Thursday, June 11, 2015
VŨ QUẦN PHƯƠNG * VY HUYỀN ĐẮC
Kịch tác gia Vi Huyền Đắc qua lời kể của người con trai
13:30 11/06/2009Vi Huyền Đắc rất quý sách. Sách tới tay ông, của các tác giả trong nước như các nhà văn trong nhóm Tự Lực văn đoàn và bạn bè hay các tác giả nước ngoài… ông đều đóng bìa cứng, bìa da bày ngay ngắn trong các giá sách. Ông mê các tấm gương tự lập, những người tạo sự nghiệp từ hai bàn tay trắng như các nhà tư bản Rockfeller, Canergie nhưng lại không ưa bóc lột. Ông phục hoàng đế nước Pháp Napoléon nhưng ghét Tây thực dân.
Kịch tác gia Vi Huyền Đắc qua nét vẽ của Tạ Tỵ |
Giáo sư bác sĩ y khoa Vi Huyền Trác, con trai kịch tác gia Vi Huyền Đắc năm nay đã bước vào tuổi 87. Ông Trác dạy môn Giải phẫu bệnh lý. Năm tôi theo học ngành Y ở Hà Nội (1959 -1965), tôi có được học ông. Ông dáng vóc cao ráo, gương mặt đẹp. Giảng bài khúc triết. Mãi khi tốt nghiệp, tôi mới biết ông là con trai nhà viết kịch Vi Huyền Đắc (một trong những người khai sinh nền kịch nói Việt Nam).
Hồi đó, tôi đã rất ngạc nhiên thích thú trước mối liên hệ huyết mạch giữa ông thầy thân gần của mình với nhà viết kịch nổi tiếng nhưng xa vời như trong cổ tích. Lúc đó cụ Vi Huyền Đắc sống ở Sài Gòn. Mấy chục năm trôi qua, vừa rồi, một bạn bác sĩ mang nhờ tôi đọc tập thơ, do anh chọn từ ngót một nghìn bài thơ của thầy Vi Huyền Trác. Giáo sư Trác làm thơ không đặt đầu đề, anh bạn tôi đặt đề giúp thầy và làm mục lục cho hơn một trăm bài.
Mỗi bài như một thoáng ý nghĩ. Chất thơ hơi mơ hồ kiểu thơ Haiku Nhật Bản, nhưng tôi thì lại bị hấp dẫn vì chính chất mơ hồ ấy. Điều đặc biệt là thơ không có ý định thành bài, chỉ ghi như chộp lấy nội tâm mình. Không thấy sự kiện xã hội, không thấy công việc ngoài đời nhưng lại thấy rõ buồn vui, nghĩ ngợi của tâm trạng, đôi khi thoáng một triết lý Thiền. Nhà thơ nghiệp dư và hồn nhiên này hoá ra nhằm tới lối thơ "cao cấp": Chỉ quan tâm tới những vấn đề của tâm hồn con người, dùng thơ để khám phá rồi cố định chất tâm hồn ấy lên trang giấy, như noi gương thơ các nhà sư đời Lý.
Tôi đến thăm ông với ý định hỏi thêm cung cách làm thơ của nhà khoa học cao niên. Câu chuyện lại dẫn tôi đến những hiểu biết thú vị về nhà soạn kịch Vi Huyền Đắc.
Cụ Vi Huyền Đắc sinh năm 1899, cách đây vừa đúng 110 năm, và mất năm 1976.
Tôi được ông Trác đưa xem mấy tờ "gia phổ" do chính cụ Vi Huyền Đắc viết ở Gia Định ngày 22/10/1974.
Ông thân sinh Vi Huyền Đắc, cụ Vi Hồi Ngọ, làm thầu khoán, là một trong những nhà tư sản có sức cạnh tranh hồi đó. Nhưng đến năm ngót 60, cụ giao việc kinh doanh cho ông con trai độc nhất là Vi Huyền Đắc để nghỉ ngơi. Ông Vi Huyền Đắc lại thích lãng du hơn kinh doanh. Sau khi có bằng Thành chung ở Hải Phòng, ông lên Hà Nội học Trường Mỹ Nghệ rồi vào Sài Gòn làm nghề lái xe. Có bài báo sau này viết ông còn mở hiệu phở Bắc, giới thiệu quà Hà Nội với bà con lục tỉnh. Nhận cơ ngơi và tiếp tục công việc kinh doanh của bố nhưng Vi Huyền Đắc không toàn tâm toàn ý kinh doanh.
Ông ham văn chương. Có nhiều điều kiện tiếp xúc với thợ thuyền lam lũ vất vả, ông hiểu sâu thêm các ngón bóc lột của giới chủ. Chính ông cũng là một ông chủ. Trong thâm tâm, ông không thể không thấy tính chất tàn bạo của các mánh khóe làm giàu. Ông viết kịch, đề cao người lương thiện, tình chung thủy. Kịch không có đoàn diễn, ông lập nhà xuất bản "Thái dương văn khố" cũng chỉ để in kịch của mình: "Hoàng mộng điệp" (viết năm 1922),"Uyên ương" (viết năm 1927), "Hai tối tân hôn" (viết 1929), ""Nghệ sĩ hồn" (viết 1932), "Kinh kha" (viết 1934), "Kim tiền" (giải thưởng Tự Lực văn đoàn 1937, diễn ở Hải Phòng 29/2/1938), "Ông ký Cóp" (diễn ở Hải Phòng 8/10/1938), "Trường hận" (viết bằng tiếng Pháp, được giải thưởng của Viện Hàn lâm Nice, Pháp), "Lệ Chi Viên" (diễn tại Hà Nội 1943), "Khóc lên tiếng cười" (diễn Hà Nội 1943). Trước sau ông có khoảng 20 vở kịch
Qua các vở kịch, quan điểm xã hội tiến bộ và lòng yêu tự do, chống lễ giáo phong kiến của Vi Huyền Đắc ngày càng rõ nét. Vở "Kinh Kha" đã thấp thoáng lòng yêu nước. Hai vở "Kim tiền" và "Ông ký Cóp" được trình diễn trên sân khấu thu được thành công lớn, có tiếng vang trong xã hội, và góp phần khai sinh kịch nghệ Việt Nam.
Mải mê văn chương, ông bán dần tài sản.
Trong nhà nhiều khách văn chương. Tiếp khách, ông cho các con được ngồi dự. Ông Trác còn nhớ: Ông Nhất Linh đang nói chuyện thì hu hu khóc (sau này đọc báo Sài Gòn về cuộc tự tử của ông Nhất Linh, bác sĩ Vi Huyền Trác càng thấy nhớ tiếng khóc này), ông Lê văn Trương hay nói to và nói liên tục từ lúc tới đến lúc về, trẻ hàng xóm kéo đến xem, ông xin chậu nước hắt vào lũ trẻ, rồi ngồi cười nhìn chúng nó chạy. Ông Thế Lữ nhỏ nhẹ, khi "Kim tiền" được dựng ở Hải Phòng, ông thường hướng dẫn diễn viên tỉ mỉ và rất từ tốn. Ông Lê Đại Thanh thủ vai chính trong Kim Tiền, rất hào hứng.
Buổi sáng trong nhà, ông Vi Huyền Đắc thường pha ấm trà ngon, gọi hai con là Vi Giác và Vi Huyền Trác đến uống và đọc các bài thơ hay cho nghe. Ông thích thơ Thế Lữ, thơ Đường.
Vi Huyền Đắc rất quý sách. Sách tới tay ông, của các tác giả trong nước như các nhà văn trong nhóm Tự Lực văn đoàn và bạn bè hay các tác giả nước ngoài… ông đều đóng bìa cứng, bìa da bày ngay ngắn trong các giá sách. Ông mê các tấm gương tự lập, những người tạo sự nghiệp từ hai bàn tay trắng như các nhà tư bản Rockfeller, Canergie nhưng lại không ưa bóc lột. Ông phục hoàng đế nước Pháp Napoléon nhưng ghét Tây thực dân.
Ông viết báo tiếng Pháp "Tổ quốc An Nam" (Patrie Anamite), có quan điểm chống thực dân. Vì tờ báo này và vì việc giao tiếp thường xuyên với Nguyễn Triệu Luật, một nhà văn và là anh họ, hoạt động trong Quốc Dân đảng mà ông bố Vi Huyền Đắc nhiều lần bị khám nhà và ông con Vi Huyền Trác bị từ chối vào học trường Tây Anbe Xarô (Albert Sarraut).
Ông Đắc rất chịu học: học thêm tiếng Anh từ các con. Học Hán văn từ các cụ cử. Hồi còn ở Hải Phòng, ông chí thú làm Bách khoa tự điển Việt Nam, đã được 5.000 mục từ. Sách chưa in, nay đã mất bản thảo. Ông ham chơi ảnh. Có bộ đồ nghề làm ảnh khá lỉnh kỉnh. Ăn mặc đàng hoàng, sang trọng, lúc nào cũng tề chỉnh, cổ cồn ca vát. Ông Trác kể: Hồi Mậu thân 1968, hàng xóm gọi ông đi ẩn nấp tránh hòn tên mũi đạn, ông cũng ca vát com lê. Người ta giục. Ông nói: "Có chết, cũng phải quần áo đàng hoàng".
Hai anh em ông Trác ít được gần bố. Lúc bé chủ yếu sống với bà nội. Bà nội là con cụ Nguyễn Tư Giản, Thượng thư Bộ Lại triều Tự Đức, cũng là một nhà thơ. Bà nội bán hàng nước nuôi cháu, lúc Lạng Sơn, lúc Hà Đông. Bà nền nếp nhưng không có điều kiện chăm sóc các cháu. Hai anh em Giác và Trác tự lớn.
Những ngày được gần bố ở căn nhà bên sông Tam Bạc, Hải Phòng, hai anh em ít khi được ngồi ăn cơm với bố. Ông Vi Huyền Đắc đối xử với các con thân ái, bình đẳng, rất Tây, nhưng ông có những thói quen riêng. Không ăn cơm với gia đình cũng là một thói quen.
Giáo sư Vi Huyền Trác ngẫm nghĩ quá khứ, ngậm ngùi thấy những người thân trong gia đình luôn phải sống xa cách nhau. Ông nội, sau khi giao kinh doanh cho con, sống một mình rồi chết cũng một mình trên một ấp ở Hải Dương. Còn riêng ông, mẹ mất sớm, bố hay vắng nhà, từ 1946, khi gia đình đi tản cư ở Nho Quan thì ông theo các trạm phẫu thuật của bác sĩ Tôn Thất Tùng làm cấp cứu chiến thương, rồi sống cuộc đời bộ đội nay đây mai đó...
Sau năm 1975, ông Trác mới gặp lại bố ở Sài Gòn. Năm 1976, ông đón bố ra Hà Nội, hy vọng được phụng dưỡng bố lúc tuổi già. Khi ông ra ga Sài Gòn mua vé, thì ở nhà cụ Vi Huyền Đắc ngã gãy cổ xương đùi. Gãy cổ xương đùi thì phải phẫu thuật, ở người cao tuổi, xương loãng, không hy vọng liền. Ông Trác, với sự giúp đỡ của hai Bộ trưởng Y tế hồi ấy là Vũ Văn Cẩn và Dương Quỳnh Hoa mà có được một máy bay quân sự chuyển ông cụ ra sân bay Gia Lâm.
Đang lo cách chuyển cụ về nhà ở phố Lê Thành Tôn, cạnh trường Y, thì gặp Chủ tịch Hà Nội Trần Duy Hưng. Ông Trần Duy Hưng không biết quen cụ Vi Huyền Đắc tự bao giờ mà ân cần cho xe đưa cụ về. Ông Trác đến nay còn cảm động vì may mắn ấy và cho rằng, đấy là cái "lộc" của người làm nghệ thuật. Hồi đó phương tiện vận chuyển người ốm trong Hà Nội khó tìm lắm. Cụ Vi Huyền Đắc mất sau một tháng điều trị tại Bệnh viện Bạch Mai, thọ 78 tuổi.
Ông Trác ngậm ngùi: "Như vậy ông cụ tôi chỉ được ở nhà con trai mình có một đêm sau ba mươi năm xa cách, rồi vĩnh viễn ra đi. Thời đất nước cắt chia, ông cụ sống một mình ở Sài Gòn. Không viết nhiều, có dịch thuật. Còn ông anh duy nhất của tôi, khi tôi tới được Sài Gòn thì anh đã ở Pháp. Lúc tôi có dịp qua Pháp thì anh đã sang Mỹ. Tôi sang được Mỹ thì chỉ còn được thăm mộ anh tôi thôi”.
Ông Vi Huyền Trác ngẫm đời mình lắm cái ngẫu nhiên. Ông kế thừa "gien" thông minh của ông cha nhưng không kế thừa sự ham học, ít nhất là vào thời trẻ. Ấy thế mà thi đâu đều đủ để đỗ. Nhiều cái may lắm.
Lần thi Tú tài I ở Hải Phòng, đề thi toán về hình học không gian là môn ông ghét, không học, đã tính nộp bài giấy trắng, chịu điểm liệt, thì lại có báo động. Ra hầm vào thì đổi đầu bài sang đại số là môn ông sở trường. Thế là đỗ. Thi Tú tài II, đang sợ viết bài bằng Pháp văn, thì chính quyền cách mạng lại cho thi bằng tiếng Việt. Ông lại đỗ. Năm sau, 1946, vào trường y thì năm ấy lại không phải thi, cứ ghi tên vào học. Rồi thành bác sĩ quân y, thành giảng viên đại học y, thành giáo sư. Bây giờ lại làm thơ.
Ông Vi Huyền Trác nói: Văn là môn ông học khá, nhưng mãi năm 60 tuổi, một biến động mới trong tình cảm làm ông thấy thêm yêu cuộc đời này, thích ngẫm nghĩ về hạnh phúc của sự sống. Ông tập Thiền, nghiên cứu Trung y (có đề xuất một số phương pháp chữa bệnh có hiệu quả) và làm thơ, đúng ra là ghi lại những ý thơ chợt đến...
29/5/2009
Vũ Quần Phương
VAN MỘC CƯ SĨ BÌNH
Thủở miền Nam nổi cơn gió bụi
Dân Miền Nam lắm nỗi gian truân.
Chuyến hồi hương của ông Vy Huyền Đắc là do tự nguyện hay cưỡng bách? Cái té gãy xương là bình thường hay bất bình thường.? Ông bác sĩ con hiếu với cha hay hiếu với đảng?
ĐỖ ĐỨC THU * ĐÁM MA LÝ TOÉT
ĐÁM MA LÝ TOÉT
ĐỖ ĐỨC THU
Lý Toét ốm. Lý Toét ốm đã mấy tháng, nhưng độ mươi hôm nay, bệnh tình xem ra trầm trọng. Lang Băm, một danh y trong xóm, đến thăm bệnh. Bắt mạch xong, Băm gọi bà Lý ra ngoài hiên, thì thầm nói nhỏ. Bà Lý ra chiều thất vọng, mượn người đánh dây thép nhời cho cô Ba Vành ở ngoài mỏ. Được tin bố sắp chết, cô Ba Vành lật đật thu xếp về ngay.
Xã Xệ mấy hôm nay ở luôn bên nhà Lý Toét. Nhà neo người, bà Lý và cô Ba Vành là đàn bà, người con cả Lý Toét đi Tân Thế Giới đã lâu, không thấy tin tức, chưa rõ sống chết ra sao. Còn đứa nhỏ, thằng Toe, thì hãy còn là đứa trẻ ranh thò lò mũi, cả ngày chơi đùa với trẻ con ngoài đường. Thằng Toe mới lên bảy, nhưng đã giống bố về hai con mắt.
Xã Xệ sang trông nom giùm. Ngày thường, hai người vẫn không ưa nhau, hay khích bác, xỏ xiên, hoặc nói cạnh khóe. Nhưng thực ra cả hai cùng tốt. Lúc này Xã Xệ cũng quên những mối hiềm cũ. Vả lại cả hai còn có một nhược điểm chung nó dễ làm gần nhau: chén rượu. Xã Xệ sang, mỗi ngày bà Lý phải mua một chai bố.
Tin Lý Toét sắp chết lan ra khắp xóm, ai ai cũng để ý. Bà Lý ra ngõ thường gặp nhiều người hỏi thăm. Có người lại hỏi thăm qua hàng rào. Với ai, bà cũng trả: "Cảm ơn bà - ông, hoặc bác - ông Lý nhà tôi đã khá".
Tuy vậy, họ cũng biết thừa là ông Lý sắp chết. Lang Băm đã bảo ông Lý khó qua được đêm nay. Chiều nào Băm cũng cả quyết như vậy mà ông Lý vẫn dai dẳng sống hơn một tuần lễ rồi. Có người độc miệng mỉa mai: "Đã chết được kia à? Còn là khổ! Lúc giữ triện đồng, đục khóet lắm, bây giờ khó lòng mà nhắm được mắt."
Tuy vậy, họ cũng biết thừa là ông Lý sắp chết. Lang Băm đã bảo ông Lý khó qua được đêm nay. Chiều nào Băm cũng cả quyết như vậy mà ông Lý vẫn dai dẳng sống hơn một tuần lễ rồi. Có người độc miệng mỉa mai: "Đã chết được kia à? Còn là khổ! Lúc giữ triện đồng, đục khóet lắm, bây giờ khó lòng mà nhắm được mắt."
Họ đã sửa soạn cả. Nhiêu Còm đã mở chiếc hòm mục lấy cái áo the cũ bạc vai, vá khuỷu tay, sắp sửa để đi đưa ma ông Lý và đánh chén. Bọn trẻ con cũng vui vẻ; chúng thấy trong xóm có sự lạ, và như chúng ngửi thấy mùi xôi thịt. Bác Ngọ, bán hàng sũ ở đầu xóm, đã sắp sẵn một cỗ ván tốt, và nhấm nháy Xã Xệ, để ông Xã khỏi mua hàng của bác Mùi, dưới cuối xóm. Xã Xệ ngắm nghía cỗ ván, vuốt chiếc tóc trên đầu, hoặc gãi vào cái bướu gần thái dương, trả lời viển vông: "Được, để tôi hỏi bà Lý xem". Rồi đến lượt Khán Thân làm hàng mã, Nhiêu Tuất bán hàng vải. Xã Xệ thấy ai cũng tử tế, cũng có ý ngầm mời đánh chén. Mọi khi bọn này, mỗi khi chàng đi qua, thường chỉ lên đầu cười rúc rích, hoặc nói cạnh đến cái tóc. Mấy hôm nay, mỗi lần về nhà, Xã Xệ thường phàn nàn với vợ: "Bác Lý ốm, thành mình cũng vất vả lây". Bác Xã gái an ủi chồng, rồi lại giục sang nhà Lý Toét. Vợ Xã Xệ muốn tống chồng đi cho khỏi tốn rượu. Mà Xã Xệ cũng chẳng muốn ở nhà.
II
Nằm dúm trên giường, Lý Toét mở thao láo hai mắt nhìn lên đình màn. Người khô đét như con mắm, tuy đắp chăn mà các đầu xương vẫn hằn ra ngoài, mặt võ vàng, gò má lồi ra, hai mắt sâu thành to thêm. Tóc hai bên thái dương lốm đốm bạc và rụng dần, búi tóc chỉ còn bằng củ hành to.
Đầu giường có vài chiếc bát không, cơ chừng bát uống thuốc; một đĩa mía tiện sẵn, toàn khẩu nạc, mấy quả cam, táo. Cô Ba Vành hết lòng săn sóc bố, nhưng nào bố có ăn được! Hai con mắt vẫn tỉnh lắm, rất tinh nhanh. Có lúc râu mép vểnh lên, mấp máy. Khi mệt yếu quá, Lý Toét rên khừ khừ hay thở dài những tiếng thực mạnh, làm Xã Xệ giật mình chạy lại. Lý Toét nhìn Xã Xệ, dáng tức tối, có lẽ vì Xã Xệ đang uống rượu gian bên.
Trong nhà im lặng. Ai nấy đi lại rón rén, không động mạnh guốc. Cạnh chân giường Lý Toét, mấy cái củi gộc lom dom trong chiếc bếp kê tạm để hâm thuốc, và để cho ấm nhà. Thỉnh thỏang Xã Xệ đến cạnh bếp, cúi lom khom cời lửa. ánh sáng chiếu vào cái đầu mập lù, bóng nhoáng. Cô Ba Vành ngồi trong buồng khâu vội mấy chiếc áo trắng. Bà Lý bận cơm nước, thằng Toe vẫn đi chơi với trẻ. Hai con chó, con Vàng và con Vện, nằm ép dưới gầm cũi, chẳng buồn cắn những người tới hỏi thăm.
III
Vào khỏang mười giờ đên, Lý Toét qua đời. Đến sáng hôm sau thì khâm liệm xong xuôi, trong nhà đã sẵn sàng cả. Con mèo tam thể đã bị nhốt chặt trong cũi. Mờ mờ sáng, bác Ngọ đã cho khiêng cỗ ván đến, một cỗ ván gỗ dổi, hai đầu có chữ thọ bôi đen. Rồi cả bọn tuần phiên kéo đến. Lúc nhập quan là lúc thê thảm nhất; bà Lý và cô Ba Vành khóc vang, tiếng đập thình thình làm hàng xóm cũng thương xót. Thằng Toe chẳng hiểu gì, thấy người nhớn khóc cũng khóc theo, và xán quanh chỗ bàn thờ.
Suốt ngày tấp nập những người đến viếng. Họ mang theo vàng hương, nến, rượu hay những câu đối bằng vải trắng viết chữ lơ. Họ lễ trước linh sàng, phường kèn cử những bài thê thảm. Bà Lý ở dưới bếp vội chạy lên đáp lễ, khóc hu hu kêu ông Lý. Lễ xong, bà lấy vạt áo chùi mắt rồi chạy xuống bếp sửa sang mâm cơm rượu đãi các người đến giúp.
Họ sang giường bên nói chuyện với Xã Xệ ngồi chĩnh chện, đầu quấn khăn và cái tóc vẫn lắc lư. Bây giờ Lý Toét chết, ai cũng thương xót. Họ nhắc lại khi sinh thời, ông đã hết lòng với hàng xóm. Họ khen ông tinh nhanh, thông minh, lanh lợi, thôi thì đủ các đức tính. Xã Xệ kể lại hàng trăm lần bệnh tình ông Lý, lúc nguy kịch, khi lâm chung.
Sáng hôm sau đưa đám, trời lại mưa. Người ta nói trời mưa là vì cô Ba Vành, lúc rửa ráy cho ông Lý lần cuối cùng xong, không sẽ đổ úp chậu nước xuống gậm giường, mà lại đem hắt tung tóe ra sân. Trong xóm đủ các người tai mặt đến đưa ông Lý ra đồng. Trẻ con theo cũng đông. Đám ma chẳng có gì lạ, đại khái như mọi đám ma ở nhà quê. Linh xa, bộ đòn sơn son có nhà táng sặc sỡ, và ít câu đối, một phường kèn. Đằng sau bộ đòn có treo lủng lẳng một cái gậy, biểu hiện một người con trai vắng mặt: thằng đi Tân Thế Giới. Cô Ba Vành lăn đường lấm như vùi.
Lúc hạ huyệt, không có điếu văn, không có hoa. Họ lấp đất cho nhanh, đốt nhà táng cho chóng, vì trời mưa nặng hạt. Bà Lý, cô Ba Vành kể lể, khóc bù lu bù loa. Mấy viên hương chức che ô đứng ở bờ ruộng, đứng đắn và trầm ngâm. Thằng Toe, không ai để ý đến, đã chạy ra chỗ đốt nhà táng nhặt mặt kính. Bọn đô tùy hắt từng xẻng đất xuống huyệt, chẳng mấy lúc đã đầy. Họ vội vàng, vì về còn rửa chân tay để đi uống rượu.
IV
Trước lúc đưa đám, bà Lý đã cẩn thận giao phó cho người ở nhà trông nom xôi thịt, sửa soạn cơm rượu đãi làng. Vậy mà lúc về vẫn thấy mất mát, suy suyển. Đại khái năm miếng thịt bỏ vào luộc thì lúc vớt ra còn bốn, hay ba. Nhiều mâm xôi bị khoét giữa hay vẹt cạnh. Một thúng gạo mang ra ao vo thì lúc về còn nửa. Những người làm giúp được dịp ăn cắp. Người coi có biết cũng phải ngơ, sợ mất lòng, họ bỏ về. Trong khi có việc, họ đến cho là quý.
Chẳng mấy lúc làng đã họp đông. Trong nhà, ngoài sân đông chật, từ các bô lão sáu bảy mươi, cho tới lũ trẻ lên sáu, lên bảy. Đứa nhỏ quá thì đã có người nhà, hoặc anh nhớn bế đi. Họ khỏa chân ở cầu ao trước cửa rồi vào nhà ngồi đợi. Mấy hồi lệnh inh ỏi giục người đi chậm. Trong nhà không đủ chỗ, phải giải chiếu ra hè cho lũ trẻ; không đủ chiếu, chúng ngồi ngay xuống đất.
Tiệc rượu bắt đầu. Trẻ con xúm quanh những mâm gỗ vuông, đầy những đĩa thịt luộc còn đỏ, đĩa xôi đơm điêu, bát nước dùng trắng nhợt và vẩn đục, đĩa rau cải xanh. Chúng ăn ngốn ngấu, gọi cơm om sòm. Chúng chỉ ăn dưa và nước canh, xôi thịt để dành phần mang về. Bên cạnh mâm đã sẵn ít tầu lá chuối. Chẳng mấy lúc, bụng lũ trẻ đã thẳng căng, chúng lẻ tẻ ra về.
Bên trong, người nhớn đứng đắn, ăn uống lâu hơn, vì còn kề cà chén rượu. Câu chuyện bắt đầu từ tốn. Khi chai không xếp bàn bên đã nhiều thì tiếng nói to thêm, rồi thành những cuộc tranh biện hùng hồn của các ông Lý, ông Hương, về việc làng, việc nước, hay việc trời đất. Các ông quên hẳn là đang ở trong nhà có tang. Một người to tiếng, người nữa to tiếng hơn. Trong nhà ồn ào, bà Lý vừa cô Ba chúi ở dưới bếp. Xã Xệ im lìm uống rượu, mặt và đầu đã đỏ hồng như quả táo chín, cái tóc xoắn tròn và vểnh ngược lên.
Mãi đến chiều mới tan. Ai nấy đều say mềm, có người loạng choạng đi không vững. Hương Dần vịn vào vai Xã Quít. Vừa khỏi cổng, có lẽ vì thoáng gió, Dần nôn thốc tháo cả những thức vừa ăn. Hơi rượu sặc sụa, trẻ con xúm lại xem đông. Quít thụt ngay chân xuống rãnh nước, gói phần tung xuống bùn. Dần cũng xuống theo. Nếu không có người giữ thì không hiểu hai người làm sao ra khỏi rãnh nước. Nhiêu Mão đâm vào hàng rào, lưỡi líu lại mà vẫn ba hoa nhất định cãi mình không say. Thỉnh thỏang gió đánh lật cái áo lương lên, bọn trẻ con thấy quần chàng ướt suốt từ đũng xuống gấu.
V
Mấy hôm sau, dân trong xóm đã quên hẳn Lý Toét. Xã Xệ về uống rượu ở nhà. Cô Ba Vành đi với ông Tây mỏ. Trừ có bà Lý, đêm nào cũng sụt sịt khóc chồng.
Rút từ tập truyện ngắn Vỡ lòng,
Nxb. Đời Nay, Hà Nội, 1940
THƠ SONG NGỮ * LÊ XUÂN NHUẬN
TODAY
Today I will watch the sun
As it leaves the velvet sky.
Today I will gaze at the moon
As it shines throughout the night.
Today I will not let my fears
Control my hopes and dreams.
Today I will not judge people
For how they look or seem.
Today I will smile at my enemies
And walk away with pride.
Today I will speak my mind
And not keep everything inside.
Today I will sing as loud as I can
And really hear my voice.
Today I will make my own decision
And be able to live with that choice.
Today I will take a chance
Rather than being afraid.
Today I will try not to hurt
People with what I say.
Today I will listen
To that voice in my heart,
And not confuse it with my head.
Today I will follow
The road less traveled by
Than the one that's already been led.
And if Today ever die
If Today ever end,
Then tomorrow I will wait
Tomorrow I will try again.
Ý NHI THỊ THÁI
Hôm Nay tôi lắng lòng tôi
Ðể nghe tình-cảm sục-sôi trong hồn,
Ðừng cho lý-trí ép dồn!
Hôm Nay tôi chọn con đường của tôi,
Dù đường thưa vắng bóng người,
Còn hơn nẻo cũ: lề xoi, lối mòn!
Và Hôm Nay nếu không tròn,
Nếu Hôm Nay cũng chẳng còn Hôm Nay,
Thì tôi sẽ đợi Ngày Mai,
Tôi lại gắng nữa, không phai chí mình...
THANH-THANH Việt-hóa
Today I will watch the sun
As it leaves the velvet sky.
Today I will gaze at the moon
As it shines throughout the night.
Today I will not let my fears
Control my hopes and dreams.
Today I will not judge people
For how they look or seem.
Today I will smile at my enemies
And walk away with pride.
Today I will speak my mind
And not keep everything inside.
Today I will sing as loud as I can
And really hear my voice.
Today I will make my own decision
And be able to live with that choice.
Today I will take a chance
Rather than being afraid.
Today I will try not to hurt
People with what I say.
Today I will listen
To that voice in my heart,
And not confuse it with my head.
Today I will follow
The road less traveled by
Than the one that's already been led.
And if Today ever die
If Today ever end,
Then tomorrow I will wait
Tomorrow I will try again.
Ý NHI THỊ THÁI
HÔM NAY
Hôm Nay tôi ngắm vầng dương
Rời bầu trời đẹp êm nhường như nhung.
Hôm Nay tôi ngắm vầng trăng
Toả soi ánh sáng vặc-vằng đêm thâu .
Hôm Nay tôi quẳng lo âu,
Ðể tim hy-vọng, để đầu mộng-mơ .
Hôm Nay tôi xét người ta
Không qua định-kiến, không qua ngoại-hình.
Hôm Nay tôi cười tươi xinh
Với kẻ thù, hãnh diện mình bước đi .
Hôm Nay tôi nói điều gì
Mình thật-sự nghĩ, chẳng chi giấu nào .
Hôm Nay tôi hát như gào,
Nghe mình thực-sự cất cao tiếng mình.
Hôm Nay tôi quyết phân minh,
Giữ sự chọn-lựa đinh-ninh trọn đời .
Hôm Nay tôi chớp cơ thời,
Không còn sợ-sệt ngại lời nói ra .
Hôm Nay tôi gắng ngâm-nga
Từ hay, ý đẹp, tránh va-chạm người .
Hôm Nay tôi ngắm vầng dương
Rời bầu trời đẹp êm nhường như nhung.
Hôm Nay tôi ngắm vầng trăng
Toả soi ánh sáng vặc-vằng đêm thâu .
Hôm Nay tôi quẳng lo âu,
Ðể tim hy-vọng, để đầu mộng-mơ .
Hôm Nay tôi xét người ta
Không qua định-kiến, không qua ngoại-hình.
Hôm Nay tôi cười tươi xinh
Với kẻ thù, hãnh diện mình bước đi .
Hôm Nay tôi nói điều gì
Mình thật-sự nghĩ, chẳng chi giấu nào .
Hôm Nay tôi hát như gào,
Nghe mình thực-sự cất cao tiếng mình.
Hôm Nay tôi quyết phân minh,
Giữ sự chọn-lựa đinh-ninh trọn đời .
Hôm Nay tôi chớp cơ thời,
Không còn sợ-sệt ngại lời nói ra .
Hôm Nay tôi gắng ngâm-nga
Từ hay, ý đẹp, tránh va-chạm người .
Hôm Nay tôi lắng lòng tôi
Ðể nghe tình-cảm sục-sôi trong hồn,
Ðừng cho lý-trí ép dồn!
Hôm Nay tôi chọn con đường của tôi,
Dù đường thưa vắng bóng người,
Còn hơn nẻo cũ: lề xoi, lối mòn!
Và Hôm Nay nếu không tròn,
Nếu Hôm Nay cũng chẳng còn Hôm Nay,
Thì tôi sẽ đợi Ngày Mai,
Tôi lại gắng nữa, không phai chí mình...
THANH-THANH Việt-hóa
PHẠM TÍN AN NINH * CUỘC TRÙNG PHÙNG
Cuộc trùng phùng bi thảm
Pham-Tin An-Ninh
-Khi bị bắn, ông Đạt nằm trần truồng ngay dưới giường ngủ của em tôi, chứ không phải mặc nguyên áo quần công an như bố tôi vừa nói. Tôi phản đối.
Tất cả nhốn nháo. Có lệnh tạm ngưng phiên tòa, buổi chiều sẽ nghị án. Ông Trực vội vàng chạy tới Phượng, nhưng chưa kịp nói điều gì thì mấy gã công an đã đẩy Phượng đi. Ông chạy ra hành lang tìm gặp Hai Chi. Ông ta bỏ đi trước một mình khi vợ và đứa con trai đang còn lớn tiếng cãi nhau
Khi thấy có người đập mạnh trên vai, ông Hai Chi quay lại, nhưng chưa kịp nhận ra ai. Nước mắt ràn rụa, giọng nói dường như nghẽn lại, ông Trực cố gắng lắm mới thốt ra lời:
-Anh Cu Tun ơi! Em là Trực, Nguyễn Công Trực, em út của anh đây. Cháu Phượng là con gái của em!
Ông Hai Chi khựng lại, sững sờ, trố mắt nhìn. Trời đất như quay cuồng trước mặt khi ông vừa nhận ra đứa em thất lạc đã gọi đúng cái tên cúng cơm của mình mà cả vợ con ông cũng chưa hề biết. Ông kéo tay ông Trực ra xa, đến dưới một bóng cây bên kia đường vắng. Trời đang vần vũ một cơn mưa. Cả hai đều chưa biết tung tích của nhau, nhưng riêng ông Trực thì đã đoán ông anh của mình phải là một cán bộ cộng sản cao cấp, với cái vẽ bệ vệ của ông cùng sự sang trọng của bà vợ và đứa con trai. Một cảm giác rờn rợn lẫn một chút xót xa thoáng qua trong đầu ông Trực. Ông Hai Chi căn dặn Trực tạm thời đừng tiết lộ điều gì với vợ và con trai ông. Bởi vợ ông là một người cộng sản thực thụ, có thể gây bất lợi cho em mình. Ông sẽ bảo vợ, Trực là một đàn em thân tín nhưng hoạt động trong bí mật.
Đưa Trực về nhà. Cả một buổi trưa, ông Hai Chi tưởng mình như đang rơi xuống chín tầng địa ngục. Ngoài trời mưa tầm tã, nhưng trong lòng ông nóng còn hơn lửa đốt. Ông nhắm mắt ngữa mặt lên trần nhà khi nghe người em của mình cho biết:
-Bố mẹ đã chết trong Tết Mậu Thân do pháo kích của các anh. Em bị các anh bắt giam cầm hành hạ hơn 9 năm trời, tưởng đã bỏ xác trong tù, vợ em có lẽ cũng bị các anh giết tập thể ở Long Khánh, và cháu Phượng là đứa con duy nhất của em, mới mấy tuổi đầu mà phải bị ức hiếp tù đày.
Là một người Cộng sản “theo thời thế”, ông Chính vẫn còn ít nhiều cái gốc tiểu tư sản. Một chút lương tâm còn sót lại bỗng làm ông bật khóc. Thực ra thì ông cũng đã từng bao lần khóc thầm, khi suýt bỏ mạng ở các chiến trường Hạ Lào, Tây Nguyên, chứng kiến những cái chết kinh hoàng và vô nghĩa của hàng vạn thanh niên nam nữ từ miền Bắc bị cưỡng bách đi B. Vài lần thoáng hiện trong đầu ông hai chữ “hồi chánh”, nhưng phân vân vì khi ấy vợ con ông ở ngoài Bắc, chắc chắn sẽ phải khốn khổ với đám cường quyền. Ý tưởng chưa ngã ngũ thì chiến cuộc kết thúc nhanh chóng đến bất ngờ. Ông tiếp tục “nín thở qua sông”, cố đóng cho thật khéo vai trò “đảng viên trung kiên”, để hưởng cho tròn cái lợi danh của người “bên thắng cuộc”.
Buổi chiều, phiên tòa tái nhóm. Ông Hai Chi xin được phản cung, thay đổi lời khai nhân chứng. Là một đảng viên có chức quyền, lại là bạn thân của “đồng chí” Mười Vân giám đốc ông an tỉnh, ông cũng được mấy ông bà “quan tòa” vị nễ. Nhưng tất cả đều ngỡ ngàng khi nghe ông tuyên bố:
-Lời nói của cậu con trai tôi sáng nay là đúng. Chính đồng chí thượng úy Đỗ Hữu Đạt đang thực hiện ý đồ hiếp dâm cháu Nguyễn Thị Hồng Phượng, là con gái nuôi của chúng tôi, còn đang tuổi vị thành niên. Với tư cách là một đảng viên và cán bộ nhà nước, tôi cam kết những lời xác nhận này là hoàn toàn chính xác. Sáng nay, vì muốn giữ danh dự cho chiến sĩ ngành công an, tôi có ý che giấu cho anh Đạt, nhưng rồi tôi đã kịp nghĩ ra, làm như vậy trước tòa là phạm pháp, có tội với đảng, với nhân dân.
Bà Hai Chi tròn mắt ngạc nhiên, tức giận, trước thái độ thay đổi bất ngờ của ông chồng.Tay thượng úy Đạt được tòa gọi đứng lên đối chất. Hắn ta không phản biện, vì biết tội đã quá rõ ràng, nhưng lại trút tội lên đầu bà Hai Chi. Hắn ta khai ra tất cả kế hoạch bỉ ổi của bà. Nội vụ lại chuyển sang một hướng khác, hoàn toàn ngoài dự trù của Viện Kiểm Sát. Phiên tòa tạm ngưng để tiếp tục điều tra.
Không khí trong nhà ông Hai Chi trở nên ngột ngạt, nhưng ông Trực cố nán lại đây để mong được sớm gặp con gái của mình và cũng tránh bị xét hỏi giấy tờ. Ông Hai Chi đích thân làm đơn bảo lãnh Phượng được tại ngoại. Cha con gặp nhau trong ngỡ ngàng. Phượng không nhận ra cha mình. Nhưng huyết thống phụ tử rất nhiệm màu, hơn nữa khi nghe ông Trực bảo “phía dưới ngực bên trái của con có một vết sẹo dài khi con mỗ tim”, Phượng òa khóc và ôm chặt lấy cha. Trong lòng Phượng như vừa mới nở ra một đóa hoa tươi thắm nhất.
Giữa tháng 10/ 1984, khi phiên tòa chưa tái nhóm thì tại tỉnh Đồng Nai xảy ra một biến cố lớn, làm xôn xao cả nước, đặc biệt đối với dân chúng miền Nam, sau hơn chín năm vẫn chưa kịp nhận ra hết bộ mặt thật của những người cộng sản:
Mười Vân Nguyễn Hữu Giộc, đảng viên cao cấp, con hùm xám Nam Bộ một thời, đang là Giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai bị bắt. Đích thân “đồng chí” bộ trưởng công an, âm thầm đưa cả một lực lượng công an chuyên nghiệp và tin cẩn từ Hà nội vào Sài gòn lập kế bắt Mười Vân ngay trong phòng họp. Lục soát tư dinh và nhiều nơi khác, công an tịch thu hơn hai ngàn cây vàng và cả trên 500 kg vàng cùng hột xoàn các loại.
Ngày 1.11.1984, một phiên tòa đặc biệt được khẩn cấp triệu tập tại thành phố Biên Hòa, dưới sự “chủ trì” và xét xử của Viện Kiểm Sát Nhân Dân và Tòa Án Nhân Dân Tối Cao. Phiên tòa đặt dưới sự chỉ đạo nghiệp vụ của “đồng chí” Trần Quyết, Bí Thư Trung Ương Đảng, Viện Trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao.
Mười Vân bị xử tử hình. Bản án sơ thẩm cũng là chung thẩm, được thi hành cấp kỳ sau một tuần tại trường bắn Long Bình.
Lần đầu tiên báo chí tại Sài gòn được đăng tải tin tức phiên tòa mà thủ phạm là một ông lớn, đảng viên cao cấp. Người ta cũng biết được có những chiếc tàu chở người Hoa đã bị bỏ đói, nhận chìm, ngoài bờ biển Cát Lái, Rạch Giá ,Phú Quốc và vài nơi khác ở miền Trung, làm chết rất nhiều người. Và khắp cả nước bàn tán về chuyện cướp bóc, tham nhũng, ăn chia không đều giữa những người cộng sản!
Sau đó nhiều phiên tòa đặc biệt khác được tiếp tục, xử những người đồng lõa, trong đó có cả mấy ông bà trong Tòa án nhân dân Đồng Nai. Nhờ đó, vụ án của Phượng bị bỏ quên, không còn ai nhắc tới. Nhưng ông Hai Chi và cả tay thượng úy công an Đỗ Hữu Đạt lại dính vào vụ án lớn. Bởi cả hai đều là cánh tay đắc lực của gã Mười Vân.
Biết không thể nào vượt qua số phận, ông Hai Chi tự động đến trình diện trưởng ban điều tra của “ban chuyên án”, và xin giao nộp 800 cây vàng, ông khai là Mười Vân nhờ giữ hộ. Và cũng nhờ ông khai thêm những đường giây làm ăn của Mười Vân, nên ủy ban bắt thêm một số đàn em, trong đó có thượng úy công an Đỗ Hữu Đạt, tịch thu thêm cả ba ngàn cây vàng, gồm cả 800 cây được giấu kỹ dưới hồ nước sau nhà một đàn em thân tín của Mười Vân, phải điều xe cần trục câu lên.
Tất nhiên với dạn dày kinh nghiệm, ông Hai Chi kịp thời tẩu tán một số vàng. Ông vội vàng móc nối một đường giây quen biết cũ, tung vàng ra để gởi cha con ông Trực, dắt theo Diệp, thằng con trai duy nhất của ông vượt biển khẩn cấp ra khỏi nước.
Nhờ tàu Cap Anamur cứu vớt trên biển, bố con ông Trực và Diệp được đến định cư tại Tây Đức.
****
Mùa Hè năm 1990, trong một dịp sang thăm người bạn thân cùng tù Hoàng Liên Sơn lúc trước, tôi được gặp anh Nguyễn Công Trực, một cựu sĩ quan Biệt Động Quân, là bạn láng giềng thân thiết với người bạn tù của tôi. Anh đã kể cho tôi nghe về những ngày cuối cùng của đơn vị anh trên Tỉnh Lộ 7B – từ Pleiku di tản xuống Tuy Hòa, và cả câu chuyện trùng phùng bi thảm này. Tôi cũng được nói chuyện với cháu Phượng, cô con gái hiền thục xinh xắn của anh, vừa mói tốt nghiệp dược sĩ. Chúng tôi cũng đến thăm cậu Diệp, con trai của ông bà Hai Chi, cũng là cháu ruột của anh. Diệp đang sống chung với cô vợ người Đức và đứa con trai hai tuổi.
Pham-Tin An-Ninh
Theo đoàn quân tiếp thu Sài gòn mà lòng ông Hai Chi rối như tơ vò. Ông và hầu hết các đồng chí của ông ngơ ngác tưởng như chuyện mộng mị không thể nào xảy ra. Chính đơn vị của ông bị đánh tan tác gần như phải xóa sổ trong mùa hè 1972, đến nay vẫn chưa bổ sung xong, và đám bộ đội còn sống sót cũng chưa kịp hoàn hồn. Vậy mà Ban Mê Thuột mất, Tây Nguyên, Vùng 2, đến Vùng 1 có lệnh bỏ, để rồi cả miền Nam thất thủ chỉ trong vòng bốn mươi lăm ngày. Có lẽ những người ngồi trong Bộ Chính Trị ngoài Hà Nội cũng còn bất ngờ, huống hồ Hai Chi, chỉ mang quân hàm thiếu tá, làm sĩ quan hậu cần của một sư đoàn nằm tận vùng rừng núi Tây Nguyên heo hút..
Từ ngày vào bộ đội, ông Hai Chi luôn bị điều về những đơn vị chiến đấu. Nhờ phước đức mấy đời nên còn sống cho đến ngày tàn cuộc chiến. Không chết, nhưng trên người, và có thể cả trong lòng ông còn mang nhiều thương tích. Vết thương nặng nhất khi đơn vị ông bị B.52 dội bom trong trận Hạ Lào. Tiểu đoàn do ông làm thủ trưởng chỉ còn lại dưới 50 người. Nhờ thương tích ấy ông được điều về Sư Đoàn 320 làm cán bộ hậu cần. Mùa hè năm 1972, cả sư đoàn từng mang danh là Sư Đoàn Điện Biên hay Sư Đoàn Thép này gần như bị xóa sổ, khi tướng Hoàng Minh Thảo tung vào trận địa Kontum với ý đồ chiếm lấy Tây Nguyên, làm bàn đạp tiến xuống đồng bằng. Nhờ làm việc ở hậu cần nên ông Hai Chi sống sót để cuối tháng 4/75 có mặt trong đoàn quân ngơ ngác về tiếp thu Sài gòn.
Hai Chi chỉ là bí danh. Tên thật của ông là Nguyễn Công Chính, con cả của một gia đình gốc tiểu tư sản. Quê ở Hải Phòng. Trước 54 gia đình làm chủ một tiệm bán xe đạp và sản xuất găm bánh xe. Bố mẹ sinh được năm người con, nhưng cả ba cô con gái mất sớm, chỉ còn hai cậu con trai, Hai Chi và người em út, nhỏ hơn đến mười một tuổi. Khi ông đang học Y khoa ở Đại Học Hà Nội, thì trận chiến Điện Biên Phủ kết thúc với sự thắng lợi của phe Việt Minh để Pháp phải ký Hiệp Định Genève, chia đôi đất nước. Từ vỉ tuyến 17 trở ra cả miền Bắc thuộc về Cộng Sản. Làn sóng di cư đổ xô về Hải Phòng, quê ông, nơi có những chiếc tàu há mồm chở họ vào Nam. Bị lực lượng Việt Minh tìm mọi cách ngăn chặn, nên khi ông về đến được Hải Phòng, thì nhà cửa đã bị tich thu, không tìm được bố mẹ và người em trai của mình. Ông phải bỏ Hải Phòng, bỏ cả con đường trở thành bác sĩ, lên sống với một bà dì trên Ý Yên, Nam Định.
Nhờ có trình độ học vấn và phấn đấu liên tục để giấu đi gốc gác con nhà tiểu tư sản, ông được cho theo học khóa sĩ quan. Nhưng sau này, khi hầu hết bạn bè cùng khóa lên đến cấp đại tá, thiếu tướng, giữ nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội hay công an, có người còn lọt vào Bộ Chính Trị, thì ông Hai Chi cứ vẫn là thiếu tá tiểu đoàn trưởng và cuối cùng, sau khi bị thương, được điều về làm cán bộ hậu cần của một đơn vị bại trận, cần thời gian để “biên chế”, bổ sung.
Giữa tháng 3/75 Ban Mê Thuột mất, rồi Quân Đoàn II và Quân Đoàn I gần như xóa sổ, sau những kế hoạch triệt thoái tồi tệ nhất trong lịch sữ chiến tranh, để cuối cùng ngày 30/4/75 cả miền Nam rơi vào tay Cộng sản.
Sư Đoàn 320 từ Tây Nguyên cũng được tăng cường cho đoàn quân tiến về Sài gòn, khi Cộng quân bị các đơn vị VNCH chặn đánh tại tuyến Long Khánh gần hai tuần lễ gây tổn thất khá nặng nề. Chiến tranh kết thúc, ông Hai Chi được chỉ định bổ sung cho đoàn cán bộ tiếp thu Tổng Kho Long Bình của QLVNCH bỏ lại. Sau thời gian quân quản, ông là một trong số những cán bộ may mắn được “biên chế” ở lại miền Nam. Nhiệm vụ của ông là kiểm kê và tổ chức chuyển hàng trong các kho về miền Bắc. Từng đoàn xe liên tục từ Nam ra Bắc suốt ngày đêm, chở theo các loại chiến lợi phẩm, không những đã tịch thu được của Quân Đội hay Chính Phủ mà của cả dân chúng miền Nam, nhất là sau kế hoạch “Đánh Tư Sản”. Lúc này trong dân gian truyền miệng một câu nói khá đau lòng mà lý thú: Đất nước thống nhất để miền Nam thì nhận họ, còn miền Bắc thì nhận “hàng”. Như con chuột gầy sa hủ nếp, ông Hai Chi trở nên giàu có. Ngôi biệt thự tại thành phố Biên Hòa tịch thu từ gia đình một tư sản gốc Hoa được cấp cho ông, cũng là nơi để ông cất giấu hàng ngàn cây vàng kiếm được. Một năm sau, vợ và đứa con trai của ông cũng từ ngoài Bắc được chuyển vào ở với ông. Học đòi một chút vương giả, bà vợ muốn có người ở, phụ bà lau nhà rửa bát và để cho bà có người sai vặt. Nhưng ngại nếu thuê mướn một người lớn, chuyện “làm ăn” và cả sinh hoạt trong nhà dễ bị “tai vách mạch rừng” lọt ra ngoài, nên sau khi bàn tán kỹ lưỡng, vợ chồng Hai Chi quyết định đi xin một đứa con nuôi. Vừa có một đứa đầy tớ không mất tiền thuê, vừa được tiếng nhân từ, giữ “truyền thống đạo đức cách mạng”.
Vợ chồng ông Hai Chi tìm đến các viện cô nhi để tuyển lựa “đối tượng”. Ông bà muốn có một đứa con gái khoảng 7-8 tuổi, khỏe mạnh và mặt mày sáng sủa. Cuối cùng vợ chồng cũng được như ước muốn. Khi bà sœur “quản nhiệm” Cô nhi viện Biên Hòa dắt con bé ra giao, bà chỉ cho biết con bé tên Phượng, 8 tuổi. Bố mẹ đã chết trong trận đánh Long Khánh. Có người thấy nó ngồi khóc trên vỉa hè nên mang về nhà nuôi. Một thời gian sau “giải phóng” gia đình này trở nên túng quẩn, không có đủ cơm ăn, đúng lúc con bé lại bệnh hoạn không sai bảo gì được, nên đã mang cháu đến giao cho cô nhi viện. Lúc ấy cô nhi viện cũng lâm vào cảnh khốn khó, nhưng các sœur không nở chối từ, chia bớt phần ăn của mình, lo chữa trị và nuôi dưỡng cháu lành bệnh, ngày một khỏe mạnh, xinh xắn.
Thực ra, thì sœur quản nhiệm biết bố của Phượng là lính Cộng Hòa, qua lời kể dù không rõ ràng lắm của cháu, nhưng trong thời buổi nhá nhem còn đầy không khí hận thù lúc ấy, sœur luôn dặn dò Phượng phải giấu kín điều này không cho ai biết. Ông Hai Chi làm khai sanh cho con bé, đặt tên Nguyễn Thị Hồng Phượng, để nhớ tới thành phố “Hoa Phượng Đỏ” Hải Phòng, quê hương ông.
Những năm 1978 – 1979, bọn cầm quyền cộng sản muốn đuổi những người Viêt gốc Hoa ra khỏi nước nhằm cướp hết tài sản của họ, bày ra chiến dịch quái đản, được người ta đặt tên là “Ra đi bán chính thức”. Nhờ biết tiếng Hoa và có nhiều kinh nghiệm trong các đường giây mua bán, ông Hai Chi lại được “đồng chí” Mười Vân ( tên trên giấy tờ là Nguyễn Hữu Giộc) , Giám đốc công an tỉnh Đồng Nai móc nối vào tổ chức “đen”, vừa đi tìm những người Việt gốc Hoa giàu có (và cả những người không phải gốc Hoa nhưng chịu chi nhiều vàng để nhận hồ sơ Hoa kiều giả), vừa cho đám đàn em lập ra những toán “lâm tặc” chiếm cứ, làm chủ các khu rừng, chặt hết gỗ quý đóng tàu bán với giá rất cao cho các nhóm người Hoa “ra đi bán chính thức”. Bọn họ mở nhiều xưởng cưa, nhiều cơ sở đóng tàu. Chỉ sau một thời gian ngắn, Hai Chi đã trở thành đại gia, một nhà tư bản đỏ đầy quyền lực.
Bé Hồng Phượng lớn lên theo nhịp độ phát đạt của gia đình ông Hai Chi cùng nỗi cơ cực của một ô-sin. Điều may mắn duy nhất, cũng có thể do ông bà Hai Chi muốn tránh tiếng xấu, Phượng được cho đi học lớp đêm, và nhờ vào tính thông minh cần mẫn, Phượng học rất giỏi.
Điều may mắn khác, nhưng lại trở thành tai họa cho Phượng, là càng lớn Phượng càng xinh đẹp. Năm lên 16, nhan sắc của Phượng đã làm si mê bao cậu học trò. Và người say mê nhất lại là Diệp, thằng con trai duy nhất của ông bà Hai Chi. Diệp lớn hơn Hồng Phượng 3 tuổi và khi ấy đang là sinh viên của Trường Đại Học Bách Khoa. Mỗi lần Phượng ra ngoài, Diệp tìm mọi cách đi theo, ngăn chặn bất cứ gã con trai nào muốn tán tỉnh Phượng, lấy cớ là anh trai của Phượng. Ở nhà, Diệp thường bênh vực Phượng, trách cứ mẹ đã bắt cô em nuôi phải làm quá nhiều công việc.
Chưa bao giờ Diệp tỏ ra mình là một ông anh nhân từ tốt bụng như lúc này. Hơn nữa cậu ta cũng nể nang, tôn trọng nết na hiền thục cùng sự khôn ngoan của Phượng. Bà Hai Chi vốn nuông chiều cậu quí tử nên không dám làm Diệp buồn lòng. Điều này làm bà khó chịu, nhưng đó không phải là điều mà bà quan ngại. Điều lo âu nhất của bà chính là ông Hai Chi, mỗi lần bà bất ngờ bắt gặp đôi mắt của ông chồng say đắm nhìn cô con gái nuôi trong tuổi dậy thì xinh đẹp, cũng là con bé ô-sin của nhà bà.
Ngày xưa, sau khi kết thúc chiến tranh, ông cũng nể nang cái tình bao năm chờ đợi và thương cảm cảnh khổ của bà, nhưng kể từ ngày kiếm ra nhiều tiền, ông tỏ ra uy quyền và lơ là chăn gối với bà. Bà tìm mọi cách để giữ chồng. Nhờ người giới thiệu một số bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ tiếng tăm ở Sài gòn, chịu bỏ ra một số tiền khá lớn, bà là một trong những người Hà Nội 75 sửa sắc đẹp sớm nhất. Nhờ tài năng của mấy ông bác sĩ miền Nam còn sót lại, nhan sắc của bà có khá hơn nhiều lắm, nhưng so với những cô gái miền Nam, thì bà vẫn chỉ thuộc loại hàng phế thải được “tân trang” phần bên ngoài. Không đủ hấp dẫn ông chồng đang trên đà “đổi mới tư duy”
Vốn là con gái của một gia đình cộng sản, và sống bao nhiêu năm dưới chế độ tàn ác man rợ này, bà đã học được biết bao mưu chước và thủ đoạn để hại người. Trước mắt chồng con, bà luôn tỏ ra thương yêu nhỏ nhẹ với Phượng, nhưng trong đầu đang bày mưu tính kế để hãm hại cô bé mồ côi tội nghiệp này.
Ban đầu bà tính tạo cơ hội cho Diệp, thằng con trai duy nhất của bà cướp đi đời con gái của Phượng, để cho ông chồng già chứng kiến, bỏ cuộc, rồi lấy cớ đuổi Phượng đi, nhưng ngẫm nghĩ thấy mưu kế này có thể là con dao hai lưởi, không chừng thằng quý tử của bà mê luôn Phượng và quyết lấy Phượng làm vợ thì quả là tai họa, gậy bà lại đập đúng lưng bà! Không thể nào để con trai một của cán bô đại gia đi lấy con ô-sin. Cuối cùng bà nghĩ tới tay đàn em thân tín của ông. Bà để ý mỗi lần đến nhà, thấy Phượng là anh chàng này như kẻ mất hồn, nhìn chăm chăm vào Phượng rồi bất ngờ giật mình, sượng sùng quay đi chỗ khác. Hắn e ngại vì dù gì Phượng cũng là con gái nuôi của ông Hai Chi. Hắn tên Đạt, thượng úy công an, tay chân đắc lực của gã Mười Vân, giám đốc công an tỉnh, được “đặc phái” tới làm việc bên cạnh ông Hai Chi trong tổ chức “đen”, móc nối đưa người Hoa ra đi và phá rừng lấy gỗ.
Đạt có vợ, một con mang từ miền Bắc vào. Nghe nói cô vợ, trước kia là một “bộ đội gái”, từng mấy năm ở trạm giao liên trên miệt Trường Sơn trong thời “chống Mỹ”, phục viên khi chiến tranh kết thúc, nhưng con vi trùng bệnh sốt rét rừng vẫn còn mai phục trong máu, nên trông khá xanh xao vàng vọt.
Bà Hai Chi biết Đạt mê mệt cả nhan sắc lẫn thân hình của cô con gái nuôi đang độ dậy thì, nên đã dễ dàng dụ chàng ta vào kế hoạch. Hắn ta bất ngờ như trúng số độc đắc cặp mười, đưa tay thề xin hứa sau này sẵn sàng làm bất cứ mệnh lệnh nào của bà. Bà đích thân ra chợ trời tìm mua mấy gói thuốc ngủ. Tổ chức buổi cơm cuối tuần, gọi Đạt đến nhậu nhẹt cùng chồng như mọi khi. Trong bữa ăn, ông Hai Chi, Đạt và cả thằng Diệp thi nhau uống rượu ngoại. Chỉ có bà và Phượng uống nước cam vắt do chính tay bà làm. Trong bếp, bà đã lén bỏ vào ly nước của Phượng mấy gói thuốc ngủ mà bà đã tán nhỏ ra bột. Khuya hôm đó sau khi thấy Phượng thắm thuốc, ngủ say, bà mở cửa gọi Đạt vào để hiếp Phượng. Bà giả vờ vào phòng nằm với chồng, chờ tiếng ho, như là một ám hiệu của Đạt, sau khi đã thỏa mãn cơn dục tình thèm khát bấy lâu nay. Bà chuẩn bị lấy giọng để la lên cho cả ông Hai Chi và thằng Diệp chứng kiến cảnh Phượng đang lõa lồ sau khi ân ái với thằng đàn em thân tín của ông. Bỗng dưng bà nghe nhiều tiếng động và sau đó là một tiếng súng nổ chát chúa từ phòng của Phượng. Không cần gọi, tất cả ông Hai Chi, thằng Diệp và bà vội vàng chạy ùa vào. Một cảnh tượng kinh hoàng. Đạt nằm trần truồng trên vũng máu, còn Phượng nép vào góc phòng hai tay còn cầm chặt khẩu súng K54 sẵn sàng nhả đạn tiếp.
