NGỌC LOAN * QUA CƠN HỒNG THỦY
Ngọc Loan
Biến cố 1975 đúng là một cơn hồng thủy. Nó cuốn trôi cả xã hội Việt Nam vào dòng nước xoáy xuống vực sâu thăm thẳm... Gia đình tôi cũng cũng không thoát khỏi cơn hồng thủy đó nên đã phải lênh đênh trôi dạt trên biển Đông, để tìm đường sống từ cõi chết.
Chuyến hành trình biển Đông bắt đầu vào tháng 6/1980. Tôi dắt ba đứa con nhỏ, đứa lớn nhất lên 10, bé nhất lên 5, và một thằng cháu con của ông anh lớn xuống thuyền... Chủ tầu dặn trước : mỗi người chỉ được mang theo một bộ quần áo, tuyệt đối không được mang theo đồ kềnh càng, ăn uống do chủ tàu lo. Cẩn thận tôi mang theo một ít cơm nắm thịt ruốc, sợ các con tôi đói dọc đường. Tôi còn khâu vào bộ quần áo mang theo của chúng mấy chỉ vàng, phòng hờ chẳng may bị thất lạc, chúng có vật tùy thân.
Chuyến hành trình biển Đông bắt đầu vào tháng 6/1980. Tôi dắt ba đứa con nhỏ, đứa lớn nhất lên 10, bé nhất lên 5, và một thằng cháu con của ông anh lớn xuống thuyền... Chủ tầu dặn trước : mỗi người chỉ được mang theo một bộ quần áo, tuyệt đối không được mang theo đồ kềnh càng, ăn uống do chủ tàu lo. Cẩn thận tôi mang theo một ít cơm nắm thịt ruốc, sợ các con tôi đói dọc đường. Tôi còn khâu vào bộ quần áo mang theo của chúng mấy chỉ vàng, phòng hờ chẳng may bị thất lạc, chúng có vật tùy thân.
Giờ đổ người lên thuyền bất ngờ vào giữa trưa, khác với những chuyến trước thường là vào ban đêm. Việc đổ người xảy ra thật nhanh, thật gọn, khiến tôi choáng váng đến ngộp thở, không nhận biết được gì.
Phút chốc tôi thấy mình bị đẩy lên thuyền vượt biên với ba con. Cùng lúc, có tới 4 hay 5 ghe nhỏ khác đổ thêm người lên thuyền. Sau đó, chúng tôi bị đẩy xuống khoang thuyền, rồi mấy người tổ chức vượt biên phủ lưới lên trên, ngụy trang thành tầu đánh cá. Ngồi trong khoang, tôi quan sát chung quanh. Thuyền này rất nhỏ, bề ngang chỉ độ một mét, bề dài hơn mười mét, lòng khoang hẹp ghép bằng những miếng ván và có những thanh gỗ đóng ngang cạnh thuyền cách nhau nửa mét. Phía trên chỉ có một lỗ thông hơi nhỏ. Về sau tôi mới hay máy tầu chỉ có 3/4 mã lực và có tới ba mươi người lớn nhỏ "xếp
cá mòi" trong thuyền.
Mấy người khoẻ mạnh bắt đầu lấn áp mẹ con tôi khiến chúng tôi ngộp thở vô cùng. Đứa út còn quá nhỏ cứ đòi ngồi trên lòng mẹ, các đứa khác ngồi trên những thanh lườn thuyền than khóc không thôi. Tôi phải cố nuốt lệ, cố tìm lời dỗ dành khuyên bảo chúng. Sau một ngày vật lộn với sự chen chúc và sóng gió, các con tôi đều mệt lả thiếp đi. Còn tôi phần vì lo lắng, phần sở hãi nên cứ trơ trơ ngồi canh chừng trong tư thế khó chịu, đau đớn vô cùng.
Đến tối thuyền bỗng nhiên ngưng chạy. Hỏi ra mới biết vì máy yếu, trở quá nặng nên không chịu nổi. Ngặt một nỗi, thuyền chưa ra hỏi hải phận nên ai cũng sợ bị tầu Việt Cộng bắt lại thì chỉ có nước ngồi tù cả đám. Trong lúc người lái tầu sửa máy, đám thanh niên leo hết lên boong thuyền tìm chỗ nghỉ
Vợ con chủ tầu an nhiên tọa hưởng trên cabin, chỉ khổ cho trẻ con và những bà mẹ như chúng tôi phải chịu cực hình xông khói. Chị bạn tôi thấy con cái ngộp thở, ho sặc sụa, van xin chủ tầu tắt máy mãi không được, chị bèn nguyền rủa, chửi bới om xòm về sự vô nhân đạo và việc làm tắc trách của chủ tầu.
Bọn chủ tầu và thợ máy không những không nghe, họ sẵng giọng mắng xuống : "Mấy bà im mồm đi ! Trước tụi tôi cần vàng nên mới đưa mấy bà đi. Bây giờ không cần nữa, con mấy bà có chết cứ việc liệng xuống dưới biển, đừng có la lối."
Tôi biết nếu để tình trạng này kéo dài vài giờ nữa lũ trẻ sẽ chết ngộp do hơi độc carbon tỏa ra. Bản năng tự vệ nổi lên, tôi vẹt mọi người ra leo lên boong, dõng dạc : "Tôi xin lỗi tất cả các anh đi học tập có mặt trên tầu vì việc tôi sắp làm có thể nguy hại đến các anh. Tôi đứng đây chờ tầu hải quân Việt Cộng đi qua sẽ la to cho họ đến bắt. Giải cứu các con chúng tôi trước để khỏi bị chết ngộp, việc tù đầy tính sau. Tính mạng trẻ con là trên hết ! "
Do lời nói cứng cỏi và ý trí mãnh liệt của tôi, bọn họ đành phải bàn tính lại. Rồi họ tắt máy tát nước, cho hết các trẻ con lên boong, các bà mẹ cùng lên theo, còn các thanh niên xuống cùng thay phiên nhau tát nước. Gần sáng máy chạy được, tầu thoát ra khỏi hải phận. Thật hú hồn !
Song, "Họa vô đơn chí, phúc bất trùng lai ". Đi được hơn một ngày, chúng tôi gặp ngay một tầu hải tặc Thái Lan. Vừa thấy tầu cướp, chủ tầu vội ra lệnh tất cả đàn bà trẻ con xuống hết khoang thuyền. Bị bít bùng, chúng tôi không hay biết chuyện gì xảy ra ở trên. Chỉ biết rằng chúng tôi sợ gần chết, vì đã từng nghe chuyện kể lại thế nào là hải tặc Thái Lan : Cướp của, giết người không gớm tay, hãm hiếp phụ nữ thật dã man...đều là nghề của bọn này !
Bỗng có lệnh gọi mọi người lên boong hết. Ba, bốn tên cướp súng dắt bên sườn, tay khoa mã tấu sáng láng. Chúng xuống khoang lục soát kiếm vàng. Rồi chúng lên bắt mọi người cởi hết quần áo để chúng khám xét. Bao nhiêu nhẫn vàng và đồng hồ đeo tay đều bị chúng lột hết.
Lùng sục xong trong khoảng một tiếng đồng hồ, chúng ra lệnh chúng tôi qua tầu chúng. Trong cơn giục giã, xô đẩy hỗn loạn của bọn cướp tôi cũng tầu hải tặc, tôi ôm chặt lấy đứa út và không ngớt cầu nguyện xin ơn trên ban phước lành cho các con tôi. Chợt tôi nhìn sang đứa con gái lớn 10 tuổi đang ngủ say, tôi sợ hãi và hối tiếc đã không cho nó mặc đồ giả trai. Chưa kịp nghĩ xa hơn thì những ánh đèn pin loang loáng rọi đến chỗ chúng tôi nằm. Một cô gái bị đánh thức dậy và đưa lên phòng lái. Rồi cô thứ hai, thứ ba... Họ là những cô gái tuổi xanh mơn mởn ! Tôi rùng mình sợ ánh đèn pin chiếu đến con gái tôi. Tôi thầm khấn xin cho tôi thay cháu làm vật tế thần nếu có chuyện gì xảy ra, đừng để con tôi phải chịu đọa đầy. Cả đêm hồi hộp lo âu, tôi không tài nào chợp mắt. Cũng may, bọn chúng chỉ bắt những cô gái trẻ lên để hành lạc chứ không man rợ hãm hiếp phụ nữ ngay như các tầu hải tặc khác.
Sau đêm thỏa mãn thú tính, sáng ra hải tặc đuổi chúng tôi về tầu cũ đã bị cướp sạch những gì có thể cướp được và bị phá nát máy tầu để tìm vàng. Thế là chúng tôi lênh đênh trên biển cả, không có chút đồ ăn nước uống.
Sáng sáng tầu theo dòng nước trôi ra khơi, tối tối được sóng đánh dạt vào phía bờ ! Thấp thoáng như có bóng đảo Côn Sơn. Trong tình huống tuyệt vọng này, ai cũng mong được trôi dạt trở về. Tù tội cũng cam lòng.
Tội nghiệp các con tôi, mới ngần ấy tuổi đã chịu cực hình ngồi bó gối trên những thanh gỗ nhỏ gồ ghề, chịu nhịn đói ngày này qua ngày khác, và chịu đọa đày nóng thiêu đốt ban ngày, lạnh cóng xương ban đêm. Mỗi khi trời mưa chúng tranh nhau ra phía cửa khoang, ngửa miệng hứng từng giọt. Nhiều lúc chúng nức nở kể lể : "Sao mẹ bắt con phải đi khổ sở như thế này. con thèm nước đá chanh quá. Con thèm bát cơm rang quá !" Rồi chúng thay nhau kể ra những món chúng ưa thích : nào xá xị, hủ tíu, nào chè cháo, bánh bao...! Nghe chúng than khóc, kể lể chủ tầu nạt lớn : "Im mồm chúng mày đi ! kể lể làm tụi tao cũng bắt thèm luôn." Tôi vừa buồn cười, vừa giận bọn chủ tầu nhưng phải cố gắng trấn an các con với viễn vọng huy hoàng ngày mai này !
Nói sao hết nỗi đói khát, cơ cực giữa lòng biển cả mênh mông ! Nước biển tràn đầy xung quanh nhưng chúng tôi vẫn khát. Cá bơi lội ê hề nhưng chúng tôi vẫn đói. Đứa con gái lớn nói : "Con không chịu nổi và bất lực, không bảo vệ được con mình. Tôi hận, hận tất cả.
Sang đến ngày thứ 14, tình trạng các con tôi tệ hại vô cùng. Chúng lở lói, thân hình nhơ nháp những phân và nước tiểu, thê thảm khôn cùng ! đứa út còn tệ hại hơn, vừa đói khát vừa kiết lị nên khô đét như nắm xương bọc da nhăn nhúm, nằm thoi thóp nửa tỉnh nửa mê...
Đang lúc quá thất vọng. Bỗng có một tầu đánh cá Thái Lan xuất hiện. Cả tầu lại xôn xao, mọi người không còn gì để mất nên không sợ hãi như lần trước nữa. Tất cả chỉ mong được thức ăn nước uống... rồi chết cũng cam tâm. Để làm mủi lòng ngư phủ tầu Thái, vài người vội bồng con gái út bé nhỏ của tôi giơ cao lên đưa hướng về họ. Tội nghiệp con bé thoi thóp thở trong chiếc hình hài chẳng giống người.
Tầu ngừng lại, nhìn qua và có lẽ thấy cảnh tượng thương tâm đó nên cứu mọi người. Khác với bọn hải tặc lần trước, họ rất tử tế thòng dây qua giúp từng người sang hết tầu họ, bỏ lại con tầu ọp ẹp của chúng tôi sắp chìm trong sóng biển. Kiểm được đầy đủ các con an toàn trên tầu đánh cá rộng lớn, tôi mừng như chết đi sống lại. Mọi người được cho ăn uống no nê. Trẻ con được uống cả nước ngọt và sữa nữa. Tôi xin một ly sữa, nhỏ từng giọt vào miệng con út, nhưng cháu rất yếu chỉ thều thào nuốt được vài ba giọt.
Hỏi thăm tôi được biết ông chủ tầu Thái này trước đây đi đánh cá từng bị công an Việt Cộng bắt, may gặp một bà mẹ Việt Nam cứu thoát nên nay muốn trả ơn xưa.
Tầu vào gần đất liền, ông cố gắng tìm một làng đánh cá hẻo lánh và trong đêm đó chuyển lậu chúng tôi lên bờ. Xong vội vã ra khơi để tránh liên lụy vì chính phủ Thái và nhiều nước lúc đó không nhận cho người tị nạn Việt Nam vào.
Chúng tôi nằm ngủ thiếp đi dưới những gốc dừa. Sáng dậy thấy dân địa phương khám phá ra kéo đến xem chúng tôi. Cảnh thê thảm tang thương của đoàn người lưu lạc, sa cơ thất thế làm họ thương cảm sụt sùi. Rất tử tế, họ mang cho chúng tôi từng nải chuối, trái dừa, khoai bắp luộc...đượm thắm tình người. Sau đó chúng tôi được đưa đến trại cảnh sát Thái, được ở tạm trong khu chuồng bò để chờ Hồng Thập Tự Quốc Tế đến, và được cấp gạo, cá khô...
Mọi người sung sướng ăn uống no nê. Riêng con gái út tôi kiệt sức vì kiết lị và mất nước nên nằm thoi thóp, rúm ró trong bọc vải. Chắc nó không sống nổi ba ngày nữa chờ Hồng Thập Tự đến giúp. Tôi vội hỏi mượn đám chủ tầu ít tiền để ra ngoài mua sữa cho cháu nhưng họ làm ngơ, lén lút dúi tiền cho con cháu họ mua quà bánh ăn. Túng quá, tôi ôm cháu ra ngoài chợ, mong dân địa phương thương hại để xin một hộp sữa cứu sống cháu. Vừa đến cổng trại gặp ông Đại Úy Thái Lan cụt chân vẫy lại hỏi tôi đi đâu. Tôi nói đi ra chợ xin hộp sữa cho con và mở cái bọc vải để lộ thân hình bé tí teo. Ông ứa nước mắt, nói không có sữa, rồi cho tôi 20 Bath tiền Thái Lan mà đi mua. Nhờ có 20 Bath (vừa đúng 1 đô la Mỹ) Tôi mua một hộp sữa, ít chanh, đường về pha cho cháu uống. Cháu từ từ hồi sinh, ba ngày sau Hồng Thập Tự đến, con tôi đã thoát khỏi ách tử thần.
Chúng tôi được chuyển đến trại tị nạn Song Kha và sau đó được chồng và hai đứa con trai lớn đã vượt biên năm trước bảo lãnh sang định cư tại Mỹ.
Cơn hồng thủy đã tràn vào nước tôi dìm bao nhiêu người dân lành xuống biển Đông? Đã hơn hai mươi năm trôi qua, chuyện kể vượt biển Đông vẫn như vừa mới hôm qua. Phải trải qua đói khát khổ đau, ô nhục và nước mắt thấy hết sự chịu đựng bền bỉ của những con người đành bỏ lại tất cả mà ra đi. Và trong kinh hoàng tuyệt vọng có những vị cứu tinh xuất hiện như những bông hoa nhân ái nở giữa biển khổ trần gian.
Ngọc Loan
° Sinh ngày 5/8/1941 tại Hà Nội
° Cựu nữ sinh Trưng Vương
° Cựu Giáo sư Gia Long
° Đậu cử nhân Văn Khoa Sài Gòn 1966
° Đã xuất bản 2 tập "Thơ Nguyễn Lê" và tập truyện ngắn "Chồng Con" cùng với chồng là Song Thuận
VĨNH KHANH * MỘT NGƯỜI TÙ
Câu chuyện của một người tù cải tạo
Câu chuyện của một người tù cải tạo
Lời nói đầu:
Lời nói đầu:
Ngày 15 tháng 12 năm 2007 vừa qua, sau hơn 30 năm lưu lạc sống rãi rác khắp nơi, nhóm tù cải tạo 520 Xuyên Mộc mới có cơ hội qui tụ về thành phố Houston tham dự buổi họp mặt lần đầu tiên. Tôi không phải là thành viên trong nhóm, nhưng hân hạnh được tham dự buổi họp mặt cảm động và tràn đầy tình huynh đệ này. Tôi gặp lại một số bạn cũ cũng như được biết thêm nhiều anh em mới trong dịp này mà tên mỗi người đều kèm theo một biệt danh dí dỏm như: Hoàng “xà lim”, Hối “Hilton”, Dũng “Sún”, Hải “Vờ”, Toàn “chí chóe”… Đặc biệt hơn hết trong số người tôi được giới thiệu ngày hôm đó là anh Phạm Văn Thức. Sau đó được nghe chính anh và những bạn bè trong nhóm kể lại câu chuyện độc đáo có một không hai của anh. Thú thật tôi bị cuốn hút vào câu chuyện hấp dẫn này ngay từ đầu nên đã xin phép anh Phạm Văn Thức được viết lại nó. Mời quý vị theo dõi câu chuyện độc đáo sau đây của người tù cải tạo nhóm 520 Xuyên Mộc có tên Phạm Văn Thức mà các bạn tù đã thân thương đặt cho anh cái biệt danh là: Thức ” trốn trại”.
Kể từ sau ngày trình diện tập trung cải tạo, các sĩ quan chế độc cũ đã phải trãi qua nhiều trại tập trung khác nhau như Trảng Lớn, Đồng Pan, Cà Tum, Long Thành, Suối Máu …v…v… nhưng đến năm 1979, một đợt chuyển trại nữa lại xảy ra. Trong đợt này có 520 sĩ quan cấp úy QLVNCH bị chuyển về trại Xuyên Mộc thuộc Bà Rịa, Vũng Tàu. Trại Xuyên Mộc này từ trước chỉ nhốt tù hình sự, nên nhóm tù sĩ quan cải tạo bị chuyển về đây cũng phải chịu chung sự quản chế rất khắc khe, tàn ác giống như qui chế dành cho các tội phạm hình sự. Mọi qui chế ở trại Xuyên Mộc này đều khó khăn hơn nhiều so với các trại cải tạo mà họ đã ở qua trước đây. Bọn Công An quản giáo trại vì quen thói đánh đập tù hình sự, nên cũng đánh đập tù sĩ quan cải tạo rất dã man mỗi khi có ai phạm vào nội qui của trại, dù là những lỗi rất nhỏ. Những hình phạt khắc nghiệt như cùm giò, nhốt xà lim bỏ đói cả tháng trời… hoặc hình ảnh cả đám cán bộ quản giáo xúm lại đánh hội đồng một anh tù cải tạo vô phúc nào đó là hình ảnh xảy ra hàng ngày… Chính những điều này đã dấy lên sự bất mãn trong nhóm tù cải tạo 520 Xuyên Mộc và càng làm rõ nét thêm sự gian trá láo khoét của cái chính sách gọi là “Khoan Hồng, Nhân Đạo” mà chính quyền cộng sản lúc nào cũng rêu rao.
Một số tù bắt đầu tổ chức trốn trại. Khoảng giữa năm 1979, một vụ tổ chức cướp súng trốn trại nổi tiếng xảy ra ở trại Xuyên Mộc. Tham gia trong kế hoạch cướp súng trốn trại này gồm có 5 người là: Thiên, Tài, Thịnh, Đức và Khanh, trong đó người chỉ huy là Thiên, một sĩ quan Trinh Sát Dù. Sau nhiều lần bàn bạc cũng như theo dõi những thói quen của các vệ binh, cán bộ mỗi ngày khi ra lao động bên ngoài. Tổ chức này quyết định sẽ hành động vào lúc hết giờ lao động trong một ngày đã định sẵn, khi các tù cải tạo sắp xếp chuẩn bị trở về trại. Nhiệm vụ được phân công rõ ràng cho từng người, ai có nhiệm vụ nấy. Nhưng đúng là “Người tính không bằng Trời tính”. Câu nói đó xem ra không phải là một câu nói vô duyên cớ… Đến ngay lúc sắp ra tay hành động thì một trục trặc nhỏ xảy ra đã làm đảo lộn hết mọi việc. Như mọi người đã bàn tính từ trước, nếu gặp trục trặc xảy ra trái với dự trù thì kế hoạch phải hủy bỏ ngay lập tức, chờ cơ hội khác an toàn hơn. Sau khi mọi người trong tổ chức nhận được dấu hiệu huỷ bỏ kế hoạch, ai nấy yên chí xếp hàng đi về trại, thì Thiên người đứng đầu tổ chức, vào một phút chủ quan nào đó, hoặc có thể anh ta thấy tiếc cho một cơ hội khó có được lần thứ hai… đã quyết định tấn công và cướp súng của một vệ binh gần đó. Trong lúc hai bên còn đang dằng co thì Thiên bị các vệ binh khác xông lên bắn chết tại chỗ, ngay cả tên vệ binh bị Thiên cướp súng cũng trúng đạn bị thương. Tài ở gần đó bỏ chạy cũng bị bắn chết luôn sau đó. Ba người còn lại trong tổ chức là Thịnh, Đức và Khanh lúc bấy giờ đang ở phía sau hoàn toàn không chuẩn bị gì cho việc này cả, nên không ai trở tay kịp hoặc giúp gì được cho Thiên và Tài. Lúc đó anh nào cũng đang mang trong người một ruột tượng đựng cơm phơi khô, bất thình lình thấy Thiên ra tay hành động… rồi súng nổ… rồi Thiên và Tài bị bắn ngã… sự việc xảy ra nhanh quá! Nghĩ là mọi việc đã bị đổ bể, ở lại thế nào cũng sẽ bị xét bắt nên ba người cũng vội bung ra chạy… Quân vệ binh cộng sản truy lùng ngay sau đó… Kết quả Thịnh và Đức bị bắt lại và bị đánh thê thảm. Chỉ có Khanh may mắn chạy thoát được. Vụ trốn trại này không những làm xôn xao tất cả đám tù cải tạo còn lại, mà cả ban chỉ huy trại và quản giáo cũng xôn xao, rúng động không kém. Ngay sau đó, hệ thống quản lý tù càng siết chặt chẻ hơn… nội qui trại đưa ra càng khó khăn hơn và kỷ luật mới được ban hành để đối phó với bất cứ ai phạm nội qui lại càng tàn bạo hơn trước nhiều…. Tuy thế cũng không làm cho các tù nhân cải tạo sợ hải. Ít ra là đối với một người: Đó là anh Phạm Văn Thức.
Anh Phạm Văn Thức trước đây là Thiếu Úy Phân Chi Khu Trưởng đơn vị đóng tại tỉnh Long An. Anh là người miền Bắc di cư, hiền lành, ít nói và là một tín đồ Công Giáo rất ngoan đạo. Nhưng không ai ngờ rằng với bề ngoài hiền lành, ít nói của anh lại ẩn tàng một ý chí sắt đá với những quyết định táo bạo khó có ai bì được. Sau khi từ trại Suối Máu bị chuyển về Xuyên Mộc, dưới sự quản thúc tàn bạo của đám Công An đã đối xử với anh và các bạn tù cải tạo như thú vật… thì anh đã nảy ra ý định trốn trại. Tuy nhiên anh chưa kịp thực hiện kế hoạch của mình thì đã xảy ra vụ tổ chức 5 người kể trên cướp súng vượt trại thất bại trước rồi. Việc này xảy ra bắt buộc anh phải tạm thời đình hoãn kế hoạch của mình lại, chờ mọi việc yên ổn, lắng dịu xuống hết rồi mới tính được.
Qua năm 1980, chuyện 5 người âm mưu cướp súng trốn trại tương đối đã êm. Mọi sinh hoạt trại trở lại bình thường. Lúc bấy giờ vào mùa thu hoạch bắp nên tất cả công tác lao động của trại chủ yếu là làm việc trên những rẫy bắp nên các vệ binh đi theo canh gác tù chỉ tập trung ở những rẫy bắp. Lợi dụng cơ hội này, Phạm Văn Thức quyết định thực hiện ý định của mình. Anh nhận thấy nếu việc trốn trại có nhiều người tham dự sẽ không được an toàn cho lắm. Tuy rằng với có nhiều người thì sẽ có sự giúp đỡ lẩn nhau trong khi hành động cũng như trên bước đường trốn tránh trong rừng, nhưng đồng thời kế hoạch cũng dễ bị vỡ nếu mọi việc không hoàn toàn ăn khớp với nhau, như trường hợp của 5 người bạn tù trước đây. Do đó Phạm Văn Thức quyết định thực hiện việc đào thoát một mình và không bàn với ai về ý định của mình cả. Theo như sự tính toán của anh, trường hợp nếu bị bắt lại thì không còn gì để nói, phải chấp nhận mọi hậu quả thôi. Còn nếu trốn thoát được thì chỉ cần vài ba ngày lội trong rừng là có thể thoát ra được do thế việc chuẩn bị lương thực, nước uống không cần thiết lắm. Vấn đề mưu sinh thoát hiểm trong rừng 2, 3 ngày không phải là một điều khó khăn lắm đối với một sĩ quan, nhất là điều này anh đã được huấn luyện từ trước. Kinh nghiệm anh đã thấy qua từ vài âm mưu trốn trại bị lộ trước đây ở các trại khác cũng chỉ vì bị cán bộ quản giáo phát giác ra việc dự trử cơm phơi khô để dành… Nên anh quyết định không chuẩn bị gì cả cho phần lương thực. Mỗi buổi sáng đi ra lao động, chỉ cần chút ít thức ăn mang theo trong ngày, bình nước nhỏ và con dao được phát cho việc lao động là đủ. Với tư thế lúc nào cũng sẵn sàng như thế anh kiên nhẩn chờ đợi thời cơ, ngày này không được thì chờ qua ngày khác… Mọi sinh hoạt trong trại vẫn đều đều như bình thường, không ai mảy may nghi ngờ gì đến anh cả. Cuối cùng rồi thời cơ cũng đến. Ba ngày trước, lúc được giao công tác thu hoạch trên rẫy bắp. Mọi người ai nấy đều lui cui bận rộn với công việc, 2 tên vệ binh đi theo canh giữ thì đang ngồi tán gẫu với một tên vệ binh khác ở phía xa. Thừa lúc không ai chú ý tới, Phạm Văn Thức lợi dụng địa thế rậm rạp và thân cây bắp cao che khuất lủi nhanh vào sâu bên trong và biến mất ngay.
Sau khi băng qua mấy rẫy bắp và vào được trong rừng, Phạm Văn Thức cố gắng đi càng xa càng tốt khỏi vùng ảnh hưởng của trại Xuyên Mộc. Sau đó anh nhắm hướng đi theo kế hoạch đã tính từ trước. Anh không đi về hướng Bà Rịa, Vũng Tàu mặc dù từ trại Xuyên Mộc đi về Bà Rịa gần hơn; ngược lại anh đã quyết định chọn con đường về hướng Gia Kiệm, Đồng Nai xa hơn để đi. Có hai lý do khiến anh chọn con đường dài hơn, đồng nghĩa với khó khăn hơn vì: Thứ nhất anh có thể đánh lạc hướng truy đuổi của các cán bộ vệ binh Cộng Sản, ít ai ngờ anh sẽ chọn con đường xa hơn sau khi trốn trại. Thứ hai ở Bà Rịa,Vũng Tàu anh không có ai là thân nhân quen biết để có thể giúp đỡ. Còn nếu đến được Gia Kiệm, thì anh có ông anh đang ở đó, sẽ nhờ ông anh này giúp đỡ cho bước kế tiếp…
Đã quyết định như thế từ trước, nên anh cứ căn cứ vào điểm chuẩn của núi Chứa Chan từ xa lầm lủi đi. Ban ngày thì cứ nhắm hướng mà đi. Đêm đến thì anh tìm cách leo lên một nhánh cây lớn để tránh thú dữ, ngủ chút đỉnh lấy sức chờ trời vừa sáng lại leo xuống tiếp tục cuộc hành trình đào thoát… Một ít lương thực mang theo cho ngày lao động hôm trước và mấy trái bắp bẻ lúc còn trong rẫy cũng giúp anh thoát được cơn đói hành hạ. Tuy nhiên đầu óc lúc nào cũng căng thẳng, mệt đến lã người nhưng anh không dám nghỉ ngơi lâu vì chỉ sợ mệt quá ngủ quên luôn… Chỉ khi nào mệt lắm anh mới dám tìm bụi rậm ngồi nghỉ ngơi chút đỉnh lấy lại sức, còn lại thì anh cứ bươn bả đi miết. Vừa đi anh vừa cầu nguyện và tự nhắc nhở để cổ vũ tinh thần: “Phạm Văn Thức ơi! Mày phải cố gắng lên. Không được nghỉ… Mày đã trốn thì phải trốn cho thoát, thà là chết trong rừng, đừng để bị bắt lại, chúng nó sẽ hành hạ mày thê thảm còn hơn chết nữa…. Chúng nó đang đuổi theo phía sau đó. Không được nghỉ… Cố gắng lên… Cố gắng lên. Qua khỏi khu rừng này là an toàn rồi…” Cứ thế anh vừa len lỏi đi, vừa tự nhắc nhở, khuyến khích mình như thế. Gặp khu gai góc thì dùng dao phát quang xuyên qua hoặc tìm cách né tránh rồi cố gắng giữ theo hướng cũ để khỏi bị lệch quá xa. Một đôi khi gặp suối thì dò tìm chỗ cạn để vượt qua, rửa vội mặt mày cho tỉnh người lại rồi cứ thế vượt suối đi tiếp… cuối cùng sau 3 ngày 2 đêm thì anh đã sắp ra khỏi rừng, gặp đường quốc lộ rồi.
