ĐẶC TÍNH VĂN HỌC CỔ ĐIỂN ĐỜI NGUYỄN
NGUYỄN THIÊN-THỤ
Nhà Nguyễn là vương triều cuối cùng của Việt Nam, và văn học đời Nguyễn là một nền văn học rất lớn của nền văn học Việt Nam, bao gồm văn ïchương chữ Hán và văn chương chữ Nôm. Nhà Nguyễn tồn tại 133 năm (1802-1945), nhưng thực tế, văn học cổ điển đã ngưng lại năm 1919 vào khoa thi Hội cuối cùng, để sau đó văn học quốc ngữ và ngôn ngữ, văn tự Pháp thay thế địa vị chủ yếu trong giáo dục và hành chánh Việt Nam. Như vậy, văn học cổ điển đời Nguyễn tồn tại hơn một trăm năm nhưng đã đào tạo được một số tác giả đông đảo và xây dựng được một số tác phẩm phong phú bằng hoặc hơn văn học đời Lê đã trường trị gần 400 năm.
Văn học cổ điển đời Nguyễn có nhiều sắc thái đặc biệt. Tuy nhiên ở trong bài khảơ cứu này, chúng tôi chỉ trình bày một vài nét chính yếu, một vài nét tiêu biểu của văn học đời Nguyễn như trữ tình, lãng mạn, hiện thực, chiến đấu và trào phúng.
I. TRỮ TÌNH
Thi ca trữ tình VIệt Nam đã khởi phát từ đời Lê. Côn Sơn ca của Nguyễn Trãi là một bài thơ ca tụng cảnh nhàn nhưng âm điệu và nghệ thuật trữ tình đã lên cao bậc nhất thời đại.Đến cuối đời Lê, Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán, Ai Tư Vãn nối nhau tạo thành một không gian màu tím ngát của buồn thương, than khóc cho mình và thân phận con người. Tính chất trữ tình càng phát triển mạnh trong văn học đời Nguyễn. Không ai có thể phủ nhận thiên tài Nguyễn Du trong Văn tế Thập Loại Chúng sinh, Long Thành Cầm giả ca mang màu sắc nhân bản. Tự Tình Khúc của Cao Bá Nhạ và Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm của Đinh Nhật Thận là tâm trạng tuyệt vọng
và đau khổ thật sự của hai tù nhân.
Chúng ta còn phải kể đến Nguyễn Khuyến với bài khóc bạn là một áng văn chương tuyệt diệu cả Hán và quốc âm.
Nghệ thuật và tình cảm của các tác giả miền Nam như Trịnh Hoài Đức, Phan Thanh Giản hoặc người Trung như Trương Đăng Quế rất chất phác, thành thật.
Một bước trưởng thành của thi ca đời Nguyễn là lối hát ả đào. Đây là một hình thức xướng ca có nguồn gốc từ đời Lê nhưng đến đời Nguyễn thành một phong trào, một phong thái văn nghệ mà nội dung là thi nhạc trữ tình, trong đó cũng có phần lãng mạn và tinh thần Lão Trang.
II. LÃNG MẠN
Lãng mạn là một khuynh hướng mạnh mẽ trong văn chương Việt Nam, đã thể hiện trong ca dao Việt Nam. Trong thi ca của Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông chúng ta đã thấy phảng phất nỗi nhớ thương về những giai nhân. Đến đời Nguyễn, tình yêu thầm lặng, kín đáo vẫn là những đóa hoa ướp thơm trang văn học. Thơ Trịnh Hoài Đức mang tính cách lãng mạn của Đường thi:
Những tác giả và tác phẩm kể trên cũng thuộc trào lưu lãng mạn nhưng mà là lãng mạn cổ điển, tình yêu kín đáo như những trang Đường thi. Lãng main thật sự phải kể Phạm Thái là một kiện tướng. Ông đã sống rất thực trong cuộc chiến đấu cô đơn và mối tình tuyệt vọng cùng kết thúc bi thảm. Tình yêu của ông và Trương Quỳnh Như đã nở hoa, thành những bài thơ và ngưng đọng thành truyện tình Sơ Kính Tân Trang mà nội dung như là Roméo và Juliette của Việt Nam. Phạm Thái và Trương Quỳnh Như là hai tác giả lãng mạn ở cuối Lê đầu Nguyễn. Phạm Thái đã yêu Trương Quỳnh Như và gửi thơ cho nàng bày tỏ tình yêu:
Tiểu thuyết ái tình Việt Nam đã ra đời vào triều Lê với Phan Trần, Hoa Tiên. Sau đó, Truyện KIều, Lục Vân Tiên ra đời, mang một sắc thái mới cho văn học đời Nguyễn. Nhưng đó là những bản sao truyện tình Trung Quốc. Sơ Kính Tân Trang mới là tác phẩm hoàn toàn Việt Nam. Phạm Thái sinh trưởng tại Việt Nam nếu ông sinh tại Anh, Pháp, có lẽ ông đã trở thành thủy tổ của trường phái lãng mạn Tây phương.
III. HIỆN THỰC
Văn chương hiện thực là văn chương nói về những sự thực trong xã hội, về bất công xã hội. Nguyễn Thiếp đời Lê là người tiên
phong về khuynh hướng này trong bài nói về cảnh dân chúng đói khổ vì lụt lội ở Bắc.
Đời Nguyễn, khuynh hướng xã hội ra đời mạnh mẽ với Cao Bá Quát, Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương. Là những trí thức, là bậc vương giả, họ đã đi sát nông dân, hiểu rõ đời sống quần chúng. Đó là căn bản tính thiện, bác ái, từ bi, và nhân nghĩa của Nho gia, Phật gia, khác với đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Marx.
Cao Bá Quát viết Đạo phùng ngạ phu để nói bất hạnh của con người trong vấn đề cơm áo.
Tùng Thiện vương là cành vàng lá ngọc nhưng ngài hiểu thấu dân tình. Tấm lịnh ngài th ương cäm với nổi khổ của dân nghèo và những bất công xã hộI qua các bài Bần gia và Lưu dân thán.
Từ xưa, bản tính con người là thiện, lại được Phật, Nho, Lão vun trồng nên có tinh thần xã hội nhân bản.
IV. TRANH ĐẤU
Năm 1862, thực dân Pháp đã bộc lộ dã tâm xâm chiếm nước ta. Một số rất it ra làm tay sai cho Pháp như Trương Vinh Ký, Trương Minh Ký, Tôn Thọ Tường, Trần Bá Lộc nhưng tuyệt đại đa số nhân dân trong đó có các nho sĩ yêu nước đã đứng lên tranh đấu cho độc lập Tổ quốc. Một số đã cầm quân đánh giặc, tham gia khởi nghĩa chống Pháp như Phan Đình Phùng, Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Thông, một số hoạt động chính trị vận động Duy Tân, Đông Du như Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh, Huỳnh Thức Kháng, Ngô Đức Kế. Một số bất cộng tác, hoạt động theo tinh thần bất bạo động như Phan Văn Trị, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê, Dương Lâm. . .Lớp này ngã xuống, lớp sau tiến lên. Các bậc trí thức đời Nguyễn đã đem xương máu tranh đấu cho độc lập Việt Nam, họ đã nêu cao tinh thần bất khuất của sĩ phu Việt Nam.
Mở đầu cho cuộc kháng chiến chống Pháp của triều đình, Nguyễn Thông đã tố cáo thực dân Pháp xâm lăng và ông đã bày tỏ nỗi đau đớn khi nghe tin Nam kÿ rơi vào tay Pháp:
書懷示營田副使裴伯昌
牛渚無端作戰場
卄年江海醉爲鄕
同來故郡唯君在
慣觸危機笑我狂
朝論空聞談五利
雲帆何日下重洋
只今燕趙悲哥客
熱血填應旅鬓霜
THƯ HOÀI THỊ DINH ĐIỀN PHÓ SỨ BÙI BÁ XƯƠNG
gưu chữ vô đoan tác chiến trường
Trấp niên giang hải túy vi hương.
Đồng lai cố quận duy quân tại,
Quán xúc nguy cơ tiếu ngã cuồng.
Triều luận không văn đàm ngã lợi,
Vân phàm hà nhật hạ trùng dương?
Chỉ kim Yên Triệu bi ca khách,
Nhiệt huyết điền ưng lữ mấn sương (1)
NAM KỲ THẤT THỦ
Bến Nghé gây nên cuộc chiến trường,
Làng say mấy lúc lại qua thường.
Cùng về xứ cũ người càng khoẻ
Chạm mãi cơn nguy, tớ muốn cuồng.
Chầu chợ đồn rầm mối lợi lớn,
Biển khơi bao thuở cánh buồm giương?
Chỉ lưa ca khúc người Yên Triệu.
Lòng nóng sôi lòng tóc nhuộm sương.
(Huỳnh Thúc Kháng dịch)
Cùng lúc này, Nguyễn Đình Chiểu ra sức tán dưong tinh thần hy sinh anh dũng của cha con nhà Phan Thanh Giản, và ca tụng tinh thần của nghĩa quân như Trương Công Định, và nghĩa quân Cần Giuộc. Đoạn sau nay viết về tinh thần chiến đấu của nghĩa quân:
Trên cật một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi; Trong tay cắp một ngọn tầm vông, nào đợi sắm dao tu, nón gõ. . .
Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào bước tới, coi giặc cũng như không; Nào sợ thằng tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như không có. . (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Phan Bội Châu là một nhà cách mạng và là một văn hào yêu nước. Tác phẩm của ông là một kho tàng vĩ đại. Chúng tôi xin nêu lên một vài tác phẩm của Sào Nam Phan tiên sinh: -Bình Tây Thu Bắc (1883); Song Tuất Lục (1886); Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư (1903); Khuyến Quốc Dân Du Học Văn (1905);Việt Nam Vong Quốc Sử (1905), Việt Nam Nghĩa Liệt Sử (1907);Ngục Trung Thư; Tự Phán. . . Tất cả thi ca của ông đều nhằm vài việc giải phóng dân tộc. Thơ ông đã được dịch quốc ngữ truyền bá trong
Đông Kinh nghĩa Thục và khắp nước. Bài thơ sau nay do Phan Bội Châu viết ngày mồng hai tháng giêng năm ất tị (1905) lên đường sang Nhật Bản:
出洋留別
生爲男子要希奇
肯許乾坤自轉移
於百年中須有我
有千載下更無誰
江山死矣生圖汭
賢聖寥然誦亦痴
願欲長風東海去
千重白浪一齊飛
XUẤT DƯƠNG LƯU BIỆT
Sinh vi nam tử yếu hy kỳ,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
Ư bách niên trung tu hữu ngã
Hữu thiên tải hạ cánh vô thùy.
Giang sơn tử hỷ sanh đồ nhuế
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si.
Nguyện dục trường phong Đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
Khác thường bay nhảy mới là trai,
Chẳng chịu vần xoay mặc ý trời.
Trong cuộc trăm năm đành có tớ
Rồi sau muôn thuở há không ai.
Non sông đã mất, mình khôn sống,
Hiền thánh đâu còn, học cũng hoải.
Đông hải xông pha nương cánh gió,
Nghìn làn sóng bạc múa ngoài khơi!
(Ngục Trung Thư. Đào Trinh Nhất dịch)
Trong Hải Ngoại Huyết Thư, Phan Bội Châu làm nhiều bài văn thơ kêu gọi canh tân và chống Pháp:
腥風馥鼻唉劍挾之無忴
忿氣闐胸罔棍雄而交屬
皇天后土其監予心不乎
會黨昆徒其聽予言 不乎
Tình phong phốc tị, ai kiếm hiệp chi vô linh
Phẫn khí điền hung, võng côn hùng chi giao chúc.
Hoàng thiên hậu thổ ký giám dư tâm phủ hồ?
Hội đảng côn đồ, kỳ thỉnh dư ngôn phủ hồ?
Gió tanh sống mũi khó ưa
Gươm sao cắp nách mà ngơ cho đành.
Hòn máu uất, chất quanh đầy ruột
Anh em ôi, xin tuốt gươm ra
Có trời, có đất có ta,
Đồng tâm thế ấy mới là đồng tâm!
(Lê Đại dịch)
Phan Bội Châu là một văn hào, một nhà cách mạng chân chính của Việt Nam,
V. TRÀO PHÚNG
Tinh thần trào phúng xuất hiện đời Nguyễn với Hồ Xuân Hương cười cợt nhân thế với nghệ thuật tượng trưng mà đậm đà nhất là biểu tượng cái giống. Nụ cười của Hồ Xuân Hương bắt nguồn từ cái dâm và tục của người Việt Nam trong kho tàng tiếu lâm. Sau đó, khi thực dân xâm chiếm nước ta, nghệ thuật trào phúng nhắm vào thực dân, bọn tay sai và hủ tục gây ra do chế độ thực dân và chính quyền tạo ra những sân khấu mới và những tên hề mới. Đại biểu cho trào lưu này là Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Huỳnh Mẫn Đạt, Kỳ Đồng, Nguyễn Thiện Kế. . . .Trào phúng ở nay là vũ khí chống lại bất công và thối nát của xã hội và chống bọn thực dân xâm lược.
Nguyễn Khuyến đã chỉ trích bọn quan lại thời Pháp thuộc:
吾惟嗜飮食
雨非吾能為
神今且如此
於民復奚疑
(禱雨)
Ngô duy thị ẩm thực
Vũ phi ngô năng vị
Thần kim thả như thử
Ư dân phục hề nghi
(Đảo vũ)
Ta chỉ biết ăn uống,
Ta không biết làm mưa
Bao nhiêu thần bây giờ
Chỉ làm khổ dân chúng
(Cầu mưa)
Ông mượn lời vợ người phường chèo để chỉ trích vua quan thời Pháp:
俳優皇帝且不惧.
何況爾為俳優官
(優婦詞)
Bài ưu hoàng đế thã bất cụ
Hà huống nhĩ vi bài ưu quan (Ưu phu từ)
Vua chèo còn chẳng ra chi
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề
(Nguyễn Khuyến dịch)
Trần Tế Xương lả một nhà thơ xuất sắc. Ông đem cái nghèo, cái thi hỏng của ông làm đề tài châm biếm. Ông cũng chỉ trích xã hội của ông gồm những quan lại và nho sĩ thời Phàp cai trị đất Bắc:
THẾ CŨNG ĐÒI THI
Cử nhân cậu ấm Kỷ
Tú tài con Đô Mỹ
Thi thế cũng đòi thi
Ơi khỉ ơi là khỉ!
LẮM QUAN
Ở phố hàng Song thực lắm quan,
Thành thì đen kịt, Đốc thì lang.
Chồng chung, vợ chạ kìa cô Bố,
Đậïu lạy quan xin nọ chú Hàn!
Văn chương cổ điển đời Nguyễn rất phong phú, trong đó các văn nhân, các vua, các quan lại đã tích cựïc đóng góp cho văn học. Nổi bật nhất Siêu, Quát, Tùng Tuy. Thời này khác các đời trước là ai cũng có thi tập lẫn văn tập. Văn xuôi, văn bình luận đã ra đời khá nhiều. Công cuộc nghiên cứu sử học rất vĩ đãi. Trong mấy chục năm trời, các văn thần Quốc Sử quán như Phan Thanh Giản, Trương Đăng Quế, Nguyễn Thông, Cao Xuân Dục đã biên khảo nhiều bộ sử có giá trị như Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Đại Nam Thực Lục, Quốc Triều Chánh Biên.
. .
Lối hát ả đào là một nghệ thuật mớI, kết hợp thi ca và nhạc. Loại Anh hùng ca đã có từ xưa, nay lại ra đời, phản chiếu trung thành lịch sử nước nhà trong giai đoạn đen tối với Nguyễn Nhược Thị, Nguyễn Văn Giai.Văn chương triều Nguyễn mang tính cách bi và hùng mà con người và sự nghiệp của Nguyễn Du, Phan Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiểu và Phan Bội Châu là những khuôn mặt rạng ngời trong lịch sử dân tộc và lịch sử văn học triều Nguyễn. Các vua quan, văn nhân, thi sĩ đời Nguyễn đã sáng tác, nghiên cứu và tranh đấu anh dũng cho văn học, nghệ thuật và độc lập Việt Nam. Lịch sử muôn đời sẽ công quên công ơn và sự đóng góp lớn lao của họ.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
SOME CHARACTERESTICS OF VIETNAMESE LITERATURE
UNDER THE NGUYEN DYNASTY (1802-1919)
by NGUYỄN THIÊN-THỤ
Under the Nguyễn dynasty, Vietnam had two writing systems: the Sino Vietnamese and the Nom. Although the Nguyen dynasty lasted 133 years, its literature last 117 years, because the year 1919 marked the end of its fate. From this year, French colonialists cancelled the old Vietnamese education and built a new one with French and Quốc Ngữ, a kind of Romanized Vietnamese.
Vietnamese literature under the Nguyen dynasty is a great literature because of a great number of famous authors and famous works. This literature also has some characteristics such as lyricism, romanticism, realism, combat, and satire.
I. LYRICISM
Lyricism was a traditional tendency in Vietnamese literature. In the Le dynasty, Chinh Phu Ngâm (Song of a Soldier's
Wife) by Đặng Trần Côn (1710-1745), Cung Oán Ngâm Khúc (A Plaint Inside the Royal Harem) by Nguyễn Gia Thiều (1741-1798)
and Ai Tư Vãn (Lamentation) by Queen Ngọc Hân (1771-1804) were the most famous lyric poems. In the Nguyễn dynasty, Nguyễn Du (1765-1820) wrote Văn tế thập loại chúng sinh (Calling All Wandering Souls) which was a well known lyric poem based on Vietnamese belief and Buddhist influence:
II. ROMANCISM
Romanticism is a traditional tendency in Vietnamese literature. In the Le dynasty, Phan Trần,
(Story of Phan and Trần), Hoa Tiên (Flowered Stationery) were the famous love stories. In the Nguyen dynasty, there were a lot of love stories appeared, but Truyên Kiều (The Tale of Kieu) by Nguyễn Du and Lục Vân Tiên by Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) were the most popular works. Some Vietnamese stories such as The Tale of Kieu, Nhị Độ Mai, (Plumtrees Blooming Twice) are derived from the Chinese sources, but Sơ Kinh Tân Trang (The Comb and the Mirror) by Phạm Thái (1777-1813
)was written in 1804. It is an autobiographical work, disguised account of the love affair between the author and lady Trương Quỳnh Như. Lục Vân Tiên by Nguyễn Đình Chiểu is also an autobiographical work of the author, a student, who became a blind, and lost his fiancée .
In Vietnamese poetry under the Nguyễn dynasty, we can see a number of romantic poems. Nguyễn Văn Siêu (1799- 1872) wrote a short poem:
落花辰節又逢君
何辰雲水各天涯
腸斷春風萬里賒
萍梗此囬疑夢寐
忽添驚淚落如花
Meeting you when flowers are falling
In the horizon, how long have we been wandering?
In foreign country, the spring wind makes me sad
I think that we are dreaming.
Suddenly my tears drop as flowers falling!
Tùng Thiện Vương (1819-1870) was also a romantic poet. He expressed love and sadness of a young woman:
自君之出矣
自君之出矣
不復理殘機
思君如月滿
夜夜減光輝
FROM THE DAY YOU GO
When you leave,
I did not weave
My soul, like the full moon each night
Which decreases its light
III. REALISM
Realism in Vietnamese literature began in the Lê dynasty with an poem entitled Phù Thạch phùng lão ngư (An old fisherman on the Phù Thạch river) by Nguyễn Thiếp (1723-1804). In the Nguyễn dynasty, this movement developed with Cao Bá Quát, Tùng Thiện Vương, Tuy Lý vương. By influence of human love and compassion of Confucianism and Buddhism, many poets paid attention to the reality and life of poor people. Cao Bá Quát (1809- 1853) reported news from the North of Vietnam where had been in trouble time: people were killed and houses were burn by the robbers and the revolters:
怪事怪事不忍聞
自畫殺人全家去
軍吏過者顧之他
鄊里藏匿不敢語
語者十人無一生
家家灰盡成飛絮. . .
(人自北寧來言北寧事感作)
It is very strange to hear that news
They killed many families by day
Officials and soldiers were indifferent,
The village authorities did not dare to say!
Who speak truthfully will be killed
A lot of houses became ashes to fly away!. . .
(News from Bắc Ninh province, transl. by Nguyễn Thiên Thụ)
Although Tùng Thiện Vương was a king's relative, he took interest inpoor people:
貧家
辛苦貧家子
年年寒復饑
枵腹蔬替飯
凍骨火為衣
遍地猶兵甲
旻天且疾威
朱門樂何事
夜飮達朝暉
Poor people
Poor people are unhappy
Every year cold and hungry,
They eat vegetables
when their stomachs are empty.
Fire instead of clothes in winter,
Land is full of swords
And sky disaster
Rich people are happy
Every night they enjoy party and party.
IV. PATRIOTISM
In 1859 the French colonialists began occupy Vietnam. Vietnamese people, especially the scholars struggled against them. A numbers of writers and poets became the generals or leaders of the revolutionary movements such as Phan Đình Phùng, Nguyễn Hữu Huân, Trương Công Định, Nguyễn Thiện Thuật and Phan Bội Châu. This war also created a new movement in literature that was the resistant literature, revolutionary literature, or patriotic literature.
Nguyễn Thông (1827- 1884) was a combatant. In 1859, the French occupied Gia Định, he followed general Tôn Thất Hiệp to fight French colonialists. In 1881, he became Chief of Education and a Chief of Agriculture of Binh Thuân province.
He was a patriot. Most of his poems expressed his love of country:
書懷示營田副使裴伯昌
牛渚無端作戰場
卄年江海醉爲鄕
同來故郡唯君在
慣觸危機笑我狂
朝論空聞談五利
雲帆何日下重洋
只今燕趙悲哥客
熱血填應旅鬓霜
LETTER TO MY FRIEND BÙI BÁ XƯƠNG
Saigon becomes a battle field,
For thirty years wandering,
I have been drinking.
In my countrymen, only you are still living.
Experiencing danger, I become mad.
Everywhere they discussed about negotiating.
I want to steer a cloud boat to the southern sea.
I am a stranger who lost his country and very sad.
My head became white, but my heart is burning.
Nguyễn Đình Chiểu recounted a scenery when the French attacked Gia Định:
CHẠY GIẶC
Tan chợ vừa nghe tiếng súng tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay.
Bỏ nhà lũ chó lăng xăng chạy,
Mất ổ bay chim dáo dác bay.
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh khói nhuốm màu mây.
Hởi trang dẹp loạn rày đâu vắng?
Nỡ để dân đen mắc nạn này!
AVOIDING the FRENCH INVADERS
After the market hour, the French troops fired,
In a minute, every thing changed and we failed.
The dogs quitted home and ran on the way,
Lost their nests, the frightened birds flied away.
In Bến Nghé, property became bubbles in a day
In Đồng Nai, houses were burnt to ashes quickly
Where were you? The heroes?
Why didn't you save our country?
Nguyễn Đình Chiểu praised the heroes such as Phan Thanh Giản, Phan Tòng, Trương Công Định., especially the peasants in Cần Giuộc in the fight on december, 14, 1861:
Bữa thấy bòng bong trắng lớp, muốn tới ăn gan; Ngày xem ống khòi đen ì, muốn ra cắn cổ.. .
Nào sợ thằng tây bắn đạn to, đạn nhỏ, xô cửa xông vào, liều mình như không có. . . .
Chẳng thà thác đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; Chẳng hơn còn chịu tiếng hàng tây, ở với man di rất khổ. .
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Seeing black French ships with white bubbles in the river, our men wanted to kill them all. . .
They didn't care of French guns, and considered their lives were nothing. . .
They wanted to die heroically like their brave ancestors, rather than to surrender the barbarians.
(Lamentation- Transl. by Nguyễn Thiên Thụ)
Phan Bội Châu (1867-1940), Phan Chu Trinh (1872- 1926), and Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947) were the leaders of the Vietnamese Movement of Reform (Phong trào Duy Tân). Phan Bội Châu was a prominent revolutionist and a scholar, he wrote a lot of works in order to appeal to his compatriots to revolt against the French colonialism. The follwing poem was written in 1905 when he was on the way to Japan:
出洋留別
生爲男子要希奇
肯許乾坤自轉移
於百年中須有我
有千載下更無誰
江山死矣生圖汭
賢聖寥然誦亦痴
願欲長風東海去
千重白浪一齊飛
(獄中書)
I am a man, I have to achieve great success,
I try to save my country.
In this life, I have to fulfill my duty
In future, many people will continue my business.
If there is no more nation, my life will be useless.
There is no more saint, why I still study?
I will travel the stormy sea
Although thousand waves are in angry.
(Letter From the Prison- Transl. by Nguyễn Thiên Thụ)
In Hải Ngoại Huyết Thư (Blood Letter From the Oversea) , he accused the French colonialism, and called on the people to join him in the struggle to free Vietnam.
腥風馥鼻唉劍挾之無忴
氣闐胸罔棍雄而交屬
皇天后土其監予心不乎
會黨昆徒其聽予言 不乎
I hate bad smelling,
I can not take a sword with no intention
In my heart, my anger is rising
My friends, draw your weapons,
In the Heaven and earth, we stand
And hold together with hand in hand.
(Transl. by Nguyễn Thiên Thụ)
V. SATIRISM
In oral literature , there are many humorous stories whereas in Sino Vietnamese and Nôm literatures, we have no a
laughing. In the Nguyễn dynasty, a number of satirical poems appeared in Sino Vietnamese and in Nôm literatures. Hồ Xuân Hương, Nguyễn Văn Lạc, Kỳ Đồng , Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Nguyễn Thiện Kế were the prominent satirists.
When some poets focused on the individuals just for fun, the others aimed to criticise society, especially society under the French domination. Satire in this case is the weapon to struggle against our enemies.
Nguyễn Khuyến wrote many patriotic poems, he also composed a lot of satirical poems. A lot of his satirical poems criticized people and mandarins who followed the French invaders, became their tools, and their servants. His satirical poems were also his patriotic poems. He criticized Bastille Day, the French celebrated on 14 July in Hanoi:
Cậy sức, cây đu nhiều chị nhún
Tham tiền, cột mỡ lắm anh leo
Khen ai khéo vẽ tro vui thề
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!
