BÙI VĂN PHÚ * MỸ TRUNG
Chiến tranh kinh tế Mỹ-Trung?
13.09.2015
Nếu bạn có tài khoản chứng khoán thì hơn tháng qua chắc cũng không khỏi hồi hộp vì mỗi ngày nhìn chỉ số Dow Jones và Nasdaq lên xuống mà lo, lên thì ít mà xuống vài trăm điểm trong một ngày là thường.
Sáng thứ Hai 24/8, 6 giờ 30 ở California. Một ngày đầu tuần. Vừa thức dậy, như thường nhật bật ti-vi nghe tin giao thông, thời tiết thì có tin thị trường chứng khoán ở Phố Wall, New York vừa mở cửa đã tuột giốc hơn một nghìn điểm. Đó là tin nóng buổi sáng trên tất cả các kênh truyền hình. Giá cổ phiếu các công ty lớn bé rơi tuốt luốt. Apple, Google, Facebook rớt vài phần trăm. Pepsi, Costco, General Electric mất gần 20%.
Nhiều gia đình Mỹ, trong đó có chúng tôi, ngày nay để dành tiền hưu trí gởi vào quỹ 401(k) hay trương mục IRA. Nhìn con số đỏ nhảy múa liên hồi trên màn hình mà tim tăng nhịp đập. Chứng khoán Mỹ lại sụp nữa sao, như năm 1987 hay 2008? Quỹ hưu trí 401(k) của nhân viên công ty thường được các nhà đầu tư đổ vào thị trường chứng khoán để sinh lời nhiều. Với đà tuột dốc chứng khoán, sau cơn bão thị trường này rồi tiền tiết kiệm của hàng triệu người sẽ còn bao nhiêu? Thật là một ngày hồi hộp cho những ai sắp đến tuổi hưu. Nhưng cuối ngày chỉ số chứng khoán chỉ rơi gần 600 điểm.
Các nhà đầu tư đều khuyên mọi người không nên hoảng loạn, tức là đừng thấy vậy mà vội rút tiền. Hãy nắm chặt tay cầm trong chuyến du hành lên xuống như trò chơi cao tốc đang nhào lộn này. Rồi cũng đáp bến bình yên thôi.
Đó là lời khuyên ở Mỹ, còn bên Trung Quốc có ai khuyên người dân như thế không mà sao họ ùn ùn bán đổ, bán tháo nhiều loại cổ phiếu khiến chỉ số Shanghai ngày một tụt xuống.
Chứng khoán Dow Jones ở New York sau khi lên cao đến trên 18,000 điểm trong nửa đầu của năm nay, hiện tại tụt xuống còn ở mức 16,300 tức là đã mất khoảng 1,700 điểm, gần 10%. Tuy nhiên các chuyên gia kinh tế tài chánh cho đó chỉ là sự điều chỉnh của thị trường đã quá nóng, không phải sự sụp đổ tài chánh như đã xảy ra năm 1987, khi Dow Jones tuột dốc 22% trong một ngày; hay như gần đây là năm 2008 với thị trường bất động sản sụp đổ khiến chính phủ Mỹ phải bơm hàng trăm tỉ đô-la vào trợ giúp.
Năm 1987 tôi đang làm việc ở Hồng Kông. Lúc đó chưa biết mua cổ phiếu nhưng buổi sáng đọc báo và nghe chung quanh bàn tán chứng khoán Hang Seng rớt nhiều ngày liên tục mà cũng lo vì mình có chương mục ở Bank of America và sắp hết hạn công tác để về lại Hoa Kỳ, không biết có rút hết tiền ra và đóng chương mục được không. Khi đi rút hết tiền, cô thư ký hỏi có phải lo sợ chứng khoán tuột dốc hay không, tôi trả lời đó không phải lý do mà là vì tôi sắp phải rời nơi đây.
Hồng Kông lúc đó còn là tô địa Anh quốc và có nền kinh tế phát triển vững trong khu vực châu Á,chỉ thua Nhật. Suy sụp tài chánh cuối năm 1987 khiến chứng khoán Hang Seng mất hơn 40% và đã kéo theo các thị trường khác từ Mỹ, Úc đến Tây Âu.
Từ năm 1997 Hồng Kông được trả về cho Trung Quốc và nơi đây đã là cửa ngõ thương mại cho Trung Quốc mở rộng giao thương với thế giới vì các định chế kinh tế tài chánh của Hồng Kông đã vận hành tốt qua nhiều thập niên.
Trong những tuần qua, mức độ xuống khá nhiều của các thị trường chứng khoán ở châu Âu, ở Mỹ là do ảnh hưởng từ Hồng Kông và đặc biệt là thị trường Shanghai từ Trung Quốc, một quốc gia nay đã trỗi lên vị trí kinh tế lớn thứ nhì thế giới sau Hoa Kỳ.
Vài tháng trước, các chuyên gia lo ngại sự sụp đổ của nền kinh tế Hy Lạp sẽ kéo theo khủng hoảng tài chánh ở châu Âu, nhưng nay không còn nhắc đến Hy Lạp nữa. Mọi quan sát từng ngày đang đổ dồn về Trung Quốc.
Chứng khoán Mỹ tháng qua xuống gần 10%. Nhưng con số ảm đạm đó cũng chỉ bằng một phần tư mức tuột dốc trong của sàn chứng khoán Shanghai, mất 37% trong ba tháng.
Ảnh hưởng của Trung Quốc đang lây lan ra khắp nơi trên thế giới, cả tới Việt Nam, là một quốc gia chưa thực sự có nền kinh tế thị trường nhưng chỉ số chứng khoán ở Thành phố Hồ Chí Minh, mới lên sàn từ 15 năm qua, cũng giảm từ cao điểm 640 vào cuối tháng 7 xuống còn 530 điểm, mất 17% trong ngày chứng khoán thế giới lao dốc hôm 24/8, nay đã lên mức 570.
Từ hai thập niên qua, cụm từ “toàn cầu hoá” – globalization – được nhắc đến nhiều để chỉ việc phát triển giao thương giữa các nước trên thế giới. Với thị trường chứng khoán ở những vùng phát triển như châu Âu, Bắc Mỹ và Trung Quốc, Nhật Bản tuy lên xuống có cường độ khác nhau, nhưng cùng một nhịp điệu đã cho thấy ngày nay có sự ràng buộc kinh tế chặt chẽ giữa các nước với nhau.
Dưới thời Mao, Trung Quốc không phải là quốc gia có nền kinh tế thị trường nhưng đã bắt đầu gia nhập sân chơi kinh tế toàn cầu, mở cửa ra giao thương với thế giới sau cuộc gặp giữa Tổng thống Richard Nixon và Chủ tịch Mao Trạch Đông vào đầu thập niên 1970.
Năm 1985 tôi có dịp đến Trung Quốc. Đường xá giờ tan sở ngập tràn công nhân mặc đồng phục mầu xanh biển đậm chầm chậm di chuyển bằng xe đạp trên đường phố. So với Hồng Kông lúc đó với xe ô-tô nườm nượp trên phố thì Shanghai, Canton còn nhỏ bé và quê mùa.
Năm 1987 khi chứng khoán Hang Seng ở Hồng Kông mất hơn 40% và Dow Jones mất hơn 20% thì kinh tế Trung Quốc còn ở giai đoạn chập chững, Shanghai chưa có sàn cổ phiếu cho đến năm 1990.
Đầu thập niên 1990 rất nhiều công ty Mỹ và từ nhiều nước phát triển khác tái cấu trúc, ào ạt đưa hãng xưởng sản xuất vào Trung Quốc – outsourcing – vì giá nhân công rẻ nên đã giúp cho nền kinh tế Trung Quốc cất cánh lên, GDP tăng mỗi năm trên 10%.
Ngày nay Shanghai đang bắt kịp Hồng Kông với nhà cao tầng san sát, phố xá toàn xe hơi và là trung tâm tài chính thương mại chính của Trung Quốc. Chỉ số chứng khoán Shanghai bây giờ lên xuống đã thực sự làm giao động kinh tế toàn cầu từ châu Âu sang đến Hoa Kỳ, như đã thấy trong những tuần qua.
Sau hơn 30 năm phát triển giao thương, kim ngạch giao dịch hàng hoá giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc lên đến 600 tỉ đô-la mỗi năm, đa phần là hàng Trung Quốc nhập vào Hoa Kỳ. Trong bảy tháng đầu năm nay, giao thương giữa hai nước đã đạt trên 330 tỉ đô-la, nhập vào Mỹ lên đến 267 tỉ.
Trung Quốc ngày nay còn là quốc gia đứng đầu nắm giữ tài sản ngân khố Hoa Kỳ với gần 1,300 tỉ đô-la, hơn cả Nhật với 1,200 tỉ.
Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc dự đoán sẽ chậm lại, không còn ở mức 10% như trong hai thập niên qua, mà xuống khoảng 7%, là điều làm giới lãnh đạo Bắc Kinh lo lắng và thế giới quan ngại điều đó sẽ kéo theo suy trầm kinh tế toàn cầu.
Mấy tháng trước, dư luận còn nhắc nhiều đến căng thẳng ngoài Biển Đông, coi đó có thể là điểm nóng nơi xung đột Mỹ-Trung có thể xảy ra.
Hơn tháng qua tình hình Biển Đông như yên sóng. Trong khi đó lại đang nổi lên những đợt sóng kinh tế. Với chỉ số chứng khoán ngày càng tuột dốc ở Trung Quốc, Bắc Kinh đã bơm 235 tỉ đô-la vào thị trường và đang tìm mọi cách chặn lại sự suy sụp, kể cả việc bắt giam những nhà đầu tư, những nhà báo đưa ra thông tin kinh tế mà nhà nước cho là thất thiệt khiến người dân ào ạt bán cổ phiếu.
Cùng lúc, các nhà đầu tư Mỹ và các nước Tây Âu cũng đang mất niềm tin vào cổ phiếu và sự phát triển bền vững của nhiều công ty Trung Quốc.
Súng có nổ trên Biển Đông thì người dân Mỹ cũng không bị ảnh hưởng gì nhiều. Nhưng nếu thực sự đang có chiến tranh kinh tế giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, thì cuộc chiến này sẽ làm cả thế giới lo ngại. Giá cả nhiều loại hàng sẽ tăng vọt, trong khi tiền tiết kiệm của nhiều người dân Mỹ có nguy cơ bốc hơi.
Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Sáng thứ Hai 24/8, 6 giờ 30 ở California. Một ngày đầu tuần. Vừa thức dậy, như thường nhật bật ti-vi nghe tin giao thông, thời tiết thì có tin thị trường chứng khoán ở Phố Wall, New York vừa mở cửa đã tuột giốc hơn một nghìn điểm. Đó là tin nóng buổi sáng trên tất cả các kênh truyền hình. Giá cổ phiếu các công ty lớn bé rơi tuốt luốt. Apple, Google, Facebook rớt vài phần trăm. Pepsi, Costco, General Electric mất gần 20%.
Nhiều gia đình Mỹ, trong đó có chúng tôi, ngày nay để dành tiền hưu trí gởi vào quỹ 401(k) hay trương mục IRA. Nhìn con số đỏ nhảy múa liên hồi trên màn hình mà tim tăng nhịp đập. Chứng khoán Mỹ lại sụp nữa sao, như năm 1987 hay 2008? Quỹ hưu trí 401(k) của nhân viên công ty thường được các nhà đầu tư đổ vào thị trường chứng khoán để sinh lời nhiều. Với đà tuột dốc chứng khoán, sau cơn bão thị trường này rồi tiền tiết kiệm của hàng triệu người sẽ còn bao nhiêu? Thật là một ngày hồi hộp cho những ai sắp đến tuổi hưu. Nhưng cuối ngày chỉ số chứng khoán chỉ rơi gần 600 điểm.
Các nhà đầu tư đều khuyên mọi người không nên hoảng loạn, tức là đừng thấy vậy mà vội rút tiền. Hãy nắm chặt tay cầm trong chuyến du hành lên xuống như trò chơi cao tốc đang nhào lộn này. Rồi cũng đáp bến bình yên thôi.
Đó là lời khuyên ở Mỹ, còn bên Trung Quốc có ai khuyên người dân như thế không mà sao họ ùn ùn bán đổ, bán tháo nhiều loại cổ phiếu khiến chỉ số Shanghai ngày một tụt xuống.
Chứng khoán Dow Jones ở New York sau khi lên cao đến trên 18,000 điểm trong nửa đầu của năm nay, hiện tại tụt xuống còn ở mức 16,300 tức là đã mất khoảng 1,700 điểm, gần 10%. Tuy nhiên các chuyên gia kinh tế tài chánh cho đó chỉ là sự điều chỉnh của thị trường đã quá nóng, không phải sự sụp đổ tài chánh như đã xảy ra năm 1987, khi Dow Jones tuột dốc 22% trong một ngày; hay như gần đây là năm 2008 với thị trường bất động sản sụp đổ khiến chính phủ Mỹ phải bơm hàng trăm tỉ đô-la vào trợ giúp.
Năm 1987 tôi đang làm việc ở Hồng Kông. Lúc đó chưa biết mua cổ phiếu nhưng buổi sáng đọc báo và nghe chung quanh bàn tán chứng khoán Hang Seng rớt nhiều ngày liên tục mà cũng lo vì mình có chương mục ở Bank of America và sắp hết hạn công tác để về lại Hoa Kỳ, không biết có rút hết tiền ra và đóng chương mục được không. Khi đi rút hết tiền, cô thư ký hỏi có phải lo sợ chứng khoán tuột dốc hay không, tôi trả lời đó không phải lý do mà là vì tôi sắp phải rời nơi đây.
Hồng Kông lúc đó còn là tô địa Anh quốc và có nền kinh tế phát triển vững trong khu vực châu Á,chỉ thua Nhật. Suy sụp tài chánh cuối năm 1987 khiến chứng khoán Hang Seng mất hơn 40% và đã kéo theo các thị trường khác từ Mỹ, Úc đến Tây Âu.
Từ năm 1997 Hồng Kông được trả về cho Trung Quốc và nơi đây đã là cửa ngõ thương mại cho Trung Quốc mở rộng giao thương với thế giới vì các định chế kinh tế tài chánh của Hồng Kông đã vận hành tốt qua nhiều thập niên.
Trong những tuần qua, mức độ xuống khá nhiều của các thị trường chứng khoán ở châu Âu, ở Mỹ là do ảnh hưởng từ Hồng Kông và đặc biệt là thị trường Shanghai từ Trung Quốc, một quốc gia nay đã trỗi lên vị trí kinh tế lớn thứ nhì thế giới sau Hoa Kỳ.
Vài tháng trước, các chuyên gia lo ngại sự sụp đổ của nền kinh tế Hy Lạp sẽ kéo theo khủng hoảng tài chánh ở châu Âu, nhưng nay không còn nhắc đến Hy Lạp nữa. Mọi quan sát từng ngày đang đổ dồn về Trung Quốc.
Chứng khoán Mỹ tháng qua xuống gần 10%. Nhưng con số ảm đạm đó cũng chỉ bằng một phần tư mức tuột dốc trong của sàn chứng khoán Shanghai, mất 37% trong ba tháng.
Ảnh hưởng của Trung Quốc đang lây lan ra khắp nơi trên thế giới, cả tới Việt Nam, là một quốc gia chưa thực sự có nền kinh tế thị trường nhưng chỉ số chứng khoán ở Thành phố Hồ Chí Minh, mới lên sàn từ 15 năm qua, cũng giảm từ cao điểm 640 vào cuối tháng 7 xuống còn 530 điểm, mất 17% trong ngày chứng khoán thế giới lao dốc hôm 24/8, nay đã lên mức 570.
Từ hai thập niên qua, cụm từ “toàn cầu hoá” – globalization – được nhắc đến nhiều để chỉ việc phát triển giao thương giữa các nước trên thế giới. Với thị trường chứng khoán ở những vùng phát triển như châu Âu, Bắc Mỹ và Trung Quốc, Nhật Bản tuy lên xuống có cường độ khác nhau, nhưng cùng một nhịp điệu đã cho thấy ngày nay có sự ràng buộc kinh tế chặt chẽ giữa các nước với nhau.
Dưới thời Mao, Trung Quốc không phải là quốc gia có nền kinh tế thị trường nhưng đã bắt đầu gia nhập sân chơi kinh tế toàn cầu, mở cửa ra giao thương với thế giới sau cuộc gặp giữa Tổng thống Richard Nixon và Chủ tịch Mao Trạch Đông vào đầu thập niên 1970.
Năm 1985 tôi có dịp đến Trung Quốc. Đường xá giờ tan sở ngập tràn công nhân mặc đồng phục mầu xanh biển đậm chầm chậm di chuyển bằng xe đạp trên đường phố. So với Hồng Kông lúc đó với xe ô-tô nườm nượp trên phố thì Shanghai, Canton còn nhỏ bé và quê mùa.
Năm 1987 khi chứng khoán Hang Seng ở Hồng Kông mất hơn 40% và Dow Jones mất hơn 20% thì kinh tế Trung Quốc còn ở giai đoạn chập chững, Shanghai chưa có sàn cổ phiếu cho đến năm 1990.
Đầu thập niên 1990 rất nhiều công ty Mỹ và từ nhiều nước phát triển khác tái cấu trúc, ào ạt đưa hãng xưởng sản xuất vào Trung Quốc – outsourcing – vì giá nhân công rẻ nên đã giúp cho nền kinh tế Trung Quốc cất cánh lên, GDP tăng mỗi năm trên 10%.
Ngày nay Shanghai đang bắt kịp Hồng Kông với nhà cao tầng san sát, phố xá toàn xe hơi và là trung tâm tài chính thương mại chính của Trung Quốc. Chỉ số chứng khoán Shanghai bây giờ lên xuống đã thực sự làm giao động kinh tế toàn cầu từ châu Âu sang đến Hoa Kỳ, như đã thấy trong những tuần qua.
Sau hơn 30 năm phát triển giao thương, kim ngạch giao dịch hàng hoá giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc lên đến 600 tỉ đô-la mỗi năm, đa phần là hàng Trung Quốc nhập vào Hoa Kỳ. Trong bảy tháng đầu năm nay, giao thương giữa hai nước đã đạt trên 330 tỉ đô-la, nhập vào Mỹ lên đến 267 tỉ.
Trung Quốc ngày nay còn là quốc gia đứng đầu nắm giữ tài sản ngân khố Hoa Kỳ với gần 1,300 tỉ đô-la, hơn cả Nhật với 1,200 tỉ.
Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc dự đoán sẽ chậm lại, không còn ở mức 10% như trong hai thập niên qua, mà xuống khoảng 7%, là điều làm giới lãnh đạo Bắc Kinh lo lắng và thế giới quan ngại điều đó sẽ kéo theo suy trầm kinh tế toàn cầu.
Mấy tháng trước, dư luận còn nhắc nhiều đến căng thẳng ngoài Biển Đông, coi đó có thể là điểm nóng nơi xung đột Mỹ-Trung có thể xảy ra.
Hơn tháng qua tình hình Biển Đông như yên sóng. Trong khi đó lại đang nổi lên những đợt sóng kinh tế. Với chỉ số chứng khoán ngày càng tuột dốc ở Trung Quốc, Bắc Kinh đã bơm 235 tỉ đô-la vào thị trường và đang tìm mọi cách chặn lại sự suy sụp, kể cả việc bắt giam những nhà đầu tư, những nhà báo đưa ra thông tin kinh tế mà nhà nước cho là thất thiệt khiến người dân ào ạt bán cổ phiếu.
Cùng lúc, các nhà đầu tư Mỹ và các nước Tây Âu cũng đang mất niềm tin vào cổ phiếu và sự phát triển bền vững của nhiều công ty Trung Quốc.
Súng có nổ trên Biển Đông thì người dân Mỹ cũng không bị ảnh hưởng gì nhiều. Nhưng nếu thực sự đang có chiến tranh kinh tế giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, thì cuộc chiến này sẽ làm cả thế giới lo ngại. Giá cả nhiều loại hàng sẽ tăng vọt, trong khi tiền tiết kiệm của nhiều người dân Mỹ có nguy cơ bốc hơi.
Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
TIN KHOA HOC
Tìm ra loài có nhân dạng mới ở Nam Phi
- 10 tháng 9 2015
Các nhà khoa học vừa tìm ra trong một hang tối tại Nam Phi nhiều xương mà họ cho rằng là thuộc một giống nhân dạng mới, gọi là 'Homo naledi'.
Phần đáy của hang Rising Star, cách Johannesburg 50 km, là nơi vừa tìm ra các mảnh xương này.Phần hang sâu thấp tới mức chỉ nhóm nhà nghiên cứu nữ (trong hình) có vóc dáng nhỏ mới vào được.
Đây là dự án do National Geographic tài trợ và kết của của nó là họ đã tìm ra một loài "có liên hệ với loài người cổ đại'.
Số đo xương cho thấy loài mới này có cả những phần giống tinh tinh thời cổ và phần của người hiện đại.
Chỉ số sọ của loài này nhỏ, chỉ bằng của đười ươi.
Tên của loài mới được nhóm nghiên cứu đặt là 'Homo Naledi' lấy theo tiếng Sesotho ở địa phương này là 'naledi - ngôi sao'.
Hình xương và sọ của 'Người ngôi sao' này rất giống Homo erectus, sống trước người hiện đại ở vùng nam châu Phi chừng 1,5 triệu năm.
Nhà nghiên cứu Lee Berger từ Đại học Witwatersrand ở Johannesburg công bố "chúng ta tìm ra một loài mới".
Phát hiện này có thể giúp Giáo sư Berger tìm ra 'cầu nối' giữa các loài linh trưởng đã đi bằng hai chân và loài người.
Image copyright Reuters
http://www.bbc.com/vietnamese/world/2015/09/150910_homo_naledi_south_africa
New human-like species discovered in South Africa, scientists name it Homo Naledi
Posted on: 04:49 PM IST Sep 10, 2015 | Updated on: 9:07 pm,Sep 10,2015 IST
New Delhi: In a major breakthrough, a new human-like species has been discovered in South Africa.
Scientists discovered 15 partial skeletons in a cave which could shed some light on how the first humans evolved. The scientists have named the creature Homo Naledi and believe they could be among the first of our kind and could have lived in Africa up to three million years ago.
The skeletons include both males and females of varying ages, from infants to elderly. Measurements of the bones show that the creature has a blend of ancient ape and modern human-like features.
The creature's brain is tiny, the size of a gorilla's. Its teeth are small and simple. The thorax is primitive and ape-like, but its hands are more modern, their shape well-suited to making basic tools. The feet and ankles are built for walking upright, but its fingers are curved, a feature seen in apes.
Phát hiện hóa thạch họ hàng mới của loài người tại Nam Phi
16:24 11/09/2015
(VietQ.vn) - Các nhà khoa học cho biết xương hóa thạch tìm thấy trong một hang động ở Nam Phi 2 năm trước thuộc về loài mới chưa xác định của một nhóm người sơ khai có tên khoa học là Homo Naledi.
Tìm thấy hóa thạch tổ tiên loài cá heo?
Phát hiện loài rùa biển lâu đời nhất thế giới
Phát hiện hóa thạch xương ngón tay loài người đầu tiên trên thế giới
Phát hiện hóa thạch xương ngón tay loài người đầu tiên trên thế giới
Phát hiện hóa thạch phôi thai thằn lằn cổ nhất thế giới
Vnexpress dẫn nguồn theo New York Times cho biết, nhóm hơn 60 chuyên gia quốc tế, dẫn đầu là Lee R. Berger, giáo sư nhân chủng học trường đại học Witwatersrand ở Johannesburg, Nam Phi, công bố kết quả nghiên cứu hôm nay về hóa thạch loài Homo Naledi - họ hàng mới của loài người
Loài mới có quan hệ gần gũi với loài người hiện đại được gọi là Homo naledi, được tìm thấy trong hang đá vôi Rising Star ở ngoại ô Johannesburg. Theo CNN, có vẻ loài mới được tìm thấy này đã mai táng người chết - hành vi chỉ có ở con người - theo quan niệm trước đây của giới khoa học. Ca mai táng đầu tiên của con người xảy ra khoảng 100.000 năm trước.
Hóa thạch loài mới hoàn chỉnh , tổng hợp từ 1550 mảnh hóa thạch khác nhau . Ảnh: enca.com
Bộ xương của Homo Nadeli cho thấy các đặc điểm giải phẫu tương tự con người hiện đại ngày nay, chẳng hạn như bàn chân cấu tạo phù hợp cho đi bộ đường dài, nhưng cũng mang đặc điểm của loài vượn như vai hẹp và ngón tay cong.
Hóa thạch được tìm thấy gồm xương cốt của trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ, người trưởng thành và người già, trong một khu vực tách biệt bên trong hang Rising Star. Các nhà nghiên cứu tin rằng vòm hang nằm sâu 30 mét dưới di sản thế giới Cradle of Human, cách Johannesburg khoảng 50 km về phía tây bắc, là một nghĩa địa, và người Homo naledi có thể đã dùng lửa để soi sáng đường vào hang.
Xương bàn tay mang đặc điểm giải phẫu của cả người và vượn . Ảnh: Independent
"Bàn tay cho thấy khả năng sử dụng công cụ nhưng lại có các ngón tay rất cong, hơn hầu hết các loài thuộc chi người, nghĩa là khả năng leo trèo của họ rất tốt", nhà khoa học Tracy Kivell thuộc Đại học Kent cho biết.
Loài người mới trên được đặt tên là Homo Naledi, theo tên hang động nơi tìm ra hóa thạch. Điều làm các nhà khoa học bất ngờ nhất là những người Homo Nadeli dường như cũng chôn cất người đã khuất cẩn thận, mặc dù bộ não của họ có kích cỡ khá nhỏ.
Cửa vào khu vực hang phát hiện hóa thạch loài Homo Nadeli . Ảnh: enca.com
Các kết quả phân tích cho thấy loài Homo Naledi có kích thước tối đa cao 1,5m, nặng không quá 45kg khi trưởng thành. Các nhà khoa học xếp loài mới này vào chi người (homo) bởi các đặc điểm khác biệt khi so sánh với các loài khác thuộc chi người.
Nhóm các nhà khảo cổ học từ nhiều nước trên Thế giới đã thu thập được tổng cộng 1.500 mảnh xương hóa thạch và sắp xếp được thành một bộ xương gần như hoàn chỉnh của loài Homo Naledi.
16:24 11/09/2015
(VietQ.vn) - Các nhà khoa học cho biết xương hóa thạch tìm thấy trong một hang động ở Nam Phi 2 năm trước thuộc về loài mới chưa xác định của một nhóm người sơ khai có tên khoa học là Homo Naledi.
Tìm thấy hóa thạch tổ tiên loài cá heo?
Phát hiện loài rùa biển lâu đời nhất thế giới
Phát hiện hóa thạch xương ngón tay loài người đầu tiên trên thế giới
Phát hiện hóa thạch xương ngón tay loài người đầu tiên trên thế giới
Phát hiện hóa thạch phôi thai thằn lằn cổ nhất thế giới
Vnexpress dẫn nguồn theo New York Times cho biết, nhóm hơn 60 chuyên gia quốc tế, dẫn đầu là Lee R. Berger, giáo sư nhân chủng học trường đại học Witwatersrand ở Johannesburg, Nam Phi, công bố kết quả nghiên cứu hôm nay về hóa thạch loài Homo Naledi - họ hàng mới của loài người
Loài mới có quan hệ gần gũi với loài người hiện đại được gọi là Homo naledi, được tìm thấy trong hang đá vôi Rising Star ở ngoại ô Johannesburg. Theo CNN, có vẻ loài mới được tìm thấy này đã mai táng người chết - hành vi chỉ có ở con người - theo quan niệm trước đây của giới khoa học. Ca mai táng đầu tiên của con người xảy ra khoảng 100.000 năm trước.