Núp vào một bụi cây rậm rạp, Phạm văn Thức hướng mắt về phía bìa rừng, cẩn thận quan sát kỷ động tịnh chung quanh. Từ nơi đây, thỉnh thoảng anh đã có thể nghe tiếng xe cộ chạy ngang qua nên đoán chắc phía trước là quốc lộ. Theo như vị trí hiện tại chỗ anh đang đứng so sánh với bóng dáng của núi Chứa Chan ở phía trước mặt, thì anh đoán mình còn cách Gia Kiệm, điểm anh muốn đến, không bao xa. Nghe tiếng xe cộ thỉnh thoảng vọng lại từ phía ngoài bìa rừng lòng anh mừng khấp khởi, tuy nhiên anh không dám mạo hiểm đi ra quốc lộ vào lúc này. Trời hãy còn sáng lắm. Nhìn lại quần áo trên người đầy bụi bậm, một vài nơi bị gai góc, cây cỏ móc rách nát te tua lòi cả da thịt bên trong, anh nhủ thầm: “Với bộ dạng thê thảm như vậy, rủi có ai bắt gặp cũng dễ bị nghi ngờ!”. Anh kiên nhẩn ngồi dựa người vào trong một góc khuất của bụi rậm nghỉ ngơi chờ mặt trời lặn. Ý nghĩ sắp gặp được người thân và thoát khỏi cảnh tù đày làm anh nôn nao trong dạ, chỉ thầm mong cho mặt trời lặn thật sớm để tiếp tục đi.
******
Khi Phạm Văn Thức lần mò tìm được tới nhà người anh ở Gia Kiệm thì trời đã khuya rồi. Trên đường đi, anh tránh né hết những bóng dáng người di động từ xa nên không ai phát giác ra anh cả. Khỏi phải diễn tả, chúng ta cũng có thể đoán được là ông anh của Phạm Văn Thức sửng sốt như thế nào khi biết được em mình trốn trại trở về. Sau khi trao đổi với nhau vài câu, Phạm Văn Thức cho biết là không thể ở lại đây vì không an toàn. Anh nhờ ông anh cấp tốc chở về Hố Nai nơi anh có một bà cô đang sống. Ở đó an toàn hơn vì ở Hố Nai không ai biết gì về anh trước đây hết. Thế là sau khi tắm rửa, thay quần áo, ăn uống qua loa lấy lại sức, hai anh em chở nhau trên một chiếc Honda lên đường đi ngay trong đêm khuya về Hố Nai.
Như chúng ta đã biết, Hố Nai là một xứ đạo được lập ra sau khi phong trào di cư từ miền Bắc vào Nam năm 1954. Cư dân ở đây hầu hết theo đạo Công Giáo, rất sùng đạo và đặc biệt có tinh thần đoàn kết rất cao. Ngay cả sau năm 1975, khi cộng sản nắm chính quyền cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc cai quản và áp đặt chính sách lên xứ đạo nổi tiếng này. Chính nhờ thế ở tại nhà bà cô, Phạm Văn Thức cảm thấy rất an toàn. Không một ai thắc mắc, để ý gì đến anh hết. Lúc bấy giờ vợ con của anh vẫn còn ở với gia đình bên vợ tại Long An. Anh dặn người anh và bà cô tạm thời không cho vợ con anh biết tin, vì chắc chắn sau khi phát giác anh trốn trại, họ sẽ báo về địa phương truy lùng anh. Cứ kiên nhẩn đợi mọi chuyện lắng dịu đâu đó rồi sẽ cho gia đình biết sau cũng không muộn. Phạm Văn Thức ở nhà bà cô được hơn 2 tháng, mọi việc vẫn yên ắng, thuận lợi. Lúc đó anh mới nhờ người báo tin cho vợ con ở Long An lên Hố Nai gặp mặt.
Vào thời điểm này phong trào vượt biên đã rầm rộ lắm rồi. Gia đình bàn với nhau là trường hợp của anh không thể ở lại VN được, bằng mọi cách phải cho anh vượt biên ra khỏi VN. Nhưng trong khi chờ đợi tìm được đường dây tổ chức vượt biên thì cũng phải kiếm việc gì làm để sống chứ đâu thể ở mãi nhà bà cô được. Cũng may lúc đó có một gia đình người quen đang làm rẫy ở khu kinh tế mới Cây Gáo, Trảng Bom. Gia đình này sẵn lòng giúp đỡ và khuyên anh nên về ở chung với họ làm rẫy trong khi tìm đường vượt biên. Vùng Cây Gáo lúc bấy giờ là một vùng mới khai phá, cư dân hầu như từ khắp nơi đổ về đây lập nghiệp, sống chủ yếu bằng nghề làm rẫy. Không ai biết quá khứ của ai và cũng chẳng ai thắc mắc gì ai cả. Ngay chính quyền địa phương cũng rất dễ dãi với mọi người vì họ đang có chiến dịch khuyến khích người dân về vùng này khai phá, trồng trọt tăng gia sản xuất thêm… Nơi đây đúng là một nơi lý tưởng để Phạm Văn Thức ẩn thân trong khi chờ đợi vượt biên. Thế là anh bảo vợ con tạm thời ở lại Long An, còn một mình anh đi lên khu kinh tế mới Cây Gáo tá túc ở nhà người quen tốt bụng này, ngày ngày vác cuốc ra rẫy làm lụng che mắt thiên hạ. Trong khoảng thời gian này, anh dò tìm mua được một giấy “Chứng Minh Nhân Dân” giả với một tên họ khác. Nhớ thế chính quyền địa phương ở Cây Gáo, Trảng Bom cũng không thắc mắc gì về anh, mọi sự đi lại của anh nhờ thế cũng dễ dàng.
Kéo dài như thế cũng hơn năm trời, anh vừa tiếp tục làm rẫy vừa để ý tìm kiếm đường dây vượt biên. Cuối cùng có người giới thiệu anh với một chủ ghe và cũng là người tổ chức. Sau nhiều lần đi lại tìm hiểu kế hoạch… anh đóng tiền cho chủ ghe và chờ đợi ngày xuất phát. Tuy nhiên chuyến này anh đã bị gạt! Đến ngày xuất phát, chủ ghe âm thầm ra đi bỏ anh lại không thông báo tiếng nào cả. Trời bất dung gian, chuyến vượt biên đó cuối cùng bị đổ bể. Người chủ ghe bị Công An bắn chết còn tất cả những người tham gia đều bị bắt lại hết… cũng may, nếu anh tham dự trong chuyến này thì cũng bị bắt luôn rồi. Thật đúng là số Trời! Không ai có thể nói trước được. Sau lần bị gạt này, tiền bạc mất hết, Phạm Văn Thức không còn đủ khả năng tham gia vào một chuyến vượt biên nào nữa. Anh đành bàn với vợ con gom góp mọi thứ lên khu kinh tế mới Cây Gáo, Trảng Bom an phận làm ăn sinh sống. Gia đình anh tiếp tục làm rẫy thêm một thời gian nữa, sau đó tìm được một việc khác tương đối đỡ hơn: Đó là nghề đi bán và bỏ mối nước mắm lẻ. Tuy nghề này cũng vất vả, chủ yếu chỉ lấy công làm lời, nhưng nhờ tính cần cù nhẫn nại, chịu khó chìu khách hàng… nên mối quen càng ngày càng đông, gia đình anh nhờ thế cũng đỡ vất vả hơn trước.
Năm 1989, chính quyền địa phương Cây Gáo, Trảng Bom có chính sánh cứu xét cho những người địa phương ở “lậu” vào hộ khẩu thường trú. Nhưng muốn được cứu xét người đó phải chứng minh được là mình thuộc diện lao động sản xuất… Theo lời anh Phạm Văn Thức kể lại thì lúc đó gia đình anh không còn làm rẫy nữa mà chuyên hẳn về nghề bán nước mắm lẻ. Công việc này chính quyền địa phương coi như không hợp lệ trong việc cứu xét vào hộ khẩu? Nhưng có lẽ nhờ gia đình anh thường ngày đối xử với bà con xóm giềng rất tốt nên ai nấy đều thương mến. Biết được chuyện khó của anh, một người láng giềng tên Long trước đây là Thượng Sĩ QLVNCH thuộc sư đoàn 5 bộ binh đã giúp cho anh đứng tên đất rẫy của mình để anh có thể chứng minh được với chính quyền địa phương gia đình anh là một gia đình thuộc diện lao động sản xuất… Nhờ thế gia đình anh mới được cho vào hộ khẩu. Mãi tới bây giờ Pham Văn Thức vẫn nhớ tới cái ơn giúp đỡ của ông Thượng Sĩ Long tốt bụng này. (Như chúng đã biết, sau 1975, chính quyền cộng sản áp đặt ra chế độ hộ khẩu như một hình thức kiểm soát người dân về nhiều mặt. Những người không có hộ khẩu thường trú sẽ gặp rất nhiều khó khăn đối với chính quyền địa phương. Ở vào trường hợp những người như anh Phạm Văn Thức, việc vào được hộ khẩu thường trú, cũng đồng nghĩa với việc sống một cách an toàn, hợp pháp, khó có ai có thể truy lùng ra gốc tích trốn trại của anh ngày trước). Từ đó anh và gia đình cứ an phận ngày ngày tiếp tục chở nước mắm đi bỏ mối nuôi sống gia đình…
Nếu câu chuyện của anh Phạm Văn Thức chỉ có thế thì cũng chẳng có gì quá đặc biệt. Chúng ta xem như anh đã thành công trong việc trốn trại, sử dụng giấy tờ giả, tên giả và cuối cùng an phận sinh sống với gia đình ở một địa phương khác không ai hay biết gì hết… Nếu chỉ có thế thì chúng ta có thể chấm dứt ở đây. Tuy nhiên câu chuyện của anh còn nhiều điều ly kỳ và phần kế tiếp mới chính là phần độc đáo, có một không hai trong cuộc đời của người tù nhóm 520 Xuyên Mộc có tên Phạm Văn Thức này. Mời quý vị theo dõi tiếp…
******
Năm 1990 khi chương trình định cư nhân đạo HO của chính phủ Mỹ đưa ra, Phạm Văn Thức lúc đó đang ngày ngày chở nước mắm bỏ mối ở vùng kinh tế mới Cây Gáo, Trảng Bom nên hoàn toàn không hay biết gì cả. Đến khi một người bạn thân của anh thời còn học trung học là Nguyễn Anh Tuấn (hiện đang định cư tại Lafayette, Louisiana) nhắn tin lên báo cho anh biết về chương trình này… Nguyễn Anh Tuấn cũng cho biết là mình đã nộp đơn xong và đang chờ phái đoàn Mỹ phỏng vấn. Anh bạn này thúc dục Phạm Văn Thức nên lo thủ tục cần thiết và nộp đơn sớm để được phỏng vấn sớm…
Tuy nhiên sau khi xem kỹ điều kiện thì Phạm Văn Thức không khỏi thất vọng, vì điều kiện hợp lệ tiên quyết để được nhận đơn phỏng vấn cho những cựu quân nhân, cán chính thuộc QLVNCH là phải chứng minh được mình đã từng bị tù cải tạo trên 3 năm. Oái ăm thay trường hợp Phạm Văn Thức hiện nay lại không có giấy tờ gì chứng minh được điều này, mặc dù anh đã từng ở tù hơn 5 năm và qua mấy trại khác nhau trước khi trốn thoát khỏi trại Xuyên Mộc! Ngoài ra tên và giấy tờ của anh hiện này đang xài là tên giả! Anh không còn giấy tờ gì chứng minh được tên thật của mình.
Tuy thất vọng nhưng anh cũng cố điền đơn cầu may và khai thật hết tất cả mọi việc trong phần khai lý lịch….Kết quả đơn của anh đưa vào không được chấp nhận vì thiếu giấy tờ hợp lệ: Giấy ra trại chứng minh đã ở tù cải tạo trên 3 năm! Nhìn bạn bè và người quen lần lượt được nhận đơn và chờ gọi tên phỏng vấn làm anh càng nôn nóng và tuyệt vọng hơn. Đây là cơ hội cuối cùng ngoài ra không còn cơ hội nào khác có thể cứu vớt anh và gia đình thoát ra khỏi chế độ cộng sản hiện tại cả! Anh nản chí đến độ không còn thiết gì đến làm ăn nữa. Mọi việc nhà đều giao phó cho vợ con lo, còn anh thì cứ đi lên Saigon nghe ngóng tin tức, hy vọng có một cách nào khác để được phái đoàn Mỹ phỏng vấn. Người ta bảo anh về trại cũ xin giấy chứng nhận, nhưng đối với những người được thả về mà bị mất giấy ra trại thì còn làm cách này được. Còn trường hợp trốn trại như anh thì ai mà chứng nhận cho. Vả lại trở về trại cũ thì chẳng khác nào mang thân vào miệng cọp, nguy hiểm quá…
Sau nhiều tháng đi lại, tốn kém đủ thứ mà không được gì cả. Phạm Văn Thức buồn rầu lắm và càng đau lòng hơn khi nhìn thấy vợ con sống lam lũ ở khu kinh tế mới. Nhận thấy mình cũng đã từng ở tù cải tạo 5 năm, chịu biết bao nhiêu đắng cay cực khổ. Chỉ vì bất mãn chế độ đối xử hà khắc của bọn công an trại… và vì muốn sống Tự Do nên anh mới phải trốn trại. Để rồi hậu quả bây giờ không có gì chứng minh được là anh đã ở tù đủ thời hạn yêu cầu để được cứu xét thì đau quá!! Không lẽ vợ con anh phải suốt đời chịu sống lây lất ở khu kinh tế mới Cây Gáo này hoài sao? Rõ ràng anh đã liên lụy đến gia đình, nếu không thì vợ con anh chắc cũng được đi định cư ở Mỹ như những gia đình sĩ quan khác…Càng nghĩ Phạm Văn Thức càng đau lòng thêm. Sau nhiều đêm trằn trọc không ngủ được, anh quyết định trở lại trại cũ Xuyên Mộc trình diện và xin được ở tù lại. Hy vọng sau khi hết hạn sẽ được thả về với một giấy chứng nhận ra trại. Vì tương lai của gia đình vợ con, vì khát vọng được sống trong một xứ Tự Do, thoát khỏi chế độ kềm kẹp của chế độ cộng sản hiện tại… anh đành đi nước bài liều này, chấp nhận hết mọi hậu quả. Anh biết rằng đi nộp mạng như thế, có thể họ sẽ bắt giữ anh lại nhốt triền miên không có ngày ra, có thể bị gông cùm đánh đập và thậm chí có thể mất cả mạng nữa cũng không biết chừng… Tuy nhiên thà là liều như vậy còn hy vọng có được một tương lai sáng sủa cho gia đình, còn hơn là cứ sống lây lất mãi ở khu kinh tế mới Cây Gáo này suốt đời! Anh tự an ủi miễn còn sống thì họ nhốt mãi cũng phải có ngày ra. Lúc đó anh sẽ hợp lệ nộp đơn xin cứu xét đi định cư theo diện HO. Viễn ảnh của một ngày mai tươi sáng nơi xứ Tự Do làm anh quyết tâm hơn!
Tuy đã có quyết tâm như vậy nhưng Phạm Văn Thức không dám bàn với vợ con về ý định của mình vì sợ bị ngăn cản. Anh âm thầm tìm đến một người bạn tù trong nhóm 520 Xuyên Mộc trước đây là anh Nguyễn Văn Vượng (Hiện đang định cư tại California), nói ý định của mình cho Nguyễn Văn Vượng biết và nhờ anh bạn này chở dùm anh lên trại Xuyên Mộc, sau đó trở về báo cho gia đình vợ con anh biết sau.
Nguyễn Văn Vượng cũng kinh ngạc trước quyết định của bạn, lên tiếng khuyên cản anh nên suy nghĩ lại vì ý định này quả thật quá nguy hiểm. Nhưng ý Phạm Văn Thức đã cương quyết như vậy rồi nên người bạn này cũng đành chịu. Sau khi bàn bạc cặn kẻ và chuẩn bị tinh thần cho mọi tình huống xấu nhất có thể xảy ra, hai người bạn chở nhau trên một chiếc Honda đi thẳng lên Xuyên Mộc. Lúc đó là năm 1991, nếu tính từ khi trốn trại ra năm 1980 thì anh Phạm Văn Thức đã ở bên ngoài đúng 11 năm rồi.
Trại Xuyên Mộc lúc bấy giờ hầu như đã thay đổi hết. Nơi đây không còn nhốt tù cải tạo sĩ quan chế độ cũ nữa, mà chỉ còn là trại tù dành cho tội phạm hình sự mà thôi. Kể cả ban chỉ huy trại, công an quản giáo và các vệ binh cũ cũng không còn ở đó nữa. Mấy cán bộ công an mới không biết gì về vấn đề tù sĩ quan cải tạo trước đây. Khi Phạm Văn Thức cho biết mình đã trốn khỏi trại này 11 năm trước, bây giờ vào trình diện để xin được ở tù trở lại, thì tất cả cán bộ công an trại ngẩn người ra nhìn anh như nhìn một người điên. Họ ngạc nhiên cũng phải, vì trước đây đâu bao giờ có trường hợp nào xảy ra như thế này? Họ hỏi anh:
– “Lý do gì anh đã trốn thoát ra ở bên ngoài 11 năm rồi, bây giờ mới trở vào tự thú?”
Phạm Văn Thức trả lời:
– “Đời sống bên ngoài càng ngày càng khó khăn đối với một người sống không giấy tờ như anh. Vả lại anh còn có vợ con nên càng gặp khó khăn nhiều hơn. Cuối cùng chịu đựng hết nỗi nên anh quyết định chọn con đường tự thú để hy vọng sau khi ở tù xong, ít nhất sẽ được trại cấp một giấy chứng nhận và sau khi về cuộc sống sẽ dễ dàng hơn, không phải trốn chui trốn nhủi nữa…”
Họ còn hỏi anh nhiều điều nữa và bắt anh làm bản tự khai. Anh cứ một mực khai sau khi trốn trại về sống vất vưởng ở nhiều nơi khác nhau không giấy tờ gì cả, nên không ai chứng thật được lời khai của anh.
Theo lời anh Phạm Văn Thức kể lại thì ban chỉ huy trại Xuyên Mộc lúc bấy giờ không quyết định được trường hợp của anh nên giữ anh ở lại đó và điện về Bộ Nội Vụ xin chỉ thị. Một lúc lâu sau, bọn công an trại quay lại nói ngay với anh:
– “Anh mà có tinh thần tự giác trở lại thành thật khai báo cái gì? Nói thật đi. Mục đích của anh đến đây chỉ vì muốn xin giấy chứng nhận để được cứu xét đi Mỹ thôi. Có phải thế không??”
Cả bọn xúm lại hỏi anh câu này xong cứ chỉ trỏ cười hoài. Anh cũng cười giả lả trả lời cho qua chuyện với bọn chúng. Anh đoán sau khi điện về Bộ Nội Vụ xin chỉ thị, chắc có lẽ trên Bộ Nội Vụ có nói gì đó về chương trình HO, nên đám công an mới biết được mục đích của anh, chứ trước đó chúng còn ngơ ngác không biết gì cả.
Cuối cùng họ giam Phạm Văn Thức ở chung một buồng với đám tù hình sự. Ban ngày anh không phải làm việc gì hết, ban đêm công an giao cho anh nhiệm vụ “trưởng buồng”, điểm danh và trông chừng tù hình sự tìm cách trốn. Anh cười thầm trong bụng:
– “Mình là thằng trốn trại ngày trước, bây giờ lại làm nhiệm vụ canh chừng tù trốn trại. Đúng là khôi hài thật!”.
Làm “trưởng buồng” được mấy hôm cứ ở mãi một chỗ tù túng quá, anh xin được ra ngoài lao động. Họ cho anh ra trông coi mấy mẫu điều mới trồng, hàng ngày theo dõi xem có bị hư hại gì không?? Công việc cũng không có gì nặng nhọc và điều đáng nói là không ai cai quản anh cả. Anh muốn đi đâu thì đi, muốn làm gì thì làm miễn ở trong phạm vi đó thôi. Trong khoảng thời gian ở tù lần này, gia đình vợ con anh được phép lên thăm viếng đều đặn thoải mái lắm. Nói chung họ đối với anh lần này rất dễ dãi, ngoài sự tưởng tượng của anh. Cứ như thế Phạm Văn Thức ở gần đúng một năm thì một hôm được gọi về buồng giam nhốt lại, không cho ra ngoài lao động nữa. Ở trong buồng giam khoảng 3 tuần thì anh được gọi lên thả về. Họ cấp cho anh một giấy ra trại chứng nhận từ ngày đầu tiên anh trình diện tập trung cải tạo 28 tháng 6 năm 1975 đến khi thả vào tháng 6 năm 1992 (không nhớ rõ ngày). Như vậy là họ đã chứng nhận anh ở tù liên tục 17 năm không gián đoạn, xem như anh chưa hề trốn trại ra ngoài bao giờ. Anh cũng ngạc nhiên về điều này tuy nhiên cũng chẳng thắc mắc gì cả vì đã đạt được kết quả mong muốn. Phạm Văn Thức cầm tờ giấy ra trại với tên thật của mình trên đó mà lòng vui mừng vô hạn. Lần này thì chắc chắn anh đủ điều kiện nộp đơn theo diện HO rồi. Tuy nhiên anh không ngờ rằng việc chứng nhận anh đã ở tù liên tục 17 năm vô tình lại đưa anh vào một rắc rối khác!
*****
Sau khi về nhà không bao lâu, Phạm Văn Thức xúc tiến ngay việc nộp đơn xin đi theo chương trình HO. Lần này đơn của anh được nhận ngay. Anh vui mừng trở về nhà yên tâm chờ đợi. Cuối năm 1994 anh nhận được giấy mời đi phỏng vấn. Khỏi nói cũng biết là anh và gia đình vui mừng biết chừng nào. Đúng ngày hẹn, hai vợ chồng anh lên Saigon gặp phái đoàn Mỹ. Sau đây là tóm tắt những điểm trong buổi phỏng vấn ngắn ngủi với phái đoàn Mỹ:
Theo đúng thủ tuc, Họ yêu cầu anh giơ tay tuyên thệ những lời khai trong cuộc phỏng vấn là hoàn toàn sự thật. Nếu gian dối thì sẽ chịu mọi trách nhiệm… và hồ sơ sẽ không được cứu xét nữa. Sau đó họ hỏi ngay anh:
– “Xin ông cho biết tên thật của ông là gì? Gia cảnh của ông hiện nay như thế nào?”
Anh trả lời:
– “Tôi tên Phạm Văn Thức. Tôi có vợ và 3 con.”
– “Ngoài tên này ra, ông còn sử dụng tên nào khác nữa không?”
– “Có! Sau khi trốn trại về, để tránh tai mắt địa phương và dễ dàng trong việc đi lại, tôi có xài tên giả. Tôi đã có khai chuyện này trong phần tờ khai lý lịch trong hồ sơ…”
– “Hiện ông có đang sống cùng với vợ con của ông không? và đang làm nghề gì?”
– “Vâng, tôi đang sống cùng với vợ và 3 con của tôi ở Cây Gáo, Trảng Bom. Chúng tôi hiện đang sống bằng nghề bán nước mắm”
– “Trước năm 1975, cấp bậc chức vụ của ông là gì? Đơn vị ở đâu?”
– “Trước 1975 cấp bậc của tôi là Thiếu úy. Chức vụ Phân Chi Khu Trưởng, đơn vị ở tại tỉnh Long An”
Người Mỹ trong phái đoàn phỏng vấn nhìn vào hồ sơ của anh một lúc rồi hỏi:
– “Cấp bậc của ông là Thiếu Úy, chức vụ Phân Chi Khu Trưởng, nhưng tại sao ông đi học tập cải tạo đến 17 năm? Ngay cả cấp Tướng trước đây đi học tập cải tạo cũng không lâu đến như vậy? Có gì đặc biệt trong việc ông đi cải tạo trước đây không?”
– “Tôi đã trình bày rất rõ trong phần khai lý lịch là sự thật thời gian ở tù cải tạo của tôi hai lần tổng cộng 6 năm, 3 ngày: Lần thứ nhất hơn 5 năm, sau đó tôi trốn trại ra ngoài ở hết 11 năm. Lần thứ hai họ bắt giữ tôi lại khoảng gần đúng 1 năm ”
– “Nhưng tại sao trong giấy ra trại ghi rõ thời gian tính từ ngày ông đi trình diện là 28 tháng 6 năm 1975 cho đến ngày ông được thả ra năm 1992. Như vậy không phải là tổng cộng thời gian đã ở trong trại là 17 năm hay sao?”
Mgười Mỹ đen phỏng vấn Phạm Văn Thức nói thẳng với anh:
– “Mong ông phải khai rõ hơn về chuyện này vì chúng tôi nhận thấy có điều gì đó không ổn trong tờ giấy ra trại này và lời khai của ông?? Có phải giấy ra trại này giả không?”
Đến đây thì Phạm Văn Thức cảm thấy bất an lắm:
– “Giấy ra trại đó dĩ nhiên là thật! Tôi cũng không biết tại sao họ lại chứng nhận trong giấy ra trại như vậy? Lời khai của tôi hoàn toàn là sự thật. Ông có thể liên lạc kiểm chứng với họ”
Người Mỹ đen đóng tập hồ sơ của Phạm Văn Thức lại một cách lạnh lùng:
– “Thời gian trốn trại ở bên ngoài 11 năm của ông nếu là sự thật thì tại sao họ lại không tính đến? Rất tiếc chúng tôi không có nhiệm vụ tìm hiểu tại sao cho vấn đề mâu thuẩn này của ông?”
Rồi không đợi Phạm Văn Thức có dịp trình bày thêm, người Mỹ này tiếp luôn:
– “Rất tiếc chúng tôi từ chối cứu xét hồ sơ này của ông vì những lời khai và giấy tờ của ông đã không chứng minh được rõ ràng và ăn khớp với nhau. Bây giờ xin mời ông bà về và chúc may mắn.”
Bước ra khỏi phòng phỏng vấn, phải nói là tinh thần Phạm Văn Thức xuống thê thảm. Mọi hy vọng tan biến hết! Rốt cuộc sau bao nhiêu cố gắng, chịu đựng, liều lĩnh đi trình diện xin ở tù lại lần thứ hai với hy vọng có được giấy ra trại để được phái đoàn Mỹ nhận đơn cứu xét… để rồi kết quả cũng chính tờ giấy ra trại này hại anh… Càng suy nghĩ Phạm Văn Thức càng thấy chán nãn! Đám đông đang đứng tụ tập ở phía trước cửa chờ đến phiên mình được gọi vào phỏng vấn, thấy vợ chồng Pham Văn Thức buồn rầu đi ra thì xúm lại hỏi thăm. Sau khi biết chuyện hồ sơ của anh bị phái đoàn Mỹ từ chối vì không chứng minh được rõ ràng thời gian trốn trại và thời gian anh đã ở tù trước đây…., một người trong đám đông góp ý khuyên anh nên tìm lại những bạn tù biết về chuyện trốn trại của anh và nhờ họ làm đơn xác nhận dùm rồi gởi qua toà đại sứ Hoa Kỳ ở Bankok xin tái cứu xét lại hồ sơ… chuyện này cũng chỉ là hy vọng thôi, tuy nhiên còn nước thì còn tát…
Phạm Văn Thức cũng muốn nghe theo lời khuyên đó lắm, nhưng bây giờ biết đi đâu mà tìm gặp bạn tù cũ nhờ giúp xác nhận dùm việc anh đã trốn trại…? Thời điểm lúc đó là cuối năm 1994 các bạn tù của anh đã đi định cư theo những diện HO trước đó hết rồi!! Số của anh đúng là xui tận mạng! Chẳng lẽ Thượng Đế cố tình thử thách sự chịu đựng của gia đình anh hay sao? Bao nhiêu sức lực ý chí của anh gần như kiệt quệ hết. Vợ chồng anh chỉ còn biết đêm ngày cầu nguyện xin Thượng Đế, Ơn Trên ban phép màu ra tay cứu giúp mà thôi!!
