HỒI KÝ CỦA NGUYỄN THẠCH ĐƯC
"Sinh hoạt trong trại vô cùng khó khăn thiếu thốn ,mất vệ sinh cùng cực càng về sau này khi số lượng người quá tải thì càng chật chội,khốn khó hơn .Trại có một dãy nhà vệ sinh chòi lợp nylon và tôn nhựa khoảng 6, 7 cái,dựng trên những cái hố đào sâu với dòi bọ lúc nhúc,vô cùng hôi hám.Nắng biên giới vùng nhiệt đới nung bốc hơi khiếp đãm"
Đã sắp đến ngày 30 tháng 4 đen , đúng 40 năm cộng sản xâm chiếm miền nam VN,nay là 2015 .Tình cờ được đọc những trang hồi ký vượt biên đường bô http://landrefugee.blogspot.ca .có một số bài nóí khá đầy đủ về trại NW 82 mà từ ngày thành lập trại tôi đã ở và sống ở đó cho đến ngày cuối cùng trại phá bỏ tháng 02 năm 1983; khi mọi người dược đưa hết vào trong đất Thái. Hồi nhớ lại chặng đường đã qua ;Tôi chỉ xin viết ra đây bổ túc thêm đôi điều còn thiếu sót mà các tập hồi ký cuả chị Minh Kha, anh Trần v Phước ,anh Lê Bá B đã kể hết rồi khá đầy đủ , đều là có thật .Xin post thêm dưới đây vài tấm hình mà tôi và một vài bạn lúc được vào ở trại Panatnikhom ,chờ ngày đi định cư .Có 1 tấm
tiển đưa chụp trứơc xe bus để đi ra phi trường Bangkok ngày 11-05-1983. Tôi hy vọng góp được thêm một số sinh hoạt về trại NW.82 đầy đủ hơn,làm chứng cứ tài liệu tham khảo về người vượt biên đường bộ
Phỏng theo thơ Tú Xương:
Ào ạt người đi tớ cũng đi
Xe đò ,xe lữa cũng Fu-zi (Refugee)
Ra đi vợ dúi vài chỉ lẽ
Quyết chí phen này đến Chun -ri (chonburi ,tĩnh biên giới Thái)
Không vàng chẳng bạc chân cũng đi
Gian nan nguy khốn có ra gì
Tự do một cỏi ngoài rộng mở
Chí cả trai hung há sợ chi
Đường ra biên giới lánh cộng phì
Lẫn lộn đoàn buôn lủi theo đi
Trăm dặm đường mòn xương phơi trắng
Quanh rừng mìn bãi xác tử thi
Ào ạt người đi tớ cũng đi
Xe đò ,xe lữa cũng Fu-zi (Refugee)
Ra đi vợ dúi vài chỉ lẽ
Quyết chí phen này đến Chun -ri (chonburi ,tĩnh biên giới Thái)
Không vàng chẳng bạc chân cũng đi
Gian nan nguy khốn có ra gì
Tự do một cỏi ngoài rộng mở
Chí cả trai hung há sợ chi
Đường ra biên giới lánh cộng phì
Lẫn lộn đoàn buôn lủi theo đi
Trăm dặm đường mòn xương phơi trắng
Quanh rừng mìn bãi xác tử thi
Tôi từ Sàigòn vượt biên ra đi ngày 15 tháng 11 năm 1981 là trước 2 ngày bầu cử quốc hội VNCS. Sáng sớm ra xa cảng miền tây qua ngã Tân Châu Châu Đốc vào Phompenh suốt gần 2 tuần bằng rất nhiều phương tiện di chuyển :ghe thuyền ,xe đò ,xe lữa,xe lôi tuk tuk,xe bò ,xe ôm,xe thồ … đủ cả ;và ngày cuối băng rừng lội bộ cả một ngày từ sáng sớm cho đến tối đến khu vực Polpot kiểm soát ;qua ngày hôm sau nửa lội tiếp ngược về vùng bọn Para, vô cùng gian nan khổ sở .Vừa trốn tránh lại luôn nơm nớp bị bắt lại. Khởi đầu đừờng đi qua gần trăm trạm kiểm soát cuả chính quyền Campuchia,bộ đội CSVN,qua bọn kháng chiến Para, đến vùng lính Polpot kiểm soát;Vì kh ông vào được đất Thái nên trở ngược về khu Para kháng chiến cuối cùng đến được binh viện Nongsamet xát biên giói Thái an toàn vào một buổi trưa ngày 24-11-1981 . Khi đến nơi tôi được bà dẩn đường đưa vào chợ trời dân tỵ nạn Campuchia Nong Samet .vô tiệm chụp hình nguyên complet với bộ đồ vượt biên để đời ;để gởi về cho vợ tôi mà nhận thêm vàng.Rất tiếc chưa tìm được tấm hình quý gía này cuả tôi đã lạc mất,hầu post lên cho thấy với bộ đồ rất ấn tượng,rất thực đúng với cách ăn mặc cuả người bản xứ đi buôn đường rừng qua Thái lúc đó;mà dân tỵ nạn đường bộ nào cũng buộc phải mặc cải trang ..Là cái quần đen củ kỷ , áo carô tay dài nhớp nhúa,có cái túi nhỏ phiá trên ngực mà mổi lần qua trạm xét tôi giả vờ luôn cúi đầu móc tiền đưa mãi lộ cho lính gát để không bị để ý,thấy mặt tra hỏi …và đăc biệt là chiếc khăn kàma rằn đen đỏ quấn ngang đầu mà tôi đã đính ngay giữa trán sừng Phật nạm vàng đã được vị sư cả chuà khmer Sài gòn làm phép và sợi giây Càtha đeo quanh cổ đi đường bình an(Vô cùng linh thiêng tôi còn giữ luôn mãi bên người).
Bà dẫn đường đưa tôi đến bịnh viên và nói có người Việt tỵ nạn ở đó,nơi ngoài bià rừng cách không xa,đến gần hơn biên giới Thái do Hồng thập tự quốc tế-ICRC chăm sóc.Ban ngày họ đến làm việc, sau chiều tối trở vô trong đất Thái. Tôi thấy có người Tây trong bịnh viện nên chạy đại vào xin giúp đở. Và tôi được bà b/s Hội ICRC này đưa vào tạm trú với nhóm khoảng trên 200 người VN tỵ nạn đã ở trước đó;trong một dãy chòi lá dài phiá sau kè vách ngo ài nhà bịnh viện.Sau khi khai báo tên tuổi, tình trạng là người đi vượt biên tỵ nạn .Tôi may mắn nhờ vậy đã không bị hành hạ nhiều; vì sau đó bị đưa đi trình diện ban an ninh cuả bọn lính Para kháng chiến Mi ên .Sau một ngày cầm giữ họ lục soát ,tra vấn tình hình trên đường đi ,về bộ đội CSVN…rồi thả về chổ tạm ở bịnh viện. Không biết từ bao lâu ,người tỵ nạn VN sống ở đây.Họ trông chờ nghe ngóng ,hoặc nếu như có thể đi tiếp lọt vào trong đất Thái ;hay mong có được quốc tế biết tới.Tháng ngày tâm trạng mọi người chỉ ngóng chờ, lo lắng và bọn lính Para cũng thường xuyên đe doạ tính mạng .Sống qua ngày người tỵ nạn nhờ vào sự giúp đở cuả Hồng thập tự quốc tế rất hạn chế . thiếu thốn mọi điều và tự lo liệu .Trải chiếu hoặc nylon nằm ngũ dưới đất sống lây lấc quanh quẩn trong phạm vi bịnh viện. Anh Tố nguyên là bác sỉ thú y,dáng dấp thư sinh hiền lành nói giọng Huế ,miền trung là đại diện nhóm người tỵ nạn VN ở đây và Sơn Hương phụ trách liên lạc với bọn Para lảnh chuá.
Không bao lâu chỉ khoảng 1 tháng ở đây thì trại NW 82 được dựng lên. Tôi và tất cả bà con được đưa vào trại đầu tiên ng ày 26-12-1982. Trại không xa chỉ cách bịnh viện Nong Samet qua một hàng rào tre vài trăm mét, trên vùng đất đỏ bụi bậm núi rừng biên giới khô nóng cháy da thịt.
Chiều chợt về trên dấu chân vùng xa lạ
Mảnh trời buồn xa vắng giữa rừng cây
Điêu linh,vất vưởng lạc loài biên giới Thái
Đất bụi đỏ khô cằn, đỏ mắt nhớ người yêu
Chiều chợt về trên dấu chân vùng xa lạ
Mảnh trời buồn xa vắng giữa rừng cây
Điêu linh,vất vưởng lạc loài biên giới Thái
Đất bụi đỏ khô cằn, đỏ mắt nhớ người yêu
Từ đây đến vòng đai giao thông hào biên giới Thái cũng chỉ non 1 km . có trại tỵ nạn lớn Khao I Dang trong đất Thái chỉ đi vô thêm nửa vài cây số.Chúng tôi rất ao ước được vào trại này ,vì tới được đó mới chính thức được công nhận là tỵ nạn ,mới được quốc tế gọi phỏng vấn và cho đi định cư. Còn ở đây không ai biết đến người tỵ nạn VN cả. Sau này ngay cả vào trại NW82 cũng thế ,
Trại NW 82 được xây cất bằng tre rào tứ phiá ,với hai lớp r ào c ách kho ản 1 thước.Từ cổng trại đi vào có cổng lính Thái gát ngày đêm ,và những ụ gát chung quanh. Bên tay phải là nhà trại bằng lá của ban chỉ huy do một tên đại úy chỉ huy trại cùng với một tên phó hung thần tên Chon, được đặt tên là thằng cọp. cùng một tiểu đội lính task force Thái hung dữ .Kế bên là nhà bếp chung và kho lương thực .Bên tay trái là nhà lá ban đại diên và anh Tố tiếp tục là đại diện cho bà con tỵ nạn VN. Ban đại diện thành lập nhiều ban,tiểu ban để tự điều hành mọi việc an ninh trật tự ,giáo dục ,y tế….đủ cả.
Khởi đầu trại tập trung số dân cuả bịnh viện Nong Samet và Nong Chan đưa về rồi sau đó lẻ tẻ từ nhưng nơi khác.Từ vài trăm người với 15- 16 cái lều đến đỉnh điểm cuối cùng lên đến 1800 người với tất cả là 30 cái lều nhà binh thật lớn.trong mỗi cái lều là gần cả trăm người và 1 căn nhà tranh lớn bằng cở bịnh viện với giường ngũ 2 tầng chật chội…cả hơn 500 người ! Đầu tiên chúng tôi nằm đất ,sau thành lập thêm ban xây dựng lấy tre Hồng thập tự cho ,chẻ đôi rồi kết đóng thành xạp dài làm giường ngũ dài từ đầu lều đến cuối lều.Lều chia làm hai dãy qua một lối đi ở giữa lều rộng khoảng 1m.Xin nói thêm trên mỗi bên xạp giường, người nằm sát bên nhau( rộng khoảng 80m)như cá mòi chứa trên hàng trăm mạng trên đó.Có biết bao chuyện hỷ nộ ái ố trên những xạp giường chung này.Chuyện của một gia đình ,hay một cá nhân làm ảnh hưởng lây chung cả đám…phải khóc cười .như vợ chồng cài vả, đánh lộn .tiếng kot kẹt lăn lộn dù khéo nhẹ cũng làm người khác hết ngũ!...Phải nói là bất cứ mọi sinh hoạt ,gì gì cũng đều làm ,xảy ra ở trên cái giường xạp tre này ,đó là nơi ăn ,ngũ vvv…&vvv…
Trại NW 82 được xây cất bằng tre rào tứ phiá ,với hai lớp r ào c ách kho ản 1 thước.Từ cổng trại đi vào có cổng lính Thái gát ngày đêm ,và những ụ gát chung quanh. Bên tay phải là nhà trại bằng lá của ban chỉ huy do một tên đại úy chỉ huy trại cùng với một tên phó hung thần tên Chon, được đặt tên là thằng cọp. cùng một tiểu đội lính task force Thái hung dữ .Kế bên là nhà bếp chung và kho lương thực .Bên tay trái là nhà lá ban đại diên và anh Tố tiếp tục là đại diện cho bà con tỵ nạn VN. Ban đại diện thành lập nhiều ban,tiểu ban để tự điều hành mọi việc an ninh trật tự ,giáo dục ,y tế….đủ cả.
Khởi đầu trại tập trung số dân cuả bịnh viện Nong Samet và Nong Chan đưa về rồi sau đó lẻ tẻ từ nhưng nơi khác.Từ vài trăm người với 15- 16 cái lều đến đỉnh điểm cuối cùng lên đến 1800 người với tất cả là 30 cái lều nhà binh thật lớn.trong mỗi cái lều là gần cả trăm người và 1 căn nhà tranh lớn bằng cở bịnh viện với giường ngũ 2 tầng chật chội…cả hơn 500 người ! Đầu tiên chúng tôi nằm đất ,sau thành lập thêm ban xây dựng lấy tre Hồng thập tự cho ,chẻ đôi rồi kết đóng thành xạp dài làm giường ngũ dài từ đầu lều đến cuối lều.Lều chia làm hai dãy qua một lối đi ở giữa lều rộng khoảng 1m.Xin nói thêm trên mỗi bên xạp giường, người nằm sát bên nhau( rộng khoảng 80m)như cá mòi chứa trên hàng trăm mạng trên đó.Có biết bao chuyện hỷ nộ ái ố trên những xạp giường chung này.Chuyện của một gia đình ,hay một cá nhân làm ảnh hưởng lây chung cả đám…phải khóc cười .như vợ chồng cài vả, đánh lộn .tiếng kot kẹt lăn lộn dù khéo nhẹ cũng làm người khác hết ngũ!...Phải nói là bất cứ mọi sinh hoạt ,gì gì cũng đều làm ,xảy ra ở trên cái giường xạp tre này ,đó là nơi ăn ,ngũ vvv…&vvv…
Sinh hoạt trong trại vô cùng khó khăn thiếu thốn ,mất vệ sinh cùng cực càng về sau này khi số lượng người quá tải thì càng chật chội,khốn khó hơn .Trại có một dãy nhà vệ sinh chòi lợp nylon và tôn nhựa khoảng 6, 7 cái,dựng trên những cái hố đào sâu với dòi bọ lúc nhúc,vô cùng hôi hám.Nắng biên giới vùng nhiệt đới nung bốc hơi khiếp đãm. Di vào cầu tiêu là cả một cực hình chẳng đả.giống như vào tắm hơi mùi phân xí nực nồng bám dính vào da thịt đến muốn tởm lợm buồn nôn mà lại không có nước để tắm.!Phải chịu khó phơi trần đi ngoài gió một lúc ,lấy khăn lau mồ hôi cho sạch rồi mới dám lại gần người khác
*.- Tiêu chuẩn căn bản cho 1 đầu người được cung cấp :
- 8 lít nước 1 ngày -Phụ nữ thì rất là khốn khổ … chừa nước để uống & đánh răng sáng thôi ,còn lại bao nhiêu vừa tắm vừa giăt quần áo luôn một lúc (Mặc cả quần áo vào lúc tắm giặt luôn !Thực ra suốt ngày đa số chỉ mặc có cái quần xì lỏn nên không có gì phải giặt;Chỉ có phụ nữ là rất khốn khổ ở điểm này).
- Thêm 1 phần nước cho những ai có làm việc trong các ban ngành phục vụ trong trại; May là tôi có trong ban gi áo dục trại,daỵ tiếng Anh cho các em nh ỏ nên cũng có đủ nươc đê dùng
Và thực phẩm tiêu chuẩn 1 tuần phát 1 lần gồm:
- Cá xấy khô nhỏ bằng đốt tay 5 hay 6 con hay 1 lon cá hộp nhỏ
- Cá mặn gọị là pla-thu (ướp muối mặn chát) nhỏ xíu 5 hay 6 con .
- Dầu ăn vài muổng canh hoặc muối 1 hay 2 muổng.
- 1 lon sửa bò đậu xanh hay đậu hoà lan (làm được nhiều việc lắm)
Chỉ có vậy thôi cho 1 tuần
Đồ ăn thì tự túc nấu ,còn cơm thì được nhà bếp nấu phát chung tập thể . Độc thân một mình như tôi thi nấu nướng rất phiền ,lại nửa chẳng có nồi niêu xong chảo để nấu ,nên thường gom tất cả đồ lảnh được xin đưa cho những người có gia đình nấu ăn ké qua bửa ,hoặc đem cá khô qua nhà bếp xin nướng đở.
Cũng xin phiếm bàn chút về đậu xanh và đậu Hoà Lan .Đậu xanh làm được giá ,rồi làm chua,nấu canh …tạo ra chất rau xanh dinh dưỡng vì trại không cấp rau tươi. Đậu Hòa Lan đem rang làm trà để uống,làm bánh cho dịp đám cưới dã chiến –Càng khổ ,khốn cùng con người càng tìm đến nhau yêu thương nhau hoặc thời gian chờ đợi quá lâu để an ủi ,bớt phần đơn côi họ quyết định cưới nhau -Thật tuyệt vời chỉ 1 lon đậu xanh,1 lon đậu petti bois hoà Lan, họ đã trở thành vợ thành chồng ở cái nơi khốn khổ đìu hiu này-Tính ra cũng có đến 4 -5 cặp cưới nhau trong trại trong giai đoạn cuối cùng trại đóng cửa .Cũng có trường hợp cưới vì muốn ghép form laị để được định cư cùng với nhau .
Từ ngày đầu bà con VN tỵ nạn vào trại NW 82 ban chỉ huy Thái và bọn lính canh gát rất tàn bạo và khắc khe – ra nội quy vô cùng nghiêm khắc
- Giới nghiêm sau 8 giờ :mọi sinh hoạt đều bị cấm chỉ ,rụt rịch nói chuyện là ăn đòn ngay…thằng cọp đi rà khắp từng lều mọi đêm Và hằng đêm sai goị tìm gái : uy hiếp hoặc o ép gọi lên ban chỉ huy .-Sáng ra kiếm cớ vệ sinh lều ,dơ bẩn ,xả rác để kêu hết cả lều ra đánh thị uy cả già lẫn trẻ đều bị đánh.mỗi người 2 roi.co khi đến 2 hoặc 3 lều bi đánh ,tổng công gần 2 ,3 trăm người !
-Như là một trại giam tập trung .Tên đại úy Thái ra nghiêm cấm liên lạc thư từ, cấm tiếp cận trao đổi mua bán với bên ngoài .-không được lảng vảng đến gần hàng rào. Bọn lính Thái bắt gặp ai lại gần hàng rào là đá, đánh đập thẳng tay .Dân tỵ nạn bị kềm chế ,ngược đải, thiếu thốn trong mọi điều kiện sinh hoạt .Nghèo khổ ai cũng như nhau ,và dù có tiền cũng không thể mua gì được.
-Thỉnh thoảng cọp bày ra làm kiểm tra lều để tìm tiền và vàng bạc,cùng lúc bắt mọi người ra đứng ngoài sân để lục xét. Hắn để ý nhiều vào những lều gia đình có đông người và đàn bà con gái. Tất cả những lều hầu như đều bi hành hạ tập thể như nhau.Lều tôi ở là lều 2, ít bị nó để mắt vì đa số là quân nhân VNCH, độc thân làm việc trong nhiều ban nghành của trại Nhưng dù vậy cũng không tránh được bị phạt khi vi phạm,bị bắt quả tang Thach Cang s/q cảnh sát quốc gia làm trật tự viên trại, phạt ăn 2 bịch kẹo luôn cả vỏ.Sơn Hương,t/úy phó ban đại diên bị phạt ăn sống con lươn vì đem thức ăn từ ngoài vào.Anh Hồng phải uồng và nhai bả thuốc lá vì mua thuốcbên ngoài.và tôi bị đeo tấm bảng với hàng chử gởi thư ra ngoài,phải quỳ gối trước sân văn phòng ban đại diện suốt một buổi dưới nắng!(Tối hôm trước có phái đoàn phục quốc vào ,tôi nhờ chuyển lá thơ cho thằng em vợ đi kháng chiến đợt trước đó; có kẻ chỉ điễm với Thái nên sáng hôm sau tôi bị kêu lên phạt quỳ đeo bảng!).
Nói về thằng cọp thì ai cũng khiếp đãm vì hắn vô cùng hung ác và là nổi sợ hải cuả toàn trại nhất là phụ nử, bị nó đêm đêm lục lạo kiếm tìm để được thoả mản .Hắn sáng chế nhiều hình thức phạt dã man như kể trên ,thêm nửa như băt chước Mr.T ,bắt phạt cắt tóc đem đi riểu quanh trại để làm trò cười chơi (ai cũng kinh dị vì lúc đó đâu ai biết mái tóc Mr.T ) Hoặc bắt lội nước dưới hố toàn phân
Tôi viết những lời này nói lên thảm trạng cuả người tỵ nạn Trại NW 82 :
Cuộc đời tỵ nạn thảm thê
Blathu*,cá xấy chán chê ngẹn ngào,
Suốt ngày thơ thẩn ra vào
Nằm ngồi không ổn nắng cào cháy da
Lều tăng(tent) tre xạp xắp ba
Phơi trần da thịt tựa bầy đười ươi
Ngoài sân Cọp Thái chơi người
Trẻ già ,trai gái hai roi thẳng đòn.
Nhìn xa ngàn dăm nước non
Thảm thương than phận sống nương xứ người
chú thich: (*) tên cá muối ương mặn
Bọn Lính Thái giam cầm ngăn chận dân tỵ nạn VN, cũng như không muốn cho quốc tế biết để can thiệp. Ý định cuả Thái thành lập trại là đem dân tỵ nạn kháp nơi về giam giữ ,chận không cho đi lọt vào đất Thái. Vì vậy trại NW82 được canh giữ vô cùng gắt gao,khắc nghiệt như một trại giam . Không cho liên lạc thư từ ,mua bán, trao đổi tiếp xúc với người bên ngoài :
khủng bố tinh thần qua những hành động và lối đối xử cuả bọn lính Thái với dân tỵ nạn vượt biên đường bộ qua Thái là làm nhục chí ,gây kinh hoàng để người vượt biên sợ mà đừng nhắn tin về cho thân nhân tiếp tục vượt biên qua Thái .
