Tuesday, November 22, 2016

SINH HỌC * THANH TÂM TUYỀN * BIỂN ĐÔNG * HIỆN SINH


Saturday, July 18, 2015


THÁI CÔNG TỤNG * SINH HỌC

GS THÁI CÔNG TỤNG

Đa-dạng sinh-học và Phật-học-Thái Công Tụng

Abstracts
Following introduction in section 1 about the importance of biological diversity in this world, highlighted by the United Nations by declaring 2010 as the International Year of Biodiversity, section 2 discusses biodiversity of species, of ecosystems, of genes. Section 3 deals about biodiversity in tropical forests. Roles of biodiversity are in section 4: ecological, economical, social and spiritual. Biodiversity is of great economic value, since it has the potential to contribute in medicinal products, in essential oils derived from plants, in genetic improvement. It contributes also to sustainable development including watersheds, soil and coastal protection, climate and water regulation, environmental stability and carbon sequestration. Biodiversity conservation is discussed in section 5. Biodiversity and Buddhism are in section 6: various sutras are cited toprone the real compassion with all beings animal or vegetal...The law of causality taught that a behavior has a natural relationship to its resulting consequences in the physical world. In Buddhism, all things are interrelated/interconnected and do not have an autonomous existence, so the health of the whole is inseparably linked with the health of the parts and vice versa. By living simply one can be in harmony with other creatures and learn to appreciate the interconnectedness of all that lives

*

1. Nhập đề

Đa dạng sinh học càng ngày càng được chú trọng trong lãnh vực môi trường, nhất là từ khi có Đại Hội Toàn cầu về trái đất ở Rio (Ba Tây) năm 1992.  Đại hội này quy tụ các lãnh tụ toàn thế giới về các vấn đề đặt ra trong lãnh vực môi trường trên hành tinh chúng ta đang ở và báo động về các nguy cơ hiểm hoạ đang chờ đón nếu chúng ta lơ là về sự bảo vệ môi trường.Nhiều vấn đề như sưởi ấm toàn cầu, lổ hổng ozôn, sự phá rừng xích đới, sự ô nhiễm không khí, mưa axít, giảm đa dạng sinh học, khu vực đánh cá bị cạn kiệt, mực nước biển dâng cao, v.v. là những vấn đề nhức nhối của nhân loại, nhất là khi áp lực dân số tăng mỗi ngày làm diện tích sống của mỗi người càng bị thu hẹp lại. Riêng năm 2010, Liên hiệp quốc chọn làm Năm quốc tế đa dạng sinh học với mục tiêu tăng cường nhận thức của cộng đồng trong việc bảo tồn đa dạng sinh học, chia sẻ thông tin về những thành tựu trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học do cộng đồng và Chính phủ thực hiện.

image

2. Thế nào là đa dạng sinh học?

Đa dng sinh học là toàn bộ các môi trường tự nhiên và mọi hình thức cuộc sống trong đó có động vật, thực vật, khuẩn, vi khuẩn với mọi tương quan, tương thuộc giữa chúng và các môi trường.Đời sống trên mặt đất có 3 mặt tương thuộc:

-đa dạng các loài (kể cả loài người) .

Ngày nay, người ta ước tính có đến 10 triệu loài đa tế bào và chỉ chừng 1.8 triệu là được xác định .Ngoài biển thì san hô, cá biển, chim biển, thú biển, bò sát, động vật đáy, động v ật phù du, rong biển, cỏ biển ..Trên cạn, thì động vật có vú, loài chim, loài bò sát, thực vật thì ẩn hoa, hiển hoa, rong rêu v.v.Trong đất cũng có nhiều động vật và vi cơ thể nhiều loài

-đa dạng cá nhân (đa dạng gien) trong mỗi loài. Vài ví dụ:

Lúa cũng có nhiều loài :

Vụ chiêm em cấy lúa di,

Vụ mùa lúa dé, sớm thì ba giăng

Thú quê rau cá đã từng

Gạo thơm cơm trắng chi bằng tám xoan

Cá cũng có nhiều loài:

Nhà tôi nghề giã nghề nông
Lặng thì tôm cá đầy trong đầy ngoài
Cá trắng cho chí cá khoai
Còn như cá lẹp, cá mai cũng nhiều.

Rau cải cũng rất đa dạng như trong bài ca dao sau:

Ai đâu mà chẳng biết ta
Ta ở Xóm Láng, vốn nhà trồng rau
Rau thơm, rau húng, rau mùi
Thì là, cải cúc, đủ loài hành hoa
Mồng tơi, mướp đắng, ớt cà
Bí đao đậu ván
vốn nhà trồng nên

-đa dạng môi trường sống: môi trường sống có  thể  là 

cái ao : Ao thu lặng lẽ  nước trong veo (Nguyễn Khuyến)

một con sông : Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song (Xuân Diệu)

một ngọn đèo : Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ  cây chen lá  lá  chen hoa (Bà Huyện Thanh Quan)

Đó là đa dạng về hệ sinh thái

Nói cách khác, đa dạng sinh học là mức độ phong phú của tạo vật và là kết quả của hơn hàng ngàn triệu năm, từ lúc Trái đất được thành hình đến nay.

Trong văn thơ Việt, thực vật và động vật luôn luôn là những đề tài gửi gắm trong ca dao cũng như trong các bài thơ .

Trong bài thơ tả cảnh đồng quê Việt :

Gió may nổi bờ tre buồn xao xác

Trên ao bèo tàn lụi nước trong mây

Hoa mướp rụng từng đoá vàng rải rác

Lũ chuồn chuồn nhớ nắng ngẩn ngơ bay

Ta thấy nào là động vật (chuồn chuồn) với thực vật (mướp, tre, bèo) chan hoà man mác trong bài

Ca dao thường phảng phất nhiều thực vật:

Xăm xăm bước tới vườn trầu

Hỏi thăm lê, lựu, mãng cầu chín chưa ?

