CÙ HUY HÀ VŨ * VIỆT CỘNG CHẶT CÂY
27/03/2015
Một cuộc tàn sát môi trường của chính quyền Hà Nội
25.03.2015
“Dự án” chặt hạ 6.700 cây xanh hàng loạt này đã vấp phải sự phản đối quyết liệt của mọi tầng lớp người dân thủ đô Hà Nội. (Marianne Brown/VOA)
Những ngày vừa qua chính quyền Hà Nội đã tiến hành “dự án” chặt hạ 6.700 cây xanh lâu năm trên 190 tuyến phố, để lại những đường phố huơ huếch, xém cháy dưới mặt trời. Ngay lập tức hành vi tàn sát cây xanh hàng loạt này đã vấp phải sự phản đối quyết liệt của mọi tầng lớp nhân dân Thủ đô, đặc biệt của giới trí thức và thanh niên, cho dù Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và Hội đồng nhân dân từ phường tới thành phố được chế độ Cộng sản hiện hành mô tả là “tiếng nói của dân” thảy đều im hơi lặng tiếng. Không nghi ngờ gì nữa, cuộc tàn sát môi trường có tổ chức nói trên nếu được thực hiện trót lọt là nhát rìu khai tử cho cái danh hiệu “Xanh, Sạch, Đẹp” của Thủ đô mà nhà cầm quyền thường vỗ ngực. Rõ ràng là mất số lượng lớn cổ thụ thì sẽ không còn “xanh”, điều này tất dẫn tới gia tăng ô nhiễm, tức mất “sạch” và một khi Hà Nội mất cả “xanh” lẫn “sạch” thì không thể gọi là “đẹp”!
Chặt hạ cây xanh trái pháp luật
Đã có những văn bản pháp luật Việt Nam quy định từ nguyên tắc cho đến chi tiết bảo vệ cây xanh đô thị. Đó là Luật bảo vệ môi trường, Luật Thủ đô và Nghị định 64/2010/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý cây xanh đô thị.
Nếu như Luật bảo vệ môi trường nêu ra nguyên tắc “Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn xã hội, quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân”, thì Luật Thủ đô tại Khoản 1 Điều 14 ghi rõ “nghiêm cấm chặt phá cây xanh”. Bên cạnh đó, với quy định “Quản lý và bảo vệ môi trường Thủ đô được thực hiện theo nguyên tắc phát triển bền vững gắn với việc duy trì các yếu tố tự nhiên, văn hóa và lịch sử ở Thủ đô” tại Khoản 1 Điều này, cây xanh ở Thủ đô được bảo vệ một cách toàn diện. Thực vậy, những hàng cổ thụ của Hà Nội tự bao giờ đã đi vào thơ, vào nhạc. “Đường Láng thơm bạc hà, canh giới/ Ôi trăng soi trên lá xà cừ…” ( Đêm trăng đường Láng, thơ Xuân Diệu); “Nhớ phố thâm nghiêm rợp bóng cây, tiếng ve ru những trưa hè…” (Nhớ về Hà Nội, ca khúc của Hoàng Hiệp), “Hà Nội mùa thu, cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ, nằm kề bên nhau…” (Nhớ mùa Thu Hà Nội, ca khúc của Trịnh Công Sơn); “Em ơi, Hà Nội phố, ta còn em mùi hoàng lan, ta còn em mùi hoa sữa…” (Em ơi Hà Nội phố, ca khúc của Phú Quang)…Tóm lại, những hàng cổ thụ đã đi vào tiềm thức của người Hà Nội và vì vậy hẳn nhiên trở thành một phần của văn hóa và lịch sử chốn kinh kỳ. Nói cách khác, cây xanh lâu năm không chỉ là văn hóa vật thể mà còn là văn hóa phi vật thể của Hà Nội.
Tính đến tác động môi trường, văn hóa, lịch sử của cây xanh trong các văn bản luật nói trên, Nghị định 64/2010/NĐ-CP về quản lý cây xanh đô thị quy định khá kỹ những loại cây phải bảo tồn và những trường hợp cây có thể bị chặt hạ, dịch chuyển.
Thủ đô Hà Nội vốn nổi tiếng vì nét đẹp cổ kính với những ngõ phố rợp cây xanh bóng mát, trong số này có nhiều loại cây được xem là ‘di sản’ lâu đời.
Theo Khoản 6 Điều 2 Nghị định, thì “Cây cổ thụ là cây thân gỗ lâu năm được trồng hoặc mọc tự nhiên, có độ tuổi tối thiểu 50 năm hoặc cây có đường kính từ 50 cm trở lên tại chiều cao 1,3 m của cây”. Tiếp đó, theo Khoản 7 của Điều này thì cùng với cây quý hiếm, cây được liệt kê trong sách đỏ thực vật Việt Nam, cây được công nhận có giá trị lịch sử văn hóa, cổ thụ được xếp vào “cây được bảo tồn”. Đồng thời Khoản 1 Điều 14 Nghị định quy định rất rõ các điều kiện cho việc chặt hạ, dịch chuyển cây xanh đô thị. Đó là: a) Cây đã chết, đã bị đổ gãy hoặc có nguy cơ gãy đổ gây nguy hiểm; b) Cây xanh bị bệnh hoặc đến tuổi già cỗi không đảm bảo an toàn và c) Cây xanh trong các khu vực thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình.
Những bức ảnh trên các phương tiện truyền thông đại chúng cho ta thấy tuyệt đại đa số các cây đã bị đốn đều là cổ thụ còn sống, không bị bệnh, tức không thuộc diện bị chặt hạ đã được Nghị định 64/2010/NĐ-CP quy định. Như vậy “dự án” chặt hạ 6700 cây xanh của chính quyền Hà Nội là chà đạp pháp luật một cách trắng trợn. Thực ra, hành vi tàn sát môi trường đô thị có tổ chức và có quy mô lớn chưa từng thấy này bắt nguồn từ một hành vi phản pháp luật khác. Đó là chính quyền Hà Nội cố tình bỏ qua người dân khi lập kế hoạch chặt phá cây xanh trên diện rộng. Chính Phan Đăng Long, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội đã thẳng toẹt trước công luận là “chính quyền chặt cây không cần phải hỏi dân!” Vậy vai trò của người dân trong quản lý cây xanh được pháp luật quy định như thế nào?
Ngoài nguyên tắc “Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn xã hội, quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân” được nêu trong Luật bảo vệ môi trường như đã đề cập, Điều 6 Nghị định 64/2010/NĐ-CP quy định chính quyền “hướng dẫn người dân và cộng đồng dân cư tham gia chăm sóc, bảo vệ cây xanh đô thị” và Khoản 2 Điều 13 vẫn của Nghị định này tiếp tục quy định “Mọi tổ chức và cá nhân, hộ gia đình có trách nhiệm chăm sóc, bảo vệ cây xanh đô thị”. Như vậy, người dân có trách nhiệm chăm sóc, bảo vệ cây xanh đô thị đương nhiên có quyền biểu quyết về mọi đề xuất chặt hạ chúng.
Cần nói thêm rằng tất cả cây xanh nơi công cộng là tài sản công và hơn thế nữa với tư cách là môi trường sống, liên quan mật thiết đến cuộc sống hàng ngày của người dân, từ sức khỏe cho đến tình cảm, thẩm mỹ như Khoản 1 Điều 14 Luật Thủ đô đã đề cập. Do đó, cứ cho là không có các quy đinh pháp luật nói trên thì việc chặt hạ cây xanh nhất thiết phải lấy ý kiến của người dân, đặc biệt ý kiến của các nhà khoa học về môi trường, các nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử.
Tham nhũng là nguyên nhân
Tuyệt đại đa số các cây đã bị đốn đều là cổ thụ còn sống, không bị bệnh, tức không thuộc diện bị chặt hạ.
Từ trước tới nay luôn có một công ty 100% vốn Nhà nước chuyên lo về cây bóng mát ở Hà Nội, đó là Công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước một thành viên công viên cây xanh (gọi tắt là Công ty công viên cây xanh) trực thuộc UBND thành phố Hà Nội. Theo Quyết định 197/2004/QĐ-UB của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội, công ty này với vốn điều lệ là 48 tỷ đồng có chức năng “Quản lý, duy trì, tôn tạo và xây dựng mới các công viên, vườn hoa, cây bóng mát của Thành phố” và “Kinh doanh xuất nhập khẩu hoa, cây cảnh, cây bóng mát”. Như vậy, việc đốn cây, trồng cây thay thế và di chuyển cây bóng mát là trách nhiệm của Công ty công viên cây xanh. Thế nhưng, việc đốn 6700 cây xanh và trồng cây thay thế lại được giao cho các công ty tư nhân do UBND Hà Nội thuê thực hiện. Sự vô lý cùng cực này chứng tỏ không có nhu cầu khách quan để chặt hạ một số lượng cây xanh lớn đến như vậy bởi nếu để Công ty công viên cây xanh đảm trách việc chặt hạ chúng thì có khác nào nói Công ty được nuôi bằng tiền Nhà nước chỉ để chăm sóc, quản lý cây xanh này là ăn hại. Cũng cần khẳng định rằng ngay cả trong trường hợp chính quyền Hà Nội nhận được tài trợ từ xã hội cho việc chặt cây thuộc diện phải chặt hạ và mua cây trồng thay thế thì điều này không đương nhiên buộc chính quyền Hà Nội loại bỏ Công ty công viên cây xanh mà thuê công ty tư nhân. Đơn giản là dù tài trợ đến từ xã hội thì số tiền đó thuộc tài chính công mà đã là tài chính công thì chính quyền Hà Nội giao việc cho công ty công ích mà ở đây là Công ty công viên cây xanh về nguyên tắc là giải pháp tiết kiệm cho ngân sách thành phố nhất bởi công ty tư nhân hoạt động vì lợi nhuận và vì vậy giá thuê sẽ cao hơn. Còn nếu chính quyền Hà Nội nghi ngờ tính hiệu quả của chính “con đẻ” của mình thì tốt nhất là cho đấu thầu giữa Công ty công viên cây xanh và các công ty khác bao gồm các công ty tư nhân.
Vấn đề đặt ra là động cơ nào khiến chính quyền Hà Nội “biến công thành tư” này? Hỏi tức trả lời: chỉ có thể là tham nhũng! Thực vậy những người lập “dự án” giao các công ty tư nhân chặt hạ cây xanh là để biến cây xanh là tài sản công thành tài sản của các công ty này nhằm được chia chác từ siêu lợi nhuận từ bán gỗ cây bị đốn, hay được “lại quả” theo ngôn ngữ dân gian đương đại. Lẽ dĩ nhiên trong trường hợp đó, số lượng cây xanh bị đốn phải là con số cực lớn thì các công ty tư nhân mới bõ làm và đó là bản chất của “dự án” 6700 cây xanh phải chết của chính quyền Hà Nội. Con tính “biến công thành tư” hay tham nhũng này vẫn được chính Phan Đăng Long, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội gián tiếp thừa nhận khi công khai khẳng định doanh nghiệp (tư nhân) bỏ tiền ra chặt cây thì sẽ quyết định làm gì với cây đã đốn. Nghĩa là “lấy mỡ nó rán nó” theo cách nói của người xưa!
Xà cừ chiếm một số lượng lớn trong danh sách cây xanh bị khai tử và là loại cây bị đốn trước tiên hẳn là một bằng chứng rõ ràng của tuyệt chiêu “lấy mỡ nó rán nó”. Thực vậy, gỗ xà cừ đang rất có giá vì được sử dụng để làm đồ mỹ nghệ, thậm chí được sử dụng để “giả gụ” là loại gỗ quý hiếm trong bối cảnh rừng đã “đóng”. Điều này giải thích vì sao đường Nguyễn Chí Thanh được mệnh danh “con đường đẹp nhất Việt Nam” bởi rợp bóng của gần 100 xà cừ cổ thụ đã phẳng như đường băng máy bay chỉ sau có vài ngày thực hiện “dự án”. Đó là chưa nói không loại trừ trong 6700 cây bị khai tử kia có nhiều cây sưa cổ thụ có giá tới hàng trăm tỷ đồng mỗi cây. Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Thế Thảo quê ở Bắc Ninh và cũng từng là chủ tịch tỉnh này, nơi có các làng nghề gỗ mỹ nghệ nổi tiếng như Đồng Kỵ, hẳn quá biết giá trị của loại các loại gỗ đó...
Ngoài ra, lời nói dối trắng trợn của chính quyền Hà Nội về vụ đốn cây xanh chỉ càng chứng minh tham nhũng là nguyên nhân. Phát biểu trong cuộc họp báo chiều 20/3 vừa qua, Phó Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Quốc Hùng cho rằng việc chặt ồ ạt cây xanh là do “sự nôn nóng của các nhà tài trợ” trong đó có các doanh nghiệp VPBank, Vingroup và Bình Minh. Thế nhưng các nhà tài trợ này đều cho biết họ chỉ góp tiền, góp sức ủng hộ Thủ đô trồng cây mới, chứ không hề biết, không tham gia và không hưởng lợi gì từ việc chặt hàng loạt cây trên đường phố trong những ngày qua. Ông Trần Tuấn Việt, đại diện VPBank, khẳng định: “Những nhà hảo tâm hoàn toàn không có động cơ để ‘nôn nóng chặt cây”.
Suy cho cùng, tham nhũng trong vụ đốn cây nằm ngay trong cách thức tổ chức bộ máy chính quyền Thủ đô. UBND Hà Nội tại Quyết định số 6541 ngày 15/12/2009 quy định Sở xây dựng tham mưu về xây dựng vừa tham mưu về quản lý cây xanh lại vừa tham mưu về chọn nhà thầu chặt hạ cây. Nói cách khác là trao cho cơ quan này quy chế “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Thành thử Sở xây dựng không ngần ngại vạch ra các tuyến xây dựng đè lên các tuyến cây xanh để có cớ triệt hạ cây xanh nhằm lấy gỗ đem bán theo kiểu “nhất cử lưỡng tiện” thì mới là lạ!
Ngoài ra, pháp luật về quản lý Nhà nước về cây xanh vừa thừa lại vừa thiếu cũng dẫn tới cây xanh làm mồi cho tham nhũng.
những hàng cổ thụ của Hà Nội tự bao giờ đã đi vào thơ, vào nhạc.
Khoản 1 Điều 3 Nghị định 64/2010/NĐ-CP quy định: “Chính phủ thống nhất quản lý cây xanh đô thị”. Tiếp đó Khoản 1 Điều 20 Nghị định quy định: “Bộ Xây dựng thống nhất quản lý nhà nước về cây xanh đô thị”. Chưa hết, Khoản 1 Điều 21 lại quy định: “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thống nhất quản lý cây xanh các đô thị trên địa bàn tỉnh”. “Thống nhất quản lý” tức là quản lý được thu về một đầu mối. Thế nhưng như ta đã thấy, có đến 3 “đầu mối” quản lý cây xanh, điều này tất dẫn đến tình trạng quản lý bị thả lỏng hay “vô chính phủ” trong quản lý cây xanh.
Trong khi đó, cơ quan Nhà nước tưởng như không thể thiếu được trong quản lý cây xanh đô thị hay “lá phổi” của đô thị là cơ quan quản lý Môi trường thì lại hoàn toàn vắng bóng trong việc quyết định “tồn tại hay không tồn tại” của xanh. Cần phải khẳng định rằng cây xanh công cộng cho dù được Sở xây dựng hay tổ chức khác trồng thì việc quản lý cây xanh phải là một chức năng của cơ quan quản lý môi trường, cụ thể là của Sở Tài nguyên và Môi trường cũng như của đơn vị chuyên trách là Công ty công ích công viên cây xanh. Tóm lại, không thể coi cây xanh ở đô thị là nguồn khai thác gỗ, ai trồng thì người đó muốn chặt lúc nào thì chặt. Không những thế, ngay từ khi quy hoạch đô thị nói chung, quy hoạch cây xanh đô thị nói riêng, đã phải có sự tham gia của cơ quan quản lý môi trường. Do đó, để bịt kín những lỗ hổng tạo cơ hội cho tham nhũng, Nghị định 64/2010/NĐ-CP cần được sửa theo hướng sau:
Thứ nhất, bỏ quy định “Chính phủ thống nhất quản lý cây xanh đô thị” và quy định “Bộ Xây dựng thống nhất quản lý nhà nước về cây xanh đô thị” bởi chức năng của Chính phủ, của cấp Bộ là ra chính sách, đề ra phương thức quản lý cây xanh để cho cấp địa phương thực hiện chứ không phải làm thay cấp địa phương, đó chưa nói trên thực tế Chính phủ không tài nào quản lý được tất cả cây xanh đô thị. Thực ra quy định này tạo ra cơ chế ”xin-cho”, tức cái gì địa phương làm cũng phải được Chính phủ cho phép, buộc chính quyền địa phương phải “bôi trơn” hay nói thẳng ra là hối lộ để Chính phủ hoặc đồng tình hoặc làm ngơ như một hình thức bảo kê quyết định sai trái của chính quyền địa phương.
Thứ hai, bổ sung quy định: “Sở Tài Nguyên và Môi trường tham mưu cho UBND cấp tỉnh về quy hoạch và quản lý cây xanh đô thị”.
Đến đây có thể có câu hỏi: Nếu UBND cấp tỉnh ra quyết định xâm hại môi trường bất chấp phản đối của Sở Tài nguyên và Môi trường hoặc do Sở này tham mưu sai thì Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường có bó tay? Hoàn toàn không. Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường với tư cách giám sát thực thi pháp luật và chính sách do bản thân các cơ quan này ban hành đương nhiên có thẩm quyền yêu cầu UBND cấp tỉnh hủy quyết định trái pháp luật đó, thậm chí yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố hình sự những cá nhân liên quan đến việc ra quyết định đó trong trường hợp quyết định đã gây ra hậu quả nghiêm trọng.
Khởi tố “vụ án chặt cây xanh Hà Nội” – việc cần làm ngay
Theo báo “PetroTimes” ngày 20/3/2015 là ngày Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Thế Thảo tuyên bố dừng “dự án” trước sự phản đối mạnh mẽ của công luận trong và ngoài nước, đã có khoảng 2000 cây xanh bị chặt phăng, một thiệt hại to lớn cho Nhà nước cũng như cho người dân Thủ đô. Do đó khởi tố vụ án chặt cây xanh ở Hà Nội theo Điều 281 Bộ Luật hình sự - Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân) là việc các cơ quan tiến hành tố tụng cần làm ngay, nhất là trong bối cảnh việc chặt hạ cây vẫn điềm nhiên diễn ra, như thể không có tuyên bố dừng của người đứng đầu chính quyền thành phố.
Vấn đề còn lại là xác định hình phạt cho những kẻ đã gây ra thiệt hại nói trên. Theo Thông tư liên tịch số 02/2001 của VKSND Tối cao - TAND Tối cao - Bộ Công an - Bộ Tư pháp, hành vi gây thiệt hại từ 50 triệu đồng trở lên là nghiêm trọng, từ 500 triệu đồng trở lên là rất nghiêm trọng, từ 1,5 tỉ đồng trở lên là đặc biệt nghiêm trọng. Vậy đốn ngã 2000 cây xanh mà giá trị trung bình là hàng chục triệu đồng mỗi cây chỉ tính gỗ, không kể giá trị vô hình là bóng mát thì đã có đủ căn cứ để khởi tố những kẻ liên quan đến việc ra quyết định chặt cây xanh ở Hà Nội theo Khoản 3 Điều 281 (Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ mười năm đến mười lăm năm).
Để chuẩn bị cho “vụ án chặt cây xanh Hà Nội”, ngay từ bây giờ người dân Thủ đô cần tích cực thu thập chứng cứ bằng cách quay phim, chụp ảnh tất cả các địa điểm nơi cây xanh bị chặt hạ và tất cả các tổ chức và cá nhân tham gia chặt hạ chúng cũng như sẵn sàng đứng ra làm chứng trong quá trình tố tụng. Đó là những gì mà người viết bài này, một Người Hà Nội và luôn đau đáu về Hà Nội, mong muốn, không chỉ để giữ lại một môi trường trong sạch mà còn để loại bỏ thứ ô nhiễm nguy hại nhất – độc đoán và tham nhũng!
C.H.H.V
Tác giả là một nhà hoạt động bảo vệ môi trường, đã từng tham gia đấu tranh chống xây khách sạn tại Công viên Thống nhất ở Hà Nội và kiện Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng do đã quyết định cho khai thác bauxite tại Tây Nguyên, hiện là học giả tại Đại học George Washington, Hoa Kỳ.
Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Saturday, March 21, 2015
VĨNH KHANH * CÂU CHUYỆN TÙ CẢI TẠO
Câu chuyện của một người tù cải tạo
Lời nói đầu:
Lời nói đầu:
Ngày 15 tháng 12 năm 2007 vừa qua, sau hơn 30 năm lưu lạc sống rãi rác khắp nơi, nhóm tù cải tạo 520 Xuyên Mộc mới có cơ hội qui tụ về thành phố Houston tham dự buổi họp mặt lần đầu tiên. Tôi không phải là thành viên trong nhóm, nhưng hân hạnh được tham dự buổi họp mặt cảm động và tràn đầy tình huynh đệ này. Tôi gặp lại một số bạn cũ cũng như được biết thêm nhiều anh em mới trong dịp này mà tên mỗi người đều kèm theo một biệt danh dí dỏm như: Hoàng “xà lim”, Hối “Hilton”, Dũng “Sún”, Hải “Vờ”, Toàn “chí chóe”…
Đặc biệt hơn hết trong số người tôi được giới thiệu ngày hôm đó là anh Phạm Văn Thức. Sau đó được nghe chính anh và những bạn bè trong nhóm kể lại câu chuyện độc đáo có một không hai của anh. Thú thật tôi bị cuốn hút vào câu chuyện hấp dẫn này ngay từ đầu nên đã xin phép anh Phạm Văn Thức được viết lại nó. Mời quý vị theo dõi câu chuyện độc đáo sau đây của người tù cải tạo nhóm 520 Xuyên Mộc có tên Phạm Văn Thức mà các bạn tù đã thân thương đặt cho anh cái biệt danh là: Thức ” trốn trại”.
Kể từ sau ngày trình diện tập trung cải tạo, các sĩ quan chế độc cũ đã phải trãi qua nhiều trại tập trung khác nhau như Trảng Lớn, Đồng Pan, Cà Tum, Long Thành, Suối Máu …v…v… nhưng đến năm 1979, một đợt chuyển trại nữa lại xảy ra. Trong đợt này có 520 sĩ quan cấp úy QLVNCH bị chuyển về trại Xuyên Mộc thuộc Bà Rịa, Vũng Tàu. Trại Xuyên Mộc này từ trước chỉ nhốt tù hình sự, nên nhóm tù sĩ quan cải tạo bị chuyển về đây cũng phải chịu chung sự quản chế rất khắc khe, tàn ác giống như qui chế dành cho các tội phạm hình sự. Mọi qui chế ở trại Xuyên Mộc này đều khó khăn hơn nhiều so với các trại cải tạo mà họ đã ở qua trước đây. Bọn Công An quản giáo trại vì quen thói đánh đập tù hình sự, nên cũng đánh đập tù sĩ quan cải tạo rất dã man mỗi khi có ai phạm vào nội qui của trại, dù là những lỗi rất nhỏ. Những hình phạt khắc nghiệt như cùm giò, nhốt xà lim bỏ đói cả tháng trời… hoặc hình ảnh cả đám cán bộ quản giáo xúm lại đánh hội đồng một anh tù cải tạo vô phúc nào đó là hình ảnh xảy ra hàng ngày… Chính những điều này đã dấy lên sự bất mãn trong nhóm tù cải tạo 520 Xuyên Mộc và càng làm rõ nét thêm sự gian trá láo khoét của cái chính sách gọi là “Khoan Hồng, Nhân Đạo” mà chính quyền cộng sản lúc nào cũng rêu rao.
Một số tù bắt đầu tổ chức trốn trại. Khoảng giữa năm 1979, một vụ tổ chức cướp súng trốn trại nổi tiếng xảy ra ở trại Xuyên Mộc. Tham gia trong kế hoạch cướp súng trốn trại này gồm có 5 người là: Thiên, Tài, Thịnh, Đức và Khanh, trong đó người chỉ huy là Thiên, một sĩ quan Trinh Sát Dù. Sau nhiều lần bàn bạc cũng như theo dõi những thói quen của các vệ binh, cán bộ mỗi ngày khi ra lao động bên ngoài. Tổ chức này quyết định sẽ hành động vào lúc hết giờ lao động trong một ngày đã định sẵn, khi các tù cải tạo sắp xếp chuẩn bị trở về trại. Nhiệm vụ được phân công rõ ràng cho từng người, ai có nhiệm vụ nấy. Nhưng đúng là “Người tính không bằng Trời tính”. Câu nói đó xem ra không phải là một câu nói vô duyên cớ…
Đến ngay lúc sắp ra tay hành động thì một trục trặc nhỏ xảy ra đã làm đảo lộn hết mọi việc. Như mọi người đã bàn tính từ trước, nếu gặp trục trặc xảy ra trái với dự trù thì kế hoạch phải hủy bỏ ngay lập tức, chờ cơ hội khác an toàn hơn. Sau khi mọi người trong tổ chức nhận được dấu hiệu huỷ bỏ kế hoạch, ai nấy yên chí xếp hàng đi về trại, thì Thiên người đứng đầu tổ chức, vào một phút chủ quan nào đó, hoặc có thể anh ta thấy tiếc cho một cơ hội khó có được lần thứ hai… đã quyết định tấn công và cướp súng của một vệ binh gần đó. Trong lúc hai bên còn đang dằng co thì Thiên bị các vệ binh khác xông lên bắn chết tại chỗ, ngay cả tên vệ binh bị Thiên cướp súng cũng trúng đạn bị thương. Tài ở gần đó bỏ chạy cũng bị bắn chết luôn sau đó. Ba người còn lại trong tổ chức là Thịnh, Đức và Khanh lúc bấy giờ đang ở phía sau hoàn toàn không chuẩn bị gì cho việc này cả, nên không ai trở tay kịp hoặc giúp gì được cho Thiên và Tài. Lúc đó anh nào cũng đang mang trong người một ruột tượng đựng cơm phơi khô, bất thình lình thấy Thiên ra tay hành động… rồi súng nổ… rồi Thiên và Tài bị bắn ngã… sự việc xảy ra nhanh quá!
Nghĩ là mọi việc đã bị đổ bể, ở lại thế nào cũng sẽ bị xét bắt nên ba người cũng vội bung ra chạy… Quân vệ binh cộng sản truy lùng ngay sau đó… Kết quả Thịnh và Đức bị bắt lại và bị đánh thê thảm. Chỉ có Khanh may mắn chạy thoát được. Vụ trốn trại này không những làm xôn xao tất cả đám tù cải tạo còn lại, mà cả ban chỉ huy trại và quản giáo cũng xôn xao, rúng động không kém. Ngay sau đó, hệ thống quản lý tù càng siết chặt chẻ hơn… nội qui trại đưa ra càng khó khăn hơn và kỷ luật mới được ban hành để đối phó với bất cứ ai phạm nội qui lại càng tàn bạo hơn trước nhiều…. Tuy thế cũng không làm cho các tù nhân cải tạo sợ hải. Ít ra là đối với một người: Đó là anh Phạm Văn Thức.
Anh Phạm Văn Thức trước đây là Thiếu Úy Phân Chi Khu Trưởng đơn vị đóng tại tỉnh Long An. Anh là người miền Bắc di cư, hiền lành, ít nói và là một tín đồ Công Giáo rất ngoan đạo. Nhưng không ai ngờ rằng với bề ngoài hiền lành, ít nói của anh lại ẩn tàng một ý chí sắt đá với những quyết định táo bạo khó có ai bì được. Sau khi từ trại Suối Máu bị chuyển về Xuyên Mộc, dưới sự quản thúc tàn bạo của đám Công An đã đối xử với anh và các bạn tù cải tạo như thú vật… thì anh đã nảy ra ý định trốn trại. Tuy nhiên anh chưa kịp thực hiện kế hoạch của mình thì đã xảy ra vụ tổ chức 5 người kể trên cướp súng vượt trại thất bại trước rồi. Việc này xảy ra bắt buộc anh phải tạm thời đình hoãn kế hoạch của mình lại, chờ mọi việc yên ổn, lắng dịu xuống hết rồi mới tính được.
Qua năm 1980, chuyện 5 người âm mưu cướp súng trốn trại tương đối đã êm. Mọi sinh hoạt trại trở lại bình thường. Lúc bấy giờ vào mùa thu hoạch bắp nên tất cả công tác lao động của trại chủ yếu là làm việc trên những rẫy bắp nên các vệ binh đi theo canh gác tù chỉ tập trung ở những rẫy bắp. Lợi dụng cơ hội này, Phạm Văn Thức quyết định thực hiện ý định của mình. Anh nhận thấy nếu việc trốn trại có nhiều người tham dự sẽ không được an toàn cho lắm. Tuy rằng với có nhiều người thì sẽ có sự giúp đỡ lẩn nhau trong khi hành động cũng như trên bước đường trốn tránh trong rừng, nhưng đồng thời kế hoạch cũng dễ bị vỡ nếu mọi việc không hoàn toàn ăn khớp với nhau, như trường hợp của 5 người bạn tù trước đây.
Do đó Phạm Văn Thức quyết định thực hiện việc đào thoát một mình và không bàn với ai về ý định của mình cả. Theo như sự tính toán của anh, trường hợp nếu bị bắt lại thì không còn gì để nói, phải chấp nhận mọi hậu quả thôi. Còn nếu trốn thoát được thì chỉ cần vài ba ngày lội trong rừng là có thể thoát ra được do thế việc chuẩn bị lương thực, nước uống không cần thiết lắm. Vấn đề mưu sinh thoát hiểm trong rừng 2, 3 ngày không phải là một điều khó khăn lắm đối với một sĩ quan, nhất là điều này anh đã được huấn luyện từ trước. Kinh nghiệm anh đã thấy qua từ vài âm mưu trốn trại bị lộ trước đây ở các trại khác cũng chỉ vì bị cán bộ quản giáo phát giác ra việc dự trử cơm phơi khô để dành…
Nên anh quyết định không chuẩn bị gì cả cho phần lương thực. Mỗi buổi sáng đi ra lao động, chỉ cần chút ít thức ăn mang theo trong ngày, bình nước nhỏ và con dao được phát cho việc lao động là đủ. Với tư thế lúc nào cũng sẵn sàng như thế anh kiên nhẩn chờ đợi thời cơ, ngày này không được thì chờ qua ngày khác… Mọi sinh hoạt trong trại vẫn đều đều như bình thường, không ai mảy may nghi ngờ gì đến anh cả. Cuối cùng rồi thời cơ cũng đến. Ba ngày trước, lúc được giao công tác thu hoạch trên rẫy bắp. Mọi người ai nấy đều lui cui bận rộn với công việc, 2 tên vệ binh đi theo canh giữ thì đang ngồi tán gẫu với một tên vệ binh khác ở phía xa. Thừa lúc không ai chú ý tới, Phạm Văn Thức lợi dụng địa thế rậm rạp và thân cây bắp cao che khuất lủi nhanh vào sâu bên trong và biến mất ngay.
Sau khi băng qua mấy rẫy bắp và vào được trong rừng, Phạm Văn Thức cố gắng đi càng xa càng tốt khỏi vùng ảnh hưởng của trại Xuyên Mộc. Sau đó anh nhắm hướng đi theo kế hoạch đã tính từ trước. Anh không đi về hướng Bà Rịa, Vũng Tàu mặc dù từ trại Xuyên Mộc đi về Bà Rịa gần hơn; ngược lại anh đã quyết định chọn con đường về hướng Gia Kiệm, Đồng Nai xa hơn để đi. Có hai lý do khiến anh chọn con đường dài hơn, đồng nghĩa với khó khăn hơn vì: Thứ nhất anh có thể đánh lạc hướng truy đuổi của các cán bộ vệ binh Cộng Sản, ít ai ngờ anh sẽ chọn con đường xa hơn sau khi trốn trại. Thứ hai ở Bà Rịa,Vũng Tàu anh không có ai là thân nhân quen biết để có thể giúp đỡ. Còn nếu đến được Gia Kiệm, thì anh có ông anh đang ở đó, sẽ nhờ ông anh này giúp đỡ cho bước kế tiếp…
Đã quyết định như thế từ trước, nên anh cứ căn cứ vào điểm chuẩn của núi Chứa Chan từ xa lầm lủi đi. Ban ngày thì cứ nhắm hướng mà đi. Đêm đến thì anh tìm cách leo lên một nhánh cây lớn để tránh thú dữ, ngủ chút đỉnh lấy sức chờ trời vừa sáng lại leo xuống tiếp tục cuộc hành trình đào thoát… Một ít lương thực mang theo cho ngày lao động hôm trước và mấy trái bắp bẻ lúc còn trong rẫy cũng giúp anh thoát được cơn đói hành hạ. Tuy nhiên đầu óc lúc nào cũng căng thẳng, mệt đến lã người nhưng anh không dám nghỉ ngơi lâu vì chỉ sợ mệt quá ngủ quên luôn… Chỉ khi nào mệt lắm anh mới dám tìm bụi rậm ngồi nghỉ ngơi chút đỉnh lấy lại sức, còn lại thì anh cứ bươn bả đi miết. Vừa đi anh vừa cầu nguyện và tự nhắc nhở để cổ vũ tinh thần: “Phạm Văn Thức ơi! Mày phải cố gắng lên. Không được nghỉ… Mày đã trốn thì phải trốn cho thoát, thà là chết trong rừng, đừng để bị bắt lại, chúng nó sẽ hành hạ mày thê thảm còn hơn chết nữa….
Chúng nó đang đuổi theo phía sau đó. Không được nghỉ… Cố gắng lên… Cố gắng lên. Qua khỏi khu rừng này là an toàn rồi…” Cứ thế anh vừa len lỏi đi, vừa tự nhắc nhở, khuyến khích mình như thế. Gặp khu gai góc thì dùng dao phát quang xuyên qua hoặc tìm cách né tránh rồi cố gắng giữ theo hướng cũ để khỏi bị lệch quá xa. Một đôi khi gặp suối thì dò tìm chỗ cạn để vượt qua, rửa vội mặt mày cho tỉnh người lại rồi cứ thế vượt suối đi tiếp… cuối cùng sau 3 ngày 2 đêm thì anh đã sắp ra khỏi rừng, gặp đường quốc lộ rồi.
Núp vào một bụi cây rậm rạp, Phạm văn Thức hướng mắt về phía bìa rừng, cẩn thận quan sát kỷ động tịnh chung quanh. Từ nơi đây, thỉnh thoảng anh đã có thể nghe tiếng xe cộ chạy ngang qua nên đoán chắc phía trước là quốc lộ.
Theo như vị trí hiện tại chỗ anh đang đứng so sánh với bóng dáng của núi Chứa Chan ở phía trước mặt, thì anh đoán mình còn cách Gia Kiệm, điểm anh muốn đến, không bao xa. Nghe tiếng xe cộ thỉnh thoảng vọng lại từ phía ngoài bìa rừng lòng anh mừng khấp khởi, tuy nhiên anh không dám mạo hiểm đi ra quốc lộ vào lúc này. Trời hãy còn sáng lắm. Nhìn lại quần áo trên người đầy bụi bậm, một vài nơi bị gai góc, cây cỏ móc rách nát te tua lòi cả da thịt bên trong, anh nhủ thầm: “Với bộ dạng thê thảm như vậy, rủi có ai bắt gặp cũng dễ bị nghi ngờ!”. Anh kiên nhẩn ngồi dựa người vào trong một góc khuất của bụi rậm nghỉ ngơi chờ mặt trời lặn. Ý nghĩ sắp gặp được người thân và thoát khỏi cảnh tù đày làm anh nôn nao trong dạ, chỉ thầm mong cho mặt trời lặn thật sớm để tiếp tục đi.
******
Khi Phạm Văn Thức lần mò tìm được tới nhà người anh ở Gia Kiệm thì trời đã khuya rồi. Trên đường đi, anh tránh né hết những bóng dáng người di động từ xa nên không ai phát giác ra anh cả. Khỏi phải diễn tả, chúng ta cũng có thể đoán được là ông anh của Phạm Văn Thức sửng sốt như thế nào khi biết được em mình trốn trại trở về. Sau khi trao đổi với nhau vài câu, Phạm Văn Thức cho biết là không thể ở lại đây vì không an toàn. Anh nhờ ông anh cấp tốc chở về Hố Nai nơi anh có một bà cô đang sống. Ở đó an toàn hơn vì ở Hố Nai không ai biết gì về anh trước đây hết. Thế là sau khi tắm rửa, thay quần áo, ăn uống qua loa lấy lại sức, hai anh em chở nhau trên một chiếc Honda lên đường đi ngay trong đêm khuya về Hố Nai.
Như chúng ta đã biết, Hố Nai là một xứ đạo được lập ra sau khi phong trào di cư từ miền Bắc vào Nam năm 1954. Cư dân ở đây hầu hết theo đạo Công Giáo, rất sùng đạo và đặc biệt có tinh thần đoàn kết rất cao. Ngay cả sau năm 1975, khi cộng sản nắm chính quyền cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc cai quản và áp đặt chính sách lên xứ đạo nổi tiếng này. Chính nhờ thế ở tại nhà bà cô, Phạm Văn Thức cảm thấy rất an toàn. Không một ai thắc mắc, để ý gì đến anh hết. Lúc bấy giờ vợ con của anh vẫn còn ở với gia đình bên vợ tại Long An. Anh dặn người anh và bà cô tạm thời không cho vợ con anh biết tin, vì chắc chắn sau khi phát giác anh trốn trại, họ sẽ báo về địa phương truy lùng anh. Cứ kiên nhẩn đợi mọi chuyện lắng dịu đâu đó rồi sẽ cho gia đình biết sau cũng không muộn. Phạm Văn Thức ở nhà bà cô được hơn 2 tháng, mọi việc vẫn yên ắng, thuận lợi. Lúc đó anh mới nhờ người báo tin cho vợ con ở Long An lên Hố Nai gặp mặt.
Vào thời điểm này phong trào vượt biên đã rầm rộ lắm rồi. Gia đình bàn với nhau là trường hợp của anh không thể ở lại VN được, bằng mọi cách phải cho anh vượt biên ra khỏi VN. Nhưng trong khi chờ đợi tìm được đường dây tổ chức vượt biên thì cũng phải kiếm việc gì làm để sống chứ đâu thể ở mãi nhà bà cô được. Cũng may lúc đó có một gia đình người quen đang làm rẫy ở khu kinh tế mới Cây Gáo, Trảng Bom. Gia đình này sẵn lòng giúp đỡ và khuyên anh nên về ở chung với họ làm rẫy trong khi tìm đường vượt biên. Vùng Cây Gáo lúc bấy giờ là một vùng mới khai phá, cư dân hầu như từ khắp nơi đổ về đây lập nghiệp, sống chủ yếu bằng nghề làm rẫy.
Không ai biết quá khứ của ai và cũng chẳng ai thắc mắc gì ai cả. Ngay chính quyền địa phương cũng rất dễ dãi với mọi người vì họ đang có chiến dịch khuyến khích người dân về vùng này khai phá, trồng trọt tăng gia sản xuất thêm…
Nơi đây đúng là một nơi lý tưởng để Phạm Văn Thức ẩn thân trong khi chờ đợi vượt biên. Thế là anh bảo vợ con tạm thời ở lại Long An, còn một mình anh đi lên khu kinh tế mới Cây Gáo tá túc ở nhà người quen tốt bụng này, ngày ngày vác cuốc ra rẫy làm lụng che mắt thiên hạ. Trong khoảng thời gian này, anh dò tìm mua được một giấy “Chứng Minh Nhân Dân” giả với một tên họ khác. Nhớ thế chính quyền địa phương ở Cây Gáo, Trảng Bom cũng không thắc mắc gì về anh, mọi sự đi lại của anh nhờ thế cũng dễ dàng.
Kéo dài như thế cũng hơn năm trời, anh vừa tiếp tục làm rẫy vừa để ý tìm kiếm đường dây vượt biên. Cuối cùng có người giới thiệu anh với một chủ ghe và cũng là người tổ chức. Sau nhiều lần đi lại tìm hiểu kế hoạch… anh đóng tiền cho chủ ghe và chờ đợi ngày xuất phát. Tuy nhiên chuyến này anh đã bị gạt! Đến ngày xuất phát, chủ ghe âm thầm ra đi bỏ anh lại không thông báo tiếng nào cả. Trời bất dung gian, chuyến vượt biên đó cuối cùng bị đổ bể. Người chủ ghe bị Công An bắn chết còn tất cả những người tham gia đều bị bắt lại hết… cũng may, nếu anh tham dự trong chuyến này thì cũng bị bắt luôn rồi. Thật đúng là số Trời!
Không ai có thể nói trước được. Sau lần bị gạt này, tiền bạc mất hết, Phạm Văn Thức không còn đủ khả năng tham gia vào một chuyến vượt biên nào nữa. Anh đành bàn với vợ con gom góp mọi thứ lên khu kinh tế mới Cây Gáo, Trảng Bom an phận làm ăn sinh sống. Gia đình anh tiếp tục làm rẫy thêm một thời gian nữa, sau đó tìm được một việc khác tương đối đỡ hơn: Đó là nghề đi bán và bỏ mối nước mắm lẻ. Tuy nghề này cũng vất vả, chủ yếu chỉ lấy công làm lời, nhưng nhờ tính cần cù nhẫn nại, chịu khó chìu khách hàng… nên mối quen càng ngày càng đông, gia đình anh nhờ thế cũng đỡ vất vả hơn trước.
Năm 1989, chính quyền địa phương Cây Gáo, Trảng Bom có chính sánh cứu xét cho những người địa phương ở “lậu” vào hộ khẩu thường trú. Nhưng muốn được cứu xét người đó phải chứng minh được là mình thuộc diện lao động sản xuất… Theo lời anh Phạm Văn Thức kể lại thì lúc đó gia đình anh không còn làm rẫy nữa mà chuyên hẳn về nghề bán nước mắm lẻ. Công việc này chính quyền địa phương coi như không hợp lệ trong việc cứu xét vào hộ khẩu? Nhưng có lẽ nhờ gia đình anh thường ngày đối xử với bà con xóm giềng rất tốt nên ai nấy đều thương mến. Biết được chuyện khó của anh, một người láng giềng tên Long trước đây là Thượng Sĩ QLVNCH thuộc sư đoàn 5 bộ binh đã giúp cho anh đứng tên đất rẫy của mình để anh có thể chứng minh được với chính quyền địa phương gia đình anh là một gia đình thuộc diện lao động sản xuất…
Nhờ thế gia đình anh mới được cho vào hộ khẩu. Mãi tới bây giờ Pham Văn Thức vẫn nhớ tới cái ơn giúp đỡ của ông Thượng Sĩ Long tốt bụng này. (Như chúng đã biết, sau 1975, chính quyền cộng sản áp đặt ra chế độ hộ khẩu như một hình thức kiểm soát người dân về nhiều mặt. Những người không có hộ khẩu thường trú sẽ gặp rất nhiều khó khăn đối với chính quyền địa phương. Ở vào trường hợp những người như anh Phạm Văn Thức, việc vào được hộ khẩu thường trú, cũng đồng nghĩa với việc sống một cách an toàn, hợp pháp, khó có ai có thể truy lùng ra gốc tích trốn trại của anh ngày trước). Từ đó anh và gia đình cứ an phận ngày ngày tiếp tục chở nước mắm đi bỏ mối nuôi sống gia đình…
Nếu câu chuyện của anh Phạm Văn Thức chỉ có thế thì cũng chẳng có gì quá đặc biệt. Chúng ta xem như anh đã thành công trong việc trốn trại, sử dụng giấy tờ giả, tên giả và cuối cùng an phận sinh sống với gia đình ở một địa phương khác không ai hay biết gì hết… Nếu chỉ có thế thì chúng ta có thể chấm dứt ở đây. Tuy nhiên câu chuyện của anh còn nhiều điều ly kỳ và phần kế tiếp mới chính là phần độc đáo, có một không hai trong cuộc đời của người tù nhóm 520 Xuyên Mộc có tên Phạm Văn Thức này. Mời quý vị theo dõi tiếp…
******
Năm 1990 khi chương trình định cư nhân đạo HO của chính phủ Mỹ đưa ra, Phạm Văn Thức lúc đó đang ngày ngày chở nước mắm bỏ mối ở vùng kinh tế mới Cây Gáo, Trảng Bom nên hoàn toàn không hay biết gì cả. Đến khi một người bạn thân của anh thời còn học trung học là Nguyễn Anh Tuấn (hiện đang định cư tại Lafayette, Louisiana) nhắn tin lên báo cho anh biết về chương trình này… Nguyễn Anh Tuấn cũng cho biết là mình đã nộp đơn xong và đang chờ phái đoàn Mỹ phỏng vấn. Anh bạn này thúc dục Phạm Văn Thức nên lo thủ tục cần thiết và nộp đơn sớm để được phỏng vấn sớm…
Tuy nhiên sau khi xem kỹ điều kiện thì Phạm Văn Thức không khỏi thất vọng, vì điều kiện hợp lệ tiên quyết để được nhận đơn phỏng vấn cho những cựu quân nhân, cán chính thuộc QLVNCH là phải chứng minh được mình đã từng bị tù cải tạo trên 3 năm. Oái ăm thay trường hợp Phạm Văn Thức hiện nay lại không có giấy tờ gì chứng minh được điều này, mặc dù anh đã từng ở tù hơn 5 năm và qua mấy trại khác nhau trước khi trốn thoát khỏi trại Xuyên Mộc! Ngoài ra tên và giấy tờ của anh hiện này đang xài là tên giả! Anh không còn giấy tờ gì chứng minh được tên thật của mình.
Tuy thất vọng nhưng anh cũng cố điền đơn cầu may và khai thật hết tất cả mọi việc trong phần khai lý lịch….Kết quả đơn của anh đưa vào không được chấp nhận vì thiếu giấy tờ hợp lệ: Giấy ra trại chứng minh đã ở tù cải tạo trên 3 năm! Nhìn bạn bè và người quen lần lượt được nhận đơn và chờ gọi tên phỏng vấn làm anh càng nôn nóng và tuyệt vọng hơn. Đây là cơ hội cuối cùng ngoài ra không còn cơ hội nào khác có thể cứu vớt anh và gia đình thoát ra khỏi chế độ cộng sản hiện tại cả! Anh nản chí đến độ không còn thiết gì đến làm ăn nữa. Mọi việc nhà đều giao phó cho vợ con lo, còn anh thì cứ đi lên Saigon nghe ngóng tin tức, hy vọng có một cách nào khác để được phái đoàn Mỹ phỏng vấn. Người ta bảo anh về trại cũ xin giấy chứng nhận, nhưng đối với những người được thả về mà bị mất giấy ra trại thì còn làm cách này được. Còn trường hợp trốn trại như anh thì ai mà chứng nhận cho. Vả lại trở về trại cũ thì chẳng khác nào mang thân vào miệng cọp, nguy hiểm quá…
Sau nhiều tháng đi lại, tốn kém đủ thứ mà không được gì cả. Phạm Văn Thức buồn rầu lắm và càng đau lòng hơn khi nhìn thấy vợ con sống lam lũ ở khu kinh tế mới. Nhận thấy mình cũng đã từng ở tù cải tạo 5 năm, chịu biết bao nhiêu đắng cay cực khổ. Chỉ vì bất mãn chế độ đối xử hà khắc của bọn công an trại… và vì muốn sống Tự Do nên anh mới phải trốn trại. Để rồi hậu quả bây giờ không có gì chứng minh được là anh đã ở tù đủ thời hạn yêu cầu để được cứu xét thì đau quá!! Không lẽ vợ con anh phải suốt đời chịu sống lây lất ở khu kinh tế mới Cây Gáo này hoài sao? Rõ ràng anh đã liên lụy đến gia đình, nếu không thì vợ con anh chắc cũng được đi định cư ở Mỹ như những gia đình sĩ quan khác…
Càng nghĩ Phạm Văn Thức càng đau lòng thêm. Sau nhiều đêm trằn trọc không ngủ được, anh quyết định trở lại trại cũ Xuyên Mộc trình diện và xin được ở tù lại. Hy vọng sau khi hết hạn sẽ được thả về với một giấy chứng nhận ra trại. Vì tương lai của gia đình vợ con, vì khát vọng được sống trong một xứ Tự Do, thoát khỏi chế độ kềm kẹp của chế độ cộng sản hiện tại… anh đành đi nước bài liều này, chấp nhận hết mọi hậu quả. Anh biết rằng đi nộp mạng như thế, có thể họ sẽ bắt giữ anh lại nhốt triền miên không có ngày ra, có thể bị gông cùm đánh đập và thậm chí có thể mất cả mạng nữa cũng không biết chừng…
Tuy nhiên thà là liều như vậy còn hy vọng có được một tương lai sáng sủa cho gia đình, còn hơn là cứ sống lây lất mãi ở khu kinh tế mới Cây Gáo này suốt đời! Anh tự an ủi miễn còn sống thì họ nhốt mãi cũng phải có ngày ra. Lúc đó anh sẽ hợp lệ nộp đơn xin cứu xét đi định cư theo diện HO. Viễn ảnh của một ngày mai tươi sáng nơi xứ Tự Do làm anh quyết tâm hơn!
Tuy đã có quyết tâm như vậy nhưng Phạm Văn Thức không dám bàn với vợ con về ý định của mình vì sợ bị ngăn cản. Anh âm thầm tìm đến một người bạn tù trong nhóm 520 Xuyên Mộc trước đây là anh Nguyễn Văn Vượng (Hiện đang định cư tại California), nói ý định của mình cho Nguyễn Văn Vượng biết và nhờ anh bạn này chở dùm anh lên trại Xuyên Mộc, sau đó trở về báo cho gia đình vợ con anh biết sau.
Nguyễn Văn Vượng cũng kinh ngạc trước quyết định của bạn, lên tiếng khuyên cản anh nên suy nghĩ lại vì ý định này quả thật quá nguy hiểm. Nhưng ý Phạm Văn Thức đã cương quyết như vậy rồi nên người bạn này cũng đành chịu. Sau khi bàn bạc cặn kẻ và chuẩn bị tinh thần cho mọi tình huống xấu nhất có thể xảy ra, hai người bạn chở nhau trên một chiếc Honda đi thẳng lên Xuyên Mộc. Lúc đó là năm 1991, nếu tính từ khi trốn trại ra năm 1980 thì anh Phạm Văn Thức đã ở bên ngoài đúng 11 năm rồi.
Trại Xuyên Mộc lúc bấy giờ hầu như đã thay đổi hết. Nơi đây không còn nhốt tù cải tạo sĩ quan chế độ cũ nữa, mà chỉ còn là trại tù dành cho tội phạm hình sự mà thôi. Kể cả ban chỉ huy trại, công an quản giáo và các vệ binh cũ cũng không còn ở đó nữa. Mấy cán bộ công an mới không biết gì về vấn đề tù sĩ quan cải tạo trước đây. Khi Phạm Văn Thức cho biết mình đã trốn khỏi trại này 11 năm trước, bây giờ vào trình diện để xin được ở tù trở lại, thì tất cả cán bộ công an trại ngẩn người ra nhìn anh như nhìn một người điên. Họ ngạc nhiên cũng phải, vì trước đây đâu bao giờ có trường hợp nào xảy ra như thế này? Họ hỏi anh:
– “Lý do gì anh đã trốn thoát ra ở bên ngoài 11 năm rồi, bây giờ mới trở vào tự thú?”
Phạm Văn Thức trả lời:
– “Đời sống bên ngoài càng ngày càng khó khăn đối với một người sống không giấy tờ như anh. Vả lại anh còn có vợ con nên càng gặp khó khăn nhiều hơn. Cuối cùng chịu đựng hết nỗi nên anh quyết định chọn con đường tự thú để hy vọng sau khi ở tù xong, ít nhất sẽ được trại cấp một giấy chứng nhận và sau khi về cuộc sống sẽ dễ dàng hơn, không phải trốn chui trốn nhủi nữa…”
Họ còn hỏi anh nhiều điều nữa và bắt anh làm bản tự khai. Anh cứ một mực khai sau khi trốn trại về sống vất vưởng ở nhiều nơi khác nhau không giấy tờ gì cả, nên không ai chứng thật được lời khai của anh.
Theo lời anh Phạm Văn Thức kể lại thì ban chỉ huy trại Xuyên Mộc lúc bấy giờ không quyết định được trường hợp của anh nên giữ anh ở lại đó và điện về Bộ Nội Vụ xin chỉ thị. Một lúc lâu sau, bọn công an trại quay lại nói ngay với anh:
– “Anh mà có tinh thần tự giác trở lại thành thật khai báo cái gì? Nói thật đi. Mục đích của anh đến đây chỉ vì muốn xin giấy chứng nhận để được cứu xét đi Mỹ thôi. Có phải thế không??”
Cả bọn xúm lại hỏi anh câu này xong cứ chỉ trỏ cười hoài. Anh cũng cười giả lả trả lời cho qua chuyện với bọn chúng. Anh đoán sau khi điện về Bộ Nội Vụ xin chỉ thị, chắc có lẽ trên Bộ Nội Vụ có nói gì đó về chương trình HO, nên đám công an mới biết được mục đích của anh, chứ trước đó chúng còn ngơ ngác không biết gì cả.
Cuối cùng họ giam Phạm Văn Thức ở chung một buồng với đám tù hình sự. Ban ngày anh không phải làm việc gì hết, ban đêm công an giao cho anh nhiệm vụ “trưởng buồng”, điểm danh và trông chừng tù hình sự tìm cách trốn. Anh cười thầm trong bụng:
– “Mình là thằng trốn trại ngày trước, bây giờ lại làm nhiệm vụ canh chừng tù trốn trại. Đúng là khôi hài thật!”.
Làm “trưởng buồng” được mấy hôm cứ ở mãi một chỗ tù túng quá, anh xin được ra ngoài lao động. Họ cho anh ra trông coi mấy mẫu điều mới trồng, hàng ngày theo dõi xem có bị hư hại gì không?? Công việc cũng không có gì nặng nhọc và điều đáng nói là không ai cai quản anh cả. Anh muốn đi đâu thì đi, muốn làm gì thì làm miễn ở trong phạm vi đó thôi. Trong khoảng thời gian ở tù lần này, gia đình vợ con anh được phép lên thăm viếng đều đặn thoải mái lắm. Nói chung họ đối với anh lần này rất dễ dãi, ngoài sự tưởng tượng của anh.
Cứ như thế Phạm Văn Thức ở gần đúng một năm thì một hôm được gọi về buồng giam nhốt lại, không cho ra ngoài lao động nữa. Ở trong buồng giam khoảng 3 tuần thì anh được gọi lên thả về. Họ cấp cho anh một giấy ra trại chứng nhận từ ngày đầu tiên anh trình diện tập trung cải tạo 28 tháng 6 năm 1975 đến khi thả vào tháng 6 năm 1992 (không nhớ rõ ngày). Như vậy là họ đã chứng nhận anh ở tù liên tục 17 năm không gián đoạn, xem như anh chưa hề trốn trại ra ngoài bao giờ. Anh cũng ngạc nhiên về điều này tuy nhiên cũng chẳng thắc mắc gì cả vì đã đạt được kết quả mong muốn. Phạm Văn Thức cầm tờ giấy ra trại với tên thật của mình trên đó mà lòng vui mừng vô hạn. Lần này thì chắc chắn anh đủ điều kiện nộp đơn theo diện HO rồi. Tuy nhiên anh không ngờ rằng việc chứng nhận anh đã ở tù liên tục 17 năm vô tình lại đưa anh vào một rắc rối khác!
*****
Sau khi về nhà không bao lâu, Phạm Văn Thức xúc tiến ngay việc nộp đơn xin đi theo chương trình HO. Lần này đơn của anh được nhận ngay. Anh vui mừng trở về nhà yên tâm chờ đợi. Cuối năm 1994 anh nhận được giấy mời đi phỏng vấn. Khỏi nói cũng biết là anh và gia đình vui mừng biết chừng nào. Đúng ngày hẹn, hai vợ chồng anh lên Saigon gặp phái đoàn Mỹ. Sau đây là tóm tắt những điểm trong buổi phỏng vấn ngắn ngủi với phái đoàn Mỹ:
Theo đúng thủ tuc, Họ yêu cầu anh giơ tay tuyên thệ những lời khai trong cuộc phỏng vấn là hoàn toàn sự thật. Nếu gian dối thì sẽ chịu mọi trách nhiệm… và hồ sơ sẽ không được cứu xét nữa. Sau đó họ hỏi ngay anh:
– “Xin ông cho biết tên thật của ông là gì? Gia cảnh của ông hiện nay như thế nào?”
Anh trả lời:
– “Tôi tên Phạm Văn Thức. Tôi có vợ và 3 con.”
– “Ngoài tên này ra, ông còn sử dụng tên nào khác nữa không?”
– “Có! Sau khi trốn trại về, để tránh tai mắt địa phương và dễ dàng trong việc đi lại, tôi có xài tên giả. Tôi đã có khai chuyện này trong phần tờ khai lý lịch trong hồ sơ…”
– “Hiện ông có đang sống cùng với vợ con của ông không? và đang làm nghề gì?”
– “Vâng, tôi đang sống cùng với vợ và 3 con của tôi ở Cây Gáo, Trảng Bom. Chúng tôi hiện đang sống bằng nghề bán nước mắm”
– “Trước năm 1975, cấp bậc chức vụ của ông là gì? Đơn vị ở đâu?”
– “Trước 1975 cấp bậc của tôi là Thiếu úy. Chức vụ Phân Chi Khu Trưởng, đơn vị ở tại tỉnh Long An”
Người Mỹ trong phái đoàn phỏng vấn nhìn vào hồ sơ của anh một lúc rồi hỏi:
– “Cấp bậc của ông là Thiếu Úy, chức vụ Phân Chi Khu Trưởng, nhưng tại sao ông đi học tập cải tạo đến 17 năm? Ngay cả cấp Tướng trước đây đi học tập cải tạo cũng không lâu đến như vậy? Có gì đặc biệt trong việc ông đi cải tạo trước đây không?”