Hóa thạch loài mới hoàn chỉnh , tổng hợp từ 1550 mảnh hóa thạch khác nhau . Ảnh: enca.com
Bộ xương của Homo Nadeli cho thấy các đặc điểm giải phẫu tương tự con người hiện đại ngày nay, chẳng hạn như bàn chân cấu tạo phù hợp cho đi bộ đường dài, nhưng cũng mang đặc điểm của loài vượn như vai hẹp và ngón tay cong.
Hóa thạch được tìm thấy gồm xương cốt của trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ, người trưởng thành và người già, trong một khu vực tách biệt bên trong hang Rising Star. Các nhà nghiên cứu tin rằng vòm hang nằm sâu 30 mét dưới di sản thế giới Cradle of Human, cách Johannesburg khoảng 50 km về phía tây bắc, là một nghĩa địa, và người Homo naledi có thể đã dùng lửa để soi sáng đường vào hang.
"Bàn tay cho thấy khả năng sử dụng công cụ nhưng lại có các ngón tay rất cong, hơn hầu hết các loài thuộc chi người, nghĩa là khả năng leo trèo của họ rất tốt", nhà khoa học Tracy Kivell thuộc Đại học Kent cho biết.
Loài người mới trên được đặt tên là Homo Naledi, theo tên hang động nơi tìm ra hóa thạch. Điều làm các nhà khoa học bất ngờ nhất là những người Homo Nadeli dường như cũng chôn cất người đã khuất cẩn thận, mặc dù bộ não của họ có kích cỡ khá nhỏ.
Cửa vào khu vực hang phát hiện hóa thạch loài Homo Nadeli . Ảnh: enca.com
Các kết quả phân tích cho thấy loài Homo Naledi có kích thước tối đa cao 1,5m, nặng không quá 45kg khi trưởng thành. Các nhà khoa học xếp loài mới này vào chi người (homo) bởi các đặc điểm khác biệt khi so sánh với các loài khác thuộc chi người.
Nhóm các nhà khảo cổ học từ nhiều nước trên Thế giới đã thu thập được tổng cộng 1.500 mảnh xương hóa thạch và sắp xếp được thành một bộ xương gần như hoàn chỉnh của loài Homo Naledi.
Phát hiện tổ tiên của loài người
Một nhóm các khoa học gia hôm 10/9 loan báo đã phát hiện thêm tổ tiên đã tuyệt chủng của loài người.
Công bố việc phát hiện trên tạp chí eLIFE, các nhà nghiên cứu gọi tên những người này là Homo naledi, cao 1,5 mét, nặng 45 kg và có khả năng đi thẳng lưng.
Họ cũng cho biết chủng người này có tay và chân như con người, nhưng lồng ngực, vai và xương chậu giống với các tổ tiên trước đây của loài người hơn là con người hiện đại.
Các nhà khoa học đã ghi nhận các chi tiết trên sau khi tìm kiếm trong bộ sưu tập xương ở một nơi khó tiếp cận trong hang ở ngoại ô Johannesburg, Nam Phi.
1.500 mảnh xương tìm thấy tại nơi này được cho là của ít nhất 15 cá nhân, các nhà khoa học cho biết.
Họ cho biết rằng Homo naledi xuất hiện trong khoảng thời gian từ 2,5 tới 2,8 triệu năm trước, nhưng xương tìm thấy tại địa điểm khảo cổ trên trẻ hơn.
Hiện chưa rõ là vì sao các mảnh xương trên lại ở trong nơi sâu nhất của hang.
Các nhà khoa học cho rằng thi thể người chết có thể đã được chôn tại đó, và đây là một hành vi hiếm thấy của người tiền sử.
Công bố việc phát hiện trên tạp chí eLIFE, các nhà nghiên cứu gọi tên những người này là Homo naledi, cao 1,5 mét, nặng 45 kg và có khả năng đi thẳng lưng.
Họ cũng cho biết chủng người này có tay và chân như con người, nhưng lồng ngực, vai và xương chậu giống với các tổ tiên trước đây của loài người hơn là con người hiện đại.
Các nhà khoa học đã ghi nhận các chi tiết trên sau khi tìm kiếm trong bộ sưu tập xương ở một nơi khó tiếp cận trong hang ở ngoại ô Johannesburg, Nam Phi.
1.500 mảnh xương tìm thấy tại nơi này được cho là của ít nhất 15 cá nhân, các nhà khoa học cho biết.
Họ cho biết rằng Homo naledi xuất hiện trong khoảng thời gian từ 2,5 tới 2,8 triệu năm trước, nhưng xương tìm thấy tại địa điểm khảo cổ trên trẻ hơn.
Hiện chưa rõ là vì sao các mảnh xương trên lại ở trong nơi sâu nhất của hang.
Các nhà khoa học cho rằng thi thể người chết có thể đã được chôn tại đó, và đây là một hành vi hiếm thấy của người tiền sử.
Xương người nhẹ hơn xưa do lối sống ít đi lại
Con người hiện đại nặng hơn so với tổ tiên săn bắn hái lượm của chúng ta, nhưng xương của chúng ta lại nhẹ hơnhttp://www.voatiengviet.com/content/tim-ra-to-tien-cua-loai-nguoi/2955537.html
TRẦN HỮU TÁ * VŨ TRỌNG PHỤNG
Trí thức văn nghệ sĩ Sài Gòn trước 1975 với Vũ Trọng Phụng
(Trần Hữu Tá, Tạp chí ĐH Sài Gòn, Bình luận văn học, niên giám 2012)
Một trong những hoạt động chính của văn học Sài Gòn (nói rộng ra, của văn học trong các thành thị miền Nam) trước 1975 là giới thiệu, đánh giá văn học trước Cách mạng tháng Tám 1945, trong đó giai đoạn 1932 – 1945 (mà các nhà nghiên cứu Sài Gòn qui định là 1932 – 1945) được đặc biệt chú ý. Hiện tượng này là một tất yếu, vì thành tựu và kinh nghiệm sáng tác của giai đoạn văn học phát triển rất phong phú này quả là cần thiết cho bất cứ ai muốn hiểu biết văn học dân tộc, nhất là lúc nền văn học ấy đang vận hành với công suất lớn trên con đường hiện đại hóa.
Vì vậy hầu hết các tác phẩm có tên tuổi của giai đoạn này được tái bản, và không chỉ một lần. Nhiều nhà văn tiêu biểu của giai đoạn này được giới sáng tác và giới nghiên cứu văn học đi sâu tìm hiểu. Nhưng có thể nói, trừ hiện tượng Nhất Linh rộ lên trong năm 1963 (năm ông tự tử và sau khi Ngô Đình Diệm bị đảo chánh, ông được tổ chức tưởng niệm hết sức trọng thể), thì ít ai được giới trí thức văn nghệ sĩ quan tâm một cách đặc biệt như Vũ Trọng Phụng.
Hầu hết tác phẩm của Vũ Trọng Phụng được tái bản trong đó đáng kể đến nhiều tác phẩm lẽ ra chỉ có thể lục tìm trong các chồng báo cũ của thư viện, như các truyện ngắn (non 40 truyện), các kịch ngắn (non 10 vở) như vở kịch dài Giết mẹ (dịch từ nguyên tác Lucrèce Borgia của V.Hugo), hoặc như 3 chương di cảo, trong tiểu thuyết Người tù được tha.
Các báo chí chuyên ngành văn học như Tập san Văn, tạp chí Văn học, tạp chí Thời nay, Giai phẩm văn học, tạp chí Nghiên cứu văn học cho ra những tờ đặc biệt về Vũ Trọng Phụng. Có tờ, như tạp chí Văn học, 3 lần ra số đặc biệt để tưởng niệm nhà văn quá cố.
Bên cạnh những bài viết mới, các tập san, báo chí nói trên còn cho đăng lại rất nhiều bài viết về Vũ Trọng Phụng, đã công bố trên báo chí Hà Nội trước năm 1945 của Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Thế Lữ, Tam Lang, Lưu Trọng Lư, Lan Khai, Nguyễn Triệu Luật, Lê Văn Trương, Ngọc Giao, Trương Tửu, Nguyễn Thanh, Thanh Châu, Lê Thanh, v.v…
Đã có nhóm văn nghệ sĩ tổ chức những đêm kịch Vũ Trong Phụng. Một số vở hài kịch ngắn của ông cũng như hai tiểu thuyết Giông tố, Số đỏ được chuyển thể, được lên sàn diễn.
Xem lại danh sách những trí thức văn nghệ sĩ viết về Vũ Trọng Phụng, chúng tôi thấy có thể phân thành ba nhóm. Thứ nhất, đó là những nhà văn đã thành danh từ trước năm 1945, vì những lý do khác nhau, tập trung sống và viết ở Sài Gòn như Vũ Bằng, Tam Lang, Nguyễn Vỹ, Đinh Hùng, Thiết Can, Lê Tràng Kiều…
Thứ hai, đó là các nhà nghiên cứu như Nguyễn Duy Diễn, Phạm Thế Ngũ, Thanh Lãng, Nguyễn Văn Trung, Bùi Xuân Bào…
Thứ ba, đó là các nhà văn hoặc những người vừa sáng tác vừa hoạt động nghiên cứu, như Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu…
Nếu căn cứ vào quan điểm nhân sinh, thái độ chính trị của các cây bút này, chúng ta thấy họ khá khác biệt, thậm chí đối lập nhau. Có người chống đối cách mạng từ căn bản ý thức hệ, như Doãn Quốc Sỹ. Có người không nhất quán về chính trị như Dương Nghiễm Mậu. Số đông đậm sắc thái “trung tính”, ngược lại có một số người giác ngộ cách mạng, và với các vị ấy văn học là mặt trận đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân mới, tất nhiên bằng những phương cách khác nhau, với những tư thế khác nhau, như Vũ Bằng, Lữ Phương, Vũ Hạnh…Có người đã hy sinh trên chiến trường Tây Ninh năm 1986, lúc đã thoát ly khỏi vùng giải phóng như Trần Triệu Luật.
Trong số 46 bài báo và cuốn sách mà chúng tôi có trong tay, viết về Vũ Trọng Phụng ở Sài Gòn trước năm 1975 (một con số chắc chắn chưa đầy đủ so với thực tiễn hoạt động của xuất bản báo chí ở một địa bàn rất nhộn nhịp và phức tạp như Sài Gòn và các thành thị miền Nam suốt 21 năm trước ngày giải phóng), có thể phân ra hai loại:
Loại thứ nhất, gồm 17 bài viết dưới dạng hồi ức, kỷ niệm. Người viết đều là các bạn văn, thậm chí chí cốt với Vũ Trọng Phụng lúc sinh thời. Đáng chú ý là các bài viết của Tam Lang (Vài kỷ niệm về Vũ Trọng Phụng - Giai phẩm văn học số 170, ngày 05/8/1973), Nguyễn Vỹ (Vũ Trọng Phụng, chương 4 cuốn Văn thi sĩ tiền chiến, trang 49-66, Nhà xuất bản Khai Trí, Sg, số 1969), Đinh Hùng (Nhớ Vũ Trọng Phụng, Tạp chí Văn học, Sg, số 44, ngày 15/8/1965) và sáu bài viết của Vũ Bằng đăng trên các Tạp chí Văn học (Sg) (15/10/1969), Giai phẩm văn học (05/8/1973) hoặc in trong các cuốn Bốn mươi năm nói láo (Phạm Quang Khai xuất bản, Sg, 1971). Ngoài ra còn có các bài viết khác của Lê Tràng Kiều, Thiết Can, Đồ Nam, v.v…
Loại thứ hai, gồm 29 bài hoặc chương sách nghiên cứu về sự nghiệp sáng tác của Vũ Trọng Phụng. Có những bài khảo sát dưới góc độ thể loại, như của Doãn Quốc Sỹ (Văn học và tiểu thuyết – Nhà xuất bản Sáng tạo, Sg, 1973), Vũ Bằng (Khảo về tiểu thuyết – Phạm Văn Tươi xuất bản, Sg, 1955), v.v… Có một số bài nghiên cứu căn cứ khuynh hướng nghệ thuật của ông, như các bài Vũ Trọng Phụng nhà văn tả chân bất hủ (Nguyễn Duy Diễn – Tạp chí Hiện đại, Sg, tháng 4/1960), Vũ Trọng Phụng, nhà văn hiện thực xã hội (Bùi Ngọc Dung – Tạp chí Văn học, Sg, số 44, ngày 15/8/1965), Kỹ thuật tả chân của Vũ Trọng Phụng (Đỗ Long Vân, Tạp chí Nghiên cứu văn học, Sg, 5/1968), Nhóm tả chân xã hội (Nguyễn Văn Trung, trong Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết – Nam Sơn xuất bản, Sg, 1965). Cũng có một số nhà nghiên cứu dưới góc độ văn học sử, như Phạm Thế Ngũ (Vũ Trọng Phụng, trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập III, Quốc học tùng thư xuất bản, Sg, 1965).
Xin hãy nói về các bài hồi ký. Thể ký đặc sắc này hấp dẫn người đọc trước hết vì với tư cách là người trong cuộc, hay ít nhất là chứng nhân, người viết đã lọc lựa trong kho kỷ niệm những chi tiết vừa xác thực, gợi cảm, vừa có ý nghĩa sâu sắc, giúp cho độc giả hiểu được sự việc, con người mà họ đang quan tâm – các thiên hồi ký chỉ có thể được coi là thành công khi nó làm người đọc giàu có thêm nhận thức xã hội và phong phú thêm về tình cảm đậm chất nhân văn.
Mười bảy bài hồi ký nói trên, chất lượng không phải đều cao. Có bài vụn vặt và tẻ nhạt (Đồ Nam – Năm cái bí mật của Vũ Trọng Phụng). Không ít chi tiết trùng lặp trong năm bài viết của Vũ Bằng. Nhưng điều đáng quý là ở chỗ, các nhà văn nhà báo cựu trào này đã làm rõ một cách xúc động hai vấn đề lớn của con người nghệ sĩ Vũ Trọng Phụng. Đó là nhân cách và tài năng.
Cái cốt lõi nhất của nhân cách Vũ Trọng Phụng theo Vũ Bằng là “Một điều tưởng như vô lý, tưởng như không thể thực hiện được, nhưng Vũ Trọng Phụng đã đem áp dụng trong suốt cả cuộc đời: Dù không đủ ăn, không đủ mặc, không đủ ở, Vũ Trọng Phụng vẫn âm thầm sống để mà viết” (Cảm nhớ Vũ Trọng Phụng). Vũ Trọng Phụng vượt lên mọi eo sèo phiền toái, thậm chí cực nhọc của nợ áo cơm, trước hết vì trách nhiệm của ông với bốn thế hệ phụ nữ mà ông phải cưu mang: bà, mẹ, vợ và con gái còn thơ dại. Cho nên “Vũ Trọng Phụng không mấy tán thành nếp sống của chúng tôi lúc đó: nhiều khi anh em đi hát hay chè, rượu, phiện phò thì anh ngồi uống nước, hút thuốc lào một mình và viết bài cho báo khác để kiếm thêm giúp bà, nuôi mẹ” (Vũ Bằng – Tôi, thằng vô lại). Vì vậy, như Nguyễn Vỹ nhớ lại một chi tiết xúc động: có khi Vũ Trọng Phụng đau khổ chỉ vì một chuyện quá nhỏ nhặt, đó là không có lấy năm hào chỉ để mua cho người con gái độc nhất chiếc đèn con cá trong dịp tết Trung Thu, để cháu khỏi thèm thuồng khi nhìn đồ chơi trong tay các trẻ hàng xóm.
Nét đẹp của nhân cách Vũ Trọng Phụng còn là ở chỗ, dù bị sự nghèo túng ghì sát đất nhưng ông vẫn sống trong sạch, thanh cao, không để các ông chủ kinh doanh chữ nghĩa coi thường, xúc phạm. Với những tay chủ xuất bản keo kiệt, nhập nhằng việc thanh toán nhuận bút, Vũ Trọng Phụng đòi ráo riết, thậm chí khi cần ông đã giáng đòn sâu cay, ê ẩm (Nguyễn Vỹ - Văn thi sĩ tiền chiến). Để đối phó với loại chủ báo, chủ xuất bản tàn nhẫn thiếu lương tâm, lạnh lùng bóc lột những nhà văn cộng tác, Vũ Trọng Phụng cùng các văn hữu đấu tranh đến cùng (Đinh Hùng – Nhớ Vũ Trọng Phụng). Ông sẵn sàng từ chối chỗ làm lương cao bổng hậu, khi đã biết rõ chất trọc phú của người mời nhưng trái lại rất sẵn sàng xin bạn một hào đi xe, “vì quần áo diện như thế này mà đi bộ trông ê lắm” (Vũ Bằng – Cái tài, cái tật của Vũ Trọng Phụng). Nói là “diện”, nhưng như các bạn văn của ông cho biết, Vũ Trọng Phụng không bao giờ có một bộ quần áo đẹp. Mùa rét có một bộ tím kẻ sọc, mùa nực chỉ có hai bộ trắng.
Với tư cách là tri kỷ với người đã khuất, các nhà văn cao niên còn giúp người đọc hiểu rõ hơn những chuyện “bếp núc” trong suốt 10 năm cầm bút của Vũ Trọng Phụng. Tài năng của nhà văn được các bạn ông chân thành ca ngợi. Chẳng hạn, năm 1971, Tam Lang nhắc lại một ý ông đã từng viết năm1939, lúc Vũ Trọng Phụng qua đời “Vũ Trọng Phụng viết sau tôi, mà sắc bén hơn tôi” (Tam Lang – Vài kỷ niệm về Vũ Trọng Phụng). Sắc bén là phải, bởi vì Vũ Trọng Phụng lao động hết sức cần mẫn, nghiêm túc. Vũ Bằng làm ta ngạc nhiên, cảm phục khi kể lại cung cách viết văn như đánh vật của Vũ Trọng Phụng “nằm phủ phục xuống mà viết”, “suy nghĩ kỹ trước khi viết, đến khi cầm bút là chỉ việc viết thôi”, “lúc viết, mắt anh liếng, miệng anh há ra viết nhanh, nhưng tướng trông rất vất vả, nên anh em thường đùa gọi là bộ Việt Nam vong quốc sử” (Vũ Bằng – Cái tài, cái tật của Vũ Trọng Phụng).
Đồ Nam, trong bài viết của mình cũng cho ta rõ cách thức tích lũy vốn sống của Vũ Trọng Phụng, ngoài cái vốn sống trực tiếp, ông đã rất có tài trong việc khai thác tư liệu từ các nguồn gián tiếp, từ ông anh họ Trưởng Ca thạo nghề cờ bạc để viết Cạm bẫy người; từ người bạn Nguyễn Như Hoàn rất gần gũi và hiểu biết các me Tây để viết Kỹ nghệ lấy Tây, từ những câu chuyện của Ngô Tất Tố - con đẻ của đồng ruộng - để có những trang viết sinh động về thực trạng bi đát, đáng phẫn hận của nông thôn trong Giông tố v.v…
Vũ Bằng, cũng như Lê Tràng Kiều, Thiết Can, cho chúng ta biết tinh thần tự học rất đáng ca ngợi của Vũ Trọng Phụng “Dù bận rộn viết lách đến mấy đi nữa, tuần nào anh cũng đọc hàng chục tờ báo Pháp để học thêm. Trong anh em, có thể nói anh là người hiểu rõ tinh thần của giọng văn Canard Enchainé (Con vịt bị xiềng, tên một tờ báo trào phúng nổi tiếng của Pháp - THT) nhất, mà anh cũng am hiểu nhất chính trị ở nước Pháp và thế giới lúc bấy giờ” (Vũ Bằng - Tôi, thằng vô lại).
Tóm lại, có thể nói, cùng với các bài viết dưới dạng cảm xúc, hồi tưởng, viết lúc Vũ Trọng Phụng qua đời của Nguyễn Tuân, Tam Lang, Lan Khai, Ngô Tất Tố… và những bài hồi ký công bố rải rác trong những năm miền Bắc chống Mỹ của Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng; đặc biệt những bài viết trong những năm đầu đất nước ta đổi mới (1987 – 1990) của Bùi Huy Phồn, Lưu Trọng Lư, Đỗ Tất Lợi, Mạnh Quỳnh, Thanh Châu, Vũ Ngọc Phan v.v… chùm hồi ký của các nhà văn nhà báo Sài Gòn viết trước 1975 giúp người đọc hôm nay và mai sau hiểu chính xác về con người công dân và con người nghệ sĩ Vũ Trọng Phụng. Tất nhiên có ngoại lệ, nhưng quả là tính cách phẩm hạnh của người viết đã quyết định giá trị những trang viết của ông; sâu xa hơn, từ những hiểu biết tích cực ấy người đọc tin vào sự trong sáng, chân thành của những đứa con tinh thần của người nghệ sĩ.
Xin được nói về chùm bài nghiên cứu. Dễ nhận thấy tình trạng chất lượng không đồng đều của những bài này. Một số bài, sức khái quát chưa cao, công phu khảo sát chưa đạt đến độ sâu cần có, còn thiên về ấn tượng, cảm tưởng. Ít có công trình nghiên cứu nào thực sự qui mô, đầy đặn, có tầm cỡ của chuyên luận.
Tuy vậy giới nghiên cứu Sài Gòn trước đây cũng đã có những đóng góp rất đáng ghi nhận về thành quả lao động nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng. Để khảo sát, nhận định, nhiều người có những định hướng tiếp cận khác nhau. Từ góc độ tư tưởng nghệ thuật, Nguyễn Văn Trung so sánh Vũ Trọng Phụng và các nhà văn trong nhóm tả chân với Tự lực văn đoàn để thấy sự khác biệt chủ yếu. Theo ông, “Trong ý hướng viết của nhiều nhà văn trong Tự lực văn đoàn, người ta ghi nhận sự tự giác của nhà văn, sự ý thức được quyền lợi cá nhân của cái tôi và họ đã thể hiện sự ý thức đó trong hầu hết các nhân vật của họ”. Thế còn Vũ Trọng Phụng và nhóm tả chân? Theo Nguyễn Văn Trung “Ý hướng viết không còn bao hàm một lo lắng phục vụ một cái tôi vị kỷ, nhưng chan chứa một nỗi băn khoăn về số phận của người khác, về quyền sống của tha nhân” (Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết, tr. 98, NXB Nam Sơn, 1965).
Từ góc độ chính trị, với suy nghĩ của một thanh niên giác ngộ cách mạng đang hoạt động hăng say trong phong trào tranh đấu của sinh viên thành phố, Trần Triệu Luật ca ngợi tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, cả phóng sự lẫn tiểu thuyết, đặc biệt là hai kiệt tác Giông tố và Số đỏ. Anh khẳng định tác dụng của tác phẩm trong việc tố cáo hiện thực xấu xa tệ hại trước 1945 và theo anh dù ba thập kỷ qua đi, đối với người đọc sống giữa Sài Gòn những tác phẩm ấy hoàn toàn giữ nguyên giá trị thời sự. (Vũ Trọng Phụng – Hiện diện cần thiết của xã hội ngày nay – Tạp chí Văn học (Sài Gòn, số 44, ngày 15/8/1965). Một số nhà nghiên cứu như Lê Văn Siêu, Doãn Quốc Sỹ tiếp cận Vũ Trọng Phụng từ góc độ thể loại.
Trong Văn học sử thời kháng Pháp (1858 – 1945), Lê Văn Siêu lần lượt nhận xét tác phẩm của Vũ Trọng Phụng ở hai thể loại.
Về phóng sự, theo Lê Văn Siêu, Vũ Trọng Phụng khác Tam Lang, Trọng Lang ở “cái duyên kể chuyện hiếm có”, ở “ngòi bút thật đáo để chanh chua”, nghĩa là ở “cách điệu văn riêng của Vũ Trọng Phụng”. Nét độc đáo của Vũ Trọng Phụng, theo Lê Văn Siêu còn vì “văn của ông còn chất dâm, một chất muối đậm, hơi có phần tục tĩu để đùa dai, đùa nhả, nó khiến độc giả có hứng thú theo dõi câu chuyện cho đến hết, như cái hứng thú đọc thơ Hồ Xuân Hương hay truyện tiếu lâm” (Sdđ, tr 310).
Về tiểu thuyết, nhà nghiên cứu này xếp Vũ Trọng Phụng cạnh Nguyễn Công Hoan, Vũ Bằng, Nguyên Hồng và đánh giá không cao. Ông nhận xét về sự hòa hợp giữa chất phóng sự và chất tiểu thuyết, về thành công của Vũ Trọng Phụng trong việc xây dựng nhân vật điển hình, ông tán thưởng kỹ thuật tả chân của Vũ Trọng Phụng “đã dựng nổi cho hư thành thực”, “sắc sảo khi nhận xét thực tại xã hội và diễn biến tâm lý cùng sự việc trong cuộc sống” . Nhưng Lê Văn Siêu tỏ ra nghiệt ngã khi khái quát “nhiều đoạn thì gần như quanh quẩn ở vụ tình dục bỡn cợt nhố nhăng, vụng dại. Nó là sự cố ý pha trò cho đại chúng, hay những người dễ tính đọc lấy vui qua một lúc thì thôi”. Và vì thế, theo Lê Văn Siêu: “Nói rằng nó đồng loại với những truyện cổ Trạng Quỳnh, Tú Xuất, Ba Giai hay những truyện mới về Lý Toét, Xã Xệ của Phong hóa, thì có lẽ cũng chỉ sai lệch ở phần sỗ sàng, tục tĩu…” (Sđđ, tr. 311).
Nhiều nhà nghiên cứu tiếp cận tác phẩm Vũ Trọng Phụng từ trào lưu nghệ thuật, từ khuynh hướng tả chân. Nổi trội, có nhiều ý kiến chín chắn, sắc sảo hơn cả là ba bài viết của Phạm Thế Ngũ, Nguyễn Duy Diễn và Dương Nghiễm Mậu.
Bài viết của Phạm Thế Ngũ là một chương trong bộ lịch sử văn học khá qui mô bề thế - bộ Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (3 tập). Nhà nghiên cứu này có cách viết chân phương, qui phạm. Ông chủ yếu đi sâu vào hai lĩnh vực thành công nhất của Vũ Trọng Phụng – phóng sự và tiểu thuyết để từ đó phân tích hai phương diện vừa tách bạch vừa gắn bó: Vũ Trọng Phụng – nhà văn xã hội và nhà văn tả chân. Ông đánh giá cao Vũ Trọng Phụng, vì nhà văn “dám phanh phui những nhơ nhớp xã hội, nêu cao lá cờ tả chân triệt để vào một lúc mà cơn gió lãng mạn êm đềm vẫn còn thổi lên nhiều tâm trí” (Sđđ, Tập 3, tr. 516). Nhưng theo Phạm Thế Ngũ, chỗ đứng của Vũ Trọng Phụng khá chông chênh và giao động – “Sự mỉa mai căm hờn (của nhà văn) không phải chỉ hướng vào lớp thượng lưu trưởng giả mà hướng vào tất cả những kẻ xấu xa trong xã hội. Ông lố bịch hóa hạng người bé nhỏ với một ngòi bút cũng tàn ác như khi ông chửi bọn bệ vệ giàu sang. Ông chế giễu những cái hủ lậu của xã hội cũ và cũng ác liệt như ông chế giễu những lố lăng của xã hội mới” (Sđđ, tr. 518) cho nên nhiều lúc Vũ Trọng Phụng quyết liệt dữ dội, nhưng “nhiều chỗ lại nghĩ và viết như các cụ lớp trước vậy, như Tản Đà, Tương Phố, hơn nữa như Nguyễn Bá Học trong những đoản thiên cảnh thế” và Lời khuyên học trò – Phạm Thế Ngũ đã khái quát: “Đó là cái cảm tưởng rõ rệt của người đọc đi từ Giông tố đến Lấy nhau vì tình” (Sđđ, tr. 519).
