SƠN TRUNG * NGÀY VỀ QUANG VINH
NGÀY VỀ QUANG VINH
Sơn Trung
Trước của hội trường, cờ đỏ, cờ xanh, cờ vàng cấm chật ních như là một ngày lễ hội. Trong hội trường tỉnh, quạt máy chạy vù vù. Hội trường tưong đối rộng , có khoảng hơn 100 ghế được bày biện ngay ngắn, lịch sự. Trên tường, trước mặt hội trường là ảnh Hồ Chủ tịch với hàng khẩu hiệu: "Bác Hồ sống Mãi Trong Sự Nghiệp của Chúng Ta ", "Quyết Tâm Xây Dựng Xã Hội Chủ Nghĩa Văn Minh và Giàu Mạnh ".
Khách tham dự gồm có ủy ban nhân dân tỉnh, hội đồng nhân dân tỉnh, đảng ủy cấp tỉnh, công an tỉnh, tỉnh đội và các cán bộ tỉnh và huyện. Dân chúng đứng hàng trong hàng ngoài có đến vài trăm, trong đó có học sinh các trường, kể cả học sinh lớp Măng non đã đưọc huy động từ 6 giờ sáng.Các em Măng Non đeo khăn quàng đỏ, mồ hôi nhễ nhại, các cô giáo ốm o gầy gò luôn luôn che miệng ngáp.
Khoảng mười giờ các cán bộ đến rải rác. Đến mười một giờ hơn, đồng chí chủ tịch ủy ban nhân dân đến, rồi đồng chí tỉnh ủy đến. Cán bộ càng cao thì đến càng trễ. Trong hội trường cũng như ngoài sân, công an đứng đầy, lăng xăng chạy qua chạy lại ra vẻ bận rộn và tích cực. Ngoài cổng, hai hàng bộ đội bồng súng chào rât trang trọng uy nghi như là để đón tiếp chủ tịch Hồ Chí Minh đội mồ trở về thăm tỉnh.
Ngồi trong hội trường, bên trái là đồng chí bí thư tỉnh ủy và bên phải là đồng chí chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, Thìn cảm thấy mình vô cùng vinh hạnh. Hình như cái đinh hôm nay là Thìn. Dường như cả mấy trăm, mấy ngàn cặp mắt đều đổ dồn vào chàng, người Việt kiều yêu nước của tỉnh. Chàng trở thành nhân vật số một của cấp lãnh đạo tỉnh và của nhân dân tỉnh bởi vì trong mấy năm vượt biên rồi sống ở Đan Mach, chàng nay đã trở thành triệu phú. Chàng được tòa đại sứ Việt Nam tại Đan Mạch tôn làm thượng khách, thường mời chàng đến đãi tiệc và trân trọng mời chàng về đầu tư. Trung ương Hà Nội và Uỷ ban Nhân dân tỉnh đều gửi thư mời chàng trở về đóng góp tài năng vào công cuộc dựng xây chủ nghĩa xã hội. Khi chàng về đến Nội Bài, chủ tịch tỉnh và bí thư tỉnh ủy cùng một lúc đưa xe con ra đón chàng và đưa chàng về tận nhà. \
Họ còn để xe lại cho chàng sử dụng. Họ ân cần hết sức khiến cho chàng cảm động. Ngày hôm nay là ngày lễ cách mạng tháng tám, mấy năm nay vì khó khăn kinh tế, người ta bỏ quên không tổ chức, nay chàng về, người ta tổ chức mừng chàng y cẩm hồi hương và kỷ niệm cách mạng tháng tám luôn thể. Sau phần nghi lễ chào cờ, suy tôn Hồ chủ tịch, mặc niệm chiến sĩ trận vong, viên tỉnh ủy lên đọc diễn văn, ca tụng cách mạng tháng tám và ca tụng công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, đồng thời kêu gọi đồng bào trong nước và hải ngoại tích cực đóng góp cho công cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh. Tiếp tục, đồng chí chủ tịch ủy ban nhân dân lên giời thiệu chàng là một Việt kiều yêu nước, đã tích cực hoạt động ở nước ngoài, được tòa đại sứ Việt Nam tại Đan Mach khen ngợi, và đuợc đảng ủy cấp tỉnh và hội đồng nhân dân tỉnh cấp phát văn bằng Việt kiều yêu nước hạng danh dự. Thìn cảm động hết sức, nước mắt chảy hai hàng, nghẹn ngào không nói nên lời, tay run run khi lên nhận bằng danh dự do chính tay chủ tịch tỉnh ban phát. Từ tổ tiên chàng đến cha ông, không ai được vinh dự chánh tổng đến nhà, và mời ăn uống.
"Con hơn cha là nhà có phúc". Nay thì chàng không những được huyện, mà còn tỉnh và trung ương đến thăm tận nhà, xưng hô ngọt ngào, lịch sự, mời dự tiệc khắp nơi với đủ các món sơn hào hải vị mà ngay khi ở nước ngoài chàng cũng không hề nếm qua dù chàng đã trở thành triệu phú. Chàng thấy sống ở Việt Nam là thần tiên, như là bay bổng trên chín tầng mây. Còn ở nước ngoài, dù chàng là triệu phú hay tỉ phú cũng chẳng ai biết, ai quan tâm. Tiến sĩ, kỹ sư, tỷ phú, anh thợ hồ, anh thợ mộc, anh hầu bàn đều là những con kiến trong một xã hội đông đúc và xa lạ, chẳng ai biết ai. Nay về Việt Nam, chàng đi đâu cũng được trẻ con cho đến lãnh đạo cao cấp, ai cũng trầm trồ, khen ngơị, ca tụng và chào đón rât nồng hậu!
"Con hơn cha là nhà có phúc". Nay thì chàng không những được huyện, mà còn tỉnh và trung ương đến thăm tận nhà, xưng hô ngọt ngào, lịch sự, mời dự tiệc khắp nơi với đủ các món sơn hào hải vị mà ngay khi ở nước ngoài chàng cũng không hề nếm qua dù chàng đã trở thành triệu phú. Chàng thấy sống ở Việt Nam là thần tiên, như là bay bổng trên chín tầng mây. Còn ở nước ngoài, dù chàng là triệu phú hay tỉ phú cũng chẳng ai biết, ai quan tâm. Tiến sĩ, kỹ sư, tỷ phú, anh thợ hồ, anh thợ mộc, anh hầu bàn đều là những con kiến trong một xã hội đông đúc và xa lạ, chẳng ai biết ai. Nay về Việt Nam, chàng đi đâu cũng được trẻ con cho đến lãnh đạo cao cấp, ai cũng trầm trồ, khen ngơị, ca tụng và chào đón rât nồng hậu!
Chàng là người lanh lợi và có số hên. Bố mẹ chàng là nông dân nghèo tại Nam Định. Nhà nghèo không áo che thân và không đủ ăn hai bữa, chàng phải ăn cắp, ăn trộm vặt để mưu sinh. Chàng bị công an tỉnh bắt đánh nhừ tử, nhốt vài ngày lại thả ra vì không có chỗ chứa và không có lương thực cho chàng. Bị công an theo dõi, hết đất làm ăn, chàng theo đám trẻ sống bụi đời, lên Hà Nội sinh sống. Chàng cũng làm nghề cũ, cộng thêm nghề xếp hàng mua gạo tổ. Giờ tan sở, các con đường Hà Nội đều nghẽn lối đi,người ta phải chờ đợi hàng giờ mới về đến nhà, nhưng với tài uốn lách của chàng, chỉ mười lăm phút hay nửa giờ là qua cầu Long Biên cái rụp. Cuối cùng chàng đã xung phong đi bộ đội lúc 16 tuổi để có cái mà sống. Trong bao nhiêu năm đi bộ đội, chàng cũng đã có cơm ăn dù không no, và áo mặc dù là chỉ hai bộ trong người.
Vì trẻ cho nên chàng phải làm mọi việc lặt vặt trong quân đội, từ cấp dưỡng cho đến chiến đấu tại mặt trận. Tại đây chàng đã ăn bớt gạo, ăn cắp đường sữa bán ra ngoài lấy tiền tiêu xài. Chàng bị bọn chỉ huy ghét bỏ thường bắt giam chàng vì cái tội tham ô và hủ hóa. Họ phê trong hồ sơ chàng là vô sản lưu manh. Đơn vị chàng đồn trú tại Mông Cáy. Lúc bấy giờ Việt Nam và Trung quốc có xung đột, đảng và nhà nước đuổi Hoa kiều về nuớc. Chàng nghe nói các nước tư bản rất giàu, sang được bên đó dù đi làm cu ly vẫn no ấm chứ không như ở xã hội chủ nghĩa, lao động vinh quang suốt ngày nhưng bao tử vẫn lép kẹp. Chàng nghe thiên hạ làm giấy giả theo nạn kiều chạy sang Trung quốc. Chàng bèn lẩn vào trong đám nạn kiều và sang Trung quốc ngon lành. Một số Hoa kiều và người Việt xin ở lại Trung quốc, đuợc cho vào các nông trại . Một số xin đi sang các nước tư bản. Chàng cũng theo họ xin đi đến một quốc gia trung lập và Đan Mạch đã nhận chàng.
Sang đây, chàng gặp một thiếu nữ người Việt, con gái của một gia đình Việt Nam, nhờ làm giấy giả mạo Hoa kiều nên sang được Hồng Kông. Ở đây ít lâu, gia đình nàng đuọc Đan Mạch nhận cho cư ngụ. Hai vợ chồng sống hạnh phúc. Hai vợ chồng xin làm công nhân xưởng dệt, lương bổng cũng tương đối khá. Một hôm hai vợ chồng vào một tiệm phở người Việt, thấy khách hàng vào ra tấp nập. Hai vợ chồng bàn nhau đem số tiền dành dụm được để mở tiệm phở vì nhà nàng trước kia ở Việt Nam cũng đã mở tiệm phở. Công việc làm ăn ngày càng khấm khá. Hai vợ chồng mở thêm nhiều chi nhánh. Ngoài bán phở, hai vợ chồng anh còn làm bánh giò, chả lụa, chả quế,bánh bao. Nhưng trong các món, chả giò và phở là được người Vịệt và người ngoại quốc yêu thích nhất.
Anh phải thuê hàng chục người vừa Việt nam vừa Đan Mạch làm phụ. Trong vài năm, anh trở thành triệu phú. Anh đã gửi tiền về cho bố mẹ xây nhà cửa. Ngôi nhà tranh rách nát năm xưa nay thành ngôi biệt thự rất khang trang. Anh cũng đã giúp các anh chị em mỗi người một số tiền làm vốn. Và lúc này, bên nhà, chính sách mở cửa đã bắt đầu, cán bộ toà đại sứ Việt Nam đã cho người bắt liên lạc với anh, mời anh về đầu tư. Họ cho người vận động riêng với vợ anh, và cha mẹ vợ của anh nữa. Họ đưa ra bao hứa hẹn . Anh ban đầu không thích trở về Việt Nam làm ăn vì anh đã chán một nước Việt Nam nghèo khổ và đầy rẫy cường hào ác bá mà anh đã từng là nạn nhân. Nhưng vì vợ anh, và bố mẹ vợ thúc dục, cộng thêm anh em, cha mẹ bên nhà tuân theo chỉ thị của đảng, đã liên tiếp gửi thư thúc dục anh sớm về đầu tư kẻo lỡ dịp. Khi về, chính anh cũng bị chinh phục vì thái độ thưong yêu, nồng nhiệt và cởi mở của các cán bộ huyện tỉnh đối với khúc ruột thừa xa ngàn dặm quê hương!
\
\
u khi tham khảo ý kiến bạn bè, anh em, cha mẹ trong gia đình, cùng nghiên cứu thị trường với sự tham gia chỉ đạo của các cán bộ cao cấp của tỉnh, anh quyết định mua một miếng đất rộng lớn của tỉnh xây một nhà khách bốn tầng lầu, gồm 50 phòng với phí tổn sáu trăm ngàn mỹ kim. Anh cũng mua đất xây một cửa hàng ăn rộng rãi, có thể chưá 500 người một lúc, với phí tổn ba trăm ngàn mỹ kim. So với bên Đan Mạch, mọi thứ đều rẻ. Anh hy vọng năm du lịch Việt kiều và người ngoại quốc sẽ đổ về không chỗ ở và nhà khách của anh sẽ thu hút mọi người vì đó là một nhà khách tối tân nhất tỉnh Nam Định. Anh cũng hy vọng cửa hàng ăn của anh có thể là nơi tổ chức tiệc tùng cưới gả, hay nơi ăn uống của Việt kiều và ngoại quốc khi về Nam Định du lịch.
Vì Việt kiều không được phép kinh doanh hay mua nhà đất, cho nên anh nhờ anh Hai đứng tên mua và xây nhà khách, còn cửa hàng ăn thì nhờ anh Ba đứng tên hộ. Còn vợ chồng cô em gái thì anh giao đứng tên và trông coi cửa hàng kim khí điện máy. Theo luật nhà nước, muốn kinh doanh, các hộ phải có tiền mặt bỏ vào ngân hàng ít nhất là 50 ngàn mỹ kim. Ba cơ sở trên, anh đã bỏ tất cả gần triệu rưỡi mỹ kim chưa kể tiền biếu xén và ngoại giao trà nước. Anh thấy mình quả vĩ đại không thua gì Hồ chủ tịch vì anh đã xây những cơ sở vật chất to đẹp, tối tân cho tỉnh. Anh đã đem lại công ăn việc làm cho bà con, cho nhân dân. Dĩ nhiên bà con anh đã được thu nhận vào làm việc tại các cơ sở của anh. Ngoài ra những người của công an, ủy ban, tỉnh ủy cũng đưọc thâu nhận vào làm việc. Anh thấy anh là người nhân hậu, quảng đại vì anh đã thu nhận tất cả mọi người, bà con cũng như không bà con, nhất là những người do chính quyền giới thiệu. Anh cũng thấy anh là người có tài xã giao rộng rãi, luôn luôn làm vui lòng bà con cũng như chính quyền. Anh là niềm kiêu hãnh cho bố mẹ, anh em và họ hàng, làng xóm. Anh rất là vui vẻ vì anh thấy anh là một vị anh hùng , ít nhất là anh hùng của tỉnh vì trong tỉnh không ai giàu bằng anh và yêu nước bằng anh!
Anh đi về Đan Mạch thăm vợ con rồi trở lại Việt Nam. Đây là lần thứ ba anh trở lại thành Nam. Anh được Ban Việt Kiều trung ương mời lên Hà Nội tham dự một cuộc họp đại biểu Việt Kiều yêu nước. Anh cảm thấy vô cùng vinh dự. Tiếng tăm của anh không những vang lừng khắp tỉnh Nam mà con vang dội đến thủ đô, và có lẽ sẽ vang lừng khắp nuớc và khắp hoàn cầu. Anh nghĩ người ta cưng chiều anh cũng là phải, vì anh là người đầu tiên trở về đầu tư, họ phải kính trọng anh để lôi cuốn các Việt kiều ở Anh, Pháp, Mỹ.
Ở Hà Nội, sinh hoạt với các cán bộ trung ương độ nửa tháng, mọi chi phí đều do trung ương đài thọ. Anh được đi xem lăng Hồ chủ tịch và đi du lịch nhiều nơi như hang Pac Bó là cái nôi của cách mạng,và bải biển Đồ sơn là nơi nghỉ mát của các lãnh đạo trung ương.
Khi anh ở Hà Nội về, mọi công việc kinh doanh đã tiến hành tốt đẹp. Nhà khách, nhà ăn đều có khách ra vào, tuy chưa đông đảo như ý muốn nhưng buồi sơ khởi thế là tốt lắm rồi.
Ở Hà Nội, sinh hoạt với các cán bộ trung ương độ nửa tháng, mọi chi phí đều do trung ương đài thọ. Anh được đi xem lăng Hồ chủ tịch và đi du lịch nhiều nơi như hang Pac Bó là cái nôi của cách mạng,và bải biển Đồ sơn là nơi nghỉ mát của các lãnh đạo trung ương.
Khi anh ở Hà Nội về, mọi công việc kinh doanh đã tiến hành tốt đẹp. Nhà khách, nhà ăn đều có khách ra vào, tuy chưa đông đảo như ý muốn nhưng buồi sơ khởi thế là tốt lắm rồi.
Một buổi trưa, anh ngồi làm việc tại văn phòng nhà khách thì một cô nhân viên bước vào phòng. Sau câu chào hỏi, cô ta ngồi vào lòng của anh, rồi bạt tai anh một cái như trời giáng. Anh xô cô ta ra, cô xõa tóc, tuột áo ra làm mất cả hàng nút áo, rồi kêu la ầm ĩ rằng anh ta hãm hiếp cô ta. Ngay tiếng kêu đầu tiên của cô ta, các nhân viên nhà khách và công an ập vào, làm biên bản, chụp hình. Mọi người đều nhất trí kết tội anh ta hãm hiếp công nhân nhà khách và họ tuyên bố sẵn sàng ra tòa làm chứng vụ này.Công an bắt anh lên trụ sở làm việc, rồi tống giam. Trong lúc đó, mọi người trong gia đình của anh được gọi lên công an kinh tế làm việc. Ba anh chị em của anh đều được mời lên trụ sở công an một lúc nhưng lại được ngồi ở ba văn phòng khác nhau do những công an gộc của tỉnh thẩm tra.
Khi vợ chồng anh Hai của anh bước vào, họ nghiêm nghị chỉ ghế cho anh chị của anh ngồi xuống. Họ ôn tồn nói:
Khi vợ chồng anh Hai của anh bước vào, họ nghiêm nghị chỉ ghế cho anh chị của anh ngồi xuống. Họ ôn tồn nói:
- Vì gia đình anh chị thuộc diện kinh doanh cao cấp cho nên chúng tôi mời anh chị đến để bổ túc hồ sơ theo luật định. Xin anh chị thành thực trả lời để chúng tôi làm việc. Xin anh chị cho biết tên họ, dịa chỉ, số chứng minh nhân dân.
Anh thành thực trình bày, và những lời khai của anh được một ủy viên thư ký ghi chép đầy đủ.
-Xin anh cho biết xây nhà khách hết bao nhiêu ? Và tiền ở đâu mà anh có?
-Thưa cán bộ, tiền đó là do người em tên Thìn đem về để xây cất nhà khách. Phí tổn mua đất, xây nhà, và đồ trang trí nội thất hết 800 ngàn dô la Mỹ.
-Anh chị xây nhà khách, vậy có giấy phép không?
-Chúng tôi chưa xin được giấy phép nhưng tỉnh uỷ đã khuyến khích chúng tôi cứ xây, giấy phép sẽ về sau.
Viên công an đổi sắc mặt quát tháo: Anh thành thực trình bày, và những lời khai của anh được một ủy viên thư ký ghi chép đầy đủ.
-Xin anh cho biết xây nhà khách hết bao nhiêu ? Và tiền ở đâu mà anh có?
-Thưa cán bộ, tiền đó là do người em tên Thìn đem về để xây cất nhà khách. Phí tổn mua đất, xây nhà, và đồ trang trí nội thất hết 800 ngàn dô la Mỹ.
-Anh chị xây nhà khách, vậy có giấy phép không?
-Chúng tôi chưa xin được giấy phép nhưng tỉnh uỷ đã khuyến khích chúng tôi cứ xây, giấy phép sẽ về sau.
-Láo! Làm nhà phải có giấy phép, không có giấy phép sao tự ý xây cất? Anh lại còn vu khống cho tỉnh ủy à?
Cuối cùng vợ chồng người anh Hai phải ký nhận vào lời khai rồi ra về trong nước mắt. Hoàn cảnh vợ chồng anh Ba và cô Út cũng không khác gì hơn. Có lẽ họ khá hơn vợ chồng anh Hai vì vợ chồng anh Hai đã rơi vào lão Ba Búa là tay hùm xám Nam Định. Còn họ đuợc viên công an già ngọt ngào thuyết phục, phải thành thực khai báo thì đuợc trọng thưởng, nhà nước rất tôn trọng Việt kiều yêu nước, và gia đình Việt kiều. Nếu kê khai rõ ràng thì sẽ đươc vĩnh viễn làm chủ mọi thứ đã được đúng tên. Những người này trước sau đều thành thực khai rằng tiền của đầu tư, mua đất, xây nhà, mua sắm máy móc là của người em là Lê Văn Thìn, Việt kiều yêu nước ở Đan Mạch về. Họ khai xong ký tên vào biên bản và ra về trong lo âu, thắc mắc, không hiểu tại sao. Cả bố mẹ Thìn cũng đưọc kêu lên làm việc. Họ hỏi:
-Tiền đâu cụ làm nhà?
-Dạ thưa cán bộ, tiền tôi làm nhà là do con tôi tên Thìn mang về.
-Khi mang tiền vào Việt Nam , anh Thìn có xin giấy phép không? Có khai báo cho tỉnh hay huyện biết không ?
-Thua cán bộ, việc đó thì tôi không đuợc rõ.
Người ta đưa bút cho hai cụ ký và cho hai cụ ra về trong cay đắng nghẹn ngào.
Tòa án tỉnh tuyên cáo anh phạm nhiều tội nhưng những tội chính là:
-Thứ nhất: chuyển tiền vào Việt nam bất hợp pháp ( không kê khai và xin phép.)
Thứ nhì: Đầu tư bất hợp pháp ( Chính phủ chưa cho anh đầu tư mà anh đã đầu tư gian lận bằng cách cho anh chị em đứng tên, đó là một hình thức gian lận, phá hoại kinh tế Xã hội chủ nghĩa. Điều này luật đầu tư đã nói rõ).
Thứ ba: Mua nhà bất hợp pháp ( chính phủ chưa cho mua nhà mà đã mua nhà, cho anh chị em đứng tên, đó là một hình thức gian lận, luật nhà đất cũng đã nói đến việc này).
Thứ tư: chiếm đất công, xây cất bất hợp pháp.
Thứ năm: trốn thuế.
Thứ sáu: cưỡng hiếp nữ công nhân.
Họ tuyên án anh hai muơi năm tù , phạt vạ hai triệu mỹ kim, tịch thu tất cả cửa hàng và tài sản do anh xây dựng, ngay cả ngôi nhà của cha mẹ anh . Còn các anh chị em vì thành thực khai báo nên mỗi người chỉ bị tù sáu tháng.
Một sáng, người ta thông báo Thìn đã tự tử . Một số bảo rằng anh uất ức mà tự tử. Một số lại xì xào bàn tán rằng Thìn đã bị người ta giết bịt miệng.
-Thua cán bộ, việc đó thì tôi không đuợc rõ.
Người ta đưa bút cho hai cụ ký và cho hai cụ ra về trong cay đắng nghẹn ngào.
Tòa án tỉnh tuyên cáo anh phạm nhiều tội nhưng những tội chính là:
-Thứ nhất: chuyển tiền vào Việt nam bất hợp pháp ( không kê khai và xin phép.)
Thứ nhì: Đầu tư bất hợp pháp ( Chính phủ chưa cho anh đầu tư mà anh đã đầu tư gian lận bằng cách cho anh chị em đứng tên, đó là một hình thức gian lận, phá hoại kinh tế Xã hội chủ nghĩa. Điều này luật đầu tư đã nói rõ).
Thứ ba: Mua nhà bất hợp pháp ( chính phủ chưa cho mua nhà mà đã mua nhà, cho anh chị em đứng tên, đó là một hình thức gian lận, luật nhà đất cũng đã nói đến việc này).
Thứ tư: chiếm đất công, xây cất bất hợp pháp.
Thứ năm: trốn thuế.
Thứ sáu: cưỡng hiếp nữ công nhân.
Họ tuyên án anh hai muơi năm tù , phạt vạ hai triệu mỹ kim, tịch thu tất cả cửa hàng và tài sản do anh xây dựng, ngay cả ngôi nhà của cha mẹ anh . Còn các anh chị em vì thành thực khai báo nên mỗi người chỉ bị tù sáu tháng.
Một sáng, người ta thông báo Thìn đã tự tử . Một số bảo rằng anh uất ức mà tự tử. Một số lại xì xào bàn tán rằng Thìn đã bị người ta giết bịt miệng.
Sunday, April 19, 2015
NGUYỄU HỮU SƠN * PHAN KHÔI
Vị thế Phan Khôi trong phong trào Thơ mới nhìn từ thực tại Thơ mới 1932-1945
Qua thời gian, tên tuổi nhà văn hóa Phan Khôi (1887-5.VIII.1959), còn có các bút danh Chương Dân, Thông Reo, Ngọa Du Nhân, Tú Sơn... ngày càng trở nên sáng rõ hơn trên các tư cách nhà văn, nhà thơ, dịch giả, nhà báo, nhà khảo cứu lịch sử, tư tưởng, văn hóa, văn học, ngôn ngữ v.v… Ở đây chúng tôi tập trung xem xét vị thế Phan Khôi trong phong trào Thơ mới trên hai tư cách: nhà thơ khơi mở phong trào Thơ mới, đồng thời là nhà phê bình cũng như đối tượng được phê bình, trao đổi. Nói khác đi, Phan Khôi là hiện tượng “kép”, có cả hoạt động sáng tác và phê bình, vừa mở đường vừa là chứng nhân, vừa khai phá vừa thúc đẩy, vừa là người anh hùng vừa đi ca ngợi người anh hùng, để lại những dấu ấn sắc nét trên dặm dài lịch sử phong trào Thơ mới 1932-1945. Điều cần chú ý thêm, chúng tôi chủ ý nhận diện chân dung và xác định vị thế Phan Khôi qua thực tại TThơ mới giai đoạn 1932-1945, tức là trong đúng môi trường, không khí, cảnh quan thơ mới; truy tìm nguồn tư liệu trong đúng bối cảnh phong trào thơ mới, tìm hiểu tiếng nói của người trong cuộc, “người đương thời Thơ mới bàn về thơ mới”(1)…
1. Sau những thử nghiệm và cố gắng thoát xác Đường luật, đổi mới thơ của Tản Đà, Á Nam Trần Tuấn Khải, Lê Khánh Đồng... phải đến Phan Khôi mới thực sự lát được những viên gạch đầu tiên cho phong trào thơ mới. Trong bài viết Một lối “thơ mới” trình chánh giữa làng thơ in lần đầu trên báo Đông Tây ở Hà Nội(2), ngay sau đó in lại trên báo Phụ nữ tân văn (PNTV) ở Sài Gòn(3), Phan Khôi đã vừa giới thiệu, quảng cáo và khẳng định sự ra đời một lối thơ mới. Vì tầm quan trọng của tác phẩm này nên chúng tôi in lại toàn văn, lấy bản in trên báo Đông Tây làm bản trục và có chú thích, khảo dị những chữ sai khác so với bản in trên Phụ nữ tân văn.
“Mới đây, tôi có được gặp ông Phạm Quỳnh ở Sài Gòn. Trong khi nói chuyện, ông nhắc đến mấy bài Trúc chi từ của tôi đã làm trên sông Hương khi gặp người bạn cũ là ông Nguyễn Bá Trác ở ngoại quốc mới về; ông Phạm tỏ ý khen mấy bài đó và nói chính mình đã dịch nó ra tiếng Pháp. Sau hết, ông khuyên tôi nên giữ cái thái độ ngâm thơ như hồi đó là hơn[1].
Lời khuyên của ông Phạm đó, dầu là lời nói dởn đi nữa, với tôi, tôi cũng phải nhìn là có ý nghĩa. Nhưng sau khi nghe lời ấy, tôi chỉ có thể gật đầu mà làm thinh, không dám vội vàng tỏ ra mình đã vui lòng lãnh giáo. Vì con người ta mà muốn thay đổi cách sinh hoạt về tinh thần, lại còn khó hơn Chánh phủ thay đổi cái chế độ giáo dục hay chế độ nấu rượu nữa, không phải việc chơi đâu mà hấp tấp.
Duy có vì nghe lời ông đó mà tôi nhớ sực[2] lại sự làm thơ. Thật, cái động cơ viết bài này là chính ở mấy lời của ông[3].
Ông Phạm bảo tôi nên lấy lại cái thái độ ngâm thơ hồi trước; trong đó tỏ ra rằng bấy lâu tôi đã bỏ mất hay là đã đổi cái thái độ ấy đi, nghĩa là bấy lâu nay tôi không ngâm thơ. Mà quả thế, gần mười năm nay, tôi không có bài thơ nào hết, thơ bằng chữ gì cũng không có.
Trước kia tôi dầu không có tên tuổi trong làng thơ như ông Nguyễn Khắc Hiếu, ông Trần Tuấn Khải, song ít ra trong một năm, tôi cũng có được dăm bảy[4] bài, hoặc bằng chữ Hán, hoặc bằng Nôm. Mà năm bảy bài của tôi, không phải nói phách, đều là dăm bảy[5] bài nghe được. Vậy mà gần mười năm nay, mót lắm chỉ được một vài bài mà thôi, kể[6] cũng như là không có.
Xin thú thật với mấy ông thợ thơ. Không có, không phải là tại tôi không muốn làm hay không thèm làm, nhưng tại tôi làm không được!
Vậy thì hiện nay, đừng nói tôi không chịu nhận lời khuyên của ông Phạm, dầu cho tôi nhận đi nữa, mà tôi không còn làm thơ được, thì ông mới xử trí cho tôi làm sao? Đó, chính cái vấn đề ở đó rồi.
Lâu nay, mỗi khi có hứng, tôi toan giở ra ngâm vịnh, thì cái hồn thơ của tôi như nó lúng túng, chẳng khác nào cái thân của tôi là lúng túng. Thơ chữ Hán ư? thì ông Lý, ông Đỗ, ông Bạch, ông Tô choáng[7] trong đầu tôi rồi. Thơ Nôm ư? thì cụ Tiên Điền, Bà Huyện Thanh Quan đè ngang ngực tôi, làm cho tôi thở không ra. Cái ý nào mình muốn nói, lại nói ra được nữa, thì đọc đi đọc lại, nghe như họ đã nói rồi. Cái ý nào họ chưa nói, mình muốn nói ra, thì lại bị những niêm, những vận, những luật bó buộc mà nói không được. Té ra mình cứ loanh quanh lẫn quẫn trong lòng bàn tay của họ hoài, thật là[8] dễ tức!
Duy Tân đi! Cải Lương đi!
À, có rồi, chứ có phải không đâu. Thì như bài thơ Dân Quạ đình công:
…
Bài ấy của tôi đã đăng trong Đông Pháp thời báo, năm 1928, được nhiều người hoan nghênh, kể cũng đáng cho là một ngôi sao chổi giữa trời thơ! Cho đến ngày nay, tôi đọc lại vẫn còn nhìn là được, nhưng thích thì tôi không thích[9].
Đại phàm thơ là để tả cảnh tự tình, mà hoặc tình hoặc cảnh cũng phải qui cho chơn. Lối thơ cũ của ta, ngũ ngôn hay thất ngôn, tuyệt cú hay luật thể thì nó bị câu thúc quá. Mà dầu có phóng ra, theo lối thất cổ, như bài Dân Quạ đình công đây[10], cũng vẫn còn bị câu thúc. Hễ bị câu thúc thì nó phải mất cái chơn đi, không mất hết, cũng mất già nửa phần.
Tôi nhìn thấy trong thơ ta có một đều đáng bỉ, là bài nào cũng như bài nấy. Cứ rủ nhau khen hay thì nó là hay, chứ nếu[11] lột tận xương ra mà xem, thì chẳng biết cái hay ở đâu. Như bài Dân Quạ đình công đó, chỉ nhờ có đem việc đình công là một việc mới ra mà tả, việc ấy lại là hiệp với… người đời nay, thành thử người ta ưa, chớ coi kỹ thì nó cũ quá, thiệt tình chẳng phải hay gì[12].
Bởi vậy tôi rắp toan bày ra một lối thơ mới. Vì nó chưa thành thực nên chưa có thể đặt tên kêu là lối gì được, song có thể cử cái đại ý của lối Thơ mới này ra, là: Đem ý thật có trong tâm khảm mình tả ra bằng những câu có vận, mà không phải bó buộc bởi những niêm luật gì hết. Ấy là như:
TÌNH GIÀ
Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa,
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ,
hai cái đầu xanh, kề nhau than thở:
- “Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng,
mà lấy nhau hẳn đà không đặng;
“Để đến nỗi tình trước phụ sau, chi cho
bằng sớm liệu mà buông nhau!”
- “Hay! Nói mới bạc làm sao chớ! Buông nhau làm sao cho nỡ?
“Thương được chừng nào hay chừng nấy,
chẳng qua ông Trời bắt đôi ta phải vậy!
“Ta là nhân ngãi, đâu có phải vợ chồng mà tính việc thủy chung?”
…
Hai mươi bốn năm sau, tình cờ đất khách gặp nhau:
Đôi cái đầu đều bạc. Nếu chẳng quen lung, đố có nhìn ra được!
Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi, con mắt còn có đuôi!
Đó là bài thơ tôi làm trước đây vài tháng mà tôi kêu là một lối Thơ mới đó. Chẳng phải là tôi hiếu sự, nhưng vì tôi hết chỗ ở trong vòng lãnh địa của thơ cũ, tôi phải đi kiếm đất mới! mà miếng đất tôi kiếm được đó chẳng biết có ở được không, nên mới đem ra mà trình chánh giữa làng thơ.
Chẳng phải tôi là người thứ nhất làm ra việc này[13]. Hơn mười năm trước ở Hà Nội cũng đã có một vị thanh niên làm việc ấy mà bị thất bại.
Tôi dại gì lại đi theo cái dấu xe đã úp? Nhưng tôi tin rằng cái lối thơ của ta đã hết chỗ hay rồi, dường như một nơi[14] đế đô mà cái vượng khí đã tiêu trầm rồi, ta phải kiếm nơi khác mà đóng đô. Tôi cầm chắc việc đề xướng của tôi đây sẽ thất bại lần nữa; nhưng tôi tin rằng sau này có người sẽ làm như tôi mà thành công”.
Qua bài tự luận này có thể thấy tài năng thơ ca của Phan Khôi phát xuất từ chính tính cách cùng những chiêm nghiệm của ông về cuộc đời và chính đời sống văn học. Một mặt, ông chỉ đích danh nhiều người làm thơ đương thời chỉ là “thợ thơ” và thừa nhận mình không còn rung cảm với lối thơ xưa cũ ấy nữa: “Xin thú thật với mấy ông thợ thơ. Không có, không phải là tại tôi không muốn làm hay không thèm làm, nhưng tại tôi làm không được!”; mặt khác, trực giác mách bảo ông phải đổi mới lối cảm lối nghĩ: “Đem ý thật có trong tâm khảm mình tả ra bằng những câu có vận, mà không phải bó buộc bởi những niêm luật gì hết”… Mặc dù còn nhiều băn khoăn, thậm chí chưa thật vững tin vào thành công của thơ mình nhưng Phan Khôi lại đầy nhiệt thành tin tưởng vào chiều hướng cái mới do ông mở đường và xu thế phát triển tất yếu của phong trào thơ mới.
Đương nhiên ngay sau khi Phan Khôi khơi nguồn Thơ mới đã gặp nhiều ý kiến phản đối nên đã phải lên tiếng tự bảo vệ, bào chữa và đối thoại lại qua bài viết Về lối Thơ mới sau bài Tình già: vừa mở ra đã có người lo cột lại:
“Làng thơ bên Pháp lâu nay có nảy ra một lối Thơ mới kêu là "thi tự do" (vers libre). Nó đã không niêm, không luật, không hạn chữ, cũng không có vần nữa. Bên Tàu chừng hơn 10 năm nay cũng có lối Thơ mới ấy rất thịnh hành.
Lối thi tự do của họ đó, tôi phản đối. Bỏ luật, bỏ niêm, không bắt hạn chữ thì tôi chịu; nhưng bỏ vần đi thì tôi không chịu. Tôi nói: Thơ khác với văn là chỉ nhờ có vần. Làm như họ thì chỉ là một bài văn xuôi (prose) rồi đem viết riêng ra mỗi câu một hàng chớ không phải là thơ (vers). Theo cái nguyên tắc ấy tôi mới thành lập lối Thơ mới của tôi, tức như bài Tình già. Bài này, không niêm, không luật, không hạn chữ, nhưng mà phải có vần, ấy là tôi làm nó ra theo như cái nguyên tắc tôi đã lập…
… Một việc cải cách rất nhỏ, cải cách về lối làm thơ, mà người ta còn lôi kéo nhùng nhằng như vậy, huống chi là việc cải cách về tư tưởng, về chế độ gia đình xã hội; ông Nguyễn Khắc Hiếu ông cho rằng "cái nạn Phan Khôi" cũng phải!...
… Tôi xin các ông đi, đừng có làm như Thượng Minh nữa. Lối Thơ mới ấy của tôi, có đứng được thì để, không đứng được thì bỏ đi, chớ đừng có điều đình, tôi đã "bất điều đình" mà!...
… Bài này có trọn tính chất quảng cáo, không có gì là hay; nhưng tôi lục trình ra đây cho biết cái lối Thơ mới ấy đặt thế nào cũng được, không phải một thể như bài Tình già mà thôi(4)…
2. Trong suốt thời Thơ mới, Phan Khôi còn có nhiều lần phát biểu, trao đổi, luận bình về thơ ca đương thời. Trên thực tế, vừa khi Nam Trân trình làng những bài thơ in báo ban đầu thì ông đã được xếp hạng "thi nhân". Nhà khảo cứu và phê bình cựu trào Ngọa Du Nhân Phan Khôi đã trân trọng giới thiệu với nhiều hy vọng và tiếc nuối về sự ra mắt của Nam Trân trong bài Thơ của Nam Trân: "Đầu năm 1935, báo Tràng An ra đời; năm bảy kỳ đầu tiên đó người ta thấy những bài thơ dưới ký tên Nam Trân. Nhiều bạn làng văn ở Huế tin rằng Nam Trân sẽ từ nay nổi tiếng như phao trên thi đàn và thơ của Nam Trân sẽ được gặp luôn luôn trên tờ báo mới ấy. Không ngờ, trải qua một thời gian chẳng phải vắn vỏi gì mà cái điều sở nguyện của người ta vẫn chưa thấy toại; rồi thơ Nam Trân từ đó cũng tuyệt tích trên báo Tràng An"(5)...
Tuyển dẫn bốn bài (Trước chùa Thiên Mụ; Huế, mưa dầm; Huế, mùa hạ; Huế, mùa hạ II), Ngọa Du Nhân trịnh trọng khẳng định: "Tôi dám chắc bạn đọc khi vồ lấy bốn bài nầy ở đây được rồi, cứ ngâm đi ngâm lại mà không thấy chán. Liền đó, bạn phải nhận cho tác giả của nó là một thi nhân số một số hai ở hiện thời, liệt vào với bọn Thế Lữ, Huy Thông, Lưu Trọng Lư, không đến làm cho mình phải thẹn, vẫn biết rằng tài điệu riêng mỗi người mỗi lối, cảm hứng mỗi người đi mỗi đường"... Nhân đây xin thưa rằng, nhan đề các bài thơ trên được Ngọa Du Nhân dẫn nguyên theo báo Tràng An mà sau này Nam Trân đưa vào tập Huế, Đẹp và Thơ có cải dạng một vài chữ.
Lấy dẫn chứng từ bốn bài thơ trên, Ngọa Du Nhân đã từ điểm nhìn ngôn từ nghệ thuật mà đi sâu bình phẩm: "Bài Trước chùa Thiên Mụ là rập theo điệu bài thơ Đằng Vương các của Vương Bột, nhưng cái hay không phải toàn ở điệu. Nó hay ở một bài thơ mà như một bức họa. Ông nào vẽ giỏi, thử theo từng câu mà vẽ ra xem, khắc thấy trước mắt một cảnh đẹp thiên nhiên... Nam Trân hạ những chữ trong bài thơ của mình, bằng một cách táo tợn mà ngộ nghĩnh. Như chữ "đẩm" trong câu "Tiếng hát ông ngư đẩm bóng cây", chữ "sừng" trong câu "Đồi thấp sừng trăng dỏi dỏi soi", chữ "đánh đổ" trong câu "Đánh đổ giấc ngủ ngày", chữ "trỏn trẻn" trong câu "Mặt trăng vàng trỏn trẻn" đều là những chữ có vẻ khác thường, ít ai hạ được như thế... Không dám mếch lòng thi sĩ khác, nhưng tôi phải nói thật rằng tôi không ưa thơ họ bằng thơ Nam Trân. Luận thơ, tôi trọng nhất ở chữ "chân". Có phải không, hoặc tả cảnh, hoặc ngôn tình, trong thơ Nam Trân cũng dễ tìm thấy chữ "chân" hơn thơ của người nào? Ai đã qua Huế một năm, phải chịu những bài Mùa hạ, Mưa dầm là không cãi được lấy nửa lời"...
Đề cao thơ Nam Trân nhưng Ngọa Du Nhân cũng công bằng và thẳng thắn chỉ ra những bài, những câu theo ông là chưa đạt: "Tôi khen Nam Trân hạ chữ ngộ nghĩnh, không phải là tôi không thấy ông ta dùng chữ còn chỗ sống sượng đâu. Như câu "Như luồng khói nhẹ lên lên mãi", câu thì hay, mà phải chữ nhẹ để vào đó có hơi ngớ ngẩn. Phải có thứ khói nào nặng thì mới nói như thế được chớ? Tôi muốn đổi lại là "Nhẹ như luồng khói..." mà tôi cho là dễ nghe hơn. Nam Trân lại có một chỗ trong thơ ông ta làm cho tôi không đồng ý được nữa, là cách bỏ vận. Không vận thì thôi, chớ đã có, tôi nói, phải gieo cho đúng. Nam Trân thì:
Xao xác đồng chiêm uống giọt sương,
Sương pha màu sữa dưới trăng mờ.
Lều tranh xám xịt bâu sườn núi,
Sau dãy rào tre khúc rậm, sưa.
Ấy là bốn câu đầu của bài Cảnh quê. Tôi phải lấy làm lạ sao đã nhả ra được những câu thơ như thế mà lại không chịu săn sóc đến vận một chút để được an toàn hơn!"...
Rồi Ngọa Du Nhân Phan Khôi bộc lộ rõ tính cách của mình khi bày tỏ thái độ trước câu chuyện thơ và đời Nam Trân: "Dù thế nào, trên con đường thơ mai sau, tôi có hy vọng ở Nam Trân lắm lắm. Một thi nhân đáng biểu dương như thế ai nỡ để cho mai một đi trong hoạn trường là chỗ để mai một cái thiên tài của người ta!"...
Khi Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939) qua đời, Phan Khôi viết bài Tôi với Tản Đà thi sĩ đầy nghĩa tình, thẳng thắn, chân thực. Ông kể về những năm tháng sơ giao đầy ấn tượng, thiên về một phía Phan Khôi hướng về Tản Đà:
“Vừa rồi Tản Đà thi sĩ về chầu Trời (nói thế cho oai và cũng cho có sách, nghĩa là dùng điển ở thơ ông)! Nghe tin, tôi cảm động lắm. Muốn tỏ tình đối với ông, tôi nghĩ nên có câu đối phúng hoặc hùn vào các báo một số tiền quyên giúp gia đình. Rút cục, hai thứ đều không có, vì lâu nay tôi không đặt câu đối nữa và cũng nghèo như ông vậy. Tôi quyên bằng cái cách tỏ tình bằng "cây nhà lá vườn", mà mãi đến hôm nay tôi mới nhớ ra: Viết một bài trên báo kể sự quan hệ giữa ông và tôi từ trước, là một cách tiện đủ về mọi phương diện!
Tôi biết ông Nguyễn Khắc Hiếu từ năm 1918, khi tôi bắt đầu ở Hà Nội viết cho tạp chí Nam phong. Một đêm mùa xuân lạnh ngắt, tôi đương nằm đọc sách ở cái gác của nhà báo ấy ở Hàng Bông, tức là ngụ sở của ông Nguyễn Bá Trác bấy giờ. Bỗng có khách vào. Ông Trác giới thiệu cùng tôi: Đây, ông Nguyễn Khắc Hiếu. Tôi như có điện chạy trong người, ghê rợn, vùng đứng dậy!
Thật thế. Cái tên Nguyễn Khắc Hiếu bấy giờ không phải vừa, đối với tôi lại càng long trọng lắm. Tôi nghe mà rùng rợn lên, có thế thật.
Số là sự trứ tác bằng quốc ngữ hồi đó còn ít lắm, ít lắm nữa là về mặt sáng tạo. Thế mà trước kia đọc Đông Dương tạp chí tôi đã thấy những bài như Cái chứa trong bụng người của ông; lần ấy đến Hà Nội lại vừa gặp Giấc mộng con của ông xuất bản, tôi không thể nào không phục ông là tay đại tài. Tôi phê bình riêng trong trí thế này: "Anh Quỳnh anh Vĩnh chỉ viết theo sách, theo tư tưởng của Tây; chứ đến thằng cha này hắn viết ra tư tưởng của hắn, chính hắn mới là tay sáng tạo!"…
Thế mà chưa mấy! Đến vận văn của ông còn làm cho tôi như muốn nằm rạp xuống đất, không dám ngước mặt lên nữa kia! Tôi thường hay lấy giọng để ngâm những câu "Ngoảnh trông lên anh đếch thấy có ra gì" hay là "Mời khách hãy ngồi yên trong cõi tục" mà ngợp người đi. Vì trong khi ấy, tôi thấy Nguyễn Khắc Hiếu như ở trên cao rồi mà mình cũng lại như theo hắn mà ở trên cao nữa. Mình đáng lẽ nằm rạp xuống đất mà nay ở trên cao, làm sao chẳng ngợp.
Đêm ấy ba chúng tôi nói chuyện với nhau lâu. Thì ra tôi thấy ông Hiếu vui tính, hay cười và nhũn nhặn lắm. Sáng ngày ra, tôi liền khoe với ông Dương Bá Trạc: "Đêm qua tôi có gặp ông Tản Đà rồi!". Tôi lấy sự gặp được ông Hiếu làm hân hạnh, thật tình!
Trong thời kỳ đó tôi còn gặp ông một vài lần nữa, nhưng không có gì đáng ghi nhớ. Một điều tôi thấy chắc, là ông chẳng hề để tôi vào mắt ông. Đã thế thì mình cũng chẳng mong gặp người ta làm chi. Kế hai năm sau tôi ở Sài Gòn, rồi lại ở Hải Phòng, hình như tôi cũng đã quên ông ấy nữa”(6)…
Rồi những kỷ niệm một thời bè bạn, khi cả hai ông mới ngoài ba mươi tuổi, cùng làm báo và cùng tếu táo, nhiều tài ba và cũng thật nhiều sự kiêu ngạo, tự tin và tự tín:
“Năm 1921, tôi trở lại Hà Nội mới bắt đầu cùng ông chơi thân. Kể ra tôi lúc ấy "hay rượu" lắm, uống nhiều mà không say, lại sính thơ, đến nỗi viết ra cuốn Nam âm thi thoại, nhờ hai cái đó mới bén với Tản Đà thi sĩ được.
Lần thứ nhất tôi uống với Tản Đà tại một quán ở hàng chả cá. Từ chín giờ sáng đến một giờ chiều, nói hết chuyện ấy sang chuyện khác, uống hết chai ấy sang chai khác, rồi hai chúng tôi thấy tâm đầu ý hiệp lắm, dần dần trở nên đôi bạn thiết.
Năm ấy Hữu thanh tạp chí ra đời, Tản Đà làm chủ bút. Ông muốn tôi có chân trong toà soạn lắm, nhưng bị có người ngăn cản phải thôi. Tuy vậy, trong mấy tháng đó hai chúng tôi cứ vài ngày lại hội riêng để uống rượu và đàm luận cùng nhau, và tôi cũng có viết bài cho tạp chí ấy.
Chỗ chúng tôi hội là cái gác ở phố bờ sông, gần cột đèn; đến sau là cái gác của nhà báo Hữu thanh; cũng có mấy lần ở nhà cô đào Hàng Giấy.
Cái lối đánh chén của ông Hiếu kề cà mất thì giờ lắm, tôi không chịu được, nên ít khi tôi ngồi trọn bữa rượu với ông. Ông đem hoả lò để ở bàn mà tự làm lấy món ăn; có khi mãn một tiệc ăn, người nhà phải thay than trong hoả lò đến năm sáu bận. Thường thường một mình ông vừa ăn uống lại vừa viết nữa. Ông cho có thế mới là thú. Có lần ở tại cái gác Hữu thanh, ông viết giấy mời tôi đến lúc mười giờ đêm, rồi uống mãi cho đến hai giờ sáng. Lần khác ở nhà cô đào Lân, ông và tôi, và một người bạn của ông nữa, chừng như ông Tú Tô thì phải, uống từ mười một giờ đến năm giờ sáng mới về.
Có bữa chén ấy không thể nào quên được trong đời tôi. Ông cùng người bạn đến trước, chiếm một cái phòng nhỏ mà rất lịch sự ở trong cùng. Đoạn ông bắt cô Lân phải ăn mặc đàn ông ra đón tôi ở cửa. Cô Lân bấy giờ có tiếng lắm ở Hàng Giấy, cũng gọi bằng Thuỵ Khanh, lại có cô em tên là Đức. Tuy vậy, hôm ấy ông Hiếu ép cô Lân phải mặc trai ngồi uống rượu nói chuyện với chúng tôi như bốn người đàn ông, chứ không cho cô Đức dự vào. Đến khi người bạn ra về trước, trong tiệc mới xoay lại làm hai cặp. Tôi còn nhớ trong lúc đó Thuỵ Khanh có một câu đối thách chúng tôi: "Đức bất cô, tất hữu lân". Nhưng Tản Đà cùng tôi nhìn nhau không đối được! Sau bất đắc dĩ tôi phải xin Thuỵ Khanh bớt cho ba chữ ra "Đức hữu lân"; rồi tôi đối lại: "Dân hưng hiếu" (Dân là một chữ trong bút tự của tôi).
Ông Hiếu làm chủ bút Hữu thanh đâu chừng nửa năm là ông từ chức. Sự ông từ chức, tôi cũng cho là phải, dù tôi, tôi cũng không làm được, huống là ông ấy!
Từ khi ông Hiếu không ở Hà Nội nữa thì ông và tôi cũng xa nhau, xa cả mắt lẫn lòng. Tôi nghiệm ra ông với tôi không làm bạn lâu được, không phải tại gì, mà tại tính cách hai người không giống nhau; thật có như Nguyễn Du nói: "Trong khi chắp cánh liền cành - Mà lòng rẻ rúng đã đành một bên" đó vậy!