– “Tôi đã trình bày rất rõ trong phần khai lý lịch là sự thật thời gian ở tù cải tạo của tôi hai lần tổng cộng 6 năm, 3 ngày: Lần thứ nhất hơn 5 năm, sau đó tôi trốn trại ra ngoài ở hết 11 năm. Lần thứ hai họ bắt giữ tôi lại khoảng gần đúng 1 năm ”
– “Nhưng tại sao trong giấy ra trại ghi rõ thời gian tính từ ngày ông đi trình diện là 28 tháng 6 năm 1975 cho đến ngày ông được thả ra năm 1992. Như vậy không phải là tổng cộng thời gian đã ở trong trại là 17 năm hay sao?”
Mgười Mỹ đen phỏng vấn Phạm Văn Thức nói thẳng với anh:
– “Mong ông phải khai rõ hơn về chuyện này vì chúng tôi nhận thấy có điều gì đó không ổn trong tờ giấy ra trại này và lời khai của ông?? Có phải giấy ra trại này giả không?”
Đến đây thì Phạm Văn Thức cảm thấy bất an lắm:
– “Giấy ra trại đó dĩ nhiên là thật! Tôi cũng không biết tại sao họ lại chứng nhận trong giấy ra trại như vậy? Lời khai của tôi hoàn toàn là sự thật. Ông có thể liên lạc kiểm chứng với họ”
Người Mỹ đen đóng tập hồ sơ của Phạm Văn Thức lại một cách lạnh lùng:
– “Thời gian trốn trại ở bên ngoài 11 năm của ông nếu là sự thật thì tại sao họ lại không tính đến? Rất tiếc chúng tôi không có nhiệm vụ tìm hiểu tại sao cho vấn đề mâu thuẩn này của ông?”
Rồi không đợi Phạm Văn Thức có dịp trình bày thêm, người Mỹ này tiếp luôn:
– “Rất tiếc chúng tôi từ chối cứu xét hồ sơ này của ông vì những lời khai và giấy tờ của ông đã không chứng minh được rõ ràng và ăn khớp với nhau. Bây giờ xin mời ông bà về và chúc may mắn.”
Bước ra khỏi phòng phỏng vấn, phải nói là tinh thần Phạm Văn Thức xuống thê thảm. Mọi hy vọng tan biến hết! Rốt cuộc sau bao nhiêu cố gắng, chịu đựng, liều lĩnh đi trình diện xin ở tù lại lần thứ hai với hy vọng có được giấy ra trại để được phái đoàn Mỹ nhận đơn cứu xét… để rồi kết quả cũng chính tờ giấy ra trại này hại anh…
Càng suy nghĩ Phạm Văn Thức càng thấy chán nãn! Đám đông đang đứng tụ tập ở phía trước cửa chờ đến phiên mình được gọi vào phỏng vấn, thấy vợ chồng Pham Văn Thức buồn rầu đi ra thì xúm lại hỏi thăm. Sau khi biết chuyện hồ sơ của anh bị phái đoàn Mỹ từ chối vì không chứng minh được rõ ràng thời gian trốn trại và thời gian anh đã ở tù trước đây…., một người trong đám đông góp ý khuyên anh nên tìm lại những bạn tù biết về chuyện trốn trại của anh và nhờ họ làm đơn xác nhận dùm rồi gởi qua toà đại sứ Hoa Kỳ ở Bankok xin tái cứu xét lại hồ sơ… chuyện này cũng chỉ là hy vọng thôi, tuy nhiên còn nước thì còn tát…
Phạm Văn Thức cũng muốn nghe theo lời khuyên đó lắm, nhưng bây giờ biết đi đâu mà tìm gặp bạn tù cũ nhờ giúp xác nhận dùm việc anh đã trốn trại…? Thời điểm lúc đó là cuối năm 1994 các bạn tù của anh đã đi định cư theo những diện HO trước đó hết rồi!! Số của anh đúng là xui tận mạng! Chẳng lẽ Thượng Đế cố tình thử thách sự chịu đựng của gia đình anh hay sao? Bao nhiêu sức lực ý chí của anh gần như kiệt quệ hết. Vợ chồng anh chỉ còn biết đêm ngày cầu nguyện xin Thượng Đế, Ơn Trên ban phép màu ra tay cứu giúp mà thôi!!
Có lẽ lời cầu nguyện đầy thành tâm của vợ chồng Phạm Văn Thức cuối cùng đã thấu đến tai Thượng Đế và khiến Ngài cảm động nên đã lóe lên cho anh một tia hy vọng mới: Trong khi dò tìm cầu may tin tức những người bạn tù cũ, thì anh nghe nói có một người tên là Đào Văn Long, trước đây cũng là là tù cải tạo ở trại Xuyên Mộc, lẽ ra đã đi định cư theo diện HO lâu rồi, nhưng vì anh này bị bệnh phổi nên phải ở lại uống thuốc chữa trị khi nào hết mới được đi. Tuy thế không ai biết rõ anh Đào Văn Long hiện nay đang ở đâu?
Nhận được tin này Phạm Văn Thức mừng quá. Tưởng ai chứ Đào Văn Long thì anh rất thân, từ lúc hai người còn ở trại Suối Máu. Anh còn nhớ lúc chuyển từ trại Suối Máu về Xuyên Mộc, anh và Đào Văn Long ngồi kế bên nhau trên cùng một chiếc xe. Khi đi ngang qua Bà Rịa Vũng Tàu, anh nhớ Đào Văn Long có kể cho anh nghe rằng nhà ba anh ta ở Bà Rịa, Vũng Tàu từ nhiều đời trước. Gần như những ai ở lâu vùng này đều biết đến ba anh Đào Văn Long cả. Cứ đến đó hỏi tên ông Ba Quạ là sẽ có người chỉ đến ngay. Lúc bấy giờ ngồi trên xe, Đào Văn Long kể cho anh nghe chuyện này cũng chỉ là vô tình khi xe đi ngang qua vùng này vậy thôi chứ không có ý gì khác. Tuy nhìên vì tên thường gọi của ba anh Đào Văn Long là “Ba Quạ” khá đặc biệt nên khiến Phạm Văn Thức còn nhớ tới bây giờ.
Thế là Phạm Văn Thức lên đường đi Bà Rịa, Vũng Tàu hỏi thăm nhà ông Ba Quạ ngay, hy vọng từ đó sẽ biết được tin tức người bạn Đào Văn Long. Sau khi đến nơi hỏi thăm nhiều người, cuối cùng anh được một anh lái xe Honda ôm cho biết ông Ba Quạ đã chết lâu rồi. Nghe tin này Phạm Văn Thức chới với, tuy nhiên anh cũng cố hỏi tiếp:
– “Thế anh có biết con cái của ông Ba Quạ còn những ai và ở đâu không?”
Anh tài xế xe ôm trả lời:
– “Ông ta có người con gái đang mở quán bán hủ tiếu gần đây thôi.”
Mừng quá, thế là sẵn xe Honda ôm, Phạm Văn Thức nhảy lên nhờ chở ngay tới chỗ cô con gái ông Ba Quạ. Té ra đây chính là cô em của Đào Văn Long, người bạn tù mà anh muốn tìm. Nhờ cô này chỉ dẫn, sau đó anh đã tìm gặp Đào Văn Long. Cũng may là anh này vẫn còn đang uống thuốc điều trị bệnh phổi nên Phạm Văn Thức mới có cơ hội gặp được, nếu không thì chắc anh ta cũng đã đi Mỹ lâu rồi.
Sau khi biết rõ câu chuyện, Đào Văn Long đưa cho Phạm Văn Thức địa chỉ của một người bạn tù khác cũng rất thân với cả hai người từ lúc còn ở trại Suối Máu. Đó là anh Nguyễn Đức Dũng, biệt danh Dũng “Sún”, đã đi định cư diện HO và hiện đang sống ở Washington DC. Đào Văn Long khuyên anh nên gởi thơ liên lạc và nói rõ ý định của mình cho Dũng “Sún” biết. Chắc chắc Dũng “Sún” sẽ liên lạc thêm được nhiều anh em khác làm đơn xác nhận cho anh để bổ túc hồ sơ.
Lập tức Phạm Văn Thức gởi ngay một lá thơ qua Mỹ cho Nguyễn Đức Dũng kể rõ mọi chuyện và nhờ anh này giúp đở. Đến đây thì hình như những đại nạn, rủi ro của gia đình anh đã thực sự chấm dứt. Mọi chuyện sau đó xảy ra thật nhịp nhàng, ăn khớp với nhau một cách tuyệt diệu. Sau khi nhận được thơ của bạn, Nguyễn Đức Dũng đã liên lạc được 8 bạn tù cải tạo khác cũng ở cùng trại Xuyên Mộc với nhau trước đây, cùng làm ngay một tờ đơn xác nhận rằng có quen biết với Phạm Văn Thức từ lúc còn ở trại cũ Suối Máu và cùng chuyển sang trại Xuyên Mộc vào năm 1979… tất cả khai biết rõ chuyện trốn trại năm 1980 của anh như thế nào… sau đó mang đi thị thực chữ ký và gởi bản chính qua toà đại sứ Hoa Kỳ ở Bankok, Thailand và một bản sao về cho anh.
Năm 1997, phái đoàn Mỹ mở lại hồ sơ Pham Văn Thức, gởi giấy mời vợ chồng anh trở lại tái phỏng vấn và tuyên bố chấp nhận gia đình anh được định cư ở Mỹ theo diện nhận đạo HO 40. Gia đình anh lên đường đi định cư không bao lâu sau đó, chấm dứt một quảng đời dài lận đận tưởng như không bao giờ thoát ra được. Hiện anh Phạm Văn Thức đang sống an lành cùng gia đình tại thành phố Philadelphia, tiểu bang Pennsylvania, Hoa kỳ.
Câu chuyện của anh Phạm Văn Thức, một người tù cải tạo trong nhóm 520 Xuyên Mộc kể trên, là một điển hình đáng cho chúng ta suy gẩm về ý chí kiên cường, quyết không chấp nhận sống dưới sự kềm kẹp của chế độ cộng sản… cũng như tinh thần nhẫn nại, sự chịu đựng bền bỉ, sẵn sàng hy sinh và bất chấp mọi hậu quả của anh để đánh đổi lấy cuộc sống TỰ DO mà anh hằng khao khát.
Vĩnh Khanh
Phố Đá Tròn, những ngày cuối năm 2007
NGỌC LOAN * QUA CƠN HỒNG THỦY
QUA CƠN HỒNG THỦY
NGỌC LOAN
Biến cố 1975 đúng là một cơn hồng thủy. Nó cuốn trôi cả xã hội Việt Nam vào dòng nước xoáy xuống vực sâu thăm thẳm... Gia đình tôi cũng cũng không thoát khỏi cơn hồng thủy đó nên đã phải lênh đênh trôi dạt trên biển Đông, để tìm đường sống từ cõi chết.
Chuyến hành trình biển Đông bắt đầu vào tháng 6/1980. Tôi dắt ba đứa con nhỏ, đứa lớn nhất lên 10, bé nhất lên 5, và một thằng cháu con của ông anh lớn xuống thuyền... Chủ tầu dặn trước : mỗi người chỉ được mang theo một bộ quần áo, tuyệt đối không được mang theo đồ kềnh càng, ăn uống do chủ tàu lo. Cẩn thận tôi mang theo một ít cơm nắm thịt ruốc, sợ các con tôi đói dọc đường. Tôi còn khâu vào bộ quần áo mang theo của chúng mấy chỉ vàng, phòng hờ chẳng may bị thất lạc, chúng có vật tùy thân.
Giờ đổ người lên thuyền bất ngờ vào giữa trưa, khác với những chuyến trước thường là vào ban đêm. Việc đổ người xảy ra thật nhanh, thật gọn, khiến tôi choáng váng đến ngộp thở, không nhận biết được gì.
Phút chốc tôi thấy mình bị đẩy lên thuyền vượt biên với ba con. Cùng lúc, có tới 4 hay 5 ghe nhỏ khác đổ thêm người lên thuyền. Sau đó, chúng tôi bị đẩy xuống khoang thuyền, rồi mấy người tổ chức vượt biên phủ lưới lên trên, ngụy trang thành tầu đánh cá.
Ngồi trong khoang, tôi quan sát chung quanh. Thuyền này rất nhỏ, bề ngang chỉ độ một mét, bề dài hơn mười mét, lòng khoang hẹp ghép bằng những miếng ván và có những thanh gỗ đóng ngang cạnh thuyền cách nhau nửa mét. Phía trên chỉ có một lỗ thông hơi nhỏ. Về sau tôi mới hay máy tầu chỉ có 3/4 mã lực và có tới ba mươi người lớn nhỏ "xếp cá mòi" trong thuyền.
Mấy người khoẻ mạnh bắt đầu lấn áp mẹ con tôi khiến chúng tôi ngộp thở vô cùng. Đứa út còn quá nhỏ cứ đòi ngồi trên lòng mẹ, các đứa khác ngồi trên những thanh lườn thuyền than khóc không thôi. Tôi phải cố nuốt lệ, cố tìm lời dỗ dành khuyên bảo chúng. Sau một ngày vật lộn với sự chen chúc và sóng gió, các con tôi đều mệt lả thiếp đi. Còn tôi phần vì lo lắng, phần sở hãi nên cứ trơ trơ ngồi canh chừng trong tư thế khó chịu, đau đớn vô cùng.
Đến tối thuyền bỗng nhiên ngưng chạy. Hỏi ra mới biết vì máy yếu, trở quá nặng nên không chịu nổi. Ngặt một nỗi, thuyền chưa ra hỏi hải phận nên ai cũng sợ bị tầu Việt Cộng bắt lại thì chỉ có nước ngồi tù cả đám. Trong lúc người lái tầu sửa máy, đám thanh niên leo hết lên boong thuyền tìm chỗ nghỉ
ngơi sau một ngày mệt mỏi, thay vì ở dưới khoang phụ tát nước. Họ để máy dùng tát nước chạy phun khói mịt mù.
Vợ con chủ tầu an nhiên tọa hưởng trên cabin, chỉ khổ cho trẻ con và những bà mẹ như chúng tôi phải chịu cực hình xông khói. Chị bạn tôi thấy con cái ngộp thở, ho sặc sụa, van xin chủ tầu tắt máy mãi không được, chị bèn nguyền rủa, chửi bới om xòm về sự vô nhân đạo và việc làm tắc trách của chủ tầu.
Bọn chủ tầu và thợ máy không những không nghe, họ sẵng giọng mắng xuống : "Mấy bà im mồm đi ! Trước tụi tôi cần vàng nên mới đưa mấy bà đi. Bây giờ không cần nữa, con mấy bà có chết cứ việc liệng xuống dưới biển, đừng có la lối."
Tôi biết nếu để tình trạng này kéo dài vài giờ nữa lũ trẻ sẽ chết ngộp do hơi độc carbon tỏa ra.
Bản năng tự vệ nổi lên, tôi vẹt mọi người ra leo lên boong, dõng dạc : "Tôi xin lỗi tất cả các anh đi học tập có mặt trên tầu vì việc tôi sắp làm có thể nguy hại đến các anh. Tôi đứng đây chờ tầu hải quân Việt Cộng đi qua sẽ la to cho họ đến bắt. Giải cứu các con chúng tôi trước để khỏi bị chết ngộp, việc tù đầy tính sau. Tính mạng trẻ con là trên hết ! "
Do lời nói cứng cỏi và ý trí mãnh liệt của tôi, bọn họ đành phải bàn tính lại. Rồi họ tắt máy tát nước, cho hết các trẻ con lên boong, các bà mẹ cùng lên theo, còn các thanh niên xuống cùng thay phiên nhau tát nước. Gần sáng máy chạy được, tầu thoát ra khỏi hải phận. Thật hú hồn !
Song, "Họa vô đơn chí, phúc bất trùng lai ". Đi được hơn một ngày, chúng tôi gặp ngay bị kéo qua tầu chúng. Trẻ con thì bị thẩy qua như thẩy banh.
Nhìn lại, tôi thấy bị mất sạch hành lý trong có dấu mấy chỉ vàng, nhưng thấy còn đủ ba đứa con, tôi mừng rỡ chạy lại ôm chúng khóc nức nở.
Tôi len lén nhìn bọn hải tặc. Trời ơi! Chúng dễ sợ quá : đầu quấn khăn, mình để trần nhễ nhại mồ hôi quấn mỗi cái sà-rông, tay lăm lăm mã tấu, trông như những quái vật đầu người mình thú. Tôi lo lắng không biết chuyện gì sẽ xảy ra và nghĩ thôi đành phó mặc cho số mệnh.
Nhưng bọn hải tặc cho chúng tôi ăn. Các con tôi sung sướng lắm vì đã hai, ba ngày nay từ lúc lên tầu đã bị đói khát. Những nắm cơm đi đường ít ỏi chúng đã ngốn sạch. Từ trước khi leo lên tầu chủ tầu có hứa lo đồ ăn đồ uống, nhưng họ làm ngơ.
Tối đến nằm trên boong
trước mặt chồng con họ khiến cho vợ phát điên, chồng tự vẫn vì phải mục kích những cảnh kinh hoàng khủng khiếp đó, như các tầu hải tặc khác.
Sau đêm thỏa mãn thú tính, sáng ra hải tặc đuổi chúng tôi về tầu cũ đã bị cướp sạch những gì có thể cướp được và bị phá nát máy tầu để tìm vàng. Thế là chúng tôi lênh đênh trên biển cả, không có chút đồ ăn nước uống.
Sáng sáng tầu theo dòng nước trôi ra khơi, tối tối được sóng đánh dạt vào phía bờ ! Thấp thoáng như có bóng đảo Côn Sơn. Trong tình huống tuyệt vọng này, ai cũng mong được trôi dạt trở về. Tù tội cũng cam lòng.
Tội nghiệp các con tôi, mới ngần ấy tuổi đã chịu cực hình ngồi bó gối trên những thanh gỗ nhỏ gồ ghề, chịu nhịn đói ngày này qua ngày khác, và chịu đọa đày nóng thiêu đốt ban ngày, lạnh cóng xương
Sau đêm thỏa mãn thú tính, sáng ra hải tặc đuổi chúng tôi về tầu cũ đã bị cướp sạch những gì có thể cướp được và bị phá nát máy tầu để tìm vàng. Thế là chúng tôi lênh đênh trên biển cả, không có chút đồ ăn nước uống.
Sáng sáng tầu theo dòng nước trôi ra khơi, tối tối được sóng đánh dạt vào phía bờ ! Thấp thoáng như có bóng đảo Côn Sơn. Trong tình huống tuyệt vọng này, ai cũng mong được trôi dạt trở về. Tù tội cũng cam lòng.
Tội nghiệp các con tôi, mới ngần ấy tuổi đã chịu cực hình ngồi bó gối trên những thanh gỗ nhỏ gồ ghề, chịu nhịn đói ngày này qua ngày khác, và chịu đọa đày nóng thiêu đốt ban ngày, lạnh cóng xương
lẽ thấy cảnh tượng thương tâm đó nên cứu mọi người. Khác với bọn hải tặc lần trước, họ rất tử tế thòng dây qua giúp từng người sang hết tầu họ, bỏ lại con tầu ọp ẹp của chúng tôi sắp chìm trong sóng biển. Kiểm được đầy đủ các con an toàn trên tầu đánh cá rộng lớn, tôi mừng như chết đi sống lại. Mọi người được cho ăn uống no nê. Trẻ con được uống cả nước ngọt và sữa nữa. Tôi xin một ly sữa, nhỏ từng giọt vào miệng con út, nhưng cháu rất yếu chỉ thều thào nuốt được vài ba giọt.
Hỏi thăm tôi được biết ông chủ tầu Thái này trước đây đi đánh cá từng bị công an Việt Cộng bắt, may gặp một bà mẹ Việt Nam cứu thoát nên nay muốn trả ơn xưa.
Tầu vào gần đất liền, ông cố gắng tìm một làng đánh cá hẻo lánh và trong đêm đó chuyển lậu chúng tôi lên mượn đám chủ tầu ít tiền để ra ngoài mua sữa cho cháu nhưng họ làm ngơ, lén lút dúi tiền cho con cháu họ mua quà bánh ăn. Túng quá, tôi ôm cháu ra ngoài chợ, mong dân địa phương thương hại để xin một hộp sữa cứu sống cháu. Vừa đến cổng trại gặp ông Đại Úy Thái Lan cụt chân vẫy lại hỏi tôi đi đâu. Tôi nói đi ra chợ xin hộp sữa cho con và mở cái bọc vải để lộ thân hình bé tí teo. Ông ứa nước mắt, nói không có sữa, rồi cho tôi 20 Bath tiền Thái Lan mà đi mua. Nhờ có 20 Bath (vừa đúng 1 đô la Mỹ) Tôi mua một hộp sữa, ít chanh, đường về pha cho cháu uống. Cháu từ từ hồi sinh, ba ngày sau Hồng Thập Tự đến, con tôi đã thoát khỏi ách tử thần.
Chúng tôi được chuyển đến trại tị nạn Song Kha và sau đó được chồng và hai đứa con trai lớn đã vượt biên năm trước bảo lãnh sang định cư tại Mỹ.
Cơn hồng thủy đã tràn vào nước tôi dìm bao nhiêu người dân lành xuống biển Đông? Đã hơn hai mươi năm trôi qua, chuyện kể vượt biển Đông vẫn như vừa mới hôm qua. Phải trải qua đói khát khổ đau, ô nhục và nước mắt thấy hết sự chịu đựng bền bỉ của những con người đành bỏ lại tất cả mà ra đi. Và trong kinh hoàng tuyệt vọng có những vị cứu tinh xuất hiện như những bông hoa nhân ái nở giữa biển khổ trần gian.
Ngọc Loan
° Sinh ngày 5/8/1941 tại Hà Nội
° Cựu nữ sinh Trưng Vương
° Cựu Giáo sư Gia Long
° Đậu cử nhân Văn Khoa Sài Gòn 1966
° Đã xuất bản 2 tập "Thơ Nguyễn Lê" và tập truyện ngắn "Chồng Con" cùng với chồng là Song Thuận
hết: Qua Cơn Hồng Thủy, xem tiếp: Đứa con của biển bờ. Xong vội vã ra khơi để tránh liên lụy vì chính phủ Thái và nhiều nước lúc đó không nhận cho người tị nạn Việt Nam vào.
Chúng tôi nằm ngủ thiếp đi dưới những gốc dừa. Sáng dậy thấy dân địa phương khám phá ra kéo đến xem chúng tôi. Cảnh thê thảm tang thương của đoàn người lưu lạc, sa cơ thất thế làm họ thương cảm sụt sùi. Rất tử tế, họ mang cho chúng tôi từng nải chuối, trái dừa, khoai bắp luộc...đượm thắm tình người. Sau đó chúng tôi được đưa đến trại cảnh sát Thái, được ở tạm trong khu chuồng bò để chờ Hồng Thập Tự Quốc Tế đến, và được cấp gạo, cá khô...
Mọi người sung sướng ăn uống no nê. Riêng con gái út tôi kiệt sức vì kiết lị và mất nước nên nằm thoi thóp, rúm ró trong bọc vải. Chắc nó không sống nổi ba ngày nữa chờ Hồng Thập Tự đến giúp. Tôi vội hỏi ban đêm. Mỗi khi trời mưa chúng tranh nhau ra phía cửa khoang, ngửa miệng hứng từng giọt. Nhiều lúc chúng nức nở kể lể : "Sao mẹ bắt con phải đi khổ sở như thế này. con thèm nước đá chanh quá. Con thèm bát cơm rang quá !" Rồi chúng thay nhau kể ra những món chúng ưa thích : nào xá xị, hủ tíu, nào chè cháo, bánh bao...! Nghe chúng than khóc, kể lể chủ tầu nạt lớn : "Im mồm chúng mày đi ! kể lể làm tụi tao cũng bắt thèm luôn." Tôi vừa buồn cười, vừa giận bọn chủ tầu nhưng phải cố gắng trấn an các con với viễn vọng huy hoàng ngày mai này !
Nói sao hết nỗi đói khát, cơ cực giữa lòng biển cả mênh mông ! Nước biển tràn đầy xung quanh nhưng chúng tôi vẫn khát. Cá bơi lội ê hề nhưng chúng tôi vẫn đói. Đứa con gái lớn nói : "Con không chịu nổi
nữa đâu. Thôi con nhảy xuống biển chết đi cho khoẻ." Tôi phải ôm nó vào lòng dỗ dành, đã hết lời mà nó cứ làm tới, tôi dọa lại : "Con thử nhảy xuống xem nào." Nó ấm ức : "Con phải được uống một ly nước cho đã thèm rồi con mới nhảy xuống được." Tôi mỉm cười : "Nếu có một ly nước, mọi chuyện thay đổi ngay. Con ráng đợi ly nước đó nhe con."
Mấy đứa con tôi lịm dần trong cơn mê vì đói khát lả người. Chúng như không còn cảm giác, lúc tỉnh lúc mê và đang đi dần vào một thế giới nào khác. Nhìn chúng, niềm đau lòng làm thắt ruột gan tôi. Tôi bỗng thù hận tất cả. Hận Cộng Sản đẩy người dân vào đường cùng đến nỗi phải liều mạng với biển rộng trời cao để tìm tự do. Hận đồng hành vô tình, ích kỷ, chèn ép mẹ con tôi. Hận cả chính mình, ngu muội
Mấy đứa con tôi lịm dần trong cơn mê vì đói khát lả người. Chúng như không còn cảm giác, lúc tỉnh lúc mê và đang đi dần vào một thế giới nào khác. Nhìn chúng, niềm đau lòng làm thắt ruột gan tôi. Tôi bỗng thù hận tất cả. Hận Cộng Sản đẩy người dân vào đường cùng đến nỗi phải liều mạng với biển rộng trời cao để tìm tự do. Hận đồng hành vô tình, ích kỷ, chèn ép mẹ con tôi. Hận cả chính mình, ngu muội
và bất lực, không bảo vệ được con mình. Tôi hận, hận tất cả.
Sang đến ngày thứ 14, tình trạng các con tôi tệ hại vô cùng. Chúng lở lói, thân hình nhơ nháp những phân và nước tiểu, thê thảm khôn cùng ! đứa út còn tệ hại hơn, vừa đói khát vừa kiết lị nên khô đét như nắm xương bọc da nhăn nhúm, nằm thoi thóp nửa tỉnh nửa mê...
Đang lúc quá thất vọng. Bỗng có một tầu đánh cá Thái Lan xuất hiện. Cả tầu lại xôn xao, mọi người không còn gì để mất nên không sợ hãi như lần trước nữa. Tất cả chỉ mong được thức ăn nước uống... rồi chết cũng cam tâm. Để làm mủi lòng ngư phủ tầu Thái, vài người vội bồng con gái út bé nhỏ của tôi giơ cao lên đưa hướng về họ. Tội nghiệp con bé thoi thóp thở trong chiếc hình hài chẳng giống người.
Tầu ngừng lại, nhìn qua và có
tầu hải tặc, tôi ôm chặt lấy đứa út và không ngớt cầu nguyện xin ơn trên ban phước lành cho các con tôi. Chợt tôi nhìn sang đứa con gái lớn 10 tuổi đang ngủ say, tôi sợ hãi và hối tiếc đã không cho nó mặc đồ giả trai. Chưa kịp nghĩ xa hơn thì những ánh đèn pin loang loáng rọi đến chỗ chúng tôi nằm. Một cô gái bị đánh thức dậy và đưa lên phòng lái. Rồi cô thứ hai, thứ ba... Họ là những cô gái tuổi xanh mơn mởn ! Tôi rùng mình sợ ánh đèn pin chiếu đến con gái tôi. Tôi thầm khấn xin cho tôi thay cháu làm vật tế thần nếu có chuyện gì xảy ra, đừng để con tôi phải chịu đọa đầy. Cả đêm hồi hộp lo âu, tôi không tài nào chợp mắt. Cũng may, bọn chúng chỉ bắt những cô gái trẻ lên để hành lạc chứ không man rợ hãm hiếp phụ nữ ngay một tầu hải tặc Thái Lan. Vừa thấy tầu cướp, chủ tầu vội ra lệnh tất cả đàn bà trẻ con xuống hết khoang thuyền. Bị bít bùng, chúng tôi không hay biết chuyện gì xảy ra ở trên. Chỉ biết rằng chúng tôi sợ gần chết, vì đã từng nghe chuyện kể lại thế nào là hải tặc Thái Lan : Cướp của, giết người không gớm tay, hãm hiếp phụ nữ thật dã man...đều là nghề của bọn này !
Bỗng có lệnh gọi mọi người lên boong hết. Ba, bốn tên cướp súng dắt bên sườn, tay khoa mã tấu sáng láng. Chúng xuống khoang lục soát kiếm vàng. Rồi chúng lên bắt mọi người cởi hết quần áo để chúng khám xét. Bao nhiêu nhẫn vàng và đồng hồ đeo tay đều bị chúng lột hết.
Lùng sục xong trong khoảng một tiếng đồng hồ, chúng ra lệnh chúng tôi qua tầu chúng. Trong cơn giục giã, xô đẩy hỗn loạn của bọn cướp tôi cũng bị kéo qua tầu chúng. Trẻ con thì bị thẩy qua như thẩy banh.
Nhìn lại, tôi thấy bị mất sạch hành lý trong có dấu mấy chỉ vàng, nhưng thấy còn đủ ba đứa con, tôi mừng rỡ chạy lại ôm chúng khóc nức nở.
Tôi len lén nhìn bọn hải tặc. Trời ơi! Chúng dễ sợ quá : đầu quấn khăn, mình để trần nhễ nhại mồ hôi quấn mỗi cái sà-rông, tay lăm lăm mã tấu, trông như những quái vật đầu người mình thú. Tôi lo lắng không biết chuyện gì sẽ xảy ra và nghĩ thôi đành phó mặc cho số mệnh.
Nhưng bọn hải tặc cho chúng tôi ăn. Các con tôi sung sướng lắm vì đã hai, ba ngày nay từ lúc lên tầu đã bị đói khát. Những nắm cơm đi đường ít ỏi chúng đã ngốn sạch. Từ trước khi leo lên tầu chủ tầu có hứa lo đồ ăn đồ uống, nhưng họ làm ngơ.
Tối đến nằm trên boong
tầu hải tặc, tôi ôm chặt lấy đứa út và không ngớt cầu nguyện xin ơn trên ban phước lành cho các con tôi. Chợt tôi nhìn sang đứa con gái lớn 10 tuổi đang ngủ say, tôi sợ hãi và hối tiếc đã không cho nó mặc đồ giả trai. Chưa kịp nghĩ xa hơn thì những ánh đèn pin loang loáng rọi đến chỗ chúng tôi nằm. Một cô gái bị đánh thức dậy và đưa lên phòng lái. Rồi cô thứ hai, thứ ba... Họ là những cô gái tuổi xanh mơn mởn ! Tôi rùng mình sợ ánh đèn pin chiếu đến con gái tôi. Tôi thầm khấn xin cho tôi thay cháu làm vật tế thần nếu có chuyện gì xảy ra, đừng để con tôi phải chịu đọa đầy. Cả đêm hồi hộp lo âu, tôi không tài nào chợp mắt. Cũng may, bọn chúng chỉ bắt những cô gái trẻ lên để hành lạc chứ không man rợ hãm hiếp phụ nữ ngay trước mặt chồng con họ khiến cho vợ phát điên, chồng tự vẫn vì phải mục kích những cảnh kinh hoàng khủng khiếp đó, như các tầu hải tặc khác. Nhìn lại, tôi thấy bị mất sạch hành lý trong có dấu mấy chỉ vàng, nhưng thấy còn đủ ba đứa con, tôi mừng rỡ chạy lại ôm chúng khóc nức nở.
Tôi len lén nhìn bọn hải tặc. Trời ơi! Chúng dễ sợ quá : đầu quấn khăn, mình để trần nhễ nhại mồ hôi quấn mỗi cái sà-rông, tay lăm lăm mã tấu, trông như những quái vật đầu người mình thú. Tôi lo lắng không biết chuyện gì sẽ xảy ra và nghĩ thôi đành phó mặc cho số mệnh.
Nhưng bọn hải tặc cho chúng tôi ăn. Các con tôi sung sướng lắm vì đã hai, ba ngày nay từ lúc lên tầu đã bị đói khát. Những nắm cơm đi đường ít ỏi chúng đã ngốn sạch. Từ trước khi leo lên tầu chủ tầu có hứa lo đồ ăn đồ uống, nhưng họ làm ngơ.
Tối đến nằm trên boong
Sau đêm thỏa mãn thú tính, sáng ra hải tặc đuổi chúng tôi về tầu cũ đã bị cướp sạch những gì có thể cướp được và bị phá nát máy tầu để tìm vàng. Thế là chúng tôi lênh đênh trên biển cả, không có chút đồ ăn nước uống.
Sáng sáng tầu theo dòng nước trôi ra khơi, tối tối được sóng đánh dạt vào phía bờ ! Thấp thoáng như có bóng đảo Côn Sơn. Trong tình huống tuyệt vọng này, ai cũng mong được trôi dạt trở về. Tù tội cũng cam lòng.
Tội nghiệp các con tôi, mới ngần ấy tuổi đã chịu cực hình ngồi bó gối trên những thanh gỗ nhỏ gồ ghề, chịu nhịn đói ngày này qua ngày khác, và chịu đọa đày nóng thiêu đốt ban ngày, lạnh cóng xương ban đêm. Mỗi khi trời mưa chúng tranh nhau ra phía cửa khoang, ngửa miệng hứng từng giọt. Nhiều lúc chúng nức nở kể lể : "Sao mẹ bắt con phải đi khổ sở như thế này. con thèm nước đá chanh quá. Con thèm bát cơm rang quá !" Rồi chúng thay nhau kể ra những món chúng ưa thích : nào xá xị, hủ tíu, nào chè cháo, bánh bao...! Nghe chúng than khóc, kể lể chủ tầu nạt lớn : "Im mồm chúng mày đi ! kể lể làm tụi tao cũng bắt thèm luôn." Tôi vừa buồn cười, vừa giận bọn chủ tầu nhưng phải cố gắng trấn an các con với viễn vọng huy hoàng ngày mai này !
Nói sao hết nỗi đói khát, cơ cực giữa lòng biển cả mênh mông ! Nước biển tràn đầy xung quanh nhưng chúng tôi vẫn khát. Cá bơi lội ê hề nhưng chúng tôi vẫn đói. Đứa con gái lớn nói : "Con không chịu nổi < nữa đâu. Thôi con nhảy xuống biển chết đi cho khoẻ." Tôi phải ôm nó vào lòng dỗ dành, đã hết lời mà nó cứ làm tới, tôi dọa lại : "Con thử nhảy xuống xem nào." Nó ấm ức : "Con phải được uống một ly nước cho đã thèm rồi con mới nhảy xuống được." Tôi mỉm cười : "Nếu có một ly nước, mọi chuyện thay đổi ngay. Con ráng đợi ly nước đó nhe con." Mấy đứa con tôi lịm dần trong cơn mê vì đói khát lả người. Chúng như không còn cảm giác, lúc tỉnh lúc mê và đang đi dần vào một thế giới nào khác. Nhìn chúng, niềm đau lòng làm thắt ruột gan tôi. Tôi bỗng thù hận tất cả. Hận Cộng Sản đẩy người dân vào đường cùng đến nỗi phải liều mạng với biển rộng trời cao để tìm tự do. Hận đồng hành vô tình, ích kỷ, chèn ép mẹ con tôi. Hận cả chính mình, ngu muội và bất lực, không bảo vệ được con mình. Tôi hận, hận tất cả.
Sang đến ngày thứ 14, tình trạng các con tôi tệ hại vô cùng. Chúng lở lói, thân hình nhơ nháp những phân và nước tiểu, thê thảm khôn cùng ! đứa út còn tệ hại hơn, vừa đói khát vừa kiết lị nên khô đét như nắm xương bọc da nhăn nhúm, nằm thoi thóp nửa tỉnh nửa mê...
Đang lúc quá thất vọng. Bỗng có một tầu đánh cá Thái Lan xuất hiện. Cả tầu lại xôn xao, mọi người không còn gì để mất nên không sợ hãi như lần trước nữa. Tất cả chỉ mong được thức ăn nước uống... rồi chết cũng cam tâm. Để làm mủi lòng ngư phủ tầu Thái, vài người vội bồng con gái út bé nhỏ của tôi giơ cao lên đưa hướng về họ. Tội nghiệp con bé thoi thóp thở trong chiếc hình hài chẳng giống người.
Tầu ngừng lại, nhìn qua và có lẽ thấy cảnh tượng thương tâm đó nên cứu mọi người. Khác với bọn hải tặc lần trước, họ rất tử tế thòng dây qua giúp từng người sang hết tầu họ, bỏ lại con tầu ọp ẹp của chúng tôi sắp chìm trong sóng biển. Kiểm được đầy đủ các con an toàn trên tầu đánh cá rộng lớn, tôi mừng như chết đi sống lại. Mọi người được cho ăn uống no nê. Trẻ con được uống cả nước ngọt và sữa nữa. Tôi xin một ly sữa, nhỏ từng giọt vào miệng con út, nhưng cháu rất yếu chỉ thều thào nuốt được vài ba giọt.
Hỏi thăm tôi được biết ông chủ tầu Thái này trước đây đi đánh cá từng bị công an Việt Cộng bắt, may gặp một bà mẹ Việt Nam cứu thoát nên nay muốn trả ơn xưa.
Tầu vào gần đất liền, ông cố gắng tìm một làng đánh cá hẻo lánh và trong đêm đó chuyển lậu chúng tôi lên bờ. Xong vội vã ra khơi để tránh liên lụy vì chính phủ Thái và nhiều nước lúc đó không nhận cho người tị nạn Việt Nam vào.
Chúng tôi nằm ngủ thiếp đi dưới những gốc dừa. Sáng dậy thấy dân địa phương khám phá ra kéo đến xem chúng tôi. Cảnh thê thảm tang thương của đoàn người lưu lạc, sa cơ thất thế làm họ thương cảm sụt sùi. Rất tử tế, họ mang cho chúng tôi từng nải chuối, trái dừa, khoai bắp luộc...đượm thắm tình người. Sau đó chúng tôi được đưa đến trại cảnh sát Thái, được ở tạm trong khu chuồng bò để chờ Hồng Thập Tự Quốc Tế đến, và được cấp gạo, cá khô...
Mọi người sung sướng ăn uống no nê. Riêng con gái út tôi kiệt sức vì kiết lị và mất nước nên nằm thoi thóp, rúm ró trong bọc vải. Chắc nó không sống nổi ba ngày nữa chờ Hồng Thập Tự đến giúp. Tôi vội hỏi mượn đám chủ tầu ít tiền để ra ngoài mua sữa cho cháu nhưng họ làm ngơ, lén lút dúi tiền cho con cháu họ mua quà bánh ăn. Túng quá, tôi ôm cháu ra ngoài chợ, mong dân địa phương thương hại để xin một hộp sữa cứu sống cháu. Vừa đến cổng trại gặp ông Đại Úy Thái Lan cụt chân vẫy lại hỏi tôi đi đâu. Tôi nói đi ra chợ xin hộp sữa cho con và mở cái bọc vải để lộ thân hình bé tí teo. Ông ứa nước mắt, nói không có sữa, rồi cho tôi 20 Bath tiền Thái Lan mà đi mua. Nhờ có 20 Bath (vừa đúng 1 đô la Mỹ) Tôi mua một hộp sữa, ít chanh, đường về pha cho cháu uống. Cháu từ từ hồi sinh, ba ngày sau Hồng Thập Tự đến, con tôi đã thoát khỏi ách tử thần.
Chúng tôi được chuyển đến trại tị nạn Song Kha và sau đó được chồng và hai
đứa con trai lớn đã vượt biên năm trước bảo lãnh sang định cư tại Mỹ. Chúng tôi được chuyển đến trại tị nạn Song Kha và sau đó được chồng và hai
Cơn hồng thủy đã tràn vào nước tôi dìm bao nhiêu người dân lành xuống biển Đông? Đã hơn hai mươi năm trôi qua, chuyện kể vượt biển Đông vẫn như vừa mới hôm qua. Phải trải qua đói khát khổ đau, ô nhục và nước mắt thấy hết sự chịu đựng bền bỉ của những con người đành bỏ lại tất cả mà ra đi. Và trong kinh hoàng tuyệt vọng có những vị cứu tinh xuất hiện như những bông hoa nhân ái nở giữa biển khổ trần gian.
Ngọc Loan
° Sinh ngày 5/8/1941 tại Hà Nội
° Cựu nữ sinh Trưng Vương
° Cựu Giáo sư Gia Long
° Đậu cử nhân Văn Khoa Sài Gòn 1966
° Đã xuất bản 2 tập "Thơ Nguyễn Lê" và tập truyện ngắn "Chồng Con" cùng với chồng là Song Thuận <
Thursday, March 19, 2015
HOA KỲ ĐANG BỎ TRUNG ĐÔNG? BỎ DO THÁI?
HOA KỲ ĐANG BỎ TRUNG ĐÔNG? BỎ DO THÁI?
các cứ điểm quân sự Mỹ tại vùng Vịnh Persian
NGOÀI CÁC CĂN CỨ HẢI QUÂN Mỹ đang đóng ở hai bờ tây và đông Hoa Kỳ, chúng ta thấy rằng đa số các căn cứ hải quân Mỹ tập trung nhiều quanh vùng vịnh Persian . Đây là điều hợp lý vì nhu cầu gia tăng dầu khí thế giới sau Thế Chiến Hai tăng cao vùn vụt và Mỹ cũng hòa nhịp với thế giới thi nhau hút nguồn dầu thô coi như 'vô tận' tại Trung Đông .
Hoa kỳ cũng như các cường quốc kinh tế đều biết rằng 2/3 trữ lượng dầu và 1/3 trữ lượng khí đốt đều trong tay vài nước quanh vùng Vịnh (Persian Gulf) . Chúng ta không lạ gì các tổ chức bảo vệ quyền lợi các quốc gia có dầu tại Trung Đông ra đời mà OPEC là tổ chức cuối cùng . Và điều dễ hiểu các căn cứ hải quân đa số đều đóng quanh vùng vịnh cùng sự bố trí của Đệ Ngũ Hạm Đội Mỹ tại đây .
bản đồ trách nhiệm của Hạm Đội 5 Hoa Kỳ
Sự phát triển kinh tế thế giới sau thời kỳ Chiến tranh Vn (Vietnam War) và sau Chiến Tranh Lạnh (Cold War) cho chúng ta thấy sự xuất hiện một cường quốc kinh tế hàng chế xuất (Manufacturing Economy ) là Trung Hoa và sự tiêu thụ dầu thô ào ạt từ quốc gia này cũng không lạ gì cho tuyến dầu thô đậm nét từ Vùng Vịnh tới Đông Nam Á , xuyên qua Biển Đông là có giá trị hàng hóa lớn nhất trong giá trị hơn 5 ngàn tỷ mỹ kim qua vùng biển này .
MỌI SỰ THAY ĐỔI VÌ DẦU
Từ cuối năm 2014 cho đến hôm nay tháng giêng 2015 giá dầu thô tiếp tục trụt giá trầm trọng . Theo CƠ Quan Dự Đoán Năng Lượng Quốc Tế IEA (International Energy Agency’s World Energy Outlook)thì Mỹ sẽ vượt Ả Rập về nguồn cung dầu vào năm 2020 và tự túc hoàn toàn về năng lượng vào năm 2030 dựa vào các yếu tố:
-canh tân kỹ thuật khoan dầu trong nước
-tăng mức xử dụng nguồn lợi khổng lồ về phiến dầu (shale oil)
-ứng dụng các nguồn năng lượng thay thế như biogas , ethanol , solar eneggy
1 mỏ lộ thiên khai thác phiến dầu Shale oil tại Colorado Mỹ Dầu phiến của Hoa kỳ ước lượng dự trữ tới 1500 tỷ barrels dầu-- nhiều gấp 5 lần dầu phiến của Arab Saudi
Những điều này, theo IEA có thể hạ giảm tới 90% mức nhập dầu từ Trung Đông sang Mỹ ngoài trừ các đầu mối cung cấp gần như Canada, Venezuela và các nước gần nơi có giá dầu thô hạ nhất do khoảng vận chuyển quá gần làm giá dầu nhập không thể nào cao được . Bao lâu nay giá dầu cao do tuyến vận chuyển dầu đường dài nay giá dầu hạ không làm thiệt hại kinh tế Mỹ nhưng lại là sự thiệt hại cho các nước khối OPEC , Trung Đông hiện nay không nước nào chịu giảm sản lượng để nâng giá dầu . Theo IEA , họ tiên đoán rằng các nước Á Châu trong tương lai gần sẽ theo bước Hoa Kỳ giảm tới 90% dầu nhập từ Trung Đông , rất dễ hiểu họ sẽ mua dầu từ Nam Mỹ ngay cả từ Hoa Kỳ vì cước phí vận chuyển gần hơn .
ÂU CHÂU không huởng lợi gì từ giá dầu hạ khi mức thất nghiệp tăng cao cùng nguồn thu hạ của Trung Đông sẻ giảm mức nhập hàng từ các nước này trong lúc kinh tế EU chưa vực lại .
CHUYỆN KHÔNG ĐƠN GIẢN LÀ GIÁ DẦU HẠ
Khi cái túi dầu Trung Đông không còn quan trọng đối với Mỹ thì các lực lượng quân sự Mỹ tại Trung Đông sẽ giảm vai trò CẢNH SÁT đối với các mỏ dầu và tuyến dầu quan trọng tại đây sẽ làm lung lay sự cân bằng, lấy thí dụ Eo Biển Hormuz (Strait of Hormuz) không còn bóng dáng hải quân Mỹ . Gần hai nhiệm kỳ của tt Barack Obama nếu để ý chúng ta thấy mối liên hệ Mỹ -DO thái , Mỹ -A Rập Saudit mờ nhạt dần. Ví dụ đối với Do Thái, chính quyền Obama đã mô tả Netanyahu như sau " ngoan cố, cận thị, phản động, chậm hiểu, hăm dọa, rình rang, ..."(Jefrey Godlberg, The Crisis in U.S.-Israel Relations Is Officially Here) chẳng qua là khối dầu Trung Đông dần dà không là vấn đề "chết sống" đối với nền kinh tế Hoa Kỳ!
Netanyahu -Obama
Netanyahu -Obama
Nước Mỹ hàng năm tốn nhiều tỷ đô la cho an ninh Do Thái "cho người xung kích năng hoạt nhất " mỗi khi khoảng trống quân sự của Mỹ xảy đến cho Vùng Vịnh thì Do Thái là người thiệt hại thứ Nhất .
VÀ NHỮNG THÁCH THỨC CHO TRUNG CỘNG KHI MỸ RÚT KHỎI TRUNG ĐÔNG ?
Mỹ đang có khối dầu an toàn sẵn sàng cho Nhật và Nam Hàn nhưng các nước Đông Á sẽ là những kẻ thiệt hại thứ hai khi Mỹ rút khỏi Trung Đông . Tương tự Kênh Đào Suez bắt đầu mở cửa vào tháng 11 năm 1869; chúng ta tưởng cũng nên nhắc lại một ít về quá khứ của Kênh Đào Suez, trước tiên thuộc quyền kiểm soát của Pháp sau Anh quốc nắm quyền do sự cần vốn của Ismail người muốn canh tân Ai Cập nên Anh quốc đã thắng quyền làm chủ . Nhiều cuộc chiến đã xảy ra suốt hai trận thế chiến và sau thế chiến Hai có liên quan đến kênh đào này mãi cho đến năm 1962 Ai Cập mới có toàn quyền cai quản nó . Kể từ thế kỷ 17 sau gần 2 thế kỷ Hoa kỳ lập nên chế độ cộng hòa, nước Mỹ không liên quan gì đến vùng này cho đến Thế chiến Hai. Khi nước Mỹ trổi dậy với nhu cầu to lớn về dầu hỏa thì không ai hất nỗi chân Mỹ ra khỏi vùng dầu Trung Đông cho đến hiện nay là thời điểm nước Mỹ "tự động rút lui " . Ai sẽ thay thế Mỹ làm người 'Cảnh Sát' tại vùng Vịnh hay canh giữ eo biển Hormuz , cùng ngay cả kênh đào Suez thay thế Mỹ ngoài Trung CỘng ?
tại sao chúng ta nghĩ Trung CỘng ?
tại sao chúng ta nghĩ Trung CỘng ?
đường màu xanh chỉ tuyến dầu qua Trung Cộng đến từ vùng Vịnh
Trung Cộng là nước mua dầu nhiều từ Trung Đông hiện tại thì phải gánh lấy vai trò này nếu không muốn nền kinh tế chế xuất chết cứng vì không có dầu . Nhìn vào lực lượng hải quân của Trung Hoa hiện tại chưa đủ sức bảo vệ bờ biển của họ thì điều này là bất khả thi trừ Mỹ . Tương lai Mỹ sẽ trở thành người bán dầu, nhưng hiện tại các nước Đông Á đang lệ thuộc dầu từ Vịnh Persian là chuyện thực tế trước mắt .
Tiếp đến khi nước Mỹ độc lập về năng lượng , hay nói cách khác khi cái "ô quân sự" tại Vùng Vịnh của Mỹ rút lui sẽ có người MẤT RẤT LỚN đó là các vương quyền tại Trung Đông đang sở hữu trong tay nguồn DẦU -ĐÔ LA và lệ thuộc vào quân sự Hoa kỳ nhất là hải quân .Chúng ta chứng dẫn cụ thể là vương quyền Saudi Arabia, Morocco, Jordan, Kuwait, Bahrain, the UAE, Qatar and the Sultanate of Oman trong đó giàu mạnh nhất là Arab Saudi .
bản đồ có gạch chéo là các vương quyền A Rập
bản đồ có gạch chéo là các vương quyền A Rập
các vương quan triều đình Arab Saudi khóc than vua Abdullah Biin Abdul Ariz băng hà ngày 23.1.2015
Chúng ta sẽ chứng kiến người dược lợi nhất là IRAN vì không còn sự đe dọa của lực lượng hải quân Mỹ tại đây. Iran hơn bao giờ hết ước mơ là một cường quốc Hồi Giáo hạt nhân tại vùng Vịnh . Mong muốn này bao lâu nay bị Tây phương nhất là Mỹ ngăn chận . Tuy thuộc Hồi giáo nhưng Iran đa số theo hệ Shiite khác với Arab Saudi theo hệ pháo Sunni . Sự trổi dậy của Quốc Gia Hồi giáo Cực Đoan ISIS là một vấn đề thách thức lớn cho vùng Trung Đông khi Mỹ để lại khoảng trống lớn tại đây .
Giáo chủ tối cao Iran : Ali Khamenei
chấp giáo 4 June 1989
giáo chủ tối cao quyền hành cao hơn cả tổng thống Iran
chấp giáo 4 June 1989
giáo chủ tối cao quyền hành cao hơn cả tổng thống Iran
NGƯỜI DÂN MỸ SẼ LÀ QUYẾT ĐỊNH
Theo Bloomberg News 25-1-2015, có tới 45 trong 53 kinh tế gia Hoa kỳ cho rằng kinh tế Hoa kỳ đang trên đà hồi phục với những tín hiệu giảm lạm phát cùng tín hiệu Quỹ Dự Trữ Liên Bang FED Mỹ sẽ tăng phần trăm tiền lời trở lại vì cho la `nước Mỹ đã qua khủng hoảng kinh tế . MỖI KHI người dân Mỹ thấy được lợi ích từ giảm thiểu tốn phí thuế để nuôi đội quân hải ngoại tại Trung Đông, khi giá dầu rẻ đang thúc đẩy công ăn việc làm thêm và sự tiêu dùng tại quốc nội thì sự quyết định của cử tri sẽ là 'DẤU CHẤM HẾT' cho vai trò của Mỹ tại Trung Đông . Từ điểm này, ai hay nghĩ đến thời cuộc sẽ hình dung vai trò ai là kẻ bắt buộc nhảy vào cuộc chơi thế chân Mỹ tại Trung Đông ?
liệu bao nhiêu chiếc 'Liêu Ninh' này mới ngang hàng với Hạm Đội 5 của Mỹ ?
Hãy để cho Trung Cộng đem QUÂN GIẢI PHÓNG TRUNG HOA CÙNG CHIẾC HÀNG KHÔNG MẪU HẠM LIÊU NINH ' hàng phế thải' qua trấn giữ eo biển Iran và Vịnh Persian vì Tàu là kẻ dùng dầu nhiều nhất hiện nay ?
Qua mấy mươi năm 'đổi mới ' từ thời hậu Mao tức là Đặng tiểu Bình , Tàu là kẻ thừa huởng mối lợi do lực lượng quân sự Mỹ trấn giữ Trung Đông để tha hồ mua dầu nhưng không 'trả xu nào ' cho Mỹ ?
TIẾN THỐI VẠN NAN CHO VIỆC 'DĨ LỠ ' thế "leo lưng cọp " TẠI BIỂN ĐÔNG
nếu Trung cộng gia tăng sự có mặt hải quân tại Trung Đông thì 'lực lượng răn đe' tại Biển Đông và Đông Bắc Á sẽ thưa đi . Nhưng muốn có dầu thì phải ít nhiều gì phải có lực lượng thế Mỹ tại vùng Vịnh , một thực tế mà Trung CỘng hoàn toàn chưa có đủ ngoài trừ lực lượng dọa nạt CSVN tại Biển Đông hay hù dọa các nước Đông nam Á thôi
TIẾN THỐI VẠN NAN CHO VIỆC 'DĨ LỠ ' thế "leo lưng cọp " TẠI BIỂN ĐÔNG
nếu Trung cộng gia tăng sự có mặt hải quân tại Trung Đông thì 'lực lượng răn đe' tại Biển Đông và Đông Bắc Á sẽ thưa đi . Nhưng muốn có dầu thì phải ít nhiều gì phải có lực lượng thế Mỹ tại vùng Vịnh , một thực tế mà Trung CỘng hoàn toàn chưa có đủ ngoài trừ lực lượng dọa nạt CSVN tại Biển Đông hay hù dọa các nước Đông nam Á thôi
Không có cái gì VĨNH CỮU kể cả chuyện SỐNG NHỜ TRÊN XƯƠNG MÁU KẺ KHÁC .
DÒNG KẾT NGẮN GỌN
Sự Hạ giá dầu , và VAI TRÒ RÚT LUI CỦA LỰC LƯỢNG MỸ tại Trung Đông là những gì phải đến khi Mỹ trở về một chuyện tính trước từ thế kỷ 20 là
* KHAI THÁC DẦU KHÍ NỘI ĐỊA HOA KỲ
*định hình lại một nền kinh tế không lệ thuộc vào dầu nhưng lệ thuộc vào cuộc CHẠY ĐUA KỸ THUẬT CHO THẾ KỶ 21
* KHAI THÁC DẦU KHÍ NỘI ĐỊA HOA KỲ
*định hình lại một nền kinh tế không lệ thuộc vào dầu nhưng lệ thuộc vào cuộc CHẠY ĐUA KỸ THUẬT CHO THẾ KỶ 21
Đây chưa hẳn hoàn toàn là một 'GAME CHƠI ' của Mỹ đối với Nga, Trung đông, EU, kể cả Tàu mà đây là một giai đoạn trong chuỗi CHIẾN LƯỢC KINH TẾ CHÍNH TRỊ LIÊN THẾ KỶ mà các đầu não chính trị Hoa kỳ (think tank) tính trước .
Chỉ tiếc cho các chế độ THIẾU VIỄN KIẾN , hay nhìn cái lợi trước mắt (theo lối "trực quan"), đến nay đang và sắp bước vào rối loạn .
DHL -BA SOCIAL SCIENCE SJSU
26/1/2015
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 355
NHẠC SĨ LÊ DINH
Nguyễn Minh Dũng |
Ðêm Nhạc Và Tuyển Tập Tình Ca Lê Dinh |
Nhằm mục đích vinh danh nhạc sĩ Lê Dinh sau 40 năm sinh hoạt trong lãnh vực âm nhạc , nhóm thân hữu nghệ sĩ Montréal đã tổchức một đêm nhạc LêDinh tại nhà hàng Kenny Wong vào tối 23-6-1996. Trong đêm vui này, tuyển tập tình ca gồm 20 bài của Lê Dinh vừa đem từ nhà in về trong ngày hôm qua , được trình diện trước 350 quan khách, văn nghệ sĩ và thân hữu.
Ông Trường Kỳ, một cây nhạc- trẻ-trước-1975 của Sài gòn, thay mặt ban tổ chức, trình bày mục đích đêm sinh hoạt . Ca sĩ Huyền Châu , trong một bài nói chuyện ngắn gọn, nhưng đưa ra được những xét trung trựctrong từng giai đoạn của đời nhạc Lê Dinh.
Tuyển tập Tình Ca Lê Dinh là những nhạc phẩm được chọn lựa trong hơn 200 ca khúc của người nhạc sĩ xứ Gò Công sáng tác trong 40 năm. Trong đó có ca khúc đầu tay đã được giới thưởng thức nồng nhiệt đón nhận, bản Làng Anh Làng Em. Ca khúc này đã là đầu mối giây, nối kết bền vững giữa ông và người bạn đời, sau khi hai người vịn nó,mà song ca trên sân khấu Gò Công, cách đây 40 năm.
Ðêm nay, món quà đặc biệt đã bất ngờ đến với trên 350 người tham dự, Lê Dinh và phu nhân của ông đóng trở lại cặp song ca ngày nào, để hát tặng qúi khách, bằng hữu với chính ca khúc cũ. Tay lỗi lạc một thời trong làng nhạc vàng này , còn tâm sự: "...Ðiều tôi sung sướng không phải chỉ vì được giới thiệu mà còn chính là vì sự hiện diện đông đảo của quan khách và thân hữu, điều đó chứng tỏ con đường đi của tôi nói riêng và của giới nghệ sĩ nói chung không cô đơn lẻ loi mà lúc nào cũng có sự khuyến khích yểm trợ của quý khán thính giả..." Ðáp lại chân tình của nhạc sĩ Lê Dinh, ban tổ chức đã gởi tặng ông hai món quà lưu niệm, và qúi hơn nữa, những giọng ca của Montréal đã giúp ông nghe lại những âm thanh ông đã viết, đã sống. Ngôn ngữ của âm nhạc là một loại ngôn ngữ không có tuổi già, hẳn nhiên trong giây phút Huyền Châu, Yến Thy, Yến Thu, Huy Phương, Ðào Trọng Quyền, Lily Doiron...say sưa lên, xuống trầm bỗng, lòng ông càng phơi phới...
Ðể đêm vui thêm hào hứng, giữa bữa dạ tiệc còn mở ra những câu đố vui về ca nhạc và rút thăm dành tặng phẩm. Ðêm sinh hoạt được kết thúc với nhạc phẩm Lê Dinh vừa mới viết :" Cảm Ơn", qua sự trình bày hợp ca. Ðào Trọng Quyền, một giọng hát tài tử, đã điều khiển chương trình trôi chảy êm ả.
