RFA* THÀNH PHẦN THỨ BA
Thành phần thứ ba là ai trong chiến tranh Việt nam?
Khi chiến tranh Việt nam gần kết thúc, người ta có nói đến những người được gọi là Thành phần thứ ba với khả năng đứng ra làm cầu nối cho việc thương lượng kết thúc chiến tranh. Thực sự họ là ai? Giáo sư Nguyễn Văn Trung là người từng được gọi là thuộc Thành phần thứ ba trên công luận tại miền nam trước năm 1975, và hiện nay sống tại Canada. Ông dành cho Kính Hòa cuộc phỏng vấn về câu chuyện này. Đầu tiên ông cho biết về thành phần thứ ba như sau:
GS Nguyễn Văn Trung: Bản thân tôi tôi lúc nào cũng chủ trương là không tham gia vào bất cứ thứ chính quyền nào, dù là đối lập hay tham chính. Vì tôi muốn giữ tư thế độc lập của một người trí thức dấn thân, nhưng mà dấn thân với tư cách tư tưởng chứ không phải tham gia tổ chức hay đoàn thể gì. Nói về thành phần thứ ba thì tôi biết nhưng tôi không phải là một nhân vật hay hoạt động gì ở trong đó, mặc dầu có vẻ xét về nguyên tắc tôi chẳng đứng với bên nào thì xếp vào thành phần thứ ba là đúng rồi, tôi không phải chính quyền, tôi không phải đối lập. Mà lúc đó có nhiều tổ chức thành phần thứ ba chứ không chỉ có một.
Kính Hòa: Giáo sư có nhớ cái ý tưởng về thành phần thứ ba ra đời như thế nào không ạ?
GS Nguyễn Văn Trung: Tôi không nhớ rõ lắm, nhưng biết là lúc đấy ở VN có chính quyền, có đối lập, và có những người không phải chính quyền, cũng không phải đối lập thì họ đứng vào thành phần thứ ba, nhưng trong thành phần thứ ba đó có nhiều tổ chức. Tôi thì xét về một mặt nào đó tôi cũng có thiện cảm với thành phần thứ ba. Nhưng tôi không dính vào tổ chức nào trong đó. Tôi chỉ là một người trí thức dấn thân thôi, dấn thân vào thời cuộc, và cả chính trị nữa nhưng không thuộc tổ chức chính trị nào, nhưng với tư cách là người có quan tâm đến thời cuộc, đến chính trị. Tôi cũng có thành lập những tổ chức nhưng không mang một áp lực chính trị nào. Cuộc đời tôi nó như vậy.
Kính Hòa: Bây giờ đứng từ ngoài nhìn vào, đứng ở chổ 40 năm sau thì Giáo sư có thấy là thành phần thứ ba có hoạt động nào không hay là họ chỉ có tiếng nới như vậy chứ không có thực lực gì? Vì rằng cuộc chiến tranh đã kết thúc bằng vũ lực!
Giáo sư Nguyễn Văn Trung: Cho tới bây giờ thì tôi thấy là thành phần thứ ba thì có nhưng không có thực lực gì. Nó vẫn có đó, nhưng mà không có một tổ chức gì có thống nhất hay là sức mạnh về chính trị. Nó có tiếng như vậy thôi, cũng có lúc họ cũng dính vào tổ chức nọ tổ chức kia, rồi cũng như tôi, dính vào thấy cũng … nên lại rút ra. Nó rất là linh động và không có thực lực lâu dài. Có những người cũng dính vào rồi nhưng mà… vì bản thân họ không thích chính trị cho nên họ dính vào rồi lại thấy không đi tới đâu, họ nghĩ là mình có thể làm được cái gì đó, sau họ chán rồi lại bỏ.
Kính Hòa: Giáo sư nhận xét gì về Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam?
Giáo sư Nguyễn Văn Trung: Tôi ở Việt nam đến năm 1994 tôi mới đi cho nên tình hình lúc năm 1975 tôi biết hết. Những người Mặt trận giải phóng miền Nam cũng là những người có thiện tâm thiện chí, nhưng sau năm 1975 thì họ thấy họ chỉ là con bài của miền Bắc thôi. Rồi có người họ rút ra, có người vẫ ở lại đó nhưng không làm gì cả. Tôi thấy họ cũng tự trọng. Họ không chống đối, họ biết họ sai lầm, nhưng họ cũng không nói ra, thế thôi, rồi mọi thứ tan biến cả.
Kính Hòa: Giai đoạn sau 1975 Giáo sư sống dưới chế độ của những người cộng sản cầm quyền thì Giáo sư cảm thấy thế nào?
Giáo sư Nguyễn Văn Trung: Trước 1975 tôi bị mang tiếng là người cấp tiến hay là thân cộng, có những tổ chức nọ kia mời tôi vô ủy ban cải thiện chế độ lao tù chẳng hạn. Nhưng khi mà họ về cầm quyền thì họ thấy tôi không phải là người của họ, và họ rất sợ, sợ tôi là thành phần nằm vùng của phe quốc gia. Họ sợ nên bắt tôi bỏ tù hết sáu tháng ở cái trại giam trong Sở công an. Sau họ thấy là không phải thì họ lại thả tôi ra. Tôi là một cái người mà tiếng Pháp gọi là ambigue, rất hàm hồ, tức là người ta đứng ở đâu thì người ta nhìn ra tôi theo cái quan điểm của họ.
Kính Hòa: 40 năm rồi Việt nam cũng có nhiều hay đổi, hiện nay trong nước cũng có nhiều trí thức người ta lên tiếng, người ta chỉ trích những cái làm không đúng của nhà cầm quyền. Giáo sư có nhận xét rằng giới trí thức ở Việt nam bây giờ họ đã mạnh dạn hơn không ạ?
Giáo sư Nguyễn Văn Trung: Tôi rời Việt nam đã 20 năm rồi, dù có về một lần nhưng mà cũng khó cho tôi để nói. Nhưng tôi thấy chưa có dấu hiệu gì làm thay đổi chế độ trong nước bây giờ. Cái này tôi thấy cái này khó hiểu lắm. Nước Việt nam ở cái vị thế mà các thế lực bên ngoài lúc thì lợi dụng lúc thì không. Những người ở trong nước họ có cái hoàn cảnh của họ, những người bạn của tôi hay những người trẻ hơn mà tôi biết thì đều không tạo được một thế đứng nào rõ ràng cả.
Kính Hòa: Người ta nói là chiến tranh đã kết thúc 40 năm rồi nhưng dường như chuyện hòa hợp hòa giải dân tộc vẫn chưa hoàn tất, Giáo sư có thấy như vậy không?
Giáo sư Nguyễn Văn Trung: Có chứ. Tôi gặp cả những người đảng viên từ ngoài Bắc vào, những người Sài gòn cũ, rồi những ông chống cộng, trong những buổi gặp gỡ như vậy ai cũng nói là thấy có thể làm những cái gì đó, nhưng rồi thì… Theo tôi thì những yếu tố đó không còn là Việt nam nữa, vì Việt nam dường như vẫn bị các cường quốc dù là Trung quốc, hay Nga, hay Mỹ lợi dụng theo cái quan điểm của họ.
Những người Việt nam cũng ý thức được chuyện đó nhưng ngồi với nhau rồi thì cũng chưa dẫn tới được cái gì. Bây giờ nói ví dụ như những người cộng sản, tôi có biết họ, họ cũng chán lắm rồi, nhưng cũng không ra khỏi tổ chức của họ, rồi những ông chống cộng cũng vậy thôi.
Kính Hòa: Cám ơn Giáo sư đã dành thì giờ cho chúng tôi thực hiện cuộc phỏng vấn này.
Friday, April 10, 2015
DAI LOAN
Hoa Hướng Dương sẽ thay đổi Đài Loan?
Cindy Sui BBC News, Đài Bắc
- 9 tháng 4 2015
Bữa ăn sáng tại gia đình họ Vương vào hôm Chủ Nhật: đó là bài học về những thái độ ứng xử ở Đài Loan đối với Trung Quốc đã thay đổi ghê gớm qua ba thế hệ.
Cha mẹ của Josephine từ Trung Quốc chạy sang Đài Loan sau khi Quốc dân đảng thua cuộc trước Đảng Cộng sản hồi cuối thập niên 1940. Họ tin rằng Trung Hoa Dân Quốc, tên chính thức hiện nay của Đài Loan, và Trung Hoa đại lục thuộc về cùng một quốc gia, và đó là những gì bà Josephine được dạy bảo.Chồng bà, Clyde, đã làm việc nhiều năm trong cơ quan chuyên quảng bá thương mại Đài Loan, hoạt động cả với Trung Quốc. Hai ông bà tin rằng Đài Loan phải có quan hệ tốt với đối tác lớn nhất và là cựu thù của mình, tuy đối tác này luôn muốn Đài Loan đến một ngày sẽ về với Trung Quốc thành một mối. Họ không ủng hộ việc nhập về với Trung Quốc, cũng không ủng hộ việc độc lập, mà muốn giữ nguyên trạng như hiện nay.
Nhưng Kevin, con trai họ, 30 tuổi, thì mạnh mẽ tin rằng Đài Loan là một quốc gia riêng rẽ và phải khẳng định sự độc lập của mình, nếu không muốn bị Trung Quốc nuốt chửng.
"Cha mẹ tôi vẫn nghĩ rằng chúng tôi là người Trung Quốc. Tại trường đại học, tôi bắt đầu nghi ngờ về những điều mình được dạy bảo," Kevin nói. "Nay thì tôi tin rằng Đài Loan bằng mọi cách có thể phải độc lập.
"Chính phủ hiện thời ở Đài Loan vẫn chưa thoát ra được cách nghĩ chúng tôi là một phần của Trung Quốc, cho nên chúng tôi cần phải cắt cái dây nhau đó đi."
Những người như Kevin đã tham gia vào một phong trào được gọi là Phong trào Hoa hướng dương, hồi năm ngoái đã chiếm đóng quốc hội trong 24 ngày, làm dấy lên cuộc biểu tình chống Trung Quốc lớn nhất trong nhiều năm qua.
Họ đã chặn việc cơ quan lập pháp chuẩn thuận một thỏa thuận thương mại gây tranh cãi với Trung Quốc và buộc chính phủ phải đồng ý ra luật mới, cho phép người dân theo dõi nhiều hơn các đàm phán với Bắc Kinh.
'Bảo vệ bản sắc'
Tuy các hoạt động hồi tháng Ba năm ngoái diễn ra tương đối nhỏ gọn và tòa nhà quốc hội đã lại thuộc về các nhà lập pháp, nhưng nơi này còn lâu mới trở lại hoạt động bình thường.Phong trào này khiến nhiều người nghĩ rằng họ, chứ không phải là chính phủ hay đảng đương quyền, Quốc Dân Đảng, phải có tiếng nói về mối quan hệ giữa Đài Loan với Trung Quốc.
Phong trào cũng góp phần đáng kể dẫn tới sự thất bại của đảng cầm quyền vốn có đường lối thân Trung Quốc trong các cuộc bầu cử địa phương hồi tháng Mười Một.
Nếu như nó thổi bùng thêm nữa các nỗi sợ hãi về Trung Quốc và sự bất bình với Quốc Dân Đảng, thì điều đó rất có thể sẽ giúp Đảng Dân tiến theo đường lối độc lập giành chiến thắng trong cuộc đua ghế tổng thống vào năm tới.
Đồng thời, nó giúp thúc đẩy những cải tổ trong luật trưng cầu dân ý ở Đài Loan.
Các lãnh đạo của phong trào Hoa Hướng Dương nói điều này sẽ thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa ở Đài Loan và bảo vệ chủ quyền qua việc để người dân trực tiếp quyết định các vấn đề, gồm cả bản sắc riêng và quan hệ với Trung Quốc.
"Bảo vệ được việc công nhận bản sắc Đài Loan sẽ giúp bảo vệ hơn nữa quyền tự chủ của Đài Loan. Điều này vô cùng quan trọng đối với chúng tôi," lãnh đạo Hoa Hướng Dương Lin Fei-Fan nói.
Nhưng không phải ai cũng ủng hộ phong trào này.
Tuy đã có nhiều thỏa thuận được ký với Trung Quốc trong những năm gần đầy, gồm cả một số thỏa thuận được nhiều người coi là có lợi cho Đài Loan, nhưng những thỏa thuận có thể ký tiếp nay đều đang bị tạm ngưng vô thời hạn.
Điều này gây quan ngại không chỉ từ phía các doanh nghiệp như ngân hàng, vốn muốn tiếp cận nhiều hơn nữa vào thị trường Trung Quốc, mà cả những ai khác muốn có quan hệ mạnh mẽ hơn với Trung Quốc, nhất là các quan hệ kinh tế.
Trong số này có Jen-Hsuan Hsieh, mới tốt nghiệp đại học. "Cả thế giới đang muốn hiểu rõ về Trung Quốc. Chúng tôi cũng phải làm vậy," cô nói.
"Kể cả khi có coi họ là kẻ thù, thì bạn cũng phải hiểu rõ kẻ thù của mình."
Làm nghề phiên dịch tự do, cô đang tìm việc làm ở Trung Quốc, nơi có nhiều cơ hội hơn, và lương cũng tốt hơn.
Cô không phải là người duy nhất. Một cuộc khảo sát gần đây cho thấy một phần ba người Đài Loan ở độ tuổi 20 đến ngoài 30 muốn làm việc tại Trung Quốc, cao hơn so với những năm trước.
Với thời gian, kinh tế và cuộc sống của người dân Đài Loan có thể sẽ trở nên gắn bó hơn với Trung Quốc, khiến cho Bắc Kinh dễ xoay sở hơn trong việc thúc đấy thống nhất.
Nhưng với thời gian, người Đài Loan có thể càng mạnh mẽ hơn trong ý định giữ độc lập. Một cuộc khảo sát hồi năm ngoái do một công ty địa phương, China Youth Corps, thực hiện cho thấy gần 90% học sinh, sinh viên coi mình là người Đài Loan chứ không phải người Trung Quốc.
'Cách thức hòa bình'
Một số người cho rằng nếu Trung Quốc trở nên dân chủ hơn và mức sống trung bình đạt được mức của Đài Loan, thì những khác biệt giữa hai bên sẽ bị mờ nhạt đi, và nếu người Trung Quốc hiểu hơn về Đài Loan thì quan điểm của họ trong chuyện thống nhất về một mối có thể sẽ nhẹ bớt đi, khiến cho việc tranh luận về chủ đề này sẽ trở thành không cần thiết.
Vào lúc này, Bắc Kinh đang theo dõi chặt chẽ Phong trào Hoa Hướng Dương. Tuy nhiên, Trung Quốc có lẽ chưa rõ là mình nên phản ứng ra sao, một phần bởi hiện Bắc Kinh không còn phải đối phó với chỉ một đảng phái chính trị nào nữa, mà là nhiều nhóm dân sự, các cá nhân trong phong trào này.
Tổng thống Đài Loan Mã Anh Cửu nói việc ông theo đuổi mối quan hệ tốt đẹp hơn với Trung Quốc là hướng đi đúng đắn và nói khi ông lên nắm quyền hồi 2008, quan hệ hay bên rất căng thẳng khiến Washington lo lắng.
Trở lại gia đình nhà họ Vương, các thành viên tránh bàn luận về vấn đề chủ quyền của Đài Loan hay việc Kevin tham gia phong trào cho tới khi họ được hỏi.Cha mẹ anh chấp nhận rằng thế hệ của Kevin rốt cuộc sẽ quyết định tương lai đất nước. Họ chỉ mong là thế hệ đó đưa ra những qhttp://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2015/04/150409_taiwan_sunflower_movementuyết định đúng đắn.
THÔNG CÁO CHUNG VIỆT TRUNG
Việt Nam - Trung Quốc ra thông cáo chung công nhận bất đồng trên biển
Tàu hải cảnh Trung Quốc chạy sát tàu cảnh sát biển Việt Nam tại vùng biển Hoàng Sa - REUTERS/Nguyen Minh
Cũng liên quan đến Biển Đông, nhưng trong quan hệ Việt Nam Trung Quốc, nhân chuyến công du của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, sẽ kéo dài cho đến ngày mai, vào hôm qua, 08/04/2015, hai bên đã công bố bản Thông cáo chung về chuyến thăm. Giới quan sát đặc biệt chú ý đến kết luận liên quan đến Biển Đông.
Nội dung bản thông cáo nhắc lại những vấn đề quen thuộc trong quan hệ song phương, nhắc lại những quan điểm cố hữu như tình hữu nghị rất tốt giữa hai nước, các trọng tâm hợp tác trong mọi mặt …
Riêng về vấn đề được mọi người chú ý là hồ sơ Biển Đông, trong đoạn 5 của bản Thông cáo, hai bên đã công nhận rằng đây là một vấn đề gây bất đồng, nhưng đều cam kết là sẽ giải quyết vấn đề bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở chú ý đến đại cục, tức là không để cho Biển Đông gây tổn hại cho các lãnh vực hợp tác khác.
Riêng về vấn đề được mọi người chú ý là hồ sơ Biển Đông, trong đoạn 5 của bản Thông cáo, hai bên đã công nhận rằng đây là một vấn đề gây bất đồng, nhưng đều cam kết là sẽ giải quyết vấn đề bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở chú ý đến đại cục, tức là không để cho Biển Đông gây tổn hại cho các lãnh vực hợp tác khác.
Giới phân tích đặc biệt chú ý đến phần hai bên cam kết là sẽ giải quyết tranh chấp bằng cách « kiên trì thông qua hiệp thương và đàm phán hữu nghị, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, tích cực nghiên cứu giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, bao gồm tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển ».
Khái niệm trên đây đã lập lại một chủ trương từng được Bắc Kinh thúc đẩy là « nên tạm gác tranh chấp để cùng phát triển », một ý tưởng từng khiến Việt Nam dè dặt vì rất có lợi cho Trung Quốc.
Đoạn thứ hai gián tiếp công nhận bất đồng trên vấn đề Biển Đông khi hai bên xác định : « Cùng kiểm soát tốt bất đồng trên biển…, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp; xử lý kịp thời, thỏa đáng vấn đề nảy sinh… ». Đoạn này mang ý nghĩa đặc biệt sau vụ Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào cắm sâu trong vùng thềm lục địa của Việt Nam, gây sóng gió trong quan hệ song phương.
Đoạn cuối của phần liên quan đến Biển Đông đưa ra một số biện pháp, nhưng gợi lại ý của Trung Quốc là hai bên nên « tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm » và « tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển ».
ĐỒNG HỒ THỤY SĨ
Đồng hồ Thụy Sĩ, võ khí mới nhất trong cuộc xung đột Biển Đông
31.03.2015
VIỆT NAM—
Công ty Hải Minh phân phối những chiếc đồng hồ Thuỵ Sĩ giá 400 đôla của nhà sản xuất đồng hồ Thụy Sĩ Candino. Ông Bùi Tuấn Minh, giám đốc công ty Hải Minh, nói ông thúc giục công ty sản xuất loạt đồng hồ này với số lượng hạn chế, chẳng hạn như chỉ 1.888 chiếc bán ra. Ông nói:
“Nhất là trong tình hình đất nước hiện nay, bất cứ một biểu hiện cảm thông nào từ bạn bè quốc tế của chúng ta đều là món quà tặng trân quý đối với tất cả chúng ta.”
“Người ngoại quốc cũng mua những chiếc đồng hồ này, có lẽ là vì họ yêu Việt Nam,” ông Vũ nói về những chiếc đồng hồ có hình các hòn đảo. “Họ nói họ thích các chi tiết và lá cờ trên chiếc đồng hồ.”
http://www.voatiengviet.com/content/dong-ho-thuy-si-vo-khi-moi-nhat-trong-cuoc-xung-dot-bien-dong/2700341.html
Ông Nguyễn Văn Liêm, trong những năm qua, đã mua vài chiếc đồng hồ Thuỵ Sĩ, nhưng chiếc mà ông mới mua đặc biệt nổi bật so với những chiếc khác trong bộ sưu tập của ông. Trên mặt đồng hồ mới này có dòng chữ “Hoàng Sa & Trường Sa là của Việt Nam,” và mặt sau là hình bản đồ quê hương của ông - Việt Nam.
Hoàng Sa và Trường Sa, những quần đảo ở Biển Đông đang là vấn đề tranh chấp quốc tế giữa Việt Nam, Trung Quốc và 4 nước khác. Trong bối cảnh cuộc tranh chấp đang diễn ra chiếc đồng hồ này là một trong những sản phẩm mới nhất để người dân Việt bày tỏ lòng yêu nước của mình.
Ông Liêm, một thương gia 32 tuổi nói, “Bản đồ Việt Nam thiệt là đẹp, chiếc đồng hồ này thực sự khác với mấy chiếc khác của tôi.”
Trong khi chiến đấu với đối thủ lớn hơn mình rất nhiều về chủ quyền các hòn đảo, Việt Nam đã tìm nhiều cách để thách đố Trung Quốc. Việt Nam khước từ hộ chiếu, sách giáo khoa cũng như các tạp chí in các bản đồ Việt Nam không có những quần đảo này. Người Việt Nam tẩy chay hàng hóa bán qua biên giới phía bắc và ủng hộ chiến dịch mua hàng “Sản xuất tại Việt Nam.” Người Việt Nam quyên tiền tặng các ngư dân và những người khác sống trên các đảo. Và giờ đây họ mua những chiếc đồng hồ biểu trưng lòng ái quốc.
Phó giáo sư Alexander Vuving thuộc Trung tâm Nghiên cứu An ninh Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương ở Hawaii, nói rằng những chiếc đồng hồ này là một cách cho các công ty nắm bắt lợi thế về cuôc xung đột. Ông nói:
“Đối với tôi dường như lòng yêu nước thể hiện trong vụ Biển Đông đã trở thành một thanh thế tốt hiện nay ở Việt Nam,” Ông Vuving dùng từ ngữ mà người Việt Nam vẫn thích hơn là cụm từ Biển Nam Trung Hoa. “Nhưng Trung Quốc có thể có thể cũng bắt chước Việt Nam và một số người ở 2 nước có thể dự phần trong một cuộc chiến về lãnh thổ ở Biển Đông.”Công ty Hải Minh phân phối những chiếc đồng hồ Thuỵ Sĩ giá 400 đôla của nhà sản xuất đồng hồ Thụy Sĩ Candino. Ông Bùi Tuấn Minh, giám đốc công ty Hải Minh, nói ông thúc giục công ty sản xuất loạt đồng hồ này với số lượng hạn chế, chẳng hạn như chỉ 1.888 chiếc bán ra. Ông nói:
“Nhất là trong tình hình đất nước hiện nay, bất cứ một biểu hiện cảm thông nào từ bạn bè quốc tế của chúng ta đều là món quà tặng trân quý đối với tất cả chúng ta.”
Là nhà sản xuất từ một quốc gia nổi tiếng về lập trường trung lập trên chính trường thế giới, công ty Candino đã làm một số người hơi ngạc nhiên khi dấn bước trong trận bão Biển Đông. Có thể số lượng đồng hồ sản xuất theo phiên bản này không nhiều cho một thị trường nhỏ và không có tiếng tăm đến mức công ty không cho rằng gây nhiều sóng gió.
Ông Vuving nói nếu Candino chỉ đơn thuần kiếm tiền từ việc bán loại đồng hồ này, họ sẽ không ngạc nhiên là công ty bán thứ sản phẩm mà người Việt Nam thích:
Ông Vuving nói nếu Candino chỉ đơn thuần kiếm tiền từ việc bán loại đồng hồ này, họ sẽ không ngạc nhiên là công ty bán thứ sản phẩm mà người Việt Nam thích:
“Nếu quý vị cho là các công ty Thuỵ Sĩ nên đặt Thuỵ Sĩ lên trước tiên, thì đây là chuyện lạ, vì họ nên giữ thế trung lập. Những nếu quý vị nghĩ đây là một công ty tư, và họ có thể làm vì lợi nhuận cũng như quan điểm cá nhân, thì không có gì lạ nữa.”
Công ty Candino chưa bình luận gì về việc này. Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội từ chối yêu cầu phỏng vấn của đài VOA.
Công ty Hải Minh đã từng quảng bá những đợt đồng hồ Thuỵ Sĩ với số lượng giới hạn chẳng hạn như bộ sưu tập đánh dấu 40 năm quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Thuỵ Sĩ hay những chiếc đồng hồ kỷ niệm 1000 năm của thủ đô - 1000 năm Thăng Long.
Công ty Candino chưa bình luận gì về việc này. Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội từ chối yêu cầu phỏng vấn của đài VOA.
Công ty Hải Minh đã từng quảng bá những đợt đồng hồ Thuỵ Sĩ với số lượng giới hạn chẳng hạn như bộ sưu tập đánh dấu 40 năm quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Thuỵ Sĩ hay những chiếc đồng hồ kỷ niệm 1000 năm của thủ đô - 1000 năm Thăng Long.
Ông Phạm Minh Vũ làm việc tại một cửa hàng nhỏ ở thành phố Hồ Chí Minh bán đồng hồ của công ty Hải Minh và của các nhà phân phối khác cho biết:
“Chúng tôi thường có những chiếc đồng hồ cho những dịp đặc biệt.”
Vừa kéo chiếc găng tay đen để cầm hàng hoá, ông Vũ giải thích là cửa hàng của ông có những khách hàng quen thường xuyên mua hàng cũng như khách hàng từ nước ngoài:“Người ngoại quốc cũng mua những chiếc đồng hồ này, có lẽ là vì họ yêu Việt Nam,” ông Vũ nói về những chiếc đồng hồ có hình các hòn đảo. “Họ nói họ thích các chi tiết và lá cờ trên chiếc đồng hồ.”
http://www.voatiengviet.com/content/dong-ho-thuy-si-vo-khi-moi-nhat-trong-cuoc-xung-dot-bien-dong/2700341.html
TRỐNG TRẬN BIỂN ĐÔNG
"Vạn sa Trường thành": vẳng nghe trống trận đâu đây
Ra ngoài cầu hòa, ở nhà tập võ
Việt Nam và Trung Quốc vừa ký kết những thỏa ước hợp tác quan trọng tại Bắc Kinh, trong khi hải quân Việt-Mỹ vừa bắt đầu cuộc thao dượt hoạt động chung hằng năm, và Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Ashton Carter đã đến Tokyo, đang bay qua Hàn quốc trong chuyến đi Đông Á đầu tiên của ông.
Sự trùng hợp về thời gian của những sự kiện này hoàn toàn là ngẫu nhiên. Tuy nhiên sự trùng hợp về mục đích của những hoạt động ngoại giao-quân sự đó lại bắt nguồn từ những hành động bành trướng của Trung Quốc trên biển Đông.
Tại Bắc Kinh Việt Nam và Trung Quốc cam kết "duy trì đại cục quan hệ Việt-Trung", ký kết kế hoạch hợp tác trong 5 năm tới, đồng thời cam kết sẽ tìm ra giải pháp hoà bình cho vấn đề tranh chấp ở biển Đông. TBT Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhắc lại ý hướng hòa bình của Việt Nam trong mối giao hảo với Trung Quốc. Nhưng ở ngoài khơi Đà Nẵng, hai chiến hạm US Fitzgerald và USS Fort Worth của Hoa Kỳ cùng hải quân Việt Nam đang tập luyện thực hành những "Quy tắc hành động trong tình huống đụng độ bất ngờ trên biển", và thao dượt kế hoạch cứu cấp dưới mặt biển, tức là cứu hộ cho những trường hợp nguy cấp liên quan đến tàu ngầm.
Trong khi ông TBT bày tỏ ý hướng tôn xưng "16 chữ vàng và 4 tốt" ở Bắc Kinh thì ngoài khơi Đà Nẵng, Quảng Ngãi, nơi tàu cá Việt Nam thường bị cướp phá, hải quân Việt Nam vẫn chuẩn bị đề phòng chiến tranh. Những tình huống nguy cấp đối với tàu ngầm thường xảy ra trong chiến tranh nhiều hơn là trong hoà bình, tuy rằng tai nạn tàu ngầm trong thời bình không phải là không có. Bên cạnh đó, những cuộc thao dượt thực hiện "quy tắc hành động khi đụng độ bất ngờ" trên biển, mà trên lý thuyết nói là để giảm nhẹ nguy cơ leo thang xung đột, thực chất là để chuẩn bị đối phó với nguy cơ xung đột quân sự hay an ninh trên biển.
Cảnh cáo "vạn sa trường thành"
Phía Hoa Kỳ, trước khi lên đường đi Tokyo, Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ một lần nữa đã xác định quyết tâm của Hoa Kỳ trong chính sách tái quân bình lực lượng hướng về châu Á Thái Bình Dương. Nói chuyện tại đại học Arizona, Bộ trưởng Ashton Carter cho biết Hoa Kỳ đã chuyển vũ khí, tái phối trí quân đội và thi hành nhiều kế hoạch khác để hiện đại hóa tầm vóc quân sự của Hoa Kỳ trong khu vực, mặc dù những xung đột diễn ra ở Trung Đông, Ukraine và nhiều cuộc khủng hoảng khác đòi hỏi sự quan tâm của những người lập chính sách.
Bộ trưởng Carter nói thế lực của Trung Quốc không tranh giành được những quyền lợi của Hoa Kỳ và đồng minh:
"Hoa Kỳ và Trung Quốc không phải đồng minh, nhưng không cần phải đối nghịch. Mối quan hệ song phương sẽ trở nên phức tạp vì hai phía vừa hợp tác, vừa cạnh tranh." và ông nói thêm: "Mỹ và các đồng mình đều quan ngại sâu xa trước tính cách thiếu minh bạch của Trung Quốc về các chi phí quốc phòng, những hoạt động liên quan đến không gian ảo và những nỗ lực phô trương sức mạnh trong những hải phận tranh chấp xa khỏi bờ biển Trung Quốc."
Tại Tokyo hôm thứ tư, Bộ trưởng Ashton Carter cao giọng nói thẳng với Trung Quốc là đừng thay đổi hiện trạng ở biển Đông, quân sự không phải là giải pháp cho những cuộc tranh chấp chủ quyền lãnh hải.
Dường như đây là lần đầu tiên một Bộ trưởng quốc phòng Mỹ nói đến "phản ứng mạnh mẽ" của Hoa Kỳ đối với bất kỳ quốc gia nào muốn sử dụng quân sự trong những cuộc tranh chấp đang diễn ra ở Biển Đông và biển Hoa Đông. Trước nay giới lãnh đạo Hoa Kỳ chỉ ôn tồn kêu gọi các bên hành xử ôn hòa trong khi cùng nhau tìm giải pháp hoà bình qua thương lượng. Người Mỹ hầu như chưa bao giờ hay rất hiếm khi nói đến phản ứng quân sự của Hoa Kỳ và đồng minh ở châu Á, đặc biệt là ở biển Hoa Đông và biển Đông.
Những lời phát biểu mạnh mẽ như vậy dường như nằm trong một lập trường chung của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ, vừa được tô vẽ lại cho rõ ràng trong một tình hình mới.
Mỹ-Úc phối hợp tác chiến
Tại hội nghị hàng hải ở Canberra, thủ đô Australia, vào cuối tháng ba, Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ lần đầu tiên chỉ trích công khai, trực tiếp và mạnh mẽ việc Trung Quốc đang bồi đắp những rạn san hô, đá chìm ở Trường Sa thành những đảo nhân tạo kiên cố dùng vào mục đích quân sự.
Đô đốc Harry Harris gọi đó là hành động chưa từng có của Trung Quốc, đang kiến tạo một bức 'Trường thành bằng cát", gây nghi vấn về ý hướng của Trung Quốc là đối đầu hay hợp tác với các cường quốc khác trong khu vực. Đô đốc Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương đồng thời chỉ trích cả "đường Chín đoạn" do Trung Quốc áp đặt để giành chiếm chủ quyền biển Đông, mà theo ông nói là trong bối cảnh bất cân xứng sâu xa giữa sức mạnh của Trung Quốc so với các nước láng giềng nhỏ bé hơn.
Sự kiện này cho thấy giới quốc phòng và quân sự của Hoa Kỳ đã chuẩn bị cho một kế hoạch nhằm xác định dứt khoát chính sách của Hoa Kỳ ở châu Á Thái Bình Dương là phải đương đầu với chính sách bành trướng quân sự của Trung Quốc ở biển Đông cũng như biển Hoa Đông, nếu không Trung Quốc sẽ bành trướng xa hơn nữa.
Tại hội nghị Canberra Đô đốc Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương cũng nhấn mạnh quyết tâm tái quân bình lực lượng Mỹ cho châu Á Thái Bình Dương, cho biết ông đang thực hiện kế hoạch phối trí 60% lực lượng hải quân Mỹ vào Hạm đội Thái Bình Dương trước thời hạn năm 2020. Các cấp chỉ huy hải quân của Mỹ và Úc đã thảo luận cặn kẽ và sôi nổi về khả năng phối hợp tác chiến giữa các loại chiến hạm nổi của hai nước ở Thái Bình Dương. Đặc biệt các tướng lãnh Mỹ Úc còn thảo luận về học thuyết chiến tranh mới, tạm gọi là "Gây tổn thất đồng loạt" (Distributed Lethality) nhắm tăng cường và phân bố đều lực lượng tàu nổi của hải quân để có thể cùng lúc tấn công tiêu diệt nhiều mục tiêu ở khắp nơi.
Điều đáng chú ý ở hội nghị Canberra là hải quân Australia rất quan tâm tới khả năng hoạt động phối hợp của các chiến hạm Úc với hải quân Mỹ trong vùng biển tây Thái Bình Dương, bao gồm vùng biển bao bọc Trung Quốc ở phía đông, phía nam, trải rộng qua phía đông Philippines, và xuôi nam qua biển Java, qua tới tận Ấn Độ Dương. Tin tức về hội nghị này còn cho hay Lầu Năm Góc đang nghiên cứu một kế hoạch theo đó các chiến hạm Mỹ thường xuyên đi qua vùng biển châu Úc, và mở rộng những cuộc tập trận hải quân bao gồm Úc và Ấn Độ. Tin này về hội nghị Canberra không nói tới Nhật Bản, nhưng kế hoạch thao dượt hải quân bốn nước Mỹ Nhật Úc Ấn đã được nói tới từ hai ba năm nay.
Thêm vào đó, khi báo chí ở Tokyo hỏi cuộc tập trận chung của Mỹ và Philippines sắp diễn ra vùng biển Trường Sa có phải để phản ứng với hành động của Trung Quốc không, Bộ trưởng Ashton Carter trả lời rằng Mỹ và Philippines chia sẻ với nhau quyền lợi chung trong khu vực này, hai nước muốn bảo đảm rằng không ai có thể thay đổi hiện trạng bằng sức mạnh, và cuộc tranh chấp lãnh hải không biến thành xung đột quân sự.
Dấu hỏi ở đây là Mỹ và Philippines thường tố cáo Trung Quốc đang thay đổi hiện trạng ở biển Đông, nay cuộc tập trận Mỹ-Philippines làm sao để "bảo đảm không ai thay đổi hiện trạng"? Mục đích của các cuộc thao dượt hải quân tại Việt Nam cũng như Philippines nhắm tránh xung đột là mục đích được nói công khai. Đằng sau đó, mục tiêu đích thực của nó đã không được ai nói ra.
Với bức "Vạn sa Trường thành" như người Mỹ mô tả, Trung Quốc đã tỏ ra nhất quyết và công khai thực hiện chiến lược bành trướng về địa chính trị và quân sự, làm căn cứ tiến hành kế hoạch chiếm giữ toàn bộ hải phận Trường Sa rồi tiến tới công bố vùng nhận dạng phòng không, sau đó sẽ là toàn thể hải phận biển Đông.
Tiếng trống trận?
Diễn đàn này từng nói tới mùi thuốc súng phảng phất trên biển Đông vì chính sách bành trướng cả quân sự lẫn kinh tế của Trung Quốc để giành chiếm thị trường châu Á, đụng đầu trực tiếp với chính sách của Hoa Kỳ.
Nay vào khi Bắc Kinh tung ra kế hoạch tài chính mới, AIIB, để giành thị trường vốn với Hoa Kỳ, giữa lúc thế giới nghi ngờ khả năng đối phó của Mỹ cùng một lúc với những cuộc khủng hoảng vì quân ISIS, tình hình Yemen, châu Phi, Afghanistan, Ukraine, thì tiếng trống trận từ Washington dường như đang văng vẳng đâu đây.
Ngày thứ năm, tiếp sau những lời cảnh cáo của giới quân sự Mỹ về những "nỗ lực phô trương sức mạnh trong những hải phận tranh chấp xa khỏi bờ biển Trung Quốc", từ Bắc Kinh phát ngôn viên bộ ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh công bố kế hoạch chi tiết về hoạt động cải tạo các bãi đá và rạn sạn hô tại khu vực tranh chấp quần đảo Trường Sa.
Bắc Kinh công khai nhìn nhận những nơi cải tạo sẽ được sử dụng vào mục đích quốc phòng, nhưng không tiết lộ chi tiết, mà nói thêm những căn cứ hải đảo cạnh nhau đó đồng thời cũng cung ứng những dịch vụ dân sự mà Bắc Kinh cho rằng có lợi cho nước khác. Họ Hoa cho biết Trung Quốc đang xây dựng những nơi trú ẩn, hỗ trợ hoạt động của tàu thuyền, cũng như cung cấp các dịch vụ tìm kiếm- cứu nạn, dự báo khí tượng biển, dịch vụ về ngư nghiệp cùng những dịch vụ hành chính khác cho chính Trung Quốc cũng như các nước láng giềng và tàu thuyền tư nhân đi trên Biển Đông.
Phát ngôn viên họ Hoa vẫn khẳng định các hoạt động xây dựng đảo nhân tạo hoàn toàn trong phạm vi chủ quyền của Bắc Kinh, đó là hoạt động công bằng, hợp lý và hợp pháp, không ảnh hưởng và không nhắm vào nước nào, không thể nào chỉ trích được!
Giới quan sát quốc tế cho rằng những căn cứ đảo nhân tạo này sẽ không làm đảo ngược ưu thế của Hoa Kỳ trong khu vực; trong khi công binh Trung Quốc vẫn tiếp tục xây dựng những cảng, trạm tiếp liệu, cùng với hai đường băng mà giới chuyên gia cho là sẽ giúp Bắc Kinh tạo thế lực sâu vào trung tâm hàng hải của khu vực Đông Nam Á.
Câu trà lời của Bắc Kinh cho biết Trung Quốc đã thấy rõ Hoa Kỳ một lần nữa mạnh mẽ xác định chính sách quyết giữ châu Á trong vòng ảnh hưởng của mình.
Không ai mong chiến tranh; nhưng rõ ràng Hoa Kỳ muốn chứng tỏ đang thực sự chuẩn bị đối phó và khống chế tham vọng bành trướng của Trung Quốc, ngay ở ngưỡng cửa đại lục, là các hải phận biển Đông và biển Hoa Đông. Liệu Trung Quốc sẽ bước lui, hay tiến tới?
KHOA HỌC
1 SV Gốc Việt Chế Ra Tủ Lạnh Khỏi Xài Điện, Giữ Lạnh 12 Giờ
BOSTON -- Tuổi trẻ gốc Việt tuyệt vời: một sinh viên gốc Việt đã chế tạo ra kiểu tủ lạnh không cần điện, và hy vọng phát minh này sẽ cải thiện đời sống của 1 tỷ người.Bản tin CNN cho biết Quang Truong, một sinh viên MIT, suy nghĩ vê số lượng rau quả bị hư thối vì nóng của nông dân các nước nghèo.
Tại các nước đang phát triển, khoảng 470 triệu nông trại nhỏ mất trung bình 15% thu nhập vì thực phẩm bị hư thối.
Vấn đề là tủ lạnh. Điện thì đắt giá, điện cũng bất thường trồi sụt, làm tủ lạnh có khi trở thành một khối sắt vô dụng.
Truong cùng với Spencer Taylor thiết lập Evaptainers, một công ty vì lợi nhuận bản doanh ở Boston.
Máy lạnh anh chế ra chỉ chạy bằng mặt trời và nước.
Hơi nóng từ trong tủ Evatainers bị hút ra các tấm aluminium dẫn nhiệt cao, các tấm này nối với loaị vải đặc biệt được giữ ẩm, và thế là bên trong tự nhiên mát lạnh.
Máy lạnh này cần 6 lít nước để chạy, và giữ lạnh đươc 12 giờ đồng hồ.
Tủ lạnh này sẽ bán giá từ 10 đôla tới 20 đôla, có sức chứa dung lượng 60 lít rau.
Cụ thể tủ lạnh này chứa khoảng 150 quả cà chua lớn.
Khi nông dân dùng tủ lạnh này, sẽ giữ thưc phẩm khỏi hư và sẽ tăng lợi tức.
Truong nói, chương trinh mới thử nghiệm ở Morocco vài tuần nay, dự kiến giúp nông dân tăng lợi tức 25% nhờ tủ lạnh không cần điện này.
Tại các nước đang phát triển, khoảng 470 triệu nông trại nhỏ mất trung bình 15% thu nhập vì thực phẩm bị hư thối.
Vấn đề là tủ lạnh. Điện thì đắt giá, điện cũng bất thường trồi sụt, làm tủ lạnh có khi trở thành một khối sắt vô dụng.
Truong cùng với Spencer Taylor thiết lập Evaptainers, một công ty vì lợi nhuận bản doanh ở Boston.
Máy lạnh anh chế ra chỉ chạy bằng mặt trời và nước.
Hơi nóng từ trong tủ Evatainers bị hút ra các tấm aluminium dẫn nhiệt cao, các tấm này nối với loaị vải đặc biệt được giữ ẩm, và thế là bên trong tự nhiên mát lạnh.
Máy lạnh này cần 6 lít nước để chạy, và giữ lạnh đươc 12 giờ đồng hồ.
Tủ lạnh này sẽ bán giá từ 10 đôla tới 20 đôla, có sức chứa dung lượng 60 lít rau.
Cụ thể tủ lạnh này chứa khoảng 150 quả cà chua lớn.
Khi nông dân dùng tủ lạnh này, sẽ giữ thưc phẩm khỏi hư và sẽ tăng lợi tức.
Truong nói, chương trinh mới thử nghiệm ở Morocco vài tuần nay, dự kiến giúp nông dân tăng lợi tức 25% nhờ tủ lạnh không cần điện này.
Những lợi ích không ngờ khi uống nước nóng mỗi ngày
a>Chúng ta đều nghe các chuyên gia khuyên mỗi ngày nên uống 8 ly nước. Nhưng không phải ai cũng biết rằng nước nóng có những lợi ích riêng mà khi uống nước lạnh không có được.
Sau đây là 10 lợi ích khi uống nước nóng mà bạn không ngờ tới:
1. Giảm cân
Nước nóng rất tốt để duy trì sự trao đổi chất hiệu quả, điều mà bạn cần nếu đang cố gắng giảm một vài ký. Cách tốt nhất để làm điều này là khởi động quá trình trao đổi chất vào sáng sớm bằng một cốc nước chanh nóng. Ngoài ra, nước nóng giúp bạn phá vỡ các mô mỡ (hay còn gọi là chất béo) trong cơ thể bạn.
2. Chữa tắc nghẽn Chữa tắc nghẽn mũi, họng
Uống nước nóng là một phương thuốc tự nhiên tuyệt vời để chữa cảm lạnh, ho và đau họng. Nước nóng giúp làm tan đờm và loại bỏ nó khỏi đường hô hấp. Như vậy nước nóng giúp loại bỏ đau họng và nghẹt mũi.
3. Giảm đau bụng kinh
Nước nóng cũng hỗ trợ trong việc giảm bớt đau bụng kinh. Độ nóng của nước giúp làm dịu và dễ chịu các cơ bụng, giúp chữa các cơn đau bụng kinh.
4. Giải độc cơ thể
Nước nóng giúp giải độc cơ thể một cách tuyệt vời. Khi bạn uống nước nóng, nhiệt độ cơ thể của bạn tăng và tiết mồ hôi. Bạn sẽ thích vậy vì nó giúp giải độc và làm sạch cơ thể đúng cách. Để đạt kết quả tối ưu, hãy thêm một lát chanh vào trước khi uống.
5. Ngăn ngừa lão hóa sớm
Nước ấm giúp làm lành các tế bào da, làm tăng tính đàn hồi của da và làm giảm ảnh hưởng của các gốc tự do. Sau đó, làn da bị tổn thương của bạn sẽ trở nên mịn màng hơn.
6. Ngăn ngừa mụn trứng cá và mụn nhọt
Lợi ích của nước cho da bạn vẫn còn. Nước nóng giúp làm sạch sâu cơ thể bạn và loại bỏ nguyên nhân chính gây ra mụn trứng cá.
7. Giúp tóc chắc khỏe và đầy sức sống
Uống nước nóng là cách tốt để có được mái tóc mềm mại và bóng mượt. Nước nóng tiếp thêm sinh lực cho dây thần kinh trong chân tóc và khiến chúng hoạt động. Điều này giúp ích cho việc có được mái tóc bóng mượt tự nhiên và chắc khỏe.
Ngoài ra uống nước ấm còn có tác dụng kích thích sự phát triển của chân tóc. Nước ấm thúc đẩy hoạt động của chân tóc và giúp tóc nhanh mọc.
Nước nóng cũng giúp da đầu bạn ngậm nước và giúp chống lại da đầu khô và gàu.
8. Tăng cường lưu thông máu và thúc đẩy hệ thần kinh khỏe mạnh
Một lợi ích khác của việc uống nước nóng là nó tăng cường lưu thông máu, điều quan trọng đối với cơ bắp và hoạt động thần kinh. Ngoài ra, nó giữ hệ thần kinh khỏe mạnh bằng cách phá hủy chất béo xung quanh.
9. Quá trình tiêu hóa
Nước nóng có lợi ích đặc biệt cho quá trình tiêu hóa. Các nghiên cứu chỉ ra rằng uống nước lạnh trong và sau khi ăn có thể làm đông cứng dầu trong thức ăn tiêu thụ. Điều này dẫn đến tích tụ chất béo trong đường ruột và cuối cùng có thể dẫn đến ung thư ruột.
Tuy nhiên, nếu thay một ly nước lạnh bằng một ly nước nóng, bạn có thể tránh được vấn đề này. Ngoài ra, nước nóng có lợi cho tiêu hóa, bạn nên uống sau bữa ăn.
10. Biến động đường ruột
Nước nóng giúp hoạt động của đường ruột nhịp nhàng, khỏe mạnh và bớt đau đớn. Mất nước có thể gây ra táo bón mãn tính. Vì phân bị tích lũy trong ruột của bạn, nên ruột hoạt động chậm hơn.
Người ta khuyên nên uống một ly nước nóng đầy vào mỗi buổi sáng khi dạ dày còn trống. Nó phân hủy bất kỳ thực phẩm còn sót lại và làm cho chuyển động của chúng nhẹ nhàng, ít đau đớn khi qua ruột.
vnn mũi, họng
Thursday, April 9, 2015
CAO HUY HUÂN * THÁNG TƯ BUỒN
Blog / Cao Huy Huân
Tháng Tư mãi là nỗi buồn!
Tin liên hệ
Cây cong hay người cong?
Tuần trước tôi có dịp công tác ở Hà Nội. Trên đường về khách sạn, anh tài xế nghe giọng miền Nam liền huyên thuyên kể chuyện
08.04.2015
Bước sang tháng Tư, không khí của những ngày định mệnh lịch sử bắt đầu rộ khắp các tuyến đường, con phố, bờ sông. Năm nay đặc biệt hơn vì đây là cột mốc lần thứ 40. Bởi lẽ, những cột mốc ý nghĩa luôn nhắc người ta nhìn lại quảng đường chúng ta đã đi suốt mấy chục năm ròng.
Sài Gòn những năm 1975, vốn mệnh danh là “hòn ngọc Viễn đông”, từng là giấc mơ của Lý Quang Diệu những ngày đầu thành lập Singapore. Bốn mươi năm sau, các khẩu hiệu treo đầy đường phố nêu cao thông điệp về một Sài Gòn đầy thành tích. Kẻ đứng trên những con số tăng trưởng kinh tế “đầy tranh cãi” sau 40 năm cười “ngặt nghẽo”. Tôi chưa bao giờ phủ nhận một Sài Gòn mở rộng sau 40 năm - nay trở thành trung tâm kinh tế của cả nước, thu hút đầu tư mạnh từ trong và ngoài nước với chỉ số đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), hay các dự án viện trợ chính thức (ODA) khiến nhiều nước khác phải ganh tỵ. Tốc độ phát triển chóng mặt của những con số phát triển GDP Sài Gòn nói riêng và Việt Nam nói chung luôn khiến giới quan sát, ngay như các vị lãnh đạo cấp bộ trưởng, cũng phải giật mình. Nhưng xin thưa! nếu “gói ghém” thành tích của Sài Gòn, có lẽ cũng chỉ dừng ở chữ “tiềm năng”. Trong khi hàng tá vấn đề cho đến nay, Sài Gòn vẫn loay hoay, bế tắc, và sẽ còn tiếp tục loay hoay, bế tắc, nếu chính quyền vẫn cứ hoạt động một cách luộm thuộm như nhiều năm qua họ vẫn làm.