Hai bài của Nguyễn Duy Diễn (Vũ Trọng Phụng – nhà văn tả chân bất hủ - Tạp chí Hiện đại, số 1/1960) và Dương Nghiễm Mậu (Viết về Vũ Trọng Phụng – Tạp san Văn, số 67, ngày 01/10/1966) có phong cách viết khá tương đồng: cảm xúc chân thành, nhận xét tinh sắc, giọng điệu tâm sự. Hai ông ca ngợi khả năng khái quát, tái hiện hiện thực bậc thầy của Vũ Trọng Phụng. Theo Dương Nghiễm Mậu, người đọc có thể “thấy những lạc hậu, nghèo đói khổ ải, những tráo trở, biến động, thét gào trong các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nguyễn Đình Lạp, Nam Cao, Ngô Tất Tố…nhưng để lại cho chúng ta một bức họa sâu sắc, đầy đủ hơn hết tình trạng xã hội ấy thì phải nói đến những tác phẩm của Vũ Trọng Phụng. Có người nói rằng khi còn ở Pháp, Tạ Thu Thâu đã nói muốn biết xã hội Việt Nam ra sao chỉ cần đọc Vũ Trọng Phụng thì biết. Nếu thế thì quả Tạ Thu Thâu đã có con mắt tinh đời”.
Nguyễn Duy Diễn còn nhấn mạnh hơn “Quái lạ! Trong bất cứ hoàn cảnh nào, trong xã hội nào, tiền chiến, đương chiến cũng như hậu chiến, cái hay của Vũ Trọng Phụng đã không hề bị suy giảm mà còn, với thời gian, tăng gấp lên mãi”.
Tại sao vậy? Theo nhà nghiên cứu, vì Vũ Trọng Phụng đã “trình bày bằng cái cười trào lộng, cả một xã hội mục nát, đểu cáng mà ở bên ngoài đã được sơn phết bằng một nước sơn “văn minh” bóng loáng. Cái xã hội đó không chỉ là xã hội tiền chiến, mà còn có thể là xã hội ở mọi nơi và trong mọi thời đại – Thực vậy, khi nào mà một số phụ nữ vẫn còn tấp tểnh động cỡn, một số người vẫn dựa vào uy thế để bợ đỡ quan trên và hống hách với người dưới, khi mà còn có những thằng người vô liêm sỉ, coi sự nhục nhã vì tiền là một danh dự, coi sự lừa lọc là một thắng lợi, coi việc hiếp được một thiếu nữ quê mùa chất phác là một chiến công oanh liệt, v.v… thì ngày ấy tư tưởng căm hờn của Vũ Trọng Phụng trong Giông tố, Số đỏ, Trúng số độc đắc, v.v… vẫn còn đủ những lý do để tồn tại, để đứng vững”.
Hai ông đều đặc biệt lưu ý đến thành công của nhà văn trong việc xây dựng những điển hình bất hủ, “không điển hình cho một thời đại mà là điển hình cho mọi thời đại” (Nguyễn Duy Diễn) cũng như tỏ ra rất tâm đắc với “ngòi bút trào lộng hiếm có” của Vũ Trọng Phụng. Với những thủ pháp nghệ thuật độc đáo, nhà văn “đã trở nên một ảo thuật gia đảo lộn mọi tình tiết, bày đặt và phóng đại tất cả những sự việc, mà người đọc vẫn không hề thấy dấu vết của sự bịa đặt, phóng đại” (Nguyễn Duy Diễn).
Hai nhà nghiên cứu này còn gặp nhau, khi nhấn mạnh giá trị cơ bản của tác phẩm Vũ Trọng Phụng: giá trị nhân văn. Theo Nguyễn Duy Diễn “Vũ Trọng Phụng đã lật tẩy tất cả những cái mặt nạ của đời để chúng ta nhìn thẳng vào mà suy nghĩ. Bởi vì, đúng như Chúa Cơ Đốc đã phán: “Chỉ có sự thật mới giải thoát được cho chúng con mà thôi”.
Còn với Dương Nghiễm Mậu, thì “Tác phẩm của Vũ Trọng Phụng như một bức thông điệp nhân đạo gửi cho nhân loại với cả yêu thương và tin tưởng của một con người đã sống và chết đi trong đau khổ, đói rét, bệnh tật. Chắc Vũ Trọng Phụng không muốn loài người phải như thế nữa”.
Khi đọc lại những bài viết về Vũ Trọng Phụng của tri thức văn nghệ Sài Gòn trước 1975, một câu hỏi cứ như treo lơ lửng trong tôi: tại sao các vị ấy lại quan tâm một cách đặc biệt, rất nhiều cảm tình với Vũ Trọng Phụng đến như thế?
Có động cơ thương mại chăng, bởi vì đây là món hàng văn chương đất khách? Chắc cũng có, nhưng chỉ là sự toan tính của các ông chủ xuất bản.
Trí thức văn nghệ sĩ Sài Gòn đánh giá cao Vũ Trọng Phụng một cách chân thành. Cũng như đánh giá cao Nhất Linh, Khái Hưng, Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Thạch Lam… một cách chân thành. Hơn thế nữa, họ muốn tìm ở đây một bài học quý giá về lao động nghệ thuật, vì nói như Dương Nghiễm Mậu, thành công của Vũ Trọng Phụng “minh chứng rằng một tác phẩm bám sát thời đại, cuộc sống của một xã hội nào đó không có nghĩa chỉ sống trong một thời, một hoàn cảnh mà nó vẫn vượt thoát ra, vẫn thành công”.
Ở một cấp độ cao hơn, một số tri thức văn nghệ sĩ yêu nước tiến bộ như Trần Triệu Luật mà chúng tôi trình bày ở trên, muốn qua tác phẩm Vũ Trọng Phụng để nhìn rõ bản chất xã hội Sài Gòn, nói rộng ra xã hội thành thị miền Nam lúc đó. Nhìn rõ để có thể xác định thái độ sống đúng đắn. Tự nhiên tôi lại nhớ đến phát biểu của nhà thơ Tố Hữu trong Hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc năm 1949: “Vũ Trọng Phụng không phải là nhà cách mạng, nhưng cách mạng cám ơn Vũ Trọng Phụng”.
Làm công việc “kiểm toán” nhũng thành tựu nghiên cứu văn học dân tộc nói chung, từ ngày Đất nước đổi mới đến nay, chúng ta không quên sự đóng góp của những trí thức Sài Gòn chân chính trong 21 năm đất nước cắt chia (1954 – 1975).
NGUYỄN VAN TUYẾT *THƯ TÌNH VIẾT MUỘN
THƯ TÌNH VIẾT MUỘN
- Cụ Nguyễn Văn Tuyết - (Cụ đã từ trần ở Paris, hưởng thọ 91 tuổi)
Paris ngày 14 tháng 10 năm 2010
Bà nó à!
À mà thôi, gọi là EM đi cho tình tứ như ngày xưa chúng mình cùng chung giường chung gối, chung cả đường đi lẫn lối về em nhá. Dù rằng nay đôi ta mỗi người một ngả, lại đông con nhiều cháu mà còn xưng hô “anh em” thì e rằng con cháu nó cười. Nhưng đây là tình thư của anh gửi tới em, lá thư đầu tiên và cũng là lá thư cuối cùng.Anh viết thư này từ ngày 14/10/20xx, mỗi ngày vài dòng, khổ nỗi mỗi khi viết đến tên em là như có hơi nước che mờ cặp kính nên anh đành phải buông bút, dụi mắt thở dài! Viết lâu rồi đấy mà chưa nói được gì với em! Chuyện tình trong 60 năm dễ gì nói trong vài trang giấy, kể trong vài ngày.
Thôi thì thế này nhá, nếu không xong để gửi qua đường bưu điện thì anh sẽ mang đến nơi em đang ở để trao tận tay. Anh biết nơi em ở rồi, kể từ khi em dọn về bên ấy, anh đã rất nhiều lần đi vòng quanh bên ngoài để ngắm một căn nhà 2 tầng(*) nhỏ-nhắn, xinh-xắn, mà nghe đâu em khoe với hàng xóm rằng:
– “Tôi ở tầng dưới, còn tầng trên để dành cho nhà tôi”…
Em à!
Nhớ lại ngày nào em là thiếu nữ 16 tuổi xinh tươi làng Vạn, hoa khôi huyện Yên Phong, còn anh là trai làng Đại Lâm, chúng mình cùng tỉnh Bắc Ninh, nhưng anh theo gia đình ra Hà Nội học nên không có dịp “thả thơ”
Em còn nhớ những vụ “thả thơ” này không? Dì Phách, cô em gái của em nói rằng em đẹp lắm lại là con nhà có của nên trai huyện trai làng nhiều người ngấp nghé, mỗi khi em đi chợ thì họ len lén bỏ thư vào cái làn mây em xách tay, khi về nhà mới biết, thế là mấy chị em đọc thư tỏ tình của các chàng nhát gái mà cười bò ra, nghe cũng vui đấy nhỉ. Nhưng anh thì chưa có dịp thả thơ như thế.
Khi bố anh cần người giúp ông trong việc kinh doanh nên đã bắt anh lập gia đình sớm, anh có quen biết nhiều cô gái ở Hà Nội nhưng không thương ai. Thế rồi một hôm bố anh bảo diện vào rồi đi chợ huyện Yên Phong với ông, anh hỏi bố rằng con đi chợ làm gì thì bố nói:
– Trai khôn tìm vợ chợ đông, gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân.
Khi đến chợ rồi mới biết ngày đó em cũng đi chợ, có lẽ người lớn đã sắp xếp cho chúng mình trông thấy nhau. Nghĩ lại cũng buồn cười nhỉ, bây giờ khác xưa rồi, trai gái quen biết và yêu rồi mới dẫn cha mẹ hai bên gặp nhau.
“Anh trông thấy em đi chợ anh thương”. Bố chưa kịp hỏi ý kiến anh có bằng lòng “cô ấy” hay không thì anh vội nói trước:
– Chưa gặp đã bén hơi. Tại duyên số rồi bố ơi!
Thế là bố khuyên anh “cưới vợ thì cưới liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha” nên anh vội nhờ người đem tặng em “một thúng xôi vò, một con lợn béo một vò rượu tăm. Tặng em đôi gối em nằm, cái chăn em đắp..” năm đó chúng mình vừa tròn 17.
Họ hàng nhà trai khen em xinh gái và có duyên, nhưng bố anh thì nói: “vợ chồng cùng tuổi nằm duỗi mà ăn”, và để cho con đừng có ỷ lại nằm duỗi mà ăn nên ông cụ đã giao cho vợ chồng mình xưởng sửa chữa và cho thuê xe xích-lô.
Khởi đầu là thế, mình sống đầm ấm bên nhau, không vất vả về kinh tế nên năm 1941 em sinh con gái đầu lòng, anh đặt tên con là Trinh. Rồi lần lượt có thêm con Thục, con Thuý, cả ba xinh gái giống mẹ. Sau 3 cô con gái là em sinh liền cho anh 4 cậu con trai, tên các con là Phong, Tuấn, Quang, Anh. Đời sống gia đình đang thanh bình ấm êm, các con đi học có xích lô đưa đón thì bỗng “trời đất nổi cơn gió bụi”, em má hồng chịu nỗi chuân chuyên, bụng mang dạ chửa mà phải cùng gia đình di cư vào Nam. Vừa đến Hải Phòng thì em sinh con gái thứ tư nên mình đặt tên con là Nguyễn Thị Hải, và Hải là đứa con thứ tám cùng theo bố mẹ di cư 1954 vào vùng đất lạ.
Cưới năm 1939 tới 1954 khi di cư mới được có 8 con nên em nói còn ít. Nhớ hôm dẫn em vào bảo sanh viện, anh nắm tay em an ủi thì em mỉm cười nói:
– Anh còn phải đưa em vào bảo sanh viện tám lần nữa, vì thầy tướng số nói em sẽ có 16 người con tất cả”.
Nghe em nói xong anh cười to khiến mấy bà bầu ngồi ở phòng chờ đợi quay sang nhìn vợ chồng mình, chắc họ tưởng mình vui vì mới có con đầu lòng. Nghĩ vậy nên anh ghé vào tai em thì thầm:
– Bao nhiêu cũng được, chỉ sợ vất vả cho em thôi, còn anh thì ..lo tất.
Vào tới Saigon, gia đình mình ở số nhà 247 đường Thành Thái, Chợ Lớn, gần ngã tư Trần Bình Trọng. Em vẫn tề gia nội trợ, còn anh, xoay đủ nghề. Từ mở trường dạy lái xe hơi lúc mới vào rồi làm tôm đông lạnh ở Rạch Giá, lập trại trồng nấm rơm ở suối Lồ Ồ Dĩ An, thầu xây dựng với anh Thúc, làm cho USOM, và như em biết đấy, công việc cuối cùng của anh là làm việc ở tòa Lãnh Sự Pháp Saigon, nhờ đó mà sau 30/4/1975 gia đình ta đi định cư tại Paris.
Tuy nhiên anh đã không giúp em được toại nguyện theo như lời khuyên của thầy tướng số nên trong thời gian ở Saigon, vợ chồng mình chỉ thêm được có 4 “cậu” là Tiến, Thắng, Thụy, Xương và 2 “cô” Loan, Hà, vị chi là 14 mụn con gồm 6 gái, 8 trai, còn thiếu 2 vì thế em mới nuôi thêm 2 cháu ngoại là Yến và Việt, con của Thúy để cho đủ 16 đứa.Nay tuy không được vuông tròn trọn vẹn nhưng tất cả đã ổn định cả rồi. Hiện tại ở Mỹ có 3 cô 2 cậu, ở Pháp có 4 cậu, 3 cô. Con nào cũng có gia đình hạnh phúc một vợ một chồng và đã tặng cho em rất đông cháu nội ngoại và đã hơn 10 chắt rồi đó. Duy chỉ còn cô út Thu Hà, đẹp, thông minh hoạt bát, nhiều chàng ngấp nghé lắm nhưng con gái út của chúng mình lơ là chuyện này mà lại siêng năng nghiên cứu kinh sách nhà Phật. Tại duyên số thôi.
Anh rất hài lòng vì các con, trai gái thì hiếu thảo con dâu nào cũng coi như con đẻ, nhất là Yến, vợ Quang, hiện là chị dâu trưởng, là gương mẫu cho các em. Còn con rể ư? Các cụ xưa gọi con rể là tế-tử nên anh thấy tế-tử nào cũng tử tế cả, các anh ấy là người biết điều, lo toan mọi bề cho vợ con, lại hiền lành. Duy chỉ có chồng của Thúy, tức bố của Yến-Việt là quân nhân nên vất vả và luôn phải xa gia đình, nghèo và hơi ngang. Em nhớ không, lần đầu tiên hắn đến nhà mình thăm con Thúy mà lại ngồi gác chân mang giầy nhà binh lên bàn! Anh giận quá! Nhưng bù lại, nay mỗi lần anh sang Mỹ thăm con cháu, thì bố Việt chở anh ra khu chợ ABC mua bánh ngọt, đi ăn hủ tíu Mỹ Tho, lại còn bảo vợ chồng Việt “niềng” răng cho ông ngoại, anh thấy vui vui nên nói:
– “Khỏi niềng, răng của ông còn rất tốt và đẹp nữa, con chỉ cần bỏ vào ly nước ngâm với thuốc sát trùng cho ông là được rồi.”
Anh nói tới đâu rồi nhỉ? Thế đấy, còn minh mẫn nhưng hơi lộn xộn nên thư viết cho em cứ chuyện nọ xọ sang chuyện kia. À nhớ ra rồi, tới chỗ vuông tròn.Anh nói không được vuông tròn trọn vẹn là vì con gái đầu lòngđã ra đi khi vừa tới Mỹ, và hai con trai hy sinh cho Tổ Quốc, cậu cả Phong bị thương ở Ban-Mê-Thuột rồi hy sinh, cậu Tuấn thì tử trận trên biển, chìm theo hộ tống hạm HQ10 trong trận hải chiến để bảo vệ Hoàng Sa chống lại quân xâm lược Trung Cộng vào ngày 19 tháng 1 năm 1974.
Em à, anh không muốn nhắc chuyện xưa làm đau lòng em khi mất đi 2 đứa con trai tuổi còn quá trẻ, nhưng cũng là một đóng góp cho đất nước như biết bao các gia đình khác. Mới đây ông HQ Đặng Thanh Long đã thay mặt Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng, Tổng Hội Hải Quân Hải Ngoại đem cuốn Hải Sử Tuyển Tập và Hải Sử HQVNCH đến tặng gia đình ta với bút tích ghi ở trang đầu như sau:
“Kính biếu gia đình liệt sĩ Hoàng Sa HQ Nguyễn Văn Tuấn”.
Thấm thoát thời gian mau thế đấy em nhỉ, chả cần nói nhiều thì các con cũng biết từ lúc có đứa con đầu lòng ở Hà Nội rồi có thêm cô Út Hà ở Saigon rồi gia đình ta di tản, bảo lãnh, vượt biển vượt biên mà được thế này cũng là tạ ơn trời đất lắm rồi. Nhưng bất hạnh thay, em lại bỏ anh mà đi! Dễ chừng gần chục năm rồi chứ ít sao? Lúc trước anh nhớ chính xác ngày giờ năm tháng em ra đi, nhưng sau lần anh bị té dập đầu thì trí nhớ không còn tốt. Thôi để anh mở sổ ra xem ngày nào em bỏ anh ra đi. Đây rồi, ngày 14 tháng 10 năm 2002, và anh viết lá thư này cho em cũng vào ngày 14 tháng 10, em đi đã được 8 năm rồi đó.
Em à! Anh nhớ rõ là em bị bệnh thận, đang lọc máu thì bị té dập xương chậu và sau một thời gian ngắn thì em ra đi! Ngày đó mắt anh đã khô, khi thấy con cháu vây quanh mẹ, quanh bà nức nở khóc làm anh nghẹn cổ họng.
Thôi thế cũng xong, vì hiện nay em luôn được mạnh khỏe, không còn lo lắng về bệnh tật, cuộc sống mới lại bình an, thảnh thơi mãi mãi. Nhưng cẩn thận nhá, mỗi lần “vân du” em nhớ mang theo áo ấm và gài dây an toàn kẻo gió mạnh lại thổi bay mất thôi.
Em nhớ không? Lúc sinh thời mỗi lần mang thuốc và nước đến cho em thì anh chỉ nói vắn tắt: “thuốc đây, bà uống đi”! Nay anh muốn gọi tiếng EM, nói thật nhiều lời thương yêu thì giọng anh đã khò khè, thở không ra hơi! Hối hận quá!
Khi em đi rồi mà đàn chim bồ câu cứ đúng giờ nó lại bay về đậu trên thành cửa sổ, cái của sổ của căn phòng trên tầng thứ 15 của tòa biu-dinh thuộc thị xã Alfort Ville, ngó ngay ra bờ sông Seine, từng đôi chim gù-gù sát cánh bên nhau chờ những miếng bánh mì mà em bẻ vụn ra rồi rắc cho chúng ăn.
Ngày đó anh cằn nhằn em hoài vì cái việc cho chim ăn, nó ăn rồi ị, sương mù và mưa phùn làm bánh mì thừa ướt nhão nhẹt ra rồi mốc xanh lên khiến anh lại phải dọn. Bực mình anh la thì em nhỏ nhẹ nói: “tội nghiệp chúng nó”. Thôi đành cứ để em cho chim ăn rồi anh dọn phân và thức ăn thừa kẻo gió lùa vào phòng mình hôi cứt chim. Khi em về trên đó rồi, mình anh ở lại mỗi ngày phải nhìn từng đôi chim gù gù tỉa cánh cho nhau mà nhớ em vô vàn. Đó là lý do thầm kín anh không muốn rời căn phòng này để về ở với con cháu.
Có những chiều Hè hoàng hôn nắng úa, đứng ngắm hình em treo trên tường, anh thì thầm: “sao em không nói với anh” rồi ngó qua cửa sổ anh bỗng thấy như có mưa phùn chiều Đông, thì ra mắt anh mờ và anh cảm thấy lạnh lẽo!Tất cả đồ dùng của em còn để nguyên chỗ cũ, nhìn đâu cũng thấy em vì thế các con xin dọn cho gọn gàng thì anh không cho. Bẩy cô cậu thay nhau thuyết phục bố về ở với các con nhưng anh nhất định không muốn rời xa nơi này, tuy không còn là tổ ấm nhưng còn cái ghế em ngồi, còn cửa sổ mà em đứng rắc bánh mì cho chim ăn. Anh không thổ lộ những điều thầm kín đó mà chỉ nói:
– “Bố còn khỏe, tự lo cho mình được mà, các con cứ yên tâm”.
Mà anh còn khỏe thực, mỗi sáng không còn lái xe ra Paris 13 để ăn hủ tíu và mua báo Văn Nghệ Tiền Phong nữa thì anh đi bộ quanh phòng, đi dăm ba bước anh dừng lại nghỉ dăm phút, cứ như thế mỗi giờ cũng đi được hơn một vòng. Anh cũng vẫn ăn được, mỗi ngày cô Hải mang cơm nóng canh sốt sang cho bố rồi dọn dẹp nhà của, Hải về thì cô út Hà sang lo mọi việc giấy tờ về sức khỏe của bố. Cậu cả Quang tuy ít nói nhưng phân công đâu ra đó cho các em trai Thắng Thụy Xương luân phiên trực đêm bên bố và chở bố đi Paris 13, khu phố Việt, phố Tàu.
Tuy sống độc thân nhưng anh không cô độc, mỗi thứ Bẩy và Chúa Nhật là con trai gái dâu rể, cháu nội ngoại kéo nhau về tụ họp trong căn phòng nhỏ này. Khi trước còn khỏe thì anh nấu một nồi phở thật to, nay thì mỗi con mang theo một thứ, căn phòng không chỉ ấm cúng mà còn nóng lên nữa ấy chứ. Những lúc đó thì anh lại nghĩ đến em, để cho con cháu vui chơi, anh lẳng lặng đi nằm, ứa nước mắt vì sung sướng nghe tiếng cười của con cháu nhưng cũng ứa nước mắt khi thiếu tiếng em! Thì ra “con nuôi cha không bằng bà nuôi ông”, ông nuôi bà.
Cách nay khá lâu, anh đang vịn tường để đi vào phòng tắm thì bị té, các con vội đưa đi cấp cứu, bệnh viện khám phá ra một mạch máu trong đầu bị nghẽn khiến anh té chứ không phải tại anh vô ý.
Nhớ mãi hôm ấy thấy em đến thăm anh trong bệnh viện, anh vội vàng ngồi dậy, ba chân bốn cẳng chạy ra đón em và anh bị vấp té, choàng mở mắt thì biết anh vừa nằm mơ và giận quá tại sao mình không cẩn thận để bị té rồi tỉnh lại mà không được nắm tay em. Vừa lúc đó anh nghe cô ý tá nói:
– Từ nay cụ phải dùng cái này.
Ngó xem thì ra là cái gậy chống, ở cuối có 4 chân bịt cao su. Nếu anh chống gậy này mà đi thăm em thì đúng là “ba chân bốn cẳng rồi”.! Anh không thích chống gậy, trông giống ông cụ quá! Đối với anh, em vẫn còn khỏe và còn trẻ, người cõi tiên thì “trẻ mãi không già” mà.
Nằm bệnh viện được mấy ngày thì anh đòi về nhà, nhớ căn phòng quá, nhưng các con không cho, lựa khi các con không có mặt, anh “ba chân bốn cẳng” vào phòng bác sĩ trực năn nỉ xin xuất viện và họ “đắc-co”
Về nhà được mấy ngày thì anh lại “ba chân bốn cẳng” mang hoa đến tặng em, nhưng gõ của hoài mà không nghe tiếng ai trả lời, hình như mấy cô tiên đưa em vân du trên cẩu Vồng hay du Nguyệt Điện thì phải. Rõ chán! Cả đời ở bên nhau, anh chưa bao giờ tặng em một cánh hoa, tại anh thấy em là hoa đẹp rồi. Anh mong sớm có ngày được đoàn tụ cùng em nắm tay nhau tung mây lướt gió.
Sống với nhau hơn 60 năm, “sáu mươi năm cuộc đời” được 14 mặt con mà mình chưa bao giờ “to tiếng” với nhau, cằn nhằn thì có, nhưng chưa một lần em phải buồn phiền vì anh uống rượu, hút thuốc, đánh bạc và lăng nhăng, vì anh không thích những thứ đó, vì anh đã có em. Tính đến nay xa em đã 8 năm, thời gian cũng quá đủ suy ngẫm về thói đời hay coi thường hạnh phúc đang có sẵn trong tay mà không biết vun quén. Anh đang mong ngày tái ngộ.
Cầu được ước thấy, mới tuần trước đây anh đang đứng vịn tường tập thể dục thì tự động ngã, bệnh viện cho biết những mạch máu li ti trên đầu bị vỡ, các con bao quanh lo lắng và bác sĩ họ đang cố gắng nối lại, nhưng anh nói “Thôi”.
Sống với con cháu như vậy là quá đủ rồi, lo cho các con như vậy cũng tạm ổn, nhìn lên không bằng ai nhưng nhìn xuống thì không ai bằng. Tuy các con không giầu có gì, nhưng đủ ăn và hạnh phúc, nhất là các con một vợ một chồng, như đũa có đôi và anh chị em thương yêu nhau. Anh nói với các con:
“Các con như đũa có đôi, để ba về với mợ chứ, căn phòng trên lầu nơi mợ ở dành cho ba đã có sẵn tiện nghi rồi, các con đừng lo lắng và bịn rịn nữa. Chúc các con ở lại bình an, đùm bọc và thương yêu nhau như từ trước tới nay”.
Em à! Hôm nay là ngày 14 tháng 9 năm 2010, chỉ còn đúng một tháng nữa là trùng vào ngày em đi, 14/10, bác sĩ cũng vừa báo cho biết họ sẽ “búc” vé cho anh. Như vậy là mọi việc đã sẵn sàng tốt đẹp, anh không mang theo gì cả. Khi nào có vé thì anh sẽ gọi phôn cho em biết để mở cửa cho anh vào. Nếu em nghe không rõ tiếng người mà chỉ thoáng phì phò tiếng gió thì biết đó là lúc anh đã cất cánh.
Hẹn gặp em một ngày rất gần.
Vĩnh biệt các con và các cháu cùng các chắt.
Nguyễn văn Tuyết.
(*) Mộ 2 tầng, ai đi trước nằm tầng dưới, ai đi sau nằm tầng trên
TIỂU TỬ * ĐẠP XÍCH LÔ
Những Chuyện Nho Nhỏ - Đạp Xích Lô - Nói: Hết Rồi! - Tiểu Tử
ĐẠP XÍCH LÔ
Trung đã cao lớn lại ham chơi thể thao và tập thể dục đều đặn nên anh ta rất "đô" con.
Đi với tụi bạn đồng nghiệp người Pháp hay người da đen, Trung là người Việt Nam mà vóc dạc ngang ngửa với tụi nó. Có đứa nói giỡn: "Thằng này, nó ăn phở không mà nó lớn con như vậy.
Nếu nó ăn bánh mì "xúc xích - phô mai" như mình chắc nó thành ông khổng lồ quá!".
Cách đây hai năm, Trung về thăm Việt Nam. Đó là lần đầu tiên anh về. Tôi không có dịp gặp anh để hỏi thăm.
Mãi đến gần đây tình cờ gặp nhau ở khu 13 Paris, anh mới kể cho tôi nghe chuyến về Việt Nam của anh lần đó. Tôi xin ghi lại chuyện nhỏ sau đây...
... Con qua Pháp với ba mẹ hồi con mới năm tuổi, bây giờ về, thấy cái gì cũng lạ!
Cho nên con dành mấy ngày đầu để đi vòng vòng cho biết Sài gòn. Con nhờ anh tiếp viên của khách sạn kêu cho con một anh xích lô bao chạy một ngày.
Vậy là sáng hôm sau, đúng theo lời con dặn, anh tiếp viên gọi con dậy bằng điện thoại cho hay xích lô đang đợi, đồng thời cho biết luôn số tiền thuê bao.