Nguyễn Minh Dũng
bài nói chuyện của nữ ca sĩ Huyền Châu |
Nhạc Sĩ Lê Dinh Và Bốn Mươi Năm Âm Nhạc Việt Nam |
Nói đến nhạc sĩ Lê Dinh, không mấy ai là không biết tới người nghệ sĩ sáng tác nổi danh từ thập niên 50 cho đến nay qua những ca khúc chứa chan tình cảm làm rung động lòng người. Bắt đầu sáng tác từ năm 1953 nhưng mãi tới năm 1956 nhạc sĩ Lê Dinh mới chính thức ra mắt nhạc phẩm "Làng Anh Làng Em". Và 40 năm nối tiếp sau đó với một số lượng trên 200 nhạc phẩm, tên tuổi của ông đã gắn liền với dòng nhạc quê hương Việt Nam cận đại.Cuộc đời sáng tác của nhạc sĩ Lê Dinh có thể chia
làm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn đầu, từ 1953 đến 1956, ông sáng tác một mình và tên tuổi đã đưọc nhiều người biết đến qua các nhạc phẩm nổi tiếng như bài : Làng Anh Làng Em, Ngày Ấy Quen Nhau, Tấm Ảnh Ngày Xưa, Xác Pháo Nhà Ai, Cánh Thiệp Hồng, Ngang Trái, Thương Ðời Hoa, Tình Yêu Trả Lại Trăng Sao vv...
- Giai đoạn hai : từ 1968 đến 1975, Lê Dinh cùng với Minh Kỳ và Anh Bằng thành lập nhóm Lê Minh Bằng, hợp soạn rất nhiều nhạc phẩm nổi tiếng như Ðêm Nguyện Cầu,Căn Nhà Ngoại Ô,Chuyện Tình Lan Và Ðiệp I, II, III, Gõ Cửa, Linh Hồn Tượng Ðá,Cho Người Tình Nhỏ...vv
- Giai đoạn ba : từ năm 1975 và về sau, vì cuộc đời đổi thay, nhóm Lê Minh Bằng đã không còn sáng tác chung nữa. Trong suốt thời gian 3 năm sống dưới ách độc tài cộng sản, ngòi bút của nhạc sĩ Lê Dinh đã ngừng viết và chỉ đến lúc vượt thoát tìm được tự do, nhạc sĩ Lê Dinh mới sáng tác trở lại. Những bài hát trong giai đoạn này mang nặng tâm sự của một người ray rứt đắng cay vì thế sự.
" Qua Lê Dinh người ta tiếp nhận những âm điệu uyển chuyển, dồi dào, không nhàm chán và phần lời ca của Lê Dinh rất chân thật, rất đơn sơ nhưng không kém phần điêu luyện và nhờ đó đi thẳng vào lòng người nghe một cách dễ dàng"
Những tâm tình mộc mạc đơn sơ ấy được thể hiện trong bài "Tấm Ảnh Ngày Xưa" . Tiếng nhạc lời thơ qua bài hát này đã khiến ta nghe mà không tránh khỏi bùi ngùi nhớ nhớ về một dĩ vãng của tuổi niên thiếu mộng mơ, của tuổi học trò lưu bút ngày xanh, của những lưu luyến u hoài,tuy chưa xa cách mà đã thấy ẩn hiện cái buồn ly biệt:
"Ngày nào em đến chơi tặng tôi một tấm hìnhTình yêu trong các bài nhạc Lê Dinh mang những nét buồn của cuộc tình lứa đôi dang dở
ghi nhớ ngày ngày chúng mình quen nhau
năm tháng dài ngày sau ghi nhớ mãi
tặng anh, để mai sau mình nhớ nhau hoài
thương nhớ lâu dài này anh nhớ đừng quên..."
(Tấm Ảnh Ngày Xưa)
" Ngày mai viết trao anh thiệp hồngHoặc đau thương , chia cách trong "Ngang Trái":
rồi em bước sang sông lạnh lùng
cuộc tình xưa đã hết
đời mình riêng một bóng
anh có buồn không anh ?"
(Cánh Thiệp Hồng)
"Tình yêu mang đến niềm đauNhững lời u uất về loài hoa bạc mệnh được dùng một cách tài tình để nói lên thân phận người khách má đào:
người tôi yêu mến giờ đâu
chuyện ngày xưa là nước mắt
mà giờ đây thành tiến khóc
yêu nhau không được gần nhau" (Ngang Trái)
" Buồn viết nên bài caTình yêu quê hương của nhạc sĩ Lê Dinh mang nhiều nét đặc thù với hình ảnh đồng ruộng miền Nam xanh ngát mênh mông,những con lạch nhỏ len lách qua những hàng dừa ngả mình soi bóng, có những cầu tre lắt lẻo gập ghềnh thấp thoáng bóng dáng các cô gái đang độ xuân thì trong chiếc áo bá ba gợi cảm:
vì nhớ thương đời hoa
mặn mà thay lúc đầu
dịu dàng khoe sắc màu
nhìn dòng đời vui biết bao
ngày ấy nay còn đâu
vì sắc hoa tàn mau
ngại ngùng hoa biếng cười
vì đời hoa úa rồi
mà thời gian lạnh lùng trôi
(Thương Ðời Hoa)
" Ôi thương quá là thương ruộng lúa quê hươngSau 20 năm cách biệt nhạc sĩ Lê Dinh đã để lại tâm sự tràn dâng qua sáng tác mới nhất về vùng đất Gò Công, nơi quê quán của ông:
những chiều xưa nhìn em cuối con đê
vành nón nghiêng nghiêng em bước qua chân cầu
cầu tre lắt lẻo đưa em đi về nhà
dáng em sao hiền hoà'"
(Người tình Cửu Long)
" Em là cô gái xứ GòNhững bài tình ca nổi tiếng của nhạc sĩ Lê Dinh đã được thính giả mến chuộng từ bốn thập niên qua và các nhạc phẩm này hiện nay vẫn còn được các ca sĩ hàng đầu trình bày và thu băng. Giá
quanh năm sông vắng đưa đò nuôi mẹ
nhà em ở xóm Giòng Tre
anh về nhớ ghé thăm mẹ thăm em "
(Thương Về Gò Công)
trị đích thực của các nhạc phẩm này không nằm trong những lời lẽ cầu kỳ, văn hoa bóng bẩy ,mà chính là ở những lời thơ mộc mạc chân thành như tâm tình của người miền Nam, được tác giả lồng
vào trong các nhịp điệu nhịp nhàng tha thiết của điệu Boléro hay nhẹ nhàng lả lướt của các điệu Habanera và Tango.
Giai đoạn hai trong sự nghiệp sáng tác của nhạc sĩ Lê Dinh rất phong phú với sự hợp soạn của hai nhạc sĩ Minh Kỳ và Anh Bằng Bộ ba Lê Minh Bằng đã viết chung rất nhiều ca khúc được thính giả
ưa chuộng với tác phẩm đầu tiên của nhóm được ra mắt năm 1968 là "Ðêm Nguyện Cầu" Sau đó các tác phẩm như " Linh hồn Tượng Ðá","Chuyện Tình Lan Và Ðiệp","Mưa Trên Phố Huế", "Nếu Hai Ðứa Mình"Giấc Ngủ Cô Ðơn"... đã được thính giả khắp nơi đón nhận và tên tuổi của nhóm Lê Minh Bằng trở thành một bút hiệu nổi tiếng ăn khách nhất của những năm cuối thập niên 60 va đầu thập niên 70. Với số lượng bài hát được viết ra quả dồi dào của nhóm Lê Minh Bằng nên ngoài những bản nhạc mang bút hiệu quen thuộc, còn rất nhiều bài được viết dưới nhiều bút hiệu khác như Dạ Cầm, Vũ Chương, Hoa Linh Bảo. Mạnh Quỳnh, Mạc Phong Linh, Mai Thiết Lĩnh, Tôn Nữ Thuỵ Khương, Trúc Ly, Dạ Ly Vũ...vv...Cho dù các ca khúc này được ký dưới bút hiệu nào khác đi nữa, giới thưởng ngoạn vẫn nồng nhiệt tiếp nhận, đã nói lên thực tế tài năng của nhóm Lê Minh Bằng. Gần như tất cả các nhạc phẩm , hơn 200 bài, viết trong giai đoạn trước 1975 đã được các hãng Tân Thanh, Continental, Asia, Sóng Nhạc, Việt Nam thu diã hay thu băng.
Biến cố lịch sử tháng 4 năm 1975 đã chia lìa bộ ba Lê Minh Bằng Minh Kỳ đã vĩnh viễn ra đi vào tháng 9 năm 1975 trong vụ nổ ở trại cải tạo Long Khánh. Anh Bằng đến Mỹ sinh sống tại California và đã rất thành công với trung tâm Asia sản xuất băng nhạc và video . Lê Dinh hiện nay cư ngụ tại Montréal, như kiếp tằm phải nhả tơ, ông đã để hết thời giờ rảnh để hoạt động văn nghệ với nguyệt san Nghệ Thuật xuất bản đều đặn hàng tháng, và cùng với Lê Thái thành lập đài phát thanh Tiếng Nói Việt Nam đã hoạt động từ hơn 5 tháng qua tại Montréal và được phát thanh hàng tuần vào mỗi chiều chủ nhật. Nhịp sáng tác của ông cũng đã lơi nhiều so với thời kỳ trước 1975, tuy vậy chúng ta vẫn còn được nghe những sáng tác mới rất giá trị như 10 bài Hận Ca, Bài Hát của Người Ðiên. Dòng Kỹ Niệm, Cho Người Lính Cũ, Người Tình Cửu Long, Nắng Bên Này Sông và mới nhất đây bài Thương Về Gò Công.
Con người của nhạc sĩ Lê Dinh rất nhiệt thành và mộc mạc như lời nhạc của ông, ông sống hết mình cho nghệ thuật, vì nghệ thuật, không khoa trương ồn ào. Ðối với các nhạc sĩ khác ông một lòng qúi mến, không tỵ hiềm, không quản ngại khó khăn ông đã sốt sắng tỏ chức những đêm nhạc để vinh danh các nhạc sĩ sáng tác như chúng ta đã biết, qua đêm nhạc Phạm Duy, đêm nhạc Lam Phương đã rất thành công tại Montréal. Có được quen biết với nhạc sĩ Lê Dinh, chúng ta mới biết rõ ông là người rất thẳng thắn, không ngần ngại nói lên những điều ông tin tưởng Bất bình trước sự lợi dụng công trình tim óc nghệ sĩ sáng tác của các nhà sản xuất băng nhạc và vidéo ở hải ngoại, ông đã đứng lên tranh đấu chỉ thẳng tên tuổi một lái buôn nghệ thuật, tự tiện ấn hành các nhạc phẩm của nhiều nhạc sĩ, và một nhà sản xuất băng vidéo nổi tiếng chỉ "ăn trái mà không nhớ kẻ trồng cây" Việc làm thẳng thắn của ông đã đem lại lòng tin tưởng và kính nể trong giới nghệ sĩ. Ðêm nhạc Lê Dinh do nhóm Thân Hữu Nghệ Sĩ Montréal tổ chức để đánh dấu 40 năm nhạc Lê Dinh (1956-1996), một công trình lớn lao của một nghệ sĩ tài danh mà tài nghệ đã được chứng tỏ qua sự thử thách khắc nghiệt của thời gian. Chúng tôi kính mời quí vị thưởng thức một chương trình văn nghệ chọn lọc với những tác phẩm nổi tiếng của nhạc sĩ Lê Dinh qua những giọng ca chan chứa tình người của các nghệ sĩ Montréal, để nêu cao tinh thần tương thân tương trợ và tinh thần "ăn trái nhớ kẻ
trồng cây" giữa nghệ sĩ trình diễn và nghệ sĩ sáng tác, như một bày tỏ lòng qúy mến đặc biệt dành cho nghệ sĩ Lê Dinh.
Huyền Châu
(trích tạp chí Nghệ Thuật số 29/tháng 8-1996)
HOANG HẢI THỦY * VŨ KHIÊU
Hay Chữ Lỏng!
Hoàng Hải Thủy
Buổi sáng Tháng Ba, trận tuyết cuối cùng trong năm đến Rừng Phong. Trong phòng ấm, đèn vàng, yên tĩnh, nhìn trên màn kính computer
nhìn trên màn kính computer tôi thấy chuyện Em Hoa Hậu Nguyễn Cao Kỳ Duyên đến chúc Tết nhân vật Vũ Khiêu ở Hà Nội.
Thoạt đầu tôi tưởng Em Nguyễn Cao Kỳ Duyên này là Em Nguyễn Cao Kỳ Duyên EmXi Chem Chép Paris by Night. Nhưng không phải. Hai người trùng tên nhau.
Thoạt đầu tôi tưởng Em Nguyễn Cao Kỳ Duyên này là Em Nguyễn Cao Kỳ Duyên EmXi Chem Chép Paris by Night. Nhưng không phải. Hai người trùng tên nhau.
Mời quí vị đọc Wikipedia:
Vũ Khiêu, tên thật là Đặng Vũ Khiêu, là một học giả Việt Nam, Viện Trưởng đầu tiên của Viện Xã Hội Học Việt Nam, nguyên Phó Giám đốc Thông tấn xã Việt Nam, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Xã hội, nay là Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
Vũ Khiêu sinh ngày 19 tháng 9 năm 1916 tại làng Hành Thiện xã Xuân Hồng huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định.
Ông tốt nghiệp tú tài trường Bonnal, Hải Phòng, năm 1935. Ông làm Giám đốc Sở Văn hóa Khu 10 tại Việt Bắc, 1947 – 1954, Về Hà Nội, ông sang Bắc Kinh học trường Đảng cao cấp ,1954 – 1956, trở về nước, ông giữ chức Phó Tổng Giám đốc Thông Tấn Xã Việt Nam. Tới 1959, ông tổ chức cơ sở Mỹ học đầu tiên ở VN rồi sang Hungary học, về nước ông dậy học ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Vũ Khiêu sinh ngày 19 tháng 9 năm 1916 tại làng Hành Thiện xã Xuân Hồng huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định.
Ông tốt nghiệp tú tài trường Bonnal, Hải Phòng, năm 1935. Ông làm Giám đốc Sở Văn hóa Khu 10 tại Việt Bắc, 1947 – 1954, Về Hà Nội, ông sang Bắc Kinh học trường Đảng cao cấp ,1954 – 1956, trở về nước, ông giữ chức Phó Tổng Giám đốc Thông Tấn Xã Việt Nam. Tới 1959, ông tổ chức cơ sở Mỹ học đầu tiên ở VN rồi sang Hungary học, về nước ông dậy học ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Sau năm 1954, ông chuyển sang công tác nghiên cứu. Ông cũng tham gia giảng dạy triết học và lý luận khoa học xã hội cho các trường Đảng và các trường đại học.
Năm 1959, ông làm Thư ký khoa học xã hội của Ủy ban Khoa học Việt Nam, sau đó được bổ nhiệm làm Phó chủ nhiệmỦy ban Khoa học Xã hội Việt Nam. Ông là Viện trưởng đầu tiên của Viện Xã hội học.
Từ năm 1958, ông đã viết gần 30 cuốn sách và tham gia biên soạn với tập thể chừng 30 cuốn nữa ở nhiều lĩnh vực: triết học, đạo đức học, văn học, nghệ thuật, văn hóa, xã hội, nghiên cứu, giới thiệu thơ văn và cuộc đời của một số thi hào…
Nhiều tác phẩm của ông ca ngợi tư tưởng Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Các tác phẩm của ông về văn hóa gồm: Đẹp (1963), Anh hùng và nghệ sĩ (1972), Cách mạng và nghệ thuật (1979). Tác phẩm lớn nhất là bộ sách ba tập, dày gần 1.500 trang, cuốn Bàn về Văn hiến Việt Nam. Ông là tác giả của nhiều công trình nghiên cứu, trong đó có “Cao Bá Quát” (1970), “Ngô Thì Nhậm” (1976), “Nguyễn Trãi” (1980), “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng của người trí thức Việt Nam” (1980), “Bàn về văn hiến Việt Nam” (3 tập, năm 2000).
Giáo sư Vũ Khiêu được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học công nghệ năm 1996 cho các công trình Anh hùng và nghệ sỹ (1972), Góp phần nghiên cứu cách mạng tư tưởng và văn hoá (1987), Người trí thức Việt Nam qua các chặng đường lịch sử[.
Năm 2000, giáo sư được phong danh hiệu Anh hùng Lao động .
Ngày 12 tháng 9 năm 2006, Phó Chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa thay mặt Hội đồng Nhà nước trao tặng Huân chương Độc lập hạng nhất cho Giáo sư Anh hùng Lao động Vũ Khiêu.
Trong Đại hội Thi đua Thủ đô Hà Nội, Gs Vũ Khiêu được trao tặng danh hiệu “Công dân Ưu tú Thủ đô.”
Ông được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tặng câu đối:
“Triết gia trong cách mạng – Nghệ sĩ giữa Anh hùng”.
Và:
Sơn hà linh khí tại
Kim cổ nhất hiền nhân.
Trên đây là tiểu sử Nhà Văn Hóa Hà Nội VC Vũ Khiêu trên Wipikeada. Tiếp đây là những lời người Hà Nội năm 2015 viết về nhân vật Vũ Khiêu:
Bài phóng sự “Sự thật quả ấn đền Trần ở Thái Bình” đăng trên phiên bản điện tử của báo Tiền Phong ngày 11/06/2010 viết về lễ khai ấn tại đền Trần Hưng Hà ngày 13 tháng Giêng năm 2010, cho biết: trong dịp khai ấn này, đã có hàng vạn bản ấn được đóng lên giấy, phát, bán cho nhân dân.
Quả ấn được đóng trong lễ này là một quả ấn “nhái,” – ấn giả, làm theo hình dạng quả ấn thật – ấn giả bị khắc chữ Hán ngược; ấn có 4 chữ “Thượng Nguyên Chu Thị” nhưng lại được coi là ấn cổ, ấn quý, là ” Ấn vua Trần.” Giám đốc Nhà Bảo Tàng tỉnh Thái Bình đã nhờ GS Vũ Khiêu đọc giúp bốn chữ Hán trên quả ấn. GS Vũ Khiêu đọc và trả lời rằng đó là bốn chữ:
“Quốc vương thiên nhân.”
Một câu đối của Vũ Khiêu dâng nhà thờ tổ họ Vũ giống câu đối ở đình làng An Trì, Hải Phòng, ngôi đình thờ Ngô Quyền được xây dựng từ đầu thế kỷ 19.
Câu đối của Vũ Khiêu dâng vào Miếu Thần tổ Vũ Hồn ở Mộ Trạch, Hải Dương:
“Vạn cổ càn khôn hưng tái tạo.
Cửu tiêu nhật nguyệt phúc trùng quang”
Câu đối ở đình làng An Trì tại Hải Phòng:
“Vạn cổ càn khôn hưng tái tạo.
Cửu vân nhật nguyệt ánh trùng quang”
o O o
Đầu năm Ất Mùi 2015, Hoa hậu Việt Nam 2014 Nguyễn Cao Kỳ Duyên tới thăm và chúc Tết ông Vũ Khiêu tại nhà riêng của ông, Hoa hậu chúc mừng giáo sư bước sang tuổi 100, đồng thời bày tỏ sự ngưỡng mộ và cảm phục trước tấm gương học tập và nghiên cứu không ngừng nghỉ của ông.
Quả ấn được đóng trong lễ này là một quả ấn “nhái,” – ấn giả, làm theo hình dạng quả ấn thật – ấn giả bị khắc chữ Hán ngược; ấn có 4 chữ “Thượng Nguyên Chu Thị” nhưng lại được coi là ấn cổ, ấn quý, là ” Ấn vua Trần.” Giám đốc Nhà Bảo Tàng tỉnh Thái Bình đã nhờ GS Vũ Khiêu đọc giúp bốn chữ Hán trên quả ấn. GS Vũ Khiêu đọc và trả lời rằng đó là bốn chữ:
“Quốc vương thiên nhân.”
Một câu đối của Vũ Khiêu dâng nhà thờ tổ họ Vũ giống câu đối ở đình làng An Trì, Hải Phòng, ngôi đình thờ Ngô Quyền được xây dựng từ đầu thế kỷ 19.
Câu đối của Vũ Khiêu dâng vào Miếu Thần tổ Vũ Hồn ở Mộ Trạch, Hải Dương:
“Vạn cổ càn khôn hưng tái tạo.
Cửu tiêu nhật nguyệt phúc trùng quang”
Câu đối ở đình làng An Trì tại Hải Phòng:
“Vạn cổ càn khôn hưng tái tạo.
Cửu vân nhật nguyệt ánh trùng quang”
o O o
Đầu năm Ất Mùi 2015, Hoa hậu Việt Nam 2014 Nguyễn Cao Kỳ Duyên tới thăm và chúc Tết ông Vũ Khiêu tại nhà riêng của ông, Hoa hậu chúc mừng giáo sư bước sang tuổi 100, đồng thời bày tỏ sự ngưỡng mộ và cảm phục trước tấm gương học tập và nghiên cứu không ngừng nghỉ của ông.
Trong dịp này, Giáo sư Vũ Khiêu tặng Hoa hậu Kỳ Duyên câu đối:
“ Trí như bạch tuyết, tâm như ngọc
Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung”
Trong chuyến thăm nói trên, bức ảnh chụp GS Vũ Khiêu ôm và hôn lên má Hoa hậu Việt Nam 2014 gây nên nhiều tranh cãi trong dư luận và cộng đồng mạng.
Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung”
Trong chuyến thăm nói trên, bức ảnh chụp GS Vũ Khiêu ôm và hôn lên má Hoa hậu Việt Nam 2014 gây nên nhiều tranh cãi trong dư luận và cộng đồng mạng.
Thật là xui cho cô hoa hậu miệt vườn, đầu năm đến thăm “Anh hùng” không những bị “Anh hùng” hôn gỡ gạc, còn bị “Anh hùng” tặng thơ, trong thơ cô bị chê là “não rỗng!” Coi bộ năm Dê chẳng phải là năm hên của cô hoa hậu chạy tiền này!
Hai câu đối về vần điệu đã sai, mà cũng chẳng ra là câu đối. Câu đầu thì dùng chữ Hán Việt, câu sau lại dùng rặt chữ Hán, ý tứ 2 câu chẳng có chút nào liên quan với nhau.
Câu thứ 2 “Vân tường y thường hoa tường dung” là câu ông học giả họ Vũ “đạo” của Lý Bạch. Đây là câu thơ trong bài Thanh Bình Điệu, tả vẻ đẹp gợi dục của Dương Quý Phi sau 1 đêm ân ái với Đường Minh Hoàng!
“Vân tường y thường, hoa tưởng dung” có nghĩa là “nhìn mây ngỡ xiêm y của nàng, nhìn hoa ngỡ dung nhan của nàng”! Ai đời 1 cụ già trăm tuổi lại đi tặng 1 cô gái đáng tuổi cháu chắt mình 1 câu thơ tình đắm đuối như vậy!”
o O o
Nhạc sĩ Tô Hải, tác giả Hồi ký “Thằng Hèn,” viết về nhân vật Vũ Khiêu:
“Vân tường y thường, hoa tưởng dung” có nghĩa là “nhìn mây ngỡ xiêm y của nàng, nhìn hoa ngỡ dung nhan của nàng”! Ai đời 1 cụ già trăm tuổi lại đi tặng 1 cô gái đáng tuổi cháu chắt mình 1 câu thơ tình đắm đuối như vậy!”
o O o
Nhạc sĩ Tô Hải, tác giả Hồi ký “Thằng Hèn,” viết về nhân vật Vũ Khiêu:
Tôi bảo đảm rằng lão già này – Vũ Khiêu – là đồ đại bịp, lão được chúng nó “phóng” lên thành một “trí thức cộng sản anh hùng… bịp!” Lão không thể có bằng tú tài ở trường Bonnal Hải Phòng vì trường này thời thuộc Pháp không có cycle secondaire, trường không có quyền tổ chức thi tú tài. Tất cả những ai ở Hải Phòng muốn học trên primaire superieur đều phải về Hà Nội học những trường ở Hà Nội, trong số người Hải Phòng về Hà Nội học đó có tôi. Hơn thế nữa, những năm 60 thế kỷ 20, chính lão Vũ Khiêu này đi học… tiếng Pháp buổi tối cùng lớp với bà xã (cũ) của tôi, những năm ấy lão hay đến nhà tôi tán tỉnh bà vợ diễn viên của tôi, nên tôi biết tỏng lão là cái loại người gì. Nói chung lão chỉ là 1 trong hàng vạn thằng giáo sư-tiến sỹ-anh hùng dỏm hiện đang phá hoại đất nước Việt này! Vạch mặt chúng có đến… hết Thế kỷ xxx cũng không hết!
Vũ Khiêu có một hành động rất ghê tởm mà chưa thấy bị tố cáo: Sau ngày 30 Tháng Tư 75 lão vào Sai Gòn, đến Thu Viện Quốc Gia nhân danh “quan chức Đảng,” đã “lấy cắp” một số sách cổ, quý của thư viện mang ra nhà lão ở Hà Nội làm của riêng. Đề nghị khám xét nhà Vũ Khiêu để thu hồi những quyển sách cổ quý là tài sản quốc gia này.
Nhà phê bình văn học Trần Mạnh Hảo trao đổi với BBC về bài viết trên mạng hôm 27/2/2015 trong đó ông lý giải hiện tượng Giáo sư Vũ Khiêu ‘bị ném đá’ trên truyền thông mạng Việt Nam đầu xuân Ất Mùi (2015). Trong bài này, ông Hảo viết:
“Có thể vì chế độ nâng GS. Vũ Khiêu, một người không phải trí thức lên thành biểu tượng của trí thức, biểu tượng của văn hóa Việt Nam mà nhân dịp cụ ôm hôn gái trẻ kiểu trai lực điền và tặng cô gái một câu đối đểu nên đã bị dân mạng ném đá cho bõ tức vì họ bị lừa hết vụ này sang vụ khác chăng?
“Có thể vì chế độ nâng GS. Vũ Khiêu, một người không phải trí thức lên thành biểu tượng của trí thức, biểu tượng của văn hóa Việt Nam mà nhân dịp cụ ôm hôn gái trẻ kiểu trai lực điền và tặng cô gái một câu đối đểu nên đã bị dân mạng ném đá cho bõ tức vì họ bị lừa hết vụ này sang vụ khác chăng?
Tôi đã đọc hầu hết các cuốn sách của GS. Vũ Khiêu, tôi thấy trình độ của GS chưa thể gọi là trí thức.
Vũ Khiêu quả tình không thể gọi là nhà trí thức khi ông muốn lấy hoa mào gà làm quốc hoa. Ơ hay, bệnh mào gà là bệnh gì GS. chưa biết hay sao?”
GS.Vũ Khiêu đã lấy nguyên một câu thơ của thi hào Lý Bạch trong bài thơ “Thanh Bình điệu”: “Vân tưởng y thường hoa tưởng dung” làm câu đối tặng gái. Đạo văn như thế sao có thể là nhà trí thức?”
Khi được hỏi liệu có hợp với đạo lý của người Việt Nam hay không, khi người trẻ tuổi hơn ‘phê phán, chỉ trích’ người lớn tuổi hơn, đặc biệt một vị cao niên đã một trăm tuổi như thế, nhà phê bình văn học nói:
“Vẫn phải tôn trọng? Ông gần một trăm tuổi mà ông ôm một cô gái đáng tuổi chắt của ông, mà ông ôm hôn cô ta theo kiểu lực điền như vậy thì ai chịu được?”.
Ông TM Hảo nói với phóng viên Đài BBC hôm 1 tháng 3, 2015:
“Một loạt các Giáo sư, hàng loạt các nhà trí thức thực sự và có đóng góp lớn cho đất nước, cho dân tộc thì đều bị thất sủng, còn các Giáo sư bần cố nông mà ít học thì lại được tôn vinh là nhà trí thức.”
Quý vị vừa đọc một số chuyện Ruồi Bu về nhân vật Vũ Khiêu, người được coi là “đại trí thức, đại văn hóa-văn học” của bọn Cộng Hà Nội. Hôm nay, một ngày Tháng Ba 2015, trận bão tuyết cuối cùng của năm 2015 đến trên Rừng Phong, những cánh hoa anh đào đã nở bên sông Potomac, tôi viết bài này về Ruồi Bu Vũ Khiêu để nhắc đến Nguyễn Ngọc Tú Ngọc Thứ Lang, dịch giả Bố Già The Godfather.
Tháng Sáu 1976 Tú và tôi đi dự cái khóa học mà bọn Hội Văn Nghệ Giải Phóng gọi là “Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị ” cho bọn văn nghệ sĩ Sài Gòn Việt Nam Cộng Hòa, bọn đầu hàng lơ láo và ngơ ngáo. Khóa học diễn ra trong 21 ngày. Tôi đã viết nhiều về “Khóa Bồi Dưỡng” này. Ngày bế mạc Khóa được tổ chức ở Nhà Hát Lớn Sài Gòn. Trong số những nhân vật được Ban Tổ Chức mời đến nói chuyện với các học viên có Huy Cận, Chế Lan Viên, Hoàng Trinh và Vũ Khiêu.
Vũ Khiêu nói chuyện từ 8 giờ sáng đến khoảng 10 giờ thì nghỉ 20 phút. Tú bảo tôi:
“Thằng cha này hay chữ lỏng.”
Tôi thấy Tú hay quá. Tú bằng tuổi tôi, Tú học lem nhem như tôi, Tú từ Hà Nội vào Sài Gòn trước tôi. Tú nhanh trí, Tú sắc xảo nước đời hơn tôi. Chỉ nghe anh Vũ Khiêu nói trong 30 phút, Tú thấy ngay anh này là học giả dzởm – anh là học giẻ – vốn học thức của anh nông cạn, hiểu biết của anh đựng không đầy cái lá mít; anh nói lang bang không đâu vào đâu. Anh đề cao tình nghĩa và tính đoàn kết của người Việt. Anh kể chuyện:
“Một gia đình năm đời sống chung với nhau, sống êm, sồng đẹp, sống thân ái. Vua ban khen nhà này. Muốn thử xem những người trong nhà này chia nhau ra sao quà thưởng của Vua, Vua cho nhà này một trái lê.
Một trái lê Vua ban mà phải chia cho cả trăm người. Làm sao chia? Làm sao cho cả trăm người cùng được hưởng ơn Vua? Ông Trưởng Tộc nghĩ ra cách cho trái lê Vua ban vào nồi đồng ba mươi, nấu nước, cho mỗi người uống một chén. Vậy là cả trăm người được hưởng cái gọi là Ơn Vua.
Chuyện Trái Lê Vua Ban Nấu Nước Chia Nhau là chuyện của người Tầu, không cần biết là chuyện đời Tầu nào, đời Đường hay đời Mật, đời Tống hay đời Táng, học giẻ Ruồi Bu Vũ Khiêu kể đó là chuyện người Việt đời Trần.
Đã một lần tôi viết:
Nếu diễn giả Vũ Khiêu không biết chuyện Trái Lê Vua Ban là chuyện Tầu thì ông quá dzốt.
Nếu ông biết đó là chuyện Tầu mà ông cho rằng ông có nói đó là chuyện người Việt bọn văn nghệ sĩ Sài Gòn đầu hàng ngơ ngáo không tên nào biết thì ông quá ngu.
Dòng thời gian dài một ánh bay,
Những ngày như lá, tháng như mây.
Sài Gòn Tháng Sáu năm 1976, Kỳ Hoa Tháng Ba năm 2015…129. 807.593.224.682 lít nước chẩy dưới cầu đoạn trường.
Tú ơi.. Nguyễn Ngọc Tú-Ngọc Thứ Lang-Tú Lé; hôm nay tao nghe vẳng tiếng mày nói buổi sáng gần trưa năm xưa trong Nhà Hát Lớn:
“Thằng cha này hay chữ lỏng.”
Mày hay quá là hay. Sao mày nhớ ra thành ngữ Bắc Kỳ “Hay Chữ Lỏng “– tiếng để gọi những anh dzốt hay nói chữ, hay tỏ ra mình là kẻ có học – để gọi học giẻ VC Vũ Khiêu đúng đến như thế!!!
Dòng thời gian dài một ánh bay,
Những ngày như lá, tháng như mây.
Sài Gòn Tháng Sáu năm 1976, Kỳ Hoa Tháng Ba năm 2015…129. 807.593.224.682 lít nước chẩy dưới cầu đoạn trường.
Tú ơi.. Nguyễn Ngọc Tú-Ngọc Thứ Lang-Tú Lé; hôm nay tao nghe vẳng tiếng mày nói buổi sáng gần trưa năm xưa trong Nhà Hát Lớn:
“Thằng cha này hay chữ lỏng.”
Mày hay quá là hay. Sao mày nhớ ra thành ngữ Bắc Kỳ “Hay Chữ Lỏng “– tiếng để gọi những anh dzốt hay nói chữ, hay tỏ ra mình là kẻ có học – để gọi học giẻ VC Vũ Khiêu đúng đến như thế!!!
CÁNH CÒ * SỰ NGẢO MẠN
Khoảng cách của sự ngạo mạn.
Thu, 03/12/2015 - 13:22 — canhco
Yếu tố thứ hai để một công trình công cộng hính thành là ngân sách. Số tiền càng lớn thì cơ may được duyệt càng cao. Sự thật này không có gì bí ẩn vì một đồng bỏ ra cho chi phí thì cũng bằng ấy hoặc hơn dành cho việc bôi trơn. Bôi trơn là yếu tố hàng đầu và yếu tố này không ít lần vỡ mặt. Vì trơn quá nên bộ máy không thể chạy cứ nằm ì một chỗ trong nhiều năm vì tiền để trả cho vật tư, công nhân đã bị phí bôi trơn ăn vào gần hết.
Tượng đài Mẹ Việt Nam Anh hùng tại núi Cấm thuộc tỉnh Quảng Nam hội đủ hai yếu tố bắt buộc ấy và vì vậy nó gặp phản ứng của người dân. Trước nhất là kinh phí.
Tượng đài có chiều dài 120 mét và cao 18 mét do đó kinh phí xây dựng không hề nhỏ: 411 tỷ và kéo dài 7 năm. Trong 7 năm ròng rã ấy số tiền tự nhỏ đi bởi những chi phí đột xuất nhưng do quá lớn, người trách nhiệm đã bằng mọi cách xin nhà nước trung ương bù vào con số phát sinh để cuối cùng ai cũng có lợi.
Yếu tố thứ hai, tính Đảng, cũng không có gì bàn cãi trong tượng đài này.
Hình thức chính của tượng là chân dung của bà Nguyễn Thị Thứ, bà mẹ Anh hùng của 11 con cháu đã hy sinh. Dọc dưới tượng bán thân của bà là các bà mẹ khác đứng ngồi chung quanh tạo thành một quần thể những người đàn bà có cùng một lịch sử: hy sinh con cái cho chiến thắng cuối cùng của cuộc chiến tranh chống Mỹ thần thánh.
Tình Đảng do đó rất cao, rất rõ và rất ấn tượng.
Thế nhưng càng ấn tượng thì câu hỏi phát sinh càng nhiều.
Công trình nào thì cũng cần người xem. Tượng đài được dựng lên không phải dành riêng cho các bà mẹ anh hùng mà nó chuyển tải thông điệp của Đảng tới mọi người trong và ngoài đảng. Tượng đài là cách ghi ơn các mẹ. Ghi ơn và cổ vũ người dân đừng quên các hy sinh to lớn ấy.
Tuy nhiên phải công bình mà nói, các mẹ Việt Nam Anh hùng trên tượng đài hoành tráng này nhắc nhở cho người xem chú ý tới điều gì nhất? quá khứ anh hùng và sự hy sinh vô bờ bến của họ chăng?
Rất khó mà có cảm giác này. Không phải vì người nghệ sĩ thiếu khả năng thiết kế nhưng đời sống và mạch chảy xã hội đồng hành với ngày sinh của tượng đài đã tạo một khoảng cách thật rộng trong quan sát của người xem nó.
Xem một tượng đài bằng đá, dù là đá quý, trong khi biết chắc là đâu đó trong khắp đất nước còn hàng chục ngàn bà mẹ bằng xương bằng thịt không có miếng ăn qua ngày phải còng lưng mò tôm, bắt cá, đi khuya về tối như hồi mẹ còn nuôi con đi làm cách mạng thì đành lòng nào mà thốt lên tiếng khen cho công trình 7 năm 411 tỷ này?
Trong ngày khai mạc hoành tráng chắc chắn sẽ không có bà mẹ Việt Nam Anh hùng nào dám bỏ tiền túi đi từ Cà Mau hay Lạng Sơn vào Quảng Nam để xem khuôn mặt của mình. May lắm là một vài mẹ ở gần sẽ được xe tới rước mang đi làm cảnh, như một pho tượng sống chứng giám những pho tượng chết đang đứng ngồi chung quanh tượng của mẹ Nguyễn Thị Thứ .
Đá hoa cương, sa thạch được chọn lựa kỹ càng khắc họa lên hình ảnh những bà mẹ nhăn nheo xuất hiện trong những tư thế khác nhau và từ những tượng đá ấy có khi người xem nghe được tiếng thở dài không chừng.
Các mẹ đã mất quá linh thiêng nay đã thành ma chăng? Không, chắc chắn là không. Tiếng thở dài ấy không phải của ma mà là của người. Của chính các mẹ đang còn tại thế. Còn sống nhưng sống không được như những người già khác.
Không hiếm những bà mẹ anh hùng sẽ tự hỏi sao nhà nước không cho các mẹ một ít gạo thay vì cái tượng đài bằng đá? Ít ra gạo cũng giúp các mẹ no lòng trong khoảnh khắc, mẹ đã ăn bánh vẽ quá nhiều năm, chiếc bánh bằng đá làm sao nhai được?
411 tỷ là con số khổng lồ, nó không thể đếm bằng tay mà phải dùng tới máy đếm tiền nếu ai đó mang số tiền này đi gửi ngân hàng. Nó đủ để xây dựng hàng trăm mái trường cho các em miền núi, nơi mà tỉnh Quảng Nam chưa giải quyết được tình trạng thiếu phòng, lớp trong hàng chục năm nay. Với số tiền ấy tỉnh dư sức làm công tác dạy nghề cho hàng ngàn người dân đang thất nghiệp trên khắp địa bàn các huyện vùng sâu vùng xa. Tỉnh Quảng Nam là một trong các tỉnh nghèo nhất nước lại có tượng đài cao to nhất nước là tính chất mâu thuẩn truyền kiếp của chế độ này.
Nghèo nàn nhất nhưng phung phí nhất cũng là đặc trưng mà chỉ các chế độ cộng sản mới có.
Tượng đài Mẹ Việt Nam Anh hùng đã được tính toán, bàn định trong một thời gian rất dài và có lẽ lý do khiến nó vượt qua mọi chướng ngại vì người cộng sản không muốn chiến công anh hùng của họ trong thời chống Mỹ bị quên lãng.
Đối với một công trình to lớn trước nhất đòi hỏi thiết kế, độ bền, tính mỹ cảm, thông số chuyên môn và còn phải biết ngay từ lúc khởi đầu công trình đó sẽ tác động và ảnh hưởng ra sao với thế giới bên ngoài. Vai trò xã hội, cũng như các hỗ trợ, tiếp sức cho công trình ấy cũng là yếu tố không thể thiếu và khi thành hình giai đoạn phát triển, gìn giữ nó lại không phải là chuyện dễ dàng nếu một công trình không có lợi ích thiết thực.
Một công trình công cộng còn thêm những đòi hỏi mang tính xã hội đồng thuận và thường thì nó phải được một hội đồng xét duyệt trong đó chuyên gia liên quan trong lĩnh vực công trình, đại diện người dân sống gần công trình sắp được xây dựng, cơ quan báo chí loan tải những thông tin tới cộng đồng và cuối cùng là ngân sách thực hiện có hợp lý, được theo dõi, cân nhắc và sử dụng một cách minh bạch hay không.
Những chuẩn mực đó hoàn toàn không hề có tại Việt Nam. Công trình do cơ quan nào đó đề nghị chỉ cần hai yếu tố: tính Đảng có đủ cao và ngân sách có hấp dẫn cho người duyệt hay không.
Trước tiên là “tính Đảng”. Không khó lắm để nhận biết tính Đảng là gì trong tất cả các tượng đài nơi công cộng. Hầu như tất cả mọi tượng đài lớn nhỏ từ nam chí bắc đều là hình tượng của anh công nhân, chị lao công, chiến sĩ hay người nông dân tất cả đều phải gân guốc, phải mạnh mẽ và phải ngước mắt nhìn trời hay chí ít phải nhìn cao cao một chút. Tuyệt đối không có hình thức trừu tượng, ẩn dụ hay nghệ thuật xa lạ nào ở đây. Phải thật, hưu ra hưu nai ra nai, và phải đồng dạng với nhau.
Tính Đảng nếu không rõ thì đừng hòng xuất hiện nơi công chúng. Không ngạc nhiên khi những tượng đài ngập tính Đảng thiếu tính người ấy bị dân chúng quay lưng vì họ thấy không có hình ảnh thật của mình trong đó.Yếu tố thứ hai để một công trình công cộng hính thành là ngân sách. Số tiền càng lớn thì cơ may được duyệt càng cao. Sự thật này không có gì bí ẩn vì một đồng bỏ ra cho chi phí thì cũng bằng ấy hoặc hơn dành cho việc bôi trơn. Bôi trơn là yếu tố hàng đầu và yếu tố này không ít lần vỡ mặt. Vì trơn quá nên bộ máy không thể chạy cứ nằm ì một chỗ trong nhiều năm vì tiền để trả cho vật tư, công nhân đã bị phí bôi trơn ăn vào gần hết.
Tượng đài Mẹ Việt Nam Anh hùng tại núi Cấm thuộc tỉnh Quảng Nam hội đủ hai yếu tố bắt buộc ấy và vì vậy nó gặp phản ứng của người dân. Trước nhất là kinh phí.
Tượng đài có chiều dài 120 mét và cao 18 mét do đó kinh phí xây dựng không hề nhỏ: 411 tỷ và kéo dài 7 năm. Trong 7 năm ròng rã ấy số tiền tự nhỏ đi bởi những chi phí đột xuất nhưng do quá lớn, người trách nhiệm đã bằng mọi cách xin nhà nước trung ương bù vào con số phát sinh để cuối cùng ai cũng có lợi.
Yếu tố thứ hai, tính Đảng, cũng không có gì bàn cãi trong tượng đài này.
Hình thức chính của tượng là chân dung của bà Nguyễn Thị Thứ, bà mẹ Anh hùng của 11 con cháu đã hy sinh. Dọc dưới tượng bán thân của bà là các bà mẹ khác đứng ngồi chung quanh tạo thành một quần thể những người đàn bà có cùng một lịch sử: hy sinh con cái cho chiến thắng cuối cùng của cuộc chiến tranh chống Mỹ thần thánh.
Tình Đảng do đó rất cao, rất rõ và rất ấn tượng.
Thế nhưng càng ấn tượng thì câu hỏi phát sinh càng nhiều.
Công trình nào thì cũng cần người xem. Tượng đài được dựng lên không phải dành riêng cho các bà mẹ anh hùng mà nó chuyển tải thông điệp của Đảng tới mọi người trong và ngoài đảng. Tượng đài là cách ghi ơn các mẹ. Ghi ơn và cổ vũ người dân đừng quên các hy sinh to lớn ấy.
Tuy nhiên phải công bình mà nói, các mẹ Việt Nam Anh hùng trên tượng đài hoành tráng này nhắc nhở cho người xem chú ý tới điều gì nhất? quá khứ anh hùng và sự hy sinh vô bờ bến của họ chăng?
Rất khó mà có cảm giác này. Không phải vì người nghệ sĩ thiếu khả năng thiết kế nhưng đời sống và mạch chảy xã hội đồng hành với ngày sinh của tượng đài đã tạo một khoảng cách thật rộng trong quan sát của người xem nó.
Xem một tượng đài bằng đá, dù là đá quý, trong khi biết chắc là đâu đó trong khắp đất nước còn hàng chục ngàn bà mẹ bằng xương bằng thịt không có miếng ăn qua ngày phải còng lưng mò tôm, bắt cá, đi khuya về tối như hồi mẹ còn nuôi con đi làm cách mạng thì đành lòng nào mà thốt lên tiếng khen cho công trình 7 năm 411 tỷ này?
Trong ngày khai mạc hoành tráng chắc chắn sẽ không có bà mẹ Việt Nam Anh hùng nào dám bỏ tiền túi đi từ Cà Mau hay Lạng Sơn vào Quảng Nam để xem khuôn mặt của mình. May lắm là một vài mẹ ở gần sẽ được xe tới rước mang đi làm cảnh, như một pho tượng sống chứng giám những pho tượng chết đang đứng ngồi chung quanh tượng của mẹ Nguyễn Thị Thứ .
Đá hoa cương, sa thạch được chọn lựa kỹ càng khắc họa lên hình ảnh những bà mẹ nhăn nheo xuất hiện trong những tư thế khác nhau và từ những tượng đá ấy có khi người xem nghe được tiếng thở dài không chừng.
Các mẹ đã mất quá linh thiêng nay đã thành ma chăng? Không, chắc chắn là không. Tiếng thở dài ấy không phải của ma mà là của người. Của chính các mẹ đang còn tại thế. Còn sống nhưng sống không được như những người già khác.
Không hiếm những bà mẹ anh hùng sẽ tự hỏi sao nhà nước không cho các mẹ một ít gạo thay vì cái tượng đài bằng đá? Ít ra gạo cũng giúp các mẹ no lòng trong khoảnh khắc, mẹ đã ăn bánh vẽ quá nhiều năm, chiếc bánh bằng đá làm sao nhai được?
411 tỷ là con số khổng lồ, nó không thể đếm bằng tay mà phải dùng tới máy đếm tiền nếu ai đó mang số tiền này đi gửi ngân hàng. Nó đủ để xây dựng hàng trăm mái trường cho các em miền núi, nơi mà tỉnh Quảng Nam chưa giải quyết được tình trạng thiếu phòng, lớp trong hàng chục năm nay. Với số tiền ấy tỉnh dư sức làm công tác dạy nghề cho hàng ngàn người dân đang thất nghiệp trên khắp địa bàn các huyện vùng sâu vùng xa. Tỉnh Quảng Nam là một trong các tỉnh nghèo nhất nước lại có tượng đài cao to nhất nước là tính chất mâu thuẩn truyền kiếp của chế độ này.
Nghèo nàn nhất nhưng phung phí nhất cũng là đặc trưng mà chỉ các chế độ cộng sản mới có.
Tượng đài Mẹ Việt Nam Anh hùng đã được tính toán, bàn định trong một thời gian rất dài và có lẽ lý do khiến nó vượt qua mọi chướng ngại vì người cộng sản không muốn chiến công anh hùng của họ trong thời chống Mỹ bị quên lãng.
Những người cộng sản ấy mặc dù đang tự trả công cho những việc họ làm trước đây, hay do cha mẹ họ làm chứ không phải họ, vẫn cảm thấy chưa đủ, chưa xứng tầm nếu không có một biểu tượng hoành tráng trước mắt mọi người để nhắc nhở rằng, vị trí họ ngồi hôm nay trong tất cả các cơ quan quyền lực đều do sự hy sinh lớn như bức tượng đài kia. Vậy thì mọi so sánh, đánh giá bổng lộc của họ có nghĩa lý gì? Bà mẹ Việt Nam Anh hùng nào lại muốn cho con mình thua kém những thường dân không có đóng góp cụ thể cho độc lập tự do với đất nước như con của mẹ?
Thực ra cái góc khuất lớn nhất không phải là sự to đùng của tượng đài mà chính cái nhỏ nhất ẩn sâu bên dưới mới làm người ta thắc mắc.
Bao nhiêu bà mẹ không phải là anh hùng của các anh bộ đội khác bây giờ ra sao? Họ không anh hùng nhưng họ có xứng đáng được hưởng những chính sách an sinh mà lẽ ra chính phủ phải tính tới trước khi lấy tiền thuế của dân xây tượng dài hàng trăm tỷ.
Bao nhiêu bà mẹ của người lính chế độ cũ đứng xem cái tượng đài hoành tráng này sẽ nghĩ gì khi người ta mang cả dãy núi ra để ngăn cách hai bà mẹ đều có con như nhau. Một đứa chết vì đảng còn đứa kia chết vì chống đảng. Cùng là mẹ nên nước mắt của họ khóc con không thể có độ mặn khác nhau.
Tính đảng ở đây vì thế mang nặng sự chia cắt vẫn còn day dứt sau 40 năm dài.
Khoảng cách ấy khi nhận dạng thật kỹ thì bản chất của nó sẽ là sự ngạo mạn. Sự ngạo mạn mà chỉ người cộng sản mới có.
Tuesday, March 17, 2015
MACIEJ MICHALEK *TRUNG CỘNG TAN RÃ
Thanh trừng trong quân đội và đảng, cuộc chạy trốn, nguy cơ tan vỡ. "Lãnh đạo sợ mất quyền lực"
Sun, 03/15/2015 - 01:53 — ledienduc
Maciej Michalek - Lê Diễn Đức dịch
* Bài dịch từ tiếng Ba Lan, bài đăng trên trang web của đài truyền hình tin tức Ba Lan TVN24 ngày 14 tháng 3 năm 2015, tại link: http://www.tvn24.pl/wiadomosci-ze-swiata,2/czesc-ekspertow-wiesci-upadek-chinskiej-partii-komunistycznej,524100.html
Ngày càng có nhiều hơn tiếng nói về sự sụp đổ sắp tới của chế độ Cộng Sản ở Trung Quốc. Hiện đang tập hợp những vấn đề kinh tế nghiêm trọng và cuộc thanh trừng lớn nhất trong Đảng Cộng Sản và quân đội kể từ thời Mao Trạch Đông - theo một số chuyên gia - họ cho rằng, nhà chức trách Trung Quốc đã đánh mất khả năng chỉ đạo nhà nước.
Thanh trừng, được gọi là chiến dịch chống tham nhũng, ban đầu được cho là bằng chứng về sức mạnh của nhà lãnh đạo Trung Quốc hiện nay, Tập Cận Bình. Nó chứng minh cho khả năng thực hiện những cải cách kinh tế khó khăn và cuộc chiến đánh vào giới tướng lãnh bất khả xâm phạm cho đến bây giờ, bị huỷ hoại bởi tham nhũng và suy thoái đạo đức.
Kéo dài, diễn ra hơn hai năm, cuộc đấu đá nội bộ giữa các phe phái trong đảng, tuy nhiên, bắt đầu tăng lên mối lo ngại rằng với chiến dịch đầy tham vọng này Tập đã vuợt quá sức mình. Hơn nữa, những ảnh huởng của những vấn đề thường nhật và các vụ bê bối đã làm cho chính quyền cuối cùng mất niềm tin của công chúng, mà nó là nền tảng của sự ổn định của chế độ phi dân chủ ở Trung Quốc.
Thanh trừng và giới doanh nghiệp di tản
Tập Cận Bình chắc chắn đã tạo ra rất nhiều kẻ thù trong giới quyền lực của Trung Quốc, khi ông cáo buộc và bắt giữ ngay cả những người được coi là bất khả xâm phạm, kể cả cựu Bộ trưởng Bộ Công an Chu Vĩnh Khang, một cựu thành viên Bộ Chính trị nổi tiếng Bạc Hy Lai hay hàng chục tướng lĩnh và đô đốc khác. Tuy nhiên, theo David Shambaugh, một trong những chuyên gia hàng đầu của Mỹ về Trung Quốc, đây không phải là biểu hiện duy nhất của quyền lực bị mất chỗ đứng.
Một vấn đề không kém nghiêm trọng là phần lớn các tầng lớp tinh hoa trong lĩnh vực tài chính Trung Quốc đang cố gắng chạy ra khỏi đất nước của họ. Họ gửi con cái đi học nước ngoài, chuyển tiền ra nước ngoài, cố gắng bằng nhiều cách khác nhau để có được hộ chiếu của các nước khác, và cuối cùng, nếu có thể, họ di cư để tìm kiếm một nơi tốt hơn để sống. Điều này cho thấy sự thiếu tin tưởng giữa chính phủ và các doanh nghiệp, cũng như sự thiếu niềm tin vào tương lai của người dân Trung Quốc tại chính quê hương của mình.
Sự di tản của giới kinh doanh tạo ra một tổng thể trong tình hình kinh tế đang xấu đi ở Trung Quốc. Như cảnh báo trên "The Washington Post", nền kinh tế Trung Quốc có thể sớm chờ đợi một cuộc khủng hoảng có thể so sánh với Mỹ năm 1929, dẫn đến khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Theo tính toán, tổng số nợ của Trung Quốc, trong đó bao gồm nợ của doanh nghiệp nhà nước và các hộ gia đình đã đạt 282 phần trăm GDP hiện nay, trong khi tăng trưởng kinh tế chậm đi làm vấn đề tăng lên.
Con đường xã hội chủ nghĩa mờ mịt
Một vấn đề khác là sự đàn áp đối lập của nhà cầm quyền Trung Quốc ngày càng tăng. Một sự gia tăng chưa từng có với quy mô lớn kiểm duyệt tất cả các phương tiện truyền thông, hạn chế tiếp cận văn hoá nước ngoài, bao gồm cả xem phim ảnh của Hollywood, tăng cường kiểm soát của các dân tộc thiểu số hoặc thậm chí hạn chế tự do học thuật - tất cả, nhà phân tích của Mỹ cho thấy sự suy yếu của chính phủ Trung Quốc và mối quan tâm ngày càng tăng của nhà cầm quyền về bất kỳ lời chỉ trích nào hay khả năng tạo ra lực lượng đối lập.
- Lãnh đạo đảng đang nghiêm túc sợ mất quyền lực - chuyên gia cho biết.
Một sự việc nữa là sự suy giảm lòng tin của thế hệ kế tiếp của các thành viên Đảng Cộng Sản Trung Quốc về ý thức hệ của mình. Công thức đoàn kết xung quanh một nhà nước xã hội chủ nghĩa đang bị xói mòn và các khái niệm được đề xuất như chủ nghĩa xã hội mang tính đặc sắc Trung Quốc để cứu vãn tình thế chỉ là tạm thời. Các giải pháp có thể được mở ra trở lại với một nền văn hóa Trung Quốc phong phú và triết học, nhưng - bất chấp những thử thách e dè - cũng không thể hòa giải đuợc với các ý thức hệ cộng sản. Trong khi đó xã hội Trung Quốc giàu có lên ngày càng đòi hỏi nhiều hơn đối với một chính quyền không được bầu cử dân chủ.
"Sự kết thúc sẽ không yên tĩnh"
Như đã lập luận trên "The Wall Street Journal" của David Shambaugh, khó tin rằng sự sụp đổ của Đảng Cộng Sản Trung Quốc sẽ yên tĩnh và thanh bình. Sẽ phải qua một cuộc đảo chính được thực hiện bởi quân đội hoặc một nhóm đối thủ trong Đảng Cộng Sản. Sự thay đổi nhanh chóng quyền lực, tình trạng bè phái trong giới tinh hoa và không khí xã hội xấu đi tạo nên một sự pha trộn không chỉ cuối cùng tác động lên Đảng Cộng Sản Trung Quốc, mà còn lay động sự ổn định và phát triển của Trung Quốc. Các hiệu ứng của sự kiện này sẽ chạm tới châu Âu, bởi vì không có một nghi ngờ nào, nền kinh tế toàn cầu cũng bị ảnh hưởng.
Làm thế nào để dự đoán sự sụp đổ?
Phải chăng sự dự đoán không quá sớm? Rất khó để dự đoán sự sụp đổ của một chế độ độc đoán đã được chứng minh tốt nhất bằng sự bất ngờ hoàn toàn của tình báo Mỹ qua sự kết thúc của Liên Xô. Tương tự như vậy với các cuộc cách mạng màu ở các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ và mùa xuân Ả Rập, mà hệ quả, trong số những hệ quả khác, cuộc nội chiến đang diễn ra tại Syria. Thất bại của tình báo và của các nhà phân tích trong việc dự đoán các sự kiện thế giới xảy ra khá nhiều, tất cả các dự đoán, do đó, phải được xem xét một cách thận trọng.
Ngoài ra, tham nhũng và sự thoái hoá của tầng lớp ưu tú là một vấn đề đặc biệt nghiêm trọng và ngày càng tăng ở các nước phi dân chủ. Thật khó cho Tập Cận Bình thực hiện cuộc chống tham nhũng như là hiện tượng của chiến tranh - Thậm chí nhân dịp này giúp ông ta loại bỏ đối thủ chính trị. Đồng thời, Chủ tịch Trung Quốc trước đó, Hồ Cẩm Đào, đã liên tục cáo buộc sự yếu đuối quá mức và thiếu can đảm đưa ra những quyết định khó khăn. Chủ tịch hiện nay đã chứng minh sức mạnh trong đảng và cho đến nay không có dấu hiệu nào cho thấy các cuộc thanh trừng thoát khỏi kiểm soát của ông.
Tin tưởng vào chính quyền
Đảng Cộng Sản, mặc dù không còn ý thức hệ, và đi theo một hướng không rõ, nhưng cũng không đi quá xa để mất đi sự ủng hộ. Một vài nghiên cứu xác nhận mức độ tin cậy cao đối với chính phủ hiện tại và chính người Trung Quốc vẫn còn nhớ tới sự hỗn loạn của thời chiến tranh, hay Cách mạng Văn hóa, và đánh giá cao sự ổn định. Đảng Cộng Sản hiện nay có tới hơn 85 triệu thành viên và số những người trẻ gia nhập đảng cũng đông đảo như trước đây. Đảng được đánh đồng với quyền lực và triển vọng nghề nghiệp cao hơn và như vậy, chúng ta có thể nói rằng, đang tiến triển rất tốt.
Thực tế cho thấy sự kiểm duyệt nghiêm ngặt Internet không làm tăng sự phản đối của cộng đồng. Theo một số nghiên cứu, thậm chí phần lớn người dân Trung Quốc nói rằng sự kiểm duyệt không cản trở họ, hoặc họ tin rằng chính phủ đã làm tốt khi chặn một số mật khẩu hoặc hình ảnh. Việc kiểm duyệt Internet gợi lên cảm xúc lớn hơn ở nước ngoài so với ở Trung Quốc, một nơi mà người dân dễ chấp nhận sự can thiệp của chính phủ trong cuộc sống riêng tư của họ.