Lần đầu hết uống trong quán chả cá, say rồi, tôi rủ ông đi chơi, mà ông thì đòi về đi nghỉ. Bấy giờ tôi cậy thân và cũng có chán rồi, nên nói một cách như nộ nạt: "Uống say để rồi làm gì, chứ để đi nghỉ thì uống say làm chi?". Ông gượng cười rồi cùng đi về nhà trọ tôi ở Hàng Đào, ông ngủ trên gác cho đến chiều, còn tôi đánh tổ tôm ở nhà dưới.
Khi sắp làm chủ bút Hữu thanh, ông mở cuộc diễn thuyết, tức là cuộc diễn thuyết về "Đời đáng chán hay không đáng chán". Hôm sau diễn thuyết thì hôm trước có một người trong nhóm Hữu thanh dặn tôi rằng giữa lúc diễn thuyết, hễ nghe vỗ tay thì cũng vỗ tay. Tôi lấy làm quái; tôi mắng người ấy đã đành mà cũng nhân đó ngờ đến ông Hiếu nữa; một người quân tử sao lại có sự toạ tập với nhau như thế? Đến sau tôi xét ra ông Hiếu bị lợi dụng, những sự sắp đặt ấy toàn ở người khác, chứ không ở ông; nhưng cái cảm tình tôi đối với ông đã vì đó lợt lạt một vài phần rồi.
Bấy giờ báo còn bị kiểm duyệt. Bài thứ nhất tôi viết cho Hữu thanh là bài Nghĩa làm dân được ông khen lắm, nhưng bị kiểm duyệt xoá bỏ, không được đăng. Một hôm, giữa bữa rượu, ông nói cùng tôi rằng: "Đó, anh coi, tôi viết bao nhiêu bài không sao, còn anh mới viết một bài đã bị xoá, đủ biết ai có tài đáng làm chủ bút hơn". Tôi vẫn biết ông nói chơi, nhưng nói chơi bằng một câu chẳng có ý cao thượng tý nào, làm cho tôi không thích.
Lần khác sau bữa rượu, ông hỏi tôi: "Anh ở một mình như thế thì... làm thế nào?". Tôi nói: "Tôi theo phác xia chủ nghĩa. Tôi coi sự nam nữ là một sự cần cũng như phác xia. Hễ tôi cần phác xia là cứ đến nhà xia". Thế rồi hai chúng tôi cùng đến một nhà ở phố Gia Ngư. Mỗi người làm việc của mình xong, bỗng có một nhân vật Đại Pháp đến làm lôi thôi, tôi toan dùng võ lực đối phó. Ông nhất định cản tôi, bắt phải về. Về nhà, ông giảng cho tôi nghe, cái cử chỉ vừa rồi của tôi là cái cử chỉ võ phu, không nên có! Nhưng tôi không chịu, cãi lại rằng: "Đã đến thế rồi, còn sợ gì là võ phu nữa?". Thì ra đối với đạo đức, hai bên có quan niệm khác nhau: ông Tản Đà thì đi chơi đĩ được, nhưng không nên đánh lộn; còn tôi, đã đi chơi đĩ được, thì đánh lộn cũng không từ!
Vì hai cái thái độ không thể dung nhau ấy làm cho hai chúng tôi khi biệt nhau rồi là thôi, không hề có thư từ cho nhau cả. Mãi đến sau, khi ông Hiếu vào Sài Gòn thì tôi chưa có ở đó. Kịp lúc tôi ở Sài Gòn, có gặp ông ở Bắc vào một bận, thì hai người vẫn tay bắt mặt mừng như xưa, mà tâm tình đã thấy có chỗ cách biệt với nhau rất xa. Đó rồi ông về, lên án đòi chém Phan Khôi trong An Nam tạp chí.
Tôi biết ông Tản Đà là người thông minh, có thiên tài, nhưng không chịu học. Ông tự cho ông như thế là đến nơi rồi, không còn tiến bộ gì nữa; bởi vậy ông thấy đời không được rõ. Biết như thế nên tôi đã thật tình nhịn thua ông đi, ông đòi chém tôi mà tôi chẳng hề cãi lại nửa lời”...
Đến đoạn kết, Phan Khôi đi sâu lý giải về tình bạn, tình người, tỏ bày sự kính trọng, tâm đắc và hoài niệm bậc tài danh kém mình hai tuổi đã sớm về cõi hạc:
“Thế thì làm sao hồi đầu hai chúng tôi hiệp nhau được? Phải chúng tôi hiệp nhau ở cái chỗ đại tiết.
Lần uống rượu ở quán chả cá, chúng tôi thảo luận về cách ở đời của chúng tôi nên làm sao. Ông Hiếu và tôi đều rập nhau nói: "Chúng ta nên gắng làm đại trượng phu!". Rồi mỗi đứa đọc đoạn này trong sách Mạnh Tử: "Cư thiên hạ chi quảng cư; lập thiên hạ chi chính vị, hành thiên hạ chi đại đạo; đắc chí, dữ dân do chi; bất đắc chí, độc hành kỳ đạo; phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất; thử chi vị đại trượng phu", mà cười phá lên và uống cạn chén mình. Trong khoảnh khắc ấy, chúng tôi thấy chúng tôi hào hoa vô cùng, phong nhã vô cùng, vĩ đại vô cùng thì làm sao chẳng trở nên một đôi bạn đồng tâm cho được? Mà bây giờ đây, tuy một mất một còn, hai chúng tôi cũng vẫn cứ hiệp nhau ở chỗ ấy chứ sao?
Ông Tản Đà ơi! Đại trượng phu!...
Chúng ta có là đại trượng phu không, ông Tản Đà?”...
Trong tư cách nhà phê bình, Phan Khôi cũng có những quan niệm, cách tiếp nhận và cảm thụ riêng, thậm chí không theo kịp bước tiến của Thơ mới qua hiện tượng thơ Bích Khê, Hàn Mặc Tử và vấn đề hình thức câu thơ. Trên thực tế, Phan Khôi phản biện lại những tiếng nói qui chụp, khẳng định rằng mình chỉ phê những bài thơ, câu thơ cụ thể chứ không phê phán toàn bộ thơ mới. Với nhan đề Một tai nạn của văn học đặt trong mục “Chuyện hàng ngày”, Phan Khôi dẫn giải:
“Nền văn học Việt Nam mới gầy dựng lên vài chục năm nay, đến nay bỗng dưng gặp một tai nạn lớn. (lược vài đoạn không quan hệ) Cái tai nạn gì thế? Chẳng có gì lạ, chỉ là viết văn không nghĩa. (lại lược một câu)
Phàm văn, khoan cầu hay đã, trước phải cầu cho có nghĩa. Phải có nghĩa đã, rồi sau mới nói đến hay hay dở. Nhưng hiện nay có một hạng văn sĩ, hình như họ chỉ cầu cho hay, còn có nghĩa hay không, họ không cần. Bởi vậy thường có những câu vô nghĩa trong văn họ mà có lẽ họ gọi là hay đó.
Một tập thơ xuất bản đã lâu, nhan là Tinh huyết, tác giả là Bích Khê, mà đến ngày nay tôi mới đem ra chỉ trích cũng hơi muộn. (lại lược một câu).
Một bài đề là Hoàng hoa trong có những câu như vầy:
Lam nhung ô! Màu lưng chừng trời,
Xanh nhung ô! Màu phơi nơi nơi.
Vàng phai nằm im ôm non gầy,
Chim yên eo mình nương xương cây.
“Lam nhung” là gì? “Xanh nhung” là gì? “Chim yên” là gì? “Xương cây” là gì? Chẳng có nghĩa gì cả. (lược bỏ nhiều câu ở dưới vì đều thế cả)
Không hơi đâu mà kể cho hết cái vô nghĩa của họ… Họ điên chăng? Nếu thế, chỉ có người điên mới hiểu mà thôi.
Coi như trên đó, Thông Reo có hề công kích Thơ mới không? Nếu Thông Reo có công kích Thơ mới thì tôi cũng xin nhận là tôi - Phan Khôi - có công kích Thơ Mới.
Không hề! Thật là không hề! Thông Reo chỉ công kích sự viết văn vô nghĩa mà thôi, chứ có hề công kích Thơ mới đâu?
Nguyên văn, Thông Reo nói: “Cái tai nạn gì thế? Chẳng có gì lạ, chỉ là viết văn không có nghĩa”. Thông Reo nhận cho sự viết văn không có nghĩa là một tai nạn của văn học.
Thế mà đến báo Tiếng dân, báo ấy nói rằng: “Ông Thông Reo (hiệu ông Phan Khôi) cho Thơ mới là cái tai nạn của văn học”!
Thế là Tiếng dân nói sai. Tôi xin cải chính”(7).
Ngay sau đó, Phan Khôi tiếp tục viết bài bào chữa, phản biện, nêu lý lẽ và phân tích rành mạch để khẳng định chính kiến của mình về giá trị thơ mới:
“Báo Tiếng dân gần đây có hai bài trong hai số tiếp nhau tuyên bố lên rằng ông Phan Khôi, là tôi, đã bắt đầu công kích lối Thơ Mới. Tôi thấy mà rất lấy làm ngạc nhiên. Tôi không hề có khi nào phản đối lối Thơ mới cả, cũng chưa từng bắt đầu nghĩ đến việc ấy, sao người ta lại hô lên như vậy?
Tôi là người đề xướng ra Thơ Mới, vì bài Tình già của tôi ra đầu hết; nếu lui một bước, tôi không nhận lấy cái danh người đề xướng thì ít nữa tôi cũng là một người trong những người đề xướng Thơ Mới, há có lẽ nào mới giáp mười năm mà tôi đã quay lại nó mà phản đối hay sao?
Sợ cho anh em trong làng Thơ mới không rõ đầu đuôi, tin lời báo Tiếng dân rồi chưởi tôi là thằng phản phúc, nên cực chẳng đã tôi phải viết bài nầy đính chánh, - đáng thương hại cho ngòi bút của tôi cứ luôn luôn là đính chánh.
Trong số 1594 báo Tiếng dân viết rằng: “Ông Phan Khôi trước có hùa vui viết Thơ mới một đôi bài… nay thấy trong làng Thơ mới của bọn trẻ có lắm bài vô nghĩa, trong Dân báo ông Thông Reo (hiệu ông Phan Khôi) có bài dưới mục “Chuyện hằng ngày” (số ra ngày 25/5/1941) cho Thơ mới là một cái tai nạn của văn học, xem đó đủ thấy giá trị Thơ mới ngày nay là thế nào”.
Đoạn đó ở trong “Lời nói đầu” của Việt ngâm thi thoại đăng ở số báo nói trên, dưới ký là Minh Viên.
Tiếp số sau, 1595, ra ngày 12/7/1941, nơi mục “Chuyện đời”, Chuông Mai viết: “Nhà túc học và tay đàn anh trong làng báo là ông Thông Reo (tức Phan Khôi) trước kia giữa phong triều Thơ Mới, nhớ như ông có viết một bài về cái đề “mua sò trên xe lửa”… Nhưng mới đây ông kinh hoảng mà la lớn: “Một tai nạn trong văn học” (bài nầy trong Dân báo ra ngày 25/6/1941), trong bài nầy ông chỉ vạch những câu vô nghĩa trong Thơ mới rất là rành rẽ. Xem đó đủ thấy trưng triệu đổ sụp của Thơ Mới. Chuông Mai rất biểu đồng tình với… bạn Thông Reo mà hô lớn rằng: Xứ ta còn sản xuất thứ Thơ mới là một điều vô phúc cho làng văn nước nhà”.
Xem đó, bạn đọc thấy Tiếng dân nói rõ ràng rằng tôi cho Thơ mới là một tai nạn của văn học và Chuông Mai tỏ ý muốn cùng tôi đánh đổ Thơ Mới. Mà nói như thế, báo Tiếng dân lấy chứng cứ ở đâu? Chỉ lấy ở bài đăng dưới “Chuyện hằng ngày” trong Dân báo của Thông Reo.
Thông Reo, báo Tiếng dân nói là hiệu của tôi, điều đó rất là vô lý, tôi không nhận. Tuy vậy, cho đi rằng Thông Reo tức là Phan Khôi nữa, thì cũng nên xem lại thử bài ấy Thông Reo nói những gì”(8).
Với tư duy sắc sảo, Phan Khôi đã có nhiều trang viết đặc biệt có giá trị về tác giả, tác phẩm và về phong trào thơ mới. Ông bình luận, trao đổi, tranh luận về thơ theo một cá tính, bản lĩnh và cốt cách riêng. Trước sau ông vẫn gắn bó, đề cao Thơ mới nhưng không phải không có lý khi ông sớm cảm nhận và bước đầu chỉ ra những dáng nét tân kỳ một cách cực tả đã dần hiện diện trong chính nền Thơ mới ấy.
3. Ngay giữa đương thời phong trào Thơ mới (1932-1945), một thế hệ các nhà thơ cũng như giới phê bình đã có nhiều lời bàn và đánh giá cao vị thế Phan Khôi trên cả tư cách người sáng tác, người khơi nguồn và mở đường cho Thơ mới phát triển.
Ngay sau khi Tản Đà cho in Một lối “thơ mới” trình chánh giữa làng thơ trên báo Đông Tây tại Hà Nội, tác giả Thượng Minh hoan hỷ đón chào và bày tỏ niềm tin: “Xem bài Một lối “thơ mới” trình chánh giữa làng thơ của Phan tiên sinh, đăng trong Tập văn mùa xuân của Đông Tây, trong óc tôi vụt nảy ra một tia hy vọng mới về lối thơ văn đó”(9)…
Đương buổi ban đầu tiếp nhận tiếng Thơ mới Phan Khôi, Vân Bằng xác quyết Tôi thất vọng vì Phan Khôi và mát mẻ châm biếm:
... Ông Phan Khôi là nhà đại danh nho, đại tư tưởng, đại lý thuyết và lại là một tay đại “lô dích xiêng” nữa…
… Ông đã có phen hô hào cảnh cáo các nhà “học phiệt” làm cho quốc dân đã được hưởng cái thú đọc bài trả lời “mát mẻ” của ông Phạm Quỳnh.
Ông đã có phen đem tài hùng biện ra trước tòa án dư luận, làm trạng sư cãi “thí” để “thân oan” cho “bà vua” Võ Hậu đã chọn cung nhân bằng đàn ông, để mua vui trong lúc “vạn cơ chi hạo” (theo lời ông).
Ông đã có phen đem lý thuyết về cuốn “lô gích” (logique) là môn ông rất sở trường, và ông cũng đã đem cái thuật “xưng hô” ra dạy đời nữa.
Vừa đây, ông lại ra công “sáng chế” một lối thơ “tân thời, tự do đặc biệt”, không cần niêm luật, tự ý vắn dài, làm cho nhiều người “hoài cổ” ngậm ngùi thương tiếc “tấm vé” luật Đường. Có lẽ vì sự phát minh lối Thơ mới này mà phải mai một đi chăng?
Đó là cái công trình vĩ đại của ông Phan Khôi đối với quốc văn là thế, cho nên văn tài ông được nhiều người bái phục, như lời ông chủ bút báo Đông Tây Hoàng Tích Chu đã nói rằng: “bạn Phan Khôi của ông có một bên (xin hiểu là một số người) coi là “Léon Daudet” của Việt Nam.
Coi bấy nhiêu đó cũng đủ biết văn tài của ông Phan Khôi “cừ” lắm rồi cũng đủ cho quốc dân mừng?”(10)…
Khác với Vân Bằng, thi sĩ trẻ Cô Liên Hương (Lưu Trọng Lư) lại đồng cảm, tin tưởng và hy vọng vào nguồn sáng Thơ mới qua Bức thư ngỏ cùng Phan Khôi tiên sinh sau khi đọc bài Một lối Thơ mới trình chánh giữa làng thơ:
“Cách đây đã lâu, tiên sinh có đưa trình chánh giữa làng thơ một lối Thơ mới. Tôi đọc bài ấy rồi tôi cứ đợi mãi, mà sau tiên sinh không thấy ai nối gót theo, mà chính tiên sinh hình như cũng không muốn giở dói đến việc ấy nữa…
Dám khuyên tiên sinh nên mạnh dạn một lần nữa mà tiến lên đường.
Cái lối Thơ mới của chúng ta là đang ở vào cái thời kỳ phôi thai, thời kỳ tập luyện, nghiên cứu. Không biết rồi đây nó đi đến chỗ thành công hay là nửa đường bị đánh đổ. Đó là sự bí mật của lịch sử văn hóa mai sau! Dầu thế nào đi nữa, nó cũng có giá trị là giúp cho sự tự do phát triển thi ca, đưa thi ca đến chỗ cao xa rộng lớn, nó như thúc giục, như khiêu khích, như kêu gọi nhà thi nhân ra làm một cuộc canh tân, dầu có thất bại, thất bại vì lòng mong ước quá cao, thì nó cũng đã hiến cho ta một cái công lớn: nó chính là một tiếng chuông cảnh tỉnh làng thơ giữa lúc đang triền miên trong cõi chết.
Trong lúc ban đầu mà đã vội mong ước có những tay “thầy thơ” chân chính (Véritables maitres) thật là không thể nào được. Nhưng trái lại, nếu có ai xem thường những người sáng kiến ra cái lối “Thơ mới” kia, tưởng e rằng cũng đắc tội với tiền đồ văn học nước nhà lắm vậy”(11).
Thơ mới đang khơi dòng. Vì thế Chất Hằng Dương Tự Quán tiếp tục chỉ trích Phan Khôi và lối Thơ mới Phan Khôi trong bài Ấm Hiếu không thể làm Tú Khôi, hay là Một cái tỉ hiệu luận giữa Phan Khôi và Nguyễn Khắc Hiếu:
“Người ít tình cảm thì sự cảm giác về cái bản ngã cũng kém cho nên Phan Khôi không hay làm thơ mà chỉ ưa nghiên cứu về thơ. Đôi khi Phan Khôi cũng làm thơ, nhưng thơ của ông cũng “hùng hổ” như ông... hay khắc khổ như văn xuôi của ông, hoặc nhạt nhẽo vô duyên như hình dáng của ông.
Có lẽ vì thế mà Phan Khôi muốn thay đổi cái hình thức của thơ mà xướng xuất ra một thể Thơ mới, nó thật ra chẳng mói chút nào, và cũng ít người cùng ông hưởng ứng”(12).
Nhìn từ một phía khác và có phần thiên về hình thức câu chữ, Thương Sơn trong bài Thơ mới là từ khúc lại cho rằng lối Thơ mới Phan Khôi chẳng có gì mới cả và chứng dẫn:
“Kể ra thì trong bài Con ve và con kiến cái lạ ở nơi cách bắt vần, cách này cũng hai câu một vần với nhau, đến hai câu khác lại vần khác, có giống như lối vần “liên tiếp” (rimes suivies) của Tây. Ấy, cũng vì cái giống ấy mà chúng ta tưởng lầm rằng, cách bắt vần này mới lắm, song kỳ thực trong văn Tàu nó đã có từ lâu, nó đã cũ, tôi nói cũ để khỏi nói xưa đó thôi.
Thì cứ xem bản dịch Tỳ bà của Tản Đà thư điếm cũng đã thấy cách bắt vần ấy rồi, nên bản Tỳ bà của cao Đông Gia ở tận đời Nguyễn. Đây xin trích mấy vần.
Thám hoa (đọc):
Bác chẳng thấy năm ngoái quan nghè Bùi?
Ngã ngựa đứt băng một bên đùi.
Lại chẳng thấy năm trước quan đốc Phùng,
Ngã ngựa vẹt hẳn một bên mông?
Ở đời có ba sự rất sợ,
Chở đò, đánh đu cùng cưỡi ngựa…
lại điệu từ “Bồ tát man” dịch đăng ở Nam phong:
Bảng lảng non vàng cảnh minh diệt
Mây in mái tóc, thân pha tuyết
Ủ dột nét mày ngài
Điểm trang cùng với ai?
Cánh hoa lồng trong kính
Mắt hoa cùng lấp lánh
Mới mẻ bức la nhu
Đôi chim ai thêu thùa?
cùng điệu “Mộc lan hoa”:
Đàn ai tiêu sái,
Khiến khách giang hồ tình ái ngại;
Lơ lửng trăng sân,
Bóng minh minh ngỡ bóng giai nhân...
chẳng phải là bắt vần như bài dịch của ông Vĩnh ru!
Tôi còn nhớ như bài Tình già cũ lắm lắm chứ có cũ vừa đâu! Ông Chất Hằng lại rõ thật là sơ ý. Ông không thấy rằng bài ông Vĩnh cũng bài cổ thể thứ hai mà ông chép ở đoạn sau bài là giống nhau lắm ư? Bài trên là một bài ngụ ngôn; cái lạ chắc không ở đó, mà ở cách bắt vần, song cách bắt vần lại giống bài dưới mất, nghĩa là người ta đã làm rồi, thì còn gì là sáng kiến nữa đâu! Họa chăng chỉ còn ở mấy chữ “suốt mùa hè”.
Từ trên tới đây, đó là tỏ một phần cũ của bài thơ ông Phan. Trước khi nói đến phần cũ khác của nó, ta hãy thử xem vì sao cách bắt vần “liên tiếp” nó đã có từ lâu rồi mà người ta lại ít làm tới, cho đến bây giờ người ta ngộ nhận rằng nó là “tân thời”. Ấy cũng vì nó không hay gì cho lắm không êm ái bằng cách bắt vần như thơ Đường vậy, ấy nó cũng sắp vào vòng “đào thải” rồi.
Ông Chất Hằng chép bài Tình già sai với nguyên văn, nên chỉ chú đến cách bắt vần, mà không biết đến cái tự do của nó. Như thế, những người đã “lại đem cái vấn đề Thơ mới ấy đặt lên thảm xanh” chắc sẽ không khỏi nói qua nói lại. Vậy xin thay ông chép lại mấy câu thơ gốc của “lối mới” rồi chỉ một chỗ “cũ” khác của nó, mà chỗ này quan hệ hơn.
Hai mươi bốn năm xưa
Một đêm vừa gió lại vừa mưa,
Dưới ngọn đèn mờ trong gian nhà nhỏ
Đôi cái đầu xanh kề nhau than thở
Ôi! đôi ta tình thương nhau thì vẫn nặng.
Mà lấy nhau hẳn đà không đặng,
Để đến nỗi tình trước phụ sau
Chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau…
Đọc bài ấy rồi, độc giả đọc bài này:
Lá liễu xanh,
Hoa hồng đỏ
Trăng rạng tỏ.
Thấp thoáng trong mành ai to nhỏ,
Ai to nhỏ?
Vườn xuân cỏ cây tươi tốt,
Khí xuân đầm ấm đương hòa,
Dan díu cùng ai lời thề thốt,
Hẹn dưới hoa.
Ở trên bài đây, ta nếu thử đề rằng Thơ mới mà gửi cho mấy tờ báo vẫn chắc rằng lối “thơ Phan Khôi” là mới, họ sẽ đăng ngay, vì nó có theo luật lệ gì đâu, người ta cũng tự do đặt nó ra, nó là thơ “mới” vậy. Nhưng nó “mới” từ độ mười năm nay; trong Hữu thanh khi xưa, tôi đã thấy trích ở trong bài nói về từ khúc của ông Nguyễn Ửng, nó là Từ khúc vậy. Từ khúc lúc ấy rất thịnh trong thi ca. Ấy là một lối thơ tự do, nhưng “tự do” ở trong “giới hạn” âm nhạc câu thơ, tự do phải đường”(13).
Trong bài Một cuộc cách mạng trong làng thơ, Việt Bằng đặt câu hỏi về lối Thơ mới sẽ có ảnh hưởng xấu hay tốt trong làng thơ Nam Kỳ và đi sâu phân tích cuộc cạnh tranh giữa hai phái mới - cũ xét từ hiện tượng Phan Khôi:
“Một người có bộ óc cách mạng, muốn phá tan những khuôn khổ củ kỷ kia, để đem hồn thơ thi sĩ Việt Nam ra một cõi thanh thoảng hơn. Nhà cách mạng ấy là ông Phan Khôi. Ông là người xướng lên "một lối thơ mới". Ngoài Bắc, họ gọi lối thơ ấy là "thơ Phan Khôi".
Lối thơ nầy, ai cũng muốn đặt sao cũng được, không cần niêm luật như thi Đường, không cần phải có đối, có vần, cũng chẳng cần có số chữ nhứt định. Đặt làm sao cho đọc lên nghe xuôi tai thì thôi. Lối thơ Phan Khôi ra ngoài Bắc không được mấy người hưởng ứng. Có người trong báo Đông Tây độ nọ, đã bắt bẻ bài thơ Tình già của ông Phan Khôi và cho rằng làm hay đặt một bài như thế, không thể gọi là một bài được. Người ấy nói gẫm cũng có lý, nhưng ông Phan Khôi đã cho một vố nặng, chê tác giả bài ấy có cái óc thủ cựu quá, không chịu cải cựu hóa tân.
Ở Bắc, ở Trung, chẳng mấy người hoan nghinh cuộc cách mạng của ông Phan Khôi. Có hoan nghinh chỉ là ở xứ Nam Kỳ nầy!
Thơ mới! Thơ mới! Các thi sĩ Nam Kỳ nổi lệnh đánh đuổi phái cổ điển. Vườn Thơ mới sanh sôi nảy ra nhiều lắm. Thấy vậy, có bạn đồng nghiệp bảo: “Nam Kỳ đã có dịch thơ mới!”. Có bạn lại hâm hở binh vực lối thơ mới.
Công cuộc cách mạng còn dở dang, ông Phan Khôi đã rút dù từ giã làng văn, để lại đồ đảng khá đông. Đồ đảng thờ chủ nghĩa "thơ mới" đương ghìm chống với bạn cổ điển. Ai cũng có cái lẽ phải hết. Bên nào sẽ chiến thắng?…
Theo cái thấy ở hiện tại, các nhà thi sĩ binh vực lối Thơ mới chưa dễ gì đánh đuổi phái cổ điển đâu! Một đàng có gốc vững, còn một đàng thì thiếu sức. Cái óc mới không qua cái óc cũ!
Đứng ở ngoài vòng của cách mạng nầy, ta thử hỏi: Lối Thơ mới sẽ có ảnh hưởng tốt hay xấu trong làng thơ Nam Kỳ? Thi sĩ óc mới có thể nối chí nhà thơ đề xướng cuộc cách mạng chăng?
Lấy thiệt tế mà bàn, đem hết các nhà thi sĩ óc mới ra, hỏi ai được bộ óc Phan Khôi chăng? Hỏi thử ai bắt chước được đúng chăng? Chưa dễ tìm được một người đồng chí!”(14)…
Cuối cùng người viết đi đến dự đoán một kết cục bi quan: “Không khéo hồn thơ ta tiêu tán mà làng thơ ta phải trải qua một thời kỳ rối beng, hỗn độn”.
Trong tiểu luận Phong trào thi ca mới: Khuynh hướng - hiện trạng - đặc sắc - khuyết điểm có ý nghĩa tổng kết cho chặng đường đầu của phong trào thơ mới, Hà Nhân (Trần Thiêm Thới) xác định vị thế người mở đường Phan Khôi:
“Ngày trước, trong Phụ nữ tân văn, muốn cổ động cho lối thơ mới, ông Phan Khôi đưa bài Tình già của ông ra với những câu:
Hai mươi bốn năm xưa
Một đêm vừa gió lại vừa mưa…
Nghe nó chẳng cảm xúc được gì cả. Tiếp tay với ông Phan, Manh Manh nữ sĩ đẩy ra một tràng thơ mới nữa, nhưng nó chỉ được cái mới chớ không có cái hay.
Nếu chẳng có báo Phong hóa hợp sức vào thì việc cổ động biết đâu sẽ chẳng thất bại.
Binh vực và truyền bá thơ mới được hiệu quả nhiều, bọn thi sĩ mới của báo Phong hóa có công to lắm”(15)…
Điều đặc biệt là trong tác phẩm Tình già trên dòng sông Nhuệ mang tính hỗn dung giữa các thể văn phóng tác, diễn dịch, giễu nhại, hai tác giả V.T - T.K cho in lại toàn văn bài thơ Tình già của Phan Khôi, sau đó mô phỏng trong hình thức một thiên hồi ký, một truyện ngắn, kể lại câu chuyện tình dang dở trên dòng sông Nhuệ (Hà Đông), đi từ “Hai mươi bốn năm xưa…” qua “Hai mươi bốn năm sau…” rồi trở lại “Hai mươi bốn năm xưa”… Đây là đoạn kết của thiên truyện:
“... Thế mà, hai mươi bốn năm xưa!
Trên dòng sông Nhuệ, một con thuyền lơ lửng trôi đi. Làn gió thổi, đám mây bay, chị Hằng khi mờ khi tỏ, lẳng lơ soi mình xuống mặt nước trong! Chừ xa xa vài tiếng chó sủa giăng và mấy hồi chuông chùa vẳng lên khoảng không vô hạn, bốn bề đều im lặng như tờ!...
Trên dòng sông Nhuệ, con thuyền vẫn lơ lửng trôi đi! Bên mạn thuyền, một đôi trai gái tựa mình, ngồi ngắm dòng nước bạc. Thiếu nữ ngồi nhìn bóng mà ngẩn ngơ, tiếc cho tấm thân liễu yếu đào tơ mắc vào vòng tình lụy, biết bao giờ gỡ thoát được ra?
Đời là đời, mà tình là tình, cái sự thật nó vẫn khác xa, nó vẫn tục tằn, đau đớn hơn vòng mộng ảo!”(16).
Trong chiều hướng Thơ mới đang ngày càng chiếm được ưu thế, nhà phê bình Lê Tràng Kiều tiếp tục mượn chuyện Phan Khôi để tấn công các nhà thơ cũ và khẳng định chiến thắng của đội ngũ thơ mới:
“Cách đây đã 6, 7 năm, lần đầu tiên ở trong Đông Pháp thời báo, ông Phan Khôi là một nhà nho “thoát ly”, quay giáo đánh lại Đạo Nho, viết nhiều bài để mạt sát Đạo Nho, hình như cốt khêu tức mấy nhà nho chơi, thế rồi mà, đáng phục thay, các nhà nho vẫn hững hờ như không. Không có một ai chạy ra tiếp chiến, đến nỗi bên nghịch đánh mãi ở chỗ không, chán phải kêu: “Tình đời bạc bẽo thay!” .
Ý ông Phan bảo rằng: nhà nho hèn nhát đến nỗi một cái đạo lý nuôi sống mình mấy nghìn năm bây giờ bị nạn cũng không ai ra cứu chữa.
Kể thì tình đời bạc bẽo mà người đời hèn nhát thật! Nói như trong một vấn đề “Thơ mới thơ cũ” đây ta cũng có thể thấy cái tâm lý ấy một cách rõ rệt. Thử hỏi từ khi có phong trào “thơ mới” ở Bắc Kỳ này, trong phái thơ cũ, bị người ta đưa ra công kích, có ai dám đường hoàng viết lên báo, lên sách, một bài cỏn con để tự bào chữa cho mình, có ai dám đường hoàng bài trừ Thơ mới mà theo các ông, là một cái dịch đáng sợ (…).
Nhưng, tôi cần phải phân vua với các bạn một điều rằng: Với phái thơ cũ, không cần đến người như tôi ra tiếp chiến: đã có những ngọn kiếm hùng mạnh thay tôi, ra mà chống cự với địch quân. Một người như tôi chỉ đáng ở nhà “khua chiêng đánh trống” để ẩy người khác ra đánh thay mình mà thôi.
Tôi sẽ ẩy ra mặt trận, lần lượt: ông Thái Can, ông Nguyễn Vỹ, ông Nhược Pháp, ông Thế Lữ, ông Huy Thông, ông Lưu Trọng Lư…
Nếu trên mặt trận văn học sau này, họ cắm lá cờ Thơ mới, thổi khúc khải hoàn: thì công ấy hoàn toàn là công của họ vậy”(17)…
Thực tế cho thấy, vào thời kỳ toàn thịnh của phong trào Thơ mới (1936-1939), cả giới sáng tác và phê bình đều say sưa trong chiến thắng, mải mê với những thi phẩm đang xuất hiện hàng ngày trên thi đàn mà không nói nhiều, không bàn nhiều và cũng không cần nhớ nhiều đến người khơi nguồn thơ mới. Chỉ đến khi phong trào Thơ mới đã dần đi vào chặng cuối, khi cần soát xét, tổng kết lại cả nền thơ, học giới mới thức tỉnh và có nhu cầu ôn lại lịch sử, nhận diện rõ hơn vị thế Phan Khôi trên lịch trình thơ mới.
Trong bài tổng quan Một thời đại trong thơ ca mở đầu sách Thi nhân Việt Nam, hai ông Hoài Thanh - Hoài Chân đặc biệt nhấn mạnh vị thế Phan Khôi cùng bài thơ Tình già mở đầu cho phong trào Thơ mới:
“Ta hãy tìm những nguyên nhân gần gụi hơn cùng những triệu chứng của phong trào Thơ mới.
Đã lâu, người mình làm thơ hầu hết chỉ làm những bài tám câu, mỗi câu bảy chữ. Theo Ô. Phan Khôi, lỗi ấy phải quy cho khoa cử (…).
Nhưng một ngày kia cuộc cách mệnh về thi ca đã nhóm dậy. Ngày ấy là ngày 10 mars 1932 (Tức là ngày xuất bản tờ Phụ nữ tân văn số 122 trong ấy có bài Một lối Thơ mới trình chánh giữa làng thơ). Lần đầu tiên trong thành trì thơ cũ hiện ra một lỗ thủng. Ô. Phan Khôi hăng hái như một vị tướng quân, dõng dạc bước ra trận. Ông tự giới thiệu: “Trước kia... ít ra trong một năm tôi cũng có được năm bảy bài, hoặc bằng chữ Hán, hoặc bằng chữ Nôm; mà năm bảy bài của tôi, không phải nói phách, đều là năm bảy bài nghe được”. Ấy thế đó mà ông kết án thơ cũ! “Thơ cốt chơn. Thơ cũ bị câu thúc quá nên mất chơn”. Bởi vậy ông bày ra một lối thơ “Đem ý thật có trong tâm khảm mình tả ra bằng những câu có vần mà không bó buộc bởi niêm luật gì hết” và tạm mệnh danh là thơ mới.
Hồi bấy giờ Phụ nữ tân văn đương thời cực thịnh. Những lời nói của ông Phan được truyền bá đi khắp nơi. Cái bài Thơ mới Tình già ông dẫn ra làm thí dụ, không rõ có được ai thích không, nhưng một số đông thanh niên trong nước bỗng thấy mở ra một góc trời vì cái táo bạo giấu giếm của mình đã được một bực đàn anh trong văn giới công nhiên thừa nhận.
Lần lượt những bài thơ mới, vốn làm từ trước, được đưa lên mặt báo. Người hưởng ứng nhất là Ô. Lưu Trọng Lư. Sau khi đăng bài của Ô. Phan Khôi chẳng bao lâu, Phụ nữ tân văn nhận được một bức thư hoan nghênh ký cô Liên Hương (Faifo), một bài Thơ mới Trên đường đời ký Lưu Trọng Lư và một bài nữa Vắng khách thơ ký Thanh Tâm. Ký nhiều tên cho rộn thế thôi chứ đi lại cũng chỉ một người. Tình già, Trên đường đời, và Vắng khách thơ là ba bài mang tên Thơ mới được đăng báo trước nhất. Trong ba bài ấy thì bài thứ ba đã là một bài có giá trị. Kế đó, Phụ nữ tân văn còn đăng Thơ mới của Nguyễn Thị Manh Manh (tức Nguyễn Thị Kiêm), của Hồ Văn Hảo và nhiều người nữa.
Nhưng rồi phong trào Thơ mới chuyển ra đất Bắc và được một cơ quan ngôn luận khác ủng hộ một cách đắc lực hơn”(18)…
Mới chỉ mười năm, chưa đầy mười năm, câu chuyện Phan Khôi và vị thế người khơi nguồn Thơ mới dường như đã mang hơi hướng lịch sử, cảm hoài về cái buổi ban đầu vừa linh thiêng vừa bình dị đến thế. Theo Hoài Thanh - Hoài Chân, Phan Khôi đã đóng vai trò người nhóm lửa, người khởi đầu, người mở đường và hoàn tất sứ mệnh đặt nền móng cho cả một thời đại thi ca. Ông chấm dứt vị thế của mình ngay sau tiếng trống khai mạc cho nền thơ nhưng dư âm của nó còn vang vọng qua suốt thời thơ mới.
Trong công trình tổng thành Nhà văn hiện đại hướng đến tổng kết toàn diện nền văn học nửa đầu thế kỷ XX, Vũ Ngọc Phan có riêng mục từ Phan Khôi, trong đó nhấn mạnh vị thế của ông trong phong trào thơ mới, đánh giá cao vai trò người khơi nguồn cũng như khách quan chỉ ra những hạn chế, những bước đi không theo kịp thời đại:
“Phan Khôi là một trong những nhà văn xuất sắc nhất trong phái nho học. Ở một nhà văn cựu học như ông, người ta đã thấy nhiều cái rất mới, nhiều cái mà đến nhiều người tân học cũng phải cho là “mới quá”. Đó thật là một sự chẳng ngờ…
… Phan Khôi không chỉ là một tay thợ thơ, chỉ lúc có hứng ông mới làm, nên thơ ông không nhiều, nhưng làm bài nào tư tưởng đều thành thực, ý tứ dồi dào, dễ cảm người ta. Về thơ cũ, mấy bài thơ trên này đủ chứng cho ông là một thi sĩ có tài năng vững chãi, ngày nay đã trở nên rất hiếm trong làng ngâm vịnh. Còn về Thơ mới lại chính ông là người khởi xướng trước nhất.
Bài Thơ mới Tình già của ông đăng đầu tiên trong Phụ nữ tân văn (số 122, ra ngày 10 Mars 1932), báo Phong hoá số Tết năm Quý Dậu (24 janvier 1933) có trích đăng bài ấy như sau này (…).
… Bài này sở dĩ được truyền tụng trong đám thanh niên trí thức mà gây nên phong trào Thơ mới là vì ý, không phải vì âm điệu. Người ta thấy một khi thơ thoát được những câu luật bó buộc và cân đối thì có thể diễn được nhiều ý hơn. Điều đặc biệt trong bài thơ trên này là tính tình ăn theo với màu sắc rồi tính tình và màu sắc đều chung đúc cả trong một cảnh thiết tha và ảm đạm. “Ngọn đèn mờ”, “Hai cái đầu xanh”, “Đôi cái đầu bạc”, đó là những màu sắc rất thích hợp với tính tình của đôi nhân ngãi “Hai mươi bốn năm xưa” và “Hai mươi bốn năm sau”; rồi những lời than thở của hai người đều tỏ ra một mối tình khăng khít, chả có hai mươi bốn năm sau, nếu chẳng quen lung, đố nhìn ra nhau! Mối tình già mà diễn ra được như thế, thật vô cùng cảm động.
Phan Khôi còn có hai bài Thơ mới nữa, nhan đề là Hai cảnh trên xe hoả, nhưng hai bài này kém hẳn bài trên. Tuy đều có ngụ ý, nhưng về lời thì không còn phải là thơ nữa: lời vừa khô khan, vừa nghèo âm điệu. Những câu như:
Người mua ăn sò ái ngại thay,
Muốn trả tiền mà trả cho ai!
thì thật là không khác gì hai câu văn xuôi. Cả những câu này ở bài sau cũng thế, lại thô và cộc nữa:
Xe cứ chạy,
Lũ trẻ cứ làm như ban nãy,
Hành khách trông thấy vẫn lặng thinh.
Dù biết chúng nó chửi chúng mình.
Đó là Phan Khôi thi sĩ”(19)...
Trong tầm nhìn của người đương thời, Phan Khôi hiện lên trong tư cách người khai sáng, mở đường phong trào Thơ mới cả trên phương diện sáng tác cũng như khả năng tự ý thức về thơ và về lối thơ mới, phong trào thơ mới. Người đương thời đã cảm nhận, đánh giá khách quan, chính xác về ông, cả về những đóng góp đột xuất cũng như những giới hạn lịch sử mà ông khó có thể vượt qua.
*
Việc đánh giá về Phan Khôi gắn với phong trào Thơ mới (1932-1945) từng diễn ra qua nhiều khúc quanh, nhiều biến động, theo nhiều cách thức và từ nhiều điểm nhìn khác nhau. Căn cứ trên hệ thống văn bản tác phẩm của chính Phan Khôi cũng như ý kiến của người đương thời phong trào Thơ mới đánh giá về Phan Khôi có thể thấy ông là vị thủ lĩnh, vị tướng tiên phong, người lĩnh xướng dàn đồng ca thơ mới. Đương nhiên nếu không có Phan Khôi thì vẫn có phong trào Thơ mới nhưng nhờ điểm tựa Phan Khôi, cú hích Phan Khôi, trực giác Phan Khôi, tài năng Phan Khôi mà nền Thơ mới đã có ngày khai sinh, mở ra một thời đại mới trong nền thơ Việt Nam. Thêm nữa, vẫn biết rằng Phan Khôi không có thêm sáng tác mới, không đóng vai trò chủ tướng phê bình Thơ mới trong giai đoạn sau nhưng người đương thời vẫn luôn ghi nhớ và đánh giá cao vị thế người giữ vai trò đặc biệt trong phát pháo hiệu mở đầu một thời đại thi ca. Tên tuổi Phan Khôi mãi mãi gắn với vị thế người mở đường, người dẫn đường, người khai sáng nền Thơ mới dân tộc và hiện đại, đưa nền thơ Việt Nam thực sự bước vào thời kỳ hội nhập Đông - Tây, phát triển trong toàn cảnh bức tranh và tiến trình lịch sử văn học toàn thế giới.
Hà Nội, tháng 10-2014
Nguyễn Hữu Sơn
-----------------------
Tài liệu tham khảo:
(1) Xin xem Nguyễn Hữu Sơn: - Phong trào Thơ mới như một diễn ngôn lịch sử (1932-1945). Nghiên cứu Văn học, số 11-2013, tr.41-58.
- Đặc điểm tựa, bạt ở các tập thơ thời Thơ mới, trong sách Nhìn lại Thơ mới và văn xuôi Tự lực văn đoàn. NXB Thanh niên, H., 2013, tr.121-133.
(2) Phan Khôi: Một lối “thơ mới” trình chánh giữa làng thơ. Đông Tây, số Xuân, 1932…
(3) Phan Khôi: Một lối “thơ mới” trình chánh giữa làng thơ. Phụ nữ tân văn, số 122, ra ngày 10-3-1932...
(4) Phan Khôi: Về lối Thơ mới sau bài Tình già: vừa mở ra đã có người lo cột lại. Đông Tây, số 154, ra ngày 12-3-1932...
(5) Ngọa Du Nhân: Thơ của Nam Trân. Sông Hương, số 3, ra ngày 15-8-1936, tr.5.
(6) Phan Khôi: Tôi với Tản Đà thi sĩ. Tao đàn, số 9+10, ra ngày 16-7-1939…
(7) Phan Khôi: Một tai nạn của văn học. Dân báo, số ra ngày 25-6-1941…
(8) Phan Khôi: Báo Tiếng dân nói sai, tôi không hề công kích Thơ Mới. Dân báo, số 627, ra ngày 23-7-1941…
(9) Thượng Minh: Đôi lời về lối Thơ mới của Phan Khôi. Đông Tây, số 147, ra ngày 17-2-1932...
(10) Vân Bằng: Tôi thất vọng vì Phan Khôi. An Nam tạp chí, số 39, ra ngày 30-4-1932…
(11) Cô Liên Hương: Bức thư ngỏ cùng Phan Khôi tiên sinh sau khi đọc bài Một lối Thơ mới trình chánh giữa làng thơ. Phụ nữ tân văn, số 153, ra ngày 27-6-1932. In lại trên Phong hóa, số 31, ra ngày 25-1-1933, tr.16.
(12) Chất Hằng Dương Tự Quán: Ấm Hiếu không thể làm Tú Khôi, hay là Một cái tỉ hiệu luận giữa Phan Khôi và Nguyễn Khắc Hiếu. Văn học tạp chí, số 18, ra ngày 1-6-1933…
(13) Việt Bằng: Một cuộc cách mạng trong làng thơ. Lục tỉnh tân văn, số 4438, ra ngày 20-6-1934…
(14) Thương Sơn: Thơ mới tức là từ khúc. Văn học tạp chí, số 24, ra ngày 1-9-1933.
(15) Hà Nhân: Phong trào thi ca mới: Khuynh hướng - hiện trạng - đặc sắc - khuyết điểm. Sống, số 28, ra ngày 7-9-1935...
(16) V.T - T.K: Tình già trên dòng sông Nhuệ. Hà Nội báo, số 14, ra ngày 8-4-1936, tr.5-7.
(17) Lê Tràng Kiều: Thơ mới.Hà Nội báo, số 19, ra ngày 13-5-1936, tr.20-21.
(18) Hoài Thanh - Hoài Chân: Một thời đại trong thi ca, trong sách Thi nhân Việt Nam. Nguyễn Đức Phiên xuất bản, Huế, 1942... Tái bản. Nxb. Văn học, Hà Nội, 1989, tr.20, 22-24.
(19) Vũ Ngọc Phan: Phan Khôi (Biệt hiệu Chương Dân), trong sách Nhà văn hiện đại, Quyển nhì. Nxb. Tân dân, Hà Nội, 1942… In lại trong Vũ Ngọc Phan - Tác phẩm, Tập IV. Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000, tr.85-104.
[1] Vì tầm quan trọng của tác phẩm Một lối “thơ mới” trình chánh giữa làng thơ nên chúng tôi in lại toàn văn, lấy bản in trên báo Đông Tây làm bản trục và có chú thích, khảo dị những chữ sai khác so với bản in trên Phụ nữ tân văn (Sài Gòn, số 122, ra ngày 10-3-1932, tr.15-16).
- PNTV: thì hơn (NHS chú).
[2] PNTV: sực nhớ (NHS chú).
[3] PNTV: ông vậy (NHS chú).
[4] PNTV: năm bảy (NHS chú).
[5] PNTV: năm bảy (NHS chú).
[6] PNTV: thì kể (NHS chú).
[7] PNTV: choán (NHS chú).
[8] PNTV: thật đà (NHS chú).
[9] PNTV: Lược bỏ đoạn: “À, có rồi,… tôi không thích” , có ký chú một dòng đặt trong dấu đơn: (Bị bỏ một đoạn dài) (NHS chú).
[10] PNTV: Lược bỏ “như bài Dân Quạ đình công đây” và thay bằng đoạn dấu ba chấm (…) (NHS chú).
[11] PNTV: chớ nếu (NHS chú).
[12] PNTV: Lược bỏ câu: “Như bài Dân quạ đình công đó… hay gì” và thay bằng đoạn dấu ba chấm (…) (NHS chú).
[13] PNTV: người thứ nhứt làm ra việc nầy (NHS chú).
[14] PNTV: một chỗ (NHS chú).
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 359
LƯƠNG PHẠM * QUÃNG ĐỜI TÔI TỪ CHIẾN TRANH ĐẾN HÒA BÌNH
Quãng đời tôi 'Từ chiến tranh đến hòa bình'
Lương Phạm (Danlambao) - Nhân dịp ngày quốc hận 30/04 tôi xin kể về cuộc đời tôi từ cuộc chiến VN đến một thứ “hòa bình” không mong đợi. Có lẽ vì tính tôi hay nghi ngờ những định kiến về CS nên Thượng đế đã cho tôi nhiều cơ hội hơn để tìm hiểu về họ. Sau lệnh Tổng Động Viên năm 1968 và sau khi mãn khóa Trường SQTB Thủ Đức, tôi được biệt phái về tiểu khu Long An. Là một người lính mới ra trường còn mang giày bốt-đờ-sô bóng lộn tôi chưa kinh nghiệm là đi hành quân nơi đất bùn lầy trơn trợt phải mang giày bố, nên trong trận ra quân đầu tiên, khi phải chạy hay nhảy qua mương hẹp, tôi luôn bị trượt té ạch đụi hoài.
Mấy người lính cười cười: "Chuẩn úy phải mang giày bố mới đi hành quân được". Nghe vậy tôi cũng hơi quê quê. Trong trận này lần đầu tiên nghe trực tiếp súng AK địch bắn thẳng, đạn ghim líu chíu xung quanh, tôi cũng hơi rợn. Sau lần hồi quen rồi cũng dạn dày như ai.
Mấy người lính cười cười: "Chuẩn úy phải mang giày bố mới đi hành quân được". Nghe vậy tôi cũng hơi quê quê. Trong trận này lần đầu tiên nghe trực tiếp súng AK địch bắn thẳng, đạn ghim líu chíu xung quanh, tôi cũng hơi rợn. Sau lần hồi quen rồi cũng dạn dày như ai.