Con đếm số tiền rồi để riêng vào một túi quần, con muốn tránh móc bóp đếm tiền trước mặt mọi người sợ bọn lưu manh nó giựt. Con xuống tới quầy thì anh tiếp viên vui vẻ chỉ ra phía trước.
Con cám ơn rồi bước ra ngoài. Thấy con, ông xích lô đang ngồi chồm hổm trên vỉa hè vội vã đứng lên chấp tay chào.
Tự nhiên, con khựng lại, mặc dù ông ta đang đón con bằng một nụ cười rạng rỡ. Bác biết không?
Ổng già khú, ốm nhom, nhỏ xíu. Cái nón vải đen ổng đội, đã rách bươm. Còn bộ đồ trên người ổng, con không biết tả làm sao cho bác thấy. Nó là cái áo bà ba xanh dương vá chầm vá đụp và không còn hai ống tay!
Còn cái quần ka-ki là loại quần dài đã bị xé mất hai khúc ống cỡ ngang đầu gối, một bên cao một bên thấp.
Đó! Ông xích lô của con đó!
Bác coi: con như vầy thì nỡ lòng nào lên ngồi cho ông già ốm nhom đó đạp xe đưa con đi.
Mà liệu ổng có đạp nổi một ngày cho con xem chỗ này chỗ nọ không?Con định hồi không đi nhưng nghĩ lại tội nghiệp ông già. Cái cười tươi rói của ổng cho thấy là ổng đang "trúng mối lớn".
Con bước lại bắt tay ổng, móc túi đưa tiền, nói: "Đây, tiền công của bác trọn ngày nay đây!".
Ổng mừng rỡ, móc trong lưng ra một túi vải miệng có dây rút, run run tay mở ra cho tiền vào. Con hỏi: "Bác không đếm sao ?".
Ổng cười, nhìn con:
"Khỏi! Hổng lẽ cậu như vầy mà đi ăn gian tui sao?"
Rồi ổng xăng xốm chạy lại kềm phía sau xe, mời: "Cậu lên ngồi, đi!". Con lắc đầu: "Không! Bác lên ngồi đi, để tôi đạp!".
Nụ cười của ổng tắt mất: "Ủa! Gì kỳ vậy?".
Con giải thích: "Tôi như vầy mà để cho bác đạp, coi sao được!". Ổng vỗ vỗ lên yên xe:
"Tôi đạp được! Bảo đảm! Cậu đừng lo! Cậu lên ngồi đi!".
Con nghĩ chắc ổng sợ con chê ổng rồi không đi, lấy tiền lại, nên con ôn tồn nói:
"Bác yên tâm. Bác cứ giữ số tiền tôi đưa, rồi lên xe ngồi. Tôi đạp từ từ". Ổng bắt đầu nhìn con nửa ngạc nhiên nửa hốt hoảng.
Để khỏi cù cưa, con bước lại đưa hai tay cặp eo ếch của ổng nhấc bổng lên đặt vào chỗ ngồi của khách.
Ổng nhẹ đến nỗi cái xe không nhúc nhích! Rồi con trèo lên đạp đi. Ông già cứ nhìn ngược về phía sau, lo lắng: "Cậu liệu được không cậu?".
Con vui vẻ trả lời cho ông yên tâm: "Được mà... Dễ ợt hà!". Con men theo lề đường đạp chầm chậm để tránh luồng xe chạy ồ ạt trên lòng đường.
Thiên hạ nhìn con chở ông già, cười nói chỉ trỏ. Ông già ngồi không yên, lâu lâu ngoáy nhìn lại coi con ra sao! Có lẽ vững bụng nên không nghe ổng nói gì hết.
Một lúc sau bỗng ổng la lớn: "Quẹo mặt! Quẹo mặt! Khúc này cấm xe xích lô!". Từ đó, ổng chỉ cho con chạy: "Từ từ..
. Đằng trước có xe đậu. Khi nào kềm bằng chân không nổi thì kéo thắng ở dưới đó ...."
Có lúc thấy con xiên xiên định quẹo vô một con đường nằm ngang, ổng la lên: "Đừng! Đừng! Đường cấm xe xích lô!".
.. Và như vậy, con đạp đi loanh quanh, nhìn ngang nhìn ngửa, yên chí có ông già coi chừng đường nhắc trước con phải làm gì... làm gì.
.. Gần trưa, con tấp vô một quán phở, nói: "Mình vô ăn cái gì đi". Ổng nói: "Cậu vô ăn đi, tôi không đói".
Con kéo tay ổng để cùng đi vào tiệm, ổng rị lại: "Thôi mà cậu! Tôi lạy cậu mà cậu!
Cậu để tôi ngồi ngoài này giữ xe!". Rồi ổng gỡ tay con ra, bước lại vệ đường ngồi chồm hổm bên cạnh xe xích lô, vấn thuốc hút.
Trong quán, con nhìn ông già mờ trong khói thuốc sao bỗng nghe bất nhẫn vô cùng. Không còn lòng dạ đâu để ăn phở, con kêu tách cà phê uống đại rồi đi ra.
Thấy con, ổng quăng điếu thuốc, đứng lên vẻ ngạc nhiên: "Ăn gì mau vậy cậu?". Con nói trớ: "Thấy không ngon nên không ăn". Rồi con nói tiếp:
"Bây giờ, tôi trả xe lại cho bác đó!
Bác cứ giữ nguyên số tiền tôi đưa hồi sáng, đừng thắc mắc. Tôi đi bộ chơi lanh quanh được rồi".
Nói xong con bước đi, lâu lâu ngừng coi cửa hàng này cửa hàng nọ. Thấy ông già cứ đạp xe rề rề đi theo, con bèn gọi một xe Honda ôm đang đợi khách ở ngã tư đường, trèo lên "ôm" đi thẳng!
Kể xong, Trung hỏi: "Nhà nước đang có lịnh cấm sử dụng xe xích lô xe ba gác, không biết bây giờ ông già đạp xích lô sẽ sống làm sao, hả bác?".
Tôi nói: "Ờ... ".
Rồi nín luôn. Một cách trả lời để không trả lời!
NÓI: HẾT RỒI!
CUỘC SỐNG HÀ NỘI
Cuộc sống trong những “CHIẾC HỘP”
06/09/2015 - 11:18
Những người Hà Nội đi xa, kẻ nhớ mùa thu vàng, người vấn vương hương hoa sữa, kẻ lại thèm món bún chả, cốm vòng chỉ Hà Nội mới ngon… Nhưng với những ai đã sống ở Hà Nội từ những năm 60, 70 trở lại đây, hẳn không thể quên tuổi thơ gắn liền với những “chiếc hộp” – những khu nhà tập thể xây từ thời kỳ bao cấp – vẫn đương ẩn hiện trong thành phố ngập lối kiến trúc Tây phương hiện đại.
Có ai nhớ, mỗi buổi chiều, bọn trẻ lại tụ tập nô đùa với nhau dưới vỉa hè của khu tập thể cũ ấy, nơi đã gắn bó với chúng trong suốt thời ấu thơ...
Hà Nội trong mắt tôi, đâu đó trong những khu dân cư nằm gọn lỏn giữa những ngôi nhà hiện đại, vẫn còn xen kẽ một vài khu tập thể như thế này: tường vôi vàng cũ tróc long, những cánh cửa gỗ màu xanh, chiếc cầu thang với lối dắt xe lên xuống khu tập thể 4-5 tầng, chuồng chim-chuồng cọp, những quả “bom” nước di động đặt trên nóc mỗi tòa nhà... Chúng như hai "thế giới" khác nhau đang cùng tồn tại song song... Ngắm cảnh bình yên, cổ điển, gợi thời xưa cũ đấy nhưng đã mang tính nhem nhuốc, xuống cấp và hư hại quá rồi. Công trình thì "hết đát" sử dụng từ lâu, người dân thì thả sức “sáng tạo” trên căn hộ của mình với đủ hoạt động đục phá, cơi nới mở rộng không gian sống vốn eo hẹp.
Ước tính, hiện nay tại Hà Nội có khoảng 23 khu tập thể cũ (4-5 tầng) và hơn 10 khu tập thể cổ thấp tầng (1-2 tầng) nằm rải rác ở các tuyến phố khác nhau. Các khu tập thể cũ này được xây dựng chủ yếu từ những năm 1960 đến 1980 của thế kỷ trước.
Đố bạn biết dãy nhà tập thể này ở Hà Nội theo trường phái kiến trúc nào?
Lối dắt xe lên xuống chính giữa cầu thang đặc trưng của các khu tập thể cũ tại Hà Nội: tối, nhỏ và hẹp.
Với mong muốn mang tới cho người xem cái nhìn chân thực, rõ nét về cuộc sống tại những khu tập thể “rất Hà Nội” này, nhóm bạn trẻ MyHanoi đã thực hiện một dự án mang tên Cuộc sống trong những “CHIẾC HỘP”. Qua những bức ảnh chụp về không gian thường nhật diễn ra quanh những “đặc sản kiến trúc” chỉ có tại Hà Nội, chúng ta dường như được cùng sống cuộc sống của nhiều thế hệ nơi đây với đủ cung bậc cảm xúc. Trong những "cái hộp" tồi tàn chỉ tầm 15 – 20m2 tưởng chừng khó có thể ở được, vẫn tồn tại vô số hộ gia đình sinh sống, làm việc tại đây với đủ tâm trạng buồn vui xen lẫn tiếng cười, tiếng khóc và bao bi hài chuyện cuộc sống.
Ban công được các hộ gia đình tận dụng phơi quần áo và treo đủ mọi thứ lên trên đó,nom thiệt giống những chiếc hộp màu sặc sỡ.
Từ những chiếc “lồng chim”…
… đến những “chuồng cọp”, nhà đeo ba lô.
Thiên đường của khu tập thể cũ dành cho trẻ con – sân chơi rộng rãi thênh thang tha hồ chạy nhảy – giờ ở Hà Nội hiếm biết bao…
Nắng chiều
Đặc sản đường ống dẫn nước và “mỳ ống” dây điện của Hà Nội.
Môi trường sống tạm bợ tại các khu tập thể.
Saturday, September 12, 2015
NGUYỄN TẤN HỒNG * GIÁO SƯ DƯƠNG QUẢNG HÀM
Về một ông thầy.
Dương Quảng Hàm, nghe qua cái tên, bất cứ ai quan tâm đến nền văn học Việt nam đều biết đó là một vị giáo sư có công lớn trong nền văn học nước nhà. Ngoài việc dạy học cho nhiều thế hệ học sinh, thầy còn nghiên cứu văn học và đã để lại cho hậu thế những công trình khảo cứu nghiêm túc và có giá trị. (Việt Nam Văn Học Sử Yếu/ Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển...) Ở đây chỉ có ý nhắc đến một câu chuyện có thật xảy ra vào những năm tháng thầy còn phụ trách giảng dạy môn văn học cho trường Bưởi ngoài Hà nội.
Khi còn là giáo sư ở trường Bưởi, thầy Hàm nổi tiếng là một ông thầy nghiêm, cả trường đều "rét" cái oai của thầy, hiếm khi thầy ban cho học sinh một nụ cười, phải nói là một ông thầy luôn có... "bộ mặt hình sự". Có lần một học sinh đã dùng com-pa vạch trên mặt bàn một vạch nhỏ để ghi dấu khi thầy Hàm nở nụ cười, dù chỉ là cười mỉm. Cho đến cuối năm học, anh chàng học sinh chuyên "sưu tập nụ cười thầy Hàm" đã làm "tổng kết" và công bố cho bạn bè đều biết là chỉ có... ba vạch mà thôi!1! Học với thầy là một ước mơ của những học sinh nào mê văn học, nhưng phải trả giá bằng cách gồng mình chịu những hình thức kỷ luật, suốt niên học phải chịu "rét" nhiều hơn là ấm áp.
Vậy mà một hôm, trong một lớp học của trường Bưởi, thầy Hàm đang say sưa giảng về một thể thơ gọi là "yết hậu" (một thứ thơ đường luật biến thể, gồm bốn câu: ba câu đầu có bảy chữ, và câu cuối chỉ có một chữ mà thôi). Cũng nên nói thêm là khi thầy Hàm giảng bài thì ông hay nói say sưa như lên đồng, đến không kịp... nuốt nước bọt. Có khi thì đang huyên thuyên như thế, bất chợt ông dừng lại... nuốt nước bọt đánh ực một phát, rồi mới nói tiếp. Đó là cố tật của thầy Hàm mà học sinh cả trường đều biết. Trở lại chuyện bài thơ yết hậu, sau khi giảng tất cả những niêm luật của thể thơ này, thầy Hàm đưa ra một thí dụ bằng một bài thơ do chính thầy cảm tác tại chỗ, bài thơ có nội dung mô tả một anh chàng bợm nhậu, khi chết xuống âm phủ được gặp mặt Diêm Vương mà trên tay vẫn còn cắp theo be rượu. Thơ rằng:
"Sống ở dương gian đánh chén nhè,
"Chết về âm phủ cắp kè kè
"Diêm vương phán hỏi rằng chi đó?
"Be" (tức là be rượu. )
Sau khi ngâm nga dứt bài thơ ngắn đó, thầy hất hàm ra hiệu cho cả lớp và nói:
"Em nào cho tôi một thí dụ tương tự xem nào."
Một quảng im lặng kéo dài hơn một phút, rồi đột ngột từ hàng ghế cuối lớp có một cánh tay giơ lên, thầy ra dấu cho phép học sinh kia đứng lên để đọc bài thơ của mình.
Sau một lúc chần chừ, anh chàng mới bắt đầu cất tìếng:
"Sống ở dương gian chỉ nuốt đàm,
"Chết về âm phủ nói làm nhàm.
"Diêm vương phán hỏi rằng ai đó?
Cậu học sinh nọ chỉ vừa đọc dứt câu ba, thì không ai bảo ai, cả lớp đều đồng thanh hét thật to:
"Hàm!!"
Nghe đến đây, chắc bà con đều nghĩ rằng cả lớp sẽ bị "ông hung thần" nghiêm trị, còn anh chàng học sinh chủ xướng kia chắc không tránh khỏi một trận đòn tuốt xác ra. Vậy mà như một phép lạ. thầy Hàm lại mỉm cười, một nụ cười thật tươi và hoàn toàn mang vẻ đôn hậu, dễ thương đến tội nghiệp. Và thưa bà con, nếu như năm học đó có anh chàng nào muốn "sưu tập nụ cười", thì chắc chắn sẽ được... bốn vạch trên mặt bàn học đấy.
Hôm nay, nhân ngày Nhà Giáo Việt Nam, tui muốn nhắc lại mẩu chuyện này, để tỏ lòng nhớ đến thầy Hàm, mong ông sẽ gặp toàn những người tử tế ở thế giới bên kia, đang say sưa giảng bài cho học sinh, môn Văn Học Việt Nam.
Một đôi lời ngắn ngủi, coi như một nén hương cho thầy, có gì thất thố, kính mong thầy lượng thứ.
Nguyễn Tấn Hồng
Khi còn là giáo sư ở trường Bưởi, thầy Hàm nổi tiếng là một ông thầy nghiêm, cả trường đều "rét" cái oai của thầy, hiếm khi thầy ban cho học sinh một nụ cười, phải nói là một ông thầy luôn có... "bộ mặt hình sự". Có lần một học sinh đã dùng com-pa vạch trên mặt bàn một vạch nhỏ để ghi dấu khi thầy Hàm nở nụ cười, dù chỉ là cười mỉm. Cho đến cuối năm học, anh chàng học sinh chuyên "sưu tập nụ cười thầy Hàm" đã làm "tổng kết" và công bố cho bạn bè đều biết là chỉ có... ba vạch mà thôi!1! Học với thầy là một ước mơ của những học sinh nào mê văn học, nhưng phải trả giá bằng cách gồng mình chịu những hình thức kỷ luật, suốt niên học phải chịu "rét" nhiều hơn là ấm áp.
Vậy mà một hôm, trong một lớp học của trường Bưởi, thầy Hàm đang say sưa giảng về một thể thơ gọi là "yết hậu" (một thứ thơ đường luật biến thể, gồm bốn câu: ba câu đầu có bảy chữ, và câu cuối chỉ có một chữ mà thôi). Cũng nên nói thêm là khi thầy Hàm giảng bài thì ông hay nói say sưa như lên đồng, đến không kịp... nuốt nước bọt. Có khi thì đang huyên thuyên như thế, bất chợt ông dừng lại... nuốt nước bọt đánh ực một phát, rồi mới nói tiếp. Đó là cố tật của thầy Hàm mà học sinh cả trường đều biết. Trở lại chuyện bài thơ yết hậu, sau khi giảng tất cả những niêm luật của thể thơ này, thầy Hàm đưa ra một thí dụ bằng một bài thơ do chính thầy cảm tác tại chỗ, bài thơ có nội dung mô tả một anh chàng bợm nhậu, khi chết xuống âm phủ được gặp mặt Diêm Vương mà trên tay vẫn còn cắp theo be rượu. Thơ rằng:
"Sống ở dương gian đánh chén nhè,
"Chết về âm phủ cắp kè kè
"Diêm vương phán hỏi rằng chi đó?
"Be" (tức là be rượu. )
Sau khi ngâm nga dứt bài thơ ngắn đó, thầy hất hàm ra hiệu cho cả lớp và nói:
"Em nào cho tôi một thí dụ tương tự xem nào."
Một quảng im lặng kéo dài hơn một phút, rồi đột ngột từ hàng ghế cuối lớp có một cánh tay giơ lên, thầy ra dấu cho phép học sinh kia đứng lên để đọc bài thơ của mình.
Sau một lúc chần chừ, anh chàng mới bắt đầu cất tìếng:
"Sống ở dương gian chỉ nuốt đàm,
"Chết về âm phủ nói làm nhàm.
"Diêm vương phán hỏi rằng ai đó?
Cậu học sinh nọ chỉ vừa đọc dứt câu ba, thì không ai bảo ai, cả lớp đều đồng thanh hét thật to:
"Hàm!!"
Nghe đến đây, chắc bà con đều nghĩ rằng cả lớp sẽ bị "ông hung thần" nghiêm trị, còn anh chàng học sinh chủ xướng kia chắc không tránh khỏi một trận đòn tuốt xác ra. Vậy mà như một phép lạ. thầy Hàm lại mỉm cười, một nụ cười thật tươi và hoàn toàn mang vẻ đôn hậu, dễ thương đến tội nghiệp. Và thưa bà con, nếu như năm học đó có anh chàng nào muốn "sưu tập nụ cười", thì chắc chắn sẽ được... bốn vạch trên mặt bàn học đấy.
Hôm nay, nhân ngày Nhà Giáo Việt Nam, tui muốn nhắc lại mẩu chuyện này, để tỏ lòng nhớ đến thầy Hàm, mong ông sẽ gặp toàn những người tử tế ở thế giới bên kia, đang say sưa giảng bài cho học sinh, môn Văn Học Việt Nam.
Một đôi lời ngắn ngủi, coi như một nén hương cho thầy, có gì thất thố, kính mong thầy lượng thứ.
Nguyễn Tấn Hồng
HUYỀN VIÊM * VÀI KỶ NIỆM VỚI NHÀ THƠ BÀNG BÁ LÂN
VÀI KỶ NIỆM
VỚI NHÀ THƠ BÀNG BÁ LÂN
Năm 1965. Một buổi chiều mùa hạ đẹp trời trước ngày nghỉ hè, anh chị em nhà giáo chúng tôi quây quần trong phòng giáo sư trường Lê Bảo Tịnh, một trường rất lớn ở Sài Gòn, vui vẻ nghĩ đến những ngày được nghỉ ngơi sắp tới sau một năm trời dạy học.
Mọi người chuyện vãn râm ran, kẻ uống trà, người rít thuốc lào trong khi chờ đợi bữa tiệc chia tay hằng năm do nhà trường khoản đãi giáo sư và nhân viên như thường lệ.
Chợt anh Giám học Chu Đăng Sơn nhìn vào một người và vui vẻ hỏi :- Thế nào, nhà thơ Bàng Bá Lân, anh có bài thơ mới nào ngâm lên cho anh em thưởng thức với chứ !Bấy giờ tôi chưa biết Bàng Bá Lân. Anh này quay lại cười trừ :- Dạy mệt bỏ xừ, làm gì còn thơ với thẩn !Thì ra đó là tác giả “Tiếng thông reo”.Anh Chu Đăng Sơn chỉ vào tôi và giới thiệu :- Còn đây là Huyền Viêm, cũng là nhà thơ đấy.Đồng thanh tương ứng, nhà thơ Bàng Bá Lân vui vẻ tiến đến nồng nhiệt bắt tay tôi :- Tôi đọc thơ anh đã lâu trên các tạp chí Đời Mới, Phổ Thông, Thẩm Mỹ, Văn Nghệ Tiền Phong, tiếc rằng đến nay mới gặp.Tôi quen Bàng Bá Lân từ đấy.Thời gian sau, anh Lân mời tôi đến nhà chơi. Gia đình anh sống trong một căn nhà nhỏ có sân trồng cây cảnh ở quận Phú Nhuận. Anh làm việc cật lực, dạy nhiều trường để nuôi một gia đình đông con, cuộc sống của anh thanh bạch nhưng vui vẻ và ấm cúng. Vợ anh, chị Phạm Kim Thuần, là một phụ nữ rất tốt. Chị tất bật, tần tảo lo cho chồng, cho con hơn là nghĩ đến mình.Bấy giờ giáo sư trường công dạy nghĩa vụ mỗi tuần chỉ 18 tiếng mà anh Lân gánh từ 40 đến 48 tiếng một tuần tại các tư thục, thời khóa biểu kín hết, chỉ trống ngày chủ nhật. Được cái là lương ở các tư thục rất cao, lương của một giáo sư trung bình tương đương từ một đến hai lượng vàng mỗi tháng tùy theo dạy nhiều hay ít, có tên tuổi hay không (hồi đó vàng rất rẻ). Còn các giáo sư tầm cỡ như Nguyên Sa Trần Bích Lan thì đi dạy bằng ô-tô là chuyện bình thường. Vì thế hồi đó nhiều giáo sư chệ trường công, chỉ thích dạy trường tư và các giáo sư trường công cũng tìm cách kiếm giờ ở trường tư để dạy thêm vào những ngày rảnh rỗi.Anh Lân nỗ lực làm việc trong năm bảy năm thì mua được nhà vì nhà ở Sài Gòn hồi ấy rất rẻ, chỉ vài chục lượng vàng đã có thể mua được một căn nhà mặt tiền khang trang, sạch đẹp. Từ đó chúng tôi thường đến thăm nhau để đàm đạo chuyện văn chương. Khi đã thân nhau rồi, chúng tôi thường rủ nhau ghé quán cà phê sau khi tan học buổi chiều. Một bữa, giữa lúc vui chuyện, anh đột ngột hỏi tôi :- Trong số thơ tôi, anh thích bài nào nhất?Câu hỏi thật khó trả lời vì tôi chưa bao giờ nghĩ đến. Tôi thật thà đáp :- Thơ anh tôi thích nhiều bài : Cổng làng nè, Hồ Xuân Hương nè, Giai nhân nè...nhung khó mà nói thích bài nào nhất...... Như chợt nhớ ra điều gì, tôi ngừng lại :- Nhưng bài gây cho tôi nhiều ấn tượng là bài “Sông Thương”....Không để tôi nói hết, anh nhổm dậy, reo lên :- Vậy sao? Bài ấy tôi cũng rất thích, nhưng thất lạc đâu đó, tôi chưa tìm ra. Mà tôi cũng quên mất mấy câu. Anh có thể đọc cho tôi nghe không?May là vì rất thích bài ấy, đọc nhiều lần nên thuộc, tôi bèn đọc cho anh nghe :Một lá thuyền thơ thả tắm trăng,Nước về đâu mãi, chảy xuôi dòng.Sông Thương đôi ngả, này cô lái,Hãy ghé cho vào bến nước trong ! (1)Đôi mảnh hồn quê quá ngẩn ngơ,Sinh nhầm thế kỷ, lạc tìm mơ.Nhìn ra trời nước dềnh nghiêng ngả,Say rượu hay là say ý thơ ?Trời nước này đây hai mảnh trăng,Vài ba lửa đóm ngỡ sao băng.Đôi chèo vỗ sóng ngờ sênh phách,Tưởng gái Tầm Dương ghé đãi đằng.Có tiếng đêm dài khóc ở đâu,Dế ven sông kéo nhị âu sầu.Đôi bờ lăng lắng muôn tai lá,Nước chở hồn sông dạt bãi dâu....Anh lim dim đôi mắt, lắng nghe thơ mà hồn như mơ về tận sông Thương ở Bắc Giang một mùa thu năm cũ. Khi tôi ngừng lại, anh mở mắt ra, buông một tiếng thở dài. Bài thơ toát lên một nỗi buồn mênh mang sâu lắng.Đến lượt tôi hỏi :- Anh đọc nhiều thơ tôi, vậy anh thích bài nào nhất ?Anh đáp, không cần suy nghĩ :- Bài “Lá thư về Bắc” đăng trên tạp chí Đời Mới (2). Bài thơ gợi cho tôi tình hoài hương sâu sắc và khiến tôi nhớ tới Đinh Hùng.Một buổi chiều thứ bảy gần Tết âm lịch năm Mậu Thân (1968), anh hẹn tôi sau giờ tan học buổi chiều ghé quán cà phê gần trường để nói chuyện thơ. Tôi ngồi ở phòng giáo sư chờ anh mãi nhưng không thấy. Chuông tan học đã lâu mà anh vẫn chưa xuống. Năm giờ, 5 giờ 15 rồi 5 giờ 30 mới thấy anh lò dò xuống, rối rít xin lỗi tôi vì đã trễ hẹn mất nửa giờ. Hỏi ra mới biết hôm ấy anh dạy Việt văn lớp 12, đến đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích, anh say sưa giảng quá giờ mà không hay, đến khi học trò nhắc anh mới sực tỉnh. Chả là nhà trường có hậu ý bố trí cho các lớp 12 sắp thi tú tài học trên lầu cao nhất để tránh tiếng ồn ào ở dưới sân, vì thế nhiều khi chuông reo mà thầy trò không nghe. Mê văn chương như anh kể cũng hiếm.Thấm thoắt đã đến ngày Sài Gòn giải phóng. Bấy giờ các nhà giáo chúng tôi chỉ được đăng ký dạy tai một trường, chứ không được dạy nhiều trường như trước nữa. Anh và tôi cùng đăng ký dạy tại trường Hưng Đạo, một trường lớn vào bậc nhất Sài Gòn vì trước đó chúng tôi đã từng dạy ở đây.Những năm đầu sau giải phóng, lương hướng nhà giáo thật khiêm tốn, đời sống thiếu thốn là chuyện tất nhiên. Năm 1978 còn sống dưới chế độ bao cấp, tình hình kinh tế rất khó khăn, các nhu yếu phẩm đều được phân phối với giá rẻ.Một hôm, ban đời sống của nhà trường thông báo mới nhận được một số lốp (vỏ) xe đạp nhưng hàng ít, người đông nên phải bốc thăm vào chiều hôm sau. Chẳng may hôm ấy anh Lân bị ốm, nên nhờ tôi bốc thăm hộ. Lần thứ nhất bốc thăm cho tôi : thăm trắng ! Lần thứ hai bốc thăm cho anh thì thăm trúng. Hai hôm sau, anh đi dạy lại, tôi trao cái lốp xe cho anh, anh mừng rỡ, mắt sáng lên khiến tôi vô cùng cảm động. Ngày nay cái lốp xe đạp có đáng gì nhưng hồi ấy rất quí đối với bọn nhà giáo chúng tôi vì xăng được phân phối mỗi tháng chỉ có 3 lít, còn chợ đen thì bán giá trên trời nên xe máy đành phải trùm mền, chỉ còn biết dùng xe đạp.Bàng Bá Lân cũng là người có tính hài hước. Năm 1985, trong một buổi họp mặt các nhà giáo còn dạy hay đã nghỉ, vốn là bạn cũ của nhau, anh Phan Thanh Đức than phiền :- Không hiểu sao ngày nay học trò hỗn láo quá, chẳng coi thầy cô ra gì cả.. Còn đâu là tinh thần “tôn sư trọng đạo”....Anh Lân chợt ngắt lời :- Anh nói sai rồi. Phải nói là “tôn viên trọng đạo” mới đúng chứ !- Tại sao ?- Anh không thấy ư ? Hiện nay trong cả nước, hơn chín chục phần trăm là giáo viên , còn không đầy mười phần trăm là giáo sư, vậy theo đa số phải nói là “tôn viên trọng đạo”.Mọi người phá ra cười.Bàng Bá Lân là vậy đó. Làm thơ hay, rất vui tính, tử tế và thân mật với bạn bè nên ai cũng mến. Thấm thoắt mà anh bỏ chúng ta đến hai chục năm rồi (1988-2008). Mỗi lần nghĩ tới anh là tôi nhớ đến một nhà thơ tài hoa, một nhà giáo nghiêm túc với vầng trán cao, đôi mắt sáng, nụ cười hiền dễ gây thiện cảm với mọi người.Hôm đưa đám anh, các nhà giáo và học sinh đưa tiễn khá đông. Lướt qua hàng nữ sinh, tôi ngước nhìn lên thì thấy trên mắt các em long lanh hai hàng lệ. Ai nấy đều ngậm ngùi thương tiếc một nhà giáo tâm huyết, một nhà thơ có tài mà không được nằm xuống ở quê hương, nơi có dòng sông Thương thơ mộng mà anh từng mến yêu và ca ngợi._________________________________________________________________________Ghi Chú:
(1) Con sông Thương nước chảy đôi dòng, một bên đục, một bên trong.
(2) Bài thơ này có đăng trên Newvietart, phần Thơ Nhạc.
MỘT BÀI THƠ HAY CỦA BÀNG BÁ LÂN
GIAI NHÂN
Giai nhân nan tái đắc
Lý Diên Niên
“Thư trung hữu nữ nhan như ngọc” (*),
Đọc sách mười năm chẳng gặp mình.
Chỉ thấy những tên xinh đẹp quá :
Tây Thi, Bao Tự, Thôi Oanh Oanh.
Ta thả hồn si lạc bốn trời,
Đi tìm người đẹp khắp nơi nơi.
Biết bao mong đợi, bao thương nhớ,
Mơ vẫn hoàn mơ, ôi lẻ loi !
Nhưng một chiều thu nắng trải vàng,
Trời xanh mây bạc lượn lang thang.
Ta đi tìm hứng trên hè phố
Rẽ một đường quanh, bỗng gặp... Nàng !
Từ đáy lòng ta thốt tiếng “Ôi !”,
Có chi đổ vỡ ở trong người.
Tay chân bủn rủn, hồn ngây ngất,
E lệ trào lên cả mắt môi !
Tóc biếc mây nhường, trán sáng cao,
Môi son he hé nụ anh đào.
Cổ thiên nga nõn, hàm răng ngọc,
Mũi thẳng, cằm thon, mắt ánh sao.
Nàng chỉ nhìn ta một thoáng nhanh
Mà như trao gửi biết bao tình.
Ngã ba sắp khuất, còn quay lại :
Một liếc xiêu xiêu cả vạn thành !
Ôi ! Kiếp con tằm, kiếp nhả tơ,
Bao năm tìm kiếm, gặp tình cờ,
Để mà mơ ước, mà thương tiếc :
Em lấy chồng, anh mãi dệt thơ !
Muôn đời thi sĩ với giai nhân
Gặp gỡ dù cho chỉ một lần,
Thơ mộng ngàn năm vang bóng mãi,
Cho ngàn năm mãi mãi bâng khuâng !
BÀNG BÁ LÂN
(Trong tập “Vào thu”)
_______________________________
(*) Thư trung hữu nữ nhan như ngọc : trong sách có cô gái mặt đẹp như ngọc..
TRUYỆN TÙ & VƯỢT BIÊN =LÊ TÔN NGHIÊM * SOCRATE= GIÁO SƯ NGHIÊM TOẢN
Thursday, September 17, 2015
HÀ LONG *TRUYỆN ĐỨA EM
Hành Trình Vượt Biển Đông: Truyện Đứa Em Tội Nghiệp
Nguồn: http://vantuyen.net -
::: Download audio file (mp3) :::
Một buổi chiều đầu tháng năm, chị em chúng tôi đang ở nhà, ba má đi vắng, xe công an tới đậu ngay trước cổng, bao vây quanh nhà và lục soát rất kỹ đồ đạc trong các phòng. Chúng tịch thu một số bản thảo do ba tôi viết, phần nhiều là hồi ký và những suy nghĩ của ba tôi về cuộc đời tù đày, về triết lý chính trị, về chế độ bắt ông ngồi tù hơn bảy năm.
Chúng hỏi chị em chúng tôi về những người khách hay đến nhà, những người và những nơi ba tôi thường lui tới. Nghi là chúng có thể bắt ba tôi như vẫn thường xảy ra, Quỳnh nhanh chân chạy ra cầu Kinh, chờ ba má tôi về, báo cho biết và dặn ba má tôi đừng về nhà nữa.
Ba má ở lại nhà một bà thầy bói mà má tôi quen thân, gần chợ Thị Nghè. Chỉ có tôi là chị cả được lên thăm. Ba má tôi quyết định trốn đi, chỉ còn một cách là vượt biên theo đường dây của người hàng xóm vừa đi lọt hôm tết. Ba má tôi định đem theo cả hai đứa út nhưng tôi cản lại, chỉ cho một đứa. Cuối cùng thì bé Hí được đi còn bé Bi ở lại với chị em chúng tôi. Khoảng cuối tháng 6, Diễm, em gái tôi, ở Mỹ gọi điện thoại về báo cho biết là ba má đã tới Bidong. Chúng tôi quá mừng. Thế là ba tôi thoát khỏi tù tội cộng sản một lần thứ hai nữa. Nhưng bây giờ tất cả gánh nặng đổ lên đầu tôi vì tôi là chị cả.
Khi Diễm gọi về, chúng tôi được gọi ra Bưu Điện Saigon để chờ nghe điện thoại. Nghĩ lại mà tức cười. Tôi chỉ vừa nghe: “Allô! Diễm đây!” là Diễm khóc nức nở. Tôi vội vàng la to lên “Hà đây! Hà đây Diễm ơi!” Rồi tôi cũng khóc, cả mấy em tôi, đứa nào cũng giành lấy ống nghe, gọi tên và khóc. Chúng tôi chỉ nghe được có mấy tiếng “Ba má đến Bidong rồi”, thế thôi! còn lại toàn là khóc. Chị em chúng tôi xa nhau thế mà đã năm năm, vắng tiếng, vắng hình mà chị em chúng tôi thì thương nhau lắm, đứa nào vắng nhà một ngày thôi cũng đã nhớ đã thương, huống gì năm năm trời đằng đẵng.
Niềm vui gặp gỡ qua thật nhanh. Ở nhà vắng ba má, nhà vắng vẻ lạ lùng. Nhìn cái gì cũng nhớ ba má cả. Ngoài sân, trong nhà, sau bếp, trên lầu, chỗ nào cũng nhớ, cũng thấy có ba má. Ba má ngồi chỗ này, ba má ăn chỗ này, ba má nằm chỗ này, ba má ở chỗ này...Chỗ nào cũng thấy ba má. Nhớ ba má và nhớ Hí không tưởng được.
Ba ngày sau ngày đầu tiên, xe công an lại đến. Lần này không xét nhà nhưng chúng hỏi kỹ ba má đi đâu, đi bao giờ, đi bao lâu về. Chị em chúng tôi nói liều là về Huế thăm ngoại bệnh. Ngoại già lắm rồi, hơn 90 tuổi. Nói vậy cho có lý. Tháng đầu thì sợ, sợ ba má vượt biên bị bắt, nhưng nhờ ơn trên...
Tháng 6 tháng 7, xe công an đến liền liền. Chúng hỏi đi hỏi lại là ba má đi sao lâu về, hỏi địa chỉ của ngoại ở Huế. Tôi nói dối là ngoại ở quê, chúng tôi xa Huế từ hồi nhỏ xíu, không rõ. Nghe nói các bạn của ba như chú V. Chú S. đều bị bắt cả, chú T. thì bị đánh chết trong tù. Cuối cùng, công an biểu tôi về Trung gọi ba má vào, chúng dụ là chỉ hỏi chuyện ba má thôi. Tôi nói là chị cả, không đi được, bỏ em không ai coi sóc, tụi nó toàn là con gái. Công an bèn bắt thằng em trai tôi, Bảo Long, biểu ra ngoài Trung gọi ba má về. Chúng tôi cũng chẳng lo vì bây giờ biết ba má ở Bidong rồi.
Mấy hôm trước cô tôi xuống thăm, không nói gì, chỉ khóc. Cô tôi rất mau nước mắt và rất thương ba tôi. Cô tôi dặn là coi chừng tụi nó sẽ xét nhà, tịch thu nhà, có gì quý thì lo cất. Tôi và thằng em trai cạy miếng gạch bông trong phòng ăn, lấy mấy lượng vàng lận vào lưng. Sau lần bị đánh tư sản và sau bao nhiêu lần vượt biên bị bắt, bị gạt, của cải ba má cất giấu chỉ còn lại chừng đó. Nghĩ mà thương ba má quá, một đời vất vả dành dụm, bỗng tài sản đi như nước chảy.
Công an phường lại đến tìm thằng em trai tôi, buộc phải đi Trung tìm ba má về. Tôi sợ thằng em trai tôi dám bị bắt lắm. Công an bắt nó để ba má tôi trốn ở đâu đó phải về. Nhân dịp chú Sáu, chú Mười ở Cà-Mau lên thăm, hai ông là người tổ chức cho ba má tôi đi, tôi lại biểu thằng em tôi đi. Sau mấy lần ngần ngại, nó nghĩ là ba má đã đi rồi, trong nhà chỉ có nó là trai, còn lại toàn là chị em gái nên nó không muốn đi. Nhưng sau lần công an gọi nó qua phường, đe dọa, biểu phải khai rõ ba má trốn ở đâu, còn không thì sẽ quy cho nó tội ngoan cố, bao che phản động làm thằng bé sợ quá. Hôm sau, 3 giờ sáng, tôi đưa nó ra bến xe Miền Tây, cho nó về Cà Mau theo đường dây cũ của ba má mà đi vượt biên.
Tội nghiệp thằng nhỏ ở cả tháng dưới ruộng mới đi được. Nó mà chịu ở ruộng lâu như thế là nó sợ công an lắm chứ cậu ta vốn dĩ là con trai độc nhứt của gia đình có tới sáu chị em gái, đẹp trai, con nhà giàu, cả nhà ai cũng cưng, ăn diện dữ lắm, chưa bao giờ phải khổ cả. Cũng tội nghiệp cho nó nữa: Ghe nó tấp vào đảo Redang, nghe nói chỉ cách Bidong có một hòn đảo vậy mà nó bị kéo ra khơi. Nó phá ghe để vào đất liền, lại bị kéo ra. Nó xin người ta cho nó vào Bidong, bập bẹ mấy tiếng Anh “My parents are on Bidong, let me come there” nhưng cũng bị đẩy ra. Ba lần như thế, nó cố đến với ba má mà không đến được. Cuối cùng nó bị đẩy qua Indo. Bây giờ thì nó thui thủi một mình ở trại tỵ nạn Galang.
Công an thấy vắng luôn thằng nhỏ, lại truy riết tới. Ngày nào công an phường cũng gọi tôi lên hạch hỏi, lấy cung, bắt làm tờ khai, kiểm điểm. Những thằng công an này thường đến uống cà-phê nơi quán tôi, để xã giao, tôi không tính tiền. Vậy mà bây giờ chúng làm mặt lạ. Tính tôi đã lì, lại ỷ mình là đàn bà con gái, tôi lại lì hơn. Ngày nào tôi cũng làm kiểm điểm giống ngày nào. Công an tức lắm. Vả lại, tôi cũng muốn chọc tức mấy thằng này. Ba má và Bảo đi rồi, còn lại năm chị em gái, chúng nó làm gì được? Chúng dọa tịch thu nhà vì nhà má tôi đứng tên. Tôi dọa lại tôi sẽ dẫn các em ra trụ sở Ủy Ban Nhân Dân Thành phố khiếu nại. Chúng nó thách. Dù sao thì án chưa xử, chưa tịch thu nhà được, nhưng nếu khi xử, dù xử khiếm diện ba má, chúng cũng sẽ lấy nhà vì luật lệ ở trong tay chúng. Chúng viện cớ quán cà-phê má tôi đứng tên, tịch thu môn bài, đóng cửa. Thật xui, quán mở chưa được mười hôm thì ba má trốn đi. Nhưng chị em tôi cũng chưa đói. Bảo đi ngay gốc nên tốn chỉ hơn một cây, còn Diễm ở Mỹ, nghe chị em tôi ở nhà loe ngoe với nhau, gởi tiếp mấy thùng quà, đủ tiêu chán. Có điều chị em chúng tôi buồn lắm. Bỗng dưng gia đình ly tán, ba má một nơi, chị em mỗi đứa một nơi. Chúng tôi không tổ chức party mỗi kỳ sinh nhật nữa. Mấy năm sau khi ba ở tù về, ba má cho mở party nhảy đầm. Ba má nói “Để cho các con được vui!” Ba má chỉ cấm không được làm ồn ào quá lắm, công an lưu ý, còn ba má thì bắc ghế giả bộ ngồi chơi trước cổng, canh chừng công an để “các con được vui!”
*********
Tình hình thế này thì chị em chúng tôi cũng phải đi thôi, không thể ở được nữa. Chúng nó ghim nhà tôi kinh quá, “bao vây kinh tế” kỷ quá. Không cho bán cà phê là chị em chúng tôi ngồi không tối ngày. Công an cứ gọi tôi hoài, cảnh cáo là đi xa phải xin phép. “Không thì khó khăn đấy.” Đó là lời chúng đe dọa.
Chú Sáu, chú Mười lại lên. Sợ công an, tôi gởi họ bên nhà cậu mợ, bàn với họ cách cho chị em chúng tôi đi. Bi nhỏ không kể, bây giờ còn bốn chị em, không đủ tiền ghe tàu cho tất cả. Tuy nhiên, nếu đưa vàng trước cho chủ ghe tổ chức thì đủ, nhưng nếu không đi được thì coi như mất vàng. Tôi suy đi tính lại thật kỹ: Ba má đi đường này, Bảo cũng đi đường này, an toàn. Chú Sáu và chú Mười thật thà, đáng tin. Chỉ sợ gặp xui. Dù gì thì cũng phải liều thôi, như câu bà nội hay nói đùa mà nay thành ra thật: “Một liều ba bảy cũng liều, cầm như con trẻ chơi diều đứt dây.” Diều đứt dây là coi như... không dám nghĩ tiếp. Chị em chúng tôi tới đường cùng rồi, đi thì may ra thoát còn không đi thì coi như chết cứng ở đây.
Từ khi ba má đi rồi, Bi tội lắm. Nó không chơi với trẻ con hàng xóm nữa, chỉ chơi một mình. Đang ngồi, tự nhiên nó thừ ra, mắt nhìn vào đâu đâu, rồi Bi khóc. Hỏi, Bi nói: “Bi nhớ ba má và Hí lắm.”
Đúng ra Tân Long là út. Tân sinh năm 1972. Mười hai năm sau, khi ba tôi đi ở tù về, vừa đúng 49 tuổi. Má nói đàn ông 49 tuổi xui lắm, nếu má sinh một đứa nữa thì sẽ xả xui cho ba. Vì vậy, năm đó, để xả xui cho ba, má tôi sinh liền hai đứa. Cả nhà, và cả bà con nữa, ai cũng cười. Hai đứa nhỏ này cách chị nó, đứa áp út những 12 năm, trong khi chị em chúng tôi cách nhau đều đều chỉ có 2 năm.
Hai đứa bé sinh đôi, lớn lên, ăn, chơi, ngủ với nhau nên thương nhau lắm. Vậy mà bây giờ Hí thì đã đi, chỉ còn lại thui thủi một mình Bi. Nó rất người lớn, không nhỏng nhẻo như trước, mỗi ngày đôi ba lần nó thờ thẫn nhìn đâu đâu, nghĩ đâu đâu, rồi khóc, cũng khóc một mình, không quấy rầy các chị. Tôi nghiệp, nó không còn cái vui hồn nhiên của trẻ thơ nữa. Năm tuổi đầu, Bi đã biết buồn đau vì những ly tán, xa cách, nhớ nhung và âm thầm chịu đựng. Bi không còn bắt chước các chị gọi đùa tôi là “Hà che (ke)” nữa (vì tôi gầy lắm), không gọi “Bảo sún” (vì Bảo sún răng). Bi gọi đúng tên, nghiêm chỉnh. Nó mất đi cái tính vui vẻ, đùa nghịch. Có khi nghe một bài hát quen, nó bỗng gọi tôi: “Hí biết hát bài này, nó có hát đấy”. Tôi nhớ hai đứa nhỏ rất thích bài Ali Baba. Mỗi khi quán cà phê mở bản nhạc nầy ra, tôi thấy Bi thờ thẫn, nhớ nhung. Nó thường nhớ những kỷ niệm khi hai đứa nhỏ sống với nhau. Bi chỉ còn một thú vui duy nhất, chơi trò chơi điện tử. Đôi khi đưa Bi đi chợ, qua chỗ có trò chơi điện tử, nó nằng nặc xin hai trăm đồng để vào chơi. Tôi đứng ngoài chờ. Nhìn cái lưng nhỏ bé của nó đang ngồi chung với đám con trai trên dưới hai mươi tuổi mà tức cười. Vậy mà chơi lúc nào nó cũng ăn. Mấy đứa trong phường mỗi lần thấy Bi, nói với nhau: “Con bé đó, nhỏ vậy mà chơi điện tử hay vô cùng”. Bi giống chị em chúng tôi, đứa nào cũng thông minh.
Mấy đêm trú nơi cửa biển chờ vượt biên, nó đã khôn lại khéo. Nó bảo là đi gặp ba má phải mặc quần áo đẹp cho ba má thương, lại còn chuẩn bị đem quần áo sang cho Hí. Nó nói là gặp Hí sẽ không gọi “mày tao” nữa, gọi là em Hí, xưng là chị Bi, để khỏi bị người ta mắng là “mất dạy”. Buổi chiều hôm trước khi ra biển, tôi nhờ bà chủ nhà mua cua về luộc ăn. Đòi ăn cái càng cua, Bi nói: “Đưa cái miệng cua cho Bi” khiến mấy chị em tôi cười. Đêm ra đi, Bi tắm rửa, soi gương, chải tóc, lấy ráy tai, thay quần áo đẹp. Bi chuẩn bị đi thăm ba má kỹ đến thế.
Khi xuống ghe, ghe có mui, Vũ Long bồng Bi ngồi trong cùng. Chúng tôi ngồi ở ngoài. Vì vậy, khi ghe lật, Vũ và Bi kẹt trong mui, không văng ra khỏi ghe như mấy chị em. Mọi người bám vào ghe. Tôi đứng trên lưng ghe, lạy lục, van xin, người ta chui vào ghe cứu các em tôi. Quỳnh, Tân lên được trên lưng ghe, còn tỉnh. Khi lôi được Vũ ra ngoài thì nó bất tỉnh rồi, bụng đã phình lên vì uống nhiều nước. Vì bất tỉnh nên Vũ không giữ được Bi, Bi chết trong tay Vũ.
*********
Người ta vớt mấy chị em chúng tôi đưa lên ghe lớn. Vũ được hút nước, làm hô hấp nhân tạo, cả tiếng đồng hồ sau mới tỉnh lại. Mấy chị em ôm nhau mà khóc sướt mướt, thương Bi quá, và thương thân nữa. Thương Bi nhiều nhất. Vượt biên dễ sợ quá, kinh hoàng quá, ghê gớm quá! Chúng tôi ở trên ghe chờ suốt đêm hôm đó, qua hết ngày hôm sau để người ta tìm xác Bi. Nếu tìm được, tôi sẽ nhờ chủ tàu đem Bi về chôn, chúng tôi tiếp tục đi. Đến Bidong không có Bi biết ăn nói với ba má ra làm sao?! Nếu không tìm được xác Bi, chúng tôi sẽ quay về, cố tìm xác em để chôn em vào đất cho được ấm áp. Tội nghiệp cho đứa em bé nhỏ của tôi, âm thầm chịu đau đớn vì ly tán, vì thương nhớ, âm thầm đi vào cõi chết, không một tiếng khóc đau đớn, không một tiếng than cho số mệnh, không một lời nhỏng nhẻo, một cái chào tay giã từ, nhớ lời Vũ Long nói, Bi chỉ kêu lên mấy tiếng “Ba ơi, má ơi” trước khi nước tràn vào ngập cả mui ghe.
Chiều hôm đó, không tìm được xác Bi, người chủ tàu đem ghe ra đón mấy chị em chúng tôi về. Ngày ra đi vui tươi, hy vọng bao nhiêu thì ngày về buồn bã và đau đớn bấy nhiêu! Năm chi em gái đã thiếu một đứa nhỏ nhất, bé bỏng nhất, dễ thương nhất.
Ba giờ sáng, người chủ ghe đón tàu đò cho chúng tôi về Cà-Mau. Chúng tôi sẽ ở lại đó chờ tìm xác Bi, chôn cất xong, chúng tôi mới về Saigon. Nhà chắc không còn. Chúng tôi khóa nhà đi đã hơn mười ngày. Công an đang “ghim” nhà tôi, thấy vắng, chắc chúng sẽ niêm phong. Nhà không còn, tiền bạc cũng không còn, chúng tôi sống bằng gì bây giờ. Nhưng vì thương em, thế nào chúng tôi cũng phải về.
Người ta bọc xác Bi trong một cái áo mưa nylon, đóng vội cái quan tài bằng sáu miếng ván thuyền, chôn ở một khu rừng nào đó, tại một cửa sông nào đó... Bi nhỏ bé của tôi, Bi dễ thương của tôi, Bi “sinh sau đẻ muộn”, Bi đến muộn màng trong gia đình mấy chị em chúng tôi, Bi ra đi vội vàng trong gia đình mấy chị em chúng tôi, và rồi Bi đã nằm lại đó, ở một cửa sông, giữa một khu rừng đước hoang dại, cô đơn, lẻ loi, lạnh lẽo. Ôi, Bi yêu dấu; tội nghiệp cho Bi của tôi biết bao nhiêu!
Sáu tháng sau, tôi nhắn người chủ tàu lên, đưa tôi về bốc mộ cho em. Ngày đi, có Vũ Long đi theo, phòng khi tôi bị ngất xỉu vì đau đớn. Tôi về ở lại nhà người chủ tàu. Bốn giờ sáng, tôi, Vũ Long, người chủ tàu và hai người làm công chèo thuyền ra cửa sông. Tôi ngồi trên ghe, nghĩ đến đứa em bé nhỏ tội nghiệp mà nước mắt cứ tuôn ra ròng ròng. Tôi thấy Vũ Long cũng lau nước mắt. Hai chị em âm thầm khóc. Gần tới cửa sông, ghe rẻ vào một con rạch. Đi càng xa, rạch càng nhỏ dần, hai bên là rừng hoang. Sợ công an, người ta đã đưa em tôi vào đây, chôn giấu một cách lén lút, vội vàng. Ngôi mộ được đánh dấu bằng hai cọc cây: Một cao đằng đầu, một thấp đằng chân. Đầu em tôi quay về hướng nam, hướng đảo Bidong, nơi ba má tôi đang sống trong trại tỵ nạn. Không biết vô tình hay cố ý, người ta đã chôn em tôi hướng về phía ba má tôi. Đất mềm và ướt, chỉ cuốc một chốc, tiếng cuốc đụng nhẹ vào nắp hòm một tiếng cộp nhẹ, tiếng dội nhẹ đập thẳng vào tim tôi. Tôi kêu lên hai tiếng “Bi ơi” và khóc nức nở. Vũ cũng khóc. Tôi cố chồm tới để cố nhìn vào quan tài nhưng người chủ ghe giữ tôi lại, bảo tôi khóc nhỏ, sợ công an, du kích nghe thấy, tìm tới thì bị bắt cả đám. Một lúc sau, quan tài được đưa lên mặt đất, ván còn nguyên, chưa mục. Tôi lại nhoài người tới để xem em tôi nằm trong hòm nhưng người ta lại không cho. Tôi ngoan ngoãn ngồi yên. Tôi nghĩ tới nỗi đau đớn khi nắp hòm cạy ra và Bi nằm yên lặng trong đó. Tôi nhắm mắt và cố nghĩ tới ba má. Nghĩ tới ba má sẽ vơi đi những nỗi khổ đau...
*********
Ba má ơi! Nếu con đưa được em về thì coi như con đã làm tròn phần nào bổn phận đối với ba má. Con tưởng là con đem em đi cho ba má được gặp em, cho ba má đỡ nhớ, đỡ thương, cho ba má được gần gũi đứa con “ănsau chạy dọi” bé nhỏ tội nghiệp mà ba má thương lắm, cho hai chị em sinh sau muộn màng được gặp nhau, được ăn uống vui đùa cùng nhau. Ngờ đâu hôm nay con lại đưa em về, cũng lén lút như khi đưa em đi. Người ta đang sắp những lóng xương, đốt xương nhỏ bé tội nghiệp của Bi vào cái rương thiếc con đã mua sẵn. Khuôn mặt dễ thương ấy, bàn tay bàn chân nhỏ nhắn ấy, giờ đây chỉ còn lại những cái xương vô tình, còn đâu da dẻ hồng hào trắng muốt của em.
Ba má kính yêu,
Hí phiêu bạt của chị Hà,
Con đã lén lút đưa em về, và lại một lần nữa lén lút đem chôn em bên mộ bà nội. Con đã khấn trước mộ: “Nội ơi! Bây giờ ba má đi xa mà em thì côi cút. Con đưa em về ở với nội, gởi cho nội gần gũi hôm sớm để nội chăm sóc cho em, để em vui đùa với nội. Tối tối, nội sẽ hiện lên ngồi trên mộ, em sẽ bắt chí cho nội như mẹ con Cúc Hoa ngày xưa. Đến khi gà gáy sáng, em và nội sẽ về lại cõi âm. Có lẽ em sẽ hỏi bao giờ thì ba má về thăm nội, thăm em. Nội cứ liệu mà trả lời cho em khỏi buồn!”
Sau khi chúng con về, nhà đã bị tịch thu nên chị em chúng con không về nhà cũ nữa. Nhà không còn mà chị em cũng không muốn trở về lại căn nhà dấu yêu và quá nhiều kỷ niệm ấy! Để sống, chúng con phải chạy trốn kỷ niệm. Ba má tha lỗi cho chúng con.
Tết vừa qua, chỉ có bốn chị em chúng con ở với nhau, nhớ ba má, nhớ Hí, nhớ Bảo, nhớ Diễm vô cùng. Nhiều đêm bốn chị em nằm ôm nhau mà khóc. Con khóc ít nhất vì con là chị cả, nhưng con cũng ngủ sau cùng khi các em khóc nhiều, mệt và ngủ thiếp đi, cũng vì con là chị cả.
*********
Một năm sau ngày ba má đi, nhiều sóng gió quá mà chị em chúng con thì cô quạnh quá. Ba bị ở tù Cọng Sản 7 năm, vắng ba còn có má. Bây giờ thì vắng cả ba lẫn má.