Thật là một thảm họa đẹp
Làm thế nào để hiểu thêm những dự đoán thảm khốc về sự chấm dứt chế độ Cộng Sản ở Trung Quốc và khả năng mất ổn định tại nước này? Không nghi ngờ gì nữa, những vấn đề nghiêm trọng trong nội bộ mà Tập Cận Bình đang phải đối phó, còn nhận định của một chuyên gia có hạng như David Shambaugh không thể coi nhẹ. Cơn bão bình luận về tình trạng của chính quyền Cộng Sản cũng đã nổ ra trong vài ngày qua ở Trung Quốc.
Tuy nhiên, nghi ngờ có thể thấy từ sự việc là, các dự báo về sự sụp đổ sắp xảy ra của chế độ Cộng Sản Trung Quốc nổi trội đặc biệt trên các phương tiện truyền thông Mỹ. Mặc dù Hoa Kỳ có thể sẽ chịu ảnh hưởng nhất từ sự bất ổn nội bộ của Trung Quốc, vẫn có thể có ấn tượng rằng họ không chấp nhận được chuyện ít nhất trên danh nghĩa một chế độ Cộng Sản nắm quyền ở cường quốc thứ hai của thế giới. Người ta có thể đặt câu hỏi liệu người Mỹ không nghĩ như mong muốn và thông thường họ nghĩ lầm trong tính toán của mình.
Đã có trong đầu những năm 90 của thế kỷ trước, khi chủ nghĩa Cộng Sản sụp đổ trong khối Đông Âu, người Mỹ cũng dự đoán kết thúc của nó sẽ ở Trung Quốc. Sau đó, họ dự đoán rằng sự sụp đổ quyền lực của Bắc Kinh, sẽ dẫn đến sự tan rã thành 6-7 nước cộng hòa độc lập, giống như trường hợp khi Liên Xô tan vỡ. Hôm nay người ta không biết các dự báo có giá trị bao nhiêu, nhưng Trung Quốc dưới sự cai trị của Đảng Cộng Sản đã trở thành đối thủ mạnh mẽ nhất đối với quyền bá chủ thế giới của Mỹ.
Bản Việt ngữ © Lê Diễn Đức - RFA
---------------------------------------------------------------------------------* Bài dịch từ tiếng Ba Lan, bài đăng trên trang web của đài truyền hình tin tức Ba Lan TVN24 ngày 14 tháng 3 năm 2015, tại link: http://www.tvn24.pl/wiadomosci-ze-swiata,2/czesc-ekspertow-wiesci-upadek-chinskiej-partii-komunistycznej,524100.html
TƯỞNG NĂNG TIẾN * CHƠI VOI
TƯỞNG NĂNG TIẾN
CHƠI VOI
Tue, 03/17/2015 - 10:43 — tuongnangtien
S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến
Xây tượng đài hoành tráng cũng như nhà nghèo nuôi voi chơi.
Lúc nhỏ, tôi rất thích nuôi chim. Đến già tôi vẫn còn (hơi) thích nhưng lười nên chơi chim theo kiểu “thiên nhiên,” nghĩa là thưởng thức chim trời mà khỏi cần phải nuôi nấng gì ráo trọi.
Tất cả những vùng đất mà tôi đã đi qua đều có chim se sẻ. Có lẽ đây là giống chim gần gũi nhất với loài người. Cứ ngồi một lát ở một quán vỉa hè nào đó, tại bất cứ nơi đâu, cũng đều có thể thấy năm bẩy chú se sẻ đang loanh quanh kiếm ăn cạnh đó. Nhìn những bước chân chim quen thuộc, nhẩy nhót nhẹ nhàng (không dưng) cũng thấy lòng hơi thanh thoát, và cuộc sống bỗng hoá nhẹ nhàng.
Có sáng dậy muộn, nằm lơ mơ nghe tiếng chim ngày cũ (ríu rít trên nóc nhà) mà cứ ngỡ như mình chưa bao giờ rời khỏi quê hương – dù chỉ một ngày – và chợt thấy tâm hồn cũng được đôi phần an ủi.
Niềm vui đơn sơ và hoàn toàn miễn phí của tôi, xem ra, không được mọi người chia sẻ. Ở quê tôi bây giờ có người nuôi tép kiểng rất mắc tiền cùng với kỹ thuật chăm sóc công phu. Có vị còn chơi chó ngao Tây Tạng mà gía mua đến cả trăm ngàn Mỹ Kim, và chỉ riêng chi phí về thực phẩm cũng có thể bằng tiền lương của một công nhân mỗi tháng.
Nguồn: Dân Luận
Một cá nhân có thể chơi ngông mà không gây phiền hà hoặc thiệt hại đến ai nhưng cả một đất nước mà cũng muốn thể hiện đẳng cấp quốc gia (ngông nghênh) y như vậy thì vấn đề lại hoàn toàn khác. Tuần qua, báo chí trong nước đồng loạt đi tin:
Sau gần 7 năm thi công, tượng đài mẹ Việt Nam anh hùng ở tỉnh Quảng Nam sắp hoàn thành và có thể trở thành tượng đài lớn nhất Đông Nam Á với kinh phí xây dựng lên đến 411 tỷ đồng... Vốn ban đầu dự tính là 55 tỷ đồng, nhưng trước thời điểm khởi công, dự án đã đội giá lên 120 tỷ đồng. Năm 2011, tỉnh Quảng Nam ra quyết định bổ sung 330 tỷ đồng, nâng tổng số tiền đầu tư lên 411 tỷ đồng, gấp nhiều lần số tiền được phê duyệt ban đầu, nhằm xây dựng công trình quy mô tượng đài lớn nhất Đông Nam Á.
Lãnh đạo ngành VHTT&DL tỉnh Quảng Nam cùng nhiều chuyên gia nghệ thuật điêu khắc trong nước khẳng định: Số tiền 411,2 tỷ đồng dự kiến dành xây công trình tượng đài Bà mẹ VNAH tại núi Cấm - Tam Kỳ “không hề lãng phí”.
Chỉ có mỗi ông chuyên gia nghệ thuật Phạm Trung là có ý kiến trái chiều: “Xây tượng đài hoành tráng cũng như nhà nghèo nuôi voi chơi... Tôi có thể khẳng định, với hình thức làm tượng đài ngày càng phóng to về quy mô, bảo thủ về hình thức và kỹ thuật, tiêu tốn ngày càng nhiều tiền mà lại lồng ghép nhiều công năng trái chiều.... thì đó sẽ là một sự thất bại về mặt nghệ thuật của VN. Tượng mẹ VN là ví dụ chung cho sự thất bại này.”
Vietnamnet cho biết thêm chi thiết:
Tượng cao 18m, dài theo hình cánh cung 120m. Bên trong khối tượng là Nhà tưởng niệm mẹ Việt Nam anh hùng có diện tích 400m², có bia ghi danh gần 50.000 bà mẹ Việt Nam anh hùng trên khắp cả nước, giới thiệu hình ảnh, cuộc đời và sự cống hiến của Mẹ đối với Tổ quốc.
Trong số “gần 50.000 bà mẹ Việt Nam anh hùng trên khắp cả nước” thì riêng huyện Củ Chi đã có đến “715 bà mẹ VN anh hùng,” và “1.800 người được phong dũng sĩ.”
Đây là con số thiệt đáng kể và vô cùng đáng nể. Thảo nào mà vùng đất này đã được mệnh danh là “đất thép,” như ghi nhận của Wikipedia:
“Địa đạo Củ Chi là một hệ thống phòng thủ trong lòng đất ở huyện Củ Chi, cách Thành phố Hồ Chí Minh 70 km về hướng tây-bắc. Hệ thống này được Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đào trong thời kỳ Chiến tranh Đông Dương và Chiến tranh Việt Nam. Hệ thống địa đạo bao gồm bệnh xá, nhiều phòng ở, nhà bếp, kho chứa, phòng làm việc, hệ thống đường ngầm dưới lòng đất. Hệ thống địa đạo dài khoảng 200 km và có các hệ thống thông hơi vào các vị trí các bụi cây. Địa đạo Củ Chi được xây dựng trên vùng đất được mệnh danh là "đất thép", nằm ở điểm cuối Đường mòn Hồ Chí Minh. Trong Chiến dịch Tết Mậu Thân 1968, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã sử dụng hệ thống địa đạo này để tấn công vào Sài Gòn.”
Tuy thế, sau khi Sài Gòn thất thủ thì người dân ở vùng “đất thép” lại bỏ quê để đi tìm đất mới, như lời cố Thủ Tướng Võ Văn Kiệt:
“Ông kể một hôm nào đó ông về Củ Chi thăm một bà má cơ sở đã che chở ông thời kỳ chiến tranh và được bà khoe với ông rằng số tiền bà dành dụm được bấy lâu bà đã lo cho một đứa cháu nội vượt biên, thoát rồi! Nhưng chưa hết: ông chưa kịp có ý kiến gì thì sau khi nhỏn nhoẻn chùi xong vết trầu ở miệng bà cho biết tới đây bà sẽ bán miếng đất kế bên lấy tiền cho đứa cháu ngoại đi tiếp cho … nội ngoại công bằng!”
Cháu chắt của qúi bà mẹ Việt Nam anh hùng, ở Củ Chi, nếu không đi vượt biên thì đi ăn cướp – theo tin của tờ Việt Báo:
“Ngày 16/5, Trung tá Nguyễn Ngọc Anh, Phó Đội trưởng đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội công an huyện Củ Chi, TP.HCM cho biết cơ quan này đã bắt được 6 đối tượng trong băng nhóm chuyên cướp tài sản của người dân với những thủ đoạn hết sức nguy hiểm. Đó là các tên Đào Văn Đức (SN 1986), Nguyễn Thị Ngọc Dung (SN 1990), Đào Duy Thịnh (SN 1997), Lê Trọng Thảo (SN 1993), Nguyễn Kim Ngọc (SN 1993), Nguyễn Minh Sang (SN 1994), tất cả cùng ngụ huyện Củ Chi, TP.HCM.”
Ảnh: Ái Minh. Nguồn: Việt Báo
Sao lại đến nỗi vậy?
Chỉ vì bần cùng thôi!
Người dân Củ Chi ngày nay nếu không ăn cướp thì không ít kẻ cũng đến mức phải ăn mày, nghĩa là sống nhờ vào lòng hảo tâm của tha nhân – theo Phụ Nữ Thời Đại, số ra ngày 20 tháng 10 năm 2014:
“Chương trình ‘Hạt gạo chia đôi’ đã thành công tốt đẹp, hơn 200 phần quà (bao gồm 10 kg gạo, 1 thùng mì, 1 chai dâu ăn, nước mắm, nước tương…) cho 200 hộ nghèo, neo đơn huyện Củ Chi. Tuy những món quà đó không đáng bao nhiêu nhưng với tấm lòng vàng của BTC và tình cảm của các anh chị em ca sĩ, nghệ sĩ hi vọng sẽ xoa bớt nổi buồn của những mảnh đời bất hạnh.”
Cách tự lực duy nhất của người dân Củ Chi hiện nay là trồng “rau bẩn” – loại rau mà họ chỉ trồng để bán chứ không dám ăn vì sợ độc – như tường thuật của phóng viên Minh Sáng, báo Nông Nghiệp Việt Nam:
Chạy dọc theo tuyến đường xuyên Á hướng về tới huyện Củ Chi, khi vừa rẽ vào khu vực trồng chuyên canh rau của xã Tân Phú Trung, chúng tôi đã ngửi thấy nồng nặc mùi hôi của các loại phân, thuốc từ các vườn rau lan tỏa khắp nơi.
Dù đang giữa trưa nắng nóng như đổ lửa nhưng trên những vườn rau xanh mướt, nhiều chủ vườn vẫn đang lúi húi chăm bón, cắt tỉa và nhổ rau cho kịp chợ.
Tôi ghé vào thăm vườn rau của một người quen ở xã Tân Phú Trung đang thời điểm thu hoạch. Vừa thấy khách quen lâu ngày mới gặp, anh N, chủ vườn vội ngưng nhổ rau chạy ra đon đả: “Vào nhà đi, cũng đến bữa rồi đợi mình chạy kiếm chút mồi về rồi nhậu nghe”.
Tôi liền bảo: “Thôi, chỉ cần cho ăn bữa rau no là được rồi”.
N ngần ngại lắc đầu: “Không được đâu, rau này trồng để bán chứ không ăn được”.
Thấy tôi nhắc mãi, N đành phải chạy sang vườn nhà kế bên xin được ít rau muống tạm cho là sạch vì họ trồng riêng vào một góc vườn không phun thuốc, không bán, chỉ để nhà ăn...
Củ Chi, nói nào ngay, không phải là địa phương duy nhất ở Việt Nam đã sản xuất ra hơi nhiều mẹ VN anh hùng và liệt sĩ. Đây cũng không phải là nơi độc nhất mà người dân đang phải sống nhờ vào lòng từ thiện, hay bằng cách trồng rau bẩn – nếu không muốn trở thành đạo tặc.
Củ Chi, nghĩ cho cùng, chỉ là hình ảnh của một Việt Nam thu nhỏ. Ở đất nước này có quá nhiều phụ nữ đã mất cả chồng lẫn con cho một cuộc cách mạng mà thành quả mang lại chỉ là những mảnh đời bầm dập, te tua hay cùng quẫn. Điều duy nhất mà những bà mẹ Việt Nam anh hùng được đền bù cho sự hy sinh của mình là một cái tượng đài rất lớn, và rất mắc – theo như nhận xét và so sánh của một blogger, trên trang Dân Làm Báo:
Tượng của 4 người khai sáng ra nước Mỹ là George Washington, Thomas Jefferson, Theodore Roosevelt và Abraham Lincoln được đục đẽo vào trong khối đá thiên nhiên của núi Rushmore.
Thứ 1 vì đây là núi đá thiên nhiên có sẵn, chứ không phải chở đá từ nơi khác đến nên HOÀN TOÀN MIỄN PHÍ, KHÔNG TỐN 1 CẮC CỦA DÂN về vấn đề nguyên liệu.
Thứ 2 vì đây là đá thiên nhiên, có độ chịu đựng mưa nắng gió cát rất cao, lại được tạc vào phía trước của núi, phía sau vẫn có 1 mảng núi che chắn, và có các khe rãnh được khơi đặc biệt để thông nước, nên chỉ cần bỏ công điêu khắc 1 lần là có thể tồn tại mãi với thời gian, KHÔNG TỐN TIỀN TU SỬA GÌ CẢ!
Thứ 3 các bức tượng được điêu khắc rất sống động. Tượng nào cặp mắt cũng mở to nhìn về phía trước, rất có thần, nhìn thấy uy nghi oai phong. Tượng 2 ông Washington và Lincoln ở phía trước thì được điêu khắc có bờ vai và cổ áo đàng hoàng, nên nhìn không giống như bị chặt đầu đem cắm lên đó.
Còn nhìn lại tượng Mẹ VNAH của CSVN thì sao?
Thứ 1 là tự nhiên chở 1 đống đá đến đó xây tượng, nên mới quá tốn kém, tốn đến 411 tỷ đồng tiền thuế xương máu của dân...
Thứ 2 là xây tượng đài chơ vơ giữa đồng trống, chỉ có mỗi cái đầu mẹ nhô ra, lại là đá nhân tạo, thi bảo đảm chỉ trong vòng 10 năm là mưa nắng gió cát sẽ xoi mòn cái đầu và cái mặt mẹ, sẽ không còn ra hình thù gì, và lúc đó sẽ lại TỐN TIỀN TRĂM TỈ ĐỂ TU SỬA! Mà 1 cái đầu nhô ra như vậy bị xoi mòn thì làm sao mà sửa? Chẳng lẽ chặt đi khắc cái đầu khác gắn vào?
Thứ 3 là điêu khắc quá tệ. Mẹ VNH gì mà 2 mắt nhắm tịt, trán thì nhăn lại, mặt mày cau có như đang chịu đựng đau đớn khổ sở, nét mặt nhìn không uy nghi cũng chẳng hiền từ, ngược lại nhìn giống như mẹ bị chặt đầu đem cắm ra đó để bêu riếu vậy!!
Cả dân tộc này đã bị bêu riếu và làm nhục lâu rồi, chứ đâu có riêng chi những bà mẹ Việt Nam anh hùng và … nhẹ dạ!
NGUYỄN HỮU VINH * LƯU MANH PHÁ LỄ TƯỞNG NIỆM
Đằng sau những trò hèn hạ, kệch cỡm và lộ liễu là con đê sắp vỡ
Tue, 03/17/2015 - 14:26 — nguyenhuuvinh
Khen ai khéo vẽ cho vui thế!
Vài hôm nay, cộng đồng mạng ồn ào và nổi sóng với vụ việc nhà cầm quyền Hà Nội cho đám cô hồn dư luận viên phá hoại buổi tưởng niệm 64 chiến sĩ đã hy sinh trong trận thảm sát Gạc Ma ngày 14/3/1988-2015 được một nhóm xã hội dân sự kêu gọi tổ chức tại tượng đài vua Lý Thái Tổ - Hà Nội.
Đã 27 năm kể từ ngày bị thảm sát, nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam, dưới "sự lãnh đạo tuyệt đối và sáng suốt" của cái đảng tự xưng "là đạo đức, là văn minh" đã không hề nhắc đến họ.
Hoạt động này của người dân là một nghĩa cử để an ủi các vong linh những người đã hiến máu xương mình cho đất nước mà không trở về. Thân xác các anh đã và đang chìm nổi đâu đó trên biển, linh hồn các anh vật vờ thê thảm phương nào không hay.
Đây là một hoạt động dân sự hết sức đáng được tôn trọng và quảng bá về lòng biết ơn đối với những người đã ngã xuống vì Tổ Quốc. Nó cũng nhằm giáo dục cho con cháu truyền thống uống nước nhớ nguồn, yêu nước thương nòi, đặc biệt là tinh thần quật cường trong việc bảo vệ lãnh thổ của Tổ Quốc.
Thế nhưng, không rõ cái "đạo đức", cái "văn minh" của đảng đến đâu, mà những hành động đối với cuộc tưởng niệm đã làm cho cả cộng đồng trong và ngoài nước, từ già đến trẻ, từ trí thức đến người nông dân phải nhăn mặt bịt mũi thậm chí còn uất ức chửi tán loạn. Rằng thì là đó là những hành động lưu manh, là phản quốc, là vô giáo dục, là thiếu đạo đức... Thôi thì đủ cả các loại tính từ được sử dụng dành cho thứ "đạo đức, văn minh" cộng sản.
Ngay từ rất sớm, một đám cô hồn đã được tổ chức từ ra "chiếm lĩnh trận địa: với loa công suất lớn, với hàng loạt cờ đỏ búa liềm được làm "đạo cụ" tập nhảy nhót "Trống cơm" và các bài hát hết sức phản cảm và vô nghĩa trong ngày đại giỗ của dân tộc. Những đám thanh niên nhảy nhót với lá cờ búa liềm đỏ choét, sẵn sàng gây sự với bất cứ ai đến lễ đài vua Lý Thái Tổ. Xung quanh đó là hàng đàn, hàng lũ các đoàn thể, phụ nữ, bảo vệ, tổ dân phố và... an ninh, công an đủ loại.
Không chỉ vậy, đám cô hồn này với hàng loạt cờ búa liềm đã xông đến nơi những người đang cầm hoa tưởng niệm hương hồn các liệt sĩ mà gào thét, mà gây sự, mà khiêu khích hỗn láo, cướp băng rôn, hình ảnh bỏ chạy thục mạng... rồi hò nhau hét lên: "Như có bác hồ trong ngày vui đại thắng".
Chiếm đoạt quãng trường hò hét "Trống Cơm"
Hò hét: "Như có bác hồ trong ngày vui đại thắng - Đảng CSVN quang vinh muôn năm."
Quả thật, không biết viên an ninh chỉ đạo hôm đó nghĩ gì mà đã cho đám cô hồn lôi ông Hồ Chí Minh tham dự vào một thất bại đau đớn, nhục nhã vì mất biển đảo của Tổ Quốc và phỉ báng các liệt sĩ và hạ nhục đất nước trong ngày đại kỵ đến thế. Họ vốn coi ông Hồ là thần, thánh cơ mà?
Không phải đây là lần thứ nhất họ tỏ rõ sự vô ơn bội nghĩa với những người đã khuất trong các trận chiến với Trung Cộng xâm lược. Mà chính tại nơi này, đã nhiều lần liên tiếp, nhà cầm quyền Hà Nội giở nhiều trò đê tiện và hèn hạ đó.
Mới đây thôi, ngày 19/1/2015, tôi cùng một nhóm người đến tưởng niệm sự kiện Hoàng Sa rơi vào tay giặc với 74 tử sĩ bị giặc giết trong trận hải chiến năm 1974 đã bị một nhóm an ninh, dân phòng, gây sự và phá hoại. Tên đội lốt côn đồ phá hoại cướp vòng hoa, đã bị bắt để đưa về đồn công an, thì công an đã đưa xe giải thoát và đến nay, dù đã có đơn hơn 2 tháng, thì lực lượng công an "giỏi nhất thế giới" vẫn "chưa tìm thấy". (Sic)
Trước đó năm 2014, một cuộc tưởng niệm tròn 40 năm ngày Hoàng Sa rơi vào tay giặc và các liệt sĩ đã ngã xuống tại tượng đài Lý Thái Tổ với hàng trăm người dân, nhân sĩ, trí thức và các nhà báo nước ngoài có mặt. Nhà cầm quyền Hà Nội giở trò mang ra những mảnh đá và... cắt. Bụi mù mịt cả khu tượng đài vẫn không làm cho người dân nao núng rời đi. Họ giở trò dùng loa công suất lớn hét vào tai người đến tham dự và cả những nữ nhà báo nước ngoài.
Rồi cuộc tưởng niệm đồng bào, chiến sĩ đã hy sinh trên biên giới phía Bắc ngày 17/2 - Một cuộc chiến đẫm máu với hàng vạn người dân, chiến sĩ đã bị giết hại bởi những trận giết thường dân hàng loạt và tàn bạo của Cộng sản Trung Quốc, Cộng sản Việt Nam đã cố tình xóa đi cuộc chiến này trong các sự kiện - đã bị nhà cầm quyền ngăn chặn bằng nhiều trò bẩn thỉu để như gác đường, theo dõi, vận động không đi... Đặc biệt là nhà cầm quyền Hà Nội đã cho một nhóm đàn bà rửng mỡ nhảy nhót điệu hát của Tàu Cộng "Con bướm xinh" trước tượng đài Vua Lý để ngăn chặn cuộc tưởng niệm.
Không chỉ có thế, những lần bọn xâm lăng đưa quân xâm lược, bắn giết ngư dân, phá hoại sản xuất trên biển, xâm lăng bờ cõi... mà người dân biểu thị tinh thần yêu nước đã bị nhà cầm quyền Hà Nội dùng đủ mọi thủ đoạn đàn áp, bắt bớ ngăn chặn với luận điệu "đã có đảng và nhà nước lo". Hơn thế, dù trời mưa rét cắt da, họ cũng bắt hàng đoàn thiếu nữ quần đùi , áo hở hang uốn éo trước những nơi công cộng hoặc trước tượng đài nhằm "chiếm trận địa". Hoặc bằng những người mặc áo mưa tưới cây dưới trời mưa phùn để ngăn không cho dòng người vào tượng đài Cảm tử...
Những trò lố, những trò vui đó đã không thể nào che đậy được bản chất ý đồ của họ và nó chỉ thể hiện bản chất hèn với giặc, ác với dân mà thôi.
Đó là những sự sỉ nhục vong linh của những người đã vị quốc vong thân để giành cho họ cái chỗ ngồi hôm nay trên đầu, trên cổ dân tộc.
Những hành động đó của nhà cầm quyền Hà Nội, không khác chi hành động của những đứa con rượu chè nhảy nhót, hò hát say sưa trong tang lễ, ngày giỗ bố mẹ. Đó cũng là để thể hiện cái " đạo đức, văn minh" cộng sản thời khi đã nắm vững ghế, cầm chắc cán dao.
Quả là nếu cụ Nguyễn Khuyến có sống lại, lại phải thốt lại câu thơ xưa:
Khen ai khéo vẽ trò vui thế
Vui thế bao nhiêu, nhục bấy nhiêu
Vì sao?
Những hành động, lời nói của nhà cầm quyền Hà Nội gần đây với phong trào dân sự, những người yêu nước đã làm nhiều người thắc mắc. Những điều thắc mắc đó một thời gian dài không có lời giải đáp bởi người ta chẳng thể nào hiểu nổi.
Tại sao nhà cầm quyền Hà Nội thừa biết rằng, những luận điệu "Đã có đảng và nhà nước lo" khi đất nước bị xâm lăng chẳng ai tin được. Bởi người dân không mù, không điếc và ở thời đại Internet đến mọi nơi, thì không dễ che lấp điều mà ai cũng thấy là biển đảo, đất đai của Tổ Quốc dần dần bị mất vào tay giặc xâm lăng dưới "sự lãnh đạo tài tình của đảng". Thế mà họ vẫn cứ lặp đi, lặp lại?
Tại sao nhà cầm quyền Hà Nội thừa biết rằng, những trò con trẻ như chiếm khán đài, quần chúng tự phát, an ninh giả trang làm côn đồ, làm bảo vệ, thợ cắt đá... cũng không thể che giấu được sự hèn hạ bên trong là họ không dám để người dân tập trung tưởng nhớ đến những người đã ngã xuống vì Tổ Quốc. Và họ biết thừa là họ đang đi ngược lại lòng dân, trong khi lật thuyền cũng là dân mà họ không ngại làm?
Tại sao, khi giặc xâm lăng đến trước ngõ, thay vì động viên những người dân nung nấu thêm lòng yêu nước và chí khí trước ngoại xâm, thì những người cầm quyền đã sắp xếp cho con cháu đi đòi lãnh thổ đã bị mất và sắp mất khi trong tay họ? Thế rồi những hàng ngũ lãnh đạo xuất hiện với những động tác hèn hạ và những câu nói dốt nát đến độ không ngờ. Chẳng lẽ họ không biết họ nói gì?
Với sự kiện hôm 14/3 mới đây, nhà cầm quyền cho đám âm binh cầm cờ búa liềm ngăn chặn những người tưởng niệm và hò hét "Như có bác hồ trong ngày vui đại thắng"? Vì sao lại chỉ cầm cờ búa liềm?
Câu trả lời: Một con đê sắp vỡ
Đưa những thắc mắc đó nói chuyện một người bạn vốn thường hay nghiền ngẫm sự đời, anh ta trả lời ráo hoảnh:
- Ông thắc mắc làm gì. Ông đã thấy tình trạng của con đê sắp vỡ hay chưa?.
Rồi anh giải thích:
- Thông thường, khi con đê vững chắc, biết là sóng nước không thể làm suy suyển, thì người ta rất cẩn thận, cân nhắc khi sử dụng và bảo vệ nó hoặc tác động vào nó, kể cả đào cái hố, trồng cái cây. Nhưng một khi đã đến mức báo động, nó sắp vỡ hoặc đang vỡ thì vớ được cái gì người ta dùng luôn cái đó. Bình thường, chẳng ai dùng phên để chắn nước vì nó sẽ chảy, nhưng khi đê vỡ, thì không chỉ có phên mà rơm rác, cát bụi hoặc bất cứ cái gì, kể cả bàn ghế cũng đều ném vào mà chặn dòng chảy.
Ở đây, cái hệ thống nhà nước này cũng vậy. Ông đừng nghĩ họ không biết những việc đó là đáng xấu hổ, là hèn hạ, bẩn thỉu trước mắt người dân. Họ biết, nhưng họ bí và họ đang hoảng sợ, bất lực trước lòng dân nên gặp gì làm nấy thôi. Khi họ không thể chính danh ngăn chặn lòng yêu nước của người dân như họ muốn thì họ bịa ra "đã có đảng và nhà nước lo" và dùng mặt trận đi khuyên can, ngăn chặn. Khi họ không thể công khai ra lệnh cấm yêu nước hoặc đàng hoàng mang sắc phục trấn áp, thì họ hóa trang thành côn đồ. Đê đang vỡ mà lại".
Tôi giật mình, quả là những ví dụ đơn giản, nhưng lật được bản chất sự việc và trả lời bao câu hỏi bấy lâu nay. Tôi đang mông lung suy nghĩ, bỗng anh trầm ngâm:
- Điều tôi không hiểu ở đây, là tại sao đám cô hồn đó, chúng không mang cờ Tàu, không mang cờ đỏ sao vàng mà chỉ toàn mang cờ đảng màu đỏ và búa liềm?
Tôi lại phải làm người giải thích cho anh:
- Đơn giản thôi anh. Nếu chúng mang cờ Tàu thì hẳn nhiên là bằng chọc tức dân chúng. Chúng chỉ có thể mang ở những nơi dân ít và không mấy quan tâm như ở Lai Châu vừa qua chứ chưa dám mang công khai ở Hà Nội. Nếu chúng mang cờ đỏ sao vàng, dù sao cũng gọi là cờ Tổ Quốc lại đi phá đám tưởng niệm những người hy sinh vì Tổ Quốc thì có bằng mà tự nó khai nó là ai.
Vài hôm nay, cộng đồng mạng ồn ào và nổi sóng với vụ việc nhà cầm quyền Hà Nội cho đám cô hồn dư luận viên phá hoại buổi tưởng niệm 64 chiến sĩ đã hy sinh trong trận thảm sát Gạc Ma ngày 14/3/1988-2015 được một nhóm xã hội dân sự kêu gọi tổ chức tại tượng đài vua Lý Thái Tổ - Hà Nội.
Đã 27 năm kể từ ngày bị thảm sát, nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam, dưới "sự lãnh đạo tuyệt đối và sáng suốt" của cái đảng tự xưng "là đạo đức, là văn minh" đã không hề nhắc đến họ.
Hoạt động này của người dân là một nghĩa cử để an ủi các vong linh những người đã hiến máu xương mình cho đất nước mà không trở về. Thân xác các anh đã và đang chìm nổi đâu đó trên biển, linh hồn các anh vật vờ thê thảm phương nào không hay.
Đây là một hoạt động dân sự hết sức đáng được tôn trọng và quảng bá về lòng biết ơn đối với những người đã ngã xuống vì Tổ Quốc. Nó cũng nhằm giáo dục cho con cháu truyền thống uống nước nhớ nguồn, yêu nước thương nòi, đặc biệt là tinh thần quật cường trong việc bảo vệ lãnh thổ của Tổ Quốc.
Thế nhưng, không rõ cái "đạo đức", cái "văn minh" của đảng đến đâu, mà những hành động đối với cuộc tưởng niệm đã làm cho cả cộng đồng trong và ngoài nước, từ già đến trẻ, từ trí thức đến người nông dân phải nhăn mặt bịt mũi thậm chí còn uất ức chửi tán loạn. Rằng thì là đó là những hành động lưu manh, là phản quốc, là vô giáo dục, là thiếu đạo đức... Thôi thì đủ cả các loại tính từ được sử dụng dành cho thứ "đạo đức, văn minh" cộng sản.
Ngay từ rất sớm, một đám cô hồn đã được tổ chức từ ra "chiếm lĩnh trận địa: với loa công suất lớn, với hàng loạt cờ đỏ búa liềm được làm "đạo cụ" tập nhảy nhót "Trống cơm" và các bài hát hết sức phản cảm và vô nghĩa trong ngày đại giỗ của dân tộc. Những đám thanh niên nhảy nhót với lá cờ búa liềm đỏ choét, sẵn sàng gây sự với bất cứ ai đến lễ đài vua Lý Thái Tổ. Xung quanh đó là hàng đàn, hàng lũ các đoàn thể, phụ nữ, bảo vệ, tổ dân phố và... an ninh, công an đủ loại.
Không chỉ vậy, đám cô hồn này với hàng loạt cờ búa liềm đã xông đến nơi những người đang cầm hoa tưởng niệm hương hồn các liệt sĩ mà gào thét, mà gây sự, mà khiêu khích hỗn láo, cướp băng rôn, hình ảnh bỏ chạy thục mạng... rồi hò nhau hét lên: "Như có bác hồ trong ngày vui đại thắng".
Chiếm đoạt quãng trường hò hét "Trống Cơm"
Hò hét: "Như có bác hồ trong ngày vui đại thắng - Đảng CSVN quang vinh muôn năm."
Quả thật, không biết viên an ninh chỉ đạo hôm đó nghĩ gì mà đã cho đám cô hồn lôi ông Hồ Chí Minh tham dự vào một thất bại đau đớn, nhục nhã vì mất biển đảo của Tổ Quốc và phỉ báng các liệt sĩ và hạ nhục đất nước trong ngày đại kỵ đến thế. Họ vốn coi ông Hồ là thần, thánh cơ mà?
Không phải đây là lần thứ nhất họ tỏ rõ sự vô ơn bội nghĩa với những người đã khuất trong các trận chiến với Trung Cộng xâm lược. Mà chính tại nơi này, đã nhiều lần liên tiếp, nhà cầm quyền Hà Nội giở nhiều trò đê tiện và hèn hạ đó.
Mới đây thôi, ngày 19/1/2015, tôi cùng một nhóm người đến tưởng niệm sự kiện Hoàng Sa rơi vào tay giặc với 74 tử sĩ bị giặc giết trong trận hải chiến năm 1974 đã bị một nhóm an ninh, dân phòng, gây sự và phá hoại. Tên đội lốt côn đồ phá hoại cướp vòng hoa, đã bị bắt để đưa về đồn công an, thì công an đã đưa xe giải thoát và đến nay, dù đã có đơn hơn 2 tháng, thì lực lượng công an "giỏi nhất thế giới" vẫn "chưa tìm thấy". (Sic)
Trước đó năm 2014, một cuộc tưởng niệm tròn 40 năm ngày Hoàng Sa rơi vào tay giặc và các liệt sĩ đã ngã xuống tại tượng đài Lý Thái Tổ với hàng trăm người dân, nhân sĩ, trí thức và các nhà báo nước ngoài có mặt. Nhà cầm quyền Hà Nội giở trò mang ra những mảnh đá và... cắt. Bụi mù mịt cả khu tượng đài vẫn không làm cho người dân nao núng rời đi. Họ giở trò dùng loa công suất lớn hét vào tai người đến tham dự và cả những nữ nhà báo nước ngoài.
Rồi cuộc tưởng niệm đồng bào, chiến sĩ đã hy sinh trên biên giới phía Bắc ngày 17/2 - Một cuộc chiến đẫm máu với hàng vạn người dân, chiến sĩ đã bị giết hại bởi những trận giết thường dân hàng loạt và tàn bạo của Cộng sản Trung Quốc, Cộng sản Việt Nam đã cố tình xóa đi cuộc chiến này trong các sự kiện - đã bị nhà cầm quyền ngăn chặn bằng nhiều trò bẩn thỉu để như gác đường, theo dõi, vận động không đi... Đặc biệt là nhà cầm quyền Hà Nội đã cho một nhóm đàn bà rửng mỡ nhảy nhót điệu hát của Tàu Cộng "Con bướm xinh" trước tượng đài Vua Lý để ngăn chặn cuộc tưởng niệm.
Không chỉ có thế, những lần bọn xâm lăng đưa quân xâm lược, bắn giết ngư dân, phá hoại sản xuất trên biển, xâm lăng bờ cõi... mà người dân biểu thị tinh thần yêu nước đã bị nhà cầm quyền Hà Nội dùng đủ mọi thủ đoạn đàn áp, bắt bớ ngăn chặn với luận điệu "đã có đảng và nhà nước lo". Hơn thế, dù trời mưa rét cắt da, họ cũng bắt hàng đoàn thiếu nữ quần đùi , áo hở hang uốn éo trước những nơi công cộng hoặc trước tượng đài nhằm "chiếm trận địa". Hoặc bằng những người mặc áo mưa tưới cây dưới trời mưa phùn để ngăn không cho dòng người vào tượng đài Cảm tử...
Những trò lố, những trò vui đó đã không thể nào che đậy được bản chất ý đồ của họ và nó chỉ thể hiện bản chất hèn với giặc, ác với dân mà thôi.
Đó là những sự sỉ nhục vong linh của những người đã vị quốc vong thân để giành cho họ cái chỗ ngồi hôm nay trên đầu, trên cổ dân tộc.
Những hành động đó của nhà cầm quyền Hà Nội, không khác chi hành động của những đứa con rượu chè nhảy nhót, hò hát say sưa trong tang lễ, ngày giỗ bố mẹ. Đó cũng là để thể hiện cái " đạo đức, văn minh" cộng sản thời khi đã nắm vững ghế, cầm chắc cán dao.
Quả là nếu cụ Nguyễn Khuyến có sống lại, lại phải thốt lại câu thơ xưa:
Khen ai khéo vẽ trò vui thế
Vui thế bao nhiêu, nhục bấy nhiêu
Vì sao?
Những hành động, lời nói của nhà cầm quyền Hà Nội gần đây với phong trào dân sự, những người yêu nước đã làm nhiều người thắc mắc. Những điều thắc mắc đó một thời gian dài không có lời giải đáp bởi người ta chẳng thể nào hiểu nổi.
Tại sao nhà cầm quyền Hà Nội thừa biết rằng, những luận điệu "Đã có đảng và nhà nước lo" khi đất nước bị xâm lăng chẳng ai tin được. Bởi người dân không mù, không điếc và ở thời đại Internet đến mọi nơi, thì không dễ che lấp điều mà ai cũng thấy là biển đảo, đất đai của Tổ Quốc dần dần bị mất vào tay giặc xâm lăng dưới "sự lãnh đạo tài tình của đảng". Thế mà họ vẫn cứ lặp đi, lặp lại?
Tại sao nhà cầm quyền Hà Nội thừa biết rằng, những trò con trẻ như chiếm khán đài, quần chúng tự phát, an ninh giả trang làm côn đồ, làm bảo vệ, thợ cắt đá... cũng không thể che giấu được sự hèn hạ bên trong là họ không dám để người dân tập trung tưởng nhớ đến những người đã ngã xuống vì Tổ Quốc. Và họ biết thừa là họ đang đi ngược lại lòng dân, trong khi lật thuyền cũng là dân mà họ không ngại làm?
Tại sao, khi giặc xâm lăng đến trước ngõ, thay vì động viên những người dân nung nấu thêm lòng yêu nước và chí khí trước ngoại xâm, thì những người cầm quyền đã sắp xếp cho con cháu đi đòi lãnh thổ đã bị mất và sắp mất khi trong tay họ? Thế rồi những hàng ngũ lãnh đạo xuất hiện với những động tác hèn hạ và những câu nói dốt nát đến độ không ngờ. Chẳng lẽ họ không biết họ nói gì?
Với sự kiện hôm 14/3 mới đây, nhà cầm quyền cho đám âm binh cầm cờ búa liềm ngăn chặn những người tưởng niệm và hò hét "Như có bác hồ trong ngày vui đại thắng"? Vì sao lại chỉ cầm cờ búa liềm?
Câu trả lời: Một con đê sắp vỡ
Đưa những thắc mắc đó nói chuyện một người bạn vốn thường hay nghiền ngẫm sự đời, anh ta trả lời ráo hoảnh:
- Ông thắc mắc làm gì. Ông đã thấy tình trạng của con đê sắp vỡ hay chưa?.
Rồi anh giải thích:
- Thông thường, khi con đê vững chắc, biết là sóng nước không thể làm suy suyển, thì người ta rất cẩn thận, cân nhắc khi sử dụng và bảo vệ nó hoặc tác động vào nó, kể cả đào cái hố, trồng cái cây. Nhưng một khi đã đến mức báo động, nó sắp vỡ hoặc đang vỡ thì vớ được cái gì người ta dùng luôn cái đó. Bình thường, chẳng ai dùng phên để chắn nước vì nó sẽ chảy, nhưng khi đê vỡ, thì không chỉ có phên mà rơm rác, cát bụi hoặc bất cứ cái gì, kể cả bàn ghế cũng đều ném vào mà chặn dòng chảy.
Ở đây, cái hệ thống nhà nước này cũng vậy. Ông đừng nghĩ họ không biết những việc đó là đáng xấu hổ, là hèn hạ, bẩn thỉu trước mắt người dân. Họ biết, nhưng họ bí và họ đang hoảng sợ, bất lực trước lòng dân nên gặp gì làm nấy thôi. Khi họ không thể chính danh ngăn chặn lòng yêu nước của người dân như họ muốn thì họ bịa ra "đã có đảng và nhà nước lo" và dùng mặt trận đi khuyên can, ngăn chặn. Khi họ không thể công khai ra lệnh cấm yêu nước hoặc đàng hoàng mang sắc phục trấn áp, thì họ hóa trang thành côn đồ. Đê đang vỡ mà lại".
Tôi giật mình, quả là những ví dụ đơn giản, nhưng lật được bản chất sự việc và trả lời bao câu hỏi bấy lâu nay. Tôi đang mông lung suy nghĩ, bỗng anh trầm ngâm:
- Điều tôi không hiểu ở đây, là tại sao đám cô hồn đó, chúng không mang cờ Tàu, không mang cờ đỏ sao vàng mà chỉ toàn mang cờ đảng màu đỏ và búa liềm?
Tôi lại phải làm người giải thích cho anh:
- Đơn giản thôi anh. Nếu chúng mang cờ Tàu thì hẳn nhiên là bằng chọc tức dân chúng. Chúng chỉ có thể mang ở những nơi dân ít và không mấy quan tâm như ở Lai Châu vừa qua chứ chưa dám mang công khai ở Hà Nội. Nếu chúng mang cờ đỏ sao vàng, dù sao cũng gọi là cờ Tổ Quốc lại đi phá đám tưởng niệm những người hy sinh vì Tổ Quốc thì có bằng mà tự nó khai nó là ai.
Trong khi nó mang cờ đảng, hô hét "đảng CSVN quang vinh muôn năm" thì hẳn nhiên về lý thuyết là không sai. Bởi những kẻ giết các chiến sĩ Gạc Ma năm xưa lại là bạn vàng của đảng CSVN, nên nó mang cờ đảng ra để phản đối tưởng niệm nạn nhân của bạn vàng là đúng chứ sao. Và một điều nữa, là những người tham gia vào cái đảng ấy khi đứng giơ tay thề, chỉ thề "Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và làm theo chủ trương, nghị quyết của đảng... Nhưng không hề có một lời nào là trung thành hoặc liên quan gì đến Tổ Quốc, đất nước Việt Nam. Vậy thì với đảng và đảng viên, Tổ Quốc chẳng là cái đinh vít gì ông ạ.
Vừa nói đến đó, ông bạn tôi bật dậy như lò xo:
- Trời đất ơi, bao năm rồi mà tôi không mở được mắt ra mà nhìn đến độ sâu đó. Khốn nạn quá, còn gì khốn nạn hơn cho đất nước này không.
Vâng, đúng là một sự khốn nạn, mà có lẽ còn hơn cả sự khốn nạn, ông bạn thân của tôi ạ.
Hà Nội, 17/3/2015
· J.B Nguyễn Hữu Vinh
Monday, March 16, 2015
DANIEL COSSINS * HỐ SỤT
Khi mặt đất mở ra và nuốt chửng mọi thứ
Daniel Cossins
- 16 tháng 3 2015
Đó là một cơn ác mộng. Khoảng 11 giờ tối ngày 28/2 năm 2013, ở vùng ngoại ô phía đông Tampa, bang Florida, nước Mỹ, ông Jeff Bush, 37 tuổi, đang nằm ngủ trên giường thì mặt đất bỗng dưng mở ra và ông bị nuốt chửng. Nghe tiếng nứt vỡ lớn, Jeremy Bush, em trai Jeff, lao vào phòng. “Mọi thứ biến mất,” anh nói với CNN. “Giường, ti vi của anh trai tôi. Anh trai tôi cũng biến mất.” Jeremy nhảy vào hố sụt trong nỗ lực tuyệt vọng để tìm anh trai. Nhưng khi mặt đất bắt đầu sụt nhiều hơn kéo thêm nhiều thứ đổ nát vào khoảng trống, một viên cảnh sát đã đến nơi để đưa Jeremy ra ngoài. Thi thể của Jeff không bao giờ được tìm thấy.
Vì sao lại sụt?
Đó là một hố sụt. Những sự việc bất ngờ này xảy ra trên khắp thế giới nhưng những nơi như Florida đặc biệt dễ xảy ra hố sụt nhất bởi vì địa chất khu vực. Hàng trăm vụ việc như vậy đã xảy ra ở tiểu bang nắng ấm này hàng năm.
Đây có phải là những hiện tượng thiên nhiên không thể đoán trước hay có cách nào đó để chúng ta biết được chúng sắp xảy ra? Trong tương lai, chúng ta có thể không phải chịu số phận của Bush: các nhà địa chất đang bận rộn xác định xem những nơi nào đặc biệt dễ xảy ra hố sụt nhất trong khi các nhà khoa học Nasa đang thử nghiệm một hệ thống có thể giúp chúng ta biết được khi nào sắp xảy ra một hố sụt. Có thể chúng ta cho rằng ai ai cũng ủng hộ những nỗ lực này nhưng có người vẫn có lý do chống đối việc dự đoán các hố sụt.
Clint Kromhout, một nhà địa chất tai Viện Khảo sát Địa chất Florida ở Tallahasee, muốn nói với mọi người rằng có những thứ mà chúng ta có thể biết chắc về Florida: nắng ấm, bãi biển, bão tố và hố sụt.
Hố sụt hình thành khi đá sỏi hòa tan vào nước ngầm trong quá trình hàng trăm hay hàng ngàn năm để tạo thành những hốc trong lòng đất. Đến lúc nào đó, khi trần của hốc ngầm này không thể nào chịu nổi sức nặng của lớp địa chất phía trên, nó sẽ từ từ sụt xuống hay sụp đổ bất ngờ.
Florida là nơi đặc biệt dễ ra sụt lún bởi vì nó nằm trên một phiến đá vôi khổng lồ mà tầng ngậm nước thấm qua và ăn mòn dần.
Xác định khu vực có nguy cơ
Hố sụt là một hiện tượng tự nhiên nhưng hoạt động của con người có thể làm cho mọi việc xấu đi. Khai thác quá mức nước ngầm chẳng hạn có thể khiến các vách hố ngầm mất đi chỗ dựa. Thời tiết cũng là một nhân tố. Hạn hán làm mực nước xuống thấp còn mưa lớn trút xuống hàng tấn nước làm tăng sức ép lên trần các hố ngầm và cuối cùng dẫn đến đất sụt. Đó là những gì đã xảy ra ở Florida hồi tháng Sáu năm 2012 khi bão Debby tràn qua sau nhiều tháng hạn hán – để lại hàng trăm hố sụt trên đường đi.
Vào tháng Tám năm 2013, Kromhout và đồng nghiệp Alan Baker được tài trợ 1 triệu đô la để xây dựng một bản đồ cho thấy những khu vực dễ bị sụt đất. Bản đồ này áp dụng phương pháp thống kê: kết nối các bằng chứng về các hố sụt đã xảy ra với dữ liệu địa chất như độ sâu của lớp đá vôi hay cấu tạo của lớp trầm tích nằm trên để đưa ra dự đoán về khả năng xảy ra sụt đất ở một khu vực nào đó.
Khi hoàn tất vào mùa thu năm 2016, bản đồ sẽ thể hiện các mức độ dễ xảy ra hố sụt khác nhau bằng các màu sắc khác nhau. Nhưng nó không chi tiết đến mức cho bạn biết sẽ có hố sụt dưới nền nhà của bạn nhưng nó sẽ cho bạn những dấu hiệu nhận biết mà bạn phải tiếp tục theo dõi.
“Mục đích chính là giúp cơ quan đối phó tình trạng khẩn cấp chuẩn bị cho cơn bão sắp tới mà có thể tạo ra nhiều hố sụt,” Kromhout nói.
Điều không thể tránh khỏi là người dân trên khắp Florida sẽ dùng tấm bản đồ này để xem liệu ngôi nhà của họ có khả năng đứng trên một hố sụt tiềm năng hay không. Và điều này khiến mọi việc trở nên rắc rối.
Lo lắng không cần thiết?
Rõ ràng các chủ nhà rất muốn biết về tình trạng hố sụt để đảm bảo lợi ích của họ nhất là khi có công ty có thể giúp họ khắc phục vấn đề. Chẳng hạn như công ty GeoHazards ở Gainesville, Florida, có thể lấp đầy các lỗ hổng bằng cách bơm vữa vào.
Nhưng cách làm như vậy không hề rẻ và thường có giá lên đến hàng chục ngàn đô la. Và ngay cả khi vấn đề đã được khắc phục thì trị giá căn nhà đã bị giảm nhiều. Chẳng hạn như bà Ginny Stevens ở hạt Pasco nói trên tờ Tampa Bay Times rằng mặc dù bà đã làm mọi việc cần thiết để sửa chữa ngôi nhà của bà bị hư hại do hố sụt nhưng giá trị của căn nhà vẫn giảm từ 350.000 xuống còn 125.000 đô la.
Ở các hạt Hernando, Pasco, và Hillsborough, vốm thường được nhắc đến như là ‘thung lũng hố sụt’, phí bảo hiểm đã tăng chóng mặt trong những năm qua. Ngoài ra còn có cái giá tâm lý nếu bạn phát hiện nhà mình có nguy cơ ngồi trên hố sụt. Nếu bạn sống trong một trong những căn nhà như vậy thì lúc nào bạn cũng có cảm giác căng thẳng và lo lắng. Bạn biết rằng ngôi nhà không có nền vững và bạn tự hỏi liệu nó có bị sụp không.
Do đó, một số người dân Florida đã nêu quan ngại về bản đồ nguy cơ hố sụt. Nếu nó không chính xác thì nó sẽ khiến người ta lo lắng một cách không cần thiết.
Một giải pháp hay hơn là phát hiện các hố sụt khi nó đang hình thành – và Nasa có lẽ đã tìm ra cách làm từ trên cao với một loại radar có tên gọi là InSAR vốn giúp phát hiện những chuyển động nhỏ nhất trên mặt đất.
Mặt đất dịch chuyển
Khi một hố sụt lớn hình thành đột ngột ở Bayou Corne hồi tháng Tám năm 2012, nuốt chửng mặt đất và khiến hàng trăm người dân phải rời đi vĩnh viễn, các nhà khoa học Nasa đã quay lại hiện trường và phân tích các hình ảnh quét radar khu vực trước khi hố sụt xuất hiện. Họ phát hiện ra rằng mặt đất trước đó đã có sự chuyển động lớn và di chuyển theo chiều ngang khoảng 10 inch về phía tâm nơi sắp xảy ra hố sụt một tháng trước khi nó bị sụt. Theo dõi những dấu hiệu nhận biết tương tự ở những nơi có nguy cơ sụt đất có thể là cách dự báo sớm để sơ tán người dân trước khi hố sụt xuất hiện.
“Không phải hố sụt nào cũng có sự biến dạng ở bề mặt trước khi nó sụt, do đó cách làm này không phải là phương cách thần kỳ,” ông Ron Blom, khoa học gia chính tại phòng thí nghiệm JPL của Nasa cho biết và đồng tác giả công trình nghiên cứu về hố sụt ở Bay Corne, cho biết, “Nhưng nó chắc chắn sẽ có ích trong hệ thống giám sát theo dõi. Bạn có thể có dữ liệu radar InSAR cho những khu vực có nguy cơ sụt lún và nếu bạn tình cờ thấy mặt đất dịch chuyển, bạn có thể đến tận nơi để xem chuyện gì đang xảy ra.”
Cả Blom và đồng nghiệp cùng nghiên cứu với ông, bà Cathleen Jones, biết chính phủ có kế hoạch đưa vào sử dụng hệ thống quan trắc như vậy ở Mỹ. Tuy nhiên, Jones có cảm giác rằng chính quyền đang bắt đầu xem xét rất nghiêm túc vấn đề hố sụt. Điều này không nhất thiết bởi vì các hố sụt ngày càng xảy ra thường xuyên hơn, bà nói, mà vì việc mở rộng các khu đô thị có nghĩa là các hố sụt ngày càng có nguy cơ ảnh hưởng đến con người và nhà cửa.
Bản tiếng Anh bài này đã đăng trên BBC Future.
TIN TỨC VÀ BÌNH LUẬN
PEW: Quốc gia cộng sản Việt Nam chuộng chủ nghĩa tư bản hơn Mỹ
Tin liên hệ
13.03.2015
Hầu hết người Việt Nam hiện nay ủng hộ chủ nghĩa tư bản, theo kết quả khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu Pew.
Global Post ngày 13/3 dẫn kết quả cuộc nghiên cứu thực hiện cuối năm ngoái về các vấn đề kinh tế tại gần 45 quốc gia cho thấy Việt Nam là một trong những quốc gia thân tư bản nhất trên thế giới, với 95% người Việt trong nước yêu chuộng chủ nghĩa tư bản.
Không một nước nào trong số các quốc gia được khảo sát vượt quá tỷ lệ 90%
Ngay cả Hoa Kỳ, nơi khái niệm xã hội chủ nghĩa có thể được dùng như một sự sỉ nhục, chỉ 70% số người được hỏi đồng ý rằng kinh tế thị trường tự do là mô hình kinh tế tốt nhất.
Tuy nhiên, tại Việt Nam, nơi mà đảng cộng sản cầm quyền từng buộc hàng triệu người tham gia các nông trường tập thể, hầu hết mọi người được hỏi lại tán đồng với quan điểm này.
Global Post ngày 13/3 dẫn kết quả cuộc nghiên cứu thực hiện cuối năm ngoái về các vấn đề kinh tế tại gần 45 quốc gia cho thấy Việt Nam là một trong những quốc gia thân tư bản nhất trên thế giới, với 95% người Việt trong nước yêu chuộng chủ nghĩa tư bản.
Không một nước nào trong số các quốc gia được khảo sát vượt quá tỷ lệ 90%
Ngay cả Hoa Kỳ, nơi khái niệm xã hội chủ nghĩa có thể được dùng như một sự sỉ nhục, chỉ 70% số người được hỏi đồng ý rằng kinh tế thị trường tự do là mô hình kinh tế tốt nhất.
Tuy nhiên, tại Việt Nam, nơi mà đảng cộng sản cầm quyền từng buộc hàng triệu người tham gia các nông trường tập thể, hầu hết mọi người được hỏi lại tán đồng với quan điểm này.
Sự ủng hộ chủ nghĩa tư bản của Việt Nam, theo bài phân tích, là đáng ngạc nhiên khi nhìn lại lịch sử cận đại của nước này. Việt Nam được biết đến nhiều từ cuộc chiến của Mỹ tìm cách đánh bại chủ nghĩa cộng sản và đặt chủ nghĩa tư bản thân Tây phương tại Việt Nam.
Chiến tranh Việt Nam kết thúc cách đây 4 thập niên đã cướp đi 2 triệu mạng sống và biến các thành phố ở Việt Nam thành các đống đổ vụn bốc khói.
Hoa Kỳ đã rải bom tại khu vực này nhiều hơn số bom đã sử dụng trong thời Đệ Nhị Thế chiến để ngăn chủ nghĩa cộng sản do Liên Xô hậu thuẫn lan tràn khắp Châu Á, nhưng phe cộng sản đã chiến thắng trong cuộc chiến này.
Tuy nhiên, theo thời gian, học thuyết chủ nghĩa về lao động tập thể và nhà nước thống lĩnh kinh tế hoàn toàn của những người cộng sản đã tàn lụi đến nỗi hầu như tất cả người Việt, trong đó có cả những đảng viên cộng sản, giờ đây đi theo lý tưởng chủ xướng bởi cựu thù của họ.
Cuộc khảo sát cũng đo lường kỳ vọng của người dân cho tương lai, yếu tố chủ yếu của cái gọi là ‘giấc mơ Mỹ.’
Ở lĩnh vực này cũng thế, Việt Nam cũng qua mặt Mỹ, với 94% người Việt được hỏi cho biết họ tin con em họ hôm nay sẽ khá hơn cha mẹ chúng rất nhiều.
Tại Hoa Kỳ, cứ 10 người được khảo sát thì chỉ có 3 người tin rằng tương lai con cái họ sẽ vượt trội cha mẹ chúng.
Nguồn: Global Post/ Pew Research
Cho Mỹ sử dụng cảng Cam Ranh có ý nghĩa gì?
Việc Mỹ yêu cầu VN ngưng cho Nga sử dụng cảng Cam Ranh, trùng hợp với tin đồn rất đáng tin rằng VN có thể sẽ cho phép Mỹ tiếp cận không phận Cam Ranh cùng các cuộc diễn tập hải quân trong chuyến thăm Mỹ sắp tới của TBT Nguyễn Phú Trọng.
Việc này theo các chuyên gia có ý nghĩa như thế nào?
Mỹ sẽ trở lại Cam Ranh?
Cam Ranh là một cảng biển nước sâu tốt nhất Đông Nam Á, có địa thế chiến lược hết sức quan trọng. Từ trước đến nay, hải quân các nước Pháp, Mỹ, và Liên Xô đã từng dùng Cam Ranh làm căn cứ quân sự.
Mới đây, hãng tin Reuter cho biết Mỹ đã có yêu cầu VN ngưng cho phép Nga sử dụng căn cứ Cam Ranh để tiếp nhiên liệu cho các máy bay ném bom tại khu vực Thái Bình Dương, với lý do những hoạt động đó có thể làm tăng căng thẳng trong khu vực.
Bình luận về sự kiện này, Nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn thấy rằng, thái độ của VN trong vấn đề này sẽ cho biết diễn tiến của các quan hệ giữa VN với TQ, Nga và Mỹ sẽ ra sao trong thời gian tới. Ông nói với chúng tôi:
“VN có đáp ứng lời yêu cầu của Hoa kỳ hay không là một điều hết sức quan trọng. Hoa Kỳ cần soi sáng các điểm mờ chiến lược mà VN là một yếu tố hàng đầu trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Riêng VN, trước yêu sách của Mỹ, thì bị lâm vào một tư thế hết sức không thoải mái, nếu không nói là tiến thoái lưỡng nan. Vì vậy, cũng như mọi người, tôi đang nóng lòng muốn biết thái độ của VN ra sao trước lời yêu cầu này của Mỹ. VN như đứng trước ngã ba đường, VN không thể không có chọn lựa.”