Trước hết hãy bàn về kết cấu hạ tầng, đô thị - điều khiến mấy chục triệu dân cứ mãi phàn nàn, rồi lại phàn nàn một cách vô vọng. Bốn mươi năm các vị mở rộng Sài Gòn cả về chiều rộng địa lý lẫn về chiều sâu kinh tế - xã hội. Các áp lực dân số, chênh lệch giàu nghèo, môi trường, tệ nạn xã hội, sức ép hạ tầng cơ sở, văn hóa đô thị… là không thể tránh khỏi. Để rồi người dân Sài Gòn – vốn đã “già trước khi giàu” – nay phải quẩn quanh bên một “thành phố ao làng” với hàng loạt các hệ lụy nhức nhối: ngập nước ngày càng nặng; ô nhiễm (khói, bụi, tiếng ồn, nguồn nước) ngày càng trầm trọng hơn; văn hóa tiểu nông, lúa nước lũ lượt kéo nhau vào Sài Gòn, trong khi cái mà các vị lãnh đạo gọi là “văn minh thành phố” lại chính là việc bê-tông hóa các tuyến đường vốn được cây xanh bao phủ, là hầm vượt sông tốn kém nghìn tỷ đồng vốn có thể được thay thế bằng nhiều cây cầu khang trang hơn, là các đề xuất dự án “ăn trước - chặn sau” theo kiểu nhóm lợi ích, ví như học sinh tiểu học phải trang bị máy tính bảng khi đến trường. Để rồi bọn trẻ, dù nhiều gia đình khó khăn cũng phải vét tiền của lo cho con “sang nước ngoài tỵ nạn giáo dục”. Nhà ổ chuột cho dân ở, trong khi nhà cao ốc thì chỉ biết để chuột “định cư” do hệ quả bong bóng bất động sản vỡ…
Mỗi thế hệ lãnh đạo Mỹ, EU, Nhật Bản hay Singapore đều để lại dấu ấn bằng những công trình tầm cỡ phục vụ lợi ích của dân. Tổng thống Mỹ Barack Obama với hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn dân (dù bị phe nhà giàu tranh cãi), Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe với cải cách kinh tế Abenomics vực dậy Nhật Bản, đặc biệt sau thảm họa kép 2011. Hay như Lý Quang Diệu với gần 50 năm xây dựng một đảo quốc Singapore bị Malaysia “bỏ rơi” trở thành con rồng châu Á. Trong khi Sài Gòn nói riêng và Việt Nam nói chung, các vị nhận không biết bao nhiêu vốn ODA đổ vào đầu tư hạ tầng, ưu tiên phát triển cơ sở vật chất phục vụ đời sống hiện đại hóa, để rồi số công trình hạ tầng phục vụ lợi ích cho dân đạt chuẩn quốc tế chỉ nằm trên đầu ngón tay bởi sự đục khoét bằng đủ các kiểu tham nhũng: lót tay, hối lộ, bôi trơn, lại quả. Các nhóm lợi ích thì xem vốn ODA vẫn là thứ tiền phải “giải ngân cho kịp” để “ăn”, trong khi dân phải mang tiếng “xin”, chấp nhận những “cảnh cáo” từ phía đối tác mà mới nhất là Nhật Bản, rằng “còn tham nhũng sẽ cắt tiền ODA”.
Thứ hai, không khỏi xót xa khi nhìn vào các ngành công nghiệp mũi nhọn và các ngành công nghiệp ưu tiên. Trong tầm nhìn chiến lược phát triển công nghiệp từ nay đến năm 2020, Sài Gòn đã xác định ba ngành mũi nhọn của công nghiệp bao gồm: i) Cơ khí chế tạo (ô tô, đóng tàu, thiết bị toàn bộ, máy công nghiệp, cơ điện tử); ii) Thiết bị điện tử, viễn thông và công nghệ thông tin; iii) Sản phẩm từ công nghệ mới (năng lượng mới, năng lượng tái tạo, công nghiệp phần mềm, nội dung số).
Phải khẳng định đây đúng là “ba mũi nhọn” quan trọng, không chỉ Việt Nam, mà nhiều quốc gia khác như châu Âu, Mỹ, Nhật Bản cũng từng trải qua. Nhưng sau 40 năm giải phóng thì nay là lúc ai cũng hốt hoảng khi chúng ta chỉ còn 5 năm để đạt ba mục tiêu mũi nhọn trên. Nhưng xin thưa, 5 năm là một con số “viển vông và không tưởng” khi hiện tại Sài Gòn đang đứng sau vạch số 0. Nghĩ làm gì đến công nghệ cao siêu khi ngay cả con ốc vít, hay các phụ kiện nhỏ nhất phục vụ ngành công nghiệp lắp ráp, cho đến nay gần như Việt Nam đều phải nhập khẩu. Khái niệm “công nghiệp phụ trợ” – ngành công nghiệp cơ bản của mọi ngành công nghiệp đã được đưa ra thảo luận và đầu tư – ra đời từ hơn chục năm trước ở Việt Nam, nhưng các vị lãnh đạo vẫn để nó dậm chân tại chỗ, mệt mỏi, thoi thóp và rồi chết đứng, nhường chỗ cho hàng hóa tiểu ngạch, chính ngạch của Bắc Kinh.
Xin phép được hỏi các vị “bao nhiêu doanh nghiệp phụ trợ mới có thể làm ra một chiếc xe hơi?” Xin thưa! Trên dưới 200 doanh nghiệp con “trợ sức” từng chi tiết máy mới có một chiếc ô tô mà các vị lãnh đạo ngồi mỗi ngày đến công sở. Cho nên có vị nào dám cam đoan sau 5 năm nữa, khi rào cản thuế quan phải hạ xuống dưới bước chân của gã khổng lồ WTO hay các thể chế mậu dịch tự do tương tự, một chiếc ô tô “lắp ráp in Vietnam” có thể sống trước ô tô ngoại nhập? Báo chí mấy hôm nay đưa tin “ô tô Việt Nam vẫn loay hoay lắp ráp để… chờ chết”, chứ Sài Gòn đừng bàn đến công nghiệp công nghệ cao – chỉ tổ khiến dân chờ, đợi, mỏi mòn và thất vọng.
Trong khi đó, bảy ngành công nghiệp được ưu tiên phát triển của Sài Gòn là: dệt may, da dày, nhựa, chế biến nông lâm thuỷ sản, khai thác chế biến nhôm, thép, hoá chất cũng đã và đang hấp hối. Xưa nay, không ít các vị lãnh đạo vẫn cứ sống trong mớ bong bóng “rừng vàng biển bạc đất phì nhiêu”, cho rằng Sài Gòn có nhân công giá rẻ, gần các khu tài nguyên. Để rồi khi công nghệ cao ngoại nhập khỏa lấp đi sức lực của đôi bàn tay không chỏng chơ, chai sượn của những người dân nghèo khốn khổ, thì các doanh nghiệp nội địa bắt đầu xếp hàng phá sản, đá bể toàn bộ chén cơm của hàng trăm nghìn người thất nghiệp. Hãy nhìn các doanh nghiệp nội địa ngành dệt may, mía đường, sữa,… liên tục “than trời trách đất” trong những năm qua trước áp lực của các doanh nghiệp ngoại đến từ Lào, Campuchia sẽ thấy chúng ta đang yếu đến cỡ nào.
Cuối cùng, xin hãy thẳng thắn nói về môi trường đầu tư. Chỉ chưa đầy một tháng, Việt Nam nhận liên tiếp ba sự kiện “choáng váng”. Một là, Nhật Bản tuyên bố “cắt viện trợ ODA nếu có thêm bất kỳ một dự án tham nhũng nào tại Việt Nam. Hai là, tập đoàn POSCO (Hàn Quốc) bị điều tra tham nhũng, hối lộ nhà thầu Việt Nam trong các dự án cao tốc giai đoạn 2009-2012. Ba là, Ngân hàng Thế giới (World Bank) tuyên bố cấm hoạt động trong vòng một năm đối với Tập đoàn Louis Berger Group (LBG, Mỹ) vì dính líu đến các hành vi hối lộ trong hai dự án do Ngân hàng Thế giới tài trợ tại Việt Nam. Công ty mẹ của LBG cũng bị hạn chế quyền đấu thầu đối với các dự án của Ngân hàng Thế giới vì không quản lí được các hoạt động “chung chi, hối lộ quan chức” mà LBG đã thực hiện trong hai dự án: Giao thông Nông thôn 3, và Đầu tư Ưu tiên Cơ sợ Hạ tầng Đà Nẵng do Ngân hàng Thế giới tài trợ. Tất nhiên, không ai điểm mặt chỉ tên Sài Gòn, nhưng những vấn nạn tương tự: thủ tục kinh doanh, đầu tư rườm rà, phức tạp mở đường cho các nghi thức “lót tay”, hay “lại quả”. Đó là chưa kể đến các vụ bê bối về tham nhũng, lừa đảo trong hệ thống ngân hàng; hối lộ trong hệ thống cảnh sát giao thông… Tất cả làm giảm đáng kể tính hấp dẫn của môi trường đầu tư Sài Gòn.
Một Sài Gòn mà hàng triệu dân mơ ước bất kể phải nếm mật nằm gai trong suốt 40 năm qua phải theo đuổi tám mục tiêu: i) Hệ thống cung cấp nước và vệ sinh môi trường (Water supply and sanitation); ii) Giao thông vận tải (Traffic and transport); iii) Năng lượng (Energy); iv) Chức năng đô thị (Urban functions); v) Kiến trúc (Architecture); vi) Quản lý chất thải (Waste Management); vii) Quy hoạch cảnh quan (Landscape Planning); viii) Hợp tác giữa khối nhà nước và khối tư nhân (Public and private stakeholders).
Nhưng rồi trước mắt họ, con đường từ nhà đến nơi làm việc đang đối diện quá nhiều rủi ro từ hệ lụy tích tụ suốt 40 năm: Đó là một con đường đầy khói bụi, lô cốt dựng khắp nơi, dây điện chằng chịt, nước ngập úng với lượng rác thải khổng lồ. Thỉnh thoảng lại gặp vài ba anh cảnh sát giao thông “nghiêm khắc” rất thích bắt lỗi đèn xi-nhan, lấn tuyến dù con đường nhỏ hẹp và biển báo đánh đố người dân – những kẻ ngoài việc đóng thuế nuôi quan chức phải tự nguyện trả thêm ít tiền “lót tay” nếu không muốn bị “vạch ví” giữa đường. Và cũng trên con đường ấy, những chiếc xe hơi sang trọng, vẫn âm thầm và lạnh lùng lướt qua những mảnh đời cơ cực phải lam lũ đội nắng trên đầu, lội mưa tới bụng và trong hai hốc mắt sâu hoắm vẫn mong chờ bữa ăn chiều có đủ cháo, rau.
Vậy đấy, chẳng biết sau những ngày tiệc tùng mừng 40 năm chiến thắng, có vị quan chức nào giật mình thốt lên “đã 40 năm rồi cơ đấy” khi thấy tại quảng trường độc lập vẫn còn không ít kẻ lang thang nhặt lấy từng chiếc lọ, cái lon để bán kiếm tiền mà quên mất “ngày độc lập phải vui lên”.* Blog của Cao Huy Huân là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Cao Huy Huân
Sinh trưởng ở Việt Nam và học tập tại Hoa Kỳ. Là một đại diện cho thế hệ sinh ra và lớn lên sau bước ngoặt lịch sử 1975. Luôn theo dõi sao sát những diễn biến xảy ra trong nước và nêu lên cảm nghĩ của một thế hệ hậu bối thông qua blog dưới một lăng kính trong vắt và đa chiều.
NGÀY CUỐI VIỆT NAM
Phim tài liệu 'Last Days in Vietnam'
Phim tài liệu Last Days in Vietnam của đạo diễn Rory Kennedy mô tả lại những giờ khắc cuối cùng trước khi Mỹ rút khỏi Việt Nam miêu tả hàng nghìn người chen lấn trước cửa sứ quán Mỹ ở Sài Gòn; đoàn người rồng rắn lên nóc một toà nhà để lên trực thăng rời khỏi Việt Nam. Sài Gòn hỗn loạn trong 24 giờ trước khi quân đội Bắc Việt tấn công vào Sài Gòn. Bộ phim đã được trình chiếu rộng rãi vài ngày trước đây tại Mỹ.
Tháng 4 năm 1975, những đồn đoán về quân đội Bắc Việt bao vây Sài Gòn khiến nhiều người lo lắng muốn di tản khỏi Việt Nam. Lúc này, quân đội Mỹ đã rút khỏi miền Nam sau khi hiệp định đình chiến Paris được ký kết. Tổng thống Richard Nixon, từng hứa sẽ đưa quân Mỹ tái tham gia chiến tranh nếu miền bắc phá vỡ lệnh ngừng bắn, thì lại từ chức vì bê bối trong vụ nghe lén có tên Water Gate.
Người dân Mỹ lúc này không còn sức để theo đuổi cuộc chiến đã chia rẽ sâu sắc cả đất nước. Quốc hội Mỹ không mặn mà gì trước đề nghị của Tổng thống Gerald Ford về việc cấp hàng chục triệu đôla để di tản người Việt Nam làm việc cho các cơ quan Mỹ.
Trong khi đó, một vài quan sĩ quan trong sứ quán Mỹ tự mình tìm cách đưa những người Việt Nam giữa thời điểm nước sôi nửa bỏng này để di tản. Đạo diễn Rory Kennedy tái hiện những sự kiện trên trong bộ phim tài liệu mới có tên “Last Days in Vietnam”.
Nói với chúng tôi đạo diễn Rory Kenedy chia sẻ cảm nghĩ của bà ngay vào lúc này, khi cuốn phim đã hoàn tất:
Ngay cả bây giờ khi tôi xem phim tôi vẫn nóng ruột không biết điều gì sẽ xảy ra với những người Việt Nam đó: ai sẽ di tản được, ai sẽ phải ở lại. Tôi nghĩ những ký ức đó sẽ đọng lại trong tôi mãi mãi.
Khoảng 11h sáng ngày 29/4/1975 trước khi Sài Gòn bỏ ngõ, đài phát thanh của Mỹ phát đi bản nhạc White Christmas, báo hiệu chiến dịch sơ tán công dân Mỹ khỏi Sài Gòn bắt đầu. Chỉ trong vòng 24 tiếng, những người Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam. Hơn một trăm nghìn người Việt Nam làm việc cho chính quyền Việt Nam Cộng hoà được di tản trong đợt này.
Bộ phim Last Days in Vietnam có những cảnh hiếm hoi về tàu khu trục hộ tống USS Kirk tiếp nhận 17 chuyến trực thăng chở người tị nạn Việt Nam. Tàu USS Kirk lúc đó đang đậu gần đảo Côn Sơn. Đạo diễn Rory Kennedy cho biết thêm vê khúc phim này:
Chiếc trực thăng Chinook, chở đầy người Việt Nam và trẻ em không thể hạ cánh vì nó có thể phá huỷ con tàu [USS Kirk]. Vì thế, những người trên trực thăng phải nhảy xuống tàu cách nó nửa mét. Em bé 18 tháng tuổi cũng được thả từ đây.
“Last Days in Vietnam” là phim tài liệu mới nhất của đạo diễn Kennedy, một người trong dòng họ nổi tiếng Kennedy. Ở tuổi 45 tuổi nhưng bà có nhiều duyên nợ với Việt Nam. Bà là cháu của cố tổng thống Mỹ John Kennedy, người ký lệnh đưa những binh sĩ Mỹ đầu tiên tham chiến ở Việt Nam. Bà cũng là người con thứ 11 của cố thượng nghị sĩ Robert Kennedy, người từng đưa ra đề xuất các con đường nhằm chấm dứt chiến tranh Việt Nam vào năm 1968.
Chúng ta không mấy trân trọng những gì xảy ra trong những ngày cuối đó mặc dù nó là một chương quan trọng trong lịch sử Mỹ. Tôi cảm thấy có rất nhiều bài học được rút ra từ thời điểm đó, nhất là trong hoàn cảnh chúng ta rút quân khỏi Iraq và Afghanistan và cũng như việc chống lại lực lượng Hồi giáo ISIS hiện nay.
Nguyễn Sơn Tùng, tuy không phải là một nhân vật trong phim nhưng sau khi biết cuốn phim được dựng lại trong bối cảnh ông cũng là một trong những người có mặt ở thời khắc lịch sử ấy đã viết cho trang web của đài Á châu Tự do những giòng sau đây:
Nửa giờ sau đó căn nhà chỉ huy bốc cháy. Chắc người Mỹ đốt cháy căn nhà và các tài liệu trước khi cuộc di tản kết thúc. Một chiếc trực thăng đáp xuống. Chúng tôi nhốn nháo và muốn ra khỏi xe. Khoảng 10 thuỷ quân lục chiến Mỹ cuối cùng bước lên máy bay, tay cầm súng nhằm chĩa vào xe chúng tôi và nói: “Mọi người ngồi im, chúng tôi trước”. Máy bay cất cánh trong khi lính Mỹ luôn chĩa súng vào chúng tôi.
Là một trong một vài trăm người bị bỏ lại trong cuộc sơ tán của Mỹ ông Sơn Tùng kể:
Nếu cuộc rút lui này xét theo nghĩa tháo chạy thì người Mỹ đã hoàn toàn thành công vì họ đã ra đi bình an vô sự. Nhưng nếu xét theo nghĩa một cuộc di tản thì họ đã thất bại vì họ đã bỏ lại một trăm người gồm phụ nữ, trẻ em rất muốn di tản nhưng không được dù hoàn cảnh vô cùng thuận lợi về thời gian, phương tiện vận chuyển, an ninh hầu như tuyệt đối. Sao người Mỹ có thể tự hào về sức mạnh, lòng nhân đạo, lý tưởng tự do, nhân quyền trong một hoàn cảnh nếu như trên!
Bộ phim tài liệu Last Days in Vietnam đang được trình chiếu ở một số rạp khắp nước Mỹ. Quý thính giả của RFA có thể xem trailer giới thiệu phim trên website của chúng tôi tại www.rfa.org/vietnamese.
Trailer phim Last Days in Vietnam
Tin, bài liên quan
- Cựu Tổng trưởng Hoàng Đức Nhã: Đồng minh bội ước
- Cựu Tổng trưởng Hoàng Đức Nhã: Đồng minh bội ước
- Hồi ức 30/4 của người Việt tại Âu Châu
- Hồi ức 30/4 của người Việt tại Âu Châu
- Dự án – Câu chuyện những ngày đầu tiên
- Người Little Saigon nói về phim “Những ngày cuối cùng ở VN”
- Ký ức 40 năm
- Cựu chiến binh tranh luận về chiến tranh Việt nam
- Bài học từ Hiệp định Geneva 1954
Thai Son
nơi gửi Paris
ngày cuối cùng ở Việt Nam do quân đội mỹ thất bại bỏ chạy để lại tất cả,nhục nhã vô điều kiện đi vào lịch sử.
07/02/2015 17:46
Nguyễn Tấn X
nơi gửi Cà Mau
"Những ngày cuối cùng ở Tổng y viện Cộng Hòa" Sài Gòn 30-4-1975.. Thiên đường Cộng sản , Tội ác của đồng-minh Hoa Kỳ ; đối với Thương bệnh binh quân-đội VNCH !
24/09/2014 22:44
đảng viên CSVN
nơi gửi Hà Nội
Người Mỹ đã thất bại trong cuộc chiến VN vì tiếp theo đó có hàng chục quốc gia khác đã sụp đổ vì không còn mấy ai tin vào sức mạnh HK, nhất là vùng Trung Đông, kéo dài cho đến ngày hôm nay. TC và CSVN vẫn coi HK là con cọp giấy, không dám đụng đến TC, nhất là không dám can thiệp vào VN về vấn đề nhân quyền.
23/09/2014 11:26
Trần Thị Thương Nhớ
nơi gửi Saigon/VN
-Ai đó đã nói : " Người Mỹ chưa hề thua bất cứ cuộc chiến tranh nào trong lịch sử nước Mỹ : họ chỉ không muốn thắng...!" - Xây dựng nên để sau đó...đập đổ ! Kể cả khi đã tốn không ít "máu xương" vào đó ! Quốc Gia hay con người cũng vậy thôi : quyền lợi là trên hết ! VNCH bị xóa bỏ cũng vì "mục đích" đó ! Ôi đau đớn cho thân phận đã là Dân của một quốc gia nhược tiểu !
23/09/2014 10:45
Ngo thien Ton
nơi gửi Hilton Head
Ngay ay theo cam nghi cua toi Viet Nam buon tham lam. Khi tren troi khong co mot bong phi co dan su nen hinh Anh tung doan ba chief truc thang huyet di chuyen ve de di tan,nguoi duoc di voi tam trang roi bo, nguoi o lai trong lo Lang nhin len troi voi hoc vong cung duoc nhu ho xuat may Ngay nay troi Viet Nam buon,lo, so hien ro tren tung khu on mat Sai Gon noi rieng nu cuoi da tat buon buon lam.
23/09/2014 08:37
HOÀNG ĐƯC NHÃ * MỸ BỘI ƯƠC
Cựu Tổng trưởng Hoàng Đức Nhã: Đồng minh bội ước
Cuộc chiến ý thức hệ quốc-cộng ở Việt Nam kết thúc ngày 30/4/1975 với sự chiến thắng của miền bắc cộng sản. Tại sao chế độ VNCH đã đứng vững 21 năm lại nhanh chóng sụp đổ như vậy. Nhân đánh dấu 40 năm ngày chiến tranh Việt Nam kết thúc, Nam Nguyên phỏng vấn ông Hoàng Đức Nhã, cựu tổng trưởng Dân vận Chiêu hồi, cựu bí thư Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu để tìm hiểu một số khía cạnh liên quan. Ông Hoàng Đức Nhã 73 tuổi hiện cư trú tại Chicago tiểu bang Illinois Hoa Kỳ.
Nam Nguyên: Cảm ơn ông Hoàng Đức Nhã đồng ý trả lời phỏng vấn của Đài RFA. Thưa ông sau 40 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam, nhiều tài liệu của Chính phủ Hoa Kỳ đã được giải mật cho thấy Hoa Kỳ đã có ý định không can thiệp vào VNCH nữa từ rất sớm và có mục đích chỉ là để rút lui an toàn. Là người thân cận của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, ông nhận định gì khi có ý kiến cho là các nhà lãnh đạo và toàn bộ chế độ VNCH bị động, không chuẩn bị việc tự lực cánh sinh hay phải sớm tìm kiếm một con đường khác để VNCH có thể tồn tại.
Ông Hoàng Đức Nhã: Chính quyền của Tổng thống Thiệu lúc đó hiểu rõ mục đích của Tổng thống Nixon, khi ông ta bắt đầu chính sách gọi là “Việt Nam hóa” có nghĩa là Hoa Kỳ rút và hứa sẽ giúp VNCH trên phương diện quân sự và kinh tế để bảo tồn toàn vẹn lãnh thổ và xây dựng đất nước. Nói chính quyền VNCH lúc đó bị động là hoàn toàn sai, vì mình đã có rất nhiều thành quả. Những người viết sách về Việt Nam không hề đề cập tới khía cạnh này, Đệ nhị Cộng hòa một mặt chống lại xâm lăng Bắc Việt, một mặt xây dựng đất nước, tạo dựng một chế độ pháp trị có quyền tự do cá nhân. Khi tôi đề cập điểm đó cũng là để nói lên là khi chúng ta chống Bắc việt và người đồng minh dần dần rút đi, họ tìm cách thương thuyết và ký kết một hiệp định trên đầu chúng ta, cũng như người Pháp đã làm hồi 1954… lúc đó chính quyền Đệ nhị Cộng hòa quyết định ngồi vào và tìm đủ mọi cách để tạo những điều kiện tối thiểu để chúng ta tiếp tục cuộc tranh đấu để bảo vệ và phát triển đất nước.
Nam Nguyên: Nhưng VNCH không còn nguồn viện trợ nữa, đạn dược vào tháng 3/1975 như Đại tướng Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên có nói là chỉ còn đủ dùng 30 ngày. Tại nhiều bệnh viện vào lúc đó đến bông băng cũng phải giặt đi xài lại…không có viện trợ…người ta nói bị động là không tìm nguồn viện trợ thay thế mà phải chuẩn bị rất là lâu dài mới có thể đương cự được với làn sóng quân cộng sản được Liên Xô, Trung Cộng hỗ trợ rất nhiều và họ đã đánh xuống. Họ nói bị động là như vậy, xin ông có thể làm rõ chỗ này?
Nam Nguyên: Hiệp định Paris 27/1/1973 được cho là một tiền đề dẫn tới việc sụp đổ của Nam Việt Nam. Theo ông và trong vai trò của mình là người thân cận của Tổng thống, Bí thư Tổng thống và cựu Tổng trưởng nữa thì ông nghĩ là VNCH sẽ phải đối phó như thế nào, chúng ta đã rút được bài học vừa qua. Tổng thống cũng có nói vào năm 1990 là vì bị lệ thuộc viện trợ mà cuối cùng phải ngồi vào bàn hội đàm. Giả dụ bây giờ lịch sử lập lại, ông nghĩ là VNCH có thể làm gì khác?
Ông Hoàng Đức Nhã: Câu hỏi này rất quan trọng đấy, tôi muốn nhấn mạnh rằng Hiệp định Paris 27/1/1973 không phải là tiền đề đưa tới sự sụp đổ của VNCH. Đó là một căn bản để cho người Mỹ rút quân và VNCH với sự giúp đỡ của người Mỹ tiếp tục công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Giả sử mình trong hoàn cảnh lúc đó từ 69 đến 73 và phải ký Hiệp định, thì sẽ phải làm như thế nào? lúc đó mình đâu có thể nào nói với đồng minh là ông tìm cách thương thuyết trên đầu của chúng tôi. Mình đâu thể nói vậy, cũng như anh ra trận đá banh rồi anh nói thôi tôi không chơi nữa vì không thích cái luật lệ, rồi mình lấy trái banh và đi về. Mình phải tiếp tục ngồi vào và tranh đấu để đừng có những điều kiện quá xấu cho tương lai đất nước. Thành thử lúc đó hành động của chính phủ VNCH, với sự hỗ trợ của tất cả cơ quan lập pháp hiến định, đã tìm mọi cách để đừng có chấp nhận một hiệp định coi như là đầu hàng.
Nói rằng mình sẽ phải làm như thế nào khác. Lúc đó mình biết rằng phải tự lực cánh sinh, phải củng cố. Lúc đó biết rằng tới giai đoạn phải đấu tranh chính trị với cộng sản để thực thi hiệp định, nó có những điều khoản là hai bên phải gặp nhau để nói về tương lai chính trị. Lúc đó VNCH cũng đã cho tất cả các đảng phái quốc gia biết thực trạng đó để chuẩn bị. Đó là điểm thứ hai riêng về chính trị. Điểm thứ ba về xây dựng kinh tế và xây dựng đất nước, mình có rất nhiều chương trình phát triển nông thôn có nhiều thành quả dân trí ấm no phồn thịnh. Nhưng mà những điều đó không ai nói đến, người ta cứ nhìn vấn đề Việt Nam và cho là mình không có làm gì cả, theo tôi đó là sự sai lầm lớn.
Ông Hoàng Đức Nhã: Cái thực trạng lúc đó là một người đồng minh sau khi hứa mà bội hứa, mình không thể thay đổi thực trạng đó được. Như tôi đã nói mình đã gởi các phái đoàn đi cầu viện các quốc gia khác, thậm chí đến các nước Trung Đông như là vương quốc Saudi Arabia chẳng hạn. Tuy nhiên cái việc có thể nói là nỗi lòng của mình là quá tin tưởng người đồng minh; thật sự trên phương diện chính trị khi một người Tổng thống của một cường quốc hứa thì sao lại không tin. Nhưng mà sau này các tài liệu giải mật cho thấy là vì Hiệp định Paris không được Quốc hội Hoa Kỳ phê chuẩn nên Quốc hội không bị ràng buộc theo điều khoản của Hiệp định. Đó là thực trạng mà mình không thay đổi được và VNCH tiếp tục chiến đấu đến khi không còn súng đạn.
Nam Nguyên: 40 năm sau khi chấm dứt chiến tranh, ông nghĩ gì về nước Việt Nam hiện tại và khả năng về con đường dân chủ sắp tới?
Nam Nguyên: Cảm ơn ông Hoàng Đức Nhã đồng ý trả lời phỏng vấn của Đài RFA. Thưa ông sau 40 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam, nhiều tài liệu của Chính phủ Hoa Kỳ đã được giải mật cho thấy Hoa Kỳ đã có ý định không can thiệp vào VNCH nữa từ rất sớm và có mục đích chỉ là để rút lui an toàn. Là người thân cận của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, ông nhận định gì khi có ý kiến cho là các nhà lãnh đạo và toàn bộ chế độ VNCH bị động, không chuẩn bị việc tự lực cánh sinh hay phải sớm tìm kiếm một con đường khác để VNCH có thể tồn tại.
Ông Hoàng Đức Nhã: Chính quyền của Tổng thống Thiệu lúc đó hiểu rõ mục đích của Tổng thống Nixon, khi ông ta bắt đầu chính sách gọi là “Việt Nam hóa” có nghĩa là Hoa Kỳ rút và hứa sẽ giúp VNCH trên phương diện quân sự và kinh tế để bảo tồn toàn vẹn lãnh thổ và xây dựng đất nước. Nói chính quyền VNCH lúc đó bị động là hoàn toàn sai, vì mình đã có rất nhiều thành quả. Những người viết sách về Việt Nam không hề đề cập tới khía cạnh này, Đệ nhị Cộng hòa một mặt chống lại xâm lăng Bắc Việt, một mặt xây dựng đất nước, tạo dựng một chế độ pháp trị có quyền tự do cá nhân. Khi tôi đề cập điểm đó cũng là để nói lên là khi chúng ta chống Bắc việt và người đồng minh dần dần rút đi, họ tìm cách thương thuyết và ký kết một hiệp định trên đầu chúng ta, cũng như người Pháp đã làm hồi 1954… lúc đó chính quyền Đệ nhị Cộng hòa quyết định ngồi vào và tìm đủ mọi cách để tạo những điều kiện tối thiểu để chúng ta tiếp tục cuộc tranh đấu để bảo vệ và phát triển đất nước.
Nam Nguyên: Nhưng VNCH không còn nguồn viện trợ nữa, đạn dược vào tháng 3/1975 như Đại tướng Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên có nói là chỉ còn đủ dùng 30 ngày. Tại nhiều bệnh viện vào lúc đó đến bông băng cũng phải giặt đi xài lại…không có viện trợ…người ta nói bị động là không tìm nguồn viện trợ thay thế mà phải chuẩn bị rất là lâu dài mới có thể đương cự được với làn sóng quân cộng sản được Liên Xô, Trung Cộng hỗ trợ rất nhiều và họ đã đánh xuống. Họ nói bị động là như vậy, xin ông có thể làm rõ chỗ này?
Tôi muốn nhấn mạnh rằng Hiệp định Paris 27/1/1973 không phải là tiền đề đưa tới sự sụp đổ của VNCH. Đó là một căn bản để cho người Mỹ rút quân và VNCH với sự giúp đỡ của người Mỹ tiếp tục công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nướcÔng Hoàng Đức Nhã: Khi mà chúng ta biết Hoa Kỳ đã rút lui, người đồng minh chính đã tài trợ cho chúng ta và giúp chúng ta rất nhiều. Khi VNCH thấy cần thêm, mình đã gởi mấy phái đoàn đi cầu viện ở mấy quốc gia khác, nhưng không có quốc gia nào thậm chí đến mấy quốc gia Đông Nam Á chỉ nói bằng miệng thôi, không bao giờ cho viện trợ quân sự, viện trợ kinh tế không có bao nhiêu, trong khi Liên Xô Trung Cộng giúp đỡ Bắc Việt tích cực. Đó là một thực trạng mà chính quyền VNCH phải đối phó. Ngay cả đối với Hoa Kỳ lúc đó mình biết là không còn sự viện trợ như mấy năm trước. Chúng ta cũng đã đề nghị xin vay, nhưng lúc đó người Hoa Kỳ nhất là chính quyền Nixon bị bối rối và Quốc Hội dưới quyền kiểm soát của Đảng Dân Chủ muốn tránh, muốn chấm dứt các đợt viện trợ.Ông Hoàng Đức Nhã
Nam Nguyên: Hiệp định Paris 27/1/1973 được cho là một tiền đề dẫn tới việc sụp đổ của Nam Việt Nam. Theo ông và trong vai trò của mình là người thân cận của Tổng thống, Bí thư Tổng thống và cựu Tổng trưởng nữa thì ông nghĩ là VNCH sẽ phải đối phó như thế nào, chúng ta đã rút được bài học vừa qua. Tổng thống cũng có nói vào năm 1990 là vì bị lệ thuộc viện trợ mà cuối cùng phải ngồi vào bàn hội đàm. Giả dụ bây giờ lịch sử lập lại, ông nghĩ là VNCH có thể làm gì khác?
Ông Hoàng Đức Nhã: Câu hỏi này rất quan trọng đấy, tôi muốn nhấn mạnh rằng Hiệp định Paris 27/1/1973 không phải là tiền đề đưa tới sự sụp đổ của VNCH. Đó là một căn bản để cho người Mỹ rút quân và VNCH với sự giúp đỡ của người Mỹ tiếp tục công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Giả sử mình trong hoàn cảnh lúc đó từ 69 đến 73 và phải ký Hiệp định, thì sẽ phải làm như thế nào? lúc đó mình đâu có thể nào nói với đồng minh là ông tìm cách thương thuyết trên đầu của chúng tôi. Mình đâu thể nói vậy, cũng như anh ra trận đá banh rồi anh nói thôi tôi không chơi nữa vì không thích cái luật lệ, rồi mình lấy trái banh và đi về. Mình phải tiếp tục ngồi vào và tranh đấu để đừng có những điều kiện quá xấu cho tương lai đất nước. Thành thử lúc đó hành động của chính phủ VNCH, với sự hỗ trợ của tất cả cơ quan lập pháp hiến định, đã tìm mọi cách để đừng có chấp nhận một hiệp định coi như là đầu hàng.
Nói rằng mình sẽ phải làm như thế nào khác. Lúc đó mình biết rằng phải tự lực cánh sinh, phải củng cố. Lúc đó biết rằng tới giai đoạn phải đấu tranh chính trị với cộng sản để thực thi hiệp định, nó có những điều khoản là hai bên phải gặp nhau để nói về tương lai chính trị. Lúc đó VNCH cũng đã cho tất cả các đảng phái quốc gia biết thực trạng đó để chuẩn bị. Đó là điểm thứ hai riêng về chính trị. Điểm thứ ba về xây dựng kinh tế và xây dựng đất nước, mình có rất nhiều chương trình phát triển nông thôn có nhiều thành quả dân trí ấm no phồn thịnh. Nhưng mà những điều đó không ai nói đến, người ta cứ nhìn vấn đề Việt Nam và cho là mình không có làm gì cả, theo tôi đó là sự sai lầm lớn.
Có thể nói là nỗi lòng của mình là quá tin tưởng người đồng minh; thật sự trên phương diện chính trị khi một người Tổng thống của một cường quốc hứa thì sao lại không tinNam Nguyên: Nhưng thưa ông thực trạng lúc đó là không có tiền nữa, không có tiềm lực kinh tế, quân sự súng đạn không có nữa. Ngay Tổng thống lúc đó cũng nhìn nhận là viện trợ giảm đi rất nhanh và rồi thì những mật ước của Tổng thống Nixon… nó chỉ là mật ước trên phương diện pháp lý không có giá trị, có thể nói cũng chỉ là để đánh lừa thôi?Ông Hoàng Đức Nhã
Ông Hoàng Đức Nhã: Cái thực trạng lúc đó là một người đồng minh sau khi hứa mà bội hứa, mình không thể thay đổi thực trạng đó được. Như tôi đã nói mình đã gởi các phái đoàn đi cầu viện các quốc gia khác, thậm chí đến các nước Trung Đông như là vương quốc Saudi Arabia chẳng hạn. Tuy nhiên cái việc có thể nói là nỗi lòng của mình là quá tin tưởng người đồng minh; thật sự trên phương diện chính trị khi một người Tổng thống của một cường quốc hứa thì sao lại không tin. Nhưng mà sau này các tài liệu giải mật cho thấy là vì Hiệp định Paris không được Quốc hội Hoa Kỳ phê chuẩn nên Quốc hội không bị ràng buộc theo điều khoản của Hiệp định. Đó là thực trạng mà mình không thay đổi được và VNCH tiếp tục chiến đấu đến khi không còn súng đạn.
Nam Nguyên: 40 năm sau khi chấm dứt chiến tranh, ông nghĩ gì về nước Việt Nam hiện tại và khả năng về con đường dân chủ sắp tới?
Ông Hoàng Đức Nhã: Tôi không có hy vọng chế độ cộng sản ở Việt Nam thực thi nền dân chủ đúng như ý nghĩa của chữ dân chủ. Thứ nhất khi mà độc đảng thì làm sao mà có dân chủ được. Điểm thứ nhì, tự do căn bản của con người không được tôn trọng và điểm thứ ba, hố sâu giữa người giàu giữa con ông cháu cha của chế độ và người nghèo nó quá sâu. Từ 1975 tới giờ tôi chưa về Việt Nam nên không có những dữ kiện chính xác. Tuy nhiên bao nhiêu thống kê của ngân hàng quốc tế, những cơ quan quốc tế cho thấy rõ sự xung đột giữa mức sống và sự phát triển cần thiết của nhân dân mà theo tôi là chưa có được. Dĩ nhiên khi chưa có dân chủ thì không thể san bằng hố sâu giàu nghèo. Cá nhân tôi không thấy dân chủ trong tương lai, ít nhất trong cuộc đời của tôi.
Nam Nguyên: Thưa ông nhiều người đã viết hồi ký, thí dụ ông Nguyễn Tiến Hưng. Về phần ông cũng là một nhân vật của lịch sử, đóng góp rất nhiều vào Đệ nhị Cộng hòa, xin hỏi là ông có định xuất bản hồi ký của mình hay không?
Ông Hoàng Đức Nhã: nói hồi ký thì có vẻ cá nhân quá, tôi đang viết và sẽ xuất bản để nói về cuộc chiến đấu và công cuộc xây dựng dân chủ của Đệ nhị Cộng hòa, trong đó tôi được hân hạnh đóng góp một phần.
Nam Nguyên: Cảm ơn ông Hoàng Đức Nhã, cựu Tổng trưởng Dân vận Chiêu hồi VNCH, cựu Bí thư Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
HOÀNG HẢI THỦY * TẾT SAIGON
Hoàng Hải Thủy
Sài Gòn Đêm Ba Mươi Tết
“Ngũ đệ… Anh em ta tình thân hơn cốt nhục!…”
Ðó là một câu tôi nhớ trong số những câu tôi nhớ của tiểu thuyết Ðồ Long Ỷ Thiên Kiếm của Kim Dung, tác phẩm tiểu thuyết tôi đọc ở Sài Gòn những năm 1960, thời gian tôi ba mươi tuổi. Ðó là câu Dư Liên Châu nói với Trương Thúy Sơn trên chiếc thuyền lênh đênh giữa biển khi hai anh em đồng môn gặp lại nhau sau mười năm xa cách, khi Trương Thúy Sơn đưa vợ con: Hân Tố Tố và Vô Kỵ, từ Băng Hỏa Ðảo trở về trung thổ, Thúy Sơn sợ Trương Tam Phong, sư phụ của chàng, không cho chàng kết hôn với con gái của Giáo Chủ Bạch Mi Giáo. Chàng được Dư Liên Châu trấn tĩnh
“Ngũ đệ… Anh em ta tình thân hơn cốt nhục…!”
Một câu nói rất thường trong một truyện kiếm hiệp – truyện kiếm hiệp hay nhất trong đời tôi – làm cho tôi xúc động mãi. Khi ngồi trong Nhà Hàng Pagode đêm cuối năm, quanh chúng tôi chỉ còn những chiếc ghế da nâu không người ngồi và nhà hàng sắp đóng cửa – lúc ấy là mười một giờ đêm 28 Tết, còn hai đêm nữa là đêm Giao Thừa – người ta, những người Sài Gòn đi chơi đêm, giờ này đến các tiệm nhẩy, tôi và Quang còn ngồi buồn ở đây.
Nhìn nét mặt đăm chiêu và những nếp nhăn hằn trên trán Quang, tôi chợt nhớ đến lời Dư Liên Châu nói với Trương Thúy Sơn – “Ngũ đệ… Anh em ta tình thân hơn cốt nhục” và tôi xúc động. Tôi muốn nói một lời để an ủi Quang, nhưng tôi im lặng, vì tôi nghĩ trong lúc này, và trong nhiều trường hợp, yên lặng là tiếng nói của Trái Tim.
Tôi tuổi Dậu, Quang cũng tuổi Dậu, nhưng anh sinh trước tôi mười hai năm, tức là một giáp. Như vậy là tôi “ẩn tuổi” Quang; theo kinh nghiệm, các cụ ngày xưa cho rằng nhũng người ẩn tuổi nhau thường hợp nhau, thương mến nhau. Các cụ nói đúng trong trường hợp “ẩn tuổi nhau” của Quang và tôi. Chúng tôi thân mến nhau, thông cảm nhau. Tôi thường đoán trước, biết trước được những điều Quang sắp nói, những việc Quang sắp làm. Ngược lại, Quang cũng biết trước về tôi như tôi biết về anh.
Quang là luật sư. Năm 1950, tôi từ Hà Nội vào Sài Gòn, tôi đi làm phóng viên nhà báo và tới ngụ tại nhà anh trong một thời gian. Ngày ấy, anh đang kiếm ra tiền. Gia đình anh sống trong một vi-la đường Mayer. Tôi sống nhờ trong nhà anh, với gia đình . Vợ chồng anh coi tôi như người trong gia đình. Anh đưa tôi đi ăn chơi, anh là người mở đầu cuộc sống “trăng hoa” của tôi tại Sài Gòn. Vợ anh là gái Hà Nội, hiền, khá đẹp nhưng không có gì xuất sắc. Chị là người không gây thiện cảm mà cũng không gây ác cảm. Năm đó Ngọc lên năm tuổi. Cô bé xinh xắn, nước da hơi nâu, mạnh khỏe, thông minh, có đôi mắt tròn, đen láy, năm ấy cô bắt đầu cắp sách đi học Mẫu giáo. Trường gần nhà, đi bộ qua một con phố. Có những buổi chiều tôi đến trường đón Ngọc về. Thanh niên chưa có vợ, chưa có con thường thích trẻ con và muốn gần bọn trẻ con kháu khỉnh, xinh xắn, sạch sẽ và thông minh. Ngọc là một đứa bé có đủ nết ấy.
Rồi thời gian qua, Quang thành công với nhiều “áp phe” lớn. Ðịa vị của anh ngày một vững, tên tuổi anh nổi sáng. Rồi chiến tranh Ðông Dương kết thúc. Năm 1954, đất nước chia đôi, Quang trở thành một nhân vật lý tài quan trọng, cỡ quốc tế. Ðó là những năm tôi sống trong quân ngũ. Xa Sài Gòn, tôi xa gia đình Quang, cho tới ngày tôi được tin anh gặp tai họa. Những nhân vật của chế độ mới – tức chính quyền Ngô Ðình Diệm – những người cộng tác mật thiết với ông Diệm, ông Nhu, đã giương một cái bẫy để hại Quang và hất anh ra khỏi cái địa vị chuyên gia kinh tế tài chính quốc gia mà anh đang giữ.
Quang bị tù hai năm. Ở tù ra, anh trắng tay. Những người hại anh đã củng cố được một địa vị và thế lực quá vững. Họ tiếp tục làm hại anh bằng cách ngăn cản không cho anh ra mặt làm bất cứ công việc gì. Họ phá không cho anh hành nghề luật sư. Các công ty ngoại quốc không dám mướn anh. Anh phải kiếm sống bằng cách nhận làm riêng cho vài ông luật sư bạn. Những ông này giúp anh bằng cách giao việc cho anh đem về nhà làm.
Và những tai họa theo nhau đến với Quang. Vợ anh bỏ đi – người vợ hiền thục của anh – bỏ chồng con, bỏ nhà đi chung sống với một người đàn ông khác. Hai đứa con được để lại cho Quang nuôi. Quang sống những ngày dài buồn nản trong thất vọng và túng thiếu. Người hào phóng tự tin ở tài năng của mình và thành công ngay từ ngày bước vào đời như Quang, nỗi thất vọng và buồn nản càng nặng nề khi anh đã ngoài bốn mươi tuổi, số tuổi mà những người đàn ông có tài bắt buộc phải có địa vị. Không được phép xuất ngoại, Quang đi lén ra ngoại quốc mấy lần, nhưng không thoát. Bọn mật vụ theo dõi anh, ngăn cản không cho anh đi. Có lần anh đã trốn được xuống một chiếc tầu buôn của Pháp, khi tầu sắp rời bến Sài Gòn, bọn mật vụ mới biết tin và ập xuống tầu lùng xét. Chúng không tìm ra chỗ nấp của anh, nhưng sau đó, ông Thuyền Trưởng đích thân gặp anh, xin anh trở lên bờ để tránh cho tầu của ông gặp khó khăn trong những chuyến sau tầu ghé bến Sài Gòn.
Ðó là những tin, những chuyện về Quang và gia đình của anh tôi được biết trong những năm tôi sống trong quân ngũ. Rồi một người đàn bà khác xuất hiện trong đời Quang. Người đàn bà này đẹp – rất đẹp, nổi tiếng hoa khôi tại Sài Gòn – Nàng thuộc loại “chơi bời quí phái” và nàng có một tài sản đủ cho nàng sống phong lưu suốt đời.
Người đàn bà ấy yêu Quang, nàng chấm dứt cuộc sống cũ để chung sống với Quang, để làm vợ Quang. Họ yêu nhau, họ sống đầy đủ về vật chất nhưng không được hạnh phúc lắm về tinh thần, cả hai người cùng yêu nồng nàn và cùng ghen tuông dữ dội. Quang bị cuộc sống cũ của vợ ám ảnh. Vợ Quang biết nỗi ám ảnh ấy của Quang, nàng sợ một ngày nào đó Quang sẽ khinh nàng, sẽ chán nàng, sẽ yêu một người đàn bà khác trẻ, đẹp, có dĩ vãng trong sạch hơn nàng. Nhưng cả hai người cùng cần có nhau để sống. Theo tôi, Quang là người cần vợ hơn và yếu thế hơn vợ. Người vợ thứ hai của anh – đẹp, sang, được đàn ông say mê, giầu tiền – là một bằng chứng thành công của anh. Ít nhất anh cũng còn thành công với đàn bà. Người vợ trước để lại cho Quang hai đứa con. Một gái, một trai. Thằng bé hãy còn nhỏ được anh gửi bà Nội nó nuôi. Ngọc, đứa con gái lớn được anh gửi vào một trường Nữ Học.
- Tôi đang bối rối không biết phải làm sao thì cậu đến. Có cậu thay tôi lo cho nó mấy ngàyTết này tôi yên tâm. Chắc nó cũng buồn, cũng giận tôi, nhưng nhẹ thôi. Cậu cố giúp tôi. Nói cho nó hiểu. Tôi biết. Cậu từ xa về đây cần phải du hí mấy ngày Tết. Bị vướng cẳng vì một con bé chắc cậu bực mình lắm.
Người cha khổ sở vì không thể đón được đứa con gái yêu từ nhà nội trú của trường ra ăn Tết với mình nhờ tôi lo cho con anh trong mấy ngày Tết. Anh lên Ðà Lạt ăn Tết với vợ. Vợ anh muốn thế, anh không đi không được. Nhưng nếu sáng mai anh đi, chiều mai, không có ai đến trường đón Ngọc, con gái anh, ra trường. Mẹ đi lấy chồng khác, bố có vợ, bố ăn Tết với bà vợ, người thiếu nữ ấy bị bỏ rơi trong ba ngày Tết. Tôi là người thay mặt bố nó để làm cho nó bớt cô đơn, đỡ tủi thân trong mấy ngày đầu năm.
Trước nét mặt khổ não của Quang tôi phải quay mặt đi. Quanh chúng tôi, nhà hàng vắng tanh chỉ còn một cặp Tây Ðầm già đang ngồi như chờ đợi ai ở góc phòng. Tôi cảm thấy thương Quang và lại nhớ đến câu nói của Dư Liên Châu! “Ngũ đệ… Anh em ta tình thân hơn cốt nhục…” Tôi hiểu nỗi khổ tâm của Quang. Anh thương con anh nhưng cùng một lúc, anh cũng yêu vợ. Ngọc là con riêng của anh. Anh không thể “bỏ vợ, hy sinh vợ” trong mấy ngày Tết để gần, để sống với đứa con riêng của anh. Tôi nhận lời giúp anh.
Tôi đã được nghe nói về những nữ sinh của trường nữ trung học này, những chuyện được xếp vào loại “ly kỳ”.
Những chuyện đồn đại, không có bằng chứng. Ðại khái cuộc sống của nhiều nữ sinh trong Internal trường này rất loạn, nhiều nàng chơi trò đồng tính ân ái, nhiều nàng đêm đêm vẫn trốn ra đi chơi, đi nhẩy đầm, bọn vương tôn công tử Sài Gòn đêm đến đậu xe trong một con đường ngách bên trường, đợi các nàng ra, rước đi chơi.. v.v.. Tôi nghe qua những chuyện ấy rồi bỏ ra ngoài tai.
Chiều Ba Mươi Tết, tiếng xe ô tô ngoài đường làm ồn cả phòng đợi. Vào những ngày lễ hội, ngày nghỉ, thủ đô Sài Gòn đông xe hơn ngày thường, đông nhất là buổi chiều gần tối. Ở đây, phụ huynh tấp nập đến đón con ra trường. Nữ sinh người Pháp không còn là bao nhiêu. Nhìn quanh tôi chỉ thấy toàn người Việt Nam.
Tôi trình Thẻ Phụ Huynh, giấy phép được nhân lãnh học sinh. Một bà đầm trung niên – có vẻ là giám thị – ghi mấy dòng chữ vào quyển sổ, rồi nhấc điện thoại gọi vào trong. Bà nói tiếng Pháp.
Tôi ra hiên nhà, đứng hút thuốc lá.
- Chú…!
Tôi quay lại. Năm năm đã qua:
“Chú gặp cháu lần cuối năm 1964. Bố cháu bị bắt… chú đang ở lính. Chắc chú đâu có nhớ cháu, gặp nhau ngoài đường chắc chú không nhận ra cháu, phải không chú?”
Trong phòng lạnh của Restaurant Choeng Nam, trên bát “consommé chaud”, Ngọc mở rộng đôi mắt đen và trong, nói với tôi câu nói gợi lại kỷ niệm. Nàng hỏi:
“Chú có thấy cháu thay đổi nhiều không? Cháu chóng lớn quá, phải không chú…?”
Nàng dơ tay khoát nhẹ nửa vòng trong không khí, điệu bộ nhí nhảnh như cô đào điện ảnh Sandra Dee trong vai thiếu nữ dậy thì, con nhà giàu, ngây thơ, gợi tình. nàng nhắc lại:
“Chú gặp cháu ngoài đường chắc chú không nhận ra cháu. Nếu có ngờ ngợ chắc chú không dám hỏi. Phải không chú? Nhưng cháu nhận ra chú ngay!”
