CS, tôi lại tự nhủ với lòng, đây là bài cuối
cùng, không nhắc đến nữa. Nhưng nó như cái bóng đen ám ảnh tôi hoài. Và
tôi lại viết về nó. Tôi viết như người kể chuyện, để giải toả nỗi ám
ảnh. Giải toả theo kiểu của anh thợ hớt tóc, trong truyện Một Ngàn Lẻ
Một Ðêm, phải đào lỗ mà la lớn lên rằng, "Ông vua có lỗ tai lừa!" Tôi
không xây dựng thành một cái truyện ngắn của người làm nghệ thuật viết
văn. Tôi chỉ kể chuyện về trại tù CS. Nói bao nhiêu cũng thấy thiếu. Còn
người đọc thì cảm thấy quá thừa. "Biết rồi. Khổ Lắm. Nói mãi."
Trong cái bị làm bằng bao cát của Lê Thơm mang bên hông, có xác một con
chó con. Nó bị bóp cổ chết vào trưa nay. Chuyện này, chỉ hai người biết:
Lê Thơm và tôi. Giết một con chó nhỏ không khó, nhưng mạo hiểm mang ra
cổng trại là một thử thách lớn dành cho kẻ bạo gan.
Con chó lông trắng đốm đen, đẹp như con chó giả nhồi bông. Nó thân thiện
với tất cả mọi người. Ðưa tay, tróc lưỡi vài cái, nó chạy đến quấn
quít. Nó ngây thơ trong trắng lắm. Nó không có tội gì cả. Vậy mà nó bị
giết. Cái số nó chết yểu, nên trời xui đất khiến nó lân la gần gũi với
những con ma đói. Người ta nuôi nó để ăn thịt. Nếu nó không chết bây
giờ, thì ngày 2 tháng 9, cũng chết bởi tay thằng chủ của nó. Từ đây tới
ngày ấy, đâu còn bao lâu? Chỉ sáu tháng nữa thôi. Sau sáu tháng phù du,
rồi cũng bị đem ra tế thần cho mấy ông cán bộ đánh chén say sưa, mừng
ngày độc lập. Chết như thế là chết lãng nhách. Thôi thì hy sinh ngay bây
giờ, còn được ý nghĩa phục vụ nhân sinh.
Mấy hôm trước, Lê Thơm nói: "Tao có kế hoạch ăn no, với điều kiện mày phải hợp tác."
Tưởng gì chứ được ăn no, tôi hợp tác liền. Miếng ăn bây giờ, là vấn đề
quan trọng hàng đầu. Khi đói, bộ nảo tuột xuống nằm trong cái dạ dày.
Mọi suy tính đều hướng về miếng ăn, phục vụ cho cái dạ dày. Từ đó, người
ta bộc lộ hết bản năng sinh tồn. Mà bản năng sinh tồn, thì người và vật
giống nhau.
Tuy thế, tôi vẵn hỏi lại cho rõ: "Kế hoạch thế nào?"
"Mày đấm một cú thật mạnh vào chỗ này." Hắn nghiêng đầu qua một bên, chỉ vào quai hàm.
"Chi vậy? Thằng khùng!"
"Tao muốn dưới mang tai sưng lên, để khai sưng quai bị."
"Và được nghỉ lao động?"
"Nghỉ lao động là cái chắc. Nhưng mục đích chính là kiếm ăn."
"Nói rõ hơn coi?"
Lê Thơm xít lại gần tôi: "Dạo này, sáng trưa chiều, đều sắn. Ngày nào
cũng sắn. Trường kỳ sắn. Nhiều thằng ăn sắn, quai hàm bạnh ra. Có thằng
ma lanh, lấy tay chà xát đỏ lên, rồi khai sưng quai bị. Y tá tưởng thật,
cho nó ra ở nhà cách ly, ngoài hàng rào."
"Ở cách ly, vẫn đói."
"Bên hông nhà cách ly, hàng rào bị phá một khoảng bằng cái lỗ chó chui.
Nếu được ở cách ly, ban đêm tao chui lỗ chó, đột nhập nhà kho, trộm
nếp."
"Chơi trò mạo hiểm, dễ mất mạng. Mày nhớ vụ thằng Khánh nửa khuya chui
rào, ra nương moi khoai lang, bị bắn bể đầu gối, phải cưa chân lên tận
háng không?"
"Ðó là nó chui từ trong ra ngoài. Còn tao chui từ ngoài vô trong."
"Ngoài hay trong cũng vậy. Vệ binh đi tuần thấy bóng người lấp ló ban đêm, nó nổ súng không thương tiếc."
Vụ thằng Khánh thế này. Nó là đại uý pilot. Những thằng Không Quân
thường to con. Vào tù, càng to con càng bất lợi. Ăn uống cùng một tiêu
chuẩn, thằng to con đói nhiều hơn thằng nhỏ con. Vào một đêm đông miền
thượng du, trăng sáng lắm. Khánh chui rào, mò vào nương moi khoai lang.
Cán bộ đi tuần tra an ninh bắt gặp con ma đói. Cán bộ bảo Khánh đứng
nghiêm, rồi chỉa họng súng vào đầu gối của Khánh, bóp cò. Khánh bị bể
khớp xương đầu gối, quỵ ngay tại chỗ. Cán bộ vào báo động, tập họp cả
trại điểm danh. Anh em tù cải tạo không hiểu chuyện gì.
Một lúc sau, vệ binh khiêng Khánh vào, bỏ nằm giữa sân trại. Cấm, không ai được đến gần. Trời đông lạnh buốt. Khánh nằm đau nhức rên la suốt đêm. Sáng ra, Khánh được khiêng lên bệnh xá của đoàn 779. Bệnh xá cũng chỉ có mấy thứ lá cây hái về từ ngoài rừng, sao làm thuốc nam. Hai người tù phục vụ ở bệnh xá, là bác sĩ của chế độ cũ miền Nam, cũng đành bó tay. Phải chuyển Khánh đi nơi khác.
Khánh được võng đi cả ngày đường, qua bao nhiêu sơn khê đồi núi mới ra tới bệnh viện Yên Bái. Tám tháng sau, Khánh về lại trại, với cái chân cụt gần tận háng. Anh em ngồi nghe Khánh kể chuyện, đều khiếp vía. Tại bệnh viện Yên Bái, người ta trói tay chân Khánh vào giường, rồi cưa chân mà không có thuốc tê mê gì cả. Danh từ chuyên môn gọi là "giải phẩu sống". Khánh đau quá, ngất đi mấy lần. Giải phẩu sống lần đầu, vết thương nhiễm trùng sưng tấy lên và làm mủ. Giải phẩu sống lần thứ hai, người ta cho Khánh uống rượu đế đến say mèm, rồi mới cưa. Khánh nói, có rượu vào, cảm thấy ít đau.
Một lúc sau, vệ binh khiêng Khánh vào, bỏ nằm giữa sân trại. Cấm, không ai được đến gần. Trời đông lạnh buốt. Khánh nằm đau nhức rên la suốt đêm. Sáng ra, Khánh được khiêng lên bệnh xá của đoàn 779. Bệnh xá cũng chỉ có mấy thứ lá cây hái về từ ngoài rừng, sao làm thuốc nam. Hai người tù phục vụ ở bệnh xá, là bác sĩ của chế độ cũ miền Nam, cũng đành bó tay. Phải chuyển Khánh đi nơi khác.
Khánh được võng đi cả ngày đường, qua bao nhiêu sơn khê đồi núi mới ra tới bệnh viện Yên Bái. Tám tháng sau, Khánh về lại trại, với cái chân cụt gần tận háng. Anh em ngồi nghe Khánh kể chuyện, đều khiếp vía. Tại bệnh viện Yên Bái, người ta trói tay chân Khánh vào giường, rồi cưa chân mà không có thuốc tê mê gì cả. Danh từ chuyên môn gọi là "giải phẩu sống". Khánh đau quá, ngất đi mấy lần. Giải phẩu sống lần đầu, vết thương nhiễm trùng sưng tấy lên và làm mủ. Giải phẩu sống lần thứ hai, người ta cho Khánh uống rượu đế đến say mèm, rồi mới cưa. Khánh nói, có rượu vào, cảm thấy ít đau.
Nhắc chuyện của thằng Khánh, cũng không làm Lê Thơm nao núng.
"Ðừng doạ tao. Ðấm một cú đi." Lê Thơm nghiêng đầu, đưa quai hàm chờ đợi.
Tôi đẩy ra: "Cú đấm của tao, có thể làm mày tréo bản họng. Mày tự đấm mày đi."
"Tao làm rồi. Nhưng tự đấm mình, tao không dám mạnh tay. Mày giúp tao hoàn thành kế hoạch."
"Kế hoạch của thằng khùng!"
Nói xong, tôi bỏ đi. Lê Thơm cụt hứng, chửi thề.
Hai ngày sau nữa. Ăn trưa xong, anh em vào lán nằm nghỉ ngơi. Lê Thơm,
và tôi còn ngồi lại ở nhà ăn. Con chó nhỏ quanh quẩn dưới chân. Nó mới
xuất hiện khoảng hơn nửa tháng nay. Từ trên khung, nó hay chạy xuống
trại trong giờ ăn.
Nhìn con chó một lúc, Lê Thơm chợt nẫy ý lạ: "Thịt con chó này."
Tôi trợn mắt: "Ðừng đùa. Chó cán bộ trại phó đấy."
Hắn cương quyết: "Chó cán bộ, cũng xơi."
"Làm sao ăn?"
"Tao có cách. Mày dụ nó ở đây. Tao lấy cái bao cát."
Tôi chưa kịp đồng ý hay không. Hắn chạy vụt đi.
Tôi nhìn con chó. Tội nghiệp! Nó không biết gì cả. Tôi đưa tay. Nó liếm.
Tôi vuốt đầu. Nó quíu tai lại. Tôi vỗ nhẹ trên lưng. Nó nghểnh cổ, lim
dim đôi mắt. Quỷ thần trời đất ơi! Nó dễ thương như vậy, ai nở lòng nào
giết cho đành?
Lê Thơm cầm bao cát, hấp tấp chạy lại: "Nhanh lên!"
Tôi lắc đầu.
Hắn mở rộng miệng bao giơ ra, giục: "Nhanh! Bóp cổ, thồn vào."
Không còn suy nghĩ nữa, tôi chụp cổ con chó, siết mạnh. Nó giãy giụa,
quào bốn chân trong không khí. Lê Thơm túm chân, tròng vào bao cát.
Hắn nói: "Tiếp tục bóp."
Nếu có kẻ nhìn thấy, hậu quả khốn nạn sẽ không lường nổi.
Tôi kêu lên: "Kinh quá mày ơi! Tha nó đi."
Tôi buông tay. Con chó vừa kêu "ẳng" một tiếng, đã bị Lê Thơm siết cổ lại liền.
Tới giờ xuất trại lao động buổi chiều, cả đội xếp hàng đôi, lần lượt ra
cổng. Cán bộ trực trại, và quản giáo đứng ngay cổng kiểm soát. Vệ binh
coi tù, mang súng đi sau cùng. Lê Thơm lảnh việc nấu nước cho đội. Hắn
quảy cặp thùng, mang bị đựng chó bên hông, thản nhiên đi ra cổng. Tôi
vái thầm, cầu trời cho hắn thoát. Và hắn thoát thật. Tôi thở phào, nhẹ
cả người.
Ra đến hiện trường lao động, mọi người túa vào rừng chặt nứa. Rừng xanh
mênh mông. Ðồi núi chập chùng. Vệ binh mang súng đi qua đi lại ngoài bìa
rừng, canh tù làm việc. Lê Thơm chọn thế đất tương đối bằng phẳng. Việc
đầu tiên, hắn đào một cái hố nhỏ. Ai cũng tưởng hắn đào bếp lò. Nhưng
thật nhanh, hắn cho con chó xuống, và lấp đất lại. Bên trên, hắn đốt một
đống lửa, nấu nước. Ðó là chuyện hắn kể sau này.
Trong giờ giải lao. Tôi tới chỗ nấu nước. Lê Thơm múc cho tôi một ca
nước sôi. Nhìn quanh, không thấy có dấu hiệu gì chứng tỏ Lê Thơm nướng
chó.
Tôi hỏi nhỏ: "Chó đâu?"
Hắn chỉ vào đống lửa.
Tôi lấy cớ mồi lửa đóm hút thuốc lào, dùng cái que cời than lên, vẫn không thấy chó.
Hắn bảo: "Ði khỏi chỗ này ngay. Ðừng làm tụi nó sinh nghi."
Tôi tin tưởng vào tài ứng biến của Lê Thơm. Xưa kia, hắn là thiếu tá, có
thời làm quận trưởng quận Chợ Lách, tỉnh Vĩnh Long. Ngày nay vào tù,
hắn nhanh chóng thích nghi với hoàn cảnh mới, lanh lợi trong mọi vấn đề.
