NGUYỄN KHÔI =TRƯỜNG QUỐC HỌC =BIEN DONG
Saturday, October 10, 2015
NGUYỄN KHÔI * EM LÀ NGƯỜI HÀ NỘI
EM LÀ NGƯỜI HÀ NỘI
(Tặng những ai là Người Hà Nội gốc)
-------
Lời thưa : trên trạng mạng xã hội Facebook mấy hôm nay đang lan truyền bài thơ "Em là Người Hà Nội" của Nguyễn Khôi viết ngày 12-6-2010, có đăng trên một trang Web bạn bè nào đấy (không nhớ ?) chưa đưa in trên báo giấy nào , đã bị Tác giả "loại" ra , không đưa vào tập thơ "Chiều phố Vọng" đã xuất bản năm 2011...Vốn quan niệm từ hồi còn cắp sách tới trường nghe Thầy dạy :"Nhà văn, nhà thơ là Thư ký thời đại", không viết thì thôi, nhưng đã là Tác phẩm văn học thì phải để lại cái "Vết thời gian" mà anh ta đã sống. NK tôi về ở có "hộ khẩu Hà Nội" từ 1984 đến nay đã 30 năm có lẻ, nhưng vẫn cảm thấy mình chưa phải là Người Hà Nội đích thực...?!
Nhân đọc một mấy bài báo của Nhà thơ Hoàng Hưng về "Người Hà Nội" xưa thanh lịch , hào hoa...rồi lại nghe một vị Giáo sư đầu ngành Ngôn Ngữ Học (người Hà Nội gốc) vào ở Sài Gòn đã lâu, nay ra Hà Nội ngỡ ngàng là phần lớn cư dân Hà Nội bây giờ phát âm rất khác, đến nỗi ông phải thốt lên : có lẽ chỉ có mình là nói ngọng ?
Tuy không sở trường về Thơ trào phúng nhưng NK thấy bức xúc đã hạ bút :
Tuy không sở trường về Thơ trào phúng nhưng NK thấy bức xúc đã hạ bút :
" Có hộ khẩu" nghĩa "là Người Hà Nội"
Thủ Đô của cả nước mà Em !
Nói ngọng líu "Em nà Người Hà Lội"
Vô tư đi...sao trong túi đầy Tiền.
*
*
Người Hà Nội - ơi em Người Hà Nội
Thời tự do mặc mốt Sex quá thường
"Vượt đèn đỏ" đâm chết người mặc kệ
Ăn bánh xong, vứt toẹt lá ra đường...
*
*
Người Hà Nội- ơi em Người Hà Nội
Yêu là yêu bất chấp miễn là "hên"
Từ Quê ra tìm "Sếp" mà ôm chặt
Có nhà lầu sướng hơn cả vượt biên.
*
*
Người Hà Nội- vui đời "dân làm chủ"
tha hồ xây, thỏa chiếm cứ vỉa hè
đem Rác thải lấn sông Hồng mặc "lũ" (lụt)
thành mấy Phường dày đặc "Phố ngoài đê" .
*
*
Người Hà Nội- ơi em Người Hà Nội
Ta vào dây "cò" đất phất trúng mùa
Chụp Chứng Khoán- thắng- thì- ôi Tỷ phú ,
Có chức quyền tham nhũng cũng chào thua !
*
*
Ôi bức xúc, Nhà Cầm Quyền ra "Luật" (1)
Người quá đông - ai nào chịu thi hành ?
-Người Hà Nội. "Em nà Người Hà Lội"
Thủ Đô của cả nước mà Anh ? !
---
---
(1) Luật Thủ Đô. Ở Việt Nam ta về sản xuất ra "văn bản Luật" và các loại "Lệ" , loại "phí " có lẽ về số lượng là đứng hàng đầu Thế giới , nhưng đi vào cuộc sống thì còn nhiều bất cập, hạn chế...do Dân trí thấp, buông lỏng Quản lý...?
Hà Nội 12-6-2010
NGUYỄN KHÔI
HOÀNG HUY HOÀNG * TRƯỜNG QUỐC HỌC
TRƯỜNG QUỐC HỌC
Hoàng Huy Hoàng Phước Quyến
Các đồng môn Quốc Học Huế 1959 - 1962 sẽ tổ chức “quốc học 50 năm gặp lại” vào hạ tuần tháng 4 năm 2012 tại San Jose, đã là một học sinh Quốc Học Huế nên góp bài vào Đặc San phát hành dành cho dịp vui này. Ở vào tuổi “thất thập”, hoàng hôn đời người, có thì giờ rãnh rỗi viết lách cũng là một thú tiêu khiển hữu ích cho tuổi già, song viết gì đây? Trường Quốc Học Huế có một bề dày lịch sử 116 năm
(1896-2012) trong khoảng thời gian dài đó đã có biết bao thế hệ học sinh ra vào cổng trường này, đã có người làm nên lịch sử, có người dùng văn tài trí tuệ đóng góp tô điểm văn hóa xã hội nước nhà cận và hiện dại. Trong khi đang băn khoăn chợt nhớ đến hai câu thơ của Vua Tự Đức:
“Đập cổ kính ra tìm lấy bóng.
Xếp tàn y lại để dành hương”
giúp định hướng bài viết.
Kỷ niệm lúc nào cũng đáng trân quí, bới lại đống tro tàn nhắc lại điều xưa cũ có thể có người thốt lên “biết rồi khổ lắm, nói mãi”, nhưng cũng có người vì nhiều lý do khác nhau chưa được dịp nghe biết đến, và nhân dịp này cùng nhau ôn lại những “ngày xưa thân ái” đó, biết đâu có người bạn cũ nào đọc được, lòng sẽ cảm thấy vui vui vì đã có người vẫn còn nhớ tới, nói hộ cho… mình.
Qua lịch sử cho thấy nước ta có một nền văn hóa lâu đời rập khuôn theo Trung Hoa, Tam giáo đồng tồn Nho Thích Lão hòa quyện vào nhau làm nên bản sắc riêng của văn hóa Việt, trong đó Tam Cương của Nho Giáo nắm vai chủ đạo làm giềng mối cho xã hội: Quân-Thần Phụ-Tử Phu-Phụ”, chính tinh thần nho giáo này sản sinh ra các sĩ phu yêu nước lãnh đạo các phong trào Văn Thân Cần Vương chống Pháp gây nhiều khó khăn trong tiến trình xâm lăng và bình định. Hòa ước Patenôtre 1884 đặt Việt Nam hòan tòan dưới sự thống trị của thực dân Pháp, chính sách cai trị được thể hiện rõ qua lời Thống Sứ Paul Bert (*): “Khi một dân tộc vì một lẽ nào đó đã đặt chân lên lãnh thổ của một dân tộc khác thì có ba việc : Tiêu diệt kẻ bại, nô lệ họ một cách nhục nhã, hoặc đồng hóa họ theo mình” (Việt Sử Toàn Thư của Phạm văn Sơn). Giai đọan xâm lăng vũ lực đã hoàn tất, bước tiếp theo là xâm lăng văn hóa ổn định xã hội bảo đảm nền thống trị củng cố chính quyền thực dân. Muốn đạt được như vậy phải phá bỏ văn hóa chữ nho cũ, phổ biến văn hóa mới nhằm đồng hóa dân Việt với loại văn tự có mẫu tự la tinh, dùng tiếng Pháp và chữ quốc ngữ (**), đào tạo lớp người mới đọan tuyệt văn hóa ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, nhào nặn các thế hệ sau đi theo văn hóa phương tây để phục vụ mẫu quốc. Trần Tế Xương đã để lại dấu ấn xã hội lúc đó qua các bài thơ của ông.
Trên ghế bà Đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông Cử ngẩng đầu rồng
......
Nào có ra gì cái chữ nho
Ông Nghè ông Cống cũng nằm co
Sao bằng đi học làm ông Phán
Tối rựơu sâm banh, sáng sữa bò
.......
Nghe nói khoa này sắp đổi thi
Các thầy đồ cố đỗ mau đi
Dẫu không bia đá còn bia miệng
Vứt bút lông đi giắt viết chì Trong thời kỳ phôi thai, Pháp thiết lập vài trường làm nòng cốt của hệ thống giáo dục phổ thông mới đảm trách chiến lược trồng người mới cho các thế hệ kế tiếp. Năm 1867 Nam Kỳ trở thành thuộc địa của Pháp sau khi Cụ Phan Thanh Giản giao nốt ba tỉnh miền tây. Bảy năm sau (1874) Pháp lập trường Chasseloup-Laubat nay là Lê Quí Đôn ở Saìgòn. Năm 1879 lập trường Collège de Mytho, thường gọi trung học Le Myre de Vilers nay là Nguyễn đình Chiểu. Mười hai năm sau khi đặt xong nền bảo hộ ở Trung và Bắc kỳ, năm 1896 lập trường Quốc Học Huế. Năm 1905 lập trường trung học Collège du Protectorat tức trường Bưởi Hà Nội. Các trường này khi mới mở chỉ có bậc tiểu học, sau mới giảng dạy đến các bậc cao hơn. Ở Trung Kỳ có ba trường đều mang tên Quốc Học đưọc mở vào những thời điểm khác nhau: Quốc Học Huế, Quốc Học Vinh và Quốc Học Qui Nhơn.
Trường Quốc Học Huế là trường đầu tiên có một lịch sử lâu dài nhất ở xứ bảo hộ so với các trường khác. Năm 1896 vua Thành Thái ra chỉ Dụ “Trẫm đã xét kỹ lời trình tấu. Vậy nay giáng dụ chỉ thành lập một trường lấy tên là "QUỐC HỌC" (xem chỉ Dụ đính kèm) chỉ có bậc Tiểu Học do ông Ngô Đình Khả làm Chưởng Giáo, Ông Nguyễn Văn Mại làm Phụ Tá Chưởng Giáo, Trường có tên École Primaire Supérieur (Cao Đẳng Tiểu Học) chủ yếu dạy tiếng Pháp, thứ yếu là chữ Quốc Ngữ và chữ nho. Từ năm 1902 chức Chưởng Giáo phải giao lại cho ngươì Pháp nắm giữ mãi tơí 1945 mới chấm dứt do Nhật thay Pháp thống trị.