LS. Vũ Đức Khanh chuyên gia nghiên cứu về chính trị Việt Nam, quan hệ và luật pháp quốc tế tại Đại học Ottawa – Canada nhận định:
“Điều đó cho thấy chính sách ngoại giao đu dây của VN đã hoàn toàn phá sản và chính sách ba không cũng đã đi vào ngõ cụt của sự bế tắc. Điều đó cho thấy Hoa kỳ đã đang đi theo một lộ trình mà Hoa kỳ muốn có một mối quan hệ thật mật thiết với VN hiện tại. VN nằm trên một vị trí chiến lược như thế thì vấn đề là Mỹ có sẽ trở lại Cam Ranh hay không? Đây là vấn đề vô cùng quan trọng, mà tôi nghĩ vấn đề này sẽ cho chúng ta thấy Mỹ đã đặt VN trước một sự lựa chọn vô cùng lớn”.
Theo báo của Nga Sputnik online đã bình luận cho rằng: "Việt Nam đang chơi với cả hai, đứng giữa vừa tìm kiếm các quan hệ gần hơn với Hoa Kỳ trong khi duy trì quan hệ truyền thống với Nga."
Theo VOA Việt ngữ, liên quan đến chuyến thăm Mỹ của TBT Nguyễn Phú Trọng sắp tới, Giáo sư Carl Thayer thuộc Học viên quốc phòng Úc cho rằng: "Có rất nhiều tin đồn rất đáng tin rằng để đổi lại, Việt Nam có thể sẽ cho phép Mỹ tiếp cận không phận Cam Ranh cùng các cuộc diễn tập hải quân, những việc mà trước đây Hà Nội không đồng ý.”
Nói về khả năng phản ứng của VN trong vấn đề này, nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn cho biết:
“Theo tôi, thì VN sẽ rất đau đớn để có thể chấp thuận yêu cầu của Mỹ. Trước hết Nga là một đồng mình truyền thống của VN. Nhưng VN cũng khó có thể trả lời không với Mỹ, ít nhất trong tình thế hiện nay. Bởi vì, trước sự lấn lướt của TQ tại Biển Đông, cũng như việc xây dựng các đảo nhân tạo của nước này đã trực tiếp đe dọa nền an ninh quốc phòng cũng như sự toàn vẹn lãnh thổ của VN. Mà việc đó Nga không thể giúp VN được, mà chỉ có Mỹ mới có thể giúp VN về kinh tế và quốc phòng để VN có thể bảo vệ quyền lợi của mình để đối đầu với hành động hung hăng của TQ. Vì vậy, theo tôi trong bối cảnh như vậy, trong nhất thời VN khó mà tìm được một kế sách để thỏa mãn tất cả các bên. “
Cam Ranh địa thế chiến lược
Trả lời câu hỏi việc VN cho Mỹ sử dụng cảng Cam Ranh sẽ có ý nghĩa như thế nào?
Cam Ranh là một căn cứ quân sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với Mỹ để tái phối trí lực lượng của họ ở Biển Đông, trong sách lược chuyển trục sang Châu Á. TS. Phạm Chí Dũng cho biết:
“Nói gì thì nói trong chiến lược xoay trục sang châu Á và Thái bình dương của Mỹ thì VN có vai tròchiến lược về mặt quân sự vì Cam ranh chắc chắn sẽ là điểm nhấn của Mỹ chứ không thể khác được. Vì ai nắm được Cam ranh thì khống chế được toàn bộ Biển Đông và kênh đào Kra.”
Điều đó rất quan trọng trong chiến lược phòng thủ Biển Đông của VN, để đảm bảo sự toàn vẹn lãnh thổ của VN. Ông Trương Nhân Tuấn khẳng định:
“Nếu VN cho Mỹ sử dụng hải cảng Cam Ranh trong chiến lược phòng thủ Biển Đông, dĩ nhiên điều này có rất có ý nghĩa đối với quan hệ Việt-Mỹ. Tình huống này sẽ chỉ có thể xảy ra nếu VN và Mỹ đã có những kết ước về liên minh chiến lược. Đây là một ước vọng của phần lớn người VN hiện nay. Về vấn đề bảo toàn lãnh thổ, chắc chắn VN không thể đi với Nga, hay đi với TQ, mà phải đi với Mỹ. Ta thấy một đảo nhỏ là Đài Loan, đến bây giờ TQ cũng vẫn không dám dùng vũ lực để thống nhất đất nước, mặc dầu họ có tính chính danh để làm việc đó. Đơn giản vì phía sau Đài Loan có Mỹ. Vấn đề là lãnh đạo CSVN có dám đặt quyền lợi của đất nước lên trên quyền lợi của đảng hay không.”
Đây là một sự tính toán có chủ ý từ phía Mỹ để buộc VN phải có một lựa chọn dứt khoát vào thời điểm này. LS. Vũ Đức Khanh nhận định:
“Từ trước đến nay VN vẫn coi Nga là một đồng minh thân cận mà người ta gọi là truyền thống, cho nên nếu nghĩ rằng VN sẽ quay ngoắt 180 độ thì là điều rất khó. Nhưng nếu cho rằng VN không có các chuyển động thì càng không được. Cho nên tôi nghĩ người Mỹ đang làm một cú để đẩy Hà nội vào một cái thế phải chọn, đó là việc phải đứng trong một cái liên minh nào đó, chứ không thể đứng ở cái thế vừa hợp tác chiến lược toàn diện với Nga, vừa hợp tác chiến lược toàn diện với TQ rồi lại đối tác toàn diện với Hoa kỳ. Do vậy, có thể có các bước ngoặt rất là lớn, mà tôi nghĩ rất có thể đã có những sự thỏa thuận nào đó rồi cho nên nó mới có các nguồn tin như hôm nay.”
Việc hiện diện của Mỹ ở Cam Ranh sẽ giúp đảm bảo sự toàn vẹn lãnh thổ của VN trước sự đe dọa của TQ trong lúc này. TS. Phạm Chí Dũng ghi nhận:
“Có lẽ tới lúc này, phía VN cần phải xác định ai sẽ có thể bảo vệ VN một cách hiệu quả trước sức ép của Bắc kinh? Nga không thể làm điều đó, hơn nữa Nga đang tiến bước để trở thành một đồng minh quan trọng của TQ. Như vậy chỉ còn người Mỹ thôi. Trước đây đã có những bài học như các căn cứ quân sự Clark hay Subic ở Philippines mà người Mỹ đã đóng quân ở đó và tình hình ở đó khá là ổn. Nếu như VN có một căn cứ quân sự của Mỹ thì VN có thể trở thành một đối tác quân sự nằm trong chiến lược liên minh về quân sự. Thì lúc đó TQ sẽ không thể làm gì được VN”
Không có đồng minh vĩnh viễn, không có kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia, dân tộc là vĩnh viễn. Nếu như Đảng CSVN biết coi trọng và đặt quyền lợi của tổ quốc, của dân tộc lên trên hết thì cũng chính là họ đã đáp ứng được nguyện vọng chính đáng của đông đảo người
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/why-us-use-cam-ranh-03162015070559.html
Bắc Kinh đã thiết lập hệ thống hành chánh, quân sự và tư pháp cho thành phố Tam Sa trên đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa của Việt Nam. Hạm đội Nam hải rục rịch tập trận bắn đạn thật ở Trường Sa. Hôm thứ ba phát ngôn viên bộ quốc phòng, đại tá Cảnh Nhạn Sanh, tuyên bố hệ thống tuần tra sẵn sàng chiến đấu thông thường đã được thiết lập tại vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc. Bộ quốc phòng Trung Quốc không quên nhắc lại rằng Bắc Kinh có chủ quyền không thể tranh cãi tại khu vực Biển Đông, và phản đối bất cứ sự can thiệp quân sự nào vào vùng này.
Tất cả những hành động đó cùng với cuộc ra quân đánh cá hôm nay đều nằm trong kế hoạch của một chuỗi hoạt động liên hoàn để tỏ phản ứng quyết liệt với bộ luật biển của Việt Nam được ban hành ngày 21 tháng 6.
Trong những hành động đó thì việc thiết lập các cơ sở cai trị từ cái gọi là thành phố Tam Sa là việc nghiêm trọng nhất, không khác nào một “cú đạp lịch sử” như Hà Nội từng làm với dân mình. Thử nghĩ tại sao Bắc Kinh phải rêu rao ngay việc bổ nhiệm tư lệnh quân sự và chính uỷ Tam Sa, nhất là việc xây nhà giam để nhốt ngư dân Việt Nam? Bắc Kinh nhất quyết làm mất mặt Hà Nội là để chà đạp luật biển của Việt Nam, và cương quyết xác định chủ quyền sai trái của họ ở biển Đông.
Hoạt động ngoại giao của Hoa Kỳ với Việt Nam khởi đầu vào đầu năm, với chuyến thăm của 4 nghị sĩ, trong đó có hai nhân vật nhiều thế lực trong chính trường lưỡng đảng của Hoa Kỳ là ông John McCain và Joseph Lieberman, đến Việt Nam để thảo luận với Hà Nội về quan hệ song phương Mỹ-Việt.
Kế đó đến lượt Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ đặc trách Đông Á-Thái Bình Dương, Kurt Campbell, thăm Việt Nam và xác nhận Washington muốn nâng quan hệ song phương lên hàng đối tác chiến lược.Sau đó, bộ trưởng quốc phòng Leon Panetta đến Việt Nam hồi tháng sáu, rồi đến những chuyến thăm viếng công tác của các tàu hải quân Mỹ, và nổi bật nhất là chuyến công du sang Việt Nam và châu Á của Ngoại trưởng Hillary Clinton, với những lời tuyên bố ngụ ý bênh vực Việt Nam tuy xác định không đứng về bên nào trong cuộc tranh chấp biển Đông.
Trong khi đó thì tập đoàn dầu khí Ấn Độ ONGC đã có một hành động rất ngoạn mục là tuyên bố quay lại tiếp tục thăm dò lô dầu khí ước đoán số 128, là lô bị Trung Quốc mời thầu chồng lấn cho tới lô 132. Chủ tịch Trương Tấn Sang đi Nga nói chuyện kinh tế, và từ đó có tin đồn về việc Nga có thể trở lại Cam Ranh.
Hà Nội đã cho biểu tình một cách đầy miễn cưỡng, trong khi Sài Gòn chỉ được một lần ngắn ngủi rồi sau đó dứt hằn. những người bị giam tù và bị hành hạ vì chống Trung Quốc cũng vẫn bị giam nhốt không nương tay, trong khi những người bất đồng chính kiến tiếp tục ra toà lãnh án nặng nề.
Ách đàn áp vẫn ám ảnh khủng khiếp khiến xảy ra vụ tự thiêu của thân mẫu blogger Tạ phong Tần. Rõ ràng là ngoài mặt, trên bình diện ngoại giao, thì tỏ ra chống Trung Quốc mạnh mẽ, nhưng bên trong vẫn nể sợ sự giận dữ của Bắc Kinh và đề phòng nghiêm ngặt đói với cái gọi là “diễn biến hoà bình”.
Người ta không hiểu được cách hành xử đó của Hà Nội. Trong khi đang cần một lòng đoàn kết, ít nhất Việt Nam cũng cần chứng tỏ toàn dân mình sôi sục chống Trung Quốc xâm lược dưới mọi hình thức và sẵn sàng hy sinh như giới truyền thông yêu nước “lề trái” ở trong nước vẫn thường đòi hỏi.
Nếu trước đây nói là phải trấn áp công luận để vuốt ve Trung Quốc và giải quyết ngoại giao hoà bình, thì người dân nghe đã khó lọt tai nhưng còn miễn cưỡng tìm hiểu; nay đã ở vào thế không thể lùi bước nhưng Hà Nội vẫn khống chế người dân thì để làm gì?
Khó lòng giải thích được gì hơn rằng đó là sự bối rối mất phương hướng về chiến lược, vì dùng dằng giữa lợi ích chủ quyền lãnh thổ của quốc gia và lợi ích thống trị của đảng cầm quyền.
Ngay hôm sau bộ quốc phòng vội vã cải chính là ông tướng hải quân chưa bao giờ nói như vậy trong cuộc phỏng vấn với phóng viên hãng thông tấn Ria-Novosti, còn nói rằng phóng viên đã đưa tin giật gân thất thiệt.
Giới quan sát ước đoán là tướng Viktor Chirkov hẳn là đã có nói một điều nào đó về các căn cứ nước ngoài, nhưng tiết lộ kế hoạch như vậy có thể khiến Trung Quốc và nước khác có đối sách ngăn chặn, bất lợi cho Nga về ngoại giao và chính trị, cho nên bộ quốc phòng buộc lòng phải cải chính.
Dù sao chăng nữa việc Nga có thể trở lại Cam Ranh cũng là một việc có xác suất xảy ra rất thấp.
Về phía Hoa Kỳ, Washington tuy mong muốn đối tác chiến lược nhưng lại có vẻ chưa quyết định kết hợp liên minh vững chắc với Việt Nam, trong khi Việt Nam cũng còn phân vân lưỡng lự.
Hoa Kỳ tuồng như còn chờ xem đường lối chính sách của Việt Nam ra sao, giữa ngã ba đường; một ngã là hy sinh quyền lợi riêng để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, vì quyền lợi thiêng liêng của tổ quốc, còn ngã đường kia là quyền lợi của đảng Cộng Sản Việt Nam muốn được “muôn năm trường trị” trên dải đất Việt Nam.
Việt Nam lúc này khó lòng ngồi yên mà “phân vân” để trông chờ ở nước ngoài, mà phải siết chặt đoàn kết toàn dân để chuẩn bị một trận chiến ở biển Đông vào giữa năm tới trở đi, khi mà Bắc Kinh rục rịch dồn quân xuống trên biên giới phía bắc. Từ giờ phút này lúc nào cũng có thể xảy ra những hành động vũ lực nhỏ lẻ của Trung Quốc để thăm dò phản ứng của Việt Nam và thế giới. Không thể tránh khỏi đụng chạm khi Bắc Kinh cố tình tung ra những hành động ức hiếp bằng vũ lực trên biển Đông, nói là bảo vệ chủ quyền “không thể bàn cãi” để cho hằng ngàn tàu cá của Trung Quốc ngang nhiên và hỗn hào xâm phạm lãnh hải 200 hải lý của Việt Nam như ao nhà của Bắc Kinh.
Australia rất quan tâm đến Thái Bình Dương.Khi thế trận sẵn sàng thì có hy vọng mong manh là Trung Quốc sẽ chùn tay. Nhưng môt khi Bắc Kinh nhất quyết tiến tới chiến tranh, thì điều khẩn thiết và quan trọng nhất là chính quyền phải thu phục được nhân tâm, để vận dụng toàn lực quốc gia bảo vệ đất nước.
Lịch sử nhiều lần chứng minh rằng khi toàn dân một lòng và quốc gia có đủ lực lượng vũ trang hùng hậu để đương đầu thì Việt Nam thường chiến thắng,
Tuy nhiên lịch sử Việt Nam cũng từng cho thấy nhà Hồ đã làm mất nước váo tay quân Tàu khi lòng dân không quy phục, trăm họ không muốn liều thân bảo vệ ngai vàng cho những quân vương gian xảo bất chính, dù cha con Hồ Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng đều là những nhân vật tài ba xuất chúng, cơ trí hơn người
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/it-s-about-time-of-war-08022012135236.html
Biển Đông: chuẩn bị chiến tranh?
Bắc Kinh đã thiết lập hệ thống hành chánh, quân sự và tư pháp cho thành phố Tam Sa trên đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa của Việt Nam. Hạm đội Nam hải rục rịch tập trận bắn đạn thật ở Trường Sa. Hôm thứ ba phát ngôn viên bộ quốc phòng, đại tá Cảnh Nhạn Sanh, tuyên bố hệ thống tuần tra sẵn sàng chiến đấu thông thường đã được thiết lập tại vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc. Bộ quốc phòng Trung Quốc không quên nhắc lại rằng Bắc Kinh có chủ quyền không thể tranh cãi tại khu vực Biển Đông, và phản đối bất cứ sự can thiệp quân sự nào vào vùng này.
Một chuỗi liên hoàn
Cần nhắc lại thêm là trước đó, hôm 23 tháng 6, Trung Quốc đã gọi thầu 9 lô dầu khí ước đoán, nằm hẳn trong lãnh hải đặc quyền kinh tế của Việt Nam. 12 tháng 7, 30 tàu cá Trung Quốc gồm cả tàu tiếp vận đã đến tận Đá Chữ Thập ở Trường Sa để đánh cá. Trung Quốc làm rầm rộ cho việc thiết lập các cơ sở của Tam Sa ở đảo Phú Lâm cùng lúc với lời loan báo chuẩn bị tập trận bắn đạn thật ở Trường Sa, và 26 tháng 7 thì tàu cá của Việt Nam bị “tàu lạ” đâm chìm…Tất cả những hành động đó cùng với cuộc ra quân đánh cá hôm nay đều nằm trong kế hoạch của một chuỗi hoạt động liên hoàn để tỏ phản ứng quyết liệt với bộ luật biển của Việt Nam được ban hành ngày 21 tháng 6.
Trong những hành động đó thì việc thiết lập các cơ sở cai trị từ cái gọi là thành phố Tam Sa là việc nghiêm trọng nhất, không khác nào một “cú đạp lịch sử” như Hà Nội từng làm với dân mình. Thử nghĩ tại sao Bắc Kinh phải rêu rao ngay việc bổ nhiệm tư lệnh quân sự và chính uỷ Tam Sa, nhất là việc xây nhà giam để nhốt ngư dân Việt Nam? Bắc Kinh nhất quyết làm mất mặt Hà Nội là để chà đạp luật biển của Việt Nam, và cương quyết xác định chủ quyền sai trái của họ ở biển Đông.
Thách thức Mỹ
Chẳng những thế, Bắc Kinh còn có mục đích không kém quan trọng là phản ứng đáp trả những hành động của Hoa Kỳ về Việt Nam.Hoạt động ngoại giao của Hoa Kỳ với Việt Nam khởi đầu vào đầu năm, với chuyến thăm của 4 nghị sĩ, trong đó có hai nhân vật nhiều thế lực trong chính trường lưỡng đảng của Hoa Kỳ là ông John McCain và Joseph Lieberman, đến Việt Nam để thảo luận với Hà Nội về quan hệ song phương Mỹ-Việt.
Kế đó đến lượt Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ đặc trách Đông Á-Thái Bình Dương, Kurt Campbell, thăm Việt Nam và xác nhận Washington muốn nâng quan hệ song phương lên hàng đối tác chiến lược.Sau đó, bộ trưởng quốc phòng Leon Panetta đến Việt Nam hồi tháng sáu, rồi đến những chuyến thăm viếng công tác của các tàu hải quân Mỹ, và nổi bật nhất là chuyến công du sang Việt Nam và châu Á của Ngoại trưởng Hillary Clinton, với những lời tuyên bố ngụ ý bênh vực Việt Nam tuy xác định không đứng về bên nào trong cuộc tranh chấp biển Đông.
Phản ứng của Việt Nam
Chính quyền Việt Nam đã có phản ứng mạnh về mặt ngoại giao, người dân cũng sôi sục tinh thần chống Trung Quốc bằng những cuộc biểu tình và những lời phát biểu trên hệ thống truyền thông giao tế xã hội, gọi là lề trái.Trong khi đó thì tập đoàn dầu khí Ấn Độ ONGC đã có một hành động rất ngoạn mục là tuyên bố quay lại tiếp tục thăm dò lô dầu khí ước đoán số 128, là lô bị Trung Quốc mời thầu chồng lấn cho tới lô 132. Chủ tịch Trương Tấn Sang đi Nga nói chuyện kinh tế, và từ đó có tin đồn về việc Nga có thể trở lại Cam Ranh.
Sợ mất nước hay sợ mất quyền?
Tuy nhiên những sự kiện vừa nói lại cho thấy thái độ khá lạ lùng của chính quyền Việt Nam, mà nói là lưng chừng cũng chưa đủ nghĩa.Hà Nội đã cho biểu tình một cách đầy miễn cưỡng, trong khi Sài Gòn chỉ được một lần ngắn ngủi rồi sau đó dứt hằn. những người bị giam tù và bị hành hạ vì chống Trung Quốc cũng vẫn bị giam nhốt không nương tay, trong khi những người bất đồng chính kiến tiếp tục ra toà lãnh án nặng nề.
Ách đàn áp vẫn ám ảnh khủng khiếp khiến xảy ra vụ tự thiêu của thân mẫu blogger Tạ phong Tần. Rõ ràng là ngoài mặt, trên bình diện ngoại giao, thì tỏ ra chống Trung Quốc mạnh mẽ, nhưng bên trong vẫn nể sợ sự giận dữ của Bắc Kinh và đề phòng nghiêm ngặt đói với cái gọi là “diễn biến hoà bình”.
Người ta không hiểu được cách hành xử đó của Hà Nội. Trong khi đang cần một lòng đoàn kết, ít nhất Việt Nam cũng cần chứng tỏ toàn dân mình sôi sục chống Trung Quốc xâm lược dưới mọi hình thức và sẵn sàng hy sinh như giới truyền thông yêu nước “lề trái” ở trong nước vẫn thường đòi hỏi.
Nếu trước đây nói là phải trấn áp công luận để vuốt ve Trung Quốc và giải quyết ngoại giao hoà bình, thì người dân nghe đã khó lọt tai nhưng còn miễn cưỡng tìm hiểu; nay đã ở vào thế không thể lùi bước nhưng Hà Nội vẫn khống chế người dân thì để làm gì?
Khó lòng giải thích được gì hơn rằng đó là sự bối rối mất phương hướng về chiến lược, vì dùng dằng giữa lợi ích chủ quyền lãnh thổ của quốc gia và lợi ích thống trị của đảng cầm quyền.
Nước ngoài còn lưỡng lự
Trong khi đó trên bình diện quốc tế, MátX-Cơ-Va đã cải chính lập tức những điều mà tướng Tư lệnh hải quân Nga Vikttor Chirkov nói vào hôm Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang đến thủ đô Nga ngày 26 tháng 7. Tướng Chirkov nói là “Nga đang tìm cách để hải quân Nga đồn trú ở những căn cứ tại nước ngoài trong đó có Việt Nam, Cuba và Seychelles”.Ngay hôm sau bộ quốc phòng vội vã cải chính là ông tướng hải quân chưa bao giờ nói như vậy trong cuộc phỏng vấn với phóng viên hãng thông tấn Ria-Novosti, còn nói rằng phóng viên đã đưa tin giật gân thất thiệt.
Giới quan sát ước đoán là tướng Viktor Chirkov hẳn là đã có nói một điều nào đó về các căn cứ nước ngoài, nhưng tiết lộ kế hoạch như vậy có thể khiến Trung Quốc và nước khác có đối sách ngăn chặn, bất lợi cho Nga về ngoại giao và chính trị, cho nên bộ quốc phòng buộc lòng phải cải chính.
Dù sao chăng nữa việc Nga có thể trở lại Cam Ranh cũng là một việc có xác suất xảy ra rất thấp.
Về phía Hoa Kỳ, Washington tuy mong muốn đối tác chiến lược nhưng lại có vẻ chưa quyết định kết hợp liên minh vững chắc với Việt Nam, trong khi Việt Nam cũng còn phân vân lưỡng lự.
Hoa Kỳ tuồng như còn chờ xem đường lối chính sách của Việt Nam ra sao, giữa ngã ba đường; một ngã là hy sinh quyền lợi riêng để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, vì quyền lợi thiêng liêng của tổ quốc, còn ngã đường kia là quyền lợi của đảng Cộng Sản Việt Nam muốn được “muôn năm trường trị” trên dải đất Việt Nam.
Việt Nam lúc này khó lòng ngồi yên mà “phân vân” để trông chờ ở nước ngoài, mà phải siết chặt đoàn kết toàn dân để chuẩn bị một trận chiến ở biển Đông vào giữa năm tới trở đi, khi mà Bắc Kinh rục rịch dồn quân xuống trên biên giới phía bắc. Từ giờ phút này lúc nào cũng có thể xảy ra những hành động vũ lực nhỏ lẻ của Trung Quốc để thăm dò phản ứng của Việt Nam và thế giới. Không thể tránh khỏi đụng chạm khi Bắc Kinh cố tình tung ra những hành động ức hiếp bằng vũ lực trên biển Đông, nói là bảo vệ chủ quyền “không thể bàn cãi” để cho hằng ngàn tàu cá của Trung Quốc ngang nhiên và hỗn hào xâm phạm lãnh hải 200 hải lý của Việt Nam như ao nhà của Bắc Kinh.
Vận dụng đồng minh, thu phục nhân tâm
Trong tình cảnh này Việt Nam phải vận động mọi sự trợ giúp của nước ngoài, từ Hoa Kỳ, từ Ấn Độ, từ Nhật Bản, từ Liên Bang Nga. Những nước đó đều có quyền lợi thiết yếu ở biển Đông, như Nhật Bản, Hoa Kỳ, hay quyền lợi thiết thực ở nơi đó, như Ấn Độ, Liên Bang Nga. Ngoài ra còn cóAustralia rất quan tâm đến Thái Bình Dương.Khi thế trận sẵn sàng thì có hy vọng mong manh là Trung Quốc sẽ chùn tay. Nhưng môt khi Bắc Kinh nhất quyết tiến tới chiến tranh, thì điều khẩn thiết và quan trọng nhất là chính quyền phải thu phục được nhân tâm, để vận dụng toàn lực quốc gia bảo vệ đất nước.
Lịch sử nhiều lần chứng minh rằng khi toàn dân một lòng và quốc gia có đủ lực lượng vũ trang hùng hậu để đương đầu thì Việt Nam thường chiến thắng,
Tuy nhiên lịch sử Việt Nam cũng từng cho thấy nhà Hồ đã làm mất nước váo tay quân Tàu khi lòng dân không quy phục, trăm họ không muốn liều thân bảo vệ ngai vàng cho những quân vương gian xảo bất chính, dù cha con Hồ Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng đều là những nhân vật tài ba xuất chúng, cơ trí hơn người
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/it-s-about-time-of-war-08022012135236.html
MACEJ MICHALEK * TRUNG CỘNG
ĐCSTQ trước nguy cơ tan vỡ
Thanh trừng, được gọi là chiến dịch chống tham nhũng, ban đầu được cho là bằng chứng về sức mạnh của nhà lãnh đạo Trung Quốc hiện nay, Tập Cận Bình. Nó chứng minh cho khả năng thực hiện những cải cách kinh tế khó khăn và cuộc chiến đánh vào giới tướng lãnh bất khả xâm phạm cho đến bây giờ, bị huỷ hoại bởi tham nhũng và suy thoái đạo đức.
Kéo dài, diễn ra hơn hai năm, cuộc đấu đá nội bộ giữa các phe phái trong đảng, tuy nhiên, bắt đầu tăng lên mối lo ngại rằng với chiến dịch đầy tham vọng này Tập đã vuợt quá sức mình. Hơn nữa, những ảnh huởng của những vấn đề thường nhật và các vụ bê bối đã làm cho chính quyền cuối cùng mất niềm tin của công chúng, mà nó là nền tảng của sự ổn định của chế độ phi dân chủ ở Trung Quốc.
* Bài dịch từ tiếng Ba Lan, bài đăng trên trang web của đài truyền hình tin tức Ba Lan TVN24 ngày 14 tháng 3 năm 2015, tại link:http://www.tvn24.pl/wiadomosci-ze-swiata,2/czesc-ekspertow-wiesci-upadek-chinskiej-partii-komunistycznej,524100.html
Kéo dài, diễn ra hơn hai năm, cuộc đấu đá nội bộ giữa các phe phái trong đảng, tuy nhiên, bắt đầu tăng lên mối lo ngại rằng với chiến dịch đầy tham vọng này Tập đã vuợt quá sức mình. Hơn nữa, những ảnh huởng của những vấn đề thường nhật và các vụ bê bối đã làm cho chính quyền cuối cùng mất niềm tin của công chúng, mà nó là nền tảng của sự ổn định của chế độ phi dân chủ ở Trung Quốc.
Thanh trừng và giới doanh nghiệp di tản
Tập Cận Bình chắc chắn đã tạo ra rất nhiều kẻ thù trong giới quyền lực của Trung Quốc, khi ông cáo buộc và bắt giữ ngay cả những người được coi là bất khả xâm phạm, kể cả cựu Bộ trưởng Bộ Công an Chu Vĩnh Khang, một cựu thành viên Bộ Chính trị nổi tiếng Bạc Hy Lai hay hàng chục tướng lĩnh và đô đốc khác. Tuy nhiên, theo David Shambaugh, một trong những chuyên gia hàng đầu của Mỹ về Trung Quốc, đây không phải là biểu hiện duy nhất của quyền lực bị mất chỗ đứng.
Một vấn đề không kém nghiêm trọng là phần lớn các tầng lớp tinh hoa trong lĩnh vực tài chính Trung Quốc đang cố gắng chạy ra khỏi đất nước của họ. Họ gửi con cái đi học nước ngoài, chuyển tiền ra nước ngoài, cố gắng bằng nhiều cách khác nhau để có được hộ chiếu của các nước khác, và cuối cùng, nếu có thể, họ di cư để tìm kiếm một nơi tốt hơn để sống. Điều này cho thấy sự thiếu tin tưởng giữa chính phủ và các doanh nghiệp, cũng như sự thiếu niềm tin vào tương lai của người dân Trung Quốc tại chính quê hương của mình.
Sự di tản của giới kinh doanh tạo ra một tổng thể trong tình hình kinh tế đang xấu đi ở Trung Quốc. Như cảnh báo trên "The Washington Post", nền kinh tế Trung Quốc có thể sớm chờ đợi một cuộc khủng hoảng có thể so sánh với Mỹ năm 1929, dẫn đến khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Theo tính toán, tổng số nợ của Trung Quốc, trong đó bao gồm nợ của doanh nghiệp nhà nước và các hộ gia đình đã đạt 282 phần trăm GDP hiện nay, trong khi tăng trưởng kinh tế chậm đi làm vấn đề tăng lên.
Con đường xã hội chủ nghĩa mờ mịt
Một vấn đề khác là sự đàn áp đối lập của nhà cầm quyền Trung Quốc ngày càng tăng. Một sự gia tăng chưa từng có với quy mô lớn kiểm duyệt tất cả các phương tiện truyền thông, hạn chế tiếp cận văn hoá nước ngoài, bao gồm cả xem phim ảnh của Hollywood, tăng cường kiểm soát của các dân tộc thiểu số hoặc thậm chí hạn chế tự do học thuật - tất cả, nhà phân tích của Mỹ cho thấy sự suy yếu của chính phủ Trung Quốc và mối quan tâm ngày càng tăng của nhà cầm quyền về bất kỳ lời chỉ trích nào hay khả năng tạo ra lực lượng đối lập.
- Lãnh đạo đảng đang nghiêm túc sợ mất quyền lực - chuyên gia cho biết.
Một sự việc nữa là sự suy giảm lòng tin của thế hệ kế tiếp của các thành viên Đảng Cộng Sản Trung Quốc về ý thức hệ của mình. Công thức đoàn kết xung quanh một nhà nước xã hội chủ nghĩa đang bị xói mòn và các khái niệm được đề xuất như chủ nghĩa xã hội mang tính đặc sắc Trung Quốc để cứu vãn tình thế chỉ là tạm thời. Các giải pháp có thể được mở ra trở lại với một nền văn hóa Trung Quốc phong phú và triết học, nhưng - bất chấp những thử thách e dè - cũng không thể hòa giải đuợc với các ý thức hệ cộng sản. Trong khi đó xã hội Trung Quốc giàu có lên ngày càng đòi hỏi nhiều hơn đối với một chính quyền không được bầu cử dân chủ.
"Sự kết thúc sẽ không yên tĩnh"
Như đã lập luận trên "The Wall Street Journal" của David Shambaugh, khó tin rằng sự sụp đổ của Đảng Cộng Sản Trung Quốc sẽ yên tĩnh và thanh bình. Sẽ phải qua một cuộc đảo chính được thực hiện bởi quân đội hoặc một nhóm đối thủ trong Đảng Cộng Sản. Sự thay đổi nhanh chóng quyền lực, tình trạng bè phái trong giới tinh hoa và không khí xã hội xấu đi tạo nên một sự pha trộn không chỉ cuối cùng tác động lên Đảng Cộng Sản Trung Quốc, mà còn lay động sự ổn định và phát triển của Trung Quốc. Các hiệu ứng của sự kiện này sẽ chạm tới châu Âu, bởi vì không có một nghi ngờ nào, nền kinh tế toàn cầu cũng bị ảnh hưởng.
Làm thế nào để dự đoán sự sụp đổ?
Phải chăng sự dự đoán không quá sớm? Rất khó để dự đoán sự sụp đổ của một chế độ độc đoán đã được chứng minh tốt nhất bằng sự bất ngờ hoàn toàn của tình báo Mỹ qua sự kết thúc của Liên Xô. Tương tự như vậy với các cuộc cách mạng màu ở các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ và mùa xuân Ả Rập, mà hệ quả, trong số những hệ quả khác, cuộc nội chiến đang diễn ra tại Syria. Thất bại của tình báo và của các nhà phân tích trong việc dự đoán các sự kiện thế giới xảy ra khá nhiều, tất cả các dự đoán, do đó, phải được xem xét một cách thận trọng.
Ngoài ra, tham nhũng và sự thoái hoá của tầng lớp ưu tú là một vấn đề đặc biệt nghiêm trọng và ngày càng tăng ở các nước phi dân chủ. Thật khó cho Tập Cận Bình thực hiện cuộc chống tham nhũng như là hiện tượng của chiến tranh - Thậm chí nhân dịp này giúp ông ta loại bỏ đối thủ chính trị. Đồng thời, Chủ tịch Trung Quốc trước đó, Hồ Cẩm Đào, đã liên tục cáo buộc sự yếu đuối quá mức và thiếu can đảm đưa ra những quyết định khó khăn. Chủ tịch hiện nay đã chứng minh sức mạnh trong đảng và cho đến nay không có dấu hiệu nào cho thấy các cuộc thanh trừng thoát khỏi kiểm soát của ông.
Tin tưởng vào chính quyền
Đảng Cộng Sản, mặc dù không còn ý thức hệ, và đi theo một hướng không rõ, nhưng cũng không đi quá xa để mất đi sự ủng hộ. Một vài nghiên cứu xác nhận mức độ tin cậy cao đối với chính phủ hiện tại và chính người Trung Quốc vẫn còn nhớ tới sự hỗn loạn của thời chiến tranh, hay Cách mạng Văn hóa, và đánh giá cao sự ổn định. Đảng Cộng Sản hiện nay có tới hơn 85 triệu thành viên và số những người trẻ gia nhập đảng cũng đông đảo như trước đây. Đảng được đánh đồng với quyền lực và triển vọng nghề nghiệp cao hơn và như vậy, chúng ta có thể nói rằng, đang tiến triển rất tốt.
Thực tế cho thấy sự kiểm duyệt nghiêm ngặt Internet không làm tăng sự phản đối của cộng đồng. Theo một số nghiên cứu, thậm chí phần lớn người dân Trung Quốc nói rằng sự kiểm duyệt không cản trở họ, hoặc họ tin rằng chính phủ đã làm tốt khi chặn một số mật khẩu hoặc hình ảnh. Việc kiểm duyệt Internet gợi lên cảm xúc lớn hơn ở nước ngoài so với ở Trung Quốc, một nơi mà người dân dễ chấp nhận sự can thiệp của chính phủ trong cuộc sống riêng tư của họ.Thật là một thảm họa đẹp
Làm thế nào để hiểu thêm những dự đoán thảm khốc về sự chấm dứt chế độ Cộng Sản ở Trung Quốc và khả năng mất ổn định tại nước này? Không nghi ngờ gì nữa, những vấn đề nghiêm trọng trong nội bộ mà Tập Cận Bình đang phải đối phó, còn nhận định của một chuyên gia có hạng như David Shambaugh không thể coi nhẹ. Cơn bão bình luận về tình trạng của chính quyền Cộng Sản cũng đã nổ ra trong vài ngày qua ở Trung Quốc.
Tuy nhiên, nghi ngờ có thể thấy từ sự việc là, các dự báo về sự sụp đổ sắp xảy ra của chế độ Cộng Sản Trung Quốc nổi trội đặc biệt trên các phương tiện truyền thông Mỹ. Mặc dù Hoa Kỳ có thể sẽ chịu ảnh hưởng nhất từ sự bất ổn nội bộ của Trung Quốc, vẫn có thể có ấn tượng rằng họ không chấp nhận được chuyện ít nhất trên danh nghĩa một chế độ Cộng Sản nắm quyền ở cường quốc thứ hai của thế giới. Người ta có thể đặt câu hỏi liệu người Mỹ không nghĩ như mong muốn và thông thường họ nghĩ lầm trong tính toán của mình.
Đã có trong đầu những năm 90 của thế kỷ trước, khi chủ nghĩa Cộng Sản sụp đổ trong khối Đông Âu, người Mỹ cũng dự đoán kết thúc của nó sẽ ở Trung Quốc. Sau đó, họ dự đoán rằng sự sụp đổ quyền lực của Bắc Kinh, sẽ dẫn đến sự tan rã thành 6-7 nước cộng hòa độc lập, giống như trường hợp khi Liên Xô tan vỡ. Hôm nay người ta không biết các dự báo có giá trị bao nhiêu, nhưng Trung Quốc dưới sự cai trị của Đảng Cộng Sản đã trở thành đối thủ mạnh mẽ nhất đối với quyền bá chủ thế giới của Mỹ.
Bản Việt ngữ © Lê Diễn Đức - RFA
---------------------------------------------------------------------------------* Bài dịch từ tiếng Ba Lan, bài đăng trên trang web của đài truyền hình tin tức Ba Lan TVN24 ngày 14 tháng 3 năm 2015, tại link:http://www.tvn24.pl/wiadomosci-ze-swiata,2/czesc-ekspertow-wiesci-upadek-chinskiej-partii-komunistycznej,524100.html
CON TÀU VNTT
Số phận những người trên tàu Thương Tín sau 40 năm
Chiếc tàu mang tên Việt Nam Thương Tín chở hơn 600 người di tản vào ngày 30/4/1975 và đã quay lại VN với số lượng người hơn gấp đôi so với lúc ra đi 6 tháng sau đó. Số phận của những người trở về này ra sao sau 40 năm?
Trong số các chiếc tàu rời cảng Sài Gòn chở người di tản trong những giây phút cuối cùng của cuộc chiến tranh VN thì tàu Việt Nam Thương Tín luôn được nhắc đến trong suốt 40 năm qua bởi vì đây là chiếc tàu độc nhất quay trở về.
Thương thuyền Việt Nam Thương Tín có trọng tải hơn 6 ngàn tấn với hơn 600 người bắt đầu cuộc hành trình vào ngày 30/4/1975. Khi tàu chạy được 7 hải lý trên sông Lòng Tảo đến khu vực rừng Sát thì bị trúng 3 viên đạn pháo B40 gây thiệt mạng cho Nhà văn Chu Tử và 1 cháu bé. Mặc dù con tàu bị hư hại nhưng cuối cùng vẫn cập bến Apra, đảo Guam an toàn.
Trong thời gian con tàu Thương Tín có mặt ở đảo Guam, một số những người Việt tạm cư ở đây lên tiếng muốn trở về VN với lý do gia đình cùng người thân còn ở VN và còn vì các nguyên nhân khác. Nhiều người tuyệt thực biểu tình yêu cầu nguyện vọng của họ được chính phủ Hoa Kỳ đáp ứng.
Mặc dù có rất nhiều lời khuyên can ngăn không nên trở về vì sẽ gặp nhiều rủi ro với chính phủ mới do Đảng Cộng sản Việt Nam nắm quyền nhưng cuối cùng khoảng 1600 người, trong đó hơn 100 người đã định cư ở vùng Bắc Mỹ đến Guam để hồi hương. Chính phủ Hoa Kỳ chọn chiếc tàu Việt Nam Thương Tín và chỉ định Trung tá Hải quân Trần Đình Trụ lái chiếc tàu này trở về VN.
Mặc dù có rất nhiều lời khuyên can ngăn không nên trở về vì sẽ gặp nhiều rủi ro với chính phủ mới do Đảng Cộng sản Việt Nam nắm quyền nhưng cuối cùng khoảng 1600 người, trong đó hơn 100 người đã định cư ở vùng Bắc Mỹ đến Guam để hồi hương. Chính phủ Hoa Kỳ chọn chiếc tàu Việt Nam Thương Tín và chỉ định Trung tá Hải quân Trần Đình Trụ lái chiếc tàu này trở về VN.
Trao đổi qua điện thoại với Hòa Ái, ông Trần Đình Trụ chia sẻ đến đảo Guam một mình vì khi rời VN trong chuyến công vụ trên chiến hạm hải quân nên ông quyết định trở về dù đã tiên liệu được phải trả một cái giá nào đó, có thể là tù đày vài ba năm do ông phục vụ trong Quân lực VNCH nhưng vẫn có cơ hội cho một cuộc sống về sau cùng với những người thân.
Cựu Trung tá Hải quân Trần Đình Trụ cho biết con tàu Việt Nam Thương Tín được trang bị đầy đủ xăng dầu, thực phẩm không những cho cuộc hải trình trở về VN mà còn đủ cho thời gian con tàu quay đầu trở lại đảo Guam nếu những người trên tàu thay đổi quyết định.
Không gặp trở ngại nào như lúc rời VN vào ngày 30/4, con tàu Việt Nam Thương Tín sau 2 tuần đã về đến Vũng Tàu an toàn. Thế nhưng số phận của khoảng 1600 người trên tàu, kể cả phụ nữ và trẻ em lại không được an toàn như vậy. Tất cả họ bị đưa vào trại giam. Ông Trần Đình Trụ kể lại:
“Tâm trạng con người ta khi mất tất cả, đất nước mất; gia đình, vợ con, sự nghiệp, nhà cửa, tất cả mất hết thì tôi không tha thiết gì cuộc sống bên Mỹ. Thành ra tôi quyết định về, dù chết cũng về. Về tới VN thì đương nhiên công an đưa tôi vào trại giam liền. Thực ra tôi về vì gia đình tôi còn ở VN nhưng những người Cộng sản nghi ngờ tôi từ bên Mỹ về thì Mỹ giao cho tôi công tác nào đó. Họ nghi ngờ như vậy cho nên họ điều tra về vấn đề này. Sau đó, họ điều tra rất nhiều, rất lâu, mấy tháng liên tiếp ngày nào cũng gọi tôi lên. Sau cùng họ chẳng tìm ra được nguyên nhân gì cả, chỉ vì lý do gia đình thôi. Sau đó họ đưa tôi vào những trại giam ở miền Trung và miền Bắc. Tôi ở 13 năm. Lúc tôi được về thì tương đối cũng không gặp trở ngại gì cả nhưng mọi hoạt động của tôi vẫn có người theo dõi”.
Trường hợp tiếp mà chúng tôi ghi nhận được cũng từ trên chiếc tàu Thương Tín trở về và bị nói làm việc cho CIA là của ông Trần Đẹt. Ông này người gốc Khmer, hiện ở Sóc Trăng.
Là cận vệ của Chỉ huy huy trưởng Chi Cảnh sát Quận Mỹ Xuyên, Tỉnh Ba Xuyên, Đại tá Lê Trường Xuân vào thời điểm 30/4/75, Trung sĩ Trần Đẹt được lệnh đi theo người chỉ huy của mình xuống tàu Việt Nam Thương Tín để chuyển vùng chứ không hề biết là đi di tản ra khỏi VN. Quyết định trở về VN với hy vọng gặp lại vợ và 4 người con nhưng ông Trần Đẹt bị bắt giam ngay sau khi con tàu cập cảng ở Nha Trang vào ngày 15/10/75. Ông Trần Đẹt phải chịu gần 5 năm tù ở trại A20 Phú Khánh vì “Họ nói mấy anh chạy đi nước nào thì còn khoan hồng chứ đi Mỹ trở về thì toàn là CIA cài lại”.
Rồi số phận của nhiều người trong số 1600 người trên con tàu Việt Nam Thương Tín cũng lần lượt được trở về đoàn tụ cùng gia đình, ông Trần Đẹt thì khoảng gần 5 năm, ông Trần Đình Trụ mất 13 năm trường. Và một lần nữa, nhiều người trong số họ lại rời VN ra đi đến Hoa Kỳ định cư trong những năm đầu thập niên 90. Ông Trần Đình Trụ cùng gia đình đến Mỹ năm 1991.
Tuy nhiên cũng vẫn có nhiều trường hợp không may mắn như gia đình ông Trần Đình Trụ. Gia đình ông Trần Đẹt bị kẹt lại VN vì tờ khai hộ khẩu có vấn đề. Ngày-tháng-năm ông Trần Đẹt trình diện công an địa phương hồi cuối năm 1980 không được ghi trong tờ khai hộ khẩu của gia đình nên khi đi phỏng vấn thì trong tờ khai hộ khẩu chỉ có năm 1977 khi gia đình của ông được cấp hộ khẩu mới mà thôi nên đối chiếu với thời gian ghi trên giấy ra trại cải tạo không phù hợp. Ông Trần Đẹt nhớ lại:
“Bị trục trặc giấy cải tạo với tờ khai hộ khẩu. Hồi tôi nộp hồ sơ thì tờ khai hộ khẩu là C4, không có ghi ngày tháng mình nhập khẩu. Tới khi đổi tờ khai hộ khẩu mới thì tên tôi bị (công an địa phương) ghi nhập khẩu năm 1977 nên khi đi phỏng vấn không kiểm tra được. Như thế này, mời phỏng vấn là 10/10/1995. Giấy phỏng vấn ghi mùng 10 nhưng (bưu điện chuyển) về tới tay tôi là mùng 9 thì thu sếp hồ sơ không kịp. Lên phỏng vấn thì bị sai hồ sơ hộ khẩu với giấy cải tạo. Tôi khiếu nại thì họ kêu bổ túc hồ sơ. Tôi lên Sài Gòn bổ túc hồ sơ mấy lần mà không được. Phái đoàn Mỹ chất vấn giấy cải tạo với tờ khai hộ khẩu không khớp với nhau. Họ căn cứ theo tờ khai hộ khẩu còn giấy cải tạo thì bị nghi là giấy cải tạo giả.”
Gia đình ông Trần Đẹt nhờ 1 người quen cùng xóm biết tiếng Anh giúp làm đơn khiếu nại gửi đến Lãnh Sự quán ở Thái Lan. Sau đó, gia đình nhận được thông báo hồ sơ được lưu trong vòng 5 năm đến năm 2000 ở Lãnh Sự quán TP.HCM cho việc khiếu nại nhưng vì nghèo khó nên gia đình đành phải bỏ cuộc. Và công an địa phương lập biên bản thu hồi hết 6 hộ chiếu của gia đình.
Hiện ông Trần Đẹt, 68 tuổi, với vóc dáng 44 kg, làm công việc bốc vác gạo và chở gạo thuê ở chợ, kiếm được khoảng 50 đến 60 ngàn đồng, tương đương gần 3 đô la cho cuộc sống mưu sinh hàng ngày.
Kể từ ngày đặt chân lên con tàu Việt Nam Thương Tín đến nay đã gần tròn 40 năm, nay ông Trần Đình Trụ hài lòng với cuộc sống ở Hoa Kỳ nhưng vẫn mong một ngày trở về khi VN thật sự có tự do-dân chủ.
Còn ông Trần Đẹt dù phải an phận với cuộc sống gian nan nơi quê nhà nhưng luôn hy vọng có được một cuộc sống mới bên kia bờ Thái Bình Dương. Ở tuổi gần đất xa trời, cả ông Trần Đình Trụ và ông Trần Đẹt đều mong đợi ước vọng của họ thành sự trước khi nhắm mắt xuôi tay.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/the-fate-of-pp-on-thuong-tin-ship-after-40-yrs-ha-03162015090743.html
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/the-fate-of-pp-on-thuong-tin-ship-after-40-yrs-ha-03162015090743.html
CHÙM THƠ VƯƠNG TÂN
CHÙM THƠ VƯƠNG TÂN
Huy Cận
Cả đời còn lại chỉ mỗi Lửa Thiêng
Tất cả đều là đồ bỏ
khiến con trai là Cù Huy Hà Vũ
Phải quăng đi hết để đi Mỹ
Thanh Thanh
Cùng Như Trị,Hồ Đình Phương lập nhóm Xây Dựng
Đi làmông cò cảnh sát
Rồi trùm đăc cảnh miền Trung
Đi tù cộng sản
Thành nhà văn Lê Xuân Nhuận
vạch trần những tấn bi hài kich của cuộc đời
nhưng làmthơ vẫn là nghề của chàng
nổi tiếng dịch thơ Việt qua tiếng Anh
Lý Đợi
Học Đai học Sư Phạm
Nhưng ra đời lại cùng Bùi Chát lập nhóm Mở Miệng
Làmthơ rác và lập nhà xuất bản Giấy Vụn
khiến nhà giáo Nhã Thuyên
bị vạ lây vì viết luận văn thạc sĩ về Mở Miệng
Làmđảo điên bao nhà khoa bảng đất Băc
nhiều bộ măt thật trơ ra
Tạ Tỵ
Phất ngọn cờ lậpthể trước cả Duy Liêm
viết văn làmthơ rồiđi lính
tù cộng sản về vượt biển
ra nước ngoài viết hồi ký
về Saigon chết
còn lại mấy trang văn về đia ngục đỏ
một đờingươiquá long đong
Hi di Bùi Xuân Uyên
Nổi danh khi xuất bản nguyệt san Thế Kỷ ở Hà nội
viết văn nổi đình đám với Luyện Máu
về già phát khùng vì Cộng Sản
luôn nghĩ mình là vua Hùng đờithứ 18
chết trong im lăng
Hiêu Chân Nguyễn Hoạt
Viết bao nhiêu truyện dài đăng báo trong đó có Tỵ Bái
Nhưng lại thành danh với những bài báo Nói hay Đừng với bút danh Hiếu Chân
Chết trong tù khi vừa kể xong truyện tiếu lậm rồi sằng săc c ười
Tấn bi hài kich của thầy đồ thời nay như thế đó
LãngNhân Phùng Tất Đắc
Trước đèn viết bao nhiêu chuyện đời ngang trái
Lưu vong sang Anh
Gìa vẫn không rới cây viết
Sáng tác thêm bao nhiêu là kịch đời
95 tuổi ra đi thanh thản
Làm bạn vong niên với trùm mật vụ Trần kimTuyến
VƯƠNG TÂN
Sunday, March 15, 2015
VAN HOA- XA HOI VIET NAM
30/04/1975 dưới góc nhìn của một nghệ sĩ
Trong chương trình VHNT hôm nay khách mời của chuyên mục Ký Ức 40 năm là nhà thơ, nhà báo Đỗ Trung Quân nói về những suy nghĩ của anh về những gì xảy ra trong 40 năm qua dưới cái nhìn của một nghệ sĩ, một người hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật.
Đôi khi cũng vô tình
Là một thanh niên vừa 21 tuổi trong ngày 30 tháng Tư năm 1975, Đỗ Trung Quân là một trong những thanh niên hưởng ứng sớm nhất phong trào Thanh niên xung phong lên đường xây dựng kinh tế theo sự cổ động của nhà nước và rồi sau đó cuộc sống kéo nhà thơ vào công tác báo chí cũng như sáng tác mà điểm cao nhất là bài thơ nổi tiếng “Quê Hương” của anh được Giáp Văn Thạch phổ nhạc.
Đỗ Trung Quân còn được biết là người dẫn chương trình dễ mến trong các buổi trình diễn của Duyên Dáng Việt Nam và các chương trình TV khác.
Trong suốt 40 năm sau ngày thống nhất đất nước ấy, Đỗ Trung Quân thú nhận rằng đôi khi anh cũng vô tình đối với những mảnh đời, những số phận cũng như những bi kịch xã hội mà trong đó anh đang sống.
Trao đổi với chúng tôi, trước tiên nhà thơ cho biết:
Đỗ Trung Quân: Thưa anh cũng không ngờ 40 năm qua nhanh tới mức như thế. Khi chúng ta trò chuyện với nhau ở đây không ngờ đã gần nửa thế kỷ rồi.
Ở trong nước, hai miền thì có thể gọi là xum họp thì ở Sài Gòn có những người lại ly tan. Tất cả những điều đó khiến cho mình suy nghĩ. Nó cho tôi có một chút ray rứt rằng là có khi mình quá vô tư, có khi mình quá hồn nhiên để có lúc lãng quên đến số phận.
-Đỗ Trung Quân
Năm 1975 thì tôi 21 tuổi đang còn là sinh viên và không tìm được công việc bởi vì trong điều kiện giao thời lúc đó những người như chúng tôi xin việc rất khó. Sau đó chúng tôi gia nhập một lực lượng thay vì gọi là nghĩa vụ quân sự thì gọi là nghĩa vụ kinh tế đó là Thanh niên xung phong.
Lúc đó quan niệm của tôi đơn giản là có một công việc, thứ nhất là bớt một gánh nặng cho gia đình phải nuôi mình mặc dù đã trưởng thành nhưng không có công việc. Thừ hai cũng nghĩ là thôi thì đất nước đã thống nhất, đóng góp cho sự tái thiết cho hậu chiến cũng là nghĩa vụ của thanh niên. Lúc đó suy nghĩ rất nhiệt huyết và đơn giản thôi thì đóng góp một chút không chỗ này thì chỗ khác, không khía cạnh này thì khía cạnh khác đối với đất nước sau chiến tranh.
Rồi mọi thứ trôi qua tôi trở về thành phố và làm việc ở một tờ báo, trước đó thì làm việc ở một nhà in như mọi người và sau đó thì vể làm việc với tư cách một nhà báo của một tờ báo lớn sau này đó là tờ Tuổi Trẻ. Trong cái môi trường báo chí nó giúp cho mình tiếp xúc nhiều trong lĩnh vực của mình. Lĩnh vực của tôi là văn hóa xã hội. Những gì liên quan tới văn hóa, tới xã hội thì mình trực tiếp tiếp xúc với nó.
Trong suốt thời gian đó tôi trở thành một nhà thơ, thành một người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật và như anh cũng biết tôi tham gia những chương trình như Duyên dáng Việt Nam hay những chương trình truyền hình. Khi ấy mọi thứ nó hiện ra bình thường, mình cũng không nghĩ gì nhiều, nhiệm vụ của mình tới đâu mình làm tới đó và tôi nghĩ rằng đối với tôi trong suốt thời tuổi trẻ của mình như thế mình đã hoàn toàn cắt đứt sự hồn nhiên giống như một người đã trả món nợ của xã hội sau chiến tranh đóng góp cho xã hội những gì mình cho là tốt đẹp.
Mặc Lâm: Vâng anh vừa thố lộ rằng anh bắt đầu đóng góp cho xã hội, cho đời những gì tốt đẹp trong hai mươi năm đầu tiên sau khi thống nhất, vậy hai mươi năm tiếp sau đó anh có nhận thấy đóng góp của anh tác động như thế nào và anh có hài lòng không?
Đỗ Trung Quân: Vâng. Trong suốt hai mươi năm đầu tiên với tâm huyết của một người trẻ tuổi, có phần hồn nhiên tôi nghĩ rằng mọi sự rất tốt đẹp. Tôi cũng không biết được nhiều những thông tin khác, những vấn để khác, những số phận khác mặc dù tôi biết đã có những phong trào đánh tư sản. Những phong trào của người Việt phải rời bỏ đất nước làm thuyền nhân lúc đó thông tin không nhiều lắm hầu như chỉ có thông tin duy nhất của báo chí trong nước. Sau này với điều kiện của thông tin truyền thông phát triển hơn tôi dần dần được biết, được tiếp xúc, lại được biết thêm những số phận, những vấn đề khác nó liên quan đến con người.
Tôi đã từng viết xum họp nơi này thì nơi kia ly tan. Trong cái linh cảm của năm 1997 tôi có viết một bài thơ nhưng rất tiếc tôi vẫn không thuộc thơ của mình nhưng trong đó có một câu là “Xum họp nơi này thì nơi kia ly tan”. Ở trong nước, hai miền thì có thể gọi là xum họp thì ở Sài Gòn có những người lại ly tan. Tất cả những điều đó khiến cho mình suy nghĩ. Nó cho tôi có một chút ray rứt rằng là có khi mình quá vô tư, có khi mình quá hồn nhiên để có lúc lãng quên đến số phận. Những số phận khác, những số phận ấy cũng là người Việt mà thôi. Cũng là bạn bè anh em đồng bào của mình mà có lúc mình đã lãng quên nó.
Nếu có sự ray rứt nào đó trong 40 năm qua thì thưa anh đó là cái ray rứt trong tôi cho đến ngày tôi nhận thức ra nó.
Phải thật sự xóa bỏ hận thù?
Mặc Lâm: Vâng, chắc chắn ngày 30 tháng Tư năm nay nhà nước sẽ có những chương trình kỷ niệm rất rầm rộ phải nói là rất lớn tuy nhiên tới giờ phút này thì chúng ta cũng chưa biết hình thức tổ chức của nó sẽ ra sao, nhà nước có còn coi đó là ngày đánh đuổi đế quốc Mỹ và bọn ngụy như 39 năm trước đây hay không hay sẽ có một hình thức khác nhẹ nhàng hơn, nhân văn hơn trước đây. Tôi xin đặt một câu hỏi có vẻ giả định: Nếu anh được là người toàn quyền tổ chức ngày 30 tháng Tư năm nay anh sẽ chọn hình thức nào?
Chúng ta phải thật sự đi đến xóa bỏ hận thù. Không phải gác lại mà phải quên nó đi. Chúng ta song phẳng với những gì đã sai lầm.
-Đỗ Trung Quân
Đỗ Trung Quân: Thưa anh đây là câu hỏi giả tưởng nên tôi cũng xin được trả lời bằng câu giả tưởng nếu tôi được quyền như thế, nếu tôi là người tổ chức thì nó dài lắm thưa anh. Nó phải thật sự xóa bỏ hận thù. Thực sự tìm cách để đất nước đến phồn vinh, đến cho những người dân, nói thì có vẻ công thức nhưng đến nền kinh tế phát triển hơn so với khu vực thôi chứ chưa cần phải nói đâu xa. Không bằng những khẩu hiệu vô hồn, vô giá trị nhưng hôm nay chúng ta vẫn thấy. Bằng cách nào đó thì chúng ta sẽ làm nhưng mục đích của nó là gì? Chúng ta phải thật sự đi đến xóa bỏ hận thù. Không phải gác lại mà phải quên nó đi. Chúng ta song phẳng với những gì đã sai lầm. Tôi chỉ nói đơn giản là chẳng hạn như tôi là người có sai lầm với anh Mặc Lâm thì bây giờ là lúc tôi sám hối nó. Khi tôi sám hối thì anh Mặc Lâm sẽ tha thứ còn nếu không sám hối thì mọi thứ chỉ là chuyện đùa mà thôi. Một ví dụ khái quát như vậy thay cho câu trả lời của tôi.