(Hội Tây)
Relying on their strength, many women swing
Eager for money, on the grease pillars,
some men try climbing
Who displayed these games?
It is not a joy, but a shame.
(A French Festival- Transl. by Nguyễn Thiên Thụ)
He criticized the education and examination under the French domination which caused corruption in the administration and bad habits in society. He described the paper dolls featuring the scholars with a doctor degree in the Mid Autumn Festival in Hà nội:
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ
Cái giá khoa danh ấy mới hời!
Ghế tréo , lọng xanh ngồi bảnh choẹ,
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi!
(Tiến sĩ giấy)
His body with court dress is very light,
And the price of his fame is not high.
He is great in his throne with blue parasol,
Is this a real doctor? No, it is a toy for the child.
(An unreal doctor)
Trần Tế Xương (1870-1907) was a greatest satirical poet. His poverty and his failure in examination were his poetry subjects. He criticized himself and he attacked his society, a new society corrupted by French colonialists and servants.
He satirized a chief police in Ha nam province:
Hà Nam danh giá nhất ông cò,
Trơng thấy ai ai chẳng dám ho.
(Ông Cò)
A chief of police is a very important person
in Hanam province.
When see him,
everybody keep silent because of fright.
(Mr. French Police officer)
He criticized the corrupted exam of his time:
Cử nhân cậu Ấm Kỷ,
Tú tài con đô Mỹ.
Thi thế cũng đòi thi,
Ôi ! khỉ ôi là khỉ!
(Thế cũng đòi thi)
Uncle Kỷ passed his licentiate
Đô M ĩ ' s son got baccalaureate.
How can they pass?
What a monkey tricks!
(What an exam !- Transl. by Nguyễn Thiên Thụ)
The Nguyễn dynasty had a number of great authors and works. The National History Institute (Quốc Sử Quán) with Phan Thanh Giản, Trương Đăng Quế, Nguyễn Thông, Vũ Xuân Cẩn, Nguyễn Trọng Hơp, after many years of research, completed their great works such as:
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục,
Đại Nam Thục Lục,
Đại Nam Liệt Truyện
Đại Nam Nhất Thống Chi. . .,
There were many famous authors The Kings, generals mandarins and scholars were writers or poets. Each writer wrote both poetry and prose, in both Chinese and Nôm. Before the French domination, Vietnam was a peaceful country, therefore the majority of works were the love stories, lyrical poems, and realist works. But after the French occupied Vietnam, the combat literature and the revolutionary literature developed so much. Besides the patriotic literature, satirical literature became a kind of weapon to attack the French colonialists. We can conclude that Vietnamese literature under the Nguyễn dynasty expressed love of country, love of peace, and the struggle of Vietnamese people against the French invaders. The
Vietnamese intellectuals were the vanguard force in politics, in culture and in military. They died on battle field, in the prison, or were executed on ground, but their works and their names still exist in the heart of Vietnamese people. History of Vietnamese literature was written by tears and blood of Vietnamese people through many centuries of building and protecting their country.
NGUYỄN THIÊN-THỤ
Nhà Nguyễn là vương triều cuối cùng của Việt Nam, và văn học đời Nguyễn là một nền văn học rất lớn của nền văn học Việt Nam, bao gồm văn ïchương chữ Hán và văn chương chữ Nôm. Nhà Nguyễn tồn tại 133 năm (1802-1945), nhưng thực tế, văn học cổ điển đã ngưng lại năm 1919 vào khoa thi Hội cuối cùng, để sau đó văn học quốc ngữ và ngôn ngữ, văn tự Pháp thay thế địa vị chủ yếu trong giáo dục và hành chánh Việt Nam. Như vậy, văn học cổ điển đời Nguyễn tồn tại hơn một trăm năm nhưng đã đào tạo được một số tác giả đông đảo và xây dựng được một số tác phẩm phong phú bằng hoặc hơn văn học đời Lê đã trường trị gần 400 năm.
Văn học cổ điển đời Nguyễn có nhiều sắc thái đặc biệt. Tuy nhiên ở trong bài khảơ cứu này, chúng tôi chỉ trình bày một vài nét chính yếu, một vài nét tiêu biểu của văn học đời Nguyễn như trữ tình, lãng mạn, hiện thực, chiến đấu và trào phúng.
I. TRỮ TÌNH
Thi ca trữ tình VIệt Nam đã khởi phát từ đời Lê. Côn Sơn ca của Nguyễn Trãi là một bài thơ ca tụng cảnh nhàn nhưng âm điệu và nghệ thuật trữ tình đã lên cao bậc nhất thời đại.Đến cuối đời Lê, Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán, Ai Tư Vãn nối nhau tạo thành một không gian màu tím ngát của buồn thương, than khóc cho mình và thân phận con người. Tính chất trữ tình càng phát triển mạnh trong văn học đời Nguyễn. Không ai có thể phủ nhận thiên tài Nguyễn Du trong Văn tế Thập Loại Chúng sinh, Long Thành Cầm giả ca mang màu sắc nhân bản. Tự Tình Khúc của Cao Bá Nhạ và Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm của Đinh Nhật Thận là tâm trạng tuyệt vọng
và đau khổ thật sự của hai tù nhân.
Chúng ta còn phải kể đến Nguyễn Khuyến với bài khóc bạn là một áng văn chương tuyệt diệu cả Hán và quốc âm.
已矣楊大年
雲樹心懸懸
回憶登科後
與君晨夕聯
相敬且相愛
遭逢如宿緣
(輓同年雲享進士楊上書)
Dĩ hỉ Dương đại niên,
Vân thụ tâm huyền huyền.
Hồi ức đăng khoa hậu
Dữ quân thần tịch liên
Tương kính thả tương ái
Tao phùng như túc duyên.. .
(Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương Thượng thư)
Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lỏng ta.
Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau,
Kính yêu từ trước đến sau,
Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời
(Khóc bạn)
Trước nay, dường như rất it thi nhân nói về tình gia thất. Ở đời Nguyễn, tình chị em, anh em, tình bác cháu, nhất là tình vợ chồng đã có những sắc thái nổi bật. Trương Đăng Quế là một tấm gương trung hậu. Ộng luôn nghï đến anh em chi em là những người đã lo lắng cho ông khi ông ra Huế thi cử:
始我出門時
爲我求學力
妻爲縫其衣
姊爲贈其食
臨行送我門
時時好安息
(長安遊)
Thủy ngã xuất môn thì
Vị ngã cầu học lực
Thê vị phùng kỳ y
Tỷ vị tặng kỳ thực
Lâm hành tống ngã môn
Thời thời hảo an tức
(Trường An du)
Lần đầu ra khỏi nhà,
Vì học phải đi xa,
Quần áo vợ may sắm
Lương thực chị cho ta.
Chị tiễn ta ra ngõ
Chúc thuận buồm xuôi gió.
(Đi Trường An.- Nguyễn Thiên Thụ dịch)
Phan Thanh Giản hai vai gánh nặng. Ông lo việc nước, ông nặng tình nhà. Ông nhớ ngày ra kinh dự thi, cả nhà quan tâm, lo lắng:
. …親姑年七十
老病起凭牀
聞我來吿別
無言摧衷腸
中表有二兄
聚首最相愛
弟去莫復問
舅叔我分內
新婦纔七日
代我具餐食
今我事遠遊
井臼乃之職
(家別)
. . .Thân cô niên thất thập
Lão bệnh khởi bằng sàng
Văn ngã lai cáo biệt
Vô ngôn tồi trung tràng
Trung biểu hữu nhị huynh
Tụ thủ tối tương ái.
Đệ khứ mạc phục vấn
Cửu thúc ngã phận nội
Tân phụ tài thất nhật,
Đại ngã cụ xan thực,
Kim ngã sự viễn du
Tỉnh cữu nãi chi chức .
(Gia biệt)
Cô già tuổi bảy mươi
Đau ốm nằm liệt giường.
Nghe cháu đến cáo biệt,
Không nói, lòng ngùi thương!
Bên ngoại có hai anh,
Đối đãi rất chân thành.
Việc săn sóc cậu mợ,
Em đi, xin nhờ anh
Vợ cưới được bảy bữa
Lo nấu nướng suốt ngày
Nay ta phải đi vắng
Mọi việc cậy nàng thay. . .
(Giã nhà)
Nghệ thuật và tình cảm của các tác giả miền Nam như Trịnh Hoài Đức, Phan Thanh Giản hoặc người Trung như Trương Đăng Quế rất chất phác, thành thật.
Một bước trưởng thành của thi ca đời Nguyễn là lối hát ả đào. Đây là một hình thức xướng ca có nguồn gốc từ đời Lê nhưng đến đời Nguyễn thành một phong trào, một phong thái văn nghệ mà nội dung là thi nhạc trữ tình, trong đó cũng có phần lãng mạn và tinh thần Lão Trang.
II. LÃNG MẠN
Lãng mạn là một khuynh hướng mạnh mẽ trong văn chương Việt Nam, đã thể hiện trong ca dao Việt Nam. Trong thi ca của Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông chúng ta đã thấy phảng phất nỗi nhớ thương về những giai nhân. Đến đời Nguyễn, tình yêu thầm lặng, kín đáo vẫn là những đóa hoa ướp thơm trang văn học. Thơ Trịnh Hoài Đức mang tính cách lãng mạn của Đường thi:
鏡中美人
英華嫌外露
寶鏡隱嬋媛
冰玉春心照
菱花綵袖翻
月宮奔羿婦
銀漢渡天孫
塵海徑遷變
紅顏愛永存
KÍNH TRUNG MỸ NHÂN
Anh hoa hiềm ngoại lộ,
Bửu kính ẩn thuyền viên.
Băng ngọc xuân tâm chiếu
Lăng hoa thái tụ phiên
Nguyệt cung bôn Nghệ phụ
Ngân hán độ Thiên tôn
Trần hải kính thiên biến,
Hồng nhan ái vĩnh tồn
MỸ NHÂN TRONG GƯƠNG
Hoa đẹp lộ ra ngoài
Người đẹp trong gương cười.
Lòng xuân băng ngọc hiện
Áo gấm hoa lăng tươi
Chị Hằng ở nguyệt điện,
Chức nữ qua Ngân hà
Bể trần nhiều biến chuyển,
Hồng nhan muốn đẹp hoài
Trương Đăng Quế cũng một thời lãng mạn. Bài thơ sau nay viết về một giai nhân:
推粧
香奩此日花前探
桂樹何時月裏攀
細問素娥寂無語
依依清影近人間
THÔI TRANG
Hương liêm thử nhật hoa tiền thám,
Quế thụ hà thời nguyệt lý phan?
Tế vấn tố nga tịch vô ngữ
Y y thanh ảnh cận nhân gian.
GIỤC TRANG ĐIỂM
Ngày ấy thăm hoa, tráp ngát hương
Bao giờ vin quế ở cung Hằng?
Tố Nga nghe hỏi mà không đáp,
Hình ảnh rạng ngời khắp thế gian.
Qua thơ của Tuy Lý Vương, ta thấy Ngài như vương mắc một mối tình sầu:
雨脚如麻夜復密
漫漫癡雲四野黑
燈昏欲蕊螢亂飛
幽衾潑水粟生肌(1)
埯卷起座有所思
思我乃在勾曲之陽
(湘水湄)
. . . . . . . . .
Vũ cước như ma dạ phục mật,
Mạn mạn si văn tứ dã hắc,
Đăng hôn dục nhụy, huỳnh loạn phi,
U khâm bát thủy, túc sinh ky.
Yêm quyển khởi tọa, hữu sở ty,
Ngã tư nãi tại câu khúc chi dương.
(Tương thủy mi)
Mưa như sợi chỉ, đêm mênh mông,
Mây đen kịt che tối ruộng đồng.
Đèn leo lét, đóm bay tứ tung.
Chân như tẩm nước, da mọc ốc,
Xếp sách ngồi dậy, lòng vấn vương
Vấn vương đôi bờ sông Tương. . .
感君有情情能癡
嗟我有心心自知
相逢且託巫陽夢
莫向人間訴別離
(夜座吟)
. . . .Cảm quân hữu tình, tình năng si,
Ta ngã hữu tâm, tâm tự tri
Tương phùng thả thác Vu dưong mộng,
Mạc hướng nhân gian tố biệt ly.
(Dạ tọa ngâm)
. . .Thương nàng có tình, tình tha thiết
Thương ta có lòng, lòng tự biết
Chỉ được gặp nhau trong giấc mơ
Trần thế xin đừng nói ly biệt
(Ban đêm ngồi ngâm)
Những tác giả và tác phẩm kể trên cũng thuộc trào lưu lãng mạn nhưng mà là lãng mạn cổ điển, tình yêu kín đáo như những trang Đường thi. Lãng main thật sự phải kể Phạm Thái là một kiện tướng. Ông đã sống rất thực trong cuộc chiến đấu cô đơn và mối tình tuyệt vọng cùng kết thúc bi thảm. Tình yêu của ông và Trương Quỳnh Như đã nở hoa, thành những bài thơ và ngưng đọng thành truyện tình Sơ Kính Tân Trang mà nội dung như là Roméo và Juliette của Việt Nam. Phạm Thái và Trương Quỳnh Như là hai tác giả lãng mạn ở cuối Lê đầu Nguyễn. Phạm Thái đã yêu Trương Quỳnh Như và gửi thơ cho nàng bày tỏ tình yêu:
Từ chốn thiềm cung trộm dấu hương,
Dễ xui tao khách mối sầu vương.
Gió thông réo rắt dong đàn oán,
Trăng hạnh chênh vênh rạng bóng dương.
Nếu đã tình duyên dun dủi phận,
Thì xin ân ái vẹn nên đường.
Phong lưu đôi lứa đà ai dễ,
Bụi tục chi cho bợn lóa gương.
Trương Quỳnh Như cũng đã gửi thư cho chàng:
TIỄN ÔNG CHIÊU LỲ VỀ QUÊ
Sắt đá lòng này đã biết chưa?
Se duyên nay mượn gió cung Đằng.
Vườn đào sực thấy oanh đưa tín,
Dặm liễu ai xui yến cách chừng.
Vàng ngọc nếu chăng cùng một ước,
Nước non thề đã có hai vầng.
Ai sang cây hỏi tri âm với,
Chớ phụ cầm thư đợi dưới trăng.
Tiểu thuyết ái tình Việt Nam đã ra đời vào triều Lê với Phan Trần, Hoa Tiên. Sau đó, Truyện KIều, Lục Vân Tiên ra đời, mang một sắc thái mới cho văn học đời Nguyễn. Nhưng đó là những bản sao truyện tình Trung Quốc. Sơ Kính Tân Trang mới là tác phẩm hoàn toàn Việt Nam. Phạm Thái sinh trưởng tại Việt Nam nếu ông sinh tại Anh, Pháp, có lẽ ông đã trở thành thủy tổ của trường phái lãng mạn Tây phương.
III. HIỆN THỰC
Văn chương hiện thực là văn chương nói về những sự thực trong xã hội, về bất công xã hội. Nguyễn Thiếp đời Lê là người tiên
phong về khuynh hướng này trong bài nói về cảnh dân chúng đói khổ vì lụt lội ở Bắc.
Đời Nguyễn, khuynh hướng xã hội ra đời mạnh mẽ với Cao Bá Quát, Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương. Là những trí thức, là bậc vương giả, họ đã đi sát nông dân, hiểu rõ đời sống quần chúng. Đó là căn bản tính thiện, bác ái, từ bi, và nhân nghĩa của Nho gia, Phật gia, khác với đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Marx.
Cao Bá Quát viết Đạo phùng ngạ phu để nói bất hạnh của con người trong vấn đề cơm áo.
家貧藝醫卜
我來走長安
長安無病人
群醫如邱山
零丁望歸路
(道逢餓夫)
Gia bần nghệ y bốc
Ngã lai tẩu Trường An,
Trường An vô bệnh nhân,
Quần y như khâu sơn.
Linh đinh vọng quy lộ. .
(Đạo phùng ngạ phu)
Nhà nghèo làm nghề y,
Lên kinh đô sinh sống.
Kinh thành không bệnh nhân,
Thầy thuốc ế cả đống
Phải trở về từng đàn !.
(Giữa đường gặp người đói)
Tùng Thiện vương là cành vàng lá ngọc nhưng ngài hiểu thấu dân tình. Tấm lịnh ngài th ương cäm với nổi khổ của dân nghèo và những bất công xã hộI qua các bài Bần gia và Lưu dân thán.
貧家
辛苦貧家子
年年寒復饑
枵腹蔬替飯
凍骨火為衣
遍地猶兵甲
旻天且疾威
朱門樂何事
夜飮達朝暉
BẦN GIA
Tân khổ bần gia tử
Niên niên hàn phục cơ
Hiểu trường sơ thế phạn,
Đống cốt hỏa vi y.
Biển địa do binh giáp.
Mãn thiên thả tật oai,
Chu môn lạc hà sự
Dạ ẩm đạt triều huy.
NHÀ NGHÈO
Con nhà nghèo khổ đau
Quanh năm rét lại đói,
Bụng rỗng phải ăn rau.
Lấy lửa thay chăn gối.
Khắp đất là gươm đao,
Đầy trời là họa hại.
Vui vẻ thay nhà giàu,
Yến tiệc suốt đêm thâu.
Tuy lý vương lên tiếng tố cáo quan lại tham nhũng làm dân chúng khốn khổ:
土車謡
車轢轆轢轆.
土多折軸
不畏折軸
唯恐土覆
車一輪
人一身
愼勿遲延官場嗔
我亦父母之子王之臣
THỔ XA DAO
Xa lịch lộc! lịch lộc!
Thổ đa chiết trục
Bất úy chiết trục
Duy khủng thổ phúc
Xa nhất luân
Nhân nhất thân
Thận vật trì diên, quan trường sân.
Ngã diệc phụ mẫu chi tử, vương chi thần.
BÀI CA XE CHỞ ĐẤT
Xe lộc cộc, lục cục,
Chở đất nhiều, xe gãy trục,
Gãy trục, chẳng sợ
Chỉ sợ xe đổ
Xe một cổ,
Người một thân.
Làm chậm trễ
Quan rầy la.
Ta là con của mẹ cha
Cũng là thần tử vua ta đương triều!
Từ xưa, bản tính con người là thiện, lại được Phật, Nho, Lão vun trồng nên có tinh thần xã hội nhân bản.
IV. TRANH ĐẤU
Năm 1862, thực dân Pháp đã bộc lộ dã tâm xâm chiếm nước ta. Một số rất it ra làm tay sai cho Pháp như Trương Vinh Ký, Trương Minh Ký, Tôn Thọ Tường, Trần Bá Lộc nhưng tuyệt đại đa số nhân dân trong đó có các nho sĩ yêu nước đã đứng lên tranh đấu cho độc lập Tổ quốc. Một số đã cầm quân đánh giặc, tham gia khởi nghĩa chống Pháp như Phan Đình Phùng, Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Thông, một số hoạt động chính trị vận động Duy Tân, Đông Du như Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh, Huỳnh Thức Kháng, Ngô Đức Kế. Một số bất cộng tác, hoạt động theo tinh thần bất bạo động như Phan Văn Trị, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê, Dương Lâm. . .Lớp này ngã xuống, lớp sau tiến lên. Các bậc trí thức đời Nguyễn đã đem xương máu tranh đấu cho độc lập Việt Nam, họ đã nêu cao tinh thần bất khuất của sĩ phu Việt Nam.
Mở đầu cho cuộc kháng chiến chống Pháp của triều đình, Nguyễn Thông đã tố cáo thực dân Pháp xâm lăng và ông đã bày tỏ nỗi đau đớn khi nghe tin Nam kÿ rơi vào tay Pháp:
書懷示營田副使裴伯昌
牛渚無端作戰場
卄年江海醉爲鄕
同來故郡唯君在
慣觸危機笑我狂
朝論空聞談五利
雲帆何日下重洋
只今燕趙悲哥客
熱血填應旅鬓霜
THƯ HOÀI THỊ DINH ĐIỀN PHÓ SỨ BÙI BÁ XƯƠNG
gưu chữ vô đoan tác chiến trường
Trấp niên giang hải túy vi hương.
Đồng lai cố quận duy quân tại,
Quán xúc nguy cơ tiếu ngã cuồng.
Triều luận không văn đàm ngã lợi,
Vân phàm hà nhật hạ trùng dương?
Chỉ kim Yên Triệu bi ca khách,
Nhiệt huyết điền ưng lữ mấn sương (1)
NAM KỲ THẤT THỦ
Bến Nghé gây nên cuộc chiến trường,
Làng say mấy lúc lại qua thường.
Cùng về xứ cũ người càng khoẻ
Chạm mãi cơn nguy, tớ muốn cuồng.
Chầu chợ đồn rầm mối lợi lớn,
Biển khơi bao thuở cánh buồm giương?
Chỉ lưa ca khúc người Yên Triệu.
Lòng nóng sôi lòng tóc nhuộm sương.
(Huỳnh Thúc Kháng dịch)
Cùng lúc này, Nguyễn Đình Chiểu ra sức tán dưong tinh thần hy sinh anh dũng của cha con nhà Phan Thanh Giản, và ca tụng tinh thần của nghĩa quân như Trương Công Định, và nghĩa quân Cần Giuộc. Đoạn sau nay viết về tinh thần chiến đấu của nghĩa quân:
Trên cật một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi; Trong tay cắp một ngọn tầm vông, nào đợi sắm dao tu, nón gõ. . .
Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào bước tới, coi giặc cũng như không; Nào sợ thằng tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như không có. . (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Phan Bội Châu là một nhà cách mạng và là một văn hào yêu nước. Tác phẩm của ông là một kho tàng vĩ đại. Chúng tôi xin nêu lên một vài tác phẩm của Sào Nam Phan tiên sinh: -Bình Tây Thu Bắc (1883); Song Tuất Lục (1886); Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư (1903); Khuyến Quốc Dân Du Học Văn (1905);Việt Nam Vong Quốc Sử (1905), Việt Nam Nghĩa Liệt Sử (1907);Ngục Trung Thư; Tự Phán. . . Tất cả thi ca của ông đều nhằm vài việc giải phóng dân tộc. Thơ ông đã được dịch quốc ngữ truyền bá trong
Đông Kinh nghĩa Thục và khắp nước. Bài thơ sau nay do Phan Bội Châu viết ngày mồng hai tháng giêng năm ất tị (1905) lên đường sang Nhật Bản:
出洋留別
生爲男子要希奇
肯許乾坤自轉移
於百年中須有我
有千載下更無誰
江山死矣生圖汭
賢聖寥然誦亦痴
願欲長風東海去
千重白浪一齊飛
XUẤT DƯƠNG LƯU BIỆT
Sinh vi nam tử yếu hy kỳ,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
Ư bách niên trung tu hữu ngã
Hữu thiên tải hạ cánh vô thùy.
Giang sơn tử hỷ sanh đồ nhuế
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si.
Nguyện dục trường phong Đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
Khác thường bay nhảy mới là trai,
Chẳng chịu vần xoay mặc ý trời.
Trong cuộc trăm năm đành có tớ
Rồi sau muôn thuở há không ai.
Non sông đã mất, mình khôn sống,
Hiền thánh đâu còn, học cũng hoải.
Đông hải xông pha nương cánh gió,
Nghìn làn sóng bạc múa ngoài khơi!
(Ngục Trung Thư. Đào Trinh Nhất dịch)
Trong Hải Ngoại Huyết Thư, Phan Bội Châu làm nhiều bài văn thơ kêu gọi canh tân và chống Pháp:
腥風馥鼻唉劍挾之無忴
忿氣闐胸罔棍雄而交屬
皇天后土其監予心不乎
會黨昆徒其聽予言 不乎
Tình phong phốc tị, ai kiếm hiệp chi vô linh
Phẫn khí điền hung, võng côn hùng chi giao chúc.
Hoàng thiên hậu thổ ký giám dư tâm phủ hồ?
Hội đảng côn đồ, kỳ thỉnh dư ngôn phủ hồ?
Gió tanh sống mũi khó ưa
Gươm sao cắp nách mà ngơ cho đành.
Hòn máu uất, chất quanh đầy ruột
Anh em ôi, xin tuốt gươm ra
Có trời, có đất có ta,
Đồng tâm thế ấy mới là đồng tâm!
(Lê Đại dịch)
Phan Bội Châu là một văn hào, một nhà cách mạng chân chính của Việt Nam,
V. TRÀO PHÚNG
Tinh thần trào phúng xuất hiện đời Nguyễn với Hồ Xuân Hương cười cợt nhân thế với nghệ thuật tượng trưng mà đậm đà nhất là biểu tượng cái giống. Nụ cười của Hồ Xuân Hương bắt nguồn từ cái dâm và tục của người Việt Nam trong kho tàng tiếu lâm. Sau đó, khi thực dân xâm chiếm nước ta, nghệ thuật trào phúng nhắm vào thực dân, bọn tay sai và hủ tục gây ra do chế độ thực dân và chính quyền tạo ra những sân khấu mới và những tên hề mới. Đại biểu cho trào lưu này là Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Huỳnh Mẫn Đạt, Kỳ Đồng, Nguyễn Thiện Kế. . . .Trào phúng ở nay là vũ khí chống lại bất công và thối nát của xã hội và chống bọn thực dân xâm lược.
Nguyễn Khuyến đã chỉ trích bọn quan lại thời Pháp thuộc:
吾惟嗜飮食
雨非吾能為
神今且如此
於民復奚疑
(禱雨)
Ngô duy thị ẩm thực
Vũ phi ngô năng vị
Thần kim thả như thử
Ư dân phục hề nghi
(Đảo vũ)
Ta chỉ biết ăn uống,
Ta không biết làm mưa
Bao nhiêu thần bây giờ
Chỉ làm khổ dân chúng
(Cầu mưa)
Ông mượn lời vợ người phường chèo để chỉ trích vua quan thời Pháp:
俳優皇帝且不惧.