Vì là đại đội trừ bị tiểu khu, nên đại đội của tôi hầu như phải ứng chiến hành quân suốt tháng và một nửa trong số các cuộc hành quân đó là trực thăng vận. Dù là tỉnh ven đô, nhưng vì địa thế là sông rạch trên tất cả 7 quận từ Cần Giuộc, Cần Đước đến Thủ thừa, Bến Cát, Tân Trụ, Rạch Kiến, Bình Phước, đều bao phủ bởi những đám dừa nước rậm rạp rất lý tưởng cho VC ẩn trú và phá hoại khủng bố. Ngoài những cuộc hành quân truy lùng và diệt địch, chúng tôi còn phải hành quân đốn lá khai quang những vùng cây cối rậm rạp. Đôi khi máy bay Hoa Kỳ cũng rải thuốc khai quang vào những vùng này. Do đó cùng với nỗ lực hành quân ngày đêm, năm 1970 tình hình an ninh ngày càng ổn định hơn so với những năm 1968. Khi đi hành quân tôi tuyệt đối ra lệnh cho binh sĩ khi dừng quân cơm nước, nếu mua gà vịt thực phẩm trong dân chúng, phải trả tiền sòng phẳng để tránh mọi tuyên truyền của VC bất lợi cho QĐVNCH. Thực tâm mà nói, người dân không mấy người thực lòng theo VC. Lý do họ phải làm theo VC chỉ vì QĐVNCH quá mỏng để bảo đảm an ninh cho họ khi đêm về. Những vùng xôi đậu là những nơi mà ban ngày là Quốc gia, ban đêm là CS. Khi màn đêm phủ xuống là lúc du kích lẻn về vào từng nhà, thâu thuế, lúa gạo, thực phẩm nói là “ủng hộ quân giải phóng”. Chúng tuyên truyền bịp bợm và khủng bố, hăm doạ những ai không nghe chúng. Chúng sẵn sàng ban đêm vào nhà bịt mắt dẫn đi giết, bêu xác đầu xóm để làm gương cho những ai cứng đầu. Sau những trận oanh tạc hoặc pháo binh, chúng tôi gặp những xác kinh tài VC bên những bao tải lớn đựng tiền VNCH, chứng tỏ họ vừa thu thuế xong chưa giao nộp kịp. Nguời dân vì một cổ hai tròng nên phải cúi đầu dưới sự áp bức của VC. Có một nghịch lý chợt hiện ra trong đầu tôi: Trong khi xã hội miền Nam tự do no ấm, mọi người đều được tự do làm ăn, dành dụm mua sắm, thì CS lại tuyên truyền nhân dân miền Nam bị “o ép, kềm kẹp bởi Mỹ ngụy” nên họ phải vào “giải phóng” để đem chiến tranh vào miền Nam yên bình. Để bảo vệ cuộc sống ấm no của người dân, chính phủ VNCH phải động viên thanh niên nhập ngũ ngoại trừ những người có hoàn cảnh cha mẹ già yếu, hoặc còn đang đi học. Trong khi đó VC tuyên truyền là chính phủ bắt lính để chống lại nhân dân. Đáng lẽ người dân phải đóng thuế cho chính phủ là người tạo ra cuộc sống ấm no đó, họ lại phải đóng thuế cho bọn ăn cướp trên xương máu đồng loại. Có ai cần bọn chúng vào đây nếu không phải là do sự tham tàn của lũ CS. Tôi không trách những người lính CS Bắc Việt vì họ cũng chỉ có một con đường nhập ngũ đi B (vào Nam) mà thôi. Nếu anh không tự vào lính thì không còn chỗ nào để dung thân cả. Thân nhân vợ con bị bắt buộc vào đoàn, vào đảng họp hành đấu tố thường xuyên. Nếu anh không đi thì vợ con sẵn sàng tố khổ, phê bình và cuộc đời anh sẽ đi vào một trại cải tạo nào đó. Do đó có khi vào lính anh còn có cái ăn, không bị đói. Đó chính là tâm sự của một vệ binh trong trại tù binh khi có dịp nói chuyện riêng. Từ đó tôi bắt đầu hiểu một chân lý: “CS nói không là có và có là không”. Họ tuyên truyền, chửi bới “Mỹ Ngụy” về những cái xấu, cái ác thì thực ra họ đang nói xấu về chính họ. Chân lý này luôn luôn đúng với tôi về sau này.
Cuối năm 1969 trong một cuộc hành quân ở Quận Bình Phước, tôi bị thương ở đầu gối do một người lính vướng phải mìn nội hóa của địch. Người lính đi gần đó bị một miểng ghim vào tim và chết ngay tại chỗ. Một vài người lính khác bị thương. Chúng tôi được trực thăng tản thương liền sau đó. Buổi chiều, có một toán biệt kích tỉnh đến nhập vào đại đội của tôi. Đến khi chúng tôi rút đi thì toán đó nằm ém lại. Màn đêm vừa buông xuống, VC bắt đầu kéo về bắt loa huyênh hoang về thành tích đã tiêu diệt và làm bị thương một số lớn (số phóng đại) binh sĩ ngụy, trong số đó có giết được một sĩ quan. Chúng tôi ở bệnh viện nghe báo cáo lại mà tức cười. Không chờ cho đám VC này vào nhà dân, biệt kích đã nổ súng tiêu diệt toàn bộ.
Vào những năm 68-69, VC móc nối nhiều gia đình làm tay sai cho chúng. Khi mới về Long An, chân ướt chân ráo, tôi không quen ai nên cũng buồn. Một anh bạn làm ở tiểu khu giới thiệu cho tôi làm quen hai chị em: Cô chị tên Trinh quen với bạn tôi, còn tôi làm quen với cô em là Duyên. Sau vài lần đến nhà chơi, tôi và Duyên có đi chơi Mỹ Tho và chụp ảnh chung. Qua một vài sự kiện hơi lạ trong nhà khi chị em này có vẻ dấu diếm một điều gì đó, anh bạn tôi nghi ngờ nên có dò hỏi Phòng 2 tiểu khu. Họ cho biết 2 chị em này có một người chị khác bị bắt khi dấu truyền đơn và chất nổ trong người và họ đang theo dõi gia đình này. Tôi dò hỏi Duyên là tấm ảnh chụp chung với tôi đâu rồi. Cô ta nói là đã làm mất nhưng tôi biết là cô ta đã giao nộp cho thượng cấp của cô ta rồi. Cha mẹ của Duyên ở trong vùng xôi đậu (vùng bị VC kiểm soát vào ban đêm). Trong một cuộc hành quân vào vùng này, một người lính có chỉ cho tôi căn nhà cha mẹ cô ấy và cho biết tên Trinh và Duyên chỉ là tên giả. Từ đó tôi xa lần không đến nhà chị em đó nữa.
Năm 1972 sau khi đi học một khóa tu nghiệp tại Mỹ trở về, Bộ Tổng Tham Mưu thuyên chuyển tôi về Sư đoàn 5 Bộ Binh. Trong một cuộc hành quân lớn, 2 tiểu đoàn chúng tôi bị Công Trường 7 bao vây bằng bộ binh và thiết giáp trong hơn 1 tháng. Lúc này Hoa Kỳ đã Việt Nam hóa chiến tranh nên không còn yểm trợ mạnh như trước. Chúng tôi phải hứng chịu hàng chục trận mưa pháo mỗi ngày. Thiếu thực phẩm và nước uống nên chúng tôi phải liều mở đường máu trở ra. Dưới hỏa lực hung hãn của địch, quân số chúng tôi đa số đã bỏ mình, một số bị bắt, và một số trốn thoát. Chúng tôi bị trói bằng dây giày dính chùm người này qua người khác. Họ giải chúng tôi trong rừng gần 2 tuần lễ bằng chân trần không giày dép, đạp lên gai góc, gốc cây nhỏ bị chặt lú lên, nên hai bàn chân người nào cũng rách toác chảy máu. Cực hình này quá sức chịu đựng nên chúng tôi chỉ muốn một được một viên đạn vào mình để giải thoát sự đau đớn. Trong khi đó thì vệ binh VC luôn thúc mũi súng vào mình và quát: “Khẩn trương lên”. Có tên chính trị viên an ủi là ráng đến trại sẽ được “giải nao” và “bồi dưỡng”. Chúng rêu rao là ở trại cái gì cũng có nên chúng tôi cứ tưởng là giải lao và bồi dưỡng là có “căn tin” bán đồ ăn thức uống. Nào ngờ sau đoạn đường địa ngục hết 15 ngày mới đến trại, trước mắt chúng tôi là bóng tối của rừng già, cây rừng chằng chịt. Các tên vệ binh ra lệnh: “Các anh nghỉ giải nao đi”. Chúng tôi té ngửa ra giải lao với họ là nghỉ mệt thôi, chứ chẳng có ăn uống gì cả. Mệt rũ ra, chúng tôi chỉ múc nước uống rồi lăn ra trên lá rừng đầy đỉa vắt mà ngủ qua đêm. Sáng hôm sau, họ bắt chúng tôi tập họp để “học tập chính sách” rôì phải tự chặt cây làm chỗ ở. Đúng là làm nhà tù cho mình ở.
Chúng tôi bị bắt làm tù binh không lâu thì ký kết hiệp định Paris. Chúng tổ chức học tập 3 ngày gọi là để chuẩn bị trao trả. Chúng bắt anh em mỗi người làm bản cảm tưởng khi được trao trả như thật. Nhưng sau đó việc trao trả không bao giờ xảy ra và họ giải thích là tại chính quyền Sàigòn vi phạm hiệp định. Sáu tháng sau, hai bên phái đoàn lại ký Thông Cáo Chung để thi hành lại hiệp định về trao trả. Với bản chất tráo trở, lại một lần nữa VC không trao trả tù binh với lý lẽ là Sài Gòn vi phạm. Hết ý kiến!
Ngày lại tháng qua, chúng tôi đã ở tù CS được 3 năm thì chúng chuyển chúng tôi ra Bắc để chuẩn bị chiến dịch HCM tiến chiếm miền Nam. Chúng tôi di chuyển ra bắc bằng đường mòn HCM. Những buổi chiều thật buồn trên chuyến đi này, nhìn cảnh núi đồi tây Trường Sơn hiu hắt trong ánh nắng chiều, những người phụ nữ dân công lầm lũi đi dọc theo đường mòn khiến chúng tôi nhớ nhà tê tái. Nhìn những người bộ đội “sinh Bắc tử Nam” lũ lượt trên con đường HCM vào Nam, tôi không biết ngày mai họ có còn cơ hội để trở về với gia đình không. Chúng tôi thì biết đâu có thể “sinh Nam tử Bắc” không chừng. Bước qua cầu Bến Hải phân chia Nam Bắc chúng tôi đến địa phận Quảng Bình. Trước mắt chúng tôi thiên đường XHCN miền bắc là những mái nhà tranh lụp xụp, dân chúng từ già đến trẻ đều đi chân đất, quần áo thì rách rưới tệ hại. Một anh bạn cảm thán: “Ôi miền Bắc chưa đến 20 năm mà đã như thế này ư?” (năm 1973). Xui cho anh này là một tên vệ binh đi gần đó nghe được bèn quát: "Anh đã học tập cách mạng mà ăn nói như thế hử?" Thế là anh ta hầm hầm tiến lại xích thật chặt sợi xích vào hai ống chân. Báo hại anh chàng này khi đến được trại ở Yên Bái thì hai chân đã sưng to. Từ Quảng Bình chúng tôi lên tàu hỏa đi Hà Nội, Yên Bái. Nhân dịp này chúng xách động dân chúng căm thù ném đá lên tàu và chúng tôi phải đóng cửa sổ lại. Một lát yên trở lại chúng tôi hé cửa ra thì có một cô gái sấn sổ lại vùa mắng: “Làm tay sai Mỹ Ngụy thế có đẹp mặt chưa”. Khi đến sát cửa sổ, cô ấy nói nhỏ: “Em mời các anh hút thuốc” và ném vào trong toa 2 gói thuốc và một ít kẹo. Chúng tôi mới biết là họ phải giả vờ căm thù để qua mặt lũ công an cú vọ. Ra đến ga Hàng Cỏ thì cảnh tượng lụp xụp, bệ rạc chưa từng thấy. Một anh bạn chỉ cái bảng quảng cáo thuốc lá Bastos từ thời Pháp vẫn còn và nói nhà anh ở sát ngay đó. Có một điều tất cả nhà gạch hay gỗ đều có nóc lợp tranh thay vì ngói hay tôn. Xung quanh những chỗ bị hư hỏng vì chiến tranh được che chắn tạm bằng bìa carton trông rất thảm hại.
Chúng tôi được xuống tàu để đi tiểu tiện. Ga này vô cùng nhếch nhác với rác rưởi và mùi nước tiểu nồng nặc. Một bà già quấn khăn mỏ quạ nhìn chúng tôi vừa gạt nước mắt nói nhỏ: “Nhìn những gương mặt các cháu tôi đẹp đẽ thế kia mà chúng nó lại tuyên truyền là ăn thịt người. Lạ thật!” Chắc là bà có con cháu đã di cư vào Nam! Chúng tôi lại tiếp tục cuộc hành trình đến Yên Bái. Tàu đến Yên Bái vào chiều tối dưới mưa dầm miền Bắc. Những người vệ binh CS đến nhận chúng tôi mặc áo mưa đen, đội mũ lưỡi trai, đi ủng cao su đen tới đầu gối trông như những tên phát xít Đức Quốc Xã trong phim làm chúng tôi lo sợ, không biết tương lai rồi sẽ ra sao. Ra đến Yên Bái ngày 27 tháng tư 75. Ba ngày sau bọn vệ binh reo hò là đã giải phóng Sài Gòn rồi. Chúng tôi biết đây là sự thật vì trong khi di chuyển ra Bắc, chúng tôi đã chứng kiến từng đoàn Molotova chở súng đạn, tên lửa, lính bộ đội vào xâm lăng miền Nam. Trong khi đó Sàigòn còn đang ngủ quên trong hòa bình giả tạo. Như vậy bảo sao mà miền Nam không mất. Bản chất tráo trở, lật lọng của họ là một mặt ký hiệp định Paris để Mỹ rút quân; một mặt chuyển quân và vũ khí vào Nam để cướp chánh quyền. Ôi thời thế khi người bạn Đồng Minh đã rút lui trong khi qua tay sai CSVN, 2 đế quốc Liên Xô và Trung Quốc quyết tâm chiếm miền Nam bằng được. Như vậy “cả ba đánh một, không chột cũng què” là phải chịu thôi. Chúng tôi xác định tương lai ngày về sẽ còn mờ mịt.
Những ngày dài “lao động cải tạo” lại tiếp tục. Lúc còn chiến tranh để lấy tiếng với thế giới khi những người tù binh được trao trả về sẽ nói tốt về họ, cai tù còn nhân nhượng. Sau ngày 30/04/75, họ tuyên bố chánh quyền miền Nam không còn nữa nên họ bất cần. Họ bắt tù nhân làm việc nặng như đốn gỗ cây to hai người ôm không hết từ trên núi chuyển về trại để xẻ gỗ cho cán bộ. Công việc này rất nguy hiểm vì sơ ý một chút là cây đè chết tươi ngay. Một vài anh yếu sức làm không nổi bị một tên vệ binh hung dữ chĩa súng bắt quỳ. Ngày hôm sau chúng tôi họp trình báo lên trại trưởng về việc làm nhục tù binh. Sau đó tình trạng này mới đỡ vì họ đối xử với tù hình sự như nô lệ quen rồi. Ở riết rồi dân chúng xung quanh rất thương chúng tôi. Họ nói có đồ ăn gì chẳng thà cho chúng tôi ăn chứ không bán cho bọn khốn kiếp cai tù đó. Biết tin có vài linh mục trong số tù binh, một vài gia đình khẩn khoản nói chúng tôi mời các cha ra ngoài cho họ gặp mặt. Thấy chúng tôi lưỡng lự và biết chúng tôi chưa tin tưởng họ nên họ bảo mấy đứa con kéo cổ áo xuống cho chúng tôi thấy thánh giá và bảo chúng đọc kinh cho chúng tôi nghe.
Đối với dân miền Bắc, khi biết chúng tôi là những người có học, họ rất ngạc nhiên và khâm phục. Có lần một cô giáo hỏi chúng tôi có biết đọc chữ không. Chúng tôi cười cầm ngược tờ báo Nhân Dân lên đọc. Họ trầm trồ: “Cầm ngược thế mà các anh đọc được à?” Rồi họ thử chúng tôi bằng những bài toán cộng, trừ, nhân, chia và các phương trình đơn giản. Thấy những bài toán đó là trò trẻ con đối với chúng tôi, họ càng phục hơn. Có lần chúng tôi đẩy xe cải tiến ra Hợp Tác Xã chở rau và sắn về. Trên đường đi tên bộ đội dẫn giải cho ghé vào nhà dân nghỉ, uống nước. Căn nhà này chúng tôi thường ghé và có một cô gái rất đẹp và trắng trẻo. Vào nhà bà mẹ hối cô gái đi nấu nước pha trà đãi chúng tôi. Tên bộ đội đuổi chúng tôi xuống nhà bếp để anh ta tán tỉnh cô gái. Vì cô này là giáo viên nên cũng có kiến thức thì làm sao cô có thể nói chuyện với một tên vô học được. Do đó khi pha trà xong, cô gái cũng bỏ xuống dưới bếp ngồi nói chuyện với chúng tôi. Tên bộ đội rất quê và tức giận nên hầm hầm hối ra về. Có khi chúng tôi phải đi phà sang bên kia sông Hồng để chở thực phẩm. Ngồi trên phà, một hai cô gái dạn dĩ đến hỏi chúng tôi bao giờ được về. Khi tôi trả lời là không biết thì cô gái bèn nắm lấy tay tôi đùa: “Hay anh ở lại đây cưới vợ luôn cho xong”. Những điều này chứng tỏ cảm tình của người dân đối với chúng tôi thế nào.
Cuối cùng, năm 1980 tôi đưọc trở về nhà với vài người bạn. Lên tàu hỏa khi biết chúng tôi là “tù cải tạo” các anh kiểm soát vé trên tàu đều không lấy tiền và những bạn hàng đi buôn mua cơm mời chúng tôi. Đến ga Bình Triệu, trời đã tối, tôi đón xe lam về nhà người chị gần đó để từ từ báo cho ba má tôi biết tin sau. Đây là lý do tại sao tôi không về thẳng nhà tôi. Số là có người bạn trong tù được cho về. Bước chân vào nhà, bà mẹ già vì bất ngờ và cảm động, bà đã đứng tim và chết sau đó. Tôi không muốn mẹ tôi ở vào hoàn cảnh đó vì bà đã già rồi và đã chịu quá nhiều đau thương và mất mát. Những ngày sau đó, Sàigòn thân yêu của tôi hiện ra với chiếc áo choàng đen đúa, bẩn thỉu. Tôi hiểu ra vì không còn lò điện, ga nên mọi người tận dụng mọi thứ để đốt lên nấu nướng: từ cây củi, giấy, bao nylon, cùi bắp, vỏ dừa… Do đó tường và của sổ nhà nào cũng đen nhẻm vì chưa bao giờ được quét vôi lại. Sàigòn một thời là “Hòn ngọc Viễn Đông” đã trở về thời kỳ hoang dã!
Ôi cảnh thanh bình nước tôi như thế này ư. Trên gương mặt mọi người ai cũng có mối ưu tư nào đó: Làm sao kiếm ăn, làm sao sống nổi với sự thúc ép đi kinh tế mới, làm sao tránh cặp mắt soi bói của CA địa phương, làm sao vượt biên… Cũng để tránh soi mói của CA khu vực, tôi tìm việc tại một tổ hợp đóng xà lan. Mỗi sáng tôi khoác chiếc áo công nhân và chiếc mũ tai bèo dắt xe đạp ra khỏi nhà. Công việc chỉ là suốt ngày cầm chiếc búa 7 ký, theo đường que chỉ của người cai mà nện liên hồi vào tấm thép dày 10 ly để gò làm sườn xà lan. Một ngày họ trả 6 hào. Đến trưa nghỉ giải lao, những người có vợ con thì xúm xít nấu lon cơm ăn. Còn tôi độc thân nên ra ăn cơm dĩa của một bà gánh cơm trước cổng. Dĩa cơm với miếng thịt mỡ nho nhỏ hết 6 hào và ly nước trà 1 hào nữa là 7. Làm việc nặng 1 ngày mà tiền lương không đủ ăn tiền ăn một buổi trưa! Trời ơi có chế độ nào không có người bóc lột người mà lại như thế không! Sức trai không làm nổi để nuôi mẹ già mà còn phải ăn bám thêm bữa sáng, bữa chiều. Nghĩ đến đó và nhìn bà mẹ còng lưng gánh chè đi bán, tôi không thể nào cầm được nước mắt dù đã từng là một người lính can trường. Tôi phải tìm một việc khác là đi thồ gạo. Tăng cường thêm cho chiếc xe đạp để đủ cứng cáp thồ 1-2 tạ gạo, ra đi với một người bạn, chúng tôi ăn miếng cơm nguội rồi đạp xe lên đường đi Long An nơi mà trước đây tôi phục vụ. Đạp xe gần 50 km tốn rất nhiều năng lượng mà chúng tôi không có tiền để tái nạp nên rất mệt. Dọc đường chúng tôi chỉ dám ngừng xe để uống ly nước mía đỡ khát. Chúng tôi vào tận thôn xóm xa xôi đến chỗ nhà máy xay gạo mua gạo về bỏ mối. Chuyến đầu thồ 1 tạ gạo trót lọt. Sau khi về Chợ Lớn bỏ mối xong, tôi lời được khoảng 20 đồng. Chắc chuyến này về đưa tiền cho mẹ, chắc bà mừng lắm. Hôm sau, được nước chúng tôi lại tiếp tục. Đến nơi nghe những người đi buôn nói là trạm thuế vụ hôm nay nghỉ nên tha hồ xả cảng. Tôi và người bạn tấp luôn mỗi người 2 tạ. Đi một đoạn gặp một tay du kích chặn xe lại và lôi về trụ sở ủy ban ND. Tại đây sau khi thuyết pháp cho chúng tôi, tên chủ tịch bắt viết tờ kiểm điểm rồi tha. Mừng rỡ chúng tôi lại tiếp tục lên đường. Đi một đoạn nữa, một bóng áo vàng từ bên lề xộc ra đẩy xe tôi ngã chổng kềnh. Nó kéo tôi vào trụ sở hăm dọa và tịch thu cả 2 tạ gạo. Hắn bảo tôi đi về và mai xuống giải quyết. Trời đất như sụp đổ dưới chân. Bao nhiêu vốn liếng đã tan thành mây khói.
Hôm sau tôi ráng trở lại trụ sở CA xã hy vọng nó sẽ trả lại cho tôị phần nào. Vừa thấy mặt tôi, tên CA sừng sộ hăm doạ: “Anh còn dám trở lại đây xin xỏ à. Anh làm xáo trộn thị trường, tôi chưa bắt anh là may rồi đấy. Về đi!” Liếc nhìn trong góc phòng, mấy bao gạo đã được tính sổ chỉ còn lại 2 cái bao không, tôi biết rằng không còn hy vọng nào nữa mà ở lại. Chỉ ức rằng tôi đã không tự tay thanh toán được tên quỷ đội lốt người này. Sau này tôi tìm được một nghề khác là bán đồ điện và sửa điện. Vốn có học về điện nên tôi thích ứng cũng nhanh. Thuê một chỗ ngồi ngoài đường với một chiếc xe đẩy nhỏ, tôi vừa bán đồ lặt vặt và sửa chữa. Khách hàng ngày một đông và tôi đã có vợ con và cuộc sống khấm khá hơn. Bây giờ thì những tay CA khu vực khác chỗ tôi bán bắt đầu tìm cách vòi tiền. Bọn thuế vụ và Uỷ ban cũng không kém. Biết tôi không có hộ khẩu tại khu vực, nửa đêm chúng đập cửa đòi xét hộ khẩu. Tôi không có, chúng tịch thu giấy tờ cá nhân rồi bảo mai ra phường đóng phạt. Buổi sáng ra phường, đóng phạt xong tên CA bảo tôi dắt xe Honda của nó đi đổ xăng cho nó mà không đưa tiền. Thế rồi khi đi ăn nhậu, khi nhờ tôi mua cái này cái khác cho nó mới yên thân. Lúc này tôi đã ở riêng thuê nhà trong khu lao động. Ở đây côn đồ không ớn bằng công an vì CA chúng quấy nhiễu tối ngày. Thật là một xã hội nhiễu nhương chưa từng thấy.
Năm một chín tám mấy tôi không nhớ rõ có vụ đổi tiền 500$(?) ăn 1$ mới. Cách đó độ 1 tuần, một anh bạn thân cho biết em gái của anh làm ở ngân hàng được lệnh khăn gói quần áo, thực phẩm đến cơ quan họp và ở lại trong vài ngày và cho biết sẽ có đổi tiền. Tôi liền đem tất cả tiền bạc bán trong ngày vào Chợ Lớn mua hàng cả. Mỗi ngày tôi đều làm như thế và chỉ để lại một ít tiền tiêu xài mà thôi. Trước ngày đổi tiền một ngày, trên đài ra rả tin nhà nước đính chính sẽ không có đổi tiền, yêu cầu đừng nghe tin đồn nhảm làm mất trật tự. Nghe thế tôi biết chắc chắn rằng ngày mai sẽ đổi tiền vì kinh nghiệm mà tôi đã nói ở trên là “chân lý”: “CS nói không là có, nói có là không” mà. Đến sáng hôm sau tôi dọn hàng như thường lệ. Được một lát tôi thấy thiên hạ ùn ùn chạy quàng chạy xiên khắp mọi nơi mua bất cứ hàng gì có thể mua. Từ bịch xà bông kem nhão nhẹt, đến bóng đèn, con gà, mớ rau bất cứ giá nào. Nhiều nhà có chiếc xe đạp cũ đem ra ngoài đường bán, thiên hạ cũng giành mua. Chẳng thà đổi tiền lấy bất cứ thứ gì còn hơn lát nữa đây tiền sẽ thành giấy lộn vì nhà nước chỉ cho đổi giới hạn có mấy ngàn tiền cũ mà thôi. Tôi biết cái “chân lý” của tôi đã bắt đầu phát huy hiệu quả. Khắp mọi ngã đường thiên hạ chen lấn dành giật từng món hàng mà bình thường nó chẳng có nghĩa gì. Đến gần trưa nhà nước phát lệnh đổi tiền. Tôi dẹp hàng đi xem thiên hạ vì tiền mặt tôi còn chẳng đáng là bao. Tôi chứng kiến một người đàn ông đi xe Vespa ngừng xe trước một sạp bán hàng hỏi chủ hàng muốn bán trọn gian hàng bao nhiêu ông ta cũng mua. Nghe thế, chủ hàng hoảng sợ bèn dẹp tiệm luôn. Sau khi đổi tiền tôi chỉ còn vài tờ tiền chẵn mà thôi. Sau đó vài ngày thì vật giá tăng vù vù và chẳng bao lâu mệnh giá tiền mới trở lại bằng như khi chưa đổỉ. Nghĩa là lúc trước anh có 500$ bây giờ chỉ còn 1$. Thật là một trò bài ba lá gian manh, xảo quyệt vô cùng. Nhiều người vì tiếc của đã tìm đến cái chết một cách đau đớn. Riêng nhà nước và cán bộ thì cuỗm được một vố thật to. Một số lớn tiền bạc đã trôi vào túi họ mà chẳng phải bỏ công sức chi nhiều. Đúng là một bọn cướp có môn bài mang vũ khí! Trong dịp này nhiều cán bộ nhận đổi giùm một số người để ăn lời. Tuy nhiên khi đổi xong họ lại tuyên bố là đổi không được và bỏ túi nguyên số tiền đó.
Báo chí thời đó chỉ có một số ít. Tôi thỉnh thoảng hay đọc báo Công An Thành Phố để xem một số tin “xe cán chó” còn hơn là đọc “Quân Đội Nhân Dân” hay “Nhân Dân” chỉ toàn là khẩu hiệu. Có một loạt bài báo năm 85-86 gì đó rêu rao về sự tài giỏi của “bác sĩ cách mạng”. Họ kể ra vài chiến sĩ trong chiến tranh bị đạn thương ngay bộ phận sinh dục và hủy hoại phần quan trọng của đàn ông. Quan tâm sâu sắc đến nỗi khổ tâm của người lính khi đã mất “cái ấy”, các bác sĩ viện 108 (nếu tôi nhớ không lầm?) đã quyết tâm tái tạo lại bộ phận đó. Họ kể lại là đã lột da đùi cuốn lại bên trong sụn lấy ra từ sống mũi như cuốn chả giò. Sau đó họ may nối lại và đã “thành công” vì sau đó anh X, anh Y với cái bộ phận mới, đã có vợ có con hạnh phúc. Bài báo nói khơi khơi mà không cần biết đến luận chứng khoa học. Ngay như hiện tại y khoa tân tiến của Mỹ vẫn còn phải đầu hàng với một cấu trúc tinh vi như vậy của thượng đế. Tác giả bài báo đã không cần biết đến thần kinh cảm giác và các mạch máu dẫn đến bộ phận này ra sao. Họ chĩ nghĩ con người như cục đất sét, muốn nhào nặn ra sao cũng được. Bài báo còn hứa hẹn đăng tiếp trong số tới. Không nén nổi sự căm phẩn về sự ngu dốt này, tôi đã viết một bức thư gửi đến tòa báo phân tích và yêu cầu ngưng ngay loạt bài nhảm nhí này để câu độc giả. Sau đó loạt bài đó đã chấm dứt trong im lặng.
Những câu chuyện “hoang đường” như thế tôi đã gặp rất nhiều từ thời còn ở trại Yên Bái đến gần đây nhất. Từ câu chuyện trong sách cách mạng tôi đã xem kể về một cô gái truyền tin dũng cảm trong chiến tranh. Khi đường giây điện thoại bị bom đánh đứt, không kịp để nối lại, cô đã 2 tay cầm 2 đầu giây bị đứt đứng dưới hố bom ĐẦY NƯỚC, ra lệnh cho đồng đội quay điện thoại liên lạc với đơn vị cho kịp. Coi như thân mình cô ta có cùng một điện trở nhỏ như dây đồng vậy! Đến gần đây trên internet đăng bài phỏng vấn “anh hùng đánh Mỹ” 40 kg dùng tay không níu càng trực thăng xuống để đồng đội bắn hạ. Đúng là Hercule tái thế. Kế đó là chàng trai Phạm Gia Vinh đã dùng tay không chế tạo thành công phi thuyền không gian và hứa hẹn sẽ đưa người ra quỹ đạo vào năm tới. VN đến thời điểm này chưa chế tạo nổi một con vít đủ tiêu chuẩn mà nói chuyện trên mây. Hết biết!!
Chuyện nhảm đại loại như vậy nói mãi không hết khi còn những đầu óc ngu muội hợm hĩnh. Nói chung trong chiến tranh CS đã thành công vì gian trá, lừa lọc, tàn ác, với sự trợ giúp đắc lực của 2 đế quốc CS to lớn là Tàu và Nga. Người dân miền Nam đã ngây thơ nghe lời phỉnh gạt đi kèm sự khủng bố giết chóc để tiếp tay làm tay sai cho chúng. CS đã coi sinh mạng người dân là bàn đạp cho tham vọng ngông cuồng của chúng. Hằng triệu xác người đã ngã xuống để xây lâu đài cho các ngài lãnh đạo chễm chệ trên ngai vàng điện ngọc như vua chúa thuở xưa khi thiết triều trong ngày đầu năm. Trong khi đó người dân cùng khổ bị chúng cướp nhà cướp đất kêu oan dậy trời không thấu. Đây là thứ hòa bình mà toàn dân không được an hưởng. Nó chỉ phục vụ cho bọn đầu sỏ ăn trên ngồi trốc mà thôi. Các bạn thử nghĩ mà xem, chân lý: CS nói gì thì làm ngược lại mới là đúng sự thực. Họ nói xấu mọi thứ về miền Nam thì đúng ra họ đang chửi lại chính họ đó. VC đã có tất cả những xấu xa mà họ đã từng rêu rao về “Mỹ Ngụy”.
___________________________________________
Wednesday, April 15, 2015
DÂN VIỆT NAM VÀ CỘNG SẢN
Sau 40 năm, Việt Nam còn mấy phần cộng sản?
Thanh Doan Bài tham gia Diễn đàn BBC về 30/04
- 15 tháng 4 2015
Việt Nam, cùng với Trung Quốc và một vài nước nhỏ hơn được biết đến như những thành trì cuối cùng của chủ nghĩa Cộng sản trên thế giới.
Kể từ sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết, chủ nghĩa Cộng sản ở Việt Nam đã phải thay đổi rất nhiều để tồn tại trong hoàn cảnh mới.Sự quay lưng lại nền kinh tế tập trung bao cấp để hướng tới tư bản thị trường đã đưa một quốc gia nghèo đói lạc hậu chuyển mình thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh bậc nhất thế giới.
Từ nền kinh tế tư bản hóa
Nhiều khách du lịch quốc tế đến Việt Nam thực sự ngỡ ngàng khi tận mắt chứng kiến một đất nước Cộng sản hoàn toàn khác xa với những gì họ tưởng tượng.Trên những đường phố tấp nập xe cộ là hình ảnh của đồ ăn nhanh, hàng hiệu và đồ điện tử Apple, nhứng biểu tượng của chủ nghĩa tư bản.
Truyền thông thì ngày càng trở nên thực dụng tranh cãi nhau xem cô người mẫu anh diễn viên nào diện áo quần đắt hơn, hoặc đại gia nào giàu hơn trên sàn chứng khoán.
Chủ nghĩa tiêu dùng như đang cuốn tất cả mọi người vào cơn kích động mạnh chưa từng có, để rồi bất chợt nhiều người tự hỏi, Việt Nam còn mấy phần Cộng sản.
Trong một khảo sát của trung tâm nghiên cứu Pew Research đặt tại Washington DC, có đến tận 95% người Việt được khảo sát đặt niềm tin vào sự dẫn dắt của thị trường tự do, cao hơn hẳn các quốc gia tư bản như Mỹ hay Hàn Quốc, hoặc thậm chí là Trung Quốc, đất nước có nhiều tương đồng về kinh tế và chính trị.
Điều này minh chứng rằng không còn mấy người Việt Nam còn tin tưởng vào định hướng xã hội chủ nghĩa.
Triết học Mác Lê Nin giờ đây không còn được dùng như kim chỉ nam cho các nhà hoạch định chính sách.
Nếu ai đó còn nhắc đến học thuyết Mác xít thì có lẽ chỉ là trên những giảng đường thiếu sinh viên, hoặc ngoài quán nước như những câu chuyện cười cợt siêu thực về một thời quá đỗi lãng mạn mà không ai còn muốn kể nữa.
Cho đến các Chính sách an sinh xã hội mất cân bằng
Có một sự hiểu lầm rất lớn của nhiều người phương Tây về Việt Nam, một trong những nước xã hội chủ nghĩa cuối cùng, đó là các nước XHCN hướng trọng tâm lớn vào các Chính sách an sinh như giáo dục, y tế, hưu trí và thất nghiệp.Đây là nền tảng cơ bản của CNXH để giải thích cho tính chính danh của Đảng Cộng sản.
Nhưng cuộc đình công lớn gần đây ở khu công nghiệp ngoại ô Sài Gòn như một cú tát phủ nhận tất cả. Người lao động đứng trước nguy cơ mất trắng tiền trợ cấp khi quỹ Bảo hiểm có nguy cơ tan vỡ.
Cần phải nhấn mạnh là đây là số tiền do các doanh nghiệp có trách nhiệm đóng góp cho người lao động, hay nói cách khác là được trích ra từ lương làm công của chính họ, không phải là từ tiền thuế do Nhà nước trợ cấp.
Bản thân các Tổ chức Công đoàn, với được đặc cấp cho quyền lực lớn trong chế độ XHCN với vai trò bảo vệ người lao động, thì nay gần như trở thành một hình thức vô tích sự mà thực chất là bảo vệ quyền lợi doanh nghiệp hơn là người lao động.
Có nhiều nghi ngờ rằng Công đoàn trong các Khu chế xuất còn tiếp tay cho lực lượng an ninh trấn áp các cuộc đình công tự phát.
Điều này hoàn toàn trái ngược với vai trò của Công đoàn ở các quốc gia tư bản phát triển.
Cần phải hiểu theo đúng nghĩa, không có đất nước nào là tuyệt đối “tư bản” hay “XHCN”.
Những quốc gia tư bản phát triển Tây Âu thực tế chịu ảnh
hưởng lớn từ phe cánh tả, vốn luôn trọng tâm vào các chính sách ngăn chặn bất bình đẳng để hướng tới xã hội nhân văn hơn.
Ví dụ như ở Đức, tất cả mọi người được đảm bảo được tận hưởng một nền giáo dục miễn phí cho tới tận Đại học.
Nhà nước cũng cung cấp y tế miễn phí cho tất cả người dân với yêu cầu là tất cả mọt người phải có bảo hiểm.
Bảo hiểm y tế được chi trả dựa vào mức thu nhập, nghĩa là người thu nhập thấp đóng ít hơn người có thu nhập cao và phù hợp với khả năng chi trả của mình.
Người già được hưởng lương hưu, người thất nghiệp cũng được hưởng trợ cấp, không nhiều nhưng đủ chi tiêu cho những nhu cầu cơ bản
Trong trường hợp của Việt Nam, chi phí cho giáo dục và y tế là gánh nặng thường trực cho nhiều hộ gia đình.
Cấp tiểu học là cấp học duy nhất Nhà nước chia sẻ một nửa học phí, nửa còn lại phụ huynh phải tự đóng.
Các chi phí phát sinh trên thực tế như phí xây dựng, vệ sinh, thậm chí quà bánh cho giáo viên còn lớn hơn rất nhiều.
Nếu cộng tất cả những chi phí này lại, các hộ gia đình Việt Nam chắc hẳn chi cho giáo dục trên thu nhập đầu người nhiều hơn bất cứ quốc gia nào trên thế giới.
Chi phí y tế cũng thực sự là một gánh nặng vô cùng lớn ở Việt Nam. Theo một thống kê trên báo nhân dân, tỷ lệ chi từ tiền túi bệnh nhân ở Việt Nam là 50%, quá cao so với 13.1% ở Thái Lan, 35% ở Malaysia hay 20% mức trung bình chung của thế giới.
Cũng như giáo dục, khi đến bệnh viện người bệnh ngoài viện phí còn phải chi nhiều khoản khác mà tựu chung là “phong bì”.
Song hành với viện phí là giá thuốc cũng cao bậc nhất khu vực.
Các khoản phí này tác động mạnh nhất lên nhóm có thu nhập dưới đáy. Có tới gần 60% số hộ gia đình nghèo mắc nợ do chi phí khám chữa bệnh và 67% phải vay mượn tiền để chi trả điều trị nội trú.
So sánh với Cuba, đất nước còn ở giai đoạn “Cộng sản thuần khiết”, dù thu nhập đầu người thấp hơn nhưng hệ thống y tế ở đây hoàn toàn miễn phí đối với tất cả các thành phần xã hội.
Thành tựu y tế của Cuba đáng nể đến mức nhiều quốc gia phát triển hơn cũng phải ngưỡng mộ.
Chi tiêu Công thiếu minh bạch
Việt Nam sử dụng tới 20% ngân sách cho giáo dục, cao hàng đầu thế giới. Dù chi tiêu nhiều nhưng tiến bộ của ngành giáo dục không mấy khả quan.Điều này là không đáng ngạc nhiên khi nhìn vào công cuộc cải cách giáo dục càng chi càng trì trệ.
Năm 2014, Bộ GDDT trình lên đề án đổi mới sách giáo khoa sau năm 2015 dự toàn hơn 34000 tỷ đồng. Gần 1.5 tỷ USD chỉ để thay sách khiến dư luận không khỏi kinh ngạc.
Chắc hẳn người được lợi nhiều nhất không phải là học sinh sinh viên, nhân tố trung tâm của ngành giáo dục.
Các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế ở Việt Nam được dự báo là sẽ vỡ từ nhiều năm trước.
Đây là hệ quả trực tiếp từ việc sử dụng nguồn vốn từ thuế và đóng góp của người lao động để đầu tư thiếu minh bạch.
Những cuộc đình công lớn gần đây cũng là hồi chuông cảnh tỉnh khi nguy cơ các quỹ này mất khả năng chi trả càng lúc càng lớn.
Dù Chính phủ đã có phương án xoa dịu bằng việc đảm bảo người lao động sẽ được nhận đủ tiền, vấn đề là tính khả thi như thế nào khi nợ công càng lúc càng lớn.
Một Việt Nam thị trường chủ nghĩa
Việt Nam có lẽ là nước duy nhất trên thế giới trực tiếp công khai “Xã hội Chủ nghĩa” trên Quốc hiệu, nhưng là quốc gia có rất ít chính sách để đảm bảo bình đẳng xã hội.Thực tế, ranh giới giàu nghèo và quyền lợi tầng lớp trên và dưới được hưởng đang ngày càng phân cấp dữ dội.
Một trong những di sản lớn nhất mà Chủ nghĩa Cộng sản để lại là các Tổng công ty, Tập đoàn Nhà nước vốn có đặc ân đặc biệt để tiếp cận các nguồn tài nguyên của quốc gia, hoặc ưu tiên về Pháp luật.
Những Tổng công ty, tập đoàn này về nguyên tắc phải sử dụng những đặc ân này làm động lực cho kinh tế đất nước, nhưng trên thực tế đang tạo lực cản phát triển.
Tôi còn nhớ những năm 90 khi đất nước mới mở của, mọi người còn hỏi nhau “hàng Nhà nước hay gia công”, ý nói hàng hóa do Nhà nước sản xuất luôn được ưu tiên hơn tư nhân.
Bây giờ thì hoàn toàn khác, nhiều tập đoàn nhà nước do quản lý kém và tham nhũng tràn lan làm xói mòn niềm tin của dân chúng vào nỗ lực dẫn dắt của Chính phủ.
Những vấn đề này thách thức trực tiếp vào tính chính đáng của giới lãnh đạo, cũng như đặt một dấu hỏi lớn lên đường lối XHCN mà Chính phủ Việt Nam vẫn một mực cho là “đúng đắn”.
Việt Nam của ngày hôm nay chắc chắc không còn là một Việt Nam Cộng sản của những năm tháng mới giải phóng.
Thời gian này có trào lưu nhiều quán cà phê mới mở chọn phong cách như thời bao cấp.
Có lẽ đâu đó còn có ít nhiều nuối tiếc về những ngày tháng thiếu thốn nhưng công bằng, nhưng chắc hẳn không ai còn muốn quay lại nữa.
Bài của Thanh Doan được gửi tới BBC sau khi BBC mời độc giả tham gia viết bài vở, đóng góp tư liệu, chia sẻ thông tin, cảm nghĩ về sự kiện 30/04/1975. Cho đến ngày 15/04 riêng bài này đã đến được trên 155 nghìn bạn đọc trên Facebook.
LUẬT NHÂN QUẢ KHÔNG BỎ SÓT MỘT AI
LUẬT NHÂN QUẢ KHÔNG BỎ SÓT MỘT AI
Có một người phụ nữ khi nướng bánh mì cho gia đình mình luôn làm dư ra một cái để cho người nghèo đói. Bà để ổ bánh mì dư trên thành cửa sổ bên ngoài cho người nghèo nào đó đi qua dễ lấy. Và một người gù lưng đều đặn đến để lấy ổ bánh mì đó.
Thay vì nói lời cám ơn, ông ta vừa đi vừa lẩm bẩm những lời như niệm chú:
"Việc xấu người làm thì ở lại với người; việc tốt người làm thì sẽ trở lại với người!”
Điều này cứ diễn ra, ngày này qua ngày khác.
Mỗi ngày, người gù lưng đến lấy bánh và lại lẩm bẩm câu :
“Việc xấu người làm thì ở lại với người, việc tốt người làm thì sẽ trở lại với người!”
Người đàn bà rất bực bội. Bà thầm nghĩ:
“Không một lời cám ơn, ngày nào người gù này cũng đến lấy bánh ta làm rồi lải nhải giai điệu khó chịu ấy! Hắn ta muốn ám chỉ điều gì?”
Một ngày kia, không chịu được nữa, bà quyết định cho người gù đi khuất mắt.
Bà tự nhủ, “Ta sẽ làm cho hắn mất dạng.” Và bà đã làm gì ? Bà cho thuốc độc vào ổ bánh mì dư bà thường làm. Khi bà sắp sửa bỏ ổ bánh có thuốc độc lên thành cửa sổ, đôi tay bà bỗng run lên.
Bà hốt hoảng:
“Ta làm gì thế này?”
Ngay lập tức, bà ném ổ bánh có thuốc độc vào lửa và vội làm một cái bánh mì ngon lành khác rồi đem để lên thành cửa sổ.
Như mọi khi, người gù lưng đến, ông ta lấy bánh và lại lẩm bẩm:
“Việc xấu người làm thì ở lại với người; việc tốt người làm thì sẽ trở lại với người.”
Ông ta cầm ổ bánh đi cách vui vẻ mà không biết rằng trong lòng người đàn bà đang có một trận chiến giận dữ.
...
Có một điều mà không ai biết đó là mỗi khi đặt ổ bánh mì cho người nghèo lên thành cửa sổ, bà lại cầu nguyện cho đứa con trai đi xa tìm việc làm, đã nhiều tháng không nhận được tin tức. Bà nguyện cho con trở về nhà bình an, mạnh giỏi.
Buổi chiều hôm đó, có tiếng gõ cửa.Khi mở cửa ra, bà ngạc nhiên thấy con trai mình đứng trước cửa...
Anh ta gầy xọp đi. Quần áo anh rách rưới đến thảm hại. Anh ta đói lả và mệt. Khi trông thấy mẹ, anh ta nói:
- Mẹ ơi, con về được đến nhà quả là một phép lạ. Khi con còn cách nhà mình cả dặm đường, con đã ngã gục vì đói, không đi nổi nữa và tưởng mình sẽ chết dọc đường. Nhưng bỗng có một người gù lưng đi ngang, con xin ông ta cho con một chút gì để ăn, và ông ta đã quá tử tế cho con nguyên một ổ bánh mì ngon. Khi đưa bánh cho con, ông ta nói:
- Đây là cái mà tôi có mỗi ngày, nhưng hôm nay tôi cho anh vì anh cần nó hơn tôi!
Khi người mẹ nghe những lời đó, mặt bà biến sắc. Bà phải dựa vào thành cửa để khỏi ngã. Bà nhớ lại ổ bánh mì có thuốc độc mà bà đã làm sáng hôm nay. Nếu bà không ném nó vào lửa thì con trai yêu quý của bà đã ăn phải và đã chết!
Ngay lập tức bà nhớ lại câu nói có ý nghĩa đặc biệt của người gù lưng:
“Việc xấu người làm thì ở lại với người; việc tốt người làm thì sẽ trở lại với người!”
***
Trong cuộc sống, luôn tồn tại luật Nhân quả. Những gì bạn làm hôm nay là căn nguyên cho những sự việc sẽ đến với bạn trong tương lai bởi vậy hãy luôn sống tốt và không bao giờ phải hổ thẹn với lương tâm của mình bạn nhé!
Thay vì nói lời cám ơn, ông ta vừa đi vừa lẩm bẩm những lời như niệm chú:
"Việc xấu người làm thì ở lại với người; việc tốt người làm thì sẽ trở lại với người!”
Điều này cứ diễn ra, ngày này qua ngày khác.
Mỗi ngày, người gù lưng đến lấy bánh và lại lẩm bẩm câu :
“Việc xấu người làm thì ở lại với người, việc tốt người làm thì sẽ trở lại với người!”
Người đàn bà rất bực bội. Bà thầm nghĩ:
“Không một lời cám ơn, ngày nào người gù này cũng đến lấy bánh ta làm rồi lải nhải giai điệu khó chịu ấy! Hắn ta muốn ám chỉ điều gì?”
Một ngày kia, không chịu được nữa, bà quyết định cho người gù đi khuất mắt.
Bà tự nhủ, “Ta sẽ làm cho hắn mất dạng.” Và bà đã làm gì ? Bà cho thuốc độc vào ổ bánh mì dư bà thường làm. Khi bà sắp sửa bỏ ổ bánh có thuốc độc lên thành cửa sổ, đôi tay bà bỗng run lên.
Bà hốt hoảng:
“Ta làm gì thế này?”
Ngay lập tức, bà ném ổ bánh có thuốc độc vào lửa và vội làm một cái bánh mì ngon lành khác rồi đem để lên thành cửa sổ.
Như mọi khi, người gù lưng đến, ông ta lấy bánh và lại lẩm bẩm:
“Việc xấu người làm thì ở lại với người; việc tốt người làm thì sẽ trở lại với người.”
Ông ta cầm ổ bánh đi cách vui vẻ mà không biết rằng trong lòng người đàn bà đang có một trận chiến giận dữ.
...
Có một điều mà không ai biết đó là mỗi khi đặt ổ bánh mì cho người nghèo lên thành cửa sổ, bà lại cầu nguyện cho đứa con trai đi xa tìm việc làm, đã nhiều tháng không nhận được tin tức. Bà nguyện cho con trở về nhà bình an, mạnh giỏi.
Buổi chiều hôm đó, có tiếng gõ cửa.Khi mở cửa ra, bà ngạc nhiên thấy con trai mình đứng trước cửa...
Anh ta gầy xọp đi. Quần áo anh rách rưới đến thảm hại. Anh ta đói lả và mệt. Khi trông thấy mẹ, anh ta nói:
- Mẹ ơi, con về được đến nhà quả là một phép lạ. Khi con còn cách nhà mình cả dặm đường, con đã ngã gục vì đói, không đi nổi nữa và tưởng mình sẽ chết dọc đường. Nhưng bỗng có một người gù lưng đi ngang, con xin ông ta cho con một chút gì để ăn, và ông ta đã quá tử tế cho con nguyên một ổ bánh mì ngon. Khi đưa bánh cho con, ông ta nói:
- Đây là cái mà tôi có mỗi ngày, nhưng hôm nay tôi cho anh vì anh cần nó hơn tôi!
Khi người mẹ nghe những lời đó, mặt bà biến sắc. Bà phải dựa vào thành cửa để khỏi ngã. Bà nhớ lại ổ bánh mì có thuốc độc mà bà đã làm sáng hôm nay. Nếu bà không ném nó vào lửa thì con trai yêu quý của bà đã ăn phải và đã chết!
Ngay lập tức bà nhớ lại câu nói có ý nghĩa đặc biệt của người gù lưng:
“Việc xấu người làm thì ở lại với người; việc tốt người làm thì sẽ trở lại với người!”
***
Trong cuộc sống, luôn tồn tại luật Nhân quả. Những gì bạn làm hôm nay là căn nguyên cho những sự việc sẽ đến với bạn trong tương lai bởi vậy hãy luôn sống tốt và không bao giờ phải hổ thẹn với lương tâm của mình bạn nhé!
TIN VIỆT CỘNG
Mang 6 kg vàng trong giày mà không khai báo, hai nhân viên của hãng hàng không Quốc gia Việt Nam bị nhà chức trách sân bay Gimhae (Hàn Quốc) bắt giữ.
Theo báo chí Hàn Quốc ngày 14/4, sau khi chuyến bay từ Hà Nội đến sân bay quốc tế Gimhae (Busan, Hàn Quốc) hạ cánh ngày 10/3, tại khu vực kiểm tra an ninh, cơ quan hải quan sân bay đã phát hiện cơ trưởng giấu 4 thỏi (4 kg) vàng và tiếp viên nam giấu 2 thỏi (2 kg) vàng trong giày.
Vụ việc buôn lậu vàng của tiếp viên hàng không được truyền hình Hàn Quốc đăng tải.
Hai nhân viên hàng không khai nhận họ được trả công 250 USD cho mỗi kg vàng vận chuyển thành công, hai người đi cùng một chuyến bay song không biết người kia có giấu vàng. Hải quan Hàn Quốc đã tạm giữ họ và bàn giao cho cơ quan cảnh sát điều tra.