Ngó  lên đám bắp trổ  cờ,

Đám dưa trổ nụ, đám  trổ bông

Đa dạng sinh học cũng hiện diện trong lời kinh A Di Đà, với vô số loài chim:

Lại còn đây nữa, ông Xá-lỵ-phất, nước kia thường có đủ các giống chim, màu sắc lạ đẹp, như chim bạch hạc, khổng tước, anh vũ, cùng chim xá-lỵ , ca-lăng-tần-già và chim cộng mệnh. Các giống chim ấy, ngày đêm sáu thời, hót tiếng hoà nhã.

Trong bản nhạc Nhớ mùa thu Hà Nội, có những câu:

Hà Nội muà thu cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ nằm kề bên nhau

Phố xưa nhà cổ mái ngói thâm nâu

Hà Nội mùa thu,  mùa thu Hà Nội, mùa hoa sữa về thơm từng cơn gió,

mùa cốm xanh về thơm bàn tay nhỏ, cốm sữa vỉa hè thơm bước chân qua

Hồ Tây chiều thu, mặt nước vàng lay bờ xa mời gọi Màu sương thương nhớ

Bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời

Ta cũng thấy ngay thực vật (cây bàng, cây cơm nguội ..), động vật (sâm cầm), cùng đứng chung trong bài hát .

Đa dạng sinh học trong văn học Việt cũng nhan nhãn trong các bài hát như: hoa ngọc lan, hoa tigôn, hoa cúc, hoa mai, hoa đào, hoa quỳnh v.v. Cây cũng vậy có mặt trong ca dao, thơ, nhạc, từ cây cau, cây khế, cây xoài, cây nhãn đến bằng lăng.

 
 Tóm lại, đa dạng sinh học chính là chim trời, cá nước, san hô ngoài biển, cá sông, cá biển cùng động vật hoang dã, thực vật trong rừng, kể cả các khuẩn, tảo, vi cơ thể trong đất, tóm lại mọi hình thức của sự sống muôn màu muôn vẻ .

image

3.Đa dạng sinh học trong rừng nhiệt đới

Những loại rừng ôn đới hay rừng thông phương Bắc không có nhiều loài thực vật trong khí đó thì các rừng nhiệt đới có rất nhiều loài, đặc biệt là các vùng sau đây:

-Vùng Amazon. Rừng Amazone, rộng đến 7 triệu km2, xuyên qua nhiều xứ như Bresil, Perou, Venezuela, Guyana, Surinam. Rừng rậm và chứa nhiều loài thực vật, động vật, côn trùng, loài bò sát, chim muông. Trong rừng vùng Amazon có trên 3000 loài cây ăn trái từ chuối, avoca, cam, chanh, bưởi, chưa kể đến cây lúa, khoai tây, bắp, riềng, gừng, khoai môn, mía, cà phê, quế; còn chim muông, loài bò sát, động vật hoang dã thì cũng rất nhiều. Sông Amazon của Brasil có chứa nhiều loại cá hơn tất cả các sông ngòi Âu Châu.  

Khu vực này là quê hương của khoảng 2.5 triệu loài côn trùng, hàng chục nghìn loài thực vật, và khoảng 2 000 loài chim cùng thú. Tới nay, ít nhất khoảng 40 000 loài thực vật, 3 000 loài cá, 1294 loài chim, 427 loài thú, 428 loài động vật lưỡng cư, và 378 loài bò sát đã được phân loại khoa học trong khu vực này. Khoảng 20 % loài chim trên thế giới sống trong các khu rừng nhiệt đới Amazon.

-Vùng lưu vực sông Congo. Lưu vực sông Congo bao trùm các xứ như Cameroun, Cộng Hoà Trung Phi, Congo Brazzaville, Congo Kinshasha, Guinée Equatoriale, Gabon cũng chứa nhiều rừng và đa dạng sinh học rất lớn.

-Vùng Nam Phi . Vùng Nam Phi châu với diện tích 1,1 triệu km2(110 triệu hecta)- ứng với Bostwana, Lesotho, Mozambique, Liên Bang Nam Phi, tương ứng với 1% diện tích  đất lục địa  của quả địa cầu- cũng có nhiều loài chim, cá, cây, loài bò sát, động vật có vú.

-Vùng New Guinea. Vùng Papua New Guinea cũng còn rất nhiều thực vật chưa ai nghiên cứu . Trải dài từ các đảo Indonesia đến hải đảo Thái Bình dương xuyên qua New Guinea.

Riêng Việt Nam cũng là nơi hội lưu của ba luồng di cư sinh vật từ nhiều khu vực Nam Hoa, Mã Lai, Ấn Độ nên thực vật  cũng kế thừa cả ba luồng :

• luồng thực vật miền núi Tây Bắc châu thổ sông Hồng có nhiều giống cây như thảo mộc miền núi Himalaya hay Nam Hoa, rụng lá vào đông  như các cây thuộc họ Dẻ (Fagaceae), họ Thích (Aceraceae), họ Nhài (Oleaceae)

• luồng thực vật mang các yếu tố Mã Lai-Indonesia bao gồm các cây thuộc họ Dầu (Dipterocarpaceae) như chò chỉ, dầu song nàng,                    .
• luồng thực vật mang các yếu tố Ấn Độ-Miến Điện gồm những cây thuộc họ Bàng (Combretaceae) như chò xanh, chò nhai (Anogeissus tonkinensis) và một số loài thuộc chi Combretum họ Bằng Lăng (Lythraceae), họ Gạo (Bombacaceae  ) rụng lá vào mùa khô.