Môt số người không chịu nổi sự giam cầm,nóng lòng chạy vào đất Thái , đã trốn trại và nghe đồn có người bị lính Thái bắn chết.Có một số chán nản,không hy vọng hoăc nhiều lý do; khi phái đoàn phục quốc đến tuyển,đã theo trở về -ít nhất có 3 đợt ra đi như vậy qua đại diện các mặt trận phục quốc khác nhau như M.t Hoàng cơ Minh,Chí nguyện đoàn Võ Đại Tôn…đến trại tuyển đi. . Nếu như không vì chiến tranh leo thang do bộ đội CSVN đánh tới, tình hình quá nguy hiểm vì pháo kích ,cái chết cận kề.Trại Nong Chan kế bên đã bị đánh san bằng , thì chắc là phải sống mỏi mòn không nước nào biết tới .Lúc đó cũng may quốc tế biết đươc và can thiêp,cấp tốc giải quyết ,Họ dựng lều dã chiến ngay sát biên giới. Phái đoàn các nước đến làm việc phỏng vấn tại chổ ;làm hồ sơ nhận cho đi định cư .Chỉ sau vài ngày,nhi ều nươc tiếp nhận , từng đợt được đưa vào trại chuyển tiếp Panat nikhom Transit center trong đất Thái. Được biết vì có một gia đình có vài ba đứa con lai Mỹ cũng vừa mới nhập trại nên Mỹ đến bốc trước nhất. Kỳ đó có rất nhiều nước đến nhận định cư người cuả trại NW.82 .Mỹ là nước đến phỏng vấn nhận cho đi đầu tiên và nhiều nhất .Sau đó lần lượt là Canada, Úc, Ý …có đến mười mấy nước.Chúng tôi qua trại Panatnikhom không lâu độ 2 hoăc 3 tháng tất cả sau đó được giải quyết cho đi.Tôi đến Montreal.Canada ngày 12 tháng 5 1983
Một số chi tiết nhỏ xin ghi thêm,số người tỵ nạn trong trại như hồi ký anh Phước nói là người VN chỉ có khoảng 300 ,người Chàm 200 và còn lại là người Miên. Điều đó không đúng mà phải nói đó là người Việt gốc Miên ( Khmer Krom),Sắc dân thiểu số miền Tây và Việt Nam khoảng trên 600 người lúc cuối cùng.
Gần lúc sắp đóng trại khi quốc tế biết can thiệp và báo chí có đề cập về tình cảnh người tỵ nạn VN cuả trại NW 82.Bon lính Thái mới có chút phần để yên là không hành hạ nhiều như lúc đầu,dễ chịu môt chút .Sau này có cho nhận gởi thơ từ nhưng rất giới hạn mổi tháng chỉ 1 lần ,được lảnh quà thân nhân gởi cho thông qua ICRC,nhưng bi kiểm soát;Money order bị bắt đổi rẻ ra tiền Batt. Lập thêm nhà bếp nấu tự túc ngoài trời,mua bán trao đổi lén lút (làm lơ phần nào) Ban chỉ huy Thái tổ chức các sự kiện thể thao văn nghệ mừng ngày lể sinh nh ât vua Thái và mời các đại diện quốc tế tham dự.Tiệc tùng,khiêu vũ lễ giáng sinh cho nh ân vi ên các hôi thiện nguyện,cơ quan quốc tế.Trong không khí ấy và cũng có lẻ lúc khổ quá cũng muốn có chút quà bồi dưỡng 1 ký đường và vài thứ khác không còn nhớ .Tôi đã ghi danh tham gia thi đấu võ thuật đêm lễ mừng sinh nhật vua Thái .Sự kiện đêm đó 3 người VN tỵ nạn Tôi,Sơn và một người nửa không nhớ tên tham gia thi đấu đều đánh thắng cả 3 người lính Thái khoẻ mạnh.Trên tinh thần võ sĩ đạo biễu diễn thi đấu thể thao giúp vui ,chúng tôi đã bị truy lùng tìm đánh đêm hôm sau bởi cái đám lính thiếu tinh thần thể thao.Cũng may chúng không tìm thấy được tôi và các bạn khác .Nhờ ban đại diện báo cáo lên chỉ huy Thái nên tốp lính bị đổi đi .May là thời kỳ đó đã dễ nếu như thời kỳ đầu có lẽ chúng tôi khó còn mạng .Vấn đề là một số người phần nào cũng thích thú ,được an uỉ tinh thần .Số khác lại sợ là lính Thái sẽ làm khó dễ , họ trách móc chúng tôi là gây chuyện, sau này cuộc sống cuả họ sẻ bị khó khăn hơn !
Sống trong giam hảm nhưng trong lòng vẫn luôn nung nấu nhớ về gia đình còn lại ở quê nhà.,kiên trì giữ vững tinh thần dù có nhiều đồn đải bị đưa trả về ,bị bỏ mặc và chết chóc vì chiến tranh đang lan đến..
.Lời nhắn cho em
Nhớ về quê củ xa ngàn
Đọc thư em gởi đôi hàng lệ tuôn
Mưa rơi từng giọt u buồn
Tiếng con văng vẳng gợi đau nổi lòng
Niềm thương nổi nhớ buồn trông
Em ơi ! ngăn cách tủi hờn đôi ta
Nẻo đường ngàn dặm cách xa
Nhớ nhung da diết xót xa chất chồng
Biết em ngày đợi đêm trông
Ôi! Lòng anh cũng ngày mong tháng chờ
Xin em hảy vững đợi chờ
Anh về dệt lại vần thơ thuở nào.
BS. NGUYỄN SƠ ĐÔNG * BỂ DÂU
Bác sĩ Nguyễn Sơ Đông
Trung tuần tháng tám, năm 2006, trong một tiệc cuới, tôi ngồi cận Bác sĩ B. Q. M., bạn cùng khóa.
· M. Cậu còn nhớ bị nhốt ba ngày trong conex không?
· Đâu phải ba ngày. Một tháng với ba ngày.
· Mà cậu có viết cái thơ võn vẹn chín chữ đó không?
· Tớ đâu có viết. Tụi nó chỉ nghi thôi mà nhốt tớ suýt toi mạng.
“Khôn dại cùng chung ba thước đất
Giàu sang chưa chín một nồi kê!”
Vua Tự Đức mà còn cam ba thước đất, mình được bốn tấc…mà còn than nổi gì?
Tổ chức thành “tổ” (A) và lán (B) chia phiên bữa củi, kéo nước giếng, nấu ăn (gọi là anh nuôi)hoặc ra ngoài trại lao động. Thật tình, đối với những người không bị đưa ra Bắc, phần lớn là sĩ quan cấp úy, thì lao động không đến mức “cực hình, khổ sai” nhờ nhiều yếu tố. Bắt đầu cuối năm 1976, đầu 1977, họ nhận được thơ, thực phẩm, thuốc mencủa gia đình, nâng đỡ tinh thần lắm; họ còn trẻ, trên dưới hoặc vừa bốn mươi ngoài, thân thể còn tráng kiện; thời tiết trong Nam không khắc nghiệt như ở thượng du Bắc Việt, trại Hà Nam Ninh, Hoàng Liên Sơn, Cổng Trời… tối đến lạnh xuống 3-4 độ Celsius; mỗi lần ra khỏi trại làm lao động gặp dân địa phương còn có cảm tình với “ngụy”, nhiều khi họ giúp cho thức ăn như chuối, bắp cũng thấy “ấm lòng”.
Đói vẫn cứ đói, mỗi ngày 400 gram gạo không thấm vào đâu. Tuy nhiên không ai than phiền gì vì bên ngoài, gia đình mình cũng vất vả lắm. Chỉ lo cho vợ con. Lấy gì sống? Đi kinh tế mới. Qua mấy lần đổi tiền rồi còn gì đâu!
Đời sống tinh thần:
Người cải tạo rất khổ tâm về phương diện tinh thần. Những linh mục phải đi học tập vì là đại úy tuyên úy công giáo rất đáng khâm phục. Bất chấp ngăn cấm, kiểm soát chặt chẽ, các cha vẫn làm thánh lễ cho người tù công giáo. Lễ bỏ túi, lễ chạy, lễ di động. Nhưng vẫn có Thánh lễ, nâng đỡ tinh thần với đức tin Chúa.
Ngược lại các cán bộ chỉ lập lại những lời tuyên truyền trước đây trong chiến tranh có thể áp dụng với dân chúng ít học nơi vùng quê hẻo lánh nhưng bây giờ đối tượng lại là những sĩ quan có trình độ, tối thiểu cũng đã tốt nghiệp trung học.
Luận về tội của người đi cải tạo: “Anh là giặc lái, lái máy bay bỏ bom toàn trẻ em và phụ nữ; bộ đội được huấn luyện kỷ thuật tránh bom, đâu có chết. Anh là quân y, chích thuốc kích thích cho lính ngụy nó hăng lên đánh phá cách mạng dữ dội. Anh là Cha, là Cố, làm phép cho lính Ngụy đạn bắn không trúng.”
Ngoài ra những buổi sinh hoạt “Văn nghệ” làm tôi khổ sở lắm. Không muốn nghe, không muốn thấy cũng không được. Ngồi xoay qua xoay lại cũng bị phê bình. Ngồi ngủ gục tội còn nặng hơn nữa. Cuối cùng tôi có cách. Tuyệt chiêu! Tôi ráng nhớ hết tên quý cô giáo, thầy giáo, giáo sư trung học, giáo sư đại học khoa học, đại học y khoa…Tôi ngồi đó, như tượng gỗ. Ngồi ngay ngắn, nghiêm chỉnh nhưng tôi không thâu nhận gì hết vì trí óc tôi đang bận với tên tuổi những người đã góp phần dạy dỗ tôi. Xong. Tôi nhớ hết.
Kế đến, lần sinh hoạt văn nghệ tới, tôi ráng nhớ tên mấy đứa bạn cùng lớp. Lẽ dĩ nhiên tôi đâu có nhớ hết nổi, nhưng đầu óc tôi đâu có rảnh để “tiếp thu” những lời vô nghĩa, chướng tai. Tôi ráng nhớ mấy bài “học thuộc lòng” (recitation). Vui lắm. Học từ những năm 1947-48. Ví dụ bài “Cắt móng tay”:
Đời xưa có thói dị thường
Những người sang trọng ngồi không tối ngày
Bởi nên không cắt móng tay
Để cho nó mọc ra dài uốn cong
Đời nay có thói lạ lùng
Móng tay họ cắt mà không cắt cùi
Mỗi ngày mài dũa lau chùi
Thoa son đánh phấn ra mùi Tây U…
Cũng có bài cảm động lắm như bài “Tan buổi học”:
Tan buổi học mẹ ngồi tựa cửa,
Nhác trông con đưa đứa về dần,
Xa xa con đã tới gần,
Mẹ con tề tựu quay quần bửa ăn. Cơm dưa muối khó khăn mới có, Của không ngon nhà khó cũng ngon.
Khi vui câu chuyện thêm dòn,
Chồng chồng vợ vợ, con con một đàn.
Hoặc bài” Après la bataille’ của Victor Hugo, bắt đầu bằng câu:
Mon père ce heros, au sourire si doux,
…Donne lui tout de même à boire, dit mon père.
Đặc biệt bài “La maison paternelle” càng làm nhớ nhà thêm:
“Inoubliable est la demeure
Qui vit fleurir nos premier jours…”
Ngày lại qua ngày. Không ai dám đếm ngày đếm tháng nữa.
Vụ án Bác sĩ B. Q. M:
“Học tập cải tạo” đã hơn một năm rồi. Ngày về mù mịt như Tô Vỏ chăn dê. Bặt tin tức. Có “ai” đề cập đến liên lạc với gia đình đâu. Trái lại, hàng ngày cán bộ nhắc nhở lệnh: Cấm “liên hệ” với bất cứ ai, lúc ở trong trại cũng như lúc ra ngoài đi lao động (cuốc đất trồng khoai mì, chặt tre, đốn củi).
Không biết bằng cách nào, các bà vợ “tù cải tạo’ ở Sàigòn biết được Trại Long Giao. Thế là ngày nào cũng có mươi bà lên đón mong gặp các toán tù “xuất trại để lao động”.
– Các anh ơi, tôi là vợ của Đại uý X, trước ở Đơn vị Y. Các anh nhắn dùm là gia đình bình yên. Ba đứa con tôi nuôi không nổi nên cho nó theo Cậu Z, theo chú nó hết rồi. OK Salem hết rồi.
Thế là chiều hôm đó thế nào cũng có màn: “Sáng nay tao thuộc tổ chặt tre, có thấy Bà Xã mày lên. Không làm sao nhận được quà cáp gì hết vì bộ đội kiểm soát chặt chẽ quá. Nhưng Bà Xã mày nhắn là gia đình bình yên, ba đứa con bả cho Cậu Z nuôi. Mẹ, Cậu Z “vọt” hồi 75 phải không mậy? Ê, còn đường không, cho xin một thẻ”.
Tối hôm đó, trong giấc ngủ chập chờn, Đại úy X. mỉm cười.
Sau này, Bà Xã tôi kể lại: đã lên Long Giao tám lần. Những ngày ấy, tôi không thuộc toán lao động ra ngoài. Những ngày tôi cuốc đất, vác củi ngoài trại, Bà Xã tôi không lên. Cũng dễ hiểu thôi: còn lo chạy gạo, săn sóc bốn đứa con nữa chớ!
Mỗi buổi tối sinh hoạt, quản giáo nhắc lại: Cấm liên hệ.
Rồi giông tố nổi lên. Không biết cách nào đó, cán bộ bắt được một tờ giấy nhỏ với vỏn vẹn chín chữ: “Má và các con yên tâm, Ba bình an”.
Theo ngôn ngữ được dùng, tác giả là một tên Nam Kỳ. An ninh trại điều tra và quả quyết BS B. Q. M. là thủ phạm với bản án: “Nhốt vào conex”. Thời gian sẽ quyết định sau.
Conex là một hộp sắt hình vuông, mỗi cạnh khoảng 1,5m, có hai cánh cửa, kín mít , dùng để chứa hàng hóa, gởi từ Mỹ sang. Người ta khoét hai lổ khoảng 10x20cm cho người tù thở. Conex để giữa “trời cao đất rộng”, không một bóng mát. Trong conex, tù không đứng thẳng được. Ban ngày nhiệt độ lên tới 105-110 F. Sắt giản ra bưng bưng (đâu có chuyện “ Nắng Sàigòn anh đi mà chợt mát,” đâu có “áo lụa Hà Đông”!). Người tù conex chỉ có một bộ đồ, cởi ra hết, che trên đầu, hy vọng đỡ nóng. Mắt đỏ hoe. Miệng khô đắng. Da sần lên như da cắt kè. Mỗi ngày được một lít nước. Tiểu tiện ngay tại chỗ. Nước tiểu vừa đụng sàn conex đã bốc hơi. Cục phân, nhỏ như cứt dê, cũng khô cứng.
Cửa conex chỉ mở ngày hai lần cho bạn tù mang nửa khẩu phần cơm tới. Rồi đóng lại ngay. Người ta không muốn tù được hưởng chút không khí trong sạch. Đúng nghĩa không khí trong sạch, không bóng gió gì hết.
Ban đêm lạnh thấu xương. Tù nằm cong queo nghe sắt co rút lại kêu răn rắc. Không còn sức để mà run.
Bị nhốt trong conex là kể như mình đã đặt một chân vào thế giới bên kia rồi. Chỉ cần rút nhẹ một chân nữa là xong một kiếp người ở cái tuổi chưa đầy bốn mươi. Vậy mà BS B.Q.M. còn sống nhăn sau một tháng cọng với ba ngày trong conex.
Đến nay, ba mươi năm sau, BS B.Q.M. vẫn BỐN không biết: không biết ai là tác giả chín chữ đó, không biết tại sao an ninh trại lại quả quyết là mình, không biết tại sao được thả ra, không biết nhờ đâu mình sống được.
“Vertigo” của BS Nguyễn sơ Đông.
Một buổi chiều không đi lao động, tôi đang ngồi vá chiếc võng nylon thì có bộ đội chuyển lệnh:
Lên văn phòng làm việc với Anh Lực. Nghe tên Anh Lực, tôi lạnh mình. Mấy đứa bạn tù ngồi gần đó ngước nhìn tôi, nhìn tên bộ đội non choẹt vác AK mà ngao ngán dùm tôi.
“Anh Lực” là trung úy an ninh của trại Long Giao nổi tiếng “ác ôn”. Thật tình, tận mắt, tôi chưa có dịp thấy hắn hành hung, đấm đá gì ai. Nhưng nộ nạt, sỉ vả, chửi mắng, hăm dọa tù là chuyện cơm bửa đối với hắn. Tôi đã bị hắn gọi đích danh ra “trước hàng quân”… tù để sỉ vả:
– Lúc nhỏ, anh là con đẻ của thực dân Pháp (vì cái tội theo học ở trường Chasseloup Laubat của Pháp), lớn lên, anh làm tay sai đắc lực cho Đế quốc Mỹ. Tội của anh đáng chết mười lần, anh có thấy nhục nhã không?
“Anh Lực” mà ra lệnh nhốt vào conex thì hết thấy mặt vợ con, anh em, bè bạn. Tôi lại nhớ đến hình dáng của BS B.Q.M. sau khi được dìu ra khỏi conex. Trắng xanh, mắt sâu hoắm, không còn chút sinh lực, ốm tong teo… Nhìn vào không thấy đâu hết, chỉ thấy bộ quần áo rộng thênh thang bay phất phơ trong gió. Đứng không vững. Nói không ra tiếng. Bây giờ, năm 2006, ngồi yên viết lại, chớ lúc đó tôi sợ lắm, bước chậm chậm như cái xác không hồn. Tôi ráng lấy can đảm, nắm chặt tay lại chớ chân tôi bắt đầu run run khi gần đến văn phòng Tiểu đoàn tù L2T1.
Đến cửa văn phòng, tự nhiên tôi quay lại nhìn trời. Biết đâu đây là lần cuối mình còn có thể nhìn lại chút bầu trời trong mát.
Bộ đội đứng nghiêm: “Báo cáo đồng chí…” , vừa báo cáo vừa để tay vào lưng tôi, “diù” nhẹ tôi vào văn phòng. Toàn thân tôi nổi da gà. Tôi có cảm tưởng đao phủ đưa tội nhân lên máy chém.. Tôi bước vài bước vào đứng nghiêm trong văn phòng Trung úy Lực: – Kính xin báo cáo… Tôi vừa nói vừa nhìn hắn, cố lấy giọng bình tĩnh.
Hắn ngồi sau bàn viết, cố tình không nhìn tôi, như đang tìm kiếm gì đó, lấy ra một xấp hồ sơ. (Tôi nghĩ đó là hồ sơ của tôi vì từ khi vào trại đến giờ đã khai lý lịch trích dọc trích ngang hơn chục lần rồi). Rồi từ từ, hắn đứng dậy, kéo áo lại cho ngay ngắn, từ từ tháo dây thắt lưng có dính tòn ten bao da đựng cây K54, để nhẹ trên bàn viết, kế một tách trà đã vơi.
Nãy giờ cũng đã gần năm phút rồi, hắn vẫn không thèm nhìn tôi bằng nửa con mắt, không thèm phán cho tôi nửa lời. Tim tôi đập liên hồi, có cái gì ngăn ở ngực. Muốn ói. Tai ù. Mắt mờ. Như đang lạc vào thế giới huyền ảo. Cái sợ đã lên tới tột đỉnh.
Bổng hắn đập mạnh nắm tay xuống mặt bàn. Rầm. Tiếng rầm kéo tôi trở lại thực tế. Tôi mở mắt to, há hốc nhìn hắn. Hắn quát:
– Tại sao tới giờ này anh còn dối cách mạng. Cách mạng đã tha tội chết cho anh… Thật là một lũ ngụy.
Sợ quá , tôi không biết lúc đó tôi có hiểu hết những gì hắn nói không. Hắn ra mặt giận dữ, vừa thét to, vừa đẩy xấp hồ sơ về phía tôi.
Như có phép lạ, trong thoáng giây, đầu óc tôi minh mẫn lại. Có lẽ ngọn đèn bừng sáng lên trước khi bị dập tắt. Tôi linh cảm trong cử chỉ, trong giọng nói của hắn có chút gì giả dối, có chút gì muốn áp đảo tôi.
· Xem đây, anh viết anh không hề vào đảng “Thằng Thiệu” mà sao lên cấp bậc đại úy. Mẹ, không vào đảng, lên đại úy. Dối cách mạng cho cải tạo mục xương.
Tôi tỉnh lại hẳn. Tôi cám ơn hắn đã lập lại câu nói “không vào đảng, sao lên đại úy”. Tôi không nghe sai. Tôi cảm được con người tôi hiện đầy sinh khí. Tôi muốn cười thật to, cho sướng. Tôi vẫn đứng nghiêm. Hắn còn hét to lên nữa, tiếp tục mắng chữi, hăm dọa đủ điều. Tôi đâu có nghe nữa. Tôi biết chắc chắn hắn hố rồi. Tôi biết chắc chắn không có gì để buộc tội tôi, ngoài cái tội ngụy. Và tôi không sợ nữa. Hắn mệt rồi. Hớp cạn tách trà, hắn ngồi lại xuống ghế, mắt mở to nhìn tôi như cố ý xem tôi “xanh mặt” đến mức nào. Run chưa?
Tôi chậm rãi để hưởng hết cái hương vị đậm đà của “chiến thắng”.
· Kính thưa anh cho phép tôi báo cáo.
Sau một thoáng suy nghĩ hắn gật đầu chấp thuận.
· Kính xin báo cáo anh mấy điều. Thứ nhất, anh xem lại bảng lý lịch của tôi, tôi không có mang cấp bực thiếu úy động viên vào quân đội … (Tôi muốn nói Quân lực Việt Nam Cộng Hòa mà không dám) …
· Ngụy chứ quân đội gì, hắn cắt ngang.
· Động viên tháng 3 năm 1966, tôi mang ngay cấp bực trung úy (tôi cố tránh chữ ngụy). Thứ hai: Trong quân đội Miền Nam …
· Tôi ra lệnh anh nói quân ngụy, hắn bực dọc lắm rồi.
· Vâng trong quân ngụy, không có cấp “thượng” như thượng úy, thượng tá, thượng tướng, nghĩa là từ trung úy lên ngay đại úy. Thứ ba: Tôi lên đại úy từ năm 1968 (đặc cách tại mặt trận, tết Mậu thân, tôi không dám nói sợ hắn “quýnh” tôi) và đến năm 1975 vẫn còn mang đại úy. Như thế tôi vào quân … ngụy hơn 9 năm, lên có một cấp bực thì có đảng nào đâu!
Tôi vẫn đứng nghiêm, nghiêm để nhìn cái bối rối của hắn. Hắn vẫn trừng mắt nhìn tôi, trong ánh mắt có chút bẽn lẽn của một người vừa đánh … hụt. Hắn cố gỡ gạc:
· Cách mạng tìm được tài liệu anh là đảng viên đảng “Thằng Thiệu” thì sao?
· Kính xin báo cáo: tùy cách mạng định đoạt.
· Thôi cho anh về. Cấm kể lại chuyện này cho bất cứ ai. Chết với tôi đấy.
Hắn gọi bộ đội đưa tôi lại lán B12. Trên đường về tôi huýt sáo nho nhỏ… “The longest day”. Về đến lán, anh em ngạc nhiên thấy tôi còn nguyên vẹn. Mắt không bầm, mặt không sưng. Tay chân còn cử động nhịp nhàng. Tuy nhiên không anh nào dám hỏi han gì hết. “Anh Lực” oai đến thế.
Chuyển trại
Một ngày đầu tháng 3 năm 1977. Sáng sớm ban quản giáo ra lệnh: hôm nay không học tập, không lao động, các anh mang hết đồ đạc ra sân khám xét.
Đây không phải là lần đầu. Trong quá khứ, thỉnh thoảng đôi ba tháng một lần chúng tôi bị “khám xét tổng quát”: vũ khí nhọn (chống đối), cơm khô (âm mưu trốn trại), thư từ (liên hệ), tài liệu (tuyên truyền) … Sau khi ăn cơm trưa, xét tiếp đến xế chiều mới xong.
Anh em đang xếp đồ đạc lỉnh kỉnh cho vào túi vải bỗng quản giáo ra lệnh: “Cán bộ Trung Đoàn đến, tất cả đứng yên tại chỗ”. Cán bộ Trung Đoàn, gầy đét, mắt vàng sốt rét kinh niên, môi thâm thuốc lào trao một tờ giấy, quản giáo đọc: “Các anh có tên sau đây đứng qua bên phải, chờ lệnh”. Mười lăm, muời sáu tên, trong đó có tôi. Các anh khác mang đồ trở vô lán, đóng cửa lại. Cấm trở ra sân. Nhóm chờ lệnh, hoang mang. Nhóm trở vào nhà lo âu. Cả hai nhóm đều xanh mặt.
Sau đó, nhóm chờ lệnh mang túi đồ đạc được dẫn lên trước văn phòng tiểu đoàn L2T1, ngồi thành một hàng dọc cùng với nhiều nhóm khác. Tiếp tục chờ lệnh. Chờ lệnh trong sợ sệt. Chốc chốc lại có anh thì xin phép đi tiểu. Mờ tối, khoảng 8 giờ, một đoàn 5 chiếc Molotova tới. Bây giờ cán bộ Trung Đoàn mới cho biết: “Có lệnh chuyển trại các anh.” Giống như gần 2 năm trước từ “Tử cấm thành Trưng Vương” lên Long Giao, nghĩa là đi ban đêm, với bạt mui xe đóng kín; lệnh rất nghiêm nghĩa là ra khỏi hàng là bắn bỏ. Một chi tiết nhỏ: lần này, tôi không nghe tiếng AK đạn lên nòng. Molotova chạy suốt đêm, bỏ đường nhựa, chạy quanh co đâu trong rừng, dằn, xốc lắm. Sáng hôm sau, đoàn xe thả tù xuống một trảng tranh. Lần lượt nhảy xuống. Anh nào cao dưới 1.60 m không thấy đâu!
Tranh cao khỏi đầu. Tập hợp. Chia tổ, chia lán. Đốn cây, dựng nhà, đào giếng. rành quá rồi. Địa danh: Katum, rừng già, nguyên là mật khu giữa Tây Ninh và biên giới của Việt Miên.
Sống giữa rừng già Katum.
Cán bộ nói chung quanh không có hàng rào, không kẽm gai, không bộ đội gác gì hết, nhưng các anh đừng có dại dột mà trốn trại. Không biết đường ra đâu. Đúng, chúng tôi bị nhốt giữa rừng già. Đi lao động thỉnh thoảng gặp hầm hố, công sự chiến đấu, doanh trại của cộng sản, trước 75, nay đã hoang tàn. Cuộc sống có vẻ đỡ gò bó và đỡ đói vì có “kiếm chác” được chút “ của trời cho”: cải trời, măng, trái cây rừng … Thích nhất là gặp những hố bom, mỗi hố đường kính rộng hơn cả 10m, không biết sâu bao nhiêu, nhưng đầy âm ấp nước; có nước là có sinh vật: cá và ếch. Tôi mang lưỡi câu “thứ thiệt”, có ngạnh đàng hoàng, nhợ nylon, chặt trúc làm cần câu cá và ếch, thằng bạn cùng tổ làm việc ngạc nhiên lắm. –“Ở đâu mày có?” –“ Mang theo khi đi trình diện chứ ở đâu mậy. Tao đâu có tính 10 ngày mậy”.
Giữa rừng già, đêm xuống, trăn trở nhớ nhà lắm. Trăng rừng, bóng trăng xanh tải, lành lạnh. Chập chờn, ma quái. Mưa rừng reo rắt, buồn thúi ruột. Còn lòng dạ nào mà nhớ Thanh Nga …“Mưa rừng ơi mưa rừng giọt mưa, nhớ ai mưa triền miên” …Thấm thoát mà ở tù hơn hai năm rồi. Cách đối xử của cán bộ đối với tù vẫn hằn học và khinh rẻ. Họ là kẻ thắng trận, nhưng họ biết không khi nào họ “tẩy não” được chúng tôi. Vậy, họ còn giữ chúng tôi làm gì? Từ ngày lên Katum đến nay đã 4, 5 tháng rồi có “học hành” gì đâu. Những đêm trằn trọc nghe bạn tù mớ … mớ cha, mớ mẹ, mớ vợ, mớ con … mớ bạn bè.
Thăm nuôi. Vive la “2CV”
Một ngày đầu tháng 6/1977, quản giáo ra lệnh: “Khẩn trương, đốn cây, cất thêm mấy căn nhà. Các anh sắp được thăm nuôi. Cắt tóc, chọn áo quần “tốt” mà đón gia đình”. Chúng tôi ghi nhận tin “thăm nuôi” bán tín, bán nghi. Lần này, như có phép lạ, “Cách Mạng” thực hiện điều mới tuyên bố. L’exception confirme la règle. Thế là tôi được gặp mặt vợ con.
Lại Nguyễn Lộc Thọ, cựu giáo sư Quốc gia Nghĩa tử, người đã chở Honda tôi đi trình diện học tập ngày Chúa nhật 23/6/1975, nay chở vợ và bốn đứa con tôi lên Katum, bằng chiếc 2 CV cũ kỹ. Cảm động nhất, là có bà nhạc mẫu tôi. Bà ngoại, bảy mươi ngoài, lụm cụm lên thăm thằng rể “tù”.
Ánh sáng cuối đường hầm
Tháng 8/77, một số chuyên viên y tế, kiến trúc, kỹ sư được “chuyển trại”. Không nói thẳng, nói thật, chuyển trại, thế thôi. Về bến mới đục hay trong? “Cũng liều nhắm mắt đưa chân”. Autant en emporte le vent. Sắp xếp hành trang lên Molotova … lần thứ ba.
Lần này, chúng tôi nhận thấy hai điểm “sáng sủa”, nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, là di chuyển ban ngày và bạt mui xe không khép kín lại, tuy vẫn có hai bộ đội với AK ngồi ngoài bìa hai băng xe. Có AK nhưng không nghe tiếng đạn lên nòng. Đến xế chiều, xe chạy vào một doanh trại cũ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, không biết đơn vị nào, chỉ nghe anh ngồi ngoài bìa nói Tây Ninh. Xe ngừng. Lần lượt nhảy xuống đất. Bỗng nhìn lên vách một căn trại chữ phai mờ rồi nhưng còn đọc được: TD 252 PB. Mắt tôi hoen mờ. Môi tôi nghe mặn. Tôi đã khóc: thì ra đây là một phần của đơn vị cũ của tôi, sư đoàn 25 bộ binh.
Tái diễn cái màn: chia tổ, chia lán, nhưng khỏi dựng nhà. Hàng dãy doanh trại bỏ trống. Ở đây tôi gặp lại Dương Tấn Lợi, đại úy quân nhu, trong nhóm Chasseloup/ Jean Jacques Rousseau đi nhậu hàng tháng với nhau. Vợ anh Lợi “dân Tây” – Quốc tịch Pháp, thứ thiệt chứ không phải như tôi bị chửi oan, đã đem đứa con “hồi hương” về Pháp rồi. Khỏe ru. Nó khỏi lo con, cháu nó. Lợi kéo tôi ra một góc, “nói nhỏ cho mầy biết, tao còn hai con khô sặc, tao cho mầy một con”. Trời! Tôi không biết caviar, tôi không biết “khô lân chả phụng” ngon đến mức nào, chớ giờ đây, đổi con khô sặc rằn, rằn, rằn này … tôi không chịu.
Độ hai tuần sau, tôi được giấy xuất trại …Tưởng là tốt lắm. Có ngờ đâu, như thầy Huyền Trang Tam Tạng, sau 80 nạn rồi … chỉ thỉnh được mấy pho “vô tự kinh”.
Nguyễn Sơ Đông
01 tháng 1 năm 2007
—————–
Sống lại
Đúng như Tam Tạng qua bao nỗi “trần ai” chỉ thỉnh được mấy pho “vô tự kinh”.
Được giấy xuất trại chỉ là thả ra khỏi trại tù nhỏ Củ Chi … Để được giam trong trại tù lớn ViệtNam.
Chữ “Ngụy” được in vào hồ sơ, như được xâm lên trán, thời trung cổ.
Ngụy có nghĩa là:
· Mất quyền công dân.
· Bị áp lực đi kinh tế mới, giao nhà cửa cho nhà nước “cách mạng” quản lý.
· Lẽ dĩ nhiên không nơi nào cho mình việc làm, bất cứ ở tầng lớp nào trong xã hội.
Dẹp hết tự ái, tôi xin vào làm y tá trong phòng y tế của một xí nghiệp dưới sự “chỉ huy” của một “bác sĩ chuyên tu” cộng sản. (Chỉ mong có việc làm ở Sài Gòn, khỏi đi kinh tế mới). Vậy mà hai tuần sau, chi bộ đảng quyết định: chỗ này phải dành cho “thân nhân liệt sĩ cách mạng”.
Tôi cắn răng chịu đựng mọi đắng cay: ra sở y tế (tòa lãnh sự Trung Hoa Dân Quốc cũ, đường Hai Bà Trưng) thành phố Hồ Chí Minh, gặp bác sĩ Nguyễn Hải Nam, cùng khóa Y Khoa Sài Gòn. Nam bây giờ là VIP, vì là “cơ sở cách mạng” (nằm vùng) do anh ruột Đại tá công an cộng sản Nguyễn Hải Thọ gài trong bệnh viện cảnh sát/ Tổng Nha Cảnh Sát Việt Nam Cộng Hòa, đường Võ Tánh. Nam chỉ phán một câu: “Anh về thu xếp đi kinh tế mới”.
Đứng xếp hàng mấy tiếng đồng hồ để mua “nhu yếu phẩm”, thì bà tổ trưởng dân phố bảo:
· Cậu là ngụy, không bán.
Cay đắng ỡ chỗ: bà này bà con khá gần với mình, nhưng nay mình là ngụy: hết bà con. Tôi cố xoay sở, cố nuốt nhục, mong gia đình được dễ thở chút nào. Nhưng sau đây là giọt nước mắt làm tràn ly.
Con trai đầu lòng, học hết lớp 9, xét lý lịch, con ngụy, không được tiếp tục lên lớp 10.
Vậy người cộng sản muốn đầy đọa bao nhiêu thế hệ gốc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa?
Tôi xin viết rõ ràng, minh bạch cho thế hệ mai sau: tôi đã đi dạy trung học, đã là giám khảo thi Tú Tài I & II nhiều khóa, tôi đã hành nghề y khoa trong và ngoài giới quân đội, tôi chưa khi nào hỏi lý lịch thí sinh hay bệnh nhân. Thí sinh giỏi, tôi cho điểm tốt. Bệnh tôi chữa. Bị thương, tôi săn sóc. Nặng tôi gọi trực thăng tản thương không cần biết đó là chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa hay Việt cộng. Đó là tôn chỉ của Việt Nam Cộng Hòa.
Vì thế, khi con tôi mang phải cái tội “con ngụy” bị từ chối lên lớp trên, tôi quyết định vượt biên.
Tôi bàn kỹ với nhà tôi, chấp nhận biết bao gian lao, nguy khổ, đem mạng sống cả gia đình đổi lấy tự do. Chúng tôi hy sinh, mong các con có một tương lai sáng lạn hơn hay ít nhất không bị trả thù.
Trong lịch sử, chưa có thời nào, chưa có dân tộc nào phải chấp nhận thương đau, chết chóc, tan nát … bỏ xứ ra đi nhiều như Việt Nam Cộng Hòa, sau 75. Một cách khiêm tốn, ước lượng 10 người vượt biên, 6 người thoát hiểm, 4 người chết ngoài biển khơi (giông bão, bệnh, hải tặc, đói …), thì nếu 300.000 (ba trăm ngàn) “boat people” đến được bến bờ tự do, đã có 200.000 (hai trăm ngàn) chìm sâu đáy biển.
Việc tôi không hiểu được là con số chết chóc quá cao như thế, đã làm thức tỉnh lương tâm cả THẾ GIỚI … mà chính quyền mới vẫn dửng dưng. Họ có lương tâm hay không? Tôi không sai khi viết “thức tỉnh lương tâm cả thế giới”.
Trại Bidong
UNHCR, tháng đến hai lần, có khi ba bốn lần. Lãnh sự Pháp Jean Blattes, phái đoàn Mỹ, Úc, Pháp, Canada, Norway, Sweden, Danemark … đã đến phỏng vấn, nhận tị nạn …và nhận cả con nuôi.
Khắp thế giới
· Đủ mọi thành phần xã hội từ nhiều quốc gia, kể cả những nhân vật đã từng có thái độ thiếu thân thiện với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa như triết gia Jean Paul Sartre, ca sĩ Yves Montand, tài tử điện ảnh Brigitte Bardot, văn hào Virgil Georghiu.
· Màu da, tôn giáo, ngôn ngữ họ khác.
· Chính kiến, lập trường, nhân sinh quan họ khác.
Nhưng họ có một mẫu số chung: lương tâm và tri thức con người.
Họ đã cùng nhau quyên góp tổ chức “Một con tàu cho Việt Nam” (Un bateau pour le Viet Nam) để cứu vớt người vượt biển.
Vượt biên:
Tìm cái sống trong ngàn cái chết, gia đình tôi rời Sài Gòn ngày 26/10/78. Lẽ dĩ nhiên đầy hãi hùng. Chúng tôi chấp nhận hết. Nhờ ơn trời, chúng tôi đến Pulau Bidong ngày 3/11/78: ngưỡng cửa trước khi vào chân trời mới.
Ở Bidong, cũng khổ cực, thiếu thức ăn, thiếu đủ thứ … và nhiều lo lắng, nhưng sống vẫn HY VỌNG. Hy vọng làm lại cuộc đời ở một “đệ tam quốc gia” … Úc, Mỹ, Pháp … gì cũng được. Nơi đó có chút tình người. Những ngày đầu đói lả người. Chồng 39 tuổi, vợ 38. Bốn con, đứa nhỏ nhất: 5 tuổi.
Gia tài: mỗi người một bộ đồ, chứa trong túi vải cộng với bộ đang mặc là hai, cọng với 2 ponchos “nhà binh”: một tấm trên nền cát, một làm mái che mưa nắng. Còn được 16 gói “gạo sấy”. Đồ hành quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Từ đó nấu thành cháo lỏng … ráng chịu đựng.
Không một dollar. Không một chỉ vàng. Đó là gia đình tôi khi cập bến Bidong.
Tôi đi vòng khắp đảo … tìm viện trợ. Hỏi Ban đại diện: không biết! Chính quyền Mã Lai không cho được hạt gạo, lít nước nào.
Ngày thứ sáu trên đảo. Hết gói “gạo sấy” cuối cùng. Tôi gặp lại bác sĩ Nguyễn Cẩm Thạch vàDược sĩ Nguyễn Kim Sơn (trước ở Trung tâm 3 Huấn luyện), vợ chồng bác sĩ Trịnh Văn Chương và Bác sĩ Mã Ngọc Phương, Bác sĩ Đoàn Lân, không quen trước nhưng giờ làm quen … tiếp tế cho mì gói, gạo, chén, nồi và dầu (để nấu và đốt đèn). Quý hơn bát cơm Xiếu Mẫu. Trân trọng đội ơn năm bạn.
Vào thời điểm này tháng 11/1978, “dân số” Bidong khoảng 12 ngàn. Việc tổ chức “ban đại diện” rất phôi thai. Trại trưởng là Nha sĩ Đỗ Cao Minh (anh ruột Trung tướng Đỗ Cao Trí).
Chúng tôi làm thủ tục ghi tên. Tàu chúng tôi được xếp số thứ tự 76, để theo đó mà được gọi vào phỏng vấn khi có phái đoàn “đệ tam quốc gia” đến.
Ngày nào cũng có “vượt biên” đến: hoặc đến “thẳng” từ Việt Nam, hoặc do chính quyền Mã Lai chở đến từ các trại khác. Exodus. 7, 8, 10 … 15 mười lăm ngàn vào cuối 1978.
Nha sĩ Minh rời trại. Bác sĩ Nguyễn Dương Đơn (con của bác sĩ Nguyễn Dương Đôn, Bộ trưởng Quốc Gia Giáo Dục năm 1954) thế. Bác sĩ Đơn đến đảo trước tôi nửa giờ, cùng với gia đình bên vợ là Bác sĩ Nguyễn Đình Hoàng, giáo sư Quang tuyến Y Khoa Sài Gòn ( Tàu số 75).
Bác sĩ Đôn rời trại rất sớm, Giáo sư Lê Tấn Kiệt, cựu hiệu trưởng một trường trung học công lập ở Hậu Giang lên thế.
Người tị nạn ồ ạt đến. Việc tổ chức “ban đại diện” lần lần chu đáo hơn, liên lạc thường xuyên với Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR/ United Nations High Commissioner for Refugees). Nhờ vậy trại Pulau Bidong được chính quyền Mã Lai tiếp tế thức ăn, nước ngọt. Tất cả chi phí do UNHCR đài thọ: 4 (bốn) US dollar cho mỗi đầu người tị nạn, mỗi ngày.
Tàu tị nạn tiếp tục đến, vẫn có nhiều chiếc bị Hải quân Mã Lai ép trở ra hải phận quốc tế …
Mặc cho sóng bão …
BS Bernard Kouchner và “một con tàu cho Việt Nam” Tàu bệnh viện L’ Ile de Lumière
Nhắc đến Jean Blattes, Lãnh sự Pháp ở Kuala Lumpur, Bernard Kouchner và nhóm cộng tác,
Thuyền trưởng Francois Herbelin và thủy thủ đoàn, tôi chỉ có 6 chữ: THÀNH KÍNH TRI ÂN & CẢM PHỤC
Vượt bao khó khăn, trở ngại khắp mọi nơi, từ Paris đến Geneve, đến Kuala Lumpur, trở ngại ngay trong nhóm Médecins sans frontière, trở ngại với IRC, với MRC (Malaysian Red Crescent), Bác sĩ Kouchner đã thực hiện chương trình cứu trợ người vượt biển với tất cả con tim và khối óc của ông:
· Cứu trợ trực tiếp, đúng lúc, ngay trên biển cả.
· Đón người vượt biển, chữa trị và đưa đến bờ tự do THẬT SỰ.
Bác sĩ Kouchner và nhóm cộng tác đã thuê một tàu hàng “trống lỏng” ở Nouvelle Calidonie. Ráp vào giường, máy quang tuyến X, phòng thí nghiệm, phòng vệ sinh … để biến thành tàu bệnh viện L’Ile de Lumière.
Bao nỗi trần ai, bao nỗi nhọc nhằn với được chính quyền Mã Lai cho phép hoạt động. Tàu cập bến Bidong ngày 18 tháng 4, 1979.
Tôi đang làm trưởng trại, thế giáo sư Lê Tấn Kiệt đã được định cư. Cảnh thật là cảm động. Người tị nạn hoan hô dậy trời. Những người “may mắn” đến gần được phái đoàn, ôm chầm lấy họ, òa lên khóc. Khác màu da, khác màu mắt, khác ngôn ngữ … Sao họ chấp nhận xa vợ, xa con, quên no ấm, quên tiện nghi … tìm đến một góc trời xa thẳm để cứu giúp mình … Những người họ chưa hề quen.