Có lẽ lời cầu nguyện đầy thành tâm của vợ chồng Phạm Văn Thức cuối cùng đã thấu đến tai Thượng Đế và khiến Ngài cảm động nên đã lóe lên cho anh một tia hy vọng mới: Trong khi dò tìm cầu may tin tức những người bạn tù cũ, thì anh nghe nói có một người tên là Đào Văn Long, trước đây cũng là là tù cải tạo ở trại Xuyên Mộc, lẽ ra đã đi định cư theo diện HO lâu rồi, nhưng vì anh này bị bệnh phổi nên phải ở lại uống thuốc chữa trị khi nào hết mới được đi. Tuy thế không ai biết rõ anh Đào Văn Long hiện nay đang ở đâu?
Nhận được tin này Phạm Văn Thức mừng quá. Tưởng ai chứ Đào Văn Long thì anh rất thân, từ lúc hai người còn ở trại Suối Máu. Anh còn nhớ lúc chuyển từ trại Suối Máu về Xuyên Mộc, anh và Đào Văn Long ngồi kế bên nhau trên cùng một chiếc xe. Khi đi ngang qua Bà Rịa Vũng Tàu, anh nhớ Đào Văn Long có kể cho anh nghe rằng nhà ba anh ta ở Bà Rịa, Vũng Tàu từ nhiều đời trước. Gần như những ai ở lâu vùng này đều biết đến ba anh Đào Văn Long cả. Cứ đến đó hỏi tên ông Ba Quạ là sẽ có người chỉ đến ngay. Lúc bấy giờ ngồi trên xe, Đào Văn Long kể cho anh nghe chuyện này cũng chỉ là vô tình khi xe đi ngang qua vùng này vậy thôi chứ không có ý gì khác. Tuy nhìên vì tên thường gọi của ba anh Đào Văn Long là “Ba Quạ” khá đặc biệt nên khiến Phạm Văn Thức còn nhớ tới bây giờ.
Thế là Phạm Văn Thức lên đường đi Bà Rịa, Vũng Tàu hỏi thăm nhà ông Ba Quạ ngay, hy vọng từ đó sẽ biết được tin tức người bạn Đào Văn Long. Sau khi đến nơi hỏi thăm nhiều người, cuối cùng anh được một anh lái xe Honda ôm cho biết ông Ba Quạ đã chết lâu rồi. Nghe tin này Phạm Văn Thức chới với, tuy nhiên anh cũng cố hỏi tiếp:
– “Thế anh có biết con cái của ông Ba Quạ còn những ai và ở đâu không?”
Anh tài xế xe ôm trả lời:
– “Ông ta có người con gái đang mở quán bán hủ tiếu gần đây thôi.”
Mừng quá, thế là sẵn xe Honda ôm, Phạm Văn Thức nhảy lên nhờ chở ngay tới chỗ cô con gái ông Ba Quạ. Té ra đây chính là cô em của Đào Văn Long, người bạn tù mà anh muốn tìm. Nhờ cô này chỉ dẫn, sau đó anh đã tìm gặp Đào Văn Long. Cũng may là anh này vẫn còn đang uống thuốc điều trị bệnh phổi nên Phạm Văn Thức mới có cơ hội gặp được, nếu không thì chắc anh ta cũng đã đi Mỹ lâu rồi. Sau khi biết rõ câu chuyện, Đào Văn Long đưa cho Phạm Văn Thức địa chỉ của một người bạn tù khác cũng rất thân với cả hai người từ lúc còn ở trại Suối Máu. Đó là anh Nguyễn Đức Dũng, biệt danh Dũng “Sún”, đã đi định cư diện HO và hiện đang sống ở Washington DC. Đào Văn Long khuyên anh nên gởi thơ liên lạc và nói rõ ý định của mình cho Dũng “Sún” biết. Chắc chắc Dũng “Sún” sẽ liên lạc thêm được nhiều anh em khác làm đơn xác nhận cho anh để bổ túc hồ sơ.
Lập tức Phạm Văn Thức gởi ngay một lá thơ qua Mỹ cho Nguyễn Đức Dũng kể rõ mọi chuyện và nhờ anh này giúp đở. Đến đây thì hình như những đại nạn, rủi ro của gia đình anh đã thực sự chấm dứt. Mọi chuyện sau đó xảy ra thật nhịp nhàng, ăn khớp với nhau một cách tuyệt diệu. Sau khi nhận được thơ của bạn, Nguyễn Đức Dũng đã liên lạc được 8 bạn tù cải tạo khác cũng ở cùng trại Xuyên Mộc với nhau trước đây, cùng làm ngay một tờ đơn xác nhận rằng có quen biết với Phạm Văn Thức từ lúc còn ở trại cũ Suối Máu và cùng chuyển sang trại Xuyên Mộc vào năm 1979… tất cả khai biết rõ chuyện trốn trại năm 1980 của anh như thế nào… sau đó mang đi thị thực chữ ký và gởi bản chính qua toà đại sứ Hoa Kỳ ở Bankok, Thailand và một bản sao về cho anh. Năm 1997, phái đoàn Mỹ mở lại hồ sơ Pham Văn Thức, gởi giấy mời vợ chồng anh trở lại tái phỏng vấn và tuyên bố chấp nhận gia đình anh được định cư ở Mỹ theo diện nhận đạo HO 40. Gia đình anh lên đường đi định cư không bao lâu sau đó, chấm dứt một quảng đời dài lận đận tưởng như không bao giờ thoát ra được. Hiện anh Phạm Văn Thức đang sống an lành cùng gia đình tại thành phố Philadelphia, tiểu bang Pennsylvania, Hoa kỳ.
Câu chuyện của anh Phạm Văn Thức, một người tù cải tạo trong nhóm 520 Xuyên Mộc kể trên, là một điển hình đáng cho chúng ta suy gẩm về ý chí kiên cường, quyết không chấp nhận sống dưới sự kềm kẹp của chế độ cộng sản… cũng như tinh thần nhẫn nại, sự chịu đựng bền bỉ, sẵn sàng hy sinh và bất chấp mọi hậu quả của anh để đánh đổi lấy cuộc sống TỰ DO mà anh hằng khao khát.
Vĩnh Khanh
Phố Đá Tròn, những ngày cuối năm 2007
Friday, April 24, 2015
NHAN HỮU HẬU * SAIGON TRONG CƠN HẤP HỐI
MỘT NHÂN CHỨNG SỐNG LÚC SAIGON TRONG CƠN HẤP HỐI 30.04.1975
Cận vệ ông Vũ Văn Mẫu : Nhan Hữu Hậu
(Thứ Ba, ngày 17 tháng 4 năm 2012)
Điều đáng lưu ý là nhóm dân biểu đối lập trước đây thường tự xưng là thành phần thứ ba do Dân Biểu Lý Quí Chung đại diện. Ông Chung đã đến trước tên cán binh Cộng Sản tự giới thiệu mình là thành phần thứ ba trong chánh phủ Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc, nhưng tên cán binh hét lên: “Không có thành phần nào hết, ngồi lại kia”.
Vì chưa được tiếp xúc với đại diện phía bên kia, nên Tổng Thống Dương Văn Minh và chúng tôi vẫn ngồi trong phòng khách dưới sự canh gác chặt chẽ các cán binh Cộng Sản phía bên ngoài. Trời đã xế chiều, bỗng có nhiều tiếng súng nổ từ trong Dinh Độc Lập, chúng tôi được di chuyển xuống tầng hầm, nơi có đặt máy truyền tin để sử dụng khi có biến cố xảy ra, cạnh đấy là phòng dùng làm xạ trường để các cận vệ thực tập tác xạ và một nhà kho dự trữ lương thực phòng khi có biến động. Chúng tôi được đưa lên phòng khách trở lại trên lầu 2 và một cán binh xoa tay giải thích: “Nhân dân vui quá nên đốt pháo ăn mừng?”.
2 HÌNH ẢNH KHI TÀN CUỘC CHIẾN
*Chiếc nón sắt bên bờ lau sậy !
*Bơ vơ mong chờ tuyệt vọng !
Cận vệ ông Vũ Văn Mẫu : Nhan Hữu Hậu
(Thứ Ba, ngày 17 tháng 4 năm 2012)
Đã 37 năm qua, hình ảnh Saigon trong cơn hấp hối vẫn còn rõ nét trong ký ức tôi. Giờ đây tôi muốn ghi lại những điều tôi biết, tôi thấy và tôi đã làm chỉ để đóng góp một vài sự kiện trong những giờ phút sau cùng của chế độ dưới cái nhìn trong cương vị một sĩ quan cận vệ của Thủ Tướng Chánh Phủ VNCH.
Chiều ngày 28 tháng 4 năm 1975, tại Dinh Độc Lập, một buổi lễ bàn giao trong đó Tổng Thống Trần Văn Hương, người kế nhiệm Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vừa từ nhiệm, trao quyền cho Đại Tướng Dương Văn Minh, người duy nhất mà Hà Nội bằng lòng thương thuyết. Chủ tịch Thượng Viện được mời làm Phó Tổng Thống và Thượng Nghị Sĩ Vũ Văn Mẫu được mời thành lập nội các. Buổi lễ trình diện tân nội các được dự định vào sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tuy nhiên, có những biến chuyển khiến chuyện này đã không thể xảy ra.
Sáng sớm ngày 30 tháng 4 năm 1975, tại Phủ Thủ Tướng tọa lạc tại số 7 đường Thống Nhất, diễn ra một buổi họp gồm có Nghị Sĩ Vũ Văn Mẫu, Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hảo, cùng một số nghị sĩ, dân biểu, các nhân sĩ có chân trong tân nội các họp với cựu tướng Pháp Vanuxem, đặc phái viên của Tổng Thống nước Cộng Hòa Pháp. Phía bên ngoài phòng khách, tôi còn nhận thấy sư hiện diện đặc biệt của cựu Thủ Tướng chánh phủ lâm thời Nguyễn Ngọc Thơ (tháng 11/1963), Thiếu Tướng Đoàn Văn Quảng, cựu Tư Lệnh LLĐB/VNCH và một số người tháp tùng ông đang trông chờ kết quả cuộc họp bên trong với tâm trạng lo âu, buồn bã. Độ một giờ sau, cựu tướng Vanuxem ra về để lại trên gương mặt mọi người sự thất vọng và lo sợ.
Sau đó Sở Truyền Tin Phủ Thủ Tướng được lệnh lên phòng của Thủ Tướng Mẫu để thu băng một bản hiệu triệu của Tổng Thống Dương Văn Minh. Lời kêu gọi của Tổng Thống Dương Văn Minh được một phóng viên và một kỹ thuật viên âm thanh của Đài Phát Thanh Quốc Gia đưa về đài và cho phát vào lúc 10 giờ sáng và chỉ phát được một lần. Sau đó khi Tổng Thống Dương Văn Minh được phía chiến thắng giải giao về Đài Phát Thanh Quốc Gia thì ông lại bị đẩy vào phòng vi âm thu cuốn băng thứ hai. Cuốn băng này được phát nhiều lần, trong đó Tổng Thống Dương Văn Minh phải kêu gọi lực lượng còn lại của VNCH buông súng đầu hàng vô điều kiện.
Sau khi Tổng Thống Dương Văn Minh thu băng tại phòng làm việc của Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu xong, ông cùng các vị trong nội các chưa được tấn phong chuẩn bị qua Dinh Độc Lập, có thể là sẵn sàng để chuyển giao quyền hành? Tại phòng khách trên lầu 2 của Dinh Độc Lập, tôi thấy có giáo sư Bùi Tường Huân, các nghị sĩ Vũ Văn Mẫu (Thủ Tướng), Thái Lăng Nghiêm (Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng), Dân Biểu Lý Quí Chung (Bộ Trưởng Thông Tin) và một số người khác. Trong khi ấy, tại phòng làm việc của Tổng Thống Dương Văn Minh có mặt chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh quyền Tổng Tham Mưu Trưởng QL/VNCH và tôi (Nhan Hữu Hậu). Đại tá Vũ Quang Chiêm Chánh Võ Phòng Tổng Thống, Đại tá Lê Thuần Trí Chánh Sở Quân Vụ, Trung tá Võ Ngọc Lân Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn An Ninh Danh Dự thì ngồi trong phòng làm việc của Chánh Văn Phòng Phủ Tổng Thống.
Đại Tướng Minh làm việc một mình trong phòng và không có Chánh Văn Phòng Trương Minh Đẩu cũng như Sĩ Quan Tùy Viên Hoa Hải Đường thường nhật luôn làm việc bên cạnh ông. Thấy vậy, tôi bước đến nghiêm chỉnh và trình:
- Thưa Tổng Thống cần gọi đâu, xin Tổng Thống chỉ thị.
-Em gọi cho qua Thượng Tọa Trí Quang.
Tiếp nhận tờ giấy rời với các số điện thoại chi chít trên tay Tổng Thống Dương văn Minh, tôi gọi Thượng Tọa. Chuông reo một lúc nhưng đầu giây bên kia không có người trả lời. Bên cạnh, một máy điện thoại khác reo, tôi nhắc ống nghe. Từ đầu giây bên kia có giọng nói:
- Tôi là Thiếu Tá Phạm Châu Tài, chỉ huy trưởng lực lượng phòng thủ còn lại tại Tổng Tham Mưu, cho tôi nói chuyện với Đại Tướng Minh.
Tôi bảo Thiếu Tá Tài chờ tôi trình Tổng Thống. Áp ống liên hợp vào tai, Tổng Thống Dương Văn Minh nói: “Qua nghe đây em”.
-Thưa Đại Tướng, tôi còn quân mà sao Đại Tướng đầu hàng?
-Đã trễ rồi em. Tôi muốn tránh cho dân khỏi chết chóc và Saigon khỏi thành bình địa. Mình phải cứu dân trước đã !
Nghe đến đây, tôi bước ra ngoài trong lúc Tổng Thống Dương Văn Minh đang còn tranh luận với Thiếu Tá Tài vì sao mà ông phải trao chính quyền cho Cộng Sản.
Bước dọc hành lang trên lầu nhìn ra tiền đình Dinh Độc Lập, nhìn thấy hai cánh cổng sắt phía trước đã rộng mở, vũ khí đủ loại và chiến xa của lực lượng phòng thủ Dinh đã được chất thành đống trước bồn nước theo lệnh của vị Tổng Tư Lệnh sau cùng của VNCH. Độ một giờ sau, chiếc GMC chở đầy quân trong các bộ quân phục ngụy trang lẫn lộn, bên thành xe có treo một miếng vải trắng được cột trên cao chạy vào đậu bên trong cánh phải của Dinh, trong tay họ vẫn còn vũ khí cá nhân. Họ chỉa súng vào khoảng không vừa bắn vừa la khóc trong uất hận, rồi xuống xe cởi bỏ áo trận, vất súng ngổn ngang sau đó tự động tan hàng.
Khoảng 12 giờ trưa ngày 30 tháng 4, xe tăng Cộng Sản tiến vào Dinh Độc Lập mà không gặp một sức kháng cự nào, vì cổng chánh đã được mở rộng từ trước. (Chú thích của tác giả: Sau giờ phút này, Cộng Sản đã lợi dụng đêm tối, ngụy tạo cho đóng 2 cổng này lại, ủi sập rồi tuyên truyền đây là hang ổ cuối cùng của ngụy quyền đã bị thanh toán).
Một cảnh giả tạo xe tăng húc đổ cổng Dinh Độc Lập
của CSVN để tuyên truyền
của CSVN để tuyên truyền
Kể từ lúc này, tôi không thấy 2 vị Đại Tá Vũ Quang Chiêm và Lê Thuần Trí ở bên cạnh Đại Tướng Minh nữa.
Từ hành lang lầu 2, phía ngoài phòng khách chỉ còn lại Tổng Thống Dương Văn Minh và Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh (vẫn mặc quân phục). Trung tá Võ Ngọc Lân và tôi đứng chờ đợi chuyện kế tiếp diễn ra. Một cán binh mặc áo thun trắng chạy lên lầu hỏi trỏng: “Thằng Minh đâu rồi?”. Hắn hỏi như vậy 3 lần, nhưng Tổng Thống Minh chỉ chắp tay sau đít đi tới đi lui mà không trả lời. Tôi chỉ vào ông và nói với hắn: “Tổng Thống Minh đây nè”. Tên cán binh ngó qua xong rồi chỉ tướng Nguyễn Hữu Hạnh bảo cởi quấn phục ra. Tôi lấy chiếc chemise của tôi trao cho ông mặc tạm.
Như đã nói ở trên, chúng tôi và một phần nội các chưa tấn phong bị gom lại ngồi trong phòng khách có vệ binh canh giữ bên ngoài, ngoại trừ Phó Tổng Thống Nguyễn Văn Huyền đã về nhà bằng phương tiện riêng trước khi xe tăng Cộng Sản tiến vào Dinh. Phần còn lại của nội các và quân, cán, chính phục vụ trong Dinh Độc Lập lúc đó bị giữ ở đâu đó tôi không được rõ, vì không nằm trong tầm mắt của tôi.Điều đáng lưu ý là nhóm dân biểu đối lập trước đây thường tự xưng là thành phần thứ ba do Dân Biểu Lý Quí Chung đại diện. Ông Chung đã đến trước tên cán binh Cộng Sản tự giới thiệu mình là thành phần thứ ba trong chánh phủ Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc, nhưng tên cán binh hét lên: “Không có thành phần nào hết, ngồi lại kia”.
Vì chưa được tiếp xúc với đại diện phía bên kia, nên Tổng Thống Dương Văn Minh và chúng tôi vẫn ngồi trong phòng khách dưới sự canh gác chặt chẽ các cán binh Cộng Sản phía bên ngoài. Trời đã xế chiều, bỗng có nhiều tiếng súng nổ từ trong Dinh Độc Lập, chúng tôi được di chuyển xuống tầng hầm, nơi có đặt máy truyền tin để sử dụng khi có biến cố xảy ra, cạnh đấy là phòng dùng làm xạ trường để các cận vệ thực tập tác xạ và một nhà kho dự trữ lương thực phòng khi có biến động. Chúng tôi được đưa lên phòng khách trở lại trên lầu 2 và một cán binh xoa tay giải thích: “Nhân dân vui quá nên đốt pháo ăn mừng?”.
Sau đó, một phái đoàn Cộng Sản khoảng sáu bẩy người ăn mặc thường phục và quân phục lẫn lộn không đeo quân hàm tiến vào phòng khách. Một người mặc thường phục tự giới thiệu với Tổng Thống Minh là kỹ sư Tô Văn Ký, đại diện Thành Ủy đến tiếp xúc và nói vài lời trấn an. Trước khi rời khỏi phòng, ông ta trao cho Đại Tướng Minh hai gói thuốc lá Điện Biên và hai bánh lương khô Trung Quốc. Ông nhận và giao lại cho tôi giữ. Lúc này sự đi lại của chúng tôi bị kiểm soát rất chặt chẽ, ra vào phải có sự chấp thuận của các cán binh canh gác bên ngoài. Đến tối, chúng tôi được phát mỗi người một ổ bánh mì ngọt ăn với đường thẻ. Riêng Đại Tướng Minh được người nhà gởi vào một nồi cơm chiên và một trái dưa hấu. Ông chia sẻ và yêu cầu mọi người ăn chung.
Trong suốt ngày 1 tháng 5 từ sáng đến tối, không có một cuộc tiếp xúc nào hoặc thăm hỏi của phía bên kia, thỉnh thoảng có một nhóm người đi qua ngó vào phòng khách rồi lại đi.
Ngày 2 tháng 5 đến gần trưa, một phái đoàn báo chí Miền Bắc trong đó có cả các hãng truyền thanh truyền hình thuộc khối Cộng Sản Đông Âu vào trong Dinh và họ được nói chuyện với Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hảo đầu tiên. Các phóng viên bấm máy lia lịa, nhưng đến khị họ hỏi chuyện thì ông khoát tay: “Mấy anh tắt máy thu băng đi, đây chỉ là một cuộc nói chuyện bình thường chứ không phải là cuộc phỏng vấn. Hòa hợp hòa giải gì các anh. Hòa hợp hòa giải gì mà hai ngày nay không cho người ta súc miệng rửa mặt?”.
Sau đó báo chí truyền thông (tất nhiên là của nhà ước Cộng Sản) bắt đầu dàn cảnh quay phim chụp hình. Chúng tôi được đi rửa mặt chải đầu và sửa soạn quần áo cho ngay ngắn, rồi ngồi vào ghế chụp hình quay phim với lệnh mọi người phải tươi cười để họ hoàn thành cuốn phim thời sự !!!
Nhan Hữu Hậu2 HÌNH ẢNH KHI TÀN CUỘC CHIẾN
*Chiếc nón sắt bên bờ lau sậy !
*Bơ vơ mong chờ tuyệt vọng !
NGUYỄN THỊ THANH DƯƠNG * TỪ BẮC VAÒ NAM.
TỪ BẮC VAÒ NAM.
Nguyễn Thị Thanh Dương
Sau ngày 30 tháng Tư cuộc sống của cả miền nam Việt Nam đã đổi đời, đổi từ sướng sang khổ, đổi từ tự do sang kềm kẹp, đâu đâu cũng là những cuộc sống dè dặt và khó khăn, gia đình chị Bông cũng nằm trong cảnh ấy.
Món tiền của cha mẹ chị dành dụm gởi trong ngân hàng Việt Nam Thương Tín kể như mất toi, món tiền của vợ chồng chị cũng gởi trong Việt Nam Thương Tín thì chị may mắn hơn, tháng 8 năm 1975 chị sinh thằng con thứ hai, chị đã viết đơn ra ủy ban phường xin xác nhận hoàn cảnh vừa mới sinh con nên ngân hàng Việt Nam Thương Tín lúc này do nhà nước quản lý đã cho chị lãnh 10 ngàn đồng.
Tiền của mình bỗng bị cướp trắng trợn, phải nằm trong diện khó khăn, ma chay, sinh đẻ hay hoạn nạn gì đó mới được nhà nước cứu xét trả lại 10 ngàn đồng cho dù tổng số tiền gởi là bao nhiêu, và rồi số tiền còn lại chết yểu, chết oan ức không bao giờ trở về với chủ.
Vài năm sau khi chị Bông đi thăm chồng tù cải tạo tại trại Z30C rừng lá Hàm Tân Thuận Hải, chị gặp bà vợ ông Nguyễn Văn Mão giám đốc ngân hàng Việt Nam Thương Tín cũng đi thăm chồng, người nổi tiếng đi đến đâu ai cũng biết. Ông giám đốc ngân hàng còn sa cơ thê thảm thế kia thì xá chi món tiền nhỏ nhoi của mình.
Với chế độ mới người ta phải cẩn thận từng lời ăn tiếng nói kẻo bị tù oan. Một thằng bé hàng xóm chị Bông trong lúc chơi đùa với các bạn ngoài đường nó hát nhại câu hát trong bài “Túp lều lý trưởng” là “Từ ngày giải phóng vô đây mình khổ thật nhiều” anh bộ đội đi đường nghe thấy, chẳng biết anh đang đi đâu vậy mà cũng mất thì giờ bắt nó đưa lên uỷ ban phường nhờ giáo dục lại., bố mẹ nó phải làm giấy cam kết dạy dỗ con để bảo lãnh nó về, cũng may nó tuổi vị thành niên, nếu lớn hơn chắc đi tù cải tạo vì tội phản động, xuyên tạc chế độ.
Có hôm chị Bông đi chợ đang mua bó rau muống, bà bán rau người miền Nam thấy hai anh bộ đội xách giỏ đến gần bà đã vồn vã mời chào :
- Mời hai đồng chí mua rau.muống….
Hai anh đã không mua mà khó chịu gắt gỏng:
- Ai đồng chí với bà, ăn nói phải cẩn thận nhé
- Bà đã đi bộ đội đã chiến đấu với chúng tôi ngày nào chưa mà gọi chúng tôi là đồng chí, hả?
Hai anh bộ đội mặc quân phục đội nón cối chân đi dép râu làm từ lốp xe chắc là “anh nuôi” lo việc bếp núc cho đơn vị hay cơ quan tập thể nào đó, hình ảnh các bộ đội mặc quân phục đi chợ, hai ống quần xắn lên khỏi mắt cá chân cho gọn thật khôi hài, thật ngứa mắt trông như người đi cày đi cấy nhưng nhìn mãi thành quen mắt không ai còn ngạc nhiên nữa.. Các anh đi chợ bằng xe đạp thồ, rau cỏ chất đầy, thời ấy bếp ăn tập thể hay tư nhân thì rau luôn là thức ăn chủ yếu.
Bà bán rau xưng hô hai từ “đồng chí” với hai anh bộ đội là bày tỏ sự thân thiết, tưởng lấy lòng họ lại bị họ mắng...Khi hai anh bộ đội đi xa bà bán rau buông câu nói hậm hực:
- Bộ tao ham làm đồng chí với mày sao, tao chỉ muốn bán cho mày mấy bó rau thôi, đừng có chảnh nghe con.…
Người thắng cuộc miền Bắc vui mừng háo hức tràn vào miền Nam đủ mọi hình thức, làm việc, công tác, thăm thân nhân hay đi cho biết miền Nam, ngắm cảnh miền Nam để ăn mừng cho bao công lao của họ đã hi sinh chiến đấu.
Nhưng người dân miền Nam chẳng mấy ai muốn ra thủ đô Hà Nội của bên thắng cuộc cả.
Bố chị Bông cũng không có ý định về thăm quê cũ, ông không lạ gì Việt Cộng, thời buổi sau 1975 tranh tối tranh sáng, trong miền Nam cũng đã có kẻ thời cơ hại người rồi, bố chị đã bị công an đến nhà “mời” lên ủy ban phường “làm việc”, cả nhà rất lo ngại không biết chuyện gì đã xảy ra và sẽ xảy ra. Từ phường bố chị bị chuyển lên ủy ban huyện và biệt tăm biệt tích hơn 1 tháng mới được tha về.
Thì ra có kẻ hàng xóm nào đó đã tố với ủy ban quân quản bố chị là “mật vụ chìm”của “ngụy quân nguỵ quyền” trong khi ông chỉ là cảnh sát viên bình thường trong phủ thủ tướng ...
Trong Nam đã thế nói gì đến miền Bắc của phe chiến thắng, những người di cư 1954 nay trở về thăm miền Bắc sẽ bị để ý, bị “nhân dân” khinh miệt trả thù.
Bố chị chỉ gởi cầu may một lá thư về quê cũ cho người em họ để hỏi thăm họ hàng quyến thuộc, gọi là “cầu may” vì sau bao nhiêu năm ly tán kể từ 1954 chẳng biết thân nhân còn ở quê không. Thế mà lá thư vẫn có người nhận và người em họ của bố đã trả lời thư.
Ban đầu chị Bông không tin, một mực nói:
- Làm gì một lá thư không số nhà lại đến tay người nhận được? Có chắc đây là thư của chú Côi không?
Bố chị giải thích:
- Chú ấy đã kể về những họ hàng nội ngoại, bên nội và bên ngoại các con cùng quê mà, chú Côi còn kể về những kỷ niệm giữa bố và chú ngày xưa thì chính là chú còn ai vào đây nữa .. Ở phố thì bố không biết chứ ở quê thì cả làng cả xã ai cũng biết nhau, lá thư gởi tên người nào thì sẽ đến đúng tay người ấy, chẳng cần số nhà ngoài tên làng tên xã.
- Nhưng lạ ở chỗ cả một thời gian dài từ 1954 đến giờ mà họ vẫn không rời khỏi làng quê…
- Vì tình quê cha đất tổ, vì luật lệ hành chính xã hội ràng buộc nên họ vẫn bám lấy làng quê. Biết đâu vài chục năm sau nữa chúng ta gởi thư về người thân ở làng quê này vẫn không cần số nhà, tên đường..
Sau lá thư của bố thì gia đình chị Bông nhận được những lá thư của các thân nhân khác, chắc chú Côi đã khoe thư của bố chị với mọi người. Thư viết trên trang giấy học trò, có thư chữ viết nắn nót, có thư chữ viết như gà bới nhưng thư nào cũng đầy ắp nhớ thương và không bao giờ thiếu câu mở đầu nghiêm chỉnh trên mỗi lá thư là :” Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam . Độc lập tự do hạnh phúc”, xong “thủ tục” với nhà nước rồi nhân dân mới viết riêng tư gì thì viết.
Chị Bông đã ngạc nhiên hỏi bố:
- Thân nhân của bố viết thư như viết tờ đơn, họ làm việc cho chính quyền nên quen tay chăng?
Bố chị chép miệng:
- Họ là nông dân thôi, nhưng là ai thì cũng là người của miền Bắc bao nhiêu năm sống với xã hội chủ nghĩa.
Không ngờ chỉ một lá thư bố chị gởi về hỏi thăm những thân nhân nội ngoại ấy mà đã nhận lại những tình cảm qúa đổi thắm thiết, sau những thư từ là những người khách không mời đã lần lượt từ Bắc vào Nam thăm gia đình chị Bông..
Năm 1978 gia đình chị đón một khách đầu tiên từ miền Bắc vào. Lúc này xe lửa Thống Nhất Bắc Nam đã thông, gía vé bao cấp còn rẻ.