Nàng nheo mắt nhìn tôi đăm đăm như cô giáo nhìn anh học trò quấy phá
“Cháu nhận ra chú ngay! Chú có già đi chút chút, nhưng khuôn mặt, nét mặt vẫn không khác”.
Ánh mắt nàng long lanh, vành môi nàng cười mỉm.
“Tóc chú bạc nhiều rồi.” Tôi nói.
Trong năm năm, Ngọc thay đổi nhiều. Lần tôi đến nhà Ngọc lần cuối, Quang đang nằm trong khám Chí Hòa. Hôm ấy tôi chỉ thấy loáng thoáng bóng hai chị em Ngọc rồi tôi đi ngay, cho tới nay cô cháu ngồi trước mặt tôi giờ đây là một thiếu nữ mười sáu, mười bẩy tuổi, tóc để theo kiểu tóc Jacqueline Kennedy, mặt trái soan, mắt to và sáng, môi hồng mỏng và hai bên mép sa xuống. Ðôi khi, tôi thoáng thấy Ngọc có vẻ chán đời, ngạo đời – vì đôi môi sa xuống hai bên mép. Những người phụ nữ có đôi môi hai bên mép sếch lên, cũng như đuôi mắt sếch lên, thường có vẻ tươi vui – Ngọc bận đầm, đúng thời trang, không hoa hòe, hoa sói mà đẹp, trang trọng và gọn . Áo sơ mi trắng dài tay, váy Tergal xám, có hai dây vắt qua vai, ngực áo thêu hai chữ HN: Hồng Ngọc, bằng chỉ xanh. Một thiếu nữ đang đứng trên ngưỡng cửa cuộc đời. Ðời nàng xấu hay đẹp, mai sau nàng khổ sở hay sung sướng – suốt những năm còn lại, đó mới là cuộc đời, ba mươi năm, bốn mươi năm nữa – tùy thuộc vào vài năm sống sắp tới của nàng. Tôi thấy tôi lo sợ một cách chánh đáng: ai sẽ dẫn dắt cô gái này đi trong mấy năm trời quyết định ấy? Mẹ nàng đi lấy chồng khác, cha nàng có vợ và con riêng, cuộc đời nàng có biết bao nhiêu là cạm bẫy.
Nàng ngước lên, nét buồn vừa qua biến mất:
“Tại tóc chú bạc sớm chớ có phải tại nhiều tuổi đâu? Phải không chú? “
Hàm răng trắng của nàng lộ ra dưới vành môi mỏng.
” Chú kém ba cháu những mười hai tuổi. Năm nay, chú mới ba mươi ba tuổi. Ba cháu bốn mươi nhăm rồi. Tóc ba cháu đã bạc đâu. Có bạc, nhưng không nhiều bằng tóc chú. Hồi này, không hiểu ba cháu có nhuộm tóc không? Sao chú không nhuộm tóc, chú?”
“Chú không thích nhuộm. Chú thích tóc trắng?”
“Sao thế?”
Tôi nhún vai:
“Tại chú thích.”
Nàng cười thành tiếng:
“Tóc bạc như Jeff Chandler…! Cháu biết tại sao chú lại thích rồi!”
“Tại sao?”
” Chú muốn cho các cô phải để ý đến chú vì mái tóc của chú chứ gì? Chú khôn lắm. Cô nào thấy chú hãy còn trẻ măng mà tóc đã bạc trắng thì cũng phải để ý! Chú thấy không… Ðến cháu quen với chú là thế mà vẫn còn phải hỏi nữa là.”.
Tôi làm bộ ngượng vì bị nói trúng tim đen, nàng cười sung sướng.
” Ðã có cô nào nói với chú là… yêu chú vì mái tóc của chú chưa!”
Tôi cau mày:
” Ðừng hỏi bậy!”
” Cháu có hỏi gì quá lố đâu?
Mặt nàng cũng nghiêm lại.
” Chú vẫn… cho là cháu còn con nít? Chú là văn sĩ mà chú chẳng biết tâm lý chút nào! Cháu không dám nói là cháu đã yêu nhưng… cháu có đủ tư cách để nói chuyện về Tình Yêu với chú, với bất cứ ai…!”
Tôi muốn khuyên nàng vài câu. Tôi biết những điều mà nàng biết về tình yêu đó chỉ là những điều nàng đọc được trong tiểu thuyết, nàng nhìn thấy trên màn bạc xi-nê và nàng nghe vài cô bạn thuật lại. Tôi muốn nói cho nàng biết nàng chưa đủ tư cách để nói về bất cứ một chuyện gì, nhất là về Tình Yêu. Nhưng tôi chưa kịp mở miệng. Nàng đã tiếp:
” Cháu học hết năm nay thôi. Sang năm, chú sẽ không còn gặp cháu ở Sài Gòn nữa đâu.”
“Ngọc đi đâu?”
” Cháu đi xa.”
” Xa là tận đâu?”
” Bên kia biển.”
Ðôi mắt nàng mơ màng. Tôi thấy sợ – tôi biết là nàng nói thật – tôi hỏi:
” Ba cháu có biết chuyện cháu sắp đi xa không?”
Nàng lắc đầu:
” Ba cháu chưa biết. Nhưng có biết, chắc ba cháu cũng không ngăn cản cháu được, cháu hy vọng ba cháu sẽ không ngăn. Và cháu tin rằng ba cháu sẽ không ngăn cháu đâu..”
Giọng nàng chợt đổi khác, rất già dặn, đứng đắn:
” Ðến đúng lúc, cháu sẽ cho ba cháu biết chuyện.”
” Ngọc đừng có dại!”
” Không đâu, chú ơi. Chú sẽ thấy là cháu rất khôn. Cháu sẽ có tiền gửi về cho ba cháu, em cháu và cả mẹ cháu nữa. Ở đời này, tiền trên hết chú ạ! Tiền là tất cả. Chú viết truyện ca ngợi tình yêu, nhưng nếu nhà báo không trả tiền chú, chú ngưng viết ngay. Chẳng tình yêu thì đừng. Chú có thể viết truyện ca ngợi tình yêu rất hay, rất… ra rít, với điều kiện là truyện đó chú phải bán được ra tiền…”
Tôi trừng mắt:
” Ðừng nói lảm nhảm. Tôi không muốn nghe Ngọc nói nhảm. Ngọc chưa đến tuổi nói đến tiền, đến tình yêu.”
Nàng xịu mặt và có vẻ sợ:
” Cháu xin lỗi chú.”
Bữa ăn trôi qua trong tẻ nhạt. Chúng tôi trao đổi với nhau những câu hỏi đáp thông thường. Tôi suy nghĩ về những câu Ngọc vừa nói và thấy nàng có lý. Tôi thắc mắc muốn biết rõ về chuyện sắp đi xa của nàng. Nàng sẽ đi đâu? Ði với ai? Nói thật hay quan trọng hóa một sự việc chưa có gì là quan trọng cả?
Nàng buồn và ủ dột một cách lạ thường. Ăn xong, tôi cảm thấy hối hận nên vui vẻ:
” Chú thay mặt ba cháu cho cháu đi chơi đêm Giao Thừa. Cháu muốn đi đâu, chú đưa đi.”
” Cháu muốn chú cho cháu đi coi xi nê, rồi cho vào Dancing nghe nhạc…!”
” Cũng được. Nhưng đi Dancing thì khuya quá. Sau đó, cháu về trên bà nội có tiện không?”
” Ðược chú. Nếu không đi quá nửa đêm sao gọi là đi chơi đêm Giao Thừa được! Với lại… cháu thỉnh thoảng vẫn về bà nội cháu khuya quá nửa đêm, không sao đâu. Nhất là có chú đưa về, “suya” quá rồi!”
Nàng tươi lên khi tôi nhận lời. Ngồi trong rạp xi-nê, nàng chăm chú theo dõi những hình ảnh trên màn bạc, thỉnh thoảng mới thốt ra một câu phê bình truyện phim và lối đóng của các diễn viên, nàng phê bình rất sành, rất đúng.
Vào Dancing, nàng đòi uống Champagne. Ðêm Tất Niên, Grand Monde chật người, hết bàn, không khí thật vui. Tiếng nhạc và người nhẩy thật hào hứng. Nhìn quanh thấy những bộ mặt thỏa mãn ẩn hiện trong bóng tối lờ mờ, tôi chợt nghĩ lẩm cẩm rằng trong số những người ở đây, chắc không có một ai nhớ rằng đất nước này đang có chiến tranh, đang bị tấn công ngày đêm, giờ này, đang có những đồng bào của họ đổ máu và chết.
Tôi gọi Champagne. Chị Cai Gà thấy tôi vào, nhân lúc bồi đến mời uống, chị ghé đến bàn chúng tôi. Chị tủm tỉm cười, ra cái điều thông cảm và ngầm nói với tôi :”Ðêm nay ông anh đưa trẻ đi ăn, đi chơi”, chị kín đáo hỏi nhỏ tôi:
“Anh có cần em nào ngồi bàn, để gọi?”
Tôi lắc đầu:
” Ðêm nay tôi đi với cô cháu, chỉ đến nghe nhạc thôi, cám ơn chị.”
Chị ta nhắc lại:
” Dạ… anh đi mí cô cháu…!”
Không nhìn theo,chị Cai Gà, Ngọc hỏi tôi:
” Bà nào đấy chú? Có phải bà “Chef-Taxi-girl” không chú?”
Tôi gật đầu.
” Bà ấy có vẻ… bồ với chú lắm? Chắc là chú đi nhẩy nhiều nên bà ấy biết chú chứ gì?”
Thời gian càng trôi qua, đêm cuối cùng của năm nay càng gần giờ Giao Thừa, tôi càng thấy khó khăn trong việc trò chuyện với Ngọc. Nàng không còn trẻ con, nhưng cũng chưa hẳn là người lớn Nàng không thuộc loại Nymphet, nữ nhân vật Lolita của Vladimi Nabokov. Tiểu thuyết Lolita của Vladimir Nabokov được người đọc khắp thế giới nhắc đến và đọc từ năm ngoái, năm kia nhưng qua đến giữa năm nay, một vài cuốn tiểu thuyết này mới lọt vào Việt Nam. Chính quyền Ngô Ðình Diệm giữa thời cực thịnh, kiểm soát và cấm đoán gắt gao các loại sách báo và phim ảnh ngoại quốc bi mang tiếng là khiêu dâm. Ngọc không giống Lolita vì thân thể nàng nẩy nở, tròn và đầy hơn là Lolita thon và dài.
Khi nhận lời đến trường đón Ngọc cho đến lúc gặp Ngọc trong trường, tôi vẫn nghĩ rằng Ngọc hãy còn nhỏ, hãy còn là một đứa con gái sợ sệt mà tôi có thể đưa đi ăn kem, đi mua sách vở, mua quà con búp bê. Tôi nghĩ việc tôi đưa cô cháu ấy đi chơi sẽ không gây ra một sự hiểu lầm nào, kể cả những tên bạn lưu manh nhất của tôi cũng không có lý do để nghĩ bậy khi thấy tôi đi với cô cháu. Nhưng trong bữa ăn ở Choeng-Nam tôi thấy tôi nghĩ lầm. Nhìn tôi với Ngọc, chắc không ai cho rằng nàng là cháu tôi.
Và giờ đây, trong vầng ánh sáng mờ mờ của Dancing, rượu Champagne làm đôi mắt Ngọc sáng long lanh, tôi thấy nàng hoàn toàn khác hẳn với cái hình ảnh cháu Ngọc mà tôi vẫn có. Nhìn nàng, tôi hiểu tại sao cõi đời này có những người con gái thích lấy chồng già và chỉ có thể lấy – hoặc chung sống – được với những người đàn ông gấp đôi – hoặc gần gấp đôi tuổi các nàng – như người thiếu nữ mười sáu, mười bảy tuổi đang ngồi trước mặt tôi đây chẳng hạn. Bọn con trai mười sáu, mười bẩy, kể cả hai mươi tuổi, ngộc nghếch như gà tồ, chưa biết tý gì về đời, chưa biết suy nghĩ – như tôi năm tôi mười bẩy tuổi chẳng hạn. Nếu đem xếp Ngọc đứng gần một anh hai mươi tuổi, nàng sẽ phải khóc thét lên vì bực mình.
Thấy tôi không trả lời câu nàng hỏi về chị Cai Gà, nàng mỉm cười.
” Chú có muốn gọi Cave thì cứ gọi, chú nhá – Nhưng nếu chú gọi thì chú gọi cô nào trông “élégante” một chút, nghe chú. Và chú phải nhẩy với cô ấy. Chia ra, với cháu một bản, với người ta một bản..
Tiếng trống vang rền, đèn điện mờ dần rồi tắt. Giờ Giao Thừa. Năm mới đã đến. Trong bóng tối người ta ôm nhau, hôn nhau, chúc tụng nhau năm mới. Tiếng cười, tiếng í e xen tiếng trống rền. Sau một phút như vậy, đèn sáng trở lại; Ngọc lấy được một trái bong bóng màu xanh. Nàng buộc dây bóng vào thành ghế rồi vỗ nhẹ hai bàn tay vào nhau:
“Vui quá. Năm nay, cháu sẽ được sống những ngày thật đẹp và có nhiều thay đổi.”
Tôi đứng dậy đưa nàng ra “pít”.
” Cháu chúc chú năm nay viết được truyện hay, kiếm được nhiều tiền và… chú gặp một người đàn bà yêu chú đủ để chú yêu lại và lấy làm vợ.”
Ban nhạc trình tấu bốn bản liền. Tango rồi Rumba rồi Mambo và Cha Cha Cha. Nhiều cặp phải bỏ cuộc đi vào lúc tiếng nhạc chưa ngừng. Ngọc nhẩy giỏi và đẹp như một vũ nữ nhà nghề. Nàng học nhẩy từ bao giờ? Nàng học nhẩy ở đâu? Với ai? Những câu hỏi ấy chỉ thoáng đến với tôi rồi biến đi ngay. Tôi không còn ngạc nhiên nữa. Tôi biết Ngọc còn dành cho tôi nhiều ngạc nhiên khác nếu tôi muốn tìm ngạc nhiên và việc tập nhẩy đầm không phải là một việc làm lén lút của nàng. Có lẽ trong cái trường Nữ Học nổi tiếng ấy, chỉ có Dì Phước và những nữ sinh thọt chân mới không biết nhẩy đầm. Hai nữa, chất rượu đã bắt đầu ngấm trong cơ thể tôi. Tôi chưa say, nhưng tôi đã nhìn đời bằng một đôi mắt khác.
” Chú với cháu đẹp đôi nhất Dancing đêm nay. “.
Nàng nói bằng một giọng nghiêm trang, đôi mắt nàng nhìn vào mắt tôi. Nếu lúc đó, tôi mỉm cười và gật đầu đồng ý cũng chẳng sao nhưng vì một mặc cảm, tôi nhíu mày:
” Ðừng nói bậy! “
Nàng dẩu môi :
” Nếu không biết rõ chú, cháu đã cho chú là đạo đức giả và… giả dối nữa là khác! “
Như người đàn bà trưởng thành nói chuyện với tất cả sự bình tĩnh, nàng tiếp:
” Nếu chú với cháu đẹp đôi, và biết là chúng ta đẹp đôi, có gì là xấu?… Chúng ta kiêu hãnh vì chúng ta hơn người . Nếu chú lờ khờ, nhà quê, cháu không được hãnh diện vì chú. Cũng như nếu cháu luộm thuộm bê bối, chú cũng không hăng hái lắm khi phải đưa cháu đến những nơi đông người. “
Nàng nói tiếp:
” Cháu không thích những người con trai ngang tuổi cháu hoặc hơn cháu chút ít, cả tụi bạn của cháu cũng vậy. Cháu chỉ có thể yêu được những người đàn ông nhiều tuổi hơn cháu. “
Tôi hỏi:
” Cháu đã yêu bao giờ chưa? “
Nàng cười, đôi mắt sáng lộ rõ vẻ tinh nghịch, hàm răng trắng lấp lánh. Trong bóng tối tôi chỉ trông thấy rõ đôi mắt và hàm răng của nàng:
” Nếu chú thấy cháu có thể nói chuyện với chú về Tình Yêu, cháu sẽ kể chú nghe truỵên tình của cháu, người sắp mang cháu đi… đi xa, là một người bằng tuổi chú…
Tôi nhớ lời nàng nói với tôi khi chúng tôi ăn ở Nhà Hàng Choeng Nam – “Cháu chỉ học hết năm nay thôi. Sang năm cháu sẽ đi xa…” Bây giờ nàng không nói hết lời tôi cũng biết người đàn ông bằng tuổi tôi mà nàng nói là người sẽ mang nàng đi đó là một người Hoa Kỳ.
Chúng tôi trở lại bàn, Ngọc nâng ly chạm ly tôi:
” Năm mới, chúc chú vạn sự như ý, chúc chú gặp người yêu chú đủ để chú cưới về làm vợ. “
Tôi đáp:
” Năm mới, chúc Ngọc vui vẻ, học giỏi và không làm điều gì để những người thương yêu Ngọc phải buồn. “
Nàng uống hết ly rượu:
” Cháu chỉ có ba và em cháu. Má cháu đã đi lấy chồng. Nếu thương cháu, bà đã chẳng bỏ đi như thế, nhất là bỏ đi trong lúc ba cháu gặp tai họa. Ba cháu đã làm lại cuộc đời. Em cháu còn nhỏ chưa biết gì, cháu ra đi nhẹ nhàng. Chú yên trí đi, cuộc đời của cháu – ít nhất trong năm nay – đã được sắp đặt sẵn rồi, chú khỏi phải chúc . “
Tôi gợi chuyện:
” Chú đoán người đàn ông bằng tuổi chú Ngọc nói đó là một người Mỹ? “
Nàng gật đầu:
” Chú nói đúng. “
” Cháu yêu người đó? “
” Cháu chưa biết, phải mười năm nữa cháu mới trả lời được chú câu ấy. Nghĩa là phải mười năm nữa cháu mới biết chắc là cháu có yêu anh ấy hay không. Tình yêu phải được thời gian thử thách. “
” Tên hắn là gì? “
” Sang đến Mỹ, cháu sẽ cho chú sẽ biết tên chồng cháu. Cháu không sợ chú phá cháu đâu, nhưng chú cũng chẳng nên biết sớm. “
Tôi cười:
” Ngọc quên là Ngọc mới mười bẩy tuổi, người Mỹ trọng pháp luật… “
” Chú muốn nói cháu hãy còn là gái vị thành niên và có yêu cháu đến điên cuồng người ta cũng không dám mang cháu đi chứ gì? “
Nàng ngắt lời tôi :
” Chú chưa biết cháu đi sang Mỹ học và cháu có học bổng, hai chánh phủ Mỹ-Việt bằng lòng cho cháu sang bên đó du học, cháu đi do chánh phủ và nhân dân Mỹ quốc đài thọ!
Tôi nhìn nàng và tôi nhớ tới lời nói của một anh bạn. Anh bạn tôi bốn mươi nhăm tuổi, dược sĩ, có tiền, vẫn còn độc thân mặc dầu đã nhiều lần yêu. Mới đây anh nói với tôi :
” Toa phải viết về tình trạng: những cô gái Việt thích lấy chồng Mỹ. Những cuộc nhân duyên ấy không thể bền đẹp. Hiện giờ có quá nhiều gái Việt Nam con nhà tử tế, lấy Mỹ và đi theo chồng sang Hoa Kỳ. Toa nên nhớ trước kia thời Pháp… đa số me Tây đều là bọn gái hạ cấp. Nhưng bây giờ khác, bây giờ có cả con gái nhà tử tế, có thể nói là thượng lưu… cũng ham lấy chồng Mỹ.”
Anh bạn tôi cho rằng người Mỹ gần gái Việt là chỉ để chơi, để giải sầu. Nhưng tôi thấy đa số người Mỹ đến đây khi giao thiệp với gái bản xứ đều yêu và cố kết. Họ kết hôn cả với những cô gái điếm hạ cấp nhất. Tôi thấy tận mắt nhiều em điếm một trăm, sáu chục, hành nghề ở An Nhơn, Gò Vấp trở thành những cô vợ Mỹ rồi thành công dân Hoa Kỳ. Những cuộc hôn nhân ấy có bền và có hạnh phúc hay không ? Ðó là một chuyện khác. Những chuyện đã xảy ra ở Ðại Hàn, ở Nhật Bản, giờ đây không có gì lạ đang xẩy ra ở Việt Nam.
Bỗng dưng tôi thấy buồn. Buồn và nản một cách lạ thường. Tôi nghĩ đến Quang. Anh sẽ nghĩ sao, sẽ nói gì khi con gái anh báo tin nó lấy chồng Mỹ va nó sang ở luôn bên Mỹ. Tôi sẽ không biết nói sao nếu con gái tôi nói với tôi như vậy.
” Nhẩy với cháu nữa đi chú. Sao chú buồn thế? Cháu đã đi mất ngay đâu. Cháu còn ở đây những gần mười hai tháng nữa kia mà! “
Hai giờ sáng, chúng tôi ra khỏi Grand Monde. Nàng say và yêu cầu tôi lái xe đưa nàng ra Cấp. Tôi không thể đưa nàng về nhà bà nội nàng trong lúc nàng say rượu.
Ðêm trên xa lộ, trời tối om. Ðêm Ba Mươi Tết. Nhiều chiếc xe, cũng như xe chúng tôi, vun vút chạy xa Sài Gòn. Trên xe nào cũng có một cặp nhân tình.
Gần hết xa lộ, tôi dừng xe gần một vườn cao su. Tôi xuống xe theo nàng, sương đêm xuống lạnh hai vai áo. Nàng đi vài bước trên con đường vắng, rộng thênh thang, rồi nàng dơ tay thả trái bong bóng bay lên trời. Nàng đứng nghiêng nghiêng, trong chiếc áo lạnh màu trắng sữa, ngửa mặt nhìn theo trái bong bóng bay lên trời cao.
Viết cuối năm 1969 ở Sài Gòn.
HUY LÂM * KỸ THUẬT
Viết từ Dallas: Thời đại kỹ thuật
Huy Lâm
South by Southwest (viết tắt là SXSW) là tên của một hội chợ được tổ chức hằng năm vào khoảng giữa tháng Ba tại Austin, thủ phủ tiểu bang Texas. Hội chợ SXSW được bắt đầu từ năm 1987 và kể từ đó đến nay mỗi năm mỗi thêm lớn mạnh cả về phạm vi lẫn tầm cỡ. Hội chợ thường kéo dài khoảng 10 ngày, thu hút mấy trăm ngàn khách. Có người tới để xem trình diễn âm nhạc, người khác tới để coi những cuốn phim mới của những tài năng mới sắp được ra mắt công chúng. Nhưng điểm chính của hội chợ là cho trưng bày và giới thiệu những sản phẩm kỹ thuật mới xuất hiện, nhờ vậy hội chợ SXSW được nhiều người biết tới như là nơi tạo điều kiện cho những ý tưởng và những kỹ thuật phát minh mới được đến gần với công chúng.
Năm nay, mặc dù bên trong hội chợ mọi sinh hoạt vẫn diễn ra bình thường nhưng bên ngoài, ngay từ ngày đầu, người ta thấy có một nhóm người lấy tên “Stop the Robots” quy tụ được vài chục sinh viên đang theo học tại một số trường đại học gần đó vác biểu ngữ biểu tình kêu gọi mọi người hãy quan tâm tới hiểm họa của khoa học kỹ thuật, hay nói rõ hơn là của người máy trong tương lai. Phần lớn những sinh viên này theo học các ngành về khoa học và kỹ thuật, họ không chống lại sự tiến bộ của khoa học nhưng nhắc nhở mọi người nên thận trọng, đừng để bị lệ thuộc quá nhiều vào kỹ thuật và phải tìm cách kiểm soát những thứ máy móc đó. Nhóm người biểu tình tuy nhỏ nhưng gây được sự chú ý của giới truyền thông. Họ được mời phỏng vấn và hình ảnh của họ xuất hiện trên những trang báo của tờ USA Today, TechCrunch, trên trang mạng Yahoo! và trên đài truyền hình Fox News.
Những người trẻ này lo sợ cái xã hội chúng ta đang sống đây đang dần tiến tới gần hơn cái ngày những thứ kỹ thuật mà loài người phát minh ra sẽ quay lại kiểm soát chúng ta. Những nỗi lo lắng cho tương lai cuộc sống của những người trẻ này có lý do chính đáng. Mà không chỉ riêng họ, ngay như những nhà khoa học tiếng tăm trên thế giới cũng đã bày tỏ nỗi lo lắng của họ.
Như ông Elon Musk, người sáng lập công ty Tesla, đã cảnh báo rằng nguy cơ to lớn nhất đang đe dọa sự tồn vong của nhân loại chính là kỹ thuật trí thông minh nhân tạo (artificial intelligence). Nỗi lo sợ của ông này là thật chứ không chỉ nói suông, đến nỗi Musk đã hiến tặng $10 triệu cho viện nghiên cứu Future of Life Institute, là trung tâm chuyên nghiên cứu về những hiểm họa cho sự tồn vong của nhân loại, đặc biệt là hiểm họa của sự phát triển quá nhanh của các ngành kỹ thuật.
Tương tự như Musk, nhà khoa học lừng danh Stephen Hawking cũng đã lên tiếng nói rằng nếu nhân loại còn tiếp tục phát triển kỹ thuật trí thông minh nhân tạo thì sớm muộn gì kỹ thuật này cũng sẽ tiêu diệt sự sống của nhân loại. Chuyện nghe tưởng như đùa và có vẻ như nghịch lý từ cửa miệng của một nhà khoa học, là người luôn tìm tòi những phát minh mới của khoa học kỹ thuật. Nhưng chúng ta cần biết Stephen Hawking là người mắc một chứng bệnh về hệ thần kinh ngay từ khi còn trẻ và căn bệnh này đã biến ông thành một người tê liệt và câm. Vì không có khả năng đi đứng cũng như nói chuyện, Hawking phải cần đến nhiều thứ máy móc trợ giúp trong những sinh hoạt hằng ngày của ông. Để đi lại, ông cần một chiếc xe lăn tự động với những thiết bị tối tân nhất. Để giao tiếp với những người xung quanh, ông cần một hệ thống cảm ứng nhỏ (small sensor) gắn trên má để ông có thể “đánh” những mẫu tự vào trong một máy điện toán và những mẫu tự này sau đó chuyển đổi ra thành tiếng nói.
Phải dài dòng như thế để thấy Stephen Hawking hiểu thế nào về tác dụng và ảnh hưởng của kỹ thuật lên đời sống con người khi ông phải tiếp cận và lệ thuộc vào nó mỗi ngày. Và nỗi lo sợ của Stephen Hawking, của Elon Musk và của nhóm người trẻ Stop the Robots là có cơ sở chứ không chỉ vu vơ.Phần đông những người bình thường chúng ta, nhất là những ai đang làm việc cho những công xưởng, nếu có nghe nói tới kỹ thuật người máy hay trí thông minh nhân tạo, thì điều làm chúng ta lo lắng nhất chính là nỗi lo mất việc. Mà quả thật, càng ngày càng có nhiều công việc trước kia do người đảm trách thì nay những người máy cũng làm được.
Công ty Amazon.com hiện đang sử dụng khoảng 15.000 người máy tại những trung tâm phân phối. Những người máy này có thể làm những công việc như nhận đơn đặt hàng, đi tìm lấy món hàng, đóng hộp, dán nhãn và đem gửi đi. Đây là những công việc mà trước đây chỉ độ hai ba năm vẫn còn cần đến nhiều chục ngàn nhân viên.
Hệ thống nhà hàng Chili’s mới đây vừa cho lắp đặt 45.000 chiếc máy tính bảng (tablets) ở khắp các địa điểm quanh nước Mỹ. Những máy tính bảng này giúp khách hàng gọi món ăn, chơi games trong khi chờ đợi và trả tiền sau khi ăn xong.
Theo tin của tờ New York Times, một khách sạn đang cho thử nghiệm sử dụng nhân viên trực tầng (bellboy) là người máy và người máy này biết mang va-li, giỏ xách, những vật dụng cá nhân cho khách lên tận phòng ngủ mà không cần nhận tiền thưởng. Rồi ở một sân cù cũng tại nước Mỹ đang có những người phục dịch (caddie) người máy làm được những công việc như nhặt bóng, sách túi cho khách chơi golf tại đây y như một caddie thật sự.
Công ty Lowe’s, là hệ thống cửa hàng bán vật dụng sửa nhà và làm vườn, cũng đang thử nghiệm một loại người máy cho đứng ở cửa ra vào chào đón khách hàng cũng như giúp hướng dẫn khách hàng tìm kiếm món hàng mà họ cần mua. Theo tờ Wall Street Journal, trước đây người máy vừa to kềnh càng lại vừa giá cao, nhưng nay thì kích cỡ của loại người máy mới đã nhỏ gọn và giá thành thấp nên nhờ đó nhiều hãng xưởng nhỏ có đủ khả năng mua để sử dụng chúng.
Chúng ta đang sống ở thời đại đang có một cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật rất quan trọng. Chỉ vài năm nữa thôi đi đâu người ta cũng thấy “người máy” khắp nơi dưới nhiều hình dạng khác nhau và càng ngày số người máy càng đông. Thế nên, sự lo sợ những người máy kia sẽ lấy đi nhiều công việc của loài người là hợp lý. Tuy nhiên, có một số kinh tế gia và khoa học gia nghĩ rằng khoa học kỹ thuật tạo ra người máy thì từ đó cũng tạo ra những công việc mới. Nhưng chắc chắn là nó cũng lấy đi nhiều công việc cũ trước đây.
Một điều chúng ta dễ nhận ra là loài người muốn cạnh tranh với người máy là không thể. Hãy thử so sánh việc mua một người máy tốn khoảng $25.000, trong khi mướn một nhân viên cũng trả lương khoảng $25.000 một năm. Nhưng người máy thì chỉ phải trả một lần, còn người nhân viên thì lương vẫn cứ phải trả hoài; mà người máy thì có thể làm việc 24 tiếng mỗi ngày, không phải nghỉ giải lao, không phải trả bảo hiểm sức khỏe và không bao giờ nghỉ phép. Thế thì người thật thua người máy là cái chắc.
Có điều chưa ai biết được là cuộc cách mạng kỹ thuật lần này có khác trước hay không, vì trong quá khứ khi những kỹ thuật mới được phát minh thì chúng tạo ra nhiều công việc hơn là chúng làm mất đi. Sự lo sợ kỹ thuật mới sẽ làm nhiều người thất nghiệp thực ra không có gì là mới mẻ hết. Hồi đầu thế kỷ 19 khi châu Âu bắt đầu bước vào thời đại cơ khí, nhiều công nhân bên Anh Quốc vì lo sợ bị lấy mất đi công việc nên đã gây nên một phong trào của những người được gọi là Luddite, họ hô hào phải phá hủy các loại máy móc sử dụng trong hãng xưởng.
Kinh tế gia Timothy Taylor kể lại rằng, năm 1964, vì nhiều người lo lắng kỹ thuật sẽ lấy mất đi nhiều công việc đã buộc Tổng thống Lyndon B. Johnson thành lập một ủy ban nghiên cứu về kỹ thuật tự động. Đến năm 1966, bản phúc trình về cuộc nghiên cứu hoàn tất thì tỉ lệ thất nghiệp tại Mỹ giảm xuống 3,8%. Khi có những kỹ thuật mới xuất hiện thì kinh tế cũng tự thích nghi theo.
Giáo sư Robert J. Samuelson cho rằng lý do là vì những kỹ thuật mới thường giúp làm ra những sản phẩm với giá trị phẩm chất cao mà giá thành lại thấp. Điều này đưa tới nhu cầu tiêu thụ tăng lên. Lấy kỹ nghệ hàng không làm ví dụ. Sau Thế chiến II, ngành hỏa xa lúc ấy vẫn đang chi phối dịch vụ chuyên chở hành khách. Nhưng sau đó kỹ thuật hàng không phát triển: bay nhanh hơn, rút ngắn được thời gian di chuyển và sức chứa hành khách trong một máy bay cũng được nhiều hơn; đặc biệt là sau khi kỹ thuật máy phản lực được áp dụng vào cuối thập niên 1950 thì ngành hàng không phất lên thay thế vị trí của hỏa xa. Trong khi việc di chuyển bằng xe hỏa suy sụp, con số hành khách đường hàng không riêng tại Mỹ đã tăng từ 19 triệu trong năm 1950 lên 737 triệu năm 2012. Năm 2014, ngành kỹ nghệ hàng không ở Mỹ mướn tổng cộng khoảng 590.000 nhân viên đủ loại.
Nói như thế để thấy rằng sự giải thích của giáo sư Samuelson vẫn có thể áp dụng cho thời đại này mặc dù chúng ta đang chứng kiến kỹ thuật ngày càng lấn lướt khả năng của con người. Các công ty vẫn cần những người làm những công việc như thiết kế, lập thảo trình, bảo trì và điều phối người máy và những kỹ thuật khác. Và do đó những công việc mới được tạo ra là điều không thể tránh được.
Cũng thế, cách đây độ mấy thập niên khi những chiếc máy rút tiền tự động ATM lần đầu được đưa vào sử dụng rộng rãi trong công chúng thì nhiều người đã lo sợ rằng công việc của nhân viên thu ngân tại ngân hàng sẽ dần biến mất. Nhưng sự thật là số nhân viên thu ngân làm việc tại các ngân hàng ở Mỹ hiện khoảng 600.000, theo nghiên cứu của Đại học Boston, cao hơn mức năm 1990.
Nỗi lo sợ mất việc vì sự tiến bộ của kỹ thuật là điều thiết thực nhưng có lẽ phần nào đã bị thổi phồng quá đáng. Công việc mới luôn luôn thay thế công việc cũ là một hiện tượng bình thường không ngoại trừ ai. Lẽ tất nhiên là những tiến bộ kỹ thuật cũng sẽ lấy mất đi nhiều công việc, nhưng rồi nó bù lại bằng những công việc mới.
Câu hỏi là con người có thể thích nghi được với thời đại kỹ thuật mới hay không? Nhìn lại quá khứ chúng ta thấy có thể tin tưởng được điều đó.
Huy Lâm
PHAN * TIỆC TÙNG
Góc của Phan: Nhìn lại những bữa tiệc…
Tôi đã nghe nhiều người đến Mỹ sớm, họ kể về những bữa tiệc của ít ỏi người Việt mà lại hiếm hoi có dịp gặp nhau. Những bữa tiệc chan chứa tình đồng hương; tình bạn lính bao nhiêu thì thực phẩm dân tộc nghèo nàn bấy nhiêu. Đơn cử chuyện ông bạn tôi sang Mỹ từ 1975. Định cư ở Hóc bà Tó bên Pennsylvania. Anh kể tôi nghe mãi đến mùa đông năm 1977 anh mới gặp được một người phụ nữ Á đông mà anh nghi, anh nghĩ, là người Việt nhất trong chợ Mỹ. (Sau những đắn đo không biết chị ta là người Việt-mình; hay người Tàu, người Hàn, người Lào…?) Anh ấy liều hỏi đại một câu bằng tiếng Việt, “Chị có phải là người Việt không?”
Chị ấy trả lời bằng dòng nước mắt lăn xuống gò má, đủ biết chị ấy mừng cỡ nào khi nghe một câu tiếng Việt.
Phía chị có chồng là Thủy quân lục chiến và hai con. Thì phía anh là Hải quân, cũng có vợ với một con. Hai gia đình cách nhau hai tiếng lái xe nhưng thành ruột thịt với nhau vì tuần này nhà này thì tuần sau nhà kia. Món ngon nhất của họ vào ngày cuối tuần là được nói tiếng Việt; chứ món ăn kể ra nghe xấu hổ! Chẳng có món gì là Việt cả nên hai ông lính ngồi uống bia, rồi nghĩ ra cái tên Việt để đặt cho những món ăn tự chế – cho đỡ thèm…
Đến năm ’80. Ônh Hải quân tìm được cái nông trại nhưng có mổ heo, gà của người Mỹ. Ông ấy vô mua gà về ăn – và nói xạo với bà chủ, “Bà có thể cho tôi xin chút ít lòng heo được không? Tôi đem về nấu cho mấy con chó săn của tôi ăn…”
Phải nói vậy bà ấy mới cho vì ông Thủy quân lục chiến đã từng vào mua lòng heo (hôm tuần trước), thì bà ấy nói là “không được ăn những thứ dơ bẩn đó! Nên không bán, không cho…”
Vậy là hai khứa lão được bữa cháo lòng sau 5 năm biệt xứ, -ngon tới trào nước mắt.
Rồi cách đây hơn hai mươi năm. Tôi trông cuối tuần có gì lạ trong bữa ăn của gia đình? Ông anh vợ cũng tử tế lắm lắm rồi… là mua pizza về nhà ăn!
Trời ơi! Cái miếng cơm cháy của Mỹ, nó dở hơn miếng cơm cháy mùa nước nổi của người Việt biết chừng nào. Hôm mưa trắng đồng, nước trắng bờ. Trong cái mênh mông sông nước bó chân người. Vậy mà nồi cơm chín tới không màng. Chỉ thích bắc nồi chỉ còn miếng cơm cháy dưới đáy nồi – lên bếp than tàn. Rưới-rắc vài giọt mỡ hiếm hoi nơi đồng không mông quạnh; vài giọt nước mắm cặn; nghe xèo xèo trong nồi đã sướng lỗ tai. Sướng cái thính giác xong thì sướng liền khứu giác với cả gian chòi đã lừng lựng hương thơm – nước bọt tiết ra chân răng không kịp nuốt. Chao ôi! Tớp chung rượu đế cái tót, đưa cay miếng cơm cháy thơm mùi mỡ, mùi nước mắm, mùi khét khét đặc biệt của cơm cháy gạo mới – nó vừa dẻo vừa giòn…
Hỏi sao miếng pizza không lén lén tuôn vô thùng rác!
Tôi thất vọng nhiều cuối tuần khi mới tới Mỹ để hy vọng tắt luôn vào một cuối tuần, bà chị ra thông báo từ tối thứ bảy: “Sáng mai, nhà mình ăn bánh ướt.” Làm tôi thấp thỏm nguyên đêm chờ sáng chủ nhật để được ăn cái món bình dân mà đầu đường xó chợ nào ở Việt nam cũng có.
Nhưng than ôi! Sáng chủ nhật nên chị tôi còn nướng tới nướng lui trong phòng vì cả tuần thức khuya dậy sớm đi làm. Tôi cắn răng, bấm bụng, bởi thân phận mới qua; không ăn nhờ nhưng còn ở đậu nên ngậm miệng!
Mặt trời chậm hơn rùa mà cũng đã bò tới ngọn cột đèn. Chị tôi mở cửa phòng bước ra, làm cha con tôi mừng như gặp Phật bà. Thằng nhỏ hỏi tới, luyên thuyên về bánh ướt. Bà chị vui vẻ (nhờ đẫy giấc) – có ngay, có ngay…
Trời mẹ ơi! Chị tôi luộc bánh hủ tíu khô mà gọi là bánh ướt; cắt khoanh cây xúc xích ra – là chả – đó con. Không biết chị nói với con tôi hay nói với tôi. Chỉ nhớ là cha con tôi… chả!
Nhưng bây giờ thì ẩm thực Việt ở Mỹ đã ngon hơn trong nước, phẩm chất hơn, và hơn hẳn về mặt vệ sinh. Chỉ trừ những món độc, những món cây nhà lá vườn mang tính địa phương như mực một nắng ở cầu Đá-Nha trang; cá nục kho phan Thiết; con tôm khô Bạc liêu ngọt tới làm cho củ kiệu hết chua; ốc mỡ Cần giờ, con xịa ở biển Gò công… Những thứ đặc sản ấy thì trên trời còn không có nói gì ở Mỹ.
Bốn mươi năm nhìn lại ẩm thực của người Việt ở Mỹ đã có đủ hết những thức thường dùng, từ nguyên liệu chánh như tôm cá, thịt tươi; tới các loại gia vị đều có hết. Nhưng cách nấu chỉ thay đổi từ than củi cổ truyền thì bây giờ xài bếp ga, bếp điện. Nhìn lại mới thấy những quán nhậu là cái nôi cho ra đời món mới vì dân nhậu ăn ít nhưng đòi hỏi phải ngon, đặc biệt là lạ. Nhưng món ngon và lạ ở quán nhậu không có tính phổ quát để trở thành món ăn phổ biến của dân tộc. Như tiết canh, bê thui, dê xào lăn, áp chảo, ruột khìa… là những món ngon nhưng không phải món để ăn cơm. Chúng chỉ được xếp vào nhóm món nhậu.
Rồi bốn mươi năm, ngồi nhớ lại, nghĩ về những bữa tiệc của người Việt ở hải ngoại (chủ yếu là ở Mỹ) – có một điều không hề thay đổi là thực khách không bao giờ đến đúng giờ!
Tuy nội dung và hình thức của những bữa tiệc của người Việt ở Mỹ đã có những thay đổi thấy được. Đa số tiệc tùng đã bỏ hẳn những món nấu nướng cực công vì lý do không có thời giờ; chén đũa bằng sứ tráng men làm cho bữa tiệc sang trọng hơn, thích hợp với thực phẩm Việt đa số là ăn nóng thì được thay bằng chén đũa giấy…
Đến dự bữa tiệc ở nhà một người Việt ở Mỹ bây giờ, chẳng ai còn lạ cảnh được mời đến ăn nhưng phải bưng tới một món… thì mới được bưng cái dĩa giấy, xếp hàng đi vòng quanh bàn dài… để gắp chính cái món mình bưng tới!
Nói về những thay đổi trong bữa tiệc của người Việt ở Mỹ thì người khen cũng lắm và kẻ chê cũng nhiều. Thôi thì nồi nào úp vung nấy cho đôi lứa; bè nào sào nấy cho nhóm bạn. Mỗi cá nhân có sự hội nhập riêng theo hoàn cảnh và cá tánh.
Tôi nhớ ngày mới đến Mỹ nên tò mò. Lần đó, thằng bạn người Anh làm chung trong xưởng mời bạn bè Việt nam đi dự đám cưới của nó. Thấy ai cũng từ chối, nên tôi nhận lời, đi cho biết đám cưới Mỹ ra làm sao? Hơn nữa thằng bạn này là người trực tiếp làm việc với mình, tôi cũng thích nó ít nói nhưng để mắt tới tôi hơn những người làm chung khác; nó giúp tôi thực sự hơn những người khai thác sự không biết của mình để lợi dụng vì tôi mới đến Mỹ, và đặc biệt là mới biết đi làm dù tuổi tác đã sắp về hưu…
Nhớ lần đầu lần nhậu với nó theo cách quen của nó, dù lạ với tôi. Nhưng là bước đầu tiếp thu một nền văn hóa mới nên tôi muốn thử. Hôm đó giờ nghỉ, hai thằng ra ngoài hút thuốc. Nó ra xe lấy cho tôi xem chai rượu mà theo nó nói, loại rượu này uống với chocolate trắng thì tuyệt vời! Tao mới mua hết bảy mươi lăm đồng, cộng thuế. Nếu mày muốn thử thì đưa tao bốn chục; với năm đồng tiền chocolate nữa là bốn mươi lăm đồng. Chiều nay, về apartment tao ở. Hai thằng mình nhậu.
Đó là lần đầu tôi nghe uống rượu mà đưa cay bằng chocolate, nên càng tò mò về ai uống rượu mà hảo ngọt bao giờ? Tôi đưa nó năm chục, cho mày năm đồng tip vì mày còn phải rửa ly! Nó khoái chí, cười vang…
Lần đầu tiên tôi nhậu với một thằng bạn mà trên bàn có giấy viết vì tôi nói nhiều câu nó không hiểu, nó nói nhiều câu tôi cũng không hiểu, nhưng viết xuống thì hiểu. Bởi mớ tiếng Anh nhỏ nhoi từ trường lớp Việt nam của tôi đâu có bao nhiêu, còn nó thì người Anh nên nói tiếng Anh… dở ẹt, nó không hiểu tiếng Anh ngoài luồng như mấy thằng bạn Mỹ đen của tôi.
Căn phòng apartment nhỏ gọn, ngăn nắp và sạch sẽ. Mặc thời tiết bên ngoài đang cả trăm độ F, nó mở máy lạnh sáu mươi độ, đóng màn cửa sổ để không gian trong phòng tối hẳn rồi mở ngọn đèn bàn nho nhỏ, trong khi mặt trời mùa hè thì chín giờ tối mới lặn. Nhưng cái ánh sáng gay gắt của mặt trời Texas mùa hạ thật không thích hợp với chai cognac của Ái Nhĩ Lan tuyệt đầm, nhấm miếng white chocolate của Bỉ – không quá ngọt như chocolate của Mỹ, du dương theo tiếng nhạc cổ điển nhè nhẹ. Tôi chưa biết sướng với cái gu Âu tây này dù rất khoái. Tôi chìm vào nỗi nhớ Sài gòn da diết với sự náo nhiệt, ồn ào phố thị; tiếng cụng ly rôm rả của bạn bè như mới hôm qua mà nay đã thành dĩ vãng trong sự tĩnh lặng hiện hữu với người bạn khác chủng tộc; bàn nhậu bên kia bờ đại dương…
Chúng tôi còn đi ăn trưa chung với nhau nhiều lần để nó chỉ tôi vài món Mỹ, tôi chỉ nó vài món Việt. Dĩ nhiên là ai ăn nấy trả cũng như nhậu tiền mình mà phải cảm ơn người mời…
Đã nhiều năm không gặp nhưng ăn chocolate trắng, uống cognac, nghe nhạc không lời là một cách thư giãn đã thấm vào tôi tới hôm nay.
Nhớ về người bạn Ăng-lê này là bài học đầu tiên ở Mỹ. Tôi đi dự đám cưới nó như Vân Trường đơn đao phó hội vì chỉ mình tôi là người Việt. Tôi không biết người ngoại quốc có nhận tiền mừng đám cưới hay không, nên mua cho vợ chồng nó một hộp xì gà tới năm mươi điếu để làm quà vì thấy hai đứa cùng hút loại xì gà nhỏ như chiếc đũa.
Bữa tiệc lớn trong hotel khá sang trọng diễn ra. Nhìn không ra thằng Harry thường ngày cao gầy, tóc dài, bụi bụi… Hôm nay nhìn nó như ca nhạc sĩ với áo đuôi tôm sậm, cà vạt đỏ… Nó gởi gấm tôi cho Tracy, là cô gái Mỹ trắng cũng làm chung, vì cô ấy cũng đi dự đám cưới có một mình.
Tôi với Tracy nhậu một bữa đã đời. Đúng như ông sếp tôi nói về cô ta, “con nhỏ này uống rượu như tao uống coke…” vì ông ấy ghiền coke dữ lắm!
Tôi còn nhớ thằng Harry cảm ơn tôi với món quà cưới mà vợ chồng nó rất thích. Cô dâu vui vẻ, mở quà chia luôn cho bạn bè cùng hưởng. Tôi cảm ơn Tracy đã chỉ tôi vài loại rượu ngon; order cho tôi một bữa ăn rất ngon…
Thằng Harry nghỉ vacation hai tuần sau đám cưới. Hai tuần tôi tha hồ kể về đám cưới Mỹ cho đám Việt nam nghe; kể về rượu lạ với Tracy uống rượu như uống nước…
Cho tới hôm nó đi làm lại, Tracy cầm hóa đơn tính tiền cái bàn table for two của tôi với cô ta, gồm tiền hai phần ăn, tiền rượu mà chúng tôi đã uống. Cô ta nói tự nhiên, “Cái bàn của tao với mày hôm đám cưới thằng Harry là hai trăm đồng. Vậy mày đưa tao một trăm. Tao sẽ đưa nó hai trăm…”
Chuyện ăn rồi, uống rồi, đâu có trả lại được như mua món gì ở Walmart. Tôi âm thầm tìm hiểu, thì ra đi đám cưới bạn Mỹ không cần đi tiền mừng, không cần mua quà cáp gì hết! Nội sự có mặt của mình để chung vui với ngày cưới của bạn đã là quý. Rồi thì ai ăn nấy trả, ai uống nấy lo…
Tôi không biết cô dâu chú rể có trả tiền bàn ăn cho hai cặp cha mẹ của họ không nữa, vì họ mời cha mẹ tới dự đám cưới tụi con chứ không phải cha mẹ đứng ra lo đám cưới cho con cái như người Việt thường làm. Thôi thì đi đứt một tuần lương cho cái đám cưới thằng bạn Ăng-lê để biết đường tránh né những đám cưới của bạn Mỹ làm chung sau đó.
Nhưng về đi đám cưới Việt ở Mỹ thì chán thật! Một phần là tuổi tác đã qua thời bạn bè lập gia đình. Bây giờ có đi đám cưới thì chỉ là đám cưới con của bạn bè. Đám cưới cứ mời rành rành trên giấy nhũ mực in là sáu giờ chiều. Nhưng sáu giờ ở nhà hàng chỉ có nhân viên phục vụ ngáp vặt. Bảy giờ, cô dâu còn đi làm tóc chưa về, vì tám giờ các tiệm nail mới đóng cửa, nên chín giờ khách mời mới giá lâm. Từ đó sự ồn ào của sân khấu ca nhạc làm phiền, làm mất sự trang trọng của đám cưới hơn là giúp vui với những lời ca tiếng hát không phù hợp. Nhưng đám cưới không thuê ban nhạc thì buồn tẻ quá! Người Việt thích ồn. Tôi nghĩ riêng và câm miệng… cho tới hôm gặp ông kia đã nhiều rượu, đám cưới người ta mà ông ấy cứ một hai đòi hát bài tủ để giúp vui… Ban nhạc không chơi thì ông không trả lại micro, nên ông nhạc của chú rể cho phép ông ấy hát; và đúng là ông nhạc vì ông kia hát bài… đồi thông hai mộ!
Nhưng trốn đám cưới đâu dễ vì chỗ bạn bè gả con, cưới dâu, là chuyện lớn của gia đình mà bạn bè lủi trốn thì khó gặp mặt. Nên mới đây, tôi đi đám cưới con gái của ông bạn. Cô dâu chú rể là những người trẻ lớn lên bên đây nên họ tổ chức đám cưới của họ như người Mỹ; mời cha mẹ hai bên đến dự đám cưới tụi con chứ không phải cha mẹ hai bên lo (làm) đám cưới cho hai đứa.