Mặc Lâm: Anh nói thì như vậy nhưng thời gian qua nhà nước chưa bao giờ chính thức tuyên bố là những người bị rượt đuổi khỏi đất nước là kẻ thù cả mà họ dùng một nhóm từ rất hoa mỹ là “khúc ruột ngàn dặm”. Họ cũng có những chính sách, những cơ quan nối liền với hải ngoại, kêu gọi kiều bào thế này thế khác… không lẽ bao nhiêu đó vẫn chưa đủ để chúng ta thấy rằng nhà nước đã mở tay đối với mọi người hay sao thưa anh?
Đỗ Trung Quân: Tôi thấy hình thức là như thế nhưng sự chân thành chưa đủ thưa anh. Sự chân thành sẽ dẫn dắt cho chúng ta có những chính sách, những thái độ nó đúng đắn hơn nếu thật sự có chân thành.
Mặc Lâm: Tôi được biết anh là một người bạn rất thân với nhà văn Nguyễn Quang Lập, trước đây bị bắt vì trang blog Quê Choa nhưng nay đã được tại ngoại. Trong ngày 30 Tháng Tư này Nguyễn Quang Lập sẽ hít thở không khí bên ngoài thay vì bên trong nhà tù, việc cho nhà văn tại ngoại có đáng được xem là một cử chỉ từng bước hòa giải hay không thưa anh?
Đỗ Trung Quân: Tôi không nghĩ rằng đấy là một sự hòa giải, tôi nghĩ đấy là thiện chí còn hòa giải thì lớn lao hơn. Hòa giải còn đòi hỏi một hình thái tích cực hơn. Hình thái đó thế nào thì trong khuôn khổ một câu trả lời ngắn chắc tôi không nói được hết nhưng trở lại vấn đề thì tôi xem đó là một thiện chí đối với nhà văn Nguyễn Quang Lập và nó chỉ dừng ở mức thiện chí mà thôi. Tôi cũng xin tiết lộ ngày 30 tháng 4 cũng là ngày sinh của nhà văn Nguyễn Quang Lập. Vâng ngày sinh của Nguyễn Quang Lập là ngày 30 tháng Tư năm 1956.
Mặc Lâm: Vâng xin cám ơn anh Đỗ Trung Quân đã cho mọi người biết điều lý thú này. Nhân đây anh có thể cho biết thêm một ít riêng tư giữa các anh với nhau…
Đỗ Trung Quân: Thưa anh chúng tôi trong những lúc chuyện trò không phải lúc nào cũng đồng ý với nhau đâu. Tôi và Nguyễn Quang Lâm tranh cãi rất thường vì anh Lập là người miền Bắc còn tôi là người miền Nam. Tụi tôi hay nói đùa là anh Lập giải phóng tôi mà. Có những quan điểm tôi tranh cãi với anh Lập nhưng tôi trông chờ nhà nước làm được như chúng tôi là tranh cãi nhưng không thù oán nhau. Tranh cãi để đi tìm những điều chúng ta đồng thuận, cho dù chưa đồng thuận chúng ta vẫn không thù oán nhau mà tiếp tục trao đổi tiếp. Nhưng chúng ta là đồng bào. Đấy là cái mà chúng tôi cho rằng đã làm được nhiều hơn nhà nước làm được đối với kiều bào của mình.
Mặc Lâm: Xin cám ơn nhà thơ Đỗ Trung Quân về cuộc phỏng vấn này.
Nữ tài tử chiếu bóng Việt Nam đầu tiên là ai?
Nếu như lịch sử điện ảnh Việt Nam khởi đầu từ năm 1930, với các tài tử là đào kép cải lương ở rạp Quảng Lạc, Hà Nội, thì trước đó 2 năm (1928) nữ tài tử chiếu bóng Việt Nam đầu tiên xuất hiện trong cuốn phim Pháp là cô Hoàng Thị Thế, con của nhà cách mạng Hoàng Hoa Thám, tức cụ Đề Thám, khởi nghĩa ở đất Yên Thế miền Bắc.
Người con gái Việt
Và sau đây là câu chuyện kể của kỷ sư Nguyễn Bá Lãng, từng du học ở Pháp về (kỹ sư Nguyễn Bá Lãng là con của quan Tổng Đốc Nguyễn Bá Trác). Câu chuyện một người con gái Việt, từ là đứa con yêu quí của nhà cách mạng trên hai mươi năm vẫy vùng ở nước non Yên Thế, đến một cuộc đời điêu linh nơi đất Pháp, và rồi trở nên một tài tử màn ảnh. Tâm trạng của cô Hoàng Thị Thế là tất cả một sự quay cuồng của hoàn cảnh, mà ai nghe qua rồi cũng khó quên.
Vào năm 1928, tại đất Pháp dư luận sôi nổi lên về cuốn phim “Một Bức Thơ”, mà lúc bấy giờ người Việt ở trong nước, hoặc ngay cả các người Việt đang du học ở Pháp, cũng không ngờ cuốn phim ấy có liên quan đến một cô gái Việt Nam. Dư luận sôi nổi không phải là vì cuốn phim ấy hay nhất của thời đó, mà sôi nổi ở chỗ cuốn phim đã được cái vinh hạnh một có công chúa Trung Hoa đóng tuồng. Họ quảng cáo vị công chúa Trung Hoa này rùm beng lên để gợi cho công chúng sự háo kỳ, để rồi thiên hạ đi coi cuốn phim ấy như đi xem một kỳ quan thứ tám của thế giới.
Vào lúc ấy trong buổi thanh bình, mọi người Âu cũng như Á sống một cuộc đời bình thản, và rồi cái kỳ lạ ấy đã khơi lên trong lòng mọi người một sự nô nức, nhờ đó mà cuốn phim được hoan nghinh, hay nói rõ hơn là được nhiều người coi. Họ tranh nhau coi mặt một vị công chúa Tàu, nhưng có điều là báo chí ở Âu Châu thời ấy lại mù tịch về việc đó, các báo đã không hề cải chánh mà lại còn loan tin thêm, cho nên hãng phim vẫn tiếp tục quảng cáo om sòm để hốt bạc. Ngay cả nhân vật ấy cũng làm thinh không biết là với ý định gì, hoặc là trong hợp đồng đóng phim có cam kết điều gì mà không được nói ra chăng?
Nhưng rồi chẳng bao lâu thì người ta cũng được biết vị công chúa Trung Hoa ấy chính là cô Hoàng Thị Thế, con gái út của nhà cách mạng Hoàng Hoa Thám, tức cụ Đề Thám. Trong thời gian nổi lên chống Pháp, sau những trận giao tranh gây thiệt hại nhiều cho quân Pháp, cuối cùng thì cụ Hoàng Hoa Thám đã anh dũng nằm xuống tại cứ địa đấu tranh, vùng đất Yên Thế, để các thế hệ sau ghi nhớ và noi gương bất khuất của cụ.
Theo lời kỹ sư Lãng thì sau ngày cụ Hoàng Hoa Thám mất thì mẹ cô Thế bỏ trốn, cô trở thành đứa bé lưu lạc được người nào đó tạm nuôi. Thấy cô có nét mặt thông minh, khả ái nên được một viên sĩ quan cao cấp người Pháp xin đem về làm con nuôi, và để ở Hà Nội hơn một năm ngoài, rồi đem cô về Pháp cho đi học, cho ăn mặc theo Pháp.
Cô Hoàng Thị Thế vốn dòng thông minh, đi học từ năm 12 tuổi và đến năm 21 tuổi thì đậu Tú Tài, cô đang thoải mái nhẹ bước trên đường học vấn thì thương ôi, ông già nuôi mãn phần, anh em người Pháp tranh giành gia tài chia xẻ nhau. Riêng cô Thế là đứa con nuôi mũi tẹt da vàng chỉ được may mắn cho ở, ăn báo hại nơi nhà của người con trưởng của ông già nuôi ấy mà thôi .
Nhưng rồi, tình đời ghẻ lạnh với sự ăn nhờ ở cậy ấy không được bao lâu thì cô Thế chịu không nổi, mới từ giã nhà người anh nuôi mà ra giữa cuộc đời tự lập nơi xứ lạ quê người, với gió bụi và phong sương kiếm nghề thư ký và bán hàng nuôi sống. Tâm trạng của cô trong những ngày phiêu bạt ấy không cần phải nói lại, sự đau khổ đến thế nào...
Tình cờ một ngày kia, vào cuối năm 1928 có một nhà đạo diễn phim vào mua hàng một tiệm buôn nọ, bỗng bất chợt thoáng thấy một cô gái Á Đông rất duyên dáng đang đứng tiếp khách. Nhà đạo diễn lúc bấy giờ đang băn khoăn tìm một người phụ nữ phương Đông đóng vai công chúa Tàu cho cuốn phim “Một Bức Thơ”. Sau khi ướm lời với chủ tiệm thì chủ tiệm bằng lòng nhường lại cô gái bán hàng ấy, và giới thiệu đó là một công chúa Trung Hoa, sau ngai vàng đổ nát của vua cha đã phải lưu vong qua đất địa nước Pháp.
Từ cô bán hàng đến tài tử chiếu bóng
Thế rồi từ cô gái bán hàng với số lương 200 quan mỗi tháng, cô Thế đã nghiễm nhiên thành một tài tử chiếu bóng với số lương 2000 quan mỗi tháng, từ đây với số lương gấp mười, cô sống một cuộc đời tạm gọi sung túc.
Khi cuốn phim “Một Bức Thơ” ra đời, đi khắp các thành phố đều được thiên hạ đón xem, người ta cố tình xem mặt của vị công chúa Trung Hoa đã lưu vong và trở thành cô đào màn ảnh. Thấy cô đẹp, họ bàn tán xôn xao và một số đông đã yêu cô, vì tuy xem cô đóng vai tuồng giả công chúa Trung Hoa, mọi người nhận thấy ở cô một vì công chúa thật, nhất là với nét mặt u buồn. Trong phim họ đã xét thấy tâm trạng đau khổ của một nàng công chúa, từ bên cạnh một ngai vàng rơi vào trong bụi đời hải ngoại, họ ái ngại và thương yêu cô vì thế.
Và cũng sau cuốn phim ấy thành hình, cô Hoàng Thị Thế đã phải tiếp đón hàng ngày hơn trăm người khách lạ, hoặc tới thăm viếng tặng hoa, hoặc tới phỏng vấn an ủi, hoặc tới mời cô đi dự tiệc, nhất là các công tử và phú gia đều cạnh tranh nhau để được cùng khoác tay đi chơi, hoặc dự tiệc với nàng công chúa ấy.
Trong lúc này đến các du học sinh Việt Nam ở Pháp, mà về sau tốt nghiệp đã về nước như: Bác Sĩ Phạm Ngọc Thạch, kỹ sư Nguyễn Bá Lãng, kỹ sư Thái Thiện Nghĩa v.v... đều có hân hạnh lui tới tặng hoa, thăm viếng, và có khi những tấm chèque to tát được trịnh trọng đem dâng cho nàng để cầu nói chuyện trong giây lát.
Nhưng rồi thì giữa cảnh tiếp đón tấp nập ấy, một thanh niên trí thức người Pháp có thế lực, đã lọt vào mắt xanh cô Hoàng Thị Thế, đôi nam nữ ấy yêu nhau và một đám cưới linh đình đã diễn ra trong năm 1931, giữa sự mến tiếc của những người “hỏng thi”.
Tưởng đâu chiếc thân bèo dạt nhờ cơ hội ấy mà yên cửa nhà, không dè sau một thời gian ân ái, đức lang quân mới hỏi đến gia tài ngày trước. Cô Hoàng Thị Thế mới đem hoàn cảnh sự thật nói cho chồng biết rằng, vào năm 1909 sau khi ông Hoàng Hoa Thám nghị hòa với quân Pháp, thì toàn quyền Paul Doumer có cắt đất Yên Thế, gồm có lối 5 ngàn cây số vuông, giao trọn cho nhà cách mạng, tức ông già vợ của chàng rể và là chủ nhân cô Thế nói trên. Chàng ta mới dùng thế lực của mình kiện chính phủ Đông Dương, lúc áy do toàn quyền Pasquier cầm đầu, để lấy lại đất đai của ông già vợ mình, đất đai thời đó trị giá những 100 triệu phật lăng! Vụ kiện đó kéo dài hai năm, bị bác bỏ.
Không thấy được kết quả, thì bấy giờ cô Thế mới thấy được lòng dạ của chồng, là từ ấy trở đi cơm không lành canh không ngọt, mặc dầu với đức hạnh của một gái Đông phương biết chiều chồng nuôi con, vẫn không an ủi chồng được, và ngày ngày vẫn kiếm chuyện xích mích gây gổ, nào “trái ấu không tròn”, nào là “bồ hòn cũng méo”. Thì ra sau khi biết rõ rằng nàng không phải đúng một vị công chúa Tàu như người ta đồn, mà chỉ là con của một người “phiến loạn” của xứ “An Nam” thì không bao lâu cái gia đình Pháp – Việt ấy tan rã, chặt đứt oan tình.
Thế rồi, cô Hoàng Thị Thế lại sống giữa cô đơn và bụi đời ở nước ngoài, tiền của dần dần cạn sạch, bấy giờ cô mới lục lại danh thiếp của bao kẻ hâm mộ nàng ngày xưa. Và ngày xưa họ đã tìm tới nhà nàng để cầu trịnh trọng được hôn bàn tay, thì lần này chính nàng lại phải kiếm gõ cửa nhà họ để nhắc lại mối cảm tình ngày trước, và cũng xem trong chuyến đò tình sang sông, còn có khách nào mến cây da cũ, con đò xưa chăng?
Thì than ôi! Nàng đâu còn là một gái xuân sắc với cặp mắt huyền mơ của ngày xưa tươi đẹp nữa. Giữa tàn tạ nàng phải sống một cuộc đời tuy không đến nỗi dơ dáng dại hình, song cũng không được xáng lạn cho lắm.
Kỹ sư Nguyễn Bá Lãng kết luận rằng: “Cuộc đời của nàng sau mối tình lang bạt kia nghe qua mà lòng se lại, tôi cũng rất tiếc cho con người tài hoa xinh đẹp ấy, nhiều khi vì sự sống còn ở nước người, đã phải đi gõ cửa từng nhà bạn quen, để giải quyết vấn đề bao tử của ngày ấy!
Từ sau trận đại chiến ở Âu Châu, kiều bào ở Pháp không còn ai gặp lại cô Hoàng Thị Thế nữa, không biết trong loạn lạc lúc ấy nàng có phải làm con thiêu thân cho bom đạn chăng? Nhưng cái ngày chót mà các Việt kiều du học ở Pháp được gặp nàng là vào cuối năm 1939, và cô Thế có cho hay trên một chuyến tàu rằng, nàng sang nước Bỉ. Mấy tháng sau thì quân của Hitler ào ào tràn sang Bỉ mà tiến qua Pháp, đạo binh ấy có quét nàng đi như một hạt bụi, hay như một chiếc lá khô giữa đàng chăng?”
Nhà văn Dương Thu Hương: 40 năm, nhìn lại về ngôn từ
Tường An, thông tín viên RFA
2015-03-11
2015-03-11
Trong hồi ức 40 năm, đài Á Châu Tự Do hỏi chuyện nhà văn Dương Thu Hương về quan điểm của bà về những vấn đề liên quan đến cuộc chiến Bắc-Nam cũng như những hệ luỵ của nó.
Tường An: Thưa bà, cách đây đã lâu, trong một bài viết, bà có nói ngày 30/4, vào đến miền Nam bà đã ngồi trên vỉa hè và khóc. Nhân đây bà có thể giải thích về những giọt nước mắt ngày 30/4, 40 năm về trước không ạ ?
Dương Thu Hương: Vào miền Nam tôi khóc vì sao? Là bởi vì tôi hiểu đạo quân chiến thắng ở miền Bắc phụ thuộc vào một chế độ man rợ. Rất nhiều dân tộc văn minh bị tiêu diệt bởi một chế độ man rợ hơn, bởi vì họ hung hăng hơn, vì họ có thể văn minh hơn vì văn hoá nhưng họ kém về phương diện tổ chức quân sự.
Sau này tôi mới hiểu tôi cũng ngây thơ tôi khóc thế thôi. 30/4 tôi còn khóc vì một lý do khác nữa là vì chúng tôi bị lừa. Chúng tôi đi không nghĩ ngày về, nhưng mà chúng tôi tưởng chiến thắng quân ngoại xâm nhưng thực sự hoàn toàn là không phải. Và tất cả tuổi trẻ của chúng tôi đã bị tiêu huỷ đi. Và vì vậy mà tôi khóc, trong những giọt nước mắt của tôi có cái phần chung cho dân tộc và có phần riêng của chúng tôi, của những người bạn tôi đã chết và của bản thân tôi đã hy sinh tuổi xuân một cách vô ích.»
Tường An: Thưa bà, cuộc chiến dài 21 năm mà miền Bắc gọi là «Chống Mỹ cứu nước» đã chấm dứt vào ngày 30/4, bà có nhận xét gì về cái ngày mà Việt Nam ngưng tiếng súng, ngày mà đại tướng Văn Tiến Dũng gọi là «thiên anh hùng ca vĩ đại của chiến tranh nhân Việt Nam trong thế kỷ XX » ạ?
Tại sao cùng một thời điểm, người Mỹ tạo ra những điều kiện để tạo ra chính sách dân chủ của 2 nơi : miền nam Việt Nam và miền Nam Hàn Quốc. Tại sao Hàn Quốc chiến thắng mà Việt Nam chiến bại?- Bà Dương Thu Hương
Dương Thu Hương: Đối với tôi ngày 30/4 có 2 phía : phía những người Việt ở miền nam thì gọi là ngày «Quốc hận», phía những người Việt ở miền Bắc thì gọi là «ngày Giải phóng của dân tộc» thì tất cả 2 cái đó thì tôi cho là cần phải xét lại ngôn từ , bởi vì ngôn từ nó cũng bấp bênh và nó cũng chao đảo với thời gian, nói tuỳ theo quan niệm con người , tuỳ theo cách nhìn con người để mà thay đổi.
Về phía những người miền Bắc tưởng rằng đó là một sự sung sướng, một chiến công lừng lẫy, một thắng lợi vô tiền khoáng hậu trong lịch sử. Bây giờ nhìn lại tôi thấy nó chỉ là một ánh đèn loé lên trên một chặng đường, mà cái chặng đường ấy phía sau khi ánh đèn ấy loé lên thì nó đã dần dần trôi vào bóng tối. Thắng lợi ngày 30/4 là một thứ mà người ta gọi là « illusion » tức là một ảo ảnh. Bởi vì sau cái ảo ảnh ấy thì có những thực tại chồm đến và người Cộng sản ngập trong những cái thực tại ấy.
Sự thất bại liên tục của họ trên tất cả những chính trường, trên ngoại giao cũng như là đối nội.
Tường An: Bà có thể giải thích tại sao từ một chiến thắng mà người Cộng sản gọi là «cuộc kháng chiến thần thánh » họ lại trở nên thất bại sau này như bà nhận định ?
Dương Thu Hương: Cái sự chiến thắng đó đem cho họ một lòng kiêu hãnh quá độ. Cho nên cái chiến thắng ấy là mở màn cho tất cả những thất bại sau này. Và bây giờ, mặc dù họ còn giữ được chính quyền nhưng cái thất bại thì rõ ràng không ai có thể chối cãi được là họ đã trở thành một bộ phận nô lệ của triều đình Cộng sản phương Bắc và cái sự bán nước của họ dù diễn ra trong bóng tối, nhưng nhân dân và tất cả nh người có lương tâm đều đoán được một cách chính xác.
Chiến thắng 30/4 khiến cho những người Cộng sản có món mồi bở béo giống như ông Nguyễn văn Trấn viết trong cuốn «Viết cho Mẹ và Quốc hộ » - tôi cho ông Nguyễn văn Trấn là một người rất chính trực - ông ấy nói : nhà của người ta lấy, vợ của người ta ngủ v.v… và tức là một sự chiếm đoạt về mặt tài sản đối với tất cả những người mà đã chiến bại.
Họ đã thực hiện phương sách của Mao Trạch Đông, tức là «Toạ sơn quan hổ đấu» tức là để chọ người Việt đánh nhau với người Mỹ, một cuộc chiến tranh sức tàn lực kiệt để mà dễ biến thành một thứ thuộc địa nghìn năm Bắc thuộc lần thứ hai.
Tường An: Tại sao bà cho là phải xét lại chữ «Quốc hận" của những người miền Nam, những người đã thua trong cuộc chiến này, thưa bà ?
Dương Thu Hương: Về mặt những người miền Nam mà gọi là « Quốc hận » thì họ cũng phải nhìn lại. Tại sao ? Tại sao lại là « Quốc hận » Trước khi hận những người khác họ phải hận chính họ . Tại sao cùng một thời điểm, người Mỹ tạo ra những điều kiện để tạo ra chính sách dân chủ của 2 nơi : miền nam Việt Nam và miền Nam Hàn Quốc. Tại sao Hàn Quốc chiến thắng mà Việt Nam chiến bại ? Tại sao cùng một cơ hội lịch sử như thế, người Nam Triều Tiên họ đã chớp lấy cơ hội để biến đất nước của họ thành một xứ sở văn minh phồn thịnh, còn miền Nam thì không ? Cái đó phải xét lại.
Tường An: Từ khi sang Pháp năm 2006 cho đến nay, có vẽ như bà ít tiếp xúc với cộng đồng người Việt hải ngoại, phe chống Cộng cũng như phe thân Cộng, chắc là phải có lý do nào đó có phải không ạ?
Tóm lại, tôi thấy cần phải chống Cộng, nhưng trước hết cần phải soi lại bản thân mình. Thế còn người Cộng sản nhìn lại ngày 30/4 như một điều hãnh diện thì tôi đó là sự ngu ngốc.
- Bà Dương Thu Hương
Dương Thu Hương: Bây giờ nhìn lại những phong trào chống Cộng của người Việt hải ngoại, ta thấy cái gì ? Trừ những vụ treo đầu dê bán thịt chó như Hoàng Cơ Minh ra, rất nhiều chính khách khác chỉ chờ cơ hội để về Việt Nam thương thuyết với Cộng sản để chia ghế. Những nhà chống Cộng ở đây tôi biết thì hoàn toàn là một thứ trò du hí để thoả mãn cái lòng tự tôn của họ. Bởi vì sống ở nước ngoài họ không có một gương mặt hãnh diện, một vị trí xứng đáng cho nên là họ nêu chiêu bài chống Cộng, nhưng lúc nào cũng ngóng chờ Cộng sản chìa tay ra để trở về chia ghế. Và có những ông Cộng sản chưa cần mời đã vội vàng đến sứ quán làm lành trước . Vì sao . vì họ thấy đấu tranh mệt mỏi quá, hàng Cộng sản đi kiếm được một chút vui thú trong cuối đời. Cho nên bây giờ muốn chiến thắng Cộng sản thì trước tiên phải chiến thắng chính bản thân mình.
Bây giờ rất nhiều Việt kiều ở nước ngoài chửi Cộng sản nhưng về trong nước lại vui thú, bởi vì Cộng sản cho làm ăn, cho kiếm tiền, cho chơi gái rẻ. Cho nên cái tinh thần chống Cộng của rất nhiều người theo tôi nó cũng giống như cái đuôi con chó, vẫy lên rồi vẫy xuống theo cái lợi ích của họ.»
Tường An: Từ sự phân tích những tiêu cực của phe Cộng sản cũng như phe chống Cộng, bà có kết luận gì về cuộc đấu tranh trên chiến trường mới này ạ ?
Dương Thu Hương: Tóm lại, tôi thấy cần phải chống Cộng, nhưng trước hết cần phải soi lại bản thân mình. Thế còn người Cộng sản nhìn lại ngày 30/4 như một điều hãnh diện thì tôi đó là sự ngu ngốc . Bởi vì bây giờ, cái đứa ngu nhất thì cũng hiểu là họ đang bán nước và sẽ còn bán nước một cách trầm trọng hơn. Và nếu không có một sự kiện nào có thể thay đổi được vận mệnh quốc gia thì chắc chắn 1000 năm Bắc thuộc lần thứ hai sẽ diễn ra. Không phải với một đoàn quân phương Bắc kéo sang nữa mà là một sự khống chế toàn bộ về mặt chính trị và kinh tế bắt đầu từ đảng Cộng sản Trung quốc đối với đảng Cộng sản Việt Nam và sau đó là hai nhà nước cùng một hệ thống mà tôi gọi là một thứ phong kiến trá hình.
Tường An: Xin cám ơn bà đã dành thì giờ cho đài Á Châu Tự Do.
Viết về nhà thơ... hèn Du Tử Lê
Trường Sơn Lê Xuân Nhị
Đáng lẽ, tôi không phí thì giờ để viết về tên hèn này. Thì giờ nhậu còn không có, thì giờ đâu đi chửi một thằng hèn. Thời nào cũng thế, anh hùng thì khó kiếm nhưng bọn hèn thì đầy dẫy. Cuộc đời tôi, hay thế giới của tôi sống, tôi luôn luôn sống bên cạnh những anh hùng. (Có lẽ, vì không bao giờ được làm anh hùng nên tôi muốn dựa hơi chăng? Có thể lắm, ai biết được) Những anh hùng trước năm 75, và những anh hùng sau năm 75. Những anh hùng như Đại Tá Ân, anh Tô Phạm Liệu, Lý Tống, anh Phan Nhật Nam, anh Lô, anh Phán, anh Hồ văn Nhơn, anh Nguyễn Văn Hưởng, anh Nguyễn Khoa Lộc (phi đoàn tôi), thầy Võ Ý, nhà thơ Cao Đông Khánh, nhà thơ Nguyễn Lập Đông...vân vân và vân vân...
Vì sao tôi gọi DTL là một tên hèn? Xin thưa, tôi có biết chút ít về hắn... ha ha ha
Thành thật mà nói, trước 75, DTL là một nhà thơ nổi tiếng, ít ai mà không biết. Tôi chẳng bao giờ đọc thơ DTL, không phải vì tôi ghét hắn nhưng tính tôi vốn chẳng thích thơ, ngoại trừ những bài thơ thật hay làm rung động tâm hồn như bài “Anh hùng vô Danh” của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy. Nhưng tôi nghe nói hắn có vài bài thơ được phổ nhạc. Hắn lại là một đại úy trong QLVNCH. Đối với tôi, như thế là tốt rồi. Tôi chỉ là một anh lính tầm thường vô danh, nhưng biết được QLVNCH có những người tài năng như vậy, ai mà chẳng hãnh diện?
Sang Mỹ, khoảng năm 78 hay 79 gì đó, hắn có làm bài thơ “Khi tôi chết xin mang tôi ra biển” gì đó, tôi đọc qua và thấy cũng hay hay, cũng nhận ra còn có khẩu khí của một sĩ quan QLVNCH...
Khoảng đầu thập niên 90, lúc tôi mới tập tểnh cầm bút, được nổi tiếng chút chút, trong một lần đi chơi ở Houston, nghe bạn tôi, nhà thơ Cao Đông Khánh, khoe có DTL từ California qua chơi, hẹn gặp nhậu.
Tôi mừng lắm khi được gặp DTL với người bạn gái của hắn. Gặp nhau, tôi, Cao Đông Khánh, nhà thơ Nguyễn Lập Đông và vài người bạn khác nhậu tới bến, nhưng DTL chẳng uống mẹ gì. Chỉ ngồi cười cười coi nản thấy mẹ. Tôi uống rượu, khề khà ậm ực, mở miệng ra là chửi thề, ai cũng tưởng tôi say, nhưng tôi chỉ giả vờ thôi... (Coi chừng đấy, quí vị)
Lần đầu tiên được gặp nhà thơ lớn, tôi hơi buồn và thất vọng khi nhận ra “thần tượng DTL” có vẻ không được thật thà cho lắm. Rượu thì đếch uống, nói chuyện thì ít khi nhìn thẳng vào mặt nhau mà chỉ lơ đơ là đà như con gà khát nước. Tôi nhớ mãi đã nói trong lòng mình rằng, đây là tướng mạng của một thằng gian manh, đâm cha giết chú, bóp vú chị dâu. Tôi biết coi tướng số chút đỉnh, quí vị ạ. (Học suốt đời đấy, không dễ đâu)
Tôi nhận xét thêm, tên DTL này là một con người ... rất là màu mè. Khoái màu mè và luôn luôn đóng kịch, dù giữa bàn nhậu. Màu mè từ cách ăn mặc, cách ăn nói, đóng kịch từ cách hút thuốc lá đến cách nói chuyện. Về nội tâm, lại bị thêm bệnh háo danh, khoái được chúc tụng tôn vinh nhưng quan trọng hơn cả, là một con người không thực tế.
Khoảng chừng vài tuần sau khi tiệc tàn, về
Khoảng chừng vài tuần sau khi tiệc tàn, về lại New Orleans, một buổi chiều, đi làm về, tôi nhận được cú điện thoại của ngài DTL. Nghe ngài gọi, tôi biết ngay là sẽ có chuyện, nhưng để xem thử chuyện gì. À, thì ra ngài muốn tôi tổ chức một buổi ra mắt sách cho tập thơ của ngài tại thành phố New Orleans. Ngài lại còn mớm “Để anh em mình bù khú với nhau một bữa cho vui ấy mà.”
Tôi nghĩ liền trong bụng, mẹ nó, bù khú cái con khỉ, bù... tiền thấy mẹ thì có. Văn nhân thi sĩ hay những người thích đọc sách ở thành phố New Orleans này đếm không tới vài chục. Bây giờ, tôi mở buổi RMS thì mời được bao nhiêu người đến? Làm một con tính sơ sơ, tôi nghĩ nếu tôi tổ chức, tôi phải chi ra ít nhất cỡ 3 xấp. Đau đớn hơn nữa là, nếu tôi chịu chi ra 3 xấp đi nữa, sẽ có bao nhiêu người đến tham dự? Thôi bỏ đi tám. Tôi chỉ ầm ừ cho qua chuyện rồi làm lơ luôn. Tôi biết ngài DTL phải buồn và thất vọng về tôi lắm. Trong buổi nhậu tại nhà Cao Đông Khánh, không hiểu tôi đã ăn nói như thế nào mà ngài lại có cảm nghĩ rằng ngài là một thần tượng lớn của tôi, một thằng lính vô danh của QLVNCH. Hoá ra, tôi đóng kịch kể cũng hay.
Từ đó, DTL chẳng còn bao giờ liên lạc gì với tôi và tôi cũng chẳng có lý do gì đề liên lạc với hắn.
Lâu lâu, trên net, tôi đọc được những bài thơ hay bài viết của DTL. Tôi đau đớn nhận ra thơ của hắn càng ngày càng trở nên lạ lùng, gần như điên loạn, đầu chẳng ra đầu, đuôi chẳng ra đuôi, ví von hợm hỉnh một cách vô lý như một thằng điên. Hắn nghĩ ví von điên cuồng như thế thì mới thật sự là nhà thơ lớn. Tội nghiệp thật. Những câu thơ của hắn, nếu còn có thể gọi được là thơ, thì mất đầu, mất chân, mất tay, chấm phẩy tầm bậy tầm bạ loạn xị xà ngầu, chẳng coi luật văn phạm vào đâu, chẳng coi người đọc ra gì. DTL nghĩ hắn có quyền làm như thế bởi vì hắn là một nhà thơ lớn. Làm nhà thơ thì phải lập dị và khó hiểu mà, đúng không? Tôi biết hắn luôn luôn nghĩ rằng hắn là một thiên tài của quê hương, một nhà thơ vĩ đại ngàn năm mới có một. Hắn còn muốn nuôi mộng sửa cách hành văn, cách chấm phẩy của văn chương Việt Nam. Tội nghiệp hắn quá đi thôi.
Mấy chục năm nay, dù chẳng ưa gì hắn, có khi còn khinh nữa, nhưng tôi luôn luôn tha thứ cho hắn và chấp nhận trong im lặng những hành vi, viết lách điên cuồng của hắn. Tại sao? Vì tôi nghĩ hắn là một nhà thơ của anh em mình. Một nhà thơ cùng một màu áo, cùng một màu cờ. Hắn là phe mình.
Nhưng cho đến khi, nghe tin hắn hèn hạ về Việt Nam ra mắt tập thơ thì tôi phải viết bài này.
Đau khổ lắm quí vị ơi...
Những ca sĩ về Việt Nam ca hát, chúng ta có thể tha thứ được bởi vì, dù sao, họ chỉ là thợ hát. Thợ hát muốn kiếm tiền nhiều thì phải về Việt Nam. Chuyện này tha thứ được. Và tôi xin quí vị cũng nên tha thứ cho họ. Nhưng một nhà thơ, một người cầm bút như DTL lại về Việt Nam để ra mắt sách, để được nổi tiếng, để đón nhận những lời ca tụng rẻ tiền của bọn văn nô Việt Cộng thì thật là tủi hổ cho những người cầm bút như anh em chúng tôi, những người lính của QLVNCH. Bọn ca sĩ về Việt Nam kiếm được bạc triệu vì Việt Nam có nhu cầu, người ta thích nghe hát. Còn những bài thơ của DTL bây giờ đem tặng không cho dân Việt Nam chưa chắc đã ai thèm đọc, đừng nói đến chuyện bán thơ để kiếm tiền. Vậy thì rốt cục, hắn sẽ được gì? Tiền thì nhất định là không có, còn tiếng tăm thì được gì? Có ai coi hắn ra con mẹ gì?
Nếy trên cõi trời này, còn có những con người còn coi hắn “ra con mẹ gì” thì đó là những người Việt Nam Quốc Gia tị nạn Cộng Sản đang sống ngoài quê hương. Nhưng tiếc thay, bát cơm nằm trong tay hắn ở Mỹ, hắn không muốn ăn, lại về Việt Nam cầm bát cứt của Việt Cộng mà ăn. Giữa chén cơm và chén cứt, hắn lại chọn chén cứt.
Đau đớn lắm thay cho một nhà thơ Việt Nam. Khốn nạn thân mày, Du Tử Lê, thằng phản bội anh em, phản bội tổ quốc. Trường Sơn Lê Xuân Nhị
Trường Sơn Lê Xuân Nhị
Đáng lẽ, tôi không phí thì giờ để viết về tên hèn này. Thì giờ nhậu còn không có, thì giờ đâu đi chửi một thằng hèn. Thời nào cũng thế, anh hùng thì khó kiếm nhưng bọn hèn thì đầy dẫy. Cuộc đời tôi, hay thế giới của tôi sống, tôi luôn luôn sống bên cạnh những anh hùng. (Có lẽ, vì không bao giờ được làm anh hùng nên tôi muốn dựa hơi chăng? Có thể lắm, ai biết được) Những anh hùng trước năm 75, và những anh hùng sau năm 75. Những anh hùng như Đại Tá Ân, anh Tô Phạm Liệu, Lý Tống, anh Phan Nhật Nam, anh Lô, anh Phán, anh Hồ văn Nhơn, anh Nguyễn Văn Hưởng, anh Nguyễn Khoa Lộc (phi đoàn tôi), thầy Võ Ý, nhà thơ Cao Đông Khánh, nhà thơ Nguyễn Lập Đông...vân vân và vân vân...
Vì sao tôi gọi DTL là một tên hèn? Xin thưa, tôi có biết chút ít về hắn... ha ha ha
Thành thật mà nói, trước 75, DTL là một nhà thơ nổi tiếng, ít ai mà không biết. Tôi chẳng bao giờ đọc thơ DTL, không phải vì tôi ghét hắn nhưng tính tôi vốn chẳng thích thơ, ngoại trừ những bài thơ thật hay làm rung động tâm hồn như bài “Anh hùng vô Danh” của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy. Nhưng tôi nghe nói hắn có vài bài thơ được phổ nhạc. Hắn lại là một đại úy trong QLVNCH. Đối với tôi, như thế là tốt rồi. Tôi chỉ là một anh lính tầm thường vô danh, nhưng biết được QLVNCH có những người tài năng như vậy, ai mà chẳng hãnh diện?
Sang Mỹ, khoảng năm 78 hay 79 gì đó, hắn có làm bài thơ “Khi tôi chết xin mang tôi ra biển” gì đó, tôi đọc qua và thấy cũng hay hay, cũng nhận ra còn có khẩu khí của một sĩ quan QLVNCH...
Khoảng đầu thập niên 90, lúc tôi mới tập tểnh cầm bút, được nổi tiếng chút chút, trong một lần đi chơi ở Houston, nghe bạn tôi, nhà thơ Cao Đông Khánh, khoe có DTL từ California qua chơi, hẹn gặp nhậu.
Tôi mừng lắm khi được gặp DTL với người bạn gái của hắn. Gặp nhau, tôi, Cao Đông Khánh, nhà thơ Nguyễn Lập Đông và vài người bạn khác nhậu tới bến, nhưng DTL chẳng uống mẹ gì. Chỉ ngồi cười cười coi nản thấy mẹ. Tôi uống rượu, khề khà ậm ực, mở miệng ra là chửi thề, ai cũng tưởng tôi say, nhưng tôi chỉ giả vờ thôi... (Coi chừng đấy, quí vị)
Lần đầu tiên được gặp nhà thơ lớn, tôi hơi buồn và thất vọng khi nhận ra “thần tượng DTL” có vẻ không được thật thà cho lắm. Rượu thì đếch uống, nói chuyện thì ít khi nhìn thẳng vào mặt nhau mà chỉ lơ đơ là đà như con gà khát nước. Tôi nhớ mãi đã nói trong lòng mình rằng, đây là tướng mạng của một thằng gian manh, đâm cha giết chú, bóp vú chị dâu. Tôi biết coi tướng số chút đỉnh, quí vị ạ. (Học suốt đời đấy, không dễ đâu)
Tôi nhận xét thêm, tên DTL này là một con người ... rất là màu mè. Khoái màu mè và luôn luôn đóng kịch, dù giữa bàn nhậu. Màu mè từ cách ăn mặc, cách ăn nói, đóng kịch từ cách hút thuốc lá đến cách nói chuyện. Về nội tâm, lại bị thêm bệnh háo danh, khoái được chúc tụng tôn vinh nhưng quan trọng hơn cả, là một con người không thực tế.
Khoảng chừng vài tuần sau khi tiệc tàn, về
Khoảng chừng vài tuần sau khi tiệc tàn, về lại New Orleans, một buổi chiều, đi làm về, tôi nhận được cú điện thoại của ngài DTL. Nghe ngài gọi, tôi biết ngay là sẽ có chuyện, nhưng để xem thử chuyện gì. À, thì ra ngài muốn tôi tổ chức một buổi ra mắt sách cho tập thơ của ngài tại thành phố New Orleans. Ngài lại còn mớm “Để anh em mình bù khú với nhau một bữa cho vui ấy mà.”
Tôi nghĩ liền trong bụng, mẹ nó, bù khú cái con khỉ, bù... tiền thấy mẹ thì có. Văn nhân thi sĩ hay những người thích đọc sách ở thành phố New Orleans này đếm không tới vài chục. Bây giờ, tôi mở buổi RMS thì mời được bao nhiêu người đến? Làm một con tính sơ sơ, tôi nghĩ nếu tôi tổ chức, tôi phải chi ra ít nhất cỡ 3 xấp. Đau đớn hơn nữa là, nếu tôi chịu chi ra 3 xấp đi nữa, sẽ có bao nhiêu người đến tham dự? Thôi bỏ đi tám. Tôi chỉ ầm ừ cho qua chuyện rồi làm lơ luôn. Tôi biết ngài DTL phải buồn và thất vọng về tôi lắm. Trong buổi nhậu tại nhà Cao Đông Khánh, không hiểu tôi đã ăn nói như thế nào mà ngài lại có cảm nghĩ rằng ngài là một thần tượng lớn của tôi, một thằng lính vô danh của QLVNCH. Hoá ra, tôi đóng kịch kể cũng hay.
Từ đó, DTL chẳng còn bao giờ liên lạc gì với tôi và tôi cũng chẳng có lý do gì đề liên lạc với hắn.
Lâu lâu, trên net, tôi đọc được những bài thơ hay bài viết của DTL. Tôi đau đớn nhận ra thơ của hắn càng ngày càng trở nên lạ lùng, gần như điên loạn, đầu chẳng ra đầu, đuôi chẳng ra đuôi, ví von hợm hỉnh một cách vô lý như một thằng điên. Hắn nghĩ ví von điên cuồng như thế thì mới thật sự là nhà thơ lớn. Tội nghiệp thật. Những câu thơ của hắn, nếu còn có thể gọi được là thơ, thì mất đầu, mất chân, mất tay, chấm phẩy tầm bậy tầm bạ loạn xị xà ngầu, chẳng coi luật văn phạm vào đâu, chẳng coi người đọc ra gì. DTL nghĩ hắn có quyền làm như thế bởi vì hắn là một nhà thơ lớn. Làm nhà thơ thì phải lập dị và khó hiểu mà, đúng không? Tôi biết hắn luôn luôn nghĩ rằng hắn là một thiên tài của quê hương, một nhà thơ vĩ đại ngàn năm mới có một. Hắn còn muốn nuôi mộng sửa cách hành văn, cách chấm phẩy của văn chương Việt Nam. Tội nghiệp hắn quá đi thôi.
Mấy chục năm nay, dù chẳng ưa gì hắn, có khi còn khinh nữa, nhưng tôi luôn luôn tha thứ cho hắn và chấp nhận trong im lặng những hành vi, viết lách điên cuồng của hắn. Tại sao? Vì tôi nghĩ hắn là một nhà thơ của anh em mình. Một nhà thơ cùng một màu áo, cùng một màu cờ. Hắn là phe mình.
Nhưng cho đến khi, nghe tin hắn hèn hạ về Việt Nam ra mắt tập thơ thì tôi phải viết bài này.
Đau khổ lắm quí vị ơi...
Những ca sĩ về Việt Nam ca hát, chúng ta có thể tha thứ được bởi vì, dù sao, họ chỉ là thợ hát. Thợ hát muốn kiếm tiền nhiều thì phải về Việt Nam. Chuyện này tha thứ được. Và tôi xin quí vị cũng nên tha thứ cho họ. Nhưng một nhà thơ, một người cầm bút như DTL lại về Việt Nam để ra mắt sách, để được nổi tiếng, để đón nhận những lời ca tụng rẻ tiền của bọn văn nô Việt Cộng thì thật là tủi hổ cho những người cầm bút như anh em chúng tôi, những người lính của QLVNCH. Bọn ca sĩ về Việt Nam kiếm được bạc triệu vì Việt Nam có nhu cầu, người ta thích nghe hát. Còn những bài thơ của DTL bây giờ đem tặng không cho dân Việt Nam chưa chắc đã ai thèm đọc, đừng nói đến chuyện bán thơ để kiếm tiền. Vậy thì rốt cục, hắn sẽ được gì? Tiền thì nhất định là không có, còn tiếng tăm thì được gì? Có ai coi hắn ra con mẹ gì?
Nếy trên cõi trời này, còn có những con người còn coi hắn “ra con mẹ gì” thì đó là những người Việt Nam Quốc Gia tị nạn Cộng Sản đang sống ngoài quê hương. Nhưng tiếc thay, bát cơm nằm trong tay hắn ở Mỹ, hắn không muốn ăn, lại về Việt Nam cầm bát cứt của Việt Cộng mà ăn. Giữa chén cơm và chén cứt, hắn lại chọn chén cứt.
Đau đớn lắm thay cho một nhà thơ Việt Nam. Khốn nạn thân mày, Du Tử Lê, thằng phản bội anh em, phản bội tổ quốc. Trường Sơn Lê Xuân Nhị
Posted by sontrung at 11:59 PM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 355
TRẦN LÊ HẠNH AN * BÀI THƠ ĐỒNG CHÍ
QUÀ TẶNG XỨ MƯA
Miền Bắc những năm sau đại họa CCRĐ, lại tiếp đến “Nhân văn giai phẩm”. Văn Cao, Hoàng Cầm là những văn nghệ sĩ có dính ít nhiều đến vụ án này; nhưng rất may cho Văn Cao là không bị bắt giam như Hoàng Cầm. Một lớp văn nghệ sĩ trẻ như Nhà văn Văn Linh (tên thật Trần Ngọc Linh, sinh ngày 1/1/930 tại phường Đại Nai, thị xã Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh) viết tiểu thuyết “Mùa hoa dẻ” (được NXB Thanh niên ấn hành năm 1957) bị đánh tơi bời trên báo chí CM.
THỬ TÌM MANH MỐI GIỮA “BÀI THƠ ĐỒNG CHÍ CỦA TÔI” CỦA VĂN CAO VÀ CUỘC HÀNH HÌNH CỤ NGHÈ CƠ THỜI CCRĐ?
Trần Lê Hạnh An
Miền Bắc những năm sau đại họa CCRĐ, lại tiếp đến “Nhân văn giai phẩm”. Văn Cao, Hoàng Cầm là những văn nghệ sĩ có dính ít nhiều đến vụ án này; nhưng rất may cho Văn Cao là không bị bắt giam như Hoàng Cầm. Một lớp văn nghệ sĩ trẻ như Nhà văn Văn Linh (tên thật Trần Ngọc Linh, sinh ngày 1/1/930 tại phường Đại Nai, thị xã Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh) viết tiểu thuyết “Mùa hoa dẻ” (được NXB Thanh niên ấn hành năm 1957) bị đánh tơi bời trên báo chí CM.
Đó là một tác phẩm hiếm hoi ở thập niên 1950 viết về một chuyện tình thời chiến với những xúc cảm hồn nhiên, chân thật mà rất đỗi nồng nàn, say đắm. Nhà thơ Phan Xuân Hạt, viết bài thơ “Hạnh phúc khôn tròn” (1962), bị quy kết “có vấn đề về tư tưởng”, “hữu khuynh”…Trong hoàn cảnh ấy, nhóm những VNS “có vấn đề” này như một sự “mặc nhiên” đã thường hay gần giủi, chơi thân với nhau.
Nhà văn Văn Linh lấy vợ tên là Phạm Thị Hoa - người thôn Tiên Lệ, xã Quảng Tiên, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Bà Phạm Thị Hoa, thầy giáo Phan Văn Khuyến (người thôn Thọ Linh, xã Quảng Sơn, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình) và Trần Ngọc Linh (đích danh tác gỉa) là ba “nguyên mẫu” của bộ ba trai gái trong tiểu thuyết “Mùa hoa dẻ”. Trong CCRĐ, bà Phạm Thị Hoa lại là cán bộ của Hội Phụ nữ huyện Quảng Trạch. Phiên tòa “Nhân dân” xử tử cụ Nghè Cơ Nguyễn Bá Ky ngày 27 Tết Ất Mùi (thứ 4 ngày 8/2 -1956) là do bà Hoa làm “Chủ tòa”. Diễn biến câu chuyện tại phiên tòa “Nhân dân” đó được Nhà báo Lê Quang Vinh viết lại trong bài báo “Cuộc hành hình Cụ Nghè Cơ và bài thơ Đồng chí của tôi của Văn Cao”.
Nhà thơ Phan Xuân Hạt đồng hương “Nghệ - Tĩnh” với Văn Linh nên có quan hệ rất gần gũi cả gia đình Nhà văn Văn Linh. Ông Phan Xuân Hạt hiện 85 tuổi, sống ở Hà Nội, khẳng định mối quan hệ thân thiết giữa Văn Cao và Văn Linh và cả nhóm văn nghệ sĩ “có vấn đề” thời những năm 60 – 70 thế kỷ trước; nhưng ông không chắc về sự "liên thông" giữa bài thơ của Văn Cao với phiên tòa xử tử cụ Ngè Cơ có phải do chính Văn Linh kể với Văn Cao hay không.
Nhà văn Văn Linh lấy vợ tên là Phạm Thị Hoa - người thôn Tiên Lệ, xã Quảng Tiên, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Bà Phạm Thị Hoa, thầy giáo Phan Văn Khuyến (người thôn Thọ Linh, xã Quảng Sơn, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình) và Trần Ngọc Linh (đích danh tác gỉa) là ba “nguyên mẫu” của bộ ba trai gái trong tiểu thuyết “Mùa hoa dẻ”. Trong CCRĐ, bà Phạm Thị Hoa lại là cán bộ của Hội Phụ nữ huyện Quảng Trạch. Phiên tòa “Nhân dân” xử tử cụ Nghè Cơ Nguyễn Bá Ky ngày 27 Tết Ất Mùi (thứ 4 ngày 8/2 -1956) là do bà Hoa làm “Chủ tòa”. Diễn biến câu chuyện tại phiên tòa “Nhân dân” đó được Nhà báo Lê Quang Vinh viết lại trong bài báo “Cuộc hành hình Cụ Nghè Cơ và bài thơ Đồng chí của tôi của Văn Cao”.
Nhà thơ Phan Xuân Hạt đồng hương “Nghệ - Tĩnh” với Văn Linh nên có quan hệ rất gần gũi cả gia đình Nhà văn Văn Linh. Ông Phan Xuân Hạt hiện 85 tuổi, sống ở Hà Nội, khẳng định mối quan hệ thân thiết giữa Văn Cao và Văn Linh và cả nhóm văn nghệ sĩ “có vấn đề” thời những năm 60 – 70 thế kỷ trước; nhưng ông không chắc về sự "liên thông" giữa bài thơ của Văn Cao với phiên tòa xử tử cụ Ngè Cơ có phải do chính Văn Linh kể với Văn Cao hay không.
Vì vậy, chắp nối các mối quan hệ cá nhân trên khi hầu hết mọi người trong các mối quan hệ ấy hiện đã qua đời, thì một câu hỏi vẫn chưa có sự rõ ràng: Không biết “nhân vật” trong bài thơ của Văn Cao có phải nguyên mẫu là Cụ Nghè Cơ do chính người bạn là Nhà văn Văn Linh đã kể lại với ông hay không để Thi sĩ Văn Cao lấy cảm hứng sáng tác nên bài thơ lột tả những giây phút cuối cùng thật kỳ lạ ở một con người rất đặc biệt ấy – Một nhà nho, một cán bộ Việt Minh, một đảng viên Cộng sản, một tử tội của CCRĐ?
Một tác phẩm mà như Nhà Thơ Nguyễn Trọng Tao nhận định: “Bài thơ tràn đầy lòng tin vào chủ nghĩa xã hội mà cảnh tỉnh những sai lầm của hiện tại, nó là tiếng lòng thống thiết của người cộng sản bị xử bắn oan gửi tới các đồng chí của mình. Không trung thực với Đảng, không có lòng can đảm của một đảng viên, không chan chứa một trái tim nhân đạọ…không thể viết được một bài thơ rớm máu như thế ”.
Còn nhà báo Lê Quang Vinh, trong “Cuộc hành hình cụ Nghè Cơ và Bài thơ đồng chí của tôi”: “Tôi cứ đọc đi đọc lại bài thơ, trong đầu cũng cứ nổi lên bao lần câu hỏi: Chẳng lẽ Thi sĩ Văn Cao chứng kiến hoặc nghe ai đó kể tường tận cho ông biết về cuộc hành hình của Đội CCRĐ xã Quảng Hòa, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình đối với Thân sĩ yêu nước, đảng viên Đảng Lao động VN, Lão thành CM tiền khởi nghĩa Cụ Nghè Cơ – Nguyễn Bá Ky? Nếu không thế, để giờ đây con cháu hậu duệ Cụ Nghè Cơ và cả chúng ta, làm sao có được bức tranh vô cùng bi thương bằng thơ chi tiết, điển hình và chính xác đến từng
cùng bi thương bằng thơ chi tiết, điển hình và chính xác đến từng hơi thở của nạn nhân mà Văn Cao xây dựng nên (vẻ lại) tài tình đến thế?”
Có điều, trong bài thơ của Văn Cao, một chi tiết có khác với thực tế tại cuộc hành hình cụ Nghè là:
“Giống như một nữ đồng chí
Một anh hùng của Hà Tĩnh
Tôi sẽ phải
Như mọi chiến sĩ bị địch bắn
Đảng Lao động Việt Nam muôn năm”
Trong khi phiên tòa diễn ra tại Quảng Bình, cụ Nghè đã hô: “Hồ Chủ Tịch muôn năm!” đến 3 lần. Điều này cũng dễ hiểu và phổ biến trong sáng tạo nghệ thuật.
Nhưng cuộc đời cũng có nhiều điều vô cùng ngẫu nhiên tựa như sự sắp đặt cố ý và có trường hợp đến mức thật trớ trêu. Bà quý phu nhân Nhà văn Văn Linh chính là em ruột bà Phạm Thị Liên. Bà Phạm Thị Liên lại là em dâu út (vợ em trai) của người con rể nổi tiếng vừa là “đồng chí” của cụ Nghè Cơ. Bà Phạm Thị Liên và bà Phạm Thị Hoa có người anh trai Phạm Phú Thang - Chủ hiệu ảnh "Phù Thăng" nổi tiếng một thời tại TP. Thanh Hóa.
21 giờ 52' ngày 12/3/2015
TLHA
ĐỒNG CHÍ CỦA TÔI
Người ta các đồng chí của tôi
Treo tôi lên một cái cây
Đợi một loạt đạn nổ
Tôi sẽ dẫy như một con nai con
Ở đầu sợi dây
Giống như một nữ đồng chí
Một anh hùng của Hà Tĩnh
Tôi sẽ phải kêu lên
Như mọi chiến sĩ bị địch bắn
Đảng Lao động Việt Nam muôn năm
Cho mọi người hiểu khi tôi chết
Vẫn còn là một đảng viên
Cho mọi người hiểu khi tôi chết
Máu của tôi vẫn còn là máu của Việt Nam
Ở dưới gốc cây có các cụ già các bà mẹ
đã nuôi cách mạng
Các em nhỏ từ ba tuổi đứng nhìn tôi
dẫy chết
Có mẹ tôi
Ba lần mang cơm đến nhà tù
Hãy quay mặt đi
Cho các đồng chí bắn tôi
Tôi sợ các cụ già không sống được
Bao năm nữa
Để nhìn thấy xã hội chủ nghĩa
Của chúng ta.
Chết đi mang theo hình đứa con
Bị bắn
Tôi sợ các em còn nhỏ quá
Sẽ nhớ đến bao giờ
Đến bao giờ các em hết nhớ
Hình ảnh tôi bị treo trên cây
Bị bắn
Hãy quay mặt đi
Cho các đồng chí bắn tôi…
Nước mắt lúc này vì Đảng nhỏ xuống
Dòng máu lúc này vì Đảng nhỏ xuống
Đảng Lao động Việt Nam muôn năm
Đảng Lao động…
(1956)
( Tác giả gửi cho QTXM)
cùng bi thương bằng thơ chi tiết, điển hình và chính xác đến từng hơi thở của nạn nhân mà Văn Cao xây dựng nên (vẻ lại) tài tình đến thế?”
Có điều, trong bài thơ của Văn Cao, một chi tiết có khác với thực tế tại cuộc hành hình cụ Nghè là:
“Giống như một nữ đồng chí
Một anh hùng của Hà Tĩnh
Tôi sẽ phải
Như mọi chiến sĩ bị địch bắn
Đảng Lao động Việt Nam muôn năm”
Trong khi phiên tòa diễn ra tại Quảng Bình, cụ Nghè đã hô: “Hồ Chủ Tịch muôn năm!” đến 3 lần. Điều này cũng dễ hiểu và phổ biến trong sáng tạo nghệ thuật.
Nhưng cuộc đời cũng có nhiều điều vô cùng ngẫu nhiên tựa như sự sắp đặt cố ý và có trường hợp đến mức thật trớ trêu. Bà quý phu nhân Nhà văn Văn Linh chính là em ruột bà Phạm Thị Liên. Bà Phạm Thị Liên lại là em dâu út (vợ em trai) của người con rể nổi tiếng vừa là “đồng chí” của cụ Nghè Cơ. Bà Phạm Thị Liên và bà Phạm Thị Hoa có người anh trai Phạm Phú Thang - Chủ hiệu ảnh "Phù Thăng" nổi tiếng một thời tại TP. Thanh Hóa.
21 giờ 52' ngày 12/3/2015
TLHA
ĐỒNG CHÍ CỦA TÔI
Người ta các đồng chí của tôi
Treo tôi lên một cái cây
Đợi một loạt đạn nổ
Tôi sẽ dẫy như một con nai con
Ở đầu sợi dây
Giống như một nữ đồng chí
Một anh hùng của Hà Tĩnh
Tôi sẽ phải kêu lên
Như mọi chiến sĩ bị địch bắn
Đảng Lao động Việt Nam muôn năm
Cho mọi người hiểu khi tôi chết
Vẫn còn là một đảng viên
Cho mọi người hiểu khi tôi chết
Máu của tôi vẫn còn là máu của Việt Nam
Ở dưới gốc cây có các cụ già các bà mẹ
đã nuôi cách mạng
Các em nhỏ từ ba tuổi đứng nhìn tôi
dẫy chết
Có mẹ tôi
Ba lần mang cơm đến nhà tù
Hãy quay mặt đi
Cho các đồng chí bắn tôi
Tôi sợ các cụ già không sống được
Bao năm nữa
Để nhìn thấy xã hội chủ nghĩa
Của chúng ta.
Chết đi mang theo hình đứa con
Bị bắn
Tôi sợ các em còn nhỏ quá
Sẽ nhớ đến bao giờ
Đến bao giờ các em hết nhớ
Hình ảnh tôi bị treo trên cây
Bị bắn
Hãy quay mặt đi
Cho các đồng chí bắn tôi…
Nước mắt lúc này vì Đảng nhỏ xuống
Dòng máu lúc này vì Đảng nhỏ xuống
Đảng Lao động Việt Nam muôn năm
Đảng Lao động…
(1956)
( Tác giả gửi cho QTXM)
VÕ ĐỨC TRUNG * HIẾU ĐỆ
Hoài Niệm ) Hiếu Đệ Lão Ngoan Đồng
- Võ Đức Trung -
Tôi biết họa sĩ Hiếu Đệ thuở thiếu thời, lúc Anh còn là một sinh viên trường vẽ Gia Định, hằng tuần vẽ tranh dã sử Huyền Trân Công Chúa, phỏng theo cốt truyện của nhà văn đang nổi tiếng ở Hà Nội là Lan Khai. Những trang tranh đẹp, trẻ trung và hoa mỹ này được đăng ở bìa sau Tuần báo Đời Mới (Bộ cũ ấn hành vào thập niên 50) do Lão ký giả Văn Lang Trần Văn Ân làm chủ nhiệm. Tuần báo Đời Mới là tờ báo có tầm vóc, chuyên về xã hội, văn hóa và nghị luận, tiếng tăm lừng lẫy một thời ở Miền Nam.