Hải quan Hàn Quốc cho rằng có thể còn nhiều vụ buôn lậu vàng khác. Trong năm 2013, hải quan sân bay chỉ phát hiện một vụ buôn lậu vàng nhưng riêng tháng 3 ở sân bay quốc tế Gimhae có tới 4 trường hợp.
Theo Cục Hàng không Việt Nam, báo cáo của Vietnam Airlines cho biết, trên chuyến bay VN 426 khởi hành từ Hà Nội đi Pusan ngày 10/3, hai nhân viên của hãng là cơ trưởng Nguyễn Văn Dũng 6 (35 tuổi) và tiếp viên Nguyễn Tuấn Phong đã mang theo vàng và không khai báo và bị bắt.
Nhà chức trách Hàn Quốc chưa thông báo chính thức cho phía Việt Nam về vụ việc trên.
Một bài báo về những truyện động trời xẩy ra tại khu dân cư người Việt Nam ở phố nghèo Warsaw Ba Lan
Chủ Nhật vừa qua chương trình Đài truyền hình Đức có truyền phát một phóng sự về cộng động người Việt tại Ba Lan. Đây là một trong hai Đài truyền hình (quốc gia) có thể nói là đứng đắn. Phóng sự nói về sinh hoạt của cộng đồng người Việt tại Ba Lan, hầu hết là di dân từ Miền Bắc. Cách sống và cách xử sự với nhau thật kinh khủng. Những bí mật mà các nhà báo Ba Lan thuật lại thật khó mà tin rằng chúng đã xẩy ra như vậy... những chuyện động trời!
Bài báo cũng tố cáo nhân viên Tòa Đại Sứ Cộng Sản Việt Nam tại Ba Lan có nhúng tay vào những tệ đoan và hành vi tội phạm được nêu ra.. .. Vì đồng tiền và lợi nhuận mà mất hết trái tim. Đây là bài tóm lượt về phóng sự. LCH đã chuyển dịch qua tiếng Việt để chúng ta cùng đọc và suy nghĩ:
Sắc thái Việt trong lòng Warsaw - Ba Lan
Chúng tôi đang đứng tại Praga, một khu phố nghèo của Warsaw và nhìn lên những căn nhà chọc trời qua màng sương tháng Mười. Nơi đây, với vô số cần cẩu xây dựng, trong vòng vài tuần nữa sẽ mọc lên một sân đá banh cho giải bóng đá Âu châu sắp đến. Ngay cạnh bên, theo ngôn ngữ dân gian là khu Tiểu Việt Nam . Một khu chợ lớn bán đủ mọi thứ với giá rẻ. Thật thế, tất cả mọi thứ. Dân Việt Nam là cộng đồng ngoại quốc đông đảo duy nhất. Họ kéo đến từng bầy. Ba Lan là đất hứa, bởi số đông là đồng bào Việt Nam đã từng sát cánh cùng với Phong trào Công đoàn Đoàn kết chống cộng. Đến hôm nay họ vẫn còn ấp ủ thực hiện được giấc mơ ấy trên xứ sở Cộng hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam của họ. Không ai biết được con số chính xác, nhưng có ít nhất 30.000 dân tị nạn người Việt trên Ba Lan, phần bất hợp pháp. Chúng tôi biết được cặn kẽ hơn từ một thành viên tranh đấu cho nhân quyền người Ba Lan thuộc hiệp hội "Tiếng nói tự do", hiện đang công tác giúp đỡ số cư dân này.
Đối với số 30.000 người Việt cư ngụ bất hợp pháp tại Ba Lan vùng đất hứa của họ phần lớn thật ra là một địa ngục trần gian. Bọn Mafia Việt Nam hành xử nhóm người này tùy thích. Ngay giữa lòng châu Âu.
Ulrich Adrian
LCH chuyễn ngữ
LCH chuyễn ngữ
ALBERT EINSTEIN VÀ TÔN GIÁO
Albert Einstein với Thượng đế và Phật giáo
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vươt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học. Bao trùm cả tự nhiên và tâm linh, nó phải được căn cứ trên cảm nhận phát sinh từ kinh nghiệm của tất cả mọi thứ tự nhiên và tâm linh như một sự hợp nhất đầy đủ ý nghĩa. Đạo Phật trả lời cho những sự mô tả này. Nếu có một tôn giáo mà có thể đương đầu với những nhu cầu của khoa học hiện đại đấy sẽ là Đạo Phật.( Albert Einstein)
Dĩ nhiên, đấy sẽ là một sự dối trá với những gì quý vị đọc về nhận thức tội lỗi của tôi, một sự lừa bịp đang được lập đi lập lại một cách có hệ thống. Tôi không tin tưởng một Thượng đế và tôi chưa bao giờ phủ nhận điều ấy mà đã từng tuyên bố một cách rõ ràng. Nếu có điều gì ấy trong tôi có thể được gọi là tôn giáo thế thì đấy sẽ là niềm ngưỡng mộ vô biên đối với cấu trúc của thế giới đến tận cùng những gì khoa học chúng ta có thể khám phá nó. (Albert Einstein, 1954) From Albert Einstein:The Human Side, edited by Helen Dukas and Banesh Hoffman, Princeton University Press
Sự nghiên cứu của khoa học căn cứ trên ý tưởng rằng mọi thứ hiện hữu được quyết định bởi những định luật tự nhiên, và do thế điều này có nghĩa là vì những hành động của con người. Vì lý do này, một nhà nghiên cứu khoa học sẽ khó mà có khuynh hướng tin tưởng những sự kiện có thể bị ảnh hưởng bởi một sự cầu nguyện. (Albert Einstein, 1936) Trả lời cho một thiếu niên hỏi về việc nhà khoa học có cầu nguyện không. Source:Albert Einstein: The Human Side, Edited by Helen Dukas and Banesh Hoffmann
Thái độ của một người nên được căn cứ một cách có hiệu quả trên những mối liên hệ và nhu cầu thông cảm, học vấn, và xã hội; không có căn bản tôn giáo nào là cần thiết. Con người quả thực sẽ ở trong một cung cách nghèo nàn nếu người ta phải bị hạn chế bởi sợ hãi của sự trừng phạt và hy vọng tưởng thưởng sau khi chết. (Albert Einstein,"Religion and Science", New York Times Magazine, 9 November 1930
Tôi không thể tưởng tượng một Thượng đế, kẻ tưởng thưởng và trừng phạt những tạo vật của mình, hay có môt ý chí mà chúng ta trãi nghiệm với chính mình. Tôi cũng không có thể cũng không muốn nghĩ đến việc một con người tồn tại sau cái chết thân thể của mình; hãy để những linh hồn yếu đuối, từ sự sợ hãi hay tự ngã ngớ ngẫn, yêu mến tư tưởng ấy. Tôi hài lòng với sự huyền bí của đời sống vô tận và với sự tỉnh thức và đại cương cấu trúc diệu kỳ của thế giới hiện hữu. cùng với sự cố gắng cống hiến để lĩnh hội phần mình, bởi vì nó mãi mãi là quá bé nhỏ, của Chân Lý đã tự biểu hiện trong thiên nhiên. (Albert Einstein, The World as I See It)
Albert Einstein on God and Buddhism
Tuệ Uyển chuyển ngữ - 24/08/2010
TRUNG CỘNG CHIẾM HẢI PHÒNG
Mượn Hải Phòng, tiêu diệt Đông Nam Á
Nguyễn Nghĩa 650 (Danlambao) - Đây là kế sách Tập Cận Bình thi triển trong dịp Nguyễn Phú Trọng thăm Trung Cộng từ 7-11/4 vừa qua. Gốc của kế sách này hán văn là "Giả đạo phạt Quắc", mượn đường diệt Quắc, là kế sách thứ 24 trong bộ sách kinh điểm 36 mưu lược quan sự, dùng trong chiến tranh. Vì đây là kế độc đối với Việt Nam và Đông Nam Á nên trong Tuyên bố chung VN-TQ không nói đến.
Tuy nhiên, hãng thông tin BBC đã nhanh nhậy đưa tin lại nội dung của bài của Tetsuya Abe và Atsushi Tomiyama trên trang Nikkei Asian Review hôm 8/04/2015 cho rằng hai lãnh đạo Tập Cận Bình và Nguyễn Phú Trọng “đồng ý hợp tác về sáng kiến Con đường Tơ lụa, một nỗ lực của Trung Quốc thu hút Việt Nam và để tăng cường ảnh hưởng kinh tế trong vùng”.
Theo báo Nhật Bản, hai ông Tập Cận Bình và Nguyễn Phú Trọng đã “đồng ý lập các nhóm công tác về hạ tầng cơ sở và hợp tác tài chính” cho dự án Con đường Tơ lụa.
Người Nhật đã đánh động dư luận về một kế sách mới, nguy hiểm của TQ đối với VN, đối với Đông Nam Á.
Thoạt nghe qua, ta tưởng như TQ muốn thu hút VN vào chương trình kinh tế mới của Tập Cận Bình để cùng VN phát triển kinh tế. Dự án kinh tế này có tên là Con đường tơ lụa trên biển.
Đây là sáng kiến của Tập Cận Bình đưa ra cuối năm 2014 nhằm thực tế hóa chủ trương xây dựng TQ thành cường quốc biển do đại hội đảng cộng sản TQ vừa qua đề ra.
Bài này nhằm vạch trần mưu kế hiểm độc của TQ đối với VN và xa hơn là đối với Đông Nam Á.
1. Đón tiếp trọng thể, trong khi chỉ vài tháng trước, khi sự kiện giàn khoan 981 xẩy ra, Tập Cận Bình không thèm nhấc telephone của Nguyễn Phú Trọng, cho thấy một âm mưu đen tối đối với VN đang được Tập Cận Bình triển khai.
TQ đang thực hiện kế sách Nam Dụ. Nam dụ là dụ VN, dụ Lào, dụ Campuchia bằng đường mật 16 chữ, 4 tốt... để các nước này sa vào bẫy do TQ giương ra.
Những nhà bình luận cộng sản nào còn hoan hỉ với lễ đón long trọng chỉ có được thời Hồ - Mao là những người quá ngây thơ, đang sa bẫy TQ.
2. Chính sách xuyên suốt chính trị TQ từ Mao đến Tập hôm nay có thể tổng kết trong 6 chữ: Một VN lệ thuộc, suy yếu.
TQ giúp VN vũ khí, cố vấn quân sư... trong chiến tranh chống Pháp là muốn có 1 VN cộng sản cạnh biên giới phía nam của TQ. Sự giúp đỡ này không vô tư mà xuất phát từ lợi ích an ninh của TQ.
TQ chia cắt VN trên bàn hội nghị Genève năm 1954 là muốn một VN bị chia cắt, yếu bên cạnh TQ.
Bắc VN là vùng đệm an toàn cho lãnh thổ Trung Cộng.
TQ giúp VN vũ khí để đánh Mỹ với điều kiện chỉ được đánh nhỏ, cỡ trung đội, và không được đàm phán với Hoa Kỳ về các điều kiện lập lại hòa bình tại VN.
Nghĩa là VN phải đánh Mỹ đến người VN cuối cùng.
Mọi đàm phán để lập lại hòa bình tại VN đều là biểu hiện của xét lại, của không cách mạng.
Thời kỳ này TQ vô cùng lộn xộn.
Mao phát động Cách mạng văn hóa vô sản. Chính phủ TQ do Chu Ân Lai chèo chống không giúp nông dân TQ qua các nạn đói.
Hàng chục triệu người chết đói.
Trong khi đó, Hoa Kỳ sau thế chiến 2 mạnh hơn bao giờ hết.
Lá bài ủng hộ, bảo vệ Đài Loan là Hoa Kỳ chơi, nhằm làm TQ suy yếu.
Súi dục VN cộng sản sa lầy trong chiến tranh, cung cấp vũ khí, khí tài, quân trang, quân dung... để Bắc Việt làm Mỹ cũng sa lầy ở Miền Nam VN, không rảnh tay chọc phá vào nội bộ yết ớt của TQ lúc bấy giờ, để Mỹ không có điều kiện ủng hộ độc lập của các dân tộc Tân Cương, Tây Tạng... là một kế của TQ, mà VN làm tên lính thực hiện, nhằm bảo vệ an toàn cho lãnh thổ TQ.
Hôm nay ta nói thẳng với Nguyễn Phú Trọng, với Phùng Quang Thanh, với lũ bút nô cộng sản đang ca ngợi TQ đón tiếp Nguyễn Phú Trọng như thời Hồ-Mao rằng: VN không nợ nần ân huệ gì với TQ. Giúp VN lúc bấy giờ làm Mỹ sa lầy, chính là TQ bảo vệ lãnh thổ TQ bằng máu người Việt Nam.
Như vậy ta đã biết TQ trăm mưu ngàn kế từ 2000 năm lịch sử tới cận đại chỉ nhằm làm VN suy yếu, lệ thuộc... để cuối cùng thôn tính, đồng hóa VN.
Trong những năm gần đây kể từ Hội nghị Thành Đô 1990, TQ làm suy yếu VN bằng thắng thầu gần 90% EPC để đưa những nhà máy kỹ thuật lạc hậu vào VN.
Trong dự án Bôxit Tây Nguyên, TQ xúi dục Nông Đức Mạnh, xúi dục BCT ĐCS VN nhằm hiện diện tại địa bàn chiến lược về an ninh của VN, nhằm đưa ô nhiễm môi trường sang VN, và hơn nũa là làm VN yếu về kinh tế do đầu tư khổng lồ mà không có hiệu quả kinh tế.
Tuy vậy trong các mưu kế làm VN yếu, nguy hiểm nhất là TQ sử dụng chiêu hối lộ các ủy viên BCT, các ủy viên TW ĐCS để thực hiện ý đồ làm yếu VN cả kinh tế lẫn quân sự.
Tha hóa các cán bộ chủ chốt của ĐCS VN thông qua các dự án kinh tế với nhưng phong bì lại quả kếch xù, lại do các hãng vô danh tiểu tốt của TQ đảm nhiệm, đã giải thích tại sao các công trình do TQ thực hiện không có lợi cho Tổ quốc VN, cho dân tộc VN, nhưng vẫn được BCT ĐCS VN thông qua, ví họ đã ăn hối lộ của TQ.
Điều này giải thích tại sao việc cho TQ thuê các cánh rừng biên giới có vị trí chiến lược không đem lại bao nhiêu lợi ích kinh tế cho nhà nước VN, có hại to lớn cho an ninh VN, vẫn được BCT ĐCS VN thông qua.
Như vậy chúng ta đã thấy TQ trăm mưu ngàn kế chỉ để nhằm làm VN suy yếu.
Câu hỏi là họ mời Nguyễn Phú Trọng sang thăm vào thời điểm trước cuộc thăm chính thức của Trọng tới Hoa Kỳ nhằm mục đích gì?
Đầu tiên, đây là kế tiếp theo trong liên hoàn kế nhằm phục hồi đội ngũ thân TQ trong ĐCS VN sau vụ giàn khoan 981.
Đầu tiên là Du Chính Thanh sang giúp Trọng và Phùng Quang Thanh chốt danh sách nhân sự cho đại hội đảng năm tới.
Đây là kế câu thời gian.
Hôm nay, Tập Cận Bình trọng vọng đón tiếp Phú Trọng, nói những lời đường mật, mở đường cho bọn việt nô ở VN trỗi đầu dậy với lý do rằng: TQ muốn cùng VN làm ăn kinh tế cùng có lợi, rằng TQ luôn là láng giềng của VN, rằng ổn định chính trị là có lợi cho VN...
Thực tế đây chỉ là ảo tưởng.
Làm cho VN yếu, phụ thuộc là chính sách nhiều đời các tổng bí thư ĐCS TQ.
Tiêu chuẩn số 1 của người kế nhiệm lãnh đạo ĐCS TQ là niềm tin vào thắng lợi của bành trướng nam tiến.
Mời Nguyễn Phú Trọng sang TQ hôm nay, TQ muốn nói với cả thế giới rằng sự kiện giàn khoan 981 chỉ là chuyện nội bộ giữa VN và TQ, chúng tôi đã giàn xếp với nhau ổn thỏa.
Qua mưu kế này, Tập Cận Bình hi vọng sẽ trỗi dậy trong BCT, trong trung ương ĐCS VN những ý kiến chống đối những bước tiến về nhân quyền để cản trở việc gia nhập TTP của VN.
Tóm lại mời Nguyễn Phú Trọng sang TQ hôm nay, Tập Cận Bình muốn giúp Phú Trọng và cánh thân TQ trong ĐCS CVN phục hồi niềm tin vào TQ, gây ảo tưởng vào TQ.
TQ muốn giúp Phùng Quang Thanh đắc cử trong Đại hội đảng cộng sản VN năm tới.
Sau chuyến đi thăm TQ lần này, chắc chắn Nguyễn Phú Trọng và Phùng Quang Thanh sẽ kịch liệt chống đối sự xích lại gần Hoa Kỳ trong chuyến đi thăm tới của Nguyễn Phú Trọng tại Mỹ.
Vậy thì kế hiểm của TQ liên quan gì đến Hải Phòng?
Để trả lời câu hỏi này, tôi xin nhắc lại những cảnh báo mà tôi đã liên tục truyền tải trên các diễn đàn dân chủ: Sự trường tồn của dân tộc VN, dân tộc Lào, Thái Lan, Miến Điện là do hiểm trở của dẫy núi Hoàng Liên Sơn. Vì thế Thoát Hoan đã phải chui ống đồng, vì thế Liễu Thăng bị chặt cụt đầu tại ải Chi Lăng... Chiến tranh gần nhất là cuộc chiến 1979, dân quân và bộ đội địa phương các tỉnh biên giới đã làm quân xâm lược TQ thiệt hại nặng nề do lợi dụng được hiểm trở địa lý.
TQ luôn muốn hóa giải những hiểm trở này nên đã chiếm của VN ải Mục Nam Quan, thác Bản Giốc, các cao điểm quanh ngon đồi 1509 Hà Giang... Họ cũng luôn ngụy tranh những âm mưu thâm độc đối với biên giới Việt Trung bằng các vỏ bọc phát triển kinh tế các tỉnh biên giới.
Hôm nay đề nghị đưa Hải Phòng vào chương trình con đường tơ lụa của Tập Cận Bình chính là mục đích san bằng biên giới VN-TQ. Dẫy Hoàng Liên Sơn hiểm trở sẽ bị đục khoét để thông nhiều làn xe.
Con đường đi đến Hà Nội sẽ rộng mở.
Trước khi tiến quân vào Hà Nội TQ sẽ đưa VN vào bẫy nợ nần, nạn hối lộ mục ruỗng…
Tập Cận Bình sẽ duyệt binh tại Ba Đình. Quân lính giải Nguyễn Phú Trọng bị trói dưới thềm, Bình ngoảng mặt hỏi Du Chính Thanh có tha cho Trọng không, Thanh thưa: Đến Tổ quốc của nó, nó còn bán thì nó làm sao trung thành với TBT được.
Hôm qua VN không giữ Hoàng Sa, Trường Sa, để hôm nay hiểm họa khôn lường với VN, với Đông Nam Á, khi TQ đang xây Trường thành trên Biển Đông.
Hôm nay không cảnh giác với con đường tơ lụa thì ngày mai cả Singapur, cả Lào, Thái Lan, Miến Điên... sẽ cùng nằm trong họa diệt vong.
VN có lỗi rất lớn với các nước Đông Nam Á vì có những lãnh tụ như Nguyễn Phú Trọng.
BIỂN ĐÔNG
Tin tức / Thế giới / Châu Á
Căng thẳng Biển Đông gia tăng vì hoạt động lấp biển lấy đất của TQ
Các kiến trúc Trung Quốc trên bãi đá Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa ở Biển Đông. Philippines đã phản đối hoạt động bồi đắp đất của Trung Quốc trong các rạn san hô đang tranh chấp ở Biển Đông
Tin liên hệ
- Philippines: Lấn biển lấy đất của TQ ở Biển Đông gây thiệt hại kinh tế
- Hải quân Mỹ: Trung Quốc đang gia tăng nhanh chóng đội tàu hải cảnh
- Báo cáo: Vùng Đông Á nhiều rủi ro an ninh trong năm 2014 vì Trung Quốc
- Trung Quốc phản pháo chỉ trích của Mỹ về vấn đề Biển Đông
- Mỹ lo Trung Quốc ỷ mạnh hiếp yếu ở Biển Đông
- Thái Lan xích gần Trung Quốc trong khi lạnh nhạt với phương Tây
Ðường dẫn
14.04.2015
Những chi tiết mới về những hoạt động xây dựng và lấp biển lấy đất của Trung Quốc ở Biển Đông đã làm bùng ra những sự chỉ trích từ phía Hoa Kỳ và sự quan tâm của Philippines. Nhưng Trung Quốc vẫn tiếp tục làm và nói rằng những việc đó là hợp pháp và không tác động hay nhắm vào bất kỳ quốc gia nào. Thông tín viên VOA Bill Ide tường thuật từ Bắc Kinh.
Một bản phúc trình mới được công bố bởi Văn phòng Tình báo Hải quân Mỹ nêu bật những thách thức mà khu vực Đông Nam Á đang đối mặt giữa lúc Trung Quốc tiến hành một kế hoạch qui mô lớn để tăng cường sức mạnh quân sự.
Bản phúc trình đầu tiên của cơ quan này trong vòng 6 năm cho biết Trung Quốc đang gia tăng số lượng chiến hạm và tiềm thuỷ đĩnh được trang bị các loại phi đạn điều hướng tối tân, và thực hiện những công trình qui mô lớn để cải tạo đất đai xung quanh những hòn đảo nhỏ mà họ kiểm soát thuộc quần đảo Trường Sa ở Biển Đông.
Phúc trình nói rằng hoạt động xây dựng chung quanh 7 bãi đá san hô đã làm cho diện tích đất ở đó từ khoảng 2 héc ta tăng lên tới hơn 300 héc ta. Và hiện giờ xung quanh các bãi đá này có đủ đất để xây ít nhất một sân bay nhỏ và có lẽ một sân bay khác nữa vào cuối năm nay.
Đô đốc Harry Harris, người đứng đầu Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ, mới đây cảnh báo rằng Trung Quốc đang xây “vạn lý trường thành bằng cát” gần những hòn đảo đang có tranh chấp. Ông cũng nói rằng Bắc Kinh tiến hành công việc như thế nào sẽ là một chỉ dấu chính yếu để cho thấy khu vực này đang trên đường tiến tới chỗ đối đầu hay hợp tác.
Mặc dầu vậy, Trung Quốc nhất mực nói rằng những ý đồ của họ chỉ có tính chất hoà bình. Trong lúc không phủ nhận giá trị quân sự và chiến lược của những hoạt động cải tạo và kiến thiết đó, Trung Quốc đã tập trung nói tới những vai trò có tính chất xây dựng của những đảo này, như có ích cho công tác dự báo thời tiết và hàng hải. Bắc Kinh cũng nói rằng những đảo này có thể làm nơi trú ẩn cho tàu bè trong một khu vực thường xảy ra tai nạn trên biển vì bão tố.
Giáo sư Lý Kim Minh, thuộc Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á của Đại học Hạ Môn, nói rằng Trung Quốc thật ra đã tụt hậu so với các nước khác trong việc xây dựng các kiến trúc trên những hòn đảo ở Biển Đông.
"Nếu quí vị nhìn vào những nước khác đang chiếm cứ những hòn đảo ở Nam Hải, quí vị sẽ thấy Trung Quốc là nước duy nhất không có sân bay. Khi Philippines và Malaysia xây sân bay thì chẳng có ai nói gì. Thế mà giờ đây Trung Quốc đang tìm cách để bắt kịp thì các nước láng giềng lại tỏ ý chống đối."
Ngoài Philippines và Malaysia, Việt Nam và Đài Loan cũng có bãi đáp máy bay trên những hòn đảo ở Trường sa. Tuy ông Lý Kim Minh nói đúng là Trung Quốc đã bắt đầu trễ hơn các nước khác, các nhà phân tích nói rằng những hoạt động của Bắc Kinh có qui mô lớn hơn nhiều so với các nước cũng có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông.
Hồi đầu tuần này Philippines ước tính những hoạt động xây dựng ồ ạt của Trung Quốc đã gây ra những sự tổn hại to lớn cho các rạn san hô, dẫn tới những sự thiệt hại kinh tế lên tới 100 triệu đô la mỗi năm cho các nước xung quanh Biển Đông.
Một bản phúc trình mới được công bố bởi Văn phòng Tình báo Hải quân Mỹ nêu bật những thách thức mà khu vực Đông Nam Á đang đối mặt giữa lúc Trung Quốc tiến hành một kế hoạch qui mô lớn để tăng cường sức mạnh quân sự.
Bản phúc trình đầu tiên của cơ quan này trong vòng 6 năm cho biết Trung Quốc đang gia tăng số lượng chiến hạm và tiềm thuỷ đĩnh được trang bị các loại phi đạn điều hướng tối tân, và thực hiện những công trình qui mô lớn để cải tạo đất đai xung quanh những hòn đảo nhỏ mà họ kiểm soát thuộc quần đảo Trường Sa ở Biển Đông.
Phúc trình nói rằng hoạt động xây dựng chung quanh 7 bãi đá san hô đã làm cho diện tích đất ở đó từ khoảng 2 héc ta tăng lên tới hơn 300 héc ta. Và hiện giờ xung quanh các bãi đá này có đủ đất để xây ít nhất một sân bay nhỏ và có lẽ một sân bay khác nữa vào cuối năm nay.
Đô đốc Harry Harris, người đứng đầu Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ, mới đây cảnh báo rằng Trung Quốc đang xây “vạn lý trường thành bằng cát” gần những hòn đảo đang có tranh chấp. Ông cũng nói rằng Bắc Kinh tiến hành công việc như thế nào sẽ là một chỉ dấu chính yếu để cho thấy khu vực này đang trên đường tiến tới chỗ đối đầu hay hợp tác.
Mặc dầu vậy, Trung Quốc nhất mực nói rằng những ý đồ của họ chỉ có tính chất hoà bình. Trong lúc không phủ nhận giá trị quân sự và chiến lược của những hoạt động cải tạo và kiến thiết đó, Trung Quốc đã tập trung nói tới những vai trò có tính chất xây dựng của những đảo này, như có ích cho công tác dự báo thời tiết và hàng hải. Bắc Kinh cũng nói rằng những đảo này có thể làm nơi trú ẩn cho tàu bè trong một khu vực thường xảy ra tai nạn trên biển vì bão tố.
Giáo sư Lý Kim Minh, thuộc Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á của Đại học Hạ Môn, nói rằng Trung Quốc thật ra đã tụt hậu so với các nước khác trong việc xây dựng các kiến trúc trên những hòn đảo ở Biển Đông.
"Nếu quí vị nhìn vào những nước khác đang chiếm cứ những hòn đảo ở Nam Hải, quí vị sẽ thấy Trung Quốc là nước duy nhất không có sân bay. Khi Philippines và Malaysia xây sân bay thì chẳng có ai nói gì. Thế mà giờ đây Trung Quốc đang tìm cách để bắt kịp thì các nước láng giềng lại tỏ ý chống đối."
Ngoài Philippines và Malaysia, Việt Nam và Đài Loan cũng có bãi đáp máy bay trên những hòn đảo ở Trường sa. Tuy ông Lý Kim Minh nói đúng là Trung Quốc đã bắt đầu trễ hơn các nước khác, các nhà phân tích nói rằng những hoạt động của Bắc Kinh có qui mô lớn hơn nhiều so với các nước cũng có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông.
Hồi đầu tuần này Philippines ước tính những hoạt động xây dựng ồ ạt của Trung Quốc đã gây ra những sự tổn hại to lớn cho các rạn san hô, dẫn tới những sự thiệt hại kinh tế lên tới 100 triệu đô la mỗi năm cho các nước xung quanh Biển Đông.
Hoa Kỳ và các nước láng giềng của Trung Quốc chẳng những quan tâm tới những công trình xây dựng của Trung Quốc mà còn cảm thấy lo ngại vì cách thức mà tàu bè Trung Quốc đã làm để tìm cách khẳng định yêu sách chủ quyền. Việc Trung Quốc đưa giàn khoan khổng lồ tới duyên hải Việt Nam hồi năm ngoái và dùng vòi rồng để xua đuổi tàu thuyền của Việt Nam đã làm bùng ra những vụ phản kháng có bạo động ở Việt Nam và làm cho quan hệ giữa hai nước Cộng Sản này bị suy sụp tới mức thấp nhất trong vòng nhiều thập niên.
Nơi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan nằm sâu bên trong khu vực đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam do luật pháp quốc tế qui định, và hành động đó làm cho nhiều người nêu lên nghi vấn là Bắc Kinh có muốn tuân hành luật lệ quốc tế hay không, hay là muốn tìm cách tự đặt ra luật lệ.
Trung Quốc đòi chủ quyền đối với hầu như toàn bộ Biển Đông và dùng đường lưỡi bò chín vạch để nêu bật đòi hỏi đó. Đường này mâu thuẫn với luật pháp quốc tế và cho đến nay Trung Quốc vẫn chưa cho biết họ xem đường lưỡi bò có hiệu lực pháp lý đối với toàn bộ vùng biển đó hay chỉ đối với những hòn đảo và bãi cạn bên trong khu vực này mà thôi.
TƯỞNG NĂNG TIẾN * LOA VÀ PHÁO HOA
Loa & Pháo Hoa
Tue, 04/14/2015 - 10:03 — tuongnangtien
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
Buồn tất cả. Chỉ cái loa là vui!
Nguyễn Chí Thiện
Tôi vừa đọc xong một bài viết hơi buồn: “Gửi Tiết Kiệm Một Chỉ Vàng Nhận Lại Một Ổ Bánh Mì Thịt”. Xin tóm lược:
Sổ tiết kiệm của ông Rượu giờ chỉ còn giá trị làm “kỷ niệm”. Ảnh và chú thích: T.TÀI
Thiệt là “rõ ràng” hết biết luôn! Vậy mà tác giả bài viết thượng dẫn vẫn cẩn thận chụp lại phóng ảnh sổ tiết kiệm của ông Nguyễn Vĩnh Rượu, do Ngân Hàng Nhà Nước cấp, cùng với lời chú thích rằng nó chỉ còn giá trị để làm ... “kỷ niệm.”
Tất nhiên, đây là một kỷ niệm (rất) buồn của người dân với nhà nước Việt Nam
Tuy thế, theo VTV:
“Vào 21h hôm nay (28/3), những màn pháo hoa rực rỡ đã thắp sáng bầu trời Đà Nẵng chào mừng kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng Thành phố.
Chiêm ngưỡng những tràng pháo hoa nổ rợp trời. Ảnh & chú thích: Lao Động
Trong số hàng ngàn người dân Đà Nẵng “hòa vào không khí vui tươi phấn khởi mừng kỷ niệm Ngày giải phóng thành phố” và “chiêm ngưỡng những tràng pháo hoa nổ rợp trời,” tôi e không có những người thân trong gia đình ông Nguyễn Vĩnh Rượu. Không lẽ họ lại “tươi vui phấn khởi” sau một cuộc chiến tương tàn, với vài ba thân nhân đã trở thành liệt sĩ mà (chung cuộc) “chiến lợi phẩm” chỉ là ... một ổ bánh mì kẹp thịt?
Theo VNEXPRESS thì Đà Nẵng/Quảng Nam “là địa phương có nhiều bà mẹ Việt Nam anh hùng nhất với 11.234 người.” Tính rẻ ra thì địa phương này, ít nhất, cũng phải có 11.234 gia đình liệt sĩ. Liệu có bao nhiêu người trong số những gia đình này vừa “tươi vui phấn khởi," vừa gặm bánh mì kẹp (thịt) vừa ... "chiêm ngưỡng những tràng pháo hoa nổ rợp trời” để “mừng kỷ niệm Ngày giải phóng thành phố” của mình?
Hẳn không mấy ai vô tâm đến thế.
Tuy thế, trước đó hai ngày, cũng theo VTV:
“Đúng 21h ngày 26/3, bầu trời thành phố Huế đã rực sáng với những màn pháo hoa đầy màu sắc. Khoảng 1.000 quả pháo được bắn tầm cao, kéo dài suốt 15 phút, thu hút sự chú ý của hàng nghìn người dân và du khách.
Đây là một trong chuỗi các hoạt động ý nghĩa được tổ chức, nhằm tạo không khí rộn ràng, vui tươi cho người dân cố đô nhân kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng Thừa Thiên Huế."
Thành phố Huế lung linh trong sắc pháo hoa. Ảnh và chú thích: Tạp Chí Sông Hương
809 - số tử thi tìm trong đợt nhì, kể cả tìm thấy ở đụn cát, tháng 3-7 năm 1969
428 - số tử thi tìm trong đợt thứ ba, trong khe Đá Mài (khu Nam Hoa) - tháng 9 năm 1969
300 - số tử thi tìm trong đợt thứ tư, khu Phu Thu, tháng 11 năm 1969
100 - số tử thi tìm thấy các nơi trong năm 1969
1.946 - mất tích (tính đến năm 1970)’
Ảnh: http://i.ytimg.com/vi/1CaSTPIRP0o/maxresdefault.jpg
Vẫn theo Wikipedia:
Thảm sát tại Huế Tết Mậu Thân (tiếng Anh: Hue massacre) là tên gọi một sự kiện trong Chiến tranh Việt Nam khi phát hiện nhiều ngôi mộ tập thể chôn tử thi trong chiến trận Huế. Việc phát hiện hố chôn xảy ra khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam mở cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân và đóng ở Huế một tháng, sau đó bị triệt thoái trước sự phản công của Quân lực Việt Nam Cộng hòa và Quân đội Hoa Kỳ.[
Cho đến nay, tài liệu từ cả phía Việt Nam và Mỹ vẫn quy trách nhiệm cho nhau về nguyên nhân và tính xác thực của sự kiện này. Trong khi đó, các nhóm phản chiến và nhiều học giả phương Tây khẳng định rằng số lượng và hoàn cảnh của những người bị giết đã bị khuếch đại và ngụy tạo để phục vụ mục đích tuyên truyền trong chiến tranh. Nguồn từ phía quân Giải phóng thì ghi nhận họ đã chôn nhiều thường dân chết do hỏa lực hạng nặng của Mỹ cùng với binh sĩ tử trận của chính họ.”
Tôi tạm thời “chưa” bận tâm (lắm) về chuyện “trách nhiệm” của phe nào trong vụ thảm sát hàng chục ngàn người trong vụ Mậu Thân. Tôi chỉ (trộm) nghĩ rằng tại một vùng đất đã xẩy ra một trong “100 sự kiện tử vong cực cao trong lịch sử nhân loại” thì chính quyền địa phương, hàng năm, nên tổ chức một buổi lễ tưởng niệm những nạn nhân – bất kể bên nào.
Không làm được như vậy, đã đành, mà còn thực hiện “những màn pháo hoa đầy màu sắc ... nhằm tạo không khí rộn ràng, vui tươi cho người dân cố đô nhân kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng Thừa Thiên Huế” thì e đây là một chuyện (rất) thất nhân tâm – nếu chưa muốn nói là ngu xuẩn – nhất là khi ngân qũi quốc gia (phần lớn) nếu không đến từ kiều hối, từ tiền viện trợ, tiền bán rừng, bán khoáng sản thô hay tiền vay mượn của nước ngoài.
Buồn tất cả. Chỉ cái loa là vui!
Nguyễn Chí Thiện
Tôi vừa đọc xong một bài viết hơi buồn: “Gửi Tiết Kiệm Một Chỉ Vàng Nhận Lại Một Ổ Bánh Mì Thịt”. Xin tóm lược:
Vì gia đình có ba thân nhân là liệt sĩ nên năm 1983 ông Nguyễn Vĩnh Rượu nhận được 90 đồng tiền chính sách, hỗ trợ. Ông mang số tiền này gửi vào qũy tiết kiệm, loại không kỳ hạn và có lời.
Ba mươi hai năm sau, vào ngày 31 tháng 3 năm 2015, gia đình ông Rượu mang sổ tiết kiệm đến Ngân hàng VietinBank và nhận lại được hơn 20.000 đồng. Tính luôn “cả lãi lẫn gốc không đủ một cuốc xe ôm,” theo như nguyên văn trong bài báo của ký giả Tấn Tài:
“Trao đổi với Pháp Luật TP.HCM, ông Võ Minh, Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Đà Nẵng, cho biết thời gian qua cũng có một số người đưa sổ tiết kiệm ‘tuổi đời’ 20-30 năm đến rút tiền và ngân hàng vẫn giải quyết cho khách hàng bình thường. ‘Phần lớn số tiền trong các sổ tiết kiệm rất nhỏ, qua lần đổi tiền lại càng nhỏ hơn. Ngân hàng Nhà nước đã dồn toàn bộ số tiền này qua một tài khoản riêng để giải quyết khi khách hàng đến nhận tiền’ – ông Minh cho biết.
Chúng tôi đặt câu hỏi: Có hợp lý không khi vào thời điểm mở sổ, số tiền người dân gửi có giá trị khá lớn nhưng tới giờ nhận cả lãi lẫn gốc không đủ một cuốc xe ôm. Ông Minh cho rằng đây không phải là Nhà nước o ép người dân mà là do giá trị đồng tiền bị sụt giảm. Ngân hàng Nhà nước đã có hướng dẫn rất rõ ràng về việc chi trả này.”
Sổ tiết kiệm của ông Rượu giờ chỉ còn giá trị làm “kỷ niệm”. Ảnh và chú thích: T.TÀI
Thiệt là “rõ ràng” hết biết luôn! Vậy mà tác giả bài viết thượng dẫn vẫn cẩn thận chụp lại phóng ảnh sổ tiết kiệm của ông Nguyễn Vĩnh Rượu, do Ngân Hàng Nhà Nước cấp, cùng với lời chú thích rằng nó chỉ còn giá trị để làm ... “kỷ niệm.”
Tất nhiên, đây là một kỷ niệm (rất) buồn của người dân với nhà nước Việt Nam
Tuy thế, theo VTV:
“Vào 21h hôm nay (28/3), những màn pháo hoa rực rỡ đã thắp sáng bầu trời Đà Nẵng chào mừng kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng Thành phố.
Chương trình bắn pháo hoa kéo dài 15 phút với 100 giàn pháo, trong đó có 2.000 quả pháo tầm thấp. Đây là lần đầu tiên chương trình bắn pháo hoa nhân các dịp lễ, tết tại Đà Nẵng không chỉ ‘dồn’ hết về dọc hai bờ sông Hàn ở khu vực trung tâm Thành phố như những năm trước đây, mà còn diễn ra ở các vùng xa để phục vụ người dân. Những điểm bắn pháo hoa tại Đà Nẵng lần này gồm: trên cầu Nguyễn Văn Trỗi; sân vận động quận Ngũ Hành Sơn; trước trụ sở UBND quận Liên Chiểu và trước trụ sở Ủy ban MTTQ huyện Hòa Vang. Nhờ đó, không chỉ người dân và du khách tại Đà Nẵng mà cả người dân Quảng Nam và các khu vực lân cận cũng nô nức đón xem pháo hoa.
Thời tiết vào đêm diễn ra pháo hoa tương đối quang tạnh, thuận lợi để người dân mãn nhãn với những màn pháo hoa đầy màu sắc, cùng hòa vào không khí vui tươi phấn khởi mừng kỷ niệm Ngày giải phóng thành phố.”
Chiêm ngưỡng những tràng pháo hoa nổ rợp trời. Ảnh & chú thích: Lao Động
Trong số hàng ngàn người dân Đà Nẵng “hòa vào không khí vui tươi phấn khởi mừng kỷ niệm Ngày giải phóng thành phố” và “chiêm ngưỡng những tràng pháo hoa nổ rợp trời,” tôi e không có những người thân trong gia đình ông Nguyễn Vĩnh Rượu. Không lẽ họ lại “tươi vui phấn khởi” sau một cuộc chiến tương tàn, với vài ba thân nhân đã trở thành liệt sĩ mà (chung cuộc) “chiến lợi phẩm” chỉ là ... một ổ bánh mì kẹp thịt?
Theo VNEXPRESS thì Đà Nẵng/Quảng Nam “là địa phương có nhiều bà mẹ Việt Nam anh hùng nhất với 11.234 người.” Tính rẻ ra thì địa phương này, ít nhất, cũng phải có 11.234 gia đình liệt sĩ. Liệu có bao nhiêu người trong số những gia đình này vừa “tươi vui phấn khởi," vừa gặm bánh mì kẹp (thịt) vừa ... "chiêm ngưỡng những tràng pháo hoa nổ rợp trời” để “mừng kỷ niệm Ngày giải phóng thành phố” của mình?
Hẳn không mấy ai vô tâm đến thế.
Tuy thế, trước đó hai ngày, cũng theo VTV:
“Đúng 21h ngày 26/3, bầu trời thành phố Huế đã rực sáng với những màn pháo hoa đầy màu sắc. Khoảng 1.000 quả pháo được bắn tầm cao, kéo dài suốt 15 phút, thu hút sự chú ý của hàng nghìn người dân và du khách.
Đây là một trong chuỗi các hoạt động ý nghĩa được tổ chức, nhằm tạo không khí rộn ràng, vui tươi cho người dân cố đô nhân kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng Thừa Thiên Huế."
Thành phố Huế lung linh trong sắc pháo hoa. Ảnh và chú thích: Tạp Chí Sông Hương
Trong “không khí rộn ràng, vui tươi cho người dân cố đô nhân kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng Thừa Thiên Huế” và trong số “hàng nghìn người dân và du khách” ngắm nhìn “thành phố Huế lung linh trong sắc pháo hoa” (chắc) cũng không có mấy thân nhân liệt sĩ, cũng như thân nhân của những gia đình nạn nhân đã bị qúi vị liệt sĩ trói tay rồi đập chết (mấy mươi năm trước) đâu.
Về “số liệu về các hố chôn tập thể” trong vụ “Thảm Sát Huế Tết Mậu Thân,” Wikipedia: ghi nhận như sau:
“Trong những tháng và những năm tiếp theo sau Trận Mậu Thân tại Huế, bắt đầu từ ngày 31 tháng 1 năm 1968, và kéo dài tổng cộng 26 ngày, hàng chục ngôi mộ tập thể được phát hiện trong và xung quanh Huế. Nạn nhân bao gồm phụ nữ, nam giới, trẻ em và trẻ sơ sinh. Số liệu từ các nguồn khác nhau có sự không thống nhất.
Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đưa ra danh sách 4.062 nạn nhân được xác định là đã bị bắt cóc hoặc bị giết. Theo các báo cáo của Việt Nam Cộng Hòa, nhiều thi thể được tìm thấy ở tư thế bị trói buộc, bị tra tấn và đôi khi bị chôn sống.
Theo báo cáo tổng kết của Douglas Pike, lúc bấy giờ là nhân viên Cục Tâm lý chiến của cơ quan thông tin Hoa Kỳ, năm 1970:
‘Câu chuyện (về Huế) chưa chấm dứt. Nếu ước đoán của giới chức Huế được coi như gần đúng, khoảng 2.000 người vẫn còn mất tích. Tổng kết về người chết và mất tích như sau:
- Tổng số dân sự tử vong: 7.600 - chết lẫn mất tích
- Chiến trường: - 1.900 bị thương vì chiến cuộc; 944 thường dân chết vì chiến cuộc
- Nạn nhân của những vụ giết tập thể:
809 - số tử thi tìm trong đợt nhì, kể cả tìm thấy ở đụn cát, tháng 3-7 năm 1969
428 - số tử thi tìm trong đợt thứ ba, trong khe Đá Mài (khu Nam Hoa) - tháng 9 năm 1969
300 - số tử thi tìm trong đợt thứ tư, khu Phu Thu, tháng 11 năm 1969
100 - số tử thi tìm thấy các nơi trong năm 1969
1.946 - mất tích (tính đến năm 1970)’
Theo soạn giả Matthew White ghi lại trong Atrocities: The 100 Deadliest Episodes in Human History (Tàn khốc: 100 sự kiện tử vong cực cao trong lịch sử nhân loại) thì vụ thảm sát ở Huế năm 1968 được ông trích dẫn từ các nguồn khác nhau cho rằng "đã có 2.800 người bị giết và 3.000 người mất tích do Việt Cộng thực hiện".
Theo Gareth Porter, một học giả Mỹ, các ước lượng ban đầu của Bộ Di dân và An sinh Xã hội Việt Nam Cộng hòa, số dân thường thiệt mạng do giao tranh và bom pháo là 3.776, trên tổng số dân thường bị thương, chết hoặc mất tích là 6.700 người, chứ không phải các con số 944 và 7.600 do Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đưa ra. (Các con số 944 và 7.600 này đã được Pike Douglas dùng trong thống kê của mình.)”
Vẫn theo Wikipedia:
Thảm sát tại Huế Tết Mậu Thân (tiếng Anh: Hue massacre) là tên gọi một sự kiện trong Chiến tranh Việt Nam khi phát hiện nhiều ngôi mộ tập thể chôn tử thi trong chiến trận Huế. Việc phát hiện hố chôn xảy ra khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam mở cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân và đóng ở Huế một tháng, sau đó bị triệt thoái trước sự phản công của Quân lực Việt Nam Cộng hòa và Quân đội Hoa Kỳ.[
Cho đến nay, tài liệu từ cả phía Việt Nam và Mỹ vẫn quy trách nhiệm cho nhau về nguyên nhân và tính xác thực của sự kiện này. Trong khi đó, các nhóm phản chiến và nhiều học giả phương Tây khẳng định rằng số lượng và hoàn cảnh của những người bị giết đã bị khuếch đại và ngụy tạo để phục vụ mục đích tuyên truyền trong chiến tranh. Nguồn từ phía quân Giải phóng thì ghi nhận họ đã chôn nhiều thường dân chết do hỏa lực hạng nặng của Mỹ cùng với binh sĩ tử trận của chính họ.”
Tôi tạm thời “chưa” bận tâm (lắm) về chuyện “trách nhiệm” của phe nào trong vụ thảm sát hàng chục ngàn người trong vụ Mậu Thân. Tôi chỉ (trộm) nghĩ rằng tại một vùng đất đã xẩy ra một trong “100 sự kiện tử vong cực cao trong lịch sử nhân loại” thì chính quyền địa phương, hàng năm, nên tổ chức một buổi lễ tưởng niệm những nạn nhân – bất kể bên nào.
Không làm được như vậy, đã đành, mà còn thực hiện “những màn pháo hoa đầy màu sắc ... nhằm tạo không khí rộn ràng, vui tươi cho người dân cố đô nhân kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng Thừa Thiên Huế” thì e đây là một chuyện (rất) thất nhân tâm – nếu chưa muốn nói là ngu xuẩn – nhất là khi ngân qũi quốc gia (phần lớn) nếu không đến từ kiều hối, từ tiền viện trợ, tiền bán rừng, bán khoáng sản thô hay tiền vay mượn của nước ngoài.
VIỆT CỘNG PHÁ THÁNH THẤT CAO ĐÀI
Phá bỏ thánh thất Cao Đài Tuy An để xây quốc lộ
< Sáng nay, ngày 14 tháng Tư, thánh thất Cao Đài Tuy An của những người theo Cao Đài Bảo Thủ Chơn Truyền không được nhà nước công nhận, đã bị chính quyền địa phương Phú Yên tiến hành dỡ bỏ để xây Quốc lộ 1A ngang đó.
Thánh thất Cao Đài Tuy An nằm ở thôn Phú Tân 2, xã An Cư, huyện Tuy An, tình Phú Yên.
Chánh trị sự giáo hội Cao Đài Chơn Truyền, bà Nguyễn Bạch Phụng, cho biết gần đây cũng có nhiều tranh cãi trong việc bồi thường vì chính quyền địa phương tỉnh Phú Yên không làm việc trực tiếp với những tín hữu Cao Đài Chơn Truyền ở Tuy An mà chỉ làm việc với phía những người thuộc Hội Đồng Chưởng Quản tức Giáo Hội Cao Đài Quốc Doanh do nhà nước dựng lên:
Việc bồi thường thì không bồi thường cho những người đại diện của thánh thất mà bồi thường cho người của nhà nước dựng lên.
Hôm nay, ngày 14 tháng Tư 2015, lúc 7 giờ sáng chính quyền công an kết hợp với Cao Đài Quốc Doanh bao vây thánh thất, cưỡng chiếm và đập phá, lấy xe ủi san bằng thánh thất hết. Sáng nay công an khống chế đồng đạo bảo thủ chơn truyền là những người Cao Đài độc lập, bảy tám công an giữ một người, không cho đi đâu hết, không cho nói gì hết, ai nói ra là bị đánh đập. Họ bắt người bỏ lên xe, 3 tiếng sau thì thả ra. Xe thì cũng quản lý xe của một số đồng đạo, hiện nay thì hai chiếc Honda cũng chưa trả. Thông sự Đoàn Công Danh cũng bị công an vây, chận xe không cho đến thánh thất, giấy tờ xe giờ này cũng chưa trả, coi như cũng đánh đập một số đồng đạo như em Vân và em Phượng.
Trả lời câu hỏi của đài ACTD, ông Nguyễn Phùng Ngoạn, phó chủ tịch huyện Tuy An, cho rằng đó là tin không đúng:
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/caodai-orta-crumb-dn-for-hway-04142015104345.html Thánh thất Cao Đài Tuy An nằm ở thôn Phú Tân 2, xã An Cư, huyện Tuy An, tình Phú Yên.
Chánh trị sự giáo hội Cao Đài Chơn Truyền, bà Nguyễn Bạch Phụng, cho biết gần đây cũng có nhiều tranh cãi trong việc bồi thường vì chính quyền địa phương tỉnh Phú Yên không làm việc trực tiếp với những tín hữu Cao Đài Chơn Truyền ở Tuy An mà chỉ làm việc với phía những người thuộc Hội Đồng Chưởng Quản tức Giáo Hội Cao Đài Quốc Doanh do nhà nước dựng lên:
Việc bồi thường thì không bồi thường cho những người đại diện của thánh thất mà bồi thường cho người của nhà nước dựng lên.