Nhất là cải thiện, hắn nhanh như sóc. Trong đội, không thằng nào qua
mặt được Lê Thơm. Thoáng thấy đó, biến đó không ngờ. Hồi hắn còn trong
tổ làm vườn. Giờ trưa, mọi người đều nghỉ ngơi. Hắn lúi húi moi khoai
lang, đem xuống suối rửa, nhưng mắt vẫn rảo quanh quan sát.
Hắn thấy Thu Sứt từ những bụi cây đàng xa, đang rình mò theo dõi hành động của hắn. Tay này mang quân hàm trung uý, có người anh vào Nam làm giải phóng, và bỏ mạng trong trận chiến mùa hè năm 72, ở Bình Long. Bao nhiêu hận thù, Thu Sứt trút lên đầu anh em tù cải tạo. Sở dĩ Thu Sứt có biệt danh này, là do cái môi bẩm sinh bị sứt, phải vá lại. Vì thế cái miệng chum chúm, làm cho cái mặt luôn luôn mang nét quạu quọ như người đang hờn giận. Có lần, Thu Sứt bắt gặp anh Năng đang cải thiện. Thu Sứt gọi về, bắt Năng đứng giữa bốn vệ binh vây quanh.
Thu Sứt hạ lệnh cho bốn vệ binh bề hội đồng. Năng bị đấm văng bên này, bị đá giạt bên kia, giống như những cầu thủ giao banh. Cuối cùng, Năng gục xuống ngất xỉu, được khiêng về trại cho anh em tù săn sóc. Sau thành tích ấy, Thu Sứt nổi danh là hung thần ác sát. Trong trại còn một người nữa, cũng nổi danh không kém Thu Sứt. Ðó là chàng trung sĩ vệ binh Nương Mặt Ngạnh. Thật ra, anh ta tên là Lương, nhưng do nói ngọng thành Nương, và do xương quai hàm bạnh ra, nên có biệt danh là Nương Mặt Ngạnh. Khi dẫn tù đi lao động, anh ta cầm theo chiếc gậy bằng cây giang, trông như khúc đoản côn. Ðã nhiều lần anh ta quất thẳng cánh vào anh em tù cải tạo. Ai từng bị đòn của Nương Mặt Ngạnh cũng đều ẹo xương sống.
Thành tích của Nương Mặt Ngạnh ở hiện trường lao động rất đáng gờm. Anh ta bắt tù đứng trên triền núi. Thế núi dốc, anh ta đứng phía trên. Sau vài câu đay nghiến, bỗng Nương Mặt Ngạnh đá thốc dép râu vào mặt người tù. Bất ngờ không kịp chống đỡ, người tù ngả vật ra, sặc máu mũi. Trong kỳ cả trại học tập về chính sách khoan hồng nhân đạo của đảng và nhà nước, anh em tù phản ảnh chuyện này lên ông trại trưởng. Ông trại trưởng bảo: "Chính sách của đảng và nhà nước trước sau như một. Nhưng các anh quá quắc, không trừng trị không được." Thế là huề! Ðảng và nhà nước vẫn tiếp tục chủ trương khoan hồng nhân đạo. Anh em tù vẫn tiếp tục bị trừng trị.
Hắn thấy Thu Sứt từ những bụi cây đàng xa, đang rình mò theo dõi hành động của hắn. Tay này mang quân hàm trung uý, có người anh vào Nam làm giải phóng, và bỏ mạng trong trận chiến mùa hè năm 72, ở Bình Long. Bao nhiêu hận thù, Thu Sứt trút lên đầu anh em tù cải tạo. Sở dĩ Thu Sứt có biệt danh này, là do cái môi bẩm sinh bị sứt, phải vá lại. Vì thế cái miệng chum chúm, làm cho cái mặt luôn luôn mang nét quạu quọ như người đang hờn giận. Có lần, Thu Sứt bắt gặp anh Năng đang cải thiện. Thu Sứt gọi về, bắt Năng đứng giữa bốn vệ binh vây quanh.
Thu Sứt hạ lệnh cho bốn vệ binh bề hội đồng. Năng bị đấm văng bên này, bị đá giạt bên kia, giống như những cầu thủ giao banh. Cuối cùng, Năng gục xuống ngất xỉu, được khiêng về trại cho anh em tù săn sóc. Sau thành tích ấy, Thu Sứt nổi danh là hung thần ác sát. Trong trại còn một người nữa, cũng nổi danh không kém Thu Sứt. Ðó là chàng trung sĩ vệ binh Nương Mặt Ngạnh. Thật ra, anh ta tên là Lương, nhưng do nói ngọng thành Nương, và do xương quai hàm bạnh ra, nên có biệt danh là Nương Mặt Ngạnh. Khi dẫn tù đi lao động, anh ta cầm theo chiếc gậy bằng cây giang, trông như khúc đoản côn. Ðã nhiều lần anh ta quất thẳng cánh vào anh em tù cải tạo. Ai từng bị đòn của Nương Mặt Ngạnh cũng đều ẹo xương sống.
Thành tích của Nương Mặt Ngạnh ở hiện trường lao động rất đáng gờm. Anh ta bắt tù đứng trên triền núi. Thế núi dốc, anh ta đứng phía trên. Sau vài câu đay nghiến, bỗng Nương Mặt Ngạnh đá thốc dép râu vào mặt người tù. Bất ngờ không kịp chống đỡ, người tù ngả vật ra, sặc máu mũi. Trong kỳ cả trại học tập về chính sách khoan hồng nhân đạo của đảng và nhà nước, anh em tù phản ảnh chuyện này lên ông trại trưởng. Ông trại trưởng bảo: "Chính sách của đảng và nhà nước trước sau như một. Nhưng các anh quá quắc, không trừng trị không được." Thế là huề! Ðảng và nhà nước vẫn tiếp tục chủ trương khoan hồng nhân đạo. Anh em tù vẫn tiếp tục bị trừng trị.
Trở lại chuyện Lê Thơm khi bị Thu Sứt theo dõi. Hắn biết nguy tới nơi
rồi. Hắn cho tất cả khoai lang vào thùng tưới, đi lên. Ở đằng xa, Thu
Sứt nương theo những bụi cây đi tới, quyết bắt tại trận tên tù đang cải
thiện. Lê Thơm chờ cho Thu Sứt đi khuất sau chòm cây, hắn trút thùng
khoai xuống hố ủ phân bắc. Rồi quay xuống suối như đang tiếp tục xách
nước tưới rau. Phân bắc là cứt người, ủ lại để bón rau. Hố phân bắc đầy
giòi bọ, và mùi rất khắm.
Thu Sứt xuất hiện, khi Lê Thơm đang múc nước dưới lòng suối.
Anh kia! Làm gì đấy?"
Xách nước tưới rau."
Anh rửa gì dưới suối?"
"Tôi có rửa gì đâu?"
"Láo! Anh vớt tất cả đem lên đây."
"Có gì mà vớt?"
"Khoai lang."
"Làm gì có?"
"Hãy mò xuống, vớt lên."
Lê Thơm mò xuống, vớt lên những sỏi đá."
Tức quá, Thu Sứt xăn quần lội xuống suối. Mò chỗ cạn không thấy, Thu Sứt
mò ra sâu hơn, ướt cả quần, vẫn không thấy. Thu Sứt quay lên, mặt hầm
hầm bảo Lê Thơm về ngay, trình diện trên khung.
Tại khung, Thu Sứt đưa tờ giấy, bình mực, và cây bút cho Lê Thơm, bảo: "Viết kiểm điểm."
Lê Thơm hỏi lại: "Chừng nào nộp giấy?"
"Chiều nay."
"Không kịp. Tôi còn phải đi lao động."
"Cho anh nghỉ việc buổi chiều. Ở lại lán viết kiểm điểm."
Lê Thơm viết, đại ý rằng từ ngày đi cải tạo, hắn luôn phấn đấu để trở
thành người tốt. Cán bộ bảo viết kiểm điểm. Nhưng hắn không biết kiểm
điểm về vụ gì? Mong cán bộ chỉ dẫn.
Buổi chiều. Lê Thơm đem giấy lên nộp. Thu Sứt đọc xong, vỗ bàn: "Kiểm điểm về vụ cải thiện khoai lang. Biết chưa?"
"Nhưng tôi đâu có cải thiện khoai lang?"
"Có. Anh phải viết rằng anh có cải thiện khoai lang. Nghe rõ chưa?"
"Vâng. Tôi rõ. Xin cho biết chừng nào nộp giấy?"
"Cho anh nghỉ việc sáng mai, viết kiểm điểm. Trưa hôm sau nộp."
Thu Sứt đưa Lê Thơm tờ giấy khác. Anh ta yên chí sẽ căn cứ vào nội dung
tờ kiểm điểm, nện cho Lê Thơm một trận mập mình, và cùm vào nhà kỷ luật.
Lần thứ hai, Lê Thơm viết rằng: Tôi đang đứng dưới suối xách nước tưới
rau. Cán bộ nghi ngờ tôi đang rửa khoai lang. Và ra lệnh cho tôi phải
viết có cải thiện khoai lang. Tôi tuân lời cán bộ, nhận có cải thiện
khoai lang. Nhưng thật sự tôi không dám làm chuyện vi phạm nội quy như
thế."
Trưa hôm sau. Thu Sứt đọc kiểm điểm của Lê Thơm xong, xé toạc tờ giấy, giận dữ: "Viết láo lếu thế này, thì sao gọi là tự giác?"
Lê Thơm bình tĩnh: "Tôi viết theo lệnh của cán bộ."
Thu Sứt gầm lên: "Câm họng. Cút ngay! Lần sau, dù có lủi giỏi như chạch cũng không thoát."
Trong tù, Lê Thơm dám "giỡn mặt" cán bộ, quả là lớn gan. Tôi phục hắn.
Nói theo Thu Sứt, hắn lủi giỏi như chạch. Hắn đã thoát không phải một
lần, mà nhiều lần sau nữa. Chỉ một lần sau cùng, hắn không thoát được.
Và lần không thoát được ấy, đưa Lê Thơm đến sự tử vong. Tôi đã nói về
trường hợp Lê Thơm bỏ mạng, trong một truyện khác.
Tối hôm thịt con chó, trời vừa nhá nhem, Lê Thơm khều tôi ra ngoài đầu
hồi. Hắn mở cái bị, lôi ra con chó cứng đơ, dính đầy đất cát. Hắn lột
da, xé miếng thịt đưa tôi. Chưa bao giờ ăn thịt chó, tôi nghe nhờn nhợn
trong cổ khi cầm miếng thịt.
Lê Thơm bảo: "Ăn đi. Nguồn protéin bổ dưỡng vô song."
Hắn nhai ngấu nghiến. Tôi bắt chước ăn thử, thấy ngon. Tôi nghĩ, với sự
đói khát lâu ngày, bất cứ món gì cho vô miệng cũng thấy ngon. Thằn lằn,
rắn mối, cào cào, châu chấu, ốc sên, dế nhủi đều ngon, và cũng là nguồn
protéin cần thiết cho cơ thể. Ðặc biệt, có con sâu màu trắng thường rúc
trong gỗ mục, toàn thân nó chứa một chất sữa rất béo. Con sâu vô danh
này, tù đặt tên là con Magarit. Có thể nói con Magarit là sâm động vật,
giá trị không thua sâm thực vật của Ðại Hàn.
Hai chúng tôi ăn đến nửa con chó, thì đụng phần thịt sống. Bởi khi chôn
con chó xuống đất, phía trên nóng nhiều làm thịt chín, nhưng không đủ
sức chín tới phía dưới.
Lê Thơm nói: "Ăn luôn. Người tiền sử vẫn ăn thịt sống."
Tôi đề nghị: "Cắt ra từng miếng nhỏ, cho vào lon Guigoz nấu."
"Mang ra mang vô cổng trại, nguy lắm."
"Tới phiên tao mạo hiểm. Tao sẽ nấu ngay đêm nay."
Ðêm ấy, tôi lần mò trong bóng tối, vào nhà bếp cời than đặt vào hai
chiếc lon Guigoz. Xong, lại quay về lán ngồi đợi thịt chín. Khi lấy lon
về, cũng phải ra vào hai bận. Công việc chỉ có thế, nhưng vô cùng nguy
hiểm. Vệ binh rình rập đâu đó, thấy bóng người ra khỏi lán mà không cầm
theo cây đèn dầu, chúng sẽ bắn, nếu không chết cũng bị thương. Tôi tin
con người có số mạng. Dù ở tù, nhưng ngôi sao chiếu mạng của tôi còn
sáng lắm. Quỷ thần che chở cho tôi trong mọi trường hợp bất trắc hiểm
nguy.
Ngay trong đêm, Lê Thơm và tôi thanh toán sạch luôn hai gon Guigoz thịt.
Con chó nhỏ được chôn kín vào nơi không trời không đất. Hoàn toàn mất
dấu.
Khi ăn, tôi nói: "Nghĩ tội con chó quá, mày ơi!"