Cổng trường Quốc Học ngày thành lập tầng trên có gác chuông
Khởi thuỷ trường được đặt tại trại thủy quân cũ của Nhà Nguyễn gồm hai dãy nhà tranh cột gỗ, năm 1911 bị hỏa hoạn cháy rụi. Năm 1915 trường được xây dựng lại bằng gạch lợp ngói cơ bản giống như hiện thấy, được nâng lên thành Collège de Quốc Học dạy cấp hai gồm Thất Lục Ngũ Tứ. Tới năm 1936 trường mở rộng cơ sở tuyển thêm cấp ba gồm các lớp Đệ Tam, Đê Nhị, Đệ Nhất, trường chính thức mang tên Lycée de Khải Định cho đến năm 1946. Dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim, trường được Nhật cho mở cửa trở lại, bỏ tiếng Pháp, ông Phạm Đình Ái là Hiệu Trưởng người Việt đầu tiên của trường, các lớp học phải chuyển vào Đại Nội. Năm 1946 Pháp tái chiếm Huế, toàn quốc kháng chiến chống Pháp bắt đầu, dân chúng tản cư, trường tách ra làm hai, một phần ở lại Huế một phần di chuyển ra Bắc, các lớp Thất Lục Ngũ Tứ đóng tại Hương Khê Hà Tĩnh có tên trường Bình Trị Thiên, các lớp Đệ Tam Nhị Nhất đóng tại Đức-Thọ Hà-Tĩnh mang tên trường Huỳnh Thúc Kháng (hậu thân Quốc Học Vinh sau này). Sau hồi cư các giáo sư còn lại hợp với một số ít người trong nhóm ra Hà Tĩnh quay về Huế phục hoạt trường Khải Định, thầy Phạm Đình Ái tiếp tục ra Bắc đến năm 1952 mới trở lại Huế, các Hiệu Trưởng kế tiếp:
Phạm văn Nhu (1947-1948),
Nguyễn Hữu Thứ (1948-1950)
Hùynh Hòa (1950-1954)
Nguyễn văn Hai (1954-1956)
Nguyễn Đình Hàm (1956-1958)
Trong buổi đầu tái họat động quí vị Hiệu Trưởng hẳn chắc phải vất vã rất nhiều, dồn mọi tâm huyết đối phó với việc thiếu trường ốc vì cơ sở Khải Định đang bị quân đội Pháp chiếm làm nơi đóng quân, phải mượn trường Thượng Tứ, Lê Lợi, Việt Anh (Nguyễn Tri Phương). " Giữa năm 1948, được tá túc chia một nửa cơ ngơi của trường Đồng Khánh. Khải Định được phân nửa nằm ở phía tây con đường đi từ cổng chính đến sân chơi (préau). Học trò của Khải Định đi học, đi vào cổng chính, nhưng chỉ được đi theo con đường đó một đoạn ngắn mà thôi. Qua khỏi văn phòng hiệu trưởng là phải rẽ vào con đường nhỏ đi thẳng đến dãy lầu lớp học. Học trò của Đồng Khánh đi học, đi vào cổng bên, phía dinh Phủ Doãn, qua khỏi cổng là đến ngay dãy lầu lớp học đối diện. Như vậy, con đường biên giới giữa hai ngôi truờng, trừ phần ngoài cổng chính đi vào, không một học sinh nào được phép đi lại. Sáng sáng, vào giờ tựu trường, chỉ thấy thầy hiệu trưởng Nguyễn Hữu Thứ thong dong đạp chiếc xe đu-ra bóng lộn từ cổng chính tiến vào, theo con đường biên giới đến cột cờ, từ từ rẽ sang phải, đi về phòng giáo sư, và trăm lần như một, xe thầy còn xa mới tới bậc thềm đã thấy bác Tôn tùy phái văn phòng chạy ra đỡ lấy xe mang vào bên trong. Đây là màn show rửa mắt buổi sáng quen thuộc của bọn học trò con trai chúng tôi.”(BS Hồ văn Châm kể)
Ngày 29 tháng 4 năm 1955 quân Pháp rút đi trả lại cơ sở trường Khải Định cho chính quyền Việt Nam, trường được mang tên Ngô Đình Diệm dưới thời Bộ Trưởng Quốc Gia Giáo Dục Nguyễn Dương Đôn, thầy Nguyễn Đình Hàm làm Hiệu Trưởng (trong sân cờ của trường lúc tôi học có thấy dựng một bia nhỏ đánh dấu sự kiện này, không rõ ngày nay còn không). Tên Trường Ngô Đình Diệm chỉ hiện hữu trên giấy tờ chưa dựng bảng lên cổng trường, (đang trong quá trình cân nhắc chăng?). Có lẽ Tổng Thống Ngô Đình Diệm cảm thấy không ổn vì trường đã do thân phụ ông, cụ Ngô Đình Khả, làm Chưởng Giáo đầu tiên nên ông ra Quyết Định lấy lại tên Quốc Học. Thầy Hiệu Trưởng Nguyễn Đình Hàm là người lo toan sắp xếp tổ chức lại từ một nơi đóng quân trở thành trường học qui cũ khang trang không phải là việc đơn giản, công lao của những người góp tay trong quá trình phục hoạt lại trường phải được các thế hệ hậu sinh ghi nhớ. Trường mang tên TRƯỜNG QUỐC HỌC từ 1957 cho tới ngày nay.
Nóí về Trường Quốc Học mà không nói đến Trường Đồng Khánh là một thiếu sót lớn. Lễ dặt đá xây dựng trường ngày 15 tháng 7 năm1917 dưới sự chủ tọa của vua Khải Định. Từ 1919 đến 1955 trường mang tên Cao Đẳng Tiểu Học Đồng Khánh, sau năm 1955 mới trở thành Trung Học Đồng Khánh chỉ có Đệ Nhất Cấp, lên Đệ Nhị Cấp phải qua Quốc Học mãi cho đến sau 1963 trường mớí có đủ các lớp Đệ Nhị Cấp, từ đó không còn thấy bóng hồng thấp thoáng trong sân Quốc Học nữa.
Cụm từ Quốc-Học Đồng-Khánh luôn đi liền bên nhau, phải chăng định mệnh đã khiến hai trường gắn bó với nhau? Này nhé: hai trường đều nằm trong khu đất trại thuỷ quân Nhà Nguyễn, cùng nhìn ra sông Hương chỉ cách nhau một con đường nhỏ, đường Nguyễn Trường Tộ, hai trường đều quét vôi màu hồng đậm, học sinh hai trường cùng đi trên một con đường râm mát bóng cây, cùng xuôi Đập Đá về Vĩ Dạ, chợ Cống, qua cầu Trường Tiền hay ngược Dã Viên lên Cầu Lòn qua Kim Long, hoặc cùng đợi ở bến đò Thừa Phủ để vào Thành Nội về Gia Hội... đó là cơ hội tốt cho tình yêu thuở đầu đời chớm nở sẽ đâm hoa kết trái về sau. Như đã thấy có thời gian Quốc Học phải nương nhờ Đồng Khánh, ngược lại lên Đệ Nhị Cấp thì Đồng Khánh phải núp bóng Quốc Học vì vậy hai trường có nhiều liên hệ tình cảm, đã để lại mãi mãi về sau nhiều chuyện tình đẵm nước mắt, cũng như tràn đầy hạnh phúc….Hồi tưởng lại lòng đầy thương cảm vợ chồng Thầy Văn Đình Hy, Giám Học Quốc Học và Cô Đặng Tống Tịnh Nhơn, Hiệu Trưởng Đồng Khánh. Bất cứ người Huế nào lúc đó cũng thèm thuồng hạnh phúc đẹp đôi của họ.
Cùng năm 1917, tại Hà Nội được lập một trường Đồng Khánh bên cạnh Hồ Gươm, năm 1948 đổi thành trường Trưng Vương. Tại Sàigòn năm 1915 lập trường nữ Tiểu Học mặc áo tím nên thường được gọi là Trường Áo Tím, năm 1922 nâng lên Trung Học gọi Collège de Jeunnes Filles tức Gia Long sau này.
Trường Quốc Học Vinh ( Collège de Vinh) được lập năm 1920 tại thành phố Vinh tỉnh Nghệ An. Hiệu Trưởng đầu tiên là ông Pihet. Người Việt Nam đầu tiên làm Hiệu Trưởng là ông Vũ Đức Thân, người cuối cùng là ông Nguyễn Ngọc Cầu từ 9/1949-9/1950. Năm 1943-1944 trường được đổi tên thành Trường Nguyễn Công Trứ. Quân Trung Hoa lấy trường Nguyễn Công Trứ làm nơi đóng quân nên đầu năm học 1945 - 1946 học sinh phải học ở dinh Đốc học trong thành Vinh. Sau tạm ước 6-3-1946 quân Trung Hoa rút về nước học sinh lại trở về trường cũ học cho đến hết năm học 1945 – 1946, niên khóa 1946 - 1947 chỉ học được vài tháng thì toàn quốc kháng chiến bùng nổ, chính sách “tiêu thổ kháng chiến” đã phá hủy trường hoàn toàn. Cơ sở Trường Quốc Học Vinh không còn tồn tại, hiện nay Trường Huỳnh Thúc Kháng là hậu thân của Quốc Học Vinh. (Theo Phan Trọng Báu-văn hóa Nghệ An).
Trường Quốc Học Qui Nhơn được nâng lên từ một trường Tiểu Học. Niên khóa 1921-1922 trường Pháp-Việt Qui Nhơn (nay là trường Tiểu Học Lê Lợi), mở thêm lớp Đệ nhất niên, được đổi thành Trường Quốc Học Qui Nhơn (Collège de Qui Nhon). Sau lớp này học sinh phải ra Quốc Học Huế học tiếp lên trên. Niên khóa 1924-1925 trường di chuyển đến vị trí khác (nay là khu vực Tiểu Học Lê Hồng Phong). Niên khóa 1926-1927 trường hoàn chỉnh cấp Cao Đẳng Tiểu Học và có đủ 10 lớp từ lớp năm lên Đệ Tứ (lớp 1 đến lớp 9). Trường có khoảng 400 học sinh người các địa phương từ Đànẳng đến Phan Thiết và các tỉnh Tây Nguyên. Xuân Diệu, Chế Lan Viên đã học ở đây trước khi ra Quốc Học Huế. Trong thời chiến tranh Việt-Pháp trường bị phá hủy. Năm 1955 chính quyên mới xây dựng lại trường trên nền cũ bị thu hẹp vì dân chiếm dụng trong thời chiến, ngôi trường mới được xây dựng mang tên Trung Học Cường Để. Sau 1975 trường đổi tên Trường cấp III Quang Trung. Niên học 1991-1992 trường mang lại tên Quốc Học Qui Nhơn. ( quochocquynhon.edu.vn)
Trên đây là đại lược quá trình hình thành các trường học vào buổi bình minh nền giáo dục mới trong đó có Quốc Học Huế nơi mà tôi chỉ có duyên vào ra trong ba năm cuối của bậc Trung Học. Nhân viết về Quốc Học nên có đôi giòng về đời học sinh với nhiều kỷ niệm đáng nhớ trong đó có thời gian ở Quốc Học, kể lại nơi đây biết đâu “ai đó” đọc được, giúp gợi nhớ quá khứ thời học trò nhiều vụng dại:
Trường Quốc Học Vinh ( Collège de Vinh) được lập năm 1920 tại thành phố Vinh tỉnh Nghệ An. Hiệu Trưởng đầu tiên là ông Pihet. Người Việt Nam đầu tiên làm Hiệu Trưởng là ông Vũ Đức Thân, người cuối cùng là ông Nguyễn Ngọc Cầu từ 9/1949-9/1950. Năm 1943-1944 trường được đổi tên thành Trường Nguyễn Công Trứ. Quân Trung Hoa lấy trường Nguyễn Công Trứ làm nơi đóng quân nên đầu năm học 1945 - 1946 học sinh phải học ở dinh Đốc học trong thành Vinh. Sau tạm ước 6-3-1946 quân Trung Hoa rút về nước học sinh lại trở về trường cũ học cho đến hết năm học 1945 – 1946, niên khóa 1946 - 1947 chỉ học được vài tháng thì toàn quốc kháng chiến bùng nổ, chính sách “tiêu thổ kháng chiến” đã phá hủy trường hoàn toàn. Cơ sở Trường Quốc Học Vinh không còn tồn tại, hiện nay Trường Huỳnh Thúc Kháng là hậu thân của Quốc Học Vinh. (Theo Phan Trọng Báu-văn hóa Nghệ An).