Ấy vậy mà anh Hiếu Đệ lúc bấy giờ chỉ là một bạch diện thư sinh, không hơn không kém, lại được nhận vào làm cộng tác viên thường trực với lương bổng hàng tháng và hân hạnh đứng chung với những tên tuổi trong làng văn nghiệp báo như các ông Hà Việt Phương, Nguyễn Đức Quỳnh, Hoàng Trọng Miên, An Khê Nguyễn Bính Thinh, Trần Ngọc Trai, Phan Quang Trường, Hồ Hán Sơn, Giang Tân, Nguyễn Văn Mại, Tế Xuyên, Trường Lưu v.v... cùng với những cộng tác viên sáng giá nhưng không thường trực đương thời như luật sư Vương Văn Bắc, cụ Nghiêm Xuân Thiện, nhà báo Trúc Sơn, nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội, nhà biên khảo Lê Văn Siêu, nhà báo Tam Ích Lê Nguyên Tiệp...
Quả thật đây là một hiện tượng quá hiếm hoi trong lịch sử báo chí miền Nam, dường như có một không hai thời buổi ấy.
Tài năng của Anh được xem như phát triển rất sớm so với những bạn bè trang lứa. Anh đam mê hội họa nói riêng và văn chương nghệ thuật nói chung. Cụ Trần Văn Ân (sinh năm 1903 tại Long Xuyên và mất năm 2002 tại thành phố Rennes, Pháp), ngoài lãnh vực chánh trị mà cụ đeo đuổi xuyên suốt từ ngày còn là sinh viên du học ở Pháp, đồng thời với những nhà cách mạng Việt Nam như các cụ Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm v.v... lại là một nhà báo chuyên nghiệp, già dặn kinh nghiệm.
Cụ có con mắt dùng người nên thu nhận anh Hiếu Đệ, ngoài việc vẽ tranh dã sử, còn giao cho phụ trách cả công việc nặng nề, minh họa toàn bộ các trang trong, nhứt là những trang thi ca và văn chương nghệ thuật. Chính Anh là người đã dày công nghiên cứu, trình bày những trang thơ rất được ưa chuộng của những tác giả làm nên một thời như Quang Dũng, Hồ Dzếnh, Trần Dần, Kiên Giang...
Cụ đã nhắm và chọn đúng người đúng chỗ. Và những bức tranh dã sử bay bướm, hoa mỹ đăng ở bìa sau tờ Đời Mới cũng như những bức minh họa với nét vẽ trẻ trung, tươi mướt của anh Hiếu Đệ đã đóng góp một phần không nhỏ nhằm chinh phục cảm tình, thu hút, lôi cuốn độc giả từ Nam chí Bắc. Anh đã thực sự tiếp tay nâng số phát hành của tờ báo vượt hẳn lên. Trong một hồi ký mới đây vừa ráo mực, chỉ vài tháng trước khi qua đời, khi hoài niệm nhắc nhớ đến cụ chủ nhiệm báo Đời Mới, Anh có ghi lại hiện tượng này mà Anh khiêm nhường cho là một sự may mắn trong đời mình.
Thực tế, Anh đã thành công ngay ở những bước đầu bập bũm, ngấp nghé nghiệp dĩ mà ai cũng cho là giăng mắc khó khăn, đầy chông gai. Để rồi từ điểm khởi hành thành công nhanh chóng ngoài sức tưởng tượng đó và với niềm hãnh diện của tuổi trẻ đang mò mẫm, dò dẫm tìm một lối đi cho đời mình, Anh nguyện tiếp tục đeo đuổi ý nguyện và sự réo gọi của lòng, xuyên suốt bao nhiêu thập niên thăng trầm sóng gió, song hành với dòng sử mệnh khổ đau của đất nước và dân tộc cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay trở về với cát bụi ngày 16 tháng 4 năm 2009.
Nơi đây, hôm nay trong hương khói tưởng tiếc luyến nhớ Anh và với tư cách một người bạn tâm đồng ý hợp đã từng viết chung nhau gần hai thập niên nay, năm bảy tập truyện, ngoài một số bài viết đăng báo, tôi xét thấy có bổn phận và nhứt là tấm lòng ghi lại đôi dòng hoài niệm Anh, gọi là một chút tình riêng đối với người đi trước cho phải đạo. Nhưng thú thật, tôi không hề có tham vọng, vả lại tự xét, biết mình không hội đủ khả năng cùng vị trí để viết lên đầy đủ và trọn vẹn cuộc đời cũng như sự nghiệp văn chương nghệ thuật của Anh. Một cuộc đời quá đỗi phong phú và đa dạng, bao trùm rất nhiều lãnh vực khác nhau như hội họa, biếm họa, văn chương, xã hội và công tác phục vụ cộng đồng. Tôi chỉ dám mạo muội ghi lại nơi đây một số kỷ niệm riêng tư giữa Anh và tôi từ dạo biết nhau và hợp tác với nhau phục vụ văn hóa dân tộc, qua văn chương chữ nghĩa ở hải ngoại.
Đó là khoản thời gian khá dài cả hai anh em chúng tôi nhờ ơn trên và phước đức dòng tộc tổ tiên may mắn thoát khỏi ngục tù cộng sản, để sau đó đành cam chấp nhận cuộc sống lưu vong trong niềm đau ray rứt uất hờn, thường xuyên gậm nhấm tâm tư tình cảm mình. Mặc dù cách xa nhau hằng vạn dặm, tôi tỵ nạn chánh trị ở miền Bắc nước Pháp còn anh thì sống tầm gởi bấp bênh ở tiểu bang Michigan Hoa Kỳ, chúng tôi vẫn tâm đắc trong ý chí hướng thượng, trong quyết tâm kiên trì, phấn đấu chống lại chủ nghĩa cộng sản nơi quê nhà. Cho nên chúng tôi đã cùng nhau chung lưng đâu cật, vượt bao nhiêu khó khăn vật chất lẫn tinh thần, cố gắng bàn thảo, trao đổi, viết chung năm tập truyện đã trình làng, cùng nhiều bài viết đăng rải rác nơi báo chí, đặc san đấu tranh, tập san văn chương học thuật ở khắp nơi trên thế giới.
Nhưng trước hết có một điều tôi thấy cần làm sáng tỏ để những thế hệ về sau này không thắc mắc lúng túng, nếu phải có dịp viết về người nghệ sĩ tài hoa, có nếp sống phóng túng, bất cần đời này. Khi anh từ bỏ anh em chúng tôi vĩnh viễn ra đi trong ngậm ngùi thương nhớ, luyến tiếc ngập lòng của đông đảo bạn bè văn thi hữu bốn phương, Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại và nhiều báo chí cùng báo điện tử khắp nơi có ra thông báo cũng như gởi lời chia buồn cùng gia đình, trong đó ghi rõ năm sanh của Anh là 1935. Có lẽ Văn Bút Việt Nam và các báo ấy ghi lại trung thực năm sanh của Anh trên giấy tờ tùy thân chánh thức khi Anh gia nhập hội?
Thực ra, Anh sanh năm 1932, như anh em chúng tôi đã từng xác nhận nhiều lần trong phần giới thiệu tác giả ở năm tập truyện anh em tôi viết chung nhau là Bên Đục Bên Trong, Niềm Đau Bạc Tóc, Nước Mắt Tình Yêu, Nước Lớn Nước Ròng và Ngàn Sao Lấp Lánh. Bản tiểu sử dù được tóm tắt ngắn gọn này đã được Anh duyệt kỹ mỗi lần sách được nhà xuất bản Hương Cau, Pháp in ấn và phát hành.
Vả lại, Anh cũng từng xác nhận đôi ba lần tuổi thật của Anh trong những bài viết đó đây. Lý do vì vừa từ bỏ chiến khu trở về thành, hoang phí một thời gian “chống xâm lăng” của tuổi trẻ ăn không ngồi rồi vô tích sự, Anh phải khai sụt tuổi để có thể nộp đơn xin vào nhập học trường Mỹ Thuật Gia Định, trong khi Anh đang lang bạt tìm sống ở Thủ đô Sài Gòn phồn hoa xa lạ nhưng có quá nhiều cám dỗ:
“Tôi có lẽ lớn hơn hết giữa các bạn cùng lớp. Vì tôi lấy giấy khai sanh của đứa em tôi để vào trường. Trong giấy khai sanh xuống đến ba, bốn tuổi nên tôi được anh em bầu làm trưởng lớp” (1).
Cũng ở một đoạn khác, khi Anh nhắc đến việc mấy giáo sư Trường Vẽ Gia Định thành lập một nhóm hội họa trong đó có các giáo sư Nguyễn Văn Long, Nguyễn Văn Anh và Lưu Đình Khải. Các vị này lấy tên chung là LAK, tự bỏ tiền túi dựng nên những xưởng vẽ như xưởng sơn mài, sơn dầu, xưởng tranh lụa, xưởng làm mộc v.v... Anh viết:
“Có lẽ mấy thầy thấy tôi lớn tác hơn hết nên cử tôi làm đại diện lớp và cũng là trưởng xưởng luôn. Tôi có bổn phận chăn đám thợ mộc và thợ sơn khá đông. Nhất là vẽ những phần quan trọng trong tác phẩm như phủ mài, đánh bóng. O bế, vẽ mặt mũi thiếu nữ (partie délicate) đều phải có sự trông nom của Hiếu Đệ” (2).
Anh Hiếu Đệ với tư cách là một sĩ quan Tâm Lý Chiến trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị cộng sản miền Bắc lật lộng, gian dối bắt tập trung đi học tập cải tạo trong thời gian năm năm để thỏa mãn chánh sách hận thù, truy diệt những thành viên lãnh đạo hoặc chủ lực của chế độ Miền Nam Việt Nam. Sau khi được trả tự do, Anh không được chánh quyền mới cho phép sinh sống ở Đô thành và dĩ nhiên không được phép hành nghề cũ.
Anh phải làm nhiều việc tạm bợ, lây lất qua ngày tháng, nhưng cuối cùng vẫn bị cưỡng bách quản chế dài hạn ở U Minh Thượng (Rạch Giá – Cà Mau). Nơi đây, Anh có ghi lại sau này tập hồi ký nhan đề U Minh Lưu Xứ có giá trị thời sự nóng bỏng của một giai đoạn đau thương đong đầy nước mắt của người dân Miền Nam, đồng thời tràn ngập những phong tục tập quán của người bản địa. Tập hồi ký này được nhiều nhà phê bình văn học hiện đại đánh giá phong phú, mới mẻ, hiện thực hơn cả tác phẩm Hương Rừng Cà Mau của Sơn Nam Nguyễn Minh Tài, mà một thời tôi nghe đâu đó có người xác nhận “nói dóc có căn cơ”.
Anh đã vượt biên không biết bao nhiêu lần, nhưng mỗi lần đều gánh lấy những thất bại chua cay, thê thảm. Lúc này, Anh đã thực sự kiệt quệ từ vật chất lẫn tinh thần, nhiều lúc đâm ra thất vọng ê chề. Vì Anh cứ ngỡ rằng mình đang ở tận chân tường, tiến thối lưỡng nan, mình sẽ vĩnh viễn chôn chặt cuộc đời nơi xứ tù chung thân xã hội chủ nghĩa. Anh sẽ không bao giờ còn có dịp cầm cọ và cầm bút trở lại. Một niềm đau ray rứt, câm nín của một nghệ sĩ sáng tác chân chính bị chế độ chuyên chính độc tài tước đoạt những quyền tối thiểu, những quyền cơ bản của con người và nhứt là những giá trị thiêng liêng của Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền.
Lần vượt biên sau cùng, Anh bị công an cộng sản bắt câu lưu năm 1980, khi chuyến mạo hiểm sinh tử này bị bể ở một cửa biển thuộc tỉnh Bến Tre. Nếu tôi nhớ không lầm là Bình Đại thì phải. Anh có nói chắc chắn lần ấy, Anh đã bị bọn tổ chức vượt biên bất lương phối hợp với đám bán bãi gày bẫy để cướp đoạt tài sản, nhà cửa người dân vô tội, nhứt quyết trốn bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa bằng mọi giá. Cho dù cái giá đắc nhứt là sự sống.
Anh đã ghi lại tỷ mỷ diễn tiến tình tiết éo le, cười ra nước mắt của lần thất bại hi hữu đó trong hồi ký Đầu Năm Ngọ Cơ Đồ Đổi Thay, qua giọng văn hiện thực quen thuộc của Anh. Một giọng văn vừa hóm hỉnh, trào lộng nhẹ nhàng, vừa sâu sắc đắng cay, thấm thía một nỗi buồn cô đơn dằng dặt đêm ngày bất tận, một niềm đau bất lực tận cùng của hầu hết người dân Miền Nam mất tự do, trói mình sống trong sự khống chế, kềm kẹp tàn nhẫn của một chế độ hà khắc sắt máu, tham nhũng bất nhân nhứt trong chuỗi dài lịch sử dựng nước.
Nhưng cuối cùng, may mắn rồi cũng đến với anh, với cả gia đình Anh. Anh được đến bến bờ tự do ao ước qua diện H.O. để đến trại chuyển tiếp Palawan, Phi Luật Tân, trước khi đi định cư năm 1990 ở Thành phố Holland thuộc Tiểu bang Michigan Hoa Kỳ. Tại đây, Anh đành chấp nhận cuộc sống lưu vong đến khi qua đời năm 2009. Và tôi cũng bắt đầu liên lạc lại với Anh qua trung gian một bậc đàn anh văn nghệ vong niên đáng kính, quen biết lâu đời trước 1975.
Đó là anh An Khê Nguyễn Bính Thinh, nhà văn nhà báo chuyên nghiệp mà chúng tôi thân tình thường gọi là anh Chín. Anh đã từng nổi tiếng một thời ở Miền Nam trước 1975 vì đã dám cả gan lãnh viết cùng một lúc mười ba tiểu thuyết đăng hằng ngày (feuilleton) trên các nhựt báo lớn ở Sài Gòn lúc bấy giờ, như Tiếng Chuông của cụ Đinh Văn Khai, Sài Gòn Mới của bà Bút Trà, Công Nhân của cố ký giả Trần Tấn Quốc, Buổi Sáng của Tam Mộc Mai Lan Quế, Tia Sáng của Nguyễn Trung Thành, Thời Báo của Dương Chí Sanh v.v...
Anh An Khê cũng mới vừa đặt chân đến Pháp qua diện đoàn tụ gia đình do người con gái đầu lòng là cô Vân Nga bảo lãnh và đang tạm sinh sống ở miền Nam nước Pháp. Lúc ấy, anh chưa có giấy tờ hợp lệ để được phép ở lại Pháp. Mặc dù còn trong hoàn cảnh khó khăn bấp bênh nhưng anh lại có cơ may sớm liên lạc được với anh Hiếu Đệ trước tôi, trong khi tôi đã nhiều năm dọ hỏi hoài công qua các báo chí nơi anh cộng tác vẽ tranh biếm họa.
Tôi vẫn nhớ và vẫn giữ kỹ bức thư anh An Khê viết cho tôi ngày 6 tháng 8 năm 1994 sau khi lưu ý tôi địa chỉ của anh Hiếu Đệ kèm theo một số tranh hí họa của anh ấy:
“Hiếu Đệ là em út của tôi từ ngày mới tập tễnh vào nghề ở tờ Đời Mới của cụ Văn Lang Trần Văn Ân. Chú nhớ liên lạc với nó. Nó bụi đời, nhưng cởi mở và dễ thương lắm. Nó là loại Lão Ngoan Đồng Châu Bá Thông đấy. Chú nhớ đừng quên liên lạc với nó!”.
Lúc bấy giờ, tôi đang phụ trách trông coi phần nội dung của đặc san song ngữ Văn Hóa Pháp Việt (France Vietnam Culture) xuất bản mỗi hai tháng một kỳ tại miền Bắc Pháp. Từ dạo đó, chính anh Hiếu Đệ cũng như anh An Khê đã nhiệt tình đóng góp rất nhiều bài vở và ý kiến xây dựng,
những kinh nghiệm quý báu được tích lũy qua những năm dài lăn lóc trong ngành báo chí trước đây ở quê nhà. Và chính sự đóng góp thường xuyên liên tục và tình nguyện vô điều kiện ấy ở mỗi số báo, không sót một số nào cả, đã giúp cho sự thành công của tờ Văn Hóa được kéo dài hơn mười lăm năm cho đến ngày đình bản vì lý do sức khỏe của tôi.
Anh Hiếu Đệ còn liên tục tô điểm tờ báo qua những bức tranh biếm họa độc đáo, diễn tả tinh thần đối kháng đáng phục, thể hiện lập trường cương quyết nói lên ý thức đấu tranh cao độ vì chính nghĩa và lý tưởng quốc gia dân tộc. Qua những sáng tạo dưới nét vẽ thâm trầm, ý nghĩa sâu sắc đó, Anh không ngừng khẳng định thái độ dứt khoát, trước sau như một của mình, chống lại chủ nghĩa cộng sản vô thần, tàn ác sắt máu, tham nhũng ung thối, cướp giựt công khai.
Và tôi cũng không ngờ qua lần giới thiệu này của anh An Khê lại là một điềm anh An Khê có linh tính ký thác những người ở lại tiếp tục nối vòng tay lớn, đồng tâm hiệp lực, chung lưng nhau cùng đi trên con đường thênh thang chói chan của dân tộc, của tình thường và của tổ quốc quật cường. Cũng nhờ đó, hai anh em chúng tôi, Hiếu Đệ và tôi mới có dịp hợp tác lâu dài đến phút cuối cùng của một đời người. Nhưng tiếc thay, những việc chúng tôi cùng làm chung nhau một cách quyết tâm và cụ thể lại đến quá muộn màng vì anh An Khê đã ra đi không lâu sau đó, mất đi một dịp thỏa lòng ký thác.
Ngoài việc hợp tác văn hóa, về phương diện cá nhân riêng tư trong cuộc sống cộng đồng và xã hội, tôi rất mến mộ anh Hiếu Đệ ở nhiều khía cạnh tình cảm và cung cách xử thế. Là một con người, lại là con người năng động, không ngại dấn thân trong nhiều lãnh vực khác nhau, va chạm không ít, nhứt là trong bối cảnh ly hương tỵ nạn, lòng người phân tán phức tạp, níu kéo nhau qua danh vọng tiền tài, quyền lợi riêng rẻ của cá nhân và phe nhóm, dĩ nhiên trong hoàn cảnh ấy mỗi người dù có tinh thần và thiện chí đến đâu cũng không sao tránh khỏi những phiền hà tai tiếng đến từ nhiều phía. Đó là chưa nói đến đám cán bộ cộng sản nằm vùng và tai sai ẩn mình, trường kỳ mai phục, hoặc đội lốp quốc gia chống cộng đầu môi chót lưỡi, luôn tìm mọi sơ hở nhỏ nhặt để đánh phá, gây hoang mang, chia rẻ trầm trọng, hủy diệt niềm tin cùng tiềm năng và chiến đấu tính của cộng đồng Việt Nam tỵ nạn cộng sản. Lắm lúc anh Hiếu Đệ vẫn bị bươi móc đời tư, vẫn bị “chụp mũ“ và bị gán cho hai chữ “thân cộng” hay thâm độc hơn là “cộng sản nằm vùng trường kỳ mai phục”.
Cũng may, không vì thế mà anh chán ngán, nãn lòng, xuôi tay bỏ cuộc. Anh không đặt nặng cá nhân mình, mặc dầu đôi lúc tình cảm riêng tư, tự ái bị tổn thương trầm trọng. Vì Anh cho rằng tình đời vốn dĩ là như thế, không phải luôn luôn lúc nào cũng xuôi chèo mát mái như mình tưởng. Mà lắm lúc thác ghềnh giăng mắc, quanh co hiểm nguy không tránh khỏi trên từng bước đi. Mình phải chấp nhận, xem đây như một định luật bất biến của trời đất. Đó là tâm tình chân thật của Anh qua vô số thư từ Anh thường xuyên liên tục gởi cho tôi.
Trái lại, Anh vẫn mạnh dạng chóm dậy, đứng thẳng người, dỏng dạt tiếp tục đi tiếp và đi trọn vẹn đến hơi thở cuối cùng con đường chính nghĩa quốc gia chói lòa ánh sáng, tiếp tục cuộc chiến sống còn dang dở của một quân nhân không hề chấp nhận buông súng giải ngũ. Nếu ngày nay Anh không còn có một thứ vũ khí sắt bén nào trong tay, Anh vẫn còn một thứ vũ khí khác vô cùng hữu hiệu hơn, đáng sợ hơn: đó là vũ khí tinh thần. Một thứ vũ khí tuyệt vời không một ai, không một thế lực nào có thể lung lay, khống chế hay dễ dàng mua chuộc được.
Nội dung những bài viết liên tục hằng tuần hằng tháng, tất cả những bức tranh biếm họa, hí họa được triệt để khai thác theo những đề tài thời sự nóng bỏng, vừa nhạo báng sâu cay, vừa thâm trầm ý nghĩa, tràn ngập trên báo chí hầu như khắp nơi trên thế giới, từ Hoa Kỳ sang Âu Châu đến Úc Đại Lợi... và nhứt là gần đây ở các báo điện tử, liên mạn, đã nói lên một cách hùng hồn tinh thần đấu tranh kiên cường và chống cộng dứt khoát của Anh. Anh không cần lên tiếng phân trần hoặc phản bát đôi co về những lời xuyên tạc hạ cấp, vì xét thấy không cần thiết đối với những bôi bẩn vu vơ, không căn cứ, đôi khi dựng đứng với cố tình và ác ý.
Anh thường tâm sự với tôi qua điện đàm hay qua những bức thư dài viết gởi tôi hầu như hằng tháng là Anh nguyện với lòng chỉ lấy thực tế của hành động, của tiếng nói trung thực của quả tim mình để chứng minh. Tôi nghĩ chắc ít có người nào dù khó tánh hay hẹp hòi đến đâu phủ nhận được ý nghĩa đích thực về những sáng tạo tim óc của Anh.
Dù sự bất lợi đó đối với một họa sĩ chuyên nghiệp, suốt đời sống với màu sắc, sống với sáng tạo tự do và lại là nhà văn bất đắc dĩ trong hoàn cảnh chẳng đặng đừng nơi cõi tạm lưu vong, nhưng có chí hướng, soi sáng bởi tâm lành, bởi quyết tâm phải làm một cái gì để không cúi mặt, không hổ thẹn ở những ngày tháng cuối đời, Anh tự biết mình chỉ còn có một loại vũ khí duy nhứt sót lại nơi hải ngoại. Đó là cây cọ và ngòi bút. Nhưng là cây cọ sắt. Và ngòi bút thép. Với bấy nhiêu cũng đủ cho Anh đối phó với cả một hệ thống cộng sản phản động. Chúng liên tục và xuyên suốt đánh phá cộng đồng với những phương tiện nhân sự và tài chánh khổng lồ, đục khoét bòn rút nơi hơn tám mươi mấy triệu sinh mạng người dân vô tội từ Nam chí Bắc, triền miên đói nghèo, mất tự do.
Do vậy, tôi luôn luôn mến mộ Anh. Vì một lẽ dễ hiểu là Anh quả là con người chí tình chí nghĩa, một mẫu mực thủy chung như nhứt. Con người Anh không hề bị vẩn đục thường tình, dù hoàn cảnh và trạng huống éo le ngang trái nào. Một thứ tình nghĩa trong sáng, hào hiệp, trực tính, không hề có hậu ý toan tính hơn thiệt, thiệt hơn, mặc dù đôi lúc có vẻ ngang tàng, “bụi đời”, “chịu chơi “. Nhưng là cái ngang tàng lãng mạn rất mực dễ thương, vừa yêu đời yêu người, vừa yêu thiên nhiên vạn vật, chớ không phải cái ngang tàng hận thù chém giết của đám “du côn” đầu trộm đuôi cướp nhan nhản khắp nơi trong xã hội, nhứt là của bọn “đỉnh cao trí tuệ” trong chế độ xã hội chủ nghĩa nơi quê nhà.
Một trong những đức tính nổi bậc ấy là tình nghĩa của Anh đối với bạn bè, đặc biệt là những bạn bè thân thiết chí cốt, những bạn nối khố từ những lúc còn mài đủng quần trên ghế nhà trường trung học. Anh dám hy sinh tất cả, mặc kệ những trói buộc của gia đình, vốn không dư dả hơn ai, lại đùm đùm gánh nặng con cái nheo nhóc. Những lúc ấy, Anh bất cần hậu quả ra sao về sau, miễn giúp được bạn bè mãn nguyện và hạnh phúc là Anh vui rồi.
Anh chẳng đã từng viết:
“Con người còn có một niềm khích lệ lớn là bạn bè. Những người am hiểu và cùng chia xẻ những nỗi vui buồn với mình” (3)...
“Ngày tôi mới đến Sài Gòn, tôi có làm anh em với đám bụi đời đánh giày trên hè phố. Muốn có thùng dụng cụ để đi đánh giày phải chịu nhiều điều kiện. Trường hợp mình làm ăn khá thì phải nuôi lại những đứa chân ướt chân ráo mới vào đời. Do đó, tôi có thói quen giúp đỡ anh em. Nhứt là sau này với các anh em làm văn làm báo ở miền Bắc miền Trung bị Dương Văn Giáo đuổi vào Sài Gòn mang thân phận ‘Hành Phương Nam’ kiểu nhà thơ Nguyễn Bính” (4).
Cuộc đời truân chuyên lận đận của Anh từ thuở thiếu thời, xa cha mẹ gia đình để vào Sài Gòn đi học và sau đó lang thang “bụi đời” nơi phồn hoa đô thị, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với Anh. Chính cuộc sống lang bạt, rày đây mai đó, xem như không có nơi nào làm điểm tựa chắc chắn để ẩn thân, chính cuộc sống phóng túng rất sớm ấy, về sau khi có địa vị vững vàng đã giúp Anh mở rộng cửa lòng, dang tay giúp đỡ những người chung quanh. Anh thông cảm và thương yêu tha nhân, nhứt là những người cô thế, lỡ bước, thường bị dồn vào chân tường trong một đất nước luôn luôn bị phân hóa vì chiến tranh, trong một xã hội đua chen tranh giành nghiệt ngã. Nếu kể ra đây những lần ra tay nghĩa hiệp của Anh, tôi nghĩ không bút mực nào kể cho xiết.
Tôi chỉ xin ghi lại đây một trường hợp hi hữu, hiếm hoi có thể là có một không hai trên thế gian rối nhùi lắm chuyện này, xem như tiêu biểu cho nhận xét của tôi. Và tôi dám quả quyết chắc chắn khó có một người nào khác có thể thực hiện được như Anh.
Trong hồi ký cuối đời khi nhắc nhớ đến cụ Đinh Văn Khai, chủ nhiệm nhựt báo Tiếng Chuông trước 1975 ở quê nhà, người đã từng nhiều lần bênh vực, đỡ đầu và thực tình ra tay nghĩa hiệp giúp đỡ Anh trong những lúc khó khăn bế tắc, Anh viết những dòng sau nầy xem như lời tạ ơn muộn màng đối với một bậc đàng anh văn nghệ khả kính đã mất ở Canada cách đây hơn mười năm:
“Vợ tôi có bầu đứa con đầu lòng, tôi thấy nàng rất lo lắng. Nàng nhịn ăn, dành dụm từng chục bạc cẩn thận bỏ trong cái gối nằm. Hỏi ra tôi mới biết cô nàng để dành tiền, phòng khi đi sanh nở.
“Lúc đó, họa sĩ Nguyễn Văn Phương đang lo triển lãm tác phẩm của mình. Nguyễn Văn Phương sau này là tác giả Mỹ Thuật Việt Nam Hiện Đại do Nha Mỹ Thuật ấn hành. Anh ta bị thiếu hụt khoản tiền đóng khuôn. Anh ta chạy đến tôi để xin cầu cứu.
“Tôi suy nghĩ mãi không biết lấy tiền ở đâu ra. Tôi chợt nhớ tới cái gối tiền của vợ tôi dành để đi nhà bảo sanh. Tôi lấy ngay trao cho Nguyễn Văn Phương ôm đi để gở kẹt làm cho vợ tôi ngồi khóc quá cở.
“Tôi an ủi vợ tôi:
“- Em đừng có lo, lỡ có chuyển bụng em cứ đi nhà bảo sanh, tiền sanh nở để anh lo cho, không sao đâu. Hôm nay mình lo cho bạn bè để cho nó nổi tiếng, mai sau đến phiên mình trình bày tranh thì anh em họ xúm nhau lo lại, chứ mình có mất mát gì đâu.
“Lúc này, tôi đang ở Xóm Cầu Mới hẽm Trần Quang Khải, gần rạp chiếu bóng Văn Hoa. Tôi nhớ tối hôm đó vợ tôi chuyển bụng. Nàng đòi đi nhà bảo sanh. Mấy chị hàng xóm chạy lại bu quanh nhà. Mấy chị nói thầy Đệ, con người chậm lụt lắm để chị em chúng tôi đưa cô Mười đi sanh còn mau mắn hơn.
“Họ chở vợ tôi trực chỉ đến chợ Đa Kao nơi nhà bảo sanh Hạnh Phước. Tôi đủng đỉnh theo sau mấy chị em phụ nữ ở xóm lao động này. Họ thấy gia đình tôi cũng khá đơn chiếc nên họ giúp đỡ thật chí tình.
“Vài ngày sau, tôi chạy xuống tòa soạn báo Tiếng Chuông ký cái biên nhận một ngàn đồng. Cô Thu Ba (con gái ông chủ nhiệm Đinh Văn Khai) cầm biên nhận của tôi lên phòng ông chủ nhiệm kiện:
“- Ông Hiếu Đệ tháng này con thấy ổng có vẽ cái gì đâu mà Ba lại ký cho ổng lãnh đến ngàn đồng lận.
“Ông chủ nhiệm cười:
“- Ba ký cho ổng đó. Con có biết sao không? Vợ ổng sanh cháu bé đó. Lẽ ra ba còn ký thêm để mừng cho gia đình ổng nữa chớ.
“Cô Thu Ba vừa đi vừa cằn nhằn nhưng rốt cuộc cô ta cũng phát tiền cho tôi“.
Lối sống của anh Hiếu Đệ là như thế đó. Nói bốc đồng thì cũng đúng phần nào, nhưng thực sự tôi nghĩ không hẳn là như vậy. Bởi vì Anh vốn có cái tâm lành trong con người Anh. Cái thiện thâm đó hướng dẫn Anh thương mến bạn bè, cảm thông nỗi khốn khó bất hạnh của tha nhân. Đọc Anh trong những tác phẩm viết chung nhau, tôi nhận thấy dễ dàng không biết bao nhiêu trường hợp tương tự mà Anh ghi lại với tất cả tấm lòng triều mến lo lắng và nhứt là có trách nhiệm cao độ, một khi Anh đã quyết tâm dấn thân. Nhưng đôi khi cái tâm lành ấy gây cho Anh khá nhiều rắc rối, hiểu lầm là khác.
Dạo nọ, Anh mới được thả về từ trại cải tạo sau năm năm dài đọa đày, gian khổ “trả nợ máu“ qua nhiều trại tù hắc ám, tưởng chừng không có ngày về với gia đình vợ con. Chỉ vì một câu chuyện cũ, Anh đã vẽ mười mấy tên Việt cộng ốm nhom ốm nhách, đói trơ xương cùng nhau ôm một cọng đu đủ mà không hề bị gãy. Cũng như hầu hết các bạn đồng hội đồng thuyền bất hạnh khác, Anh bị đặt dưới sự quản lý của địa phương một thời gian. Thời gian Anh chờ đợi đủ điều kiện ấn định để được tổ dân phố cứu xét trả quyền công dân. Từ đó, Anh mới có thể trở thành người công dân bình thường, tức có hộ khẩu chánh thức và hằng tháng được hưởng phần phân phối nhu yếu phẩm chết đói. Nếu Anh không tìm được công ăn việc làm hợp lệ theo tiêu chuẩn khắc khe của chế độ đặt định lúc ấy thì sẽ bị xúc đi vùng kinh tế mới để sản xuất tự túc.
Mỗi ngày, hầu như không sót ngày nào, Anh đều bị tên công an khu vực, một tên răng đen mã tấu ngu ngơ dốt nát Miền Bắc mới vào công tác trong Nam với bộ áo quần màu vàng thùng thình xốc xếch nhưng nghênh ngang hống hách, kênh kiệu tự đắc, xem trời bằng vung, đến dò la tìm kiếm, hỏi thăm sức khoẻ. Do đó, những người thân trong gia đình mới khuyên lơn Anh nên thử thời vận đến nộp đơn xin việc làm ở Phòng Thương Mãi Đô Thành.
Lúc bấy giờ Phòng Thương Mãi được đổi tên mới là Trung Tâm Quảng Cáo Ngoại Thương Thành Phố. Nơi đây người ta chuyên phụ trách trình bày các loại bao bì cho những mặt hàng xuất khẩu.
Tên Tổng Giám Đốc lại là người láng giềng với gia đình Anh. Anh tưởng đâu tên này có thể nhờ cậy được, có thể giúp Anh một tay để thoát khỏi bế tắt ngặt nghèo, tận chân tường. Thì ra hắn ta cho biết hồ sơ của Anh bị phòng nhân viên bát bỏ, vì ở đây không nhận những người tù cải tạo mới về.
Họ chỉ nhận anh Trần Dinh. Họa sĩ Trần Dinh là anh của nhà thơ Trần Dần, từng nổi tiếng chống đảng và suốt đời bị trù dập, cất đầu không lên. Anh ta ở Hà Nội vừa vào Sài Gòn, chưa có chỗ ở. Tên Tổng Giám Đốc nói nhà Anh có đến bốn từng lầu, xin cho anh Trần Dinh ở trọ một thời gian.
“Tôi dẫn anh Trần Dinh về nhà bị vợ tôi cằn nhằn quá:
“- Đã không xin được công ăn việc làm thì chớ, ai lại đi lãnh cái búa bao giờ. Anh Trần Dinh vẽ biếm họa cho tờ Nhân Văn Giai Phẩm bị cải tạo khá lâu, nay lại ở chung với Anh, một cây biếm họa nổi tiếng trong Nam. Mặc dầu anh chẳng có vẽ cóc gì nữa nhưng người ta vẫn để ý. Tại sao các ông chỉ muốn gây chuyện với công an hoài vậy? Người ta trả hồ sơ xin việc lại cho anh. Tại sao anh không biết trả họa sĩ Trần Dinh lại cho người ta? Chuyện đó dễ thôi!“.
Nói gì thì nói, họa sĩ Trần Dinh cũng tá túc một thời gian nơi nhà anh Hiếu Đệ. Mặc dù Anh vẫn ý thức về những âu lo canh cánh của người vợ hiền đảm đang chịu đựng. Chị đã từng thay mặt Anh trong những ngày dài tù tội để bươn chải nuôi nấng đàng hoàng đám con dại, cả việc thăm nuôi chồng tươm tất:
“Đám cộng sản bảo là vợ tôi quản lý chồng con còn chặt chẽ hơn cả công an khu vực. Chỉ sợ tôi uống rượu say rồi chửi đổng. Cộng sản bắt đi cải tạo trở lại mút mùa. Nhà nước bỏ tù một công dân coi như bỏ tù cả vợ con của công dân đó luôn. Nếu không xách giỏ đi nuôi thì tên tù phải chết đói. Con cái không được học hành và kiếm việc làm. Muôn đời bị khép vào hồ sơ chính trị loại C“ (5).
Chung qui, nếu anh Hiếu Đệ hành xử như vậy chẳng qua do cái tâm lành tiềm ẩn, lẩn quất thường xuyên trong Anh, chỉ chợt phát hiện, bộc bạch ra ngoài trước một nghịch cảnh éo le ngang trái, trước một trạng huống bế tắt khó xử. Cái tâm lành đó ở Anh là tình thương tha nhân, “thương người như thể thương thân“, bao la trong sáng, chính là căn bản tất yếu của cuộc đời và cả của nhân loại.
Tôi lại chợt nhớ một đoạn văn Anh đã chắt chiu trang trải vuông tròn quan điểm này của mình, khi thay mặt một trại viên cải tạo đấu lý với một nữ cán bộ cộng sản trẻ đang được bố trí công tác tại trại này:
“... Tôi tin tình thương lớn hơn hận thù. Tình thương thắng cả hận thù và ganh ghét. Lúc sanh ra, chúng ta nằm trong cánh tay bà mẹ đầy tình thương yêu cho đến khi lớn lên, đi học đến trường thì nhà trường cũng đào tạo chúng ta có chút đỉnh văn hóa để hiểu nhân loại tiến bộ vì lấy tình thương làm căn bản. Tình thương ăn sâu vào tâm trí chúng ta như một qui luật. Cái qui luật ấy chẳng phải riêng cho loài người mà xét kỹ ra là cho cả muôn loài trong vũ trụ. Loài người có óc thông minh, óc sáng tạo mới tìm ra lẽ huyền vi ấy. Đó là sự thật. Đó là chân lý… Chúng ta sanh ra đâu có nanh có vuốt như loài ăn thịt sống hẻo hông? Chúng ta chỉ có hai cánh tay là vũ khí tình thương để thương yêu nhau, nắm chặt tay nhau để chống lại cuồng bạo của thiên nhiên từ xa xưa đến nay. Hai cánh tay ấy không cho phép chúng ta sống cô độc hay chia bè phái kình chống nhau. Chúng mặc nhiên bảo chúng ta thương yêu, giúp đỡ nhau để trường tồn. Tình thương là chìa khóa căn bản của cuộc đời, của nhân loại» (6).
Sống rộng rãi cởi mở, bộc trực, bất cần đời như lời văn mộc mạc, chơn chất thật thà cố hữu của Anh, viết như nói, nghĩ sao viết vậy, không chải chuốt cầu kỳ, không làm duyên làm dáng, khiến độc giả bốn phương rất thương mến và quý trọng Anh. Anh còn một ưu điểm khác làm cho khi vắng Anh trên chốn lưu đày bất đắc dĩ nầy, lòng tôi luôn ray rứt nhớ thương Anh, ngoài sự cảm phục chân thành và sâu xa của tôi. Đó là tánh Anh không hề giận ai lâu, không màng nghĩ tới việc hờn ghét người nào dây dưa. Anh không giữ mãi trong bụng mình những tình tiết khó chịu, thoáng qua ấy. Nói rõ ra, Anh rất dễ xí xóa bỏ qua mọi chuyện. Sự thứ tha nơi Anh không khó lắm, đôi khi cũng nhờ thời gian giúp Anh mau quên tất cả, vì Anh vốn là một Phật tử, hiểu tận tường giáo lý nhà Phật, từ bi hỉ xã.
Nhiều lần, tôi bất đồng ý kiến với Anh về một đoạn văn dính liếu đến thời sự chung quanh những vấn đề chánh trị phức tạp, sôi động, có thể gây hiểu lầm hoặc vô tình tạo tranh luận vô ích, làm mất tình đoàn kết trong cộng đồng tỵ nạn cộng sản. Hay những ghi nhận hồi ức liên quan đến hành vi cùng những lời tuyên bố bất lợi của một nhân vật tên tuổi có thật ngoài đời. Những lúc đó tôi thành thật góp ý góp lời với Anh. Lắm lúc vì nghĩ suy nong cạn, tôi cứ ngỡ Anh có thể sẽ hờn giận tôi vì những lời nói thành thật và dứt khoát ấy của tôi.
Nhưng không. Tuyệt đối không.
Anh vẫn hồi âm tôi ngay sau đó ít ngày, chỉ ít ngày ngắn ngủi thôi, có lẽ vì Anh sợ tôi trông chờ chăng? Chẳng những Anh không phiền hà giận hờn gì tôi, mà trái lại còn vui vẻ xác nhận những sơ hở vô tình đó của Anh. Chẳng những Anh không hẹp hòi cố chấp, Anh còn tỏ ra biết phục thiện nữa.
Anh vốn là một Phật tử thuần thành, một Phật tử tu tại gia thì đúng hơn. Hoặc một thiền giả cũng không sai hẳn. Anh lại chung thủy với mọi người đã có một thời đi qua đời Anh và đã để lại trong Anh nhiều kỷ niệm đẹp. Ai cũng biết trước 1975, Anh có mối quan hệ nghề nghiệp khá khắng khít với nhà xuất bản L. B., lúc ấy hình thành và sanh hoạt vững mạnh một thời gian khá dài ở Sài Gòn. Anh có cho tôi biết cơ sở này do nguồn tài chánh quan trọng hầu như duy nhứt của thiền sư Nh. H. từ ngoại quốc liên tục gởi về chi viện.
Đó là thời kỳ chiến tranh lên cao độ. Cộng sản miền Bắc chủ trương xâm lăng Miền Nam bằng mọi giá, với sự hổ trợ đắc lực, không giới hạn về nhân lực và tài lực của cả khối cộng sản quốc tế Nga, Tàu và các nước Đông Âu. Quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa mọi cấp, mọi ngành bắt buộc phải hy sinh xương máu, chiến đấu để tự vệ. Có lúc họ phải chiến đấu đơn phương trong hoàn cảnh cực kỳ thiếu thốn, nhằm bảo toàn lãnh thổ quốc gia, cùng duy trì nền tự do dân chủ và quyền sống của mình.
Cộng sản miền Bắc bản chất dối gian, ma giáo, quỷ quyệt đưa ra chiêu bài hấp dẫn thời chiến: chấm dứt chiến tranh. Chúng không ngớt huênh hoang tuyên truyền đòi Miền Nam và Hoa Kỳ phải lập lại hòa bình tức khắc trong những lúc tiềm lực chiến tranh của chúng suy yếu, thực sự có nhiều bất lợi cho mộng xâm lược của Bắc bộ phủ. Dù vậy, chúng cũng gây được phong trào phản chiến qui mô rầm rộ ở Hoa Kỳ và ở hầu hết các nước kỹ nghệ tân tiến, nhờ sự tiếp tay đui chột, mù quáng của giới truyền thông cùng báo chí thiên tả và nhứt là đám “trí thức“ khoa bảng ngây ngô cứ tưởng mình tiến bộ, tiên phong dẫn dắt dư luận thế giới và thời đại.
Thiền sư Nh. H. là một trong những phần tử Việt Nam hiếm hoi ở hải ngoại thời bấy giờ đã liên tục cổ võ nhiệt tình cho “phong trào hòa bình“ nầy. Một phong trào quốc tế có tầm cở rộng lớn vô cùng bất lợi cho công cuộc chiến đấu tự vệ vì chánh nghĩa và sự sống còn tất yếu của Miền Nam. Một trong những lý do quyết định đã đưa đến thảm họa đau thương ngày 30 tháng tư năm 1975.
Nên nhớ ở trong nước, nhà xuất bản L. B. được hai thầy T M. V Th. T. và Th. T. trông coi mọi việc xuất bản và điều hành cho đến ngày Miền Nam bị cưởng chiếm. Sau này, thầy T. M. thành lập nhà sách và nhà xuất bản V. Ngh. ở Californie, Hoa Kỳ. Trong khi thầy Th. T. lập ra một nhà xuất bản riêng lấy tên là A. T. Cả hai tiếp tục in sách ở hải ngoại nhiều thập niên qua, nhưng nay đã ngưng hẳn hoạt động.
Ai cũng biết thiền sư Nh. H. mang quá nhiều tai tiếng trong cộng đồng tỵ nạn cộng sản. Những việc làm bấy nay và những lời tuyên bố có lợi cho cộng sản của thiền sư nhằm đánh phá chánh nghĩa quốc gia, báo chí đấu tranh khắp nơi trên thế giới đã trung thực và thường xuyên phơi bày cặn kẽ. Nơi đây tôi không có ý thêm bớt chi cả. Nhưng những sự kiện hiển nhiên có đầy đủ bằng cớ nầy không một ai có thể nói khác hơn được, ngoại trừ bọn cộng sản nằm vùng và tai sai khuyển mã của chúng, đến nay vẫn tiếp tục bênh vực, thay đen đổi trắng.
Trong những bài viết, thỉnh thoảng anh Hiếu Đệ có nhắc nhở, dù phớt qua vài câu hay vài đoạn đến thiền sư Nh. H., do chỗ có qua có lại ngày xưa với nhau. Việc nhắc nhở này theo tôi nghĩ và biết rõ ràng như là một kỷ niệm, một chứng nhân trong vô vàn kỷ niệm và chứng nhân khác trong các ký ức của Anh thôi. Vì Anh không hề cố tình. Vì Anh không có một hậu ý đen tối nào khác.
Nhưng chính những lần đó, tôi khuyên Anh nên mạnh dạng cắt bỏ, không nên giữ lại những đoạn văn ấy, tức tôi muốn Anh không cần thiết phải nhắc đến tên thiền sư Nh. H. Việc nầy chỉ để tránh khơi dậy niềm đau trầm thống và sự phẫn uất chất ngất của những người quốc gia chân chính đang sống lưu vong nơi xứ người hay những người vô phước vô phần còn đang dở sống dở chết ở trong nước. Nhứt là đối với đông đảo gia đình thương phế binh và tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa, cùng những người đã anh dũng nằm xuống đâu đó trên quê hương vì đại nghĩa trong cuộc chiến tự vệ khốc liệt vừa qua.
Và cũng vì lẽ đó cho nên trong những trường hợp bất khả kháng, chẳng đặng đừng, chúng tôi viết tắt hai chữ: Nh. H. mà thôi. Hoặc ghi đại khái là một thiền sư, không xác nhận rõ tên họ... Đó là trường hợp gần đây, Anh viết một bài hoài niệm nhạc sĩ Anh Việt tức Đại tá Trần Văn Trọng, tác giả nhạc phẩm bất hủ Bến Cũ. Những lần này, Anh không hề tự ái, phiền hà giận hờn gì tôi và tiếp tục cư xử với tôi như bát nước đầy, không một chút gợn.
Sống trong các trại cải tạo của cộng sản, những nhà tù trá hình khổng lồ và khủng khiếp nhứt trong lịch sử loài người từ thượng cổ đến nay, con người không thể nào tránh khỏi đôi lúc thể hiện đầy đủ và rõ nét cá tánh cùng bản chất của mình. Thường xuyên bị rúng ép kềm kẹp, bị khống chế tình cảm và tinh thần, thiếu thốn về mọi mặt, trong khi sức chịu đựng của con người dù sao cũng có giới hạn, họ rất dễ dàng phản ứng khác ngày thường, đôi khi thiếu hẳn suy nghĩ. Chỉ vì một lời nói, một cử chỉ, một chi tiết nhỏ nhặt không đâu. Một người bạn tù của anh Hiếu Đệ có thuật lại giai thoại sau đây chung quanh một cục sà bông.
Anh tên là Bùi Phú. Sau thời gian “trả nợ máu” dài hạn, rốt cuộc anh cũng qua được Hoa Kỳ theo diện H.O. Anh may mắn gặp lại anh Hiếu Đệ ở Chicago, nhân một buổi hợp mặt đông đảo của cộng đồng người Việt tại đây dịp hội Tết Nguyên Đán. Ngồi nơi bàn tiệc, Bùi Phú mới kể chuyện về Hiếu Đệ ở trong trại cải tạo cho mọi người cùng nghe.
«Anh ta nói:
«- Buổi chiều hôm đó, anh em đi lao động về kéo nhau xuống suối tắm. Có anh nọ được vợ cho một cục sà bông Dove thơm phức. Anh ta ra điều kiện chỉ cho mỗi đứa chà sà bông lên đầu một phát thôi. Trong lúc anh Đệ với tay tìm cục sà bông thì mắt nó bị cay xè nhìn không rõ, chụp lấy tay anh Đệ chửi thề:
«- Con C... nè! Tao thấy chú mầy đã chà lên đầu đến phát thứ hai rồi...».
Bùi Phú nói tiếp:
«- Tôi thấy anh Đệ bị oan. Tôi tưởng đâu anh ta sẽ giận. Nhè đâu anh Đệ vẫn cười khà khà nói khôi hài:
«- Tao cám ơn mầy hết sức đã nhắc tao về tên tuổi cái con C... nầy. Thật ra ba bốn năm nay tao cũng có tắm rửa kỳ cọ săn sóc cho nó. Nhưng tao vẫn quên nó mất. Tao chẳng biết tên tuổi nó là cái gì. Hay có lẽ nó là đồ vô tích sự. Đến nay, tao được mầy kêu tên nó một cách rất là quan trọng. May quá! Không thì tao bỏ quên nó mất rồi!
«Cả bọn ở dưới suối cùng phá lên cười» (7).
Không hề giận đúng theo lối sống bất cần đời nên anh Hiếu Đệ luôn trân quý và yêu chuộng cái cười. Anh lấy cái cười hiền hòa, cái cười hề hà cởi mở, cái cười cảm thông để giải tỏa những ẩn ức, những buồn phiền trong lòng. Mà cũng để hóa giải, lùa xa không khí căng thẳng, có cơ gây mất đoàn kết, làm tổn thương tình cảm của nhau trong một hoàn cảnh nghiệt ngã, gần như cận kề cái chết không biết đến lúc nào. Chính nơi đây và lúc nầy, điều cần nhứt là sự nương tựa, tương thân tương ái để cùng chung nhau vượt qua khổ ải, nhằm duy trì mạng sống. Mạng sống hơn lúc nào hết quý giá nhứt. Nụ cười đối với Anh Hiếu Đệ là tôn chỉ của cuộc sống, là kim chỉ nam xử thế trong chung đụng hằng ngày, dù bất cứ ở đâu, trong hoàn cảnh khó khăn nào.
Bây giờ, ta hãy nghe quan niệm của Anh về cái cười để hiểu rõ hơn con người của Anh:
«Những ngày đi cải tạo, tôi bị đổi trại đến năm lần. Tôi vác chiếu đi đến đâu cũng đều bị bọn Việt cộng xỉ vả:
«- Cả miền Bắc đều lên án, biết mầy là tên Hiếu Đệ. Mầy đã từng vẽ chục thằng Việt cộng ốm nhách còn tệ hơn con khỉ, cả chục thằng đeo không rụng cọng đu đủ (8). Mầy khi dễ tụi tao vừa thôi nhé! Nay đảng ta phải bắt mầy trả nợ máu, đi cải tạo mút mùa lệ thỉ cho chết luôn.
“Tôi muốn tức cười vỡ bụng nhưng vẫn cố làm thinh. Ở đời, nếu mình coi tất cả chỉ là một trận cười thì đúng nó là một trận cười. Nếu mình cứ coi nó là khổ đau thì coi chừng có bữa sự khổ đau đè mình chết. Đức Phật cũng có nói vạn pháp đều do Tâm, Tâm dẫn đầu, Tâm tạo tác nên tất cả. Nếu Tâm ô nhiễm, khổ ải sẽ theo ta như bánh xe lăn theo bước chân con vật (Kinh Pháp Cú)“ (9).
Mà thật vậy. Trong những hoàn cảnh khốn khổ trầm thống, Anh thường bảo nếu không cười cho tan biến, cho trào ra, dù là cái cười ràng rụa nước mắt, héo mòn tim gan thì những khổ đau ủ rũ sẽ đưa mình sớm về với ông bà. Việc này nên tránh vì chẳng có ích gì đến sức khoẻ, mà chỉ thiệt thân thôi.
Cuộc đời đối với Anh Hiếu Đệ chung cuộc chỉ là một vỡ bi hài kịch ngàn đời không đổi thay, để nói theo nhà soạn kịch bất hủ của Anh Quốc, W. Shakespeare. Anh đã chẳng những tâm sự nhiều lần với mọi người gặp gỡ đó đây hoặc trong những hồi ức về những trại tù cải tạo của cộng sản. Nơi đây, Anh cho là một địa ngục, một nơi khốn đốn nhứt trên thế gian đối với những người bị giam giữ. Và cũng nơi đây, đối với bọn cộng sản “quản giáo“ ma mãnh gian xảo, đám “vệ binh“ nhốc con hống hách..., việc quan trọng nhứt là những giờ lên lớp. Những giờ này được chúng gọi là học tập chánh trị để chúng phát động tuyên truyền tẩy não.
Trại cải tạo quả thật là địa ngục trần gian. Thế mà lũ bạn của Anh cứ bu lại chung quanh chỗ Anh ngồi để được vui cười, để được nghe những trận cười “quên sự đời“. Đa số đều cùng một ý kiến như nhau. Các anh nói chẳng thấy anh Hiếu Đệ khóc bao giờ. Nhưng có người lên tiếng nhắc lời một thi sĩ nào đó đã nói: "Nụ cười là tiếng khóc khô không lệ". Đối với anh Hiếu Đệ, trường hợp này quả đúng phần nào.
Nếu muốn tìm nụ cười đó của Anh, thiết nghĩ không gì bằng đưa mắt xem qua những bức tranh biếm họa mà Anh đã vẽ từ ngày còn là sinh viên trường Mỹ Thuật Gia Định cho đến ngày Anh qua đời ở Michigan, Hoa Kỳ. Nó rất phong phú, đa dạng và rất cập nhựt thời sự. Từ những bức tranh thuở thiếu thời có tánh cách chọc cười “bình dân“, “thọc lét“ hồn nhiên, vô thưởng vô phạt, nhằm giúp giới lao động buôn gánh bán bưng ở các chợ chung quanh Sài Gòn Chợ Lớn trước 1975 dùng để bàn bạc đánh đề ba mươi sáu con, đến những bức hí họa sắc sảo, độc đáo có hậu ý trình bày trước công luận quần chúng nhằm chỉ trích, đánh phá, đạp đổ những áp bức bất công trong xã hội và những tang tóc, chém giết tàn bạo của chiến tranh xâm lược. Đó là những chấm phá hằng ngày của Anh có nội dung chánh trị rõ rệt và quyết liệt. Nhưng trọng tâm chính yếu của những bức tranh biếm họa chánh trị này vẫn là cuộc chiến đấu sống còn trước sau như một, chống lại chủ nghĩa cộng sản vô thần và chế độ xã hội chủ nghĩa tai hại nơi quê hương mà Anh đã có một thời là nạn nhân trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp ở tỉnh nhà.
Nghề vẽ biếm họa của Anh, xuất phát từ nỗi đam mê bẩm sinh, từ sự réo gọi của nội tâm và qua quá trình sáng tạo nghệ thuật công phu, không phải suôn sẻ dễ dàng. Trái lại, nó giăng mắc đầy rẫy những chông gai chướng ngại không sao tránh khỏi, đôi lúc rất nguy hiểm, có thể đưa đến tù tội hoặc cái chết bất ngờ vì bị thanh toán, ám sát đến từ mọi phía.
Người ta thường nói “viết phải lách“. “Lách“ để tránh những tai họa, những hiểm nguy bất cập đến với mình, trong khi ngoài ngòi bút mình không có một chút phương tiện nào khả dĩ để tự vệ. Đối với Anh, nghề vẽ biếm họa cũng phải “biết lách“, phải sáng suốt biết uyển chuyển tránh né mới mong tránh khỏi những điều phiền phức.
Anh chẳng đã từng phát biểu:
“Người Việt chúng ta thường không thích châm biếm, không thích vui cười. Bị châm chọc, người ta hay nổi giận. Bạn bè tôi thường bị mang họa vì ba cái tranh vui cười của tôi“.
Anh có nhắc giai thoại sau đây rất lý thú. Tôi xin được phép trích dẫn vài phân đoạn để chứng minh cái bề trái cũng như hậu quả của những tranh biếm họa vui cười của Anh. Và cũng để mọi người cùng suy gẩm:
“Anh Hồng Sơn, làm việc ở Phòng Kiểm Duyệt của Sở Thông Tin trên đường Phan Đình Phùng. Anh có ra tờ báo Sinh Hoạt. Trang bìa đăng cái tranh của Hiếu Đệ vẽ nông dân Việt Nam thấy cái thùng đồ Mỹ viện trợ có in hình hai bàn tay bắt lại với nhau, mừng vô cùng mới nói:
“- Lúc này nước mình giàu to.
“Thì ra khi chiếc máy bay Mỹ thả thùng đồ xuống lại đè phải nông dân xệp ruột. Thùng bị vỡ ra toàn là súng ống và bom đạn.
“Thôi thì đành chết một cửa tứ.
“Bức tranh này làm anh Hồng Sơn bị mất sở. Tờ Sinh Hoạt bị đóng cửa. Anh Hồng Sơn bị đổi đi làm Trưởng phòng Thông Tin tỉnh Cà Mau...” (10).
Anh An Khê Nguyễn Bính Thinh có ghi như sau trong hồi ký Hai Mươi Lăm Năm Vinh Nhục Trong Làng Báo Sài Gòn Trước 1975. Lúc đó, Anh bỏ Sài Gòn, bỏ viết tiểu thuyết hằng ngày trên mười ba tờ nhựt báo lớn với lương bổng đảm bảo trọng hậu hằng tháng để về thủ phủ miền Tây làm Giám Đốc Đài Phát Thanh và xuất bản tờ báo Miền Tây, tờ báo hằng ngày duy nhứt ở tỉnh lẻ từ trước đến nay.
Trong lần bầu cử Quốc Hội ở đơn vị Cần Thơ, có ông bác sĩ nọ ở địa phương ra ứng cử dân biểu. Tờ báo có đăng cái tranh của Hiếu Đệ vẽ bà nọ bế đứa con đi khám bịnh, cái đít đứa bé đang chảy re. Còn ông bác sĩ thì đưa cái toa ra đòi phải trả năm chục đồng. Nếu không có thì ông không chịu chữa bịnh.
Ngặc một nỗi là lúc đó anh An Khê không có mặt ở Cần Thơ vì Anh phải đích thân đi làm một thiên phóng sự đặc biệt “bắt hạm” ở ngay tại tỉnh lỵ Rạch Giá, quê hương của Anh. Cũng trong thời gian vắng mặt đó, tờ báo Miền Tây có đăng một cái tin ngắn “cán chó” của một sinh viên ham thích làm báo thì phải. Nhưng ban biên tập vì bận rộn quá nhiều việc, sơ ý phạm một lỗi kỹ thuật nên bị người trong cuộc kiện ra tòa đòi bồi thường thiệt hại danh dự. Báo hại lúc về, anh An Khê nhận được trác đòi phải ra hầu tòa với tư cách là chủ nhiệm, người hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung tờ báo. Kết quả Anh mất chân Giám Đốc Đài Phát Thanh, tờ báo Miền Tây bị đóng cửa, còn anh bị án tù treo sáu tháng.