Ông Hai Chi năn nỉ dụ dỗ mãi, Phượng mới đưa khẩu súng cho ông. Nhưng thằng Diệp vội vàng giật lấy khẩu súng từ tay cha với ý định xử tội Đạt. Trong lúc giằng co, một phát đạn nổ, may mắn không gây thêm thương tích. Tay thượng úy Đạt bị thương rất nặng ở vùng bụng, được xe cứu thương chở vào bệnh viện Biên Hòa cứu chữa, sau khi ông bà Hai Chị vội vã mặc áo quần vào cho hắn. Thằng Diệp hò hét chạy theo đòi giết hắn ta. Bà Hai Chi thì rất đỗi ngạc nhiên, cứ nghĩ rằng mấy gói thuốc như vậy, nhất định sẽ làm Phượng say ngủ mê man tới sáng, tại sao lại có thể giật súng bắn thằng Đạt. Sau này, bà nhờ bác sĩ thử nghiệm, kết quả: bình thường. Hóa ra thuốc bán ngoài chợ trời chỉ là thuốc giả.
Tay Đạt thoát chết nhưng bị cắt đi một khúc ruột và mất khá nhiều máu. Phượng bị bắt giam. Thằng Diệp đòi ra công an làm chứng, tố cáo Đạt chủ động hiếp dâm và Phượng chỉ tự vệ. Nhưng ông bà Hai Chi vừa quyết liệt ngăn cản vừa năn nỉ. sợ mang thêm tai họa. Bà Hai Chi lo lắng bị lộ ra cái quỷ kế ác độc của bà. Còn ông Hai Chi thì nghĩ Đạt là đàn em thân tín của tay Mười Vân, giám đốc công an tỉnh, quyền uy như ông vua một cõi. Đến các “đồng chí” phó bí thư, ủy viên thành ủy còn bị hắn ta lập kế bắt giam năm ngoái. Vả lại tay Đạt cũng chưa làm gì được thì đã ăn đạn rồi. Hắn ta chủ quan, cứ tưởng là Phượng đã say thuốc ngủ. Trút bỏ hết áo quần và cả khẩu “súng ngắn” để trên giường, trước khi đưa hai bàn tay sàm sở lên người Phượng. Chưa kịp bàng hoàng khi bất ngờ bị Phượng đạp mạnh xuống giường thì một phát súng đã nổ vào bụng. Cuối cùng Phượng bị tạm giam để đưa ra tòa án nhân dân, với cái tội “phản động”đã định sẵn. Các báo Sài Gòn Giải Phóng, Thanh Niên cho đăng tải tin tức này theo chỉ thị: “tàn dư Mỹ Ngụy dùng mỹ nhân kế ám sát cán bộ cách mạng”
****
Trận chiến Long Khánh, dưới tài chỉ huy của Tướng Lê Minh Đảo, đại quân CS bị các đơn vị VNCH chặn đánh tan tác. Đặc biệt hai quả bom CBU được thả xuống địa điểm “tập kết” của địch, giết cả hai trung đoàn “sinh Bắc tử Nam”. Mang hận thù này, nên sau khi chiếm được Long Khánh, bọn chúng đã bắn giết dã man bao người dân vô tội, trong đó có mẹ của Phượng. Khi xông vào nhà, thấy tấm ảnh của bố Phượng treo trên vách, mang quân phục và cấp bậc VNCH, chúng đã bắt trói mẹ Phượng dẫn đi. Phượng chạy theo khóc kể, rồi lạc vào một nơi xa lạ đầy những xác người, sợ hãi, không còn biết đường về. Bố của Phượng là sĩ quan thuộc một Liên Đoàn Biệt Động Quân từ Vùng 3 tăng phái cho Vùng 2, bị bắt lúc bị thương trên đường di tản theo Tỉnh Lộ 7B từ Pleiku vào giữa tháng 3.75. Ông bị cầm tù qua rất nhiều trại. Nhiều năm sau không hề biết được tin tức vợ con, ông nghĩ là tất cả đã chết vì biết có những trận đánh lớn tại Long Khánh trước ngày mất nước.
Ngày 2/ 9 năm 1984, ông được thả. Ra tù, ông vội vã tìm về Long Khánh. Ngôi nhà của cha mẹ để lại, nơi vợ con ông đã sống từ ngày sinh ra Phượng, đã bị “cách mạng” tịch thu. Người chủ mới là một gã công an. Khi nghe ông hỏi thăm vợ con mình, những người chủ đích thực của căn nhà này, gã công an trợn mắt nhìn chằm chặp vào ông rồi thốt ra mấy tiếng cộc lốc, lạnh lùng: “tôi không biết, hỏi làm gì?”, bằng giọng đặc sệt Nghệ Tĩnh rất khó nghe. Khi đến trình diện công an xã, ông bị chỉ định về trình diện chính quyền trong một Khu Kinh Tế Mới nằm sâu trong núi để được tạm trú và quản chế. Một nơi ông hoàn toàn xa lạ, không có bất cứ một người thân quen nào.
Ông đón xe đi Biên Hòa, nơi có trại gia binh nằm bên cạnh doanh trại của đơn vị ngày xưa. Chắc chắn là trại gia binh đã bị tịch thu, nhưng hy vọng tìm được người tài xế và vài người lính cũ có thể còn ở lại gần đâu đó. Họ là những người thân thiết cuối cùng còn lại trong đời ông. Ông muốn đến thăm và tìm hiểu tình hình hầu tìm một con đường sống.
May mắn, anh tài xế vẫn còn ở căn nhà cũ phía ngoài trại gia binh. Căn nhà tôn mà trước kia vợ chồng anh đã hốt hai đầu hụi và mượn thêm cả một tháng lương của ông để mua với giá rẻ, mở cái quán nước nhỏ, bán cho anh em lính. Bây giờ cái quán không còn, nhưng anh hành nghề xe ôm với chiếc Honda từ đời 70 còn lại, nên cuộc sống cũng đáp đổi qua ngày. Thầy trò gặp nhau bất ngờ như từ cõi chết trở về, vừa vui mừng vừa cảm động. Anh tài xế ôm chầm lấy ông, bảo hết mình lo lắng cho ông Thầy. Anh bảo vợ và thằng con trai lớn chạy đi báo tin, gọi thêm hai anh em cùng đơn vị cũ còn ở lại trong vùng. Mỗi người góp một tay, làm mấy món nhậu uống mừng được gặp lại ông Thầy.
Men rượu ngà ngà, nước mắt ông cũng đầm đìa vì cảm kích cái tình huynh đệ, và nhớ tới những anh em đồng đội đã vĩnh viễn nằm lại trên con đường 7 B oan nghiệt, tất cả đều chết trong tức tưởi. Bỗng tất cả im lặng hướng về chiếc máy truyền hình nhỏ để trên tủ thờ trước mặt, khi nghe giọng nói sắc máu của người nữ xướng ngôn viên thông báo trực tiếp phát sóng: Tòa Án Nhân Dân tỉnh Đồng Nai xét xử một cô gái mang tội “phản động, âm mưu ám sát cán bộ cách mạng”. Ông há hốc miệng, đôi mắt ráo hoảnh, khi nhìn thấy cô con gái đứng trước vành móng ngựa, hai tay bị còng, phía sau là một đám công an cả nam lẫn nữ mặt mày đằng đằng sát khí. Cô bé giống vợ ông như đúc. Khuôn mặt hiền lành xinh đẹp này ông đã gặp bao nhiêu lần trong giấc mộng, suốt hơn chín năm tù. Không kịp giải thích, ông bảo anh tài xế tìm mọi cách giúp chở ông thật nhanh đến tòa án Biên Hòa, nơi phiên xử mới bắt đầu.
Chỉ hơn 10 phút sau anh tài xế và ông đã có mặt. Phiên tòa đang tiếp tục phần “buộc tội” của một bà được gọi là đại diên Viện Kiểm Sát Nhân Dân. Ông giật mình khi nghe tên cô con gái “thủ phạm” là Nguyễn Thị Hồng Phượng. Đứa con gái duy nhất của ông có tên Nguyễn Lê Tuyết Phượng. Chưa kịp hình dung trọn vẹn hình ảnh người vợ và đứa con gái năm tuổi, khi ông được ba ngày phép về nhà đưa cháu vào bệnh viện mỗ tim rồi vội vàng chia tay lần cuối cùng để ra đơn vị, thì một điều bất ngờ khác làm ông bàng hoàng hơn: Người nhân chứng được gọi lên cung khai có tên là Nguyễn Công Chính, trùng tên với ông anh cả, đã thất lạc trên ba mươi năm, sau ngày ông cùng bố mẹ di cư vào Nam. Khi nhìn kỹ Nguyễn Công Chính bước lên vị trí nhân chứng, ông sững sờ nhận ra ngay, đó đúng là người anh ruột của mình. Dù dung mạo có đổi thay, nhưng ông không thể nào nhầm lẫn được. Với con mắt hơi lồi và hàm răng vễnh của bao năm trước. Lúc còn bé, ông anh còn có tên gọi trong nhà là cu Tun. Ông đứng bật dậy, định gọi lớn tên anh mình, nhưng kịp nhớ ra đang ở trong phiên tòa, và bản thân mình cũng là người tù chưa trình diện nơi quản chế. Lòng dạ rối bời, ông chưa kịp trấn tỉnh để nghe nhân chứng vừa nói điều gì, thì bỗng có tiếng la từ hàng ghế phía trước. Một cậu thanh niên đứng bật dậy, hét to:
-Tôi là Nguyễn Công Diệp đã đủ tuổi để xin làm nhân chứng. Tôi chứng kiến tận mắt, ông thượng úy Đạt định hiếp Phượng, cô em nuôi của tôi. Em tôi chỉ phải tự vệ bằng chính khẩu súng của ông Đạt.
Bất chấp tiếng búa gõ và phản đối ra lệnh ngồi xuống của chủ tọa phiên tòa, cậu thanh niên vẫn tiếp tục:
Từ ngày vào bộ đội, ông Hai Chi luôn bị điều về những đơn vị chiến đấu. Nhờ phước đức mấy đời nên còn sống cho đến ngày tàn cuộc chiến. Không chết, nhưng trên người, và có thể cả trong lòng ông còn mang nhiều thương tích. Vết thương nặng nhất khi đơn vị ông bị B.52 dội bom trong trận Hạ Lào. Tiểu đoàn do ông làm thủ trưởng chỉ còn lại dưới 50 người. Nhờ thương tích ấy ông được điều về Sư Đoàn 320 làm cán bộ hậu cần. Mùa hè năm 1972, cả sư đoàn từng mang danh là Sư Đoàn Điện Biên hay Sư Đoàn Thép này gần như bị xóa sổ, khi tướng Hoàng Minh Thảo tung vào trận địa Kontum với ý đồ chiếm lấy Tây Nguyên, làm bàn đạp tiến xuống đồng bằng. Nhờ làm việc ở hậu cần nên ông Hai Chi sống sót để cuối tháng 4/75 có mặt trong đoàn quân ngơ ngác về tiếp thu Sài gòn.
Hai Chi chỉ là bí danh. Tên thật của ông là Nguyễn Công Chính, con cả của một gia đình gốc tiểu tư sản. Quê ở Hải Phòng. Trước 54 gia đình làm chủ một tiệm bán xe đạp và sản xuất găm bánh xe. Bố mẹ sinh được năm người con, nhưng cả ba cô con gái mất sớm, chỉ còn hai cậu con trai, Hai Chi và người em út, nhỏ hơn đến mười một tuổi. Khi ông đang học Y khoa ở Đại Học Hà Nội, thì trận chiến Điện Biên Phủ kết thúc với sự thắng lợi của phe Việt Minh để Pháp phải ký Hiệp Định Genève, chia đôi đất nước. Từ vỉ tuyến 17 trở ra cả miền Bắc thuộc về Cộng Sản. Làn sóng di cư đổ xô về Hải Phòng, quê ông, nơi có những chiếc tàu há mồm chở họ vào Nam. Bị lực lượng Việt Minh tìm mọi cách ngăn chặn, nên khi ông về đến được Hải Phòng, thì nhà cửa đã bị tich thu, không tìm được bố mẹ và người em trai của mình. Ông phải bỏ Hải Phòng, bỏ cả con đường trở thành bác sĩ, lên sống với một bà dì trên Ý Yên, Nam Định.
Nhờ có trình độ học vấn và phấn đấu liên tục để giấu đi gốc gác con nhà tiểu tư sản, ông được cho theo học khóa sĩ quan. Nhưng sau này, khi hầu hết bạn bè cùng khóa lên đến cấp đại tá, thiếu tướng, giữ nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội hay công an, có người còn lọt vào Bộ Chính Trị, thì ông Hai Chi cứ vẫn là thiếu tá tiểu đoàn trưởng và cuối cùng, sau khi bị thương, được điều về làm cán bộ hậu cần của một đơn vị bại trận, cần thời gian để “biên chế”, bổ sung.
Giữa tháng 3/75 Ban Mê Thuột mất, rồi Quân Đoàn II và Quân Đoàn I gần như xóa sổ, sau những kế hoạch triệt thoái tồi tệ nhất trong lịch sữ chiến tranh, để cuối cùng ngày 30/4/75 cả miền Nam rơi vào tay Cộng sản.
Sư Đoàn 320 từ Tây Nguyên cũng được tăng cường cho đoàn quân tiến về Sài gòn, khi Cộng quân bị các đơn vị VNCH chặn đánh tại tuyến Long Khánh gần hai tuần lễ gây tổn thất khá nặng nề. Chiến tranh kết thúc, ông Hai Chi được chỉ định bổ sung cho đoàn cán bộ tiếp thu Tổng Kho Long Bình của QLVNCH bỏ lại. Sau thời gian quân quản, ông là một trong số những cán bộ may mắn được “biên chế” ở lại miền Nam. Nhiệm vụ của ông là kiểm kê và tổ chức chuyển hàng trong các kho về miền Bắc. Từng đoàn xe liên tục từ Nam ra Bắc suốt ngày đêm, chở theo các loại chiến lợi phẩm, không những đã tịch thu được của Quân Đội hay Chính Phủ mà của cả dân chúng miền Nam, nhất là sau kế hoạch “Đánh Tư Sản”. Lúc này trong dân gian truyền miệng một câu nói khá đau lòng mà lý thú: Đất nước thống nhất để miền Nam thì nhận họ, còn miền Bắc thì nhận “hàng”. Như con chuột gầy sa hủ nếp, ông Hai Chi trở nên giàu có. Ngôi biệt thự tại thành phố Biên Hòa tịch thu từ gia đình một tư sản gốc Hoa được cấp cho ông, cũng là nơi để ông cất giấu hàng ngàn cây vàng kiếm được. Một năm sau, vợ và đứa con trai của ông cũng từ ngoài Bắc được chuyển vào ở với ông. Học đòi một chút vương giả, bà vợ muốn có người ở, phụ bà lau nhà rửa bát và để cho bà có người sai vặt. Nhưng ngại nếu thuê mướn một người lớn, chuyện “làm ăn” và cả sinh hoạt trong nhà dễ bị “tai vách mạch rừng” lọt ra ngoài, nên sau khi bàn tán kỹ lưỡng, vợ chồng Hai Chi quyết định đi xin một đứa con nuôi. Vừa có một đứa đầy tớ không mất tiền thuê, vừa được tiếng nhân từ, giữ “truyền thống đạo đức cách mạng”.
Vợ chồng ông Hai Chi tìm đến các viện cô nhi để tuyển lựa “đối tượng”. Ông bà muốn có một đứa con gái khoảng 7-8 tuổi, khỏe mạnh và mặt mày sáng sủa. Cuối cùng vợ chồng cũng được như ước muốn. Khi bà sœur “quản nhiệm” Cô nhi viện Biên Hòa dắt con bé ra giao, bà chỉ cho biết con bé tên Phượng, 8 tuổi. Bố mẹ đã chết trong trận đánh Long Khánh. Có người thấy nó ngồi khóc trên vỉa hè nên mang về nhà nuôi. Một thời gian sau “giải phóng” gia đình này trở nên túng quẩn, không có đủ cơm ăn, đúng lúc con bé lại bệnh hoạn không sai bảo gì được, nên đã mang cháu đến giao cho cô nhi viện. Lúc ấy cô nhi viện cũng lâm vào cảnh khốn khó, nhưng các sœur không nở chối từ, chia bớt phần ăn của mình, lo chữa trị và nuôi dưỡng cháu lành bệnh, ngày một khỏe mạnh, xinh xắn.
Thực ra, thì sœur quản nhiệm biết bố của Phượng là lính Cộng Hòa, qua lời kể dù không rõ ràng lắm của cháu, nhưng trong thời buổi nhá nhem còn đầy không khí hận thù lúc ấy, sœur luôn dặn dò Phượng phải giấu kín điều này không cho ai biết. Ông Hai Chi làm khai sanh cho con bé, đặt tên Nguyễn Thị Hồng Phượng, để nhớ tới thành phố “Hoa Phượng Đỏ” Hải Phòng, quê hương ông.
Những năm 1978 – 1979, bọn cầm quyền cộng sản muốn đuổi những người Viêt gốc Hoa ra khỏi nước nhằm cướp hết tài sản của họ, bày ra chiến dịch quái đản, được người ta đặt tên là “Ra đi bán chính thức”. Nhờ biết tiếng Hoa và có nhiều kinh nghiệm trong các đường giây mua bán, ông Hai Chi lại được “đồng chí” Mười Vân ( tên trên giấy tờ là Nguyễn Hữu Giộc) , Giám đốc công an tỉnh Đồng Nai móc nối vào tổ chức “đen”, vừa đi tìm những người Việt gốc Hoa giàu có (và cả những người không phải gốc Hoa nhưng chịu chi nhiều vàng để nhận hồ sơ Hoa kiều giả), vừa cho đám đàn em lập ra những toán “lâm tặc” chiếm cứ, làm chủ các khu rừng, chặt hết gỗ quý đóng tàu bán với giá rất cao cho các nhóm người Hoa “ra đi bán chính thức”. Bọn họ mở nhiều xưởng cưa, nhiều cơ sở đóng tàu. Chỉ sau một thời gian ngắn, Hai Chi đã trở thành đại gia, một nhà tư bản đỏ đầy quyền lực.
Bé Hồng Phượng lớn lên theo nhịp độ phát đạt của gia đình ông Hai Chi cùng nỗi cơ cực của một ô-sin. Điều may mắn duy nhất, cũng có thể do ông bà Hai Chi muốn tránh tiếng xấu, Phượng được cho đi học lớp đêm, và nhờ vào tính thông minh cần mẫn, Phượng học rất giỏi.
Điều may mắn khác, nhưng lại trở thành tai họa cho Phượng, là càng lớn Phượng càng xinh đẹp. Năm lên 16, nhan sắc của Phượng đã làm si mê bao cậu học trò. Và người say mê nhất lại là Diệp, thằng con trai duy nhất của ông bà Hai Chi. Diệp lớn hơn Hồng Phượng 3 tuổi và khi ấy đang là sinh viên của Trường Đại Học Bách Khoa. Mỗi lần Phượng ra ngoài, Diệp tìm mọi cách đi theo, ngăn chặn bất cứ gã con trai nào muốn tán tỉnh Phượng, lấy cớ là anh trai của Phượng. Ở nhà, Diệp thường bênh vực Phượng, trách cứ mẹ đã bắt cô em nuôi phải làm quá nhiều công việc.
Chưa bao giờ Diệp tỏ ra mình là một ông anh nhân từ tốt bụng như lúc này. Hơn nữa cậu ta cũng nể nang, tôn trọng nết na hiền thục cùng sự khôn ngoan của Phượng. Bà Hai Chi vốn nuông chiều cậu quí tử nên không dám làm Diệp buồn lòng. Điều này làm bà khó chịu, nhưng đó không phải là điều mà bà quan ngại. Điều lo âu nhất của bà chính là ông Hai Chi, mỗi lần bà bất ngờ bắt gặp đôi mắt của ông chồng say đắm nhìn cô con gái nuôi trong tuổi dậy thì xinh đẹp, cũng là con bé ô-sin của nhà bà.
Ngày xưa, sau khi kết thúc chiến tranh, ông cũng nể nang cái tình bao năm chờ đợi và thương cảm cảnh khổ của bà, nhưng kể từ ngày kiếm ra nhiều tiền, ông tỏ ra uy quyền và lơ là chăn gối với bà. Bà tìm mọi cách để giữ chồng. Nhờ người giới thiệu một số bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ tiếng tăm ở Sài gòn, chịu bỏ ra một số tiền khá lớn, bà là một trong những người Hà Nội 75 sửa sắc đẹp sớm nhất. Nhờ tài năng của mấy ông bác sĩ miền Nam còn sót lại, nhan sắc của bà có khá hơn nhiều lắm, nhưng so với những cô gái miền Nam, thì bà vẫn chỉ thuộc loại hàng phế thải được “tân trang” phần bên ngoài. Không đủ hấp dẫn ông chồng đang trên đà “đổi mới tư duy”
Vốn là con gái của một gia đình cộng sản, và sống bao nhiêu năm dưới chế độ tàn ác man rợ này, bà đã học được biết bao mưu chước và thủ đoạn để hại người. Trước mắt chồng con, bà luôn tỏ ra thương yêu nhỏ nhẹ với Phượng, nhưng trong đầu đang bày mưu tính kế để hãm hại cô bé mồ côi tội nghiệp này.
Ban đầu bà tính tạo cơ hội cho Diệp, thằng con trai duy nhất của bà cướp đi đời con gái của Phượng, để cho ông chồng già chứng kiến, bỏ cuộc, rồi lấy cớ đuổi Phượng đi, nhưng ngẫm nghĩ thấy mưu kế này có thể là con dao hai lưởi, không chừng thằng quý tử của bà mê luôn Phượng và quyết lấy Phượng làm vợ thì quả là tai họa, gậy bà lại đập đúng lưng bà! Không thể nào để con trai một của cán bô đại gia đi lấy con ô-sin. Cuối cùng bà nghĩ tới tay đàn em thân tín của ông. Bà để ý mỗi lần đến nhà, thấy Phượng là anh chàng này như kẻ mất hồn, nhìn chăm chăm vào Phượng rồi bất ngờ giật mình, sượng sùng quay đi chỗ khác. Hắn e ngại vì dù gì Phượng cũng là con gái nuôi của ông Hai Chi. Hắn tên Đạt, thượng úy công an, tay chân đắc lực của gã Mười Vân, giám đốc công an tỉnh, được “đặc phái” tới làm việc bên cạnh ông Hai Chi trong tổ chức “đen”, móc nối đưa người Hoa ra đi và phá rừng lấy gỗ.
Đạt có vợ, một con mang từ miền Bắc vào. Nghe nói cô vợ, trước kia là một “bộ đội gái”, từng mấy năm ở trạm giao liên trên miệt Trường Sơn trong thời “chống Mỹ”, phục viên khi chiến tranh kết thúc, nhưng con vi trùng bệnh sốt rét rừng vẫn còn mai phục trong máu, nên trông khá xanh xao vàng vọt.
Bà Hai Chi biết Đạt mê mệt cả nhan sắc lẫn thân hình của cô con gái nuôi đang độ dậy thì, nên đã dễ dàng dụ chàng ta vào kế hoạch. Hắn ta bất ngờ như trúng số độc đắc cặp mười, đưa tay thề xin hứa sau này sẵn sàng làm bất cứ mệnh lệnh nào của bà. Bà đích thân ra chợ trời tìm mua mấy gói thuốc ngủ. Tổ chức buổi cơm cuối tuần, gọi Đạt đến nhậu nhẹt cùng chồng như mọi khi. Trong bữa ăn, ông Hai Chi, Đạt và cả thằng Diệp thi nhau uống rượu ngoại. Chỉ có bà và Phượng uống nước cam vắt do chính tay bà làm. Trong bếp, bà đã lén bỏ vào ly nước của Phượng mấy gói thuốc ngủ mà bà đã tán nhỏ ra bột. Khuya hôm đó sau khi thấy Phượng thắm thuốc, ngủ say, bà mở cửa gọi Đạt vào để hiếp Phượng. Bà giả vờ vào phòng nằm với chồng, chờ tiếng ho, như là một ám hiệu của Đạt, sau khi đã thỏa mãn cơn dục tình thèm khát bấy lâu nay. Bà chuẩn bị lấy giọng để la lên cho cả ông Hai Chi và thằng Diệp chứng kiến cảnh Phượng đang lõa lồ sau khi ân ái với thằng đàn em thân tín của ông. Bỗng dưng bà nghe nhiều tiếng động và sau đó là một tiếng súng nổ chát chúa từ phòng của Phượng. Không cần gọi, tất cả ông Hai Chi, thằng Diệp và bà vội vàng chạy ùa vào. Một cảnh tượng kinh hoàng. Đạt nằm trần truồng trên vũng máu, còn Phượng nép vào góc phòng hai tay còn cầm chặt khẩu súng K54 sẵn sàng nhả đạn tiếp.
Ông Hai Chi năn nỉ dụ dỗ mãi, Phượng mới đưa khẩu súng cho ông. Nhưng thằng Diệp vội vàng giật lấy khẩu súng từ tay cha với ý định xử tội Đạt. Trong lúc giằng co, một phát đạn nổ, may mắn không gây thêm thương tích. Tay thượng úy Đạt bị thương rất nặng ở vùng bụng, được xe cứu thương chở vào bệnh viện Biên Hòa cứu chữa, sau khi ông bà Hai Chị vội vã mặc áo quần vào cho hắn. Thằng Diệp hò hét chạy theo đòi giết hắn ta. Bà Hai Chi thì rất đỗi ngạc nhiên, cứ nghĩ rằng mấy gói thuốc như vậy, nhất định sẽ làm Phượng say ngủ mê man tới sáng, tại sao lại có thể giật súng bắn thằng Đạt. Sau này, bà nhờ bác sĩ thử nghiệm, kết quả: bình thường. Hóa ra thuốc bán ngoài chợ trời chỉ là thuốc giả.
Tay Đạt thoát chết nhưng bị cắt đi một khúc ruột và mất khá nhiều máu. Phượng bị bắt giam. Thằng Diệp đòi ra công an làm chứng, tố cáo Đạt chủ động hiếp dâm và Phượng chỉ tự vệ. Nhưng ông bà Hai Chi vừa quyết liệt ngăn cản vừa năn nỉ. sợ mang thêm tai họa. Bà Hai Chi lo lắng bị lộ ra cái quỷ kế ác độc của bà. Còn ông Hai Chi thì nghĩ Đạt là đàn em thân tín của tay Mười Vân, giám đốc công an tỉnh, quyền uy như ông vua một cõi. Đến các “đồng chí” phó bí thư, ủy viên thành ủy còn bị hắn ta lập kế bắt giam năm ngoái. Vả lại tay Đạt cũng chưa làm gì được thì đã ăn đạn rồi. Hắn ta chủ quan, cứ tưởng là Phượng đã say thuốc ngủ. Trút bỏ hết áo quần và cả khẩu “súng ngắn” để trên giường, trước khi đưa hai bàn tay sàm sở lên người Phượng. Chưa kịp bàng hoàng khi bất ngờ bị Phượng đạp mạnh xuống giường thì một phát súng đã nổ vào bụng. Cuối cùng Phượng bị tạm giam để đưa ra tòa án nhân dân, với cái tội “phản động”đã định sẵn. Các báo Sài Gòn Giải Phóng, Thanh Niên cho đăng tải tin tức này theo chỉ thị: “tàn dư Mỹ Ngụy dùng mỹ nhân kế ám sát cán bộ cách mạng”
****
Trận chiến Long Khánh, dưới tài chỉ huy của Tướng Lê Minh Đảo, đại quân CS bị các đơn vị VNCH chặn đánh tan tác. Đặc biệt hai quả bom CBU được thả xuống địa điểm “tập kết” của địch, giết cả hai trung đoàn “sinh Bắc tử Nam”. Mang hận thù này, nên sau khi chiếm được Long Khánh, bọn chúng đã bắn giết dã man bao người dân vô tội, trong đó có mẹ của Phượng. Khi xông vào nhà, thấy tấm ảnh của bố Phượng treo trên vách, mang quân phục và cấp bậc VNCH, chúng đã bắt trói mẹ Phượng dẫn đi. Phượng chạy theo khóc kể, rồi lạc vào một nơi xa lạ đầy những xác người, sợ hãi, không còn biết đường về. Bố của Phượng là sĩ quan thuộc một Liên Đoàn Biệt Động Quân từ Vùng 3 tăng phái cho Vùng 2, bị bắt lúc bị thương trên đường di tản theo Tỉnh Lộ 7B từ Pleiku vào giữa tháng 3.75. Ông bị cầm tù qua rất nhiều trại. Nhiều năm sau không hề biết được tin tức vợ con, ông nghĩ là tất cả đã chết vì biết có những trận đánh lớn tại Long Khánh trước ngày mất nước.
Ngày 2/ 9 năm 1984, ông được thả. Ra tù, ông vội vã tìm về Long Khánh. Ngôi nhà của cha mẹ để lại, nơi vợ con ông đã sống từ ngày sinh ra Phượng, đã bị “cách mạng” tịch thu. Người chủ mới là một gã công an. Khi nghe ông hỏi thăm vợ con mình, những người chủ đích thực của căn nhà này, gã công an trợn mắt nhìn chằm chặp vào ông rồi thốt ra mấy tiếng cộc lốc, lạnh lùng: “tôi không biết, hỏi làm gì?”, bằng giọng đặc sệt Nghệ Tĩnh rất khó nghe. Khi đến trình diện công an xã, ông bị chỉ định về trình diện chính quyền trong một Khu Kinh Tế Mới nằm sâu trong núi để được tạm trú và quản chế. Một nơi ông hoàn toàn xa lạ, không có bất cứ một người thân quen nào.
Ông đón xe đi Biên Hòa, nơi có trại gia binh nằm bên cạnh doanh trại của đơn vị ngày xưa. Chắc chắn là trại gia binh đã bị tịch thu, nhưng hy vọng tìm được người tài xế và vài người lính cũ có thể còn ở lại gần đâu đó. Họ là những người thân thiết cuối cùng còn lại trong đời ông. Ông muốn đến thăm và tìm hiểu tình hình hầu tìm một con đường sống.
May mắn, anh tài xế vẫn còn ở căn nhà cũ phía ngoài trại gia binh. Căn nhà tôn mà trước kia vợ chồng anh đã hốt hai đầu hụi và mượn thêm cả một tháng lương của ông để mua với giá rẻ, mở cái quán nước nhỏ, bán cho anh em lính. Bây giờ cái quán không còn, nhưng anh hành nghề xe ôm với chiếc Honda từ đời 70 còn lại, nên cuộc sống cũng đáp đổi qua ngày. Thầy trò gặp nhau bất ngờ như từ cõi chết trở về, vừa vui mừng vừa cảm động. Anh tài xế ôm chầm lấy ông, bảo hết mình lo lắng cho ông Thầy. Anh bảo vợ và thằng con trai lớn chạy đi báo tin, gọi thêm hai anh em cùng đơn vị cũ còn ở lại trong vùng. Mỗi người góp một tay, làm mấy món nhậu uống mừng được gặp lại ông Thầy.
Men rượu ngà ngà, nước mắt ông cũng đầm đìa vì cảm kích cái tình huynh đệ, và nhớ tới những anh em đồng đội đã vĩnh viễn nằm lại trên con đường 7 B oan nghiệt, tất cả đều chết trong tức tưởi. Bỗng tất cả im lặng hướng về chiếc máy truyền hình nhỏ để trên tủ thờ trước mặt, khi nghe giọng nói sắc máu của người nữ xướng ngôn viên thông báo trực tiếp phát sóng: Tòa Án Nhân Dân tỉnh Đồng Nai xét xử một cô gái mang tội “phản động, âm mưu ám sát cán bộ cách mạng”. Ông há hốc miệng, đôi mắt ráo hoảnh, khi nhìn thấy cô con gái đứng trước vành móng ngựa, hai tay bị còng, phía sau là một đám công an cả nam lẫn nữ mặt mày đằng đằng sát khí. Cô bé giống vợ ông như đúc. Khuôn mặt hiền lành xinh đẹp này ông đã gặp bao nhiêu lần trong giấc mộng, suốt hơn chín năm tù. Không kịp giải thích, ông bảo anh tài xế tìm mọi cách giúp chở ông thật nhanh đến tòa án Biên Hòa, nơi phiên xử mới bắt đầu.
Chỉ hơn 10 phút sau anh tài xế và ông đã có mặt. Phiên tòa đang tiếp tục phần “buộc tội” của một bà được gọi là đại diên Viện Kiểm Sát Nhân Dân. Ông giật mình khi nghe tên cô con gái “thủ phạm” là Nguyễn Thị Hồng Phượng. Đứa con gái duy nhất của ông có tên Nguyễn Lê Tuyết Phượng. Chưa kịp hình dung trọn vẹn hình ảnh người vợ và đứa con gái năm tuổi, khi ông được ba ngày phép về nhà đưa cháu vào bệnh viện mỗ tim rồi vội vàng chia tay lần cuối cùng để ra đơn vị, thì một điều bất ngờ khác làm ông bàng hoàng hơn: Người nhân chứng được gọi lên cung khai có tên là Nguyễn Công Chính, trùng tên với ông anh cả, đã thất lạc trên ba mươi năm, sau ngày ông cùng bố mẹ di cư vào Nam. Khi nhìn kỹ Nguyễn Công Chính bước lên vị trí nhân chứng, ông sững sờ nhận ra ngay, đó đúng là người anh ruột của mình. Dù dung mạo có đổi thay, nhưng ông không thể nào nhầm lẫn được. Với con mắt hơi lồi và hàm răng vễnh của bao năm trước. Lúc còn bé, ông anh còn có tên gọi trong nhà là cu Tun. Ông đứng bật dậy, định gọi lớn tên anh mình, nhưng kịp nhớ ra đang ở trong phiên tòa, và bản thân mình cũng là người tù chưa trình diện nơi quản chế. Lòng dạ rối bời, ông chưa kịp trấn tỉnh để nghe nhân chứng vừa nói điều gì, thì bỗng có tiếng la từ hàng ghế phía trước. Một cậu thanh niên đứng bật dậy, hét to:
-Tôi là Nguyễn Công Diệp đã đủ tuổi để xin làm nhân chứng. Tôi chứng kiến tận mắt, ông thượng úy Đạt định hiếp Phượng, cô em nuôi của tôi. Em tôi chỉ phải tự vệ bằng chính khẩu súng của ông Đạt.
Bất chấp tiếng búa gõ và phản đối ra lệnh ngồi xuống của chủ tọa phiên tòa, cậu thanh niên vẫn tiếp tục:
-Khi bị bắn, ông Đạt nằm trần truồng ngay dưới giường ngủ của em tôi, chứ không phải mặc nguyên áo quần công an như bố tôi vừa nói. Tôi phản đối.
Tất cả nhốn nháo. Có lệnh tạm ngưng phiên tòa, buổi chiều sẽ nghị án. Ông Trực vội vàng chạy tới Phượng, nhưng chưa kịp nói điều gì thì mấy gã công an đã đẩy Phượng đi. Ông chạy ra hành lang tìm gặp Hai Chi. Ông ta bỏ đi trước một mình khi vợ và đứa con trai đang còn lớn tiếng cãi nhau
Khi thấy có người đập mạnh trên vai, ông Hai Chi quay lại, nhưng chưa kịp nhận ra ai. Nước mắt ràn rụa, giọng nói dường như nghẽn lại, ông Trực cố gắng lắm mới thốt ra lời:
-Anh Cu Tun ơi! Em là Trực, Nguyễn Công Trực, em út của anh đây. Cháu Phượng là con gái của em!
Ông Hai Chi khựng lại, sững sờ, trố mắt nhìn. Trời đất như quay cuồng trước mặt khi ông vừa nhận ra đứa em thất lạc đã gọi đúng cái tên cúng cơm của mình mà cả vợ con ông cũng chưa hề biết. Ông kéo tay ông Trực ra xa, đến dưới một bóng cây bên kia đường vắng. Trời đang vần vũ một cơn mưa. Cả hai đều chưa biết tung tích của nhau, nhưng riêng ông Trực thì đã đoán ông anh của mình phải là một cán bộ cộng sản cao cấp, với cái vẽ bệ vệ của ông cùng sự sang trọng của bà vợ và đứa con trai. Một cảm giác rờn rợn lẫn một chút xót xa thoáng qua trong đầu ông Trực. Ông Hai Chi căn dặn Trực tạm thời đừng tiết lộ điều gì với vợ và con trai ông. Bởi vợ ông là một người cộng sản thực thụ, có thể gây bất lợi cho em mình. Ông sẽ bảo vợ, Trực là một đàn em thân tín nhưng hoạt động trong bí mật.
Đưa Trực về nhà. Cả một buổi trưa, ông Hai Chi tưởng mình như đang rơi xuống chín tầng địa ngục. Ngoài trời mưa tầm tã, nhưng trong lòng ông nóng còn hơn lửa đốt. Ông nhắm mắt ngữa mặt lên trần nhà khi nghe người em của mình cho biết:
-Bố mẹ đã chết trong Tết Mậu Thân do pháo kích của các anh. Em bị các anh bắt giam cầm hành hạ hơn 9 năm trời, tưởng đã bỏ xác trong tù, vợ em có lẽ cũng bị các anh giết tập thể ở Long Khánh, và cháu Phượng là đứa con duy nhất của em, mới mấy tuổi đầu mà phải bị ức hiếp tù đày.
Là một người Cộng sản “theo thời thế”, ông Chính vẫn còn ít nhiều cái gốc tiểu tư sản. Một chút lương tâm còn sót lại bỗng làm ông bật khóc. Thực ra thì ông cũng đã từng bao lần khóc thầm, khi suýt bỏ mạng ở các chiến trường Hạ Lào, Tây Nguyên, chứng kiến những cái chết kinh hoàng và vô nghĩa của hàng vạn thanh niên nam nữ từ miền Bắc bị cưỡng bách đi B. Vài lần thoáng hiện trong đầu ông hai chữ “hồi chánh”, nhưng phân vân vì khi ấy vợ con ông ở ngoài Bắc, chắc chắn sẽ phải khốn khổ với đám cường quyền. Ý tưởng chưa ngã ngũ thì chiến cuộc kết thúc nhanh chóng đến bất ngờ. Ông tiếp tục “nín thở qua sông”, cố đóng cho thật khéo vai trò “đảng viên trung kiên”, để hưởng cho tròn cái lợi danh của người “bên thắng cuộc”.
Buổi chiều, phiên tòa tái nhóm. Ông Hai Chi xin được phản cung, thay đổi lời khai nhân chứng. Là một đảng viên có chức quyền, lại là bạn thân của “đồng chí” Mười Vân giám đốc ông an tỉnh, ông cũng được mấy ông bà “quan tòa” vị nễ. Nhưng tất cả đều ngỡ ngàng khi nghe ông tuyên bố:
-Lời nói của cậu con trai tôi sáng nay là đúng. Chính đồng chí thượng úy Đỗ Hữu Đạt đang thực hiện ý đồ hiếp dâm cháu Nguyễn Thị Hồng Phượng, là con gái nuôi của chúng tôi, còn đang tuổi vị thành niên. Với tư cách là một đảng viên và cán bộ nhà nước, tôi cam kết những lời xác nhận này là hoàn toàn chính xác. Sáng nay, vì muốn giữ danh dự cho chiến sĩ ngành công an, tôi có ý che giấu cho anh Đạt, nhưng rồi tôi đã kịp nghĩ ra, làm như vậy trước tòa là phạm pháp, có tội với đảng, với nhân dân.
Bà Hai Chi tròn mắt ngạc nhiên, tức giận, trước thái độ thay đổi bất ngờ của ông chồng.Tay thượng úy Đạt được tòa gọi đứng lên đối chất. Hắn ta không phản biện, vì biết tội đã quá rõ ràng, nhưng lại trút tội lên đầu bà Hai Chi. Hắn ta khai ra tất cả kế hoạch bỉ ổi của bà. Nội vụ lại chuyển sang một hướng khác, hoàn toàn ngoài dự trù của Viện Kiểm Sát. Phiên tòa tạm ngưng để tiếp tục điều tra.
Không khí trong nhà ông Hai Chi trở nên ngột ngạt, nhưng ông Trực cố nán lại đây để mong được sớm gặp con gái của mình và cũng tránh bị xét hỏi giấy tờ. Ông Hai Chi đích thân làm đơn bảo lãnh Phượng được tại ngoại. Cha con gặp nhau trong ngỡ ngàng. Phượng không nhận ra cha mình. Nhưng huyết thống phụ tử rất nhiệm màu, hơn nữa khi nghe ông Trực bảo “phía dưới ngực bên trái của con có một vết sẹo dài khi con mỗ tim”, Phượng òa khóc và ôm chặt lấy cha. Trong lòng Phượng như vừa mới nở ra một đóa hoa tươi thắm nhất.
Giữa tháng 10/ 1984, khi phiên tòa chưa tái nhóm thì tại tỉnh Đồng Nai xảy ra một biến cố lớn, làm xôn xao cả nước, đặc biệt đối với dân chúng miền Nam, sau hơn chín năm vẫn chưa kịp nhận ra hết bộ mặt thật của những người cộng sản:
Mười Vân Nguyễn Hữu Giộc, đảng viên cao cấp, con hùm xám Nam Bộ một thời, đang là Giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai bị bắt. Đích thân “đồng chí” bộ trưởng công an, âm thầm đưa cả một lực lượng công an chuyên nghiệp và tin cẩn từ Hà nội vào Sài gòn lập kế bắt Mười Vân ngay trong phòng họp. Lục soát tư dinh và nhiều nơi khác, công an tịch thu hơn hai ngàn cây vàng và cả trên 500 kg vàng cùng hột xoàn các loại.
Ngày 1.11.1984, một phiên tòa đặc biệt được khẩn cấp triệu tập tại thành phố Biên Hòa, dưới sự “chủ trì” và xét xử của Viện Kiểm Sát Nhân Dân và Tòa Án Nhân Dân Tối Cao. Phiên tòa đặt dưới sự chỉ đạo nghiệp vụ của “đồng chí” Trần Quyết, Bí Thư Trung Ương Đảng, Viện Trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao.
Mười Vân bị xử tử hình. Bản án sơ thẩm cũng là chung thẩm, được thi hành cấp kỳ sau một tuần tại trường bắn Long Bình.
Lần đầu tiên báo chí tại Sài gòn được đăng tải tin tức phiên tòa mà thủ phạm là một ông lớn, đảng viên cao cấp. Người ta cũng biết được có những chiếc tàu chở người Hoa đã bị bỏ đói, nhận chìm, ngoài bờ biển Cát Lái, Rạch Giá ,Phú Quốc và vài nơi khác ở miền Trung, làm chết rất nhiều người. Và khắp cả nước bàn tán về chuyện cướp bóc, tham nhũng, ăn chia không đều giữa những người cộng sản!
Sau đó nhiều phiên tòa đặc biệt khác được tiếp tục, xử những người đồng lõa, trong đó có cả mấy ông bà trong Tòa án nhân dân Đồng Nai. Nhờ đó, vụ án của Phượng bị bỏ quên, không còn ai nhắc tới. Nhưng ông Hai Chi và cả tay thượng úy công an Đỗ Hữu Đạt lại dính vào vụ án lớn. Bởi cả hai đều là cánh tay đắc lực của gã Mười Vân.
Biết không thể nào vượt qua số phận, ông Hai Chi tự động đến trình diện trưởng ban điều tra của “ban chuyên án”, và xin giao nộp 800 cây vàng, ông khai là Mười Vân nhờ giữ hộ. Và cũng nhờ ông khai thêm những đường giây làm ăn của Mười Vân, nên ủy ban bắt thêm một số đàn em, trong đó có thượng úy công an Đỗ Hữu Đạt, tịch thu thêm cả ba ngàn cây vàng, gồm cả 800 cây được giấu kỹ dưới hồ nước sau nhà một đàn em thân tín của Mười Vân, phải điều xe cần trục câu lên.
Tất nhiên với dạn dày kinh nghiệm, ông Hai Chi kịp thời tẩu tán một số vàng. Ông vội vàng móc nối một đường giây quen biết cũ, tung vàng ra để gởi cha con ông Trực, dắt theo Diệp, thằng con trai duy nhất của ông vượt biển khẩn cấp ra khỏi nước.
Nhờ tàu Cap Anamur cứu vớt trên biển, bố con ông Trực và Diệp được đến định cư tại Tây Đức.
****
Mùa Hè năm 1990, trong một dịp sang thăm người bạn thân cùng tù Hoàng Liên Sơn lúc trước, tôi được gặp anh Nguyễn Công Trực, một cựu sĩ quan Biệt Động Quân, là bạn láng giềng thân thiết với người bạn tù của tôi. Anh đã kể cho tôi nghe về những ngày cuối cùng của đơn vị anh trên Tỉnh Lộ 7B – từ Pleiku di tản xuống Tuy Hòa, và cả câu chuyện trùng phùng bi thảm này. Tôi cũng được nói chuyện với cháu Phượng, cô con gái hiền thục xinh xắn của anh, vừa mói tốt nghiệp dược sĩ. Chúng tôi cũng đến thăm cậu Diệp, con trai của ông bà Hai Chi, cũng là cháu ruột của anh. Diệp đang sống chung với cô vợ người Đức và đứa con trai hai tuổi.
Tôi cũng được biết ông Hai Chi, nhờ “thành khẩn khai báo”, nên được hưởng khoan hồng với hai mươi năm tù. Vợ ông, bà Hai Chi bị án sáu năm tù về tội đồng lõa và tàng trữ vũ khí, vàng bạc phi pháp. Bà chết trong tù sau hai năm thụ án, do chính tay công an Đỗ Hữu Đạt, người bị giam cùng trại, đánh lén bằng cuốc trong giờ lao động, để trả mối thù xưa. Hắn ta nghĩ rằng chính bà đã lập mưu để hại hắn, chứ Phượng không hề bị bà cho uống thuốc ngủ. Hắn ta cũng nghi ngờ ông Hai Chi đã khai hắn là tay chân đắc lực của Mười Vân, đã từng giết người bịt miệng, nên nhà cửa bị tịch thu cùng với bản án bốn mươi chín năm tù.
Và sở dĩ có phiên tòa và vụ án làm xôn xao cả nước thời ấy, hoàn toàn không phải chống tham nhũng mà chỉ vì bọn chúng không ăn chia đồng đều. Tay Mười Vân đã dành riêng cho mình một số vàng quá lớn, và từng làm mưa làm gió, qua mặt đám đàn anh, không còn xem trung ương ra thể thống gì.
Về sau tôi còn biết thêm: Sau khi ông Hai Chi giảm án ra tù, được con trai bảo lãnh sang Đức. Nhưng ông đã quẫn trí, thường ngồi thẫn thờ nhìn lên trời cao, lúc khóc lúc cười. Ông qua đời năm 2006.
Và sở dĩ có phiên tòa và vụ án làm xôn xao cả nước thời ấy, hoàn toàn không phải chống tham nhũng mà chỉ vì bọn chúng không ăn chia đồng đều. Tay Mười Vân đã dành riêng cho mình một số vàng quá lớn, và từng làm mưa làm gió, qua mặt đám đàn anh, không còn xem trung ương ra thể thống gì.
Về sau tôi còn biết thêm: Sau khi ông Hai Chi giảm án ra tù, được con trai bảo lãnh sang Đức. Nhưng ông đã quẫn trí, thường ngồi thẫn thờ nhìn lên trời cao, lúc khóc lúc cười. Ông qua đời năm 2006.
Phạm Tín An Ninh
KÝ CỦA KHUẤT ĐẨU-
Sinh nhật buồnKhuất Đẩu
Đang ngồi chờ cạo mặt ráy tai ở một quán hớt tóc đầu con hẻm, bỗng nghe lệnh của tổ dân phố phát ra oang oang trong loa phóng thanh: “Để mừng Đảng mừng xuân, mọi nhà đều phải treo cờ tổ quốc!”
Chợt nhớ ra ngày mai, mồng ba tháng hai là ngày sinh của Đảng. Và Đảng 85 tuổi. Như thế cũng đã gần thượng thọ rồi. Đảng hơn tôi 10 tuổi. Nếu là trong giới viết lách, có thể gọi thân mật bằng anh, rủ nhau đi cà-phê tán gẫu. Nhưng Đảng không phải là người, không hình thù mặt mũi, chỉ “văn kỳ thanh chứ bất kiến kỳ hình”, có muốn nâng ly chúc mừng cũng không biết chúc ai.Nhưng Đảng cũng không phải là ma. Đảng có mặt ở mọi nơi, mọi chỗ. Gần, thì tổ trưởng dân phố, công an khu vực. Xa, thì chủ tịch tỉnh, chủ tịch nước. Chót vót là tổng bí thư.
Đảng là một tổ chức chính trị trùm cả nước. Cái bóng của Đảng to đến nỗi trông lên chỉ thấy Đảng chứ không thấy Trời.
Sức mạnh của Đảng thì khỏi phải nói. Nào đánh Pháp, đuổi Mỹ... Ơn Đảng còn hơn cả ơn Chúa! Nhưng Đảng cũng là một cái gì chưa trọn, cứ phải xây dựng hoài mà chưa xong. Đảng cũng thối tha không kém, nên cứ phải làm trong sạch mãi.
Giả sử, Đảng được sinh ra trong một gia đình nào đó, có nghĩa là một sinh vật hẳn hoi, thì chẳng biết Đảng đực hay cái. Đảng không có chim, cũng không có bướm, vậy mà trong 85 năm, Đảng sinh ra đến hàng triệu đảng viên. Đảng hơn cả mẹ Âu Cơ, sinh đẻ cứ như cua, cá. Mà cua cá thì anh cứ việc xơi, chứ đảng viên, đụng vào là bỏ mẹ.
Trong số hàng triệu đảng viên, có nhiều người cùng tuổi với Đảng. Nghĩa là Đảng mới chào đời đã kịp sinh con, như cụ bà Phạm Thị Trinh, cũng đã 85 tuổi Đảng (101 tuổi đời). Đảng thì lớn mạnh vẻ vang, còn cụ thì tù đày bầm giập. Cùng tuổi với Đảng nhưng chẳng được ai chúc mừng, kể cả con cháu.
Vậy thì Đảng là cái gì mà mọi nhà đều phải treo cờ? Đến nỗi, hơn 50 năm trước, Trần Dần phải kêu lên: Tôi bước đi không thấy phố không thấy nhà/ chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. Lá cờ mà sau đó ông gọi là lá cờ trừ ma.
Khi tôi cạo mặt ráy tai xong, ra về, cũng chưa thấy cờ như thời Trần Dần, cũng chẳng thấy ai tới hạch hỏi “người ta đổ xương máu để có được cây cờ, chỉ có mỗi một việc treo lên mà không treo, phản động à?” như hồi 75.
Bật TV, thấy Tổng bí thư đọc lê thê một bài mừng Đảng giữa một hội trường to rộng, trước những đảng viên ưu tú, áo quần sang trọng tinh tươm, nhưng người đọc thì giọng buồn mệt mỏi, người nghe thì mặt cứ trơ ra, chẳng một chút xúc động cứ như những tượng sáp.
Người ta bảo Đảng bây giờ cũng như cái xác trong lăng kia, chỉ chờ ngày chôn thôi. Tôi thì tôi không dám tin như vậy. Chẳng những thế tôi còn đâm ra sợ Đảng như nhân vật của Kafka, có thể đang hoá thân thành một con gì đó hơn cả con sâu. Bởi thế, cứ tới ngày sinh của Đảng thì tôi (và 85 triệu người không Đảng) lại buồn. Còn buồn hơn chiều chủ nhật buồn nằm trong căn gác đìu hiu!
KD, 02/2/2015
Bác tôi có bốn người con, đều là gái. Nói theo kiểu miền Bắc là vịt giời, nói theo xứ này là ngao. Toàn là những tiếng dè biểu, chê bai.
Chờ mãi mà chẳng có một thằng cu, nên bác trai cảm thấy cái chức trưởng họ của mình nó lỏng chỏng cứ như một tổng thống được chỉ định chứ không phải do dân bầu lên. Còn bác gái, cứ mỗi lần nghe bà mụ bảo “Ơ lại là con gái” là thở dài; lần sau dài hơn lần trước, và lần sau cùng thì khóc. Chẳng phải bác lo chồng cưới vợ bé để kiếm con trai (có cho cũng không dám), mà vì như bác nói, làm đàn bà khổ lắm, vui vẻ gì mà sinh ra cả lũ!
Tuy vậy, nhìn bốn cô con gái xinh xinh hai bác cũng yên ủi ít nhiều. Bác trai vốn là người sinh ra chỉ biết làm thơ chứ không làm gì khác, đã rất lạc quan, tự hào. Bác nói, “Nhà có con gái như có ngọc, sáng hẳn ra. Mình được đến những bốn viên, sang quá chớ bộ!”
Bác gái thì nguýt: “Ở đó mà sang, ông không nghe người ta nói, đó là bom nổ chậm à? Một trái đã mất ăn mất ngủ, đến những bốn trái thì biết làm sao đây?”
“Vớ vẩn!”, bác tôi cãi lại, “bà có biết làm thơ không đấy, mỗi đứa là một câu thơ, bốn đứa làm thành một bài thơ tứ tuyệt. Ôi chao, Lý Bạch, Đỗ Phủ cũng phải thua tôi nữa kìa.”
“Hay nhỉ”, bác gái cười, “vậy ông thử đọc bài thơ đó nghe xem nào.”
Ông trợn mắt ngạc nhiên: “Thơ nào nữa. Bốn đứa là bốn câu thơ, tròn trịa, xinh xắn. Sống động như thế, nhìn chưa đã con mắt hay sao mà còn đòi đọc cho nghe nữa?”
Rồi mỉm cười ý nhị, bác hạ thấp giọng như chỉ đủ cho bà nghe: “Mà bài thơ tuyệt tác đó, chính bà là tác giả. Bà chẳng biết vần điệu gì ráo, nhưng đã sáng tạo ra chúng trong những phút xuất thần, đúng là thiên tài!”
Mặc dù được bác trai bốc lên đến tận giời, nhưng bác gái tôi chỉ cười. Một lúc, bác nói như thể kéo bác trai xuống mặt đất. “Tôi thì tôi lo lắm. Thời buổi này, kiếm được một thằng rể đã là khó. Mà đến những bốn đứa thì biết kiếm đâu cho ra. Bọn con trai, nếu không suốt ngày say xỉn thì bài bạc hút xách. Những đứa coi được được lại vô công rồi nghề, cứ ngồi chảy thây ra ở các quán cà phê! Ông hãy liều liệu mà ăn với ở. Con gái nhờ đức cha kia đấy.”
“Bà khỏi phải lo”, bác tôi cao giọng, “ăn ở như tôi đấy à? Đến mười đứa còn chưa hết đức, nói gì bốn đứa. Này nhé, tôi không tham nhũng thụt két, không bóp hầu bóp họng ai, không nịnh trên nạt dưới… Tôi chỉ là nhà thơ, một nhà thơ chân chính không thèm vào hội nhà văn, thì đứa nào bẻ cong ngòi bút tôi được.”
“Thì đấy”, bác gái đãi giọng ra, “điều tôi lo là ông thừa cái đức của các cụ xưa mà thiếu cái đức của bọn trẻ ngày nay.”
“Đức của bọn trẻ ngày nay là đức thế nào?”
“Là tiền!”
“Ơ!” Bác tôi kêu lên như từ trên trời rơi xuống, “Là tiền à? Đức mà lại là tiền à? Thế cái bọn bán rừng bán biển, cướp đất cướp ruộng của dân, bọn vun quén tài sản rồi chuồn ra nước ngoài với cả đống đô la, là đức đó à?»
“Cũng gần như vậy.”
“Đó là cái đức cống, thối hoắc!” Bác tôi phẫn nộ.
“Nhưng đời này thì nó thơm lắm. Không thối như ông tưởng đâu. Này tôi hỏi ông, khi ông đi ra đường với chiếc áo xệch xạc, chiếc mũ bèo nhèo, đôi giày vẹt gót, thì đúng là nhà thơ đó, nhưng có ai chào nhà thơ không? Hay là người ta chỉ chào ông giám đốc này, ông chủ doanh nghiệp nọ, ngay cả một chú công an đứng đường, cũng được thưa gửi kính cẩn. Nói đâu xa, anh em trong họ nhà này, dù ông là trưởng họ nhưng có ai coi ông ra gì. Ông còn thua cả thằng Bang, làm chủ hàng trăm con vịt đẻ, là cháu ông nữa đấy!”
Bác gái tôi nói tới đó thì nghèn nghẹn, rơm rớm nước mắt. Một lúc, bác thở ra: ”Tôi nghĩ mà thương cho tụi nó. Bốn chị em mà có mỗi chiếc xe cà tàng, thì ai mà thèm vào. Tụi nó nói, mỗi đứa một chiếc tay ga, còn chưa chắc nữa là. Làm cha làm mẹ mà để con cơ cực như thế, tôi xấu hổ quá!” Và, bà khóc thành tiếng.
Bác trai cứ trợn trừng ngó lên trần nhà, miệng lẩm nhẩm hai tiếng “đức” và “tiền” như người bị ma nhập; rồi bất ngờ nắm lấy vai bác gái, nói như reo: ”Tiền cả đống kia đấy! Hơ hơ!”
Bác gái mệt mỏi đứng dậy định đi, nhưng bác trai giữ lại.
“Nhiều tiền thật mà. Bốn đứa con gái là bốn cục vàng, hà hà. Này nhé, con Phong mà ai cũng kêu là cây sào, thử hỏi ở cái xứ dân lùn này có ai chân dài bằng nó không. Nó mà đi thi hoa hậu thì đoạt vương miện là cái chắc. Còn con Hoa suốt ngày hát hò, cứ ghi tên mà thi Idol hay Giọng hát Việt. Con Tuyết dù còn đi học nhưng cái làn da trời cho đúng như tên nó, thì thi người đẹp sinh viên. Con Nguyệt lém lỉnh giỏi ngoại ngữ, làm phóng viên cho Việt tấn xã, đi nước ngoài như đi chợ, miễn là đừng có chỉa hàng. Bốn đứa là bốn cái máy in tiền. Bà là mẹ, rồi sẽ được đăng hình lên báo, còn tôi, khi được phỏng vấn, chúng nó thỏ thẻ: dạ bố em là nhà thơ ạ, nghe còn oách hơn cả giám đốc ngân hàng đấy chứ! Ơ kìa, nhưng bà sao thế, bà ngất đấy à? Này cháu, giúp bác đưa bác gái vào giường, bà ấy vui quá, ngất đi đấy.”
Đúng là bác gái tôi đang ngất, nhưng chẳng phải vì vui. Sau này bác nói: “Chán bác giai mày quá! Toàn những chuyện không đâu. Cầu trời cho tụi nó không đứa nào vớ phải một thằng chồng như bác mày!”
Cũng vì không thể tin được một ông chồng cứ mãi nghĩ chuyện đâu đâu, nên bác gái dẹp bốn cái máy in tiền qua một bên. Bác bảo: “Ai thì mơ chứ bác không mơ. Hay ho gì cái trò thi hoa hậu với thần tượng. Cứ phơi tồng tộc ra trước bàn dân thiên hạ như phơi bánh tráng ấy, thì là con gì chứ đâu phải con gái!”
Cái nỗi lo ế chồng cứ mãi ám ảnh bác gái tôi, như một người chèo đò lo thuyền chìm khi phải chở nặng. Mỗi khi nhìn cái Phong, đã hơn ba mươi tuổi đầu mà chẳng thấy tăm hơi động tĩnh gì cả, bác cứ thở dài thườn thượt. Nhưng bác trai, lúc nào cũng lạc quan tin tưởng: “Sao mà ế được. Chẳng qua là, nó phải chịu cái dớp của một câu thơ hay, thế thôi. Mà thơ hay cũng như ngọc trong đá. Phải mất một thời gian đẽo gọt người ta mới tìm ra được ngọc. Bốn đứa là một bài thơ toàn bích. Thì bốn thằng rể cũng phải vậy. Bà làm thơ xướng thì tôi làm thơ họa. Nhất định tôi sẽ làm. Tôi sẽ tìm ra đủ bốn đứa để họa lại. Phong, Hoa, Tuyết, Nguyệt thì họa lại phải là Cầm, Kỳ, Thi, Họa. Tôi ví dụ là vậy, chứ không phải đốt đuốc đi tìm bốn cái thằng có tên như thế. Nhỡ cầm mà không biết đàn thì sao. Nhỡ kỳ mà không biết đánh cờ cũng hỏng. Nhỡ thi mà nói một câu chẳng nên lời thì thi cái nỗi gì. Còn họa mà vụng về làm gì cũng không nên thì chỉ có nước là tai họa. Những câu thơ tôi chọn phải thật giàu hình tượng, nhiều ý tưởng ; nói rõ hơn là phải đẹp giai này, chỉ số IQ thông minh phải cao đến tận nóc!”