Một năm qua, một năm kinh hoàng, đau khổ và cô đơn. Kinh hoàng, con không sợ vì chị em chúng con sinh ra trong chiến tranh, lớn lên trong chiến tranh, đã quá quen với bao nỗi kinh hoàng. Kinh hoàng vì năm ngàn người bị giết ở Huế hồi tết Mậu Thân, lúc gia đình mình còn ở ngoài ấy, con mới 5 tuổi; kinh hoàng vì ngày 30 tháng Tư, con mới mười ba tuổi. Đau khổ, con cũng không sợ, vì con chấp nhận triết lý Phật giáo, “Đời là bể khổ”, nhưng chị em chúng con rất sợ cô đơn. Xa ba má, chúng con rất cô đơn. Tất cả chị em chúng con đều sợ cô đơn. Ba má nhớ thư Diễm viết về khi nó ở Bidong năm 1984 không: “Tối qua, lúc ba giờ, giật mình thức dậy, cảm thấy bơ vơ và nhận thấy một cách rõ rệt và đau đớn rằng giờ ba má đã xa rồi, các em đã xa lắm rồi. Mai đây và dài lâu nữa, con một mình sống cuộc đời của kẻ tha hương, biết bao giờ con mới gặp lại ba má và các em... “
Giờ thì “ba má đã xa lắm rồi!”, đang lạc loài nơi đất khách, lưu đày nơi xứ lạ, sống đời vong quốc. Bốn chị em chúng con ở đây, ngay trên quê hương mình, cũng đang chịu kiếp lưu đày. Lưu đày ngay chính trên quê hương mình, đó là câu của Saint Exupery mà ba thường nói khi còn ở nhà. Bây giờ mấy chị em sống côi cút với nhau lại càng thấm thía lời ba nói, đau xót cho ai bị lưu đày ngay chính trên quê hương mình.
Hôn ba má và Hí ngàn vạn cái.
Hà Long
(Bidong, năm 1990, tuệ chương viết lại theo thư của con)
Nguồn: http://vantuyen.net -
::: Download audio file (mp3) :::
Một buổi chiều đầu tháng năm, chị em chúng tôi đang ở nhà, ba má đi vắng, xe công an tới đậu ngay trước cổng, bao vây quanh nhà và lục soát rất kỹ đồ đạc trong các phòng. Chúng tịch thu một số bản thảo do ba tôi viết, phần nhiều là hồi ký và những suy nghĩ của ba tôi về cuộc đời tù đày, về triết lý chính trị, về chế độ bắt ông ngồi tù hơn bảy năm.
Chúng hỏi chị em chúng tôi về những người khách hay đến nhà, những người và những nơi ba tôi thường lui tới. Nghi là chúng có thể bắt ba tôi như vẫn thường xảy ra, Quỳnh nhanh chân chạy ra cầu Kinh, chờ ba má tôi về, báo cho biết và dặn ba má tôi đừng về nhà nữa.
Ba má ở lại nhà một bà thầy bói mà má tôi quen thân, gần chợ Thị Nghè. Chỉ có tôi là chị cả được lên thăm. Ba má tôi quyết định trốn đi, chỉ còn một cách là vượt biên theo đường dây của người hàng xóm vừa đi lọt hôm tết. Ba má tôi định đem theo cả hai đứa út nhưng tôi cản lại, chỉ cho một đứa. Cuối cùng thì bé Hí được đi còn bé Bi ở lại với chị em chúng tôi. Khoảng cuối tháng 6, Diễm, em gái tôi, ở Mỹ gọi điện thoại về báo cho biết là ba má đã tới Bidong. Chúng tôi quá mừng. Thế là ba tôi thoát khỏi tù tội cộng sản một lần thứ hai nữa. Nhưng bây giờ tất cả gánh nặng đổ lên đầu tôi vì tôi là chị cả.
Khi Diễm gọi về, chúng tôi được gọi ra Bưu Điện Saigon để chờ nghe điện thoại. Nghĩ lại mà tức cười. Tôi chỉ vừa nghe: “Allô! Diễm đây!” là Diễm khóc nức nở. Tôi vội vàng la to lên “Hà đây! Hà đây Diễm ơi!” Rồi tôi cũng khóc, cả mấy em tôi, đứa nào cũng giành lấy ống nghe, gọi tên và khóc. Chúng tôi chỉ nghe được có mấy tiếng “Ba má đến Bidong rồi”, thế thôi! còn lại toàn là khóc. Chị em chúng tôi xa nhau thế mà đã năm năm, vắng tiếng, vắng hình mà chị em chúng tôi thì thương nhau lắm, đứa nào vắng nhà một ngày thôi cũng đã nhớ đã thương, huống gì năm năm trời đằng đẵng.
Niềm vui gặp gỡ qua thật nhanh. Ở nhà vắng ba má, nhà vắng vẻ lạ lùng. Nhìn cái gì cũng nhớ ba má cả. Ngoài sân, trong nhà, sau bếp, trên lầu, chỗ nào cũng nhớ, cũng thấy có ba má. Ba má ngồi chỗ này, ba má ăn chỗ này, ba má nằm chỗ này, ba má ở chỗ này...Chỗ nào cũng thấy ba má. Nhớ ba má và nhớ Hí không tưởng được.
Ba ngày sau ngày đầu tiên, xe công an lại đến. Lần này không xét nhà nhưng chúng hỏi kỹ ba má đi đâu, đi bao giờ, đi bao lâu về. Chị em chúng tôi nói liều là về Huế thăm ngoại bệnh. Ngoại già lắm rồi, hơn 90 tuổi. Nói vậy cho có lý. Tháng đầu thì sợ, sợ ba má vượt biên bị bắt, nhưng nhờ ơn trên...
Tháng 6 tháng 7, xe công an đến liền liền. Chúng hỏi đi hỏi lại là ba má đi sao lâu về, hỏi địa chỉ của ngoại ở Huế. Tôi nói dối là ngoại ở quê, chúng tôi xa Huế từ hồi nhỏ xíu, không rõ. Nghe nói các bạn của ba như chú V. Chú S. đều bị bắt cả, chú T. thì bị đánh chết trong tù. Cuối cùng, công an biểu tôi về Trung gọi ba má vào, chúng dụ là chỉ hỏi chuyện ba má thôi. Tôi nói là chị cả, không đi được, bỏ em không ai coi sóc, tụi nó toàn là con gái. Công an bèn bắt thằng em trai tôi, Bảo Long, biểu ra ngoài Trung gọi ba má về. Chúng tôi cũng chẳng lo vì bây giờ biết ba má ở Bidong rồi.
Mấy hôm trước cô tôi xuống thăm, không nói gì, chỉ khóc. Cô tôi rất mau nước mắt và rất thương ba tôi. Cô tôi dặn là coi chừng tụi nó sẽ xét nhà, tịch thu nhà, có gì quý thì lo cất. Tôi và thằng em trai cạy miếng gạch bông trong phòng ăn, lấy mấy lượng vàng lận vào lưng. Sau lần bị đánh tư sản và sau bao nhiêu lần vượt biên bị bắt, bị gạt, của cải ba má cất giấu chỉ còn lại chừng đó. Nghĩ mà thương ba má quá, một đời vất vả dành dụm, bỗng tài sản đi như nước chảy.
Công an phường lại đến tìm thằng em trai tôi, buộc phải đi Trung tìm ba má về. Tôi sợ thằng em trai tôi dám bị bắt lắm. Công an bắt nó để ba má tôi trốn ở đâu đó phải về. Nhân dịp chú Sáu, chú Mười ở Cà-Mau lên thăm, hai ông là người tổ chức cho ba má tôi đi, tôi lại biểu thằng em tôi đi. Sau mấy lần ngần ngại, nó nghĩ là ba má đã đi rồi, trong nhà chỉ có nó là trai, còn lại toàn là chị em gái nên nó không muốn đi. Nhưng sau lần công an gọi nó qua phường, đe dọa, biểu phải khai rõ ba má trốn ở đâu, còn không thì sẽ quy cho nó tội ngoan cố, bao che phản động làm thằng bé sợ quá. Hôm sau, 3 giờ sáng, tôi đưa nó ra bến xe Miền Tây, cho nó về Cà Mau theo đường dây cũ của ba má mà đi vượt biên.
Tội nghiệp thằng nhỏ ở cả tháng dưới ruộng mới đi được. Nó mà chịu ở ruộng lâu như thế là nó sợ công an lắm chứ cậu ta vốn dĩ là con trai độc nhứt của gia đình có tới sáu chị em gái, đẹp trai, con nhà giàu, cả nhà ai cũng cưng, ăn diện dữ lắm, chưa bao giờ phải khổ cả. Cũng tội nghiệp cho nó nữa: Ghe nó tấp vào đảo Redang, nghe nói chỉ cách Bidong có một hòn đảo vậy mà nó bị kéo ra khơi. Nó phá ghe để vào đất liền, lại bị kéo ra. Nó xin người ta cho nó vào Bidong, bập bẹ mấy tiếng Anh “My parents are on Bidong, let me come there” nhưng cũng bị đẩy ra. Ba lần như thế, nó cố đến với ba má mà không đến được. Cuối cùng nó bị đẩy qua Indo. Bây giờ thì nó thui thủi một mình ở trại tỵ nạn Galang.
Công an thấy vắng luôn thằng nhỏ, lại truy riết tới. Ngày nào công an phường cũng gọi tôi lên hạch hỏi, lấy cung, bắt làm tờ khai, kiểm điểm. Những thằng công an này thường đến uống cà-phê nơi quán tôi, để xã giao, tôi không tính tiền. Vậy mà bây giờ chúng làm mặt lạ. Tính tôi đã lì, lại ỷ mình là đàn bà con gái, tôi lại lì hơn. Ngày nào tôi cũng làm kiểm điểm giống ngày nào. Công an tức lắm. Vả lại, tôi cũng muốn chọc tức mấy thằng này. Ba má và Bảo đi rồi, còn lại năm chị em gái, chúng nó làm gì được? Chúng dọa tịch thu nhà vì nhà má tôi đứng tên. Tôi dọa lại tôi sẽ dẫn các em ra trụ sở Ủy Ban Nhân Dân Thành phố khiếu nại. Chúng nó thách. Dù sao thì án chưa xử, chưa tịch thu nhà được, nhưng nếu khi xử, dù xử khiếm diện ba má, chúng cũng sẽ lấy nhà vì luật lệ ở trong tay chúng. Chúng viện cớ quán cà-phê má tôi đứng tên, tịch thu môn bài, đóng cửa. Thật xui, quán mở chưa được mười hôm thì ba má trốn đi. Nhưng chị em tôi cũng chưa đói. Bảo đi ngay gốc nên tốn chỉ hơn một cây, còn Diễm ở Mỹ, nghe chị em tôi ở nhà loe ngoe với nhau, gởi tiếp mấy thùng quà, đủ tiêu chán. Có điều chị em chúng tôi buồn lắm. Bỗng dưng gia đình ly tán, ba má một nơi, chị em mỗi đứa một nơi. Chúng tôi không tổ chức party mỗi kỳ sinh nhật nữa. Mấy năm sau khi ba ở tù về, ba má cho mở party nhảy đầm. Ba má nói “Để cho các con được vui!” Ba má chỉ cấm không được làm ồn ào quá lắm, công an lưu ý, còn ba má thì bắc ghế giả bộ ngồi chơi trước cổng, canh chừng công an để “các con được vui!”
*********
Tình hình thế này thì chị em chúng tôi cũng phải đi thôi, không thể ở được nữa. Chúng nó ghim nhà tôi kinh quá, “bao vây kinh tế” kỷ quá. Không cho bán cà phê là chị em chúng tôi ngồi không tối ngày. Công an cứ gọi tôi hoài, cảnh cáo là đi xa phải xin phép. “Không thì khó khăn đấy.” Đó là lời chúng đe dọa.
Chú Sáu, chú Mười lại lên. Sợ công an, tôi gởi họ bên nhà cậu mợ, bàn với họ cách cho chị em chúng tôi đi. Bi nhỏ không kể, bây giờ còn bốn chị em, không đủ tiền ghe tàu cho tất cả. Tuy nhiên, nếu đưa vàng trước cho chủ ghe tổ chức thì đủ, nhưng nếu không đi được thì coi như mất vàng. Tôi suy đi tính lại thật kỹ: Ba má đi đường này, Bảo cũng đi đường này, an toàn. Chú Sáu và chú Mười thật thà, đáng tin. Chỉ sợ gặp xui. Dù gì thì cũng phải liều thôi, như câu bà nội hay nói đùa mà nay thành ra thật: “Một liều ba bảy cũng liều, cầm như con trẻ chơi diều đứt dây.” Diều đứt dây là coi như... không dám nghĩ tiếp. Chị em chúng tôi tới đường cùng rồi, đi thì may ra thoát còn không đi thì coi như chết cứng ở đây.
Từ khi ba má đi rồi, Bi tội lắm. Nó không chơi với trẻ con hàng xóm nữa, chỉ chơi một mình. Đang ngồi, tự nhiên nó thừ ra, mắt nhìn vào đâu đâu, rồi Bi khóc. Hỏi, Bi nói: “Bi nhớ ba má và Hí lắm.”
Đúng ra Tân Long là út. Tân sinh năm 1972. Mười hai năm sau, khi ba tôi đi ở tù về, vừa đúng 49 tuổi. Má nói đàn ông 49 tuổi xui lắm, nếu má sinh một đứa nữa thì sẽ xả xui cho ba. Vì vậy, năm đó, để xả xui cho ba, má tôi sinh liền hai đứa. Cả nhà, và cả bà con nữa, ai cũng cười. Hai đứa nhỏ này cách chị nó, đứa áp út những 12 năm, trong khi chị em chúng tôi cách nhau đều đều chỉ có 2 năm.
Hai đứa bé sinh đôi, lớn lên, ăn, chơi, ngủ với nhau nên thương nhau lắm. Vậy mà bây giờ Hí thì đã đi, chỉ còn lại thui thủi một mình Bi. Nó rất người lớn, không nhỏng nhẻo như trước, mỗi ngày đôi ba lần nó thờ thẫn nhìn đâu đâu, nghĩ đâu đâu, rồi khóc, cũng khóc một mình, không quấy rầy các chị. Tôi nghiệp, nó không còn cái vui hồn nhiên của trẻ thơ nữa. Năm tuổi đầu, Bi đã biết buồn đau vì những ly tán, xa cách, nhớ nhung và âm thầm chịu đựng. Bi không còn bắt chước các chị gọi đùa tôi là “Hà che (ke)” nữa (vì tôi gầy lắm), không gọi “Bảo sún” (vì Bảo sún răng). Bi gọi đúng tên, nghiêm chỉnh. Nó mất đi cái tính vui vẻ, đùa nghịch. Có khi nghe một bài hát quen, nó bỗng gọi tôi: “Hí biết hát bài này, nó có hát đấy”. Tôi nhớ hai đứa nhỏ rất thích bài Ali Baba. Mỗi khi quán cà phê mở bản nhạc nầy ra, tôi thấy Bi thờ thẫn, nhớ nhung. Nó thường nhớ những kỷ niệm khi hai đứa nhỏ sống với nhau. Bi chỉ còn một thú vui duy nhất, chơi trò chơi điện tử. Đôi khi đưa Bi đi chợ, qua chỗ có trò chơi điện tử, nó nằng nặc xin hai trăm đồng để vào chơi. Tôi đứng ngoài chờ. Nhìn cái lưng nhỏ bé của nó đang ngồi chung với đám con trai trên dưới hai mươi tuổi mà tức cười. Vậy mà chơi lúc nào nó cũng ăn. Mấy đứa trong phường mỗi lần thấy Bi, nói với nhau: “Con bé đó, nhỏ vậy mà chơi điện tử hay vô cùng”. Bi giống chị em chúng tôi, đứa nào cũng thông minh.
Mấy đêm trú nơi cửa biển chờ vượt biên, nó đã khôn lại khéo. Nó bảo là đi gặp ba má phải mặc quần áo đẹp cho ba má thương, lại còn chuẩn bị đem quần áo sang cho Hí. Nó nói là gặp Hí sẽ không gọi “mày tao” nữa, gọi là em Hí, xưng là chị Bi, để khỏi bị người ta mắng là “mất dạy”. Buổi chiều hôm trước khi ra biển, tôi nhờ bà chủ nhà mua cua về luộc ăn. Đòi ăn cái càng cua, Bi nói: “Đưa cái miệng cua cho Bi” khiến mấy chị em tôi cười. Đêm ra đi, Bi tắm rửa, soi gương, chải tóc, lấy ráy tai, thay quần áo đẹp. Bi chuẩn bị đi thăm ba má kỹ đến thế.
Khi xuống ghe, ghe có mui, Vũ Long bồng Bi ngồi trong cùng. Chúng tôi ngồi ở ngoài. Vì vậy, khi ghe lật, Vũ và Bi kẹt trong mui, không văng ra khỏi ghe như mấy chị em. Mọi người bám vào ghe. Tôi đứng trên lưng ghe, lạy lục, van xin, người ta chui vào ghe cứu các em tôi. Quỳnh, Tân lên được trên lưng ghe, còn tỉnh. Khi lôi được Vũ ra ngoài thì nó bất tỉnh rồi, bụng đã phình lên vì uống nhiều nước. Vì bất tỉnh nên Vũ không giữ được Bi, Bi chết trong tay Vũ.
*********
Người ta vớt mấy chị em chúng tôi đưa lên ghe lớn. Vũ được hút nước, làm hô hấp nhân tạo, cả tiếng đồng hồ sau mới tỉnh lại. Mấy chị em ôm nhau mà khóc sướt mướt, thương Bi quá, và thương thân nữa. Thương Bi nhiều nhất. Vượt biên dễ sợ quá, kinh hoàng quá, ghê gớm quá! Chúng tôi ở trên ghe chờ suốt đêm hôm đó, qua hết ngày hôm sau để người ta tìm xác Bi. Nếu tìm được, tôi sẽ nhờ chủ tàu đem Bi về chôn, chúng tôi tiếp tục đi. Đến Bidong không có Bi biết ăn nói với ba má ra làm sao?! Nếu không tìm được xác Bi, chúng tôi sẽ quay về, cố tìm xác em để chôn em vào đất cho được ấm áp. Tội nghiệp cho đứa em bé nhỏ của tôi, âm thầm chịu đau đớn vì ly tán, vì thương nhớ, âm thầm đi vào cõi chết, không một tiếng khóc đau đớn, không một tiếng than cho số mệnh, không một lời nhỏng nhẻo, một cái chào tay giã từ, nhớ lời Vũ Long nói, Bi chỉ kêu lên mấy tiếng “Ba ơi, má ơi” trước khi nước tràn vào ngập cả mui ghe.
Chiều hôm đó, không tìm được xác Bi, người chủ tàu đem ghe ra đón mấy chị em chúng tôi về. Ngày ra đi vui tươi, hy vọng bao nhiêu thì ngày về buồn bã và đau đớn bấy nhiêu! Năm chi em gái đã thiếu một đứa nhỏ nhất, bé bỏng nhất, dễ thương nhất.
Ba giờ sáng, người chủ ghe đón tàu đò cho chúng tôi về Cà-Mau. Chúng tôi sẽ ở lại đó chờ tìm xác Bi, chôn cất xong, chúng tôi mới về Saigon. Nhà chắc không còn. Chúng tôi khóa nhà đi đã hơn mười ngày. Công an đang “ghim” nhà tôi, thấy vắng, chắc chúng sẽ niêm phong. Nhà không còn, tiền bạc cũng không còn, chúng tôi sống bằng gì bây giờ. Nhưng vì thương em, thế nào chúng tôi cũng phải về.
Người ta bọc xác Bi trong một cái áo mưa nylon, đóng vội cái quan tài bằng sáu miếng ván thuyền, chôn ở một khu rừng nào đó, tại một cửa sông nào đó... Bi nhỏ bé của tôi, Bi dễ thương của tôi, Bi “sinh sau đẻ muộn”, Bi đến muộn màng trong gia đình mấy chị em chúng tôi, Bi ra đi vội vàng trong gia đình mấy chị em chúng tôi, và rồi Bi đã nằm lại đó, ở một cửa sông, giữa một khu rừng đước hoang dại, cô đơn, lẻ loi, lạnh lẽo. Ôi, Bi yêu dấu; tội nghiệp cho Bi của tôi biết bao nhiêu!
Sáu tháng sau, tôi nhắn người chủ tàu lên, đưa tôi về bốc mộ cho em. Ngày đi, có Vũ Long đi theo, phòng khi tôi bị ngất xỉu vì đau đớn. Tôi về ở lại nhà người chủ tàu. Bốn giờ sáng, tôi, Vũ Long, người chủ tàu và hai người làm công chèo thuyền ra cửa sông. Tôi ngồi trên ghe, nghĩ đến đứa em bé nhỏ tội nghiệp mà nước mắt cứ tuôn ra ròng ròng. Tôi thấy Vũ Long cũng lau nước mắt. Hai chị em âm thầm khóc. Gần tới cửa sông, ghe rẻ vào một con rạch. Đi càng xa, rạch càng nhỏ dần, hai bên là rừng hoang. Sợ công an, người ta đã đưa em tôi vào đây, chôn giấu một cách lén lút, vội vàng. Ngôi mộ được đánh dấu bằng hai cọc cây: Một cao đằng đầu, một thấp đằng chân. Đầu em tôi quay về hướng nam, hướng đảo Bidong, nơi ba má tôi đang sống trong trại tỵ nạn. Không biết vô tình hay cố ý, người ta đã chôn em tôi hướng về phía ba má tôi. Đất mềm và ướt, chỉ cuốc một chốc, tiếng cuốc đụng nhẹ vào nắp hòm một tiếng cộp nhẹ, tiếng dội nhẹ đập thẳng vào tim tôi. Tôi kêu lên hai tiếng “Bi ơi” và khóc nức nở. Vũ cũng khóc. Tôi cố chồm tới để cố nhìn vào quan tài nhưng người chủ ghe giữ tôi lại, bảo tôi khóc nhỏ, sợ công an, du kích nghe thấy, tìm tới thì bị bắt cả đám. Một lúc sau, quan tài được đưa lên mặt đất, ván còn nguyên, chưa mục. Tôi lại nhoài người tới để xem em tôi nằm trong hòm nhưng người ta lại không cho. Tôi ngoan ngoãn ngồi yên. Tôi nghĩ tới nỗi đau đớn khi nắp hòm cạy ra và Bi nằm yên lặng trong đó. Tôi nhắm mắt và cố nghĩ tới ba má. Nghĩ tới ba má sẽ vơi đi những nỗi khổ đau...
*********
Ba má ơi! Nếu con đưa được em về thì coi như con đã làm tròn phần nào bổn phận đối với ba má. Con tưởng là con đem em đi cho ba má được gặp em, cho ba má đỡ nhớ, đỡ thương, cho ba má được gần gũi đứa con “ănsau chạy dọi” bé nhỏ tội nghiệp mà ba má thương lắm, cho hai chị em sinh sau muộn màng được gặp nhau, được ăn uống vui đùa cùng nhau. Ngờ đâu hôm nay con lại đưa em về, cũng lén lút như khi đưa em đi. Người ta đang sắp những lóng xương, đốt xương nhỏ bé tội nghiệp của Bi vào cái rương thiếc con đã mua sẵn. Khuôn mặt dễ thương ấy, bàn tay bàn chân nhỏ nhắn ấy, giờ đây chỉ còn lại những cái xương vô tình, còn đâu da dẻ hồng hào trắng muốt của em.
Ba má kính yêu,
Hí phiêu bạt của chị Hà,
Con đã lén lút đưa em về, và lại một lần nữa lén lút đem chôn em bên mộ bà nội. Con đã khấn trước mộ: “Nội ơi! Bây giờ ba má đi xa mà em thì côi cút. Con đưa em về ở với nội, gởi cho nội gần gũi hôm sớm để nội chăm sóc cho em, để em vui đùa với nội. Tối tối, nội sẽ hiện lên ngồi trên mộ, em sẽ bắt chí cho nội như mẹ con Cúc Hoa ngày xưa. Đến khi gà gáy sáng, em và nội sẽ về lại cõi âm. Có lẽ em sẽ hỏi bao giờ thì ba má về thăm nội, thăm em. Nội cứ liệu mà trả lời cho em khỏi buồn!”
Sau khi chúng con về, nhà đã bị tịch thu nên chị em chúng con không về nhà cũ nữa. Nhà không còn mà chị em cũng không muốn trở về lại căn nhà dấu yêu và quá nhiều kỷ niệm ấy! Để sống, chúng con phải chạy trốn kỷ niệm. Ba má tha lỗi cho chúng con.
Tết vừa qua, chỉ có bốn chị em chúng con ở với nhau, nhớ ba má, nhớ Hí, nhớ Bảo, nhớ Diễm vô cùng. Nhiều đêm bốn chị em nằm ôm nhau mà khóc. Con khóc ít nhất vì con là chị cả, nhưng con cũng ngủ sau cùng khi các em khóc nhiều, mệt và ngủ thiếp đi, cũng vì con là chị cả.
*********
Một năm sau ngày ba má đi, nhiều sóng gió quá mà chị em chúng con thì cô quạnh quá. Ba bị ở tù Cọng Sản 7 năm, vắng ba còn có má. Bây giờ thì vắng cả ba lẫn má.
Một năm qua, một năm kinh hoàng, đau khổ và cô đơn. Kinh hoàng, con không sợ vì chị em chúng con sinh ra trong chiến tranh, lớn lên trong chiến tranh, đã quá quen với bao nỗi kinh hoàng. Kinh hoàng vì năm ngàn người bị giết ở Huế hồi tết Mậu Thân, lúc gia đình mình còn ở ngoài ấy, con mới 5 tuổi; kinh hoàng vì ngày 30 tháng Tư, con mới mười ba tuổi. Đau khổ, con cũng không sợ, vì con chấp nhận triết lý Phật giáo, “Đời là bể khổ”, nhưng chị em chúng con rất sợ cô đơn. Xa ba má, chúng con rất cô đơn. Tất cả chị em chúng con đều sợ cô đơn. Ba má nhớ thư Diễm viết về khi nó ở Bidong năm 1984 không: “Tối qua, lúc ba giờ, giật mình thức dậy, cảm thấy bơ vơ và nhận thấy một cách rõ rệt và đau đớn rằng giờ ba má đã xa rồi, các em đã xa lắm rồi. Mai đây và dài lâu nữa, con một mình sống cuộc đời của kẻ tha hương, biết bao giờ con mới gặp lại ba má và các em... “
Giờ thì “ba má đã xa lắm rồi!”, đang lạc loài nơi đất khách, lưu đày nơi xứ lạ, sống đời vong quốc. Bốn chị em chúng con ở đây, ngay trên quê hương mình, cũng đang chịu kiếp lưu đày. Lưu đày ngay chính trên quê hương mình, đó là câu của Saint Exupery mà ba thường nói khi còn ở nhà. Bây giờ mấy chị em sống côi cút với nhau lại càng thấm thía lời ba nói, đau xót cho ai bị lưu đày ngay chính trên quê hương mình.
Hôn ba má và Hí ngàn vạn cái.
Hà Long
(Bidong, năm 1990, tuệ chương viết lại theo thư của con)
LÊ TÔN NGHIÊM * SOCRATE
Socrate Tiêu biểu cho triết học hiện sinh hay triết học theo chân lý vương giả?
Socrate
Tiêu biểu cho triết học hiện sinh
hay
triết học theo chân lý vương giả?
“Trong lịch sử nhân loại nói chung, Socrate đã nghiễm nhiên là một trong những nhân vật lớn nhất, ngang hàng với Khổng Tử, Phật Thích Ca và Jésus.” (K. Jaspers)
Thân thể đời sống đơn sơ và gương mẫu của ông nhất là cái chết anh dũng của ông đã là những kỷ niệm còn được ghi sâu nhất trong ký ức mọi người. Hơn nữa với thời đại chúng ta, hình như người ta còn nỗ lực hơn để làm, sống man mác nhưng mông lung về con người lịch sử ấy. Những triết gia, những học giả cả Đông lẫn Tây đều không ngớt ca tụng và nghiên cứu con người ấy trong những sách vở hoặc trong những luận án tiến sĩ đối chiếu.
Riêng trong lịch sử triết học Hi Lạp và Tây Phương, hình ảnh tiêu biểu của Socrate càng có vẻ linh động hơn mặc cho bao nhiêu mập mờ của lịch sử.
Nghiễm nhiên Socrate đã được coi là lằn ranh giới phân đôi lịch sử triết học thành một bên là triết học trước – Socrate với trên dưới bốn hay năm thế kỷ trước Tây lịch là một bên là triết học sau – Socrate và trên dưới 20 thế kỷ sau Tây lịch. Hơn nữa, trong lập trường và chủ trương rất đối nghịch nhau, nhưng nhiều khuynh hướng triết lý đã chỉ căn cứ vào tên tuổi của Socrate để làm thế giới hầu như tuyệt đối cho lý thuyết của mình. Qua cái nhìn sơ lược trên ảnh hhưởng của Socrate, đôi khi không khỏi nảy sinh ra trong đầu óc ta một ý nghĩ kỳ khôi rằng: tuy đến với ta như một kẻ trần truồng, ngu si khộng một sử liệu rõ rệt, không một lý thuyết hay một sáng tác nhỏ mọn, tại sao Socrate đã được lịch sử ca tụng ông như một kẻ đứng ở giới tuyến của minh triết (Sagesse) và triết học (Philosophie)?
Nói khác, thể hiện ra trước sự đăm chiêu của muôn vàn thế hệ tư tưởng gia như một thực thể vô cùng đơn sơ tương tự mệnh lệnh "tuyệt học vô ưu" của Lão Tử, Socrate lại như dung hòa được hai đức tính hi hữu nhất trong lịch sử triết học Tây Phương, tức là một hiền triết đồng thời như một triết gia hệ thống.
Kỳ lạ thay! tính cách mập mờ của lịch sử không những đã không chôn vùi tên tuổi ông như đã chôn vùi bao nhiêu biến cố khác, trái lại hình như càng mập mờ, tiểu sử của ông càng dung nạp thêm nhiều huyền thoại và cả những chuyện hoang đường, đến nỗi cho ta cảm tưởng ngược ngạo rằng: càng có vẻ lịch sử bao nhiêu thì con người ấy càng có vẻ huyền thoại bấy nhiêu.
Thậm chí đã có học giả ghi lại được ba bộ mặt khác nhau về Socrate, một trong Socrate lịch sử, hai là Socrate huyền thoại ba là Socrate hiện sinh [1]
Tiểu sử phức tạp, đa diện ấy là những kết quả của những sử liệu hàm hồ còn được lưu truyền tới ta qua nhiều nhãn giới lịch sử và tư tưởng khác nhau về người hùng của chúng ta.
Đó là những sử liệu Aristophane, Diogène Laèrce, Xénophon, Platon và Aristote.
Sử liệu xưa nhất của truyền thống là hài kịch "Mây gió"(Nuées) của Aristophane, trong đó Socrate bị chế giễu (năm 423) (Jaspers: Les Grands Philosophes I trg 847)
"Aristophane thi sĩ trình bày Socrate như một ngụy luật đang giảng thuyết cho những học trò có những nét mặt xám xì, nghệ thuật làm sao lấy lý của kẻ mạnh để thắng lý của kẻ yếu. Thi sĩ còn trình bày ông đang quan sát các vì tinh tú, khi ông được kéo lên (trên tầng mây) trong một cái thúng đan bằng cây mây và đang ngự trị trong một lốc khí quyển thay đổi các vị thần" (P. M. Schuhl: Oc Pl. trg 48)
Với quyển "tiểu sử Socrate" (Vie de Socrate) của ông: Diogène Làerce thuật lại rằng: sau khi Socrate từ trần, thấy xuất hiện hai loại môn đệ của ông: một loại chính cống như Platon, Xénophon, Antisthène; ngoài ra còn một loại tự xưng là những triết gia "theo khuynh hướng Socrate" (les Socraticiens) như Eschine, Phédon, Aristippe, Criton, Simon, Glaucon, Simmias, Cébès và Ménédème.
Theo Laèrce, các môn đệ ấy thường sọan thảo những đối thoại và lấy Socrate làm nhân vật chính yếu. Nhưng ngày nay chỉ còn sót lại duy những đối thoại của Platon.
Cũng theo Laèrce, Xénophon là người đầu tiên đã mang lại cho công chúng "những gì ông thâu lượm được và đã ghi lại thành những hình thức giải thích" về Socrate, qua những cuộc đàm đạo của Socrate với nhiều lớp người đồng thời ở Athènes lúc bấy giờ. Tất cả bốn quyển:
Biện hộ cho Socrate (Apologie de Socrate)
Những hồi ký về Socrate hay Những cuộc đàm đạo thời danh (Entretiens mémorables cũng có khi gọi tắt là Mémorables)
Bữa tiệc (Banquet) tương tự của Platon
Sau cùng một quyển nhan đề Kinh tế luận (Economique)
Tuy nhiên tầm quan trọng và giá trị lịch sử của những sáng tác trên là một điều rất khả nghi: nhiều nhà bình luận Đức đã khẳng định rằng: Xénophon đã không bao giờ trực tiếp gặp và nghe Socrate, trái lại theo một số nhà bình luận khác như A. và M. Croiset, rồi A. Cresson thì một số sáng tác trên là những tài liệu trung thực nhất về thân thế và lý thuyết của Socrate. Rõ rệt hơn nữa, A.E. Boutroux lại coi bằng chứng của Xénophon là một bằng chứng quan trọng nhất, vì theo ông, Xénophon là một sử gia chuyên môn, một biên niên sử (chroniqueur) rất đáng tin cậy, nhất là Xénophon không tài ba như Platon để có thể lý tưởng hóa quá mức những quan niệm triết lý của Socrate (bài Sorate fondeteur de la scien molare trong Etudes d’histoire de la philosophie, 1879, trg 16).
Tuy nhiên trong bốn quyển đó, hình như chỉ duy quyển "Hồi ký về Socrate" là được người đời sau trích dẫn nhiều nhất. Quyển này chia thành bốn tập nhỏ:
Những chương đầu của tập I khai triển những chủ đề sau đây:
Socrate luôn luôn tôn trọng tôn giáo của Nhà nước; và không bao giờ ông đưa thanh thiếu nhiên vào con đường trụy lạc.
Những chương tiếp trình bày về ý niệm thần minh với tính chất thiên hữu của họ, rồi về đức tính tiết độ và khiêm tốn.
Tập II gồm một bài phê bình tính ươn hèn, một bài Socrate khuyên nhủ Lamprocles con cả của ông để nó ghi nhớ công ơn bà Xantipe mẹ nó đã làm cho nó, tuy bà có tính tình hay bẳn gắt v.v.
Tập III chú trọng đến những công việc và vấn đề binh đao, nhấn mạnh trên sự cần thiết phải có khả năng trong nhiều công việc khác nhau, nhất là đối với những người muốn làm thủ lãnh.
Ngoài ra cũng thấy nói đến liên quan giữa sự Thiện, sự Mỹ và sự Lợi, v.v.
Tập IV gồm những cuộc đàm đạo rất quan trọng với Euthydème và Hippias, trong đó Socrate nhấn mạnh trên sụ cần thiết phải tự biết mình…
Trên đây là một mớ sử liệu hỗn tạp không có giá trị đồng đều: nhiều câu chuyện có vẻ tầm thường, vô nghĩa; ngược lại, một số câu chuyện khác lại biểu lộ nhiều tư tưởng sâu xa nhất của Socrate, vì qua đó, người ta khai triển ra được những nguyên tắc cho hành động. (Cesson: Socrate, trg 6-12)
Nói tóm, theo các học giả trên, những gì chính yếu do Xénophon kể lại hình như không khác lắm với những điều Platon trình bày về Socrate trong các cuộc đối thoại.
Trước hai khuynh hướng qúa khích trên đây, Jaspers xem ra có vẻ dung hòa hơn như sau:
"Tuy khác xa với hình ảnh đã được Platon lý tưởng hóa về Socrate nhưng hình ảnh do Xénophon ghi lại là một hình ảnh đơn sơ, mộc mạc mà không mâu thuẫn với những gì thiết yếu. Xénophon nhìn trên bề mặt, còn Platon nhìn xuống chiều sâu". (Gr. Ph. Trg 97)
Sau Xéphonon, Platon là một chứng nhân khác hay được ghi nhận nhất mỗi khi nói về Socrate.
Gặp Socrate vào năm 407, khi Platon lên 20 tuổi theo học với Socrate như một ông thầy lý tưởng trong vòng 8 năm trời tức là vào năm 399 tới khi Socrate từ trần. Nhưng trong giờ phút bi đát nhất của Socrate thì Platon đã không có mặt.
Tuy đã chịu ảnh hưởng của nhiều trường phái triết lý khác nhau như Elée, Milet, Pythagorisme và triết gia Héraclite, v.v. nhưng hầu như Platon đã bị chi phối một cách quyết liêt do cái chết anh dũng phi thường của Socrate, đến nỗi có thể nói rằng cái chết ấy ảnh hưởng mãnh liệt hơn cả lý thuyết, vì với Platon, sự chết ấy là một tội ác tày trời dân thành Athènes đã vấp phải. (J. Brun)
Do đó, hầu hết trong các cuộc đối thoại của Platon, đều thấy xuất hiện hình ảnh Socrate hoặc như một nạn nhân vô tội do sự điên rồ của loài người hoặc như người điều khiển cuộc tranh luận với những chứng lý sắc bén, hài hước và sản ý (maieutique).
Đó là những bằng chứng quý báu về tiểu sử của Socrate.
Nhưng nhiều học giả xưa và nay vẫn chỉ coi đó là những gì đã bị Platon lý tưởng hóa một cách rất tài tình. Do đó, ngày nay người ta khó lòng phân biệt những gì thực sự lịch sử và những gì đã bị lý tưởng hóa.
Để giải quyết thắc mắc trên, ở thế kỷ trước người ta đã nghĩ ra phương pháp xếp loại những đối thoại của Palton theo thứ tự niên kỷ, rồi khảo sát tư tưởng và hành văn của những đối thoại ấy một cách tỉ mỉ.
Kết quả là các học giả đã đồng ý phân phối các đối thoại thành 3 giai đoạn liên tiếp như sau:
- Những đối thoại thường được gọi là có tính cách socratique nghĩa là trong đó hình ảnh của Socrate vẫn còn linh động. Theo đó, nhiều học giả nghĩ rằng: những đối thoại này đã được ghi lại lúc còn sinh thời Socrate, nên có thể coi là những bằng chứng xác thực nhất về lý thuyết của ông. (Cresson: sd. Trg 5)
- Tiếp theo là những đối thoại đứng tuổi, khởi sự trình bày công việc xây dựng học thuyết thời danh gọi là lý thuết về những lý tưởng (théorie des Idée). Tuy không còn linh động bao nhiêu, nhưng hình ảnh Socrate vẫn còn đứng đàng sau lý thuyết nền tảng Platon.
- Sau cùng là những đối thoại tuổi già. Ở đây hình ảnh Socrate đã bị phai mờ hẳn, hầu như chỉ còn thấy xuất hiện duy những tư tưởng độc đáo của Platon. Đó là những đối thoại Parménnid, Sophiste, Politique.
Tuy nhiên một hai tác giả trứ danh như John Burnet và A.M.Taylor lại cho rằng: trong những tác phẩm về cuối đời Platon, quyển "pháp luật" (lei Lois) là bằng chứng xác thực về lý thuyết của Socrate. Ngược lại, theo nhiều học giả hiện nay, hình ảnh Platon phác họa về Socrate vẫn mang tính chất một khuynh hướng bị lý tưởng hóa rồi. L. Robin trong quyển "La pensée hellénique" nhất là V. de Magalhaès – Vilhena trong quyển Socrate et la légende platonicinne đã khẳng định như sau:
- Platon "khởi họa ra được một hình ảnh Socrate tiêu biểu cho thời đại ông và giai cấp ông một cách hoàn hảo nhất. Vì lý do ấy, Platon chính là người trong số những kẻ tự xưng mình thuộc trường phái socratisme và là người đã biết truyền đạt lại cho hậu thế một hình ảnh lý tưởng hoàn bị và thành tựu nhất do sự cảm hứng của Socrate".
Nhưng chính đó là một trong những khuyết điểm trầm trọng nhất nói lên tính cách biến ngôn của Playon. [2]
Tuy niên, theo A. Cresson "dù có cho rằng những đối thoại kia không phải của Platon đi nữa thì chúng vẫn có một công dụng vì chúng có tính cách Socrate và có thể minh xác những tư tưởng mà truyền thống gán cho Socrate. Còn về những đối thoại khác dù chúng chỉ trình bày những nhãn quan của Platon thôi, nhưng chúng cũng thấm nhuần đầy tinh thần Socrate. Phương pháp của chúng, một số cách thức phán đoán và lập luận, một số những định lý hiển nhiên hay bí ẩn đều có nghĩa vì lý do ấy cả. Ta có thể nhận thấy thế ngay khi Platon muốn vượt Socrate, ngay khi ông nói ngược lại Socrate". (sd. Trg 5-6)
Jasper lại có vẻ dung hòa hơn nữa khi viết: "Hình ảnh Socrate trong những đối thoại của Platon không phải là một sự ghi lại chính xác những bối cảnh, những cuộc đối thoại, những câu nói theo nghĩa một thực tại lịch sử. Tuy không phải là một sự ghi lại chính xác nhưng đó cũng không phải một chuyện hoàn toàn bịa đặt, vì những gì Platon đã bịa đặt ra thì đã được bịa đặt trong đường hướng của thực tại ấy, tức là nhân cách huyền bí của một nhà tư tưởng mà không ai sánh kịp. Nhưng hình ấy chỉ hiện diện với ta qua toàn bộ những đối thoại vì chúng phải bổ túc lẫn cho nhau. Dù người ta muốn phân biệt những khía cạnh đặc thù khác nhau trong thứ tự các đối thoại, như sau này người ta đã làm trong những nghệ thuật tôn tạo thì những khía cạnh ấy vẫn ăn khớp với nhau như những thay đổi trong cùng một khuôn mặt.
Đó là một hình ảnh toàn cục xuất hiện theo nhiều bộ diện khác nhau, nhưng lại là thực tại đã được lý tưởng hóa. Ở đây điều phi lý là thái độ tra vấn một thực tại lịch sử như một sự kiện phải thiết định như chụp lại một bức ảnh hay ghi lại một âm thanh cho trung thực, theo lối các nhà ngữ học và sử học.
Những ai phủ nhận thực tại lịch sử thì không thể phục lý theo những chứng cứ. Vậy phải có sự hiện diện của Platon để nhìn và để truyền đạt thực tại của Socrate. Những gì mà Plaon nhìn thấy, thì chúng ta cũng có thể nhìn với ông và nhờ ông; về Socrate trước sự chết thì hãy đọc những đối thoại Apologie – Criton – Phédon, còn về Socrate trong lúc bình sinh thì hãy đọc những đối thoại banquet và Phèdre." (Gr. Ph. Trg 93)
Những ai phủ nhận thực tại lịch sử thì không thể phục lý theo những chứng cứ. Vậy phải có sự hiện diện của Platon để nhìn và để truyền đạt thực tại của Socrate. Những gì mà Plaon nhìn thấy, thì chúng ta cũng có thể nhìn với ông và nhờ ông; về Socrate trước sự chết thì hãy đọc những đối thoại Apologie – Criton – Phédon, còn về Socrate trong lúc bình sinh thì hãy đọc những đối thoại banquet và Phèdre." (Gr. Ph. Trg 93)
Sau cùng là bằng chứng của Aristote: đối với Socrate, Aristote là một kẻ hậu sinh hoàn toàn vì 14 năm sau khi Socrate qua đời rồi Aristote mới sinh. Vì thế, những điều Aristote nói về Socrate toàn có tính cách gián tiếp nghĩa là hoặc do chính những người đã trực tiếp sống với Socrate, hoặc do những sử liệu khác thân cận với những môn đệ đầu tiên ấy!
Nhưng theo ý kiến của K. Joel và Th. Gomperz mà P.M. Schuhl chỉ là phát ngôn viên, thế giá của Aristote không vì vậy mà không đáng tin cậy, hơn nữa, những bằng chứng ấy có thể đuợc coi là những ý kiến dung hòa được cả Platon và Xénophon.
Tuy nhiên, một số dữ kiện khác quan trọng phát xuất từ chính lập trường lý thuyết của Aristote có lẽ không cho phép ta chấp nhận một quan điểm như trên.
Trước hết, chính lối trình bày lý thuyết của Aristote là một quan điểm khả nghi vì mỗi khi trình bày một vấn đề nào thường thường ông trình bày những lý thuyết của những người đã nói tới vấn đề, sau đó ông mới trình bày chính vấn đề. Điều ấy ông thường làm trong các tác phẩm trứ danh của ông như quyển "Thiên nhiên học" (physique), "Siêu hình học" (Métaphysique), "Sự sinh thành và sự tiêu diệt",( De la génération et de la corruption), "Vòm trời" (Du Ciel). Vì thế người ta thường gọi Aristote là một nhà sử quan triết học (Philosophe de l’histoire de la philosophie) trước cả Hegel. Chính tư cách ấy đã làm cho những dữ kiện lịch sử do ông để lại trở thành khả nghi.
Hơn nữa, riêng vấn đề Socrate hình như giá trị lịch sử của Arisrote càng không đáng kể lắm, vì xem ra ông ít chú trọng đến thân thế Socrate. Trong tất cả sáng tác của Aristote, Th. Deman chỉ ghi lại được 40 điểm nói về lý thuyết Socrate mà thôi. (xem Th. Deman: Le témoignage d’Aristote sur Socrate, Paris 1942)
Đằng khác, chính những điểm về lý thuyết ấy lại cũng được nhìn theo khuynh hướng sử quan triết học thường xuyên của Aristote.
Sau cùng, nguồn tài liệu Aristote xử dụng để trình bày về Socrate lại do chính "Hàn lâm viện" của Platon cung cấp.
Vì những lý do trên, bằng chứng của Aristote không đem lại điều gì cốt yếu hơn. V. Magalhaes Vilhena cũng nhận định như thế khi ông viết:
"Mặc dầu những nguồn tài liệu đã được Aristote xử dụng, bằng chứng của ông không thêm một điều gì cốt yếu cho những gì ta biết về Socrate. Nói tóm, bằng những khẳng định lý thuyết, Aristote đã không tự phụ biết được gì xa hơn Socrate lịch sử bên ngoài Socrate của những đối thoại (của Platon) theo tư cách một nhân vật được dựng cảnh" [3]
Với từng ấy sử liệu và giá trị tương đối của chúng, ta đã có ý thức rằng: hình dung một nhân vật và một lý thuyết như Socrate cho trung thực là một điều vô cùng khó khăn.
Đứng trước sự kiện phức tạp ấy, nhiều triết gia và học giả như P.M. Schuhl đã phải chấp nhận một giải pháp dung hòa như sau:
"Vì Socrate không viết gì cả nên ta có thể hoạch định lại lý thuyết của ông theo những gì đã được các môn đệ của ông truyền lại nghĩa là trên hết phải kể đến Platon và Xénophon, rồi sửa sai hay bổ túc những chứng cứ ấy bằng chứng cứ của Aristote, hay bằng những gì đến với ta từ những tư tưởng nhỏ tự xưng theo khuynh hướng Socrate, hay bằng những gì nhiều người thừa hướng gián tiếp tư tưởng của ông và không nên bỏ qua những tài liệu đã rõ rệt bị xuyên tạc, nhưng vẫn còn sử dụng được ví dụ của một tác giả hài hước như Aristote". [4]
*
* *
Tiểu sử Socrate (469-399)
Tiểu sử Socrate (469-399)
Sinh trưởng tại Athènes, Scorate là con một người cha làm nghề điêu khắc và một người mẹ hành nghề hộ sinh.
Như thế, dòng dõi Socrate không phải dòng dõi quý phái mà chỉ là dòng dõi của những thường dân Athènes (Nietzsche thường gọi ông là "phàm dân" (plébéien).
Nhờ một di sản nhỏ bé và những phụ cấp của chính phủ, Scorate đã sống một nếp sống rất khiêm tốn, nhưng lại rất độc lâp về tinh thần.
Trong thời kỳ thi hành nghĩa vụ quân dịch, ông đã chiến đấu như một bộ binh trong một cuộc chiến tranh Péloponèse. Khi thi hành những nhiệm vụ chính trị bó buộc, năm 406, ông đã được chỉ định giữ chức Thủ tướng chính phủ và chính lúc đó ông đã đứng về phía bênh vực đạo luật chống lại số đông khi họ phẫn nộ đòi hỏi và bắt buộc xử án những tướng lĩnh thuộc trận chiến Arginuses.
Nhưng không bao giờ Socrate đã mưu tìm một địa vị quan trọng nào trong nhà nuớc hay trong quân đội.
Qua các sử liệu, ta còn hình dung được một đôi nét đặc sắc về dáng điệu bề ngoài của Socrate: trong đối thoại Banquet thời danh của Platon, ông được mô tả như một con người xấu xí, với đôi mắt lồi ra, đôi mắt dầy cộp, với sống mũi cao, với cái bụng to, ngang hông mập thù lù.
Hình ảnh ấy mô tả giống hệt những pho tượng Silènes và Satyre Marsyas trong những xưởng điêu khắc người Hi Lạp xưa.
Trong quyển Banquet của Xénophon, ta lại thấy chính Socrate chế nhạo hình ảnh ấy ở chương V.
Nhưng trong một thể xác xấu xí lại chứa đựng một vẻ đẹp cao quý cả về tinh thần và đạo đức; tuy là con người đã tuyên bố không biết chi cả, nhưng ông đã được người ta ca tụng là một kẻ chiến thắng sau cùng trong tất cả các cuộc đấu lý; hay là người không bao giờ tự xưng có tài hùng biện như các Ngụy luận gia, nhưng dưới con mắt người Hi Lạp xưa, mỗi khi đàm đạo với quần chúng, ông luôn luôn là con người có khả năng quyến rũ mọi người như một người có bùa mê.
Hơn nữa trong lối sống của ông còn biểu lộ một thái độ can trường và tiết độ phi thường .
Đó là hình ảnh Socrate do Platon trình bày lại cho chúng ta qua cửa miệng say sưa (trong "Bữa tiệc") nhưng thành thực của triết gia khuyển nho Alcibiade (Cresson)
Ngoài ra trong con người ấy, người ta còn ghi nhận hai hiện tượng phi thường khác: Mỗi khi bị chi phối bởi một ý tưởng, Socrate đứng lại tại chỗ, bất động như một người bị thôi miên, quên tất cả những gì khác.
Đó là trường hợp khi cùng với Aristodème, Socrate đi dự "Bữa tiệc" vì vậy, cả hai người đã đi dự tiệc trễ, làm cho Agathon chủ tiệc phải tức giận.
Nhờ cơ hội ấy, Alcibiade còn thuật lại cho Potidée một hiện tượng kỳ lạ hơn như sau:
"Một buổi sáng, Socrate khởi sự suy nghĩ một việc gì thế rồi ông đứng bất động tại chỗ. Không tìm ra, điều ông kiếm, ông cứ đứng im và tiếp tục suy nghĩ trong cùng một tư thế. Lúc ấy đã trưa rồi, người ta tuôn đến quan sát và bỡ ngỡ xầm xì với nhau rằng, Socrate đứng đó suy nghĩ từ sáng giờ rồi! Tối đến, các binh lính Ioniens ăn tối xong mang giường ngủ tới chỗ đó để ngủ cho mát (lúc ấy là mùa hè) và quan sát xem Socrate có đứng y như thế thâu đêm không.
Thì ra ông cứ đứng như thế tới ngày mai khi mặt trời mọc.
Lúc ấy ông cầu nguyện mặt trời xong mới rút lui."
Hiện tượng thứ hai phi thường hơn và hay được ghi nhận là "thần hộ mệnh" (démon) của Socrate.
Vị thần ấy hình như có nhiệm vụ ngăn chặn ông mỗi khi ông toan tính một việc không nên làm, hay mỗi khi ông có thể hành động một điều bất chính hay phản lại quyền lợi của riêng ông hoặc của dân chúng.
Hình như chính vị thần ấy một ngày kia đã biến đổi tất cả cuộc đời của ông, nghĩa là trước kia Socrate cũng đã am tường vũ trụ luận của Anaxagore: ông đã chứng kiến và say mê nguỵ luận thuyết. Nhưng không một triết lý nào trong hai triết lý đã thỏa mãn ông: vũ trụ luận thì không giúp ích gì cho tâm hồn con người; còn ngụy luận thuyết thì tuy có thực hiện được nhiều điều vĩ đại bằng cách nêu lên những tra vấn, thắc mắc nhưng cách thức đặt vấn đề của họ lại đẩy nó lạc vào một kiến thức khác sai lạc hay vào thái độ phủ nhận mọi dữ kiện của truyền thống .
Trước sự thất bại của hai triết lý. Socrate ý thức được sứ mệnh cao cả của mình. Nhưng sứ mệnh này không phải sứ mệnh do một Thượng đế nào uỷ nhiệm ông để truyền đạt cho loài người những sứ mệnh của các vị tiên tri. Trái lại sứ mệnh của ông là chỉ tìm nhân loại tức là chính con người (Jaspers)
Hơn nữa, Socrate còn thú nhận rằng, cũng do ảnh hưởng tiếng nói của các vị thần ấy mà ông đã thi hành một số quyết định cao cả trong đời sống ông như: ông không nên tự biện hộ cho mình, không nên vượt ngục, không nên chấp nhận cái chết đang khi ông còn có thể sống.
Nói tóm, với những nét đặc sắc trên ta đã có thể hình dung được Socrate là một nhân vật độc đáo, trong xã hội đương thời của ông.
Nhưng khi Chéréphon người bạn chí thân của ông đến Delphes hỏi vị tư tế Pythie xem trong loài người có ai khôn ngoan, thông minh hơn Socrate không? Thì được lời sấm trả lời rằng: Không!
Lời sấm ấy được phổ biến càng tăng thêm huyền bí giá trị chung quanh nhân vật Socrate: tất cả dáng điệu bề ngoài của ông hình như tương tự dáng điệu của những triết gia khuyển nho kiểu Diogène, nhưng kỳ thực ông lại là một triết gia vượt xa sự lố bịch khờ khạo của họ.
Theo Xénephon: "Chúng ta có thể tin chắc rằng cuộc đời của Socrate hoàn toàn có tính cách công cộng. Buổi sáng ông thường đi dạo và vào vận động trường. Ông xuất hiện ở những công trường mỗi khi có dân chúng tụ họp đông đảo. Ngoài thời gian ấy, trong một ngày ông còn mở rất nhiều cuộc hội thảo. Ông thường nói nhiều trong các cuộc hội thảo ấy, những ai muốn thì có thể nghe ông".
Không bao giờ ông giảng thuyết một cách long trọng mà chỉ chuyện vãn hay đàm đạo với một hay nhiều đối thoại viên, bất kể tuổi tác, địa vị hay nghề nghiệp. Đời sống ấy là một đời sống đàm đạo với bất cứ ai, với những thợ thủ công cũng như với những nhân vật trong chính quyền, với những nghệ sĩ cũng như với những ngụy luận gia, với những chàng thanh niên cũng như với những bạn bè hay môn đệ.
Những cuộc đàm thoại ấy mang lại một sắc thái mới mẻ, không quen thuộc đối với người Athéniens vì ở đây cuộc đàm đạo luôn luôn có sức mạnh khích động gây băn khoăn và xuyên thấu vào tận đáy sâu của tâm hồn.
Trước kia, đề tài của những cuộc đàm đạo là cách thức sống của người Athéniens tự do, nhưng với Socrate đề tài ấy trở thành một cái gì khác.
Đó là cách thức đưa vào chân lý của Socrate, vì ở đây từ bản chất, chân lý phải xuất hiện và chỉ xuất hiện với cá nhân và cho cá nhân.