Phái đoàn cứu trợ gồm có: Jean Blattes, lãnh sự Pháp, Bác sĩ Bernad Kouchner, Bác sĩ Vladan Radoman, Bác sĩ Eric Cheysson, Bác sĩ Patrick Laburthe, Bác sĩ Pierre Bonniaud, Bác sĩ Jean Claude Sénéchal và cô Ghislaine Martin, y tá.
Không người nào cầm được nước mắt. Các bác sĩ và y tá đã từng tình nguyện đi cứu trợ ở nhiều trại tị nạn rồi, nhứt là Bác sĩ Bernard Kouchner đã từng đến Afghanistan, Biafra, Eritrea, Jordan, Kurdistan, Tchad … và Sài Gòn. Nhưng chưa bao giờ họ thấy tình trạng thê thảm … “địa ngục trần gian Bidong”.
Bắt tay ngay vào việc. Khám bệnh. Cần thì chuyển lên “Ile de Lumière” … Quang tuyến X, thử nghiệm, giải phẫu. và … sanh … trên tàu.
Tàu rời Bidong ngày 5 tháng 7 năm 1979 với thành quả: khám bệnh 1927 người, 151 ca “giải phẫu” với gây mê, 18 em bé đã chào đời trên tàu, trong đó có 3 trường hợp sanh mổ.
Trước khi rời Bidong vì gần hết giao kèo và gần hết tiền quyên được, Bác sĩ Kouchner đã cho gỡ hết máy móc, dụng cụ, giường bệnh, máy phát điện … để giúp ban đại diện trại Bidong lập một bệnh viện 65 giường. Thuốc men, y cụ … cho lại hết để Ban Y Tế có thể tiếp tục hoạt động.
Bỗng nhiên tôi nhớ đến một chuyện trong “Bài tập đọc” lớp nhì: một con vượn bị thợ săn bắn, biết mình sắp chết (hết tiền quyên được) bèn vắt hết sữa của mình cho con bú.
Bác sĩ Kouchner đã gõ hết các cửa ở Paris từ Điện Matignon (Phủ Thủ Tướng Pháp) đến Quai d’Orsay (Bộ Ngoại giao) và đã được phép – với một quota khá cao – vớt được người tị nạn nào, chính phủ Pháp sẽ chấp nhận cho vào Pháp người đó..
Nhờ thế, sau khi rời Bidong, “con tàu cho Việt Nam” còn “tuần dương” dọc theo đường vượt biển Việt Nam – Mã Lai và Vịnh Thái Lan trong nhiều tuần.
Và nhiều người tị nạn được cặp bến bờ tự do … bờ sông Seine.
Nhân vật đến đảo Bidong
Chắc chắn có nhiều vị đã từng giữ những chức vụ quan trọng trong hai nền Đệ Nhất và Đệ NhịCộng Hòa nhưng tôi không biết. Có rất nhiều kỹ sư, kiến trúc sư, luật sư. Đốc sự hành chánh … Tôi chỉ xin ghi lại giới dân, quân y mà thôi:
Vào tháng 3, tháng 4 năm 1979, dân số Pulau Bidong đạt mức cao nhất: non 45.000 (bốn mươi lăm ngàn), khoảng 140 y nha dược sĩ đủ mọi khóa. Đặc biệt:
· Bác sĩ Nguyễn Đức Tiến, y sĩ trung tá, trưởng khối Tê Mê Tổng Y viện Cộng Hòa … Thuộc hạng “sư” về khả năng chuyên môn. Đàn em gọi là Tiến “thầy”. Gia đình anh vượt biên làm hai nhóm, trước sau. Cả hai nhóm (hai cái ½ gia đình) đều gặp hãi hùng: anh suýt bị hải tặc Thái Lan đạp xuống biển, tàu của chị cũng suýt bị đắm.
Mỹ, Nga phóng phi thuyền để ráp nối với trạm không gian … tí teo trong vũ trụ mênh mông. Dễ òm. Không ráp nối được mới là lạ, là trục trặc vì họ có đủ yếu tố kỹ thuật. Hai cái nửa gia đình anh chị bác sĩ Nguyễn Đức Tiến mà “ráp nối” nhau được ở Pulau Bidong mới không phải là lạ mà là PHÉP LẠ. Anh em ở giới Y chúng tôi nghĩ: Trời giúp bởi anh chị Tiến rất hiền, rất tốt với mọi người.
· Bác sĩ Nguyễn Duy Cung rất hiền và đa tài. Anh đã là thuyền trưởng cận duyên và viễn duyên trước khi về học y khoa. “Interne Cung” (nội trú các bịnh viện). Chuyên khoa giải phẫu lồng ngực. Giám đốc bệnh viện Nguyễn Văn Học. Ngày 30/4/75, từ chối lời mời di chuyển, đứng giải phẫu với bác sĩ Bernad Kouchner cho đến khi bộ đội cộng sản vào chĩa AK đuổi cả hai ra khỏi phòng mổ.
Anh Cung vẽ rất tài, làm chirungie plastique rất có “hoa tay”.
Bác sĩ Nguyễn Bội Hoàn, quyết định đi Pháp, rời đảo rất nhanh. Bác sĩ Hoàn là trưởng nam của Giáo sư Nguyễn Ngọc An, cựu Bộ Trưởng bộ Chiêu Hồi.
Bác sĩ Trần Dương Đôn (Dominique), em ruột giáo sư Trần Lữ Y (Louis), cựu Bộ Trưởng Y Tế, ở đảo có mấy tuần. Vợ là Bác sĩ Thái Ngọc Hoa (em của Thái Tường, Tiến sĩ Dược, Giáo sư Ký sinh trùng học) và con đã “di tản” sang Pháp trước 30/4/1975 nên Son Excellence Consul de France à Kuala Lumpur, Jean Blattes chấp thuận lẹ.
Giới ca sĩ có Thanh Tuyền, Băng Châu.
Báo Nouvelle Calédonie, nơi xuấn xứ chiếc tàu bệnh viện L’Ile de Lumière, đài truyền hình Mỹ: CBS, Pháp: Antenne 2 đến Pulau Bidong … làm phóng sự, thu hình … có “dính” tôi trong đó. Nhờ vậy, một số bạn hữu ở Mỹ, Pháp biết tôi đã thoát khỏi “địa ngục trần gian” và viện trợ cho tôi, qua trung gian UNHCR.
Trở lại Pulau Bidong hay: 30 năm sau, Việt cộng vẫn là Việt cộng, nghĩa là tàn ác và ngu dốt.
Tháng 3, năm 2005, một nhóm thuyền nhân trở lại Pulau Galang và Pulau Bidong để: tưởng nhớ những người đồng cảnh ngộ đã vắn số trên bước đường tìm tự do và tỏ lòng tri ơn chính phủ, hội đoàn, cơ quan, tư nhân … đã cứu giúp người tị nạn. Ở mỗi nơi họ dựng một tấm bia với những giòng như sau. Tôi xin ghi nguyên văn:
“In commemoration of the hundreds of thousands of Vietnamese people who perished on the way to freedom (1975 – 1996). Though they died of hunger or thirst, or being raped, or exhaustion or any other causes, we pray that they may now enjoy lasting peace. Their sacrifice will never be forgotten. Overseas Vietnamese communities, 2005”.
Tạm dịch:
Tưởng niệm hàng trăm ngàn người Việt đã bỏ mình trên con đường đi tìm Tự do (1975-1996).
Dù họ chết vì đói khát, vì bị hảm hiếp, vì kiệt sức hay vì bất cứ lý do nào khác, chúng ta thảy đều cầu nguyện để họ được yên nghỉ dài lâu.
Sự hy sinh của họ sẽ không bao giờ bị lãng quên.
CỘNG ÐỒNG NGƯỜI VIỆT HẢI NGOẠI, năm 2005.
Chính phủ Việt Nam làm áp lực với chính phủ Malaysia và Indonesia để phá bỏ hai bia đá đó.
Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ
Làm lại cuộc đời
Gia đình tôi đến Annandale, Virginia ngày 01 tháng 06 năm 1979. Lúc bấy giờ người “tị nạn” “boat people” chưa đông. Thủ tục trợ cấp xã hội, y tế (welfare, medicaid) rất nhanh …
Sáng sớm 4 giờ, tôi và ba đứa con lớn thức dậy đi … bỏ báo Washington Post. Nhớ bài học thuộc lòng từ lớp ba, năm 1948:
Tôi chỉ là một trẻ em bán báo
Khắp phố phường chân sáo nhảy tung tăng
…
Bán văn chương ai dám bảo nghề hèn …
Đến 6 giờ … “công tác phổ biến văn chương, chữ nghĩa” xong, cha con về ngủ lại một chút.
7:30 sáng thức dậy. Con đi học. Cha đi làm “thợ phụ” với một nhóm … sửa chữa nhà để có chút tiền bù vào “ngân sách” gia đình.
Tối về, cơm nước xong xuôi, các con làm “home work” vật vã với Anh văn cho học sinh ngoại quốc (English as a Second Language/ ESL), cha lo học thi ECFMG (bằng tương đương cho bác sĩ ngoại quốc).
Khóa ECFMG tháng 7/79 đã hết hạn nộp đơn rồi, hơn nữa biết gì mà thi – Tù đày cải tạo, gian khổ Bidong, trí óc có ngu muội, thì hợp lý thôi. Ráng “gạo” để thi khóa 02/80. Đến cuối năm 79, đành phải bỏ bớt cái “job” “bán văn chương” của Washington Post.
Đậu ECFMG luôn phần Y khoa và Anh văn, mừng hết lớn. Lo nộp đơn “xin một chỗ đứng dưới ánh mặt trời”: nội trú (residency). Ráng cho kịp niên khóa 80 – 81.
FMG, đứa con “vô thừa nhận”
Tôi gởi ra tất cả là 62 đơn, khắp nước Mỹ, trừ những nơi người ta ghi rõ ràng: No FMG.
(Foreign Medical Graduates là bác sĩ tốt nghiệp trường ngoại quốc)
Đủ mọi ngành, trừ những ngành mình thấy rõ ràng là … vô hy vọng như Giải phẫu Thẩm mỹ, Tai Mũi Họng, Nhãn khoa…. Tiền làm bản sao, tiền bưu phí … muốn ói cơm.
Số trời còn thương. Được ba nơi gọi phỏng vấn … và chỉ một nơi nhận: Family Practice (Y khoa gia đình) ở Delaware County Memorial Hospital, Drexel Hill, PA 19026.
Bấy giờ là tháng 6/ 1980. Lần đầu tiên , năm năm sau ngày cộng sản chiếm miền Nam Việt Nam tôi … thấy chút yêu đời.
Residency 3 năm. Cũng cực nhọc, cũng ê chề lắm! Một y tá hỏi: Biết “start an IV”không ?
Một bà bệnh đuổi tôi ra khỏi phòng vì tôi không hiểu “Charlie horse” là gì?
Thôi, rán nín thở lặn qua sông, thôi noi gương Quốc Văn Giáo Khoa Thư… về nhà viết một trăm chữ NHẪN…
Chân trời mới
Xong chương trình thường trú Family Practice tôi làm full time ER physician (bác sĩ khoa cấp cứu) ở Somerset Hospital, PA 15501.
Khoảng đầu tháng 3 năm 1985, bỗng nhiên tôi nhận điện thoại từ Los Angeles (L.A.).
· Bác sĩ xuống L.A. được không?
· Tôi đang đi làm, mà xuống L.A. làm chi? Ông là ai?
· M. Cậu còn nhớ bị nhốt ba ngày trong conex không?
· Đâu phải ba ngày. Một tháng với ba ngày.
· Mà cậu có viết cái thơ võn vẹn chín chữ đó không?
· Tớ đâu có viết. Tụi nó chỉ nghi thôi mà nhốt tớ suýt toi mạng.
Đêm hôm đó, bổng nhiên cả một khung trời dĩ vãng hiện lại trong trí tôi.
Nhân dân cho lên lon.
Đài phát thanh thông báo lệnh của Thượng tướng Trần văn Trà, Chủ tịch Ủy ban Quân quản Thành phố Hồ Chí Minh (tên mới của Sàigòn): Các sĩ quan chế độ cũ phải trình diện “học tập cải tạo”. Những sĩ quan cấp thiếu tá trở lên phải đi trình diện từ ngày thứ bảy 15 và chủ nhật 16 tháng 6, 1975, thời gian “cải tạo” là 30 ngày và điạ điểm trình diện là các trường học rải rác khắp Sài gòn, Chợ lớn, Gia định như Petrus Ký , Trưng Vương, Hồ Ngọc Cẩn, Don Bosco…
Gia đình tôi ở đường Nguyễn Trải, Quận 5, gần Nhà thương Phước Kiến, căn phố lầu, tầng một và hai. Tầng trệt làm phòng mạch. Khuya thứ haí 7-6-75 (hết hạn trình diện học tập cho cấp tá và tướng), có người nhận chuông. Nhìn đồng hồ: một giờ sáng. Tôi xuống mở cửa, bực và lo. Không phải một, mà năm người: bốn bộ đội với súng AK và một người đeo K54 mà tôi đoán là hạ sĩ quan. Vừa bước vào bên trong, hắn hỏi ngay:
· Anh tên Nguyễn Sơ Đông phải không?
· Phải.
· Sao anh chưa đi trình diện học tập?
· Đài ra thông cáo: cấp thiếu tá trở lên trình diện, tôi chỉ là đại úy thôi.
Tôi đưa cho hắn xem giấy tờ của Cao Đăng Chiếm, Đại tá Công An/Tình báo cọng sản ký. – Tôi có lịnh mời anh đi trình diện học tập ngay.
Làm sao tôi cải lại được với AK và K54:
· Lệnh gấp như vầy, các anh phải cho tôi sửa soạn áo quần, thuốc men, thực phẩm chớ…Vừa nói tôi vừa bước trở lạI hướng cầu thang để lên lầu.
· Không , anh không được đi đâu hết. Muốn gì, gọi người nhà anh lấy.
Đành chịu thôi. Bà xã tôi vừa sắp xếp áo quần, thuốc suyễn, thức ăn tiền bạc cho tôi, vừa khóc thút thít. Trước khi bước ra cửa, tôi còn bình tĩnh dặn:
– “Má” đừng sợ.. Nếu họ muốn giết thì chắc đã giết rồi chớ còn dẫn đi đi đâu.
Ra khỏi nhà, tôi đi giữa, bốn người bộ đội đi bốn góc. Thì ra chúng dẫn tôi xưống Chi Cảnh sát Chợ Hoà Bình. Vào trong chi cảnh sát, đã thấy ba ngườI tôi đóan là sĩ quan ngụy như tôi. Đến gần ba giờ sáng, lục đục bộ đội dẫn về thêm hai người nữa. Cọng với tôi là sáu. Chất lên xe cảnh sát cũ (màu xanh và trắng), chở lên Ty Cảnh sát Quận Năm, đường Đồng Khánh. Chúng tôi được đưa vào một phòng nhỏ có vài cái bàn, mươi cái ghế và bốn năm người ngồi chờ. Mỗi người được phát một tờ giấy học trò.
Khai lý lịch. Cấm “liên hệ” với nhau. Gần bốn giờ sáng, một công an, có vẻ là sĩ quan đến, ngồi sau một bàn viết, kê ở góc phòng, gọi từng người, “khai thác “ lại.
· Anh khai là trung úy. Tình báo nhân dân bảo anh là thiếu tá. Tại sao?
· Dạ, vì tôi mang lon Hải quân, bà con nhìn không ra chớ tôi mớI 23 tuổi, làm sao lên thiếu táđược?
· Anh thì sao? Anh khai là binh nhì đào ngũ?
· Dạ phải, tôi thuộc Sư Đoàn 5 Bộ binh ở Lai Khê. Tôi đào ngũ. Vì tôi muốn o con nhỏ ở trong xóm, nên tôi mang đại lon thiếu tá giả. Tôi học chưa hết lớp ba, làm sao làm thiếu tá được?
· Anh thì sao? Tình báo nhân dân “nhất trí” anh là thiếu tá mà ? Hắn hỏi tôi.
· Tôi mang lon đại úy từ năm 68; lúc sau này, mỗi lần về thăm nhà, tôi mặc dân sự, bà con tưởng tôi lên thiếu tá rồi, chớ thật tôi còn là đại úy.
Mỗi người đều có một lý do riêng. Cuối cùng, tên công an bảo:
· Các anh xác nhận không phải sĩ quan cấp tá ngụy phải không?
· Dạ đúng.
· Khai mang “cách mạng” kỷ luật nặng lắm. Được, tôi cho các anh về chờ lệnh.
Lục tục, chúng tôi mang đồ đạt hướng ra cổng Ty Cảnh sát Quận năm. Bổng tên công an gọi lại. Hồi hộp. Hắn bảo: mới 5 giờ sáng, còn giới nghiêm (cho đến 6 giờ), mấy anh ra đường bộ đội bắn chết. Thế là xe cảnh sát chở tôi về nhà. Hú vía. Nhận chuông. Bà xã tôi tưởng tôi “hiện thân về’.
Tự chui vào rọ.
Chủ nhật 23–6-75, khoảng một giờ trưa, bạn tôi, Nguyễn Lộc Thọ, Giáo sư Trường Quốc gia Nghĩa tử đến chở Honda tôi đi trình diện “học tập cải tạo”.
Lần này, trình diện đúng ngày, đại úy thật, 10 ngày. Địa điểm: Trường Nữ Trung học Trưng Vương, gần Sở Thú.
Sắp hàng. Vai mang túi áo quần, thuốc men… và một cái võng nylon.
Đến lượt tôi, đứng trước bàn một bộ đội tôi không biết cấp bực. Hắn ngồi ngay ngắn, nhìn tôi khá lâu và hỏi:
· Anh đứng trước cán bộ cách mạng mà còn mang kính?
Tôi chưa kịp hiểu anh ta nói gì, đã nghe lệnh:
· Gỡ kính xuống.
Gỡ thì gỡ. Tôi là kẻ bại trận mà. Tôi gỡ kính, cầm tay, không dám để trên mặt bàn.
· Ngồi xuống.
Ngồi thì ngồi. Giờ tôi như cá nằm trên thớt. Hắn đưa tôi tờ giấy, bảo khai lý lịch. Tôi cầm tờ giấy, chậm rãi:
· Kính thưa… Tôi không biết gọi anh ta bằng gì? Đồng chí thì không đúng và không được. Cấp bực thì tôi không biết. Gọi bằng ông sợ bị mắng.
· Cho phép anh gọi tôi là cán bộ.
– Vâng, kính thưa cán bộ, kính tôi mang là kính cận, tròng trong vắt, không phải kính râm. Tôi cố đọc trọ trẹ “râm-dâm”, sợ cán bộ không hiểu nếu tôi phát âm theo “Nam kỳ rặc” là “râm”. Gọi là kính mát, chắc chắn hắn không hiểu rồi. May mà tôi không mang verre fumé.
Cán bộ ra lịnh tôi gỡ kính xuống, tôi không thấy đường để viết, đọc gì hết. Hắn nhìn tôi, nhìn sang kính tôi đang cầm tay, gật đầu:
· Cho phép anh mang kính lại.
Tôi biết, từ đây đời mình sẽ còn nhiều giông bão.
Tập họp chia nhóm: 18 người thành một A. Tôi cũng không thắc mắc tại sao 18, không phải là 15 hoặc 20. Bốn A thành một B. Tôi thuộc A8 B12. Lên lầu, vào lớp học, tạm trú.
Tôi đã đến trường Trưng Vương nhiều lần rồi. Trong những năm ở Đại học Y khoa ở số 28 Đường Trần Quý Cáp, tôi là giáo sư dạy giờ, môn vạn vật, Trường Petrus Ký. Năm nào cũng đi gác thi, chấm thi Tú tài I và II ở Petrus Ký, Gia Long, Chu văn An hoặc Trưng Vương. Đâu ngờ, đây là lần cuối cùng …vào Trưng Vương “Tử Cấm Thành”.
Khoảng 5 giờ chiều, lệnh xuống sân lãnh cơm. Trời! Cơm do Nhà hàng Đồng Khánh mang đến. Tôi nghĩ là phải ngon lắm vì nhìn cũng giống cơm chiên Dương Châu mà mỗi lần đi dự tiệc cưới ở Đồng Khánh người ta hay đãi. Nhưng nuốt cho đỡ đói thôi chứ có biết mùi vị gì. Nhìn chung quanh, anh em đồng cảnh… cũng lặng thinh. Mỗi người một tâm sự, ánh mắt lo âu.
Ăn xong tập họp. Nghe lệnh. Những điều cấm không được làm… không được nói.
Màn đêm từ từ buông xuống.
Trở lên lầu, tìm cách giăng mùng giữa các bàn học, ngủ đỡ, qua đêm.Trằn trọc mãi.
Bao nhiêu câu hỏi. Tương lai về đâu? Bao nhiêu lo âu.
Nửa khuya, có tiếng tu huýt, lệnh trở xuống sân. Tập họp theo đơn vị A, B. Nhận lệnh mới. Di chuyển. Tuyệt đối cấm, cấm, cấm. Nhiều điều cấm lắm. Anh nào ra khỏi hàng là bắn bỏ. Thòng lọng ở cổ từ từ siết lại.
Xe Motorola chờ sẳn trước cổng Trường Trưng Vương. Lên xe. Kiểm soát. Tấm bạt mui xe khép kín lại. TrờI tối càng thêm tối om… như đời của kẻ bại trận. Có tiếng AK đạn lên nòng. Xe chuyển bánh. Quo vadis?
Sau nhiều lần quẹo, xe chạy thẳng và êm hơn. Mình ra xa lộ. Anh ngồi ngoài cũng hé chút mui cố nhìn và định hướng. Chạy mãi đến sáng thứ hai 24-6-75.
“Ê, mình đến Long Khánh rồi đó mấy cha. Vừa qua khỏi vườn cây của Đại tướng Lê văn Tỵ, chạy nữa. Đi đâu cà ?” Cuối cùng, bộ đội mở tấm bạt. Xuống xe. Hai chân tê cóng. Anh nào đó nhìn ra: đây là Long Giao, doanh trại cũ của Trung Đoàn 48, Sư đoàn 18 Bộ binh, trước là căn cứ Black Horse của Mỹ.