“Thôi, thôi, bác gái kêu lên như hét, một mình ông là thơ, tôi đã đủ mệt quá rồi. Thêm bốn đứa con gái ông cũng gọi là thơ. Giờ thêm bốn thằng rể, ông lại gọi là thơ nữa, có mà tôi chết sớm.”
“Bà không việc gì phải chết sớm đâu. Hãy cứ sống mà xem tôi chọn rể. Đẻ như bà thì tôi không làm được, nhưng người khác đẻ để tôi chọn, thì là nhất.”
Thế là bác tôi, với bổn phận nặng nề làm cha, cộng với nguồn thi hứng dạt dào, đã lùng sục trong đám con cháu bạn bè quen biết, đưa về một “lũ bốn tên” như bác gái tôi mỉa mai. “Một lũ người không ra người, ngợm không ra ngợm, nhưng ăn thì như ngạ quỷ, bao nhiêu cơm, phở, bún, bánh đều sạch nhẵn. Rể như thế thì chỉ có nước bán nhà!”
Nhưng bác tôi cãi lại: ”Có như thế chúng mới là đàn ông. Chúng ăn như hổ, uống như rồng, bà không thấy là đối quá chỉnh với thực như miêu của các con mình à? Còn cái bề ngoài, bà phải nhớ chiếc áo không làm nên thầy tu, đừng tưởng chúng khùng, chúng là những nhà thơ đương đại, có điều chưa kịp nổi danh đấy thôi.”
Bác gái tôi lại buông một câu quen thuộc: “Chán bác giai mày quá!” Còn các câu thơ trong bài tứ tuyệt, khi thấy các “câu thơ” nửa như tân hình thức nửa như hậu hiện đại mà ông đem về, thì đồng loạt kêu lên: “Thôi, bố gả chúng con cho Đại Hàn hay Trung Quốc đi. May ra bố mẹ còn được vài trăm đô!”
Cuộc chiến về thơ cứ nhùng nhằng như thế thì đùng một cái, bác tôi lăn ra chết! Không phải chết trong một đêm trăng huyền hoặc như Lý Bạch, mà là chết trong một đêm ba mươi tối đen như mực. Bác chết ngoài hiên, bác gái nói đi giải ngã đấy thôi, trong khi các thi hữu thì bảo bác đi tìm vần thơ. Dù sao thì bác cũng đã chết rồi. Cái nỗi buồn mất cha, mất chồng không đủ che lấp cái nỗi nhẹ người, tôi không dám nói nỗi vui, khi trong nhà bớt đi một bóng người mà ai cũng cho là lẩn thẩn.
Di cảo của bác để lại là những tập vở học trò đề bên ngoài là thi phẩm, nhưng lật bên trong chẳng có bài thơ nào, ngay cả một câu cũng không! Nhớ lúc sống bác bảo, tác phẩm chưa hoàn thành là tác phẩm hay nhất, đạt nhất. Tiếc rằng, bác không sống đủ lâu để hoàn thành, cho dù khi ấy nó không còn là hạng nhất nữa. Cái hay, cái đạt ấy bác đã đột ngột đem theo xuống mồ.
Như thế, cả một đời làm thơ, bác chỉ còn để lại duy nhất một bài thơ tứ tuyệt. Tiếc rằng, (cũng lại tiếc) bài thơ còn sống lâu hơn bác đó, không phải bác làm một mình mà đồng tác giả cùng với bác gái.
Bốn câu thơ ấy, sau khi mãn tang cha cũng lần lượt đi lấy chồng. Người chèo đò chở khẳm là bác gái tôi cũng cặp được bến. Bác đã có thể thở phào nhẹ nhõm.
Có điều bốn chàng rể chưa chắc đã làm nên một bài thơ họa đắc ý như bác trai tôi mong muốn. Nếu còn sống, thế nào bác cũng chê là sai niêm luật, lạc vần lạc điệu, chỉ được cái đối nhau chan chát.
Cô chị cả tên Phong, cao một thước tám thì lấy một anh chàng mà chiều cao khiêm nhường của anh ta, chỉ vừa đúng cái chân dài của cô. Ngày cưới, cô dâu mặc váy trắng trông như nàng Bạch Tuyết, còn chú rể tuy vậy mà rất tự tin, tự cho mình là một trong bảy chú lùn.
Cô hai Hoa, thì lấy một anh mặt mụn nhiều như cám. Cô không đủ tự tin để chụp hình bên anh, nhưng cô rất thích khi thấy anh chường mặt ra quảng cáo đủ kiểu trên truyền hình. Anh sẽ đem về cho cô ngoài những tấm ngân phiếu còn có cả đống kem dưỡng da, thuốc tẩy trắng.
Cô ba Tuyết, không thể tìm đâu ra cách đối nào hoàn chỉnh hơn, khi sánh duyên với một cầu thủ bóng đá người Ghana. Cô tự hào mà bảo rằng, anh ấy là đêm, cô là ngày, có như thế cuộc sống lứa đôi mới không buồn chán.
Cô út Nguyệt, có lẽ là xấu số nhất, lấy một ông chồng già những mong được cưng chiều, nhưng chưa hết tuần giăng mật thì chồng bị đột quỵ, chữa chạy lắm cũng chỉ lập bà lập bập tiếng được tiếng mất.
Các thi hữu của bác tôi khi dự lễ cưới, đều khề khà phẩm bình những câu thơ “đực” không hợp vì chúng mới quá, lạ quá, ráp với các câu thơ “cái” nghe trúc trắc làm sao! Nhưng các cụ cũng gật gù mà khen rằng, bày ra được một cuộc trình diễn nghệ thuật có một không hai như thế này: nào có cao có thấp, có trắng có đen, có xấu có đẹp, có già có trẻ, thì chỉ có mỗi một nghệ sĩ bậc thầy duy nhất, là số phận mới tạo dựng được mà thôi.
Bác gái tôi, suýt chết ngộp vì thơ, nên chẳng ưa gì bốn câu thơ mới. Chỉ có một điều làm bác nguôi ngoai, ấy là cả bốn đều nhiều đức, tức là nhiều tiền.
Thôi, nói nhiều thêm tội cho cái linh hồn thanh cao của bác giai tôi!
01/4/2014
Wednesday, June 10, 2015
PHẠM DUY TỐN * TRUYỆN TIẾU LÂM
1. Tưởng là gì
Có hai bác tính hay sợ vợ, cùng ở láng giềng với nhau.Một hôm, bác nọ, vợ đi vắng; ở nhà trời mưa, có váy vợ phơi quên không cất vào, để mưa ướt cả. Khi vợ về, nó chửi cho một trận đê nhục; chán rồi, nó đánh cu cậu tối tăm cả mắt mũi lại.Bác bên cạnh thấy bác kia vợ đánh chửi tệ như vậy, mới lẩm bẩm rằng:- Đ... mẹ kiếp! Chẳng phải tay ông!...Vợ nghe thấy, trợn mắt lên, hỏi dồn rằng:- Phải tay ông, thì ông làm gì, hử? Ông làm cái gì?- Phải tay ông, thì ông... cất trước lúc trời mưa, chứ gì !...
Có hai bác tính hay sợ vợ, cùng ở láng giềng với nhau.Một hôm, bác nọ, vợ đi vắng; ở nhà trời mưa, có váy vợ phơi quên không cất vào, để mưa ướt cả. Khi vợ về, nó chửi cho một trận đê nhục; chán rồi, nó đánh cu cậu tối tăm cả mắt mũi lại.Bác bên cạnh thấy bác kia vợ đánh chửi tệ như vậy, mới lẩm bẩm rằng:- Đ... mẹ kiếp! Chẳng phải tay ông!...Vợ nghe thấy, trợn mắt lên, hỏi dồn rằng:- Phải tay ông, thì ông làm gì, hử? Ông làm cái gì?- Phải tay ông, thì ông... cất trước lúc trời mưa, chứ gì !...
2. Thầy đồ nói liều
Một thầy đồ ngồi dạy học ở nhà bà lão già. Bà ấy có người con gái; đêm đến, mẹ con cùng ngủ với nhau ở dưới bếp, để riêng nhà trên cho thầy đồ và con trai nằm. Thầy đồ bụng muốn tòm tem. Một đêm, lò dò xuống bếp. Bà lão thấy động, lên tiếng hỏi:- Ai?- Thưa, tôi.- Tôi là ai?- Tôi là thầy đồ.- Chứ đêm hôm ông xuống bếp làm gì?- Thưa... tôi... xuống... lấy vài cái rế để đựng sách!Nào có thế mà thôi đâu! Cách mấy tối, thầy đồ ta lại lò dò trèo lên mái nhà bếp; đương dỡ rơm để trụt xuống, bỗng thấy bà lão lại hỏi rằng:- Ai ở trên kia?- Thưa, tôi đây ạ.- Tôi là ai?- Tôi là thầy đồ.- Chứ ông làm gì ở trên ấy thế?- Thưa,... tôi... hỏi thế này thì khí không phải: đường này có lên trời được không?...
Một thầy đồ ngồi dạy học ở nhà bà lão già. Bà ấy có người con gái; đêm đến, mẹ con cùng ngủ với nhau ở dưới bếp, để riêng nhà trên cho thầy đồ và con trai nằm. Thầy đồ bụng muốn tòm tem. Một đêm, lò dò xuống bếp. Bà lão thấy động, lên tiếng hỏi:- Ai?- Thưa, tôi.- Tôi là ai?- Tôi là thầy đồ.- Chứ đêm hôm ông xuống bếp làm gì?- Thưa... tôi... xuống... lấy vài cái rế để đựng sách!Nào có thế mà thôi đâu! Cách mấy tối, thầy đồ ta lại lò dò trèo lên mái nhà bếp; đương dỡ rơm để trụt xuống, bỗng thấy bà lão lại hỏi rằng:- Ai ở trên kia?- Thưa, tôi đây ạ.- Tôi là ai?- Tôi là thầy đồ.- Chứ ông làm gì ở trên ấy thế?- Thưa,... tôi... hỏi thế này thì khí không phải: đường này có lên trời được không?...
3. Túng thế, nói liều
Một anh đã phải vợ có máu hay ghen lại còn đi rước một cô vợ lẽ về nhà; để đến nỗi vợ cả sinh chuyện lôi thôi, đêm đêm mang nhốt vợ lẽ vào trong buồng, bắc chõng nằm ngang cửa, canh giữ, không cho anh chồng bén mảng đến.Anh ta tức quá, chẳng biết làm thế nào mà vào lọt được.Một đêm, tưởng chừng vợ cả nó ngủ đã say, mới thừa cơ chui qua chõng lẻn vào, thầm thì với vợ lẽ.Vợ cả thấy động, giở dậy, đốt đèn đi soi. Anh nọ vội vàng chui ngay xuống gầm giường, ngồi ẩn. Chẳng may nó soi thấy cậu; nó mới hỏi ngồi làm gì chồm chỗm ở đấy.Cậu ta túng thế quá, nói liều rằng:- Ngồi ỉa, chứ ngồi làm gì!- Ỉa thì cứt đâu?- Cứt ăn mất rồi, chứ đâu!...
Một anh đã phải vợ có máu hay ghen lại còn đi rước một cô vợ lẽ về nhà; để đến nỗi vợ cả sinh chuyện lôi thôi, đêm đêm mang nhốt vợ lẽ vào trong buồng, bắc chõng nằm ngang cửa, canh giữ, không cho anh chồng bén mảng đến.Anh ta tức quá, chẳng biết làm thế nào mà vào lọt được.Một đêm, tưởng chừng vợ cả nó ngủ đã say, mới thừa cơ chui qua chõng lẻn vào, thầm thì với vợ lẽ.Vợ cả thấy động, giở dậy, đốt đèn đi soi. Anh nọ vội vàng chui ngay xuống gầm giường, ngồi ẩn. Chẳng may nó soi thấy cậu; nó mới hỏi ngồi làm gì chồm chỗm ở đấy.Cậu ta túng thế quá, nói liều rằng:- Ngồi ỉa, chứ ngồi làm gì!- Ỉa thì cứt đâu?- Cứt ăn mất rồi, chứ đâu!...
4. Đáng kiếp
Có một người đàn bà góa đẹp lắm mà hãy còn ít tuổi. Chồng chết sớm chẳng chịu lấy ai, cứ khư khư giữ tiết thờ chồng.
Ông lý trưởng ở trong làng và một ông sư cùng phải lòng người ấy. Hai ông ganh nhau ve vãn mãi, cũng không được; cho nên lại càng theo đuổi riết. Hễ gặp thì nói ghẹo, nói cợt. Đi đâu cũng theo đi đấy. Người đàn bà góa tức lắm, lập mưu để mà trừ hai cái nợ ấy đi; nhất là bác thầy tu tệ quá.Một hôm, chị ta cho người nhà đến bạch với sư ông rằng:- Sư ông đã có bụng thương yêu đến, thì cô tôi cũng xin vâng. Vậy tối hôm nay, đầu trống canh hai, mời sư ông lại chơi; mà sư ông có lại, thì Người lấy ít vôi bôi lên đầu, rồi đến ngồi ở cạnh cửa; có ai thấy, tưởng là con chó đá, thì không nghi ngờ gì cả. Tự khắc rồi có người ra đón sư ông vào. Xin Người cứ y như thế cho!Lại sai người đến thưa với ông Lý rằng:- Ông đã có lòng thương yêu đến cô tôi, thì còn gì bằng nữa? Tối hôm nay, cuối trống canh hai, xin mời ông lại chơi nói chuyện. Hễ ông có lại, thì ông mang cái tay thước đi, giả làm đi tuần, để cho người ta khỏi nghi. Đến cửa có con chó đá, ông cứ gõ một cái rõ mạnh vào đầu nó, ở trong nhà nghe thấy, sẽ ra mở cửa mời ông vào. Xin ông cứ y như thế cho!Ông sư được tin ấy, mừng lắm, vội vàng đi tắm rửa sạch sẽ, cạo đầu mới mẻ, bôi vôi trắng hếu; rồi chưa hết canh một, đã dò đến ngồi chồm chỗm ở chổ xó cửa nhà người đàn bà góa.Ông Lý ta cũng mừng lắm; đầu canh hai, đã vác tay thước ra đi.Đến nơi thấy đầu ông sư trắng hếu, chắc là đầu con chó đá đấy, mới giơ thẳng cánh đập đánh “chát” một cái. Ông sư ngất đi một hồi; rồi tỉnh dậy, vội vàng ôm đầu, lui lủi chạy mất.Ông Lý thấy thế, nghĩ chó đá nhà ấy thánh thần, sợ mất vía, cũng ù té bỏ cả tay thước mà chạy.
Có một người đàn bà góa đẹp lắm mà hãy còn ít tuổi. Chồng chết sớm chẳng chịu lấy ai, cứ khư khư giữ tiết thờ chồng.
Ông lý trưởng ở trong làng và một ông sư cùng phải lòng người ấy. Hai ông ganh nhau ve vãn mãi, cũng không được; cho nên lại càng theo đuổi riết. Hễ gặp thì nói ghẹo, nói cợt. Đi đâu cũng theo đi đấy. Người đàn bà góa tức lắm, lập mưu để mà trừ hai cái nợ ấy đi; nhất là bác thầy tu tệ quá.Một hôm, chị ta cho người nhà đến bạch với sư ông rằng:- Sư ông đã có bụng thương yêu đến, thì cô tôi cũng xin vâng. Vậy tối hôm nay, đầu trống canh hai, mời sư ông lại chơi; mà sư ông có lại, thì Người lấy ít vôi bôi lên đầu, rồi đến ngồi ở cạnh cửa; có ai thấy, tưởng là con chó đá, thì không nghi ngờ gì cả. Tự khắc rồi có người ra đón sư ông vào. Xin Người cứ y như thế cho!Lại sai người đến thưa với ông Lý rằng:- Ông đã có lòng thương yêu đến cô tôi, thì còn gì bằng nữa? Tối hôm nay, cuối trống canh hai, xin mời ông lại chơi nói chuyện. Hễ ông có lại, thì ông mang cái tay thước đi, giả làm đi tuần, để cho người ta khỏi nghi. Đến cửa có con chó đá, ông cứ gõ một cái rõ mạnh vào đầu nó, ở trong nhà nghe thấy, sẽ ra mở cửa mời ông vào. Xin ông cứ y như thế cho!Ông sư được tin ấy, mừng lắm, vội vàng đi tắm rửa sạch sẽ, cạo đầu mới mẻ, bôi vôi trắng hếu; rồi chưa hết canh một, đã dò đến ngồi chồm chỗm ở chổ xó cửa nhà người đàn bà góa.Ông Lý ta cũng mừng lắm; đầu canh hai, đã vác tay thước ra đi.Đến nơi thấy đầu ông sư trắng hếu, chắc là đầu con chó đá đấy, mới giơ thẳng cánh đập đánh “chát” một cái. Ông sư ngất đi một hồi; rồi tỉnh dậy, vội vàng ôm đầu, lui lủi chạy mất.Ông Lý thấy thế, nghĩ chó đá nhà ấy thánh thần, sợ mất vía, cũng ù té bỏ cả tay thước mà chạy.
5. Nói một đường, nghe ra một nẻo
Có hai vợ chồng, tối hôm ba mươi tết nấu bánh chưng, cắt nhau coi nồi bánh: chồng thì canh từ chập tối cho đến nửa đêm, mà vợ thì từ nửa đêm cho đến sáng.Khi chồng đã canh hết lượt mình rồi, vào đánh thức vợ dậy thay canh để mình đi ngủ.Vợ, bất đắc dĩ, phải trở dậy, ra ngồi cạnh bếp lửa coi nồi bánh. Ngồi một mình, nghĩ gần nghĩ xa, tê mê tẩn mẩn thế nào, lại gọi chồng:- Còn thức đấy hay là đã ngủ rồi?Chồng thức khuya, quá giấc, chập chà chập chờn, cho nên cũng chưa ngủ đựơc. Thấy vợ gọi, mới thưa ngay:- Còn thức, gọi gì?- Dậy làm một cái sốt sột đi!Chồng mơ mơ màng màng, tưởng vợ hỏi mình có muốn ăn một cái bánh chưng sốt sột chăng, mới nói rằng:- Ấy chết! dại dột! Cái sốt sột để mai cúng ông vải chứ!Vợ thấy chồng nghe không ra, lại nói:- Không, cái méo mó kia mà! Chồng vẫn yên trí là nói bánh chưng, lại gạt đi rằng:- Ấy đừng, phải tội! Cái méo mó để thành kính cúng ông Thổ công đấy!
Có hai vợ chồng, tối hôm ba mươi tết nấu bánh chưng, cắt nhau coi nồi bánh: chồng thì canh từ chập tối cho đến nửa đêm, mà vợ thì từ nửa đêm cho đến sáng.Khi chồng đã canh hết lượt mình rồi, vào đánh thức vợ dậy thay canh để mình đi ngủ.Vợ, bất đắc dĩ, phải trở dậy, ra ngồi cạnh bếp lửa coi nồi bánh. Ngồi một mình, nghĩ gần nghĩ xa, tê mê tẩn mẩn thế nào, lại gọi chồng:- Còn thức đấy hay là đã ngủ rồi?Chồng thức khuya, quá giấc, chập chà chập chờn, cho nên cũng chưa ngủ đựơc. Thấy vợ gọi, mới thưa ngay:- Còn thức, gọi gì?- Dậy làm một cái sốt sột đi!Chồng mơ mơ màng màng, tưởng vợ hỏi mình có muốn ăn một cái bánh chưng sốt sột chăng, mới nói rằng:- Ấy chết! dại dột! Cái sốt sột để mai cúng ông vải chứ!Vợ thấy chồng nghe không ra, lại nói:- Không, cái méo mó kia mà! Chồng vẫn yên trí là nói bánh chưng, lại gạt đi rằng:- Ấy đừng, phải tội! Cái méo mó để thành kính cúng ông Thổ công đấy!
6. Ăn quen, bén mùi-
Có một ông lão già, đã ngoài bảy mươi.Một hôm, nắng nực, nằm nghỉ trưa; chợt có chị con gái, trạc mười lăm, mười sáu tuổi, ở bên láng giềng qua xin lửa.Ông ta chẳng buồn trở dậy, bảo chị kia rằng:- Lửa ở bếp, cứ lại mà thổi lấy.Chẳng may bếp nguội, thổi mãi không được; chị ấy mới chổng mông, ghé mồm, lấy hơi, phồng má, thổi một cái rõ mạnh. Không ngờ vãi ngay ra một cái “bủm”. Ông lão giật mình, ngồi nhỏm dậy, nhìn cô ả, rồi thở giọng vòi rằng:- Thôi! Chị làm bạt mất vía ông Thổ công nhà tôi rồi! Tôi bắt đền chị đấy!Chị con gái kia thẹn, đỏ mặt chín nhừ: thấy ông lão nói bắt đền, thì sợ quá, mới chắp tay van rằng:- Tôi lạy ông, tôi trót lỡ, ông tha cho tôi.- Tha thế nào! Vía ông Thổ công nhà tôi có phải là chuyện chơi đâu? Tôi phải đi trình làng mới được. Chị đi xuống ngay ông lý với tôi.Nói rồi, liền đứng dậy, ra bộ đi thật. Chị con gái thấy thế, sợ cuống, vội vàng chạy lại nắm áo ông lão mà kêu xin rằng:- Tôi lạy ông vạn lạy, ông đừng làm thế, mà người ta cười tôi chết!... Ông bảo tôi thế nào, tôi cũng xin vâng...Ông lão không nghe, cứ làm già; chị kia thì năn nỉ, van lạy mãi.Ông lão mới bảo rằng:- Thế thì chị phải nằm xuống để tôi thu vía ông Thổ công nhà tôi lại.Chị con gái túng thế, phải chịu.Thu một hồi lâu, tha cho cô ả về; còn ông cụ thì nhọc lử cò bợ; nằm thẳng cẳng như người chết rồi.Cô ả quen mui, trưa hôm sau lại dẫn đến nhà ông lão, te tái gọi ông lão mà nói rằng:- Ông ơi, ông, tôi lại đánh rắm!Nhưng mà ông lão mệt quá, thở không ra hơi; nằm từ hôm qua, cũng chưa lại hồn. Cho nên lắc đầu mà nói rằng:- Mày ỉa ra đấy, ông cũng chịu thôi!
Có một ông lão già, đã ngoài bảy mươi.Một hôm, nắng nực, nằm nghỉ trưa; chợt có chị con gái, trạc mười lăm, mười sáu tuổi, ở bên láng giềng qua xin lửa.Ông ta chẳng buồn trở dậy, bảo chị kia rằng:- Lửa ở bếp, cứ lại mà thổi lấy.Chẳng may bếp nguội, thổi mãi không được; chị ấy mới chổng mông, ghé mồm, lấy hơi, phồng má, thổi một cái rõ mạnh. Không ngờ vãi ngay ra một cái “bủm”. Ông lão giật mình, ngồi nhỏm dậy, nhìn cô ả, rồi thở giọng vòi rằng:- Thôi! Chị làm bạt mất vía ông Thổ công nhà tôi rồi! Tôi bắt đền chị đấy!Chị con gái kia thẹn, đỏ mặt chín nhừ: thấy ông lão nói bắt đền, thì sợ quá, mới chắp tay van rằng:- Tôi lạy ông, tôi trót lỡ, ông tha cho tôi.- Tha thế nào! Vía ông Thổ công nhà tôi có phải là chuyện chơi đâu? Tôi phải đi trình làng mới được. Chị đi xuống ngay ông lý với tôi.Nói rồi, liền đứng dậy, ra bộ đi thật. Chị con gái thấy thế, sợ cuống, vội vàng chạy lại nắm áo ông lão mà kêu xin rằng:- Tôi lạy ông vạn lạy, ông đừng làm thế, mà người ta cười tôi chết!... Ông bảo tôi thế nào, tôi cũng xin vâng...Ông lão không nghe, cứ làm già; chị kia thì năn nỉ, van lạy mãi.Ông lão mới bảo rằng:- Thế thì chị phải nằm xuống để tôi thu vía ông Thổ công nhà tôi lại.Chị con gái túng thế, phải chịu.Thu một hồi lâu, tha cho cô ả về; còn ông cụ thì nhọc lử cò bợ; nằm thẳng cẳng như người chết rồi.Cô ả quen mui, trưa hôm sau lại dẫn đến nhà ông lão, te tái gọi ông lão mà nói rằng:- Ông ơi, ông, tôi lại đánh rắm!Nhưng mà ông lão mệt quá, thở không ra hơi; nằm từ hôm qua, cũng chưa lại hồn. Cho nên lắc đầu mà nói rằng:- Mày ỉa ra đấy, ông cũng chịu thôi!
7. Khóc mẹ chồng
Có một chị, mẹ chồng chết, khóc mãi đến nỗi khô cả cổ.Đương khóc, trông lên mâm ngũ quả ở trên giường thờ, thấy có mấy quả quít, mới giơ tay với trộm lấy một quả. Chẳng may với hụt, quả quít rơi xuống đất. Chị ta lấy chân khều; càng khều, quả quít lại càng lăn xa mãi ra.Cho nên mới khóc rằng:« Ới mẹ ơi, là mẹ ơi! Từ giờ một ngày một xa, con biết làm sao cho được? Mẹ ơi là mẹ ơi!... »
Có một chị, mẹ chồng chết, khóc mãi đến nỗi khô cả cổ.Đương khóc, trông lên mâm ngũ quả ở trên giường thờ, thấy có mấy quả quít, mới giơ tay với trộm lấy một quả. Chẳng may với hụt, quả quít rơi xuống đất. Chị ta lấy chân khều; càng khều, quả quít lại càng lăn xa mãi ra.Cho nên mới khóc rằng:« Ới mẹ ơi, là mẹ ơi! Từ giờ một ngày một xa, con biết làm sao cho được? Mẹ ơi là mẹ ơi!... »
8. Ông rậm râu
Có một ông râu rậm che kín cả miệng. Một hôm, đương đi ở ngoài đường, chợt có đứa bé con trông thấy; nó mới gọi mẹ nó mà bảo rằng:- Mẹ ơi, ra mau mà xem người không có mồm! Rồi nó cứ vỗ tay, chạy theo mà reo lên rằng:- A! a! a! Ông này không có mồm!Ông rậm râu tức quá, quay mặt lại, vạch râu chửi, nó rằng:- Chẳng mồm là l... mẹ mầy đây à!
Có một ông râu rậm che kín cả miệng. Một hôm, đương đi ở ngoài đường, chợt có đứa bé con trông thấy; nó mới gọi mẹ nó mà bảo rằng:- Mẹ ơi, ra mau mà xem người không có mồm! Rồi nó cứ vỗ tay, chạy theo mà reo lên rằng:- A! a! a! Ông này không có mồm!Ông rậm râu tức quá, quay mặt lại, vạch râu chửi, nó rằng:- Chẳng mồm là l... mẹ mầy đây à!
9. Cả làng sợ vợ
Có một làng, từ ông thủ chỉ cho đến anh cùng đinh, ai ai cũng sợ vợ cả. Một hôm, họp nhau bàn soạn: có một người đứng lên nói rằng:- Bởi chưng một mình lẻ loi, cho nên nó bắt nạt được. Giá mà ta họp nhau lại, như đũa cả nắm, khó bẻ, thì nó không làm gì nổi. Phải đừng có ai bỏ ai mới được.Mọi người đều vỗ tay khen phải. Tức thì lập thành hội, trọn ngày sửa lễ tế thần, ăn mừng.Đến hôm được ngày, không dám ở trong làng, sợ lộ chuyện, mới đem nhau ra tế lễ ở ngoài đồng xa xa. Cắt ba ông sợ vợ nhất, một ông vào mạnh bái, hai ông vào bồi tế. Xong đâu đấy cả rồi, nổi trống, đốt pháo, các quan viên aó mũ vào tế.Tế được một tuần, đến lúc xướng: “Giai quị!” Ba ông kia cùng quì cả xuống.Ngay bấy giờ có mấy bà đi chợ về qua thấy tế lễ linh đình, rủ nhau đến xem.Các ông thấy bóng các bà, vội vàng sấp ngửa, ù té chạy cả. Duy chỉ có ba ông nọ còn đương quì, cho nên không chạy kịp.Bọn kia chạy chừng một quãng, ngoảnh lại trông, thấy ba ông ấy vẫn cứ quì ở giữa chiếu. Mới lao xao bảo nhau mà khen rằng: “Ừ, thế chứ lại! Chúng mình cắt những tay thật là xứng đáng cả!” Bèn rủ nhau trở lại.Ai ngờ đến gần, thì thấy ba ông đã chết cứng cả tự bao giờ rồi!
Có một làng, từ ông thủ chỉ cho đến anh cùng đinh, ai ai cũng sợ vợ cả. Một hôm, họp nhau bàn soạn: có một người đứng lên nói rằng:- Bởi chưng một mình lẻ loi, cho nên nó bắt nạt được. Giá mà ta họp nhau lại, như đũa cả nắm, khó bẻ, thì nó không làm gì nổi. Phải đừng có ai bỏ ai mới được.Mọi người đều vỗ tay khen phải. Tức thì lập thành hội, trọn ngày sửa lễ tế thần, ăn mừng.Đến hôm được ngày, không dám ở trong làng, sợ lộ chuyện, mới đem nhau ra tế lễ ở ngoài đồng xa xa. Cắt ba ông sợ vợ nhất, một ông vào mạnh bái, hai ông vào bồi tế. Xong đâu đấy cả rồi, nổi trống, đốt pháo, các quan viên aó mũ vào tế.Tế được một tuần, đến lúc xướng: “Giai quị!” Ba ông kia cùng quì cả xuống.Ngay bấy giờ có mấy bà đi chợ về qua thấy tế lễ linh đình, rủ nhau đến xem.Các ông thấy bóng các bà, vội vàng sấp ngửa, ù té chạy cả. Duy chỉ có ba ông nọ còn đương quì, cho nên không chạy kịp.Bọn kia chạy chừng một quãng, ngoảnh lại trông, thấy ba ông ấy vẫn cứ quì ở giữa chiếu. Mới lao xao bảo nhau mà khen rằng: “Ừ, thế chứ lại! Chúng mình cắt những tay thật là xứng đáng cả!” Bèn rủ nhau trở lại.Ai ngờ đến gần, thì thấy ba ông đã chết cứng cả tự bao giờ rồi!
10. Thầy đồ mắc lỡm
Có một thầy đồ ngồi dạy học ở một nhà giàu. Nhà ấy nuôi nhiều chó dữ lắm. Một đêm, thầy đồ muốn đi đồng, nhưng mà tính nhát; phần thì sợ ma, phần thì sợ chó, cho nên không không dám mở cửa ra. Đến sau mót quá, không thể nào nhịn được nữa, mới đào một cái hố ở ngay kẽ vách, rồi ngồi ỉa phứa vào đấy. Sáng mai, thầy đồ ta gọi chủ nhà lại, trỏ cái hố mà bảo rằng:- Đêm hôm qua, trộm nó đào ngạch nhà ta. Tôi biết. Tôi mới đợi lúc nó thò đầu vào, tôi ỉa lên đầu nó một bãi. Nó sợ chạy mất.Chủ nhà vốn đã biết tính thầy nhát và hay nói khóac. Đã ỉa ra nhà nó, mà lại còn trực thuật nó! Nó mới gọi cả nhà đến đông đủ mà bảo rằng:- Nhà ta nuôi một đàn chó, rặt là đồ ăn hại cả. Đêm hôm qua có trộm đào ngạch, thế mà chó không con nào biết gì sốt! May có ông đồ, không thì khốn! Thôi đem mà đánh chết cả mấy con chó đi! Từ rày đã có ông đồ giữ nhà hộ.
Có một thầy đồ ngồi dạy học ở một nhà giàu. Nhà ấy nuôi nhiều chó dữ lắm. Một đêm, thầy đồ muốn đi đồng, nhưng mà tính nhát; phần thì sợ ma, phần thì sợ chó, cho nên không không dám mở cửa ra. Đến sau mót quá, không thể nào nhịn được nữa, mới đào một cái hố ở ngay kẽ vách, rồi ngồi ỉa phứa vào đấy. Sáng mai, thầy đồ ta gọi chủ nhà lại, trỏ cái hố mà bảo rằng:- Đêm hôm qua, trộm nó đào ngạch nhà ta. Tôi biết. Tôi mới đợi lúc nó thò đầu vào, tôi ỉa lên đầu nó một bãi. Nó sợ chạy mất.Chủ nhà vốn đã biết tính thầy nhát và hay nói khóac. Đã ỉa ra nhà nó, mà lại còn trực thuật nó! Nó mới gọi cả nhà đến đông đủ mà bảo rằng:- Nhà ta nuôi một đàn chó, rặt là đồ ăn hại cả. Đêm hôm qua có trộm đào ngạch, thế mà chó không con nào biết gì sốt! May có ông đồ, không thì khốn! Thôi đem mà đánh chết cả mấy con chó đi! Từ rày đã có ông đồ giữ nhà hộ.
TRỊNH VĨNH NIÊN * TRUNG QUỐC SẼ THẤT BẠI
Thất bại tại Biển Đông nhưng Trung Quốc vẫn chìm đắm trong giấc mộng
Về khía cạnh chiến lược, chính sách ngoại giao, quan hệ quốc tế và truyền thông trong vấn đề Biển Đông, Trung Quốc đã hoàn toàn bại trận. Dường như không một quốc gia nào ủng hộ lập trường cũng như lối hành xử của nước này. Bài viết của Viện trưởng Viện Nghiên cứu Đông Á, Đại học Quốc gia Singapore, Trịnh Vĩnh Niên trên Liên hợp Buổi sáng phân tích về nguyên nhân thất bại cũng như đối sách cho Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông.
Thời gian gần đây, mọi người đều vô cùng ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng, đã bao nhiêu năm nay, song song với sự trỗi dậy của Trung Quốc là chuỗi "liên hoàn bại trận" của chính nước này trong các vấn đề về Biển. Đặc biệt bắt đầu từ năm ngoái, xu hướng này ngày càng hiện ra rõ ràng hơn.
Trung Quốc đã nỗ lực theo đuổi chiến lược "Trỗi dậy hòa bình" (Phát triển hòa bình) ngay sau công cuộc cải cách mở cửa. Trên rất nhiều phương diện, Trung Quốc đã từ bỏ chính sách chủ nghĩa đơn phương vốn đã tuân thủ từ rất lâu trước đó, đồng thời phát triển quan hệ hữu nghị đa phương với các nước ASEAN. Khu vực tự do thương mại Trung Quốc-ASEAN cũng đã bắt đầu có hiệu lực. Trong vấn đề tranh chấp Biển Đông, Trung Quốc đã đề xuất chủ trương "Gác tranh chấp chủ quyền, cùng khai thác chung". Những biện pháp này xét từ góc độ lý thuyết đến thực tiễn áp dụng đã hình thành nên sách lược và kim chỉ nam ngoại giao "Giấu mình chờ thời" của Trung Quốc suốt từ thời Đặng Tiểu Bình đến nay. Thế nhưng rất nhiều người đã cảm nhận ra rằng, trên rất nhiều vấn đề có liên quan, nếu như Trung Quốc không thể trực diện đối mặt thì sẽ góp phần đẩy chính sách của họ đi theo hướng ngược hẳn lại.
Sự quan tâm chú ý của toàn bộ khu vực Châu Á và cộng đồng quốc tế cho tới thời điểm này đều tập trung vào vấn đề Biển Đông, Biển Đông đột nhiên lại thêm một lần nữa trở thành điểm nóng của thế giới. Chính quyền Trung Quốc dường như lại không hiểu rõ tình trạng hiện nay. Đối với Trung Quốc mà nói, chính sách Biển Đông về bản chất không hề có bất cứ một thay đổi nào, chỉ là các nước có liên quan tiến hành một loạt các hành động không có lợi cho Trung Quốc, và phản ứng của Trung Quốc theo đó cũng chỉ tương đương với hình thức "cứu hỏa" mà thôi.
Trên thực tế, từ rất nhiều năm trở lại đây, chính bởi vì nguyên do Trung Quốc luôn áp dụng các biện pháp bị động đối phó lại khiến cho vấn đề Biển Đông ngày một tích tụ chồng chất lại, và rồi dẫn đến cục diện như ngày hôm nay. Không quan tâm Trung Quốc có muốn hay không, có nắm rõ tình hình hay không, thì Trung Quốc phải đối mặt với những thách thức chưa từng có trong vấn đề Biển Đông này.
Thứ nhất, Trung Quốc sớm đã hoàn toàn thất bại tại cuộc chiến công luận quốc tế.
Trong nhiều năm qua, khi Trung Quốc vẫn còn đắm chìm trong thuyết "Trỗi dậy hòa bình" do chính họ tạo dựng nên, thì các quốc gia có liên quan đã nỗ lực với tinh thần cao nhất và chuẩn bị đầy đủ trên trường quốc tế để chờ đợi vấn đề Biển Đông sẽ nổi lên như trong dự tính đã có sẵn. Xét trên hệ thống kiến thức (luật pháp), Trung Quốc hiện nay thật khó khăn để tìm ra được bất kỳ một lực lượng hỗ trợ có hiệu quả nào cho họ. Về xu hướng các giới truyền thông báo chí không đứng về phía Trung Quốc đã hình thành như hiện nay thì Trung Quốc cũng không có quyền phát biểu tại đây. Các nhà bình luận cho rằng dùng "Chính sách cứng rắn" để mô tả thái độ của Trung Quốc trong tranh chấp Biển Đông là chưa đầy đủ, chính xác phải gọi đó là "mang tính chất tranh cướp" mới đúng. Trên thực tế, cách nhận thức tương tự như vậy của Trung Quốc đã trở nên khá phổ biến trong cộng đồng quốc tế. Bản thân Trung Quốc lại quả quyết cho rằng họ không làm gì mà lại bị đối xử "oan uổng" như vậy, đây chính là căn nguyên khiến Trung Quốc bị mất quyền phát biểu trong cuộc chiến công luận quốc tế này.
Thứ hai, Trung Quốc cũng thua trận trong cuộc chiến chiến lược.
Các nước liên quan đều có những chiến lược khá rõ ràng trong vấn đề tranh chấp Biển Đông, cụ thể bao gồm các chiến lược như chủ nghĩa đa phương tại khu vực, quốc tế hóa, chính trị hóa đại quốc. Thế nhưng chiến lược của Trung Quốc nếu không dám đối mặt với sự thực thì sẽ là nhập nhằng không rõ ràng. Trung Quốc từ chối chi tiết hóa vấn đề, sử dụng khái niệm "phản đối quốc tế hóa" vô cùng vĩ mô này nhằm che lấp vấn đề cụ thể. Trên thực tế, tranh chấp Biển Đông đã được đa phương hóa, quốc tế hóa từ rất lâu rồi, hơn nữa sẽ rất nhanh tiến đến giai đoạn "chính trị hóa đại quốc" trong thời gian tới. Trung Quốc chỉ là không dám thừa nhận sự thực hiển hiện ra trước mắt này mà thôi.
Thứ ba, nếu tình hình vẫn tiếp diễn như vậy, Trung Quốc sẽ bị ràng buộc để cuối cùng rơi vào tình trạng mất chủ quyền trong cuộc chiến.
Như đã đề cập ở phần trên, từ năm ngoái cho đến năm nay, chính sách Biển Đông của Trung Quốc về bản chất không hề có bất cứ một thay đổi nào, mà chủ yếu chỉ là một số hành động mang tính chất phản ứng lại. Thế nhưng cho đến thời điểm này, bất cứ nước nào cũng đều cho rằng Trung Quốc chính là nguyên nhân phát sinh của mọi vấn đề. Tình hình thực tế là, các nước khác có liên quan vẫn đang xúc tiến các hoạt động và hành động trong khu vực tranh chấp Biển Đông, đặc biệt là trong việc phát triển nguồn năng lượng.
Trung Quốc chìm đắm trong "giấc mộng".
Đã nhiều năm nay, trong vấn đề tranh chấp Biển Đông (cũng như trong nhiều vấn đề khác), Trung Quốc dường như luôn sống trong "giấc mộng" mà chính bản thân họ tự vạch ra. Nhìn từ góc độ chiến lược, Trung Quốc không phải là không có cơ hội để chiếm ưu thế trong vấn đề Biển Đông này, mà thay vào đó lại tự động vứt bỏ những ưu thế đáng lẽ họ chiếm được ... Điều đáng tiếc là, những hành động của TQ không những không chiếm được sự đồng cảm của các nước liên quan đến tranh chấp mà cuối cùng dẫn đến kết quả hoàn toàn ngược lại, gây tổn hại cho chính lợi ích quốc gia của mình.
Vậy thì, kết quả cuối cùng sẽ như thế nào đây? Trung Quốc liệu sẽ từ bỏ chăng? Trong giới báo chí truyền thông vô cùng phát triển như ngày hôm nay, phạm vi xu hướng thỏa hiệp mà các nhà cầm quyền có thể áp dụng được ngày một nhỏ,càng không cần nói đến chuyện từ bỏ. Nếu tình hình này vẫn cứ tiếp diễn thì cuối cùng chắc chắn sẽ dẫn đến các cuộc xung đột xảy ra.Tuy nhiên xung đột trong thời gian này sẽ vô cùng bất lợi đối với Trung Quốc.
Vấn đề đã xuất hiện rồi, thì phái có cách đối phó lại. Nhiệm vụ đầu tiên cần phải làm là tìm hiểu rõ tại sao lại xuất hiện tình trạng như vậy? Ngoài các vấn đề xuất phát từ chính bản thân Trung Quốc thì còn có một số nguyên nhân quan trọng khác nữa. Đối với các nước có liên quan mà nói thì đây là sản phẩm phát sinh từ "môi trường quốc tế" và "môi trường nội bộ".
Đầu tiên đề cập đến môi trường quốc tế. Đối với các quốc gia có liên quan thì nhân tố quan trọng nhất trong môi trường quốc tế không thể không nhắc đến sự trỗi dậy kinh tế của Trung Quốc và kéo théo sau đó là hiện đại hóa nền quốc phòng, quân sự cũng như từ đó tác động đến cục diện địa chính trị của toàn bộ khu vực Châu Á. Các quốc gia có liên quan đã bắt đầu cảm thấy rằng thời gian không còn đứng về phía họ nữa. Mặc dù Trung Quốc luôn nhấn mạnh về sự "trỗi dậy hòa bình" của mình, thế nhưng họ lại bị coi là đã áp dụng chính sách chậm trễ kéo dài thời gian trong vấn đề Biển Đông nhằm chờ thời cơ cho đến khi tình hình quốc tế thuận lợi sẽ ra tay giải quyết tranh chấp. Do vậy, đối với các quốc gia có liên quan thì vấn đề Biển Đông bắt buộc phải được giải quyết theo hướng có lợi cho họ trước khi Trung Quốc thực sự trỗi dậy, nếu không, đợi cho đến khi Trung Quốc đã trỗi dậy rồi, tia hy vọng sẽ trở nên vô cùng mong manh. Cũng chính vì thế, bắt buộc phải thông qua bất cứ biện pháp nào để đẩy mạnh hành động, hối thúc phát triển theo khuynh hướng có lợi cho bản thân họ.
Đối với Trung Quốc mà nói, môi trường các nước lớn chủ yếu đề cập đến những biến đổi chính trị trong phạm vi giữa các nước này, đặc biệt là biến đổi trong mối quan hệ với các nước lớn như Mỹ. Trong vấn đề Biển Đông, không quản có muốn hay không thì Trung Quốc chắc chắn vẫn phải đối mặt với Mỹ. Thế nhưng trong quan hệ hai nước Trung-Mỹ thì dù Trung Quốc đã hao tâm tổn trí rất nhiều nhưng vẫn không biết nên làm như thế nào để có thể hòa nhập được cùng Mỹ, đặc biệt là mối quan hệ với Mỹ trong khu vực Châu Á. Rất nhiều người đã từng nghĩ rằng mục tiêu chủ yếu của Mỹ trong sự hiện diện tại Châu Á này là nhằm đối phó với Trung Quốc, thế nhưng trên thực tế lại không hề đơn giản như vậy. Lý do Mỹ tồn tại ở khu vực Châu Á không chỉ để đối phó với riêng một Trung Quốc, mà còn liên quan đến vấn đề địa chính trị khác. Ví dụ, nếu không có nhân tố Trung Quốc thì Mỹ vẫn đương nhiên tìm ra được lý do để tạo ra không gian sinh tồn tại Châu Á. Bất luận là khu vực Đông Bắc Á, Đông Nam Á hay Nam Á, mối quan hệ phức tạp đan xen giữa các nước đều cần có sự hỗ trợ sức mạnh của Mỹ để cân bằng lực lượng.
Trung Quốc không tạo dựng không gian cho Mỹ.
Rất nhiều các quốc gia Châu Á đều cần sự hiện diện của Mỹ chính là do kết quả không hành động của Trung Quốc. Ví dụ, trong vấn đề Triều Tiên thì ngoài Triều Tiên ra, hầu hết tất cả các nước Châu Á đều bất mãn với cách hành xử của Trung Quốc. Tất nhiên là cũng có những điểm khó xử riêng nhưng không thể vì thế mà chứng minh rằng cách hành xử của Trung Quốc là hợp lý được. Quan hệ giữa Trung Quốc và Nhật Bản thường xuyên liệt vào trạng thái căng thẳng. Hiện nay cùng với sự trỗi dậy của Ấn Độ thì mối quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ cũng hàm chứa rất nhiều những nhân tố không xác định. Mặc dù Trung Quốc và các nước khu vực Châu Á luôn có các lĩnh vực hợp tác chung, thế nhưng những cuộc xung đột dường như phát sinh ngày một phức tạp hơn. Dù thế nào đi chăng nữa, trong việc giải quyết các vấn đề khu vực Châu Á thì Mỹ vẫn là quốc gia duy nhất đã từng nhiều lần thông qua các cuộc trải nghiệm, hơn nữa, tính quan trọng của nhân tố Trung Quốc mặc dù ngày một tăng lên nhưng chưa hề thông qua bất kỳ một cuộc trải nghiệm nào cả. Trong bối cảnh như vậy, Mỹ vẫn chính là môt quốc gia đạt mức độ tin tưởng và được dựa dẫm cao nhất. Điều này cũng được thể hiện trong vấn đề Biển Đông, những nước có liên quan hy vọng có sự can thiệp của Mỹ tại khu vực xảy ra tranh chấp này, nhằm nâng cao tính chắc chắn của họ trong vấn đề Biển Đông. Chính vì thế mà dẫn tới xu thế "chính trị hóa đại quốc"...
Ở đây còn có môi trường nội bộ của chính bản thân Trung Quốc. Phiên họp Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ mười tám sẽ được tổ chức vào năm sau. Trong thời gian này, nhiệm vụ chính của chính quyền Trung Quốc là giải quyết công việc nội bộ, sự ổn định sẽ trấn áp tất cả mọi vấn đề khác. Có một số quốc gia phán đoán rằng trong thời kỳ này thì Trung Quốc sẽ không thể đưa ra những điều chỉnh lớn nào về chính sách đối ngoại được cả. Điều này cũng có nghĩa rằng, trước khi một thế hệ lãnh đạo mới được thành lập, Trung Quốc sẽ không thể có chính sách mới và quan trọng nào trong lĩnh vực ngoại giao, hay nói rằng phần lớn các chính sách đối ngoại được đưa ra tất nhiên đều mang tính chất phản ứng là chủ yếu. Cách phán đoán này khiến cho các nước có liên quan đến tranh chấp sẽ nhận thấy rằng đây là cơ hội để tiến hành áp dụng những phương pháp triệt để hơn cho họ.
Trung Quốc sẽ làm gì khi đối mặt với tình thế hiện tại này? Được coi là một quốc gia lớn đang trong quá trình trỗi dậy, Trung Quốc chắc chắn sẽ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong các vấn đề về khu vực. Tình thế tại Biển Đông đối với Trung Quốc mà nói, mặc dù "ngày thế giới tận thế" vẫn còn cách xa vô cùng, nhưng họ bắt buộc phải thay đổi tính bị động đã tồn tại cho đến thời điểm hiện tại này để chuyển sang tính chủ động hơn. Điều đặc biệt quan trọng phải nói đến rằng, vấn đề hiện nay của Trung Quốc không phải là vấn đề về nguồn tài nguyên, mà là chiến lược, chính sách và cách huy động nguồn lực. Đơn giản mà nói chính là vấn đề về đường lối tư duy của Trung Quốc. Trong tranh chấp “Nam Hải” (Biển Đông), Trung Quốc phải có một đường lối tư duy rõ ràng, minh bạch.
Cần phải suy ngẫm lại đường lối tư duy đã cũ của Trung Quốc.
Khi đề cập đến đường lối tư duy mới thì cần phải suy ngẫm lại đường lối tư duy đã cũ của Trung Quốc. Vấn đề cốt lõi trong đường lối tư duy truyền thống của Trung Quốc chính là phản đối "quốc tế hóa" trong trannh chấp Biển Đông. Xét trên cơ sở lý thuyết, điều này đương nhiên là không sai. Nhưng vấn đề phát sinh nằm ở chỗ khái niệm đưa ra này không những không miêu tả được tình huống khách quan của quá trình tranh chấp Biển Đông mà lại càng khó khăn hơn khi áp dụng đường lối tư duy này để có thể tìm ra được biện pháp giải quyết. Điều này liên quan đến nhiều cấp độ bên trong các vấn đề chính.
Thứ nhất là chủ nghĩa song phương. Trung Quốc yêu sách gác tranh chấp chủ quyền cùng khai thác chung. Thế nhưng cho đến nay chính sách này vẫn chỉ dừng lại ở trạng thái khẩu hiệu, lý thuyết suông. Để có được mối quan hệ với các nước ASEAN, bản thân Trung Quốc không hề có kế hoạch khai thác Biển Đông nào cả, mà ngược lại chính là các nước có liên quan trong những năm gần đây tiến hành tăng cường khai thác. Thế nhưng Trung Quốc không phải đề xuất ra chủ trương cùng khai thác chung, mà chính xác phải nói là chủ trương khai thác đơn phương. Trong vấn đề cùng khai thác chung, các quốc gia có liên quan hoặc là không tự nguyện hoặc là tinh thần tự nguyện không cao. Hay nói toạc ra thì Trung Quốc không có đủ sức mạnh cũng như cơ chế quyền lực để thúc đẩy các quốc gia có liên quan công nhận và đi đến chấp nhận yêu sách cùng khai thác chung mà Trung Quốc đã đề xuất.
Thứ hai là chủ nghĩa đa phương, chính là mối quan hệ giữa Trung Quốc và các nước ASAEN. Vấn đề tranh chấp Biển Đông chủ yếu biểu hiện trong "Tuyên bố ứng xửtrên Biển Đông” mà Trung Quốc cũng đã ký kết. Thế nhưng văn bản này lại không mang bất cứ tính chất ràng buộc pháp lý nào. Văn bản tuy đã được ký kết rất nhiều năm qua nhưng không có bất cứ một quốc gia nào đạt hiệu quả trong việc thúc đẩy cho văn bản trở thành một tài liệu mang tính ràng buộc pháp lý được. Nên nói rằng chính bản thân Trung Quốc cũng không nỗ lực thực hiện đầy đủ nhiệm vụ của mình trong đó. Điều quan trọng của vấn đề nằm ở chỗ Trung Quốc vẫn tuân thủ chủ nghĩa song phương và phản đối đa phương hóa trong tranh chấp Biển Đông. Thế nhưng bản chất thực sự của rất nhiều vấn đề trong tranh chấp Biển Đông lại là đa phương, cho nên việc phản đối chính sách đa phương hóa đã thể hiện rõ thái độ của Trung Quốc không dám đối mặt với sự thực này.
Thứ ba là quốc tế hóa. Các quốc gia có liên quan đã đưa vấn đề tranh chấp Biển Đông giao phó cho Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế. Trung Quốc tỏ ý không chấp nhận cho lắm, bởi vì nếu cầu cứu đến Liên Hợp Quốc hoặc các tổ chức quốc tế thì khả năng bại trận của Trung Quốc sẽ lớn hơn cơ hội chiến thắng rất rất nhiều lần. Như đã thảo luận trong phần trên, Trung Quốc đã thua trận trong cuộc chiến công luận quốc tế rồi, sẽ không còn bao nhiêu người có thể thông cảm cho lập trường của Trung Quốc được nữa.
Thứ tư là chính trị hóa đại quốc. Các quốc gia có liên quan trong khu vực Đông Nam Á hy vọng sẽ có sự can thiệp của Mỹ tại đây, điều này là dễ hiểu. Thế nhưng mức độ can thiệp của Mỹ sẽ sâu nông như thế nào thì còn phải xem lợi ích quốc gia của chính họ trong vấn đề này. Nhân tố Mỹ trong khu vực Đông Nam Á đã luôn tồn tại từ trước tới nay, hay nói cách khác Mỹ đã luôn là một bộ phận cấu thành trong cấu trúc khu vực này. Trên thực tế, lợi ích của Mỹ tại khu vực Đông Nam Á này còn thâm căn cố đế hơn nhiều so với lợi ích của Trung Quốc. Ngay từ thời kỳ khi mới bắt đầu chiến tranh lạnh thì Mỹ đã không ngừng thiết lập mối quan hệ với các nước trong khối ASEAN, còn Trung Quốc chỉ mãi cho đến sau thời kỳ cải cách giải phóng đất nước mới bắt đầu xây dựng mối quan hệ mang tính thực chất với các nước này. Mối quan hệ giữa Mỹ và các nước Đông Nam Á là toàn diện trên các lĩnh vực còn Trung Quốc thì chủ yếu chỉ dựa trên lĩnh vực kinh tế, còn những lĩnh vực khác mới đang thuộc thời kỳ sơ khai. Do vậy, việc chính quyền Trung Quốc phản đối "chính trị hóa đại quốc" cũng chính là nguyên do khiến cho nước này không nhận ra bản chất thật của vấn đề tranh chấp.
Khi suy ngẫm đến các nhân tố đã được nêu ở phần trên, mọi người sẽ thật dễ dàng để trả lời câu hỏi rằng "Trung Quốc nên đi những bước tiếp theo như thế nào đây?", cũng có thể xem xét đánh giá từ nhiều góc độ như sau.
Trước tiên, Trung Quốc cần đặt mình đứng từ góc độ của các quốc gia láng giềng hoặc các nước có liên quan đến tranh chấp trong vấn đề Biển Đông để suy xét vấn đề. Trong suốt thời gian dài đến nay, chính quyền Trung Quốc luôn tuyên truyền lập trường với những nguyện vọng tốt đẹp của họ ra thế giới trong và ngoài nước, ví dụ như những khái niệm gọi là "trỗi dậy hòa bình", "phát triển hòa bình" và "láng giềng tốt", v.v... Những điều này rất quan trọng nhưng không bao giờ có thể coi là đủ được cả, bởi vì chính Trung Quốc đã coi nhẹ cách nhìn nhận của các nước xung quanh đối với sự trỗi dậy của họ như thế nào, hay mối quan tâm của các nước đó ra sao trước sự trỗi dậy của Trung Quốc. Chỉ cho đến khi thấu hiểu được mối lo lắng của các nước láng giềng này rồi, thì Trung Quốc mới hoạch định ra những chính sách thiết thực có hiệu quả được. Nếu không, không quan tâm nguyện vọng của Trung Quốc có như thế nào đi chăng nữa, hay đại loại giống như những khái niệm gọi tương tự như là "sự trỗi dậy hòa bình" v.v... thì cuối cùng vẫn biến thành những lời Trung Quốc tự nói và tự nghe.
Thứ hai, Trung Quốc bắt buộc phải phân định rõ ràng giữa vấn đề an ninh hàng hải và tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông. Mối quan tâm của cộng đồng quốc tế đặc biệt là Mỹ nói riêng chính là vấn đề an ninh hàng hải, việc Mỹ can thiệp vào vấn đề Biển Đông cũng chính xuất phát từ căn nguyên này ra. Đối với vấn đề này, Trung Quốc cần căn cứ vào tình hình thực tế, thừa nhận và nhấn mạnh rằng an ninh hàng hải là mối quan tâm của tất cả các bên tham gia, đồng thời cũng là trách nhiệm của tất cả các bên. Trung Quốc phải tình nguyện gánh vác trách nhiệm này cùng với các quốc gia khác như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ hay các quốc gia ASEAN. Trên thực tế, vấn đề an ninh hàng hải quốc tế vẫn luôn do Mỹ đảm nhiệm từ trước tới nay. Mặc dù Trung Quốc đã bắt đầu có năng lực và sức mạnh trong vấn đề này, thế nhưng khả năng gánh vác được trách nhiệm thì vẫn còn quá là xa vời đối với chính họ, cho dù chỉ là vấn đề liên quan đến an ninh hàng hải trong khu vực mà thôi. Trong lĩnh vực này, hai nước Trung, Mỹ có không gian để có thể hợp tác cùng với nhau rất lớn, mà sự hợp tác như vậy cũng phù hợp với lợi ích quốc gia của chính bản thân Trung Quốc. (Đương nhiên ở đây đề cập đến một vấn đề còn cơ bản hơn, đó là việc Trung-Mỹ sẽ hợp tác như thế nào để xây dựng nên hệ thống an ninh trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Mà điều này đòi hỏi thể hiện trong một bài lập luận khác biệt nữa).
Quản lý và kiểm soát sẽ chính là các lựa chọn.
Thứ ba, một cấp bậc tiếp theo nữa là mối quan hệ giữa Trung Quốc và tổng thể khối ASEAN. Việt Nam, Philippin, Malaysia và Bruney là những nước thành viên ASEAN có tuyên bố chủ quyền một phần hoặc toàn bộ đối với một số đảo trên Biển Đông. Điều này quyết định đến sự cân nhắc của Trung Quốc về lợi ích tổng thể của khối ASEAN cũng như mối quan hệ giữa Trung Quốc và tổng thể ASEAN. Mặc dù cho tới thời điểm hiện tại, Trung Quốc không sẵn sàng chấp nhận chủ nghĩa đa phương, thế nhưng cuối cùng thì họ bất đắc dĩ cũng phải thừa nhận, hơn nữa sự chấp nhận này càng sớm bao nhiêu thì sẽ càng có lợi cho Trung Quốc bấy nhiêu. Hãy giả thiết một chút rằng, nếu như "Tuyên bố ứng xử trên Biển Đông" ngay từ những năm trước đã có tính ràng buộc pháp lý rồi thì cục diện Biển Đông sẽ không đến nỗi phát triển như thời điểm hiện tại thế này. Không còn nghi ngờ gì nữa, nếu Trung Quốc chấp nhận chủ nghĩa đa phương, thì "Tuyên bố ứng xửtrên Biển Đông" sẽ vẫn là một lối vào đầy thuận tiện.