Hôm nay, ngày 14 tháng Tư 2015, lúc 7 giờ sáng chính quyền công an kết hợp với Cao Đài Quốc Doanh bao vây thánh thất, cưỡng chiếm và đập phá, lấy xe ủi san bằng thánh thất hết. Sáng nay công an khống chế đồng đạo bảo thủ chơn truyền là những người Cao Đài độc lập, bảy tám công an giữ một người, không cho đi đâu hết, không cho nói gì hết, ai nói ra là bị đánh đập. Họ bắt người bỏ lên xe, 3 tiếng sau thì thả ra. Xe thì cũng quản lý xe của một số đồng đạo, hiện nay thì hai chiếc Honda cũng chưa trả. Thông sự Đoàn Công Danh cũng bị công an vây, chận xe không cho đến thánh thất, giấy tờ xe giờ này cũng chưa trả, coi như cũng đánh đập một số đồng đạo như em Vân và em Phượng.
Trả lời câu hỏi của đài ACTD, ông Nguyễn Phùng Ngoạn, phó chủ tịch huyện Tuy An, cho rằng đó là tin không đúng:
Sáng này thì đạo hữu người ta tự nguyện cùng với đạo hữu thực hiện tháo gỡ, còn ở huyện chỉ là vấn đề rắc rối hộ và vấn đề an toàn giao thông thế là anh em đi giữ trật tự, bảo vệ an toàn giao thông. Bồi thường, nhận tiền và cấp đất mới và đời thanh thất đi chỗ khác theo như nguyện vọng của bà con đạo hữu. Cái đó là những thông tin không chính thống, những thông tin lệch lạc. Thực tế là chính quyền địa phương không cưỡng chế, chỉ bảo vệ trật tự cho đơn vị đạo hữu người ta tự tháo gỡ.
Tuy nhiên theo lời thông sự Đào công Danh của thánh thất Tuy An thì:
Đồng đạo Tuy An rất bức xúc khi ông phó chủ tịch Tuy An trả lời đài như vậy. Nếu nhà nước không làm sai tại sao lại từ cấp tĩnh, cấp huyện và xã và cả công an đón đàng người dân đến bảo vệ thánh thất? Chính quyền công an bám sát một người đạo thì năm ba bảy người. Tại sao ông không hiểu điều đó, bây giờ lại quay lại bảo vệ cho Hội Đồng Chưởng Quản Cao Đài Quốc Doanh này tới lấy thánh thất, trong khi đó họ biết Tuy An đang đi đòi công lý, che mắt người dân, nói là Cao Đài tự tháo dỡ chứ chính quyền không tháo dỡ. Đó là họ mượn danh Cao Đài tòa thánh Tây Ninh để họ đàn áp thánh thất Tuy An.
Đến 9 giờ 30 sáng nay, thánh thất Tuy An hoàn toàn bị tháo dỡ, chính quyền đĩa phương cho rào lại bằng lưới sắt với tấm bảng nói rõ đây là đất do Ủy Ban Nhân Dân xã An Cư quản lý.
TRIỀU KIẾN TRUNG CỘNG
Công du Bắc Kinh, Việt Nam được gì?
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (trái) Tổng thư ký Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, trao đổi cùng ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng thư ký Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, tại Bắc Kinh, Trung Quốc, ngày 07 tháng tư, năm 2015Công du Bắc Kinh, Việt Nam được gì?
Chuyến đi Bắc Kinh của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và phái đoàn đã kết thúc bằng các bài viết ca tụng sự hợp tác của hai nước từ các kênh chính thức của Trung Quốc, tuy nhiên trên hệ thống truyền thông dòng chính của Việt Nam hầu như không có bài viết quan trọng nào ca ngợi những gì mà phái đoàn đạt được, nhất là về vấn đề Biển Đông. Mặc Lâm ghi nhận ý kiến từ các chuyên gia, trí thức trong và ngoài nước về sự kiện kiện này.
Lo nhiều hơn vui
Trước khi chính thức sang Hoa Kỳ nhân dịp kỷ niệm 20 năm bang giao Hoa kỳ Việt Nam, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã dẫn một phái đoàn hùng hậu sang Bắc Kinh. Đây là lần thứ sáu ông Trọng sang Trung Quốc nhưng có lẽ đây là lần ông được tiếp đón hết sức trọng thể với nghi thức ngoại giao dành cho một nguyên thủ quốc gia mà Bắc Kinh ưu ái dành cho ông. Những nghi thức lễ tân đặc biệt đã cho thấy thái độ xoay chuyển đầy ý nghĩa của lãnh đạo Trung Quốc đối với Việt Nam.
Người ta còn nhớ chỉ vài tháng trước đây khi Trung Quốc mang giàn khoan HD-891 vào khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam ông Trọng từng yêu cầu nói chuyện với ông Tập Cận Bình nhưng không được đáp ứng. Lần này, sự hào phóng của Trung Quốc được truyền thông nước này hết lời tâng bốc cho thấy cục diện đã khác. Phải chăng Trung Quốc muốn lôi kéo Việt Nam trở lại quỹ đạo của họ trước khi bị Hoa Kỳ kéo ra khỏi vòng quay mà hơn nửa thế kỷ qua Đảng Cộng sản Việt Nam không cách nào thoát ra được?
Tuy nhiên, căn cứ trên những gì mà truyền thông Trung Quốc đưa ra trong 4 ngày công du Bắc Kinh của TBT Nguyễn phú Trọng, trí thức Việt Nam tỏ ra thất vọng và lo lắng nhiều hơn trước. Theo Tân Hoa Xã cho biết hai nước đã đồng ý trên nguyên tắc hoạt động của “Nhóm bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển” các lĩnh vực ít nhạy cảm, tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại vùng biển Vịnh Bắc Bộ, sớm khởi động khảo sát chung tại vùng biển này trong năm 2015.Đây là chỉ dấu cho thấy sự hợp tác để cùng khai thác, một đặc điểm hợp tác mà Trung Quốc luôn nắm cán đối với Việt Nam trong nhiều thập niên qua bởi sự lệ thuộc quá sâu vào hệ thống chính trị cũng như nguồn vốn, khoa học kỹ thuật của Việt Nam cách nhau quá xa so với Trung QuốcĐây là chỉ dấu cho thấy sự hợp tác để cùng khai thác, một đặc điểm hợp tác mà Trung Quốc luôn nắm cán đối với Việt Nam trong nhiều thập niên qua bởi sự lệ thuộc quá sâu vào hệ thống chính trị cũng như nguồn vốn, khoa học kỹ thuật của Việt Nam cách nhau quá xa so với Trung Quốc.
Đài phát thanh CRI của TQ cũng bình luận về con đường tơ lụa trên biển và cho rằng quan hệ Trung-Việt chiếm vị trí quan trọng trong bố cục lớn về ngoại giao xung quanh của Trung Quốc trên nguyên tắc cùng thương lượng, cùng xây dựng, cùng chia sẻ. Nhận xét về vấn đề này PGS TS Hoàng Ngọc Giao cho biết:
-Về câu chuyện “con đường tơ lụa trên biển” thì tôi thấy tham gia vào con đường tơ lụa trên biển của họ cũng lại là cái trò dùng kinh tế để che đậy các mưu đồ về chiến lược, về quân sự, địa chính trị. Một mặt thì họ xây đảo, mặt khác họ tung tiền ra gạ các nước trong khu vực làm con đường tơ lụa trên biển, họ bỏ ra mấy chục tỷ đô la thế nhưng mà nếu đứng từ lợi ích dân tộc để phân tích thì ta được lợi gì trong “con đường tơ lụa”? trong khi vấn đề chủ quyền biển đảo của chúng ta vẫn đang dần dần bị họ gậm nhấm. Họ đang gậm nhấm, họ xây cả một đảo Gạc Ma, rồi đảo Chữ Thập đảo Gaven…họ làm cả căn cứ quân sự lớn trên đấy. Không phải mai mốt nữa mà rõ ràng hiện nay sự hiện diện đấy nó không chỉ là xâm chiếm mấy cái đảo mà nó án ngữ toàn bộ đường ra Biển Đông của mình.
Mai mốt tàu thuyền ngư dân của mình sẽ ảnh hưởng. Trước khi họ chưa có sự hiện diện thường xuyên ở đấy thì họ đã cấm đánh bắt cá, họ làm khó ngư dân mình, họ cướp tàu, họ đánh đắm tàu mình…khi mà họ có sự hiện diện thường xuyên thì toàn bộ vùng đo làm sao còn nơi sinh sống cho ngư dân? Đấy là chưa kể nếu họ lập vùng thông báo bay kiềm soát về hàng không nữa thì như vậy vể mặt địa chính trị. An ninh mà nói thì đó là một đe dọa thực sự rất lớn đối với chủ quyền biển đảo của chúng ta.
Họ đang gậm nhấm, họ xây cả một đảo Gạc Ma, rồi đảo Chữ Thập đảo Gaven…họ làm cả căn cứ quân sự lớn trên đấy. Không phải mai mốt nữa mà rõ ràng hiện nay sự hiện diện đấy nó không chỉ là xâm chiếm mấy cái đảo mà nó án ngữ toàn bộ đường ra Biển Đông của mìnhPGS TS Hoàng Ngọc Giao
Bên cạnh những thỏa thuận thúc đẩy đầu tư mà Việt Nam khẩn khoản đề nghị, Trung Quốc cho biết sẵn sàng đưa những tập đoàn kinh tế hàng đầu của nước này sang Việt Nam trong đó có tập đoàn sản xuất thiết bị viễn thông Huawei. Theo dõi vụ này GS Nguyễn Văn Tuấn từ Sydney đưa ra mối quan tâm của ông:
-Tập đoàn Hoa Vi (Huawei) là một tập đoàn chính phủ Trung Quốc được xem là có những thương vụ không rõ ràng. Chính phủ Úc, Canada và theo tôi biết cả chính phủ Mỹ cũng vậy đã tẩy chay tập đoàn này không cho họ đầu tư cơ sở vật chất ví nó có thể đe dọa an ninh đất nước của họ. Thế nhưng ở Việt Nam chúng ta thì tình hình rất khác, chúng ta chào đón công ty đó có vẻ rất nồng nhiệt và theo thực tế như tôi biết thì công ty này đã tứng làm ăn với Việt Nam trong quá khứ, rất nhiều bộ phận viễn thông, trang thiết bị viễn thông cũng nhập từ Hoa Vi cả…thành ra tất cả những cái đó nó làm cho mình quan tâm đến an ninh của Việt Nam
Trí thức trong nước đặc biệt quan tâm tới cụm từ “nhận thức chung” mà Thông cáo chung đã nêu lên. Bàn về vấn đề này, GS Nguyễn Ngọc Trân nguyên đại biểu Quốc Hội cho biết nhận xét của ông:
-Cái nhận thức chung là hai bên cùng thức hiện chứ không phải nhận thức chung thì chỉ một mình Việt Nam thực hiện mà Trung Quốc cũng phải thực hiện nữa. Như ông Thủ tướng có trả lời các đại biểu quốc hội ở Kiên Giang tại kỳ họp thứ 7 của Quốc hội vừa rồi là “mình hợp tác vừa đấu tranh với Trung Quốc buộc họ cũng phải thực hiện theo những điều ước mà luật pháp quốc tế vá Công ước về Luật biển năm 1982 có DOC và COC.
Chuyến thăm vừa rồi của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng là một hoạt động đối ngoại của mình nó không phải là toàn bộ hoạt động đối ngoại của mình trong vấn đề Biển Đông mình phải vửa hợp tác vừa đấu tranh. Đấu tranh trên cơ sở nào. Đấu tranh không có nghĩa chỉ đối đầu mà thôi còn có vấn đề hợp tác, vấn đề nhận thức chung nhưng mà không đủ, còn phải có luật pháp quốc tế, phải có Công ước luật biển mà đây chính là cơ sở đề mình cùng với những nước khác có cùng quyền lợi chung trên Biển Đông.
Riêng PGS TS Hoàng Ngọc Giao thì đặt câu hỏi:
-Nhận thức chung hay còn gọi là nhận thức chung của lãnh đạo, thế bây giờ nhân dân chả biết nhận thức chung của lãnh đạo cao cấp là gì? chả thấy công bố gì cả. Hai bên nhận thức chung với nhau như thế nào thì đây cũng là một dấu hỏi lớn.
Hành động coi thường của Trung Quốc
Mặc dù nói lời ngon ngọt với Việt Nam như vậy nhưng khi phái đoàn của TBT Nguyễn Phú Trọng đang trên đường về nước thì Trung Quốc công khai vén bức màn xây dựng các căn cứ quân sự trên đảo Vành Khăn nơi họ chiếm của Việt Nam trước đây. GS Nguyễn Văn Tuấn nhận xét:
Thái độ của Trung Quốc rõ ràng chơi với mình không đẹp. Trong khi họ đón ông Tổng bí thư có thể nói là rất trọng hậu thế nhưng khi đoàn của ông Tổng bí thư chưa về tới Việt Nam thì họ đã xây dựng nhiều công trình ở đảo Vành Khăn như chúng ta đã biết-Thái độ của Trung Quốc rõ ràng chơi với mình không đẹp. Trong khi họ đón ông Tổng bí thư có thể nói là rất trọng hậu thế nhưng khi đoàn của ông Tổng bí thư chưa về tới Việt Nam thì họ đã xây dựng nhiều công trình ở đảo Vành Khăn như chúng ta đã biết. Khi được hỏi tại sao họ làm như vậy thì họ trả lời rất ngênh ngang tuyên bố đó là đảo của họ nên họ muốn làm gì thì làm! Thực ra những đảo đó họ đã cướp từ Việt Nam, nếu dùng chữ “cướp” thì có lẽ cũng không quá đáng.GS Nguyễn Văn Tuấn
Cái cách mà họ nói như vậy tôi thấy điều thứ nhất, nều nói nhẹ một chút thì nó rất bất lịch sự với đoàn của Việt Nam. Nếu nói nặng hơn một chút thì tôi nghĩ rằng thì đó là thái độ xem thường mình. Tôi rất ngạc nhiên phía Việt Nam không thấy ai lên tiếng trên báo chí, công luận nên tôi rất ngạc nhiên. Tôi nghĩ mình nên có thái độ song phẳng và bình đẳng hơn ví tất cả các việc làm của họ thì phía Việt Nam đều im lặng, thậm chí không dám nhắc đến, ai cũng bức xúc nhưng nhà nước cứ giữ im lặng thì thái độ và hành vi này làm cho Trung Quốc họ lấn tới.
Tất nhiên khi nói cứng rắn bình đẳng không có nghĩa là mình đòi hỏi họ phải làm tất cả những chuyện mình muốn nhưng ít ra mình cũng phải lên tiếng để cho họ thấy rằng mình có chủ quyền và phải tôn trọng mình chứ không thể lấn lướt tới hoài như vậy được
Từng là Vụ trưởng của Ban biên giới chính phủ có lẽ PGS TS Hoàng Ngọc Giao không lạ gì sự trở mặt của Trung Quốc trong khi tranh chấp với Việt Nam, ông cho biết:
-Đây là một chiến thuật của Trung Quốc trong quan hệ với Việt Nam họ vừa xoa lại vừa lấn tới, họ vừa xoa vừa đánh mình. Có hai ý mà tôi thây không ổn, ông Tập Cận Bình ông ấy nói rằng hai bên phải có cách tiếp cận mới, có ý tưởng mới cho cái quan hệ Việt Trung. Chúng ta thấy gì? Quan hệ Việt Trung cho đến nay họ xâm lấn biển đảo của mình, họ gây nhiều chuyện với mình, với ngư dân mình thế mà bây giờ lại kêu gọi cách tiếp cận mới, ý tưởng mới. Có nghĩa những cái gì đã xảy ra thì không đề cập lại. Đó là chiến thuật mà nói rõ hơn là một âm mưu theo cái kiều vừa đấm vừa xoa, dường như phớt lờ đi chuyện tồn tại. Họ dùng cái từ “kiểm soát tranh chấp ở trên biển”. Thế nào là kiểm soát? Cùng nhau kiểm soát là thế nào? Phải giải quyết chứ?
Phải chăng cùng nhau kiểm soát là giữ nguyên cái hiện trạng này đừng để chuyện tranh chấp này được giải quyết, còn họ thì cứ có lợi. Theo tôi điều này không ổn.
Giới chuyên gia về vấn đề Biển Đông lo ngại rằng những gói kinh tế mà Trung Quốc đem ra nhử Việt Nam sẽ làm cho một số lãnh đạo tin rằng lần này họ có thiện chí hơn trước, tuy nhiên so với những gì mà Việt Nam mang về từ Bắc Kinh thì không ai có thể lạc quan, vì kinh nghiệm quá nhiều vào những gì mà Trung Quốc đã từng làm trong vấn đề Biển Đông.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/what-vn-got-th-cn-visi-04142015054859.html
Phải chăng cùng nhau kiểm soát là giữ nguyên cái hiện trạng này đừng để chuyện tranh chấp này được giải quyết, còn họ thì cứ có lợi. Theo tôi điều này không ổn.
Giới chuyên gia về vấn đề Biển Đông lo ngại rằng những gói kinh tế mà Trung Quốc đem ra nhử Việt Nam sẽ làm cho một số lãnh đạo tin rằng lần này họ có thiện chí hơn trước, tuy nhiên so với những gì mà Việt Nam mang về từ Bắc Kinh thì không ai có thể lạc quan, vì kinh nghiệm quá nhiều vào những gì mà Trung Quốc đã từng làm trong vấn đề Biển Đông.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/what-vn-got-th-cn-visi-04142015054859.html
Tuesday, April 14, 2015
THANH NIÊN HÀ NỘI
Hà Nội: nhiều thanh niên mặc áo in phù hiệu VNCH
http://danlambaovn.blogspot.com/2015/04/ha-noi-ca-bat-khan-cap-nhieu-thanh-nien.html#disqus_thread
Hà Nội: CA bắt khẩn cấp nhiều thanh niên mặc áo in phù hiệu Quân lực Việt Nam Cộng Hoà
Ảnh: Facebook Nguyễn Lân Thắng |
Trong số những người bị bắt có anh Nguyễn Viết Dũng, biệt danh Dũng Phi Hổ, một thanh niên còn khá trẻ quê tại Yên Thành, Nghệ An. Danh tính những người còn lại hiện vẫn đang tiếp tục được tìm hiểu thêm.
Theo một số thông tin được loan tải trên facebook, nhóm của anh Nguyễn Viết Dũng có thể đang bị giam giữ tại trụ sở CA quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Thời điểm xảy ra vụ bắt người phi pháp khoảng sau lúc 11 giờ trưa ngày 12/4/2015, từ đó đến nay không ai có thể liên lạc được với những thanh niên này.
Trước đó, nhóm anh Nguyễn Viết Dũng xuất hiện trong cuộc biểu tình bảo vệ cây xanh tại khu vực Bờ Hồ vào buổi sáng cùng ngày.
Hình ảnh được phổ biến trên các mạng xã hội cho thấy có khoảng 4-5 thanh niên mặc áo màu đen, trên ngực trái có in biểu tượng hình con ó màu vàng, giống với phù hiệu của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà.
Phía sau chiếc áo là một biểu tượng chữ V bao quanh bởi một vòng tròn màu đỏ, cùng với thông điệp bằng tiếng Anh:
“People should not be afraid of their governments. Governments should be afraid of their people” – “Nhân dân đừng sợ nhà cầm quyền quyền. Nhà cầm quyền phải sợ Nhân dân”.
Theo các bức ảnh đã được phổ biến, anh Nguyễn Viết Dũng được xác định là người thanh niên đeo kính, mặc bộ quân phục người lính Việt Nam Cộng Hoà.
Có tin nói rằng, sau khi đã bắt giam khẩn cấp nhóm anh Nguyễn Viết Dũng, côn an CSVN lập tức triệu tập thêm nhiều thanh niên khác tại Hà Nội để tra khảo.
Sau ngày 30/4/1975, những biểu tượng liên quan đến chính thể Việt Nam Cộng Hoà đã trở thành nỗi ám ảnh đối với những người cộng sản. Dù vậy, bất chấp sự trả thù nghiệt ngã của chế độ, nhiều người dân miền Nam vẫn bí mật lưu giữ những kỷ vật hoài niệm về một chính thể Tự do.
ĐÌNH CÔNG KHÔNG CỜ ĐỎ
Chuyện dài Việt nam trong những ngày tháng Tư
Vùng lên hỡi những nô lệ ở thế gian
Vùng lên hỡi ai cơ khổ bần hàn...
Đó là lời của bài Quốc tế ca, bài hát chính thức của tất cả những người cộng sản trên toàn thế giới. Bài hát này vẫn được cất lên trong những buổi lệ long trọng tại Việt nam, nơi mà quyền lực của đảng cộng sản là một thực tế tối thượng. Trong những thước phim tuyên truyền của đảng người ta thường nghe giai điệu bài ca này, cùng hình ảnh cờ đỏ búa liềm trên nền những đám đông công nhân đình công, biểu tình đòi quyền sống.
Tuần lễ đình công của công nhân
Nguyễn Tiến Trung viết rằng công đoàn thì chẳng đại diện gì cho công nhân cả.
Ông Nguyễn Thiện Nhân, người quan sát cuộc đình công của 3500 công nhân tại Long An thì nói về tổ chức được coi là đại diện cho quyền lợi của người lao động Việt nam là công đoàn như sau:
“Công đoàn ở Việt nam thì họ tê liệt, họ đâu có một sức mạnh nào để mà bảo vệ quyền lợi của công nhân. Họ làm việc trên sự quản lý của Tổng liên đoàn lao động và trực thuộc Chính phủ. Chính phủ thì vướng sự lãnh đạo của đảng cộng sản, thì làm gì có tiếng nói độc lập để bảo vệ quyền lợi của công nhân.”
Một cây bút quen thuộc trên các trang blog là Thiện Tùng nhắc lại lời nói của ông tổ của những người cộng sản là Karl Marx rằng giai cấp lao động phải vùng lên đánh đổ những nhà tư bản, và kết cục là tất cả đều sụp đổ, sụp đổ. Thiện Tùng viết rằng đáng ra phải có công đoàn, mà là công đoàn độc lập để làm cầu nối giữa giới chủ và những người làm công, từ đó công ty rồi xã hội mới phát triển được.
Câu chuyện về công đoàn độc lập cho đến hôm nay vẫn là giấc mơ cho những nhà hoạt động dân sự Việt nam, vì nhà nước do đảng cộng sản lãnh đạo vẫn cương quyết không chấp nhận.
Ông Nguyễn Phú Trọng là ai?
Câu chuyện thứ hai được nhiều blogger bàn đến trong tuần này là việc người đứng đầu đảng cộng sản Việt nam Nguyễn Phú Trọng đi Trung quốc.
Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn viết rằng cứ mỗi lần nghe tin một vị lãnh đạo Việt nam nào đó đi Trung quốc thì ông lại thấy lo sợ. Một nhà báo Việt nam cũng chia sẻ nỗi sợ của Giáo sư Tuấn trên mạng xã hội. Và nỗi sợ lần này của họ rất cụ thể, đó là thõa thuận cùng nhau khai thác dầu khí giữa Việt nam và Trung quốc tại vịnh Bắc bộ.
Nhân chuyến đi của ông Trọng sang Trung quốc, Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc nhắc lại lời của Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng quốc phòng Việt nam trong đoàn quan chức của ông Trọng. Ông Thanh đã từng nói rằng ông rất lo ngại vì ở Việt nam hiện nay đi đâu ông cũng thấy người ta ghét Trung quốc, ông cho rằng như thế rất nguy hại cho dân tộc.
Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc lại thấy rằng hóa ra đảng cộng sản Việt nam lại không đại diện cho quan điểm đó của người Việt nam.
Một điều khác cũng được Giáo sư Tuấn lưu ý, là trong lời mời ông Tập sang Việt nam, ông Trọng lại đại diện cho cả nhà nước và chính phủ Việt nam nữa. Giáo sư Tuấn viết rằng sự lẫn lộn, nhập nhằng giữa độc đảng và Nhà nước, và sự nhập nhằng đó thậm chí làm cho người trong hệ thống cũng đôi khi quên mình là ai!
Và tháng tư lại đến
Ông Nguyễn Phú Trọng cuối cùng cũng chấm dứt chuyến thăm Trung quốc của ông, và người ta chờ đợi một chuyện chưa có tiền lệ là người đứng đầu đảng cộng sản này sẽ thăm chính thức nước Mỹ, nơi từng được đảng của ông gọi là thành trì của chủ nghĩa tư bản bóc lột.
Ông Trọng chắc chắn cũng sẽ gặp những cuộc biểu tình của những người cùng tiếng nói với ông, những người mà đảng cộng sản vẫn cho rằng họ đang ra sức hòa giải suốt mấy mươi năm sau khi cuộc chiến Việt nam kết thúc.
Tác giả Đỗ Kim Thêm lại nhận xét rằng công cuộc hòa giải mà đảng cộng sản khởi xướng cách đây gần 30 năm thực chất chỉ là mong muốn thu hút tiền bạc và của cải của người Việt ở hải ngoại mà thôi. Tác giả viết tiếp là Lý do chính là người Việt đã không có và sẽ không thể chia sẻ một quá khứ chung của lịch sử cận đại. Bốn mươi năm sau khi kết thúc chiến tranh, dân Việt vẫn còn bị phân chia. Người Việt cảm thấy chưa thuộc về nhau bởi vì họ đã sống và nghĩ không cùng trong một nhận thức về quan điểm đấu tranh. Đó là một gánh nặng trong lịch sử mà họ vẫn còn bị mang ít nhiều tổn thương.
Điều mà Đỗ Kim Thêm nhận xét như được minh họa bằng phát biểu gần đây của ông Nguyễn Thế Kỷ, nhân vật số hai của cơ quan tuyên truyền của đảng cộng sản. Ông Thế kỷ nói về văn học miền Nam trước năm 1975 rằng Ở miền Nam đã sinh ra một dòng văn học bị nô dịch phục vụ cho chính quyền tay sai bán nước, phục vụ cho bộ máy chiến tranh.
Vùng lên hỡi ai cơ khổ bần hàn...
Đó là lời của bài Quốc tế ca, bài hát chính thức của tất cả những người cộng sản trên toàn thế giới. Bài hát này vẫn được cất lên trong những buổi lệ long trọng tại Việt nam, nơi mà quyền lực của đảng cộng sản là một thực tế tối thượng. Trong những thước phim tuyên truyền của đảng người ta thường nghe giai điệu bài ca này, cùng hình ảnh cờ đỏ búa liềm trên nền những đám đông công nhân đình công, biểu tình đòi quyền sống.
Tuần lễ đình công của công nhân
Không có Quốc tế ca, cũng không có cờ đỏ búa liềm trong cuộc đình công của hơn 100 ngàn công nhân tại các khu công nghiệp phía Nam, và kéo dài sang tuần qua của 3500 công nhân tại Long An.
Quan sát các cuộc đình công của công nhân, Lê Huy Canh viết trên trang blog Tuzo:
Năm nay, và tới đây, chúng ta sẽ chứng kiến một tình thế khó khăn đối với các nhà lãnh đạo, với đảng cs. Sự tụt hậu của nền kinh tế so với khu vực, nợ nần, đổ vỡ của các doanh nghiệp nhà nước, đời sống quá nghèo khó của đại bộ phận những người lao động trong nhiều chục năm qua; con đường cổ phần hóa DNNN buộc phải diễn ra, những cuộc đình công nổ ra, lan rộng trong những ngày qua sẽ ngày càng làm rõ ràng hơn tình thế có tính bi kịch đó.
Công nhân đã đình công để phản đối Bộ luật bảo hiểm xã hội của nhà nước Việt nam, không cho họ lãnh tiền một lần sau khi nghỉ việc. Blogger Hiệu Minh viết bài Lan man về sổ hưu, trong đó ông phân tích cách mà người công nhân ở Mỹ hưởng tiền bảo hiểm xã hội của mình. Kết thức bài viết Hiệu Minh kêu gọi nhà nước Việt nam nên trả lại cho người lao động quyền quản lý và tiêu xài tiền bảo hiểm của mình. Hiệu Minh là người sống và làm việc nhiều năm ở Mỹ, đất nước sản sinh ra ngày quốc tế lao động 1/5.
Trang blog Bauxite Việt nam bình luận rằng Luật pháp đã tước đi chút quyền cuối cùng của họ: quyền lựa chọn. Vậy thì họ phải chiến đấu vì sự sống, vì cái bụng thiêng liêng. Đảng yên tâm đi, đừng nhọc công tìm kẻ xúi bẩy, kẻ cầm đầu. Kẻ cầm đầu là cái đói.
Trên trang blog Bauxite Việt nam người đọc cũng gặp bài của Thạc sĩ Nguyễn Tiến Trung, người tù chính trị vừa được trả tự do. Anh đặt vấn đề tại sao đảng cộng sản cầm quyền ở Việt nam tự xưng là đại diện của giai cấp công nhân mà công nhân lại có ít quyền lợi đến mức phải đình công như vậy? Anh đề cập thêm chuyện nhà nước do đảng lãnh đạo thường xuyên nhấn mạnh lợi thế của Việt nam trên cuộc cạnh tranh thế giới hiện nay là công nhân giá rẻ, và câu hỏi đặt ra là hóa ra những người công nhân Việt nam lại là những người bị bóc lột rất nặng nề.Sự tụt hậu của nền kinh tế so với khu vực, nợ nần, đổ vỡ của các doanh nghiệp nhà nước, đời sống quá nghèo khó của đại bộ phận những người lao động trong nhiều chục năm qua; con đường cổ phần hóa DNNN buộc phải diễn ra, những cuộc đình công nổ ra, lan rộng...làm rõ ràng hơn tình thế có tính bi kịch đóLê Huy Canh
Nguyễn Tiến Trung viết rằng công đoàn thì chẳng đại diện gì cho công nhân cả.
Ông Nguyễn Thiện Nhân, người quan sát cuộc đình công của 3500 công nhân tại Long An thì nói về tổ chức được coi là đại diện cho quyền lợi của người lao động Việt nam là công đoàn như sau:
“Công đoàn ở Việt nam thì họ tê liệt, họ đâu có một sức mạnh nào để mà bảo vệ quyền lợi của công nhân. Họ làm việc trên sự quản lý của Tổng liên đoàn lao động và trực thuộc Chính phủ. Chính phủ thì vướng sự lãnh đạo của đảng cộng sản, thì làm gì có tiếng nói độc lập để bảo vệ quyền lợi của công nhân.”
Một cây bút quen thuộc trên các trang blog là Thiện Tùng nhắc lại lời nói của ông tổ của những người cộng sản là Karl Marx rằng giai cấp lao động phải vùng lên đánh đổ những nhà tư bản, và kết cục là tất cả đều sụp đổ, sụp đổ. Thiện Tùng viết rằng đáng ra phải có công đoàn, mà là công đoàn độc lập để làm cầu nối giữa giới chủ và những người làm công, từ đó công ty rồi xã hội mới phát triển được.
Câu chuyện về công đoàn độc lập cho đến hôm nay vẫn là giấc mơ cho những nhà hoạt động dân sự Việt nam, vì nhà nước do đảng cộng sản lãnh đạo vẫn cương quyết không chấp nhận.
Ông Nguyễn Phú Trọng là ai?
Câu chuyện thứ hai được nhiều blogger bàn đến trong tuần này là việc người đứng đầu đảng cộng sản Việt nam Nguyễn Phú Trọng đi Trung quốc.
Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn viết rằng cứ mỗi lần nghe tin một vị lãnh đạo Việt nam nào đó đi Trung quốc thì ông lại thấy lo sợ. Một nhà báo Việt nam cũng chia sẻ nỗi sợ của Giáo sư Tuấn trên mạng xã hội. Và nỗi sợ lần này của họ rất cụ thể, đó là thõa thuận cùng nhau khai thác dầu khí giữa Việt nam và Trung quốc tại vịnh Bắc bộ.
Công đoàn ở Việt nam thì họ tê liệt, họ đâu có một sức mạnh nào để mà bảo vệ quyền lợi của công nhân. Họ làm việc trên sự quản lý của Tổng liên đoàn lao động và trực thuộc Chính phủ. Chính phủ thì vướng sự lãnh đạo của đảng cộng sản, thì làm gì có tiếng nói độc lập để bảo vệ quyền lợi của công nhânThõa thuận này cũng nằm trong thông cáo chung giữa ông Nguyễn Phú Trọng và người đồng nhiệm Trung quốc là ông Tập Cận Bình, bên cạnh những điều không có gì mới như là tình hữu nghị và sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Giáo sư Tuấn viết là thõa thuận này nhắc mọi người nhớ đến những dự án có sự tham gia của người Trung quốc mà công luận lo ngại như là Bauxite Tây Nguyên, khu công nghiệp Vũng Áng. Ông kết luận là như thế thì tương lai dân tộc này sẽ còn chìm trong bóng tối rất lâu.Nguyễn Thiện Nhân
Nhân chuyến đi của ông Trọng sang Trung quốc, Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc nhắc lại lời của Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng quốc phòng Việt nam trong đoàn quan chức của ông Trọng. Ông Thanh đã từng nói rằng ông rất lo ngại vì ở Việt nam hiện nay đi đâu ông cũng thấy người ta ghét Trung quốc, ông cho rằng như thế rất nguy hại cho dân tộc.
Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc lại thấy rằng hóa ra đảng cộng sản Việt nam lại không đại diện cho quan điểm đó của người Việt nam.
Một điều khác cũng được Giáo sư Tuấn lưu ý, là trong lời mời ông Tập sang Việt nam, ông Trọng lại đại diện cho cả nhà nước và chính phủ Việt nam nữa. Giáo sư Tuấn viết rằng sự lẫn lộn, nhập nhằng giữa độc đảng và Nhà nước, và sự nhập nhằng đó thậm chí làm cho người trong hệ thống cũng đôi khi quên mình là ai!
Và tháng tư lại đến
Ông Nguyễn Phú Trọng cuối cùng cũng chấm dứt chuyến thăm Trung quốc của ông, và người ta chờ đợi một chuyện chưa có tiền lệ là người đứng đầu đảng cộng sản này sẽ thăm chính thức nước Mỹ, nơi từng được đảng của ông gọi là thành trì của chủ nghĩa tư bản bóc lột.
Ông Trọng chắc chắn cũng sẽ gặp những cuộc biểu tình của những người cùng tiếng nói với ông, những người mà đảng cộng sản vẫn cho rằng họ đang ra sức hòa giải suốt mấy mươi năm sau khi cuộc chiến Việt nam kết thúc.
Tác giả Đỗ Kim Thêm lại nhận xét rằng công cuộc hòa giải mà đảng cộng sản khởi xướng cách đây gần 30 năm thực chất chỉ là mong muốn thu hút tiền bạc và của cải của người Việt ở hải ngoại mà thôi. Tác giả viết tiếp là Lý do chính là người Việt đã không có và sẽ không thể chia sẻ một quá khứ chung của lịch sử cận đại. Bốn mươi năm sau khi kết thúc chiến tranh, dân Việt vẫn còn bị phân chia. Người Việt cảm thấy chưa thuộc về nhau bởi vì họ đã sống và nghĩ không cùng trong một nhận thức về quan điểm đấu tranh. Đó là một gánh nặng trong lịch sử mà họ vẫn còn bị mang ít nhiều tổn thương.
Điều mà Đỗ Kim Thêm nhận xét như được minh họa bằng phát biểu gần đây của ông Nguyễn Thế Kỷ, nhân vật số hai của cơ quan tuyên truyền của đảng cộng sản. Ông Thế kỷ nói về văn học miền Nam trước năm 1975 rằng Ở miền Nam đã sinh ra một dòng văn học bị nô dịch phục vụ cho chính quyền tay sai bán nước, phục vụ cho bộ máy chiến tranh.
Cũng trong chiều hướng như thế, báo chí Việt nam đưa tin về bà Kim Phúc, cô bé bị bỏng nặng vì bom Napal năm xưa, trong đó nói rằng bà Kim Phúc đã xin đi định cư tại Canada. Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn lên tiếng nói rằng không phải bà Phúc xin đi định cư mà bà xin đi tị nạn, để thoát khỏi cái cảnh quanh năm suốt tháng làm vật tuyên truyền của đảng. Giáo sư Tuấn cho rằng những người cầm quyền ở Việt nam vẫn còn chưa chấp nhận hai chữ tị nạn, mặc dù chính họ đã gây ra làn sống thuyền nhân chưa có tiền lệ đó trong lịch sử dân tộc. Ông viết rằng thuyền nhân chính là một vết nhơ trong lịch sử Việt nam.
Trở lại với tháng Tư, nhưng suy nghĩ hướng về phía trước cho một tương lai của dân tộc Việt nam tác giả Đỗ Kim Thêm kết luận
Thế hệ hậu chiến không cần có một lý tưởng cầu toàn để canh tân đất nước, một ảo tưởng trí thức để thăng hoa bản sắc văn hoá hay các biện pháp xé rào để cứu Đảng, mà cần nhất là có một ý thức bừng tỉnh về sự tồn vong của dân tộc.
Sự bừng tỉnh đó cũng chính là mục tiêu mà những nhà hoạt động dân chủ trẻ tuổi trong nước đang hướng đến. Nhà báo Đoan Trang viết
Bạn biết đấy,những kẻ bắt nạt chúng ta không thích gì hơn là khi thấy chúng ta cứ im lặng để bọn họ tiếp tục bắt nạt. Một sự nhịn không có nghĩa là chín sự lành đâu các bạn.
Đó cũng là lời cuối mà chúng tôi xin mượn Đoan Trang để kết thúc cho bài điểm blog tuần
NHẬT MỸ HỢP TÁC
Tin tức / Hoa Kỳ
Nhận định lạc quan về quan hệ Mỹ-Nhật trước khi Thủ tướng Abe đến Mỹ
Phó Bộ trưởng Ngoại giao Antony Blinken đọc diễn văn trong cuộc họp ở Tokyo về Chính sách Kinh tế Mỹ trong Khu vực Thái bình dương và Đông Á
Tin liên hệ
Nhật-Trung đàm phán an ninh
Trung Quốc và Nhật Bản đàm phán an ninh cấp cao lần đầu tiên trong 4 năm qua. Đây là một bước nữa hướng tới việc hàn gắn quan hệ
15.04.2015
Có nhiều nhận định lạc quan ở Washington về sự tăng cường quan hệ giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản trong lúc Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe chuẩn bị đến thăm nước Mỹ vào hạ tuần tháng này.
Phó Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, ông Antony Blinken, mới đây đã tỏ ý hoan nghênh việc Nhật Bản nắm giữ một vai trò tích cực hơn trên vũ đài thế giới:
"Chúng tôi là những đối tác hợp tác chặt chẽ với nhau trên trường quốc tế, chống Ebola, giảm bớt tác động của biến đổi khí hậu, chống chủ nghĩa cực đoan bạo động, loại trừ mối đe dọa của Nhà nước Hồi giáo và những nhóm khác thách đố chúng ta."
Ông Blinken đã phát biểu như thế không lâu sau khi Bộ trưởng Quốc phòng Ashton Carter trở về Washington sau chuyến công du Á châu để thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa cho chiến lược tái cân bằng sang Á châu Thái Bình Dương, giữa lúc có những vấn đề cấp bách hơn như những vụ xung đột ở Yemen và Syria.
Ông Blinken cho biết Hoa Kỳ sẽ bảo vệ Nhật Bản trước bất kỳ mối đe dọa nào mà Tokyo phải đối mặt, kể cả những quần đảo đang có tranh chấp ở Biển Đông Trung Hoa:
"Chúng tôi đã nói rất rõ là chúng tôi chống đối bất kỳ hành động đơn phương nào nhằm gây phương hại cho quyền quản lý hành chánh của Nhật Bản bằng bất cứ cách nào. Chúng tôi có quyết tâm tuân thủ hiệp ước an ninh và, như quí vị đã biết, quần đảo Senkaku nằm trong phạm vi áp dụng của hiệp ước. Tổng thống Obama đã khẳng định điều đó khi ông đến thăm Trung Quốc."
Phó Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, ông Antony Blinken, mới đây đã tỏ ý hoan nghênh việc Nhật Bản nắm giữ một vai trò tích cực hơn trên vũ đài thế giới:
"Chúng tôi là những đối tác hợp tác chặt chẽ với nhau trên trường quốc tế, chống Ebola, giảm bớt tác động của biến đổi khí hậu, chống chủ nghĩa cực đoan bạo động, loại trừ mối đe dọa của Nhà nước Hồi giáo và những nhóm khác thách đố chúng ta."
Ông Blinken đã phát biểu như thế không lâu sau khi Bộ trưởng Quốc phòng Ashton Carter trở về Washington sau chuyến công du Á châu để thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa cho chiến lược tái cân bằng sang Á châu Thái Bình Dương, giữa lúc có những vấn đề cấp bách hơn như những vụ xung đột ở Yemen và Syria.
Ông Blinken cho biết Hoa Kỳ sẽ bảo vệ Nhật Bản trước bất kỳ mối đe dọa nào mà Tokyo phải đối mặt, kể cả những quần đảo đang có tranh chấp ở Biển Đông Trung Hoa:
"Chúng tôi đã nói rất rõ là chúng tôi chống đối bất kỳ hành động đơn phương nào nhằm gây phương hại cho quyền quản lý hành chánh của Nhật Bản bằng bất cứ cách nào. Chúng tôi có quyết tâm tuân thủ hiệp ước an ninh và, như quí vị đã biết, quần đảo Senkaku nằm trong phạm vi áp dụng của hiệp ước. Tổng thống Obama đã khẳng định điều đó khi ông đến thăm Trung Quốc."
Các nhà phân tích đồng ý với nhau rằng một lý do để tăng cường quan hệ giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ là mối lo ngại một ngày một tăng về tình hình an ninh trong khu vực Á châu Thái Bình Dương.
Ông Joshua Walker, cựu nhân viên ngoại giao Mỹ đang làm việc tại một tổ chức nghiên cứu ở Washington là Quỹ German Marshall, nói rằng mối đe dọa của Trung Quốc đã làm cho Tokyo và Washington xích lại gần nhau nhiều hơn nữa:
"Nhiều thứ trong diễn tiến này là vì Trung Quốc mà ra. Đây là một điều mà ta có thể nói là “con voi trong căn phòng.” Những hành động hung hãn của Trung Quốc ở Biển Đông và trong vụ tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư đã làm cho Nhật Bản xích lại gần hơn nhiều với Hoa Kỳ qua nhiều cách thức khác nhau."
Trong lúc có nhiều hoạt động được thực hiện để chuẩn bị cho chuyến viếng thăm chính thức của Thủ tướng Abe vào ngày 28 tháng tư, Khối Hoa Kỳ-Nhật Bản cũng hoạt động lại tại Quốc hội Mỹ. Bắt đầu từ năm 2014, khối gồm 59 thành viên thuộc cả hai đảng này đã tập trung các nỗ lực để tăng cường sự hợp tác giữa hai nước trong các lãnh vực thương mại, phát triển và an ninh quốc gia.
Dân biểu Joaquin Castro, đồng chủ tịch Khối Hoa Kỳ-Nhật Bản, phát biểu như sau:
"Nhật Bản là đồng minh đáng tin cậy nhất của chúng ta trong vùng Thái Bình Dương, và trong lúc chúng ta tiến về phía trước, hai nước có chung một quyền lợi về nhân quyền, dân chủ, thương mại và trong việc làm thế nào để những giá trị chung của hai nước được truyền bá trên khắp thế giới."
Một vấn đề mà cả Hoa Kỳ và Nhật Bản đang bận tâm là Hiệp định Hợp tác Thương mại Xuyên Thái Bình Dương TPP gồm 12 nước thành viên. Ông Blinken nói hiệp định này là cần thiết mặc dù có sự chống đối vì mối lo ngại về việc mất đi công ăn việc làm.
"Vấn đề thật sự không phải là chúng ta có mua bán với nhau hay không mà là chúng ta giao thương với nhau như thế nào, và phải chăng chúng ta sẽ thực hiện hoạt động này với một cách thức giúp cho quyền lợi và giá trị của mình được thăng tiến."
Chính phủ Mỹ nói rằng TPP có thể giúp lượng hàng xuất khẩu trên thế giới gia tăng khoảng 305 tỉ đô la mỗi năm vào năm 2015. Các nhà lập pháp ở Washington đang tranh luận về việc có nên thông qua dự luật TPA (Trade Promotion Authority) để tổng thống có quyền thương thảo TPP một cách nhanh chóng hơn hay không.
Nhật Mỹ gia tăng hợp tác quân sự ở Đông Á hay Biển Đông?
Trong tháng 4 này, Thủ tướng Nhật Bản sẽ có chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ. Đây là chuyến thăm được trông đợi không chỉ bởi Mỹ và Nhật bản mà còn được theo dõi bởi các nước khác trong khu vực châu Á Thái Bình Dương vì tình hình căng thẳng tại khu vực đang gia tăng giữa các nước với Trung Quốc xung quanh những tranh chấp trên biển. Liệu chuyến đi này có mang đến những thỏa thuận hợp tác về quân sự rộng hơn giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ hay không? Việt Hà phỏng vấn bà Yuki Tatsumi, chuyên gia cao cấp về Nhật bản tại Trung tâm nghiên cứu Stimson, Hoa Kỳ. Trước hết dự đoán về những thỏa thuận mà Hoa Kỳ và Nhật bản có thể đạt được trong chuyến thăm của Thủ tướng Nhật Shinzo Abe, bà Tatsumi cho biết:
Yuki Tatsumi: mọi thứ vẫn có thể thay đổi. Hai chính phủ nói là họ hy vọng từ giờ đến lúc mà Thủ tướng Nhật đến Washington thì hai bên sẽ đạt được thỏa thuận song phương về việc Nhật tham gia vào hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) và đồng thời hoàn tất bản hướng dẫn hợp tác quốc phòng song phương sửa đổi. Tuy nhiên, đến lúc này, những tham vấn và thảo luận giữa hai phía vẫn còn đang tiếp diễn, cho nên chúng ta thực sự không thể biết được sẽ có một thỏa thuận hay không và nếu có thì bản thỏa thuận sẽ như thế nào. Nhưng đó là một hy vọng mà họ đang có liên quan đến chuyến thăm này của Thủ tướng Nhật.
Việt Hà: Giới quan sát mong đợi trong chuyến thăm này, hai bên sẽ đạt được thỏa thuận về bản hướng dẫn hợp tác quốc phòng song phương sửa đổi, nếu bản thỏa thuận được đồng ý bởi hai phía, theo bà thì liệu sẽ có những thay đổi nào đáng kể trong bản hướng dẫn này, nhất là về việc Nhật tham gia rộng hơn vào các hoạt động quân sự tại khu vực châu Á Thái Bình Dương?
Yuki Tatsumi: sẽ không có nhưng thay đổi đáng kể. Điểm tập trung của bản hướng dẫn sửa đổi là để bảo vệ Nhật Bản, cho nên tôi không trông chờ vào sự tham gia rộng hơn của Nhật vào khu vực châu Á Thái Bình Dương vượt quá khu vực chủ quyền của Nhật bản.
Việt Hà: giới chức quân sự Hoa Kỳ gần đây đã nhiều lần lên tiếng kêu gọi Nhật tham gia tích cực hơn và các hoạt động tuần tra tại Thái Bình Dương, bao gồm biển Đông, bà đánh giá thế nào về khả năng này?
Yuki Tatsumi: Tôi biết đó là hy vọng từ phía Mỹ nhưng tất cả còn phụ thuộc vào việc Nhật bản sẽ phê chuẩn cái gì liên quan đến phạm vi của các hoạt động phòng vệ Nhật. Rõ ràng là hoạt động tuần tra ở khu vực biển Đông là vượt quá vùng nước chủ quyền của Nhật và vùng đặc quyền kinh tế của Nhật, cho nên đây chỉ là hoạt động trong thời bình. Vào lúc này không có sự cho phép về luật pháp của Nhật đối với lực lượng phòng vệ Nhật đối với các hoạt động như vậy. Cho nên nếu như lực lượng phòng vệ Nhật được tham gia vào những hoạt động đó thì Nhật phải phê duyệt những thay đổi về mặt luật pháp. Nhưng liệu họ có phê duyệt hay không thì vẫn còn chưa rõ ràng.
Việt Hà: liệu điều này có liên quan đến việc diễn giải lại hiến pháp của Nhật?Tất cả còn phụ thuộc vào việc Nhật bản sẽ phê chuẩn cái gì liên quan đến phạm vi của các hoạt động phòng vệ Nhật. Rõ ràng là hoạt động tuần tra ở khu vực biển Đông là vượt quá vùng nước chủ quyền của Nhật và vùng đặc quyền kinh tế của Nhật, cho nên đây chỉ là hoạt động trong thời bìnhYuki Tatsumi
Yuki Tatsumi: nó có phần liên quan đến việc diễn giải hiến pháp Nhật, nhưng hoạt động này không có liên quan gì đến hoạt động phòng vệ tập thể mà lực lượng phòng vệ Nhật được quyền làm trong thời bình. Bởi vì câu hỏi về phòng vệ tập thể xuất hiện khi có trường hợp khẩn cấp hoặc có xung đột vũ trang. Việc tuần tra ở biển Đông giống như là trong tình huống của hoạt động gìn giữ hòa bình nhưng họ chưa có cơ sở pháp lý cho tình huống này vào lúc này.
Việt Hà: Phía Nhật dù chưa thể tham gia trực tiếp vào các hoạt động quân sự tại biển Đông nhưng đã giúp Việt Nam và Philippine trong việc chuyển giao các tàu tuần tra dưới dạng vốn ODA. Theo bà thì trong tương lai, Nhật Bản còn có thể làm gì khác nữa nhằm giúp các nước trong khu vực trong lĩnh vực quốc phòng an ninh?
Yuki Tatsumi: Không có nhiều thứ mà Nhật có thể làm hơn nữa ngoài những gì Nhật bản đang làm. Quyết định sử dụng vốn ODA để chuyển giao tàu tuần tra sang Việt nam và Philippines là một bước đột phá vì trước đó Nhật bản chưa từng làm vậy với ODA vì ODA chỉ tập trung vào giúp đỡ kinh tế, đầu tư hạ tầng tại các nước đó. Cho nên việc chuyển giao các thiết bị này không nằm trong kế hoạch trong quá khứ . Đây là một cách khác mà Nhật bản sử dụng khung ODA. Ngoài ra, với thực tế là lực lượng phòng vệ Nhật bản vẫn chưa được phép tham gia nhiều hơn vào các hoạt động rộng lớn hơn ở khu vực châu Á Thái Bình Dương bao gồm biển Đông, thực tế mà nói không còn gì nhiều mà Nhật bản có thể làm hơn nữa ngoài những gì mà họ đang làm. Nói ví dụ như những thảo luận song phương với các nước ở Đông Nam Á, hay Nhật ủng hộ và tham gia mạnh mẽ hơn vào các cơ chế trong khu vực của diễn đàn ASEAN như hội nghị các bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM +). Cho nên với hệ thống và khuôn khổ hiện tại, không có gì nhiều hơn nữa mà Nhật có thể làm.