何況爾為俳優官
(優婦詞)
Bài ưu hoàng đế thã bất cụ
Hà huống nhĩ vi bài ưu quan (Ưu phu từ)
Vua chèo còn chẳng ra chi
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề
(Nguyễn Khuyến dịch)
Trần Tế Xương lả một nhà thơ xuất sắc. Ông đem cái nghèo, cái thi hỏng của ông làm đề tài châm biếm. Ông cũng chỉ trích xã hội của ông gồm những quan lại và nho sĩ thời Phàp cai trị đất Bắc:
THẾ CŨNG ĐÒI THI
Cử nhân cậu ấm Kỷ
Tú tài con Đô Mỹ
Thi thế cũng đòi thi
Ơi khỉ ơi là khỉ!
LẮM QUAN
Ở phố hàng Song thực lắm quan,
Thành thì đen kịt, Đốc thì lang.
Chồng chung, vợ chạ kìa cô Bố,
Đậïu lạy quan xin nọ chú Hàn!
Văn chương cổ điển đời Nguyễn rất phong phú, trong đó các văn nhân, các vua, các quan lại đã tích cựïc đóng góp cho văn học. Nổi bật nhất Siêu, Quát, Tùng Tuy. Thời này khác các đời trước là ai cũng có thi tập lẫn văn tập. Văn xuôi, văn bình luận đã ra đời khá nhiều. Công cuộc nghiên cứu sử học rất vĩ đãi. Trong mấy chục năm trời, các văn thần Quốc Sử quán như Phan Thanh Giản, Trương Đăng Quế, Nguyễn Thông, Cao Xuân Dục đã biên khảo nhiều bộ sử có giá trị như Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Đại Nam Thực Lục, Quốc Triều Chánh Biên.
. .
Lối hát ả đào là một nghệ thuật mớI, kết hợp thi ca và nhạc. Loại Anh hùng ca đã có từ xưa, nay lại ra đời, phản chiếu trung thành lịch sử nước nhà trong giai đoạn đen tối với Nguyễn Nhược Thị, Nguyễn Văn Giai.Văn chương triều Nguyễn mang tính cách bi và hùng mà con người và sự nghiệp của Nguyễn Du, Phan Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiểu và Phan Bội Châu là những khuôn mặt rạng ngời trong lịch sử dân tộc và lịch sử văn học triều Nguyễn. Các vua quan, văn nhân, thi sĩ đời Nguyễn đã sáng tác, nghiên cứu và tranh đấu anh dũng cho văn học, nghệ thuật và độc lập Việt Nam. Lịch sử muôn đời sẽ công quên công ơn và sự đóng góp lớn lao của họ.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
SOME CHARACTERESTICS OF VIETNAMESE LITERATURE
UNDER THE NGUYEN DYNASTY (1802-1919)
by NGUYỄN THIÊN-THỤ
Under the Nguyễn dynasty, Vietnam had two writing systems: the Sino Vietnamese and the Nom. Although the Nguyen dynasty lasted 133 years, its literature last 117 years, because the year 1919 marked the end of its fate. From this year, French colonialists cancelled the old Vietnamese education and built a new one with French and Quốc Ngữ, a kind of Romanized Vietnamese.
Vietnamese literature under the Nguyen dynasty is a great literature because of a great number of famous authors and famous works. This literature also has some characteristics such as lyricism, romanticism, realism, combat, and satire.
I. LYRICISM
Lyricism was a traditional tendency in Vietnamese literature. In the Le dynasty, Chinh Phu Ngâm (Song of a Soldier's
Wife) by Đặng Trần Côn (1710-1745), Cung Oán Ngâm Khúc (A Plaint Inside the Royal Harem) by Nguyễn Gia Thiều (1741-1798)
and Ai Tư Vãn (Lamentation) by Queen Ngọc Hân (1771-1804) were the most famous lyric poems. In the Nguyễn dynasty, Nguyễn Du (1765-1820) wrote Văn tế thập loại chúng sinh (Calling All Wandering Souls) which was a well known lyric poem based on Vietnamese belief and Buddhist influence:
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ,
Bóng hào quang cứu khổ độ u,
Rắp hòa tứ hải quần chu,
Não phiền rũ sạch, oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại,
Chuyển pháp luân tam giới thập phương.
May Buddha rescue you from life and death
And ferry you to his Pure Land of Bliss!
Let his effulgent light dispel such gloom
As clouds the mind in ignorance and sin!
The over all fours seas his peace shall reign
To soothe all griefs and purge all hatred off.
May Buddha's power send the Wheel of the Law,
Through all three realms, through all cardinal points
(Transl. by Huynh Sanh Thông)
Nguyễn Khuyến (1835- 1909) wrote Khóc Dương Khuê (Lamentation) in both Chinese and Nôm, and this long poem is a poetic creation. Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm (Nostalgia) by Đinh Nhật Thận (1815- 1866), and Tự Tình Khúc (Expression) by Cao Bá Nha (19th century)ï are the great works of two prisoners.
Giấc thanh dạ cơn say ,cơn tỉnh,
Ngày lưu niên, khi lạnh khi nồng.
Phần du nẻo Bắc ngừng trông,
Nước non cách mấy mươi trùng xa xa.
Câu lữ cảm lệ hòa nét mực,
Chữ gia tình thấm tắt lòng son
(Tự Tình khúc)
At night, I can not sleep well,
In the exile, I am not happy.
I always look toward the North,
Where my home is
It is far away by mountains and rivers
In the foreign country,
I miss my family
I sadly write about my nostalgia
(Transl. by Nguyễn Thiên Thụ)
II. ROMANCISM
Romanticism is a traditional tendency in Vietnamese literature. In the Le dynasty, Phan Trần,
(Story of Phan and Trần), Hoa Tiên (Flowered Stationery) were the famous love stories. In the Nguyen dynasty, there were a lot of love stories appeared, but Truyên Kiều (The Tale of Kieu) by Nguyễn Du and Lục Vân Tiên by Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) were the most popular works. Some Vietnamese stories such as The Tale of Kieu, Nhị Độ Mai, (Plumtrees Blooming Twice) are derived from the Chinese sources, but Sơ Kinh Tân Trang (The Comb and the Mirror) by Phạm Thái (1777-1813
)was written in 1804. It is an autobiographical work, disguised account of the love affair between the author and lady Trương Quỳnh Như. Lục Vân Tiên by Nguyễn Đình Chiểu is also an autobiographical work of the author, a student, who became a blind, and lost his fiancée .
In Vietnamese poetry under the Nguyễn dynasty, we can see a number of romantic poems. Nguyễn Văn Siêu (1799- 1872) wrote a short poem:
落花辰節又逢君
何辰雲水各天涯
腸斷春風萬里賒
萍梗此囬疑夢寐
忽添驚淚落如花
Meeting you when flowers are falling
In the horizon, how long have we been wandering?
In foreign country, the spring wind makes me sad
I think that we are dreaming.
Suddenly my tears drop as flowers falling!
Tùng Thiện Vương (1819-1870) was also a romantic poet. He expressed love and sadness of a young woman:
自君之出矣
自君之出矣
不復理殘機
思君如月滿
夜夜減光輝
FROM THE DAY YOU GO
When you leave,
I did not weave
My soul, like the full moon each night
Which decreases its light
III. REALISM
Realism in Vietnamese literature began in the Lê dynasty with an poem entitled Phù Thạch phùng lão ngư (An old fisherman on the Phù Thạch river) by Nguyễn Thiếp (1723-1804). In the Nguyễn dynasty, this movement developed with Cao Bá Quát, Tùng Thiện Vương, Tuy Lý vương. By influence of human love and compassion of Confucianism and Buddhism, many poets paid attention to the reality and life of poor people. Cao Bá Quát (1809- 1853) reported news from the North of Vietnam where had been in trouble time: people were killed and houses were burn by the robbers and the revolters:
怪事怪事不忍聞
自畫殺人全家去
軍吏過者顧之他
鄊里藏匿不敢語
語者十人無一生
家家灰盡成飛絮. . .
(人自北寧來言北寧事感作)
It is very strange to hear that news
They killed many families by day
Officials and soldiers were indifferent,
The village authorities did not dare to say!
Who speak truthfully will be killed
A lot of houses became ashes to fly away!. . .
(News from Bắc Ninh province, transl. by Nguyễn Thiên Thụ)
Although Tùng Thiện Vương was a king's relative, he took interest inpoor people:
貧家
辛苦貧家子
年年寒復饑
枵腹蔬替飯
凍骨火為衣
遍地猶兵甲
旻天且疾威
朱門樂何事
夜飮達朝暉
Poor people
Poor people are unhappy
Every year cold and hungry,
They eat vegetables
when their stomachs are empty.
Fire instead of clothes in winter,
Land is full of swords
And sky disaster
Rich people are happy
Every night they enjoy party and party.
IV. PATRIOTISM
In 1859 the French colonialists began occupy Vietnam. Vietnamese people, especially the scholars struggled against them. A numbers of writers and poets became the generals or leaders of the revolutionary movements such as Phan Đình Phùng, Nguyễn Hữu Huân, Trương Công Định, Nguyễn Thiện Thuật and Phan Bội Châu. This war also created a new movement in literature that was the resistant literature, revolutionary literature, or patriotic literature.
Nguyễn Thông (1827- 1884) was a combatant. In 1859, the French occupied Gia Định, he followed general Tôn Thất Hiệp to fight French colonialists. In 1881, he became Chief of Education and a Chief of Agriculture of Binh Thuân province.
He was a patriot. Most of his poems expressed his love of country:
書懷示營田副使裴伯昌
牛渚無端作戰場
卄年江海醉爲鄕
同來故郡唯君在
慣觸危機笑我狂
朝論空聞談五利
雲帆何日下重洋
只今燕趙悲哥客
熱血填應旅鬓霜
LETTER TO MY FRIEND BÙI BÁ XƯƠNG
Saigon becomes a battle field,
For thirty years wandering,
I have been drinking.
In my countrymen, only you are still living.
Experiencing danger, I become mad.
Everywhere they discussed about negotiating.
I want to steer a cloud boat to the southern sea.
I am a stranger who lost his country and very sad.
My head became white, but my heart is burning.
Nguyễn Đình Chiểu recounted a scenery when the French attacked Gia Định:
CHẠY GIẶC
Tan chợ vừa nghe tiếng súng tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay.
Bỏ nhà lũ chó lăng xăng chạy,
Mất ổ bay chim dáo dác bay.
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh khói nhuốm màu mây.
Hởi trang dẹp loạn rày đâu vắng?
Nỡ để dân đen mắc nạn này!
AVOIDING the FRENCH INVADERS
After the market hour, the French troops fired,
In a minute, every thing changed and we failed.
The dogs quitted home and ran on the way,
Lost their nests, the frightened birds flied away.
In Bến Nghé, property became bubbles in a day
In Đồng Nai, houses were burnt to ashes quickly
Where were you? The heroes?
Why didn't you save our country?
Nguyễn Đình Chiểu praised the heroes such as Phan Thanh Giản, Phan Tòng, Trương Công Định., especially the peasants in Cần Giuộc in the fight on december, 14, 1861:
Bữa thấy bòng bong trắng lớp, muốn tới ăn gan; Ngày xem ống khòi đen ì, muốn ra cắn cổ.. .
Nào sợ thằng tây bắn đạn to, đạn nhỏ, xô cửa xông vào, liều mình như không có. . . .
Chẳng thà thác đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; Chẳng hơn còn chịu tiếng hàng tây, ở với man di rất khổ. .
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Seeing black French ships with white bubbles in the river, our men wanted to kill them all. . .
They didn't care of French guns, and considered their lives were nothing. . .
They wanted to die heroically like their brave ancestors, rather than to surrender the barbarians.
(Lamentation- Transl. by Nguyễn Thiên Thụ)
Phan Bội Châu (1867-1940), Phan Chu Trinh (1872- 1926), and Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947) were the leaders of the Vietnamese Movement of Reform (Phong trào Duy Tân). Phan Bội Châu was a prominent revolutionist and a scholar, he wrote a lot of works in order to appeal to his compatriots to revolt against the French colonialism. The follwing poem was written in 1905 when he was on the way to Japan:
出洋留別
生爲男子要希奇
肯許乾坤自轉移
於百年中須有我
有千載下更無誰
江山死矣生圖汭
賢聖寥然誦亦痴
願欲長風東海去
千重白浪一齊飛
(獄中書)
I am a man, I have to achieve great success,
I try to save my country.
In this life, I have to fulfill my duty
In future, many people will continue my business.
If there is no more nation, my life will be useless.
There is no more saint, why I still study?
I will travel the stormy sea
Although thousand waves are in angry.
(Letter From the Prison- Transl. by Nguyễn Thiên Thụ)
In Hải Ngoại Huyết Thư (Blood Letter From the Oversea) , he accused the French colonialism, and called on the people to join him in the struggle to free Vietnam.
腥風馥鼻唉劍挾之無忴
氣闐胸罔棍雄而交屬
皇天后土其監予心不乎
會黨昆徒其聽予言 不乎
I hate bad smelling,
I can not take a sword with no intention
In my heart, my anger is rising
My friends, draw your weapons,
In the Heaven and earth, we stand
And hold together with hand in hand.
(Transl. by Nguyễn Thiên Thụ)
V. SATIRISM
In oral literature , there are many humorous stories whereas in Sino Vietnamese and Nôm literatures, we have no a
laughing. In the Nguyễn dynasty, a number of satirical poems appeared in Sino Vietnamese and in Nôm literatures. Hồ Xuân Hương, Nguyễn Văn Lạc, Kỳ Đồng , Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Nguyễn Thiện Kế were the prominent satirists.
When some poets focused on the individuals just for fun, the others aimed to criticise society, especially society under the French domination. Satire in this case is the weapon to struggle against our enemies.
Nguyễn Khuyến wrote many patriotic poems, he also composed a lot of satirical poems. A lot of his satirical poems criticized people and mandarins who followed the French invaders, became their tools, and their servants. His satirical poems were also his patriotic poems. He criticized Bastille Day, the French celebrated on 14 July in Hanoi:
Cậy sức, cây đu nhiều chị nhún
Tham tiền, cột mỡ lắm anh leo
Khen ai khéo vẽ tro vui thề
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!
(Hội Tây)
Relying on their strength, many women swing
Eager for money, on the grease pillars,
some men try climbing
Who displayed these games?
It is not a joy, but a shame.
(A French Festival- Transl. by Nguyễn Thiên Thụ)
He criticized the education and examination under the French domination which caused corruption in the administration and bad habits in society. He described the paper dolls featuring the scholars with a doctor degree in the Mid Autumn Festival in Hà nội:
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ
Cái giá khoa danh ấy mới hời!
Ghế tréo , lọng xanh ngồi bảnh choẹ,
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi!
(Tiến sĩ giấy)
His body with court dress is very light,
And the price of his fame is not high.
He is great in his throne with blue parasol,
Is this a real doctor? No, it is a toy for the child.
(An unreal doctor)
Trần Tế Xương (1870-1907) was a greatest satirical poet. His poverty and his failure in examination were his poetry subjects. He criticized himself and he attacked his society, a new society corrupted by French colonialists and servants.
He satirized a chief police in Ha nam province:
Hà Nam danh giá nhất ông cò,
Trơng thấy ai ai chẳng dám ho.
(Ông Cò)
A chief of police is a very important person
in Hanam province.
When see him,
everybody keep silent because of fright.
(Mr. French Police officer)
He criticized the corrupted exam of his time:
Cử nhân cậu Ấm Kỷ,
Tú tài con đô Mỹ.
Thi thế cũng đòi thi,
Ôi ! khỉ ôi là khỉ!
(Thế cũng đòi thi)
Uncle Kỷ passed his licentiate
Đô M ĩ ' s son got baccalaureate.
How can they pass?
What a monkey tricks!
(What an exam !- Transl. by Nguyễn Thiên Thụ)
The Nguyễn dynasty had a number of great authors and works. The National History Institute (Quốc Sử Quán) with Phan Thanh Giản, Trương Đăng Quế, Nguyễn Thông, Vũ Xuân Cẩn, Nguyễn Trọng Hơp, after many years of research, completed their great works such as:
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục,
Đại Nam Thục Lục,
Đại Nam Liệt Truyện
Đại Nam Nhất Thống Chi. . .,
There were many famous authors The Kings, generals mandarins and scholars were writers or poets. Each writer wrote both poetry and prose, in both Chinese and Nôm. Before the French domination, Vietnam was a peaceful country, therefore the majority of works were the love stories, lyrical poems, and realist works. But after the French occupied Vietnam, the combat literature and the revolutionary literature developed so much. Besides the patriotic literature, satirical literature became a kind of weapon to attack the French colonialists. We can conclude that Vietnamese literature under the Nguyễn dynasty expressed love of country, love of peace, and the struggle of Vietnamese people against the French invaders. The
Vietnamese intellectuals were the vanguard force in politics, in culture and in military. They died on battle field, in the prison, or were executed on ground, but their works and their names still exist in the heart of Vietnamese people. History of Vietnamese literature was written by tears and blood of Vietnamese people through many centuries of building and protecting their country.
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 348
VŨ DÔNG HÀ * NGUYỄN BÁ THANH
Trận chiến quyền lực giữa phe NTD & NPT
Số phận của Nguyễn Bá Thanh trong trận chiến quyền lực giữa phe Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Phú Trọng
Số phận của Nguyễn Bá Thanh đã bước vào một "bước ngoặt cuộc đời" khi ông từ bỏ ngôi vị vua một cõi tại Đà Nẵng để về Hà Nội đầu quân Nguyễn Phú Trọng, nắm chức vụ Trưởng ban Nội chính Trung ương. Cuộc đấu đá nội bộ dẫn đến những sát phạt quyết liệt với bản án tử hình dành cho đàn em của Nguyễn Tấn Dũng là Dương Chí Dũng, cái chết của Thứ trưởng Công an Phạm Quý Ngọ đã dẫn đến số phận tiêu điều của Nguyễn Bá Thanh.
Chiến dịch "đả hổ diệt ruồi" của Nguyễn Phú Trọng tấn công toàn bộ vào phe Nguyễn Tấn Dũng.
Theo quyết định chỉ đạo của Nguyễn Phú Trọng vào ngày 6/8/2013, Nguyễn Bá Thanh thành lập và chỉ huy 7 Đoàn công tác kiểm tra, giám sát việc thanh tra, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng nghiêm trọng. Thực chất là mở mặt trận lớn để tấn công toàn diện vào phe Nguyễn Tấn Dũng. Đứng đầu 7 đoàn này gồm có: Ngô Văn Dụ, Trần Đại Quang, Nguyễn Bá Thanh, Trương Hòa Bình, Nguyễn Hòa Bình, Huỳnh Phong Tranh, Nguyễn Văn Hiện. Đây là những thuộc hạ của Nguyễn Phú Trọng trong mặt trận "đả hổ diệt ruồi" theo bài bản của Tập Cận Bình.
Mặt trận Vinalines
Đợt ra quân đầu tiên của Nguyễn Bá Thanh là mặt trận Vinalines với phiên tòa cuối năm 2013 xử những đàn em, vây cánh của Nguyễn Tấn Dũng, đứng đầu là Dương Chí Dũng - Tổng giám đốc, chủ tịch HĐQT của Vinalines. Nguyễn Bá Thanh đích thân có mặt theo dõi phiên tòa để bảo đảm diễn tiến và kết quả sẽ theo đúng quy trình dự kiến của phe Nguyễn Phú Trọng.
Tại thời điểm này có 2 biến cố lớn cùng xảy ra trong một ngày 16.12.2013: Dương Chí Dũng lãnh án tử hình và Nguyễn Bá Thanh sang Bắc Kinh. Cả hai vụ việc kết lại thành một thông điệp cạn tàu ráo máng của phe Nguyễn Phú Trọng gửi đến phe Nguyễn Tấn Dũng: từ hốt liền, hốt hết sang dựa cột tử thần với sự đỡ đầu của Bắc Kinh.
Nguyễn Bá Thanh và chuyến đi triều kiến Bắc Kinh
Chuyến đi Bắc Kinh của Nguyễn Bá Thanh vào 16.12.2013 có nhiều điều cần phân tích vì 1 năm sau, đầu năm 2015, trang blog Chân Dung Quyền Lực (CDQL) đăng bài Ai đã đầu độc phóng xạ ông Nguyễn Bá Thanh? và tố cáo Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc (nguyên văn) "mượn tay Trung Nam Hải hạ độc ông Nguyễn Bá Thanh bằng chất phóng xạ là điều không thể nghi ngờ".
CDQL đưa ra 2 "động cơ" của Nguyễn Xuân Phúc: (1) Quyết giữ vị trí độc tôn thủ lĩnh miền trung trong Bộ Chính trị, (2) Sinh mạng chính trị và khối tài sản tham nhũng của cả gia tộc bị đe dọa nghiêm trọng. Cả hai "động cơ" này không thuyết phục vì (1) Nguyễn Bá Thanh không phải là ủy viên BCT, hay chỉ vì Thanh là người miền Trung để Thanh là đối thủ mà Phúc phải hạ thủ cho bằng được. Đối thủ của Phúc trong đại hội đảng XII là những UVBCT đương nhiệm chứ không phải là Nguyễn Bá Thanh. Và (2), vào thời điểm Nguyễn Bá Thanh bị ám hại, Nguyễn Xuân Phúc không hoặc chưa là đối tượng đang được Nguyễn Phú Trọng / Nguyễn Bá Thanh nhắm tới trong đại chiến dịch "đả hổ diệt ruồi".
CDQL đã dùng chuyến đi Lào của Nguyễn Xuân Phúc vào ngày 17.12.2013 để "giải trình" cho "Điều kiện và Khả năng thực hiện" việc ám hại Nguyễn Bá Thanh: gặp riêng Đại sứ Trung Cộng Quan Hoa Binh và qua tên đại sứ này mượn tay Bắc Kinh sát hại Nguyễn Bá Thanh. Điều này không hợp lý, không có cơ sở vững chắc vì yếu tố "động cơ" của Bắc Kinh. Tàu cộng ủng hộ Nguyễn Phú Trọng vốn là một tổng bí thư giáo điều thần phục và trung thành với Bắc Kinh nhất. Vào thời điểm này, Bắc Kinh chưa có "lợi nhuận" nào để phải nhúng tay vào việc ám hại Nguyễn Bá Thanh; ngược lại phe Nguyễn Phú Trọng đang làm suy yếu và tan hoang nội bộ đảng CSVN để Bắc Kinh dễ bề thao túng, mua chuộc và thống trị. Một điểm cần lưu ý là Nguyễn Bá Thanh có mặt tại Bắc Kinh vào ngày 16.12.2013 và chỉ lưu lại Bắc Kinh, Thượng Hải vài ngày. Rất khó để thuyết phục rằng Nguyễn Xuân Phúc gặp đại sứ Tàu tại Lào 1 NGÀY SAU KHI Nguyễn Bá Thanh có mặt và gặp gỡ lãnh đạo Trung cộng để rồi chỉ trong vài ngày ngắn ngủi Bắc Kinh có thể đi đến quyết định đầu độc phóng xạ Nguyễn Bá Thanh ngay tại Bắc Kinh như CDQL tố cáo.
Tại sao CDQL đưa ra lời tố cáo mà CDQL cho là "không thể nghi ngờ" này vào đầu năm 2015? Chúng ta sẽ thấy rõ hơn ở phần sau, sau khi phân tích thêm những diễn tiến kế tiếp.
Trở lại chuyến đi Bắc Kinh, Thượng Hải của Nguyễn Bá Thanh.
Trong khi tại Hà Nội, tòa tuyên án tử hình Dương Chí Dũng thì tại Bắc Kinh, Nguyễn Bá Thanh bắt tay Mạnh Kiến Trụ, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ủy ban Chính pháp Trung ương của đảng cộng sản Tàu. Mạnh Kiến Trụ từng là Bộ trưởng công an và là thành phần đầu não của bộ máy quyền lực tại Thượng Hải. Trong buổi tiếp xúc này, Mạnh Kiến Trụ tuyên bố đánh giá cao những thành tựu phòng chống tham nhũng của Việt Nam như là một cách bày tỏ sự đồng tình, ủng hộ Nguyễn Bá Thanh. Nếu nói rằng bản án tử hình dành cho Dương Chí Dũng là phát súng tử đầu tiên bắn vào phe Nguyễn Tấn Dũng thì chuyến đi của Nguyễn Bá Thanh là để xin viện trợ thêm đạn dược, kế sách và sự đồng tình ủng hộ tối đa của Tập Cận Bình - cũng là người đang mở mặt trận "đả hổ diệt ruồi". Nguyễn Bá Thanh đã thành công trong sứ mạng này và sau đó đã được đàn em của Mạnh Kiến Trụ dẫn đi thăm Thượng Hải, lãnh địa của Mạnh Kiến Trụ.
Phản ứng của phe Nguyễn Tấn Dũng
Phe Nguyễn Tấn Dũng đã đối diện với những nguy cơ gì sau ngày 16.12.2013 là ngày Dương Chí Dũng nhận án tử và Nguyễn Bá Thanh bắt tay với Mạnh Kiến Trụ ở Bắc Kinh? Gồm có 4 nguy cơ:
1. "Nguy cơ Dương Chí Dũng": Trong phiên tòa sơ thẩm, Dương Chí Dũng khai Thượng tướng Thứ trưởng công an Phạm Quý Ngọ đã nhận hối lộ tổng cộng 1.500.000 đô la, trong đó có phần 500.000 đô la để mật báo giúp Dũng bỏ trốn. Dương Chí Dũng cũng khai trước tòa về "người ông anh" đứng đằng sau Ngọ trong vụ hối lộ này là Bộ trưởng CA Trần Đại Quang. Đối diện với viễn ảnh dựa cột, nhìn vào "thế" của Nguyễn Phú Trọng sau chuyến đi của Nguyễn Bá Thanh, từ sau phiên xử sơ thẩm ngày 16.12.2013 cho đến phiên xử phúc thẩm vào tháng 4, 2014, Dương Chí Dũng có thể sẽ đầu hàng Nguyễn Phú Trọng và khai thêm nhiều chuyện bê bối của nội bộ phe mình. Đó là nguy cơ mà Nguyễn Tấn Dũng đối diện.