Thứ tư, một cấp bậc cuối cùng là nên đối diện với vấn đề tranh chấp chủ quyền như thế nào. Đây là vấn đề vô cùng thiết yếu, Trung Quốc nên từ bỏ chủ nghĩa song phương truyền thống và chấp nhận chủ nghĩa song phương mới, cũng có nghĩa là một chủ nghĩa song phương mới nằm trong cấu trúc của chủ nghĩa đa phương. Điều này nói lên rằng, Trung Quốc và các nước có liên quan đến tranh chấp sẽ có thể tiến hành các cuộc họp thảo luận song phương dưới hình thức cấu trúc đa phương giữa Trung Quốc và ASEAN khi bàn bạc nghiên cứu về vấn đề Biển Đông. Dưới hình thức cấu trúc đa phương như vậy, các quốc gia không liên quan đến tranh chấp Biển Đông sẽ không tỏ rõ thái độ ủng hộ đối với bất cứ một bên nào, lập trường trung lập sẽ là lợi ích lớn nhất của tất cả các bên. Đồng thời khuôn khổ này cũng tạo động lực lớn giúp cho các nước có liên quan đến tranh chấp có thể tiến hành thương lượng thảo luận với Trung Quốc.
Vấn đề Biển Đông ngày càng trở nên phức tạp gay gắt. Muốn một bước giải quyết nhanh gọn vấn đề này là không điều không thể xảy ra được. Nếu không giải quyết được vấn đề tồn tại, thì phương án quản lý và kiểm soát sẽ trở thành những cách lựa chọn hợp lý. Nhưng muốn quản lý và kiểm soát được vấn đề tranh chấp Biển Đông thì cần bắt buộc phát triển một loạt các cơ chế pháp lý. Mặc dù Trung Quốc hiện nay đang nằm trong tình thế bị động, thế nhưng không gian mà Trung Quốc có thể hoạt động được lại vô cùng lớn. Là một quốc gia lớn có trách nhiệm thì Trung Quốc cũng nên tìm kiếm các giải pháp để quản lý và kiểm soát vấn đề tranh chấp trên Biển Đông bắt đầu ngay từ trong bối cảnh khu vực thậm chí mở rộng ra quốc tế. Nếu Trung Quốc không thể thay đổi đường lối tư duy truyền thống một cách có hiệu quả thì không gian hoạt động của Trung Quốc trong vấn đề này sẽ ngày càng bị thu hẹp nhỏ lại.
Bản gốc tiếng Trung “中国活在梦中 南海早已彻底输掉”
TÔ HẢI * GÓP Ý KIẾN CHO NHỮNG KẺ… KHÔNG ÓC,
Tô Hải : GÓP Ý KIẾN CHO NHỮNG KẺ… KHÔNG ÓC, KHÔNG TIM?
Nhật ký mở lần thứ 144
Tô Hải
09-06-2015
“Tổng Bí thư ‘đặt hàng’ trí thức thực hiện hoạt động tư vấn phản biện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, còn Thủ tướng thì khẳng định như đinh đóng cột: ‘Tôi luôn nói các Bộ trưởng nghe trí thức phản biện. Vắng phản biện, cạnh tranh dễ độc đoán, chuyên quyền’. Đúng là lời vàng ý ngọc được thốt ra từ miệng các nhà lãnh đạo Quốc gia. Vậy thì, hỡi các nhà khoa học, các chuyên gia trong mọi lĩnh vực hoạt động, còn chần chừ gì nữa mà không chớp lấy thời cơ đóng cho trọn vai… quân xanh!”
Trang Beauxite đã kêu gọi một cách mỉa mai về lời “nói dzậy mà không phải dzậy” của chú Tổng Bí Trọng như thế!
Còn mấy ai là trí thức thứ thiệt nghe anh Trọng-người- giầu “nói dzậy mà không phải dzậy” sau vụ IDS bị bức tử?
Nhưng, đã một tuần trôi qua… chả có ma nào có cái đóng góp, phản biện gì được các phương tiện truyền thông của đảng độc quyền cho “ra công khai” để dân biết mà lợi dụng… “ăn theo”! Vẫn chỉ là những ý kiến tung hê lên mạng, dù là “kính gửi”, dù là “kiến nghị” nhiệt tình, chân thực, nhưng số phận của những ý kiến này liệu có thoát khỏi số phận những “kính gửi” của 61 đảng viên tên tuổi, hoặc “thư ngỏ” của những tác giả tự khai “tôi không phải lực lượng thù địch”, hoặc “tôi… nhân danh một đảng viên nguyện suốt đời trung thành với Đảng”.
Nhưng, rõ ràng, lời đại vương – Bí Thơ – Đảng trưởng đã hơn một lần kết luận các thứ góp ý của mọi đảng viên muốn “đảng chúng ta” thay đổi thật sự từ đường lối chủ trương, đến tên nước, tên Đảng (đã sai lầm đổi tên trong cơn “say mê chiến thắng”) để lấy lại lòng tin của nhân dân… là: “Đó không phải là tự diễn biến hay sao”? Đó chính là lợi dụng góp ý với đảng để nói xấu, xuyên tạc đường lối của đảng – Nhà Nước” và yêu cầu… “cần phải xử lý”!?
Trong cái cộng đồng này ngồi nghe anh tổng-vua khuyến dụ, không còn mấy những gương mặt đáng tin cậy của anh Trọng nữa rồi
Của đáng tội, cũng có một vài đóng góp, phản biện khá sắc sảo, khá chân thành, thậm chí ôm lấy đảng mà góp ý như: “CƠ HỘI RẤT LỚN CHO CẢ TỔ QUỐC VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM”
Hoặc cụ thể hơn về đối ngoại có: “KIẾN NGHỊ ĐẶC BIỆT CỦA TIẾN SỸ TRẦN CÔNG TRỤC…
Chẳng kiến nghị, cũng chẳng kính gửi ai là những bài góp ý gián tiếp khá sắc sảo và đầy tính thuyết phục như “CÁI CHẾT ĐƯỢC BÁO TRƯỚC của Tiến sỹ Tô Văn Trường…”
Nhưng vẫn chỉ là những tiếng vọng tiếp tục của IDS bị bức tử năm nào! MỌI Ý KIẾN GÓP Ý, PHẢN BIỆN PHẢI GỬI TRỰC TIẾP CHO CÁC CƠ QUAN CÓ TRÁCH NHIỆM, CẤM ĐƯA LÊN BÁO, LÊN MẠNG!!
Nói trắng ra rằng: DƯỚI CHẾ ĐỘ ĐẢNG TOÀN TRỊ MÀ MẤY CHÚNG TÔI THAY MẶT (Nhiều lắm cũng chỉ là 6/16 vị trong Bộ CT đi) chứ gần 200 “chun ươn” do bọn tui cơ cấu chắc chắn sẽ chỉ có “Em hoàn toàn đồng ý!” thì:
GÓP Ý TỨC LÀ ĐỒNG Ý
PHẢN BIỆN TỨC LÀ….ĐỒNG THUẬN!
Làm gì ở cái thời đại rực rỡ nhất của lịch sử này mà:
Người già lên lớp được người trẻ.
Kẻ bị giật đồ lại góp ý được cho thằng ăn cướp,
Người tử tế lại khuyên nhủ được thằng du côn
Và đặc biệt, mấy cụ cộng sản cuồng tín, kiên trì lại dạy dỗ nổi năm bảy thằng vua-tư-bản-đỏ-mang-thẻ đảng CS!
Hãy thử xem, các bậc tiền bối, ngồi tù vì chủ nghĩa Mác-Lê, chiến tích huân chương đầy mình, khi có những ý kiến khác, khi muốn làm “cách mạng” ngay cái đảng của mình đã nói gì và bị những hậu duệ đối xử như thế nào để thấy rằng việc vạch trần cái trò “mị quan” của Phú (ông) Trọng của Beauxite là khó chối cãi:
Bắt đầu từ bậc đàn anh cộng sản Nguyễn Hộ, người đầu tiên “gút bai” cái chủ nghĩa cộng sản bịp bợm cuả 2 lão triết ra khùng của Đức, Nga có tên là Mác và Lê, đọc lên đã… sặc mùi giết chóc. Trong tập hồi ký “Quan điểm và cuộc sống” ông viết:
– “Ngày 21/3/1990 tôi rời khỏi Saigòn cũng là ngày tôi rời khỏi Đảng CSVN. Tôi làm cách mạng đã 56 năm, gia đình tôi có 2 liệt sĩ, Nguyễn Văn Đào, anh ruột, Đại Tá QĐNDVN, hy sinh ngày 9/1/1966 tại Củ Chi, và vợ tôi Trần Thị Thiệt bị bắt và chết tại Tổng Nha Cảnh Sát Sài gòn vào tết Mậu Thân 1968 nhưng phải thú nhận rằng tôi đã chọn sai lý tưởng: Cộng Sản Chủ Nghĩa. Bởi vì suốt hơn 60 năm trên con đường cách mạng ấy nhân dân Việt Nam đã chịu hy sinh quá lớn lao nhưng cuối cùng chẳng được gì, đất nước vẫn nghèo nàn lạc hậu, nhân dân không có ấm no hạnh phúc, không có dân chủ tự do. Đó là điều sỉ nhục”.
Còn một Trung Tướng đảng viên lão thành, Trần Độ đánh Tây dẹp… Nam khi thấy đảng của ông bất lực sai lầm, muốn cùng một vài người thay đổi toàn bộ về mục đích, đường lối, phương châm, phương pháp… cách mạng tới mức phủ nhận tất cả những gì ông và đảng ông đã sai lầm và cần sửa chữa. Ông viết trong “Nhật ký rồng rắn”:
“Nói thì ‘dân chủ, vì dân’ mà làm thì chuyên chính phát xít. Cái đặc điểm đó cũng có nghĩa là nói dối, nói láo, lừa bịp, trò hề, ‘nói vậy mà không phải vậy’. Suốt ngày đóng trò, cả năm đóng trò. Ở đâu cũng thấy các vai hề, ở đâu cũng thấy các trò lừa bịp… Ôi, cay đắng thay!”
Và, khác với Đặng Quốc Bảo, Trần xuân Bách, ông đã bị cái bọn cộng sản ở giờ thứ 25 đối xử tệ bạc, đểu cáng, vô luật pháp, vô luân lý như thế nào ngay cả trong giờ mọi người đến bên linh cữu của ông về thắp một nén nhang đưa ông về nơi không có mấy anh Tây râu xồm, đầu hói mà ông đã quyết liệt phủ nhận… Cả thế giới đều đã rõ!
Và gần đây, mở đường cho những người có chức có quyền mà tuyên bố những điều động trời ngày càng… tăng đáng ngạc nhiên.
Đầu tiên phải kể đến những ý kiến “mở đột phá khẩu” không chút do dự, e dè của nguyên Phó Thủ Tướng, Trung Ương Ủy Viên (hiện là Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam): “Thật ra mà nói, chúng ta nói và chúng ta biết là chúng ta bịp người khác! Đến tôi bây giờ, tôi cũng không biết cái CNXH mà chúng ta sẽ đi là cái CNXH gì đây?… Ông bịp thiên hạ với cái chữ CNXH của ông“.
Gần đây, cái ý vạch toạc sự bịp bợm của 4 chữ chủ nghĩa xã hội mà đi đâu, anh ba D cũng phải giấu biến đi để yêu cầu mọi nước tư bản công nhận là nước VN có “kinh tế thị trường đầy đủ” thì ông bộ trưởng Bùi quang Vinh, Trung Ủy cũng không ngần ngại đưa ra kết luận tung hê ngay ra trước quác hụi: “Cái chủ nghĩa xã hội ấy có đâu mà chúng ta cứ mất công đi tìm!”
Thôi thì đủ các thứ tự do tư tưởng, đủ kiểu phát huy tinh thần dân chủ đóng góp đủ kiểu vu vơ, vớ vẩn, vô vọng, vá víu, vô vị được vung vãi tí mẹt trên nghị trường. Từ ông nhà sư đến ông tướng công an, từ ông tiến sỹ Mác-Lê đến ông lãnh đạo Hội Nhà Báo Đảng… Tất cả đều lên tiếng góp ý cho ra cái vẻ người thay mặt nhân dân! Có những ý kiến khá … “liều mạng” như
1- Ông Nguyễn Xuân Tỷ (ĐBQH đoàn Bến Tre, thiếu tướng – Phó giám đốc Học viện Quốc phòng): “Làm cán bộ mấy năm mà trong nhà có vài ba trăm tỉ đồng, thậm chí cả ngàn tỉ đồng thì lấy ở đâu ra nếu không tham nhũng. Có một đội ngũ giàu rất nhanh, cưỡi lên đầu nhân dân, còn kinh khủng hơn địa chủ, tư sản ngày xưa“.
2. Ông Trần Văn Độ (ĐBQH đoàn An Giang, trung tướng – Phó Chánh án Toà án Nhân dân Tối cao, Chánh án Toà án Quân sự Trung ương): “Tội tham ô, nhận hối lộ chúng ta quy định hình phạt tử hình nhưng thực tế không xử lý được bao nhiêu cả. Dân bảo các ông hô hào thôi chứ có làm được đâu? Nghiêm minh tức là tham ô 4 – 5 tỷ đồng trở lên là phải tử hình”.
Mới hôm qua thôi, mình đọc một “kính gửi” để vạch trần cái sự vi phạm nghiêm trọng điều lệ đảng chưa từng có của mấy anh Ban bí thư, Bộ Chính Trị khi vạch ra những điều mất dân chủ nghiêm trọng trong “Quy chế bầu cử, ứng cử tại Đại Hội XII của ĐCSVN” qua quyết định số 244-QĐ/TW ký tên một nữ đảng viên (không ghi rõ tuổi đảng) nguyên phó giám đốc Sở Tư Pháp t/p HCM, có tên Nguyễn Thu Giang. Dựa vào những điều lệ có sẵn của đảng cộng sản, bà Giang đã vạch ra toàn bộ những điều “không được” của quyết định để chứng minh “Đảng cộng sản mà lại tước bỏ quyền ứng cử, đề cử của đảng viên mình thì còn là đảng cộng sản không?
Đọc xong, mình bỗng thấy vừa thương, vừa buồn cười cho sự “ngây thơ đến… già” của bà Thu Giang, cũng như từng bật ngửa vì… ngạc nhiên khi thấy các vị cộng sản đã đòi… thôi chủ nghĩa cộng sản (!) Thậm chí, đổi tên đảng nhưng vẫn giữ chặt tấm thẻ đảng để cùng đảng “thoát xác trở thành một đảng của toàn dân”, lãnh đạo và cai trị cái “trại súc vật” này đến… muôn đời!
Và mình bỗng… nhớ lại mà thương cho các ông Nguyễn Mạnh Tường, Trần đức Thảo, “tưởng Đảng thành thật” nên đã nhiệt tình góp ý cho đảng, sau sai lầm của cải cách ruộng đất (đã được công khai thừa nhận, khóc lóc như thật trước công chúng”)… đã bị đối xử tàn tệ như thế nào!
Mình cũng không thể không nhớ lại, cái phong trào “góp ý bằng tác phẩm” của Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt… (sau sai lầm chết oan hàng vạn người những năm 53-56) … đã bị xử lý y hệt bên Tầu phát động “Trăm hoa đua nở” để tóm cổ hết những tên trồng hoa có “mùi… tư sản”, đã bị lãnh những hậu quả thê thảm đến mức nào!
Rồi mình cũng lan man nghĩ ngay đến cái số phận mình, một cựu đảng viên đảng Lao Động, một cựu sỹ quan quân đội với gần chục huân chương đủ loại đeo đỏ ngực, một văn nghệ sỹ được trao “giải thưởng nhà nước” ngay đợt đầu, nên cứ có dịp là phát biểu thẳng thừng, vạch mặt chỉ tên nhựng bọn cơ hội, bất tài đang làm ô uế 3 chữ thiêng liêng CHÂN, THIỆN, MỸ ngay khi đối diện với những ông trùm khét tiếng độc tài Sáu Thọ!
Kết quả là được mấy dòng ghi trong lý lịch như sau: “Không có tinh thần bảo vệ đảng, phát biểu mất lập trường, vô trách nhiệm, chống đối cấp ủy có…hệ thống!…” Và để khỏi “mất cái đầu” có ngày, đầu năm 1986, mình đã tìm cách “tự nhảy dù an toàn” (về hưu sớm) để về ở ẩn suốt bốn năm tại một vùng biển ngoại thành Nha Trang để bắt tay … viết “Hồi Ký của một thằng hèn”. Một cách góp ý kiến cho đám trẻ hậu sinh cách sống sót để làm nghệ thuật dưới sự lãnh đạo của cái đảng luôn coi Chân, Thiện Mỹ đích thực là… kẻ thù của văn nghệ vô sản! Cũng là một dịp để xám hối, tạ tội trước đồng bào những gì mình đã, vì mạng sống, vì miếng cơm, manh áo cho vợ con mà phải làm nghề nói dối, nói láo và nói bậy bằng cái thứ âm nhạc không son-phe!
Cứ tưởng nhiệm vụ sám hối cuối đời hoàn thành thì cũng vừa lúc “Thất thập cổ lai hy”, có thể thanh thản bay về Ca-li ngủ muôn năm bên cha, mẹ…nào ngở ông Trời lại bắt sống đến hôm nay để phải hàng ngày sống với bứt rứt, đau buồn, bực bội, tởm lợm… trước thời thế bát nháo đảo lộn NGƯỜI-CON, CON-NGƯỜI, PHẢI-TRÁI, TỐT-XẤU, ĐÚNG-SAI, lộn nhèo một cục!
Và trải qua gần mười năm trở thành blogger, chuyên góp ý trái chiều, phản biện, được trải nghiệm qua thực tế đấu tranh, bị trả giá khá đắt cho sự tự do góp ý, phát biểu, nhận xét về mọi sự tiêu cực trong hàng ngũ những tên “ăn mày dĩ vãng” mà chưa đi đến một kết quả mong đợi nào, thú thật, lắm lúc mình cũng muốn theo chủ nghĩa “kemeisme” nằm đợi “con bệnh ung thư giai đoạn cuối” trút hơi thở cuối cùng. Nhưng, khốn khổ cho mình, cái đầu của mình nó bắt trái tim mình phải vùng dậy, phải nói một cái gì đó trước những điều tởm lợm, trí trá, bịp bợm đang cứ tiếp tục diễn ra hàng ngày, hàng giờ trước đôi tai còn thính, đôi mắt chưa mờ của mình. Thế là cái đầu và trái tim của mình nó lại bắt cái miệng mình phải nói, nói những điều cực kỳ diễn biến hòa bình, cực kỳ thoái hóa, thậm chí… cực kỳ phản động (với họ) nữa!
Và lần này, mình lại, xin lỗi những người thân quen nhưng không chung một tư duy về cái Đảng đang vỗ ngực là tuyệt đối trung thành với chủ nghia Mác-Lênin này là:
1-KHÔNG THỂ NÀO GÓP Ý KIẾN, Ý CỎ GÌ CHO MỘT NHÚM NGƯỜI ĐÃ CÓ TRÁI TIM HÓA ĐÁ, BỘ NÃO ĐÃ CHAI LÌ VÌ QUYỀN LỰC VÀ LỢI LỘC
(Không phải là góp ý cho đảng, cho gần 4 triệu con người cụ thể mang thẻ đảng đâu)
2- TẤT CẢ NHỮNG Ý KIẾN ĐÓNG GÓP, DÙ HỌ CÓ THẤY ĐÚNG THÌ HỌ CŨNG SẴN SÀNG BỎ SỌT RÁC NẾU LÀM THEO Ý KIẾN ĐÚNG ĐÓ MÀ MẤT QUYỀN, MẤT LỢI CỦA HỌ VÀ GIA ĐÌNH, BĂNG NHÓM LỢI ÍCH CỦA HỌ.
3- TẤT CẢ NHỮNG Ý KIẾN HAY NHẤT VỚI CHÚNG TA SẼ LÀ NHỮNG PHÁT SÚNG BẮN TRÚNG TIM ĐEN CỦA BỌN HỌ, NÊN HỌ SẼ PHẢI KIÊN QUYẾT TÌM CÁCH “XỬ LÝ”…
(Ít nhất cũng là vào “sổ đen” của bộ anh Quang để có dịp thì… “ra tay” không thương tiếc! Chẳng có “nhân quyền, nhân… cước” gì xất! Những sự trả thù hèn hạ gần đây đối với giáo sư Nguyễn Huệ Chi, đối với tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang , Trương Duy Nhất, Anh Ba sàm đã chứng minh rõ ràng không cần bàn cãi.
Cho nên, thay vì góp ý, kiến nghị, kính gửi Blogger, Facebooker chúng ta cứ tiếp tục vạch trần mọi vết thương thối khắm của một vài vật thể vô hình, vô ảnh, vô lý, vô lẽ đang phân rã thảm hại trên 2 cái mảnh đất mà chúng còn cố tình kéo dài thời kỳ nương náu… là Trung Quốc và Việt Nam đang mở mắt dần dần…
Vì: GÓP Ý CHO MỘT NHÓM CỘNG SẢN CỐ TÌNH MÊ MUỘI VÌ LỢI QUYỀN VÔ HẠN ĐANG NẮM TRONG TAY THÌ CHẲNG KHÁC CHI GÓP Ý CHO MỘT ĐỐNG GỖ MỤC, GÓP Ý CHO MỘT LŨ… NGỢM KHÔNG ÓC, KHÔNG TIM!
--
TRẦN ĐẶNG * CHUYỆN VỀ MỘT CÔ GÁI
CHUYỆN VỀ MỘT CÔ GÁI
TRẦN ĐẶNG
Tôi vẫn thường lân la đến các trụ sở Tòa án cấp huyện, cấp tỉnh, chỉ để xem lịch xét xử trong tuần, trong tháng. Mục đích của tôi là tìm một vài để tài để viết cho một tờ báo tỉnh lẻ.
Một lần, tôi trông thấy một thanh niên. Nhìn sơ qua là biết anh đã bị viêm màng não từ thuở nhỏ. Cặp mắt anh vô hồn, miệng mấp máy những câu vô nghĩa và tay chân cứ động đậy vô thức. Anh ngồi trên chiếc xe lăn, do một người đàn bà có đôi mắt ti hí đẩy đi. Hỏi người thư ký phiên tòa mới biết. Anh là người Đài Loan, đến Tòa để tham dự phiên xét xử vụ ly hôn giữa anh và vợ, một cô gái Việt Nam.
Tôi thắc mắc: - Luật pháp Việt Nam đâu cho phép người tâm thần kết hôn. Hơn nữa, đây là một vụ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, phải do Chủ tịch UBND tỉnh ký giấy kết hôn mới hợp pháp. Vậy mà tại sao... Bà thư ký phiên tòa lườm tôi một cái sắc lẻm để ngắt ngang câu hỏi, rồi buông ra một câu nói rất lạnh lùng. - Chuyện đó là do cấp trên quyết, ông là nhà báo nên giữ mồm giữ miệng.
Tôi chợt nhớ tới câu nói của ông Thường vụ Tỉnh ủy, phụ trách Ban Tuyên Giáo: "Không phải sự thật nào cũng viết báo". Nên tôi biết phải làm gì để không làm cho "bầu trời chính trị ở Việt Nam không trở nên xám xịt". Nhưng tôi vẫn tò mò vì sao họ phải ly hôn, nên bước vào phòng xử án để dự khán.
Cô vợ tên là Mai (tôi đã đổi tên thật của cô ta, để tôn trọng vong hồn của một người đã khuất). Số phận Mai giống như nàng Kiều của thời đại năm 2000. Nhà nghèo, Mai phải đi lấy một người chồng nước ngoài, để cho gia đình được đổi đời. Cho dù biết rất rõ, người chồng tương lai đang sống như một người điên dại và hoàn toàn bất lực về sinh lý. Vai trò của Mai ở xứ người không khác gì một bảo mẫu chăm sóc người bệnh tâm thần. Tôi nhìn Mai đang đứng gần người chồng cứ lắc lư cái đầu, hai bàn tay cà kheo của anh ta hết giơ tên trời, rồi lại chỉ xuống đất. Hai con ngươi trong đôi mắt vô thần mắt hết lác (lé) ra ngoài, sau đó chụm vào gần nhau một cách tài tình đến mức người bình thường không thể nào bắt chước được.
Trong khi đó, Mai - một cô gái có thân hình nhỏ nhắn, một gương mặt trái xoan, nước da bánh mật. Đó là vẻ đẹp "hương đồng gió nội" của các cô gái vùng sông nước Miền Tây Nam bộ.
Hồi nhỏ, tôi vẫn thường hay nghe mẹ tôi hát ru cho em tôi ngủ: Ầu ơ... má ơi đừng gả con xa. Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu?!
Còn đối với cụ Nguyễn Du trong câu chuyện Đoạn Trường Tân Thanh, ngay từ những câu dạo đầu cũng phải thốt lên: Lạ gì bỉ sắc tư phong Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Nét đẹp của Mai không qua nổi cặp mắt tinh đời của cha chồng. Ông biết rằng đứa con tật nguyền của mình không thể nào thực hiện chức năng của người chồng. Vì thế, ông lén lút vào phòng con dâu để không hoài của. Còn Mai phải âm thầm chịu đựng để cứu cái gia đình túng thiếu ở quê nhà xa tít.
Một hôm, người mẹ chồng của Mai bất ngờ vào phòng con trai và tận mắt chứng kiến cái cảnh cha chồng nàng dâu trên giường trong tư thế không một mảnh vải che thân. Bà đã nổi điên. Phiên tòa xử vụ ly hôn lần đó là theo kế hoạch của bà mẹ chồng. Một là để cắt đứt mối quan hệ loạn luân của cha chồng nàng dâu, hai là đuổi cổ con đĩ về Việt Nam mà không phải phân chia tài sản.
* * *
Như thường lệ, tôi vẫn lân la đến các trụ sở Tòa án để săn tin. Được biết tại xã X, một xã giáp biên với Canpuchia sắp đưa ra xét xử một vụ án "Lây truyền HIV cho người khác" theo Điều 117 của Bộ Luật hình sự. Đến nơi, tôi tá hỏa vì người đứng trước vành móng ngựa lại là Mai.
Sau khi ly dị chồng, cô không dám về nhà vì sợ tai tiếng. Cô đành phải lên vùng biên giới để hành nghề bán bia ôm, kiêm luôn nghề bán dâm. Người mua dâm thường là những người bên kia biên giới. Nghề này đôi khi cũng túng thiếu, nên thỉnh thoảng Mai về tỉnh, vào bệnh viện để bán máu. Một ngày kia, sau khi xét nghiệm máu, người ta đã thông báo cho Mai biết: Cô đã bị nhiễm HIV.
Chán đời, cô sử dụng cái vốn trời cho của mình một cách hợt, buông thả: Một chầu nhậu cũng cho, một bát phở cũng cho, thậm chí cho không chỉ vì ông ấy có chức có quyền ở địa phương.
Tại phiên tòa, trong phần thẩm vấn, vị Hội thẩm nhân dân đặt ra một câu hỏi hết sức ngu ngốc: - Tại sao bị cáo biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn có tình lây nhiễm cho người khác, trong đó có cả đảng viên, cán bộ xã ấp?
Thế là Mai bị tuyên án 5 năm tù. Có lẽ cô cũng không buồn vì án này vẫn còn nhẹ so với án tử đang treo lơ lửng trên đầu cô bởi triệu chứng căn bệnh SIDA ngày càng rõ dần.
* * *
Mấy năm sau. Tôi về Bạc Liêu và được mấy anh bạn đồng nghiệp thết đãi ở Nhà hàng công tử Bạc Liêu. Một đám ma buồn ngang qua. Mấy ông bạn nhanh nhảu, chứng tỏ thạo tin. - Chết vì SIDA đó! Hồi trước gia đình, giòng họ bà này giàu lắm, địa chủ mà! Cháu ba đời của công tử Bạc Liêu. Sau giải phóng, ông già của bà này là trung úy lính Sài Gòn, phải đi học tập cải tạo, rồi chết trong rừng. Mấy chục mẫu ruộng bị nhà nước tịch thu trong đợt cải tạo nông nghiệp ở Miền Nam. Thành ra, đang giàu trở thành nghèo rớt mùng tơi. Nghe lời thiên hạ! Bả lấy một thằng khùng ở Đài Loan để có ba ngàn đô cứu cái gia cảnh đang lâm vô cảnh bần cùng.
Tôi chợt bán tín, bán nghi lao ra xem cái cảnh đưa đám ma. Di ảnh người chết rõ ràng là Mai. Tôi lặng người một lát. Sau đó tôi quay vô đám nhậu và uống nhiều đến mức mấy thằng bạn đồng nghiệp phải bái sư.
* * *
Tổng Biên tập mời tôi lên phòng ông và trả lại bản thảo. Mắt ông đo đỏ, ươn ướt: - Bài này không đăng được, anh hiểu rồi đó! Tôi vác bản thảo về nhà để lên bàn, rồi thắp một nén hương. Đợi cho nhang tàn, tôi đốt bản thảo và lầm thầm mấy câu: - Mai ơi! Đây chỉ là một chút lòng thành với em. Ở suối vàng, mong em thảnh thơi. Mai mốt có đầu thai, em nên chọn những gia đình có công với cách mạng để mà sinh ra. Còn anh, chỉ làm bổn phận của một người cầm bút.
Một thời gian sau, tôi trả Thẻ nhà báo, trả thẻ hội viên Hội nhà báo để cho lòng được thanh thản.
TRẦN ĐẶNG
Một lần, tôi trông thấy một thanh niên. Nhìn sơ qua là biết anh đã bị viêm màng não từ thuở nhỏ. Cặp mắt anh vô hồn, miệng mấp máy những câu vô nghĩa và tay chân cứ động đậy vô thức. Anh ngồi trên chiếc xe lăn, do một người đàn bà có đôi mắt ti hí đẩy đi. Hỏi người thư ký phiên tòa mới biết. Anh là người Đài Loan, đến Tòa để tham dự phiên xét xử vụ ly hôn giữa anh và vợ, một cô gái Việt Nam.
Tôi thắc mắc: - Luật pháp Việt Nam đâu cho phép người tâm thần kết hôn. Hơn nữa, đây là một vụ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, phải do Chủ tịch UBND tỉnh ký giấy kết hôn mới hợp pháp. Vậy mà tại sao... Bà thư ký phiên tòa lườm tôi một cái sắc lẻm để ngắt ngang câu hỏi, rồi buông ra một câu nói rất lạnh lùng. - Chuyện đó là do cấp trên quyết, ông là nhà báo nên giữ mồm giữ miệng.
Tôi chợt nhớ tới câu nói của ông Thường vụ Tỉnh ủy, phụ trách Ban Tuyên Giáo: "Không phải sự thật nào cũng viết báo". Nên tôi biết phải làm gì để không làm cho "bầu trời chính trị ở Việt Nam không trở nên xám xịt". Nhưng tôi vẫn tò mò vì sao họ phải ly hôn, nên bước vào phòng xử án để dự khán.
Cô vợ tên là Mai (tôi đã đổi tên thật của cô ta, để tôn trọng vong hồn của một người đã khuất). Số phận Mai giống như nàng Kiều của thời đại năm 2000. Nhà nghèo, Mai phải đi lấy một người chồng nước ngoài, để cho gia đình được đổi đời. Cho dù biết rất rõ, người chồng tương lai đang sống như một người điên dại và hoàn toàn bất lực về sinh lý. Vai trò của Mai ở xứ người không khác gì một bảo mẫu chăm sóc người bệnh tâm thần. Tôi nhìn Mai đang đứng gần người chồng cứ lắc lư cái đầu, hai bàn tay cà kheo của anh ta hết giơ tên trời, rồi lại chỉ xuống đất. Hai con ngươi trong đôi mắt vô thần mắt hết lác (lé) ra ngoài, sau đó chụm vào gần nhau một cách tài tình đến mức người bình thường không thể nào bắt chước được.
Trong khi đó, Mai - một cô gái có thân hình nhỏ nhắn, một gương mặt trái xoan, nước da bánh mật. Đó là vẻ đẹp "hương đồng gió nội" của các cô gái vùng sông nước Miền Tây Nam bộ.
Hồi nhỏ, tôi vẫn thường hay nghe mẹ tôi hát ru cho em tôi ngủ: Ầu ơ... má ơi đừng gả con xa. Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu?!
Còn đối với cụ Nguyễn Du trong câu chuyện Đoạn Trường Tân Thanh, ngay từ những câu dạo đầu cũng phải thốt lên: Lạ gì bỉ sắc tư phong Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Nét đẹp của Mai không qua nổi cặp mắt tinh đời của cha chồng. Ông biết rằng đứa con tật nguyền của mình không thể nào thực hiện chức năng của người chồng. Vì thế, ông lén lút vào phòng con dâu để không hoài của. Còn Mai phải âm thầm chịu đựng để cứu cái gia đình túng thiếu ở quê nhà xa tít.
Một hôm, người mẹ chồng của Mai bất ngờ vào phòng con trai và tận mắt chứng kiến cái cảnh cha chồng nàng dâu trên giường trong tư thế không một mảnh vải che thân. Bà đã nổi điên. Phiên tòa xử vụ ly hôn lần đó là theo kế hoạch của bà mẹ chồng. Một là để cắt đứt mối quan hệ loạn luân của cha chồng nàng dâu, hai là đuổi cổ con đĩ về Việt Nam mà không phải phân chia tài sản.
* * *
Như thường lệ, tôi vẫn lân la đến các trụ sở Tòa án để săn tin. Được biết tại xã X, một xã giáp biên với Canpuchia sắp đưa ra xét xử một vụ án "Lây truyền HIV cho người khác" theo Điều 117 của Bộ Luật hình sự. Đến nơi, tôi tá hỏa vì người đứng trước vành móng ngựa lại là Mai.
Sau khi ly dị chồng, cô không dám về nhà vì sợ tai tiếng. Cô đành phải lên vùng biên giới để hành nghề bán bia ôm, kiêm luôn nghề bán dâm. Người mua dâm thường là những người bên kia biên giới. Nghề này đôi khi cũng túng thiếu, nên thỉnh thoảng Mai về tỉnh, vào bệnh viện để bán máu. Một ngày kia, sau khi xét nghiệm máu, người ta đã thông báo cho Mai biết: Cô đã bị nhiễm HIV.
Chán đời, cô sử dụng cái vốn trời cho của mình một cách hợt, buông thả: Một chầu nhậu cũng cho, một bát phở cũng cho, thậm chí cho không chỉ vì ông ấy có chức có quyền ở địa phương.
Tại phiên tòa, trong phần thẩm vấn, vị Hội thẩm nhân dân đặt ra một câu hỏi hết sức ngu ngốc: - Tại sao bị cáo biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn có tình lây nhiễm cho người khác, trong đó có cả đảng viên, cán bộ xã ấp?
Thế là Mai bị tuyên án 5 năm tù. Có lẽ cô cũng không buồn vì án này vẫn còn nhẹ so với án tử đang treo lơ lửng trên đầu cô bởi triệu chứng căn bệnh SIDA ngày càng rõ dần.
* * *
Mấy năm sau. Tôi về Bạc Liêu và được mấy anh bạn đồng nghiệp thết đãi ở Nhà hàng công tử Bạc Liêu. Một đám ma buồn ngang qua. Mấy ông bạn nhanh nhảu, chứng tỏ thạo tin. - Chết vì SIDA đó! Hồi trước gia đình, giòng họ bà này giàu lắm, địa chủ mà! Cháu ba đời của công tử Bạc Liêu. Sau giải phóng, ông già của bà này là trung úy lính Sài Gòn, phải đi học tập cải tạo, rồi chết trong rừng. Mấy chục mẫu ruộng bị nhà nước tịch thu trong đợt cải tạo nông nghiệp ở Miền Nam. Thành ra, đang giàu trở thành nghèo rớt mùng tơi. Nghe lời thiên hạ! Bả lấy một thằng khùng ở Đài Loan để có ba ngàn đô cứu cái gia cảnh đang lâm vô cảnh bần cùng.
Tôi chợt bán tín, bán nghi lao ra xem cái cảnh đưa đám ma. Di ảnh người chết rõ ràng là Mai. Tôi lặng người một lát. Sau đó tôi quay vô đám nhậu và uống nhiều đến mức mấy thằng bạn đồng nghiệp phải bái sư.
* * *
Tổng Biên tập mời tôi lên phòng ông và trả lại bản thảo. Mắt ông đo đỏ, ươn ướt: - Bài này không đăng được, anh hiểu rồi đó! Tôi vác bản thảo về nhà để lên bàn, rồi thắp một nén hương. Đợi cho nhang tàn, tôi đốt bản thảo và lầm thầm mấy câu: - Mai ơi! Đây chỉ là một chút lòng thành với em. Ở suối vàng, mong em thảnh thơi. Mai mốt có đầu thai, em nên chọn những gia đình có công với cách mạng để mà sinh ra. Còn anh, chỉ làm bổn phận của một người cầm bút.
Một thời gian sau, tôi trả Thẻ nhà báo, trả thẻ hội viên Hội nhà báo để cho lòng được thanh thản.
TRẦN ĐẶNG
TRẦN THANH ĐỊCH * CHẾ LAN VIÊN
TRẦN THANH ĐỊCH
Đọc “Điêu tàn” của Chế Lan Viên
Một hôm, Chế Lan Viên viết thư cho tôi bằng những hàng này:
Trời hỡi trời! Hôm nay ta chán hết
Những sắc màu hình ảnh của Trần Gian!
Thịt bại rồi, nhãn quan đà lả mệt
Thú điên cuồng ao ước vẫn khôn ngăn!
Những sắc màu hình ảnh của Trần Gian!
Thịt bại rồi, nhãn quan đà lả mệt
Thú điên cuồng ao ước vẫn khôn ngăn!
Đấy là một thi sĩ của sự Đau Thương.
Những xúc động của tâm hồn (manifestation de l’âme) ở Chế Lan Viên đã xúi giục thi sĩ viết nên những tiếng than rền rỉ, có thể vang động ngay đến lòng ta khi đọc nó. Tôi nhận thấy những tiếng rền rỉ ấy cũng đã có trong người Hàn Mặc Tử, ở một bức thư mà thi sĩ đã bàn với tôi về chuyện sắp cho xuất bản “Thơ điên”.
Nhưng hai nhà thi sĩ trẻ tuổi ấy − Hàn Mặc Tử mới được 25, Chế Lan Viên chỉ mới có 17 − khác nhau ở chỗ: Hàn Mặc Tử ca ngợi sự đau thương của riêng lòng mình, Chế Lan Viên ca ngợi sự đau thương của điêu tàn, của dân Chiêm quốc nghìn xưa.
Vừa mới một năm nay, trước Ban Thờ văn học Việt Nam chúng ta đã có thêm ba nhà thơ lẳng lặng dùng toàn những thành ngữ táo bạo: Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu và Chế Lan Viên.
“Táo bạo” đây không phải có nghĩa là vô nghĩa như thơ của Huy Thông hay khó chịu như những thi sĩ Parnassiens [a] đã làm ra lối thơ khó hiểu (vers sibyllins). Cái táo bạo trong lối dùng chữ của ba nhà thơ này vẫn làm cho người đọc hiểu ngay ý thơ của mình bằng sự thâm trầm và kín đáo, nó làm giàu cho nền văn học chúng ta rất nhiều. Và sau cùng, ba người ấy cũng đang đi đến bờ cõi Triết Lý. (Một điều không ngờ là chính ba nhà thơ ấy cũng đều sinh trưởng vào một chỗ đất Quy Nhơn, nơi đã tạo ra bao nhiêu văn sĩ, thi sĩ hiện đang lẫy lừng [b] trên võ đài Văn Chương).
Charles Plisnier, [c] nhà văn sĩ đã được phần thưởng Goncourt năm vừa rồi, có viết: “Với thơ, không ai cấm sự dùng chữ táo bạo. Và tôi có thể bảo thêm rằng nó lại rất cần nữa…”
Điêu tàn là một áng thơ tuyệt tác. Với nó tôi thấy tâm hồn tôi rung động một cách khoan khoái. Đó là một cái rùng mình nhẹ nhàng của nhà du lịch đứng trước vẻ tang thương của một công nghiệp đã hằng vĩ đại, với lòng cảm động mến tiếc trong một sự bồi hồi. Người ta thấy rõ và nghe được trong thơ của Chế Lan Viên những cái dẫy dụa, quằn quại, chuyển động, những tiếng oán hờn, gào thét, khóc than, những mùi tanh hôi của máu trào và tuỷ chảy ở vạn cô hồn mất nước đang quờ quạng, rền rỉ để dìu dắt nhau đi giữa một bãi tha trường. Đọc thơ Chế Lan Viên ta có cái cảm giác ghê rợn như đang đọc bài Văn chiêu hồn của nhà đại thi hào Nguyễn Du trong một đêm trăng mờ ở một làng hẻo lánh.
Hồn ma ơi! Trong những đêm u tối
Mi tung mây về chân trời vòi vọi
Hãy mau nghiêng cánh lại ở bên mồ
Phủ lòng ta say đắm chút hương mơ!
Ta hãy nghe trong mồ sâu lạnh lẽo
Tiếng thịt người nảy nở tiếng xương rên
Ta hãy nghe mơ màng trong cỏ héo
Tiếng cô hồn lặng thở khí giời đêm
Mi tung mây về chân trời vòi vọi
Hãy mau nghiêng cánh lại ở bên mồ
Phủ lòng ta say đắm chút hương mơ!
Ta hãy nghe trong mồ sâu lạnh lẽo
Tiếng thịt người nảy nở tiếng xương rên
Ta hãy nghe mơ màng trong cỏ héo
Tiếng cô hồn lặng thở khí giời đêm
Cũng như Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên chỉ thích sống với Ban Đêm, một Ban Đêm ghê rợn. Ban Đêm của Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên là cái ban đêm của Baudelaire, Mallarmé, Edgar Poe, Shakespeare. Nó chẳng mơ màng và huyền diệu cho đôi tình nhân ích kỷ. Những Trăng, Sao, Bóng Tối, Làn Gió Thoảng, nói chung lại là “Nàng Thơ” của nó, cũng khác luôn cả những trăng, sao, bóng tối, làn gió thoảng và nàng thơ của các thi sĩ ly tao. Những cảm giác gì, những âm thanh gì, những sự vật gì ghê rợn, hãi hùng và bí mật, đều tụ họp lại trong cái Ban Đêm của họ, của Chế Lan Viên:
Mây chắp lụa dài vây núi biếc
Sương xây mồ bạc dấu trăng vàng
Thuyền ai dỡn nước sông Ngân ấy
Mà để sao sa xuống cõi trần
Phải hay chăng đêm qua khi thuyền mộng
Của Nàng Trăng vào đến bến mây xa
Một cô hồn về đây theo gió lộng
Trên mộ tàn tìm lại dấu ngày qua?
Sương xây mồ bạc dấu trăng vàng
Thuyền ai dỡn nước sông Ngân ấy
Mà để sao sa xuống cõi trần
Phải hay chăng đêm qua khi thuyền mộng
Của Nàng Trăng vào đến bến mây xa
Một cô hồn về đây theo gió lộng
Trên mộ tàn tìm lại dấu ngày qua?
Điêu tàn là một áng thơ tuyệt tác của tủ sách Việt Nam.
Tôi đã thành một người dân Chiêm quốc để khóc than, kêu gào, rền rĩ, khi thấy người ta kể lại một thời vẻ vang nghìn xưa oanh liệt: lúc đọc Điêu tàn.
Tôi cũng đã đọc nó với một sự Buồn não nuột, một sự Chán ê chề…
Nhưng những Buồn Phiền não nuột ấy, những Chán Nản ê chề ấy, tôi lại tìm thấy nó ở trong sự say sưa và mê mẩn.
● Nguồn: Tràng an báo, Huế, số 299, 1er Mai 1938.
GHI CHÚ (của Lại Nguyên Ân, người sưu tầm)
[a] “những thi sĩ Parnassiens”: ý nói các nhà thơ Pháp thuộc nhóm “Parnasse” (tên gọi này được xác lập sau việc xuất bản các tập sách mang nhan đề “Parnasse hiện thời” vào các năm 1866, 1871, 1876) gồm: Théodore de Banville (1823-91), Sully Prudhome (1839-1907), François Coppé (1842-1908), Léon Dierx (1838-1912), Jean Lahor (1840-1909), J.-M. de Heredia (1842-1905); nhóm này hướng theo các nguyên tắc thẩm mỹ (“nghệ thuật vị nghệ thuật”) của Théophile Gautier (1811-72); một thủ lĩnh khác của nhóm là Leconte de Lisle (1818-94).
[b] chỗ này báo gốc là “lay lừng”, ngờ là in sai, ở đây sửa là “lẫy lừng”.
[c] Charles Plisnier (1896-1952): nhà báo, nhà văn, nhà thơ Bỉ, đạt giải thưởng Goncourt năm 1937 với tác phẩm Faux passeports.
Tuesday, June 9, 2015
PHẠM CÔNG BẠCH * VŨ HOÀNG CHƯƠNG
TẠI SAO VŨ-HOÀNG-CHƯƠNG BỊ VC BẮT VÀO TÙ KHÁM LỚN?
Phạm-công Bạch, CVA 57
Đã là cựu học sinh Chu-văn-An, ai không biết thi sĩ Vũ-hoàng-Chương là một vị giáo-sư Việt Văn rất đáng mến. Quả thật vậy, trong cuộc đời thi sĩ, Ông đã từng xuất bản cả chục tập thơ và kịch thơ , cũng như trong nghề dạy học, ai đã từng là học trò Ông thảy đều thương kính, coi Ông như một vị giáo sư có đầy đủ tác phong về đạo đức và sư phạm. Hơn thế nữa, hãy xem nhà văn Song-Thao (cũng là một cựu học sinh Chu-văn-An) mô tả Ông trong tập truyện “Chốn cũ” vừa xuất bản:
“Thầy đi quanh lớp bằng những bước chân nhẹ nhàng, đầu nghểnh cao, mắt xa vắng, giảng bài bằng cái giọng nhừa nhựa thanh thanh. Có những lúc mắt thầy như nhắm hẳn lại, đầu lắc lắc từng chặp. Những lúc đó thầy như thoát hồn bay về một trời thơ nào đó. Thầy say thơ. Thầy ngâm thơ như một người đồng thiếp. Như không còn thầy. Như không có trò. Như không phải là một lớp học. Chỉ có một cõi thơ lồng lộng bát ngát. Chúng tôi cũng thấm thơ. Vô cùng nồng nàn là những dòng thơ đất Việt. Chỉ có tiếng chuông báo hết giờ học mới có thể kéo thầy trò ra khỏi cơn mê văn chương…”
Làm thơ đã hay, dạy học thì say mê như thế, Vũ-hoàng-Chương không hề làm chính trị. Hồi toàn quốc kháng chiến năm 1946, Ông cũng chỉ tản cư khỏi thành phố một thời gian rồi lại hồi cư, chứ không ra bưng. Từ năm 1954 khi di cư vào Saigon, Ông cũng không tham gia một đảng phái nào. Thế nhưng cuộc đổi đời ” tháng tư đen” đã đưa Ông vào tù và chỉ được tha về khi kiệt lực gần chết. Chúng ta thử tìm hiểu nguyên do nào đã đưa Ông vào vòng lao lý gần một năm trời. Với thân hình gầy còm và “ả phù dung” dằn vặt làm sao Ông sống nổi. Kể ra cũng có nhiều lý do xa gần.
Bài thơ hoạt cảnh Tết Con Rồng.
Miền nam ViệtNam bị mất về tay cộng sản tháng tư năm 75 thuộc năm Mão. Cuộc đổi đời đã gây ra nhiều cảnh éo le cả về hoàn cảnh xã hội lẫn nhân tình thế thái. Vũ-hoàng-Chương bị kẹt lại và Ông đã mắt thấy tai nghe và ngay cả chính Ông cũng là nạn nhân của sự thế . Cuối năm bước sang năm Thìn là tết con rồng, Ông đã làm một bài thơ tức cảnh như sau:
Vịnh tranh gà lợn
Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành,
Gà lợn om sòm rối bức tranh.
Rằng vách có tai, thơ có hoạ
Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh.
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
Lòng lợn âm dương một tấc thành.
Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn
Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh.
Đây đích thực là hoạt cảnh của miền Nam sau mấy tháng về tay chủ mới: Chính quyền tiếp thu vào tay cộng sản chưa hoàn toàn kiểm soát được xã hội vốn vẫn thoải mái trong nếp sống từ bao năm qua. Dân chúng vẫn hoài nghi cách mạng cho nên tình thế chưa thấy gì làm sáng sủa. Mặt khác đa số người thuộc chế độ cũ không tin miền Nam có thể dễ dàng rơi vào tay cộng sản như vậy nên thầm kín trong lòng vẫn ước mong lật ngược thế cờ khỏi cảnh tối tăm hiện tại.
Với bối cảnh xã hội như vậy, kẻ hồ hởi, người âm thầm cho nên nẩy sinh ra lắm vẻ, biết ai là ai bây giờ. Bức tranh xã hội thật là rắm rối. Cộng sản đi đến đâu thì mạng lưới công an rình rập nhòm ngó tới đó. Kẻ thân trong nhà cũng còn nghe lén để báo cáo lập công thì còn biết tin ai bây giờ. Cho nên nhìn bề ngoài đố biết lòng dạ ai thế nào.
Ngay như chính tác giả cũng đã là nạn nhân của lòng người đổi trắng thay đen. Số là Vũ-hoàng-Chương và gia đình đã từ lâu vẫn ở nhờ trên căn gác nhỏ trong biệt thự của bà Mộng-Tuyết (phu-nhân thi sĩ Đông-Hồ), Ông đã từng đặt tên đây là “gác mây” để Ông bạn với “ nàng thơ” và “nàng tiên nâu”. Thế nhưng từ khi có cán bộ từ ngoài bắc vào, Bà Mộng-Tuyết thì hồ hởi tiếp đón, còn Vũ-hoàng-Chương thì lặng lờ như không Cho nên Bà muốn đỡ phiền lụy sau này đã ngỏ ý muốn Ông dời nhà đi ở chỗ khác. Chính vì vậy mà thi sĩ họ Vũ đã phải dời sang Khánh hội ở nhờ nhà em vợ là thi sĩ Đinh-Hùng. Ôi tình nghiã bao năm như vậy mà chỉ vì một chút “quáng” đã làm cho huynh đệ ly tan ! Riêng đối với Ông, con người còn tình người, chân thật và chất phác thì vẫn “một tấc thành” không a dua xu nịnh với ai.
Bây giờ xuân và tết đến, thôi hãy quên hết moi sự mà nghe khúc tân thanh của năm con rồng. Theo tôi, ý giả của câu cuối bài thơ này là như vậy; nhưng nghĩ kỹ hơn,nếu chúng ta ở Saigon trong thời điểm đó thì “khúc tân thanh” ở đây chính là những loa tuyên truyền ra rả sáng chiều mà cộng sản đặt ở khắp phường phố. Cũng có thể nghĩ xa hơn, khúc tân thanh chỉ là sự rút gọn của “khúc Đoạn trường tân thanh” mà từ nay còn phải ngâm mãi. Với một bài thơ xuân như thế được phổ biến ra ngoài, thi sĩ Vũ-hoàng-Chương tránh sao khỏi bị bắt vì tội phản động. Nhưng chưa hẳn như vậy.
Món quà chiêu dụ bất thành .
Hãy trở lại vài chục năm về trước, chúng ta được biết thi sĩ Vũ sinh năm 1916. Hai chục năm sau vào thời điểm thi sĩ trưởng thành thì phong trào thi ca lãng mạn nở rộ do ảnh hưởng của văn chương Pháp. Cùng thời với Vũ-hoàng-Chương còn có rất nhiều văn nhân thi sĩ khác cùng nổi tiếng trên văn thi đàn, trong đó có Huy-Cận (tên thật là Cù-huy-Cận) sinh năm 1919. Huy-Cận cũng là một nhà thơ nổi tiếng, điển hình là bài “Ngậm ngùi” đã được phổ nhạc mà chúng ta thường nghe. Huy-Cận kém Vũ-hoàng-Chương ba tuổi và xuất bản tập thơ đầu “Lửa Thiêng” sau khi Vũ-hoàng-Chương đã có thi tập “Thơ say” và “Mây” đang sắp phát hành. Vì thế Huy-Cận coi thisĩ Vũ như anh.
Hai người cũng chơi với nhau khá thân. Một hôm Huy-Cận bất ngờ gặp Vũ-hoàng-Chương và rủ Ông đi ăn phở. Vì mới ra tập thơ đầu lại cũng có ý thân mật so sánh nên Huy-Cận nửa đùa nửa thật vỗ vai Vũ-hoàng-Chương nói rằng:
“Đã lâu lại gặp ‘chàng Say’
‘Lửa Thiêng’ xin đốt chờ ‘Mây’ xuống trần
Vũ-hoàng-Chương cũng hơi khựng một chút, nhưng vui vẻ đáp ngay:
‘ Mây’ kia chẳng chịu xuống trần
Lửa ơi theo khói lên gần với ‘Mây’.
Hai người đối đáp với nhau như thế, vừa có ý kiêu ngạo, vừa có ý thân thiện, thật xứng đôi. Rồi thời gian trôi qua, năm 1946 Huy-Cận ra bưng theo kháng chiến dùng thi tài của mình để phục vụ bác và đảng, được sủng ái nên đã có thời leo lên đến chức Thứ trưởng bộ Văn hóa. Vũ-hoàng-Chương thì chạy tản cư, cũng có làm một số bài thơ ái quốc, nhưng sau đó hồi cư về lại Hanoi rồi di cư vào Saigon theo hiệp định Genève năm 1954, vẫn tiếp tục nghiệp thơ và sinh sống bằng nghề dạy học.
Vật đổi sao dời, năm 1975 miền nam bị bỏ rơi và cộng sản thắng đại cái “đại thắng muà xuân”.Và hai thi nhân lại có dịp gặp nhau trong hoàn cảnh éo le quốc cộng. Huy-Cận được cử vào Saigon cùng với một phái đoàn với mục đích thăm dò và chiêu dụ các văn nghệ sĩ miền Nam.
Dĩ nhiên người mà Huy-Cận muốn gặp đầu tiên là Vũ-hoàng-Chương cũng vì tình bạn cũ và cũng nghĩ rằng nếu chiêu dụ được Vũ theo cách mạng thì mình lập được công lớn. Vì vậy Huy-Cận đã sửa soạn cuộc thăm viếng rất trọng thể. Lễ vật đến thăm Vũ-hoàng-Chương gồm một chai rượu quí, một lọ đầy thuốc phiện và cũng không quên mang theo một bức hình Hồ chí Minh. Rượu và thuốc thì để biếu bạn, còn bức hình thì Huy-Cận ước mong sẽ được Vũ-hoàng-Chương đề tặng cho mấy vần ca ngợi để có bằng chứng báo cáo lấy công đầu.
Cuộc gặp gỡ diễn ra tốt đẹp sau bao năm xa cách. Vũ-hoàng-Chương đón Huy-Cận như một bạn cố tri nồng nàn vui vẻ. Sau khi Huy-Cận ngỏ ý muốn Vũ đề thơ thì Ông trầm mặc không nói gì. Huy-Cận khi ra về có hẹn ba ngày sau sẽ cho người đến xin lại bức hình, Vũ-hoàng-Chương cũng chỉ ậm ừ tiễn bạn.
Đúng ba ngày sau khi nhân viên của Huy-Cận tới thì thấy trên bàn vẫn còn y nguyên hai món lễ vật và bức hình, Vũ-hoàng-Chương không hề đụng tới mặc dù rượu với thuốc phiện đối với Ông là rất quí hiếm. Còn bức hình thì vẫn chỉ là bức hình như khi đem tới,không một nét chữ đề. Được báo cáo lại, dĩ nhiên là Huy-Cận tím mặt. Nhưng Ông biết tính họ Vũ là ngưòi không dễ lung lạc nên cũng đành thôi.
Vũ-hoàng-Chương, ông qủa là một người có khí phách. Ông có một cơ hội an thân nhưng Ông đã không làm, chỉ vì tấm lòng Ông “một tấc thành” nên Ông phải giữ tiết tháo không a dua theo thời cuộc. Thế là lại có thêm một cái ‘họa’. Nhưng như thế vẫn chưa hết.
Chê thơ Tố-Hữu và dạy cộng sản cách làm thơ.
Theo một bài đăng trên “net” của tác giả Sông-Lô viết về Vũ-hoàng-Chương nhận xét thơ Tố-Hữu, được biết phái đoàn từ bắc vô nam cùng với Huy-Cận như đã nói ở đoạn trên còn có nhiều nhân vật sáng giá khác như Tố-Hữu, Hoài-Thanh, Xuân-Diệu, Vũ-đình-Liên…. Phái đoàn được ký giả nằm vùng Thanh-Nghị tiếp đón và tổ chức một đêm”họp mặt văn nghệ” với các nhân vật gạo cội miền Nam để cùng đánh giá văn hoá hai miền ngõ hầu thống nhất tư tưởng về một mối. Buổi họp này Vũ-hoàng-Chương đã được mời và có tham dự. Đề tài được đưa ra là mấy câu thơ của Tố-Hữu đã làm để khóc Stalin khi ông trùm đỏ Nga-sô này chết vào năm 1953. Hai câu thơ đã gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp cùng đầy đủ tiếng khen chê đối với tên trùm văn nghệ cộng sản này là câu:
“Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười “
Thanh-Nghị với tư cách nằm vùng theo cộng sản từ lâu, coi như đại diện miền nam, dĩ nhiên ca ngợi thơ Tố-Hữu hết mình. Rồi lần lượt đến Xuân-Diệu, Huy-Cận, Vũ-đình-Liên từ ngoài bắc vào lên diễn đàn thì khỏi nói. Cũng cần có một tiếng nói miền nam cho xôm tụ, cho nên Hoài-Thanh khẩn khoản mời Vũ-hoàng-Chương lên phát biểu với dụng ý là họ Vũ, một thi bá đương thời, nhưng vốn người trầm mặc hiền hoà chắc cũng chỉ vuốt theo mà không nói điều gì nghịch ý. Xin trích nguyên văn sau đây một đoạn của Sông-Lô:
“Ai đã biết Vũ-hoàng-Chương ắt phải biết cái đanh thép bên trong tấm thân nhỏ bé ọp ẹp của ông. Đôi ba lần tạ từ không được, đành nhảy vào ưỡn ngực “ hò kéo pháo”, nhưng trước khi vào cuộc họ Vũ đã yêu cầu cử tọa thông cảm nếu có chỗ nào thất thố vì ông sợ rằng những gì ông muốn trình bày sẽ làm tổn thương cái ‘sáng giá’ của đêm họp ‘văn nghệ đặc biệt’ này, bởi vì ‘tất tần tật’ đã thẩm định rồi.”
Sau đây là lời của Vũ-hoàng-Chương;
“Thi nhân từ cảm xúc mỗi lúc tác động vào tâm cảnh của mình, để hồn trí phản ứng theo thất tình con người mà vận dụng thi tứ phổ diễn nên lời một tình tự nào đó, rồi đãi lọc thành thơ. Sự vận dụng càng xuất thần, việc phổ diễn càng khẩu chiếm, thơ càng có giá trị cao.
Cảm xúc trước cái chết của một thần tượng được ‘đóng khung’ tự bao giờ trong tâm cảnh mình, Tố-Hữu đã xuất thần vận dụng nỗi u hoài, phổ diễn nên những lời thơ thật khẩu chiếm, rồi dùng những từ thật tầm thường, ít thi tính, đãi lọc nỗi u hoài của mình thành một tiếng nấc rất tự nhiên, đạt đến một mức độ điêu luyện cao. Lời thẩm định của Thanh-Nghị thật xác đáng,tôi chịu. Nhưng thơ không phải chỉ có thế.Xuất thần khẩu chiếm thuộc phạm vi kỹ thuật, dù đã có thi hứng phần nào, và nếu chỉ có thế thì thơ chỉ có khéo mà thôi, chưa gọi là đạt; tức chưa phải là hay. Thơ hay cần phải khéo như thế vừa phải đạt thật sự. Thi hứng nằm trong sự thực của tình tự phổ diễn nên lời. Tình tự mà không thực, lời thơ thành gượng ép. Vấn đề của thơ,nói cho đến nơi, là ở đây, có nghiã là thơ phải thực.