Việt Hà: theo bà bản hướng dẫn hợp tác quốc phòng song phương nếu được hoàn tất sẽ không có những thay đổi lớn cho khu vực, vậy thì có những thay đổi nào thực sự trong bản hướng dẫn cần được chú ý?
Họ (Trung Quốc) sẽ luôn lo lắng khi một quan chức nào đó của Mỹ nhắc lại cam kết duy trì điều khoản 5 của hiệp ước an ninh Mỹ Nhật và nó bao gồm cả quần đảo Senkaku trong điều khoản này. Cho nên đó là những điểm chính mà họ sẽ lo ngạiYuki Tatsumi: từ phía Nhật bản, bản hướng dẫn này chủ yếu là về việc Nhật và Mỹ có thể làm gì ở biển Hoa Đông nhưng không vượt quá mức đó. Mỹ đã rất hy vọng sử dụng cơ hội này để khiến Nhật tham gia rộng hơn trong các hoạt động quân sự ở khu vực như đã nói lúc trước. Nhưng đây vẫn là môt khoảng cách biệt giữa hai nước. Theo tôi hai bên đang cố gắng tìm cách để thu hẹp được khoảng cách và hoàn tất quá trình này.Yuki Tatsumi
Việt Hà: liệu đây có phải là do ý kiến của người dân Nhật vẫn chưa ủng hộ sự tham gia rộng hơn của quân đội Nhật? liệu Thủ tướng Shinzo Abe có thể làm gì để thay đổi điều này?
Yuki Tatsumi: không có nhiều điều mà Thủ tướng Abe có thể làm. Ý kiến công chúng Nhật khá là chia rẽ ngay cả với các hoạt động tuần tra vượt quá biên giới Nhật. Đặc biệt là ý kiến của người Nhật về hiến pháp và diễn giải lại hiến pháp liên quan đến hoạt động phòng vệ tập thể cũng rất chia rẽ. Theo tôi Thủ tướng Abe khó lòng làm thay đổi được ý kiến của người dân Nhật để có được sự ủng hộ mạnh mẽ cho những tham gia rộng lớn hơn vào các hoạt động quân sự của lực lượng phòng vệ Nhật Bản ra ngoài biên giới Nhật.
Việt Hà: Theo bà, Trung Quốc sẽ có những lo ngại nào liên quan đến chuyến thăm này của Thủ tướng Nhật?
Yuki Tatsumi: tôi nghĩ sẽ không sai nếu dự đoán rằng Trung Quốc sẽ quan ngại về một cam kết rõ ràng hơn của quân đội Mỹ trong các trường hợp khẩn cấp ở vùng biển Đông Á vốn là điểm chính của bản hướng dẫn hợp tác quốc phòng song phương. Họ sẽ luôn lo lắng khi một quan chức nào đó của Mỹ nhắc lại cam kết duy trì điều khoản 5 của hiệp ước an ninh Mỹ Nhật và nó bao gồm cả quần đảo Senkaku trong điều khoản này. Cho nên đó là những điểm chính mà họ sẽ lo ngại.
Việt Hà: theo bà, chuyến thăm này của Thủ tướng Shinzo Abe có ý nghĩa thế nào với Mỹ và Nhật?
Yuki Tatsumi: năm nay là kỷ niệm 70 năm kết thúc cuộc chiến thế giới đẫm máu mà cả Nhật và Mỹ đều tham chiến. đây là dịp để nhìn lại lịch sự quan hệ song phương trong 70 năm qua, sự tiến triển của quan hệ hai nước và hướng tới tương lai. Sẽ rất tốt nếu có được những thành tố bao gồm chính sách về châu Á Thái Bình Dương được nói đến trong chuyến thăm này, nhưng chuyến đi chủ yếu là về mối quan hệ tổng thể giữa hai nước và kỷ niệm 70 năm quan hệ tốt đẹp giữa hai nước.
Việt Hà: Xin cảm ơn bà đã dành cho chúng tôi buổi phỏng vấn
KÝ ƯC 30-4
Ký ức về ngày Sài gòn sụp đổ
Nhà văn Đặng Thơ Thơ sinh ra và lớn lên tại Sài gòn. Sang Mỹ Đặng Thơ Thơ là một trong những người sáng lập trang văn học Da Màu, và Đặng Thơ Thơ cũng được biết đến như một trong những cây bút người Việt viết về giới tính.
Trong tác phẩm mới xuất bản Khả Thể, nhà văn có đề cập đến những ký ức về ngày 30 tháng Tư năm 1975. Trong một dịp sang vùng Washington DC, nhà văn dành cho Kính Hòa một buổi phỏng vấn về những ký ức này, và những nhận xét liên quan đến văn học của người Việt hiện nay. Trước hết nàh văn cho biết:
Trong cuốn Khả Thể, Thơ có hai truyện nói những ký ức về 30/4. Truyện đầu tiên là Mở Tương Lai, là kinh nghiệm của riêng gia đình Thơ, vào lúc miền Nam bị sụp đổ, mình tìm cách thoát khỏi nhưng bị kẹt lại. Trong đó có một đoạn bà ngoại của Thơ Thơ, lúc đó gần chết, phát ho mỗi người một ve thuốc độc. Cái cảm giác của mọi người trước và sau khi nhận ve thuốc độc. Khi mình nhận ve thuốc độc thì mình bình tĩnh lại trước tất cả mọi biến cố, vì mình biết là từ đây mình làm chủ đời sống của mình, mình không sợ bất cứ một áp chế nào của quyền lực đè nặng lên đời sống của mình hay phẩm giá của mình nữa.
Truyện thứ hai là Lịch sử nhìn từ âm bản, trong đó Thơ viết về những người lính, những vị tướng đã tuẫn tiết trong thời điểm 30/4. Thơ rất kính phục họ và đây cũng như là một sự vinh danh giành cho họ. Khi viết truyện này thì Thơ tìm hiểu rất nhiều, và khi viết cũng có rất nhiều nước mắt. Mình cảm thấy mình nợ rất nhiều những cái chết đó, và khi Thơ viết là Thơ muốn những cái chết đó không trở thành uổng phí. Đối với Thơ thì cái hành động tự tử đó rất là đẹp, vì mình làm chủ cái đời sống của mình, chống lại cái áp chế của những chế độ toàn trị.
Kính Hòa: Trong Khả Thể có một truyện đầu tiên là Con yêu tinh thứ 108, thì dường như nó mang những suy nghiệm hiện đại, không có âm hưởng của quá khứ, gần với những suy nghĩ của thế hệ trẻ hiện nay trong và ngoài nước, có phải như vậy không?
Đặng Thơ Thơ: Đó là một cuộc đối thoại nhiều chiều, những thế hệ khác nhau. Nhân vật chính trong này là con hoang của Hồ Chí Minh. Và cũng có đối thoại với những thế lực ở trong nước họ đòi hỏi dân chủ cho Việt nam. Còn một nhân vật khác nữa là Thích Hiển Đạo thì Thơ lấy cảm hứng từ việc Thiền sư Thích Nhất Hạnh về nước lập đàn tràng giải oan. Cái hành động đó làm cho Thơ đặt câu hỏi là tại sao phải giải oan, trong khi họ cần một lời xin lỗi chính thức thì đúng hơn.
Kính Hòa: Trong lĩnh vực văn chương giới tính thì nhà văn Đặng Thơ Thơ được xem là người đi tiên phong trong lĩnh vực này. Khi bắt đầu có những ý tưởng dấn thân vào con đường này thì nhà văn có cảm thấy khó khăn, trở ngại gì không trong một văn hóa khá khắt khe của Việt Nam?
Đặng Thơ Thơ: Thơ không cảm thấy khó khăn, mà thật ra nó còn là thuận lợi vì mình viết về những cái người ta ít viết thì mình còn đất để mà khai phá. Nhưng cũng có những thử thách là mình viết thế nào để tiếp cận độc giả.
Trong giới tính lại có cả khá cạnh chính trị lồng vào đấy, rồi tôn giáo và những cái khác nữa. Nhiều khi Thơ viết xong thì đưa cho bạn bè chứ không đưa cho người trong gia đình như bố hay mẹ đọc. Có những chuyện trong này thì khi xuất bản rồi bố mẹ mới được đọc.
Nói về giới tính thì không cùng, trong này chỉ là một phần thôi. Câu chuyện rõ nhất là Ký ức của người loạn tính. Thơ muốn cho thấy rằng giữa họ và mình, cái sự chúng ta tưởng là khác biệt thực sự không khác biệt. Những thứ mà chúng ta cảm thấy khác biệt là bởi tại vì chúng ta chưa có từ ngữ để dành cho nó thôi. Chúng ta không biết rất nhiều điều, và chúng tưởng những điều chúng ta biết là một chân lý duy nhất. Có những điều chúng ta chưa đặt tên cho nó cho nên tưởng rằng nó không tồn tại, thực sự thì nó có tồn tại hết.
Giữa trắng và đen, giữa nam và nữ là một khoảng rất là dài những màu xám khác nhau.
Kính Hòa: Liên quan đến cộng đồng người Việt ở hải ngoại thì dường như có một dòng văn học đã nảy sinh và trưởng thành, Thơ Thơ đánh giá thế nào về sức sống của nền văn học đó? Tại vì cũng có những ý kiến cho rằng đối với một đồng hải ngoại, bị đứt khỏi mảnh đất quê hương của họ thì khó có thể duy trì nền văn học bằng tiếng bản ngữ của họ?
Đặng Thơ Thơ: Thơ cho rằng thời điểm 75-85 là thời điểm rộ nhất của văn học hải ngoại với những cây bút của miền Nam định cư bên này. Họ có điều kiện mới để viết, họ viết về kinh nghiệm của họ, cũng như là dòng văn chương hoài hương, và dòng văn học chống cộng rất là mạnh.
Sau chiến tranh lạnh, lúc Việt nam và Hoa kỳ đã có giao thương với nhau, điều đó ảnh hưởng tới văn học, nó bắt đầu đi theo một hướng khác, nhất là khi những nhà văn trong nước được cởi trói. Có một sự giao lưu không chính thức giữa những nhà văn phản kháng trong nước và những nhà văn ngoài này. Và với sự bùng nổ của Internet thì có vẻ ranh giới bị xóa mờ đi. Thành thử chúng ta rất là khó định nghĩa thế nào là văn chương hải ngoại. Vì có thể là một người ở trong nước nhưng tác phẩm của họ không thể công bố trong nước mà là ở hai ngoại thì mình đặt tên họ là nhà văn nào? Hay trường hợp chị Dương Thu Hương bên Pháp chẳng hạn, mà sách của chị ấy xuất bản ở Bolsa. Mình gọi chị Dương Thu Hương như thế nào, chị ấy lại không phải là một nhà văn miền Nam, như mình hay nghĩ văn học hải ngoại là sự kéo dài của văn học miền Nam, mà chị Dương Thu Hương là một nhà văn miền Bắc. Thành ra tất cả mọi sự đánh giá hay dán nhãn hiệu rất là khó.
Trong tác phẩm mới xuất bản Khả Thể, nhà văn có đề cập đến những ký ức về ngày 30 tháng Tư năm 1975. Trong một dịp sang vùng Washington DC, nhà văn dành cho Kính Hòa một buổi phỏng vấn về những ký ức này, và những nhận xét liên quan đến văn học của người Việt hiện nay. Trước hết nàh văn cho biết:
Trong cuốn Khả Thể, Thơ có hai truyện nói những ký ức về 30/4. Truyện đầu tiên là Mở Tương Lai, là kinh nghiệm của riêng gia đình Thơ, vào lúc miền Nam bị sụp đổ, mình tìm cách thoát khỏi nhưng bị kẹt lại. Trong đó có một đoạn bà ngoại của Thơ Thơ, lúc đó gần chết, phát ho mỗi người một ve thuốc độc. Cái cảm giác của mọi người trước và sau khi nhận ve thuốc độc. Khi mình nhận ve thuốc độc thì mình bình tĩnh lại trước tất cả mọi biến cố, vì mình biết là từ đây mình làm chủ đời sống của mình, mình không sợ bất cứ một áp chế nào của quyền lực đè nặng lên đời sống của mình hay phẩm giá của mình nữa.
Truyện thứ hai là Lịch sử nhìn từ âm bản, trong đó Thơ viết về những người lính, những vị tướng đã tuẫn tiết trong thời điểm 30/4. Thơ rất kính phục họ và đây cũng như là một sự vinh danh giành cho họ. Khi viết truyện này thì Thơ tìm hiểu rất nhiều, và khi viết cũng có rất nhiều nước mắt. Mình cảm thấy mình nợ rất nhiều những cái chết đó, và khi Thơ viết là Thơ muốn những cái chết đó không trở thành uổng phí. Đối với Thơ thì cái hành động tự tử đó rất là đẹp, vì mình làm chủ cái đời sống của mình, chống lại cái áp chế của những chế độ toàn trị.
Kính Hòa: Trong Khả Thể có một truyện đầu tiên là Con yêu tinh thứ 108, thì dường như nó mang những suy nghiệm hiện đại, không có âm hưởng của quá khứ, gần với những suy nghĩ của thế hệ trẻ hiện nay trong và ngoài nước, có phải như vậy không?
Đặng Thơ Thơ: Đó là một cuộc đối thoại nhiều chiều, những thế hệ khác nhau. Nhân vật chính trong này là con hoang của Hồ Chí Minh. Và cũng có đối thoại với những thế lực ở trong nước họ đòi hỏi dân chủ cho Việt nam. Còn một nhân vật khác nữa là Thích Hiển Đạo thì Thơ lấy cảm hứng từ việc Thiền sư Thích Nhất Hạnh về nước lập đàn tràng giải oan. Cái hành động đó làm cho Thơ đặt câu hỏi là tại sao phải giải oan, trong khi họ cần một lời xin lỗi chính thức thì đúng hơn.
Kính Hòa: Trong lĩnh vực văn chương giới tính thì nhà văn Đặng Thơ Thơ được xem là người đi tiên phong trong lĩnh vực này. Khi bắt đầu có những ý tưởng dấn thân vào con đường này thì nhà văn có cảm thấy khó khăn, trở ngại gì không trong một văn hóa khá khắt khe của Việt Nam?
Đặng Thơ Thơ: Thơ không cảm thấy khó khăn, mà thật ra nó còn là thuận lợi vì mình viết về những cái người ta ít viết thì mình còn đất để mà khai phá. Nhưng cũng có những thử thách là mình viết thế nào để tiếp cận độc giả.
Trong giới tính lại có cả khá cạnh chính trị lồng vào đấy, rồi tôn giáo và những cái khác nữa. Nhiều khi Thơ viết xong thì đưa cho bạn bè chứ không đưa cho người trong gia đình như bố hay mẹ đọc. Có những chuyện trong này thì khi xuất bản rồi bố mẹ mới được đọc.
Nói về giới tính thì không cùng, trong này chỉ là một phần thôi. Câu chuyện rõ nhất là Ký ức của người loạn tính. Thơ muốn cho thấy rằng giữa họ và mình, cái sự chúng ta tưởng là khác biệt thực sự không khác biệt. Những thứ mà chúng ta cảm thấy khác biệt là bởi tại vì chúng ta chưa có từ ngữ để dành cho nó thôi. Chúng ta không biết rất nhiều điều, và chúng tưởng những điều chúng ta biết là một chân lý duy nhất. Có những điều chúng ta chưa đặt tên cho nó cho nên tưởng rằng nó không tồn tại, thực sự thì nó có tồn tại hết.
Giữa trắng và đen, giữa nam và nữ là một khoảng rất là dài những màu xám khác nhau.
Kính Hòa: Liên quan đến cộng đồng người Việt ở hải ngoại thì dường như có một dòng văn học đã nảy sinh và trưởng thành, Thơ Thơ đánh giá thế nào về sức sống của nền văn học đó? Tại vì cũng có những ý kiến cho rằng đối với một đồng hải ngoại, bị đứt khỏi mảnh đất quê hương của họ thì khó có thể duy trì nền văn học bằng tiếng bản ngữ của họ?
Đặng Thơ Thơ: Thơ cho rằng thời điểm 75-85 là thời điểm rộ nhất của văn học hải ngoại với những cây bút của miền Nam định cư bên này. Họ có điều kiện mới để viết, họ viết về kinh nghiệm của họ, cũng như là dòng văn chương hoài hương, và dòng văn học chống cộng rất là mạnh.
Sau chiến tranh lạnh, lúc Việt nam và Hoa kỳ đã có giao thương với nhau, điều đó ảnh hưởng tới văn học, nó bắt đầu đi theo một hướng khác, nhất là khi những nhà văn trong nước được cởi trói. Có một sự giao lưu không chính thức giữa những nhà văn phản kháng trong nước và những nhà văn ngoài này. Và với sự bùng nổ của Internet thì có vẻ ranh giới bị xóa mờ đi. Thành thử chúng ta rất là khó định nghĩa thế nào là văn chương hải ngoại. Vì có thể là một người ở trong nước nhưng tác phẩm của họ không thể công bố trong nước mà là ở hai ngoại thì mình đặt tên họ là nhà văn nào? Hay trường hợp chị Dương Thu Hương bên Pháp chẳng hạn, mà sách của chị ấy xuất bản ở Bolsa. Mình gọi chị Dương Thu Hương như thế nào, chị ấy lại không phải là một nhà văn miền Nam, như mình hay nghĩ văn học hải ngoại là sự kéo dài của văn học miền Nam, mà chị Dương Thu Hương là một nhà văn miền Bắc. Thành ra tất cả mọi sự đánh giá hay dán nhãn hiệu rất là khó.
Kính Hòa: Có những nhà văn người Việt nhưng viết bằng tiếng Anh, trong giòng chính của nước Mỹ, thì Thơ Thơ có nhận định gì về họ không?
Đặng Thơ Thơ: Thơ đã đọc những truyện của chị Lan Cao, nhất là cuốn mới nhất Hoa Sen Trong Bão Tố, rồi Thơ cũng thích đọc Đinh Linh. Rồi Monique Trương, Lê Thị Diễm Thúy, rồi nhất là gần đây là Lại Thanh Hà đoạt giải thưởng về tiểu thuyết viết cho tuổi thanh thiếu niên. Thơ rất tin tưởng là họ sẽ có tiến nói trong văn chương giòng chính. Và khi người ta nhìn những gì họ viết thì người ta nhìn họ là những nhà văn thôi, xin đừng đặt tên cho họ là nhà văn Mỹ gốc Việt (cười.)
Kính Hòa: Xin hỏi câu cuối là có lúc nào Thơ Thơ nghĩ là tác phẩm của mình sẽ được đọc ở Việt Nam một cách chính thức không?
Đặng Thơ Thơ: Tất nhiên đó là điều mình ao ước. Sau khi ra mắt sách xong Thơ sẽ post cuốn Khả Thể lên mục Trên kệ sách của trang Da Màu thì bạn đọc trong nước có thể đọc dduwwojc, nhưng đầu tiên phải tìm cách vượt tường lửa trước (cười.)
Kính Hòa: Xin cám ơn nhà văn Đặng Thơ Thơ đã dành thời gian cho chúng tôi thực hiện cuộc phỏng vấn trong chuyên mục Ký ức 40 năm.
Đặng Thơ Thơ: Xin cám ơn tất cả các thính giả của Đài Á Châu Tự Do.
Posted by sontrung at 1:59 AM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 359
ẨU NHẬT TÂN * NỘI BỘ CỘNG ĐẢNG
Tương quan nội bộ thay đổi lớn trước Hội nghị 11 về nhân sự khóa tới
Cầu Nhật Tân - Sau một số thất bại tạm thời tại mấy Hội nghị Trung ương gần đây, hàng loạt quyết định nhân sự vừa qua cho thấy phe Đảng trị đã có những động thái mang tầm vóc chiến lược lấy lại sức mạnh và lực lượng để chuẩn bị cho giai đoạn quan trọng nhất có tính quyết định đối với nhân sự khóa 12 tới.
Trước tiên, hơn 50 trường hợp điều động công tác về địa phương hầu hết thuộc diện “người đằng mình”. Thậm chí nhiều cán bộ của Văn phòng Trung ương, trường Đảng, báo Nhân Dân, Tạp chí Cộng sản, Đài Tiếng nói, Đài Truyền hình Việt Nam cũng được huy động về ém dưới chức danh lãnh đạo thường trực tại một số tỉnh có địa bàn quan trọng khu vực Tây Bắc, Đông Bắc, đồng bằng Bắc Bộ, miền Trung, Tây Nguyên, Nam Bộ. Một số Ban chỉ đạo “chân không đến đất, cật không đến giời”, tổ chức chính trị, đoàn thể xã hội đều có “người đằng mình” cắm vào. Có lãnh đạo tổ chức đoàn thể khối đối ngoại (ủy viên Trung ương) đã bị Thủ tướng ký quyết định nghỉ hưu năm ngoái (dù quá nhiều tuổi) nhưng vẫn được Tổ chức Đảng bật đèn xanh cho ở lại để chuẩn bị thành công đại hội cơ sở. Số nhân sự nói trên đóng vai trò là lực lượng hậu bị hùng hậu bổ sung cho đội ngũ lãnh đạo Trung ương và các địa phương và đặc biệt sẽ là nguồn phiếu dồi dào làm loãng bất cứ nhóm lợi ích nào có ý đồ khuynh loát Ban Chấp hành.
Những Ban Đảng quan trọng được chuẩn bị nhân sự đều bằng “người đằng mình”: Tổ chức, Kiểm tra, Tuyên giáo, Dân vận, Nội chính, Kinh tế, Văn phòng Trung ương Đảng. Hàng ngũ tư lệnh, chính ủy các quân binh chủng, quân khu, quân đoàn, học viện, nhà trường thuộc diện “người đằng mình” đều được Tổ chức gọi đi các lớp lãnh đạo dự nguồn. Nhân sự lãnh đạo TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh đã xong và đều có thâm niên hoạt động Đoàn, Đảng. Rất quan trọng là lãnh đạo Công an, Quốc phòng, Tuyên giáo thì nhìn vào sắp xếp nhân sự mới đây, người ta có thể đoán ngay ra.
Danh sách đề xuất mở rộng nhân sự cho Bộ Chính trị vẫn được giữ bí mật nhưng qua chuẩn bị nhân sự ráo riết gần đây, không khó để nhận ra “người đằng mình” chiếm đa số.
Về cơ cấu: các Ban Nội chính, Kinh tế, Văn Phòng Trung ương và đặc biệt Học viện Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (trường Đảng) được đề xuất có ghế trong Bộ chính trị. Một số tỉnh, thành, ngành quan trọng có quyết định cho tăng ghế trong Trung ương khóa tới thì đều đã được "gia cố" chắc chắn. Nhiều cơ quan thuộc ngành tư pháp, bộ quan trọng và cơ quan ngang bộ trước đây là sân riêng của các nhóm lợi ích thì nhân sự đã có dấu hiệu trở cờ, đổi bên.
Với việc mở rộng số Ủy viên Ban chấp hành Trung ương (lên đến 290) khóa tới, lực lượng trước đây ủng hộ phe lợi ích nhóm đang bị pha loãng và phân hóa. Dù tại các Hội nghị trước, phe lợi ích nhóm chiếm thế thượng phong, song hiện gặp khó khăn là thiếu lực lượng hậu bị và mất dần các địa bàn chiến lược, đó là chưa kể nhiều thành phần đã có biểu hiện dao động, đổi bên. Tình hình tương quan lực lượng cho thấy phe Đảng trị xem ra đã chiếm thế thượng phong trước thềm hội nghị Trung ương 11 sắp được triệu tập có tính chất cực kỳ quan trọng nhằm chuẩn bị cho Đại hội 12 diễn ra vào tháng 1 năm 2016.
Đặc biệt, với kế hoạch về hợp tác công tác đảng giữa hai Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam đạt được trong chuyến đi của ông Tổng vừa qua, Trung Quốc sẽ cung cấp những hỗ trợ được cho là quan trọng để tăng cường sự lãnh đạo của đảng anh em. Giới phân tích cho rằng sự hỗ trợ từ phía Trung Quốc, ngoài dành cho các công tác đảng thuần túy, còn đặt trọng tâm vào lĩnh vực then chốt là bảo vệ và xây dựng đảng cũng như đáp ứng nhu cầu của Đảng Cộng sản Việt Nam về một số nguồn lực thiết yếu. Với kế hoạch này, các nhà phân tích cho rằng ảnh hưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với Đảng Cộng sản Việt Nam còn sâu và rộng hơn nhiều so với những gì Đảng Cộng sản Liên Xô trong quá khứ từng có với Đảng Cộng sản Việt Nam. "Hợp tác Đảng" đã, đang và sẽ tiếp tục là kênh quan trọng nhất mà Trung Quốc khai thác triệt để nhằm duy trì ảnh hưởng toàn diện, thường xuyên, lâu dài đối với Việt Nam.
Cũng trong chuyến đi, một vài nhân vật đã nhận được sự hậu thuẫn đặc biệt mạnh mẽ của Trung Quốc, có thể sẽ nắm những chức vụ rất cao tại Đại hội 12.
© Blog Cầu Nhật Tân 11/04/2015.
Saturday, April 11, 2015
VÕ KỲ ĐIỀN * TRƯỜNG XƯA TRỊNH HOÀI ĐỨC
Võ Kỳ Điền là cựu sinh viên Đại học Sư phạm Sàigòn (khóa 1961-1964). Ông bắt đầu viết từ năm 1980, từng cộng tác với nhiều tập san và nhật báo.
Tác phẩm đã xuất bản: Kẻ đưa đường (1986), Pulau Bidong Miền đất lạ (1992).
Ái hữu ĐHSP Sàigòn hân hạnh giới thiệu bài viết sau đây của Võ Kỳ Điền đã đăng trên trang Web "Văn Tuyển" (http://vantuyen.net)
Tác phẩm đã xuất bản: Kẻ đưa đường (1986), Pulau Bidong Miền đất lạ (1992).
Ái hữu ĐHSP Sàigòn hân hạnh giới thiệu bài viết sau đây của Võ Kỳ Điền đã đăng trên trang Web "Văn Tuyển" (http://vantuyen.net)
Em Từ Minh Tâm mến,
Sáng nay, mở trang nhà Trung Học Trịnh Hoài Đức Bình Dương em chăm sóc, tìm đọc bài Hoàng Anh viết về trường xưa, thầy nhớ lại những ngày tháng thơ mộng cũ mà thẩn thờ xúc động. Những dòng chữ lần lần được đọc qua, những dòng đời bạn bè xuất hiện tiếp nối, cái thế giới nhỏ bé của thầy trò mình ngày nào ở Búng, nơi thôn xóm nhỏ, có ngôi trường nhỏ, có nương rẩy xanh tươi, có quốc lộ 13 trưa mù bụi đỏ, thoáng hiện lên như một kỷ niệm, có chuyện nhớ có chuyện quên. Cái gì đẹp đẽ thì thân yêu mà cái gì thân yêu thì đều đẹp đẽ, phải không Từ Minh Tâm?… Thầy nói như vậy, vì nó là một phần đời của thầy trò mình mà, Hoàng Anh viết ký ức trường cũ bằng cả tấm lòng và thầy trò mình cũng đọc bằng cả tấm lòng.
Hoàng Anh đã khiến thầy nhớ tới thầy Phạm Đức Liên, Nguyễn Thiện Thuật dạy Sử, Trần Minh Đẩu dạy Lý Hóa, Lê Vĩnh Thọ, Đoàn Phế dạy Văn, Bùi Thế San dạy Vạn Vật, Phùng Quang Tuấn vừa du học Tân Tây Lan về dáng vẻ hào hoa phong nhã y như Tây, dạy Anh Văn. Riêng thầy Nguyễn Trí Lục và thầy quen biết nhau từ lúc còn ở Sóc Trăng, lúc đó thầy Lục làm Giám Học của trung học Hoàng Diệu, các bạn nầy sao mà đẹp trai, thiệt là đàn ông hết sức, ăn nói duyên dáng khéo léo, tế nhị, hấp dẫn,… Các thầy Lê Vĩnh Thọ, Nguyễn Đông Ngạc, Nguyễn Nhật Duật, Lê Văn Bình,… thì tài hoa, danh tiếng vang lừng. Thầy thường mua các tạp chí Văn, Văn Học, Bách Khoa.. kiếm bài vở của các bạn mình, đọc say mê và hãnh diện. Tuy vậy mỗi khi gặp nhau, đứng bên họ thầy đâm lúng túng, ngại ngùng, có lẽ bị mặc cảm thua kém, cho dầu họ là những bạn thân.
Sau nầy khi hơi lớn tuổi, thầy bớt đi nhiều mặc cảm, có nhiều dịp gặp lại bạn bè cũ, như Nguyễn Đông Ngạc, Phùng Quang Tuấn, Phạm Đức Liên, Đoàn Phế bên nầy, mỗi lần gặp lại nhau là vui lắm. Nhứt là bạn Phạm Đức Liên, mọi khó khăn, buồn phiền mà được Liên giải tỏa thì chuyện khó cũng thành dễ và chuyện dễ thì kể như không còn. Thầy nghe xong cảm thấy thêm một năng lực mạnh mẽ, một ý chí vươn tới, mọi buồn rầu, chán nản, ủ ê, bay biến đi đâu mất tiêu hết trơn. Thầy Liên có lối nói chuyện hấp dẫn, hăng say, tích cực, tuơi vui…
Môn Pháp Văn có thầy Nguyễn Trọng Nhượng ưa cười đùa, dí dỏm, cái trán láng bóng sói sọi, thường nhắc nhở thầy nhiều câu kỳ lạ mà vui lắm, thiệt tình không dám lộ cho người khác nghe. Thầy Nguyễn Văn Mẹo tánh hiền lành trầm lặng, tai hơi bị điếc nhẹ, hồi nhỏ rất ưa đá banh ở sân nhà thờ Phú Cường, về già lại thích mò mẫm học chữ nho, cả hai đều dễ tánh và dễ thương. Thầy Trần Khắc Cung rất đạo đức, đàng hoàng, có tư cách nhưng kỹ lưỡng và hơi nghiêm khắc... Nhắc thầy Cung thì nhớ tới thầy Nguyễn Trường Phán, hai bạn nầy từ nhà dòng ra mà, đâu phải trần tục bình thường như các anh em khác…
Nhắc tới các bạn, làm sao mà thầy quên được cô Trần Thị Quỳ, cô Hoàng Thị Đàn Hội, cô Phi Hoàng… các người đẹp một thời khiến cả thầy lẫn trò Trịnh Hoài Đức ngẩn ngơ. Còn một cô nữa, thầy không dám nhắc tới tên. Thầy có cái thói quen xấu, hễ thấy cô nào đẹp thì sợ, sợ lắm, không biết tại sao! Bây giờ thầy đang ở xứ tuyết, em cũng dư biết Canada rất lạnh, lạnh từ trong ra ngoài và lạnh từ ngoài vào trong. Trong một bức thư gởi cho thầy, thầy Thanh Tâm Tuyền đã nói "thầy trò mình đang bị ướp trong nước đá". Quả thiệt là đúng y như vậy, thầy đang sống trong một cái tủ lạnh rất là lớn. Ngồi trong khối nước đá (chắc là giống Âu Dương Phong!) nhìn cây cỏ, nhà cửa, xe cộ lạnh queo, không biết những đóa hoa đào năm xưa bây giờ ra sao, trôi dạt đi đâu, về đâu? Nhân diện bất tri hà xứ khứ, đào hoa y cựu tiếu đông phong.
Cũng câu hỏi nầy, thầy đã tò mò hỏi nhà văn Bình Nguyên Lộc về cô Tô Mỹ Hạnh, cô giáo sư dạy Văn đẹp đẽ, dễ thương nầy đến Trịnh Hoài Đức hồi nào và đi hồi nào có còn ai nhớ được? (ai là thầy đó, chớ Ban Giám Hiệu là phải biết, đương nhiên!) được nhà văn trả lời bằng một bức thư riêng, thầy cất giữ từ lâu lắm như một kỷ niệm quí báu của Bình Nguyên Lộc, một nhà văn lớn của Việt Nam mình.
Không biết bức thư nầy, có phải là bức thư cuối cùng trong đời nhà văn không, vì khi thầy nhận được vào ngày 2 fevrier 1987 thì vài ngày sau, có tin nhà văn qua đời. Các em để ý tấm lòng ưu ái của BNL đối với một nhà văn trẻ mới viết như thầy, tuy liên lạc lần đầu mà được ông coi như là văn hữu quen biết từ lâu lắm. Thầy chép lại ra đây để tất cả cùng nhớ về Trịnh Hoài Đức và Bình Dương. Chữ ông viết nhỏ xíu và rất khó đọc, thầy phải dùng kính lúp mới đọc ra mà e rằng còn sai sót. Những đoạn viết chi tiết riêng tư đời cô Mỹ Hạnh (con gái của BNL), thầy tự ý bỏ bớt…
Sáng nay, mở trang nhà Trung Học Trịnh Hoài Đức Bình Dương em chăm sóc, tìm đọc bài Hoàng Anh viết về trường xưa, thầy nhớ lại những ngày tháng thơ mộng cũ mà thẩn thờ xúc động. Những dòng chữ lần lần được đọc qua, những dòng đời bạn bè xuất hiện tiếp nối, cái thế giới nhỏ bé của thầy trò mình ngày nào ở Búng, nơi thôn xóm nhỏ, có ngôi trường nhỏ, có nương rẩy xanh tươi, có quốc lộ 13 trưa mù bụi đỏ, thoáng hiện lên như một kỷ niệm, có chuyện nhớ có chuyện quên. Cái gì đẹp đẽ thì thân yêu mà cái gì thân yêu thì đều đẹp đẽ, phải không Từ Minh Tâm?… Thầy nói như vậy, vì nó là một phần đời của thầy trò mình mà, Hoàng Anh viết ký ức trường cũ bằng cả tấm lòng và thầy trò mình cũng đọc bằng cả tấm lòng.
Hoàng Anh đã khiến thầy nhớ tới thầy Phạm Đức Liên, Nguyễn Thiện Thuật dạy Sử, Trần Minh Đẩu dạy Lý Hóa, Lê Vĩnh Thọ, Đoàn Phế dạy Văn, Bùi Thế San dạy Vạn Vật, Phùng Quang Tuấn vừa du học Tân Tây Lan về dáng vẻ hào hoa phong nhã y như Tây, dạy Anh Văn. Riêng thầy Nguyễn Trí Lục và thầy quen biết nhau từ lúc còn ở Sóc Trăng, lúc đó thầy Lục làm Giám Học của trung học Hoàng Diệu, các bạn nầy sao mà đẹp trai, thiệt là đàn ông hết sức, ăn nói duyên dáng khéo léo, tế nhị, hấp dẫn,… Các thầy Lê Vĩnh Thọ, Nguyễn Đông Ngạc, Nguyễn Nhật Duật, Lê Văn Bình,… thì tài hoa, danh tiếng vang lừng. Thầy thường mua các tạp chí Văn, Văn Học, Bách Khoa.. kiếm bài vở của các bạn mình, đọc say mê và hãnh diện. Tuy vậy mỗi khi gặp nhau, đứng bên họ thầy đâm lúng túng, ngại ngùng, có lẽ bị mặc cảm thua kém, cho dầu họ là những bạn thân.
Sau nầy khi hơi lớn tuổi, thầy bớt đi nhiều mặc cảm, có nhiều dịp gặp lại bạn bè cũ, như Nguyễn Đông Ngạc, Phùng Quang Tuấn, Phạm Đức Liên, Đoàn Phế bên nầy, mỗi lần gặp lại nhau là vui lắm. Nhứt là bạn Phạm Đức Liên, mọi khó khăn, buồn phiền mà được Liên giải tỏa thì chuyện khó cũng thành dễ và chuyện dễ thì kể như không còn. Thầy nghe xong cảm thấy thêm một năng lực mạnh mẽ, một ý chí vươn tới, mọi buồn rầu, chán nản, ủ ê, bay biến đi đâu mất tiêu hết trơn. Thầy Liên có lối nói chuyện hấp dẫn, hăng say, tích cực, tuơi vui…
Môn Pháp Văn có thầy Nguyễn Trọng Nhượng ưa cười đùa, dí dỏm, cái trán láng bóng sói sọi, thường nhắc nhở thầy nhiều câu kỳ lạ mà vui lắm, thiệt tình không dám lộ cho người khác nghe. Thầy Nguyễn Văn Mẹo tánh hiền lành trầm lặng, tai hơi bị điếc nhẹ, hồi nhỏ rất ưa đá banh ở sân nhà thờ Phú Cường, về già lại thích mò mẫm học chữ nho, cả hai đều dễ tánh và dễ thương. Thầy Trần Khắc Cung rất đạo đức, đàng hoàng, có tư cách nhưng kỹ lưỡng và hơi nghiêm khắc... Nhắc thầy Cung thì nhớ tới thầy Nguyễn Trường Phán, hai bạn nầy từ nhà dòng ra mà, đâu phải trần tục bình thường như các anh em khác…
Nhắc tới các bạn, làm sao mà thầy quên được cô Trần Thị Quỳ, cô Hoàng Thị Đàn Hội, cô Phi Hoàng… các người đẹp một thời khiến cả thầy lẫn trò Trịnh Hoài Đức ngẩn ngơ. Còn một cô nữa, thầy không dám nhắc tới tên. Thầy có cái thói quen xấu, hễ thấy cô nào đẹp thì sợ, sợ lắm, không biết tại sao! Bây giờ thầy đang ở xứ tuyết, em cũng dư biết Canada rất lạnh, lạnh từ trong ra ngoài và lạnh từ ngoài vào trong. Trong một bức thư gởi cho thầy, thầy Thanh Tâm Tuyền đã nói "thầy trò mình đang bị ướp trong nước đá". Quả thiệt là đúng y như vậy, thầy đang sống trong một cái tủ lạnh rất là lớn. Ngồi trong khối nước đá (chắc là giống Âu Dương Phong!) nhìn cây cỏ, nhà cửa, xe cộ lạnh queo, không biết những đóa hoa đào năm xưa bây giờ ra sao, trôi dạt đi đâu, về đâu? Nhân diện bất tri hà xứ khứ, đào hoa y cựu tiếu đông phong.
Cũng câu hỏi nầy, thầy đã tò mò hỏi nhà văn Bình Nguyên Lộc về cô Tô Mỹ Hạnh, cô giáo sư dạy Văn đẹp đẽ, dễ thương nầy đến Trịnh Hoài Đức hồi nào và đi hồi nào có còn ai nhớ được? (ai là thầy đó, chớ Ban Giám Hiệu là phải biết, đương nhiên!) được nhà văn trả lời bằng một bức thư riêng, thầy cất giữ từ lâu lắm như một kỷ niệm quí báu của Bình Nguyên Lộc, một nhà văn lớn của Việt Nam mình.
Không biết bức thư nầy, có phải là bức thư cuối cùng trong đời nhà văn không, vì khi thầy nhận được vào ngày 2 fevrier 1987 thì vài ngày sau, có tin nhà văn qua đời. Các em để ý tấm lòng ưu ái của BNL đối với một nhà văn trẻ mới viết như thầy, tuy liên lạc lần đầu mà được ông coi như là văn hữu quen biết từ lâu lắm. Thầy chép lại ra đây để tất cả cùng nhớ về Trịnh Hoài Đức và Bình Dương. Chữ ông viết nhỏ xíu và rất khó đọc, thầy phải dùng kính lúp mới đọc ra mà e rằng còn sai sót. Những đoạn viết chi tiết riêng tư đời cô Mỹ Hạnh (con gái của BNL), thầy tự ý bỏ bớt…
Rancho Cordova. Mồng hai Tết ta.
Anh Võ Kỳ Điền quí mến.
Tôi được sách của anh chiều mùng một Tết. Đáng lý là phải đợi đọc hết sách mới có thư phúc đáp và cám ơn, nhưng tưởng năm mới nên viết thư thăm văn hữu thì hơn, nên tôi viết ngay, hôm nay, mồng hai Tết ta, Nhưng viết ngay mà thư không tới ngay, vì ở chỗ tôi định cư bưu điện không làm việc thứ bảy và chúa nhựt, tức mồng ba mồng bốn Tết.
Té ra anh đã sống ở Bình Dương. Tôi cũng có sống ở đó 2 năm (1934 và 1935) và truyện “Ăn cơm chưa” trong quyển Ký Thác, xảy ra ở đó, với lại tiểu thuyết dài “Hố Nước quái xứ Bình Dương” (đăng ở nhựt báo Chánh Luận) cũng xảy ra ở đó. Chưa đọc hết sách anh, nhưng có đọc một chuyện rồi, trong đó hai địa danh Cầu Ông Đành và Tương-Bình -Hiệp đã làm tôi bị xúc động mạnh, nó nhắc nhở thời trai trẻ của tôi ở đó.
Và té ra anh có dạy chung trường với con Mỹ Hạnh... Dạy ở Trịnh Hoài Đức một lúc, nó xin thuyên chuyển về Sài Gòn, rồi xin học bỗng đi du học ở Washington D.C. Tốt nghiệp xong, nó về nước phục vụ và lấy chồng...
...Mặc dầu chỉ sống ở Bình Dương có hai năm, tôi còn giữ rất nhiều kỷ niệm ở đó, vì 1934, 1935 là thời thái bình, chỗ nào tôi lội cũng tới hết... nên đã biết rất nhiều nơi. Anh lớn lên thì trong tỉnh đã có chiến tranh rồi, chắc những nơi hẻo lánh, anh khó tới được. Hiện giờ Cộng Sản đã đặt tên mới cho tỉnh nầy là tỉnh Sông Bé.
Chúc anh Năm Mới được an khang và hạnh phúc bên cạnh gia đình, để sáng tác thêm. Các bạn viết lách miền Nam đi ra nước ngoài ít quá, chỉ có anh, anh Kiệt Tấn, anh Hồ Trường An, anh Nguyễn Văn Sâm và tôi thôi. Nghe nói phái nữ gốc miền Nam cũng có nhưng tôi chưa quen ai cả, trong giới nữ gốc Nam. Xin hẹn ở các thư sau.
Thân.
BNL
Anh Võ Kỳ Điền quí mến.
Tôi được sách của anh chiều mùng một Tết. Đáng lý là phải đợi đọc hết sách mới có thư phúc đáp và cám ơn, nhưng tưởng năm mới nên viết thư thăm văn hữu thì hơn, nên tôi viết ngay, hôm nay, mồng hai Tết ta, Nhưng viết ngay mà thư không tới ngay, vì ở chỗ tôi định cư bưu điện không làm việc thứ bảy và chúa nhựt, tức mồng ba mồng bốn Tết.
Té ra anh đã sống ở Bình Dương. Tôi cũng có sống ở đó 2 năm (1934 và 1935) và truyện “Ăn cơm chưa” trong quyển Ký Thác, xảy ra ở đó, với lại tiểu thuyết dài “Hố Nước quái xứ Bình Dương” (đăng ở nhựt báo Chánh Luận) cũng xảy ra ở đó. Chưa đọc hết sách anh, nhưng có đọc một chuyện rồi, trong đó hai địa danh Cầu Ông Đành và Tương-Bình -Hiệp đã làm tôi bị xúc động mạnh, nó nhắc nhở thời trai trẻ của tôi ở đó.
Và té ra anh có dạy chung trường với con Mỹ Hạnh... Dạy ở Trịnh Hoài Đức một lúc, nó xin thuyên chuyển về Sài Gòn, rồi xin học bỗng đi du học ở Washington D.C. Tốt nghiệp xong, nó về nước phục vụ và lấy chồng...
...Mặc dầu chỉ sống ở Bình Dương có hai năm, tôi còn giữ rất nhiều kỷ niệm ở đó, vì 1934, 1935 là thời thái bình, chỗ nào tôi lội cũng tới hết... nên đã biết rất nhiều nơi. Anh lớn lên thì trong tỉnh đã có chiến tranh rồi, chắc những nơi hẻo lánh, anh khó tới được. Hiện giờ Cộng Sản đã đặt tên mới cho tỉnh nầy là tỉnh Sông Bé.
Chúc anh Năm Mới được an khang và hạnh phúc bên cạnh gia đình, để sáng tác thêm. Các bạn viết lách miền Nam đi ra nước ngoài ít quá, chỉ có anh, anh Kiệt Tấn, anh Hồ Trường An, anh Nguyễn Văn Sâm và tôi thôi. Nghe nói phái nữ gốc miền Nam cũng có nhưng tôi chưa quen ai cả, trong giới nữ gốc Nam. Xin hẹn ở các thư sau.
Thân.
BNL
Như vậy là cô Tô Mỹ Hạnh thương yêu của bé Nguyễn Thị Nga năm nào, được bảo lãnh định cư ở Mỹ với cha mẹ và gia đình từ năm 1985. Nhà văn Bình Nguyên Lộc chỉ biết là thầy dạy chung trường với cô Mỹ Hạnh, đâu biết là thầy học cùng lớp, thường giành chỗ ngồi sau lưng cô Mỹ Hạnh ở Đại Học Văn Khoa năm nào. Thiệt tình, trường Trịnh Hoài Đức sao quy tụ nhiều nữ giáo sư đẹp, khiến người ta dễ chết mê chết mệt lắm. Và cũng ở mái trường thân yêu đó, có một ông thầy dạy Văn ngờ nghệch, lạng quạng, bị một cô giáo Pháp Văn yêu kiều đẹp đẽ của tụi em hạ đo ván từ lâu lắm rồi. Chết thiệt tình, chớ không kiểu làm bộ chết… chết ngáp ngáp, chết ngất ngơ!
***
Nơi ngôi trường Trịnh Hoài Đức nầy, tháng năm thầy trò quây quần học hành, vui đùa bên nhau, những câu chuyện kể thoạt nghe hình như chưa lâu lắm, chuyện của thầy của bạn, mà cứ tưởng chuyện của mình, rõ ràng còn mới rành rành, nào dè đếm kỹ ngày tháng thì gần nửa thế kỷ rồi! Nửa thế kỷ biến hiện như một giấc mơ, mới đó ngày nào, nào thầy, nào trò, nào sinh hoạt, nào học hành, những cuộc vui chơi một thời trẻ dại. Hễ mỗi lần nhắc lại, nghe lòng xao xuyến biết bao nhiêu, thương yêu biết bao nhiêu! Hiện giờ ngôi trường Trịnh Hoài Đức thân yêu của thầy trò mình vẫn còn đó, mà bạn bè, kẻ chân trời, người góc biển, lên và xuống, còn và mất, vui và buồn, thương và nhớ, nói sao cho hết!
Đã trót tương phùng trong một quán, dẫu trà ôi rượu nhạt cũng là duyên". Làm sao tìm lại được thời thơ mộng cũ, Từ Minh Tâm ơi!
Võ Kỳ Điền
***
Nơi ngôi trường Trịnh Hoài Đức nầy, tháng năm thầy trò quây quần học hành, vui đùa bên nhau, những câu chuyện kể thoạt nghe hình như chưa lâu lắm, chuyện của thầy của bạn, mà cứ tưởng chuyện của mình, rõ ràng còn mới rành rành, nào dè đếm kỹ ngày tháng thì gần nửa thế kỷ rồi! Nửa thế kỷ biến hiện như một giấc mơ, mới đó ngày nào, nào thầy, nào trò, nào sinh hoạt, nào học hành, những cuộc vui chơi một thời trẻ dại. Hễ mỗi lần nhắc lại, nghe lòng xao xuyến biết bao nhiêu, thương yêu biết bao nhiêu! Hiện giờ ngôi trường Trịnh Hoài Đức thân yêu của thầy trò mình vẫn còn đó, mà bạn bè, kẻ chân trời, người góc biển, lên và xuống, còn và mất, vui và buồn, thương và nhớ, nói sao cho hết!
Đã trót tương phùng trong một quán, dẫu trà ôi rượu nhạt cũng là duyên". Làm sao tìm lại được thời thơ mộng cũ, Từ Minh Tâm ơi!
Võ Kỳ Điền
(15-05-2009)
BIỂN ĐÔNG
Hải quân Mỹ: Trung Quốc đang gia tăng nhanh chóng đội tàu hải cảnh
Tàu hải cảnh Trung Quốc số hiệu 2506 trong khu vực cách đảo Senkaku hay Điếu Ngư ở biển Hoa Đông 66km. (Ảnh: AP/Lực lượng Tuần duyên Khu vực 11 Nhật Bản)
Tin liên hệ
- Báo cáo: Vùng Đông Á nhiều rủi ro an ninh trong năm 2014 vì Trung Quốc
- Trung Quốc phản pháo chỉ trích của Mỹ về vấn đề Biển Đông
- Mỹ lo Trung Quốc ỷ mạnh hiếp yếu ở Biển Đông
- Thái Lan xích gần Trung Quốc trong khi lạnh nhạt với phương Tây
- Trung Quốc lên tiếng giải thích về hoạt động cải tạo ở Biển Đông
Ðường dẫn
11.04.2015
Một báo cáo mới của Hải quân Mỹ cho biết Trung Quốc đã tăng 25 phần trăm số lượng tàu hải cảnh của mình trong ba năm qua. Đây là những loại tàu mà lực lượng Cảnh sát Biển của Trung Quốc thường sử dụng cho hầu hết những cuộc tuần tra ở Biển Đông.
Trung Quốc hiện có đội tàu Cảnh sát Biển lớn nhất thế giới, nhiều hơn tàu của các nước láng giềng Nhật Bản, Việt Nam, Indonesia, Malaysia và Philippines cộng lại, theo bản báo cáo.
Báo cáo cho biết trong năm 2014, Trung Quốc bắt đầu đóng, hạ thủy hoặc đưa vào hoạt động hơn 60 tàu, và một số lượng tàu tương tự đã được hoạch định trong năm 2015. "Trong năm 2013 và 2014, Trung Quốc hạ thủy tàu hải quân nhiều hơn bất kỳ nước nào khác và dự kiến tiếp tục xu hướng này suốt những năm 2015-16," báo cáo nói.
Báo cáo lưu ý rằng mặc dù nền kinh tế đang chậm lại, Trung Quốc vẫn tiếp tục gia tăng chi tiêu quân sự ở mức hai chữ số. Hồi tháng Ba, Trung Quốc loan báo ngân sách quốc phòng là 141,5 tỉ đôla, tăng 10%.