Vậy muốn đạt tới sự minh bạch thì cuộc đàm đạo cần phải thực hiện giữa nhiều người, người ta cần tới ông và chính ông cũng tin chắc rằng ông cần tới người ta. Nhưng trước hết là những chàng thanh niên, Socrate muốn giáo hoá.
Đối với Socrate, giáo hoá không phải là truyền đạt một cái gì khác từ ngoại tại, như lối nhà bác học dạy khoa học cho người không biết. Trái lại, theo ông giáo hoá là yếu tố làm cho con người này tiến gần lại với người khác để nhờ sự tiến gần ấy mà họ gặp được sự thật. Các chàng thanh niên trợ giúp ông khi ông muốn trợ giúp họ.
Kết quả: sẽ khám phá ra được những khó khăn trong chính những gì xem ra hiển nhiên, gây thắc mắc, bó buộc suy nghĩ thêm, học hỏi cách nghiên cứu, tra vấn và tra vấn mãi không bao giờ trốn tránh trả lời với niềm tin chắc chắn rằng chân lý là yếu tố quy tụ loài người lại với nhau (Jaspers).
Với cuộc sống và phương pháp giáo hoá mới mẻ ấy, dĩ nhiên Socrate đã thành công một cách rực rỡ.
Nhưng chính sự thành công ấy đã tạo nên một sự hiểu lầm và nghi kỵ trầm trọng giữa ông với chính quyền đương thời.
Kết quả Socrate sẽ là nạn nhân của sự hiểu lầm và nghi kỵ ấy. Nhưng sự nghi kỵ ấy không bắt nguồn từ một tình cờ nào cả. Nó đã phát xuất ngay từ những hài hước của Aristophane phổ biến rộng rãi trong quần chúng qua quyển "Mây Gió" (423). Như đã nói sơ qua ở trên, nhà hài kịch Aristophane trình bày một Socrate say sưa với vũ trụ thiên nhiên học, chăm chú quan sát những hiện tượng xảy ra trên trời, dưới đất; ngoài ra Socrate còn phủ nhận những vị thần của truyền thống và thay vào đó khí trời và mây gió; ông còn dạy cách chiến thắng một cuộc tranh luận và thâu thù lao sau khi dạy.
Nhưng như vừa trình bày, Socrate đã thực hiện cuộc sống và cách thức trái ngược hẳn với những điều vu khống của Arisophane.
Ngoài Aristophane, phong trào chống đối Socrate cũng đã chớm nở từ nhiều phía khác nhau. Người ta chỉ trích Socrate đã truyền bá thái độ thụ động lười biếng, đã lợi dụng lối giải thích của các thi sĩ để thiết lập những lý thuyết gây tội ác.
Đó là một hình ảnh sai lầm về Socrate, nhưng đã được những kẻ thù xây dựng trên những sự kiện có thực mà đã bị xuyên tạc. Ví dụ lúc thiếu thời Socrate đã am tường vũ trụ thiên nhiên học và ngụy luận thuyết nhưng ông đã bị nghi ngờ là người khởi xướng một phong trào triết lý mới, bị công chúng thù ghét, vì họ không hiểu thế nào là ngụy luận thuyết và kẻ chiến thắng nguỵ luận thuyết.
Quả vậy, không phải Socrate ùa theo Phong trào ngụy luận mà là vì phương thức mới ông nêu ra để vượt ngụy luận và đem lại một đường hướng mới cho tư tưởng, đã là điểm quần chúng không thể chấp nhận.
Phương thức mới ấy, như đã nói là ở chỗ Socrate luôn luôn thắc mắc, tra vấn mà không biết mệt mỏi, chỉ đẩy tới những câu hỏi căn bản mà không giải đáp. Thái độ ấy thường gây bối rối, tự ti và yêu sách khắt khe đến mức khai nguồn cho sự bực tức và căm hờn.
Một trong những phản ứng thời danh là của Hippias sau đây với Socrate. Ông ấy nói: "Ông (Socrate) chỉ muốn xâu xé người khác bằng những câu hỏi và đẩy họ vào chân tường. Còn ông không bao giờ ông cho ai là có lý cả, cũng không bao giờ cho ý kiến của ông. Tôi không muốn bị ông chọc tức như thế nữa". (Xénephon)
Không những thế, sự kiên nhẫn còn phát xuất từ hàng ngũ của chính những người bạn thân Socrate cỡ như Alibiade và Critias.
Sự kiện này nằm trong một khuôn khổ chính trị rộng rãi hơn, tức là chiến tranh giữa Hi Lạp và Sparte xẩy ra vào năm 431. Chiến tranh này gây những điều kiện sống khó khăn và tai họa thảm khốc cho tất cả nước Hi Lạp và riêng cho Athènes.
Theo Cresson, các sử gia phân chiến tranh này ra làm ba thời kỳ:
Từ 431 đến 421, khi bại khi thắng. Nhưng mỗi năm trước mùa gặt, các đồng ruộng của Attique và Laconie đều bị tàn phá thành thử người Hi Lạp bị chết đói. Vào năm 421. Nicias ký với dân Sparte một cuộc đình chiến trong vòng năm năm.
Thời ký thứ hai bắt đầu từ năm 521 đến 412; đó là cuộc chinh phạt do Alcibiade điều khiển chống lại xứ Sicile. Nhưng cuộc chinh phạt ấy đã gieo tai họa cho Athènes và thủ lãnh của họ bị lưu đầy.
Thời kỳ thứ ba (từ 421 đến 404) trước hết được đánh dấu bằng sự thất trận của hạm đội Pélopoèse ở quần đảo Aginuses (406). Không những thất trận như thế, Đề đốc Spartiate tên Lysandre, lại thắng trận Oegos-Potamos vào năm 405 và chiếm cứ Athènes năm 404. Rốt cuộc các thành trì bị sụp đổ, những hạm đội bị thiêu huỷ, những thuộc địa bị chiếm đóng.
Đó là những thống kê 40 năm binh đao cho thành Athènes phồn thịnh.
Thảm họa thêm nữa là những kẻ chiến thắng đặt ra một chính phủ gồm 30 bạo chúa. Phần đông là những người Spartiates, nhưng cũng có xen vào một hai người Athénien, trong số có Critias, Théramène, Chariclès.
Nhưng chính quyền ấy chỉ còn tồn tại có tám tháng trời rồi bị Thrasybule đánh đuổi vào năm 403.
Tuy nhiên, theo Xénephon, chính quyền ấy đã gây ra những tội ác tầy trời vì chính vì hành động độc ác của họ mà Socrate đã bị án tử hình.
Khi đứng trong hàng ngũ chính phủ của 30 bạo chúa, Critias được giao trọng trách dự thảo những đạo luật, trong đó có một đạo luật chống lại Socrate, cấm chỉ Socrate không được "dạy nghệ thuật hùng biện" nữa.
Nhưng không những không hàng phục, Socrate còn cương nghị lên án chế độ độc tài của 30 bạo chúa, vì những tội ác của họ như đã giết một số lớn những công dân ưu tú và áp bức một số khác phải tham gia những tội ác của họ.
Sóng gió nổi dậy vào năm 339 (trước tây lịch) ba nhân vật tên Anytos, Mélétos và Lycon đệ đơn tố cáo Socrate về ba trọng tội:
1. Không tin tưởng vào tôn giáo của nhà nước
2. Nhập cảng những thần mới vào Athènes
3. Làm trụy lạc thanh niên
Trong nhiều năm trường, không hề thấy Socrate đếm xỉa gì đến những lời vu khống ấy. Trong lúc sinh thời ông đã không viết một bản văn hay một lời nào để biện hộ cho ông và cho những điều ông dạy.
Theo những sử liệu của Laèrce và Xénephon thì nói đến những lời bạn bè khuyên nhủ Socrate hãy tự biện hộ.
Nhưng chỉ thấy cả hai tài liệu ấy nhấn mạnh trên quyết nghị vững chắc của Socrate là ông đã không bao giờ rút lui, lẩn trốn hay chỉ dạy dỗ một số môn đệ nào đó trong bóng tối, trái lại ông luôn luôn xuất hiện ngoài công trường với những đám đông của quần chúng.
Trước sự tấn công của kẻ thù, Socrate chỉ tự biện hộ trong câu ông nói rằng: thần minh đã uỷ nhiệm cho ông sứ mệnh là phải dành cả cuộc đời để tự kiểm thảo chính mình và kiểm thảo kẻ khác.
"Sứ mệnh ấy thần minh đã uỷ thác cho tôi qua những sấm ngôn, những chiêm bao và tất cả những biểu hiện có thể có mà thường thường thần minh xử dụng để tự biểu thị ra với loài người".
Sứ mệnh ấy ông đã chấp nhận, nên ông phải cương quyết ở địa vị đó mà không sợ nguy hiểm hay sợ chết.
"Tôi sẽ thần phục thần minh hơn thần phục các ông; và bao lâu tôi còn hơi thở và sức mạnh tôi sẽ không thôi dò thám chân lý để báo động và soi sáng cho các ông, và tôi sẽ không thôi nói với ý thức của tất cả những ai tình cờ gặp tôi, như thói quen tôi thường làm, nghĩa là tôi sẽ nói với họ rằng: hỡi ông bạn, tại sao ông không chú ý đến trí não, đến chân lý và cải thiện tâm hồn ông đến mức tối đa, và tại sao ông lại không ưu tư gì điều ấy cả?"
Trong việc tự biện hộ ấy, Socrate còn phản đối các quan toà của ông rằng: "Quý vị tuyên án tôi là quý vị gây tai họa lớn nhất cho quý vị hơn là cho tôi."
Dĩ nhiên họ có thể giết ông, bỏ tù ông, đặt ông ra ngoài vòng pháp luật. Nhiều người coi đó là một tai họa lớn, nhưng Socrate nói: "Còn tôi, tôi không coi đó là một tai họa, nhưng đó là một xảo kế để lên án tử hình cho một người một cách bất công nhất."
Rồi dân thành Athènes sẽ tự nhận lỗi mình khi đã phủ nhận ân huệ của thần minh ban cho họ qua sứ mệnh của Socrate: "Vì nếu quý vị cướp đoạt sự sống của tôi, quý vị sẽ không dễ tìm được một người khác như tôi, vì – tuy điều ấy xem ra buồn cười – đó chính là một ân huệ thần minh ban cho công dân đô thị làm lợi khí sửa sai…, vì tôi không bao giờ ngơi báo động, huấn dụ và tưởng lệ….
Nhưng có lẽ quý vị nội giận mà đánh đập tôi, không khác gì một người đang ngủ say mà bị con mòng chích…. đập chết mòng để rồi say ngủ lại triền miên hơn trong quãng đời còn lại."
Nhưng bây giờ bản án đã tuyên đọc có nên xin các quan toà ân xá bằng nước mắt theo thông lệ không?
Điều ấy không thể quan niệm được, không hợp lý và không hợp đạo:
"Vì quan toà không phải được chỉ định để ân xá mà là để xét xử, không phải để tỏ lượng khoan hồng mà là để tuyên án theo luật định."
Và Socrate đã chấp nhận bản án, để vào ngồi tù và uống thuốc độc tự tử. Trong thời gian ngồi tù, một biến cố đã trì hoãn bản án được ba mươi ngày. Số là hàng năm, dân Athéneiens có gửi một hạm đội sang Délos. Các bạn hữu của Socrate muốn nhân cơ hội mà cứu nguy cho Socrate, nhưng ông đã không chấp nhận cơ hội may mắn ấy.
Đối thoại Phédon đã thuật lại những chi tiết cuối cùng trước giờ chết của Socrate.
Khi đến giờ uống độc dược, theo công lệ, người ta cởi xiềng xích cho ông. Bà con bạn hữu đươc phép tới để từ biệt và chứng kiến ngày tận số của ông.
Vào lúc chiều tà Socrate đã tự vận bằng ly độc dược!
Cái chết của Socrate là yếu tố thiết định hình ảnh và ảnh hưởng của ông. Ông đã chết như một vị tử đạo chứng minh cho triết lý.
Đó là sơ lược những sử liệu về thân thể của Socrate.
*
* *
Lý thuyết
Về một số điểm căn bản trong lý thuyết của Socrate, lịch sử đã đồng ý ghi nhận như sau:
a. Socrate không chủ trương xây dựng một vũ trụ luận như các triết gia trước ông ví dụ Empédocle và Héraclite, vì theo ông loài người phải để cho thần thánh nhiệm vụ chú ý tới vũ trụ ngoại tại, còn chính con người lại phải chú ý những gì trực tiếp liên hệ với mình. "Hãy tự biết mình!" đó là châm ngôn ghi trên khung cửa đền thờ Delphes và được coi là châm ngôn cho tinh thần nhân bản của Socrate.
b. Nhưng mục đích của Socrate không phải là dạy ta lý thuyết về bản tính con người nghĩa là ông không muốn trình bày cho ta một kiến thức khách quan, ngoại tại mà có lẽ không bao giờ ta sở đắc được.
Trái lại, ông chỉ muốn giúp ta suy nghĩ, gây ý thức cho ta về những tư tưởng ý nghĩ ấy gợi ra.
Lối dạy ấy đã tạo nên cả một nghệ thuật độc đáo gắn liền với tên ông.
Đó là thuật "Sản ý" (maieutique) ông tự thú đã học được ở nghề thực hành hộ sinh của mẹ ông, vì hộ sinh không phải là sinh thay cho người khác mà là giúp đỡ họ để họ sinh dễ dãi và bảo đảm.
Trong lãnh vực tư tưởng cũng vậy, dạy không phải là truyền đạt một tri thức khách quan từ ngoại tại vào trí óc của người khác mà là gợi lên những thắc mắc để người khác khám phá được chân lý tiềm ẩn trong trí óc và tâm hồn của họ.
c. Nhưng đang khi kêu gọi người khác về những ý thức tư tưởng riêng tư của họ bằng sản ý như vậy thì Socrate còn muốn họ phải hiểu rằng: những gì họ tưởng đã biết thực sự là những gì họ còn ngu dốt.
Nghệ thuật ấy thường được gọi là "Hài hước" (Ironie). Theo nghĩa đen, danh từ ấy muốn nói lên nghệ thuật biết tra vấn, nghĩa là mỗi khi nêu lên những thắc mắc, Socrate thường giả bộ như muốn học hỏi với người khác. Ví dụ với các ngụy luận gia - những người thường bị ru ngủ với những kiến thức giả tạo của mình – Socrate thường giả vờ tỏ thái độ khiêm tốn, nhưng nhờ những thắc mắc ông nêu lên, đối phương mới nhận thức được những mâu thuẫn trong tư tưởng của mình và sự ngu dốt trầm trọng của họ.
d. Tuy là người đầu tiên và trên hết tự nhận thức sự ngu dốt của chính mình, nhưng Socrate lại là một nhà tư tưởng đặt tư tưởng tuyệt đối vào chân lý, vì trên hết phương pháp của ông là khám phá cho được những ý tưởng tổng quát hay những định nghĩa ví dụ từ những biểu thị khác nhau của đức công chính nơi nhiều người và trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, nhà tư tưởng tìm ra được một định nghĩa chung thiết định được yếu tính của đức công chính là gì?
Chỉ có định nghĩa yếu tính ấy mới dung nạp được mọi biểu thị khác nhau của đức công chính vừa nói trên. Socrate đã sáng nghĩ được hai điểm quan trọng một là những chứng lý diễn dịch (les arguments déductifs), hai là những định nghĩa tổng quát và phổ biến (Méta. 1078b 27) (A.E. Taylor: Sokraytes, trg 153).
Vì theo W. Capell. Tuy xem ra rất đơn giản, nhưng khám phá trên đã ảnh hưởng xâu xa cho những vấn đề trí năng thuộc tâm lý học và tri thức luận tương lai (Geschichte der Philosophie, II, trg 35).
Riêng trong lĩnh vực đạo đức, sự tin tưởng tuyệt đối vào tri thức và chân lý như trên vừa giải thích đã biểu thị rõ rệt tính chất duy lý của Socrate (rationalisme moral). Điều này được trình bày rõ rệt nhất trong các đối thoại đầu tiên của Platon, mỗi khi phải tranh luận về một nhân đức như công chính, tiết độ, can đảm, sùng tín, v.v. Từ những tranh luận ấy, theo Socrate, Platon luôn luôn muốn trình bày rằng, tất cả những người bất công hay có thể làm điều ác chỉ vì họ không biết, không tri thức, không đạt được chân lý. Nói khác, theo Socrate – Platon, sở dĩ những người không thực hiện hay sống nhân đức là vì họ không thể suy diễn ra được một định nghĩa hay một ý tưởng tổng quát. Một khái niệm yếu tính về nhân đức đặc thù. trái lại nếu thực sự họ tri thức được những nhân đức nói chung hay từng nhân đức một như công chính, tiết độ, v.v. bằng một ý niệm tổng quát kiểu định nghĩa thì đương nhiên họ sống nhân đức, công chính và tiết độ.
Đó là những ý nghĩa của câu nói hầu như đã trở thành châm ngôn kỳ quặc trong lý thuyết đạo đức của Socrate như:
"Không ai có thể cố tình muốn làm điều ác" (Nul n’est méchant volontairement)
Hay:
"Người ta không thể muốn điều ác nếu người ta có tri thức chính xác về sự thiện" (On ne peut pas vouloir son mal quand on sait de science certaine quel est le bien) nghĩa là người ta chỉ làm điều ác được là vì người ta không quan niệm được sự thiện là gì. Ngược lại nếu người ta hiểu được ác là gì và thiện là gì thì không thể không làm điều thiện.
Theo bằng chứng của Xénophon, chủ trương đạo đức của Socrate là tri thức và đạo đức là một nghĩa, là muốn sống đạo đức phải tri thức và chỉ cần có tri thức về nhân đức là sống nhân đức (indentité de la science et de la vertu c’est à dire pour être vertueux il faut savoir, et il suffit de posséder la science pour être vertueux).
Trong đối thoại Protagors. Platon cũng giải thích như vậy: "không ai làm điều ác một cách cố tình" (Personne ne peut faire le mal volontairement) (351 c, d, và Timée, 86 d tiếp). Trong đối thoại cuối cùng tức quyển "Pháp luật", Platon vẫn không ra ngoài viễn ảnh đạo đức nói trên; bằng một ví dụ cụ thể, ông giải thích: Một người nào đó vì nóng giận hoặc vì thực sự ước muốn làm điều ác và họ đã làm điều ấy một cách ý thức là một việc không thể xảy ra, vì theo Platon, "sở dĩ có sự bất hoà giữa đau khổ và khoái lạc với ý kiến hợp lý là do một sự không biết trầm trọng và bao la chi phối tâm hồn ta đó thôi" (Platon définit: "le désaccord de la douleur et du plaisir avec l’opinion raisonnable comme la pire ignorance et aussi la plus vaste parce qu’elle atteint la plus grande partie de notre âme) (689 a)
Trong quyển "Đạo đức học gởi Nicomaque" (Ethique à Nicomaque), Aristote xác nhận thêm điều ấy rằng: Socrate chủ trương đồng tính giữa tri thức và nhân đức (VI, 13, 1144 b, 17).
Hơn nữa, để biễu lộ sự bất đồng ý kiến với Socrate, Aristote còn trình bày một phân biệt thời danh thành hai loại nhân đức khác nhau: một bên là nhân đức lý thuyết (vertus dianoétiques), một bên là những nhân đức thực tiễn (vertus éthiques ou pratiques).
Nói theo danh từ triết lý Đông Phương nhân đức lý thuyết là tri, nhân đức thực tiễn là hành. Với Aristote, tri và hành không đồng tính: biết điều tốt không dĩ nhiên người ta làm điều tốt.
Ovide nhà văn hào trứ danh của La mã đã phát biểu một ý kiến bất hủ tương tự:
"Tôi nhìn thấy và công nhận những điều tốt, nhưng khổ thay tôi lại cứ theo con đường tà!" (Video meliora proboque Deteriora sequor…) (Métam. VII,20)
Trong sự đối nghịch ấy, Aristote muốn nói rằng: chủ trương đạo đức của Socrate là chủ trương coi tri và hành là một theo nghĩa lý trí.
Đó là lý do tại sao Taylor và Wahl, Mucchielli đã gọi khuynh hướng đạo đức của Socrate là "Đạo đức duy lý" và so sánh với "đạo đức" của Spinoza sau này.
Trên đây là bản tóm tắt vắn tắt và tổng hợp về thân thế và lý thuyết của Socrate được hầu hết các triết gia và triết sử gia công nhận.
Tuy nhiên nếu nhìn vào ảnh hưởng đa diện của Socrate trên lịch sử tư tưởng Hi Lạp và Tây phương thì sự đồng ý trên hầu như trở thành khả nghi. Từ sự khả nghi ấy, người ta đã mường tượng ra nhiều chân dung khác về Socrate.
Một cách tinh vi, Jaspers đã phác họa một vài nét về ảnh hưởng và chân dung đa diện ấy như sau:
"Cái chết của Socrate đã làm bùng nổ một trái bom lớn. Sau biến cố ấy, nhóm bạn bè của ông tự cảm thấy phải có sứ mệnh phải nói về ông, phải làm chứng nhân cho ông, phải triết lý theo tinh thần của ông. Từ đó đã khai nguyên một đường hướng triết lý mới, mang nhãn hiệu Socrate mà Platon là một đại diện lớn nhất. Tuy rằng không một công tác, không một lý thuyết, không một hệ thống nhưng Socrate đã khai trương một trào lưu triết lý hùng mạnh nhất, vẫn tồn tại cho tới ngày nay.
Nhưng kỳ lạ thay, ảnh hưởng của Socrate đã không phản chiếu đồng đều qua các môn đệ của ông. Muôn vàn trường phái với những màu sắc riêng biệt đều căn cứ trên thế giá của ông: từ trường phái Mégarique với những ngụy biện, với ý niệm khả tính và trường phái Elis với những nghiên cứu tất cả đều mang cùng một nhãn hiệu là trường phái Socrate.
Ngược lại không những không tham gia một trường phái nào vừa nói vì quan niệm của chúng là những mê lộ mà còn đối lập lại chúng, Platon đã khởi xướng một trào lưu tư tưởng cũng mang ấn tích của Socrate, nhưng bao la và sâu sắc hơn các trường phái kia.
Nói tóm, trong khả tính tất cả đều có một điểm tựa trong tư tưởng của Socrate nhưng không một lý thuyết nào thực sự của ông.
Ảnh hưởng ấy còn mang đầy tính chất đa diện cả trong những thời kỳ lịch sử tiếp sau cái chết của Socrate ví dụ trong triết học Ky tô giáo, các nhà tư tưởng giáo phụ (Pères de l’Eglise) khi gọi là Socrate là tiền hô của các tử đạo, khi thì đặt ông ngang hàng với Jésus: "Socrate và Christ cùng nhau đứng lên phản đối tôn giáo Hi Lạp" (Justin) hay "chỉ duy có một Socrate" (Tatient); Origène ghi nhận những đặc điểm giống nhau giữa Socrate và Jésus. Théodoret lại quan niệm trực giác "vô tri" của Socrate là con đường chuẩn bị cho Đức tin, v.v.
Qua một thời Trung cổ bị lu mờ, sang thời kỳ Phục hưng, Socrate được Erasme ca tụng như một vị thánh:
"Lạy thánh Socrate, cầu cho chúng tôi" (Sancte Socrate, ora pro nobis!)
Montaigne nhìn tư tưởng của Socrate là mô phạm cho mọi khuynh hướng hoài nghi và duy nhiên, trong đó đức tính cao cả nhất là sự thành hình của một con người dám chết.
Ở thế kỷ Ánh sáng, nghiễm nhiên Socrate trở thành một nhà tư tưởng chủ trương tinh thần độc lập và tự do.
Với nhạc sĩ Mendelssohn, Socrate vừa là con người đạo đức tuyệt vời vừa là chứng nhân cho sự hiện hữu của thần minh và bất khả tử. (Phédon)
Tuy nhiên, theo Jaspers, ảnh hưởng đa diện trên đây mới "chỉ là một khởi điểm [5] thuộc những thế kỷ trước"
Với thế kỷ chúng ta thấy xuất hiện hai khuynh hướng giảng nghĩa Socrate một cách mới mẻ, sâu sắc khác hẳn nhưng lại đối nghịch nhau hoàn toàn. Đó là khuynh hướng quan niệm Socrate như khởi điểm nguyên thuỷ cho triết học hiện sinh, do Kierkegaard cầm đầu.
Khuynh hướng thứ hai nhằm trình bày Socrate như con người sáng lập ra phong trào suy tư bằng lý trí, do Nietzsche lãnh đạo.
Nói tóm, một đàng Socrate được coi như tiêu biểu cho triết học hiện sinh; một đàng Socrate được coi như tiêu biểu cho con đường triết lý vương giả.
Đó là hai điểm cần được khai triển.
Tuesday, September 15, 2015
ĐỖ HỒNG NGỌC * GIÁO SƯ NGHIÊM TOẢN
• Thứ Sáu, Tháng Tám 07th, 2009
Năm 1960, lúc học đệ nhị (để thi Tú tài 1), tôi may mắn đựơc học cùng lúc với ba ông thầy đặc biệt: Nghiêm Toản, Vũ Hoàng Chương và Nguyên Sa. Thầy Hạo Nhiên Nghiêm Toản, giáo sư Việt Hán tại Văn khoa Saigon lúc đó dạy môn cổ văn, nhà thơ Vũ Hoàng Chương dạy văn và nhà thơ Nguyên Sa Trần Bích Lan vừa ở Sorbonne về dạy Pháp văn.. Thầy Nghiêm Toản là tác giả Việt Nam văn học sử trích yếu và Luận văn thị phạm, tánh nghiêm khắc, học trò ai cũng sợ. Thầy chịu khó uốn nắn cho chúng tôi từng chữ từng câu, nhất là những từ hán việt. Thầy Vũ Hoàng Chương thì gầy nhom, đi nghiêng nghiêng, ung dung mà tất tả, dạy văn tuyệt vời khi phân tích thơ Tản Đà, Nguyễn Khuyến, riêng Nguyên Sa thì dáng bệ vệ, dạy Pháp văn nhưng vào lớp nói toàn chuyện thơ, đọc cho học trò nghe những bài thơ mới viết của ông. Lúc đó ông cũng vừa nổi tiếng với tập Thơ Nguyên Sa. Tôi vốn mê văn thơ từ nhỏ nên cảm thấy mình đã rất may mắn được cùng lúc học với ba ông thầy đặc biệt này. Các bài luận văn của tôi luôn đựơc điểm cao, nhất là với thầy Vũ Hoàng Chương, có khi cho đến 19,75 điểm (lúc đó cho điểm trên 20) với lời nhận xét rất trang trọng. Sau này, có lần tôi đến thăm thầy lúc thầy còn tạm trú ở nhà cô Mộng Tuyết thất tiểu muội (Vợ thi sĩ Đông Hồ), thầy vẫn còn nhớ và hỏi Đỗ Nghê.
Vài năm trước đây, có lần tôi gặp nhà thơ Trụ Vũ và được anh đọc cho nghe một bài thơ dịch Hoàng Hạc Lâu của Vũ Hoàng Chương, một bản dịch rất lạ, mà Hoàng Hạc Lâu chỉ như một cái cơ để ông tỏ bày tâm sự. Dịch đựơc như thế, vừa thóat vừa không rời gốc, vừa luật vừa phá thật không dễ dàng. .
Dưới đây là bài thơ dịch Hoàng Hạc Lâu của Vũ Hoàng Chương do Trụ Vũ đọc cho tôi chép lại.
Hoàng hạc lâu
Xưa hạc vàng bay vút bóng ngườiĐây lầu hoàng hạc chút thơm rơi
Vàng tung cánh hạc bay bay mãi
Trắng một màu mây vạn vạn đời
Cây nước Hán dương còn nắng chiếu
Cỏ bờ Anh vũ chẳng ai chơi
Gần xa chiều xuống nào quê quán
Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi…
Vũ Hoàng Chương