Trường Quốc Học Qui Nhơn được nâng lên từ một trường Tiểu Học. Niên khóa 1921-1922 trường Pháp-Việt Qui Nhơn (nay là trường Tiểu Học Lê Lợi), mở thêm lớp Đệ nhất niên, được đổi thành Trường Quốc Học Qui Nhơn (Collège de Qui Nhon). Sau lớp này học sinh phải ra Quốc Học Huế học tiếp lên trên. Niên khóa 1924-1925 trường di chuyển đến vị trí khác (nay là khu vực Tiểu Học Lê Hồng Phong). Niên khóa 1926-1927 trường hoàn chỉnh cấp Cao Đẳng Tiểu Học và có đủ 10 lớp từ lớp năm lên Đệ Tứ (lớp 1 đến lớp 9). Trường có khoảng 400 học sinh người các địa phương từ Đànẳng đến Phan Thiết và các tỉnh Tây Nguyên. Xuân Diệu, Chế Lan Viên đã học ở đây trước khi ra Quốc Học Huế. Trong thời chiến tranh Việt-Pháp trường bị phá hủy. Năm 1955 chính quyên mới xây dựng lại trường trên nền cũ bị thu hẹp vì dân chiếm dụng trong thời chiến, ngôi trường mới được xây dựng mang tên Trung Học Cường Để. Sau 1975 trường đổi tên Trường cấp III Quang Trung. Niên học 1991-1992 trường mang lại tên Quốc Học Qui Nhơn. ( quochocquynhon.edu.vn)
Trên đây là đại lược quá trình hình thành các trường học vào buổi bình minh nền giáo dục mới trong đó có Quốc Học Huế nơi mà tôi chỉ có duyên vào ra trong ba năm cuối của bậc Trung Học. Nhân viết về Quốc Học nên có đôi giòng về đời học sinh với nhiều kỷ niệm đáng nhớ trong đó có thời gian ở Quốc Học, kể lại nơi đây biết đâu “ai đó” đọc được, giúp gợi nhớ quá khứ thời học trò nhiều vụng dại:
“Đến nay tôi hiểu thì tôi đã,
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi” TTKh
Sau khi hòa bình lập lại tôi vào học Trường Tiểu Học Tương Lai Bồ Điền thuộc nhà Thờ Bồ Điền do Cha Lập cai quản, giáo viên là các Soeurs (thường gọi là Chị): chị Chiên làm Hiệu Trưởng, Chị Thái dạy lớp Nhất, Chị Ban dạy lớp Nhì. Mùa hè 1956 lên Huế thi Tiểu Học tại trường Thanh Long. Tiệm tạp hóa La Ngu trên đường Hàng Bè ở gần cầu Đông Ba là nơi tôi mua bút mực chuẩn bị cho ngày thi Tiểu Học. Các bạn cùng lớp còn nhớ tên là Trần Nhạn, Thái Bình Minh, Vỏ Cừ, Vỏ Y, Ngô Hiệu. Hết hè năm đó lên Huế trọ học ở đường Ô Hồ, sau mang tên đường Mạc Đỉnh Chi. Nơi đây có Mã Ông Trạng sau lưng chùa Diệu Đế, có lẽ vì vậy nên khu vực này nhiều đường mang tên các danh sĩ nước nhà như đường Nguyễn Bỉnh Khiêm tức đường Đò Cồn đi thẳng đến bến Đò Cồn (bến đò nối liền Huế với Cồn Hến), đường Trung Bộ mang tên Tô Hiến Thành, đường Ngự Viên đổi lại đường Nguyễn Du (không phải đường Ngự Viên hiện nay song song với đường Diệu Đế). Niên khóa 1956-1957 là năm học đầu tại Trường Nguyễn Du ở đường Ngự Viên, âm hưởng Ngự Viên nghe khá nên thơ vì nơi đây có vườn Ngự Uyển. Khi tôi đến đây Ngự Viên chỉ là một khoảng đất có tường rào xiêu vẹo, đổ nát, cổng đi vào có mấy trụ biểu đã loang lổ vì thời gian, bên trong được trồng hoa màu có mấy gian nhà tôn lụp xụp, cảnh huyên náo xôn xao ngựa xe áo quần lượt là, mùi thơm sực nức ướp hương của các cung tần mỹ nữ, màu sắc cờ quạt áo mão cân đai của các đình thần quan lại, các tân khoa trạng nguyên bảng nhản thám hoa…đã theo gió bay xa, chỉ còn mây trắng bay bay trong bầu trời xanh mông mênh….. “Bạch vân thiên tải không du du”, và tiếng gió rì rào qua xóm nghèo xơ xác, lòng xao xuyến nhớ lại bài thơ XÓM NGỰ VIÊN Nguyễn Bính đã tả về Ngự Viên (đính kèm toàn bài):
……………………………….
Giậu đổ dây leo suồng sã quá
Hoa tàn con bướm cánh nghiêng nghiêng
Buồn thu rơi nhẹ đôi tờ lá
Xóm vắng rêu xanh những lối hè
…………………………………..
Gót sen bước nhẹ lầu tôn nữ
Ngựa bạch buông chùng áo Trạng nguyên
…………………………………
Hôm nay có một người du khách
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên
Trường Nguyễn Du lúc đó chỉ có Đệ Nhất Cấp, nam nữ học chung. Lớp tôi có khoảng chừng bốn mươi, nữ sinh chiếm ba, bốn bàn đầu bên phải nhìn lên bảng đen. Những tên Tôn Nữ Thu Hương, Nguyễn Thị Liên Hương, Trần thị Thanh Xuân, Nguyễn thị Chanh, Hồ Xuân Tịnh, Nguyễn Khoa Bông, Lê Vầm, Lê Vệ, Bùi Hữu Vịnh, Nguyễn văn Chánh, Nguyễn chánh Sáu, Lê văn Ngăn, Nguyễn văn Châu, Nguyễn thanh Châu, Nguyễn Ngân, Nguyễn Khắc Lý... ở Đệ Thất Lục . Lên Đệ Ngũ Tứ có thêm Phan thị Hằng, Phan thị Xuân, Nguyễn Thúy Liệu, Nguyễn Thị Kim Quyên, Trần Nhơn, Vĩnh Cao, Lê cảnh Tuấn, Lê quang Dật, Nguyễn Hữu Thiện, Nguyễn hữu Dật, Nguyễn văn Thọ …..Tốt nghiệp Trung Học Đệ Nhất Cấp xong có người vào trường chuyên nghiệp như Nông Lâm Súc Bảo Lộc, Cán Sự Y Tế Huế, Nữ Hộ Sinh Quốc Gia (Sâge Femme Huế), Cán Sự Bưu Điện Sàigòn…Người nào học lên phải thi vào Quốc Học (đỗ hạng Bình khỏi qua thi tuyển), không đỗ thì vào Trường Trung Học Bán Công Huế, trường Mê Linh, trường Bồ Đề Hữu Ngạn..
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi” TTKh
Sau khi hòa bình lập lại tôi vào học Trường Tiểu Học Tương Lai Bồ Điền thuộc nhà Thờ Bồ Điền do Cha Lập cai quản, giáo viên là các Soeurs (thường gọi là Chị): chị Chiên làm Hiệu Trưởng, Chị Thái dạy lớp Nhất, Chị Ban dạy lớp Nhì. Mùa hè 1956 lên Huế thi Tiểu Học tại trường Thanh Long. Tiệm tạp hóa La Ngu trên đường Hàng Bè ở gần cầu Đông Ba là nơi tôi mua bút mực chuẩn bị cho ngày thi Tiểu Học. Các bạn cùng lớp còn nhớ tên là Trần Nhạn, Thái Bình Minh, Vỏ Cừ, Vỏ Y, Ngô Hiệu. Hết hè năm đó lên Huế trọ học ở đường Ô Hồ, sau mang tên đường Mạc Đỉnh Chi. Nơi đây có Mã Ông Trạng sau lưng chùa Diệu Đế, có lẽ vì vậy nên khu vực này nhiều đường mang tên các danh sĩ nước nhà như đường Nguyễn Bỉnh Khiêm tức đường Đò Cồn đi thẳng đến bến Đò Cồn (bến đò nối liền Huế với Cồn Hến), đường Trung Bộ mang tên Tô Hiến Thành, đường Ngự Viên đổi lại đường Nguyễn Du (không phải đường Ngự Viên hiện nay song song với đường Diệu Đế). Niên khóa 1956-1957 là năm học đầu tại Trường Nguyễn Du ở đường Ngự Viên, âm hưởng Ngự Viên nghe khá nên thơ vì nơi đây có vườn Ngự Uyển. Khi tôi đến đây Ngự Viên chỉ là một khoảng đất có tường rào xiêu vẹo, đổ nát, cổng đi vào có mấy trụ biểu đã loang lổ vì thời gian, bên trong được trồng hoa màu có mấy gian nhà tôn lụp xụp, cảnh huyên náo xôn xao ngựa xe áo quần lượt là, mùi thơm sực nức ướp hương của các cung tần mỹ nữ, màu sắc cờ quạt áo mão cân đai của các đình thần quan lại, các tân khoa trạng nguyên bảng nhản thám hoa…đã theo gió bay xa, chỉ còn mây trắng bay bay trong bầu trời xanh mông mênh….. “Bạch vân thiên tải không du du”, và tiếng gió rì rào qua xóm nghèo xơ xác, lòng xao xuyến nhớ lại bài thơ XÓM NGỰ VIÊN Nguyễn Bính đã tả về Ngự Viên (đính kèm toàn bài):
……………………………….