Tố-Hữu đặt tiếng khóc của chính mình vào miệng một bà mẹ Việtnam, muốn bà dùng mối u hoài của một nhà thơ để dạy con trẻ Việtnam yêu cụ Stalin thay cho mình. Cũng chẳng sao vì đó cũng là một kỹ thuật của thi ca; nhưng trước hết phải biết bà mẹ Việtnam có cùng tâm cảnh với mình không, có chung một mối cảm xúc hay không?
Tôi biết chắc là không. Bởi trong đoạn trên của hai câu lục bát này trong bài ‘Đời đời nhớ Ông’ Tố-Hữu đã đặt vào lời bà mẹ hai câu:
“Yêu biết mấy nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin “
Chắc chắn là không có một bà mẹ Việtnam nào, kể cả Bà Tố-Hữu, mà thốt được những lời như vậy một cách chân thành. Cái không thực của hai câu này dẫn tới cái không thực hai câu sau ta đang mổ xẻ.
Một tình tự không chân thực, dù đươc luồn vào những lời thơ xuất thần, khẩu chiếm đến đâu cũng không phải là thơ đẹp,thơ hay, mà chỉ là thơ khéo làm; đó chỉ là thơ thợ chứ không phải là thơ tiên. Loại thơ khéo này người thợ thơ nào lành nghề cũng quen làm, chẳng phải công phu lắm. Nhất là nếu có đòi hỏi một tuyên truyền nào đó. Tố-Hữu nếu khóc lấy, có lẽ là khóc thực, khóc một mình. Nhưng bà mẹ Việtnam trong bài đã khóc tiếng khóc tuyên truyền, không mấy truyền cảm“.
Vẫn theo lời kể của Sông-Lô thì lời thẩm định này đã gây sôi nổi trong đám thính giả có mặt hôm đó. Muốn phản bác luận điệu của Vũ-hoàng-Chương, có người đã yêu cầu Ông nói về thơ để hòng bắt bẻ này nọ, nhưng Ông vẫn ôn tồn phát biểu:
“Thơ vốn là mộng, là tưởng tượng, là tách rời thực tế, nhưng mộng trên những tình tự thực. Không chấp nhận loại thơ tình tự hoang. Có khoa học giả tưởng, không có thơ giả tưởng. Nói thơ là nói đến thế giới huyễn tưởng, huyễn tưởng trên sự thực để thăng hoa sự thực, chứ không bất chấp, không chối bỏ sự thực. Nhà thơ không được láo; nhà thơ phải thực nhưng thoát sáo sự thực thành mộng để đưa hồn tính người yêu thơ vươn lên sự thực muôn đời đạt đến chân lý cuộc sống. Thiên chức thi ca là ở chỗ đấy.
“Tôi xin nhắc ; sự thực muôn đời là cơ sở duy nhất của thi ca; vì có sự thực cho riêng một người, có sự thực cho riêng một thời, nhưng vẫn có sự thực cho muôn đời, sự thực bao quát không gian,thời gian, chân lý cuộc sống.”
Sau đêm hôm ấy, hình như có một buổi họp khẩn cấp của các “nhân vật then chốt” cộng sản, và Vũ-hoàng-Chương đã bị bắt. Như vậy cái tội phản động của thi sĩ họ Vũ không phải là một mà có đến ba : bắt đầu từ bài thơ thời sự , kế đến không nể nang tình bạn và sau cùng là đã dạy khôn cho kẻ đang thắng thế. Theo Sông-Lô thì Vũ-hoàng-Chương không phải là người dại, cũng không phải người can đảm mà Ông chính là người của tự do không phải quị lụy trước bất cứ một áp lực nào.
Niềm hãnh diện cuối đời : Thủ-tướng bưng bô.
Vũ-hoàng-Chương bị bắt vào khám Chí hòa, giam chung cùng một số nhà trí thức khác. Với thân hình gầy yếu sẵn có, phải ăn cơm tù đạm bạc lại thêm thiếu thuốc phiện thì làm sao mà Ông chịu nổi. Có thể nói bao nhiêu ngày trong tù, Ông đau yếu cả bấy nhiêu ngày. Sức lực Ông kiệt quệ dần dần, đã có lúc phải nằm liệt giường. Chính quyền “giải phóng” biết Ông không còn sống nổi bao lâu, nên sau thời gian giam giữ đã quyết định thả Ông về để tránh tiếng Ông bị bức tử trong tù. Về nhà gặp lại vợ con, dĩ nhiên là Ông mừng rỡ, nhưng trong đáy lòng hình như Ông có điều gì thỏa mãn vì tuy nằm bẹp trên giường Ông không có vẻ sầu héo bi lụy của một người gần đất xa trời. Một hôm Ông thố lộ là ở trong tù Ông có phần thích thú vì đã được Thủ-tướng bưng bô vệ sinh cho mình. Mãi sau người nhà Ông mới biết bị giam chung cùng với Ông là Bác sĩ Phan-huy-Quát. Bác sĩ Quát đã có thời làm Thủ-tướng chính phủ dân sự do Cụ Phan-khắc-Sửu là Quốc trưởng. Vì mến thương Vũ-hoàng-Chương và vì lương tâm của người y sĩ, trong thời gian bị giam chung, Bác sĩ Quát đã tận tình chăm sóc cho nhà thi sĩ bất hạnh đau yếu, và không ngần ngại giúp đỡ cả việc vệ sinh hàng ngày. Đó là niềm vui cuối cùng của thi sĩ họ Vũ trước khi Ông lìa đời ngày 6 tháng 9 năm 1976.
Posted by sontrung at 6:56 PM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 367
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 367
LHN * CON TRÂU
Con Trâu Đâu Có Cải Tạo !-o0o-
Biết tui là dân HO nên có người biểu tui kể thử một câu chuyện thật xảy ra trong tù cải tạo . Nếu tui kể hổng được thì người ta hổng tin vào cái bằng Tiến-Sĩ Cải-Tạo của tui . Chắc người ta nghi tui làm bằng giả để đi HO . Mà cũng thông cảm thôi vì Việt-Nam sau khi bị VC toàn trị rồi thì cái gì cũng có thể dỏm được . Mà bằng cấp thì càng dỏm nhiều hơn và Tiến-Sĩ thì nhiều đếm hổng xuể . Bởi tại bị vậy nên tui mới viết bài nầy hổng thôi người ta nói cái bằng Tiến-Sĩ Cải-Tạo của tui là bằng giả . Bài nầy tui đặt tựa là “Con Trâu Đâu Có Cải Tạo !”. Câu chuyện nầy xảy ra tại trại cải tạo Nam-Hà vào khoảng năm 1979-1980 ( vì lâu quá nên tui hổng dám chắc năm nào ) . Thời gian đầu của đời tù cải tạo thì những người tù bị đưa lên vùng núi Hoàng-Liên-Sơn do bộ đội quản lý . Tới năm 1978 vì sư phụ Trung Cộng muốn dạy cho đệ tử Việt Cộng một bài học nên đánh tràn qua biên giới Việt-Trung . Do đó tù cải tạo được chuyển giao qua cho công an quản lý để bộ đội rảnh tay mà tiếp thu bài giảng của thầy . Rất nhiều tù , trong đó có tui , được chuyển về trại Nam-Hà vào năm 1978 . Sau vài ngày ổn định mọi thứ thì các tù binh bắt đầu được lên lớp và sau đó là đi lao động . Về lên lớp , nói chung , thì các cán bộ công an cũng nói y hệt như các cán bộ bên bộ đội . Đại khái như : Mỹ là đế quốc xâm lược ; ngụy quyền miền Nam là tay sai bán nước ; ngụy quân là công cụ đánh thuê ; tất cả các người tù đều là có tội chết nhưng được Đảng khoan hồng tha chết và cho đi cải tạo , lao động để trở thành người lương thiện ; lao động là vinh quang chớ hổng phải là đày ải , hành hạ . Chỉ khác một điều duy nhứt là bên bộ đội thì không kêu chúng tôi là tù mà cũng cấm chúng tôi không được tự xưng và kêu nhau là tù ; còn ở trại Nam-Hà nầy thì các cán bộ công an nói thẳng chúng tôi là tù cải tạo . Còn về công việc lao động thì tui đã làm qua nhiều thứ như phụ xây thêm nhà tù , làm ruộng trồng lúa , đào kênh thủy lợi , trồng nấm , đục đá . Mỗi công việc đều có nhiều chuyện để kể nhưng trong phạm vi đề tài của bài nầy tui chỉ kể giới hạn về công việc làm ruộng trồng lúa mà thôi . Trại Nam-Hà nằm trên một khu đồi cao gần bên một quả núi nhỏ và ngay cạnh con đường đất (nghe nói đường nầy có thể đi tới chùa Hương) . Bên phía dưới thấp là vùng đầm lầy ăn liền ra đồng ruộng của hợp tác xã . Công việc làm ruộng được bắt đầu lúc đó là đang mùa đông . Và ai cũng biết làm ruộng trồng lúa thì sẽ có những việc như cày , bừa , gieo mạ , cấy lúa , gặt lúa rồi đập và phơi lúa . Đám tù được dẫn ra tới ruộng mới biết công việc cụ thể mà mình phải làm ra sao . Những thửa ruộng đã gặt xong tự hồi nào chỉ còn trơ gốc rạ . Ruộng đang ngập nước , đất đã mềm sẳn nên hổng cần cày mà chỉ có bừa . Bừa để nhận những gốc rạ chìm xuống sình lấy chỗ cấy lúa . Và xưa nay việc kéo cày hay kéo bừa nếu hổng có máy thì là do con trâu làm . Người thì cầm càng đi phía sau điều khiển con trâu . Nhưng khi ra tới ruộng mới biết hổng có máy cày mà cũng hổng thấy con trâu nào dù trại có nuôi một bầy trâu mấy chục con . Té ra là mọi thứ sẽ do người tù làm hết . Tù được chia thành từng nhóm 4 người cho một cái bừa . Trong nhóm thay phiên nhau , ba người kéo bừa đi trước thay con trâu và một người cầm càng đi sau giữ bừa . Mèn ơi ! Trâu thì hổng xài lại bắt người kéo thế . Cái nầy mà dám nói là vinh quang hổng phải đày ải đây . Theo tui thì đày ải chỉ một phần , mà phần lớn là muốn hạ nhục người tù . Dĩ nhiên là tất cả mọi người tù đều phải chịu nhục mà làm . Người nầy nhìn người kia cùng nuốt hận để làm . Không hẹn mà nên , những người cầm càng phía sau không ai dám đứng lên cái bừa cho bạn kéo như khi điều khiển trâu mà chỉ lội sình để cầm càng . Coi vậy chớ kéo cũng nặng lắm vì lội sình đã khó đi rồi mà đằng nầy còn phải kéo cái bừa nữa . Những bước chân nặng nề dưới ruộng sình . Những bắp chân tái tím vì dầm trong nước lạnh buốt. Những thân hình co ro, lầm lủi trong gió mùa đông . Hoạt cảnh nầy liệu có nơi nào trên thế giới có được hay không . Làm được một lúc là bắt đầu nghe có tiếng cự nự trong các nhóm kéo bừa . Mấy anh kéo bừa phía trước cự anh cầm càng phía sau :Bộ mắc ông nội mầy hay sao mà đè chi nặng dữ vậy mậy . Đè vừa thôi . Một hồi tới phiên mầy kéo là tao đè lại cho biết .Thì ra anh cầm càng mà đè mạnh chừng nào thì mấy anh phía trước phải kéo nặng chừng nấy . Mà hể đè hổng mạnh thì gốc rạ hổng chịu chìm . Nghe nhóm nầy cự rồi tới nhóm kia cự đâm ra thấy tức cười . Mà cười ra nước mắt . Hổng ai có thể tưởng tượng được cuộc đời của mình có lúc lại thê thảm như vầy . Chắc mấy tay cán bộ trên bờ đang hả hê trong bụng lắm . Người nào nghĩ ra được “phương cách” lao động nầy chắc phải được Đảng tuyên dương . Trong đám cán bộ có một người có vẻ là có thớ lắm , đó là thiếu-úy Lự . Hắn đi vòng vòng từ đội tù nầy tới đội tù khác dòm ngó . Đi tới đâu hắn cũng kêu tập họp tù lại cho hắn lên lớp . Bởi vậy đám tù cũng khoái cho hắn tới chỗ mình mà lên lớp lắm. Hổng phải vì hắn nói hây nên muốn nghe. Vì hắn nói thì cũng như con két nói, chỉ toàn lập lại những điều cũ rích . Hắn vừa nói một tiếng là ai cũng biết hắn sẽ nói tiếp cái gì . Vậy thì tại sao tù lại khoái nghe hắn nói ? Thưa hổng phải khoái nghe hắn nói , mà chính là khoái được đứng để nghỉ ngơi khỏi làm trong mươi mười lăm phút . Hắn nói càng dai càng tốt vì mình được đứng nghỉ càng lâu . Lần đó hắn lại chỗ đội tù của tui để lên lớp . Sau khi nói đã đời , hắn kết luận :Các anh cần phải tích cực lao động cho có năng suất cao. Về với gia đình sớm hay muộn là tùy ở chính bản thân các anh . Không phải chỉ làm chiếu lệ cho hết giờ , mà làm cho hết việc và mỗi người cần phải phát huy sáng kiến để gia tăng năng suất .Nói xong thì hắn hỏi như thường lệ là ai có ý kiến hoặc thắc mắc gì hôn . Thường thì hổng ai có ý kiến ý cò gì ráo . Nhưng lần đó có một anh bạn tù đưa tay lên . Hắn chỉ về anh bạn đó và hỏi anh muốn nói gì . Anh bạn tù nói :Thưa cán bộ , muốn gia tăng năng suất lao động , ở trại có nuôi một bầy trâu mấy chục con sao không xử dụng để kéo bừa ?Chà ! Câu hỏi nầy có lý quá ha . Ai cũng thấy ý kiến của anh bạn tù nầy cũng chính là ý kiến của mình nên rất hào hứng với câu hỏi nầy. Các bạn có biết thiếu úy Lự trả lời ra sao hôn ? Hắn hổng cần suy nghĩ gì cho lâu mà phán ngay một câu xanh dờn với một vẻ đắc ý như vừa nghĩ được một câu danh ngôn bất hủ :Các anh mới cải tạo chớ con trâu đâu có cải tạo mà bắt nó kéo bừa .Nói xong hắn gật gù với vẻ mặt hả hê , dương dương tự đắc nhìn từng gương mặt xanh tái của đám tù vì câu nói xanh dờn của hắn . Mọi người im thin thít và nghẹn họng như vừa bị tạt một gáo nước lạnh vào mặt giữa trời đông . Đúng là VC nói vậy mà hổng phải vậy .Tui chợt nhớ tới lời của tổng thống Nguyễn-văn-Thiệu “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn những gì cộng sản làm” . Tiếc thay khi mà cả miền Nam lẫn miền Bắc Việt-Nam đã nhìn thấy được những gì cộng sản làm thì…quá trễ . Vậy mà tới giờ cũng vẫn còn có những người hổng nhìn thấy , hay nhìn mà cố tình hổng chịu thấy những gì cộng sản đã làm .LHN . Posted by sontrung at 6:44 PM No comments: Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 367 TÂM THƯ CỦA BÙI TÍN
Thứ Tư, 10/06/2015 NgheXem
Tôi từng ở trong Đảng CS từ tuổi 20, ở trong Đảng 44 năm, 65 tuổi mới thoát Đảng, trở thành người tự do 25 năm nay. Có người bảo là quá chậm, còn chê vui là "sao mà ngu lâu thế!", nhưng tôi chỉ mỉm cười, tự nhủ mình ngu lâu thật, nhưng vẫn còn sớm hơn hàng triệu đảng viên hiện còn mang thẻ đảng viên CS cuối mùa. Nghĩ mà tội nghiệp cho các đồng chí cũ của tôi quá, sao lại có thể ngu mê, ngủ mê lâu đến vậy.
Năm nay tôi tự làm "cuộc kỷ niệm" độc đáo, về thời điểm cuộc đời tôi, đến năm nay 2015, tính ra đã đạt một nửa đời (20 năm đầu đời cộng với 25 năm ở nước ngoài) là 45 năm không có dính dáng gì đến đảng CS. Tôi đã lãng phí gần nửa đời người - gần 45 năm cho những hoạt động lầm lỡ, sai trái, tệ hại vì hoàn cảnh khắc nghiệt của lịch sử, cũng do sự u mê, ngu lâu của bản thân mình.
Nhân kỷ niệm riêng độc đáo này, tôi nghĩ đến vô vàn đồng chí CS cũ của tôi, và viết bài này gửi đến các bạn như một buổi nói chuyện cởi mở, tâm huyết, mong được trao đổi rộng rãi với các bạn cũng như với các bạn trẻ trong Đoàn Thanh niên CS mang tên ông Hồ Chí Minh.
Câu chuyện sẽ xoay quanh hai chữ: Giác ngộ.
Giác ngộ là hai chữ tôi nghe rất nhiều lần khi được tuyên truyền về Đảng CS, về chủ nghĩa CS. Các vị đàn anh giải thích con người tốt phải là con người giác ngộ. Giác ngộ có nghĩa là nhận ra lý tưởng cho cuộc đời minh. Tuổi trẻ cần có lý tưởng, hiểu rõ con đường cần chọn, hiểu rõ tổ chức cần tham gia, không bỏ phí cuộc đời minh. Đó là con đường Cộng Sản, dẫn đến độc lập cho đất nước, hạnh phúc cho toàn dân, họ rao giảng triền miên như thế, chúng tôi cũng cả tin là thế thật.
Theo học các chương trinh và lớp học cho đảng viên mới, cho cán bộ sơ cấp, trung cấp, cao cấp của đảng, bao giờ giảng viên cũng nhắc đến hai chữ giác ngộ. Học, học nữa, học mãi để nâng cao không ngừng trình độ giác ngộ của mỗi người. Đảng viên phải có trình độ giác ngộ cao hơn quần chúng ngoài đảng. Đảng viên mới luôn được học kỹ tấm gương của anh thanh niên Lý Tự Trọng, với nét nổi bật nhất là giác ngộ CS từ tuổi thiếu niên, rồi biết bao tấm gương của những chiến sỹ CS ưu tú, bất khuất trong các nhà tù thực dân ở Côn Đảo, Sơn La, Lao Bảo, Kon Tum...giác ngộ cách mang cao, nhà tù, máy chém không nao núng, biến nhà tù thành trường học nâng cao trình độ giác ngộ cách mạng, bất khuất, kiên cường.
Trong các bản khai lý lịch cá nhân, mỗi đảng viên thường kể lại bản thân mình được giác ngộ ra sao, được ai giác ngộ, giác ngộ đến mức nào, và luôn kết luận với lời hứa không ngừng học tập, tu luyện, tự phê bình và phê bình để không ngừng nâng cao trinh độ giác ngộ của bản thân.
Tôi kể ra như thế để thấy hai chữ giác ngộ có tác dụng sâu sắc ra sao đối với mỗi đảng viên CS. Hai mươi nhăm năm nay, tôi hồi tưởng lại quãng đời 44 năm là đảng viên CS, theo dõi chặt chẽ thời cuộc hằng ngày trong nước và thế giới, tôi không khỏi cảm thấy chua chát và cay đắng về hai chữ giác ngộ.
Giác ngộ hình như là một chữ Đảng CS mượn của Đạo Phật. “Giác” là nhận thấy, cảm nhận, thấy rõ, “ngộ” là tỉnh ra, nhận ra lẽ phải, chân lý để làm theo.
Sau khi là con người tự do, là nhà báo tự do, kết thân với nhiều nhà báo tự do của thế giới, các nhà báo tự do Pháp, Đức, Anh, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Hoa, Ba Lan, Tiệp..., tôi tìm đọc các kho tư liệu lưu trữ quý ở Paris, Moscow, London, Washington… rồi suy nghĩ bằng cái đầu tỉnh táo của mình, của riêng mình, không sùng bái bất cứ một người hay một học thuyết nào. Từ đó tôi giác ngộ không biết bao nhiêu điều mới mẻ, và lần này tôi thật sự có cảm giác sâu sắc về hạnh phúc tinh thần tiếp cận được ngày càng nhiều sự thật, lẽ phải, chân lý. Tôi đã tự giác ngộ mình.
Nhìn lại 44 năm quá khứ CS của mình, tôi nhận rõ có không ít điều tôi giác ngộ, cho là đúng, thì khốn thay, hầu hết đều là lầm lẫn, ngộ nhận, ảo tưởng, sai lầm và cả tội ác.
Như chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản kiểu mác-xít đều là những học thuyết chủ quan, lầm lẫn, hoàn toàn nguy hại trong thực tế, cổ xuý đấu tranh giai cấp cực đoan và bạo lực, đi đến chiến tranh, khủng bố, đổ máu, hận thù. Giữa thủ đô Washington, tôi cùng anh Cù Huy Hà Vũ đã viếng Tượng đài Kỷ niệm hơn 100 triệu nạn nhân bi thảm của chủ nghĩa CS hiện thực, trong đó có hàng triệu nạn nhân đồng bào Việt ta. Tượng đài nhắn nhủ toàn nhân loại hay cảnh giác với chủ nghĩa CS, tai họa của toàn thế giới.
Tháng 5/2015, Tổng thống Ukraine, một nước cộng sản cũ, đã ký Luật cấm tuyên truyền về chủ nghĩa Mác Lênin, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản như trong thời kỳ trong Liên bang Xô Viết từ 1917 đến 1991, coi đó là thời kỳ bi thảm, sai lầm và Tội Ác. Các tượng đài, di tích thời kỳ ấy đều bị phá bỏ. Các sự kiện ấy giúp tôi khẳng định việc thoát đảng CS của tôi là chuẩn xác và giúp tôi thấy Dự thảo văn kiện sẽ đưa ra Đại hội XII sắp đến là lạc hậu, lẩm cẩm và cực kỳ nguy hại cho đất nước, cho nhân dân, cho chính Đảng CS ra sao.
Tôi không thể hiểu vì sao, sau khi Giáo sư Trần Phương, từng là Phó Thủ tướng, là uỷ viên Trung ương Đảng, đã chứng minh rành mạch rằng chủ nghĩa Mác, Lênin, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa CS đều là ảo tưởng sai lầm, nguy hại, hay vì sao sau khi đương kim Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh đã công khai cho rằng: "Cái chủ nghĩa Xã hội và cái định hướng Xã hội chủ nghĩa làm gì có trong thực tế mà đi tim cho mất công! ", vậy mà Bộ Chính trị vẫn cứ khẳng định trong văn kiện Đại hội XII rằng "kiên định chủ nghĩa Mác, Lênin, kiên định chủ nghĩa Xã hội và chủ nghĩa CS là lập trường không thể thay đổi ", một thái độ ngoan cố, cổ hủ, tối tăm, buộc toàn đảng phải đi theo sự lẩm cẩm dai đẳng nguy hại của minh.
Ngay đối với thần tượng Hồ Chí Minh, tuy tôi biết rằng đây là bình phong cố thủ lợi hại của thế lực bảo thủ trong đảng CS do tệ sùng bái cá nhân ăn quá sâu trong quần chúng, tôi vẫn thấy cần và có thể thuyết phục ngày càng đông đảo bà con ta nhận ra sự thật. Sự thật là ông HCM không phải là thánh thần. Ông là con người với những tốt xấu, mạnh yếu, đúng sai của minh. Ông đã lầm lẫn khi chọn con đường CS, khi lao quá sâu rồi không dám quay lại nữa. Ông đã xa rời lập trường dân tộc, thực hiện lập trường giai cấp cực đoan, đặt ảo tưởng vào giai cấp vô sản quốc tế, và mù quáng đặt niềm tin ở 2 ông Anh lớn Stalin và Mao, 2 con Quỷ Đỏ mà ông cho là “không bao giờ có thể sai”.
Mới đây, có 2 sự kiện minh họa rõ thêm bản chất con người thật HCM. Nhà báo Trần Đĩnh từng gần gũi ông Hồ kể lại ông từng cho rằng không thể giết bà Năm - Cát Hanh Long để mở đầu cuộc Cải cách Ruộng đất, bà lại là ân nhân của đảng CS, - ông còn văn hoa nói: "Không nên đánh phụ nữ dù chỉ bằng một cành hoa". Vậy mà theo Trần Đĩnh, chính ông Hồ đã viết bản Cáo trạng kết án Bà Năm: "Địa chủ ác ghê", ký tên CB (của Bác- Bác Hồ) trên báo Nhân Dân của Đảng. Cũng theo Trần Đĩnh, ông Hồ đã cải trang, mang kính râm đích thân đến dự cuộc xử bắn bà Năm. Vậy ông Hồ là con người thế nào? Nói một đằng làm một nẻo, lá mặt lá trái, tử tế hay không tử tế? đạo đức hay vô đạo đức?
Nhà triết học uyên bác bậc nhất nước ta Trần Đức Thảo trước khi từ giã cõi trần đã kể trong cuốn Những lời trăng trối (do nhà báo Tri Vũ Phan Ngọc Khuê ghi âm) rằng ông đã gặp ông Hồ, quan sát, nghiên cứu sâu về tư tưởng, hành vi, đạo đức của ông Hồ, và đi đến kết luận vững chắc rằng ông Hồ là "con Người muôn mặt, lắm mưu mô, nhiều tham vọng quyền lực, nhiều điều bí hiểm, lắm tên nhiều họ, ẩn hiện khôn lường, lắm vợ, nhiều con, rất phức tạp", là một "Tào Tháo của muôn đời". Ông Trần Đức Thảo cho rằng đảng CS kêu gọi cả nước học tập đạo đức HCM, vậy là muốn biến cả nước thành Tào Tháo hết cả ư! Thế thật thì nguy cho dân tộc ta quá ! Ý kiến của nhà triết học này thật thỏa đáng.
Tôi có nhiều lý do để quí trọng ông Hồ. Tôi từng gặp ông khá nhiều lần, khi là phóng viên thời sự quốc tế, vào Dinh Chủ tịch dự chiêu đãi ông Lưu Thiếu Kỳ, ông Alexei Kosigyn hay các nhà báo Pháp, Nga, Trung Quốc. Năm 1957 khi ông vào Vinh thăm bộ đội Quân khu IV tôi được giao chuẩn bị bài nói chuyện của ông trước cán bộ quân khu, khen ngợi thành tích giúp dân gặt lúa, chống bão, lụt và diễn tập ở giới tuyến, ông liếc qua bản viết, khen đãi bôi: "Chú văn hay chữ tốt nhỉ!" rồi đút vào túi. Hơn nữa, cha tôi có quan hệ mật thiết với ông Hồ. Ông từng ngỏ lời mời cha tôi ra tham chính từ những ngày đầu Cách mang tháng Tám. Cha tôi lưỡng lự, do quan niệm Nho giáo "Trung thần không theo hai Vua", nhưng ông Hồ vẫn cử ông Bộ trưởng Tư pháp Vũ Trọng Khánh, rồi ông Vũ Đình Huỳnh mang thư riêng đến. Chính ông Hồ đề cử cha tôi thay Cụ Nguyễn Văn Tố làm nhiệm vụ Chủ tịch Quốc hội sau khi Cụ Tố bị lính Pháp bắn chết. Nhưng tôi không thể vì những chuyện riêng tư ấy mà làm sai lạc sự đánh giá công bằng, khách quan, chuẩn xác của chính mình.
Không một học thuyết nào, không một cá nhân lãnh tụ nào có thể được đặt trên dân tộc và nhân dân. Do yêu nước thật lòng, thương đồng bào Việt mình thật lòng nên sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, tôi đi đến kết luận dứt khoát, sòng phẳng rằng ông HCM là một nhân vật tiêu cực trong lịch sử VN. Ông có phần trách nhiệm lớn làm cho đất nước lâm vào chiến tranh, do ông chọn con đường CS của Đệ Tam Quốc tế nên mới bị thế giới Dân chủ sớm đặt VN ta trong Chiến lược Be bờ ngăn chặn CNCS (Containment of Communism Strategy). Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do ông dựng lên thật ra không phải là chế độ dân chủ, mà còn là chế độ độc đoán toàn trị do đảng CS độc quyền cai trị, đến nay vẫn chưa có tự do ngôn luận, tự do ứng cử và bầu cử, tự do xuất nhập cảnh, tự do tôn giáo, không thực hiện chế độ pháp quyền nghiêm minh, đảng CS nắm trọn cả ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, còn thêm quyền thứ tư là ngôn quyền. Các tổ chức xã hội dân sự tự phát đang lớn mạnh cùng các nhà dân chủ từ lão thành đến trẻ tuổi đang cùng các cựu đảng viên CS đã thoát đảng tự đặt cho mình nghĩa vụ trước Dân tộc và Lịch Sử chung sức mở ra Kỷ Nguyên Dân chủ và Tự Do cho nước Việt Nam ta.
Tôi tha thiết kêu gọi tất cả các đảng viên CS nhân các cuộc họp Đại hội Đảng các cấp từ chi bộ, đảng bộ cơ sở đến Đại Hội toàn quốc hãy thắp sáng lên ngọn đèn Giác ngộ mới mẻ, manh dạn xoá bỏ những điều giác ngộ cũ kỹ, lạc hậu, giáo điều, lẩm cẩm, mê muội rất có hại, như kiên trì chủ nghĩa Mác Lênin, chủ nghĩa Xã hội và chủ nghĩa Cộng sản mác-xít, sùng bái nhân vật HCM, kiên trì chế độ toàn trị độc đảng lạc lõng, tệ hại.
Đó chính là sự giác ngộ cần thiết cấp bách hiện nay. Trong các cuộc họp bàn, góp ý vào các văn kiện dự thảo, chớ bị lừa dối khi nghe lãnh đạo tuyên truyền rằng các văn kiện đã tiếp thu hàng triệu ý kiến xây dựng, đã được nhất trí cao, không cần bổ sung, sửa chữa gì nhiêu, "do kẻ xấu và bọn phản động xúi giục". Cần nhận rõ nội dung các văn kiện mới là điều kiện sinh tử của đảng, quan trọng hơn vấn đề nhân sự nhiều, vì vận mệnh đất nước, quyền lợi của toàn dân phụ thuộc vào học thuyết chính trị, vào đường lối đối nội, đối ngoại, vào các quốc sách chính trị, kinh tế tài chính, đối ngoại, xã hội và văn hoá đạo đức. Kiên quyết từ bỏ, gột rửa những điều giác ngộ cũ, nhận rõ đó chỉ là những học thuyết sai lầm tệ hại trong thực tế cuộc sống, những tà thuyết đã bị thế giới nhận diện, lên án, loại bỏ, ta không có một lý do nào để gắn bó, quyến luyến, tiếc thương.Xin các bạn chớ sợ mình đơn độc, thiểu số trong các cuộc họp. Chân lý ban đầu bao giờ cũng là thế. Các bạn chính là những hạt kim cương trong khối quặng đen. Hãy dũng cảm thắp lên ngọn đèn giác ngộ mới, tiên tiến. Các bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc sâu lắng khi dần dần chính kiến của bạn được lan tỏa trở thành chân lý, sự giác ngộ của số đông.
Buổi tâm sự về hai chữ giác ngộ xin tạm ngừng ở đây, mong có ích trong khêu gợi những ý kiến mới mẻ trong tư duy của các bạn về hiện tình đất nước, về con đường cần chọn cho dân tộc, cho Quê hương, để đất nước phát triển mạnh mẽ trong cuộc sống tự do, bình đẳng, hạnh phúc cho mỗi công dân, mỗi gia đình chung hưởng.
Bùi Tín, VOAs Blog
Tái bút: Xin đề nghị các mạng blog tự do, lề trái, và bạn đọc có điều kiện nhân bản bài viết này và gửi cho các đảng viên CS quen biết, nhân Đại hội Đảng các cấp thảo luận các văn kiện dự thảo cho Đại Hội Đảng Toàn quốc lần thứ XII đầu năm 2016. Xin đa tạ. B.T http://www.voatiengviet.com/content/ban-ve-hai-chu-giac-ngo/2804553.html Posted by sontrung at 5:47 PM No comments: Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 367 NGƯỜI VÀ NƯƠC VIỆT CỘNG
Lớp học ngàn sao 40 năm... "giải phóng" là đây!(Mới tinh: Lễ khai giảng năm học 2014 – 2015)Bỏ mấy trăm tỷ đồng để xây cái tượng đài cho bà mẹ VNAH làm cái gì? Trong khi hằng ngày, các mạ vẫn phải thất thểu đi bán vé số, lượm bịch nylon để mưu sinh?Tiền tỷ (cướp của dân) đó, sao không đầu tư xây dựng trường học, cầu cống, đường sá để các em nhỏ được đến trường đàng hoàng như người ta?Thảo nào mà sau 40 năm ..."giải phóng" cứ mải mê say men chiến thắng đánh cho "Mỹ cút, Nguỵ nhào", chả thèm xây dựng gì cả, nên đất nước ngày càng đói nghèo, lạc hậu so với thế giới!
__._,_.___Việt Nam thành cường quốc ăn mì gói Bàn về đời sống khó khăn lúc này của người Sài Gòn, KP, một nhà báo lề phải nghỉ hưu nói, gần hai năm nay, anh và vợ không đi siêu thị nữa, không như trước đây tháng nào cũng đi mua sắm. Ðiều mà nhà báo có mức thu nhập trung bình này nói cũng khiến nhiều người sực nhớ là gia đình mình cũng rời xa các trung tâm mua sắm để gọi là tập cho túi tiền eo hẹp sống chung với thời suy thoái kinh tế tệ hại.
Ai cũng than thở không còn thói quen hay đã cắt được cơn nghiện mua sắm thì chẳng lẽ nhịn ăn, tắm gội, giặt đồ nhà chỉ bằng nước lã. Người Sài Gòn trong mọi thời đều là dân chịu xài tiền nhất cả nước.
Vậy thì ở thời điểm này người Sài Gòn nói riêng và dân Việt nói chung chịu bấm bụng chi tiền cho hàng hóa nào nhiều nhất. Xin thưa đó là mì gói. Bất chấp chỉ số thu nhập quốc dân tuột dốc không phanh, cảnh phá sản nợ nần như rươi của hàng triệu người, món mì gói là hàng hóa duy nhất đúng tầm tay với của đa số người Việt.Kể từ khi người Nhật phát minh ra mì ăn liền đến nay thì Việt Nam là quốc gia có bước phát triển mì gói thần kỳ nhất thế giới. Không còn nghi ngờ gì về chuyện Việt Nam đã trở thành một “cường quốc” mì gói hàng đầu hành tinh.
Năm 2009, dân Việt ăn liền 4.3 tỉ gói mì, năm 2013 vượt qua mốc 5 tỉ gói. Trung bình mỗi năm, từng người Việt không phân biệt nam nữ lão ấu trụng nước sôi 57 gói mì. Và nhiều chuyên gia ẩm thực dinh dưỡng cho rằng, chắc chắn trước năm 2020 “chỉ tiêu” 100 gói mì cho từng người Việt không còn là ước đạt mà chắc chắn sẽ đạt và vượt. Hiện có 50 đại gia sản xuất mì gói và mỗi năm chỉ riêng thị trường phía Nam đạt con số hơn 2 tỷ đô la.
Các kệ hàng mì gói ở siêu thị lớn, nhỏ thời suy thoái cứu vớt sĩ diện kinh tế Việt Nam. Người bình dân Sài Gòn, dân nhập cư điểm tâm sáng và lót dạ đêm bằng các loại mì gói giá rẻ khoảng 4,000 VNÐ/gói. Dân trung lưu thì vô các siêu thị nước ngoài mua mì gói Hàn Quốc có giá bằng tô mì thập cẩm loại ngon ở Chợ Lớn, dân có tiền hơn thì chọn mì gói chính hiệu Nhật Bổn có giá không thua phở Pasteur.
Những ai theo dõi tin tức đều biết, giá lúa chính vụ hiện nay ở các tỉnh phía Nam tuột thê thảm: 4,000 VNÐ/1 ký lúa, trong khi một gói mì hiệu Omachi sản xuất ở Việt Nam giá bán lẻ là 6,000VNÐ. Và càng thê thảm hơn nữa khi thông tin từ truyền hình nhà nước đưa tin rằng, giá một ký dưa hấu ở các cửa khẩu biên giới phía Bắc đang chờ xuất qua Trung Cộng chỉ có giá bằng nửa gói mì Hảo Hảo, loại mì gói rẻ tiền nhất.
Có một nghịch lý, nông dân và dân lao động tại đô thị lại ngày càng tăng số lượng trụng mì gói để thay thế bữa ăn chính, dù chính họ cũng biết là bỏ tiền ra mua 2 gói mì loại ăn tạm được sẽ đắt hơn mua một ký gạo loại thường.
Không phải người dân không biết nguyên liệu dầu chiên mì gói tại các công ty sản xuất mì đều là thứ dầu được sử dụng nhiều lần nên vô cùng độc hại và độc hại không kém là các phụ phẩm gia vị và chất bảo quản. Chúng tôi hỏi một anh làm nghề giao nước đá lẻ, anh nhập cư từ Thanh Hóa rằng: “Cả nhà anh ăn sáng bằng mì gói, vậy không sợ ung thư sao?” Anh trả lời: “Chả còn gì lành đâu bác ơi. Dạo nhà cháu ở quê còn không nấu cơm sáng nữa là, cả làng thế mà. Cứ mãi lo độc hại đau cả đầu.”
Về vai trò mì gói, qua chuyện cứu đói nạn nhân thiên tai hoặc cứu khổ cho những ai bị cướp đất, mất việc là việc hiển nhiên. Nhưng nhìn vào con số tiêu thụ mì gói của người Việt hiện nay thì cũng dễ đoán việc tuyên truyền mức sống dân Việt Nam đạt ngưỡng thu nhập trung bình tính theo đầu người là 1,000USD/1 người là giả dối.
Nói cách khác, việc chế độ công bố năm 2008 Việt Nam đạt ngưỡng 1,000USD thu nhập theo đầu người, “thành quả” đó chỉ thuộc về giới tư bản đỏ và một bộ phận giàu có.
Không có gì quá đáng khi có người cho rằng: Hiện nay chính những gói mì ăn liền rẻ tiền đang giúp yên bụng giới cầm quyền tham nhũng thối nát trước nỗi ám ảnh nổi dậy của các tầng lớp dân nghèo Việt Nam.Phùng Thức
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VN đã tạo ra những con dân Việt như thế nầy sao?
Những bức ảnh gây chấn động về sự xấu xí của một số người Việt
Ăn cắp, buôn bán hàng cấm, lấy đồ ăn quá dư thừa trong những buổi tiệc buffet cho đến sự tranh giành, chen lấn hay đổ rác bừa nơi công cộng… những hành động của một số ít đã đã làm xấu mặt người Việt trên nhiều nước bạn.
Ngày 15/5 vừa qua, tại khu vực Lyublino, nơi tập trung đông người Việt ở Moscow, cảnh sát đã bắt được 2 công dân VN đang có ý định tiêu thụ đầu của một con hổ Amur, một loài vật quý trong Sách Đỏ. Hai đối tượng cố chống cự song đã bị khống chế và còng tay vào hàng rào của khu chợ Lyublino. Hai người đàn ông này bị bắt đúng lúc họ định bán đầu một con hổ Amur qua quảng cáo trên báo. Ảnh: msk.kp.ru
Tháng 4/2014, Nippon TV (Nhật Bản) đã đưa tin kèm đoạn video quay tại hiện trường cảnh 2 nghi phạm người Việt bị cảnh sát bắt giữ vì tình nghi ăn cắp mỹ phẩm tại một cửa hiệu ở tỉnh Kagawa. Theo bản tin của Nippon TV, 2 nghi phạm nói trên (nam giới, 23 tuổi và 25 tuổi) bị cảnh sát Nhật bắt khi đang cố gắng chạy trốn. Hai nghi phạm này thuộc nhóm 5 người Việt Nam bị cảnh sát Nhật theo dõi từ tháng 12/2013 vì hành vi ăn trộm mỹ phẩm và thực phẩm chức năng tại các nhà thuốc ở 2 thành phố Muragame và Mitoyo, tỉnh Kagawa. Ảnh: TNO
Hình ảnh được cư dân mạng chia sẻ mới đây, được cho là chụp tại Wako-shi, Nhật. Ảnh: Internet Tấm biển cảnh báo tại một siêu thị ở Nhật Bản này được cư dân mạng cũng như truyền thông đưa lại rất nhiều lần. Không chỉ tật ăn cắp vặt, vào thời gian gần đây dư luận còn đưa tin khá nhiều về cuộc sống của một số người Việt ở Nhật có những biểu hiện không tốt như thiếu trật tự, lộn xộn, trốn vé tàu… thậm chí sống ngược lại với văn hóa Nhật, tạo nên những kỳ thị của người Nhật đối với người Việt Nam. Ảnh: Internet
Câu chuyện cái ô của bác Gen cũng gây chấn động một thời trên mạng. Chuyện rằng bác Gen Kitagawa đến Trường Nhật ngữ An Narimasu với chiếc ô của mình. Đến khi bác về, trời mưa, bác không tìm thấy chiếc ô ở nơi bác để nó – góc riêng cho mọi người để ô ở trường. Bức xúc, bác Gen viết một mẩu giấy, dán ở nơi để ô, nội dung: “Bác Kitagawa ghét HS VN vì có người lấy cái ô của bác!”.
Hàng loạt người xông vào… kết bạn với bác Gen Kitagawa để xin lỗi và bày tỏ sự xấu hổ của người Việt khi trong cộng đồng Việt Nam lại có người xấu đến mức trộm cả cái ô của bác. Có người kêu gọi ai đã lấy ô của bác nên mang trả lại để rồi sau đó thêm nhiều người xót xa khi chẳng có chiếc ô nào được trả về. Chỉ một số ít người đặt câu hỏi với bác Gen Kitagawa về cơ sở khiến bác kết luận học sinh Việt Nam lấy ô của bác. Không chứng minh được, bác Gen đã ngỏ lời xin lỗi trên trang cá nhân, tháo bỏ mẩu giấy của mình và thay bằng một mẩu giấy khác…
Nội dung mẩu giấy mới: “Kẻ lấy cái ô của bác ở đây chắc sung sướng không bị ướt. Mầy vui mừng thì cười lên đi. Trong lúc mầy cười tao phải khóc mà!”. Không kết luận học sinh Việt Nam lấy ô của bác nữa, nhưng bác Gen vẫn viết bằng tiếng Việt.
Thêm một cảnh báo khác ở Nhật: Tuyệt đối không lấy ô và giày của người khác để dùng”. Ảnh: Internet
Không chỉ ở Nhật Bản, mà Đài Loan cũng đều có biển cảnh báo về thói trộm cắp vặt của người Việt. Ảnh: Internet
Bức hình chụp tấm biển cấm vứt rác bừa bãi bằng tiếng Việt tại Hàn Quốc. Nội dung ghi trên tấm biển: ‘Khu vực này cấm vứt bỏ rác thải sinh hoạt, nếu như không đúng luật sẽ bị phạt 1 triệu won (khoảng 19 triệu đồng)’. Bên dưới tấm biển ghi danh tính người đứng đầu quận Chilgok (tỉnh Gyeongsang, Hàn Quốc) cùng số điện thoại liên lạc. Ảnh: Internet
Một bức ảnh khác cảnh báo tiếng Việt về thói vứt rác bừa bãi của người Việt ở Hàn Quốc. Ảnh: Internet
Bức ảnh được cho là chụp ở Lào, cảnh báo thói đi vệ sinh bừa bãi bằng tiếng Việt. Ảnh: Internet
Tấm biển với dòng chữ tiếng Việt chưa chuẩn cú pháp dành nhắc nhở những người thiếu ý thức khiến bao người Việt nhìn thấy phải cúi đầu xấu hổ. Ảnh: Internet
Những hình ảnh tranh giành đồ ăn, lấy đồ ăn nhiều vô tội vạ cũng gây tai tiếng cho người Việt. Ảnh: Internet
Tại Thái Lan… Ảnh: Internet
Tại Singapore… Ảnh: Internet
tại Lào. Ảnh: Internet
Trong cuộc sống, đôi khi chính những hành động của người lớn đã vô tình dạy con trẻ những điều xấu. Như người mẹ này, thản nhiên lấy rau câu đút cho con ăn trong siêu thị. Ảnh: Phunuonline
Một người mẹ khác vô tư lấy sản phẩm của siêu thị (ở Saigon) cho con giấu vào túi áo. Liệu chị có dạy đứa trẻ kiềm chế được lòng tham khi nhìn thấy món đồ mình thích? Ảnh: Phunuonline Theo Vietnamnet
VIỆT CỘNG TẠI NGA
https://youtu.be/VL3_d992osI
- Posted by sontrung at 1:03 PM No comments: Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 367 LÊ QUANG VINH * NHỚ VỀ HÀ NỘI Nhớ về “Hà Nội yêu dấu mùa này”… Lê Quang Vinh
Tại London, bất chợt đọc được bài báo “Hà Nội khởi động lại dự án thay thế đá lát hè hồ Gươm” đăng trên VNEXPPESS (Tin nhanh Việt Nam) - Thứ bảy, 30/5/2015 | 10:58 GMT+7; tự nhiên lòng tôi cứ chộn rộn biết bao điều. Trước khi “giải bày” tâm sự của mình trước chuyện “thay thế đá lát hè hồ Gươm”, tôi muốn “Nhớ về Hà Nội” những năm 70 của thế kỷ XX trở về trước, với những con phố và vỉa hè còn nguyên dấu vết chiều dài lịch sử hàng trăm năm đã kiến tạo nên thành phố này của bao thế hệ cha ông (cả người Pháp). Tác giả đứng gần Tháp đồng hồ Big Ben (ngọn tháp của cung điện Westminster)Từ Thủ đô Luân ĐônVới những gì trong trí nhớ thuộc những năm tháng xa xưa ấy về Hà Nội thì nay đã không còn. Nhưng hiện hữu ở nơi đây, trước mặt tôi là Thành Phố London – sừng sững những ngày này cùng lịch sử hình thành nên Vương quốc Anh để hiện tại là một “Đế quốc Anh” giàu có, văn minh thuộc hạng số 1 của thế giới. Tôi thực sự đang được “chung sống” cùng quang cảnh, các công trình kiến trúc, đến những lối mòn, tường vách, hòn đá… đã - đang và sẽ lưu giữ dấu tích lam lũ, tài hoa, linh thiêng của tổ tiên người dân Anh trong quá khứ cùng những người Anh thuộc “thì hiện tại”, cả ở “tương lai”.Giữa Trung tâm Luân Đôn (địa danh điểm trung tâm là Charing Cross), nơi có bức tượng Vua Charles I ngự trị ở giao lộ của Strand, Whitehall và đường Cockspur, ngay phía nam của Quảng trường Trafalgar; từ đây khách tham quan có thể dành thời gian để đi bộ ra khắp mọi phía trên những hè phố được lát và bó hè bằng những viên đá có từ thời cổ xưa cả ngàn năm, mấy trăm năm.Tôi đã thẫn thờ sờ lên vách Nhà thờ Thánh Margaret’s, được xây dựng từ năm 1523 bằng một loại đá có màu “vàng đậm - nâu nhạt” rất đặ biệt. Dưới ánh nắng ban ngày hoặc ánh điện ban đêm thì nó rực lên như được dát vàng. Hàng trăm ngàn vạn viên đá được đục đẽo phẳng lì, đều đặn xây xếp lên nhau qua những mạch vữa nhỏ như sợi chỉ. Nhà thờ St Margaret’s, tu viện Westminster tọa lạc tại khu vực tu viện Westminster thuộc Quảng trường Nghị viện (sở dĩ có tên này là vì Nhà thờ được xây cất để cung hiến cho Thánh Margaret’s thành Antiochia). Từ năm 1614, Nhà thờ Thánh Margaret’s trở thành nhà thờ dành riêng cho các nghị sĩ của Hạ Nghị viện. Ngày nay, đây là nhà thờ giáo xứ của Hạ Nghị viện Vương quốc Anh. Cung điệnWestminster, tu viện Westminster và Nhà thờ Saint Margaret’s được UNESCO công nhận là “Di sản Lịch sử - Văn hóa thế giới” năm 1987 (kì thứ thứ 11).
NB Lê Quang Vinh cùng vợ là BS Phan Thị Xuân Hương, trước Nhà thờ St Margaret’s.Còn những viên đá dưới chân tôi, dưới gót chân của muôn người đang nhộn nhịp đi kia; theo bước giày hắt lên muôn tiếng kêu “lộp bột”, “lóc cóc”…mà ngỡ như tiếng vó ngựa của những chiếc xe song mã, tam mã, tứ mã chở người, chở hàng qua lại tấp nập của ngày xa xưa…Những viên đá lát và bó hè này - cùng thời đại với Cung điện Westminster, tu viện Westminstervà Nhà thờ Saint Margaret’s, như đang lầm lũi “tự bạch” lịch sử của đất nước mình đối với muôn thế hệ du khách khi họ có dịp được đặt chân đến Thành London…
“Hà Nội yêu dấu mùa này”Mới 14 tuổi - năm 1961, tôi lặn lội suốt 3 ngày đường với 3 chặng xe ô tô cùng người em con chú ruột là Lê Quang Lương (con trai cụ Lê Duy Hữu 1914 - 1945), hơn tôi khoảng 10 tuổi; từ quê hương Hòa Ninh - Ba Đồn vào Thị xã Đồng Hới để ra Vinh – Nghệ An và vinh dự có mặt tại Thủ đô Hà Nội. Tuy còn thơ bé, nhưng tôi đã chú ý đến những điều ngỡ như “rất nhỏ” trên từng vỉa hè của Hà Nội như hôm nay tôi (cũng lại) sững sờ (chú ý) trước những điều (ngỡ như “rất nhỏ”) của phố xá London. Tôi nhớ hồi đó - cho đến mãi 20 năm sau này, vỉa hè từng con phố nhỏ như Trần Bình Trọng, Hàng Chuối, xóm Hạ Hồi, Trần Quốc Toản…đến những đại lộ: Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Lê Thánh Tông… (Hà Nội ngày ấy, có lẽ chỉ có mấy “đại lộ” thế này thôi); rồi những phố cổ luôn náo nhiệt "người mua kẻ bán":
Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Bạc, Hàng Đường, Đồng Xuân…đều được lát gạch đúc xi măng hoặc gạch đất nung “Bát Tràng” vuông vắn, kích thước khoảng cỡ 30x30cm (dân gian gọi “gạch sân đình”); còn đá bó hè là những viên đá lèn xanh Thanh Hóa hay Ninh Bình, được chế tác thủ công còn lộ nguyên sơ những vết đục đẽo bằng tay. Thường thì lối cho xe ô tô lên xuống, vào ra trước các nhà lớn, vila, công sở, hoặc công trình công cộng như “Cửa hàng Mậu dịch Quốc doanh Cửa Nam”, Cửa hàng “ Bách hóa tổng hợp” (lối cho ô tô cấp hàng phía Hai Bà Trưng), “Nhà in Báo Nhân Dân” (ở phố Tràng Tiền); Khác sạn “Thống Nhất - Metropole” (ngõ số 11B Lê Phụng Hiểu để vào khu hậu cần)…người ta lát những phiến đá tảng, cũng loại đá lèn rất dày, cỡ phải trên 50x50cm để chịu tải trọng và rất bền chắc.
Cung điện Westminster (Tòa nhà Quốc hội).
Đặc biệt nhất là thềm Nhà Hát Lớn, được xây cất bằng những phiến đá tự nhiên đục đẽo thủ công mà đều tăm tắp. Những viên lát ngoài cùng mỗi bậc, có gờ hoa văn chạm nổi chống trượt. Bề mặt từng viên đá rất phẳng nhưng vẫn còn nguyên những vết đục nhỏ bằng đầu đinh nên có độ bám cho người lên xuống không bị té ngã. Thềm Nhà Hát Lớn như một sân khấu ngoài trời hoành tráng.Thế mà, sau mấy năm đất nước thống nhất – “cao điểm” là thời gian từ “đổi mới” đến nay, bộ mặt Hà Nội nói chung và vỉa hè Hà Nội nói riêng, đã “đổi mới” đến mức…vô lý! Không những “vô lý” mà phải nói là “quá vô lý”, bởi gần như 100% hè phố Hà Nội, từ các khu “phố Tây”, “phố cổ” đến mọi ngõ ngách đường ngang lối dọc…cứ theo cách làm mới: chỉ trong một vài năm (có những đoạn phố chỉ nửa năm – chuyện thật như “bịa”), lại được đào lên bới xuống không biết bao nhiêu lần để thay đi thay lại bấy nhiêu loại gạch, viên lát mới với nhiều chủng loại khác nhau (viên lát đúc bẳng xi măng cát, gạch block tự chèn, gạch nem đất nung…). Cùng với đó, hàng chục cây số hè phố được bó bởi hàng trăm vạn viên bó hè bằng đá lèn xanh tự nhiên tồn tại cả mấy trăm năm rồi, độ bền chắc còn có thể kéo dài tới “thiên niên vạn kỷ” ấy, đã bị đào vứt bỏ để cải hoán bằng những viên bó hè bằng xi măng “mới toanh” gây bao nhiêu sự tốn kém (đương nhiên là từ tiền thuế và “tiền vay” thì người dân cũng phải gánh đủ cả!).
Cho nên cả Thành phố Hà Nội bây giờ, không thể kiếm tìm đâu ra được “vết tích lịch sử” qua những viên đá bó hè hoặc những viên gạch lát thời trước tiếp quản (1954) như những viên đá cổ trên vỉa hè các đường phố London đang bền bỉ, nhẫn nại "tự kể lại" những câu chuyện của đất nước mình cho khách thập phương...Thềm Nhà Hát Lớn là dấu tích tài hoa của biết bao người thợ đá thủ công VN “trơ gan cùng tuế nguyệt” suốt cả trăm năm tồn tại, vẫn nguyên sơ không hề bị nứt vỡ; đã lưu dấu chân bao thế hệ nghệ sĩ, khán thính giả, chính khách và lớp lớp con dân nước Việt – đặc biệt hàng vạn những bàn chân trần của đồng bào, tự vệ Hà Nội vùng lên làm cuộc Cách mạng Tháng 8/1945; những cuộc mít tinh tưng bừng của hàng vạn cán bộ, bộ đội, thanh niên, học sinh, nhân dân trước mỗi lễ xuất quân vào Nam chiến đấu thời kháng chiến “chống Mỹ, cứu nước”…Thế mà khi trùng tu (1995 – 1996), người ta phá bỏ hoàn toàn hệ thềm Nhà Hát Lớn cũ vô giá này, thay bằng một bộ thềm đá mới mà những phiến đá được gia công bằng máy cưa máy mài nhẵn thín, lát lên trông như mọi vỉa hè tầm thường. Khả năng chống trơn trượt gần như “bằng không” vì bề mặt không còn đường gờ hoa văn của đầu mỗi bậc đá.Tình hình này đã trở nên rất “bình thường” của Hà Nội và nhiều địa phương, một phần chủ yếu xuất phát từ điều rất “ngược” lâu rồi. Đó là cứ đến dịp những ngày “lễ lớn” của dân tộc hoặc của Đảng, chúng ta lại “ra quân” chỉnh trang, xây mới mọi thứ để “chào mừng”! Vào những ngữ này, mọi cấp, mọi ngành, mọi địa phương trong thành phố…mặc sức đập phá, đào bới để “làm đẹp” lại lòng lề đường và nhiều công trình phúc lợi khác khi mọi kinh phí (chi tiêu “hợp lý”) đã được lo toan theo “kế hoạch”!. Điển hình của những “điển hình” này là dịp chỉnh tranh Thủ đô Hà Nội để chào mừng “Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội”, sau gần 15 năm, nghe đâu hàng trăm nghìn tỷ đồng hiện vẫn chưa thể…“hạch toán” xong?!.Gần đây, các nhà quản lý Hà Nội “nghĩ lại” hay sao ấy nên có chủ trương "hoài cổ" (hay một cách “làm ăn” mới?) là cho thay mới những viên “đá máy” để lát hè và bó hè lác đác ở một số tuyến phố (vẫn là đá xanh tự nhiên nhưng được sản xuất bằng máy cắt mài công nghiệp thành sản phẩm trơn tru, nhẵn thín – nghe nói là từ Thanh Hóa – quê hương của Bí thư Thành ủy đương nhiệm).Cũng có lẽ với tư duy và cách làm từ dịp “Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội” vẫn còn “quán tính” rất mạnh, nên những ngày cuối tháng 5 – đầu tháng 6 này, “Hà Nội khởi động lại dự án thay thế đá lát hè hồ Gươm”.Bài báo trên VNE có đoạn: “Sau 5 năm dừng dự án do vấp phải phản ứng của người dân, thành phố Hà Nội vừa có văn bản thống nhất chủ trương cho quận Hoàn Kiếm tái thực hiện dự án trên.Ngày 29/5, Văn phòng UBND TP Hà Nội phát đi thông báo ý kiến của Phó chủ tịch Nguyễn Quốc Hùng về đề nghị cải tạo chỉnh trang đô thị xung quanh hồ Gươm của quận Hoàn Kiếm. Đồng ý cho tái triển khai dự án, ông Hùng yêu cầu các đơn vị liên quan rà soát cụ thể các hạng mục cần tải tạo, chỉnh trang, phương án bổ sung, cách thức tổ chức thực hiện, báo cáo thành phố trong tháng 6.