Một hai đứa trẻ con hàng xóm chạy xộc vào nhà chị Bông hí hửng báo tin:
- Chị Bông ơi, nhà chị có khách ngoài Bắc kìa. .Bà ấy gánh hai bao tải to lắm
. Chị Bông cũng vui mừng thông báo ngay với bố:
- Bố ơi khách Bắc này chắc giàu lắm, họ gánh hai bao tải qùa vào cho nhà mình.
Bà cô ruột của chị Bông đã gồng gánh từ Bắc vào Nam , bà hỏi thăm từ đầu đường đến cuối xóm nên cả khu xóm ai cũng biết nhà chị đang có khách Bắc.
Bố chị dặn dò:
- Đây là em ruột của bố, chúng ta “giấy rách phải giữ lấy lề” tiếp đãi cô hậu hĩ . Ngày xưa khi bố theo ông nội đi làm ăn xa quê cô Cam đã mấy lần dẫn mẹ các con từ làng quê đi Hà Nội đến Bắc Giang rồi Móng Cái thăm bố...
Thời điểm lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm đều phải mua bằng sổ hạn chế theo từng đầu người không đủ ăn đủ dùng nên bố chị đã cẩn thận dăn dò thế, kể lể ân tình thế để phòng xa vì đã từng có cảnh khách đến nhà người ta không muốn mời ăn ở sợ hao tốn. Miếng ăn cái mặc bỗng lên ngôi, gía trị tình cảm con người bị chà đạp xuống thấp.…
Vào đến nhà cô Cam đòi thắp hương cho ông nội chị và mẹ chị, cô nước mắt ngắn dài khóc thương người cha xa cách từ năm 1954 và bà chị dâu hiền lành vắn số.
Mấy đứa em háo hức thì thầm với chị Bông:
- Chị ơi, cô Cam mua những gì mà nhiều thế?
Chị Bông sốt ruột:
- Không biết, đợi cô thắp hương xong sẽ mở qùa…
Các em và hai con chị Bông tò mò và nao nức chờ cô Cam cho qùa, không biết là những qùa gì trong hai cái bao tải to tướng bằng vải ấy. Cô mở cái tay nải nhỏ trước, lấy ra mấy quả chuối tiêu chín nẫu đã nhũn mềm và tiếc rẻ:
- Chưa kịp ăn thì nó chín cả rồi, trong Nam nắng nóng qúa, mấy qủa chuối này cô mua ăn lúc đi đường, vẫn còn ăn được các cháu ăn đi…
Thấy chẳng đứa nào muốn nhận mấy qủa chuối thâm đen cô Cam lại moi trong tay nải ra mấy bịch bỏng, mỗi nắm bỏng to tròn bằng nắm tay, cô Cam hớn hở mời mọc::
- Đây là qùa cô mua cho các cháu, bỏng ở làng quê ta trẻ con nào cũng thích, gạo rang thành bỏng trộn với đường mật và gừng thơm ngon lắm.
Đứa em gái út của chị Bông thất vọng:
- Ở đây cũng có bỏng này, thế còn món gì trong hai cái bao kia hả cô?
Thằng Bi 3 tuổi con của chị Bông cũng bắt chước dì nó vòi vĩnh:
- Bi muốn cô mở cái bao to kia cho cháu qùa…
- Này con, dì út gọi là cô Cam nhưng con phải gọi là bà Cam , từ từ bà Cam sẽ cho con qùa mà..
Chị Bông mắng con đừng nóng lòng mà lòng chị vẫn chờ mong hai bao tải kia được mở ngay ra.
Cô Cam trả lời con cháu út nhưng nhìn chị Bông để giải thích:
- Cái món này các cháu không ăn được, không phải qùa cháu ạ, đây là tỏi vườn cô thu hoạch, năm nay tỏi ở quê ta được mùa nên mất gía, bán rẻ như cho mà người ta còn chê không muốn mua, nhân thể chuyến đi cô mang vào Nam may ra bán khá hơn, thu đồng vốn nào hay đồng vốn ấy..
Tội nghiệp cô Cam đã mang cả gánh tỏi từ Bắc vào Nam .
Chị Bông thất vọng thì ít nhưng các em và hai con chị thất vọng thì nhiều, chúng đành nhận mấy nắm bỏng đặc sản của làng quê cô Cam còn hơn không có món gì.
.Cô Cam bảo chị:
- Mai cháu dẫn cô ra chợ bán tỏi nhé, ở đây cô xứ lạ quê người.
Chị Bông bùi ngùi thương cô:
- Vâng, cô muốn chợ gần chợ xa gì cũng được…
Cô Cam đã gánh tỏi ra chợ tìm các bạn hàng và bán sỉ cho họ với gía rẻ bèo nhưng cô bảo cũng đỡ hơn gía ở quê rồi cô buồn rầu kể:
- Những mùa bội thu lại là mùa mất tiền cháu ạ, công sức mình như đổ sông đổ biển, có năm thu hoạch khoai tây gía qúa rẻ, vừa bán đổ bán tháo vừa tranh thủ luộc khoai tây ăn trừ cơm ngao ngán đến tận cổ thế mà vẫn ăn không kịp, khoai tây mọc mầm tua tủa…
Thấy cô Cam tiêu thụ được gánh tỏi bố chị rất vui, chỉ sợ cô em nghèo khổ phen này mất hết vốn liếng trồng trọt.
Những ngày cô ở chơi mấy chị em chị Bông đã đưa cô đi chơi Sài Gòn, đi sở thú và đến thăm vài nhà họ hàng hay người làng người nước, đến nơi nào cô Cam cũng thích. Cô cảm động nói:
- Cám ơn anh và các cháu đã cho em đi tham quan nhiều nơi, xưa nay em chỉ quanh quẩn bên ao làng, bên ruộng nương..Sao mà đường phố Sài Gòn hoành tráng thế cơ chứ..
Đời cô Cam là một bể khổ, lấy phải người chồng vũ phu lại phụ bạc, ăn ở với vợ có 3 con rồi bỏ đi lấy vợ bé, cô làm lụng ruộng vườn quần quật mà nuôi con vẫn bữa đói bữa no. Ông chồng bệnh chết, người vợ bé hiền lành nhu nhược chẳng biết nương tựa ai mang 2 con về nhà vợ cả xin ở chung. Hai bà vợ của ông chồng qúa vãng cùng ở chung nhà thuận hòa như hai chị em ruột và nuôi 5 đứa con, nếu không biết thì chẳng ai phân biệt những đứa trẻ ấy là con bà nào vì hai bà đều thương yêu chúng như nhau, hai bà đều cật lực làm việc để nuôi chúng...
Ông chồng thật tốt số, lấy hai bà vợ cùng hiền lành phúc hậu, hai bà vợ góa cùng yên phận thờ chồng, ông tha hồ sung sướng yên nghỉ nơi chín suối..
Có lẽ giai đoạn cuộc đời cô Cam sống chung với “tình địch” lại bình yên hạnh phúc hơn khi sống với người chồng.
Bà vợ bé cũng đoản mệnh như chồng, hiện 5 con vẫn sống với một bà mẹ là cô Cam ..
Ngày cô trở về Bắc bố chị đã mua vé tàu cho cô và tặng cô món tiền nhỏ, cô đã rưng rưng nước mắt trách anh trai từng xông pha theo cha buôn bán khắp phương Bắc, giỏi giang nhanh nhẹn thế mà cái ngày di cư cha và anh đi thoát sao không dẫn cô theo để đời cô bao nhiêu năm nghèo khổ cho đến bây giờ.…
Sau cô Cam những năm sau đó chị Bông không thể nhớ theo thứ tự những ai đã từ Bắc vào Nam thăm gia đình chị, họ hàng gần, họ hàng xa đều được bố chị tiếp đãi thân tình và cho tiền tàu xe lượt về quê, có người chỉ là người làng, họ đi buôn hàng vào Nam cũng “quá cảnh” nhà chị để có chỗ tạm trú ăn ở không mất tiền và ít nhiều cũng có qùa mang về, những bộ ly tách đẹp ngày nào chị Bông đã mua trong các cửa hiệu trong thương xá Tax trưng bày trong tủ chè cũng mang ra tặng cho khách vì họ khen đẹp và khao khát được một bộ tách như thế, cả những tấm khăn lông to đẹp chị vẫn cất để dành trong tù chưa dám dùng đến cũng là món qùa tặng cho khách. để làm kỷ niệm. Cuối cùng tủ chè và tủ quần áo của nhà chị rỗng dần chẳng có gì đẹp hay đáng giá nữa.
Chị Bông lo xa::
- Bố ơi, nếu cứ cái đà này thì ….cả làng sẽ vào thăm nhà mình, gạo mua theo sổ thì ít , gạo chợ đen thì đắt đỏ..…
Bố chị luôn an ủi:
- Người ta có qúy mình mới vào thăm, một giọt máu đào hơn ao nước lã…cao lắm mỗi người chỉ vào thăm một lần, đừng để bố mang tiếng cả đời.
Một hôm có chiếc xe xích lô máy đậu xịch ngay trước cửa nhà chị Bông, trên xe bước xuống là một bà Bắc kỳ quần đen ống quần ngắn lấc cấc, chân đi đôi dép nhựa màu trắng, tay xách một cái làn mây. Bà nhớn nhác nhìn số nhà chị rồi lao vào nhà gọi to:
- Anh ôi, các cháu ôi…
Bố chị chạy ra ngỡ ngàng:
- - Chào chị, chị đây là ai nhỉ…..??
- Em là vợ Côi đây, Côi và anh hay chơi đùa với nhau ngày xưa ấy.. Nhà em kể rằng.hai anh em họ mà cứ thân thiết hơn cả anh em ruột.
Và thím Côi òa khóc như mưa :
- Ôi anh ôi, ối các cháu ôi…!!
Bố chị luống cuống:
- A, thím Côi đây hả… nhưng chuyện gì thế thím Côi? Nhà quê có tin gì xấu chăng?… mong thím bình tĩnh kể tôi nghe…
Chị Bông cũng ái ngại hỏi thăm:
- Hay thím vừa bị kẻ cắp móc túi ở bến xe ??
Thím vẫn nước mắt tuôn rơi::
- Ôi anh ôi, ôi các cháu ôi. Chẳng có việc gì xảy ra cả, em vào thăm anh và các cháu đây, chỉ vì cảm động quá khi găp nhau em không sao cầm được nước mắt….
Thì ra thế. Một bà thím họ xa cách cả không gian và thời gian thậm chí chưa biết mặt các cháu sao mà tình cảm tha thiết đến thế, làm chị Bông cũng cảm động theo.
Thím Côi khác hẳn với cô Cam, thím mang cho các cháu nhiều qùa bánh và luôn âu yếm xoa đầu nắm tay các em chị Bông và hai con chị Bông làm như chúng từng quen thuộc với thím, từng ở trong vòng tay của thím. Thím còn móc túi lấy ra những đồng tiền lẻ cho các cháu để muốn mua gì thì mua, trẻ con thích thím Côi ra mặt.
Khách Bắc nào cũng được gia đình chị Bông tiếp đón tương tự, dẫn đi thăm chợ Bến Thành, đi chơi sở thú và đi thăm họ hàng làng nước.
Bố của bố chị và bố của chú Côi là hai anh em ruột, thím Côi đã tha thiết nói với bố chị:
- Anh cho em xin một tấm hình của ông để em mang về Bắc thờ cúng với ông em., bây giờ đất nước ta hòa bình nhà nhà đoàn tụ, hai anh em ông ấy cũng đoàn tụ trên bàn thờ hương khói anh nhá.
Thế là hình ông nội chị Bông được trao cho thím Côi, ông sẽ trở về quê cũ, ngồi trên bàn thờ với ông em ruột sau những thăng trầm bể dâu của thời cuộc, của cuộc đời.
Một tuần sau thím Côi bảo chị Bông:
- Thím vào Nam thăm gia đình cháu nhân thể muốn mua món đồ điện tử mang về nhà dùng, nghe nói hàng điện tử ở Sài Gòn có nhiều loại xịn lắm…
- Vậy thím muốn mua gì cháu sẽ dẫn thím ra đường Huỳnh Thúc Kháng bán đủ thứ hàng điện tử tha hồ cho thím chọn lựa.
- Chỉ còn 2 ngày nữa thím về Bắc mà còn bận đi thăm mấy người nhà bên thím ở Khánh Hội và đi mua sắm thêm nhiều món quần áo nên bận rộn lắm. Cháu là người thành phố rành rẽ hơn thím, cháu cứ mua hộ thím 1 cái đài cát sét loại nào hiện đại nhất là được, bao nhiêu tiền không thành vấn đề. Thế thôi, cháu nắm bắt được ý của thím chưa? Cháu quán triệt chưa?. .
- Vâng cháu hiểu rồi…
Thím Côi rộng rãi và xài sang qúa, chị Bông ngầm nể nang thím. Như đọc được ý nghĩ của chị Bông, thím Côi khoe:
- Cháu ơi, nhà nước ta đang từng bước xóa đói giảm nghèo, chẳng mấy chốc mà ai cũng có điều kiện như thím mua đài nghe tin tức khỏi cần nghe loa từ uỷ ban thông tin văn hoá xã nữa. Loa đọc ra rả rát cả tai..
Chị Bông vui vẻ vì được thím tin cậy:
- Cháu sẽ mua 1 cái đài cát sét bảo đảm thím sẽ vừa ý.
Thím Côi nói xong không đưa tiền hay nói năng gì thêm, chắc là thím quên, chị Bông không dám nhắc sợ thím buồn thím giận người nhà không tin cậy nhau trong khi thím đến nhà chị đã bộc lộ bao nhiêu là tình cảm, đã xin hình ông nội chị để thờ cúng, đã móc túi cho các em chị cho con chị tiền mua quà vặt.
Chị Bông bàn với bố:
- Thím đi cả ngày thăm họ hàng bên thím mà ngày về quê cận kề hay là con cứ bỏ tiền ra mua cái radio cassette rồi về thím trả sau bố nhỉ?
Bố chị gật gù:
- Phải đấy, chắc thím ấy bận rộn nên quên chưa đưa tiền hoặc là thím chẳng biết gía cả bao nhiêu mà đưa nên đợi con mua hàng về thím mới trả tiền sau ...
Chị Bông đã đi đến mấy con đường nổi tiếng chuyên bán hàng điện tử để chọn mua 1 máy cassette ưng ý nhất giá tương đương 5 chỉ vàng, mang về nhà chị khoe thím món hàng đẹp nhưng thím chỉ nói cám ơn vẫn không đá động gì đến tiền bạc dù chị đã mấy lần nhấn mạnh cháu phải bán đi mấy chỉ vàng để mua cái máy này.
Ngày mai thím Côi sẽ ra ga Hòa Hưng về Bắc, chị Bông thấp tha thấp thỏm đợi chờ thím trả tiền từng giờ, từng phút, chị đã vờ nhắc nhở:
- Thím xem lại hành lý có quên gì không.?
- Đủ cả cháu ạ…
Thím ngọt ngào như đường như mật :
- Các cháu có quên thím thì quên chứ thím chẳng bao giờ quên các cháu.
- Thế …thế…cái máy cát sét thím lên tàu phải cẩn thận đề phòng kẻ cắp nhé, những 5 chỉ vàng đấy……
- Cháu vô tư đi, kẻ cắp nào dám đụng đến thím? Thím từng đi buôn mạn ngược rừng xanh núi đỏ thím còn không sợ nữa là…
Cuối cùng chị Bông chịu đựng hết nổi bèn ngượng ngùng nói::
- Thím ơi, còn tiền cái máy cát sét của cháu thím chưa đưa…..
- Ấy chết thím quên chưa báo cáo với cháu là thím đã mua hàng hết tiền rồi, thím mua một mớ quần áo may sẵn về quê bán kiếm tí lời tí lãi bù lỗ tiền tiêu vặt chuyến đi này cháu ạ.
Chị Bông thót cả tim:
- Vậy là….??
- Thím cháu mình đi đâu mà mất, về quê thím sẽ gom tiền gởi trả cháu ngay, cháu muốn tính tiền lời thím cũng trả.
- Cháu mua bao nhiêu thím trả bấy nhiêu là được rồi.
Năm chỉ vàng thời điểm này và trong hoàn cảnh của chị Bông thật lớn lao vậy mà thím đã khơi khơi mượn nợ chị một cách nhẹ nhàng và tài tình qúa.
Những gia đình Bắc kỳ di cư 1954 như gia đình chị Bông đều có khách từ Bắc vào thăm, phần nhiều chủ nhà đều phải tiếp đón và cho qùa tùy theo hoàn cảnh gia đình.
Nhà chị Mai bạn thân của chị Bông thì may mắn hơn, bà bác ở Hà Nội mang vào Nam rất nhiều qùa cho em và các cháu, bà mang vải hợp tác xã, bát đũa và cái phích nước Trung Quốc thịnh hành thời đó…
Vào đến Sài Gòn bà chị Hà Nội mới ngã ngửa khi thấy căn nhà 3 tầng lầu nguy nga của gia đình em ngay trên con đường lớn gần bệnh viện Từ Dũ
Bà Hà Nội nói với bà Sài Gòn::
- Chị nghe tuyên truyền trong miền Nam đói khổ thiếu ăn thiếu mặc nên chị đã mang vải và mua chợ đen mấy ký lương khô cho nhà em bồi dưỡng đây. Ai ngờ..
Bà em Sài Gòn thành thật:
- Vải hợp tác xã toàn mùi dầu mua về các con em không chịu may mặc em phải bán lại con buôn, còn lương khô thì có ngon lành gì đâu, ăn vào chỉ tổ khát nước.…
- Ừ, nhưng lương khô tổng hợp nhiều chất bột bổ dưỡng, bộ đội chiến trường nếu mất nguồn liên lạc có lương khô và nước thì vẫn sống và chiến đấu đấy em….
Bà chị Hà Nội đi dạo khắp nhà và trầm trồ khen nhà em gái to lớn còn hơn cả cơ quan nhà nước ở Hà Nội. Bà bùi ngùi :
-.Chị cứ tưởng đời chị là yên ổn sung sướng hơn người, hai vợ chồng đều là cán bộ, chế độ tem phiếu đầy đủ, chính phủ cấp nhà ở ngay Hà Nội dù chật hẹp và chung hộ với gia đình khác nhưng khối kẻ mơ mà không có. Vào miền Nam thấy nhà em chị tủi thân qúa., 3 tầng lầu có 3 cái chuồng xí, còn nhà chị phải dùng chuồng xí tập thể..…
Để đáp lễ bà chị, mẹ Mai đã tặng chị nhiều hàng hóa gía trị gấp mấy lần món qùa bà đã nhận.
Gia đình chị Bông đã sang Mỹ định cư, không còn ai ở lại Việt Nam dĩ nhiên không kể những thân nhân miền Bắc. Mối liên hệ tình cảm vẫn tiếp tục, những người khách không mời năm xưa vẫn nhận qùa mỗi cuối năm.
Bố chị nói đúng, cho tới bây giờ gia đình chị vẫn gởi thư về thân nhân miền bắc chỉ cần ghi tên người nhận và địa chỉ vẫn không có số nhà, vẫn là tên làng tên xã không hề thay đổi.. Thật bền bỉ đến kinh ngạc và thán phục khi hơn 3/4 thế kỷ mà người ta vẫn ở yên một chỗ nếu tính những người cùng trang lứa với bố chị sinh từ năm 1927 tại làng quê này.
Sau vụ biến cố September 11, 2001 gia đình chị Bông nhận được lá thư từ miền Bắc của chú Côi, chữ chú vẫn gà bới như xưa, phần đầu thư vẫn trịnh trọng tuyên truyền giùm nhà nước như xưa:
“Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam .. Độc lập tự do hạnh phúc.
Anh kính nhớ và các cháu luyến nhớ, trước tiên em có lời hỏi thăm sức khỏe cả nhà, được tin cả nhà ta bên ấy bình an không bị ảnh hưởng gì trong vụ khủng bố chúng em bên này vui mừng lắm…”
Và cuối thư chú Côi đã bày tỏ cảm tưởng:
“Nghe đài thấy vụ khủng bố toà nhà cao tầng ở Mỹ vào ngày mồng 11 tháng 9 chúng em cực kỳ kinh hãi. Em xin gởi lời chia buồn đến tất cả nhân dân Mỹ và chúc nhân dân Mỹ kiên cường phấn đấu vượt qua giai đoạn khó khăn này.”.
Những câu văn này chắc là chú Côi bắt chước những bài viết trên báo, trên đài, sặc mùi nhà nước..
Bây giờ những thân nhân ngoài Bắc của gia đình chị Bông có muốn đến thăm nhà chị cũng không được, ai bán vé xe lửa cho họ từ Bắc…sang nước Mỹ như ngày nào họ mua vé xe lửa từ Bắc vào Nam.
Từ Bắc vào Nam năm 1975 những đoàn quân miền Bắc đã vơ vét bao nhiêu “chiến lợi phẩm” nhà cửa, đất đai ruộng vườn, của cải của dân miền Nam bỏ lại hay bị cưỡng chế.
Từ Bắc vào Nam những người dân miền Bắc dù bất cứ thành phần nào, thăm thân nhân họ hàng sau bao nhiêu năm xa cách cũng nhặt nhạnh xin qùa, xin của mang về.
Người bên thua cuộc là kẻ cho và người bên thắng cuộc là người nhận. Điều nghịch lý lại là sự thật, thế nên trong thời điểm đó nhân gian miền Nam đã có câu “Người miền Bắc thích “cua bể” miền Nam.”.
Nguyễn Thị Thanh Dương.
( March, 13, 2015 )
* “Cua Bể” : Bê của
TÚ HOA* THUYỀN NHÂN VIỆT NAM
Thuyền nhân Việt Nam
Tú Hoa
- Thuyền nhân Việt Nam là một sự kiện chấn động chưa từng có trong lịch sử nước nhà và chỉ xảy ra sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 khi hàng triệu người Việt Nam đã ồ ạt dùng thuyền nan, thuyền gỗ mong manh đi xuyên biển Đông để xin tỵ nạn Cộng Sản tại các xứ Tự Do Dân Chủ không Cộng Sản bất chấp sống chết hiểm nguy.
Đảng Cộng Sản Hà Nội đang chuẩn bị một ngân quỹ lớn để bắn pháo bông ăn mừng ngày chiến thắng 30 tháng 4. Không biết bao nhiêu người Việt Nam thiếu hiểu biết mà ăn mừng chiến thắng này và bao nhiêu người Việt có lương tâm tri nghĩa sẽ cảm nhận sự cay đắng khi thấy sự nhẫn tâm của Đảng Cộng Sản cầm quyền đang vui đùa hân hoan hớn hở trên nỗi đau thân phận và sinh mạng của cả dân tộc.
Bao nhiêu Thuyền Nhân Việt Nam đến được trại tỵ nạn?
Hình chụp một nhóm thuyền nhân Việt Nam được cứu vớt
khi tàu bị chìm ngoài khơi Mã Lai (UNHCR/K. GAUGLER/1978)
Thật không ngờ, theo Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR) dù tỉ lệ vượt thoát thành công đến được các trại tỵ nạn không quá 35%, tổng số thuyền nhân Việt Nam ở các trại tỵ nạn dành cho thuyền nhân lên đến hơn 700 ngàn người theo con số chính thực được ghi nhận trên toàn cõi Đông Nam Á. Trong hai mươi năm (1975-1995), chi tiết tổng số thuyền nhân cho mỗi giai đoạn năm năm sẽ là như sau:
Bản Thống Kê 1: Thống kê Tổng số Thuyền Nhân Việt Nam
Cộng với con số hơn 42 ngàn người đi vượt biên bằng đường bộ sang Thái Lan thì tổng số người Việt Nam đào thoát để tị nạn Cộng Sản lên đến 800 ngàn người.
Nếu tỉ lệ thành công đến được bến bờ tự do của thuyền nhân Việt Nam là 50% thì có nghĩa là có khoảng 800 ngàn người Việt đã bỏ mình trên đường đào thoát, trong khi Cao Ủy Tỵ Nạn Liện Hiệp Quốc (UNHCR) khẳng định là chỉ khoảng 35% số thuyền nhân là vượt thoát thành công thì tỉ lệ tử vong sẽ là bao nhiêu?
Ngay cả thú vật cũng chẳng bao giờ ăn mừng trên sự chết chóc của đồng loại thì chẳng lẽ nào nay 90 triệu người dân Việt Nam lại tệ hơn cả thú vật, hoan hỷ ăn mừng chiến thắng với pháo bông do bọn Cộng Sản bắn lên - một chiến thắng đẫy đưa toàn dân tộc lao ra biển Đông xin tỵ nạn, chết chóc lên đến hơn cả triệu người?
Chỉ riêng thảm họa hải tặc hãm hiếp đè nặng lên nổi nhọc nhằn của thuyền nhân Việt Nam, số liệu điều tra của UNHCR, chỉ trong ba năm 1981 đến 1983 về nạn hải tặc của Thái Lan không thôi đã như sau:
Bản Thống Kê 2: Nạn nhân hải tặc Thái Lan 1981-1983
Xin được ghi chú là bản thống kê trên chỉ đề cập đến số người bị giết và mất tích trực tiếp bởi hải tặc Thái Lan, còn số người thuyền nhân Việt Nam bị chết vì đói, vì chìm tàu hay tự tử sau khi bị hải tặc tấn công không được tính tới
Như vậy, tổng số người bị giết và mất tích do hải tặc Thái Lan trong ba năm 1981 đến 1983, theo số liệu của UNHCR đưa ra sẽ là như sau: 571+ 155 + 43 + 443+ 153 = 1365 người.
Trong khi Liên Hiệp Quốc và các tổ chức NGOs bất vụ lợi (NGO: Non Government Organizations: các tổ chức phi chính phủ) đã phải lên tiếng và nhảy vào can thiệp trước thãm họa hải tặc từ Thái Lan cũng như từ nhiều nơi khác đối với Thuyền Nhân Việt Nam vì lý do nhân đạo thì Cộng Sản Hà Nội không một chút tỏ ra thương xót cho chính dân tộc mình ngoài việc rũa xã căm hờn bọn người "phản quốc, chết là tự chuốc lấy!".
Sau Đệ Nhị Thế Chiến, sự kiện thuyền nhân Việt Nam là sự kiện lịch sử lớn thứ hai liên quan đến mọi quốc gia trong vùng Đông Nam Á. Trại tỵ nạn dành cho thuyền nhân Việt Nam mọc khắp các quốc gia trong vùng gần suốt 20 năm và là một mối nhục quốc thể quá lớn cho một dân tộc nổi tiếng quốc gia bảo thủ, bám đất giữ làng, đánh chết không đi.
Không có cộng sản, người dân Việt Nam với cá tính bám đất giữ làng không ra đi bỏ xứ kinh khiếp đến thế!
Hai mươi năm chiến tranh khốc liệt, không có một người dân Việt Nam Cộng Hòa nào bỏ xứ đi vượt biên nhưng họ đã ra đi ào ạt sau chiến thắng 30 tháng Tư, lấy sanh mạng của mình để bầu phiếu cho giá trị của tự do dân chủ của chính thể Việt Nam Cộng Hòa mà nhẽ ra thuộc về họ nhưng đã bị tước đoạt.
Lộ Trình Vượt Biên Và Xin Định Cư của Thuyền Nhân Việt Nam:
Bản Đồ Hải Lộ của Thuyền Nhân Việt Nam UNHCR
Chưa có những nghiên cứu cụ thể tuyến đường Vượt Biển nào có xác suất thành công cao nhất cho thuyền nhân Việt Nam vì hầu như tuyến đường nào cũng là chết chóc hiễm nguy và cướp bóc.
Dựa vào bản thống kê 1, trong suốt 20 năm 1975-1995, thì tuyến đường Mã Lai đứng đầu số thuyền nhân Việt Nam vượt biển thành công với gần một phần tư triệu người. Thật bất ngờ, Hồng Kông lại đứng thứ nhì với hơn 195 ngàn thuyền nhân. Indonesia, một quốc gia hết sức thầm lặng đã chứa hơn 121 ngàn thuyền nhân trong hai mười năm trên cả Thái Lan là bốn ngàn người.
Nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội cũng không thống kê số tàu vượt biên mà bộ đội biên phòng đã bắn vỡ tàu cho chết. Báo SGGP ghi nhận là có gần hơn 108 người chết tại cầu Chữ Y Sài Gòn. Có khoảng năm ngàn người bị bắn chìm tàu mà chết tại cửa ngõ đồn Vàm Láng, Gò Công theo ước tính của tù nhân Vượt Biên, dân cư và bộ đội biên phòng Cộng Sản ở đây. Đương nhiên, con số chính thức về tội ác của Cộng Sản Hà Nội khi bắn chết thuyền nhân bao giờ cũng cao hơn và sẽ bị lấp liếm cho đến khi có các cuộc điều tra kỹ lưỡng từ các tổ chức thỉnh nguyện hay các sử gia nghiên cứu.