Giậu đổ dây leo suồng sã quá
Hoa tàn con bướm cánh nghiêng nghiêng
Buồn thu rơi nhẹ đôi tờ lá
Xóm vắng rêu xanh những lối hè
…………………………………..
Gót sen bước nhẹ lầu tôn nữ
Ngựa bạch buông chùng áo Trạng nguyên
…………………………………
Hôm nay có một người du khách
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên
Trường Nguyễn Du lúc đó chỉ có Đệ Nhất Cấp, nam nữ học chung. Lớp tôi có khoảng chừng bốn mươi, nữ sinh chiếm ba, bốn bàn đầu bên phải nhìn lên bảng đen. Những tên Tôn Nữ Thu Hương, Nguyễn Thị Liên Hương, Trần thị Thanh Xuân, Nguyễn thị Chanh, Hồ Xuân Tịnh, Nguyễn Khoa Bông, Lê Vầm, Lê Vệ, Bùi Hữu Vịnh, Nguyễn văn Chánh, Nguyễn chánh Sáu, Lê văn Ngăn, Nguyễn văn Châu, Nguyễn thanh Châu, Nguyễn Ngân, Nguyễn Khắc Lý... ở Đệ Thất Lục . Lên Đệ Ngũ Tứ có thêm Phan thị Hằng, Phan thị Xuân, Nguyễn Thúy Liệu, Nguyễn Thị Kim Quyên, Trần Nhơn, Vĩnh Cao, Lê cảnh Tuấn, Lê quang Dật, Nguyễn Hữu Thiện, Nguyễn hữu Dật, Nguyễn văn Thọ …..Tốt nghiệp Trung Học Đệ Nhất Cấp xong có người vào trường chuyên nghiệp như Nông Lâm Súc Bảo Lộc, Cán Sự Y Tế Huế, Nữ Hộ Sinh Quốc Gia (Sâge Femme Huế), Cán Sự Bưu Điện Sàigòn…Người nào học lên phải thi vào Quốc Học (đỗ hạng Bình khỏi qua thi tuyển), không đỗ thì vào Trường Trung Học Bán Công Huế, trường Mê Linh, trường Bồ Đề Hữu Ngạn..
Lên Đệ Tam Quốc Học chỉ còn gặp vài bạn như Trần Nhơn Ban A, Vĩnh Cao, Hồ Xuân Tịnh ban B, Lê văn Ngăn Ban C, các bạn khác thời Nguyễn Du không còn gặp nữa không rõ đi đâu. Lớp Đệ Tam B3 nằm trong dãy nhà trệt mới xây dựng dọc bờ tường giữa Quốc Học Đồng Khánh. Các bạn mới có Lê Đức Viêm, Lê Lợi, Trần đình Văn, Bùi Thiệp có nước da ngăm ngăm đen, một cầu thủ chủ yếu của đội bóng tròn Quốc Học (bóng tròn ngày nay gọi là bóng đá xem ra hợp lý hơn, chứ bóng tròn thì bóng nào chả tròn). Kỷ niệm khó quên là chuyện đá thạch anh mà Trần đình Văn nhờ cô Trần Thị Như Lưu, giáo sư vạn vật, lấy trong túi quần, và bạn Trương đình Thư đi học bằng xe gắn máy. Những giờ nghỉ giữa buổi hoặc cuối tuần Thư thường hay chở đi chơi nhiều nơi (thời này học sinh hiếm có xe gắn máy), cuối năm Đệ Tam bạn Thư đi đâu không rõ. Giờ ra chơi bọn Đệ Tam chúng tôi thường tụ tập dọc hành lang đối diện với dãy nhà hai tầng có các lớp Đệ Nhất với một số ít nữ sinh Đồng Khánh học trong đó, chỉ chỏ luận bàn lung tung hò reo chọc phá các đàn chị Đệ Nhất, có chị Tương Giang con Thầy Hiệu Trưởng, đúng là nhất quỉ nhì ma thứ ba học trò.
Về thầy giáo, năm Đệ Tam có Thầy Nguyễn như Truyền dạy Quốc Văn, thầy Tôn Thất Dinh dạy Anh văn, chúng tôi đặt biệt danh “keep silence” vì thầy luôn luôn nói keep silence mỗi khi thầy tới lớp. Thầy Nguyễn Hữu Kiêm dạy tóan, thầy hắc ám nhất, thầy ra tóan quá khó, phần đông 2/3 dưới điểm 6/20. Thầy lấy bài ca dao ra biểu áp dụng đại số lập phương trình để tìm số người nói tới trong đó (lâu ngày quên bài ca dao đó), thầy luôn luôn mang tất (vớ). Thầy Trần Đình Bình dạy Lý Hóa kiêm Giáo Sư hướng dẫn, thầy có dạy ở trường Bán Công Huế và kết hôn với Phan thị Xuân một hoa khôi của Nguyễn Du. Thầy Đòan Nê dạy Pháp Văn, thầy say sưa giảng về thời Phục Hưng (Renaissance) của văn học Pháp với giọng khàn khàn trầm trầm nhừa nhựa, thầy hay kể nhiều chuyện vui trong văn học Pháp, chúng tôi hay xin thầy kể tiếp, rất thích nghe (để thầy không còn giờ truy bài chúng tôi), kể về thời gian vào tiếp thu ở Nam Ngãi sau hiệp định Genève, dân tới gõ vào xe tăng rồi la lên: “ồ bằng sét (sắt) thiệt bà con ơi” vì trong thời gian dưới quyền cai trị của Việt Minh dân được tuyên truyền xe tăng làm bằng giấy cạc tông (giấy bồi) đừng sợ, chuyện nhìn qua lỗ khóa.
Năm Đệ Nhị có các thầy Trần như Uyên dạy Quốc Văn, thầy Phan Khắc Tuân dạy Lý Hóa. Thầy Tuân có mang đôi mắt kiếng khá dày, có lẽ thầy bị cận thị nặng như thầy Đinh Qui Hiệu Trưởng. Thầy Nguyễn Đức Mai dạy Anh Văn, bên cạnh thầy luôn có một người bạn Mỹ đi kèm, sau này có thời gian thầy được cử giữ chức Trưởng Ty Thông Tin Thừa Thiên Huế. Thầy Bùi đình Nhuận dạy Toán, thầy đẹp trai, ít cười khi nào nét mặt cũng nghiêm, thầy đi dạy không cần sách vở cặp da gì cả, đi tới lớp với hai tay không.
Các thầy năm Đệ Nhất có Bà Nguyễn Châu dạy Triết thường gọi bằng khuê danh là Cô Lan, thầy Lê vĩnh Kiến dạy Lý Hóa, sau này thầy chuyển qua hoạt động chính trị, liên danh của thầy đắc cử Thượng Viện, thầy Tóan vẫn thầy Nhuận, thầy Vĩnh Quyền dạy Anh văn, thầy Lâm Tài dạy Sử Địa. Thầy Tài đi một chiếc xe hơi màu hoa lý rất đẹp làm nhiều người mơ ước. Thầy Ngô Bút dạy Công Dân, thầy Cao Hữu Hoành dạy Pháp Văn. Năm Đệ Nhất có các bạn Bùi hữu Vừa, Phan tử Duy, Hà thúc Thụy, Lê văn Tiu, gia sư con gái nhà Mỹ Thắng (hoa khôi Đồng Khánh) sau du học Tây Đức, Lê Tự Rô, Ngô văn Tường…
Thời gian này bù đầu lo học cho đậu Tú Tài I rồi Tú Tài II nếu không đậu đời sẽ bi đát lắm, “rớt Tú Tài anh đi Trung Sĩ” (Tú tài trong câu nói này là Tú Tài I), cho nên ít giao du rong chơi mà chỉ lo “dùi mài kinh sử”. Lên Đệ Nhị Cấp chỉ rảnh năm Đệ Tam, bận nhất hai năm liên tiếp Đệ Nhị phải đậu Tú Tài I mới lên Đệ Nhất. Thời đó Tiểu học phải thi, Trung Học Đệ Nhất Cấp cũng thi. Lúc đi thi tất cả các môn (trừ Tóan) đều trong đầu viết lên trên giấy nên phải thuộc lòng, cái nóng mùa hè ở Huế mà phải học bài quá vất vả. Học sinh Quốc Học mang bảng tên màu trắng thêu chữ màu xanh nước biển, hai đầu tên là các gạch, ví dụ: một gạch (─ tên ─) là Đệ Tam, hai gạch chồng lên (═ tên ═) là Đệ Nhị, anh nào mang ba gạch (≡ tên ≡) là Đệ Nhất tức là chàng ta đã có trong tay mảnh bằng Tú Tài I rồi khỏi lo, có thể ra đời kiếm sống, nếu đi lính thì Chuẩn Úy trong tay. Nữ sinh Đồng Khánh tinh mắt lắm hay liếc nhìn bảng tên trước tiên khi đối diện chuyện trò cho thích hợp. Mang ba gạch là oai lắm vì là Niên Trưởng trong trường, ngoài xã hội là ông Tú-nửa, phải học hết năm Đệ Nhất đậu được Tú Tài II mới đưọc gọi là ông Tú, cửa vào đời rộng mở để tiếp đón, kể cả con tim của mấy nàng cũng rộng mở. Nếu vào Đại Học Huế thì còn oai hơn, con tim mấy nàng càng mở rộng hơn nhiều. Lúc đó nhìn xuống thấy một đòan đàn em đông đảo, nhìn lên thấy các sinh viên Đại Học Huế oai quá, gặp đối tượng nữ sinh xinh xắn hay nghêu ngao chọc ghẹo:
Thời gian này bù đầu lo học cho đậu Tú Tài I rồi Tú Tài II nếu không đậu đời sẽ bi đát lắm, “rớt Tú Tài anh đi Trung Sĩ” (Tú tài trong câu nói này là Tú Tài I), cho nên ít giao du rong chơi mà chỉ lo “dùi mài kinh sử”. Lên Đệ Nhị Cấp chỉ rảnh năm Đệ Tam, bận nhất hai năm liên tiếp Đệ Nhị phải đậu Tú Tài I mới lên Đệ Nhất. Thời đó Tiểu học phải thi, Trung Học Đệ Nhất Cấp cũng thi. Lúc đi thi tất cả các môn (trừ Tóan) đều trong đầu viết lên trên giấy nên phải thuộc lòng, cái nóng mùa hè ở Huế mà phải học bài quá vất vả. Học sinh Quốc Học mang bảng tên màu trắng thêu chữ màu xanh nước biển, hai đầu tên là các gạch, ví dụ: một gạch (─ tên ─) là Đệ Tam, hai gạch chồng lên (═ tên ═) là Đệ Nhị, anh nào mang ba gạch (≡ tên ≡) là Đệ Nhất tức là chàng ta đã có trong tay mảnh bằng Tú Tài I rồi khỏi lo, có thể ra đời kiếm sống, nếu đi lính thì Chuẩn Úy trong tay. Nữ sinh Đồng Khánh tinh mắt lắm hay liếc nhìn bảng tên trước tiên khi đối diện chuyện trò cho thích hợp. Mang ba gạch là oai lắm vì là Niên Trưởng trong trường, ngoài xã hội là ông Tú-nửa, phải học hết năm Đệ Nhất đậu được Tú Tài II mới đưọc gọi là ông Tú, cửa vào đời rộng mở để tiếp đón, kể cả con tim của mấy nàng cũng rộng mở. Nếu vào Đại Học Huế thì còn oai hơn, con tim mấy nàng càng mở rộng hơn nhiều. Lúc đó nhìn xuống thấy một đòan đàn em đông đảo, nhìn lên thấy các sinh viên Đại Học Huế oai quá, gặp đối tượng nữ sinh xinh xắn hay nghêu ngao chọc ghẹo:
“Sông Hương lắm chuyến đò ngang
Chờ anh em nhé đừng sang một mình”
Chờ anh em nhé đừng sang một mình”
Năm tiếp theo vào giảng đường Đại Học Khoa Học Huế ở Morin, thử MatGén (Mathématique générale) quá khó, xoay qua MPC (Mathématique Physics Chimie) cũng không xong vì chiến sự ngày càng ác liệt, thanh niên phải nhập ngũ cầm súng, thế là đành “xếp bút nghiên” theo nghiệp Hải Quân, giang hồ vùng vẫy, “giã từ Cố Đô” nổi trôi theo vận nước lưu lạc xứ người.
Thế hệ chúng tôi hầu hết đã bị đốt cháy trong lửa đạn chiến chinh, người phía này kẻ phía kia trở thành kẻ thù tàn sát lẫn nhau, còn được sống đến hôm nay quả rất may mắn, là những hạt gạo còn sót lại trên sàng. Ngày nay chỉ còn gặp lại một số ít người bạn học cũ đếm không hết các ngón của bàn tay. Lần trở lại thăm Huế năm 2008, bạn bè đồng trang lứa cũ không còn mấy, hoặc đã chết hoặc đi nước ngoài. Ghé qua Quốc Học, vào Đại Nội, dạo chơi bờ sông Hương, nơi nào cũng thấy tẻ lạnh, chỉ thấy dòng nước buồn thiu không muốn chảy, phải chăng giòng nước đang ngậm ngùi cho cuộc bể dâu, hay cảm thông cho số phận những mái đầu xanh thời trai trẻ đã từng soi bóng nước Hương Giang nay đã bạc màu vì bụi thời gian và truân chuyên trong cuộc sống? Thẩn thờ nghĩ đến quá khứ thời hoa niên, những kỷ niệm cũ tràn về: những ngày cùng nhau đi trại ở Vạn Niên, hái dâu, ăn thanh trà ở Nguyệt Biều, tắm sông Hương ở Lương Quán, tắm biển Thuận An, du ngọan đồi Thiên An, Vọng Cảnh, dự lễ giỗ Cụ Ngô đình Khả đầu năm âm lịch trong tư dinh ông Cẩn ở Phủ Cam với đầy đủ các thành viên của một gia đình đang nắm quyền lực, đi xem Cầu Ngói Thanh Tòan, Hổ Quyền, những ngày biểu tình bãi khóa, tiếng hò reo xem chừng cơ hồ như còn hòa lẫn trong gió chiều vi vu trên bờ sông. Tất cả đã lùi về quá khứ như một giấc mơ. Chuông chùa Thiên Mụ boong… boong… boong… vang lên từng tiếng một, uể oải, thong thả ngân dài, buông lơi tan dần trong không gian u tịch lúc chiều xuống khiến viễn khách chạnh lòng nhớ lại những người có duyên lành đã tình cờ từng được gặp gỡ trên đất Thần Kinh thưở nào nay chỉ còn là kỷ niệm của một kiếp người, lòng bâng khuâng tự hỏi:
“Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
Vũ đình Liên.
Sacramento,California
Cuối Thu Tân Mão, tháng 11 năm 2011
Hoàng-Huy Hoàng Phước Quyến
____
Ghi chú:
(*) Paul Bert sinh năm 1833, xuất thân trường École polytechnique ở Paris, giáo sư Đại học Bordeaux (1866), Sorbonne (1869), Bộ trưởng Giáo Dục (1881-1882), tháng 1 năm 1886 được cử giữ chức Thống Sứ (resident-général) Bắc và Trung Kỳ, nhậm chức tháng 4 đến khi qua đời tháng 11 năm 1886 tại Hànội. Pháp coi ông là kiến trúc sư tổ chức lại thuộc địa và qui hoạch Hà Nội trước khi vua Đồng Khánh giao Hà Nội làm nhượng địa cho Pháp.
(**) Thoạt kỳ thủy các giáo sĩ ký âm tiếng Việt bằng mẫu tự latinh tạo ra chữ Việt vì nhu cầu truyền giáo. Với truyền thống thông minh và quật cường của dân tộc, các trí thức yêu nước đã biết vận dụng văn tự này góp sức chỉnh sửa phổ biến thành chữ Quốc Ngữ chúng ta dùng ngày nay, thông qua chữ Quốc Ngữ truyền bá văn hóa mới mở mang dân trí đưa dân tộc thoát khỏi lối học từ chương nho giáo cũ dành độc lập cho nước nhà lại là chuyện khác ngoài dự tính của các giáo sĩ và của thực dân Pháp. HPQ
Đính Kèm: Chỉ Dụ của Vua Thành Thái, Nghị Định của Toàn Quyền Đông Dương và Xóm Ngự Viên của Nguyễn Bính
Tồn Nghi: Trong tài liệu này ghi “Năm Thành Thái thứ hai (ngày 17 tháng chín), Cơ Mật Viện triều Thành Thái…”, tôi e có nhầm lẫn chăng? Theo Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, năm 1888 là năm Thành Thái nguyên niên, lên ngôi ngày 28 tháng 1 năm 1888, như vậy năm 1896 phải là năm Thành Thái thứ Tám, có nhiều người viết “năm Thành Thái thứ 8 lập trường Quốc Học”. Mong BS Hồ Đắc Duy có đọc được Tồn Nghi này nên xem lại bản gốc do thầy Châu Tăng cung cấp để chỉnh sửa vì đây là sử liệu cần tính chính xác. HPQ
I- DỤ NGÀY 23-10-1896 :
http://h.1asphost.com/quochochue/tsQH.htm
Năm Thành Thái thứ hai (ngày 17 tháng chín), Cơ Mật Viện triều Thành Thái cung lục "dụ chỉ" như sau :
"Muốn cho việc giáo dục đuợc hoàn bị, không nên hạn chế học vấn trong khuôn khổ hẹp hòi. Trái lại, để bảo đảm cho việc giáo huấn được điều hòa cần mở ra các lớp học thường xuyên.
Nay ngoài những thánh kinh, hiền truyện của Trung Hoa lại còn nhiều sách trước tác ở các nước khác và trách nhiệm của người đại diện phát ngôn trong lúc giao thiệp trên trường quốc tế rất là quan trọng. Vả lại, phát triển giáo dục là phương tiện duy nhất để mở mang trí thức, đào tạo nhân tài.
Trong tình hình hiện tại không thể xem thường những nhận xét trên đây được, bởi vì ở nước ta việc giáo huấn theo sách vở Khổng học, trừ trường Quốc tử giám đến các trường công ở tỉnh tuy rất phổ thông và hoàn toàn, nhưng việc giảng cứu các môn học tây phương đến nay vẫn còn nhiều thiếu sót cần phải được bổ cứu".
Trẫm đã xét kỹ lời trình tấu, vậy nay giáng dụ chỉ thành lập một trường lấy tên là "QUỐC HỌC", môn dạy chính là Pháp văn. Tuy nhiên, chương trình học còn có môn Hán tự nữa. Các công tử, tôn sanh, sinh viên trường Quốc tử giám cùng các học sinh trường công các tỉnh lỵ đều có thể xin học vào trường này và được học bổng theo lệ định với điều kiện tuổi từ 15 đến 20. Những người quá hạn tuổi, những học sinh con nhà thường dân đều có thể được đặc cách nhận vào nếu học lực xuất sắc.
Dụ này sẽ chuyển đạt cho qúy Toàn quyền đại thần để bổ nhiệm vị Chưởng giáo ( có ấn kiếm) và chuẩn y những nguyên tắc đại cương của nhà trường.
Ấn kiếm làm bằng đồng đen, theo kiểu mẫu ấn kiếm của trường Quốc Tử Giám. Ấn lớn khắc chữ lớn "QUỐC HỌC TRƯỜNG QUAN PHÒNG", tiểu kiếm khắc chữ Hán "QUỐC HỌC".
Khâm thử.
II- NGHỊ ÐỊNH NGÀY 18-11-1896 CỦA PHỦ TOÀN QUYỀN ÐÔNG DƯƠNG.
Khoản 1. Nay thiết lập tại Huế. một học đường lấy tên là QUỐC HỌC (Quốc Gia Học Ðường). Pháp văn sẽ chiếm phần lớn trong chương trình dạy, tuy Hán văn vẫn được chú ý để cho sinh viên sẽ vào ngành quan lại có thể đồng thời học hai thứ chữ.
Khoản 2. Trường Hành Nhân nay bãi bỏ và trường Quốc Học thay thế.
Khoản 3. Ngoài sinh viên trường Quốc Tử Giám và trường Hành Nhân cũ, không một sinh viên nào được nhận vào trường Quốc Học nếu không có đủ 15 tuổi.
Khoản 4. Ðược nhận vào trường. các công tử con hoàng thân, các tôn sanh chi nhánh trong hoàng gia, các ấm tử hoặc những con quan được hưởng đặc quyền, sinh viên trường Hành Nhân và sinh viên trường Quốc tử Giám.
Khoản 5. Có thể được nhận để theo học các khoa ở trường Quốc Học những thanh niên bản xứ muốn theo đuổi học vấn và được nhìn nhận sau một thời kỳ khảo thí là đủ trình độ Hán học để theo dõi các khóa học.
Khoản 6. Những học sinh dưới 15 và trên 8 tuổi có thể được nhận học ngoại trú vào một lớp riêng mở tại nhà phụ thuộc của trường.
Khoản 7. Ban Giám đốc trường gồm 01 chưởng giáo, 01 giáo sư hạng nhất, 01 giáo sư hạng nhì, 01 giáo sư hạng ba, 01 giáo sư hạng tư , 01 giáo sư phụ trách các lớp nhỏ, 02 kiểm khán viên.
Khoản 8. Chưởng giáo do Toàn quyền bổ dụng được cấp phẩm hàm đối chiếu trong ngạch quan lại và có thể trực tiếp giao thiệp với Khâm sứ Trung kỳ, Viện Cơ Mật và các vị Thượng Thư.
Khoản 9. Các giáo sư chỉ được phép dạy sau khi được Hội đồng do Khâm sứ Trung kỳ cử khảo thí năng lực.
Khỏan 10. Ngoài lương bổng tính theo phẩm trật ngạch quan lại ông Chưởng giáo và các giáo sư sẽ được hưởng phụ cấp chức vụ.
Khoản 11. Chưởng giaó, giaó sư đuợc cư trú trong trường.
Khoản 12. (chế độ nhà trường, thời biểu học, sĩ số.)
Khoản 13. Học viên. được hưởng những quyền lợi thích đáng
Khoản 14. Các khoản chi phí về nhân viên, khí mảnh, công tác xây dựng và tu bổ trường ốc sẽ do chính phủ Nam triều đài thọ.
Khoản 15. Ông Khâm sứ Trung kỳ và Hội đồng Cơ mật chiếu nhiệm vụ thi hành nghị định này.
Ký tên :
A. Rousseau
(Tài liệu này do thầy Châu Tăng cung cấp và Nguyễn văn Sa - Hồ Ðắc Duy lược ghi theo yêu cầu của nhóm cựu học sinh QH/61-64 )
~~oOo~~
Xóm Ngự Viên
Lâu nay có một người du khách
Gió bụi mang về xóm Ngự Viên
Giậu đổ dây leo suồng sã quá
Hoa tàn con bướm cánh nghiêng nghiêng
Buồn thu rơi nhẹ đôi tờ lá
Xóm vắng rêu xanh những lối hè
Khách du lần giở trang hoài cổ
Mơ lại thời xưa xóm Ngự Viên.
Có phải ngày xưa vườn Ngự uyển
Là đây, hoa cỏ giống vườn tiên?
Sớm Đào, trưa Lý, đêm Hồng Phấn
Tuyết Hạnh, sương Quỳnh, máu Đỗ Quyên
Cung tần mỹ nữ ngời son phấn
Theo gót nhà vua nở gót sen
Hương đưa bát ngát ngoài trăm dặm
Cung nữ đa tình vua thiếu niên
Một đôi công chúa đều hay chữ
Hoàng hậu nhu mì không biết ghen.
Đất rộng can chi mà đổi chác
Thời bình đâu dụng chước hòa Phiên
Mẫu đơn nở đỏ nhà vua nhớ
Câu chuyện: "Hô lai bất thượng thuyền."
Thời bình đâu dụng chước hòa Phiên
Mẫu đơn nở đỏ nhà vua nhớ
Câu chuyện: "Hô lai bất thượng thuyền."
Có phải ngày xưa vườn Ngự uyển
Là đây, hoa cỏ giống vườn tiên?
Gót sen bước nhẹ lầu tôn nữ
Ngựa bạch buông chùng áo Trạng nguyên
Mười năm vay mượn vào kinh sử
Đã giả xong rồi nợ bút nghiên
Quan Trạng tân khoa tàn tiệc yến
Đi xem hoa nở mấy hôm liền
Đường hoa, má phấn tranh nhau ngó
Nhạc ngựa vang lừng khắp bốn bên
Thắp hương tôn nữ xin trời phật
"Phù hộ cho con được phỉ nguyền."
Lòng Trạng lâng lâng màu phú quí
Quả cầu nho nhỏ bói lương duyên
Tay ai ấy nhỉ gieo cầu đấy?
Nghiêng cả mùa xuân Trạng ngước nhìn.
Trạng bắt sai rồi, lầu rủ sáo
Có người đêm ấy khóc giăng lên
Bóng ai thấp thoáng sau bờ trúc
Chẳng Tống Trân ư cũng Nguyễn Hiền?
Khách du buồn mối buồn sông núi
Núi lở sông bồi cảnh biến thiên
Ngự viên ngày trước không còn nữa
Giờ chỉ còn tên xóm Ngự Viên
Khoa cử bỏ rồi, thôi hết Trạng!
Giời đem hoa cỏ trả vườn tiên
Tôn nữ ngồi đan từng chiếc áo
Dân thường qua lại lối đi quen.
Nhà cửa xúm nhau thành một xóm
Cay nồng hơi thuốc lẫn hơi men
Mụ vợ bắc nam người tứ xứ
Anh chồng tay trắng lẫn tay đen
Đổi thay tình nghĩa như cơm bữa
Khúc "Hậu đình hoa" hát tự nhiên.
Nhọc nhằn tiếng cú trong thanh vắng
Nhao nhác đàn dơi lúc đỏ đèn...
Hôm nay có một người du khách
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên
Nguyễn Bính
THÔNG TIN VÀ BÌNH LUẬN QUỐC TẾ
Mỹ sẽ điều tàu chiến tới Trường Sa?
- 8 tháng 10 2015
Hải quân Mỹ đang chờ Tổng thống Obama chuẩn thuận việc điều tàu chiến vào khu vực 12 hải lý quanh đảo nhân tạo của Trung Quốc ở Biển Đông.
Thời gian gần đây Trung Quốc đã tích cực cải tạo, cơi nới một số đảo ở Trường Sa, mà Việt Nam và một số nước khác cũng tuyên bố chủ quyền. Các đảo nhân tạo này được coi như tiền đồn và bàn đạp của Trung Quốc ở Biển Đông.
Từ tháng Năm năm nay, đã có tin Hoa Kỳ sẽ điều tàu tới khu vực tranh chấp, nhưng tới giờ mới có thông tin từ nhiều nguồn nói quyết định thực hiện việc này có thể được đưa ra sớm.
Báo Financial Times dẫn lời quan chức Mỹ giấu tên nói chiếc tàu chiến đầu tiên có thể tới trong vùng 12 hải lý quanh đảo nhân tạo của Trung Quốc "khoảng hai tuần tới".
Nếu xảy ra, đây sẽ là lần đầu tiên kể từ 2012 hải quân Mỹ có hành động thách thức trực diện tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông thông qua hoạt động mà Lầu Năm Góc gọi là thực thi tự do hàng hải.
Hôm 6/10, Chỉ huy Hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ - Đô đốc Scott Swift, phát biểu tại một hội thảo về hàng hải ở Australia rằng "một số quốc gia" hành xử ngược lại với luật pháp quốc tế, rõ ràng ám chỉ Trung Quốc.
Đô đốc Swift được hãng tin Reuters dẫn lời nói: "Một số quốc gia tiếp tục đưa ra những cảnh báo và giới hạn không cần thiết về tự do hàng hải trong các vùng kinh tế đặc quyền và tuyên bố chủ quyền không phù hợp với [Công ước về Luật biển Liên Hiệp Quốc]".
Đe dọa tự do hàng hải
Hồi tháng Chín, 29 nghị sỹ Mỹ từ cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa đã ký vào một bức thư kêu gọi điều máy bay và tàu hải quân qua các đảo nhân tạo của Trung Quốc như một thông điệp mang tính biểu tượng nhằm phản đối các hành động của Trung Quốc mà họ gọi là "gây đe dọa cho tự do hàng hải và trật tự hòa bình thế giới được sắp đặt từ cuối Thế chiến II".
Nhận định về thông tin mới nhất liên quan tới việc điều tàu chiến vào trong vùng 12 hải lý quanh đảo mà Trung Quốc xây cất, nhà nghiên cứu về Biển Đông Hoàng Việt nói: "Thời gian vừa qua, chúng ta đã chứng kiến nhiều chỉ trích đối với chính quyền Obama trong việc không có những hành động kiên quyết với Trung Quốc".
Ông Việt nói với BBC: "Thông báo đưa tàu chiến vào vùng 12 hải lý chứng tỏ quyết tâm của Hoa Kỳ trong việc không chấp nhận việc sử dụng các đảo nhân tạo để nhằm thay đổi hiện trạng tại Trường Sa, trong đó có việc muốn thay đổi tính chất pháp lý của các cấu trúc san hô này, nhằm tạo nên các cơ sở cho việc yêu sách chủ quyền trên biển đông của Trung Quốc".
"Đồng thời, nó cũng tỏ rõ quyết tâm "xoay trục châu Á" của chính phủ Mỹ, nhằm trấn an các đồng minh, cũng như các đối tác trước các hành động hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông, nêu cao tinh thần tôn trọng luật pháp quốc tế, trong đó có Luật biển LHQ."
Tuy nhiên ông Hoàng Việt cũng cho rằng còn phải chờ phản ứng của Trung Quốc và những gì diễn ra sau đó vì bất kỳ hành động nào như vậy "sẽ dẫn đến những diễn biến mới trên Biển Đông và khu vực".
"Hoa Kỳ cũng không muốn đẩy tới tình trạng đối đầu với Trung Quốc."Mỹ đã quyết đi vào 12 dặm quanh đảo nhân tạo Trung Quốc ở Trường Sa ?
Khu vực gần bãi đá Xu Bi - Subi Reef.AFP PHOTO / POOL / RITCHIE B. TONGO
Trong hai tuần lễ sắp tới, Hải quân Mỹ sẽ cho tàu quân sự tiến vào vùng 12 hải lý chung quanh một số đảo nhân tạo mà Trung Quốc mới bồi đắp ở khu vực quần đảo Trường Sa trên Biển Đông. Trên đây là tiết lộ của một quan chức Mỹ cao cấp, được nhật báo Anh Financial Times tiết lộ ngày 08/10/2015.
Động thái này nhằm khẳng định lập trường của Washington, không công nhận yêu sách chủ quyền của Trung Quốc trong khu vực. Vấn đề cho tàu hải quân áp sát các hòn đảo nhân tạo đã được giới chức quân sự Mỹ gợi lên từ nhiều tháng nay. Nhiều nguồn tin trùng hợp đã xác nhận rằng Bộ Quốc phòng Mỹ đã thúc giục Nhà Trắng bật đèn xanh cho chiến dịch được gọi là « tuần tra vì quyền tự do lưu thông trên biển » này, nhưng chưa được.
Một trong những lý do khiến chính quyền Mỹ dè dặt, chính là không muốn gây nên sự cố trước chuyến công du Hoa Kỳ của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vào hạ tuần tháng 9 vừa qua, trong bối cảnh giữa hai nước đang có bất đồng nghiêm trọng trên hồ sơ Biển Đông.
Tuy nhiên, cử chỉ hòa hoãn của Washington đã bị Bắc Kinh đáp trả bằng những hành vi khiêu khích công khai ngay trước lúc ông Tập Cận Bình đặt chân lên đất Mỹ. Điển hình là vụ tàu chiến Trung Quốc thâm nhập vùng lãnh hải Hoa Kỳ ngoài khơi Alaska vào đúng hôm Tổng thống Mỹ ghé thăm tiểu bang này, và vụ chiến đấu cơ Trung Quốc cắt đường bay của máy bay tuần thám Mỹ trên Hoàng Hải.
Bên cạnh đó, cuộc gặp thượng đỉnh Obama-Tập Cận Bình tại Nhà Trắng hôm 25/09 cũng không giúp được hai bên giảm bớt bất đồng trên vấn đề Biển Đông, thậm chí trước đông đảo báo giới Mỹ và quốc tế, lãnh đạo Trung Quốc còn thản nhiên bác bỏ những lời Mỹ chỉ trích Bắc Kinh xây đảo nhân tạo ở vùng Trường Sa khi cho rằng vùng Biển Đông thuộc về Trung Quốc từ « ngàn xưa ».
Trong bối cảnh kể trên, Nhà Trắng chỉ có thể đáp ứng yêu cầu của Hải quân Mỹ, và như tiết lộ của quan chức cao cấp Mỹ là việc tàu quân sự Mỹ áp sát đảo nhân tạo Trung Quốc sắp sửa diễn ra.
Câu hỏi đặt ra vào lúc này là tàu Hải quân Mỹ sẽ thâm nhập vùng 12 hải lý của các đảo nhân tạo nào, trong số 7 đảo mà Trung Quốc đã bồi đắp ? Đây là một vấn đề mà giới chức quân sự Mỹ cần phải cân nhắc vì các thực thể địa lý mà Trung Quốc bồi đắp tại vùng Trường Sa có quy chế khác nhau trước lúc bị biến thành đảo nhân tạo.
Nếu căn cứ vào Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, thì bốn bãi ngầm Ga Ven (Gaven), Tư Nghĩa (Hughes), Vành Khăn (Mischief), và Xu Bi (Subi) trước lúc được tôn tạo, thuộc diện « bãi cạn lúc chìm, lúc nổi – Low-tide elevations » cho nên chỉ được quyền có hải phận 500 mét bao quanh.
Ba bãi còn lại là Đá Châu Viên (Cuarteron), Chữ Thập (Fiery Cross) và Gạc Ma (Johnson) thì được xem là « đảo đá – rocks », có thể có lãnh hải 12 hải lý, nhưng không thể có vùng đặc quyền kinh tế.
Trong mọi trường hợp Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển không công nhận đảo nhân tạo là một cơ sở để cho một nước đòi lãnh hải hay vùng đặc quyền kinh tế, do đó Trung Quốc không có quyền viện dẫn quy chế đảo của các thực thể vừa bồi đắp, để cản trở quyền tự do lưu thông của tàu thuyền các nước khác.
Theo báo Nhật Bản The Diplomat hôm 04/10, rất có thể là Mỹ sẽ chọn phương án tiến sâu vào bên trong vùng 12 hải lý quanh các thực thể như Xu Bi và Vành Khăn chẳng hạn, vì kể cả trong trường hợp hai thực thể này thuộc chủ quyền của Bắc Kinh - điều đang trong vòng tranh cãi – với tư cách là bãi cạn nửa chìm, nửa nổi trước lúc được bồi đắp – các cấu tạo địa lý này chỉ được tối đa 500 mét bao quanh.Và công việc đó cũng đủ để cho chứng tỏ một cách rõ ràng là Mỹ bác bỏ các đòi hỏi quá đáng của Trung Quốc, một điều mà các nước đang bị Trung Quốc lấn lướt tại Biển Đông đang chờ đợi. Câu hỏi đặt ra là liệu các nước này có cùng hành động với Mỹ hay không ?
http://vi.rfi.fr/chau-a/20151008-my-da-quyet-di-vao-12-dam-quanh-dao-nhan-tao-trung-quoc-o-truong-sa
Trung Quốc lo ngại về tàu chiến Mỹ
- 9 tháng 10 2015
Bắc Kinh nhanh chóng phản ứng về việc hải quân Mỹ có thể điều tàu chiến vào khu vực 12 hải lý quanh đảo nhân tạo của Trung Quốc.
Báo Financial Times hôm 8/10 dẫn lời quan chức Mỹ giấu tên nói chiếc tàu chiến đầu tiên có thể tới trong vùng 12 hải lý quanh đảo nhân tạo của Trung Quốc "khoảng hai tuần tới".
Nếu xảy ra, đây sẽ là lần đầu tiên kể từ 2012 hải quân Mỹ có hành động thách thức trực diện tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông thông qua hoạt động mà Lầu Năm Góc gọi là thực thi tự do hàng hải.
Ngay lập tức, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh lên tiếng: "Chúng tôi hy vọng là Hoa Kỳ nhìn nhận tình hình hiện tại ở Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) một cách khách quan và công bằng; đồng thời đóng vai trò xây dựng cùng với Trung Quốc gìn giữ hoà bình và ổn định tại đây".
Bà Hoa nói thêm: “Tôi tin là phía Hoa Kỳ hết sức rõ ràng về lập trường nguyên tắc của Trung Quốc".
Giới quan sát cho rằng quan chức Hoa Kỳ và Trung Quốc đã không đạt được giải pháp cho vấn đề Biển Đông trong chuyến thăm mới đây của Chủ tịch Tập Cận Bình.
Hồi tháng Chín, 29 nghị sỹ Mỹ từ cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa đã ký vào một bức thư kêu gọi điều máy bay và tàu hải quân qua các đảo nhân tạo của Trung Quốc như một thông điệp mang tính biểu tượng nhằm phản đối các hành động của Trung Quốc mà họ gọi là "gây đe dọa cho tự do hàng hải và trật tự hòa bình thế giới được sắp đặt từ cuối Thế chiến II".
Áp lực từ chính giới Mỹ khiến cho người ta cho rằng quyết định điều tàu chiến tới khu vực tranh chấp sẽ sớm được đưa ra.Thời gian gần đây Trung Quốc đã tích cực cải tạo, cơi nới một số đảo ở Trường Sa, mà Việt Nam và một số nước khác cũng tuyên bố chủ quyền. Các đảo nhân tạo này được coi như tiền đồn và bàn đạp của Trung Quốc ở Biển Đông.
Hoa Kỳ đang xem xét việc đưa các tàu chiến vào gần khu vực đảo nhân tạo của TQ nhằm không công nhận các yêu sách chủ quyền của nước này
09.10.2015
Trung Quốc đã gửi đi một lời cảnh báo dường như nhắm vào Hoa Kỳ chớ nên có thái độ mà Trung Quốc gọi là “khiêu khích” ở Biển Đông.
Hoa Kỳ nói Trung Quốc đang mở rộng chương trình thi công cơi nới đảo trên Biển Đông.
Giới chức nước này cho biết Trung Quốc đã bồi đắp 810 ha đất kể từ đầu năm 2014.
Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với hầu hết Biển Đông.
Các nước khác cáo buộc hoạt động thi công đảo nhân tạo của Bắc Kinh là bất hợp pháp và có thể được sử dụng cho mục đích quân sự.
Trung Quốc nói việc cơi nới đảo là hợp pháp và cần thiết nhằm bảo vệ chủ quyền.
Trong một báo cáo, Ngũ Giác Đài nói Trung Quốc đã bồi đắp 200 ha đất tại 5 đảo thuộc quần đảo Trường Sa trong năm 2014.
Giới chức Hoa Kỳ nói 610 ha đất khác đã được bồi đắp kể từ đó.
Báo cáo nói "mục đích cuối cùng của kế hoạch cơi nới đảo vẫn chưa được làm rõ", nhưng cũng cho biết Trung Quốc có khả năng muốn "thay đổi thực trạng" bằng cách củng cố hệ thống phòng thủ trên Biển Đông.
Tuy vậy, quy mô và nhịp độ của các công trình này còn nhỏ so với của Trung Quốc, theo CSIS.
Hình ảnh vệ tinh của CSIS cho thấy Việt Nam đã bồi đắp hai đảo mà nước này đang kiểm soát, đó là đảo Sơn Ca (Sand Cay) và đảo Đá Tây (West London Reef), thuộc quần đảo Trường Sa.
Bà Mira Rapp-Hooper, giám đốc Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á của CSIS, nói công trình bồi đắp đảo của Việt Nam bao gồm cả các cơ sở quân sự và dường như bắt đầu trước khi Trung Quốc tiến hành ồ ạt các công trình vào năm 2014.
Các bức hình của công ty DigitalGlobe chụp từ 2010 đến 30/4 năm nay.
Bà Rapp-Hooper nói Trung Quốc “đúng” khi cáo buộc Việt Nam.
“Nhưng có thể nói rằng quy mô và nhịp độ của Trung Quốc là chưa từng thấy và hơn gấp nhiều lần so với Việt Nam.”
Theo bà, Việt Nam đã bồi đắp thêm 65 ngàn mét vuông cho đảo Đá Tây và 21 ngàn mét vuông cho đảo Sơn Ca.
Trong khi đó, Trung Quốc bồi đắp 900 ngàn mét vuông chỉ riêng cho Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef).http://www.bbc.com/vietnamese/world/2015/05/150509_china_island_buildings
Một phi cơ chuẩn bị hạ cánh xuống sân bay ở vịnh Subic, bắc Manila ngày 25/09/2015.REUTERS/Ezra Acayan
Lời cảnh báo được ra sau khi có tin tức hôm qua nói rằng quân đội Hoa Kỳ đang có kế hoạch đưa tàu chiến đến gần các hòn đảo nhân tạo mà Bắc Kinh đã ráo riết xây dựng với hy vọng củng cố khẳng định chủ quyền trong vùng biển có tranh chấp.
Theo các bản tin, các giới chức Hoa Kỳ nói họ đang cứu xét việc đưa tàu chiến vào trong khu vực 12 hải lý gần các đảo nhân tạo mà Bắc Kinh nói là sự mở rộng hợp pháp của lãnh thổ họ trong vòng 2 tuần sắp tới.