Một đoạn vỉa hè hồ Gươm được lật lên lát đá xanh cỡ lớn năm 2014
Theo UBND quận Hoàn Kiếm, dự án được thành phố giao quận làm chủ đầu tư, thực hiện bằng ngân sách quận để chào mừng Đại lễ 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, triển khai xây dựng năm 2010. Trong quá trình triển khai, do không nhận được sự đồng thuận của người dân, chủ tịch thành phố đã chỉ đạo tạm dừng dự án để lấy ý kiến nhân dân. “Kết quả lấy phiếu, tỷ lệ người dân đồng tình ủng hộ triển khai dự án 87,8%”, quận Hoàn Kiếm thông báo.Lãnh đạo quận Hoàn Kiếm cho hay, từ kết quả lấy ý kiến người dân, quận đã có văn bản đề nghị và được thành phố cho tiếp tục triển khai dự án từ năm 2012. Tuy nhiên, thời điểm trên đang có một số nghiên cứu quy hoạch và thiết kế đô thị liên quan đến hồ Gươm nên dự án chưa triển khai. Ngày 22/5, quận Hoàn Kiếm tiếp tục đề nghị và thành phố thống nhất chủ trương bằng thông báo ngày 29/5”.Lời của một Kỹ sư ngành Xây dựng Hà NộiPhản ứng trước việc cũng rất… “điển hình” và mới này, một số trang mạng có tiếng trong nước, lập tức đăng tải ý kiến của một kỹ sư (chắc chắn là rất am hiểu, vì nội dung ý kiến rất có lý), tên là Lê Dũng, như sau: “SỰ NGU XUẨN VÀ THAM LAM CỦA DỰ ÁN LÁT ĐÁ HỒ GƯƠM Về mặt khoa học, thằng nào dân kiến trúc hay xây dựng mang ý tưởng lát đá tấm lớn ra hè hay phố là cực ngu và vô học, chắc mấy thằng đó không học về vật liệu ngày nào.Hè phố vì sao phải lát gạch tự chèn ? Vì sao không bắt mạch xi măng các khe gạch? Vì sao gạch chỉ kích thước vừa phải, chi 100 'x 200 hay 200 x 200 là chính? Đó là nguyên tắc để khi mưa thì nước có phần thoát vào cống, có phần ngấm vào đất qua khe gạch, dưới gạch là cát đầm trên đất nên sẽ có nước thấm xuống cho cây cối, cũng giúp thoát nước mưa một phần. Gạch chèn bản thân nó rất rẻ, dễ sx, mặt lại không bị mòn trơn, thay thế dễ, sản xuất bằng vật liệu rẻ và tận dụng cát, đá nhỏ để sx ra nó. Đá xanh là tài nguyên Quốc gia, giá đắt, lát khó, không thoát nước được, bị mòn thì trơn trượt nguy hiểm...Đấy, thấy bọn quản lý HN nó ngu thế nào chưa, chúng chỉ tìm cách ăn và ăn thôi, không quan tâm đến tối ưu kỹ thuật và kinh tế cho ngân khố”. Riêng tôi, chỉ một thứ không đồng ý với kỹ sư Lê Dũng là: những người quản lý của Hà Nội không “NGU” chút nào cả, khi họ “khởi động” và sắp sửa “vận hành” thành công lại “DỰ ÁN LÁT ĐÁ HỒ GƯƠM” với “Kết quả lấy phiếu, tỷ lệ người dân đồng tình ủng hộ triển khai dự án 87,8%”! LQVPosted by sontrung at 12:23 PM No comments: Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 367 Tuesday, June 9, 2015 THƠ NGUYỄN QUỐC CHÁNH Quê Hương và Chủ Nghĩa
Tác Giả : Nguyễn Quốc Chánh,
Saigon
Chủ nghiã dạy em, thù hận hờn căm.
Chủ nghiã dạy em, độc ác bất nhân
Chủ nghiã dạy em, lọc lừa xảo trá
Chủ nghiã dạy em, dối gian trăm ngả
Chủ nghiã dạy em, bội phản vong ân.
Chủ nghiã dạy em, giết chết lương tâm
Chủ nghiã dạy em, vô thần đấu tố.
Chủ nghiã mù, rước voi dày mả Tổ. Chủ nghiã ngu, thờ đồ tể ngoại bang.
Chủ nghiã bưng bô, xây dựng thiên đàng.
Chủ nghiã lừa em, những con bò sữa.
Chủ nghiã bất lương, ma cô nhà chứa.
Chủ nghiã tú bà, dụ dỗ thơ ngây.
Chủ nghiã cò mồi, vơ vét luôn tay.
Chủ nghiã cai thầu, bán buôn Tổ-Quốc/ Chủ nghiã lưỡi câu, móc mồi dân tộc.
Chủ nghiã bịp lừa, bánh vẽ tự do,
Chủ nghiã cá ươn, tư tưởng vong nô
Chủ nghiã chết đi, Quê Hương vẫn sống
Ai nhân danh hạnh phúc
Thứ hạnh phúc ngục tù
Ai nhân danh dân chủ
Thứ dân chủ si ngu.
Ai nhân danh chân lý
Thứ chân lý đui mù
Bao nhiêu năm, ai nhân danh chủ nghiã,
Tự-Do xích xiềng, Dân-Chủ dối gian
Mác-Lênin, đâu phải người Việt Nam
!
Sự thật đó có làm em đau nhói ?
Vẫn chập chờn lượn bay bầy quạ đói
Chồn cáo kia có rình rập trước sau ?
Ngẩng mặt cao và đừng sợ đớn đau.
Đứng lên em bằng tâm hồn biển động.
Em đứng lên như đại dương dậy sóng
Tiếng sét thần tuổi trẻ nổ ầm vang
Những tượng hình, chủ nghiã, phải tiêu tan
Cây Dân-Chủ bừng lên ngàn sức sống,
Em bây giờ khôn lớn
Mắt rực lửa yêu thương,
Biết đâu là sự thật
Em tìm thấy con đường.
Tự-Do sẽ nở hoa
Trên quê hương khốn khó
Anh như con ngựa già
Vẫn cúi đầu kiên nhẫn
Đốt những đám cỏ khô
Dọn đường cho em đi làm lịch sử.
Nhà thơ Nguyễn Quốc Chánh sinh năm 1958 ở Bạc Liêu, hiện sống
tại Sài Gòn. Tác giả của nhiều tập thơ như Ðêm mặt trời mọc, Khí hậu đồ vật và
Của căn cước ẩn dụ, Ê, tao đây.. Thơ của ông đã được nhiều tác giả dịch ra tiếng Anh. Trong
bài phỏng vấn dành cho nhà văn Vi Ký, nhà thơ Nguyễn Quốc Chánh nhận xét về đảng Cộng Sản:
“Ðảng Cộng sản
thắng Tây và Mỹ bằng máu của dân tộc, bằng
vũ khí của Nga và Tàu, rồi nộp “độc lập
dân tộc” cho cộng sản Tàu và Nga.
Ai chỉ ra tình trạng thế chấp và bán đứng đó
đều bị cho là phản động. Kẻ phản động có thể gây
tai họa cho Ðảng nhưng lại là phúc của
dân.
Những ai vì Ðảng sẽ kết án kẻ phản động, còn những ai vì con người thì sẽ hoan hô kẻ phản động.
Hãy nhớ câu nói lịch sử của ông Nguyễn Văn
Thiệu:
“Ðừng tin những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn những
gì cộng sản làm”.
(Gửi
tuổi trẻ Việt Nam )
Em hãy ngồi xuống đây
Anh kể câu chuyện này
Trên cánh đồng cỏ cháy
Ngậm ngùi như khói bay
Con ngựa già một đời
Chưa thấy được ngày vui
Mắt mỏi mòn trông đợi
Những mầm cỏ xanh tươi.
Đã bao nhiêu năm rồi
Hướng nhìn về xa xôi
Tâm tư đau nhức nhối
Cuộc đời vẫn nổi trôi
Em nhìn về tương lai
Cố dấu tiếng thở dài
Mắt dường như ngấn lệ
Có phải vì khói cay?
Em thấy đó, trên đường đi không đến,
Quê hương đau, chồn cáo vẫn nghêng
ngang
Những con thú người nhảy múa kiêu căng
Ngửa mặt hú một bài ca chủ nghiã.
Ngôn ngữ văn nô, đỉnh cao trí tuệ...Posted by sontrung at 12:13 PM No comments: Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 367 LÊ VĂN NGHĨA * HỒN TÔI Ơi Em, Bắt Hồn Tôi Về Đâu…Thoạt đầu, tôi định đặt tựa bài này là “Thiên đàng mơ mộng”, vì thấy thật đúng tâm trạng của những thằng học sinh Petrus Ký chúng tôi thời đó. Thời chúng tôi có rất nhiều thiên đàng mơ mộng: “Em theo trường về... áo dài tà áo vờn bay” (1).1. “Thiên đàng” của những thằng tóc hớt ngắn, quần xanh áo trắng là nơi các nữ thiên thần áo dài trắng túa ra như lũ chim bồ câu sau giờ tan học của Trường Nữ sinh Gia Long. Thằng học sinh Petrus Ký Sài Gòn nào mà chẳng mơ được “mần quen” cùng một em áo dài.Phượng vĩ và đàn bồ câu Áo trắng Gia Long ngày xưa Phía bên hông cổng Trường Gia Long, trước cổng chùa Xá Lợi, “cạnh tranh” với những chiếc xe bán bò bía, gỏi đu đủ là những chàng quần xanh áo trắng Petrus Ký đang gửi hồn qua cánh cổng thâm nghiêm có từ năm 1915 với cái tên thơ mộng “Trường nữ sinh Áo Tím”.Nghe kể lại, trường được thành lập do đề nghị của nghị viên Hội đồng quản hạt Nam kỳ Lê Văn Trung cùng vợ của tổng đốc Phương và một số trí thức người Việt. Khóa đầu tiên (1915) trường tuyển 45 nữ sinh với đồng phục là áo dài tím. Những đời hiệu trưởng đầu toàn là người Pháp.Năm 1949, nữ sinh Trường Áo Tím cùng nam sinh Trường Petrus Ký tổ chức bãi khóa kỷ niệm ngày Nam kỳ khởi nghĩa nên chính quyền đã đóng cửa trường. Năm 1950, sau một cuộc đấu tranh, biểu tình dài ngày với sự ủng hộ của phong trào học sinh lúc ấy, trường được mở cửa lại.Đánh dấu sự kiện quan trọng này, sau bảy đời hiệu trưởng trường là người Pháp, lần đầu tiên trường có nữ hiệu trưởng là người Việt: bà Nguyễn Thị Châu. Năm 1953, Trường Áo Tím đổi tên thành Trường nữ trung học Gia Long. Áo dài tím được thay bằng áo dài trắng với phù hiệu là bông mai vàng. Chương trình giáo dục bằng tiếng Pháp được chuyển sang quốc ngữ.Biết đâu chính “mối tình” gắn kết tranh đấu của Áo Tím và sau đó Gia Long trong những năm về sau đã gắn kết “trai Petrus Ký, gái Gia Long” trong những mối tình thật và ảo của lứa tuổi học trò. Hãy mơ đi những chàng trai Petrus về “thiên đường” tuổi nhỏ dại của mình!2. Khoảng giữa thập niên 1970, bài hát Con đường tình ta đi của nhạc sĩ Phạm Duy làm xáo động những trái tim mới lớn với những lời ca mộng mị: “...Lá đổ để đưa đường/ Hỡi người tình Trưng Vương” Tôi không biết đó là lời cảm thán của chàng trai nào. Nhưng có lẽ thích hợp hơn xin hãy cho chàng trai ấy là người của Trường Chu Văn An. Như một mặc định, “trai Petrus Ký, gái Gia Long” thì nữ sinh Trường Trưng Vương lại là “của riêng” của những Nam sinh Trung học Chu Văn An mặc dầu hai trường cách trở về mặt địa lý một quãng đường khá dài.Trường chàng thì ở tận nhà thờ ngã sáu, đường Minh Mạng, còn “thiên đường” của nàng là trường Nữ Trung Học Trưng Vương ở đối diện Sở thú - Thảo cầm viên, số 3 Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tội nghiệp cho nam sinh Trường Võ Trường Toản cùng ăn chung xe gỏi bò với các nàng nhưng chỉ đứng xa ngắm những chàng trường Chu Văn An đón nàng mà hát câu cảm thán: “Trưng Vương hôm nay mưa vẫn giăng đầy trời/ Bóng người thì mịt mùng/ Từng hàng me rung rung” (2). Nữ sinh Trưng Vương - Lối xưa áo trắng hồn thu thảo (1960)Có lẽ “nhân duyên tiền định” của hai trường này đều xuất phát từ “người phương Bắc”. Học sinh Chu Văn An đa số là người miền Bắc và Trường Trưng Vương cũng vậy. Điều này cũng dễ hiểu vì Trường Trưng Vương là ngôi trường có gốc gác từ Hà Nội.Theo “gia phả”, trường được thành lập từ năm 1925, trên con đường Đồng Khánh, phía nam hồ Gươm mang tên Trường Nữ trung học (College de Jeunes Filles), ngôi trường nữ trung học đầu tiên và duy nhất của nữ giới miền Bắc. Vì nằm ở đường Đồng Khánh nên còn được gọi là Trường Đồng Khánh. Đến năm 1948 trường được chuyển đến đường Hai Bà Trưng (Hà Nội) và đổi tên là Trường Trưng Vương. Năm 1954, một số giáo sư và học sinh di cư vào Sài Gòn và thành lập lại Trường Trưng Vương.Năm học đầu tiên phải học nhờ cơ sở của Trường nữ trung học Gia Long. Mãi cho đến năm 1957, Trường Trưng Vương dời về số 3 Nguyễn Bỉnh Khiêm (nguyên trước đó là Quân y viện Coste của quân đội Pháp).“Hành lang ấy xa dần xa bước chân người - Một thoáng trường xưa đã nghe thời gian thoi đưa” … (Tình Thơ của Hoài An)Bởi vậy ta không lấy làm lạ khi đây là một trong những ngôi trường mang đậm dấu ấn kiến trúc Pháp và được bình chọn là ngôi trường có kiến trúc đẹp nhất Sài Gòn. Nhờ là học sinh Trưng Vương nên mỗi lần làm lễ kỷ niệm Hai Bà, nữ sinh Trưng Vương được ưu tiên tuyển chọn làm Trưng Trắc, Trưng Nhị cưỡi voi trong lễ diễu hành.Ngày lễ kỷ niệm Hai Bà Trưng – Sài Gòn trước 1975Có lần đi xem lễ diễu hành trên đường Thống Nhất (nay là đường Lê Duẩn), khi hai nàng học trò Trưng Vương ngồi trên voi “phất ngọn cờ vàng” đi ngang, tôi thấy thằng bạn có vẻ phấn khích. Tôi hỏi: “Mầy thích “ghệ” áo vàng hả?”. Nó trả lời buồn xo: “Không, tao thích con voi. Bây giờ tao ước gì mình được làm con voi”.Rồi nó cảm thán nhại theo thơ của Nguyễn Công Trứ: “Kiếp sau xin chớ làm người/ làm voi nàng cưỡi, cái vòi đung đưa”. Sau này tôi mới biết cô gái đóng vai Trưng Trắc - áo vàng đó đã cho chàng leo cây, “Trưng Vương vắng xa anh dần. Mùa thu đã qua một lần. Còn đây bâng khuâng”.(2) Ôi, tội nghiệp một thời mê gái !3. “Áo dài trắng em mang mà anh nhớ...” đâu chỉ ở Sài Gòn. Ở một vùng trời tỉnh Gia Định, những chiếc tà áo của nữ sinh Trường nữ trung học Lê Văn Duyệt vờn bay thật nhẹ nhàng, thanh khiết. Tôi khoái chữ “vờn bay” của nhà thơ Phạm Thiên Thư hơn chữ “tung bay” của nhạc sĩ Từ Huy khi nói về chiếc áo dài của nữ sinh trung học. Chữ “tung” có vẻ gì đó mạnh bạo quá khi nói về chiếc áo dài vốn dĩ đằm thắm.Thật thiệt thòi khi ngôi trường này không được nhắc đến trong âm nhạc hoặc thơ ca, có lẽ những chàng thi sĩ, nhạc sĩ chỉ thích tụ tập ở Sài Gòn mà bỏ quên một ngôi trường nữ làm đẹp và trắng khung trời Gia Định.“áo ai trắng quá nhìn không ra”...(thơ Hàn Mặc Tử)...Từ Sài Gòn, xuôi theo đường Đinh Tiên Hoàng, quẹo tay mặt, qua cầu Bông một đoạn, nhìn sang tay trái là một ngôi trường kiến trúc kiểu hiện đại hơn trường Gia Long và Trưng Vương. Chuyện cũng dễ hiểu vì năm 1960, tòa tỉnh trưởng Gia Định đã dùng một khu đất trước kia là ao rau muống để xây dựng trường trên đường Lê Văn, gần Lăng Ông thuộc xã Bình Hòa (tỉnh Gia Định). Trước kia trường mang tên Trương Tấn Bửu, thành lập năm 1957, có hai lớp đệ thất một nam và một nữ, học nhờ tại trường nam tỉnh lỵ (nay là Trường THCS Lê Văn Tám).Năm 1959, lớp nam sinh chuyển về Trường Hồ Ngọc Cẩn (nay là Trường Nguyễn Đình Chiểu). Khi xây dựng xong, trường được đặt tên là Trường nữ trung học Lê Văn Duyệt và chương trình học bắt đầu từ lớp đệ thất đến lớp đệ nhị. Học sinh nào đậu tú tài I sẽ chuyển sang học Trường Trưng Vương. Khoảng năm 1965-1966 trường mới có lớp đệ nhất. So với hai trường nữ đàn chị thì nữ sinh Lê Văn Duyệt nào có kém cạnh chi, cũng làm những chàng trai thốt lên: “Ơi em, bắt hồn tôi về đâu?”...Có những chàng trai lãng mạn thì cũng có những chàng trai rất thực tế. Hiệp mập, thằng bạn của tôi, phát biểu: “Tao không lấy vợ là “ghệ” Gia Long, yểu điệu thục nữ quá cỡ, tao chỉ muốn vợ tao là nữ sinh Trường Sương Nguyệt Anh”. Tôi sửng sốt vì Trường nữ trung học tổng hợp Sương Nguyệt Anh mới vừa thành lập năm 1971.Sau Mậu Thân 1968, một góc đường Minh Mạng, Sư Vạn Hạnh gần chùa Ấn Quang bị cháy rụi. Vài năm sau đó, chung cư Minh Mạng ra đời, phía bắc của chung cư, ngay góc đường Hòa Hảo, Minh Mạng (nay là đường Nguyễn Chí Thanh), Trường nữ trung học tổng hợp Sương Nguyệt Anh cùng được xây dựng.Không phải thằng Hiệp mập không có lý của nó, vì nữ sinh trường này được học một chương trình giáo dục hoàn toàn mới. Đây là ngôi trường nữ đầu tiên tại VN với lối giáo dục theo phương pháp tổng hợp theo mô hình của các nước tiên tiến thời ấy. Song song với việc giảng dạy như các trường công lập khác, trường còn dạy thêm kinh tế gia đình (tức nữ công gia chánh, may vá nấu ăn), môn doanh thương (tức kế toán đánh máy), âm nhạc (đàn tranh, piano), hội họa, nghệ thuật cắm hoa, và cả môn võ aikido, vovinam.Ngay từ năm lớp 6, nữ sinh Trường Sương Nguyệt Anh đã được học cả hai sinh ngữ Anh và Pháp khi mà học sinh công lập các trường khác chỉ được học một sinh ngữ. Trường được trang bị một phòng thính thị máy móc rất tối tân để luyện giọng chính xác với giáo sư ngoại quốc, một phòng thí nghiệm đầy đủ dụng cụ.Với lối giáo dục mới mẻ này, sau bảy năm trung học, nữ sinh trường có cơ hội thành một thiếu nữ VN văn võ song toàn. Còn theo thằng bạn tôi, giúp ích xã hội được hay không thì chưa biết, nhưng chắc chắn là một bà xã biết dạy chồng bằng võ vovinam và tài nội trợ.Sài Gòn, cùng với những trường nữ trung học công lập Gia Long, Trưng Vương, Lê Văn Duyệt, Sương Nguyệt Anh cũng còn trắng trời áo dài với những trường nữ trung học tư khác như Thánh Linh, Hồng Đức... đã nhốt hồn những chàng trai mặt bắt đầu nổi mụn trứng cá và vỡ giọng với những thổn thức “áo ai trắng quá nhìn không ra”..(thơ Hàn Mặc Tử)..Những cô nữ sinh với những ngôi trường ấy đã là một phần hồn của chúng tôi, một phần hồn của Sài Gòn đã đào tạo những nữ lưu anh kiệt về các mặt chính trị, văn hóa, khoa học, và tiếp tục những nữ lưu anh kiệt lại là những anh kiệt nữ lưu khác.Cảm ơn Sài Gòn đã có những ngôi trường ấy cho tôi nhớ. Cảm ơn Sài Gòn có những ngôi trường thiên đàng tuổi nhỏ dành riêng cho chàng trai mơ về những mái tóc, những chiếc áo dài trắng vờn bay... vờn bay! Chú thích:(1): Ngày xưa Hoàng Thị - thơ Phạm Thiên Thư, nhạc Phạm Duy. Ngày ấy, trên toàn miền Nam, đồng phục cho nữ học sinh là áo dài trắng, quần trắng (hoặc đen), nam học sinh là quần xanh, áo trắng và đeo phù hiệu mang tên trường trên áo. Không có đồng phục cho riêng từng trường như bây giờ. Lúc ấy chỉ có Trường trung học công lập Mạc Đĩnh Chi nam sinh và nữ sinh học chung.(2): Trưng Vương khung cửa mùa thu - nhạc và lời Nam Lộc.(*): Trường Gia Long nay là Trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai. Trường Petrus Trương Vĩnh Ký nay là Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong. Trường Lê Văn Duyệt nay là Trường THPT Võ Thị Sáu. Trường Sương Nguyệt Anh nay là Trường THPT Sương Nguyệt Anh.Lê Văn Nghĩa Posted by sontrung at 12:09 PM No comments: Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 367 Monday, June 8, 2015 TIN TỨC QUỐC TẾ
Thứ ba, 09/06/2015 Xem Tin tức / Thế giới / Châu Á Tranh chấp Biển Đông sẽ làm bùng nổ Thế chiến Thứ ba?
Tàu chiến Trung Quốc bắn tên lửa trong một cuộc tập trận ngoài khơi Biển Đông.
Chỉ huy tàu khu trục INS Sahyadri của Hải quân Ấn Độ hướng dẫn Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ tham quan tàu khu trục INS Sahyadri tại Vizag. (Ảnh: Glenn Fawcett/Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ).
Tàu tuần duyên USS Fort Worth của Mỹ tại Singapore.Reuters
http://vi.rfi.fr/chau-a/20150608-at-chu%CC%89-ba%CC%80i-cu%CC%89a-ha%CC%89i-quan-my%CC%83-o%CC%89-bie%CC%89n-dong/
Biết tui là dân HO nên có người biểu tui kể thử một câu chuyện thật xảy ra trong tù cải tạo . Nếu tui kể hổng được thì người ta hổng tin vào cái bằng Tiến-Sĩ Cải-Tạo của tui . Chắc người ta nghi tui làm bằng giả để đi HO . Mà cũng thông cảm thôi vì Việt-Nam sau khi bị VC toàn trị rồi thì cái gì cũng có thể dỏm được . Mà bằng cấp thì càng dỏm nhiều hơn và Tiến-Sĩ thì nhiều đếm hổng xuể . Bởi tại bị vậy nên tui mới viết bài nầy hổng thôi người ta nói cái bằng Tiến-Sĩ Cải-Tạo của tui là bằng giả . Bài nầy tui đặt tựa là “Con Trâu Đâu Có Cải Tạo !”. Câu chuyện nầy xảy ra tại trại cải tạo Nam-Hà vào khoảng năm 1979-1980 ( vì lâu quá nên tui hổng dám chắc năm nào ) . Thời gian đầu của đời tù cải tạo thì những người tù bị đưa lên vùng núi Hoàng-Liên-Sơn do bộ đội quản lý . Tới năm 1978 vì sư phụ Trung Cộng muốn dạy cho đệ tử Việt Cộng một bài học nên đánh tràn qua biên giới Việt-Trung . Do đó tù cải tạo được chuyển giao qua cho công an quản lý để bộ đội rảnh tay mà tiếp thu bài giảng của thầy . Rất nhiều tù , trong đó có tui , được chuyển về trại Nam-Hà vào năm 1978 . Sau vài ngày ổn định mọi thứ thì các tù binh bắt đầu được lên lớp và sau đó là đi lao động . Về lên lớp , nói chung , thì các cán bộ công an cũng nói y hệt như các cán bộ bên bộ đội . Đại khái như : Mỹ là đế quốc xâm lược ; ngụy quyền miền Nam là tay sai bán nước ; ngụy quân là công cụ đánh thuê ; tất cả các người tù đều là có tội chết nhưng được Đảng khoan hồng tha chết và cho đi cải tạo , lao động để trở thành người lương thiện ; lao động là vinh quang chớ hổng phải là đày ải , hành hạ . Chỉ khác một điều duy nhứt là bên bộ đội thì không kêu chúng tôi là tù mà cũng cấm chúng tôi không được tự xưng và kêu nhau là tù ; còn ở trại Nam-Hà nầy thì các cán bộ công an nói thẳng chúng tôi là tù cải tạo . Còn về công việc lao động thì tui đã làm qua nhiều thứ như phụ xây thêm nhà tù , làm ruộng trồng lúa , đào kênh thủy lợi , trồng nấm , đục đá . Mỗi công việc đều có nhiều chuyện để kể nhưng trong phạm vi đề tài của bài nầy tui chỉ kể giới hạn về công việc làm ruộng trồng lúa mà thôi . Trại Nam-Hà nằm trên một khu đồi cao gần bên một quả núi nhỏ và ngay cạnh con đường đất (nghe nói đường nầy có thể đi tới chùa Hương) . Bên phía dưới thấp là vùng đầm lầy ăn liền ra đồng ruộng của hợp tác xã . Công việc làm ruộng được bắt đầu lúc đó là đang mùa đông . Và ai cũng biết làm ruộng trồng lúa thì sẽ có những việc như cày , bừa , gieo mạ , cấy lúa , gặt lúa rồi đập và phơi lúa . Đám tù được dẫn ra tới ruộng mới biết công việc cụ thể mà mình phải làm ra sao . Những thửa ruộng đã gặt xong tự hồi nào chỉ còn trơ gốc rạ . Ruộng đang ngập nước , đất đã mềm sẳn nên hổng cần cày mà chỉ có bừa . Bừa để nhận những gốc rạ chìm xuống sình lấy chỗ cấy lúa . Và xưa nay việc kéo cày hay kéo bừa nếu hổng có máy thì là do con trâu làm . Người thì cầm càng đi phía sau điều khiển con trâu . Nhưng khi ra tới ruộng mới biết hổng có máy cày mà cũng hổng thấy con trâu nào dù trại có nuôi một bầy trâu mấy chục con . Té ra là mọi thứ sẽ do người tù làm hết . Tù được chia thành từng nhóm 4 người cho một cái bừa . Trong nhóm thay phiên nhau , ba người kéo bừa đi trước thay con trâu và một người cầm càng đi sau giữ bừa . Mèn ơi ! Trâu thì hổng xài lại bắt người kéo thế . Cái nầy mà dám nói là vinh quang hổng phải đày ải đây . Theo tui thì đày ải chỉ một phần , mà phần lớn là muốn hạ nhục người tù . Dĩ nhiên là tất cả mọi người tù đều phải chịu nhục mà làm . Người nầy nhìn người kia cùng nuốt hận để làm . Không hẹn mà nên , những người cầm càng phía sau không ai dám đứng lên cái bừa cho bạn kéo như khi điều khiển trâu mà chỉ lội sình để cầm càng . Coi vậy chớ kéo cũng nặng lắm vì lội sình đã khó đi rồi mà đằng nầy còn phải kéo cái bừa nữa . Những bước chân nặng nề dưới ruộng sình . Những bắp chân tái tím vì dầm trong nước lạnh buốt. Những thân hình co ro, lầm lủi trong gió mùa đông . Hoạt cảnh nầy liệu có nơi nào trên thế giới có được hay không . Làm được một lúc là bắt đầu nghe có tiếng cự nự trong các nhóm kéo bừa . Mấy anh kéo bừa phía trước cự anh cầm càng phía sau :Bộ mắc ông nội mầy hay sao mà đè chi nặng dữ vậy mậy . Đè vừa thôi . Một hồi tới phiên mầy kéo là tao đè lại cho biết .Thì ra anh cầm càng mà đè mạnh chừng nào thì mấy anh phía trước phải kéo nặng chừng nấy . Mà hể đè hổng mạnh thì gốc rạ hổng chịu chìm . Nghe nhóm nầy cự rồi tới nhóm kia cự đâm ra thấy tức cười . Mà cười ra nước mắt . Hổng ai có thể tưởng tượng được cuộc đời của mình có lúc lại thê thảm như vầy . Chắc mấy tay cán bộ trên bờ đang hả hê trong bụng lắm . Người nào nghĩ ra được “phương cách” lao động nầy chắc phải được Đảng tuyên dương . Trong đám cán bộ có một người có vẻ là có thớ lắm , đó là thiếu-úy Lự . Hắn đi vòng vòng từ đội tù nầy tới đội tù khác dòm ngó . Đi tới đâu hắn cũng kêu tập họp tù lại cho hắn lên lớp . Bởi vậy đám tù cũng khoái cho hắn tới chỗ mình mà lên lớp lắm. Hổng phải vì hắn nói hây nên muốn nghe. Vì hắn nói thì cũng như con két nói, chỉ toàn lập lại những điều cũ rích . Hắn vừa nói một tiếng là ai cũng biết hắn sẽ nói tiếp cái gì . Vậy thì tại sao tù lại khoái nghe hắn nói ? Thưa hổng phải khoái nghe hắn nói , mà chính là khoái được đứng để nghỉ ngơi khỏi làm trong mươi mười lăm phút . Hắn nói càng dai càng tốt vì mình được đứng nghỉ càng lâu . Lần đó hắn lại chỗ đội tù của tui để lên lớp . Sau khi nói đã đời , hắn kết luận :Các anh cần phải tích cực lao động cho có năng suất cao. Về với gia đình sớm hay muộn là tùy ở chính bản thân các anh . Không phải chỉ làm chiếu lệ cho hết giờ , mà làm cho hết việc và mỗi người cần phải phát huy sáng kiến để gia tăng năng suất .Nói xong thì hắn hỏi như thường lệ là ai có ý kiến hoặc thắc mắc gì hôn . Thường thì hổng ai có ý kiến ý cò gì ráo . Nhưng lần đó có một anh bạn tù đưa tay lên . Hắn chỉ về anh bạn đó và hỏi anh muốn nói gì . Anh bạn tù nói :Thưa cán bộ , muốn gia tăng năng suất lao động , ở trại có nuôi một bầy trâu mấy chục con sao không xử dụng để kéo bừa ?Chà ! Câu hỏi nầy có lý quá ha . Ai cũng thấy ý kiến của anh bạn tù nầy cũng chính là ý kiến của mình nên rất hào hứng với câu hỏi nầy. Các bạn có biết thiếu úy Lự trả lời ra sao hôn ? Hắn hổng cần suy nghĩ gì cho lâu mà phán ngay một câu xanh dờn với một vẻ đắc ý như vừa nghĩ được một câu danh ngôn bất hủ :Các anh mới cải tạo chớ con trâu đâu có cải tạo mà bắt nó kéo bừa .Nói xong hắn gật gù với vẻ mặt hả hê , dương dương tự đắc nhìn từng gương mặt xanh tái của đám tù vì câu nói xanh dờn của hắn . Mọi người im thin thít và nghẹn họng như vừa bị tạt một gáo nước lạnh vào mặt giữa trời đông . Đúng là VC nói vậy mà hổng phải vậy .Tui chợt nhớ tới lời của tổng thống Nguyễn-văn-Thiệu “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn những gì cộng sản làm” . Tiếc thay khi mà cả miền Nam lẫn miền Bắc Việt-Nam đã nhìn thấy được những gì cộng sản làm thì…quá trễ . Vậy mà tới giờ cũng vẫn còn có những người hổng nhìn thấy , hay nhìn mà cố tình hổng chịu thấy những gì cộng sản đã làm .LHN . Posted by sontrung at 6:44 PM No comments: Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 367 TÂM THƯ CỦA BÙI TÍN
Thứ Tư, 10/06/2015 NgheXem
20:00 - 20:30 VOA 8 giờ tối
Blog / Bùi TínBàn về hai chữ: Giác ngộ (gửi các đảng viên CS, các đồng chí cũ) 02.06.2015 Tôi từng ở trong Đảng CS từ tuổi 20, ở trong Đảng 44 năm, 65 tuổi mới thoát Đảng, trở thành người tự do 25 năm nay. Có người bảo là quá chậm, còn chê vui là "sao mà ngu lâu thế!", nhưng tôi chỉ mỉm cười, tự nhủ mình ngu lâu thật, nhưng vẫn còn sớm hơn hàng triệu đảng viên hiện còn mang thẻ đảng viên CS cuối mùa. Nghĩ mà tội nghiệp cho các đồng chí cũ của tôi quá, sao lại có thể ngu mê, ngủ mê lâu đến vậy.
Năm nay tôi tự làm "cuộc kỷ niệm" độc đáo, về thời điểm cuộc đời tôi, đến năm nay 2015, tính ra đã đạt một nửa đời (20 năm đầu đời cộng với 25 năm ở nước ngoài) là 45 năm không có dính dáng gì đến đảng CS. Tôi đã lãng phí gần nửa đời người - gần 45 năm cho những hoạt động lầm lỡ, sai trái, tệ hại vì hoàn cảnh khắc nghiệt của lịch sử, cũng do sự u mê, ngu lâu của bản thân mình.
Nhân kỷ niệm riêng độc đáo này, tôi nghĩ đến vô vàn đồng chí CS cũ của tôi, và viết bài này gửi đến các bạn như một buổi nói chuyện cởi mở, tâm huyết, mong được trao đổi rộng rãi với các bạn cũng như với các bạn trẻ trong Đoàn Thanh niên CS mang tên ông Hồ Chí Minh.
Câu chuyện sẽ xoay quanh hai chữ: Giác ngộ.
Giác ngộ là hai chữ tôi nghe rất nhiều lần khi được tuyên truyền về Đảng CS, về chủ nghĩa CS. Các vị đàn anh giải thích con người tốt phải là con người giác ngộ. Giác ngộ có nghĩa là nhận ra lý tưởng cho cuộc đời minh. Tuổi trẻ cần có lý tưởng, hiểu rõ con đường cần chọn, hiểu rõ tổ chức cần tham gia, không bỏ phí cuộc đời minh. Đó là con đường Cộng Sản, dẫn đến độc lập cho đất nước, hạnh phúc cho toàn dân, họ rao giảng triền miên như thế, chúng tôi cũng cả tin là thế thật.
Theo học các chương trinh và lớp học cho đảng viên mới, cho cán bộ sơ cấp, trung cấp, cao cấp của đảng, bao giờ giảng viên cũng nhắc đến hai chữ giác ngộ. Học, học nữa, học mãi để nâng cao không ngừng trình độ giác ngộ của mỗi người. Đảng viên phải có trình độ giác ngộ cao hơn quần chúng ngoài đảng. Đảng viên mới luôn được học kỹ tấm gương của anh thanh niên Lý Tự Trọng, với nét nổi bật nhất là giác ngộ CS từ tuổi thiếu niên, rồi biết bao tấm gương của những chiến sỹ CS ưu tú, bất khuất trong các nhà tù thực dân ở Côn Đảo, Sơn La, Lao Bảo, Kon Tum...giác ngộ cách mang cao, nhà tù, máy chém không nao núng, biến nhà tù thành trường học nâng cao trình độ giác ngộ cách mạng, bất khuất, kiên cường.
Trong các bản khai lý lịch cá nhân, mỗi đảng viên thường kể lại bản thân mình được giác ngộ ra sao, được ai giác ngộ, giác ngộ đến mức nào, và luôn kết luận với lời hứa không ngừng học tập, tu luyện, tự phê bình và phê bình để không ngừng nâng cao trinh độ giác ngộ của bản thân.
Tôi kể ra như thế để thấy hai chữ giác ngộ có tác dụng sâu sắc ra sao đối với mỗi đảng viên CS. Hai mươi nhăm năm nay, tôi hồi tưởng lại quãng đời 44 năm là đảng viên CS, theo dõi chặt chẽ thời cuộc hằng ngày trong nước và thế giới, tôi không khỏi cảm thấy chua chát và cay đắng về hai chữ giác ngộ.
Giác ngộ hình như là một chữ Đảng CS mượn của Đạo Phật. “Giác” là nhận thấy, cảm nhận, thấy rõ, “ngộ” là tỉnh ra, nhận ra lẽ phải, chân lý để làm theo.
Sau khi là con người tự do, là nhà báo tự do, kết thân với nhiều nhà báo tự do của thế giới, các nhà báo tự do Pháp, Đức, Anh, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Hoa, Ba Lan, Tiệp..., tôi tìm đọc các kho tư liệu lưu trữ quý ở Paris, Moscow, London, Washington… rồi suy nghĩ bằng cái đầu tỉnh táo của mình, của riêng mình, không sùng bái bất cứ một người hay một học thuyết nào. Từ đó tôi giác ngộ không biết bao nhiêu điều mới mẻ, và lần này tôi thật sự có cảm giác sâu sắc về hạnh phúc tinh thần tiếp cận được ngày càng nhiều sự thật, lẽ phải, chân lý. Tôi đã tự giác ngộ mình.
Nhìn lại 44 năm quá khứ CS của mình, tôi nhận rõ có không ít điều tôi giác ngộ, cho là đúng, thì khốn thay, hầu hết đều là lầm lẫn, ngộ nhận, ảo tưởng, sai lầm và cả tội ác.
Như chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản kiểu mác-xít đều là những học thuyết chủ quan, lầm lẫn, hoàn toàn nguy hại trong thực tế, cổ xuý đấu tranh giai cấp cực đoan và bạo lực, đi đến chiến tranh, khủng bố, đổ máu, hận thù. Giữa thủ đô Washington, tôi cùng anh Cù Huy Hà Vũ đã viếng Tượng đài Kỷ niệm hơn 100 triệu nạn nhân bi thảm của chủ nghĩa CS hiện thực, trong đó có hàng triệu nạn nhân đồng bào Việt ta. Tượng đài nhắn nhủ toàn nhân loại hay cảnh giác với chủ nghĩa CS, tai họa của toàn thế giới.
Tháng 5/2015, Tổng thống Ukraine, một nước cộng sản cũ, đã ký Luật cấm tuyên truyền về chủ nghĩa Mác Lênin, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản như trong thời kỳ trong Liên bang Xô Viết từ 1917 đến 1991, coi đó là thời kỳ bi thảm, sai lầm và Tội Ác. Các tượng đài, di tích thời kỳ ấy đều bị phá bỏ. Các sự kiện ấy giúp tôi khẳng định việc thoát đảng CS của tôi là chuẩn xác và giúp tôi thấy Dự thảo văn kiện sẽ đưa ra Đại hội XII sắp đến là lạc hậu, lẩm cẩm và cực kỳ nguy hại cho đất nước, cho nhân dân, cho chính Đảng CS ra sao.
Tôi không thể hiểu vì sao, sau khi Giáo sư Trần Phương, từng là Phó Thủ tướng, là uỷ viên Trung ương Đảng, đã chứng minh rành mạch rằng chủ nghĩa Mác, Lênin, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa CS đều là ảo tưởng sai lầm, nguy hại, hay vì sao sau khi đương kim Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh đã công khai cho rằng: "Cái chủ nghĩa Xã hội và cái định hướng Xã hội chủ nghĩa làm gì có trong thực tế mà đi tim cho mất công! ", vậy mà Bộ Chính trị vẫn cứ khẳng định trong văn kiện Đại hội XII rằng "kiên định chủ nghĩa Mác, Lênin, kiên định chủ nghĩa Xã hội và chủ nghĩa CS là lập trường không thể thay đổi ", một thái độ ngoan cố, cổ hủ, tối tăm, buộc toàn đảng phải đi theo sự lẩm cẩm dai đẳng nguy hại của minh.
Ngay đối với thần tượng Hồ Chí Minh, tuy tôi biết rằng đây là bình phong cố thủ lợi hại của thế lực bảo thủ trong đảng CS do tệ sùng bái cá nhân ăn quá sâu trong quần chúng, tôi vẫn thấy cần và có thể thuyết phục ngày càng đông đảo bà con ta nhận ra sự thật. Sự thật là ông HCM không phải là thánh thần. Ông là con người với những tốt xấu, mạnh yếu, đúng sai của minh. Ông đã lầm lẫn khi chọn con đường CS, khi lao quá sâu rồi không dám quay lại nữa. Ông đã xa rời lập trường dân tộc, thực hiện lập trường giai cấp cực đoan, đặt ảo tưởng vào giai cấp vô sản quốc tế, và mù quáng đặt niềm tin ở 2 ông Anh lớn Stalin và Mao, 2 con Quỷ Đỏ mà ông cho là “không bao giờ có thể sai”.
Mới đây, có 2 sự kiện minh họa rõ thêm bản chất con người thật HCM. Nhà báo Trần Đĩnh từng gần gũi ông Hồ kể lại ông từng cho rằng không thể giết bà Năm - Cát Hanh Long để mở đầu cuộc Cải cách Ruộng đất, bà lại là ân nhân của đảng CS, - ông còn văn hoa nói: "Không nên đánh phụ nữ dù chỉ bằng một cành hoa". Vậy mà theo Trần Đĩnh, chính ông Hồ đã viết bản Cáo trạng kết án Bà Năm: "Địa chủ ác ghê", ký tên CB (của Bác- Bác Hồ) trên báo Nhân Dân của Đảng. Cũng theo Trần Đĩnh, ông Hồ đã cải trang, mang kính râm đích thân đến dự cuộc xử bắn bà Năm. Vậy ông Hồ là con người thế nào? Nói một đằng làm một nẻo, lá mặt lá trái, tử tế hay không tử tế? đạo đức hay vô đạo đức?
Nhà triết học uyên bác bậc nhất nước ta Trần Đức Thảo trước khi từ giã cõi trần đã kể trong cuốn Những lời trăng trối (do nhà báo Tri Vũ Phan Ngọc Khuê ghi âm) rằng ông đã gặp ông Hồ, quan sát, nghiên cứu sâu về tư tưởng, hành vi, đạo đức của ông Hồ, và đi đến kết luận vững chắc rằng ông Hồ là "con Người muôn mặt, lắm mưu mô, nhiều tham vọng quyền lực, nhiều điều bí hiểm, lắm tên nhiều họ, ẩn hiện khôn lường, lắm vợ, nhiều con, rất phức tạp", là một "Tào Tháo của muôn đời". Ông Trần Đức Thảo cho rằng đảng CS kêu gọi cả nước học tập đạo đức HCM, vậy là muốn biến cả nước thành Tào Tháo hết cả ư! Thế thật thì nguy cho dân tộc ta quá ! Ý kiến của nhà triết học này thật thỏa đáng.
Tôi có nhiều lý do để quí trọng ông Hồ. Tôi từng gặp ông khá nhiều lần, khi là phóng viên thời sự quốc tế, vào Dinh Chủ tịch dự chiêu đãi ông Lưu Thiếu Kỳ, ông Alexei Kosigyn hay các nhà báo Pháp, Nga, Trung Quốc. Năm 1957 khi ông vào Vinh thăm bộ đội Quân khu IV tôi được giao chuẩn bị bài nói chuyện của ông trước cán bộ quân khu, khen ngợi thành tích giúp dân gặt lúa, chống bão, lụt và diễn tập ở giới tuyến, ông liếc qua bản viết, khen đãi bôi: "Chú văn hay chữ tốt nhỉ!" rồi đút vào túi. Hơn nữa, cha tôi có quan hệ mật thiết với ông Hồ. Ông từng ngỏ lời mời cha tôi ra tham chính từ những ngày đầu Cách mang tháng Tám. Cha tôi lưỡng lự, do quan niệm Nho giáo "Trung thần không theo hai Vua", nhưng ông Hồ vẫn cử ông Bộ trưởng Tư pháp Vũ Trọng Khánh, rồi ông Vũ Đình Huỳnh mang thư riêng đến. Chính ông Hồ đề cử cha tôi thay Cụ Nguyễn Văn Tố làm nhiệm vụ Chủ tịch Quốc hội sau khi Cụ Tố bị lính Pháp bắn chết. Nhưng tôi không thể vì những chuyện riêng tư ấy mà làm sai lạc sự đánh giá công bằng, khách quan, chuẩn xác của chính mình.
Không một học thuyết nào, không một cá nhân lãnh tụ nào có thể được đặt trên dân tộc và nhân dân. Do yêu nước thật lòng, thương đồng bào Việt mình thật lòng nên sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, tôi đi đến kết luận dứt khoát, sòng phẳng rằng ông HCM là một nhân vật tiêu cực trong lịch sử VN. Ông có phần trách nhiệm lớn làm cho đất nước lâm vào chiến tranh, do ông chọn con đường CS của Đệ Tam Quốc tế nên mới bị thế giới Dân chủ sớm đặt VN ta trong Chiến lược Be bờ ngăn chặn CNCS (Containment of Communism Strategy). Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do ông dựng lên thật ra không phải là chế độ dân chủ, mà còn là chế độ độc đoán toàn trị do đảng CS độc quyền cai trị, đến nay vẫn chưa có tự do ngôn luận, tự do ứng cử và bầu cử, tự do xuất nhập cảnh, tự do tôn giáo, không thực hiện chế độ pháp quyền nghiêm minh, đảng CS nắm trọn cả ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, còn thêm quyền thứ tư là ngôn quyền. Các tổ chức xã hội dân sự tự phát đang lớn mạnh cùng các nhà dân chủ từ lão thành đến trẻ tuổi đang cùng các cựu đảng viên CS đã thoát đảng tự đặt cho mình nghĩa vụ trước Dân tộc và Lịch Sử chung sức mở ra Kỷ Nguyên Dân chủ và Tự Do cho nước Việt Nam ta.
Tôi tha thiết kêu gọi tất cả các đảng viên CS nhân các cuộc họp Đại hội Đảng các cấp từ chi bộ, đảng bộ cơ sở đến Đại Hội toàn quốc hãy thắp sáng lên ngọn đèn Giác ngộ mới mẻ, manh dạn xoá bỏ những điều giác ngộ cũ kỹ, lạc hậu, giáo điều, lẩm cẩm, mê muội rất có hại, như kiên trì chủ nghĩa Mác Lênin, chủ nghĩa Xã hội và chủ nghĩa Cộng sản mác-xít, sùng bái nhân vật HCM, kiên trì chế độ toàn trị độc đảng lạc lõng, tệ hại.
Đó chính là sự giác ngộ cần thiết cấp bách hiện nay. Trong các cuộc họp bàn, góp ý vào các văn kiện dự thảo, chớ bị lừa dối khi nghe lãnh đạo tuyên truyền rằng các văn kiện đã tiếp thu hàng triệu ý kiến xây dựng, đã được nhất trí cao, không cần bổ sung, sửa chữa gì nhiêu, "do kẻ xấu và bọn phản động xúi giục". Cần nhận rõ nội dung các văn kiện mới là điều kiện sinh tử của đảng, quan trọng hơn vấn đề nhân sự nhiều, vì vận mệnh đất nước, quyền lợi của toàn dân phụ thuộc vào học thuyết chính trị, vào đường lối đối nội, đối ngoại, vào các quốc sách chính trị, kinh tế tài chính, đối ngoại, xã hội và văn hoá đạo đức. Kiên quyết từ bỏ, gột rửa những điều giác ngộ cũ, nhận rõ đó chỉ là những học thuyết sai lầm tệ hại trong thực tế cuộc sống, những tà thuyết đã bị thế giới nhận diện, lên án, loại bỏ, ta không có một lý do nào để gắn bó, quyến luyến, tiếc thương.Xin các bạn chớ sợ mình đơn độc, thiểu số trong các cuộc họp. Chân lý ban đầu bao giờ cũng là thế. Các bạn chính là những hạt kim cương trong khối quặng đen. Hãy dũng cảm thắp lên ngọn đèn giác ngộ mới, tiên tiến. Các bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc sâu lắng khi dần dần chính kiến của bạn được lan tỏa trở thành chân lý, sự giác ngộ của số đông.
Buổi tâm sự về hai chữ giác ngộ xin tạm ngừng ở đây, mong có ích trong khêu gợi những ý kiến mới mẻ trong tư duy của các bạn về hiện tình đất nước, về con đường cần chọn cho dân tộc, cho Quê hương, để đất nước phát triển mạnh mẽ trong cuộc sống tự do, bình đẳng, hạnh phúc cho mỗi công dân, mỗi gia đình chung hưởng.
Bùi Tín, VOAs Blog
Tái bút: Xin đề nghị các mạng blog tự do, lề trái, và bạn đọc có điều kiện nhân bản bài viết này và gửi cho các đảng viên CS quen biết, nhân Đại hội Đảng các cấp thảo luận các văn kiện dự thảo cho Đại Hội Đảng Toàn quốc lần thứ XII đầu năm 2016. Xin đa tạ. B.T http://www.voatiengviet.com/content/ban-ve-hai-chu-giac-ngo/2804553.html Posted by sontrung at 5:47 PM No comments: Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 367 NGƯỜI VÀ NƯƠC VIỆT CỘNG
Lớp học ngàn sao 40 năm... "giải phóng" là đây!(Mới tinh: Lễ khai giảng năm học 2014 – 2015)Bỏ mấy trăm tỷ đồng để xây cái tượng đài cho bà mẹ VNAH làm cái gì? Trong khi hằng ngày, các mạ vẫn phải thất thểu đi bán vé số, lượm bịch nylon để mưu sinh?Tiền tỷ (cướp của dân) đó, sao không đầu tư xây dựng trường học, cầu cống, đường sá để các em nhỏ được đến trường đàng hoàng như người ta?Thảo nào mà sau 40 năm ..."giải phóng" cứ mải mê say men chiến thắng đánh cho "Mỹ cút, Nguỵ nhào", chả thèm xây dựng gì cả, nên đất nước ngày càng đói nghèo, lạc hậu so với thế giới!
__._,_.___Việt Nam thành cường quốc ăn mì gói Bàn về đời sống khó khăn lúc này của người Sài Gòn, KP, một nhà báo lề phải nghỉ hưu nói, gần hai năm nay, anh và vợ không đi siêu thị nữa, không như trước đây tháng nào cũng đi mua sắm. Ðiều mà nhà báo có mức thu nhập trung bình này nói cũng khiến nhiều người sực nhớ là gia đình mình cũng rời xa các trung tâm mua sắm để gọi là tập cho túi tiền eo hẹp sống chung với thời suy thoái kinh tế tệ hại.
Ai cũng than thở không còn thói quen hay đã cắt được cơn nghiện mua sắm thì chẳng lẽ nhịn ăn, tắm gội, giặt đồ nhà chỉ bằng nước lã. Người Sài Gòn trong mọi thời đều là dân chịu xài tiền nhất cả nước.
Vậy thì ở thời điểm này người Sài Gòn nói riêng và dân Việt nói chung chịu bấm bụng chi tiền cho hàng hóa nào nhiều nhất. Xin thưa đó là mì gói. Bất chấp chỉ số thu nhập quốc dân tuột dốc không phanh, cảnh phá sản nợ nần như rươi của hàng triệu người, món mì gói là hàng hóa duy nhất đúng tầm tay với của đa số người Việt.Kể từ khi người Nhật phát minh ra mì ăn liền đến nay thì Việt Nam là quốc gia có bước phát triển mì gói thần kỳ nhất thế giới. Không còn nghi ngờ gì về chuyện Việt Nam đã trở thành một “cường quốc” mì gói hàng đầu hành tinh.
Năm 2009, dân Việt ăn liền 4.3 tỉ gói mì, năm 2013 vượt qua mốc 5 tỉ gói. Trung bình mỗi năm, từng người Việt không phân biệt nam nữ lão ấu trụng nước sôi 57 gói mì. Và nhiều chuyên gia ẩm thực dinh dưỡng cho rằng, chắc chắn trước năm 2020 “chỉ tiêu” 100 gói mì cho từng người Việt không còn là ước đạt mà chắc chắn sẽ đạt và vượt. Hiện có 50 đại gia sản xuất mì gói và mỗi năm chỉ riêng thị trường phía Nam đạt con số hơn 2 tỷ đô la.
Các kệ hàng mì gói ở siêu thị lớn, nhỏ thời suy thoái cứu vớt sĩ diện kinh tế Việt Nam. Người bình dân Sài Gòn, dân nhập cư điểm tâm sáng và lót dạ đêm bằng các loại mì gói giá rẻ khoảng 4,000 VNÐ/gói. Dân trung lưu thì vô các siêu thị nước ngoài mua mì gói Hàn Quốc có giá bằng tô mì thập cẩm loại ngon ở Chợ Lớn, dân có tiền hơn thì chọn mì gói chính hiệu Nhật Bổn có giá không thua phở Pasteur.
Những ai theo dõi tin tức đều biết, giá lúa chính vụ hiện nay ở các tỉnh phía Nam tuột thê thảm: 4,000 VNÐ/1 ký lúa, trong khi một gói mì hiệu Omachi sản xuất ở Việt Nam giá bán lẻ là 6,000VNÐ. Và càng thê thảm hơn nữa khi thông tin từ truyền hình nhà nước đưa tin rằng, giá một ký dưa hấu ở các cửa khẩu biên giới phía Bắc đang chờ xuất qua Trung Cộng chỉ có giá bằng nửa gói mì Hảo Hảo, loại mì gói rẻ tiền nhất.
Có một nghịch lý, nông dân và dân lao động tại đô thị lại ngày càng tăng số lượng trụng mì gói để thay thế bữa ăn chính, dù chính họ cũng biết là bỏ tiền ra mua 2 gói mì loại ăn tạm được sẽ đắt hơn mua một ký gạo loại thường.
Không phải người dân không biết nguyên liệu dầu chiên mì gói tại các công ty sản xuất mì đều là thứ dầu được sử dụng nhiều lần nên vô cùng độc hại và độc hại không kém là các phụ phẩm gia vị và chất bảo quản. Chúng tôi hỏi một anh làm nghề giao nước đá lẻ, anh nhập cư từ Thanh Hóa rằng: “Cả nhà anh ăn sáng bằng mì gói, vậy không sợ ung thư sao?” Anh trả lời: “Chả còn gì lành đâu bác ơi. Dạo nhà cháu ở quê còn không nấu cơm sáng nữa là, cả làng thế mà. Cứ mãi lo độc hại đau cả đầu.”
Về vai trò mì gói, qua chuyện cứu đói nạn nhân thiên tai hoặc cứu khổ cho những ai bị cướp đất, mất việc là việc hiển nhiên. Nhưng nhìn vào con số tiêu thụ mì gói của người Việt hiện nay thì cũng dễ đoán việc tuyên truyền mức sống dân Việt Nam đạt ngưỡng thu nhập trung bình tính theo đầu người là 1,000USD/1 người là giả dối.
Nói cách khác, việc chế độ công bố năm 2008 Việt Nam đạt ngưỡng 1,000USD thu nhập theo đầu người, “thành quả” đó chỉ thuộc về giới tư bản đỏ và một bộ phận giàu có.
Không có gì quá đáng khi có người cho rằng: Hiện nay chính những gói mì ăn liền rẻ tiền đang giúp yên bụng giới cầm quyền tham nhũng thối nát trước nỗi ám ảnh nổi dậy của các tầng lớp dân nghèo Việt Nam.Phùng Thức
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VN đã tạo ra những con dân Việt như thế nầy sao?
Những bức ảnh gây chấn động về sự xấu xí của một số người Việt
Ăn cắp, buôn bán hàng cấm, lấy đồ ăn quá dư thừa trong những buổi tiệc buffet cho đến sự tranh giành, chen lấn hay đổ rác bừa nơi công cộng… những hành động của một số ít đã đã làm xấu mặt người Việt trên nhiều nước bạn.
Ngày 15/5 vừa qua, tại khu vực Lyublino, nơi tập trung đông người Việt ở Moscow, cảnh sát đã bắt được 2 công dân VN đang có ý định tiêu thụ đầu của một con hổ Amur, một loài vật quý trong Sách Đỏ. Hai đối tượng cố chống cự song đã bị khống chế và còng tay vào hàng rào của khu chợ Lyublino. Hai người đàn ông này bị bắt đúng lúc họ định bán đầu một con hổ Amur qua quảng cáo trên báo. Ảnh: msk.kp.ru
Tháng 4/2014, Nippon TV (Nhật Bản) đã đưa tin kèm đoạn video quay tại hiện trường cảnh 2 nghi phạm người Việt bị cảnh sát bắt giữ vì tình nghi ăn cắp mỹ phẩm tại một cửa hiệu ở tỉnh Kagawa. Theo bản tin của Nippon TV, 2 nghi phạm nói trên (nam giới, 23 tuổi và 25 tuổi) bị cảnh sát Nhật bắt khi đang cố gắng chạy trốn. Hai nghi phạm này thuộc nhóm 5 người Việt Nam bị cảnh sát Nhật theo dõi từ tháng 12/2013 vì hành vi ăn trộm mỹ phẩm và thực phẩm chức năng tại các nhà thuốc ở 2 thành phố Muragame và Mitoyo, tỉnh Kagawa. Ảnh: TNO
Hình ảnh được cư dân mạng chia sẻ mới đây, được cho là chụp tại Wako-shi, Nhật. Ảnh: Internet Tấm biển cảnh báo tại một siêu thị ở Nhật Bản này được cư dân mạng cũng như truyền thông đưa lại rất nhiều lần. Không chỉ tật ăn cắp vặt, vào thời gian gần đây dư luận còn đưa tin khá nhiều về cuộc sống của một số người Việt ở Nhật có những biểu hiện không tốt như thiếu trật tự, lộn xộn, trốn vé tàu… thậm chí sống ngược lại với văn hóa Nhật, tạo nên những kỳ thị của người Nhật đối với người Việt Nam. Ảnh: Internet
Câu chuyện cái ô của bác Gen cũng gây chấn động một thời trên mạng. Chuyện rằng bác Gen Kitagawa đến Trường Nhật ngữ An Narimasu với chiếc ô của mình. Đến khi bác về, trời mưa, bác không tìm thấy chiếc ô ở nơi bác để nó – góc riêng cho mọi người để ô ở trường. Bức xúc, bác Gen viết một mẩu giấy, dán ở nơi để ô, nội dung: “Bác Kitagawa ghét HS VN vì có người lấy cái ô của bác!”.
Hàng loạt người xông vào… kết bạn với bác Gen Kitagawa để xin lỗi và bày tỏ sự xấu hổ của người Việt khi trong cộng đồng Việt Nam lại có người xấu đến mức trộm cả cái ô của bác. Có người kêu gọi ai đã lấy ô của bác nên mang trả lại để rồi sau đó thêm nhiều người xót xa khi chẳng có chiếc ô nào được trả về. Chỉ một số ít người đặt câu hỏi với bác Gen Kitagawa về cơ sở khiến bác kết luận học sinh Việt Nam lấy ô của bác. Không chứng minh được, bác Gen đã ngỏ lời xin lỗi trên trang cá nhân, tháo bỏ mẩu giấy của mình và thay bằng một mẩu giấy khác…
Nội dung mẩu giấy mới: “Kẻ lấy cái ô của bác ở đây chắc sung sướng không bị ướt. Mầy vui mừng thì cười lên đi. Trong lúc mầy cười tao phải khóc mà!”. Không kết luận học sinh Việt Nam lấy ô của bác nữa, nhưng bác Gen vẫn viết bằng tiếng Việt.