Để phù hợp với mục tiêu của Chủ tịch Tập Cận Bình là biến Trung Quốc thành một cường quốc hải quân lớn, Trung Quốc sẽ có một lực lượng hải quân mạnh hơn với tầm hoạt động xa hơn trong thập niên tới với nhiều tàu sân bay (Trung Quốc hiện chỉ mới có một chiếc), tàu ngầm phi đạn đạn đạo, và có thể một tàu đổ bộ boong lớn. Tại thời điểm này, báo cáo cho biết Hải quân Trung Quốc được xây dựng quanh những tàu khu trục, tàu hộ tống và tàu ngầm thông thường.
Báo cáo của Hải quân Mỹ cũng xác nhận những tin tức gần đây mà truyền thông nhà nước Trung Quốc loan tải, cho biết Trung Quốc đã triển khai những phi đạn YJ-18 thuộc thế hệ những phi đạn hành trình siêu thanh chống tàu mới. Giới chuyên gia quân sự nhận định đây có thể là thách thức chưa từng có đối với những hệ thống phòng không của các tàu Mỹ và đồng minh.
Nguồn: oni.navy.mil, New York Times
Trung Quốc phản pháo chỉ trích của Mỹ về vấn đề Biển Đông
Phát biểu tại cuộc họp báo thường kỳ, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Hoa Xuân Oánh, kêu gọi Washington thật tâm nỗ lực bảo đảm hòa bình ổn định trong khu vực.
Tin liên hệ
Mỹ lo Trung Quốc ỷ mạnh hiếp yếu ở Biển Đông
Tổng thống Obama tuyên bố Washington lo ngại việc Trung Quốc đang dùng sức mạnh và tầm vóc của mình để gạt ra các nước nhỏ hơn cùng có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông.Ông Nguyễn Phú Trọng mưu tìm gì ở Trung Quốc?
Ông Nguyễn Phú Trọng bắt đầu chuyến thăm Trung Quốc 4 ngày trong lúc quan hệ giữa hai quốc gia láng giềng rơi vào cảnh 'cơm không lành, canh không ngọt'Báo Trung Quốc: Mỹ sẽ thất bại khi khuấy động biển Đông
Hãng tin Trung Quốc chỉ trích phát biểu của một tư lệnh lực Mỹ rằng Bắc Kinh đang “xây Vạn Lý Trường Thành bằng cát” thông qua việc xây đảo nhân tạo ở biển Đông.Việt Nam mãi là láng giềng quan trọng của Trung Quốc?
Các bức ảnh chụp nhân chuyến thăm của ông Trọng cho thấy lãnh đạo Việt–Trung tỏ ra hồ hởi, trái ngược hẳn với năm ngoái, khi giới chức đôi bên nhìn nhau với vẻ thiếu thiện cảm.‘Tin cậy chính trị chưa cao’ trong quan hệ Việt-Trung
Lãnh đạo hai nước thừa nhận 'trở ngại lớn nhất chính là sự tin cậy chính trị chưa cao' chủ yếu do bất đồng trong cách ứng xử, giải quyết vấn đề trên Biển Đông
VOA
10.04.2015
Nghe toàn tường thuật về sự phản báo của Trung Quốc
- Danh mục
- Tải
Hành động trả miếng của Trung Quốc diễn ra 1 ngày sau khi Tổng thống Obama khuyến cáo Bắc Kinh đang dùng sức mạnh và tầm vóc của mình để buộc các nước phải chịu dưới thế của Trung Quốc giữa lúc xuất hiện nhiều báo cáo về các nỗ lực bồi đắp đất gây tranh cãi của Trung Quốc.
Phát biểu tại cuộc họp báo thường kỳ, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Hoa Xuân Oánh, nhấn mạnh “Nhà lãnh đạo Mỹ nhắc tới ‘sức mạnh và tầm vóc’ của Trung Quốc, nhưng mọi người có thể thấy rõ là nước nào mạnh nhất và tầm vóc nhất trên thế giới rồi.”
Bà Hoa kêu gọi Washington thật tâm nỗ lực bảo đảm hòa bình ổn định trong khu vực: “Chúng ta thấy rằng có những nước giữ im lặng khi một số nước lâu nay lo xây dựng các cơ sở trên quần đảo Trường Sa của Trung Quốc mà họ xâm lấn bất hợp pháp, nhưng lại đưa ra những phát biểu thiếu trách nhiệm đối với các hoạt động bình thường của Trung Quốc trên lãnh thổ của Trung Quốc. Đó hoàn toàn là kiểu ‘tiêu chuẩn kép’, không công bằng và thiếu xây dựng. Chúng tôi kêu gọi tất cả các nước giữ đúng cam kết của mình không đứng về bên nào trong vấn đề Biển Đông và nỗ lực hơn nữa vì hòa bình, ổn định khu vực.”
Các hình ảnh vệ tinh mới công bố trên trang web của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế CSIS của Mỹ cho thấy một đoàn tàu Trung Quốc đang nạo vét cát bồi đắp lên bãi Đá Vành Khăn.
Những hình ảnh trước và sau chụp tại địa điểm khác trên quần đảo Trường Sa cho thấy xuất hiện các đường băng từ những vùng có cây cối rậm rạp, các bãi đất bằng phẳng chắc chắn lộ lên từ những nơi từng là bãi san hô, và những bến tàu thế chỗ các bãi đá tự nhiên.
Theo giới phân tích, những hình ảnh này chứng tỏ Trung Quốc đang cố tạo ra ‘những thực thể trên biển’ để củng cố tuyên bố chủ quyền của mình.
Philippines, một trong những nước phản đối mạnh mẽ nhất các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông, hôm nay (10/4) kêu gọi cộng đồng quốc tế can thiệp ngăn chặn việc Bắc Kinh xây đảo nhân tạo, thay đổi nguyên trạng ở Biển Đông giữa lúc tranh cãi chủ quyền chồng chéo nhau của các nước chưa được phân giải.
AFP dẫn lời phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Philippines, Charles Jose, nói ‘Chúng tôi kêu gọi cộng đồng quốc tế chỉ rõ cho Trung Quốc thấy rằng việc họ đang làm là sai trái và yêu cầu Bắc Kinh phải ngưng hoạt động bồi đất lấp biển.’Manila cho rằng Bắc Kinh đang khẩn trương bồi đất để tác động tới phán quyết của tòa trọng tài Liên hiệp quốc dự kiến sẽ được đưa ra vào năm sau liên quan đến vụ Philippines kiện bản đồ đường lưỡi bò của Trung Quốc chiếm gần như toàn bộ Biển Đông.
Việt Nam tháng trước cũng lên tiếng phản đối việc Trung Quốc xây cất, mở rộng ‘trái phép’ các bãi đá làm thay đổi nguyên trạng ở Trường Sa và yêu cầu Bắc Kinh ‘chấm dứt ngay các hành động sai trái đó.’
Phó phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Việt Nam, Phạm Thu Hằng, hôm 5/3 tuyên bố các hoạt động này của Trung Quốc ‘không chỉ xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam mà còn vi phạm DOC (Tuyên bố Ứng xử Biển Đông) đã ký giữa Trung Quốc với ASEAN.’
Trước phản đối dồn dập từ quốc tế, Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm nay nhắc lại quan điểm rằng Bắc Kinh cam kết duy trì an ninh hòa bình khu vực và đang cùng làm việc với các nước láng giềng.
Tuyên bố của phát ngôn nhân Hoa Xuân Oánh được đưa ra sau khi Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, Ashton Carter, ngụ ý tố cáo Trung Quốc quân sự hóa vấn đề Biển Đông cụ thể qua các bằng chứng gần đây cho thấy Bắc Kinh đang xây các đảo nhân tạo vốn có thể được sử dụng cho mục đích quân sự.
Phát biểu tại cuộc họp báo ở Nam Triều Tiên hôm nay, ông Carter nhấn mạnh một trong những hậu quả của việc không giải quyết tranh chấp một cách ngoại giao, đa phương là khó có được những người bạn và những đồng minh kiểu này.
Bộ trưởng Quốc phòng Carter khẳng định Mỹ có rất nhiều bạn, đồng minh, và đối tác tại khu vực Châu Á và rằng Hoa Kỳ không hành xử theo kiểu hiếp đáp và không quân sự hóa tình hình như thế.
Theo AFP/AP/VOA
Tin tức / Việt Nam
Mỹ lo Trung Quốc ỷ mạnh hiếp yếu ở Biển Đông
VOA
10.04.2015
Nghe toàn tường thuật về quan ngại của Hoa Kỳ
- Danh mục
- Tải
Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama tuyên bố Washington lo ngại việc Trung Quốc đang dùng sức mạnh và tầm vóc của mình để gạt ra các nước nhỏ hơn cùng có tuyên bố chủ quyền các khu vực ở Biển Đông.
Phát biểu tại một buổi họp công nhân chuyến thăm Jamaica hôm qua, ông Obama nhấn mạnh Washington quan ngại rằng Bắc Kinh không nhất thiết tuân thủ các quy định và chuẩn mực của quốc tế, buộc các nước phải chịu dưới thế của Trung Quốc.
Những dự án của Trung Quốc khẩn trương bồi đắp, cải tạo đất xung quanh các bãi đá ở quần đảo Trường Sa trên Biển Đông khiến các nước khác cũng có tuyên bố chủ quyền tại đây như Việt Nam và Philippines báo động.
Ông Obama nói: “Chúng tôi cho rằng việc này có thể được giải quyết qua con đường ngoại giao, nhưng chỉ vì Philippines hay Việt Nam không lớn như Trung Quốc không có nghĩa là những nước này có thể bị hất qua một bên.”Tổng thống Obama nhấn mạnh Hoa Kỳ không có quan điểm riêng biệt về các tranh chấp chủ quyền, chỉ mong muốn tất cả các bên sử dụng các cơ chế sẵn có trên quốc tế để giải quyết tranh chấp.
Trung Quốc bênh vực việc họ cải tạo đất đai tại các đảo có tranh chấp, nói rằng chỉ thực hiện công tác ‘xây dựng và bảo trì.’
Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Hoa Xuân Oánh, tuyên bố: “Hoạt động xây dựng và bảo trì của chính phủ Trung Quốc tại một số nơi ở quần đảo Trường Sa chỉ chủ yếu nhằm cải thiện những chức năng liên hệ của các đảo, cải thiện tiêu chuẩn sinh sống và làm việc của đội ngũ nhân sự trú đóng tại đây, đảm bảo tốt hơn chủ quyền hàng hải và lãnh thổ của Trung Quốc, giúp hoàn thành tốt hơn công tác tìm kiếm-cứu hộ, ngăn ngừa thảm họa, cứu trợ, nghiên cứu khoa học biển, theo dõi khí tượng, bảo vệ môi trường, an ninh hàng hải, các dịch vụ sản xuất đánh bắt, và những trách nhiệm-nghĩa vụ quốc tế mà chúng tôi đang thực hiện. Hoạt động xây cất liên hệ là vấn đề hoàn toàn nằm trong phạm vi chủ quyền của Trung Quốc, công bằng, hợp lý, hợp pháp, không ảnh hưởng và cũng không nhắm mục tiêu chống lại bất kỳ quốc gia nào, không thể chê trách vào đâu được.”
Phát biểu với báo giới hôm qua, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ, Jeff Rathke, cho biết giới chức hoa Kỳ lo rằng Trung Quốc có thể tiến hành quân sự hóa các đảo mà họ bồi đắp nhằm củng cố tuyên bố chủ quyền của họ tại những vùng có tranh chấp.
Tổng thống Obama nói bất chấp những tranh chấp với Bắc Kinh, sức mạnh kinh tế của Trung Quốc đóng một vai trò tích cực trên thế giới và rằng Hoa Kỳ hoan nghênh các khoản đầu tư hỗ trợ của Bắc Kinh trên toàn cầu.
Các hình ảnh vệ tinh cho thấy Trung Quốc có phần chắc đang xây dựng các đường băng tại những nơi từng là khu vực có cây cối rậm rạp, xây cảng cùng các nhà kho dự trữ nhiên liệu.
TS. PHAM CAO DƯƠNG * BIỂN ĐÔNG
Ts Phạm Cao Dương: Đổi tên "Biển Nam Trung Hoa" thành "Biển Đông Nam Á?"
NHÂN SỰ KIỆN HOA KỲ, NHẬT BẢN, ÚC, ẤN ĐỘ, PHI LUẬT TÂN… NHẬP CUỘC VÀ BIỂN ĐÔNG ĐANG ĐƯỢC QUỐC TẾ HÓA
NHẮC LẠI GỢI Ý VỀ MỘT SỐ CÔNG TÁC CẦN PHẢI LÀM
* Tên South China Sea hay Mer de Chine hay Mer de Chine Méridionale cần phải được thay thế bằng Southeast Asia Sea hay Mer de l’Asie du Sud-Est hay Mer du Sud-Est Asiatique hay Biển Đông Nam Á.
Tiến sĩ Phạm Cao Dương
Lời tòa soạn: Theo Văn Hóa được biết, Giáo sư Sử gia Phạm Cao Dương là một trong các Diễn giả ở California được ban tổ chức Hội nghị Quốc tế về Biển ở Manila thỉnh mời; nhưng bất ngờ vào giờ chót, Giáo sư Dương ngã bệnh khá nặng, bác sĩ không cho phép ông đi xa được. Tuy nhiên, với tấm lòng yêu nước nồng nàn, với tâm thức về những diễn biến "sinh tử" trong giai đoạn Quốc tế hóa biển Đông ở đầu thế kỷ 21, nhất là sau khi đọc tin Hội nghị Manila kết thúc, ông đã viết ngay một bài "góp ý" với Hội nghị, gời cho báo Văn Hóa. Văn Hóa xin trân trọng cảm tạ Giáo sư Phạm Cao Dương.
Vài hàng tiểu sử tác giả:
Giáo Sư Phạm Cao Dương, trước năm 1975 giảng dạy tại Đại Học Sư Phạm và Đại Học Văn Khoa Saigon, đồng thời là Giáo Sư Thỉnh Giảng tại các Đại Học Huế, Cần Thơ, Vạn Hạnh, Đà-Lạt, Cao Đài...Ngoài việc dạy học, GS Phạm Cao Dương còn là Hội Viên của các Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục, Hội Đồng Quốc Gia Khảo Cứu Khoa Học và Ủy Ban Điển Chế Văn Tự của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa.
Trong phạm vi khảo cứu, Giáo Sư Phạm Cao Dương là tác giả của nhiều sách và bài nghiên cứu về lịch sử và văn hóa Việt Nam xuất bản bằng tiếng Việt, tiếng Pháp và tiếng Anh trong đó có các tác phẩm Vietnamese Peasants Under French Domination, do Trung Tâm Nam và Đông Nam Á, Đại Học Berkeley và University Press of America cùng ấn hành năm 1985 và nhiều sách hay tài liệu giáo khoa khác. Giáo Sư Dương cũng từng là cộng tác viên của Trung Tâm Nghiên Cứu Nam và Đông Nam Á của Đại Học Berkeley Hoa Kỳ và Trung Tâm Quốc Gia Khảo Cứu Khoa Học Pháp.
Sau năm 1975, ông định cư tại Hoa Kỳ và tiếp tục hoạt động trong các ngành giáo dục và nghiên cứu. Ông đã từng giảng dạy các môn về lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam Học tại các Đại Học UCI, UCLA, CSU Long Beach, CSU Fullerton, đặc biệt là UCLA nơi ông vẫn còn giảng dạy hàng năm vào mùa xuân mặc dầu ông đã bắt đầu đứng lớp toàn thời gian tại trường Trung Học Võ trường Toản Saigon từ năm 1961, tức từ hơn nửa thế kỷ trước đây, liên tục cho đến tận ngày nay, tổng cộng trên nửa thế kỷ. Ông cũng là một diễn giả quen thuộc của nhiều hội đoàn của người Việt ở nhiều nơi ở Hoa Kỳ cũng như trên các đài phát thanh và truyền hình quốc tế trong đó có các đài BBC, Á Châu Tự Do và Quốc Tế Pháp RFI. Gần đây nhất, ông đã phụ trách chương trình Đại Họa Mất Nước trên đài SBTN trong 2 năm 2012-2014 ở Hoa Kỳ.
Về quá trình học hỏi, GS Dương tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm, Cử Nhân Giáo Khoa và Cao Học Sử Học Đại Học Văn Khoa Saigon và Tiến Sĩ Sử Học Đại Học Paris, Pháp.
*
Xin được thưa ngay là vấn đề này đã từng được người viết nêu ra sau khi vụ Hội Địa Lý Quốc Gia (National Geographic Society) của người Mỹ ghi chú không đúng về quần đảo Hoàng Sa đã tạm thời được giải quyết vói sự đồng ý sửa lại của tổ chức này.
Đây là một thành công quan trọng mà người Việt Nam nói chung đã đạt nhờ sự lên tiếng và tranh đấu của các giáo sư, học giả, các cơ quan hay tổ chức nghiên cứu chuyên môn và của những người Việt yêu nước bình thường cả trong lẫn ngoài nước. Có điều đây mới chỉ là bước mở đầu vì National Geogaphic Society không phải là cơ quan hay nhà xuất bản duy nhất sản xuất và phát hành bản đồ ở Hoa Kỳ và trên thế giới. Còn rất nhiều cơ quan và nhà xuất bản khác cũng làm những công việc tương tự. Việc làm sáng tỏ và tranh đấu để có sự điều chỉnh cho đúng sự thực do đó cần phải được tiếp nối. Trong bài này người viết xin được lập lại hai gợi ý cần phải làm vào lúc này:
Thứ nhất là người Việt ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các nước lớn như Pháp, Anh, Úc, Nhật, Đức, Gia Nã Đại và các nước Bắc Âu… cần phải duyệt lại tất cả những tài liệu đã được phổ biến liên hệ tới không riêng Quần Đảo Hoàng Sa mà luôn cả Quần Đảo Trường Sa và nếu cần, phải vận động để điều chỉnh.
Thứ hai là phải xét lại danh xưng South China Sea (Biển Nam Trung Hoa) hay Mer de Chine (Biển Trung Hoa) hay Mer de Chine Méridionale và đổi thành Southeast Asia Sea hay Mer de l’Asie du Sud-Est (Biển Đông Nam Á).
Cả hai gợi ý này đều có những lý do riêng và đều có thể thực hiện được nếu mọi người Việt Nam nhất là các nhà cầm quyền ở trong nước đều muốn làm vì chúng ta đang ở vào những vị thế và thời điểm vô cùng thuận lợi, có thể làm được. Tôi xin được trình bày với những chi tiết như sau:
Thứ nhất: Thường xuyên duyệt xét lại tất cả những bản đồ đã được quốc tế ấn hành hay phổ biến trên mạng
Lý do của việc làm này là bản đồ có thể được phổ biến dưới nhiều hình thức khác nhau: trên mạng, in rời từng bản để treo tường hay in trong sách hay thành tập gọi là atlas dưới nhiều khổ lớn nhỏ, dầy mỏng khác nhau, có tỷ lệ khác nhau, từ đó chi tiết được trình bày hay ghi chú khác nhau, đồng thời cũng có thể là những cầu đồ (globes). Gợi ý để mọi người cùng làm ở đây là người Việt ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các nước lớn như Mỹ, Pháp, Anh, Úc, Nhật, Đức và các nước Bắc Âu… cần phải duyệt lại tất cả những tài liệu đã được phổ biến này và nếu cần, có thể vận động để điều chỉnh. Hoa Kỳ là một trường hợp điển hình. Chúng ta thử bắt đầu một bằng quốc gia có nhiều liên hệ với Việt Nam này. Điều nên nhớ là công việc duyệt xét này, vói một kiến thức không cần thật cao về các ngôn ngữ liên hệ, ai cũng có thể làm được, nhất là các thanh thiếu niên thuộc thế hệ trẻ ở các học đường, chưa nói tới các người làm ở các thư viện.
Ở Hoa Kỳ, ngoài National Geographic, còn có những nhà xuất bản khác không kém quen thuộc đối với học giới nói chung, các nhà địa lý học hay các thày dạy sử địa nói riêng, như Hammond, Rand McNally, DK, Oxford University Press, Merriam-Webster, Random House, Smithsonian, Harper Collins…Các tài liệu này vì được ấn hành bằng tiếng Anh nên cùng lúc được xuất bản và phổ biến ở các nước nói tiếng Anh như Gia Nã Đại, Úc, Anh…Các bản đồ của các nhà xuất bản này phần lớn dùng các tên Paracel hay Spratly, những tên quốc tế, rồi đã hoặc là để trống (Oxford Atlas of the World, 2005; Oxford New Concise World Atlas, 2009; Random House Compact World Atlas, 2006; Smithsonian Handy World Atlas, 2004) hoặc đề sovereignty disputed hay disputed - chủ quyển tranh chấp hay tranh chấp ( Hammond World Atlas,2009; Hammond Concise World Atlas,(?); DK World Atlas, Digital Mapping for the 21th Century, 2007, DK Concise Atlas of the World, 2007) hoặc đề là claimed by (đòi chủ quyền bởi) rồi kể tên các quốc gia (Rand Mcnally, Answer Atlas , the Geography Resource for Students, 2006). Riêng cuốn Merriam-Webster’s Geographic Dictionary, 2007, vì là từ điển nên ngoài tên quốc tế lại ghi thêm các tên Xi-sha Qndao (Trung Hoa), Quần Đảo Hoàng Sa (Việt Nam) và Hi-ra-ta gun-tô (Nhật Bản) trước khi ghi các chi tiết khác. National Geographic có lẽ là một trường hợp cá biệt. Các bản đồ in của hội này cũng đã ghi chú y như họ đã ghi chú trên mạng (National Geographic Family Reference Atlas of the World, 2010; National Geographic Visual of the World Atlas,2009; National Geographic Collegiate Atlas of the World (?). Cần để ý là trong thời gian chiến tranh Việt Nam, ngay từ những ngày đầu, National Geographic Society đã chú ý rất nhiều đến cuộc chiến đấu chống Cộng của người Việt. Họ đã viết và đã phổ biến rất nhiều bài về đề tài này một cách có cảm tình với phía ngưòi Việt Quốc Gia. Vậy tại sao với tư cách là một hội khoa học họ lại thay đổi thái độ một cách vội vã, thiếu vô tư và thiếu thận trọng so với những nhà xuất bản khác nặng về kinh doanh thương mại hơn như vậy? Qua sự kiện này câu hỏi được đặt ra người ta có thể tin tưởng vào tinh thần khoa học, vô vị lợi của người Mỹ đến mực nào? Một câu hỏi khác: Còn ở Việt Nam thì sao?
Việt Nam (miền Bắc) cũng dùng các danh xưng Tây Sa (Xisha) và Nam Sa (Nansha) của Trung Quốc trên các bản đồ của mình
Trở về với Việt Nam, việc dùng các danh xưng Tây Sa và Nam Sa, gốc của người Tàu, thay vì Hoàng Sa và Trường Sa trong tiếng Việt, không phải là không có. Sự kiện này sở dĩ đã xảy ra có thể là do sự dễ dãi, dẫn xuất từ tính thế nào xong thôi của người Việt. Nó cũng có thể là do sự cẩu thả của người làm sách hay vẽ bản đồ nhưng nó cũng có thể do chủ trương của người cầm quyền đương thời liên hệ tới quốc tế chủ nghĩa và nhu cầu của tình thế và của chiến tranh thể hiện qua văn thư của Thủ Tướng Chính Phủ Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm Văn Đồng gửi cho đồng chí của ông là Tổng Lý Quốc Vụ Viện Nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa Chu Ân Lai, ngày 14 tháng 9 năm 1958 và cách giải thích của những người có trách nhiệm ở miền Bắc đương thời. Có điều giải thích ra sao cũng vậy. Bút sa là gà phải chết! Khi những tranh chấp xảy ra, người Tàu đã dùng những tài liệu do chính người Việt tạo ra mà họ có được trong tay này làm chứng cớ để biện minh cho chủ quyền của họ ở các quần đảo hai bên đang tranh chấp. Bài viết nhan đề “Xisha and Nansha Islands belong to China” (Tây Sa và Nam Sa thuộc Trung Quốc) đăng trên tờ Beijing Review, cơ quan ngôn luận chính thức của chính quyền Cộng Sản Bắc Kinh bằng Anh ngữ, số 21, ra ngày 25 tháng 5 năm 1979 cho người ta thấy điều đó. Bài này không ghi tên tác giả mà chỉ ghi là một bài bình luận của ký giả Tân Hoa Xã, có lẽ để tránh không bị coi là chính thức, nhưng ai cũng biết Tân Hoa Xã là cơ quan thông tấn chính thức của nhà nước Trung Hoa Cộng Sản. Trong bài bình luận này, ngoài những lập luận và chứng cớ bằng ngôn từ, tác giả đã viện dẫn tới các bản đồ chính thức của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (miền Bắc) ấn hành trước năm 1975. Các bản đồ này đã gọi các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng tên Trung Hoa đọc theo tiếng Việt là Tây Sa và Nam Sa của chúng kèm theo những ghi chú chứng tỏ các quần đảo này là thuộc Trung Hoa. Tác giả bài báo đã nêu lên một số trường hợp làm thí dụ:
Thí dụ thứ nhất: Bản đồ thế giới vẽ và ấn hành bởi Cục Địa Đồ (?) của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Nhân Dân Việt Nam năm 1960 đã ghi rõ bằng tiếng Việt “Quần Đảo Tây Sa (Trung Hoa)” và “Quần Đảo Nam Sa (Trung Hoa)”. Nguyên bản tiếng Anh để chữ China (Trung Hoa) trong ngoặc đơn rồi tất cả trong ngoặc kép “ the Xisha Islands (China)”, “the Nansha Islands (China)” thành người viết bài này (PCD) không rõ chữ China này là ghi đúng như trên bản đồ của Việt Nam hay do tác giả bài viết trên tờ Beijing Review thêm vô.
Thí dụ thứ hai: Những bản đồ Việt Nam xuất bản bởi Cục Địa Đồ vào tháng 5 năm 1964 và những bản đồ thế giới ấn hành tháng 5 năm 1972 cùng những bản đồ chính trị thế giới do Cục Đo Đạc và Bản Đồ Quốc Gia(?) ấn hành tháng 3 năm 1974 ghi các quần đảo này bằng tên Trung hoa viết bằng tiếng Việt Nam. Không bao giờ các quần đảo này được ghi bằng tên tiếng Việt là “Quần Đảo Hoàng Sa” và “Quần Đảo Trường Sa” như sau này, theo tác giả bài báo.
Thí dụ thứ ba: Một bài học về Trung Quốc dành cho lớp 9 trong một cuốn sách giáo khoa về địa lý do Nhà Xuất Bản Giáo Dục Hà Nội ấn hành năm 1974 có câu “Vòng cung hợp bởi các quần đảo Nam Sa và Tây Sa, đảo Hải Nam, Đài Loan, Quần Đảo Bành Hồ… tạo thành một bức “trường thành” che chở cho Trung Hoa Lục Địa.” Có nhiều diễn tả tương tự đã được thấy trong các sách giáo khoa của Việt Nam. Xin độc giả lưu ý tới hai chữ “trường thành” ngay từ năm 1974 này đã được dùng thay vì mãi đến năm 2015 mới được vị đô đốc tư lệnh Hạm Đội 7 của Mỹ nhắc tới.
Thí dụ thứ tư, Kinh độ phía đông của Việt Nam: Ngày 15 tháng 5 năm 1975, non một tháng sau ngày quân đội Việt Nam (Cộng Sản) tiến chiếm sáu đảo của Quần Đảo Trường Sa, tờ Quân Đội Nhân Dân cho đăng một bản đồ Việt Nam bao gồm cả Quần Đảo Trường Sa và khẳng định là địa điểm cực đông của lãnh thổ Việt Nam nằm ở 109 độ 29 phút Đông. Điều này (theo bài báo) chứng tỏ Việt Nam đã chiếm đóng lãnh thổ của Trung Quốc. Mặt khác, một tài liệu nhan đề Địa Lý Thiên Nhiên Việt Nam và Các Vùng Thiên Nhiên của Lãnh Thổ Việt Nam (?) do Nhà Xuất Bản Giáo Dục Việt Nam và Nhà Xuất Bản Khoa Học và Kỹ Thuật Việt Nam ấn hành năm 1970 lại xác định điểm cực đông của lãnh thổ Việt Nam nằm ở 109 độ 21 phút Đông thay vì 109 độ 29 phút Đông, chênh nhau 8 phút. Tác giả bài báo cho rằng dù có tăng thêm 8 phút cho lãnh thổ Việt Nam, Nam Sa vẫn không thuộc Việt Nam vì Nam Sa nằm ở 109 độ 30 phút đông của lãnh thổ Việt Nam (cũng theo bài báo).
Qua những thí dụ kể trên, người ta thấy lập luận của phía Trung Hoa có những điều bất ổn. Ba thí dụ đầu căn cứ vào những tài liệu được ấn hành từ trước năm 1975, khi Việt Nam còn bị chia đôi và có xuất xứ từ miền Bắc Việt Nam trong khi các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo Hiệp Định Genève mà Trung Quốc có tham dự và đóng vai trò tích cực, là do miền Nam quản trị. Lập luận của Trung Quốc trong trường hợp này không có giá trị vì nó cũng giống như lập luận của họ đối với văn thư Phạm Văn Đồng gửi cho Châu Ân Lai. Nói cách khác, những gì miền Bắc làm đối với Hoàng Sa và Trường Sa là không có giá trị pháp lý căn cứ vào Hiệp Định Genève. Có điều khi đặt vấn đề này người ta lại phải đặt lại toàn bộ vấn đề Việt Nam từ biến cố 30 tháng Tư năm 1975 vì Miền Bắc là phía thắng trận nên những gì Miền Bắc làm là hợp pháp. Một câu hỏi khác liên hệ trực tiếp với bài này cần được nêu lên là tại sao các nhà làm sách và làm bản đồ ở miền Bắc thời trước năm 1975 lại dùng những danh xưng của người Tàu thay vì các danh xưng của người Việt để gọi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa? Câu trả lời có thể là vì thời gian đó là thời gian Việt Nam và Trung Hoa là hai nước Cộng Sản “anh em”, em không giữ được thì đưa cho anh thay vì để người ngoài chiếm mất, đồng thời đó cũng là thời gian chiến tranh, Cộng Sản Việt Nam cần sự giúp đỡ của Cộng Sản Trung Quốc và vai trò của Trung Quốc nói chung và của các cố vấn Trung Quốc nói riêng rất mạnh, không ai có thể chống lại. Do đó, việc dùng ngôn từ của Trung Quốc hay việc chép nguyên văn từ các tài liệu do các cố vấn Trung Quốc đưa cho ở đây cũng chỉ là một điều bình thường giống hệt như trong các cuộc chỉnh huấn trong quân đội hay cải cách ruộng đất và việc dùng danh xưng Quân Đội Nhân Dân thay thế cho danh xưng Vệ Quốc Đoàn mang nặng tinh thần quốc gia chủ nghĩa. Khó ai có thể ngờ Trung Quốc trước sau như một khiến cho những gì các nhà làm bản đồ hay sách giáo khoa về địa lý ở miền Bắc đã làm ở thời đó sau này đã gây ra bất lợi cho cả đất nước Việt Nam. Tưởng ta cũng nên để ý là về vấn đề kinh độ, 109 độ 21 hay 29 phút chỉ là của Việt Nam lục địa tức phần chính của Việt Nam mà thôi. Các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa không được trình bày trong tài liệu được viện dẫn. Ngoài ra người ta cũng phải để ý hơn nữa là tháng 5 năm 1975 miền Bắc mới chiếm được miền Nam và tự coi là có trách nhiệm trên toàn thể lãnh thổ của miền Nam trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa. Thời gian quá ngắn nên những tài liệu tờ Quân Đội Nhân Dân dùng cho bài viết của họ vẫn là tài liệu cũ của miền Bắc. Họ chưa có đủ thì giờ để cập nhật hóa những gì phải làm.
Tên South China Sea hay Mer de Chine hay Mer de Chine Méridionale cần phải được thay thế bằng Southeast Asia Sea hay Mer de l’Asie du Sud-Est hay Mer du Sud-Est Asiatique hay Biển Đông Nam Á
Đây là một vấn đề lẽ ra phải được nêu lên từ lâu nhưng hầu như ít ai để ý đến hoặc chưa có dịp. Người viết đã thử làm hồi cuối thập niên 1980 của thế kỷ trước bằng các gửi thư cho các bộ ngoại giao của các nước Đông Nam Á, nhưng như mọi người có thể đoán được, với tư cách cá nhân vô danh, nhỏ bé, thư chắc chắn đã được nằm trong sọt rác. Sau này một tổ chức lớn hơn, Nguyễn Thái Học Foundation cũng đã làm nhưng cũng chưa đạt được ý muốn. Một thời điểm đầu tiên rất tốt đã xảy ra trong năm 2010, một thời điểm có thể coi là ngàn năm một thuở vì Việt Nam vào năm 2010 là chủ tịch luân phiên của Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN), đồng thời trong tháng 4 năm đó cuộc họp thượng đỉnh của Hiệp Hội đã diễn ra ở Hà Nội. Với tư cách chủ nhà và ở cương vị chủ tịch, nhà nước Cộng Sản Việt Nam có thể đưa ra đề nghị để hội nghị cứu xét và thông qua. Rất tiếc là nhà nước này Cộng Sản Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội này. Tuy nhiên thời điểm hiện tại cũng không đến nỗi là đã quá muộn. Lý do là vì hiện tại Quốc Tế nói chung, trong đó có Nhật Bản, có Úc, có Ấn Độ…, không phải chỉ riêng Hoa Kỳ, đã chú ý nhiều hơn tới nguy cơ Biển Đông và đã có những hành động cụ thể. Một vận động mới cần phải được khởi động.
Có nhiều lý do phải đổi tên:
Thứ nhất: Tên South China Sea (Biển Nam Trung Hoa) trong tiếng Anh và tên Mer de Chine (Biển Trung Hoa) hay Mer de Chine Méridionale trong tiếng Pháp không thích hợp với thực tại địa lý nói chung của biển này. Chúng đã được đặt ra và được chấp nhận từ nhiều thế kỷ trước, khi người Âu Châu mới tới vùng này. Lúc đó họ đã biết hay đã quen với Trung Quốc nhiều hơn là với các xứ Đông Nam Á đương thời, trong khi trên thực tế biển này ba mặt phía nam, phía tây, phía đông được vây quanh bởi các nước Đông Nam Á, chỉ một phần phía bắc là tiếp giáp với Trung Quốc. Khi một danh xưng do người ngoài đặt cho và không hợp lý với thực tại địa phương, người ta cần phải đổi đi cho hợp lý hơn thay vì để nguyên một cách thụ động và cứ thế mà dùng từ đó gây ra những hiểu lầm lẽ ra có thể tránh được. Nên để ý là Indonesia xưa kia bị gọi là Nam Dương quần đảo. Sau khi độc lập nước này đã được đổi tên là Indonesia hay In-đô-nê-xia.
Thứ hai: Biển này nằm ở giữa các quốc gia Đông Nam Á, trong tương lai, với đà phát triển trên nhiều mặt của Hiệp Hội ASEAN, sẽ là một cái hồ, một thứ Địa Trung Hải của toàn vùng. Nó sẽ giúp cho mọi sự tiếp xúc, trao đổi và hợp tác, nói chung, từ kinh tế, tài chánh, thương mại đến văn hóa, giáo dục… được dễ dàng vì giao thông bằng đường thủy luôn luôn dễ dàng với những số lượng lớn hơn gấp bội so với đường bộ hay đường hàng không nếu người ta biết tổ chức và khai thác. Tên South China Sea hay Mer de Chine hay Mer de Chine Méridionale không nói lên được tầm quan trọng này, chưa kể tới những ý nghĩa tiềm ẩn có thể bị khai thác của hai chữ China hay Chine trong hai danh xưng này.
Thứ ba: Đổi tên từ South China Sea (Biển Nam Trung Hoa) hay Mer de Chine (Biển Trung Hoa)hay Mer de Chine Méridionale (Biển Nam Trung Hoa) thành Biển Đông Nam Á không có nghĩa là ta từ bỏ danh xưng Biển Đông hay Đông Hải của Việt Nam vì Biển Đông hay Đông Hải là những tên riêng của người Việt để dùng trong nội bộ mình. Các nước khác chắc chắn cũng có những tên riêng của để gọi biển này của họ, điển hình là Phi Luật Tân. Vì là của riêng người ta vẫn có thể tiếp tục dùng những danh xưng này như những danh xưng truyền thống với những ý nghĩa vừa đúng với vị trí của biển này đối với người dân địa phương, vừa tình cảm của chúng. Southeast Asia Sea hay Mer de l’Asie du Sud-Est sẽ chỉ là những danh xưng quốc tế thích hợp hơn để dùng trên các văn kiện hay trong các buổi họp quốc tế, trên các địa đồ thế giới và cho các nước không nằm trong vùng.
Thứ tư: Dùng danh xưng Biển Đông Nam Á hay Southeast Asia Sea hay Mer de l’Asie du Sud-Est hay Mer du Sud-Est Asiatique sẽ giúp cho các học giả, các nhà ngoại giao, các chính khách Việt Nam, mỗi khi phải tiếp xúc với thế giới bên ngoài, tránh được sự khó chịu khi phải dùng những tên vừa không do mình đặt ra vừa không đúng với thực tại địa lý mà còn hàm chứa ảnh hưỏng và sức mạnh quá lớn của Trung Quốc. Không những thế chúng còn mang các quốc gia Đông Nam Á lại gần với nhau hơn, đồng thời có thể tạo ra cho người dân của các quốc gia này một ý thức mới, ý thức thuộc về một khối người có nhiều điểm tương đồng, có những quyền lợi chung cần được khai thác với nhau trong hòa bình và cùng nhau bảo vệ nhất là trong phạm vi môi trường thiên nhiên vào lúc Trung Quốc đang nỗ lực kỹ nghệ hóa các tỉnh đông nam của họ hay xa hơn nữa trước tham vọng bành trướng nhằm làm bá chủ thế giới của nước này.
Kết luận: Với những lý do trên đây, và còn nhiều lý do khác nữa mà người viết, trong một bài báo ngắn gọn hay vì nhất thời tế nhị, không thể kể ra hết, việc thay thế các danh xưng South China Sea trong tiếng Anh và Mer de Chine hay Mer de Chine Méridionale trong tiếng Pháp bằng danh xưng Southeast Asia Sea hay Mer de l ‘Asie du Sud-Est hay Mer du Sud-Est Asiatique là một việc làm cần thiết và thích hợp cho sự phát triển nhanh chóng và mỗi ngày mỗi thêm vững mạnh của Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN) như người ta đã và đang thấy. Nó nói lên sự bình đẳng và ý chí kết hợp của các nước trong vùng. Ngưòi ta có thể không thích ý kiến quốc tế hóa các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vì nó liên hệ tới chủ quyền về lãnh thổ và lãnh hải của riêng từng nước, nhưng người ta có thể chấp nhận, nếu không nói là hoan nghênh việc làm này như một cái tên thuần túy và đơn giản. Các quốc gia Đông Nam Á đã có một tổ chức chung; đã đến lúc các quốc gia này phải có một cái gì cụ thể chung. Một vùng biển chung mang danh Biển Đông Nam Á ít ra qua danh xưng của nó là biểu tượng cho cái gì chung đó vậy. Trở về với Việt Nam. Như đã nói ở trên, năm 2010 Việt Nam đã bỏ lỡ một cơ hội có thể nói ngàn năm một thuở. Tuy nhiên lỡ không phải là quá trễ. Với sự nhập cuộc mỗi ngày một mạnh hơn, mỗi ngày một sâu hơn của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Phi Luật Tân, Úc và luôn cả Ấn Độ… trong một thế giới đang đổi mới, một cuộc vận động mạnh hơn cần được khởi động trở lại. Nên nhớ là chúng ta đang ở Thế Kỷ 21 chứ không còn ở Thế Kỷ 20 nữa.
Vì chủ đề của bài này là Trường Sa và Hoàng Sa nên người viết thấy cần phải nêu lên một gợi ý khác để các nhà cầm quyền Cộng Sản ở trong nước hiện tại chứng tỏ sự ghi nhận công ơn của các chiến sĩ, bất kể là từ miền Nam hay miền Bắc trước kia, đã hy sinh bảo vệ lãnh thổ nước nhà. Gợi ý đó là : Hãy dùng tên của họ để đặt cho những chiến hạm mới mà Việt Nam mới đặt mua hay mới tự đóng để bảo vệ vùng biển của đất nước. Sự đặt tên này cũng gống như sự dựng tượng đài kỷ niệm chắc chắn sẽ được mọi người hoan nghênh kể cả các chiến sĩ hải quân của nước Việt Nam hiện tại vì trong khi chiến đấu chống hải quân Trung Cộng ở Trận Chiến Hoàng Sa hay Trường Sa họ chỉ hướng tới một mục tiêu duy nhất là bảo vệ lãnh thổ của tổ quốc Việt Nam hay đồng bào của họ trước sự xâm lăng của ngoại bang. Trong hoàn cảnh đó họ không còn là người của miền Nam hay của miền Bắc nữa mà là của chung của cả dân tộc hay hơn thế nữa họ là những anh hùng chung của cả dân tộc của thế kỷ hai mươi. Riêng Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà, ông người hạm trưởng đầu tiên của Hải Quân Việt Nam đã quyết dịnh ở lại, chết theo tàu trong cuộc chiến bảo vệ lãnh thổ và lãnh hải phía đông của tổ quốc mình trước một kẻ thù truyền kiếp, đông và mạnh hơn gấp bội. Lê Văn Tám là một nhân vật hoàn toàn ngụy tạo trong Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Nhất là điều bây giờ ai cũng biết, nhưng tên của nhân vật ngụy tạo này vẫn được giữ làm tên các trường học, tên đường, tên công viên. Tại sao ngưòi ta vẫn lờ đi không nói tới Ngụy Văn Thà và các chiến hữu bất kể Nam, Bắc của ông, những nhân vật lịch sử có thật, đặc biệt là vào lúc mà Hoàng Sa và Trường Sa là đề tài nóng bỏng của thời cuộc? Nhưng dù công nhận hay không, những ai còn tin vào sự linh thiêng của các anh hùng liệt sĩ của dân tộc, vẫn thường dành một phút trong các buổi lễ để tưởng niệm và tri ân, hẳn phải nghĩ rằng từ trên nền trời cao bao la, xanh thẳm của Biển Đông, Ngụy Văn Thà và các chiến hữu của ông vẫn luôn luôn theo dõi và phù trợ cho các hậu duệ của ông trong sứ mạng thiêng liêng bảo vệ lãnh thổ và lãnh hải phía đông của chung của cả dân tộc và che chở cho những đồng bào của ông vẫn ngày ngày kiếm sống trong những vùng biển từ xưa vẫn là của dân tộc mình. Tất nhiên là khi làm công việc này, nhà nước Cộng Sản Việt Nam hãy làm cho 64 liệt sĩ đã hy sinh trong Trận Chiến Trường Sa ngày 14 tháng 3 năm 1988 của mình trước. Điều mà cho đến tận năm 2015 này họ vẫn chưa làm được hay chỉ cho làm một cách rụt rè.
Có điều vinh danh hay không vinh danh đối với các chiến sĩ này chắc chắn chẳng có gì là quan trọng so với sứ mạng vô cùng lớn lao và cao cả là bảo vệ đất nước, bảo vệ đồng bào của họ.
Phạm Cao Dương
(Nhân dịp Hội Nghị Quốc Tế về Biển Đông họp tại Manila cuối tháng 3 năm 2015).
NHÂN SỰ KIỆN HOA KỲ, NHẬT BẢN, ÚC, ẤN ĐỘ, PHI LUẬT TÂN… NHẬP CUỘC VÀ BIỂN ĐÔNG ĐANG ĐƯỢC QUỐC TẾ HÓA
NHẮC LẠI GỢI Ý VỀ MỘT SỐ CÔNG TÁC CẦN PHẢI LÀM
* Tên South China Sea hay Mer de Chine hay Mer de Chine Méridionale cần phải được thay thế bằng Southeast Asia Sea hay Mer de l’Asie du Sud-Est hay Mer du Sud-Est Asiatique hay Biển Đông Nam Á.
Tiến sĩ Phạm Cao Dương
Lời tòa soạn: Theo Văn Hóa được biết, Giáo sư Sử gia Phạm Cao Dương là một trong các Diễn giả ở California được ban tổ chức Hội nghị Quốc tế về Biển ở Manila thỉnh mời; nhưng bất ngờ vào giờ chót, Giáo sư Dương ngã bệnh khá nặng, bác sĩ không cho phép ông đi xa được. Tuy nhiên, với tấm lòng yêu nước nồng nàn, với tâm thức về những diễn biến "sinh tử" trong giai đoạn Quốc tế hóa biển Đông ở đầu thế kỷ 21, nhất là sau khi đọc tin Hội nghị Manila kết thúc, ông đã viết ngay một bài "góp ý" với Hội nghị, gời cho báo Văn Hóa. Văn Hóa xin trân trọng cảm tạ Giáo sư Phạm Cao Dương.
Vài hàng tiểu sử tác giả:
Giáo Sư Phạm Cao Dương, trước năm 1975 giảng dạy tại Đại Học Sư Phạm và Đại Học Văn Khoa Saigon, đồng thời là Giáo Sư Thỉnh Giảng tại các Đại Học Huế, Cần Thơ, Vạn Hạnh, Đà-Lạt, Cao Đài...Ngoài việc dạy học, GS Phạm Cao Dương còn là Hội Viên của các Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục, Hội Đồng Quốc Gia Khảo Cứu Khoa Học và Ủy Ban Điển Chế Văn Tự của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa.
Trong phạm vi khảo cứu, Giáo Sư Phạm Cao Dương là tác giả của nhiều sách và bài nghiên cứu về lịch sử và văn hóa Việt Nam xuất bản bằng tiếng Việt, tiếng Pháp và tiếng Anh trong đó có các tác phẩm Vietnamese Peasants Under French Domination, do Trung Tâm Nam và Đông Nam Á, Đại Học Berkeley và University Press of America cùng ấn hành năm 1985 và nhiều sách hay tài liệu giáo khoa khác. Giáo Sư Dương cũng từng là cộng tác viên của Trung Tâm Nghiên Cứu Nam và Đông Nam Á của Đại Học Berkeley Hoa Kỳ và Trung Tâm Quốc Gia Khảo Cứu Khoa Học Pháp.
Sau năm 1975, ông định cư tại Hoa Kỳ và tiếp tục hoạt động trong các ngành giáo dục và nghiên cứu. Ông đã từng giảng dạy các môn về lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam Học tại các Đại Học UCI, UCLA, CSU Long Beach, CSU Fullerton, đặc biệt là UCLA nơi ông vẫn còn giảng dạy hàng năm vào mùa xuân mặc dầu ông đã bắt đầu đứng lớp toàn thời gian tại trường Trung Học Võ trường Toản Saigon từ năm 1961, tức từ hơn nửa thế kỷ trước đây, liên tục cho đến tận ngày nay, tổng cộng trên nửa thế kỷ. Ông cũng là một diễn giả quen thuộc của nhiều hội đoàn của người Việt ở nhiều nơi ở Hoa Kỳ cũng như trên các đài phát thanh và truyền hình quốc tế trong đó có các đài BBC, Á Châu Tự Do và Quốc Tế Pháp RFI. Gần đây nhất, ông đã phụ trách chương trình Đại Họa Mất Nước trên đài SBTN trong 2 năm 2012-2014 ở Hoa Kỳ.
Về quá trình học hỏi, GS Dương tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm, Cử Nhân Giáo Khoa và Cao Học Sử Học Đại Học Văn Khoa Saigon và Tiến Sĩ Sử Học Đại Học Paris, Pháp.
*
Xin được thưa ngay là vấn đề này đã từng được người viết nêu ra sau khi vụ Hội Địa Lý Quốc Gia (National Geographic Society) của người Mỹ ghi chú không đúng về quần đảo Hoàng Sa đã tạm thời được giải quyết vói sự đồng ý sửa lại của tổ chức này.
Đây là một thành công quan trọng mà người Việt Nam nói chung đã đạt nhờ sự lên tiếng và tranh đấu của các giáo sư, học giả, các cơ quan hay tổ chức nghiên cứu chuyên môn và của những người Việt yêu nước bình thường cả trong lẫn ngoài nước. Có điều đây mới chỉ là bước mở đầu vì National Geogaphic Society không phải là cơ quan hay nhà xuất bản duy nhất sản xuất và phát hành bản đồ ở Hoa Kỳ và trên thế giới. Còn rất nhiều cơ quan và nhà xuất bản khác cũng làm những công việc tương tự. Việc làm sáng tỏ và tranh đấu để có sự điều chỉnh cho đúng sự thực do đó cần phải được tiếp nối. Trong bài này người viết xin được lập lại hai gợi ý cần phải làm vào lúc này:
Thứ nhất là người Việt ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các nước lớn như Pháp, Anh, Úc, Nhật, Đức, Gia Nã Đại và các nước Bắc Âu… cần phải duyệt lại tất cả những tài liệu đã được phổ biến liên hệ tới không riêng Quần Đảo Hoàng Sa mà luôn cả Quần Đảo Trường Sa và nếu cần, phải vận động để điều chỉnh.
Thứ hai là phải xét lại danh xưng South China Sea (Biển Nam Trung Hoa) hay Mer de Chine (Biển Trung Hoa) hay Mer de Chine Méridionale và đổi thành Southeast Asia Sea hay Mer de l’Asie du Sud-Est (Biển Đông Nam Á).
Cả hai gợi ý này đều có những lý do riêng và đều có thể thực hiện được nếu mọi người Việt Nam nhất là các nhà cầm quyền ở trong nước đều muốn làm vì chúng ta đang ở vào những vị thế và thời điểm vô cùng thuận lợi, có thể làm được. Tôi xin được trình bày với những chi tiết như sau:
Thứ nhất: Thường xuyên duyệt xét lại tất cả những bản đồ đã được quốc tế ấn hành hay phổ biến trên mạng
Lý do của việc làm này là bản đồ có thể được phổ biến dưới nhiều hình thức khác nhau: trên mạng, in rời từng bản để treo tường hay in trong sách hay thành tập gọi là atlas dưới nhiều khổ lớn nhỏ, dầy mỏng khác nhau, có tỷ lệ khác nhau, từ đó chi tiết được trình bày hay ghi chú khác nhau, đồng thời cũng có thể là những cầu đồ (globes). Gợi ý để mọi người cùng làm ở đây là người Việt ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các nước lớn như Mỹ, Pháp, Anh, Úc, Nhật, Đức và các nước Bắc Âu… cần phải duyệt lại tất cả những tài liệu đã được phổ biến này và nếu cần, có thể vận động để điều chỉnh. Hoa Kỳ là một trường hợp điển hình. Chúng ta thử bắt đầu một bằng quốc gia có nhiều liên hệ với Việt Nam này. Điều nên nhớ là công việc duyệt xét này, vói một kiến thức không cần thật cao về các ngôn ngữ liên hệ, ai cũng có thể làm được, nhất là các thanh thiếu niên thuộc thế hệ trẻ ở các học đường, chưa nói tới các người làm ở các thư viện.