Từ trại tỵ nạn, Thuyền Nhân Việt Nam tùy hoàn cảnh cá nhân mà có chọn lựa định cư. Sau đây là bản thống kê tổng số thuyền nhân Việt Nam định cư ở các nước theo số liệu của UNHCR:
Bản Thống Kê 3: Quốc Gia định Cư của thuyền Nhân Việt Nam 1975-1995
Hành động nhận các thuyền nhân của các quốc gia trên không những là thể hiện tinh thần nhân đạo của dân tộc họ mà còn khẳng định quan điểm chống lại thảm họa Cộng Sản của các quốc gia này.
Điều đáng đau lòng là đã có 109 ngàn thuyền nhân Việt Nam xuất thân từ miền Bắc Việt Nam, theo gót đồng bào miền Nam đi vượt biên xin tỵ nạn Cộng Sản đã bị từ chối quy chế tị nạn và bắt buộc phải hồi hương. Cộng Sản đã làm cho ai ai cũng lầm tưởng là cứ hể người dân miền Bắc, người nào cũng là Cộng Sản, có dây mơ rể má với cộng sản và cần phải chối bỏ quy chế tị nạn.
Thực tế, những thuyền nhân từ miền Bắc Việt Nam cũng điều chịu cùng cảnh ngộ sống chết trên biển cả để đến được bến bờ tự do như bao nhiêu thuyền nhân khác. Họ phải có quyền được tỵ nạn như những thuyền nhân khác.
Điều này lại càng làm thấy rõ Cộng Sản chỉ đem đến sự khinh bỉ của thế giới đối với dân tộc Việt Nam ta, mà những người miền Bắc chống Cộng Sản đang phải gánh tiếng oan này một cách nặng nề nhất.
Sau khi định cư ổn định ở các quốc gia liệt kê trên, các thuyền nhân Việt Nam đã làm đủ mọi nghề, trở nên thành đạt và gởi tiền về cứu đói thân nhân mình, vốn rách nát te tua chìm theo nền kinh tế điều hành theo kiểu cướp bóc và ngu dốt của Cộng Sản, góp phần vực dậy kinh tế nước nhà và đặc biệt, chính các thuyền nhân đã nỗ lực bảo lãnh thân nhân mình thoát khỏi thảm họa Cộng Sản, sang sinh sống ở các quốc gia tự do để có một tương lai tốt đẹp hơn.
Cộng Sản Hà Nội gọi Thuyền Nhân Việt Nam là "phản quốc", những người mà bộ đội biên phòng Cộng Sản bắn thẳng tay hay bỏ tù không thuơng tiếc; nay Cộng Sản Hà Nội gọi Thuyền Nhân Việt Nam là "Việt Kiều Yêu Nước" một cách hết sức trơ trẻn và nhục nhã!
Kết
Thống kê của Cao Ủy Tỵ Nạn Liện Hiệp Quốc (UNHCR) đã cho thấy hơn 700 ngàn thuyền nhân Việt Nam đã đến được bến bờ tự do định cư rất nhiều ở Hoa Kỳ với hơn 400 ngàn người, cũng như đã có hơn 100 ngàn người bị cưỡng bức hồi huơng với lý do là nguyên quán miền Bắc, không đủ điều kiện định cư.
Con số 700 ngàn thuyền nhân Việt Nam đến được bến bờ Tự Do đồng nghĩa với hơn cả triệu thuyền nhân bỏ mình trên biển cả nếu tỷ lệ vượt thoát thành công không quá 35% như UNHCR loan báo. Báo cáo của UNHCR cũng cho thấy thảm họa cướp biển làm gia tăng mất mát, khổ đau và nhục nhã lên thân phận của một dân tộc đang gánh chịu thảm họa Cộng Sản.
Ngày nay, CSVN sẵn sàng bắn vào những ai thoát qua biên giới Việt Trung xin tỵ nạn trên đất Việt Nam để lấy lòng Bắc Kinh và bắn pháo bông để ăn mừng chiến thắng đã xua đuổi chính dân tộc mình, đồng loại của mình ra biển Đông tị nạn. Đó là sự khác biệt giữa một dân tộc toàn là NGƯỜI như các quốc gia đã nhận cả ngàn thuyền nhân Việt Nam đi định cư vì lòng nhân đạo và khát vọng Tự Do và một tập đoàn cộng sản TỆ HƠN THÚ VẬT vô tri vô nghĩa vô nhân sẵn sàng hoan hỷ trước chiến thắng đẩy cả dân tộc mình vào khổ đau phải lao ra biển Đông tìm đường tỵ nạn, chết chóc lên đến cả triệu người.
Cho dù có lấp liếm, sự kiện Thuyền Nhân Việt Nam vẫn là một sự kiện lịch sử vô cùng quan trọng đối với Việt Nam và cho cả vùng Đông Nam Á. Đây là một sự kiện lịch sử mà cần phải đưa vào chương trình dạy trong trường học cũng như cần phải điều nghiên kỹ lưỡng như các sự kiện lịch sử quan trọng khác từ cổ đến kim của dân tộc Việt Nam.
Mọi tầng lớp dân tộc hiện nay của Việt Nam và thế hệ mai sau cần phải hiểu rõ sự kiện Thuyền Nhân như là một quốc nhục để củng cố lại tinh thân tự hào dân tộc tính của mình, ráng phấn đấu xây dựng Việt Nam thành một mãnh đất Tự Do Dân Chủ không Cộng Sản thịnh vượng để khỏi phải xảy ra thêm một lần nữa thảm cảnh toàn thể dân tộc phải lao ra biển cầu xin lòng nhân đạo của nhân loại cứu giúp.
Tú Hoa
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 360
Friday, April 24, 2015
NGUYÊN THI TỪ HUY * DI CHUC HỒ CHI MINH
Di chúc Hồ Chí Minh : những nghi vấn đặt ra từ văn bản
Thu, 04/23/2015 - 12:09 — nguyenthituhuy
Trước hết, xin quý độc giả lưu ý rằng tôi không đánh giá về Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh là một nhân vật lịch sử. Đánh giá về các nhân vật lịch, về đóng góp và sai lầm của họ, là công việc của các sử gia chân chính.
Ở đây, tôi chỉ làm một việc duy nhất : khảo sát các văn bản di chúc của Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó chỉ ra một số điều mà văn bản cho phép nhìn thấy. Đúng hơn là các văn bản của Hồ Chí Minh cho phép đặt ra một số nghi vấn mà tôi không có câu trả lời. Tôi cũng không có tham vọng trả lời, tôi chỉ làm công việc đặt ra các câu hỏi.
Trong bài này, để tiến hành khảo sát các bản di chúc, tôi sử dụng các bản gốc đánh máy năm 1965 và bản gốc viết tay các năm 1968-1969, của Hồ Chí Minh, được công bố trong cuốn « Toàn văn di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh », NXB Trẻ, 1999.
Bản di chúc đầu tiên được đánh máy và ký ngày 15/5/1965, với sự chứng kiến của Lê Duẩn, lúc bấy giờ là Bí thư thứ nhất Ban chấp hành trung ương, có chữ ký của Lê Duẩn trong văn bản đánh máy.
Bản di chúc thứ hai, được viết tay, bằng mực xanh, vào dịp sinh nhật thứ 78, tức là vào tháng 5 năm 1968, với rất nhiều sửa chữa, gạch xóa bằng mực đỏ, không có chữ ký, không có người chứng kiến.
Bản thứ ba, đề ngày 10/5/1969, chỉ có một trang viết tay, với nội dung là phần mở đầu của di chúc.
Như vậy, có thể thấy, Hồ Chí Minh viết hoặc sửa di chúc vào mỗi dịp sinh nhật. Điều này cũng có thể hiểu được : chính là vào dịp sinh nhật mà người ta nghĩ đến quỹ thời gian còn lại của mình, nhất là đối với những người cao tuổi. Hồ Chí Minh đã chuẩn bị cho cái chết của mình một cách đầy ý thức, từ nhiều năm trước khi chết.
Bản gốc di chúc thứ nhất và thứ hai đều có ghi quốc hiệu : « Việt Nam dân chủ cộng hòa/ Độc lập, Tự do, Hạnh phúc ». Và đều có ghi chú ở ngay dòng đầu tiên : « Tuyệt đối bí mật ». Đồng thời việc viết và sửa chữa di chúc nhiều lần, việc sửa chữa, thêm bớt từng chữ một, cho thấy rằng, đối với Hồ Chí Minh, di chúc là một văn bản hết sức quan trọng, hết sức có ý nghĩa đối với ông.
Tôi xin xác định rõ : ở đây tôi không đi vào phân tích toàn bộ các văn bản di chúc, không phân tích tư tưởng của Hồ Chí Minh, không đánh giá đúng sai. Có thể tôi sẽ làm việc đó vào một lúc khác nhưng không phải lúc này.
Nhận xét sơ bộ đầu tiên của tôi có thể tóm gọn trong mấy câu hỏi sau đây :
1. Vì sao từ bản di chúc thứ hai ông chọn hình thức viết tay, chứ không đánh máy nữa ? Liệu ta có thể nghĩ đến một trong những câu trả lời khả dĩ : « để không ai có thể sửa đổi hay đánh tráo được » ? Ta biết rằng đối với một văn bản đánh máy, trừ trang có chữ ký ra, bất kỳ trang nào cũng có thể bị thay thế mà… không để lại dấu vết gì. Dù sao đấy cũng chỉ là một phỏng đoán. Nhưng nếu quả thật Hồ Chí Minh đã có linh cảm và lo ngại rằng di chúc của ông sẽ bị sửa chữa sau khi ông chết thì linh cảm và lo ngại ấy quả là chính xác, vì đó chính là điều mà Bộ Chính trị đã làm.
2. Bản di chúc thứ hai, 1968, không có chữ ký, và không có người chứng kiến. Văn bản được công bố với rất nhiều sửa chữa cho phép phỏng đoán rằng đó có thể là một bản nháp. Câu hỏi là : từ sinh nhật 1968 đến sinh nhật 1969 ông Hồ Chí Minh hoàn toàn có thời gian để chép lại văn bản ngắn ấy thành một văn bản hoàn chỉnh, có chữ ký của ông đàng hoàng, như ông đã làm với văn bản thứ nhất, nhưng tại sao ông không làm điều đó ? Tại sao ông mất 5 năm để viết một di chúc, thay đổi, sửa chữa rất nhiều, chứng tỏ nó rất quan trọng đối với ông, mà rốt cuộc ông chỉ để lại một văn bản dang dở và gạch xóa sửa chữa nhằng nhịt như vậy ? Liệu có phải ông Hồ đã viết lại sạch sẽ và ký cẩn thận, nhưng văn bản chính thức có chữ ký đó không còn nữa ?
3. Văn bản năm 1969 chỉ có một trang viết tay, nội dung cho thấy đó là lời mở đầu di chúc, lặp lại một số nội dung đã từng viết ở phần mở đầu của những di chúc trước. Tuy nhiên trông nó như là bản nháp, vì đầu trang không đề quốc hiệu, cũng không có dòng chữ «Tuyệt đối bí mật », như hai bản trước. Chẳng lẽ Hồ Chí Minh chỉ viết phần mở đầu mà không viết phần nội dung chính ? Điều này thật đáng ngạc nhiên. Bởi Hồ Chí Minh hiểu rõ tầm quan trọng của di chúc, hiểu rõ rằng di chúc của ông chính là một văn bản lịch sử. Câu hỏi đặt ra là : Liệu có phải văn bản năm 1969 chỉ có chừng đó không ? Liệu có phải Hồ Chí Minh đã viết một bản di chúc thứ ba rất hoàn chỉnh, vào sinh nhật năm 79 tuổi, nhưng chỉ còn lại một trang nháp, và phần chính của nó đã bị thất lạc, hoặc bị hủy bỏ, hoặc không được công bố ?
Tại sao có những câu hỏi này ?
Lý do như sau : nếu so giữa bản di chúc thứ nhất và bản thứ hai sẽ thấy có những thay đổi rất quan trọng về nội dung. Điều đó cho phép giả định rằng Hồ Chí Minh có thể có những thay đổi còn căn bản và quan trọng hơn nữa trong bản thứ ba. Đồng thời ta cũng biết rằng, bản di chúc được Bộ Chính trị gọi là của Hồ Chí Minh và được Bộ Chính trị công bố sau khi ông chết đã bị sửa đổi so với bản gốc, và bị khôi phục lại những gì mà chính Hồ Chí Minh đã bỏ đi ở trong bản thứ hai. Ngoài ra ngày chết của ông cũng bị Bộ Chính trị tự ý thay đổi, và di nguyện quan trọng của ông về việc chôn cất đã bị Bộ Chính trị phản bội : di nguyện về việc hỏa táng và đem tro chia ra ba miền. Bản « di chúc Hồ Chí Minh » do Bộ Chính trị công bố năm 1969 là một văn bản bị cắt dán, ghép một số đoạn của cả ba văn bản di chúc gốc, đồng thời bị bỏ đi những phần quan trọng nhất liên quan đến việc chôn cất, đến việc miễn thuế cho dân, đến việc chỉnh đốn đảng và những việc cần làm đối với « con người ». Trên thực tế Hồ Chí Minh đã bị phản bội ngay khi vừa nhắm mắt.
Vì vậy, câu hỏi đặt ra là :
Liệu có thể xảy ra trường hợp : trong bản di chúc viết năm 1969 Hồ Chí Minh đã có những thay đổi khiến cho người ta không muốn lưu giữ văn bản ấy ? Liệu có phải bản di chúc cuối cùng, bản di chúc chính thức của Hồ Chí Minh (viết năm 1969, với chữ ký của ông, và là bản mà ông muốn đưa ra trước toàn dân) đã bị biến mất, đã bị hủy bỏ, hoặc đã bị cất giấu, không được công bố ?
4. Bản đánh máy đầu tiên với đầy đủ tất cả những nghi thức cần thiết cho thấy rằng ông Hồ Chí Minh hiểu rõ thế nào là một bản di chúc. Vậy tại sao những bản di chúc về sau (được nhà nước công bố) lại ở trong tình trạng của bản nháp, gạch xóa, tẩy sửa, thiếu những nghi thức cần thiết đó ?
Và câu hỏi là : bản di chúc nào là bản mà ông Hồ muốn đưa ra trước toàn dân ?
Dĩ nhiên, đó không phải là bản viết năm 1965, bởi nó đã bị thay thế bằng các văn bản khác. Từ những gì đã công bố, ít nhất ta biết rằng ông Hồ đã viết lại hoàn toàn di chúc vào sinh nhật năm 1968. Và trong bản gốc viết tay, ông nói rõ lý do, mặc dù sau khi cân nhắc ông gạch bỏ câu này : « Tháng 5/1968, khi tôi xem lại thư này thì tình hình trong nước cũng như tình hình thế giới có rất nhiều thay đổi ». Những thay đổi đó đã khiến cho cách nhìn nhận của ông thay đổi, và ông cảm thấy cần phải viết lại hoàn toàn. Cách đánh số trang của bản viết tay năm 1968 cho thấy rằng đó là một bản hoàn chỉnh, có logic riêng, có cấu trúc riêng, độc lập với văn bản năm 1965. Đó là một văn bản mới hoàn toàn. Việc quốc hiệu được ông Hồ ghi đầu trang cũng là một dấu hiệu xác nhận đó là một văn bản mới. Vậy có nghĩa là văn bản năm 1965 đã bị thay thế bởi văn bản năm 1968. Và phải xem bản viết năm 1965 là không còn hiệu lực ?
Và điều quan trọng, xin nhắc lại : Hồ Chí Minh muốn công bố trước toàn dân bản di chúc nào ?
Chúng ta thấy rõ rằng ông viết di chúc cho toàn thể nhân dân. Bản viết năm 1968 cho thấy nhân dân là đối tượng chính mà ông nghĩ đến. Và việc chôn cất ông, theo như ông dặn lại trong di chúc, là việc của đồng bào ba miền, chứ không phải là việc của Bộ Chính trị.
Thật đáng ngạc nhiên nếu ông muốn công bố cho toàn dân mấy văn bản gạch xóa, thêm bớt nhằng nhịt đó. Tiến hành viết di chúc trong vòng 5 năm hẳn ông phải có một bản hoàn chỉnh, rõ ràng, sạch sẽ, với chữ ký và người chứng kiến, một văn bản có giá trị pháp lý, như là văn bản đầu tiên ? Tại sao không có một văn bản như vậy ? Lẽ nào trước khi mất ông không dặn lại là phải công bố bản di chúc nào ? Phải chăng ông Hồ đã để lại một bản hoàn chỉnh, đảm bảo các thủ tục pháp lý, nhưng bản đó đã không được công bố ?
Những câu hỏi trên đây tôi không trả lời được. Tôi đã đọc rất kỹ cuốn « Bác Hồ viết di chúc » do NXB Sự Thật in năm 1989, được gọi là Hồi ký của Vũ Kỳ, do Thế Kỷ ghi, tuy nhiên tôi không tìm thấy câu trả lời khả dĩ nào cho các nghi vấn trên đây.
Hy vọng giới sử học chân chính một ngày nào đó sẽ làm sáng tỏ.
Trên thực tế chúng ta không biết bản nào là bản di chúc chính thức, chúng ta không biết Hồ Chí Minh muốn công bố bản nào. Hiện tại thì bản cuối cùng tương đối đầy đủ mà chúng ta có là bản thứ hai, bản được viết năm 1968. Và tôi đành phải làm việc trên những gì còn lại và được công bố.
Xin quý độc giả, và nhất là các bạn thanh niên và sinh viên đang bị nhồi nhét và bị tẩy não bởi phong trào « Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh », hãy đọc kỹ các văn bản gốc của Hồ Chí Minh ở phần phụ lục dưới đây. Các bạn hãy đọc kỹ những gì đã bị ông ấy bỏ đi trong bản di chúc thứ hai, và hãy tự phân tích xem vì sao ông ấy không muốn giữ chúng lại, vì sao ông ấy xóa bỏ đi, và vì sao chúng lại được Bộ Chính trị khôi phục trong bản « di chúc» mà họ công bố năm 1969 sau khi ông ấy chết.
Có thể các bạn sẽ cảm nhận được sự dối trá đang đè nặng lên cuộc sống của các bạn như thế nào khi các bạn đối chiếu với những gì mà các bạn đang được rao giảng, qua tài liệu của Ban Tuyên giáo soạn cho các bạn. Có thế các bạn sẽ đặt câu hỏi về việc tại sao Đảng, Nhà nước lại chi tiêu tốn kém như vậy cho cái màn kịch khổng lồ đem diễn trên toàn quốc (nhất là trong các trường học) từ nhiều năm nay về việc « học tập » này.
Có thể các bạn sẽ xác định được vì sao những người cố tình phản bội Hồ Chí Minh lại bắt các bạn phải « học tập » ông ấy. Và có thể các bạn sẽ thấy rằng những thứ họ đang nhồi nhét các bạn lại chính là những thứ mà bản thân Hồ Chí Minh đã từ bỏ, trước khi chết.
Paris, 23/4/2015
Nguyễn Thị Từ Huy
Phụ lục I
VIỆT NAM ZÂN CHỦ CÔNG HOÀ
Độc lập, Tự zo, Hạnh fúc
-------------------------
Độc lập, Tự zo, Hạnh fúc
-------------------------
Tuyệt đối bí mật Nhân zịp mừng 75 tuổi
Người làm thơ rất nổi tiếng, ở Trung-quốc đời nhà Đường là cụ Đỗ -Fủ có câu thơ rằng “nhân sinh thất thập cổ lai hy”. Ngĩa là: Người thọ 70, xưa nay hiếm.
Nǎm nay, tôi đã 75 tuổi. Tinh thần vẫn sáng suốt, thân thể vẫn mạnh khỏe. Tuy vậy, tôi cũng đã là lớp người “xưa nay hiếm”.
Ai đoán biết tôi sẽ sống và fục vụ Tổ quốc, fục vụ cách mạng mấy năm mấy tháng nữa?
Vì vậy, tôi để lại mấy lời này, chỉ nói tóm tắt vài việc thôi. Fòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê-nin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước và đồng chí trong Đảng khỏi cảm thấy đột ngột.
Trước hết nói về ĐẢNG - Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một zạ fục vụ zai cấp, fục vụ nhân zân, fục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân zân ta hǎng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của zân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ fải zữ zìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như zữ zìn con ngươi của mắt mình.
Trong Đảng thực hành zân chủ rộng rãi, thường xuyên và ngiêm chỉnh tự fê bình và fê bình là cách tốt nhất để củng cố và fát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Fải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau.
Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ fải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Fải zữ zìn Đảng ta thật trong sạch, fải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân zân.
Đoàn viên thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hằng hái xung fong, không ngại khó khǎn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chǎm lo záo zục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây zựng chủ ngĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".
Bồi zưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết.
Nhân zân lao động ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng zan khổ, bị chế độ phong kiến và thực zân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều nǎm chiến tranh.
Tuy vậy, nhân zân ta rất anh hùng, zũng cảm, hǎng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân zân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng.
Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để fát triển kinh tế và vǎn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân zân.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể kéo dài mấy năm nữa. Đồng bào ta có thể fải hy sinh nhiều của nhiều người. Dù sao, chúng ta fải quyết tâm đánh zặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.
Còn non, còn nước, còn người,
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây zựng hơn mười ngày nay!
Zù khó khǎn zan khổ đến mấy, nhân zân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định fải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà. Nước ta sẽ có vinh zự lớn là một nước nhỏ mà đã anh zũng đánh thắng 2 đế quốc to - là Fáp và Mỹ; và đã góp fần xứng đáng vào fong trào zải fóng zân tộc.
Về fong trào cộng sản thế giới - là một người suốt đời fục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của fong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hoà hiện nay zữa các đảng anh em!
Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp fần đắc lực vào việc khôi fục lại khối đoàn kết zữa các đảng anh em trên nền tảng chủ ngĩa Mác - Lênin và chủ ngĩa quốc tế vô sản, có lý có tình.
Tôi tin chắc rằng các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ fải đoàn kết lại.
- - -
Về việc riêng Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức đám đình, lãng fí ngày zờ và tiền bạc của nhân zân.
Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, nói chữ là “hỏa táng”. Tôi mong rằng cách “hỏa táng” zần zần sẽ được fổ biến. Vì như thế đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất. Bao zờ ta có nhiều điện, thì “điện táng” càng tốt hơn.
Tro xương thì tìm một quả đồi mà chôn. Gần Tam Đảo và Ba Vì như hình có nhiều đồi tốt. Trên mộ, nên xây 1 cái nhà zản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ để những người đến thăm viếng có chỗ ngỉ ngơi.
Nên có kế hoạch trồng cây trên đồi. Ai đến thăm thì trồng một cây làm kỷ niệm. Trồng cây nào fải tốt cây ấy. Lâu ngày, cây nhiều thành rừng, sẽ tốt cho fong cảnh và lợi cho nông nghiệp.
Nếu tôi qua đời trước ngày nước ta được thống nhất, thì nên gửi một ít tro xương cho đồng bào miền Nam.
Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn zân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng.
Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn, và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế.
Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn zân ta đoàn kết fấn đấu, xây zựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, zân chủ và zàu mạnh, và góp fần xứng đáng vào sự ngiệp cách mạng thế zới.
Hà nội, ngày 15 tháng 5 nǎm 1965
Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh
Chứng kiến
Bí thư thứ nhất
Ban chấp hành trung ương
Lê Duẩn
Phụ lục II
VIỆT NAM ZÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập, Tự zo, Hạnh fúc
(Tuyệt đối bí mật)
Năm nay, tôi vừa 78 tuổi, vào lớp những người “trung thọ”. Tinh thần vẫn sáng suốt tuy sức khỏe có kém so với vài năm trước đây. Người ta đến khi tuổi tác càng cao thì sức khỏe càng thấp. Đó là điều bình thường.
Nhưng không ai đoán biết được tôi sẽ sống và fục vụ Tổ quốc, fục vụ cách mạng mấy tháng, mấy năm nữa?
Vì vậy tôi viết sẵn và để lại mấy lời này, fòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước và đồng chí trong Đảng khỏi cảm thấy đột ngột.
Về việc riêng
Suốt đời tôi hết lòng hết sức fục vụ Tổ quốc, fục vụ cách mạng, fục vụ nhân dân. Nay zù phải từ biệt thế zới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được fục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa.
Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu fúng linh đình, để khỏi lãng fí thì giờ và tiền bạc của nhân zân.
Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức là “hỏa táng”. Tôi mong rằng cách “hỏa táng” sau này sẽ được fổ biến. Vì như thế đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất ruộng. Khi ta có nhiều điện, thì “điện táng” càng tốt hơn.
Tro thì chia làm 3 fần, bỏ vào 3 cái hộp sành. Một hộp cho miền Bắc. Một hộp cho miền Trung. Một hộp cho miền Nam.
Đồng bào mỗi miền nên chọn l quả đồi mà chôn hộp tro đó. Trên mả, không nên có bia đá tượng đồng, mà nên xây 1 ngôi nhà zản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ, để những người đến thăm viếng có chỗ ngỉ ngơi.
Nên có kế hoạch trồng cây trên và chung quanh đồi. Ai đến thăm thì trồng một vài cây làm kỷ niệm. Lâu ngày, cây nhiều thành rừng sẽ tốt cho fong cảnh và lợi cho nông nghiệp. Việc săn sóc nên zao fó cho các cụ fụ lão.
Tháng 5-1968, khi xem lại thư này tôi thấy cần fải viết thêm mấy điểm không đi sâu vào chi tiết.
Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân zân ta đã hoàn toàn thắng lợi, công việc toàn Đảng, toàn quân và toàn zân ta fải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương ngiêm trọng zo đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược zã man. Đó là một công việc cực kỳ to lớn, fức tạp và khó khăn. Chúng ta fải có kế hoạch sẵn sàng, rõ ràng, chu đáo, để tránh khỏi bị động, thiếu sót và sai lầm. Theo ý tôi, việc cần fải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng zao fó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân zân. Làm được như vậy, thì zù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi.
Đầu tiên là công việc đối với con người.
Đối với những người đã zũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, zân quân, du kích, thanh niên xung fong..,), Đảng, Chính fủ và đồng bào fải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời fải mở những lớp zạy ngề thích hợp với mỗi người để họ có thể zần zần “tự lực cánh sinh”.
Đối với các liệt sĩ, mỗi địa fương (thành fố, làng xã) cần xây zựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh zũng của các liệt sĩ, để đời đời záo zục tinh thần yêu nước cho nhân zân ta.
Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa fương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác nông ngiệp) fải zúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét.
Những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân zân và thanh niên xung fong đều đã được rèn luyện trong chiến đấu và đều tỏ ra zũng cảm. Đảng và Chính fủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm các ngành, các ngề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật zỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây zựng thăng lợi chủ ngĩa xã hội ở nước ta.
Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang ta đã góp fần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất. Đảng và Chính fủ cần fải có kế hoạch thiết thực để bồi zưỡng, cất nhắc và zúp đỡ để ngày thêm nhiều fụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân fụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ.
Đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu, v.v.. thì Nhà nước fải zùng vừa záo zục, vừa fải zùng fáp luật để cải tạo họ, zúp họ trở nên những người lao động lương thiện.
Trong bao năm kháng chiến chống Fáp, tiếp đến chống đế quốc Mỹ, đồng bào ta, nhất là đồng bào nông zân đã luôn luôn hết sức trung thành với Đảng và Chính fủ ta, ra sức góp của góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn zan khổ. Nay ta đã hoàn toàn thắng lợi, tôi có ý đề ngị miễn thuế nông ngiệp 1 năm cho các hợp tác xã nông ngiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát zạ, mát lòng, thêm niềm fấn khởi, đẩy mạnh sản xuất.
Ở đây nói về kế hoạch xây zựng lại thành fố và làng mạc đẹp đẽ, đàng hoàng hơn trước chiến tranh. Khôi fục và mở rộng các ngành kinh tế. Fát triển công tác vệ sinh, y tế. Sửa đổi chế độ záo zục cho hợp với hoàn cảnh mới của nhân zân, như fát triển các trường nửa ngày học tập, nửa ngày lao động. Củng cố quốc fòng. Chuẩn bị mọi việc để thống nhất Tổ quốc...
Công việc trên đây là rất to lớn, nặng nề, và fức tạp, mà cũng là rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để zành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn zân, tổ chức và záo zục toàn zân, zựa vào lực lượng vĩ đại của toàn zân.
Phụ lục III :
10-5-1969
10-5-1969
Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân zân ta zù phải kinh qua zan khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn.
Đó là một điều chắc chắn.
Tói có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc, để chúc mừng đồng bào, cán bộ, và chiến sĩ anh hùng, thăm hỏi các cụ fụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta.
Kế theo đó, tôi sẽ thay mặt nhân zân ta thăm và cảm ơn các nước anh em trong fe xã hội chủ ngĩa, và các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và zúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân zân ta.
Ông Đỗ Fủ là người làm thơ rất nổi tiếng ở Trung Quốc, đời nhà Đường, có câu rằng “nhân sinh thất thập cổ lai hy” ngĩa là “người thọ 70, xưa nay hiếm”.