Lý do là ông ứng cử viên bác sĩ này có ông anh làm chánh án. Ông này lại đang ngồi xử vụ kiện nói trên. Và dĩ nhiên, ông tòa này có trí nhớ dai. Ông không sao quên được bức tranh biếm họa của Hiếu Đệ có tác dụng truyền thông quảng bá rộng rãi đã làm cho ông em mình bị thất cử chua cay. Sau đó, anh An Khê cười hề hà kết luận với các cộng sự viên thân tính của mình là Anh thất kiện đau như bị bò đá, không phải vì nội dung bài báo không quan trọng này, mà chỉ vì một lý do duy nhứt là sự liên hệ gia đình của ông chánh án mà thôi.
Anh Hiếu Đệ cũng có kể tiếp:
“Có lần tôi giữ trang đặc biệt về bầu cử Quốc Hội, đơn vị Sài Gòn Chợ Lớn sau khi Thủ tướng Ngô Đình Diệm truất phế Quốc Trưởng Bảo Đại và tổ chức bầu cử thành lập quốc hội. Tôi vẽ ứng cử viên toàn là mấy chàng mặt dày mày dạn, cọ xuống đường nhựa xẹt lửa.
“Thầy thuốc Quách Tân Xuân chuyên moi bịnh trỉ của mấy bà già nhà quê. Nhà đầu cơ gạo thóc Phạm Văn Út đang ngồi trên bao gạo bóp cổ dân nghèo.
“Họ cho công an đi hỏi tội, làm tôi cả tháng không dám xuống tòa soạn nhà báo. Tôi cũng chẳng chui ra khỏi ký túc xá của nhà trường.
“Sau nhất là mới đây năm 1996, bức tranh tên Việt cộng nói chuyện với con vịt. Vịt đây là tượng trưng cho ngành báo chí. Tên cán bộ dạy đời lũ vịt rằng:
“- Làm báo ở Việt Nam thì phải có đảng tính. Làm báo ở Mỹ, ở nước tự do thì phải có đĩ tính, phải biết vẫy mực vào mặt cộng đồng để xin quảng cáo. Như thế mới làm ăn khá được.
“Báo hại, chuyện thinh không lại xảy ra rắc rối một thời gian. Một số mấy bà chủ báo đòi giải thợ vẽ ra tòa. Thật ra, bức tranh tôi vẽ từ lâu. Người ta lên báo trong lúc họ gay cấn với nhau, chớ tôi không hề đụng chạm đến một cá nhân nào. Hơn nữa, tôi cũng chẳng biết mặt mũi mấy bà chủ báo này là ai cả. Thật oan ơi ông Địa!” (11).
Anh Hiếu Đệ thường tâm tình với bạn bè. Nghề làm báo cũng có mang đến cho Anh những giờ phút ngập tràn niềm vui thanh tao cao nhã, được quen biết nhiều, quan hệ rộng với nhiều giới, nhiều thành phần khác nhau trong xã hội, nhưng nghĩ cho cùng không được yên ổn mấy, đôi khi còn rất nguy hiểm nữa. Như thời chánh phủ Ngô Đình Diệm lên cầm quyền thành lập nền Đệ Nhứt Cộng Hòa, phủ định hiệp định đình chiến Genève, do có nhiều điều khoản bất lợi cho Miền Nam. Đại diện phái đoàn Cộng sản đều bị đuổi cổ về Hà Nội. Đương nhiên dẹp bỏ vụ Hiệp thương hai miền để tiến tới tổng tuyển cử tự do trên toàn quốc theo lời đề nghị của Hiệp định. Các lực lượng võ trang Cao Đài, Hòa Hảo và Bình Xuyên sau đó bị giải giới để thống nhứt quân đội quốc gia đang hình thành.
Trong hoàn cảnh rối reng đó, nhiều thành phần đảng phái bị thanh lọc và truy quét. Một số đông anh em ký giả làm báo ở Đô thành bị vồ vô ấp vì bị nghi ngờ có nhúng tay xa gần trong việc phát động bản cương lĩnh của Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Trong số này dĩ nhiên có đám cán bộ cộng sản được trường kỳ mai phục, không tập kết ra Bắc nhằm thừa cơ hội gây rối, đánh phá thể chế Miền Nam. Nhưng cũng có những thành phần không hẳn theo cộng sản. Mà chỉ vì họ nhạy bén, hăng say phê bình, chỉ trích những sai trái hoặc thiếu sót, sơ hở của chánh quyền, cũng như từng tích cực binh vực giới bình dân lao động nghèo khổ.
Anh Hiếu Đệ cũng bị bắt câu lưu hai tuần lễ ở sở Công an đường Ngô Quyền, giáp với bến Hàm Tử Chợ Lớn, về sau được đổi thành Biệt Kích Đội IV trực thuộc Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia. Theo tôi được biết chỉ vì Anh nằm trong ban biên tập hoặc hợp tác với những tờ báo bị chánh quyền theo dỏi lúc đó. Mặc khác, Anh còn có mối liên hệ bằng hữu rộng rãi với đám ký giả cộng sản hay thiên tả như Nguyễn Văn Hiếu sau tháng Tư Đen làm Giám đốc Sở Thông Tin Văn Hóa Thành phố Hồ Chí Minh và sau ngày thống nhứt Bắc Nam trở thành Bộ trưởng Thông Tin Văn Hóa trong chánh phủ trung ương, ký giả Việt Quang, Tổng Thư ký nhựt báo Tiếng Chuông, tác giả tập truyện nhi đồng kháng chiến Xin Đắp Mặt Tôi Mảnh Lụa Hồng, phóng viên Quốc Phượng Trương Thanh Vân sau này làm việc ở tờ Sài Gòn Giải Phóng, ký giả Phong Đạm, Văn Mại v.v… nên bị liên lụy. May cũng nhờ có vụ Tỉnh trưởng Nguyễn Trân ở Mỹ Tho đối chất với hai mươi mốt ký giả đang bị câu lưu nên tất cả được trả tự do trong đó có Anh. Nhưng sau đó, một số ký giả đảng viên hay có cảm tình với cộng sản đã bỏ đi vào chiến khu.
Anh viết:
«Tôi về thấy nhà cửa bê bối. Công an còn ngồi tán dóc ở trong nhà để chờ bạn bè đến thăm hỏi tôi thì bắt. Vợ tôi mới sanh cháu nhỏ bế về, lo lắng sợ sệt. Hoàn cảnh rất khổ sở.
«Thật ra tôi đã tốt nghiệp trường Mỹ Thuật và Sư Phạm cũng đã được cả năm rồi. Bộ Quốc Gia Giáo Dục làm sự vụ lệnh bổ nhiệm tôi đi Cần Thơ dạy học để thay thế họa sĩ Nguyễn Đình Cường. Anh ta về làm Giám đốc trường Kỹ Thuật Bình Dương.
«Nhưng lúc ấy tôi không chịu đi nhận việc. Bây giờ kẹt quá phải đành thôi.
«Cũng nhờ nghề làm báo và vẽ tranh vui cười nổi tiếng chọc cười thiên hạ nên khi vào lính tôi được đưa về phòng Chiến Tranh Chánh Trị ngồi với anh Nguyễn Đạt Thịnh, Thanh Nam, Mặc Thu trông coi tờ Chiến Sĩ Cộng Hòa và tờ Chỉ Đạo. Trôi dạt khắp nơi rồi cũng về lại Sài Gòn thôi» (12).
Anh Hiếu Đệ được minh oan vì một sự hiểu lầm. Anh được chánh quyền quốc gia trả tự do. Chẳng những Anh trở lại cuộc sống bình thường như bao công dân lương thiện khác, mà còn được tính nhiệm, trọng dụng trong guồng máy hành chánh và giáo dục, cũng như ở lãnh vực quân sự. Chánh thể Miền Nam Tự Do rõ ràng khác hẳn chế độ xã hội chủ nghĩa miền Bắc. Giá Anh sống trong “thiên đường” cộng sản, chắc chắn Anh sẽ bị truy đì suốt đời đến chết, không sao ngốc đầu dậy nổi. Vì chính sách của chúng là «thà giết lầm» để trừ hậu họa.
Anh Hiếu Đệ thường trao đổi với tôi về vị trí của con người trong xã hội, trong cộng đồng, cũng như trong mọi lãnh vực của cuộc sống hằng ngày. Mọi người phải biết vị trí của mình, phải biết chỗ đứng rõ rệt của mình để giải quyết mọi tình huống, để vượt qua những khó khăn chướng ngại của môi trường đang chi phối mình. Do biết xác minh vị trí đó, Anh đã thoát khỏi bao cạm bẫy mắc giăng suốt chuỗi dài ngày tháng lao tù và những phiền toái trong thời gian Anh lang bạt tìm sống trong xứ tù chung thân xã hội chủ nghĩa.
Là một nghệ sĩ dấn thân, một họa sĩ sáng tác tự do và với vị trí này Anh quan niệm về nghệ thuật như sau:
“Người nghệ sĩ ngồi trước giá vẽ phải thật tình với chính mình, tức là dân tộc và nghệ thuật. Chúng ta không được làm dáng, không được a dua chạy theo bè phái, kể cả thị hiếu của đám đông. Chẳng cần đi tìm ở đâu xa vời. Nghệ thuật chân chính đang nằm trong trái tim của mình đây” (13).
“Chỉ có nghệ thuật mới sống hơn con người và vĩnh hằng hơn con người. Tác phẩm nghệ thuật muôn đời như dòng sông rì rào, như ngàn sao lấp lánh” (14).
Làm nghệ thuật sau ngày Miền Nam bị cộng sản hoàn toàn cưởng chiếm năm 1975 là đặc quyền đặc lợi của chế độ. Không phải ai có năng khiếu, có kiến thức nghệ thuật mà có quyền tự do sáng tác. Anh Hiếu Đệ cho rằng nghệ thuật hôm nay dưới thể chế xã hội chủ nghĩa là tiếng nói của đảng, phải do đảng trực tiếp chỉ đạo theo khuôn mẫu đường lối của ban lãnh đạo tư tưởng trung ương.
Nói cách khác, người “nghệ sĩ” trong chế độ này phải có vị trí đảng tính hay nói chung chung là phải được huấn luyện, đào tạo từ Hà Nội hay từ Liên Xô hoặc các nước Đông Âu. Do đó, họ phải có giấy chứng nhận hành nghề chánh thức giống rập khuôn như trong lãnh vực kinh doanh thương trường. Nghĩa là họ nhứt thiết phải có “ba tăng”, chỉ có mỗi một việc ngoan ngoản sáng tác một chiều theo đơn đặt hàng của đảng, nhằm để câu cơm, để luồng lách trèo cao trên nấc thang danh vọng.
Vì lẽ ấy, anh Hiếu Đệ từng chán ngán xác nhận vị trí của Anh là thành phần “có nợ máu với nhân dân” vừa cải tạo trở về nên luôn luôn hành xử đúng theo vị trí đó. Anh quyết định thà đi đạp xích lô mướn hằng ngày để sinh sống cho khoẻ cái thân già. Rồi những khi rổi rảnh ế khách hoặc những lúc mõi mệt, Anh lang thang, lê la đầu đường cuối hẻm tán gẩu với bạn bè ngày cũ cho qua ngày tháng. Anh hay gọi đùa là Anh đang “rong chơi ca múa” chờ ngày hoàn tất thủ tục đi Hoa Kỳ theo diện H.O., sau khi thất bại không biết bao nhiêu lần vượt biên. Anh cũng nhiều lần hóm hỉnh bảo rằng hiện giờ mình chẳng có cái tích sự gì để “xây dựng xã hội chủ nghĩa giàu đẹp” cả.
Anh lưu ý một vài thân hữu trong nghề còn có thể ký gởi được tâm sự mình trong hoàn cảnh nghi kỵ nghẹt thở ở Đô thành. Đừng tưởng lầm hay non lòng cứ ngỡ rằng mình đã “giác ngộ”, “sáng mắt sáng lòng” sau những đợt cải tạo nên lao vào vẽ chân dung hoặc nặn tượng Bác Hồ mà mang lấy họa vào thân. Dù họ có vẽ, có nặn khéo léo đến đâu, đạt mức mỹ thuật như thế nào, chắc chắn cũng không sao tránh khỏi bị đảng phê bình là đánh phá chế độ, bôi bẩn nhà nước, chống lại đảng.
Với trình độ ngu dốt, cộng thêm tánh ngang ngược xem trời bằng vung, dưới con mắt thiển cận bít bôi của chúng, những chân dung hay những bức tượng này trông sao nó giống rặc như khuôn đúc mặt “thằng Thiệu thằng Kỳ”. Anh kết luận chẳng qua những người nhẹ dạ hời hợt này không quán triệt được vị trí của mình trong chế độ độc tài đảng trị. Người chiến thắng vô tâm, loạn ngôn muốn nói quấy nói quá ra sao thì mặc mà tha hồ vung vít nói.
Trong truyện Họa sĩ Lê Chánh (Nước Lớn Nước Ròng) anh Hiếu Đệ, ngoài việc cống hiến cho chúng ta biết thâm cung bí sử của Tổng bí thư Lê Duẫn, có thuật chuyện về một họa sĩ đảng viên cộng sản mà Anh cho là một thứ phong kiến nặng, cộng với tinh thần cộng sản nhà quê hết thuốc chữa. Qua câu chuyện đó, Anh xác định thêm một lần nữa quan điểm nghệ thuật của mình, nhứt là xác minh vị trí của Anh, một người sa cơ thất thế đang sống trong gọng kềm của bộ máy đàn áp tư tưởng và khống chế óc sáng tạo của con người nghệ sĩ chơn chính.
Anh kể, trong một bữa nhậu tại nhà họa sĩ Lê Thanh có sự hiện diện của bạn Anh là Nguyễn Phi Hùng, một nhà thầu xây cất. Lúc bấy giờ, đô thị Sài Gòn mặt ngoài có vẻ đang bắt đầu phát triển sau nhiều năm nghẹt thở do đường lối và chủ trương hận thù của đảng, nhằm bần cùng hóa người dân đô thị. Đó chẳng qua là nhờ phong trào “đổi mới”, chánh sách “cởi trói” của đảng và nhà nước nên đám nhà thầu xây cất thường nhập bọn với anh em kiến trúc sư và họa sĩ để có được công ăn việc làm.
Anh viết:
“Nguyễn Phi Hùng bảo ở nhà anh còn có chai Martell cổ lùn, rủ mọi người kéo nhau về dứt điểm. Đến nơi, tôi mới biết ông Nguyễn Phi Hoanh là bố của anh Hùng.
“Ông ta là người Bến Tre tập kết ra Bắc, tác giả Bộ Lịch Sử Mỹ Thuật Việt Nam. Quyển sách được in bằng mấy thứ tiếng trong đó có tiếng Liên Xô, in màu rất đẹp.
“Có điều khi đề cập đến phần mỹ thuật Miền Nam, ông ta chửi Hiếu Đệ như tác nước. Ông cụ dựa vào bài của Nguyễn Ngu Ý phỏng vấn Hiếu Đệ đăng trên tạp chí Bách Khoa ngày 10.01.1961, trong đó tôi nói:
“Khách thưởng ngoạn đi vào xem tranh không phải như đi schopping mà là đi vào một mê đồ. Người xem cũng nên chuẩn bị một ít tình cảm để ngắm nhìn mới dễ bề cảm thông với người vẽ. Tôi vẽ con người bị méo mó là vì cuộc đời làm cho nó phải vong thân hủy thể. Tự nhiên con người biến thành món hàng, thành quả bom, quả lựu đạn hay một đống sắt vụn như bức tranh lập thể, chứ không phải con người mơ màng trong bức tranh lãng mạn”.
“Chính vì câu này khiến ông Nguyễn Phi Hoanh dập cho tôi vài trang sách. Hôm nay ông tình cờ gặp tôi, tuy ông không uống rượu với bọn trẻ nhưng cũng xỏ dép ra ngồi hỏi tội.
“Tôi nói với ông ta là tôi không phải là văn nghệ sĩ miền Bắc, tôi không làm nghệ thuật theo đường lối hiện thực xã hội chủ nghĩa. Tôi đã xách khăn gói quả mướp đi cải tạo để trả nợ năm năm rồi. Bây giờ tôi làm người dân lương thiện kiếm lấy ngày hai bữa cơm, còn chuyện văn hóa văn nghệ xin để lại cho quý vị. Tụi nầy xin “rửa tay gác kiếm”, không có mặt trong chốn võ lâm.
…
“Ông nói tôi phủ nhận tác phẩm của ông, coi như cuốn Lịch Sử Mỹ Thuật Việt Nam là thứ lỗi thời mặc dù nhà nước đã tái bản đến cả chục lần.
“Uống rượu là điều không thuận lợi, lại đi cải lý với một đảng viên trung kiên như ông Nguyễn Phi Hoang thì chỉ có từ chết tới bị thương thôi. Tôi bèn vận dụng chiêu pháp Lăng Ba Vi Bộ của Đoàn Dự trong Lục Mạch Thần Kiếm cho chắc ăn.
“Ông Nguyễn Phi Hoanh xưa học ở trường Mỹ Thuật Paris, vẽ kiểu ánh sáng mờ của tranh cổ điển. Ông là một thứ phong kiến cộng với tinh thần cộng sản nhà quê, hết thuốc chữa” (15).
Anh Hiếu Đệ luôn để ý và quan tâm đến vị trí của mình như kim chỉ nam hành xử ngoài đời. Trong hoàn cảnh và môi trường bất lợi vừa kể, hẳn Anh biết hơn ai hết không hề có tự do đối chất, không hề có sự bình đẳng trong tranh luận ở một đất nước cai trị bởi bọn cán bộ đảng viên đần độn và mạn lưới kềm kẹp của công an, tình báo và vệ binh nhan nhản khắp nơi. Việc này hoàn toàn không có lợi cho Anh, khi Anh nói lên những lời trung thực của trái tim mình. Anh chọn lấy một thái độ trầm tĩnh, ôn hòa, lùi một bước, “rửa tay gác kiếm, không có mặt trong chốn võ lâm”. Anh coi đây như một phương cách tránh né tốt hơn hết, ổn thỏa hơn hết.
Tuy nhiên, không vì vậy mà Anh đánh mất cái tánh ngang tàng một thời đã qua, cái nét hào hùng cố hữu của mình. Khi Anh cất tiếng minh định trước một đảng viên cộng sản kỳ cựu có nhiều năm công tác ở lãnh vực văn hóa tư tưởng là Anh “không phải là văn nghệ sĩ miền Bắc”. Anh còn dứt khoát “không làm nghệ thuật theo đường lối hiện thực xã hội chủ nghĩa“ nữa. Tôi mến phục Anh ở thái độ và phản ứng, vừa khí khái vừa tế nhị này trước một người không cùng chung chiến tuyến, đã quá khích lại cực đoan thầy phải chạy.
Tôi xin nhắc lại ở đây quan niệm nghệ thuật của anh Hiếu Đệ trước sau được tóm gọn qua dòng chữ này: “Tác phẩm nghệ thuật muôn đời như dòng sông rì rào, như ngàn sao lấp lánh”. Chính Anh đã chọn bốn chữ Ngàn Sao Lấp Lánh để đặt cho cái tựa của tập truyện viết chung với tôi, đã được nhà Hương Cau in ấn và phát hành năm 2008 tại Pháp. Một cái tựa dạt dào âm hưởng lãng mạn với nỗi buồn man mát sâu kín, riêng đối với anh em chúng tôi, mỗi người tính đến thời điểm đó đều đã quá xa cái tuổi cổ lai hi, gần đất xa trời. Chết nay chết mai không biết trước được. Dù vậy, Anh hay đùa với tôi: “Anh em mình sống được đến đây là đã quá lời rồi. Lời lắm anh Trung à! Nếu mình so sánh với bạn bè thân hữu cùng lứa tuổi, một số không ít, kẻ trước người sau tranh nhau lần lượt bỏ cuộc từ lâu”.
Sau khi phát hành tập sách vào trung tuần tháng 3 năm 2008, anh em chúng tôi hẹn nhau sẽ cố gắng viết tiếp một tập sách cuối cùng trong đời mình và sau đó sẽ thực sự “gác kiếm” giã từ vĩnh viễn chữ nghĩa. Nghĩ rằng đến đây sức khoẻ không cho phép chúng tôi đi xa hơn nữa trong ước mơ của buổi đầu đời. Chúng tôi dự trù sẽ cho ra mắt khoảng đầu năm 2009 tập truyện mới dày độ ba trăm trang này.
Tựa của quyển sách cũng đã được Anh đắn đo lựa kỹ, sau khi hội ý với tôi chọn trong số khá nhiều tựa mà Anh cân phân một thời gian khá lâu. Cuối cùng, Anh đề nghị nên lấy cái tựa Nước Chảy Huê Trôi và Anh còn cẩn thận gởi cho tôi bài Tống Biệt của thi sĩ tài danh một thời là Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu.
Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai Suối tiễn, oanh đưa những ngậm ngùi Nửa năm Tiên Cảnh, Một bước trần ai, Lối cũ, duyên thừa có thế thôi. Đá mòn, rêu nhạt,
Nước chảy, huê trôi Cái hạc bay lên vút tận Trời Trời Đất từ đây xa cách mãi, Cửa động, đầu non, đường lối cũ, Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi. (Tống Biệt)
Nước Chảy Huê Trôi là bốn chữ được trích trong bài thơ nổi tiếng để đời này của nhà thơ núi Tản sông Đà. Trong một bức thơ gởi cho tôi dịp đó, Anh căn dặn tôi nên giữ chữ “Huê“ nguyên bản như tác giả đã dùng, thay vì viết chữ “Hoa” (Nước Chảy Hoa Trôi) như một số người viết văn thường viết thời buổi bây giờ. Anh nói chỉ để tôn trọng một thi tài có quá nhiều lận đận trong trường đời.
Đọc cái tựa, tôi bỗng nhiên bùi ngùi xúc động. Xúc động bùi ngùi khi nghĩ tới một điềm không may mắn nào đó về một cuộc chia ly cách biệt không tránh khỏi giữa anh em chúng tôi. Người Việt Nam mình thường hay tin dị đoan, nhưng tôi không hẳn tin, mà sao thỉnh thoảng cái điềm không may này lại cứ đeo đuổi ám ảnh tôi mãi. Dầu cho có nghĩ quẩn vớ vẩn như vậy, nhưng tôi không hề có can đảm dám phơi bày cảm nghĩ của mình và cứ âm thầm tập trung làm việc, mong sớm thực hiện tập sách cuối cùng này đúng thời hạn ấn định.
Riêng về phần anh Hiếu Đệ, Anh không quên nhờ con trai Anh là họa sĩ Nguyễn Thảo (tên thật Nguyễn Tánh Thảo), hiện định cư cũng ở Michigan, Hoa Kỳ, trình bày trước một cái bìa màu rất mỹ thuật. Không ngờ từ Ngàn Sao Lấp Lánh bước sang qua Nước Chảy Huê Trôi lấy từ Tống Biệt là cái điềm không may nhưng cuối cùng lại là sự thật đến với anh em chúng tôi. Đúng là cuộc đời chung qui không có nghĩa lý gì như lời Anh thường hay nói. Có đến ắt có đi…
Vì sau đó, sức khỏe của Anh cũng bắt đầu suy yếu dần. Luật tạo hóa sinh diệt, bất biến từ ngàn xưa, không một ai tránh khỏi được. Lúc này Anh thường xuyên mang bình dưỡng khí trong mình theo lời khuyên của y sĩ điều trị. Đi đâu Anh cũng phải mang theo nó như hình với bóng, như một tình nhân đầu đời không bằng. Nếu sơ ý hoặc đêm hôm lỡ để vuột bình dưỡng khí có thể gây nguy hiểm đến tánh mạng.
Trong hoàn cảnh khó khăn cực kỳ bất tiện đó, Anh vẫn cố gắng viết một loạt bài hồi ức về một số bậc đàn Anh đã từng dìu dắt nâng đỡ, đã từng tích cực giúp Anh trong những ngày đầu bỡ ngỡ vào nghề, cũng như sau đó giang tay cứu vớt Anh trong những hoàn cảnh lận đận, khó khăn bế tắc. Tôi rất cảm phục và quý mến Anh cũng như hết tình ngưỡng mộ Anh qua ý chí cương quyết và tấm lòng trong sáng ấy của Anh. Anh muốn qua đó gởi những lời tạ từ sau cùng, những lời cám ơn và tri ân cuối đời của Anh đối với những bậc ân nhân nay không còn nữa.
Tôi lại càng xúc động có những nhận xét sau đây khi tiếp đón loạt bài cuối đời này của Anh:
Thứ nhứt là Anh không còn viết dong dài tràng giang đại hải, thao thao lả lướt bay bướm với giọng văn trào lộng hóm hỉnh bất cần đời quen thuộc ngày xưa nữa. Trái lại, mỗi bài viết hôm nay hầu hết đều rất súc tích, cô đọng ngắn gọn, độ mười trang giấy viết tay rất thoáng, rất rộng rãi với nét chữ khá to. Anh viết một cách trung thực, lời văn thành thật chơn chất, nhưng đượm một nét buồn đậm đà thấm thía về vài khía cạnh cuộc đời và sự nghiệp của những người đã ra đi trước Anh. Anh hoài niệm với tất cả tấm lòng thương yêu tiếc nuối vô bờ bến.
Nhận xét thứ hai của tôi là nét chữ của Anh bây giờ không còn sắc bén, cứng cáp như ngày trước, đôi lúc có nhiều đoạn không được ngay hàng thẳng lối mà lại xiêu vẹo rung rung. Nhứt là ở bài viết sau cùng, bài viết Anh trăn trở nhưng lại dang dở về nhà văn bất hạnh Vũ Anh Khanh, người bạn nối khố ở trường Nam tiểu học Phan Thiết ngày xưa. Tôi bắt đầu lo lắng cho sức khỏe của Anh.
Nhiều lần tôi khuyên Anh nên thong thả viết, cứ triển khai từ từ theo nhịp độ của trí lực những lúc Anh thấy sảng khoái và khoẻ khoắn trong người. Anh nên dành thì giờ quý báu chăm lo giữ gìn sức khỏe trước tiên. Việc làm văn hóa là công tác trường kỳ dai dẳng và có tánh cách tình nguyện, không ai bắt buộc ép uổn mình phải làm cả. Bây giờ trọng tuổi rồi lại đau ốm bịnh hoạn nữa, mình cứ làm đến đâu hay đến đó, miễn trong thâm tâm mình có thiện chí và ý hướng tốt. Mình vẫn chung thủy với những ước nguyện đầu đời mà.
Nhưng trong những lần viết thơ cho tôi, Anh một mực thối thoát quyết liệt và cứ một hai tuần, tôi lại nhận được một bài viết mới của Anh. Quả Anh là một nghệ sĩ đích thực.
Một nghệ sĩ dấn thân.
Một nghệ sĩ quyết tâm đi đến cùng như kiếp tằm nhã tơ đến chết.
Một nghệ sĩ thủy chung với văn chương nghệ thuật.
Anh chung thủy đối với bạn bè bằng hữu đã đành nhưng quan trọng hơn hết Anh lại chung thủy với chính mình. Đến khoảng cuối đời, gần cận kề cái chết, Anh vẫn âm thầm tiếp tục đeo đuổi sự réo gọi trong âm thầm nhưng thúc giục của đam mê, của nghệ thuật, của lương tâm. Anh vẫn không quên trang trải trọn vẹn tấm lòng của mình.
Do đó, Anh viết một loạt bài hoài niệm những bậc đàn anh đã khuất như cụ chủ nhiệm tuần báo Đời Mới, Văn Lang Trần Văn Ân, người đã dìu dắt Anh vào nghiệp văn chương báo chí lúc Anh còn là một bạch diện thư sinh, giáo sư hội họa Lê Văn Đệ, một thời là Giám Đốc trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định, từng là họa sĩ chánh thức của Tòa Thánh La Mã, cụ chủ nhiệm nhựt báo Tiếng Chuông Đinh Văn Khai, người đã phát hiện rất sớm khả năng vẽ biếm họa của Anh, họa sĩ Nguyễn Siên, người “bạn nghệ thuật” và cũng là “bạn rượu” những ngày cả hai sống thiếu thốn khổ sở trong xứ tù chung thân xã hội chủ nghĩa, nhạc sĩ Anh Việt tức đại tá Trần Văn Trọng, tác giả nhạc phẩm nổi tiếng Bến Cũ, nhà văn An Khê Nguyễn Bính Thinh, người đã khuyến khích và tích cực giúp đỡ Anh lao vào sự nghiệp văn chương báo chí ở hải ngoại, khi Anh vừa định cư ở Hoa Kỳ.
Như tôi đã nói trên đây, sức khoẻ của Anh vào những tháng sau cùng không cho phép Anh viết tiếp để kết thúc những trang hoài niệm các bậc đàn anh mà Anh hằng ấp ủ trong lòng. Bằng cớ là Anh viết dở dang bài tưởng nhớ nhà văn Vũ Anh Khanh. Trước đây, Anh đã có lần nhắc sơ qua người bạn nối khố ở trường Nam tiểu học Phan Thiết này. Anh nhớ người bạn cũ vắng số và cảm thông nỗi bất hạnh của bạn qua những dòng ôn cố sau đây:
“Tôi rất quen biết Vũ Anh Khanh vì nó là đứa bạn đánh đáo với tôi ở sân trường tiểu học. Sau mấy năm loạn lạc, tới khi gặp lại ở Sài Gòn, anh ta đang phụ trách trang trong của nhựt báo Tiếng Chuông và lại là nhà văn nữa. Anh cùng với một nhóm anh em nhà văn như Lý Văn Sâm, Thẩm Thệ Hà... trông coi nhà xuất bản Tân Việt Nam của ông Nguyễn Văn Chà, giám đốc cơ sở phát hành báo chí Nam Cường nằm ở đường Kitchener, phía sau ga xe lửa Sài Gòn.
“Thật ra hồi đi học, anh tên là Võ Văn Khánh. Gia đình anh có một hãng sản xuất nước mắm ở Mũi Né, Phan Thiết.
“Khánh bảo tôi:
“Hồi đi học, thầy giáo Trạch hay lấy mấy bài luận văn của anh làm bài mẫu, đọc cho cả lớp cùng nghe. Anh có tài viết lách đấy. Anh có thể viết nhiều quyển truyện để tôi bán giùm. Cứ viết đầy cuốn tập vở một trăm trang sẽ được trả cho năm trăm đồng.
“Nhà sách đã mua và in cho tôi năm quyển loại thiếu nhi kháng chiến chống Pháp trong tủ sách Thần Đồng của nhà xuất bản Tân Việt Nam. Tôi thường viết nắn nót tập bản thảo và vẽ bông hoa. Đôi khi, tôi lại vẽ cả phong cảnh nữa nên lũ bạn gọi tôi là họa sĩ.
“Vũ Anh Khanh sau khi xuất bản quyển Nửa Bồ Xương Khô bỏ vào chiến khu.
“Năm 1975, tôi gặp lại mấy đứa bạn ở sân trường tiểu học. Bọn này tập kết ra Bắc trở về trong số đó có Mười Út.
“Chính Mười Út kể chuyện nhà văn Vũ Anh Khanh. Sau khi xuất bản quyển Nửa Bồ Xương Khô có đăng nguyên văn bản cương lĩnh của Đảng Lao Động Việt Nam rồi anh bỏ trốn ra chiến khu chống lại chính phủ Sài Gòn. Anh ta được tập kết ra Bắc. Một thời gian, Khánh thấy rõ sự kỳ thị giữa Nam Bắc quá lộ liễu, nhứt là chánh sách đối đãi con em miền Nam. Khánh cùng một đám bạn lội qua sông Bến Hải trở về. Qua đến nửa sông bị bộ đội biên phòng bắn chết. Mộ của Khánh được chôn ở bờ sông, không được lập bia viết tên họ“ (16).
Trong một bức thư, Anh tâm sự với tôi cho rằng nhắc nhớ một người bạn cũ và lại là một nhà văn tên tuổi lớn một thời mà viết quá ngắn ngủi,
giản đơn như vậy, cho dù định mệnh khắc khe và trớ trêu dẫn dắt anh ta chọn lầm con đường phục vụ tổ quốc, phục vụ đất nước và dân tộc, để chung cuộc đến phải vỡ mộng một cách uất ức, phũ phàng, phải trả một giá quá đắc qua cái chết đau thương đầy bi hận, rõ là không tương xứng chút nào cả.
Anh suy nghĩ đắn đo. Anh cân phân dư luận nhưng rồi cuối cùng quyết định sẽ viết riêng cho bạn mình một bài để người vắng số bất hạnh không tủi hổ nơi chín suối. Và cũng để Anh kết thúc loạt bài hoài niệm của mình.
Sau đó, Anh tiếp gởi cho tôi những dòng sau đây. Tôi xin được ghi lại nguyên văn nơi này vì nghĩ rằng đây là một kỷ niệm đẹp trong đời Anh và chắc chắn đây cũng là bài viết cuối cùng trong sự nghiệp cầm bút xuyên suốt mấy mươi năm của Anh:
“Nói đến viết văn, tôi cũng mang tiếng tập tò viết lách từ hồi mười lăm tuổi lúc còn học ở trường tiểu học. Tôi tập viết truyện nhi đồng. Quyển đầu tiên là Khói Lửa. Kế đó Con Thuyền Đẫm Máu viết với Nguyễn Văn Phú là một bạn học lúc đó, ký tên chung là Phú Đệ. Bạn học trong lớp thường nói láy lại để chọc tức hai đứa chúng tôi. Hai quyển này gởi cho nhà xuất bản Tân Việt Nam ở Sài Gòn là nhà sách Nam Cường, được in ngay thời đó.
“Ngày xưa, trẻ con bọn tôi hay bị cộng sản xúi bậy làm Lê Văn Tám, em bé tẩm dầu, làm cán bộ quăn lựu đạn, làm trẻ con rải truyền đơn... Thứ trẻ nhỏ phá xóm phá làng này bị lính Pháp vây bắt được, họ không cần xét xử mà bắn bỏ hằng loạt. Mẹ tôi lo sợ hằng đêm mỗi khi lính Pháp đi ruồng bắt trong xóm trong làng. Bà lén lút mang tôi vô Sài Gòn gởi cho người cô ruột ở đường Hẽm Số 4 trước Sở Cứu Hỏa đường Trần Hưng Đạo nuôi cho ăn đi học.
“Nhờ đó trên đường đi học chạy ngang qua nhà xuất bản Nam Cường, nhất là buổi chiều, tôi gặp lại đám Vũ Anh Khanh, Thẩm Thệ Hà, giám đốc coi sóc bài vở cho nhà xuất bản. Vũ Anh Khanh ngày đi học tên là Võ Văn Khánh học trường Nam Phan Thiết. Anh nổi tiếng trước bọn tôi nhiều. Trong các sách giáo khoa đã có in các bài của anh như bài Ai Điểm Tô Mà Em Phấn Son.
“Giai đoạn này anh viết rất hăng. Ở nhà xuất bản Nam Cường, chúng tôi còn gặp được các văn hữu khác như các văn nhân, tác giả Xin Đắp Mặt Tôi Mảnh Lụa Hồng, Em Không Về Nữa Chị Ơi! Họ là những người cổ động cho người ở thành phố đi kháng chiến. Còn tôi là dân kháng chiến về thành đi kiếm ăn.
“Thật tình mà nói, những năm 1951/1952 tình hình rất là lộn xộn, học hành cũng chẳng được yên thân. Nay bãi khóa, mai thì biểu tình. Chính mấy ông thầy đang dạy học cho chúng tôi cũng bỏ đi ra chiến khu nữa. Như anh Nguyễn Văn Hiếu, Nguyễn Văn Mười...
“Vũ Anh Khanh cũng khuyến khích tôi viết văn. Ý tưởng của anh ta trong văn chương rất rộng rãi, có rất nhiều không khí Miền Nam như bài Tha La Xóm Đạo.
“Quyển tiểu thuyết sau cùng của anh ta là quyển Nửa Bồ Xương Khô. Anh ta viết dở dang quyển I nhưng bán rất chạy. Anh ta thường bày tôi viết truyện ngắn cho báo hằng mỗi tuần cho các nhựt báo Tiếng Chuông, SàiGòn Mới...
“Trước khi anh ta ra đi, tôi có đưa cho anh ta một mớ hành trang rách rưới để mặc trong chiến khu và một ít tiền dằng túi để đi đường. Bọn tôi lấy phòng ngủ ở gần Cầu Ba Cẳng Chợ Lớn ngủ một đêm để tâm sự. Việc này chỉ để cho trọn tình trọn nghĩa đối với bạn bè chớ tôi không hề có một ý nghĩ gì khác, tức khuyến khích hay ủng hộ việc anh ta ra đi.
“Tôi là đứa ở chiến khu về đi học còn anh có người liên lạc đến dẫn đi chiến khu. Bọn tôi không biết dặn dò với nhau những lời gì trong lúc tình thế mỗi ngày một không yên.
“Chủ nghĩa cộng sản như nhà văn Dương Hùng Cường kể lại trong chuyện Trương Chi Mỵ Nương của anh là để nhìn từ xa thôi, chớ đến gần nó đầy máu và nước mắt. Trương Chi có tiếng sáo nghe vun vít lắm, đến chừng gặp mặt thì nàng Mỵ Nương phải vỡ mộng thì lúc đó cũng đã muộn màng.
“Tôi có người bạn là Út Mười ở ngoài Bắc về kể lại. Vũ Anh Khanh ra Bắc thấy tận mắt chánh sách đối đải với con em Miền Nam thật là tàn nhẫn không như bác Hồ nói. Thật ra nó còn tồi hơn cả phong kiến nữa. Với chủ nghĩa phong kiến trong vụ thu thuế chẳng hạn, người ta còn than trời trách đất được. Đàn nầy dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, cộng sản bố ráp nổi lửa bừng bừng như một đêm bị càn, bà già con trẻ không ai tránh đi đâu được.
“Lúc đó anh ta mơ ước trở lại Miền Nam thì đã muộn. Bây giờ chỉ còn cách vượt biên giới đi chui thôi.
“Vũ Anh Khanh cùng một số bạn bè vượt sông Bến Hải để lội ngược về Nam. Nửa sông bị lính biên phòng xã súng bắn chết. Xác không được dựng bia và vung nấm. Anh ta chết bên bờ sông lạnh lùng và tăm tối“.
Anh Hiếu Đệ chỉ viết đến đó thì dừng bút hẳn với lời Tái Bút dưới đây:
T.B.: Nơi bài Vũ Anh Khanh, anh kiếm cho tôi mấy bài thơ của anh ta để chạy vô bài cho nó thêm ý nghĩa. Ví dụ như bài Tha La Xóm Đạo. Bài này được thi sĩ Kiên Giang Hà Huy Hà mô phỏng trở lại thành bài Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím. Ký tên Hiếu Đệ.
Đọc bài viết dang dở, đứt ngang tức tửi này, tôi bỗng hồi nhớ đâu đó anh Hiếu Đệ có viết để đau xót ngậm ngùi về một thời nhiểu nhương tao loạn, để thấm thía cho số phận đắng cay oan nghiệt của những thành phần yêu nước chỉ có mỗi một tấm lòng:
“Trong cuộc chiến vừa qua, những người có lòng với dân tộc, những người yêu nước đều không có chỗ đứng“.
Ngay sau đó, tôi cố gắng lục soát trong các ngăn ngách chằn chịt của ký ức rồi tìm tòi trong tủ sách gia đình, cùng hỏi han các văn hữu bạn bè bốn phương để tìm kiếm bài thơ Tha La Xóm Đạo. Trong thâm tâm, tôi chỉ mong giúp Anh kết thúc nhanh chóng và mỹ mãn hồi ký về người bạn thân của Anh.
Trong quyển Văn Học Sử Việt Nam – Văn Học Hiện Đại do Gia Hội Canada xuất bản năm 2006 cũng như trong Văn Học Việt Nam Thế Kỷ 20 - Một Số Hiện Tượng Và Thể Loại do Đại Nam, Hoa Kỳ xuất bản năm 2004, hai tác giả phê bình văn học Sơn Trung Nguyễn Thiên Thụ và Nguyễn Vy Khanh cũng có trích dẫn đôi đoạn của bài thơ nổi tiếng này. Nhưng chỉ đôi đoạn thôi. Do chỗ quen biết thân tình, tôi có hỏi nhưng cũng không thêm được gì ngoài những trích đoạn đã in trong sách. Tôi đành lòng viết thơ thông báo ngay cho Anh biết kết quả không được như ý Anh mong muốn.
Thư tôi gởi đi ngày 07 tháng 4 năm 2009 thì ngày 12 Anh viết cho tôi như sau:
“Anh Trung thân mến,
“Trí nhớ của anh em mình bây giờ không được như xưa nữa. Thành ra cái gì không nhớ nổi, mình chịu thua đi anh à! Thành ra bài Tha La Xóm Đạo và bài Ai Điểm Tô Mà Em Phấn Son tôi chỉ nhớ lèm bèm thôi anh à. Liệu không xong thì mình bỏ bớt bài Vũ Anh Khanh cũng được, chứ chẳng sao. Không ai ép mình đâu. Mình làm tới đâu hay tới đó. Tôi lúc này già cả rồi, sức khoẻ yếu...“.
Tôi rất đỗi ngạc nhiên qua thái độ bỏ cuộc nửa chừng đó của Anh. Một thái độ tôi chưa hằng thấy một lần trong những năm dài hợp tác với Anh qua kiếp đam mê của nghiệp chữ nghĩa. Từ trước, Anh vẫn luôn luôn cương quyết thực hiện cho bằng được những gì Anh suy nghĩ chín chắn và một khi đã bắt tay vào việc, Anh đều đi đến cùng, mặc dù đôi lúc có gặp khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua được.
Việc Anh có ý hoài niệm nhà văn Vũ Anh Khanh cũng nằm trong trường hợp này. Bao lần Anh đã xác định như vậy nên yêu cầu tôi nán gát lại một thời gian ngắn việc thực hiện tuyển tập Nước Chảy Huê Trôi. Nhưng nay không ngờ Anh lại bỏ cuộc nửa chừng. Bỏ cuộc xuôi tay. Bỏ cuộc chấp nhận định luật bất biến và phũ phàng của Tạo Hóa.
Cũng trong thơ đề ngày 07 tháng 4 năm 2009 nói trên, tôi có kèm theo mấy đoạn của bài Tha La Xóm Đạo trích từ quyển Văn Học Sử Việt Nam – Văn Học Hiện Đại (Quyển IV) như sau:
Đây Tha La xóm đạo Có trái ngọt cây lành Tôi về thăm một dạo Giữa mùa nắng vàng hanh Ngậm ngùi Tha La bảo - Đây rừng xanh, rừng xanh Bụi đùn quanh ngõ vắng Gió đùng quanh mây trắng Và lửa loạn xây thành (a)… … Thôi hết rồi, còn chi nữa Tha La! Bao người đi thề chẳng trở lại nhà, Nay đã chết giữa chiến trường ly loạn! Tiếng địch càng cao, não nùng ai oán Buồn trưa trưa, lây lất buồn trưa trưa Buồn xưa xưa, ngây ngất buồn xưa xưa… Tha La giận mùa thu Tha La hận quốc thù Tha La hờn quốc biến! (b).
Vũ Anh Khanh
Bốn năm ngày sau, trong thơ hồi âm gởi cho tôi, Anh hoàn lại bản phóng ảnh hai đoạn thơ tôi gởi trên đây và tự tay Anh ghi hai chú thích (a) và (b) để triển khai theo trí nhớ, với lời dè dặt không biết trí nhớ của mình có phản bội lại mình không?
Chú thích (a):
Khách hãy dừng chân cho tôi thăm hỏi Nhưng mà thôi khách nhé… Một ông lão cười rung rung râu trắng Tha La vắng vì Tha La đã biết Thương giống nòi, đau đất nước lầm than Ờ…ơ…ơ… Có một đoàn chiên lành Quỳ cạnh Chúa một chiều xưa lửa dậy Quỳ cạnh Chúa đám chiên lành rung rẩy Lạy Đức Cha, lạy Đức Mẹ, lạy khánh phần Chúng con xin về cõi tạm để làm dân Rồi xếp bỏ áo tu Rồi xếp kinh cầu nguyện Rồi nhẹ bước trở về trần Thôi hết rồi còn chi nữa Tha La!
Chú thích (b):
Não nùng chưa Tha La nguyện hy sinh!
Sở dĩ tôi dong dài ở hai trích đoạn này với hai chú thích để bổ túc chỉ vì một lẽ rất đơn giản. Tôi vô cùng xúc động vì nét chữ của Anh bệ rạc quá. Tôi nói bệ rạc vì Anh không còn thần sắc và sức lực để điều khiển ngòi bút theo kịp với trí nhớ của anh. Đôi nơi, tôi cố gắng lắm mới đọc được những chữ quá phóng mà Anh không chủ động được. Đối với tôi, còn gì đau lòng cho bằng khi đọc những dòng chữ cuối cùng trong đời Anh. Tôi cũng xin được bạn đọc thân thương của Anh chia xẻ nhận thức và cảm nghĩ của tôi qua phụ bản đính kèm.
Ở đời có những cái oái oăm bất ngờ không lường trước được. Thư Anh viết cho tôi đề ngày 12 tháng 4 năm 2009. Bốn ngày sau tức ngày 16, Anh âm thầm lặng lẽ ra đi về cõi hư vô đầy bí hiểm. Anh ra đi tâm hồn thanh thản như lúc Anh cất tiếng chào đời bên tiếng sóng rì rào của biển xanh cồn cát Phan Thiết, dưới vòm trời «lấp lánh ngàn sao» của văn chương nghệ thuật, của quê hương cố thổ Anh luôn ôm ấp trong lòng. Anh thanh thản giã từ nhân thế, giã từ bạn bè bằng hữu bốn phương, giã từ cõi tạm thế gian không oán ghét, không hận thù.
Ngày 17 đọc trên TinParis do kỹ sư Hứa Vạng Thọ chủ trương, tôi bàng hoàng với cái thông báo ngắn gọn của Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại loan tin Anh đã mất. Rồi tiếp đó các thi văn hữu ở Hoa Kỳ, kẻ trước người sau, dồn dập gởi điện thư báo tôi tin chẳng lành này. Oái oăm thay, thư Anh lại đến tôi ngày 18, tức hai ngày sau Anh vĩnh viễn ra đi.
Quả thư Anh đến muộn như thể để chia tay tôi lần cuối cùng, một cử chỉ thương mến và thủy chung, vừa cao đẹp vừa có ý nghĩa làm cho tôi luôn thẫn thờ, bùi ngùi xót xa mãi trong lòng. Vì lẽ ấy tôi mạn phép hương linh Anh được công bố công khai nguyên văn một vài đoạn của bức thư cuối cùng này, trong khi lúc sanh tiền Anh đã từng gởi cho tôi không biết bao nhiêu là thơ, gói ghém những suy nghĩ, tâm tình, những ước mơ và hoài bảo của Anh nơi chốn lưu đày ẩn thân mà tôi giữ như một của riêng.
«… Tôi lúc rày cũng già cả rồi, sức khoẻ yếu. Con cái ở khắp các tiểu bang, nhất là mấy đứa ra Đại học bên Mỹ làm ăn khá ở tiểu bang lớn. Ở Michigan này còn mấy đứa đi làm ba cọc ba đồng, nhưng tình thương tụi nó ấm áp hơn, gần gũi hơn. Tôi ở với Thuận là con gái lớn sanh ngoài Huế. Chồng nó cũng người Huế. Tụi nó săn sóc tôi.
«Tôi hồi nhỏ rong chơi ở Sài Gòn không chịu ở với mẹ nên bây giờ tôi lang bang. Đành vậy thôi. Mừng có một điều là tôi đem được lũ con bảy đứa qua Mỹ hết.
«Tình hình bên Mỹ cũng bị khó khăn về kinh tế vì do toàn cầu hóa mà. Bên Pháp cũng vậy thôi.
« …
«Vấn đề sách báo cũng khó khăn. Nhà xuất bản của mình cũng vậy thôi, có cố gắng lắm cũng nghèo thôi. Làm được tới đâu hay tới đó. Nói chung anh em tụi mình chẳng ai làm giàu được đâu!
«Vợ tôi nó hay cằn nhằn kiếp sau không lấy chồng nghệ sĩ nữa, lỡ một kiếp rồi nên bây giờ tôi không được phàn nàn bà ta. Vì tất cả lỗi tại tôi.
«Anh Trung lúc này thế nào? Phải luôn luôn giữ sức khoẻ, đừng bao giờ thức khuya dậy sớm. Khi thức dậy, hãy chểnh mảng một chút vì khi mình nằm máu lên đầu không được đầy đủ có hơi chóng mặt. Đi cũng chậm chạp một chút.
«Tôi chưa bỏ sợi dây oxy được, nhất là đang đêm rớt tay ngủ quên sút sợi dây ra là mê sản nói bậy. Tình trạng này làm như quen tật rồi.
«Anh em mình bây giờ chỉ có chút nhau nhiều sức khoẻ, lúc nào cũng cầu nguyện cho nhau được khoẻ mạnh».
Ngày 12 tháng 4 năm 2009
Hiếu Đệ
Tôi xem đây là những lời trối trăn, một thoáng ngắn ngủi soi rọi bản thân, một cái nhìn trung thực nhứt, xuất phát tự đáy lòng về cuộc đời mình, nhứt là về quan hệ gia đình, nền tảng của đạo lý truyền thống Việt Nam. Anh nói đến vợ con Anh với niềm hãnh diện tự xét đã làm tròn phần nào trách nhiệm và bổn phận của người rường cột trong gia đình. Anh cũng không quên nhìn nhận đã có một thời tuổi trẻ lang bạt buông cương. Dường như Anh đang sống với quá khứ. Anh đang trở về trầm mình trong những ngày tháng xa xưa. Anh đang ôn cố tự vấn lương tâm và lương tri mình để trước khi ra đi một chuyến xa chưa biết nơi nào phải dừng chân, lòng Anh luôn thanh thản, nhẹ nhàng.
Thuở sanh tiền, sau những thập niên dấn thân bay nhảy, đấu tranh không ngừng nghỉ, có lần anh Hiếu Đệ viết:
«Bây giờ tôi đã nghĩ hưu nhưng vẫn chống gậy đi đây đi đó. Nhưng tôi cũng mang cái tật hay ngồi buổi sáng vẽ những bức tranh vui cười. Ngồi cười một mình buổi sáng với bình trà là một thói quen rất thú vị của tôi».
Bây giờ cây cọ Anh dùng để vẽ những bức tranh hí họa, biếm họa để mang niềm vui đến mọi gia đình vẫn còn đó. Bình trà Anh dùng để uống mỗi buổi sáng vào tuổi mông manh ướm rụng vẫn còn nguyên đây. Nhưng nụ cười hiền hòa cởi mở với cái «thói quen thú vị» thuở sinh tiền của Anh nay không còn nữa. Không còn trong đáng tiếc bội phần!
Ở đời, cuộc chia lìa nào mà không để trong lòng người ở lại bao mến thương tiếc nuối. «Cái cảnh biệt ly» nào mà không mang đến cho người thân thương ruột thịt những đớn đau ưu sầu. Đó chẳng qua là những cuộc chia lìa và ly biệt thường tình trên thế gian rối nhùi lắm chuyện này. Vì thực ra có những cuộc chia ly, dù cho vĩnh viễn đi nữa, cũng không hẳn là một sự ly biệt thật sự. Vì những kỷ niệm tốt đẹp nhứt, ý nghĩa nhứt, đáng nhớ nhứt của một thời gần gũi, một thời cảm thông và chia xẻ với nhau sẽ khó có thể phôi pha nhạt nhòa dễ dàng được.
Anh Hiếu Đệ nay không còn nữa. Anh đã thực sự đi vào vùng miên viễn bình yên, không oán trách, không hận thù, nhưng Anh vẫn sống mãi trong lòng tôi, trong lòng bạn bè quyến thuộc và trong sự ngưỡng mộ quý trọng của nhiều thế hệ mai sau nữa.
Cũng lúc sanh tiền, Anh thường hay nói với tôi:
«Anh em mình sống tới tuổi này xem như mình đã lời quá rồi!».
Hôm nay, ở giờ phút này, tôi đã mất một người bạn thân, người bạn đồng hành hiếm hoi và tôi không hề nghĩ đến chuyện «lỗ» hay «lời» qua tuổi đời chồng chất theo năm tháng của nhau. Nhưng có một điều chắc chắn, một sự thật hiển nhiên là Anh đã thực sự sống. Sống trọn vẹn với đam mê. Sống trung thực với chính mình. Sống với tác phong phóng túng ngang tàng theo những suy nghĩ và hành động của mình. Anh quả đã thực hiện tròn đầy chức năng của một người nghệ sĩ đích thực.
Cách đây mấy hôm, thi sĩ Hồ Công Tâm ở Austin, Tiểu bang Texas, Hoa Kỳ có ưu ái gởi tặng tôi thi phẩm Một Thời Lưu Vong (Tập I) do Hải Ngoại Nhân Văn xuất bản năm nay, 2009. Thật là một dịp may đến rất đúng lúc trong khi tôi đang sắp sửa chấm dứt những dòng hoài niệm buồn vui lẩn lộn này.
Tôi xin phép và chân thành cám ơn thi sĩ được trích dẫn nguyên bản bài thơ sau đây gọi là để kết thúc bài tưởng nhớ người nghệ sĩ tài danh: Hiếu Đệ:
Tiễn đưa Họa sĩ Hiếu Đệ
Văn chương hội họa sớm đam mê Nhân ái thủy chung vẹn mọi bề Cải tạo… còn căm quân cướp nước Lưu vong… vẫn nặng mối tình quê Văn chương chân chất hồn dân tộc Hội họa đậm đà nét hoạt kê Xin được vinh danh anh Hiếu Đệ Ngàn năm sống mãi với sơn khê. (16.06.2009)
Dân Mộc tiểu lộ, ngày 30-11-2009
Võ Đức Trung
(Trích Hiếu Đệ Lão Ngoan Đồng, Hoài niệm Nghệ sĩ Hiếu Đệ, mất ngày 16.04.2009 tại Michigan, Hoa Kỳ. Sách dầy 366 trang, bìa màu do Hương Cau in ấn và phát hành: 1 Allée des Peupliers 59.320 Hallennes-Lez-Haubourdin, France).
Chú thích:
(1) Nước Lớn Nước Ròng, chuyện Thầy Tôi, trang 98, Hương Cau 2007. (2) Nước Lớn Nước Ròng, chuyện Thầy Tôi, Sđs - trang 99. (3) Nước Lớn Nước Ròng, chuyện Họa sĩ Dương Tấn Minh, Sđd – trang 68. (4) Niềm Đau Bạc Tóc, chuyện Tôi Vẽ Tranh Vui Cười, Hương Cau 2005 - trang 197. (5) Bên Đục Bên Trong, chuyện Họa Sĩ Trần Quang Hiếu, Hương Cau 2004 -,các trang 30, 31. (6) Bên Đục Bên Trong, chuyện Hai Mối Tình Của Người Tù Biệt Giam, Sđd - các trang 54, 55. (7) Niềm Đau Bạc Tóc, chuyện Tôi Vẽ Tranh Vui Cười, Sđd – trang 214.
(8) Phạm Thắng Vũ: Họa Sĩ Hiếu Đệ, Tác Giả Bức Hí Họa 7 Tên Việt Cộng Đu Cành Đu Đủ Thời Chiến Tranh Việt Nam... Không Còn Nữa:
“Đặc biệt, ông đã vẽ một bức tranh biếm, hí họa rất nổi tiếng thời chiến tranh tại Miền Nam Việt Nam Cộng Hòa. Đó là bức tranh 7 Việt Cộng bám (đánh đu) vào một cành đu đủ mà không gãy. Cục Chính Huấn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã in khá nhiều tranh 7 Viêt Cộng và cành Đu Đủ nầy và trưng bày nhiều nơi tại Miền Nam trong thời gian đó và đây cũng là một trong các lý do mà Cộng sản đã hành hạ ông trong thời gian bị tù cải tạo sau ngày 30-04-1975 (rất tiếc là bức tranh đã không còn).
“Nhìn vào bức tranh, hầu hết người thưởng lãm đều nghĩ là cán binh Việt Cộng ăn uống thiếu đói nên cả 7 tên bám vào một cành đu đủ mà vẫn không làm gãy cành được. Đó là nghĩa đen. Thi sĩ Nhật Hồng, một người bạn của họa sĩ Hiếu Đệ đã giải thích ý nghĩa bức tranh nầy theo nghĩa bóng như sau:
«Cả 7 tên Việt Cộng bám vào một cành Đu Đủ mà không làm gãy cành có nghĩa là chủ nbghĩa Cộng Sản chẳng có giá trị hay trọng lượng gì (nhân gấp 7 lần) trong thực tế (cây Đu Đủ là loại cây có cành yếu ớt nhất trong các loại cây có cành mà 7 cán binh Việt Cộng bám vào nhưng cũng không hề hấn). Nói cách khác, chủ thuyết Cộng Sản là một chủ thuyết hoang tưởng và những tiêu đề do chủ thuyết nầy xướng xuất đã không mang lại hạnh phúc, tự do, dân chủ, ấm no thực sự cho người dân».
(9) Niềm Đau Bạc Tóc, chuyện Tôi Vẽ Tranh Vui Cười, Sđd – trang 206. (10) Niềm Đau Bạc Tóc, chuyện Tôi Vẽ Tranh Vui Cười, Sđd – trang 200. (11) Niềm Đau Bạc Tóc, chuyện Tôi Vẽ Tranh Vui Cười, Sđd - các trang 201-202. (12) Niềm Đau Bạc Tóc, chuyện Tôi Vẽ Tranh Vui Cười, Sđd – trang 204. (13) Niềm Đau Bạc Tóc, chuyện Họa sĩ Văn Đen, Sđd - trang 116. (14) Niềm Đau Bạc Tóc, chuyện Họa sĩ Văn Đen, Sđd - trang 128. (15) Nước Lớn Nước Ròng, chuyện Họa Sĩ Lê Chánh, Sđd - các trang 93, 94 và 95. (16) Niềm Đau Bạc Tóc, chuyện Tôi Vẽ Tranh Vui Cười, Sđd - các trang 194, 195 và 210* * * | ||||||