Riêng về biển cũng có nhiều đa dạng sinh học với tôm, mực, ghẹ, ốc nhảy, trai, nghêu lụa, cá ngựa, hải sâm với nhiều loài san hô thuộc 2 nhóm san hô cứng và san hô mềm; có  loài cá rạn san hô.

image

4. Ich lợi của đa dạng sinh học

Đa dạng sinh học có 3 vai trò quan trọng sau đây:

41. Vai trò sinh thái. Ða dạng sinh học và biến đổi khí hậu có liên quan chặt chẽ và tương tác với nhau. Với rừng rú được bảo tồn, sức khoẻ con người được tăng lên vì rừng toả ra oxy qua hiện tượng quang hợp và hút bớt các khí độc do khói nhà máy, khói xe hơi do hàng vạn chiếc suốt ngày đêm di chuyển phát ra. Đó là các khí nhà kiếng (green house gas) làm đảo lộn khí hậu trái đất .

 Lợi ích gián tiếp của đa dạng sinh học là hỗ trợ đắc lực cho các hệ sinh thái, điều hòa khí hậu, tạo ra ô-xy, giữ nguồn nước và cung cấp nước, chống xói mòn, bảo vệ đất đai ở mọi nơi,giúp hạn chế biến đổi khí hậu. Rừng nhiệt đới Amazon là một khu bảo tồn thiên nhiên trên thế giới. Đó là khu dự trữ sinh quyển (cái phổi) cho loài người, nhờ vào sự hấp thụ CO 2 của cây cối rồi thải oxygen ra không gian. Hơn 20% oxygen trên thế giới tiết ra từ rừng nhiệt đới Amazo.

42 .Vai trò kinh tế như nguồn gen cho nông nghiệp, nguồn thuốc cho y tế, nguồn lương thực. Trước kia, con người sử dụng các sản phẩm hoá học nhiều nhưng ngày nay, mới thấy hoá học đưa đến những phản ứng phụ gây nguy hại cho sức khoẻ nên càng ngày nhân loại chú trọng nhiều về sinh học (Bio). Các nhà nghiên cứu sàng lọc các hợp chất thiên nhiên (các chất có hoạt tính sinh học, tinh dầu, hương liệu) từ tài nguyên sinh vật trên đất liền, dưới biển và vi sinh vật để tổng hợp các chất có giá trị kinh tế, khoa học cao đ ể sử dụng trong các ngành y dược, mỹ phẩm, công nghiệp

 Công nghệ sinh học đang dần dà chiếm nhiều lãnh vực,  từ trang điểm với các công ty mỹ phẩm ngày nay sử dụng các tinh dầu thực vật để làm phấn, son, nước hoa  trong ngành biocosmetics, sinh vật chuyển đôi gen (OMG) với cà chua, đậu nành, bắp với biotechnology đến cải thiện môi trường nước với bioremediation, biofiltration v.v.. -thuốc thang (Đông y và Tây y )

Xưa kia, ngành Đông Y chỉ dùng toàn thuốc nguồn gốc thực vật . Gừng, tỏi, artichaut, lá dâm bụt, rau thơm v.v. đều sử dụng trị các chứng đau; ngày nay Tây Y cũng sử dụng nghiên cứu thực vật để tìm ra các tinh chất trị bệnh. Rừng cây là một nguồn cung cấp dược liệu quan trọng cho con người; nếu ta hủy hoại rừng, vô hình chung nguồn thuốc chữa bệnh cũng mất luôn. Các chiết xuất từ nhiều cây trong rừng giúp trị nhiều chứng bệnh. Vào trong tiệm thuốc Tây ngày nay, ta thấy cũng có trưng bày các loại thuốc của nhiều hãng như Adrien Gagon, Jamieson ..của Canada, Vogel của Thụy Sĩ để trị cảm, cúm, dị ứng, ho khan v.v. bằng các thực vật khác nhau. Năm 1983 không một hãng hay cơ quan nào của Hoa Kỳ làm nghiên cứu về thảo dược mà ngày nay có hơn 100 hãng thuốc đã lên dự án thiết lập nhiều chương trình nghiên về thảo dược như Merck, Abbott, Bristol-Myers Squibb, Eli Lilly, Monsanto và Cơ Quan chống Ung Thư Hoa Kỳ (US National Cancer Institute). Cơ quan này cho biết có hơn 3 000 loại cây dùng để chữa trị ung thư trong đó 70% là dược thảo từ rừng nhiệt đới. Chưa kể đến còn nhiều chất hóa học trong dược thảo chưa khám phá bởi con người để chữa trị những căn bệnh hiểm nghèo như lao phổi (tuberculosis), viêm gan, HIV, AIDS, v.v….mà có thể những hóa chất dược thảo này sẽ tìm được trong rừng Amazon chăng

Rừng nhiệt đới là nhà thuốc cho thế giới . Nhờ đa dạng sinh học, nhất là thảo mộc hoang dã trên núi, nên nhiều dược phẩm mới có khả năng được phát hiện qua các khảo cứu các thảo mộc thiên nhiên trong rừng.. Nếu ta hủy hoại rừng, vô hình chung tài sản gien của nhân loại bị phá vỡ luôn. Trong rừng nhiệt đới có vô vàn cây cho thuốc, từ lá, rễ, trị nhiều chứng bệnh thuốc lợi tiểu, chống đau nhức, trị kiết, thổ tả, mụt nhọt. Ở Bắc Mỹ 25% toa thuốc chế biến từ dược thảo. Vào những năm 2000 thuốc tiêu thụ từ dược thảo lên đến 4.5 tỉ đô la. Ngày nay trên toàn thế giới lưu lượng dược thảo được bán ra hơn 40 tỉ đô la hàng năm chiết ra từ 90 loại cây rừng nhiệt đới. 25% các loại thuốc chống ung thư ngày nay trích ra từ dược thảo vùng nhiệt đới.

-nguồn gien cho cải tạo thực vật:  Đa dạng sinh học càng nhiều thì qũy gien càng phong phú và càng phong phú thì cơ hội lai tạo các giống mới kháng hạn, kháng lạnh, kháng phèn, kháng mặn.. .càng dễ thành công . Đó là lý do Liên Hiệp Quốc có Công Ước quốc tế về đa dạng sinh học.Nhiều giống cây, nhiều giống hoa màu hoang dã  nhưng lại chứa đựng một quỹ gen rất phong phú . Nhờ quỹ gen đó mà có thể thay đổi hay cải thiện các giống hiện có, bằng cách lai giống, ghép cây, để tạo ra các giống mới thích nghi với môi trường mới, kháng sâu hơn, giúp cải thiện môi trường. Sự đa dạng sinh học là điều kiện cần thiết để có một quỹ gen phong phú..