Tập họp. Mỗi B gồm 72 người vào một nhà, gọi là lán, do một cán bộ gọi là quản giáo chỉ huy.
Nhà trống, đầy bụi rác. Đủ thứ rác.
“Thế mình ở đây à?” Có giọng ngây ngô hỏi.
– “Ngủ ở đâu?”- “Nằm ngay trên sàn nhà mà ngủ”. Nhưng trước hết phải tìm cách quét cho sạch cái sàn nhà đã.
Một đoạn đời mới từ đây.
Đời sống vô sản.
Mỗi người mang theo một túi vải, trong chứa áo quần, thuốc men. Đứa nào cũng có môt lon “gô”(lon sữa Guigoz bằng nhôm). Riêng tôi còn có thêm mấy lưỡi câu, dây nylon và cái võng nylon có mùng luôn. Thuốc suyễn uống và bơm. Hơn 100 viên chloroquine. Mỗi tuần một viên, tôi sẽ chịu đựng được trên hai năm. Tôi không tin mình sẽ đi 10 ngày, nhưng tôi dự trù có sáu tháng thôi. Đâu ngờ phải đi ở tù lâu quá vậy!
Mỗi người được 40 cm sàn ciment. Tôi nằm đong đưa trên võng, không đụng ai và rộng thêm chỗ cho hai bạn tù bên phải và trái.“Khôn dại cùng chung ba thước đất
Giàu sang chưa chín một nồi kê!”
Vua Tự Đức mà còn cam ba thước đất, mình được bốn tấc…mà còn than nổi gì?
Tổ chức thành “tổ” (A) và lán (B) chia phiên bữa củi, kéo nước giếng, nấu ăn (gọi là anh nuôi)hoặc ra ngoài trại lao động. Thật tình, đối với những người không bị đưa ra Bắc, phần lớn là sĩ quan cấp úy, thì lao động không đến mức “cực hình, khổ sai” nhờ nhiều yếu tố. Bắt đầu cuối năm 1976, đầu 1977, họ nhận được thơ, thực phẩm, thuốc mencủa gia đình, nâng đỡ tinh thần lắm; họ còn trẻ, trên dưới hoặc vừa bốn mươi ngoài, thân thể còn tráng kiện; thời tiết trong Nam không khắc nghiệt như ở thượng du Bắc Việt, trại Hà Nam Ninh, Hoàng Liên Sơn, Cổng Trời… tối đến lạnh xuống 3-4 độ Celsius; mỗi lần ra khỏi trại làm lao động gặp dân địa phương còn có cảm tình với “ngụy”, nhiều khi họ giúp cho thức ăn như chuối, bắp cũng thấy “ấm lòng”.
Đói vẫn cứ đói, mỗi ngày 400 gram gạo không thấm vào đâu. Tuy nhiên không ai than phiền gì vì bên ngoài, gia đình mình cũng vất vả lắm. Chỉ lo cho vợ con. Lấy gì sống? Đi kinh tế mới. Qua mấy lần đổi tiền rồi còn gì đâu!
Đời sống tinh thần:
Người cải tạo rất khổ tâm về phương diện tinh thần. Những linh mục phải đi học tập vì là đại úy tuyên úy công giáo rất đáng khâm phục. Bất chấp ngăn cấm, kiểm soát chặt chẽ, các cha vẫn làm thánh lễ cho người tù công giáo. Lễ bỏ túi, lễ chạy, lễ di động. Nhưng vẫn có Thánh lễ, nâng đỡ tinh thần với đức tin Chúa.
Ngược lại các cán bộ chỉ lập lại những lời tuyên truyền trước đây trong chiến tranh có thể áp dụng với dân chúng ít học nơi vùng quê hẻo lánh nhưng bây giờ đối tượng lại là những sĩ quan có trình độ, tối thiểu cũng đã tốt nghiệp trung học.
Luận về tội của người đi cải tạo: “Anh là giặc lái, lái máy bay bỏ bom toàn trẻ em và phụ nữ; bộ đội được huấn luyện kỷ thuật tránh bom, đâu có chết. Anh là quân y, chích thuốc kích thích cho lính ngụy nó hăng lên đánh phá cách mạng dữ dội. Anh là Cha, là Cố, làm phép cho lính Ngụy đạn bắn không trúng.”
Ngoài ra những buổi sinh hoạt “Văn nghệ” làm tôi khổ sở lắm. Không muốn nghe, không muốn thấy cũng không được. Ngồi xoay qua xoay lại cũng bị phê bình. Ngồi ngủ gục tội còn nặng hơn nữa. Cuối cùng tôi có cách. Tuyệt chiêu! Tôi ráng nhớ hết tên quý cô giáo, thầy giáo, giáo sư trung học, giáo sư đại học khoa học, đại học y khoa…Tôi ngồi đó, như tượng gỗ. Ngồi ngay ngắn, nghiêm chỉnh nhưng tôi không thâu nhận gì hết vì trí óc tôi đang bận với tên tuổi những người đã góp phần dạy dỗ tôi. Xong. Tôi nhớ hết.
Kế đến, lần sinh hoạt văn nghệ tới, tôi ráng nhớ tên mấy đứa bạn cùng lớp. Lẽ dĩ nhiên tôi đâu có nhớ hết nổi, nhưng đầu óc tôi đâu có rảnh để “tiếp thu” những lời vô nghĩa, chướng tai. Tôi ráng nhớ mấy bài “học thuộc lòng” (recitation). Vui lắm. Học từ những năm 1947-48. Ví dụ bài “Cắt móng tay”:
Đời xưa có thói dị thường
Những người sang trọng ngồi không tối ngày
Bởi nên không cắt móng tay
Để cho nó mọc ra dài uốn cong
Đời nay có thói lạ lùng
Móng tay họ cắt mà không cắt cùi
Mỗi ngày mài dũa lau chùi
Thoa son đánh phấn ra mùi Tây U…
Cũng có bài cảm động lắm như bài “Tan buổi học”:
Tan buổi học mẹ ngồi tựa cửa,
Nhác trông con đưa đứa về dần,
Xa xa con đã tới gần,
Mẹ con tề tựu quay quần bửa ăn. Cơm dưa muối khó khăn mới có, Của không ngon nhà khó cũng ngon.
Khi vui câu chuyện thêm dòn,
Chồng chồng vợ vợ, con con một đàn.
Hoặc bài” Après la bataille’ của Victor Hugo, bắt đầu bằng câu:
Mon père ce heros, au sourire si doux,
…Donne lui tout de même à boire, dit mon père.
Đặc biệt bài “La maison paternelle” càng làm nhớ nhà thêm:
“Inoubliable est la demeure
Qui vit fleurir nos premier jours…”
Ngày lại qua ngày. Không ai dám đếm ngày đếm tháng nữa.
Vụ án Bác sĩ B. Q. M:
“Học tập cải tạo” đã hơn một năm rồi. Ngày về mù mịt như Tô Vỏ chăn dê. Bặt tin tức. Có “ai” đề cập đến liên lạc với gia đình đâu. Trái lại, hàng ngày cán bộ nhắc nhở lệnh: Cấm “liên hệ” với bất cứ ai, lúc ở trong trại cũng như lúc ra ngoài đi lao động (cuốc đất trồng khoai mì, chặt tre, đốn củi).
Không biết bằng cách nào, các bà vợ “tù cải tạo’ ở Sàigòn biết được Trại Long Giao. Thế là ngày nào cũng có mươi bà lên đón mong gặp các toán tù “xuất trại để lao động”.
– Các anh ơi, tôi là vợ của Đại uý X, trước ở Đơn vị Y. Các anh nhắn dùm là gia đình bình yên. Ba đứa con tôi nuôi không nổi nên cho nó theo Cậu Z, theo chú nó hết rồi. OK Salem hết rồi.
Thế là chiều hôm đó thế nào cũng có màn: “Sáng nay tao thuộc tổ chặt tre, có thấy Bà Xã mày lên. Không làm sao nhận được quà cáp gì hết vì bộ đội kiểm soát chặt chẽ quá. Nhưng Bà Xã mày nhắn là gia đình bình yên, ba đứa con bả cho Cậu Z nuôi. Mẹ, Cậu Z “vọt” hồi 75 phải không mậy? Ê, còn đường không, cho xin một thẻ”.
Tối hôm đó, trong giấc ngủ chập chờn, Đại úy X. mỉm cười.
Sau này, Bà Xã tôi kể lại: đã lên Long Giao tám lần. Những ngày ấy, tôi không thuộc toán lao động ra ngoài. Những ngày tôi cuốc đất, vác củi ngoài trại, Bà Xã tôi không lên. Cũng dễ hiểu thôi: còn lo chạy gạo, săn sóc bốn đứa con nữa chớ!
Mỗi buổi tối sinh hoạt, quản giáo nhắc lại: Cấm liên hệ.
Rồi giông tố nổi lên. Không biết cách nào đó, cán bộ bắt được một tờ giấy nhỏ với vỏn vẹn chín chữ: “Má và các con yên tâm, Ba bình an”.
Theo ngôn ngữ được dùng, tác giả là một tên Nam Kỳ. An ninh trại điều tra và quả quyết BS B. Q. M. là thủ phạm với bản án: “Nhốt vào conex”. Thời gian sẽ quyết định sau.
Conex là một hộp sắt hình vuông, mỗi cạnh khoảng 1,5m, có hai cánh cửa, kín mít , dùng để chứa hàng hóa, gởi từ Mỹ sang. Người ta khoét hai lổ khoảng 10x20cm cho người tù thở. Conex để giữa “trời cao đất rộng”, không một bóng mát. Trong conex, tù không đứng thẳng được. Ban ngày nhiệt độ lên tới 105-110 F. Sắt giản ra bưng bưng (đâu có chuyện “ Nắng Sàigòn anh đi mà chợt mát,” đâu có “áo lụa Hà Đông”!). Người tù conex chỉ có một bộ đồ, cởi ra hết, che trên đầu, hy vọng đỡ nóng. Mắt đỏ hoe. Miệng khô đắng. Da sần lên như da cắt kè. Mỗi ngày được một lít nước. Tiểu tiện ngay tại chỗ. Nước tiểu vừa đụng sàn conex đã bốc hơi. Cục phân, nhỏ như cứt dê, cũng khô cứng.
Cửa conex chỉ mở ngày hai lần cho bạn tù mang nửa khẩu phần cơm tới. Rồi đóng lại ngay. Người ta không muốn tù được hưởng chút không khí trong sạch. Đúng nghĩa không khí trong sạch, không bóng gió gì hết.
Ban đêm lạnh thấu xương. Tù nằm cong queo nghe sắt co rút lại kêu răn rắc. Không còn sức để mà run.
Bị nhốt trong conex là kể như mình đã đặt một chân vào thế giới bên kia rồi. Chỉ cần rút nhẹ một chân nữa là xong một kiếp người ở cái tuổi chưa đầy bốn mươi. Vậy mà BS B.Q.M. còn sống nhăn sau một tháng cọng với ba ngày trong conex.
Đến nay, ba mươi năm sau, BS B.Q.M. vẫn BỐN không biết: không biết ai là tác giả chín chữ đó, không biết tại sao an ninh trại lại quả quyết là mình, không biết tại sao được thả ra, không biết nhờ đâu mình sống được.
“Vertigo” của BS Nguyễn sơ Đông.
Một buổi chiều không đi lao động, tôi đang ngồi vá chiếc võng nylon thì có bộ đội chuyển lệnh:
Lên văn phòng làm việc với Anh Lực. Nghe tên Anh Lực, tôi lạnh mình. Mấy đứa bạn tù ngồi gần đó ngước nhìn tôi, nhìn tên bộ đội non choẹt vác AK mà ngao ngán dùm tôi.
“Anh Lực” là trung úy an ninh của trại Long Giao nổi tiếng “ác ôn”. Thật tình, tận mắt, tôi chưa có dịp thấy hắn hành hung, đấm đá gì ai. Nhưng nộ nạt, sỉ vả, chửi mắng, hăm dọa tù là chuyện cơm bửa đối với hắn. Tôi đã bị hắn gọi đích danh ra “trước hàng quân”… tù để sỉ vả:
– Lúc nhỏ, anh là con đẻ của thực dân Pháp (vì cái tội theo học ở trường Chasseloup Laubat của Pháp), lớn lên, anh làm tay sai đắc lực cho Đế quốc Mỹ. Tội của anh đáng chết mười lần, anh có thấy nhục nhã không?
“Anh Lực” mà ra lệnh nhốt vào conex thì hết thấy mặt vợ con, anh em, bè bạn. Tôi lại nhớ đến hình dáng của BS B.Q.M. sau khi được dìu ra khỏi conex. Trắng xanh, mắt sâu hoắm, không còn chút sinh lực, ốm tong teo… Nhìn vào không thấy đâu hết, chỉ thấy bộ quần áo rộng thênh thang bay phất phơ trong gió. Đứng không vững. Nói không ra tiếng. Bây giờ, năm 2006, ngồi yên viết lại, chớ lúc đó tôi sợ lắm, bước chậm chậm như cái xác không hồn. Tôi ráng lấy can đảm, nắm chặt tay lại chớ chân tôi bắt đầu run run khi gần đến văn phòng Tiểu đoàn tù L2T1.
Đến cửa văn phòng, tự nhiên tôi quay lại nhìn trời. Biết đâu đây là lần cuối mình còn có thể nhìn lại chút bầu trời trong mát.
Bộ đội đứng nghiêm: “Báo cáo đồng chí…” , vừa báo cáo vừa để tay vào lưng tôi, “diù” nhẹ tôi vào văn phòng. Toàn thân tôi nổi da gà. Tôi có cảm tưởng đao phủ đưa tội nhân lên máy chém.. Tôi bước vài bước vào đứng nghiêm trong văn phòng Trung úy Lực: – Kính xin báo cáo… Tôi vừa nói vừa nhìn hắn, cố lấy giọng bình tĩnh.
Hắn ngồi sau bàn viết, cố tình không nhìn tôi, như đang tìm kiếm gì đó, lấy ra một xấp hồ sơ. (Tôi nghĩ đó là hồ sơ của tôi vì từ khi vào trại đến giờ đã khai lý lịch trích dọc trích ngang hơn chục lần rồi). Rồi từ từ, hắn đứng dậy, kéo áo lại cho ngay ngắn, từ từ tháo dây thắt lưng có dính tòn ten bao da đựng cây K54, để nhẹ trên bàn viết, kế một tách trà đã vơi.
Nãy giờ cũng đã gần năm phút rồi, hắn vẫn không thèm nhìn tôi bằng nửa con mắt, không thèm phán cho tôi nửa lời. Tim tôi đập liên hồi, có cái gì ngăn ở ngực. Muốn ói. Tai ù. Mắt mờ. Như đang lạc vào thế giới huyền ảo. Cái sợ đã lên tới tột đỉnh.
Bổng hắn đập mạnh nắm tay xuống mặt bàn. Rầm. Tiếng rầm kéo tôi trở lại thực tế. Tôi mở mắt to, há hốc nhìn hắn. Hắn quát:
– Tại sao tới giờ này anh còn dối cách mạng. Cách mạng đã tha tội chết cho anh… Thật là một lũ ngụy.
Sợ quá , tôi không biết lúc đó tôi có hiểu hết những gì hắn nói không. Hắn ra mặt giận dữ, vừa thét to, vừa đẩy xấp hồ sơ về phía tôi.
Như có phép lạ, trong thoáng giây, đầu óc tôi minh mẫn lại. Có lẽ ngọn đèn bừng sáng lên trước khi bị dập tắt. Tôi linh cảm trong cử chỉ, trong giọng nói của hắn có chút gì giả dối, có chút gì muốn áp đảo tôi.
· Xem đây, anh viết anh không hề vào đảng “Thằng Thiệu” mà sao lên cấp bậc đại úy. Mẹ, không vào đảng, lên đại úy. Dối cách mạng cho cải tạo mục xương.
Tôi tỉnh lại hẳn. Tôi cám ơn hắn đã lập lại câu nói “không vào đảng, sao lên đại úy”. Tôi không nghe sai. Tôi cảm được con người tôi hiện đầy sinh khí. Tôi muốn cười thật to, cho sướng. Tôi vẫn đứng nghiêm. Hắn còn hét to lên nữa, tiếp tục mắng chữi, hăm dọa đủ điều. Tôi đâu có nghe nữa. Tôi biết chắc chắn hắn hố rồi. Tôi biết chắc chắn không có gì để buộc tội tôi, ngoài cái tội ngụy. Và tôi không sợ nữa. Hắn mệt rồi. Hớp cạn tách trà, hắn ngồi lại xuống ghế, mắt mở to nhìn tôi như cố ý xem tôi “xanh mặt” đến mức nào. Run chưa?
Tôi chậm rãi để hưởng hết cái hương vị đậm đà của “chiến thắng”.
· Kính thưa anh cho phép tôi báo cáo.
Sau một thoáng suy nghĩ hắn gật đầu chấp thuận.
· Kính xin báo cáo anh mấy điều. Thứ nhất, anh xem lại bảng lý lịch của tôi, tôi không có mang cấp bực thiếu úy động viên vào quân đội … (Tôi muốn nói Quân lực Việt Nam Cộng Hòa mà không dám) …
· Ngụy chứ quân đội gì, hắn cắt ngang.
· Động viên tháng 3 năm 1966, tôi mang ngay cấp bực trung úy (tôi cố tránh chữ ngụy). Thứ hai: Trong quân đội Miền Nam …
· Tôi ra lệnh anh nói quân ngụy, hắn bực dọc lắm rồi.
· Vâng trong quân ngụy, không có cấp “thượng” như thượng úy, thượng tá, thượng tướng, nghĩa là từ trung úy lên ngay đại úy. Thứ ba: Tôi lên đại úy từ năm 1968 (đặc cách tại mặt trận, tết Mậu thân, tôi không dám nói sợ hắn “quýnh” tôi) và đến năm 1975 vẫn còn mang đại úy. Như thế tôi vào quân … ngụy hơn 9 năm, lên có một cấp bực thì có đảng nào đâu!
Tôi vẫn đứng nghiêm, nghiêm để nhìn cái bối rối của hắn. Hắn vẫn trừng mắt nhìn tôi, trong ánh mắt có chút bẽn lẽn của một người vừa đánh … hụt. Hắn cố gỡ gạc:
· Cách mạng tìm được tài liệu anh là đảng viên đảng “Thằng Thiệu” thì sao?
· Kính xin báo cáo: tùy cách mạng định đoạt.
· Thôi cho anh về. Cấm kể lại chuyện này cho bất cứ ai. Chết với tôi đấy.
Hắn gọi bộ đội đưa tôi lại lán B12. Trên đường về tôi huýt sáo nho nhỏ… “The longest day”. Về đến lán, anh em ngạc nhiên thấy tôi còn nguyên vẹn. Mắt không bầm, mặt không sưng. Tay chân còn cử động nhịp nhàng. Tuy nhiên không anh nào dám hỏi han gì hết. “Anh Lực” oai đến thế.
Chuyển trại
Một ngày đầu tháng 3 năm 1977. Sáng sớm ban quản giáo ra lệnh: hôm nay không học tập, không lao động, các anh mang hết đồ đạc ra sân khám xét.
Đây không phải là lần đầu. Trong quá khứ, thỉnh thoảng đôi ba tháng một lần chúng tôi bị “khám xét tổng quát”: vũ khí nhọn (chống đối), cơm khô (âm mưu trốn trại), thư từ (liên hệ), tài liệu (tuyên truyền) … Sau khi ăn cơm trưa, xét tiếp đến xế chiều mới xong.
Anh em đang xếp đồ đạc lỉnh kỉnh cho vào túi vải bỗng quản giáo ra lệnh: “Cán bộ Trung Đoàn đến, tất cả đứng yên tại chỗ”. Cán bộ Trung Đoàn, gầy đét, mắt vàng sốt rét kinh niên, môi thâm thuốc lào trao một tờ giấy, quản giáo đọc: “Các anh có tên sau đây đứng qua bên phải, chờ lệnh”. Mười lăm, muời sáu tên, trong đó có tôi. Các anh khác mang đồ trở vô lán, đóng cửa lại. Cấm trở ra sân. Nhóm chờ lệnh, hoang mang. Nhóm trở vào nhà lo âu. Cả hai nhóm đều xanh mặt.
Sau đó, nhóm chờ lệnh mang túi đồ đạc được dẫn lên trước văn phòng tiểu đoàn L2T1, ngồi thành một hàng dọc cùng với nhiều nhóm khác. Tiếp tục chờ lệnh. Chờ lệnh trong sợ sệt. Chốc chốc lại có anh thì xin phép đi tiểu. Mờ tối, khoảng 8 giờ, một đoàn 5 chiếc Molotova tới. Bây giờ cán bộ Trung Đoàn mới cho biết: “Có lệnh chuyển trại các anh.” Giống như gần 2 năm trước từ “Tử cấm thành Trưng Vương” lên Long Giao, nghĩa là đi ban đêm, với bạt mui xe đóng kín; lệnh rất nghiêm nghĩa là ra khỏi hàng là bắn bỏ. Một chi tiết nhỏ: lần này, tôi không nghe tiếng AK đạn lên nòng. Molotova chạy suốt đêm, bỏ đường nhựa, chạy quanh co đâu trong rừng, dằn, xốc lắm. Sáng hôm sau, đoàn xe thả tù xuống một trảng tranh. Lần lượt nhảy xuống. Anh nào cao dưới 1.60 m không thấy đâu!
Tranh cao khỏi đầu. Tập hợp. Chia tổ, chia lán. Đốn cây, dựng nhà, đào giếng. rành quá rồi. Địa danh: Katum, rừng già, nguyên là mật khu giữa Tây Ninh và biên giới của Việt Miên.
Sống giữa rừng già Katum.
Cán bộ nói chung quanh không có hàng rào, không kẽm gai, không bộ đội gác gì hết, nhưng các anh đừng có dại dột mà trốn trại. Không biết đường ra đâu. Đúng, chúng tôi bị nhốt giữa rừng già. Đi lao động thỉnh thoảng gặp hầm hố, công sự chiến đấu, doanh trại của cộng sản, trước 75, nay đã hoang tàn. Cuộc sống có vẻ đỡ gò bó và đỡ đói vì có “kiếm chác” được chút “ của trời cho”: cải trời, măng, trái cây rừng … Thích nhất là gặp những hố bom, mỗi hố đường kính rộng hơn cả 10m, không biết sâu bao nhiêu, nhưng đầy âm ấp nước; có nước là có sinh vật: cá và ếch. Tôi mang lưỡi câu “thứ thiệt”, có ngạnh đàng hoàng, nhợ nylon, chặt trúc làm cần câu cá và ếch, thằng bạn cùng tổ làm việc ngạc nhiên lắm. –“Ở đâu mày có?” –“ Mang theo khi đi trình diện chứ ở đâu mậy. Tao đâu có tính 10 ngày mậy”.
Giữa rừng già, đêm xuống, trăn trở nhớ nhà lắm. Trăng rừng, bóng trăng xanh tải, lành lạnh. Chập chờn, ma quái. Mưa rừng reo rắt, buồn thúi ruột. Còn lòng dạ nào mà nhớ Thanh Nga …“Mưa rừng ơi mưa rừng giọt mưa, nhớ ai mưa triền miên” …Thấm thoát mà ở tù hơn hai năm rồi. Cách đối xử của cán bộ đối với tù vẫn hằn học và khinh rẻ. Họ là kẻ thắng trận, nhưng họ biết không khi nào họ “tẩy não” được chúng tôi. Vậy, họ còn giữ chúng tôi làm gì? Từ ngày lên Katum đến nay đã 4, 5 tháng rồi có “học hành” gì đâu. Những đêm trằn trọc nghe bạn tù mớ … mớ cha, mớ mẹ, mớ vợ, mớ con … mớ bạn bè.
Thăm nuôi. Vive la “2CV”
Một ngày đầu tháng 6/1977, quản giáo ra lệnh: “Khẩn trương, đốn cây, cất thêm mấy căn nhà. Các anh sắp được thăm nuôi. Cắt tóc, chọn áo quần “tốt” mà đón gia đình”. Chúng tôi ghi nhận tin “thăm nuôi” bán tín, bán nghi. Lần này, như có phép lạ, “Cách Mạng” thực hiện điều mới tuyên bố. L’exception confirme la règle. Thế là tôi được gặp mặt vợ con.
Lại Nguyễn Lộc Thọ, cựu giáo sư Quốc gia Nghĩa tử, người đã chở Honda tôi đi trình diện học tập ngày Chúa nhật 23/6/1975, nay chở vợ và bốn đứa con tôi lên Katum, bằng chiếc 2 CV cũ kỹ. Cảm động nhất, là có bà nhạc mẫu tôi. Bà ngoại, bảy mươi ngoài, lụm cụm lên thăm thằng rể “tù”.
Ánh sáng cuối đường hầm
Tháng 8/77, một số chuyên viên y tế, kiến trúc, kỹ sư được “chuyển trại”. Không nói thẳng, nói thật, chuyển trại, thế thôi. Về bến mới đục hay trong? “Cũng liều nhắm mắt đưa chân”. Autant en emporte le vent. Sắp xếp hành trang lên Molotova … lần thứ ba.
Lần này, chúng tôi nhận thấy hai điểm “sáng sủa”, nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, là di chuyển ban ngày và bạt mui xe không khép kín lại, tuy vẫn có hai bộ đội với AK ngồi ngoài bìa hai băng xe. Có AK nhưng không nghe tiếng đạn lên nòng. Đến xế chiều, xe chạy vào một doanh trại cũ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, không biết đơn vị nào, chỉ nghe anh ngồi ngoài bìa nói Tây Ninh. Xe ngừng. Lần lượt nhảy xuống đất. Bỗng nhìn lên vách một căn trại chữ phai mờ rồi nhưng còn đọc được: TD 252 PB. Mắt tôi hoen mờ. Môi tôi nghe mặn. Tôi đã khóc: thì ra đây là một phần của đơn vị cũ của tôi, sư đoàn 25 bộ binh.
Tái diễn cái màn: chia tổ, chia lán, nhưng khỏi dựng nhà. Hàng dãy doanh trại bỏ trống. Ở đây tôi gặp lại Dương Tấn Lợi, đại úy quân nhu, trong nhóm Chasseloup/ Jean Jacques Rousseau đi nhậu hàng tháng với nhau. Vợ anh Lợi “dân Tây” – Quốc tịch Pháp, thứ thiệt chứ không phải như tôi bị chửi oan, đã đem đứa con “hồi hương” về Pháp rồi. Khỏe ru. Nó khỏi lo con, cháu nó. Lợi kéo tôi ra một góc, “nói nhỏ cho mầy biết, tao còn hai con khô sặc, tao cho mầy một con”. Trời! Tôi không biết caviar, tôi không biết “khô lân chả phụng” ngon đến mức nào, chớ giờ đây, đổi con khô sặc rằn, rằn, rằn này … tôi không chịu.
Độ hai tuần sau, tôi được giấy xuất trại …Tưởng là tốt lắm. Có ngờ đâu, như thầy Huyền Trang Tam Tạng, sau 80 nạn rồi … chỉ thỉnh được mấy pho “vô tự kinh”.
Nguyễn Sơ Đông
01 tháng 1 năm 2007
—————–
Sống lại
Đúng như Tam Tạng qua bao nỗi “trần ai” chỉ thỉnh được mấy pho “vô tự kinh”.
Được giấy xuất trại chỉ là thả ra khỏi trại tù nhỏ Củ Chi … Để được giam trong trại tù lớn ViệtNam.
Chữ “Ngụy” được in vào hồ sơ, như được xâm lên trán, thời trung cổ.
Ngụy có nghĩa là:
· Mất quyền công dân.
· Bị áp lực đi kinh tế mới, giao nhà cửa cho nhà nước “cách mạng” quản lý.
· Lẽ dĩ nhiên không nơi nào cho mình việc làm, bất cứ ở tầng lớp nào trong xã hội.
Dẹp hết tự ái, tôi xin vào làm y tá trong phòng y tế của một xí nghiệp dưới sự “chỉ huy” của một “bác sĩ chuyên tu” cộng sản. (Chỉ mong có việc làm ở Sài Gòn, khỏi đi kinh tế mới). Vậy mà hai tuần sau, chi bộ đảng quyết định: chỗ này phải dành cho “thân nhân liệt sĩ cách mạng”.
Tôi cắn răng chịu đựng mọi đắng cay: ra sở y tế (tòa lãnh sự Trung Hoa Dân Quốc cũ, đường Hai Bà Trưng) thành phố Hồ Chí Minh, gặp bác sĩ Nguyễn Hải Nam, cùng khóa Y Khoa Sài Gòn. Nam bây giờ là VIP, vì là “cơ sở cách mạng” (nằm vùng) do anh ruột Đại tá công an cộng sản Nguyễn Hải Thọ gài trong bệnh viện cảnh sát/ Tổng Nha Cảnh Sát Việt Nam Cộng Hòa, đường Võ Tánh. Nam chỉ phán một câu: “Anh về thu xếp đi kinh tế mới”.
Đứng xếp hàng mấy tiếng đồng hồ để mua “nhu yếu phẩm”, thì bà tổ trưởng dân phố bảo:
· Cậu là ngụy, không bán.
Cay đắng ỡ chỗ: bà này bà con khá gần với mình, nhưng nay mình là ngụy: hết bà con. Tôi cố xoay sở, cố nuốt nhục, mong gia đình được dễ thở chút nào. Nhưng sau đây là giọt nước mắt làm tràn ly.
Con trai đầu lòng, học hết lớp 9, xét lý lịch, con ngụy, không được tiếp tục lên lớp 10.
Vậy người cộng sản muốn đầy đọa bao nhiêu thế hệ gốc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa?
Tôi xin viết rõ ràng, minh bạch cho thế hệ mai sau: tôi đã đi dạy trung học, đã là giám khảo thi Tú Tài I & II nhiều khóa, tôi đã hành nghề y khoa trong và ngoài giới quân đội, tôi chưa khi nào hỏi lý lịch thí sinh hay bệnh nhân. Thí sinh giỏi, tôi cho điểm tốt. Bệnh tôi chữa. Bị thương, tôi săn sóc. Nặng tôi gọi trực thăng tản thương không cần biết đó là chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa hay Việt cộng. Đó là tôn chỉ của Việt Nam Cộng Hòa.
Vì thế, khi con tôi mang phải cái tội “con ngụy” bị từ chối lên lớp trên, tôi quyết định vượt biên.
Tôi bàn kỹ với nhà tôi, chấp nhận biết bao gian lao, nguy khổ, đem mạng sống cả gia đình đổi lấy tự do. Chúng tôi hy sinh, mong các con có một tương lai sáng lạn hơn hay ít nhất không bị trả thù.
Trong lịch sử, chưa có thời nào, chưa có dân tộc nào phải chấp nhận thương đau, chết chóc, tan nát … bỏ xứ ra đi nhiều như Việt Nam Cộng Hòa, sau 75. Một cách khiêm tốn, ước lượng 10 người vượt biên, 6 người thoát hiểm, 4 người chết ngoài biển khơi (giông bão, bệnh, hải tặc, đói …), thì nếu 300.000 (ba trăm ngàn) “boat people” đến được bến bờ tự do, đã có 200.000 (hai trăm ngàn) chìm sâu đáy biển.
Việc tôi không hiểu được là con số chết chóc quá cao như thế, đã làm thức tỉnh lương tâm cả THẾ GIỚI … mà chính quyền mới vẫn dửng dưng. Họ có lương tâm hay không? Tôi không sai khi viết “thức tỉnh lương tâm cả thế giới”.
Trại Bidong
UNHCR, tháng đến hai lần, có khi ba bốn lần. Lãnh sự Pháp Jean Blattes, phái đoàn Mỹ, Úc, Pháp, Canada, Norway, Sweden, Danemark … đã đến phỏng vấn, nhận tị nạn …và nhận cả con nuôi.
Khắp thế giới
· Đủ mọi thành phần xã hội từ nhiều quốc gia, kể cả những nhân vật đã từng có thái độ thiếu thân thiện với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa như triết gia Jean Paul Sartre, ca sĩ Yves Montand, tài tử điện ảnh Brigitte Bardot, văn hào Virgil Georghiu.
· Màu da, tôn giáo, ngôn ngữ họ khác.
· Chính kiến, lập trường, nhân sinh quan họ khác.
Nhưng họ có một mẫu số chung: lương tâm và tri thức con người.
Họ đã cùng nhau quyên góp tổ chức “Một con tàu cho Việt Nam” (Un bateau pour le Viet Nam) để cứu vớt người vượt biển.
Vượt biên:
Tìm cái sống trong ngàn cái chết, gia đình tôi rời Sài Gòn ngày 26/10/78. Lẽ dĩ nhiên đầy hãi hùng. Chúng tôi chấp nhận hết. Nhờ ơn trời, chúng tôi đến Pulau Bidong ngày 3/11/78: ngưỡng cửa trước khi vào chân trời mới.
Ở Bidong, cũng khổ cực, thiếu thức ăn, thiếu đủ thứ … và nhiều lo lắng, nhưng sống vẫn HY VỌNG. Hy vọng làm lại cuộc đời ở một “đệ tam quốc gia” … Úc, Mỹ, Pháp … gì cũng được. Nơi đó có chút tình người. Những ngày đầu đói lả người. Chồng 39 tuổi, vợ 38. Bốn con, đứa nhỏ nhất: 5 tuổi.
Gia tài: mỗi người một bộ đồ, chứa trong túi vải cộng với bộ đang mặc là hai, cọng với 2 ponchos “nhà binh”: một tấm trên nền cát, một làm mái che mưa nắng. Còn được 16 gói “gạo sấy”. Đồ hành quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Từ đó nấu thành cháo lỏng … ráng chịu đựng.
Không một dollar. Không một chỉ vàng. Đó là gia đình tôi khi cập bến Bidong.
Tôi đi vòng khắp đảo … tìm viện trợ. Hỏi Ban đại diện: không biết! Chính quyền Mã Lai không cho được hạt gạo, lít nước nào.
Ngày thứ sáu trên đảo. Hết gói “gạo sấy” cuối cùng. Tôi gặp lại bác sĩ Nguyễn Cẩm Thạch vàDược sĩ Nguyễn Kim Sơn (trước ở Trung tâm 3 Huấn luyện), vợ chồng bác sĩ Trịnh Văn Chương và Bác sĩ Mã Ngọc Phương, Bác sĩ Đoàn Lân, không quen trước nhưng giờ làm quen … tiếp tế cho mì gói, gạo, chén, nồi và dầu (để nấu và đốt đèn). Quý hơn bát cơm Xiếu Mẫu. Trân trọng đội ơn năm bạn.
Vào thời điểm này tháng 11/1978, “dân số” Bidong khoảng 12 ngàn. Việc tổ chức “ban đại diện” rất phôi thai. Trại trưởng là Nha sĩ Đỗ Cao Minh (anh ruột Trung tướng Đỗ Cao Trí).
Chúng tôi làm thủ tục ghi tên. Tàu chúng tôi được xếp số thứ tự 76, để theo đó mà được gọi vào phỏng vấn khi có phái đoàn “đệ tam quốc gia” đến.
Ngày nào cũng có “vượt biên” đến: hoặc đến “thẳng” từ Việt Nam, hoặc do chính quyền Mã Lai chở đến từ các trại khác. Exodus. 7, 8, 10 … 15 mười lăm ngàn vào cuối 1978.
Nha sĩ Minh rời trại. Bác sĩ Nguyễn Dương Đơn (con của bác sĩ Nguyễn Dương Đôn, Bộ trưởng Quốc Gia Giáo Dục năm 1954) thế. Bác sĩ Đơn đến đảo trước tôi nửa giờ, cùng với gia đình bên vợ là Bác sĩ Nguyễn Đình Hoàng, giáo sư Quang tuyến Y Khoa Sài Gòn ( Tàu số 75).
Bác sĩ Đôn rời trại rất sớm, Giáo sư Lê Tấn Kiệt, cựu hiệu trưởng một trường trung học công lập ở Hậu Giang lên thế.
Người tị nạn ồ ạt đến. Việc tổ chức “ban đại diện” lần lần chu đáo hơn, liên lạc thường xuyên với Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR/ United Nations High Commissioner for Refugees). Nhờ vậy trại Pulau Bidong được chính quyền Mã Lai tiếp tế thức ăn, nước ngọt. Tất cả chi phí do UNHCR đài thọ: 4 (bốn) US dollar cho mỗi đầu người tị nạn, mỗi ngày.
Tàu tị nạn tiếp tục đến, vẫn có nhiều chiếc bị Hải quân Mã Lai ép trở ra hải phận quốc tế …
Mặc cho sóng bão …
BS Bernard Kouchner và “một con tàu cho Việt Nam” Tàu bệnh viện L’ Ile de Lumière
Nhắc đến Jean Blattes, Lãnh sự Pháp ở Kuala Lumpur, Bernard Kouchner và nhóm cộng tác,
Thuyền trưởng Francois Herbelin và thủy thủ đoàn, tôi chỉ có 6 chữ: THÀNH KÍNH TRI ÂN & CẢM PHỤC
Vượt bao khó khăn, trở ngại khắp mọi nơi, từ Paris đến Geneve, đến Kuala Lumpur, trở ngại ngay trong nhóm Médecins sans frontière, trở ngại với IRC, với MRC (Malaysian Red Crescent), Bác sĩ Kouchner đã thực hiện chương trình cứu trợ người vượt biển với tất cả con tim và khối óc của ông:
· Cứu trợ trực tiếp, đúng lúc, ngay trên biển cả.
· Đón người vượt biển, chữa trị và đưa đến bờ tự do THẬT SỰ.
Bác sĩ Kouchner và nhóm cộng tác đã thuê một tàu hàng “trống lỏng” ở Nouvelle Calidonie. Ráp vào giường, máy quang tuyến X, phòng thí nghiệm, phòng vệ sinh … để biến thành tàu bệnh viện L’Ile de Lumière.
Bao nỗi trần ai, bao nỗi nhọc nhằn với được chính quyền Mã Lai cho phép hoạt động. Tàu cập bến Bidong ngày 18 tháng 4, 1979.
Tôi đang làm trưởng trại, thế giáo sư Lê Tấn Kiệt đã được định cư. Cảnh thật là cảm động. Người tị nạn hoan hô dậy trời. Những người “may mắn” đến gần được phái đoàn, ôm chầm lấy họ, òa lên khóc. Khác màu da, khác màu mắt, khác ngôn ngữ … Sao họ chấp nhận xa vợ, xa con, quên no ấm, quên tiện nghi … tìm đến một góc trời xa thẳm để cứu giúp mình … Những người họ chưa hề quen.
Phái đoàn cứu trợ gồm có: Jean Blattes, lãnh sự Pháp, Bác sĩ Bernad Kouchner, Bác sĩ Vladan Radoman, Bác sĩ Eric Cheysson, Bác sĩ Patrick Laburthe, Bác sĩ Pierre Bonniaud, Bác sĩ Jean Claude Sénéchal và cô Ghislaine Martin, y tá.
Không người nào cầm được nước mắt. Các bác sĩ và y tá đã từng tình nguyện đi cứu trợ ở nhiều trại tị nạn rồi, nhứt là Bác sĩ Bernard Kouchner đã từng đến Afghanistan, Biafra, Eritrea, Jordan, Kurdistan, Tchad … và Sài Gòn. Nhưng chưa bao giờ họ thấy tình trạng thê thảm … “địa ngục trần gian Bidong”.
Bắt tay ngay vào việc. Khám bệnh. Cần thì chuyển lên “Ile de Lumière” … Quang tuyến X, thử nghiệm, giải phẫu. và … sanh … trên tàu.
Tàu rời Bidong ngày 5 tháng 7 năm 1979 với thành quả: khám bệnh 1927 người, 151 ca “giải phẫu” với gây mê, 18 em bé đã chào đời trên tàu, trong đó có 3 trường hợp sanh mổ.
Trước khi rời Bidong vì gần hết giao kèo và gần hết tiền quyên được, Bác sĩ Kouchner đã cho gỡ hết máy móc, dụng cụ, giường bệnh, máy phát điện … để giúp ban đại diện trại Bidong lập một bệnh viện 65 giường. Thuốc men, y cụ … cho lại hết để Ban Y Tế có thể tiếp tục hoạt động.
Bỗng nhiên tôi nhớ đến một chuyện trong “Bài tập đọc” lớp nhì: một con vượn bị thợ săn bắn, biết mình sắp chết (hết tiền quyên được) bèn vắt hết sữa của mình cho con bú.
Bác sĩ Kouchner đã gõ hết các cửa ở Paris từ Điện Matignon (Phủ Thủ Tướng Pháp) đến Quai d’Orsay (Bộ Ngoại giao) và đã được phép – với một quota khá cao – vớt được người tị nạn nào, chính phủ Pháp sẽ chấp nhận cho vào Pháp người đó..
Nhờ thế, sau khi rời Bidong, “con tàu cho Việt Nam” còn “tuần dương” dọc theo đường vượt biển Việt Nam – Mã Lai và Vịnh Thái Lan trong nhiều tuần.
Và nhiều người tị nạn được cặp bến bờ tự do … bờ sông Seine.
Nhân vật đến đảo Bidong
Chắc chắn có nhiều vị đã từng giữ những chức vụ quan trọng trong hai nền Đệ Nhất và Đệ NhịCộng Hòa nhưng tôi không biết. Có rất nhiều kỹ sư, kiến trúc sư, luật sư. Đốc sự hành chánh … Tôi chỉ xin ghi lại giới dân, quân y mà thôi:
Vào tháng 3, tháng 4 năm 1979, dân số Pulau Bidong đạt mức cao nhất: non 45.000 (bốn mươi lăm ngàn), khoảng 140 y nha dược sĩ đủ mọi khóa. Đặc biệt:
· Bác sĩ Nguyễn Đức Tiến, y sĩ trung tá, trưởng khối Tê Mê Tổng Y viện Cộng Hòa … Thuộc hạng “sư” về khả năng chuyên môn. Đàn em gọi là Tiến “thầy”. Gia đình anh vượt biên làm hai nhóm, trước sau. Cả hai nhóm (hai cái ½ gia đình) đều gặp hãi hùng: anh suýt bị hải tặc Thái Lan đạp xuống biển, tàu của chị cũng suýt bị đắm.
Mỹ, Nga phóng phi thuyền để ráp nối với trạm không gian … tí teo trong vũ trụ mênh mông. Dễ òm. Không ráp nối được mới là lạ, là trục trặc vì họ có đủ yếu tố kỹ thuật. Hai cái nửa gia đình anh chị bác sĩ Nguyễn Đức Tiến mà “ráp nối” nhau được ở Pulau Bidong mới không phải là lạ mà là PHÉP LẠ. Anh em ở giới Y chúng tôi nghĩ: Trời giúp bởi anh chị Tiến rất hiền, rất tốt với mọi người.
· Bác sĩ Nguyễn Duy Cung rất hiền và đa tài. Anh đã là thuyền trưởng cận duyên và viễn duyên trước khi về học y khoa. “Interne Cung” (nội trú các bịnh viện). Chuyên khoa giải phẫu lồng ngực. Giám đốc bệnh viện Nguyễn Văn Học. Ngày 30/4/75, từ chối lời mời di chuyển, đứng giải phẫu với bác sĩ Bernad Kouchner cho đến khi bộ đội cộng sản vào chĩa AK đuổi cả hai ra khỏi phòng mổ.
Anh Cung vẽ rất tài, làm chirungie plastique rất có “hoa tay”.
Bác sĩ Nguyễn Bội Hoàn, quyết định đi Pháp, rời đảo rất nhanh. Bác sĩ Hoàn là trưởng nam của Giáo sư Nguyễn Ngọc An, cựu Bộ Trưởng bộ Chiêu Hồi.
Bác sĩ Trần Dương Đôn (Dominique), em ruột giáo sư Trần Lữ Y (Louis), cựu Bộ Trưởng Y Tế, ở đảo có mấy tuần. Vợ là Bác sĩ Thái Ngọc Hoa (em của Thái Tường, Tiến sĩ Dược, Giáo sư Ký sinh trùng học) và con đã “di tản” sang Pháp trước 30/4/1975 nên Son Excellence Consul de France à Kuala Lumpur, Jean Blattes chấp thuận lẹ.
Giới ca sĩ có Thanh Tuyền, Băng Châu.
Báo Nouvelle Calédonie, nơi xuấn xứ chiếc tàu bệnh viện L’Ile de Lumière, đài truyền hình Mỹ: CBS, Pháp: Antenne 2 đến Pulau Bidong … làm phóng sự, thu hình … có “dính” tôi trong đó. Nhờ vậy, một số bạn hữu ở Mỹ, Pháp biết tôi đã thoát khỏi “địa ngục trần gian” và viện trợ cho tôi, qua trung gian UNHCR.
Trở lại Pulau Bidong hay: 30 năm sau, Việt cộng vẫn là Việt cộng, nghĩa là tàn ác và ngu dốt.
Tháng 3, năm 2005, một nhóm thuyền nhân trở lại Pulau Galang và Pulau Bidong để: tưởng nhớ những người đồng cảnh ngộ đã vắn số trên bước đường tìm tự do và tỏ lòng tri ơn chính phủ, hội đoàn, cơ quan, tư nhân … đã cứu giúp người tị nạn. Ở mỗi nơi họ dựng một tấm bia với những giòng như sau. Tôi xin ghi nguyên văn:
“In commemoration of the hundreds of thousands of Vietnamese people who perished on the way to freedom (1975 – 1996). Though they died of hunger or thirst, or being raped, or exhaustion or any other causes, we pray that they may now enjoy lasting peace. Their sacrifice will never be forgotten. Overseas Vietnamese communities, 2005”.
Tạm dịch:
Tưởng niệm hàng trăm ngàn người Việt đã bỏ mình trên con đường đi tìm Tự do (1975-1996).
Dù họ chết vì đói khát, vì bị hảm hiếp, vì kiệt sức hay vì bất cứ lý do nào khác, chúng ta thảy đều cầu nguyện để họ được yên nghỉ dài lâu.
Sự hy sinh của họ sẽ không bao giờ bị lãng quên.
CỘNG ÐỒNG NGƯỜI VIỆT HẢI NGOẠI, năm 2005.
Chính phủ Việt Nam làm áp lực với chính phủ Malaysia và Indonesia để phá bỏ hai bia đá đó.
Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ
Làm lại cuộc đời
Gia đình tôi đến Annandale, Virginia ngày 01 tháng 06 năm 1979. Lúc bấy giờ người “tị nạn” “boat people” chưa đông. Thủ tục trợ cấp xã hội, y tế (welfare, medicaid) rất nhanh …
Sáng sớm 4 giờ, tôi và ba đứa con lớn thức dậy đi … bỏ báo Washington Post. Nhớ bài học thuộc lòng từ lớp ba, năm 1948:
Tôi chỉ là một trẻ em bán báo
Khắp phố phường chân sáo nhảy tung tăng
…
Bán văn chương ai dám bảo nghề hèn …
Đến 6 giờ … “công tác phổ biến văn chương, chữ nghĩa” xong, cha con về ngủ lại một chút.
7:30 sáng thức dậy. Con đi học. Cha đi làm “thợ phụ” với một nhóm … sửa chữa nhà để có chút tiền bù vào “ngân sách” gia đình.
Tối về, cơm nước xong xuôi, các con làm “home work” vật vã với Anh văn cho học sinh ngoại quốc (English as a Second Language/ ESL), cha lo học thi ECFMG (bằng tương đương cho bác sĩ ngoại quốc).
Khóa ECFMG tháng 7/79 đã hết hạn nộp đơn rồi, hơn nữa biết gì mà thi – Tù đày cải tạo, gian khổ Bidong, trí óc có ngu muội, thì hợp lý thôi. Ráng “gạo” để thi khóa 02/80. Đến cuối năm 79, đành phải bỏ bớt cái “job” “bán văn chương” của Washington Post.
Đậu ECFMG luôn phần Y khoa và Anh văn, mừng hết lớn. Lo nộp đơn “xin một chỗ đứng dưới ánh mặt trời”: nội trú (residency). Ráng cho kịp niên khóa 80 – 81.
FMG, đứa con “vô thừa nhận”
Tôi gởi ra tất cả là 62 đơn, khắp nước Mỹ, trừ những nơi người ta ghi rõ ràng: No FMG.
(Foreign Medical Graduates là bác sĩ tốt nghiệp trường ngoại quốc)
Đủ mọi ngành, trừ những ngành mình thấy rõ ràng là … vô hy vọng như Giải phẫu Thẩm mỹ, Tai Mũi Họng, Nhãn khoa…. Tiền làm bản sao, tiền bưu phí … muốn ói cơm.
Số trời còn thương. Được ba nơi gọi phỏng vấn … và chỉ một nơi nhận: Family Practice (Y khoa gia đình) ở Delaware County Memorial Hospital, Drexel Hill, PA 19026.
Bấy giờ là tháng 6/ 1980. Lần đầu tiên , năm năm sau ngày cộng sản chiếm miền Nam Việt Nam tôi … thấy chút yêu đời.
Residency 3 năm. Cũng cực nhọc, cũng ê chề lắm! Một y tá hỏi: Biết “start an IV”không ?
Một bà bệnh đuổi tôi ra khỏi phòng vì tôi không hiểu “Charlie horse” là gì?
Thôi, rán nín thở lặn qua sông, thôi noi gương Quốc Văn Giáo Khoa Thư… về nhà viết một trăm chữ NHẪN…
Chân trời mới
Xong chương trình thường trú Family Practice tôi làm full time ER physician (bác sĩ khoa cấp cứu) ở Somerset Hospital, PA 15501.
Khoảng đầu tháng 3 năm 1985, bỗng nhiên tôi nhận điện thoại từ Los Angeles (L.A.).
· Bác sĩ xuống L.A. được không?
· Tôi đang đi làm, mà xuống L.A. làm chi? Ông là ai?
· Tôi đại diện CBS, muốn mời bác sĩ xuống L.A. “thu hình”, trong tiết mục “Ten years later”.
· Tôi không xuống LA được. Thời khóa biểu (schedule) của phòng cấp cứu (ER) nhà thương chặt chẽ lắm …
· Vậy bác sĩ lên New York được không?
· Cũng không được … job mà!
Ông ta suy nghĩ một chút:
· Thôi, bác sĩ không xuống L.A., không lên New York thì CBS team sẽ đến nhà bác sĩ ở Somerset, bác sĩ có chấp nhận không?
· Ông có thể cho tôi biết lý do nào tôi được hân hạnh này?
· Bác sĩ quên là hồi tháng 3 năm 79, CBS có thu hình bác sĩ ở Pulau Bidong?
· OK! OK! hẹn ngày giờ ngay.
Tối hôm ấy tôi suy nghĩ: cả đời không khi nào dám khoe khoang. Có được cái gì đâu mà khoe. Nhưng, lần này, khi CBS đến phỏng vấn, mình phải “gáy” một chút. Để chi?
Để nhắn rằng những sĩ quan ngụy, vượt biên, những người mà họ gọi là “non sông chối bỏ giống nòi khinh” … giờ cũng an cư lạc nghiệp ở nước ngoài và “đám con ngụy” mà họ trả thù không cho tiếp tục học Trung học cấp III … nay đang theo học ở các Ivy League Colleges cả.
Bác sĩ Nguyễn Sơ Đông
Y Khoa Sài Gòn 65
THIÊN CHÚA GIÁO TẠI TRUNG QUÔC
Trung Quốc : Tỉnh Chiết Giang bắt tháo dỡ tất cả thánh giá ở nhà thờ
Người Công giáo Trung Quốc tại một nhà thờ ở Bắc Kinh.AFP PHOTO / WANG ZHAO
Hôm qua, 30/07/2015, các tín đồ Thiên Chúa giáo ở thành phố Ôn Châu, Chiết Giang, cho biết, chính quyền yêu cầu trong vài tuần lễ, tất cả các nhà thờ tại đây phải rút bỏ cây thánh giá.
Từ năm 2014 đến nay, chính quyền Trung Quốc đã bắt tháo gỡ hơn 1200 thánh giá tại các nhà thờ ở tỉnh này. Cộng đồng Thiên Chúa giáo tại Trung Quốc có khoảng một triệu tín đồ và Ôn Châu được coi như Jerusalem đối với tín đồ Thiên Chúa giáo Trung Quốc.
Theo ông Régis Anouilh, nhà báo thuộc tạp chí Giáo hội Châu Á (Eglise d’Asie), các hành động này thể hiện quyết tâm của Bắc Kinh muốn kìm hãm sự phát triển của Thiên Chúa giáo ở Trung Quốc.
« Phong trào trấn áp được khởi động từ cuối năm 2013, gia tăng trong năm 2014 và trở nên khốc liệt trong năm nay. Đây là một chính sách nhắm vào các tín đồ Thiên Chúa giáo cho dù đó là Công giáo hay Tin lành. Khoảng bốn chục nhà thờ đã bị phá hủy hoàn toàn.
Như vậy, có một chính sách rất rõ ràng nhằm kìm hãm sự trỗi dậy của Thiên Chúa giáo, hiện có vai trò rất quan trọng tại tỉnh Chiết Giang. Rất khó có thể làm rõ được các lý do.
Thiên Chúa giáo hiện nay phát triển mạnh tại Trung Quốc và làm cho đảng Cộng sản Trung Quốc rất lo ngại. Họ tiến hành một chiến dịch trấn áp mà chắc chắn là chính quyền trung ương cũng biết.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nắm quyền tại Bắc Kinh và đã từng là Bí thư tỉnh ủy Chiết Giang trong giai đoạn 2002-2007. Ông ta tiếp tục chính sách trấn áp này ».
http://vi.rfi.fr/chau-a/20150731-trung-quoc-tinh-chiet-giang-bat-thao-do-tat-ca-thanh-gia-o-nha-tho
Theo ông Régis Anouilh, nhà báo thuộc tạp chí Giáo hội Châu Á (Eglise d’Asie), các hành động này thể hiện quyết tâm của Bắc Kinh muốn kìm hãm sự phát triển của Thiên Chúa giáo ở Trung Quốc.
« Phong trào trấn áp được khởi động từ cuối năm 2013, gia tăng trong năm 2014 và trở nên khốc liệt trong năm nay. Đây là một chính sách nhắm vào các tín đồ Thiên Chúa giáo cho dù đó là Công giáo hay Tin lành. Khoảng bốn chục nhà thờ đã bị phá hủy hoàn toàn.
Như vậy, có một chính sách rất rõ ràng nhằm kìm hãm sự trỗi dậy của Thiên Chúa giáo, hiện có vai trò rất quan trọng tại tỉnh Chiết Giang. Rất khó có thể làm rõ được các lý do.
Thiên Chúa giáo hiện nay phát triển mạnh tại Trung Quốc và làm cho đảng Cộng sản Trung Quốc rất lo ngại. Họ tiến hành một chiến dịch trấn áp mà chắc chắn là chính quyền trung ương cũng biết.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nắm quyền tại Bắc Kinh và đã từng là Bí thư tỉnh ủy Chiết Giang trong giai đoạn 2002-2007. Ông ta tiếp tục chính sách trấn áp này ».
http://vi.rfi.fr/chau-a/20150731-trung-quoc-tinh-chiet-giang-bat-thao-do-tat-ca-thanh-gia-o-nha-tho
"Đất của Chúa" đang lâm nguy tại Trung Quốc
Các nhật báo ra ngày cuối tuần dành khá nhiều trang cho thời sự tại Trung Quốc, đặc biệt là trước ngày kỷ niệm cuộc đàn áp đẫm máu phong trào sinh viên đòi dân chủ tại Thiên An Môn. Trước tiên, nhật báo Le Monde quan tâm đến cộng đồng người Ki-Tô giáo tại thành phố Ôn Châu qua bài viết : « Đất Thánh ‘‘Jerusalem’’ của Trung Quốc đang gặp nguy hiểm ».
Ôn Châu là một thành phố ven biển có biệt danh là thành Jerusalem phương Đông vì có đông người Kitô giáo cư ngụ tại đây với 1500 nhà thờ. Thế nhưng, chính quyền trung ương lại không mấy thiện cảm với Thiên Chúa giáo, một tôn giáo xuất phát từ phương Tây nên đã ra lệnh phá hủy các ngôi giáo đường này. Ngoài ra, thành phố này còn là nơi tập trung của nhiều doanh nghiệp tư nhân.
Theo thông tín viên báo Le Monde, 20% dân Ôn Châu tương đương với 9 triệu dân là người Thiên Chúa giáo. Tờ báo miêu tả, từ nhiều tuần nay, ngày cũng như đêm, cảnh sát giăng rào ngăn cản giáo dân đến nhà thờ. Một vị mục sư bực tức nói : « Họ càn quyét đến lúc nào không còn nữa mới thôi ». Một giáo dân cao tuổi chua chát nói : « Họ đã đốt hết sách kinh thánh nhưng vẫn còn chưa tháo dỡ thánh giá ! ». Một ngôi nhà thờ cũ tại ngôi làng Tam Giang (Sanjiang) bị chuyển thành xưởng sản xuất chiếu.
Vẫn theo báo Le Monde, đầu năm 2014, nhiều nhà thờ khác tại tỉnh Chiết Giang nhận được lệnh bị giỡ bỏ. Những cây thánh giá tại các giáo đường bị xem là quá « lộ liễu » bị buộc phải gỡ bỏ. Đầu tháng Tư, tỉnh Chiết Giang nhân danh một chiến dịch làm đẹp đô thị được đưa ra vào năm 2013, ra lệnh phá bỏ hàng chục nhà thờ khác và các cây thánh giá. Tuy nhiên, các giáo dân mỉa mai rằng, chiến dịch này chỉ nhắm vào các ngôi giáo đường.
Duy chỉ có một ngôi thánh đường tại làng Tam Giang còn kháng lại lệnh. Ngày 26/04, cả ngàn người tụ tập cầu nguyện trước nhà thờ nhằm hy vọng ngăn cản mọi sự can thiệp của chính quyền. Trong số đó, có nhiều giáo dân đến từ những giáo xứ khác. Sáng hôm sau nhiều giáo dân đã bị bắt và mục sư Paix cũng bị câu lưu trong 48 tiếng.
Ngày 28/04, lực lượng chống bạo động can thiệp vào 4h sáng và đến 20h30, ngôi giáo đường đồ sộ kia chỉ còn là đống tro bụi. Theo tổ chức phi chính phủ Mỹ China Aid, từ đầu năm nay, 60 nhà thờ và các cây thánh giá tại tỉnh Chiết Giang đã nhận được yêu cầu phải tháo dỡ, một phần các nhà thờ này đã bị phá hủy. Trong đó, có hơn 40 nhà thờ là thuộc Ôn Châu.
Báo Le Monde cho rằng, từ khi ông Tập Cận Bình lên cầm quyền, ông luôn quảng bá cho sự phục hưng Trung Hoa. Ông là hiện thân của chủ nghĩa yêu nước hoài Mao và Khổng giáo chừng nào hai xu hướng này vẫn góp phần bảo đảm quyền lực tối cao cho đảng Cộng sản. Theo mục sư Joie tại Bắc Kinh, số lượng người Ki-Tô giáo đã tăng đến mức mà người ta cho là nhiều hơn cả đảng viên đảng Cộng sản.
Vẫn theo mục sư Joie, chiến dịch bài người Thiên Chúa Giáo vẫn chưa được đặt tên này là một trong những ý đồ của đội ngũ lãnh đạo mới luôn ra sức quảng bá vãn hóa truyền thống Trung Quốc như Khổng giáo và Phật giáo. Không phải ngẫu nhiên mà truyền thông đại chúng chính thức của Trung Quốc lại giành nhiều chỗ cho chuyến viếng thăm của Chủ tịch Tập Cận Bình tại quê hương Khổng Tử vào tháng Hai vừa qua.
Thiên An Môn trong mắt một quân nhân
Mục văn hóa và quan điểm của báo Le Monde hôm nay nhìn lại sự kiện Thiên An Môn qua bài viết : « Thiên An Môn trong nhãn quan của một quân nhân ». Trở thành họa sĩ, cựu quân nhân Trần Quang đã chuốc lấy tai họa khi làm sống lại những hình ảnh mà ông đã chụp được vào ngày 04/06/1989, ngày diễn ra cuộc đàn áp đẫm máu của quân đội trên quảng trường Thiên An Môn qua các tác phẩm của mình. Nghệ sĩ Trần Quang đã bị câu lưu ngay tại tư gia vào ngày 07/05/2014 vừa qua.
Theo tờ báo, các bức họa do ông Trần Quang vẽ lại từ các bức ảnh chụp, chỉ được trưng bày một lần tại Hàn Quốc vào năm 2009. Quá trình vận chuyển các tác phẩm này cũng vô cùng bí mật. Vào năm 2010, một ngân hàng Mỹ muốn mua ba bức họa và trưng bày những bức khác. Lần này, mặc dù đã đề phòng kỹ lưỡng, các bức họa bị hải quan tịch thu mà không hề hoàn lại.
Năm 2011, một số bức ảnh chụp về sự kiện Thiên An Môn được trưng bày tại Hồng Kông. Ngày 07/05/2014 vừa qua, họa sĩ Trần Quang bị công an ập đến nhà bắt giữ và tịch thu 7 bức họa. Từ ngày đó, người thân vẫn chưa nhận được tin gì mới của ông. Tuy nhiên, chẳng có chi tiết gì trên các bức họa và các bức ảnh của anh là gây sốc cả vì nó chỉ thuật lại một cách hòa bình cảnh điêu tàn của quảng trường Thiên An Môn sau cuộc trấn áp.
Tại Trung Quốc, chủ đề không liên quan trực tiếp với Thiên An Môn cũng trở thành mối nguy cho chính quyền. Họa sĩ Trần Quang chỉ cần vẽ con số 1989, là làm cho người ta liên tưởng đến ngay vụ đàn áp Thiên An Môn. Và vì thế mà Bắc Kinh có tật giật mình.
Người Trung Quốc làm vườn để giảm ô nhiễm không khí
Tạp chí L’Express số ra tuần này cũng quan tâm đến đất nước đông dân nhất thế giới qua bài viết : « Khi Trung Quốc làm vườn… ». Để chống lại nạn ô nhiễm không khí nghiêm trọng, Bắc Kinh đã quảng bá chiến dịch làm vườn, trồng hoa, cây cảnh.
Ngoài những gia đình khá giả trang bị máy lọc không khí trong nhà để giảm ô nhiễm không khí, một số người dân tích cực trồng cây nhằm mang lại một cảm giác mát mẻ, thư thái. Từ sau Hội nghị Trung ương Đảng vừa qua, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã xếp ngành làm vườn vào một trong 10 ngành công nghiệp ưu tiên. Từ đó, một thị trường rộng lớn mở ra cho các ngành làm vườn trên khắp hành tinh, trong đó có Pháp.
Các chuyên gia trong ngành tại vùng Pays de la Loire hy vọng sẽ ký kết được nhiều hợp đồng béo bở với Trung Quốc. Thế nhưng, tại một đất nước mà sao chép, làm đồ giả nhan nhản như tại Trung Quốc thì cần phải đề phòng. Khi mà chưa tìm được một đối tác địa phương nào đáng tin thì không hề có chuyện gửi một hạt giống nào đến Trung Quốc, theo nhận định của một chuyên viên ngành làm vườn Pháp.
Liên minh Âu Á của các nhà chuyên chế
Thứ năm vừa qua (29/05/2014), Tổng thống Putin đã khẳng định vị trí của mình với việc lập ra Liên minh Âu Á trước thềm kỷ niệm ngày Đồng minh đổ bộ lên vùng Normandie của Pháp. Liên minh này bao gồm Nga, Kazakhstan và Belarus. Trang nhất báo Le Monde chạy tựa : « Putin, Nazarbaïev, Loukachenko Khối Âu-Á của những nhà chuyên chế ».
Trang bên trong tờ báo nhận định, Liên minh Âu-Á được thành lập trong sự vội vã. Đây là khu vực kinh tế đang đi xuống nghiêm trọng từ sau khủng hoảng Ukraina. Được thiết kế gần giống như Liên minh Châu Âu, mục đích lập Liên minh Âu-Á là nhằm phá bỏ những rào cản phi thuế quan để hàng hóa, người dân được tự do lưu thông.
Ba nước thành viên này đều có cùng đặc tính…và cùng vấn nạn. Cả ba quốc gia đều chiếm ưu thế về công nghiệp nguyên vật liệu : khí đốt và dầu hỏa khai thác từ biển Caspi đối với Kazakhstan, Belarus thì tập trung khai thác chất hóa học bồ tạt và nông nghiệp còn Nga chuyên về khí đốt và dầu hỏa.
Cả ba đều đang nhiễm căn bệnh nan y là tham nhũng, thiếu vốn đầu tư và bất ổn tiền tệ. Theo nhận định của ông Chris Weafer, một chuyên gia tư vấn kinh tế, chỉ có nước Nga là lợi nhất trong Liên minh kinh tế này. Nga đang có tỷ lệ dân số già đi nên sẽ có cơ hội thu hút được lực lượng lao động trẻ đến từ các nước trong khối Liên minh Âu-Á. Ví dụ như Kirghizistan là một ứng cử viên tương lai để gia nhập khối này.