Bắt đầu từ thiệp cưới, có hỏi người được mời là có đi dự đám cưới hay không? Nếu có đi dự thì đi mấy người, (hai vợ chồng hay đi một mình)? Và thậm chí hỏi luôn là mình ăn món gì (trong vỏn vẹn mấy món được nêu ra). Về thức uống thì thiệp mời cũng hỏi rõ là mình có uống rượu bia hay không, để người mời đặt phần rượu bia cho mình với nhà hàng…
Thôi thì dẹp tự ái dân tộc qua một bên để nhập gia tùy tục cho rồi! Nhưng kẹt cái là bạn bè của cha mẹ là người Việt, đi đám cưới đúng giờ thì sợ người ta cười, bộ vợ chồng nhà này đói lắm sao mà mò tới sớm dữ vậy trời? Nhưng đôi trẻ đó chỉ mướn cái phòng lớn trong Hotel để tổ chức đám cưới có 3 tiếng đồng hồ. Sau 3 tiếng, nhà hàng với mấy chục người phục vụ cho một tiệc cưới. Họ nhanh chóng dọn dẹp sạch sẽ, set-up bữa tiệc cưới mới cho đám cưới khác.
Thiệp mời ghi rõ là 3 giờ chiều. Nên tiếng đầu đón khách, chụp hình kỷ niệm. Mọi người chụp hình xong với cô dâu chú rể thì đi uống rượu, trò chuyện với người quen kẻ biết có dịp gặp. Sang tiếng thứ hai, tuyên bố chính thức về ý nghĩa buổi tiệc là tiệc cưới của hai nhân vật chính. Họ chính thức mời mọi người dùng tiệc. Nhà hàng với mấy chục người phục vụ nhanh chóng dọn ăn theo phần (đã đặt trước theo thiệp cưới). Mọi người ăn uống vui vẻ; cô dâu chú rể cũng ngồi bàn ăn riêng với nhau; không lôi thôi bầu đoàn thê tử đi chào bàn gì hết… Họ đặt cái thùng ở cửa vào như thùng phước sương ở chùa, ai cho gì cứ bỏ vào đó. Người nhận đỡ mất thời giờ cảm ơn mà người cho cũng không phải nói những câu chúc tụng đã nhàm…
Sang tiếng thứ ba là cắt bánh cưới, mời mọi người ăn tráng miệng, là xong một bữa tiệc cưới. Giải tán. Để trả phòng cho đám cưới tiếp theo.
Vậy mà trong cái tiếng thứ 3 của đám cưới đó… lai rai những cặp bạn bè của cha mẹ hai bên mới tới. Có người còn kịp thấy dĩa thức ăn của mình đã nguội lạnh, dù không còn kịp giờ để ăn. Có người trễ tới không thấy được phần ăn của mình luôn vì nhà hàng đã trút hết vô thùng rác…
Lạ lùng là những người đến trễ không xin lỗi cô dâu chú rể, mà quay sang trách hai ông sui, hai chị sui là đám cưới gì mà kỳ cục quá vậy? Rồi dỗi hờn, nguay nguảy ra về…
Bốn mươi năm nhìn lại người Việt vẫn coi trọng, quý giá thời giờ của mình hơn thời giờ của người khác. Đi bác sĩ, đi hớt tóc…, đúng giờ, nhưng phải chờ đợi là chửi… lén. Nhưng đi đám cưới trễ thì không xin lỗi, mà cũng chửi lén luôn.
Điều hiển nhiên qua đám cưới con ông bạn là thế hệ bây giờ vô vai ông sui bà sui vẫn thế! Không đi trễ không phải Việt nam. Nhưng mừng cho thế hệ trẻ được sinh ra, hay lớn lên bên Mỹ, họ đã hội nhập đúng đắn là tôn trọng giờ giấc của người khác và tôn trọng giờ giấc của chính họ.
Tôi thấy được khả năng tài chánh của họ là không phải không có khả năng mướn cái hội trường đó 6 tiếng để cho khách Việt (bạn bè của ba mẹ) thường đi trễ! Nhưng họ đã đúng đắn khi cô dâu chú rể có mặt trước người khách đầu tiên để đón tiếp đúng giờ nên không cần thiết lãng phí thời gian và tiền bạc (mướn thêm giờ) với người thiếu tự trọng mình và tôn trọng người khác về giờ giấc.
Nhìn cô dâu chú rể tự nhiên phóng xe đi nhảy đầm, uống rượu với bạn bè ở cái bar nào đó. Họ không có lỗi gì với những cô chú bác không vui, đang cằn nhằn ngoài parking. Tôi hiểu ngày cưới của họ cũng chỉ là ngày có hai mươi bốn tiếng; giờ nào họ dành cho gia đình, giờ nào cho bạn bè, giờ nào cho họ… Bất kể sự đánh cắp nào cũng có tội và sự đánh cắp thời gian của người khác là đáng trách nhất!
Tôi nhìn theo ông bạn mời một số cặp bạn bè đến trễ đi nhà hàng Việt nam, ông ấy đãi. Gặp tôi tôi không đi mà chỉ gởi lời xin lỗi cô dâu chú rể về sự trễ giờ của mình. Nhưng thế hệ tôi lại có nhiều người tìm lại được nụ cười sau lời mời của ông bạn tôi. Và chính ông bạn tôi đã giận tôi là bỏ anh em khi ông ấy cần tôi có mặt trong bữa tiệc muộn để giúp ông ấy chống đỡ sự chỉ trích của bạn hữu là nuông chiều con cái theo Mỹ…
Tôi bỏ bạn hay là tôi cũng Mỹ hóa là lái về nhà chứ không đi nhà hàng tăng hai. Những gì còn lại trong tôi bay biến cho tư duy mới có chỗ đậu vào để nhập gia tùy tục đúng nghĩa là học lấy cái đúng giờ của người Mỹ.
Bốn mươi năm nhìn lại những bữa tiệc mà tôi có mặt. Điều ắt xảy ra đã đến là thế hệ chú bác đã thôi mời vì lý do sức khỏe. Thế hệ tôi đã bớt cuồng nhiệt với tiệc tùng vì tuổi tác đã tới lúc thích một hai người bạn thôi cho đỡ ồn… nhưng vẫn trễ. Điều đáng mừng là thế hệ con em đã hội nhập được với xã hội Mỹ về mặt giờ giấc. Nói cách khác, là họ đã khắc phục được khiếm khuyến của những thế hệ trước. Hy vọng cái đồng hồ xài dây thun của người Việt ra đi mang theo sẽ biến mất trong xã hội coi trọng giao tiếp và giao tiếp coi trọng giờ giấc hơn hết…
Phan
BỘ TRƯỞNG QUỐC PHÒNG MỸ VÀ TPP
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ kêu gọi chấp thuận hiệp định TPP
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter tuyên bố Hiệp định Thương mại Xuyên Thái Bình Dương TPP là một bộ phận quan trọng của chiến lược xoay trục Á Châu.
Tin liên hệ
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm TQ trước chuyến đi Mỹ
Chuyến thăm của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng khởi sự vào ngày 7/4 sắp tới, diễn ra vào thời điểm khi Hà Nội và Bắc Kinh đang tìm cách cải thiện quan hệ sứt mẻ- Báo Trung Quốc: Mỹ sẽ thất bại khi khuấy động biển Đông
- Trưởng khối thiểu số Hạ Viện Mỹ kết thúc chuyến đi thăm Việt Nam
- Sau 20 năm bình thường hóa quan hệ, từ cựu thù thành đối tác toàn diện
- Tổng thống Obama quảng bá vấn đề thương mại tự do tới công chúng Mỹ
- CSIS: 2015 là đúng thời điểm để Tổng thống Obama thăm Việt Nam
- Xoay trục Châu Á tiếp tục là trọng tâm của chính sách ngoại giao Mỹ
Victor Beattie
07.04.2015
Trước khi lên đường công du Châu Á, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter hôm thứ hai tuyên bố Hiệp định Thương mại Xuyên Thái Bình Dương TPP là một bộ phận quan trọng của chiến lược xoay trục Châu Á của chính quyền Obama. Theo tường thuật của thông tín viên Victor Beattie của đài VOA, ông Carter cũng hô hào cho một mối quan hệ vững mạnh và có tính chất xây dựng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Phát biểu tại Đại học Arizona, người đứng đầu Ngũ giác đài nói rằng khu vực định đoạt tương lai của nước Mỹ là Châu Á Thái Bình Dương, nơi sinh sống của phân nửa dân số thế giới vào năm 2050, nơi cư ngụ của hơn phân nửa những người trung lưu của thế giới vào năm 2030, và là nơi chi tiêu quốc phòng đang trên đà gia tăng. Ông Carter nói với các sinh viên Đại học Arizona rằng đối với thế hệ của họ, thách thức chiến lược lớn nhất là làm thế nào để bảo đảm hoà bình, thịnh vượng và tiến bộ cho khu vực này.
Ông kêu gọi Quốc hội thông qua dự luật Quyền Xúc tiến Thương mại (TPA), một dự luật có sự ủng hộ của cả hai đảng, ngõ hầu Tổng thống Obama có thể làm cho nước Mỹ đạt được thoả thuận tốt nhất với 11 nước khác trong TPP xét về mặt cạnh tranh công bằng.
"Mục đích này sẽ đạt được qua việc đòi hỏi các nước khác chấp nhận những tiêu chuẩn mà nước Mỹ chúng ta đang tuân theo, như sự minh bạch của chính phủ, những luật lệ bảo vệ quyền tài sản trí tuệ, bảo vệ môi trường và quyền của người lao động. TPP cũng sẽ hạ thấp những rào cản đối với hàng hoá và dịch vụ của Mỹ tại các thị trường tăng trưởng nhanh nhất ở Châu Á Thái Bình Dương."
Bộ trưởng Carter cho rằng TPP là một trong các bộ phận quan trọng nhất của chiến lược tái cân bằng sang Châu Á mà chính phủ của Tổng thống Obama đang tiến hành. Ông nói rằng thông qua hiệp định này cũng quan trọng như bổ sung một chiếc hàng không mẫu hạm cho hạm đội Mỹ trong khu vực.
Tuy nhiên, ông cũng cảnh báo rằng không còn nhiều thời gian cho cuộc đàm phán đã kéo dài nhiều năm nay. Ông cho biết các nước trong khu vực đang cắt xẻo những thị trường béo bở với những hiệp định mà trong một số trường hợp là những hiệp định dựa trên áp lực và những sự giàn xếp đặc biệt, chứ không dựa trên nguyên tắc và sự công khai.
Hợp tác
Bộ trưởng Carter sẽ đến thăm Nhật Bản, Nam Triều Tiên và Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của quân đội Mỹ ở Hawaii trong những ngày sắp tới. Ông cho biết Hoa Kỳ đang ra sức củng cố các mối quan hệ đồng minh lâu đời trong khu vực, và đồng thời, cũng đang tăng cường quan hệ với Ấn Độ và các nước vùng Đông Nam Á. Ông bày tỏ sự quan tâm đối với ngân sách quốc phòng thiếu minh bạch, những hành động trong không gian mạng và cách hành xử của Trung Quốc ở Biển Đông.
"Hoa Kỳ và Trung Quốc không phải là đồng minh, nhưng chúng ta không cần phải là địch thủ của nhau. Một mối quan hệ vững mạnh và có tính chất xây dựng giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc là vô cùng cần thiết cho an ninh và thịnh vượng của thế giới. Quan hệ giữa hai nước sẽ là một mối quan hệ phức tạp trong lúc chúng ta tiếp tục vừa cạnh tranh vừa hợp tác."
Ông Carter nói rằng Washington muốn có một tình trạng trong đó mọi nước đều thắng, và tất cả các nước Châu Á Thái Bình Dương, kể cả Trung Quốc, sẽ tiếp tục hưng thịnh để tiếp nối nhiều thập niên hoà bình và thịnh vượng nhờ vào vai trò mạnh mẽ của Hoa Kỳ trong khu vực.
Hướng về Châu Á
Hướng về Châu Á
Ông Brad Glosserman, Giám đốc Diễn đàn Thái Bình Dương, một tổ chức nghiên cứu an ninh ở Hawaii, cho biết các nhà lãnh đạo Châu Á xem sự thành công của TPP là yếu tố then chốt của sự tham gia của Mỹ trong khu vực này.
"Yếu tố then chốt ở đây là xem xét và sử dụng từ ngữ chiến lược, bởi vì những gì mà TPP làm là trói buộc và nối kết chúng ta một cách chặt chẽ hơn nữa với các nước trong khu vực, và các mối quan hệ quân sự của chúng ta là nhắm tới mục tiêu làm cho các nước đồng minh tin chắc là chúng ta bị ràng buộc với họ và những địch thủ của chúng ta biết chắc là một vụ tấn công nhắm vào các nước đó sẽ được coi là một vụ tấn công nhắm vào nước Mỹ. Do đó, chúng ta có thể nói là qua việc thật sự nối kết chúng ta một cách hết sức chặt chẽ về mặt kinh tế thông qua TPP và những hoạt động khác trong các lãnh vực kinh tế, kinh doanh, thương mại và chính trị, chúng ta đánh đi một tín hiệu để các đồng minh cũng như các địch thủ của chúng ta biết rõ là chúng ta thật sự đoàn kết với nhau; và vì thế TPP là một bộ phận chiến lược then chốt trong chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ."
Ông Glosserman cho rằng sự thành công của TPP sẽ tuỳ thuộc vào chính trị quốc nội của Mỹ và sự sẵn sàng của các nhà lập pháp của cả hai đảng để dành cho tổng thống quyền xúc tiến thương mại. Ông nói rằng điều đó sẽ đóng một vai trò quan trọng trong cuộc đàm phán đang tiếp diễn giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản.
Dự luật Quyền Xúc tiến Thương mại, nếu được thông qua, sẽ để cho tổng thống thương thuyết các hiệp định thương mại và quốc hội chỉ được quyền hoặc chấp thuận hoặc bác bỏ, chứ không thương thuyết lại các điều kiện trong hiệp định. :
NGUYỄN PHÚ TRỌNG Ở TRUNG QUỐC
Tin tức / Việt Nam
Ông Nguyễn Phú Trọng mưu tìm gì ở Trung Quốc?
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trong chuyến thăm Việt Nam hồi tháng 12, 2011. (Ảnh tư liệu).
Tin liên hệ
Báo Trung Quốc: Mỹ sẽ thất bại khi khuấy động biển Đông
Hãng tin Trung Quốc chỉ trích phát biểu của một tư lệnh lực Mỹ rằng Bắc Kinh đang “xây Vạn Lý Trường Thành bằng cát” thông qua việc xây đảo nhân tạo ở biển Đông.- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm TQ trước chuyến đi Mỹ
- Việt Nam ‘sập bẫy’ Trung Quốc trong vụ bauxite Tây Nguyên?
- Kissinger: Mỹ nên noi gương kiên nhẫn của TQ về vấn đề Biển Đông
- Sau 20 năm bình thường hóa quan hệ, từ cựu thù thành đối tác toàn diện
- Trung Quốc dừng dự án, sợ VN dùng làm ‘đường tấn công’
07.04.2015
Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng hôm nay đã đặt chân tới Bắc Kinh, bắt đầu chuyến thăm Trung Quốc kéo dài 4 ngày, trong khi quan hệ giữa hai quốc gia láng giềng rơi vào cảnh “cơm không lành, canh không ngọt” vì những hành động hung hãn của quốc gia đông dân nhất thế giới này ở biển Đông.
Tháp tùng ông Trọng lần này có nhiều quan chức cấp cao của Việt Nam như Bộ trưởng Quốc phòng, Bộ trưởng Công an, Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư, và giới quan sát nhận định, điều đó cho thấy Hà Nội vẫn coi trọng mối bang giao với chính quyền Bắc Kinh.
Đây là chuyến công du cấp cao thứ hai của người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam tới nước lân bang ở phía bắc kể từ năm 2011, và diễn ra trước chuyến thăm đã được thông báo sang Washington.
Giáo sư Tương Lai, một nhà quan sát tình hình chính trị ở trong nước, cho VOA Việt Ngữ biết ông “không bất ngờ” khi ông Trọng sang Trung Quốc trước Hoa Kỳ.
Ông nói: “Đây là cơ hội không thể bỏ lỡ để cho Việt Nam vượt ra khỏi cái bóng của Trung Quốc, tức là thoát ra khỏi quỹ đạo kìm kẹp của Trung Quốc. Bộ mặt xâm lược của Trung Quốc đối với Việt Nam thì nó quá rõ. Đối với khu vực thì nó cũng quá rõ. Đối với biển Đông thì nó quá rõ. Toàn thế giới đều thấy cả. Bây giờ đây, trong mối quan hệ là Mỹ xoay trục sang châu Á thực ra cũng vì lợi ích của nước Mỹ mà thôi. Cũng vì lợi ích dân tộc mà người Mỹ thấy quá rõ bộ mặt của Trung Quốc. Với việc Mỹ xoay trục sang châu Á như thế, thì lợi ích của nước Mỹ đòi hỏi nước Mỹ gắn kết với một số nước ở vùng Đông Nam Á này. Đây là thời cơ nghìn năm có một Việt Nam phải chớp lấy. Để làm gì? Để chống lại âm mưu của Trung Quốc, để mà thoát ra khỏi quỹ đạo của Trung Quốc”.
Theo đánh giá của một số chuyên gia, việc Trung Quốc lấn biển, xây dựng các hòn đảo nhân tạo ở vùng biển tranh chấp, tạo nên “Vạn Lý Trường Thành bằng cát” như theo nhận định của quan chức quân sự Mỹ, nhiều khả năng sẽ nằm cao trong nghị trình.
Tháp tùng ông Trọng lần này có nhiều quan chức cấp cao của Việt Nam như Bộ trưởng Quốc phòng, Bộ trưởng Công an, Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư, và giới quan sát nhận định, điều đó cho thấy Hà Nội vẫn coi trọng mối bang giao với chính quyền Bắc Kinh.
Khi bàn về một chuyện lớn gì thì trước hết, người ta bàn với ông láng giềng ở cạnh, và bản thân ông láng giềng ấy muốn là người có tiếng nói có trọng lượng nhất. Đấy là nỗi đau khổ của một nước nhỏ ở cạnh một nước khổng lồ. Và cái nước khổng lồ ấy luôn muốn những nước chung quanh phải quy về một mối, là thiên tử, là Trung Quốc...Đấy là thông lệ rồi, và vượt ra khỏi thông lệ đó thì đòi hỏi bản lĩnh của cả một dân tộc.
Giáo sư Tương Lai.
Giáo sư Tương Lai, một nhà quan sát tình hình chính trị ở trong nước, cho VOA Việt Ngữ biết ông “không bất ngờ” khi ông Trọng sang Trung Quốc trước Hoa Kỳ.
Ông nói: “Khi bàn về một chuyện lớn gì thì trước hết, người ta bàn với ông láng giềng ở cạnh, và bản thân ông láng giềng ấy, ông cũng muốn ông ta phải là người có tiếng nói có trọng lượng nhất. Đấy là nỗi đau khổ của một nước nhỏ ở bên cạnh một nước khổng lồ. Và cái nước khổng lồ ấy luôn luôn muốn những nước chung quanh phải quy về một mối, là thiên tử, là nước Trung Quốc đứng ở giữa. Cái đó nó là từ xa xưa lắm rồi. Đó là một nỗi nhục do vị thế oái ăm về địa chính trị mà dân tộc Việt Nam phải chịu đựng. Đấy là một thông lệ rồi, và vượt ra khỏi thông lệ đó thì đòi hỏi bản lĩnh của cả một dân tộc.”
Nhân dịp này, báo chí của cả hai nước đã đăng tải nhiều bài viết, phân tích về mối quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh. Truyền thông trong nước nhận định rằng chuyến công du của ông Trọng nhằm mục đích “tăng cường quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt – Trung”.
Tân Hoa Xã cũng cho rằng chuyến đi của nhà lãnh đạo đảng của Việt Nam là “cơ hội tốt đẹp để củng cố mối quan hệ hữu hảo trường tồn với thời gian”.
Hãng tin lớn nhất của Trung Quốc bình luận rằng “thật là ngây ngơ” khi nghĩ rằng Việt Nam và Trung Quốc không bao giờ “tranh cãi” hay “đấu đá nhau” cũng như “mối quan hệ đối tác sâu đậm sẽ sụp đổ vì vụ tranh cãi ở biển Đông”.
Theo Tân Hoa Xã, “các ý kiến diễn giải chuyến đi dự kiến của ông Trọng tới Mỹ là nhằm làm đối trọng với Trung Quốc phảng phất mưu kế và chủ nghĩa đối đầu thời Chiến tranh Lạnh mà đáng lẽ đã bị vứt vào sọt rác lịch sử từ lâu”.
Trong khi đó, nhận định với VOA Việt Ngữ, giáo sư Tương Lai cho rằng bây giờ là lúc Việt Nam phải củng cố liên minh với các nước như Mỹ.Hãng tin lớn nhất của Trung Quốc bình luận rằng “thật là ngây ngơ” khi nghĩ rằng Việt Nam và Trung Quốc không bao giờ “tranh cãi” hay “đấu đá nhau” cũng như “mối quan hệ đối tác sâu đậm sẽ sụp đổ vì vụ tranh cãi ở biển Đông”.
Theo Tân Hoa Xã, “các ý kiến diễn giải chuyến đi dự kiến của ông Trọng tới Mỹ là nhằm làm đối trọng với Trung Quốc phảng phất mưu kế và chủ nghĩa đối đầu thời Chiến tranh Lạnh mà đáng lẽ đã bị vứt vào sọt rác lịch sử từ lâu”.
Ông nói: “Đây là cơ hội không thể bỏ lỡ để cho Việt Nam vượt ra khỏi cái bóng của Trung Quốc, tức là thoát ra khỏi quỹ đạo kìm kẹp của Trung Quốc. Bộ mặt xâm lược của Trung Quốc đối với Việt Nam thì nó quá rõ. Đối với khu vực thì nó cũng quá rõ. Đối với biển Đông thì nó quá rõ. Toàn thế giới đều thấy cả. Bây giờ đây, trong mối quan hệ là Mỹ xoay trục sang châu Á thực ra cũng vì lợi ích của nước Mỹ mà thôi. Cũng vì lợi ích dân tộc mà người Mỹ thấy quá rõ bộ mặt của Trung Quốc. Với việc Mỹ xoay trục sang châu Á như thế, thì lợi ích của nước Mỹ đòi hỏi nước Mỹ gắn kết với một số nước ở vùng Đông Nam Á này. Đây là thời cơ nghìn năm có một Việt Nam phải chớp lấy. Để làm gì? Để chống lại âm mưu của Trung Quốc, để mà thoát ra khỏi quỹ đạo của Trung Quốc”.
Bộ mặt xâm lược của Trung Quốc đối với Việt Nam thì nó quá rõ. Toàn thế giới đều thấy cả...Với việc Mỹ xoay trục sang châu Á như thế, thì lợi ích của Mỹ đòi hỏi nước Mỹ gắn kết với một số nước ở vùng Đông Nam Á này. Đây là thời cơ nghìn năm có một Việt Nam phải chớp lấy. Để làm gì? Để chống lại âm mưu của Trung Quốc, để mà thoát ra khỏi quỹ đạo của Trung Quốc”.
Giáo sư Tương Lai nói.
Năm ngoái, giáo sư Tương Lai cùng hàng chục các đảng viên lão thành là các nhân sỹ, trí thức có tiếng ở trong nước đã viết một bức thư ngỏ gửi Ban chấp hành trung ương và toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó kêu gọi “nhanh chóng kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế nhằm phát huy thế mạnh chính nghĩa” của Việt Nam sau khi Bắc Kinh đưa giàn khoan dầu gây tranh cãi vào vùng biển mà Việt Nam tuyên bố là thềm lục địa của mình.
Ngoài việc đưa Trung Quốc ra tòa, các đảng viên lão thành còn gợi ý rằng Việt Nam cần chủ động liên kết với các nước khác.
Bức thư viết: “Việt Nam cần chủ động cùng với các nước ven Biển Đông thỏa thuận giải quyết những vướng mắc về chủ quyền trên biển với các đảo, bãi đá; củng cố sự đoàn kết, thống nhất của các nước ASEAN, trước hết là giữa các quốc gia ven biển, trong cuộc đấu tranh chống mọi hành động bành trướng của Trung Quốc muốn độc chiếm vùng biển này thành ao nhà của mình”.
Sau vụ giàn khoan dầu đã đẩy quan hệ giữa hai nước xuống tới mức thấp nhất trong nhiều thập kỷ, Hà Nội và Bắc Kinh đã thực hiện các chuyến thăm cấp thấp để xoa dịu tình hình, và các nhà quan sát cho rằng, chuyến công du của ông Trọng lần này cũng nhằm mục đích đó.Theo đánh giá của một số chuyên gia, việc Trung Quốc lấn biển, xây dựng các hòn đảo nhân tạo ở vùng biển tranh chấp, tạo nên “Vạn Lý Trường Thành bằng cát” như theo nhận định của quan chức quân sự Mỹ, nhiều khả năng sẽ nằm cao trong nghị trình.
MỸ VÀ BIỂN ĐÔNG
Tin tức / Hoa Kỳ
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ kêu gọi tự chế ở Biển Đông
Tin liên hệ
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ kêu gọi chấp thuận hiệp định TPP
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter tuyên bố Hiệp định Thương mại Xuyên Thái Bình Dương TPP là một bộ phận quan trọng của chiến lược xoay trục Á Châu
Carla Babb
08.04.2015
Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Ashton Carter tái khẳng định cam kết của Washington đối với an ninh của Nhật Bản trong lúc kêu gọi tự chế trong những vụ tranh chấp lãnh thổ giữa Tokyo với Trung Quốc. Theo tường thuật của thông tín viên Carla Babb của đài VOA tại Ngũ giác đài, ông Carter phát biểu như vậy ngày hôm nay tại Tokyo trong lúc bắt đầu chuyến công du đầu tiên của ông đến Châu Á.
Vụ tranh chấp giữa Nhật Bản với Trung Quốc về chủ quyền của một quần đảo do Nhật kiểm soát ở Biển Hoa Đông và những hành động gây nhiều tranh cãi của Bắc Kinh ở Biển Nam Trung Hoa (Việt Nam gọi là Biển Đông) là bối cảnh của cuộc thảo luận giữa Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Ashton Carter với Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Gen Nakatani tại Tokyo.
Người đứng đầu Ngũ giác đài phát biểu như sau:
"Như chúng tôi vẫn thường nêu ra, chúng tôi không có một lập trường trong bất kỳ vụ tranh chấp nào trong các vụ tranh chấp lãnh thổ đó. Chúng tôi có một lập trường mạnh mẽ chống lại việc quân sự hoá những vụ tranh chấp đó."
Cuộc họp giữa ông Carter với Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Gen Nakatani tái khẳng định chiến lược tái cân bằng sang Châu Á của Hoa Kỳ, với nội dung chính là chuyển thêm sức mạnh chính trị và quân sự tới khu vực Châu Á Thái Bình Dương.
Bà Sheila Smith, một chuyên gia về quan hệ Trung-Nhật, cho rằng sự tái cân bằng này hết sức quan trọng.
Vụ tranh chấp giữa Nhật Bản với Trung Quốc về chủ quyền của một quần đảo do Nhật kiểm soát ở Biển Hoa Đông và những hành động gây nhiều tranh cãi của Bắc Kinh ở Biển Nam Trung Hoa (Việt Nam gọi là Biển Đông) là bối cảnh của cuộc thảo luận giữa Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Ashton Carter với Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Gen Nakatani tại Tokyo.
Người đứng đầu Ngũ giác đài phát biểu như sau:
"Như chúng tôi vẫn thường nêu ra, chúng tôi không có một lập trường trong bất kỳ vụ tranh chấp nào trong các vụ tranh chấp lãnh thổ đó. Chúng tôi có một lập trường mạnh mẽ chống lại việc quân sự hoá những vụ tranh chấp đó."
Cuộc họp giữa ông Carter với Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Gen Nakatani tái khẳng định chiến lược tái cân bằng sang Châu Á của Hoa Kỳ, với nội dung chính là chuyển thêm sức mạnh chính trị và quân sự tới khu vực Châu Á Thái Bình Dương.
Bà Sheila Smith, một chuyên gia về quan hệ Trung-Nhật, cho rằng sự tái cân bằng này hết sức quan trọng.
"Tôi nghĩ rằng chúng ta đang ở vào một thời điểm cực kỳ quan trọng ở Châu Á Thái Bình Dương. Và mọi người, khi nhìn sang Thái Bình Dương, họ trông thấy một nước Trung Quốc mới đang trỗi dậy."
Chi tiêu quốc phòng của Trung Quốc đã gia tăng với tỉ lệ hai con số trong 5 năm liên tiếp. Hoa Kỳ đang ứng phó với tình hình này qua việc tăng cường các mối quan hệ trong khu vực, nhưng cho biết Washington không muốn ngăn chận sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Bà Smith cho biết những cuộc họp của ông Carter với các giới chức Nhật Bản nhắm tới mục tiêu thiết lập những đường hướng mới của sự hợp tác quốc phòng giữa Washington và Tokyo.
"Tôi nghĩ rằng những văn kiện hướng dẫn này sẽ rất hữu hiệu để bảo đảm là không ai tính toán một cách sai lầm về tầm quan trọng của mối quan hệ đồng minh giữa hai quốc gia chúng ta."
Tại Bắc Kinh, truyền thông nhà nước Trung Quốc tố cáo Nhật Bản lợi dụng sự dựa dẫm ngày càng nhiều của Hoa Kỳ đối với các nước đồng minh ở Châu Á để khích động những mối căng thẳng trong các vấn đề lãnh thổ và lịch sử.
Văn kiện hướng dẫn về hợp tác quốc phòng Mỹ-Nhật sẽ được các giới chức hai nước đúc kết vào cuối tháng này, khi thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe gặp gỡ Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama tại Washington.
Công cuộc hợp tác sẽ bao gồm các chương trình hợp tác mới trong không gian và trên mạng cùng với việc tăng cường sự phối hợp hoạt động của lực lượng quân sự của hai nước.http://www.voatiengviet.com/content/bo-truong-quoc-phong-my-keu-goi-tu-che-o-bien-dong/2711082.html
CON ĐƯƠNG TƠ LỤA
Trung Quốc đẩy mạnh sáng kiến Con Đường Tơ Lụa trên biển
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được Chủ tịch nước Trung Quốc tiếp đón tại Đại Sảnh đường Nhân dân ở Bắc Kinh, ngày 7/4/2015.
Tin liên hệ
Ông Tập Cận Bình: TQ, Việt Nam phải hợp tác trong vụ tranh chấp lãnh hải
Việt Nam đã tăng cường quan hệ quân sự với nước cựu thù Hoa Kỳ từ khi vụ tranh chấp ở Biển Đông nóng lên sau khi ông Tập Cận Bình lên nắm quyền năm 2013- Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ kêu gọi tự chế ở Biển Đông
- ‘Tin cậy chính trị chưa cao’ trong quan hệ Việt-Trung
- Ông Nguyễn Phú Trọng mưu tìm gì ở Trung Quốc?
- Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ kêu gọi chấp thuận hiệp định TPP
- Thủ tướng Nga thăm VN, xúc tiến ký thỏa thuận thương mại tự do
- Báo Trung Quốc: Mỹ sẽ thất bại khi khuấy động biển Đông
- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm TQ trước chuyến đi Mỹ
08.04.2015
Chuyến đi Trung Quốc của Tổng Bí Thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng tiếp tục được giới truyền thông quốc tế chú ý theo dõi và dư luận bàn tán, từ những lễ nghi long trọng dành cho ông Nguyễn Phú Trọng khi ông được Chủ tịch nước Trung Quốc cho trải thảm đỏ tiếp đón tại Đại sảnh đường Nhân dân ở Bắc Kinh hôm qua, cho tới một loạt thoả thuận song phương đã được ký kết, cũng như ý nghĩa đích thực của chuyến đi này.
Hãng tin tài chính Bloomberg hôm nay đăng một bài viết với tựa đề “Vì sao hàn gắn quan hệ với Trung Quốc lại có lợi cho kinh tế Việt Nam?” bài báo lần lượt liệt kê những lý do sau đây để trả lời câu hỏi đó.
Thứ nhất: ngành du lịch Việt Nam đã bị tác động nặng nề vì cuộc tranh chấp giữa hai nước, với số du khách Trung Quốc tới Việt Nam giảm mạnh, xuống 40% trong năm 2014 cho tới quý đầu năm nay, so với tỷ lệ tăng 49% trong cùng kỳ năm trước đó, dựa trên các dữ kiện do Bloomberg ghi nhận. Bloomberg lưu ý rằng Trung Quốc là thị trường lớn nhất cho kỹ nghệ du lịch Việt Nam, lớn hơn cả Nam Triều Tiên và Nhật Bản cộng lại.
Bloomberg dẫn lời bà Trần thị Việt Hương, quyền quản trị viên tiếp thị và thông tin của Viettravel, một trong các công ty tua du lịch lớn nhất Việt Nam, nói rằng con số du khách Trung Quốc của công ty này giảm 30% trong quý đầu năm nay, so với năm ngoái, ảnh hưởng nặng nề tới thu nhập của công ty.
Lý do thứ nhì được nêu ra là cán cân thương mại bất cân xứng giữa hai bên.
Tờ báo trích số liệu của Quỹ Tiền Tệ Quốc tế nói rằng từ năm 2007, sau khi qua mặt cả Hoa Kỳ lẫn Nhật Bản, Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Cán cân mậu dịch nghiêng hẳn về phía Trung Quốc, với mức thâm hụt về phía Việt Nam lên tới 20,1 tỉ đôla trong năm 2013, tương đương với khoản thặng dư mậu dịch với đối tác Hoa Kỳ là 20,7 tỉ đôla.
Các số liệu do Bloomberg thu thập từ các nguồn Trung Quốc vốn sử dụng các dữ kiện khác, cho thấy mức thâm hụt trong cán cân mậu dịch Việt Nam với Trung Quốc năm 2013 là 31,7 tỉ đôla, và 43,7 tỉ đôla trong năm 2014.
Lý do thứ ba được Bloomberg nêu ra là sức mua. Về thu nhập trung bình, Trung Quốc đã qua mặt Việt Nam từ năm 1987 dựa trên sự khác biệt về sức mua. Từ đó, Việt Nam không thể nào theo kịp Trung Quốc, với mức thu nhập tính trên đầu người là 11,907 trong năm 2013 ở Trung Quốc, cao hơn gấp đôi mức thu nhập trung bình của Việt Nam trong cùng năm là 5,294 đôla.
Tuy nhiên, tờ báo ghi nhận một điểm sáng là tuy không thể sánh với Trung Quốc với đà tăng trưởng cao gấp đôi, Việt Nam đã khép lại khoảng cách biệt với Philippines, quốc gia gần nhất về mặt dân số với Việt Nam.
Tường trình về cuộc hội kiến giữa lãnh đạo hai Đảng Cộng sản, Tân Hoa Xã, hãng thông tấn chính thức của Trung Quốc, thừa nhận rằng các cuộc tranh chấp biển đảo là một trở ngại cho sự phát triển quan hệ Việt-Trung, nhưng hãng tin nói thêm rằng các cuộc tranh chấp này không phải là một thách thức không thể nào giải quyết, có nguy cơ làm tan vỡ quan hệ lâu đời giữa hai nước.
Tân Hoa Xã nêu lên sáng kiến do Trung Quốc đề ra liên quan tới việc hình thành Đường Tơ Lụa Trên Biển, là một sáng kiến mà tờ báo nói có khả năng làm giảm căng thẳng giữa hai nước.
Tân Hoa Xã nói Con đường Tơ Lụa trên Biển cho thể kỷ 21 bao phủ nhiều khu vực rộng lớn trong Biển Đông có mục đích cổ vũ cho sự thịnh vượng chung, và là một giải pháp ‘tất cả các bên đều thắng’ cho Châu Á, và xa hơn nữa.
Đường Tơ Lụa Trên Biển Đông trải dài từ bờ biển phía Đông Trung Quốc tới vùng Trung Đông và Châu Âu thông qua Ấn Độ dương. Việt Nam, theo tờ Nikkei Asian Review, có thể là một nối kết thiết yếu trong sáng kiến Con Đường Tơ Lụa Trên Biển, nhờ vị trí địa lý đặc biệt của mình.
Bài viết tường thuật rằng Trung Quốc đã mời Việt Nam tham gia sáng kiến này, và điều đó chứng minh sự thành thực của Bắc Kinh trong việc chia sẻ các cơ hội phát triển với Việt Nam, đồng thời phản ánh nguyện vọng của Trung Quốc muốn khai thác nhiều phương cách để biến Biển Đông, thành một khu vực hợp tác và hòa bình.
Báo The Diplomat hôm 8 tháng 4 dẫn báo Nikkei Asian Review, đề cập tới nội dung cuộc họp giữa ông Nguyễn Phú Trọng ông Tập Cận Bình về con Đường Tơ Lụa Trên Biển. Tờ Nikkei nói hai nhà lãnh đạo đã thoả thuận thành lập các toán đặc nhiệm để thăm dò hợp tác về các dự án cơ cấu hạ tầng và tài chính. Tuy nhiên, theo Tân Hoa Xã, ông Nguyễn Phú Trọng chỉ nói rằng Việt Nam đang cứu xét việc tham gia Con Đường Tơ Lụa Trên Biển.
Hãng tin Reuters tường trình về cuộc hội kiến giữa lãnh đạo hai Đảng Cộng sản Việt Nam-Trung Quốc tại Đại sảnh đường Nhân dân, nói rằng ông Tập nói với ông Trọng rằng “Hai nước phải tuân thủ các thoả thuận tương nhượng đạt được với nhau, là cùng quản lý và kiểm soát các cuộc tranh chấp biển, duy trì bức tranh toàn diện về các quan hệ hữu nghị cũng như tình trạng hoà bình và ổn định ở Biển Đông”.
Nguồn: Bloomberg, Xinhuanet, The Diplomat
http://www.voatiengviet.com/content/trung-quoc-day-manh-sang-kien-con-duong-to-lua-tren-bien/2711252.html
Hãng tin tài chính Bloomberg hôm nay đăng một bài viết với tựa đề “Vì sao hàn gắn quan hệ với Trung Quốc lại có lợi cho kinh tế Việt Nam?” bài báo lần lượt liệt kê những lý do sau đây để trả lời câu hỏi đó.
Thứ nhất: ngành du lịch Việt Nam đã bị tác động nặng nề vì cuộc tranh chấp giữa hai nước, với số du khách Trung Quốc tới Việt Nam giảm mạnh, xuống 40% trong năm 2014 cho tới quý đầu năm nay, so với tỷ lệ tăng 49% trong cùng kỳ năm trước đó, dựa trên các dữ kiện do Bloomberg ghi nhận. Bloomberg lưu ý rằng Trung Quốc là thị trường lớn nhất cho kỹ nghệ du lịch Việt Nam, lớn hơn cả Nam Triều Tiên và Nhật Bản cộng lại.
Bloomberg dẫn lời bà Trần thị Việt Hương, quyền quản trị viên tiếp thị và thông tin của Viettravel, một trong các công ty tua du lịch lớn nhất Việt Nam, nói rằng con số du khách Trung Quốc của công ty này giảm 30% trong quý đầu năm nay, so với năm ngoái, ảnh hưởng nặng nề tới thu nhập của công ty.
Lý do thứ nhì được nêu ra là cán cân thương mại bất cân xứng giữa hai bên.
Tờ báo trích số liệu của Quỹ Tiền Tệ Quốc tế nói rằng từ năm 2007, sau khi qua mặt cả Hoa Kỳ lẫn Nhật Bản, Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Cán cân mậu dịch nghiêng hẳn về phía Trung Quốc, với mức thâm hụt về phía Việt Nam lên tới 20,1 tỉ đôla trong năm 2013, tương đương với khoản thặng dư mậu dịch với đối tác Hoa Kỳ là 20,7 tỉ đôla.
Các số liệu do Bloomberg thu thập từ các nguồn Trung Quốc vốn sử dụng các dữ kiện khác, cho thấy mức thâm hụt trong cán cân mậu dịch Việt Nam với Trung Quốc năm 2013 là 31,7 tỉ đôla, và 43,7 tỉ đôla trong năm 2014.
Lý do thứ ba được Bloomberg nêu ra là sức mua. Về thu nhập trung bình, Trung Quốc đã qua mặt Việt Nam từ năm 1987 dựa trên sự khác biệt về sức mua. Từ đó, Việt Nam không thể nào theo kịp Trung Quốc, với mức thu nhập tính trên đầu người là 11,907 trong năm 2013 ở Trung Quốc, cao hơn gấp đôi mức thu nhập trung bình của Việt Nam trong cùng năm là 5,294 đôla.
Tuy nhiên, tờ báo ghi nhận một điểm sáng là tuy không thể sánh với Trung Quốc với đà tăng trưởng cao gấp đôi, Việt Nam đã khép lại khoảng cách biệt với Philippines, quốc gia gần nhất về mặt dân số với Việt Nam.
Tường trình về cuộc hội kiến giữa lãnh đạo hai Đảng Cộng sản, Tân Hoa Xã, hãng thông tấn chính thức của Trung Quốc, thừa nhận rằng các cuộc tranh chấp biển đảo là một trở ngại cho sự phát triển quan hệ Việt-Trung, nhưng hãng tin nói thêm rằng các cuộc tranh chấp này không phải là một thách thức không thể nào giải quyết, có nguy cơ làm tan vỡ quan hệ lâu đời giữa hai nước.
Tân Hoa Xã nêu lên sáng kiến do Trung Quốc đề ra liên quan tới việc hình thành Đường Tơ Lụa Trên Biển, là một sáng kiến mà tờ báo nói có khả năng làm giảm căng thẳng giữa hai nước.
Tân Hoa Xã nói Con đường Tơ Lụa trên Biển cho thể kỷ 21 bao phủ nhiều khu vực rộng lớn trong Biển Đông có mục đích cổ vũ cho sự thịnh vượng chung, và là một giải pháp ‘tất cả các bên đều thắng’ cho Châu Á, và xa hơn nữa.
Đường Tơ Lụa Trên Biển Đông trải dài từ bờ biển phía Đông Trung Quốc tới vùng Trung Đông và Châu Âu thông qua Ấn Độ dương. Việt Nam, theo tờ Nikkei Asian Review, có thể là một nối kết thiết yếu trong sáng kiến Con Đường Tơ Lụa Trên Biển, nhờ vị trí địa lý đặc biệt của mình.
Bài viết tường thuật rằng Trung Quốc đã mời Việt Nam tham gia sáng kiến này, và điều đó chứng minh sự thành thực của Bắc Kinh trong việc chia sẻ các cơ hội phát triển với Việt Nam, đồng thời phản ánh nguyện vọng của Trung Quốc muốn khai thác nhiều phương cách để biến Biển Đông, thành một khu vực hợp tác và hòa bình.
Báo The Diplomat hôm 8 tháng 4 dẫn báo Nikkei Asian Review, đề cập tới nội dung cuộc họp giữa ông Nguyễn Phú Trọng ông Tập Cận Bình về con Đường Tơ Lụa Trên Biển. Tờ Nikkei nói hai nhà lãnh đạo đã thoả thuận thành lập các toán đặc nhiệm để thăm dò hợp tác về các dự án cơ cấu hạ tầng và tài chính. Tuy nhiên, theo Tân Hoa Xã, ông Nguyễn Phú Trọng chỉ nói rằng Việt Nam đang cứu xét việc tham gia Con Đường Tơ Lụa Trên Biển.
Hãng tin Reuters tường trình về cuộc hội kiến giữa lãnh đạo hai Đảng Cộng sản Việt Nam-Trung Quốc tại Đại sảnh đường Nhân dân, nói rằng ông Tập nói với ông Trọng rằng “Hai nước phải tuân thủ các thoả thuận tương nhượng đạt được với nhau, là cùng quản lý và kiểm soát các cuộc tranh chấp biển, duy trì bức tranh toàn diện về các quan hệ hữu nghị cũng như tình trạng hoà bình và ổn định ở Biển Đông”.
Nguồn: Bloomberg, Xinhuanet, The Diplomat
http://www.voatiengviet.com/content/trung-quoc-day-manh-sang-kien-con-duong-to-lua-tren-bien/2711252.html
Posted by sontrung at 2:03 AM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 358
HÀ NỘI VÙNG LÊN
Bạn đọc làm báo
Người Hà Nội vùng đứng lên và quyền biểu tình
Tin liên hệ
Một cuộc tàn sát môi trường của chính quyền Hà Nội
Chính quyền Hà Nội đã tiến hành 'dự án' chặt hạ 6.700 cây xanh lâu năm trên 190 tuyến phố, để lại những đường phố huơ huếch, xém cháy dưới mặt trời
03.04.2015
Ngắm nhìn qua ảnh chụp ngập tràn các phương tiện thông tin đại chúng nghìn con người tóc bạc hòa tóc xanh đến nhi đồng măng sữa, áo dài thướt tha kề váy ngắn, quần jeans, tay giương cao những biểu ngữ cả tiếng Việt lẫn tiếng Anh diễu hành quanh Hồ Gươm giữa lòng Thủ đô Hà Nội vào sáng Chủ nhật 29 tháng 3 năm 2015 để phản đối chính quyền nơi đây tàn sát 6700 cây xanh, hủy diệt môi trường mà tôi ứa nước mắt. Người Hà Nội – phải rồi Người Hà Nội – đã lại vùng đứng lên trước bạo quyền, một cách đồng loạt!
Hẳn nhiên cuộc xuống đường rầm rộ của Người Hà Nội hôm nay bất chấp các xe cảnh sát đặc chủng kè kè với những cái loa ra rả yêu cầu giải tán được phát hết công xuất, bất chấp an ninh nổi chìm chĩa camera ghi hình từng khuôn mặt họ, là tiếp nối tự nhiên của bao cuộc phản kháng chính quyền một cách tập thể và bất bạo động của Người Hà Nội hoặc do Người Hà Nội khởi xướng trong nhiều năm trở lại đây. Là trang mạng Bauxite Việt Nam được Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, Nhà văn Phạm Toàn và Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng lập ra đầu năm 2009 để phản đối Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho Trung Quốc khai thác bauxite tại Tây Nguyên gây thiệt hại nghiêm trọng cho môi trường và an ninh quốc gia. Là Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992 ngày 19/01/2013 của 72 nhân sĩ, trí thức và Thư ngỏ ngày 28/7/2014 của 61 đảng viên ĐCSVN lão thành gửi lãnh đạo và toàn thể đảng viên Đảng CSVN đòi xóa bỏ chế độ toàn trị của đảng này. Là Kiến nghị ngày 2/9/2014 của 20 cựu sĩ quan cao cấp Lực lượng vũ trang nhân dân kiên quyết yêu cầu Lãnh đạo Nhà nước và Chính phủ Việt Nam không huy động lực lượng vũ trang chống lại nhân dân, chỉ huy động lực lượng vũ trang bảo vệ Tổ quốc. Là những cuộc biểu tình không ngớt diễn ra để phản đối Trung Quốc xâm lược, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ quốc gia xen lẫn tưởng niệm các liệt sĩ đã ngã xuống tại Hoàng Sa năm 1974, biên giới phía Bắc năm 1979 và Trường Sa năm 1988…
Ở góc độ tâm linh, cuộc biểu tình lớn chưa từng có này của Người Hà Nội thời cộng sản đã diễn ra ngay tại Hồ Gươm, nơi Lê Thái Tổ trả lại gươm báu cho Rùa Thiêng sau khi quét sạch quân Minh khỏi bờ cõi nước Việt cách nay 6 thế kỷ, há chẳng phải để mượn lại Cụ Rùa vũ khí để diệt nội xâm – chính quyền tham nhũng “hèn với giặc ác với dân” - cùng hung hăng ngoại xâm đến từ láng giềng phương Bắc đó sao!
Một hình ảnh khác của sự kiện hôm nay cũng vô vàn xúc động: đoàn người biểu tình quỳ xuống mặc niệm những công nhân Hà Tĩnh thiệt mạng trong vụ sập giàn giáo tại khu công nghiệp Formosa, Hà Tĩnh xảy ra mấy ngày trước. Thật tự nhiên, thật cao cả! Người Hà Nội vì đồng bào ở khắp miền Tổ Quốc thì đồng bào cả nước ắt sát cánh cùng Người Hà Nội trong cuộc chiến giành lại Quyền Dân. Không nghi ngờ gì nữa, chính phẩm chất toàn quốc này của Người Hà Nội đã góp phần khẳng định Hà Nội sẽ mãi là Thủ đô Nước Việt.
Và cũng chính cuộc xuống đường đầy khí thế này của Người Hà Nội đã đặt Quyền biểu tình ở cấp độ nghiêm túc nhất.
Các Hiến pháp Việt Nam 1959, 1980, 1992 và 2013 (hiện hành) đều công nhận công dân có quyền biểu tình. Thế nhưng cho đến nay quyền hiến định này đã không được luật hóa, cụ thể là không có Luật biểu tình. Không những thế mới đây Chính phủ còn đề nghị Quốc hội hoãn xét Dự thảo Luật biểu tình sang năm tới. Lý do mà Chính phủ đưa ra là “có một số nội dung cần nghiên cứu thêm và tham khảo kinh nghiệm quốc tế như khái niệm “biểu tình”, “quyền tự do biểu tình”, “nơi công cộng”, “tụ tập đông người”…; phạm vi áp dụng của dự thảo luật (có bao gồm cả việc tổ chức mít-tinh, biểu tình do Đảng CSVN, Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội tổ chức; việc khiếu kiện đông người, đình công, bãi công, bãi thị, bãi khóa hay không); vấn đề áp dụng các biện pháp trấn áp tương xứng, có hiệu quả đối với hành vi lợi dụng biểu tình vi phạm pháp luật; trách nhiệm của các cơ quan liên quan trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình biểu tình…”. Lý do “không đủ thời gian để nghiên cứu, tham khảo” này là hoàn toàn không thuyết phục vì Bộ Công an được giao soạn thảo Luật biểu tình không phải mới đây mà từ 4 năm về trước, 2011. Vả lại Quốc Hội với nửa nghìn người được trả lương cốt để làm luật không lẽ không biết chỉnh sửa, bổ sung những bất hợp lý, khiếm khuyết (nếu có) của Dự thảo Luật? Đó là chưa kể đến trí tuệ của quảng đại nhân dân một khi Dự thảo Luật được công bố, như đã được thể hiện trong đợt góp ý kiến cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cách đây 2 năm mà bản thân tôi đã tích cực tham gia với tư cách tù nhân chính trị tại Trại giam số 5 – Bộ Công an ở Thanh Hóa (1). Để nói sự trì hoãn Luật biểu tình không gì khác hơn là nhằm kéo dài việc cấm cản công dân thực hiện quyền hiến định này, sự cấm cản được cụ thể hóa bởi Nghị định 38/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định “một số biện pháp bảo đảm trật tự công cộng”.