-lương thực:  Rừng cây cũng có tài nguyên lưong thực với măng tre, nấm, sim, muồn

Ba năm trấn thủ lưu đồn

Ngày thì canh điếm, tối dồn việc quan  

Chém tre đẵn gỗ trên ngàn

Hữu thân, hữu khổ phàn nàn cùng ai

Miệng ăn măng trúc, măng mai

Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng  

Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng

43. Vai trò xã hội và tâm linh.

Đa dạng sinh học có giá trị thẩm mỹ, văn hóa, nghệ thuật, giáo dục nâng cao tầm hiểu biết của con người. Đa dạng sinh học với thảo nguyên, rừng dày, rừng thưa, rừng ven sông, suối, ao hồ, biển giúp ngành du lịch nghỉ ngơi chưa kể đó cũng là chốn tâm linh giúp lắng đọng, nội tâm yên ổn, giúp giảm stress vốn gây rất nhiều bệnh thời đại  ..

Rừng giúp con người thư giãn, tìm lại sự im lặng, tĩnh mịch:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

 Người khôn người đến chốn lao xao

Đa  dạng sinh học với rừng cây,  ao hồ, sông suối, thác nước giúp con người ngày nay tránh cảnh ồn ào , chen lấn giúp họ có những quãng ngày thanh thản, tác động đến nội tâm.Thực thế, có ở trong cảnh phố phường chật hẹp người đông đúc với tiếng động nhức tai điếc óc  thì mới cảm nghiệm được sự yên tĩnh êm đềm lắng đọng trong khu rừng, mới  chiêm nghiệm trong thinh lặng và an bình, suy tư trong tình trạng thần trí lắng đọng, và mở rộng tâm hồn lắng nghe của chiêm nghiệm, của đời sống tâm linh. 

Con người tìm lại chốn tĩnh lặng, giúp tâm không còn vọng niệm, giúp tâm buông xả, không phân biệt những cặp đối đãi như giàu/nghèo, sang/hèn, tốt/xấu v.v. Tâm  an vui tự tại, không dính mắc, tâm không vọng niệm, tâm buông xả  như bài thơ sau đây:

“Sống không giận, không hờn, không oán trách

Sống là động, nhưng lòng luôn bất động

Sống là thương, nhưng lòng chẳng vấn vương

Sống yên vui, danh lợi mãi coi thường

Tâm bất biến, giữa dòng đời vạn biến.”

Trong mọi xứ, tín ngưỡng dân gian xem cây chứa đựng những linh hồn, những bà tiên, những bà phù thủy có phép màu nhiệm. Các thần thoại, các huyền thoại, các phônklo đều hàm ẩn những điều ấy.

Người Việt thuở xưa vì không chế ngự được thiên nhiên: gió, mưa, lụt lội, sấm sét, thú dữ nên tôn thờ mọi thần linh: thần lửa, thần mưa, thần gió, thần cây, thần đá và mọi vật linh như chim (trĩ, công..). Thần linh có mặt trong rừng, trên cây, khúc sông, thác nước…cho nên thường có những lễ hội cầu trời, cầu thần linh phù trợ cho con người. Ở nông thôn Việt Nam, ngưòi dân quê xem cây c th như chứa một cái gì linh thiêng, có thần cây tàng ẩn trong đó nên thường đem lễ vật, que hương ra cúng bái. Cây thông tượng trưng cho người quân tử:

Kiếp sau xin chớ làm người

Làm cây thông đứng giữa trời mà reo…

5. Bảo tồn đa dạng sinh học.

 Muốn bảo tồn đa dạng sinh học, các nước thường thiết lập vườn quốc gia (national park) khu bảo tồn thiên nhiên (nature reserve), khu lâm sản nghiên cứu thí nghiệm, các vườn sưu tập cây để cho hột (arboretum). Nhiều Trung Tâm Khảo Cứu trên thế giới đã phải sưu tập rất nhiều hạt giống cuả mọi giống lúa, mọi giống đậu, khoai tây, bắp…và tồn trữ trong các kho lạnh để cho khỏi mất tỷ lệ nẩy mầm trong hàng chục năm.Thực vậy, hiện nay trên thế giới có quãng trên 10 Trung Tâm quốc tế, rải rác trên toàn thế giới, chuyên có một bộ phận lo sưu tập và bảo tồn quỹ gien các loài. Nào là CIMMYT ở Mexico ,đặc trách lúa mì và bắp, y như tên gọi Centro Internacional Mejoramiento Maiz y Trigo, nào là CIAT (Centro Internacional Agricultura Tropicale) ở Colombia  lo sưu tập các loại đậu, nào là ICRISAT ở Ấn Độ (International Crops Research Institute SemiArid Tropics) sưu tập đậu phụng và đậu triều tức Cajanus indicus, nào là IRRI ở Phi luật tân (International Rice Research Institute) chuyên về lúa, từ lúa ruộng đến lúa rẩy, từ lúa tẻ đến lúa nếp, lúa nổi  đến lúa chịu phèn, kháng mặn, nào là CIP (Centro Internacional de la Papa) ở Pérou lo về khoai tâỵ  Từ 1968, Viện IRRI đã du nhập và tồn trữ trong kho lạnh gần 70.000 giống lúa (trong đó 63000 ở Á Châu). Muốn cho an toàn hơn, cứ mỗi giống lúa, họ gửi một nửa sang Mỹ, hiện tồn trữ trong kho lạnh ở Colorado (U .S. National Seed Storage Laboratory ở Fort Collins). Nền tảng cuả cuộc cách mạng xanh hiện nay là nhờ vào quỹ gien trên. Các nhà bác học đã xử dụng quỹ gien để tạo giống mới kháng hạn hơn, cao năng hơn, kháng sâu bệnh hơn. Căn bản di truyền trong sự cải thiện thực vật là nằm trong các gen mà một khi các gien bị mất đi (do phá rừng, do đô thị hoá) thì các nhà di truyền học không tìm đâu ra các gien để còn tiếp tục lai giống.

Tóm lại, bảo vệ đa dạng sinh học chính là bảo vệ con người. Vì sao ? Con ngưòi nhờ rừng vì không rừng thì không có nước. Không rừng thì đất cằn cỗi mà đất cằn thì không sản xuất được lương thực, gây nạn đói kém. Không rừng thì lụt lội, chết người, mất của.. Con người nhờ gen đa loại để cải thiện giống, giúp an ninh lương thực trong bối cảnh ng ười càng ngày càng đông.

image

6. Phật giáo và đa dạng sinh học.

Trong ngũ giới của Phật giáo, điều khoản thứ nhất là cấm sát sanh, nghĩa là cấm gây nên cái chết cho bản thân và tha nhân. Nền đạo đức của Phật giáo là lòng thương yêu thực sự đối với mọi sinh linh. Như vậy cũng có nghĩa là không săn bắn hoang thú.. Như vậy, ta phải bảo tồn rừng rú vì nếu không có rừng thì loài thú hoang, chim muông sẽ không nơi trú ẩn .Tục ngữ ta cũng có nói đến hai tội lớn trong môi trường : đó là Nhất phá sơn lâm, nhì đâm Hà Bá .

  Trong kinh Địa Tạng, phẩm thứ tư, Nghiệp cảm của chúng sanh, có đoạn Đức Phật khuyên như sau:

Này bốn ông Thiên Vương !

Nếu gặp kẻ sát hại loài sinh vật, thời dạy rõ quả báo vì ương lụy đời trước mà phải bị chết yểu.

Nếu gặp kẻ buông lung săn bắn  thời ngài dạy rõ quả báo kinh hãi điên cuồng mất mạng.

Nếu gặp kẻ đốt núi rừng cây cỏ  thời ngài dạy rõ quả báo cuồng mê đến chết.

Nếu gặp kẻ dùng lưới bắt chim non thời ngài dạy rõ quả báo cốt nhục chia lìa.

Nếu gặp kẻ dùng nước sôi hay lửa, chém chặt, giết hại sanh vật thời ngài dạy rõ quả báo phải luân hồi thường mạng lẫn nhau.

Trong kinh Pháp Cú là kinh nhật tụng của Phật giáo Tiểu thừa, phẩm Phật đà, ta bắt gặp các câu:

Trong cơn nguy khốn bàng hoàng

Con người tìm trú dưới hàng cây thiêng

Hoặc vào đền miếu, chùa chiền

Hoặc lên đồi núi, hoặc miền rừng hoang

Như vậy cũng đủ nói lên vai trò của rừng trong tâm linh. Đức Phật Thích ca có những lời nhắn nhủ ghi lại trong kinh Pháp Cú, phẩm A La Hán:

Khả ái thay núi rừng

Chỗ người phàm không ưa

Người li tham ưa thích

Vì không tìm dục lạc

Trong cuộc sống đầy biến động, ta hãy tạo cho mình một niềm tin và một tâm bình an, buông xả .

Theo thuyết tương tức, tương nhập, trùng trùng duyên khởi thì mọi việc đều liên quan đến nhau: rừng cây tác động đến nước, nước tác động lên mực nước biển dâng, ảnh hưởng đến các vùng đất thấp duyên hải, ảnh hưởng đến lương thực v.v.nói cách khác, cái này có vì cái kia có, cái này không vì cái kia không.. Thân thể bao gồm bốn yếu tố: đất, nước, gió, lửa. Khi chúng kết hợp và tạo thành cơ thể, ta gọi chúng là đàn ông, đàn bà, cho chúng một cái tên để có thể dễ dàng nhận ra chúng, nhưng thực con người chỉ vay mượn các yếu tố trên để sống còn, còn mượn thì còn trả; hết mượn, thì chết . Cũng như thế, Trái Đất cũng gồm bốn Tứ Đại là đất, nước, gió, lửa. Bốn yếu tố này cũng tương quan, tương thuộc:  vấn đề rừng ngập mặn, rừng đầu nguồn, dân số đông, khí nhà kiếng, an ninh lương thực v.v. đều là một vì cái này ảnh hưởng đến cái kia .Do đó, nếu nước bị ô nhiễm, nếu không khí bị ô nhiễm, nếu phá rừng ngập mặn, phá rừng đầu nguồn v.v, thì con người đã tự huỷ hoại mình!  Nói khác đi, hiểu rõ thiên nhiên ta sẽ hiểu rõ giáo pháp và hiểu rõ giáo pháp ta sẽ hiểu rõ thiên nhiên. Như vậy, phải vứt bỏ khái niệm về ‘ngã’ vì con người nhờ không khí để thở, nhờ nước để uống, nhờ rừng mới có dòng nước.

Con người mà còn tự ngã là còn đau khổ .Căn bản của những lời dạy của Đức Phật là hiểu rõ tự ngã chỉ là trống không. Không còn dính mắc vào tự ngã, vào hạnh phúc thì sẽ có hạnh phúc thật sự. Hãy tập xả bỏ một cách tự nhiên, không cần tranh đấu gay go, chỉ đơn thuần xả bỏ, sự vật thế nào thì cứ để nó thế đó – không nắm giữ, không dính mắc, tự do giải thoát. Khi hiểu rõ vô ngã thì gánh nặng của cuộc sống sẽ được bỏ xuống, sẽ an lạc với mọi sự. Đúng như trong câu thơ của Cung Oán ngâm khúc:

 “Cái thân ngoại vật là tiên trên đời

image

7. Kết luận.

Như vậy, đa dạng sinh học với sinh vật -động vật và thực vật- từ trên cạn đến dưới nước đều có vai trò to lớn và đạo Phật qua điều răn trong ngũ giới đã khuyến cáo sự đa dạng sinh học. Trong khi đó thì nạn phá rừng vẫn hoành hoành, phá hủy tài nguyên sinh học và   sự ác dưới nhiều hình thức khác nhau vẫn đang góp phần phi nhân hóa con người bằng cách làm giảm thiểu cảm thức về nhân tính nơi những cá nhân và trong các cộng đồng. Tình trạng bi đát này mời gọi mọi người trên hành tinh Trái Đất này chung sức để vạch trần những mối đe dọa chống lại sự sống con người và để thức tỉnh lương tâm đạo đức của mọi công dân các tín đồ, tạo nên sự phục hưng tinh thần và đạo đức của các cá nhân lẫn xã hội để họ có thể là những nghệ nhân thực sự xây dựng hòa bình, yêu thương, bảo vệ và phát triển sự sống con người trong mọi chiều kích. Chợt nhớ về bài thơ dài của  tác giả đoạt giải Nobel 1974 Harry Martinson, một “sử thi” mang nội dung “khoa học giả tưởng”. Thiên tai không giết nổi Trái Đất, thì nhân tai đã giết:

Ta được chở che khỏi bất cứ điều chi:
tàn phá, hỏa tai, bão bùng, băng giá,
hay bất cứ điều gì óc ta hình dung được -
nhưng chẳng được chở che khỏi chính loài người.”


Thái Công Tụng


Tham-luận Tổ-đình Từ-Quang 

July 2013


Cơm nguội vàng hay còn gọi là cây sếu, phác, cơm nguội Trung Quốc (tên khoa học: Celtis sinensis Pers.,  là một loài thực vật thuộc chi Cơm nguội, họ Gai dầu (Cannabaceae).

Bàng: Terminalia catappa là một loài cây thân gỗ lớn sinh sống ở vùng nhiệt đới, thuộc họ Trâm bầu (Combretaceae).


Cây hoa sữa (cây sữa) còn có tên mùa cua, mò cua, mồng cua. Tên khoa học là Alstonia Scholaris (L).

làm bằng lúa nếp khi hạt lúa còn non


Sâm cầm (Fulica atra) là một loài chim thuộc họ Gà nước (Rallidae),


NGUYỄN THIÊN THỤ * THANH TÂM TUYỀN VÀ HIỆN SINH



THANH TÂM TUYỀN

NGUYỄN THIÊN THỤ





Thanh Tâm Tuyền thường nói nhiều đến hiện sinh trong thơ ông. Có lẽ ông là đệ nhất thi sĩ Hiện sinh ở nước ta lúc đó. Thơ văn ông là kinh nhật tụng của tín đồ Hiện sinh sáng tối trưa chiều tụng niệm buồn nôn , tự do ( La Nausée- J.P .Sartre ) ; kẻ xa lạ ( L’Etranger-A. Camus ) ; sự đánh mất đức tin ( “Thượng đế đã chết “- Nietzsche ) . Tuy nhiên chất hiện sinh của Thanh Tâm Tuyền có điểm khác người. Trong con người Thanh Tâm Tuyền có hai lực mâu thuẫn, tương tranh. Một đằng rên la, đau khổ, một đằng vùng lên tranh đấu.
Để phản ứng với phi lý, bất công, buồn nôn, chán nản, tẻ nhạt, lưu đày, tha nhân địa ngục…, con người đòi hỏi hạnh phúc và ý nghĩa cuộc đời. Rainer Maria Rilke: "Cuộc sống đạt được sự thành tựu của nó trong những hoàn cảnh mang tính sỉ nhục, cay cực khốn khổ, và thậm chí nguy hiểm chết người nhất, và rằng con người ta có khả năng yêu thương cuộc sống khi cuộc sống trở nên hoàn toàn khủng khiếp..." [Life has been achieved in the most insulting, grueling, and even deadliest circumstances and that individuals were capable of loving life when it was altogether horrific..-Letters on Life.]. Nhiều người nghĩ rẳng Hiện sinh là than van, rên rỉ, tuyệt vọng, bi quan. Họ không biết rẳng Hiện sinh đich thực chính là tranh đấu trong đau khổ. Thanh Tâm Tuyền đã hiểu rõ ý chỉ của J. Paul Sartre là sống trên đời, con người phải tạo lấy một bản thể, sống trong đau khổ, phải tranh đấu để định nghĩa chính mình (In a word, man must create his own essence: it is in throwing himself into the world, suffering there, struggling there, that he gradually defines himself--. Characterizations of Existentialism (1944)
Tôi không còn Cô Độc, Mặt Trời tìm thấy là cuộc chiến đấu giữa hạnh phúc và bất hạnh, giữa ý nghĩa và vô nghĩa. Thế giới bất toàn đưa đến cảm giác cô độc, buồn nôn và cũng chính đó là những động lực đẩy hữu thể về với tự do Tự do là mục tiêu lớn của Hiện Sinh như J. Paul Sartre tuyên bố .(Man is free, man is freedom”- Being and Nothingness , p. 34). Tự do cho ta trong mọi hoàn cảnh, và cho mọi người (We will freedom for freedom’s sake, in and through particular circumstances. And in thus willing freedom, we discover that it depends entirely upon the freedom of others and that the freedom of others depends upon our own. ..I am obliged to will the liberty of others at the same time as my own. I cannot make liberty my aim unless I make that of others equally my aim. The Age of Reason- (1945)
Thanh Tâm Tuyền cũng khao khát tự do tuyệt đối để hoàng đế tôi mặc sức cai trị những kẻ muốn nhập thổ và thần phục.
PHỤC SINH
tôi buồn khóc như buồn nôn
ngoài phố
nắng thủy tinh
tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ
thanh tâm tuyền
buổi chiều sao vỡ vào chuông giáo đường
tôi xin một chỗ quỳ thầm kín
cho đứa nhỏ linh hồn
sợ chó dữ
con chó đói không màu

tôi buồn chết như buồn ngủ
dù tôi đang đứng trên bờ sông
nước đen sâu thao thức
tôi hét tên tôi cho nguôi giận
thanh tâm tuyền
đêm ngã xuống khoảng thì thầm tội lỗi
em bé quàng khăn đỏ ơi
này một con chó sói
thứ chó sói lang thang

tôi thèm giết tôi
loài sát nhân muôn đời
tôi gào tên tôi thảm thiết
thanh tâm tuyền
bóp cổ tôi chết gục
để tôi được phục sinh

từng chuỗi cuộc đời tiếp nối
nhân loại không tha thứ tội giết người
bọn đao phủ quỳ gối
giờ phục sinh

tiếng kêu là kinh cầu
những thế kỷ chờ đợi

tôi thèm sống như thèm chết
giữa hơi thở giao thoa
ngực cháy lửa
tôi gọi khẽ
em
hãy mở cửa trái tim
tâm hồn anh vừa sống lại thành trẻ thơ
trong sạch như một lần sự thật
( Tôi không còn cô độc, Người Việt xuất bản, 15-10-1956)
SẦU KHÚC
1.
Ðêm về khuya tình đã vắng như màn trời
Này em đan cho anh những ảo tưởng
Với ngây thơ nào em còn sót

Ngày chưa lên gió cuồng trong hắt hủi
Bạn bè chia tay ném bỏ lại cô đơn
Một mình anh mang nặng

Con đường quen anh bước vào con mắt ráo hoảnh
Và chua cay rơi lá rụng trên hè
Vùng biển đen dâng chùm anh tịch mịch

Nỗi đêm im bập bềnh hòn đảo nổi
Bỗng trôi đi bàng hoàng
Hãy trói lại bằng tóc xoã như hồn em ngơ ngác
Cây mải miết không thưa rời lưu luyến
Ðừng vội ném chuỗi cười xuống huyệt lạnh
Trên môi anh cúi nhìn dấu tích mối sầu

2.
Anh chìa hai bàn tay khô héo
Nỗi tự do buồn phiền
Hai bàn tay những con đường cỏ cháy
Mùa hè thiêu đốt cả cô đơn
Em giữ lấy
Anh còn đâu ngoài nỗi chết ôm ghì
Trong bóng đen trơ trụi nơi vàm sông
Anh tìm kiếm
Tuổi ấu thơ hòn cù lao xa khuất
Và tình yêu như đám lau buồn
Vàm sông nước xoáy như tiếng cười thầm
Ở sau lưng ở trước mặt
Anh thả người trôi nổi

Toàn thân anh rũ liệt
Những loài rắn rết đỉa nhờm
Nâng niu như đồng loại
Anh vẫy hai bàn tay chới với
Gửi lại niềm trong trắng sót thừa
Tặng phẩm đớn hèn
Anh từ biệt

3.
Người con gái tóc dài
Ðêm lạnh trên đầu núi
Trời sao chừng lãng quên
Câu chuyện tình ngắn ngủi
Khúc romancero
Chàng gi-tan máu nóng
Nostalgic Blues
Chàng mọi đen lạnh lùng
Khúc xuân tình kĩ nữ
Là chiều nơi mắt em
Là chiều nơi nghĩa địa
Sầu nhỏ chôn chuyện tình

Ðây là một bài ca
Kể rằng nàng đã chết

Ðây là một bài ca
Kể rằng nàng đã sống
Cuộc đời như vết chém
Máu chảy xối từng hồi

Máu chảy mãi rồi ngừng
Thành lời than ri rỉ
Nàng hấp hối và chết
Như một bài ca thương

Khi đêm chạy trở lui
Người nào thổi harmonica
Tôi đến bằng mọi cách
Tiếng kèn khóc oà

Mưa bẩn sân ga
Toa tầu hạng ba
Chuyến xe hàng ốm yếu
Thổ mộ con ngựa già

Ðường mòn đưa đến huyệt
Ðứa trẻ con thổi harmonica
Trong hoàng hôn tóc rối
Tiếng kèn khóc oà

Từ biệt nàng tôi hỏi
Em đã chết rồi chăng?
Trong quan tài nàng đáp
Ôi đất lạnh mưa băng

Tôi tìm thần chết hỏi
Nàng được tự do chăng?
Thần chết câm và điếc
Tôi nắm tóc bắt gật đầu
Và trở về dương thế

4.
Ðêm nào em không ngủ
Cái chết vuốt ve môi em bằng những móng tay buốt sắc
Bầu trời sắp tan vào nước mắt
Bởi anh mang nhốt lời yêu đương trong đáy mùa đông
Và giấu ngọn lửa âm thầm huỷ thiêu kí ức

Em biết không? Em biết không?

Anh chối từ một nửa thế giới
Thế giới sương mù trong trí nhớ
Muốn chạm vào đỉnh nào bén nhọn của thân em
Anh đụng tới loài côn trùng kinh hoàng đang thở

Em biết không? Em biết không?

Trong ngục tù giam giữ những than van
Người ta kêu một mình
Thành tiếng động dửng dưng đống sắt rỉ hoen rơi đổ
Não óc anh hàng chấn song nguyền rủa

Em biết không? Em biết không?

Khi em đi qua những đường phố giẫm nát những giấc mộng theo đòi
Hi vọng dội lên trong mọi hồi trống rỗng
Anh ngắm hai bàn tay anh nhớ tàn lá về chiều
Khóc thờ ơ ngoài không trung

Em biết không? Em biết không?

Anh đốt dần xác thịt như cành mọn
Giữa chiều mùa đông ở đây trong cốt tuỷ
Tuyệt vọng trần truồng
Anh mong em ngủ yên thần chết kiên nhẫn chờ trọn kiếp

Em biết không? Em biết không?