Thêm một cảnh báo khác ở Nhật: Tuyệt đối không lấy ô và giày của người khác để dùng”. Ảnh: Internet
Không chỉ ở Nhật Bản, mà Đài Loan cũng đều có biển cảnh báo về thói trộm cắp vặt của người Việt. Ảnh: Internet
Bức hình chụp tấm biển cấm vứt rác bừa bãi bằng tiếng Việt tại Hàn Quốc. Nội dung ghi trên tấm biển: ‘Khu vực này cấm vứt bỏ rác thải sinh hoạt, nếu như không đúng luật sẽ bị phạt 1 triệu won (khoảng 19 triệu đồng)’. Bên dưới tấm biển ghi danh tính người đứng đầu quận Chilgok (tỉnh Gyeongsang, Hàn Quốc) cùng số điện thoại liên lạc. Ảnh: Internet
Một bức ảnh khác cảnh báo tiếng Việt về thói vứt rác bừa bãi của người Việt ở Hàn Quốc. Ảnh: Internet
Bức ảnh được cho là chụp ở Lào, cảnh báo thói đi vệ sinh bừa bãi bằng tiếng Việt. Ảnh: Internet
Tấm biển với dòng chữ tiếng Việt chưa chuẩn cú pháp dành nhắc nhở những người thiếu ý thức khiến bao người Việt nhìn thấy phải cúi đầu xấu hổ. Ảnh: Internet
Những hình ảnh tranh giành đồ ăn, lấy đồ ăn nhiều vô tội vạ cũng gây tai tiếng cho người Việt. Ảnh: Internet
Tại Thái Lan… Ảnh: Internet
Tại Singapore… Ảnh: Internet
tại Lào. Ảnh: Internet
Trong cuộc sống, đôi khi chính những hành động của người lớn đã vô tình dạy con trẻ những điều xấu. Như người mẹ này, thản nhiên lấy rau câu đút cho con ăn trong siêu thị. Ảnh: Phunuonline
Một người mẹ khác vô tư lấy sản phẩm của siêu thị (ở Saigon) cho con giấu vào túi áo. Liệu chị có dạy đứa trẻ kiềm chế được lòng tham khi nhìn thấy món đồ mình thích? Ảnh: Phunuonline Theo Vietnamnet
VIỆT CỘNG TẠI NGA
https://youtu.be/VL3_d992osI
- Posted by sontrung at 1:03 PM No comments: Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 367 LÊ QUANG VINH * NHỚ VỀ HÀ NỘI Nhớ về “Hà Nội yêu dấu mùa này”… Lê Quang Vinh
Tại London, bất chợt đọc được bài báo “Hà Nội khởi động lại dự án thay thế đá lát hè hồ Gươm” đăng trên VNEXPPESS (Tin nhanh Việt Nam) - Thứ bảy, 30/5/2015 | 10:58 GMT+7; tự nhiên lòng tôi cứ chộn rộn biết bao điều. Trước khi “giải bày” tâm sự của mình trước chuyện “thay thế đá lát hè hồ Gươm”, tôi muốn “Nhớ về Hà Nội” những năm 70 của thế kỷ XX trở về trước, với những con phố và vỉa hè còn nguyên dấu vết chiều dài lịch sử hàng trăm năm đã kiến tạo nên thành phố này của bao thế hệ cha ông (cả người Pháp). Tác giả đứng gần Tháp đồng hồ Big Ben (ngọn tháp của cung điện Westminster)Từ Thủ đô Luân ĐônVới những gì trong trí nhớ thuộc những năm tháng xa xưa ấy về Hà Nội thì nay đã không còn. Nhưng hiện hữu ở nơi đây, trước mặt tôi là Thành Phố London – sừng sững những ngày này cùng lịch sử hình thành nên Vương quốc Anh để hiện tại là một “Đế quốc Anh” giàu có, văn minh thuộc hạng số 1 của thế giới. Tôi thực sự đang được “chung sống” cùng quang cảnh, các công trình kiến trúc, đến những lối mòn, tường vách, hòn đá… đã - đang và sẽ lưu giữ dấu tích lam lũ, tài hoa, linh thiêng của tổ tiên người dân Anh trong quá khứ cùng những người Anh thuộc “thì hiện tại”, cả ở “tương lai”.Giữa Trung tâm Luân Đôn (địa danh điểm trung tâm là Charing Cross), nơi có bức tượng Vua Charles I ngự trị ở giao lộ của Strand, Whitehall và đường Cockspur, ngay phía nam của Quảng trường Trafalgar; từ đây khách tham quan có thể dành thời gian để đi bộ ra khắp mọi phía trên những hè phố được lát và bó hè bằng những viên đá có từ thời cổ xưa cả ngàn năm, mấy trăm năm.Tôi đã thẫn thờ sờ lên vách Nhà thờ Thánh Margaret’s, được xây dựng từ năm 1523 bằng một loại đá có màu “vàng đậm - nâu nhạt” rất đặ biệt. Dưới ánh nắng ban ngày hoặc ánh điện ban đêm thì nó rực lên như được dát vàng. Hàng trăm ngàn vạn viên đá được đục đẽo phẳng lì, đều đặn xây xếp lên nhau qua những mạch vữa nhỏ như sợi chỉ. Nhà thờ St Margaret’s, tu viện Westminster tọa lạc tại khu vực tu viện Westminster thuộc Quảng trường Nghị viện (sở dĩ có tên này là vì Nhà thờ được xây cất để cung hiến cho Thánh Margaret’s thành Antiochia). Từ năm 1614, Nhà thờ Thánh Margaret’s trở thành nhà thờ dành riêng cho các nghị sĩ của Hạ Nghị viện. Ngày nay, đây là nhà thờ giáo xứ của Hạ Nghị viện Vương quốc Anh. Cung điệnWestminster, tu viện Westminster và Nhà thờ Saint Margaret’s được UNESCO công nhận là “Di sản Lịch sử - Văn hóa thế giới” năm 1987 (kì thứ thứ 11).
NB Lê Quang Vinh cùng vợ là BS Phan Thị Xuân Hương, trước Nhà thờ St Margaret’s.Còn những viên đá dưới chân tôi, dưới gót chân của muôn người đang nhộn nhịp đi kia; theo bước giày hắt lên muôn tiếng kêu “lộp bột”, “lóc cóc”…mà ngỡ như tiếng vó ngựa của những chiếc xe song mã, tam mã, tứ mã chở người, chở hàng qua lại tấp nập của ngày xa xưa…Những viên đá lát và bó hè này - cùng thời đại với Cung điện Westminster, tu viện Westminstervà Nhà thờ Saint Margaret’s, như đang lầm lũi “tự bạch” lịch sử của đất nước mình đối với muôn thế hệ du khách khi họ có dịp được đặt chân đến Thành London…
“Hà Nội yêu dấu mùa này”Mới 14 tuổi - năm 1961, tôi lặn lội suốt 3 ngày đường với 3 chặng xe ô tô cùng người em con chú ruột là Lê Quang Lương (con trai cụ Lê Duy Hữu 1914 - 1945), hơn tôi khoảng 10 tuổi; từ quê hương Hòa Ninh - Ba Đồn vào Thị xã Đồng Hới để ra Vinh – Nghệ An và vinh dự có mặt tại Thủ đô Hà Nội. Tuy còn thơ bé, nhưng tôi đã chú ý đến những điều ngỡ như “rất nhỏ” trên từng vỉa hè của Hà Nội như hôm nay tôi (cũng lại) sững sờ (chú ý) trước những điều (ngỡ như “rất nhỏ”) của phố xá London. Tôi nhớ hồi đó - cho đến mãi 20 năm sau này, vỉa hè từng con phố nhỏ như Trần Bình Trọng, Hàng Chuối, xóm Hạ Hồi, Trần Quốc Toản…đến những đại lộ: Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Lê Thánh Tông… (Hà Nội ngày ấy, có lẽ chỉ có mấy “đại lộ” thế này thôi); rồi những phố cổ luôn náo nhiệt "người mua kẻ bán":
Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Bạc, Hàng Đường, Đồng Xuân…đều được lát gạch đúc xi măng hoặc gạch đất nung “Bát Tràng” vuông vắn, kích thước khoảng cỡ 30x30cm (dân gian gọi “gạch sân đình”); còn đá bó hè là những viên đá lèn xanh Thanh Hóa hay Ninh Bình, được chế tác thủ công còn lộ nguyên sơ những vết đục đẽo bằng tay. Thường thì lối cho xe ô tô lên xuống, vào ra trước các nhà lớn, vila, công sở, hoặc công trình công cộng như “Cửa hàng Mậu dịch Quốc doanh Cửa Nam”, Cửa hàng “ Bách hóa tổng hợp” (lối cho ô tô cấp hàng phía Hai Bà Trưng), “Nhà in Báo Nhân Dân” (ở phố Tràng Tiền); Khác sạn “Thống Nhất - Metropole” (ngõ số 11B Lê Phụng Hiểu để vào khu hậu cần)…người ta lát những phiến đá tảng, cũng loại đá lèn rất dày, cỡ phải trên 50x50cm để chịu tải trọng và rất bền chắc.
Cung điện Westminster (Tòa nhà Quốc hội).
Đặc biệt nhất là thềm Nhà Hát Lớn, được xây cất bằng những phiến đá tự nhiên đục đẽo thủ công mà đều tăm tắp. Những viên lát ngoài cùng mỗi bậc, có gờ hoa văn chạm nổi chống trượt. Bề mặt từng viên đá rất phẳng nhưng vẫn còn nguyên những vết đục nhỏ bằng đầu đinh nên có độ bám cho người lên xuống không bị té ngã. Thềm Nhà Hát Lớn như một sân khấu ngoài trời hoành tráng.Thế mà, sau mấy năm đất nước thống nhất – “cao điểm” là thời gian từ “đổi mới” đến nay, bộ mặt Hà Nội nói chung và vỉa hè Hà Nội nói riêng, đã “đổi mới” đến mức…vô lý! Không những “vô lý” mà phải nói là “quá vô lý”, bởi gần như 100% hè phố Hà Nội, từ các khu “phố Tây”, “phố cổ” đến mọi ngõ ngách đường ngang lối dọc…cứ theo cách làm mới: chỉ trong một vài năm (có những đoạn phố chỉ nửa năm – chuyện thật như “bịa”), lại được đào lên bới xuống không biết bao nhiêu lần để thay đi thay lại bấy nhiêu loại gạch, viên lát mới với nhiều chủng loại khác nhau (viên lát đúc bẳng xi măng cát, gạch block tự chèn, gạch nem đất nung…). Cùng với đó, hàng chục cây số hè phố được bó bởi hàng trăm vạn viên bó hè bằng đá lèn xanh tự nhiên tồn tại cả mấy trăm năm rồi, độ bền chắc còn có thể kéo dài tới “thiên niên vạn kỷ” ấy, đã bị đào vứt bỏ để cải hoán bằng những viên bó hè bằng xi măng “mới toanh” gây bao nhiêu sự tốn kém (đương nhiên là từ tiền thuế và “tiền vay” thì người dân cũng phải gánh đủ cả!).
Cho nên cả Thành phố Hà Nội bây giờ, không thể kiếm tìm đâu ra được “vết tích lịch sử” qua những viên đá bó hè hoặc những viên gạch lát thời trước tiếp quản (1954) như những viên đá cổ trên vỉa hè các đường phố London đang bền bỉ, nhẫn nại "tự kể lại" những câu chuyện của đất nước mình cho khách thập phương...Thềm Nhà Hát Lớn là dấu tích tài hoa của biết bao người thợ đá thủ công VN “trơ gan cùng tuế nguyệt” suốt cả trăm năm tồn tại, vẫn nguyên sơ không hề bị nứt vỡ; đã lưu dấu chân bao thế hệ nghệ sĩ, khán thính giả, chính khách và lớp lớp con dân nước Việt – đặc biệt hàng vạn những bàn chân trần của đồng bào, tự vệ Hà Nội vùng lên làm cuộc Cách mạng Tháng 8/1945; những cuộc mít tinh tưng bừng của hàng vạn cán bộ, bộ đội, thanh niên, học sinh, nhân dân trước mỗi lễ xuất quân vào Nam chiến đấu thời kháng chiến “chống Mỹ, cứu nước”…Thế mà khi trùng tu (1995 – 1996), người ta phá bỏ hoàn toàn hệ thềm Nhà Hát Lớn cũ vô giá này, thay bằng một bộ thềm đá mới mà những phiến đá được gia công bằng máy cưa máy mài nhẵn thín, lát lên trông như mọi vỉa hè tầm thường. Khả năng chống trơn trượt gần như “bằng không” vì bề mặt không còn đường gờ hoa văn của đầu mỗi bậc đá.Tình hình này đã trở nên rất “bình thường” của Hà Nội và nhiều địa phương, một phần chủ yếu xuất phát từ điều rất “ngược” lâu rồi. Đó là cứ đến dịp những ngày “lễ lớn” của dân tộc hoặc của Đảng, chúng ta lại “ra quân” chỉnh trang, xây mới mọi thứ để “chào mừng”! Vào những ngữ này, mọi cấp, mọi ngành, mọi địa phương trong thành phố…mặc sức đập phá, đào bới để “làm đẹp” lại lòng lề đường và nhiều công trình phúc lợi khác khi mọi kinh phí (chi tiêu “hợp lý”) đã được lo toan theo “kế hoạch”!. Điển hình của những “điển hình” này là dịp chỉnh tranh Thủ đô Hà Nội để chào mừng “Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội”, sau gần 15 năm, nghe đâu hàng trăm nghìn tỷ đồng hiện vẫn chưa thể…“hạch toán” xong?!.Gần đây, các nhà quản lý Hà Nội “nghĩ lại” hay sao ấy nên có chủ trương "hoài cổ" (hay một cách “làm ăn” mới?) là cho thay mới những viên “đá máy” để lát hè và bó hè lác đác ở một số tuyến phố (vẫn là đá xanh tự nhiên nhưng được sản xuất bằng máy cắt mài công nghiệp thành sản phẩm trơn tru, nhẵn thín – nghe nói là từ Thanh Hóa – quê hương của Bí thư Thành ủy đương nhiệm).Cũng có lẽ với tư duy và cách làm từ dịp “Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội” vẫn còn “quán tính” rất mạnh, nên những ngày cuối tháng 5 – đầu tháng 6 này, “Hà Nội khởi động lại dự án thay thế đá lát hè hồ Gươm”.Bài báo trên VNE có đoạn: “Sau 5 năm dừng dự án do vấp phải phản ứng của người dân, thành phố Hà Nội vừa có văn bản thống nhất chủ trương cho quận Hoàn Kiếm tái thực hiện dự án trên.Ngày 29/5, Văn phòng UBND TP Hà Nội phát đi thông báo ý kiến của Phó chủ tịch Nguyễn Quốc Hùng về đề nghị cải tạo chỉnh trang đô thị xung quanh hồ Gươm của quận Hoàn Kiếm. Đồng ý cho tái triển khai dự án, ông Hùng yêu cầu các đơn vị liên quan rà soát cụ thể các hạng mục cần tải tạo, chỉnh trang, phương án bổ sung, cách thức tổ chức thực hiện, báo cáo thành phố trong tháng 6.
Một đoạn vỉa hè hồ Gươm được lật lên lát đá xanh cỡ lớn năm 2014
Theo UBND quận Hoàn Kiếm, dự án được thành phố giao quận làm chủ đầu tư, thực hiện bằng ngân sách quận để chào mừng Đại lễ 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, triển khai xây dựng năm 2010. Trong quá trình triển khai, do không nhận được sự đồng thuận của người dân, chủ tịch thành phố đã chỉ đạo tạm dừng dự án để lấy ý kiến nhân dân. “Kết quả lấy phiếu, tỷ lệ người dân đồng tình ủng hộ triển khai dự án 87,8%”, quận Hoàn Kiếm thông báo.Lãnh đạo quận Hoàn Kiếm cho hay, từ kết quả lấy ý kiến người dân, quận đã có văn bản đề nghị và được thành phố cho tiếp tục triển khai dự án từ năm 2012. Tuy nhiên, thời điểm trên đang có một số nghiên cứu quy hoạch và thiết kế đô thị liên quan đến hồ Gươm nên dự án chưa triển khai. Ngày 22/5, quận Hoàn Kiếm tiếp tục đề nghị và thành phố thống nhất chủ trương bằng thông báo ngày 29/5”.Lời của một Kỹ sư ngành Xây dựng Hà NộiPhản ứng trước việc cũng rất… “điển hình” và mới này, một số trang mạng có tiếng trong nước, lập tức đăng tải ý kiến của một kỹ sư (chắc chắn là rất am hiểu, vì nội dung ý kiến rất có lý), tên là Lê Dũng, như sau: “SỰ NGU XUẨN VÀ THAM LAM CỦA DỰ ÁN LÁT ĐÁ HỒ GƯƠM Về mặt khoa học, thằng nào dân kiến trúc hay xây dựng mang ý tưởng lát đá tấm lớn ra hè hay phố là cực ngu và vô học, chắc mấy thằng đó không học về vật liệu ngày nào.Hè phố vì sao phải lát gạch tự chèn ? Vì sao không bắt mạch xi măng các khe gạch? Vì sao gạch chỉ kích thước vừa phải, chi 100 'x 200 hay 200 x 200 là chính? Đó là nguyên tắc để khi mưa thì nước có phần thoát vào cống, có phần ngấm vào đất qua khe gạch, dưới gạch là cát đầm trên đất nên sẽ có nước thấm xuống cho cây cối, cũng giúp thoát nước mưa một phần. Gạch chèn bản thân nó rất rẻ, dễ sx, mặt lại không bị mòn trơn, thay thế dễ, sản xuất bằng vật liệu rẻ và tận dụng cát, đá nhỏ để sx ra nó. Đá xanh là tài nguyên Quốc gia, giá đắt, lát khó, không thoát nước được, bị mòn thì trơn trượt nguy hiểm...Đấy, thấy bọn quản lý HN nó ngu thế nào chưa, chúng chỉ tìm cách ăn và ăn thôi, không quan tâm đến tối ưu kỹ thuật và kinh tế cho ngân khố”. Riêng tôi, chỉ một thứ không đồng ý với kỹ sư Lê Dũng là: những người quản lý của Hà Nội không “NGU” chút nào cả, khi họ “khởi động” và sắp sửa “vận hành” thành công lại “DỰ ÁN LÁT ĐÁ HỒ GƯƠM” với “Kết quả lấy phiếu, tỷ lệ người dân đồng tình ủng hộ triển khai dự án 87,8%”! LQVPosted by sontrung at 12:23 PM No comments: Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 367 Tuesday, June 9, 2015 THƠ NGUYỄN QUỐC CHÁNH Quê Hương và Chủ Nghĩa
Tác Giả : Nguyễn Quốc Chánh,
Saigon
Chủ nghiã dạy em, thù hận hờn căm.
Chủ nghiã dạy em, độc ác bất nhân
Chủ nghiã dạy em, lọc lừa xảo trá
Chủ nghiã dạy em, dối gian trăm ngả
Chủ nghiã dạy em, bội phản vong ân.
Chủ nghiã dạy em, giết chết lương tâm
Chủ nghiã dạy em, vô thần đấu tố.
Chủ nghiã mù, rước voi dày mả Tổ. Chủ nghiã ngu, thờ đồ tể ngoại bang.
Chủ nghiã bưng bô, xây dựng thiên đàng.
Chủ nghiã lừa em, những con bò sữa.
Chủ nghiã bất lương, ma cô nhà chứa.
Chủ nghiã tú bà, dụ dỗ thơ ngây.
Chủ nghiã cò mồi, vơ vét luôn tay.
Chủ nghiã cai thầu, bán buôn Tổ-Quốc/ Chủ nghiã lưỡi câu, móc mồi dân tộc.
Chủ nghiã bịp lừa, bánh vẽ tự do,
Chủ nghiã cá ươn, tư tưởng vong nô
Chủ nghiã chết đi, Quê Hương vẫn sống
Ai nhân danh hạnh phúc
Thứ hạnh phúc ngục tù
Ai nhân danh dân chủ
Thứ dân chủ si ngu.
Ai nhân danh chân lý
Thứ chân lý đui mù
Bao nhiêu năm, ai nhân danh chủ nghiã,
Tự-Do xích xiềng, Dân-Chủ dối gian
Mác-Lênin, đâu phải người Việt Nam
!
Sự thật đó có làm em đau nhói ?
Vẫn chập chờn lượn bay bầy quạ đói
Chồn cáo kia có rình rập trước sau ?
Ngẩng mặt cao và đừng sợ đớn đau.
Đứng lên em bằng tâm hồn biển động.
Em đứng lên như đại dương dậy sóng
Tiếng sét thần tuổi trẻ nổ ầm vang
Những tượng hình, chủ nghiã, phải tiêu tan
Cây Dân-Chủ bừng lên ngàn sức sống,
Em bây giờ khôn lớn
Mắt rực lửa yêu thương,
Biết đâu là sự thật
Em tìm thấy con đường.
Tự-Do sẽ nở hoa
Trên quê hương khốn khó
Anh như con ngựa già
Vẫn cúi đầu kiên nhẫn
Đốt những đám cỏ khô
Dọn đường cho em đi làm lịch sử.
Nhà thơ Nguyễn Quốc Chánh sinh năm 1958 ở Bạc Liêu, hiện sống
tại Sài Gòn. Tác giả của nhiều tập thơ như Ðêm mặt trời mọc, Khí hậu đồ vật và
Của căn cước ẩn dụ, Ê, tao đây.. Thơ của ông đã được nhiều tác giả dịch ra tiếng Anh. Trong
bài phỏng vấn dành cho nhà văn Vi Ký, nhà thơ Nguyễn Quốc Chánh nhận xét về đảng Cộng Sản:
“Ðảng Cộng sản
thắng Tây và Mỹ bằng máu của dân tộc, bằng
vũ khí của Nga và Tàu, rồi nộp “độc lập
dân tộc” cho cộng sản Tàu và Nga.
Ai chỉ ra tình trạng thế chấp và bán đứng đó
đều bị cho là phản động. Kẻ phản động có thể gây
tai họa cho Ðảng nhưng lại là phúc của
dân.
Những ai vì Ðảng sẽ kết án kẻ phản động, còn những ai vì con người thì sẽ hoan hô kẻ phản động.
Hãy nhớ câu nói lịch sử của ông Nguyễn Văn
Thiệu:
“Ðừng tin những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn những
gì cộng sản làm”.
(Gửi
tuổi trẻ Việt Nam )
Em hãy ngồi xuống đây
Anh kể câu chuyện này
Trên cánh đồng cỏ cháy
Ngậm ngùi như khói bay
Con ngựa già một đời
Chưa thấy được ngày vui
Mắt mỏi mòn trông đợi
Những mầm cỏ xanh tươi.
Đã bao nhiêu năm rồi
Hướng nhìn về xa xôi
Tâm tư đau nhức nhối
Cuộc đời vẫn nổi trôi
Em nhìn về tương lai
Cố dấu tiếng thở dài
Mắt dường như ngấn lệ
Có phải vì khói cay?
Em thấy đó, trên đường đi không đến,
Quê hương đau, chồn cáo vẫn nghêng
ngang
Những con thú người nhảy múa kiêu căng
Ngửa mặt hú một bài ca chủ nghiã.
Ngôn ngữ văn nô, đỉnh cao trí tuệ...Posted by sontrung at 12:13 PM No comments: Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 367 LÊ VĂN NGHĨA * HỒN TÔI Ơi Em, Bắt Hồn Tôi Về Đâu…Thoạt đầu, tôi định đặt tựa bài này là “Thiên đàng mơ mộng”, vì thấy thật đúng tâm trạng của những thằng học sinh Petrus Ký chúng tôi thời đó. Thời chúng tôi có rất nhiều thiên đàng mơ mộng: “Em theo trường về... áo dài tà áo vờn bay” (1).1. “Thiên đàng” của những thằng tóc hớt ngắn, quần xanh áo trắng là nơi các nữ thiên thần áo dài trắng túa ra như lũ chim bồ câu sau giờ tan học của Trường Nữ sinh Gia Long. Thằng học sinh Petrus Ký Sài Gòn nào mà chẳng mơ được “mần quen” cùng một em áo dài.Phượng vĩ và đàn bồ câu Áo trắng Gia Long ngày xưa Phía bên hông cổng Trường Gia Long, trước cổng chùa Xá Lợi, “cạnh tranh” với những chiếc xe bán bò bía, gỏi đu đủ là những chàng quần xanh áo trắng Petrus Ký đang gửi hồn qua cánh cổng thâm nghiêm có từ năm 1915 với cái tên thơ mộng “Trường nữ sinh Áo Tím”.Nghe kể lại, trường được thành lập do đề nghị của nghị viên Hội đồng quản hạt Nam kỳ Lê Văn Trung cùng vợ của tổng đốc Phương và một số trí thức người Việt. Khóa đầu tiên (1915) trường tuyển 45 nữ sinh với đồng phục là áo dài tím. Những đời hiệu trưởng đầu toàn là người Pháp.Năm 1949, nữ sinh Trường Áo Tím cùng nam sinh Trường Petrus Ký tổ chức bãi khóa kỷ niệm ngày Nam kỳ khởi nghĩa nên chính quyền đã đóng cửa trường. Năm 1950, sau một cuộc đấu tranh, biểu tình dài ngày với sự ủng hộ của phong trào học sinh lúc ấy, trường được mở cửa lại.Đánh dấu sự kiện quan trọng này, sau bảy đời hiệu trưởng trường là người Pháp, lần đầu tiên trường có nữ hiệu trưởng là người Việt: bà Nguyễn Thị Châu. Năm 1953, Trường Áo Tím đổi tên thành Trường nữ trung học Gia Long. Áo dài tím được thay bằng áo dài trắng với phù hiệu là bông mai vàng. Chương trình giáo dục bằng tiếng Pháp được chuyển sang quốc ngữ.Biết đâu chính “mối tình” gắn kết tranh đấu của Áo Tím và sau đó Gia Long trong những năm về sau đã gắn kết “trai Petrus Ký, gái Gia Long” trong những mối tình thật và ảo của lứa tuổi học trò. Hãy mơ đi những chàng trai Petrus về “thiên đường” tuổi nhỏ dại của mình!2. Khoảng giữa thập niên 1970, bài hát Con đường tình ta đi của nhạc sĩ Phạm Duy làm xáo động những trái tim mới lớn với những lời ca mộng mị: “...Lá đổ để đưa đường/ Hỡi người tình Trưng Vương” Tôi không biết đó là lời cảm thán của chàng trai nào. Nhưng có lẽ thích hợp hơn xin hãy cho chàng trai ấy là người của Trường Chu Văn An. Như một mặc định, “trai Petrus Ký, gái Gia Long” thì nữ sinh Trường Trưng Vương lại là “của riêng” của những Nam sinh Trung học Chu Văn An mặc dầu hai trường cách trở về mặt địa lý một quãng đường khá dài.Trường chàng thì ở tận nhà thờ ngã sáu, đường Minh Mạng, còn “thiên đường” của nàng là trường Nữ Trung Học Trưng Vương ở đối diện Sở thú - Thảo cầm viên, số 3 Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tội nghiệp cho nam sinh Trường Võ Trường Toản cùng ăn chung xe gỏi bò với các nàng nhưng chỉ đứng xa ngắm những chàng trường Chu Văn An đón nàng mà hát câu cảm thán: “Trưng Vương hôm nay mưa vẫn giăng đầy trời/ Bóng người thì mịt mùng/ Từng hàng me rung rung” (2). Nữ sinh Trưng Vương - Lối xưa áo trắng hồn thu thảo (1960)Có lẽ “nhân duyên tiền định” của hai trường này đều xuất phát từ “người phương Bắc”. Học sinh Chu Văn An đa số là người miền Bắc và Trường Trưng Vương cũng vậy. Điều này cũng dễ hiểu vì Trường Trưng Vương là ngôi trường có gốc gác từ Hà Nội.Theo “gia phả”, trường được thành lập từ năm 1925, trên con đường Đồng Khánh, phía nam hồ Gươm mang tên Trường Nữ trung học (College de Jeunes Filles), ngôi trường nữ trung học đầu tiên và duy nhất của nữ giới miền Bắc. Vì nằm ở đường Đồng Khánh nên còn được gọi là Trường Đồng Khánh. Đến năm 1948 trường được chuyển đến đường Hai Bà Trưng (Hà Nội) và đổi tên là Trường Trưng Vương. Năm 1954, một số giáo sư và học sinh di cư vào Sài Gòn và thành lập lại Trường Trưng Vương.Năm học đầu tiên phải học nhờ cơ sở của Trường nữ trung học Gia Long. Mãi cho đến năm 1957, Trường Trưng Vương dời về số 3 Nguyễn Bỉnh Khiêm (nguyên trước đó là Quân y viện Coste của quân đội Pháp).“Hành lang ấy xa dần xa bước chân người - Một thoáng trường xưa đã nghe thời gian thoi đưa” … (Tình Thơ của Hoài An)Bởi vậy ta không lấy làm lạ khi đây là một trong những ngôi trường mang đậm dấu ấn kiến trúc Pháp và được bình chọn là ngôi trường có kiến trúc đẹp nhất Sài Gòn. Nhờ là học sinh Trưng Vương nên mỗi lần làm lễ kỷ niệm Hai Bà, nữ sinh Trưng Vương được ưu tiên tuyển chọn làm Trưng Trắc, Trưng Nhị cưỡi voi trong lễ diễu hành.Ngày lễ kỷ niệm Hai Bà Trưng – Sài Gòn trước 1975Có lần đi xem lễ diễu hành trên đường Thống Nhất (nay là đường Lê Duẩn), khi hai nàng học trò Trưng Vương ngồi trên voi “phất ngọn cờ vàng” đi ngang, tôi thấy thằng bạn có vẻ phấn khích. Tôi hỏi: “Mầy thích “ghệ” áo vàng hả?”. Nó trả lời buồn xo: “Không, tao thích con voi. Bây giờ tao ước gì mình được làm con voi”.Rồi nó cảm thán nhại theo thơ của Nguyễn Công Trứ: “Kiếp sau xin chớ làm người/ làm voi nàng cưỡi, cái vòi đung đưa”. Sau này tôi mới biết cô gái đóng vai Trưng Trắc - áo vàng đó đã cho chàng leo cây, “Trưng Vương vắng xa anh dần. Mùa thu đã qua một lần. Còn đây bâng khuâng”.(2) Ôi, tội nghiệp một thời mê gái !3. “Áo dài trắng em mang mà anh nhớ...” đâu chỉ ở Sài Gòn. Ở một vùng trời tỉnh Gia Định, những chiếc tà áo của nữ sinh Trường nữ trung học Lê Văn Duyệt vờn bay thật nhẹ nhàng, thanh khiết. Tôi khoái chữ “vờn bay” của nhà thơ Phạm Thiên Thư hơn chữ “tung bay” của nhạc sĩ Từ Huy khi nói về chiếc áo dài của nữ sinh trung học. Chữ “tung” có vẻ gì đó mạnh bạo quá khi nói về chiếc áo dài vốn dĩ đằm thắm.Thật thiệt thòi khi ngôi trường này không được nhắc đến trong âm nhạc hoặc thơ ca, có lẽ những chàng thi sĩ, nhạc sĩ chỉ thích tụ tập ở Sài Gòn mà bỏ quên một ngôi trường nữ làm đẹp và trắng khung trời Gia Định.“áo ai trắng quá nhìn không ra”...(thơ Hàn Mặc Tử)...Từ Sài Gòn, xuôi theo đường Đinh Tiên Hoàng, quẹo tay mặt, qua cầu Bông một đoạn, nhìn sang tay trái là một ngôi trường kiến trúc kiểu hiện đại hơn trường Gia Long và Trưng Vương. Chuyện cũng dễ hiểu vì năm 1960, tòa tỉnh trưởng Gia Định đã dùng một khu đất trước kia là ao rau muống để xây dựng trường trên đường Lê Văn, gần Lăng Ông thuộc xã Bình Hòa (tỉnh Gia Định). Trước kia trường mang tên Trương Tấn Bửu, thành lập năm 1957, có hai lớp đệ thất một nam và một nữ, học nhờ tại trường nam tỉnh lỵ (nay là Trường THCS Lê Văn Tám).Năm 1959, lớp nam sinh chuyển về Trường Hồ Ngọc Cẩn (nay là Trường Nguyễn Đình Chiểu). Khi xây dựng xong, trường được đặt tên là Trường nữ trung học Lê Văn Duyệt và chương trình học bắt đầu từ lớp đệ thất đến lớp đệ nhị. Học sinh nào đậu tú tài I sẽ chuyển sang học Trường Trưng Vương. Khoảng năm 1965-1966 trường mới có lớp đệ nhất. So với hai trường nữ đàn chị thì nữ sinh Lê Văn Duyệt nào có kém cạnh chi, cũng làm những chàng trai thốt lên: “Ơi em, bắt hồn tôi về đâu?”...Có những chàng trai lãng mạn thì cũng có những chàng trai rất thực tế. Hiệp mập, thằng bạn của tôi, phát biểu: “Tao không lấy vợ là “ghệ” Gia Long, yểu điệu thục nữ quá cỡ, tao chỉ muốn vợ tao là nữ sinh Trường Sương Nguyệt Anh”. Tôi sửng sốt vì Trường nữ trung học tổng hợp Sương Nguyệt Anh mới vừa thành lập năm 1971.Sau Mậu Thân 1968, một góc đường Minh Mạng, Sư Vạn Hạnh gần chùa Ấn Quang bị cháy rụi. Vài năm sau đó, chung cư Minh Mạng ra đời, phía bắc của chung cư, ngay góc đường Hòa Hảo, Minh Mạng (nay là đường Nguyễn Chí Thanh), Trường nữ trung học tổng hợp Sương Nguyệt Anh cùng được xây dựng.Không phải thằng Hiệp mập không có lý của nó, vì nữ sinh trường này được học một chương trình giáo dục hoàn toàn mới. Đây là ngôi trường nữ đầu tiên tại VN với lối giáo dục theo phương pháp tổng hợp theo mô hình của các nước tiên tiến thời ấy. Song song với việc giảng dạy như các trường công lập khác, trường còn dạy thêm kinh tế gia đình (tức nữ công gia chánh, may vá nấu ăn), môn doanh thương (tức kế toán đánh máy), âm nhạc (đàn tranh, piano), hội họa, nghệ thuật cắm hoa, và cả môn võ aikido, vovinam.Ngay từ năm lớp 6, nữ sinh Trường Sương Nguyệt Anh đã được học cả hai sinh ngữ Anh và Pháp khi mà học sinh công lập các trường khác chỉ được học một sinh ngữ. Trường được trang bị một phòng thính thị máy móc rất tối tân để luyện giọng chính xác với giáo sư ngoại quốc, một phòng thí nghiệm đầy đủ dụng cụ.Với lối giáo dục mới mẻ này, sau bảy năm trung học, nữ sinh trường có cơ hội thành một thiếu nữ VN văn võ song toàn. Còn theo thằng bạn tôi, giúp ích xã hội được hay không thì chưa biết, nhưng chắc chắn là một bà xã biết dạy chồng bằng võ vovinam và tài nội trợ.Sài Gòn, cùng với những trường nữ trung học công lập Gia Long, Trưng Vương, Lê Văn Duyệt, Sương Nguyệt Anh cũng còn trắng trời áo dài với những trường nữ trung học tư khác như Thánh Linh, Hồng Đức... đã nhốt hồn những chàng trai mặt bắt đầu nổi mụn trứng cá và vỡ giọng với những thổn thức “áo ai trắng quá nhìn không ra”..(thơ Hàn Mặc Tử)..Những cô nữ sinh với những ngôi trường ấy đã là một phần hồn của chúng tôi, một phần hồn của Sài Gòn đã đào tạo những nữ lưu anh kiệt về các mặt chính trị, văn hóa, khoa học, và tiếp tục những nữ lưu anh kiệt lại là những anh kiệt nữ lưu khác.Cảm ơn Sài Gòn đã có những ngôi trường ấy cho tôi nhớ. Cảm ơn Sài Gòn có những ngôi trường thiên đàng tuổi nhỏ dành riêng cho chàng trai mơ về những mái tóc, những chiếc áo dài trắng vờn bay... vờn bay! Chú thích:(1): Ngày xưa Hoàng Thị - thơ Phạm Thiên Thư, nhạc Phạm Duy. Ngày ấy, trên toàn miền Nam, đồng phục cho nữ học sinh là áo dài trắng, quần trắng (hoặc đen), nam học sinh là quần xanh, áo trắng và đeo phù hiệu mang tên trường trên áo. Không có đồng phục cho riêng từng trường như bây giờ. Lúc ấy chỉ có Trường trung học công lập Mạc Đĩnh Chi nam sinh và nữ sinh học chung.(2): Trưng Vương khung cửa mùa thu - nhạc và lời Nam Lộc.(*): Trường Gia Long nay là Trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai. Trường Petrus Trương Vĩnh Ký nay là Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong. Trường Lê Văn Duyệt nay là Trường THPT Võ Thị Sáu. Trường Sương Nguyệt Anh nay là Trường THPT Sương Nguyệt Anh.Lê Văn Nghĩa Posted by sontrung at 12:09 PM No comments: Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 367 Monday, June 8, 2015 TIN TỨC QUỐC TẾ
Thứ ba, 09/06/2015 Xem Tin tức / Thế giới / Châu Á Tranh chấp Biển Đông sẽ làm bùng nổ Thế chiến Thứ ba?
Tàu chiến Trung Quốc bắn tên lửa trong một cuộc tập trận ngoài khơi Biển Đông.
Vụ tranh chấp ở Biển Đông sẽ gây ra một trận đại chiến thế giới. Đó là một dự báo mà một số người tỏ ý nghi ngờ, trong lúc các học giả Mỹ và những nhà đầu tư ở New York ra sức tìm hiểu những ảnh hưởng chính trị, quân sự và kinh tế của vụ tranh chấp chủ quyền biển đảo này giữa Trung Quốc với các nước vùng Đông Nam Á.
Trong thời gian gần đây, Hoa Kỳ và Trung Quốc đã không ngớt đả kích lẫn nhau vì những hoạt động xây dựng qui mô lớn mà Bắc Kinh thực hiện để biến những bãi cạn có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông thành những sân bay.
Hôm thứ bảy vừa qua, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Ashton Carter cho biết Washington chống đối “việc quân sự hoá thêm nữa” những nơi có tranh chấp. Trong khi đó, một quan chức cấp cao của quân đội Trung Quốc, Thượng tướng Tôn Kiến Quốc, đã lên tiếng bênh vực cho việc xây đảo nhân tạo ở Biển Đông mà ông cho là “hợp tình, hợp lý và hợp pháp.”
Ông Gordon Chang, tác giả cuốn “Sự sụp đổ sắp tới của Trung Quốc”, cho rằng Biển Đông có thể sắp sửa trở thành “Vùng Đại Chiến.”
Phát biểu hồi tuần trước tại một cuộc hội thảo của Hiệp hội Không quân Mỹ, ông Chang nói rằng Hoa Kỳ sẽ có những hành động mới để đáp lại thái độ và cách hành xử hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông, và khung thời gian của những hành động mới đó là ngay lúc này.
Ông nói “Hải quân Mỹ rõ ràng là đang trắc nghiệm những tuyên bố độc quyền của Trung Quốc ở Biển Đông.” “Chúng ta phải làm như vậy, bởi vì nếu có một chính sách đối ngoại nhất quán của Mỹ trong vòng hai thế kỷ, thì đó chính là sự bảo vệ quyền tự do hàng hải,” ông Chang nhận định như vậy, và cho biết tiếp “Giờ đây Trung Quốc đang xâm phạm điều đó, nên tôi nghĩ rằng chúng ta có lẽ sẽ hành động trong một khung thời gian rất ngắn.”
Chiến đấu cơ của Mỹ trên boong tàu sân bay USS George Washington, phía sau là tàu USS Cowpens, trong vùng Biển Đông, 170 hải lý từ Manila (Ảnh tư liệu).
Theo ông Gordon Chang, việc Trung Quốc thách thức Hoa Kỳ ở Biển Đông là “một trò chơi kẻ thắng người thua có tính chất kinh điển”, vì Trung Quốc xem Biển Đông là một trong những lợi ích cốt lõi, những lợi ích không thể mang ra thương lượng, trong khi Hoa Kỳ là một cường quốc hải dương trong hai thế kỷ nay. Ông cho rằng đôi bên có thể sẽ nhượng bộ đối với các vấn đề ở Biển Đông, nhưng không bên nào từ bỏ lập trường cố hữu của mình.
Ông Rick Fisher, một nhà nghiên cứu cấp cao của Trung tâm Thẩm định Chiến lược Quốc tế (IASC) cho đài VOA biết rằng mọi người cũng nên lưu ý tới những hoạt động phát triển vũ khí hạt nhân ở Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Ông nói rằng tuy Bắc Triều Tiên giữ yên lặng vào lúc này, nhưng có phần chắc Bình Nhưỡng sẽ tìm cách lợi dụng vụ tranh chấp ở Biển Đông trong tương lai gần.
“Khi nào Bắc Triều Tiên có thể chứng tỏ là họ có thể bắn một phi đạn hạt nhân thì khi đó Bắc Triều Tiên sẽ trở thành một yếu tố, bởi vì Bắc Triều Tiên có thể quyết định theo đuổi sự đối đầu ở mức cao trong một thời gian ở Biển Đông và gây thêm sức ép đối với Hoa Kỳ để nhận được những sự nhượng bộ từ Nam Triều Tiên hoặc từ chính Hoa Kỳ,” ông Fisher nói. Ông nói tiếp “Khi nào có một vụ khủng hoảng thì khi đó Bắc Triều Tiên có thể trở thành một yếu tố rất nguy hiểm.”
Ông Fisher cho rằng tuy lãnh tụ Kim Jong Un của Bắc Triều Tiên có xích mích với chính phủ Trung Quốc, cả hai đều theo chủ nghĩa Cộng Sản và hành động dựa trên ý thức hệ đó.\
Chiến đấu cơ F/A 18 Hornet của Hải quân Mỹ cất cánh từ tàu sân bay USS Nimitz trong một cuộc tuần tra ở Biển Đông, tháng 5/2013.
Ông George Soros, một tỉ phú Mỹ nổi tiếng về những hoạt động tài trợ chính trị, cũng bày tỏ sự lo ngại về sự hung hãn của Trung Quốc ở Biển Đông trong thời gian qua. Phát biểu tại một cuộc hội thảo mới đây của Ngân hàng Thế giới, ông Soros cho rằng nếu Trung Quốc gặp phải những khó khăn lớn trong lãnh vực kinh tế, có phần chắc họ sẽ khởi động một cuộc chiến tranh thế giới để duy trì sự đoàn kết dân tộc và để thoát khỏi những khó khăn kinh tế. Ông Soros cho rằng ngay cả trong trường hợp Trung Quốc và Mỹ không trực tiếp giao chiến với nhau, cũng có nhiều khả năng là xung đột quân sự sẽ xảy ra giữa Trung Quốc với một trong những đối tác an ninh của Mỹ là Nhật Bản; và như thế, Thế chiến Thứ ba có thể bùng nổ.
Ông Tad Daley là giám đốc của dự án tiêu diệt chiến tranh của Trung tâm Nghiên cứu Chiến tranh và Hoà bình. Ông không tán đồng ý kiến cho rằng các vấn đề ở Biển Đông là kết quả của những chiến lược vũ khí hạt nhân của Trung Quốc. Ông nói rằng Trung Quốc dường như chỉ muốn duy trì khả năng răn đe hạt nhân, với mục tiêu là bảo vệ khả năng tấn công thứ nhì mà không phải tấn công phủ đầu hoặc tấn công trước.
Ông Daley cho biết Trung Quốc đã có được khả năng tấn công đợt nhì cách nay nhiều thập niên. “Có lẽ là vào năm 1975, khi Trung Quốc cảnh báo Mỹ chớ nên phát động những vụ tấn công hạt nhân nhắm vào Trung Quốc, bởi vì có phần chắc là một vài đầu đạn hạt nhân vẫn tồn tại và chúng tôi có thể tiêu diệt Los Angles và San Francisco,” ông Daley nói. Ông nói tiếp “Tình hình đó đã tồn tại trong nhiều thập niên…”, và những hoạt động phát triển hạt nhân của Trung Quốc trong thời gian qua không làm thay đổi điều đó “với một cách thức có ý nghĩa.”
Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama hôm thứ hai vừa qua cũng đưa ra một lời cảnh báo nghiêm khắc đối với Trung Quốc là những hoạt động của Trung Quốc để tôn tạo đất đai ở Biển Đông là phản tác dụng và là một mối đe dọa cho sự thịnh vượng của Đông Nam Á.
Mỹ tăng cường quan hệ công nghiệp quốc phòng với VN, Ấn Độ
Chỉ huy tàu khu trục INS Sahyadri của Hải quân Ấn Độ hướng dẫn Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ tham quan tàu khu trục INS Sahyadri tại Vizag. (Ảnh: Glenn Fawcett/Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ).
08.06.2015
Hoa Kỳ đã có những bước nhằm tăng cường các quan hệ công nghiệp quốc phòng với Hà Nội và New Dehli, dọn đường cho công nghệ quốc phòng Mỹ tiến vào hai thị trường đang phát triển này, trong khi cùng lúc, củng cố các quan hệ chính trị với hai quốc gia đang ngày càng lo ngại hơn về những hành động gây hấn của Trung Quốc trong khu vực.
Bình luận về chuyến công du Châu Á của Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Ashton Carter, trang mạng chuyên về tin tức quốc phòng Defense News nói tại cả hai nước, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã ký thoả thuận khung xác định quan hệ quân sự với Washington trong tương lai.
Nhưng các giới chức Ngũ Giác Đài lưu ý rằng thoả thuận Mỹ đạt được với Ấn Độ đi sâu vào chi tiết hơn so với thỏa thuận với Việt Nam, trang mạng viện dẫn hiệp định quân sự 10 năm với Ấn Độ, bao gồm việc hoàn tất các chi tiết của thoả thuận để cùng sản xuất hai công nghệ mới. Đó là một bộ trang phục chống vũ khí sinh-hóa học dành cho binh sĩ, và một loại máy phát điện dã chiến dùng năng lượng mặt trời. Cả hai dự án nằm trong khuôn khổ một chương trình đặc biệt được phát động vào năm 2012 và do chính ông Carter, thời đó là Phó Bộ Trưởng Quốc phòng Mỹ, thực hiện để tăng cường quan hệ quốc phòng với Ấn Độ.
Nói chuyện với các nhà báo, một giới chức quốc phòng Mỹ nói đây chỉ là bước đầu cho những kế hoạch lớn hơn trong tương lai.
Ông Richard Fontaine, Chủ tịch Trung tâm New American Security, nhận định rằng tuy trị giá của hai dự án vừa kể không mấy đáng kể, tổng cộng mỗi nước chi ra 1 triệu đôla cho cả hai dự án, nhưng ý nghĩa của chúng lớn hơn nhiều, bởi vì đây là một nỗ lực “mang tính chiến lược và rộng lớn hơn”.
Chính phủ Mỹ và Ấn Độ đã thành lập các nhóm cộng tác để tham gia các dự án về công nghệ chế tạo hàng không mẫu hạm và động cơ cho máy bay chiến đấu, là các dự án mà theo ông Fontaine, có tầm quan trọng rất đáng kể.
An ninh biển là chủ đề chính trong chuyến công du nước ngoài kéo dài 10 ngày của Bộ trưởng Carter, bao gồm chặng dừng chân ở Việt Nam. Tại đây, ông Carter nhấn mạnh vấn đề an ninh biển Đông và kêu gọi Trung Quốc chấm dứt việc xây đảo nhân tạo.
Thoả thuận mà Bộ trưởng Quốc phòng Ashton Carter ký với Việt Nam tuy không cụ thể như thoả thuận với Ấn Độ, nhưng cũng đề cập tới các dự án chung để phát triển công nghiệp quốc phòng.
Thoả thuận này nêu rõ hai nước sẽ nới rộng việc trao đổi các sản phẩm quốc phòng, kể cả hợp tác sản xuất một số công nghệ và thiết bị mới, "dựa trên luật hiện hành và những hạn chế về chính sách" hiện có.
Trang Defense News trích lời một nhà nghiên cứu thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế tại Washington (CSIS), cô Phương Nguyễn, nói rằng thoả thuận giữa Việt Nam và Hoa Kỳ rất đáng khích lệ, nhưng cô cảnh giác rằng một biên bản ghi nhớ năm 2011- hướng dẫn quan hệ quân sự Việt-Mỹ, đã không được thực thi một cách đầy đủ. Cô Phương Nguyễn nói:
“Sẽ còn một số thách thức trên thực địa bởi vì hai quân đội chưa xây dựng được một mức độ tin cậy lâu dài với nhau.”
Cô Nguyễn bày tỏ lạc quan về khả năng của Việt Nam có thể tích cực đóng góp vào các dự án chung với Mỹ, viện dẫn sự hợp tác với Nga trong việc sản xuất các tàu lớp Molniya, là bằng chứng Việt Nam có đủ khả năng công nghiệp để tham gia các dự án hợp tác quốc phòng với Mỹ. Cô cho rằng các dự án này sẽ cho phép Hoa Kỳ chuyển giao công nghệ cho Việt Nam và rốt cuộc, điều này sẽ tăng niềm tin giữa hai quân đội.
Theo các số liệu của Ngũ Giác Đài, Việt Nam hiện mua 90% các thiết bị quân sự cần thiết từ Nga.
Nguồn: Defense News, The Advocate.
Nguồn: Defense News, The Advocate.
Trung Quốc : Thêm một dấu hiệu kinh tế chựng lại
Công nhân lắp đường dây điện tại tỉnh An Huy. Các biện pháp hỗ trợ kinh tế chưa mang lại hiệu quả ở Trung Quốc.Reuters
Nhập khẩu của Trung Quốc giảm trong bảy tháng liên tiếp, xuất khẩu cũng tiếp tục giảm. Các biện pháp kích cầu không đem lại kết quả mong muốn, vì tiêu thụ nội địa dậm chân tại chỗ.
Theo thống kê chính thức vừa được Bắc Kinh công bố ngày 08/06/2015, nhập khẩu của Trung Quốc trong tháng 5/2015 giảm mạnh. So với cùng kỳ năm ngoái, chỉ số này giảm 17,6 %. Đây là tháng thứ bảy liên tiếp tổng kim ngạch nhập khẩu của nền kinh tế thứ nhì trên thế giới sụt giảm. Đáng chú ý hơn cả là tỷ lệ giảm đó đã cao hơn so với hồi tháng 4/2015 và giảm mạnh hơn so với mức dự báo 10 % của hãng thông tấn Bloomberg.
Một chuyên gia thuộc cơ quan tư vấn Capital Economics cho biết nhập khẩu của Trung Quốc giảm mạnh là do giá nguyên liệu liên tục giảm trong thời gian gần đây so với thời điểm của hai quý đầu năm 2014.
Giá đồng, sắt đã giảm theo thứ tự là 5,6 và 8,5 %. Riêng giá dầu thô đã giảm gần 11 % trong 12 tháng qua. Tuy nhiên nếu xét về mặt khối lượng, thì trong tháng 5/2015, Trung Quốc nhập mỗi ngày 5,5 triệu thùng dầu thô thay vì mức 7,7 triệu thùng/ngày như hồi tháng 2/2014. Theo giới quan sát, nhập ít dầu hơn so với trước là một tín hiệu cho thấy guồng máy sản xuất của Trung Quốc đang hoạt động chậm lại.
Về mặt xuất khẩu, sau khi đã giảm 6 % vào tháng 4/2015, trong tháng qua, tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc đạt chưa đầy 191 tỷ đô la, giảm thêm 2,5 %.
Nhìn đến chỉ số tiêu thụ nội địa, các biện pháp hỗ trợ kinh tế và kích thích tiêu thụ, đầu tư được Ngân hàng Trung ương đề xuất từ cuối năm 2014 vẫn chưa mang lại những thành quả mong muốn.
Thêm một lãnh đạo tập đoàn Nhà nước bị điều tra
Ngày 07/06/2015, tập đoàn than lớn nhất của Trung Quốc, CSEC thông báo một lãnh đạo cao cấp của công ty bị điều tra. Không đi sâu vào chi tiết, công ty chỉ đưa tin ông Quế Hạo (Gui Hao ) tạm bị đình chỉ chức vụ phó chủ tịch kiêm giám đốc điều hành tập đoàn.
China Shenhua Energy Co. – CSEC là tập đoàn khai thác than đá lớn nhất của Trung Quốc và là một trong những công ty tham gia thị trường chứng khoán Thượng Hải.
Bản tin của AFP nhắc lại, nhiều lãnh đạo các tập đoàn Nhà nước Trung Quốc đã bị điều tra trong khuôn khổ chính sách « bàn tay sạch », bài trừ tham nhũng do chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khởi xướng. Một trong những gương mặt nổi bật nhất bị sa lưới là cựu bộ trưởng Công an Chu Vĩnh Khang. Trong thập niên 1990 ông Chu từng giữ chức tổng giám đốc tập đoàn dầu khí quốc gia CNPC, công ty năng lượng lớn nhất Trung Quốc.
http://vi.rfi.fr/chau-a/20150608-trung-quoc-them-mot-dau-hieu-kinh-te-chung-lai/
Một chuyên gia thuộc cơ quan tư vấn Capital Economics cho biết nhập khẩu của Trung Quốc giảm mạnh là do giá nguyên liệu liên tục giảm trong thời gian gần đây so với thời điểm của hai quý đầu năm 2014.
Giá đồng, sắt đã giảm theo thứ tự là 5,6 và 8,5 %. Riêng giá dầu thô đã giảm gần 11 % trong 12 tháng qua. Tuy nhiên nếu xét về mặt khối lượng, thì trong tháng 5/2015, Trung Quốc nhập mỗi ngày 5,5 triệu thùng dầu thô thay vì mức 7,7 triệu thùng/ngày như hồi tháng 2/2014. Theo giới quan sát, nhập ít dầu hơn so với trước là một tín hiệu cho thấy guồng máy sản xuất của Trung Quốc đang hoạt động chậm lại.
Về mặt xuất khẩu, sau khi đã giảm 6 % vào tháng 4/2015, trong tháng qua, tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc đạt chưa đầy 191 tỷ đô la, giảm thêm 2,5 %.
Nhìn đến chỉ số tiêu thụ nội địa, các biện pháp hỗ trợ kinh tế và kích thích tiêu thụ, đầu tư được Ngân hàng Trung ương đề xuất từ cuối năm 2014 vẫn chưa mang lại những thành quả mong muốn.
Thêm một lãnh đạo tập đoàn Nhà nước bị điều tra
Ngày 07/06/2015, tập đoàn than lớn nhất của Trung Quốc, CSEC thông báo một lãnh đạo cao cấp của công ty bị điều tra. Không đi sâu vào chi tiết, công ty chỉ đưa tin ông Quế Hạo (Gui Hao ) tạm bị đình chỉ chức vụ phó chủ tịch kiêm giám đốc điều hành tập đoàn.
China Shenhua Energy Co. – CSEC là tập đoàn khai thác than đá lớn nhất của Trung Quốc và là một trong những công ty tham gia thị trường chứng khoán Thượng Hải.
Bản tin của AFP nhắc lại, nhiều lãnh đạo các tập đoàn Nhà nước Trung Quốc đã bị điều tra trong khuôn khổ chính sách « bàn tay sạch », bài trừ tham nhũng do chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khởi xướng. Một trong những gương mặt nổi bật nhất bị sa lưới là cựu bộ trưởng Công an Chu Vĩnh Khang. Trong thập niên 1990 ông Chu từng giữ chức tổng giám đốc tập đoàn dầu khí quốc gia CNPC, công ty năng lượng lớn nhất Trung Quốc.
http://vi.rfi.fr/chau-a/20150608-trung-quoc-them-mot-dau-hieu-kinh-te-chung-lai/
Tàu dầu TQ xuất hiện ngoài khơi bờ biển Bình Thuận
Cảnh sát biển Việt Nam giám sát một chiếc tàu của Trung Quốc ở Biển Đông.
08.06.2015
Báo chí Việt Nam cho hay hôm 6 tháng 6, một tàu thăm dò dầu khí Trung Quốc mang tên Tân Hải 517 đã xuất hiện tại vùng biển Bình Thuận, cách đảo Phú Quý khoảng 20 hải lý về phía tây nam, cách bờ biển Bình Thuận – Bà Rịa Vũng Tàu 40 hải lý.
Trang mạng của Bộ Thông Tin và Truyền Thông của Việt Nam đã xác nhận tin này. Trang mạng này hôm nay đăng một bài phỏng vấn do VTC News thực hiện, trích lời Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Trương Minh Tuấn trả lời về chiếc tàu thăm dò dầu khí Tân Hải 517 của Trung Quốc. Ông nói rằng vào lúc 5 giờ sáng ngày 6/6, tàu Tân Hải 517 (Bin Hai 517) đã đi vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam . Sau đó chiếc tàu Trung Quốc di chuyển dọc vùng tiếp giáp lãnh hải xuống phía Nam hướng về vịnh Thái Lan.
Thứ Trưởng Thông Tin Việt Nam cho biết là các tàu của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam và kiểm ngư đang giám sát chặt chẽ những động thái của con tàu Trung Quốc.
Ông tố cáo Bắc Kinh là đang biến những bãi đá chiếm được của Việt Nam vào năm 1988 thành những đảo nhân tạo để mong thực hiện ý đồ độc chiếm Biển Đông, và “hiện thực hoá đường lưỡi bò phi lý” của Trung Quốc.
Nguồn: VTC News, MIC.gov.vn, Đất Việt.
08.06.2015
Báo chí Việt Nam cho hay hôm 6 tháng 6, một tàu thăm dò dầu khí Trung Quốc mang tên Tân Hải 517 đã xuất hiện tại vùng biển Bình Thuận, cách đảo Phú Quý khoảng 20 hải lý về phía tây nam, cách bờ biển Bình Thuận – Bà Rịa Vũng Tàu 40 hải lý.
Trang mạng của Bộ Thông Tin và Truyền Thông của Việt Nam đã xác nhận tin này. Trang mạng này hôm nay đăng một bài phỏng vấn do VTC News thực hiện, trích lời Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Trương Minh Tuấn trả lời về chiếc tàu thăm dò dầu khí Tân Hải 517 của Trung Quốc. Ông nói rằng vào lúc 5 giờ sáng ngày 6/6, tàu Tân Hải 517 (Bin Hai 517) đã đi vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam . Sau đó chiếc tàu Trung Quốc di chuyển dọc vùng tiếp giáp lãnh hải xuống phía Nam hướng về vịnh Thái Lan.
Thứ Trưởng Thông Tin Việt Nam cho biết là các tàu của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam và kiểm ngư đang giám sát chặt chẽ những động thái của con tàu Trung Quốc.
Ông tố cáo Bắc Kinh là đang biến những bãi đá chiếm được của Việt Nam vào năm 1988 thành những đảo nhân tạo để mong thực hiện ý đồ độc chiếm Biển Đông, và “hiện thực hoá đường lưỡi bò phi lý” của Trung Quốc.
Nguồn: VTC News, MIC.gov.vn, Đất Việt.
Trang mạng của Bộ Thông Tin và Truyền Thông của Việt Nam đã xác nhận tin này. Trang mạng này hôm nay đăng một bài phỏng vấn do VTC News thực hiện, trích lời Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Trương Minh Tuấn trả lời về chiếc tàu thăm dò dầu khí Tân Hải 517 của Trung Quốc. Ông nói rằng vào lúc 5 giờ sáng ngày 6/6, tàu Tân Hải 517 (Bin Hai 517) đã đi vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam . Sau đó chiếc tàu Trung Quốc di chuyển dọc vùng tiếp giáp lãnh hải xuống phía Nam hướng về vịnh Thái Lan.
Thứ Trưởng Thông Tin Việt Nam cho biết là các tàu của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam và kiểm ngư đang giám sát chặt chẽ những động thái của con tàu Trung Quốc.
Ông tố cáo Bắc Kinh là đang biến những bãi đá chiếm được của Việt Nam vào năm 1988 thành những đảo nhân tạo để mong thực hiện ý đồ độc chiếm Biển Đông, và “hiện thực hoá đường lưỡi bò phi lý” của Trung Quốc.
Nguồn: VTC News, MIC.gov.vn, Đất Việt.
http://www.voatiengviet.com/content/tau-dau-trung-quoc-xuat-hien-ngoai-khoi-bo-bien-binh-thuan/2811909.html
Số tàu cá Trung Quốc gia tăng khắp thế giới
Tàu cá Trung Quốc đổ ra hoạt động ở khắp nơi trên trái đất, bị chỉ trích về việc đánh bắt quá độ và thường xuyên đối đầu với tàu bè nước khác tại những khu vực có tranh chấp như Biển Đông.