Năm nay, tôi vừa 79 tuổi, đã là hạng người “xưa nay hiếm” nhưng tinh thần, đầu óc vẫn rất sáng suốt, tuy sức khỏe có kém so với vài năm trước đây. Khi người ta đã ngoại 70 xuân, thì tuổi tác càng cao, sức khỏe càng thấp. Điều đó cũng không có gì lạ.
Nhưng ai mà đoán biết tôi còn fục vụ cách mạng, fục vụ Tổ quốc, fục vụ nhân zân được bao lâu nữa?
Vì vậy tôi để sẵn mấy lời này, fòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột.
Thursday, April 23, 2015
HỒI KÝ TRẦN THÚC LÂN
Chân dung tỵ nạn
Chân Dung Tỵ Nạn - Họa sĩ Trần Thúc Lân
Phùng Mai - Bức tranh "Chân Dung Tỵ Nan" là bức tranh sơn dầu, dài hơn 3m cao 1m do họa sĩ Trần Thúc Lân từ Paris vẽ trong suốt 2 năm trời đã hoàn tất vào đúng tháng 4 năm nay để kỷ niệm 40 năm Việt Nam đắm chìm trong gông cùm cộng sản. Lộ trình bức tranh này bắt đầu được chính họa sĩ kể lại trong một bài hồi ký dưới đây, chúng tôi nhận thấy đây là một tác phẩm rất công phu nên giới thiệu đến quý bạn đọc. Bức tranh sơn dầu này sẽ được triển lãm ở Kennedy Center vào tháng 6, sau đó lưu trữ ở San Jose Viet Museu
Cánh Hải Âu
Hồi Ký – Trần Thúc Lân
Khoảng vài tuần trước ngày Quốc Hận thứ 38, (Friday, May 17, 2013) tôi nhận được thư của anh Lê Minh bên Úc. Anh Lê Minh một lần nữa lại ủng hộ Quỹ Tù Nhân Lương Tâm bằng cách đặt tranh tôi vẽ. Tôi thật cảm kích với hảo tâm của anh ấy vì xung quỹ với tiền công làm việc cực nhọc ở cái tuổi mà thường tình người ta chỉ mong sớm được về hưu an nghỉ. Nhưng lần này không như thường lệ, anh không đặt chân dung cho một người hùng Chiến Sĩ Tự Do nào, mà lại đặt chân dung của ‘chúng ta’, của Thuyền Nhân!! Lẽ dĩ nhiên tôi rất hân hạnh được nhận vẽ, nhưng tôi không khỏi nôn nao bồi hồi, phần vì hăng hái trước một dự án đối với tôi ‘lớn lao’, phần thì lại lo lắng trước sự phức tạp của chủ đề khi sức tôi mỗi ngày một yếu…
Thế là kế tiếp những đêm mất ngủ băn khoăn suy nghĩ, những ngày tìm tòi tài liệu hình ảnh… Tôi tự hứa sẽ không mang hình ảnh đến từ trong ký ức và kinh nghiệm của bản thân vì không muốn hạn chế bức tranh với những kỷ niệm riêng tư của tôi. Phần thì phải nói, gợi lại những hình ảnh hay nói đúng hơn những ám ảnh đó quá hãi hùng, quá đau đớn cho tôi… Tôi ước muốn vẽ cho mọi Thuyền Nhân chứ không chỉ vẽ về cuộc vượt biên của riêng tôi. Phải chăng đó chỉ là một dụng cớ để tránh nhớ lại những gì tôi đã tự hứa khóa chặt trong tâm não?... Tôi chú tâm tìm đọc trên mạng thật nhiều chuyện thuật lại hành trình khốn khổ của biết bao Thuyền Nhân… Lẽ dĩ nhiên, tôi không còn cứng rắn đủ như xưa kia để cầm lại nước mắt, và tự nhủ, Quốc Hận năm nay, không những mình đã tưởng niệm mà lại còn có cảm tưởng như đã để tang thật kỹ thật nhiều…
Nội dung của bức tranh từ từ hiện lên trong đầu tôi... Cả lộ trình của biết bao nhiêu người thì làm sao vẽ trong một bức được… Vì thế phải nhiều bức ráp lại với nhau như để biểu tượng những đoạn trường phải trải qua trên lộ trình vượt biên, hay để gợi lên những mảnh đời tan nát, chia lìa cũng như những cuộc hội ngộ, đoàn tụ sau bao tuyệt vọng, những câu chuyện riêng đã in hằn trong tâm ức chung của người Việt tỵ nạn… Và để ráp những bức đủ cỡ đó lại với nhau, tôi cần tìm một yếu tố làm cái ‘fil conducteur’, một dây nối tượng hình để gắn liền các bức tranh lại với nhau… Và tôi tìm được nó khi hồi tưởng lại câu chuyện sau đây…
Mùa Thu năm 1981, lúc ấy tôi mới sang tỵ nạn tại Paris chưa được 2 năm. Tôi đi chạy hầu bàn ở nhà hàng ĐV ở quận 5. Một chiều tối, một cặp vợ chồng Tây đã đứng tuổi, rất sang trọng bước chân vào quán. Nghe họ nói chuyện với nhau tôi cứ tưởng họ người Gia-nã-đại. Tôi mời chào và giải nghĩa thực đơn bằng tiếng Anh, và người đàn ông lớn tuổi hỏi tôi: 'Anh không nói giọng Mỹ như nhiều người Việt tôi từng gặp! Sao lạ thế?'. Tôi cười xuề xòa: 'Dạ thưa ông, không có giọng Mỹ, nhưng chắc chắn là có giọng Việt Nam chính cống! Giọng của ông thì tôi đoan chắc là tiếng Anh của Nữ Hoàng (Queen’s english), nhưng bà nhà có phải là người Gia-nã-đại? ' Ông ta tươi cười: 'Anh chỉ đúng một nửa. Tôi là người Anh, vợ tôi đây người Bỉ. Tên tôi là Peter Townsend, tôi vừa hoàn tất một quyển sách về một hành trình của Thuyền Nhân, nên tôi đã gặp và phỏng vấn nhiều người Việt trong các trại tỵ nạn ở mọi nơi…'
Vì bàng hoàng, tôi hấp tấp hỏi ông một cách vụng về và vô duyên: 'Thế thì ông có quen với Cha Hugo không?', cứ như là hễ một người Anh nào mà quan tâm đến Thuyền Nhân đều phải biết linh mục này mà chính tôi lúc đó cũng chưa gặp mặt và cũng chẳng biết tên họ của linh mục này là gì. Người ta vốn nói ‘Thánh nhân đãi kẻ khù khờ’, thì trước câu hỏi ngu ngơ của tôi ông Townsend trố mắt, ngạc nhiên đến ngớ ra: 'Làm thế nào anh biết cả con trai tôi à?'. Đến phiên tôi giật mình và chống chế vội vã: 'Trời ơi! Ông là bố của… Chả là con gái tôi đang đi học ở Luân-Đôn, nó thuộc về giáo xứ của Cha Hugo, và đã được Cha dẫn đến thăm trại tạm cư của các Thuyền Nhân, gần giáo xứ, ngay giữa lòng Luân-Đôn!...'. Ông Townsend gật gù và thoải mái hơn, nên đùa: 'Trong một khoảng khắc, tôi cứ tưởng là người Việt nào cũng thần giao cách cảm, đọc được trong đầu của người đối diện chứ!'…
Sau bữa ăn, ông ta chìa cho tôi một tấm thiệp có tên tuổi và địa chỉ của ông và nói một cách rất chân tình: 'Khi nào anh có rảnh, gọi điện thoại số này cho tôi, rồi lên tôi dùng trà, tôi có một vài chuyện muốn hỏi anh để tìm hiểu thêm về Thuyền Nhân Việt Nam…'. Tôi hân hạnh quá, được gặp rồi lại được mời đến nhà thân phụ của một linh mục Anh mà con gái tôi hết lời khen ngợi… Ngoài ra tôi không biết gì hơn về ông Peter Townsend cả, ngoài quyển sách ông vừa đề cập đến!
Thế rồi một ngày tôi lấy hết can đảm gọi điện thoại và may mắn được ông Townsend nhận ra và hẹn đến nhà ông. Tôi có cố ăn mặc chỉnh tề mà càng đến gần nhà ông lại càng cảm thấy mình như anh ngố mới ra tỉnh. Ông ở một căn lầu trong một biệt thự dưới chân tháp Eiffel lộng lẫy và khổng lồ. Tất cả trong nhà ông đều sang trọng, quý phái làm sao… Tôi tự hỏi, tại sao một người như ông ta, đáng tuổi cha, chú tôi lại muốn hỏi chuyện với một người tỵ nạn tầm thường như tôi? Chắc cũng nhờ Cha Hugo, tôi nghĩ… Rồi trước lời chào đón vô cùng nồng nhiệt và bình dị, tôi bớt hết hồi hộp lo lắng…
Ông Townsend làm trà và mang rót cho tôi, lần đầu tiên tôi thấy sữa đổ vào tách trà. Rồi ông hỏi han về cuộc vượt biên của tôi. Tôi kể lại cho ông, đến những lúc tôi xúc động, cái tách trà cũng run lên lách cách trong tay tôi. Dù nước mắt tôi lưng tròng, tôi cũng thấy được lòng cảm thông trong ánh mắt long lanh của ông. Ông kể đã đi thăm rất nhiều trại tỵ nạn từ Mã-Lai đến Hồng-Kông, từ Thái-Lan sang Phi-Luật-Tân. Nghe kể bao nhiêu chuyện qua lời thông dịch, không làm sao trung thực hoàn toàn được nhưng cũng đủ cho ông thấu hiểu hoàn cành hãi hùng của bao mạng người nhỏ bé giữa đại dương… "Chuyện người nào tôi biết đến cũng thương tâm cả… Làm sao kể lại hết tất cả mọi chuyện… Cuối cùng tôi phải chọn lựa kể lại một chuyện mà tôi cảm thấy là ‘kinh hoàng’ (terrifying) nhất và tôi theo dõi câu chuyện đó cho đến cùng. Đó là câu chuyện của một cô bé gái đi vượt biên cùng người anh/em (brother) trên một chiếc thuyền cọc cạch, không thể nào tồn tại giữa sóng gió biển cả. Trên tàu nhiều người đã đuối sức chết vì đói khát, bệnh hoạn vì lênh đênh quá lâu, cuối cùng tàu tạt vào một bãi san hô… Hai anh em cùng vài người sống sót tập bắt chim hải âu, phơi khô để ăn… cho đến ngày chỉ còn lại có cô bé gái, một mình giữa bao xác chết, chơ vơ trên một bãi san hô mỏng manh giữa trời nước… May mắn sao, vài ngày sau đó một tàu hàng hải đã cứu vớt. Tôi muốn tìm hiểu thêm về nội tâm của cô bé cũng như sự tự tồn của một con người trong một thảm cảnh như vậy. Tôi chỉ tiếc là khía cạnh tâm lý tôi không tường thuật được đầy đủ vì ngôn ngữ và tuổi đời của cô bé không cho phép diễn tả hết được. Tôi đã bao lần suýt chết trong Thế Chiến thứ 2, nhưng tôi tự hỏi nếu tôi ở trong trường hợp cô bé gái ấy, liệu tôi có còn đủ sáng suốt để kể lại không? Tôi muốn thuật lại qua quyển sách này một chuyện thật, để cho thế giới của tôi (my world) hiểu biết hơn về thảm cảnh của Thuyền Nhân Việt Nam, hầu cưu mang họ… Anh đừng hiểu nhầm tôi, không phải là sự tội nghiệp đã thúc đẩy tôi viết… họ khốn khó thật đấy, nhưng họ rất kiêu hãnh, cái phẩm cách của những người đã đi qua địa ngục và sống còn. Qua những ngày tháng đi tìm hiểu về họ, tôi thấy tôi cảm phục họ, họ thu hút đầu óc (fascinate) tôi trên rất nhiều khía cạnh mà tôi mong anh có thể giúp tôi hiểu rõ hơn."
Tôi chỉ tạc ghi trong lòng từng lời ông Townsend nói, hình như tôi không còn nhớ những gì tôi đáp lại ông, như thể những câu trả lời ấy chẳng có ký-lô nào… Tôi chỉ nhớ là lúc đó tôi như mở cờ trong bụng là có những người ngoại quốc suy nghĩ như ông ta. Đây là những điều chính ông đã bày tỏ hôm đó:
Grapevine/Truyền miệng: "Người Anh-quốc chúng tôi gọi hiện tượng này là ‘grapevine’, tin truyền miệng. Trong trường hợp của cô bé gái trong sách của tôi thì cái guồng máy ‘truyền miệng’ của cộng đồng tỵ nạn Việt Nam thật là kỳ diệu, phi thường! Tôi theo dõi trường hợp cá nhân này và tôi phải nể phục, không thiếu phần bàng hoàng, băn khoăn tự hỏi: Họ làm cách nào hay vậy? Một cô bé gái, một thân một mình đến trại ở một nơi xa lạ, không có một phương tiện truyền thông, truyền hình, giấy tờ hành chánh, hay bất cứ một hệ thống liên lạc tân tiến nào… thế mà chỉ qua người này nhắn đến tai người nọ mà tìm lại được cha mẹ (đi trong chuyến tàu khác, trôi dạt đến một nước khác) và cuối cùng gia đình được đoàn tụ và định cư ở Úc. Không chỉ riêng tôi, trong UNHCR (Cao ủy Tỵ Nạn LHQ) ai cũng đã một lần ngạc nhiên khi thấy cách liên lạc tìm kiếm thân nhân không cần sổ sách, giấy tờ (records) gì cả nhưng rất hữu hiệu, xuyên qua tất cả biên giới toàn cầu!?!"
Chiến tranh, Hòa bình và Tự do: "Tôi đã từng chiến đấu để bảo vệ đất nước tôi. Và tôi đã viết sách tường thuật về mặt trận ‘Battle of Britain’ của không quân Vương Quốc Anh (RAF) với không quân Đức Quốc Xã (Luftwaffe). Những gương can đảm tôi đã chứng kiến trong thời chiến, nhưng tôi phải nể sự can đảm của người Việt trong cuộc di dân có thể gọi là một biến cố lịch sử, nhất là khi chiến tranh đã chính thức chấm dứt! Cái gì thúc đẩy họ sẵn sàng bỏ đất nước, liều chết để ra đi? Họ chạy trốn Cộng sản, nhưng khi hỏi thì họ đều nói họ đi tìm Tự do! Tôi có cảm tưởng như họ hãy còn sợ là thế giới bên ngoài chưa lường được đến mực nào ‘Cộng sản là đối tượng của Tự do’. Cái ý thức của họ về chữ Tự do đó mới thật là chính đáng. Khi tôi nghĩ, nước tôi đã đẻ ra cái phong trào Hippy, đưa đến phản chiến, vô tình đã đẩy đưa số phận dân miền Nam Việt Nam vào đường cùng. Cái lũ hippies thời đó chúng xuống đường đòi Tự do, chúng có hiểu Tự do là gì đâu, cái tự do của một lũ lớn lên trong thời bình, chưa biết hy sinh một ngày cho đất nước, chưa biết chiến tranh nhưng đòi hòa bình, sống với đầy đủ các quyền công dân nhưng đòi tự do, cái tự do để yêu đương, để hút sách, để đồi trụy, để hèn nhát, cái loại tự do rẻ tiền, ích kỷ, vô trách nhiệm đó có ngờ đâu đã mang lại sự mất mát của chữ Tự do cao quý của bao nhiêu người ở bên kia trái đất! Tôi muốn gửi bọn chúng đi nghỉ hè bên kia Màn Sắt để học lại định nghĩa của chữ Tự do. Anh biết không, có một Thuyền Nhân nói vói tôi mà tôi nhớ mãi: ‘Khi nằm trên tàu trôi dạt, ai không mơ được bay lượn như cánh hải âu… Ao ước Tự do của chúng tôi đấy!’. Theo tôi, nếu cánh bồ câu tượng trưng cho hòa bình, thì hình ảnh đẹp nhất của Tự Do, phải là cánh hải âu ! Lúc đầu tôi muốn đặt tên quyển sách là The White Seagull (Con Hải Âu Trắng) nhưng sau với nhà xuất bản tôi phải đổi lại thành The Girl In The White Ship (Bé Gái Trên Chiếc Thuyền Trắng), để không nhầm với một tên sách khác đã ấn bản."
Hơn hai mươi năm sau buổi chiều đó, giờ đây tôi có dịp cám ơn ông Townsend một lần nữa, lần này qua những dòng chữ này. Ông đã nhắc nhở cho tôi hình ảnh Cánh Hải Âu trong bức tranh tôi đang phác họa. Ông qua đời đã trên 15 năm rồi, và tôi cũng đã có dịp được hiểu biết tên tuổi lẫy lừng của ông, một anh hùng của Vương Quốc Anh trong Đệ Nhị Thế Chiến, người yêu oan trái của Công Chúa Margaret… Nhưng trong tôi, tôi sẽ giữ mãi hình ảnh của ông chiều hôm đó, một người quý phái nhưng bình dị, cao cả nhưng khiêm nhường, từng trải nhưng luôn băn khoăn, lạnh lùng kín đáo nhưng đầy tình cảm… và ông đã quan tâm đến Thuyền Nhân Việt Nam! Cám ơn ông.
Hồi Ký – Trần Thúc Lân
VIỆT CỘNG CŨNG VƯỢT BIÊN
Người tị nạn miền Bắc sau chiến tranh
Sau khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc, không chỉ có làn sóng những người miền Nam rời bỏ quê hương mà còn rất nhiều người ở phía Bắc cũng quyết định ra đi để tìm cho mình một tương lai tốt đẹp hơn ở các nước khác. Nhiều người trong số họ đã bỏ mạng ngoài khơi, có người đã bị cưỡng bức hoặc phải tự nguyện hồi hương, nhưng cũng có người đã may mắn được định cư ở một nước thứ ba.
Sau đây là câu chuyện của hai gia đình phía Bắc với những số phận khác nhau sau khi tìm đường vượt biên vào những năm 80.
Trong số những người ra đi từ Hải Phòng, có anh Thụy. Vì lý do tế nhị cho gia đình ở Việt nam, anh không muốn nêu danh tính đầy đủ. Hòa vào làn sóng người vượt biên, anh Thụy và gia đình gồm cha mẹ, anh chị em, tất cả 12 người đã bắt đầu hành trình vượt biên vào năm 1981. Nhớ lại thời điểm vượt biên năm 1981, anh Thụy nói:
"Anh Thụy: Mình thấy cuộc đời chán nản quá. Mọi người đều đi nên mình cũng phải đi. Nói đúng ra lúc đó mình ở Việt Nam thì giấy tờ mình có đâu. Lúc ấy giấy tờ mình không có, như kiểu người thừa. Xin giấy chứng minh khó, xin không được. Mình vừa làm ngư dân, vừa buôn bán thấy cuộc sống chán."
Anh Thụy cho biết gia đình anh theo công giáo và chính phủ không thích người công giáo, dù không ra mặt. Theo anh, đó là một trong những nguyên nhân khiến anh và gia đình gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Vốn là ngư dân, quen biển, biết đường, anh Thụy và gia đình không phải đóng tiền để lên thuyền vượt biên vì anh sẽ là người lái tàu. Theo anh, trung bình một người lúc đó phải đóng từ 2 đến 3 chỉ vàng để vượt biên, một số tiền không nhỏ với phần đông người dân lúc đó.
Những con tàu vượt biên từ Hải Phòng chở hàng chục có khi hàng trăm người, và phần lớn nhắm đến hướng Hong Kong vì đó được coi là điểm đến gần nhất. Trong rất nhiều chuyến tàu vượt biên, có những con tàu đã không bao giờ tới đích. Anh Thụy cũng đã từng nghe có chuyến tàu vượt biên bị đắm, mất tích:
Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, từ năm 1975 đến 1997, tổng số có khoảng 839,000 người Việt Nam vượt biển bằng thuyền đến các trại tị nạn trong khu vực. Liên hiệp quốc ước tính, ít nhất 10% trong số này đã phải bỏ mạng ngoài khơi.
Chuyến vượt biên của gia đình anh Thụy vào năm 1981 đã không thành vì bị công an phát hiện. Những lần vượt biên sau của anh và gia đình cũng không sáng sủa gì hơn:
"Hai lần đầu tiên trước khi tập kết ra đi thì bị công an bắt, một lần đi đến đảo Cô Tô sát biên giới Trung Quốc thì bị bão, dạt vào đảo thuộc Quảng Ninh, bịt dốt ở lán 14 mất mấy tháng ( ở Tuy Quang, Quảng Ninh), rồi được ra. Ra rồi đi tiếp và bị bắt tiếp. Rồi bị giam ở Trần PHú ở Hải Phòng, bị tòa án thành phố Hải Phòng xử tù 36 tháng tức 3 năm. Xong rồi về thì đi chuyến cuối cùng thì thoát, lần cuối thì đi độc thân, có một mình, lúc đó chưa có gia đình."
Anh Thụy bị kết án tù với tội tổ chức người trốn đi nước ngoài, phản bội tổ quốc. Gia đình anh sau nhiều lần vượt biên không thành đã bị nhà nước tịch thu tài sản. Việc tìm kiếm công ăn việc làm, buôn bán lại càng trở nên khó khăn hơn. Điều này càng thúc đẩy anh phải vượt biên bằng mọi giá.
Vào năm 1987 anh vượt biên bằng thuyền lần thứ 4 cùng người em trai và đi thoát tới Hong Kong sau 25 ngày trên biển và trên đất Trung Quốc. Đến Hong Kong vào năm 1987, anh Thụy là một trong số những người tị nạn Việt Nam may mắn thoát khỏi giai đoạn thanh lọc, không bị giam trong trại cấm, được đi làm tự do kiếm tiền, và chỉ phải chờ tiếp kiến để được đi nước thứ ba.
Từ ngày 16 tháng 6 năm 1988, Hong Kong bắt đầu chính sách trại cấm và thanh lọc khiến hàng ngàn người tị nạn Việt nam phải trở về nước dưới dạng cưỡng bức hoặc tự nguyện hồi hương.
Những nước nhận nhiều người tị nạn Việt Nam lúc đó bao gồm Hong Kong, Indonesia, Malaysia, Philippines, và Thái Lan. Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, tính đến khoảng giữa năm 1979, đã có khoảng 200,000 người tị nạn Việt Nam nằm rải rác ở các trại tị nạn trong khu vực.
Năm 1979, Liên Hiệp Quốc tổ chức hội nghị quốc tế về người tị nạn Đông dương, thừa nhận quy chế tị nạn cho những những người tị nạn Việt Nam ở các trại tị nạn trong khu vực, mở đường cho việc họ được đi định cư ở nước thứ ba.
"Từ năm 79 đến 89 có một khung pháp lý rõ ràng là những thuyền nhân Đông dương đều được đi định cư. Đó là lý do có con đường đi. Đó là lý do đi nhiều người. Đặc biệt nữa là đầu thập niên 80, kinh tế Việt nam xuống rất rõ. Lúc đó chưa có đổi mới. Lúc đó sự đàn áp, áp bức lên rất cao, vào đầu những năm 80. Sau đó người ta ồ ạt ra đi."
Làn sóng người ồ ạt ra đi đã vào những năm 80 sau hội nghị của Liên Hiệp quốc vào năm 1979 đã khiến một số nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia phải đẩy thuyền của người tị nạn Việt nam trở lại ngoài khơi để tránh tình trạng quá tải.
Hong Kong vào năm 1988 đã tự quyết định lập ra trại cấm. Những người đến Hong Kong vào sau ngày 16 tháng 6 năm 1988 phải vào trại cấm, không được đi làm và phải qua thanh lọc khắt khe. Cơ hội được định cư ở nước thứ ba của họ trở nên mong manh.
Gia đình anh chị Hà và Bình nằm trong số những người không may mắn khi họ đến Hong Kong vào đầu năm 1990. Anh Bình nhớ lại những bức xúc của mình khi đó
"Tất cả những người Việt Nam tị nạn cộng sản đến các nước trước 16 tháng 6 năm 1988 đương nhiên được công nhận tịn nạn. Tại sao vẫn những con người đó chỉ sau có một ngày thôi, sau mốc đó lại phải qua thanh lọc, bị dán cho cái mác là di dân kinh tế?"
Anh chị là những người sinh ra và lớn lên ở Hà Nội. Họ cũng ra đi từ Hải Phòng, đến Trung Quốc rồi cuối cùng cập cảng Hong Kong. Anh Bình không cho rằng lý do kinh tế là lý do chính đã đẩy đôi vợ chồng trẻ mới cưới nhau phải rời bỏ quê hương, gia đình, và bạn bè vào cuối năm 1989:
"Cuộc sống lúc đó so với mọi người là bình thường. Mình không có khó khăn về kinh tế. Mình ra đi còn phải đóng nhiều tiền, không phải ai cũng có thể vượt biên được, không phải ai cũng có tiền để đóng để đi. Nhưng lúc đó mình chỉ nghĩ là sang bên này được tự do hơn, cuộc sống thay đổi hơn."
Sau đây là câu chuyện của hai gia đình phía Bắc với những số phận khác nhau sau khi tìm đường vượt biên vào những năm 80.
Vượt thoát
Những năm cuối thấp niên 70, và 80, Hải Phòng và Quảng Ninh, hai cảng biển lớn ở phía Bắc Việt Nam, là những nơi chứng kiến nhiều đoàn người tìm đường vượt biên theo đường biển. Phần đông trong số họ là những người đến từ các tỉnh phía Bắc.Trong số những người ra đi từ Hải Phòng, có anh Thụy. Vì lý do tế nhị cho gia đình ở Việt nam, anh không muốn nêu danh tính đầy đủ. Hòa vào làn sóng người vượt biên, anh Thụy và gia đình gồm cha mẹ, anh chị em, tất cả 12 người đã bắt đầu hành trình vượt biên vào năm 1981. Nhớ lại thời điểm vượt biên năm 1981, anh Thụy nói:
"Anh Thụy: Mình thấy cuộc đời chán nản quá. Mọi người đều đi nên mình cũng phải đi. Nói đúng ra lúc đó mình ở Việt Nam thì giấy tờ mình có đâu. Lúc ấy giấy tờ mình không có, như kiểu người thừa. Xin giấy chứng minh khó, xin không được. Mình vừa làm ngư dân, vừa buôn bán thấy cuộc sống chán."
Anh Thụy cho biết gia đình anh theo công giáo và chính phủ không thích người công giáo, dù không ra mặt. Theo anh, đó là một trong những nguyên nhân khiến anh và gia đình gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Vốn là ngư dân, quen biển, biết đường, anh Thụy và gia đình không phải đóng tiền để lên thuyền vượt biên vì anh sẽ là người lái tàu. Theo anh, trung bình một người lúc đó phải đóng từ 2 đến 3 chỉ vàng để vượt biên, một số tiền không nhỏ với phần đông người dân lúc đó.
Những con tàu vượt biên từ Hải Phòng chở hàng chục có khi hàng trăm người, và phần lớn nhắm đến hướng Hong Kong vì đó được coi là điểm đến gần nhất. Trong rất nhiều chuyến tàu vượt biên, có những con tàu đã không bao giờ tới đích. Anh Thụy cũng đã từng nghe có chuyến tàu vượt biên bị đắm, mất tích:
Có chuyến mất tích hết, đấy là người quen, rồi con bà cô, em bố anh bị công an ở đảo Bạch Long Vĩ bắn chết hết, công an bắn đắm chết hết 28 người."Có chuyến mất tích hết, đấy là người quen, rồi con bà cô, em bố anh bị công an ở đảo Bạch Long Vĩ bắn chết hết, công an bắn đắm chết hết 28 người."Anh Thụy
Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, từ năm 1975 đến 1997, tổng số có khoảng 839,000 người Việt Nam vượt biển bằng thuyền đến các trại tị nạn trong khu vực. Liên hiệp quốc ước tính, ít nhất 10% trong số này đã phải bỏ mạng ngoài khơi.
Chuyến vượt biên của gia đình anh Thụy vào năm 1981 đã không thành vì bị công an phát hiện. Những lần vượt biên sau của anh và gia đình cũng không sáng sủa gì hơn:
"Hai lần đầu tiên trước khi tập kết ra đi thì bị công an bắt, một lần đi đến đảo Cô Tô sát biên giới Trung Quốc thì bị bão, dạt vào đảo thuộc Quảng Ninh, bịt dốt ở lán 14 mất mấy tháng ( ở Tuy Quang, Quảng Ninh), rồi được ra. Ra rồi đi tiếp và bị bắt tiếp. Rồi bị giam ở Trần PHú ở Hải Phòng, bị tòa án thành phố Hải Phòng xử tù 36 tháng tức 3 năm. Xong rồi về thì đi chuyến cuối cùng thì thoát, lần cuối thì đi độc thân, có một mình, lúc đó chưa có gia đình."
Anh Thụy bị kết án tù với tội tổ chức người trốn đi nước ngoài, phản bội tổ quốc. Gia đình anh sau nhiều lần vượt biên không thành đã bị nhà nước tịch thu tài sản. Việc tìm kiếm công ăn việc làm, buôn bán lại càng trở nên khó khăn hơn. Điều này càng thúc đẩy anh phải vượt biên bằng mọi giá.
Vào năm 1987 anh vượt biên bằng thuyền lần thứ 4 cùng người em trai và đi thoát tới Hong Kong sau 25 ngày trên biển và trên đất Trung Quốc. Đến Hong Kong vào năm 1987, anh Thụy là một trong số những người tị nạn Việt Nam may mắn thoát khỏi giai đoạn thanh lọc, không bị giam trong trại cấm, được đi làm tự do kiếm tiền, và chỉ phải chờ tiếp kiến để được đi nước thứ ba.
Từ ngày 16 tháng 6 năm 1988, Hong Kong bắt đầu chính sách trại cấm và thanh lọc khiến hàng ngàn người tị nạn Việt nam phải trở về nước dưới dạng cưỡng bức hoặc tự nguyện hồi hương.
Thanh lọc, cưỡng bức hồi hương, những số phận không may mắn
Bắt đầu từ cuối những năm 70, những khó khăn về kinh tế sau chiến tranh cộng với những hậu quả của cuộc chiến biên giới với Trung Quốc và Khmer đỏ ở Campuchia vào năm 1979 đã làm làn sóng người tị nạn Việt Nam đến các trại tị nạn tại các nước trong khu vực tăng lên nhanh chóng.Những nước nhận nhiều người tị nạn Việt Nam lúc đó bao gồm Hong Kong, Indonesia, Malaysia, Philippines, và Thái Lan. Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, tính đến khoảng giữa năm 1979, đã có khoảng 200,000 người tị nạn Việt Nam nằm rải rác ở các trại tị nạn trong khu vực.
Năm 1979, Liên Hiệp Quốc tổ chức hội nghị quốc tế về người tị nạn Đông dương, thừa nhận quy chế tị nạn cho những những người tị nạn Việt Nam ở các trại tị nạn trong khu vực, mở đường cho việc họ được đi định cư ở nước thứ ba.
Mình không tình nguyện hồi hương mà bị cưỡng bức về. Khì nó trả đất về cho Trung Quốc năm 1997 thì nó muốn xóa trại đi, mình vẫn ở đấy không tình nguyện hồi hương. Khi về là nó bốc về. Một người là hai cảnh sát bốc… có bà cởi hết quần áo ra.Nói về làn sóng người tị nạn Việt Nam vào giai đoạn này, luật sư Trịnh Hội, thuộc tổ chức Voice, một tổ chức phi chính phủ có trụ sở ở Philippines chuyên giúp đỡ những người tị nạn Việt Nam cho biết.Chị Hà
"Từ năm 79 đến 89 có một khung pháp lý rõ ràng là những thuyền nhân Đông dương đều được đi định cư. Đó là lý do có con đường đi. Đó là lý do đi nhiều người. Đặc biệt nữa là đầu thập niên 80, kinh tế Việt nam xuống rất rõ. Lúc đó chưa có đổi mới. Lúc đó sự đàn áp, áp bức lên rất cao, vào đầu những năm 80. Sau đó người ta ồ ạt ra đi."
Làn sóng người ồ ạt ra đi đã vào những năm 80 sau hội nghị của Liên Hiệp quốc vào năm 1979 đã khiến một số nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia phải đẩy thuyền của người tị nạn Việt nam trở lại ngoài khơi để tránh tình trạng quá tải.
Hong Kong vào năm 1988 đã tự quyết định lập ra trại cấm. Những người đến Hong Kong vào sau ngày 16 tháng 6 năm 1988 phải vào trại cấm, không được đi làm và phải qua thanh lọc khắt khe. Cơ hội được định cư ở nước thứ ba của họ trở nên mong manh.
Gia đình anh chị Hà và Bình nằm trong số những người không may mắn khi họ đến Hong Kong vào đầu năm 1990. Anh Bình nhớ lại những bức xúc của mình khi đó
"Tất cả những người Việt Nam tị nạn cộng sản đến các nước trước 16 tháng 6 năm 1988 đương nhiên được công nhận tịn nạn. Tại sao vẫn những con người đó chỉ sau có một ngày thôi, sau mốc đó lại phải qua thanh lọc, bị dán cho cái mác là di dân kinh tế?"
Anh chị là những người sinh ra và lớn lên ở Hà Nội. Họ cũng ra đi từ Hải Phòng, đến Trung Quốc rồi cuối cùng cập cảng Hong Kong. Anh Bình không cho rằng lý do kinh tế là lý do chính đã đẩy đôi vợ chồng trẻ mới cưới nhau phải rời bỏ quê hương, gia đình, và bạn bè vào cuối năm 1989:
"Cuộc sống lúc đó so với mọi người là bình thường. Mình không có khó khăn về kinh tế. Mình ra đi còn phải đóng nhiều tiền, không phải ai cũng có thể vượt biên được, không phải ai cũng có tiền để đóng để đi. Nhưng lúc đó mình chỉ nghĩ là sang bên này được tự do hơn, cuộc sống thay đổi hơn."
Hai anh chị phải đóng 2 cây vàng để được đi. Anh Bình nói với 2 cây vàng vào thời điểm đó, anh chị có thể mua được một căn nhà nhỏ trong ngõ ở Hà Nội.
Sau hơn 4 tháng trời hết đi đường bộ, lại đi đường biển với bao nhiêu trắc trở trên đường vượt biên, anh chị Bình cùng khoảng 100 người khác, tất cả là người miền Bắc cuối cùng cũng đến được Hong Kong vào tháng 2 năm 1990.
Tất cả họ đều không biết về trại cấm Hong Kong, và cũng không nghe được thông tin về cuộc họp của Liên Hiệp Quốc vào tháng 6 năm 1989 với sự ra đời của chương trình CPA (tạm dịch là chương trình hành động toàn diện).
Theo chương trình này, những người tị nạn Việt Nam kể từ đây sẽ phải qua thanh lọc khắt khe. Rất nhiều người trong số họ đã không đáp ứng được những điều kiện đặt ra của chương trình và phải hồi hương, tự nguyện hay bắt buộc.
Chương trình này nhằm giúp các nước trong khu vực đối phó với làn sóng người Việt di cư ồ ạt. Theo luật sư Trịnh Hội, chương trình đã không công bằng với những người Việt tị nạn:
"Thật lòng mà nói trịnh hội nghĩ là chương trình CPA đã có tác động lớn đến việc thuyền nhân Việt Nam bỏ nước ra đi, bởi vì chương trình cpa không công bằng ở chỗ nó ko báo cho người ta biết trước. Ví dụ đến nước này, ví dụ đến Philippines thì là ngày deadline là 21/3 nhưng đến nước nào đó là 16/3… có nghĩa là mạnh nước nào thì nước đó đặt ra ngày đó. Đến trước ngày đó là tị nạn, đến sau là thanh lọc. Nhưng chúng ta nên nhớ rằng chương trình cpa ra đời và được ký kết vào tháng 6 nhưng nó tính lùi ngày vào tháng 3, tức là nó ngày như từ trên trời rơi xuống, muốn ngày nào cũng được. Nó ko công bằng ở điểm đó, chính vì vậy nhiều người không tin tưởng vào chương trình thanh lọc và chương trình thanh lọc có nhiều bất công bởi vì chương trình thanh lọc ko phải do cao ủy tị nạn áp dụng mà do mỗi nước áp dụng. Ở Philippines thì có nhiều vấn đề tham nhũng, Malaysia, Indonesia, Thái, họ để những nước đó là những nước chưa hoàn toàn phát triển được quyền quyết định hoàn toàn về tương lai và sinh mạng mỗi người."
Đến Hong Kong, anh chị Bình và Hà phải sống trong một trại cấm với hàng ngàn người tị nạn Việt Nam khác, phần đông là từ phía bắc. Họ phải sống chung trong những căn phòng với giường tầng. Mỗi phòng hơn trăm người, bao gồm những người độc thân, người có gia đình, người già và trẻ nhỏ. Họ không được đi làm tự do như những người đến Hong Kong từ trước năm 1988, và họ phải chờ được phỏng vấn để thanh lọc.
Anh chị Bình phải chờ đến năm 1992 mới được phỏng vấn lần đầu tiên. Họ phải qua nhiều lần phỏng vấn sau đó và đều thất bại. Thậm chí họ đã phải nhờ đến văn phòng luật sư để được giúp đỡ nhưng cũng không thành. Họ nằm trong số những người bắt buộc phải hồi hương.
Chống lại quyết định bắt hồi hương ở trại, anh Bình cùng nhiều người khác biểu tình phản đối và phải chịu những đàn áp của cảnh sát Hong Kong:
"Thời kỳ đấy bọn anh là những không phải là đi trên đất mà đi trên vỏ lựu đạn cay. Nó bắn lựu đạn cay nhiều đến mức không nhìn thấy mặt đất ở đâu. Lựu đạn vẽ đâu lâu xương chéo cấm sử dụng đàn áp biểu tình thế mà còn ném vào trong trại. Bao nhiêu người dân trong trại, từ lớn đến bé, già trẻ, thế mà nó bắn vô tội vạ, nó bắn từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều."
Nói chung bây giờ qua đây mình thấy cuộc sống thanh thản. Dù ở đâu mình cũng phải làm ăn, ở Việt Nam cũng vậy, mà sang đây cũng vậy, nhưng có cái ở đây mình thảnh thơi đầu óc, không ai kìm kẹp mình nữa, mình sống được tự do hơn.
Anh Bình
Những người không tự nguyện hồi hương như anh chị Bình bị nhốt vào một trại riêng. Đến ngày phải về nước họ bị cảnh sát bắt giải lên máy bay. Chị Hà nhớ lại:
"Mình không tình nguyện hồi hương mà bị cưỡng bức về. Khì nó trả đất về cho Trung Quốc năm 1997 thì nó muốn xóa trại đi, mình vẫn ở đấy không tình nguyện hồi hương. Khi về là nó bốc về. Một người là hai cảnh sát bốc… có bà cởi hết quần áo ra, có người thì dùng đồ sắt rạch vào người cho chảy máu, thế cho nên họ mới kiểm tra trong người có đồ sắt thép bắt vứt hết. Các bà cởi quần áo thì nó lấy chăn cuốn vào rồi khênh. Nó băng bó rồi cũng tống về hết, chẳng có ai ở lại hết."
Đến tháng 11 năm 1997, anh Bình và chị Hà là những người cuối cùng trở về nước theo dạng cưỡng bức.
Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, cho đến năm 1996, đã có khoảng 100,000 thuyền nhân Việt nam trở về nước dưới dạng tự nguyện hoặc cưỡng bức.
Báo cáo của chương trình CPA năm 1996 kết luật, mục tiêu của chương trình đã được hoàn tất.
Kết cục may mắn
Sau 5 năm ở Hong Kong, năm 1992, anh Thụy lúc này đã có vợ, cuối cùng cũng đến Los Angesles, Hoa Kỳ. Anh chị giờ sinh sống ở Westminster và đã có ba người con, hai người con đầu đang học đại học, người con út đang học lớp 12.
Cuộc sống của anh chị trên đất Mỹ cũng ổn định. Thậm chí gia đình anh cũng đã nhiều lần về thăm lại người nhà còn ở Việt Nam.
Anh chị Bình và Hà sau khi trở về Việt Nam tiếp tục gặp nhiều khó khăn từ phía chính quyền địa phương vì lý lịch vượt biên và chống hồi hương trong trại tị nạn ở Hong Kong.
Nhưng đến cuối năm 2014, anh chị cùng cô con gái duy nhất sinh ra ở Hong Kong, cuối cùng cũng đã sang được Canada định cư với sự giúp đỡ của một người bà con. Ngồi trong căn nhà nhỏ ấm cúng ở Calgary, Canada vào một ngày đầu năm 2015, anh Bình vui vẻ nói:
"Nói chung bây giờ qua đây mình thấy cuộc sống thanh thản. Dù ở đâu mình cũng phải làm ăn, ở Việt Nam cũng vậy, mà sang đây cũng vậy, nhưng có cái ở đây mình thảnh thơi đầu óc, không ai kìm kẹp mình mình sống được tự do hơn."nữa,
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/north-refu-aft-war-04232015053228.htmlTRÍ KHÔN LOÀI NGƯỜI
Câu Chuyện Hai Viên Sỏi
Ngày xưa, trong một ngôi làng, có ông nông dân nghèo đã đến ngày phải trả cho lão già kia xấu xí một số tiền rất lớn. Ông nông dân có cô con gái rất xinh đẹp, hợp nhãn lão già chủ nợ, nên lão muốn thương lượng với cha cô gái.
Lão nói sẽ xóa sạch nợ cho ông nông dân nếu ông gả con gái cho lão. Hai cha con nghe thế thì hoảng sợ. Lão già chủ nợ liền đưa ra ý kiến là hãy để cho trò may rủi định đoạt số phận. Lão nói với hai cha con rằng lão sẽ đặt vào túi tiền rỗng hai viên sỏi: một trắng và một đen. Và cô gái sẽ bốc để lấy một trong hai viên sỏi ra khỏi túi.
1) Nếu bốc trúng viên đen, cô phải làm vợ lão và nợ của cha cô sẽ được xóa sạch.
2) Nếu bốc phải viên trắng, cô sẽ không làm vợ lão và nợ của cha cô cũng được xóa sạch luôn.
3) Nếu cô từ chối không bốc thăm, cha cô sẽ bị cầm tù.
Họ nói chuyện này với nhau trước cửa nhà ông nông dân. Trên mặt đất ngay tại đó, có đầy sỏi. Lúc còn đang nói, lão già xấu xí cúi xuống, nhặt hai hòn sỏi. Khi lão nhặt, cô gái tinh mắt để ý, thấy lão lượm hai viên sỏi đen bỏ vào túi. Nhưng cô không nói gì. Rồi lão già chủ nợ yêu cầu cô gái cho tay vào túi để bốc thăm.
Hãy thử hình dung một chút, bạn sẽ làm gì nếu có mặt ở đó. Bạn sẽ khuyên cô gái điều gì ?
Nếu phân tích kỹ, chúng ta sẽ thấy ba điều:
1) Cô gái phải từ chối bốc thăm.
2) Cô gái phải lôi hai viên sỏi đen ra khỏi túi để chứng tỏ rằng lão già đã ăn gian.
3) Cô gái phải bốc ra một viên sỏi đen và hy sinh, chịu lấy lão già để cho cha mình khỏi cảnh tù tội.
Xin hãy suy nghĩ vài giây lát về ba tình huống này.
Câu chuyện có mục đích cho bạn thấy sự khác biệt giữa tư duy lô-gíc (luận lý) và tư duy gọi là “ngoài lề”. Cô gái không thể giải quyết vấn đề cho công minh theo tư duy lô-gíc truyền thống. Hãy nghĩ đến hậu quả của mỗi lựa chọn. Vậy bạn sẽ làm gì?
Còn đây là điều cô gái đã làm:
Cô cho tay vào túi, bốc ra một viên sỏi. Nhưng cô lóng cóng, đánh rơi nó xuống đất, mà chẳng ai thấy kịp. Viên sỏi rơi, nằm lẫn lộn với vô số viên khác trên mặt đất. Cô bèn la lên: “Ôi, tôi thật vụng về! Nhưng không sao! Tôi lấy viên sỏi còn lại ra thì mọi người sẽ thấy ngay là tôi đã bốc trúng viên nào trước thôi mà!”
Vì viên còn lại mầu đen, viên đầu tiên đã bốc thăm chỉ có thể là trắng. Và, vì lão già chủ nợ không dám thú nhận sự gian manh của mình, cô gái đã khiến tình huống, dường như vô vọng cho mình, trở thành kết cục rất có lợi, cứu được cả hai cha-con.
Bài học của câu chuyện này:
Mọi vấn đề phức tạp đều có thể giải quyết thỏa đáng. Chỉ cần chúng ta biết thoát ra khỏi lối suy nghĩ thông thường ..
TIỂU TỬ * MÀI DAO, MÀI KÉO
Mài Dao Mài Kéo - Tiểu Tử
Nói đến "mài dao mài kéo", ở Việt Nam hồi xưa, hồi thời Pháp thuộc, người ta nghĩ ngay đến giới "anh chị"- hạng xâm mình... trên rồng dưới rùa – sửa soạn khí giới để làm "một trận thư hùng" thanh toán nhau hay trả thù nhau. Hồi thời đó, khi đã "nộ khí xung thiên" thì họ đòi "để thẹo" đối thủ hay ít lắm cũng "xin tí huyết". Cho nên dao/kéo – ngoài lãnh vực bếp núc vá may – còn được sử dụng một cách rất... linh động phiêu hốt trong giới giang hồ. Thời bây giờ, văn minh rồi, dao/kéo đã được trả về vị trí nội trợ. Cho nên, khi muốn "xin tí huyết" của kẻ thù, các băng đảng ngày nay chỉ dùng khí giới "hiện đại" để mà... bùm ! Có nhanh, có gọn, nhưng thiếu nét "anh hùng mã thượng".
"Mài dao mài kéo" mà tôi nói ở đây là cái nghề của một ông bạn tôi mới quen, trong thời gian tôi bị kẹt lại ở Việt Nam sau 1975.
... Tôi để ý tới anh ta trong lúc tôi đang nhăm nhi ly cà phê ngon của cái quán cóc nằm dưới mái hiên một căn phố nhỏ. Quán này chỉ có hai cái bàn thấp và bảy tám cái ghế thấp, thấp thấp nhỏ nhỏ giống như đồ chơi trẻ con. Cho tới cái ly cà phê cũng nhỏ xíu, hớp chừng hai hớp là cạn ! Có lẽ vì vậy mà thấy ai tới đây cũng để thì giờ ngồi nhăm nhi từng ngụm nhỏ cà phê chớ không thấy... uống !
Tôi thường xách cái ghế nhỏ ra ngồi cạnh công-tơ nước cách quán chừng hơn bốn thước. Ở đó có cái thùng xi-măng che công-tơ, thùng vuông vức nắp bằng, chỉ cao hơn cái ghế chừng hai tấc và nằm cạnh một bức tường dài. Tôi thích ngồi ở đó vì được cách biệt với cái xô bồ trong quán và nhứt là có bức tường sau lưng để dựa ! Mấy đứa nhỏ trong quán viết nguệch ngoạc bằng than trên tường "Chỗ này của ông Hai nón nỉ" và vẽ một đầu người đội nón, râu lún phún, nét vẽ ngây ngô buồn cười kèm theo một mũi tên chỉ về chữ "ông Hai" ! Tôi rất thích thú với trò trẻ con ngộ nghĩnh đó và nhứt là sự được người trong quán dành riêng cho một chỗ ngồi – một chỗ ngồi không nằm trong phạm vi của quán !
Hôm đó, tôi nghe tiếng rao "mài dao mài kéo" từ đằng xa. Một lúc, thấy anh thợ mài dao ngừng xe đạp trước quán. Anh đem xe lên dựng trên vỉa hè, treo cái nón rơm lên ghi-đong rồi bước vào trong. Xe đạp của anh rất đặc biệt. Đầu tiên là hai cái chống gắn ở đùm bánh sau: khi đạp xuống hai bên, nó giữ xe đạp đứng thẳng một cách vững chắc. Kế đó là thùng đồ nghề phía sau có hai hàng hộc tủ và một ngăn để can nhựa đựng nước. Gắn trên mặt thùng là hai bàn đá mài tròn một lớn một nhỏ có ma-ni-ven, một viên đá bùn và một cái ê-tô. Trên vè bánh xe trước có gắn đứng theo chiều dọc một tấm bảng cỡ ba trang giấy học trò, nền vàng với ba hàng chữ đỏ trên mỗi mặt.
Lúc đó, quán đã đông người. Chắc không còn bàn trống nên thấy anh ta một tay cầm ly cà phê một tay xách cái ghế nhỏ, bước ra khỏi quán ngó quanh tìm chỗ. Tôi vẫy tay gọi:
- Ngồi đây nè.
Hắn mỉm cười gật gật đầu rồi bước lại đặt ly cà phê lên thùng công-tơ:
- Cám ơn ! Cám ơn !
Trước khi ngồi xuống, anh ta liếc nhanh hàng chữ trên tường rồi nhìn cái nón nỉ tôi đang đội, cười tủm tỉm.
Sau khi làm một ngụm cà phê, anh ta rút bao thuốc hướng về phía tôi tỏ ý mời. Tôi lắc đầu. Hắn đốt thuốc hút. Xong để bao thuốc và cái hộp quẹt lên thùng công-tơ, ngã người dựa vào tường, dũi thẳng hai chân, thở khói một cách sảng khoái. Và như vậy, trong im lặng, hắn và tôi nhăm nhi cà phê...
Một lúc sau, thằng nhỏ trong quán mang ra một bình trà:
- Nãy giờ con quên đem trà ra. Đừng phiền nghe ông Hai !
Tôi khoát tay lắc đầu trả lời. Bấy giờ, anh ta mới mở miệng hỏi:
- Chắc anh đến đây thường?
- Ngày nào cỡ giờ này là có tôi ngồi đây. Mặt trời nằm phía sau lưng, nên chỗ này còn mát. Chừng đứng bóng trở đi là không ngồi được.
- Nhà anh gần đây không?
- Cũng gần. Đi bộ chừng năm phút.
- Hổm rày trời không mưa, cũng không nóng lắm. Thấy dễ chịu há?
- Ờ... Mùa này như vậy cũng hiếm.
Ngừng một chút rồi tôi lại hỏi... đẩy đưa:
- Mài dao mài kéo... Anh kiếm ăn được không?
- Tàm tạm. Nhờ bây giờ ai cũng xài đồ cũ hết nên có đồ mài hoài.
- Thấy anh có nhiều đồ nghề quá há !
- Phải như vậy chớ ! Thời bây giờ, cái gì cũng đòi... cao cấp hết. Mình cũng phải phô trương cho thiên hạ tin. Mà đồ của tôi thì bảo đảm là... cao cấp thứ thiệt !
- Ờ... Mà sao chi nhiều dữ vậy?
Anh ta vừa nói, hai tay vừa ra dấu:
- Nè nghen. Bàn mài lớn để "tề" mấy con dao quá sét. Bàn mài nhỏ, mịn hơn để "đi" hai mép của lưỡi dao. Mình quây ma-ni-ven, bàn mài chạy o o, tốc độ gấp năm gấp sáu lần hơn. Dao để tới đâu là nó "ăn" tới đó, lẹ lắm ! Còn viên đá bùn là để làm láng và để chỉnh lại mấy chỗ chưa đều. Còn cái ê-tô là để kẹp mấy con dao mà mình muốn sửa lại cho nó ngay, nó thẳng. Như vậy mới là... cao cấp, anh thấy không?
Tôi gật đầu thán phục. Rót trà vào ly, tôi mời:
- Uống miếng trà đi, anh.
Hắn cầm ly ực một cái rồi lấy mu bàn tay quẹt miệng. Xong, hắn đứng lên cất gói thuốc và hộp quẹt vào túi:
- Thôi. Chào nghen...
Anh ta đội nón, dẫn xe xuống đường, vừa đạp chậm chậm vừa rao kéo dài: "Mài dao mài kéo...".
Hôm sau, anh ta lại ghé quán, cũng vào giờ như hôm qua. Tôi đã ngồi ở công-tơ nước với ly cà phê, và thật ra cũng có ý đợi. Lần này anh ta dựng xe cạnh đó, vừa dựng vừa nói:
- Anh cho phép tôi ngồi ở đây, mình nói chuyện chơi.
Rồi không đợi tôi trả lời, anh đi thẳng vào quán. Một lúc trở ra với ly cà phê, cái ghế và điếu thuốc trên môi phì phà... Anh ngồi xuống, giống tư thế hôm qua. Sau ngụm cà phê, anh hỏi
- Anh không hút thuốc à?
- Tôi bỏ hút lâu rồi.
- Vậy là anh số một ! Tôi bỏ hoài không được. Hồi xưa tôi còn hút bạo hơn nữa chớ không phải như bây giờ đâu !
Tôi đưa mắt đọc thầm ba hàng chữ đỏ trên bảng nền vàng gắn trên bánh trước của xe đạp: "Mài kéo mài dao – Mài sao cho bén – Đừng kén tay mài". Thấy hay hay, tôi rung đùi đọc lại, đọc thành tiếng. Rồi vỗ tay lên mặt thùng công-tơ, khen:
- Hay ! Hay quá ! Sâu sắc quá ! Anh viết đó hả?
- Dạ. Thì... viết bậy vậy mà.
- Đâu bậy? Bộ anh tưởng ai cũng viết bậy nỗi như vậy sao? Phải có trình độ chớ...
Anh ta làm thinh, nhấp cà phê, hút thuốc một lúc mới nói:
- Thời buổi này, "có trình độ" không để làm... khỉ gì hết. Bọn "không trình độ" nó ngồi đầy trên đầu trên cổ thiên hạ, thì người "có trình độ" chỉ còn có... "đi chỗ khác chơi" thôi !
Bây giờ thì tôi đã đoán ra anh ta thuộc về "phe" nào rồi. Tôi hạ giọng:
- Nè ! Sao tôi thấy tấm bảng của anh giống lá cờ của mình quá. Phải không?
Anh ta nhìn tôi, mắt sáng rực. Anh đưa tay bắt tay tôi, giọng sung sướng:
- Anh tinh ý lắm. Bao nhiêu năm nay chưa ai thấy được điều đó hết !
Vậy rồi giữa anh ta và tôi bỗng thấy như thật gần. Anh hỏi tôi:
- Hồi đó anh làm gì?
- Làm "Chef de réseau" của một hãng ngoại quốc (tôi nói chen tiếng Pháp).
- Còn bây giờ?
- Ở không, vợ con ở ngoại quốc gởi tiền về nuôi.
- Ủa? Sao vậy?
- Hồi di tản, tôi bị rớt lại. Còn anh? Hồi trước làm gì?
- Làm báo. Làm hai ba tờ. Chuyên về phiếm, xã luận, truyện ngắn.
- Sao bây giờ đi... mài dao vậy?
- Chớ anh biểu bây giờ tôi viết cái gì? Suốt đời sống trong nghề viết, tự do vung vít quen rồi, đã thành một lập trường, một đường lối. Biểu tôi bẻ cong ngòi bút để... "bợ" chế độ, tôi làm không được ! Vả lại, làm báo theo kiểu "phô-tô-cọp-pi" như họ, thiệt tình, không phải là nghề của tôi. Cho nên tôi đã "rửa tay gác bút".
Nói xong câu đó anh ta cười khà khà có vẻ thích thú với hình ảnh ‘’ rửa tay gác kiếm ‘’ của mấy võ lâm cao thủ trong truyện chưởng Hồng kông ! Ngừng một chút, hít vài hơi thuốc, uống ngụm cà phê cuối cùng rồi tiếp:
- Bây giờ đi mài dao... cũng thú ! Mình cứ tưởng tượng là mình mài "gươm thiêng" để đợi thời cơ phục hận !
Lần này, anh ta cười lên ha hả, sảng khoái. Rồi lại tiếp:
- Coi vậy chớ lâu lâu tôi thèm viết vô cùng. Nhứt là bây giờ, nó lố lăng bỉ ổi, nó chụp giựt bao che gấp mấy chục lần hồi trước... làm mình "ngứa nghề" muốn chết ! Cách đây mấy năm, vào dịp Tết, tôi nhận được thơ của một thằng bạn đã đi chui kể lại cuộc hành trình và đời sống trên đảo tỵ nạn Pulau Bidong ở Mã Lai... làm tôi nổi hứng. Tôi lén viết một "lá sớ Táo Quân" cho mùa xuân năm đó, để nhớ hồi xưa mỗi Tết tôi đều có viết sớ để "móc lò móc chảo" chuyện Nhà Nước chuyện thiên hạ. Sáng mai tôi sao cho anh một bản, đọc cười chơi. Thôi ! Bây giờ đi "kiếm cơm" cái đã !
Anh ta đứng lên bắt tay tôi rồi dẫn xe xuống đường đạp đi.
Hôm sau, anh ta đến. Vừa ngồi xuống, anh trao ngay cho tôi "lá sớ". Tôi định mở ra xem thì anh đưa tay ngăn. Vừa đảo mắt nhìn quanh, anh vừa thấp giọng:
- Đừng ! Đừng coi ở đây ! Cất đi. Về nhà hãy đọc. Đọc rồi nhớ đốt nó đi, kẻo mang họa rồi nói tại tôi.
Uống hớp lớn cà phê, đốt điếu thuốc, xong anh cười cười:
- Đốt cho lá sớ... lên trời, cho Ngọc Hoàng đọc với chớ !
Tôi phì cười:
- Anh tiếu thật ! Không chừa ai hết !