2. "Nguy cơ Phạm Quý Ngọ": Với lời khai của Dương Chí Dũng ngay tại tòa, với "thế" đang lên của Trọng / Thanh, cộng thêm cái "gương" của án tử hình dành cho Dương Chí Dũng, Phạm Quý Ngọ có thể lo sợ và khai báo toàn bộ mọi hành vi bôi trơn, hối lộ của phe Nguyễn Tấn Dũng từ lúc Dương Chí Dũng bị truy nã bỏ trốn cho đến lúc bị bắt và đưa ra tòa.
3. Nguy cơ bị đàn em đánh giá là đang yếu thế: Bản án tử hình dành cho Dương Chí Dũng là dấu ấn đậm nét nhất cho sự thắng thế của phe Nguyễn Phú Trọng và sự thua cuộc của Nguyễn Tấn Dũng vì Dương Chí Dũng là một trong những đàn em thân tín của đồng chí X. Trong bối cảnh thanh trừng nội bộ, điều này dẫn đến:
4. "Nguy cơ nhảy rào - đổi chiến tuyến": Đây mới là nguy cơ sinh tử mà phe Nguyễn Tấn Dũng đối diện. Bản án tử hình Dương Chí Dũng là một "sự đánh thức" làm đàn em Nguyễn Tấn Dũng phải lo lắng cho vận mạng của mình. Dương Chí Dũng lẫn Phạm Quý Ngọ sẽ tiếp tục khai những ai và khai gì!? Nỗi lo lắng đó càng gia tăng khi thấy phe Nguyễn Phú Trọng có sự hậu thuẫn và đỡ đầu của Bắc Kinh. Tiếp tục đứng dưới trướng của Nguyễn Tấn Dũng hay trở cờ thần phục Nguyễn Phú Trọng là câu hỏi được đặt ra cho đàn em của Dũng. Câu trả lời tùy thuộc vào khả năng phản công đàn anh Nguyễn Tấn Dũng. Đàn anh đã phản công như thế nào?:
Cái chết của Phạm Quý Ngọ
Ngày 18.2.2014. Hai tháng sau những lời khai động trời của Dương Chí Dũng về hành vi nhận hối lộ 1.500.000 đô la, Thứ trưởng công an Phạm Quý Ngọ đột tử vì "ung thư". Cuộc điều tra và vụ án "làm lộ bí mật nhà nước" bị đình chỉ và chôn theo cái xác của Phạm Quý Ngọ. Để có thêm phân tích về cái chết của Phạm Quý Ngọ xin xem bài: "Dân ta tự mở hồ sơ Phạm Quý Ngọ".
Nguy cơ Phạm Quý Ngọ đối với phe Nguyễn Tấn Dũng xem như "bốc hơi" theo hơi thở sau cùng của Ngọ.
Dương Chí Dũng nhìn cái chết của Phạm Quý Ngọ đương nhiên cũng phải xét lại thái độ của mình, liệu có được "phe ta" cho sống trong tù đến ngày xử phúc thẩm hay không để quyết định tiếp tục theo Dũng hay trở mặt đầu hàng Trọng?
Nguy cơ yếu thế và nhảy rào được chữa cháy phần nào trong nội bộ phe Nguyễn Tấn Dũng vì cho dù không nói ra nhưng ai cũng ngầm hiểu vì sao và từ đâu đã dẫn đến cái chết của Phạm Quý Ngọ.
Điểm cần ghi nhận là khi đi tìm câu hỏi về nguyên nhân cái chết bí ẩn của Phạm Quý Ngọ - ai là người được "hưởng lợi" nhiều nhất nếu Ngọ chết, tức là có động cơ giết người bịt miệng cao nhất, thì người đó là Bộ trưởng công an Trần Đại Quang - kẻ bị Dương Chí Dũng khai là đã bảo bọc cho Phạm Quý Ngọ ăn hối lộ. Cái chết của Phạm Quý Ngọ không những giúp cho phe Nguyễn Tấn Dũng giải quyết phần nào những nguy cơ đang đối diện mà còn tạo nghi vấn thủ phạm giết Ngọ đổ lên đầu Trần Đại Quang. Vì sao? Vì Trần Đại Quang đang là Bộ trưởng công an, một bộ phận mà Nguyễn Tấn Dũng muốn khống chế nhưng Quang đã đầu quân về phe Trọng với vai trò trưởng Đoàn công tác số 2 trong 7 Đoàn công tác kiểm tra của Trưởng Ban chỉ đạo TƯ về phòng, chống tham nhũng.
Tuy nhiên cái chết của Phạm Quý Ngọ chỉ đủ để giải quyết phần nào những nguy cơ "chủ quan" mang tính "nội bộ" của phe Nguyễn Tấn Dũng. Thế và lực của Trọng và Thanh vẫn không suy suyển với ô dù Bắc Kinh. Kẻ cầm cờ của 7 Đoàn công tác kiểm tra với đại chiến dịch "đả hổ diệt ruồi" made in china phải được giải quyết. Do đó dẫn đến:
Số phận của Nguyễn Bá Thanh
3 tháng sau khi Ngọ đột tử vì "ung thư gan", vào tháng 5 năm 2014 Nguyễn Bá Thanh bắt đầu nghe tiếng tử thần gõ cửa. Điều "trùng hợp" khá đặc biệt là lúc Nguyễn Bá Thanh "xây xẩm" thì cũng là lúc diễn ra phiên tòa phúc thẩm xử Dương Chí Dũng. Dương Chí Dũng vẫn bị tuyên y án tử hình nhưng rời phiên tòa bằng nụ cười và thái độ tự tin.
Cần ghi nhận là vào thời điểm tháng 5, dư luận vẫn chưa biết gì về tình trạng của Nguyễn Bá Thanh. Cho đến đầu năm 2015, khi Nguyễn Bá Thanh từ Hoa Kỳ về lại VN (nhưng không ai thấy ông ta cả) thì dư luận mới được thông báo rằng Nguyễn Bá Thanh đã được điều trị tại Bệnh viện Trung ương quân đội 108 vào tháng 5, sau đó sang Singapore điều trị vào tháng 6 và tháng 7 và cuối cùng là sang Hoa Kỳ vào trung tuần tháng 8/2014.
Điều gì đã xảy ra vào tháng 5, 2014? Trước "tai họa" xảy ra cho Nguyễn Bá Thanh, phe Nguyễn Phú Trọng phải đối phó như thế nào?:
Phản ứng của phe Nguyễn Phú Trọng
1. Giải quyết "vấn nạn" Nguyễn Bá Thanh
Trước hết, chúng ta thấy rằng Nguyễn Bá Thanh đang là Trưởng ban Nội chính, là trưởng công tác của 7 đoàn kiểm tra, nhưng Ban chỉ đạo TƯ về phòng, chống tham nhũng hoàn toàn không đá động gì đến sự vắng mặt, ngưng hoạt động của của ông Thanh trong vai trò này từ tháng 5 cho đến bây giờ (tháng 1, 2015). Thay vào đó, phe Nguyễn Phú Trọng đã dàn xếp để Ban chỉ đạo TƯ lánh mặt và "bán cái" trách nhiệm thông tin xuống cho địa phương Đà Nẵng. Những thông báo vắng mặt của ông Thanh đều được đến từ lãnh đạo Đà Nẵng với nội dung rất mơ hồ và giới hạn.
Điều trên cho thấy phe Nguyễn Phú Trọng muốn giấu nhẹm tình trạng của Nguyễn Bá Thanh, không muốn cho nội bộ phe nhóm biết rõ, dẫn đến những sợ hãi và đối diện với nguy cơ bị xem là đang yếu thế cũng như nguy cơ "nhảy rào, thay đổi chiến tuyến" như Nguyễn Tấn Dũng đã đối diện mấy tháng trước đó. Phe Nguyễn Phú Trọng đã chọn phương hướng "take the lost and damage control / chấp nhận thua keo này và giới hạn thiệt hại". Phe Nguyễn Phú Trọng phải tránh bị đặt vấn đề trực tiếp, phải có những tuyên bố láo mà sau này có thể sẽ bị phơi bày sự thật bằng cách đứng đằng xa, ngầm chỉ đạo cho đàn em ở Đà Nẵng.
Để giảm thiểu thiệt hại trong hướng dấu nhẹm thông tin, ngoài việc sử dụng một số quan chức Đà Nẵng, phe Nguyễn Phú Trọng phải kiểm soát những động thái đến từ gia đình Nguyễn Bá Thanh và chính Nguyễn Bá Thanh. Đó là lý do tại sao vào đầu tháng 8, 2014, trước khi Nguyễn Bá Thanh sang Hoa Kỳ chữa bệnh, con trai của Thanh là Nguyễn Bá Cảnh được sắp xếp cho ngồi vào Ban Chấp hành Đảng bộ TP Đà Nẵng. Củ cà rốt được đưa ra với thông điệp: số phận của con cái Nguyễn Bá Thanh lên hay xuống, hưng hay thịnh nằm ở thái độ, những phát biểu, thông tin của Nguyễn Bá Thanh, gia đình và của Nguyễn Bá Cảnh. Đó là lý do dư luận chỉ nhận được những thông tin rất ngắn, mơ hồ, thiếu dữ kiện và rất trễ - sau khi không thể im lặng được nữa - về Nguyễn Bá Thanh từ gia đình của ông ta.
Giải quyết "vấn nạn" của Nguyễn Bá Thanh chưa đủ. Nó chỉ nằm trong phạm vi "damage control" kiểm soát thiệt hại. Nguyễn Phú Trọng còn phải giải quyết nhiều vấn đề khác, bao gồm gia tăng cầu cạnh Bắc Kinh và gửi thông điệp "xuống nước" đến phe Nguyễn Tấn Dũng.
2. Gia tăng cầu cạnh Bắc Kinh:
Cuối tháng 8, 2014 Nguyễn Phú Trọng cử đặc phái viên Lê Hồng Anh sang triều kiến Bắc Kinh. Những thông tin của lề đảng về mục đích của chuyến đi là để ‘trao đổi về các biện pháp nhằm khôi phục và thúc đẩy quan hệ’ giữa hai nước như đã áp dụng cho mọi chuyến đi ngoại giao khác chỉ là bình phong. Vai trò của một đặc phái viên không cần và không thích hợp cho việc đó. Nó thích hợp hơn cho nội dung của một cuộc cầu khẩn mà Nguyễn Phú Trọng không muốn lộ liễu phải lặn lội sang Tàu vào thời điểm đó. Tiếp nối chuyến đi của đặc phái viên Lê Hồng Anh là chuyến đi sứ của Trần Đại Quang - trưởng Đoàn công tác số 2 trong 7 Đoàn công tác kiểm tra của Nguyễn Phú Trọng. Sau đó là Phùng Quang Thanh, người mà dưới góc nhìn của Bắc Kinh có thể là "ứng viên sáng giá" trong chức vụ Tổng bí thư, phục vụ những ý đồ tiếp tục và nâng cấp khả năng nắm đầu nắm cổ đảng CSVN của Bắc Kinh (sẽ có bài phân tích về vấn đề này).
3. Thông điệp xuống nước:
Ngày 6 tháng 10, 2014 tư lệnh đoàn quân "đả hổ diệt ruồi" dùng buổi tiếp xúc cử tri Hà Nội để gửi thông điệp xuống nước. Dư luận có thể nhìn những thông điệp của Nguyễn Phú Trọng “đánh con chuột nhưng mà đừng để vỡ bình” như là một ý hướng làm gì thì làm nhưng phải bảo vệ đảng. Tuy nhiên, nếu nhìn lại những gì xảy ra, xét đến bản chất hung ác với kẻ khác nhưng thật ra rất là hèn nhát khi đối diện với những nguy cơ có thể đến với bản thân, chúng ta có thể nhìn những câu phát biểu của Nguyễn Phú Trọng, người chủ trương tận diệt chuột mới mấy tháng trước đây, dưới một lăng kính khác: thông điệp xuống nước, giảm nhiệt gửi đến phe sát thủ.
Tất cả những chuyến đi sứ Tàu, thông điệp giảm nhiệt đã kéo theo việc trì hoãn hội nghị TƯ 10 nhiều lần vào tháng 8, 10, tháng 12 để TBT Trọng chỉnh đốn bàn cờ đang nghiêng về phía TT Dũng. Cuối năm 2014, nhân vật quyền lực số 4 của Bắc Kinh là Du Chính Thanh sang Việt Nam để gặp những đầu não của các phe phái đang sát phạt nhau: Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng. Không ai biết những dàn xếp, khuyến cáo đằng sau hậu trường chính trị là gì, chỉ biết rằng Du Chính Thanh đã rời Hà Nội với thông điệp nhắn nhủ những đứa con hoang tại Ba Đình: phải "theo con đường đúng đắn".
Hơn một tuần sau khi quan thầy Du Chính Thanh rời Hà Nội, Nguyễn Phú Trọng tiến hành Hội nghị TƯ 10 để thực hiện cuộc bỏ phiếu tín nhiệm nhằm hạ bệ Nguyễn Tấn Dũng.
Nguyễn Tấn Dũng và Chân Dung Quyền Lực
Nếu thông tin tự do là vũ khí nguy hiểm nhất có thể làm sụp đổ một chế độ độc tài thì rò rỉ thông tin cũng là vũ khí hiệu quả nhất cho mục tiêu thanh trừng nội bộ. Các lãnh đạo đảng không thể tung tin tấn công lẫn nhau lên các trang báo, trang mạng với hệ thống truyền thông của đảng. Do đó, phải chui vào thế giới lề dân. Và trang CDQL ra đời. Điểm khác biệt để nhận rõ sự khác biệt giữa một trang lề dân và một trang trá hình của lãnh đạo đảng dùng để tấn công nhau là việc có hay không bị ngăn chận bằng tường lửa.
Với CDQL, Nguyễn Tấn Dũng đã từ kẻ bị săn chuyển sang người đi săn, từ phía bị tố cáo tham nhũng sang phía tố tham nhũng: tấn công Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tham nhũng, hủ hóa với khối tài sản kếch xù. Nguyễn Xuân Phúc bị chọn là đối tượng vì phe của Dũng nắm được nhiều dữ kiện về Phúc và Phúc là người ngắm nghía chiếc ghế thủ tướng tương lai mà phe Nguyễn Tấn Dũng bằng mọi cách phải giữ.
Sau một loạt bài tố cáo Nguyễn Xuân Phúc thì phe Nguyễn Tấn Dũng tìm ra được manh mối nơi chữa bệnh của Nguyễn Bá Thanh tại Hoa Kỳ.
Nguyễn Bá Thanh là một "yếu nhân", là thành phần lãnh đạo cao cấp của đảng và nhà nước Việt Nam. Do đó, không phải như một thường dân, việc Nguyễn Bá Thanh có mặt tại Hoa Kỳ phải được các "bộ phận quan tâm" của Hoa Kỳ biết và biết rõ. Với những quan hệ của Nguyễn Tấn Dũng - nhất là của con gái và con rễ, và với khả năng tài chánh, không khó để phe Nguyễn Tấn Dũng tìm ra manh mối.
Hai "vật chứng thông tin" mà phe Nguyễn Tấn Dũng có được trong tay là vài tấm ảnh chụp Nguyễn Bá Thanh trong bệnh viện và lịch trình trở về của Nguyễn Bá Thanh. Những tấm hình được chụp theo góc cạnh của người chụp lén, không khó để mua chuộc nhân viên bệnh viện hay ai đó làm "công tác" này. Với khả năng và tiền cũng không khó để phe của Dũng có được lịch trình chuyến bay về nước của Bá Thanh. Đó là thông tin, hình ảnh duy nhất mà phe Nguyễn Tấn Dũng có thể có được khi Nguyễn Bá Thanh đang ở Hoa Kỳ. Điều này đã được chứng minh vì sau khi Nguyễn Bá Thanh về lại VN và nằm trong vòng vây canh gác của phe Nguyễn Phú Trọng, CDQL không còn đăng tải thông tin về Nguyễn Bá Thanh vì đã không còn khả năng moi móc được thông tin của phe "địch" như lúc Bá Thanh ở Hoa Kỳ.
Với những tấm ảnh tạo được sự "khả tín về thông tin" trong tay, CDQL "nối kết" Nguyễn Xuân Phúc và "âm mưu đầu độc Nguyễn Bá Thanh bằng phóng xạ". Nhu cầu làm cách nào để tập thể UVTUD sẽ tham dự hội nghị TƯ 10 - từ phe "ta" đến phe "địch" - biết và ngầm hiểu Nguyễn Bá Thanh bị hạ độc như thế nào là nhu cầu "chiến lược", cần phải thực hiện để gieo rắc sợ hãi. Nếu ai cũng nghĩ Nguyễn Bá Thanh bị rối loạn sinh tủy "bình thường" như phe Nguyễn Phú Trọng mong muốn và tuyên truyền thì mục tiêu ban đầu của phe hạ độc thủ Nguyễn Bá Thanh sẽ không đạt được.
Do đó, thông tin về Nguyễn Bá Thanh phải được tung ra. Nhưng ai sẽ là thủ phạm hay ít ra "bị nghĩ" là thủ phạm như Trần Đại Quang trong cái chết của Phạm Quý Ngọ? CDQL đã "tiện và lợi" gán ghép Nguyễn Xuân Phúc mượn bàn tay của Nam Trung Hải đầu độc Nguyễn Bá Thanh.
Trong một thời gian ngắn, CDQL trở thành một trang blog lề dân chủ nhân là đảng "hot" nhất Việt Nam. Phe Nguyễn Tấn Dũng đã thành công trong việc dùng truyền thông xám để làm náo loạn nội bộ đảng và chính trường VN. Cuối năm 2014, để củng cố thực lực trong vấn đề an ninh và bảo đảm CDQL đứng vững, ung dung, thoải mái hoạt động, không một thế lực thù địch như... Trần Đại Quang xen vào, Nguyễn Tấn Dũng gom tổng cục An ninh I và II và bổ nhiệm Trung tướng Nguyễn Chí Thành làm Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh.
Hội Nghị TƯ 10
Năm 2014 qua đi và 2015 tới. Hội nghị TƯ 10 khai mạc sau nhiều lần đình trệ. Nguyễn Phú Trọng tiến hành cuộc bỏ phiếu tín nhiệm với hy vọng sẽ công khai kết quả như từng tuyên bố trước đó. Thực tế đã không như Trọng mong muốn. Nguyễn Tấn Dũng đã thành công và bước ra khỏi Hội nghị TƯ 10 như là một kẻ chiến thắng với số phiếu tín nhiệm cao nhất.
Ngày 15 tháng 1, 2015 Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố không thể ngăn, cấm được thông tin trên mạng vì đó là nhu cầu thiết yếu của 30 triệu người Việt đang sử dụng các mạng xã hội. Có một nhu cầu thiết yếu hơn mà Nguyễn Tấn Dũng không nói ra. Đó chính là nhu cầu hiện hữu của CDQL mà Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh Nguyễn Chí Thành - sau tuyên bố của Dũng - sẽ không phải "giải trình" với ai cả về việc CDQL đã, đang và sẽ nói xấu rất nhiều lãnh đạo đảng mà nó vẫn cứ... phây phây, ai vào truy cập cũng được, người quản trị, viết bài của trang (vốn có những đặc tính chuyên nghiệp của dân viết báo, có trình độ về chính trị, kinh tế) không bị "bắt quả tang" và giam giữ vì vi phạm điều 258.
Số phận của Nguyễn Bá Thanh - Phần... kết
Vai trò của Nguyễn Bá Thanh xem như là chấm dứt theo tờ lịch rơi cuối năm 2014. Hồi một của cuốn phim Ngày Trở Về với diễn viên "không không thấy" đã đóng màn. Hồi hai Ngày Viếng Thăm với những tài tử lãnh đạo kéo nhau vào thăm "người bệnh không thấy" cũng đã xong, nó chỉ giúp cung cấp dữ kiện Tô Huy Rứa, Nguyễn Kim Tiến, Nguyễn Minh Triết thuộc phe nào. Phe Nguyễn Phú Trọng bằng mọi cách không để cho đàn em và đảng viên thấy được hình ảnh và tình trạng của Nguyễn Bá Thanh vì không muốn nội bộ rơi vào tình trạng hoang mang, rối loạn, sợ hãi về những âm mưu thanh trừng sắt máu mà tổn thất thuộc về phe mình.
Số phận Nguyễn Bá Thanh sẽ ra sao? Tốt nhất cho Trọng là Thanh cũng sẽ là Ngọ. Người ta sẽ không ngạc nhiên về hồi 3 của cuốn phim sẽ mang tựa đề Vô Cùng Thương Tiếc với hình ảnh sau cùng về đồng chí Nguyễn Bá Thanh sẽ không khác hình ảnh của đồng chí Phạm Quý Ngọ: một chiếc xe tang đi về cõi bên kia trong cơn mưa phùn và hai bên đường người dân yêu mến đồng chí Thanh xếp hàng tiễn đưa...
Vũ Đông Hà
JB. NGUYỄN HỮU VINH * HỒ SƠ NGUYỄN BÁ THANH
HỒ SƠ NGUYỄN BÁ THANH
VÀ CUỘC ĐẤU ĐÁ TANH BANH CỦA LÃNH ĐẠO CSVN
QUA CHUYỆN NGUYỄN BÁ THANH
VÀ LỜI ÔNG THỦ TƯỚNG
J.B Nguyễn Hữu Vinh
Tháng Một 19, 2015
Đột nhiên, ông Nguyễn Tấn Dũng lên phán một câu được truyền thông nhà nước đưa lên mà dân mạng “hả lòng, hả dạ” chỉ vì thấy nó… không sai. Đó là khi chỉ đạo Hội nghị tổng kết công tác 2014 và triển khai nhiệm vụ 2015 của Văn phòng Chính phủ sáng 15.1, lần đầu tiên ông yêu cầu văn phòng phải làm sao để tổ chức, định hướng thông tin trên mạng xã hội như facebook một cách nhanh chóng, chính xác vì “không thể ngăn cấm người dân”.
Những trận đấu âm thầm và quyết liệt?
Điều này xảy đến làm người ta khá ngạc nhiên và tự hỏi: Phải chăng ông ta đã rút ra được cho mình một bài học, khi chỉ mới cách đây vài năm, ông đã ra lệnh cho các bộ phận “điều tra và trừng trị” các trang mạng như Quan làm báo, Dân làm báo, Biển Đông… vì đã “đưa tin phản động”. Ông còn có “chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu ‘cán bộ, công chức, viên chức không xem, không sử dụng, loan truyền và phổ biến các thông tin đăng tải trên các mạng phản động”. Hay bây giờ, các trang mạng không nhận “sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng” đã không còn là “phản động” nữa?
Cũng có câu trả lời ngay rằng: Chuyện đấu đá nội bộ, nó “tồn tại khách quan” đến mức nhiều người cố tình không tin rồi vẫn phải tin vì những chứng cứ tự nó phơi bày sự thật. Nhưng giai đoạn đó nó khác với giai đoạn này và những thông tin trên mạng lúc đó khác những thông tin trên các trang hiện nay. Lúc đó, những Quan Làm Báo, Dân Làm
Báo… chuyện đời tư, chuyện phê phán thì nhiều nhưng đối tượng chính lại là… thủ tướng. Còn bây giờ những trang như Chân dung Quyền lực và một số trang khác thì đối tượng của nó lại là “đối tượng của thủ tướng”.
Thực ra, nếu ông Thủ tướng, cần thông tin trên mạng nhanh chóng chính xác thật sự, thì chắc cũng không đến nỗi khó khăn. Chỉ cần bám vào “Sự Thật” thì mọi thông tin chẳng cần định hướng vẫn cứ chính xác như thường. Vấn đề là ông muốn “định hướng thông tin” theo cách “đảng lãnh đạo tuyệt đối cho dân làm chủ” thì e khó khăn không thể có.
Thử lấy một sự kiện gần đây nhất để chứng minh.
Sự kiện Nguyễn Bá Thanh và thông tin
Ông Nguyễn Bá Thanh kể từ khi ra Hà Nội như thế nào với mục đích gì, và kết quả ra sao, thì hẳn những người quan tâm đều đã biết. Ở đây, ta chỉ nói về thông tin nhà nước trong vụ việc ông Nguyễn Bá Thanh chữa bệnh và trở về nước gần đây.
Khi ông Nguyễn Bá Thanh đi nước ngoài chữa bệnh, những thông tin ít ỏi, úp mở của báo chí nhà nước đã đặt cho người dân những câu hỏi không lời đáp như: Ông ta bị bệnh gì mà phải đi nước ngoài chữa bệnh? Chẳng lẽ có hẳn một Ban bảo vệ sức khỏe Trung ương mà đến tận khi bệnh tật nguy cấp vậy mới biết sao? Nếu biết trước, thì mới mấy tháng trước điều ông ta ra Hà Nội làm gì cho thêm rối việc?
ông trở thành đối tượng để có thông tin về “những khối tài sản khổng lồ đến mức kinh ngạc” của bố con ông với đầy đủ chứng cứ, địa chỉ xác thực và đề nghị ông trả lời. Thế rồi cư dân mạng căn cứ vào đó để tìm hiểu vì sao ông ngại nói đến chiến tranh với kẻ thù dân tộc mà chỉ muốn “hòa bình”, vì sao ông sợ và lo lắng khi dân ta chống Tàu… với lời giải thích rằng: “Vì nếu có chiến chinh, ai giữ cho ông đống tài sản đó”?
Và đến đó thì ông im hẳn.
Thế rồi, báo chí đưa tin ông Nguyễn Bá Thanh đã về Việt Nam, hàng loạt báo chí đón chờ, rồi tin tức chuyến bay, tình hình sức khỏe được Ban bảo vệ sức khỏe Trung ương thông báo… Thậm chí nhiều nhân vật được đưa tin đến thăm ông Nguyễn Bá Thanh và phát biểu về sức khỏe ông Nguyễn Bá Thanh còn rõ hơn cả ông ấy.
Nhưng, tuyệt nhiên không có bất cứ một tấm hình, một đoạn video, hay audio nào của ông Nguyễn Bá Thanh? Chẳng lẽ không báo nào có cái máy chụp hình? Những thông tin về sức khỏe của ông ta, thì lại từ ông Nguyễn Quốc Triệu, Trưởng ban Bảo vệ sức khỏe Trung ương.
Oái oăm thay, với ông Triệu, người ta nhớ ngay đến lời tuyên bố: “Hai năm nữa, không có bệnh nhân nằm chung giường” ngay khi ông nhậm chức Bộ trưởng Y tế. Hơn một năm sau, chính ông phủ nhận lời nói của mình. Và đến giờ, sau 6 năm lời hứa của ông ta, thì bệnh nhân không chỉ nằm chung giường mà còn nằm chung… gầm giường.
Do vậy, những thông tin do ông đưa ra, đáng tin được bao nhiêu phần trăm?
Đến ông Thủ tướng
Chính khi một số trang mạng đang tung hoành các thông tin về ông Nguyễn Bá Thanh bị đầu độc và trình trạng sức khỏe, thông tin về các nhân vật trong bộ máy chính phủ và Đảng CSVN một cách tưng bừng và ồn ào nhất. Đặc biệt, là những nội dung họp hành của Bộ Chính trị, các chứng từ tài sản của một số quan chức Cộng sản quan trọng… được tiết lộ với màu sắc đấu tố, đâm chém. Một số nhân vật đòi “ngăn chặn, siết chặt, quản lý…” thì Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ra đòn “không thể ngăn cấm người dân”.
Báo Thanh Niên đưa lời Thủ tướng như sau: “Người đứng đầu Chính phủ đặc biệt lưu ý, hiện nay hơn 30 triệu người đang sử dụng các mạng xã hội, đó là nhu cầu thiết yếu không thể ngăn cấm. Điều quan trọng phải thông tin cho chính xác, định hướng cho tốt dư luận trên mạng xã hội… Phải đưa thông tin chính xác, kịp thời để định hướng”.
Câu nói này của Thủ tướng, đã làm bao người hớn hở và hy vọng. Họ hy vọng rằng, hẳn là ông Thủ tướng đã nghĩ lại, đã hiểu, đã biết và đã… thay đổi tư duy về mạng xã hội?
Hỡi ôi, đó cũng chỉ mới là một lời nói của ông Thủ tướng. Mà người dân Việt Nam thì đã nghe được rất nhiều những lời nói có cánh từ những ông Thủ tướng và Phó thủ tướng, từ ông Tổng bí thư đến Chủ tịch nước Việt Nam. Và họ đã rất có kinh nghiệm. Tiếc rằng, thực tế nghiệt ngã đã chứng minh ngược lại 180 độ những điều đó.
Bởi, với những ai tin vào các phát biểu của các ông trước quốc dân đồng bào, thì đến giờ tồn tại được là điều may mắn.
Vì, nếu ông cho rằng cần phải thông tin chính xác, kịp thời, cần định hướng tốt… thì tiêu chí đầu tiên phải là Sự thật.
Mà Sự thật, là điều xa lạ với hệ thống tuyên truyền, định hướng và lãnh đạo tuyệt đối của Cộng sản.
Cho nên câu nói: “Đừng nghe lời Cộng sản nói.Hãy xem việc Cộng sản làm” vẫn còn nguyên giá trị.
Hà Nội, Ngày kỷ niệm máu nhuộm Hoàng Sa 19/1/2015
J.B Nguyễn Hữu Vinh
TS. NGUYEN PHUC LIEN * NGUYỄN BÁ THANH
DRACULA “MA CÀ RỒNG “ NGUYỄN BÁ THANH:
“THƯỢNG TÁC LOẠN, HẠ VỖ TAY“
Giáo sư Tiến sĩ NGUYEN PHUC LIEN, Kinh tế
Geneva, 22.01.2015
Web : http://VietTUDAN.net
Những tên lãnh đạo CSVN chết đi, dân chúng càng mừng. Không có gì phải thương tiếc và nhắc nhở nhiều đến làm gì. Tên Nguyễn Bá Thanh chết đi ở Mỹ hay ở Việt Nam, không có gì phải quan tâm. Nhưng biến cố Nguyễn Bá Thanh trở thành hy hữu ở chỗ tên này bị chính đồng bọn đầu xỏ đánh thuốc độc để bộ mặt và thân người y trở thành ghê gớm như thằng quỷ Dracula “Ma cà rồng“. Thằng quỷ này còn sống, thì hàng ngũ lãnh đạo cao cấp ác ôn CSVN càng lo sợ và hỗn loạn bởi vì thằng quỷ Dracula Nguyễn Bá Thanh mang lòng đầy hận thù những kẻ đã làm y trở thành thân tàn ma dại. Nguyễn Bá Thanh sẽ báo thù hoặc truyền lại cho thân nhân và đồng bọn báo thù những băng đảng khác. Thằng quỷ Dracula Nguyễn Bá Thanh đã từng sống trong lòng nội bộ đám lãnh đạo ác ôn cao cấp CSVN nên biết rành những tội ác và bẩn thỉu của đám người này. Vì vậy việc sục sọi báo thù của Nguyễn Bá Thanh càng đi vào thâm sâu bí sử của đám lãnh đạo côn đồ CSVN. Dân quê vùng Thanh Hóa thường dùng phương pháp chuột đuổi chuột theo câu tục ngữ “Dĩ độc trị độc “.
Phương pháp chuột đuổi chuột ra sao?
Đây là phương pháp đuổi chuột ở vùng nhà quê Nga Sơn, Nông Cống, Thanh Hóa. Ở nhà quê xưa kia, làm sao có tiền mà mua thuốc chuột hóa học đắt tiền để đuổi chuột. Nhưng tôi phục phương pháp đuổi chuột của dân quê mình. Đây là phương pháp áp dụng đúng câu : « Dĩ Độc trị Độc « và « Chỉ có Chuột mới biết những ngóc ngách đường đi của hang Chuột «
Một bác nông dân thấy có người muốn giết con chuột cống, nên cản ngăn và nói: « Phải biết Dĩ Độc trị Độc, giết nó đi thì uổng quá ! ». Bác cắt nghĩa phương pháp đuổi chuột ở nhà quê như sau :
Chỉ có chuột mới biết đường đi ngoằn ngoèo, lắt léo của hang chuột. Dùng mèo bắt chuột, thì mèo có mỏi công rình và khi thấy chuột ló đầu ra khỏi lỗ, mèo định vồ, chuột gần hang thụt vào thì mèo khó lòng chui vàođược hang chuột. Dân quê Việt Nam quan sát và thấy hoàn cảnh như vậy của sự khó khăn của mèo, nên nghĩ ra cách dùng chuột để đuổi chuột ra khỏi hang. Thực vậy, bác nông dân túm lấy cổ con Chuột cống và dùng dây sắt (dây kẽm) khâu tịt hậu môn con Chuột lại, rồi thả nó vào hang chuột. Thỉnh thoảng bác còn mang thêm đồ ăn cho con chuột bị khâu lỗ đít đó ăn. Ăn nhiều, thì cứt nhiều. Xin nhớ rằng cứt chuột khô cứng ! Cứt nhiều, nhưng đít bị khâu chặt, nên chuột bí đại tiện. Càng ngày, ỉa không được, con Chuột trở thành đau đớn điên khùng. Thế là nó chạy hết ngang cùng ngõ hẻm của hang chuột, gặp chuột khác là cắn. Bầy chuột ẩn náu trong hang, bị động ổ, bị cắn, nên chạy tán loạn ra ngoài. Mèo tha hồ mà vồ, dân quê vác gậy đập chết đám chuột bị động ổ chạy ra ngoài. Nhờ con chuột cống bệnh hoạn đuổi đàn chuột từ mọi ngóc ngách ra ngoài hang thì dân chúng mới túm cổ được đàn chuột ẩn náu.
Nguyễn Bá Thanh: con chuột lớn
trong bầy chuột cao cấp CSVN chui rúc gậm nhấm
Người nông dân khâu tịt lỗ đít con chuột lớn lại để nó trở thành bệnh hoạn và nổi xùng đi tìm chuột khác nơi hang cùng ngõ hẻm mà cắn. Nguyễn Bá Thanh nay đã trở thành bệnh hoạn do chính đồng đảng mưu bỏ thuốc độc. Hắn mang thân tàn ma dại, chấm dứt con đường thăng quan tiến chức, làm thế nào không trở thành bực tức như con chuột bị khâu lỗ đít chờ chết, đi lục lọi mọi hang cùng ngõ hẻm của loài chuột gậm nhấm CSVN để báo thù. Con quỷ Dracula “Ma cà rồng“ Nguyễn Bá Thanh không sợ chết nữa trong việc báo thù vì chính hắn đang trong tình trạng như đã chết rồi. Người đang sống mạnh thì sợ chết, nhưng người đang hấp hối thì không còn sợ chết nữa. Vẫn chưa chết hẳn, nên thằng quỷ Dracula “Ma cà rồng“ Nguyễn Bá Thanh còn có thể đi đi lục lọi tìm kẻ thù mà hút máu cho hả giận !!!
HUỲNH TÂM * CHUYỆN THUỞ GIAO THỜI
Giới thiệu tác phẩm mới của nhà văn Tiểu Tử: Chuyện Thuở Giao Thời
Huỳnh Tâm (Danlambao) - Tác phẩm mới "Chuyện Thuở Giao Thời" của nhà văn Tiểu Tử được trình làng vào lúc 13 giờ 30 ngày mùng 3 tháng 1 năm 2015 tại Nhà thờ Choisy, như tên gọi quen thuộc của phần đông Người Việt Nam ở Pháp và Paris, tên chính thức là Eglise Sainte Hippolyte (Salle de la Roulotte), số 27, Avenue de Choisy, 75013 Paris.
Không ai ngờ hình ảnh của buổi chiều mùa Đông Paris hôm ấy lại tuyệt đẹp đến như vậy. Người ta chợt có cảm tưởng như nay là mùa Xuân giá lạnh. Buổi giới thiệu "Chuyện Thuở Giao Thời" của Tiểu Tử được các Hội Ái hữu ở Paris cùng đứng chung tổ chức, như Đại học Sư phạm Sài Gòn, Ái hữu Gia Long Paris, Ái hữu Petrus Ký Pháp, Ái hữu Petrus Ký Âu Châu, Ái hữu Hải Quân-Hàng Hải VNCH, Câu lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris, Cộng đồng Người Việt Quốc Gia Tự Do, và Gia đình KH Cao Niên. Phải nói buổi sinh hoạt "chữ nghĩa" hôm ấy được tổ chức bởi một Ban Tổ chức rất hùng hậu. Một việc rất hiếm ở Paris từ khá lâu. Và một điều vô cùng quan trọng nữa, rất đáng ghi nhận như một biến cố đã phá mất đi cái tập quán kiên cố của của bà con ta xưa nay "Không đi trễ, không phải Việt Nam", buổi hôm ấy khai mạc đúng 1giờ 30 như ghi trong Thư Mời. Về mọi liên quan đến buổi giới thiêu tác phẩm của Tiều Tử, Thư mời ghi rõ liên lạc với Nguyễn Thị Mỹ, Phạm Hữu Thành, Trần Thị Thanh Hương.
Một thành công ngoài mong đợi
Thời tiết mùa đông, trời mưa, mới mùng 3 Tết, phần lớn bà con còn thiếm xực Tết vì Tết chỉ vừa mới qua, vậy mà phòng Salle de la Roulotte của Nhà thờ Choisy khá rộng mà chật cứng người. Trên trăm người tham dự. Số người đi trễ theo thói quen, mời 1 giờ 30, tới 2 giờ là vừa, phải đứng và đứng cả ngoài hành lang. Nhưng tất cả đều vui vẻ và ở lại cho tới bế mạc. Đây cũng lại là một hiện tượng không bình thường của bà con ta nữa vì, xưa nay, không ít người tới cho có mặt, rồi đi sớm. Người ta hỏi phải chăng vì ngưỡng mộ nhà văn, đã đọc qua các tác phẩm trước như "Những Mảnh Vụn", "Bài Ca Vọng Cổ", "Chị Tư Ù" của Tiểu Tử? Hay vì cảm tình sâu đậm với Ban Tổ chức vì những Hội Ái hữu này có một quá trình sanh hoạt chung với nhau lâu đời ở Paris? Hay vì chương trình Văn nghệ hấp dẫn do nghệ sĩ của "Hội Cao niên" Paris trình diễn? Cừ nhìn tên các Hội, thì Hội nào cũng là Hội của hội viên phải trước 30/04/1975. Tính ra có phải hội viên nào cũng đã ăn lễ Lục tuần rồi nếu không đã qua "Thất thập cổ lai hi"?
Thật tình phải thừa nhận buổi giới thiệu sách của Tiểu Tử hôm ấy thành công ngoài sự mong đợi. Chính Ban tổ chức đã không dám chủ quan mướn phòng lớn hơn.
rước khi bế mạc, nhà thơ Đỗ Bình phát biểu cảm tưởng cũng nhìn nhận buổi lễ hôm ấy thành công ngoạn mục. Theo ông, người có nhiều kinh nghiệm về "Ra mắt sách", đã không dám tổ chức ở Paris, mà phải qua tận Thủ đô Tỵ nạn ở California, Hoa Kỳ, để tổ chức ra mắt sách của ông và Nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên. Ông còn nhấn mạnh ở Mỹ, nới có đông đảo người Việt như vậy, mà có khi "Ra mắt sách" có không quá mươi người tham dự. Người ta sợ thất bại nên phải đưa vào tiệm cà-phê tổ chức với nhau!
Một buổi chiều mùng 3 Tết
Tất cả mọi người tới tham dự đều cảm thấy hài lòng. Có cả độc giả trẻ đến từ vài quốc gia lân cận của Âu Châu bằng xe nhà. Xin mời bạn đọc xem photo dưới đây để hình dung được không khí đầy ấp tình cảm nồng nàn của mọi người dành cho nhà văn Tiểu Tử. Và đồng thời hưởng ứng Thư mời của Ban Tổ chức.
Đặc biệt có nhiều diễn giả quen thuộc trong Cộng đồng Người Việt Paris được Ban Tổ chức mời phát biểu về tác giả và tác phẩm.
Quang cảnh Hội trường buổi giới thiệu sách của Tiểu Tử - ảnh Huỳnh Tâm
Vài hàng về Nhà văn Tiểu Tử
Nhà văn Tiểu Tử tên thật là Võ Hoài Nam. Từ lâu nay, ông vốn là người bạn thân của đông đảo độc giả, không riêng của người Việt Nam tại Paris, mà cả trên khắp thế giới, cả ở Việt Nam nhờ hệ thống internet. Khi đã đọc qua Tiểu Tử, người đọc thường khó quên văn của ông, nhất là những câu chuyện của ông. Đó là những mẩu chuyện thật trong đời sống của người dân Việt nam sau ngày mất nước. Nó thấm sâu vào tâm tư của mọi độc giả, mãi mãi ở lại với độc giả. Như "Thằng Jean, Con Mén, Made in Việt Nam, Chị Tư Ù, Con Rạch quê mình..."
Từ đó, có thể khẳng định tên Tiểu Tử được đông đảo bà con người Việt ở khắp nơi quen biết, thân tình hơn là tên của người thật.
Ông Võ Hoài Nam năm nay hưởng được lộc trời 84 năm. Thọ nhưng chưa tới Thượng Thọ theo thang tuổi Thọ ngày nay. Thượng Thọ phải từ 120 tuổi. Huỳnh Tâm kính chúc ông ung dung hưởng Thượng Thọ. Để viết thêm nhiều chuyện nữa.
Ông tốt nghiệp kỹ sư Điện ở Marseille và về nước vào giữa thập niên 50. Những năm đầu, ông dạy Lý Hóa ở Trường Petrus Ký. Sau đó làm việc cho hảng xăng Shell.
Ông viết nhiều và có sách xuất bản từ mươi năm nay, sau khi ông nghỉ hưu. Trước 1975, ở Sài Gòn, ông có viết chuyện biếm cho vài nhật báo bạn. Giờ rảnh, ông học vẽ và ông có khá nhiều tranh. Gần đây, ở Pháp, ông có đem tranh tham dự nhiều triển lãm. Trong giới mê tranh, không ít người yêu tranh của ông.
Chúng tôi bước vào phòng họp đúng lúc Chương trình vừa bắt đầu.
Bà Thanh Hương, Chủ Trang Web Đại Học Sư Phạm Sài gòn, thay mặt Ban Tổ chức, vắn tắt tuyên bố khai mạc buổi lễ.
Dược sĩ Josephe Huỳnh nói tại sao ông không phải nhà văn, không phải nhà xuất bản mà lại nhận in sách "Chuyện Thuở Giao Thời" cho Tiểu Tử. Ông nêu lên ý rất tế nhị và vô cùng đẹp, tuy mới nghe qua như nó không rõ nghĩa lắm "Ông chọn làm việc này mà thật ra không phải chọn lựa". Ông cắt nghĩa "chọn lựa" là làm việc bằng cái đầu. Nhận lãnh làm mà không chọn lựa vì hành động theo con tim của mình. Ông đảm nhận việc in ấn chỉ vì muốn sách của Tiểu Tử phải được phổ biến. Tuy số lượng ít nhưng nó sẽ được lưu lại với thời gian. Một ngày kia, có người bắt được đọc qua, sẽ rung động theo nhịp tim của tác giả, sẽ thấy văn chương của Việt Nam không phải như thứ văn chương của CHXHCN ngày nay ở Việt Nam.
Tiếp theo, các ông Nguyễn Văn Trần, Từ Thức, Phạm Hữu Thành và Trần Thanh hiệp lần lượt nhận xét và đánh già tác phẩn và văn chương của Tiểu Tử. Ai cũng nhìn nhận văn và truyện của Tiểu Tử rất đặc biệt, nó dành cho Tiểu Tử một chỗ đứng nhứt định trong văn học Việt Nam. Ông viết về đời sống thực tế của Nam kỳ, nhân vật đặc sệt Nam kỳ, khung cảnh xã hội cũng Nam kỳ. Nhất là lời văn hoàn toàn không ảnh hưởng Tự Lực Văn Đoàn, mà không quá Sài gòn, nó như mang hơi hướng một Sơn Nam, một Bình Nguyên Lộc, một Lê Xuyên...
"...Văn của Tiểu Tử bình dị, mộc mạc của người miền Nam, dù độc giả chai đá tới đâu, khi đọc Tiểu Tử cũng không cầm được nước mắt. Người ta khóc, nhưng sau đó thấy ấm lòng, vì thấy trong xã hội đảo lộn, vẫn còn tình người, vẫn còn đầy thương yêu, vẫn còn nghĩa đồng bào và thấy đời còn đáng sống. Văn chương, trước hết là xúc động. Trong truyện ngắn của tiểu tử, sự xúc động hầu như thường trực" (Từ Thức).
"...Những truyện ngắn của nhà văn Tiểu Tử hầu hết là những chuyện thật thương tâm, đầy nước mắt của người dân miền Nam sau ngày "cách mạng thành công" với bao cảnh đọa đày, bất công, áp bức... khi đọc truyện Tiểu Tử tôi như sống lại những hình ảnh làng quê của một thuở thanh bình êm ấm, thuở mà người dân còn biết lấy đạo đức, lễ nghĩa để cư xử với nhau... tất cả lại hiện ra rõ ràng trong tâm trí tôi, khiến tôi bồi hồi xúc động. (Phạm Hữu Thành).
Cụ Trần Thanh Hiệp, một trong những người chủ trương tạp chí Sáng Tạo của thập niên 1950/1960 ở Sài gòn, nguyên Chủ tịch sáng lập Văn Bút Việt-Nam Hải Ngoại, phát biểu:
"...Những diễn giả vừa phát biểu đã lấy hết suy tư của tôi, mỗi người mỗi ý quá phong phú, riêng tôi muốn đề cập một khung cửa Văn học, sử học và hiện tượng sống qua ngôn ngữ, rung cảm trong một tác phẩm văn học quốc ngữ Việt Nam, từ văn viết đến văn nói... và đọc sách mua sách cũng là một hành động văn học. Hiện nay trên thế giới có 5000 ngôn ngữ, trong tương lai chỉ còn 2500 ngôn ngữ, tôi tin rằng ngôn ngữ Việt Nam vẫn còn tồn tại bởi trong ngôn ngữ Việt có sự tiếp nối và gắn sâu liền cuộc sống như sự trưởng thành của cây Bần, cây Đước bám sâu vào đất...".
Tổng hợp những tác phẩm của Tiểu Tử kể chuyện văn biếm đời, văn biếm trong hội họa về những bối cảnh của quê nhà, sau ngày miền Nam Việt Nam bị Cộng sản cưỡng chiếm. Quả thực lịch sử hiện nay do những người vô danh làm nên cách mạng và văn chương cũng thế.
Tốp hợp ca KH Cao Niên Paris, Nhạc phẩm
"Cả Nước Đấu Tranh" của Nhạc sĩ Anh Bằng - ảnh Huỳnh Tâm
Tác giả "Chuyện Thuở Giao Thời" với với thân hữu
Trước hết chào quý anh chị em và ban tổ chức đã tạo điều kiện cho tôi được hiện diện nơi đây và sự gặp nhau trong lòng chân thành này, kính xin đa tạ. Thưa quý anh chị em, những gì tôi muốn trình bày ở đây đều đã có những diễn giả trình bày đầy đủ suy tư và cô đọng trong những tác phẩm của tôi.
Nhân dịp này tôi xin kể chuyện đời của tôi vừa trải qua 84 năm. Tôi bị bệnh tim, sau đó thay "van" động mạch chủ, phải giải phẫu mổ lồng ngực, cũng may tôi qua khỏi bệnh, rời giường bệnh về nhà. Nhớ lại thuở ấu thơ, tôi bật tiếng cười... khi mình còn nhỏ cha mẹ dìu dắt từng bước một, tập đi chập chững, mỗi bước đi cả nhà đều vui mừng, vỗ tay khuyến khích. Và sau 84 năm, tôi cũng bắt đầu tập đi từng bước một như thời thơ ấu, lần này vợ con tôi dìu dắt tập tôi đi từng bước một, cho đến nay đi khá vững và ngồi được lâu, trong ngày giới thiệu sách "Chuyện Thuở Giao Thời". Như vậy tôi đã có hai lần tập đi trong đời, rất lý thú.
Các bà tranh nhau tới đứng gần tác giả "Chuyện Thuở Giao Thời" chụp hình kỷ niệm ngày vui hôm nay. Rất cảm động. Một buổi chiều mùa Đông mà ấm áp như mùa Xuân. Thật đúng.
Ban Van Nghệ Hội Cao niên Paris tiếp tục trình diễn tân nhạc, có múa, cả vọng cổ.
Sau cùng, các bà biết Tiểu Tử biết ca vọng cổ, yêu cầu ông ca cho hội trường nghe một câu mà thôi.
Hôm nay là lần đầu tiên, từ trước khi mổ tim, ông ngồi suốt bốn giờ liền mà chưa thấy mệt. Bệnh tim thường do ảnh hưởng ngoại cảnh. Tiểu Tử cất tiếng đờn miệng để bắt nhịp vô vọng cổ. Ông ca “Đường về quê ngoại”. Tuy sức còn yếu nhưng ngoại cảnh giúp sức, ông xuống câu cũng mùi tận mạng.
Cả hội trường, nhất là các bà, ai cũng nhiệt liệt vỗ tay tán thưởng. Muốn yêu cầu ca tiếp câu nữa, nhưng bà con không dám...
Văn nghệ cho tới bế mạc để trả lại phòng họp vào 17 giờ.
Saturday, January 24, 2015
TIN TRUNG CỘNG
Đảng Cộng sản : Trung Quốc đối mặt với nhiều mối nguy an ninh quốc gia
Đại lễ đường Nhân dân, nơi diễn ra cuộc họp của Hội nghị toàn thể BCH Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc, Bắc Kinh (ảnh chụp 12/11/2013)REUTERS/Kim Kyung-Hoon
Trung Quốc đang phải đối mặt với « các nguy cơ an ninh quốc gia chưa từng có ». Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc hôm nay 23/01/2015 tuyên bố như trên, sau cuộc họp hàng tháng do Tổng Bí thư Tập Cận Bình chủ trì.
Theo Tân Hoa Xã, tuyên bố của 25 ủy viên Bộ Chính trị cho rằng « có một số thách thức và mối nguy về an ninh không thể đoán trước được, cho nên đất nước phải luôn luôn cảnh giác trước những nguy cơ tiềm tàng ». Bắc Kinh luôn bảo vệ an ninh quốc gia « theo kiểu Trung Hoa ».
Quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng Châu Á, đặc biệt là Nhật Bản, trong những năm gần đây hết sức căng thẳng, với một loạt các xung đột do tranh chấp lãnh thổ tại Biển Hoa Đông và Biển Đông. Trung Quốc luôn lớn tiếng cho là các hành động của mình chỉ nhằm « bảo vệ chủ quyền lãnh thổ ».
Bắc Kinh cũng coi chính sách « xoay trục » sang khu vực Châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ là mưu toan ngăn chận bước tiến của Trung Quốc.
An ninh mạng được nêu ra như một mối quan ngại ngày càng tăng, và Bắc Kinh thường kêu ca mình là nạn nhân của tin tặc, trong khi tháng 5/2014 Washington đã kết án năm thành viên của một đơn vị quân đội bí ẩn Trung Quốc đã tấn công tin học các công ty Mỹ để chiếm đoạt các bí mật thương mại.
Bạo động trong nước cũng tăng cao, với ít nhất 200 người bị giết chết trong năm qua, trong một loạt các vụ xung đột và tấn công xảy ra tại khu vực Tân Cương và những vùng khác. Chính quyền Bắc Kinh đáp trả bằng hàng loạt cuộc bố ráp trong những tháng gần đây, với khoảng 50 vụ người Duy Ngô Nhĩ bị kết án tử hình và hành quyết kể từ tháng 6/2014.
http://vi.rfi.fr/chau-a/20150123-dang-cong-san-trung-quoc-dang-doi-mat-voi-nhieu-moi-nguy-ve-an-ninh-quoc-gia/
Hồi tháng Chín năm ngoái, phóng viên BBC Rupert Wingfield-Hayes đã có chuyến đi ra Trường Sa và tận mắt chứng kiến hoạt động xây cất của Trung Quốc ở đây.
Tường trình của phóng viên chúng tôi, với hình ảnh rõ ràng, cho thấy quy mô và tốc độ xây dựng của Trung Quốc.
Từ 2013, Trung Quốc bắt đầu cải tạo và xây dựng nhiều công trình trên các bãi san hô và đá ngầm ở Trường Sa như Gạc Ma, Châu Viên, Ga Ven, Chữ Thập.
Tháng Năm năm ngoái, chính phủ Philippines đã công bố ảnh Trung Quốc cơi nới trên bãi Gạc Ma mà Trung Quốc chiếm từ tay hải quân Việt Nam năm 1988.
Tổng tham mưu trưởng quân đội nước này, Tướng Gregorio Pio Catapang, nói với các phóng viên hai tuần trước đây rằng việc xây cất của Trung Quốc trên ít nhất ba bãi ngầm đã hoàn tất tới 50%.
"Trong đó có một công trình nối dài khoảng 1-2km và có thể được biến thành đường băng."
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2015/01/150123_china_philippines_us
Củng cố hạ tầngNgày 22/1, Phó Phát ngôn viên Bộ Ngoại Việt Nam Phạm Thu Hằng cũng nói Hà Nội "kiên quyết phản đối và yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay việc cải tạo, xây dựng công trình, phá vỡ nguyên trạng tại quần đảo Trường Sa, không để tái diễn những hành động sai trái tương tự".
Quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng Châu Á, đặc biệt là Nhật Bản, trong những năm gần đây hết sức căng thẳng, với một loạt các xung đột do tranh chấp lãnh thổ tại Biển Hoa Đông và Biển Đông. Trung Quốc luôn lớn tiếng cho là các hành động của mình chỉ nhằm « bảo vệ chủ quyền lãnh thổ ».
Bắc Kinh cũng coi chính sách « xoay trục » sang khu vực Châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ là mưu toan ngăn chận bước tiến của Trung Quốc.
An ninh mạng được nêu ra như một mối quan ngại ngày càng tăng, và Bắc Kinh thường kêu ca mình là nạn nhân của tin tặc, trong khi tháng 5/2014 Washington đã kết án năm thành viên của một đơn vị quân đội bí ẩn Trung Quốc đã tấn công tin học các công ty Mỹ để chiếm đoạt các bí mật thương mại.
Bạo động trong nước cũng tăng cao, với ít nhất 200 người bị giết chết trong năm qua, trong một loạt các vụ xung đột và tấn công xảy ra tại khu vực Tân Cương và những vùng khác. Chính quyền Bắc Kinh đáp trả bằng hàng loạt cuộc bố ráp trong những tháng gần đây, với khoảng 50 vụ người Duy Ngô Nhĩ bị kết án tử hình và hành quyết kể từ tháng 6/2014.
http://vi.rfi.fr/chau-a/20150123-dang-cong-san-trung-quoc-dang-doi-mat-voi-nhieu-moi-nguy-ve-an-ninh-quoc-gia/
Trung Quốc : Các vụ bắt bớ tăng gấp đôi ở Tân Cương
Tỉnh Tân Cương Trung Quốc là nơi thường xuyên diễn ra các căng thẳng giữa người Duy Ngô Nhĩ và người HánAFP PHOTO / PHILIPPE LOPEZ
Số người bị bắt giam tại Tân Cương đã tăng gấp đôi trong vòng một năm qua, vì chính quyền Trung Quốc đàn áp thẳng tay người Duy Ngô Nhĩ không chấp nhận sự đô hộ của Bắc Kinh. Báo chí chính thức của Trung Quốc hôm nay 23/01/2015 cho biết như trên.
Theo nhật báo China Daily, bên cạnh đó quân đội Trung Quốc cũng đã tăng cường sự hiện diện tại vùng đất giáp giới 8 nước, trong đó có Afghanistan, bằng cách siết chặt việc kiểm soát biên giới.
Có ít nhất 27.164 nghi can đã bị bắt tại Tân Cương trong năm 2014, tăng trên 95% so với năm 2013. China Daily dẫn lời Kiểm sát viên trưởng Nixiang Yibulayin nói rằng : « Chúng tôi đã rút ngắn thời hạn từ lúc bắt giữ cho đến khi khởi tố trong các vụ khủng bố chính, để đưa các nghi phạm ra xét xử càng nhanh càng tốt, nhằm chứng tỏ quyết tâm của địa phương trong cuộc đấu tranh chống khủng bố ».
Đồng thời trong bài xã luận viết về chủ đề các sai lầm của tư pháp, tờ báo kêu gọi chấm dứt các phiên tòa vội vã, và « cơn khát bất thường » những kết quả ngoạn mục và các bản án răn đe, trong đó có việc sử dụng biện pháp tra tấn để bức cung. Tân Cương không được nêu tên trong bài xã luận này.
Theo Kiểm sát viên trưởng, việc đẩy nhanh thủ tục tố tụng chủ yếu áp dụng cho các thủ phạm một vụ « tấn công khủng bố » nhắm vào một con đường thương mại tại thủ phủ Urumqi, nơi các nghi phạm đã dùng hai chiếc xe lao thẳng vào đám đông và quăng chất nổ. Tổng cộng có 39 người chết và bốn hung thủ cũng thiệt mạng, trên 90 người bị thương – theo con số chính thức.
China Daily không cho biết chi tiết về việc tăng cường quân đội tại Tân Cương, chỉ nói là có ba tướng lãnh mới được cử đến vùng này : Li Wei, Ye Jianjun và Han Bingcheng, nhân việc quân Mỹ rút khỏi Afghanistan.
Những vụ xung đột đẫm máu gần đây thường diễn ra ở Tân Cương, do căng thẳng giữa người Duy Ngô Nhĩ sinh sống tại đây từ nhiều đời với người Hán mới di cư đến nhưng lại ăn trên ngồi trước. Chính quyền Bắc Kinh chủ trương thẳng tay đàn áp những người tranh đấu Duy Ngô Nhĩ mà họ gọi là những kẻ « khủng bố » hay « ly khai ».
http://vi.rfi.fr/20150123-tan-cuong//
Tuyên bố chung Hoa Kỳ-Philippines sau đối thoại đã bày tỏ "quan ngại" đối với tình hình trên Biển Đông. Trong họp báo chung, Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Daniel Russel cũng tuyên bố "nước lớn không được bắt nạt nước nhỏ", hàm ý chỉ Trung Quốc.
Đáp lời, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh nói tại Bắc Kinh ngày 22/1 rằng "bất cứ nước lớn hay nước nhỏ đều nhất luật bình đẳng khi áp dụng quy tắc quốc tế, các bên về vấn đề Nam Hải [Biển Đông] cần phải nghiêm chỉnh thực hiện DOC (Tuyên bố về quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông)".
Bà Hoa cảnh báo "nước phi đương sự chớ giở mánh khóe gây xích mích và xúi bẩy trên vấn đề này", rõ ràng ngụ ý nói Mỹ.
Người phát ngôn Trung Quốc còn khẳng định trong quan hệ quốc tế, "Trung Quốc luôn luôn đề xướng nhất luật bình đẳng giữa nước lớn và nước nhỏ".
"Trung Quốc phản đối nước lớn bắt nạt nước nhỏ, đồng thời cho rằng nước nhỏ không được gây chuyện một cách vô lý."
Trong khi đó, Philippines nói họ có bằng chứng về các công trình xây cất quy mô của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa.Việc mở rộng hạ tầng này cũng làm cho các bên tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, trong có Việt Nam, lo lắng.
Có ít nhất 27.164 nghi can đã bị bắt tại Tân Cương trong năm 2014, tăng trên 95% so với năm 2013. China Daily dẫn lời Kiểm sát viên trưởng Nixiang Yibulayin nói rằng : « Chúng tôi đã rút ngắn thời hạn từ lúc bắt giữ cho đến khi khởi tố trong các vụ khủng bố chính, để đưa các nghi phạm ra xét xử càng nhanh càng tốt, nhằm chứng tỏ quyết tâm của địa phương trong cuộc đấu tranh chống khủng bố ».
Đồng thời trong bài xã luận viết về chủ đề các sai lầm của tư pháp, tờ báo kêu gọi chấm dứt các phiên tòa vội vã, và « cơn khát bất thường » những kết quả ngoạn mục và các bản án răn đe, trong đó có việc sử dụng biện pháp tra tấn để bức cung. Tân Cương không được nêu tên trong bài xã luận này.
Theo Kiểm sát viên trưởng, việc đẩy nhanh thủ tục tố tụng chủ yếu áp dụng cho các thủ phạm một vụ « tấn công khủng bố » nhắm vào một con đường thương mại tại thủ phủ Urumqi, nơi các nghi phạm đã dùng hai chiếc xe lao thẳng vào đám đông và quăng chất nổ. Tổng cộng có 39 người chết và bốn hung thủ cũng thiệt mạng, trên 90 người bị thương – theo con số chính thức.
China Daily không cho biết chi tiết về việc tăng cường quân đội tại Tân Cương, chỉ nói là có ba tướng lãnh mới được cử đến vùng này : Li Wei, Ye Jianjun và Han Bingcheng, nhân việc quân Mỹ rút khỏi Afghanistan.
Những vụ xung đột đẫm máu gần đây thường diễn ra ở Tân Cương, do căng thẳng giữa người Duy Ngô Nhĩ sinh sống tại đây từ nhiều đời với người Hán mới di cư đến nhưng lại ăn trên ngồi trước. Chính quyền Bắc Kinh chủ trương thẳng tay đàn áp những người tranh đấu Duy Ngô Nhĩ mà họ gọi là những kẻ « khủng bố » hay « ly khai ».
http://vi.rfi.fr/20150123-tan-cuong//
Trung Quốc cảnh báo Mỹ 'chớ giở mánh khóe'
- 23 tháng 1 2015
- 23 tháng 1 2015
Sau khi bị cáo buộc mở rộng xây cất ở Trường Sa, Trung Quốc cảnh cáo Hoa Kỳ "chớ giở mánh khóe gây xích mích và xúi bẩy".
Thứ trưởng Ngoại giao Philippines Evan Garcia nói với các nhà báo tại cuộc họp báo chung sau Đối thoại chiến lược song phương với Mỹ ở Manila hôm 21/1 rằng các bức hình chụp được từ trên cao cho thấy các công trình cải tạo của Trung Quốc có quy mô "rất lớn".Tuyên bố chung Hoa Kỳ-Philippines sau đối thoại đã bày tỏ "quan ngại" đối với tình hình trên Biển Đông. Trong họp báo chung, Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Daniel Russel cũng tuyên bố "nước lớn không được bắt nạt nước nhỏ", hàm ý chỉ Trung Quốc.
Đáp lời, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh nói tại Bắc Kinh ngày 22/1 rằng "bất cứ nước lớn hay nước nhỏ đều nhất luật bình đẳng khi áp dụng quy tắc quốc tế, các bên về vấn đề Nam Hải [Biển Đông] cần phải nghiêm chỉnh thực hiện DOC (Tuyên bố về quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông)".
Bà Hoa cảnh báo "nước phi đương sự chớ giở mánh khóe gây xích mích và xúi bẩy trên vấn đề này", rõ ràng ngụ ý nói Mỹ.
Người phát ngôn Trung Quốc còn khẳng định trong quan hệ quốc tế, "Trung Quốc luôn luôn đề xướng nhất luật bình đẳng giữa nước lớn và nước nhỏ".
"Trung Quốc phản đối nước lớn bắt nạt nước nhỏ, đồng thời cho rằng nước nhỏ không được gây chuyện một cách vô lý."
Trong khi đó, Philippines nói họ có bằng chứng về các công trình xây cất quy mô của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa.Việc mở rộng hạ tầng này cũng làm cho các bên tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, trong có Việt Nam, lo lắng.
Hồi tháng Chín năm ngoái, phóng viên BBC Rupert Wingfield-Hayes đã có chuyến đi ra Trường Sa và tận mắt chứng kiến hoạt động xây cất của Trung Quốc ở đây.
Tường trình của phóng viên chúng tôi, với hình ảnh rõ ràng, cho thấy quy mô và tốc độ xây dựng của Trung Quốc.
Từ 2013, Trung Quốc bắt đầu cải tạo và xây dựng nhiều công trình trên các bãi san hô và đá ngầm ở Trường Sa như Gạc Ma, Châu Viên, Ga Ven, Chữ Thập.
Tháng Năm năm ngoái, chính phủ Philippines đã công bố ảnh Trung Quốc cơi nới trên bãi Gạc Ma mà Trung Quốc chiếm từ tay hải quân Việt Nam năm 1988.
Tổng tham mưu trưởng quân đội nước này, Tướng Gregorio Pio Catapang, nói với các phóng viên hai tuần trước đây rằng việc xây cất của Trung Quốc trên ít nhất ba bãi ngầm đã hoàn tất tới 50%.
"Trong đó có một công trình nối dài khoảng 1-2km và có thể được biến thành đường băng."
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2015/01/150123_china_philippines_us
Giải mã chiến dịch chống tham nhũng ở TQ
Năm 2015 mới chỉ bắt đầu nhưng người ta đã tiếp tục nghe nhiều tin tức về chống tham nhũng ở Trung Quốc.
Ngô Ngọc Văn BBC Tiếng Hoa
- 21 tháng 1 2015
Năm 2015 mới chỉ bắt đầu nhưng người ta đã tiếp tục nghe nhiều tin tức về chống tham nhũng ở Trung Quốc.
Từ đầu năm đến nay, một trùm tình báo, một bí thư Nam Kinh và một nhà ngoại giao cao cấp đã bị điều tra.Dường như chiến dịch hai năm qua của Chủ tịch Tập Cận Bình sẽ không chững lại.
Cảnh sát phát hiện 1.853 chai rượu Mao Đài khi khám nhà ông ta.
Nghe nói ông Phùng thích thức uống này lắm và không ngại khó khăn tìm rượu ngon, thậm chí trả hẳn 80.000 tệ cho một chai.
Tin này không gây ngạc nhiên vì một tạp chí tài chính đã xác nhận trước đó.
Phóng viên Vương Hòa Nham là người đầu tiên đưa tin ông Cốc gặp rắc rối. Là phóng viên điều tra chính của tạp chí tài chính Caixin, trong hai năm 2012 đến 2014, cô nỗ lực điều tra đế chế kinh doanh của tướng Cốc.
Trong nhà tướng Cốc, người ta tìm thấy vô số thùng rượu Mao đài, và cả tượng vàng Mao Trạch Đông. Biệt thự của ông được gọi là “Tử Cấm Thành” vì độ nguy nga của nó.
Chiến dịch của ông Tập Cận Bình được người dân ủng hộ, nhưng những công dân bình thường muốn minh bạch hơn không phải lúc nào cũng được giới chức hoan nghênh.
Phong trào Công dân Mới đã kêu gọi quan chức công khai tài sản.
Chuyện này không xảy ra. Người sáng lập nhóm Hứa Chí Vĩnh bị tù bốn năm hồi tháng Giêng 2014 vì tội phá rối trật tự công cộng.
Báo chí nước ngoài điều tra tài sản lãnh đạo Trung Quốc, kể cả của ông Tập, cũng bị giới chức làm khó dễ. Trang web của họ bị chặn, phóng viên bị từ chối visa.
Cuộc chiến chống tham nhũng có vẻ phức tạp, và những ai không hát cùng bài với ông Tập Cận Bình có thể bị làm im tiếng.
Ngày 20/11/2012, không lâu sau khi trở thành lãnh đạo Đảng Cộng sản, ông Tập có diễn văn.
“Nhiều dữ kiện cho chúng ta biết rằng tham nhũng ngày càng trầm trọng, và rốt cuộc đảng và đất nước sẽ sụp đổ. Chúng ta phải cảnh giác.”
Kể từ đó, ông Tâp có vẻ hăng hái dẫn dắt chiến dịch chống tham nhũng. Ông hứa hẹn “bắt cả hổ lẫn ruồi”, nói rằng quan chức cấp cao cũng không được tha.
Mã Kiến, thứ trưởng cơ quan tình báo, cũng là con hổ to. Một con hổ khác là Lệnh Kế Hoạch, từng là trợ lý cho cựu chủ tịch Hồ Cẩm Đào.
Một người khác, tướng Từ Tài Hậu, từng là thành viên Bộ Chính trị và phó chủ tịch quân ủy trung ương.
Theo cơ quan kỷ luật của đảng, riêng trong năm 2014, 23.464 người đã bị kỷ luật vì vi phạm điều lệ đảng.
Bí thư thành ủy Tế Nam, Vương Mẫn, vừa lên truyền hình nói về chống tham nhũng ngày 18/12/2014. Ngay hôm sau, ông bị bắt để điều tra.
Số phận tương tự dành cho Vạn Khánh Lương, bí thư thành ủy Quảng Châu.
Khi giới chức loan báo điều tra ông vào tháng Sáu 2014, thì nhiều công chức còn đang họp để nghiên cứu bài diễn văn ông nói vào hôm trước. Tin nhắn về số phận của ông Vạn được bắn đi khắp nơi và cuộc họp bị dừng lại.
Khi Vụ phó vụ năng lượng Trung Quốc Ngụy Bằng Viễn bị giải đi hồi tháng Năm 2014, các nhà điều tra tìm thấy khoảng 200 triệu nhân dân tệ tiền mặt trong nhà ông.
Truyền thông nhà nước nói đây là vụ thu giữ tiền mặt lớn nhất từ khi đảng Cộng sản nắm quyền năm 1949.
Người ta phải dùng 16 máy để đếm tiền, và bốn máy bị hỏng do nóng quá.
Mã Tuấn Phi được bổ nhiệm làm Cục Phó Cục đường sắt TP Hô Hòa, khu tự trị Nội Mông năm 2009.
Theo truyền thông, số tiền nhận hối lộ của ông lên tới 130 triệu nhân dân tệ. Ông nhận hết, từ đôla Mỹ, euro, đồng bảng Anh, vàng và nhân dân tệ.
Có biệt danh “cọp nước”, ông ta bị nói là công khai đòi tiền mọi doanh nghiệp cần mắc nước, như khách sạn, nhà máy, văn phòng chính quyền.
Nếu người ta không nộp đủ tiền, ông ta sẽ cắt nước ngay.
Sau khi bị bắt, giới chức tìm thấy 120 triệu nhân dân tệ, 37 kg vàng và sổ đỏ của 68 ngôi nhà.
Rượu Mao đài ngon lắm
Phùng Việt Hân, cựu trưởng công an một quận ở thành phố Thanh Đảo, tỉnh Sơn Đông, bị tử hình năm 2014 vì tội bảo kê tội phạm.
Cảnh sát phát hiện 1.853 chai rượu Mao Đài khi khám nhà ông ta.
Nghe nói ông Phùng thích thức uống này lắm và không ngại khó khăn tìm rượu ngon, thậm chí trả hẳn 80.000 tệ cho một chai.
Phóng viên dũng cảm
Ngày 31/3/2014, Tân Hoa Xã cho biết Trung tướng Cốc Tuấn Sơn, cựu phó chủ nhiệm tổng cục hậu cần Quân đội nhân dân Trung Quốc, bị giao cho tòa án binh vì tội tham nhũng.Tin này không gây ngạc nhiên vì một tạp chí tài chính đã xác nhận trước đó.
Phóng viên Vương Hòa Nham là người đầu tiên đưa tin ông Cốc gặp rắc rối. Là phóng viên điều tra chính của tạp chí tài chính Caixin, trong hai năm 2012 đến 2014, cô nỗ lực điều tra đế chế kinh doanh của tướng Cốc.
Trong nhà tướng Cốc, người ta tìm thấy vô số thùng rượu Mao đài, và cả tượng vàng Mao Trạch Đông. Biệt thự của ông được gọi là “Tử Cấm Thành” vì độ nguy nga của nó.
Nhà hoạt động bị tù
Chiến dịch của ông Tập Cận Bình được người dân ủng hộ, nhưng những công dân bình thường muốn minh bạch hơn không phải lúc nào cũng được giới chức hoan nghênh.
Phong trào Công dân Mới đã kêu gọi quan chức công khai tài sản.
Chuyện này không xảy ra. Người sáng lập nhóm Hứa Chí Vĩnh bị tù bốn năm hồi tháng Giêng 2014 vì tội phá rối trật tự công cộng.
Báo chí nước ngoài điều tra tài sản lãnh đạo Trung Quốc, kể cả của ông Tập, cũng bị giới chức làm khó dễ. Trang web của họ bị chặn, phóng viên bị từ chối visa.
Cuộc chiến chống tham nhũng có vẻ phức tạp, và những ai không hát cùng bài với ông Tập Cận Bình có thể bị làm im tiếng.
Ngày 20/11/2012, không lâu sau khi trở thành lãnh đạo Đảng Cộng sản, ông Tập có diễn văn.
“Nhiều dữ kiện cho chúng ta biết rằng tham nhũng ngày càng trầm trọng, và rốt cuộc đảng và đất nước sẽ sụp đổ. Chúng ta phải cảnh giác.”
Kể từ đó, ông Tâp có vẻ hăng hái dẫn dắt chiến dịch chống tham nhũng. Ông hứa hẹn “bắt cả hổ lẫn ruồi”, nói rằng quan chức cấp cao cũng không được tha.
Hổ và ruồi
Đến nay con hổ to nhất bị bắt là Chu Vĩnh Khang, cựu trùm an ninh. Ông đã bị khai trừ đảng và giao cho bên tư pháp.Mã Kiến, thứ trưởng cơ quan tình báo, cũng là con hổ to. Một con hổ khác là Lệnh Kế Hoạch, từng là trợ lý cho cựu chủ tịch Hồ Cẩm Đào.
Một người khác, tướng Từ Tài Hậu, từng là thành viên Bộ Chính trị và phó chủ tịch quân ủy trung ương.
Theo cơ quan kỷ luật của đảng, riêng trong năm 2014, 23.464 người đã bị kỷ luật vì vi phạm điều lệ đảng.
Sa cơ
Bí thư thành ủy Tế Nam, Vương Mẫn, vừa lên truyền hình nói về chống tham nhũng ngày 18/12/2014. Ngay hôm sau, ông bị bắt để điều tra.
Số phận tương tự dành cho Vạn Khánh Lương, bí thư thành ủy Quảng Châu.
Khi giới chức loan báo điều tra ông vào tháng Sáu 2014, thì nhiều công chức còn đang họp để nghiên cứu bài diễn văn ông nói vào hôm trước. Tin nhắn về số phận của ông Vạn được bắn đi khắp nơi và cuộc họp bị dừng lại.
Tiền và tiền
Nhiều viên chức sa cơ bị tố cáo nhận hối lộ, và có vẻ rất thích tiền mặt.Khi Vụ phó vụ năng lượng Trung Quốc Ngụy Bằng Viễn bị giải đi hồi tháng Năm 2014, các nhà điều tra tìm thấy khoảng 200 triệu nhân dân tệ tiền mặt trong nhà ông.
Truyền thông nhà nước nói đây là vụ thu giữ tiền mặt lớn nhất từ khi đảng Cộng sản nắm quyền năm 1949.
Người ta phải dùng 16 máy để đếm tiền, và bốn máy bị hỏng do nóng quá.
Mã Tuấn Phi được bổ nhiệm làm Cục Phó Cục đường sắt TP Hô Hòa, khu tự trị Nội Mông năm 2009.
Theo truyền thông, số tiền nhận hối lộ của ông lên tới 130 triệu nhân dân tệ. Ông nhận hết, từ đôla Mỹ, euro, đồng bảng Anh, vàng và nhân dân tệ.
Dùng nước đổi tiền
Mã Siêu Quần nguyên là tổng giám đốc một công ty cấp thoát nước tại quận Bắc Đới Hà, tỉnh Hà Bắc.Có biệt danh “cọp nước”, ông ta bị nói là công khai đòi tiền mọi doanh nghiệp cần mắc nước, như khách sạn, nhà máy, văn phòng chính quyền.
Nếu người ta không nộp đủ tiền, ông ta sẽ cắt nước ngay.
Sau khi bị bắt, giới chức tìm thấy 120 triệu nhân dân tệ, 37 kg vàng và sổ đỏ của 68 ngôi nhà.
Cảnh sát phát hiện 1.853 chai rượu Mao Đài khi khám nhà ông ta.
Nghe nói ông Phùng thích thức uống này lắm và không ngại khó khăn tìm rượu ngon, thậm chí trả hẳn 80.000 tệ cho một chai.
Tin này không gây ngạc nhiên vì một tạp chí tài chính đã xác nhận trước đó.
Phóng viên Vương Hòa Nham là người đầu tiên đưa tin ông Cốc gặp rắc rối. Là phóng viên điều tra chính của tạp chí tài chính Caixin, trong hai năm 2012 đến 2014, cô nỗ lực điều tra đế chế kinh doanh của tướng Cốc.
Trong nhà tướng Cốc, người ta tìm thấy vô số thùng rượu Mao đài, và cả tượng vàng Mao Trạch Đông. Biệt thự của ông được gọi là “Tử Cấm Thành” vì độ nguy nga của nó.
Chiến dịch của ông Tập Cận Bình được người dân ủng hộ, nhưng những công dân bình thường muốn minh bạch hơn không phải lúc nào cũng được giới chức hoan nghênh.
Phong trào Công dân Mới đã kêu gọi quan chức công khai tài sản.
Chuyện này không xảy ra. Người sáng lập nhóm Hứa Chí Vĩnh bị tù bốn năm hồi tháng Giêng 2014 vì tội phá rối trật tự công cộng.
Báo chí nước ngoài điều tra tài sản lãnh đạo Trung Quốc, kể cả của ông Tập, cũng bị giới chức làm khó dễ. Trang web của họ bị chặn, phóng viên bị từ chối visa.
Cuộc chiến chống tham nhũng có vẻ phức tạp, và những ai không hát cùng bài với ông Tập Cận Bình có thể bị làm im tiếng.
Rượu Mao đài ngon lắm
Phùng Việt Hân, cựu trưởng công an một quận ở thành phố Thanh Đảo, tỉnh Sơn Đông, bị tử hình năm 2014 vì tội bảo kê tội phạm.Cảnh sát phát hiện 1.853 chai rượu Mao Đài khi khám nhà ông ta.
Nghe nói ông Phùng thích thức uống này lắm và không ngại khó khăn tìm rượu ngon, thậm chí trả hẳn 80.000 tệ cho một chai.
Phóng viên dũng cảm
Ngày 31/3/2014, Tân Hoa Xã cho biết Trung tướng Cốc Tuấn Sơn, cựu phó chủ nhiệm tổng cục hậu cần Quân đội nhân dân Trung Quốc, bị giao cho tòa án binh vì tội tham nhũng.Tin này không gây ngạc nhiên vì một tạp chí tài chính đã xác nhận trước đó.
Phóng viên Vương Hòa Nham là người đầu tiên đưa tin ông Cốc gặp rắc rối. Là phóng viên điều tra chính của tạp chí tài chính Caixin, trong hai năm 2012 đến 2014, cô nỗ lực điều tra đế chế kinh doanh của tướng Cốc.
Trong nhà tướng Cốc, người ta tìm thấy vô số thùng rượu Mao đài, và cả tượng vàng Mao Trạch Đông. Biệt thự của ông được gọi là “Tử Cấm Thành” vì độ nguy nga của nó.
Nhà hoạt động bị tù
Chiến dịch của ông Tập Cận Bình được người dân ủng hộ, nhưng những công dân bình thường muốn minh bạch hơn không phải lúc nào cũng được giới chức hoan nghênh.
Phong trào Công dân Mới đã kêu gọi quan chức công khai tài sản.
Chuyện này không xảy ra. Người sáng lập nhóm Hứa Chí Vĩnh bị tù bốn năm hồi tháng Giêng 2014 vì tội phá rối trật tự công cộng.
Báo chí nước ngoài điều tra tài sản lãnh đạo Trung Quốc, kể cả của ông Tập, cũng bị giới chức làm khó dễ. Trang web của họ bị chặn, phóng viên bị từ chối visa.
Cuộc chiến chống tham nhũng có vẻ phức tạp, và những ai không hát cùng bài với ông Tập Cận Bình có thể bị làm im tiếng.
NGUYỄN TƯỜNG THỤY * CÔNG NHẬN VNCH
Công nhận Việt Nam Cộng hòa để khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa
Mon, 01/19/2015 - 13:15 — nguyentuongthuy
Nhân 41 năm ngày mất Hoàng Sa
Nguyễn Tường Thụy
41 năm nay, Hoàng Sa là một nỗi đau nhức nhối trong tâm khảm người Việt Nam. Làm thế nào để giành lại Hoàng Sa? Đó là câu hỏi đau đáu của mỗi người VN yêu nước. Để giành lại HS về đất mẹ, điều này vô cùng khó khăn. Nhưng không phải vì thế mà buông xuôi, theo kiểu đời này không đòi được thì đời sau con cháu sẽ đòi. Lối nói đó nhằm phủi trách nhiệm và bao biện cho thái độ lần lữa trong việc đòi lại chủ quyền của Đất nước.
Bằng chứng để chứng minh Hoàng Sa (và cả Trường Sa) là của Trung Quốc gần như không có, ngoài mấy lý lẽ cù nhầy như trên đảo có xương của người Hán cùng với mấy mảnh gốm sứ được tìm thấy… Lập tức, TC bị VN phản bác lại: Gò Đống Đa cũng có rất nhiều xương người TQ, chẳng lẽ Thăng Long cũng là đất của TQ sao? Câu đáp trả rất sắc sảo đó làm cho TC cay cú và rụt chuyện xương xẩu, sành sứ lại.
Ngược lại, xét về lịch sử, bằng chứng của VN rất chắc chắn, đó là nhà nước Việt Nam kể từ thời Nguyễn đã liên tục thực hiện chủ quyền đối với hai quần đảo này cho đến tận khi bị TC cưỡng chiếm.
Về lý lẽ và bằng chứng cụ thể để khẳng định hai quần đảo nói trên của VN là việc của các học giả, các nhà ngoại giao và nhiều bài viết đã trình bày nên xin không nhắc lại.
Bây giờ TC chỉ có thể bám nhằng lấy công hàm của ông Phạm Văn Đồng ký ngày 14/9/1958 và loa lên rằng, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã công nhận HS, TS là của TQ. Cho đến nay, về phía chính phủ VN chưa bao giờ bác bỏ công hàm (công thư) của ông Phạm Văn Đồng mà lý giải theo hướng khác. Một trong những lý lẽ đó là công hàm chỉ nói VN tôn trọng hải phận 12 hải lý của TQ chứ không hề nhắc đến HS, TS nên không thể suy diễn thành VN công nhận HS, TS là của TQ. Cách lý giải này có vẻ như đúng với câu chữ trong công hàm mà ông PVĐ đã cân nhắc. Những giải thích khác như quan hệ đặc thù, bối cảnh lịch sử… xem chừng khó thuyết phục.
Nhưng có một lý lẽ thuyết phục nhất mà gần đây, báo chí Việt nam đồng loạt đưa ra, đó là: Trong thời điểm 1958, hai quần đảo HS, TS thuộc quyền quản lý của Nhà nước Việt Nam Cộng Hòa. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không quản lý nên không có quyền xác nhận hai quần đảo đó là của TQ. Tức là, người ta không thể cho cái mà không có trong tay.
Có lẽ Đại đoàn kết là tờ báo đầu tiên đưa ra luận điểm này, với bài “Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam” (20/07/2011)
Bài báo viết “theo Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Trong thời điểm đó, dưới góc độ tài phán quốc tế, thì Chính phủ VNDCCH không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế”
Vào thời điểm TC đem giàn khoan HD 981 xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN (tháng 5/2014), báo chí VN phản công rầm rộ. Nhiều tờ báo dẫn lại đọan trích trên của Đại Đoàn Kết hoặc dựa theo luận điểm này để bác bỏ sự suy diễn của TC cho rằng Công hàm 1958 đã công nhận HS và TS là của TQ.
Còn báo điện tử của Chính phủ viết:
"Chính quyền VNCH, theo Hiệp định Genève 1954, đã liên tục thực thi chủ quyền lâu đời của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản hành chính nhà nước cũng như bằng việc triển khai chủ quyền thực tế trên hai quần đảo này. Đỉnh cao của sự khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là trận hải chiến quyết liệt của Hải quân VNCH chống lại sự xâm lược của tàu chiến và máy bay Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974".
Ông Trần Công Trục nguyên trưởng ban Biên giới của Chính phủ trong chương trình thời sự 19 giờ ngày 22/5/2014 của đài VTV1 giải thích:
“Các bạn hãy nhớ rằng tuyên bố của chúng ta vào thời kỳ 1958 nghĩa là cái lúc mà hai miền Bắc, Nam được hiệp định Genève ký kết năm 1954 phân chia quyền quản lý cho 2 nhà nước với tư cách là chủ thể trong quan hệ quốc tế là Việt Nam dân chủ cộng hòa và Việt Nam Cộng Hòa. Quần đảo Hoàng Sa của chúng ta nằm dưới vĩ tuyến 17 thuộc quyền quản lý của VNCH với tư cách là chủ thể trong quan hệ quốc tế theo hiệp định Genève, Và vì vậy, mọi tuyên bố, mọi hành vi của VNCH có giá trị pháp lý thay mặt Nhà nước VN quản lý vùng đất ấy còn VNDCCH chúng ta không trực tiếp quản lý. Vì vậy cho dù tuyên bố đó như thế nào thì giá trị pháp lý trong quan hệ quốc tế không có. Cho nên TQ họ muốn dùng tất cả mọi lý lẽ để nói rằng chúng ta thừa nhận thì đấy hoàn toàn là sự bịa đặt”.
Mời xem lại tại đây (từ phút thứ 6)
Không phải ngẫu nhiên mà báo chí VN thừa nhận vấn đề này mặc dù đó là thực tế. Nó được đưa ra trong bối cảnh chủ quyền của Đất nước bị đe dọa tới mức không thể chấp nhận được nữa.
Như vậy, Chính thể Miền Nam Việt Nam từ 1954 (đến 1975) trong những năm gần đây đã được nhìn nhận là một Nhà nước có chủ quyền, là một chủ thể trong quan hệ quốc tế.
Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại như thế thì chưa đủ cơ sở pháp lý cho cách nhìn nhận này. Điều cần làm tiếp theo là nâng vấn đề này lên thành quan điểm quốc gia, chứ không thể chỉ để cho báo chí hoặc một ông “nguyên” nào đó phát biểu. Đó là, Bộ Ngoại giao phải ra tuyên bố dưới góc nhìn này và các nhà lãnh đạo cao nhất cần lên tiếng. Đồng thời, phải tuyên dương công trạng và cư xử bình đẳng đối với các anh hùng, tử sĩ đã hy sinh khi bảo vệ Hoàng Sa cũng như đối với gia đình họ.
Và đương nhiên, những từ ngụy quân, ngụy quyền, lính ngụy... phải vĩnh viễn mất đi trong báo chí và lối nói thường ngày.
Làm những việc này, quả thật là rất khó khăn đối với Đảng CSVN và Nhà nước VN vì những vấn đề đặt ra tiếp theo như công nhận thể chế Việt Nam Cộng hòa và như vậy, bản chất của cuộc chiến tranh 1955 – 1975 cũng phải xác định lại cho đúng với thực chất, chứ không phải là cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước như trước nay vẫn tuyên truyền.
Mặc dù thế, nhưng nếu biết đặt lợi ích Dân tộc, lợi ích của Đất nước lên trên hết thì những việc làm đó không phải là điều không thể.
19/1/ 2015
NTT
TƯỞNG NĂNG TIẾN * GIA TÀI CỦA MARX
Gia Tài Của Mác
Wed, 01/21/2015 - 12:47 — tuongnangtien
S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến
Rồi chế độ toàn trị sẽ chấm dứt tại Việt Nam. Nhưng người Việt Nam không thể xây dựng đất nước bằng cách phủ định thực tại Việt Nam. Trong thực tại ấy, có Mác.
Cuối năm, nhiều cơ quan truyền thông – trong cũng như ngoài nước – đồng loạt đưa tin “Dân Sài Gòn cởi áo cho kẻ trộm mặc chống lạnh.” Đọc xong bỗng chợt thấy có cái gì “vương vướng?” Tại sao không phải là “người dân cởi áo cho kẻ trộm mặc chống lạnh” mà lại có thêm hai chữ “Sài Gòn” vô đó, vậy kìa?
Thương người như thể thương thân.
Rét thời cho mặc, đói thời cho ăn.
Gia Huấn Ca có dạy như vậy mà. Không lẽ, ở nơi khác, dân chúng lại hành sử khác sao? Mà có khác thiệt, và khác lắm, khi xem lại vài trang báo cũ:
Cách đây chưa lâu, báo Dân Trí đi tin:
“Rạng sáng nay 7/6, người dân xã Hưng Đông, TP Vinh (Nghệ An) phát hiện một vụ cháy kinh hoàng: một người đàn ông cùng một chiếc xe máy bị thiêu cháy bên vệ đường...
Quan sát kỹ tại hiện trường, PV Dân trí nhận thấy nạn nhân bị đốt cháy gần thành than, không thể nhận dạng, bốc mùi khét lẹt... Chiếc xe máy bị đốt cũng chỉ còn trơ khung đen.Nhiều người cho rằng nạn nhân xấu số này ăn trộm chó bị phát hiện, bị đánh chết ở đâu đó rồi đưa ra cánh đồng này đốt xác.”
Ảnh: Nguyễn Duy
Hai tháng sau, cũng báo Dân Trí, lại có thêm tin nữa:
“Khoảng 17 giờ 30 phút chiều ngày 29/8, hai kẻ ăn trộm chó đã bị người dân xã Nghi Thịnh, huyện Nghi Lộc (Nghệ An) đánh chết....
Ba người bị đánh chết (ở Nghệ An) trong vòng hai tháng, đã khiến tôi liên tưởng đến những cái chết khác – thảm khốc và thương tâm không kém – cũng ở địa phương này, hồi giữa thế kỷ trước, chính xác là vào năm 1952, theo lời kể của nhà văn Võ Văn Trực:
“Một lũ ngồi lúc nhúc ở giữa vòng vây người nung nấu căm thù, nóng rực như vòng lửa. Người xem đông quá là đông. Sóng người xô dồn lên, rồi dạt ra phía sau, rồi lại cuộn xoáy, ôm nhau, níu áo nhau. Không thể nào nghe được dân quân đang tra khảo tội nhân điều gì? Chỉ nghe nhứng tiếng quát lớn;’Mi có khai không? Mi có khai không?’ trộn lẫn với tiếng đấm đá huỳnh huỵch...”
“Tổ cha cái đồ phản động cái đồ Việt gian” – có tiếng người hét to như muốn vỡ ngực vỡ họng. Chính cái người hét to ấy đang ôm một gốc cây phi lao sần sùi mấu lao từ trên bức tường xuống như con mạnh thú vồ mồi, giơ cao gốc cây phang một cú vào ngực người bị treo ngược. Người bị treo rú lên một tiếng thất thanh và hai tay run rẩy như con nhái trước lúc chết. Thịch! Sợi dây đứt. Người bị treo ngược rơi xuống, sọ đập trên đất lổn nhổn cứt sắt... Người bị treo ngược bây giờ thành cái xác nằm sõng xoài trên đất ....” (Võ Văn Trực. Chuyện Làng Ngày Ấy. California: Tạp Chí Văn Học, 2006).
Chuyện làng ngày ấy, và chuyện làng bây giờ – xem ra – không khác nhau nhiều lắm. Lòng “nung nấu căm thù, nóng rực như vòng lửa” được thổi bùng lên từ thời “cách mạng phóng tay phát động quần chúng” đến nay – có lẽ – chưa bao giờ tắt (hẳn) ở rất nhiều nơi, tại Việt Nam.
Sài Gòn may mắn không phải là một nơi như thế. Vùng đất này không từng trải qua những năm Cải Cách Ruộng Đất (“nung nấu căm thù, nóng rực như vòng lửa”) như tỉnh Nghệ An. Có phải nhờ vậy mà người dân “cởi áo cho kẻ trộm mặc chống lạnh,” thay vì đánh cho đến chết rồi mang đi đốt?
Nhắc đến Sài Gòn, tưởng cũng nên đọc lại vài dòng bút ký của anh Ba Sàm:
“Sau 1975, có những thứ mà Sài Gòn, miền Nam làm cho hắn rất lạ và không thể quên. Một đêm, chạy xe máy về nhà (ông cậu), tới ngã tư đèn đỏ, ngó hai bên đường vắng hoe, hắn rồ ga tính vọt thẳng. Bất ngờ nghe bên tai tiếng thắng xe cái rẹc, liếc qua thấy ông lão với chiếc xích lô trống không. Quê quá, phải dừng theo!
Nhiều năm sau, ở Hà Nội, những ngã tư đông đúc như Tràng Tiền-Hàng Bài, ngoài một chú cảnh sát đứng bục, thường phải thêm có 4 chú cầm gậy chặn bốn phía, lùa, đuổi mà cũng không xuể.
Lên xe bus, xe đò trong Nam luôn cho hắn những cảm giác thích thú để quan sát. Đủ các hạng người, mà sao không chen lấn, cãi vã. Khách nhường ghế cho nhau, thăm hỏi, chỉ đường tận tình (những thứ mà cho đến hôm nay, trên xe bus Hà Nội, người ta phải ghi lên tấm biển to đùng, thành ‘Nội quy’). Lơ xe lăng xăng xách, buộc chằng đồ cẩn thận cho khách, nhảy lên mui, đeo bên thành xe la nhắc người dưới đường cẩn thận.”
Thảo nào mà hôm rồi ông Chủ Tịch UBND Nguyễn Thế Thảo “than phiền về thái độ văn hóa ứng xử nơi công cộng của người dân thành phố, và “mong người Hà Nội ra đường trật tự như TP HCM.”
Chớ người Hà Nội “ứng xử nơi công cộng” ra sao mà mang tiếng dữ vậy cà? Xin đọc một đoạn văn khác của một nhà văn (vốn) gốc Hà Thành:
“Sắp đến ngày kỷ niệm Quốc khánh mùng 2 tháng 9, cả Hà Nội bừng sáng trong rừng khẩu hiệu và cờ hoa... Nơi các cửa hàng thịt cá mậu dịch người ta niêm yết trên bảng thông cáo: Các ô sổ phụ của phiếu thực phẩm tháng Chín bán cá bể, mỗi hộ được mua hai ký cá ngoài tiêu chuẩn để ăn mừng quốc khánh...”
“Cá bể chưa về. Thế mà có mấy người chầu chực sắp hàng từ năm giờ sáng. Trời vào thu rồi mà vẫn nóng, đám người chờ mua đông đặc không ra hàng lối gì. Mồ hôi, mồ kê nhễ nhại...vừa lúc đó, thốt nhiên bên kia đường bật lên tiếng reo lớn:”Cá về! Cá về!...”
Lúc đó thì không còn hàng lối gì nữa, mọi người chen chúc xô đẩy nhau, ý ới gọi nhau. Từng lớp sóng người dồn lên rồi lại dạt xuống, khiến không còn chỗ cho những bà mậu dịch viên đổ hàng. Thế là lại phải giải thích cho mọi người lùi lại, nhường cho một khoảng trống. Có đến hai mươi phút sau cá mới được đổ xuống vỉa hè, chả cần thau chậu gì ráo. Và lũ ruồi đánh hơi mới tài làm sao! Chỉ loáng một cái chúng đã kéo đến hàng đàn, bám đen lên đống cá. Tôi không đủ can đảm để giữ tư cách nữa, cứ thế mà chen đẩy theo sức lực của mình. Đứng trước tôi là một thằng bé, không hiểu bằng cách nào mà len lỏi tới trước được, nhưng cũng khổ cho nó, mỗi khi đợt xô đẩy dồn tới là nó lại bị đè ngã vào đống cá ...” (Thế Giang. “Lộc Thánh”. Thằng Người Có Đuôi. Costa Mesa, CA: Người Việt, 1987).
Ảnh: vnexpress.net
Chuyện “xô đẩy” vì vài con cá, vài lạng thịt của người dân Hà Nội – năm xưa – có ảnh hưởng (ít nhiều) chi đến “văn hóa ứng xử nơi công cộng” của họ hôm nay không? Và “ảnh hưởng” (hay “di sản” hoặc “di hoạ”) này, mai hậu, “sẽ cần bao nhiêu lâu để vượt qua” là một trong nỗi bận tâm của nhà văn Phạm Thị Hoài:
“Chúng ta thử hình dung, một ngày nào đó không xa, trong vòng một thập niên tới, Việt Nam sẽ chuyển thành công từ thể chế độc quyền dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam sang dân chủ đa nguyên, với nhà nước pháp quyền dựa trên tam quyền phân lập, với tự do tư tưởng và ngôn luận, tự do hội họp và xã hội dân sự.
Khi đó, cái di sản kéo dài gần ba phần tư thế kỉ ở miền Bắc và gần một nửa thế kỉ trên toàn quốc đó sẽ đặt chế độ mới trước những thử thách nào?
Xã hội Việt Nam sẽ cần bao nhiêu lâu để vượt qua di sản đó?”
Nhà văn Phạm Thị Hoài không phải là người duy nhất có nỗi lo âu (bao la) cỡ đó. Trước đó, trong tác phẩm Di Sản Mác Xít Tại Việt Nam – xuất bản vào năm 2002 – giáo sư Đỗ Mạnh Tri cũng cũng đã ... cầm đèn chạy trước ô tô một đoạn rất xa:
“Học thuyết Mác sẽ để lại gì trên đất nước Việt Nam ? Có chút tương lai nào cho học thuyết đó ? Nói rộng ra, tương lai nào sau khi độc tài toàn trị chấm dứt ?
....
Nhưng chôn hay không chôn, dù sao ông Mác cũng di tản vào Việt Nam rồi.... Vào với tất cả hành trang lỉnh kỉnh của ông, của con cháu và tổ tiên ông.... Cũng như mấy thế kỷ trước đây đạo Kitô và trước nữa, Khổng, Phật, Lão. Dù muốn dù không, Mác đã thuộc phần gia tài của người Việt. Trong gia tài có thể có nợ. Kể cả nợ máu.
Làm gì với gia tài đó ?
Dù muốn dù không, Mác và những bóng ma của Mác đã và đương ám ảnh người Việt từ hơn nửa thế kỷ nay. Dù muốn dù không, nhân danh Mác hay nhân danh chống Mác, người ta đã làm nên ức triệu những con ma, những oan hồn từ đây sẽ luôn luôn quyện vào lịch sử dân tộc.
Hồn những kẻ đã nằm xuống nơi rừng núi, trong hầm sâu, nơi đồng ruộng, trong những trại giam, trong bụng cá, tại những đài tử sĩ đã bình địa vì thuộc bên này hay vẫn còn đó nhưng mốc meo không ai dòm ngó vì thuộc bên kia. Còn phải kể tới hồn những kẻ chưa sinh ra nhưng rồi đây sẽ phải gánh lấy gia tài đó...”
Cái đầu (bò) của một anh thường dân vớ vẩn như tôi khó có thể thể hình dung ra được (mai sau) “những kẻ chưa sinh ra nhưng rồi đây sẽ phải gánh lấy gia tài” của XHCN ra sao? Tôi chỉ có chút kỷ niệm (không vui) liên quan đến Marx và đứa con gái út của mình.
Khi cháu chừng mười hai hay mười ba gì đó, một hôm thay vì mua quà sáng cho cháu, tôi bảo nó xuống xe vào tiệm mua lấy theo ý mình đi. Mấy phút sau, con bé đi ra tay không:
- Con ghét người Việt Nam, con ghét người Việt Nam. I hate Vietnamese, I hate Vietnamese!
Mặt cháu đỏ bừng vì ngượng ngùng và tức giận khiến tôi ái ngại:
- Chuyện gì vậy con?
- Con đứng xếp hàng nhưng mấy người đến sau cứ chen lên trước nên con đợi mãi cũng chả đến lượt mình.
Cháu chào đời và lớn lên tại California nên không biết rằng những ông bà, cô dì, chú bác ... khách hàng trong tiệm giò chả này phần lớn (cũng y như chính bố nó) đều là những thuyền nhân. Họ đã bán tống bán tháo hết cả gia sản, bỏ của chạy lấy người, đâm xầm ra biển, xô đẩy chen lấn và sẵn sàng đạp lên nhau (nếu cần) chỉ để mong có thể dành được một chỗ trên một con thuyền ọp ẹp và mong manh nào đó. Người nhanh chân chưa chắc đã sống nhưng kẻ chậm chân thì chắc chết, chết chắc.
Kinh nghiệm hãi hùng này vẫn còn in đậm trong tâm trí và cách hành xử của rất nhiều người tị nạn C.S. nên cứ thấy đám đông là là họ chen liền, như một phản xạ tự nhiên, cho nó chắc ăn – dù chỉ để mua và cái bánh giò, hay mấy cân chả lụa. Cá nhân tôi, đôi lần, cũng đã “chen xe” trên freeway một cách hoàn toàn vô thức (và ngu xuẩn) tương tự.
Thiệt khó mà biết “xã hội Việt Nam sẽ cần bao nhiêu lâu để vượt qua di sản” thổ tả này nhưng ý thức được rằng “chúng ta không thể xây dựng đất nước bằng cách phủ định thực tại Việt Nam ... có Mác” (chắc chắn) sẽ giúp cho dân tộc này dễ thông cảm và bao dung với nhau hơn khi cùng chung tay xây dựng lại Việt Nam – trong tương lai gần.
TS. PHẠM CAO DƯƠNG * VIỆT NAM ĐỘC LẬP 1945
Thứ Năm, ngày 22 tháng 1 năm 2015
Nhân dịp đầu năm Ất Mùi - 2015, một chút lịch sử gửi tuổi trẻ Việt Nam:Lẽ Ra Ngay Từ Năm 1945 Dân Tộc Ta Đã Có Dân Chủ - Tự Do Rồi
Phạm Cao Dương
Hoàng Ðế Bảo Ðại |
Do sự phức tạp của thời thế và sự nóng nảy muốn giành độc lập nhất thời của chính người Việt, lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đã không những không biến chuyển như mọi người mong muốn mà còn đầy rẫy những ngộ nhận, từ đó oan khuất cần phải được giải toả và làm sáng tỏ. Đây là một việc làm vô cùng khó khăn mà một cá nhân khó có thể làm nổi. Tuy nhiên, tuy gọi là khó nhưng những người quan tâm và hiểu biết ít nhiều vẫn phải làm để sau này sẽ có người tiếp tục và điều chỉnh. Vì là một khoa học, sử học luôn luôn tiến bộ. Những gì gọi là đúng ngày hôm nay có thể sẽ cần phải được ít ra là điều chỉnh và bổ khuyết ngày mai, không có gì gọi là chân lý vĩnh cửu trong môn học này. Người học sử không thể chủ quan nhất định điều mình nói, viết ra hay được học mãi mãi là đúng, là chân lý bất di bất dịch.
Phạm Cao Dương
Trong bài này cũng như một số bài trước, người viết xin gửi tới các bạn đọc, đặc biệt là các nhà tranh đấu cho một nước Việt Nam tự do và dân chủ, một vài nhận định về những gì Hoàng Đế Bảo Đại và vị thủ tướng đầu tiên của nước Việt Nam độc lập là nhà giáo kiêm học giả Trần Trọng Kim cùng với các bộ trưởng của ông, đã làm, trong một thời gian ngắn ngủi hơn ba tháng của năm 1945, từ ngày 8 tháng 5 đến ngày 6 tháng 8 năm 1945, để xây dựng một chính thể dân chủ lâu dài cho đất nước và ban hành các quyền tự do cho người dân từ cách nay ngót 70 năm bằng những đạo luật không phải là không tiến bộ. Đây là một việc làm mà 70 năm sau với ít nhất ba thế hệ đã qua đi một cách uổng phí, với hàng triệu sinh mạng đã bị hi sinh cùng với máu và nước mắt của người dân lành vô tội, người ta vẫn chưa muốn làm hay chưa làm được.
Bốn bước tiến đã được Vua Bảo Đại thực hiện trong thời gian này gồm có:
Thứ nhất: Ban hành dụ “Dân vi Quý”
Thứ hai: Đích thân tham khảo ý kiến của các quan lại, các thân hào, nhân sĩ có uy tín để thành lập một chính phủ mới
Thứ ba: Thành lập các hội đồng chuyên môn để mọi người có thể tham gia việc soạn thảo hiến pháp và các sinh hoạt quan trọng của quốc gia
Thứ tư: Ban hành các đạo dụ liên quan đến các quyền tự do cơ bản của người dân
Sau đây là những chi tiết liên hệ tới bốn bước tiến kể trên:
Khẩu hiệu “Dân Vi Quý” của Hoàng Đế Bảo Đại
Đây là khẩu hiệu của vị vua cuối cùng của Nhà Nguyễn mà ai đã từng học sử Việt Nam đều biết và cũng là bước tiến đầu tiên của vị hoàng đế này trên đường thực hiện chế độ dân chủ của ông. Khẩu hiệu này được trích dẫn từ sách Mạnh Tử, một trong Tứ Thư của các Nhà Nho ta thời xưa[1], nguyên văn là “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” có nghĩa là “Dân là quý, sau đó là xã tắc, vua là nhẹ”, được nhà vua chính thức đưa ra trong Dụ Số 1, mở đầu cho một giai đoạn mới trong triều đại của ông. Dụ này được ban hành ngày 17 tháng 3 dương lịch năm 1945, nguyên văn như sau:
Dương Lịch ngày 17 tháng 3 năm 1945
Nước Nhật muốn hoàn toàn thực hiện chương trình sây nền thịnh vượng chung ở Đại-Đông-Á đã giải phóng cho nước Nam ta, và Trẫm tuyên bố Việt Nam độc lập rồi.
Nay Trẫm có trách nhiệm đối với lịch sử và thần dân, nên tự cầm lấy quyền để bảo vệ lấy quyền lợi cho Tổ-quốc và giáng dụ rằng
1) Chế độ chính trị từ nay căn cứ vào khẩu hiệu “DÂN VI QUÍ’
2) Trong chính giới sẽ chiêu tập các nhân tài đích đáng để chỉnh đốn lại nền tảng Quốc gia cho xứng đáng là một nước độc lập chân chính có thể hợp tác với Đại-Nhật-Bản trong công cuộc kiến thiết Đại-Đông-Á.
3) Trẫm sẽ tái định và tuyên bố các cơ quan chính trị để ban hành những phương pháp hợp với nguyện vọng của Quốc dân.
Nhận định về đạo dụ này, Nguyễn Tường Phượng trong bài “Một Đạo Dụ, Một Chế Độ” đăng trên Tri Tân Tạp Chí số ra ngày 20 tháng 4 năm 1945, trên trang đầu, đã viết như sau:
“Ba điều ban bố trên đáng ghi vào lịch sử xứ này, thật là trên thuận lòng giời, dưới đẹp lòng dân, quốc dân rất trông mong ở sự thi hành triệt để khác nào như đói mong ăn và khát mong uống vậy.
“Nếu một khi nhà nước dùng được người tài, đức vẹn hai ra gánh vác, đảm đương những trọng trách, lại thêm vào đấy cái chính sách thân dân, thể tất đến dân nguyện thời nền tảng quốc gia xứ này có thể phục hưng.
“Được như vậy, đạo dụ ngày 17 tháng ba đáng ghi vào trang đầu lịch sử của nước Việt-Nam độc lập.”
Còn Luật Sư Bùi Tường Chiểu, trong bài “Đạo Dụ Số 1 Của Đức Bảo Đại Hoàng Đế” đăng trên Thanh Nghị, số 107, “Số Đặc-San Chính Trị”, ra ngày 5 tháng Năm 1945, cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng đặc biệt của đạo dụ này. Ngay những dòng mở đầu ông viết:
“Đạo dụ trên đối với chế độ chính trị nước ta sau này có một tính cách quan trọng đặc biệt mà ta có thể nói rằng đạo dụ này đã nêu lên một cách tóm tắt những quả quyết rõ ràng những nguyên tắc kiến thiết chính thể nước Việt-Nam sau này.”
rồi nhấn mạnh hơn đến ba chữ Dân Vi Quý, ông phân tích:
“Nay đạo Dụ số 1 đã nêu lên khẩu hiệu Dân vi quí có nghĩa là đức Bảo-Đại đã hủy bỏ cái lý thuyết cũ mà đến nay hầu hết các nước văn minh đã cho là không hợp thời. Đã lấy dân làm trọng, đã lấy quyền lợi dân để trên tất cả thì vua tất chỉ là một cơ quan tối cao trong nước điều khiển những cơ quan chính trị khác để phụng vụ quốc gia, tìm những phương pháp hợp với nguyện vọng của cả quốc dân mà thi hành. Như thế là trong nền chính trị đức Bảo-Đại Hoàng-Đế đã định đặt quốc dân ta đi vào một con đường mới.”
Cuối cùng đi xa hơn nữa, vị luật gia này còn nói tới hiến pháp. Ông viết:
“Xong chúng ta có thể căn cứ vào điều thứ 3 của bản Dụ mà nói rằng đức Bảo-Đại sẽ tuyên bố các cơ quan chính trị mới mà trong câu cơ quan ấy sẽ có một cơ quan có quyền lập pháp. Muốn tổ chức một cách phân minh các cơ quan hành chính, lập pháp và tư pháp, tất nhiên phải có một đạo hiến-luật để ấn định rõ ràng những quyền hành của các cơ quan chính trị.”
Đúng như vậy, Hoàng Đế Bảo Đại sau đó đã từng bước tiến hành những biện pháp mang tính cách dân chủ để xây dựng một thể chế mới với sự đóng góp của nhiều người thay vì của một thiểu số quan lại trong triều. Sau đây là những nét chính của những nỗ lực này.
Đặt nền tảng cho việc xây dựng chế độ mới và sửa soạn cho những công trình tái dựng đất nước lâu dài (sửa lại chính thể và toàn bộ guồng máy chính quyền)
Đặt nền tảng cho việc xây dựng chế độ mới và sửa soạn cho những công trình tái dựng đất nước lâu dài (sửa lại chính thể và toàn bộ guồng máy chính quyền)
Đây là bước tiến thứ hai trong tiến trình xây dựng chế độ dân chủ bằng cách tạo dịp cho người dân mà đại diện là các nhân sĩ, trí thức và chuyên viên các ngành được tham gia việc nước, đồng thời thực hiện khẩu hiệu Dân Vi Quý của Hoàng Đế Bảo Đại. Bước đầu tiên là việc Vua Bảo Đại tham khảo ý kiến các quan lại, trí thức nhằm thành lập chính phủ đầu tiên cho nước Việt Nam độc lập thay thế cho Nội Các Phạm Quỳnh đã từ chức. Với bước tiến thứ hai, vào khoảng từ trung tuần tháng sáu đến thượng tuần tháng bảy, vừa nhằm chiêu dụ nhân tài, vừa nhằm tạo cơ hội cho người dân được góp phần vào việc đặt nền tảng và thiết lập các cơ chế căn bản cho mọi phạm vi sinh hoạt lâu dài của đất nước, bốn hội đồng đã được thành lập qua ba đạo dụ và một đạo sắc. Bốn hội đồng này gồm có:
Hội Đồng Dự Thảo Hiến Pháp, do Phan Anh làm Thuyết Trình Viên gồm có các ông Phan Anh, Hoàng Đạo tức Nguyễn Tường Long, Vũ Đình Hoè, Huỳnh Thúc Kháng, Hồ Tá Khanh, Nguyễn Huy Lai, Đặng Thái Mai, Vương Quang Nhường, Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Văn Sâm, Nhượng Tống, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Văn Thinh và Nguyễn Trác (Dụ số 60 ngày 7 tháng 7 năm 1945. Dụ này được đăng trong Việt Nam Tân Báo số ra ngày 7 tháng 7 năm 1945).
Hội Đồng Cải Cách cai Trị, Tư Pháp và Hành Chính, do Vũ Văn Hiền làm Thuyết Trình Viên, gồm có các ông Vũ Văn Hiền, Trần Văn Ân, Trần Văn Chương, Phạm Khắc Hoè, Lê Quang Hộ, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Văn Khoát, Trần Văn Lý, Trần Đình Nam, Nguyễn Khắc Niêm, Đặng Như Nhơn, Dương Tấn Tài, Nguyễn Hữu Tảo, Trịnh Đình Thảo và Phan Kế Toại (Dụ số 70 ngày 30 tháng 6 năm 1945. Dụ này được đăng trong Việt Nam Tân Báo số ra ngày 9 tháng 7 năm 1945).
Hội Đồng Cải Cách Giáo dục, do Hoàng Xuân Hãn làm Thuyết Trình Viên, gồm có Bà Hoàng Thị Nga, các ông Hoàng Xuân Hãn, Tạ Quang Bửu, Kha Vạng Cân, Nguyên Văn Chi, Hoàng Minh Giám, Nguyễn Thành Giung, Ngụy Như Kontum, Bùi Kỷ, Hồ Văn Ngà, Nguyễn Quang Oánh, Ưng Quả, Nguyễn Mạnh Tường, Hồ Đắc Thắng, Nguyễn Văn Thích, Hoàng Đạo Thúy và Nguyễn Xiển (Dụ số 71 ngày 30 tháng 6 năm 1945. Dụ này được đăng trong Việt Nam Tân Báo số ra ngày 10 tháng 7 năm 1945).
Hội Đồng Thanh Niên. Hội Đồng này gồm có
Chủ Tịch: Hoàng Đạo Thúy
Phó Chủ Tịch: Trần Duy Hưng, Bắc Chi Bộ
Phó Chủ Tịch: Tạ Quang Bửu, Nam Chi Bộ
Cố Vấn Bắc Chi Bộ: Bà Nguyễn Thị Thục Viên, các ông Nguyễn Xiển, Phạm Thành Vinh, Vũ Văn Cẩn, Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Mạnh Hà, Vũ Xuân Phương, Trần Văn Quý, Phan Huy Quát, Ngụy Như Kon-tum, Phạm Ngọc Khuê, Nguyễn Tường Bách.
Cố Vấn Nam Chi Bộ: Bà Nguyễn Đình Chi, các ông Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Thủ, Tôn Quang Phiệt, Kha Vạng Cân, Nguyễn Tư Vinh, Huỳnh Văn Tiểng, Nguyễn Văn Thích, Nguyễn Kinh Chi và Thái Can (Sắc số 65 ngày 15 tháng 6 năm 1945)[2]
Khi đọc danh sách các hội viên được đề nghị tham gia các hội đồng kể trên để trình lên Hoàng Đế Bảo Đại phê duyệt, Phạm Khắc Hoè tỏ ý thắc mắc là có tên những người ông “chưa từng thấy bao giờ” nên đã hỏi Trần Trọng Kim và được Trần Trọng Kim cho biết là các danh sách này “đã được toàn thể Nội các và nhất là các ông bộ trưởng thuyết trình viên đồng ý cả rồi, tuy chưa hỏi được ý kiến của tất cả những người hữu quan, song chắc họ vui lòng nhận cả, vì lúc này ai mà chẳng sẵn sàng ra thờ vua giúp nước” và nói thêm “Vậy ông chịu khó xin Hoàng Đế phê chuẩn đi cho kịp thời, đừng nên hỏi đi hỏi lại nữa.” Kết quả, theo lời Phạm Khắc Hoè, là“chỉ mấy phút sau, bốn dự thảo của nội các trở thành ba đạo dụ và một đạo sắc chính thức.”[3] Những lời đối thoại này cho ta thấy tính cách hữu hiệu và làm việc chạy theo thời gian của Trần Trọng Kim và nội các của ông dù đó mới chỉ là ban hành được những đạo dụ hay đạo sắc để làm nền tảng pháp lý cho những bước kế tiếp trong tương lai. Nó cũng nói lên tính cách hữu hiệu của chế độ quân chủ chuyên chế và sự tin tưởng của Hoàng Đế Bảo Đại vào vị thủ tướng và nội các đương thời, vì bình thường những quyết định liên hệ đến thể chế và những cơ chế tương lai trong một quốc gia dân chủ bình thường không thể nào có thể thực hiện được trong vòng trên dưới hai tháng tính từ ngày Nội Các Trần Trọng Kim họp phiên họp đầu tiên, ngày 8 tháng 5, đến ngày 10 tháng 7, ngày đạo dụ cuối cùng trong bốn đạo sắc dụ này được đệ trình, rồi được vị nguyên thủ quốc gia phê chuẩn trong có“mấy phút sau”. Một thời gian kỷ lục. Cũng nên để ý là các vị bộ trưởng được Trần Trọng Kim nói đến ở đây là Bộ Trưởng Thanh Niên Phan Anh, Bộ Trưởng Tài Chánh Vũ Văn Hiền và Bộ trưởng Giáo Dục và Mỹ thuật Hoàng Xuân Hãn. Cả ba, ngoài bằng cấp chuyên môn, đều là những chuyên viên hàng đầu của Việt Nam thời đó. Họ là những người từ lâu đã tìm hiểu, nghiên cứu và viết những những bài tham khảo bàn về những lãnh vực riêng của mình và là những cây bút nòng cốt của tờ Thanh Nghị, một thứ “think tank” của chính phủ đương thời. Đây cũng là dịp để họ thi thố tài năng và thực thi hoài bão mà từ lâu họ đã từng thai nghén. Cũng nên nhớ là thành ngữ “thờ vua giúp nước” cho đến thời điểm này vẫn chưa trở thành lạc hậu. Thế nhưng họ vẫn bị Phạm Khắc Hoè cản trở và mỉa mai. (Chú thích)
“Tuần lễ của các Tự Do”
Đây là sự ban hành một số những đạo dụ ấn định những nguyên tắc liên hệ đến các quyền tự do căn bản của người dân. Ba đạo dụ sau đây đã được báo Thanh Nghị số 117, ra ngày 21 tháng Bảy năm 1945[4] ghi nhận theo thứ tự thời gian gồm có:
1. Dụ số 73, ngày 26 tháng 5 năm Bảo Đại thứ 20 tức ngày 5 tháng 7 dương lịch năm 1945 về tự do lập nghiệp đoàn.
2. Dụ số 78, ngày 1 tháng 6 năm Bảo Đại thứ 20 tức ngày 9 tháng 7 năm 1945 về tự do lập hội.
3. Dụ số 79, ngày 1 tháng 6 năm Bảo Đại thứ 20 tức ngày 9 tháng 7 năm 1945 về tự do hội họp.
Cả ba đạo dụ này đã được ban hành trong một thời gian ngắn là thượng tuần tháng bảy năm 1945 và Thanh Nghị đã gọi tuần lễ này là “Tuần của các Tự Do.”
Về chi tiết, báo Thanh Nghị tóm tắt như sau:
Tự do lập hội: Từ nay phàm người công dân Việt Nam ai nấy đều có quyền lập những hội có mục đích chính trị, văn hóa, tôn giáo hay xã hội, ngoài những hội có mục đích kiếm lợi. Chỉ cần mục đích của hội không trái với pháp luật, luân lý hoặc là có hại đến nền duy nhất và sự toàn vẹn của lãnh thổ quốc gia. Nhưng cần phải báo trước với nhà chức trách ít nhất là 30 ngày trước khi hoạt động
Muốn phân biệt các hội do đạo Dụ số 78 với các hội có mục đích kiếm lợi phải xét xem các hội viên có chia lãi cho nhau hay không? Nếu chia lãi thì tất phải theo những luật lệ hiện hành về các hội buôn.
Nhiều người hội họp với nhau nhiều lần cũng lại không họp thành một hội vì không có điều lệ để hội viên theo. Cho nên trong tờ khai phải đính theo cả bản điều lệ của hội mình định sáng lập.
Hội có thể tự giải tán (theo điều lệ hay theo ý muốn toàn thể hội viên) hay bị toà án giải tán, nếu mục đích trái với pháp luật, luân lý, hại tới quốc gia, nếu không khai báo cho đúng thể lệ (chưa kể những sự trừng phạt về tội hình những người có trách nhiệm). Tài sản của hội khi đó sẽ phân phát theo điều lệ của hội, theo quyết định của đại hội đồng của hội hay theo lệnh của toà.
Có hai thứ hội: hội thường và hội được Hội Đồng Nội Các công nhận là một hội có ích lợi chung. Hội thường có quyền tố tụng, thu nhập tiền đóng góp của hội viên, có quyền mua, quyền sở hữu và quản lý nhà hội quán, quản trị những bất động sản mà bộ Nội Vụ và Tài Chính cho phép mua. Còn hội được chính quyền công nhận là có ích lợi chung thì ngoài những quyền này còn có quyền được nhận những tặng dữ.
Tự do hội họp: Người dân được quyền tự do hội họp nhưng Dụ số 72 phân biệt hai thứ hội họp là hội họp trong tư gia có tính cách gia đình hay lễ nghi và các hội họp ở những nơi công cộng.
Đối với các hội họp trong gia đình hay lễ nghi hay những hội họp của các hội tư nhóm họp trong tư gia với số người tham dự không quá 30 người, người triệu tập không cần phải khai báo. Các cuộc hội họp khác cũng được tự do nhưng phải khai báo với nhà chức trách. Tất cả các cuộc hội họp ở các nơi công cộng như họp ở ngoài đượng phố, trong các công viên hay các thị xã đều phải xin phép trước. Giờ họp không được quá 12 giờ đêm trừ khi có phép riêng. Ngoài ra một nhân viên hành chánh hay tư pháp cũng có quyền tới dự.
Tự do lập nghiệp đoàn: Việc lập nghiệp đoàn cũng được coi như quyền tự do của người dân với những quy luật được ấn định trong Dụ số 73, theo đó, để tránh không cho những hội kiếm lợi giả danh làm nghiệp đoàn với mục tiêu trốn thuế, các nghiệp đoàn bị cấm không được chia lời cho các đoàn viên và khi giải tán thì của cải không được đem chia cho các đoàn viên. Đồng thời để bảo vệ những người trong nghề, dụ này cấm không cho nghiệp đoàn cưỡng ép những người này phải gia nhập hay bắt đoàn viên phải ở lại trong nghiệp đoàn vĩnh viễn nhưng ngược lại cho phép nghiệp đoàn được từ chối không nhận một người làm đoàn viên theo điều lệ của mình. Mặt khác, nghiệp đoàn có tư cách pháp nhân trong việc bảo vệ các quyền lợi của mình, có quyền sở hữu các động sản hay bất động sản nếu xin phép, có quyền liên kết với nhau để thành lập các liên đoàn và về phía chính quyền, chính quyền có quyền cử nguời kiểm soát việc quản lý tài chánh của nghiệp đoàn hay liên đoàn. Cuối cùng vì nghiệp đoàn là một tổ chức có thể dùng để tranh đấu nên người sáng lập bắt buộc phải có quốc tịch Việt Nam và phải ở trong nghề ít nhất một năm.
Vì ba đạo luật kể trên đã được ban hành trong thượng tuần tháng 7 năm 1945 nên tác giả của bài báo gợi ý gọi tuần lễ này là “Tuần Lễ Của Các Tự Do”. Mặt khác nếu người ta theo dõi những cuộc hội họp của người dân ở cả hai miền Trung và Bắc đã diễn ra liên tiếp từ ngày 10 tháng 3, sau ngày Nhật đảo chánh Pháp, đặc biệt là ở Huế và Hà Nội với hàng vạn người tham dự một cách tự do, thoải mái, thì sự ban hành các đạo dụ này “đã làm hợp pháp một tình trạng riêng của các tỉnh ở Bắc Bộ Việt Nam vì từ sau ngày 9 tháng 3 các hội, các đoàn mọc lên như nấm, các cuộc hội họp công khai tự do vô cùng”.[5]
Kết Luận
Tất cả các công trình lớn lao kể trên đã được Hoàng Đế Bảo Đại, Thủ Tướng Trần Trọng Kim và các vị bộ trưởng trong chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam độc lập trong những hoàn cảnh vô cùng khó khăn và trong một thời gian kỷ lục chưa tới ba tháng ngắn ngủi kể từ ngày 8 tháng 5 khi chính phủ này được trình diện đến ngày 6 tháng 8 năm 1945 khi chính phủ này từ chức và được Hoàng Đế Bảo Đại cho phép, ngắn hơn nữa nếu tính đến ngày 9 tháng 7, ngày các Dụ số 78 về Tự Do Lập Hội và số 79 về Tự Do Hội Họp được nhà vua chấp nhận. Đây là một phần của một cuộc cải cách rộng lớn hơn bao trùm mọi phạm vi sinh hoạt đương thời, gọi theo Sử Gia Na Uy Stein Tonnesson là “từ trên xuống”, còn gọi theo Vũ Ngự Chiêu thì đó là một cuộc cách mạng cũng từ trên xuống: “cách mạng từ trên xuống”. Cả hai sử gia này đều có lý vì tính cách nhanh chóng ít ai có thể ngờ của nó. Câu hỏi được đặt ra ở đây là làm sao nó có thể xảy ra được trong một chế độ quân chủ chuyên chế đã từng tồn tại cả ngàn năm như vậy? Có ba sự kiện người ta có thể nghĩ tới để trả lời câu hỏi này. Đó là ý muốn của người cầm đầu hay đúng hơn vị nguyên thủ quốc gia, ước vọng và khả năng của những người lãnh nhiệm vụ thực hiện cuộc cải cách theo ý muốn của vị nguyên thủ quốc gia ấy và cuối cùng là sự đón nhận của dư luận đương thời. Cả ba sự kiện này Đế QuốcViệt Nam ở thời điểm đương thời đều có đủ. Từ Vua Bảo Đại đến Thủ Tướng Trần Trọng Kim và các vị bộ trưởng đều là những người được huấn luyện đầy đủ, có kiến thức và nhất là có thực tâm, tha thiết với nền độc lập và sự tiến bộ của nước nhà. Điều đáng tiếc là biến cố 19 tháng 8 đã xảy ra, Việt Minh cướp chính quyền và tất cả đều đã bị dẹp bỏ, điển hình là ngày 22 tháng 9 năm 1945, 20 ngày sau khi tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh bãi bỏ các nghiệp đoàn trong toàn cõi Việt Nam[6] và Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ Võ Nguyên Giáp ký NghịĐịnh ngày 14 tháng 9 giải tán Hội Khai Trí Tiến Đức trong khi cùng ngày lại ký một nghị định khác “cấp năng lực pháp luật”[7] cho hội “Văn Hoá Cứu Quốc Việt Nam” (Việt Minh)[8]. Cuối cùng thì sau 70 năm, cho đến tận ngày hôm nay khi bài này được viết, bất chấp mọi sự hy sinh, gian khổ, máu và nước mắt của hàng triệu đồng bào,Tự Do và Dân Chủ, Công Bằng và Bác Ái vẫn nguyên vẹn chỉ là niềm mơ ước hầu như còn lâu mới đạt được của người dân Việt.
Phạm Cao Dương
Viết để tưởng niệm các học giả Trần Trọng Kim,
Hoàng Xuân Hãn, những người đã góp phần xây
dựng nền giáo dục mới cho nước Việt Nam độc lập
và một thế hệ trí thức mới đã đứng ra làm việc nước
[1]Đoàn Trung Còn, dịch giả, Tứ Thư, Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử. Quyển Bảy, “Chương Sau: Tận Tâm”. Huế: Nhà Xuất Bản Thuận Hóa, 2000, tr. 263.- Nguyễn Đức Lân (dịch và chú giải), Tứ
Thư Tập Chú, “Mạnh Tử, ChươngXIV, Tân Tâm, Chương Cú Hạ”. Hà nội: Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin, 1999, tr. 1346.- Nguyễn Hiến Lê, Mạnh Tử. Saigon: Cảo Thơm, 1975; Nhà Xuất Bản Xuân Thu tái bản tại Hoa Kỳ, Los Alamitos, CA, tr. 58. – Phan Bội Châu, Khổng Học Đăng Trọn Bộ. Houston: Xuân Thu tái bản tại Hoa Kỳ, không đề năm, tr. 463.-Bàn về khẩu hiệu này, Phạm Khắc Hoè, Ngự Tiền Tổng Lý Văn Phòng của Vua Bảo Đại và là người thân Việt Minh nằm trong Đại Nội bên cạnh nhà vua cho là do một người nào đó “mớm” cho nhà vua chứ Bảo Đại không thể có ý tưởng đó được. Nhận xét này nhiều phần không đúng nếu ta để ý tới căn bản giáo dục mà Bảo Đại nhận được xuyên qua Phụ Đạo Lê Nhữ Lâm từ hồi ông mới 6 tuổi rồi sau đó theo ông sang Pháp trong suốt thời gian ông ở Pháp để dạy ông về đạo làm vua theo truyền thống Việt Nam trong đó có Khổng Giáo, tiếp theo là những gì ông làm trong thời kỳ cải cách trước đó và những gì ông viết trong hồi ký sau này của ông. Xem thêm Phạm Khắc Hoè, Từ Triều Đình Huế Đến Chiến Khu Việt Bắc. Huế: Nhà Xuất Bản Thuận Hóa, 1987, tr. 22-23.
[2]Phạm Khắc Hoè, Từ Triều Đình Huế…, dẫn trên, tr. 41-43.
[3] - như trên -, tr. 41.
[4]Trong mục “Đời Sống Đông Dương qua bài báo nhan đề“Mấy Đạo Dụ về Tự Do”, tr. 23-25.
[5]- như trên-, tr. 25
[6]Việt Nam Dân Quốc Công Báo, số 2, 6 Tháng Mười 1945, “Mục Lục Công Báo ngày 6 tháng 10 năm 1945”
[7]Tư cách pháp nhân
[8]Việt Nam Dân Quốc Công Báo, dẫn trên.