Chiến thuật dùng tàu cá để bành trướng và bảo vệ tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh ở Biển Đông dường như không thể ngăn cản được
10.06.2015
HỒNG KÔNG— Số tàu cá Trung Quốc đang gia tăng một cách nhanh chóng trong lúc nước này áp dụng những chính sách để tăng cường nguồn cung ứng lương thực. Nhưng trong lúc tàu cá Trung Quốc đổ ra hoạt động ở khắp nơi trên trái đất, họ bị chỉ trích về việc đánh bắt quá độ và thường xuyên đối đầu với tàu bè nước khác tại những khu vực có tranh chấp như Biển Đông. Từ Hồng Kông, thông tín viên Shannon Van Sant của đài VOA gởi về bài tường thuật sau đây.
Trung Quốc là nước sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất thế giới với khoảng phân nửa sản lượng tôm cá bán sang các nước phát triển. Họ cũng là nước tiêu thụ hải sản nhiều nhất thế giới.
Ông Duncan Ledbetter, giám đốc công ty tư vấn ngư nghiệp Fish Matter, cho biết cuộc chạy đua để tranh giành những tài nguyên mỗi ngày một ít đi đang thúc đẩy Trung Quốc tìm kiếm nguồn cá trên khắp thế giới, giữa lúc ngư trường gần bờ biển của họ bị cạn kiệt vì ô nhiễm và đánh bắt quá độ.
"Có hai chuyện đang xảy ra. Một là đánh bắt quá độ. Chuyện thứ nhì là một chuyện có thể nói là lan rộng ở cả miền bắc lẫn miền nam và từ khu vực cận duyên cho tới mép của thềm lục địa, nhất là ở ven bờ, họ có vô số các vấn đề về ô nhiễm và nơi sinh cư của tôm cá bị mất đi."
Đội tàu cá viễn dương của Trung Quốc đã gia tăng một cách nhanh chóng để trở thành đội tàu lớn nhất thế giới với hơn 2.000 chiếc. Theo ước tính của một cuộc nghiên cứu của Nghị viện Âu Châu, từ năm 2000 đến năm 2011 ngư dân Trung Quốc đã đánh bắt 4 triệu 600.000 tấn cá mỗi năm, hầu hết là tại các vùng biển ở Phi Châu, kế tiếp là ở Á Châu, và những số lượng nhỏ hơn ở Trung Mỹ, Nam Mỹ và Nam Cực.
Một số các nhà quan sát, như ông Peter Jennings, giám đốc Viện Nghiên cứu Chiến lược Australia, nói rằng ngư trường được nới rộng của Trung Quốc mang lại cho họ một cơ hội để thiết lập một sự hiện diện đáng kể tại những khu vực có tầm quan trọng chiến lược về lâu về dài.
Lượng cá Trung Quốc đánh bắt mỗi năm là hơn 4 triệu 600 ngàn tấn, cao hơn rất nhiều so với con số 368.000 tấn mà Trung Quốc chính thức báo cáo cho LHQ.
"Tôi nghĩ rằng đây chính là loại hình tiếp cận trung dung không chỉ đối với tài nguyên biển ở Nam Cực mà còn giúp cho Trung Quốc trong tương lai lâu dài có thể khai thác tài nguyên của chính lục địa Nam Cực."
Tháng trước, một công ty Trung Quốc loan báo họ sẽ khuyếch trương hoạt động ở Nam Cực để bắt thêm tôm cá, nghêu sò. Loan báo đó được đưa ra sau khi Trung Quốc khánh thành một trạm nghiên cứu thứ tư ở Nam Cực và đầu tư vào các dự án để chế tạo hai chiếc tàu phá băng cùng với những loại phi cơ và trực thăng có khả năng hoạt động trong vùng băng tuyết ở Nam Cực.
Những mối căng thẳng với các nước khác vì sự hiện diện trên biển ngày càng lớn của Trung Quốc đã gia tăng trong thời gian gần đây. Tháng trước, Indonesia đã đặt chất nổ để phá tung một chiếc tàu của Trung Quốc mà họ đã bắt cách nay 6 năm vì đánh cá trái phép trong vùng biển của Indonesia. Theo chính phủ Nam Triều Tiên, số tàu cá Trung Quốc trong vùng biển của Nam Triều Tiên mỗi ngày một nhiều. Hơn 1.000 tàu cá Trung Quốc đã xâm nhập trái phép vào vùng đặc quyền kinh tế của Nam Triều Tiên trong năm 2014.
Tổ chức Hoà bình Xanh cho biết tàu cá Trung Quốc cũng đánh bắt bất hợp pháp với những số lượng khổng lồ trong vùng biển phía tây Phi Châu. Ông Rashid Kang, một viên chức của văn phòng Hoà bình Xanh ở Bắc Kinh, cho biết với những chiếc tàu cũ kỹ, loại đánh giã cào, những hoạt động ngư nghiệp đang được nới rộng của Trung Quốc làm cho các hệ thống sinh thái của những vùng biển nước ngoài bị đe dọa, vì luật pháp Trung Quốc cấm sử dụng những chiếc tàu cũ không áp dụng cho tàu bè hoạt động ở nước ngoài.
Theo chính phủ Nam Triều Tiên, số tàu cá Trung Quốc trong vùng biển của Nam Triều Tiên mỗi ngày một nhiều.
"Họ vừa ban hành luật mới này để cấm đánh bắt sát đáy biển trong hải phận Trung Quốc. Tôi nghĩ rằng việc này đã không được bàn tới đối với những chiếc tàu của Trung Quốc hoạt động ở những nước khác. Do đó tôi cho rằng có vấn đề tiêu chuẩn đôi ở đây."
Một toán chuyên gia quốc tế hồi gần đây đã tìm cách ước tính số lượng hải sản mà đội tàu viễn dương Trung Quốc đánh bắt từ năm 2000 đến năm 2011. Các nhà khoa học này đã hô hào cho sự minh bạch trong một bài viết đang trên tạp chí Cá và Ngư nghiệp. Họ nói rằng lượng cá mà tàu Trung Quốc đánh bắt hầu như hoàn toàn không được báo cáo và không được ghi chép vào hồ sơ.
Theo cuộc nghiên cứu này, lượng cá Trung Quốc đánh bắt mỗi năm là hơn 4 triệu 600 ngàn tấn, cao hơn rất nhiều so với con số 368.000 tấn mà Trung Quốc chính thức báo cáo cho Liên Hiệp Quốc.
http://www.voatiengviet.com/content/so-tau-ca-trung-quoc-gia-tang-khap-the-gioi/2815659.html
Chiến thuật dùng tàu cá để bành trướng và bảo vệ tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh ở Biển Đông dường như không thể ngăn cản được
10.06.2015
HỒNG KÔNG— Số tàu cá Trung Quốc đang gia tăng một cách nhanh chóng trong lúc nước này áp dụng những chính sách để tăng cường nguồn cung ứng lương thực. Nhưng trong lúc tàu cá Trung Quốc đổ ra hoạt động ở khắp nơi trên trái đất, họ bị chỉ trích về việc đánh bắt quá độ và thường xuyên đối đầu với tàu bè nước khác tại những khu vực có tranh chấp như Biển Đông. Từ Hồng Kông, thông tín viên Shannon Van Sant của đài VOA gởi về bài tường thuật sau đây.
Trung Quốc là nước sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất thế giới với khoảng phân nửa sản lượng tôm cá bán sang các nước phát triển. Họ cũng là nước tiêu thụ hải sản nhiều nhất thế giới.
Ông Duncan Ledbetter, giám đốc công ty tư vấn ngư nghiệp Fish Matter, cho biết cuộc chạy đua để tranh giành những tài nguyên mỗi ngày một ít đi đang thúc đẩy Trung Quốc tìm kiếm nguồn cá trên khắp thế giới, giữa lúc ngư trường gần bờ biển của họ bị cạn kiệt vì ô nhiễm và đánh bắt quá độ.
"Có hai chuyện đang xảy ra. Một là đánh bắt quá độ. Chuyện thứ nhì là một chuyện có thể nói là lan rộng ở cả miền bắc lẫn miền nam và từ khu vực cận duyên cho tới mép của thềm lục địa, nhất là ở ven bờ, họ có vô số các vấn đề về ô nhiễm và nơi sinh cư của tôm cá bị mất đi."
Đội tàu cá viễn dương của Trung Quốc đã gia tăng một cách nhanh chóng để trở thành đội tàu lớn nhất thế giới với hơn 2.000 chiếc. Theo ước tính của một cuộc nghiên cứu của Nghị viện Âu Châu, từ năm 2000 đến năm 2011 ngư dân Trung Quốc đã đánh bắt 4 triệu 600.000 tấn cá mỗi năm, hầu hết là tại các vùng biển ở Phi Châu, kế tiếp là ở Á Châu, và những số lượng nhỏ hơn ở Trung Mỹ, Nam Mỹ và Nam Cực.
Một số các nhà quan sát, như ông Peter Jennings, giám đốc Viện Nghiên cứu Chiến lược Australia, nói rằng ngư trường được nới rộng của Trung Quốc mang lại cho họ một cơ hội để thiết lập một sự hiện diện đáng kể tại những khu vực có tầm quan trọng chiến lược về lâu về dài.
"Tôi nghĩ rằng đây chính là loại hình tiếp cận trung dung không chỉ đối với tài nguyên biển ở Nam Cực mà còn giúp cho Trung Quốc trong tương lai lâu dài có thể khai thác tài nguyên của chính lục địa Nam Cực."
Tháng trước, một công ty Trung Quốc loan báo họ sẽ khuyếch trương hoạt động ở Nam Cực để bắt thêm tôm cá, nghêu sò. Loan báo đó được đưa ra sau khi Trung Quốc khánh thành một trạm nghiên cứu thứ tư ở Nam Cực và đầu tư vào các dự án để chế tạo hai chiếc tàu phá băng cùng với những loại phi cơ và trực thăng có khả năng hoạt động trong vùng băng tuyết ở Nam Cực.
Những mối căng thẳng với các nước khác vì sự hiện diện trên biển ngày càng lớn của Trung Quốc đã gia tăng trong thời gian gần đây. Tháng trước, Indonesia đã đặt chất nổ để phá tung một chiếc tàu của Trung Quốc mà họ đã bắt cách nay 6 năm vì đánh cá trái phép trong vùng biển của Indonesia. Theo chính phủ Nam Triều Tiên, số tàu cá Trung Quốc trong vùng biển của Nam Triều Tiên mỗi ngày một nhiều. Hơn 1.000 tàu cá Trung Quốc đã xâm nhập trái phép vào vùng đặc quyền kinh tế của Nam Triều Tiên trong năm 2014.
Tổ chức Hoà bình Xanh cho biết tàu cá Trung Quốc cũng đánh bắt bất hợp pháp với những số lượng khổng lồ trong vùng biển phía tây Phi Châu. Ông Rashid Kang, một viên chức của văn phòng Hoà bình Xanh ở Bắc Kinh, cho biết với những chiếc tàu cũ kỹ, loại đánh giã cào, những hoạt động ngư nghiệp đang được nới rộng của Trung Quốc làm cho các hệ thống sinh thái của những vùng biển nước ngoài bị đe dọa, vì luật pháp Trung Quốc cấm sử dụng những chiếc tàu cũ không áp dụng cho tàu bè hoạt động ở nước ngoài.
"Họ vừa ban hành luật mới này để cấm đánh bắt sát đáy biển trong hải phận Trung Quốc. Tôi nghĩ rằng việc này đã không được bàn tới đối với những chiếc tàu của Trung Quốc hoạt động ở những nước khác. Do đó tôi cho rằng có vấn đề tiêu chuẩn đôi ở đây."
Một toán chuyên gia quốc tế hồi gần đây đã tìm cách ước tính số lượng hải sản mà đội tàu viễn dương Trung Quốc đánh bắt từ năm 2000 đến năm 2011. Các nhà khoa học này đã hô hào cho sự minh bạch trong một bài viết đang trên tạp chí Cá và Ngư nghiệp. Họ nói rằng lượng cá mà tàu Trung Quốc đánh bắt hầu như hoàn toàn không được báo cáo và không được ghi chép vào hồ sơ.
Theo cuộc nghiên cứu này, lượng cá Trung Quốc đánh bắt mỗi năm là hơn 4 triệu 600 ngàn tấn, cao hơn rất nhiều so với con số 368.000 tấn mà Trung Quốc chính thức báo cáo cho Liên Hiệp Quốc.
Trung Quốc là nước sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất thế giới với khoảng phân nửa sản lượng tôm cá bán sang các nước phát triển. Họ cũng là nước tiêu thụ hải sản nhiều nhất thế giới.
Ông Duncan Ledbetter, giám đốc công ty tư vấn ngư nghiệp Fish Matter, cho biết cuộc chạy đua để tranh giành những tài nguyên mỗi ngày một ít đi đang thúc đẩy Trung Quốc tìm kiếm nguồn cá trên khắp thế giới, giữa lúc ngư trường gần bờ biển của họ bị cạn kiệt vì ô nhiễm và đánh bắt quá độ.
"Có hai chuyện đang xảy ra. Một là đánh bắt quá độ. Chuyện thứ nhì là một chuyện có thể nói là lan rộng ở cả miền bắc lẫn miền nam và từ khu vực cận duyên cho tới mép của thềm lục địa, nhất là ở ven bờ, họ có vô số các vấn đề về ô nhiễm và nơi sinh cư của tôm cá bị mất đi."
Đội tàu cá viễn dương của Trung Quốc đã gia tăng một cách nhanh chóng để trở thành đội tàu lớn nhất thế giới với hơn 2.000 chiếc. Theo ước tính của một cuộc nghiên cứu của Nghị viện Âu Châu, từ năm 2000 đến năm 2011 ngư dân Trung Quốc đã đánh bắt 4 triệu 600.000 tấn cá mỗi năm, hầu hết là tại các vùng biển ở Phi Châu, kế tiếp là ở Á Châu, và những số lượng nhỏ hơn ở Trung Mỹ, Nam Mỹ và Nam Cực.
Một số các nhà quan sát, như ông Peter Jennings, giám đốc Viện Nghiên cứu Chiến lược Australia, nói rằng ngư trường được nới rộng của Trung Quốc mang lại cho họ một cơ hội để thiết lập một sự hiện diện đáng kể tại những khu vực có tầm quan trọng chiến lược về lâu về dài.
Lượng cá Trung Quốc đánh bắt mỗi năm là hơn 4 triệu 600 ngàn tấn, cao hơn rất nhiều so với con số 368.000 tấn mà Trung Quốc chính thức báo cáo cho LHQ.
Tháng trước, một công ty Trung Quốc loan báo họ sẽ khuyếch trương hoạt động ở Nam Cực để bắt thêm tôm cá, nghêu sò. Loan báo đó được đưa ra sau khi Trung Quốc khánh thành một trạm nghiên cứu thứ tư ở Nam Cực và đầu tư vào các dự án để chế tạo hai chiếc tàu phá băng cùng với những loại phi cơ và trực thăng có khả năng hoạt động trong vùng băng tuyết ở Nam Cực.
Những mối căng thẳng với các nước khác vì sự hiện diện trên biển ngày càng lớn của Trung Quốc đã gia tăng trong thời gian gần đây. Tháng trước, Indonesia đã đặt chất nổ để phá tung một chiếc tàu của Trung Quốc mà họ đã bắt cách nay 6 năm vì đánh cá trái phép trong vùng biển của Indonesia. Theo chính phủ Nam Triều Tiên, số tàu cá Trung Quốc trong vùng biển của Nam Triều Tiên mỗi ngày một nhiều. Hơn 1.000 tàu cá Trung Quốc đã xâm nhập trái phép vào vùng đặc quyền kinh tế của Nam Triều Tiên trong năm 2014.
Tổ chức Hoà bình Xanh cho biết tàu cá Trung Quốc cũng đánh bắt bất hợp pháp với những số lượng khổng lồ trong vùng biển phía tây Phi Châu. Ông Rashid Kang, một viên chức của văn phòng Hoà bình Xanh ở Bắc Kinh, cho biết với những chiếc tàu cũ kỹ, loại đánh giã cào, những hoạt động ngư nghiệp đang được nới rộng của Trung Quốc làm cho các hệ thống sinh thái của những vùng biển nước ngoài bị đe dọa, vì luật pháp Trung Quốc cấm sử dụng những chiếc tàu cũ không áp dụng cho tàu bè hoạt động ở nước ngoài.
Theo chính phủ Nam Triều Tiên, số tàu cá Trung Quốc trong vùng biển của Nam Triều Tiên mỗi ngày một nhiều.
Một toán chuyên gia quốc tế hồi gần đây đã tìm cách ước tính số lượng hải sản mà đội tàu viễn dương Trung Quốc đánh bắt từ năm 2000 đến năm 2011. Các nhà khoa học này đã hô hào cho sự minh bạch trong một bài viết đang trên tạp chí Cá và Ngư nghiệp. Họ nói rằng lượng cá mà tàu Trung Quốc đánh bắt hầu như hoàn toàn không được báo cáo và không được ghi chép vào hồ sơ.
Theo cuộc nghiên cứu này, lượng cá Trung Quốc đánh bắt mỗi năm là hơn 4 triệu 600 ngàn tấn, cao hơn rất nhiều so với con số 368.000 tấn mà Trung Quốc chính thức báo cáo cho Liên Hiệp Quốc.
Lãnh đạo G7 xác nhận các biện pháp chế tài Nga
al-Pessin
09.06.2015
Các nhà lãnh đạo của 7 nước mạnh nhất thế giới đã đồng ý trong ngày hôm nay siết chặt thêm các biện pháp chế tài Nga, nếu cần, để làm áp lực cho một giải pháp về vụ xung đột ở miền đông Ukraine.
Tại cuộc họp thượng đỉnh của khối G7, các nhà lãnh đạo nói các biện pháp chế tài hiện hành sẽ vẫn có hiệu lực cho đến khi Nga giúp thực thi đầy đủ một kế hoạch hòa bình đã được đồng ý hồi tháng 2 ở Minsk, Belarus. Điều đó cho thấy các thành viên Âu châu trong khối này sẽ ủng hộ việc gia hạn các biện pháp chế tài chủ yếu của Liên hiệp châu Âu tại cuộc họp thượng đỉnh trong tháng này.
Thông cáo của khối G7 cảnh báo, "chúng tôi cũng sẵn sàng tiến hành thêm các biện pháp hạn chế để gia tăng thiệt hại đối với Nga nếu cần".
Một cuộc tấn công chớp nhoáng của các phần tử ly khai được Nga hậu thuẫn hồi tuần trước đã nêu ra những mối quan ngại mới về sự thành thực trong cam kết của Nga là tìm ra một giải pháp chính trị.
Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama nói: "Lực lượng Nga tiếp tục hoạt động ở miền đông Ukraine, vi phạm chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine".
Ông nói các biện pháp chế tài hiện hữu đã làm tê liệt nền kinh tế Nga, và ông nói Tổng thống Nga Vladimir Putin phải quyết định liệu có ‘tiếp tục gây tan hoang nền kinh tế đất nước và tiếp tục sự cô lập của Nga để theo đuổi ý muốn sai trái là tái lập thời kỳ huy hoàng của Đế quốc Xô Viết hay không.
Tổng thống Barack Obama tại cuộc họp thượng đỉnh G7.
Ông Obama nói: "Sự vĩ đại của Nga không lệ thuộc vào việc vi phạm toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của các nước khác".
Nga đã bị khai trừ ra khỏi nhóm từng là Nhóm 8 nước hồi năm ngoái bởi vì việc Nga chiếm đóng và sáp nhập vùng Crimea của Ukraine và ủng hộ cho các phần tử ly khai ở miền đông Ukraine.
Các nhà lãnh đạo của khối G7 còn lại đã cam kết gia tăng sự ủng hộ dành cho các nỗ lực cải cách và tăng trưởng kinh tế của Ukraine, nhưng không nói gì về viện trợ quân sự, mà một số quốc gia G7 cung cấp trên một cơ sở song phương.
Khối này cũng đề cập đến những mối đe dọa từ phía các nhóm chủ chiến Nhà nước Hồi giáo và Boko Haram, hội họp trong ngày hôm nay với các nhà lãnh đạo của Iraq, Tunisia và Nigeria.
Các nhà lãnh đạo G7 cũng kêu gọi tất cả các quốc gia chống nạn buôn bán người, đang gây ra một vụ khủng hoảng người tỵ nạn ở một số nước Âu châu trong vùng Địa Trung Hải và hợp tác để thành lập một chính phủ quốc gia ở Libya để giúp ngăn chặn luồng người tỵ nạn.
Phần lớn thông cáo của hội nghị thượng đỉnh được dành cho những vấn đề như biến đổi khí hậu, sức khỏe và tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Các nhà lãnh đạo cam kết hợp tác hướng tới việc hoàn tất các thỏa thuận thương mại mà họ cho là sẽ góp phần vào sự tăng trưởng bền vững.
Họ cam kết gia tăng viện trợ cho các nước đang phát triển và theo đuổi các mục tiêu nghiêm khắc về kiểm soát lượng khí thải tại hội nghị về biến đổi khí hậu toàn cầu ở Pháp hồi tháng 12 năm ngoái. Họ muốn các chính phủ và các doanh nghiệp chi ra 100 tỷ đôla mỗi năm để giảm thiểu lượng khí thải.
Họ dự định tăng cường khả năng của các nước Phi châu nhằm phát triển các nguồn năng lượng thay thế. Họ cũng đã đưa ra cam kết hợp tác với 60 nước để cải thiện y tế và tránh những dịch bệnh như vụ bộc phát Ebola mới đây ở Tây Phi.
al-Pessin
09.06.2015
Các nhà lãnh đạo của 7 nước mạnh nhất thế giới đã đồng ý trong ngày hôm nay siết chặt thêm các biện pháp chế tài Nga, nếu cần, để làm áp lực cho một giải pháp về vụ xung đột ở miền đông Ukraine.
Tại cuộc họp thượng đỉnh của khối G7, các nhà lãnh đạo nói các biện pháp chế tài hiện hành sẽ vẫn có hiệu lực cho đến khi Nga giúp thực thi đầy đủ một kế hoạch hòa bình đã được đồng ý hồi tháng 2 ở Minsk, Belarus. Điều đó cho thấy các thành viên Âu châu trong khối này sẽ ủng hộ việc gia hạn các biện pháp chế tài chủ yếu của Liên hiệp châu Âu tại cuộc họp thượng đỉnh trong tháng này.
Thông cáo của khối G7 cảnh báo, "chúng tôi cũng sẵn sàng tiến hành thêm các biện pháp hạn chế để gia tăng thiệt hại đối với Nga nếu cần".
Một cuộc tấn công chớp nhoáng của các phần tử ly khai được Nga hậu thuẫn hồi tuần trước đã nêu ra những mối quan ngại mới về sự thành thực trong cam kết của Nga là tìm ra một giải pháp chính trị.
Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama nói: "Lực lượng Nga tiếp tục hoạt động ở miền đông Ukraine, vi phạm chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine".
Ông nói các biện pháp chế tài hiện hữu đã làm tê liệt nền kinh tế Nga, và ông nói Tổng thống Nga Vladimir Putin phải quyết định liệu có ‘tiếp tục gây tan hoang nền kinh tế đất nước và tiếp tục sự cô lập của Nga để theo đuổi ý muốn sai trái là tái lập thời kỳ huy hoàng của Đế quốc Xô Viết hay không.
Ông Obama nói: "Sự vĩ đại của Nga không lệ thuộc vào việc vi phạm toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của các nước khác".
Nga đã bị khai trừ ra khỏi nhóm từng là Nhóm 8 nước hồi năm ngoái bởi vì việc Nga chiếm đóng và sáp nhập vùng Crimea của Ukraine và ủng hộ cho các phần tử ly khai ở miền đông Ukraine.
Các nhà lãnh đạo của khối G7 còn lại đã cam kết gia tăng sự ủng hộ dành cho các nỗ lực cải cách và tăng trưởng kinh tế của Ukraine, nhưng không nói gì về viện trợ quân sự, mà một số quốc gia G7 cung cấp trên một cơ sở song phương.
Khối này cũng đề cập đến những mối đe dọa từ phía các nhóm chủ chiến Nhà nước Hồi giáo và Boko Haram, hội họp trong ngày hôm nay với các nhà lãnh đạo của Iraq, Tunisia và Nigeria.
Các nhà lãnh đạo G7 cũng kêu gọi tất cả các quốc gia chống nạn buôn bán người, đang gây ra một vụ khủng hoảng người tỵ nạn ở một số nước Âu châu trong vùng Địa Trung Hải và hợp tác để thành lập một chính phủ quốc gia ở Libya để giúp ngăn chặn luồng người tỵ nạn.
Phần lớn thông cáo của hội nghị thượng đỉnh được dành cho những vấn đề như biến đổi khí hậu, sức khỏe và tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Các nhà lãnh đạo cam kết hợp tác hướng tới việc hoàn tất các thỏa thuận thương mại mà họ cho là sẽ góp phần vào sự tăng trưởng bền vững.
Họ cam kết gia tăng viện trợ cho các nước đang phát triển và theo đuổi các mục tiêu nghiêm khắc về kiểm soát lượng khí thải tại hội nghị về biến đổi khí hậu toàn cầu ở Pháp hồi tháng 12 năm ngoái. Họ muốn các chính phủ và các doanh nghiệp chi ra 100 tỷ đôla mỗi năm để giảm thiểu lượng khí thải.
Họ dự định tăng cường khả năng của các nước Phi châu nhằm phát triển các nguồn năng lượng thay thế. Họ cũng đã đưa ra cam kết hợp tác với 60 nước để cải thiện y tế và tránh những dịch bệnh như vụ bộc phát Ebola mới đây ở Tây Phi.
Tại cuộc họp thượng đỉnh của khối G7, các nhà lãnh đạo nói các biện pháp chế tài hiện hành sẽ vẫn có hiệu lực cho đến khi Nga giúp thực thi đầy đủ một kế hoạch hòa bình đã được đồng ý hồi tháng 2 ở Minsk, Belarus. Điều đó cho thấy các thành viên Âu châu trong khối này sẽ ủng hộ việc gia hạn các biện pháp chế tài chủ yếu của Liên hiệp châu Âu tại cuộc họp thượng đỉnh trong tháng này.
Thông cáo của khối G7 cảnh báo, "chúng tôi cũng sẵn sàng tiến hành thêm các biện pháp hạn chế để gia tăng thiệt hại đối với Nga nếu cần".
Một cuộc tấn công chớp nhoáng của các phần tử ly khai được Nga hậu thuẫn hồi tuần trước đã nêu ra những mối quan ngại mới về sự thành thực trong cam kết của Nga là tìm ra một giải pháp chính trị.
Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama nói: "Lực lượng Nga tiếp tục hoạt động ở miền đông Ukraine, vi phạm chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine".
Ông nói các biện pháp chế tài hiện hữu đã làm tê liệt nền kinh tế Nga, và ông nói Tổng thống Nga Vladimir Putin phải quyết định liệu có ‘tiếp tục gây tan hoang nền kinh tế đất nước và tiếp tục sự cô lập của Nga để theo đuổi ý muốn sai trái là tái lập thời kỳ huy hoàng của Đế quốc Xô Viết hay không.
Tổng thống Barack Obama tại cuộc họp thượng đỉnh G7.
Nga đã bị khai trừ ra khỏi nhóm từng là Nhóm 8 nước hồi năm ngoái bởi vì việc Nga chiếm đóng và sáp nhập vùng Crimea của Ukraine và ủng hộ cho các phần tử ly khai ở miền đông Ukraine.
Các nhà lãnh đạo của khối G7 còn lại đã cam kết gia tăng sự ủng hộ dành cho các nỗ lực cải cách và tăng trưởng kinh tế của Ukraine, nhưng không nói gì về viện trợ quân sự, mà một số quốc gia G7 cung cấp trên một cơ sở song phương.
Khối này cũng đề cập đến những mối đe dọa từ phía các nhóm chủ chiến Nhà nước Hồi giáo và Boko Haram, hội họp trong ngày hôm nay với các nhà lãnh đạo của Iraq, Tunisia và Nigeria.
Các nhà lãnh đạo G7 cũng kêu gọi tất cả các quốc gia chống nạn buôn bán người, đang gây ra một vụ khủng hoảng người tỵ nạn ở một số nước Âu châu trong vùng Địa Trung Hải và hợp tác để thành lập một chính phủ quốc gia ở Libya để giúp ngăn chặn luồng người tỵ nạn.
Phần lớn thông cáo của hội nghị thượng đỉnh được dành cho những vấn đề như biến đổi khí hậu, sức khỏe và tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Các nhà lãnh đạo cam kết hợp tác hướng tới việc hoàn tất các thỏa thuận thương mại mà họ cho là sẽ góp phần vào sự tăng trưởng bền vững.
Họ cam kết gia tăng viện trợ cho các nước đang phát triển và theo đuổi các mục tiêu nghiêm khắc về kiểm soát lượng khí thải tại hội nghị về biến đổi khí hậu toàn cầu ở Pháp hồi tháng 12 năm ngoái. Họ muốn các chính phủ và các doanh nghiệp chi ra 100 tỷ đôla mỗi năm để giảm thiểu lượng khí thải.
Họ dự định tăng cường khả năng của các nước Phi châu nhằm phát triển các nguồn năng lượng thay thế. Họ cũng đã đưa ra cam kết hợp tác với 60 nước để cải thiện y tế và tránh những dịch bệnh như vụ bộc phát Ebola mới đây ở Tây Phi.
http://www.voatiengviet.com/content/lanh-dao-g7-xac-nhan-cac-bien-phap-che-tai-nga/2812380.html
G7 phản đối xây đắp đảo quy mô lớn
-
2 giờ trước
Chia sẻ
Giới lãnh đạo nhóm G7 nói họ quan ngại về căng thẳng tại Biển Hoa Đông và Biển Đông kêu gọi các nước tuân thủ luật pháp quốc tế.
"Chúng tôi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải quyết xung đột một cách hòa bình cũng như việc sử dụng hợp pháp và không bị giới hạn các đại đại dương của thế giới", các nhà lãnh đạo nói trong một thông cáo chung sau hai ngày họp thượng đỉnh tại Đức.
"Chúng tôi phản đối mạnh mẽ việc đe dọa, hăm dọa hoặc sử dụng vũ lực, cũng như bất kỳ hành động đơn phương nào nhằm thay đổi hiện trạng, chẳng hạn như việc xây đắp đảo quy mô lớn," các nhà lãnh đạo G7 nói trong thông cáo tuy không nêu cụ thể tên nước nào.
Tân Hoa xã coi thông cáo chung của các thành viên G7 không liên quan trực tiếp tới tranh chấp ở Biển Đông.
''Việc dẫn chiếu một cách vô cớ về các tranh chấp hàng hải giữa Trung Quốc và một vài nước châu Á sẽ không chỉ làm hại quan hệ giữa phương Tây và Trung Quốc mà còn đe dọa hòa bình và ổn định tại vùng Châu Á Thái Bình Dương,'' Tân Hoa xã bình luận.
Thông tấn xã Việt Nam trong khi đó mô tả điều họ gọi là ''G7 mạnh mẽ phản đối Trung Quốc xây đảo trái phép ở Biển Đông''. Dường như các báo Việt Nam nhận chỉ đạo đưa tin đồng bộ nói 'G-7 phản đối Trung Quốc xây đảo nhân tạo' như bài của Tuổi Trẻ và Tiền Phong.
Trong khi đó Đài truyền hình Việt Nam chạy tựa sát với thông cáo của G7 khi nói 'G7 quan ngại về tình hình căng thẳng trên Biển Đông và Biển Hoa Đông'.
Vào tuần trước Trung Quốc một lần nữa khẳng định hoạt động bồi đắp ở Biển Đông là “hợp pháp, hợp tình, hợp lý”.
Tại cuộc họp báo ngày 3/6, người phát ngôn Trung Quốc Hoa Xuân Oánh bác bỏ chỉ trích của Nhật và Mỹ về việc Bắc Kinh bồi đắp các bãi đá thành các đảo nhân tạo.
Hôm 1/6, Chánh Văn phòng Nội các Nhật Bản nói cần tránh những hành động đơn phương liên tục làm gia tăng tình hình căng thẳng.
Bà Hoa Xuân Oánh nói Trung Quốc phản đối tiến hành giải thích “tùy tiện” luật pháp quốc tế.”
“Trung Quốc không làm những việc vi phạm luật pháp quốc tế, hại người lợi mình, nhưng kiên định bảo vệ chủ quyền, an ninh và lợi ích phát triển quốc gia theo pháp luật,” bà Hoa nói.
- 2 giờ trước
Giới lãnh đạo nhóm G7 nói họ quan ngại về căng thẳng tại Biển Hoa Đông và Biển Đông kêu gọi các nước tuân thủ luật pháp quốc tế.
"Chúng tôi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải quyết xung đột một cách hòa bình cũng như việc sử dụng hợp pháp và không bị giới hạn các đại đại dương của thế giới", các nhà lãnh đạo nói trong một thông cáo chung sau hai ngày họp thượng đỉnh tại Đức.
"Chúng tôi phản đối mạnh mẽ việc đe dọa, hăm dọa hoặc sử dụng vũ lực, cũng như bất kỳ hành động đơn phương nào nhằm thay đổi hiện trạng, chẳng hạn như việc xây đắp đảo quy mô lớn," các nhà lãnh đạo G7 nói trong thông cáo tuy không nêu cụ thể tên nước nào.
Tân Hoa xã coi thông cáo chung của các thành viên G7 không liên quan trực tiếp tới tranh chấp ở Biển Đông.
''Việc dẫn chiếu một cách vô cớ về các tranh chấp hàng hải giữa Trung Quốc và một vài nước châu Á sẽ không chỉ làm hại quan hệ giữa phương Tây và Trung Quốc mà còn đe dọa hòa bình và ổn định tại vùng Châu Á Thái Bình Dương,'' Tân Hoa xã bình luận.
Thông tấn xã Việt Nam trong khi đó mô tả điều họ gọi là ''G7 mạnh mẽ phản đối Trung Quốc xây đảo trái phép ở Biển Đông''. Dường như các báo Việt Nam nhận chỉ đạo đưa tin đồng bộ nói 'G-7 phản đối Trung Quốc xây đảo nhân tạo' như bài của Tuổi Trẻ và Tiền Phong.
Trong khi đó Đài truyền hình Việt Nam chạy tựa sát với thông cáo của G7 khi nói 'G7 quan ngại về tình hình căng thẳng trên Biển Đông và Biển Hoa Đông'.
Vào tuần trước Trung Quốc một lần nữa khẳng định hoạt động bồi đắp ở Biển Đông là “hợp pháp, hợp tình, hợp lý”.
Tại cuộc họp báo ngày 3/6, người phát ngôn Trung Quốc Hoa Xuân Oánh bác bỏ chỉ trích của Nhật và Mỹ về việc Bắc Kinh bồi đắp các bãi đá thành các đảo nhân tạo.
Hôm 1/6, Chánh Văn phòng Nội các Nhật Bản nói cần tránh những hành động đơn phương liên tục làm gia tăng tình hình căng thẳng.
Bà Hoa Xuân Oánh nói Trung Quốc phản đối tiến hành giải thích “tùy tiện” luật pháp quốc tế.”
“Trung Quốc không làm những việc vi phạm luật pháp quốc tế, hại người lợi mình, nhưng kiên định bảo vệ chủ quyền, an ninh và lợi ích phát triển quốc gia theo pháp luật,” bà Hoa nói.
Trả lời Hồng Nga, BBC Việt Ngữ, bên lề Đối thoại Shangri-La ở Singapore diễn ra hai ngày 30-31/5 trong bối cảnh căng thẳng gia tăng trên Biển Đông, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Quốc phòng bác bỏ khả năng Việt Nam tham gia liên minh quân sự với bất cứ quốc gia nào.
"Tình hình càng căng thẳng thì càng phải giữ độc lập, tự chủ. Đó là nguyên tắc nhất quán của Việt Nam," ông Vịnh nói.
Vào khoảng thời gian này tháng Năm, Bộ Ngoại giao Việt Nam phản ứng trước một số phát biểu của phía Trung Quốc cho rằng Việt Nam đã mở rộng, bồi đắp lấn biển quy mô lớn tại các đảo, đá mà theo phía Trung Quốc, Việt Nam “chiếm giữ” ở Biển Đông.
Ngày 8/5/2015, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình nói ''Những hoạt động tôn tạo, mở rộng đảo, đá mà Trung Quốc đang tiến hành đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông, gây lo ngại sâu sắc trong cộng đồng quốc tế, trong đó có ASEAN.
''Một lần nữa Việt Nam yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay các hoạt động này, nghiêm túc tuân thủ và thực thi luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 cũng như Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); không có thêm các hành động gây phức tạp và mở rộng tranh chấp trên Biển Đông”.
Tuyên bố Biển Đông của G7 'xa thực tế'
- 9 tháng 6 2015
Trung Quốc vào hôm 08/06 chỉ trích thông cáo chung của nhóm G7 về căng thẳng tại Biển Đông là “xa rời thực tế” và thúc giục G7 “xóa bỏ thành kiến” với hành động của Bắc Kinh trong khu vực.
"Chúng tôi thúc giục G7 tôn trọng sự thật, xóa bỏ thành kiến, ngưng có nhận xét vô trách nhiệm và nên làm nhiều hơn để giúp giải quyết các tranh chấp," người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi nói trong cuộc họp báo hàng tuần.
Giới lãnh đạo nhóm G7 vào hôm thứ Hai nói họ quan ngại về căng thẳng tại Biển Hoa Đông và Biển Đông kêu gọi các nước tuân thủ luật pháp quốc tế.
"Chúng tôi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải quyết xung đột một cách hòa bình cũng như việc sử dụng hợp pháp và không bị giới hạn các đại đại dương của thế giới", các nhà lãnh đạo nói trong một thông cáo chung sau hai ngày họp thượng đỉnh tại Đức.
"Chúng tôi phản đối mạnh mẽ việc đe dọa, hăm dọa hoặc sử dụng vũ lực, cũng như bất kỳ hành động đơn phương nào nhằm thay đổi hiện trạng, chẳng hạn như việc xây đắp đảo quy mô lớn," các nhà lãnh đạo G7 nói trong thông cáo tuy không nêu cụ thể tên nước nào.
Tân Hoa xã coi thông cáo chung của các thành viên G7 không liên quan trực tiếp tới tranh chấp ở Biển Đông.
''Việc dẫn chiếu một cách vô cớ về các tranh chấp hàng hải giữa Trung Quốc và một vài nước châu Á sẽ không chỉ làm hại quan hệ giữa phương Tây và Trung Quốc mà còn đe dọa hòa bình và ổn định tại vùng Châu Á Thái Bình Dương,'' Tân Hoa xã bình luận.
Thông tấn xã Việt Nam trong khi đó mô tả điều họ gọi là ''G7 mạnh mẽ phản đối Trung Quốc xây đảo trái phép ở Biển Đông''. Dường như các báo Việt Nam nhận chỉ đạo đưa tin đồng bộ nói 'G-7 phản đối Trung Quốc xây đảo nhân tạo' như bài của Tuổi Trẻ và Tiền Phong.
Trong khi đó Đài truyền hình Việt Nam chạy tựa sát với thông cáo của G7 khi nói 'G7 quan ngại về tình hình căng thẳng trên Biển Đông và Biển Hoa Đông'.
Vào tuần trước Trung Quốc một lần nữa khẳng định hoạt động bồi đắp ở Biển Đông là “hợp pháp, hợp tình, hợp lý”.
Tại cuộc họp báo ngày 3/6, người phát ngôn Trung Quốc Hoa Xuân Oánh bác bỏ chỉ trích của Nhật và Mỹ về việc Bắc Kinh bồi đắp các bãi đá thành các đảo nhân tạo.
Hôm 1/6, Chánh Văn phòng Nội các Nhật Bản nói cần tránh những hành động đơn phương liên tục làm gia tăng tình hình căng thẳng.
Bà Hoa Xuân Oánh nói Trung Quốc phản đối tiến hành giải thích “tùy tiện” luật pháp quốc tế.”
“Trung Quốc không làm những việc vi phạm luật pháp quốc tế, hại người lợi mình, nhưng kiên định bảo vệ chủ quyền, an ninh và lợi ích phát triển quốc gia theo pháp luật,” bà Hoa nói.
'
Trả lời Hồng Nga, BBC Việt Ngữ, bên lề Đối thoại Shangri-La ở Singapore diễn ra hai ngày 30-31/5 trong bối cảnh căng thẳng gia tăng trên Biển Đông, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Quốc phòng bác bỏ khả năng Việt Nam tham gia liên minh quân sự với bất cứ quốc gia nào.
"Tình hình càng căng thẳng thì càng phải giữ độc lập, tự chủ. Đó là nguyên tắc nhất quán của Việt Nam," ông Vịnh nói.
Vào khoảng thời gian này tháng Năm, Bộ Ngoại giao Việt Nam phản ứng trước một số phát biểu của phía Trung Quốc cho rằng Việt Nam đã mở rộng, bồi đắp lấn biển quy mô lớn tại các đảo, đá mà theo phía Trung Quốc, Việt Nam “chiếm giữ” ở Biển Đông.
Ngày 8/5/2015, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình nói ''Những hoạt động tôn tạo, mở rộng đảo, đá mà Trung Quốc đang tiến hành đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông, gây lo ngại sâu sắc trong cộng đồng quốc tế, trong đó có ASEAN.
''Một lần nữa Việt Nam yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay các hoạt động này, nghiêm túc tuân thủ và thực thi luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 cũng như Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); không có thêm các hành động gây phức tạp và mở rộng tranh chấp trên Biển Đông”.
Ấn Độ khởi động cơ chế đối thoại an ninh cấp cao với Nhật và Úc
Sau nhiều năm ngần ngại do sức ép của Trung Quốc, ngày 08/06/2015 Ấn Độ đã chính thức khai trương một cơ chế đối thoại an ninh cấp cao ba bên cùng với Úc và Nhật Bản. Chương trình nghị sự cuộc họp đầu tiên này bao gồm hợp tác an ninh, tập trận Hải quân hỗn hợp, tăng cường quan hệ quân sự. Vấn đề Biển Đông cũng nằm trong phạm vi thảo luận.
Theo thông tin được báo mạng Ấn Độ The Economic Times tiết lộ, cuộc họp ba bên khai mạc tại New Delhi diễn ra ở cấp thứ trưởng ngoại giao với sự tham dự của Quốc vụ khanh Ấn Độ phụ trách đối ngoại S. Jaishankar, Thứ trưởng Ngoại giao Nhật Bản Akitaka Saiki và Quốc vụ khanh Úc về ngoại giao và thương mại, Peter Varghese.
Đối thoại ba bên Ấn-Nhật-Úc sẽ tập trung thảo luận về các diễn biến mới nhất về tình hình an ninh trong môi trường kinh tế của khu vực, cũng như những gì đang diễn ra tại Biển Đông, nhất là các hoạt động của Trung Quốc đang rầm rộ bồi đắp đảo nhân tạo tại các khu vực tranh chấp với các láng giềng.
Vấn đề hợp tác an ninh, đặc biệt trong lĩnh vực hải quân, được cho là sẽ đứng đầu chương trình nghị sự. Các nguồn tin từ phía Hải quân Ấn Độ cho biết là ba nước đã mở đàm phán sơ bộ về vấn đề này, và một cuộc tập trận chung Ấn-Nhật-Úc sắp tới đây rất có thể sẽ được tổ chức. Trong quá khứ, Ấn Độ đã từng tỏ rõ ý muốn mở tập trận chung với Nhật Bản và Úc.
Theo The Economic Times, chính quyền Ấn Độ trước đây của liên minh UPA do đảng Quốc đại lãnh đạo, đã rất ngần ngại trong việc hình thành cơ chế đối thoại an ninh ba bên với Nhật và Úc, vì không muốn phật ý Trung Quốc. Bắc Kinh đã cực lực phản đối New Delhi sau khi Ấn Độ, Nhật Bản và Úc tham gia một cuộc họp 4 bên cùng với Mỹ vào năm 2007, nhân một cuộc tập trận chung của 4 nước.
Tuy nhiên, từ khi Đảng BJP của Thủ tướng Modi lên cầm quyền, chính quyền Ấn Độ đã có thái độ dứt khoát hơn và đã xúc tiến việc hình thành cơ chế đối thoại ba bên Ấn-Nhật-Úc về an ninh ở cấp Thứ trưởng ngoại giao.
Trong lãnh vực tập trận chung cũng vậy. Nếu chính phủ Ấn Độ tiền nhiệm đã ngần ngại trong việc tổ chức các cuộc tập trận Hải quân đa phương, sau khi cuộc tập trận Malabar 2007 tại Vịnh Bengal, với sự tham gia của cả Nhật lẫn Úc, bị Trung Quốc phản đối, chính quyền đương nhiệm của ông Modi đã có thái độ kiên quyết hơn.
Hiện có rất nhiều dấu hiệu cho thấy là cuộc tập trận Malabar trong tương lai sẽ được đa phương hóa, trong lúc Ấn Độ sẽ tích cực tham gia các cuộc thảo luận chúng về an ninh, quân sự và quốc phòng với các quốc gia đồng quan điểm.
Át chủ bài của hải quân Mỹ ở Biển Đông
Tàu tuần duyên USS Fort Worth của Mỹ tại Singapore.Reuters
Tính cho đến hôm nay thì Hải quân Hoa Kỳ đã chính thức tung át chủ bài vào khu vực Biển Đông, đó là chiếc tuần duyên hạm USS Fort Worth mà nếu không có gì thay đổi sẽ là chiến hạm hoạt động lâu nhất trong lịch sử quân đội Mỹ, với hai năm liên tiếp trên biển, cứ bốn tháng lại thay toàn bộ thủy thủ đoàn một lần, gối đầu nhau. Lê Hải đã theo sát lịch trình của con tàu này từ đầu năm đến nay và cung cấp thêm chi tiết tổng hợp từ các tài liệu của quốc hội và giới chuyên gia quân sự Hoa Kỳ.
Lê Hải : Tháng 11 năm ngoái tuần duyên hạm USS Fort Worth chính thức được đưa sang căn cứ quân sự của hải quân Mỹ ở Singapore với 54 thuyền viên và 24 binh sĩ thuộc lực lượng tác chiến trên không để triển khai trực thăng MH 60R Seahawk và trực thăng không người lái MQ-8B. Đúng như tên gọi, chiến hạm này được thiết kế để hoạt động ở khu vực thềm lục địa, thân nhỏ hẹp dễ dàng chui lọt giữa các luồng lạch nhỏ, tốc độ nhanh, và được thiết kế để nằm ngoài tầm theo dõi của rada.
Đây là một bước tiến rất xa về kỹ thuật hàng hải và quốc phòng, vì với loại tàu có lượng giãn nước cỡ 3000 tấn thì hiện nay Việt Nam chỉ có chủ yếu là tàu vận tải như chiếc HQ 571 của hải quân, và ngay cả tàu CSB 8001 hiện đại nhất của cảnh sát biển thì cũng chỉ có thể làm nhiệm vụ tuần tra là chủ yếu, hơn là khả năng tác chiến với hỏa lực mạnh.
Vài tuần trước USS Fort Worth đã thử chạm mặt với tàu chiến Trung Quốc và kết quả theo như phóng sự của CNN thì chiến hạm Yancheng bị tụt lại đằng sau rất xa. Theo kế hoạch thì bốn chiếc tuần duyên hạm của Mỹ sẽ làm chủ mọi hoạt động trên các tuyến đường biển ở biển đông, thay thế tư duy trước đây thường sử dụng tàu to để án ngữ địa hình nhưng lại xoay chuyển chậm chạp và ca nô nhỏ kèm theo thì không đủ hỏa lực và vũ khí để khống chế đối phương trong trường hợp cần ngăn chặn hay kiểm soát tàu bè.
Đây không chỉ là chuyện thay đổi trang bị hay cách sử dụng một chiếc tàu chiến, mà đây là kết quả của một chương trình đầu tư chiến lược mà hải quân Mỹ đã liên tục đấu tranh với quốc hội để đòi duyệt chi khoản ngân sách không lồ trong suốt nhiều năm qua. Ban đầu chương trình yêu cầu Hoa Kỳ phải có 52 chiếc tuần duyên hạm để hiện đại hóa hải quân cho phù hợp với tình hình như dự án đã trình từ cách đây 15 năm, nhưng nay quốc hội rút xuống chỉ còn đươc 20 chiếc mà thôi, theo như báo cáo mới nhất của Quốc hội Mỹ hồi tháng Ba vừa qua.
Mỗi chiếc tuần duyên hạm mang số hiệu LCS, tức là viết tắt của chữ tàu chiến gần bờ Littoral Combat Ship, tốn khoảng 479 triệu USD để chế tạo. Con tàu LCS-3, tức là USS Fort Worth sau một năm rưỡi hoạt động trên biển sẽ trở về Mỹ để bảo trì cũng phải tốn đến 10 triệu USD từ ngân sách.
RFI : Dư luận Việt Nam hay bàn đến chuyện mời Hoa Kỳ sử dụng quân cảng Cam Ranh, nếu điều đó xảy ra thì chiếc tàu đặc biệt này của Mỹ sẽ khiến Trung Quốc sẽ ngại chuyện đưa dàn khoan 571 vào sát khu vực chỉ còn cách bờ biển Việt Nam 40 hải lý như mấy ngày qua, chưa kể đến nguồn thu nhập cho việc sửa chữa hay hậu cần và dịch vụ kèm theo?
RFI : Dư luận Việt Nam hay bàn đến chuyện mời Hoa Kỳ sử dụng quân cảng Cam Ranh, nếu điều đó xảy ra thì chiếc tàu đặc biệt này của Mỹ sẽ khiến Trung Quốc sẽ ngại chuyện đưa dàn khoan 571 vào sát khu vực chỉ còn cách bờ biển Việt Nam 40 hải lý như mấy ngày qua, chưa kể đến nguồn thu nhập cho việc sửa chữa hay hậu cần và dịch vụ kèm theo?
Lê Hải : Có lẽ điều đó sẽ khó xảy ra vì ngay cả như căn cứ hải quân ở Phillipines cũng chỉ là điểm dừng chân cho USS Fort Worth mà thôi. Hai cảng chính cho loại tàu này nằm ở Singapore và Nhật Bản, vốn không chỉ là đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ mà còn có điều kiện kỹ thuật cao để tiếp nhận.
Cách sắp xếp như vậy cũng thể hiện rõ cách nhìn của Hoa Kỳ về Biển Đông, không phải là họ thực sự muốn bênh vực các nước nhỏ như Việt Nam hay Philiipines, hay muốn có hành động chọc tức Trung Quốc, mà muốn thể hiện khả năng làm chủ tuyến đường hàng hải trong khu vực có tranh chấp, trải dài từ Singapore sang tới Nhật Bản.
Tuần duyên hạm vốn được thiết kế để hoạt động ven bờ, tức là chủ yếu là bảo vệ bờ biển nước Mỹ, nhưng được điều sang nằm ở Singapore, và với tốc độ cao thỉnh thoảng lại chạy qua chạy lại trong khu vực, chỉ mất vài ngày so với trình độ hải quân của tất cả các nước ở Biển Đông phải mất vài tuần cho đến cả tháng mới thực hiện nổi. Khi gặp tàu Trung Quốc, hải quân Mỹ không ngại tiếp cận nhưng không giao chiến mà đưa ra bộ qui tắc về luật lệ quốc tế trên biển để buộc Trung Quốc phải tuân thủ. Và thực sự thì Trung Quốc cũng không có cách nào dùng vũ lực để thực hiện các luật lệ mà tự họ đặt ra.
Một cách dễ hiểu, tuần duyên hạm của Mỹ ở Biển Đông giống như là một đơn vị cảnh sát quốc tế vừa đi lại để nhận diện những ai vi phạm luật lệ do Mỹ và thế giới định ra, nhưng chưa có hành động bắt giữ hay là trấn áp bằng vũ lực, chỉ là nhắc nhở và ghi nhận. Và ngược lại, khả năng quân sự và kỹ thuật của đơn vị này quá mạnh và quá cao đến nỗi kể cả ai đó muốn thử sức cũng không kịp có cơ hội.
Nói một cách ví von, nếu Trung Quốc muốn làm trùm xã hội đen trong xóm thì cũng phải kiêng dè đơn vị cảnh sát này và chỉ dám xuất hiện khi tàu chiến của Hoa Kỳ vắng mặt. Theo cách nhìn đó chuyên gia quốc phòng Mark Thompson trên tờ Time cho rằng sẽ khó xảy ra đụng độ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, mà Việt Nam và Phillipines mới là các nước dễ thiếu kiềm chế.
RFI : Tuần duyên hạm dù được trang bị hỏa lực nhưng không phải là loại tàu chiến để tấn công và cũng khó tự vệ một mình, như vậy thực sự là Hoa Kỳ sắp tới sẽ đưa quân đội vào khu vực Biển Đông, hay chỉ làm cảnh sát chạy qua lại và nhắc nhở các bên về luật lệ mà thôi?
Lê Hải : Chiếc tuần duyên hạm đầu tiên được xuất xưởng là USS Freedom, chính thức được hải quân Mỹ tiếp nhận vào năm 2008. Còn USS Fort Worth trước khi được đưa sang Singapore đã được gia cố thêm để tăng tốc đô và khả năng hoạt động lâu ngày trên biển. Điều đó thể hiện rõ ý định của Hoa Kỳ hiện tại có lẽ chỉ muốn làm cảnh sát biển quốc tế ở khu vực Biển Đông mà thôi.
Các ý kiến từ giới chuyên gia của hải quân Hoa Kỳ về Trung Quốc cũng đề nghị nên đưa hoạt động của bốn chiếc tuần duyên hạm ở Biển Đông vào cơ cấu giống như là Lực lượng phòng vệ bờ biển của Mỹ, đặt nặng việc thực thi công pháp quốc tế và biện pháp ngoại giao, còn vũ khí hạng nặng của hải quân thì nên được bố trí sẵn sàng để trừng phạt khi cần thiết. Tuy nhiên, từ một góc độ khác, hải quân Mỹ hiện đang bắt đầu dùng chữ frigate (tàu chiến) thay cho chữ ship (tàu) trong các báo cáo về tuần duyên hạm, cho nên có thể thấy rằng hiện nay các chiếc tàu này đang được tăng dần khả năng tấn công.
Ngoài ra, cũng cần chú ý thêm rằng cùng là tuần duyên hạm, nhưng chỉ có hai chiếc thuộc hạng freedom do Lockheed Martin chế tạo, còn hai chiếc kia thuộc hạng independence do General Dynamics sản xuất, được thiết kế theo kiểu tàu chiến, với chi phí cao hơn, gần gấp rưỡi, chừng 700 triệu USD, như chiếc LCS-2 USS Independence, cũng được hải quân Mỹ tiếp nhận vào năm 2008. Khi phối hợp với nhau các chiếc tàu này sẽ tạo ra một sức mạnh khó lường, đặc biệt là nếu có máy bay từ đằng xa tới hỗ trợ. Hiện nay người ta vẫn còn đang giữ bí mật về chi tiết và trang bị của những chiếc tàu sắp được triển khai, cho nên là sắp tới sẽ còn rất nhiều màn ngoạn mục đang chờ hải quân Hoa Kỳ biểu diễn ở Biển Đông.
RFI :Xin cám ơn Lê Hải.http://vi.rfi.fr/chau-a/20150608-at-chu%CC%89-ba%CC%80i-cu%CC%89a-ha%CC%89i-quan-my%CC%83-o%CC%89-bie%CC%89n-dong/
Đến lượt Malaysia phản đối Trung Quốc xâm phạm lãnh hải
\
Tàu hải cảnh Trung Quốc thả neo tại Luconia Shoals, Biển Đông.DR
Tàu hải cảnh Trung Quốc thả neo tại Luconia Shoals, Biển Đông.DR
Trong một động thái được ghi nhận là bất thường, chính quyền Kuala Lumpur ngày 08/06/2015 tuyên bố là họ sẽ phản đối vụ tàu Hải cảnh Trung Quốc bị cáo buộc là đã thâm nhập vào vùng lãnh hải của Malaysia. Vụ việc xẩy ra tại một vùng biển ở phía bắc Borneo.
Trong một bài phỏng vấn, ông Shahidan Kassim ,Bộ trưởng An ninh Quốc gia Malaysia, khẳng định là tàu công vụ của Trung Quốc đã thâm nhập vào một khu vực không phải là vùng có tranh chấp chủ quyền. Kuala Lumpur đang có « hành động ngoại giao » để phản đối Bắc Kinh, và Thủ tướng Malaysia Najib Tun Razak sẽ trực tiếp nêu vấn đề với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.
Lời phản đối Trung Quốc một cách công khai của Malaysia rất đáng chú ý ,vì từ trước đến nay, nước này thường rất kín tiếng trong hồ sơ Biển Đông, ít khi chỉ trích Trung Quốc, ngược lại với hai láng giềng Philippines và Việt Nam.
Vào tuần trước, chính Bộ trưởng Kassim đã tiết lộ vụ tàu Trung Quốc xâm phạm vùng biển của Malaysia khi cho đăng trên trang Facebook cá nhân của mình hình ảnh một con tàu Hải cảnh của Trung Quốc thả neo tại Luconia Shoals.
Đây là một vùng gồm nhiều đảo nhỏ và rạn san hô, nằm sâu bên trong vùng đặc quyền kinh tế khoảng 400 km mà Malaysia tuyên bố. Vùng này chỉ cách đảo lớn Borneo của Malaysia khoảng 150 km về phía bắc, trong lúc cách lục địa Trung Quốc khoảng 2.000 km.
Khi được hỏi về tuyên bố của chính quyền Malaysia vào hôm nay, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi từ chối trả lời, cho rằng ông không có thông tin gì về lời cáo buộc của Malaysia, theo đó tàu Trung Quốc đã thả neo tại Luconia Shoals.
Luconia Shoals nằm gần cực nam của cái gọi là đường lưỡi bò mà Trung Quốc sử dụng để đòi chủ quyền trên hầu như toàn bộ Biển Đông. Khu vực này là đối tượng tranh chấp giữa Trung Quốc, Đài Loan và Malaysia.
http://vi.rfi.fr/chau-a/20150608-den-luot-malaysia-phan-doi-trung-quoc-xam-pham-lanh-hai/
Lời phản đối Trung Quốc một cách công khai của Malaysia rất đáng chú ý ,vì từ trước đến nay, nước này thường rất kín tiếng trong hồ sơ Biển Đông, ít khi chỉ trích Trung Quốc, ngược lại với hai láng giềng Philippines và Việt Nam.
Vào tuần trước, chính Bộ trưởng Kassim đã tiết lộ vụ tàu Trung Quốc xâm phạm vùng biển của Malaysia khi cho đăng trên trang Facebook cá nhân của mình hình ảnh một con tàu Hải cảnh của Trung Quốc thả neo tại Luconia Shoals.
Đây là một vùng gồm nhiều đảo nhỏ và rạn san hô, nằm sâu bên trong vùng đặc quyền kinh tế khoảng 400 km mà Malaysia tuyên bố. Vùng này chỉ cách đảo lớn Borneo của Malaysia khoảng 150 km về phía bắc, trong lúc cách lục địa Trung Quốc khoảng 2.000 km.
Khi được hỏi về tuyên bố của chính quyền Malaysia vào hôm nay, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi từ chối trả lời, cho rằng ông không có thông tin gì về lời cáo buộc của Malaysia, theo đó tàu Trung Quốc đã thả neo tại Luconia Shoals.
Luconia Shoals nằm gần cực nam của cái gọi là đường lưỡi bò mà Trung Quốc sử dụng để đòi chủ quyền trên hầu như toàn bộ Biển Đông. Khu vực này là đối tượng tranh chấp giữa Trung Quốc, Đài Loan và Malaysia.
http://vi.rfi.fr/chau-a/20150608-den-luot-malaysia-phan-doi-trung-quoc-xam-pham-lanh-hai/