- Đó là... nghề của tôi hồi xưa mà. Thấy trái tai gay mắt, thấy "đi trật đường rầy" là tôi múa bút đâm ngay. Tự do ngôn luận là như vậy đó. Chớ không phải như bây giờ. Nhìn một lũ hề độc quyền sân khấu, giễu dở lại giễu dai, giễu rồi tự vỗ tay khen lấy, còn bắt... nhân dân khán giả vỗ tay theo... vv... mà chẳng thấy một "nhân dân" nào dám... thò tay viết trên báo một lời phê bình chỉ trích ! Cho nên tôi thấy "ngứa mắt ngứa tay" lắm.
Uống hết ly cà phê, anh ta đứng lên gật đầu chào:
- Bữa nay tôi phải mài lố dao của nhà hàng T.T., không cò cưa ở đây lâu với anh được. Tôi đi nghen !
Bước được mấy bước, anh dừng chân một chút, đầu hơi cúi xuống dường như để suy nghĩ rồi mới quay lại nhìn tôi, nét mặt thật nghiêm trang, đưa ngón tay trỏ lên gõ gõ vào đầu:
- Mỗi ngày tôi mài dao là mỗi ngày tôi mài cái chí khí cho nó luôn luôn sắc bén, khỏi bị cùn lụt. Anh biết không?
Nói xong, anh để bàn tay mặt xéo xéo một bên trán gặc nhẹ một cái trông giống như chào theo kiểu nhà binh, rồi phóng lên đạp xe đi, giọng rao kéo dài: "Mài dao mài kéo"...
Hôm sau, tôi đến quán hơi sớm, định vừa gặp anh là nói ngay rằng tôi khoái lá sớ của ảnh lắm, móc họng chế độ rất đau mà vẫn giữ được nét trào phúng nhẹ nhàng.Và cũng để nói cho ảnh yên tâm rằng tôi đã đốt lá sớ như ảnh đã dặn. Nhưng rồi, anh ta không đến, mặc dù tôi đã cố tình ngồi đợi tới trưa….
Những ngày sau, rồi những ngày sau nữa, tôi không gặp lại anh ta. Tôi vẫn đều đặn ngồi uống cà phê chỗ công-tơ, ngồi một mình. Cà phê quán này làm như không còn ngon như trước...
Tiểu Tử
CHUYỆN VUI CUỐI TUẦN
CHUYỆN VUI CUỐI TUẦN
I
Ông chồng đi tắm sau khi vợ vừa mới tắm xong, đúng lúc chuông cửa reo. Vợ vội quấn khăn tắm vào và chạy xuống mở cửa. Cửa mở thì ra là ông hàng xóm Bob. Chị vợ chưa kịp nói gì thì
Bob bảo: tôi sẽ cho chị 800 đô nếu chị buông cái khăn tắm kia ra .
Suy nghĩ 1 chút rồi chị vợ buông khăn tắm, đứng trần truồng trước mặt Bob.
Sau vài giây ngắm nghía, Bob đưa 800 đô cho chị vợ rồi đi. Chị vợ quấn lại khăn tắm vào người rồi đi lên nhà. Vào đến phòng tắm, chồng hỏi:
- Ai đấy em?
- Ông Bob hàng xóm.
- Nó có đưa em 800 đồng trả cho anh không?
II
Bob bảo: tôi sẽ cho chị 800 đô nếu chị buông cái khăn tắm kia ra .
Suy nghĩ 1 chút rồi chị vợ buông khăn tắm, đứng trần truồng trước mặt Bob.
Sau vài giây ngắm nghía, Bob đưa 800 đô cho chị vợ rồi đi. Chị vợ quấn lại khăn tắm vào người rồi đi lên nhà. Vào đến phòng tắm, chồng hỏi:
- Ai đấy em?
- Ông Bob hàng xóm.
- Nó có đưa em 800 đồng trả cho anh không?
II
Một tu-sĩ nam (của một giáo phái nọ) ngỏ ý mời tu-sĩ nữ đi chung xe.
Người nữ chui vào xe, ngồi bắt chéo chân để lộ 1 bên bắp chân. Người nam suýt nữa thì gây tai nạn. Sau khi điều chỉnh lại tay lái, người nam thò tay mò mẫm lên đùi người nữ. Nữ kêu:
- Xin ngài, hãy nhớ điều răn 129.
Nam liền bỏ tay ra. Nhưng sau khi vào số, nam lại tiếp tục sờ soạng chân nữ. Một lần nữa nữ kêu:
- Xin ngài, hãy nhớ điều răn 129. Nam thẹn quá:
- Xin lỗi nữ, tôi trần tục quá.
Tới nơi, nữ thở dài và bỏ đi. Vừa tới nhà tu, nam vội chạy vào thư viện tra cứu ngay cái điều răn 129 ấy, thấy đề: "Hãy tiến lên, tìm kiếm, xa hơn
nữa, con sẽ tìm thấy hào quang."
Người nữ chui vào xe, ngồi bắt chéo chân để lộ 1 bên bắp chân. Người nam suýt nữa thì gây tai nạn. Sau khi điều chỉnh lại tay lái, người nam thò tay mò mẫm lên đùi người nữ. Nữ kêu:
- Xin ngài, hãy nhớ điều răn 129.
Nam liền bỏ tay ra. Nhưng sau khi vào số, nam lại tiếp tục sờ soạng chân nữ. Một lần nữa nữ kêu:
- Xin ngài, hãy nhớ điều răn 129. Nam thẹn quá:
- Xin lỗi nữ, tôi trần tục quá.
Tới nơi, nữ thở dài và bỏ đi. Vừa tới nhà tu, nam vội chạy vào thư viện tra cứu ngay cái điều răn 129 ấy, thấy đề: "Hãy tiến lên, tìm kiếm, xa hơn
nữa, con sẽ tìm thấy hào quang."
III
Một nhân viên bán hàng, 1 thư ký hành chính và 1 xếp quản lý cùng đi ăn trưa với nhau, họ bắt được 1 cây đèn dầu cổ. Họ xoa tay vào đèn và thần đèn hiện lên. Thần đèn bảo:
- Ta cho các con mỗi đứa 1 điều ước.
- Tôi trước! tôi trước! – cô thư ký hành chính nhanh nhẩu nói: Tôi muốn được ở Bahamas lái canô và quên hết sự đời.
Puff. Cô thư ký biến mất.
- Tôi! Tôi! anh nhân viên bán hàng nói: tôi muốn ở Hawaii nằm dài trên bãi biển có nhân viên massage riêng, nguồn cung cấp Pina Coladas vô tận và với người tình trăm năm.
Puff. anh nhân viên bán hàng biến mất.
- Ok tới lượt anh. Thần đèn nói với ông quản lý.
- Ông quản lý nói: tôi muốn 2 đứa đấy có mặt ở Văn phòng làm việc ngay sau bữa trưa.
- Ta cho các con mỗi đứa 1 điều ước.
- Tôi trước! tôi trước! – cô thư ký hành chính nhanh nhẩu nói: Tôi muốn được ở Bahamas lái canô và quên hết sự đời.
Puff. Cô thư ký biến mất.
- Tôi! Tôi! anh nhân viên bán hàng nói: tôi muốn ở Hawaii nằm dài trên bãi biển có nhân viên massage riêng, nguồn cung cấp Pina Coladas vô tận và với người tình trăm năm.
Puff. anh nhân viên bán hàng biến mất.
- Ok tới lượt anh. Thần đèn nói với ông quản lý.
- Ông quản lý nói: tôi muốn 2 đứa đấy có mặt ở Văn phòng làm việc ngay sau bữa trưa.
IV
Một con đại bàng đang đậu trên cây nghỉ ngơi, chẳng làm gì cả. 1 con thỏ con nhìn thấy thế hỏi:
- Tôi có thể ngồi không và chẳng làm gì như anh được không?
Đại bàng trả lời:
- Được chứ, sao không.
Thế là con thỏ ngồi xuống nghỉ ngơi. Bỗng dưng 1 con cáo xuất hiện, vồ lấy ăn thịt con thỏ.
- Tôi có thể ngồi không và chẳng làm gì như anh được không?
Đại bàng trả lời:
- Được chứ, sao không.
Thế là con thỏ ngồi xuống nghỉ ngơi. Bỗng dưng 1 con cáo xuất hiện, vồ lấy ăn thịt con thỏ.
Bài học xương máu:
Để được ngồi không chẳng làm gì anh phải ngồi ở trên cao, cao lắm ý.
Để được ngồi không chẳng làm gì anh phải ngồi ở trên cao, cao lắm ý.
V
Một con gà tây trò chuyện với một con bò.
- "Tớ muốn mình có thể trèo tới trên ngọn cây kia", nó thở dài than, “nhưng tớ chẳng đủ sức.”
- “Hả, sao cậu không nuốt lấy vài giọt sữa của tớ?” Con bò đáp, “Sữa tớ bổ lắm đó.”
Con gà tây đớp vào đống phân bò và thực sự có được đủ sức mạnh để trèo được lên một cành cây thấp nhất. Ngày hôm sau, sau khi đớp thêm một mớ phân bò nữa, con gà tây leo lên được cành thứ hai. Cuối cùng, sau bốn hôm đớp phân bò như thế, con gà tây hãnh diện trèo được lên đậu trên ngọn cây. Tức thì nó bị một nông dân trông thấy, và ông ta bắn nó rơi khỏi ngọn cây.
- "Tớ muốn mình có thể trèo tới trên ngọn cây kia", nó thở dài than, “nhưng tớ chẳng đủ sức.”
- “Hả, sao cậu không nuốt lấy vài giọt sữa của tớ?” Con bò đáp, “Sữa tớ bổ lắm đó.”
Con gà tây đớp vào đống phân bò và thực sự có được đủ sức mạnh để trèo được lên một cành cây thấp nhất. Ngày hôm sau, sau khi đớp thêm một mớ phân bò nữa, con gà tây leo lên được cành thứ hai. Cuối cùng, sau bốn hôm đớp phân bò như thế, con gà tây hãnh diện trèo được lên đậu trên ngọn cây. Tức thì nó bị một nông dân trông thấy, và ông ta bắn nó rơi khỏi ngọn cây.
VI
Con chim nhỏ bay về phương Nam tránh rét. Trời lạnh quá con chim bị đông cứng lại và rơi xuống 1 cánh đồng lớn. Trong lúc nó nằm đấy 1 con bò đi qua ỉa vào người nó. Con chim nằm giữa đống phân bò nhận ra rằng người nó đang ấm dần. Đống phân ấy đã ủ ấm cho nó. Nó nằm đấy thấy ấm áp và hạnh phúc, nó bắt đầu cất tiếng hót yêu đời. 1 con mèo đi ngang nghe tiếng chim hót liền tới thám thính. Lần theo âm thanh con mèo phát hiện ra con chim nằm dưới đống phân, nó liền bới con chim ra ăn thịt.
GS. HUỲNH CHIẾU ĐẲNG * TÂM TÌNH
VÀI LỜI TÂM TÌNH CỦA GS. HUỲNH CHIẾU ĐẲNG
Nhàu Noni vang bóng một thời, người bày đã hốt nhiều chục triệu bạc xong lặn mất. Kế đó là nước măng cụt, bây giờ còn chút tiếng vang. Kế nữa là Canh Dưỡng Sinh, được phe ta uống như điên trong thời gian chừng sáu tháng rồi tịt ngòi. Kế đó thì dưa chuột, rồi thì lá đu đủ, rồi thì mãng cầu. Hai thứ sau nầy đang phất cờ tiến mạnh vào niềm tin của bà con ta. Chắc chừng năm sau sập tiệm, tuy nhiên mấy vị nhanh tay chế viên mãng cầu, nước mãng cầu cũng kiếm được mươi triệu đô. Sau đó là dầu dừa được ca ngợi (do công ty Tây Mỹ bày bán, kiểu bán mỡ rắn thời nẩm), có một vị MTC suy’t chết vì nó, vị nầy ở Hố Nai.
Hiện giờ thì trái sung, cây bồ công anh, trước đó thì kim thất tai (sao bây giờ ít nghe nói tới coi ai đã dùng và kết quả ra sao). Hiện cũng đang hoành hành là cây lượt vàng, trước đây là cây cần tây, nay cây cần tây lặn mất rồi. Vài năm trước thì là trà xanh là thần dược, trà mọi loại là tiên dược, những vị uống trà ngừa và trị bịnh hiện nằm nhà thương hay ra vào nhà thương (tôi nói ẩu) cũng bộn nên hết hơi sức để vuốt đuôi ca ngợi theo gian thương Trung Quốc. Nay thì được biết người ta né trà rồi, lý do là thuốc trừ sâu (và đủ thứ hương thơm hóa chất vô danh) ướp vào trong đó, kể cả trà ướp xác chết cũng được bán ta cho bà con ghiền thưởng thức (chuyện nầy nói thật, có thật, không nói ẩu đâu).
Sau khi chê trà thì bà con ta sang ca ngợi cà phê. Hình như trong tâm trí một số phe ta phải có cái gì đó ca ngợi mới sống được chăng? Hiện trứng gà được một vị tung lên tới mây xanh (kết quả là thống kê vừa công bố những vị nam giới ăn 7 trứng gà hay hơn mỗi ngày thì mau chết hơn những vị không ăn). Còn gì nữa, cà chua, sả, xoài, trái chuối chín rục đều “trị được ung thư”, trước đó một chút thì chanh giết tế bào ung thư (Chắc mấy tiệm bán chuối chế ra chuyện để tiêu thụ chuối chín thâm đen cho khỏi bỏ thùng rác?) Trước chanh trị ung thư thì có giấm táo và mật ong. Hiện giờ thì mật ong và bột quế. Hiện đang có phong trào củ cải trắng chanh và nghệ.
Nói chung thì: Bất cứ rau trái nào trước mặt các bạn đều cũng là thần dược trị ung thư hay trị được những thứ bịnh mà Tây Y còn đang vật lộn! Quên nữa còn gạo đen(dân Gò Công gọi: “gạo nhum”) cũng trị ung thư và bịnh ngặt, trước đó gạo lức được tâng lên làm thần dược, nay thì gạo lức rang pha nước uống là “thần” dược. Gạo lức được dân BBC gọi là gạo nâu đó nghe bà con.
Thưa quí bạn, những thứ được kể bên trên là tôi chợt nhớ ra, chắc mới liệt kê được chừng phân nửa mà thôi. Hôm nào tôi ghi lại coi tất cả mọi thứ thực phẩm chúng ta ăn coi có món nào KHÔNG phải là thần dược hay không.
http://en.wikipedia.org/wiki/Popeye
Kính thưa quí bạn,
Tuy là cái email nầy ngắn, nhưng phần đầu quan trọng lắm, các bạn nên đọc chậm chậm. Mà thôi, các bạn không đọc thì rán chịu, mắc mớ chi tôi.
Hôm nay, tôi muốn nhắc các bạn cẩn thận khi dùng email và internet. Ngày nay chuyện gian dối quá nhiều. Đã nhiều lần tôi thấy những email gởi đến kêu gọi gia nhập các trang web xã hội thí dụ như Face Book, như nhiều lắm quên mất tên… Cũng có nhiều trang web bắt ghi danh mới cho xem. Đa số bạn ta vô tình lọt bẫy. Internet là chốn giang hồ toàn là bí danh ẩn danh, người lương thiện và kẻ ác đều y nhau, các bạn nên cẩn thận lắm lắm.
1. Thí dụ ngày nào đó các bạn nhận được email của tôi gởi đến mượn các bạn chừng năm bảy trăm hay một vài ngàn đô vì lý do đi du lịch ngoại quốc bị mất hết giấy tờ và tiền bạc. Có bạn thấy thương tình bèn gởi tiền cho mượn. Té ra là đưa tiền cho kẻ gian.
2. Chuyện điển hình khác là các bạn nhận được email thông báo vừa trúng rút thăm của Google, của Microsoft …. Được 500,000 đô. Muốn nhận số tiền nầy thì các bạn phải ghi chi biết tên tuổi nghề nghiệp ngày sinh số account trong ngân hàng, địa chỉ…số phone… Vậy mà cũng có người mắc mưu kẻ gian khai hết “lý lịch” cũng như ghi danh gia nhập.
Hoặc có khi các bạn nhận được email nói rằng “tôi” là “đốc tờ” XYZ, chức vụ nầy nầy trong ngân hàng (tên và địa chỉ lạ hoắc) thấy có số tiền vô chủ. Nếu các bạn hợp tác với “tôi” thì mình chia đôi… Muốn hợp tác thì cho tôi biết tên tuổi và gia phả ba đời của bạn...
Hoặc tôi là nhân vật chức sắc ở quốc gia “Công Gô” có vài trăm triệu đô muốn chuyển ra ngoại quốc, nếu bạn hợp tác thì tôi sẽ chia cho bạn vài triệu đô đánh bài chơi. Muốn vậy thì bạn đưa gia phả của bạn cho tôi.
3. Chuyện gạt nhau khác nhẹ hơn là những webpage xin tiền phước thiện. Kế đó là loại email xin tiền để mổ tim, cắt bướu cho cháu bé mầm non Nụ Hồng nào đó. Gởi đi càng nhanh, càng nhiều càng tốt. Các bạn lầm thì rán chịu, nhưng vô tình hại bạn bè khi forward chúng đi tiếp theo lời kêu gọi “càng nhanh, càng nhiều càng tốt”. Tại sao loại email nầy có hại các bạn tự tìm hiều. Viết hoài mỏi tay quá rồi.
4. Chuyện thứ tư tinh vi hơn là kêu gọi ký tên thình nguyện thư chống một chuyện gì đó. Thí dụ qua email kêu gọi hãy log vô website nầy nầy để ký tên thỉnh nguyện thư kêu gọi nhà “cầm đồ” Lào ngưng xây đập trên sông Mekong (hay đem cầm nguyên cả đất nước), hoặc ký tên kêu gọi chánh phủ đừng làm một chuyện nầy chuyện nọ. Nhiều bạn thấy hữu lý vội vã làm ngay mà không kịp suy nghĩ coi website đó là do ai làm ra, nhóm người lập ra đó là những người tin được không?
Khi mà các bạn ký tên vào “thỉnh nguyện thư” rồi thì có khi tên tuổi các bạn được thu thập gởi về… để ghi vào sổ đen.
5. Chuyện kế tiếp là có khi các bạn sẽ nhận được email xin vài chục đô gây quỹ. Nếu các bạn cho qua credit card thì eo ôi Ông Địa, người ta biết số credit card và lý lịch các bạn rồi, không biết tương lai họ có dùng credit card của các bạn để mua hàng hoá hay đi Las Vegas đánh bài không. Ngay cả các bạn gởi biếu tấm check đi nữa thì số tiền trong check đó chạy vô túi ai các bạn đâu biết dù cho trên check ghi rõ là trả cho “Qũy cứu trợ nạn lụt năm Ất Dậu”.
Ngày nay một đứa bé cũng có thể lập một webpage lớn để mọi người log vô thấy tưởng là do tổ chức nào có uy tín lắm. Có những website buôn bán hàng hoá khi log vô tưởng là của một công ty có hàng ngàn nhân viên, đâu có ngờ đó là webpage do một người duy nhất làm ra. Người nầy vừa là chủ nhân, vừa là thơ ký, vừa là nhân viên bán hàng, vừa là nhân viên giao hàng.
Nhân đây nói thêm: Nếu các bạn thường dùng credit card để mua sắm qua Internet thì nhớ dùng cái credit card có mức tiền tối thiểu chừng $1500 thôi, đừng dùng cái credit card có limit vài chục ngàn đô.
Các bạn biết có nhiều chuyện mình đâu nói “trần” ra được. Nếu các bạn quan tâm và muốn tránh cho tương lại không bị mắc bẫy thì nên đọc từ từ hay đọc lại một lần. Với mấy hàng trên các bạn nên đọc những chữ vô hình nằm giữa hai hàng chữ thật.
Cũng vì những lý do đó mà tôi gọi Internet là chốn giang hồ có nhiều chông gai cạm bẫy. Hoa thơm cỏ lạ cũng có nhưng hiếm lắm, đa số là những kiến thức chết người, là hình “Photoshop”. Kẻ ngây thơ như đa số chúng ta thì “ngàn đời” vẫn bị gạt. Muốn tránh được phần nào thì phải luôn luôn có “chánh niệm” khi đi xách keyboard và bình cà phê dấn thân vào chốn giang hồ.
Huỳnh Chiếu Đẳng
%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%
Bàn về "Chuyện Thuốc" của Gs. Huỳnh Chiếu Đẳng và Reply
Thử điểm những thứ mà người Việt chúng ta tự bày ra (hay bắt chước người Mỹ hoặc người Tàu mà bày ra): Nhìn chung thì hầu như mọi thứ thực phẩm quanh ta đều được email vàwebpage ca tụng lên mây xanh là “thần dược”.
Nhàu Noni vang bóng một thời, người bày đã hốt nhiều chục triệu bạc xong lặn mất. Kế đó là nước măng cụt, bây giờ còn chút tiếng vang. Kế nữa là Canh Dưỡng Sinh, được phe ta uống như điên trong thời gian chừng sáu tháng rồi tịt ngòi. Kế đó thì dưa chuột, rồi thì lá đu đủ, rồi thì mãng cầu. Hai thứ sau nầy đang phất cờ tiến mạnh vào niềm tin của bà con ta. Chắc chừng năm sau sập tiệm, tuy nhiên mấy vị nhanh tay chế viên mãng cầu, nước mãng cầu cũng kiếm được mươi triệu đô. Sau đó là dầu dừa được ca ngợi (do công ty Tây Mỹ bày bán, kiểu bán mỡ rắn thời nẩm), có một vị MTC suy’t chết vì nó, vị nầy ở Hố Nai.
Hiện giờ thì trái sung, cây bồ công anh, trước đó thì kim thất tai (sao bây giờ ít nghe nói tới coi ai đã dùng và kết quả ra sao). Hiện cũng đang hoành hành là cây lượt vàng, trước đây là cây cần tây, nay cây cần tây lặn mất rồi. Vài năm trước thì là trà xanh là thần dược, trà mọi loại là tiên dược, những vị uống trà ngừa và trị bịnh hiện nằm nhà thương hay ra vào nhà thương (tôi nói ẩu) cũng bộn nên hết hơi sức để vuốt đuôi ca ngợi theo gian thương Trung Quốc. Nay thì được biết người ta né trà rồi, lý do là thuốc trừ sâu (và đủ thứ hương thơm hóa chất vô danh) ướp vào trong đó, kể cả trà ướp xác chết cũng được bán ta cho bà con ghiền thưởng thức (chuyện nầy nói thật, có thật, không nói ẩu đâu).
Sau khi chê trà thì bà con ta sang ca ngợi cà phê. Hình như trong tâm trí một số phe ta phải có cái gì đó ca ngợi mới sống được chăng? Hiện trứng gà được một vị tung lên tới mây xanh (kết quả là thống kê vừa công bố những vị nam giới ăn 7 trứng gà hay hơn mỗi ngày thì mau chết hơn những vị không ăn). Còn gì nữa, cà chua, sả, xoài, trái chuối chín rục đều “trị được ung thư”, trước đó một chút thì chanh giết tế bào ung thư (Chắc mấy tiệm bán chuối chế ra chuyện để tiêu thụ chuối chín thâm đen cho khỏi bỏ thùng rác?) Trước chanh trị ung thư thì có giấm táo và mật ong. Hiện giờ thì mật ong và bột quế. Hiện đang có phong trào củ cải trắng chanh và nghệ.
Nói chung thì: Bất cứ rau trái nào trước mặt các bạn đều cũng là thần dược trị ung thư hay trị được những thứ bịnh mà Tây Y còn đang vật lộn! Quên nữa còn gạo đen(dân Gò Công gọi: “gạo nhum”) cũng trị ung thư và bịnh ngặt, trước đó gạo lức được tâng lên làm thần dược, nay thì gạo lức rang pha nước uống là “thần” dược. Gạo lức được dân BBC gọi là gạo nâu đó nghe bà con.
Thưa quí bạn, những thứ được kể bên trên là tôi chợt nhớ ra, chắc mới liệt kê được chừng phân nửa mà thôi. Hôm nào tôi ghi lại coi tất cả mọi thứ thực phẩm chúng ta ăn coi có món nào KHÔNG phải là thần dược hay không.
Huỳnh Chiếu Đẳng (22-Jul-2013)
REPLY
Một đọan phản hồi cho “những bài thuốc” (trích trong bài viết “Bà Nội Tướng Của Tôi”)
“…Chẳng hạn như tôi nói với nàng là có người mách cho một bài thuốc rất đơn giản, chỉ cần gạo đem rang rồi nấu nước uống hằng ngày như uống trà thì có công hiệu rất tốt cho cơ thể như ngủ ngon, giảm huyết áp, giảm mỡ vv… thì nàng hỏi lại tôi bộ miracle hả? Gạo rang hay không rang cũng là gạo, tại sao nấu cơm ăn hằng ngày thì chỉ chữa bệnh đói còn đem đi rang, cho qua lửa luyện tội lại trở thành “dược phẩm” là sao, vô lý quá vậy. Ấy vậy mà tôi cũng đòi nàng phải rang gạo nấu nước “thánh” cho tôi hết một thời gian hai ba tháng. Nàng bực mình lắm, tuy chìu ý tôi nhưng trong lòng không phục cho là what a silly vớ vẩn!
Có một thời gian, người ta đua nhau đi kiếm mua rau má đỏ con mắt, nói là rau này chữa được bệnh thấp khớp làm tôi cũng rán
Cụ thể như một lọai cải có tên là Phi Long (English spinach) mà tất cả các giống dân âu, á, trung đông gì cũng rất ưa chuộng (nhứt là Lebanese, mua một lần cả trolley) vì nó có rất nhiều chất sắt làm tăng cường sinh lực đến đổi có một phim cartoon muốn khuyến khích trẻ con ăn vegies đã bịa ra chuyện một nhân vật tên Popye.
g
đi tìm cho được (vì là mùa đông nên khó kiếm chớ mùa hè thì lọai rau này mọc đầy dãy trong vườn nhổ không kịp) thì nàng bảo rau cỏ nào mà không có dược tính . Theo nàng biết thì rau má có tác dụng giải nhiệt, khi nào nóng trong người uống vô sẽ hạ hỏa nhưng nếu lạm dụng nó thì sẽ sinh hàn. Mà thấp khớp thì kỵ hàn. Uống riết chắc đi không nổi phải bò luôn. Rồi còn nhiều phương thuốc khác nữa như Lô hội, trái Nhào, đậu nành, canh dưỡng sinh gì đó lung tung, thứ nào cũng chữa bá bệnh như là thần dược. Tôi thì thứ nào cũng muốn thử coi có hiệu nghiệm không chớ nàng thì nhứt định giữ vững lập trường không là không. Nàng nói thời buổi y học tân tiến này, có biết bao là thuốc hay thầy giỏi, bệnh gì thuốc đó, chữa còn không được, ở đó mà nghe người ta bày. Muốn bào chế một viên thuốc, người ta phải nghiên cứu dung hòa bao nhiêu chất trong đó chớ đâu phải đơn giản một thứ một mà được. Phàm cái gì cũng vậy, phải có chừng mức, cứ một thứ mà tống vào cho cố xác thì có hại chớ sao. Có thể nó chữa được bệnh này nhưng lại phản ứng sinh bệnh khác, hễ có hợp thì có khắc, có lành tính thì cũng có ác tính. Vì vậy trung dung là thượng sách hơn cả, rủi ai phát giác ra là có hại thế nào đó thì mình cũng không đến đổi nào, còn trở tay kịp.Spinach and Purines
Spinach contain naturally occurring substances called purines. Purines are commonly found in plants, animals, and humans. In some individuals who are susceptible to purine-related problems, excessive intake of these substances can cause health problems. Since purines can be broken down to form uric acid, excess accumulation of purines in the body can lead to excess accumulation of uric acid. The health condition called "gout" and the formation of kidney stones from uric acid are two examples of uric acid-related problems that can be related to excessive intake of purine-containing foods. For this reason, individuals with kidney problems or gout may want to limit or avoid intake of purine-containing foods such as spinach. For more on this subject, please see "What are purines and in which foods are they found?"Anh Popye này nhờ ăn thật nhiều spinach nên mới có đủ sức mạnh để đấu lại mấy thằng baddies. Đó là nói về mặt lợi ích của lọai cải này, nhưng đồng thời nó cũng có tác hại gây bệnh gout (thống phong) nếu ăn nhiều (không biết nhiều là bao nhiêu) vì nó cũng chứa hàm lượng uric acid rất cao. Như vậy thì tốt nhứt là đừng nghe ai cả mà hãy nghe chính mình. Mỗi tuần nấu canh họặc xào ăn hai ba lần là đủ liều rồi, cứ coi đó là thức ăn thôi, còn muốn làm thuốc thì để cho pharmacist họ làm, đâu có tới phiên mình. Cũng như rượu, mỗi ngày một ly nhỏ cho máu lưu thông điều hòa thì có ích cho tim mạch nhưng nếu cứ uống cạn ly đầy, rót đầy ly cạn thì sơ gan đứng tim luôn là cái chắc.”