Điều 8 Nghị định quy định “Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản đăng ký, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền có trách nhiệm xem xét, giải quyết việc đăng ký tập trung đông người” (Khoản 2) và “Chủ tịch Uỷ ban nhân dân đã cho phép hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp có quyền tạm đình chỉ, đình chỉ hoặc huỷ bỏ việc tập trung đông người khi xét thấy các hoạt động đó gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự công cộng hoặc vi phạm nội dung đã cho phép” (Khoản 3). Tiếp đó, Điều 11 Nghị định quy định: “Đối với những trường hợp tập trung đông người trái pháp luật thì các cơ quan chức năng có trách nhiệm áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của Nghị định này và các quy định khác của pháp luật có liên quan để ngăn chặn và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm” (Khoản 1), “Trường hợp tập trung đông người trái với quy định của pháp luật vì lý do khiếu nại, tố cáo thì các cơ quan chức năng vận động, giáo dục, thuyết phục họ tự giải tán, trở về nơi cư trú. Đối với người cố tình vi phạm, không chấp hành yêu cầu của người thi hành công vụ thì các cơ quan chức năng được phép áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để ngăn chặn, xử lý và buộc người vi phạm trở về nơi cư trú” (Khoản 2).
Như vậy theo Nghị định 38/2005/NĐ-CP, biểu tình chỉ có thể diễn ra nếu “được phép” của chính quyền, đồng nghĩa biểu tình không “được phép” của chính quyền là “trái pháp luật” và trong trường hợp đó biểu tình sẽ bị chính quyền dùng vũ lực giải tán. Bên cạnh đó, vẫn theo các quy định trên của Nghị định, những cuộc biểu tình của những người khiếu nại, tố cáo, tức những cuộc biểu tình mang nội dung phản đối chính sách, hành vi được cho là trái pháp luật của chính quyền, hoàn toàn bị cấm, trong khi biểu tình được hiểu trước hết là hành vi phản đối chính quyền bất luận trong nước hay ngoài nước. Ngoài ra, quy định chính quyền có thể không trả lời trước 7 ngày kể từ khi nhận đăng ký biểu tình cũng đã loại bỏ trên thực tế biểu tình vì đa phần các cuộc biểu tình có mục tiêu chặn đứng ngay lập tức hành vi, chính sách của chính quyền gây thiệt hại cho công dân, quốc gia và xã hội. Để so sánh, luật về biểu tình của các nước dân chủ quy định những người tổ chức biểu tình ngoài trời chỉ phải thông báo chính quyền thời gian và địa điểm biểu tình để chính quyền kịp thời có các biện pháp bảo đảm an toàn cho người tham gia, như ngăn đụng độ với các cuộc biểu tình đối lập nếu có, hạn chế ảnh hưởng của biểu tình tới mọi hoạt động bình thường khác. Thậm chí, theo Luật về tụ tập của Đức, "tụ tập bột phát bởi một lý do tức thời, sẽ không cần báo trước". Tóm lại, chính quyền có quyền cấm hoặc giải tán tụ tập, biểu tình chỉ trong trường hợp có bằng chứng rõ ràng về sử dụng vũ lực của những người biểu tình và trong trường hợp như vậy chính quyền phải công khai lý do.
Vấn đề còn lại là để quyền biểu tình được bảo đảm một cách đầy đủ thì không chỉ Luật biểu tình mà Luật về Hội cũng cần được sớm song song ban hành vì hai Luật này có mối liên quan hữu cơ, không thể có cái này thực chất mà không có cái kia. Thực vậy, biểu tình về cơ bản là bày tỏ quan điểm một cách tập thể và có tổ chức nơi công cộng và Hội (liên kết Hội) chính là người đứng ra tổ chức và đăng ký với chính quyền. Ngược lại, chỉ thông qua biểu tình Hội mới có thể chứng minh một cách thuyết phục nhất sức mạnh xã hội của mình. Nói cách khác, biểu tình chính là phép thử của tính thuyết phục của Hội. Tóm lại, trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam khi xã hội dân sự đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của đời sống công cộng và với tư cách đó tuyệt đối cần thiết cho phát triển đất nước thì việc trì hoãn ban hành Luật về Hội và Luật biểu tình cũng như các luật bảo đảm các quyền tự do cơ bản khác của công dân chính là phá hoại đất nước.
Người Hà Nội với hành trang ngàn năm văn hiến và “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” một khi đã vùng đứng dậy tất sẽ là đầu tàu của một cuộc đổi thay ngoạn mục vì Nhân quyền và Cường thịnh Việt Nam.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
(1) LS Cù Huy Hà Vũ góp ý sửa đổi Hiến Pháp 1992 từ trại giam, Đàn chim Việt, 17/11/2013.
http://www.danchimviet.info/archives/81527/ls-cu-huy-ha-vu-gop-y-sua-doi-hien-phap-1992-tu-trai-giam/2013/11
(2) Đơn khởi kiệnThủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng về hành vi ban hành Nghị định cấm công dân khiếu nại tập thể trái Hiến pháp và pháp luật, Bauxite Việt Nam, 28/10/2010.
Tác giả là một nhà hoạt động bảo vệ môi trường, đã từng khởi kiện chính quyền Thừa Thiên – Huế về quyết định phá Đồi Vọng Cảnh để xây khách sạn, đấu tranh chống xây khách sạn tại Công viên Thống nhất ở Hà Nội và kiện Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng do đã quyết định cho khai thác bauxite tại Tây Nguyên, hiện là học giả tại Đại học George Washington, Hoa Kỳ.
Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
http://www.voatiengviet.com/content/nguoi-ha-noi-vung-dung-len-va-quyen-bieu-tinh/2704385.html
Hẳn nhiên cuộc xuống đường rầm rộ của Người Hà Nội hôm nay bất chấp các xe cảnh sát đặc chủng kè kè với những cái loa ra rả yêu cầu giải tán được phát hết công xuất, bất chấp an ninh nổi chìm chĩa camera ghi hình từng khuôn mặt họ, là tiếp nối tự nhiên của bao cuộc phản kháng chính quyền một cách tập thể và bất bạo động của Người Hà Nội hoặc do Người Hà Nội khởi xướng trong nhiều năm trở lại đây. Là trang mạng Bauxite Việt Nam được Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, Nhà văn Phạm Toàn và Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng lập ra đầu năm 2009 để phản đối Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho Trung Quốc khai thác bauxite tại Tây Nguyên gây thiệt hại nghiêm trọng cho môi trường và an ninh quốc gia. Là Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992 ngày 19/01/2013 của 72 nhân sĩ, trí thức và Thư ngỏ ngày 28/7/2014 của 61 đảng viên ĐCSVN lão thành gửi lãnh đạo và toàn thể đảng viên Đảng CSVN đòi xóa bỏ chế độ toàn trị của đảng này. Là Kiến nghị ngày 2/9/2014 của 20 cựu sĩ quan cao cấp Lực lượng vũ trang nhân dân kiên quyết yêu cầu Lãnh đạo Nhà nước và Chính phủ Việt Nam không huy động lực lượng vũ trang chống lại nhân dân, chỉ huy động lực lượng vũ trang bảo vệ Tổ quốc. Là những cuộc biểu tình không ngớt diễn ra để phản đối Trung Quốc xâm lược, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ quốc gia xen lẫn tưởng niệm các liệt sĩ đã ngã xuống tại Hoàng Sa năm 1974, biên giới phía Bắc năm 1979 và Trường Sa năm 1988…
Người dân thủ đô Hà Nội diễu hành quanh Hồ Gươm giương cao biểu ngữ phản đối chính quyền chặt hạ cây xanh, ngày 22/3/2015.
Một hình ảnh khác của sự kiện hôm nay cũng vô vàn xúc động: đoàn người biểu tình quỳ xuống mặc niệm những công nhân Hà Tĩnh thiệt mạng trong vụ sập giàn giáo tại khu công nghiệp Formosa, Hà Tĩnh xảy ra mấy ngày trước. Thật tự nhiên, thật cao cả! Người Hà Nội vì đồng bào ở khắp miền Tổ Quốc thì đồng bào cả nước ắt sát cánh cùng Người Hà Nội trong cuộc chiến giành lại Quyền Dân. Không nghi ngờ gì nữa, chính phẩm chất toàn quốc này của Người Hà Nội đã góp phần khẳng định Hà Nội sẽ mãi là Thủ đô Nước Việt.
Và cũng chính cuộc xuống đường đầy khí thế này của Người Hà Nội đã đặt Quyền biểu tình ở cấp độ nghiêm túc nhất.
Trong mọi trường hợp không thể áp dụng Nghị định 38/2005/NĐ-CP cho công dân thực hiện quyền biểu tình được quy định tại Điều 25 Hiến pháp 2013 hiện hành, huống hồ Nghị định chỉ điều chỉnh “tập trung đông người” chứ không điều chỉnh “biểu tình”. Nói cách khác, cấm đoán biểu tình bất bạo động là vi Hiến!
Điều 8 Nghị định quy định “Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản đăng ký, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền có trách nhiệm xem xét, giải quyết việc đăng ký tập trung đông người” (Khoản 2) và “Chủ tịch Uỷ ban nhân dân đã cho phép hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp có quyền tạm đình chỉ, đình chỉ hoặc huỷ bỏ việc tập trung đông người khi xét thấy các hoạt động đó gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự công cộng hoặc vi phạm nội dung đã cho phép” (Khoản 3). Tiếp đó, Điều 11 Nghị định quy định: “Đối với những trường hợp tập trung đông người trái pháp luật thì các cơ quan chức năng có trách nhiệm áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của Nghị định này và các quy định khác của pháp luật có liên quan để ngăn chặn và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm” (Khoản 1), “Trường hợp tập trung đông người trái với quy định của pháp luật vì lý do khiếu nại, tố cáo thì các cơ quan chức năng vận động, giáo dục, thuyết phục họ tự giải tán, trở về nơi cư trú. Đối với người cố tình vi phạm, không chấp hành yêu cầu của người thi hành công vụ thì các cơ quan chức năng được phép áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để ngăn chặn, xử lý và buộc người vi phạm trở về nơi cư trú” (Khoản 2).
Như vậy theo Nghị định 38/2005/NĐ-CP, biểu tình chỉ có thể diễn ra nếu “được phép” của chính quyền, đồng nghĩa biểu tình không “được phép” của chính quyền là “trái pháp luật” và trong trường hợp đó biểu tình sẽ bị chính quyền dùng vũ lực giải tán. Bên cạnh đó, vẫn theo các quy định trên của Nghị định, những cuộc biểu tình của những người khiếu nại, tố cáo, tức những cuộc biểu tình mang nội dung phản đối chính sách, hành vi được cho là trái pháp luật của chính quyền, hoàn toàn bị cấm, trong khi biểu tình được hiểu trước hết là hành vi phản đối chính quyền bất luận trong nước hay ngoài nước. Ngoài ra, quy định chính quyền có thể không trả lời trước 7 ngày kể từ khi nhận đăng ký biểu tình cũng đã loại bỏ trên thực tế biểu tình vì đa phần các cuộc biểu tình có mục tiêu chặn đứng ngay lập tức hành vi, chính sách của chính quyền gây thiệt hại cho công dân, quốc gia và xã hội. Để so sánh, luật về biểu tình của các nước dân chủ quy định những người tổ chức biểu tình ngoài trời chỉ phải thông báo chính quyền thời gian và địa điểm biểu tình để chính quyền kịp thời có các biện pháp bảo đảm an toàn cho người tham gia, như ngăn đụng độ với các cuộc biểu tình đối lập nếu có, hạn chế ảnh hưởng của biểu tình tới mọi hoạt động bình thường khác. Thậm chí, theo Luật về tụ tập của Đức, "tụ tập bột phát bởi một lý do tức thời, sẽ không cần báo trước". Tóm lại, chính quyền có quyền cấm hoặc giải tán tụ tập, biểu tình chỉ trong trường hợp có bằng chứng rõ ràng về sử dụng vũ lực của những người biểu tình và trong trường hợp như vậy chính quyền phải công khai lý do.
Đoàn biểu tình mặc niệm các công nhân Hà Tĩnh thiệt mạng trong vụ sập giàn giáo tại khu Formosa.
Nỗ lực cấm cản người dân tập hợp nhau lại để phản đối chính quyền một cách hòa bình còn tiếp tục với Nghị định số 136/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo do chính Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký. Thực vậy, Khoản 1 Điều 6 Nghị định này quy định: “Cơ quan Nhà nước khi nhận được đơn khiếu nại có chữ ký của nhiều người thì có trách nhiệm hướng dẫn người khiếu nại viết thành đơn riêng để thực hiện việc khiếu nại”. Không chấp nhận chính quyền triệt tiêu quyền cơ bản này của người dân, ngày 21/10/2010 tôi đã tiến hành khởi kiện Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về hành vi ban hành Nghị định cấm công dân khiếu nại tập thể trái Hiến pháp và pháp luật (2). Đúng hai tuần sau, ngày 5/11/2010, chính quyền đã nại ra vụ kiện này và vụ tôi kiện Thủ tướng Dũng trước đó, vào ngày 11/6/2009, do đã cho phép Trung Quốc khai thác bauxite tại Tây Nguyên mà tôi khẳng định là xâm hại nghiêm trọng môi trường, an ninh quốc gia và văn hóa bản địa cũng như đã nại ra các hành vi tự do ngôn luận khác của tôi để bắt giam để tiếp đó bỏ tù tôi về “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” tại Điều 88 Bộ Luật hình sự!
Chắc chắn nguyên nhân của quái trạng pháp luật nói trên là nỗi lo sợ bị người dân “cướp chính quyền” của các nhà độc tài cộng sản Việt Nam mà chính các bậc tiền bối của họ đã nêu gương cách đây 70 năm, 19/8/1945, cũng chính tại Hà Nội. Mối lo sợ này gia tăng khủng khiếp, nhất là sau các cuộc cách mạng lật đổ các chế độ cộng sản ở Đông Âu vào năm 1989 và “Mùa Xuân Ả rập” lật đổ các chế độ độc tài ở Bắc Phi vào năm 2011. Thế nhưng như chúng ta đã thấy, các cuộc biểu tình phản đối chính quyền vẫn nổ ra trên toàn quốc, cả ngàn Người Hà Nội vẫn xuống đường Chủ Nhật vừa qua.
Khi xã hội dân sự đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của đời sống công cộng và với tư cách đó tuyệt đối cần thiết cho phát triển đất nước thì việc trì hoãn ban hành Luật về Hội và Luật biểu tình cũng như các luật bảo đảm các quyền tự do cơ bản khác của công dân chính là phá hoại đất nước.
Vấn đề đặt ra là không có Luật biểu tình thì liệu biểu tình ở Việt Nam có trái pháp luật để rồi bất cứ lúc nào cũng có thể bị chính quyền dùng vũ lực giải tán theo Nghị định 38/2005/NĐ-CP hay không? Câu trả lời dứt khoát là Không!
Nên nhớ Hiến pháp được cụ thể hóa bằng Luật chứ không phải bằng Nghị định. Khoản 1 Điều 14 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định rõ: “Nghị định của Chính phủ được ban hành để quy định chi tiết thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước”. Hơn thế nữa, Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Điều này có nghĩa “mọi người có quyền làm những gì mà luật không cấm”. Do đó, trong mọi trường hợp không thể áp dụng Nghị định 38/2005/NĐ-CP cho công dân thực hiện quyền biểu tình được quy định tại Điều 25 Hiến pháp 2013 hiện hành, huống hồ Nghị định chỉ điều chỉnh “tập trung đông người” chứ không điều chỉnh “biểu tình”. Nói cách khác, cấm đoán biểu tình bất bạo động là vi hiến!Vấn đề còn lại là để quyền biểu tình được bảo đảm một cách đầy đủ thì không chỉ Luật biểu tình mà Luật về Hội cũng cần được sớm song song ban hành vì hai Luật này có mối liên quan hữu cơ, không thể có cái này thực chất mà không có cái kia. Thực vậy, biểu tình về cơ bản là bày tỏ quan điểm một cách tập thể và có tổ chức nơi công cộng và Hội (liên kết Hội) chính là người đứng ra tổ chức và đăng ký với chính quyền. Ngược lại, chỉ thông qua biểu tình Hội mới có thể chứng minh một cách thuyết phục nhất sức mạnh xã hội của mình. Nói cách khác, biểu tình chính là phép thử của tính thuyết phục của Hội. Tóm lại, trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam khi xã hội dân sự đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của đời sống công cộng và với tư cách đó tuyệt đối cần thiết cho phát triển đất nước thì việc trì hoãn ban hành Luật về Hội và Luật biểu tình cũng như các luật bảo đảm các quyền tự do cơ bản khác của công dân chính là phá hoại đất nước.
Người Hà Nội với hành trang ngàn năm văn hiến và “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” một khi đã vùng đứng dậy tất sẽ là đầu tàu của một cuộc đổi thay ngoạn mục vì Nhân quyền và Cường thịnh Việt Nam.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
(1) LS Cù Huy Hà Vũ góp ý sửa đổi Hiến Pháp 1992 từ trại giam, Đàn chim Việt, 17/11/2013.
http://www.danchimviet.info/archives/81527/ls-cu-huy-ha-vu-gop-y-sua-doi-hien-phap-1992-tu-trai-giam/2013/11
(2) Đơn khởi kiệnThủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng về hành vi ban hành Nghị định cấm công dân khiếu nại tập thể trái Hiến pháp và pháp luật, Bauxite Việt Nam, 28/10/2010.
Tác giả là một nhà hoạt động bảo vệ môi trường, đã từng khởi kiện chính quyền Thừa Thiên – Huế về quyết định phá Đồi Vọng Cảnh để xây khách sạn, đấu tranh chống xây khách sạn tại Công viên Thống nhất ở Hà Nội và kiện Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng do đã quyết định cho khai thác bauxite tại Tây Nguyên, hiện là học giả tại Đại học George Washington, Hoa Kỳ.
Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
http://www.voatiengviet.com/content/nguoi-ha-noi-vung-dung-len-va-quyen-bieu-tinh/2704385.html
CHỐNG TPP
Liên đoàn lao động Hoa Kỳ và chiến dịch chống đàm phán nhanh TPP
Trong khi chính phủ của Tổng thống Barack Obama đang hối thúc Quốc hội Mỹ cho quyền đàm phán nhanh để kết thúc đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) với 11 quốc gia khác trong đó có Việt Nam trong năm nay, thì Liên đoàn lao động Mỹ cùng một số hội đoàn và tổ chức khác tại Mỹ lại lên tiếng chống lại kế hoạch này vì cho rằng TPP hiện đang được đàm phán có nhiều điểm bất lợi cho Mỹ. Để tìm hiểu về chiến dịch này cùng các yêu sách của Liên đoàn lao động Mỹ cùng các tổ chức khác về TPP, Việt Hà phỏng vấn bà Celeste Drake, chuyên gia về thương mại của Liên đoàn lao động Mỹ.
Việt Hà: thưa bà, được biết Liên đoàn Lao động Mỹ đang có chiến dịch chống lại việc đàm phán TPP của Mỹ với các nước khác, xin bà cho biết tại sao Liên đoàn lại thực hiện chiến dịch này?
Celeste Drake: trước hết để tôi nói rõ là chúng tôi không chống lại TPP, chúng tôi đang trong chiến dịch chống lại quyền đàm phán nhanh, một quá trình mà theo đó quốc hội cho bên hành pháp quyền được đàm phán các thỏa thuận thương mại mà bất chấp chất lượng của nó ra sao và quốc hội sẽ không sửa đổi được sau đó. Chúng tôi đã có rất nhiều những chỉ trích về những gì mà chúng tôi biết về TPP nhưng rất tiếc là nó được đàm phán bí mật và chúng tôi cảm thấy là chúng tôi không được biết đủ về nó. Chúng tôi không muốn xét đoán trước về thỏa thuận này khi mà chúng tôi cũng không thể sửa những gì mà chúng tôi không biết cho nên vào lúc này chúng tôi kiềm chế không đưa ra những đánh giá về TPP.
Việt Hà: theo đánh giá của chính phủ Mỹ và một số chuyên gia về thương mại, đầu tư, TPP sẽ giúp Hoa Kỳ xuất khẩu nhiều hàng hóa hơn sang các nước khác, vậy điều gì trong TPP khiến Liên đoàn lao động Mỹ quan ngại?
Celeste Drake: Hoa Kỳ sẽ xuất khẩu được nhiều hơn và không phải thuê nhân công từ bên ngoài đã là những hứa hẹn trong các thỏa thuận thương mại trước đó, nhưng nó đã không thành sự thật. Nó đã là điểm hứa hẹn với người dân Mỹ về NAFTA, Hiệp ước tự do thương mại Bắc Mỹ giữa Canada, Mỹ và Mexi co vào năm 1992, 1993. Nhưng điều mà chúng tôi thấy là nó đã làm tăng việc thuê nhân công ở các nước khác vì nó bao gồm giảm thuế…. Chúng tôi thấy là thay vì xuất khẩu nhiều hơn sản phẩm vào Mexico, nhưng chúng tôi đã chuyển công ty vào mexico và các công ty đó xuất khẩu hàng hóa vào Mỹ là những sản phẩm mà chúng tôi từng làm trước đó. … nhưng còn hơn thế nữa, chúng tôi không chỉ lo ngại về vấn đề thuê nhân công bên ngoài, chúng tôi còn lo ngại về cấu trúc của thỏa thuận theo cái cách mà nó sẽ ảnh hưởng đến lương của người lao độn.
Chúng tôi không chống lại TPP, chúng tôi đang trong chiến dịch chống lại quyền đàm phán nhanh, một quá trình mà theo đó quốc hội cho bên hành pháp quyền được đàm phán các thỏa thuận thương mại mà bất chấp chất lượng của nó ra sao và quốc hội sẽ không sửa đổi được sau đó
Celeste Drake
Việt Hà: Tuyên bố mới đây của Liên đoàn cho thấy Liên đoàn cũng thảo luận vấn đề với các nghị sĩ, dân biểu quốc hội để chống lại quyền đàm phán nhanh với TPP, theo bà thì khả năng lời kêu gọi của Liên đoàn sẽ dành được ủng hộ ra sao từ phía quốc hội?
Celeste Drake: tôi không muốn đưa dự đoán trước nhưng có khá đông các dân biểu quốc hội cả trong thượng và hạ viện đều đồng ý với chúng tôi là quyền đàm phán nhanh là không hợp lý với TPP vào lúc này khi mà nội dung của nó hoàn toàn bí mật và những gì mà chúng tôi biết được thì chúng tôi không thích. Và đó là một dấu hiệu tốt và nó tạo sức ép lên Tổng thống và chính phủ của ông để cố gắng nhìn nhận những quan ngại này và có những cải thiện trong thỏa thuận.
Chúng tôi hy vọng là người lao động và những đối tác thương mại của chúng ta cũng sẽ gây sức ép tương tự lên chính phủ của họ để làm điều tương tự. Một trong những điều khoản bị rò rỉ ra ngoài mà chúng tôi biết được là bảo hộ quá mức bằng sáng chế với thuốc khiến thuốc quá đắt và gần như khó có thể tiếp cận đối với các gia đình lao động trên thế giới. Đó là quan tâm mà chúng tôi chia sẻ cùng với tất cả các gia đình lao động ở các nước tham gia TPP. Chúng tôi nghĩ là điều này đi ngược lại quyền lợi của mọi người vì nó tạo ra quy định làm cho việc cứu sống con người trở nên khó khăn hơn.
Điều mà chúng tôi muốn là công nhân ở Việt Nam, ở Brunei hay Malaysia có thể đến chỗ làm và nếu họ quyết định thành lập nghiệp đoàn của họ và tham gia vào đàm phán với người chủ về quyền của họ, để tăng lương cho họViệt Hà: Bà có nói về một số điều khoản rò rỉ ra ngoài mà bà cho rằng là không thích hợp, ngoài điều vừa nói, xin bà cho biết còn điều khoản nào theo bà là chưa hợp lý và cần điều chỉnh?Celeste Drake
Celeste Drake: Chúng tôi lo ngại về việc thiếu những quy định liên quan đến phá giá đồng nội tệ. Chúng tôi biết đây là một vấn đề gây tranh cãi. Chúng tôi cũng thấy có nhiều nước châu Á đang tham gia vào chuyện, một phần là vì Trung Quốc đã làm vậy và các nước khác ở châu Á cũng cạnh tranh với Trung Quốc làm vậy, tạo sức ép lên giá trị tiền của họ. Nó có thể tạo ra những trợ cấp cho xuất khẩu và tăng thuế đối với hàng nhập khẩu, trong khi chúng tôi đang muốn tìm kiếm một sân chơi công bằng. Thêm nữa là quyền của người lao động.
Như chúng tôi hiểu thì sẽ có điều khoản về quyền của người lao động trong thỏa thuận, và chúng tôi cho rằng đó là điều tốt nhưng chúng tôi đặt câu hỏi là quy định này có mạnh và hiệu quả không vì điều mà chúng tôi muốn là công nhân ở Việt Nam, ở Brunei hay Malaysia có thể đến chỗ làm và nếu họ quyết định thành lập nghiệp đoàn của họ và tham gia vào đàm phán với người chủ về quyền của họ, để tăng lương cho họ, chúng tôi lo lắng không biết là nếu họ không có quyền tự do đó thì họ có thể bị bắt khi cố gắng thành lập nghiệp đoàn, họ có thể bị đe dọa bởi bạo lực. Nếu họ không có các quyền đó thì lương của họ sẽ bị đẩy xuống và điều này không tốt đối với họ và cũng không tốt đối với chúng tôi.
Việt Hà: Liên đoàn hiện có kết hợp cùng với những tổ chức nào tại Mỹ trong chiến dịch chống lại quyền đàm phán nhanh không?
Celeste Drake: chúng tôi làm việc với các tổ chức khác bao gồm tất cả các tổ chức của người lao động thuộc liên đoàn lao động, tức là hơn 56 tổ chức và những nghiệp đoàn khác không nằm trong Liên đoàn và một số nhóm về môi trường, người tiêu dùng, các nhóm tôn giáo, một số nhóm nông dân nhỏ và doanh nghiệp nhỏ để chống lại quyền đàm phán nhanh . Nếu chúng tôi có thể chống lại việc cho phép quyền đàm phán nhanh, chúng tôi nghĩ là chúng tôi sẽ khiến họ làm chậm lại tiến trình của TPP, ngồi lại vào vòng đàm phán và đưa vào một số điểm làm nó có lợi hơn cho mọi người và môi trường, và đưa vào một số điểm mà chúng tôi kêu gọi.
Nếu chúng tôi có thể chống lại việc cho phép quyền đàm phán nhanh, chúng tôi nghĩ là chúng tôi sẽ khiến họ làm chậm lại tiến trình của TPP, ngồi lại vào vòng đàm phán và đưa vào một số điểm làm nó có lợi hơn cho mọi người và môi trường, và đưa vào một số điểm mà chúng tôi kêu gọiĐây là một chiến dịch lớn. Chúng tôi có cá hoạt động tích cực ở quốc hội để đề nghị các dân biểu bỏ phiếu chống lại quyền đàm phán nhanh. Chúng tôi có chiến dịch viết thư, chúng tôi đã làm các kiến nghị, biểu tình, hội họp trên cả nước, ở các hội đồng thành phố, cơ quan lập pháp cấp tiểu bang để xem xét các cách giải quyết để đưa ra với chính phủ liên bang. Chúng tôi sẽ tiếp tục chiến đấu để tiêu diệt cái mà chúng tôi coi là một quá trình tiến đến một thỏa thuận không tốt mà nó chỉ có lợi khi bạn là một công ty lớn toàn cầu nhưng không có lợi cho người lao động.Celeste Drake
Việt Hà: bà nghĩ thế nào về khả năng TPP sẽ được hoàn tất trong năm nay, và nếu như nó không thể hoàn tất vào năm nay thì liệu nó có gặp khó khăn không khi vào năm tới là bầu cử tại Mỹ và không ai có thể biết được liệu vị Tổng thống mới của Mỹ sẽ thuôc đảng cộng hòa hay dân chủ?
Celeste Drake: rất có thể là thỏa thuận này sẽ được hoàn tất trong năm nay. Điều này hoàn toàn có thể xảy ra, nhưng chúng tôi cũng nghe là một số quốc gia đang chưa muốn đưa ra quyết định cuối cùng vì họ muốn chờ xem điều gì sẽ xảy ra với quyền đàm phán nhanh. Nhưng về chính trị mà nói nếu họ không thể hoàn tất vào năm nay thì khó có thể hoàn tất vào năm sau và nếu chờ đến 2017 một số nước sẽ bỏ đi, một số sẽ chờ đợi quyết định từ phía Mỹ. Một trong những lập luận chống lại chúng tôi là chúng tôi thuộc phe cánh tả, đừng chống lại quyền đàm phán nhanh vì khi một Tổng thống cộng hòa lên thì thỏa thuận chỉ có thể còn tệ hơn. Chúng tôi nghĩ đó là một lập luận yếu, không ai có thể dự đoán tương lai chúng ta có Tổng thống nào.
Vào lúc này chúng ta có một vị Tổng thống dân chủ và trong phần lớn những điều ông làm thì đều vì công nhân, người lao động, ví dụ như luật về bảo hiểm y tế hay tăng lương cơ bản, hay như chế độ nghỉ ngơi. Nhưng rất tiếc là chúng tôi không đồng ý với thỏa thuận thương mại mới vì chúng tôi thấy nó có hại cho người lao động và theo chúng tôi nó cũng giống như thỏa thuận khi Tổng thống Bush còn đương nhiệm hay dưới thời tổng thống Clinton. Các thỏa thuận thương mại dưới các thời tổng thống dường như là khá có tính thống nhất giữa các đảng. Chúng tôi làm những gì cần làm vì quyền lợi của người lao động Mỹ, vì các doanh nghiệp và chúng tôi nghĩ là những nước tham gia TPP cũng mà có lợi nếu chúng ta có thể ngăn được quyền đàm phán nhanh và đưa các ý tưởng của chúng tôi vào thỏa thuận.
Việt Hà: Xin cảm ơn bà đã dành cho chúng tôi buổi phỏng vấnNỢ CHÚA CHỖM
Nợ công Việt Nam ở mức nguy cấp
Ngân hàng ADB vừa công bố nợ công của Việt Nam dự báo sẽ tăng tới mức 60%, tức là gần chạm ngưỡng an toàn 65%. Chính phủ Việt Nam luôn đưa ra một con số thấp hơn, trong khi các chuyên gia kinh tế thì cảnh báo về một tỷ lệ được cho là báo động, hơn 100% tổng sản phẩm GDP. Tại sao lại có những con số khác biệt như vậy và khả năng trả nợ của Việt Nam ra sao?
Hồi cuối tháng 3, chuyên gia kinh tế của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), ông Dominic Mellor, đưa ra cảnh báo rằng nợ công của Việt Nam tính đến cuối năm 2016 sẽ là 60% tổng sản phẩm nội địa (GDP). Lý do đưa ra là nguồn thu của Việt Nam bị tác động do việc chính phủ giảm thuế cho doanh nghiệp, miễn thuế cho các doanh nghiệp ưu tiên, dỡ bỏ hàng rào thuế quan và giá dầu giảm.
Chính phủ Việt Nam luôn đưa ra một con số về nợ công thấp hơn dự đoán của các chuyên gia kinh tế và giới quan sát. Theo báo cáo của chính phủ, tính đến cuối năm 2013, nợ công của Việt Nam bằng 54,2% GDP. Con số này tiến dần tới mức 60% vào cuối năm 2014.
Trong khi đó, các chuyên gia kinh tế liên tục cảnh báo rằng nợ công của Việt Nam đã vượt ngưỡng an toàn 65%. Từ năm 2011, ông Vũ Quang Việt, cựu Vụ trưởng Vụ Tài khoản Quốc gia thuộc Cục Thống kê Liên Hợp Quốc, ước tính nợ công Việt Nam đã lên tới 106%.
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh giải thích về sự khác biệt như sau:
T.S. Lê Đăng Doanh: Việt Nam công bố nợ công nhưng không bao giờ bao gồm nợ của doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước có thể bảo trợ hay là cho vay hoặc bảo lãnh để cho doanh nghiệp nhà nước vay. Thực tế thì một số doanh nghiệp nhà nước như Vinashin nếu như không trả được nợ thì nhà nước đã phải đứng ra trả nợ thay.
Việt Nam công bố nợ công nhưng không bao giờ bao gồm nợ của doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước có thể bảo trợ hay là cho vay hoặc bảo lãnh để cho doanh nghiệp nhà nước vay
T.S. Lê Đăng Doanh
Theo ông Lê Đăng Doanh, tỷ lệ ngân sách dùng để trả nợ công sang năm 2015 khoảng 282.000 tỷ đồng, tương đương 31% tổng thu ngân sách. Trong khi chi thường xuyên ngân sách khoảng 72%. Các con số này cộng lại là hơn 100% tổng thu ngân sách.
Tình hình nợ “đáng báo động”
Nợ công cao hơn tổng sản phẩm quốc nội không phải là chuyện hiếm trên thế giới. Để so sánh, tính đến năm ngoái, tỷ lệ nợ công của Trung Quốc cũng lên tới 250% GDP, của Mỹ là 260% trong khi đó Nhật Bản đứng đầu thế giới ở mức hơn 400% GDP.
Tiến sĩ Nguyễn Quang A cảnh báo tình hình nợ đáng báo động của Việt Nam hiện nay, theo ông là “trong thời gian qua đã tăng rất nhanh”. Ông nói:
Nguyễn Quang A: Những khoản nợ của Việt Nam thường là ODA, thường là vay trong 20-30 năm, tức là mỗi năm chỉ phải trả một phần, nhưng nó quá lớn thì phần phải trả gốc cộng với lãi có thể lớn tới mức nguồn thu của chính phủ không đủ.
Tiến sĩ Phạm Chí Dũng còn nhận định rằng với tình hình nợ công và nợ xấu của Việt Nam hiện nay, khả năng vỡ nợ của Việt Nam là không xa. Ông cho biết:
T.S. Phạm Chí Dũng: Nợ xấu trong hệ thống ngân hàng đã lên tới ít nhất 25 tỷ đôla, tức là khoảng 500 nghìn tỷ đồng. Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam Nguyễn Văn Bình đã phải thừa nhận như vậy vào tháng 11 năm ngoái. Nếu không giải quyết được vấn đề nợ xấu thì không giải quyết được vấn đề chuyển động của nền kinh tế và càng không có tiền để trả nợ nước ngoài. Không nói đâu xa, tới tháng 6 này mà các ngân hàng không bán được ít nhất 60% nợ xấu cho Công ty Quản lý Tài sản Quốc gia, dù chỉ trên giấy tờ, thì tình hình càng khó khăn hơn. Công ty này cũng không biết bán cho ai, chỉ biết phát hành trái phiếu thôi.
Nếu không giải quyết được vấn đề nợ xấu thì không giải quyết được vấn đề chuyển động của nền kinh tế và càng không có tiền để trả nợ nước ngoàiT.S. Phạm Chí Dũng
GDP ‘tăng ảo’
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh cho rằng một quốc gia cần có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, có nhiều khoản thu ngân sách thì mới có thể đối phó được tình trạng nợ công vượt quá 65%.
Giữa bối cảnh này, chính phủ Việt Nam cho biết tỷ lệ tăng trưởng GDP trong quý một của Việt Nam là 6,02%. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia đặt dấu chấm hỏi về tính xác thực của thông tin kể trên. Bằng chứng họ đưa ra là trong quý một xuất khẩu giảm, giá dầu thế giới giảm tới hơn một nửa, trong khi đó nghỉ Tết ở Việt Nam thì dài và lễ tết nhiều. Ông Phạm Chí Dũng nói:
T.S. Phạm Chí Dũng: Trong bối cảnh giá dầu thô giảm 55%, giá gạo giảm 35%. Chưa bao giờ Việt Nam lại bế tắc về xuất khẩu gạo như hiện nay, làm sao GDP tăng 6,02% được. Trong suốt năm 2014 và trong ba tháng đầu năm 2015, tôi chưa nhận thấy bất kỳ tia sáng nào cho nền kinh tế Việt Nam.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chí Dũng cho biết có ba giải pháp cho chính phủ Việt Nam để cứu giúp nền kinh tế. Theo ông đó là phát hành trái phiếu, yêu cầu các doanh nghiệp đóng góp hoặc vay mượn nước ngoài. Tuy nhiên, ông Dũng nói cả ba phương án này đều không có khả năng thành
VIỆT NAM VÀ TRUNG CỘNG
Đối đầu với Trung Quốc: Thế lưỡng nan của ĐCSVN
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện có chuyến công du Trung Quốc. Chuyến đi lần này của ông Trọng sang nước láng giềng anh em cùng chung ý thức hệ cộng sản được chú ý vì trong thời gian tới ông cũng sẽ công du Hoa Kỳ, một nước cựu thù thuộc khối tư bản.
Lý do được chú ý vì cũng như lâu nay trước khi một quan chức lãnh đạo Việt Nam đi Mỹ, hầu như họ đều phải sang Tàu trước.
Nhận định từ bên ngoài
‘Chuyến thăm hàn gắn quan hệ nhấn mạnh hành vi cân bằng của Hà Nội cả ngàn năm qua’.
Đây là nhận định của tác giả Andrew Browne đăng trên tờ The Wall Street Journal vào ngày 7 tháng tư vừa qua khi phái đoàn do tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng dẫn đầu sang thăm Trung Quốc.
Theo tác giả này thì trong chuyến làm việc này, ông Trọng đối diện một thế tiến thoái lưỡng nan mà giới lãnh đạo Việt Nam trong một thiên niên kỷ qua gặp phải - đó là làm thế nào vẫn tỏ được lòng thuận theo ‘Bắc Triều’ mà không bị dân chúng trong nước cho là nhu nhược.
Tác giả Andrew Browne cho rằng để có thể hóa giải được thế lưỡng nan như thế, các nhà cầm quyền tại Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử bị Trung Quốc thống trị đã vận dụng tất cả mọi phương kế ngoại giao cũng như cả những mánh khóe. Một đơn cử được đưa ra là vào thế kỷ thứ 18, hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ đã cử một người giả làm hoàng đế thay mình sang Trung Quốc. Trước đó cũng từng có trường hợp có hai ‘hoàng đế’ nước Nam: một vị nhỏ tuổi được đặt lên để đối phó với Trung Quốc còn vị kia là một người thực sự cao tường lo mọi chuyện nước.
Chính những ‘mánh khóe’ như thế của Việt Nam khiến Trung Quốc xem Việt Nam là xảo quyệt và đi nước đôi.
Thế lưỡng nan của Việt Nam hiện nay lại thêm khó xử; đó là tình trạng lệ thuộc về mặt kinh tế ngày càng gia tăng tạo thêm áp lực phải theo Bắc Kinh.
Tuy vậy, hành xử của Trung Quốc vào tháng 5 năm 2014 đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam khiến tinh thần dân tộc chống Bắc phương của người Việt một lần nữa được khơi dậy.
Một thăm dò của Trung tâm Nghiên cứu Pew, trụ sở tại Hoa Kỳ cho thấy, đưa ra tỷ lệ số người được hỏi bày tỏ quan ngại tranh chấp chủ quyền lãnh hải với Trung Quốc có thể dẫn đến xung đột quân sự như sau: Philippines 93%; Nhật Bản là 85%, Việt Nam 84%.
Chuyên gia trong nước đánh giá
Chuyến đi của ông tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam sang Trung Quốc từ ngày 7 đến ngày 10 tháng tư là chuyến công du của một viên chức cao cấp nhất Việt Nam sang nước láng giềng Trung Quốc từ sau vụ khủng hoảng giàn khoan. Tin nói ngay sau khi xảy ra hành động bị cho là ‘quá tay’ của nước cộng sản anh em Trung Quốc, đích thân ông tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ngỏ ý sang để nói chuyện, nhưng bị Bắc Kinh từ chối.
Gần đây giới chức ngoại giao Hoa Kỳ và cả phía Việt Nam đều loan tin, trong thời gian sắp đến năm nay ông Nguyễn Phú Trọng sẽ có chuyến viếng thăm Hoa Kỳ trong cương vị tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam. Trong khi ngày giờ của chuyến đi Mỹ của ông Trọng chưa được chính thức công bố thì diễn ra chuyến công du Bắc Kinh.
Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên trưởng ban Biên giới Chính phủ Việt Nam, nhận định về hành xử được cho là thông lệ này của các cấp lãnh đạo Việt Nam lâu nay:
Vấn đề đi thăm Trung Quốc trước hay Hoa Kỳ trước thì rõ ràng chúng ta đã biết rồi và theo tôi cũng là chuyện bình thường vì dù sao nữa giữa Việt Nam và Trung Quốc là nước láng giềng, hai nữa đã có quan hệ truyền thống từ lâu rồi. Thậm chí giữa Trung Quốc và Việt Nam ngoài quan hệ hữu nghị đã có từ lâu; nhưng đặc biệt gần đây có những vấn đề cũng làm ảnh hưởng đến bầu không khí chung quan hệ của hai nước do vấn đề tranh chấp trên biển và những hoạt động của Trung Quốc trong thời gian vừa qua thì theo tôi nghĩ đó là câu chuyện mà có lẽ các lãnh đạo cần ưu tiên đặt ra để xem xét và có được những giải pháp chỉ đạo xử lý các việc trong tình hình đó.
Tân hoa xã trong bài bình luận đưa ra ngay trước chuyến công du của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sang Trung Quốc nói rằng mọi diễn giải cho rằng chuyến công du Hoa Kỳ sắp đến của ông Trọng là biện pháp đối trọng với Trung Quốc đều mang màu sắc tuyên truyền của cỗ máy thời chiến tranh lạnh và chủ nghĩa đối đầu cần phải bỏ vào sọt rác lâu nay rồi.
Vấn đề lịch sử và cách thức mới
Ông Nguyễn Khắc Mai, giám đốc Trung tâm Minh Triết làm chủ Biển Đông, so sánh hành xử của các triều đại trước đây trong lịch sử và hành xử của Hà Nội hiện nay:
Hai cách ứng xử lịch sử khác nhau, thái độ khác nhau, tư thế và tâm thế hoàn toàn khác nhau: một bên là các triều đại Việt Nam xưa khôn khéo, chủ động và không hề lệ thuộc; còn ngược lại bây giờ thì không đúng như ngày xưa. Bây giờ tôi nói Thông tấn xả ( Việt Nam) người ta đang đưa tin quan hệ Việt- Trung là ‘thực chất, phát triển, ổn định và bền vững’. Rồi trong đó còn nói ‘hữu nghị và phát triển tích cực là dòng chính’; đó là nói dối, thực tế không phải như vậy. Cho nên nói phát triển tích cực, hữu nghị là dòng chính không đúng. Sao lại nói như thế được? Có quan hệ rất nhiều mặt nhưng không có hữu nghị, không có tích cực và rất nhiều tiêu cực cho Việt Nam, hại cho Việt Nam nhiều. Đảo vẫn bị lấn chiếm và xây dựng thành căn cứ hải quân, không quân đe dọa hòa bình, đe dọa chủ quyền, đe dọa an ninh hàng hải của Việt Nam, của khu vực và thế giới.
Lý do được chú ý vì cũng như lâu nay trước khi một quan chức lãnh đạo Việt Nam đi Mỹ, hầu như họ đều phải sang Tàu trước.
Nhận định từ bên ngoài
‘Chuyến thăm hàn gắn quan hệ nhấn mạnh hành vi cân bằng của Hà Nội cả ngàn năm qua’.
Đây là nhận định của tác giả Andrew Browne đăng trên tờ The Wall Street Journal vào ngày 7 tháng tư vừa qua khi phái đoàn do tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng dẫn đầu sang thăm Trung Quốc.
Theo tác giả này thì trong chuyến làm việc này, ông Trọng đối diện một thế tiến thoái lưỡng nan mà giới lãnh đạo Việt Nam trong một thiên niên kỷ qua gặp phải - đó là làm thế nào vẫn tỏ được lòng thuận theo ‘Bắc Triều’ mà không bị dân chúng trong nước cho là nhu nhược.
Tác giả Andrew Browne cho rằng để có thể hóa giải được thế lưỡng nan như thế, các nhà cầm quyền tại Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử bị Trung Quốc thống trị đã vận dụng tất cả mọi phương kế ngoại giao cũng như cả những mánh khóe. Một đơn cử được đưa ra là vào thế kỷ thứ 18, hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ đã cử một người giả làm hoàng đế thay mình sang Trung Quốc. Trước đó cũng từng có trường hợp có hai ‘hoàng đế’ nước Nam: một vị nhỏ tuổi được đặt lên để đối phó với Trung Quốc còn vị kia là một người thực sự cao tường lo mọi chuyện nước.
Chính những ‘mánh khóe’ như thế của Việt Nam khiến Trung Quốc xem Việt Nam là xảo quyệt và đi nước đôi.
Thế lưỡng nan của Việt Nam hiện nay lại thêm khó xử; đó là tình trạng lệ thuộc về mặt kinh tế ngày càng gia tăng tạo thêm áp lực phải theo Bắc Kinh.
Tuy vậy, hành xử của Trung Quốc vào tháng 5 năm 2014 đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam khiến tinh thần dân tộc chống Bắc phương của người Việt một lần nữa được khơi dậy.
Một thăm dò của Trung tâm Nghiên cứu Pew, trụ sở tại Hoa Kỳ cho thấy, đưa ra tỷ lệ số người được hỏi bày tỏ quan ngại tranh chấp chủ quyền lãnh hải với Trung Quốc có thể dẫn đến xung đột quân sự như sau: Philippines 93%; Nhật Bản là 85%, Việt Nam 84%.
Chuyên gia trong nước đánh giá
Chuyến đi của ông tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam sang Trung Quốc từ ngày 7 đến ngày 10 tháng tư là chuyến công du của một viên chức cao cấp nhất Việt Nam sang nước láng giềng Trung Quốc từ sau vụ khủng hoảng giàn khoan. Tin nói ngay sau khi xảy ra hành động bị cho là ‘quá tay’ của nước cộng sản anh em Trung Quốc, đích thân ông tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ngỏ ý sang để nói chuyện, nhưng bị Bắc Kinh từ chối.
Gần đây giới chức ngoại giao Hoa Kỳ và cả phía Việt Nam đều loan tin, trong thời gian sắp đến năm nay ông Nguyễn Phú Trọng sẽ có chuyến viếng thăm Hoa Kỳ trong cương vị tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam. Trong khi ngày giờ của chuyến đi Mỹ của ông Trọng chưa được chính thức công bố thì diễn ra chuyến công du Bắc Kinh.
Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên trưởng ban Biên giới Chính phủ Việt Nam, nhận định về hành xử được cho là thông lệ này của các cấp lãnh đạo Việt Nam lâu nay:
Vấn đề đi thăm Trung Quốc trước hay Hoa Kỳ trước thì rõ ràng chúng ta đã biết rồi và theo tôi cũng là chuyện bình thường vì dù sao nữa giữa Việt Nam và Trung Quốc là nước láng giềng, hai nữa đã có quan hệ truyền thống từ lâu rồi. Thậm chí giữa Trung Quốc và Việt Nam ngoài quan hệ hữu nghị đã có từ lâu; nhưng đặc biệt gần đây có những vấn đề cũng làm ảnh hưởng đến bầu không khí chung quan hệ của hai nước do vấn đề tranh chấp trên biển và những hoạt động của Trung Quốc trong thời gian vừa qua thì theo tôi nghĩ đó là câu chuyện mà có lẽ các lãnh đạo cần ưu tiên đặt ra để xem xét và có được những giải pháp chỉ đạo xử lý các việc trong tình hình đó.
Tân hoa xã trong bài bình luận đưa ra ngay trước chuyến công du của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sang Trung Quốc nói rằng mọi diễn giải cho rằng chuyến công du Hoa Kỳ sắp đến của ông Trọng là biện pháp đối trọng với Trung Quốc đều mang màu sắc tuyên truyền của cỗ máy thời chiến tranh lạnh và chủ nghĩa đối đầu cần phải bỏ vào sọt rác lâu nay rồi.
Vấn đề lịch sử và cách thức mới
Ông Nguyễn Khắc Mai, giám đốc Trung tâm Minh Triết làm chủ Biển Đông, so sánh hành xử của các triều đại trước đây trong lịch sử và hành xử của Hà Nội hiện nay:
Hai cách ứng xử lịch sử khác nhau, thái độ khác nhau, tư thế và tâm thế hoàn toàn khác nhau: một bên là các triều đại Việt Nam xưa khôn khéo, chủ động và không hề lệ thuộc; còn ngược lại bây giờ thì không đúng như ngày xưa. Bây giờ tôi nói Thông tấn xả ( Việt Nam) người ta đang đưa tin quan hệ Việt- Trung là ‘thực chất, phát triển, ổn định và bền vững’. Rồi trong đó còn nói ‘hữu nghị và phát triển tích cực là dòng chính’; đó là nói dối, thực tế không phải như vậy. Cho nên nói phát triển tích cực, hữu nghị là dòng chính không đúng. Sao lại nói như thế được? Có quan hệ rất nhiều mặt nhưng không có hữu nghị, không có tích cực và rất nhiều tiêu cực cho Việt Nam, hại cho Việt Nam nhiều. Đảo vẫn bị lấn chiếm và xây dựng thành căn cứ hải quân, không quân đe dọa hòa bình, đe dọa chủ quyền, đe dọa an ninh hàng hải của Việt Nam, của khu vực và thế giới.
Giáo sư Tương Lai, trong bài viết đăng trên tờ The New York Times, viết rằng Việt Nam có gần 3500 kilomet đường bờ biển hướng ra Biển Đông. Đây là khu vực biển quan trọng cho thương mại quốc tế. Thống kê cho thấy trong năm 2013 chừng 1/3 dầu thô và hơn phân nửa khí tự nhiên của thế giới được vận chuyển qua tuyến đường hàng hải này. Đây là đường ngắn nhất giữa Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, được hải quân nhiều nước ưa chuộng, trong đó có hải quân Hoa Kỳ.
Giáo sư Tương Lai nhận định là Việt Nam không thể thực thi vai trò địa chính trị của mình cho đến khi nào có thể phát triển kinh tế đầy đủ và giải phóng thêm nữa về mặt chính trị. Ông này cho rằng khi Việt Nam đáp ứng thi những yêu cầu của Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương do Hoa Kỳ chủ xướng gồm cho thành lập nghiệp đoàn tự do, giảm sự tham gia của nhà cầm quyền vào kinh tế, thực hiện minh bạch hơn thì sẽ giúp cho Việt Nam trên con đường hội nhập.
Tác giả Andrew Browne trong bài viết đưa ra nhận định là không liên minh ngoại giao nào mà Việt Nam có thể lôi kéo để đủ sức đối trọng lại sức mạnh của Trung Quốc. Việt Nam không thể thoát khỏi vị trí địa lý nằm bên cạnh đất nước Trung Quốc mênh mông. Tuy vậy, Bắc Kinh cũng biết rằng không bao giờ có thể khuất phục Việt Nam. Vào năm 1979, Trung Quốc quân tràn sang biên giới Việt Nam nhưng rồi bị đánh cho tơi bời.
Andrew Browne trích dẫn học giả Brantly Womack trong quyển sách tựa đề ‘Trung Quốc và Việt Nam: vấn đề chính trị không đối xứng’; theo đó sức mạnh Trung Hoa từng gãy đỗ vì tảng đá Việt Nam. Việt Nam phải chịu tổn thất nhiều hơn khi xảy ra xâm lược quân sự; nhưng Trung Quốc bị buộc phải rút
LŨ CỘNG NÔ SAQNG BẮC KINH
4 uỷ viên bộ chính trị được 'triệu tập' sang Tàu cùng TBT Nguyễn Phú Trọng
Bạn đọc Danlambao - Trưa ngày 7/4/2015, TBT Nguyễn Phú Trọng đã đặt chân đến Bắc Kinh, bắt đầu chuyến viếng thăm chính thức kéo dài 4 ngày tại Trung Cộng.
Dù chuyến đi được nói diễn ra vội vã, nhưng đảng cộng sản Việt vẫn đưa sang Trung Cộng một phái đoàn hùng hậu gồm 5 uỷ viên bộ chính trị và 6 uỷ viên trung ương đảng – đều là những nhân vật đầy quyền lực.
Tháp tùng chuyến đi của TBT Nguyễn Phú Trọng là 4 uỷ viên bộ chính trị gồm có: bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh, bộ trưởng CA Trần Đại Quang, trưởng ban tuyên giáo trung ương Đinh Thế Huynh, phó chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân.
Trong số này, đại tướng Phùng Quang Thanh được dự đoán là một ứng cử viên nặng ký cho chức tổng bí thư đảng vào năm 2016. Là người đứng đầu lực lượng quân đội, tướng Thanh luôn tỏ ra thần phục Trung Cộng một cách vô điều kiện.
3 uỷ viên còn lại vẫn đủ tuổi để được giữ lại bộ chính trị để chia ghế trong khoá tới. Đặc biệt, đại tướng CA Trần Đại Quang nhờ khai gian tuổi nên vẫn là nhân vật trẻ tuổi nhất trong bộ chính trị.
Ngoài ra, TBT Nguyễn Phú Trọng còn mang sang Trung Cộng một loạt các uỷ viên trung ương đảng nhiều quyền lực, hứa hẹn sẽ lọt vào bộ chính trị khoá tới như: Bí thư trung ương đảng Trần Quốc Vượng, bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh, trưởng ban đối ngoại trung ương Hoàng Bình Quân…
Theo một số dự báo, vấn đề nhân sự tại đại hội đảng lần thứ 12 sắp tới sẽ được phía Trung Cộng mang ra bàn thảo trong cuộc gặp lần này.
Trong một động thái ve vãn TBT Nguyễn Phú Trọng, phía Trung Cộng sẽ tiếp đón người đứng đầu đảng CSVN tại đại lễ đường nhân dân Bắc Kinh theo nghi thức cao nhất dành cho nguyên thủ quốc gia.
Sau chuyến đi Trung Cộng, TBT Trọng dự kiến sẽ sang thăm Hoa Kỳ một tháng sau đó. Dù vậy, thể thức đón tiếp vẫn đang là một vấn đề tranh cãi. Đối với người Mỹ, Nguyễn Phú Trọng vẫn chỉ là người đứng đầu một đảng chính trị, không thể được xem là một nguyên thủ quốc gia.
ĐẶNG HUY VĂN * BÀ CÁT HANH LONG
Bà Cát Hanh Long ơi!
Đặng Huy Văn (Danlambao) - Nhân dịp tròn 70 năm ngày Việt Minh giành được chính quyền, 1945, chúng ta không thể nào quên được những người đã có nhiều đóng góp công của cho Mặt Trận Việt Minh thời đó, mà có lẽ bà Nguyễn Thị Năm hiệu Cát Hanh Long là người đóng góp to lớn nhất. Trước năm 1945, bà đã hiến cho Việt Minh 20.000 đồng bạc Đông Dương tương đương 700 lượng vàng lúc bấy giờ. Trong “Tuần Lễ Vàng” của chính phủ VN DC CH, bà đã hiến 100 lượng vàng. Sau này đi theo kháng chiến lên Thái Nguyên, bà đã góp rất nhiều tiền gạo để nuôi bộ đội, có lúc bà nuôi cả một Trung Đoàn trong nhà.
Bà cũng đã từng bí mật nuôi nhiều cán bộ Việt Minh vì bà cho họ là những người thực sự yêu nước, sau này giữ những trọng trách trong chính phủ VNDCCH như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Hoàng Hữu Nhân, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Tùng, Vũ Quốc Uy, Hoàng Thế Thiện, Lê Thanh Nghị…Đặc biêt, bà Năm còn có hai người con trai là Nguyễn Cát và Nguyễn Hanh đều tham gia Việt Minh từ trước năm 1945, sau này là những cán bộ quân đội có uy tín.
Một người mẹ Việt Nam đã đóng góp nhiều công của cho Việt Minh để đánh đuổi giặc Pháp như bà Cát Hanh Long lẽ ra phải được Việt Minh khắc bia, dựng tượng. Vậy mà bà lại bị chính Việt Minh mượn tay các cố vấn Trung Quốc đấu tố và đã xử bắn bà một cách rất dã man vào ngày 9/7/1953 trước sự khiếp đảm của những người yêu nước khác. Tôi rất mong rồi đây lịch sử sẽ làm sáng tỏ vụ án oan khủng khiếp này để phục hồi danh dự cho một người mẹ Việt Nam, bà Nguyễn Thị Năm nồng nàn yêu nước đó.
Bà Cát Hanh Long ơi!
(Kính viếng bà Nguyễn Thị Năm)
Bà Cát Hanh Long ơi!
Tròn sáu hai năm rồi
Từ Niết Bàn có nhớ
Về một thời xa xôi?
Về Chinh, Đồng, Việt, Thọ(1)
Thanh, Tùng, Nghị… một thời
Bà nuôi ăn nuôi ở
Mà còn bạc hơn vôi!
Về trung đoàn bà nuôi
Cơm ăn no đánh giặc
Bởi bà căm thù Pháp
Cướp nước, áp bức người
Về ngày bà dâng tặng
Hai vạn đồng Đông Dương
Cho Việt Minh, quy đổi
Hơn bảy trăm lượng vàng
Về tuần vàng Bốn Sáu
Một trăm lượng bà trao
Để Việt Minh mua súng
Đánh Pháp cứu đồng bào
Về ngày làm chủ tịch
Hội Phụ nữ Thái Nguyên
Rồi Liên Khu Việt Bắc
Tham gia mấy khóa liền
Về hai con Hanh, Cát
Đều đi theo Việt Minh
Nguyễn Cát trung đoàn trưởng
Đã chiến đấu quên mình
Về Nguyễn Hanh vào Huế
Theo ông Nguyễn Lương Bằng
Thu Ấn Gươm Bảo Đại
Cướp chính quyền Bốn Lăm
Về bè đảng Ích Tắc
Rước mời cộng sản Tàu
Sang Việt Nam giết hại
Người yêu nước thương đau
Còn xui Tàu quy tội
“Giả dối nhằm chui sâu
“Leo cao vào hàng ngũ
“Cách mạng, hại đồng bào”
Sao cộng Tàu biết rõ?
Bà Năm yêu nước mình
Muốn Việt Nam độc lập
Không như “hồ ly tinh”
Theo Trung Hoa cộng sản
Mượn Tàu giết dân mình
Làm tay sai cho giặc
Để trọn đời hiển vinh
Ai bịt râu ngồi dự?
Cuộc đấu tố bà Năm(2)
Viết bài đăng lên báo
Địa chủ ác trăm lần(3)
Sao ngày ra trường bắn?
Bà van lạy dân quân
Xin được ngồi niệm Phật
Mong xá tội vong nhân
Mà Phật chưa kịp niệm
Súng đã nổ rền vang
Máu bà trào tung tóe
Hoen cờ đỏ sao vàng
Nay bà nương Cõi Phật
Nhận chân được con người
Ai yêu non sông Việt?
Hại dân mình là ai?
Nay cả toàn dân tộc
Đã biết kẻ giết bà
Là tội đồ phản quốc
Trời đất chẳng dung tha!
Bà Năm nay thành Phật
Là người mẹ anh hùng
Của con dân nước Việt
Sống mãi cùng núi sông!
Kính xin bà hãy độ
Cho con Lạc cháu Hồng
Thoát giặc Tàu cộng sản
Giữ vẹn toàn Biển Đông!
Để nghìn sau chói lọi
Tên bà Cát Hanh Long!
Hà Nội, 8/4/2015
Chú thích & tài liệu tham khảo:
HÀ TĨNH VÙNG LÊN
Hà Tĩnh: Người dân phản kháng, 10 công an ‘bị đánh nhập viện’
Ảnh: Báo Thanh Niên
Bạn đọc Danlambao - Sáng ngày 6/4/2015, một cuộc xung đột lớn giữa người dân và giới chức địa phương đã bùng phát tại Hà Tĩnh.Các quan chức địa phương cáo buộc người dân đã đánh 10 cán bộ CA phải nhập viện cấp cứu. Trong khi đó, hình ảnh phổ biến trên các mạng xã hội cũng đã cho thấy hình ảnh đẫm máu khi nhiều người dân đã bị thương tích rất nặng.
Theo báo Thanh Niên, vụ việc xảy ra tại xã Kỳ Trinh huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Nhiều ngày qua, hàng ngàn người dân đã đồng loạt phản đối việc thi công đường dây 500 kv đi qua xã.
Nguyên nhân được nói là vì mức đền bù không thỏa đáng tại những khu vực đất nông nghiệp bị ảnh hưởng do đường dây này đi qua.
Trước nguy cơ bị gián đoạn, nhà cầm quyền CS Hà Tĩnh đã lập tức huy động 500 công an đến hiện trường để bảo vệ việc thi công đường dây.
Lúc 7:30 sáng ngày 6/4/2015, mâu thuẫn giữa người dân và giới chức CS địa phương bùng phát thành bạo lực.
Theo ông Trương Công Bình, chủ tịch xã Kỳ Trinh, 10 cán bộ CA đã bị dân đánh trọng thương phải nhập viện.
Về phía người dân, báo Thanh Niên cho biết cũng có nhiều người bị thương tích trong lúc xô xát với CA.
Đây không phải là lần đầu tiên xảy ra xung đột giữa người dân và giới cầm quyền tại Hà Tĩnh. Hồi tháng 4/2014, hàng ngàn người dân xã Bắc Sơn (huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh) thậm chí còn vây đánh côn an, phá nhà quan chức sau khi một người dân địa phương bị bắt giam.
Hầu hết các cuộc phản kháng của người dân Hà Tình đều liên quán đến việc cưỡng chiếm đất đai hoặc nhằm chống lại những hành vi bạo lực của nhà cầm quyền.
* Cập nhật:
Tối cùng ngày, hình ảnh được gửi đi trên các mạng xã hội đã cho thấy phần nào mức độ bạo lực nghiêm trọng của cuộc xung đột giữa người dân và CA.
Nhà cầm quyền địa phương cáo buộc người dân đã dùng gạch đá, xiên sắt tấn công khiến 10 CA phải nhập viện. Tuy nhiên, hình ảnh chụp từ bệnh viện cho thấy dường như đây chỉ là những vết thương ngoài da.
Trong khi đó, hình ảnh trên các mạng xã hội cho thấy nhiều người dân bị đánh đến mức vỡ đầu, đổ máu. Có tin nói rằng, it nhất 2 người đã phải nhập viện sau cuộc xung đột đẫm máu.
Dưới đây là một số hình ảnh từ hiện trường được phổ biến trên facebook:
* Cập nhật:
Tối cùng ngày, hình ảnh được gửi đi trên các mạng xã hội đã cho thấy phần nào mức độ bạo lực nghiêm trọng của cuộc xung đột giữa người dân và CA.
Nhà cầm quyền địa phương cáo buộc người dân đã dùng gạch đá, xiên sắt tấn công khiến 10 CA phải nhập viện. Tuy nhiên, hình ảnh chụp từ bệnh viện cho thấy dường như đây chỉ là những vết thương ngoài da.
Trong khi đó, hình ảnh trên các mạng xã hội cho thấy nhiều người dân bị đánh đến mức vỡ đầu, đổ máu. Có tin nói rằng, it nhất 2 người đã phải nhập viện sau cuộc xung đột đẫm máu.
Dưới đây là một số hình ảnh từ hiện trường được phổ biến trên facebook:
CA, cảnh sát cơ động dày đặc
Nhiều người dân bị đánh đổ máu.
TRỌNG LÚ BÁN NƯỚC
Vừa đến Bắc Kinh, Nguyễn Phú Trọng đã vội vàng ký kết 7 thoả ước với Tập Cận Bình
Bạn đọc Danlambao - Trưa ngày 7/4/2014, TBT Nguyễn Phú Trọng đặt chân đến Bắc Kinh cùng với phái đoàn hùng hậu gồm nhiều quan chức chóp bu CSVN. Chiều cùng ngày, ông Trọng được Trung Cộng tổ chức tiếp đón tại Đại Lễ đường Nhân dân theo nghi thức cao cấp dành cho nguyên thủ quốc gia.
Sau đó, TBT đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đã có cuộc với tổng bí thư - chủ tịch Trung Cộng Tập Cận Bình. Cuộc hội đàm giữa 2 người đồng cấp được mô tả là ‘đạt được nhiều nhận thức chung quan trọng’, kết thúc với buổi lễ ký kết 7 văn kiện hợp tác giữa 2 đảng cộng sản.
Theo Thông Tấn Xã Việt Nam, 7 văn kiện – hay nói đúng hơn là 7 thoả ước được người đứng đầu đảng CSVN chứng kiến tại buổi lễ ký kết với Trung Cộng bao gồm:
1. Kế hoạch hợp tác giữa hai đảng cộng sản, giai đoạn 2016-2020.
2. Hiệp định hợp tác dẫn độ.
3. Bản ghi nhớ giữa hai Bộ Quốc phòng về hợp tác trong lĩnh vực gìn giữ hòa bình LHQ.
4. Bản ghi nhớ về việc thành lập Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng trên bộ” (MOU) giữa Bộ Kế hoạch - Đầu tư Việt Nam và Ủy ban Cải cách và Phát triển quốc gia Trung Cộng.
5. Điều khoản tham chiếu Nhóm công tác hợp tác tài chính tiền tệ giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng Nhân dân TQ
6. Thỏa thuận về các vấn đề về thuế đối với dự án thăm dò chung tài nguyên dầu khí tại vịnh Bắc Bộ giữa hai Bộ Tài chính
7. Bản ghi nhớ về hợp tác làm phim truyền hình chuyên đề giữa Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Truyền hình TƯ TQ.
Như vậy, dù chuyến đi được nói diễn ra khá vội vàng, nhưng đảng CSVN vẫn cử sang Trung Cộng một phái đoàn hùng hậu gồm 5 uỷ viên bộ chính trị và hàng loạt quan chức chóp bu.
Ngay trong buổi tối đầu tiên đến Bắc Kinh, phái đoàn do TBT Nguyễn Phú Trọng đã lập tức ký kết với Tập Cận Bình 7 thoả ước. Điều này một lần nữa cho thấy đây là sự vội vàng có chủ đích, nhiều khả năng được thực hiện theo lệnh của Trung Cộng.
Trong cuộc hội đàm, Nguyễn Phú Trọng và Tập Cận Bình tiếp tục những tuyên bố cũ rích về tình hữu nghị, 'duy trì đại cục quan hệ' giữa hai đảng cộng sản. Trong khi đó, những hành vi leo thang gây hấn của Trung Cộng tại Biển Đông, cụ thể là việc xây dựng căn cứ quân sự tại Trường Sa không hề được nhắc đến.
Việc ký kết vội vàng 7 văn kiện trên phải chăng là 7 thoả ước bán nước? Một kịch bản về sự kiện Thành Đô đang được tiếp tục lặp lại.
VIỆT TRUNG VÀ BIỂN ĐÔNG
Ý kiến: Không để Việt - Trung lâm chiến
- 6 tháng 4 2015
Trả lời phỏng vấn Nguyễn Hùng của BBC Tiếng Việt hôm 6/4 nhân chuyến thăm của Thủ tướng Nga Dmitry Medvedev, Giáo sư Vladimir Kolotov từ Đại học Quốc gia St Petersburg của Nga nói:
"Tôi nghĩ bây giờ Nga rất coi trọng vấn đề Biển Đông và Trung Quốc và Việt Nam là hai quốc gia có thể nói là có vị trí ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Nga ở châu Á Thái Bình Dương, đây là hai đối tác chiến lược toàn diện.
"Chính vì thế cuộc chiến giữa Trung Quốc và Việt Nam có thể nói là khả năng xấu nhất có thể xảy ra được và theo ý kiến của Nga là không thể nào chấp nhận được điều đó.
"Nga sẽ dùng toàn bộ quyền và có thể nói là trí tuệ của mình để không cho phép phương án này xảy ra."
Giáo sư Kolotov nói trong cuộc khủng hoảng giàn khoan hồi năm ngoái, Nga cũng đã có "những cuộc đàm phán không công khai" nhằm tránh căng thẳng leo thang thành xung đột vũ lực.
Ông Kolotov cũng cho rằng Việt Nam và Trung Quốc đủ "thông thái" để tránh xung đột vũ trang vì Biển Đông.
Trong lúc Nga đang bị phương Tây cấm vận, Việt Nam và Trung Quốc nằm trong số các nước mà Moscow muốn tăng cường quan hệ để cân bằng lại.
'Bom nổ chậm'
Liên quan tới Biển Đông, giáo sư từ Đại học Quốc gia St Petersburg cũng nói ngoài Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia và Philippines đều muốn "mở rộng và tăng cường sự hiện diện" trên vùng biển tranh chấp.Ông cũng đổ lỗi cho Hoa Kỳ đã gài "bom nổ chậm" nhằm khiến quan hệ Việt Nam - Trung Quốc căng thẳng khi chỉ đứng nhìn Bắc Kinh chiếm toàn bộ đảo Hoàng Sa mà chính quyền nam Việt Nam chiếm giữ một phần cho tới 19/1/1974.
Nga và Trung Quốc có [sự] tin nhau rất cao, có thể nói chưa bao giờ trong quan hệ Nga Trung có thời điểm [mà niềm tin giữa hai nước cao] như thế. Và nếu xem tình hình xung quanh biên giới của Trung Quốc chỗ nào cũng căng thẳng, chỗ nào cũng có tiềm năng xung đột về một mặt nào đó [trừ] biên giới với Nga.
"Nga và Trung Quốc có [sự] tin nhau rất cao, có thể nói chưa bao giờ trong quan hệ Nga Trung có thời điểm [mà niềm tin giữa hai nước cao] như thế.
"Và nếu xem tình hình xung quanh biên giới của Trung Quốc chỗ nào cũng căng thẳng, chỗ nào cũng có tiềm năng xung đột về một mặt nào đó [trừ] biên giới với Nga."
Vị giáo sư nói chính quan hệ tốt giữa Nga và Trung Quốc đã khiến tình hình an ninh ở Trung Á khá hơn và nó cũng có thể giúp cải thiện tình hình trên Biển Đông.
Ông Kolotov cũng cho rằng Trung Quốc ý thức được rằng nếu họ gây sức ép quá lớn với các nước trong khu vực, các nước này sẽ ngả sang Hoa Kỳ và đây là điều Bắc Kinh không muốn.
Trước thực tế Nga luôn bán cho Trung Quốc nhiều vũ khí hơn so với lượng vũ khí họ bán cho Việt Nam, ông Kolotov giải thích Trung Quốc đặt mua nhiều hơn vì là nước lớn.
Trả lời câu hỏi nếu có cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc thì Nga sẽ đứng về bên nào và liệu Nga có chọn Trung Quốc vì là đối tác thương mại lớn hơn, Giáo sư Kolotov dẫn câu "Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi" (君子喻 于义,小人喻于利) của Khổng Tử và cho rằng trong chính sách đối ngoại nói chung và trong quan hệ với cả Hà Nội và Bắc Kinh nói riêng, Nga luôn luôn coi "nghĩa" hơn "lợi".
Chuyện Moscow bán sáu tàu ngầm cho Việt Nam cũng giúp hiện đại hóa hải quân của đối tác để làm giảm khả năng có xung đột, ông Kolotov nói.
Trong khi đó một nhà quan sát Việt Nam khác, Giáo sư Carl Thayer từ Australia, nói với đài RFI cũng hôm 6/4 rằng "có thông tin cho biết là Nga sẽ không trang bị cho tàu ngầm Kilo bán cho Việt Nam loại tên lửa hành trình tấn công đối địa có thể được sử dụng để bắn tới căn cứ hải quân Trung Quốc gần Tam Á trên đảo Hải Nam."
Ông Thayer được dẫn lời bình luận thêm: "Mặc dù cả hai bên Nga-Việt đều tuyên bố rằng họ đều tin tưởng lẫn nhau, Việt Nam sẽ luôn luôn lo lắng rằng trong trường hợp xảy ra xung đột với Trung Quốc, Nga sẽ giữ một vị trí trung lập. Một chính sách như vậy sẽ dẫn đến việc Nga từ chối tiếp tế cho Việt Nam khi kho tên lửa chống hạm và các loại tên lửa khác cạn kiệt."
BBC sẽ chuyển toàn bộ cuộc phỏng vấn hơn 30 phút với giáo sư Kolotov tới các độc giả trong những ngày tới đây.
MỸ VÀ BIỂN ĐÔNG
Không để xảy ra xung đột vì biển đảo'
- 8 tháng 4 2015
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ mở đầu chuyến thăm châu Á hôm 8/4 với kêu gọi không để tranh chấp biển đảo biến thành xung đột vũ trang.
Ông Ashton Carter phát biểu tại Nhật Bản sau khi gặp người tương nhiệm Gen Nakatani.Ông nói Mỹ ưu tiên ổn định tại châu Á – Thái Bình Dương.
Theo ông, Mỹ muốn bảo đảm “không để xảy ra thay đổi nguyên trạng bằng vũ lực và không để tranh chấp lãnh thổ, đã kéo dài, bị quân sự hóa”.
Ông nói Mỹ lo ngại vì việc san lấp và bồi đắp của Trung Quốc ở Biển Đông và khả năng có khía cạnh quân sự trong việc xây dựng này.
Trung Quốc đã tiến hành bơm cát xây đắp các đảo nhân tạo, rồi sau đó đổ bê tông kiên cố ở các dãy đảo nhỏ tranh chấp.
Các chuyên gia quốc phòng nói chiến dịch này có thể tạo thành “Trường Thành cát” giúp Trung Quốc kiểm soát Biển Đông.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ nhắc lại: “Mặc dù chúng tôi không có lập trường trong mọi tranh chấp lãnh thổ, chúng tôi kiên quyết phản đối việc quân sự hóa tranh chấp.”
Trong tháng Tư, Mỹ và Philippines sẽ tham dự cuộc tập trận hàng năm gần quần đảo Trường Sa.
Đây sẽ là cuộc tập trận quy mô nhất kể từ khi hai nước tái tục hoạt động chung năm 2000.
Khi được hỏi liệu cuộc tập trận hùng hậu có phải để phản ứng Trung Quốc, ông Carter nói Washington và Manila có lợi ích chung trong vùng.
Ông Carter cũng hoan nghênh việc điều chỉnh lần đầu tiên kể từ 1997 đối với thỏa thuận hợp tác quốc phòng Mỹ - Nhật.
“Việc này sẽ giúp Nhật Bản, và cả liên minh chúng tôi, có nhiều khả năng hơn để cung cấp an ninh trong khu vực,” ông Carter tuyên bố.
Dự kiến Mỹ và Nhật sẽ công bố điều chỉnh vào cuối tháng Tư trước khi Thủ tướng Shinzo Abe gặp Tổng thống Barack Obama ngày 28/4 ở Washington.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2015/04/150408_ash_carter_japan_defence
NGA VÀ VIỆT MỸ TRUNG
Nga nghĩ gì về quan hệ Việt-Mỹ-Trung?
- 8 tháng 4 2015
Thủ tướng Nga Dmitry Medvedev thăm Việt Nam từ 5 đến 7/4 trong lúc Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang dự kiến sẽ thăm Nga trong tháng Năm.
Năm nay cũng đánh dấu 65 năm quan hệ ngoại giao giữa Nga, vốn trước đây là một phần của Liên Xô, với Việt Nam.
Nguyễn Hùng của BBC Tiếng Việt đã phỏng vấn Giáo sư Vladimir Kolotov từ Đại học Quốc gia St Petersburg hôm 6/4 về quan hệ Việt - Nga trong mối tương quan với Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Trước hết ông Vladimir Kolotov đánh giá về quan hệ thương mại giữa Hà Nội và Moscow:
Giáo sư Vladimir Kolotov: Quan hệ phát triển rất tốt nhưng có thể phát triển tốt hơn nữa vì kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Nga và Việt Nam vẫn còn khiêm tốn.
Chính vì thế mục tiêu đặt ra là tăng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Nga đến năm 2020 lên 10 tỷ đô la [từ mức khoảng bốn tỷ đô la hiện nay]. Đấy cũng là chỉ số rất khiêm tốn giữa Nga và Việt Nam.
BBC: Theo giáo sư tại sao kim ngạch xuất nhập khẩu hai nước vẫn ở con số chưa tới bốn tỷ đô la trong năm 2014?
Giáo sư Vladimir Kolotov: Chủ yếu là quan hệ giữa Nga và Việt Nam về mặt kinh tế phát triển trong những ngành như: dầu khí, năng lượng và hợp tác kỹ thuật-quân sự. Đây là ba ngành chủ yếu và đây là những chỉ số thường người ta không tính vào kim ngạch xuất nhập khẩu. Đương nhiên hợp tác quân sự giữa Nga và Việt Nam có thể nói là hơn chỉ số này.
Tôi nghĩ là Nga và Việt Nam có thể hợp tác trong lĩnh vực xuất nhập khẩu máy móc, hàng may mặc, thực phẩm. Đây là những mặt hàng mà Nga bây giờ đang có nhu cầu vì lệnh trừng phạt kinh tế từ các nước phương Tây và Nga đang phải đa dạng hóa quan hệ của mình. Đây là dịp tốt để đẩy mạnh quan hệ kinh tế giữa Nga và các nước phương Đông, chủ yếu là Trung Quốc, Việt Nam và các nước khác.Quen vũ khí Nga
BBC: Cụ thể quan hệ với Việt Nam có thể làm giảm nhẹ tác động của lệnh trừng phạt của các nước phương Tây như thế nào?Giáo sư Vladimir Kolotov: Có thể tăng nhập khẩu hàng hóa từ Việt Nam, ví dụ thực phẩm chế biến như là cá, hoa quả, thịt, cà phê... Đấy là những mặt hàng Việt Nam có thế rất mạnh trên thị trường.
Bắt đầu từ năm nay Việt Nam sẽ vào liên minh thuế quan của Nga, Bạch Nga (Belarusia) và Kazakhstan và Armenia.... Điều đó sẽ đơn giản hóa thủ tục xuất nhập khẩu giữa Nga và Việt Nam và các nước khác trong liên minh thuế quan …
BBC: Cụ thể liên minh đó sẽ có đòi hỏi như thế nào? Việt Nam sẽ phải tuân thủ những gì và được lợi gì từ liên minh đó?
Giáo sư Vladimir Kolotov: Việt Nam sẽ được mở rộng thị phần trên thị trường của các nước đó. Đấy là những thị trường lớn. Ví dụ: Chỉ Nga đã có dân số là 145 triệu người với khả năng thanh toán cao.
BBC: Riêng trong lĩnh vực quân sự Việt Nam cũng đã mua sáu tàu ngầm kilo của Nga với khoản chi phí rất cao, có lẽ tới vài tỷ đô la, vậy trong lĩnh vực vũ khí, thiết bị quân sự, ông thấy tương lai nào cho quan hệ giữa hai bên?
Việt Nam quen dùng vũ khí của Nga trong Cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, lần thứ hai rồi cuộc chiến tranh với Trung Quốc năm 1979 thì Việt Nam đã sử dụng chủ yếu vũ khí của Nga, hồi đó là của Liên Xô và bây giờ VN mua vũ khí hiện đại hơn.
Tôi có thể bổ sung là: bây giờ để có thể sử dụng vũ khí hiện đại, thì sỹ quan, chiến sĩ phải có trình độ chuyên nghiệp cao. Chính vì thế mua vũ khí thì phải đào tạo đội ngũ biết cách sử dụng vũ khí đó. Ví dụ như tàu ngầm thì bây giờ sỹ quan và học viên đang học ở Nga để biết cách quản lý, khai thác những vũ khí phức tạp, tân thời.
BBC: Bây giờ Việt Nam cũng đang đề nghị Hoa Kỳ bỏ toàn bộ cấm vận vũ khí sát thương để Việt Nam có thể nhập khẩu vũ khí từ Hoa Kỳ. Theo ông cái triển vọng cạnh tranh giữa Nga, Trung Quốc và Hoa Kỳ trong vấn đề xuất khẩu vũ khí sang Việt Nam sẽ như thế nào?
Giáo sư Vladimir Kolotov: Nói chung là nếu như có cạnh tranh và có khả năng đa dạng hóa vũ khí hay đa dạng hóa mặt hàng nào khác cũng có cái tốt và cái xấu của nó. Nhưng mà trong ba nước nói trên về xuất khẩu vũ khí trên thế giới thì Mỹ là thứ nhất, tiếp theo là Nga và tiếp theo [nữa] là Trung Quốc. Trong Ba cường quốc đó, Nga là nước duy nhất không bao giờ dùng vũ khí chống lại Việt Nam. Nga là nước duy nhất không có mưu đồ địa chính trị chống lại Việt Nam.
Hơn nữa nếu một nước xuất khẩu vũ khí thì nước nhập khẩu phụ thuộc về quốc phòng. Ví dụ như: chuyện hai tàu chiến Mistral mà Nga ứng tiền trước để Pháp đóng, Pháp đã đóng xong mà không trả lại cho Nga. Tất nhiên đối với Nga vấn đề này không ảnh hưởng gì tới quốc phòng, nhưng [Pháp] vẫn tìm cách làm khó dễ dưới áp lục của Mỹ. Nếu khách hàng nhỏ hơn, thì áp lực sẽ mạnh hơn.
Đấy là chủ trương của các nước phương Tây là như thế, quan hệ không bình đẳng và tìm cách can thiệp vào chính sách nội bộ của khách hàng dưới chiêu bài nào đó.
Vũ khí Mỹ chiếm thị phần nào ở Việt Nam thì đấy là chỉ số phụ thuộc quốc phòng vào Mỹ chừng ấy, sẽ tìm cách can thiệp vào công việc nội bộ và dùng rất nhiều thủ đoạn. Ví dụ mua mặt hàng này nhưng phải nhường ở chỗ khác về nhân quyền, tự do tôn giáo, không được chơi với nước này, không được đi chỗ kia... Như là vừa rồi có Tướng Vincent Brooks yêu cầu Việt Nam không cho máy bay của Nga được tiếp nhiên liệu ở Cam Ranh.
Đấy mới bắt đầu quan hệ về mặt quốc phòng, ngay lập tức [đã] bắt đầu can thiệp, thúc ép, đưa ra chỉ thị cần phải làm cái gì.
Đấy là rủi ro cần phải chú ý, de dọa đối với chủ quyền của Việt Nam, Hà Nội có quyền lựa chọn, nhưng lựa chọn nào cũng có kết qủa và hậu quả của nó.
BBC: Trong quá khứ, trong cuộc chiến hồi năm 1979, hồi đó Việt Nam và Nga [Liên Xô] cũng ký quan hệ hữu nghị và hợp tác ở cấp rất cao và có lẽ Việt Nam cũng mong muốn Liên Xô có những động thái mạnh bạo hơn nữa khi Trung Quốc tấn công vào Việt Nam. Liệu bây giờ trong quan hệ giữa Nga và Việt Nam, cứ giả sử xảy ra một cuộc chiến tương tự giữa Việt Nam và Trung Quốc thì liệu Nga có được bằng như Liên Xô cũ hoặc mạnh hơn không?
Giáo sư Vladimir Kolotov: Tôi nghĩ bây giờ Nga rất coi trọng vấn đề Biển Đông. Trung Quốc và Việt Nam là hai quốc gia có thể nói là có vị trí ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Nga ở châu Á Thái Bình Dương, đây là hai đối tác chiến lược toàn diện.
Chính vì thế cuộc chiến giữa Trung Quốc và Việt Nam có thể nói là phương án xấu nhất có thể xảy ra và theo ý kiến của Nga là không thể nào chấp nhận được điều đó.
Nga sẽ dùng toàn bộ quyền và có thể nói là trí tuệ của mình để không cho phép phương án này xảy ra.
Theo ý kiến của Nga thì trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ, hai quốc gia này hoàn toàn đủ thông thái để giải quyết vấn đề một cách hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, trên cơ sở hai bên giữ uy tín và cùng có lợi.
Đây không phải ý kiến của riêng tôi, vấn đề Biển Đông không đáng để xảy ra cuộc chiến tranh và hai quốc gia có nhiều điểm chung về mặt văn hóa, chính trị v.v. và điều đó [chiến tranh] có ảnh hưởng rất độc hại với Trung Quốc và Việt Nam.
Khổng Tử đã nói "Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi" (君子喻于义,小人喻于利) và tôi cho rằng trong chính sách đối ngoại nói chung và trong quan hệ với cả Hà Nội và Bắc Kinh nói riêng, Nga luôn luôn coi "nghĩa" hơn "lợi".
Không để chiến tranh
BBC: Thực tế xảy ra là căng thẳng trên Biển Đông ở mức rất cao, chẳng hạn hè năm ngoái Trung Quốc đưa giàn khoan vào nơi Việt Nam nói rằng trong vùng lãnh thổ của mình...Giáo sư Vladimir Kolotov: Nga cũng có vai trò [trong vụ này] nhưng chủ yếu là có các cuộc đàm phán không công khai để làm dịu tình hình, để không cho phép xảy ra những sự kiện tiêu cực như là sử dụng vũ lực. Chính vì thế cuối cùng Trung Quốc rút giàn khoan từ thềm lục địa Việt Nam.
Nhưng mà [ở] Hoàng Sa và Trường Sa Trung Quốc tiếp tục xây dựng cơ sở hạ tầng quân sự, làm đảo nhân tạo.
Không chỉ Trung Quốc mà Philippines, Malaysia, cả Việt Nam nước nào cũng muốn tăng cường và mở rộng sự hiện diện của mình trong vùng này, nhưng tôi nghĩ vẫn còn khả năng giải quyết vấn đề một cách hòa bình.
Trước hết là ngành ngoại giao của các nước trực tiếp liên quan tới vấn đề này phải ra sức để giải quyết vấn đề bằng con đường ngoại giao trên cơ sở luật pháp quốc tế. Điều này hoàn toàn có thể làm được.
Nga không liên quan trực tiếp đến vấn đề này, nhưng mà nếu có tình huống tiêu cực xảy ra giữa Trung Quốc và Việt Nam thì đó là điều hết sức là tác hại đến Nga vì Việt Nam và Trung Quốc là hai đối tác chiến lược toàn diện của Nga.
Nga sẽ ra sức làm dịu vấn đề để không cho phép xảy ra chiến tranh.
BBC: Nhưng mà cụ thể thì đối với Trung Quốc Nga có những lợi thế gì, có những điểm gì mà Nga có thể dùng để thuyết phục Trung Quốc nghe theo Nga để giữ ổn định, giữ nguyên hiện trạng hiện nay trên Biển Đông...?
Giáo sư Vladimir Kolotov: Nga và Trung Quốc có mức độ tin nhau rất cao, có thể nói chưa từng thấy, chưa bao giờ trong quan hệ Nga - Trung có thời điểm như thế. Nhưng chúng tôi hợp tác an ninh chủ yếu trong không khổ của Tổ chức hợp tác Thượng Hải [SCO].
Ở Việt Nam người ta biết có kế sách theo truyền thống cổ đại của Trung Quốc là "viễn giao cận công", nghĩa là dựa vào đối tác xa để chống lại đối tác gần. Nhưng mặt khác càng dựa vào Mỹ thì vai trò của họ càng tăng lên ở Việt Nam. Đấy không phải là phương án tối ưu cho Việt Nam vì nó sẽ ảnh hưởng tới ổn định của chế độ.
Nga và Trung Quốc là hai quốc gia có đường biên giới chung rất dài với nhau, chính vì thế có nhiều quyền lợi chung về an ninh quốc tế và chính vì thế hợp tác giữa Nga và Trung Quốc cho phép bình thường hóa cục diện an ninh ở Trung Á.
Trung Quốc, tôi nghĩ, họ cũng hiểu nếu họ quá ép các nước vừa và nhỏ ở Đông Nam Á thì họ [các nước này] sẽ kêu gọi Mỹ can thiệp.
Và nếu vai trò của Mỹ tăng lên trong vùng này thì điều đó coi như là sự bất lợi đối với Trung Quốc.
Ở Việt Nam người ta biết có kế sách theo truyền thống cổ đại của Trung Quốc là "viễn giao cận công", nghĩa là dựa vào đối tác xa để chống lại đối tác gần.
Nhưng mặt khác càng dựa vào Mỹ thì vai trò của họ càng tăng lên ở Việt Nam. Đấy không phải là phương án tối ưu cho Việt Nam vì nó sẽ ảnh hưởng tới ổn định của chế độ.
BBC: Người dân trong nước, tôi theo dõi, có một bộ phận có vẻ chuộng để chính quyền thân với Mỹ hơn bởi vì với phía Mỹ mối quan hệ nó rõ ràng hơn, nó công khai và người dân người ta biết được hai nước quan hệ tới đâu trong khi với Trung Quốc và thậm chí ngay cả với Nga người ta có vẻ nói quan hệ không được rõ ràng, nó có những cái có thể nói là "đi đêm" với nhau, ký những cái mà người dân người ta không được biết. Giáo sư nghĩ sao?
Giáo sư Vladimir Kolotov: Tôi hoàn toàn đồng ý với anh là người ta có ý kiến như thế và tôi cũng từng nghe nhiều lần nghe người ta phát biểu ý kiến tương tự như thế.
Nhưng [khi] phân tích tình hình một cách chuyên nghiệp thì tôi nghĩ là chủ trương của Nga nó rõ ràng hơn. Nga muốn duy trì hòa bình và giải quyết vấn đề trên cơ sở pháp luật.
Về mặt tâm lý thì dễ hiểu [chuyện thích] dựa vào Mỹ, nhưng về mặt khác thì được gì.
Quyền lợi của Mỹ là không được cho phép Trung Quốc quá mạnh trong vùng này [châu Á Thái Bình Dương]. Nghĩa là đấy là trò chơi địa chính trị giữa hai cường quốc, chơi nhau theo [kiểu] zero sum game, ai được cái gì và ai mất cái gì.
Việt Nam trong hoàn cảnh này chỉ đóng vai trò như là con tốt. Mỹ chỉ bảo vệ quyền lợi của Mỹ chứ không bảo vệ quyền lợi của Việt Nam đâu.
Posted by sontrung at 1:26 AM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 358
TIN NHẬT MỸ
'Nhật-Mỹ tin nhau và cùng cảnh giác TQ'
- 8 tháng 4 2015
Bảy thập niên sau vụ Nhật tấn công Trân Châu Cảng và lôi Hoa Kỳ vào cuộc chiến toàn cầu, Mỹ và Nhật nay trở nên rất tin cậy nhau và cùng cảnh giác trước Trung Quốc, hãng tin AFP tường thuật, dựa trên kết quả một cuộc thăm dò dư luận.
Tương phản với những lời kêu gọi từ phía Bắc Kinh, theo đó muốn Nhật phải ăn năn hối hận nhiều hơn nữa về Đại chiến Thế giới II, khoảng hai phần ba người Mỹ cho rằng Tokyo xin lỗi đã đủ mức và do đó không cần phải nói lời hối tiếc thêm nữa.
Kết quả được công bố hôm thứ Ba của Trung tâm Nghiên cứu Pew đặt tại Mỹ, chỉ vài tuần trước khi ông Shinzo Abe theo kế hoạch sẽ tới thăm Hoa Kỳ, nơi ông sẽ là thủ tướng Nhật Bản đầu tiên phát biểu trước phiên họp chung của lưỡng viện Hoa Kỳ.
Bài phát biểu của ông sẽ được theo dõi sát sao để tìm chỉ dấu cho việc ông sẽ kỷ niệm sự kiện 70 năm kết thúc Đại chiến Thế giới II vào cuối năm nay ra sao, trong lúc Bắc Kinh thúc giục ông hãy "thể hiện sự thành thật" về các tội ác trong quá khứ của Nhật.
Thế nhưng cuộc thăm dò dư luận của Pew cho thấy người dân Nhật Bản và người dân Hoa Kỳ hầu như không có thái độ thù nghịch nào đáng kể đối với nhau, dẫu hai nước đã có bốn năm chiến tranh cho tới tận 1945 và sau đó là việc Mỹ chiếm đóng Nhật cho tới tận 1952."Là kẻ thù trong Đại chiến Thế giới II, là đối thủ cạnh tranh kinh tế khốc liệt trong những năm 1980 và đầu thập niên 1990, Mỹ và Nhật Bản vẫn tôn trọng lẫn nhau sâu sắc," tổ chức nghiên cứu này nói trong báo cáo hàng năm, được thực hiện dựa trên khảo sát 1.000 người từ mỗi nước.
Khoảng 68% người Mỹ tin cậy Nhật Bản và 75% người Nhật tin vào Hoa Kỳ, theo kết quả khảo sát, trong khi chỉ có 30% người Mỹ và 7% người Nhật tin tưởng Trung Quốc.
Cứ trong 10 người Mỹ thì có sáu người tin rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc như một sức mạnh quân sự và kinh tế làm cho mối quan hệ giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ trở nên quan trọng hơn, bản báo cáo nói.
Đồng thời, "nhiều người Mỹ, đặc biệt là giới trẻ Mỹ, nghĩ rằng việc có mối quan hệ kinh tế mạnh mẽ với Trung Quốc thì quan trọng hơn là mối quan hệ kinh tế với Nhật Bản," bảo báo cáo nói.
"Đa số người Mỹ xem Nhật Bản là một cường quốc kinh tế trên thực tế, không tăng cũng không giảm."
Thương hiệu Nhật Bản được dư luận Mỹ đánh giá cao, với Sony rất được ưa chuộng, được 88% người tham gia khảo sát lựa chọn, còn hãng xe hơi Toyota được 85%.
Tuy nhiên, với "thương hiệu" Abe thì không tốt mấy: "Chỉ có 11% người Mỹ đánh giá tốt về Thủ tướng Nhật Bản đương nhiệm Shinzo Abe."
"Nhưng điều này phần lớn rất có thể chỉ là bởi 73% người được hỏi nói rằng họ chưa từng nghe nói về ông," bản báo cáo nói.
Về vấn đề lịch sử, các vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki khiến 140 ngàn người và 70 ngàn người thiệt mạng tại mỗi thành phố lâu nay đã làm phân rẽ người Mỹ và Nhật Bản.
Trong cuộc khảo sát mới nhất, 56% người Mỹ nói họ tin rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân là thỏa đáng nhằm kết thúc chiến tranh, còn 34% phản đối.
Tại Nhật Bản, chỉ 14% nói việc thả bom là chấp nhận được, trong lúc số phản đối là 79%.
"Mặc dù có sự bất đồng kéo dài quanh sự kiện thả bom hạt nhân xuống Hiroshima và Nagasaki, không mấy người Mỹ hay Nhật tin rằng Nhật Bản vẫn còn nợ một lời xin lỗi cho hành động của mình trong Đại chiến Thế chiến II," bản báo cáo nói.
Tổng cộng có 61% người Mỹ nói là Nhật Bản đã xin lỗi đủ về cuộc chiến và nay không cần phải xin lỗi nữa, và 29% cho rằng Nhật chưa nhận lỗi đủ về những gì Nhật đã làm trong cuộc xung đột.
MỸ VIỆT TRÊN BIỂJN ĐÔNG
Hải quân Mỹ-Việt thao dượt chung
Các sĩ quan Hải quân Việt Nam tiếp xúc trao đổi với sĩ quan Mỹ (infonet)
Từ ngày 06/04/2015, và trong vòng 5 ngày, Hải quân Mỹ và Việt Nam tiến hành các hoạt động trao đổi, thao diễn chung, trong khuôn khổ chuyến thăm thiện chí Việt Nam thường niên lần thứ 6 của Hải quân Mỹ, được gọi là "Naval Engagement Activity - NEA", đồng thời nhân dịp kỷ niệm 20 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao song phương. Đáng chú ý là sự kiện này trùng với thời điểm Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng công du Trung Quốc.
Các hoạt động hợp tác giữa hải quân Mỹ-Việt tập trung vào những sự kiện phi quân sự, luyện tập kỹ năng trong lĩnh vực quân y, tìm kiếm, cứu hộ trên biển và an ninh hàng hải. Các chủ đề chính được trao đổi là thông tin kiến thức hàng hải, kiểm soát thiệt hại trên tàu, cứu hộ tàu ngầm, hội thảo pháp lý, dịch vụ cộng đồng và thi đấu thể thao.
Đặc biệt là việc thực hành Bộ Quy tắc ứng xử các cuộc chạm trán, đối đầu bất ngờ trên biển (Code for Unplanned Encounters at Sea - CUES) và thao tác điều khiển tàu. Từ một thập niên nay, tàu chiến của Mỹ hàng năm vẫn tới cảng Đà Nẵng, miền trung Việt Nam để tiến hành hoạt động thiện chí NEA.
Kể từ sau năm 1975, khu trục hạm USS Curtis Wilbur (DDG 54) là tàu chiến đầu tiên của Hải quân Mỹ tới thăm cảng Đà Nẵng ngày 28/07/2004. Gần đây nhất là chuyến thăm Đà Nẵng của khu trục hạm Mỹ USS John McCain (DDG 56) hồi tháng Tư năm ngoái, trong khuôn khổ giao lưu thiện chí năm 2014.
Các hoạt động giao lưu mỗi năm thêm phong phú. Năm ngoái, lần đầu tiên, tàu chiến của Hải quân hai nước trực tiếp thao dượt trên biển. Năm nay, Hải quân Mỹ điều khu trục hạm USS Fitzgerald (DDG 62) và lần đầu tiên, đưa tàu chiến duyên hải USS Fort Worth (LCS 3) tới giao lưu với Hải quân Việt Nam.
Cả hai tàu chiến này đặt dưới sự chỉ huy của đại tá Lê Bá Hùng, một người Mỹ gốc Việt. Tháng 11 năm 2009, khu trục hạm USS Lassen (DDG 82) do ông Hùng chỉ huy, đã tới thăm cảng Đà Nẵng.http://vi.rfi.fr/20150408-vn-my//
TRUNG QUỐC VÀ BIỂN ĐÔNG
Biển Đông : Trung Quốc đề nghị một cách "tiếp cận mới"
Chủ tịch Tập Cận Bình tiếp Tổng bí thư Đảng Nguyễn Phú Trọng tại Bắc Kinh - Reuters /China Daily
Chính thức thăm Trung Quốc, ngày 07/04/2015, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã tiếp xúc tại Bắc Kinh với Tổng bí thư Đảng Công sản kiêm Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình. Vấn đề tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông dĩ nhiên đã được hai lãnh đạo đề cập đến, và nhân dịp này, ông Tập Cận Bình đã kêu gọi Việt Nam thăm dò cách gọi là "tiếp cận mới" để giải quyết tranh chấp giữa hai bên.
Theo nhật báo Hồng Kông South China Morning Post, số ra hôm nay, lãnh đạo Trung Quốc đã nhắc lại với Tổng bí thư Đảng Công sản Việt Nam rằng hai nước cần phải quản lý tốt tranh chấp giữa hai bên tại Biển Đông để duy trì hòa bình và ổn định.
Đối với ông Tập Cận Bình, hai bên phải : « Tăng cường hợp tác giữa hai đảng, thăm dò các phương thức tiếp cận mới để giải quyết những vấn đề trong quan hệ hai nước, cũng như tìm những mô thức mới cho việc thúc đẩy quan hệ song phương ».
Lãnh đạo Trung Quốc không nói rõ các cách tiếp cận mới đó là gì, nhưng đã nhắc nhở Việt Nam là nên coi trọng đại cục. Theo ông, hai nước cần « cùng nhau quản lý và kiểm soát bất đồng trên biển một cách đúng đắn, và chú ý đến toàn cảnh các mối quan hệ và hòa bình và ổn định trên Biển Đông ».
Trong bản tin của mình, tờ báo Hồng Kông đặc biệt ghi nhận hai bình luận trên báo chí chính thống của Việt Nam và Trung Quốc liên quan đến chuyến thăm Trung Quốc của ông Nguyễn Phú Trọng.
Đối với ông Tập Cận Bình, hai bên phải : « Tăng cường hợp tác giữa hai đảng, thăm dò các phương thức tiếp cận mới để giải quyết những vấn đề trong quan hệ hai nước, cũng như tìm những mô thức mới cho việc thúc đẩy quan hệ song phương ».
Lãnh đạo Trung Quốc không nói rõ các cách tiếp cận mới đó là gì, nhưng đã nhắc nhở Việt Nam là nên coi trọng đại cục. Theo ông, hai nước cần « cùng nhau quản lý và kiểm soát bất đồng trên biển một cách đúng đắn, và chú ý đến toàn cảnh các mối quan hệ và hòa bình và ổn định trên Biển Đông ».
Trong bản tin của mình, tờ báo Hồng Kông đặc biệt ghi nhận hai bình luận trên báo chí chính thống của Việt Nam và Trung Quốc liên quan đến chuyến thăm Trung Quốc của ông Nguyễn Phú Trọng.
Theo South China Morning Post, tờ Nhân Dân của Đảng Cộng sản Việt Nam đã cho rằng chuyến công du của ông Trọng sẽ « tạo điều kiện thuận lợi » để giải quyết các vấn đề giữa hai nước, nhưng lại không nói đến tranh chấp Biển Đông.
Tân Hoa Xã, hãng tin chính thức của Trung Quốc thì cho rằng chuyên thăm của lãnh đạo Đảng Công sản Việt Nam cho thấy là hai bên « trân trọng mối quan hệ mạnh mẽ và lâu dài » giữa hai nước, và không ngần ngại đả kích một cách chung chung một số người bị cho là muốn phá hoại tình hữu nghị Việt Trung.
Hãng thông tấn Trung Quốc viết : « Một số người ở bên ngoài, vì lý do cá nhân, đang khai thác mọi cái cớ để gây bất hòa giữa hai bên, trong lúc một nhúm người bên trong chính giới Việt Nam đã bị lời đường mật từ bên ngoài dụ dỗ và trở thành đồng phạm ».
Điều mà Tân Hoa Xã không nói, nhưng đã được hầu như toàn bộ giới chuyên gia công nhận, đó là sóng gió gần đây trong quan hệ Việt Trung chính ra đã bắt nguồn từ việc Bắc Kinh đơn phương đưa giàn khoan HD-981 vào cắm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vào tháng Năm, năm 2014, làm sứt mẻ sự tin tưởng của Việt Nam nơi Trung Quốc.
MỸ VÀ BIỂN ĐÔNG
Mỹ phô trương uy lực chống Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông
Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Gen Nakatani tiếp đón đồng nhiệm Mỹ Ashton Carter tại Tokyo, 08/04/2015 - Reuters
Khuyến cáo của các Thượng nghị sĩ Mỹ mới đây - yêu cầu phải có hành động cụ thể và thái độ kiên quyết hơn chống lại hành động thay đổi hiện trạng Biển Đông mà Trung Quốc đang tiến hành – như đã được Washington lắng nghe. Dấu hiệu rõ rệt nhất và mới nhất là lời phản đối không chút mập mờ của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter vào hôm nay 08/04/2015 tại Tokyo, đã không ngần ngại lớn tiếng đả kích hành động quân sự hóa Biển Đông của Bắc Kinh.
Nhân ngày đầu tiên trong chuyến công du châu Á, tân Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã đưa ra một lời cảnh cáo cứng rắn nhắm vào các hoạt động nhằm « quân sự hóa » các tranh chấp biển đảo.
Tín hiệu cảnh cáo này nhắm vào Trung Quốc vốn đang cấp tốc tiến hành công việc bồi đắp 6 rạn san hô tại Trường Sa thành đảo nhân tạo, xây dựng trên đó đủ loại cơ sở có khả năng được dùng vào mục tiêu quân sự. Giới chuyên gia quốc phòng thẩm định là các đảo nhân tạo đó có thể tạo thành một chuỗi pháo đài cho phép Bắc Kinh khống chế hầu như toàn bộ Biển Đông.
Chống dùng võ lực thay đổi hiện trạng, chống quân sự hóa tranh chấp chủ quyền
Phát biểu với giới báo chí sau buổi hội đàm với đồng nhiệm Nhật Bản Gen Nakatani, ông Ashton Carter đã xác định rằng ưu tiên của nước Mỹ là duy trì ổn định trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương và đảm bảo được hai điểm : Một là không một thay đổi hiện trạng nào được thực hiện bằng võ lực, và hai là các tranh chấp lãnh thổ, vốn đã có từ lâu, sẽ không bị quân sự hóa.
Đối với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, Washington thường tránh không đứng về bên nào các vấn đề chủ quyền, nhưng hiện đang rất quan ngại trước các hoạt động của Trung Quốc tại các vùng có tranh chấp ở Biển Đông. Ông Carter tuyên bố nguyên văn như sau : « Tuy không có lập trường về bất kỳ cuộc tranh chấp lãnh thổ nào (ở Biển Đông), chúng tôi có một lập trường mạnh mẽ chống lại việc quân sự hóa những tranh chấp đó ».Trước đó, trong một bài phỏng vấn dành cho tờ báo Nhật Bản Yomiuri Shimbun, ông Carter đã chỉ trích đích danh Trung Quốc khi cho biết là Hoa Kỳ rất lo ngại trước quy mô và tốc độ của các hoạt động bồi đắp đảo đá của Trung Quốc, những hành động trái ngược với các cam kết của Trung Quốc với các nước ASEAN.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ nhấn mạnh : « Chúng tôi đặc biệt quan ngại trước khả năng quân sự hóa các tiền đồn. Đó là những hoạt động làm gia tăng căng thẳng một cách nghiêm trọng và làm giảm đi triển vọng tìm kiếm giải pháp ngoại giao ».
Đưa chiến hạm tối tân nhất đến "giao lưu" hải quân với Việt Nam
Tuyên bố cứng rắn của nhân vật lãnh đạo Bộ Quốc phòng Mỹ như đã được kèm theo bằng nhiều hoạt động cụ thể của lực lượng Mỹ trong vùng châu Á Thái Bình Dương, mà mới nhất là hai cuộc thao diễn quân sự hỗn hợp với hai nước bị Trung Quốc chèn ép nhiều nhất trong vấn đề Biển Đông là Philippines và Việt Nam.
Tại Việt Nam, kể từ ngày 06/04 vừa qua, nhiều đơn vị Mỹ với 2 chiến hạm đã bắt tham gia 5 ngày thao diễn hải quân thường niên ngoài khơi Đà Nẵng. Bên cạnh khu trục hạm trang bị tên lửa dẫn đường USS Fitzgerald, lần này, Hải quân Mỹ đã cử chiến hạm tối tân nhất của mình là tàu chiến cận duyên USS Fort Worth đến tham dự.
Còn tại Philippines, dụng ý phô trương uy lực cũng rất rõ với cuộc tập trận chung Balikatan sắp được mở ra (20-30/04/2015). Năm nay, Hoa Kỳ cử hơn 6.500 lính tham gia tập trận, tăng gấp đôi số lính điều động so với năm ngoái.
Trả lời câu hỏi của một nhà báo vào hôm nay, theo đó phải chăng việc Mỹ tăng cường quy mộ cuộc tập trận Balikatan là nhằm đáp trả hành động của Trung Quốc đẩy mạnh cải tạo đất tại Biển Đông, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã không úp mở. Theo ông Ashton Carter, Washington và Manila chia sẻ nhiều lợi ích chung tại Biển Đông, trong đó có việc bảo đảm sao cho không xẩy ra tình trạng dùng võ lực thay đổi nguyên trạng, hay quân sự hóa tranh chấp chủ quyền.
http://vi.rfi.fr/viet-nam/20150408-my-pho-truong-uy-luc-chong-trung-quoc-quan-su-hoa-bien-dong/http://vi.rfi.fr/viet-nam/20150408-my-pho-truong-uy-luc-chong-trung-quoc-quan-su-hoa-bien-dong/
MONICA LEWINSKY
Bài thuyết trình của Monica Lewinsky
Ở tuổi 41, tôi đã từ chối chàng trai 27
Các bạn đang nhìn thấy một phụ nữ đã im lặng trước công luận trong một thập kỷ qua.
Cách đây vài tháng, tôi đã có buổi nói chuyện lớn đầu tiên tại hội nghị Forbes 30 Under 30 (30 nhà lãnh đạo xuất sắc dưới 30 tuổi do Forbes bầu chọn).1.500 con người xuất sắc, tất cả đều dưới 30 tuổi. Điều đó có nghĩa là, vào năm 1998, người nhiều tuổi nhất trong số họ mới chỉ 14, còn người trẻ nhất mới 4 tuổi.
Vào cái đêm tôi có bài thuyết trình, một điều ngạc nhiên đã xảy ra. Ở tuổi 41, một chàng trai 27 tuổi "tấn công" tôi. Cậu ấy quyến rũ và tôi đã rất tự hào về mình, nhưng tôi từ chối. Các bạn có biết lý do cậu ấy không thành công không? Là vì cậu ấy có thể làm tôi cảm thấy mình đang ở cái tuổi 22 một lần nữa (cười lớn) (vỗ tay).
Sau đó, tôi nhận ra rằng, tôi có thể là người duy nhất đã qua tuổi 40 mà lại đi từ chối một chàng trai 22 (cười lớn) (vỗ tay).
Ở tuổi 22, tôi phải lòng ông chủ của mình và lãnh những hậu quả nghiêm trọng.
“Chúng ta hay nói nhiều về quyền tự do ngôn luận, nhưng chúng ta cần nói nhiều hơn về trách nhiệm của chúng ta với tự do ngôn luận”.
Thế nhưng, trong nền văn hóa sỉ nhục này, làm người khác tổn thương được trả giá. Cái giá này không đo được những gì mà các nạn nhân như Tyler và quá nhiều người, đặc biệt là phụ nữ, người dân tộc thiểu số, các thành viên trong cộng đồng người đồng tính phải gánh chịu.
Nhưng nó lại đo được lợi nhuận của những người săn tìm. Họ kiếm tiền bằng những click chuột. Càng nhiều hổ thẹn thì càng nhiều click chuột. Càng nhiều click thì càng nhiều tiền quảng cáo. Chúng ta đang ở trong một vòng tròn nguy hiểm. Chúng ta click vào những loại tin lá cải càng nhiều thì chúng ta gây nguy hiểm cho cuộc sống của đồng loại mình càng lớn.
"Môn thể thao đổ máu cần dừng lại"
Thay đổi hành vi bắt đầu bằng việc củng cố niềm tin. Chúng ta đã thấy điều đó đúng với phân biệt chủng tộc, ám ảnh với người đồng tính và rất nhiều thành kiến khác, bây giờ và trong quá khứ. Khi chúng ta thay đổi niềm tin về hôn nhân cùng giới, nhiều người được sống bình đẳng hơn. Khi chúng ta bắt đầu coi trọng sự bền vững, nhiều người đã bắt đầu tái chế rác thải.
"Chế giễu công khai là một môn thể thao đổ máu cần phải dừng lại"
------------------------
"Chế giễu công khai là một môn thể thao đổ máu cần phải dừng lại.Hãy bình luận bằng những ngôn từ tích cực, tiếp nhận tin tức và click chuột bằng sự bao dung, bởi chúng ta đã gieo những hạt giống của sự xấu hổ và sự tổn thương trên mảnh đất văn hóa của mình, cả ở thế giới thật và ảo".
Sau hàng chục năm im lặng, cô thực tập sinh Nhà Trắng Monica Lewinsky nổi tiếng vì đã có mối quan hệ không mấy hay ho với cựu Tổng thống Bill Clinton đã trở lại, với bài thuyết trình “Cái giá của nỗi nhục nhã” mang nhiều giá trị nhân văn. Dưới đây là lược dịch bài thuyết trình của cô.
Monica Lewinsky hiện đã là một phụ nữ 41 tuổi
Ở tuổi 41, tôi đã từ chối chàng trai 27
Các bạn đang nhìn thấy một phụ nữ đã im lặng trước công luận trong một thập kỷ qua.
Cách đây vài tháng, tôi đã có buổi nói chuyện lớn đầu tiên tại hội nghị Forbes 30 Under 30 (30 nhà lãnh đạo xuất sắc dưới 30 tuổi do Forbes bầu chọn).1.500 con người xuất sắc, tất cả đều dưới 30 tuổi. Điều đó có nghĩa là, vào năm 1998, người nhiều tuổi nhất trong số họ mới chỉ 14, còn người trẻ nhất mới 4 tuổi.
Vào cái đêm tôi có bài thuyết trình, một điều ngạc nhiên đã xảy ra. Ở tuổi 41, một chàng trai 27 tuổi "tấn công" tôi. Cậu ấy quyến rũ và tôi đã rất tự hào về mình, nhưng tôi từ chối. Các bạn có biết lý do cậu ấy không thành công không? Là vì cậu ấy có thể làm tôi cảm thấy mình đang ở cái tuổi 22 một lần nữa (cười lớn) (vỗ tay).
Sau đó, tôi nhận ra rằng, tôi có thể là người duy nhất đã qua tuổi 40 mà lại đi từ chối một chàng trai 22 (cười lớn) (vỗ tay).
Ở tuổi 22, tôi phải lòng ông chủ của mình và lãnh những hậu quả nghiêm trọng.
“Chúng ta hay nói nhiều về quyền tự do ngôn luận, nhưng chúng ta cần nói nhiều hơn về trách nhiệm của chúng ta với tự do ngôn luận”.
Nhưng liệu có ai trong số các bạn ngồi đây không phạm sai lầm hay làm gì đó phải hối tiếc ở tuổi 22?
Vâng. Đó chính là điều mà tôi đã suy nghĩ. Giống như tôi, ở tuổi 22, một vài người trong số các bạn có thể có những hướng đi sai và yêu sai người, thậm chí có thể là ông chủ của bạn. Mặc dù, không giống như tôi, ông chủ của bạn có thể không phải là Tổng thống Mỹ. Tất nhiên, cuộc đời thì đầy những bất ngờ.
Không một ngày nào tôi không nhớ tới sai lầm của mình, và tôi thực sự hối tiếc về điều đó.
Chuyện xảy ra đã 17 năm và ngày đó nó không được đặt tên. Ngày nay, chúng ta gọi đó là ức hiếp trong thế giới ảo và quấy rối trực tuyến.
Hôm nay, tôi muốn chia sẻ một số trải nghiệm của mình, trải nghiệm đã giúp tôi hình thành sự quan sát có văn hóa, có thể giúp những người khác bớt đau khổ.
Hãy để tôi vẽ lại bức tranh...
Năm 1998, tôi mất hết danh dự và nhân phẩm; mất gần như mọi thứ, tôi mất cả cuộc sống của mình.
Đó là tháng 9/1998. Tôi đang ngồi trong một căn phòng không có cửa sổ của Văn phòng Luật sư, bên dưới là những ánh đèn huỳnh quang.
Vâng. Đó chính là điều mà tôi đã suy nghĩ. Giống như tôi, ở tuổi 22, một vài người trong số các bạn có thể có những hướng đi sai và yêu sai người, thậm chí có thể là ông chủ của bạn. Mặc dù, không giống như tôi, ông chủ của bạn có thể không phải là Tổng thống Mỹ. Tất nhiên, cuộc đời thì đầy những bất ngờ.
Không một ngày nào tôi không nhớ tới sai lầm của mình, và tôi thực sự hối tiếc về điều đó.
Chuyện xảy ra đã 17 năm và ngày đó nó không được đặt tên. Ngày nay, chúng ta gọi đó là ức hiếp trong thế giới ảo và quấy rối trực tuyến.
Hôm nay, tôi muốn chia sẻ một số trải nghiệm của mình, trải nghiệm đã giúp tôi hình thành sự quan sát có văn hóa, có thể giúp những người khác bớt đau khổ.
Hãy để tôi vẽ lại bức tranh...
Năm 1998, tôi mất hết danh dự và nhân phẩm; mất gần như mọi thứ, tôi mất cả cuộc sống của mình.
Đó là tháng 9/1998. Tôi đang ngồi trong một căn phòng không có cửa sổ của Văn phòng Luật sư, bên dưới là những ánh đèn huỳnh quang.
Tôi đang nghe giọng nói của mình, giọng nói trong những cuộc gọi bị ghi âm lén do một người mà tôi coi là bạn thực hiện. Suốt 8 tháng, nội dung bí mật của những tấm băng này treo trên đầu tôi giống như Thanh Gươm của Damocles.
Sợ hãi và xấu hổ, tôi lắng nghe, lắng nghe chính mình thú nhận tình yêu với Tổng thống, và tất nhiên trái tim tôi vỡ vụn khi nghe những câu nói lúc thì thỏ thẻ, lúc thì thô tục, lúc thì tàn nhẫn, thô kệch mà chính mình cũng không nhận ra.
Một vài ngày sau, báo cáo của công tố viên Kenneth Starr được trình cho Quốc hội, gồm tất cả đoạn băng, phụ đề… Chỉ cần đọc phụ đề thôi đã là quá kinh khủng rồi, nhưng vài tuần sau đó, tất cả những đoạn ghi âm được phát trên truyền hình. Một sự sỉ nhục công khai. Tôi gần như không thể chịu nổi.
Truyền thông xã hội ra đời, hậu quả còn kinh khủng hơn
12 năm trôi qua cho tới năm 2010, truyền thông xã hội ra đời. Với những trường hợp giống như tôi, hậu quả còn kinh khủng hơn nhiều.
Trong một cuộc nói chuyện qua điện thoại với mẹ vào tháng 9/2010, chúng tôi nói với nhau về trường hợp của sinh viên năm nhất ĐH Rutger tên là Tyler Clementi.
Chàng trai Tyler sáng tạo, nhạy cảm, ngọt ngào bị bạn cùng phòng bí mật quay đoạn phim cậu đang thân mật với một người đàn ông khác. Khi thế giới mạng biết đến sự việc này, họ đã giễu cợt và sỉ nhục cậu bé. Một vài ngày sau, Tyler tự tử ở cầu George Washington. Cậu bé mới 18 tuổi.
Mẹ tôi đã so sánh bản thân bà với những gì đã xảy ra với Tyler và gia đình cậu.
Bà đã đau khổ theo cách mà tôi cũng không thể hiểu được, nhưng sau đó tôi mới nhận ra rằng bà đã nhớ về năm 1998, nhớ về thời gian mà bà từng phải ngồi bên giường tôi mỗi đêm, nhớ về lúc mà bà bắt tôi phải mở cửa phòng tắm, nhớ về thời gian mà cả bố mẹ đều sợ rằng tôi có thể bị làm nhục đến chết theo nghĩa đen.
Hàng triệu người có thể đâm vào tim bạn bằng những lời lẽ của họ
Ngày nay, có quá nhiều phụ huynh chỉ biết con mình đang bị sỉ nhục, đang phải chịu đựng sự ức hiếp khi đã quá muộn.
Hàng ngày, người ta online, đặc biệt là những người trẻ - những người chưa được trang bị để đối phó với điều này, và vì thế họ bị lạm dụng, bị làm tổn thương đến mức không thể tưởng tượng có thể sống tiếp tới ngày hôm sau nữa hay không, và một số thảm kịch đã xảy ra. Nó không còn ở trong thế giới ảo nữa.
ChildLine – một tổ chức phi lợi nhuận của Anh chuyên giải quyết những vấn đề của người trẻ đã đưa ra một thống kê đáng kinh ngạc vào năm ngoái: từ năm 2012 tới 2013, các cuộc gọi và email yêu cầu được giúp đỡ liên quan tới xúc phạm trong thế giới ảo tăng tới 87%.
'Điều khiến tôi hoảng hốt là một nghiên cứu khác vào năm ngoái chỉ ra rằng sự sỉ nhục mang lại cảm giác mạnh hơn cả hạnh phúc và tức giận"
Một phân tích tổng hợp cho thấy, lần đầu tiên tỷ lệ tự tử vì bị sỉ nhục trên mạng nhiều hơn đáng kể so với bị ức hiếp trực tiếp. Và điều khiến tôi hoảng hốt là một nghiên cứu khác vào năm ngoái chỉ ra rằng sự sỉ nhục mang lại cảm giác mạnh hơn cả hạnh phúc và tức giận.
Xử sự tàn ác với người khác thì không có gì là mới, nhưng với sự giúp đỡ của công nghệ, của thế giới ảo, sự sỉ nhục ấy được khuếch đại và còn lưu lại mãi mãi.
Nếu như sự xấu hổ ở thế giới thực chỉ trong phạm vi gia đình, làng xóm, trường học hay cộng đồng xung quanh, thì ở thế giới ảo, hàng triệu người có thể đâm vào tim bạn bằng những lời lẽ của họ.
Trong 2 thập kỷ qua, chúng ta đã gieo những hạt giống của sự xấu hổ và sự tổn thương trên mảnh đất văn hóa của chúng ta, cả ở thế giới thật và ảo.
Những trang lá cải, paparazzi, những chương trình truyền hình thực tế, chính trị, các hãng tin và đôi khi là hacker, tất cả đều đang gieo hạt xấu hổ.
Sợ hãi và xấu hổ, tôi lắng nghe, lắng nghe chính mình thú nhận tình yêu với Tổng thống, và tất nhiên trái tim tôi vỡ vụn khi nghe những câu nói lúc thì thỏ thẻ, lúc thì thô tục, lúc thì tàn nhẫn, thô kệch mà chính mình cũng không nhận ra.
Một vài ngày sau, báo cáo của công tố viên Kenneth Starr được trình cho Quốc hội, gồm tất cả đoạn băng, phụ đề… Chỉ cần đọc phụ đề thôi đã là quá kinh khủng rồi, nhưng vài tuần sau đó, tất cả những đoạn ghi âm được phát trên truyền hình. Một sự sỉ nhục công khai. Tôi gần như không thể chịu nổi.
Truyền thông xã hội ra đời, hậu quả còn kinh khủng hơn
12 năm trôi qua cho tới năm 2010, truyền thông xã hội ra đời. Với những trường hợp giống như tôi, hậu quả còn kinh khủng hơn nhiều.
Trong một cuộc nói chuyện qua điện thoại với mẹ vào tháng 9/2010, chúng tôi nói với nhau về trường hợp của sinh viên năm nhất ĐH Rutger tên là Tyler Clementi.
Chàng trai Tyler sáng tạo, nhạy cảm, ngọt ngào bị bạn cùng phòng bí mật quay đoạn phim cậu đang thân mật với một người đàn ông khác. Khi thế giới mạng biết đến sự việc này, họ đã giễu cợt và sỉ nhục cậu bé. Một vài ngày sau, Tyler tự tử ở cầu George Washington. Cậu bé mới 18 tuổi.
Mẹ tôi đã so sánh bản thân bà với những gì đã xảy ra với Tyler và gia đình cậu.
Bà đã đau khổ theo cách mà tôi cũng không thể hiểu được, nhưng sau đó tôi mới nhận ra rằng bà đã nhớ về năm 1998, nhớ về thời gian mà bà từng phải ngồi bên giường tôi mỗi đêm, nhớ về lúc mà bà bắt tôi phải mở cửa phòng tắm, nhớ về thời gian mà cả bố mẹ đều sợ rằng tôi có thể bị làm nhục đến chết theo nghĩa đen.
Hàng triệu người có thể đâm vào tim bạn bằng những lời lẽ của họ
Ngày nay, có quá nhiều phụ huynh chỉ biết con mình đang bị sỉ nhục, đang phải chịu đựng sự ức hiếp khi đã quá muộn.
Hàng ngày, người ta online, đặc biệt là những người trẻ - những người chưa được trang bị để đối phó với điều này, và vì thế họ bị lạm dụng, bị làm tổn thương đến mức không thể tưởng tượng có thể sống tiếp tới ngày hôm sau nữa hay không, và một số thảm kịch đã xảy ra. Nó không còn ở trong thế giới ảo nữa.
ChildLine – một tổ chức phi lợi nhuận của Anh chuyên giải quyết những vấn đề của người trẻ đã đưa ra một thống kê đáng kinh ngạc vào năm ngoái: từ năm 2012 tới 2013, các cuộc gọi và email yêu cầu được giúp đỡ liên quan tới xúc phạm trong thế giới ảo tăng tới 87%.
'Điều khiến tôi hoảng hốt là một nghiên cứu khác vào năm ngoái chỉ ra rằng sự sỉ nhục mang lại cảm giác mạnh hơn cả hạnh phúc và tức giận"
Một phân tích tổng hợp cho thấy, lần đầu tiên tỷ lệ tự tử vì bị sỉ nhục trên mạng nhiều hơn đáng kể so với bị ức hiếp trực tiếp. Và điều khiến tôi hoảng hốt là một nghiên cứu khác vào năm ngoái chỉ ra rằng sự sỉ nhục mang lại cảm giác mạnh hơn cả hạnh phúc và tức giận.
Xử sự tàn ác với người khác thì không có gì là mới, nhưng với sự giúp đỡ của công nghệ, của thế giới ảo, sự sỉ nhục ấy được khuếch đại và còn lưu lại mãi mãi.
Nếu như sự xấu hổ ở thế giới thực chỉ trong phạm vi gia đình, làng xóm, trường học hay cộng đồng xung quanh, thì ở thế giới ảo, hàng triệu người có thể đâm vào tim bạn bằng những lời lẽ của họ.
Trong 2 thập kỷ qua, chúng ta đã gieo những hạt giống của sự xấu hổ và sự tổn thương trên mảnh đất văn hóa của chúng ta, cả ở thế giới thật và ảo.
Những trang lá cải, paparazzi, những chương trình truyền hình thực tế, chính trị, các hãng tin và đôi khi là hacker, tất cả đều đang gieo hạt xấu hổ.
Thế nhưng, trong nền văn hóa sỉ nhục này, làm người khác tổn thương được trả giá. Cái giá này không đo được những gì mà các nạn nhân như Tyler và quá nhiều người, đặc biệt là phụ nữ, người dân tộc thiểu số, các thành viên trong cộng đồng người đồng tính phải gánh chịu.
Nhưng nó lại đo được lợi nhuận của những người săn tìm. Họ kiếm tiền bằng những click chuột. Càng nhiều hổ thẹn thì càng nhiều click chuột. Càng nhiều click thì càng nhiều tiền quảng cáo. Chúng ta đang ở trong một vòng tròn nguy hiểm. Chúng ta click vào những loại tin lá cải càng nhiều thì chúng ta gây nguy hiểm cho cuộc sống của đồng loại mình càng lớn.
"Môn thể thao đổ máu cần dừng lại"
Thay đổi hành vi bắt đầu bằng việc củng cố niềm tin. Chúng ta đã thấy điều đó đúng với phân biệt chủng tộc, ám ảnh với người đồng tính và rất nhiều thành kiến khác, bây giờ và trong quá khứ. Khi chúng ta thay đổi niềm tin về hôn nhân cùng giới, nhiều người được sống bình đẳng hơn. Khi chúng ta bắt đầu coi trọng sự bền vững, nhiều người đã bắt đầu tái chế rác thải.
"Chế giễu công khai là một môn thể thao đổ máu cần phải dừng lại"
Vì thế, khi văn hóa sỉ nhục bắt đầu lan rộng, cái mà chúng ta cần là một cuộc cách mạng văn hóa. Chế giễu công khai là một môn thể thao đổ máu cần phải dừng lại. Đã đến lúc cần một sự can thiệp với Internet và với nền văn hóa của chúng ta.
Tôi đã từng trải qua những ngày tháng tăm tối và sống được đến ngày hôm nay là nhờ sự bao dung và đồng cảm từ gia đình, bạn bè, các chuyên gia và thậm chí là từ những người lạ.
Thậm chí sự đồng cảm từ một người thôi cũng có thể tạo nên sự thay đổi.
Lý thuyết về sự ảnh hưởng thiểu số của nhà tâm lý xã hội Serge Moscovici đã nói rằng, thậm chí chỉ số ít nhưng nếu kiên định cũng có thể tạo sự thay đổi.
Trong thế giới ảo, chúng ta có thể tập trung vào sự ảnh hưởng thiểu số bằng cách trở thành người tiên phong.
Trở thành người tiên phong có nghĩa là thay vì làm người đứng ngoài thờ ơ, chúng ta có thể viết một lời bình luận tích cực cho ai đó hoặc báo cáo về một trường hợp bị sỉ nhục.
Trở thành người tiên phong có nghĩa là thay vì làm người đứng ngoài thờ ơ, chúng ta có thể viết một lời bình luận tích cực cho ai đó hoặc báo cáo về một trường hợp bị sỉ nhục.
Hãy tin tôi đi, những bình luận bao dung có thể giúp giảm đi những tiêu cực.
Chúng ta cũng có thể chống lại thứ văn hóa này bằng cách ủng hộ các tổ chức chuyên giải quyết những vấn đề này như Hội Tyler Clementi (Tyler Clementi Foundation) ở Mỹ. Ở Anh thì có Hội chống ức hiếp (Anti-Bullying Pro). Ở Úc có Dự án Rockit (Project Rockit).
Hãy "còm" bằng ngôn từ tích cực, thái độ bao dung
Chúng ta hay nói nhiều về quyền tự do ngôn luận, nhưng chúng ta cần nói nhiều hơn về trách nhiệm của chúng ta với tự do ngôn luận.
Tất cả chúng ta đều muốn được lắng nghe, nhưng hãy nhìn nhận sự khác nhau giữa nói có mục đích và nói để được chú ý. Bao dung giúp thế giới trở thành một nơi tốt đẹp hơn và an toàn hơn.
Chúng ta cần giao tiếp trên thế giới ảo bằng sự bao dung, tiếp cận tin tức bằng sự bao dung và click chuột bằng sự bao dung.
Tôi đã từng trải qua những ngày tháng tăm tối và sống được đến ngày hôm nay là nhờ sự bao dung và đồng cảm từ gia đình, bạn bè, các chuyên gia và thậm chí là từ những người lạ.
Thậm chí sự đồng cảm từ một người thôi cũng có thể tạo nên sự thay đổi.
Lý thuyết về sự ảnh hưởng thiểu số của nhà tâm lý xã hội Serge Moscovici đã nói rằng, thậm chí chỉ số ít nhưng nếu kiên định cũng có thể tạo sự thay đổi.
Trong thế giới ảo, chúng ta có thể tập trung vào sự ảnh hưởng thiểu số bằng cách trở thành người tiên phong.
Trở thành người tiên phong có nghĩa là thay vì làm người đứng ngoài thờ ơ, chúng ta có thể viết một lời bình luận tích cực cho ai đó hoặc báo cáo về một trường hợp bị sỉ nhục.
Trở thành người tiên phong có nghĩa là thay vì làm người đứng ngoài thờ ơ, chúng ta có thể viết một lời bình luận tích cực cho ai đó hoặc báo cáo về một trường hợp bị sỉ nhục.
Hãy tin tôi đi, những bình luận bao dung có thể giúp giảm đi những tiêu cực.
Chúng ta cũng có thể chống lại thứ văn hóa này bằng cách ủng hộ các tổ chức chuyên giải quyết những vấn đề này như Hội Tyler Clementi (Tyler Clementi Foundation) ở Mỹ. Ở Anh thì có Hội chống ức hiếp (Anti-Bullying Pro). Ở Úc có Dự án Rockit (Project Rockit).
Hãy "còm" bằng ngôn từ tích cực, thái độ bao dung
Chúng ta hay nói nhiều về quyền tự do ngôn luận, nhưng chúng ta cần nói nhiều hơn về trách nhiệm của chúng ta với tự do ngôn luận.
Tất cả chúng ta đều muốn được lắng nghe, nhưng hãy nhìn nhận sự khác nhau giữa nói có mục đích và nói để được chú ý. Bao dung giúp thế giới trở thành một nơi tốt đẹp hơn và an toàn hơn.
Chúng ta cần giao tiếp trên thế giới ảo bằng sự bao dung, tiếp cận tin tức bằng sự bao dung và click chuột bằng sự bao dung.
Chúng ta cần giao tiếp trên thế giới ảo bằng sự bao dung, tiếp cận tin tức bằng sự bao dung và click chuột bằng sự bao dung.
Trong 9 tháng qua, câu hỏi mà tôi được hỏi nhiều nhất là tại sao. Tại sao lại là bây giờ? Tại sao tôi lại quyết định thò cổ lên trên bức tường đã bao bọc xung quanh? Chẳng có gì liên quan tới chính trị.
Câu trả lời trước hết là bởi vì đã đến lúc phải chấm dứt việc nhón chân rón rén với quá khứ của tôi, đã đến lúc ngừng sống một cuộc đời nhục nhã, đã đến lúc tôi phải lấy lại câu chuyện đời mình.
Không phải chỉ để cứu bản thân tôi. Bất cứ ai đang bị tổn thương và bị sỉ nhục trước công luận cần biết một điều: Bạn có thể vượt qua, có thể không ít đau đớn, không nhanh chóng hay dễ dàng, nhưng bạn có thể đặt một cái kết khác cho câu chuyện của mình. Hãy bao dung với chính mình. Tất cả chúng ta đều xứng đáng được bao dung để sống ảo và sống thật trong một thế giới từ bi hơn.
Cảm ơn vì đã lắng nghe tôi.
Monica Lewinsky từng là thực tập sinh tại Nhà Trắng từ năm 1995. Cô được báo chí quan tâm sát sao do có “mối quan hệ không phù hợp” với cựu Tổng thống Bill Clinton. Câu chuyện tình này đã khiến cuộc đời cô thay đổi cũng như khiến sự nghiệp của cựu Tổng thống điêu đứng. Câu chuyện giữa cô thực tập sinh và ông Clinton thường được báo chí gọi là vụ bê bối Lewinsky.
TED (viết tắt của Technology – công nghệ, Entertainment – Giải trí, Design – Thiết kế) là một chuỗi những buổi hội thảo toàn cầu, ban đầu chỉ trong lĩnh vực công nghệ và thiết kế, sau được mở rộng ra các chủ đề khoa học và văn hóa.
Trong 9 tháng qua, câu hỏi mà tôi được hỏi nhiều nhất là tại sao. Tại sao lại là bây giờ? Tại sao tôi lại quyết định thò cổ lên trên bức tường đã bao bọc xung quanh? Chẳng có gì liên quan tới chính trị.
Câu trả lời trước hết là bởi vì đã đến lúc phải chấm dứt việc nhón chân rón rén với quá khứ của tôi, đã đến lúc ngừng sống một cuộc đời nhục nhã, đã đến lúc tôi phải lấy lại câu chuyện đời mình.
Không phải chỉ để cứu bản thân tôi. Bất cứ ai đang bị tổn thương và bị sỉ nhục trước công luận cần biết một điều: Bạn có thể vượt qua, có thể không ít đau đớn, không nhanh chóng hay dễ dàng, nhưng bạn có thể đặt một cái kết khác cho câu chuyện của mình. Hãy bao dung với chính mình. Tất cả chúng ta đều xứng đáng được bao dung để sống ảo và sống thật trong một thế giới từ bi hơn.
Cảm ơn vì đã lắng nghe tôi.
Monica Lewinsky từng là thực tập sinh tại Nhà Trắng từ năm 1995. Cô được báo chí quan tâm sát sao do có “mối quan hệ không phù hợp” với cựu Tổng thống Bill Clinton. Câu chuyện tình này đã khiến cuộc đời cô thay đổi cũng như khiến sự nghiệp của cựu Tổng thống điêu đứng. Câu chuyện giữa cô thực tập sinh và ông Clinton thường được báo chí gọi là vụ bê bối Lewinsky.
TED (viết tắt của Technology – công nghệ, Entertainment – Giải trí, Design – Thiết kế) là một chuỗi những buổi hội thảo toàn cầu, ban đầu chỉ trong lĩnh vực công nghệ và thiết kế, sau được mở rộng ra các chủ đề khoa học và văn hóa.
Người thuyết trình tại TED có 18 phút để trình bày ý kiến của mình theo cách sáng tạo và lôi cuốn nhất mà họ có thể.
Tuesday, April 7, 2015
TIN TỨC VÀ BÌNH LUẬN VỀ HOA KỲ-TRUNG QUỐC
Mối quan ngại của Mỹ về "trường thành trên biển Đông"
Hải Ninh- RFA
2015-04-03
2015-04-03
Những căn cứ mới "chưa từng thấy"
Tại một hội nghị hàng hải ở Australia hôm 31/3, Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ, Đô Đốc Harry Harris, lên tiếng tố cáo Trung Quốc đang “bơm cát lên các rạn san hô, một số ngập nước, và lát bê tông. Trung Quốc đã tạo ra một khu vực nhân tạo rộng hơn 4 km vuông”. Đây là một trong những chỉ trích mạnh mẽ nhất và ở cấp cao nhất từ phía Mỹ về dự án cải tạo đất biển đảo, theo tướng Harry Harris là “chưa từng thấy" của Trung Quốc.
Bà Phương Nguyễn, chuyên gia của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ở Washington, D.C., nhận định:
Phương Nguyễn: Nó là một lời cảnh báo cho cuộc gặp gỡ giữa các quan chức hàng hải. Nó cũng cho thấy Mỹ đã thức tỉnh và nhận ra một thực tế rằng Trung Quốc sẽ không dừng các hoạt động mà họ đang làm, mặc cho Mỹ có điều tiết hay cố gắng hợp tác với họ
Các hình ảnh vệ tinh cho thấy một loạt các hoạt động xây dựng đang diễn ra nhanh chóng tại các rạn san hô và đảo đá do Trung Quốc kiểm soát ở Trường Sa. Trong số đó có việc xây các cảng, bến cảng, sân bay, toà nhà và ít nhất một đường băng. Tháng trước, phát ngôn viên Bộ Ngoại
Ngoại giao Mỹ Jen Psaki tỏ ra lo ngại rằng chương trình này là một nỗ lực nhằm “quân sự hoá” những vị trí tiền đồn tại khu vực có tranh chấp.
Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Trường, chủ tịch Trung tâm Chiến lược và phát triển quan hệ quốc tế CSSD, tại Việt Nam cho biết sự nguy hiểm của việc Trung Quốc xây dựng đảo nhân tạo tại Biển Đông như sau:
T.S. Nguyễn Ngọc Trường: Cái này trước mắt là sẽ tạo ra những căn cứ mới ở biển Đông. Sau khi hoàn thành, Trung Quốc chắc chắn sẽ thiết lập vùng nhận dạng phòng không ở Biển Đông. Vùng nhận dạng phòng không này sẽ nối các điểm mà Trung Quốc xây dựng trái phép ở Trường Sa với Hoàng Sa và các căn cứ ở Hải Nam thành một tứ giác chiến lược. Kiểu gì đó thì tuỳ thuộc vào vị trí, như ở đảo Hải Nam lại khác và ở đất liền lại khác. Trên các vùng nhận dạng phòng không đó, Trung Quốc chắc chắn sẽ triển khai tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo ở vùng sâu nhất ở biển Đông. Như vậy là Trung Quốc sẽ khống chế khu vực Biển Đông.
Khả năng Trung Quốc xây dựng vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) ở Biển Đông vốn là điều mà các chuyên gia dự báo và lo ngại. Hồi đầu năm ngoái, một tờ báo của Nhật đưa ra thông tin rằng không quân Trung Quốc đã có kế hoạch lập một vùng nhận dạng phòng không mới ở Biển Đông, bao trùm quần đảo Hoàng Sa và lan ra một vùng rộng xung quanh. Thông tin này bị phía Trung Quốc bác bỏ.
Trên thế giới có khoảng 20 nước đã có vùng nhận dạng phòng không. Thường thì các vùng này chỉ bao trùm những vùng lãnh thổ không tranh chấp và không áp dụng với máy bay nước ngoài không có ý định bay vào không phận, và các vùng này cũng thường không chồng lấn lên nhau. Hồi năm 2013, Trung Quốc đã khiến Mỹ phgẫn nộ khi tuyên bố xây dựng một vùng nhận dạng phòng không ở Biển Hoa Đông nơi có tranh chấp với Nhật.
Hy vọng nào cho Biển Đông
Trung Quốc khẳng định chủ quyền gần như toàn bộ khu vực Biển Đông, chồng lấn với một số quốc gia trong khu vực như Việt Nam, Malaysia, Philippines. Bắc Kinh luôn cho rằng tuyên bố về đường 9 đoạn của họ là có căn cứ lịch sử và Mỹ không nên can thiệp.
Nhiều chuyên gia cho rằng chỉ có Mỹ mới có khả năng hoá giải tình thế ở Biển Đông, tuy nhiên, chính Washington cũng đang bối rối về những bước đi tiếp theo. Bà Phương Nguyễn thuộc trung tâm CSIS ở Washington cho biết:
Phương Nguyễn: Gần đây, nhiều nhà lập pháp tên tuổi của Mỹ đã lên tiếng về vấn đề này và kêu gọi chính quyền của Tổng thống Barack Obama đưa ra một chính sách về việc Mỹ làm thế nào đảm bảo tự do hàng hải và hạn chế việc Trung Quốc gây áp lực đối với các đồng minh của Mỹ trong khu vực. Đó là những dấu hiệu tốt song chúng ta vẫn còn phải xem mọi việc sẽ biến chuyển như thế nào.
Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Trường cho rằng Bắc Kinh và Washington có nhiều cơ hội có thể trao đổi với nhau về vấn đề này. Ông nói:
Ts. Nguyễn Ngọc Trường: Tôi nghĩ Mỹ với Trung Quốc vẫn còn rất nhiều cửa để thương lượng với nhau bởi vì hai bên còn có nhiều lợi ích chồng chéo đan xen, vừa đấu tranh, vừa hợp tác, vừa là đối tác vừa là đối thủ. Hai nước vẫn có khoảng 90 cơ chế để giải quyết vấn đề này trong đó có những cơ chế cấp cao. Tháng 9 này ông Chủ tịch Tập Cận Bình sẽ đi thăm Washington, đó là cái cơ chế cấp cao nhất.
Hiện chính phủ Mỹ vẫn đang thực hiện chiến dịch chuyển 60% lực lượng sang Thái Bình Dương nhằm tái cân bằng với Trung Quốc. Trong một phát biểu được tờ Wall Street Journal dẫn lại mới đây, chuẩn đô đốc Christopher Paul, Tư lệnh phó Hạm đội Thái Bình Dương, cho biết Mỹ sẽ triển khai thêm một số tàu chiến tới khu vực này, bao gồm tàu khu trục tàng hình lớp Zumwalt. Đây là loại tàu hiện đại bậc nhất của hải quân Mỹ, có trực thăng cơ hữu, có hình thể chống radar, dàn radar chống hỏa tiễn tối tân nhất, được trang bị hằng trăm tên lửa tấn công tàu, tàu ngầm và mục tiêu trên mặt đất.
Gần đây, Mỹ đã cung cấp cho Việt Nam một số tàu tuần tra tốc độ cao, cho thấy những dấu hiệu về mối quan tâm của Mỹ tới việc Việt Nam đảm bảo an ninh hàng hải. Ông Nguyễn Ngọc Trường nói:
Nguyễn Ngọc Trường: Mỹ không thể vì Việt Nam mà gây sự hoặc gây chiến với Trung Quốc nhưng việc tăng cường sức mạnh và khả năng bảo vệ vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế cũng như lãnh hải của Việt Nam là điều Mỹ rất quan tâm. Cái này nó liên quan trực tiếp tới việc đảm bảo an ninh và tự do hàng hải. Bởi vì Trung Quốc và Việt Nam đều cam kết về an ninh và tự do hàng hải nhưng mà việc Trung Quốc làm ở Hoàng Sa và Trường Sa không hề tỏ ra Trung Quốc muốn thực hiện điều này.
Về vấn đề xây dựng đảo nhân tạo trên Biển Đông, Trung Quốc khẳng định việc này không nhằm tới bất cứ nước nào và cũng không ảnh hưởng tới bất kỳ ai. Trung Quốc bác bỏ chỉ trích của các bên và rằng việc xây dựng trên lãnh thổ là hoàn toàn hợp pháp vì được thực hiện trên lãnh thổ của họ.
Báo Trung Quốc: Mỹ sẽ thất bại khi khuấy động biển Đông
Hãng tin của Trung Quốc nhắc tới đề xuất của tư lệnh Hạm đội 7 của Hải quân Mỹ, ông Robert Thomas, kêu gọi các quốc gia ASEAN thành lập một lực lượng tuần tra chung ở biển Đông.
- Một phóng sự về việc các học sinh hút shisha, hay còn gọi là "thuốc lào Ảrập", gây ra nhiều phản ứng tới mức chính quyền phải vào cuộc và một đài truyền hình phải xin lỗi.
05.04.2015
Hãng tin chính thức của Trung Quốc hôm nay đăng bài bình luận chỉ trích phát biểu của một Tư Lệnh lực lượng Thái Bình Dương của Mỹ rằng Bắc Kinh đang “xây Vạn Lý Trường Thành bằng cát” thông qua các hoạt động lấn biển ở biển Đông.
http://www.voatiengviet.com/content/tan-hoa-xa-noi-hoa-ky-se-that-bai-khi-khuay-dong-bien-dong/2706943.html
Tân Hoa Xã cho rằng các bình luận gây kích động của một số sĩ quan quân sự Mỹ gần đây về “mối đe dọa của Trung Quốc” ở biển Nam Trung Hoa (mà Việt Nam gọi là biển Đông) nhằm mục đích “gây bất ổn” trong khu vực, và “chắc chắn sẽ thất bại”.
Hãng tin của Trung Quốc nhắc tới đề xuất của tư lệnh Hạm đội 7 của Hải quân Mỹ, ông Robert Thomas, kêu gọi các quốc gia ASEAN thành lập một lực lượng tuần tra chung ở biển Đông với sự tham gia của Nhật Bản.
Tân Hoa Xã cho rằng những bình luận như vậy của các quan chức quân sự cấp cao của Hoa Kỳ “gây quan ngại trong khu vực”, và “làm bất ổn thêm”.
Mới đây nhất, trả lời tờ The Wall Street Journal, Tư Lệnh lực lượng Mỹ tại Thái Bình Dương, Đô Đốc Harry Harris Jr., nói Bắc Kinh đang xây “một vạn lý trường thành” trên vùng biển đang trong vòng tranh chấp.
Đô Đốc Harris được trích lời nói rằng: “Khi xét toàn diện các hành động khiêu khích của Trung Quốc đối với các nước giành chủ quyền nhỏ hơn, sự thiếu minh bạch của đường 9 đoạn và tình trạng bất cân xứng giữa khả năng của Trung Quốc so với các nước láng giềng nhỏ - thì thật không đáng ngạc nhiên là quy mô của các công trình xây các đảo nhân tạo đặt ra những nghi vấn nghiêm trọng về ý đồ của Trung Quốc.”
Ông cho rằng cái đường 9 đoạn mà Trung Quốc vạch ra để đòi chủ quyền trên hầu hết Biển Đông, không phù hợp với luật quốc tế. Ông nói việc Trung Quốc xúc tiến các hoạt động cải tạo các bãi đá với quy mô chưa từng thấy trước đây là điều “rất đáng lo ngại”.
Tư Lệnh lực lượng Thái Bình Dương của Mỹ khẳng định chính sách tái cân bằng lực lượng sang khu vực Thái Bình Dương của chính phủ Mỹ đang đi đúng hướng trong mục tiêu chuyển 60% lực lượng sang châu Á - Thái Bình Dương trước năm 2020.
Washington đã điều tàu đổ bộ mới nhất của Hải quân Hoa Kỳ, chiếc USS America sang khu vực. Đây là một tàu đổ bộ được thiết kế để chở một số lượng lớn binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến phục vụ các nhiệm vụ quân sự và cứu trợ nhân đạo. Tàu có bãi đáp cho các loại chiến đấu cơ và máy bay trực thăng.
Việt Nam chưa lên tiếng về các bình luận của các sĩ quan Mỹ về vấn đề biển Đông.
Theo Xinhua, The Wall Street Journalhttp://www.voatiengviet.com/content/tan-hoa-xa-noi-hoa-ky-se-that-bai-khi-khuay-dong-bien-dong/2706943.html
Mỹ cố tình cho chiến đấu cơ đáp xuống Đài Loan ?
Chiến đấu cơ F-18 trong hình cùng kiểu với hai chiếc đã hạ cánh khẩn cấp xuống Đài Loan ngày 01/04/2015.REUTERS
Vụ hai chiến đấu cơ F-18 của Thủy quân lục chiến Mỹ đáp xuống Đài Loan hôm 01/04/2015 – vì bất cứ lý do gì – là một sự kiện cực kỳ hiếm hoi. Câu hỏi được giới quan sát đặt ra ngay sau khi vụ việc được tiết lộ là phải chăng Hoa Kỳ đã cố tình cho hai chiếc phi cơ này hạ cánh xuống vùng lãnh thổ rất nhạy cảm trong quan hệ Mỹ -Trung này để cảnh cáo Bắc Kinh ?
Thiên về giả thuyết này là nhật báo Mỹ Washington Times, thường được xếp vào diện '‘diều hâu’' tại Mỹ. Trong một bài phân tích công bố ngay hôm 01/04, tờ báo này không ngần ngại chạy tựa « Việc các chiến đấu cơ phản lực của Thủy quân lục chiến (Mỹ) đáp xuống Đài Loan gởi thông điệp đến Trung Quốc ».
Theo tờ báo, đó là một « thông điệp chính trị mà Lầu Năm Góc gởi đến Bắc Kinh sau một cuộc tập trận gần đây, huy động đến oanh tạc cơ chiến lược mà Trung Quốc tổ chức gần đảo quốc (Đài Loan) vốn là một đối thủ chủ chốt của Bắc Kinh ».
Tờ báo đã trích dẫn Rick Fisher, chuyên gia quân sự cấp cao tại Trung tâm Đánh giá và Chiến lược Quốc tế, theo đó hai chiếc phi cơ Mỹ hoàn toàn có thể hạ cánh khẩn cấp xuống một địa điểm ít gây tranh cãi hơn, chẳng hạn như sân bay trên đảo Shimoji của Nhật Bản, chỉ cách Đài Loan khoảng 120 dặm, tức là không đầy 200 cây số.
Đối với chuyên gia này, việc hạ cánh gọi là '‘khẩn cấp’' của hai chiếc máy bay chiến đấu Mỹ, kể cả khi không cố ý, cũng là một tín hiệu mạnh gởi đến Bắc Kinh, cho thấy « quyết tâm của Mỹ hai ngày sau khi Trung Quốc sử dụng máy bay ném bom đời mới H-6K của họ – một loại oanh tạc cơ có thể mang theo tên lửa hạt nhân hành trình – trong những cuộc tập trận mà mục tiêu là đe dọa các lực lượng Mỹ đóng trên đảo Guam ».
Ngoài ra, báo Washington Times còn thấy rằng việc Trung Quốc cho oanh tạc cơ mang tên lửa hạt nhân của họ bay sát Đài Loan đã gợi lại các hành động hù dọa về mặt quân sự mà Bắc Kinh đã tiến hành nhân sự kiện gọi là "cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan" vào năm 1996, khi Trung Quốc bắn tên lửa thử nghiệm về hướng phía bắc và phía nam của Đài Loan để đe dọa cử tri trước cuộc bầu cử Tổng thống.
Vào khi ấy, chính quyền Clinton đã phản ứng mạnh mẽ khi điều động hai tiểu hạm đội tàu sân bay đến khu vực, sẵn sàng bảo vệ Đài Loan nếu cần thiết.
Dĩ nhiên là về phần mình, chính quyền Mỹ không thể nào chấp nhận giả thuyết về một hành động cố tình. Phát biểu vào hôm qua tại Washington, Thiếu tá Paul L. Greenberg, người phụ trách báo chí của binh chủng Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ khẳng định rằng quả là một trong hai chiếc F-18 gặp sự cố kỹ thuât, và việc phi công chọn đáp xuống Đài Loan xuất phát từ sự gần gũi của sân bay Đài Nam cũng như điều kiện thời tiết cho phép hạ cánh an toàn.
Phát ngôn viên này nhấn mạnh rằng trong mọi phi vụ, yếu tố an toàn luôn luôn là một ưu tiên hàng đầu : « Phi công của chúng tôi có trách nhiệm cho máy bay của mình đáp xuống phi trường gần nhất đủ tiêu chuẩn nếu họ cảm thấy tình hình trên phi cơ không an toàn… Quy định đó là để bảo vệ các phi công, phi hành đoàn và máy bay. »
Chuyên gia phân tích Michael Swaine, thuộc Viện Carnegie vì Hòa bình Quốc tế, trụ sở tại Washington cũng không thấy là Quân đội Mỹ cố tình cho chiến đấu cơ đáp xuống Đài Loan để dằn mặt Trung Quốc.
Theo chuyên gia này Lầu Năm Góc là một định chế quân sự chuyên nghiệp và khi một chiếc máy bay gặp trục trặc kỹ thuật, bảo đảm an toàn cho phi hành đoàn và máy bay là mối quan tâm hàng đầu khi lựa chọn một địa điểm hạ cánh.
Trong bối cảnh đó, theo ông Swaine, rất có thể là trong vụ F-18 Mỹ đáp xuống Đài Loan, hoàn toàn không có một dụng ý chính trị nào.
Theo tờ báo, đó là một « thông điệp chính trị mà Lầu Năm Góc gởi đến Bắc Kinh sau một cuộc tập trận gần đây, huy động đến oanh tạc cơ chiến lược mà Trung Quốc tổ chức gần đảo quốc (Đài Loan) vốn là một đối thủ chủ chốt của Bắc Kinh ».
Tờ báo đã trích dẫn Rick Fisher, chuyên gia quân sự cấp cao tại Trung tâm Đánh giá và Chiến lược Quốc tế, theo đó hai chiếc phi cơ Mỹ hoàn toàn có thể hạ cánh khẩn cấp xuống một địa điểm ít gây tranh cãi hơn, chẳng hạn như sân bay trên đảo Shimoji của Nhật Bản, chỉ cách Đài Loan khoảng 120 dặm, tức là không đầy 200 cây số.
Đối với chuyên gia này, việc hạ cánh gọi là '‘khẩn cấp’' của hai chiếc máy bay chiến đấu Mỹ, kể cả khi không cố ý, cũng là một tín hiệu mạnh gởi đến Bắc Kinh, cho thấy « quyết tâm của Mỹ hai ngày sau khi Trung Quốc sử dụng máy bay ném bom đời mới H-6K của họ – một loại oanh tạc cơ có thể mang theo tên lửa hạt nhân hành trình – trong những cuộc tập trận mà mục tiêu là đe dọa các lực lượng Mỹ đóng trên đảo Guam ».
Ngoài ra, báo Washington Times còn thấy rằng việc Trung Quốc cho oanh tạc cơ mang tên lửa hạt nhân của họ bay sát Đài Loan đã gợi lại các hành động hù dọa về mặt quân sự mà Bắc Kinh đã tiến hành nhân sự kiện gọi là "cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan" vào năm 1996, khi Trung Quốc bắn tên lửa thử nghiệm về hướng phía bắc và phía nam của Đài Loan để đe dọa cử tri trước cuộc bầu cử Tổng thống.
Vào khi ấy, chính quyền Clinton đã phản ứng mạnh mẽ khi điều động hai tiểu hạm đội tàu sân bay đến khu vực, sẵn sàng bảo vệ Đài Loan nếu cần thiết.
Dĩ nhiên là về phần mình, chính quyền Mỹ không thể nào chấp nhận giả thuyết về một hành động cố tình. Phát biểu vào hôm qua tại Washington, Thiếu tá Paul L. Greenberg, người phụ trách báo chí của binh chủng Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ khẳng định rằng quả là một trong hai chiếc F-18 gặp sự cố kỹ thuât, và việc phi công chọn đáp xuống Đài Loan xuất phát từ sự gần gũi của sân bay Đài Nam cũng như điều kiện thời tiết cho phép hạ cánh an toàn.
Phát ngôn viên này nhấn mạnh rằng trong mọi phi vụ, yếu tố an toàn luôn luôn là một ưu tiên hàng đầu : « Phi công của chúng tôi có trách nhiệm cho máy bay của mình đáp xuống phi trường gần nhất đủ tiêu chuẩn nếu họ cảm thấy tình hình trên phi cơ không an toàn… Quy định đó là để bảo vệ các phi công, phi hành đoàn và máy bay. »
Chuyên gia phân tích Michael Swaine, thuộc Viện Carnegie vì Hòa bình Quốc tế, trụ sở tại Washington cũng không thấy là Quân đội Mỹ cố tình cho chiến đấu cơ đáp xuống Đài Loan để dằn mặt Trung Quốc.
Theo chuyên gia này Lầu Năm Góc là một định chế quân sự chuyên nghiệp và khi một chiếc máy bay gặp trục trặc kỹ thuật, bảo đảm an toàn cho phi hành đoàn và máy bay là mối quan tâm hàng đầu khi lựa chọn một địa điểm hạ cánh.
Trong bối cảnh đó, theo ông Swaine, rất có thể là trong vụ F-18 Mỹ đáp xuống Đài Loan, hoàn toàn không có một dụng ý chính trị nào.
Trung Quốc nổi giận vì chiến đấu cơ Mỹ hạ cánh xuống Đài Loan
Trung Quốc hôm qua bày tỏ sự tức giận sau khi hai chiến đấu cơ Mỹ hạ cánh xuống đảo Đài Loan vì gặp sự cố.
Các chiến đấu cơ F-18 của Mỹ. Ảnh minh họa: RT
|
Hãng thông tấn Đài Loan CNA cho hay hai chiếc F-18 hạ cánh xuống một căn cứ không quân ở phía nam của hòn đảo hôm 1/4 vì trục trặc động cơ. Tuy nhiên, không rõ các máy bay này từ đâu đến và đang đi đâu.
"Dù việc hạ cánh nằm ngoài dự kiến và xảy ra hoàn toàn do sự cố kỹ thuật, Đài Loan đã rất tốt khi cho phép các phi công đang gặp nạn được hạ cánh an toàn", phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Mỹ Henrietta Levin nói.
Tuy nhiên, tại cuộc họp báo thường kỳ, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Doanh cho biết nước này đã có phản đối chính thức đến phía Mỹ.
"Trung Quốc yêu cầu Mỹ nghiêm túc tuân thủ 'chính sách một Trung Quốc' và ba thỏa thuận chung giữa Mỹ và Trung Quốc, đồng thời xử lý vụ việc này một cách thận trọng, hợp lý", bà Hoa nói, nhắc đến những thỏa thuận giữa hai bên công nhận Bắc Kinh là chính quyền duy nhất của Trung Quốc.
Truyền thông Đài Loan cho hay đây là lần đầu tiên máy bay Mỹ hạ cánh xuống đảo kể từ năm 1980 và nghi ngờ hành động này là phản ứng của Washington đến một cuộc tập trận chưa từng có của Bắc Kinh ở vùng biển phía tây Thái Bình Dương, đông Đài Loan.
Mỹ có nghĩa vụ giúp Đài Loan tự vệ theo Đạo luật Quan hệ Đài Loan năm 1979, khi Washington cắt đứt quan hệ chính thức với hòn đảo để công nhận chính quyền Trung Quốc ở Bắc Kinh.
Bắc Kinh vốn xem hòn đảo là một phần lãnh thổ đang chờ thống nhất, có thể bằng vũ lực nếu cần thiết. Quan hệ giữa hai bờ eo biển Đài Loan đã ấm lên kể từ khi ông Mã Anh Cửu lên lãnh đạo.
Những thương vụ vũ khí của Mỹ với Đài Loan trong những năm gần đây, hay bất kỳ liên lạc chính thức nào giữa hai lực lượng vũ trang đều vấp phải sự lên án mạnh mẽ của Trung Quốc. Tuy nhiên, chúng chưa gây tổn hại lâu dài đến quan hệ của Bắc Kinh với Washington hay Đài Bắc.
Anh Ngọc
Mỹ mở giai đoạn 'trục châu Á' mới
Bộ trưởng quốc Mỹ cho biết Washington đang mở một giai đoạn mới trong chiến lược tái cân bằng ở châu Á-Thái Bình Dương và khẳng định tầm quan trọng của TPP.
"Tôi cam kết sẽ giám sát giai đoạn tái cân bằng tiếp theo, chiến lược này sẽ tăng cường và đa dạng hóa các cam kết của chúng tôi trong khu vực", AP dẫn lời Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter, phát biểu tại Viện McCain ở Đại học Arizona. Ông cho biết Mỹ sẽ đầu tư vào vũ khí cao cấp như máy bay ném bom tầm xa tàng hình mới, làm mới liên minh quân sự với Nhật và mở rộng quan hệ hợp tác thương mại.
Carter thúc giục quốc hội cấp quyền cho Tổng thống Barack Obama hoàn tất Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP). Đây là hiệp ước với sự tham gia của 12 quốc gia mà Carter cho rằng sẽ là lời hứa hẹn "khổng lồ" về cơ hội việc làm và tăng trưởng kinh tế ở Mỹ. Ông cho biết TPP dự kiến sẽ giúp xuất khẩu Mỹ tăng 123,5 tỷ USD trong thập kỷ tới.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ nhấn mạnh TPP là một trong những phần quan trọng nhất trong nỗ lực của chính quyền để chuyển sự chú ý nhiều hơn đến châu Á-Thái Bình Dương, sau hơn một thập kỷ tập trung vào các cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan. Ông cho biết TPP quan trọng đối với ông giống như một tàu sân bay mới.
Chính quyền Obama không phải là bên đầu tiên chú trọng đến việc xây dựng mối quan hệ mạnh mẽ hơn trong khu vực châu Á. Chính quyền George W. Bush trước đó lập luận tương tự khi bày tỏ lo ngại về sự hiện đại hóa quân sự nhanh chóng của Trung Quốc.
|
Monday, April 6, 2015
NHẬT KÝ TÔ HẢI
06/04/2015
Những điều lạ đời đến phát sợ ở cái ai-pi-u 132
Nhật ký mở lần thứ 135
Tô Hải
04-04-2015
Thưa Đại lão nhạc sĩ,
Xin Đại lão nhạc sĩ dẹp hết bầu máu nóng, để cho lòng mình thảnh thơi. Những trò này của “phe ta” vốn đã có từ lâu quá đi rồi. Nó đã làm không phải thế hệ của Đại lão và thế hệ chúng tôi mà những mấy thế hệ trên chúng ta nữa, tin đến gãy cổ, bị mắc lừa cho đến khi chính mình và gia đình mình tan nát, chẳng hạn như bà Nguyễn Thị Năm, một gương mặt thánh thiện, rốt cuộc không chỉ bà bị thí mạng mà con cháu đến nay vẫn còn chưa gượng lên được. Và có thế mới dẫn đến cái ĐẠI BI KỊCH LỊCH SỬ DÂN TỘC của ngày hôm nay, khi mà sự đổ vỡ niềm tin đã loang ra trong khắp nước, không có trò gì bịt mắt nổi nhân dân trong nước nữa – một tầng lớp gọi là có chút chữ nghĩa thì lên tiếng bằng những phản biện sắc bén trên các trang mạng xã hội từ nhiều năm nay, còn nhiều tầng lớp thầm lặng khác đáng quan tâm hơn, những giai tầng từng được tôn vinh là QUÂN CHỦ LỰC và từng phơi thây ở chiến trường, trên giá súng, với tất cả niềm vinh quang không có thực, thì sau ngày “khoai sắn lên ngôi” chiếm toàn bộ lãnh thổ vào tay, chính những con người đáng được ưu tiên ấy lại phải chết bằng đủ mọi cách: mất việc, mất bảo hiểm, mất đất, con cái ra đứng đường và đi bán thân xác trên khắp toàn cầu... Những tầng lớp được coi là cơ bản trong xã hội hiện đang phát đi bao nhiêu lời kêu cứu thảm thiết, vô ngôn, và hoàn toàn vô vọng.
Bây giờ đây khi thế giới đã bước sang một kỷ nguyên mới, “phe ta” sụp đổ hơn 30 năm rồi song rải rác đó đây, do điều kiện địa-chính trị đặc thù, ngôi báu của một vài chúa tể trong phe vẫn chưa mất, và các phe nhóm chúa tể liều lĩnh ấy vẫn còn quyết “cố đấm ăn xôi” để giữ, thì để đeo được mặt nạ hòa nhập vào với nhân loại văn minh, không bị thải loại, họ lại phải diễn lại những trò diễn cũ mèm đã diễn từ thuở nảo thuở nào, nhưng có thay đào kép mới, nhất là điểm tô thêm dăm ba lời cải lương, để cho chính khách toàn cầu đến xem, cốt được thế giới chấp nhận cho đứng vào hàng ngũ những tổ chức mang tính nhân loại mà trước đây họ từng cực lực chống và bây giờ trong tim đen vẫn chống đến cùng, mà bề ngoài thì lại thơn thớt ve vãn, thì có lạ gì đâu.
Kẻ đầu têu bày trò phải nói là tên Đại Hán gian manh, vốn còn nghĩ ra nhiều thứ trò ma mãnh gấp mười lần hơn kia và nếu như chúng tôi chưa quên thì dưới thời Mao cũng đã có những cuộc lôi kéo thế giới bịp bợm vào hạng siêu mà Đại lão cố hồi ức mà xem, có phải thủa ấy, tuổi trẻ, trí nông, chúng ta đều tưởng lầm là nhân loại văn minh luôn luôn hướng về chủ nghĩa cộng sản, cho nên không ai là không sung sướng vỗ tay, như mở cờ trong bụng, có phải thế không? Còn bây giờ? Thiết nghĩ, đó chỉ là những trò ế khách lúc chợ chiều, họp ở Hà Nội thì cứ họp, còn hàng trăm nghìn công nhân biểu tình ở các địa phương miền Nam có vì những cuộc họp ấy mà giải tán đâu nào. Từ đó mà suy, hỏi làm sao mà làm được chuyện “vải thưa che mắt thánh”, dù “nghệ sĩ” của chúng ta có phùng mang trợn má “diễn trò dân chủ” thật trôi chảy. Vậy thì xin hãy cứ yên tâm mà xem trò cho nó xôm, thưa Đại lão nhạc sĩ.
Bauxite Việt Nam
|
Vậy là cho đến giờ này, 9h30’ ngày 4-4-2015, kiên trì và “quyết liệt” đi mò tìm đến mỏi mắt, hết hơi… khắp báo in, báo mạng của đảng-nhà-nước, mình vẫn bị… thất vọng vì không hề thấy toàn văn cái BẢN TUYÊN BỐ HÀ NỘI ở nơi mô mà nghe qua lời ông Sinh Hùng, mỏng môi hay… hót đã tổng kết trong báo cáo bế mạc là… được sự “đồng thuận của toàn thể 1.600 vị nghị sỹ đủ mọi mầu sắc của toàn cái thế giới” (!?), loạn xà ngầu nhận thức chính trị, tôn giáo,triết lý, ý thức hệ về cái Đúng-Sai-Tốt-Xấu, không chỉ ở bình diện thế giới mà còn ở ngay nội bộ của từng nước, như Việt Nam ta, chứ chẳng nói đâu xa.
Nếu quả là như thế thì… ĐÚNG LÀ SỰ KIỆN CÓ MỘT KHÔNG HAI khi 1.600 bàn tay đều giơ lên … ủng hộ cái mà Đảng Cộng sản VN này muốn có và quan tâm hàng đầu. Đó chẳng phải là chuyện nhỏ “an ninh mạng”! Cũng chẳng phải chuyện “định hình cơ chế mới về quản trị… nước và vệ sinh”! Càng không phải là chuyện quá… khó “phát triển bền vững tài chính và thương mại thế giới”! Tất cả chỉ trông mong ở cái câu nghe có vẻ sai văn phạm: “Luật pháp quốc tế trong mối quan hệ với chủ quyền quốc gia: KHÔNG CAN THIỆP VÀO CÔNG VIỆC NỘI BỘ VÀ NHÂN QUYỀN!” Nói trắng ra là: NHÂN QUYỀN CỦA CHÚNG TÔI KHÁC NHÂN QUYỀN CỦA CÁC ANH! ĐỪNG CÓ XỚ RỚ VÀO VIỆC CAI TRỊ NỘI BỘ CỦA CHÚNG TÔI!
Do cái câu này rất chi là lủng củng (có lẽ để “bẫy” mấy anh phiên dịch vào kiểu dịch ý chứ không dịch lời?) nên mình cứ chờ, chờ xem nguyên văn nó ra sao mà được cả thế giới “đồng thuận” đến thế! Nhưng chẳng hiểu làm sao mà đến nay, hoặc do Tuyên huấn duyệt quá kỹ trước khi cho phổ biến, hoặc các anh trên quyết định “cho nó vô… quên lãng” vì có những gì đó mà anh Hùng trót… “chém gió” quá tay! Còn báo chí thế giới mà mình cũng “sớt” qua những tờ có uy tín nhất thì… đưa tin, bình luận về cái Ai-Pi U này họ cũng chẳng hề dành cho một vài dòng chữ, chưa nói đến một bản tuyên bố à la mode tuyên huấn Việt “dài dòng, lắm chữ mà chẳng nói gì”.
Cũng chẳng giấu giếm gì mọi người:
1 -Do chẳng có thể làm gì ngoài việc suốt ngày dán mắt vào màn hình máy tính… để tồn tại qua ngày,
2 -Do bản tính hay mơ mộng, mong chờ có một sự thay đổi đột xuất trong các thứ xoay chuyển tình thế đất nước nhờ một vài cái hội nghị quốc tế đã xảy ra trong lịch sử từ Potsdam, Genève, Paris… mà cái nước Việt Nam bỗng cả thế giới biết mặt, biết tên, thì… biết đâu đấy 160 nước, với 1.600 nhà “quyền lực tối cao” (lập pháp) đến Việt Nam lần này chẳng giúp cho nước mình bớt bớt cái xấc xược nhất thế giới vì “đã đánh thắng 2 đế quốc to” đi chăng?
Thế là, vừa lẩm cẩm, vừa rỗi hơi, vừa mơ mộng… mình đã dám vỗ ngực tự xưng là: MỘT TRONG NHỮNG NGƯỜI RỖI HƠI NHẤT ĐÃ THEO DÕI KHÔNG BỎ SÓT BẤT CỨ MỘT CUỘC TRUYỀN HÌNH TẠI CHỖ, ĐỌC GẦN HẾT CÁC THỨ PHÓNG SỰ, BÌNH LUẬN, BẢN TIN NÀO CÓ DÍNH DÁNG TỚI CÁI AI-PI-U NÀY.
Và cho đến ngày nó … giải tán! Thì mọi hy vọng về nó lấy một tiếng nói ủng hộ người dân Việt bị tước mọi quyền làm ăn, sinh sống, phát biểu, suy nghĩ, nói chung là quyền ĐƯỢC LÀM NGƯỜI đều… có kết quả là KHÔNG và KHÔNG!
Quả là “Tài Tình” khi các ông “đại-vương-tư-bản-cộng-sản” Việt đã lãnh đạo “ma lanh-khéo léo” đến mức chẳng ai dám nói một câu nào vào tai dân chúng tôi rằng: “Các nhà lãnh đạo VN hãy “cố gắng” cải thiện một tí dân chủ - nhân quyền, cho bọn trí thức một chút tự do được phản biện, được viết báo, truy cập Internet mà không lo bị “nhập kho” đi chứ! Pi-Pi-Tè đến nơi rồi! Chúng tôi sẽ lờ đi cho “cái đuôi Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa” của các ông mà công nhận cho là các ông đã có “kinh tế thị trường đầy đủ” theo các ông yêu cầu!
Nhưng tuyệt nhiên không! Hay là cũng có ai đó có phát biểu “lạc đề” nhưng do có được sự lãnh đạo sát sao và quyết liệt của triều đình nên… mọi phát biểu gì có lợi cho người dân Việt đều bị “kiểm duyệt, bỏ?!” Cứ nghe cái ông Chủ tịch Ai-Bị-U Shaber Chowdhury phát biểu mà ngán ngẩm: Nội dung cụ thể thì chẳng ai nghe thấy, nhìn thấy, nhưng báo chí của anh Huynh thì công khai lời tổng kết của ông ta như sau: “Ông Chaber Chowdhury khẳng định: Nước chủ nhà Việt Nam có vai trò quan trọng trong tất cả các nội dung của Đại hội đồng (?!) từ khâu tổ chức đến việc tích cực dóng góp ý kiến tại các diễn đàn thảo luận” (T.Trẻ 2/4/2015, trang 4).
Sợ cho cái sự “Lãnh đạo toàn diện” của mấy ông “đỉnh cao trí tuệ của thế giới loài người chưa? Không chỉ thế, ông Cha-bơ này còn khuyến nghị cả thế giới rằng thì là: “Những chia sẻ của Việt Nam là bài học, là kinh nghiệm tốt đối với quá trình hoạt động của nghị viện các quốc gia thành viên IPU”! Nghĩa là nghị viện phải có trên 90% là… cộng sản? Là lập pháp, tư pháp, hành pháp đều phải thể hiện chủ truơng đường lối của Đảng”???
Không phải chỉ đến hôm nay, đọc báo của họ mình mới phát hiện ra những sự “lạ” này, mà ngay trong 5 ngày hội nghị, hễ có ai được phát biểu gì thì mình đều phát hiện ra: Họ đều là diễn giả…. “câm” hết! Vì tất cả đều chỉ là những lời nói thao thao bất tận của những cô cậu xướng ngôn viên “hót” lại những gì đã được soạn sẵn từ Tuyên giáo: Không chung chung thì cũng là xưng tụng nước chủ nhà “tổ chức tuyệt vời”, đã “cực kỳ mến khách”, phát ra thay mấy ông Tây, bà Phi, mà cử tọa thì, ngoài mấy vị đại biểu chủ nhà đeo tai nghe lên, còn hầu hết đều… chả ai thèm đụng đến nó! Lẽ nào tiếng Campuchia, tiếng Nammibia… mà đại biểu nào cũng hiểu sao? Thành thử, ai nói cứ nói, nghe hay không là quyền của mọi người!
Và mình bỗng nhớ đến những gì mấy ông John Mc Cain (*), Sheldon Whitehouse và gần đây, ông Heiner Bielefeldt, báo cáo viên đặc biệt của Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc, sau khi thăm Việt nam về đã bị báo chí Việt Nam kiểm duyệt đục thẳng tay (**) những gì không có lợi cho sự “ổn định của đất nước” không một chút e ngại, dè chừng xì-căng-đan ngoại giao!
Và mình đi đến kết luận, không sợ sai: Đó là, nếu tất cả đều “đúng yêu cầu của đảng họ” thì cái AI-PI-U NÀY CHỈ LÀ… TRÒ HỀ VÃI ĐỊ VÀ TỐN KÉM NHẤT ĐỂ ĐỀ CAO VÀ BIỆN MINH CHO SỰ TỒN TẠI VĨNH VIỄN CỦA ĐẢNG-QUỐC HỘI HỌ MÀ THÔI
Sau đây là một số sự việc mà mình cho là… rất, rất LẠ:
1 - Cho đến ngày bế mạc chưa bao giờ họ cho chụp ảnh, giới thiệu công khai tên tuổi danh sách những ai đã đi Đại Hội IPU 132 lần này cả, mà cứ xé lẻ ra từng nhân vật nào cần tuyên truyền. Ví dụ bà Nancy Polesi (Mỹ), khi “chầu” cả 4 vua to nhất nước, lại ngồi sánh vai cùng đại vương Trọng trên những ngai vàng, đỏ choét, rộng thênh thang mà bà chẳng bao giờ thấy được ở Nhà Trắng hay điện Capitol!
2 - Hầu hết những nước đã nhiều lần lên án Việt Nam về dân chủ, nhân quyền đều cử những đoàn đại biểu mà tiếng nói chẳng có mấy trọng lượng, thậm chí, có những đại biểu còn… vào thăm cả cụ Hồ nữa! (Tây Ban Nha)
3 - Không một chủ tịch, hay phó nào của thượng nghị viện, hạ nghị viện Hoa Kỳ, Anh, Pháp,… muốn tham dự cái thứ hội nghị mà… “ai nói người nấy nghe, chuyện nước nào nước ấy lo”. Không có mặt một Patrick Leahy, một John Bohner (Mỹ), một Jean Claude Lenoir hoặc Alain Milon (Pháp)…? Nước Anh thì có một ngài Alistair Burt chẳng hiểu thuộc đảng phái nào mà nói cứ như người của anh Tô Huy Rứa mới được “cơ cấu” đi dự đại hội vậy!
Ngoài mấy nước ngoại-xã rao như Sing, Căm, Lào, hay những nước truyền thống bạn bè, thậm chí hợp tác toàn diện, chiến lược cũng chỉ cử đi những gương mặt lạ hoắc: Nga không phải là Sergey Naryshkin mà là… ngài Constantin Kusatnov, “Tàu 4 tốt” thì không phải là Du Chính Thanh hoặc Trương Đức Giang mà là chú Trần Trúc nào đó!
4 - Mang tiếng là hội nghị nghị viên toàn thế giới họp để “xây dựng và thuc đẩy những mục tiêu phát triển bền vững (SGDs) mà Liên hiệp quốc đang xây dựng đến năm 2030” vậy mà ông Tổng thư ký Ban Kyi Moon chả them đích thân hay cử đại diện đến dự thì… hơi buồn cho Ai-Pi nhưng chưa thật… U!
Tổng kết dần những hiện tượng cực kỳ lạ và hiếm có của cái Ai-Pi-U này, mình có thể mạnh dạn đưa ra một vài kết luận chính xác nhưng chẳng thú vị gì như sau:
1 - Đây là một thứ hội nghị hoàn toàn bị “lái” theo ý đồ của những nhà tổ chức cộng sản Việt để có lợi cho họ và CHỈ CHO HỌ MÀ THÔI! Nó vô bổ, vô tác dụng, tốn kém, mất thời giờ vô ích mà những “người lớn” đã nắm bắt nó ngay từ đầu là chẳng có dại gì mà “dây vào” nên họ cử những ải những ai đó mà tiếng nói chẳng có thể tạo cho mấy ông vua Việt lại có dịp huênh hoang: “Mình có thế nào những nhân vật danh tiếng như thế mới đến giơ tay tán thành mình chứ!”
2 - Tất cả, từ nội dung đến hình thức đều bị vo tròn, bóp méo, cắt cúp, bớt thêm không ngần ngại bởi Tuyên Huấn Xã Nghĩa, ngoại trừ một tấm hình ngược chiều của bà Zoe Lofgren khi trao cho ông Chủ tịch Sinh Hùng bảng danh sách những tù nhân lương tâm yêu cầu phải trả tự do ngoài hành lang hội nghị mà chẳng biết sao lại lọt nổi lên mạng.
Cuối cùng, mình lại thấy giận mình là cái thằng già đã đặt một chân vào cõi chết như mình mà sao vẫn cứ… “ngu lâu” đến thế, vẫn cứ hy vọng ai đó sẽ đến nói giúp dân mình về Dân chủ, Nhân Quyền… Biết đâu sẽ chẳng giúp cho dân mình đứng lên một phen “làm một cái gì đó” để thoát khỏi cái kiếp sống bầy đàn khốn khổ này”! Nhưng một lần nữa, mình lại thất vọng!
___
(*) Và những gì ông John McCain đã bị nhà cầm quyền cộng sản VN cắt cúp không e ngại, đã được tái hiện tại IPU 123: Nhat Si Bao Thu (Tô Hải’s Blog): Nhật ký mở lần thứ 108: TẠI SAO NGƯỜI TA TỰ CHO PHÉP ĐƯỢC BỊT MIỆNG BẤT CỨ AI?
(*) Đây là trích đoạn những gì ông Heiner Beilefeldt đã bị kiểm duyệt không e ngại:
“I personally had seen clear evidence of human rights violations, including police raids, destruction of houses of worship, destruction of religious services, imprisonment and physical attack, even incidences of torture, killing and other forms of persecution. Unfortunately some of the people who agreed to talk to me were physically barred from meeting me, being placed in situations of de facto house arrest. Other people whom I did meet were exposed to reprisals, in some cases it’s even physical attacks – brutal physical attacks – during my visit or immediately afterwards. Moreover, the privacy of some conversations was violated. The situation escalates to such a degree that some planned meetings and discussions could not take place [he emphasized]. This was in blatant violation of the terms of reference for country visit by Special Rapporteurs”.
T.H.
VI ANH * KISSINGER TAY SAI TRUNG CỘNG
07/04/2015
Biển Đông: Kissinger Muốn Dâng Cho TC
Vi Anh
Không phải đến hôm nay mà ngay trong và sau Hội nghị Paris 1972, nhiều người trong giới sĩ phu miền Bắc đã nhìn Kissinger với cái nhìn không mấy thiện cảm. Với tất cả sự láu cá trong đường đi nước bước nhằm rút nước Mỹ đang đang trong thế kẹt ra khỏi miền Nam Việt Nam một cách danh dự, ông Kít chắc là dương dương đắc ý coi mình là một đại công thần của Mỹ quốc lúc bấy giờ. Nhưng ông có biết đâu trong con mắt người Việt Nam có lương tri, ông là hình ảnh một “kỳ phùng” xứng tài xứng đức với cái kẻ ngồi đối thoại với ông trong suốt mấy năm trời ở chiếc bàn bầu dục tại nước Pháp mà dân chúng nửa nước phía Bắc mỗi khi trà dư tửu hậu vẫn thầm bảo nhau: “Tên gian hùng”. Nhưng một bên chỉ là thứ gian hùng ranh vặt, cho nên sau đó thì ngồi chầu 3 tỷ 2 đô la hứa hão để rồi vẫn cứ ôm lấy mô hình XHCN mà đưa con dân nước mình xuống hố. Còn một bên là gian hùng có hạng, làm cho nước Mỹ thoát khỏi bế tắc, tiếp tục giữ được vị trí siêu cường. Tất nhiên, đã là gian hùng thì thế nào cũng có cái giá cho mỗi hành động của mình. Kissinger những tưởng cô lập được LBXV khi thò bàn tay ra nâng đỡ Trung cộng, ông ta có ngờ đâu chính tính toán của mình đã giúp cho Trung Cộng một thời cơ quý hơn vàng để phất lên, sau hơn ba thập kỷ nghiễm nhiên trở thành một cường quốc, làm mưa làm gió ở phương Đông, một mặt ép hai dân tộc có nền văn minh lâu đời là Tây Tạng và Tân Cương vào con đường đồng hóa như tất cả những dân tộc hàng nghìn năm qua đã phải trở thành người Hán, mặt khác thò cái lưỡi ra quyết chiếm trọn Biển Đông, ngày càng đẩy các nước Đông Nam Á vào thế bị phụ thuộc.
Bỗng chốc nước Mỹ phải đối mặt với hai kẻ thù là Nga và Tàu cùng rất mạnh – lưỡng đầu thọ địch; cũng bỗng chốc cả một phương Đông đang yên bình bị đánh thức bởi tiếng rú của một con chó sói già vừa được Kissinger tiêm cho mấy liều thuộc tăng trưởng nên trở nên hùng hổ, vừa gào rú vừa chạy quanh khắp tứ phía lục địa Á Châu, phía nào cũng cố tè một bãi nước đái khai mùi Đại Hán để đánh dấu lãnh thổ vốn ấp ủ từ lâu trong bộ não chó đầy dục vọng của mình.
Thế đấy. Công lao của ngài Kissinger đối với nhân loại hay nói đúng hơn là cái phần nhân loại đang mỏi cổ ngóng trông một chút công lý nào đấy của thế giới văn minh sẽ cứu vớt được số phận của họ, rốt cuộc là thế đấy. Kít là kẻ làm chính trị chuyên nghiệp nên thủ đoạn có thừa, nhưng bên trong con người ông ta hẳn cũng có sẵn cái gene lừa thầy phản bạn, là một căn tính mà các dân tộc phương Đông xưa nay vốn không bao giờ coi trọng, vì con người phương Đông vẫn lấy “bản thiện” làm đầu. Thế mà ông ta vẫn không chịu ngậm miệng lại, vẫn hùng hồn tuyên bố Mỹ nên làm hòa với Trung Cộng để cùng nhau chia chác ở Biển Đông, thực dụng và cạn tàu ráo máng đến thế thì “treo giải nhất” chứ còn ai tranh hơn được với ông ta nữa. Bài viết của Vi Anh là tiếng nói phẫn nộ chính đáng của lương tâm người Việt đáp trả cái kẻ đã chà đạp lên lợi ích cả một dân tộc, cho đến tuổi lú lẫn này rồi mà vẫn còn nguyên một cục tham vọng không suy suyễn.
Bauxite Việt Nam
|
Không biết có tiền cừu hậu hận gì quốc gia dân tộc Việt Nam, mà Tiến sĩ Kissinger, Cựu Ngoại trưởng kiêm Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ thời Tổng thống Richard Nixon của Mỹ thời Chiến Tranh VN, đã đi đêm với TC, bức tử và dâng Việt Nam Cộng hòa cho Trung Cộng. Không biết có phải Kissinger có phải là đầu thai từ Tướng Tàu Thoát Hoan kiếp trước bị quân dân Việt Nam đánh đuổi không còn manh giáp, chạy thục mạng phải chui vào ống đồng để quân Tàu khiêng trốn về Tàu hay không, mà kiếp này Kissinger hết trả thù Việt Nam thời Chiến Tranh VN bức tử Việt Nam Cộng hòa, thời VN Cộng sản Trung Cộng giành giựt Biển Đông của VN, Kissinger đề nghị nên theo ý kiến của Cố Chủ tịch TC Đặng tiểu Bình, hai nước Mỹ và Trung Cộng ngưng căng thẳng để cùng nhau khai thác vùng này, cùng hưởng lợi. Đây thật là một đề nghị đưa ra không đúng chỗ, tai hại cho Mỹ, thiệt hại cho các nước đồng minh và đối tác của Mỹ trong vùng, và chỉ có lợi cho TC.
Một, đây là một đề nghị thật không có gì vô duyên, mất lịch sự cho bằng, làm khi đi dự tang lễ mà họp báo tuyên bố một cách vô thẩm quyền, vô tư cách. Nhưng Cựu Ngoại trưởng Kissinger nay đã 92 tuổi, chứng nào vẫn tật nấy. Ngày 28/03/2015 nhơn khi đi dự tang lễ của Cựu Thủ tướng Singapore Lý quang Diệu, Ông Kissinger đề nghị Mỹ và TC nên ngưng căng thẳng để cùng khai thác Biển Đông cùng có lợi.
Hành động vô duyên, bất lich sự, thực dụng đến buồn nôn này của Ô Kissinger không phải ông làm một cách riêng tư, mà ông mở cả một cuộc họp báo tại Singapore trong khi quốc gia đô thị Singapore này đang làm quốc tang cho vị Thủ tướng lâu đời này với cả triệu người Singapore để tang, xếp hàng chờ cả 7, 8 tiếng tiễn biệt.
Ông Kissinger không giấu giếm lập trường sùng bái Chủ tịch Đặng Tiểu Bình của TC, và thân TC của ông. Ông họp báo đưa ra lời khuyên Trung Quốc và Hoa Kỳ nên theo gương cố lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình để giảm thiểu tình trạng căng thẳng, liên quan đến các tranh chấp chủ quyền giữa Bắc Kinh với các láng giềng tại vùng Biển Đông.
Hai, đây là một đề nghị tai hại cho nhân dân và chánh quyền Mỹ đương thời. Với đề nghị này của Ô Kissinger, chiến lược chuyển trục quân sự của Mỹ sang Á châu biến Mỹ thành một “thực dân kiểu mới”, cùng tham lam, cùng khai thác, cùng chia chác quyền lợi đất đai, tài nguyên biển đảo của các nước Á châu Thái Bình Dương với TC. Đề nghị này của Ông Kissinger phủ nhận chánh nghĩa, lời tuyên bố của TT Obama, Ngoại trưởng Hillary, Kerry Mỹ nói đến đây là để bảo vệ tự do hàng hải quốc tế, giúp gìn giữ nguyên trạng, ổn định của địa lý chánh trị Biển Đông. 50% hàng hóa của thế giới di chuyển qua vùng biển này, trong đó có của Mỹ và các nước đồng minh và đối tác của Mỹ.
Ba, đây là một đề nghị làm mất lòng tin của các nước Á châu Thái Bình Dương đối với Mỹ. Thời Ô Kissinger đương quyền, ông nói thêm, nói bớt, giấu đầu giấu đuôi đối với Tổng thống, Quốc hội và công luận Mỹ để đi đêm như con thoi và “móc ngoặc” riêng tư với TC. Hậu quả là, phản bội đồng minh Việt Nam Cộng hòa, làm vô nghĩa 58.000 quân nhân Mỹ đã hy sinh mạng sống và hàng trăm ngàn quân nhân, dân chính khác đã hy sinh một phần thân thể cho lý tưởng tự do, dân chủ của Hoa Kỳ ở VN.
Hành động vô duyên, bất lich sự, thực dụng đến buồn nôn này của Ô Kissinger không phải ông làm một cách riêng tư, mà ông mở cả một cuộc họp báo tại Singapore trong khi quốc gia đô thị Singapore này đang làm quốc tang cho vị Thủ tướng lâu đời này với cả triệu người Singapore để tang, xếp hàng chờ cả 7, 8 tiếng tiễn biệt.
Ông Kissinger không giấu giếm lập trường sùng bái Chủ tịch Đặng Tiểu Bình của TC, và thân TC của ông. Ông họp báo đưa ra lời khuyên Trung Quốc và Hoa Kỳ nên theo gương cố lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình để giảm thiểu tình trạng căng thẳng, liên quan đến các tranh chấp chủ quyền giữa Bắc Kinh với các láng giềng tại vùng Biển Đông.
Hai, đây là một đề nghị tai hại cho nhân dân và chánh quyền Mỹ đương thời. Với đề nghị này của Ô Kissinger, chiến lược chuyển trục quân sự của Mỹ sang Á châu biến Mỹ thành một “thực dân kiểu mới”, cùng tham lam, cùng khai thác, cùng chia chác quyền lợi đất đai, tài nguyên biển đảo của các nước Á châu Thái Bình Dương với TC. Đề nghị này của Ông Kissinger phủ nhận chánh nghĩa, lời tuyên bố của TT Obama, Ngoại trưởng Hillary, Kerry Mỹ nói đến đây là để bảo vệ tự do hàng hải quốc tế, giúp gìn giữ nguyên trạng, ổn định của địa lý chánh trị Biển Đông. 50% hàng hóa của thế giới di chuyển qua vùng biển này, trong đó có của Mỹ và các nước đồng minh và đối tác của Mỹ.
Ba, đây là một đề nghị làm mất lòng tin của các nước Á châu Thái Bình Dương đối với Mỹ. Thời Ô Kissinger đương quyền, ông nói thêm, nói bớt, giấu đầu giấu đuôi đối với Tổng thống, Quốc hội và công luận Mỹ để đi đêm như con thoi và “móc ngoặc” riêng tư với TC. Hậu quả là, phản bội đồng minh Việt Nam Cộng hòa, làm vô nghĩa 58.000 quân nhân Mỹ đã hy sinh mạng sống và hàng trăm ngàn quân nhân, dân chính khác đã hy sinh một phần thân thể cho lý tưởng tự do, dân chủ của Hoa Kỳ ở VN.
Hậu quả là, các nước trong vùng mất lòng tin nơi Mỹ. Phi đuổi Mỹ ra khỏi hai căn cứ hải quân và không quân của Phi. Dân Chúng Nam Hàn, Nhựt biểu tình đòi quân đội Mỹ “Yankees go home”.
Nhân dân và chánh quyền Mỹ sau thời Kissinger lương tâm bị cắn rứt, phải tình nguyện cho định cư tất cả những thuyền nhân dính líu với chế độ VNCH đồng minh với Mỹ.
Chánh quyền Mỹ chịu khó [chịu] khổ, chịu tốn kém mật đàm, đàm phán với CS Hà nội để đưa quân dân cán chính VNCH bị CS đày đi tù cải tạo không ngày ra được đi tỵ nạn chánh trị ở Mỹ theo chương trình HO và ODP.
Và chính những tay Phản Chiến nổi danh như Jane Fonda cũng tự thú sai lầm, nhiều lần sám hối.
Còn TC thì trỗi dậy, trừng lên trở thành đối thủ đáng gờm của Mỹ trên thế giới.
Ba, đây là một đề nghị giúp TC kẻ cướp trở thành ông chủ hưởng lợi nhiều nhứt ở Biển Đông. Chính Mỹ cũng từng tuyên bố bản đồ 9 đoạn liếm mất 90% Biển Đông mà TC tự ý đưa ra là phi lý, phi pháp, không có một căn cứ sử ký, địa lý, pháp lý nào. Nhưng Ô Kissinger lại đề nghị Mỹ ngưng căng thẳng cùng khai thác là mặc thị chấp nhận TC là sở hữu hay đồng sở hữu với Mỹ.
Nhân dân và chánh quyền Mỹ sau thời Kissinger lương tâm bị cắn rứt, phải tình nguyện cho định cư tất cả những thuyền nhân dính líu với chế độ VNCH đồng minh với Mỹ.
Chánh quyền Mỹ chịu khó [chịu] khổ, chịu tốn kém mật đàm, đàm phán với CS Hà nội để đưa quân dân cán chính VNCH bị CS đày đi tù cải tạo không ngày ra được đi tỵ nạn chánh trị ở Mỹ theo chương trình HO và ODP.
Và chính những tay Phản Chiến nổi danh như Jane Fonda cũng tự thú sai lầm, nhiều lần sám hối.
Còn TC thì trỗi dậy, trừng lên trở thành đối thủ đáng gờm của Mỹ trên thế giới.
Ba, đây là một đề nghị giúp TC kẻ cướp trở thành ông chủ hưởng lợi nhiều nhứt ở Biển Đông. Chính Mỹ cũng từng tuyên bố bản đồ 9 đoạn liếm mất 90% Biển Đông mà TC tự ý đưa ra là phi lý, phi pháp, không có một căn cứ sử ký, địa lý, pháp lý nào. Nhưng Ô Kissinger lại đề nghị Mỹ ngưng căng thẳng cùng khai thác là mặc thị chấp nhận TC là sở hữu hay đồng sở hữu với Mỹ.
Nhưng xét về địa lý gần xa, chi phí khai thác, vận chuyển, đề nghị của Kissinger coi như giao trứng cho ác là TC. Trong việc làm ăn ba đồng xa không qua một đồng gần. Biển Đông gần TC, cả chục lần hơn so với Mỹ, mọi chi phí khai thác, chuyên chở của TC đều thấp cả chục lần hơn đối với Mỹ. Hưởng lợi trên Biển Đông, TC chắc chắn chiếm phần ăn của con sư tử.
Nên dư luận chung của các nhà bình luận, lời khuyên của ông Kissinger lấy từ “tư tưởng” của Ông Đặng Tiểu Bình TC, là một đề nghị tiếp tay cho TC gồm thâu Biển Đông, khống chế toàn bộ Biển Đông. Ai cũng thấy đề nghị của Kissinger là chủ trương của TC luôn nói ra như chủ trương giải quyết mọi tranh chấp trên nguyên tắc song phương, không cho nước thứ ba (hàm ý là Mỹ) xen vào. Hoàn toàn khác lập trường của chánh quyền Mỹ giải quyết đa phương, đúng theo luật pháp quốc tế về biển.
Nên dư luận chung của các nhà bình luận, lời khuyên của ông Kissinger lấy từ “tư tưởng” của Ông Đặng Tiểu Bình TC, là một đề nghị tiếp tay cho TC gồm thâu Biển Đông, khống chế toàn bộ Biển Đông. Ai cũng thấy đề nghị của Kissinger là chủ trương của TC luôn nói ra như chủ trương giải quyết mọi tranh chấp trên nguyên tắc song phương, không cho nước thứ ba (hàm ý là Mỹ) xen vào. Hoàn toàn khác lập trường của chánh quyền Mỹ giải quyết đa phương, đúng theo luật pháp quốc tế về biển.
Bốn và sau cùng, có học mà không có hạnh là bại hoại của tâm hồn. Người có học mà không có hạnh làm tội lỗi thì tinh vi, trầm trọng hơn người ít học. Nên trong hình tội học người ta phân biệt tội phạm cổ trắng do người làm việc bằng đầu óc, tội lỗi trầm trọng, tai hại nhiều hơn và cổ xanh do người làm việc chân tay. Nên cách đây không bao lâu, vào ngày Thứ Năm 29-1-2015, trong cuộc điều trần của Tiểu ban Ngoại giao của Uỷ ban Đối ngoại của Mỹ, nhóm hoạt động xã hội CodePink đã bất thần trương biểu ngữ, đưa ra cây còng, và hô to các khẩu hiệu đòi đưa Henry Kissinger ra tòa vì đã bán đứng Việt Nam cho CS và nhiều quốc gia khác trong thế kỷ 20, gây nên tai họa tàn khốc cho nhiều dân tộc.
Medea Benjamin, người đồng sáng lập tổ chức CodePink nói "Henry Kissinger phải chịu trách nhiệm cho cái chết của hàng triệu người. Ông ta là một kẻ sát nhân, một kẻ nói dối, một kẻ lừa đảo, và là một kẻ côn đồ. Ông ta cần phải được đưa ra trước vành móng ngựa tại Hague". Anna Kaminski, thành viên của nhóm CodePink nói với báo chí. "Di sản thật sự của Kissinger để lại chỉ là sự hủy diệt. Ông là nhân vật phản diện vĩ đại của Mỹ". Nửa thế kỷ sau, tàn dư từ những bài toán của Henry Kissinger vẫn còn làm tan nát con người và các đất nước này. Đặc biệt sự sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng hòa ở Miền Nam Việt Nam đã trở thành một vết nhơ khó quên trong lịch sử của Hoa Kỳ. Nhà văn Jon Queally, người bảo vệ hành động của nhóm CodePink nói rằng “Những trang sử đẫm máu đó chính là di sản của Kissinger. Cái chết. Sự tàn phá. Đau khổ. Cùng cực.
Thượng nghị sĩ John McCain đã phản ứng dữ dội với những người biểu tình đã làm náo loạn buổi điều trần này./.
Thượng nghị sĩ John McCain đã phản ứng dữ dội với những người biểu tình đã làm náo loạn buổi điều trần này./.
V.A.
__._,_.___
Ảnh: mượn trên Internet.
NGUYỄN TRỌNG VĨNH * tTRỌNG LÚ MỸ DU
07/04/2015
Tổng Bí thư Tập Cận Bình triệu Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sang thăm Trung Quốc trong tình hình như thế nào?
Nguyễn Trọng Vĩnh
1. Tháng 2/1979, Đặng Tiểu Bình huy động 60 vạn quân "dạy cho Việt Nam một bài học", tàn phá và giết hại nhân dân các tỉnh biên giới của Việt Nam .
2. Giới cầm quyền TQ lấn đất, lấn thác Bản Giốc của Việt Nam, cướp đảo, lấn biển của Việt Nam, phá kinh tế Việt Nam, làm nhiều điều tàn ác đối với Việt Nam nên người Việt Nam từ trẻ đến già "đều ghét TQ" đến nỗi Phùng Quang Thanh phải thốt lên lo lắng. Xu hướng "thoát Trung" ngày càng phát triển.
3. Có tin Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng được mời đi thăm Hoa Kỳ.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam đương chuẩn bị, xúc tiến tới Đại hội XII.
Vì vậy, Tổng Bí thư Tập Cận Bình triệu Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sang để trao đổi và đề xuất những yêu cầu sau đây:
1. Phải tuyên truyền mạnh phương châm "16 chữ và 4 tốt" đồng thời trấn áp những biểu hiện chống TQ nhằm củng cố quan hệ Trung - Việt.
2. Chuyến thăm Mỹ của Nguyễn Phú Trọng chỉ nên coi là chuyến đi du lịch, cần kiên định ý thức hệ, không bị ảnh hưởng trước những gì nghe và thấy.
3. Cơ cấu nhân sự Đại hội XII phải là những người thân thiện với TQ, không để lọt người có tư tưởng "thoát Trung" hoặc kỳ thị với TQ vào ban lãnh đạo. (Từ trước đến nay những nhà lãnh đạo TQ vẫn có thói can thiệp vào nội bộ ta như thế).
N.T.V.
Tác giả gửi BVN
Nhãn: Ngoại Giao, Trung Quốc