Ở Hoa Kỳ, ngoài National Geographic, còn có những nhà xuất bản khác không kém quen thuộc đối với học giới nói chung, các nhà địa lý học hay các thày dạy sử địa nói riêng, như Hammond, Rand McNally, DK, Oxford University Press, Merriam-Webster, Random House, Smithsonian, Harper Collins…Các tài liệu này vì được ấn hành bằng tiếng Anh nên cùng lúc được xuất bản và phổ biến ở các nước nói tiếng Anh như Gia Nã Đại, Úc, Anh…Các bản đồ của các nhà xuất bản này phần lớn dùng các tên Paracel hay Spratly, những tên quốc tế, rồi đã hoặc là để trống (Oxford Atlas of the World, 2005; Oxford New Concise World Atlas, 2009; Random House Compact World Atlas, 2006; Smithsonian Handy World Atlas, 2004) hoặc đề sovereignty disputed hay disputed - chủ quyển tranh chấp hay tranh chấp ( Hammond World Atlas,2009; Hammond Concise World Atlas,(?); DK World Atlas, Digital Mapping for the 21th Century, 2007, DK Concise Atlas of the World, 2007) hoặc đề là claimed by (đòi chủ quyền bởi) rồi kể tên các quốc gia (Rand Mcnally, Answer Atlas , the Geography Resource for Students, 2006). Riêng cuốn Merriam-Webster’s Geographic Dictionary, 2007, vì là từ điển nên ngoài tên quốc tế lại ghi thêm các tên Xi-sha Qndao (Trung Hoa), Quần Đảo Hoàng Sa (Việt Nam) và Hi-ra-ta gun-tô (Nhật Bản) trước khi ghi các chi tiết khác. National Geographic có lẽ là một trường hợp cá biệt. Các bản đồ in của hội này cũng đã ghi chú y như họ đã ghi chú trên mạng (National Geographic Family Reference Atlas of the World, 2010; National Geographic Visual of the World Atlas,2009; National Geographic Collegiate Atlas of the World (?). Cần để ý là trong thời gian chiến tranh Việt Nam, ngay từ những ngày đầu, National Geographic Society đã chú ý rất nhiều đến cuộc chiến đấu chống Cộng của người Việt. Họ đã viết và đã phổ biến rất nhiều bài về đề tài này một cách có cảm tình với phía ngưòi Việt Quốc Gia. Vậy tại sao với tư cách là một hội khoa học họ lại thay đổi thái độ một cách vội vã, thiếu vô tư và thiếu thận trọng so với những nhà xuất bản khác nặng về kinh doanh thương mại hơn như vậy? Qua sự kiện này câu hỏi được đặt ra người ta có thể tin tưởng vào tinh thần khoa học, vô vị lợi của người Mỹ đến mực nào? Một câu hỏi khác: Còn ở Việt Nam thì sao?
Việt Nam (miền Bắc) cũng dùng các danh xưng Tây Sa (Xisha) và Nam Sa (Nansha) của Trung Quốc trên các bản đồ của mình
Trở về với Việt Nam, việc dùng các danh xưng Tây Sa và Nam Sa, gốc của người Tàu, thay vì Hoàng Sa và Trường Sa trong tiếng Việt, không phải là không có. Sự kiện này sở dĩ đã xảy ra có thể là do sự dễ dãi, dẫn xuất từ tính thế nào xong thôi của người Việt. Nó cũng có thể là do sự cẩu thả của người làm sách hay vẽ bản đồ nhưng nó cũng có thể do chủ trương của người cầm quyền đương thời liên hệ tới quốc tế chủ nghĩa và nhu cầu của tình thế và của chiến tranh thể hiện qua văn thư của Thủ Tướng Chính Phủ Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm Văn Đồng gửi cho đồng chí của ông là Tổng Lý Quốc Vụ Viện Nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa Chu Ân Lai, ngày 14 tháng 9 năm 1958 và cách giải thích của những người có trách nhiệm ở miền Bắc đương thời. Có điều giải thích ra sao cũng vậy. Bút sa là gà phải chết! Khi những tranh chấp xảy ra, người Tàu đã dùng những tài liệu do chính người Việt tạo ra mà họ có được trong tay này làm chứng cớ để biện minh cho chủ quyền của họ ở các quần đảo hai bên đang tranh chấp. Bài viết nhan đề “Xisha and Nansha Islands belong to China” (Tây Sa và Nam Sa thuộc Trung Quốc) đăng trên tờ Beijing Review, cơ quan ngôn luận chính thức của chính quyền Cộng Sản Bắc Kinh bằng Anh ngữ, số 21, ra ngày 25 tháng 5 năm 1979 cho người ta thấy điều đó. Bài này không ghi tên tác giả mà chỉ ghi là một bài bình luận của ký giả Tân Hoa Xã, có lẽ để tránh không bị coi là chính thức, nhưng ai cũng biết Tân Hoa Xã là cơ quan thông tấn chính thức của nhà nước Trung Hoa Cộng Sản. Trong bài bình luận này, ngoài những lập luận và chứng cớ bằng ngôn từ, tác giả đã viện dẫn tới các bản đồ chính thức của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (miền Bắc) ấn hành trước năm 1975. Các bản đồ này đã gọi các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng tên Trung Hoa đọc theo tiếng Việt là Tây Sa và Nam Sa của chúng kèm theo những ghi chú chứng tỏ các quần đảo này là thuộc Trung Hoa. Tác giả bài báo đã nêu lên một số trường hợp làm thí dụ:
Thí dụ thứ nhất: Bản đồ thế giới vẽ và ấn hành bởi Cục Địa Đồ (?) của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Nhân Dân Việt Nam năm 1960 đã ghi rõ bằng tiếng Việt “Quần Đảo Tây Sa (Trung Hoa)” và “Quần Đảo Nam Sa (Trung Hoa)”. Nguyên bản tiếng Anh để chữ China (Trung Hoa) trong ngoặc đơn rồi tất cả trong ngoặc kép “ the Xisha Islands (China)”, “the Nansha Islands (China)” thành người viết bài này (PCD) không rõ chữ China này là ghi đúng như trên bản đồ của Việt Nam hay do tác giả bài viết trên tờ Beijing Review thêm vô.
Thí dụ thứ hai: Những bản đồ Việt Nam xuất bản bởi Cục Địa Đồ vào tháng 5 năm 1964 và những bản đồ thế giới ấn hành tháng 5 năm 1972 cùng những bản đồ chính trị thế giới do Cục Đo Đạc và Bản Đồ Quốc Gia(?) ấn hành tháng 3 năm 1974 ghi các quần đảo này bằng tên Trung hoa viết bằng tiếng Việt Nam. Không bao giờ các quần đảo này được ghi bằng tên tiếng Việt là “Quần Đảo Hoàng Sa” và “Quần Đảo Trường Sa” như sau này, theo tác giả bài báo.
Thí dụ thứ ba: Một bài học về Trung Quốc dành cho lớp 9 trong một cuốn sách giáo khoa về địa lý do Nhà Xuất Bản Giáo Dục Hà Nội ấn hành năm 1974 có câu “Vòng cung hợp bởi các quần đảo Nam Sa và Tây Sa, đảo Hải Nam, Đài Loan, Quần Đảo Bành Hồ… tạo thành một bức “trường thành” che chở cho Trung Hoa Lục Địa.” Có nhiều diễn tả tương tự đã được thấy trong các sách giáo khoa của Việt Nam. Xin độc giả lưu ý tới hai chữ “trường thành” ngay từ năm 1974 này đã được dùng thay vì mãi đến năm 2015 mới được vị đô đốc tư lệnh Hạm Đội 7 của Mỹ nhắc tới.
Thí dụ thứ tư, Kinh độ phía đông của Việt Nam: Ngày 15 tháng 5 năm 1975, non một tháng sau ngày quân đội Việt Nam (Cộng Sản) tiến chiếm sáu đảo của Quần Đảo Trường Sa, tờ Quân Đội Nhân Dân cho đăng một bản đồ Việt Nam bao gồm cả Quần Đảo Trường Sa và khẳng định là địa điểm cực đông của lãnh thổ Việt Nam nằm ở 109 độ 29 phút Đông. Điều này (theo bài báo) chứng tỏ Việt Nam đã chiếm đóng lãnh thổ của Trung Quốc. Mặt khác, một tài liệu nhan đề Địa Lý Thiên Nhiên Việt Nam và Các Vùng Thiên Nhiên của Lãnh Thổ Việt Nam (?) do Nhà Xuất Bản Giáo Dục Việt Nam và Nhà Xuất Bản Khoa Học và Kỹ Thuật Việt Nam ấn hành năm 1970 lại xác định điểm cực đông của lãnh thổ Việt Nam nằm ở 109 độ 21 phút Đông thay vì 109 độ 29 phút Đông, chênh nhau 8 phút. Tác giả bài báo cho rằng dù có tăng thêm 8 phút cho lãnh thổ Việt Nam, Nam Sa vẫn không thuộc Việt Nam vì Nam Sa nằm ở 109 độ 30 phút đông của lãnh thổ Việt Nam (cũng theo bài báo).
Qua những thí dụ kể trên, người ta thấy lập luận của phía Trung Hoa có những điều bất ổn. Ba thí dụ đầu căn cứ vào những tài liệu được ấn hành từ trước năm 1975, khi Việt Nam còn bị chia đôi và có xuất xứ từ miền Bắc Việt Nam trong khi các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo Hiệp Định Genève mà Trung Quốc có tham dự và đóng vai trò tích cực, là do miền Nam quản trị. Lập luận của Trung Quốc trong trường hợp này không có giá trị vì nó cũng giống như lập luận của họ đối với văn thư Phạm Văn Đồng gửi cho Châu Ân Lai. Nói cách khác, những gì miền Bắc làm đối với Hoàng Sa và Trường Sa là không có giá trị pháp lý căn cứ vào Hiệp Định Genève. Có điều khi đặt vấn đề này người ta lại phải đặt lại toàn bộ vấn đề Việt Nam từ biến cố 30 tháng Tư năm 1975 vì Miền Bắc là phía thắng trận nên những gì Miền Bắc làm là hợp pháp. Một câu hỏi khác liên hệ trực tiếp với bài này cần được nêu lên là tại sao các nhà làm sách và làm bản đồ ở miền Bắc thời trước năm 1975 lại dùng những danh xưng của người Tàu thay vì các danh xưng của người Việt để gọi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa? Câu trả lời có thể là vì thời gian đó là thời gian Việt Nam và Trung Hoa là hai nước Cộng Sản “anh em”, em không giữ được thì đưa cho anh thay vì để người ngoài chiếm mất, đồng thời đó cũng là thời gian chiến tranh, Cộng Sản Việt Nam cần sự giúp đỡ của Cộng Sản Trung Quốc và vai trò của Trung Quốc nói chung và của các cố vấn Trung Quốc nói riêng rất mạnh, không ai có thể chống lại. Do đó, việc dùng ngôn từ của Trung Quốc hay việc chép nguyên văn từ các tài liệu do các cố vấn Trung Quốc đưa cho ở đây cũng chỉ là một điều bình thường giống hệt như trong các cuộc chỉnh huấn trong quân đội hay cải cách ruộng đất và việc dùng danh xưng Quân Đội Nhân Dân thay thế cho danh xưng Vệ Quốc Đoàn mang nặng tinh thần quốc gia chủ nghĩa. Khó ai có thể ngờ Trung Quốc trước sau như một khiến cho những gì các nhà làm bản đồ hay sách giáo khoa về địa lý ở miền Bắc đã làm ở thời đó sau này đã gây ra bất lợi cho cả đất nước Việt Nam. Tưởng ta cũng nên để ý là về vấn đề kinh độ, 109 độ 21 hay 29 phút chỉ là của Việt Nam lục địa tức phần chính của Việt Nam mà thôi. Các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa không được trình bày trong tài liệu được viện dẫn. Ngoài ra người ta cũng phải để ý hơn nữa là tháng 5 năm 1975 miền Bắc mới chiếm được miền Nam và tự coi là có trách nhiệm trên toàn thể lãnh thổ của miền Nam trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa. Thời gian quá ngắn nên những tài liệu tờ Quân Đội Nhân Dân dùng cho bài viết của họ vẫn là tài liệu cũ của miền Bắc. Họ chưa có đủ thì giờ để cập nhật hóa những gì phải làm.
Tên South China Sea hay Mer de Chine hay Mer de Chine Méridionale cần phải được thay thế bằng Southeast Asia Sea hay Mer de l’Asie du Sud-Est hay Mer du Sud-Est Asiatique hay Biển Đông Nam Á
Đây là một vấn đề lẽ ra phải được nêu lên từ lâu nhưng hầu như ít ai để ý đến hoặc chưa có dịp. Người viết đã thử làm hồi cuối thập niên 1980 của thế kỷ trước bằng các gửi thư cho các bộ ngoại giao của các nước Đông Nam Á, nhưng như mọi người có thể đoán được, với tư cách cá nhân vô danh, nhỏ bé, thư chắc chắn đã được nằm trong sọt rác. Sau này một tổ chức lớn hơn, Nguyễn Thái Học Foundation cũng đã làm nhưng cũng chưa đạt được ý muốn. Một thời điểm đầu tiên rất tốt đã xảy ra trong năm 2010, một thời điểm có thể coi là ngàn năm một thuở vì Việt Nam vào năm 2010 là chủ tịch luân phiên của Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN), đồng thời trong tháng 4 năm đó cuộc họp thượng đỉnh của Hiệp Hội đã diễn ra ở Hà Nội. Với tư cách chủ nhà và ở cương vị chủ tịch, nhà nước Cộng Sản Việt Nam có thể đưa ra đề nghị để hội nghị cứu xét và thông qua. Rất tiếc là nhà nước này Cộng Sản Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội này. Tuy nhiên thời điểm hiện tại cũng không đến nỗi là đã quá muộn. Lý do là vì hiện tại Quốc Tế nói chung, trong đó có Nhật Bản, có Úc, có Ấn Độ…, không phải chỉ riêng Hoa Kỳ, đã chú ý nhiều hơn tới nguy cơ Biển Đông và đã có những hành động cụ thể. Một vận động mới cần phải được khởi động.
Có nhiều lý do phải đổi tên:
Thứ nhất: Tên South China Sea (Biển Nam Trung Hoa) trong tiếng Anh và tên Mer de Chine (Biển Trung Hoa) hay Mer de Chine Méridionale trong tiếng Pháp không thích hợp với thực tại địa lý nói chung của biển này. Chúng đã được đặt ra và được chấp nhận từ nhiều thế kỷ trước, khi người Âu Châu mới tới vùng này. Lúc đó họ đã biết hay đã quen với Trung Quốc nhiều hơn là với các xứ Đông Nam Á đương thời, trong khi trên thực tế biển này ba mặt phía nam, phía tây, phía đông được vây quanh bởi các nước Đông Nam Á, chỉ một phần phía bắc là tiếp giáp với Trung Quốc. Khi một danh xưng do người ngoài đặt cho và không hợp lý với thực tại địa phương, người ta cần phải đổi đi cho hợp lý hơn thay vì để nguyên một cách thụ động và cứ thế mà dùng từ đó gây ra những hiểu lầm lẽ ra có thể tránh được. Nên để ý là Indonesia xưa kia bị gọi là Nam Dương quần đảo. Sau khi độc lập nước này đã được đổi tên là Indonesia hay In-đô-nê-xia.
Thứ hai: Biển này nằm ở giữa các quốc gia Đông Nam Á, trong tương lai, với đà phát triển trên nhiều mặt của Hiệp Hội ASEAN, sẽ là một cái hồ, một thứ Địa Trung Hải của toàn vùng. Nó sẽ giúp cho mọi sự tiếp xúc, trao đổi và hợp tác, nói chung, từ kinh tế, tài chánh, thương mại đến văn hóa, giáo dục… được dễ dàng vì giao thông bằng đường thủy luôn luôn dễ dàng với những số lượng lớn hơn gấp bội so với đường bộ hay đường hàng không nếu người ta biết tổ chức và khai thác. Tên South China Sea hay Mer de Chine hay Mer de Chine Méridionale không nói lên được tầm quan trọng này, chưa kể tới những ý nghĩa tiềm ẩn có thể bị khai thác của hai chữ China hay Chine trong hai danh xưng này.
Thứ ba: Đổi tên từ South China Sea (Biển Nam Trung Hoa) hay Mer de Chine (Biển Trung Hoa)hay Mer de Chine Méridionale (Biển Nam Trung Hoa) thành Biển Đông Nam Á không có nghĩa là ta từ bỏ danh xưng Biển Đông hay Đông Hải của Việt Nam vì Biển Đông hay Đông Hải là những tên riêng của người Việt để dùng trong nội bộ mình. Các nước khác chắc chắn cũng có những tên riêng của để gọi biển này của họ, điển hình là Phi Luật Tân. Vì là của riêng người ta vẫn có thể tiếp tục dùng những danh xưng này như những danh xưng truyền thống với những ý nghĩa vừa đúng với vị trí của biển này đối với người dân địa phương, vừa tình cảm của chúng. Southeast Asia Sea hay Mer de l’Asie du Sud-Est sẽ chỉ là những danh xưng quốc tế thích hợp hơn để dùng trên các văn kiện hay trong các buổi họp quốc tế, trên các địa đồ thế giới và cho các nước không nằm trong vùng.
Thứ tư: Dùng danh xưng Biển Đông Nam Á hay Southeast Asia Sea hay Mer de l’Asie du Sud-Est hay Mer du Sud-Est Asiatique sẽ giúp cho các học giả, các nhà ngoại giao, các chính khách Việt Nam, mỗi khi phải tiếp xúc với thế giới bên ngoài, tránh được sự khó chịu khi phải dùng những tên vừa không do mình đặt ra vừa không đúng với thực tại địa lý mà còn hàm chứa ảnh hưỏng và sức mạnh quá lớn của Trung Quốc. Không những thế chúng còn mang các quốc gia Đông Nam Á lại gần với nhau hơn, đồng thời có thể tạo ra cho người dân của các quốc gia này một ý thức mới, ý thức thuộc về một khối người có nhiều điểm tương đồng, có những quyền lợi chung cần được khai thác với nhau trong hòa bình và cùng nhau bảo vệ nhất là trong phạm vi môi trường thiên nhiên vào lúc Trung Quốc đang nỗ lực kỹ nghệ hóa các tỉnh đông nam của họ hay xa hơn nữa trước tham vọng bành trướng nhằm làm bá chủ thế giới của nước này.
Kết luận: Với những lý do trên đây, và còn nhiều lý do khác nữa mà người viết, trong một bài báo ngắn gọn hay vì nhất thời tế nhị, không thể kể ra hết, việc thay thế các danh xưng South China Sea trong tiếng Anh và Mer de Chine hay Mer de Chine Méridionale trong tiếng Pháp bằng danh xưng Southeast Asia Sea hay Mer de l ‘Asie du Sud-Est hay Mer du Sud-Est Asiatique là một việc làm cần thiết và thích hợp cho sự phát triển nhanh chóng và mỗi ngày mỗi thêm vững mạnh của Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN) như người ta đã và đang thấy. Nó nói lên sự bình đẳng và ý chí kết hợp của các nước trong vùng. Ngưòi ta có thể không thích ý kiến quốc tế hóa các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vì nó liên hệ tới chủ quyền về lãnh thổ và lãnh hải của riêng từng nước, nhưng người ta có thể chấp nhận, nếu không nói là hoan nghênh việc làm này như một cái tên thuần túy và đơn giản. Các quốc gia Đông Nam Á đã có một tổ chức chung; đã đến lúc các quốc gia này phải có một cái gì cụ thể chung. Một vùng biển chung mang danh Biển Đông Nam Á ít ra qua danh xưng của nó là biểu tượng cho cái gì chung đó vậy. Trở về với Việt Nam. Như đã nói ở trên, năm 2010 Việt Nam đã bỏ lỡ một cơ hội có thể nói ngàn năm một thuở. Tuy nhiên lỡ không phải là quá trễ. Với sự nhập cuộc mỗi ngày một mạnh hơn, mỗi ngày một sâu hơn của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Phi Luật Tân, Úc và luôn cả Ấn Độ… trong một thế giới đang đổi mới, một cuộc vận động mạnh hơn cần được khởi động trở lại. Nên nhớ là chúng ta đang ở Thế Kỷ 21 chứ không còn ở Thế Kỷ 20 nữa.
Vì chủ đề của bài này là Trường Sa và Hoàng Sa nên người viết thấy cần phải nêu lên một gợi ý khác để các nhà cầm quyền Cộng Sản ở trong nước hiện tại chứng tỏ sự ghi nhận công ơn của các chiến sĩ, bất kể là từ miền Nam hay miền Bắc trước kia, đã hy sinh bảo vệ lãnh thổ nước nhà. Gợi ý đó là : Hãy dùng tên của họ để đặt cho những chiến hạm mới mà Việt Nam mới đặt mua hay mới tự đóng để bảo vệ vùng biển của đất nước. Sự đặt tên này cũng gống như sự dựng tượng đài kỷ niệm chắc chắn sẽ được mọi người hoan nghênh kể cả các chiến sĩ hải quân của nước Việt Nam hiện tại vì trong khi chiến đấu chống hải quân Trung Cộng ở Trận Chiến Hoàng Sa hay Trường Sa họ chỉ hướng tới một mục tiêu duy nhất là bảo vệ lãnh thổ của tổ quốc Việt Nam hay đồng bào của họ trước sự xâm lăng của ngoại bang. Trong hoàn cảnh đó họ không còn là người của miền Nam hay của miền Bắc nữa mà là của chung của cả dân tộc hay hơn thế nữa họ là những anh hùng chung của cả dân tộc của thế kỷ hai mươi. Riêng Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà, ông người hạm trưởng đầu tiên của Hải Quân Việt Nam đã quyết dịnh ở lại, chết theo tàu trong cuộc chiến bảo vệ lãnh thổ và lãnh hải phía đông của tổ quốc mình trước một kẻ thù truyền kiếp, đông và mạnh hơn gấp bội. Lê Văn Tám là một nhân vật hoàn toàn ngụy tạo trong Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Nhất là điều bây giờ ai cũng biết, nhưng tên của nhân vật ngụy tạo này vẫn được giữ làm tên các trường học, tên đường, tên công viên. Tại sao ngưòi ta vẫn lờ đi không nói tới Ngụy Văn Thà và các chiến hữu bất kể Nam, Bắc của ông, những nhân vật lịch sử có thật, đặc biệt là vào lúc mà Hoàng Sa và Trường Sa là đề tài nóng bỏng của thời cuộc? Nhưng dù công nhận hay không, những ai còn tin vào sự linh thiêng của các anh hùng liệt sĩ của dân tộc, vẫn thường dành một phút trong các buổi lễ để tưởng niệm và tri ân, hẳn phải nghĩ rằng từ trên nền trời cao bao la, xanh thẳm của Biển Đông, Ngụy Văn Thà và các chiến hữu của ông vẫn luôn luôn theo dõi và phù trợ cho các hậu duệ của ông trong sứ mạng thiêng liêng bảo vệ lãnh thổ và lãnh hải phía đông của chung của cả dân tộc và che chở cho những đồng bào của ông vẫn ngày ngày kiếm sống trong những vùng biển từ xưa vẫn là của dân tộc mình. Tất nhiên là khi làm công việc này, nhà nước Cộng Sản Việt Nam hãy làm cho 64 liệt sĩ đã hy sinh trong Trận Chiến Trường Sa ngày 14 tháng 3 năm 1988 của mình trước. Điều mà cho đến tận năm 2015 này họ vẫn chưa làm được hay chỉ cho làm một cách rụt rè.
Có điều vinh danh hay không vinh danh đối với các chiến sĩ này chắc chắn chẳng có gì là quan trọng so với sứ mạng vô cùng lớn lao và cao cả là bảo vệ đất nước, bảo vệ đồng bào của họ.
Phạm Cao Dương
(Nhân dịp Hội Nghị Quốc Tế về Biển Đông họp tại Manila cuối tháng 3 năm 2015).
NGUYỄN THIÊN THỤ * TÂM TRẠNG NGUYỄN DU
TÂM TRẠNG NGUYỄN DU
(1765- 1820)
NGUYỄN THIÊN THỤ
Nguyễn Du tự là Tố Như, hiệu là Hồng Sơn Liệp Hộ, người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, là con thứ bảy của Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm. Vì là con quận công, ông được tập ấm Hoàng tín đại phu, Trung thành môn vệ úy, tước Thu Nhạc bá. Năm 19 tuổi, ông trúng tam trường thi hương tại Thăng Long. Năm kỷ dậu (1789), vua Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc, ông theo phò tá mà không kịp, phải trốn về quê vợ, ở Quỳnh Côi, huyện Hải An, Thái Bình, mưu việc cần vương song không thành. Ông về quê, lấy săn bắn làm vui, hiệu là Hồng Sơn liệp hộ, và Nam Hải Điếu Đồ. Năm bính thìn (1796), ông toan vào Gia Định phò chúa Nguyễn thì bị tướng Tây Sơn ở Nghệ An là Nguyễn Thận bắt, sau thả ra. Tháng 6 nhâm tuất (1802), vua Gia Long ra Bắc, ông đem thủ hạ ra nghênh đón và theo vua Gia Long đến Bắc Thành. Tháng 8 năm ấy, ông được bổ tri huyện Phù Dung ( Phù Cừ, Hải Hưng), rồi thăng tri phủ Thường Tín, sau xin nghỉ bệnh. Năm quý hợi (1803), ông cùng một số quan văn được cử lên ải Nam Quan đón sứ Trung Quốc. Năm bính dần ( 1806), Gia Long thứ năm, ông được thăng Đông Các Đại học sĩ. Năm Gia Long thứ 12 (1813, thăng Cần Chánh điện Đại Học sĩ, và được cử làm chánh sứ sang triều Thanh. Khi về, ông được thăng Lễ bộ Hữu tham tri. Năm Minh Mạng thứ nhất (1820), ông được cử làm chánh sứ đi Trung Quốc nhưng chưa đi thì ông mất lúc 56 tuổi ta.
Tác phẩm: Ba tác phẩm trên là thơ chữ Hán sang tác trong thời gian phục vụ nhà Nguyễn:
-Thanh Hiên Tiền Tập: thời gian ẩn lánh ở Bắc
-Thanh Hiên Hậu Tập: Thời gian làm quan ở Bắc.
-Nam Trung Tạp Ngâm : thời gian làm quan tại miềnTrung.
- Bắc Hành Tạp Lục : thời gian đi sứ Trung Quốc.
Bắc Hành Thi Tập phần lớn là thơ tả cảnh Trung Quốc.
Bắc Hành Thi Tập phần lớn là thơ tả cảnh Trung Quốc.
1.Tình yêu thiên nhiên
Bài thơ tả sông Thanh Quyết là một bài thơ tả cảnh rất hay. Sông này thuộc huyện Gia Lâm, tỉnh Ninh Bình, là một đoạn của sông Đáy, giữa đường đi Ninh Bình, Hà Nam, tức sông Gián Khẩu:
清决江晚眺
浮僑盡處出平田
古徑樵歸明月担
潮門漁送夕陽船
茫茫遠水三春樹
落落人家兩岸煙
極目鄕關在何處
征鴻數點白雲邊
Thanh Quyết Giang vãn thiếu
Phù kiều tận xứ xuất bình điền,
Lịch lịch thanh sơn lại nhãn tiền.
Cổ kính tiều quy minh nguyệt đán,
Triều môn ngư tống tịch dương thuyền,
Mang mang thủy viễn tam xuân thụ,
Lạc lạc nhân gia lưỡng ngạn yên.
Cực mục hương quan tại hà xứ,
Chinh hồng sổ điểm bạch vân biên.
Ngắm cảnh buổi chiều trên sông Thanh Quyết
Qua khỏi chiếc cầu, đến cánh đồng,
Núi non cao ngất, nước xanh trong.
Lão tiều gánh củi về trăng sáng,
Ngư phủ lái thuyền ra cửa sông.
Xuân mới hàng cây sóng dồn dập,
Chiều tàn mái rạ khói bình bồng.
Quê hương ta ở phương nào nhĩ?
Điểm trắng trời xanh mấy cánh hồng!
瓊海元宵
元夜空庭月滿天
依依不改舊嬋娟
一天春興誰家落
萬里瓊州此夜圓
鴻嶺無家兄弟散
白頭多恨歳時遷
窮途憐汝遙相見
海角天涯三十年
元夜空庭月滿天
依依不改舊嬋娟
一天春興誰家落
萬里瓊州此夜圓
鴻嶺無家兄弟散
白頭多恨歳時遷
窮途憐汝遙相見
海角天涯三十年
QUỲNH HẢI NGUYÊN TIÊU
Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên
Y y bất cải cựu thiền quyên
Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc
Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên
Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán,
Bạch đầu đa hận tuế thời thiên.
Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến,
Hải giác thiên nha tam thập niên.
ĐÊM NGUYÊN TIÊU Ở QUỲNH HẢI
Sân vắng, đêm rằm, trăng sáng soi
Thuyền quyên hình dáng vẫn xinh tươi.
Một trời xuân đẹp ai vui sướng
Muôn dặm Quỳnh Châu trăng rạng ngời
Hồng Lĩnh không nhà, anh em rã,
Bạc đầu ôm hận tháng năm xuôi.
Đường cùng cảm kích trăng thăm viếng,
Ba chục năm trời kiếp nổi trôi.
1. Sầu quốc phá, gia vong.
Khi Tây Sơn đánh đất Bắc, đánh tan họ Trịnh, rồi sau đó đánh tan quân Thanh. Nhà Nguyễn Du chia hai, một nửa phò Lê, một nửa theo Tây Sơn. Nguyễn Du theo phò Lê, mưu chống Tây Sơn nhưng thất bại. Ông phải ẩn náu và đau lòng vì cảnh nước mất nhà tan:
一自衣裳無覓處
兩堤烟草不勝悲
百年多少傷心事
近日長安大已非 (江享有感)
Nhất tự y thường vô mịch xứ,
Lưỡng đê yên thảo bất thăng bi.
Bách niên đa thiểu thương tâm sự,
Cận nhật Trường An đại dĩ phi ( Giang đình hữu cảm)
-Một thuở áo xiêm không bóng dáng,
Đôi bờ cây cỏ luống u sầu.
Trăm năm cuộc thế bao buồn khổ,
Phong cảnh Trường An đã khác màu. (Cảm xúc ở Giang đình)\
Năm bính thìn (1796), ông mưu vào Gia Định giúp nhà Nguyễn, nhưng đến Nghệ An thì bị giam 10 tuần (khoảng ba tháng ),ông đau đớn và tuyệt vọng:
縻中慢興
鍾子猿琴操南音
莊舃病中猶越吟
四海風塵家國淚
十旬牢獄死生心
平章遺恨何時了
孤竹高風不可尋
我有寸心無與語
鴻山山下桂江深
My trung mạn hứng
Chung tử viên [1]cầm tháo nam âm,
Trang Tích[2] bệnh trung do Việt ngâm.
Tứ hải phong trần gia quốc lệ,
Thập tuần lao ngục tử sinh tâm.
Bình Chương[3] di hận hà thời liễu,
Cô Trúc[4] cao phong bất khả tầm.
Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ,
Hồng Sơn sơn hạ Quế Giang[5] thâm.
Cảm hứng trong tù
Chung Nghi chơi nhạc điệu phương nam,
Trương Tích lúc đau nói Việt âm.
Bốn bể khóc than cơn gió bụi
Mười tuần sống chết kiếp giam cầm.
Bình Chương di hận bao giờ hết,
Cô Trúc cao phong chẳng thể tìm.
Ta có tấc lòng không thể nói,
Hồng cao, Quế thẳm biết bao tầm!
自嘆(其一)
生未成名身已衰
蕭蕭白髮暮風吹
性成鶴脛何容斷
命等鴻毛不自知
天地與人屯骨相
春秋還汝老鬚眉
斷蓬一片西風急
畢竟飄零何處歸
生未成名身已衰
蕭蕭白髮暮風吹
性成鶴脛何容斷
命等鴻毛不自知
天地與人屯骨相
春秋還汝老鬚眉
斷蓬一片西風急
畢竟飄零何處歸
Tự thán
Sinh vị thành danh thân dĩ suy,
Tiêu tiêu bạch phát mộ phong xuy
Tính thành hạc hĩnh hà dung đoạn
Mệnh đẳng hồng mao bất tự tri
Thiên địa dữ nhân truân cốt tướng
Xuân thu hoàn nhữ lão tu mi
Đoạn bồng nhất phiến tây phong cấp
Tất cánh phiêu linh hà xứ quy
THAN THÂN
Sống chửa thành danh thân đã suy,
Bơ phờ tóc trắng, gió lê thê.
Tính như chân hạc, khôn thu ngắn,
Mệnh tựa lông hồng, dễ gặp nguy.
Thân thế đắng cay, trời đất phú
Tóc râu bạc trắng, tháng ngày đi.
Cỏ bồng theo gió bay đi mãi,
Nào biết nơi nao sẽ trở về!
Thời cuộc chuyển vần, ông bị phá sản, đến khi làm quan triều Nguyễn, đời ông vẫn gặp nhiều khó khăn. Ông phải lo cho thân ông và cả gia đình ngoài quê:
白頭所計惟衣食
何得狂歌似少年 (夜坐)
Bạch đầu sở kế duy y thực
Hà đắc cuồng ca tự thiếu niên.(Dạ tọa)
-Bạc đầu vẫn phải lo cơm áo,
Chẳng được ca tràn như thiếu niên. (Đêm ngồi)
十口啼饑橫嶺北
一身臥病帝城東
知交怪我愁多夢
天下何人不夢中 (偶題)Thập khẩu đề cơ Hoành Lĩnh bắc,
一身臥病帝城東
知交怪我愁多夢
天下何人不夢中 (偶題)Thập khẩu đề cơ Hoành Lĩnh bắc,
Nhất thân ngọa bệnh đế thành đông.
Tri giao quái ngã sầu đa mộng
Thiên hạ hà nhân bất mộng trung (Ngẫu đề)
Nhà bắc Hoành Sơn mười miệng đói,
Cửa đông kinh khuyết, một mình đau.
Bạn bè cười tớ hay sầu mộng,
Thiên hạ ai người chẳng khổ sầu ? (Ngẫu đề)
Theo Đào Duy Anh trong 65 bài thơ trong Thanh Hiên Tiền Hậu Thi Tập thì 17 bài nói về tóc bạc. Nói về bạc tóc nghĩa là nói về sự lo lắng, buồn rầu, tinh thần và thể xác suy nhược. Nguyễn Du bạc tóc khi ba mươi tuổi.
Bạch đầu đa hận tuế thời thiên.
Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến,
Hải giác thiên nha tam thập niên. (Quỳnh Hải nguyên tiêu)
忽驚老境今朝是
何處秋聲昨夜聞
自哂白頭欠收入
滿庭黄葉落紛紛(秋日寄興)
何處秋聲昨夜聞
自哂白頭欠收入
滿庭黄葉落紛紛(秋日寄興)
Hốt kinh lão cảnh kim triêu thị
Hà xứ thu thanh tạc dạ văn
Tự sẩn bạch đầu khiếm thu nhập
Mãn đình hoàng diệp lạc phân phân (Thu nhật kí hứng)
Ta thấy bàng hoàng cảnh lão nhược
Ai nghe văng vẳng tiếng thu sang?
Tuổi già sao vụng đường suy tính
Tràn ngập ngoài sân lạ rụng vàng. (Cảm hứng mùa thu)
3 .Tâm trạng lưu đày
Một đời Nguyễn Du là một đời luân lạc, một đời lữ khách. Khi đi lánh nạn ở Quỳnh Côi, khi ra làm quan Quảng Bình, Huế, ở đâu ông cũng cảm thấy cô đơn, nhớ nhà và mang tâm trạng lưu đày:
秋至
香江一片月
今古許多愁
往事悲青塚
新秋到白頭
有形徒役役
無病故拘拘
回首藍江浦
閒心謝白鷗
香江一片月
今古許多愁
往事悲青塚
新秋到白頭
有形徒役役
無病故拘拘
回首藍江浦
閒心謝白鷗
THU CHÍ
Hương giang nhất phiến nguyệt,
Kim cổ hứa đa sầu.
Vãng sự bi thanh trủng.
Tân thu đáo bạch đầu.
Hữu hình đồ dịch dịch,
Vô bệnh cố câu câu
Hồi thủ Lam giang phố,
Nhàn tâm tạ bạch âu.
THU ĐẾN
Trăng soi trên sông Hương,
Kim cổ bao sầu thương.
Buồn cho những nấm mộ ,
Thu về tóc như sương
Tấm thân nhiều cay đắng
Không bệnh lưng đã còng
Nhìn về sông Lam chảy
Thua đàn âu thong dong
幽居
十載風塵去國賒
蕭蕭白髮寄人家
長途日暮新遊少
一室春寒舊病多
壞壁月明蟠蜥蜴
荒池水涸出蝦蟆
行人莫誦豋樓賦
强半春光在海涯
十載風塵去國賒
蕭蕭白髮寄人家
長途日暮新遊少
一室春寒舊病多
壞壁月明蟠蜥蜴
荒池水涸出蝦蟆
行人莫誦豋樓賦
强半春光在海涯
U CƯ
Thập tải phong trần khứ quốc xa
Tiêu tiêu bạch phát kí nhân gia
Trường đồ nhật mộ tân du thiểu
Nhất thất xuân hàn cựu bệnh đa
Hoại bích nguyệt minh bàn tích dịch
Hoang trì thủy hạc xuất hà ma
Hành nhân mạc tụng Đăng lâu phú[6]
Cường bán xuân quang tại hải nha.
Ở nơi vắng vẻ
Mười năm lưu lạc, bỏ quê cha,
Sống ở nhà người, tóc bạc phơ.
Nhà lạnh,bệnh nhiều, xuân đã muộn,
Chiều tàn, bạn it, đường còn xa
Vách hư, trăng chiếu, thằn lằn chạy,
Nước cạn, ao hoang, ếch nhái ra
Đi đường chớ đọc 'Đăng lâu phú'
Góc biển chân trời tuổi đã già!
新秋偶興
江城一臥閲三周
北望家鄕天盡頭
麗水錦山皆是客
白雲紅樹不勝秋
此身已作樊籠物
何處重尋汗漫遊
莫向天涯嘆淪落
何南今是帝王州
北望家鄕天盡頭
麗水錦山皆是客
白雲紅樹不勝秋
此身已作樊籠物
何處重尋汗漫遊
莫向天涯嘆淪落
何南今是帝王州
Tân Thu Cảm Hứng
Giang thành nhất ngọa duyệt tam chu,
Bắc vọng gia hương thiên tận đầu.
Lệ Thủy , Cẩm Sơn giai thị khách
Bạch vân, hồng thụ bất thăng thu.
Thử thân dĩ tác phàn lung vật,
Hà xứ trùng tầm hãn mạn du.
Mạc hướng thiên nhai thán luân lạc,
Hà nam kim thị đế vương chu.
Đầu thu cảm hứng
Giang thành thoáng đã mấy năm trôi,
Đất Bắc quê hương ở cuối trời.
Lệ Thủy, Cẩm Sơn, thân lữ khách,
Lá vàng, mây trắng, thu đơn côi!.
Cái thân lồng cũi cam tâm chịu,
Đâu chốn Nhược Bồng thỏa chí chơi
Chớ hướng chân trời than lận đận,
Bờ Nam nay thuộc đất vua rồi!
4. Chán danh lợi
Những đoạn thơ trên cho ta thấy trong thời làm quan với nhà Nguyễn, ông mang nỗi đau đớn chán chường. Sao vậy? Vì nhớ nhà, thân bệnh… Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Nguyễn Du mang lòng hoài Lê. Khi ông định vào Gia Định giúp Nguyễn Ánh thì ảnh hưởng vua Lê đã tàn lụi trong lòng Nguyễn Du. Nhất là khi Nguyễn Du ra làm quan triều Nguyễn, thì lòng hoài Lê càng sụt giảm ghê gớm. Trong khi sĩ phu Bắc Hà còn giữ thái độ chờ xem, thì Nguyễn Du đã hăng hái đi đón Nguyễn Ánh. Nguyễn Du đã tích cực theo Nguyễn Ánh chứ không phải miễn cưỡng như những ai khác. Ông lại được thăng cấp nhanh chóng, tất nhiên là ông không có chút oán hận vua Gia Long. Đại Nam Liệt Truyện lại chép: Khi bị lệnh triệu không thể từ được mới ra làm quan, thường phải chịu khuất với cấp trên, lấy làm uất ức bất đắc chí. (Tập II, quyển XX, tr.336).
Câu trên có hai phần, phần trên sai vì Nguyễn Du hăng hái theo vua mới, chứ không miễn cưỡng, không chờ triệu dụng nhưng nửa câu dưới đúng. Tuy ông được vua hậu đãi, ông vẫn là kẻ ''hàng thần lơ láo'', là kẻ ''tân tòng'', chứ không phải là kẻ đã nằm gai nếm mật để đạt chiến thắng 1802. Vả lại, ở đâu cũng thế, cái tinh thần '' cá lớn nuốt cá bé'', ''ma cũ bắt nạt ma mới'', sự ghen ghét bao giờ cũng tồn tại trong loài người. Hơn nữa, chính vì được vua hậu đãi, chính vì ông xuất thân gia đình quyền quý và khoa bảng cho nên ông bị các quan trong triều phần lớn là võ tướng, là nông dân ghen ghét, trù dập. Ngoài ra còn có sự kỳ thị địa phương, tuổi tác, và phong cách. Tài ba và công trạng như Nguyễn Trãi đời Lê còn bị quyền thần lấn áp, giòng dõi hoàng gia mà Tuệ Trung Thượng Sĩ phải kêu lên danh lợi hiểm nguy huống gì Nguyễn Du! Dẫu sao, chúng ta cũng phải kính phục vua Quang Trung và Gia Long, xuất thân võ tướng mà biết tôn trọng người trí thức! Liệt Truyện lại viết: Du là người ngạo nghễ tự phụ, mà bề ngoài tỏ ra kính cẩn, mỗi khi vào yết kiến sợ hãi như không nói được. Vua thường bảo rằng ''nhà nước dùng người, chỉ cần người hiền, vốn không phân biệt nam bắc, nguơi cùng với Ngô Vỵ đã được đối đãi hậu, làm quan đến Á khanh, nên biết thì phải nói, để hết chức phận, há nên do dự rụt rè chỉ cốt dạ vâng làm gì (336).
Nhà viết sử về đoạn này cũng đã tỏ ra ghét Nguyễn Du dù ông sống sau Nguyễn Du, không va chạm gì với Nguyễn Du. Dẫu sao qua tinh thần của Liệt Truyện, chúng ta thấy Nguyễn Du bị nhiều người ganh ghét dù sau khi ông chết. Vì vậy, đọc thơ ông, ta thấy toàn nỗi buồn. Có lẽ tự ông đã biết ông bị người ta ghen ghét vì ông được vua yêu:
偶題公館壁
閶闔門前春色闌
隔江遙對御屛山
春從江上來何處
人倚天涯滯一官
滿地繁聲聞夜雨
一床孤悶敵春寒
桃花莫仗東君意傍有風姨性最酸
閶闔門前春色闌
隔江遙對御屛山
春從江上來何處
人倚天涯滯一官
滿地繁聲聞夜雨
一床孤悶敵春寒
桃花莫仗東君意傍有風姨性最酸
Ngẫu đề công quán bích
Xương hạp môn tiền xuân sắc lan
Cách giang diêu đối Ngự Bình san
Xuân tòng giang thượng lai hà xứ
Nhân ỷ thiên nhai trệ nhất quan
Mãn địa phồn thanh văn dạ vũ
Nhất sàng cô muộn địch xuân hàn
Đào hoa mạc trượng đông quân ý
Bàng hữu phong di tính tối toan
Tình cờ đề vách công quán
Cửa vua đã nhạt sắc xuân,
Bên sông núi Ngự như gần, như xa.
Xuân theo sông biếc la đà
Người theo quan chức đi ra hải tần.
Đêm nghe mưa gió chuyển vần,
Trên giường cô độc, nghe hàn buốt xương.
Hoa đào chớ cậy Đông hoàng,
Gió mưa lắm kẻ mưu toan hại mình!
( Ngẫu nhiên đề trên vách nhà công)
偶得
孤城日暮起陰雲
青草漫漫到海濱
曠野遍埋無主骨
殊方獨托有官身
事來徒隸皆驕我
老去文章亦避人
望外鴻山三百里
相從何處問前鄰
孤城日暮起陰雲
青草漫漫到海濱
曠野遍埋無主骨
殊方獨托有官身
事來徒隸皆驕我
老去文章亦避人
望外鴻山三百里
相從何處問前鄰
Ngẫu đắc
Cô thành nhật mộ khởi âm vân
Thanh thảo man man đáo hải tần
Khoáng dã biến mai vô chủ cốt
Thù phương độc thác hữu quan thân
Sự lai đồ lệ giai kiêu ngã
Lão khứ văn chương diệc tị nhân
Vọng ngoại Hồng Sơn tam bách lí
Tương tòng hà xứ vấn tiền lân.
Ngẫu đắc
Mây đen, thành vắng, ngày tàn,
Mênh mông cỏ biếc mọc lan chân trời.
Bao mồ vô chủ khắp nơi
Làm quan cũng gửi đất người nắm xương.
Vận suy tôi tớ khinh thường,
Tuổi già thi phú, văn chương lánh người.
Hồng Sơn trăm dặm xa xôi,
Đâu làng xóm cũ, đâu người năm xưa ?
5. Giai nh ân
Ông có nhiều bài đề cập đến giai nhân. Bài Mộng đắc thái liên là một bài thơ đẹp:
夢得採蓮,
緊束蛺蝶裙,採蓮棹小艇 ,
湖水何浺瀜,水中有人影,
採採西湖蓮,花實俱上船,
花以贈所畏,實以贈所憐,
今晨去採蓮,乃約東鄰女,
不知來不知,隔花聞笑語,
共知憐蓮花,誰者憐蓮幹,
其中有眞絲,牽連不可斷,
蓮葉何青青,蓮花嬌盈盈,
採之勿傷藕,明年不復生
MỘNG ĐẮC THÁI LIÊN
Khẩn thúc kiệp điệp quần/Thái liên trạo tiểu đĩnh
Hồ thủy hà xung dung/Thủy trung hữu nhân ảnh
Thái thái Tây Hồ liên/Hoa thực câu thượng thuyền
Hoa dĩ tặng sở úy/Thực dĩ tặng sở liên
Kim thần khứ thái liên/Nãi ước đông lân nữ
Bất tri lai bất tri/Cách hoa văn tiếu ngữ
Cộng tri liên liên hoa/Thùy giả liên liên cán
Kì trung hữu chân ti/Khiên liên bất khả đoạn
Liên diệp hà thanh thanh /Liên hoa kiều doanh doanh
Thái chi vật thương ngẫu/Minh niên bất phục sinh.
MỘNG THẤY HÁI SEN
Hái sen trên thuyền con,/ Nước hồ lên mênh mông
Buộc chặt ống quần lại/ Bóng người in nước trong.
Hái sen trên Hồ Tây Trên thuyền đầy hoa, gương
Đem hoa tặng người quý
Đem gương trao người thương
Sáng này đi hái sen /Hẹn cùng cô láng giềng.
Lúc nào cô đã đến/ Tiếng cười vang hồ sen.
Mọi người yêu hoa sen,/Nhưng ai yêu thân sen ?
Trong thân có tơ trắng,/Vương vấn mãi không quên!
Lá sen màu xanh xanh/Hoa sen rất xinh xinh
Ngó sen , xin đừng phạm /Sang năm sen chẳng sinh.
[1] Chung tº: Chung Nghi, ngÜ©i Sª giÕi Çàn, sau bÎ TÀn b¡t, . NgÜ©i ta Çua Çàn cho ông, ông chÌ gäy khúc phÜÖng nam mà thôi.
[2] Trang Tích: ngÜ©i ViŒt làn quan nܧc Sª, lúc Çau Óm thÜ©ng nói ti‰ng ViŒt
[3] Bình ChÜÖng: tên núi TÓng sº chép r¢ng TrÜÖng Th‰ KIŒt, m¶t tܧng nܧc TÓng, ÇÒng th©I v§I Væn Thiên TÜ©ng, chÓng quân Nguyên bi thua, g¥p bão, Ç¡m thuyŠn ch‰t ª núi Bình ChÜÖng. HÆn Bình ChÜÖng là hÆn vong quÓc
[4] Cô Trúc: m¶t nu§c Ƕc lÆp tØ Ç©i Ân, nay thu¶c Tr¿c LŒ. Khi nܧc Ân bÎ nhà Chu chi‰m thì Bá Di, Thúc TŠ là con vua Cô Trúc không phøc nhà Chu, lên núi Thú DÜÖng nhÎn Çói mà ch‰t chÙ không æn thóc nhà Chu.
[5] Qu‰ Giang: có lë là m¶t chi nhánh sông Lam chåy qua gÀn làng Tiên ñiŠn
[6] Vương Xán (chữ Hán: 王粲, 177-217) tự Trọng Tuyên (仲宣), người Cao Bình, Sơn Dương; nay thuộc huyện Trâu, tỉnh Sơn Đông (Trung Quốc), là nhà thơ nổi tiếng nhất, làm thơ nhiều nhất và cũng tiêu biểu nhất trong Kiến An thất tử ở cuối đời Đông Hán (東漢,) Trung Quốc.Tác phẩm của ông để lại có thi, phú, luận gồm 60 thiên; trong số đó có các bài Thất ai thi, Tòng quân thi, Đăng lâu phú, còn được truyền tụng .Bài Đăng lâu phú (Bài phú lên lầu) được ông làm khi lên chơi thành Giang Lăng ở Kinh châu. Nội dung bài phú là lòng buồn giận vì có tài mà không được dùng.