Cả Ngũ Giác Đài lẫn Tòa Bạch Ốc đều không xác nhận các bản tin. Tháng trước khi Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Ash Carter phát biểu về tình hình ở Biển Đông, ông nói Hoa Kỳ sẽ “đưa máy bay, tàu và hoạt động vào hoạt động ở bất cứ nơi nào luật quốc tế cho phép, như lực lượng Hoa Kỳ vẫn làm trên khắp thế giới.”
Hoa Kỳ không thừa nhận những khẳng định chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc trong vùng, mà Philippines, Việt Nam và các nơi khác cũng đòi chủ quyền.
Đáp lại một câu hỏi hôm nay về việc Hoa Kỳ có thể tiến hành các cuộc tuần tra, nữ phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Doanh nói với các phóng viên rằng Bắc Kinh “sẽ không bao giờ cho phép bất cứ nước nào vi phạm lãnh hải và không phận của Trung Quốc trong quần đảo Trường Sa, nhân danh việc bảo vệ quyền tự do đi lại trên biển và trên không”.
Chưa rõ Trung Quốc có thể có những biện pháp nào. Một bản tin trên tờ South China Morning Post trích thuật một nguồn tin quân sự ở Trung Quốc gợi ý rằng Bắc Kinh có những chọn lựa “hợp lý về phí tổn cho tình trạng đối đầu như thế chẳng hạn như sử dụng máy bay không người lái để ngăn cản tàu bè.
Không nêu đích danh Hoa Kỳ, bà Hoa nói Trung Quốc hối thúc “các bên liên hệ chớ nên có các hành động khiêu khích, và thực sự có một lập trường có trách nhiệm về hòa bình và ổn định trong khu vực”.
Ngoài Trung Quốc, Philippines, Việt Nam, Đài Loan, Malaysia và Brunei đều có các khẳng định chủ quyền chồng chéo ở Biển Đông. Tuy nhiên, Trung Quốc đòi chủ quyền gần như toàn bộ Biển Đông và trong những năm gần đây đã xây dựng 7 hòn đảo nhân tạo ở bán đảo Trường Sa. Quần đảo Trường Sa nằm gần như ngay trung tâm những vụ khẳng định chồng chéo nhau đó.
Hoa Kỳ từng tuyên bố sẽ không can thiệp vào những vụ tranh chấp lãnh thổ đang tiếp diển, nhưng sẽ bảo vệ quyền tự do đi lại trên biển trong một khu vực thiết yếu cho hàng hải quốc tế.
Biển Đông là nơi có khoảng 5.000 tỷ đô la giao thương hàng năm và trong chuyến đi mới đây đến Hoa Kỳ, Chủ tịch Tập Cận Bình đã tuyên bố việc xây dựng các hòn đảo nhân tạo không nhắm mục tiêu vào bất cứ nước nào.
Trung Quốc nói việc xây dựng thực ra là để củng cố khả năng của họ đóng góp vào sự an toàn của vùng biển và cung cấp những dịch vụ khác như dự báo thời tiết và hỗ trợ tìm kiếm và cứu hộ.
Tuy nhiên, việc hoàn tất hai phi đạo có khả năng xử lý các máy bay quân sự, và các dấu hiệu xây dựng một phi đạo thứ ba, đã khiến Hoa Kỳ và các quốc gia khác kêu gọi Trung Quốc đình chỉ hoạt động “quân sự hóa” ở các tiền đồn hẻo lánh gây thêm căng thẳng trong khu vực.
Trung Quốc 'đẩy mạnh cơi nới đảo'
- 9 tháng 5 2015
Giới chức nước này cho biết Trung Quốc đã bồi đắp 810 ha đất kể từ đầu năm 2014.
Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với hầu hết Biển Đông.
Các nước khác cáo buộc hoạt động thi công đảo nhân tạo của Bắc Kinh là bất hợp pháp và có thể được sử dụng cho mục đích quân sự.
Trung Quốc nói việc cơi nới đảo là hợp pháp và cần thiết nhằm bảo vệ chủ quyền.
Trong một báo cáo, Ngũ Giác Đài nói Trung Quốc đã bồi đắp 200 ha đất tại 5 đảo thuộc quần đảo Trường Sa trong năm 2014.
Giới chức Hoa Kỳ nói 610 ha đất khác đã được bồi đắp kể từ đó.
Báo cáo nói "mục đích cuối cùng của kế hoạch cơi nới đảo vẫn chưa được làm rõ", nhưng cũng cho biết Trung Quốc có khả năng muốn "thay đổi thực trạng" bằng cách củng cố hệ thống phòng thủ trên Biển Đông.
Việt Nam nới đảo
Trong khi đó, hôm 7/5, Viện Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược (CSIS) nói với hãng tin Reuters rằng họ có các hình ảnh vệ tinh cho thấy Việt Nam cũng đã bồi đắp các đảo tranh chấp trên Biển Đông.Tuy vậy, quy mô và nhịp độ của các công trình này còn nhỏ so với của Trung Quốc, theo CSIS.
Hình ảnh vệ tinh của CSIS cho thấy Việt Nam đã bồi đắp hai đảo mà nước này đang kiểm soát, đó là đảo Sơn Ca (Sand Cay) và đảo Đá Tây (West London Reef), thuộc quần đảo Trường Sa.
Bà Mira Rapp-Hooper, giám đốc Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á của CSIS, nói công trình bồi đắp đảo của Việt Nam bao gồm cả các cơ sở quân sự và dường như bắt đầu trước khi Trung Quốc tiến hành ồ ạt các công trình vào năm 2014.
Các bức hình của công ty DigitalGlobe chụp từ 2010 đến 30/4 năm nay.
Bà Rapp-Hooper nói Trung Quốc “đúng” khi cáo buộc Việt Nam.
“Nhưng có thể nói rằng quy mô và nhịp độ của Trung Quốc là chưa từng thấy và hơn gấp nhiều lần so với Việt Nam.”
Theo bà, Việt Nam đã bồi đắp thêm 65 ngàn mét vuông cho đảo Đá Tây và 21 ngàn mét vuông cho đảo Sơn Ca.
Trong khi đó, Trung Quốc bồi đắp 900 ngàn mét vuông chỉ riêng cho Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef).http://www.bbc.com/vietnamese/world/2015/05/150509_china_island_buildings
Mỹ tăng viện trợ cho 4 nước ASEAN để nâng cao năng lực tuần tra biển
Một phi cơ chuẩn bị hạ cánh xuống sân bay ở vịnh Subic, bắc Manila ngày 25/09/2015.REUTERS/Ezra Acayan
Hoa Kỳ vào hôm qua, 08/10/2015, đã loan báo quyết định tăng gấp 4 lần ngân sách viện trợ cho Việt Nam, Philippines, Malaysia và Indonesia để giúp 4 nước Đông Nam Á nâng cao năng lực thực thi pháp luật trên biển. Quyết định được đưa ra vào lúc Trung Quốc đang chèn ép ba trong bốn nước được Mỹ giúp tại Biển Đông, tuy nhiên, Washington nhấn mạnh rằng việc tăng viện không liên quan gì với tranh chấp Biển Đông.
Trong một cuộc họp báo qua điện thoại từ Washington, một tuần sau khi ông đi thăm Indonesia, Philippines và Việt Nam, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ William Brownfield xác nhận : « Sáng kiến trợ giúp lần này gồm hơn 100 triệu đô la dành cho lãnh vực chấp pháp biển tại bốn quốc gia có liên quan ».
Như vậy là Washington đã quyết định gia tăng đáng kể khoản viện trợ này vì thoạt đầu, vào tháng 12/2013, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry chỉ cam kết một khoản trợ giúp 25 triệu đô la mà thôi.
Nhà ngoại giao Mỹ nhấn mạnh : « Chúng tôi không phải là hoàn toàn ngu ngốc. Chúng tôi biết rằng trong khu vực còn có nhiều vấn đề khác, nhưng trợ giúp của chúng tôi lần này tập trung vào lãnh vực thực thi luật pháp trên biển ».
Đối với Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ, sáng kiến giúp đỡ của Washington « hoàn toàn minh bạch », và Hoa Kỳ không hề có bất kỳ ẩn ý nào khác cho dù « theo logic thông thường, một quốc gia có khả năng tốt hơn trong việc thực thi luật lệ trên biển của mình sẽ có năng lực tốt hơn trong việc giải quyết nhiều vấn đề khác. Nhưng đó không phải là mục đích của sáng kiến này. »
Malaysia, Philippines và Việt Nam là ba nước hiện đang có tranh chấp với Trung Quốc về chủ quyền trên Biển Đông. Tình hình đã căng thẳng hẳn lên đặc biệt từ năm ngoái, với việc Trung Quốc gây nên sự cố giàn khoan HD-981 trong vùng thềm lục địa của Việt Nam, đồng thời rầm rộ bồi đắp 7 rạn san hô đang tranh chấp thành đảo nhân tạo, và cho xây dựng trên đó các cơ sở bị cho là nhằm mục tiêu quân sự.
Như vậy là Washington đã quyết định gia tăng đáng kể khoản viện trợ này vì thoạt đầu, vào tháng 12/2013, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry chỉ cam kết một khoản trợ giúp 25 triệu đô la mà thôi.
Nhà ngoại giao Mỹ nhấn mạnh : « Chúng tôi không phải là hoàn toàn ngu ngốc. Chúng tôi biết rằng trong khu vực còn có nhiều vấn đề khác, nhưng trợ giúp của chúng tôi lần này tập trung vào lãnh vực thực thi luật pháp trên biển ».
Đối với Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ, sáng kiến giúp đỡ của Washington « hoàn toàn minh bạch », và Hoa Kỳ không hề có bất kỳ ẩn ý nào khác cho dù « theo logic thông thường, một quốc gia có khả năng tốt hơn trong việc thực thi luật lệ trên biển của mình sẽ có năng lực tốt hơn trong việc giải quyết nhiều vấn đề khác. Nhưng đó không phải là mục đích của sáng kiến này. »
Malaysia, Philippines và Việt Nam là ba nước hiện đang có tranh chấp với Trung Quốc về chủ quyền trên Biển Đông. Tình hình đã căng thẳng hẳn lên đặc biệt từ năm ngoái, với việc Trung Quốc gây nên sự cố giàn khoan HD-981 trong vùng thềm lục địa của Việt Nam, đồng thời rầm rộ bồi đắp 7 rạn san hô đang tranh chấp thành đảo nhân tạo, và cho xây dựng trên đó các cơ sở bị cho là nhằm mục tiêu quân sự.