5.
Hắn bước ra giữa sân khấu dìu theo một
bóng hình tưởng tượng. Không, một bóng
hình trong suốt. Hắn gục đầu vào vai người
ấy mà khóc, không nước mắt, chỉ thấy hai
luồng khói đục thở ra theo lỗ mũi mờ mịt
cả gian phòng làm sặc sụa khán giả. Nhiều
người cay chảy nước mắt nguyền rủa trò đùa
vô ý thức. Mặt hắn bôi vôi trắng như tường
môi hồng như trẻ con. Hắn nhăn nhó: tôi
làm sao khóc được, lệ buồn có thể nhỏ,
như da mặt làm bằng vữa, tôi làm sao
khóc được trên khuôn mặt bất động này. Nói
xong hắn nhảy chân sáo, quấn cẳng vào nhau
mà không ngã xuống sàn trêu chọc khán giả.
Một người la: trò hề mày nhạt lắm, mày
phải ngã lộn mèo như con vật nào thảm hại
nhất cho tao cười với chứ. Hắn ngơ ngẩn,
đứng im hai tay buông thõng, người ta cười,
hắn không hiểu, người ta cười. Hốt nhiên
người hắn bay lên lơ lửng và bơi trong
không khí, hắn ném bỏ hết quần áo bốc mãi
lên trần rồi biến mất.
Hắn lại chạy ra giữa sân khấu. Lần này hắn
đứng về phía bóng hình trong suốt, đó là
một người đàn bà, gục đầu vào vai tên hề bây
giờ thành tưởng tượng. Ðó là một người
đàn bà thật đẹp. Người đàn bà khóc, tên hề
đang đóng trò, khóc nức nở. Họ đang chia
tay nhau, không thể nhìn thấy hai người
cùng một lúc, họ ngăn cách nhau bởi chỉ có
một người, người độc nhất là tên hề. Người
đàn bà thở than ấy tên hề than thở. Ðồ
ngu dốt khốn nạn, đồ kiêu căng hợm hĩnh.
Tên hề trở về vị trí của hắn, giơ tay xô mạnh
người đàn bà đẹp đã hoá ra trong suốt. Hắn
ra dấu với khán giả người đàn bà đã ngã,
đang quỳ mọp níu chân hắn, hắn lấy chân đá
hất, mặt ngửng lên lấy dáng thiểu não của
đại đế Napoléon trong trận chiến Waterloo.
Người đẹp đang lết lại gần như con sên hèn
yếu, hắn cầm lên tay và liệng vào buồng. Một
con chim bay ra, con dị điểu dữ tợn đáp
xuống vai hắn, thân hắn nghiêng ngả như
một pho tượng mất đế. Hắn rút trong người
lấy khẩu súng và bắn ngược lên vai, khẩu
súng phun nước ướt hết hai gò má. Con dị
điểu bay lên, móng sắt lột tước y phục của
tên hề, mỏ mổ lấy mặt nạ. Tên hề hiện
nguyên hình là Napoléon, Napoléon mắm
môi đang khóc.
Mày chỉ là tên hề buồn, tên hề buồn nhất
thế giới chẳng làm ai cười nổi.

6.
Như rừng cây trụi lá
Thở bằng cành khô
Cơn mộng hiền lành trở nên điên dại

Gỡ những lần tóc cháy
Nhìn vào mắt nhau
Con mắt thâm quầng như vết cắn

Trưa một màu Minh Châu
Trời hẹp hòi khôn kể

Phiêu lưu mãi là một nhà tù
Dãy tường câm chuyển động
Trên một triền vực sâu

Vũng nhỏ giữa bàn tay khô héo
Mang dấu tích tình yêu
Là những niềm bối rối

Chút hương trong miệng đắng
Như Minh Châu còn đây.

7.
Anh trở thành giấc mộng
Ðường cỏ hoang em trở về
Ðáy huyệt sâu hồn tóc cũ
Không ai biết chúng ta yêu nhau
Cuộc biệt li nơi hư không
Con mắt nào ngó thấy
Mỗi lời như ngọn lửa
Ðốt những kỉ niệm tội lỗi

Anh bỏ trống hết cuộc đời
Những buổi chiều ban mai
Những nhớ nhung bầu trời
Những vuốt ve trên bàn tay
Âu yếm trên da mặt
Không gian trong tay ôm
Thời gian trong máu chảy
Anh bỏ trống hết mọi người
Những người đẹp như hi vọng
Những người thân như quê hương
Những kẻ thù một kiếp
Những bạn bè không rời

Em đã chết đã chết
Trong im lặng hết thảy
Hằng hà nỗi trống không
Của đỉnh cùng tuyệt vọng
Ôi đêm nay đêm nay đêm nay
Lăn lộn cùng gai góc
Trong hốc đá tối tăm
Ðớn đau ghì lấy em
Anh chỉ là giấc mộng

Một mình em vẫn biết
Chúng ta đã yêu nhau
Rồi anh sẽ ném trả
Hết nước mắt hết giọng cười
Hết phách hồn trí tuệ
Cho rừng sâu lịch sử loài người

Ðến gặp em chốn ấy
Trời mưa dông bao nhiêu ngày
Con đường băng thái dương
Khoảng chúng ta cách biệt

(Liên Đêm mặt trời tìm thấy, Sáng Tạo xuất bản, Sài Gòn 1964)
Ở ĐÂY TÔI LÀ VỊ HOÀNG ĐẾ

Ở đây tôi là vị hoàng đế đầy đủ quyền uy
bởi vì người vào trong đất đai của tôi
người hoàn toàn tự do
để cai trị tôi có những luật lệ tinh thần mà người phải thần phục
nếu người muốn nhập lãnh thổ
người hoàn toàn tự do
và có thể ném cuốn sách ra cửa sổ
(Tôi không còn cô độc, Người Việt xb. In tại nhà in Hợp Lực xong ngày 15-10-1956)
 
(Trich VIỆT NAM VĂN HỌC SỬ TOÀN THƯ của Nguyễn Thiên Thụ- sẽ xuất bản)