Lê Thơm nói: "Cũng bởi tình cảm tiểu tư sản như thế, mà hôm nay mới vào tù."
Tôi lại nói: "Miếng ăn tưởng chừng rất nhỏ nhoi. Nhưng có lúc người ta
dám đem cả sinh mạng mình ra thử thách. Xem thế, đủ biết cái ăn là quan
trọng vô cùng."
Lê Thơm gạt ngang: "Ðừng triết lý vặt, ăn mất ngon, con ạ!"
Vài hôm sau, ông đại uý cán bộ trại phó cầm sợi dây cột chó, xuống trại vào giờ ăn trưa. Ông đi quanh quẩn tìm kiếm.
Ông hỏi: "Các anh có thấy con chó của tôi chạy xuống đây không?"
Mọi người im lặng.
Lê Thơm lên tiếng: "Con chó nào, cán bộ?"
"Con chó trắng đốm đen."
"Có phải con chó nhỏ không?"
"Ðúng rồi."
"Ồ... Lúc trước, nó vẫn thường chạy lại đây. Hai ngày nay không thấy."
"Hôm qua, tôi còn cho nó ăn. Mới mất hôm nay thôi."
Lê Thơm sốt sắng: "Tôi sẽ để ý. Nếu thấy, tôi giữ nó lại, báo cho cán bộ."
Ông trại phó lắc đầu thất vọng: "Chắc bị cáo vồ rồi."
Nói xong, ông quay đi.
Lê Thơm thầm thì với tôi: "Mình thịt con chó đã hai ngày. Nó nói hôm qua còn cho chó ăn. Bọn này hễ mở miệng ra là nói láo. Chuyện lớn chuyện nhỏ đều láo."
"Có phải con chó nhỏ không?"
"Ðúng rồi."
"Ồ... Lúc trước, nó vẫn thường chạy lại đây. Hai ngày nay không thấy."
"Hôm qua, tôi còn cho nó ăn. Mới mất hôm nay thôi."
Lê Thơm sốt sắng: "Tôi sẽ để ý. Nếu thấy, tôi giữ nó lại, báo cho cán bộ."
Ông trại phó lắc đầu thất vọng: "Chắc bị cáo vồ rồi."
Nói xong, ông quay đi.
Lê Thơm thầm thì với tôi: "Mình thịt con chó đã hai ngày. Nó nói hôm qua còn cho chó ăn. Bọn này hễ mở miệng ra là nói láo. Chuyện lớn chuyện nhỏ đều láo."
BÙI TRỌNG CƯỜNG * DI TẢN VÀ VƯỢT BIÊN
DI TẢN VÀ
VƯỢT BIÊN
KÝ ỨC VỀ NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN
CỘNG SẢN
Bùi Trọng
Cường & Nguyễn Phục Hưng
Sau ngày 30-4-1975, một ký giả Tây phương đã
viết là ‘Dưới chính sách khắc nghiệt của Cộng
sản, nếu cái cột đèn mà biết đi chắc nó
cũng…vượt biên’. (Ginetta
Sagan). Câu nói dí dỏm của Sagan đã diễn tả
được một thực trạng rất bi hài của
dân dộc Việt Nam trong khoảng thời gian hơn
hai mươi năm kể từ
Tháng Tư, 1975 cho đến năm 1996.
Những người chạy trốn
chế độ Cộng Sản có thể chia làm hai đợt
chính: Đợt đầu được mệnh danh là
người Di Tản vì họ rời Việt Nam ngay trong
khoảng tháng Tư 1975 và đợt thứ hai thường
được mệnh danh là ngưòi Vượt Biên, dù bằng
đường bộ hay đường biển.
Di Tản
Ngày 30 tháng 4, 1975 là ngày chính thức
ghi nhân sự sụp đổ của Việt Nam Cộng
Hoà trước làn sóng xâm lăng của cộng quân. Cuối
tháng 4,1975 đã có những đợt rời Việt Nam của
các nhân viên và gia đình các sứ
quán, công ty ngoại quốc cũng như nhừng người
Việt có phương tiện riêng hoặc được các cơ quan Hoa Kỳ
và các nước đồng minh bảo trợ. Ngày 29 tháng tư 1975, Tổng Thống
Hoa Kỳ Gerald Ford chính thức ra lịnh khỏi động
chiến dịch “Frequent Wind” để di tản quân
nhân, nhân viên dân sự Mỹ và
một số người Việt
đã từng cộng tác hay liên hê với chính phủ Mỹ
và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa rời khỏi Việt
Nam để tránh bị Cộng
Sản trả thù.
Cùng thời điểm này, rất
nhiều người Việt Nam cũng đã quyêt đinh
di tản. Họ là những
người mà đã ít nhất một lần bỏ nơi
chôn nhau cắt rốn, bỏ mồ mả ông bà, tổ tiên
để di cư vào Nam năm 1954, họ là những
người đã có ít nhiều hiểu biết, kinh nghiệm
về cộng sản, họ là những người đã
may mắn vượt thoát được sau cuộc triệt
thoái của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa khỏi miền
Cao nguyên và miền Trung, họ là những người chối
bỏ chế độ cộng sản. Ðó là lý do mà làn
sóng người di tản trong tháng Tư 1975 đã làm nhiều
người ngạc nhiên với con số khoảng 300 ngàn
người và các cơ quan cứu trợ quốc tế
đã phải mất nhiều thời gian để giúp họ
định cư ở các nước tự do nhất là Mỹ,
Canada, Úc, Tân Tây Lan và các trai tạm cư ở Subic Bay
(Philippines), Guam, Wake Island, California, Arkansas, Florida, Pensylvania ãa
phải mở mãi cho đến cuối năm 1975.
Chiến dịch ‘Frequent Wind” trên
nguyên tắc chỉ kéo dài từ 3:30 chiều ngày 29 tháng
tư và chấm dứt vào đúng 21 giờ ngày 30 tháng
tư, 1975 khi người lính Mỹ cuối cùng được
trục thăng bốc khỏi Sàigòn và trụ sở của
cơ quan DAO (Defence Attachés Offfice) của Hoa Kỳ được
Thủy quân lục Chiến Hoa kỳ cho phá nổ. Tuy nhiên với làn sóng người
di tản rầm rộ đổ ra biển Thái Bình Dương bằng
các tàu hải quân, thương thuyền và cả các tàu
đánh cá nhỏ, việc cứư
vớt người vẫn được tiếp tục
trong nhiều tuần sau đó.
Hạm đội số 7 của Hải quân Hoa Kỳ
với các hàng không mẫu hạm Hancok , Midway và nhiều tàu chiến hạm cũng
như nhiều thương thuyền Hoa kỳ và quôc tế
đã tham dự vào chiến dịch cứu vớt người
trên biển rồi chuyển qua các trai ty nạn ở Subic,
Guam trước khi phân tán họ đi tị nạn tai Hoa
kỳ và các nước tự do khác như Canada, Uc, Pháp,
Anh, vân vân. Trên thực tế,
giai đoan di tản và vượt biên không có sư gián
đoạn. Có chăng chỉ
là sự phân chia thời điểm chính phủ Hoa Kỳ
chấm dứt chiến dịch vớt người trên biển
mà thôi, còn sự ra đi của người Việt vần
tiếp tục không ngừng.
Những hình ảnh sau đây ghi nhận
cảnh hãi hùng của một cuộc di tản chưa từng
có trong lich sử Việt Nam và thế giới.
Đoàn người Di tản
từ miền Trung
Helicopter Evacuation
From the American Embassy
Dân Di Tản Chạy
ra Tr ực Thăng tại Trụ sở DAO, Saigon
Dân Di Tản
đến Midway bằng trực thăng Hoa Kỳ
Một máy bay
VNCH chở người di tản đáp xuống Midway
Một Thuyền
Đánh Cá chở người Di Tản được
Midway tiếp cứu
Cuộc Di Tản tháng tư năm
1975 đã có nhiều cảnh
đẫm máu và nước mắt nhưng tình nhân loai cũng đã được
biểu lộ rõ rệt từ những quân nhân và các cơ
quan từ thiện. Sau khi
đã đến đựợc Mỹ hay các nước mở
vòng tay đón nhân, dân Di Tản còn phải trải qua nhiều
khó khăn như sự khác biệt
ngôn ngữ, văn hóa, vân vân để tạo lại cuộc
sống.
Vượt
Biên
Họ ra đi
mà không biết mình đi đâu, sẽ đến đâu;
đa số không biết gì về đại dương
cùng những nguy hiểm của những chuyến hải
hành cũng như không biết gì về những khó khăn
khác đang chờ đợi họ. Ðó là lý do mà có lúc
người ta đã nói “ nếu có ba người vượt
biên thì chỉ có một người đến bến an
toàn, một người chết trên biển vì bảo tố,
đói khát và hải tặc và một người sẽ bị
bắt lại và đi tù”.
The State of the World’s Refugees 2000:
50 Years of Humanitarian Action
Những Người Vượt
Biên là ai và tai sao họ phải liều mình đi tìm Tự
Do?
Họ chính là những
người chậm chân trong giai đoạn Di Tản. Có thể
lúc đó họ còn chút hy vọng là những người Cộng
sản cũng còn chút lương tâm và sáng suốt không nỡ
đối xử với những người dân miền
Nam như kẻ thù không đội trời chung và họ sẵn
sàng cộng tác với những người Cộng sản
để cùng xây dựng một Đât nước Thông Nhất
trong Hòa Bình. Họ đã lầm
sau bao nhiêu ngày lầm than tôi mọi cho những người Cộng
Sản vô lương. Họ
đã mất hết tài sản, tự do và cả phẩm
giá con người dưới chánh sách trả thù tàn bạo
của Cọng sản. Họ
có thể chịu nghèo khổ để hy vọng vào một
tương lai xán lạn.
Nhưng tương lai chỉ có tù đầy, thù hận
và dối trá. Thế hệ của họ coi như bỏ
vì họ đã lỡ tin Cộng Sản. Nhưng còn thế
hệ con cái họ? Họ không thể chịu cực khổ
nhìn con cái họ trở thành những con vật trong xã hội
Cộng sản Xã hội Việt Nam đã lùi lại hơn
30 năm sau cái ngày gọi là ‘giải phóng’. Tương lai họ còn gì đâu
ngoài một lối đi duy nhất: Vượt Biên. Nếu may ra thoát được
qua bờ Tự Do thì con cái họ còn có hy vọng sống
được một cuộc đời đáng sống.
Còn không, đời sống ở Việtnam có khác gì đã
chết. Bới vậy Họ
đã quyết chí liều mình
Vượt Biên qua Cam-pu-chia, đến Thái Lan hay Vượt Biển qua Mã Lai, Nam
Dưong, Phi Luật Tân nơi nào cũng được, miễn
là ra khỏi điạ ngục Việt Nam bất chấp
sự bắt bớ lùng xét của công an, hiểm nguy của
hải tặc, bão tố hãi hùng ngoài biển Đông.
Sau đây là vài
trích đoạn từ các tác phẩm viết về tỵ nạn:
“Người Việt Nam chỉ ra
đi trong thế cùng, không còn cách nào có thể sinh sống tại
quê hương của mình. Ðây là một cuộc bỏ phiếu
vĩ đại chống lại chế độ cộng
sản Hà Nội bằng chính mạng sống của mình.
Trong số nầy, rất nhiều người mang hoài bảo
sẽ có một ngày trở về quang phục quê
hương. Số người
tử nạn trên bước đường vượt
biên không thể thống kê chính xác được. Người ta phỏng chừng từ
400.000 đến 500.000 thuyền nhân bỏ mình trên biển
cả hay bị hải tặc bắt giết.
Vượt biên năm 1975 là cuộc xuất
ngoại vĩ đại nhất trong lịch sử Việt
Nam kể từ ngày lập quốc. Ðây là một sự kiện hoàn
toàn bất ngờ đối với Nam Việt, Bắc Việt,
Hoa Kỳ và cả thế giới.
Trước đó, không một ai có thể tiên đoán
được phong trào vượt biên sẽ xảy ra
đến mức lớn lao như thế. Phong trào vượt biên kéo dài từ
1975 đến 1996 ngang bằng với thời gian chiến
tranh từ 1954 đến 1975. Tổng số người rời
bỏ đất nước bằng tất cả các cách,
cộng với những người tử nạn trên
đường vượt biên, lên đến khoảng gần
bằng tổng số dân chúng và quân nhân Việt Nam cả
Nam lẫn Bắc tử trận trong cuộc chiến từ
1954 đến 1975 (khoảng 3,000,000).
Những Thuyền
Nhân nằm la liệt trong khoang tàu
Những đợt
vượt biên ào ạt, bất chấp mạng sống
đã làm rúng động lương tâm nhân loại, và
đã phơi trần bản chất độc ác của
chế độ Cộng Sản Việt Nam (CSVN) trước
công luận thế giới. Sự
kiện nầy là tiếng chuông cảnh tỉnh đối
với nhân loại về “Thiên Đường Cộng Sản” và trở thành động cơ
thúc đẩy các nước Ðông Âu ly khai chủ nghĩa cộng sản, và
dẫn đến sự sụp đổ của khối
cộng sản năm 1990-1991?
Phỏng theoTrần Gia Phụng
‘‘Bước vào đầu thế
kỷ 21, Việt Nam vẫn là một trong các nước chậm
tiến trên thế giới, mặc dầu có sẵn tiềm
năng, nhưng vì sai lầm nghiêm trọng của
đường lối Xã Hội Chủ Nghĩa. Những
thảm trạng xẩy ra trong hơn nửa thế kỷ
vừa qua cần phải được ghi nhớ, trong
đó có hai sự kiện gần nhất là việc nhà cầm
quyền cộng sản giam cầm công dân vô tội trong tù
cải tạo và việc người dân trốn ra ngoại quốc trong những
điều kiện bất trắc đầy nguy hiểm.
Giam giữ người vô tội trong các trại tập
trung cải tạo, chế
độ cộng sản đã một mặt vi phạm tội
ác, một mặt phung phí năng lực quốc gia để
phục vụ mục tiêu đảng phái. Đảng
Cộng Sản không chịu
thú nhận rằng chính tàn bạo của họ là nguyên nhân
khiến người dân phải bỏ nước ra
đi, mà họ còn lợi dụng cơ hội ra đi
đó để cướp đoạt tài sản, thu vàng
bán bãi, mặc cho tài năng quốc gia thất thoát ra ngoài
và biết bao người dân lương thiện đã bị
chết kinh hoàng trên biển cả.
Phạm Hữu Trác – Vàng Máu và Nước Mắt
Trong 2
năm qua, nhất là từ tháng 9 năm 1978, làn sóng người
tị nạn từ nước Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đang tràn ngập các trại tị nạn
ở Ðông Nam Á. Ngoài ra, hàng
trăm ngàn người Việt Nam đã bị chính quyền
Hà Nội bắt buộc ra đi trên những con tàu không thể
đi biển được, và đã biến mất trên
Biển Ðông đầy bất trắc. Ở một số bờ biển
Thái Lan, các ngư dân đã phải quay tàu về đất
liền khi chứng kiến cảnh hãi hùng như một phần
thi thể của người vượt biển vướng
vào lưới, vân vân.
Thuyền Nhân
trên đường vượt biển
Vì sao quá nhiều người liều mạng
bỏ trốn khỏi Việt Nam? Ta có thể tìm thấy
câu trả lời khá dễ dàng trong các chính sách hậu chiến
đã được công khai thực hiện: “tiêu diệt
các thế lực thù nghịch: trừng trị những kẻ
bù nhìn, đánh bại giới tư bản, đánh đuổi
người Trung Hoa.”
Hiện tượng thuyền
nhân đã phản ảnh được cái đau khổ của
người phải rời bỏ quê hương. Họ không phải chỉ kín
đáo đi từ bên này sang bên kia biên giới, chờ
đợi cơ hội quay về khi mọi chuyện
đã trở lại bình thường hay theo ý họ mong muốn. Họ ra đi, không hề biết
trước mình sẽ đến đâu, không có viễn ảnh
hồi hương, và cam chịu mọi hiểm nguy. Họ phải đang tâm cắt bỏ
những ràng buộc với quê hương và dân tộc.
Vietnamese
refugees http://www.library.ubc.ca/asian/FinalAsian/Vietnam/V-08.html
Thuyền nhân là những người không chịu
đựng được
chính sách hà khắc của chính quyền cộng sản
Họ là những người mà trước năm 1975,
không bao giờ muốn rời bỏ quê hương. Trớ trêu thay, lịch sử
đã đảo lộn, đã thay đổi cuộc đời
ho vượt xa sức họ tưởng tượng,
đến mức họ phải quyết định bỏ
lại sau lưng tất cả những người và những
gì yêu quý, liều mạng sống của mình cũng như
chấp nhận mọi nỗi kinh hoàng của một
tương lai bất định, để rời khỏi
Việt Nam.
Lesleyanne Hawthorne - Refugee - The Vietnamese
Experience
Những ‘thuyền nhân’, danh từ thế giới
gán cho họ, thường phải chịu nhiều rủi
ro lớn lao, từ rất lâu trước khi đặt
được chân xuống tàu.
Trong khi cố gắng tìm cách để thoát được
công an và lính biên phòng, họ đã chấp nhận rủi ro
bị bắn, hoặc nhẹ nhất là, bị bắt lại
và bỏ tù. Những ai may mắn
xuống được tàu phải ra đi trên các thuyền
đánh cá mỏng manh đầy ắp người không
thích hợp để đi vượt đại
dương. Thường
thường, họ nhắm hướng đi đến
Thái Lan hoặc Mã Lai, nhưng lại cập bến ở
đâu đó giữa Hồng Kông và Úc Ðại Lợi. Biển cả cũng cướp
đi một số người mà không ai biết được
là bao nhiêu.
Thuyền chở
162 người vượt biển bị đắm lúc sắp
đáp được vào
http://www.cic.gc.ca/english/department/legacy/chap-6a.html
Tuy vậy, cuối cùng
thì câu chuyện về những người tị nạn
Ðông Dương là câu chuyện về những người
bị từ chối. Trước
tiên và đau đớn nhất, họ bị chính quyền
của chính nước họ khước từ. Họ cũng nhiều lần bị
cự tuyệt bởi các quốc gia lân bang nơi họ
đến xin tạm trú, và bị từ chối ít nhất
là vào lúc đầu bởi các nước Tây Phương và
Nhật Bản, những quốc gia duy nhất có khả
năng và tấm lòng cứu vớt thuyền nhân.
Barry Wain - The refused: The
Agony of The Indochina Refugees
“Chúng tôi cần gạo và
thực phẩm. Trong những
ngày này, chúng tôi không có tiền để mua thêm thức
ăn. Chúng tôi không được
phép có công việc làm. Nếu
thực phẩm được phát trễ, chúng tôi chỉ
việc nhịn đói. Chúng
tôi có rất ít nước uống, vì đang là mùa khô. Tôi nghĩ nếu mọi chuyện
không thay đổi, chúng tôi sẽ chết hết.”
Refugee:
Thailand, 1978
“Trong bệnh viện, một
người đàn ông và đứa con trai đang khóc trên
lán. Tàu họ đã đến
đêm hôm trước, nhưng bị lật úp. Người vợ, người mẹ
đã chết đuối.”
Delegates
of ‘Society of Friends’: Malaysia, 1979
“Các lính tuần tra phát hiện
có những bao ni-lông xoáy tròn trên mặt nước. Họ chuẩn bị tăng tốc
độ vọt đi tiếp, thì khám phá ra rằng, các bao
nhựa này đã được thổi phồng, căng lên,
để chở hai em bé sơ sinh, dĩ nhiên là chưa biết
bơi. Người mẹ
đang ra sức đẩy chúng.
Người cha đã không may chết đuối
trước đó.”
Report:
Mekong River Crossing, 1978
Người mẹ của
một em trai 14 tuổi kể lại, tàu của cô bị hải
tặc từ một tàu cào của Thái Lan nhảy sang. “Tôi biết bọn chúng sẽ làm
gì”, cô vừa kể vừa khóc nức nở. “Tôi van xin chúng đừng làm gì
trước mặt con trai tôi.
Vì thế, chúng đưa tôi vào cabin tàu, rồi 7 tên
cưỡng hiếp tôi trong đó.”
Refugee:
Malaysia, 1979
Anh Huỳnh Văn Trân, 34 tuổi, ngồi
trên 1 băng ghế gỗ ở trại tị nạn
Songkhla ở 1 bờ biển cực nam của Thái Lan, thuật
lại câu chuyện của mình lần thứ ba.
Anh ra đi trên một chiếc tàu gồm 62
người đàn ông, phụ nữ và trẻ em. Họ may
mắn gặp thời tiết và gió thuận lợi, và không
bị rắc rối gì về máy tàu. Vào ngày thứ 5 trên biển, một
chiếc tàu mã lực lớn dài 15 mét đến cặp sát
mạn tàu anh. Có 12 người
đàn ông trên thuyền, tất cả đều trang bị
vũ khí đầy đủ.
Trước hết, chúng ra lệnh cho hai người
trong số phụ nữ sang tàu chúng. Một trong hai người này là vợ
anh Huỳnh Văn Trân. Cô này bị
ghì chặt xuống, súng trường kê sát thái dương,
và bị ra lệnh không được kêu la. Cô bị chúng cưỡng hiếp. Bọn hải tặc sau đó nhảy
qua tàu tị nạn, cướp đi mọi thứ có giá
trị, bắn một người đàn ông còn do dự
khi chúng cướp. Sau đó
chúng tăng tốc độ phóng đi với các món của
cải chiếm được, nhưng thình lình quay ngoắt
lại. Vẫn giữ nguyên tốc
độ tối đa, chúng nhắm thẳng vào tàu tị
nạn và đâm mạnh. Chiếc tàu hải tặc đã lập
đi lập lại hành động này trong khi nhóm người
tị nạn đang hốt hoảng ngoi ngóp giữa biển
khơi. Bọn cướp biển cố ý lái tàu cán qua vô số
chiếc đầu đang nhấp nhô, có lẽ vì không muốn
để sót lại nhân chứng nào. Khi vợ anh Trân còn đang chới
với trên mặt nước, với đứa con trai mới
lên 3 đang níu chặt cổ mẹ, cả hai đã bị
tàu cán qua và chết đuối. 10 người trong số họ
sống sót, sau đó được vớt lên và đưa
tới Songkhla.
Toàn thể thính giả
đều nín lặng. Ðó là một
câu chuyện thương tâm hơn những chuyện khác,
nhưng hẳn nhiên không phải là ngoại lệ, hiếm
có. Có rất nhiều tàu tị nạn đã bị hải
tặc tấn công nhiều hơn một lần.”
UNHCR:
1979
Bao nhiêu thuyền nhân
đã chết ngoài biển khơi? Không ai biết chắc cả. Nhiều người nói với
chúng tôi rằng có lẽ 5% các tàu rời Việt Nam đã bị
mất tích, nhưng nhiều người lại cho là có
đến 70% tàu không hề đến được bờ.
Delegates of
‘Society of Friends’: Pulau Bidong, 1979
Georgina
Ashworth The boat people and the road
people
Trong vài năm đầu những
thuyền tỵ nạn còn được tiếp đón tử
tế bởi dân chúng và chính phủ các nước láng giềng
nhưng vì làn sóng tỵ nạn ngày càng nhiều nên những
niềm nở ban đầu đã bị giảm xuống
hoặc tệ hơn đã bị thay bằng thái độ
xua đuổi như đã từng xẩy ra ở Thái Lan,
Mã Lai. Tầu của người tỵ nạn, khi bị
tầu hải quân Mã kéo trở ra hải phận quốc tế
có một số đã bị chìm và làm chết oan một số
người. Do đó nếu như may mắn không bị
bắt lại, thoát được gió bão, không hư máy dọc
đường và không gặp hải tặc các thuyền
nhân vẫn chưa chắc sẽ đến được
các trại tạm cư. Ðó là chưa kể đến
những khó khăn về đủ mọi phương tiện
từ vệ sinh, y tế, nước uống, thực phẩm…nơi
các trại tỵ nạn. Thật ra dùng chữ trại
tỵ nạn cho lịch sự vậy thôi chứ vào thời
điểm ấy không một quốc gia nào có thể
lường được là con số người chạy
cộng sản, bỏ nước ra đi sẽ đông
đến như vậy. Do đó chẳng có quốc
gia nào đã có những sửa soạn để có thể
đón tiếp một số lượng người đến
quá ào ạt và nhiều đến thế. Trại tỵ
nạn đã là những kho xưởng, những trại
lính, những chiếc phà cũ, những chiếc phao nổi,
những hòn đảo san hô hoặc đảo hoang, nhỏ
nằm chơ vơ giữa đại dương. Ðặt
được chân trên đất là phải đi tìm cỏ,
đốn cây để dựng lều để tạm
trú tránh cái nóng ban ngày và cái lạnh ban đêm….Còn nhiều nhiều
nữa, kể sao cho hết những cái khổ của kiếp
lưu vong. Ðến năm 1988 vì quá mệt mỏi với
số người tỵ nạn phải cưu mang trên
hơn mười năm, Cao Ủy tỵ nạn và các quốc
gia có trại tạm cư đã quyết định áp dụng
hệ thống thanh lọc để xác định tư
cách tỵ nạn chính trị của các thuyền nhân nếu
họ đến sau ngày 16-6-1988. Quyết định
này cũng đã gây ra khá nhiều thảm cảnh rất
đáng thương như được kể lại dưới
đây.
Sau đây là
vài trích đoạn về những thảm cảnh đầy
nước mắt đó.
“0 giờ ngày 16-6-1988 mở đầu một
định mệnh khác cho những người Việt Nam
vượt biển đến Hồng Kông. Kể từ
ngày này họ sẽ bị đối xử như những
người nhập cảnh bất hợp pháp và phải
chờ chính phủ thanh lọc để xác định
tư cách tỵ nạn chính trị, trước khi
được cứu xét cho đi định cư ở
nước thứ ba. Thời điểm phủ nhận
ý nghĩa ban đầu sự ra đi của người
vượt biển. Thời điểm đánh đổ
mọi luận cứ sắp sẵn về quyền tỵ
nạn, về quyền đi tìm chỗ trú, và đồng
thời che dấu luôn sự bất lực của con
người trước thảm cảnh của đồng
loại, sự hấp hối của lương tri trước
nỗi khổ của những cuộc khởi hành muộn.
Như một tấm màng nhện giăng ra chận bắt
những cuộc đời lưu lạc, thời điểm
16-6 dựng nên những trại giam khổng lồ trên khắp
thuộc địa Hồng Kông, ghi thêm một thảm cảnh
thời đại.”
Lê Ðại Lãng - NƯỚC MẮT TRONG TIM
“Ngày 20/5/1994, Lê Xuân Thọ,
28 tuổi, tự rạch bụng mình và tự thiêu. Sau
đó anh đã chết vì phỏng nặng.” Phạm Văn Châu, một cựu
quân nhân Việt Nam, tự thiêu ở trại tị nạn
Galang, Nam Dương ngày 26/4/1994. Hai ngày thì anh qua đời.
Vietnamese refugees were
allowed to come on shore at the Government Dockyard at Canton Road. A number of water taps were installed for
them to take a cold shower.
http://www.library.ubc.ca/asian/FinalAsian/Vietnam/V-20.html
Ngày 12/4/1992, Nguyễn Văn Quang, một hạ
sĩ thuộc Tiểu đoàn 1 Không vận của Nam Việt
Nam, đã treo cổ tự tử ở trại Galang, Nam
Dương, sau khi bị khước từ tư cách tị
nạn chính trị, và đơn kháng cáo của anh cũng bị
bác. Anh mất đi để
lại 1 góa phụ và 3 đứa bé mồ côi cha còn nhỏ
dại.
Ngày 30/8/1991, tại trại Galang, Nam
Dương: cô Trịnh Kim Hương, 28 tuổi, tự
thiêu sau khi bị phủ nhận tư cách tị nạn
chính trị.
Hoàng Thị Thu Cúc, 26 tuổi, một trong số
vài người sống sót khi vượt biên khỏi Việt
Nam. Cha cô là lãnh tụ của một
chính đảng chống cộng và đã chết trong ‘trại
cải tạo’ của cộng sản. Gia đình cô bị trục xuất
khỏi nhà, tới một trại lao động cưỡng
bức. Bản thân Cúc cũng
bị đuổi khỏi trường vì ‘lý lịch gia
đình xấu’. Bất kể
những sự kiện trên, cô vẫn bị khước từ
quy chế tị nạn. Tháng
12/1992, khi đơn kháng cáo của cô cũng bị bác bỏ,
cô đã treo cổ tự tử, để lại bốn
anh em trai ở trại Sikiew, Thái Lan.
Vụ tự sát của Lâm Văn Hoàng, 22 tuổi,
đã gây nên một cuộc biểu tình phản đối ở
trại tị nạn Pulau Bidong, Mã Lai. Anh đã lao mình từ vách đá xuống
biển, sau khi bị từ chối tư cách tị nạn
chính trị vào tháng giêng năm 1991.
Trần Văn Minh, cựu Trung úy, treo cổ
tự tử ngày 10/10/1992. Ông được cấp quy chế
tị nạn chính trị, nhưng người con trai Trần
Minh Khôi, 18 tuổi, đã bị rớt ‘thanh lọc’. Vì Khôi không có 3.000 đôla Mỹ mà
các viên chức duyệt xét đòi hỏi, đơn kháng cáo
của anh sau đó cũng bị bác.
Ngày 8/12/1993, Trần Anh Dung từ trần khi
lên cơn suyễn, sau khi Cao ủy tị nạn Liên Hiệp
Quốc (LHQ) đóng cửa trạm y tế duy nhất trong
trại tị nạn.
Tháng 2/1993, Lưu Thị Hồng Hạnh, một
em gái 16 tuổi không người thân thích, đã tự thiêu
sau khi Cao ủy tị nạn LHQ rút lại quy chế tị
nạn của em.
Vietnamese refugees
arriving at Hong Kong by junks.
http://www.library.ubc.ca/asian/FinalAsian/Vietnam/V-27.html
Crowd of refugees
http://www.library.ubc.ca/asian/FinalAsian/Vietnam/V-18.html
“Chị thương, hôm
nay em đã bị từ chối tư cách tị nạn
chính trị. Rạng sáng mai, em
sẽ treo cổ tự tử để thoát mọi đau
khổ. Nhưng lúc nào em cũng
sẽ ở bên cạnh chị để che chở cho chị
và các cháu”
(Thư tuyệt mệnh
của anh Nguyễn Văn Hai, 27 tuổi, viết
cho chị, vào buổi tối trước khi tự tử
trong Trại cấm Whitehead, Hồng Kông, ngày 16/2/1990.)
“Bản tường trình của luật
sư đã khiến tôi phải sống trong lo sợ. Nó
đã dần dần đẩy tôi vào chỗ chết.”
(Trịnh Anh Huy, 20 tuổi, tự thiêu
ngay trước văn phòng của Cao ủy tị nạn
LHQ ở Galang, Nam Dương, ngày 27/8/1992.)
“Tôi chết đi không phải vì tuyệt vọng,
mà vì tôi muốn đem lại niềm hy vọng và sự sống
cho nhiều người khác.”
(Vài hàng tuyệt mệnh của Nguyễn
Ngọc Dung, 25 tuổi. Ngày 3/5/1993, anh đã tự đâm
vào tim và chết tức khắc trước văn phòng Cao ủy
tị nạn LHQ tại trại Sungei Besi, Mã Lai.)
Living in the Refugee
Camp
http://vietnamese-american.org/tuantran/journey.html
VIETNAMESE BOAT
PEOPLE – A CRY TO HUMANITY
Inside the Refugee
Camp
http://vietnamese-american.org/tuantran/journey.html
Boat people were
waiting for medical checks before transferring to refugee camps
http://www.library.ubc.ca/asian/FinalAsian/Vietnam/V-32.html
Lời Kết
Cuộc Di Tản
và Vượt Biên sau ngày 30 tháng tư năm 1975 là một bản
án muôn đời đối với chính sách vô nhân đạo
của Cộng Sản Việt Nam. Những cảnh tượng
đau thương, kinh hoàng mà người Di Tản và Vượt Biên phải
gánh chịu thật không bút nào ta hết. Tuy nhiên trong biến cố đầy
bất hạnh đó, cũng không thiếu những tấm
lòng bao dung, thể hiện rõ
tình người, của binh sĩ và dân chúng Hoa Kỳ cũng như các
quốc gia trong thế giới tự do, nhất là các
nước vùng Đông Nam Á đã bao dung chúng ta tại các
trai tị nạn.
Chúng ta mang ơn dân chúng và chính phủ các
quốc gia đã cưu mang người Việt tỵ nạn,
giúp chỗ tạm cư, cho phép định cư hoặc
đã cứu vớt tầu tỵ nạn khi lạc lối,
hết lương thực hay máy tầu bị hỏng. Chắc chắn là sự
thành công của thế hệ thứ hai trong Cộng Ðồng
Người Việt Hải Ngoại, sẽ không bao giờ
xảy ra nếu không có sự
cưu mang của các quốc gia trong Thế Giới Tự
Do vào thời điểm đen tối đó.
Ngày hôm nay, sau hơn 30
năm tỵ nạn, viết lại một phần nhỏ
trong những nỗi khổ đau của dân tộc để
chúng ta ôn lại và ghi nhớ một sự kiện lịch
sử không phải là của riêng Việt Nam, mà là của thế
giới, trong đó chính chúng ta vừa là tác nhân, vừa là
nhân chứng.
Các em tới Trại Tỵ Nạn
. . . và thành công trên quê hương thứ
hai
Hơn 30 năm sống
lưu vong, lúc nào đa số chúng ta cũng vẫn mong có
ngày trở về để góp phần xây dựng lại
quê hương lạc hậu, giúp cho dân tộc ta sớm
được sống trong không khí Tự Do, Dân Chủ
đích thực mà dân ta chưa bao giờ được
hưởng.
Ðiều này chỉ có thể
xảy ra khi người Việt trong và ngoài nước thật
tâm đặt quyền lợi của Tổ Quốc lên trên
mọi quyền lợi riêng tư và thoát được sự
chi phối của các thế lực chính trị quốc tế.
* * *
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tran Gia Phung – Speech Delivered at Montreal, Canada on April 30,
2002
Nguyễn Văn Canh - Cộng Sản Trên Ðất Việt
- Kiến Quốc 2003
Ashworth Georgina – The
Boat People and The Road People – Quartemaine House 1979
Phạm Hữu Trác – Hội Quốc
Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do – VÀNG MÁU và NƯỚC MẮT: Khảo Sát Về Tù Cải
Tạo và Vượt Biên Trong Giới Y Sĩ – 2000
Paul Anthony – Why They Flee Their Homeland – Reader’s Digest
December 1979
Grant Bruce – The Boat People: An ‘AGE’ Investigation – Penguin
Books 1979
Hawthorne Lesleyanne – Refugee The Vietnamese Experience – Oxford
University Press 1982,
Wain Barry – The Refused: The Agony Of The Indochina Refugees – Simon & Schuster 1981
Lê Ðại Lãng – Bút
Ký Hồng Kông: NƯỚC MẮT TRONG TIM – 1990, p. I
Support Committee for Refugees from Vietnam – Vietnamese Boat
People: A CRY TO HUMANITY – 1994
* * *
TRẦN MẠNH TRUNG * CHỬI MỸ & THẺ XANH ĐI MỸ
Chửi Mỹ và thẻ xanh đi Mỹ
Trần Mạnh Trung (Cán bộ Tuyên huấn hưu trí) - Vụ Dương Chí Dũng lộ ra quá trình trốn chạy và thiên hạ mới ngã người. Dũng có visa vào Mỹ từ đời tám hoánh nào. Buôn bán làm ăn thì Dũng bắt tay với Nga, với Tàu nhưng chuẩn bị lúc sa cơ thì chuồn sang Mỹ. Đảng viên, gia đình cách mạng truyền thống đấy. Có phải là bọn con em VNCH đâu mà tính nước đi Mỹ từ lâu thế..
Điên cuồng chửi Mỹ, đứng đầu là Hồ Thu Hồng - tức blog Beo. Bà Beo chửi
Mỹ can thiệp vào nhân quyền Việt Nam vô lý. Bà chửi nghị sĩ Mỹ ngu đần,
hám quyền chức. Mỗi khi phái đoàn nhân quyền của Mỹ hay Hạ Nghị Viện Mỹ
nhắc đến vấn đề nhân quyền Việt Nam là y như lần đấy có mặt bà Beo đăng
đàn chửi bới, mạt sát Mỹ, đưa ra những luận điệu, dẫn chứng mà cơ quan
an ninh hay dùng.
Vì sao bà Beo chửi Mỹ và có những luận điệu, dẫn chứng ấy. Vì bà là cánh
tay truyền thông của cơ quan an ninh, đứng đầu là tình nhân Nguyễn Văn
Hưởng, cho nên bà phải phụ họa với an ninh và có những tin tức bên an
ninh cấp cho để viết.
Đáng lẽ bà Beo phải cảm ơn cái nghĩa tình ấy, thế nhưng bà nhảy tót đi
Mỹ và chửi bới như thường. Thì ra bà Beo Hồ Thu Hồng đã sắm cho mình thẻ
xanh ở bển, nơi mà chứa đầy bọn ''rân chủ'' mà bà vẫn miệt thị gọi lúc
tại chức. Hóa ra mảnh đất Mỹ ấy tốt lành không phải như bà Beo vẫn chửi
mọi khi. Tốt cả người, tốt cả đất, tốt cả chính sách. Phải thế bà Beo
mới gửi con mình và gửi thân già mãn kinh đến nơi như thế chứ.
Vụ Dương Chí Dũng lộ ra quá trình trốn chạy và thiên hạ mới ngã người.
Dũng có visa vào Mỹ từ đời tám hoánh nào. Buôn bán làm ăn thì Dũng bắt
tay với Nga, với Tàu nhưng chuẩn bị lúc sa cơ thì chuồn sang Mỹ. Đảng
viên, gia đình cách mạng truyền thống đấy. Có phải là bọn con em VNCH
đâu mà tính nước đi Mỹ từ lâu thế.
Rồi lại vụ đại lừa đảo Huyền Như mấy nghìn tỷ bằng hàng trăm triệu usd,
lòi ra mới thấy chỉ cần bỏ ra 1 phần mấy trăm ấy là đã có thẻ xanh định
cư tại bọn tự bản đế quốc thối nát mà ta vẫn chửi hàng này.
Từ con thủ tướng đến bà tổng biên tập tờ báo quèn đều được gửi gắm thẻ
xanh bên Mỹ cả. Sự thật đấy bà con ạ. Giữa con thủ tướng và con của Beo
Hồng còn nhiều con cái của các vị khác. Không tin bà con cứ đến lãnh sự
quán các bang Hoa Kỳ, vào những ngày lễ lạt gì đó là thấy nay cả đám lúc
nhúc con của cán bộ cấp ủy viên trung ương. Đặc biệt là con của cả
nhiều vị tướng an ninh, công an có mặt trong đó nữa.
Một số bọn này đã có cơ sở, điều kiện để định cư. Có công ty, cửa hiệu
kinh doanh. Một số khác thì đang đi học tự túc. Thử hình dung xem bọn
cán bộ và con cháu cán bộ này lấy tiền đâu ra để kinh doanh, để tự túc
học?
Tiền của đất nước, của nhân dân cả đấy.
Chúng lấy tiền của nhân dân ta. Chửi Mỹ cho nhân dân ta nghe. Rồi khi có
sự, chúng chuồn êm sang Mỹ với số tiền chúng lấy được của nhân dân ta.
Chúng bảo Tàu là bạn, chúng bảo nhân dân ta phải kết tình nghĩa với Tàu.
Chúng nói Mỹ là kẻ thù, chúng ta phải cảnh giác, xa lánh.
Thế nhưng chúng lại không sang Tàu ở, chúng lại đi Mỹ ở mới lạ làm sao?
Đến bao giờ những luận điệu xảo trá này của bọn chúng mới bị nhân dân ta
vạch mặt? Chỉ khi đó chúng ta mới mong được đất nước có tương lai tươi
sáng còn không thì chúng ta vẫn bị lừa bịp, biết mà không dám phản bác,
còn không thì chúng ta vẫn tiếp tục ăn đồ độc hại của Tàu, sống trong
cảnh o bế của Tàu. Còn bọn chúng, những đứa to mồm chửi Mỹ lại đang sống
phè phỡn bên Mỹ. Lúc chúng gặm gà rán, khoai tây sạch. Chúng sẽ cười
nhân dân ta là một lũ ngu.
PHAN HẠNH * CÁC BỨC TRANH GIÁ BẠC TỶ
Những bức tranh của Việt Nam được thế giới trả giá bạc tỷ
(08.10.2013, 06:42 pm GMT+7)
(Dân trí) - Lịch sử Mỹ thuật Việt Nam có thể tự hào với những bức tranh đậm chất dân tộc đã từng được thế giới trả giá hàng chục tỷ trong các phiên đấu giá.
Tranh của họa sĩ Lê Phổ (1907-2001)
Bức tranh Bức màn tím được bán với mức giá kỷ lục 7.9 tỷ đồng.
Họa sĩ Lê Phổ (sinh ngày 02 tháng 08 năm 1907, mất ngày 12 tháng 12 năm
2001) là họa sĩ bậc thầy Việt Nam và trên thế giới theo trường phái hậu
ấn tượng với nhiều tác phẩm đắt giá. Trong suốt cuộc đời của mình, dù
định cư tại Pháp từ năm 1937 và từ đó không còn về thăm lại Việt Nam,
họa sĩ Lê Phổ luôn nhắc về những tình cảm sâu đậm của mình với quê
hương, đất nước. Trong tranh của ông, những đặc trưng về Việt Nam, Á
Đông được thể hiện qua nét vẽ những người phụ nữ hoà mình với tự nhiên
và trẻ thơ. Vào tháng 9 năm 1993, khi tuổi đã cao, họa sĩ Lê Phổ bày tỏ
lòng biết ơn sâu nặng bằng một «món quà» là 20 bức tranh lựa chọn rất
cẩn thận để biếu Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Có thể nói trong số các họa sĩ Việt Nam, hiếm có họa sĩ nào như Lê Phổ
để lại một gia tài nhiều tác phẩm có giá trị về mặt nghệ thuật cũng như
giá trị kinh tế. Tại các phiên đấu giá tranh của nhà đấu giá Sotheby's
tại Hongkong, tranh của Lê Phổ có một vị trí đáng nể so với tranh của
các họa sĩ khác ở châu Á. Vào tháng 4 năm 2012, tại Hồng Kông bức tranh
“Bức màn tím” (Le Rideau Mauve) đã được bán với mức giá kỷ lục 7.9 tỷ
đồng, và trở thành mức giá cao nhất từng được trả tại một cuộc đấu giá
cho một tác phẩm từ một nghệ sĩ Việt Nam.
Trước đó vào năm 2009 tại nhà đấu giá Sotheby’s Singapore, bức tranh “Hoài cố hương” của Lê Phổ cũng đã được mua với giá cao khoảng 4.7 tỷ đồng.
Trước đó vào năm 2009 tại nhà đấu giá Sotheby’s Singapore, bức tranh “Hoài cố hương” của Lê Phổ cũng đã được mua với giá cao khoảng 4.7 tỷ đồng.
Bức tranh Hoài cố hương vẽ năm 1938 có giá 4.7 tỷ đồng.
Cùng năm đó bức tranh sơn mài Phong cảnh Bắc Kỳ của ông cũng đã vượt giá
sàn một cách bất ngờ và được mua với giá 5.6 tỷ đồng. Theo Sotheby’s,
đây là một bức sơn mài đặc biệt hiếm của Lê Phổ bởi ông vốn chuyên về
tranh lụa và sơn dầu. Hãng đánh giá đây là tác phẩm “kết hợp tinh thần
của nghệ thuật sơn dầu với chất liệu sơn mài Việt Nam, tác giả đã tạo
nên một tác phẩm tuyệt đẹp, thể hiện chiều sâu không gian của phong
cảnh. Mọi yếu tố trong tranh cũng đậm chất Việt Nam từ con sông, ngọn
núi đến ruộng lúa”
Tranh của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh
Chân dung họa sĩ Nguyễn Phan Chánh, bậc thầy về tranh lụa Việt Nam.
Nguyễn Phan Chánh (1892-1984) là một danh họa trong nghệ thuật tranh
lụa. Ông là người đầu tiên mang vinh quang về cho tranh lụa Việt Nam.
Với những thành tựu trong sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Phan Chánh đã được
mời tham gia giảng dạy Mỹ thuật tại một số trường học, trong đó có
Trường Bưởi và Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội (1955). Ông đã góp phần
đào tạo nhiều thế hệ họa sĩ Việt Nam sau này.
Suốt cuộc đời làm nghệ thuật, Nguyễn Phan Chánh đã để lại một sự nghiệp đồ sộ với số lượng ước khoảng trên 170 tác phẩm. Ông là người đang giữ kỷ lục về số tác phẩm được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Tháng 5/2013, tác phẩm mang tên “Người bán gạo” (La Marchand de Riz) sáng tác năm 1932 của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh đã được bán với mức giá kỷ lục 8.3 tỷ đồng (390 nghìn USD) tại nhà đấu giá Christie’s Hong Kong. Ban đầu nó chỉ được định mức 80 USD do một thực tập sinh của Christie’s ở trụ sở London đánh giá nhầm rằng đây là tranh của một nghệ sỹ Trung Quốc không ký tên. Sau khi được gửi tới châu Á, các chuyên gia ở đây nhận ra chữ ký đằng sau tấm toan thuộc về họa sĩ Phan Chánh và xác định lại được giá trị đích thực của bức tranh này.
Suốt cuộc đời làm nghệ thuật, Nguyễn Phan Chánh đã để lại một sự nghiệp đồ sộ với số lượng ước khoảng trên 170 tác phẩm. Ông là người đang giữ kỷ lục về số tác phẩm được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Tháng 5/2013, tác phẩm mang tên “Người bán gạo” (La Marchand de Riz) sáng tác năm 1932 của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh đã được bán với mức giá kỷ lục 8.3 tỷ đồng (390 nghìn USD) tại nhà đấu giá Christie’s Hong Kong. Ban đầu nó chỉ được định mức 80 USD do một thực tập sinh của Christie’s ở trụ sở London đánh giá nhầm rằng đây là tranh của một nghệ sỹ Trung Quốc không ký tên. Sau khi được gửi tới châu Á, các chuyên gia ở đây nhận ra chữ ký đằng sau tấm toan thuộc về họa sĩ Phan Chánh và xác định lại được giá trị đích thực của bức tranh này.
Bức tranh “Người bán gạo” của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh
Tranh của họa sĩ Mai Trung Thứ
Chân dung họa sĩ Mai Trung thứ chụp năm 1942
Mai Trung Thứ hay Mai Thứ (1906-1980) là một hoạ sĩ nổi tiếng của nền mỹ
thuật hiện đại Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20. Ông là một trong những
họa sĩ tốt nghiệp khóa đầu tiên của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
(1925-1930). Mai Trung Thứ được coi là họa sĩ góp phần quan trọng tạo
nên sự phong phú về màu sắc của chất liệu tranh lụa Việt Nam.
Đề tài yêu thích của ông là về phụ nữ, trẻ em và cuộc sống hàng ngày với cái nhìn mang đầy màu sắc dân gian và bản sắc văn hóa truyền thống của Việt Nam. Những cuộc trưng bày các tác phẩm của ông tại nhiều triển lãm trên thế giới đã góp phần giúp hội họa hiện đại Việt Nam được biết đến nhiều hơn tại phương Tây.
Đầu tháng 10/2010, tại Trung tâm Hội nghị và Triển lãm ở Hong Kong, đại diện của nhà bán đấu giá Sotheby's đã tổ chức phiên bán đấu giá những tác phẩm hội họa hiện đại và đương đại Đông Nam Á trong đó có các tác phẩm của nhiều họa sĩ Việt Nam. Trong số này có 5 bức tranh của họa sĩ Mai Trung Thứ. Mới đây hồi tháng 5, bức tranh lụa có tên “Gathering at the Pavilion” đã được bán tại nhà đấu giá Christie’s Hong Kong với giá 2.7 tỷ đồng. Trước đó vào tháng 4, hãng Sotheby’s Hong Kong cũng đã bán 1 tác phẩm tranh lụa khác có tên “Mẹ và các con” (Fille et garcon avec maman) của ông với giá 1.4 tỷ đồng. Ngoài ra còn rất nhiều các tác phẩm khác của ông đang được hãng rao bán với giá cao.
Đề tài yêu thích của ông là về phụ nữ, trẻ em và cuộc sống hàng ngày với cái nhìn mang đầy màu sắc dân gian và bản sắc văn hóa truyền thống của Việt Nam. Những cuộc trưng bày các tác phẩm của ông tại nhiều triển lãm trên thế giới đã góp phần giúp hội họa hiện đại Việt Nam được biết đến nhiều hơn tại phương Tây.
Đầu tháng 10/2010, tại Trung tâm Hội nghị và Triển lãm ở Hong Kong, đại diện của nhà bán đấu giá Sotheby's đã tổ chức phiên bán đấu giá những tác phẩm hội họa hiện đại và đương đại Đông Nam Á trong đó có các tác phẩm của nhiều họa sĩ Việt Nam. Trong số này có 5 bức tranh của họa sĩ Mai Trung Thứ. Mới đây hồi tháng 5, bức tranh lụa có tên “Gathering at the Pavilion” đã được bán tại nhà đấu giá Christie’s Hong Kong với giá 2.7 tỷ đồng. Trước đó vào tháng 4, hãng Sotheby’s Hong Kong cũng đã bán 1 tác phẩm tranh lụa khác có tên “Mẹ và các con” (Fille et garcon avec maman) của ông với giá 1.4 tỷ đồng. Ngoài ra còn rất nhiều các tác phẩm khác của ông đang được hãng rao bán với giá cao.
Hai tác phẩm tranh lụa được bán với giá cao của họa sĩ Mai Trung Thứ.
Phan Hạnh
dantri
dantri
NGUYỄN MẠNH TRINH * MAI THẢO
Tháng Giêng tưởng niệm 'thi sĩ Mai Thảo'
;
Mai Thảo qua ống kính Nguyễn Bá Khanh.
CỠ CHỮ
15.01.2014
Thuở sinh thời, nhà văn Mai Thảo viết Tháng Giêng Cỏ Non. Từ ngày 10 tháng Giêng năm 1998, là ngày ông từ trần, tới nay là mười lăm năm. Cỏ non bây giờ đã phủ đầy mộ chí.…
Có một người làm thơ, đã khắc trên bia mộ của mình bài thơ tứ tuyệt:
Thế giới có triệu điều không hiểu
Càng hiểu không ra lúc cuối đời
Chẳng sao khi đã nằm trong đất
Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi.”
Có một người viết văn, coi việc cầm bút là làm đẹp cho đời, mang chữ nghĩa để biểu tỏ tấm lòng thiết tha yêu đời yêu người. Những trang tùy bút đẹp, những tiểu thuyết tình yêu có nét lãng mạn riêng mang nét đặc thù một mình một chiếu. Người ấy, đã là chủ nhiệm Sáng Tạo, mang một không gian mới cho khí hậu văn học Việt Nam, cũng như đã từng là chủ nhiệm tạp chí Văn một giai đoạn ở hải ngoại, hình thành một thời kỳ văn chương sôi động và phong phú của những người lưu vong của thập niên 80. …
Có một người trong suốt cuộc đời mình tuy quảng giao, nhiều bạn nhưng lúc nào cũng cảm thấy cô đơn, như một người luôn đi tìm kiếm cái vô cùng nhưng cuộc đời thì còn nhiều hữu hạn. Người ấy, tự nhận là mình không thành công trong tình ái nhưng lại có nhiều giai thoại tình yêu đặc biệt. Trong cuộc đời, có những nét khác người, cả về văn chương lẫn nếp sống …
Người ấy, là nhà văn Mai Thảo.
Quả thực, cõi văn chương của Mai Thảo có một phong thái riêng, một mình một chiếu. Chữ nghĩa văn xuôi của tác giả những “Đêm giã từ Hà Nội”, “Căn nhà vùng nước mặn”, “Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời”… là ngôn từ đẫm chất thơ nhưng lại cố tâm sử dụng để không còn là một thể loại trang hoàng mà tạo thành một bản chất văn chương tạo thành ấn tượng. Đọc lại những đoạn văn tả tình tả cảnh, thấy man mác những không gian thời gian, bàng bạc những cảnh thổ, những nỗi niềm.
Nguyễn Tuân đã nâng nghệ thuật viết tùy bút lên một bực khi viết những trang chữ phản ánh một thời đã qua cũa những con chữ lấp lánh ánh nắng hoàng hôn của hồi tưởng. Có sự cầu kỳ, có chút làm dáng nhưng tất cả là kết tinh của trân trọng chữ nghĩa nâng niu văn chương. Còn với Mai Thảo, tất cả đều là thơ, từ những câu văn thật dài hay những câu thật ngắn, có lúc như những lời cộc lốc, có lúc trầm bổng như ngầm chứa biển cả tiết tấu bên trong. Cái mục đích duy nhất là làm đẹp, đẹp cho đời sống và đẹp cho văn chương.
Cái chủ đích duy mỹ ấy, đã tạo thành những mẫu nhân vật đẹp, những tâm tình đẹp, nhiều khi hiếm hoi trong đời. Từ nội dung suy tưởng đến hình thức diễn tả, là những dấu ấn mà Nguyễn Đình Toàn đã gọi là “một chữ cũng Mai Thảo, một câu cũng Mai Thảo”.
Trong những tập truyện ngắn của mình, Mai Thảo đặc biệt thích tập “Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời”. Trong khi trả lời câu phỏng vấn của Jane Katz “Artists in Exile”, ông đã nói đại ý là nhân vật của ông đã khám phá ra một điều là những kẻ đã đạt tới đích đều tầm thường, những cái đạt được cũng tầm thường như vậy. Cho nên để Ngọn Đỉnh Trời mãi mãi vẫn là một bí mật, là thần tượng không bao giờ có thực, là cái đích luôn luôn treo trước mặt nhưng không bao giờ vươn tới, nhân vật ấy không muốn bước tới và chọn sự ra đi: “leo lên cho được một đỉnh núi cao nhất phương Đông nhân vật của ông muốn biết đình núi ấy cao bao nhiêu, ông đang đi tìm một thứ chân lý tuyệt đối và cũng là hạnh phúc. Nhưng khi đã đặt chân lên đến đỉnh cao, lại là một cảm giác tuyệt vọng bởi ví đã khám phá ra rằng chân lý tuyệt đối chẳng bao giờ có thực và đạt tới được “tâm lý hoài nghi có lẽ là của một người luôn đi kiếm tìm hạnh phúc như tác giả Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời” chăng?
Những tập truyện ngắn khác như “Tháng Giêng Cỏ Non”, “Bầy Thỏ Ngày Sinh Nhật”,“ “Căn Nhà Vùng Nước Mặn”,… lại là những thành công về nghệ thuật dù trên phương diện thương mại có số bán không bằng hoặc ít tái bản như các tập truyện dài “Khi Mùa Mưa Tới”, “Cũng Đủ Lãng Quên Đời”, “Mười Đêm Ngà Ngọc”, “Mái Tóc Dĩ vãng”, “Tới Một Tuổi Nào”.…
Những truyện ngắn, biểu lộ tính duy mỹ và duy cảm rõ rệt. Trong hình ảnh, đầy ấn tượng. Trong ngôn ngữ, đầy cảm xúc. Ở thể loại truyện ngắn gần như tùy bút, văn phong được chuốt lọc tạo được nhiều đoạn tả tình hay tả cảnh đặc sắc. Đọc “Người thầy học cũ”, “Chuyến tàu trên sông Hồng”, “Người đàn bà trong vòng đai trắng”, thấy được cái không gian lồng lộng của vô biên cũng như những tâm tình rất Việt Nam ẩn sâu trong văn mạch.
Đọc “Đêm giã từ Hà Nội”, để thấy một sự lựa chọn. Bỏ lại thành phố đầy kỷ niệm dưới chân, để bắt đầu cho cuộc sống mới. Hết rồi, cái thuở đeo bạc đà đi kháng chiến lang thang ở khu Tư. Bây giờ, khởi hành cho một đoạn đường mới. Tâm tình của người sắp sửa rời xa như luyến nhớ tha thiết những gì bỏ lại sẽ mất mát vĩnh viễn. Những câu văn, những dòng chữ, là tiếng xé lòng, là nỗi niềm mênh mang ứa lệ:
…Giờ này anh còn là người của Hà Nội, thở nhịp thở của Hà Nội, đau niềm đau của Hà Nội, mà Hà Nội hình như đã ở bên kia… Nhìn xuống Phượng có cảm giác chơi vơi như đứng trên một tầng cao. Anh nhìn xuống vực thẳm Hà Nội ở dưới ấy……”
Vực thẳm ở dưới ấy, là cuộc giã từ không hẹn ngày về, của chuyến bay chót sau một trăm ngày đình chiến và Hà Nội sẽ đổi chủ, sẽ mất đi những bóng dáng, những kỷ niệm cũ……
Nhà xuất bản Văn Khoa ở hải ngoại của giáo sư Đỗ Đình Tuân đã in cho ông hai tác phẩm tiêu biểu. Một là tập Chân Dung Tác Giả, hai là tập thơ “Ta thấy hình ta những miếu đền”. Tập thơ độc nhất trong danh sách hơn bốn chục truyện dài và hai chục tập truyện ngắn. Thơ của một người làm thơ nhưng yêu thơ như với một tôn giáo cuồng tín nhất. Dù:
“ Cõi không là thơ. Không còn gì nữa hết là thơ. Nơi không còn gì nữa hết là khởi đầu thơ. Một xóa bỏ tận cùng . Từ xóa bỏ chính nó. Tôi xóa bỏ xong tôi. Không còn gì nữa hết. Tôi thơ… (Bờ cõi khởi đầu).
Ta thấy hình ta những miếu đền. Có phải là những câu cuồng ngạo của một người tự đắc nhìn vào gương ngắm mình và tự vái mình? Nhiều người đã nghĩ thế. Nhưng, nếu đọc kỹ, thì ngược lại. Trong thấp thoáng tư tưởng của Trang Tử từ Nam Hoa Kinh, những câu thơ như là một chứng nghiệm của cuộc sống. Mai Thảo đã nói rất nhiều về Nam Hoa Kinh, về những câu thơ của mình trong những lúc bốc đồng của cơn say. Giữa hai bờ cực tiểu và cực đại, giữa có và không, con người phải vượt qua những mâu thuẫn để đạt được cái nhìn “huyền đồng”, chan hòa cái lẽ “Một”, để không còn băn khoăn suy nghĩ về còn mất, có không, về cái thật lớn hay điều cực nhõ, về cái chính mình hay là kẻ khác….
“
Ta thấy hình ta những bảng đường
Đời ta, sử chép cả ngàn chương
Sao không hạt cát sông Hằng ấy
Còn chứa trong lòng cả đại dương…”
Có thể nói rằng cái ta được đạt tên đường, cái ta sử chép hay cái ta hạt bụi cái ta tầm thường cũng chỉ là một. Vì hạt cát nhỏ bé thế kia mà chứa đựng cả đại dương bên trong thì phân biệt làm gì giữa cá Côn, chim Bằng với con ve sầu, chim Cưu như Trang Tử đã luận.
Và:
“…
Ta thấy hình ta những miếu đền
Tượng thờ nghìn bệ những công viên
Sao không, khói với hương sùng kính
Đều ngát thơm từ huyệt lãng quên.
Ta thấy muôn sao đứng kín trời
Chờ ta, Bắc đẩu trở về ngôi
Sao không, một điểm lân tinh vẫn
Cháy được lên từ đáy thẳm khơi
Ta thấy đường ta Chúa hiện hình
Vườn ta Phật ngủ, ngõ thần linh
Sao không, tâm thức riêng bờ cõi
Địa ngục ngươi là, kẻ khác ơi!..”
Có một người làm thơ, đã khắc trên bia mộ của mình bài thơ tứ tuyệt:
Thế giới có triệu điều không hiểu
Càng hiểu không ra lúc cuối đời
Chẳng sao khi đã nằm trong đất
Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi.”
Bài thơ nhan đề “Không hiểu” mở ra với cái hữu hạn của con
người và đóng lại với cái vô hạn của cuộc sống. Có mấy ai thông kim bác
cổ hiểu được tất cả sự việc? Dù, cả khi cuối đời, khi đã trải đủ ngọt
bùi đắng cay của kiếp nhân sinh? Chỉ, khi đã nằm trong ba tấc đất, nhìn
ngôi sao sáng để đọc được cái lẽ huyền vi của đất trời. Chữ “chẳng sao”
trong câu thơ, ý lạnh lùng, nghĩa thản nhiên, có một chút mặc kệ, biểu
lộ cái tâm cảm an nhiên của một người sẽ phải đáp chuyến đi vào vô tận.
Cuộc hành trình vô tận ấy, có khi xa xăm như ngôi tinh đẩu kia nhưng lại
đôi lúc gũi gần như cái chết dần trước mặt.
Thơ như trải ra nỗi niềm của một người thấy được cái hư vô của đời người. Thơ không đóng lại mà mở ra cõi tâm linh của một người có đôi mắt luôn vọng về một cõi xa, của tâm thức muôn đời vời vợi…
Thơ như trải ra nỗi niềm của một người thấy được cái hư vô của đời người. Thơ không đóng lại mà mở ra cõi tâm linh của một người có đôi mắt luôn vọng về một cõi xa, của tâm thức muôn đời vời vợi…
Có một người viết văn, coi việc cầm bút là làm đẹp cho đời, mang chữ nghĩa để biểu tỏ tấm lòng thiết tha yêu đời yêu người. Những trang tùy bút đẹp, những tiểu thuyết tình yêu có nét lãng mạn riêng mang nét đặc thù một mình một chiếu. Người ấy, đã là chủ nhiệm Sáng Tạo, mang một không gian mới cho khí hậu văn học Việt Nam, cũng như đã từng là chủ nhiệm tạp chí Văn một giai đoạn ở hải ngoại, hình thành một thời kỳ văn chương sôi động và phong phú của những người lưu vong của thập niên 80. …
Có một người trong suốt cuộc đời mình tuy quảng giao, nhiều bạn nhưng lúc nào cũng cảm thấy cô đơn, như một người luôn đi tìm kiếm cái vô cùng nhưng cuộc đời thì còn nhiều hữu hạn. Người ấy, tự nhận là mình không thành công trong tình ái nhưng lại có nhiều giai thoại tình yêu đặc biệt. Trong cuộc đời, có những nét khác người, cả về văn chương lẫn nếp sống …
Người ấy, là nhà văn Mai Thảo.
Bức thư của nhà văn Nguyễn Đình Toàn khi còn kẹt lại trong nước gửi tay cho ca sĩ Duy Trác mang sang Hoa Kỳ cho tác giả “Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời” mà Nguyễn- Xuân Hoàng trong Sổ Tay của tạp chí Văn đã trích dẫn cho thấy một nét đặc thù của một chân dung văn học hàng đầu:
“..Tao có đọc mấy bài thơ ‘quỷ quái’ của mày. Tất nhiên làm gì có
đủ mà đọc hết. Vứt mẹ nó hết những cái gọi là ý nghĩa sự đời đi. Cái đặt
được tay vào chỗ không thể đặt là đủ sướng rồi. Nhất là hôm gặp lại
‘nghe bả khen thơ mày’, càng thích. Nhưng bày đặt làm thơ làm gì cho khổ
cái thân già…
.. Ông Lý* vừa tới chơi. Nghe tao định viết thư cho mày, ổng gửi lời
thăm. Vẫn chưa chừa bệnh văn chương. Ông bảo viết về Mai Thảo thật khó.
Tao có bảo với ổng, coi như mỗi thằng viết văn có một mảnh đất, chữ
nghĩa của nó là cỏ. Hễ nó lấp đầy được mảnh đất thành một bãi cỏ xanh là
đủ, mặc mẹ những chỗ lồi lõm. Cái hay của Mai Thảo là nó viết một chữ
cũng Mai Thảo, một câu cũng Mai Thảo. Thế là quá đủ rồi…” [Ông Lý là nhà văn Lý Hoàng Phong]
Quả thực, cõi văn chương của Mai Thảo có một phong thái riêng, một mình một chiếu. Chữ nghĩa văn xuôi của tác giả những “Đêm giã từ Hà Nội”, “Căn nhà vùng nước mặn”, “Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời”… là ngôn từ đẫm chất thơ nhưng lại cố tâm sử dụng để không còn là một thể loại trang hoàng mà tạo thành một bản chất văn chương tạo thành ấn tượng. Đọc lại những đoạn văn tả tình tả cảnh, thấy man mác những không gian thời gian, bàng bạc những cảnh thổ, những nỗi niềm.
Nguyễn Tuân đã nâng nghệ thuật viết tùy bút lên một bực khi viết những trang chữ phản ánh một thời đã qua cũa những con chữ lấp lánh ánh nắng hoàng hôn của hồi tưởng. Có sự cầu kỳ, có chút làm dáng nhưng tất cả là kết tinh của trân trọng chữ nghĩa nâng niu văn chương. Còn với Mai Thảo, tất cả đều là thơ, từ những câu văn thật dài hay những câu thật ngắn, có lúc như những lời cộc lốc, có lúc trầm bổng như ngầm chứa biển cả tiết tấu bên trong. Cái mục đích duy nhất là làm đẹp, đẹp cho đời sống và đẹp cho văn chương.
Cái chủ đích duy mỹ ấy, đã tạo thành những mẫu nhân vật đẹp, những tâm tình đẹp, nhiều khi hiếm hoi trong đời. Từ nội dung suy tưởng đến hình thức diễn tả, là những dấu ấn mà Nguyễn Đình Toàn đã gọi là “một chữ cũng Mai Thảo, một câu cũng Mai Thảo”.
Trong những tập truyện ngắn của mình, Mai Thảo đặc biệt thích tập “Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời”. Trong khi trả lời câu phỏng vấn của Jane Katz “Artists in Exile”, ông đã nói đại ý là nhân vật của ông đã khám phá ra một điều là những kẻ đã đạt tới đích đều tầm thường, những cái đạt được cũng tầm thường như vậy. Cho nên để Ngọn Đỉnh Trời mãi mãi vẫn là một bí mật, là thần tượng không bao giờ có thực, là cái đích luôn luôn treo trước mặt nhưng không bao giờ vươn tới, nhân vật ấy không muốn bước tới và chọn sự ra đi: “leo lên cho được một đỉnh núi cao nhất phương Đông nhân vật của ông muốn biết đình núi ấy cao bao nhiêu, ông đang đi tìm một thứ chân lý tuyệt đối và cũng là hạnh phúc. Nhưng khi đã đặt chân lên đến đỉnh cao, lại là một cảm giác tuyệt vọng bởi ví đã khám phá ra rằng chân lý tuyệt đối chẳng bao giờ có thực và đạt tới được “tâm lý hoài nghi có lẽ là của một người luôn đi kiếm tìm hạnh phúc như tác giả Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời” chăng?
Những tập truyện ngắn khác như “Tháng Giêng Cỏ Non”, “Bầy Thỏ Ngày Sinh Nhật”,“ “Căn Nhà Vùng Nước Mặn”,… lại là những thành công về nghệ thuật dù trên phương diện thương mại có số bán không bằng hoặc ít tái bản như các tập truyện dài “Khi Mùa Mưa Tới”, “Cũng Đủ Lãng Quên Đời”, “Mười Đêm Ngà Ngọc”, “Mái Tóc Dĩ vãng”, “Tới Một Tuổi Nào”.…
Những truyện ngắn, biểu lộ tính duy mỹ và duy cảm rõ rệt. Trong hình ảnh, đầy ấn tượng. Trong ngôn ngữ, đầy cảm xúc. Ở thể loại truyện ngắn gần như tùy bút, văn phong được chuốt lọc tạo được nhiều đoạn tả tình hay tả cảnh đặc sắc. Đọc “Người thầy học cũ”, “Chuyến tàu trên sông Hồng”, “Người đàn bà trong vòng đai trắng”, thấy được cái không gian lồng lộng của vô biên cũng như những tâm tình rất Việt Nam ẩn sâu trong văn mạch.
Đọc “Đêm giã từ Hà Nội”, để thấy một sự lựa chọn. Bỏ lại thành phố đầy kỷ niệm dưới chân, để bắt đầu cho cuộc sống mới. Hết rồi, cái thuở đeo bạc đà đi kháng chiến lang thang ở khu Tư. Bây giờ, khởi hành cho một đoạn đường mới. Tâm tình của người sắp sửa rời xa như luyến nhớ tha thiết những gì bỏ lại sẽ mất mát vĩnh viễn. Những câu văn, những dòng chữ, là tiếng xé lòng, là nỗi niềm mênh mang ứa lệ:
…Giờ này anh còn là người của Hà Nội, thở nhịp thở của Hà Nội, đau niềm đau của Hà Nội, mà Hà Nội hình như đã ở bên kia… Nhìn xuống Phượng có cảm giác chơi vơi như đứng trên một tầng cao. Anh nhìn xuống vực thẳm Hà Nội ở dưới ấy……”
Vực thẳm ở dưới ấy, là cuộc giã từ không hẹn ngày về, của chuyến bay chót sau một trăm ngày đình chiến và Hà Nội sẽ đổi chủ, sẽ mất đi những bóng dáng, những kỷ niệm cũ……
Nhà xuất bản Văn Khoa ở hải ngoại của giáo sư Đỗ Đình Tuân đã in cho ông hai tác phẩm tiêu biểu. Một là tập Chân Dung Tác Giả, hai là tập thơ “Ta thấy hình ta những miếu đền”. Tập thơ độc nhất trong danh sách hơn bốn chục truyện dài và hai chục tập truyện ngắn. Thơ của một người làm thơ nhưng yêu thơ như với một tôn giáo cuồng tín nhất. Dù:
“ Cõi không là thơ. Không còn gì nữa hết là thơ. Nơi không còn gì nữa hết là khởi đầu thơ. Một xóa bỏ tận cùng . Từ xóa bỏ chính nó. Tôi xóa bỏ xong tôi. Không còn gì nữa hết. Tôi thơ… (Bờ cõi khởi đầu).
Ta thấy hình ta những miếu đền. Có phải là những câu cuồng ngạo của một người tự đắc nhìn vào gương ngắm mình và tự vái mình? Nhiều người đã nghĩ thế. Nhưng, nếu đọc kỹ, thì ngược lại. Trong thấp thoáng tư tưởng của Trang Tử từ Nam Hoa Kinh, những câu thơ như là một chứng nghiệm của cuộc sống. Mai Thảo đã nói rất nhiều về Nam Hoa Kinh, về những câu thơ của mình trong những lúc bốc đồng của cơn say. Giữa hai bờ cực tiểu và cực đại, giữa có và không, con người phải vượt qua những mâu thuẫn để đạt được cái nhìn “huyền đồng”, chan hòa cái lẽ “Một”, để không còn băn khoăn suy nghĩ về còn mất, có không, về cái thật lớn hay điều cực nhõ, về cái chính mình hay là kẻ khác….
“
Ta thấy hình ta những bảng đường
Đời ta, sử chép cả ngàn chương
Sao không hạt cát sông Hằng ấy
Còn chứa trong lòng cả đại dương…”
Có thể nói rằng cái ta được đạt tên đường, cái ta sử chép hay cái ta hạt bụi cái ta tầm thường cũng chỉ là một. Vì hạt cát nhỏ bé thế kia mà chứa đựng cả đại dương bên trong thì phân biệt làm gì giữa cá Côn, chim Bằng với con ve sầu, chim Cưu như Trang Tử đã luận.
Và:
“…
Ta thấy hình ta những miếu đền
Tượng thờ nghìn bệ những công viên
Sao không, khói với hương sùng kính
Đều ngát thơm từ huyệt lãng quên.
Ta thấy muôn sao đứng kín trời
Chờ ta, Bắc đẩu trở về ngôi
Sao không, một điểm lân tinh vẫn
Cháy được lên từ đáy thẳm khơi
Ta thấy đường ta Chúa hiện hình
Vườn ta Phật ngủ, ngõ thần linh
Sao không, tâm thức riêng bờ cõi
Địa ngục ngươi là, kẻ khác ơi!..”
Những chính đề và phản đề cứ nối tiếp nhau. Chữ “sao không”,
dùng như một ý phủ định, lột tả được một tâm trạng. Miếu đền, tượng thờ
đường bệ hay huyệt đất bình thường cũng chỉ là một, với hàm ý lãng quên.
Cũng như ngôi Bắc Đẩu của trời tinh tú, hay vệt lân tinh nhỏ nhoi cũng
là một. Hay ý Chúa, tâm Phật với tâm thức con người cũng chỉ là một mà
thôi.
Sao không.. Sao không. ..Những vấn nạn nối tiếp nhau, để càng thấy mênh mông hơn cái biên giới giữa cực tiểu và cực đại, giữa có và không, giữa còn và mất. Có phải, rốt cuộc tất cả chỉ là hư vô, hay trong tận cùng, con người phải tự giết mình đi để phục sinh. Sao lại không nhỉ?
Có người cho rằng văn chương Mai Thảo đầy chất viễn mơ và quay lưng với thực tại của Việt Nam với những thời kỳ đầy máu lửa. Những truyện dài kiểu tiểu thuyết “feuilleton” đăng hàng ngày có thể làm bố cục tác phẩm lỏng lẻo hoặc có thể trùng lặp từ ý tới lời. Đề tài tình yêu vẫn là một đề tài ăn khách và những nhân vật của ông sống trong một môi trường khó có thực trong đời thường. Nhưng cái nét đẹp trong thơ của Mai Thảo cùng với cái bềnh bồng lãng mạn của những người thích rong chơi đã thành một nét quyến rũ người đọc.
Nhưng trước sau, Mai Thảo vẫn là một người làm thơ, dù chỉ in có một tập thơ độc nhất. Viết văn là làm thơ. Viết tùy bút cũng là làm thơ. Viết “Tùy Bút” cho báo “Khởi Hành” trong nước hay “Sổ Tay” cho tạp chí Văn ở hải ngoại cũng là làm thơ. Với ông, đang sống và đang thở cũng là đang làm thơ. Thơ, như mạch sống còn. Thơ như thực phẩm để dinh dưỡng trí tuệ…Có thể nói Mai Thảo là một thi sĩ hơn là một văn sĩ. Tôi nghĩ thế. [NMT]
http://www.voatiengviet.com/content/thang-gieng-tuong-niem-thi-si-mai-thao/1830879.html
Sao không.. Sao không. ..Những vấn nạn nối tiếp nhau, để càng thấy mênh mông hơn cái biên giới giữa cực tiểu và cực đại, giữa có và không, giữa còn và mất. Có phải, rốt cuộc tất cả chỉ là hư vô, hay trong tận cùng, con người phải tự giết mình đi để phục sinh. Sao lại không nhỉ?
Có người cho rằng văn chương Mai Thảo đầy chất viễn mơ và quay lưng với thực tại của Việt Nam với những thời kỳ đầy máu lửa. Những truyện dài kiểu tiểu thuyết “feuilleton” đăng hàng ngày có thể làm bố cục tác phẩm lỏng lẻo hoặc có thể trùng lặp từ ý tới lời. Đề tài tình yêu vẫn là một đề tài ăn khách và những nhân vật của ông sống trong một môi trường khó có thực trong đời thường. Nhưng cái nét đẹp trong thơ của Mai Thảo cùng với cái bềnh bồng lãng mạn của những người thích rong chơi đã thành một nét quyến rũ người đọc.
Nhưng trước sau, Mai Thảo vẫn là một người làm thơ, dù chỉ in có một tập thơ độc nhất. Viết văn là làm thơ. Viết tùy bút cũng là làm thơ. Viết “Tùy Bút” cho báo “Khởi Hành” trong nước hay “Sổ Tay” cho tạp chí Văn ở hải ngoại cũng là làm thơ. Với ông, đang sống và đang thở cũng là đang làm thơ. Thơ, như mạch sống còn. Thơ như thực phẩm để dinh dưỡng trí tuệ…Có thể nói Mai Thảo là một thi sĩ hơn là một văn sĩ. Tôi nghĩ thế. [NMT]
http://www.voatiengviet.com/content/thang-gieng-tuong-niem-thi-si-mai-thao/1830879.html
No comments:
Post a Comment