Việc thành lập Liên minh Âu-Á càng làm cho Tổng thống Putin tự cao hơn bởi vì nó có ý nghĩa quan trọng làm cho các quốc gia phương Tây thấy rằng, các biện pháp trừng phạt kinh tế nhắm đến nước Nga không hề có hiệu quả. Tuy nhiên, tờ báo kết luận, trước mắt thì Nga chưa thấy được hậu quả của việc trừng phạt vì nước này còn khoảng dự trữ tiền mặt khá lớn nhưng về lâu dài, các biện pháp trừng phạt của phương Tây sẽ phát tác vì nó góp phần làm cho giới đầu tư thêm ngờ vực và dần rút vốn khỏi nước Nga.
Lễ kỷ niệm 70 năm quân Đồng minh đổ bộ xuống Normandie
Báo Công giáo La Croix dành một hồ sơ dài cho lễ kỷ niệm 70 năm quân Đồng minh đổ bộ xuống Normandie. Buổi lễ sẽ được tổ chức tại Ouistreham, tỉnh Calvados kèm theo sự hiện diện của nhiều nguyên thủ quốc gia.
Báo La Croix gọi đây là một lễ kỷ niệm đầy căng thẳng. Cũng như năm 2004 kỷ niệm 60 năm, Tổng thống Putin cũng sẽ có mặt dự buổi lễ.
Mặc dù có các căng thẳng gần đây giữa phương Tây với nước Nga do cuộc khủng hoảng tại Ukraina, Tổng thống Pháp François Hollande vẫn mời Tổng thống Nga tham dự. Ông Putin đã khẳng định sẽ tới dự từ một tuần nay trên báo chí quốc tế. Ông cũng cho biết đã sẵn sàng trao đổi về những lợi ích chung bên lề buổi lễ.
Nếu như Tổng thống Hollande có vẻ chịu trao đổi với Tổng thống Putin thì đối với Tổng thống Mỹ Obama lại không. Washington cho biết không hề dự định có cuộc gặp như vậy. Một khách mời khác là Thái tử Charles của Anh cũng sẽ lạnh nhạt khi gặp ông Putin, theo báo chí Anh cho biết. Báo La Croix nhận xét, không khí nghi kỵ lẫn nhau này gây khó khăn cho bộ phận tiếp tân của điện Elysée vì họ phải tránh sắp xếp những tình huống gây khó xử trong buổi lễ kỷ niệm.
Bí mật của sự tăng trưởng kinh tế tại Anh ?
Nhật báo Le Figaro mục kinh tế đặt câu hỏi : Bí mật của sự tăng trưởng tại Anh là gì ? Câu trả lời là tình dục và ma túy. Viện thống kê quốc gia Anh (ONS), tương đương với viện Insee của Pháp vừa công nhận gái mãi dâm và ma túy góp phần vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Vương quốc Anh, tức là 10 tỷ bảng Anh (12,3 tỷ euro).
Viện thống kê ước tính (ONS), tất cả 60 879 gái mãi dâm tại Anh tiếp khoảng 25 khách hàng tuần với giá trung bình là 67,16 bảng Anh (82 euro). Đó là chưa kể chi phí thuê mướn địa điểm hành nghề và « trang phục lao động » cũng như bao cao su. Đối với ma túy, ONS ước lượng có khoảng 38 000 người sử dụng heroin. Giá là 37 bảng Anh/gr (45 euro).
Ý cũng có đường dây buôn bán ma túy khá sôi nổi. Về thị trường gái mãi dâm tạo ra nguồn thu nhập cho đất nước, báo Le Figaro còn kể ra các nước khác như Áo, Slovenia, Phần Lan, Thụy Điển và Na Uy. Cũng cần phải nói rõ rằng các quốc gia xem mãi dâm như một ngành nghề hẳn hoi, những người ‘‘lao động tình dục’’ khai thuế và đóng thuế, như bất cứ người lao động nào khác.
Ly hôn : người Do Thái phải chờ đợi mòn mỏi
Tạp chí L’Express ra tuần này quan tâm đến những người phụ nữ Do Thái tại Pháp. Để ly hôn về mặt tôn giáo, họ phải có được sự đồng thuận của người chồng. Đôi khi, cái giá đó là rất đắt, có thể là một sự đau đớn chờ đợi mỏi mòn hoặc phải trả những giá tiền đắt cắt cổ. Tạp chí L’Express làm cuộc điều tra về tình trạng này và đăng dẫn chứng các nạn nhân.
Các phụ nữ Do Thái thuật lại để được ly hôn và tự do hoàn toàn phải gỡ bỏ hôn nhân về mặt tôn giáo. Nếu không thì người phụ nữ vẫn không xây dựng được cuộc sống mới với người khác vì sợ bị lên án là ngoại tình và con cái tương lai của họ cũng bị gọi là con ngoài giá thú. Biết được điểm yếu này, một số đàn ông cố tình vòi tiền, không chịu ‘‘cởi trói’’ cho người phụ nữ.
Họ đòi số tiền có khi lên đến 20, 30 nghìn euro và phải trả bằng tiền mặt. Đối với phụ nữ Do Thái giáo, đó là một cuộc đấu tranh dài, đau đớn để có được tự do. Một nạn nhân chia sẻ : « Tôi phải chờ đợi 3 năm để có được quyết định ly hôn về phương diện tôn giáo. Từ đó, khi tôi dự một lễ cưới ở một nhà thờ Do Thái giáo, tôi muốn hét toán lên ».
TRUNG CỘNG- VIỆT CỘNG
Nếu VN chọn Hoa Kỳ làm đồng minh, TQ có áp dụng lại đối sách 1979?
30.07.2015
Sau chuyến đi Hoa Kỳ mới đây của Tổng Bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, có dự đoán lạc quan rằng Việt Nam có thể chấm dứt chính sách ngoại giao đi dây và dứt khoát chọn Hoa Kỳ làm đồng minh.
Nếu dự đoán trên xảy ra trên thực tế, liệu Trung Quốc có sẽ áp dụng lại đối sách năm 1979 khi Hà Nội ngả theo Liên Xô?
I/- Đối sách với Việt Nam năm 1979 của Trung Quốc
Vì vậy có thể nhận định rằng, Trung Quốc sẽ không thể áp dụng lại đối sách năm 1979.
1. Thực tế Trung cộng sẽ không thúc đẩy cuộc chiến tranh giữa hai nước Việt Nam - Campuchia để có cớ trừng phạt Việt Nam, mặc dầu có những dấu hiệu khơi mào tương tự như đã đẩy Việt Nam vào cuộc chiến tranh chinh phạt Campuchia vào năm 1979.
Dấu hiệu khơi mào đầu tiên trước chuyến đi Hoa Kỳ của Tổng Bí thư đảng CSVN là việc Campuchia đã chủ động khơi lại vấn đề tranh chấp biên giới với Việt Nam xảy ra vào ngày 28-6-2015 và những hành động tiếp theo vào những ngày sau đó trên vùng biên giới giáp ranh tỉnh Svay Rieng của Campuchia và tỉnh Long An của Việt Nam.
Tóm lại, nếu Việt Nam chọn Hoa Kỳ làm đồng minh, Trung Quốc sẽ không thể thực hiện đối sách năm 1979 với Việt Nam, sau khi Việt Nam ngả theo Liên Xô. Vì tình hình Việt Nam và cục diện thế giới đã thay đổi. Tư thế và nội lực Hoa Kỳ ngày nay khác tư thế và nội lực Liên Xô ngày xưa. Trung Quốc chắc cũng đã hiểu rõ điều đó và có đủ khôn ngoan để có một đối sách khác hơn năm 1979 đối với Việt Nam vì quyền lợi thiết thân của mình.
Nếu các nhà lãnh đạo đảng và nước Việt Nam hiện nay không chọn Hoa Kỳ làm đồng minh, thì họ sẽ bị mất cơ hội ngàn năm một thuở để thoát khỏi sự kềm kẹp bao lâu nay của Trung Quốc và họa mất nước chỉ còn là vấn đề thời gian. Đảng CSVN sẽ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước quốc dân và lịch sử Việt Nam.
Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường
http://www.voatiengviet.com/content/neu-vn-chon-hoa-ky-lam-dong-minh-tq-co-ap-dung-lai-doi-sach-1979/2883669.htmlcủa Chính phủ Hoa Kỳ.
Nếu dự đoán trên xảy ra trên thực tế, liệu Trung Quốc có sẽ áp dụng lại đối sách năm 1979 khi Hà Nội ngả theo Liên Xô?
I/- Đối sách với Việt Nam năm 1979 của Trung Quốc
Sau khi Việt Nam ngả theo Liên Xô, đối sách năm 1979 của Trung Quốc có mục đích trừng phạt và khuất phục Việt Nam bằng cách gây khó khăn nghiêm trọng, toàn diện về đối nội cũng như đối ngoại cho Việt Nam. Để đạt mục đích này, Trung Quốc đã tiến hành các biện pháp tấn công quân sự, phá hoại kinh tế, gây bất ổn chính trị và cô lập Việt Nam trên trường quốc tế.
Trong thời kỳ chiến tranh ý thức hệ giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản, cuộc tranh chấp quyền lãnh đạo phe xã hội chủ nghĩa giữa Liên Xô và Trung Quốc đã đến mức phân hai khối cộng sản, một số nước theo Liên Xô, một số nước theo Trung Quốc. Vì nhu cầu chiến tranh chống Miền Nam cần sự yểm trợ vũ khí, lương thực của cả Liên Xô và Trung Quốc, nên Hà Nội vẫn cố giữ thế trung lập. Nhưng sau khi cuộc nội chiến Quốc-Cộng chấm dứt, Viêt Nam đã chọn Liên Xô là “Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa” của mình. Giận kẻ vong ơn bội nghĩa, Trung Quốc đã sử dụng lá bài Campuchia để trừng phạt Việt Nam.
1. Mũi nhọn thứ nhất: Trung Quốc đã sử dụng chính quyền Pol Pot và Ieng Sary ở Campuchia để tấn công quấy phá biên giới Tây Nam, đánh chiếm vài đảo nhỏ của Việt Nam, kích động lòng hận thù dân tộc. Sau ba năm chịu đựng sự quấy phá quân sự Việt Nam đã kéo đại binh chính phạt Pot-Pot vào mùa xuân năm 1979. Trong vòng không đầy một tháng tiến công,quân đội nhân dân Việt Nam đã “giải phóng” được đất nước Chùa Tháp khỏi nạn diệt chủng. Nhưng việc chiếm đóng Campuchia đã bị cả thế giới lên án là kẻ xâm lược. Chế độ Hà Nội bị cô lập về chính trị, ngoại giao và bị bao vây kinh tế bởi chính sách cấm vận của Hoa Kỳ. Thế nhưng Việt Nam tiến vào Campuchia thì dễ mà rút ra thì khó, vì đây là “trận địa vũng lầy” được Trung Quốc chuẩn bị cho Việt Nam bị sa lầy.
2. Mũi nhọn thứ hai là sau khi gài thế chôn chân Việt Nam ở Campuchia và những khó khăn hậu chiến chồng chất, Trung Quốc đã mở cuộc đại tấn công quân sự tràn qua biên giới phía Bắc Việt Nam gọi là để “dạy cho Việt Nam một bài học”.
Theo tố cáo của Hà Nội, trong trận chiến này Trung Quốc đã huy động tới 600.000 quân với 800 xe tăng và xe bọc thép, hàng ngàn trọng pháo, hàng trăm máy bay đủ loại. Đặng Tiểu Bình, lãnh tụ của Trung Quốc lúc đó, gọi hành động quân sự này là để “dạy cho Việt Nam một bài học”. Trên thực tế, Trung Quốc đã tự rút về, sau một tháng tấn công, chiếm đóng sáu tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam (Từ 17-2 đến 18-3-1979), triệt phá các cơ sở chính quyền, kinh tế của Việt Nam, tàn sát nhiều người, phá trụi bốn thị xã Lào Cai, Cẩm Đường, Cao Bằng, Lạng Sơn…
3. Ngoài hai mũi nhọn trên, Trung Quốc còn tung thêm mũi nhọn tấn công trên lãnh vực kinh tế và chính trị của Việt Nam.
Về kinh tế, ngay sau khi Hà Nội nghiêng hẳn về Mạc Tư Khoa (Moscow), lập tức Bắc Kinh đòi nợ khẩn cấp, cắt hết viện trợ hậu chiến, ngưng ngang các công trình đang xây dựng và rút hết chuyên gia về nước. Đồng thời cắt đứt đường vận chuyển qua đường sắt Vân Nam - Hà Nội, vốn là con đường vận tải đường bộ duy nhất lúc bấy giờ để Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa giao lưu hàng hóa với Việt Nam.
II/- Trung Quốc có sẽ áp dụng lại đối sách năm 1979 với Việt Nam?
Quá khứ là vậy, còn hiện tại và tương lai thì sao?
Câu trả lời tổng quát có thể là: Trung Quốc ngày nay sẽ không dám sử dụng lại đối sách trên đây đối với Việt Nam, một khi Hà Nội thật sự chọn Hoa Kỳ làm đồng minh. Vì sao?
Là vì vị thế và tình hình Việt Nam trong tương quan với cộng đồng các quốc gia trên thế giới ngày nay so với 36 năm trước đây (1979-2015) đã khác xa. Chiến lược toàn cầu hay là nền trật tự quôc tế mới hay là một hệ thống kinh tế quốc tế mới đã được các cường quốc xác lập từ lâu, trong đó có sự tham gia của cả Trung Quốc và Việt Nam. Hơn ai hết, ngày nay Trung Quốc phải hiểu là mình không còn có thể muốn làm gì thì làm mà không gánh chịu hậu quả nghiêm trọng về chính trị, kinh tế và ngoại giao.Vì vậy có thể nhận định rằng, Trung Quốc sẽ không thể áp dụng lại đối sách năm 1979.
1. Thực tế Trung cộng sẽ không thúc đẩy cuộc chiến tranh giữa hai nước Việt Nam - Campuchia để có cớ trừng phạt Việt Nam, mặc dầu có những dấu hiệu khơi mào tương tự như đã đẩy Việt Nam vào cuộc chiến tranh chinh phạt Campuchia vào năm 1979.
Dấu hiệu khơi mào đầu tiên trước chuyến đi Hoa Kỳ của Tổng Bí thư đảng CSVN là việc Campuchia đã chủ động khơi lại vấn đề tranh chấp biên giới với Việt Nam xảy ra vào ngày 28-6-2015 và những hành động tiếp theo vào những ngày sau đó trên vùng biên giới giáp ranh tỉnh Svay Rieng của Campuchia và tỉnh Long An của Việt Nam.
Dấu hiệu tiếp theo xảy ra một ngày sau chuyến đi Hoa Kỳ của Ông Nguyễn Phú Trọng là việc một phái đoàn quân sự và an ninh cấp cao do Bộ trưởng Quốc phòng Campuchia Tea Banh dẫn đầu khởi sự chuyến đi thăm Bắc Kinh hôm 8 tháng 7. Ông Tea Banh nói rằng chuyến đi này nằm trong khuôn khổ một cuộc “trao đổi thường niên”. Nhưng tham gia chuyến đi có các Tư lệnh của cả 3 quân chủng thuộc Quân đội Hoàng gia Campuchia và Tư lệnh Quân cảnh Quốc gia – điều này nói lên tầm quan trọng của chuyến đi, bất chấp lời phát biểu của ông Tea Banh.
Thế nhưng trên thực tế, cũng có những dấu hiệu cho thấy các cuộc xung đột lẻ tẻ ở biên giới Việt Nam - Campuchia sẽ không dẫn đến chiến tranh giữa hai nước như năm 1979. Nhà chức trách hai nước đã tức thời gặp nhau và khẳng định tiếp tục giải quyết vấn đề biên giới thông qua thương lượng, căn cứ trên bản đồ lịch sử và luật pháp quốc tế. Chính Thủ tướng Hunsen cũng đã cho hay là Ông đã yêu cầu các chính phủ Pháp, Anh, Hoa Kỳ cung cấp cho các bản đồ ổn cố từ thời Đông Dương thuộc Pháp làm căn cứ để xác định biên giới hai nước, mà ông tin văn khố các nước này hiện còn lưu trữ.
2. Mặc dầu có nhưng sự đồn đoán về sự chuyển quân về phía biên giới Việt - Trung, song Trung Quốc sẽ không dám ngang nhiên tấn công quân sự gọi là để “dạy cho Việt Nam một bài học” như năm 1979, nếu Việt Nam ngả theo Hoa Kỳ. Vì Hoa Kỳ hiện nay khác Liên Xô trong quá khứ. Hoa Kỳ sẽ không đứng nhìn Trung Quốc tự tung tự tác như Liên Xô trước đây. Vì Hoa Kỳ không phải là “Con cọp giấy” như Trung Quốc thường rêu rao trước đây, mà là “Con cọp thật” đã và đang thể hiện sức mạnh thực sự của một mãnh hổ, vượt trội Trung Quốc về quân sự cũng như nhiều mặt khác, để nếu xẩy ra bất cứ xung đột quân sự nào, ưu thế vẫn nghiêng về phía Hoa Kỳ.
Vì vậy, Hoa Kỳ đã không ngần ngại công khai lên án mạnh mẽ hành động của Trung Quốc xâm lấn Biển Đông, lấn áp các nước nhỏ yếu trong vùng trong đó có Việt Nam và khẳng định nhiều lần rằng Hoa Kỳ có quyền lợi quốc gia trong vùng Biển Đông phải bảo vệ.
Dường như Trung Quốc cũng hiểu được quyết tâm và hành động thực sự của Hoa Kỳ lần này không thể coi thường. Vì vậy đã có dấu hiệu của một sự xoa dịu tình hình. Một điển hình là ngay sau chuyến đi Hoa Kỳ của Tổng Bí thư đảng CSVN, Phó Thủ tướng Trung Quốc Trương Cao Lệ đã tới thăm Việt Nam trong ba ngày (từ 6 đến 19-7-2015). Theo Tân Hoa Xã, Ông Trương đã hội kiến với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Trong cưộc gặp Ông Sang, Phó Thủ tướng Trung Quốc nói rằng mối quan hệ truyền thống do hai lãnh đạo của hai nước là Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh vun đắp là “một tài sản quý giá của hai đảng và nhân dân hai nước”. Phó Thủ tướng Trung Quốc cũng được trích lời nói thêm rằng vì “quyền lợi cơ bản của hai nước, cần phải thắt chặt mối quan hệ truyền thống này”. Bản tin của Tân Hoa Xã không đề cập tới vấn đề tranh chấp biển Đông. Tuy nhiên, báo chí Việt Nam cho hay, trong cuộc gặp với ông Trương, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị hai bên “tuân thủ các thỏa thuận và nhận thức chung quan trọng của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước về những bất đồng trên biển và sớm cùng các nước ASEAN hoàn tất xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC)”.
3. Ngoài hai mũi nhọn trên của đối sách năm 1979 không dám áp dụng lại, Trung Quốc có thể tung mũi nhọn tấn công trên lãnh vực kinh tế và chính trị của Việt Nam hay không?
3. Ngoài hai mũi nhọn trên của đối sách năm 1979 không dám áp dụng lại, Trung Quốc có thể tung mũi nhọn tấn công trên lãnh vực kinh tế và chính trị của Việt Nam hay không?
Vì kinh tế Việt Nam hiện nay lệ thuộc kinh tế Trung quốc trên khá nhiều mặt, nhưng nếu Bắc Kinh đã chọn đối sách hòa dịu, thì họ sẽ không sử dụng mũi nhọn này tấn công Việt Nam. Nếu có sử dụng đi nữa cũng không gây khó khăn nhiều cho Việt Nam như năm 1979. Vì nền kinh tế Việt Nam nay đã khác xưa, không còn bị bế quan tỏa cảng (do chế độ kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bị cấm vận), mà đã vững mạnh nhờ mở rộng làm ăn theo kinh tế thị trường. Nếu Trung Quốc gây khó khăn về kinh tế, Việt Nam sẽ vượt qua, nhờ sự trợ giúp của Hoa Kỳ và các nước tư bản có đầu tư tại Việt Nam.
Về chính trị, Trung Quốc cũng khó tạo biến cố gây bất ổn chính trị cho Việt Nam. Vì một khi chọn Mỹ và các cường quốc tư bản làm đồng minh, thoát khỏi sự kềm kẹp của Trung Quốc, chế độ sẽ tạo được sức hậu thuẫn mạnh mẽ của toàn dân, tình hình chính trị sẽ ổn định và ngày càng được củng cố, sẽ vô hiệu hóa mọi thủ đoạn của Bắc Kinh nhằm phân hóa nội bộ, gây bất ổn chính trị và xáo trộn xã hội Việt Nam.
III/- Kết luậnTóm lại, nếu Việt Nam chọn Hoa Kỳ làm đồng minh, Trung Quốc sẽ không thể thực hiện đối sách năm 1979 với Việt Nam, sau khi Việt Nam ngả theo Liên Xô. Vì tình hình Việt Nam và cục diện thế giới đã thay đổi. Tư thế và nội lực Hoa Kỳ ngày nay khác tư thế và nội lực Liên Xô ngày xưa. Trung Quốc chắc cũng đã hiểu rõ điều đó và có đủ khôn ngoan để có một đối sách khác hơn năm 1979 đối với Việt Nam vì quyền lợi thiết thân của mình.
Nếu các nhà lãnh đạo đảng và nước Việt Nam hiện nay không chọn Hoa Kỳ làm đồng minh, thì họ sẽ bị mất cơ hội ngàn năm một thuở để thoát khỏi sự kềm kẹp bao lâu nay của Trung Quốc và họa mất nước chỉ còn là vấn đề thời gian. Đảng CSVN sẽ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước quốc dân và lịch sử Việt Nam.
Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường
http://www.voatiengviet.com/content/neu-vn-chon-hoa-ky-lam-dong-minh-tq-co-ap-dung-lai-doi-sach-1979/2883669.htmlcủa Chính phủ Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment