Sunday, November 20, 2016

TRẦN ĐỨC THẢO *ALBERT CAMUS * BỬU CẦM * HOÀNG HẢI THỦY *


Saturday, June 20, 2015


HẢI LÊ * MỪNG NGÀY CỦA CHA

MỪNG NGÀY CỦA CHA
 
Lời mở đầu: Một vài ngày nữa Ngày lễ của Cha lại trở về. Một văn hào đã viết Nơi chốn bình an nhất của đứa trẻ trên thế giới này là căn phòng của cha nó!” Tình cha nhiều người cho rằng không đằm thắm bằng tình mẹ, có lẽ chỉ vì người cha ít chịu diễn tả mà thôi. Thật ra tình cha như nền móng của căn nhà, giá trị của nó là phần nằm sâu dưới mặt đất. Nhiều người còn ví tình cha như miếng cam thảo, phải ngậm lâu mới ra chất ngọt.
Riêng người Việt ly hương chúng ta, Ngày Của Cha (Father's Day) thường rơi đúng vào ngày kỷ niệm Quân Lực VNCH 19 tháng 6 mỗi năm. Nhớ lại hình ảnh những người trai thời chinh chiến, vừa làm người lính ôm súng gìn giữ quê hương, vừa phải lo cho gia đình chu toàn bổn phận làm cha. Nên người cha trong đất nước khói lửa, hầu như phải hy sinh tình nhà nhiều. Nhưng không vì thế mà tình cha không đậm đà. Nhân ngày Quân Lực và Ngày Của cha, Hải Lê xin đóng góp một câu chuyện nhỏ kể theo Angie Kucer, nhằm vinh danh những người cha bất hạnh, hy sinh nhiều, nhưng nhận... chẳng có bao nhiêu! Nhất là những người đã nằm xuống để vợ con, đồng bào mình được sống mãi mãi.
 
BỐ TÔI, NGƯỜI LÍNH VNCH
 
Tôi có một người cha già, lại tàn tật, cụt một chân. Khi tôi sinh ra đời bố tôi cũng đã gần 50 tuổi. Trong một thời gian dài, bố tôi đóng vai trò của một người mẹ, tuy di chuyển khó khăn, nhưng ông lo lắng cho tôi không còn thiếu một thứ gì. Bạn bè thường gọi là “Ông nội trợ” và khen là đàn ông mà bố tôi có đầy đủ các đức tính của người phụ nữ Á đông “công, dung, ngôn, hạnh”, nuôi con khéo léo không ai bằng.
 
Hồi còn bé, tôi không hiểu được, vì sao không phải mẹ tôi, mà bố tôi luôn luôn ở nhà chăm sóc cho tôi. Từ từ tôi mới nhận ra, trong đám bạn bè, tôi là người duy nhất luôn luôn có người bố bên cạnh. Thiếu tình mẹ, tuy nhiên, tôi cũng cảm thấy an ủi, mình là người rất may mắn, còn hơn nhiều đứa trẻ thiếu cả tình thương của cha lẫn mẹ.
 
Sau này tìm hiểu thì tôi biết, bố tôi là một lính VNCH, bị thương trên chiến trường, được mẹ tôi bảo lãnh theo diện đoàn tụ, bà lo cho ông hưởng tiền trợ cấp tàn phế. Lúc tôi được hơn 3 tuổi, bố tôi và mẹ tôi ly dị, bà đã lập gia đình với một người đàn ông khác, nhường tôi lại cho bố tôi nuôi. Trong ký ức trẻ thơ, tôi có hình dung được hình ảnh của mẹ tôi một vài lần, khi bà đến thăm, nhưng rất xa lạ, vì luôn luôn bà đi với một người đàn ông nhìn tôi với ánh mắt lạnh lùng.
 
Tôi có tí mặc cảm về địa vị bố tôi ngoài xã hội, so với bố của những đứa trẻ khác, tuy nhiên việc chăm sóc tôi thì hoàn hảo, ông chăm lo cho tôi từ việc lớn đến việc nhỏ, không phải đụng tay vào bất cứ thứ gì. Trong suốt thời gian tôi học tiểu học, ông còn thuyết phục ông tài xế xe bus đón tôi đi học ngay tại cửa nhà, thay vì ở trạm xe , cách xa nhà tôi 4 dãy phố. Khi tôi bước vào nhà, lúc nào bố tôi cũng chuẩn bị sẵn thức ăn trưa, nào cá kho, thịt kho, rau xào và có cả canh nữa. Lâu lâu cũng có thức ăn Mỹ, sandwich, hamburger, đậu phộng, và còn thay đổi theo mùa. Giáng Sinh bánh có viền xanh hình cây thông, Valentine có hình trái tim..vv...
 
Khi tôi lớn hơn một chút, vào năm đầu tiên trung học, tôi lại thích sống độc lập, tôi muốn thoát ra những cử chỉ yêu thương dành cho con nít của bố, vì sợ chúng bạn trêu chọc. Nhưng chẳng bao giờ bố buông tha tôi cả, một đôi khi tôi rất bực mình.
 
Cấp trung học, tôi không thể về nhà ăn cơm được nữa, phải bắt đầu tập tự lo cho mình. Nhưng bố tôi lại thức dậy sớm hơn thường lệ để chuẩn bị bữa ăn trưa cho tôi. Ông cẩn thận ghi cả tên tôi bên ngoài túi giấy đựng đồ ăn. Lật dưới đít bao giấy, luôn luôn có một vài hình vẽ nhỏ, khi thì căn nhà, khi thì dòng  suối, ngọn núi, chim cá và hình trái tim với dòng chữ “I Love You Tammy!” Nào hết đâu, bên trong những chiếc khăn giấy cũng có những dòng chữ triều mến “Bố thương con nhiều”. Ông luôn viết, hay có những câu nói bông đùa như thế để nhắc nhở là ông yêu thương tôi nhiều, và muốn làm cho tôi vui.
 
Tôi thường lén ăn trưa một mình để không ai thấy được cái túi giấy và khăn ăn. Nhưng cũng chẳng giấu được lâu. Một hôm, một đứa bạn tình cờ thấy khăn ăn của tôi, nó chộp lấy la lên và chuyền đi khắp căn phòng cho mọi người xem. Mặt tôi nóng bừng, bối rối, mắc cỡ muốn chui đầu xuống đất.
 
Bữa hôm đó tôi về, đã làm mặt giận với bố tôi và “cấm” ông ấy không được viết, vẽ “bậy bạ” trên khăn giấy nữa, để bạn bè không coi tôi như đứa con nít lúc nào cũng cần người lớn chăm sóc. Lần đầu tiên tôi thấy bố tôi buồn, lặng lẽ vào phòng đóng cửa.
 
Ngày hôm sau, tôi vô cùng ngạc nhiên vì tất cả bạn bè bu chung quanh tôi, chờ để được xem chiếc khăn ăn, nhưng lần này thì trống trơn, không có dòng chữ hay hình vẽ gì cả. Nhìn mặt bọn chúng thất vọng, hụt hẫng, tôi mới hiểu ra, tất cả chúng nó đều mong ước có một ai đó biểu lộ tình thương yêu ngọt ngào giống vậy đối với chúng. Lúc đó lòng tôi len lén cảm thấy vui vui, dâng lên niềm tự hào về bố. Tôi vội về làm lành với bố, và những giòng chữ, những hình vẽ yêu thương lại tiếp tục.
 
Những năm còn lại trong trường trung học, tôi vẫn đều đều có những chiếc khăn đặc biệt ấy. Và từ đó, tôi giữ lại, chứa trong một cái hộp riêng, giấu kín.
 
Chưa hết, khi vào đại học, tôi phải rời xa bố, tôi nghĩ thông điệp xưa kia của bố sẽ phải chấm dứt. Nhưng tôi và bạn bè rất vui sướng vì những cử chỉ biểu lộ tình cảm của bố tôi vẫn tiếp tục qua hình thức khác.
 
Ở cấp đại học, dĩ nhiên không còn thấy bố tôi đứng chờ khi tan học, vì thế, tôi hay gọi điện thoại cho ông, chi phí điện thoại khá cao, nhưng không sao, tôi chỉ muốn nghe được giọng nói của ông mà thôi.
 
Suốt năm học đầu tiên, chúng tôi quen lối nói chuyện như thế và sau đó kéo dài một năm. Thường thì sau khi tôi nói lời tạm biệt, câu cuối cùng không bao giờ thiếu.
 
“Này Tammy”
 
Tôi thường trả lời “Dạ, gì thế bố?”
 
“Bố thương con nhiều.”
 
“Con cũng thế. I Love You!”
 
Hình như bố tôi nhận ra chi phí mắc mỏ cho những cuộc điện đàm, từ đó, tôi bắt đầu nhận thư mỗi thứ sáu. Ban thường trực phát thư của trường đều biết ai là người thường gửi lá thư này, mặc dù địa chỉ hồi âm luôn luôn ghi là KBC 1678. (Sau này tôi khám phá ra, KBC viết tắc là Khu Bưu Chính, địa chỉ trong quân đội ngày trước nơi bố tôi phục vụ. Còn số 1678 dễ quá, là số nhà tôi hiện tại.)
 
Nhiều lúc bên ngoài bì thư, địa chỉ được viết bằng bút chì và tiếp theo đó là những lá thư có hình con mèo và con chó của gia đình tôi, có vẽ những hình tháp nhiều từng, hình cây cầu nhiều nhịp in trên sóng nước. Hè năm đó, bố tôi và tôi du lịch về Việt Nam, lúc đó tôi mới biết là Chùa Một Cột, Chùa Thiên Mụ, Cầu Tràng Tiền v.v...
 
Sau chuyến du lịch ấy, tôi tìm hiểu về Việt nam nhiều hơn, nhất là cuộc chiến tranh trước 75, tôi bắt đầu thấy thương bố nhiều, ông là người lính bại trận, nhưng quân lực ấy đã chiến đấu dũng cảm cho tự do, cho hạnh phúc của người dân miền Nam trong suốt 20 năm. Nếu không bị đồng minh bán đứng, cuộc chiến chưa chắc ai thắng ai.
 
Thư đến và được phát mỗi ngày sau buổi ăn trưa. Tôi thường đi nhận thư và mang theo mỗi khi đi uống cà phê. Tôi nhận thấy chẳng cần phải giấu giếm làm gì nữa, bởi bạn cùng phòng tôi là những đứa bạn hồi còn trung học, chúng nó biết rất rõ về những chiếc bao giấy, khăn ăn. Và rồi trở thành như một tập tục, tôi đọc thư, còn bì thư và hình vẽ thì được chuyển khắp bạn bè, thư từ bố tôi thành niềm vui của cả phòng.
 
Trong năm cuối cùng đại học, bố tôi bị căn bịnh ung thư hành hạ. Mỗi khi tôi không nhận được thư vào ngày thứ sáu, tôi biết ông ốm nặng, không thể viết được. Ông thường thức dậy lúc 4 giờ sáng để có thể ngồi trong nhà yên tĩnh nắn nót viết những lá thư. Nếu không kịp cho đợt phát thư vào thứ sáu, thì chỉ sau đó, một hai ngày, thế nào rồi thư cũng đến. Bạn bè tôi bình bầu ông là “Người cha thương con nhất trên thế giới này!”
 
Ngày lễ cha, Father's Day, chúng nó gởi một tấm thiệp phong tặng ông danh hiệu đó và tất cả đều ký tên trên tấm thiệp. Tôi tin rằng ông đã dạy cho tất cả chúng tôi về tình phụ tử, bạn bè tôi bắt đầu nhận những tấm khăn ăn giống như tôi từ gia đình chúng nó, với những lời để lại ấn tượng mà sẽ thôi thúc họ hãy biểu hiện tình thương của họ với con cái sau này.
 
Suốt thời gian đại học, những lá thư và những cú điện thoại như một chu kỳ đều đặn.
 
Ngày ra trường, tôi quyết định chọn công việc làm gần nhà, để được ở cạnh bố tôi, vì căn bệnh bố càng ngày càng nặng. Thời gian được ở gần bố không còn bao nhiêu lâu nữa.
 
Đó là những giây phút khó khăn, đau khổ nhất cuộc đời tôi phải trải qua.
 
Tôi ở bên cạnh bố tôi một vài ngày trong bệnh viện trước khi ông mất. Vài giờ trước khi hấp hối, ông nắm tay tôi bảo “Bố nhờ con một điều, con về nhà lấy cho bố cái hộp gỗ mà bố để trên đầu tủ, đây là hộp chứa đựng những kỷ niệm đời lính mà bố yêu thương nhất. Bố muốn nhìn nó lại một lần.”
 
Tôi lái xe về nhà, và cũng tìm ra ngay chiếc hộp phủ đầy bụi thời gian. Có gì bên trong? Tôi tò mò mở nắp hộp. Mắt tôi bắt đầu cay cay nhòa lệ, khi nhìn thấy những tấm hình của bố tôi còn trẻ, trong những bộ quân phục thật oai phong. Có những tấm cầm súng đằng sau chiến trường còn bốc mùi lửa khói. Lật ra đàng sau, những ngày tháng cũ, 68, 70, 71, 72... với những địa danh xa lạ: An Lộc, Bình Long, Đồng Xoài, Khe Sanh... Dưới đáy hộp là căn cước quân nhân, giấy giải ngũ và những tấm huy chương, bộ lon gắn trên cổ áo khi ông mặc những bộ quân phục.
 
Bây giờ thì tôi mới hiểu hết, không còn mặc cảm hình ảnh có ông bố tàn tật chỉ biết lo việc “nội trợ”, ngược lại là đàng khác, Bố tôi đã một thời là một người lính chiến oai hùng, đổ máu hy sinh một phần thân thể mình cho một cuộc chiến đầy chính nghĩa, bảo vệ quê hương.
 
Rõ ràng bố tôi chăm sóc tôi, vui vẻ làm những việc của người phụ nữ bao nhiêu năm nay, chỉ vì tình thương con mà thôi. Ông thật là người cha tuyệt vời
 
Tôi ôm cái hộp, chạy gấp lại bệnh viện, định nói lời xin lỗi với người cha thân yêu của mình, nhưng đã trễ! Người y tá trực cho biết, bố tôi vừa trút hơi thở cuối cùng. Rồi người y tá trao cho tôi chiếc khăn giấy nhà thương, với giòng chữ cuối cùng run rẩy của một người cha dành cho con “Tammy, ba thương con nhiều! Vĩnh biệt!”
 
Nước mắt tôi trào ra như suối, cầm tấm khăn giấy trong tay áp vào ngực, tấm khăn giấy cuối cùng, mà cả cuộc đời mãi mãi không còn nhận được nữa.
 
Lúc liệm xác, tôi bỏ theo chiếc hộp kỷ niệm đời lính vào hòm cho bố, còn những chiếc khăn giấy tôi sẽ giữ mãi bên cạnh cả cuộc đời tôi.
 
Bây giờ thì những chiếc khăn giấy đã đổi màu vàng khè, nhưng tình tôi dành cho người bố càng ngày càng thấm thiết, bất diệt, muôn đời không thay đổi.
 
Happy Father's Day
 
Mừng Ngày Của Bố
 
Mừng ngày Quân Lực 19/6/2010

NGUYỄN THỊ CỎ MAY* NGÀY CỦA CHA

Vui Buồn Trong Ngày Lễ Cha

BONNE FÊTE PAPA
Không biết tại sao cái nghề rửa chén rửa bát, muỗng nĩa, dọn dẹp chùi rửa nhà bếp bên Tây và bên Canada họ thường gọi là plongeur (thợ lặn)?
Có lẽ là tại vì suốt ngày phải thọc tay mò mẩm trong nước chăng?
blank
Ngày Lễ Cha.
Theo văn chương Sài Gòn thời trước 75, thì “thợ lặn” là từ để ám chỉ những tay tổ siêu khôn mánh. Thí dụ như mỗi khi có người nào cần mượn hay nhờ vả họ làm việc gì đó thì họ tìm cách né liền hay phịa ra đủ mọi lý do để trốn tránh khỏi làm, hoặc nói rõ hơn là để…lặn, theo đúng câu “ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau”. Và hình như những tay tổ nầy thấy hơi nhiều!
Bí quyết được cha áp dụng để…bảo vệ hạnh phúc gia đình
Theo tôn chỉ của Tổng Hội Thờ Bà VN Hảì Ngoại (THTBVNHN), nể vợ hay sovo là bí quyết để bảo vệ hạnh phúc gia đình! THTBVNHN là một chi nhánh của The World Sovo Organization (WSO) thuộc tổ chức LHQ.
Ngộ thiệt, ngày xưa bên nhà, cái bếp là vùng bất khả xâm phạm, một thứ no mans land đối với đàn ông con trai. Lỡ rủi có láng cháng xuống bếp thì bị mấy bà sửa lưng hay mấy bả la lên: “Ê, đi lên nhà trên đi”– “đi chỗ khác chơi” –“đây là chỗ của đàn bà con gái, xuống đây chàng ràng làm cái gì?”
Đó là nói theo hoàn cảnh của riêng từng gia đình mà thôi.
Năm 78-79, vì sa cơ thất thế, mất hết nhà cửa, mất luôn cả hộ khẩu nên cha phải về tá túc chung với gia đình bên vợ tại Sài Gòn. Nhà đông người lắm. Trong nhà, có nhiều dì quá nhờ đó mà phe cánh đàn ông con trai được miễn xuống bếp. Các cậu có bổn phận ở nhà trên, phụ dọn chén dĩa dơ đem xuống bếp, xong lau bàn, lau ghế, quét nhà cho sạch sẽ là xong trách nhiệm.
Trường hợp hai vợ chồng ở riêng thì chia sẻ nhau công việc bếp núc. Nhưng thường thì vợ biểu gì thì làm y vậy để khỏi rắc rối và nhức lỗ tai. Nguyên tắc là nình ông làm theo lệnh nình bà, biểu gì thì làm y vậy đúng theo loại yes mam. Hổng biết có bạn nào giống tui không?
Nhưng thường thì đa số các bà Việt Nam cũng biết giữ thể diện cho chồng nên ít khi nào áp dụng cái nguyên tắc như thế mỗi khi có khách khứa đến chơi.
Mà cũng độc, có nhiều cha nội lợi dụng tình hình bỏ ngõ đó nên đôi khi họ làm bộ ra lệnh, nạt nộ vợ sai biểu thế nầy thế nọ hoặc chỉnh vợ trước mặt khách để bắt le và cũng để tỏ ra là ta đây đúng là đấng tu mi, xứng đáng mặt mày râu, là chủ gia đình đây nè…
Khách về thì sẽ biết tay bà!
Lúc người gõ còn ở bên nhà, việc đàn ông con trai vô bếp, rửa chén và xách giỏ đi chợ là chuyện rất hiếm thấy. Bếp núc là chuyện của đàn bà con gái. Xã hội chưa quen mắt thấy đàn ông chui vô bếp. Mỗi lần phải bắt buộc xách giỏ đi chợ, mắc cở thấy mồ.
Rồi còn vụ đàn ông cưng vợ quá mức có thể bị mấy bà già trầu rũa tắt bếp, nào là ăn phải bùa mê thuốc lú, nào là đội…lên đầu lên cổ đó nữa, vân vân và vân vân. Những chuyện nầy thường thấy xảy ra 50 năm về trước.
Cưới vợ cho con trai, thì đố khỏi bà không dặn cậu em đừng để vợ mầy qua mặt, bắt nạt, coi thường mầy và bên nhà chồng, phải dạy vợ từ thuở ban sơ mới dzìa.
Giai cấp thầy chú càng hiếm thấy vô bếp hơn giai cấp bình dân. Đó là chưa dám nói tới giai cấp bác sĩ, thú y sĩ,luật sư, giáo sư, sĩ quan …hét ra khói. Mấy năm trước đây, báo chí có đề cập đến cựu TT Tunisie Ben Ali ngán vợ hết cở thợ mộc. Chính mệnh phụ phu nhân Leila Trabelsi đã quyết định tất cả kể cả việc kéo mũi chồng ôm vàng đào tẩu qua Arabie Saoudite.
Riêng người gõ thì nằm trong ngoại lệ. Chuyện bếp núc, rửa chén là một phần trong đời sống của mình. Mình quen quá rồi không xem việc đó là một hình phạt làm tổn thương đến cái tôi.
Mà theo Phật giáo thì cái tôi, cái ngã làm gì có được. Tây thì nói cái tôi là cái thật đáng ghét.
Làm những gì mình thấy vui và vợ mình cũng vui… là được rồi. Nói thiệt mà!
Vô ngã
http://thuvienhoasen.org/a23041/vo-nga
blank
Ngày Lễ Cha.
Theo nhà văn Nguyễn thị Cỏ May, đàn ông tại hải ngoại ngày nay cũng thăng tiến lắm chớ bộ.
“Có hơn phân nửa trong số những người làm chồng, làm cha trong gia đình thừa nhận vai trò mới này, điều đang làm nổi bật đặc tính bình đẳng trong gia đình ngày nay. Người đàn ông, vì tôn trọng tinh thần bình đẳng nam/nữ, tích cực tham gia lau nhà, nấu cơm, rửa chén, giặt ủi áo quần, …tức lảnh làm tất cả việc “nội trợ” và người phụ nữ đã phải thán phục, tự nhìn nhận người phụ nữ không thể giỏi hơn được giai cấp “Nội tướng” mới này.
(Ngưng trích Nguyễn thị Cỏ May - Sự Thăng Tiến Của Người Đàn Ông Ngày Nay)
Nhà văn Tràm Cà Mau thì khác.Trong bài Ngục Tù Êm Ái, có viết
“Sau mỗi bữa ăn, ông Ba nói cho có lệ:
Em có cho anh dịp may, hôm nay được dọn dẹp chén dĩa và rửa bát không?
Bà Ba gạt phắt đi như mọi hôm:
Không được đâu, việc nầy của em. Anh rửa chén bát rồi sắp xếp lung tung, đến khi cần, em không biết đâu mà tìm.
Ông Ba hỏi, chứ đã biết chắc câu trả lời của vợ rồi. Bởi đôi khi ông cũng áy náy, muốn giúp vợ một tay, vì việc gì bà cũng dành lấy mà làm. Khi có việc bà không làm nổi, mới kêu ông phụ giúp” (Ngưng trích Tràm Cà Mau)
Cha phải tiếp mẹ một tay
Thuộc loại yes mam, nên cha thường răm rắp làm theo thê lệnh... đúng với tôn chỉ của Hội Thờ Bà Hải Ngoại: “Đèn nhà ai nấy sáng, vợ mình mình ngán, ngán luôn vợ bạn mới là chồng ngoan”.
Khi quê hương đổi chủ thì tình hình xã hội cũng có thay đổi… Hiện tượng các cha vô bếp hoặc đi chợ có khuynh hướng tăng nhiều. Ai cũng giống nhau hết, nên bớt mắc cỡ và bớt thấy quê, riết rồi cũng quen con mắt mà thôi.
Ngày Lễ Cha.
Tại hải ngoại thì …
Tại xứ người, vì hoàn cảnh của cuộc sống, vợ chồng đều đi làm hết nên chuyện nhà cửa, bếp núc và con cái là chuyện chung của cả hai người. Bắt buộc chồng có bổn phận phải san sẻ công việc nội trợ với bà xả mình.
Nình ông Tây và nình ông Việt đều đi chợ và vô bếp rửa chén hết. Đây là chuyện quá thường tình trong xã hội Tây phương. Bất luận ông gì cũng vậy. … đều phải a lê hấp xuống bếp hết, phải tiếp vợ, chia sẻ công việc với vợ mình.
Năm 2012 nhà văn Trần Văn cho ra mắt cuốn “Trung tướng Đặng Văn Quang, Vinh quang và Đau khổ” tại San José. Trong tác phẩm có nói trong thời gian tị nạn cố Trung tướng cũng đã từng đi rửa chén như mọi người.
“…Ngay cả Sở Di Trú Canada cũng đạt giấy tống xuất ông ra khỏi đất nước Canada tự do dân chủ. Không nước nào nhận, Canda đòi trục xuất ông Tướng trở về VN và việt cộng cũng cho ông về và phải phải bị tống giam để xét xử về tội ác chiến tranh.
Vì lý do nhân đạo, chính quyền Canada làm ngơ cho ông ở lại Canada mà không được vào quốc tịch Canada và chỉ vợ con ông đều được chấp nhận là công dân, nhập quốc tịch Canada. Vì vậy, ông Tướng cư trú bất hợp pháp chỉ được làm những công việc tay chân ít lương trong xã hội như làm janitor cho một apartment, rửa chén ly tách của một quán cà phê hay làm công nhân sản xuất đồ dùng bằng thủy tinh vô cùng vất vả mới đồng lương nuôi vợ và 3 con còn nhỏ.
Nhờ sự vận động, tranh đấu tích cực của nhiều người bạn Mỹ, ông Tướng mới được sang Mỹ định cư từ tháng 9 năm 1989…” (ngưng trích Hồi ức Trung Tướng Đặng Văn Quang - Vinh Quang & Đau Khổ của Trần Văn ra mắt thành công ở San Jose ngày 12.5.12! Tuệ Ngọc ghi thuật)
Ông qua đời tại thành phố Sacramento, California ngày 15 tháng 07 năm 2011.
Phải rửa chén, phụ một tay dọn dẹp nhà cửa, lo cho con cái tiếp vợ để bả đỡ mệt và bớt đổ quạu cái mặt cho một đống bất tử thấy rất tội nghiệp..và cũng đáng ngại lắm. Ráng chịu riết rồi cũng quen các cụ ơi.
Đó cũng là thể hiện nguyên tắc nam nữ bình quyền mà thôi.
blank
Ngày Lễ Cha.
Người thiệt, việc thật
Mệt nhứt là khi nhà có đãi đằng hay làm đám giổ. Trước một hai tuần là mình được giao công tác. Coi quét dọn lại nhà cửa cho tươm tất. Đem chén dĩa, dao muỗng thứ xịn ra để sử dụng và để khoe của luôn một thể. Ngày thường thì không có đụng tới nó.
Đôi khi trong gia đình tổ chức tiệc theo lối pot luck, nghĩa là ai muốn đem cái gì cũng ok hết.Cái lệ của mấy bà là hể có đãi đằng,tiệc tùng thì có tật hay nấu đủ thứ và nấu quá nhiều. Thường ai muốn đem món gì thì phải báo trước để khỏi đụng hàng. Vậy mà, cũng có một lần, có hai gia đình cùng đem lại món gỏi, cộng thêm chủ nhà cũng làm gỏi sứa tôm thịt nữa. Vị chi là ba món gỏi salade. Xúm nhau cười ngất. Còn vợ chồng đứa cháu thì mười lần như một, nó khệ nệ bưng lại một nồi súp măng cua to tổ bố…Chắc đây là món ruột của tụi nó. Ai làm biếng thì mua vịt quay, heo quay, bánh cuốn hoặc bánh xèo... Ăn làm sao cho hết.. Mấy đứa nhỏ, kêu tụi nầy bằng ông, bằng bà, cô dì dượng… thì phải thủ cho tụi nó một cái pizza hay hot dog, hamburger hoặc gà rán KFC gì dó. Trời ơi, thấy đồ đạc bày biện ra đầy bếp, đầy bàn thì chóng mặt quá và cũng đủ no rồi.
Tiệc xong, thì chia ra, năn nỉ khách take out, làm ơn làm phước đem bớt về nhà ăn tiếp…Để lại, tủ lạnh của em hổng có chỗ đâu mà chứa cho hết. Vợ chồng tụi nầy ăn kiêng từ nhiều năm rồi.
À, cái món nầy của bà tổng tư lệnh “Quyền lực mềm” làm có lý quá!
Cha thuộc môn phái nhàn vi hưởng lạc thích sướng.
Mình thuộc môn phái “nhàn vi hưởng lạc thích sướng” của nhà hiền triết Épicure. Nói xin lỗi, mình là loại lè phè, tà tà và làm biếng nhớt thây, xin hai chữ bình an, nên đây là những dịp thử thách để mình tu tập và rèn luyện lại cái tính nhẫn.
Nghỉ hưu rồi nên không muốn tạo thêm công việc lm chi cho khổ tấm thân già còm ốm yếu.
Càng ít việc càng tốt và càng khỏe thân khỏe trí. Các bạn già có đồng ý với tui không?
Mình có đề nghị với má nó, sao hổng chịu xài ba cái đồ giấy cho tiện, ăn xong bỏ vào bao rác, khỏe quá mà? Câu trả lời là, làm vậy coi sao được, lâu lâu mới có một lần mà, đồ mua về hổng xài thì chừng nào mới có dịp xài? Đúng quá. Hết ý. Yes mam!
Mệt nhứt là khi tiệc tàn. Chén dĩa, nồi niêu xoong chảo, ly tách, ôi sao mà nhiều quá xá, tùm lum tùm la vậy. Thấy phát chóng mặt lắm. Cũng may là nhà có máy rửa chén tự dộng. Mấy đứa nhỏ phụ một tay chất vào máy và ấn nút thế là xong! Máy chỉ xài có năm ba lần trong năm mà thôi.
Đôi khi mấy em, cháu hay mấy chị khách tội nghiệp chủ nhà, hè nhau xông ra rửa chén bằng tay. Người rửa, người lau, vừa chem chép với nhau, rồi chất đống trên bàn để chờ bà chủ nhà ra lệnh đem cất ở đâu thì mình mau mau làm y như vậy.
Đúng theo một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
blank
Ngày Lễ Cha.
Nghề thợ lặn tại gia dễ òm.
Ngày thường thì người gõ xin vô lông te nhiệm vụ rửa chén bằng tay. Vì nó vừa lẹ, vừa gọn, vừa dễ, và rất đở tốn điện… Chỉ bỏ chén dơ vào bồn chứa, vặn nước nóng, lấy xà bông nước chà trong chà ngoài từng cái. Xong thì xả lại với nước sạch. Úp lên rổ cho ráo. Rửa chén không mất quá mười phút, vì nhà chỉ có hai vợ chồng mà thôi. Nước nôi đầy đủ, nóng và lạnh. Xong, thì xịt thuốc lên bàn, lên kệ bếp, chùi sơ (ý xin lỗi, tui nói chùi kỹ mà) là sạch trơn và thơm phức.
Đôi khi bà xả cũng muốn đổi tay, giành rửa chén để khỏi quên nghề.
Lệ thường thì đứa nào nấu và dọn ra thì đứa kia phải rửa chén và chùi nhà bếp. Còn muốn giành rửa thì cũng tốt thôi. Rất dân chủ. Ai làm cũng được mà.
Có người nói rửa chén là một lối thiền, nhưng người gõ đã rửa 40 năm rồi nhưng sao mình cũng chưa ngộ được.
Hiện tui đang nghiên cứu lối ăn của Tây, đó là ăn bằng dĩa. Mỗi người tự động múc lấy từ nồi trên bếp, để tất cả vào dĩa của mình giống như lúc ăn buffet trong nhà hàng. Như vậy, bớt được công việc phải dọn bàn, rửa “quá nhiều” chén bát, tô dĩa theo kiểu ăn thông thường của gia đình Việt Nam. Vừa tiết kiệm điện, nước và vừa đỡ tốn sức lao động, thời gian rửa chén và dọn dẹp nhà bếp.
Nếu các bạn cho rằng đây là kiểu làm biếng thì tui cũng hổng có dám cãi đâu. Nhưng cũng có thể xem đây là một lối tổ chức rất khoa học, và hợp lý hóa công việc.
Để còn thời giờ xem TV, gõ bài nữa chớ… Thời giờ là vàng bạc mà.
Có bao nhiêu cha và mẹ?
Xin nói rõ đây không phải là các Cha đáng kính trong nhà thờ. Cũng không phải là “Cha nội” trong xã hội, vì số nầy không có trong thống kê nhà nước.
Thống kê Statistique Canada năm 2012 cho biết tại quốc gia nầy có
*Cha: 8,1 triệu người (kể cả cha đẻ, cha nuôi, cha vợ)
3,7 triệu cha có con dưới 18 tuổi
*Mẹ: 9,2 triệu mẹ (kể cả mẹ đẻ, mẹ nuôi, mẹ chồng)
3,9 triệu mẹ có con dưới 18 tuổi và sống với họ (kể cả mẹ đẻ, mẹ nuôi, mẹ chồng, nhưng không được kể “mẹ mìn” vào danh sách)
Hèn chi, mỗi năm có hai lễ: lễ mẹ và lễ cha. Nhà hàng và con buôn tha hồ hốt bạc là lẽ tự nhiên!
*81% cha tham gia vào công việc nội trợ,bếp núc (tự nguyện hay theo lệnh trên?)
Les hommes et les travaux ménagers
81 % — Le taux de participation des hommes aux travaux ménagers et aux activités connexes en 2010.
blank
Ngày Lễ Cha.
Ngày lễ cha trong cơn bão táp
Còn cái vụ hôn nhân đồng tính trở thành cái mode khắp mọi nơi mới thiệt là rắc rối. Không biết thống kê có tiên liệu chuyện nầy không. Ai sẽ là cha, ai là mẹ đây?
Có nhiều phụ nữ cấp tiến cũng hăm he giành ngày lễ cha về phía họ, vì theo họ đàn bà nắm chốt, chỉ huy và quyết định mọi việc trong gia đình. Họ cho rằng chính họ mới thật sự là người cha (?)
Vậy chồng là gì…Chắc nhiệm vụ của anh ta chỉ là để phục vụ mệnh lệnh bà và múa lân thôi hay sao?
Trong thâm tâm các bà, người cha trong gia đình phải là người cứng cõi, quyết định tất cả mọi việc, biết làm ra tiền, nhưng muốn xài thì phải xin phép vợ, biết đủ thứ những gì người vợ muốn và cần v.v… Họ muốn có một người chồng vừa cương nghị, nam nhi chí khí “machonhư Rambo mà cũng đồng thời vừa là một homme rose dịch là người đàn ông hồng, nghĩa là người đó phải hiền như cục bột dễ nắn, nhiều tình cảm, đảm đang và biết nghe lời vợ vô điều kiện nữa (xem Homme rose ou homme macho, que choisir?The Gentle Man, the Macho Man, Which One to Choose?)
http://www.jcomtesexo.ca/gentle_man_macho_man.htm
Thật khó hiểu quá. Mâu thuẩn quá. Đàn bà muốn là Trời muốn!
Đàn bà là gì?
Một câu hỏi lớn không lời đáp
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau
(Huy Cận)
Thăm dò bỏ túi về ngày Lễ Cha 21/6/2015
Để chuẩn bị bài gõ về ngày Lễ Cha cho được thêm phần phong phú, xin các Anh vui lòng cho biết ý kiến, cảm nghĩ và cảm tưởng vui buồn của một người chồng, người cha tại hải ngoại.
- Anh mấy tuổi rồi, mấy năm thâm niên làm chồng, làm cha
- Ngày Father's day đối với Anh là gì?
Anh thường làm gì trong gia đình để giúp vợ con mình.
Ngày Father's day có ai tặng anh cái gì không? anh có tổ chức tiệc tùng gì đặc biệt không? và etc....
Anh tự do viết... không giới hạn.
Như thường lệ, danh tánh sẽ được giữ kín, tuyệt đối.
Xin Thành thật cám ơn Anh.l
Nguyễn Thượng Chánh, Canada
Người cha tại hải ngoại trả lời
1-Anh PTH, Westminster, Cali, USA
Kính thưa anh Chánh
H xin tự khai
Năm nay 63 tuổi, 23 năm làm chồng, có một con trai 21 tuổi. Ngày Father's Day thường tự thấy mình có trách nhiệm hơn. Thỉnh thoảng nấu cơm, nịnh đầm bằng cách đổ xăng cho vợ, đưa xe đi kiểm soát, đi sửa. Gia đình sống kiểu nhà quê, nên thường là không được tặng gì, chẳng có tiệc tùng gì...Chỉ có một câu "Happy Father's Day" từ vợ và con thôi. Hạnh phúc là khi cảm nhận cuộc đời này, khi đi đứng nằm ngồi tự thấy lòng mình lặng lẽ. Có khi làm thơ, có khi đọc nhiều hơn cả kinh lẫn sách.

Con đang học xa nhà, nhưng ngay khi cậu nhóc còn nhỏ cũng đã quen kiểu nhà quê rồi, không tiệc tùng gì hết.Một niềm vui ngaỳ Father's Day là khi nói với con là ráng học nghe chưa... rồi tụ nhận ra mình đang hành xử y hệt ông thầy đồ làng quê Việt Nam thuở xa xưa. Chỉ khác là, bà đồ ở VN sợ ông đồ kinh khủng, vì truyền thống, vì mơ có ngày bố nó thi đậu trạng nguyên. Còn bên này thì mình tự thấy là một thầy đồ, sợ bà đồ kinh khủng”.

Thân ái

H

2 - Anh DHV, Pháp

“Anh Chánh,

Vấn đề nầy còn tùy thuộc vào:

- hoàn cảnh gia đình, sự kiện sinh sống trong cuộc đời tỵ nạn. Thí dụ; anh qua Canada thành đạt BS, chị lấy lại được DS.thì hoàn cảnh sống cũng khác với bạn bè.

Một số bạn qua Mỹ, có môi trường trong cảnh đời thuận lợi hơn thì còn: lễ mẹ và lễ cha.

Chúng tôi qua Pháp, cuộc sống nơi đây có phần khó khăn hơn, nên cảnh đời cũng khác anh ạ. Thí dụ tôi đọc thấy có những cháu thế hệ sau: qua Mỹ bổng trở thành triệu phú, vì một sự kiện nào đó. Xứ Pháp nầy thì khg thể có những điều đó được !!!!!

Môi trường sống có phần khác biệt.

Nhóm kỷ sư NLS qua Pháp thì vất vả lắm. Chỉ trừ có 2 bạn có vợ là DS, học lại 2 năm ra mở nhà thuốc thì có đời sống sung túc hơn bằng hửu đồng môn. Khi đó mới có những sum xê nầy nọ như ông bà ta nói: phú quý sinh lễ nghĩa.

Phần lớn anh em cũng như người tị nạn sang Pháp, có đời sống khiêm tốn, nên vấn đề Lễ lộc nầy khg có thưa anh. May ra ngày sinh nhựt cua cha, chúng nó nghỉ tới cho tí quà là quá lắm rồi. Con cái còn có gia đình chúng, nên mấy cái chuyện nầy ít khi chúng nghỉ

đến anh ạ. Sống thời nào theo thời đó, hoàn cảnh nào thích nghi với cảnh đó thưa anh. Tụi tôi quen rồi !!!!!!!Chẳng có lễ lộc gì cả anh à trên đất Pháp. Tôi con đông, chúng cũng thành đạt, nhưng mấy cái vụ nầy tụi nhỏ khg có nghỉ tới đâu.

Quen rồi !!!!!!!

Chúc anh chị sức khỏe.”

D H V khóa 6 CĐ ban TL

3 - Anh TĐH, Anh Quốc

Anh Chánh thân

Nay mới rãnh, trả lời survey của anh.

- Anh mấy tuổi rồi, mấy năm thâm niên làm chồng, làm cha

75 tuổi, 45 năm làm chồng, 43 năm làm cha

- Ngày Father's day đối với Anh là gì?

Đối với tôi không có ý nghĩa gì cả. Theo tôi, đó chỉ là thương mại hóa đẻ thiên hạ mua quà, hoa, thiệp mà thôi. Tại sao chỉ express tình thương Cha (father's day), Mẹ (mother's day), tinh nhân (Valentine), v.v chỉ trong một ngày, mà không 365 ngày một năm và suốt đời?

Anh thường làm gì trong gia đình để giúp vợ con mình.

Từ ngày có vợ có con, ngay từ ngày còn ở VN, tôi làm hay giúp vợ mọi chuyện từ nấu ăn, giặt quần áo, ru con ngũ, thay tả, bồng con, cho bú sửa, v.v. khi tôi có mặt ở nhà.

Đối với con, cho bú, thay tả, ru ngũ, bồng bế..v.v., khi còn nhỏ nếu không có ai làm chuyện đó.

Dẫn đi chơi, đá banh, dạy con học khi chúng còn học ở tỉnh nhà

Khi vào đại học nơi xa, lái xe mang thức ăn nấu sẳn đến chúng đều đặng

Khi chúng ra trường vừa có nghề nghiệp, vợ chồng tôi chia gia tài cho chúng liền để chúng mua nhà cửa, bởi vì lúc này chúng thật sự cần tiền. Chứ để sau này, chúng giàu rồi chia gia tài thì có ích gì cho chúng.

Khi có cháu, chúng tôi cũng giúp cháu như con: trông chừng, cho bú sửa, thay tả, v.v. Lớn hơn chở đi học, giữ cháu khi cha mẹ chúng vắng mặt

Ngày Father's day có ai tặng anh cái gì không? anh có tổ chức tiệc tùng gì đặc biệt không?

và etc....

Khi còn nhỏ, ở bậc tiểu học, tôi bắt chúng tự vẽ card tặng chúng tôi vào các ngày đó. Khi lớn, tôi bảo chúng đừng quà cáp. Các con telephone thường xuyên, đến thăm cha mẹ thường xuyên là được rồi, cần chăm sóc cha mẹ thường xuyên hơn là chỉ quà cáp một vài lần trong năm.

Kết luận

Tại Canada, nghề thợ lặn nhà hàng, tiệm ăn rất dễ tìm việc... Tuy nhiên, lương hướng rất thấp, thường là lương lối 12-13 $/giờ. Làm từ 11 giờ sáng đến 8 giờ tối.

Nghe đồn rằng có một số ít nơi chịu trả tiền mặt cash hay sú táp (sous table). Phải có quen biết, họ mới dám mướn. Đây là tiền không tính thuế. Lương tuy ít hơn nhưng người làm vẫn có thể lãnh tiền trợ cấp xã hội. “Mánh” không hợp pháp của cả người chủ lẫn của cả người làm công, nhưng trong thực tế vẫn có người làm, miễn sao cuối năm họ có đủ tiền về Việt Nam le lói trong đôi ba tuần là đã quá rồi.

Nghề thợ lặn tại gia là một nghề thiện nguyện, làm chùa, làm vì bổn phận, vì yêu thương và chia sẻ.

Cũng có một số bạn già nói là họ không bao giờ rửa chén, đó là nhiệm vụ và bổn phận của đàn bà con gái. Nói vậy thì tui nghe vậy, còn hư thật ra sao chỉ có vợ anh ta mới biết được mà thôi.
Hổng lẽ trên đời nầy chỉ có một mình tui cu ky mần cái nghề thợ lặn tại gia nầy hay sao?
Người gõ rất tự hào là mình đã có được 40 năm thâm niên trong nghề thợ lặn tại gia rồi nhưng chưa dám nói là mình có kinh nghiệm đâu nhé./.
Tham khảo:
- Fathers day
http://www.timeanddate.com/holidays/common/father-day
- Thiện ý-Người Việt ở Mỹ với Father's Day
http://www.voatiengviet.com/content/nguoi-viet-o-my-voi-fathers-day/1937684.html
- Tràm Cà Mau-Ngục tù êm ái
http://music.vietfun.com/trview.php?ID=1707&cat=13
- Nguyễn thị Cỏ May- Sự thăng tiến của người đàn ông ngày nay
http://vietbao.com/D_1-2_2-282_4-216229/
Montreal 2015

Thursday, June 18, 2015


THẰNG LƯỢM * NGÀY TÀN CỘNG SẢN

Dấu hiệu ngày đại tang của đảng CSVN đến sớm?

Thằng Lượm (Danlambao) - Ngày 03/6/2015, trong phiên thảo luận về Luật an toàn thông tin, Chủ nhiệm Ủy ban khoa học, công nghệ và môi trường Quốc hội là Phan Xuân Dũng cho biết đại biểu Quốc hội đã tập trung thảo luận về việc: Luật nên ban hành trước các quy định về biện pháp tự vệ sẵn sàng thực thi trong tình huống xảy ra những nguy hiểm đến an ninh quốc gia. Ví dụ, quy định trong trường hợp đặc biệt cần đóng hoàn toàn hoặc hạn chế các cổng kết nối quốc tế nhằm ngăn chặn các truy cập từ phía ngoài vào bên trong

Đảng CSVN đã nhìn thấy những gì mà lo xa đến vây?
Các ông vua tập thể đã chỉ đạo sẵn sàng phòng thủ thông tin khi có trường hợp đặc biệt xảy ra?
Chuyện gì đang xảy ra bên trong nội bộ đảng CSVN trước kỳ Đại hội 12 mà đảng phải chỉ đạo QH đồng ý ngắt nguồn Internet quốc tế trong trường hợp đặc biệt? Các ông quan cộng sản chuẩn bị đóng chặt cửa khi có đại tang của đảng xảy ra hòng nhanh chân đào thoát ra nước ngoài để sống? 
Đúng là đặc biệt! Trên thế giới chưa có quốc gia nào thực hiện chuyện này.
Thế nào là trường hợp đặc biệt? Phe đảng X thắng? Nội bộ tiêu diệt lẫn nhau? Trung Quốc sắp chiếm hết Trường Sa; sáp nhập nước ta thành một tỉnh của nước họ? Kinh tế kiệt quệ, hết tiền trả lương cho hệ thống tay sai (cán bộ-đảng viên) và bọn côn đồ-chó săn ăn tàn phá hại (CA/QĐ)? Vỡ quỹ BHXH, công nhân đình công cả nước? Bùa chú Mác-Lê, vũ khí búa-liềm hết hiệu quả? Nhân dân đồng lòng nổi dậy, bất tuân dân sự?…
Không lẽ nào ngày đại tang của đảng CSVN lại đến sớm trong năm nay?
Thảo nào gần đây, bọn cộng sản VN liên tiếp đúc tượng sư tổ của đảng để cầu cứu cho sự sống còn thoi thóp của chúng. Có bệnh thì vái tứ phương? Đường đường là một đảng vô thần mà nay lại phải dùng từ “cung thỉnh”tượng sư tổ, hệt như cung thỉnh tượng Thánh-Phật không bằng?
Đây là hình ảnh bọn CS đang thắp nhang vái ông tổ của đảng CSVN để cầu “tai qua nạn khỏi”
(Trích) (NLĐO) - Lễ báo cáo hoàn thành cung thỉnh tượng Bác Hồ với thiếu nhi về Nhà Thiếu nhi TP HCM do Thành ủy TP tổ chức đã diễn ra vào sáng 31-5.(đăng 31/5/2014)
Ông Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng, thực hiện nghi lễ dâng hoa (ẢNH: TẤN THẠNH) (nguồn:NLĐO)
Và đây nữa, dấu hiệu chán nản, buông xuôi, mạnh ai nấy làm, mạnh ai nấy tìm đường đào thoát.
(trích) Khi đại biểu không buồn thảo luận
Sáng hôm qua, một chuyện hy hữu đã xảy ra ở Quốc hội lần đầu tiên trong 9 kỳ họp của Quốc hội khóa XIII. Đó là không có đại biểu nào bấm nút cho ý kiến về dự thảo chương trình giám sát năm 2016. Phó chủ tịch Quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn, người điều hành phiên họp, đành tuyên bố cho nghỉ họp sớm, trước 2 tiếng so với dự kiến chương trình. Nguồn: TNO(10/6/2015).
Nếu sự cố “trường hợp đặc biệt” xảy ra, lịch sử VN lại ghi thêm một làn sóng đào thoát vĩ đại nữa? Sẽ có một ngày “uất hận” (không phải Quốc hận) do vài triệu tên cộng sản đào thoát đặt tên cho ngày này?
Để rồi xem, tụi bay sẽ chạy đi đâu? Tụi bay sợ quả báo nên bỏ chạy chứ Nhân dân VN không ai ép buộc. Dân là Trời. Ý dân là ý Trời. Trời đã giăng sẵn lưới rồi… 
Lưới trời lồng lộng, thưa mà không lọt. Tụi bay nhớ không?
11/6/2015
các hệ thống thuộc địa phận Việt Nam.

PHẠM TRẦN * NGÀY TÀN CỘNG SẢN




Những tín hiệu lâm nguy của đảng CSVN



Nguy cơ này không mới. Đảng đã công khai thừa nhận tại Đại hội XI năm 2011. Hồi ấy đảng viết: “Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” có những diễn biến phức tạp”.  (Trích Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng).
Nhưng nhắc lại khẩn trương hơn sau bốn năm rưỡi và qua 11 kỳ Hội nghị Trung ương lần nào cũng nói đến công tác xây dựng đảng là chuyện không còn bình thường nữa.
Đại tá, PGS, TS Nguyễn Mạnh Hưởng, Viện Khoa học Xã hội Nhân văn Quân sự - Bộ Quốc phòng đã cảnh giác: “Phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên hiện nay thực sự là một vấn đề cấp bách liên quan trực tiếp đến sự sống còn của Đảng và chế độ.” (Trích báo Công an Nhân dân, 09/02/2015).
Nhưng tại sao lại đến độ “cấp bách” và phải làm gì để chận đứng nguy cơ này thì không thấy ông Hưởng đề ra sáng kiến mới hơn những điều ai cũng đã “nghe rồi khổ lắm nói mãi”.
Đó là chuyện đảng chỉ biết đổ hết lên đầu “các thế lực thù địch” “Không từ bỏ âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tăng cường hoạt động chống phá, chia rẽ nội bộ Đảng và phá hoại mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng”, như ghi trong Nghị quyết số 12-NQ/TW của Hội nghị Trung ương lần 4 năm 2012.
Nhưng “thế lực thù địch” là ai, hay đảng đã nuôi ong tay áo? 
Ai đã có thể làm cho cán bộ đảng vên suy thoái tư tưởng, mất đạo đức cách mạng lan nhanh trong nội bộ sau 30 năm đổi mới là câu hỏi đang khiến lãnh đạo điên đầu nhưng dân thì không.
Người dân, nạn nhân hàng ngày của quan tham, bất công và của cường quyền, biết rất rõ tại sao đã có “một số không nhỏ cán bộ, đảng viên” không còn tin vào đảng và đang bất mãn với chế độ.
Dân đã nghe đảng lên án và kêu gọi chống “chủ nghĩa cá nhân” và “lợi ích nhóm” nhiều lần, nhưng những kẻ có chức có quyền và cầm cân nẩy mực vẫn mũ ni che tai để làm giàu trên mồ hôi nước mắt của dân và đảng viên thấp cổ bé miệng thì ai còn tin đảng?
Bằng chứng như khẩu hiệu tuyên truyền “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, trong đó có tiêu chí cán bộ phải “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, hay “dân là chủ, Đảng là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân” đã vô nghĩa trước quốc nạn tham nhũng.
Nhưng ông Nguyễn Mạnh Hưởng vẫn mơ hồ coi công tác chống tham nhũng trong cán bộ, đảng viên là chiếc đũa thần có thể cứu đảng thoát cơn hồng thủy tự diệt.
Ông nói: “Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Có khắc phục hiệu quả tình trạng quan liêu, tham nhũng, suy thoái thì mới làm cho đảng viên và cơ thể Đảng được khỏe mạnh hơn, có sức đề kháng cao hơn và điều đó đã là ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Ban Chấp hành khoá XI đã thất bại với những cam kết đề ra trong Nghị quyết Trung ương 4.
Bằng chứng đảng bó tay trước tham nhũng và suy thoái tư tưởng trong hàng ngũ đảng viên đang đe dọa sống còn của đảng chỉ còn là thời gian. Vì vậy ông Hưởng đã cảnh báo: “Tình hình đã thúc bách chúng ta phải kiên quyết hơn nữa trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.”
Nhưng liệu có còn kịp không?
Bởi vì chỉ 2 tháng sau ông Nguyễn Mạnh Hưởng, Ban Nội chính Trung ương - cơ quan giúp đảng chống Tham nhũng - đã phổ biến thêm bài viết của Đại tá, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo ưu tú Nguyễn Bá Dương (Viện trưởng Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự - Bộ Quốc phòng).
Ông Dương mở đầu: “Tham nhũng ở nước ta hiện nay rất phức tạp, biểu hiện của nó muôn hình, muôn vẻ với nhiều sắc thái, loại hình khác nhau; mức độ, phạm vi và hậu quả khôn lường. Biểu hiện của tham nhũng tập trung ở các quan chức, công chức trong bộ máy công quyền của Đảng, Nhà nước; thậm chí tham nhũng có cả trong lĩnh vực tư pháp, trong điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.”
Như vậy thì ở Việt Nam có chỗ nào không có tham nhũng? Khi nói đến “quan chức” thì cũng phải hiểu bao gồm cả các Đại biểu Quốc hội vì hầu hết họ là đảng viên có chức có quyền trong hệ thống cai trị từ thành phố về thôn quê. Chưa bao giờ thấy có Đại biểu Quốc hội nào phát giác ra các vụ tham nhũng, hay can đảm đi điều tra tố cáo cán bộ, đảng viên tham nhũng.
Tham nhũng sống với đảng
Vậy tham nhũng tinh vi ra sao mà Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất của nước không nhìn thấy?
Ông Dương vạch ra cho mọi người biết: “Mức độ tham nhũng cũng rất khác nhau, có tham nhũng nhỏ, tham nhũng vặt như sự sách nhiễu, gây phiền hà cho người dân hoặc cố tình dây dưa, loanh quanh, buộc người dân muốn nhanh, được việc thì phải bỏ tiền ra “nhờ giúp đỡ”. Việc làm này thường là chuyện “bé xé ra to”, bắt bẻ người dân “chưa đủ thủ tục hành chính” kiểu hành dân. Vì vậy, người dân muốn xong việc, đỡ mất công, khỏi phải đi lại nhiều lần, tốn công sức, mệt nhọc thì “cách tốt nhất” là bôi trơn bằng cách đưa “phong bì” cho xong chuyện.”
Một người làm việc ở Bộ Quốc phòng mà còn biết rạch ròi các mánh khóe moi tiền của dân như thế mà Ban Chỉ đạo phòng, chống Tham nhũng của Bộ Chính trị do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng làm Trường ban không dẹp được thì kể cũng lạ!
Còn nhớ năm 2013, ông Trọng từng nói với cử tri Hà Nội rằng ông cũng: “Sốt ruột, bức xúc lắm.”
Ông bảo: “Không phải bây giờ mà mấy năm trước Đảng đã gọi đây là quốc nạn, giặc nội xâm, quyền lực lớn mà không kiểm soát dễ sinh hư hỏng, tham nhũng... lãng phí cũng ghê gớm, có khi còn hơn tham nhũng, về thời gian, công sức, tiền bạc... Cái gì cũng phải tiền, không tiền không trôi, như ngứa ghẻ phải gãi rất khó chịu. (theo ViệtnamNet 27/09/2013)
Phó Chủ tịch nước, Bà Nguyễn Thị Doan đã có lần nói các quan tham đã "ăn của dân không từ cái gì". Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cũng thắc mắc: “Tiền ăn, chơi, chạy không phải từ tham nhũng thì từ đâu?
Như vậy là lãnh đạo đảng cũng biết, nhưng tại sao không hành động mà để cho tham nhũng cứ tự do leo lên đầu đảng thì có Trời mà biết!
Ngay cả chuyện chạy chức, chạy quyền trong đảng và nhà nước cũng đã được nói nhiều trong các kỳ Đại hội đảng hay tại các kỳ Hội nghị của Trung ương nhưng chuyện đâu vẫn còn đó.
Vì vậy, Đại tá Dương mới nói cho cả nước biết: “Đáng chú ý, các vụ việc tham nhũng xảy ra ở lĩnh vực cất nhắc, đề bạt, bổ nhiệm chức vụ, thuyên chuyển công tác. Đây là những loại hình rất khó kiểm soát, phát hiện. Hành vi này thường diễn ra “kín đáo” với sự “thông đồng”, ngầm hiểu “tiền nào của ấy”, “được việc người, được việc ta”, trở thành luật bất thành văn, thường được coi là một quy định ngầm, phổ biến diễn ra qua khâu trung gian, có người môi giới, “bắn tin”, “làm cò mồi”, kiểu “rung chà cá nhảy” hoặc trực tiếp giao dịch, thỏa thuận theo nguyên tắc các bên cùng có lợi. Người chạy chức, chạy ghế thường làm khâu “ứng trước” để sau khi có chức vụ thì thu hồi sau.” 
Các ngón đòn tham nhũng lớn của các phe phái trong đảng, hay còn được gọi là “lợi ích nhóm” đã bộc lộ cao trong mấy năm qua trong nhiều lĩnh vực nhưng khó phanh phui vì các thế lực đã bao che, bảo vệ nhau để cùng có lợi.
Ông Dương vạch ra: “Một trong những biểu hiện của tham nhũng lớn là tham nhũng nhóm, lợi ích nhóm với những hành vi trục lợi cực lớn thông qua làm ăn theo kiểu “đánh quả”, “một vốn bốn mươi lời”. Đây là hình thức tham nhũng có tổ chức, có người đứng ra làm “đầu nậu”, chủ mưu, thao túng các tổ chức, một số người có quyền cao, chức trọng và nó thường diễn ra ở các hoạt động dự án, đầu tư, đất đai, tài chính, ngân hàng, xây dựng cơ bản, xuất nhập khẩu, xây dựng đô thị, v.v... Đây là điều giải thích tại sao nhiều vụ khiếu kiện tập thể kéo dài, vượt cấp, rất khó điều tra, chưa thể giải quyết dứt điểm.”
Biết rất rõ như thế mà ông Dương có làm được gì cho xã hội không?
Tất nhiên là không vì cuối cùng, Đại tá Dương cũng chỉ đề ra giải pháp đã thất bại trong nhiều năm.
Ông viết: “Một trong những giải pháp hữu hiệu để phòng, chống Tham nhũng là ngăn chặn, đẩy lùi bệnh cá nhân chủ nghĩa, giữ nghiêm kỷ luật Đảng, thực hiện tốt pháp luật của Nhà nước, đề cao tự phê bình và phê bình. Muốn vậy, phải duy trì thường xuyên chế độ sinh hoạt Đảng và thực hiện việc nghiêm túc công tác tự phê bình và phê bình, đi đôi với nó là công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Bởi lẽ, cán bộ tốt hay xấu chủ yếu là do công tác giáo dục trong Đảng tạo nên. Giáo dục trong Đảng bao hàm cả giáo dục kiến thức, tri thức, giáo dục đạo đức, nhân cách người cách mạng mà trước hết là giáo dục đạo làm người.”
Tất cả những ý kiến của Đại tá Dương đã được đảng thi hành từ khoá đảng VIII thời Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu. Từ ông Phiêu sang ông Nông Đức Mạnh và đến ông Trọng là 20 năm mà tham nhũng vẫn “trơ gan cùng tuế nguyệt” thì phải biết đảng chỉ biết nói mà không làm được gì cho ích quốc lợi dân.
Quân đội - công an
Chính vì vậy mà không những chí có dân mà bây giờ đến lượt nhiều Bộ đội và lực lượng Công an cũng đã chán đảng, không còn tin vào những lời hứa suông của lãnh đạo nữa.
Những bất công xã hội, tình trạng chênh lệch giầu nghèo giữa thành phố và nông thôn mỗi ngày một giãn ra. Nền kinh tế gọi là “thị trường” còn giở hơi theo “định hướng xã hội chủ nghĩa” tiếp tục hãm dân trong vũng bùn chậm tiến để lạc hậu hơn các nước trong khu vực.
Nhân dân, một bộ phận lớn trong Quân đội và Công an cũng đã chán Chủ nghĩa thoái trào Cộng sản Mac-Lênin đến tận mang tai mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thì cứ bắt mọi người phải “tuyệt đối trung thành” với nó thì dân chưa lôi ông ra giữa chợ mà đôi co là may.
Bên cạnh đó còn là tình trạng Đảng cứ để mất dần biển đảo vào tay Trung cộng. Quân đội và lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam cũng bất lực để cho các tầu Trung cộng, ngụy trang Hải giám, tự do tấn công, cướp tài sản của thuyền cá Việt Nam đánh bắt ở vùng Hòang Sa, đôi khi cả ở Trường Sa, mà đảng thì cứ cúi đầu vâng theo lời nguyền ”vừa là đồng chí vừa là anh em” thì dân chịu đựng được bao lâu nữa?
Đó là những tín hiệu đang làm cho các cấp chỉ huy Quân đội và Công an lo âu nên từ 4 tháng qua đảng đã phát động một chiến dịch chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến” và “tự chuyển hoá” ngay trong nội bộ vào thời điểm tổ chức Đại hội đảng địa phương và đơn vị để tiến tới Đại hội đảng vào tháng 01/2016.
Tất cả các đơn vị Quân đội và Công an đều được lệnh học tập trung thành, bảo vệ đảng. Các biện pháp chống “diễn biến hòa bình” và học tập ngăn chặn phản tuyên truyền trong các tổ chức đảng tại đơn vị cũng đang ráo riết hoạt động.
Quân đội còn ra lệnh theo dõi tư tưởng binh lính và phải phê bình và chỉnh đốn ngay nếu có biến chứng. Đồng thời ra lệnh ngăn chặn bộ đội đọc tin ngoài luồng, chỉ theo dõi và truy cập thông tin chính thống từ báo Quân đội Nhân dân và của nhà nước.
Cả hai lực lượng Quân đội và Công an cũng được lệch chống các quan điểm sai trái chống đảng, chống chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tường Hồ Chí Minh. 
Hai cơ quan Tuyên giáo của đảng và Tổng cục Chính trị quân đội còn phổ biến các bài viết tuyên truyền chống tư nhân hoá kinh tế và chống luôn cả những đòi hỏi dân chủ, tự do, nhất là tự do báo chí và nhân quyền. Các tác giả “dư luận viên” này đã gọi những người trong nước khuyên đảng từ bỏ chế độ Cộng sản là “những kẻ cơ hội”, hùa theo “các thế lực thù địch” ở bên ngoài để thực hiện “diễn biến hòa bình”, làm suy yếu đảng.
Vì vậy Thiếu tướng Nguyễn Xuân Nghi, Chánh Văn phòng Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam đã viết một bài báo phổ biến, trong đó ông yêu cầu: “Để phòng, chống "tự diễn biến”, "tự chuyển hoá” trong một bộ phận CBĐV quân đội, trước hết cần tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, sự chỉ đạo, quản lý của chỉ huy, chính ủy, chính trị viên đối với vấn đề này. Đây là giải pháp cơ bản nhất, giữ vai trò quyết định đến hiệu quả phòng, chống "tự diễn biến”, "tự chuyển hoá”. Bởi vì cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy, chính ủy, chính trị viên có nhiệm vụ trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn luyện CBĐV thuộc quyền.
Trong đơn vị quân đội, nếu cấp ủy, tổ chức đảng và các đối tượng trên phát huy tốt vị trí, vai trò, trách nhiệm trên mọi mặt hoạt động của đơn vị; nắm chắc và dự báo đúng tư tưởng của CBĐV; kịp thời phát hiện, kiên quyết lãnh đạo, tổ chức thực hiện tốt việc đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, trái với bản chất, truyền thống quân đội, những dấu hiệu suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống… của CBĐV thuộc quyền, thì các thế lực thù địch khó có thể lợi dụng để thúc đẩy "tự diễn biến”, "tự chuyển hóa” trong nội bộ đơn vị và nội bộ quân đội.” (theo báo diện tử Tỉnh Bắc Giang)
Với những diễn biến của tình trạng suy thoái tư tưởng của đảng viên ngày thêm phức tạp, nhất là trong quân đội và công an, được công khai nêu lên trước đại hội đảng XII không chỉ là điều bất thường vì chưa có tiền lệ mà còn là một chỉ dấu xấu cho tương lai chính trị của đảng. 
18.06.2015

THỰC PHẨM

Thực phẩm làm từ bột dế - nguồn protein thay thế mới xuất hiện tại Mỹ

Chingrit thot là món dế chiên giòn của Thái Lan. (Ảnh: Wikimedia Commons)
Chingrit thot là món dế chiên giòn của Thái Lan. (Ảnh: Wikimedia Commons)
Tom Banse
Cho dù đó là món sâu bướm rán ở Tanzania hay châu chấu nướng ớt ở Mexico hay món bọ nước khổng lồ giòn tan ở Thái Lan, tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc ước tính côn trùng là một phần trong chế độ dinh dưỡng của ít nhất hai tỷ người trên khắp thế giới. Giờ đây có khoảng hơn một chục các công ty mới thành lập hy vọng những người châu Âu và Mỹ e dè sẽ có thể chấp nhận và thử những món ăn làm từ côn trùng như vậy.
Thực phẩm làm từ bột dế - nguồn protein thay thế mới xuất hiện tại Mỹ
Tên của công ty này là Cricket Flours – có nghĩa là bột dế. Nhà sáng lập và giám đốc điều hành công ty Charles Wilson nói rằng anh bắt đầu chú ý đến loại thực phẩm bổ sung protein làm từ dế từ khi anh phát hiện ra rằng anh nhạy cảm với các loại thực phẩm làm từ bơ sữa, chất bột gluten, và nhiều chất khác. Anh Wilson cho biết:

“Một trong những loại thực phẩm tôi bị dị ứng là một loại bột protein mà tôi trước đây thường dùng để tạo cơ bắp, và tôi dùng nó khi bơi và tập thể hình. Tôi đã luôn luôn dùng nó nhưng rồi nhận ra rằng tôi không nên dùng nó nữa. Vì thế tôi bắt đầu tìm kiếm những loại protein và nguyên liệu thực phẩm thay thế, rồi tôi tình cờ biết tới bột dế.”
Anh Wilson nói rằng anh nhận thấy là bột dế không chỉ là một loại thực phẩm thay thế cho loại đồ uống protein trước đó của anh. Anh cảm nhận thấy có cơ hội kinh doanh từ loại thực phẩm này. Vào thời điểm đó, anh Wilson đang theo học luật tại trường Đại học Oregon. Anh đã tới gặp một người bạn cùng trường, là anh Omar Ellis, lúc đó đang học ngành kinh doanh. Anh Ellis vẫn còn nhớ như in cuộc trò chuyện hồi năm ngoái:
“Tôi lúc đó đã hỏi Wilson vậy ý tưởng của anh là gì? Anh ấy nói ‘Tôi muốn bán bột protein làm từ dế.’ Bạn gần như có thể nghe thấy tiếng dế kêu lúc ấy bởi vì tôi đã phải hỏi lại anh ấy ‘Cái gì cơ? Thật sao? Tôi không nghĩ là mình sẽ làm được đâu, Charles ạ.’ Tôi đã dành năm nhất của mình ở trường kinh doanh chỉ để nghiên cứu thị trường. Linh cảm của tôi mách bảo là dự án sẽ thất bại một cách thảm hại.”
Nhưng anh Wilson đã thuyết phục được người bạn của mình. Anh Ellis đã trở thành người đồng sáng lập và giám đốc điều hành của công ty Cricket Flours. Và hiện giờ anh không ngừng nói về những lý do nên ăn đồ ăn chế biến từ côn trùng.
“Nó có nhiều sắt hơn rau chân vịt và nhiều canxi hơn sữa,” anh Ellis nói.
Gần đây, anh Ellis mang những sản phẩm mẫu đến hội trường của một hội nghị về bền vững ở thành phố Portland, bang Oregon.
“Tại sao lại là dế? Vì chúng rất bền vững. Để có được cùng khối lượng protein thu được từ thịt bò, chúng ta chỉ tốn 1/10 thức ăn và 1/6 lượng nước khi nuôi chúng mà thôi,” anh Ellis giới thiệu sản phẩm với những người đến xem.
Người đồng sáng lập công ty Cricket Flours Omar Ellis giới thiệu sản phẩm mẫu làm từ dế ở Portland. (Ảnh: Tom Banse)Người đồng sáng lập công ty Cricket Flours Omar Ellis giới thiệu sản phẩm mẫu làm từ dế ở Portland. (Ảnh: Tom Banse)
Doanh nghiệp của anh Ellis và Wilson mua dế khô, xay nhuyễn khối lượng lớn từ một vài nhà bán buôn của Mỹ. Hai doanh nhân này sau đó bán lại bột dế nguyên chất trên mạng cũng như bột hương socola và một số loại bột làm bánh khác. Nếu không được dán nhãn trên bao bì thì không thể nhận ra được nguồn gốc của những loại thực phẩm này sau khi chế biến là từ côn trùng.
Tại hội nghị có hai người tham dự là cô Amy Jarvis và anh Ben Kitoko. Họ vừa thử loại bột dế được trộn lẫn với món granola có nhiều gia vị.
Cô Amy nhận xét: “Nó hơi lộn xộn một chút, rõ ràng là không hợp cho người ăn chay. Nhưng rốt cuộc thì chúng ta luôn có một vấn đề là phải tìm một loại bột protein nào đó tốt mà không bị lẫn hương vị khác vào và loại bột này lại không như thế.”
Còn anh Ben nói: “Tôi sẽ không đời nào thử món này. Nhất định là nó có thể sẽ trở thành một thứ gì đó của tương lai. Bạn không bao giờ biết được.”
Sau một thời gian tìm hiểu về bột dế, phóng viên VOA Tom Banse đã tự mình thử loại thực phẩm này. Ellis mời anh nếm một chút món granola có trộn với bột dế đặc biệt này. Phóng viên Banse nhận xét rằng phần lớn anh chỉ nhận ra mùi vị của granola chứ không có vị gì bất thường trong hỗn hợp đặc biệt đó cả. Anh Ellis cho biết:

“Khi chúng tôi nhập bột, không hề có phần râu và chân dế vì chúng đều đã được loại bỏ trước khi đem xay. Về cơ bản thì bột dế được làm từ phần ngon nhất của dế, giống như phần ức của gà vậy.”
Anh Ellis chia sẻ rằng khi ăn chúng ta không nên nghĩ là mình đang ăn dế mà nên nghĩ là mình sẽ chuẩn bị nạp rất nhiều protein vào người.
Trong khi đó, đối tác kinh doanh Charles Wilson lại mô tả dế xay nhuyễn nguyên chất có mùi vị trung tính, có thể thiên về hướng các loại hạt.
Công ty Cricket Flours là một trong hơn một chục các công ty mới khởi nghiệp (startup) hoạt động trong mảng côn trùng có thể ăn được. Những công ty khác tập trung vào lĩnh vực nuôi dế, hoặc bán các thanh năng lượng hay đồ ăn vặt làm từ bột dế. Anh Ellis nói rằng cần khoảng 5.000 con dế để cho ra nửa cân bột, và do đó bất cứ sản phẩm cuối cùng nào làm từ dế đều khá đắt.

HOA KỲ- VIỆT CỘNG

'Việt Nam cần Mỹ hơn Mỹ cần Việt Nam'

Dân biểu Chris Smith, thành viên cấp cao của Ủy ban Đối ngoại và là Chủ tịch của Tiểu ban Nhân quyền Toàn cầu.
Dân biểu Chris Smith, thành viên cấp cao của Ủy ban Đối ngoại và là Chủ tịch của Tiểu ban Nhân quyền Toàn cầu.

Một vị dân biểu có nhiều ảnh hưởng ở Hạ viện Mỹ cho rằng “Việt Nam cần Mỹ hơn Mỹ cần Việt Nam”, giữa lúc Washington tiếp tục cuộc thương thuyết với Hà Nội về Hiệp định Hợp tác Thương mại Xuyên Thái Bình Dương (TPP). Dân biểu Chris Smith, một thành viên cấp cao của Uỷ ban Đối ngoại và là Chủ tịch của Tiểu ban Nhân quyền Toàn cầu, nhận định như vậy hôm thứ tư tại cuộc điều trần về tình hình nhân quyền Việt Nam. Linh Đan của Ban Việt ngữ VOA tường thuật.
Trọng tâm của buổi điều trần hôm thứ tư là tình hình nhân quyền Việt Nam và TPP – Hiệp định hợp tác thương mại xuyên Thái Bình Dương mà Việt Nam đang đàm phán với Mỹ. Theo nhận định của Chủ tịch Tiểu Ban Nhân Quyền Toàn Cầu của Hạ Viện Mỹ Chris Smith, cũng là người chủ tọa buổi điều trần, “chính phủ Việt Nam cần hợp tác an ninh và lợi ích kinh tế của Mỹ hơn là Mỹ cần Việt Nam,” và Mỹ có sức ảnh hưởng để mang lại những sự thay đổi cụ thể ở Việt Nam. Ông Smith nói rằng “nếu các vấn đề nhân quyền không được nối kết một cách rõ rệt với các quyền lợi an ninh và kinh tế, chúng ta sẽ có mối rủi ro là các cuộc thảo luận về thương mại và quốc phòng tiến về phía trước, trong lúc tình trạng nhân quyền thụt lùi về phía sau”. Ông nói:
“Thương mại giữa Mỹ và Việt Nam đã tăng theo cấp số nhân kể từ khi Việt Nam được bình thường hóa quan hệ thương mại với Mỹ vào năm 2000. Nếu sự gia tăng này tiếp tục trong Hiệp Định Thương Mại Xuyên Thái Bình Dương, gọi tắt là TPP, thì người dân Mỹ phải ít nhất là chắc chắn rằng Việt Nam, hiện là nguồn nhập khẩu lớn thứ 15 của chúng ta, đang bảo vệ những quyền tự do cơ bản.”
Thương mại Mỹ-Việt đã tăng theo cấp số nhân kể từ khi Việt Nam được bình thường hóa quan hệ thương mại với Mỹ vào năm 2000. Nếu sự gia tăng này tiếp tục trong Hiệp Định Thương Mại Xuyên Thái Bình Dương TPP, thì người dân Mỹ phải ít nhất chắc chắn rằng Việt Nam, hiện là nguồn nhập khẩu lớn thứ 15 của chúng ta, đang bảo vệ những quyền tự do cơ bản.”
Theo báo cáo năm 2015 của Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế Hoa Kỳ, “chính phủ Việt Nam tiếp tục khống chế các hoạt động tôn giáo thông qua luật lệ và sự giám sát hành chính, giới hạn nghiêm ngặt việc thực hành tôn giáo độc lập và đàn áp các cá nhân và tổ chức tôn giáo mà họ cho là ngăn cản quyền lực của họ”.
Những người ra điều trần tại Hạ Viện hôm thứ tư - gồm có người sáng lập Câu lạc bộ Nhà báo Tự Do Việt Nam Nguyễn Văn Hải, nổi tiếng với tên gọi blogger Điếu Cày, Tiến sỹ Nguyễn Đình Thắng, giám đốc điều hành của tổ chức Thuyền Nhân SOS, bà Đoàn Thị Hồng Anh, vợ của một nạn nhân bị tra tấn đến chết, và Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng, đều mong những ý kiến của họ được chính phủ và người dân Mỹ xem xét để ra những quyết định đúng đắn và kêu gọi quốc hội Mỹ đưa vấn đề nhân quyền nhiều hơn vào cuộc đàm phán TPP.
Blogger Điếu Cày, một tù nhân lương tâm đã trải qua 6 năm rưỡi trong 11 nhà tù ở Việt Nam, nói với VOA Việt Ngữ rằng ông đến đây với tư cách là một người làm chứng hơn là một người điều trần.
“Tôi cũng muốn đặt câu hỏi trong buổi điều trần này là ‘Các vị sẽ làm gì cho chúng tôi? Vì sau buổi điều trần này chúng tôi sẽ cố gắng làm cho họ hiểu rõ hoàn cảnh của chúng tôi ở trong nước và trong tù và họ sẽ biết cách làm thế nào để giúp cho tình hình tự do dân chủ ở Việt Nam cũng như là nhân quyền trong các nhà tù ở Việt Nam.”
Tôi muốn làm cho các vị dân biểu ở đây rõ rằng ở đây chúng ta không nhìn vào luật của Cộng sản mà chúng ta phải nhìn vào các văn bản dưới luật thực tế nó đã tước đoạt đi những quyền của người dân được ghi trong luật. Cho nên luật đưa ra chỉ là để bịp cộng đồng quốc tế thôi, chứ còn thực tế là họ làm như vậy.”
Kể từ khi được phóng thích năm ngoái và được đưa sang Mỹ, blogger Điếu Cày đã gặp gỡ đại diện của nhiều tổ chức quốc tế và tham gia nhiều buổi điều trần trong đó ông nhấn mạnh vào thông tư 37 của bộ Công An. Theo blogger Điếu Cày, những vấn đề về thông tư 37 của bộ CA đã được đưa vào cuộc đối thoại nhân quyền Việt-Mỹ.
“Khi họ ban hành luật thi hành án hình sự, trong luật có 1 số điều khoản – ví dụ như điều 27, 28, 42 – các điều luật có liên quan đến chế độ giam giữ quyền tự do con người của tù nhân nhưng xong xong đó họ ban hành thông tư 37 của bộ Công An và chính bằng thông tư 37 này họ triển khai hàng loạt nhà tù ra các khu giam giữ của tù nhân an ninh ở trong các nhà tù hình sự và ở trong những khu này hình thức giam giữ và hình thức biệt giam tù nhân hoàn toàn không được nêu trong luật. Bởi vậy tôi muốn làm cho các vị dân biểu ở đây rõ rằng ở đây chúng ta không nhìn vào luật của Cộng sản mà chúng ta phải nhìn vào các văn bản dưới luật thực tế nó đã tước đoạt đi những quyền của người dân được ghi trong luật. Cho nên luật đưa ra chỉ là để bịp cộng đồng quốc tế thôi, chứ còn thực tế là họ làm như vậy.”
Theo ông Hải, Việt Nam có hàng chục ngàn văn bản dưới luật có nội dung trái luật.
Buổi điều trần này đã xem xét kỹ lưỡng những vụ vi phạm nhân quyền đang tiếp diễn của chính phủ Việt Nam đối với các công dân, đặc biệt là những vi phạm nghiêm trọng về tự do tôn giáo và tự do ngôn luận. Chủ tọa buổi điều trần - dân biểu Smith – cũng chính là tác giả Dự Luật Nhân Quyền Việt Nam đã được Hạ Viện thông qua năm ngoái nhưng đang chờ sự xem xét của Thượng Viện.
Chúng tôi muốn cài vào thêm nữa, kể cả TPP, vì Việt Nam hứa là một đằng nhưng thực thi hay không là một việc khác. Chúng ta phải có những cơ chế để theo dõi để kiểm soát và chế tài nếu như Việt Nam không thi hành đúng như những lời cam kết của họ.
Những sự vi phạm này đã được chứng minh thêm bằng những lời điều trần của bà Đoàn Thị Hồng Anh, vợ của ông Nguyễn Thành Nam - một giáo dân ở giáo xứ Cồn Dầu đã bị công an tra tấn đến chết vào năm 2010. Bà Anh cho biết trong buổi điều trần là chính quyền Việt Nam đã tìm mọi cách ngăn cản bà nói ra sự thật về cái chết của chồng bà. Ông Nam là một trong những giáo dân bị công an địa phương bắt vì “tội gây rối trật tự và chống người thi hành công vụ.” Ông Nam là một thành viên của đội trợ tang Giáo Xứ Cồn Dầu và đã lên tiếng phản đối việc giải tỏa của chính quyền địa phương đối với phần đất của khu nghĩa trang này.
Ông Nguyễn Đình Thắng của tổ chức Cứu giúp Thuyền nhân, cùng với Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng của Giáo hội Tin lành Mennonite, kêu gọi quốc hội Mỹ thông qua Dự Luật Nhân Quyền Việt Nam và lồng ghép các điều kiện nhân quyền vào việc đàm phán TPP.
“Chúng tôi đã thành công trong việc cài một vài điều khoản về nhân quyền vào trong TPA - ví dụ trong đó đòi hỏi các cuộc đàm phán về mậu dịch với các quốc gia khác từ nay trở đi là phải đặt vấn đề tự do tôn giáo như là một mục tiêu. Nhưng chưa đủ. Chúng tôi muốn cài vào thêm nữa, kể cả TPP, vì Việt Nam hứa là một đằng nhưng thực thi hay không là một việc khác. Chúng ta phải có những cơ chế để theo dõi để kiểm soát và chế tài nếu như Việt Nam không thi hành đúng như những lời cam kết của họ.”
Blogger Điếu Cày tán thành lời kêu gọi này.
“Chúng ta biết rằng quốc hội Hoa Kỳ rất có quyền lực trong những vấn đề tham gia các công ước quốc tế và những vấn đề về tự do tôn giáo cũng được kết hợp vào các đàm phán. Mỗi một quốc gia khi đàm phán về kinh tế đều có lợi ích kinh tế của họ nhưng những đại biểu Hoa Kỳ mà tôi đã tiếp xúc rất có tâm và có lòng. Tôi nghĩ họ sẽ đòi hỏi nhân quyền. Chừng nào mà những lợi ích kinh tế mà đem lại những đau khổ cho nhân quyền Việt Nam thì đó không phải là mong muốn của những người có lương tâm. Và tôi kêu gọi họ là vì kêu gọi lương tâm của họ.”
Theo các nhà quan sát, Tổng thống Barack Obama đang mong muốn hoàn tất TPP trong chuyến công du của ông tới châu Á Thái Bình Dương vào cuối năm nay.
http://www.voatiengviet.com/content/vietnam-can-my-hon-my-can-vietnam/2827330.html

VIỆT NAM TỴ NẠN

Làn sóng mới người tỵ nạn chính trị từ VN (1)

Anh Vũ, thông tín viên RFA
2015-06-18

Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
Sau tám năm chờ đợi, chiều thứ Ba 25/11 vừa qua thêm 39 người Việt cư trú bất hợp pháp tại Thái Lan đã đặt chân xuống phi trường quốc tế Vancouver của Canada. Đây là đợt thứ nhì. Đợt đầu tiên với 28 người đã tới Vancouver hôm 13 tháng 11, 2014.
Sau tám năm chờ đợi, chiều thứ Ba 25/11 vừa qua thêm 39 người Việt cư trú bất hợp pháp tại Thái Lan đã đặt chân xuống phi trường quốc tế Vancouver của Canada. Đây là đợt thứ nhì. Đợt đầu tiên với 28 người đã tới Vancouver hôm 13 tháng 11, 2014.
RFA

Từ khi VN tiến hành cải cách về kinh tế vào năm 1986, cho dù nền kinh tế đã phần nào phát triển. Tuy vậy trước việc chính quyền VN tiếp tục, bóp nghẹt các quyền tự do dân chủ và tôn giáo, thì đến nay vẫn có một làn sóng ngầm không ít những người đấu tranh tìm đường trốn khỏi VN để xin tỵ nạn vì lý do chính trị và tôn giáo.
Cuộc sống hiện nay của họ ra sao và những người này còn sẽ tiếp tục đấu tranh hay không?
Trong bài thứ nhất, Anh Vũ sẽ giới thiệu về chặng dừng chân đầu tiên của những người tỵ nạn này ở Thái lan và Campuchia.
…Buộc phải rời bỏ quê hương
Sau khi chiến tranh VN kết thúc, do sự sai lầm trong các chính sách chính trị và kinh tế của nhà cầm quyền cộng sản, đã dẫn đến một làn sóng người VN lên đến gần một triệu người bỏ nước ra đi để tìm kiếm cơ hội tỵ nạn ở nước ngoài.
Từ năm 1986, đảng CSVN phải thực hiện một cuộc cải cách kinh tế để thoát ra khỏi bờ vực phá sản. Đời sống kinh tế trong nước có khá hơn, cũng như sau đó các trại tỵ nạn của người Việt ở nhiều nơi trên thế giới bị đóng cửa, các nước không còn muốn nhận thuyền nhân nữa; khi đó cuộc khủng hoảng người tị nạn Việt nam tưởng như đã chấm dứt.
Tuy vậy ít người biết rằng từ đó đến nay, vẫn còn một làn sóng người Việt nam tị nạn chính trị mới. Nhiều người trong số họ buộc phải bỏ nước ra đi, mà các nước trong khu vực Đông Nam Á là chặng dừng chân đầu tiên của họ.
Theo số liệu thống kê, hiện tại ở Thái lan đang có khoảng 950 người tỵ nạn, tương tự ở Campuchia cũng có đến gần 200 người.
Nói về lý do khiến bản thân phải chạy sang Campuchia để tỵ nạn, ông Hồ Văn Chỉnh cho chúng tôi biết:
Trước đây tôi ở tỉnh Vĩnh long, tôi đã bị chính quyền VN bắt cóc từ Campuchia đưa về VN bỏ tù. Sau khi tôi vượt ngục và trốn sang đây thì tôi bị kết án vắng mặt 17 năm, vì liên quan đến việc đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ và đòi đa nguyên, đa đảng
ông Hồ Văn Chỉnh
“Trước đây tôi ở tỉnh Vĩnh long, tôi đã bị chính quyền VN bắt cóc từ Campuchia đưa về VN bỏ tù. Sau khi tôi vượt ngục và trốn sang đây thì tôi bị kết án vắng mặt 17 năm, vì liên quan đến việc đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ và đòi đa nguyên, đa đảng.”
Anh Hoàng Đức Ái một nhà tranh đấu ở Nghệ An bị truy đuổi nên buộc phải bỏ nước ra đi đến Thái lan, anh nói:
“Lý do tôi phải đến Thái lan tỵ nạn là do tôi là 1 trong 8 người ở Nghệ An đã rải truyền đơn tẩy chay cuộc bầu cử Quốc hội.”
Thân phận tỵ nạn này còn dành cho những người sắc tộc H’mông, vì bị chính quyền đàn áp buộc họ phải từ bỏ tôn giáo mà họ tin theo. Một thầy truyền đạo người H’mông đang tỵ nạn ở Thái lan, yêu cầu được dấu danh tính cho chúng tôi biết. Ông nói:
Một gia đình dân tộc theo đạo Tin Lành, từ vùng Tây Nguyên chạy sang Thái Lan xin tị nạn năm 2010. Sau đó gia đình của anh Siu A Nem và 7 người con khi đến Canada tháng 7 năm 2014 (RFA)
Một gia đình dân tộc theo đạo Tin Lành, từ vùng Tây Nguyên chạy sang Thái Lan xin tị nạn năm 2010. Sau đó gia đình của anh Siu A Nem và 7 người con khi đến Canada tháng 7 năm 2014 (RFA)
“Quê quán của tôi ở VN là ở Lào cai, vì lý do ở VN tôi là một lãnh đạo tôn giáo, đã đấu tranh cho quyền tự do tôn giáo cũng như tranh đấu chống việc chính quyền cướp đất của cộng đồng người H’mông chúng tôi.”
Khó khăn nơi “đất khách quê người”
Những khó khăn của những người bỏ nước ra đi tìm đường tỵ nạn ở nước ngoài khó mà kể hết, vì đối với họ tất cả đều mới lạ. Nói về những khó khăn hiện nay, anh Hoàng Đức Ái ghi nhận:
“Khó khăn thứ nhất là về công việc, mình không có việc làm. Thứ 2 là chính quyền Thái lan họ không cho mình nhập cư, nên nếu mình ra ngoài làm việc thì sợ họ bắt, vì nếu bị họ bắt thì chắc chắn sẽ nguy hiểm. Thứ 3 là vấn đề ngôn ngữ, vì không có ngôn ngữ thì rất khó khăn cho mình.”
Thầy truyền đạo người H’mông tiếp lời:
Quê quán của tôi ở VN là ở Lào cai, vì lý do ở VN tôi là một lãnh đạo tôn giáo, đã đấu tranh cho quyền tự do tôn giáo cũng như tranh đấu chống việc chính quyền cướp đất của cộng đồng người H’mông chúng tôi
Một thầy truyền đạo người H’mông
“Ở Thái lan này thì cuộc sống nói chung cũng có nhiều cái khó khăn lắm, một là mình phải cố gắng đi kiếm việc làm, song vì mình là người sống bất hợp pháp nên người thuê mình làm họ ép giá rất là thấp. Cũng vì Thái lan họ không ký cái Công ước Quốc tế năm 1951 để bảo vệ người tỵ nạn, vì thế chúng tôi sang lánh nạn ở đây thì sự nguy hiểm luôn thường trực 24/24.”
Những khó khăn thì chồng chất như vậy, song việc có được Cao ủy tỵ nạn LHQ (UNHCR) cứu xét để cấp quy chế tỵ nạn cho những người tỵ nạn hay không thì là cả một vấn đề lớn và cũng hết sức khó khăn. Anh Hoàng Đức Ái khẳng định:
“Hiện tại, tình hình những người tỵ nạn ở Trung Đông hay những người tỵ nạn ở VN cũng rất là nhiều, mà Cao ủy (tỵ nạn) ở đây thì làm việc hết sức chậm trễ. Cho nên các hồ sơ tỵ nạn sau này càng lâu hơn vì số người tỵ nạn ngày càng đông. Như lịch phỏng vấn của tôi cũng đã dời lại 2-3 lần, bây giờ cũng đã hết 1 năm rồi.”
Kể cả những trường hợp đã được chấp nhận cho hưởng quy chế tỵ nạn ở Campuchia, song quyết định đó cũng không có hiệu lực. Từ đó dẫn đến tình cảnh những người này vẫn phải sống một cuộc đời vô tổ quốc từ nhiều năm nay. Từ Campuchia, ông Hồ Văn Chỉnh nói với chúng tôi:
“Sau khi UN rút quân thì họ giao tôi lại cho phía Capuchia và họ cấp cho tôi một cái giấy do Phó Thủ tướng ký, nhưng cái giấy này không có hiệu lực gì hết. Bây giờ thì họ khong công nhận, mà họ chỉ công nhận giấy nhập tịch thôi. Do đó hiện tại cuộc sống của chúng tôi cũng hết sức khó khăn và ở Campuchia bây giờ chúng tôi không có tương lai gì hết.”
Tuy nhiên, ở miền đất mới đa số những người tỵ nạn vẫn không từ bỏ công việc đấu tranh của mình, họ vẫn tiếp tục tham gia công việc đấu tranh trong điều kiện có thể. Anh Hoàng Đức Ái bày tỏ:
“Đối với những người tỵ nạn như tôi hay một số người bạn ở đây, hàng ngày vẫn theo dõi tình hình ở VN để tiếp tục đồng hành đấu tranh với những người đấu tranh trong nước. Đặc biệt là đối với các bạn trẻ, bằng những bài viết trên các trang blog.”
Hiện tại, tình hình những người tỵ nạn ở Trung Đông hay những người tỵ nạn ở VN cũng rất là nhiều, mà Cao ủy (tỵ nạn) ở đây thì làm việc hết sức chậm trễ. Cho nên các hồ sơ tỵ nạn sau này càng lâu hơn vì số người tỵ nạn ngày càng đông
Anh Hoàng Đức Ái
Thầy truyền đạo người H’mông cho chúng tôi biết hiện tại số người H’mông tỵ nạn về vấn đề tôn giáo ở Thái lan có khoảng 350 người và ông vẫn tiếp tục đấu tranh để bảo vệ quyền lợi cho bà con sắc tộc H’mông ở trong nước. Ông nói:
“Tôi vẫn tiếp tục hoạt động về niềm tin tôn giáo ở đây. Trước tình hình cộng sản VN đã ngăn cấm không cho đồng bào hoạt động tôn giáo tự do theo ý muốn của người dân thì tôi cũng tìm hiểu các thông tin về vấn đề này để viết các báo cáo để cho các tổ chức Nhân quyền biết, để lên tiếng bảo vệ đồng bào H’mông của chúng tôi.”
Về nguyện vọng chung của những người tỵ nạn hầu như cũng giống nhau, tất cả đều mong nhận được sự giúp đỡ của cộng đồng người Việt nam ở khắp nơi trên thế giới và mong muốn nhanh chóng được đi định cư ở nước thứ 3. Ông Hồ Văn Chỉnh cho biết:
“Bây giờ cộng đồng thế giới hãy lên tiếng để giúp chúng tôi được đi định cư ở nước thứ 3, vì chỉ có thế chúng tôi mới có tương lai cho con cái sau này. Cho đến giờ tôi đã tỵ nạn ở đây 15 năm rồi, mà họ không cho chúng tôi nhập tịch gì hết. Chẳng biết tương lai của chúng tôi sẽ ra sao nữa.”
Được biết không phải chỉ có ở các nước Đông Nam Á, nhất là Thái lan mới có những người VN tỵ nạn về các lý do chính trị và tôn giáo. Tại một số quốc gia thuộc các châu lục khác hiện nay cũng có người tỵ nạn Việt Nam.
Trong bài sau, mời quý vị đón nghe phần tường trình của thông tín viên Tường An từ Paris, về cuộc sống của những người tỵ nạn đến từ VN ở Âu châu và Úc châu.

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/the-vn-new-wav-of-refug-06182015055612.html

Wednesday, June 17, 2015


NHẬT KÝ TÔ HẢI

Nhật ký mở lần 139
Tô Hải
03-05-2015

Kể từ cái ngày mà “61 đảng viên trung thành” viết thư ngỏ gửi Bộ Chính Trị của các ông, đề ngày 28/7/2014… cho đến thư ngỏ của 42 nhân sỹ trí thúc, đảng viên “não thành”đề ngày 23/4/2015…
Thú thật, cũng như mọi lần, tôi thấy trong lòng nó… “tâm tư” vô cùng  về những điều các ông đồng thanh tuyên bố! Vì nói gì thì nói, đọc xong ai cũng thấy được là  các ông RẤT CHÂN THẬT, muốn đảng của các ông phải mau mau “thay đổi tư duy”, sửa chữa khuyết điểm để “lấy lại” uy tín với dân và để… TIẾP TỤC CÁI SỨ MỆNH LỊCH SỬ ĐÃ GIAO CHO LÀ LÃNH ĐẠO MUÔN NĂM CÁI ĐÁM DÂN NGU CU ĐEN CHÚNG TÔI
Điều đặc biệt nhất là: CÁC ÔNG ĐÃ CHUẨN ĐOÁN CĂN BỆNH UNG THƯ GIAI ĐOẠN CUỐI CỦA ĐẢNG CÁC ÔNG RẤT THẲNG THẮN, THÂT THÀ MÀ KHÔNG HỀ SỢ… THUA THIỆT.!
Các ông đã vạch ra rất nhiều điều mà không phải ai cũng có đủ điều kiện, đủ tư liệu (do vẫn có quan hệ riêng tư với “thượng tầng thể chế” đương thời?) để lên án, vạch ra những sai lầm tai hại mà các chú lãnh đạo hiện hành đang đưa đất nước vào con đường lệ thuộc Trung Hoa Hán Đế chẳng có một tốt nào cho ta bao giờ cả! Điều này làm tôi hết sức cảm phục và luôn mong muốn lời nói của các ông sẽ có thể giúp cho bọn “ăn mày dĩ vãng” mở mắt ra phần nào, may ra… dù có nhiều điều quan trọng làm tôi, một kẻ vào… “đời” năm 1927 và vào đảng năm 1949 đã trót nhúng tay vào tội… “chuyên nói dối, nói láo” (trước kia là của “chúng ta” và nay là của… “các ông”), có khi trước các ông và nặng tội hơn các ông cả vài chục năm.
Cho nên, tôi không thể hoàn toàn thống nhất tư tưởng với các ông được, nhất là trong việc đánh giá sự thối nát toàn diện của cái cơ chế xã hội, mà không đâu còn tồn tại (kể cả bên Tầu). Có lần tôi đã muốn mạnh dạn góp ý, nhất là để các lớp trẻ hiện nay đang chưa biết dựa vào ai, vào đâu, để “đấu tranh cho một xã hội dân chủ công bằng văn minh thật sự” khỏi phải hoang mang… Nhưng cuối cùng, bởi quen cái tính tiểu tư sản do bọn Tây đế quốc xài lang 11 năm nhồi nhét trong tim, trong óc về cái phương châm “ba phải”, “faute de mieux”, làm  tôi luôn tự bằng lòng với cái “không thể có cái hơn nữa trong lúc này”…
Và tôi đành chấp nhận, im lặng và đợi chờ … “thời thế sẽ tạo nên anh hùng”. Rồi đây, biết đâu đấy…
Tôi càng mong sao trong mỗi lần góp ý của các ông “đảng viên lão thành” (nhưng không còn chức vụ hiện hữu nào) chỉ là “những bước đi chiến thuật hợp lý trước mắt” chứ không phải là mong muốn thật sự rằng: đảng các ông sẽ mãi mãi duy trì cái điều 4 trên quê hương khốn khổ này… Cho nên ngay sau khi 61 vị ký tên kèm theo ngày vào đảng, (nguyên) chức vụ này nọ… hầu hết đều vào loại có… “cỡ”, có … “tầm”, có “tầm” ra trò lắm thì chắc BCT của các ông sức mấy mà lờ tình vứt vô… thùng rác!
10 tháng trôi qua, không một hồi âm… thì tiếp theo lại một lần 41 vị cũng uy tín cũ đầy mình, lại “kính gửi” một lần nữa với mong muốn chân thành Đảng ngày nay sẽ “quay lại như đảng ngày xưa”!? Nào ngờ, chẳng thèm “mời” lấy một người “bậc thầy” nào lên “trao đổi”, “nghe góp ý” hoặc cho ăn một vài… củ cà-dốt hay vài cú… roi mây, BCT các ông  đã cho một thằng “tờ sờ” vô danh ký tên Bắc Hà (?) chửi xéo các ông té tát. Hắn viết trên tờ báo QĐND rằng:
… “Gần đây, một số người tỏ ra ‘cởi mở’, ‘chân thành’ tư vấn cho lãnh đạo Việt Nam, nhưng thực chất là tán phát quan điểm xuyên tạc đường lối chính trị của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam, gây ra sự ngộ nhận trong xã hội về vấn đề phát huy vị trí địa chính trị để bảo vệ Tổ quốc. Dư luận cần hết sức tỉnh táo trước những lý lẽ của họ”!
Hoặc là:
“… trong không gian mạng với cái gọi là tự do tư tưởng, tự do ‘phản biện’ ồn ào, một số người ‘bất đồng chính kiến’ đã ‘cởi mở’, ‘chân thành’ tư vấn cho lãnh đạo Việt Nam, mà thực chất là tán phát quan điểm xuyên tạc đường lối chính trị của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam, gây ra sự ngộ nhận trong xã hội. Họ cho rằng: Chỉ có liên minh quân sự với một cường quốc thì Việt Nam mới giữ được chủ quyền biển, đảo. Họ cũng nhấn mạnh rằng Việt Nam đang có ‘cơ hội’ này. Về ‘thực trạng’ chính trị Việt Nam hiện nay họ cho rằng: ‘Chỉ có hai cách tránh họa xâm lăng: (Một) là … nhắm mắt chờ đợi một biến cố nào đó xảy ra, (hai) là cam chịu mọi sự ép bức trong đó mất dần chủ quyền biển, đảo’.” (Tiến sỹ Bắc Hà-QĐND)
Tôi chờ đợi một sự phản ứng với những điều vô lễ và sặc mùi “chống Mỹ, thuộc Tầu” này chưa thấy … thì nhân ngày 30 tháng 4, đài RFI đã tung ra bài phỏng phấn giáo sư TL, nội dung nổi bật gần như xoay quanh hai lá thư ngỏ mà các vị ký tên (lần nào cũng có tên ông giáo sư) có tin là nhà cầm quyền sẽ tiếp thu chút nào chăng?
Và tôi thật thất vọng và mất hết lòng quí trọng ông giáo sư này. Xin nghe một vài câu nói để rồi, kết luận thế nào thì… xin cứ tùy tiện!
Ông GS nói (chẳng biết có đại diên cho cả 61=42 vị không nữa?): 
“… Hiện nay chưa có một thế lực chính trị nào có thể thay thế Đảng Cộng sản Việt Nam được đâu. Và lúc này đây, khả năng tốt nhất chính là những người cộng sản Việt Nam hiểu rõ sứ mệnh của họ vào lúc này. Để lấy lại niềm tin của dân, mà bộ phận lãnh đạo, do sự hư hỏng của họ, đã làm cho cái đảng của Hồ Chí Minh bị mất hết lòng tin trong dân rồi.
Thế thì bây giờ những người lãnh đạo hãy trở lại với bản lĩnh mà đảng Cộng sản đã có, trong quá trình lãnh đạo Cách mạng tháng Tám thành công, kháng chiến chống thực dân Pháp, chống Mỹ thành công…”
Và ông khẳng định như đinh đóng cột:
Chúng tôi khẳng định rằng khả năng tốt nhất, có ý nghĩa lớn nhất là tự những người lãnh đạo trong giới cầm quyền hiện nay tự chuyển biến, để họ biết đặt lợi ích của Tổ quốc, lợi ích của dân tộc lên trên hết…”
Trời đất! Nghe cứ như anh Ba Duẩn , anh Lê Đức Thọ, anh Trường Chinh thậm chí cả bác của các ông ấy tái thế vậy. Tôi vội vào mạng đọc kỹ lại 2 cái đường link này:
để rồi xin phép: lần đầu thẳng thừng phản bác ông giáo sư kém tôi 9 tuổi mà đã… lẩm cẩm, lú lẫn thậm chí nhai lại những gì mà chú Trọng vẫn nhắc đi nhắc lại đầy “tự kiêu, tự đại, tự mãn xấc xược cộng sản” (arrogance et suffisance communiste) bấy lâu nay:
“KHÔNG MỘT THẾ LỰC CHÍNH TRỊ NÀO ĐỦ KHẢ NĂNG, TRÍ TUỆ VÀ UY TÍN (sic!) ĐỂ LÃNH ĐẠO NƯỚC VIỆT NAM NÀY!
Vâng! Ông dựa vào đâu mà dám nói 86 triệu dân tôi (xin phép không kể đến 4 triệu đoảng viên cũ, mới của các ông) không ai có thể thay thế được các ông?
Trong khi:
– Chính các ông cũng phải công nhận là lũ quan quân nhà các ông hầu hết đều “nói chứ không làm” hoặc “làm thì phá” và… ăn thì… “không chừa một thứ gì”, thậm chí tuyên bố thẳng thừng: “Quy hoạch 10 tỉ mà thất thoát 1 tỷ là… được”!
– Chính các ông đã tuyên bố cấm tiệt mọi đảng phái chính trị và bức hại bằng hết những ai muốn làm chính trị không theo kiểu của các ông… (nghĩa là Mác-Lê giả cầy!). Cũng không từ đến cả những đồng chí công thần tiền bối mà có tư tưởng chính trị khác với các ông “vua cộng sản” kiểu mới!
– Chính là vì muốn có một “lực lượng chính trị” mà hiện nay cũng như nhiều năm qua đã có bao con người không cộng sản bị giam cầm trong tù về những tội “trốn thuế”, “gây mất trật tự công cộng”…
Những Trần Huỳnh Duy Thức, Anh Ba Sàm, Trương Duy Nhất, Tạ Phong Tần, Bùi Thị Minh Hằng… hiện đang còn bị đọa đầy nơi ngục tối. Một số vì sợ họ tham gia hoạt động chính trị, đảng các ông đã tống khứ họ ra nước ngoài rồi dùng kỹ thuật “gián điệp xám” vô hiệu hóa họ với Việt Kiều nơi bị tống khứ cũng như với người trong nước. Đó là Trần Khải Thanh Thủy, Cù Huy Hà Vũ, Điếu Cầy. Còn những người, tuy đã được trả tự do hoặc “tại ngoại hầu tra” như Phạm Viết Đào, Phạm Minh Hoàng, Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn xuân Nghĩa, Hồng Lê Thọ, Nguyễn Quang Lập thì…bị “săn sóc đặc biệt” 24 /24 tiếng mỗi ngày, đi một bước cũng có người kèm cặp! Sợ họ lại hoạt động chính trị! Gần đây một số tổ chức xã hội dân sự tự do mới thành lập đã bị gây khó khăn, cản trở, dọa dẫm đủ điều…
Chỉ cần mấy cái tên kể trên thôi, tôi có thể bảo đảm rằng: HỌ THỪA SỨC TẬP HỢP QUẦN CHÚNG ĐỂ THÀNH LẬP NHỮNG LỰC LƯỢNG CHÍNH TRỊ MÀ ĐẢNG CÁC ÔNG CHỈ CÓ MÀ… CHẠY MẤT MẸC-SỜ-ĐẸC!
Với những thành phần kể trên lại được sự ủng hộ hết mình của hàng vạn giới trẻ khát khao dân chủ, nhân quyền, hàng triệu nông dân mất nhà, mất đất, hàng triệu công nhân bị bóc lột thậm tệ (vừa biểu tình cả 90.000 người được đăng công khai trên báo chí) chẳng phải nói đâu xa, chính những nhà cầm quyền hiện nay đã nhìn ra cái khả năng có thể xảy ra này, nên họ đã sợ run mà phải tăng cường thêm tướng tá, trả lương hậu hĩ, nhập thêm súng đạn, dụng cụ tra tấn, đàn áp, lập thêm nhà tù, luyện tập thường xuyên chống “bạo động” đó sao?
Vậy thì ông giáo sư đánh giá là “không có một lực lượng chính trị nào có thể thay thế nổi đảng của các ông” đã thiếu hẳn đi cái vế: VÌ NẾU CÓ THÌ CÁC ÔNG SẼ… TIÊU DIỆT!
Còn như nếu các ông dám bắt chước như Myamar thôi thì…các ông sẽ thấy ngay:
Khả năng, trí tuệ và uy tín của những lực lượng “không cộng sản” sẽ hùng hậu và đủ tài, đủ sức gánh vác xây dựng lại cái đất nước Việt Nam này thoát khỏi cảnh:
– Tụt hậu so với Indonexia tới 51 năm, so với Thái Lan tới 95 năm và với Singapore tới cả 158 năm… như thế nào!
Và cũng xin  nhắc để ông giáo- sư- cộng- sản- trung- thành biết:
– CHỈ CẦN MỘT HIẾN PHÁP DÂN CHỦ TIẾN BỘ
CHỈ CẦN ĐƯỢC TỰ DO BẦU CỬ NHỮNG NGƯỜI CÓ THỰC TÂM, THỰC TÀI VÀO CÁC CƠ QUAN LẬP PHÁP, HÀNH PHÁP, TƯ PHÁP…
Toàn dân không cộng sản (kể cả những người cộng sản lâu nay là “đa số im lặng”, tuy chưa tuyên bố rời đảng nhưng tâm trí đã bỏ đảng từ lâu rồi) cộng với số người Việt bị ly hương khắp trời Âu, Mỹ đầy nhiệt tình yêu nước, đầy tài năng, được đào tạo và  có bằng cấp tiến sỹ, giáo sư, nhà khoa học, nhà phát minh, sáng tạo, quản lý… nổi danh thế giới bấy lâu, sẽ lục tục hồi hương…
Cái viễn cảnh này, những người mà các ông “kính gửi”, đang sợ phát khiếp lên và đang  loay hoay tìm cách diệt nó từ trong trứng nước! Vậy mà ông giáo sư đến phút này vẫn hô hoán lên là “Không ai có thể thay thế nổi đảng của các ông” (?), dù chính các ông cũng phải lên án những “khuyết điểm” của đảng các ông bằng những từ ngữ… hiếm thấy trong tinh thần phê bình “thương yêu đồng chí”! Đại khái như:
“Đường lối sai cùng với bộ máy cầm quyền quan liêu, tha hóa tạo điều kiện cho sự lộng hành của các nhóm lợi ích bất chính gắn với tệ tham nhũng, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng toàn diện, ngày càng tụt hậu so với nhiều nước xung quanh.
(Trích thư kính gửi đề ngày 28/7/2014)
Còn tôi, lần này xin phép nói thẳng, nói thật một điều:
ÔNG GIÁO SƯ 56 NĂM TUỔI ĐẢNG KHÔNG  BIẾT HỌC CAO HỌC Ở ĐÂU, GIÁO SƯ VỀ MÔN HỌC GÌ MÀ CHẲNG BIẾT CHÚT GÌ VỀ CÁI QUY LUẬT TỰ HỦY, SUỐT THỂ KỶ XX SANG THÉ KỶ XXI  CỦA CÁI QUÁI THAI MĂC- XỊT- LÊ-NIN-NÍT  CẢ !
Đặc biệt lần này, vì ông công khai coi khinh gần 90 triệu dân chúng tôi là: “không ai có thể là lực lượng chính trị thay thế đảng các ông cả”, trong đó có tôi và rất nhiều bạn bè, “đồng môn”, “đồng chí” cũ của tôi, hơn ông về mọi phương diện, (trừ sự trung thành với đảng của ông), buộc tôi phải lên tiếng.
Mong các bạn gần xa, các trang mạng đã phổ biến rộng rãi “thư ngỏ của 61 đảng viên lão thành” và lời phát biểu của g/s Tương Lai  trên RFI xin cứ tự nhiên… “ném đá”… Hoặc nếu thấy tôi… có lý và… vô tư, xin cho đăng bài này như một bài phản biện chính thức.

VIỆT NAM ~! VIỆT NAM

Việt Nam, Đất Nước Nhỏ To
Việt Nam Ta Là một đất nước hơi NHỎ
Trong cái nước hơi NHỎ có một Thủ Đô thật TO
Trong Thủ Đô thật TO có những con đường rất NHỎ 
Trong những con đường rất NHỎ lại có những căn nhà thật TO
Trong những căn nhà thật TO lại có những cô vợ thật NHỎ
Những cô vợ thật NHỎ lại dành cho những Ông Quan thật TO
Những Ông Quan thật TO hay đeo một cái cặp thật NHỎ
Những cái cặp thật NHỎ thường có những dự án thật TO
Những dự án thật TO nhưng hiệu quả lại thật NHỎ
Hiệu quả thì thật NHỎ nhưng thất thoát thật TO
Thất thoát thật TO lại được coi là cái lỗi thật NHỎ
Vì thế Việt Nam Ta Từ Từ Biến Thành một Đất Nước rất NHỎ
Trong cái nước rất NHỎ lại có những Ông lãnh đạo thật TO
Trong những Ông lãnh đạo thật TO lại có những cái đầu thật NHỎ
Những cái đầu thật NHỎ lại có những túi tham thật TO
Những túi tham thật TO lại có những hiểu biết thật NHỎ
Những hiểu biết thật NHỎ lại gây hại cho đất nước THẬT TO
Tổn thất thật TO nhưng báo cáo thật là NHỎ
Báo cáo thật NHỎ nhưng thành tích thật là TO

Và…
Trách nhiệm thì rất NHỎ, nhưng quát tháo thì rất TO
Quát tháo rất TO nhưng Trí tuệ lại rất NHỎ
Trí tuệ rất NHỎ nhưng lợi nhuận thì thật là TO
Lợi nhuận TO nhưng số người chia chác thật là NHỎ
Số người tuy NHỎ nhưng tổn thất thật là TO
Tổn thất TO nhưng báo cáo thật là NHỎ
Báo cáo NHỎ nhưng thành tích thật là TO

Và…
Ông quan thật TO lại đi xe rất NHỎ (xe du lịch)
Cán bộ NHỎ lại được đi xe TO (xe khách)
Quan TO thường ở với vợ NHỎ (vợ bé)
Quan NHỎ phải ở với vợ TO (vợ cả), ở nhà TO…(nhà tập thể).

Nguồn bài thơ Intenert, ảnh Vuong Hoang
KC/

NEM RÁN TRÊN BÁO MỸ

NEM RÁN TRÊN BÁO MỸ

 


Trang CNN Travel vừa đưa ra kết quả bình chọn đất nước có ẩm thực được du khách yêu thích nhất và món nem rán của Việt Nam góp mặt trong danh sách này.

Image
Việt Nam- Nem rán trông có vẻ không hài hòa như những món ăn tươi sống bổ dưỡng, tuy nhiên vị ngon không thể đánh giá qua bề ngoài. Điểm đặc biệt của món này chính là lớp vỏ giòn bọc nhân rau củ và thịt băm thơm ngon ở trong. Đây là một trong số những món ăn đại diện cho ẩm thực truyền thống Việt Nam làm say lòng thực khách.

Image
Hy Lạp - Bên cạnh hình ảnh đặc trưng của bờ biển xanh và những ngôi nhà trắng, các đặc sản Hy Lạp như olive kalatama, pho mát feta hay salad màu sắc và thịt nướng chính là một trong số lý do thu hút du khách.

Image
Ấn Độ - Để thưởng thức những món ăn ngon nhất du khách hãy ghé Kolkata, thủ phủ của vùng Tây Bengal. Thực đơn một bữa cơm gia đình truyền thống ở đây được lưu giữ qua nhiều thế hệ sẽ cho bạn trải nghiệm trọn vẹn về ẩm thực Ấn Độ.

Image
Hồng Kông, Trung Quốc - Đến Hong Kong mà khách không thưởng thức dim sum (gồm nhiều loại bánh chủ yếu chế biến từ bột gạo, bột mì có nhân thịt, hải sản) thì quả thật là một thiếu sót lớn. Tới đây du khách có thể tìm thấy vô số nhà hàng phục vụ dim sum vừa ngon miệng, vừa đẹp mắt.

Image
Malaysia - Một khi đặt chân tới Malaysia du khách không thể bỏ qua laksa, một món bún nước cay đặc trưng cho sự hòa trộn trong văn hóa ẩm thực của người Malay và Trung Quốc.

Image
Nhật Bản- Người Nhật coi trọng văn hóa ẩm thực như một ngành kỹ thuật, họ đặt tình yêu vào từng món ăn. Chính vì vậy du khách không bao giờ thấy ngán khi thưởng thức những đặc sản của đất nước mặt trời mọc.

Image
Thái Lan - Du khách sẽ không bao giờ ăn gà rán KFC một khi thưởng thức gai tod (gà rán kiểu Thái) tại các nhà hàng ở đông bắc Thái Lan. Món ăn này được dùng kèm với các loại sốt cay đặc biệt chế biến theo cách của người dân địa phương.

Image
Italy - Ẩm thực Italy nổi tiếng thế giới hàng thế kỷ qua với những món ăn như pho mát Parmigiano-Reggiano, mì pasta hay pizza. Hãy đến với thành phố Modena nếu du khách thực sự muốn thưởng thức "ông vua của pho mát" - Parmigiano-Reggiano.

Image
Philippines -Trong thực đơn đồ ăn ở "đất nước nghìn đảo" không thể thiếu adobo (nấu thịt cùng giấm, muối, tỏi, ớt, sốt đậu nành...). Đây là món ăn có nguồn gốc từ Mexico nhưng được người dân Philippines biến tấu trở thành đặc sản địa phương.

Image
Đài Loan, Trung Quốc - Ngoài thành phố Đài Bắc có khoảng 20 phố ăn uống, Đài Loan còn có cả thủ đô ẩm thực đồng thời là đô thị cổ Đài Nam. Tới Đài Loan, muốn trải nghiệm trọn vẹn văn hóa ăn uống chắc chắn du khách sẽ phải thưởng thức một tô phở bò thơm ngon.
Hương Chi

Tuesday, June 16, 2015


VIỆT NAM NHẬU

Đàn ông Việt 'thăng tiến trên bàn nhậu'?





HA MI
BBC










Nhậu sau giờ làm đã trở thành thói quen không thể thiếu của nhiều người tại Việt Nam
Cảnh các quán bia rượu, nhà hàng luôn đông đúc, đặc biệt sau giờ tan tầm ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đã trở thành quá quen thuộc với người dân tại Việt Nam.
Tình trạng ăn nhậu đã trở nên rất phổ biến này ban đầu chỉ là một phần của văn hóa ẩm thực, giải trí, thậm chí trở thành thói quen không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày nhưng đang có tác động xã hội sâu rộng.
Việc các ông chồng đi nhậu sau giờ làm đã trở thành điều rất nhiều bà vợ chấp nhận và coi đấy là bình thường. Thậm chí hình ảnh cả gia đình quây quần bên bữa ăn tối mỗi ngày giờ đây trở thành ước mơ của nhiều bà vợ.

Tác động xã hội

Chi phí cho bia rượu, được VnExpress trích thuật từ khảo sát của Viện Chiến lược và Chính sách Y tế, lên tới 1,3 tỷ lít bia và hơn 300 triệu lít rượu mỗi năm, tức là chi tiêu hàng năm lên tới cả nghìn tỷ đồng cho bia rượu.
Đó là chưa kể tới những phí tổn cho bệnh tật từ rượu hay tai nạn giao thông do lái xe sau khi uống rượu.
Lý do cho các cuộc ăn nhậu rất đa dạng, vì công việc làm ăn, tiếp đối tác, ăn mừng sinh nhật, khao lương, đón người mới hay tiễn người cũ.
Ông Hùng, một trí thức, hiện làm giám đốc một công ty sửa chữa tàu biển tại thành phố Hồ Chí Minh, cho BBC hay mỗi lần đi ăn nhậu tiếp khách đối với ông là "cực hình" nhưng "vẫn phải đi vì nó là thủ tục nghiễm nhiên, chứ có báu gì đâu, uống vào có khi về đến nhà lại cho ra hết!".
Chị Thi, vợ một giám đốc công ty cung cấp thiết bị truyền thông, trực thuộc công ty VTC tại Hà Nội cho biết chị và hai con thậm chí rất ngạc nhiên nếu có chiều nào đó thấy chồng về nhà ăn cơm với vợ con mà không đi ăn nhậu.
Điều làm phụ nữ này lo lắng là việc chồng thường lái xe sau mỗi lần đi nhậu sau giờ làm bất kể uống ít uống nhiều.
Một nghệ sĩ ưu tú khá nổi tiếng trong ngành điện ảnh không muốn nêu tên cho biết ông sẽ không bao giờ ra sống ở nước ngoài vì "ở nước ngoài làm gì chuyện hô một tiếng là chỉ chưa đầy một tiếng đồng hồ đã có thể tụ tập cả đám ăn nhậu như thế này!"
Với ông, những buổi ăn nhậu là để xả stress sau một ngày làm việc căng thẳng.

Thị trường mở rộng

Theo một khảo sát nhanh với 5 ngàn phiếu trả lời do tờ báo mạng VnExpress thực hiện và công bố hôm 15/8 thì "số người ra quán để 'giải quyết công việc' chỉ chiếm 16%, trong khi gần 40% số người được hỏi nhậu theo kiểu ngẫu hứng, nghĩa là thích thì ra quán, không có mục đích gì cả".
Tờ báo này cũng viết "Ngoài ra, cứ 10 người thì có gần một người thừa nhận ra quán chỉ để trốn việc nhà".
Trong khi một khảo sát nhanh khác cũng của VnExpress với hơn 6 ngàn phiếu cho thấy hơn 50% nam giới đi nhậu sau khi tan sở, trong đó 13% ngày nào đi nhậu và 14% trả lời không giờ đi nhậu sau giờ làm.


Tỉ lệ sử dụng rượu bia cao nhất ở nam giới và dân công sở
Một cuộc điều tra trên diện rộng của Viện Chiến lược và Chính sách y tế về tình hình lạm dụng rượu bia tại Việt Nam hồi năm 2006 cho thấy tỷ lệ sử dụng rượu bia cao nhất là ở nam giới và nhóm cán bộ nhà nước, tiếp đến là công nhân trong các doanh nghiệp, người hưu trí và nông dân.
Điều đáng chú ý những người có trình độ học vấn cao có tỷ lệ sử dụng rượu bia cao nhất, tới 63%.
Vẫn theo nghiên cứu này thì mức độ tiêu thụ rượu bia gia tăng trong cả nước là kết quả của nhiều yếu tố, mà chủ yếu là do mức sống tăng, tập quán truyền thống và thêm vào đó là thị trường rượu bia mở rộng.
Hiệp hội sản xuất rượu whisky của Scotland (SWA) cho biết xuất khẩu sang Việt Nam đạt gần một triệu bảng mỗi năm, và Việt Nam được coi là một thị trường mới nổi được ưu tiên cao đối với ngành công nghiệp rượu Whisky.
Tại Việt Nam luôn có tình trạng chuốc rượu hay khích nhau uống để chứng tỏ nam tính với những tiếng hô "trăm phần trăm" và "zô zô" ồn ào để rồi nhiều người gục bên bàn nhậu vì say xỉn.
Có một số phụ nữ cho biết buộc phải tham gia các cuộc nhậu vì làm doanh nghiệp nên không thể không có mặt khi tiếp đối tác làm ăn, hay vì muốn đi theo để "kèm chồng cho chồng đỡ say xỉn" hoặc buộc phải đi theo chồng hay người yêu những khi không thể từ chối.

'Thăng tiến trên bàn nhậu'?

Nhiều người nước ngoài khi tới Việt Nam làm việc đã không khỏi ngạc nhiên khi được mời uống bia rượu vào bữa trưa - tức vẫn trong giờ làm việc.
Ở Anh chẳng hạn, dân công sở cũng thường có thói quen chiều thứ Sáu tan làm rủ nhau ra quán uống một hai ly bia chừng 1-2 tiếng đồng hồ để thư giãn và họ tin rằng nó tạo cơ hội có quan hệ tốt hơn với đồng nghiệp.
Hiệu vẫn còn những ý kiến khác nhau về "văn hóa nhậu" tại Việt Nam.
Một số cho rằng nếu chỉ uống 1,2 ly để tiếp khách hay giải stress thì có thể chấp nhận được, rồi "nam vô tửu như kỳ vô phong" - đàn ông mà không uống rượu thì không thể hiện nam tính, và chỉ khi uống theo kiểu thách đố đến say xỉn mới thôi thì như thế mới có thể coi là một tệ nạn.
Trong khi một số khác thì lập luận rằng nếu ai cũng biết kiềm chế khi uống và biết dừng khi nên dừng thì đã không có chuyện phải bàn về "văn hóa nhậu".
Phải chăng lề thói văn hóa của Việt Nam từ xưa theo kiểu "miếng trầu làm đầu câu chuyện" đã dẫn tới "chuyện làm ăn là phải nói trên bàn nhậu, thăng quan tiến chức, lương bổng ...cũng trên bàn nhậu" như hiện nay?
Và để thay đổi được "văn hóa nhậu" này có lẽ sẽ là cả một quá trình lâu dài, đòi hỏi có những thay đổi căn bản cách nhìn nhận trong xã hội về giá trị hạnh phúc gia đình, quan điểm về vai trò của người vợ và người chồng ở nhà và trong xã hội, và có thể cần tới cả những quy định hạn chế chi phí cho việc tiếp đãi khách của các công ty.
http://www.bbc.com/vietnamese/culture_social/2012/08/120815_viet_men_drinking.shtml



6.000 tỉ đồng/năm để... nhậu


6.000 ti dong nam de nhau
TTCN - “Ở thành phố này bây giờ, tìm thư viện, số nhà, phòng vệ sinh công cộng có thể còn rất khó. Nhưng có một thứ mà bất cứ ai, ở đâu, lúc nào cũng dễ dàng tìm thấy, đó là: quán nhậu!”, những người bạn ở Mỹ, sau mười mấy năm trở lại quê hương đã bất ngờ nhận xét. Họ không thể ngờ “ngành ăn nhậu” ở TP.HCM tăng trưởng nhanh đến thế!
“Lạm phát”... nhậu
Vừa xuống đến sân bay, việc đầu tiên của họ là ghé mua ngay một cái simcard điện thoại đi dộng để tiện liên lạc với bà con, bạn bè tình nghĩa sau mười mấy năm không gặp mặt. Nhưng sử dụng đúng ba ngày, họ đã lặng lẽ “ngâm” nó vào bồn tắm vì quá… sợ nhậu! Hầu như bất cứ cuộc hẹn hò nào dù ở nhà riêng hay dã ngoại, quán ăn, đều kết thúc bên đống vỏ chai rượu bia.
Có lẽ chưa bao giờ TP.HCM lại “lạm phát” quán nhậu như hiện nay. Những con đường bia bọt Thi Sách; cầy tơ Thị Nghè, Hồng Hà; lẩu dê Lê Văn Sĩ, Quang Trung; cháo gà Hải Triều… một thời định danh, định hình bộ mặt ăn nhậu của thành phố, nay tiếng tăm đã bốc hơi theo sự xuất hiện rầm rộ của hàng ngàn quán nhậu lớn, hơn hẳn về qui mô lẫn chất lượng.
Hầu như không một “mặt tiền” quan trọng nào của thành phố là chưa bị quán nhậu “xâm lược”. Cả những vị trí, khu vực có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về mặt hành chánh, lịch sử văn hóa như Tòa án nhân dân TP.HCM, dinh Thống Nhất, nhà thờ Đức Bà, chùa chiền, trường học, công viên, kể cả bô rác… cũng ngày ngày ngập trong bia bọt. Nhậu diễn ra tràn lan. Mươi năm trước, kinh doanh quán nhậu cũng như buôn bán các mặt hàng khác thường phải tập trung theo phố, theo đường, nay xé lẻ một mình, thậm chí lùi vào cả trong hẻm mà vẫn đông khách…
“Mốt” quán nhậu đang được ưa chuộng nhất là các quán sân vườn. Ở đâu càng có nhiều khoảng không, giếng trời, cửa sổ thông thoáng và cây xanh với trang trí tre nứa, rơm rạ, cuốc cày vừa lạ mắt vừa dân dã là nơi đó đông khách... Nhiều “làng nướng”, “vườn xanh”, “hoa viên”, “rừng xanh, biển đỏ” này nọ đã có qui mô lên đến 300-400 bàn. Một tầng chưa đủ, người ta cơi thêm lên đến 3-4 tầng, thậm chí đào hầm chui cả xuống đất. Ngày trước, quán nhậu chủ yếu chỉ tập trung ở các quận trung tâm, nơi làm việc của công chức và giới kinh doanh lắm tiền, bây giờ đã tỏa ra cả các vùng ngoại thành.
Mới 9g-10g sáng, các quán nhậu ở quận 12, Hóc Môn, Bình Chánh, quận 9, Thủ Đức đã nhộn nhịp. Dân nội thành ra tìm chút “trăng thanh gió mát” đã đành. Ngay cả những nông dân mới bán đất trở thành thị dân cũng miệt mài cụng ly bên bàn nhậu. Các em “sẹc bia” tóc xanh, tóc đỏ lả lướt mời chào. Chỉ có điều nhiều em vẫn còn vết nứt nẻ do lội ruộng dưới gót chân.
Dường như người ta nhậu suốt ngày, suốt tuần. Trong một tuần bảy ngày không có ngày nào mà người ta không nhậu. Có những chầu nhậu kéo dài từ sáng đến tối, lại có những chầu nhậu kéo dài thâu đêm đến sáng. Tên tuổi các quán hình như cũng là một nét “văn hoá mới”. “Xưa rồi diễm ơi” cái thời của những bảng hiêu trau chuốt, ngôn từ văn chương, bây giờ càng bình dân, càng “quê” cỡ “Hai Lúa, Hai Mơ, Cu Tí …” người ta càng thích.
So với “mốt” sân vườn, nhậu nhẹt trong các quán bar có vẻ trầm kín hơn. Ở trung tâm thành phố, chỉ điểm sơ qua vài con đường như Hai Bà Trưng, Đồng Khởi, Lê Thánh Tôn, Phạm Ngũ Lão… đã có đến hàng trăm quán nhậu “trí thức”. Bên cạnh khách Tây vốn là đối tượng chính của các quán này trước đây, thì hiện khách ta lại chiếm đông hơn. Ngoài công chức, doanh nhân ngồi khui rượu ngoại đắt tiền, còn có cả các cậu ấm, cô chiêu chưa bao giờ tự kiếm ra được đồng nào.
Nếu như các bar ngày trước chủ yếu chỉ kinh doanh rượu, nhạc và vài cô cave thì nay đã nhanh nhạy mơ thêm lắm trò. Chí ít là cũng vài bàn bida lỗ có các “em út” mặc áo hai dây, trễ ngực làm cơ thủ cò mồi để câu khách ở bên dưới, rồi dăm phòng hát hò “nhạc chết” nhưng có “đào sống ngồi hầu”…
Lan tràn ở mọi hè phố, ngóc ngách hiện nay là các quán nhậu bình dân. Đã qua rồi những ngày thành phố còn bao cấp, đêm đêm chìm trong bóng tối vì cúp điện, dân nhậu hè phố chỉ biết loanh quanh lai rai rượu trắng với trứng vịt lộn, khô cá đuối dưới ngon đèn dầu lập lòe. Bây giờ, tiếng là nhậu hè phố, nhưng các ma men vẫn có đủ mồi mèn lâm, hải, đặc sản.
Không chỉ giới bình dân mà ngay cả các dân lắm tiền cũng khoái la cà ở chốn này để tìm cảm giác. Thậm chí vừa nhậu vừa ngó chừng công an để ôm ghế chạy, nhưng người ta vẫn thích ngồi. Có những quán nhậu đông đúc tới hàng trăm người, rượu bia chảy ra như suối. Không khí ngoài trời lộng gió vẫn ngột ngạt mùi rượu bia, thuốc lá và mồ hôi. Người ta chen chúc nhau, chỉ cần ai đó say quậy chân, quậy tay là chắc có kẻ văng ngay xuống sông đen. Một buổi tối bên bờ kè kênh Nhiêu Lộc, tôi đã mục kính cảnh các cô gái mặc áo hở rốn, lòi bụng bia ngồi bá vai “cưa đôi” rượu rắn với cánh mày râu.
Trẻ hóa , sành điệu và “lầy lội!”
Đó là nhận xét của giới chủ quán và cả dân nhậu về đặc điểm chè chén hiện nay. Đã qua rồi cái thời chỉ có dân làm ăn khui rượu ký hợp đồng, giới công chức cà kê bàn chuyện “đại sự” sau giờ làm việc và các văn nghệ sĩ nhâm nhi tìm cảm hứng. Hiện nay, ở bất cứ quán nhậu nào dù bình dân hay cao cấp, người ta cũng có thể nhìn thấy những đệ tử lưu linh còn rất trẻ. Thậm chí cả những áo trắng sinh viên, học sinh cũng gật gù bên bàn rượu bia với đủ lý do “trăm năm trong trong cõi người ta” như sinh nhật, đỗ đạt, tìm được việc làm thêm và tất nhiên cả chuyện… thất tình, thi rớt!
Một buổi tối ở quán bia tươi P trên đường Nguyễn Thị Minh Khai, tôi đã tận mắt thấy không dưới 5-6 bàn nhậu toàn là những gương mặt 16-17. Đặc biệt, ở một bàn còn có cả các cô nữ sinh mặc đồ thể thao trường trung học. Những vại bia gần 1 lít cứ chảy tuồn tuột qua đôi môi “chíp non”. Lát sau, có cô bé ồng ộc cho “chó ăn chè” ngay trên bàn, nhiều cô khác vẫn tỉnh rụi bĩu môi, rồi dựa đầu vào vai bạn trai, tiếp tục nâng ly “dzô, dzô”. Chuyện bên bàn rượu cứ lộn xộn, không nội dung, chỉ láng máng hình như các cô cậu không buồn, không vui nên dắt nhau vào quán tìm cảm giác “vui, buồn”!
Giá trị của một con người dường như đang được hứng tỏ bằng trình dộ sánh điệu của tửu lượng của mình trong ăn nhâu. Giới chủ thời nay hiểu rất rõ sự cầu kỳ, khó tính của khách nhậu nên phải ra sức chiều họ. Từ chuyện trang trí quán theo kiểu trồng bụi chuối ngược đầu, chụp bóng đèn bằng cái nơm cá dưới quê đến “menu” bách tửu hổ lốn cả dân gian, cung đình, lẫn ngoại nhập. Thậm chí họ còn học Tây treo bảng hầm rượu này nọ với bao kiểu chai lọ xếp kín các bức tường. Về bia, giờ đây là thời thống trị các tên tuổi “bia lên cơn” đã lụi tàn của những thương hiệu đắt tiền. Các chủ quán nhậu sân vườn cho biết vài năm gần đây nhiều khách đã chuyển sang “mê” vị bia “ken”, còn tầm trung trung thì cũng phải Tiger, Sài Gòn “đỏ”, có giá bằng cả thùng “bia lên cơn” ngày trước.
Tuy nhiên, đáng nể nhất vẫn là các món nhậu. Thời của những đầu bếp càng tự do “sáng tác” món ăn bao nhiêu thì quán càng đông khách bấy nhiêu. Ở Làng nướng PN, đường Cách Mạng Tháng Tám, menu dày cộp có đến mấy trăm món. Ở môt quán nhậu “nhà quê”, quận 2, anh đầu bếp bụng phệ liếc dao tuyên bố con gì ngọ nguậy mà bỏ vào mồm không chết thì quán có tất, từ rắn biển, thằn lằn núi đến bò cạp, kiến mối chiên bơ… “80-90% dân nhậu bây giờ lật thực đơn là tìm “món độc”. Chỉ có “lúa” với các bà các cô là dân nghèo mới gọi gà, vịt thôi…” - một chủ quán nhậu trên đường Lê Văn Sĩ nhận xét.
Nhiều chủ quán cũng khẳng định tửu lượng của đa số dân nhậu hiện đang cao đến mức… “lầy lội”!
Lượng tiêu thụ quá lớn. Các bợm uống đến say khướt đã đành, mà ngay cả nhiều dân làm ăn, giới công chức và cánh trẻ cũng khoái cụng ly “tới chỉ”. Rất hiếm khách bước vào quán uống 1-2 chai bia cho ăn ngon miệng như hồi xưa, mà như nhiều chủ quán nhận xét phổ biến là cỡ 5-6 chai, còn 7-8 chai trở lên cũng phải chiếm tỉ lệ 30-35% khách.
“Dân nhậu sỉn tại chỗ thì nhiều không nhớ nổi. Nhân viên cứ 15 phút, nửa tiếng lại phải vô nhà vệ sinh để dọn dẹp những thứ mà khách đã cho vào bụng không lâu trước đó. Nhiều quán đã phải chuẩn bị cả bãi trống dành cho khách sỉn gửi xe máy đi taxi về...”. Đặc biệt, “đôi mươi năm trước, nhìn một thanh niên uống hết chục chai bia là chuyện hiếm, nhưng bây giờ đó là chuyện thường ngày, ngay cả với bộ phận thanh niên áo bỏ vào quần, xách cặp đi làm!”.
Theo khảo sát điểm ở một số quán nhậu bậc trung ở quận 1, 3 và Tân Bình, rất ít có chầu nhậu nào có giá thanh toán 200.000 -300.000 đồng, phổ biến vẫn mức 500.000 - 600.000, còn từ 700.000 - 800.000 trở lên đang có tỉ lệ tăng dần. Các chủ quán quen mặt khách cũng phải lắc đầu: “Có rất nhiều nhiều cái biu (bill) “bèo” sau vài giờ say sưa cũng phải trả ngang với mức lương của một ông chủ tịch phường, ngạch của một giáo viên đã còng lưng dạy mười năm. Không hiểu họ lấy tiền ở đâu ra mà nhậu dữ vậy?”.
Làm giàu trên quán nhậu
Ngành kinh doanh ăn nhậu có lẽ đang đứng ở top ten ngành nghề dễ thu siêu lợi nhuận nhất hiện nay. Nhiều chủ quán bây giờ đã mở thêm chi nhánh ở nội, ngoại thành với qui mô nhân viên đông đến hàng trăm người. Thậm chí ngay cả cac quán bia hơi, thịt chó, nghêu sò bình dân cũng có chi nhánh và xin “độc quyền thương hiệu” hẳn hoi.
Qua khảo sát riêng của chúng tôi tại một quán bia tươi ở quận 1, mỗi ngày có cả 1.000 khách vào đây ăn nhậu. Nhân viên tính tiền cho biết trung bình mỗi người chỉ tiêu khoảng 150.000 đồng thì quán đã đạt doanh số 150 triệu đồng mỗi ngày.
Nếu cứ tạm tính lợi nhuận đạt tỉ lệ 30% như họ nói( nhiều người cho biết các quán nhậu có thể lời được 40-50% trên doanh số) thì mỗi ngày chủ quán này đã kiếm được xấp xỉ 45 triệu đồng. Thậm chí chỉ ba ngày khảo sát ở quán nhậu “nghêu sò vỉa hè” bên bờ kè kênh Nhiêu Lộc, chúng tôi đã ghi nhận có không dưới 150 khách vào quán mỗi đêm. Trung bình mỗi khách “uống” hết 80.000 đồng, và với lợi nhuận 30%/doanh số thì quán đã có gần 4 triệu đồng mỗi đêm.
Việc kiếm lời trên một chai bia là không đáng bao nhiêu (ăn trên số nhiều), mà chủ yếu từ rượu, thức ăn và các thứ linh tinh khác. Một chai rượu ngoại hạng bèo ở siêu thị bán 150.000 đồng, trong quán nhậu thường có giá từ 250.000 đồng trở lên (chưa kể công khui, rót). Còn “rượu ta, rượu thuốc” thì vô giá. Các mối bán buôn ở Gò Vấp, Tân Bình, Long An mang can 50 lít lên đổ với giá rẻ mạt, nhưng quán nhậu phải “hét” lên không dưới 200% giá thật. Thức ăn ít nhất là cứ một lời một, thậm chí hơn nữa. Một con cá saba mua ở siêu thị là 30.000 đồng, trong một quán nhậu ở quận 3 nó đã có giá 130.000 đồng. Những thứ linh tinh khác như khăn mặt, đĩa đậu phộng thì cứ bỏ một lời hai, thậm chí bốn lần.
Thực tế thành phố đã xuất hiện nhiều đại gia có máu mặt, mua nhà biệt thự, đi xe “mẹc” chỉ nhờ thành công từ các quán nhậu.
6.000 tỉ đồng/năm để... nhậu
Chưa khi nào thị trường rượu, bia VN lại phát triển mạnh như hiện nay. Chỉ riêng dòng rượu nhập ngoại, có đi rảo các shop, siêu thị suốt hai ngày vẫn chưa nắm hết nổi các cái tên, giá cả, xuất xứ của chúng. TP.HCM hiện đang có vài chục đầu mối nhập khẩu rượu qui mô lớn, và thêm khoảng vài trăm công ty thỉnh thoảng đánh vài công “hàng ké” để về bán lại kiếm lời.
Nhân viên kinh doanh của một công ty nhập khẩu rượu có tên tuổi ở quận 1 cho biết chỉ trong ba năm qua doanh số của công ty đã tăng lên gấp... ba lần. Lúc đầu, công ty này chỉ chuyên “đánh” hàng tàu rượu vang, gần đây đã mở rộng ra cả rượu mạnh theo “nhu cầu của thị trường”.
Tuy nhiên, các nguồn tin từ hải quan và quản lý thị trường đều thừa nhận luồng nhập khẩu chính thức chỉ đang chiếm khoảng 50-60% thị trường rượu ngoại, phần còn lại là… rượu nhập lậu qua các ngõ biên giới đường bộ và tàu hàng viễn dương. Giá bán lẻ của chúng chỉ thấp hơn giá rượu nhập khẩu chính thức khoảng 15-25%, nhưng các đầu nậu buôn lậu đã bỏ túi đến 75-85% tiền lơi trên thực vốn bỏ ra. Điều đặc biệt là dân nhậu không chỉ chịu giá cắt cổ, mà còn đang vô tình uống rượu dỏm vốn đang chiếm đến hơn nửa trên thị trường châu Á.
Theo Bộ Công nghiệp, rượu ngoại hiện đã “chảy tràn” ở VN khoảng 2 triệu lít mỗi năm, với tốc độ tăng trưởng năm sau cao vọt hơn năm trước. Nhưng con số đó vẫn chưa là gì, nếu nhìn tổng thể “chiếc bánh” thị trường rượu với phần cắt riêng của dòng rượu trong nước gồm cả sản xuất công nghiệp lẫn dân tự nấu lên đến khoảng… 102 triệu lít mỗi năm! Đặc biệt là nhóm rượu sản xuất công nghiệp đang phát triển mạnh trở lại (chiếm khoảng 20 triệu lít) sau một thời gian trầm lắng do mất thị trường.
So với rượu vốn đa dạng nguồn hàng, bia hiện nay lại là thời hầu như độc chiếm thị trường của các công ty trong nước và liên doanh. Thực tế nguồn bia nhập ngoại trực tiếp chỉ có thị phần rất nhỏ, chủ yếu là vào thẳng các nhà hàng cao cấp và một ít ở các siêu thị. Hơn 90% tương đương với gần 1 tỉ lít mỗi năm là phần của trong nước.
Mặc dù mức huy động công suất mới chỉ chiếm đạt khoảng hơn 78% năng lực sản xuất, nhưng sản lượng bia VN đã tăng nhanh đến chóng mặt, khi bình quân năm năm 1996-2000 là 10,9%, còn năm 2002 so với 2001 là 9,3%. Với tổng cộng 320 công ty, cơ sở sản xuất, hiện hầu như tỉnh thành nào cũng có cơ sở sản xuất riêng, nhưng dẫn đầu thị phần bia ở VN vẫn đang thuộc về cac tên tuổi quen thuộc như bia Sài Gòn, 333, Hà Nội, Tiger, Heineken …
Về tình hình kinh doanh rượu, bia ở VN hiện nay, một chuyên gia của công ty khảo sát, tư vấn thị trường nước ngoài đã nhận xét: “Ở VN, hiện không có ngành sản xuất, kinh doanh nào có thể dễ kiếm lợi nhuận như ngành này!”. Nếu ước tính sơ bộ thì người dân của đất nước còn nghèo khổ như VN chúng ta đã “nhậu” khoảng… 6.000 tỉ đồng, nếu giả sử đổ đồng giá cả ở mức thấp là 8.000 đồng/lít rượu sản xuất trong nước, 150.000 đồng/lít rượu ngoại và 5.000 đồng/lít bia!
QUỐC VIỆT
Việt Báo (Theo_Tuổi Trẻ )

ĂN NHẬU Ở VIỆT NAM.
Chu Tất Tiến.


Nhiều người về Việt Nam rồi trở lại Mỹ hí hởn khoe các màn ăn uống độc đáo mà chỉ có tại quê nhà mới có thể cung cấp được. Những người này chê phở ở khu Bolsa thiếu hương vị, chê Bún Bò Huế ở Thủ Đô Tị Nạn không nồng, chê Hủ Tiếu Cali kém phẩm chất, dĩ nhiên là chê tuốt luốt các món ăn ở khắp nước Mỹ, từ Tếch Xát, Hiu tôn, đến Oắt sinh Tông, đâu đâu cũng dở. Cứ nghe mấy ông bà "Vịt" kiều này nói chuyện thì ta chỉ muốn nhào ra phi trường lấy vé máy bay về liền một khi. Nào là Tiết Canh Tôm là một giọt đen đen ở đầu con tôm hùm, chích vào cho nhỏ xuống ly ruợu. Giá cả phải chăng, sơ sơ có chục đô la một ly ruợu này thôi, nếu sơi cả con thì một trăm đồng. Chuyện nhỏ! Rồi Tôm xanh tươi rói mới bắt được ở sông, ngồi ở quán cạnh sông, nhìn chủ quán vớt lên, cho vào chảo, ôi chao, tuyệt cú mèo. Cũng chẳng tốn bao nhiêu. Chỉ hơn chục đô cho một đĩa. (Có vị "Vịt" kiều bị dụ đi ghe ra giữa sông, ngắm trời đất mênh mông, ăn đĩa tôm, bị chém một trăm tít, không trả đủ, không cho về!). Rồi thì các quán hàng ăn liên tu bất tận, cả chợ toàn là quán nhậu, muốn chi cũng có, từ thịt "rồng" là loại tắc kè khổng lồ, đến cá sấu, nhỏ hơn thì bọ cạp, rắn rết, (hình như chưa có món giun đũa chiên dòn?), bình dân thì heo con, khách có thể ngắm người chủ thọc tiết chú heo, lột da, lọc thịt, rồi nấu nướng liền tay. Vịt, gà vào thời đại "cúm gia cầm" chơi tuốt luốt, kệ mẹ nó, chết sống có số! Có lẽ chỉ có món tiết canh vịt thì bà con hơi ngán, vì chả có nấu nướng gì, cứ máu sống mà trôi tuột vào cuống họng, thì vi khuẩn cúm theo vào hàng tỷ tỷ con.
Xem mấy cuốn phim quảng cáo cho Việt Nam ăn nhậu đang được phổ biến tùm lum, mục đích dụ khị "Vịt" kiều mang đô la về nhà, mới thấy những người khá giả dân mình đang bội thực. Phim nào phim nấy đều quay cảnh bàn ghế bóng láng, rượu đổ tràn ly, "Vịt" kiều ta há mồm nuốt miếng những món sống sít một cách ngon lành.
Dân nhậu sang thì làm mật gấu tươi. Mấy ông chủ gấu cầm dụng cụ lấy mật, chọc ngay vào bụng con gấu đang rên rỉ, vật vã, mà rút ra một chút mật cho vào ly ruợu cho ông khách Thượng Đế, có thể cũng là "Vịt" kiều, hào hứng tu liền, hy vọng tối nay, đi nguyên một chuyến tầu với em bồ nhí mới lượm được trong quán cà phê ôm. (Danh từ thời đại mới: "đi tầu nhanh" có nghĩa là không huỡn mà thưởng thức, vù một cái là tầu chạy qua luôn, thì từ 150 đến 300 ngàn, tùy em trẻ hay già. "Bao nguyên chuyến" là rả rích luôn một đêm phải 1 triệu trở lên.). Thay đổi không khí thì vào mấy quán cà phê láng coóng, trang trí hấp dẫn, kiểu mới kiểu cũ, chỉ có ăn uống mà không có ôm. Đi xa hơn, xuống mấy tỉnh thành, quán nào quán nấy sang trọng hơn Tây! Tóm lại, nếu chỉ nghe mấy "Vịt" kiều kể chuyện, xem phim ăn uống, thì thấy hình như đất nước là cả một nhà hàng khổng lồ, mênh mông, đâu đâu cũng có mùi thơm, từ mùi thịt chó, đến mùi thịt "người" do các em thơm như múi mít chào mời.
Ôi chao! Sao mà ăn uống sướng thế? Nhưng, có mấy người biết được phía sau nhà bếp có cái gì không? Mới đây, nghe tin báo chí, thấy tin ở Trung Quốc có "hơn 2 triệu con chuột cống đang tiến từ vùng nước lụt vào các nhà hàng ăn", nghĩa là 2 triệu chú chuột này bị nước lụt nên ào vô đất liền, bị phe ta mần thịt, đem bán cho du khách. Những chú chuột bị lụt, nên ăn đủ thứ, dòi bọ, chân tay người chết, thú vật chết... rồi bị các tay phù thủy biến hóa thành các món ăn ngậy béo, hấp dẫn vô cùng với các tay ham nhậu của lạ. Cùng đồng thời, có tin một phóng viên đã vào tận trong bếp một vài trung tâm làm bánh bao, quay lén được những món hấp dẫn trong bánh bao chỉ là những tấm các tông cũ, đem ngâm nước cho mềm, rồi xắt nhỏ, cho vào làm nhân bánh! Mới nghe đã muốn ... chạy vào toa-lét rồi. Còn ở Việt Nam, đàn em của Trung quốc thì sao? Có chắc là sạch sẽ hơn đàn anh không? Theo tin từ báo chí trong nước, từ hồi nẫm, có nhiều vụ khám phá thấy các hộp sữa Ông Thọ là một thứ đường đùng đục, không biết là đường gì, nước uống chứa một số lượng vi trùng đủ làm một con bò lăn quay, nước đá làm bằng nước "rô bi nê" không thanh lọc, nước mắm làm từ nước lấy ngay trong hồ cá tra, mắm tôm có trộn...phân người (í ẹ!), cá nhiễm độc, tôm nhiễm chì và thủy ngân... Cá nóc, ai cũng biết là ăn vào sẽ ngộ độc, vậy mà thiên hạ ép khô rồi bán tỉnh bơ. Không biết bao người đã chầu thiên cổ vì nhậu loại cá này! Thịt cá đã vậy, còn rau thì sao? Người làm vườn đều hiểu rằng chả có phân bón nào làm tốt rau hơn phân... tươi của loài người. Gần đây, khi phương tiện kỹ thuật đã tràn vào thôn quê, thì người ta trộn phân bón vào thuốc trừ sâu cho cây lớn nhanh! Chưa hết, người ta còn có thể coi những tấm hình chụp từ báo chí trong nước rất độc đáo: mấy người bán rau sống, đứng ở mấy cái cống cái, nhúng rau xuống cống cho... mát rau trước khi mang rau vào thành phố! Mà cống cái là một kho chứa những chất kinh khủng nhất mà trí tưởng tượng loài người có thể nghĩ đến. Nhúng rau xuống cống rồi mang vào chợ.. thì đúng là giết người không dao. Còn rượu, đa số ruợu ta mà muốn ngon thì phải thêm tí tí thuốc trừ sâu. Có thuốc trừ sâu rầy vào ruợu, sẽ thấy ruợu lóng lánh, trong sáng, không có cặn. Bánh phở thì sao nhỉ? Chắc ai cũng nghe tin bánh phở, bánh hủ tiếu trộn "phóc môn" là thuốc ướp xác...
Những năm đầu thế kỷ 21, các thực phẩm xuất cảng của Việt Nam đa số bị trả lại vì có chứa những kháng sinh, trụ sinh, thủy ngân, chì và các chất độc hại khác. Thịt gà, thịt vịt từ Trung Quốc, nơi có tổ bệnh cúm gia cầm, tuồn vào Việt nam qua các cửa khẩu chính thức và không chính thức hàng ngàn tấn. Kinh hoàng nhất là bản tin ngày 18 tháng 7 năm 2007: tại một số tỉnh thành có dịch heo bệnh chết, những con heo đã bị chôn xuống cát lại đuợc lấy lên, bỏ lòng, xẻ thịt mang đi! Tại một làng kia có 15 con heo chết chôn trong một ngày đàng hoàng, sáng hôm sau, chỉ còn trơ mấy cái lỗ với các bộ lòng ngổn ngang. Người ta hỏi thịt mang đi đâu, thì mấy tên trộm cho biết bán cho lái buôn thịt mang vào thành phố làm nhân bánh bao và các thứ bánh khác! Úy Cha mẹ ơi! Heo đã chết vì bệnh dịch rồi, thì .. chó cũng không dám ăn, vậy mà có những kẻ dã man, đang tâm lấy thịt nhồi bánh, bán cho dân chúng ăn!
Ôi đất nước ta đang vui sướng vì ăn và cũng đau khổ vì ăn. Ăn bậy, ăn tạp và ăn phung phí. Ăn để lấy chết và ăn để hủy hoại đất nước. Môi trường sinh thái của đất nước ta đang tàn dần, nhiều loại thú rừng đang tuyệt chủng, vậy mà có hàng ngàn, hàng vạn quán nhậu thú rừng mở tại các cửa rừng dưới cây dù che chở của quan lại địa phương, mỗi ngày hàng chục tấn thú rừng bị giết để thỏa mãn khách chơi, gồm "Vịt" kiều và Tư Bản Đỏ. Mai mốt vào rừng không còn nghe tiếng chim kêu vì bị săn bắn hết rồi, không còn cọp gầm vì đã thành cao hổ cốt rồi, không còn rắn, rùa, baba, thỏ, sóc, kỳ đà, kỳ nhông... Chúng đã vào bụng những người không tim cả rồi. Thiên nhiên đã lập ra sự cân bằng sinh thái, có những con chim dọn rác, có những con chim bắt sâu, giết hết chúng rồi, thì sâu bọ hàng tỷ con sẽ tràn lan vào nhà. Bởi vậy, có những làng phải bỏ chạy vì nạn sâu róm, mà không biết lý do là vì cả những con chim sâu bé nhỏ nhưng sung sức như một đạo binh giết sâu đã bị biến thành thực phẩm cho những cái miệng tham lam mất rồi. Có những con rắn để bắt chuột làm hại cây cỏ, thì cũng bị lùa vào rọ cả rồi. Cú mèo, dơi, những con vật có ích, cũng đã không còn thấy đâu nữa. Những con ve ca hát cho rừng vui nay trở thành món nhậu đã đứa. Mấy con người đi lùng ve sầu không cần biết rằng "17 năm trường, một kiếp ve", những con ve sầu này phải núp dưới đất 17 năm để trồi lên có một mùa rồi chết đi, họ cứ lùa, cứ vơ vét cho đầy túi tham, mặc các chú ve nghệ sĩ kia chưa kịp làm công việc truyền giống. Tội nghiệp cho đất nước Việt Nam, mai kia một số lớn rừng già sẽ biến thành sa mạc, con cháu chúng ta không còn nghe đến tên thú rừng nữa. Chỉ vì những con người không có tim mà chỉ có cái mồm và cái bao tử.
Chu tất Tiến.2008

https://www.youtube.com/watch?feature=player_detailpage&v=BcQjEz6IPMw


HÀ NỘI MƯA BÃO

 HÀ NỘI MƯA BÃO
Chỉ trong một tuần, đã có thật nhiều nước mắt đổ xuống trên toàn cõi Việt Nam. Với nhiều lý do. Nước mắt tràn trên các trang báo, bi thương trong các lời mô tả.
Những giọt nước mắt ấy, rơi xuống vì lòng kiêu hãnh chung hoặc vì nỗi đau thầm lặng của từng số phận. Nhưng cũng có những giọt nước mắt cay đắng cho đất nước vào giai đoạn trầm kha, mà nhân dân chính là kẻ mãi mãi phải gánh chịu.
Đất nước hôm nay hoang tàn, như một cõi vàng mã sau cơn gió giật đã lộ ra rất nhiều thứ. Tất cả phiêu diêu không biết về chốn nào, giữa những lời tung hô và giả dối.
Hoang tàn như qua một cơn giông, người ta giật mình chợt biết rằng bao năm nay mình bị lừa dối, khi nhìn thấy những trụ điện bê-tông gãy đổ với chất lượng tệ hại đáng kinh ngạc. Ở ngay một nơi được xưng tụng là thủ đô, thì sự lừa dối cũng ở cấp độ thủ đô. Những con đường, cầu cống rơi mặt nạ, suy sụp và tàn tạ, cho thấy tiền thuế của nhân dân được quấy quá và vội vã tiêu pha như thế nào trong tay những quan lại luôn kêu gọi lòng yêu nước và trách nhiệm.
Trận giông ngày 13-6 được coi là kinh hoàng ở Việt Nam, với 2 người chết và 9 người bị thương, nhiều hệ thống giao thông hư hại. Nhưng bất ngờ là sau trận giông đó, ông Lê Thanh Hải, phó Tổng giám đốc Trung tâm Khí tượng Thủy văn cho biết chuyện này đã được biết trước và “cho cảnh báo nhưng thông tin không đến với người dân”. Một lần nữa, nhân dân vẫn là người có lỗi trong kiếp nạn của mình. Còn điều gì an nguy nữa cho cuộc sống con người và đất nước này mà “thông tin không đến với” người Việt Nam?
Ngày 14/6 tàu cá ở Quảng Nam, số 92642 bị một tàu hàng “lạ” cố tình đâm vào, khiến 1 người chết và 3 người bị thương. Tàu “lạ” đã sấn vào rất gần bờ Việt Nam, chỉ cách Đà Nẳng 40 hải lý. Đã rất gần rồi, kẻ “lạ”. Đây là lần thứ hai trong tuần, kẻ “lạ” tấn công người đi biển. Một lần nữa, ngư dân Việt lại lặng lẽ góp thêm những linh hồn khốn khổ vào mộ gió. Đã bao lâu rồi, những con người chết oan ức đó, kể cả những người lính bộ đội chết ở Gạc Ma bị từ chối đưa xác về quê nhà, đã tìm thấy lời giải về số phận của mình, của tổ quốc mình lúc này? Biển của người Việt không còn bình yên nữa. Cái chết rình rập hàng ngày khiến ngư dân phải đi rất xa để kiếm sống, trôi dạt đến tận đảo quốc Palau để rồi 77 người bị bắt, 4 thuyền bị đốt, người đi biển Việt Nam bị kết tội là “kẻ cắp”. Bài học rừng vàng biển bạc trong sách giáo khoa là kẻ nói láo, vì hôm nay người Việt không còn gì nữa.
Palau chỉ có 20.000 dân, không có chỉ số về tiềm lực quân sự, nhưng với kẻ bước đến bờ biển của mình, bất kể là ai, họ đều gọi đó là kẻ cướp. Ở Việt Nam, quốc gia có 90 triệu dân, tiềm lực quân sự đứng hàng 25 trên thế giới, với những kẻ bước qua ranh giới biển của mình, chúng được gọi là bạn hoặc kẻ lạ.
Nước mắt lại rơi âm thầm, bên cạnh thềm nhà Quốc hội Việt Nam sang trọng, nơi các ông bà đại biểu sôi nổi bàn chuyện con dâu và tài sản nhà chồng để nâng cấp Bộ luật Dân sự. Quốc hội biết lo lắng về quyền phụ nữ trong cuộc sống, nhưng nhanh quay lưng về phía nỗi đau của chính đồng loại mình, thua cả bầy trâu bò ở Châu Phi biết cùng nhau chống lại thú dữ trên đường đi.
Tuần lễ nước mắt ngập những nỗi đau của ông chú, bà dì, bạn trẻ, anh chị… gào khóc vì đội tuyển của mình thất bại – như bao lần thất bại hiển nhiên khác từ nhiều thập niên nay. Nước mắt ngập khán đài như một sân khấu, nhiều cổ động viên đã khóc và bày tỏ nỗi đau rất cụ thể cho ống kính ghi hình. Những giọt nước mắt đó cuốn trôi và làm chìm lấp cả những điều hệ trọng khác mà người Việt cần rơi nước mắt lúc này.
Một người bạn trẻ trên facebook đã ghi rằng “vì sao họ có thể đau khổ đến vậy vì lý tưởng bóng đá, nhưng khi tổ quốc tụt hậu trăm năm so với các quốc gia khác, nợ công tràn ngập đến thế hệ mai sau, nạn tham nhũng đang siết cổ người dân từng ngày – thì thật khó mà tìm được ai lên tiếng hoặc nhíu mày”.

Thật ra, quyền đau thương trong một trò chơi là quyền tự do của cá nhân. Nhưng khi một tập thể cá nhân đó cùng tập hợp đau thương cho một trò chơi và lãng quên những điều nhức nhối khác, thì tổ quốc chỉ còn là quảng trường của lễ hội trụy lạc không màng trách nhiệm. Những giọt nước mắt thụ hưởng rất hiện đại đó dường như không còn thiết dành cho số phận dân tộc mình, mà chỉ nhân danh, để phô diễn sự ích kỷ và nông cạn trong một thực tế thắng bại sòng phẳng, đã rõ.
Ước gì một phần nước mắt đó dành cho biển, cho tổ quốc, cho đồng bào mình.
Ước gì một phần những bạn trẻ thích bày tỏ tình yêu tổ quốc, mặc áo đỏ sao vàng xếp hàng chụp ảnh nghiêm và buồn trước biển, trịnh trọng “tổ quốc gọi chúng tôi sẳn sàng” biết rõ và gọi tên kẻ thù trước biển là ai, lúc này.
Ước gì các đại biểu Quốc hội không ngủ gật hay chơi game trong Ipad, dành thì giờ tìm hiểu tên người ngư dân bị giết chết mới nhất là gì, cũng có thể họ tìm ra đó là một đồng hương.
Ước gì có một tuần lễ nước mắt mà người Việt tìm nhau chia sẻ, xiết chặt tay, hơn chỉ là những giọt nước mắt âm thầm của những cá nhân thương xót cho tổ quốc mình trong giông bão vô tình.
Ai đã gây ra thảm cảnh này cho dân tộc tôi?
nhacsituankhanh


Cảnh tượng không thể tin nổi ở Hà Nội sau một cơn dông


Chiều 13/6, cơn dông lớn đổ ập xuống thủ đô khiến nhiều cây xanh bị đổ, đường phố xác xơ. Điện lưới cũng bị cắt trên diện rộng.
Hà Nội ngổn ngang sau cơn dông mạnh bất ngờ
Cơn dông chiều 13/6 tạo nên cảnh tượng tan hoang cho hầu khắp thủ đô. Sau nhiều giờ, điện lưới chưa được cấp lại.
Hà Nội ngổn ngang sau cơn dông mạnh bất ngờ
Khoảng 17h ngày 13/6, cơn dông lớn bất ngờ xuất hiện ở Hà Nội. Gió mạnh kèm theo mưa rào kéo dài trong vòng 30 phút khiến nhiều biển quảng cáo, barie ngã đổ, bay khắp nơi. Theo ghi nhận của Zing.vn, cây đổ, gãy, bật gốc xuất hiện hầu khắp nội thành.
Hà Nội ngổn ngang sau cơn dông mạnh bất ngờ
Cây đè hàng loạt ôtô đỗ dưới lòng đường Phan Chu Trinh.
Hà Nội ngổn ngang sau cơn dông mạnh bất ngờ
Những cành cây lớn đổ ập xuống khiến nhiều người dân bất ngờ, hoảng hốt.
Hà Nội ngổn ngang sau cơn dông mạnh bất ngờ
Chiếc xe máy vỡ phần yếm và phía sau do chịu lực tác động của cây đổ.
Rễ cây bị bật gốc trên nhiều tuyến phố.
Rễ cây bật gốc trên nhiều tuyến phố.
Hà Nội ngổn ngang sau cơn dông mạnh bất ngờ
Chiếc xe bị cành cây đè trên phố Lý Thường Kiệt.
Hà Nội ngổn ngang sau cơn dông mạnh bất ngờ
Người dân khắc phục hậu quả do cây đổ gây ra.
Hà Nội ngổn ngang sau cơn dông mạnh bất ngờ
Do không kịp di chuyển, nên nhiều xe máy trên phố Phan Chu Trinh bị gốc cây sấu khá lớn đè lên.
Hà Nội ngổn ngang sau cơn dông mạnh bất ngờ
Đường phố, vỉa hè Hà Nội ngổn ngang.
Hà Nội ngổn ngang sau cơn dông mạnh bất ngờ
Hà Nội ngổn ngang sau cơn dông mạnh bất ngờ
Cây đổ trên Phố Huế.
Hà Nội ngổn ngang sau cơn dông mạnh bất ngờ
Nhà dân bị hư hại và xác xơ.
Hà Nội ngổn ngang sau cơn dông mạnh bất ngờ
Cây đổ làm sập nhà trên phố Hai Bà Trưng.
Hà Nội ngổn ngang sau cơn dông mạnh bất ngờ
Nhiều tấm biển quảng cáo bị thổi tung.
Hà Nội ngổn ngang sau cơn dông mạnh bất ngờ
Hà Nội ngổn ngang sau cơn dông mạnh bất ngờ
Cổng bảo vệ Hội đồng dược điển (Bộ Y Tế) trên phố Hai Bà Trưng bị nhấc bổng do phía dưới là rễ cây xà cừ bung gốc.
50m tường trường THPT Nhân Chính, Thanh Xuân bị đổ sập
50m tường trường THPT Nhân Chính, Thanh Xuân, đổ sập.
Cổng vào công trường nặng hàng tấn đổ sập. Rất may không có người đi qua lúc xảy ra sự cố. Ảnh: Duy Hiếu.
Cổng vào công trường nặng hàng tấn đổ sập. Rất may không có người đi qua lúc xảy ra sự cố. Ảnh: Duy Hiếu.
Ít nhất 1 người chết, 10 người nhập viện vì dông lớn
17h ngày 13/6, chiếc xe tải (loại 3,5 tấn) đi trên cầu Vĩnh Tuy bị gió thổi khiến chiếc xe lật nghiêng. Hàng loạt ôtô khác trên cầu phải dừng xe, bật đèn báo nguy hiểm chờ mưa gió ngớt mới có thể tiếp tục di chuyển. Ảnh: Phương Chi.
Ít nhất 1 người chết, 10 người nhập viện vì dông lớn
Cùng thời điểm, chị Phạm Thị Luyện (28 tuổi, giáo viên trường tiểu học Đoàn Thị Điểm) lái chiếc Lead màu xanh đi trên đường Phạm Hùng. Tới khu đô thị Mễ Trì, bất ngờ biển quảng cáo cỡ lớn rơi trúng khiến chị và xe ngã xuống đường. Thượng sĩ Nguyễn Anh Quốc (Tổ công tác Y5/141) kịp thời đưa chị Luyện vào cấp cứu tại Bệnh viện 198 và hỗ trợ tiền viện phí cho chị. Hiện chị Luyện đã qua cơn nguy kịch.
.
Ít nhất 1 người chết, 10 người nhập viện vì dông lớn
Một người phụ nữ lái chiếc xe tay ga cùng một thanh niên đi cùng chiều bị cây cổ thụ đè trúng. Hai người này bị thương nặng được người dân đưa vào cấp cứu.
Cơn dông kinh hoàng chiều nay đã khiến cây cối, cột điện đổ la liệt. Nhiều xe ô tô, xe máy bị đổ văng, cây cổ thụ đè bẹp. Đã có 1 người tử vong trên phố Quang Trung đoạn ngã tư Quang Trung - Nguyễn Du (Hai Bà Trưng, Hà Nội).
Một người tử vong trên phố Quang Trung đoạn ngã tư Quang Trung - Nguyễn Du (Hai Bà Trưng, Hà Nội). Ảnh: Vietnamnet.
Ít nhất 1 người chết, 10 người nhập viện vì dông lớn
Mảng tường trong bãi đỗ xe trên đường Phạm Hùng đổ trúng chiếc Kia Moring khiến capo bẹp rúm, kính sau vỡ vụn.
Ít nhất 1 người chết, 10 người nhập viện vì dông lớn
Một chiếc xe máy bị cây bàng đè trúng.
Ít nhất 1 người chết, 10 người nhập viện vì dông lớn
Cành cây bị gãy trên phố Khuất Duy Tiến đã rơi xuống đâm thủng kính trước, đúng vị trí tài xế.
Ít nhất 1 người chết, 10 người nhập viện vì dông lớn
Hàng loạt cây xanh bật bung gốc, gãy cành bao vây xế hộp trên phố Phan Chu Trinh.
Ít nhất 1 người chết, 10 người nhập viện vì dông lớn
Gió lớn trong cơn dông quật đổ hai cột điện.
Ít nhất 1 người chết, 10 người nhập viện vì dông lớn
Chiếc Mercedes và một chiếc taxi trên đường Thái Hà bị cây đổ đè. Rất may tài xế và người tham gia giao thông không bị ảnh hưởng.
Ít nhất 1 người chết, 10 người nhập viện vì dông lớn
Giao thông nhiều tuyến phố Phan Chu Trinh, Lê Văn Lương, Trần Duy Hưng, Láng, Thanh Nhàn, Minh Khai... bị ùn ứ kéo dài do hàng loạt cây xanh đổ.

AI TRỘM CỦA PHẬT?

Ai trộm chuỗi tràng hạt của Phật?


Có một ngôi chùa, nhân vì thờ một xâu chuỗi Phật Tổ từng đeo mà nổi tiếng.
Nơi thờ phụng sợi chuỗi chỉ có thầy trụ trì và 7 đệ tử biết.
Ảnh chỉ mang tính minh họa. Nguồn: Trên mạng
7 người đệ tử đều rất có ngộ tính, thầy trụ trì cảm thấy tương lai đem y bát truyền cho bất kỳ người nào trong bọn họ, đều có thể làm rạng rỡ Phật Pháp. Không ngờ, xâu chuỗi đột nhiên biến mất.

Thầy trụ trì bèn hỏi 7 đệ tử: “Các ngươi ai đã lấy xâu chuỗi, chỉ cần trả về vị trí cũ, ta sẽ không truy cứu, Phật tổ cũng không trách tội.” Các đệ tử đều lắc đầu.
7 ngày trôi qua, xâu chuỗi vẫn không được trả về. Thầy trụ trì lại nói: ”Chỉ cần ai đó thừa nhận, xâu chuỗi sẽ thuộc về người đó.“ Lại trải qua 7 ngày, vẫn không ai thừa nhận.
Thầy trụ trì rất thất vọng: “Ngày mai các người hãy rời khỏi chùa xuống núi hết đi, riêng kẻ đã lấy xâu chuỗi ta cho phép ở lại đây.“
Qua ngày hôm sau, 6 đệ tử thu dọn xong hành lý, thở nhẹ một hơi dài, nhẹ nhàng ra đi. Chỉ có một người ở lại.
Thầy trụ trì hỏi đệ tử ở lại :
– Xâu chuỗi đâu ?
– Con không lấy.
– Vậy tại sao chịu mang lấy tiếng trộm cắp?
– Mấy ngày nay các huynh đệ đều nghi ngờ lẫn nhau, nếu có người đứng ra, mới giải thoát cho chuyện này.
Lại nói:
– Xâu chuỗi tuy mất , Phật vẫn còn đây.
Thầy trụ trì cười, lấy xâu chuỗi từ tay áo mình ra, đeo vào tay người đệ tử.
Đây là câu chuyện làm tôi cảm ngộ rất lâu.
Không phải mọi việc đều cần nói rõ ràng, cái quan trọng hơn nói rõ ràng đó là: có thể gánh vác, có thể hành động, có thể hóa giải, có thể sắp xếp, có thể thay đổi, nghĩ về mình, càng phải nghĩ cho người khác, đây chính là Phật pháp.
Người hiểu bạn, không cần phải giải thích,
Người không hiểu bạn, giải thích cũng vô ích.
Đây không chỉ là một loại cảnh giới, mà hơn hết là một loại đại trí huệ.

Saturday, June 13, 2015


FERNANDO AINSA * KHÔNG TƯỞNG

Có cần đến thế giới không tưởng hay không?


CÓ CẦN ĐẾN THẾ GIỚI KHÔNG TƯỞNG HAY KHÔNG?
FERNANDO AINSA

Xã hội không tưởng là một xứ sở tưởng tượng, do Thomas More hư cấu và miêu tả trong cuốn Utopia (1516) của ông. Đó là một xã hội khác hẳn xã hội của chúng ta, một thế giới về mọi mặt ưu việt hơn thế giới thực tại. Khái niệm ấy bây giờ xem chừng đã lỗi thời vì tư tưởng không tưởng ngày nay bị ngờ là có khuynh hướng chuyên chế. Mơ ước viễn vông đó về một xã hội lý tưởng, từ lâu được coi là điều kiện cần thiết để phát triển đầu đủ những tiềm năng của con người, đã trở thành một ác mộng đối với nhiều người. Cách dùng từ ‘không tưởng’ ngày nay trong ngôn ngữ hàng ngày cũng phản ánh sự mất tín nhiệm của nó hiện nay. ‘Không tưởng’ đã trở thành đồng nghĩa với việc mưu cầu cái không thể có, với những tham vọng không thực tế, những dự án thái quá, không thể thực hiện, tóm lại với một cái gì viễn vông. Đối với nhiều người, những cách nhìn không tưởng đã chết hẳn rồi…
Quan niệm như vây có thể là quá sớm. Tư duy lịch sử, chính trị và triết học ngày nay chưa hoàn toàn mất hết những khía cạnh không tưởng của nó. Tuy chủ nghĩa không tưởng đã bị nên án về những sai lầm tư tưởng mà nó khuyến khích song điều ngược đời là nó vẫn là điều kiện không thể thiếu giúp ta hình dung ra những mô hình khác có thể có trong tương lai.
Ở trung tâm lịch sử
Trái ngược với điều ta thường nghĩ, không tưởng phải là một hình thức văn học thoát ly thực tế mà là tác phẩm của những tác giả gắn bó sâu sắc với những thực tại chính trị, xã hội và kinh tế của thời đại mình. Mục đích của hầu hét các tác phẩm không tưởng là thúc giục người ta suy nghĩ một cách phê phán về thời đại mình. Những xã hội lý tưởng miêu tả trong các tác phẩm ấy bao giờ cũng có một mối liên quan như thế nào đó với những giá trị trong thế giới xung quanh họ.
Bản thân Thomas More là một nhà nhân văn, nhà ngoại giao và nhà chính trị, làm tới chức thủ tướng nước Anh. Hòn đảo tuyệt diệu mà ông miêu tả trong cuốn Utopia của ông là nơi tồn tại một xã hội lý tưởng, tương phản với những phần miêu tả một nước Anh bị hủy hoại vì nghèo nàn, thuế khóa và cướp bóc. More đã bị mất đầu vì sự tố cáo táo bạo của mình. Từ trong ngục tù, tác giả Ý Tommaso Campanella đề xuất cộng đồng lý tưởng trong cuốn Thành phố Mặt Trời (1602) của ông để chống lại cái xã hội bất công thời ông, và ông thậm chí còn tìm kiếm sự ủng hộ để biến những ý tưởng của mình thành thực tế. Cuốn Oceana (1656) của James Harrington là một thách thức đối với nước Anh của Cromwell. Francis Bacon, nhà chính khách và triết gia, trong cuốn New Atlantis (1627) của mình, đã vẽ ra một chương trình hành động chính trị cho một nhà quân chủ sáng suốt.
Lịch sử có thể là nguồn khơi gợi nên những thế giới tưởng tượng này, nhưng một số xã hội không tưởng đã ảnh hưởng ngược lại đến lịch sử. Đối với Thomas More – viết sau cơn choáng váng của cuộc gặp gỡ giữa người Châu Âu với Châu Mỹ –cái không còn có thể thực hiện tại Thế giới cũ sẽ phải được thực hiện tại Thế giới mới. Trong thực tế, đã có nhiều mưu toang thực hiện các ý tưởng của ông tại Mỹ latinh trong thế kỷ 16, từ những công xã nông nghiệp và thủ đô do Giám mục Vasco de Quiroga lập ra tại Michoacan ở Mêhicô đến đất nước lý tưởng ‘Verapas’ (‘Hòa bình thực sự’) mà Bartolomé de las Casas tìm cách tạo lập tại Chiapas. Ở thế kỷ 19, đã có nhiều mưu đồ thiết lập những cộng đồng xã hội chủ nghĩa không tưởng tại Anh, Pháp, Mỹ, Mỹ latinh.
Phê phán hiện tại để thay đổi tương lai
Mọi đề án cho một xã hộ lý tưởng đều là một mưu đồ sáng chế tương lai. Đó là điều làm cho không tưởng khác với hệ tư tưởng. Theo Karl Mannheim, tác giả cuốn Hệ tư tưởng và Không tưởng (1929), không tưởng mang một thông điệp hy vọng hiểu theo nghĩa nó là dấu hiệu về một sự thay đổi khả thể. Trong khi hệ tư tưởng chỉ truyền bá thế giới quan của lớp người cầm quyền thì không tưởng, do chính bản chất lật đổ của mình, chống lại quyền lực hiện có và phản đối cái thực tại mà quyền lực ấy áp đặt.
Một số tác giả coi sự cùng khổ và sự phản kháng do cùng khổ dấy lên, là đồng minh lớn nhất của người không tưởng. Theo E.M.Cioran, tác giả cuốn Không tưởng và lịch sử (1960) và là người phê phán sâu cay những giá trị hiện đại và văn minh phương Tây, ‘suy nghĩ điên rồ của người nghèo khó làm cho sự vật chuyển động…; một đám người nóng đầu mong muốn một thế giới khác ở ngay dưới trần thế này và ngay tức khắc. Chính họ là những người khởi nguồn cho các thuyết không tưởng và chính vì họ mà các thuyết không tưởng được viết ra’.
Ngoài ra, yêu sách không tưởng có lẽ còn là nguồn gốc sinh ra nhiều tiến bộ xã hội. Nhiều cải thiện gần đây về cuộc sống từ lâu đã bị coi là những điều điên rồ không tưởng. Về thời gian lao động, bình đẳng nam nữ, bảo hiểm xã hội, tổ chức vui chơi giải trí hay bảo vệ môi trường, quy hoạch đô thị và những nguồn năng lượng thay thế, More, Campanella, Bacon và những người khác ngày nay có thể được coi như những nhà tiên tri mà những mơ ước trong một số trường hợp đã trở thành sự thật.
Nhưng thực tế ấy hoàn toàn không phải chỉ có những khía cạch tích cực. Trong thế kỷ 20, có một số khía cạnh của tư duy không tưởng trở thành hiện thực khiến ta phải lo lắng, thậm chí khiếp sợ. Nhiều tác phẩm đã miêu tả tình trạng máy móc hóa cuộc sống ngày một gia tăng, quan liêu hóa, phi nhân hóa cá nhân, sự khống chế và xâm nhập ngày một mạnh của nhà nước, và đã tố cáo những vi phạm tự do đó như một sự tha hóa đáng sợ.
Những tác phẩm ấy thường khuyếch đại sự phê phán của chúng đối với điều kiện sống hiện tại tới mức độ châm biếm bằng cách đưa chúng vào trong tương lai: một tương lai không giống tương lai trong các thuyết không tưởng duy tâm cổ truyền, không còn tươi sáng nữa mà là nguy hiểm, đáng sợ, như ác mộng. Những tác phẩm thuộc trường phái bi quan này, có thể gọi là phản không tưởng cũng được, gồm các cuốn Chúng Ta (1924) của Eugène Zamiatine, Brave New Word (Thế giới mới tốt đẹp - 1946) của Aldous Huxley, 1984 (1949) của George Orwell và Fahrenheit 451 (1954) của Ray Bradbury.
Những cuốn sách trên đây, nhà quân chủ ân cần trong những tác phẩm không tưởng cổ điển nhường chỗ cho tên bạo chúa chà đạp lên các quyền của con người nhân danh trật tự và an ninh quốc gia, và đi tới mức xâm phạm lương tri con người, phủ nhận đời sống riêng tư và mọi hình thức tồn tại của cá nhân.
Các thuyết không tưởng trước thực tế
Phân tích cách các chế độ chuyên chế áp đặt một xã hội được coi là duy lý bằng vũ lực của bộ máy nhà nước, Karl Popper đã đi đến chỗ đặt câu hỏi phải chăng chế độ chuyên chế là  một điều kiện cố hữu của không tưởng. Nhân danh chủ nghĩa duy lý và chũ nghĩa duy tâm, nhà không tưởng một khi lên cầm quyền bao giờ cũng trở thành giáo điều.
Theo nhà triết học Nga Nicolas Berdiaev (mất năm 1948), ở thế kỷ 20, các thuyết không tưởng tỏ ra dễ đạt tới hơn người ta tưởng trước đó bởi vì hiện tại đầy rẫy những xã hội không tưởng chuyên chế. Do đó mà ông đặt ra một câu hỏi đầy lo lắng : làm sao tránh được việc thực hiện cái không tưởng?
Điều nghịch lý là không phải những thuyết không tưởng thực tế nhất, tức là dễ thực hiện nhất, lại là những thuyết trong quá trình lịch sử đã có nhiều ảnh hưởng nhất hoặc đã thúc đẩy người ta thử thực hiện nhiều nhất. Tư tưởng hết sức độc đáo của Charles Fourier, tác giả cuốn Nouveau Monde amoureux (Thế giới tình yêu mới) đã có một ảnh hưởng vang dội theo cả hai hướng đối lập nhau. Một mặt, các môn đệ của ông thiết lập các cộng đồng trung thành với các nguyên lý tự do của ông tại Mỹ, Braxin, Achentina, và Mêhicô. Mặt khác, phong trào siêu thực say mê tính chất lật đổ và tiên đoán tương lai của học thuyết Fourier chính ở chỗ họ coi chúng là viễn vông.
Dù bị đối chiếu hay không với sự thử thách của thực tế hay có ‘sức mê hoặc của cái bất khả thể’, quan điểm không tưởng hình như vẫn là một trong những động cơ của lịch sử. Sau cùng, không tưởng là thước đo niềm hy vọng đẩy loài người tiến lên.
Tuy đối lập với mọi xã hội duy tâm, Cioran vẫn thừa nhận rằng không tưởng nằm trong cuộc tìm kiếm hạnh phúc cho con người. Thế nhưng ông lại phủ nhận ngay khái niệm hạnh phúc mà ông coi là cái đã gây ra biết bao bi kịch lớn trong lịch sử. Là sản phẩm của lịch sử, hầu hết các thuyết không tưởng theo ông đều thoái hóa thành bạo ngược và nô dịch.
Vậy phải chăng lịch sử của thuyết không tưởng là lịch sử của một hy vọng bị tan vỡ nhưng vẫn sống dai dẳng? Theo nhà bình luận Ý Ignazio Silone, một thế giới không có khía cạnh không tưởng thì khác nào một vũ trụ khép kín, ngột ngạt, và sẽ dẫn đến một sự trì trệ tệ hại hơn cả sự điên rồ. Nhà thần học Mỹ Paul Tillich còn dứt khoát hơn: ‘Không có các thuyết không tưởng để mở ra các khả năng thì hiện tại sẽ tù đọng, cằn cỗi… Không có những thuyết không tưởng thì một nền văn hóa sẽ nhanh chóng rơi trở lại quá khứ. Hiện tại chỉ sống động đầy đủ trong sự căng thẳng giữa quá khứ và tương lai’.
Ngược lại, một nhà lý luận hiện đại về không tưởng, Ernst Bloch lưu ý mọi người  đến những nguy cơ của một sự ‘lạc quan tự động’, một ‘niềm tin mù quáng và thiển cận ở tương lai’. Ông thích một sự bi quan thực tế hơn là lạc quan giả dối. Theo ông, những thuyết không tưởng xã hội không nhất thiết dẫn đến tha hóa, mà chúng có thể trở thành một phong trào cụ thế, giải phóng, với điều kiện chúng thể hiện một lập trường sáng suốt, hoàn toàn không có chút gì phiêu lưu.
Thế giới lý tưởng và thế giới ác mộng
Những xã hội thay thế mà các trước tác không tưởng đề ra đa dạng hơn rất nhiều so với khái niệm mà từ này gợi cho ta. Ngày nay từ này thường được dùng để chỉ tình trạng vô chính phủ hoặc chuyên chế, tự do hoặc độc tài, một thế giới lý tưởng hay một thế giới ác mộng. Tuy nhiên, về cơ bản chúng có thể được xếp thành hai loại : không tưởng về trật tự và không tưởng về tự do. Nói một cách đơn giản, More đề xuất loại không tưởng xây dựng trên tự do, còn Campanella đề xuất loại không tưởng dựa trên trật tự. Loại thứ nhất miêu tả những ‘trạng thái lý tưởng’ của con người (không tưởng dựa vào truyền thống dân gian và cách mạng), loại thứ hai miêu tả ‘con người lý tưởng trong nhà nước’ (không tưởng về thể chế và tập thể, thậm chí chuyên chế). Lo sợ xảy ra những xã hội không tưởng chuyên chế nhiều khi làm ta quên mất tiềm năng giải phóng của loại thứ nhất.
‘Muốn gì làm nấy’ là phương châm của tu viện Thélème, thiên đường khoái lại mà Rebelais miêu tả trong cuốn Gargantua et Pantagruel. Nó có thể dùng làm tiếng kèn tập hợp cho mọi thuyết không tưởng về tự do, từ thời Phục Hưng qua một số hình thái chủ nghĩa xã hội không tưởng thế kỷ 19 cho đến những cộng đồng không tưởng ngày nay, đem đến cho chúng ‘ánh sáng của mơ ước và say mê’, như lời William Morris, tác giả cuốn News from Nowhere (1890). Điều kỳ diệu ấy lấp lánh như ngọn lửa trong mọi tác phẩm trong đó khát vọng tự do đấu tranh để vượt qua mọi trở ngại duy lý muốn thủ tiêu nó hay phủ định nó.
Đối với những nhà không tưởng ấy, nhiệm vụ là phục hồi con người với đầy đủ bản chất của nó. Trong cuốn Basiliade (1753) của Morelly, tất cả những gì cản trở tự do của cá nhân đều bị bãi bỏ: không còn sở hữu, chính trị, hôn nhân, đặc quyền lẫn luật pháp. Cuối cùng con người sống trong sự hài hòa với tự nhiên. Một công cuộc tìm kiếm sự giải phóng hoàn toàn tương tự như vậy ngày nay lại xuất hiện trở lại trong tác phẩm của nhà văn viễn tưởng Mỹ Ursula Le Guin, đặc biệt trong tác phẩm The Dispossessed (1974) của bà. Xã hội không tưởng được miêu tả trong đó làm dấy lên cả hy vọng lẫn khiếp sợ, nói lên tâm trạng bất bình hiện tại mà nó gây ra.
Có lẽ phải khắc phục cho được tình trạng hai mặt đó thì mới có thể nắm bắt lại được sức sống và tính năng động giải phóng của ước mơ không tưởng ban đầu.
Nguồn: Tạp chí Người đưa tin Unesco, tháng 2/1991, trang 13-16. Bản điện tử do triethoc.edu.vn, thực hiện.
 

HUY PHƯƠNG * QUYỀN TỴ NẠN

Tạp ghi Huy Phương

Người tị nạn Việt Nam tại phi trường Manila, Philippines, chuẩn bị sang - định cư vĩnh viễn tại Mỹ. (Hình minh họa: Joel Nito/AFP/Getty Images)
Qua một bài viết của Tiến Sĩ Phan Văn Song vào Tháng Mười Một, 2013, chúng ta được biết trên báo “Ép Phê” số 4 tại Paris (không ghi rõ ngày phát hành) ký giả Xuân Mai đã đưa một tin có 22,417 người Việt tại Pháp bị tước bỏ quyền tị nạn, vì đã phản bội tư cách tị nạn của mình.
Nhưng quyền tị nạn là gì?
Liên Hiệp Quốc định nghĩa về tị nạn như sau: “Đó là người có đủ lý do để sợ rằng bị bách hại vì lý do chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, hoặc vì là thành viên của một đoàn thể xã hội nào, hoặc vì chính kiến, hiện sống ở ngoài quốc gia mà mình mang quốc tịch nhưng không thể nhận được hoặc không muốn nhận sự bảo vệ của quốc gia mà mình mang quốc tịch vì những lý do trên, hoặc là người không có quốc tịch vì ở ngoài quốc gia thường trú nhưng nay không thể trở về quốc gia đó, hoặc là người vì những lý do kể trên không muốn trở về quốc gia thường trú.”
Tại Việt Nam, khi lực lượng Cộng Sản chiếm miền Nam vào Tháng Tư, 1975, hàng trăm ngàn người dân miền Nam tìm cách ra đi. Số đầu tiên do quân đội Hoa Kỳ cứu vớt, chỉ trong ngày đầu tiên đã có tới 2,074 người tị nạn được chuyển an toàn tới hàng không mẫu hạm Midway. Tiếp theo là hàng loạt người chạy trốn Cộng Sản bằng đường biển và đường bộ suốt thập niên 1980 lên hơn một triệu người. Tình hình tương tự ở Lào và Cambodia cũng mở đầu cho hàng trăm ngàn người trốn tránh chính sách áp bức của chính quyền vượt biên giới sang Thái Lan.
“Ông Nguyễn Văn Tuyền, 59 tuổi, đến định cư tại Pháp năm 1980. Với lá đơn thống thiết như sau: ‘Nếu tôi ở lại, nhà cầm quyền CSVN sẽ bắt giam, đánh đập và bỏ tù không có ngày ra. Vì lý do nhân đạo, tôi trân trọng thỉnh cầu nước Pháp, vui lòng chấp thuận cho tôi được tị nạn chính trị, sống tạm dung trên mảnh đất tự do này, và tôi chỉ trở về quê cũ khi nào quê hương tôi không còn chế độ độc tài Cộng Sản.’”
Nhưng ông Tuyền đã phản bội tư cách tị nạn của ông đến bảy lần từ năm 1995 đến năm 2000. (Theo tài liệu của OFPRA – Office Francais de Protection des Réfugiés et Apatride – Văn Phòng Bảo Vệ Người Tị Nạn và Vô Tổ Quốc).
Ngày 27 Tháng Sáu, 2000, ông Tuyền và 544 Việt kiều Pháp bị OFPRA gởi thơ thông báo rút lại thẻ tị nạn, với lý do trở về quê cũ khi còn chế độ độc tài Cộng Sản.
“Chiếu theo điều 1, khoản 2A của Hiệp Định Geneva ngày 28 Tháng Bảy, 1951, chúng tôi thu hồi thẻ tị nạn, đồng thời cũng trình lên Cao Ủy Tị Nạn LHQ, kể từ nay, OFPRA không còn chịu trách nhiệm với ông, về tình trạng cư trú, xin việc làm, hưởng trợ cấp xã hội theo diện người tị nạn chính trị.”
Được biết, từ năm 1988 đến năm 2000, tổng số người Việt ở Pháp bị truất bỏ quyền tị nạn và quyền lợi, với con số là 22,417.
Bài viết ghi như sau: “Chính phủ Việt Cộng qua các đại sứ từ Võ Văn Sung, Mai Văn Bộ, Trịnh Ngọc Thái đến Nguyễn Chiến Thắng đã coi người Việt Nam là thành phần cực kỳ phản động, cần phải triệt hạ, hoặc áp dụng chính sách gậy ông đập lưng ông. Đó là, dễ dãi trong việc cấp chiếu khán cho họ, để họ bị OFPRA cắt quyền tị nạn và trợ cấp xã hội. Sau khi cấp chiếu khán, tòa đại sứ thông báo danh sách cho Bộ Nội Vụ Pháp biết tên họ của những người vi phạm luật tị nạn. Một khi mất thẻ tị nạn thì mất luôn thẻ thường trú (Carte de Séjour) nên không xin được việc làm. Trường hợp đó, muốn sống ở Pháp trên ba năm, thì phải có sổ thông hành của chính phủ CSVN, để trở thành công dân Việt Cộng cho đến mãn kiếp. Cái thâm độc của Việt Cộng là như thế.”
Tiến Sĩ Phan Văn Song có nói đến việc xin tị nạn ở Pháp, như khi được nước Pháp nhận cho vào, việc đầu tiên là làm đơn xin tị nạn, nói về lý do phải bỏ nước ra đi, nếu ở lại sẽ bị tù đày, kỳ thị và trả thù. Quy chế tị nạn chánh trị được chứng minh bằng tư cách vượt biên trốn chạy ra khỏi biên giới nước Việt Nam của mình, bằng đường bộ, đường biển, vượt biển được tàu buôn vớt, hay vượt biên đến một trại tị nạn ở một nước thứ ba.
Cơ quan bảo vệ người tị nạn, sau khi người tị nạn tuyên thệ và ký tên hứa không về Việt Nam nữa, sẽ cấp cho họ thẻ tị nạn, gọi là thẻ OFFRA. Với cái thẻ này, người mang thẻ được chứng minh là người “réfugié,” tức là người tị nạn, và từ nay họ cũng là người “vô tổ quốc” (apatride) luôn, đương nhiên sẽ mất luôn quyền công dân, hết còn là người CHXHCN Việt Nam nữa!
Hưởng được quy chế tị nạn là được giấy tạm trú (Carte de séjour temporaire), giấy phép đi làm (Carte du travail), có trợ cấp bảo hiểm xã hội (Sécurité Sociale), có trợ cấp y tế (bác sĩ, bệnh viện), trợ cấp nhà (APL-Allocation Pour le Logement). Ở Pháp còn các loại trợ cấp đặc biệt khác như trợ cấp mẹ đơn chiếc không chồng mà phải nuôi con, trợ cấp cho con bú, nuôi con không có sữa hay không muốn cho con bú, thì có trợ cấp để mua sữa bò hay sữa bột.
Du lịch là chuyện nhân quyền, nên muốn đi du lịch đã có sổ thông hành (Titre de Voyage). Đi đâu cũng được nhưng dân tị nạn Việt Nam bị cấm đi du lịch ở các quốc gia gần nơi mình bỏ xứ ra đi.
Dân tị nạn muốn qua mặt việc kiểm soát về Việt Nam thì đã có tòa lãnh sự lo, họ chỉ cần ghi danh vào Hội Việt Kiều Đoàn kết, Liên Hiệp Việt Kiều, Việt Kiều Yêu Nước, các cơ quan này lo giấy đi du lịch Malaysia, từ đây sẽ về Việt Nam và trở lại. Nhưng những ai đi theo lối này, sẽ bị các cơ quan ngoại giao Cộng Sản thông báo danh sách lại cho cơ quan OFPRA để cắt quyền tị nạn. Trong trường hợp này những ai không vào được quốc tịch Pháp để có dân quyền như một người dân địa phương thì phải có giấy chứng nhận của tòa đại sứ hay lãnh sự quán Việt Nam, chứng nhận họ là công dân Việt Nam, quốc tịch Việt Nam, có sổ thông hành Việt Nam, sinh viên có ghi danh đại học, hoặc làm việc ở một cơ quan ngoại giao Việt Nam, hay có hợp đồng làm việc với một công ty Pháp hay hãng ngoại quốc tại Pháp, đóng thuế lợi tức cho nước mình cư ngụ để trở thành Việt Kiều đúng nghĩa.
Ngày nay ở Pháp không biết còn ai là thuộc diện tị nạn. Phần lớn đã vào quốc tịch Pháp, số còn lại theo tòa đại sứ Việt Cộng để làm Việt kiều cư ngụ, làm ăn trên đất Pháp.
Liệu ngày nay, bốn triệu người Việt ở ngoại quốc, ai còn mang trong mình cái “căn cước tị nạn” vì Việt Cộng áp chế mà phải bỏ nước ra đi. Trong những người này, ai là tị nạn chính trị, ai là tị nạn áo cơm, ai là Việt Kiều, ai là Việt Cộng, ai đã trở thành lưu vong, ai nhận một đất nước khác làm quê hương?
Theo nguồn tin trong nước, những ngày cuối năm 2014, có một triệu “kiều bào” về Việt Nam đón Tết Ất Mùi … và con số tiền hải ngoại rót về Việt Nam năm 2014 ước tính lên đến $13 tỷ! Nhìn quanh sinh hoạt của cộng đồng người Việt chúng ta ở đây hay ở đó, con số này, dù có bị thổi phồng lên đi nữa cũng là chuyện rõ ràng và đáng buồn!
Không phải chuyện ông Nguyễn Văn Tuyền, tị nạn Cộng Sản ở Pháp năm 1980, từ năm 1995 đến năm 2000 đã trở về Việt Nam bảy lần, tôi biết một người, nguyên là thiếu úy tị nạn đến Mỹ từ năm 1975, tính đến năm 2012 đã trở lại Việt Nam 57 lần. Trong hai năm nay, không còn gặp, tôi không biết con số lượt đi-về này đã tăng thêm bao nhiêu lần nữa?
Chúng tôi đồng ý với kết luận của Tiến Sĩ Phan Văn Song ở Pháp, “Chỉ tội nghiệp cho những người còn tâm huyết ký tên thỉnh nguyện với chánh phủ Mỹ, chánh phủ Úc xin hãy đặt điều kiện nhân quyền với chánh phủ Việt Nam. Người Việt tị nạn chúng ta có ai đặt điều kiện nhân quyền với Hà Nội không, khi hằng năm gởi về $10 tỷ, khi hằng năm trở về du hý, du lịch? Mình không thể nhờ người ta đấu tranh nhân quyền, cho dân chủ, cho tự do, của dân tộc mình, khi mình không làm gì hết!”

LÊ QUANG VINH * CẢM THỨC 42 NĂM TÌNH ĐOẠN TUYỆT

CẢM THỨC 42 NĂM TÌNH ĐOẠN TUYỆTngominh | 03 Apr, 2015, 07:51 | VĂN

QTXM: Bạn đọc thân mến! QTXM vừa giới thiệu chùm thơ của nhà báo Lê Quang Vinh, lập tức những comments của những người Quảng Bình tiết lộ thơ tình đó là tặng cho nàng thơ là “danh ca” đẹp gái, hát hay, học giỏi ở Trường Cấp 3 Nam Quảng Trạch từ những năm 70 thế kỷ trước. Hãy đọc hai commemts: "Những câu thơ làm hiển hiện trong em thời tuổi trẻ và tình yêu của anh với chị HBH. Mối tình rất đẹp thuở ấy còn lưu dấu con đường "Vinh - Huyền" nối hai làng Hòa Ninh - Minh Lệ…” (Lê Anh Phong - TP. Đồng Hới).
        “… chị HBH là một “danh ca” đẹp gái, hát hay, học giỏi cùng đội văn nghệ Trường C3 Nam Quảng Trạch. Chuyện tình của anh Lê Quang Vinh với chị HBH, được bọn tôi biết và có “kháo nhau”; những tưởng hai người rồi sẽ thành duyên lứa, vì anh chị là một đôi “ngang tài ngang sắc”, chả còn lý do gì nữa... Tôi đọc những vần thơ trào dâng cảm xúc của anh Vinh, vẫn cảm nhận được hết thảy tình yêu hai người hiện chắc vẫn còn nguyên vẹn cho nhau”. (Nguyễn Hà Nhung - TP. Đồng Hới).
        Hôm nay, ngày 3-4, là ngày sinh nhật lần thứ 68 của Lê Quang Vinh; mời bạn đọc những cảm thức bồi hồi của nhà báo về mối tình “đoạn tuyệt” vẫn còn nồng ấm tim mình.

  CẢM THỨC 42 NĂM TÌNH ĐOẠN TUYỆT
Lê Quang Vinh 

               Thật quá bất ngờ, đúng vào thời điểm một năm tròn xa cách - Người yêu dấu nhất như Mẹ trên cõi đời - Hoàng Bích H.; sau những cố gắng vô vọng - viết, gửi về hàng trăm bức “Huyết lệ tình thư” cho người yêu; thì “đùng” một cái, nhận được lá thư “đoạn tuyệt” củaB.H. - như viên đạn bắn vào đầu!

    Anh đã chết lặng. Sau hồi tỉnh thì điên loạn, đau khổ vô cùng.

             Đọc đi đọc lại hàng trăm - hàng  nghìn lần - cả ngày lẫn đêm, suốt năm này sang năm khác; cho tới nay, chưa một lần anh tin là chính đầu óc - trái tim B.H.nghĩ suy, nung nấu viết ra những dòng “tuyệt tình” như vậy.
              Không, không bao giờ cả!
              Làm sao có thể hiểu nổi một người con gái vốn có trái tim yêu đương hết mình; luôn mong muốn và thực tế đã “Gửi tới anh những gì anh mong mỏi” ấy, giờ đây lại là “thủ bút” của bức “Nỗi lòng” kỳ lạ đến vậy. “Những gì anh mong mỏi” chính là tình yêu, hạnh phúc trọn đời của hai chúng ta. Với anh và em, điều này đã thành hiện thực sống động, như được “ông Trời” sắp đặt rồi(!). Lời lẽ trong bức thư thật “nghịch nghĩa” với mặt sau của bài thơ “Nỗi lòng” (Thế Lữ), ẩn chứ bao điều trong trái tim em (phải hiểu “Nỗi lòng” là “không đoạn tuyệt”, bởi tình ý của nó)!
              Ngay từ thời đó, anh đã nhận thức được sự vô lý của kết cục mà B.H. “lựa chọn”. Gọi là “lựa chọn”, nhưng chắc gì phải thế. B.H. không thể căn cứ vào một sự đồn thổi vu vơ là người yêu (còn hơn thế nữa!) hạ nhục mình trước “thiên hạ”: “Yêu vì vật chất”(?). Làm sao có thể tin vào điều đó, vào “thiên hạ” nào, để giết đi tình yêu mà trong mỗi cuộc đời của con người ta, chỉ có một lần duy nhất - “Mối tình đầu”!
             Vào thời điểm ấy, hoàn cảnh của anh và em vô cùng nghèo ngặt. Chúng ta còn ít tuổi quá để không một ai tin về “tính hiện thực” của mối tình này. Điều không may nữa, anh thì đang trải qua những chấn động sức khỏe do tai nạn lao động…chắc chắn tác động không nhỏ tới mọi người thân. Do vậy, cách can thiệp của gia đình nhằm duy trì con đường tiếp tục học hành, cùng mong muốn bảo đảm “tuyệt đối an toàn” cho tương lai em, là điều dễ hiểu. Nhưng động thái này cũng không thể (đến mức) tiêu diệt được tình yêu của chúng ta - Một mối tình đầu (“Ngàn năm chưa dễ để ai quên”) đã đạt tới “tột đỉnh” trong đời anh và em!           
               Trên đời, có biết bao cuộc tình duyên phải vượt qua vô vàn những gian nan thử thách để nảy mầm, đơm hoa kết trái; một phần là nhờ ở sự che chở, dìu dắt của gia đình. Không một gia đình nào “khuất phục” được tình yêu đã trở thành “Bất tử” rồi của con cái. Thực tế là từ năm 1966 - từ đêm trăng huyền diệu: H. đấy ư em - tiếng gọi bất ngờ, Giữa đêm trăng làm em quay lại. Dạ! tiếng trả lời làm anh nhớ mãi. Ôi ngọt ngào, tình tứ như thơ…”tựa như cổ tích ấy - đến nay và nếu có kiếp sau, tình yêu này vẫn là “Bất tử” !
                Cuộc tình chúng ta hiển nhiên đóng góp thêm cho thế gian này một “mẫu hình” về “Tình yêu bất tử”. Tình yêu bất tử không bao giờ chịu sự ràng buộc của hôn nhân; nó luôn làm giàu thêm giá trị cũng như chất lượng của hôn nhân. Do đó, người ta thường ví tình yêu là “ánh hào quang của buổi bình minh đời người”, còn hôn nhân là “ánh chiều tà của cuộc đời” đó sao. Cho nên, mấy chục năm lấy vợ lấy chồng, sinh con đẻ cái, dù “hạnh phúc” đến mấy; đã có phút giây nào ta không yêu thương nhau. Những khi gặp phải gian khó, ta luôn mơ về miền quê dịu ngọt chan chứa bao ký ức của tuổi thanh xuân: “Thi sĩ trộn tiều phu một nữa”, “Mái tóc dài thơm mát, Của những ngày xinh xắn biết bao nhiêu”, “Đôi mắt huyền xa thẳm, lấp lánh như vì sao”:
  “ Mắt ơi, sao mắt long lanh ?
Xa xăm giọt ngọc, mong manh nét ngài.
  Mắt ơi, mắt sáng sao mai,
 Mắt là “sợi nhớ” buộc ai trọn đời…” 
         Sau này, càng hiểu thêm, mối tình của chúng ta thật điển hình cho tình yêu trai gái (hiếm hoi vào thời đó); có thể nó đã làm cho nhiều kẻ cảm thấy thật quá lạ lùng, bởi bản thân bọn họ làm sao có được sự “thăng hoa” của một tình yêu “sét đánh” như anh và em để yêu đương vô tư, hồn nhiên. Chính những kẻ này(có người vốn từng là bạn), từ cái nhìn méo mó về  tình yêu vô cùng thơ trẻ của chúng ta, thêu dệt ra không biết bao nhiêu điều tiếng cho anh và cho em.
       Tất cả mọi rác rưởi dư luận vô cùng độc ác ấy tạo ra cái mặt trận - "Miệng thế gian như làn sóng biển" - tấn công em và gia đình; khiến ý chí người con gái vốn vững vàng, tâm hồn thuần khiết, trong ngọc trắng ngà nhường thế, đã phải cảm thấy tình yêu của mình lâm vào tình thế “lê thê, rách nát” thật rồi. Và cuối cùng thì ngã gục: “Một năm qua,  yêu đã chết trong lòng em tất cả” !
     Chúng ta không có tội gì cả! Ngàn lần không!!!Chúng ta chỉ có tình yêu trong sáng, thơ ngây, cuồng nhiệt như tình yêu của loài người thuở ban đầu. Tình yêu ấy khác gì trong các thiên tiểu thuyết diễm tình ngợi ca những mối tình thánh thiện, trong mơ…
                Sau gần nữa thế kỷ rồi, cuộc đời anh và em dẫu đã thay đổi, từ tuổi tác, quan niệm sống; đặc biệt đã đủ độ chín chắn để chiêm nghiệm về tình yêu đôi lứa, hạnh phúc - hôn nhân và nhiều điều nữa…; ta có thể quả quyết, rất tự tin rằng: trên đời, phải tới hàng triệu đôi nam nữ khát vọng tự do yêu đương, may ra mới có một đôi như V. - H. !
                Nếu không như vậy, sao sau bao bão tố cùng thời gian đằng đẵng hơn  nửa đời người - khi hai chúng ta mỗi người đã “an bài” ở một “bờ riêng” cuộc sống - tình yêu ấy vẫn y nguyên sự nồng thắm như  những ngày đầu tiên! Chất lượng và mức dộ da diết của mối tình đó là thế; liệu  nó có thể bị “thiên hạ” - cụ thể là lũ “bạn bè” xấu xa - đặt điều biến Em – Anh, là hai người yêu thương nhau tột bực, vô cùng đau đớn trở thành dại khờ, đến nỗi tự biến mình thành “nạn nhân” của “miệng tiếng” để rồi làm chết tình yêu cả cuộc đời mình:
                 “Em không muốn để cho tình cảm của chúng ta kéo dài lê thê, rách nát mãi thế này được. Gửi “Nỗi lòng” trong bài thơ của Thế Lữ. Em không muốn viết dài dòng. Mà cũng chẳng biết viết gì ngoài bài thơ ấy nữa. Mong muốn anh hãy hiểu hết sự thật”.
                “Sự thật” mà em muốn anh “hãy hiểu” liệu có đúng là nỗi đau đớn vô cùng của em khi phải cầm bút để viết “Bức thư cuối cùng giọt lệ đắng cay” ?; là những điều anh chiêm nghiệm, giải bày sau hơn 40 năm suy ngẫm ? Là gì nữa, là tình yêu mãi mãi luôn ở trong mỗi trái tim chúng ta ?
                Lẽ ra anh phải gạt phăng “sĩ diện non nớt đầu đời” khi đối diện “Nỗi lòng” của người  yêu - rất đau khổ đã thành nạn nhân của miệng tiếng “thiên hạ” - để dũng cảm đứng lên bảo vệ tình yêu. Nhưng sự thật là đã có không biết bao lần anh đi tìm kiếm em, những mong hàn gắn vết thương lòng… Nói thế nào bây giờ, “số phận” đã chặn đứng tình yêu của anh và em…
                                                             Hà Nội, 25-7-2010


THƠ LÊ QUANG VINH

QTXM-Người ta thương nói:" Khi yêu ai cũng thành thi sĩ". Tôi  sống cùng nhà báo Lê Quang Vinh suốt 15 năm cùng cơ quan Báo Thương Mại, nhiều bữa uống rượu say mềm,c hưa bao giờ nghe anh đọc thơ. Thế mà hôm qua, anh email vào cho tôi chùm thơ tình rất đượm, viết từ năm 1972. Nghĩa là anh làm thơ lâu lắm rồi. Chắc không chỉ chừng ấy. Tuy còn vụng  về câu chữ, nhưng cái tình thì chân chất và nồng ấm. Xin giới thiệu với bạn đọc. NGÔ MINH

 HỠI CHÚ BÉ THỌT CHÂN

CẦM QUẢ TÁO VÀNG 

                                             

Tôi đã biết những điều bội bạc
Mà thâm tâm không muốn nói ra
Tôi đã hiểu những chiếc hôn tẻ nhạt
Khi trao nhau chẳng vị đậm đà

Ôi lòng ta trắng trong tuyệt đỉnh
Mà tình người  quá đỗi phôi pha
Trong vần thơ của chiều tàn yên tĩnh
Nghe vô hồi căm giận ngững ngày qua

Hãy mua nhau bằng lời gian giối
Như Sở Khanh lừa đảo nàng Kiều
Có thể đấy là tình yêu vời vợi
Của riêng em sớm sớm, chiều chiều

Tôi chỉ tiếc trái tim tôi nồng cháy
Đã trao cho em trọn ngọn lửa đầu
Tôi chỉ tiếc tháng ngày đeo đuổi ấy
Những ngày xuân êm đẹp nhất còn đâu!

Hỡi chú bé thọt chân cầm quả táo vàng(*)
Hãy hiện nguyên hình là tình yêu cường tráng
Vì Người là "Thần Hạnh phúc" mãi mãi đoan trang
Cho thế gian những thiên tình trong sáng

Hỡi chú bé thọt chân - Người khởi điểm của lương tâm
Trở về đây làm tòa án cõi lòng
Để xét xử người ta yêu quý nhất
Cho lòng ta trong sạch nợ nần...
                                         18/9/1972

* "Chú bé thọt chân cầm quả táo vàng" đi trên xe tam mã, đêm đêm biến thành con kiến rồi bò lên sống mũi người nào thì sáng ra người đó được thần ban cho "tình yêu". (Theo thần thoại phương Tây).

    AI XÚI TA YÊU ĐƯƠNG


Quá khứ cho ta dòng sữa ngọt
Nuôi ta trong nhung lụa tình đời
Mớm cho ta lý tưởng sáng ngời
Gieo hy vọng vào tương lai bất diệt

Nào ta chỉ ngày đêm say gió biếc
Say hương thơm muôn thuở tuyệt trần kia
Say dung nhan kiều diễm của sơn hà
Say bất tận những linh hồn trinh bạch.

Ta sống mãi với tấm lòng trong sạch
Có hay đâu đời lắm ngõ ngách thay!
Giữa bình minh, ánh sáng, ban ngày
Lại là những phút giây tăm tối.

Giá tuổi nhỏ không xa ta quá vội
Để ta không biết đến yêu đương
Thì đêm nay, giữa gió mát trăng suông
Ta sẽ sống với hồn thơ sung sướng nhất.

Ta đã bị đôi mắt nàng khóa chặt
Bằng tình yêu không hò hẹn một lời
Phút trao yêu lại là phút ngậm ngùi
Rất lặng lẽ để cùng ta từ biệt.

Ngọn gió qua hàng dương rên xiết
An ủi ta bằng đêm lạnh vô biên
Ta gửi tình ta qua "Câu chuyện thảo nguyên"
Nàng chẳng hiểu lấy một lời chân thật.

Thậm chí tình yêu thương nàng vò nát
Trong bấy nhiêu định mệnh khắt khe
Giam trái tim trong khuôn sáo đê mê
Và gọi đấy nàng "Rita" rất tuyệt.

Ta đâu xứng là "Pavel đáng ghét"(*)
Để nàng yêu lấy một chút mảy may
Ta chỉ là con người khốn kiếp
Hóa công cho nhập bọn đọa đày.

Nếu ta là "Éponine" - không phải một chàng trai
Thì có lẽ ta với nàng cùng cảnh ngộ
Ta yêu nàng như "Éponine" yêu "Marius" (**)
Trái tim hồng chấp cả hiểm nguy.

Trong tim ấy có tình yêu rạo rực
Của " Myshkin" đối với "Nataxia"(***)
Và ta chỉ mong nàng có thực
Một tình yêu bất diệt của "Anna" (****) .

"Aphroidite" (*****) cho ta tình em
Và cũng bảo ta cần ích kỷ
Nàng không cho ta là nhỏ nhem
Khi chính nàng hiểu lòng ta chung thủy.
                           23/11/1972
----------
(*) Rita, Pavel Korchagin: các nhân vật trong tiểu thuyết "Thép đã tôi thế đấy" của Nikolai Aleksevevich Ostrovsky (Ukraina - thời LB Xô Viết).
  (**) Éponine, Marius: hai nhân vật trong tiểu thuyết lãng mạn Pháp "Những người khốn khổ" của Vichto Huygo.
(***) Hoàng thân Myshkin, Nataxia: hai nhân vật trong tiểu thuyết cổ điền Nga "Thằng ngốc" của Fyodor Mikhailovich Dostoyevsky
(****) Anna - tức Anna Karenina: nhân vật trong tiểu thuyết cổ điển Nga "Anna Karenina” của Lep Tolstoy
(*****) Aphroidite: Nữ thần ái tình trong thần thoại Hy Lạp.


              TÌNH EM


Tình em đến nhẹ nhàng êm ái quá
Như gió xuân phơ phất đậu trên cành
Tim bồi hồi xao xuyến, mắt long lanh
Anh chỉ tưởng niềm vui dài vô độ.

Những tháng năm dài trong mưa gió
Đời phiêu diêu không chút gợn lòng
Bởi hồn ta sau mỗi tối trăng đong
Không tóe máu nhuộm bầm đôi mắt đỏ.

Anh cố nén lòng anh như trẻ nhỏ
Cố nhịn thèm thương nhớ mẹ cha xa
Cố cười lên khi lệ đẫm, mắt nhòa
Cố im lặng theo vần thơ đau khổ.

Có phải chăng trong sự thật đó
Dao tình ai lách mạnh tim người
Tâm hồn anh tê cóng, chơi vơi
Và sắp sửa...
                       Bởi một điều giản dị!

Hoàng hôn đi sau những giờ ngẫm nghĩ
Ngoài vườn cây chuối đã đơm hoa
Trong phòng im bóng tối phủ nhòa
Anh viết những vần thơ buồn an ủi.

Anh chẳng trách em, chỉ trách tình ngắn ngủi
Và trách đời đen bạc bủa vây anh
Trách thời gian không chuyển số nhanh nhanh
Để anh gặp em sơm sớm...

Bao thử thách âm thầm, ghê gớm
Là những ngày đoạn tuyệt tình duyên
Có ai không một chút hờn ghen
Khi đứng trước người mình yêu sẽ mất.

Dầu ái tình có là điều đơn giản nhất
Nỗi xót xa vẫn khó né cho lòng
Bởi sao hai ta từng ngây ngất
Từ muôn xưa son sắt yêu thương...

             Hoàng hôn 7/12/1972

TƯỞNG NĂNG TIẾN * NỖI ĐAU CỦA NÚI

Nỗi Đau Của Núi


Sổ Tay Thượng Dân K’ Tiên

“Chính quyền từ trung ương đến địa phương đều cùng một duộc… chỉ nói vu vơ ngoài pháp luật… không giải quyết gì, tôi đến chỗ Hà Nội này tôi mới biết được rằng có rất nhiều người dân oan như chúng tôi cũng đang phải gánh chịu những hậu quả mà đảng và nhà nước đã gây cho mọi dân tộc…”
Ma Văn Pá (Dân Oan H’mông)
Báo Dân Trí, số ra ngày 20 tháng 5 năm 2015, đã vô cùng hân hoan gửi đến cho độc giả một tin vui:
Cô bé H’mông vượt cổng trời ra phố đi học... 11 tuổi, Mị vượt 50 cây số đường rừng, vượt những con dốc cao, lội qua những con suối mùa mưa nước cuồn cuộn chảy để đi học thêm cái chữ.
Học giỏi, múa hay, là liên đội trưởng xuất sắc, Mị vinh dự đại diện cho hàng nghìn bạn nhỏ H’mông được ra Hà Nội báo công với Bác nhân dịp kỉ niệm 125 năm ngày sinh của Người.
Vừa qua, trong Hội thi “Chúng em kể chuyện Bác Hồ”, bằng giọng kể trầm ấm, diễn xuất sinh động, cô học trò người H’mông Vừ Y Mị vinh dự đạt giải Nhất toàn huyện. Câu chuyện “Bác Hồ với câu hát dân ca” mà Mị kể khiến nhiều người cảm động. “Chúng em chỉ được gặp Bác qua những câu chuyện kể và biết rằng, Bác dành nhiều tình yêu mến cho những làn điệu dân ca đã nuôi dưỡng tâm hồn Người từ thửa thiếu thời. Yêu Bác, em thêm yêu hơn nhưng câu ví, giặm quê mình. Người H’mông nay không còn du canh du cư nữa, trẻ em H’mông được cắp sách tới trường… Người H’mông ơn Đảng, ơn Bác Hồ nhiều”, Vừ Y Mị chia sẻ.
Ảnh: Dân Trí
Lời lẽ của cháu Mị khiến tôi nhớ đến bản nhạc (Người Mèo Ơn Đảng) của Thanh Phúc:
Bao đời nay sống nghèo lam lũ
Nay cuộc sống dân Mèo từ đây sáng rồi …
Người Mèo ơn Đảng suốt đời.
Đảng vốn hảo ngọt nên “nhạc sĩ” pha chế nước đường (cho uống bằng thích) là chuyện thuận lý nhưng nếu chỉ vì thế mà bắt cả một sắc tộc, hàng triệu người miền núi, phải “ơn Đảng suốt đời” thì chơi hơi bị ép . “Cuộc sống của dân Mèo” (nói nào ngay) không “sáng” gì cho lắm, nếu chưa muốn nói là ngược lại. Gia cảnh của ông Thắng A Di có thể được coi là một trong những trường hợp (tối tăm) tiêu biểu:
“Cùng với 6.500 người Hmong khác, cũng chạy nạn từ Lào sang, gia đình ông Thắng A Di bị nhà cầm quyền Thái Lan coi là những di dân bất hợp pháp. Từ ngày 4 tháng 7, họ bị xua đuổi và không còn chỗ nào khác hơn là tập trung trên hành lang dài 2 KM, dọc theo con lộ chính nơi Bản Làng Bên Dòng Sông Trắng.
Họ che những tấm vải nhựa, nhưng rõ ràng là khó vượt qua được cái nóng vẫn còn gay gắt, hoặc những trận mưa đầu mùa ở vùng đông Bắc Thái … Họ đã trải qua bốn ngày điêu đứng như người chạy loạn, không nơi che mưa nắng, không thực phẩm, không nước sạch, kể cả không có chỗ làm công việc vệ sinh cần thiết …”
Dù vậy, vẫn theo tường trình của Nam Nguyên (từ Phet Chabun - Bắc Thái) ông Thắng A Di cứ nhắc đi nhắc lại nhiều lần với phóng viên RFA rằng “nếu phải chết em thà chết tại đây.”
Ủa, chớ cớ sao mà cái ông Thắng A Di này lại nói năng lạng quạng (và liều mạng) dữ vậy cà? Câu trả lời có thể tìm được qua lời phát biểu của một thanh niên H’mông khác, anh Ma Văn Pá (tại vườn hoa Mai Xuân Thưởng) vào hôm 9 tháng 10 năm 2013:
“Chính quyền từ trung ương đến địa phương đều cùng một duộc… chỉ nói vu vơ ngoài pháp luật… không giải quyết gì, tôi đến chỗ Hà Nội này tôi mới biết được rằng có rất nhiều người dân oan như chúng tôi cũng đang phải gánh chịu những hậu quả mà đảng và nhà nước đã gây cho mọi dân tộc…”
Người H’Mông biểu tình ở Hà Nội. Ảnh: Trần Thị Cẩm Thanh
Những lời lẽ thẳng thắn và bộc trực (thượng dẫn) cũng giúp cho công luận hiểu thêm tại sao có biến động Mường Nhé – xẩy ra hồi năm 2011, ở tỉnh Điện Biên –  khiến cho hàng trăm người H’mông bị sát hại, hàng ngàn người khác bị bắt giữ, và vô số kẻ phải rời bỏ quê hương bảng làng để tìm đường lánh nạn.
Cùng với những sách nhiễu (thường xuyên) liên quan đến vấn đề tôn giáo, văn hoá và sắc tộc ..., môi trường sống của người H’mông hiện nay cũng đang bị huỷ hoại không thương tiếc. Từ Hà Nội, tác giả Đặng Hoàng Giang (qua BBC – vào hôm 4 tháng 3 năm 2015) đã bầy tỏ sự lo ngại “Rồi Tất Cả Sẽ Trở Thành Đồ Sơn” trong tương lai gần:
“Từ sau khi đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai khánh thành, lượng khách tới Sapa tăng đột biến. Dịp Tết Nguyên đán vừa rồi, ô tô và xe khách biển số 29 và 30 chen chúc nhau nhích từng tí một trên những con phố dốc và hẹp ở trung tâm, rú ga giữ máy, bấm còi inh ỏi...
Không còn nhìn thấy núi non gì nữa vì hai bên đường đã kín hàng quán bán đồ lưu niệm. Trẻ con Hmong xếp hàng đợi được phát bánh kẹo như là khỉ trong sở thú.
Những đứa bạo dạn hơn thì đi giật lùi trước mặt khách, chúng từ chối kẹo, chỉ nhận tiền, và đồng thanh kêu như những cái máy vô hồn, tiếng Kinh không sõi ‘cô cho hai nghìn, cô cho hai nghìn.’ Một cộng đồng và một vùng thiên nhiên đã đánh mất nhân phẩm của mình vì du lịch...
Hiện nay, mỗi du khách tới Sapa sau khi bỏ ra 1 triệu đồng cho việc đi lại, khách sạn, ăn uống - tất cả chảy vào túi người Kinh, kể cả tiền cho một chai nước trắng - thì mới bỏ ra 10 nghìn mua mấy cái đồ thổ cẩm của người dân tộc. Thậm chí nhiều hướng dẫn viên du lịch còn dẫn khách tới các cửa hàng bán thổ cẩm nhập từ Trung Quốc vì họ được hoa hồng từ đây.
Và như vậy, những người Hmong, người Dao, người Tày, người Giáy, sẽ chủ yếu là đứng chầu rìa ở ngay trên quê hương họ.”
Bên lề cuộc đời. Ảnh lấy từ BBC
Thay vì được quan tâm, nâng đỡ để có thể dễ dàng hoà nhập vào dòng sống chung của cả dân tộc thì tất cả những sắc dân bản địa đều bị “chầu rìa” ráo trọi, chứ có riêng chi người H’mông. Và sau khi bị đẩy ra khỏi biên giới Việt Nam thì hầu như họ đều sống bấp bênh (“bên lề cuộc đời”) dù trôi dạt đến bất cứ nơi đâu. 
Tôi có theo dõi nhưng không tìm được tin tức gì thêm về gia đình của ông Thắng A Di, chả biết họ cầm cự được bao lâu trong điều kiện sống “không nơi che mưa nắng, không thực phẩm, không nước sạch, kể cả không có chỗ làm công việc vệ sinh cần thiết …” nơi Bản Làng Bên Dòng Sông Trắng và – chung cuộc – đã lưu lạc đến chân trời góc biển nào rồi?
Cuối tháng Năm vừa qua, ở Thái Lan, tôi có dịp ngồi uống rượu suốt buổi với một người H’mông khác. Ông không đồng ý cho tôi chụp hình, và cũng chỉ cho biết mình họ Sùng nhưng không muốn nêu tên vì sợ những chuyện phiền phức có thể xẩy ra cho bà con hay bè bạn ở quê nhà.
Ông Sùng quê ở Hà Giang, mang gia đình vào Đắc Nông làm ruộng rẫy đã lâu. Ông hơi nghễng ngãng sau khi “bị các ông cán bộ thay phiên tát tai liên tục mấy giờ đồng hồ liền vì tôi không chịu thề bỏ đạo.” Chuyện cưỡng bức đức tin, tuy thế, không phải là nguyên do chính để ông rời bỏ Việt Nam.
Đất đai canh tác bị thu hồi mới thực sự là giọt nước  tràn ly khiến ông Sùng đã dắt díu vợ con chạy băng qua Lào, rồi (cuối cùng) đến Thái.
  • Nó bảo đất mới khai thác chưa được 10 năm thì nhà nước không có đền bù đồng nào cả. Không có đất thì chúng tôi biết sống làm sao nên phải tìm chỗ để đi thôi.
“Đi đâu ?” Có lẽ chưa bao giờ là câu hỏi ông Sùng đặt ra một cách ... nghiêm trang:
  • Người ta chạy thì chúng tôi cũng chạy theo, chứ muốn ở lại cũng không được đâu. Khó sống với Nhà Nước lắm!
Kiểu lập luận giản dị của ông Sùng, tất nhiên, không được cả Cao Ủy Tị Nạn và chính quyền Thái Lan chấp nhận. May mắn là IDC (Immigration Detention Center, Nhà Giam Của Cơ Quan Di Trú) ở Thái Lan luôn ở trong tình trạng quá tải nên cả gia đình ông không ai bị truy tố và giam giữ về tội nhập cư trái phép.
Thế là cả nhà sống lêu bêu giữa thủ đô Bangkok. Tiền không có một cắc, tiếng không biết một chữ, và cũng chả quen biết bất cứ ai để có thể nhờ cậy hay tá túc.
Cuối cùng – cứ như là phép lạ – họ may mắn được “cứu sống” bởi những nhân viên của cơ quan thiện nguyện ở Thái. Hiện ông Sùng đang chen chúc với nhiều gia đình, gồm cả trăm người H’mông Việt Nam khác, trong một căn nhà thuê bốn tầng (do một hội thánh Tin Lành tài trợ ) ở ngoại ô Bangkok.
Cả ông lẫn bà đều đã ngoài sáu mươi nên ở nhà giữ mấy đứa cháu. Con trai ông Sùng đứa làm nghề phụ hồ, đứa bán kem. Hai cô con dâu đi rửa chén cho quán ăn gần đó.
  • Cũng kiếm đủ ăn đấy nhưng buồn quá ông ơi. Chúng tôi nhớ nương rẫy lắm. Ở đây chả có cây cối gì cả. Vợ tôi cứ khóc hoài. Nó đòi về nhưng làm sao mà mình về được?
Nam vô tửu như kỳ vô phong. Chúng tôi đã cưa gần hết một chai Regency Brandy Thai (một loại rượu mạnh rất rẻ tiền và bốc rất hỗn) nhưng cả hai đều vẫn ngồi xụi lơ, buồn bã. Trầm ngâm một lát, rồi ông Sùng ngại ngần tiếp:
  • Thế liệu rồi chúng tôi có được đến Mỹ không?
  • Dạ, chắc phải được chứ!
Tôi nói láo, tất nhiên. Thực tình thì tôi không “chắc” lắm. Sau đợt cưỡng bách mấy ngàn người H’mông phải quay về Lào, hồi cuối năm 2009, cả chính phủ Thái lẫn Cao Ủy Tị Nạn bị dư luận chỉ trích nặng nề. Nhờ thế, những người H’mông Việt Nam đến sau (sau biến động Mường Nhé) như gia đình ông Sùng, mới được “yên lành” cho mãi đến hôm nay.
Vô hình trung nhóm người H’mông này (bỗng) trở thành một thứ “cây cảnh về lòng nhân đạo” để trang điểm cho cả nước Thái lẫn Cao Ủy Tị Nạn. Họ không đông lắm, chỉ vài trăm người nên không phải là một ghánh nặng đáng kể. Họ lại rất thuần phác, hiền lành, chăm chỉ và chả bao giờ dám lên tiếng đòi hỏi hay làm phiền chi cả.
Sự hiện diện của họ tránh cho Thái Lan, cũng như Cao Ủy, khỏi bị điều tiếng về chuyện trục xuất người tị nạn. Chính vì vậy,  rất có thể, họ sẽ không bao giờ có cơ hội được đặt chân đến nước thứ ba.
Lý do, giản dị, ai cũng biết là nếu mấy trăm con  người khốn khổ này mà được định cư thì chỉ vài tuần sau (hay vài ngày sau) thôi sẽ có ít nhất là hàng ngàn (hay chục ngàn) người H’mông khác – từ Việt Nam và Lào – lại tiếp tục ồ ạt chạy qua biên giới Thái. Cái cột đèn mà còn phải đi thì nói chi đến người, nhất là người H’mông hay người Thượng.
Ngoài bờ biển phía Đông ra, phần biên giới còn lại của Việt Nam đều là nơi cư ngụ của những dân tộc bản địa tự ngàn xưa. Với cuộc sống đơn giản và hài hoà cùng thiên nhiên, họ đã giữ cho môi trường sinh thái được quân bằng và tạo một “vòng đai xanh” cho cả nước. 
Cũng chính họ là những kẻ đứng ở tuyến đầu, giữ gìn vòng đai an ninh cho tổ quốc. Cớ sao lại tỏ thái độ kỳ thị, khinh thị, và cương quyết tìm mọi cách đẩy người ta đến tận bước đường cùng như thế?
 “Khi bọn bành trướng Bắc Kinh tràn sang hồi năm 1979, một bộ phận không nhỏ dân tộc thiểu số, sống ở vùng biên giới, đã đồng loạt ngả theo, làm tay sai cho ngoại bang. Ðó chính là hậu quả của chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc” (Lý Hồng Xuân. Nhận diện chân dung nhà văn. Văn Nghệ: California 2000,177).
“Bọn bành trướng Bắc Kinh” (rõ ràng) đang muốn tràn sang lần nữa, và “những chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc” thì mỗi lúc lại một thêm ngu xuẩn và tệ hại hơn! 

HUỲNH BÁ HẢI * TRỊNH VĨNH BÌNH

Trịnh Vĩnh Bình kiện chính phủ VN đòi 1 tỷ USD

Huỳnh Bá Hải (Danlambao) - ...Tổ hợp luật sư của ông Trịnh Vĩnh Bình kỳ này cũng là các luật sư từng giúp cho tỷ phú dầu mỏ của Nga là ông Khodorkovsky. Thuận lợi cho ông Bình và tổ hợp Luật sư của ông là chính Tòa án Quốc tế này đã tuyên án chính phủ Nga phải có nghĩa vụ bồi thường 50 tỷ USD cho ông Khidorkovsky. Lần này cùng với các hiệp ước thương mại giữa Việt Nam và Hoà Lan cùng với án lệ có sẵn thì phía Việt Nam thua kiện là rất cao...


*

Một nguồn tin thân cận cho chúng tôi biết là ông Trịnh Vĩnh Bình chính thức đưa chính phủ Việt Nam ra Tòa án Trọng tài Quốc tế ở Den Haag-The Hague (Tiếng Anh) hay La Haye (Tiếng Pháp) - Hoà Lan.
Vụ kiện chính thức khởi hành vào tháng 1.2015. Ngày 30.4.2015 phía Tòa án Quốc Tế đã chính thức gởi lệnh thông báo đến nhà nước Việt Nam vào đúng ngày đảng cộng sản ăn mừng 40 năm cưỡng chiếm Miền Nam. Người đứng tên là ông Trịnh Vĩnh Bình, mang quốc tịch Haà Lan. Nội dung đòi chính phủ Việt Nam với các liên can trực tiếp là Bộ kế hoạch đầu tư và UBND tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu phải bồi thường cho ông 1 tỷ USD vì đã trắng trợn vi phạm cam kết mật giữa ông và phía chính phủ Việt Nam vào năm 2005.
Trịnh Vĩnh Bình
Ông Trịnh Vĩnh Bình sinh năm 1947. Ông đến Hoà Lan tỵ nạn  và vào năm 1987 ông đã đem 3,5 triệu USD về Việt Nam đầu tư. Ban đầu ông đã rất thành công và nâng tổng số tài sản đầu tư lên đến 30 triệu USD. Tuy nhiên, sau đó nhà nước Việt Nam đã tịch thu tài sản của ông và đem ông ra xét xử 2 cấp sơ thẩm kết án 13 năm tù qua phúc thẩm giảm xuống 11 năm tù. Sau khi bị giam tù ông tìm cách trốn qua Cambodia và về Hoà Lan kiện ra một Trung tâm trọng tài quốc tế tại Stockholm, Thụy điển đòi bồi thường 100 triệu USD vào năm 2005. Cầm chắc thất bại nên phía Việt Nam chọn hòa giải ngay với các cam kết:
A. Phía Việt Nam có các nghĩa vụ:
1. Bồi thường cho ông Trịnh Vĩnh Bình 15 triệu (mười lăm triệu) USD là tiền chi phí đi kiện số tiền này giao ngay trong năm 2005
2. Phía Việt Nam trao trả toàn bộ tài sản ở VN cho ông Trịnh Vĩnh Bình bao gồm phân xưởng, nhà kho, đất đai bất động sản. Việc trao trả tài sản chậm nhất vào năm 2012.
3. Phía Việt Nam cho ông Trịnh Vĩnh Bình ra vào Việt nam tự do để làm từ thiện.
B. Phía ông Trịnh Vĩnh Bình:
Có nghĩa vụ giữ kín cam kết mật nói trên không được tết lộ cho bất cứ cơ quan truyền thông nào. 
Cho đến hết năm 2014 thì phía Việt Nam chỉ thực hiện được 2 việc là trả 15 triệu USD tiền mặt cho ông Bình. Không như nhiều nguồn tin nói là trả 150 triệu. Và cho ông vào ra Việt Nam làm từ thiện ở bãi biển tại Tuy Hòa- Phú Yên. Còn chuyện trao trả tài sản thì chưa trả bất cứ động sản hay bất động sản nhà kho phân xưởng nào cho ông Trịnh Vĩnh Bình.
Thấy việc cam kết ban đầu bị vi phạm ông Trịnh Vĩnh Bình lần này nhờ đến một Tòa án quốc tế can thiệp.
Tổ hợp luật sư của ông Trịnh Vĩnh Bình kỳ này cũng là các luật sư từng giúp cho tỷ phú dầu mỏ của Nga là ông Khodorkovsky.
Thuận lợi cho ông Bình và tổ hợp Luật sư của ông là chính Tòa án Quốc tế này đã tuyên án chính phủ Nga phải có nghĩa vụ bồi thường 50 tỷ USD cho ông Khidorkovsky. Lần này cùng với các hiệp ước thương mại giữa Việt Nam và Hà Lan cùng với án lệ có sẵn thì phía Việt Nam thua kiện là rất cao.
Không như giải pháp im lặng như cam kết bị Việt Nam trắng trợn vi phạm. ông Trịnh Vĩnh Bình có hứa dùng 90% tiền được sau khi trừa các chi phí vụ kiện sẽ được dùng từ thiện, hoạt động nhân đạo hay giúp các nạn nhân của chế độ cộng sản đi kiện ra các tòa án quốc tế đòi bồi thường, việc hỗ trợ bao gồm tư vấn cả tiền bạc nhằm giúp cá nạn nhân lấy lại công lý cho mình. Không loại trừ khả năng một số tiền sẽ được giúp các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam. 
Ban đầu tổ hợp Luật sư muốn ông Bình khóa toàn bộ vụ việc cho họ nhưng ông chọn phương án đồng hành cùng họ.
Chuẩn bị cho tiến trình vụ kiện có thể lâu dài hay bị nhà nước Việt Nam cho người đi ám sát ông Trịnh Vĩnh Bình thì ông Bình cũng đã hoàn tất lập chúc thư thừa kế vụ kiện cho các thừa kế của ông ngõ hầu theo đuổi vụ việc đến cùng. Nguồn tin cho hay là ông Bình được chính Tòa án quốc tế khuyến cáo không nên quay về Việt Nam lúc này, ông cũng tuyên bố sẽ không về Việt Nam cho đến khi công lý thực thi hoàn toàn cho ông.
Trong vài ngày tới các cơ quan truyền thông tại Hòa Lan và EURO-zone sẽ thông báo tin này trên các phương tiện truyền thông nhằm khuyến cáo Việt kiều cân nhắc khi về Việt Nam đầu tư làm ăn.
Chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi vụ kiện khi nó bị nhà nước Việt Nam chà đạp trắng trợn các cam kết do chính họ đặt bút ký kết.

BS. LÊ BÁ ĐẢNG * TÙ CẢI TẠO

Tù “cải tạo”: Mãi mãi... không bao giờ quên!

BS Lê Bá Dũng
       

Viết để riêng tặng các Sĩ quan bị tù đày của Tổng trại 8 Sông Mao... các bạn đã nằm xuống hay đang lưu lạc nơi quê người, và nhất là các bà mẹ, vợ hay con các Sĩ quan đã không quản gian nan trong gông cùm Cộng Sản.

Những ngày gần đây, đài phát thanh Little Saigon mỗi sáng đều tường thuật chuyến đi về Biển Đông của đặc phái viên Đinh Quang Anh Thái trong đoàn đi thăm lại những ngôi mộ vô danh hay hữu danh của các thuyền nhân vượt biển, những người từng mong muốn thoát khỏi một chế độ cực kỳ tàn ác, dã man Cộng Sản Việt Nam. Ra đi, với ước mơ được sống một đời sống cho ra con người, họ chẳng may bỏ xác trên biển cả và được chôn tại các đảo xa xăm vùng Thái Lan, Mã Lai, Indonesia…

Giọng nói nghẹn ngào tức tưởi của Đặc phái viên khi đứng trước các ngôi mộ cá nhân hay tập thể làm tôi nhớ lại những người bạn Sĩ quan đã bỏ mình khi bị đưa đi ở tù tại các trại Cà Tót, Sông Mao... và cuốn phim về trại cải tạo như quay chậm lại tuy thời gian đã bao nhiêu năm qua, nhưng vẫn còn in đậm nét trong ký ức tôi.

Sau khi Phan Thiết mất vào tay Cộng Sản, tôi cùng gia đình vào Saigon, rồi trôi giạt về Long Xuyên, vùng 4 Chiến thuật. Tôi cứ đinh ninh rằng ở Long Xuyên sẽ được an toàn hơn vì chưa bị hao binh tổn tướng, còn ở Saigon thì sợ sự pháo kích bừa bãi của phía bên kia. Nhưng rồi khi nghe tin ông Dương văn Minh vừa mới nhậm chức Tổng Thống đó thì đã tuyên bố đầu hàng, tôi cảm thấy như trời đất sụp đổ: thôi thế là hết, chẳng còn hy vọng gì nữa!

Tôi cùng với vợ đi trình diện ở Long Xuyên được người của chế độ mới trả lời: “ Ở đâu, thì về nơi đó mà trình diện”.

Thế rồi, ngày 7 tháng 5 tôi cùng gia đình về lại PhanThiết.

Đường từ Saigon về Phan Thiết, lúc mới đầu cũng còn tạm được, nhưng khi đi được nửa đoạn đường thì có một cái cầu bị phá sập, và cả một dãy xe đò bị tắc nghẽn.Dân chúng ùn ùn trở về quê cũ. Một người mang một cái xách tay, gương mặt người nào cũng thất thần, buồn bả và xanh xao. Đến chỗ tắc nghẽn, mọi người phải xuống đi bộ, lội qua con suối cạn, chờ đoàn xe từ từ bò xuống suối rồi bò lên.

Trời đang mưa, tôi và vợ con phải tấp vào một trại làm than. Nhìn quanh quẩn không có hàng quán gì cả. Bỗng thấy một bà già đang nấu cơm và kho thịt, tôi có ý muốn mua một ít đồ ăn cho gia đình, bà đồng ý bán cho chúng tôi cơm, chút ít thịt kho với bều bều nước. Nhưng trời mưa lạnh và chúng tôi đang đói nên ngon ơi là ngon.

Lúc về đến Phan Thiết, những ngày đầu, tâm trạng tôi vô cùng hoang mang, không biết phải làm gì. Rồi tôi đi trình diện Ủy ban Quân quản, và tìm gặp một số bạn bè. Nếu có nói chuyện với ai ở ngoài đường, người nào cũng lo lắng nhìn quanh quất, xem có bị theo dõi không. Đường phố vắng tanh, nhà nhà đều đóng cửa. Thỉnh thoảng người ta mở cửa he hé một chút, đi ra một lát lại đóng lại. Phan Thiết như một thành phố chết. Nét mặt mọi người đều căng thẳng.

Tôi tự nghĩ về thân phận mình, như con cá nằm trên thớt, thôi thì cứ ra sao thì ra. Tôi tạm chuẩn bị một cái gì đó, tôi đến nhà một anh Y tá cũ xin một ít thuốc Chloroquine và primaquine. Biết đâu rồi đây tôi bị đưa đi những vùng khỉ ho cò gáy, rừng thiên nước độc! Anh ấy là một Hạ sĩ quan rất thân tình. Anh đã dốc hết cả chai cho tôi. Tôi giữ cho mình 20 viên để phòng thân, gặp bạn bè, cho mỗi người 20 viên. Sau đó, tôi đến nhà anh Nguyễn văn Tư, nguyên Đại úy, Sĩ quan Hành chính Quân y, thấy thân sinh anh Tư đang làm dép râu, tôi đưa tặng anh Tư mấy viên thuốc Chloroquine và Primaquine. Ba anh Tư rất mừng và làm cho tôi một đôi dép râu bằng vỏ lốp xe Jeep.

Ngày 18/6/75 vì đang loay hoay tìm kế mưu sinh, tôi cùng với một người bạn, anh Cảnh đạp xe ra cây số 17. Anh này có người quen cho đất ở đây. Từ Phan Thiết đến đó hơn 17 km. Trời hơi mưa mưa. Đến nơi mới thấy đó chỉ là một miếng đất khô cằn, xung quanh không có sông suối. Nếu muốn trồng lúa, chỉ có gieo lúa khô, nhờ nước trời mà thôi.

Tôi chưa có dự tính gì cho những ngày sắp tới. Rồi khi về đến nhà, vợ tôi cho hay có lệnh ngày mai 19/6 tôi phải đi tập trung học tập cải tạo. Thật là oái ăm! Ngày 19/6 cũng là ngày Quân lực VNCH, vậy mà tôi phải đi tù.

Tôi vội ra chợ mua một miếng vải nylon, về nhà may gấp thành cái võng để sau này khi cần đến thì dùng nó, máng giữa hai cành cây để nằm nghỉ.

Tối hôm đó, vợ tôi nấu cơm, tôi ăn hoài mà không thấy no, vì cả ngày đạp xe gần 35 km.

Sáng hôm sau, tôi ra tập họp ở vườn bông, đem theo chừng 10kg gạo, ít cá khô, vài bộ quần áo. Ra đến nơi, gặp anh em Bình Thuận ở vùng xung quanh cũng vừa đến. Mặt mày ai nấy buồn xo, đưa tay chào nhau rồi nói nho nhỏ với nhau “ Chẳng biết tương lai ra sao!”

Khoảng 10 giờ sáng, sau khi điểm danh, chúng tôi được lệnh lên những chiếc xe GMC. Đồ đạc mỗi người chẳng có bao nhiêu. Chiếc xe chở khoảng 40 người có hai bộ đội VC có súng ngồi đằng sau để canh.

Đoàn xe di chuyển về thị trấn Phú Long. Nhưng khi gần đến đó, xe đổi hướng về một ngã rẽ trái theo đường liên Tỉnh lộ nối Phú Long qua Thiện Giáo. Đường này chỉ dành cho xe bò đi mà thôi, nhưng có lẽ họ muốn đánh lạc hướng để vợ con Sĩ quan đi trên xe không biết chỗ đến.

Lên đến Thiện Giáo đoàn xe tiếp tục chạy theo liên Tỉnh lộ 8. Đường này ngày xưa nối Thiện Giáo với Di Linh, đã bị bỏ lâu rồi, cỏ lác mọc lấn vô nhiều vô kể, nên xe chạy bị dằn xóc muốn lộn ruột. Độ vài chục cây số nữa thì xe chúng tôi bắt đầu đi sâu vào rừng. Khoảng một giờ sau, được lệnh xuống đi bộ rồi lội qua một con suối cạn đến một vùng rừng hơi thấp trên một ngọn đồi nhỏ.

Trước khi vào trại, chúng tôi được lệnh tập họp trên một sân đất.

Trại là một số nhà bằng lá, nằm trên một ngọn đồi thấp, dưới những tán cây rất cao.

Lúc chúng tôi vào, bên phải có những nhà tranh có vách, bên trái là cụm nhà tù rào bằng tre trong một khu rừng rậm. Những dãy nhà dành cho Sĩ quan tập trung có hình chữ E bị ngắt đoạn. Nói là nhà chứ thật ra chỉ có mái che còn bốn bề trống hoác.

Chúng tôi được lệnh ngồi xuống. Nhìn vào trong trại những Sĩ quan ở tù, tôi thấy lố nhố một số người, đứng có, ngồi có, mặt mày ốm o và xanh xao. Bỗng tôi nhận ra có một người quen. Té ra là Thiếu tá Phạm Minh, Chỉ huy trưởng Trung tâm Yểm trợ Tiếp vận Bình Thuận, đang đi ra chỗ để cối xay lúa, đứng ngó chúng tôi.

Họ bắt đầu lục xét “hành trang” của chúng tôi. Tất cả đồ ăn, thuốc men, đồ dùng họ tập trung lại và lấy hết. Do đó, tôi vội lấy số đường mang theo ( khoảng nửa kg) ngốn hết. Nhìn thấy ở hàng trên, họ đang tịch thu thuốc của anh em, tôi vội xé cái nón vải đang đội trên đầu ( tôi đội một nón vải, trên đó lại thêm một nón lá - sẽ có ích sau này) ở giữa hai lớp vải, tôi nhét vội vào những viên thuốc ngừa sốt rét mang theo.

Đây là lúc mấy Cán bộ Việt cộng tha hồ lấy của người làm của mình. Một Cán bộ Việt cộng lấy những cây viết của anh em, gài vào túi áo mình và khoe với bạn: “Viết đẹp quá, tụi mày muốn lấy không?” đến lượt tôi bị lục soát, đồ ăn, mùng, mền, võng... đều bị lấy hết. Đến đôi dép râu tên Cán bộ Việt cộng nói: “Các anh làm sao mà có hân hạnh được mang đôi dép này rồi lấy luôn.” Riêng về cái mền, tôi nói: “ Trời này lạnh quá, các anh lấy mền thì làm sao tôi sống nổi” sau đó nó trả lại.

Tiếp đến, tất cả được đưa vào trại. Đi ngang qua một dãy có hai thanh gỗ dài song song được khoét những lổ tròn để làm còng, đây là dấu tích trước đây - tôi nghe kể lại - những Sĩ quan sau khi bi bắt được đưa lên đây, tối nào cũng bị còng. Khi Sài gòn chưa “giải phóng” tôi còn nghe chuyện về thiếu tá Phạm Minh khi bị còng đã nói: “yêu cầu được đối xử theo quy chế Geneve” thì đám VC trả lời: “không có quy chế Giơ-Ne-Vơ ở đây, mà chỉ có luật của chúng tôi” và bị còng cả tay lẫn chân cho đến khi ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng mới mở còng.

Lúc gần tối, chúng tôi được cho ăn. Một toán tập hợp 10 người để nhận khẩu phần. Mỗi 10 người được đem ra hai thau: Một thau đựng cơm, một thau đựng nước muối. Thau vừa móp vừa dơ, trông còn tệ hơn cái thau cho chó ăn của những nhà nghèo ở Việt nam. Nước muối màu vàng vàng, đen đen, còn cơm thì ẩm móc và lẫn với sạn. Tôi phải đổ thêm nước vào để sàn bớt sạn ra. Chúng tôi chia nhau mỗi người hơn một chén cơm, nhai trệu trạo mà cũng ráng nuốt vô. Đó là khẩu phần hàng ngày của chúng tôi ở trại Cà Tót.

Đêm đầu tiên, gặp Thiếu tá Vị, kéo tôi và Đại úy Bùi Thanh Minh nằm hai bên cho vui. Ba anh em nói chuyện tiếu lâm đến khuya, vẫn còn cười khúc khích. Đám Cán bộ VC đi canh nói to: “ Ngủ đi, bộ ở tù sướng lắm hay sao mà cười hoài!”

Dần dần, tôi chứng kiến người bị sốt rét quá nhiều. Hằng ngày, mặt họ xanh xao và run rẩy trong cái mền, dù trời đang nắng ấm. Ngoài hàng rào có một cái lều nhỏ hỏi ra, tôi đuợc biêt có một người sắp chết bị bỏ đó. Tôi vội lấy một viên thuốc sốt rét để phòng thân. Cả đêm tôi không dám ngủ, trùm mền kín sợ muỗi cắn truyền bệnh. Sáng hôm sau, mượn được cây kim, tôi bèn tháo sợi chỉ từ trong cái mền, rồi sếp đôi mền lại, may thành cái bao và đêm nào tôi cũng trãi xuống chun vô, sau đó chụp cái nón lá lên đầu. Ngủ trong bao đó thì yên tâm không lo bị muỗi cắn.

Một buổi tối tôi lấy nước, gặp anh On, là Trung sĩ Quân cảnh của Đoàn Liên Hiệp Kiểm soát Đình chiến hai phe ( Việt Cộng và Việt Nam cộng Hòa ). Tôi thắc mắc hỏi anh: “ Anh là Trung sĩ, sao bị lên đây?”( Tôi biết anh này từ hồi còn làm ở Quân y viện Đoàn mạnh Hoạch, anh thường xin thuốc cho con ), anh ta trả lời rằng khi khai lý lịch, họ viết sai Trung sĩ ra Trung úy và hiện đang làm đơn xin cứu xét lại trường hợp của anh. Vì anh phụ trách “ anh nuôi “, nên anh dẫn tôi về chỗ anh làm và cho tôi mấy miếng cơm cháy, sau đó cho thêm một tán đuờng. “ Bác sĩ ăn đi!”. Tôi nói cám ơn anh lắm nhưng vì tôi đã ăn hết số đường đem vào nên cho đến nay chưa thấy thèm ngọt. Anh cho tôi ba con cá khô nhỏ. Chiều đó, tôi cũng đem chia lại cho bạn, người một con. Tôi ngức cái mình ( và chừa cái đầu lại ) để chiều đó được ăn cá khô. Mấy ngày sau vào rừng, thấy một đọt măng, bèn xắn đêm về, mượn dao ( dao tự tạo chứ trại không cho dùng dao ), xắc măng nấu với đầu cá khô, cũng được một bữa ăn gọi là “ thịnh soạn “.

Công việc của tôi hàng ngày là: cắt tranh, đánh tranh, đốn tre để mở rộng trại tù. Có bữa tôi vác cuốc làm cỏ một vùng gần đó trồng rau cải, ớt, đu đủ….

Sau đó chúng tôi phải làm bảng lý lịch trích ngang. Mới đầu thì họ bắt khai sơ lược. Một thời gian sau họ bắt khai kỷ hơn, nên tôi phải tính toán khai làm sao cho trước sau như một. Bữa nọ, một Cán bộ VC ngồi gần, nhìn thấy lý lịch của tôi thì nói: “ À, anh là Bác sĩ! Hồi đó, anh mà thấy chúng tôi bị thương, thì anh lấy máu truyền cho Mỹ chớ gì!”. Tôi cười đáp: “ Trước khi truyền cho ai thì máu đó phải được thử nghiệm để xem trong đó có vi trùng những bệnh nguy hiểm hay không chứ đâu phải dễ, Cán bộ ở trên rừng thường bị sốt rét, làm sao lấy máu truyền được!”. Một “cán bộ” tên Loan, cấp bậc Trung tá đỡ ngay, thấy cấp dưới đang đuối lý, bèn nạt ngay: “Thôi! Tiếp tục; làm đi, không nói nữa!”.

Trong thời gian bị giam ở đây, có một số người bị chết vì sốt rét. Tôi không biết nhiều hay ít nhưng có hai anh tên Long và Biên khiến tôi nhớ suốt đời, vì tên của hai anh nhắc nhở tôi nhớ đến cây cầu Long Biên ở Hà Nội.

Toán chúng tôi gồm cả thảy mười người đi chôn cất hai anh. Lúc đi chôn, một số ít đốn tre chặt dây mây để bện lại. Một toán đào hố ở bìa rừng, toán kia chặt tre làm bảy miếng và lấy dây rừng bện lại thành cái vạc, sau đó lấy quần áo hai đào mặc lại cho họ, rồi lấy mền hay vải nylon cuộn họ lại. Số cây tre theo đúng tục lệ Việt Nam “ Nam thất, Nữ cửu “. Các anh phải đủ bảy thanh tre, được cuộn lại, khiêng tới chổ đào hố.

Vùng đó, toàn cả sỏi và đá, chúng tôi không sao đào sâu được, cố gắng lắm cũng chỉ được 1 mét thôi, và hạ các anh xuống, lấp đất, vun lại. Và một anh vác rựa tới một cây gần đó, đẻo tên người nằm xuống ( vì không có tấm bảng để ghi tên ). Anh trưởng toán lúc bấy giờ là Lê Khắc Hai ( tức nhà văn Hải Triều ). Sau khi chôn xong, anh Lê Khắc Hai hô: “ Nghiêm! Chào tay! Chào!” Chúng tôi cũng hơi ngượng vì đang ở trong hoàn cảnh tù đày mà anh Hai còn giữ lối chào theo Quân kỷ. Sau đó, anh Hai hô tiếp: “Một phút mặc niệm bắt đầu!” Rồi. “Một phút... qua!”.

Nghĩ lại mà thương cảm cho mấy anh Sĩ quan chết mà không có được tấm bia, không có được cái hòm, chỉ có bảy thanh tre, rồi sau này vợ con muốn tìm cũng không biết đâu mà tìm.

Một thời gian sau, tôi có dịp gặp lại viên Cán bộ VC hồi tôi mới đến trại, đã xét đồ đạc của tôi. Tôi thấy mỗi khi anh ta bước đi, hai ống quần đánh vào nhau kêu rọt rẹt. Nhìn lại, té ra anh lấy tấm nylon của tôi ( rước kia tôi may võng ) ra may quần.

Hơn hai tháng sau, một buổi sáng, những Thiếu tá, Trung tá được lệnh chuẩn bị đồ đạc để di chuyển. Tôi không nghĩ họ sắp bị đem đi thủ tiêu, vì không thể thủ tiêu nhiều người cùng một lượt. Về sau, tôi được biết họ được đưa vào trại Suối Máu.

Khoảng hai tháng rưởi sau đó, một buổi sáng, cấp bậc Đại úy như chúng tôi được lệnh chuẩn bị đồ đạc để di chuyển. Họ dẫn chúng tôi đi theo đường rừng, từ trại đó trở ra, băng qua rừng, về lại theo con đường Liên tỉnh. Trên đường đi tôi thấy những hố bom do B52 thả rất đều dọc theo Tỉnh lộ. Đến Tỉnh lộ 8, thấy xe đợi sẵn, chúng tôi lên xe, họ chở chúng tôi về hướng Bắc. Gần chiều, đến trại gia binh của Sông Mao.

Mỗi nhà trong khu này được giành cho khoảng 10 người. Sau đó, họ bắt chúng tôi đào một hố xí lớn gần ngay ngoài đường rồi bên trên gác ngang những cái cây để đi vệ sinh. Hố xí đó gần sát ngay hàng rào kẽm gai, tiếp đó là con đường bằng đất, đến nhà dân ở bên kia. Họ ra lệnh rằng những nhà vệ sinh trong trại gia binh phải đuợc lấp đi vì vừa ăn vừa ị trong nhà rất mất vệ sinh. Chúng tôi không lấp mà dung một cái lon đặt xuống, lấy cát lấp lên trên để lỡ khi hữu sự vào ban đêm. Nếu lỡ đêm hôm phải đi ra ngoài, tay cầm đèn dầu, gặp khi gió thổi tắt, trên trạm canh có thể bắn mình chết lắm.

Đến đây, họ phát cho tôi hai chai: một chai dung dịch muối, Quinine, có nút cao su, được bọc hai lớp nylon; một chai nữa là Solucamphre, hai Seringue, vài cây kim, một chai Alcool, một ít gòn, một cái soong để nấu, để chích cho những người bị bệnh sốt rét. Mỗi lần chích, phải mở lớp nylon đầu tiên ra, lấy kim đâm xuyên lớp nylon thứ hai, xuyên qua nút cao su, rút thuốc rồi bọc lớp nylon đầu tiên lại.

Một buổi sáng, anh Đại úy Nguyễn văn Tư bệnh. Nghe có người báo, tôi qua phòng anh ấy thăm. Anh nói nhức đầu muốn ói, chóng mặt. Tôi khám thấy anh hơi sốt và cứng cổ. Tôi lục tiền bạc của anh ta và hỏi thăm anh em ai có thuốc thì dùng tiền ấy mua lại và chích cho anh. Chiều đó, trong khi chờ đợi, tôi báo lên cho trại. Hôm đó, anh được đưa lên Bộ chỉ huy. Bẵng đi ba ngày sau, một sớm mai, họ kêu bốn người đi “làm việc”. Khi mấy người này về, tôi hỏi thì được biết các anh có lệnh đi đào huyệt. Rồi bốn người nữa được lệnh đi “làm việc’. Té ra, là họ đem anh Tư đi chôn. Tôi nhớ một điềm lạ: trước khi anh Tư chết, một đôi đũa từ phía cao trên bếp tự nhiên rớt xuống một chiếc gãy làm đôi. Có người về sau kể lại với tôi như vậy.

Sau một thời gian, hố xí vì dơ bẩn quá nên xông ra mùi hôi thối kinh khủng, đến nỗi người dân không dám đi qua con đường đó. Còn những nhà quanh đó thì đóng cửa im ỉm.

Một bữa kia, chúng tôi được điều động khoảng mười người, đi lên chỗ cách đó khoảng năm trăm mét, có lẽ là Bộ chỉ huy. Đi vào trong khu vườn, tôi thấy một villa hồi xưa có độ bốn phòng. Chúng tôi được lệnh đào một hố xí gần cổng ra vào. Nhận lệnh thì phải làm thôi! Điều buồn cười sau này tôi mới biết là người Bắc không có hố xí tự hoại như ở miền Nam, nên khi thấy có hố xí sẵn trong nhà thì họ cho là dơ dáy, bắt lấp đi rồi làm một cái khác ở ngay ngoài cổng villa.

Đến trại này, khẩu phần ăn gồm có chút ít cơm với rau, sống cũng tạm cầm hơi qua ngày.

Một thời gian sau, chúng tôi được lệnh tháo những vỹ sắt ở phi trường dã chiến Sông Mao, nằm cách trại Gia binh chừng hai km. Cứ bốn người phải khiêng cho được bốn tấm trong một ngày, để về làm thêm trại, hội trường, nhà ở; sau đó là hàng rào để rào lại cho kỷ cái trại tù giam chính mình! Một khi có vỹ sắt làm hàng rào, ở trong không nhìn thấy gì ở ngoài nữa.

Một hôm, trên đường đi làm về, chúng tôi nghe một tiếng nổ “Ầm”. Sau đó, nghe nói Thiếu úy Tân bị thương. Tân mới ra trường Sỉ quan Võ bị Đà Lạt. Anh ta trong một toán bị điều đi tháo dây kẻm gai để giăng quanh trại và đã bị mìn cắt đi một chân! Tôi mong ước đi thăm Tân, để xem có thể giúp được gì không trong khả năng của mình, nên một bữa kia, tôi nói với viên Y tá VC xin gặp Tân. Anh ta dẫn tôi đi, biểu tôi phải đi sau lưng anh ta, giống như đang thi hành một công tác gì đó. Khi đến gần chỗ Tân nằm, viên Y tá chỉ tay vào và nói: “ Nửa giờ sau thì về lại trại!”. Lúc tôi gặp Tân, thì chân đã bị cưa rời. Tôi nhìn anh trong nước mắt và hỏi: “ Em cần tôi giúp đỡ gì không?”. Tân đáp “ Nhờ anh nhắn giùm gia đình em “. Ngay khi về tôi ghi ngay những thứ cần dùng trên tờ giấy nhỏ: thuốc trụ sinh, thuốc bổ, bông băng, những thứ cần dung cho vệ sinh vết thương, sữa…Trong một chuyến thăm nuôi sau đó, tôi nhờ chuyển thư cho gia đình Tân. Sau này, nghe nói cha mẹ Tân tốn nhiều tiền để mua đầy đủ thứ cần dùng cho con rồi chầu chực ở cổng từ sáng đến tối, năn nỉ lắm họ mới cho đem vô, ông bà mới chịu về.

Tiếp đến, chúng tôi học tập chính trị. Chương trình học là mười bài. Ngày học một nửa hay một phần ba bài. Cả tổ “kiểm điểm rồi thu hoạch”. Bài một: “Đế quốc Mỹ kẻ thù của nhân dân”. Bài hai: “Ngụy quyền là tay sai, cũng là kẻ thù của nhân dân”. Bài ba: “Ngụy quân là công cụ của Đế quốc Mỹ cũng là kẻ thù của Nhân dân ta”. Mới học có ba bài thì anh Đại úy tổ trưởng nọ tiết lộ: anh là cháu ruột của Lê Duẩn, mẹ anh ta là chị của Lê Duẩn. Vì thế, sau 30/4/1975, Lê Duẩn phái một trực thăng vào Quảng Trị đón bà ấy ra Bắc, về sau cả gia đình dọn về Sài Gòn, có lẽ đã ở một villa nào đó do tiếp thu của chế độ cũ. Anh ta đưa một thư của Lê Duẩn gởi cho Ban chỉ huy trại và được thả ra.

Tổ chúng tôi được một số người nhà gởi cho hạt giống cải. Chúng tôi gieo hạt rồi bán cho những tổ khác, lấy tiền mua đường nấu chè cho anh em ăn.

Trong trại tôi có anh Lê Bá Trung, Bác sĩ, một bữa tự lấy Seringue chích một mũi Vitamine C do anh mang theo rồi bị “sốc”. Cả trại có ba Bác sĩ mà đành bó tay vì không có thuốc men gì cả. May quá, trong lúc hơi tỉnh lại, anh Trung nói trong xách tay của anh còn một chai Solucortef, tôi bèn lấy ra chích cho anh, anh mới qua khỏi. Tôi hỏi anh sao không uống mà chích chi vậy, anh nói: “nghĩ là chích có tác dụng nhiều hơn, mà không ngờ…”

Một buổi sáng, tôi nghe tin có mấy người trong trại vừa ngủ dậy không đứng lên được nữa. Tôi biết đó là triệu chứng của thiếu B1. Tôi hỏi thăm các anh em ai có mang theo thì mua lại cho mấy anh bị bệnh đó uống từ 0.5g đến 1g, hai ngày sau thì họ đi được ( còn nếu uống theo thuốc VC chế thứ 5mg thì phải uống cả 100 viên mới đủ!)

Trong đám tù cải tạo, một anh tên Vận, người Bắc gốc Lâm Đồng, có người em đi Bộ đội miền Bắc. Hôm nhận thư nhà, anh ta đưa cho chúng tôi xem một tấm hình đặc biệt: Anh bộ đội đứng bên một chiếc xe đạp, vai mang một Radio, cánh tay để vắt ngang qua, nghiêng về phía trước cho người ta thấy cái đồng hồ. Anh Vận giải thích: nó có đủ ba Đ rồi đó. Tôi hỏi vậy là sao?Anh nói: “Đó là Đổng, Đài, Đạp, tức là Đồng hồ, Radio và Xe đạp, ba cái là nhất ở miền Bắc!”.

Đám Cán bộ biết rằng những người tù cải tạo đều là những người có học vấn cao, cho nên họ ưa “ nổ “ với chúng tôi để chứng tỏ mình cũng có trình độ như ai. Một bữa đang học chính trị, họ nói: “ Cái mi-cà rô đâu rồi?” anh em ngạc nhiên. Sau mới biết họ muốn nói cái micro. Một bữa khác, trong lúc họ “ dạy “, họ nói: “ Trên này không có la-phan”. Thiệt ra, họ muốn dùng chữ plafond. Không biết nghe ai nói về đời sống ở Mỹ, họ cũng “nổ” khi giảng bài: “ Các anh yên tâm đi về sau khi đi làm về, sẽ có đồ ăn dọn sẵn. Mình muốn ăn món gì, cứ tự đi lấy về ngồi vào bàn ăn ( giống nhà ăn Quân đội Mỹ ). Còn các bà ở ngoài đời, đang đứng nấu ăn trên bếp, bấm bấm vài cái trên cái bảng là ngoài đồng máy cày chạy tới chạy lui thôi!” Nghe vậy, một anh hỏi nhỏ bạn “ Không biết như vậy, mai mốt mình về sẽ làm cái gì?” - “ Bộ mày không biết mày làm cái gì à?” Rồi cả hai cùng cười khúc khích.

Thường chúng tôi học vài ngày rồi đi lao động một ngày. Một bữa đang lao động, chúng tôi được lệnh tập họp trong Hội trường lớn. Mọi người băn khoăn không biết chuyện gì. Té ra, nguyên nhân như sau: Có ai đó viết trong nhà cầu câu:” Đừng nghe những gì Cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng sản làm!” Rồi có người báo lên trên. Hậu quả là suốt trong hai ngày chúng tôi bị ngồi nghe chửi rủa, rồi lại được dỗ dành: Anh nào tự thú thì sẽ được khoan hồng, nhưng không ai tự thú hết. Tiếp đó, họ lại dọa nạt:” Chúng tôi đã điện ra Hà Nội, họ sẽ gởi đến một cái máy, thì những hình ảnh cách đây năm mười ngày sẽ hiện ra hết, nếu anh nào không chịu tự thú thì trước sau gì cũng bị kỷ luật!”. Hôm sau, một anh bạn hỏi nhỏ tôi:” Có máy đó thiệt không?” Tôi trả lời:” Hồi xưa, tôi có đọc một cuốn truyện có tựa đề “ Máy khám phá thời gian “ ( La Machine à explorer le temps ) - Đó chỉ là một câu chuyện giả tưởng, chứ không có máy nào như thế cả. Vì để thâu lại những hình ảnh đó, máy phải có vận tốc nhanh hơn ánh sang, là 300.000 km/giây. Hiện nay, trên thế giới chưa có máy đó!”.

Thời gian này chúng tôi được đưa đi lao động trồng khoai sắn ở một nơi gần đường rầy xe lửa, cạnh đài Viễn thông của Phòng 7, Bộ Tổng Tham Mưu. Bây giờ chỉ còn những Antenne, còn phòng ốc bị phá toàn bộ. Mỗi ngày có cả chục chuyến xe từ Nam ra Bắc, chở những vật liệu tháo gỡ. Đoàn xe dài dằng dặc, có những toa hành khách là những người dân mặt mày ốm xo, lơ láo, những trẻ em đi chân đất, mặt buồn thiu đứng ở cửa xe dòm ra ngoài. Có những người dân thấy tù nhân, họ thương tình quăng xuống cho kẹo, bánh mì, chuối... Gặp lúc cán bộ có vẽ lơ là, đám tù vội chộp lấy và tiêu thụ rất nhanh. Qua đó ta thấy tình người dân đối với kẻ “ ngã ngựa “ thật tràn đầy thương cảm!

Một bữa kia, tôi cùng mấy người bạn trong toán phải đi quét dọn cho một Y tá dời qua phòng khác. Trong phòng có một giường khám bệnh, một tủ kim loại bằng sắt tây, một ít thuốc, một khẩu K54. Trên bàn có những chai lọ đựng thuốc, tôi để ý thấy có một chai đề ABC ( B là bê bò ). Tôi bèn hổi có ý chọc “quê” người Y tá: “ Ở miền Nam chỉ có thuốc APC ( P là bê phở ) viết từ chữ đầu của ba loại thuốc: Aspirine, Phenacetine, Cafeine, còn ở miền Bắc chữ ABC là loại thuốc gì vậy cô?” Cô y tá VC ngó tôi, rồi im lặng bỏ đi.

Có hôm toán tôi được lệnh đi dọn cầu tiêu gồm năm, sáu cái cho đám Cán bộ. Cầu đó là loại tự hoại. Công việc là gom giấy, rác đốt đi và xối nước làm vệ sinh. Nhìn lên tường, tôi chú ý mấy chữ về “ Nội quy nhà cầu “: Các đồng chí hãy bỏ các giấy, các đất cục, đá, lá cây và cành cây vào thùng sau khi đi cầu. Điều đó, chứng tỏ đám cán bộ kia phải dùng những vật liệu kia... Trời ơi là trời!

Một hôm, một người bạn dẫn tôi đến thăm một anh bạn từ Lâm Đồng xuống ở gần đó. Đến nơi, gặp lúc mấy anh đang nấu trong một cái thau những thức ăn dành cho gia súc như bắp, đậu, lúa mạch xay nhỏ. Họ mời chúng tôi ăn. Vì đói nên ăn vào thấy ngon quá.

Sau khi học xong mười bài, một bữa toán tôi được chuyển về núi Tà Dôn gần Phan Thiết. Chúng tôi được ở trong một dãy nhà trên đường đi vào núi Tà Dôn, bên tay phải. Những ngày đầu, sau khi lãnh phần ăn sáng, họ dẫn chúng tôi đi qua núi Tà Dôn và đến một vùng gọi là Bầu Trắng, sau đó tản vô rừng để cắt tranh, đốn cây để làm một số dãy nhà. Buổi trưa có toán nấu ăn, ăn tại chỗ chiều về trại ở ngoài.

Mỗi ngày, sáng đi chiều về, chúng tôi đi lao động như thé một thời gian. Riêng có hai nguời, ngày trước ở trong toán “gò” trong trại Sông Mao, được giữ lại và giao công việc “ gò” thùng gánh nước và soong. Một bữa, một anh cán bộ nói với anh đó: “ Làm cho tôi một cái hòm “ Anh trại viên nghe mà sảng hồn, hỏi lại và được nói lại y chang câu ấy. Sau này mới hiểu ra chữ “hòm” nghĩa là rương hay vali. Hôm sau, anh ấy được dẫn đến cái trailer nằm trên đường dẫn về núi Tà Dôn và biểu lấy tôn của trailer để làm rương. Anh vừa làm xong thì những Cán bộ khác cũng đòi làm như vậy và mỗi người còn đòi đục thêm cho có hình ngôi sao ở mặt trên cái rương. Chừng hai tháng sau, khi chúng tôi chuyển hẳn vào sau núi Tà Dôn, cái trailer chỉ còn là một bộ sườn với những miếng đệm lót đung đưa theo gió.

Trong thời gian đi đi, về về để lao động như mọi ngày, một bữa trời bỗng chuyển mưa, tên Cán bộ la lớn:” Khẩn trương! Khẩn trương lên!” Tụi tôi ngạc nhiên, kinh hãi klhông biết chuyện gì nguy hiểm lắm mà phải khẩn trương. Sau này mới hiểu ý của Cán bộ: các anh phải đi nhanh lên. Không có gì quan trọng cả mà họ cũng dùng chữ đao to búa lớn.

Khi nhà tranh đã làm xong, chúng tôi được lệnh về ở hẳn tại Bàu Trắng, sau núi Tà Dôn. Nhìn xa xa, hai bên triền dốc là đồi cát.

Bàu Trắng là một vũng chạy từ chân núi Tà Dôn ra xa khoảng 5 km, chiều rộng khoảng nửa km. Ở mặt trên của bàu này, lá cây rụng từ bao nhiêu năm, gió thổi tấp đầy trên ao làm thành một cái bè đồ sộ, rồi cây lát mọc lên trên cao khoảng 1,5m. Nhiệm vụ của chúng tôi là cắt những cây lát này, rồi đem lên bờ, hay đạp lún xuống nước! Còn nước ở đây thì đen ngòm, hơi thối vô cùng và đầy cả đỉa. Có con dài chừng 20 cm, màu trên den, dưới xanh, có loại nhỏ, luc nhúc dưới nước. Vì bị đỉa cắn nhiều lần quá, chúng tôi bèn kiếm những bao cát cũ, may bọc bàn chân lại, còn quần dài thì kiếm dây cột túm ống để chống đỉa. Dưới nước còn có những sinh vật chúng tôi gọi là cà tót, nhỏ chỉ bằng đầu cây kim, con mẹ thì hơi to hơn, bơi xung quanh nó có những đàn con nhỏ nổi trên mặt nước. Nếu ta bị cắn, lúc đầu không để ý, nhưng sau cảm thấy ngứa ngáy khó chịu, vết thương sưng lên, điểm giữa lõm xuống có một chấm đỏ, mình cứ tưởng là bầm máu mà thôi, nhưng sinh vật quái quỷ vẫn còn nằm lỳ ở đó, ngứa vô cùng, chỉ đến khi mình gỡ nó ra, nó mới lìa khỏi thân mình. Về sau có kinh nghiệm, mỗi khi làm xong, tôi lấy xà bông giặt chà xát từ ngực trở xuống xem có con nào bám vào không, nếu không thì ngứa chịu không nỗi!

Một hôm, đang làm lao động, bỗng tôi giật mình muốn lạnh người: một con rắn đen đang len giữa hai chân. May mắn cho tôi là chưa bị rắn cắn.

Trường hợp bị rắn cắn đã xảy ra cho một số người. Như một anh trại viên người Lâm Đồng, lúc thò tay cầm lát rồi lấy lưỡi hái cắt, đã bị rắn cắn, anh la lên. Người ta dìu anh vào bờ. Vì không có thuốc để chữa trị nên họ để anh nằm, cởi áo anh ra và khuyên nên bình tĩnh. Lúc đầu anh nói hơi tê nơi bàn tay rồi tê đến cánh tay, sau tê nguyên cả tay. Chúng tôi chỉ biết trấn an anh. Lát sau nghe anh nói nhức đầu quá và hơi thở nhanh. Chúng tôi chẳng biết làm gì hơn, lấy quạt, quạt cho anh. May mà không phải rắn độc nên sau hai giờ anh có vẻ bình thường trở lại và thoát chết. Anh ấy là Đại úy trưởng khối chuyên môn của Nha địa dư Đà Lạt.

Về sau, để đề phòng vụ rắn cắn tôi cẩn thận hơn. Trước khi cắt, tôi quay lưỡi liềm xem thử có con rắn nào thì để cho nó chạy trước mới thò tay xuống nắm bó lát mà cắt.

Khi cắt lát xong, phần còn lại là một bè lá cây dày độ ba tấc, nửa nổi nửa chìm trên mặt nước.

Chúng tôi phải cắt từng miếng to, lật úp lại, để cho nó thối rửa ra. Sau đó, một toán khác lấy đất đắp ngang qua cái bàu đó thành những thửa ruộng ngập nước. Tiếp đến, chúng tôi bắt đầu tháo nước ở khúc dưới ra từ từ, để rồi bùn, cây mục lắng xuống.

Thời gian này, một số anh em đói quá. Có những anh em phải lặn xuống hồ móc lên những củ sen, luộc rồi ăn. Có anh hái hột cườm thảo, bữa đó đó hái được khoảng nửa lon Guigoz. Nhiều người biết đó là loại độc vô cùng, nên can ngăn, nếu không sẽ chết.

Sau khi xả hết nước ra, những rể cây mục rồi, đến lúc phải làm trâu: họ bắt sáu người làm một toán, năm người kéo cái bừa đi đằng trước, một người cầm cái bừa điều khiển ở đằng sau để bừa những thửa ruộng đó.

Trong toán tôi có anh Nguyễn Lê Chánh, Y sĩ Đại úy, chúng tôi để cho anh ấy giữ cái bừa, năm người chúng tôi kéo cái bừa đi đằng trước. Anh ấy, để đùa vui, giơ cái cây vừa đi vừa la: “ Tá, ái, tá, ái “ y như là đang điều khiển mấy con trâu thật! Không biết có phải do gió đưa lại mà đám Cán bộ nghe được, kêu chúng tôi lại răn đe: “ Vì Nhà nước còn khó khăn, các anh phải làm lao động tốt để còn được về với gia đình, chứ chúng tôi đâu có bắt các anh làm trâu bò mà các anh la “ tá, ái “. Nghe nói về sau anh Chánh còn bị làm kiểm điểm, không biết mấy lần! Người ta còn kể lại rằng có một số bà vợ Sĩ quan hay con cái của họ nghe tin đồn ở Bàu Trắng là chỗ tập trung ở tù, họ đã lặn lội tìm đến nơi ( thời gian này chưa cho thăm nuôi ) núp trong bụi nhìn xuống thấy thân nhân mình bị “ làm trâu “ kéo bừa, mấy bà khóc và kể với nhau thảm thiết vô cùng!

Khi những thửa ruộng kể trên có thể cấy được rồi, phần đông chúng tôi bị đưa về Núi Rể, chỉ để lại đó một toán nhỏ thôi để bắt đầu cấy lúa.

Ở Núi Rể, nhiệm vụ của chúng tôi là làm khoảng 20 cái nhà bằng tre, mái lợp tôn. Tre và cây gỗ phai đi đốn về. Sau khi làm sườn nhà bằng cây, thì tre được đang lại để làm cửa và vách trông cũng đẹp mắt. Lúc gần xong, một bữa có ba cán bộ bước vô, lưng có súng ngắn, vai mang túi da. Một cán bộ nói:” Các anh làm cũng tốt, nhưng chưa biết phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật. Hãy nhìn gò mối ngoài kia! Đất, đá đem vô đổ thêm nước, nện rồi chà láng thì còn chắc hơn Ciment nữa!” Chúng tôi theo lệnh thì phải làm thôi. Mối ngoài đồng mà lại đem vô nhà. Rồi họ sẽ thấy hậu quả của việc này.

Thời gian ở đây, chúng tôi dùng chung giếng nước của chừng mười nhà dân quanh đó. Một bữa, lúc đang làm vệ sinh sau buổi chiều lao động về, chúng tôi thấy ba, bốn bà mặc quần áo vải đen đang quảy thùng gánh nước, da mặt họ trắng hồng hồng. Đi theo sau có một số con nít ăn mặc tươm tất, nước da cũng hồng hồng như thế. Họ có vẻ khác với người dân ở đây. Chúng tôi đoán chắc họ là vợ con của anh em trại viên từ Đà Lạt, Lâm Đồng xuống mà thôi... Lúc đầu, đám Cán bộ đang coi chúng tôi, nhìn họ hau háu, nhưng sau cũng biết họ không phải là dân địa phương, họ bèn ra oai đuổi mấy bà ấy đi! Mấy bà ấy cãi lại: “ Cái giếng là của xóm này, tại sao chúng tôi không được quyền lấy nước!” Đám Cán bộ hỏi:” Mấy chị ở đâu?”. Họ đáp:”Chúng tôi ở xóm này!”. Thật ra, họ xuống để tìm chồng trong trại. Lúc đó, những Sĩ quan từ cấp Thiếu úy đến Đại úy thuộc Lâm Đồng, Bình Thuận, Bình Tuy, Ninh Thuận đều bị tập trung về Sông Mao.

Sau khi làm xong những ngôi nhà kể trên, chúng tôi được đưa lên Sông Lũy. Chúng tôi đi vô cách đường Quốc lộ khoảng 10km để làm đập tràn và đào một đường dẫn nước từ nơi đó về Nông trường Sông Lũy.

Về sau, chúng tôi có trở lại nơi những ngôi nhà làm bằng đất lấy từ gò mối (theo lệnh của Cán bộ ) thì nay đã không còn nữa, mái tôn đã bị lấy đi hết, tất cả bị sụp do mối ăn.

Thời gian đầu đến Sông Lũy, chúng tôi đốn cây, tre, cắt tranh lợp nhà để ở. Sau đó, được lệnh làm một cái đập tràn ngăn sông Lũy lại. Chúng tôi khiêng đá lớn nhỏ đủ loại, đấp thành một con đập thấp. Khi việc này xong, thì phải dùng những tấm lưới sắt bao trùm con đập lại. Tiếp đến công việc của chúng tôi là gánh đất làm thành một con đập bằng đất sau cái đập bằng đá...

Lúc sau này, chúng tôi thấy có đoàn khoảng 5,6 người bô bô nói tiếng Bắc, họ đem theo những dụng cụ như dàn cây ba chạc, máy nhắm. Có lẽ đây là đám cán bộ khảo sát địa hình. Họ làm việc trong khi chúng tôi làm đập. Khoảng hơn 2 tháng sau, họ bắt chúng tôi khởi sự đào kênh từ trên đập tràn đi theo những cột mốc do đoàn khảo sát người Bắc cắm. Tời nắng như đổ lửa, chúng tôi ráng sức đào sâu xuống, lúc gặp đá cũng phải khiêng. Công trình chúng tôi được khoảng 2 Km thì có lệnh trên: mở thử cho nước chảy. Lúc phá bờ đất cho nước tràn vào thì một điều bất ngờ xảy ra: nước chảy chầm chậm độ nửa cây số thì ngưng chảy! Thất bại! Chúng tôi đựoc lệnh tạm ngưng, không làm nữa. Tôi nghe kể lại về sau này, đám khảo sát và đám Trung đoàn chửi nhau chí chóe. Tức tối, đám khảo sát bỏ về.

Rồi một hôm, một anh Đại úy Công binh trong khối tôi tên là Vân, được kêu lên và hỏi xem anh có thể giúp trong đoàn họ làm con kênh được không. Anh ta mới trả lời xin họ hãy cấp cho anh một bản đồ 1/50.000 của vùng này, và cho anh thời gian 2 đến 3 ngày để nghiên cứu địa hình. Về sau, họ giao cho anh bản đồ rồi phái 2 tên Bộ đội có đeo sung áp giải anh Vân đi lội quanh vùng để xem địa thế.

Thời gian này, trại cũng có một chiếc máy ủi loại Kubota nho nhỏ. Anh Vân bắt đầu sử dụng máy ủi đất, một số lính VC cắm cọc theo đó và chúng tôi lại bắt đầu đào kênh. Có lúc đào sâu xuống, có lúc đắp cao lên. Trong lúc làm công trình này, cũng có nhiều chuyện buồn cười. Đáng lẽ, chúng tôi phải gánh đất từ dưới lên. Có anh trong toán nói: “xin Cán bộ cho anh em làm theo phương pháp Taylor”. Tên Cán bộ trên này nói vọng xuống: “ Bây giờ mà các anh còn nói chuyện Tây lo, Mỹ lo, các anh phải tự lo mà làm đi, không có Tây, Mỹ nào lo ở đây hết!”. Cả bọn chúng tôi mỉm cười với nhau rồi cũng làm theo phương pháp dây chuyền, tức là đứng theo hàng dọc, chuyền rổ đất đá lên cao.

Có lúc gặp tảng đá to, phải nạy ra và tìm cách đưa ra ngoài kênh, anh em phải kiếm ba khúc cây vững chắc rồi cột lại một đầu làm điểm tựa, sau đó đốn cây dài và to làm đòn bẩy. Sau khi cột tảng đá bằng dây vào đầu ngắn, cả bon chúng tôi gần 10 người đu vào đầu dài để đưa tảng đá lên quãng nửa chiều cao của kênh. Sau đó, dời 3 chạc gỗ lên chỗ cao để đưa tảng đá ra khỏi con kênh. Gần mười mấy người tù ốm nhom đến đen thui mà ráng sức đưa tảng đá lên cao. Cũng may trong thời gian này không xảy ra tai nạn, chứ nếu có chắc nguy hiểm đến tính mạng nhiều lắm!

Đôi lúc, chúng tôi phải phá vỡ những tảng đá cứng. Họ phát cho những dụng cụ, một đầu như lưỡi cuốc nhỏ, một đầu như nửa cánh cung, làm bằng sắt uốn cong và dài khoảng 8 tấc. Chúng tôi dùng đầu nhọn bửa vào trong đá và cuốc lại bằng đầu tựa lưỡi cuốc. Để tự phòng vệ, tôi phải kiếm những miếng vải bao cát, may kết dính vào cái nón phía trước mặt mình và cột ngang nơi cổ để chỉ thấy lờ mờ thôi mà làm việc, vì nếu không khi cuốc xuống, đất đá có thể văng vô mặt, sẽ thương tật chết người. Còn về tay chân, sau nột thời gian lao động ở đây, bàn tay chúng tôi phồng chai hết.

Chúng tôi đào được khoảng 3 km thì có lệnh bắt buộc phải dời trại đi. Vì họ cho thời gian có một ngày, vừa để di chuyển đồ đạc đến chỗ mới, vừa thu xếp chỗ ở để đi làm, nên anh em vội vã dựng lều. Lều này có mái ở trên, nhưng bốn bề trống hoác. Ở giữa lều là một cái sạp đủ nằm, cao hơn mặt đất khoảng nửa thước, đề phòng rắn rít. Cái lều này áp sát với lều anh bạn và kéo dài ra.
Lều trại đơn sơ như vậy, nên gặp những đêm mưa rừng gió lạnh, mái lều đâu có che chắn cho mình, chỉ có một cách khi thức dậy, choàng vội tấm nylon do gia đình gởi vô, rồi ôm vô những “ hành trang “ mà nằm khum xuống, tựa như những người Hồi giáo khum xuống mà lạy, cả đêm như vậy. Chịu trận với gió lạnh và mưa, đâu có ngủ nghê gì được, sáng hôm sau phải đi lao động!

Thời gian ở đây chúng tôi có lệnh mới vì tình hình khó khăn, khẩu phần mỗi người trong tháng là 3,5kg gạo độn với khoai mì, khoai lang khoảng 15kg, 16kg rút xuống còn 12kg. “ Ở trên biểu chúng tôi đưa một toán đi đào củ nầng vê nấu ăn thêm. Có người đã đào được những củ nầng to bằng trái banh, đưa về gọt vỏ, che ra rồi luộc. Theo sự chỉ dẫn “ở trên”: luộc xong bỏ vào cái rọ, ngâm một ngày một đêm ngoài suối, rồi lấy vô luộc lại, xắc ra rồi phân phát cho anh em. Tôi nghĩ rằng dù là củ gì có bổ dưỡng bao nhiêu mà qua giai đoạn luộc, ngâm rồi luộc như thế thì cái còn lại chỉ là xác bã, chẳng lợi gì cho cơ thể, nên khi được phát vào buổi sáng khoảng một chén thì tôi lặng lẽ bỏ vào giỏ xách mình nhưng không ăn. Thật là may cho tôi vì ngày đó, có một số anh ăn vào khoảng nửa chén, đi làm được khoảng 2 giờ sau thì ói mửa, choáng váng, bước đi không nổi, mặt mày xanh dờn! Đám Cán bộ phải cho họ về. Sau đó, chúng tôi được tập họp lại để nghe chửi: “ Chúng tôi nhờ những củ nầng này để ăn mà sống, chống Mỹ cứu nước. Tại sao các anh làm ăn cẩu thả để anh em bị ngộ độc như vậy!”. Ngoài miệng nói như thế chứ sau đó họ cũng không cho phép đào củ đó nữa.

Một buổi sáng, chúng tôi đang đi dọc theo con mương đến chỗ toán phải làm thì thấy toán đi đầu vừa chạy vừa la hét mừng rỡ. Tôi nhìn xa hơn, thấy một con mễn ( một loại nai nhỏ như con chó ) chạy đằng trước, nhưng vì con vật đang có chửa nên lúc leo lên triền dốc, nó bị té xuống không leo lên mương được mà chạy dọc theo con mương. Nó có chửa nên chạy chậm hơn đám tù, mặc dù đang đói. Nhưng do sự thôi thúc của miếng mồi nên chạy thật mau để vây bắt con vật, sau đập chết rồi mang về chia nhau. Tôi nghĩ thật đáng thương tâm, những người tù quá đói khổ, thấy con vật tội nghiệp muốn tìm đường sống cho con mình mà cũng không thoát được.

Thời gian ở đây, một hôm chúng tôi ra suối tắm, có một toán thuộc Lâm Đồng đạp nhằm một cái bao. Lúc đưa lên, té ra là một bao cá thiều, sau này mới biết đó là một trong những bao cá của toán Nghĩa vụ Quân sự lúc đi chợ về, gánh qua suối bị rớt hôm trước rồi trôi dạt xuống đây. Mấy anh Lâm Đồng chia nhau, tuy cá đã sình ươn ra và bốc mùi rồi. Tối đó, mấy anh ngứa quá, gãi sồn sột. Khoảng 10 người bị tình trạng này.

Để kiếm thêm thức ăn, một số người tìm những cọng thép bẽ làm cái bẫy, rồi để dành chút ít đồ ăn của mình làm mồi. Khoảng bốn năm bữa, họ bẫy được con sóc, có bữa bẫy được một con chuột đồng. Có một anh không biết nhờ ai mua giùm được một con gà mái, anh nuôi nó cho đến khi nó đẻ. Từ đó, ngày nào anh cũng khám “ phụ khoa” cho con gà để kiểm tra coi có trứng không, sợ mất trứng. Nó đẻ một thời gian thì ngừng, quay sang ấp. Vì không có trứng để ấp (anh ấy ăn trứng mất rồi ) nó mổ một lon sữa bò để ấp. Thấy vậy anh ấy quăng lon sữa bò ra xa. Hôm sau, nó lại lấy lon sữa bò ấp nữa. Một anh khác bàn nên đem ngâm con gà trong nước lạnh. Anh làm theo, sau đó con gà tiếp tục đẻ.

Công trình đào kênh của chúng tôi trải dài khoảng 9 tháng, thì có lệnh ngưng. Lúc đó còn khoảng một cây số thì đến Nông trường trồng bông, là phần việc của toán Nghĩa vụ Quân sự. Nhìn lại dụng cụ mình làm, thấy thất kinh: cái đầu nhỏ như lưỡi cuốc nay chỉ còn một phần tư, còn cái đầu kia, trước là một cây nhọn dài 8 tấc ( thường dùng trong hầm mỏ miền Bắc ) bây giờ còn khoảng 2 tấc mà thôi!

Chúng tôi lúc rảnh thì tắm giặt hay “cải thiện linh tinh”( danh từ VC dùng chỉ cái việc kiếm thêm thức ăn) qua những lá cây rừng. Có một loại cây tên là “ Thảo nam sơn” nghe người ta nói vỏ của nó có vị thuốc trị hết đau lưng. Do đó khi có anh em la: có cây Thảo nam sơn, thì có cả mấy chục người nhào tới để tước vỏ cây. Sau đó, thân cây như bị “ lột truồng “.

Chúng tôi nghe nói lúc khánh thành có những quan chức cao cấp đến tham dự. Đêm đó, chúng tôi được” chiêu đãi” một bửa văn nghệ do một đoàn văn công tỉnh Thuận Hải trình diễn. Chúng tôi ngồi một góc, còn đám Nghĩa vụ ngồi một góc. Khi đoàn văn công nhìn xuống, có lẽ họ thấy những Sĩ quan Bình Thuận ngồi dưới nên lúc khởi đầu, họ chơi những bản nhạc ngoại quốc, trong đó có bài La Paloma, đám tù vỗ tay quá xá. Cứ hết một bài thì vỗ tay “ Bis!Bis!”. Đám Nghĩa vụ Quân sự mặt mày ngô ngáo vì không biết bài nào cả. Sau khi họ chơi hết ba bài, một Cán bộ VC lên nói: “ Các anh không được chơi nhạc Ngoại quốc!”. Tôi nghe một anh văn công đáp: “ Tôi chơi nhạc Cuba, Hungary, những bài này của XHCN”. Viên Cán bộ không chịu, bắt chơi nhạc VN mà thôi. Lúc đó, họ bắt đầu chơi những bài nghe như những tiếng ró ré hét lên.

Hôm sau, Bộ chỉ huy kêu anh Vân lên “ làm việc”. Vân với tôi cũng khá thân. Lúc về, anh kể:” Họ nói sẽ thả tôi ra với điều kiện ký giấy làm cho họ mấy năm, anh thấy sao?”. “ Trời ơi! Anh ở tù một mình, bây giờ định đem vợ con lên ở tù nữa hay sao? Chỗ này là nơi chó ăn đá, gà ăn muối, đau ốm, bệnh hoạn không thuốc men. Anh ở tù một mình là đủ rồi. Chừng nào họ thả về thì thả…”. Về sau, anh ấy từ chối khéo léo công tác phục vụ cho Trung đoàn ấy.

Sau khi, chúng tôi làm đập tràn và kênh đào song Lũy xong, họ chở chúng tôi về một vùng gần Phan Thiết, gần đồi Nora. Đồi Nora ở bên trái Quốc lộ, chúng tôi phải đi vào một đường lộ nhỏ bên phải để đến trại.

Đến đây, chúng tôi cũng khởi sự làm nhà cửa, phá gò mối, ban ruộng ra để sửa soạn cho vụ mùa.

Bao quanh trại là hàng rào bằng tre đan lại có gai. Một đêm kia, khi chúng tôi đang ngủ thì có kẻng đánh và có tiếng súng nổ. Tất cả được lệnh tập họp điểm danh. Về sau, tôi nghe nói có ba người trốn trại. Đó là Đại úy Đặng Phiên, Thông Ngộ và một anh nữa tôi không nhớ tên. Mấy anh này lúc còn ở trại Sông Mao thì cùng nhóm với tôi, do tôi làm Tổ trưởng. Về sau này, các anh ấy đã chuyển qua nhóm khác.

Thời gian sau, tôi nghe phong thanh Cán bộ họ đã đi hành quân và bắn chết những anh này. Và họ có đem về những cuốn sổ tay nhỏ của mấy anh.

Lúc này, họ cho chúng tôi ăn uống quá tệ so với hồi trước. Bây giờ chúng tôi trực thuộc Bộ nội vụ tức Công an quản lý. Một hôm, họ ra lệnh tập họp và biểu đem “ Quân trang, Quân dụng “ra để kiểm soát. Điều mỉa mai là chúng tôi chẳng còn gì nữa để mà gọi là Quân trang, Quân dụng, chỉ có mấy bộ đồ rách tả tơi, mấy cái nồi lon gô… Họ quen xài chữ đao to búa lớn. Đám Công an này kiểm soát rất kỹ. Mỗi người được lệnh trãi ra một tấm nylon rồi nồi niêu, quần áo đồ dùng…bày ra trên đó. Quan cảnh như đang bán chợ trời, anh em trại viên ngồi đó, còn đám cán bộ lật lên, lật xuống, rà soát những cái cổ áo, từng đường may trên áo, lai quần để tìm ra xem có dao hay đinh trong đó không. Nhưng chúng tôi dại gì mà đem dấu dao, đinh trong áo quần. Nếu cần thì chúng tôi giấu vào một hốc cây nào đó ( cái gọi là dao chẳng qua là một cây đinh lớn mà chúng tôi đập đạp ra rồi mài mài cho bén ) khi gặp thằn lằn, rắn mối, cóc nhái… thì rồi xẻ ra nướng ăn, rồi nhét lại vô trong một hốc cây.

Một buổi sáng, chúng tôi được lệnh đi lao động, mỗi toán phải hai người với một cái đòn, mười người phải đem theo một cái võng, không ai được ở lại hết, trừ ra một số tối thiểu người làm nhà bếp tức “anh nuôi” khoảng bốn năm người.

Từ đó, chúng tôi đi ra Quốc lộ 1, đi được một đoạn đường thì thấy một cảnh thật thương tâm, một anh thương binh, có lẽ thương phế binh VNCH cụt một chân, vừa chống một cây nạng, vừa cuốc! Ngang hàng với anh, đứng gần đó là ba đứa con anh khoảng 12 tuổi, 8 tuổi và 6 tuổi đều cầm mỗi đứa một cây cuốc nhỏ mà cuốc tới. Nhìn thấy cảnh này, tôi thấy ứa nước mắt.

Chúng tôi đi ra đến Quốc lộ một, sau đó băng qua để lên đồi Nora. Theo lệnh trên, chúng tôi cứ hai người phải gỡ một cuộn kẽm gai trên ngọn đồi này. Nghe nói hồi xưa đây là đồi Pháo binh của VNCH và nơi mà Nhà văn Y Uyên đã tử trận.

Nora là một ngọn đồ thấp. Lúc chúng tôi đến, trên đường đi, nhìn lên thấy chẳng còn gì, ngoài những hàng rào kẽm gai xung quanh. Ở phía bên trái đường đi, có một cái am nhỏ. Từ trong am một bà già đi ra, ngược lại chiều với chúng tôi. Bà già hỏi chúng tôi: “ Các anh lên đây làm gì?” “ Chúng tôi được lệnh lấy kẽm gai “. Bà ta nói:” Đừng!Đừng! Cách đây mấy ngày, có một con bò bị vướng mìn và đã chết “. Chúng tôi cho bà hay chúng tôi là tù, đâu có dám cãi lệnh. Bà nói để bà lên am cầu nguyện cho chúng tôi.

Chúng tôi tiếp tục đi, dạt ra hai bên để lấy kẽm gai. Sau cùng, tôi và anh Nguyễn lê Chánh cũng gỡ được hai cuộn kẽm gai, xỏ đòn và gánh về.

Các toán đổ xô ra quanh đó. Thỉnh thoảng, khi kéo dây kẽm gai lên, anh em giật mình kinh hoảng vì thấy những trái lựu đạn hay mìn ba chấu bung lên hoặc nằm lăn lóc ở đó. Anh em la lên rồi nằm rạp xuống. Cũng may, không nổ! Không biết do mưa nắng bao nhiêu năm, lựu đạn và mìn kia đã hư mục, hay là sự mầu nhiệm của lời cầu nguyện của bà già kia mà Ơn trên và linh hồn Tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã phò hộ cho chúng tôi.

Tôi thấy chính sách của Việt cộng thật là vô nhân đạo khi đưa người tù đi gỡ kẽm gai ở một nơi đầy mìn bẫy. Họ đã tính toán trước sẽ có người bị thương tật hay là chết. Vì thế, chúng tôi được lệnh, cứ mười người thì mang theo một cái võng, phòng khi trường hợp đó xảy ra, để khiêng người bị nạn. Có cả thảy mấy trăm người như vậy mà may thay, không một tai nạn nào xảy ra, không một trái lựu đạn nổ. Chỉ có một số anh em khi gỡ kẽm gai bị trầy xước sơ sơ mà thôi.

Những chuyện nguy hiểm có thể chết người rồi thì cũng qua đi, nhưng cái ám ảnh suốt ngày, suốt tháng đối với anh em là những ngày đói dai dẳng. Vào buổi sáng họ phát cho mỗi người một cái bánh làm bằng bột mì ( có lẽ do viện trợ từ những nước khác ) đường kính độ 20 cm. Sáng một cái, trưa hai, tối hai, chúng tôi gọi là “ bánh xe lãng tử “. Sức khỏe anh em do đó mà suy kiệt dần, chỉ khá lên được khi có thăm nuôi. Mỗi kỳ thăm nuôi 3 tháng một lần, sau đó anh em trở lại xanh xao, ốm yếu như cũ, như một chu kỳ cứ tái diễn mãi.

Thời gian ở Sông Mao, vấn đề vệ sinh thật là khủng khiếp. Mỗi tuần, chúng tôi được dẫn đi tắm một lần ở cái ao nước đục ngầu, màu xanh đen. Bao nhiêu người, từng tốp một xuống tắm giặt. Toán này lên, toán khác xuống, cũng chỉ tại cái ao nước đó! Một số an hem bị ghẻ lở cả thân mình, như trường hợp anh Châu ( tôi quên mất họ, chỉ nhớ tên ) nguyên là Đại úy Trung tâm Yểm trợ Tiếp vận. Trước 75, bạn bè gọi đùa anh là “ anh Châu bụng “. Về sau, anh bị ghẻ lở, còn bụng thì xẹp lép. Anh em mới gọi là “ Châu ghẻ”. Nghe nói lúc được thả ra rồi, một thời gian sau anh bị bệnh và qua đời.

Có những điều anh em lo nghĩ vì chẳng thấy gì sáng sủa cả trong tương lai, nhất là băn khoăn về gia đình, không biết thân nhân mình làm sao mà sống, khi mình thì ở trong cái rọ này. Hình ảnh tôi nhận thấy rõ nhất là anh Bỗng, nguyên Đại úy thuộc Ban liên hiệp Quân sự hai bên. Sau 6 tháng vào tù, tóc anh biến thành bạc phơ. Thật đúng là hình ảnh Ngũ tử Tư hiện đại.

Sau khi được thả ra, những hình ảnh hãi hùng trong trại tù cứ lởn vởn trong đầu tôi suốt mấy chục năm. Cho đến trước lúc được đi Hoa Kỳ, cứ hai hay ba tháng tôi vẫn thường nằm mơ thấy mình ở trong trại tù cải tạo, rồi qua bốn đến năm ngày sau đó thì mất ngủ. Khi đã định cư ở Hoa Kỳ, khoảng bốn năm đầu, thỉnh thoảng tôi lại nằm mơ thời gian kinh hoàng đó. Phải đến bảy năm sau đó, mới chấm dứt tình trạng ác mộng đó.

Chúng ta, những Sĩ quan bị đưa đi ở tù một cách đau đớn, bị đọa đày khủng khiếp mà còn sống sót để được hưởng chính sách nhân đạo HO của Mỹ quốc và ngày nay chúng ta đã có những gia đình êm ấm, con cái nên người, chúng ta cũng phải nhớ lại sau lưng chúng ta, những bà vợ còn rất trẻ khi chúng ta bị lùa đi vào trại cải tạo, những bà mẹ, những bà chị, cô em gái với lòng thương vô bờ bến đã xông ra ngoài xã hội đầy bất công, đầy thù hận, đầy phân biệt để sống còn, để nuôi thân nhân ở ngoài, rồi còn dành dụm từng đồng, từng bánh đường, từng con cá khô, miếng bánh, từng viên thuốc để định kỳ thăm nuôi, an ủi và khuyến khích chúng ta cố gắng sống nhẫn nhục chờ đợi ngày về. Những người thân của chúng ta đã không được sửa soạn với những khóa học “ mưu sinh thoát hiểm “, mà với bàn tay khéo léo, nghị lực kiên cường để giữ được gia đình tạm đủ sống và yểm trợ các người tù bằng những món quà thăm nuôi, những lời khuyên để chúng ta yên tâm mà chính chúng ta, những người tù 5, 10, 15 năm thấy hoàn toàn vô vọng.

Chính họ là những động lực thúc đẩy chúng ta cố gắng sống còn và chính họ mới là những người bây giờ phải được nhận những lời tuyên dương cao quý nhất. Còn chúng ta, chỉ là những thanh niên, trong thời điểm đó, phải làm bổn phận của người trai, khoác áo Chiến binh trong buổi binh đao, khi nước nhà còn đầy quân thù (Cộng sản Bắc Việt) lúc nào cũng lăm le phá hoại hạnh phúc của toàn dân.

BS Lê Bá Dũng
 

No comments: