Saturday, August 22, 2015
SƠN TRUNG * VIỆC HỌC VÀ ĐỌC SÁCH CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
VIỆC HỌC VÀ ĐỌC SÁCH CỦA NGƯỜI VIỆT NAM TA
SƠN TRUNG
Nhân dân ta vốn hiếu học. Dù là nông dân, công nhân cũng kính trọng kẻ sĩ vì người đi học là đi trên con đường trau dồi tài đức để phụng sự quốc gia, xã hội. Dù là ông vua thất học hoặc it học cũng kính trọng kẻ sĩ vì kẻ sĩ là nhân tài của quốc gia..Bởi vậy nhà vua thường xuống chiếu chiêu hiền, và mở các khoa thi chọn hiền tài. Con các công thần và trọng thần được ưu đãi nhưng cũng phải qua các kỳ thi và lớp học mới được bổ dụng. Kẻ sĩ mà thi đỗ thì sớm nhẹ bươc thanh vân. Các cô thiếu nữ hằng mơ ước:
-Chẳng tham ruộng cả ao liền, Tham về cái bút, cái nghiên anh đồ." Và: " Lọng anh đi trước, võng nàng theo sau".
Tuy nhiên, trong nhân dân cũng có kẻ không ưa trí thức:
-Nhất sĩ nhì nông,
Hết gạo chạy rông
Nhất nông nhì sĩ.
-Khuyên ai chớ lấy học trỏ
Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm".
Không phải thi đỗ là giỏi, và có học là có hạnh. Một số là "đậu lạy quan xin":
“Con nên chức phận cha mòn trán, em được khoa danh chị nát đồ”.
Một số đi học bên Pháp bằng cấp cao sang nhưng trong bọn họ chỉ là bằng mua, bằng giả. Bên Pháp cũng như bên Mỹ nghề viết thuê luận án Thạc sĩ, Tiến sĩ không hiếm. Có kẻ bên Tây, bên Mỹ về làm giáo sư đại học hay ông nọ bà kia thực ra chẳng có bằng cấp gì cả bởi vì trường tư bên Pháp, bên Bỉ...cứ nhân đại sinh viên cho xôm tụ, không cần có bằng tú tài, họ cho khất. Vô ra trường đại học nhưng thật sự họ chưa có bằng tú tài. Bằng Tú Tài ngày trước khó lắm. Nhiều ông bà làm bằng gỉả để vào đại học rồi cũng như mánh lới, cũng thi đỗ nọ kia.
Như đã trình bày, một số đi học chỉ vì bằng cấp để kiếm danh lợi. Sau khi thi đỗ, có việc làm thì sống tà tà, chẳng hơi sức đâu mà nghiên cứu, tìm tòi. Viết được một vài quyển sách là quý. Không thấy ai có những sáng kiến về khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật..
Vì đi học lấy lệ cho nên rất it người học hành thật sự. Họ học bài của thầy, cours của thầy là đủ, không cần phải mua sách, muợn sách đọc thêm. Đi thư viện là vì thư viện có chỗ ngồi, có quạt máy và máy lạnh, còn ở nhà ồn ào, chật chội, nóng nực. Ra thư viện cũng có cái thú là gặp bạn bè, tán gẫu với nhau rất vui vẻ.
Nếu đi thư viện đọc sách, thì họ không chịu khó biên chép, họ xé sách mang về nhà. Giáo sư Thanh Lãng sai sinh viên biên chép tài liệu trong thư viện để hoàn thành bộ "Ba Mươi Năm Tranh Luận Văn Học". Ý kiến của Ngài rất hay nhưng có chỗ sai lầm vì các sinh viên lừời biếng, ghi chép cẩu thả , làm dối trá cho xong chuyện, mà Ngài thì không có thì giờ đã đành mà cũng chẳng sai cô thư ký đi thư viện kiểm tra lại cho nên quyển sách của Ngài là tập họp những lười biếng và sai lầm của đám sinh viên thiếu tinh thần trách nhiệm.
Một cái tệ của việc cho mượn sách là sách bị mất hoặc bị xé rách. Không phải riêng tại Việt Nam mà bên Âu Mỹ cũng thế. Charles Nodier , một nhà văn Pháp đã kêu thân:
Tel est le sort du livre emprunté,..
Souvent perdu et toujours maltraité.
Gia đình tôi xưa có một số sách báo. Bà con mượn đọc, đến khi họ trả thì đã bị mất nhiều trang. Bản thân tôi có một quyển truyện do ba tôi ở Saigon gửi về tặng. Tôi đem ra lớp, một câu bạn mượn xem, không trả. Tôi đòi lại thì được bạn trả lời: Mất rồi!
Sau 1975, bạn tôi có tủ sách, được Phan Lạc Tuyên hỏi mượn. Thế là mất tiêu. Ở chế đô cộng sản, sách rất hiếm, phải có giấy phép mới được vào thư viện. Thành thử sống trong chế độ cộng sản, con người càng quý tư hữu. Muốn có tư hữu phải cướp giật thội. Không riêng kinh tế, chính trị, mà văn hóa, giáo dục cũng thế. Nhà trường cho mượn sách giáo khoa nhưng hết niên khóa phải trả lại cho trường. Khi ra trường, sinh viên chỉ có hai bàn tay trắng. Trước khi sống với cộng sản, nghe tin ngoài Bắc sinh viện được nhà nước nuôi, không tốn học phí và tiền sách vở, ai cũng cho là thiên đàng. Sau này mới biết thế là khổ! Nhà nước nuôi thì luôn ăn đói vì sinh viên bị nhiều tầng bóc lột.. Sách giáo khoa trải bao đời, cũ mèm, rách nát, sai lầm thảm hại mà giáo viên không dám sửa chữa vì sợ phạm pháp quy của chế độ!
Người Việt Nam ta trước 1975, một số theo ngành thương nghiệp, công nghiệp. Cha mẹ gầy dựng cơ nghiệp, con cháu thừa hưởng. Cuộc sống nhân dân ta tại miền quốc gia tương đối hạnh phúc. Người nông dân bốn mùa thoc lúa ê hề, sáng chiều chạy ra ruộng cũng bắt được vài con tôm, con cá lóc đủ ăn suốt ngày. Người xich lô buổi trưa ngủ dưới hàng cây xanh, vợ ở nhà bồng con sang hàng xóm đánh tứ sắc. Con nhà giàu, bỏ ra năm sáu cây vàng, sang lại một cửa hàng, thế là cứ hàn hạ lao động và thu lợi. Cuộc sống an nhàn như thế, họ không cần phải lo học, lo thi đỗ để kiếm việc làm. Mấy người cháu, người em họ tôi thắc mắc: "Tại sao dòng họ nhà anh, nhà chú, nhà cậu ai cũng phải lo học?"
Bởi vì một số người Việt Nam ngày xưa coi việc học là con đường tiến thân cũng như bên Âu Mỹ phải đi học, tôi thiểu phải tốt nghiệp trung học mới được nhận vào làm việc. Lẽ dĩ nhiên bưng phở thì không cần bắng cấp.
Nhưng câu hỏi trên cũng là một chân lý. Trước 1975, nếu một tháng không lương, chắc cả nhà tôi chết đói. Nhưng sau 1975, tôi thất nghiệp, mở cửa hàng nhỏ bán gạo, thoc , cám chăn nuôi mà đủ sống ngày ba bữa cháo rau. Thế thì cần gì làm công chức, làm cán bộ, cần gì tranh nhau chức vụ nhỏ nhoi, tầm thường! Trước 1075, đừng coi thường những cô, những bà bán thuốc lá trước rạp xi nê hay đầu ngõ. Thu thập của họ cao gấp mấy những ông thầu khoán ở nhà thuê, đi xe hơi mượn nhưng trong túi không có lấy vài xu.
Chỉ nước ta ngày xưa là không học vẫn sống giàu sang, an nhàn và hạnh phúc. Mất chức về vườn vẫn ung dung vì còn có nhà cửa, ruộng vườn ở thôn quê, đâu cần đến sổ hưu! Sau này ra ngoại quốc, dân ta mới biết ai cũng cần phải học. Ai cũng phải học hết mức phổ thông trung học. Có học mới có việc làm. Phải học tiếng Anh, tiếng Pháp và học nghề. Một số dân Việt ở Paris và California là không cần học ngoại ngữ vì ra khỏi nhà toàn là người Việt. Chánh án, Cảnh sát cũng là người Việt. Tuy nhiên ai cũng phải học ngề, phải thi cử và phải có giấy chứng nhận hành nghề. Làm thợ móng tay ư? Làm thợ cắt tóc ư? Làm thợ may ư? Làm tài xế taxi ư? Phải có văn hóa và bằng cấp chuyện môn cho dù làm nghề đấm bóp! Và xin nói thêm, chỉ ở nước ta là sướng nhất, chỉ văn hóa lớp ba trường làng hay chẳng học hành gì cà mà vẫn làm lãnh tụ, làm lý thuyết gia cộng sản như Hồ Chí Minh, Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Nguyễn Chí Thanh...
Trước 1975, giáo dục tại miền Nam phát triển. Dù chiến tranh, các vị lãnh đạo quốc gia vẫn nghĩ đến gtiáo dục và y tế miễn phí cho nhân dân, còn cộng sản ngày nay, dân không có tiền là chịu dốt và chịu chết.Các lãnh đạo quốc gia hiền từ, không có cái mộng " Đốt cháy Trường Sơn", " đánh cho đến người Việt cuối cùng " cho nên học sinh, sinh viên vẫn được học hành, không phải chịu cảnh 15 tuổi phải ra trận địa. Vì vậy, thanh thiếu niên được học hành, ngoài trừ những người đến tuổi quân dịch.
Bởi vì một số người Việt Nam ngày xưa coi việc học là con đường tiến thân cũng như bên Âu Mỹ phải đi học, tôi thiểu phải tốt nghiệp trung học mới được nhận vào làm việc. Lẽ dĩ nhiên bưng phở thì không cần bắng cấp.
Nhưng câu hỏi trên cũng là một chân lý. Trước 1975, nếu một tháng không lương, chắc cả nhà tôi chết đói. Nhưng sau 1975, tôi thất nghiệp, mở cửa hàng nhỏ bán gạo, thoc , cám chăn nuôi mà đủ sống ngày ba bữa cháo rau. Thế thì cần gì làm công chức, làm cán bộ, cần gì tranh nhau chức vụ nhỏ nhoi, tầm thường! Trước 1075, đừng coi thường những cô, những bà bán thuốc lá trước rạp xi nê hay đầu ngõ. Thu thập của họ cao gấp mấy những ông thầu khoán ở nhà thuê, đi xe hơi mượn nhưng trong túi không có lấy vài xu.
Chỉ nước ta ngày xưa là không học vẫn sống giàu sang, an nhàn và hạnh phúc. Mất chức về vườn vẫn ung dung vì còn có nhà cửa, ruộng vườn ở thôn quê, đâu cần đến sổ hưu! Sau này ra ngoại quốc, dân ta mới biết ai cũng cần phải học. Ai cũng phải học hết mức phổ thông trung học. Có học mới có việc làm. Phải học tiếng Anh, tiếng Pháp và học nghề. Một số dân Việt ở Paris và California là không cần học ngoại ngữ vì ra khỏi nhà toàn là người Việt. Chánh án, Cảnh sát cũng là người Việt. Tuy nhiên ai cũng phải học ngề, phải thi cử và phải có giấy chứng nhận hành nghề. Làm thợ móng tay ư? Làm thợ cắt tóc ư? Làm thợ may ư? Làm tài xế taxi ư? Phải có văn hóa và bằng cấp chuyện môn cho dù làm nghề đấm bóp! Và xin nói thêm, chỉ ở nước ta là sướng nhất, chỉ văn hóa lớp ba trường làng hay chẳng học hành gì cà mà vẫn làm lãnh tụ, làm lý thuyết gia cộng sản như Hồ Chí Minh, Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Nguyễn Chí Thanh...
Trước 1975, giáo dục tại miền Nam phát triển. Dù chiến tranh, các vị lãnh đạo quốc gia vẫn nghĩ đến gtiáo dục và y tế miễn phí cho nhân dân, còn cộng sản ngày nay, dân không có tiền là chịu dốt và chịu chết.Các lãnh đạo quốc gia hiền từ, không có cái mộng " Đốt cháy Trường Sơn", " đánh cho đến người Việt cuối cùng " cho nên học sinh, sinh viên vẫn được học hành, không phải chịu cảnh 15 tuổi phải ra trận địa. Vì vậy, thanh thiếu niên được học hành, ngoài trừ những người đến tuổi quân dịch.
Nền giáo dục Âu Mỵ tạo cho học sinh, sinh viên nhu cầu đọc. Còn giáo dục Việt Cộng chỉ làm cho hoc sinh, sinh viên chán cái trò dối trá, tuyên truyền lường gạt. Ngày nay, sinh viên, học sinh chán môn Văn, môn Sử vì các thầy cô đã theo Cộng sản phá hoại cái Chân, Thiện, Mỹ của Văn và Sử. Lại nữa, người ta học để làm gì vì con cán bộ dốt nát vẫn thi đỗ, mà lại đỗ cao, và dốt vẫn có địa vị cao sang! Thầy giáo , cô giáo, bác sĩ và y tá cũng chán làm việc vì bọn đảng trong nhà trường và bệnh viện ăn hết rồi, chỉ còn vài hột cơm thừa quăng ra cho giáo viên, bác sĩ và y tá,
Thứ nhất thì sợ anh hùng
Thứ nhì sợ cố cùng liều thân.
Cố cùng lúc gay go thì làm liều, còn lúc nắm quyền hành thì cực kỳ hung ác. Đằng nào bọn lưu manh cũng đáng sợ!
Vì thấy sai lầm của chủ nghĩa Mac-Mao, Đặng Tiểu Bình đã dẹp bỏ phần lớn lý thuyết và chính sách cộng sản, ông chủ trương bốn hiện đại hóa mà trong đó khoa học kỹ thuật là then chốt. Đã hiện đại hóa thì phải nhập cảng khoa học kỹ thật Âu Mỹ, chứ không như Tố Hữu và Mao chủ trương lấy sức người " Bàn tay ta làm nên tất cả / Với sức người sỏi đá cũng thành cơm."
Người Việt Nam ta một số theo ngành thương nghiệp, công nghiệp. Cha mẹ gầy dựng cơ nghiệp, con cháu thừa hưởng. Cuộc sống nhân dân ta tại miền quốc gia tương đối hạnh phúc. Người nông dân bốn mùa thoc lúa ê hề, sáng chiều chạy ra ruộng một lát cũng bắt được vài con tôm, con cá lóc đủ ăn suốt ngày. Người xich lô buổi trưa ngủ dưới hàng cây xanh, vợ ở nhà bồng con sang hàng xóm đánh tứ sắc. Con nhà giàu, bỏ ra năm sáu cây vàng, sang lại một cửa hàng, thế là cứ nhàn hạ lao động và thu lợi. Cuộc sống an nhàn như thế, họ không cần phải lo học, lo thi đỗ để kiếm việc làm. Chỉ có nhà nghèo hoặc trung lưu phải lo học để sinh sống và đóng góp với đời. Mấy người cháu, người em họ tôi thắc mắc: "Tại sao dòng họ nhà anh, nhà chú, nhà cậu ai cũng phải lo học?"
Chỉ nước ta ngày xưa là không học vẫn sống giàu sang, an nhàn và hạnh phúc. Chồng là hàn sĩ, quanh năm thơ rượu và thi cử, vợ buôn thúng bán bưng vẫn đủ sống như nhà Tú Xương
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi nấng năm con với một chồng.
Mất chức về vườn vẫn ung dung vì còn có nhà cửa, ruộng vườn ở thôn quê, đâu cần đến sổ hưu! Được như thế là vì không có đảng lãnh đạo và đè đầu bóp cổ. Sau này ra ngoại quốc, dân ta mới biết ai cũng cần phải học. Ai cũng phải học hết mức phổ thông trung học. Có học mới việc làm. Làm thợ móng tay ư? Làm thợ cắt tóc ư? Làm thợ may ư? Làm tài xế taxi ư? Phải có văn hóa và bằng cấp chuyện môn cho dù làm nghề đấm bóp! Và xin nói thêm, chỉ ở nước ta là sướng nhất, chỉ văn hóa lớp ba trường làng hay chẳng học hành gì cà mà vẫn làm lãnh tụ, làm lý thuyết gia cộng sản như Hồ Chí Minh, Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Đỗ Mười, Võ Chí Công, Nguyễn Chí Thanh...
Nền giáo dục Âu Mỵ tạo cho học sinh, sinh viên nhu cầu đọc. Còn giáo dục Việt Cộng chỉ làm cho hoc sinh, sinh viên chán cái trò dối trá, tuyên truyền lường gạt. Ngày nay, sinh viên, học sinh chán môn Văn, môn sử vì các thầy cô đã theo Cộng sản phá hoại cái Chân, cái Mỹ của Văn và Sử. Lại nữa, người ta học để làm gì vì con cán bộ dốt nát vẫn thi đỗ, mà lại đỗ cao, và dốt vẫn có địa vị cao sang!
Một hậu quà khác của chủ nghĩa cộng sản là bùng nổ tư hữu, phát triển lòng tham danh lợi. Cộng sản nay lộ bộ mặt gian trá, tàn ác:
-Cộng sản chủ trương hủy bỏ tư hữu thì sau khi cướp chính quyền, cộng sản ngang nhiên chiếm đoại của công làm tư hữu.
-Cộng sản tuyên bố bình đẳng, dân chủ nhưng thực tế cộng sản phản quốc gia, phản dân chủ, cướp đoạt mọi quyền tự do, dân chủ của nhân sản.
-Cộng sản xưa tự hào là vô sản nhưng sau Đỗ Mười, Nông Đức Mạnh, họ thấy họ thua xa các lãnh đạo quốc tế, ai cũng xuất thân đại học nọ, đại học kia, nhưng Nguyễn Tất Thành, Đỗ Mười,Lê Đức Anh... chỉ có cái vốn vô học, cao lắm chỉ là lớp ba trường làng. Vì sự xấu hổ này, họ quyết phải cải trang thành trí thức. Họ ra nghị quyết trong vài tháng sẽ đẻ ra vài chục ngàn thạc sĩ ,tiến sĩ. Vì vậy mà Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang đều có bằng cử nhân oai ra phết. Nhưng cái thạc sĩ, tiến sĩ này chỉ là đồ mã, đồ chơi cho trẻ con, không ich lợi gì cho quốc gia.
Một nền giáo dục như vậy phải hủy bỏ cùng một lúc với chủ nghĩa cộng sản để xây dựng một quốc gia dân chủ, tự do và phát triển.
Chỉ nước ta ngày xưa là không học vẫn sống giàu sang, an nhàn và hạnh phúc. Chồng là hàn sĩ, quanh năm thơ rượu và thi cử, vợ buôn thúng bán bưng vẫn đủ sống như nhà Tú Xương
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi nấng năm con với một chồng.
Mất chức về vườn vẫn ung dung vì còn có nhà cửa, ruộng vườn ở thôn quê, đâu cần đến sổ hưu! Được như thế là vì không có đảng lãnh đạo và đè đầu bóp cổ. Sau này ra ngoại quốc, dân ta mới biết ai cũng cần phải học. Ai cũng phải học hết mức phổ thông trung học. Có học mới việc làm. Làm thợ móng tay ư? Làm thợ cắt tóc ư? Làm thợ may ư? Làm tài xế taxi ư? Phải có văn hóa và bằng cấp chuyện môn cho dù làm nghề đấm bóp! Và xin nói thêm, chỉ ở nước ta là sướng nhất, chỉ văn hóa lớp ba trường làng hay chẳng học hành gì cà mà vẫn làm lãnh tụ, làm lý thuyết gia cộng sản như Hồ Chí Minh, Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Đỗ Mười, Võ Chí Công, Nguyễn Chí Thanh...
Nền giáo dục Âu Mỵ tạo cho học sinh, sinh viên nhu cầu đọc. Còn giáo dục Việt Cộng chỉ làm cho hoc sinh, sinh viên chán cái trò dối trá, tuyên truyền lường gạt. Ngày nay, sinh viên, học sinh chán môn Văn, môn sử vì các thầy cô đã theo Cộng sản phá hoại cái Chân, cái Mỹ của Văn và Sử. Lại nữa, người ta học để làm gì vì con cán bộ dốt nát vẫn thi đỗ, mà lại đỗ cao, và dốt vẫn có địa vị cao sang!
Một hậu quà khác của chủ nghĩa cộng sản là bùng nổ tư hữu, phát triển lòng tham danh lợi. Cộng sản nay lộ bộ mặt gian trá, tàn ác:
-Cộng sản chủ trương hủy bỏ tư hữu thì sau khi cướp chính quyền, cộng sản ngang nhiên chiếm đoại của công làm tư hữu.
-Cộng sản tuyên bố bình đẳng, dân chủ nhưng thực tế cộng sản phản quốc gia, phản dân chủ, cướp đoạt mọi quyền tự do, dân chủ của nhân sản.
-Cộng sản xưa tự hào là vô sản nhưng sau Đỗ Mười, Nông Đức Mạnh, họ thấy họ thua xa các lãnh đạo quốc tế, ai cũng xuất thân đại học nọ, đại học kia, nhưng Nguyễn Tất Thành, Đỗ Mười,Lê Đức Anh... chỉ có cái vốn vô học, cao lắm chỉ là lớp ba trường làng. Vì sự xấu hổ này, họ quyết phải cải trang thành trí thức. Họ ra nghị quyết trong vài tháng sẽ đẻ ra vài chục ngàn thạc sĩ ,tiến sĩ. Vì vậy mà Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang đều có bằng cử nhân oai ra phết. Nhưng cái thạc sĩ, tiến sĩ này chỉ là đồ mã, đồ chơi cho trẻ con, không ich lợi gì cho quốc gia.
Một nền giáo dục như vậy phải hủy bỏ cùng một lúc với chủ nghĩa cộng sản để xây dựng một quốc gia dân chủ, tự do và phát triển.
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 378
VIỆT CỘNG CHẠY SANG MỸ
Saturday, August 22, 2015
NĂNG KHIẾU * VƯỢT BIỂN
VƯỢT BIỂN BẰNG MÁY BAY
Tác giả: Năng Khiếu
Tác giả hiện là cư dân Westminster, lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ. Bà cho biết tên thật là Trần Năng Khiếu, đến Mỹ năm 1994, theo diện H.O. Đã đi làm cho đến năm 2012, và hiện giờ đang nghỉ hưu. Mong bà tiếp tục viết.
* * *
Người người, nhà nhà tại Việt Nam vẫn đang tìm mọi cách cho con em thoát khỏi đất nước mình. Không bằng thuyền, bằng đường bộ như xưa, nay là lúc vượt biên bằng bằng máy bay. Đó là những gì mà tôi được nghe khi còn ở trong nước.
Những con số bi thảm dễ thấy nhất là hàng trăm ngàn bạn gái từ các miền sông nước đã phải gạt nước mắt để trở thành “món hàng cô dâu Việt Nam” cho những tổ chức mai mối ăn chia với bọn cầm quyền bán sang các nước lân bang. Lịch sử từ cổ tới kim chưa có thời đại nào mà tệ hại như vậy.
Đám bạn tôi đứa thì đi theo diện kết hôn với Việt kiều do người thân, quen ở nước ngoài mai mối, đứa thì vô Facebook kết bạn rồi làm quen, hẹn gặp rồi nên duyên cầm sắt. Riêng tôi đến Mỹ theo diện đi du học.
Hồi trước nói đến đi du học là chuyện hiếm hoi. Phải cỡ con cán lớn, hoặc giám đốc công ty lớn, mới đủ sức đóng tiền ăn, tiền học cho con tại Mỹ. Nhưng bây giờ tình hình đã có khác.
Theo tin báo chí thì cuối năm 1990, mới có hơn 1.500 sinh viên Việt Nam du học tại Mỹ, nhưng tăng trưởng đều đặn kể từ đó. Vào niên khóa 2012 – 2013 số sinh viên Việt Nam theo học ở Mỹ là 16.098 người. Có lẽ tới bây giờ con số đó đã cao hơn nhiều.
Theo tin báo chí thì cuối năm 1990, mới có hơn 1.500 sinh viên Việt Nam du học tại Mỹ, nhưng tăng trưởng đều đặn kể từ đó. Vào niên khóa 2012 – 2013 số sinh viên Việt Nam theo học ở Mỹ là 16.098 người. Có lẽ tới bây giờ con số đó đã cao hơn nhiều.
Thống kê năm 2013 của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo trong nước thì có khoảng 125.000 học sinh, sinh viên đang theo học ở nước ngoài như: Australia, France, Germany, Japan, Singapore, Taiwan, Russia v.v… Con số này tăng khoảng 15% cho mỗi năm.
Sở dĩ có sự tăng đều đều này là vì thời kinh tế thị trường, món hồ sơ du học đã thành thứ dịch vụ làm ra tiền. Cứ có đủ hai - ba ngàn đô cống nạp cho dịch vụ là công ty môi giới sẽ lo đủ các loại giấy tờ đúng theo điều kiện cần thiết, mà các trường Đại Học bên Mỹ yêu cầu.
Giấy tờ nhà bank ư? Chỉ cần mươi triệu Việt Nam sẽ có ngay giấy xác nhận tài khoản trong ngân hàng của cha mẹ, thành năm, sáu trăm triệu. Rồi giấy chứng nhận tài chánh, từ một cửa hàng nho nhỏ biến thành cơ sở kinh doanh lớn thu nhập cả chục triệu một tháng. Họ bảo đảm khi nào đến Mỹ nhập học xong, sẽ rút ra êm xuôi, không sợ ai điều tra gì ráo trọi. Thế là bà con rỉ tai nhau dịch vụ chỗ này tốt hơn chỗ kia, đua nhau như thời vượt biển thập niên 1980 kéo nhau đi mua bến mua bãi. Xưa đi bằng tàu thuyền cũng đã tính bằng “cây”. Nay vượt biên bằng máy bay an toàn hơn, tính bằng đô la bạc ngàn là phải rồi. Thế là các bậc cha mẹ lại cầm nhà, mượn nợ, hốt hụi non, lấy tiền cho con đi du học, vì hy vọng qua đến Mỹ vừa đi học vừa đi làm, cũng dư sức đóng tiền học, (lầm to). Nhờ vậy mà con nhà phó thường dân như tôi cũng bon chen đi du học tại Mỹ được.
Thế là cuối hè năm 2008, vừa tròn 20 tuổi tôi đặt chân đến Mỹ với niềm háo hức, nhất là khi xuống đến phi trường LAX để làm thủ tục nhập cảnh, tôi được các nhân viên Hải Quan tiếp đón với thái độ lịch thiệp, người nào cũng sẵn sàng nở nụ cười rạng rỡ trên môi, mà các cán bộ nhà nước tại phi trường Việt Nam ít khi bắt gặp. Tôi “hồ hởi” về sự văn minh và giầu có hiện ra trước mắt với muôn vàn ánh đèn màu về đêm, với hệ thống Freeway “cực kỳ” tối tân, với những đoàn xe hơi nối đuôi nhau trùng điệp.
Trước khi đi bố tôi đã liên lạc với cô chú tôi ở thành phố Anaheim, ông là Pilot đến Mỹ từ năm 1975, nên tôi may mắn được cô chú đón về tận nhà. Tôi học ở trường Golden west College nghành y tá, số tiền mẹ cho đem theo, sau khi đóng tiền học một mùa là ba tháng hết 3.500 Đô chưa kể tiền insurance sức khỏe, tôi chỉ còn cầm trong tay một ngàn Đô, không đủ mua một chiếc xe cũ. Tôi phải đi học bằng xe bus, từ nhà cô đến trạm xe bus phải đi bộ 15 phút, nên ngày nào tôi cũng lật đật chạy cho kịp chuyến xe, ngồi thêm gần một tiếng nữa mới đến trường. Cali nắng ấm, nhưng cái lạnh mùa đông cũng buốt giá lắm, các bạn ạ.
Cô chú tôi có ba người con, hai trai đã có gia đình và ở riêng, còn cô chú đang sống với gia đình người con gái út, rể và hai cháu ngoại, nhưng ai cũng bận rộn, người thì đi làm kẻ thì đi học, không ai có thì giờ chở giùm, tôi cứ lầm lũi đi sớm về trễ chẳng ai quan tâm. Thỉnh thoảng chỉ có chú hỏi thăm, và kể cho tôi nghe về những ngày gia đình mới định cư tại Mỹ, vừa đi làm, vừa đi học, mọi người đều tất bật từ sáng sớm cho đến tối với công việc của mình, vì thế tuy sống chung một nhà, nhưng ít gặp mặt để nói chuyện với nhau, ngoài giờ ăn ngồi chung một bàn, đứng lên là ai vào phòng nấy. Chú còn thật thà cho biết nhờ có chương trình An Sinh Xã Hội của Chính Phủ, nên các em mới học hành thành đạt như ngày nay.
Nhìn vẻ mặt lạnh lùng của cô, bưng bát cơm ăn mà tôi thấy nghẹn ngào, tủi thân. Nhng cũng không trách được, vì từ nhỏ đến lớn cô cháu bây giờ mới gặp nhau nên tình thân thiết không có mấy. Nhà cô có thói quen cơm nấu bữa nào ăn bữa nấy, ngày nào tôi muốn mang cơm theo, nửa đêm phải len lén dậy, lấy hộp nhựa bới cơm để dành sáng mai đi học ăn, nhưng không dám mang hộp về. Sau này tôi mua sẵn hộp mút, sau khi ăn xong thủ tiêu luôn.
Số tôi cũng xui, vì gặp lúc cô đang căng thẳng với việc kinh doanh địa ốc, nhà cửa, bất động sản, đang thời xuống dốc. Bố mẹ tôi, khi đẩy tôi qua đây để nhờ cô chú lo cho ăn học, đó là bắt cô chú phải chịu một gánh nặng, vì ở Mỹ này không ai nuôi ai, ngay cả con cái cũng tự lập từ lúc 18 tuổi, và tôi phải hiểu rằng, ở Mỹ cuộc sống vật chất thì tiện nghi, thực phẩm thì dư thừa, nhưng tình cảm luôn thiếu thốn (mà vật chất thì không biết nói).
Hiểu được như vậy tôi không còn cảm thấy cô độc và lạc lõng nơi xứ người, mà tự nhủ, mình phải mạnh mẽ lên để vượt qua “Con phụ rẫy là con nên thân” mà. Từ ngày ấy tôi quen dần với nếp sống tự lo, tự sắp xếp cho cuộc đời của mình. Nhớ những ngày được nuông chiều trong vòng tay bố mẹ, nhớ những con tôm ram cõng muối, bát canh cua đồng nóng hổi, mỗi lúc đông về, mẹ thường nhắc nhở mình mặc thêm áo lạnh, tự dưng chạnh lòng cảm thấy nhớ nhà kinh khủng. Tôi viết lên sự thật này không phải để trách, mà để cám ơn cô, vì cô đã tập cho tôi làm quen với những khó khăn, để khỏi ngỡ ngàng chênh vênh khi bước chân ra đời.
Mấy tháng sau đó, tôi quen được các bạn du học có hòan cảnh như tôi, và theo các bạn đi xin việc làm, nhưng hỡi ôi diện du học như chúng tôi, không được phép đi làm, nên chỉ có các nhà hàng, tiệm ăn, tiệm phở, tiệm bánh, mới mướn chúng tôi làm “chui” rồi ếm giá tối đa, phải làm cật lực, làm luôn tay, bị giám sát khắt khe, hở ra là họ đuổi không thương tiếc. Cuối cùng tôi cũng tìm được việc làm ba ngày cuối tuần trong một tiệm hủ tíu vùng Bolsa, với việc phụ bếp, như nhặt hành, rửa rau, rửa chén, lau chùi bếp và đổ rác. Làm từ sáng tới chiều hơn mười tiếng, được 50 Đô, qúa vất vả, nhưng tại đây tôi quen với một bác đầu bếp, bác nhận tôi làm con nuôi, và tôi theo con gái bác đi học nghề nail.
Sau khi lấy được bằng nail tôi kiếm tiền dễ hơn, bắt đầu nhìn thấy ánh sáng cuối đường hầm. Thời gian trôi qua thật nhanh, cuối tuần tôi ngụp lặn trong nghề nail để có tiền trang trải cuộc sống, tôi mua một chiếc xe cũ, làm phương tiện đi lại. Rồi hai, ba năm lại trôi qua, đầu tuần đến trường đi học, và cuối tuần đi làm nail, để gồng mình nhẫn nhịn khi phải tranh giành khách với những người kém mình, và chịu đựng những lời chê bai của chủ.
Ở trường học, tôi phải mất vài tháng mới quen với nhịp độ học, trên giảng đường tôi phải cố gắng giỏng tai, căng mắt để hiểu thầy giáo đang nói gì, thời gian học ở lớp không nhiều, nhưng khi về nhà phải tự học và tìm tài liệu cho những bài mình đang học. Để lấy được tấm bằng tốt nghiệp thật không đơn giản chút nào, vì tôi không thể theo học liên tục, nên sức học của tôi yếu hẳn và tôi mất tự tin nơi trường học. Nhưng càng ngày tôi càng vững tay nghề hơn ở tiệm nail, tôi mạnh dạn để nói chuyện và làm vừa lòng khách hàng hơn, nên tạm thời tôi phải chọn nghề nail.
Rồi tôi cũng đến lúc phải lập gia đình, để có một mái ấm. Tôi không còn chọn lựa nào khác, nhờ bạn bè mai mối tôi đã kết hôn với anh. Chồng tôi làm nghề lái xe truck xuyên bang. Tôi có cảm giác như anh không phải là nửa kia của tôi, vì anh khác tôi như hai thái cực, có lẽ là luật bù trừ mà ông Trời đã định. Nhưng nhờ anh tốt bụng, tánh tình lại ngay thẳng thành thật, nên chúng tôi cũng tìm được hạnh phúc.
Nhìn những người bạn du học sinh may mắn hơn tôi, khi những người thân thương yêu, cha mẹ có đủ tài chánh, được giúp đỡ tận tình, nên họ thành công về học vấn và đường hôn nhân, tìm được người xứng đôi vừa lứa. Cũng có bạn khi tốt nghiệp với số điểm cao, được các hãng xưởng tại Mỹ nhận vào làm trả lương năm (Annual salary), tôi mừng cho họ.
Nhớ lại, lúc phái đoàn Mỹ phỏng vấn hay tại quê nhà, nếu có ai hỏi chúng tôi, sau khi tốt nghiệp anh / chị chọn quay về Việt Nam hay làm việc ở nước ngoài?... thì chúng tôi đều trả lời, sẽ quay về Việt Nam (Ngu sao mà nói ở lại). Nhưng thực tế bạn bè tôi trai hay gái đã đến được Mỹ, nếu có điều kiện phần đông đều muốn ở lại, chỉ trừ con các cán bộ cao cấp, có sẵn những chỗ ngồi ngon lành đang chờ họ về để nối ngôi cha nơi quê nhà, thì đương nhiên họ sẽ chọn về Việt Nam. Cũng có một số con các đại gia, gốc đảng viên, phải “đứng mũi chịu sào” cho cha mẹ chuyển tiền qua Mỹ, mua cơ ngơi sẵn, để dưỡng già mai sau. Thế là chúng tôi tìm đủ cách để ở lại, có đứa làm hôn thú thật, có đứa giả.
Thế hệ chúng tôi được sinh ra sau 1975 sống dưới chế độ XHCN Cộng Sản cái gì cũng “chui” quen rồi, nên mấy vụ luồn lách này nhằm nhò gì, phải không các bạn (thông cảm nghe).
Viết tới đây tôi chợt nhận ra, mình đi du học không phải chỉ để mở mang kiến thức, hay lấy được mảnh bằng, mà chính là nó giúp mình hiểu hơn thế nào là nhân quyền, và biết so sánh cuộc sống tự do ở Mỹ, với thể chế độc quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản.
Nhìn về quê hương mình không khỏi thất vọng cho xã hội Việt Nam ngày nay, sự thờ ơ về giáo dục và nạn tham nhũng tràn lan. Tôi nhớ nhất là mỗi mùa thi chúng tôi bất mãn vì nạn học tài thi lý lịch, gian lận thi cử, hối lộ ngay tại sân trường. Trong khi đó thì bằng cấp giả tạo, nhiều không đếm xuể, có thống kê với con số hơn 23 ngàn giáo sư, thạc sĩ, tíến sĩ, cao học chỉ để các quan làm cảnh, còn trí thức thật thì bị bạc đãi. Những sai lầm đầy ngập trong sách giáo khoa do Bộ Giáo Dục và Đào tạo của Cộng Sản Việt Nam, độc quyền in ấn phát hành, đã làm đạo lý suy đồi.
Vì thế hệ chúng tôi sinh sau đẻ muộn, tại trường học không có các bài công dân giáo dục, như thời cha mẹ trước 1975. Muốn tồn tại, chúng tôi phải kết nạp vào Đoàn Thanh Niên Cộng Sản, để đứng tuyên thệ trước ảnh Bác, phải học các bài chính trị nhàm chán, các bài đạo đức cách mạng chết tiệt, nên mất cả phép tắc lễ nghĩa khi giao tiếp, không biết đến người khác, chỉ biết phần mình. Để không bị đạp xuống, chúng tôi phải chen lấn cãi vã, ăn nói thô tục, chửi thề độc địa không để kém ai. Đó là thứ phản xạ tự nhiên vì ảnh hưởng cái “di họa” văn hóa Cộng Sản kéo dài gần nửa thế kỷ trên quê hương. Ấy thế mà nó còn theo chúng tôi du học qua tới Mỹ.
Hồi mới qua tôi phải đi học bằng xe bus, và xấu hổ khi gặp một nhóm bạn du học như tôi cùng chen lên trước, không nhường ghế cho người già, không biết get line là gì, và ý ới gọi nhau trước sự khó chịu của các hành khách. Tội nghiệp chúng tôi những kẻ sinh ra và lớn lên trong thời Xã Hội Chủ Nghĩa Cộng Sản, phải gánh lấy cái gia tài thổ tả ấy. Tất cả các bạn du sinh chắc cũng như tôi, phải khó khăn vất vả lắm khi cố gắng xóa bỏ những vết tích kỳ cục của nó.
Dù sao, tôi nhận ra rằng, những khó khăn gian khổ, những thử thách ban đầu, chỉ là tạm thời trên bước đường thành công “có chí thì nên” là vậy.
Không biết trong tương lai rồi mình sẽ làm được gì, cuộc sống sung túc ra sao, nhưng ngay trong khoảnh khắc này, tôi cảm thấy lạc quan về cuộc sống bình yên, và đầy hy vọng trên một đất nước tự do -Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Năng Khiếu
CHUYỆN LẠ BỐN PHƯƠNG
Thứ 7, 10:22, 22/08/2015
Giới săn lùng kho báu và những người hiếu kỳ đang “phát cuồng” trước tin đã tìm thấy đoàn tàu chở vàng bạc châu báu trị giá 30 tỷ USD ở Ba Lan.
Suốt mấy ngày nay, thị trấn yên bình Wałbrzych, tây nam Ba Lan, trở nên náo động khi hàng trăm người từ khắp châu Âu đổ về với hy vọng kiếm phần, hoặc ít nhất là chứng kiến tận mắt một kho báu được truyền miệng suốt 70 năm qua.
Tướng Dwight Eisenhower, Tư lệnh quân Đồng minh, kiểm tra những thùng vàng tịch thu của Đức Quốc xã năm 1945 - Ảnh: AFP |
Tướng Dwight Eisenhower, Tư lệnh quân Đồng minh, kiểm tra những thùng vàng tịch thu của Đức Quốc xã năm 1945 - Ảnh: AFP
Theo Reuters, tất cả xuất phát từ một thông tin nghe như kịch bản phim phiêu lưu của Hollywood: 2 công dân Đức và Ba Lan giấu tên tuyên bố đã tìm được đoàn xe lửa chất đầy vàng thỏi, châu ngọc và các tác phẩm nghệ thuật vô giá do Đức Quốc xã cất giấu từ năm 1945.
Đoàn tàu 30 tỷ USD
Trên các diễn đàn của giới săn kho báu tràn ngập thông tin về đoàn tàu với những mô tả rất chi tiết. Theo đó, xe lửa dài khoảng 150 m, chở theo 300 tấn vàng, châu báu, tranh tượng do quân Đức cướp bóc từ Wroclaw, thành phố lớn thứ tư của Ba Lan. Khi Hồng quân Liên Xô áp sát Wroclaw vào giai đoạn cuối Thế chiến 2, giới tướng lĩnh quân đội Đức Quốc xã vội vã ra lệnh chất số của cải lên tàu đi tẩu tán.
Đoàn tàu này được bọc thép và thuộc về lực lượng Wehrmacht. Vì thế, nó còn chở theo một lượng lớn vũ khí và “nhiều thiết bị công nghệ kỳ lạ”. Đài phát thanh Wroclaw dẫn một câu chuyện được truyền miệng từ sau Thế chiến 2 nói đoàn tàu hỏa tiến vào một đường hầm nằm sâu trong vùng núi non hiểm trở ở Wałbrzyc và biến mất từ đó. Đường hầm sau đó bị niêm phong và vị trí của nó đã bị lãng quên từ lâu.
Theo tờ Gazeta Wyborzca, nhiều người khẳng định số của cải trên đoàn tàu bí ẩn có giá trị “lên đến khoảng 30 tỷ USD”. Giới chức Walbrzych hôm qua xác nhận đã nhận được thư từ công ty luật, tự xưng là đại diện của 2 người đàn ông nói trên và khẳng định thân chủ của mình đã tìm được kho báu trong truyền thuyết và muốn nhận 10% tổng giá trị theo luật Ba Lan. Chính quyền không nói rõ là họ có được cung cấp vị trí của đoàn tàu hay không, nhưng một nguồn nặc danh khẳng định nó nằm ở độ sâu 70 m bên dưới một trạm xe lửa đã bỏ hoang tại Walim, cách nội ô Wałbrzych khoảng 15 km về hướng đông nam.
“Các luật sư, quân đội, cảnh sát và sở cứu hỏa đang xử lý vấn đề này. Chúng tôi vẫn chưa rõ có thể tìm được cái gì hay không”, một quan chức địa phương tên Marika Tokarska cho Reuters hay.
Nguy hiểm chực chờ
Trong lúc chính quyền địa phương đang xử lý thông tin trên một cách thận trọng thì Wałbrzych liên tục đón những “vị khách không mời” từ khắp nơi kéo về. Giới hữu trách đã tức tốc thành lập một ủy ban xử lý tình huống khẩn cấp và kêu gọi không nên tự ý đào bới các đường hầm trong vùng vì nguy cơ cháy nổ, rò rỉ khí độc cũng như khả năng trúng mìn còn sót lại từ chiến tranh. Tờ Gazeta Wyborcza dẫn lời Chủ tịch Hội đồng thành phố Jacek Cichura cảnh báo: “Nếu đoàn tàu trên thực sự tồn tại, xác suất nó bị gài mìn là rất cao”.
Bên cạnh đó, hầu hết các chuyên gia đều tỏ ra nghi ngờ về sự tồn tại của kho báu. Một trong những nghi vấn được đặt ra là làm sao một đoàn tàu lớn như vậy lại có thể “bốc hơi” trong 70 năm mà chẳng để lại bất cứ dấu vết gì. Tuy nhiên, cũng có nhiều người rất tin tưởng. Tờ Daily Mail dẫn lời một cư dân địa phương tên Krzysztof Szpakowski nói: “Biết đâu được! Nhiều khi 2 người vừa tìm được kho báu là con cháu những người lính tham gia nhiệm vụ che giấu năm xưa thì sao?”.
Sở dĩ huyền thoại về “đoàn tàu vàng” vẫn tiếp tục tồn tại vì trên thực tế, Đức Quốc xã từng dùng xe lửa chuyên chở tài sản cướp đoạt về Berlin, trong thời điểm đứng trước thất bại. Trong thời điểm cuối năm 1944 và năm 1945, quân Đồng minh từng chặn được một số đoàn tàu của Wehrmacht chở đầy vàng bạc và những tác phẩm nghệ thuật có giá trị cướp bóc từ Ba Lan hay Hungary, theo AP.
Những kho báu mất tích khác
Kho báu mất tích nổi tiếng nhất trong Thế chiến 2 là Phòng hổ phách. Đây là một căn phòng rộng 55 m2 với toàn bộ tường và trần được dát hổ phách và trang hoàng bằng những vật dụng, tác phẩm nghệ thuật giá trị nhất. Phòng hổ phách được vua Phổ Friedrich Wilhelm I tặng Nga hoàng Pyotr I năm 1716 và sau đó bị quân Đức tháo dỡ mang về Königsberg (nay là TP.Kaliningrad của Nga) vào năm 1941. Toàn bộ Phòng hổ phách biến mất vào cuối Thế chiến 2 và đến nay tung tích của nó vẫn là một trong những bí mật lớn nhất lịch sử. Theo các chuyên gia, giá trị của Phòng hổ phách hiện được đánh giá vào khoảng 390 triệu USD.
Một huyền thoại khác là kho báu Yamashita, nơi một lượng lớn của cải do tướng Nhật Bản Tomoyuki Yamashita (bị xử tử năm 1946 vì tội ác chiến tranh) chôn giấu tại Philippines. Theo truyền thuyết, trong lúc vận chuyển vàng bạc châu báu do quân Nhật cướp bóc tại Đông Nam Á về nước cuối năm 1944, lực lượng của tướng Yamashita chạm trán tàu của quân Đồng minh và ông ta quyết định giấu kho báu trên lãnh thổ Philippines. Tuy nhiên, nếu sự tồn tại của Phòng hổ phách đã được xác nhận thì hầu hết các chuyên gia đều bác bỏ kho báu Yamashita và hàng trăm cuộc tìm kiếm suốt 70 năm qua không mang lại bất cứ kết quả nào./.
Thiếu úy Biệt kích Shaye Haver (giữa) và Đại úy Kristen Griest (phải) chụp hình trong lễ tốt nghiệp khóa huấn luyện biệt kích.
Thiếu úy Biệt kích Shaye Haver (giữa) và Đại úy Kristen Griest (phải) chụp hình trong lễ tốt nghiệp khóa huấn luyện biệt kích.
Hai phụ nữ đạt thành tích lịch sử là những nữ quân nhân đầu tiên tốt nghiệp trường Biệt kích tinh nhuệ của quân đội Hoa Kỳ.
Các biệt kích quân chỉ chiếm khoảng 3% lực lượng hiện dịch của quân đội. Như khẩu hiệu ở Fort Benning trong tiểu bang Georgia đã cảnh báo, chương trình này “không dành cho những người người yếu sức hay yếu tim”.
60% binh sĩ được chọn theo học khóa huấn luyện sẽ không theo được trọn khóa học. Lớp tốt nghiệp biệt kích ngày thứ Sáu này khởi sự với 364 học viên, nhưng chỉ có 94 thanh niên và 2 phụ nữ tốt nghiệp.
Khóa sinh vừa tốt nghiệp, nữ Đại úy Kristen Griest nói: “Quả thực bạn không có được một ngày nghỉ. Bạn gần như không được mệt mỏi. Bạn phải luôn cố gắng thêm”.
Các trở ngại tuần này qua tuần khác trắc nghiệm sức mạnh thể chất và tâm thần ngày cũng như đêm. Sau khi vượt qua cuộc trắc nghiệm gay go về thể lực, các quân nhân phải vượt qua được nhiều tuần lễ tập luyện trong rừng, trong núi và đầm lầy trước khi được mang lon biệt kích. Nhưng nữ Thiếu úy Biệt kích Shaye Haver, người phụ nữ thứ nhì làm nên lịch sử tại lễ tốt nghiệp ngày thứ Sáu này, nói cô “vào học với chí quyết thắng”.
Cùng tiêu chuẩn
Hai nữ khóa sinh tốt nghiệp phải vượt qua cùng những tiêu chuẩn như các nam khóa sinh để được đeo lon Biệt kích. Trong các tiêu chuẩn ấy, có việc phải đeo những gánh nặng ngang nhau, hoàn tất các công tác với cùng một thời lượng và đòi hỏi sự tán đồng của các bạn đồng khóa trong các bài tập lãnh đạo.
Đại úy Kristen Griest trong khóa huấn luyện để trở thành biệt kích.
Trung úy Erickson Krogh nói: “Tôi không cần biết là nam hay nữ, nếu mang lon Biệt kích, tôi muốn họ đứng cạnh tôi, và hai nữ khóa sinh này đã tự chứng tỏ họ có thể phục vụ bên cạnh tôi vào bất cứ khi nào bởi vì tôi biết tôi có thể tin tưởng vào họ, và tôi hy vọng họ có thể tin vào tôi”.
Thành công của họ đang gây ra một biến chuyển trong xã hội, theo bà Katherine Kidder thuộc Trung Tâm An ninh Mới của Mỹ. Bà nói: “Sự kiện này thực sự là một thách thức đối với giả thuyết cho rằng phụ nữ không thể cạnh tranh, và tôi nghĩ nó cũng chứng tỏ có khả năng thực sự cho sự thay đổi về văn hóa”.
Sẽ có thêm phụ nữ theo khóa học này để tìm cách trở thành Biệt kích vào tháng 11.
Phụ nữ tác chiến
Sự đột phá diễn ra vào lúc quân đội đang nghiên cứu liệu có hòa nhập phụ nữ vào các vai trò trước đây thường chỉ dành cho nam giới hay không. Theo các luật hiện hành, hai nữ khóa sinh tốt nghiệp có thể được mang lon Biệt kích nhưng không được thực sự phục vụ trong tư cách Biệt kích ngoài chiến trường.
Đến ngày 1 tháng 10, những người đứng đầu các dịch vụ quân đội sẽ phải quyết định các nhiệm vụ tác chiến nào vẫn sẽ không được dành cho các nữ quân nhân. Bộ trưởng Quốc phòng Ash Carter cho các phóng viên tại Ngũ Giác Đài biết như thế hôm thứ Năm. Ông yêu cầu phải có giấy tờ biện minh cho mọi việc miễn trừ.
Ông Carter nói: “Chính sách của Bộ (Quốc phòng) là tất cả các vị trí tác chiến trên bộ sẽ được mở cho phụ nữ trừ phi việc phân tích rành rẽ các dữ liệu thực tế cho thấy các vị trí đó phải được hạn chế”.
Quyết định đó sẽ rất quan trọng đối với cô Griest, vì cô nói với các phóng viên tại Fort Benning hôm qua rằng cô muốn tham gia lực lượng đặc biệt của Lục quân.
Đại tá David Fivecoat, Tư lệnh Lữ đoàn Huấn luyện Biệt động và Không quân, nói: “Mỗi một quân nhân đều phải được có cơ hội đến và theo học trường Biệt kích. Hai phụ nữ này là những người đầu tiên đến và đã hội đủ tất cả các tiêu chuẩn, và trong tương lai, nếu Quân đội quyết định, chúng tôi sẽ rất vui mừng nhìn thấy có thêm phụ nữ”.
http://www.voatiengviet.com/content/cac-phu-nu-dau-tien-tot-nghiep-truong-biet-kich-tinh-nhue/2927178.html
Gặp gỡ hai nữ biệt kích đầu tiên của quân đội Mỹ
Sau khi kết thúc khóa huấn luyện thể chất khắc nghiệt, Đại úy Kristen Griest và Trung úy Shaye Haver là hai nữ quân nhân tại Mỹ nhận bằng tốt nghiệp của trường đào tạo biệt kích (Ranger School) vào ngày hôm nay (21/8).
>> Đặc nhiệm SEAL của Hải quân Mỹ sẽ tuyển "bóng hồng"
>> Nhóm "bóng hồng" quyết tâm ngăn chặn "giấc mơ lên thiên đường" của IS
Nữ quân nhân uống máu rắn hổ mang trong một buổi huấn luyện sống sót thuộc cuộc tập trận “Hổ mang vàng 2013”.
Cả hai cô gái đều mong muốn cống hiến sức mình vào công cuộc bảo vệ đất nước. Griest bày tỏ “Tôi cảm thấy mình có thể đóng góp như những người đàn ông” trong khi đó Haver chia sẻ “cảm thấy hạnh phúc tuyệt vời khi là một phần của lịch sử”.
Nhiều học viên cùng lớp cho biết hai người phụ nữ này đều sẵn sàng thực hiện những nhiệm vụ khó khăn tưởng như chỉ dành cho đàn ông trong suốt thời gian huấn luyện. Đại tướng Austin S. Miller – người đứng đầu Trung tâm Huấn luyện Diễn tập quân đội Mỹ cho hay “không hề có bất kì sự thiên vị hay thay đổi nào trong chương trình huấn luyện dành cho nữ quân nhân. Cả hai học viên nữ này đều đảm bảo được đủ khả năng về mặt thể chất cũng như tinh thần hoàn thành nhiệm vụ khóa học”.
Theo tờ Washington Post, Trung úy Haver trước đây là vận động viên trong nhóm chạy việt dã của trường trung học. Tính cách của Haver được bạn bè, đồng nghiệp và cấp trên miêu tả là người tự tin, dám nói lên chính kiến của mình. Bên cạnh đó cô cũng có tố chất lãnh đạo.
Trái ngược với Haver, Griest là một người bình tĩnh, trầm lặng và khiêm tốn. Tuy nhiên cô cũng rất mạnh mẽ. Ưu điểm của Griest là khả năng lập kế hoạch, mọi chi tiết đều được vạch ra rõ ràng, gắn kết chặt chẽ, xuyên suốt.
Tổng thống Barack Obama năm 2013 đã đề nghị các đơn vị của lực lượng vũ trang phải tạo điều kiện cho phụ nữ trực tiếp tham gia chiến đấu từ năm 2016. Kể từ đó, các cơ sở quân sự đều mở lớp tiếp nhận các nữ học viên.
Lầu Năm góc miêu tả Trường đào tạo Biệt kích là nơi đào tạo khả năng chiến đấu và lãnh đạo hàng đầu quân đội Hoa Kỳ, trong đó học viên phải học cách vượt qua nỗi mệt mỏi, căng thẳng, đói khát để dẫn đầu đơn vị thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu quy mô nhỏ.
Một khóa huấn luyện kéo dài 62 ngày bao gồm bài tập kiểm tra thể chất 49 lần chống đẩy, 59 lần đứng lên ngồi xuống, chạy tốc độ 8 km trong vòng 40 phút, 6 lần kéo xà đơn, thi bơi, kiểm tra kỹ năng định vị trên mặt đất, đi hành quân 19 km trong 3 giờ đồng hồ, 4 ngày huấn luyện trên núi, 3 lần nhảy dù, 4 cuộc diễn tập tấn công từ trên không và 27 ngày tuần tra chiến đấu.
Tuy nhiên, hiện hai lính nữ biệt kích này vẫn không thể gia nhập trung đoàn biệt kích nổi tiếng “Ranger 75” như các học viên nam khác. Lầu Năm góc cho đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có quyết định cuối cùng về vai trò chiến đấu của các nữ quân nhân. Giới chức quân sự Mỹ cho rằng họ không mong đợi số lượng lớn nữ binh sỹ đảm nhiệm một số nhiệm vụ đặc biệt nguy hiểm.
TÌNH YÊU KHÔNG BIẾN DẠNG
Trong khi những người khác chỉ nhìn thấy những vết sẹo chằng chịt khắp nơi, đôi mắt anh lại chỉ nhìn thấy duy nhất người con gái mình yêu. “Cô ấy vẫn là Turia. Cô ấy vẫn là con người. Làn da của cô ấy bị biến dạng những cô ấy vẫn là người con gái mà tôi yêu”.
Turia Pitt bị bỏng nghiêm trọng trong một vụ cháy rừng, những vết bỏng tưởng chừng như có thể giết chết cô. Dù phải tập đi, tập nói, tập cầm nắm mọi thứ trong đau đớn như một em bé sau hàng trăm ca phẫu thuật, cô đã hồi phục một cách đáng kinh ngạc nhờ vào quyết tâm sắt đá của chính mình cũng như tình yêu dịu dàng và sự hỗ trợ không mệt mỏi của người bạn trai, người yêu - anh Michael Hoskin.
Biến cố khủng khiếp
Turia và 5 vận động viên khác tham gia một giải chạy việt dã bị mắc kẹt trong một đám cháy quét qua vùng Kimberly thuộc miền Tây nước Úc vào ngày 2 tháng 9 năm 2011.
“Tôi nhớ khi mình đang chạy lên một ngọn đồi và nghe tiếng la hét hỏa hoạn. Tôi trèo xuống một đám đất trũng và kéo áo khoác kín người, nhưng nó mau chóng nóng rẫy và tôi bắt đầu nhảy lên cho đỡ bỏng thì khi đó lửa bắt vào người. Tôi nhìn xuống đôi tay đang bốc cháy và chỉ biết sợ hãi kêu cứu”.
Sau khi chờ đợi 4 giờ đồng hồ để được giải cứu, trực thăng đưa Turia đến khoa Bỏng, bệnh viện Hoàng gia của Darwin. Michael Hoskin - bạn trai của Turia - lúc đó đang làm việc ở Sydney đã đón chuyến bay sớm nhất để đến bên cạnh bạn gái.
Khi anh tới nơi, Turia trong suy nghĩ của nhiều người đang nằm chờ chết. Trong tình trạng hôn mê, 64% cơ thể bị bỏng sâu, Turia như bị sưng phồng và gần như không thể nhận ra cô ấy sau nhiều lớp băng bó.
“Ý nghĩ Turia đang nằm chờ chết quá sức chịu đựng của tôi. Tôi cứ tự nói với bản thân mình rằng, cô ấy còn sống, đó là tất cả. Nếu có ai đó, người có thể vượt qua nghịch cảnh như thế này, người đó chính là Turia. Tôi cũng biết rằng cô ấy cần tôi tin tưởng vào điều đó. Tôi phải lạc quan vì cô ấy nhiều nhất có thể và cho cả chính tôi nữa.
Niềm tin của Michael đã được đền đáp. Sau ca phẫu thuật thập tử nhất sinh, tình hình của Turia dần dần ổn định. Các bác sĩ nói với anh rằng, cô ấy chắc chắn sẽ sống nhưng sẽ là một hành trình dài đầy đau đớn để có được bất kỳ hồi phục nào.
Turia đã trải qua 18 ca đại phẫu thuật, hàng chục ca cấy ghép da. Cô cũng có hơn 100 tiểu phẫu khác nhau và trải qua hơn 6 tháng liên tục trong bệnh viện và vẫn đang trong giai đoạn phục hồi chức năng.
Cô mất hầu hết các ngón tay, mất mũi và vùng da cấy ghép cô sử dụng trong những lần phẫu thuật thường xuyên đau đớn.
Tình yêu dịu dàng
Trước tai nạn, Turia có một cuộc sống dường như là hoàn hảo. Sau khi tốt nghiệp trung học, Turia bắt đầu học đại học, với sự chăm chỉ của mình cô trở thành học giả Rio Tinto và tốt nghiệp loại giỏi. Cô từng làm người mẫu và vào thời điểm tai nạn xảy ra, Turia đang là kỹ sư làm việc cho mỏ kim cương Argyle.
“Tôi xinh đẹp, thông minh, có một người yêu tuyệt vời, những người bạn tuyệt vời, tôi có một công việc tốt với mức lương không tồi”. Cũng phải mất khá lâu tôi mới biết điều gì thực sự xảy ra với mình. Tôi phải học lại từ đầu để quay về cuộc sống - tập đi, tập nói - tất cả những điều tôi coi là đương nhiên mình biết thì giờ dường như trở thành những nhiệm vụ bất khả thi. Phải hai năm sau vụ tai nạn, tôi mới đủ tự tin để lộ khuôn mặt và cánh tay trước mọi người”. Tôi nhận ra rằng: người ta có thể thất vọng trong chốc lát, nhưng không thể mang đau đớn theo mình mỗi ngày. Cuộc đời có thể chia cho bạn những quân bài xấu, nhưng chơi với chúng như thế nào mới là quan trọng”.
Đó là tinh thần ko gì dập tắt được vẫn song hành cùng Turia và động lực cho sự hồi phục kỳ diệu của Turia chính là mối tình với Michael.
Tình yêu của Michael dành cho người bạn gái của mình rõ mồn một trong từng khoảnh khắc. Từ cách Michael dịu dàng nâng khuôn mặt dày sẹo của Turia trên đôi tay mình, vén những lọn tóc tối màu để nhìn sâu vào đôi mắt mở to, màu xanh lá cây - nơi duy nhất trên khuôn mặt của Turia ngọn lửa đã không thể chạm tới. Khi anh nói về bạn gái của mình: “Đôi mắt của Turia thật đẹp. Mỗi khi tôi nhìn sâu vào đôi mắt ấy, tôi nhìn thấy cô gái mà mình yêu thương, cô gái mà sức mạnh, sự kiên cường đã khiến tôi kinh ngạc. Với tôi, cô ấy có nghị lực hiếm thấy của con người”.
Cả khi anh chăm sóc Turia. Michael đã ở bên cạnh Turia trong suốt cuộc chiến sinh tử để giành lại sự sống cho cô sau biến cố khủng khiếp. Anh đọc thơ, đọc tiểu thuyết kinh điển cho cô nghe khi cô hôn mê sâu. Không một phút nào anh nghĩ sẽ từ bỏ tình yêu, sự hỗ trợ và hy sinh dành cho cô gái trẻ đang đối mặt với thách thức khủng khiếp, một bi kịch hằn lên cơ thể cô ấy những vết sẹo nhiều đến mức người quen không còn nhận ra cô ấy là ai.
Không khi nào anh dao động niềm tin rằng họ sẽ ở bên nhau như bao cặp đôi khác. “Cô ấy vẫn là Turia. Cô ấy vẫn là con người. Làn da của cô ấy bị biến dạng những cô ấy vẫn là người con gái mà tôi yêu”.
“Tôi vẫn có những tháng ngày cảm thấy mình xấu xí và cảm giác ấy quật ngã tôi nhưng may mắn thay tôi có Michael. Những lời yêu thương dịu dàng của Michael luôn được tôi chờ đợi và chúng như lời thần chú dành cho tôi vậy. Anh ấy ở bên cạnh tôi, từng phút một, từng ngày một, giúp đỡ tôi, khuyến khích tôi, khen ngợi tôi. Ngay cả khi tôi trải qua những tháng ngày đen tối nhất trong bệnh viện, tự hỏi chính mình “Tại sao lại cứu sống tôi để làm gì chứ?” thì tôi biết rằng, anh ấy ở đó là vì tôi.
Tương lai là đám cưới và những đứa con
Turia chia sẻ: “Tôi yêu cái cách “chúng tôi không bao giờ cãi vã nhau". Điều đó không phải để nói rằng, nó thật dễ dàng hoặc chúng tôi không bất đồng lúc này lúc khác nhưng chúng tôi luôn cố gắng để giải quyết mọi việc.
Mọi người nói, chúng tôi có một tình yêu tuyệt vời và tôi nghĩ là họ đúng nhưng đầu tiên và quan trọng nhất nó phải dựa trên một sự thật rằng chúng tôi là những người bạn. Tất nhiên, chúng tôi yêu nhau, nhưng tình bạn đã cùng chúng tôi đi qua những ngày gian khó. Michael là người bạn tốt nhất. Tai ương có thể giúp con người đến thật gần nhau hoặc đẩy họ ra xa nhau. Đối với chúng tôi, chúng tôi cảm thấy gần nhau hơn bao giờ hết”.
Michael và Turia đã bàn đến đám cưới và nó được đặt trong danh sách những ưu tiên hàng đầu, hiện tại, họ tập trung vào phục hồi chức năng và giành lại một vài điều bình thường của cuộc sống trước đây.
Gia đình và những đứa trẻ, cả hai đều nằm trong kế hoạch tương lai của họ.
“Tôi có thể tức giận, nhưng tôi biết rằng, nó chẳng dẫn tôi đến bất cứ đâu. Tôi biết nó cũng chẳng thể thay đổi những điều đã xảy ra hoặc trả lại cho tôi cơ thể ban đầu. Nhưng tôi mạnh mẽ hơn mỗi ngày và với sức mạnh mỗi ngày tôi có được ấy, tôi càng cảm thấy giống Turia của ngày xưa, tôi càng cảm thấy đó là tôi thực sự. Tôi có cả một cuộc đời phía trước. Tôi đang sống cuộc đời đó - ngay thời điểm hiện tại này đây - với Michael người đàn ông tôi yêu".
Turia từng khiến dân mạng nước Úc nghiêng ngả với vẻ đẹp của khuôn mặt, làn da nâu bóng mịn, ba vòng gợi cảm và thân hình quyến rũ.
Sau khi gặp tai nạn và làn da bị hủy hoại, Turia từng suy sụp tinh thần. Cô có thể đã không vượt qua được nếu không có người bạn trai ở bên.
Anh luôn yêu thương cô như thể cô chưa từng có sự biến đổi nào về nhan sắc.
Nhờ đó, Turia đã tự tin hơn. Cô vẫn thường xuyên xuất hiện trong các sự kiện, vẫn chụp ảnh thời trang
Cô vẫn tập luyện đều đặn để giữ gìn vóc dáng. Thật may, phần bụng của cô không bị ảnh hưởng và cô vẫn có thể sinh con.
Turia từng gây sốc khi tự tin xuất hiện trên trang bìa tạp chí nổi tiếng.
Turia Pitt bị bỏng nghiêm trọng trong một vụ cháy rừng, những vết bỏng tưởng chừng như có thể giết chết cô. Dù phải tập đi, tập nói, tập cầm nắm mọi thứ trong đau đớn như một em bé sau hàng trăm ca phẫu thuật, cô đã hồi phục một cách đáng kinh ngạc nhờ vào quyết tâm sắt đá của chính mình cũng như tình yêu dịu dàng và sự hỗ trợ không mệt mỏi của người bạn trai, người yêu - anh Michael Hoskin.
Turia Pitt trước khi bị tai nạn |
Turia và 5 vận động viên khác tham gia một giải chạy việt dã bị mắc kẹt trong một đám cháy quét qua vùng Kimberly thuộc miền Tây nước Úc vào ngày 2 tháng 9 năm 2011.
“Tôi nhớ khi mình đang chạy lên một ngọn đồi và nghe tiếng la hét hỏa hoạn. Tôi trèo xuống một đám đất trũng và kéo áo khoác kín người, nhưng nó mau chóng nóng rẫy và tôi bắt đầu nhảy lên cho đỡ bỏng thì khi đó lửa bắt vào người. Tôi nhìn xuống đôi tay đang bốc cháy và chỉ biết sợ hãi kêu cứu”.
Sau khi chờ đợi 4 giờ đồng hồ để được giải cứu, trực thăng đưa Turia đến khoa Bỏng, bệnh viện Hoàng gia của Darwin. Michael Hoskin - bạn trai của Turia - lúc đó đang làm việc ở Sydney đã đón chuyến bay sớm nhất để đến bên cạnh bạn gái.
Khi anh tới nơi, Turia trong suy nghĩ của nhiều người đang nằm chờ chết. Trong tình trạng hôn mê, 64% cơ thể bị bỏng sâu, Turia như bị sưng phồng và gần như không thể nhận ra cô ấy sau nhiều lớp băng bó.
“Ý nghĩ Turia đang nằm chờ chết quá sức chịu đựng của tôi. Tôi cứ tự nói với bản thân mình rằng, cô ấy còn sống, đó là tất cả. Nếu có ai đó, người có thể vượt qua nghịch cảnh như thế này, người đó chính là Turia. Tôi cũng biết rằng cô ấy cần tôi tin tưởng vào điều đó. Tôi phải lạc quan vì cô ấy nhiều nhất có thể và cho cả chính tôi nữa.
Michael và Turia |
Turia đã trải qua 18 ca đại phẫu thuật, hàng chục ca cấy ghép da. Cô cũng có hơn 100 tiểu phẫu khác nhau và trải qua hơn 6 tháng liên tục trong bệnh viện và vẫn đang trong giai đoạn phục hồi chức năng.
Cô mất hầu hết các ngón tay, mất mũi và vùng da cấy ghép cô sử dụng trong những lần phẫu thuật thường xuyên đau đớn.
Tình yêu dịu dàng
Turia sau khi bị bỏng |
“Tôi xinh đẹp, thông minh, có một người yêu tuyệt vời, những người bạn tuyệt vời, tôi có một công việc tốt với mức lương không tồi”. Cũng phải mất khá lâu tôi mới biết điều gì thực sự xảy ra với mình. Tôi phải học lại từ đầu để quay về cuộc sống - tập đi, tập nói - tất cả những điều tôi coi là đương nhiên mình biết thì giờ dường như trở thành những nhiệm vụ bất khả thi. Phải hai năm sau vụ tai nạn, tôi mới đủ tự tin để lộ khuôn mặt và cánh tay trước mọi người”. Tôi nhận ra rằng: người ta có thể thất vọng trong chốc lát, nhưng không thể mang đau đớn theo mình mỗi ngày. Cuộc đời có thể chia cho bạn những quân bài xấu, nhưng chơi với chúng như thế nào mới là quan trọng”.
Đó là tinh thần ko gì dập tắt được vẫn song hành cùng Turia và động lực cho sự hồi phục kỳ diệu của Turia chính là mối tình với Michael.
Tình yêu của Michael dành cho người bạn gái của mình rõ mồn một trong từng khoảnh khắc. Từ cách Michael dịu dàng nâng khuôn mặt dày sẹo của Turia trên đôi tay mình, vén những lọn tóc tối màu để nhìn sâu vào đôi mắt mở to, màu xanh lá cây - nơi duy nhất trên khuôn mặt của Turia ngọn lửa đã không thể chạm tới. Khi anh nói về bạn gái của mình: “Đôi mắt của Turia thật đẹp. Mỗi khi tôi nhìn sâu vào đôi mắt ấy, tôi nhìn thấy cô gái mà mình yêu thương, cô gái mà sức mạnh, sự kiên cường đã khiến tôi kinh ngạc. Với tôi, cô ấy có nghị lực hiếm thấy của con người”.
Cả khi anh chăm sóc Turia. Michael đã ở bên cạnh Turia trong suốt cuộc chiến sinh tử để giành lại sự sống cho cô sau biến cố khủng khiếp. Anh đọc thơ, đọc tiểu thuyết kinh điển cho cô nghe khi cô hôn mê sâu. Không một phút nào anh nghĩ sẽ từ bỏ tình yêu, sự hỗ trợ và hy sinh dành cho cô gái trẻ đang đối mặt với thách thức khủng khiếp, một bi kịch hằn lên cơ thể cô ấy những vết sẹo nhiều đến mức người quen không còn nhận ra cô ấy là ai.
Không khi nào anh dao động niềm tin rằng họ sẽ ở bên nhau như bao cặp đôi khác. “Cô ấy vẫn là Turia. Cô ấy vẫn là con người. Làn da của cô ấy bị biến dạng những cô ấy vẫn là người con gái mà tôi yêu”.
“Tôi vẫn có những tháng ngày cảm thấy mình xấu xí và cảm giác ấy quật ngã tôi nhưng may mắn thay tôi có Michael. Những lời yêu thương dịu dàng của Michael luôn được tôi chờ đợi và chúng như lời thần chú dành cho tôi vậy. Anh ấy ở bên cạnh tôi, từng phút một, từng ngày một, giúp đỡ tôi, khuyến khích tôi, khen ngợi tôi. Ngay cả khi tôi trải qua những tháng ngày đen tối nhất trong bệnh viện, tự hỏi chính mình “Tại sao lại cứu sống tôi để làm gì chứ?” thì tôi biết rằng, anh ấy ở đó là vì tôi.
Tương lai là đám cưới và những đứa con
Mọi người nói, chúng tôi có một tình yêu tuyệt vời và tôi nghĩ là họ đúng nhưng đầu tiên và quan trọng nhất nó phải dựa trên một sự thật rằng chúng tôi là những người bạn. Tất nhiên, chúng tôi yêu nhau, nhưng tình bạn đã cùng chúng tôi đi qua những ngày gian khó. Michael là người bạn tốt nhất. Tai ương có thể giúp con người đến thật gần nhau hoặc đẩy họ ra xa nhau. Đối với chúng tôi, chúng tôi cảm thấy gần nhau hơn bao giờ hết”.
Michael và Turia đã bàn đến đám cưới và nó được đặt trong danh sách những ưu tiên hàng đầu, hiện tại, họ tập trung vào phục hồi chức năng và giành lại một vài điều bình thường của cuộc sống trước đây.
Gia đình và những đứa trẻ, cả hai đều nằm trong kế hoạch tương lai của họ.
“Tôi có thể tức giận, nhưng tôi biết rằng, nó chẳng dẫn tôi đến bất cứ đâu. Tôi biết nó cũng chẳng thể thay đổi những điều đã xảy ra hoặc trả lại cho tôi cơ thể ban đầu. Nhưng tôi mạnh mẽ hơn mỗi ngày và với sức mạnh mỗi ngày tôi có được ấy, tôi càng cảm thấy giống Turia của ngày xưa, tôi càng cảm thấy đó là tôi thực sự. Tôi có cả một cuộc đời phía trước. Tôi đang sống cuộc đời đó - ngay thời điểm hiện tại này đây - với Michael người đàn ông tôi yêu".
- facebook
- Google+
- twitter
- facebook
- Google+
- twitter
- Thuong Sobey (dịch và tổng hợp)
PHẠM TÍN AN NINH * CUNG VĨNH VIỄN
Cung Vĩnh Viễn
Tôi quen Long từ lúc còn trong quân trường. Hai thằng có nhiều thứ khác nhau. Cái tên Nguyễn Vĩnh Long của nó cũng đủ làm cho tôi cảm thấy cách xa nó đến cả… vài trăm cây số. Nó cao lêu ngêu, tôi thuộc loại chỉ đủ thước tấc đi lính. Mỗi lần xếp hàng diễn hành hát bài Đường Trường Xa, nó cầm cờ đi hàng đầu, còn tôi ách ê hàng áp chót. Tôi ăn nói vụng về nên thường thầm lặng còn nó thì giỏi lý sự nên nói hơi nhiều. Cái giọng nam bộ của nó thường mở đầu bằng mấy tiếng chửi thề, nên tôi ngại nói chuyện với nó. Dường như hai thằng chỉ có một điều giống nhau duy nhất : Con nhà nghèo, gia đình lại ở quá xa, cho nên những ngày cuối tuần, hai thằng đều mồ côi tại chỗ. Không ngờ chính cái điều giống nhau duy nhất ấy mà sau này hai thằng trở thành bạn chí thân
Quả thật là nó có nhiều thứ khác tôi, nói cho đúng là có nhiều cái hơn tôi. Ra trường nó đỗ cao, được chọn về quân trường Đồng Đế, ngay tại quê tôi, làm huấn luyện viên, còn tôi thuộc loại “lè phè” nên phải ra làm trung đội trưởng ở một sư đoàn tận trên cao nguyên xa tít mịt mùng.
Sống xa nhau, nhưng cứ mỗi lần về phép, hoặc có dịp dẫn quân qua thành phố Nha Trang là tôi ghé lại thăm nó. Có khi ở chơi với nó cả tuần.
Hoạn lộ của Long coi bộ thênh thang hơn tôi nhiều lắm. Phải nói thật là nó có tài, chứ không hề chạy chọt, hay nhờ vã một ai. Làm huấn luyện viên, cán bộ, chỉ một thời gian ngắn, nó được rút về làm Trưởng Phòng, rồi lên Trưởng Khối. Chức vụ cao, cứ theo bản cấp số, nó lên lon lên lá vù vù. Còn tôi quanh năm đánh đấm, nằm núi lội rừng, thương tích mấy lần cũng chỉ được mấy cái huy chương, mà chẳng có dịp nào đeo trên nắp túi áo làm oai với mấy cô em gái hậu phương.
Chỉ sau mấy năm, nó đã lên đến quan ba. Tôi về phép đúng lúc ăn khao. Nó dặn dò tôi hai tháng nữa, cố gắng dọt về đây làm phụ rể cho nó. Nó lấy vợ. Nghe nói vợ nó là trưởng nữ của một nhà giàu nên đám cưới sẽ linh đình ghê lắm. Hai tháng sau tôi đang đóng quân ở Lâm Đồng, năn nỉ ông Tiểu đòan trưởng xin ba ngày phép, theo trực thăng của Phi Đoàn Thần Tượng 215 biệt phái, bay về NhaTrang mừng đám cưới thằng bạn chí thân. Vào nhà nó trong cư xá khi trời sắp tối. Cửa đóng im ỉm.
Tôi vào cổng quân trường hỏi sĩ quan trực. Ông cho biết Long đang còn ở trong văn phòng.
- Cái thằng này, lúc nào cũng gương mẫu. Ngày mai cưới vợ mà bây giờ còn cặm cụi làm việc. Hèn gì nó cứ lên lon lên chức là phải. Tôi nghĩ thầm trong bụng.
Đẩy cửa vào văn phòng, thấy nó đang nằm dài trên bàn, mặt mày thiểu nảo. Tôi có linh tính là ngày mai tôi không có cái vinh dự được làm phụ rể. Nó không nói năng gì và cũng chẳng đưa tôi về cư xá mà lái xe chở tôi chạy một vòng xuống quán số 5 dưới bờ biển Nha Trang, uống mấy lon bia trút mọi điều ẩn ức:
- Đ.M. bà già dịch của con bồ tao không chịu gả con gái cho tao.
Lâu rồi, tôi mới nghe lại cái giọng chửi thề ngày xưa của nó. Tôi trố mắt nhìn nó chờ lời giải thích.
- Mày biết không, ông già tao với mấy bà dì từ Vĩnh Long khăn gói ra đây. Sợ không môn đăng hộ đối, tao phải nhờ ông đại tá chỉ huy phó dẫn nhà trai đến nói chuyện với ông bà. Ông chồng thì vui vẻ tay bắt mặt mừng, tao thấy đời cũng còn lên hương. Tới lúc mọi người đứng vào vị trí “thao diễn nghỉ”, bà vợ mới nghiêm mặt phán cho một câu làm tao muốn xỉu luôn tại chỗ.
- Câu gì mà ghê gớm như lời chúc tết của “bác ” trước tết Mậu Thân vậy ? Tôi đùa.
- Bà hỏi ông già tao: Ông hỏi con trai của ông, là lương tháng của cậu có đủ cho con gái tôi mua xà phòng giặt quần lót nó hay không mà đòi cưới với hỏi.
Có vài lần đi chơi chung với Long và cô vợ.. hụt này. Nàng trông cũng dễ thương, gốc Bắc Kỳ 54, nên giọng Hà Thành còn “ngàn năm văn vật” lắm. Cha mẹ cô là chủ một hảng thầu có máu mặt ở Nha Trang, nàng thì học xong tú tài thì theo nghiệp mẹ cha, kinh doanh, làm chủ mấy tiệm may, mấy cái sạp vải trong chợ Đầm, và còn làm thêm cái nghề tay trái là thầu cung cấp lễ phục cho khóa sinh trường Đồng Đế. Chính cái nghề phụ này mà cô nàng gặp và mết Long, một trưởng phòng trẻ tuổi cao ráo đẹp trai. Qua mấy năm tình yêu còn mặn nồng hơn nước biển Nha Trang, nhưng biết bà mẹ chê lính nghèo, nên nàng không dám mở lời. Cuối cùng thì nàng năn nỉ ông già. Cái đám hỏi là do chính ông đưa đường chỉ lối. Ông hiền lành tốt bụng, nhưng kẹt là mọi việc bà vợ đều nắm quyền. Mà đã là vợ nắm quyền thì cái nhà sẽ trở thành vô phúc. Tôi đã từng nghĩ, miền Nam sụp đổ cũng có sự góp phần không nhỏ của những bà vợ mấy ông lớn ưa nắm quyền chồng.
Sau đám hỏi bất thành, ông già nó trở về Vĩnh Long, buồn và tủi thân nên bệnh cả mấy tháng trời. Nó bảo là vẫn nặng tình với cô con gái, nhưng rất hận bà già Bắc kỳ giết giặc.
Tôi lên mặt dạy “chiến thuật” cho nó :
- Mày là lính văn phòng mà còn bị chê, cở tao là lính tác chiến thì chắc chỉ phải đứng xa ngoài cửa. Tao như mày thì một là áp dụng chiến thuật “tiền pháo hậu xung”, còn nếu mày thấy con tim chưa đến nỗi lao đao, thì cứ tìm mục tiêu khác ngon lành hơn mà “đột kích”. Mày là lính, đừng để mất mặt KBC.
Nó đập vai tôi cười méo mó.
Không biết có phải nhờ nó áp dụng “triệt để” bài học chiến thuật tôi dạy lần trước, nên vừa “đột kích”được mục tiêu nào mới, mà chỉ gần ba tháng sau nó lại nhờ một anh bạn phi công Sao Mai L 19 từ Nhatrang lên bao vùng liên lạc nhắn tôi trên tần số không lục : Ninh Kiều hạ san gấp ăn đám cưới củaVictor Lima ở tango hai lần Delta ( ám danh đàm thoại có nghĩa là Vĩnh Long ở trường Đồng Đế). Báo hại lần này tôi phải nói dối với ông Chiến đoàn trưởng một lần nữa, để bỏ rừng theo trực thăng vù về thành phố biển.
Nó đón tôi ở phi trường. Vừa gặp nó tôi đã “biểu dương thành tích” :
- Tao phục mày. Tao là dân đánh đấm mà cũng chưa chiếm được mục tiêu mới trong vòng ba tháng, nhất là sau một lần chiến bại còn thương tích đầy mình. Mày mà ra cầm quân chắc cũng đã là “đại bàng”của tao từ lâu rồi.
Nó đấm vào bụng tôi một cái :
- Mục tiêu mục tiết cái con khỉ. Tao áp dụng chiến thuật “tiền pháo hậu xung” của mày đó.
Tôi tròn mắt :
- Tao còn phục tài mày hơn nữa. Cái gì mày cũng đáng là “sư phụ “của tao.
Đám cưới vội vã, nhưng cũng linh đình. Có lẽ vì thế giá của ông bà thầu khoán. Chỉ có điều đại diện bên nhà trai chỉ toàn là lính. Cha của Long thương thằng con, nhưng còn hận đời đen bạc nên đành “vắng mặt có lý do”.
Sáu tháng sau tôi về phép ghé thăm. Vợ chồng nó vẫn ở trong khu cư xá, nhưng được cấp ưu tiên một căn rộng và khang trang hơn. Trong nhà bày biện sang trọng. Gặp tôi bất ngờ nó mừng ra mặt, vì đúng lúc nó tổ chức ăn khao lên lon và lên chức, nhưng lần này là chức… Cha, vì vợ nó vừa sinh đứa con trai đầu lòng. Niềm vui của nó còn lớn hơn khi cha nó lặn lội từ Vĩnh Long ra thăm để được bồng thằng cháu đích tôn. Nó nâng thằng con lên khoe với mọi người :
- Như vậy là tao cũng báo hiếu được cho ông già, vì sau này cũng có người bưng hình cho ổng.
Có người không hiểu hỏi bưng hình làm gì. Nó giải thích : ” là khi nào ông già tao qui tiên, nó bưng hình ổng đi trước quan tài đó “. Tôi thúc tay vào hông nó, bảo đừng nói điều gỡ.
Chia tay, tôi nắm chặt tay hai vợ chồng nó :
- Mừng cho ông bà, tài lộc gì có đủ rồi đó nghe. Trong đám bạn nghèo, mày là thằng số một đó nghe Long.
Hai vợ chồng ôm lấy tôi cười rạng rỡ.
Sau cái ngày ăn mừng “chiến thắng” của nó, thì trên chiến trường thực sự của tôi lại bắt đầu sôi động. Từ Sông Mao, đơn vị tôi di chuyển khẩn cấp lên An Khê vào đúng chiều ba mươi tết. Đánh một trận thần tốc, giải tỏa mấy cái chốt ở đèo An Khê xong là trực chỉ lên phi trường Pleiku để không vận lên Kontum, giữa “mùa hè đỏ lửa”.
Đầu tháng 3/75,sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, tôi được theo BTL Tiền Phương về Nha Trang trong kế hoạch tái chiếm thành phố đất đỏ “bụi mù trời” này. Tôi ghé thăm vợ chồng Long một lần vội vã, nhưng chỉ gặp nó, còn vợ con thì phải “di tản” về ở với ông bà già ở đường Độc Lâp Nha Trang.
Một tuần sau, những người đầu tiên sống sót từ dòng người di tản theo tỉnh lộ 7B về đến Nha Trang mang không khí hốt hoảng bao trùm lên thành phố biển. Long liên lạc tôi qua tần số vô tuyến, hẹn gặp gấp trước cổng Grand Hotel, đang được xử dụng làm BTL tiền phương QĐII.Trên xe vừa bước xuống, nó bảo tôi đi với nó tới Nam Việt Ngân Hàng ở góc đường Độc Lâp – Nhà Thờ, dẫn theo một tiểu đội lính.
Tôi vừa được trung tâm hành quân cho hay: một số tù trong quân lao vừa phá cổng thoát ra ngoài, nên nghĩ ngay đến chuyện có cướp ở ngân hàng. Tôi bảo nó :
- Lính tráng trong tình trạng ứng chiến, muốn đi đâu phải xin lệnh. Để tao vào nói với ông Tham Mưu Phó Hành Quân.
Nó ngăn tôi lại, ghé miệng vào tai tôi nói nhỏ :
- Tao nhờ mày việc riêng. Mày có lính tráng dễ nói hơn tao. Tao mang cái phù hiệu quân trường, nói không mạnh lắm. Bao nhiêu tiền vợ chồng tao đều gởi trong ngân hàng. Bây giờ đến rút nó không cho, bảo phải vào ngân hàng chính trong Sài Gòn.
Tay giám đốc chi nhánh bảo là cả tiền bạc và sổ sách đã gởi đi Sài gòn rồi. Nhưng tao không tin. Bọn này thừa nước đục thả câu. Hơn nữa tao là lính tráng, đâu có muốn bỏ đi Sài gòn lúc nào cũng được.
Tôi ngần ngừ, nhưng nghĩ nó là thằng bạn thân, sống chết có nhau, hơn nữa nó nói có lý: của mình mình lấy, có gì là phi pháp. Tôi vào nói nhỏ thằng bạn SQ trực trong TTHQ, rồi lái xe chở nó đi, gọi hai chú lính trinh sát đi theo hộ tống.
Hai thằng nói nhỏ với mấy anh cảnh sát gác cửa xin vào gặp ông giám đốc. Bắt tay chào hỏi xong tôi “dùng tình cảm xuống nước nhỏ” :
Nhờ ông giám đốc đặc biệt giúp cho anh bạn thân của tôi. Chắc ông cũng biết, đây là tiền buôn bán làm ăn của vợ ảnh chứ có thụt két tham nhũng gì đâu. Hơn nữa tụi tôi là lính, phải đi theo đơn vị, đâu có biết lúc nào mới vào được Sài Gòn mà rút tiền. Tôi biết là khó khăn cho ông, nhưng mong ông giúp đỡ đám nhà binh tụi tôi trong cái cảnh dầu sôi lửa bỏng này.
Ông giám đốc nghiêm mặt chau mày suy nghĩ, rồi hạ giọng.
- Thực là khó cho tôi quá, vì tôi phải làm theo lệnh của trung ương. Nhưng thôi được, nễ tình mấy anh, tôi phải lấy quỹ dự trử an toàn ra mà phát cho anh. Nhưng xin các anh đừng nói cho ai biết nghe.
Chúng tôi nói cám ơn đến mấy tiếng. Và như để đáp lễ tôi cũng báo cho ông biết ( mà có lẽ người Nha Trang nào cũng biết rồi) là tình hình nguy hiểm lắm, tù trong quân lao đã thoát được ra ngoài. Ông phải đề phòng.
Trước đây tôi đã nghe nó khoe mấy lần là con vợ bắc kỳ của nó làm ăn rất giỏi, nhưng tôi cũng không ngờ thằng bạn nghèo của tôi ngày xưa bây giờ lại có nhiều tiền đến như vậy. Tôi không rõ bao nhiêu, nhưng thấy nó phải dùng đến năm, sáu thùng đạn đại liên để chứa tiền. Xong còn nhờ đám tụi tôi hộ tống về trường Đồng Đế. Tôi bảo sao không cất ở nhà ông bà già vợ mà đem vô chổ lính tráng làm gì. Nó lắc đầu :
- Tao chẳng bao giờ muốn dính dáng tới cái bà già Bắc kỳ giết giặc đó. Hơn nữa ở cư xá tao còn có lính tráng canh gác.
Hôm sau, Trung Tâm Hành Quân được báo cáo là địch quân đã chọc thủng phòng tuyến cuối cùng của Lữ Đoàn Dù ở Khánh Dương. Các Trung Tâm Huấn Luyện ở Dục Mỹ đã di tản về Cam Ranh. Toà Lãnh Sự Mỹ cũng đã rời khỏi Nha Trang, và ông tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Khánh Hòa cũng đã biến mất từ lúc nào, không có mặt trong buổi họp khẩn cấp sáng nay của Tiểu Khu. Tôi liên lạc với người bạn thân trong TTHL Hải Quân, được biết chiến hạm 401 HQ sẽ ủi bãi tối nay để di tản toàn bộ SVSQ /HQ vào Vũng Tàu hoặc Cát Lở. Anh ta cũng có trách nhiệm phải đi theo. Tôi xin anh can thiệp dành cho mười chỗ để gởi vợ con tôi và gia đình Long, còn tôi thì đi theo đơn vị vào Phan Rang. Anh trả lời OK ngay.
Đồng hồ trên tay tôi chỉ 3 giờ 15 phút chiều. Tôi gọi vô tuyến cho Long, bảo nó cùng vợ con chuẩn bị sẳn sàng tại cư xá. Tôi về Ninh Hòa đón vợ con vào rồi ghé đón gia đình nó luôn. Chúng tôi hẹn gặp nhau lúc 6 giờ chiều.
Khi xe vừa xuống đèo Rù Rì, tôi giật mình khi thấy xe cộ, dân, lính đủ loại nối đuôi hối hả chạy ngược chiều về hướng Cam Ranh. Chỉ cái xe của tôi là đơn độc hướng về phía Ninh Hoà. Tôi dành tay lái và bảo anh tài xế ôm súng ngồi bên cạnh. Anh cũng là dân Ninh Hòa nên xin về với gia đình luôn, không muốn đi theo tôi. Có một chi tiết nhỏ nhưng đã làm tôi cảm động và không bao giờ quên : Khi tới ngả ba cải lộ tuyến Ninh Hòa, tôi thấy một chiếc xe đám cưới, mà cô dâu là người láng giềng của bà xã tôi, và chú rể là một sĩ quan pháo binh trẻ. Đôi tân hôn nhớn nhác hối hả chạy theo dòng xe định mệnh. Trong những ngày trong tù, đôi khi tôi nghĩ tới cô dâu chú rể giờ thứ 25 này và không biết tình duyên của họ giờ đã ra sao.
Khi chở vợ con trở lại Nha Trang, từ quốc lộ rẽ vào trường Đồng Đế để đón gia đình Long như lời hẹn, tôi chứng kiến một cảnh tượng thật thê lương : quân phục, súng ống vất dọc đường, mấy ngôi nhà đang cháy, có vài ba xác chết. Khó khăn lắm tôi mới lái xe tới được khu cư xá của Long. Nhà mở toang cửa, trong nhà vật dụng ngổn ngang, không một bóng người. Tôi gọi Long trên máy vô tuyến, nhưng không nghe lên tiếng. Tôi lo lắng cho nó khi nghĩ tới số tiền lớn của nó mang về từ Ngân Hàng .
Vào Sài Gòn, sau khi sắp xếp nơi ăn chốn ở cho vợ con xong, tôi ra Vũng Tàu trình diện lại đơn vị cũ. Tôi tìm Long khắp nơi, nhưng không ai biết.
Rồi cái biến cố đau thương cũng đến hồi kết cuộc : miền nam thất thủ. Ngày 28 tháng 4, cả gia đình tôi có mặt tại bến Bạch Đằng với mấy thằng bạn Hải Quân. Nhưng cuối cùng, tôi không bước xuống tàu mà quyết định ở lại. Tôi không đành lòng bỏ quê hương, và nhất là cha tôi, đang còn kẹt lại một mình ở quê nhà. Hơn nữa dù sao đất nước cũng sẽ thống nhất hòa bình. Rồi nam bắc một nhà sẽ cùng nhau xây dựng lại quê hương. Và cái ngây thơ đó của tôi đã được “người anh em một nhà” đãi ngộ bằng tám năm đọa đày trong các trại tù cải tạo tận vùng Việt bắc. Vợ con ở nhà thì nheo nhóc, không được phép làm một thứ công dân, dù chỉ là hạng bét.
Ra tù, không còn đất sống, tôi phải liều thân dẫn vợ con vượt biển ra đi. Sau bốn năm định cư ở Na Uy, cuộc sống gia đình tạm ổn định. Hai cô con gái lớn may mắn được một trường đại học bên Mỹ nhận, vợ chồng tôi đưa hai cháu sang Cali tìm nơi ăn chốn ở, nhân tiện thăm đám bạn bè cùng đơn vị ngày xưa. Gặp thằng bạn này thì nghe thêm tin tức của vài thằng bạn khác, đứa còn đứa mất, mỗi thằng một cảnh long đong, và bất ngờ tôi biết được tin Long. Một thằng bạn cùng đơn vị, khi mới chân ươt chân ráo từ trại tị nạn Bidong sang Mỹ, được ông chủ gốc nhà binh ưu ái nhận vào làm trong một siêu thị trên Michigan. Người chủ ấy chính là Long. Thằng bạn cho biết Long sang đây từ năm 75, và có tài kinh doanh nên bây giờ đã là triệu phú. Anh ta rất tốt với đám nhà binh lưu lạc sang đây. Biết ai là lính ngày xưa, Long cũng đến thăm, giúp đỡ tận tình, nếu chưa có việc làm, anh sắp xếp vào làm tại các siêu thị, nhà hàng của anh, đảm trách những công việc nhẹ nhàng, lương bỗng cũng khá. Anh bạn lục lọi trong cuốn sổ tay tìm đuợc số phôn gọi lên tìm, nhưng siêu thị đã bán cho chủ mới. Lần mò đến ba hôm sau, chúng tôi gọi được Long. Vợ chồng nó làm chủ đến mấy cái siêu thị, cây xăng ở tiểu bang Washington và một xưởng gổ ở vùng Portland, tiểu bang Oregon. Nó đúng là thằng bạn chí tình. Giàu nhưng không đổi bạn. Nhận ra giọng nói của tôi trong điện thoại, nó hét lên mừng rỡ :
- Bây giờ mày đang ở đâu ? Mày đi một mình hay có vợ con không ? Nghe tin mày vượt biên, tao tìm mày khắp nước Mỹ mà không ra.
- Tao đang ở nhà người quen ở Sacramento với bà xã và hai đứa con gái. Tao ở bên Âu châu qua, chứ có ở Mỹ đâu mà mày tìm. Tôi trả lời
- Tao “búc” vé máy bay ngay bây giờ, tụi mày lên tao ngay chiều nay nghe.
- Không được, chiều nay tao đã có hẹn ở San Jose, hơn nữa đâu có biết là gặp mày, nên tao đã mua vé đi một vòng qua nhiều tiểu bang lắm. Chiều mai tụi tao bay lên Houston rồi sang Florida, North Carolina và một vài nơi nữa, làm sao gặp mày bây giờ.
Nó bảo tôi cho số phôn và nó sẽ gọi lại sau năm phút. Nó hẹn gặp tôi tại phi trường San Jose. Nó bảo vợ chồng nó có nhà nghỉ mát ở gần đó, rồi dặn tôi cứ ở nhà người quen đợi, nó sẽ thuê xe đến đón. Vợ chồng nó sẽ đến San Jose bằng chuyến bay 5 giờ chiều nay.
Tôi đón nó ở phòng đợi phi trường cùng với vợ chồng thằng bạn khác ở San Jose mà tôi đã hẹn. Long nhận ra tôi trước, còn nó thì khác xưa nhiều lắm, mập ra nhiều và trông bệ vệ như một chính khách hơn là một thương gia. Nó ôm chặt lấy tôi quay mấy vòng.
Sau khi ăn tối xong nó đưa bọn tôi về nhà nghỉ mát của nó. Ngôi nhà nằm trên một ngọn đồi nhìn xuống cây cầu nổi tiếng Golden Gate ở San Francisco. Ngôi nhà nhỏ, nhưng khá xinh và được trang bị toàn là những thứ sang trọng, có đứa cháu và hai người Mễ trông coi.
Hôm ấy, chúng tôi thức suốt đêm, nhắc nhở bao nhiêu kỷ niệm vui buồn, điểm danh lại đám bạn bè, tính xem đứa mất đứa còn, đang trôi dạt nơi đâu. Hai đứa sụt sùi, Tôi kể cho nó nghe hơn tám năm tù đày khốn khổ, vợ con nheo nhóc, và nhớ lại trước ngày mất Nha Trang, như lời hẹn, khó khăn và nguy hiểm lắm tôi mới đến được cư xá của trường Đồng Đế, nhưng không tìm thấy vơ chồng nó.
Nó rơm rớm nước mắt :
- Tao thường nhắc với vợ con tao về mày, bảo tất cả phải nhớ ơn mày. Vì nhờ mày tao mới rút được tiền ở ngân hàng Nam Việt hồi ấy. Và chính nhờ số tiền đó, khi đưa cả gia đình tao và gia đình bà xã tao đến Cam Ranh, xe cộ chật cứng, cả đêm không nhúc nhích được, tao trả giá cao mới mua được một chiếc tàu máy rồi cả nhà chạy ra đệ thất hạm đội. Nếu không có tiền, chẳng hiểu bây giờ tụi tao ra sao nữa.
Nghe nó nhắc gia đình vợ, tôi hỏi bố mẹ vợ nó bây giờ ở đâu và sức khỏe ra sao. Nó bảo ông cụ thì mất hơn năm năm rồi, bà già “bắc kỳ giết giặc” thì vẫn còn sống và ở San Jose cũng gần đây thôi. Có lẽ nó vừa nhớ tới cái chuyện ngày xưa nên câu chuyện trở nên sôi nổi :
- Lúc chạy bà cũng gần trắng tay. Của chìm của nổi bỏ lại hết. Tao hận cái nghèo, hận chuyện ngày xưa, nên qua đây tao đi làm đầu tắt mặt tối, kiếm một số vốn rồi ra kinh doanh. Tao nghĩ ở cái xứ này chỉ có làm business thì mới sớm đổi đời. Không ngờ tao có lộc trời, chỉ mấy năm sau tao có mấy cái nhà hàng, và một siêu thị. Tao mua cho ông bà cái nhà cả triệu đô, nuôi đám con của bả, em của bà xã tao, thằng nào cũng xong đại học, hai thằng ra bác sĩ, còn con út học luật. Tao làm cho bà ấy thấy tiền bạc có nghĩa gì đâu, mà ngày xưa bà khinh rẽ gia đình tao, làm cho ba tao buồn mà phát bệnh luôn. Cả đời này tao cũng còn hận bà. Lo đầy đủ cho gia đình bà xong, vợ chồng tao move lên Texas, rồi Washington DC, Michigan, Oregon và cuối cùng thì tới đóng đô ở Washington State. Từ đó tao không muốn gặp bà ấy nữa, vì mỗi lần gặp bà tao lại nghĩ đến nỗi hận của Ba tao. Chỉ có vợ tao lâu lâu về thăm bà mà thôi.
Còn mấy đứa con của mầy ra sao, không nghe mầy nhắc tụi nó.
- Lúc tụi tao ra đi, chỉ có thằng Đăng ba tuổi và con Tâm mới năm tháng. Sang đây đổi tên thành Danny và Tammy, Qua Mỹ, tuị tao chỉ có thêm thằng Kevin. Thằng Danny thì tốt nghiệp luật ở Yale, đang làm cố vấn pháp luật cho hảng Boeing, con Tâm thì ra trường Stanford ngay San Franciso này. Bây giờ làm SFO cho Bank of America, còn thằng út Kevin thì tiến sĩ IT Harvard, đang làm directeur cho ông Bill Gate ở Seatle, gần nhà tao.
Mắt tôi sáng lên, mừng cho sự thành công của vợ chồng nó :
- Tao phục mày. Con cái mày giỏi quá. Tụi mày vừa được vinh dự lại vừa tha hồ hưởng phước.
Nó trợn mắt :
- Dự với phước cái con khỉ. Tụi nó lấy vợ Mỹ, chồng Mỹ hết. Bây giờ tụi nó thành Mỹ hết rồi, mà lại là thứ Mỹ thượng lưu trí thức. Vợ chồng tao cũng có chút hãnh diện, và các cháu cũng rất lễ phép và biết nghe lời, nhưng vợ chồng tao cũng buồn khi nghĩ là càng lúc tụi nó càng xa cái nguồn cội của mình.
Tôi đùa để an ủi nó :
- Que sera sera ! mày cứ khéo lo. Ở ngoài này đa số là vậy. Rồi đến khi lá rụng cũng sẽ về cội thôi.
Nó thở dài :
- Có còn cội đâu mà về. Chính tao cũng không còn có cội, chứ nói chi tới con cháu. Cội của tao là ở cái xứ nghèo Chợ Lách, Vĩnh Long bên Việt Nam kìa. Tao cũng đã tính mai mốt về già, vợ chồng tao mang tiền về Việt nam sống. Nhưng khốn nỗi chẳng còn chổ để mà về nữa. Bà già tao, như mày biết, qua đời hồi tao còn trung học. Ông già tao thì mất từ năm 78. Ở cái làng nghèo mà có một thằng làm đến quan tư như tao là được xếp loại ác ôn ghê lắm. Tao đi rồi, ở nhà ông già tao lãnh nợ cho tao. Bị bắt lên bắt xuống, hành hạ đủ kiểu, nên phải chết sớm. Tao còn thằng em trai, lúc nó theo ông già tao vào thăm tao trong Thủ Đức chắc mày còn nhớ. Hồi xưa nó chịu khó học hành, hiền lành hiếu để lắm. Tao có mỗi nó là em, nên thương nó hết mình, tiền bạc tao gởi về như nước. Không ngờ có nhiều tiền nó trở chứng, bỏ vợ bỏ con xuống Sài gòn rượu chè bài bạc, sống hết với con này tới con khác. Cuối cùng thì nó hút xì ke. Vợ nó bán cả nhà từ đường, thu tóm tiền bạc dẫn đứa con trai đi biệt tích. Tao chưa về Việt nam, nhưng ở đây có nhiều người đã về thăm, họ bảo là dường như bây giờ cái xã hội ” kinh tế thị trường” ở bên nhà đã làm cho con người ta đổi thay nhiều lắm. Đồng tiền nó đã xói mòn tất cả mọi thứ đạo đức ở quê nhà. Cái xứ Chợ Lách khỉ ho cò gáy của tao bây giờ cũng đầy dẫy quán bia ôm. Cha mẹ còn đem con gái bán cho đám Đài Loan, hay mấy mụ tú bà. Bọn cán bộ thì đua nhau tham nhũng, sống phè phở trên đầu trên cổ dân đen. Có thằng tiền bạc thừa mứa không biết làm gì, mang đi mua tiết trinh cả những đứa con nít. Khốn nạn thật .Chính quyền trong nước cứ bảo những người ở ngoài này là “khúc ruột ngàn dặm”, là ” một bộ phận không thể tách rời” nhưng trong lòng thì vẫn còn mang nặng ghen tị thù hằn. Mày có đọc luật nhà đất mơí nhất của chính quyền trong nước rồi chứ. Người Việt ở nước ngoài không được hưởng quyền thừa kế bất động sản, mà chỉ được hưởng “giá trị” trên phần thừa kế đó mà thôi. Tao rất sợ cái loại chữ nghĩa này. Người chết nằm trong nghĩa trang Biên Hòa còn bị đập bia, phá mộ, san bằng, huống hồ những thằng còn sống như tao với mày. Chỉ có những thằng khùng mới tin được.
Ngưng vài phút, nốc cạn cốc Hennesy, nó ngẩng đầu lên nhìn tôi :
- Mày thấy không. Ngày xưa nghèo thì bị người ta khinh rẻ. Bây giờ giàu có, tiền bạc không biết để làm gì. Cuộc đời này khốn nạn thật. Sắc sắc không không ! Có lẽ tụi tao sẽ đi tu.
Tôi ôm chặt vai nó :
- Thì mày còn bạn bè, mày còn tụi tao đây. Có khi bạn già sống với nhau lại hay, vì mình dễ cảm thông, dễ chia sẻ mọi nỗi niềm
Không ngờ lời nói chỉ cốt an ủi của tôi đã làm cho đôi mắt nó sáng lên :
- Hay là mày cho hai đứa con mày ở lại đây với vợ chồng tao. Tụi tao hứa là sẽ coi nó như con tao. Mấy cháu còn nói tiếng Việt giỏi quá, mà cũng lễ phép dễ thương. Nói chuyện với tụi nó tao thấy sao mà gần gũi quá, nhất là bà xã tao cứ ôm tụi nó mà nói đủ thứ chuyện dưới đất trên trời. Tao sẽ lo cho tụi nó vô trường Stanford hay ít nhất là Berkely, chứ học mấy cái trường State đó làm gì. Còn vợ chồng mày cứ sang đây, tao nhường lại cây xăng, hay một cái nhà hàng. Mọi thứ đều free. Khi nào tụi mày giàu rồi thì từ từ trả vốn cho tao cũng được. Để tụi mày còn sớm được cấp thẻ xanh nữa.
Tôi cảm động vỗ vai nó,
- Cám ơn mày. Mày là thằng bạn lính chí tình. Nhưng các con tao sang đây đã lớn, bên Việt nam thì cũng chẳng được nhà nước bọn Cộng sản cho phép học hành gì. Tụi nó học không giỏi lắm, vào được State là tao mừng rồi. Tao chỉ mong ra trường tụi nó kiếm việc gì đó làm, đủ để tự lo cho mình. Còn tụi tao có biết buôn bán kinh doanh gì đâu. Tao ở lại sau tháng 4/75 nên thấy mọi thứ sao mà phù du quá. Nhiều kẻ vong ơn, phản trắc quá. Con người đối xử với nhau sao mà ác độc quá. May mà đám nhà binh tụi mình còn giữ được cái tình. Cái này quý lắm, nên tụi mình cố mà giử lấy, dừng để giàu nghèo nó làm mai một. Thôi, để tụi tao về Na Uy làm tà tà cũng đủ sống. Hơn nữa tao cũng thích ở cái xứ Bắc Âu hiền hòa yên tĩnh, hợp với những thằng chậm chạp như tao. Và tao cũng còn tịnh dưỡng để chữa những vết thương khó mà lành được trong lòng tao nữa.
Sáng hôm sau, khi mặt trời lên cao trên đỉnh đồi, hai thằng mới chui vào phòng ngủ. Trước khi chợp mắt, hồi tưởng lại ngày xưa, tôi thấy lòng lâng lâng tiếc nuối. Dù sống trong nghèo khó, hiểm nguy, nhưng lòng lúc nào cũng vui, cũng thấy yêu đời. Hình như lúc ấy cả đất trời và ai nấy cũng dễ thương, ở đâu con người cũng nặng tình nặng nghĩa với nhau. Còn bây giờ quê hương tôi chỉ còn là một “dòng sông tật nguyền” hay ” cánh đồng bất tận ” như hai nhà văn nào đó trong nước đã viết về quê hương nguồn cội của mình .
Cali, ngày thanksgiving
Phạm Tin An Ninh
TIỂU TỬ * NƯƠC MĂT
Tiểu Tử, những giọt nước mắt, những tiếng thở dài
Từ Thức (Paris) (VNTB) - André Gide nói ‘’ C’est avec des beaux sentiments qu’on fait de mauvaise littérature ‘’ ( Với những tình ...
http://www.ijavn.org/2015/01/tieu-tu-nhung-giot-nuoc-mat-nhung-tieng.html
Từ Thức (Paris)
(VNTB) - André Gide nói ‘’ C’est avec des beaux sentiments qu’on fait de mauvaise littérature ‘’ ( Với những tình cảm tốt, người ta làm văn chương dở ).
Tiểu Tử là một nhà văn đã chứng minh ngược lại, có thể viết hay với những tình cảm tốt. Trong tác phẩm của ông, hầu như chỉ có những tình cảm tốt , chỉ có tình người. Một nhân vật nói về một nhân vật khác trong truyện ngắn ‘’Made in Vietnam’’ : người chi mà tình nghĩa quá héng ? ‘’ . Độc giả nghĩ tới câu đó mỗi lần lại gần những nhân vật của Tiểu Tử. Người chi mà tình nghĩa quá héng. Độc giả chai đá tới đâu , đọc Tiểu Tử cũng không cầm được nước mắt. Người ta khóc, nhưng sau đó thấy ấm lòng, vì thấy trong một xã hội đảo lộn, vẫn còn đầy tình người, vẫn còn đầy thương yêu, vẫn còn nghĩa đồng bào vẫn còn những người tử tế . Và thấy đời còn đáng sống. Một nhà văn Pháp nói văn chương, trước hết là xúc động. Trong truyện ngắn của Tiểu Tử, sự xúc động hầu như thường trực.
Miệt Vườn
Tiểu Tử là một nhà văn miền Nam điển hình, con đường nối dài của những Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam. Văn của ông là lối kể chuyện của người miền Nam, bình dị nhưng duyên dáng, duyên dáng bởi vì bình dị, tự nhiên. Tiểu Tử không ‘’ làm văn ‘’ . Ông kể chuyện ; không có chữ thật kêu, không có những câu chải chuốt. Với cách viết, với ngôn ngữ chỉ có những tác giả miền Nam mới viết được. Không hề có cường điệu, không hề có làm dáng. Người đọc đôi khi có cảm tưởng tác giả không mấy ưu tư về kỹ thuật viết lách, ông viết với tấm lòng.
Ngay cả tên những nhân vật cũng đặc miền Nam, không có Lan, Cúc, Hồ Điệp , Giáng Hương như trong tiểu thuyết miền Bắc, không có Nga My, Diễm My , Công Tằng Tôn Nữ như Huế, chỉ có những con Huê, con Nhàn, con Lúa, thằng Rớt, thầy Năm Chén, thằng Lượm , bà Năm Chiên, bà Năm Cháo lòng. Các địa danh cũng đặc Nam kỳ, không có Cổ Ngư, Vỹ Dạ, Thăng Long, chỉ có những Nhơn Hoà, Cồn Cỏ, Bò Keo, Bình Quới, những tên, những địa chỉ rất ‘’miệt vườn ‘’, chỉ đọc cũng đã thấy dễ thương , lạ tai , ngồ ngộ. Âm thanh như một câu vọng cổ.
Tiểu Tử , 88 tuổi, kỹ sư dầu khí, tác giả nhiều tập truyện ngắn ( Những Mảnh Vụn, Bài ca Vọng Cổ, Chuyện Thuở Giao Thời ) học ở Marseilles, hiện sống ở ngoại ô Paris, nhưng văn của ông không lai Tây một chút nào. Rất Việt nam, đúng ra rất Nam Việt, với lối viết như người ta kể chuyện bên ly la de, bên tô hủ tíu, với những chữ nghen, chữ héng, chữ nghe..’’ Cần gì cứ nói nghe cô Hai, đừng ngại. Mình với nhau mà ..’’. Dưới ngòi bút của một tác giả người Bắc, người Trung, gọi người đàn bà là con Huê, con Nhàn có vẻ hỗn, ở Tiểu Tử, nó chỉ có sự thân ái.
Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam, Tiểu Tử đã chứng tỏ ngôn ngữ địa phương, cách diễn tả địa phương làm giầu cho văn hoá dân tộc. Cố gắng bắt chước lối diễn tả Hà Nội là một lầm lỗi, nó chỉ làm cái vốn văn hoá của ta nghèo đi . ( Sự thực Hà Nội ngày nay không còn gì là nơi văn vật, cái gì cũng ‘’ đéo ‘’. Còn báo Nhân Dân không ? Đéo còn, chỉ còn Người Hà Lội )
Những giọt nước mắt
Văn chương là hư cấu, nhưng đọc Tiểu tử, người ta thấy cái chân thực, có cảm tưởng không có chi tiết nào là kết quả của tưởng tượng. Tất cả đều la những chuyện tác giả đã sống, hay đã nghe kể lại . Vả lại, ở Việt Nam, thực tế vượt xa tưởng tượng. Cái đau đớn, cái thảm kịch mỗi người Việt Nam đã, đang sống, không có người viết văn nào, giầu óc tưởng tượng tới đâu, có thể bịa ra. Trong ‘’ Thầy Năm Chén ‘’, ông thầy thuốc, suốt đời làm việc nghiã, bị cách mạnh hành hạ, chuẩn bị cho con vượt biên. Khi giã từ con, ông đưa cho con , thằng Kiệt, ‘’ một cái gói mầu đỏ đã phai màu, cột làm nhiều gút, nói : cho con cái ni (ông là người gốc Huế ). Con giữ trong người để hộ thân.’’ Kiệt đến Cannada an toàn, một ngày dở cái gói của cha cho ngày vượt biển. Trong đó có ba cái răng vàng. Thầy Năm Chén , nghèo đói quá, đã cạy ba cái răng vàng cho con làm của hộ thân đi tìm đường sống ở xứ người. Độc giả hiểu tại sao từ ngày con đi, ông Năm Chén chỉ ăn cháo.
‘’ Chiếc khăn mùi xoa ‘’ có thể coi là điển hình cho truyện ngắn Tiểu Tử , trong đó có sự xúc động cao độ, đẫm nước mắt, với những nhân vật nhân hậu, giầu tình nghĩa, những chi tiết éo le như một cuốn phim tình lãng mạn, nhưng đơn giản, chân thực.
Một người Việt tị nạn ở Pháp về thăm nhà, gặp những người bạn học cũ , trong đó có nhân vật chính, ‘’ con Huê ‘’, sự thực là một người đàn bà đã đứng tuổi. Ông ta kể lại : ‘’ Con Huê tiễn tao ra cổng, đứng ngập ngừng một lát rồi bỗng nói một mạch, là lạ, như tụi mình trả bài thuộc lòng thuở nhỏ : Anh qua bên Tây , gặp anh Cương nói em gởi lời thăm ảnh . Nó nói rồi bỏ chạy vội vào trong, tao thấy nó đưa tay quệt nước mắt mấy lần. Tao đứng chết trân, nhớ lại lời con Nhàn, em con Huê nói với tao : Anh biết không, chị Huê thương anh Cương từ hồi còn nhỏ lận . Người con gái ở quê mình nó thật thà, trung hậu đến mức độ mà khi trót thương ai thì thương cho đến chết. Họ coi đó là tự nhiên , phải có nước lớn nước ròng‘’.
Tiểu Tử viết chuyện tình âm thầm của người đàn bà từ ngày còn đi học, tới ngày nay đã bạc đầu, với người bạn trai ngày xưa tên là Cương, nhưng sóng gíó 75 đã khiến người đàn ông bỏ nước đi lánh nạn. Người con gái của ông Cương, đang sống ở Bruxelles, đọc truyện, cho tác giả hay bố mẹ đều đã qua đời. Trước khi chết, Cương dặn con gái : ‘’ Con ráng tìm cách về Nhơn Hoà, Cầu Cỏ, trao cái này cho cô Hai Huê, nói ba không quên ai hết ‘’. ‘’Cái này ‘’ là một bao thư, trong đó có chiếc khăn mùi xoa cô Huê đã tặng Cương thời trẻ. Người con gái thấy thương bố , thương cô Hai Huê không cùng. Cô gái đi Việt Nam, một xứ xa lạ, tìm về Nhơn Hoà , Cầu cỏ , tìm người bà tên Huê để trao lại kỷ vật của người đã qua đời. Cô Hai Huê xỉu đi khi nghe tin người bạn xưa đã chết. Hai người đàn bà, một già, một trẻ ôm nhau khóc.Nếu bạn là người tưởng mình có tâm hồn sỏi đá vì đã sống, đã chứng kiến đủ mọi thảm kịch của đời sống, nhất là đời sống của một người Việt Nam, bạn sẽ ngạc nhiên thấy mình đang lau nước mắt.
Không Điên Cũng Khùng
Thế giới truyện ngắn của Tiểu Tử xoay quanh hai đề tài chính : những kỷ niệm về một Miền Nam hiền hoà, chất phác, nhân hậu ngày xưa, với những trò vui đưà nghịch ngợm của đám bạn bè trẻ , những mói tình mộc mạc của những người dân quê và, sau đó, những đảo lộn sau 75, khi tai họa trên trời giáng xuống. ‘’ Tất cả đều bị xáo trộn, bị nghịch lý đến nỗi tao sống trong đó mà lắm khi phải tự hỏi : làm sao có thể như vậy được ‘’. Một xã hội vô tư , kể cả vùng quê, trở thành địa ngục. Chỉ còn hận thù, phản trắc , gian sảo, cướp đoạt, dối trá.
Những nhân vật của Tiểu Tử không còn cười đùa, vui chơi, dễ dãi nữa. Đó là những nhân vật đầy ưu phiền như ông Tư , như bà Hai , như thầy Năm Chén, như anh Bẩy, như bà Năm cháo lòng. Một xã hội đổ nát, rách bươm. ‘’Những người ‘’cách mạng’’ xông vào nhà, ngang nhiên hùng hổ, như một bọn cướp. Họ ‘’bươi ‘’ từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, từ sau ra trước…giống như gà bươi đống rác. Gặp gì kiểm tra nấy. Vậy rồi…hốt hết. ‘’
Sau 75 , người ta truyền nhau một câu ca dao mới : Thằng khôn thì đã vượt biên. Những thằng ở lại không điên cũng khùng. Các nhân vật của Tiểu Tử, vốn là những người miền Nam hiền lành, dễ tin, yêu đời, nhiều người đã hết lòng với ‘’kháng chiến ‘’, sau ‘’ cách mạng’’, đều bị đàn áp, gia sản bị cướp đoạt trắng trợn trong những chiến dịch ‘’ đáng tư sản mại bản ‘’ trở thành không điên cũng khùng
***
Ông Tư ( trong IM LẶNG ) là người có gia sản ở Sàigòn, đã bí mật đóng góp tài chánh cho ‘’Giải Phóng’’. Khi Cộng Sản vào miền Nam, không những không được trả ơn, mà bị hành hạ, gia sản bị cướp sạch. ‘’ Bỗng nhiên ông Tư nhận thức rằng tất cả những gì thuộc về ông bây giờ chỉ còn lại người vợ cuả ông đang chờ đợi ông ở nhà ‘’. Nhưng bà vợ tiếc cuả, uất hận vì bị cách mạng lừa gạt, suốt ngày đay nghiến trách móc chồng. Rốt cuộc hai vợ chồng tìm được cách chạy sang Pháp, nơi con trai ông đã được bố mẹ gởi đi du học, đã thành đạt, có nhà cưả sang trọng. Ông con hỏi bố ở chơi bao nhiêu ngày. Ông Tư nói ở lại luôn. Ông con nói, giọng đặc ‘’Việt kiều yêu nước’’ : ‘’ Ủa, sao lại ở luôn. Bây giờ nước nhà độc lập rồi, không còn thằng nào ngồi trên cổ mình hết ; vậy mà ba má bỏ qua đây luôn. Thiệt là vô lý ‘’. Ông Tư trở thành một người câm , không nói gì với ai nưã. Cho đến một hôm lầm lũi lội chết dưới biển.
Bà Hai ( trong Thằng Đi Mất Biệt ), con cái chết, gia tình tan nát, suốt ngày ngồi chờ đứa con trai còn lại bị đưa đi cải tạo. ‘’ Khi trời nắng ráo, bà đi tuốt ra ngoài vàm rạch, lên ngồi trên môi đất có thể nhìn thẳng qua bên kia sông. Như vậy, ‘ khi nào thằng nhỏ nó về, mình thấy nó từ đằng xa, nó có đi đò, trong đám đông, mình cũng nhìn ra đươc nó liền hà ‘’.
Thầy Năm Chén ( trong truyện cùng tên ) phòng mạch bị chiếm, con trai phải bỏ đi kiếm ăn . ‘’Chia tay nhau mà hai cha con không dám ôm nhau. Sợ người ta để ý. Thầy không đưa con ra cổng nghĩa trang. Sợ người ta để ý, Thầy không dám để rơi một giọt nước mắt. Sợ người ta để ý, Thầy chỉ thở dài. Thời buổi bây giờ chỉ thở dài là không ai để ý. Bởi vì ai cũng thở dài hết ‘’.
Ông già bới rác ( truyện cùng tên ) là một ông già có công với ‘’cách mạng’’, bi cách mạng cướp hết không còn manh giáp, trở thành khùng, suốt ngày lang thang ngoài đường bới rác, ‘’ tao bới rác để kiếm mấy thằng Việt Cộng tao đã nuôi trong nhà ‘’
Trong Những Mảnh Vụn , người yêu ‘’ đi chui bán chánh thức ‘’, nghĩa là đi vượt biển do cán bộ tổ chức, biệt tăm, chắc mất xác vì tầu quá cũ bị chìm , anh Bẩy suốt ngày, như một người mất hồn, đi qua lại tất cả những nơi ngày xưa hai người vẫn hẹn hò. ‘’ Bẩy không biết mình đang đi lượm những những mảnh vụn của cuộc tình. Nếu không có cái ‘’ngày cách mạng thành công ‘’ đã thật sự thành công trong nhiệm vụ đập nát tất cả những gì của miền Nam, kể cả những gì nhỏ bé nhứt, tầm thường nhứt như tình yêu của chàng trai và cô gái đó ‘’.
Đọc Tiểu Tử, người ta không thể không xúc động. Nhưng văn Tiểu Tử cũng đầy nét khôi hài, những nhận xét ngộ nghĩnh . Phòng mạch của Thầy Năm Chén ‘’bịnh nhơn cũng vắng. Làm như người ta sợ quá rồi… quên bịnh. Trái lại, bên phía chùa thì lại đông người lui tới và ngày nào cũng có người. Làm như người ta chỉ còn biết …dựa vào Phật. ‘’. Qua vài nét chấm phá, ông ghi lại những cảnh trái tai gai mắt, những cảnh lố bịch của những người thắng trận. Những cảnh không biết nên cười hay nên khóc diễn ra trước mắt, mỗi ngày, chỉ cần ghi lại, không thêm thắt, bình luận. André Gide : Plus un humouriste est intelligent, moins il a besoin de déformer la réalité pour le rendre significative ( Một nhà khôi hài càng thông minh, càng không cần bóp méo sự thực để làm cho nó có ý nghĩa ). Tiểu Tử không cần bóp méo sự thực, chỉ việc cúi xuống lượm, ghi lại những cái lố lăng, đảo lộn luân thường diễn ra mỗi ngày, trước mắt.
Truyện ngắn Tiểu Tử, với lối hành văn dễ dãi, linh động là một cuốn tự điển sống của ngôn ngữ miền Nam thời chưa loạn. Đó là kho tàng quý, trong khi ở hải ngoại, chữ Việt càng ngày càng lai Tây, lai Mỹ ; trong nước càng ngày càng lai Tầu, với những chữ, những lối nói ngớ ngẩn, đôi khi kỳ quái , khiến tiếng Việt không còn là tiếng Việt, báo hiệu một ngày người Việt không còn là người Việt . Truyện ngắn Tiểu Tử là những giọt nước mắt, những tiếng thở dài, nụ cười trong những ngày bình an và ngay cả trong cơn đớn đau cùng cực. Ông là một nhân chứng quý báu của một giai đoạn bi thảm , một cuộc đổi đời ghê rợn nhất trong lịch sử Việt.
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 378
Posted by Dien Hong at 15:50
Email ThisBlogThis!Share to TwitterShare to FacebookShare to Pinterest
Theo quan niệm đạo Phật về kiếp luân hồi, trong lễ Vu lan người ta không ăn thịt cá và không sát hại chúng sinh.
Đó là một hình thức từ bi đem tâm đức báo hiếu cha mẹ, người thân. Nếu như trước đây, nhiều người quan niệm ăn chay vào lễ vu lan chỉ dành cho những người theo tín ngưỡng, tôn giáo thì ngày nay ăn chay đã trở thành một xu hướng để giữ gìn sức khỏe, thu hút nhiều người không kể tầng lớp tuổi tác.
Ăn cỗ chay, chỉ cần thưởng thức qua một vài món, thực khách cũng có thể đánh giá được tay nghề của người nấu .Cũng một phần bởi cỗ chay chỉ chế biến, nấu qua nhiều loại rau nên nấu làm sao cho ngon, bày làm sao cho đẹp thì chỉ có thưởng thức mới là người rõ nhất.
Vu lan (chữ Hán: 盂蘭; sa. ullambana), còn được hiểu là lễ báo hiếu, là một trong những ngày lễ chính của Phật giáo và phong tục Trung Hoa. Lễ này trùng với Tết Trung nguyên của người Hán, và cũng trùng hợp với ngày Rằm tháng 7 Xá tội vong nhân của phong tục Á Đông. Vào ngày này, mọi tù nhân ở Địa ngục có cơ hội được xá tội, được thoát sanh về cảnh giới an lành. Theo tín ngưỡng dân gian, là ngày mở cửa ngục, ân xá cho vong nhân nên có lễ cúng Cô Hồn (vào buổi chiều) cho các vong linh không nhà cửa không nơi nương tựa, không có thân nhân trên Dương thế thờ cúng.
Nghệ sĩ người Scottland Iain Blake đã biến những hòn sỏi tưởng như vô tri vô giác thành những tác phẩm nghệ thuật đầy sắc biểu cảm…
biển vẫn biển quê hương
nối dài muôn trùng sóng
hồ khoan vẫn bắc cầu vồng nhớ nhung
lửa tiếp sức vẫn từ lòng đất mẹ...
nhưng dưới sâu
sâu nữa
vạn hồn thuyền nhân
sớm đi tối về
vẫn oan khiên
ngập tràn biển đông!
nước biển có giải oan
trắng tinh hồn nhược tiểu?
nước biển có mặn chát
vạn niềm đau ?
nước biển có rửa sạch
ý thức hệ đen
đồ thán
chất ngất trời xanh ?
sóng vật vờ
sóng thành đỉnh Hy Mã
sóng thành vực A tỳ
thuyền lá tre vút lên lời nguyện cầu
đỏ thương đau
một hạt cát trong vô cùng sa mạc
một giọt nước trong vô cùng đại dương
đoàn hải khấu
ác điểu đen
bỗng đổ sập xuống một trời bóng tối
nữ tu, thôi hết nữ đồng trinh
nghĩa phu thê, thôi lời vĩnh biệt
em gái nhỏ, thôi nhé
dẫm nát một búp hồng non!
mắt loạn thị
đầu hoang tưởng
nhãn ngư, ngư nhãn
điệu hồ khoan, ơ hờ!
ta đã đi đến tận cùng của chịu đựng
đi! cho ta nắm bàn tay tuyệt diệu
cho ta vào lòng biển sâu
vào giấc ngủ vô thường...
dưới sâu vẫn vô vàn cánh bay
dằng dặc
dây xích oan khiên
về lòng đất
ai đây tiêp dẫn
chúng sinh hồn trầm lạc ?
Trần Hồng Châu
( Nhớ Đất Thương Trời )
XUÂN VÀ BIỂN THIẾU QUÊ HƯƠNG
TrÀn HÒng Châu
http://www.voatiengviet.com/content/tan-man-mua-vu-lan/2949242.html
Sự tích ngày rằm tháng Bảy
Rằm tháng bảy đối với đạo Phật mang ý nghĩa đặc thù, tưởng cũng nên lược nêu ra đây vài đặc điểm:
1) Ngày tự tứ: Khi đức Phật còn ở đời, ngày ngày Ngài đi hoằng pháp khắp đó đây, nhưng đến mùa mưa từ khoảng rằm tháng tư đến rằm tháng bảy, trong suốt thời gian ba tháng mùa hạ nầy, đức Phật và hàng đệ tử xuất gia đều tập trung ở một chỗ chuyên tâm tu học không ra ngoài, việc làm nầy ngoài ý nghĩa tránh sự giẫm đạp trùng kiến và mầm non cỏ cây, còn là thời gian để tăng chúng thúc liễm, thân tâm tinh tấn tu tập, gọi là thời gian kiết hạ an cư. Kiết hạ an cư tức là kiết giới an trú một chỗ tịnh tu suốt ba tháng mùa hạ, nên cũng gọi là cấm túc.
Ở Ấn-Độ, vào mùa hạ trời thường mưa ẩm ướt, côn trùng sanh sản, cỏ cây nẩy mầm, nên đức Phật khuyên hàng đệ tử tốt nhứt tập trung ở một chỗ để chuyên tâm tịnh tu. Trong suốt thời gian ba tháng hạ, đức Phật ròng rã thuyết pháp, chư Tăng tĩnh tâm chuyên cần ngày đêm tinh tấn tu học không ngừng, đồng thời cũng là dịp trình giải sở đắc, trao đổi kinh nghiệm tu học và hoằng pháp. Thời gian ba tháng an cư nầy, chư Tăng ngày đêm gia công chuyên ròng tu tập gấp bội ngày thường, nên giới hạnh công đức cũng theo đó mà tăng trưởng cao dày. Do ý nghĩa đặc thù nầy, hằng năm chư Tăng đều y theo lời Phật chế định mà hành trì. Tuy đức Phật đã niết-bàn từ lâu, nhưng ở bất cứ quốc độ nào, có đạo Phật, có thanh tịnh tăng chánh truyền, vẫn thực hiện thời gian an cư kiết hạ tinh tấn tu tập như khi Phật còn ở đời. Thời gian kiết hạ an cư chính là thời gian trưởng dưỡng đạo hạnh, tài bồi công đức, giới hạnh tinh nghiêm, đạo tâm kiên cố. Chư Tăng giới hạnh thanh tịnh là trang nghiêm mạng mạch đạo pháp vững mạnh trường tồn. Thế nên, trước giờ nhập Niết-Bàn, đức Phật ân cần nói: “Giới luật còn thì đạo pháp còn”. Có nghĩa là hàng đệ tử Phật còn biết tôn trọng giữ gìn giới luật thì sức sống của đạo pháp còn. Phật Pháp thịnh suy tùy theo sự hành trì giới pháp.
Chư Tăng kiết hạ từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy là thời gian tròn đủ ba tháng, do đó rằm tháng bảy cũng thường gọi là ngày mãn hạ. Ngày mãn hạ còn gọi là ngày giải hạ. Ngày nầy chư Tăng hội họp để làm pháp tự tứ, nghĩa là mỗi người tự trình bày những điều mình thấy, nghe, hay, biết và chỗ sở đắc, đồng thời thành tâm thỉnh các bậc trưởng lão và đại chúng hoan hỷ nêu chỉ những điều nghi là có lầm lỗi qua sự thấy, nghe, hay, biết, mà chính mình không hay biết để được sám hối và sửa đổi. Thế nên, khi tự tứ, mỗi vị tăng ở giữa đại chúng, quỳ lạy trước vị trưởng lão thành tâm thưa: “Bạch Đại-Đức, chúng Tăng ngày nay tự tứ, con tỳ-kheo là (xưng tên mình) cũng xin được tự-tứ, nếu thấy tội, nghe tội, nghi có tội, xin Đại-Đức thương xót chỉ bảo cho con. Nếu con thấy có tội sẽ y như pháp mà sám hối”. Phải ba lần thưa như vậy. Tự mình đem hết cõi lòng chân thành hoan hỷ trình bày chỗ thấy nghe hay biết rồi đồng thời thỉnh trưởng lão và đại chúng hoan hỷ chỉ giáo, trong tinh thần từ mẫn tương thân tương kính tương sám để tự và tha đều hoan hỷ chân tình cởi mở hết cõi lòng đồng hỗ tương sách tấn bằng cách chỉ nhắc cho nhau khi mãn hạ trong ngày rằm tháng bảy, nên nhà Phật gọi là ngày tự tứ.
2) Ngày tăng-trưởng hạ lạp, tức là ngày được thêm tuổi đạo. Người đời, cứ mỗi năm đến ngày mùng một Tết là thêm một tuổi thọ. Và bao nhiêu lần Tết là được bao nhiêu tuổi thọ. Nhưng nhà Phật thì không như thế. Nhà Phật tính theo tuổi đạo mà không tính theo tuổi đời. Tuổi đạo là tuổi căn cứ đạo hạnh, tức là thọ tỳ-kheo giới, thực hành kiết hạ an cư mới có hạ lạp, tức là mới được có tuổi đạo. Thế nên người đó cho dù có năm bảy chục tuổi đời mà không có thọ giới tỳ-kheo, không theo đại chúng làm pháp an cư kiết hạ, hoặc không thỉnh giới nơi bậc trưởng lão chứng pháp để tự tứ an cư tức là an cư kiết hạ chỗ mình đang ở, thì vẫn không có tuổi đạo. Dù có cạo tóc ở chùa thọ giới đi chăng nữa mà không có tâm thức và ý nghĩa an cư, không có ý thiết tha cầu học nơi bậc trưởng thượng để kiết giới an cư, cũng chẳng có tâm niệm thành thiết nghĩ đến kiết hạ an cư, thì đó là hạng người hình đồng xuất gia, danh tướng tỳ-kheo, chỉ được giới tướng, mà giới thể tâm đức vẫn bất khả nhập, dĩ nhiên không có hạ lạp, không có tuổi đạo. Người có thọ giới mà không an cư kiết hạ còn thế, huống chi là kẻ không thọ giới mà mặc áo cà-sa làm tăng!
Kinh Di-Giáo, trước giờ vào Niết-Bàn, Đức Phật dạy: “Nầy các Tỳ-kheo, hãy giữ tịnh giới đừng để thiếu sót hủy phạm, giữ tịnh giới thì có thiện pháp. Không có tịnh giới thì mọi thứ công đức không phát sanh”. Thời mạt pháp có kẻ cạo tóc mặc áo làm tăng mà chẳng cần thọ giới tu hạ, lại tư xưng là thầy tăng. Đạo-Tuyên Luật-Sư nói: “Kẻ ngụy tăng cạo tóc đắp y thì chẳng cần thọ giới! Giới không có, thì định huệ sao thành, cữa ngõ nào để vào đạo, đức hạnh từ đâu sanh?” Ngài Đạo-An cũng nói: “Kẻ cuồng thiền chẳng cần giới. Kẻ ngụy tăng chẳng cần kiết hạ. Ngã mạn tăng chẳng cần nương học hỏi nơi bậc trưởng thượng”. Đối với những kẻ khinh thường thọ giới, kiết hạ an cư, ngông nghênh vượt bậc, khoa trương mong người biết danh cung dưỡng, ngài Châu-Hoằng nói: “Kẻ ngu mờ mịt chẳng biết thứ bậc hạ lạp, người cuồng khinh giới chẳng học, bèn toan tính vượt bực cao xa, thật đáng đau lòng thương xót!”. Người chân chánh tu thiền thì tinh nghiêm giới luật cầu thầy học đạo, theo thứ bậc hành trì. Kẻ tà thiền thì ngông cuồng vượt bậc chẳng giới luật, cho rằng: “Thọ giới đắp y chỉ là hình tướng, tu thiền không cần”. Thật là ăn nói quàng xiên, không hợp kinh điển, nên thiền tổ Bách-Trượng âu lo cho Phật pháp suy tàn, mang tâm nguyện duy trì kỷ cương đạo pháp, chỉnh lý sự tướng, phò trì luật nghi phát huy đạo hạnh, nên làm ra bộ Tòng-Lâm-Thanh-Qui Bách-Trượng.
Chư Tăng y giới pháp an cư kiết hạ, suốt ba tháng, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy chuyên tâm tinh tấn tu tập, sau khi tự tứ tức là ngày 16 tháng 7 âm lịch là ngày được thêm một tuổi đạo, cũng gọi là ngày thọ tuế. Người xuất gia tỳ-kheo có thực hành bao lần kiết hạ an cư là được bao tuổi đạo, tức là hạ lạp tăng trưởng theo số lần kiết hạ.
3) Ngày Phật hoan hỷ: Đức Phật trải nhiều kiếp tu hành gian nan khó khổ cũng vì mang đại nguyện lợi tha cứu độ chúng sanh. Đức Phật ra đời đang sống trong cung vàng điện ngọc, vì nhận rõ thật tướng cuộc đời là mộng huyễn khổ đau, nên Ngài rời bỏ cung vàng điện ngọc, độc thân vào rừng tu khổ hạnh với tâm nguyện cứu độ chúng sanh. Sau khi chiến thắng ma quân, điều ngự chướng nạn nội tâm ngoại cảnh, Ngài chứng thành đạo quả Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh giác dưới gốc cây Bồ-đề. Kể từ đó và suốt cuộc đời, Ngài ngày đi đêm nghỉ khắp đó đây trên vạn nẻo đường thành thị thôn quê để hoằng pháp độ sanh.
Nghĩa là, đức Phật cống hiến trọn đời cho sự nghiệp đem chánh pháp thức tỉnh quần sanh, những mong người đời giác ngộ để thoát vòng luân hồi sanh tử. Vì thương chúng sanh mà phải hy sinh tất cả lạc thú riêng mình cho sự nghiệp giáo hóa độ sanh. Không phải chỉ một đức Phật Thích-Ca tha thiết thương chúng sanh, mà mười phương chư Phật cũng đều thương chúng sanh như thế. Do vậy mà ngày rằm tháng bảy chư Tăng tròn đầy ba tháng an cư tu tập, giới hạnh thanh tịnh, đạo niệm kiên cố, tuổi đạo tăng trưởng, tức là hàng trưởng tử Như-Lai rút ngắn đường đến đạo quả giác ngộ giải thoát, nên chư Phật vô cùng hoan hỷ. Do đó, kinh Phật nói rằm tháng bảy là ngày chư Phật hoan hỷ.
4) Vu-Lan thắng hội: Tôn-giả Mục-Kiền-Liên trước kia tu theo ngoại đạo, sau khi được nghe Phật thuyết pháp rồi tỉnh ngộ, hồi đầu quy Phật, xin theo Phật xuất gia tu hành. Do chuyên ròng tinh tấn tu tập, nên chẳng bao lâu Mục-Kiền-Liên chứng quả A-la-hán, trở thành một trong những đại đệ tử của Phật, đặc biệt sở đắc về thần thông đệ nhất. Một ngày nọ, tôn-giả Mục-Kiền-Liên dùng thần thông huệ nhãn quán sát tìm xem mẹ cha hiện giờ sanh ở nơi nào, thì thấy cha ở cõi trời hưởng phước báo an vui, nhưng không thấy mẹ đâu cả. Ngài vội vã xoay tìm khắp nhân gian cũng không thấy hình bóng mẹ. Quá đỗi kinh ngạc, Ngài quán sát khắp trong sáu nẻo luân hồi, thì thấy mẹ là bà Thanh-Đề sanh trong loài ngạ quỷ, thân hình ốm gầy khắp người mọc đầy lông lá, da bọc lấy xương, lửa nghiệp đói khát nung đốt khổ sở vô cùng.
Quá xúc động, lòng trào dâng nỗi xót thương, tôn-giả Mục-Kiền-Liên liền bưng cơm đến dâng cho mẹ, nhưng cơm vừa để vào miệng thì hóa thành lửa bốc cháy cả tay miệng, mặt bà Thanh-Đề, làm cho Ngài vô cùng sửng sốt đau lòng đến tột độ, liền về bạch hết sự tình lên Phật. Đức Phật nói: “Mẹ ông khi còn ở đời tham lam, bỏn xẻn, ganh ghét, đố kỵ, khinh khi sư tăng, chẳng kính tin Tam-Bảo, lừa đảo hơn thua đố kỵ, tạo nhiều tội ác như vậy, nên nghiệp lực dẫn dắt sanh vào ngạ quỷ! Ông nay tuy chứng đạo quả A-la-hán, lòng hiếu thảo của ông cảm động đến trời đất, nhưng đạo đức một mình ông không thể cứu được mẹ.
Nghiệp ác của mẹ ông như quả núi to, mà đạo đức của ông như chiếc thuyền nan nhỏ, đâu có thể chở nổi quả núi qua sông. Chỉ còn phương pháp duy nhất là, vào ngày rằm tháng bảy, nhân lúc chư Tăng tròn đầy ba tháng an cư kiết hạ, làm lễ tự tứ, ông nên nhân dịp đó thành tâm sắm sửa y phục thức ăn dâng cúng dường chư Tăng, nhờ công đức tu hành, giới hạnh thanh tịnh trang nghiêm trong ba tháng an cư, sức chú nguyện của chư Tăng, đức chúng như hải mới có năng lực chuyển hóa được nghiệp tội của mẹ ông. Do sự thành tâm cúng dường, nhờ chư Tăng giới hạnh thanh tịnh chú nguyện, đức chúng như hải vạn năng mới có thể cứu độ tội nhân”. Tôn-giả Mục-Kiền-Liên liền y theo lời Phật dạy thành khẩn nhất tâm thực hành, bà Thanh-Đề nhờ phước đức đó mà thoát kiếp ngạ quỷ sanh về cõi trời.
Phương pháp báo hiếu nầy được Phật khuyến khích hàng đệ tử noi theo và được tiếp nối truyền mãi cho đến ngày nay.
Tóm lại, ngày rằm tháng bảy là ngày chư Tăng tự tứ, ngày chư Tăng thêm tuổi đạo, ngày chư Phật hoan hỷ, ngày Vu-Lan báo hiếu. Với những ý nghĩa đặc thù nầy, nên ngày rằm tháng bảy còn gọi là ngày Vu-Lan thắng hội.
Dù tế tự muôn ngàn đền thờ mà suốt đời không đình chỉ được tâm mông lung, thì chẳng bằng một giây phút chuyên nhất tâm trí lại nơi chánh pháp.
Kinh Pháp Cú
Hạnh phúc chân thật chỉ khi nào tâm không còn mọi mối lo âu.
Cây gai dại,
Gió thổi lõi gai.
Lõi gai non nót tốt tươi,
Mẹ ta kể biết mấy mươi công trình.
Từ phương nam,
Gió hòa đưa lại;
Cây gai dại,
Gió thổi củi gai.
Mẹ ta thánh thiện ở đời;
Mà ta chẳng được có người nào hay.
- Con ho lòng mẹ tan tành,
Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi.
Mẹ luôn đem hết sức mình để bảo bọc, che chở cho con được yên lành:
Để chết đi khi chẳng nhìn thấy mẹ.
Con bây giờ vẫn như thế, dễ thương
Chỉ ao ước một điều rất đơn giản
Sao cho thật mau thoát khỏi nỗi buồn
Để trở về ngôi nhà ta thấp vắng.
Con sẽ về khi hoa nở trên cành
Mang hơi thở mùa xuân quanh vườn tược
Chỉ có điều mẹ trong ánh bình minh
Đừng thức con như tám năm về trước.
Đừng thức dậy những giấc mơ đã tắt
Đừng khơi lên mộng ước đã không thành
Con là kẻ sớm chịu nhiều mất mát
Nếm trải nhiều mệt nhọc giữa ngày xanh.
Và đừng dạy con cầu nguyện. Không cần!
Thời ấu thơ chẳng quay về lần nữa.
Chỉ mẹ là niềm vui, niềm an ủi của con
Chỉ mẹ đối với con là ánh hồng khôn tả.
Mẹ hãy quên đi những điều phiền muộn
Mẹ đừng buồn, đừng lo lắng về con
Đừng hay bước ra ngoài con đường vắng
Trong chiếc áo len lạc mốt, cũ sờn.
Đáng kể thêm một bài này nữa, bài Tình Mẹ của nhà thơ Nga Nicolai Nekrasov (1821-1878):
Im lặng tôi sầu thôi
Để dòng nước mắt chảy
Là bớt khổ đi rồi...
Hoàng hôn phủ trên mộ
Chuông chùa nhẹ rơi rơi
Tôi thấy tôi mất mẹ
Mất cả một bầu trời.
------------------------------------------------
Thượng Đế không thể có mặt ở khắp mọi nơi, và vì thế Ngài tạo ra các bà mẹ. / God could not be everywhere and, therefore, He made mothers.
Ngạn ngữ Do Thái
(1) 遊子吟/慈母手中線/遊子身上衣/臨行密密縫/意恐 遲遲歸 / 誰言寸草心 / 報得三春暉.
Mấy cảm nhận về sự khác biệt giữa giáo dục miền Nam và giáo dục miền Bắc
Đã in tạp chí NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN
số 7-8 (114-115).2014,
số chuyên đề GIÁO DỤC MIỀN NAM VIỆT NAM (1954- 1975)
Tôi vốn là người làm nghề nghiên cứu văn học.Trong cái nghề thuộc loại công tác tư tưởng này, những năm trước 1975, tôi chỉ được phép đọc các sách báo miền Bắc, còn sách vở miền Nam bị coi như thứ quốc cấm.
Có điều, không phải chỉ là sự tò mò, mà chính lương tâm nghề nghiệp buộc tôi không thể bằng lòng với cách làm như vậy.
Tôi cho rằng, muốn hiểu cặn kẽ văn học hiện đại, phải hiểu văn học cổ điển; muốn hiểu văn họcVN phải hiểu văn học thế giới. Thế thì để hiểu văn học miền Bắc làm sao lại lảng tránh việc nghiên cứu văn học miền Nam được.
Đối với giáo dục cũng vậy. Từ sau 30-4-75, tôi vẫn sống ở Hà Nội. Sự tiếp xúc với giáo dục miền Nam (dưới đây viết là GDMN), chỉ dừng ở mức sơ sài bề ngoài.
Đâu người ta cũng hướng tới những yêu cầu này để noi theo, nay chưa làm được thì mai làm. GDMN cũng theo, GDMB thì không.
Trên danh nghĩa đại học VN cũng có những người gọi là giáo sư hay tiến sĩ đấy, nhưng đó là ta phong với nhau để làm việc, chứ thực tế thấp hơn hẳn chuẩn mực quốc tế “một cái đầu”.
Rộng hơn câu chuyện giáo viên là chuyện cơ sở vật chất và không khí học thuật của một trường đại học.
Rồi rộng hơn câu chuyện của riêng ngành đại học là chuyện của mọi cấp học.
Tính phi chuẩn bao trùm trong mọi lĩnh vực, từ trường sở, sách giáo khoa, cách cho điểm, cách tổ chức thi cử…, cho tới chất lượng dạy và học.
Sau mấy chục năm chiến tranh, cái sự làm lấy được làm theo ý chí đã thành chuẩn mực duy nhất, nó chi phối tất cả, khiến giáo dục VN có cách tồn tại, cách vận hành riêng chẳng giống ai. Các trường mới lập ra phải theo trường cũ, sau giải phóng thì miền Bắc buộc miền Nam phải theo.
Tạm ví một cách thô thiển: như trong khi người ta đi thì mình phải bò phải lết, vậy mà vẫn tự hào rằng mình cũng đang đi, chứ đâu có đứng yên.
KHÁC BIỆT TRONG QUAN NIỆM
Về bộ máy giáo dục
Những nguyên tắc căn bản của giáo dục
Mấy năm gần đây hoạt động của GDMN được nhắc nhở nhiều trên báo chí, nhất là trên mạng.
Nhờ thế, bọn tôi có thêm dịp để nghĩ lại về nền giáo dục mà đến nay ít được biết tới.
Đối chiếu với giáo dục miền Bắc, sơ bộ tôi thấy đại khái thấy hai nguyên tắc đầu cũng thường được Hà Nội nhắc tới, nhưng được giải thích khác đi, và nguyên tắc thứ ba thì hoàn toàn người làm GDMB không có một ý niệm gì hết.
Về tính dân tộc
Về tính nhân bản
Trên giấy tờ văn bản, chẳng bao giờ giới văn hóa giáo dục miền Bắc phủ nhận tính nhân bản, tuy là trong thực tế người ta rất ngại nói tới.
Phần thì xã hội ở đây đã xem đấu tranh giai cấp là động lực phát triển; phần nữa thì đang trong thời chiến tranh, không thể nói nhiều đến tình người, nó xâm hại ý chí chiến đấu.
Khi cần phải nói chuyện với thế giới, các nhà tư tưởng miền Bắc cũng công nhận nhân đạo chủ nghĩa là lý tưởng tốt đẹp và giáo dục phải có nhiệm vụ hướng tới.
Nhưng trong thực tế, cách lý giải nghĩa về chủ nghĩa nhân đạo thường giản đơn và cổ lỗ. Lại thường giải nghĩa rất mới: “chủ nghĩa nhân đạo cao nhất là chủ nghĩa nhân đạo chiến đấu chống lại mọi áp bức bất công”.
Trong bài Đế quốc Mỹ phải là kẻ thù riêng của mỗi trái tim ta của Chế Lan Viên, người ta còn thấy những câu thơ mà có lẽ con người ở các xã hội khác không sao hiểu nổi:
--Miền Nam ta ơi
Cái hầm chông là điều nhân đạo nhất
– Ngọn súng trường ta ơi ngọn súng rất nhân tình
Giới giáo dục miền Bắc cũng theo sự chỉ đạo đó.
Cách giải thích về nhân bản của các nhà giáo miền Nam ngược hẳn. Theo tôi hiểu , nó gần với cách hiểu của phạm trù này ở các xã hội hiện đại.
Hãy thử đọc một số sách thuộc tủ sách giáo dục của nhà xuất bản cũng tên là Trẻ, in ra ở Sài Gòn khoảng mấy năm sau 1970.
Lúc này, một nhóm các nhà giáo dục, có lẽ mới đi học Anh Mỹ về, lập nhóm và đã công bố nhiều tài liệu mới viết có, vừa được dịch có.
Khi bàn về mục đích giáo dục, Nguyễn Hòa Lạc viết:
chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá con người, và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc… Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.
http://hocthenao.vn/2013/10/16/nen-giao-duc-o-mien-nam-1954-1975-trich-nguyen-thanh-liem/
dù có được coi là đúng đi nữa, cũng không bao giờ được ứng dụng. Mà trong thực tế, lại làm ngược.
phải được coi là xa lạ và nếu có ai nghĩ vậy thì cần phê phán.
Về tính khai phóng
là theo tinh thần khai phóng vừa nói.
Mục đích của giáo dục là huấn luyện trẻ không phải chỉ nhằm vào sự thành công của chúng trong tình trạng xã hội hiện tại mà nhằm một tình trạng có thể tốt đẹp hơn, hợp với một quan niệm lý tưởng của nhân loại (sđ d tr 204).
GD MN nhằm vào những mục đích như thế mà GDMB thì không.
ĐOẠN KẾT
CHÚC SỨC KHOẺ.
ĂN CHAY MÙA VU LAN
Sunday, August 23, 2015
T.H * ĂN CHAY MÙA VU LAN
ĂN CHAY MÙA VU LAN
Cứ mỗi năm, vào dịp rằm tháng 7 hay còn gọi là lễ Vu lan, người ta thường ăn chay như một cách nhớ ơn và báo đáp công lao sinh thành dưỡng dục của mẹ cha, thành tâm hướng về tổ tiên.
Theo quan niệm đạo Phật về kiếp luân hồi, trong lễ Vu lan người ta không ăn thịt cá và không sát hại chúng sinh.
Đó là một hình thức từ bi đem tâm đức báo hiếu cha mẹ, người thân. Nếu như trước đây, nhiều người quan niệm ăn chay vào lễ vu lan chỉ dành cho những người theo tín ngưỡng, tôn giáo thì ngày nay ăn chay đã trở thành một xu hướng để giữ gìn sức khỏe, thu hút nhiều người không kể tầng lớp tuổi tác.
Trong tháng Vu Lan, có người đến chùa, người tìm tới các quán chay, cũng có người tự nấu tại nhà một mâm cơm cúng chay thanh tịnh để cúng giỗ ông bà, tổ tiên. Ăn chay được coi là một phương pháp phòng chống bệnh tật, giữ gìn vóc dáng, kéo dài tuổi thọ để tâm hồn thanh tịnh bình an nên ngày nay có rất nhiều người chọn cho mình cách ăn chay trường.
Quán ăn chay đông thực khách mùa lễ Vu Lan và tháng Cô hồn
Cỗ chay tùy loại có từ 10, 12 tới 25 món. Điểm đặc biệt trên mâm cỗ chay là sự hiện diện của những màu sắc tượng trưng cho ngũ hành. Màu đỏ tượng trưng cho hành hỏa, xanh của hành mộc, đen của hành thổ, màu trắng của hành thủy, màu vàng hành kim. Ăn cơm chay là một cách hướng tới sự cân bằng, thanh thản trong tâm hồn.
Ăn cỗ chay, chỉ cần thưởng thức qua một vài món, thực khách cũng có thể đánh giá được tay nghề của người nấu .Cũng một phần bởi cỗ chay chỉ chế biến, nấu qua nhiều loại rau nên nấu làm sao cho ngon, bày làm sao cho đẹp thì chỉ có thưởng thức mới là người rõ nhất.
Ai đã từng thưởng thức bữa cơm đạm bạc trong chùa với đậu phụ, rau dưa, tương bần, sản vật thảo mộc được trồng ngay trong vườn chùa chắc chẳn sẽ không thể quên được cảm giác của không gian thanh tịnh, tránh xa những bụi bặm ồn ào đời thường.
Những món ăn chay được trình bày công phu đẹp mắt, hương vị thanh tao không hề giống với bất cứ món ăn trần tục nào mặc dù cũng được gọi với những cái tên tương tự. Ăn chay không chỉ tốt cho sức khỏe, còn thể hiện ý nghĩa về tâm linh. Trong ngày lễ vu lan, sau bữa cơm chay nhiều người còn nán lại nơi không gian u tịch của cảnh chùa để được nghe thuyết giảng về đạo lý ở đời, lòng thấy nhẹ nhõm, thênh thang...
Một bữa ăn chay thư thả, khiến thực khách thấy lòng như dịu lại trong không gian trầm mặc với bức thư pháp trên cột, lồng đèn lụa đỏ trên cao… |
Những món ăn chay được trình bày công phu đẹp mắt, hương vị thanh tao không hề giống với bất cứ món ăn trần tục nào mặc dù cũng được gọi với những cái tên tương tự. Ăn chay không chỉ tốt cho sức khỏe, còn thể hiện ý nghĩa về tâm linh. Trong ngày lễ vu lan, sau bữa cơm chay nhiều người còn nán lại nơi không gian u tịch của cảnh chùa để được nghe thuyết giảng về đạo lý ở đời, lòng thấy nhẹ nhõm, thênh thang...
Hàng chay trong siêu thị vắng khách mua
T.H
VĨNH HẢO * CHA MẸ LÀ TẤT CẢ
CHA MẸ LÀ TẤT CẢ
Vĩnh Hảo
Thời tiết thật oi bức suốt một tuần lễ qua. Đâu đó trên đường, có những cảnh báo về hạn hán, kêu gọi mọi người tiết kiệm, hạn chế việc dùng nước. Nạn hạn hán đã kéo dài ở xứ này liên tục bốn năm qua. Nhiều cây kiểng và những bãi cỏ xanh của các công xưởng, công viên, gia cư tại đô thị đã lần lượt biến mất. Mọi người, mọi nhà đều phải tự ý thức trách nhiệm của mình đối với thiên tai này. Nói là thiên tai, mà kỳ thực, có sự góp phần rất lớn của con người trong việc sử dụng quá nhiều tài nguyên thiên nhiên (đốt nhiên liệu hóa thạch, phá rừng, v.v…) làm tăng nhiệt độ quả đất, tạo nên tình trạng hâm nóng toàn cầu (global warming).
Gần 200 quốc gia phát triển và đang phát triển đã ký vào Nghị định thư Kyoto (Kyoto Protocol, do Liên Hiệp Quốc chủ xướng từ năm 1997) nhằm cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính, ngăn chận hoặc ít ra là làm giảm tốc độ ấm lên của trái đất.
Trái đất trở thành ngôi nhà chung của toàn thế giới; và trước hiểm họa chung, nhân loại nhích lại gần nhau như người trong một gia đình. Nhưng một gia đình lý tưởng, và thực sự được gọi tên là “gia đình” chỉ khi nào có sự hòa hợp, thương yêu. Một thế giới đầy hận thù, nghi kỵ, ganh ghét, lạm dụng và lợi dụng nhau, công kích, giết hại nhau… thì không thể có hòa bình.
Gia đình là giềng mối từ đó hình thành xã hội, quốc gia hay thế giới. Không có gia đình thì không có xã hội, quốc gia, hay thế giới gì cả. Cũng vậy, không có cha mẹ thì không có gia đình. Cha mẹ là nhân tố quyết định sự có mặt của một gia đình.
Lập nên một gia đình không khó. Tạo một gia đình hạnh phúc, an vui, mới là khó.
Mỗi thế hệ cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con cái trưởng thành, làm người tốt của gia đình và hữu dụng cho xã hội. Tổ tiên dạy dỗ ông bà, ông bà dạy dỗ cha mẹ, và cha mẹ dạy dỗ chúng ta. Vậy nhìn chung, tổ tiên tốt thì ông bà tốt, ông bà tốt thì cha mẹ tốt, và rồi con cái cũng tốt theo. Thế nhưng, cha mẹ tốt mà con cái trở nên hư đốn, phá hoại xã hội, thậm chí còn giết hại cả cha mẹ ruột, thì trách nhiệm này thuộc về ai? Người ta sẽ tự suy ngẫm hoặc lắng nghe ý kiến, nhận định, hay kết luận từ các chuyên gia về giáo dục, nhân chủng và xã hội, cho đến luật học, đạo đức học, và dĩ nhiên là không quên tham khảo các tu sĩ của các tôn giáo, để phán xét về những đứa con hư.
Nhưng thế nào là cha mẹ tốt? và thế nào là đứa con hư? Người Á đông sẽ trả lời rất mau mắn: cha mẹ tốt là những người con hiếu thảo, đứa con hư là đứa con bất hiếu. Từ câu trả lời này, lại nẩy sinh câu hỏi khác: thế nào là hiếu, thế nào là bất hiếu? Câu trả lời theo văn hóa Á đông cũng rất mau mắn: hiếu là vâng lời cha mẹ, bất hiếu là không vâng lời cha mẹ. Nói vậy là vì tục ngữ Việt Nam có câu: “Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.”
Câu nói trên rất đúng cho nhiều gia đình mà cha mẹ là những người có đạo đức, biết lẽ phải, sống ngay thật, khoan dung, thương người, giúp người, thích làm việc công ích, không làm tổn hại ai; và dĩ nhiên là nuôi dạy con cái với tình thương yêu vô hạn. Đối với những bậc cha mẹ như thế, nếu con cái cứ chống cãi và sống ngược lại, nhiều phần sẽ dẫn đến sự hư hỏng, ngỗ nghịch, gây bất hòa trong gia đình, tạo bất ổn cho xã hội. Nhưng chuẩn mực của thế hệ này, trong hoàn cảnh xã hội này, không hẳn là có giá trị tuyệt đối cho các thế hệ sau, ở những nơi mà nếp văn hóa và quan niệm về nhân sinh khác hẳn. Chưa kể có những cha mẹ là thành phần bất hảo trong xã hội, sống ích kỷ, chỉ biết lợi mình, không bao giờ quan tâm đến khổ đau hay sự thiệt thòi của kẻ khác, không có một tiêu chuẩn đạo đức tối thiểu nào cho con cái noi gương, thì đừng trách tại sao con cái không vâng lời, không làm theo ý mình.
Vậy, trong một số trường hợp, con cãi cha mẹ chưa chắc trăm đường con hư; và cha mẹ đạo đức, chưa chắc biết cách dạy con nên người (trong một xã hội chuyển biến không ngừng với những bước nhảy vọt cả về kỹ thuật lẫn sự đồi bại luân lý).
Tiêu chuẩn đạo đức cũng thay đổi theo thời gian và hoàn cảnh. Chỉ có tình thương vô hạn của cha mẹ dành cho con cái thì ngàn năm trước và ngàn năm sau, vẫn là một thứ tình thiêng liêng cao đẹp, không ai truyền trao, không ai dạy dỗ, mà mọi người đều bình đẳng sở hữu khi quyết định tạo lập một gia đình cho chính mình. Nhưng nếu tình thương cha mẹ không được điều hướng bởi sự hòa hợp thì trong rất nhiều trường hợp, tình thương lại biến thành trở lực cho hạnh phúc gia đình.
Trong khi hợp là xây dựng, bồi đắp cho vững chắc những điểm tương đồng thì hòa là chia sẻ, cảm thông, tôn trọng và chấp nhận những điểm dị biệt trong cuộc sống chung. Thương yêu mà chỉ khư khư giữ lấy ý kiến của mình, buộc người khác phải nghe theo, thì không thể nào có được sự hài hòa, thuận thảo trong gia đình. Cha mẹ không phải lúc nào cũng đúng. Có khi nên biết lắng nghe quan điểm của con cái, cảm thông cho cá tính, ước nguyện, tâm tình và hoàn cảnh của chúng. Đừng bao giờ cho rằng con cái phải có trách nhiệm hay bổn phận thực hiện điều mình mong muốn, hoặc phải thành đạt giấc mộng chưa thành của mình. Đừng đặt giấc mơ của mình trên vai con cái mà không chịu tìm hiểu giấc mơ của chính nó.
Trong sinh hoạt xã hội, tập thể, tổ chức (tôn giáo, hội đoàn, công đoàn..), quốc gia, và quốc tế cũng vậy: những người lãnh đạo phải biết hòa hợp với người dưới, tôn trọng nguyện vọng chung của người dân, quan tâm đến lợi ích của nhân loại. Không có sự hòa hợp giữa mình với các thành viên khác trong gia đình, tổ chức, quốc gia và cộng đồng quốc tế, thì đừng mơ tưởng viển vông về nền hòa bình thế giới.
Không khó gì khi song hành, đồng hành với những người có cùng quan điểm và lý tưởng (hợp). Khó là có thể bước đi nhịp nhàng (hòa) với những người ngược dòng, nghịch hành với mình—con đường chông chênh ấy, luôn có sự va chạm, vi tế hay thô bạo giữa những bản ngã cứng ngắt. Mà muốn hòa được với kẻ trái chiều, hãy hạ mình xuống, hãy quên mình đi, hãy hy sinh một phần hay toàn phần bản ngã của mình. Đó là điều mà những đứa con—luôn là con trẻ—khó làm được khi chúng chưa trải nghiệm thế nào là tình thương vô hạn của cha mẹ. Nhưng những bậc cha mẹ thì làm được, vì tình thương của cha mẹ bao gồm sự hy sinh to lớn, vượt ngoài sức tưởng tượng của người con.
Thế giới hòa bình tùy thuộc nơi sự hòa hợp của mỗi quốc gia; quốc gia thịnh vượng tùy thuộc vào sự hòa hợp của các xã hội dân sự; xã hội an vui tùy thuộc nơi sự hòa hợp của những gia đình; và gia đình hạnh phúc là nhờ nơi cha mẹ.
Vì vậy, khi quyết định tạo lập một gia đình nhỏ, mỗi người chúng ta nên tự hỏi: chúng ta có thể nào có được đức hy sinh và tinh thần hòa hợp để xây dựng hạnh phúc cho gia đình này hay không. Nếu câu trả lời là không, xin đừng vội vàng đảm nhận vai trò cha mẹ. Và nếu đã lỡ tạo lập một gia đình không hòa thuận, thiếu hạnh phúc, con cái hư hỏng hoang đàng, xin đừng vội vàng qui trách tội bất hiếu cho con, mà hãy đem lòng thương yêu nhìn xuống con cái, hỏi một câu đơn giản: cha mẹ có thể làm được gì để con được hạnh phúc, hỡi con yêu?
Những nhà lãnh đạo tôn giáo, lãnh đạo quốc gia hay thế giới, cũng nên cúi mình xuống để hỏi những người cọng sự, hỏi những người dân của mình một câu tương tự và đơn giản như thế. Đừng đòi hỏi người dưới phải phục vụ mình hay tổ chức của mình, mà hãy tìm hiểu xem họ cần gì, và làm thế nào để họ được an vui, hạnh phúc.
Bài học từ đức hy sinh và tinh thần hòa hợp, hãy bắt đầu từ vai trò của cha mẹ.
Lòng thương của cha mẹ sẽ pha thêm màu xanh cho bầu trời, tô thêm màu biếc cho đại dương; và gia đình này, trái đất này, với bàn tay chăm sóc của cha mẹ, sẽ là hành tinh xanh, mỹ miều, tươi mát hơn bao giờ.
Cha mẹ là trên hết; cha mẹ là tất cả.
California, Mùa Vu Lan năm 2015
Vĩnh Hảo
LỄ VU LAN
Vu-lan
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Vu-lan | |
---|---|
Lễ Vu-lan tại chùa Quảng Hóa, Bắc Kinh
| |
Cử hành bởi | Phật tử, Đạo giáo |
Ngày | Sáng 15 tháng 7 Âm lịch |
Năm 2014 | 10 tháng 8 |
Năm 2015 | 28 tháng 8 |
Năm 2016 | 17 tháng 8 |
Vu-lan (chữ Hán: 盂蘭; sa. ullambana) là từ viết tắt của Vu-lan-bồn (盂蘭盆), cũng được gọi là Ô-lam-bà-noa (烏藍婆拏), là cách phiên âm Phạn-Hán từ danh từ ullambana. Ullambana có gốc từ động từ ud-√lamb, nghĩa là "treo (ngược) lên". Thế nên các đại sư Trung Quốc cũng dùng từ Đảo huyền (倒懸), "treo ngược lên" cho từ Vu-lan, hoặc dùng từ Giải đảo huyền (解倒懸) là dịch ý theo mục đích của Kinh Vu-lan-bồn. Thật ra, từ Giải đảo huyền được các đại sư Trung Quốc lấy ý từ câu: Dân chi duyệt chi do giải đảo huyền dã trong Mạnh Tử, chương 3 Công Tôn Sửu Thượng, chỉ sự giải thoát cho những kẻ khổ sở tột cùng ở cảnh giới Địa ngục[1].
Sự tích
Xuất phát từ sự tích về Bồ tát Mục Kiền Liên đại hiếu đã cứu mẹ của mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ. Vu Lan là ngày lễ hằng năm để tưởng nhớ công ơn cha mẹ (và tổ tiên nói chung) - cha mẹ của kiếp này và của các kiếp trước[1].
Theo kinh Vu Lan thì ngày xưa, Mục Kiền Liên đã tu luyện thành công nhiều phép thần thông. Mẹ ông là bà Thanh Đề đã qua đời, ông tưởng nhớ và muốn biết bây giờ mẹ như thế nào nên dùng mắt phép nhìn khắp trời đất để tìm[1]. Thấy mẹ mình, vì gây nhiều nghiệp ác nên phải sanh làm ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ khổ sở, ông đã đem cơm xuống tận cõi quỷ để dâng mẹ. Tuy nhiên do đói ăn lâu ngày nên mẹ của ông khi ăn đã dùng một tay che bát cơm của mình đi không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, vì vậy khi thức ăn đưa lên miệng đã hóa thành lửa đỏ[1].
Mục Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ, Phật dạy rằng: "Dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để cung thỉnh chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó".
Làm theo lời Phật, mẹ của Mục Liên đã được giải thoát. Phật cũng dạy rằng: chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu-Lan-Bồn Pháp). Từ đó, ngày lễ Vu-lan ra đời[1].
Truyền thống lễ nghi
Trong một số nước Á Đông, ngày lễ này thường được tổ chức vào ngày 15 tháng 7 (Âm lịch), để tỏ hiếu với cha mẹ, ông bà và cũng để giúp đỡ những linh hồn đói khát.
Việt Nam
Tại Việt Nam, việc cúng Rằm tháng Bảy bao giờ cũng phải cúng ở chùa (thờ Phật) trước, rồi mới đến cúng tại gia[2]. Lễ này thường được làm vào ban ngày, tránh làm vào ban đêm, khi Mặt Trời đã lặn[2][3]. Ngoài ra, theo truyền thống tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong dân gian, ngày này là ngày "Xá tội vong nhân" nên nhiều nhà có mâm cơm cúng trước nhà, để cúng những vong linh bơ vơ không gia đình, còn gọi theo dân gian là "cúng cô hồn, "cúng thí thực" (tặng thức ăn).
Vào ngày này, mọi gia đình đều cúng hai mâm: cúng tổ tiên tại bàn thờ tổ tiên và cúng chúng sinh (cúng thí thực hay cúng cô hồn) ở sân trước nhà hoặc trên vỉa hè (nếu đường rộng), thời gian cúng có thể là vào buổi sáng, trưa hoặc chiều[2].
Trên mâm cúng tổ tiên, gia đình bày đặt một mâm cỗ mặn, tiền vàng và cả những vật dụng dành cho người cõi Âm tức đồ mã làm bằng giấy có tính tượng trưng nhưng hình dạng giống như đồ thật như quần áo[4][5], giày dép, áo bào, cung điện, ngựa, các vật dụng trang sức...[5], mũ kepi, người giúp việc [6]... đến những vật hiện đại: nhà cao tầng, xe ô tô, xe máy, điện thoại...[4][5][7] để cho người cõi Âm có được một cuộc sống tiện nghi giống như người Dương trần.[3] Những đồ lễ đó thường được làm tại các cơ sở sản xuất (nổi tiếng là khu phố vàng mã ở Chợ Lớn TP.HCM" được vận chuyển đi khắp các tỉnh thành[5][7].
Trên mâm cúng chúng sinh thì lễ vật gồm có: quần áo chúng sinh với nhiều màu sắc (xanh lam, xanh lá mạ, vàng, hồng...), các loại bỏng ngô, chè lam, kẹo vừng, kẹo dồi, bánh quế, cháo, tiền vàng, cốc nước lã hoặc rượu (có thể thêm nước ngọt, bia nếu có điều kiện), cốc gạo trộn lẫn với muối (cốc này sẽ được rắc ra vỉa hè hoặc sân nhà về bốn phương tám hướng sau khi cúng xong), ngô, khoai lang luộc, cháo hoa... và những lễ vật khác dành cho những cô hồn, ma đói không nơi nương tựa. ở chùa khi cúng chúng sinh xong người ta thường gọi những đứa trẻ xung quanh đến rồi cho chúng cùng nhảy vào tranh cướp những vật cúng: như bỏng, oản... tượng trưng cho những cô hồn...[3]
Tại các chùa và hội đoàn Việt Nam, vào ngày lễ Vu Lan thường có nghi thức "Bông hồng cài áo", là cài bông hồng cho những ai còn mẹ và bông trắng cho những ai mất mẹ, nhắc nhở về lòng hiếu thảo và tình người. Nghi thức này do thiền sư Nhất Hạnh khởi xướng trong cuốn sách viết năm 1962.[8] Một số địa phương có tục lệ riêng như ở Quy Nhơn thì dân chúng xếp thuyền giấy rồi thả ra biển để tưởng nhớ những ai ra khơi rồi mất tích như hồi thập niên 1980-90 với nạn thuyền nhân vượt biên.[9]
Nhật Bảngày 15 tháng 8 dương lịch, gọi là Obon (お盆?) hay là Bon (盆?), thường kéo dài 3 ngày. Vào những ngày này, người Nhật thường có hỏa thiêu lễ vật và vào đêm cuối, Tōrōnagashi (灯籠流し), thả những chiếc đèn nổi trên sông để hướng dẫn linh hồn người quá cố. Theo truyền thống, kết hợp với một lễ hội múa dân gian, mỗi địa phương có sự tổ chức khác nhau.[10][11][12] Để tỏ những ước nguyện của mình, người ta viết ước nguyện rồi treo vào cây trúc với mong ước điều ước đó sẽ trở thành hiện thực.
Hình ảnh
NGHÊ THUẬT TẠO HÌNH
Nghệ thuật tạo hình đá tuyệt đỉnh của Iain Blake
HÌNH TRẺ DỄ THƯƠNG
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 378
RẰM THÁNG BẢY = GIÁO DỤC
Showing posts with label BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 378. Show all posts
Monday, August 24, 2015
TRẦN HỒNG CHÂU * BIỂN
biển vẫn biển quê hương
nối dài muôn trùng sóng
hồ khoan vẫn bắc cầu vồng nhớ nhung
lửa tiếp sức vẫn từ lòng đất mẹ...
nhưng dưới sâu
sâu nữa
vạn hồn thuyền nhân
sớm đi tối về
vẫn oan khiên
ngập tràn biển đông!
nước biển có giải oan
trắng tinh hồn nhược tiểu?
nước biển có mặn chát
vạn niềm đau ?
nước biển có rửa sạch
ý thức hệ đen
đồ thán
chất ngất trời xanh ?
sóng vật vờ
sóng thành đỉnh Hy Mã
sóng thành vực A tỳ
thuyền lá tre vút lên lời nguyện cầu
đỏ thương đau
một hạt cát trong vô cùng sa mạc
một giọt nước trong vô cùng đại dương
đoàn hải khấu
ác điểu đen
bỗng đổ sập xuống một trời bóng tối
nữ tu, thôi hết nữ đồng trinh
nghĩa phu thê, thôi lời vĩnh biệt
em gái nhỏ, thôi nhé
dẫm nát một búp hồng non!
mắt loạn thị
đầu hoang tưởng
nhãn ngư, ngư nhãn
điệu hồ khoan, ơ hờ!
ta đã đi đến tận cùng của chịu đựng
đi! cho ta nắm bàn tay tuyệt diệu
cho ta vào lòng biển sâu
vào giấc ngủ vô thường...
dưới sâu vẫn vô vàn cánh bay
dằng dặc
dây xích oan khiên
về lòng đất
ai đây tiêp dẫn
chúng sinh hồn trầm lạc ?
Trần Hồng Châu
( Nhớ Đất Thương Trời )
TrÀn HÒng Châu
Biển đa tình
Nằm hôn bờ cát trắng
Áo kim nhũ
Áo kim cương
Âm bản xanh một cõi trống
Ngàn sao trời lật ngược
Niềm bâng khuâng phơn phớt vàng
Trái chín rơi từ trong lực
Mặt trời đúng ngọ
Đàn hải âu kia sao chỉ vui xuân một mình
Bỏ mặc ta bất động bên bờ vắng
Như một mỏm đá chơ vơ
Ngàn năm xưa cũ
Nỗi buồn hóa thạch
Mọc dầy đặc mấy lớp bì phu
Ta nhặt từng sợi rong biển
Tóc thề trong chất lỏng xanh
Ta nhặt từng sợi kỷ niệm
Bềnh bồng trong tiềm thức biển sâu
Quá khứ đến rồi đi
Luân hồi
Trên bạc đầu sóng vỗ
Tản mạn về chân trời
Mù khơi...
Nơi xa đó
Diện đối diện nửa vòng xích đạo
Có phải quê hương ta?
Bãi trước. Bãi sau
Ngôi nhà tranh xiêu vẹo
Em bé thiếu dinh dưỡng
Người mỏng như sợi chỉ bàn tay
Vẫn biển một khối liền
Vẫn một gầm trời chung
Vẫn một em mây hồng lãng đãng
Mây cho ta nhắn gửi
Lời về thăm cố lý
Nơi có từng giọt nước mắt rơi
Trên từng hòn đất xót xa
Nơi có những nụ cười héo hắt
Và chẳng hề có một mùa xuân!
Nỗi nhớ bắc cầu vồng đến tận chân trời
Từ bên này góc biển
Ta lặng im
Ngày này sang ngày khác
Sương rơi tóc biếc
Tuyết phủ sao trăng
Hồn chơi vơi bạc ố mấy thời gian
Đêm hoang mang đen mãi những bao giờ
Chẳng làm sao đem được quê hương trong hành lý
Người xưa từng thấy
Ta lặng im
Tâm sự buồn
Với con còng gió
Có quê hương là lỗ sâu trong cát
Với ngọn cỏ sa mạc
Không hề bị đứt rễ lưu đầy!
Ta sẽ đi tìm dấu chân người thi sĩ già
Có ngôi chùa cổ Hàng châu là không gian quy ẩn
Người thi sĩ gửi tro tàn theo sóng biển Đông
Về địa chỉ nơi chôn cuống nhau là Liên Bạt Hà Đông
Sóng hãy vỗ về
Mấy hồn người lạc lỏng
Mấy ván thuyền đau buốt
Trôi rạt về bến xưa
Môt mùa xuân nào đó
Ta sẽ là chàng lãng tử
Quỳ gối gôn
Chân trời xa nửa vòng xích đạo
Bãi trước. Bãi sau...
Biển đắng
Hãy mang ta đi trên thảm thần xanh!
Nằm hôn bờ cát trắng
Áo kim nhũ
Áo kim cương
Âm bản xanh một cõi trống
Ngàn sao trời lật ngược
Niềm bâng khuâng phơn phớt vàng
Trái chín rơi từ trong lực
Mặt trời đúng ngọ
Đàn hải âu kia sao chỉ vui xuân một mình
Bỏ mặc ta bất động bên bờ vắng
Như một mỏm đá chơ vơ
Ngàn năm xưa cũ
Nỗi buồn hóa thạch
Mọc dầy đặc mấy lớp bì phu
Ta nhặt từng sợi rong biển
Tóc thề trong chất lỏng xanh
Ta nhặt từng sợi kỷ niệm
Bềnh bồng trong tiềm thức biển sâu
Quá khứ đến rồi đi
Luân hồi
Trên bạc đầu sóng vỗ
Tản mạn về chân trời
Mù khơi...
Nơi xa đó
Diện đối diện nửa vòng xích đạo
Có phải quê hương ta?
Bãi trước. Bãi sau
Ngôi nhà tranh xiêu vẹo
Em bé thiếu dinh dưỡng
Người mỏng như sợi chỉ bàn tay
Vẫn biển một khối liền
Vẫn một gầm trời chung
Vẫn một em mây hồng lãng đãng
Mây cho ta nhắn gửi
Lời về thăm cố lý
Nơi có từng giọt nước mắt rơi
Trên từng hòn đất xót xa
Nơi có những nụ cười héo hắt
Và chẳng hề có một mùa xuân!
Nỗi nhớ bắc cầu vồng đến tận chân trời
Từ bên này góc biển
Ta lặng im
Ngày này sang ngày khác
Sương rơi tóc biếc
Tuyết phủ sao trăng
Hồn chơi vơi bạc ố mấy thời gian
Đêm hoang mang đen mãi những bao giờ
Chẳng làm sao đem được quê hương trong hành lý
Người xưa từng thấy
Ta lặng im
Tâm sự buồn
Với con còng gió
Có quê hương là lỗ sâu trong cát
Với ngọn cỏ sa mạc
Không hề bị đứt rễ lưu đầy!
Ta sẽ đi tìm dấu chân người thi sĩ già
Có ngôi chùa cổ Hàng châu là không gian quy ẩn
Người thi sĩ gửi tro tàn theo sóng biển Đông
Về địa chỉ nơi chôn cuống nhau là Liên Bạt Hà Đông
Sóng hãy vỗ về
Mấy hồn người lạc lỏng
Mấy ván thuyền đau buốt
Trôi rạt về bến xưa
Môt mùa xuân nào đó
Ta sẽ là chàng lãng tử
Quỳ gối gôn
Chân trời xa nửa vòng xích đạo
Bãi trước. Bãi sau...
Biển đắng
Hãy mang ta đi trên thảm thần xanh!
( NHỚ ĐẤT THƯƠNG TRỜI
RẰM THÁNG BẢY
Blog / Trong lòng Hà Nội
Tản mạn mùa Vu Lan
Ðường dẫn
06.09.2015
Ngày 15 tháng 7 âm lịch hàng năm, tức rằm tháng 7, trong đạo Phật có một ngày lễ có tên gọi là lễ Vu Lan. Vào ngày này, các gia đình làm mâm cơm cúng lễ tưởng nhớ đến ông bà tổ tiên, tỏ lòng trân trọng biết ơn những đấng sinh thành. Những ai còn mẹ được cài lên áo bông hồng đỏ tượng trưng cho sự biết ơn, tự hào. Với những người con mà mẹ đã khuất thì cài bông hồng trắng thể hiện nỗi thương nhớ. Mùa Vu Lan ở Việt Nam năm nay phổ biến hơn đối với giới trẻ và còn lan rộng đến nỗi đại sứ Mỹ tại Hà Nội Ted Osius cũng đội mưa gió đưa mẹ lên chùa Quán Sứ làm lễ.
Nhìn những màu hoa trắng đỏ rực khắp các trang mạng xã hội, hay báo điện tử, tôi bỗng chợt nghĩ về những người mẹ đã mất con, những người mẹ Việt Nam anh hùng. Khi mà người người nô nức khấn vái cầu mong bình an cho mẹ mình, lại có những người mẹ đang ngày ngày lặng lẽ thắp hương trên bàn thờ của con qua tháng năm. Mà có lẽ, không có một đất nước nào như đất nước tôi, có quá nhiều những người mẹ âm thầm nuôi con lớn khôn trong bom đạn, lặng lẽ chờ chồng, mòn mỏi chờ con, để rồi “Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ…” Và chắc có lẽ cũng không có đất nước nào như đất nước tôi, dọc cả Tổ quốc có hàng trăm những bức tượng tôn vinh các mẹ, nhưng đồng thời cũng có vô vàn những câu chuyện vừa khôi hài vừa đau thương về họ. Có người mẹ ở Vĩnh Phúc, cả đời loay hoay giấy tờ chứng minh có con trai là chiến sĩ đã hy sinh trên chiến trường từ 30 năm trước, chạy ngược chạy xuôi đến sau khi qua đời mới được truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và hưởng trợ cấp 42 triệu đồng tiền thờ cúng. Vụ tranh chấp, phân chia số tiền này giữa các thân nhân lùng bùng đến nỗi lên các trang báo trong nước.
Những vụ kiện giữa chú cháu, con gái, con dâu cho đến giờ vẫn chưa đến hồi kết. Các bài báo không đề cập đến tên tuổi của người mẹ anh hùng này, và người đọc có lẽ cũng chẳng màng đến. Tìm hiểu thêm, với danh hiệu này, chính sách trợ cấp là cực kỳ ít với mức 1.105.000 đồng/ tháng, ngoài ra còn bao gồm các chế độ khác như bảo hiểm y tế và trợ cấp mai táng sau khi qua đời theo chính sách của bộ. Cũng mới gần đây, việc trao tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” còn được đem ra xem xét lại với các trường hợp là mẹ hoặc vợ liệt sỹ nhưng đã…tái giá.
Đọc những thông tin lùm xùm đó, tôi bỗng thấy hạnh phúc của những người mẹ Việt Nam sao mong manh đến thế. Một người mẹ bình thường đã phải nhọc nhằn cả phần lớn cuộc đời vì chồng vì con, dẫu vậy vẫn có những khoảng thời gian vui vẻ viên mãn với mái ấm gia đình riêng của mình. Còn với những người mẹ liệt sỹ, dường như dù chỉ là nghĩ đến hạnh phúc riêng của bản thân thôi đã là một điều khó chấp nhận.
Những tượng đài lịch sử cứ mọc lên càng nhiều mỗi năm, những chương trình truyền hình hoành tráng được tổ chức mỗi dịp thống nhất Tổ quốc hay Quốc khánh hàng năm như một tấm bình phong khổng lồ che đi cuộc đời họ đã và đang sống trong mấy chục năm có lẻ, đơn côi một mình, lạc lõng mưu sinh từng ngày trên mảnh đất đã thấm đẫm máu và nước mắt của người thân.
So với những mất mát đớn đau đó, tôi chỉ thấy những danh hiệu này, bằng khen nọ đều trở nên vô nghĩa. Ai mong muốn được khen tặng vì cái chết của con mình, khi mà ẩn sau niềm “vinh dự” đó là một mái nhà hiu hắt mùi hương trầm và những bức ảnh đã mờ đã cũ. Những câu hát về mẹ Việt Nam tảo tần chung thủy cùng nỗi buồn cứ mãi dài ra. Mùa Vu Lan này, ai đã cài hoa tưởng nhớ về họ?
* Blog 'Trong lòng Hà Nội' của Hoàng Giang là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Hoàng Giang
Hoàng Giang sinh ra và lớn lên tại thủ đô Hà Nội, từng đi du học ngành truyền thông tại Mỹ, là cây bút tự do cho nhiều tờ báo dành cho giới trẻ trong và ngoài nước. 'Trong lòng Hà Nội' là suy nghĩ về những đổi thay của đất nước trong giai đoạn chuyển tiếp dưới góc nhìn khách quan và mới mẻ.
Sự tích ngày rằm tháng Bảy
Tháng 7 âm lịch, người Việt có một ngày lễ mà giới tăng ni Phật tử thường gọi là ngày lễ Vu Lan. Đây là một đại lễ báo hiếu cha mẹ, ông bà, tổ tiên đã khuất – một tập tục đáng quý, đáng trọng của người Việt, thể hiện tấm lòng “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Rằm tháng 7 Âm lịch cũng là ngày xá tội vong nhân mà dân gian gọi nôm na là ngày cúng chúng sinh.
Chúng ta cùng tìm hiểu về những sự tích, tập tục đầy tính nhân văn này nhé! Xuất xứ lễ Vu Lan
Xuất phát từ sự tích về Bồ tát Mục Kiền Liên đại hiếu đã cứu mẹ của mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ. Vu Lan là ngày lễ hằng năm để tưởng nhớ công ơn cha mẹ (và tổ tiên nói chung) - cha mẹ của kiếp này và của các kiếp trước.
Theo kinh Vu Lan thì ngày xưa, Mục Kiền Liên đã tu luyện thành công nhiều phép thần thông. Mẫu thân ông là bà Thanh Đề đã qua đời, ông tưởng nhớ và muốn biết bây giờ mẹ như thế nào nên dùng mắt phép nhìn khắp trời đất để tìm. Thấy mẹ mình, vì gây nhiều nghiệp ác nên phải sanh làm ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ khổ sở, ông đã đem cơm xuống tận cõi quỷ để dâng mẹ. Tuy nhiên do đói ăn lâu ngày nên mẹ của ông khi ăn đã dùng một tay che bát cơm của mình đi tranh không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, vì vậy khi thức ăn đưa lên miệng thức ăn đã hóa thành lửa đỏ.
Mục Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ, Phật dạy rằng: "dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để vận động chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó".
Làm theo lời Phật, mẹ của Mục Liên đã được giải thoát. Phật cũng dạy rằng chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu Lan Bồn Pháp). Từ đó ngày lễ Vu Lan ra đời.
Sự tích ngày xá tội vong nhân:
Sự tích lễ cúng cô hồn như sau: Cứ theo "Phật Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni Kinh" mà suy thì việc cúng cô hồn có liên quan đến câu chuyện giữa ông A Nan Ðà, thường gọi tắt là A Nan, với một con quỷ miệng lửa (diệm khẩu) cũng gọi là quỷ mặt cháy (diệm nhiên). Có một buổi tối, A Nan đang ngồi trong tịnh thất thì thấy một con ngạ quỷ thân thể khô gầy, cổ nhỏ mà dài, miệng nhả ra lửa bước vào. Quỷ cho biết rằng ba ngày sau A Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào cõi ngạ quỷ miệng lửa mặt cháy như nó. A Nan sợ quá, bèn nhờ quỷ bày cho phương cách tránh khỏi khổ đồ. Quỷ đói nói: "Ngày mai ông phải thí cho bọn ngạ quỷ chúng tôi mỗi đứa một hộc thức ăn, lại vì tôi mà cúng dường Tam Bảo thì ông sẽ được tăng thọ mà tôi đây cũng sẽ được sanh về cõi trên".
A Nan đem chuyện bạch với Ðức Phật. Phật bèn đặt cho bài chú gọi Là "Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni", đem tụng trong lễ cúng để được thêm phước. Phật tử Trung Hoa gọi lễ cúng này là Phóng diệm khẩu, tức là cúng để bố thí và cầu nguyện cho loài quỷ đói miệng lửa, nhưng dân gian thì hiểu rộng ra và trại đi thành cúng cô hồn, tức là cúng thí cho những vong hồn vật vờ không nơi nương tựa vì không có ai là thân nhân trên trần gian cúng bái. Vì tục cúng cô hồn bắt nguồn từ sự tích này, cho nên ngày nay người ta vẫn còn nói cúng cô hồn là Phóng diệm khẩu. Có khi còn nói tắt thành Diệm khẩu nữa. Diệm khẩu, từ cái nghĩa gốc là (quỷ) miệng lửa, nay lại có nghĩa là cúng cô hồn. Ðiều này góp phần xác nhận nguồn gốc của lễ cúng cô hồn mà chúng tôi đã trình bày trên đây. Phóng diệm khẩu mà nghĩa gốc là "thả quỷ miệng lửa", về sau lại được hiểu rộng thêm một lần nữa thành "tha tội cho tất cả những người chết". Vì vậy, ngày nay mới có câu : "Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân".
Nhưng lễ cúng cô hồn khác với lễ Vu Lan dù được cử hành trong cùng Ngày Rằm. Một đằng là để cầu siêu cho cha mẹ nhiều đời được siêu thoát, một đằng là để bố thí thức ăn cho những vong hồn chưa được siêu thoát, những vong hồn không nơi nương tựa, không người cúng kiếng.
THICH ĐỨC NIỆM * RẰM THÁNG BẢY
Rằm Tháng Bảy
Hòa Thượng Thích Đức Niệm
Rằm tháng bảy đối với đạo Phật mang ý nghĩa đặc thù, tưởng cũng nên lược nêu ra đây vài đặc điểm:
1) Ngày tự tứ: Khi đức Phật còn ở đời, ngày ngày Ngài đi hoằng pháp khắp đó đây, nhưng đến mùa mưa từ khoảng rằm tháng tư đến rằm tháng bảy, trong suốt thời gian ba tháng mùa hạ nầy, đức Phật và hàng đệ tử xuất gia đều tập trung ở một chỗ chuyên tâm tu học không ra ngoài, việc làm nầy ngoài ý nghĩa tránh sự giẫm đạp trùng kiến và mầm non cỏ cây, còn là thời gian để tăng chúng thúc liễm, thân tâm tinh tấn tu tập, gọi là thời gian kiết hạ an cư. Kiết hạ an cư tức là kiết giới an trú một chỗ tịnh tu suốt ba tháng mùa hạ, nên cũng gọi là cấm túc.
Ở Ấn-Độ, vào mùa hạ trời thường mưa ẩm ướt, côn trùng sanh sản, cỏ cây nẩy mầm, nên đức Phật khuyên hàng đệ tử tốt nhứt tập trung ở một chỗ để chuyên tâm tịnh tu. Trong suốt thời gian ba tháng hạ, đức Phật ròng rã thuyết pháp, chư Tăng tĩnh tâm chuyên cần ngày đêm tinh tấn tu học không ngừng, đồng thời cũng là dịp trình giải sở đắc, trao đổi kinh nghiệm tu học và hoằng pháp. Thời gian ba tháng an cư nầy, chư Tăng ngày đêm gia công chuyên ròng tu tập gấp bội ngày thường, nên giới hạnh công đức cũng theo đó mà tăng trưởng cao dày. Do ý nghĩa đặc thù nầy, hằng năm chư Tăng đều y theo lời Phật chế định mà hành trì. Tuy đức Phật đã niết-bàn từ lâu, nhưng ở bất cứ quốc độ nào, có đạo Phật, có thanh tịnh tăng chánh truyền, vẫn thực hiện thời gian an cư kiết hạ tinh tấn tu tập như khi Phật còn ở đời. Thời gian kiết hạ an cư chính là thời gian trưởng dưỡng đạo hạnh, tài bồi công đức, giới hạnh tinh nghiêm, đạo tâm kiên cố. Chư Tăng giới hạnh thanh tịnh là trang nghiêm mạng mạch đạo pháp vững mạnh trường tồn. Thế nên, trước giờ nhập Niết-Bàn, đức Phật ân cần nói: “Giới luật còn thì đạo pháp còn”. Có nghĩa là hàng đệ tử Phật còn biết tôn trọng giữ gìn giới luật thì sức sống của đạo pháp còn. Phật Pháp thịnh suy tùy theo sự hành trì giới pháp.
Chư Tăng kiết hạ từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy là thời gian tròn đủ ba tháng, do đó rằm tháng bảy cũng thường gọi là ngày mãn hạ. Ngày mãn hạ còn gọi là ngày giải hạ. Ngày nầy chư Tăng hội họp để làm pháp tự tứ, nghĩa là mỗi người tự trình bày những điều mình thấy, nghe, hay, biết và chỗ sở đắc, đồng thời thành tâm thỉnh các bậc trưởng lão và đại chúng hoan hỷ nêu chỉ những điều nghi là có lầm lỗi qua sự thấy, nghe, hay, biết, mà chính mình không hay biết để được sám hối và sửa đổi. Thế nên, khi tự tứ, mỗi vị tăng ở giữa đại chúng, quỳ lạy trước vị trưởng lão thành tâm thưa: “Bạch Đại-Đức, chúng Tăng ngày nay tự tứ, con tỳ-kheo là (xưng tên mình) cũng xin được tự-tứ, nếu thấy tội, nghe tội, nghi có tội, xin Đại-Đức thương xót chỉ bảo cho con. Nếu con thấy có tội sẽ y như pháp mà sám hối”. Phải ba lần thưa như vậy. Tự mình đem hết cõi lòng chân thành hoan hỷ trình bày chỗ thấy nghe hay biết rồi đồng thời thỉnh trưởng lão và đại chúng hoan hỷ chỉ giáo, trong tinh thần từ mẫn tương thân tương kính tương sám để tự và tha đều hoan hỷ chân tình cởi mở hết cõi lòng đồng hỗ tương sách tấn bằng cách chỉ nhắc cho nhau khi mãn hạ trong ngày rằm tháng bảy, nên nhà Phật gọi là ngày tự tứ.
2) Ngày tăng-trưởng hạ lạp, tức là ngày được thêm tuổi đạo. Người đời, cứ mỗi năm đến ngày mùng một Tết là thêm một tuổi thọ. Và bao nhiêu lần Tết là được bao nhiêu tuổi thọ. Nhưng nhà Phật thì không như thế. Nhà Phật tính theo tuổi đạo mà không tính theo tuổi đời. Tuổi đạo là tuổi căn cứ đạo hạnh, tức là thọ tỳ-kheo giới, thực hành kiết hạ an cư mới có hạ lạp, tức là mới được có tuổi đạo. Thế nên người đó cho dù có năm bảy chục tuổi đời mà không có thọ giới tỳ-kheo, không theo đại chúng làm pháp an cư kiết hạ, hoặc không thỉnh giới nơi bậc trưởng lão chứng pháp để tự tứ an cư tức là an cư kiết hạ chỗ mình đang ở, thì vẫn không có tuổi đạo. Dù có cạo tóc ở chùa thọ giới đi chăng nữa mà không có tâm thức và ý nghĩa an cư, không có ý thiết tha cầu học nơi bậc trưởng thượng để kiết giới an cư, cũng chẳng có tâm niệm thành thiết nghĩ đến kiết hạ an cư, thì đó là hạng người hình đồng xuất gia, danh tướng tỳ-kheo, chỉ được giới tướng, mà giới thể tâm đức vẫn bất khả nhập, dĩ nhiên không có hạ lạp, không có tuổi đạo. Người có thọ giới mà không an cư kiết hạ còn thế, huống chi là kẻ không thọ giới mà mặc áo cà-sa làm tăng!
Kinh Di-Giáo, trước giờ vào Niết-Bàn, Đức Phật dạy: “Nầy các Tỳ-kheo, hãy giữ tịnh giới đừng để thiếu sót hủy phạm, giữ tịnh giới thì có thiện pháp. Không có tịnh giới thì mọi thứ công đức không phát sanh”. Thời mạt pháp có kẻ cạo tóc mặc áo làm tăng mà chẳng cần thọ giới tu hạ, lại tư xưng là thầy tăng. Đạo-Tuyên Luật-Sư nói: “Kẻ ngụy tăng cạo tóc đắp y thì chẳng cần thọ giới! Giới không có, thì định huệ sao thành, cữa ngõ nào để vào đạo, đức hạnh từ đâu sanh?” Ngài Đạo-An cũng nói: “Kẻ cuồng thiền chẳng cần giới. Kẻ ngụy tăng chẳng cần kiết hạ. Ngã mạn tăng chẳng cần nương học hỏi nơi bậc trưởng thượng”. Đối với những kẻ khinh thường thọ giới, kiết hạ an cư, ngông nghênh vượt bậc, khoa trương mong người biết danh cung dưỡng, ngài Châu-Hoằng nói: “Kẻ ngu mờ mịt chẳng biết thứ bậc hạ lạp, người cuồng khinh giới chẳng học, bèn toan tính vượt bực cao xa, thật đáng đau lòng thương xót!”. Người chân chánh tu thiền thì tinh nghiêm giới luật cầu thầy học đạo, theo thứ bậc hành trì. Kẻ tà thiền thì ngông cuồng vượt bậc chẳng giới luật, cho rằng: “Thọ giới đắp y chỉ là hình tướng, tu thiền không cần”. Thật là ăn nói quàng xiên, không hợp kinh điển, nên thiền tổ Bách-Trượng âu lo cho Phật pháp suy tàn, mang tâm nguyện duy trì kỷ cương đạo pháp, chỉnh lý sự tướng, phò trì luật nghi phát huy đạo hạnh, nên làm ra bộ Tòng-Lâm-Thanh-Qui Bách-Trượng.
Chư Tăng y giới pháp an cư kiết hạ, suốt ba tháng, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy chuyên tâm tinh tấn tu tập, sau khi tự tứ tức là ngày 16 tháng 7 âm lịch là ngày được thêm một tuổi đạo, cũng gọi là ngày thọ tuế. Người xuất gia tỳ-kheo có thực hành bao lần kiết hạ an cư là được bao tuổi đạo, tức là hạ lạp tăng trưởng theo số lần kiết hạ.
3) Ngày Phật hoan hỷ: Đức Phật trải nhiều kiếp tu hành gian nan khó khổ cũng vì mang đại nguyện lợi tha cứu độ chúng sanh. Đức Phật ra đời đang sống trong cung vàng điện ngọc, vì nhận rõ thật tướng cuộc đời là mộng huyễn khổ đau, nên Ngài rời bỏ cung vàng điện ngọc, độc thân vào rừng tu khổ hạnh với tâm nguyện cứu độ chúng sanh. Sau khi chiến thắng ma quân, điều ngự chướng nạn nội tâm ngoại cảnh, Ngài chứng thành đạo quả Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh giác dưới gốc cây Bồ-đề. Kể từ đó và suốt cuộc đời, Ngài ngày đi đêm nghỉ khắp đó đây trên vạn nẻo đường thành thị thôn quê để hoằng pháp độ sanh.
Nghĩa là, đức Phật cống hiến trọn đời cho sự nghiệp đem chánh pháp thức tỉnh quần sanh, những mong người đời giác ngộ để thoát vòng luân hồi sanh tử. Vì thương chúng sanh mà phải hy sinh tất cả lạc thú riêng mình cho sự nghiệp giáo hóa độ sanh. Không phải chỉ một đức Phật Thích-Ca tha thiết thương chúng sanh, mà mười phương chư Phật cũng đều thương chúng sanh như thế. Do vậy mà ngày rằm tháng bảy chư Tăng tròn đầy ba tháng an cư tu tập, giới hạnh thanh tịnh, đạo niệm kiên cố, tuổi đạo tăng trưởng, tức là hàng trưởng tử Như-Lai rút ngắn đường đến đạo quả giác ngộ giải thoát, nên chư Phật vô cùng hoan hỷ. Do đó, kinh Phật nói rằm tháng bảy là ngày chư Phật hoan hỷ.
4) Vu-Lan thắng hội: Tôn-giả Mục-Kiền-Liên trước kia tu theo ngoại đạo, sau khi được nghe Phật thuyết pháp rồi tỉnh ngộ, hồi đầu quy Phật, xin theo Phật xuất gia tu hành. Do chuyên ròng tinh tấn tu tập, nên chẳng bao lâu Mục-Kiền-Liên chứng quả A-la-hán, trở thành một trong những đại đệ tử của Phật, đặc biệt sở đắc về thần thông đệ nhất. Một ngày nọ, tôn-giả Mục-Kiền-Liên dùng thần thông huệ nhãn quán sát tìm xem mẹ cha hiện giờ sanh ở nơi nào, thì thấy cha ở cõi trời hưởng phước báo an vui, nhưng không thấy mẹ đâu cả. Ngài vội vã xoay tìm khắp nhân gian cũng không thấy hình bóng mẹ. Quá đỗi kinh ngạc, Ngài quán sát khắp trong sáu nẻo luân hồi, thì thấy mẹ là bà Thanh-Đề sanh trong loài ngạ quỷ, thân hình ốm gầy khắp người mọc đầy lông lá, da bọc lấy xương, lửa nghiệp đói khát nung đốt khổ sở vô cùng.
Quá xúc động, lòng trào dâng nỗi xót thương, tôn-giả Mục-Kiền-Liên liền bưng cơm đến dâng cho mẹ, nhưng cơm vừa để vào miệng thì hóa thành lửa bốc cháy cả tay miệng, mặt bà Thanh-Đề, làm cho Ngài vô cùng sửng sốt đau lòng đến tột độ, liền về bạch hết sự tình lên Phật. Đức Phật nói: “Mẹ ông khi còn ở đời tham lam, bỏn xẻn, ganh ghét, đố kỵ, khinh khi sư tăng, chẳng kính tin Tam-Bảo, lừa đảo hơn thua đố kỵ, tạo nhiều tội ác như vậy, nên nghiệp lực dẫn dắt sanh vào ngạ quỷ! Ông nay tuy chứng đạo quả A-la-hán, lòng hiếu thảo của ông cảm động đến trời đất, nhưng đạo đức một mình ông không thể cứu được mẹ.
Nghiệp ác của mẹ ông như quả núi to, mà đạo đức của ông như chiếc thuyền nan nhỏ, đâu có thể chở nổi quả núi qua sông. Chỉ còn phương pháp duy nhất là, vào ngày rằm tháng bảy, nhân lúc chư Tăng tròn đầy ba tháng an cư kiết hạ, làm lễ tự tứ, ông nên nhân dịp đó thành tâm sắm sửa y phục thức ăn dâng cúng dường chư Tăng, nhờ công đức tu hành, giới hạnh thanh tịnh trang nghiêm trong ba tháng an cư, sức chú nguyện của chư Tăng, đức chúng như hải mới có năng lực chuyển hóa được nghiệp tội của mẹ ông. Do sự thành tâm cúng dường, nhờ chư Tăng giới hạnh thanh tịnh chú nguyện, đức chúng như hải vạn năng mới có thể cứu độ tội nhân”. Tôn-giả Mục-Kiền-Liên liền y theo lời Phật dạy thành khẩn nhất tâm thực hành, bà Thanh-Đề nhờ phước đức đó mà thoát kiếp ngạ quỷ sanh về cõi trời.
Phương pháp báo hiếu nầy được Phật khuyến khích hàng đệ tử noi theo và được tiếp nối truyền mãi cho đến ngày nay.
Tóm lại, ngày rằm tháng bảy là ngày chư Tăng tự tứ, ngày chư Tăng thêm tuổi đạo, ngày chư Phật hoan hỷ, ngày Vu-Lan báo hiếu. Với những ý nghĩa đặc thù nầy, nên ngày rằm tháng bảy còn gọi là ngày Vu-Lan thắng hội.
Dù tế tự muôn ngàn đền thờ mà suốt đời không đình chỉ được tâm mông lung, thì chẳng bằng một giây phút chuyên nhất tâm trí lại nơi chánh pháp.
Kinh Pháp Cú
Hạnh phúc chân thật chỉ khi nào tâm không còn mọi mối lo âu.
TRẦN VĂN CHÁNH *NGƯỜI MẸ TRONG VĂN HỌC
TẢN MẠN NGƯỜI MẸ TRONG VĂN HỌC
TRẦN VĂN CHÁNH
Tin tưởng tôi biết chữ Hán và có thể giúp lựa cho những chữ có ý nghĩa đẹp sâu xa đặt tên con, người bạn chí thân của tôi đã nhờ tìm chữ đặt tên cho đứa con trai đầu lòng. Tôi nghĩ bụng mình nên chọn một chữ gì khiêm tốn, vừa phải, chứ đặt những tên kiêu kỳ quá, rủi mai sau cháu trưởng thành không có được khí chất, bản lĩnh như mong muốn thì cũng buồn. Nhớ ra trong thơ Đường có bài Du Tử Ngâm (1) của Mạnh Giao (751-814) sẵn đã thuộc lòng từ khi mới được đọc qua lần đầu, trong có hai câu Thùy ngôn thốn thảo tâm / Báo đắc tam xuân huy, bèn chọn ngay cái tên Xuân Huy đặt tên cho con trai người bạn. Sau này, theo đuổi chuyện viết lách, cần có nhiều tên, tôi cũng đã chọn Xuân Huy làm một bút hiệu phụ, dành ký riêng cho một số bài viết nào đó khi không cần dùng đến những tên chính.
Nguyên văn bài thơ như sau (phiên âm):
Từ mẫu thủ trung tuyến,
Du tử thân thượng y.
Lâm hành mật mật phùng,
Ý khủng trì trì quy.
Thùy ngôn thốn thảo tâm,
Báo đắc tam xuân huy?
Tên bài thơ có nghĩa Khúc ngâm của người du tử, mà cụ Trần Trọng Kim (1883-1953) dịch là Bài hát người con đi xa:Du tử thân thượng y.
Lâm hành mật mật phùng,
Ý khủng trì trì quy.
Thùy ngôn thốn thảo tâm,
Báo đắc tam xuân huy?
Mẹ từ sợi chỉ trong tay,
Trên mình du tử áo may vội vàng.
Sắp đi mũi chỉ kỹ càng,
Sợ con đi đó, nhỡ nhàng trễ lâu.
Chút lòng tấc cỏ dễ đâu,
Bóng ba xuân đáp ơn sâu cho vừa.
Trên mình du tử áo may vội vàng.
Sắp đi mũi chỉ kỹ càng,
Sợ con đi đó, nhỡ nhàng trễ lâu.
Chút lòng tấc cỏ dễ đâu,
Bóng ba xuân đáp ơn sâu cho vừa.
Trong Thơ Đường (cuốn 1) của Trần Trọng San (1930-1998), ở hai câu đầu, phần dịch xuôi, dịch giả viết: “Sợi chỉ trong bàn tay người mẹ hiền giờ đây ở trên áo người con đi chơi xa.” Hiểu “du tử” là “người con đi chơi xa”, có lẽ không đúng. Thật ra, chữ “du” ngoài nghĩa đi chơi còn có nghĩa đi ra ngoài cầu học, tìm chức quan hoặc đi du thuyết (xuất ngoại cầu học, cầu quan hoặc du thuyết), và còn có nghĩa chung “rời nhà ra bên ngoài” (ly gia tại ngoại).
Dịch “người con đi xa”, “đứa con đi xa” hợp hơn, nhưng đi xa đây, theo ngữ cảnh và ý thơ, không phải đi chơi, mà đi tìm sinh kế, đi mưu cầu sự nghiệp. Nếu chỉ đi chơi rong vô mục đích, nội dung bài thơ sẽ đâu có gì gây xúc cảm triền miên trong lòng người đến ngày hôm nay như vậy. Vả lại, theo quan niệm chữ hiếu xưa, cha mẹ còn thì không được đi xa nhà, nếu đi phải có nơi có chỗ rõ ràng (phụ mẫu tại, bất viễn du, du tất hữu phương).(2)
Hai câu Lâm hành mật mật phùng / Ý khủng trì trì quy (Khi con sắp ra đi mẹ may nhặt mũi kim, trong ý sợ rằng con sẽ lâu về) nói lên một cách sinh động tâm ý sâu xa của bà mẹ với tấm lòng trìu mến thiết tha lo cho con trẻ.
Riêng hai câu cuối Thùy ngôn thốn thảo tâm / Báo đắc tam xuân huy, ví lòng người mẹ hiền với ánh nắng dịu dàng của tiết ba xuân. Ngoài Trần Trọng Kim, có thể nêu thêm bản dịch của nhiều người khác nữa, đại khái không khác nhau bao nhiêu:
Tấc cỏ dưới bóng xuân / Báo đáp đâu đặng mà? (của Lương Thúc Ký);
Ai rằng lòng tấc cỏ / Đền được ánh xuân đâu! (của Lê Nguyễn Lưu);
Ai bảo lòng tấc cỏ / Báo được ánh ba xuân? (của Khương Hữu Dụng);
Ai rằng lòng tấc cỏ / Báo được ánh ba xuân? (của Trần Trọng San);
Lòng son tấc cỏ có hay / Nắng ba xuân đủ đong đầy ơn sâu? (của Vương Hồ);
Tấm lòng một tấc cỏ quê / Ánh ba xuân ấy dễ chi báo đền (của Đinh Vũ Ngọc);
Hỏi rằng tấc cỏ lòng quê / Ba xuân nắng ấm đền bù được chăng? (của Hải Đà)…
Còn Nguyễn Du trong truyện Kiều thì từ lâu đã khéo mượn ý hai câu thơ trên để diễn gọn thành một câu duy nhất: Liệu đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.
Đây là bài thơ hay trong số ít ỏi những bài thơ Đường ca tụng tấm lòng người mẹ, được cụ Trần Trọng Kim chú thích đại ý: “Người con đi xa, mặc cái áo mẹ may cho, nhớ đến công ơn mẹ, không biết báo đền thế nào cho vừa được. Lời nói nhân hiếu, mà tự nhiên phong nhã.”
Lời lẽ giản dị, chân thật, dễ hiểu, vì phát xuất từ trái tim chân thật, đã diễn tả được nỗi lo đau đáu của người mẹ trước phút lâm hành của con, ý sợ con đi xa lâu về, nên cố ý may nhặt mũi kim, để tấm áo sẽ lâu sờn rách trên bước đường tha phương lưu lạc.
Được biết, Mạnh Giao (3) nhà nghèo nhưng được mẹ hy sinh, chăm lo nuôi nấng cho đến lúc thành tài. Khi được làm quan muộn màng ở tuổi năm mươi, ông đã vội đón mẹ về chung sống với mình. Tác giả đã sáng tác bài thơ trong bối cảnh đón mẹ lên Lật Dương như lời chú giải của ông: Nghênh Mẫu Lật Dương Tác (Làm khi đón mẹ đến Lật Dương).
Hai câu cuối trong bài Du Tử Ngâm đã đi sâu vào văn chương Trung Quốc, tạo nên một số thành ngữ khá quen thuộc như: thốn thảo tâm (tấm lòng tấc cỏ, ví tâm ý nhỏ nhoi của con cái đối với cha mẹ); thốn thảo xuân huy (tâm ý nhỏ nhoi mong manh của cọng cỏ nhỏ, không thể báo đáp được ân huệ của mùa xuân, ví con cái khó lòng báo đáp ân tình rất sâu nặng của mẹ cha)...
Từ bài Du Tử Ngâm quý hiếm trong kho tàng thơ Đường, Việt Nam chúng ta lại có được bài thơ phóng tác với nội dung mở rộng hơn như sau đây của Vương Ngọc Long, sau được nhạc sĩ Mai Đức Vinh phổ nhạc:
Đây chiếc áo năm canh dài Mẹ thức,
Ngọn đèn khuya hiu hắt suốt đêm trường.
Tay gầy guộc, run run luồn kim chỉ,
Áo bạc màu nhưng đậm nghĩa yêu thương.
Chiếc áo cũ theo đời con phiêu bạt,
Trên bước đường giữa mưa nắng vô thường.
Từng mũi vá nâng niu lời ru Mẹ,
Những đường khâu khe khẽ tiếng yêu thương.
Chốn tha phương mà lòng con lệ ứa,
Mẹ quê nhà thui thủi giữa đêm sương.
Mắt Mẹ đó lung linh ngàn tia sáng,
Con lưu vong Mẹ dẫn dắt soi đường.
Đây chiếc áo chắt chiu từng sợi chỉ,
Mũi đan dầy cho ấm ngực đêm đông.
Tóc bạc trắng tháng năm chờ mòn mỏi,
Con ra đi, con đi, mẹ nhớ mong.
Mẹ là đó, là trái tim nhân ái,
Đầy hy sinh nhẫn nhục chẳng ngại ngần.
Lòng con đây thấm dâng từng tấc cỏ,
Biết bao giờ đền đáp nắng ba xuân?
Ngọn đèn khuya hiu hắt suốt đêm trường.
Tay gầy guộc, run run luồn kim chỉ,
Áo bạc màu nhưng đậm nghĩa yêu thương.
Chiếc áo cũ theo đời con phiêu bạt,
Trên bước đường giữa mưa nắng vô thường.
Từng mũi vá nâng niu lời ru Mẹ,
Những đường khâu khe khẽ tiếng yêu thương.
Chốn tha phương mà lòng con lệ ứa,
Mẹ quê nhà thui thủi giữa đêm sương.
Mắt Mẹ đó lung linh ngàn tia sáng,
Con lưu vong Mẹ dẫn dắt soi đường.
Đây chiếc áo chắt chiu từng sợi chỉ,
Mũi đan dầy cho ấm ngực đêm đông.
Tóc bạc trắng tháng năm chờ mòn mỏi,
Con ra đi, con đi, mẹ nhớ mong.
Mẹ là đó, là trái tim nhân ái,
Đầy hy sinh nhẫn nhục chẳng ngại ngần.
Lòng con đây thấm dâng từng tấc cỏ,
Biết bao giờ đền đáp nắng ba xuân?
Cổ hơn mà diễn tả một cách sinh động tấm lòng người con có hiếu đối với ơn sinh thành, nuôi dưỡng khó nhọc của cha mẹ, và nỗi đau xót không được phụng dưỡng cha mẹ cho đến tuổi già, từ xa xưa đã có một số bài nổi tiếng trong kinh Thi như Khải phong (trong Bội Phong), Lục Nga (trong Tiểu Nhã)... Để không quá rườm, chỉ xin trích phần dịch bài Khải Phong của Tản Đà (4) (không chép nguyên văn và phiên âm chữ Hán):
Từ phương nam,
Gió hòa đưa lại.Cây gai dại,
Gió thổi lõi gai.
Lõi gai non nót tốt tươi,
Mẹ ta kể biết mấy mươi công trình.
Từ phương nam,
Gió hòa đưa lại;
Cây gai dại,
Gió thổi củi gai.
Mẹ ta thánh thiện ở đời;
Mà ta chẳng được có người nào hay.
Kìa như suối lạnh một dòng,
Ở bên ấp Tuấn theo vùng chảy xuôi.
Đàn con có đến bảy người,
Bảy con mà để mẹ thời nhọc thân.
Véo von kìa cái chim vàng,
Nó kêu những tiếng nhịp nhàng êm tai.
Đàn con có đến bảy người,
Chẳng làm cho mẹ yên vui tấm lòng.
Kinh Thi thật ra không phải “kinh”, mà chỉ là một tập hợp những dân ca và ca dao đẹp nhất, hay nhất của Trung Quốc trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ Sáu trước Công Nguyên (TCN) trở về trước. Danh xưng “kinh” bắt đầu có từ thời Hán (206 TCN) khi tập thơ này được xếp vào bộ Ngũ Kinh. Theo nghĩa này, thì người Việt Nam cũng có “Kinh Thi Việt Nam”, như tên cuốn sách chuyên khảo về ca dao của Trương Tửu (Nguyễn Bách Khoa).(5)
Liên quan đến người mẹ, ca dao Việt không thiếu những câu hay, sâu sắc, lời lẽ phần lớn mộc mạc chân thành nhưng đều cảm động. Có thể dẫn ra đây hàng loạt, nhưng cũng chỉ trong muôn một, những câu tiêu biểu hầu như ai cũng thuộc:
- Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
- Mẹ nuôi con biển hồ lai láng,
Con nuôi mẹ kể tháng kể ngày.
- Ân cha nặng lắm ai ơi!
Nghĩa mẹ bằng trời, chín tháng cưu mang.
- Nuôi con buôn tảo bán tần,
Chỉ mong con lớn nên thân với đời.
Những khi trái nắng trở trời,
Con đau là mẹ đứng ngồi không yên.
Trọn đời vất vả triền miên,
Chăm lo bát gạo đồng tiền nuôi con.
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
- Mẹ nuôi con biển hồ lai láng,
Con nuôi mẹ kể tháng kể ngày.
- Ân cha nặng lắm ai ơi!
Nghĩa mẹ bằng trời, chín tháng cưu mang.
- Nuôi con buôn tảo bán tần,
Chỉ mong con lớn nên thân với đời.
Những khi trái nắng trở trời,
Con đau là mẹ đứng ngồi không yên.
Trọn đời vất vả triền miên,
Chăm lo bát gạo đồng tiền nuôi con.
Tấm lòng của mẹ thật bao la, mênh mông như trời bể, suốt đời hy sinh, lo lắng chỉ vì con, kể từ tấm bé:
- Bồng con cho bú một hồi,
Mẹ đã hết sữa con vòi, con la.- Con ho lòng mẹ tan tành,
Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi.
- Nuôi con chẳng quản chi thân,
Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn.
- Gió mùa thu mẹ ru con ngủ,
Năm canh chầy thức đủ vừa năm.
Đáp lại là tình của con đối lại với cha mẹ, cũng hết sức sâu đậm, tri ân, dạt dào tình cảm:Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn.
- Gió mùa thu mẹ ru con ngủ,
Năm canh chầy thức đủ vừa năm.
- Dấn mình gánh nước làm thuê,
Miễn nuôi được mẹ, quản gì là thân.
- Vẳng nghe chim vịt kêu chiều,
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau.
Nhớ ơn chín chữ cù lao,
Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình?
- Ngày nào em bé cỏn con,
Bây giờ em đã lớn khôn thế này.
Cơm cha, áo mẹ, công thầy,
Nghĩ sao cho bõ những ngày ước ao.
- Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa,
Miệng nhai cơm, búng lưỡi lừa cá xương.
- Ngó lần nuột lạt mái nhà,
Bao nhiêu nuột lạt, em thương mẹ già bấy nhiêu.
- Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.
- Gió đưa cây cửu lý hương,
Từ xa cha mẹ thất thường bữa ăn.
Sầu riêng cơm chẳng muốn ăn,
Đã bưng lấy bát, lại dằn xuống mâm.
- Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi,
Giã gạo cho trắng đặng nuôi mẹ già.
Đói lòng ăn hột chà là,
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.
- Lên chùa thấy Phật muốn tu,
Về nhà thấy mẹ công phu sao đành?
Mẹ già ở túp lều tranh,
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con.
- Cau non khéo bửa cũng dày,
Trầu têm cánh phượng để thầy mẹ xơi.
- Ai về tôi gởi buồng cau,
Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy.
Ai về tôi gởi đôi giầy,
Phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi.
- Công cha nghĩa mẹ cao vời,
Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta.
Nên người con phải xót xa,
Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao.
Đội ơn chín chữ cù lao,
Sanh thành kể mấy non cao cho vừa.
- Công cha đức mẹ cao dày,
Cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ.
Nuôi con khó nhọc đến giờ,
Trưởng thành con phải biết thờ song thân.
- Đêm khuya trăng rụng xuống cầu,
Cảm thương cha mẹ dãi dầu ruột đau.
- Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.
Miễn nuôi được mẹ, quản gì là thân.
- Vẳng nghe chim vịt kêu chiều,
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau.
Nhớ ơn chín chữ cù lao,
Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình?
- Ngày nào em bé cỏn con,
Bây giờ em đã lớn khôn thế này.
Cơm cha, áo mẹ, công thầy,
Nghĩ sao cho bõ những ngày ước ao.
- Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa,
Miệng nhai cơm, búng lưỡi lừa cá xương.
- Ngó lần nuột lạt mái nhà,
Bao nhiêu nuột lạt, em thương mẹ già bấy nhiêu.
- Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.
- Gió đưa cây cửu lý hương,
Từ xa cha mẹ thất thường bữa ăn.
Sầu riêng cơm chẳng muốn ăn,
Đã bưng lấy bát, lại dằn xuống mâm.
- Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi,
Giã gạo cho trắng đặng nuôi mẹ già.
Đói lòng ăn hột chà là,
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.
- Lên chùa thấy Phật muốn tu,
Về nhà thấy mẹ công phu sao đành?
Mẹ già ở túp lều tranh,
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con.
- Cau non khéo bửa cũng dày,
Trầu têm cánh phượng để thầy mẹ xơi.
- Ai về tôi gởi buồng cau,
Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy.
Ai về tôi gởi đôi giầy,
Phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi.
- Công cha nghĩa mẹ cao vời,
Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta.
Nên người con phải xót xa,
Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao.
Đội ơn chín chữ cù lao,
Sanh thành kể mấy non cao cho vừa.
- Công cha đức mẹ cao dày,
Cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ.
Nuôi con khó nhọc đến giờ,
Trưởng thành con phải biết thờ song thân.
- Đêm khuya trăng rụng xuống cầu,
Cảm thương cha mẹ dãi dầu ruột đau.
- Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.
Trong thi ca Việt Nam hiện đại, thơ viết về mẹ nhiều vô số kể. Có đến hàng ngàn bài thơ, mà nếu sưu tập lại tương đối đầy đủ sẽ thành tác phẩm lớn cả về khối lượng lẫn giá trị nội dung. Đã có một bộ sưu tập nho nhỏ như vậy, gọi là Thơ Về Mẹ, của nhà xuất bản Văn Học, in năm 2010, nhưng tôi không có sẵn trong tay tập thơ này. Giả định, nếu ai buộc phải chọn một bài thơ hay nhất về mẹ, chắc chắn người bị yêu cầu sẽ không khỏi lúng túng, bởi lẽ đơn giản thơ về mẹ tuy chất lượng không đều nhưng hầu như luôn là những bài thơ hay, còn bài nào hay nhất thì lại tùy thuộc sự cảm nhận, tâm cảnh, kinh nghiệm sống riêng của mỗi người.
Nội dung các bài thơ đại khái cũng như ca dao bình dân, thường mô tả tấm lòng thương yêu hy sinh bao la của mẹ đối với con, và sự cảm thương, tri ân, hoặc ân hận vì chưa đáp đền nghĩa cả của con đối với mẹ… nhưng lẽ dĩ nhiên có nét hiện đại hơn, với thủ pháp nghệ thuật phong phú, đa dạng hơn. Chẳng hạn như bốn câu thơ này trong bài Nhớ Vu Lan, của Lê Mộng Nguyên:
Đây bát cơm đầy nặng ước mong,
Mẹ ơi, đây ngọc (6) với đây lòng,
Đây tình con nặng trong tha thiết,
Ơn nghĩa sanh thành, chưa trả xong.
Mẹ ơi, đây ngọc (6) với đây lòng,
Đây tình con nặng trong tha thiết,
Ơn nghĩa sanh thành, chưa trả xong.
Viết về mẹ thì bao la bát ngát, đủ mọi khía cạnh. Tại đây, trong khuôn khổ rất giới hạn, không thể trích dẫn nhiều những bài thơ có giá trị với chủ đề người mẹ. Nhân mùa Vu Lan, chỉ xin giới thiệu bài Bông Hồng Vàng mà có người cho là “ấn tượng nhất, không quá cao xa nhưng cũng thật gần, lời thơ mộc mạc giản dị nhưng cũng lắng đọng trong chúng ta những tình cảm thiêng liêng nhất”.
Vu lan về con cài lên ngực,
Bông hồng vàng báo hiếu mẹ cha.
Tháng bảy mưa ngâu hay nước mắt nhạt nhòa,
Của những đứa con nhớ về cha mẹ.
Một nén hương thơm nồng nàn lặng lẽ,
Nỗi lòng con gửi gắm những niềm thương.
Dù bao năm dù có hóa vô thường,
Công sinh dưỡng vẫn là công lớn nhất.
Cả cuộc đời mẹ cha tất bật,
Cho chúng con lẽ sống tình yêu.
Đại dương bao la đâu đã là nhiều,
Với chúng con cha mẹ là tất cả.
Có đôi lúc
Mải mê quay với dòng đời ồn ã
Những đô hội thị thành
Những phương trời lạ
Chợt giật mình tỉnh giấc nhớ mẹ cha.
(Thơ Nguyễn Đình Vinh)
Bông hồng vàng báo hiếu mẹ cha.
Tháng bảy mưa ngâu hay nước mắt nhạt nhòa,
Của những đứa con nhớ về cha mẹ.
Một nén hương thơm nồng nàn lặng lẽ,
Nỗi lòng con gửi gắm những niềm thương.
Dù bao năm dù có hóa vô thường,
Công sinh dưỡng vẫn là công lớn nhất.
Cả cuộc đời mẹ cha tất bật,
Cho chúng con lẽ sống tình yêu.
Đại dương bao la đâu đã là nhiều,
Với chúng con cha mẹ là tất cả.
Có đôi lúc
Mải mê quay với dòng đời ồn ã
Những đô hội thị thành
Những phương trời lạ
Chợt giật mình tỉnh giấc nhớ mẹ cha.
(Thơ Nguyễn Đình Vinh)
Điều đáng nói là tấm lòng người mẹ, cũng như tình của con đáp lại mẹ, dù có thể có những cách biểu hiện khác nhau tùy hoàn cảnh nhưng không phân biệt Đông Tây kim cổ, nghề nghiệp, địa vị xã hội, trần tục hay tu hành… mà đâu đâu, thời nào cũng tha thiết như nhau.
Bài thơ Thư Gửi Mẹ dưới đây của nhà thơ trữ tình Nga Sergei Alexandrovich Yesenin (đôi khi đọc Esenin, 1895-1925) hết sức cảm động, từ lâu được nhiều người ưa thích (không rõ bản dịch tiếng Việt tài tình này là của ai):
Mẹ của con giờ đây còn mạnh khỏe?
Mẹ kính yêu, cho con gửi lời chào
Xin hãy để trên ngôi nhà của mẹ
Tỏa ánh chiều trong nỗi nhớ nôn nao.
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng
Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con
Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng
Trong chiếc áo len lạc mốt, cũ sờn.
Rằng mỗi khi qua làn khói lam chiều
Mẹ nhìn thấy chỉ một điều khủng khiếp
Có vẻ như trong một vụ đánh nhau
Có ai đấy đâm con bằng dao thép.
Chẳng sao đâu! Xin mẹ hãy yên lòng
Đấy tất cả chỉ là cơn mộng mị
Con đâu có còn đến nỗi lông bôngĐể chết đi khi chẳng nhìn thấy mẹ.
Con bây giờ vẫn như thế, dễ thương
Chỉ ao ước một điều rất đơn giản
Sao cho thật mau thoát khỏi nỗi buồn
Để trở về ngôi nhà ta thấp vắng.
Con sẽ về khi hoa nở trên cành
Mang hơi thở mùa xuân quanh vườn tược
Chỉ có điều mẹ trong ánh bình minh
Đừng thức con như tám năm về trước.
Đừng thức dậy những giấc mơ đã tắt
Đừng khơi lên mộng ước đã không thành
Con là kẻ sớm chịu nhiều mất mát
Nếm trải nhiều mệt nhọc giữa ngày xanh.
Và đừng dạy con cầu nguyện. Không cần!
Thời ấu thơ chẳng quay về lần nữa.
Chỉ mẹ là niềm vui, niềm an ủi của con
Chỉ mẹ đối với con là ánh hồng khôn tả.
Mẹ hãy quên đi những điều phiền muộn
Mẹ đừng buồn, đừng lo lắng về con
Đừng hay bước ra ngoài con đường vắng
Trong chiếc áo len lạc mốt, cũ sờn.
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa,
Dù đi xa hay ở rất gần.
Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ,
Mẹ dù xa nhưng ngóng về con.
Vĩ đại thay! Muôn đời tình Mẹ,
Trong tim ta trân trọng giữ gìn.
Ta yêu chị, yêu cha, yêu vợ,
Nhưng khổ đau ta nhớ Mẹ hiền!
Dù đi xa hay ở rất gần.
Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ,
Mẹ dù xa nhưng ngóng về con.
Vĩ đại thay! Muôn đời tình Mẹ,
Trong tim ta trân trọng giữ gìn.
Ta yêu chị, yêu cha, yêu vợ,
Nhưng khổ đau ta nhớ Mẹ hiền!
Trong lĩnh vực văn xuôi cũng vậy, hễ viết về người mẹ bằng tình cảm chân thành, trong sáng thì dường như bài nào cũng hay, cũng gây xúc cảm sâu xa nơi lòng người đọc, dù người viết là nhà văn nổi tiếng hay một học sinh trung học, thậm chí chỉ mới học chừng lớp năm, lớp sáu. Điểm đặc biệt là người ta có thể viết giả dối cho một đề tài gì khác, chứ viết về mẹ thì không. Viết về mẹ, cũng như khi có việc cần tâm sự với mẹ, người ta thường có thể bộc lộ hết tất cả những gì chân thật nhất.
Tinh Vân Đại Sư (sinh năm 1927) là nhà Phật học Trung Quốc nổi tiếng thế giới, đã viết hơn trăm tác phẩm lớn nhỏ bàn đủ mọi loại vấn đề, nhưng trong quyển tự truyện mới đây của ông (bản dịch của Đỗ Khương Mạnh Linh, Nxb Hồng Đức, 2013), chỗ cảm động chân thật nhất có lẽ không phải những đoạn kể lể về sự nghiệp hoạt động, mà ở chương viết về bà mẹ thất học nhưng bản chất thông minh, hiền lương và ưa làm từ thiện của tác giả, được chuyển tải bằng một thứ văn phong bình dị, tự nhiên và nhẹ nhàng.
Mấy năm trước, ở Việt Nam, nhiều người đã xúc động vì hai bài văn điểm mười của hai học sinh lớp tám và lớp sáu viết về mẹ. Cùng chung đề bài “Hãy tả lại một người thân trong gia đình”, nhưng cả hai đều không hẹn mà gặp khi cùng viết về người mẹ của mình với tất cả sự trân trọng và nâng niu nhất.
Em học sinh lớp tám khắc vẽ hình ảnh người mẹ đã mất từ khi mình mới lên chín tuổi. Một người mẹ tảo tần, luôn yêu thương, chăm sóc đứa con bé bỏng trong suốt những năm tháng cuộc đời. Hình ảnh người mẹ hiện lên giản dị nhưng rất giàu hình tượng. Người đọc không khỏi xúc động trước tình cảm mà đứa con dành cho người mẹ thân yêu đã khuất của mình: “Con nhớ mẹ nhiều lắm, nhất định con sẽ làm theo những gì mẹ dạy… Tôi sẽ sống thật tốt để mẹ được vui lòng, giờ tôi chỉ có thể làm được thế thôi.”
Bài văn kia của em học sinh lớp sáu, nhưng em này may mắn hơn, còn có mẹ ở bên chăm sóc, vỗ về: “Em yêu mẹ lắm! Yêu mẹ rất nhiều. Em tự nhủ rằng sẽ cố gắng học tập thật giỏi để trở thành con ngoan, trò giỏi… mai sau đền đáp công ơn to lớn của mẹ đã bao năm chăm lo cho em từ miếng ăn đến giấc ngủ.”
Một tác giả nọ đã không giấu được niềm xúc động, khi nêu nhận xét ở một bài viết trên mạng: “Đọc hai bài văn này lòng lại nhớ mẹ đến khôn nguôi. Có lẽ đề tài về mẹ luôn là nguồn cảm xúc dạt dào nhất để viết nên những bài văn hay, những bài thơ ý nghĩa. Những bài văn này thật sự đã khiến cho những người như mình phải một lần nữa rơi lệ.”
Tôi liên tưởng ngay đến một nhận xét tương tự của Hòa Thượng Nhất Hạnh, khi ông còn là một Đại Đức trẻ đang tu học:
“Những bài hát, bài thơ ca tụng tình mẹ bài nào cũng dễ, cũng hay. Người viết dù không có tài ba, cũng có rung cảm chân thành; người hát ca, trừ là kẻ không có mẹ ngay từ thuở chưa có ý niệm, ai cũng cảm động khi nghe nói đến tình mẹ. Những bài hát ca ngợi tình mẹ đâu cũng có, thời nào cũng có.”
Rồi tác giả viết tiếp, dẫn luôn một bài thơ để làm chứng:
“Bài thơ mất mẹ mà tôi thích nhất, từ hồi nhỏ, là một bài thơ rất giản dị. Mẹ đang còn sống, nhưng mỗi khi đọc bài thơ ấy thì sợ sệt, lo âu.... sợ sệt lo âu một cái gì còn xa, chưa đến, nhưng chắc chắn phải đến:
Năm xưa tôi còn nhỏ
Mẹ tôi đã qua đời!
Lần đầu tiên tôi hiểu
Thân phận trẻ mồ côi.
Quanh tôi ai cũng khócIm lặng tôi sầu thôi
Để dòng nước mắt chảy
Là bớt khổ đi rồi...
Hoàng hôn phủ trên mộ
Chuông chùa nhẹ rơi rơi
Tôi thấy tôi mất mẹ
Mất cả một bầu trời.
Có lẽ còn rất nhiều điều cần nói thêm về tập đoản văn đặc biệt này, nhưng khi đọc lại những lần sau, tôi tâm đắc nhất một đoạn tác giả nhắc nhở những người đang còn mẹ, mà nay tôi muốn mượn để nhắc lại những người trẻ tuổi hơn: “Mẹ là một món quà lớn nhất mà cuộc đời tặng cho ta, những kẻ đã và đang có mẹ. Đừng có đợi đến khi mẹ chết rồi mới nói: ‘Trời ơi, tôi sống bên mẹ suốt mấy mươi năm trời mà chưa có lúc nào nhìn kỹ được mặt mẹ!’ Lúc nào cũng chỉ nhìn thoáng qua. Trao đổi vài câu ngắn ngủi… Gây bao nhiêu chuyện rắc rối cho mẹ phải lo lắng, ốm mòn, thức khuya dậy sớm vì con. Chết sớm cũng vì con… Và để mình bận rộn suốt đời lên xuống ra vào lợi danh. Mẹ không có thì giờ nhìn kỹ con. Và con không có thì giờ nhìn kỹ mẹ. Để khi mẹ mất mình có cảm nghĩ: ‘Thật như là mình chưa bao giờ có ý thức rằng mình có mẹ!”
Tôi có người bạn năm nay tuổi đã ngoại lục tuần, mỗi khi nhắc chuyện về người mẹ đã quá cố, anh đều rơm rớm nước mắt, nghẹn ngào không nói nên lời. Và dường như ở những người khác, phần lớn cũng đều như vậy. Lý do có thể thuộc những vấn đề tâm-sinh lý phức hợp, nhưng cũng đơn giản dễ hiểu, có lẽ vì ai cũng có mẹ, mà giữa mẹ với con vốn có sợi dây liên kết gắn bó thiêng liêng hơn tất cả những người khác trên đời.
Văn chương viết về người mẹ từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, luôn gây xúc động lòng người, có lẽ cũng chỉ vì một lý do tương tự như thế mà thôi.
TRẤN VĂN CHÁNH
23-7-2013 ------------------------------------------------
Thượng Đế không thể có mặt ở khắp mọi nơi, và vì thế Ngài tạo ra các bà mẹ. / God could not be everywhere and, therefore, He made mothers.
Ngạn ngữ Do Thái
(1) 遊子吟/慈母手中線/遊子身上衣/臨行密密縫/意恐 遲遲歸 / 誰言寸草心 / 報得三春暉.
(2) 子曰:父母在,不遠游,游必有方. (Luận Ngữ 4 :19)
(3) Mạnh Giao người Vũ Khang, Hồ Châu (nay là huyện Vũ Khang, tỉnh Chiết Giang). Lúc trẻ, đi thi nhiều lần không đậu. Năm bốn mươi sáu tuổi, đậu Tiến Sĩ; năm mươi tuổi, mới được bổ làm Huyện Úy Lật Dương (tỉnh Giang Tô). Đối với chức quan nhỏ này, ông không hứng thú, suốt ngày rong chơi, ngâm vịnh, kết giao với các nhà thơ danh tiếng đương thời như Trương Tịch, Giả Đảo, Hàn Dũ... Quan huyện lệnh cử một viên úy khác làm thay, và chia nửa số lương với ông; ông liền từ chức. Sau, được Trịnh Dư Khánh tiến cử, ông trở lại làm quan, lên đến chức Hiệp Luật Lang ở Lạc Dương. Sáu mươi ba tuổi, Trịnh Dư Khánh (bấy giờ làm Trấn Thủ ở Hưng Nguyên) lại mời Mạnh Giao về làm tham mưu cho quân Hưng Nguyên. Ông đi đến Vân Hương thì chết, thọ sáu mươi bốn tuổi. Bà con, bạn bè đưa xác về chôn ở Lạc Dương. [Văn Uyển chú]
(4) Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939) là nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng Việt Nam. Bút danh Tản Đà ghép tên núi Tản Viên và sông Đà ở quê ông. [Văn Uyển chú]
(5) Trương Tửu (1913-1999) là nhà giáo, nhà văn, nhà nghiên cứu văn học Việt Nam. Bút danh: Nguyễn Bách Khoa, Mai Viên, v.v… [Văn Uyển chú]
(6) “Ngọc” trong bài thơ ví với hạt gạo.
TRẦN MẠNH HẢO * NHỚ MẸ
Trần Mạnh Hảo - Đêm Giao Thừa nhớ Mẹ
Trần Mạnh Hảo, viết văn, làm thơ, phê bình văn học
Tuỳ bút Trần Mạnh Hảo
ảnh Trần Mạnh Hảo Hà Nội tết 1976
Thật hạnh phúc cho những ai ngoài tuổi tri thiên mệnh vẫn còn có mẹ, để ngày tết còn niềm nương tựa và an ủi lớn nhất trong đời. Mẹ ngồi đó, tóc bạc như hoa mơ hoa mận, bên nồi bánh chưng quây quần con cháu. Trong mắt mẹ, tôi dù bao nhiêu tuổi vẫn cứ là trẻ thơ, vẫn còn nằm trong tã lót của tình mẹ thuở lọt lòng. Và đêm giao thừa, trước ngọn lửa, mẹ đồng nghĩa với tuổi thơ tôi. Ôi những ngày thơ bé, những tết nghèo thơm nức ổ rơm, chiều ba mươi tết tôi như con chó con ngồi bên mẹ, cùng mấy đứa em xem mẹ làm bếp, ngồi chờ ăn tóp mỡ. Ngoài trời, mưa bụi bay như sương, thi thoảng gió xuân mang hơi lạnh mùa đông còn sót lại sột soạt ngoài đầu hè, tiếng lá chuối khô cọ vào nhau nghe như tiếng đồng tiếng sắt. Tôi mê những ngày tết có rét, có mưa bụi bay, có hoa cải vàng ngoài vườn và bướm trắng dẫn đường con trẻ chạy.
Có khi sáng ba mươi tết mẹ còn ra đồng cấy nốt đám ruộng xa để cho cây lúa cũng được ăn tết như người. Tôi dẫn ba đứa em, cuốn áo bông vào rụt rịt như những khúc giò vừa bó, thập thò như cua cáy ngoài ngõ chờ mẹ về chuẩn bị tết nhất. Tôi chạy ra sông, sông trốn vào sương mà lưng lửng nước. Tôi chạy ra đồng, gió bấc tưởng tôi là lá khô, cứ thổi như thằng bé chín tuổi không còn trọng lượng. Tôi sợ, chạy về nhà, úp mặt vào ổ rơm mà gọi mẹ. Tiếng lợn bị chọc tiết hú như còi đâu đó trong làng làm mấy anh em càng sốt ruột. Mẹ vẫn còn khuất sau màn mưa phùn gió rét ngoài đồng, cấy vội đám lúa kịp mùa xuân. Thế rồi trưa ba mươi tết mẹ từ ngoài đồng về, vừa đi vừa chạy như gió bấc, môi tím ngắt, rét run cầm cập, chưa kịp rửa đôi chân lấm bùn đã chạy vội sang hàng xóm chia phần thịt lợn. Tôi chạy ra vườn lôi thanh củi ướt vào cho mẹ nhóm bếp. Bếp lửa là tâm điểm của ngày tết. Khói cuốn lấy mấy mẹ con như dây buộc. Lửa ấm làm mặt mẹ hồng hào rạng rỡ. Bếp lửa và niềm vui con cái trả lại tuổi trẻ cho mẹ.
Ngoài vườn, trước bờ ao, hoa đào đang tự sưởi ấm mình bằng những chấm hoa vừa hé đỏ như than hồng. Bướm ong rét quá tìm đến đốm lửa hoa mà sưởi. Tôi ngồi bên mẹ canh nồi bánh chưng mà vơ vẩn thương gió bấc không có mẹ nên phải tha phương cầu thực đầu đường xó chợ. Tự nhiên ngủ gật, tôi mơ thấy mẹ bị gió bấc cuốn mất, hoảng hốt tỉnh dậy, dùng hai tay trẻ con ôm chặt lấy mẹ như hai sợi lạt buộc ghì bó lúa. Mẹ vẫn ngồi đó, lửa ấm làm má người đỏ hồng thì con gái, tóc buông phủ bờ vai như một miếng bóng đêm vừa đặc lại đen nhánh. Tôi rúc đầu vào nách mẹ như chú gà con, làm mẹ bị nhột bật cười. Các em tôi lăn ra ổ rơm bên cạnh ngủ như lợn con. Thỉnh thoảng, gió rét đập cửa như có ý xin vào sưởi ấm.
Mẹ tôi mười bảy tuổi đã phải về làm dâu với muôn vàn cơ cực. Mẹ bị bà nội bắt nạt, sai khiến còn hơn con ở. Mỗi lần cực quá, mẹ chạy ra vườn, núp vào khóm chuối khóc thút thít, tự lấy nước mắt mình an ủi mình. Mẹ bảo vì khi có mang tôi, mẹ hay khóc, sợ con sau buồn nên lúc tủi thân, lúc đau khổ cứ phải tự mình đóng kịch, đóng vai người suốt ngày chỉ biết tươi như hoa, giả lả cười, giả lả nói, giả lả vui. Riết rồi lộng giả thành chân, mẹ cứ tưởng đời mình chưa hề buồn khổ, chưa hề bị hành hạ. Đến nỗi khi bụng mẹ chửa kềnh càng, còn bị mẹ chồng nọc ra sân dùng roi đánh, đau quắn mông nhưng vẫn phải lễ phép xin lỗi và cám ơn mẹ chồng vì mình được ăn roi. Rằng con xin ăn thêm năm đến mười roi nữa mới xứng tội ạ…Đời con gái mẹ qua đi với những trận đòn, với những lần chửa đẻ chẳng hề biết thế nào là hạnh phúc. May mà có đám cào cào châu chấu là chúng mày an ủi mẹ, thương mẹ.
Có những khuya cả nhà ngủ cả, mẹ bảo nhỏ vào tai tôi như thế. Có lúc, mẹ tủi thân, lặng đi, đoạn ôm lấy bốn đứa con còn bé dại hỏi: chúng mày có thương mẹ không? Lũ lợn con chúng tôi cùng hét to: thương! Mẹ sung sướng hôn chúng tôi rồi cười ứa nước mắt. Cả lũ tí teo thấy mẹ khóc, sợ quá cùng khóc theo.
Tôi thấy mẹ khác nào mưa gió, suốt ngày cong như con tôm trên đồng cầy cấy, mò cá, vạt tép, bắt cua, mót lúa…Tối về lại xay thóc, giã gạo, có khi không dầu đèn, mẹ vừa đốt thanh củi nhặt thóc trong rá gạo vừa ru đứa em năm tháng tuổi ngủ. Tiếng mẹ ru buồn cả đêm mưa, buồn lây cả tiếng tàu chuối khuya ngoài vườn. Những đêm quê hương xưa nỗi buồn không ngủ. Nỗi buồn đi ngoài đường như ma. Nỗi buồn len lén như sương ngoài ngõ. Nỗi buồn trong trời đất sâu xa như lặn vào hết tâm hồn tôi qua lời ru của mẹ, qua tiếng thở dài của đêm tối ngoài vườn chuối mẹ thường ra núp thở than.
Tôi lớn lên, đi học. Một gánh mồng tơi bầm tím vai mẹ ra chợ chưa đổi được thếp giấy. Tôi đòi cây bút máy. Mẹ phải đi mò cá hàng chục đêm tôi mới có cây bút máy Hồng Hà. Rồi tôi đi lính. Nửa đêm về sáng tiễn tôi ra bến xe lên đường đi vào cõi…tử, mẹ cố không khóc. Nhưng ra đầu ngõ, mẹ không bước được nữa. Mẹ ngã gục vào gốc cây bàng. Tôi ngoái nhìn thấy mẹ ôm chặt gốc bàng như thể muốn tôi thành một gốc cây đầu ngõ vậy. Tôi ù té chạy, sợ quay lại sẽ không thể đi khỏi cái xã quê hương mình, nơi cán bộ xã đầy đọa tôi vì lý lịch, không cho đi đại học, bắt ở nhà làm tổ trưởng gánh phân bắc (phân người), phải đút lót mười con gà mới được gọi nhập ngũ… Tôi đi mà lòng luôn ở bên Mẹ. Tôi không dám đôn mẹ mình lên thành quê hương, thành đất nước. Mẹ chỉ là mẹ tôi thôi, như khoai lúa người cho tôi ăn, như nguồn sữa vật chất và tinh thần người nuôi tôi mãi mãi…
Đấy là chuyện của mấy mươi mươi năm xưa. Giờ đây, tôi ngồi thắp nén hương trước ảnh mẹ. Khói nhang như tóc mẹ từ thế giới hư vô còn rụng về đôi ba sợi cho tôi tưởng vọng. Mẹ trên tấm ảnh chừng vẫn rét, vẫn cứ đội khăn len và mặc áo len. Trong Sài Gòn này tết đổ mồ hôi. Mẹ ngồi trên bàn thờ vẫn rét, vẫn cứ là không gian của bờ bãi sông Hồng ngày tết. Con đâu kiếm được mưa phùn quấn quít, bọc lấy ngọn gió xuân như quê ta mà dâng mẹ lúc này. Mẹ tuy già nhưng tươi tắn nhìn tôi như sắp mỉm cười, như muốn nói với tôi rằng mẹ vẫn hiện hữu trên đời bằng chính thân xác và tâm hồn tôi, vẫn sống trong hoài niệm, trong ký ức con cái, xóm giềng.
Rằng mấy đứa con chính là di tượng của mẹ còn sống động, còn bay nhảy trên mặt đất. Tôi không hề ngủ gật và nằm mơ như thuở xưa. Nhưng gió bấc đã đến và thổi bay mẹ tôi đi về cõi khác mất rồi. Người Việt mình có câu: "Sinh dữ, tử lành”. Ngày tết, trước giao thừa, là dịp chúng ta tưởng nhớ đến cha mẹ, ông bà đã khuất. Mẹ đã hóa thành nấm cỏ xanh ngoài đồng vắng sau làng. Cỏ ấy ngày xưa mẹ từng dạy tôi cầm liềm cắt về nuôi trâu ăn lấy sức kéo cày. Nay mẹ lại biến thành nấm đất nuôi cỏ xanh. Chỉ có đội kèn dế là ở mãi bên mẹ để cử hết bản nhạc này đến bản nhạc khác, những bài ca Requiem, kinh cầu hồn của tạo vật.
Bây giờ mẹ thở bằng nhịp triều lên xuống của con sông chảy qua làng, toả kênh mương mà nối với nơi mẹ nằm. Cua cáy lại đến nhờ nấm đất mẹ mà trú ngụ. Ngày xưa còn trẻ, suốt ngày mẹ ở ngoài đồng, ngoài bãi, ngoài sông tìm cái sống dưới bùn đất nuôi chúng tôi. Giờ nằm xuống, mẹ lại ở ngoài đồng cả đêm ngày, ở mãi mãi, chung nhà với cua cáy, cá tôm. Tôi từng làm đóm mạ chạy ra đồng, xách giỏ cua đỡ mẹ. Con cua cắp để lại càng trên tay, lên bờ, lặng người, rứt càng cua ra khỏi tay rồi mẹ mới ngồi đau. Đôi bàn tay búp măng của mẹ lúc nào cũng đầy vết cua cắp, vết ngạnh cá trê đâm, vết gai từ các chà cá cào xước. Những móng tay, móng chân mẹ nào có được sơn son đỏ như phụ nữ đô thị bây giờ. Tôi thương nhớ màu phù sa quánh phèn sơn trên móng chân, móng tay mẹ từ thuở còn thiếu nữ cho đến lúc về với đất. Mẹ tôi đã hóa phù sa, hóa mưa phùn, hóa bếp lửa, hóa ngồng cải vàng hoa lấm tấm bướm, hóa gió xuân ưng ửng cành đào, hóa thăm thẳm mù tăm…
Dù tôi có đưa tay ra ngoài nghìn dặm cũng không với tới mẹ nữa. Tóc bạc rồi tôi vẫn là đứa trẻ mồ côi. Mồ côi cả gió bấc, mưa phùn, cả nén hương trên bàn thờ viếng mẹ dù xúm xít đứng chung cả cụm vẫn cứ mồ côi. Và tôi lại trở thành con trẻ, đang đi một mình giữa làng, chợt thình lình gọi mẹ. Và tôi, lại trở thành anh lính trẻ xa nhà lần đầu, mười tám tuổi rồi mà nửa đêm còn nhớ mẹ ứa nước mắt. Và tôi, lại trở về nằm trên võng dưới hầm mùa mưa Bà Rá đêm tránh bom B.52, sốt rét ác tính quật tưởng chết, vừa thở hắt ra vừa gọi mẹ để giã từ…Và tôi, sẽ mãi là cậu bé con lấm lem đất cát ngồi đầu ngõ đợi mẹ đi chợ về để được chia quà. Mẹ đi chuyến chợ vô biên này, tôi ngồi chờ hết năm này qua năm khác, mà mẹ ơi sao mẹ chẳng về ăn tết?
Giao thừa đến rồi đó mẹ. Ở phía bên kia của cuộc sống, mẹ không cần ai mừng tuổi đâu. Mẹ từng bảo chúng con rằng, trước khi các con chào đời, các con ở đâu vậy, chả đứa nào có tuổi, chả đứa nào biết mình sẽ là thằng Hảo, con Hinh…Vâng, sau này, chắc chắn tôi lại về nơi ấy, nơi trước khi sinh ra, tôi đã chết hàng tỉ tỉ năm rồi vậy. Mẹ đã đưa tôi từ cái chấm mờ trong hỗn độn sự chết mà xuất hiện thành hình hài của nỗi sống. Giờ mẹ lại về nơi từng vớt tôi lên từ bể hư vô. Nơi con người bước vào cuộc đời, vất vả cực nhọc kiếm sống, hạnh phúc, khổ đau rồi lại trở về, như những đứa con về với mẹ vĩnh hằng.
Cõi ấy không có nồi bánh chưng chụm bằng gộc tre già đượm lửa. Cõi ấy không có những đứa trẻ xúng xính trong bộ quần áo mới, bám vạt áo mẹ đi chúc tết bà con hòng kiếm tiền mừng tuổi. Sợ cõi ấy chỉ có Niết Bàn, chỉ có Thiên Đường vui hơn tết, không kiếm đâu cho mẹ một chút khổ đau, một chút buồn tủi mà nhớ đến chúng con, nhớ đến kiếp người, nhớ đến thời con gái mẹ phải ngậm bồ hòn làm ngọt, ăn toàn nỗi đau mà sinh nở hạnh phúc cho kẻ khác.
Nhưng mẹ ơi, cái thế giới vui buồn sướng khổ này, dù mẹ con mình mỗi người chỉ đến một lần thôi, song mưa phùn gió bấc, hoa xuân bướm vàng, bánh chưng, mắt lá răm, dưa hành và câu đối đỏ tình nghĩa lắm, quý hóa chúng ta lắm, cứ muốn níu chúng ta ở chơi hết tết này đến tết khác, đừng bỏ giao thừa lại cho ai đó ngồi thắp hương tưởng niệm mà tội thay cho người còn sống. Mẹ từng dạy con phải nén và giấu nỗi buồn riêng vào tâm hồn, để khoe niềm vui ra cho mọi người cùng hưởng như hoa đào ngày tết. Thế mà con lại giãi bày nỗi buồn thiếu mẹ trên mặt blogs xuân phút đón giao thừa. Âu cũng là một cách giúp cho những ai còn có Mẹ trên đời biết rằng, Mẹ chính là mùa xuân, là ngày tết của tâm hồn chúng ta vậy.
Sài Gòn những ngày tết tha phương cầu thực
Trần Mạnh Hảo
Trần Mạnh Hảo, viết văn, làm thơ, phê bình văn học
Tuỳ bút Trần Mạnh Hảo
ảnh Trần Mạnh Hảo Hà Nội tết 1976
Thật hạnh phúc cho những ai ngoài tuổi tri thiên mệnh vẫn còn có mẹ, để ngày tết còn niềm nương tựa và an ủi lớn nhất trong đời. Mẹ ngồi đó, tóc bạc như hoa mơ hoa mận, bên nồi bánh chưng quây quần con cháu. Trong mắt mẹ, tôi dù bao nhiêu tuổi vẫn cứ là trẻ thơ, vẫn còn nằm trong tã lót của tình mẹ thuở lọt lòng. Và đêm giao thừa, trước ngọn lửa, mẹ đồng nghĩa với tuổi thơ tôi. Ôi những ngày thơ bé, những tết nghèo thơm nức ổ rơm, chiều ba mươi tết tôi như con chó con ngồi bên mẹ, cùng mấy đứa em xem mẹ làm bếp, ngồi chờ ăn tóp mỡ. Ngoài trời, mưa bụi bay như sương, thi thoảng gió xuân mang hơi lạnh mùa đông còn sót lại sột soạt ngoài đầu hè, tiếng lá chuối khô cọ vào nhau nghe như tiếng đồng tiếng sắt. Tôi mê những ngày tết có rét, có mưa bụi bay, có hoa cải vàng ngoài vườn và bướm trắng dẫn đường con trẻ chạy.
Có khi sáng ba mươi tết mẹ còn ra đồng cấy nốt đám ruộng xa để cho cây lúa cũng được ăn tết như người. Tôi dẫn ba đứa em, cuốn áo bông vào rụt rịt như những khúc giò vừa bó, thập thò như cua cáy ngoài ngõ chờ mẹ về chuẩn bị tết nhất. Tôi chạy ra sông, sông trốn vào sương mà lưng lửng nước. Tôi chạy ra đồng, gió bấc tưởng tôi là lá khô, cứ thổi như thằng bé chín tuổi không còn trọng lượng. Tôi sợ, chạy về nhà, úp mặt vào ổ rơm mà gọi mẹ. Tiếng lợn bị chọc tiết hú như còi đâu đó trong làng làm mấy anh em càng sốt ruột. Mẹ vẫn còn khuất sau màn mưa phùn gió rét ngoài đồng, cấy vội đám lúa kịp mùa xuân. Thế rồi trưa ba mươi tết mẹ từ ngoài đồng về, vừa đi vừa chạy như gió bấc, môi tím ngắt, rét run cầm cập, chưa kịp rửa đôi chân lấm bùn đã chạy vội sang hàng xóm chia phần thịt lợn. Tôi chạy ra vườn lôi thanh củi ướt vào cho mẹ nhóm bếp. Bếp lửa là tâm điểm của ngày tết. Khói cuốn lấy mấy mẹ con như dây buộc. Lửa ấm làm mặt mẹ hồng hào rạng rỡ. Bếp lửa và niềm vui con cái trả lại tuổi trẻ cho mẹ.
Ngoài vườn, trước bờ ao, hoa đào đang tự sưởi ấm mình bằng những chấm hoa vừa hé đỏ như than hồng. Bướm ong rét quá tìm đến đốm lửa hoa mà sưởi. Tôi ngồi bên mẹ canh nồi bánh chưng mà vơ vẩn thương gió bấc không có mẹ nên phải tha phương cầu thực đầu đường xó chợ. Tự nhiên ngủ gật, tôi mơ thấy mẹ bị gió bấc cuốn mất, hoảng hốt tỉnh dậy, dùng hai tay trẻ con ôm chặt lấy mẹ như hai sợi lạt buộc ghì bó lúa. Mẹ vẫn ngồi đó, lửa ấm làm má người đỏ hồng thì con gái, tóc buông phủ bờ vai như một miếng bóng đêm vừa đặc lại đen nhánh. Tôi rúc đầu vào nách mẹ như chú gà con, làm mẹ bị nhột bật cười. Các em tôi lăn ra ổ rơm bên cạnh ngủ như lợn con. Thỉnh thoảng, gió rét đập cửa như có ý xin vào sưởi ấm.
Mẹ tôi mười bảy tuổi đã phải về làm dâu với muôn vàn cơ cực. Mẹ bị bà nội bắt nạt, sai khiến còn hơn con ở. Mỗi lần cực quá, mẹ chạy ra vườn, núp vào khóm chuối khóc thút thít, tự lấy nước mắt mình an ủi mình. Mẹ bảo vì khi có mang tôi, mẹ hay khóc, sợ con sau buồn nên lúc tủi thân, lúc đau khổ cứ phải tự mình đóng kịch, đóng vai người suốt ngày chỉ biết tươi như hoa, giả lả cười, giả lả nói, giả lả vui. Riết rồi lộng giả thành chân, mẹ cứ tưởng đời mình chưa hề buồn khổ, chưa hề bị hành hạ. Đến nỗi khi bụng mẹ chửa kềnh càng, còn bị mẹ chồng nọc ra sân dùng roi đánh, đau quắn mông nhưng vẫn phải lễ phép xin lỗi và cám ơn mẹ chồng vì mình được ăn roi. Rằng con xin ăn thêm năm đến mười roi nữa mới xứng tội ạ…Đời con gái mẹ qua đi với những trận đòn, với những lần chửa đẻ chẳng hề biết thế nào là hạnh phúc. May mà có đám cào cào châu chấu là chúng mày an ủi mẹ, thương mẹ.
Có những khuya cả nhà ngủ cả, mẹ bảo nhỏ vào tai tôi như thế. Có lúc, mẹ tủi thân, lặng đi, đoạn ôm lấy bốn đứa con còn bé dại hỏi: chúng mày có thương mẹ không? Lũ lợn con chúng tôi cùng hét to: thương! Mẹ sung sướng hôn chúng tôi rồi cười ứa nước mắt. Cả lũ tí teo thấy mẹ khóc, sợ quá cùng khóc theo.
Tôi thấy mẹ khác nào mưa gió, suốt ngày cong như con tôm trên đồng cầy cấy, mò cá, vạt tép, bắt cua, mót lúa…Tối về lại xay thóc, giã gạo, có khi không dầu đèn, mẹ vừa đốt thanh củi nhặt thóc trong rá gạo vừa ru đứa em năm tháng tuổi ngủ. Tiếng mẹ ru buồn cả đêm mưa, buồn lây cả tiếng tàu chuối khuya ngoài vườn. Những đêm quê hương xưa nỗi buồn không ngủ. Nỗi buồn đi ngoài đường như ma. Nỗi buồn len lén như sương ngoài ngõ. Nỗi buồn trong trời đất sâu xa như lặn vào hết tâm hồn tôi qua lời ru của mẹ, qua tiếng thở dài của đêm tối ngoài vườn chuối mẹ thường ra núp thở than.
Tôi lớn lên, đi học. Một gánh mồng tơi bầm tím vai mẹ ra chợ chưa đổi được thếp giấy. Tôi đòi cây bút máy. Mẹ phải đi mò cá hàng chục đêm tôi mới có cây bút máy Hồng Hà. Rồi tôi đi lính. Nửa đêm về sáng tiễn tôi ra bến xe lên đường đi vào cõi…tử, mẹ cố không khóc. Nhưng ra đầu ngõ, mẹ không bước được nữa. Mẹ ngã gục vào gốc cây bàng. Tôi ngoái nhìn thấy mẹ ôm chặt gốc bàng như thể muốn tôi thành một gốc cây đầu ngõ vậy. Tôi ù té chạy, sợ quay lại sẽ không thể đi khỏi cái xã quê hương mình, nơi cán bộ xã đầy đọa tôi vì lý lịch, không cho đi đại học, bắt ở nhà làm tổ trưởng gánh phân bắc (phân người), phải đút lót mười con gà mới được gọi nhập ngũ… Tôi đi mà lòng luôn ở bên Mẹ. Tôi không dám đôn mẹ mình lên thành quê hương, thành đất nước. Mẹ chỉ là mẹ tôi thôi, như khoai lúa người cho tôi ăn, như nguồn sữa vật chất và tinh thần người nuôi tôi mãi mãi…
Đấy là chuyện của mấy mươi mươi năm xưa. Giờ đây, tôi ngồi thắp nén hương trước ảnh mẹ. Khói nhang như tóc mẹ từ thế giới hư vô còn rụng về đôi ba sợi cho tôi tưởng vọng. Mẹ trên tấm ảnh chừng vẫn rét, vẫn cứ đội khăn len và mặc áo len. Trong Sài Gòn này tết đổ mồ hôi. Mẹ ngồi trên bàn thờ vẫn rét, vẫn cứ là không gian của bờ bãi sông Hồng ngày tết. Con đâu kiếm được mưa phùn quấn quít, bọc lấy ngọn gió xuân như quê ta mà dâng mẹ lúc này. Mẹ tuy già nhưng tươi tắn nhìn tôi như sắp mỉm cười, như muốn nói với tôi rằng mẹ vẫn hiện hữu trên đời bằng chính thân xác và tâm hồn tôi, vẫn sống trong hoài niệm, trong ký ức con cái, xóm giềng.
Rằng mấy đứa con chính là di tượng của mẹ còn sống động, còn bay nhảy trên mặt đất. Tôi không hề ngủ gật và nằm mơ như thuở xưa. Nhưng gió bấc đã đến và thổi bay mẹ tôi đi về cõi khác mất rồi. Người Việt mình có câu: "Sinh dữ, tử lành”. Ngày tết, trước giao thừa, là dịp chúng ta tưởng nhớ đến cha mẹ, ông bà đã khuất. Mẹ đã hóa thành nấm cỏ xanh ngoài đồng vắng sau làng. Cỏ ấy ngày xưa mẹ từng dạy tôi cầm liềm cắt về nuôi trâu ăn lấy sức kéo cày. Nay mẹ lại biến thành nấm đất nuôi cỏ xanh. Chỉ có đội kèn dế là ở mãi bên mẹ để cử hết bản nhạc này đến bản nhạc khác, những bài ca Requiem, kinh cầu hồn của tạo vật.
Bây giờ mẹ thở bằng nhịp triều lên xuống của con sông chảy qua làng, toả kênh mương mà nối với nơi mẹ nằm. Cua cáy lại đến nhờ nấm đất mẹ mà trú ngụ. Ngày xưa còn trẻ, suốt ngày mẹ ở ngoài đồng, ngoài bãi, ngoài sông tìm cái sống dưới bùn đất nuôi chúng tôi. Giờ nằm xuống, mẹ lại ở ngoài đồng cả đêm ngày, ở mãi mãi, chung nhà với cua cáy, cá tôm. Tôi từng làm đóm mạ chạy ra đồng, xách giỏ cua đỡ mẹ. Con cua cắp để lại càng trên tay, lên bờ, lặng người, rứt càng cua ra khỏi tay rồi mẹ mới ngồi đau. Đôi bàn tay búp măng của mẹ lúc nào cũng đầy vết cua cắp, vết ngạnh cá trê đâm, vết gai từ các chà cá cào xước. Những móng tay, móng chân mẹ nào có được sơn son đỏ như phụ nữ đô thị bây giờ. Tôi thương nhớ màu phù sa quánh phèn sơn trên móng chân, móng tay mẹ từ thuở còn thiếu nữ cho đến lúc về với đất. Mẹ tôi đã hóa phù sa, hóa mưa phùn, hóa bếp lửa, hóa ngồng cải vàng hoa lấm tấm bướm, hóa gió xuân ưng ửng cành đào, hóa thăm thẳm mù tăm…
Dù tôi có đưa tay ra ngoài nghìn dặm cũng không với tới mẹ nữa. Tóc bạc rồi tôi vẫn là đứa trẻ mồ côi. Mồ côi cả gió bấc, mưa phùn, cả nén hương trên bàn thờ viếng mẹ dù xúm xít đứng chung cả cụm vẫn cứ mồ côi. Và tôi lại trở thành con trẻ, đang đi một mình giữa làng, chợt thình lình gọi mẹ. Và tôi, lại trở thành anh lính trẻ xa nhà lần đầu, mười tám tuổi rồi mà nửa đêm còn nhớ mẹ ứa nước mắt. Và tôi, lại trở về nằm trên võng dưới hầm mùa mưa Bà Rá đêm tránh bom B.52, sốt rét ác tính quật tưởng chết, vừa thở hắt ra vừa gọi mẹ để giã từ…Và tôi, sẽ mãi là cậu bé con lấm lem đất cát ngồi đầu ngõ đợi mẹ đi chợ về để được chia quà. Mẹ đi chuyến chợ vô biên này, tôi ngồi chờ hết năm này qua năm khác, mà mẹ ơi sao mẹ chẳng về ăn tết?
Giao thừa đến rồi đó mẹ. Ở phía bên kia của cuộc sống, mẹ không cần ai mừng tuổi đâu. Mẹ từng bảo chúng con rằng, trước khi các con chào đời, các con ở đâu vậy, chả đứa nào có tuổi, chả đứa nào biết mình sẽ là thằng Hảo, con Hinh…Vâng, sau này, chắc chắn tôi lại về nơi ấy, nơi trước khi sinh ra, tôi đã chết hàng tỉ tỉ năm rồi vậy. Mẹ đã đưa tôi từ cái chấm mờ trong hỗn độn sự chết mà xuất hiện thành hình hài của nỗi sống. Giờ mẹ lại về nơi từng vớt tôi lên từ bể hư vô. Nơi con người bước vào cuộc đời, vất vả cực nhọc kiếm sống, hạnh phúc, khổ đau rồi lại trở về, như những đứa con về với mẹ vĩnh hằng.
Cõi ấy không có nồi bánh chưng chụm bằng gộc tre già đượm lửa. Cõi ấy không có những đứa trẻ xúng xính trong bộ quần áo mới, bám vạt áo mẹ đi chúc tết bà con hòng kiếm tiền mừng tuổi. Sợ cõi ấy chỉ có Niết Bàn, chỉ có Thiên Đường vui hơn tết, không kiếm đâu cho mẹ một chút khổ đau, một chút buồn tủi mà nhớ đến chúng con, nhớ đến kiếp người, nhớ đến thời con gái mẹ phải ngậm bồ hòn làm ngọt, ăn toàn nỗi đau mà sinh nở hạnh phúc cho kẻ khác.
Nhưng mẹ ơi, cái thế giới vui buồn sướng khổ này, dù mẹ con mình mỗi người chỉ đến một lần thôi, song mưa phùn gió bấc, hoa xuân bướm vàng, bánh chưng, mắt lá răm, dưa hành và câu đối đỏ tình nghĩa lắm, quý hóa chúng ta lắm, cứ muốn níu chúng ta ở chơi hết tết này đến tết khác, đừng bỏ giao thừa lại cho ai đó ngồi thắp hương tưởng niệm mà tội thay cho người còn sống. Mẹ từng dạy con phải nén và giấu nỗi buồn riêng vào tâm hồn, để khoe niềm vui ra cho mọi người cùng hưởng như hoa đào ngày tết. Thế mà con lại giãi bày nỗi buồn thiếu mẹ trên mặt blogs xuân phút đón giao thừa. Âu cũng là một cách giúp cho những ai còn có Mẹ trên đời biết rằng, Mẹ chính là mùa xuân, là ngày tết của tâm hồn chúng ta vậy.
Sài Gòn những ngày tết tha phương cầu thực
Trần Mạnh Hảo
Sunday, August 23, 2015
VƯƠNG TRÍ NHÀN * GIÁO DỤC QUỐC CỘNG
Mấy cảm nhận về sự khác biệt giữa giáo dục miền Nam và giáo dục miền Bắc
Đã in tạp chí NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN
số 7-8 (114-115).2014,
số chuyên đề GIÁO DỤC MIỀN NAM VIỆT NAM (1954- 1975)
Tôi vốn là người làm nghề nghiên cứu văn học.Trong cái nghề thuộc loại công tác tư tưởng này, những năm trước 1975, tôi chỉ được phép đọc các sách báo miền Bắc, còn sách vở miền Nam bị coi như thứ quốc cấm.
Có điều, không phải chỉ là sự tò mò, mà chính lương tâm nghề nghiệp buộc tôi không thể bằng lòng với cách làm như vậy.
Tôi cho rằng, muốn hiểu cặn kẽ văn học hiện đại, phải hiểu văn học cổ điển; muốn hiểu văn họcVN phải hiểu văn học thế giới. Thế thì để hiểu văn học miền Bắc làm sao lại lảng tránh việc nghiên cứu văn học miền Nam được.
Đối với giáo dục cũng vậy. Từ sau 30-4-75, tôi vẫn sống ở Hà Nội. Sự tiếp xúc với giáo dục miền Nam (dưới đây viết là GDMN), chỉ dừng ở mức sơ sài bề ngoài.
Tuy nhiên, do việc tìm hiểu chính nền giáo dục miền Bắc (GDMB) ở tôi lâu nay kéo dài trong bế tắc, trong khoảng mươi năm gần đây tôi tìm thấy ở GDMN một điểm đối chiếu.
Lúc cảm nhận được phần nào sự khác biệt giữa hai nền giáo dục Bắc-Nam 1954-1975 cũng là lúc tôi hiểu thêm về nền giáo dục mà từ đó tôi lớn lên và nay tìm cách xét đoán. Tôi không chỉ muốn nêu một số đặc điểm mà còn muốn xếp loại nền giáo dục tôi đã hấp thụ.
Bài viết này có thể được đọc theo chủ đề khác đi một chút: Nhận diện giáo dục Hà Nội từ 1975 về trước qua sự đối chiếu bước đầu với giáo dục Sài Gòn.
KHÁC BIỆT NGAY TỪ HOÀN CẢNH HÌNH THÀNH
Chỗ khác nhau giữa GDMN và GDMB xuất phát trước tiên từ hoàn cảnh xã hội mỗi nền giáo dục đó được đặt vào, từ đó mà nó lớn lên là cái điểm đích mà nó hướng tới phục vụ.
Ngay từ những năm 1948 - 50, nền giáo dục tự phát trước tiên đã hình thành ở các vùng hồi trước gọi là vùng tự do; không chỉ Việt Bắc, những vùng tự do này tồn tại ở cả Nam bộ, rồi nam và trung Trung bộ, rồi tập trung và có ý nghĩa nhất với tương lai giáo dục là những quan niệm, những cách hình thành, các trường sở… về sau.
Cái mà ta gọi là giáo dục miền Bắc chỉ là sự kéo dài của lối phát triển giáo dục trong chiến tranh.
Nhờ có tinh thần yêu nước và những bài bản đã học được trong các nhà trường Pháp thuộc, nên ban đầu, nền giáo dục này có tạo được một số hiệu quả nào đó.
Việc kéo nhau lên Việt Bắc lúc đầu ai cũng nghĩ là chỉ một hai năm. Sống tạm bợ ít ngày cần gì. Nhưng rồi đường lối trường kỳ kháng chiến tiếp thu được từ Trung quốc được quán triệt khiến mọi mặt hoạt động được đặt lại trong đó có công tác giáo dục. Làm theo ý chí hơn khả năng thực tế. Quan niệm giáo dục chưa hình thành cũng phải làm.
Giáo dục chiến tranh, do dó, luôn luôn là một nền giáo dục dở dang chắp vá, mà lại vẫn phải khoác cho mình cái chức danh lớn lao của một nền giáo dục mới mẻ, cách mạng .
Trong khi ở khu vực kháng chiến hình thành nền giáo dục như trên thì, ngay từ trước 1954, một nền giáo dục do người Pháp mở từ trước cũng đã tồn tại ở Hà Nội, Hải Phòng, Huế, và rõ nhất là ở Sài Gòn, và sau này chuyển giao, phát triển trở thành giáo dục miền Nam.
Đối tượng của những so sánh đối chiếu dưới đây là hai thực thể quá khác nhau, còn phải nghiên cứu công phu, ý kiến của chúng tôi chỉ mới là những phác thảo sơ bộ.
CHUẨN VÀ PHI CHUẨN
Đáng lẽ khi hòa bình lập lại những người kháng chiến đã trở về Hà Nội cái tinh thần giáo dục phi tiêu chuẩn hôm qua cần phải vượt qua, thì -- như một thói quen và kết quả của một hiểu biết thiển cận -- nó lại ăn sâu vào mọi mặt, chi phối cách hình thành và những định hướng lớn của GDMB
Nói quá lên thì có thể bảo, như một cơ thể, GDMB thuộc loại tiên thiên bất túc, tức sinh ra đã không đủ các bộ phận cần thiết, sinh ra đã bất thành nhân dạng.
Phương châm ở đây là làm lấy được, tức là chưa đủ điều kiện, nhưng thấy cần, vẫn cứ làm -- rồi để yên lòng nhau, sẽ viện ra đủ lý lẽ để chống chế, để lấp liếm và xa hơn nữa, sẵn sàng tự ca tụng.
Ví dụ một trường đại học trước tiên phải có đủ bộ phận giảng viên đảm nhiệm việc giảng dạy theo những quy định quốc tế. Ở các nước gọi là đang phát triển, một trường đại học chỉ được thành lập khi có một bộ phận nòng cốt là những giáo sư đã học tập ở những Sorbone, Oxford hoặc những trường tương tự… trở về.
Đâu người ta cũng hướng tới những yêu cầu này để noi theo, nay chưa làm được thì mai làm. GDMN cũng theo, GDMB thì không.
Trên danh nghĩa đại học VN cũng có những người gọi là giáo sư hay tiến sĩ đấy, nhưng đó là ta phong với nhau để làm việc, chứ thực tế thấp hơn hẳn chuẩn mực quốc tế “một cái đầu”.
Rộng hơn câu chuyện giáo viên là chuyện cơ sở vật chất và không khí học thuật của một trường đại học.
Rồi rộng hơn câu chuyện của riêng ngành đại học là chuyện của mọi cấp học.
Tính phi chuẩn bao trùm trong mọi lĩnh vực, từ trường sở, sách giáo khoa, cách cho điểm, cách tổ chức thi cử…, cho tới chất lượng dạy và học.
Sau mấy chục năm chiến tranh, cái sự làm lấy được làm theo ý chí đã thành chuẩn mực duy nhất, nó chi phối tất cả, khiến giáo dục VN có cách tồn tại, cách vận hành riêng chẳng giống ai. Các trường mới lập ra phải theo trường cũ, sau giải phóng thì miền Bắc buộc miền Nam phải theo.
Tạm ví một cách thô thiển: như trong khi người ta đi thì mình phải bò phải lết, vậy mà vẫn tự hào rằng mình cũng đang đi, chứ đâu có đứng yên.
KHÁC BIỆT TRONG QUAN NIỆM
Về bộ máy giáo dục
Có dịp tìm hiểu lại nền giáo dục trước 1945 và nền giáo dục ở Sài Gòn trước 75, tôi nhận ra một sự thật -- hồi đó, bản thân giáo dục là một hệ thống quyền lực. Nó có nguyên tắc tổ chức riêng và những con người riêng của nó.
Nhà thơ Chế Lan Viên có lần nói với Nguyễn Khải và Nguyễn Khải về kể lại cho tôi một nhận xét. Ông Chế bảo, ở xã hội cũ, một viên tri huyện tuy vậy vẫn phải nể nhà sư trụ trì mấy ngôi chùa lớn, hay các vị đỗ đạt cao nay không làm gì chỉ về mở trường trong vùng.
Còn các chức danh đốc học, giáo thụ, huấn đạo – các học quan tương ứng với tỉnh, phủ, huyện -- là người do triều đình cử, chứ không phải do chính quyền địa phương cử, hoặc nếu địa phương cử thì triều đình cũng phải duyệt.
Tôi cảm thấy điều này được GDMN tiếp tục. Nền giáo dục ở đây do những người thành thạo chuyên môn quyết định.
Còn ở miền Bắc thì hoàn toàn ngược lại.
Nhiều vị sư do địa phương phân công vào chùa hoạt động, hoặc sau khi vào chùa, lấy việc cộng tác với chính quyền làm niềm vinh dự, nghĩa là trong hệ thống sai bảo của chính quyền theo nghĩa đen.
Còn người phụ trách giáo dục các cấp hoàn toàn do Ủy ban cử sang.
Cả những hiệu trưởng cũng vậy, phải do Ủy ban thông qua.
Bộ máy tổ chức cán bộ địa phương thường hoạt động theo nguyên tắc là ai tài giỏi cho đi phụ trách các ngành chính trị kinh tế. Còn văn hóa giáo dục sẽ phân công cho những người kém thế lực và kém năng lực.
Đánh đấm ở chiến trường hay vật lộn với sản xuất với thị trường mới khó, chứ việc quản mấy ông thầy với đám học trò ranh, ai làm chẳng được – người ta hiểu vậy.
Một người bạn già có hiểu nhiều về giáo dục ở thời Việt Nam dân chủ cộng hòa kể với tôi là Bộ trưởng Bộ giáo dục trong chính phủ liên hiệp thành lập 2-1946 là Đặng Thai Mai.
Nhưng về sau, do sinh viên trường đại học Đông dương đề xuất thắc mắc, Đặng Thai Mai chỉ tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm, nên phải thay bẳng Nguyễn Văn Huyên có bằng tiến sĩ Sorbone Đại học số một của Pháp.
Việc chọn người tham gia chính phủ thời kỳ 1945-46 có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng tôi tin chắc rằng thời ấy việc cử Bộ trưởng Bộ giáo dục buộc phải tuân theo nhiều chuẩn mực nghiêm khắc, chứ không phải à uôm hoặc phe cánh chạy chọt, như hiện nay.
Vả chăng vấn đề không phải chỉ riêng ông bộ trưởng, mà là mọi cấp quan chức của giáo dục.
Một trong những chuyện vui vui xảy ra với nền giáo dục hôm nay là chỉ thị của Bộ gíáo dục khoảng cuối 2013 cho các tỉnh, khuyên cơ quan chính quyền tỉnh nên cẩn thận và ráo riết trong việc kiểm soát các tin tức tiêu cực từ các cuộc thi.
Nó là bằng chứng cho thấy giáo dục đã nát như thế nào và người ta cố tình che giấu như thế nào.
Nhưng nó cũng tố cáo sự phụ thuộc hoàn toàn của nhà trường vào nhà cầm quyền. Giáo dục trở thành việc nhà của địa phương rồi, người ta cho biết cái gì thì dân được biết cái đó.
Một kỷ niệm nữa có liên quan tới việc giáo dục phụ thuộc chính trị một cách thô thiển. Những năm 55 – 58, tôi học cấp II Chu Văn An. Trường ở ngay cạnh Chủ tịch phủ. Hễ có các vị quan khách nước ngoài tới thăm, xe đưa từ sân bay Gia Lâm về Ba Đình, là bọn tôi được lệnh bỏ học, ra đứng đường để hoan nghênh các vị khách quý.
Ở các địa phương việc huy động thầy trò vào các công việc gọi là công ích, là công tác chính trị của địa phương, càng phổ biến.
Người ta tự coi mình đương nhiên có quyền can thiệp vào mọi việc của nhà trường. Còn những việc như thế, làm hại đến chất lượng giáo dục ra sao, thì không ai cần biết.
Những nguyên tắc căn bản của giáo dục
Mấy năm gần đây hoạt động của GDMN được nhắc nhở nhiều trên báo chí, nhất là trên mạng.
Nhờ thế, bọn tôi có thêm dịp để nghĩ lại về nền giáo dục mà đến nay ít được biết tới.
Trong một bài mang tên Nền giáo dục ở miền Nam 1954-75, một nhà giáo dục đồng thời trước đây là một quan chức trong nghề (như trên đã nói, quan chức giáo dục ở miền Nam khác hẳn quan chức miền Bắc), ông Nguyễn Thanh Liêm, đã nhắc lại những nguyên tắc căn bản của nền giáo mới là nhân bản khai phóng dân tộc những nguyên tắc này đã ghi trong Hiến pháp VNCH 1967.
Đối chiếu với giáo dục miền Bắc, sơ bộ tôi thấy đại khái thấy hai nguyên tắc đầu cũng thường được Hà Nội nhắc tới, nhưng được giải thích khác đi, và nguyên tắc thứ ba thì hoàn toàn người làm GDMB không có một ý niệm gì hết.
Về tính dân tộc
Ta hãy đọc lại cách giải thích của các nhà giáo miền Nam. Ở đây, bảo đảm tính dân tộc, phát triển tinh thần quốc gia của học sinh có nghĩa giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, và lối sống của người dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết, tranh đấu của người dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học sinh học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp học sinh nhận biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những tài nguyên phong phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp học sinh có tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập.
Các nhà giáo miền Bắc, trên đại thể, cũng nói thế. Nhưng điểm nhấn thì khác. Trong cách giải thích của người làm giáo dục Hà Nội, tính dân tộc trước tiên là việc dân mình tự làm lấy giáo dục của mình. Chúng tôi thường tự hào đây là một nền giáo dục riêng của người Việt, một nền giáo dục không có dây dưa gì nhiều với nền giáo dục mà thế kỷ trước, người Pháp đã mang lại. Chúng tôi làm lấy và đôi khi cố ý làm ngược với những bài bản thời thuộc địa.
Đây là cách hiểu về tính dân tộc mà giới văn hóa tư tưởng đề xuất và được coi là tư tưởng chỉ đạo. Thì cũng là cách hiểu trong giáo dục.
Một khía cạnh khác trong cách hiểu về tính dân tộc của miền Bắc. Không phải là những người làm giáo dục không biết chỗ yếu kém vốn có. Để tự trấn an, người ta biện hộ rằng trong cái vẻ luộm thuộm nhếch nhác, hình như GDMB đang trở lại với nền giáo dục của ông cha ta ngày xưa thời trung đại, chỉ cốt phát huy tinh thần hiếu học của con người.
Dân tộc trong trường hợp này, dân tộc đồng nghĩa với “ta về ta tắm ao ta”, từ chối những đổi mới hiện đại.
Cũng chính là những lý do được viện dẫn khi, trong đời sống văn hóa, người ta kéo nhau trở lại với các phong tục cổ hủ và khuếch trương mê tín đến một mức độ người xưa không thể tưởng tượng.
Trong khi đó, như vừa dẫn ở trên, tính dân tộc được các nhà GDMN hiểu là phải hướng về một thứ dân tộc hiện đại.
Về tính nhân bản
Trên giấy tờ văn bản, chẳng bao giờ giới văn hóa giáo dục miền Bắc phủ nhận tính nhân bản, tuy là trong thực tế người ta rất ngại nói tới.
Phần thì xã hội ở đây đã xem đấu tranh giai cấp là động lực phát triển; phần nữa thì đang trong thời chiến tranh, không thể nói nhiều đến tình người, nó xâm hại ý chí chiến đấu.
Khi cần phải nói chuyện với thế giới, các nhà tư tưởng miền Bắc cũng công nhận nhân đạo chủ nghĩa là lý tưởng tốt đẹp và giáo dục phải có nhiệm vụ hướng tới.
Nhưng trong thực tế, cách lý giải nghĩa về chủ nghĩa nhân đạo thường giản đơn và cổ lỗ. Lại thường giải nghĩa rất mới: “chủ nghĩa nhân đạo cao nhất là chủ nghĩa nhân đạo chiến đấu chống lại mọi áp bức bất công”.
Trong bài Đế quốc Mỹ phải là kẻ thù riêng của mỗi trái tim ta của Chế Lan Viên, người ta còn thấy những câu thơ mà có lẽ con người ở các xã hội khác không sao hiểu nổi:
--Miền Nam ta ơi
Cái hầm chông là điều nhân đạo nhất
– Ngọn súng trường ta ơi ngọn súng rất nhân tình
Giới giáo dục miền Bắc cũng theo sự chỉ đạo đó.
Cách giải thích về nhân bản của các nhà giáo miền Nam ngược hẳn. Theo tôi hiểu , nó gần với cách hiểu của phạm trù này ở các xã hội hiện đại.
Hãy thử đọc một số sách thuộc tủ sách giáo dục của nhà xuất bản cũng tên là Trẻ, in ra ở Sài Gòn khoảng mấy năm sau 1970.
Lúc này, một nhóm các nhà giáo dục, có lẽ mới đi học Anh Mỹ về, lập nhóm và đã công bố nhiều tài liệu mới viết có, vừa được dịch có.
Khi bàn về mục đích giáo dục, Nguyễn Hòa Lạc viết:
Mục đích tối thượng của giáo dục là làm thế nào giúp con người đạt được nhân cách, các bản ngã đích thực của mình, hầu có thể sống trọn kiếp nhân sinh […] nghĩa là giúp họ thể hiện được con người của mình trong ý nghĩa “con người là một hiện hữu tại thế, một hữu thể có lý trí và tự do, vừa suy tư vừa hành động”.
Lê Thanh Hoàng Dân- Trần Hữu Đức..Các vấn đề giáo dục nxb Trẻ,1970 tr 209
Cách hiểu như thế này cố nhiên không bao giờ được đề lên như mục đích của GDMB. Với các nhà giáo Hà Nội, nhất là vào thời kỳ sau khi Hà Nội được tiếp quản từ tay người Pháp (10-1954), không làm gì có những con người chung chung. Mỗi con người đều thuộc về một giai cấp do đó họ phải sự chỉ đạo của các đảng phái đại diện giai cấp của họ. Cách hiểu của GDMN:
chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá con người, và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc… Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.
http://hocthenao.vn/2013/10/16/nen-giao-duc-o-mien-nam-1954-1975-trich-nguyen-thanh-liem/
dù có được coi là đúng đi nữa, cũng không bao giờ được ứng dụng. Mà trong thực tế, lại làm ngược.
Trước sau, với nền GDMB, chấp nhận nhân bản theo nghĩa hiện đại, và đặt vấn đề tôn trọng cá tính của mỗi cá nhân, bao giờ cũng là một chuyện quá phiền phức, giá có công nhận là đúng nữa thì hoàn cảnh hiện thời không cho phép người ta tuân thủ.
Vào khoảng những năm 1960, có cả một cuộc vận động chống chủ nghĩa cá nhân.
Thế thì làm sao có thể tính chuyện nghiên cứu về con người cá nhân, và giúp lớp trẻ thực hiện bản thể cá nhân vốn có trong họ được!
Cái luận điểm từng được thống nhất nêu ra trong các văn bản miền Nam
Triết lý nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác.
Giáo dục Việt Nam cộng hòa http://vi.wikipedia.org/wiki/
phải được coi là xa lạ và nếu có ai nghĩ vậy thì cần phê phán.
Chúng tôi không dẫn lại đây các văn kiện có tính chỉ đạo đối với GDMB trong đó việc đào tạo con người thành những công cụ đắc lực cho cuộc chiến đấu trước mắt được nhấn mạnh. Chỉ xin lưu ý một điểm, đó không phải là phát minh của các nhà chỉ đạo GDMB nói chung mà còn là nguyên lý chỉ đạo giáo dục ở một nước mà miền Bắc lấy làm mẫu như giáo dục Nga xô viết.
Trong cuốn Các vấn đề giáo dục thuộc tủ sách giáo dục nxb Trẻ đã nói, có một phần lớn điểm sơ lược về giáo dục nước ngoài, cả phương Đông lẫn phương Tây, chắc là do kê cứu các sách nghiên cứu của Anh Mỹ và Pháp mà viết lại. Phần viết về giáo dục Nga kết lại như sau:
--Xét chung thì nền giáo dục ở Nga rất thực tiễn và khoa học, nhưng nó chỉ là thứ giáo dục một chiều, nhăm biến con người thành một công cụ sản xuất [và ở VN là chiến đấu - VTN] tới mức tối đa. Một khi con người đã trở thành công cụ của guồng máy cộng sản thì mất hết nhân tính. Do đó chúng ta có thể kết luận rằng giáo dục xô viết tuy thực tiễn và hữu hiệu nhưng lại phi nhân tính. (Sđd tr. 228)
Có thể mượn để nói về GDMB.
Về tính khai phóng
Trong mấy chữ gọi là nguyên tắc căn bản trong các tài liệu GDMN, đối với bọn Hà Nội chúng tôi, chữ khai phóng là hơi lạ.
Mở Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng ( Khai trí S.1975), thấy ghi khai phóng tức mở mang và buông thả, ý nói làm cho tốt đẹp hơn; không kìm giữ, mà trái lại, muốn giúp đỡ cho tiến xa hơn.
Thoạt đầu tôi thấy là trong một mức độ nào đó, khai phóng có vẻ gần với khái niệm hiện đại tiên tiến của miền Bắc, mấy chữ này thường dùng cả trong kinh tế lẫn giáo dục.
Về sau đặt khai phóng vào cái nền chung của các nguyên tắc căn bản của GDMN, tôi mới hiểu khai phóng gần với khái niệm cơ bản của nhân học hiện đại là tự do – và do đó quá mới mẻ với chúng tôi.
Trong cuốn Chân dung những nhà cải cách giáo dục tiêu biểu trên thế giới, do tổ chức Unesco bảo trợ biên soạn và chi phí xuất bản (bản dịch tiếng Việt của nxb Thế giới, H. 2004), phần viết về Thái Nguyên Bồi (1868-1940), có đoạn dẫn lại mấy ý của vị Hiệu trưởng sáng lập Đại học Bắc Kinh có liên quan tới phương hướng phát triển giáo dục của nước Trung Hoa thế kỷ XX.
Chúng ta phải được tự do tư tưởng và tự do ngôn luận và không để cho một trường phái triết học hay bất kỳ một loại hình tôn giáo nào giam hãm tư tưởng chúng ta. Trái lại chúng ta phải hướng tới những tư tưởng cao cả mang tính nhân loại, những tư tưởng sẽ tồn tại mãi, bất kể không gian và thời gian. Đó là nền giáo dục xứng đáng với tên gọi nền giáo dục toàn cầu.(sđ d tr138 )
Giáo dục giúp cho thế hệ trẻ có cơ hội phát triển trí lực và hoàn thiện tính cách cá nhân, đóng góp cho nền văn minh nhân loại. Bởi vậy giáo dục không hể trở thành công cụ đặc biệt giúp cho những kẻ muốn thao túng xã hội theo đuổi những mục đích xấu xa. Việc dạy dỗ tại nhà trường phải hoàn tòan trao cho các nhà giáo độc lập không bị ảnh hưởng bởi bất cứ đảng phái chính trị hay tôn giáo nào (sđ d tr 143).
Tinh thần khai phóng như vậy đã trở thành một khía cạnh chủ yếu của quan niệm nhân bản như trên đã nói.
Tinh thần khai phóng này cũng chi phối cách các nhà GDMN hiểu khác đi về tính dân tộc, so với nội dung được GDMB chấp nhận.
Các nhà GDMN từng hào hứng nói về xu thế hội nhập đến rất sớm của mình. Cách nói của Nguyễn Thanh Liêm:
Tinh thần dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới.
là theo tinh thần khai phóng vừa nói.
Với GDMB, nói dân tộc là để từ chối khai phóng. Còn với GDMN, chính là cần khai phóng thì mới giải quyết vấn đề dân tộc một cách triệt để.
Nhìn theo cách nào thì khai phóng mà các nhà giáo dục ở Sài Gòn đã nói cũng bao hàm một ý nghĩa mà GDMB không thể chấp nhận được. Thậm chí phải nói là GDMB đã làm ngược lại.
Hẳn là không xa sự thật lắm nếu kết luận trong khi giáo dục thế giới và GDMN là khai phóng thì GDMB là khép kín. Trong khi GDMB chỉ hướng tới các mục đích trước mắt – một tinh thần thiển cận sát mặt đất--, thì tinh thần khai phóng mà GDMN muốn xây dựng bao giờ cũng giúp cho người ta hướng tới tương lai.
Trong cuốn Các vấn đề giáo dục đã nói, ở tr 204 tập I, tôi còn thấy các tác giả dẫn lại một câu của Kant:
Mục đích của giáo dục là huấn luyện trẻ không phải chỉ nhằm vào sự thành công của chúng trong tình trạng xã hội hiện tại mà nhằm một tình trạng có thể tốt đẹp hơn, hợp với một quan niệm lý tưởng của nhân loại (sđ d tr 204).
GD MN nhằm vào những mục đích như thế mà GDMB thì không.
ĐOẠN KẾT
Giống như xã hội nơi đây, sự phát triển giáo dục ở miền Bắc đi theo một cái mạch phải nói là không bình thường.
Nếu GDMN tiếp nối cái mạch giáo dục của nhiều nước trên thế giới và trực tiếp là nền giáo dục VN trước 1945 thì GDMB, xét theo cả chặng đường dài năm sáu chục năm, trong khi cố tìm cốt cách riêng của mình, hóa ra lại chẳng tuân theo quy luật nào cả.
Nếu GDMN được triển khai theo một đường hướng khoa học của thế giới hiện đại thì GDMB lại có những khía cạnh như trở lại thời tiền hiện đại.
Cần nói thêm là trong khi phải làm giáo dục một cách mò mẫm, những người làm giáo dục ở miền Bắc trước 1975 đã luôn luôn tự nhủ rằng chúng ta đang làm một cuộc cách mạng trong giáo dục và giáo dục ta đang là một nền giáo dục tiên tiến.
Đó là một ý nguyện chính đáng.
Trong chiến tranh, Hà Nội hoàn toàn khép kín. Muốn thì cũng muốn lắm, nhưng trong hoàn cảnh đóng cửa cách ly với thế giới, làm gì có chuyện hội nhập theo đúng nghĩa của nó.
Cuộc sống trì trệ kéo dài.
Đối chiếu với những điều bọn tôi được dạy bảo từ nhà trường phổ thông và sau này từng coi là phương hướng suy nghĩ, với các tài liệu mới đọc được, càng thấy trong khi khác biệt với GDMN, thì GDMB cũng khác nhiều so với thế giới. Đủ hiểu tại sao sau khi đào tạo trong nước, ra tiếp xúc với xã hội hiện đại, cánh học sinh sinh viên miền Bắc bọn tôi thường ú ớ, lạc lõng, trong khi những người được GDMN đào tạo thì hội nhập rất tự nhiên và hiệu quả.
Mươi năm gần đây, tình hình có chút đổi khác, nhưng là chỉ đổi khác trên bề mặt. Cựa quậy mấy thì nền giáo dục này cũng không khác được so với chính mình. Nó đã cạn kiệt năng lực tự cải hóa. Ngay cả những người trong bộ máy quyền lực cũng đều tính chuyện cho con em mình qua nhiểu nước phương Tây, nhất là sang Mỹ để học. Nhưng họ chỉ lo được cho gia đình riêng của họ thôi. Ở trong nước, những bài bản của miền Bắc cũ được tân trang lại chút ít vẫn ngự trị trong toàn bộ nền giáo dục, và trong thâm tâm, nhiều người đã bắt đầu nghĩ rằng hình như có một bãi lầy đã được tạo ra và chúng ta không bao giờ ra thoát.
CHÚC SỨC KHOẺ.
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 378
Posted by Dien Hong at 15:09
Nhìn mùa Thu lại sang
Lòng con trẻ bàng hoàng
Chạnh lòng con nhớ mẹ
Trong dịp mùa Vu lan.
Ngày con còn thơ ấu
Cô giáo dạy đánh vần
Mờ a ma sắc má
Làm con nhớ song thân.
Con như chim vành khuyên
Sống bên cạnh mẹ hiền
Cho đến ngày khôn lớn
Ôi! Tình mẹ thiêng liêng.
Giờ mẹ ở nơi đâu
Có hay con âu sầu
Nhìn mùa Thu lá rụng
Lệ buồn trong mắt nâu.
Con là đứa con côi
Vì đã mất mẹ rồi
Ai cũng hoa hồng đỏ
Mình con hoa trắng thôi.
H.T Thích Huyền Quang
Mùa Vu lan Tân Dậu (1981), đêm 14 tháng 7 tại giảng đường Thiện Hoa, Tổ đình Ấn Quang
BỐ NẰM XUỐNG
Trần Hồng Châu
Bố nằm xuống đất rồi, càng thương bố
đời loạn lạc
hậu vận bố con mình chẳng ra gì!
Bố thèm chén rượu nhạt
( một đôi khi thôi, đâu có nghiện ngập gì!)
con cũng chẳng có tiền mua
túi sạch sành sanh
sau mấy chuyến đi chui chẳng thành công
Bố muốn bộ đồ xá xị tầm thường
để bận cho thoải mái
Con cũng chỉ mua được vải tám lai rai
Trông bố ăn
Rất ngon lành
Củ khoai lang buổi sáng
Con muốn khóc quá trời!
Đời loạn lạc
chó nhảy bàn độc
hậu vận bố con mình chẳng ra gì!
Bố đi bộ suốt Chợ lớn mới
về Đại thế giới
để dành tiền vé xe buýt
bố mua hai đồng ô mai
một gói đậu phụng
Bên cửa bếp
Hai bố con ngồi nhắm nháp
vị xá muội mặn chát
chua ơi là chua
ôi men đắng cuộc đời!
ngọn gió nào bỗng thổi tứ tung
vỏ lạc lá vàng bay
Hai bố con lặng lẽ
cắn từng miếng me khô
muối ớt cay cay
từng quả cóc ngâm đường
dôn dốt ngọt chua
bố bảo: bố con mình thế mà gân ra phết!
Bố nằm xuống đất rồi, lại càng thương bố
đời loạn lạc. . .
(Nhớ Đất Thương Trời)
Ngày ấy con xuất gia
Mẹ thường lau nước mắt
Cầu Phật từ gia hộ
Con tu trì bình yên.
Mẹ nắn nót chép Kinh
Từng chữ từng chữ một Pháp Hoa Kinh huyền nghĩa
Hồi hướng con an bình.
Hôm nay mùa Vu Lan
Mừng tuổi hạ đầu tiên
Thương Mẹ hiền xa quá
Nguyện Mẹ vững niềm tin.
Ngày mai hoa sen nở
Chín phẩm nâng gót hài
Hương từ bi lan tỏa
Ly biệt này phôi phai.
Hương niệm Phật thơm ngát
Lan tỏa khắp mười phương
Mẹ ơi, con thương Mẹ
Cầu nguyện Mẹ diên trường.
Giác Anh
Mùa Vu Lan, 2009
Trong sách Đài Loan Đại Bách Khoa Toàn Thư chép: “Rằm tháng bảy âm lịch, tín đồ Phật Giáo cử hành nghi thức khánh chúc Pháp hội Vu Lan Bồn, đồng thời đây cũng là lễ tiết trung nguyên của người Đông Độ cúng tế tổ tiên. Pháp Hội Vu Lan Bồn là kỷ niệm ngày Mục Kiền Liên Tôn Giả cứu mẹ, đây cũng là ngày hội hoằng dương Đạo Hiếu, và khuyến tấn Phật tử học tập theo hạnh hiếu của Tôn Giả Mục Liên. Pháp hội này được dân gian cử hành rất trọng thể và nhiều tiết mục, như làm Thuyền Pháp, đốt Liên Hoa Đăng, phóng Hà Đăng, cúng bái Tổ tiên .v.v...”.
Trong Hô Lan Hà Truyện có chép về ý nghĩa của nghi thức thả đèn liên hoa cầu nguyện trong lễ Vu Lan như: “ngày rằm tháng bảy là ngày hội của các vong hồn, các oan hồn chết oan uổng, hay nghiệp báo nặng nề phải thọ khổ ở địa ngục, không thể siêu thoát được, trong cảnh giới địa ngục âm u đen tối, không tìm được đường ra, nếu muốn siêu thoát cần phải có ánh sáng trí tuệ để dẫn đường. Đến ngày rằm tháng bảy, lễ hội Vu Lan, các vong linh nhờ các ngọn đèn liên hoa dẫn đường, nương theo ánh sánh của Phật mà vãng sanh Tịnh độ.”.
Đèn Hoa Sen là vật cúng dường quan trọng trong đại lễ này, vì hoa đăng tượng trưng cho trí huệ, diệt trừ u ám, lấy đèn trí tuệ để chiếu sáng chính mình cũng như mọi người, và đem ánh sáng trí tuệ của Phật soi sáng cỏi u minh độ cho các âm linh siêu sanh về cỏi Tịnh độ. Trong Thiên Giám Luận Đàn chép: “Đốt sáng đèn liên hoa thả xuống nước, để chiếu sáng cỏi u minh, siêu độ các vong hồn ngạ quỷ.”
Đèn để phóng đăng thường làm theo hình dáng hoa sen nên có tên Liên Hoa Đăng, đây là một kiểu dáng đèn của Phật Giáo khác với kiểu đốt nến thả trôi sông của Bà La Môn Giáo, vì Phật Giáo quan niệm “Diệu Pháp Liên Hoa” hoa sen có 4 đức: 1. Hương thơm, 2. Thanh tịnh không ô nhiễm, 3. Nhu nhã hòa hợp, 4. Khả ái trang nghiêm; vì hoa sen mang đầy đủ tính chất tượng trưng của Đạo Phật nên dùng hình dáng này làm hoa đăng.
Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương Phật dạy: “Ta là Sa Môn, ở trong đời uế trược, nên phải như hoa sen, không bị ô nhiễm...”, thứ nữa hoa sen là loại hoa thể hiện đức tính đại từ đại bi của Quán Thế Âm Bồ Tát, Ngài thường được xưng tán là “Liên Hoa Vương”, cho nên dùng loại hoa này làm hình dáng của đèn, để thể hiện tinh thần cứu khổ độ sanh của Đạo Phật.
\
Mùa thu buồn. Trời thu lạnh. Gió thu hắt hiu thì thầm như trao gởi, nhắn nhủ những kỷ niệm ân tình giữa hai miền sống, chết. Phải chăng mùa thu về nhắc nhở ta những ân tình chưa thỏa, những mộng đời chưa tan trong cái xoay vần của nhân duyên sanh diệt.
Nếu nơi đây, mặt trời đã không ngừng chứng kiến những cảnh dâu bể tang thương, những cảnh tương tàn tương sát, thì nơi kia, bóng đêm cũng không ngừng vây phủ những oan hồn ủy m?ừa kêu gào bi thương vừa lang thang thất thểu. Trong hai cõi sống và chết, sinh linh cũng chỉ là những đứa con lạc lõng giữa bụi đời tham vọng huyễn hư, hoặc cũng chỉ là những bóng ma vật vờ trong trường dạ u linh, tìm nước tĩnh bình để giải oan thoát khổ.
Mùa thu cũng là mùa tiêu biểu cho nỗi nhớ niềm thương : ngoài trời nào cảnh sụt sùi mưa dầm tháng bảy, nào cảnh xương khô lạnh ngắt heo may, nào cảnh lá vàng lìa cành xa cội, nào cảnh mưa sa lác đác mộ phần, tất cả ngoại cảnh nầy đều khiến nội tâm nhói đau nỗi niềm hoài cảm, nhất là những u hồn bên kia thế giới. Và mùa thu về cũng báo hiệu mùa Vu Lan báo hiếu : mùa của mẹ, mùa của cha, mùa của Tổ tiên gia tộc, mùa mà những đóa hoa hồng đỏ thắm nở trên áo của những ai may mắn còn mẹ, và những đóa hoa hồng trắng nhạt sẽ nở trên áo của những ai bất hạnh sớm mất mẹ hiền.
Nói đến tình mẹ thì quả thật trên quả đất nầy không có thứ tình nào đậm đà lai láng, thiêng liêng và bất diệt như tình mẹ.
Tình mẹ không chỉ ngọt ngào như dòng suối mà là những dòng máu đỏ khởi nguồn từ tim và reo chảy về tim; không chỉ là bầu trời trong sáng chiếu ánh trăng sao, mà là những tế bào mạch huyệt đang lưu lộ căng đầy và vận hành trong toàn thân; không chỉ là một kho tàng vô tận để cung cấp cho sự sinh tồn vạn loại.
Trên thế gian nầy có nhiều kỳ quan nhưng trái tim của mẹ mới thật là đệ nhất kỳ quan. Vì trái tim của mẹ là một thứ kỳ quan sống động linh hoạt. Trong khi các kỳ quan khác đều chết đứng bất động. Đối với kỳ quan nầy chúng ta không cần phải phí công tốn của để tìm kiếm quan chiêm, vì chính kỳ quan tuyệt bích ấy đã ở trong ta từ lúc mới tượng hình, và theo năm tháng kỳ quan nầy lại càng trở nên kỳ ảo, vĩ đại, vô tiền khoáng hậu.
Các kỳ quan trên thế giới đều kiến tạo bằng vật liệu kiến trúc gần giống nhau, chỉ khác mô hình, hình thể. Còn kỳ quan là trái tim của mẹ thì cách cấu trúc hoàn toàn dị biệt về cả hai phương diện : vật thể và tâm thể. Vật thể là điều kiện tổng hợp của thịt, máu, động mạch, các ống dẫn máu ra vào. Sự vận hành của không khí tức không đại; sự lưu chuyển của máu tức thủy đại; sự điều hòa ấm áp tức hỏa đại; các cơ thịt tự động cấu hợp của tim tức địa đại; và sự hô hấp tự nhiên của toàn bộ trái tim tức thức đại.
Về mặt tâm thể thì chúng ta có thể tìm được bốn thể tánh vô lượng, quảng đại, biến mãn trong trái tim mẹ, đó là : Từ Bi Hỉ Xả.
TỪ là trạng thái tâm ai mẫn, hiền hòa, sẵn sàng ban rải cho một đối tượng hoặc nhiều đối tượng mới bắt đầu tượng hình hay sắp sửa thành hình. Ở đây, thai bào là đối tượng tuyệt đối phải được ban rải cẩn trì, dù trong không gian hạn hẹp, dù qua thời gian lâu mau, dù đứng về mặt khách thể, dù trực thuộc phương diện chủ thể.Về thể cách ban rải thì có nguyện và hạnh.
Nguyện, tức dùng lực cầu nguyện van vái Phật Trời phò hộ thai bào được bình an vô sự suốt thời gian 9 tháng cưu mang và hằng tâm nguyện sao đến ngày khai hoa nở nhụy, thai nhi được mở mắt chào đời với thân hình nguyên vẹn cụ túc lục căn.
Hạnh, tức hành động cẩn trì trong oai nghi : đi đứng ngồi nằm; trong chánh hạnh : nói năng, ăn uống, cách nhìn, cách nghe, thậm chí luôn luôn chánh niệm không dám buông lung tà tâm, nóng giận sợ ảnh hưởng thai bào. Có những hiền mẫu phát tâm bố thí, cúng dường, trì trai, niệm Phật khi biết mình thọ thai. Tâm từ nầy của mẹ khởi phát chính thức ngay khi biết mình đã thực sự mang thai và cứ như vậy tiếp diễn cho đến ngày nở nhụy khai hoa.
BI là tâm vô lượng thứ hai của mẹ phát xuất cùng lúc với tiếng khóc chào đời của thai nhi. Tâm bi nầy khó mà diễn tả chính xác hết ý. Vì tâm bi được chuyển tiếp từ tâm Từ sau 9 tháng trông ngóng đợi chờ, mừng mừng sợ sợ, mặc dù lòng đã dặn lòng : "Tất cả đều diễn tiến tốt đẹp, mẹ tròn con vuông, trên có Phật Trời phò hộ, dưới có mẹ cha hướng dẫn và chính mình cũng hết mực dưỡng thai". Nhưng tránh không khỏi những phút giây bồi hồi, phập phòng, lo sợ, mặc dù đã tự cố gắng trấn an. Thế mà giờ đây tiếng khóc hài nhi đã kéo mẹ về thực tại sau những giờ phút đớn đau, bàng hoàng vì sanh nở thì bảo sao mẹ hiền không vui mừng, sung sướng cho được. Nhìn kỹ mặt con, mẹ càng thương yêu ngập lòng. Chính hai tâm vô lượng Từ và Bi nầy đã dung hợp, trợ duyên nhau một cách tương tục kỳ diệu nên đã biến máu hồng thành sữa trắng để nuôi con.
HỈ là tâm vô lượng thứ ba của mẹ. Tâm nầy được phát hiện cụ thể nhất là lúc cha mẹ nhìn con mấp máy đôi môi bập bẹ kêu "Ba" kêu "Má", và chập chững tập đi một mình từng bước không vững, rồi lần lần trở nên chững chạc, biết ăn, biết nói, biết cười, biết làm xấu. Con càng khôn lớn, mẹ càng vui mừng. Vì con là núm ruột, là hòn máu, là một phần trong cơ thể mẹ, là kho tàng vô giá, là nguồn hạnh phúc vô bờ. Giờ đây con đà khôn lớn, trưởng thành, bảo sao mẹ hiền không vui mừng cho được. Bất cứ cử chỉ nào, lời nói nào, hành động nào của con trẻ, dù vô tư, không đòi hỏi phải khôn ngoan, cũng đủ làm cho mẹ sung sướng ngập lòng. Vả lại niềm vui của mẹ là con, và mẹ thì cũng chỉ biết vui với con mà thôi. Con là nguồn an ủi duy nhất của mẹ. Do đó, con đau là mẹ xót, con mạnh là mẹ mừng. Có con một bên, mẹ cảm thấy cuộc đời là màu hồng, là bầu trời mùa xuân và tất cả hiện hữu đều có ý nghĩa, đáng yêu. Vắng con, mẹ cảm thấy lẻ loi, hiu quạnh, bầu trời là cả một mùa thu, tất cả hiện hữu trở nên vô nghĩa và mẹ tự thấy mình bạc phước vô phần.
XẢ là tâm vô lượng thứ tư của mẹ. Tâm nầy của mẹ tự động hiển lộ trong hai trường hợp nghịch cảnh hoặc thuận duyên. Tâm xả hiện lộ trong nghịch cảnh đó là những khi con giận, con hờn, con nặng lời lớn tiếng, con phụ rẩy mẹ cha, con ngỗ nghịch phạm thượng, trong tất cả tình huống ấy, mẹ cha chẳng những cam tâm cúi đầu chấp nhận, không hề oán giận nguyền rủa con mà còn sẵn sàng rộng dung tha thứ.
Còn tâm xả của mẹ được thấy trong thuận cảnh là khi con cái thành nhơn chi mỹ, cha mẹ thận trọng lựa chọn những gia đình hiền lương, đạo đức, có học, có hạnh để dựng vợ gả chồng, và sau khi con cái đã yên bề gia thất thì lòng cha mẹ bớt lo lắng, ưu tư, có thể tạm an tâm để sống những chuỗi ngày còn lại. Do vậy, tâm xả phải hiểu tận tường rằng xả không chỉ có nghĩa là cảm thông, xả bỏ, tha thứ, không chấp thủ như trường hợp nghịch cảnh; mà xả còn là một trạng thái tự tin, an tâm, vô thưởng vô phạt như vừa kể trong phần thuận cảnh.
Một thứ kỳ quan sinh động, linh hoạt, khế lý, khế cơ, nhất là biết cung ứng đầy đủ mọi thứ nhu cầu của con cái trên hai phương diện vật lý và tâm lý, thử hỏi như vậy trái tim của mẹ có đáng được công nhận là "đệ nhất kỳ quan" hay không. Chính vì cha mẹ có đủ bốn tâm vô lượng, nên đức Phật xưng tụng cha mẹ là "trời phạm thiên", là "giáo sư đầu đời", là "vị tiên ban đầu" và là "bậc đáng cúng dường".
Thật ra trên thế gian nầy, mối tình nào, chung cuộc, cũng đều phai mờ trong tim ta, trong ký ức ta. Duy nhất chỉ có tình mẹ là thiên thu bất biến. Sở dĩ tình mẹ tồn tại vĩnh viễn vì tình mẹ thương con như biển hồ lai láng, như trái đất bao dung, như bầu trời hiến dâng sự sống, như gió xuân ban rải sự mát mẻ cho muôn loài, không có bất cứ sự lựa chọn nào trong tình mẹ thương con, tình mẹ vượt thời gian, không gian, chỉ cho mà không cần nhận, cho vô điều kiện, cho bình đẳng không phân biệt đẹp xấu, trí ngu, giàu nghèo, có hiếu hay bất hiếu.
Chính vì tình mẹ như vậy nên không bao giờ bị ngoại cảnh chi phối. Nghĩa là tình mẹ thương con không có biên giới. Vậy, bạn nào còn cha còn mẹ thì bạn là người diễm phúc nhất đời. Vì không có niềm vui nào thiêng liêng, đậm đà bằng niềm vui còn mẹ và cũng không có nỗi buồn nào ray rứt xót xa bằng nỗi buồn mất mẹ.
Một Phật tử ở Phan Thiết, đạo hữu Lê Minh Hớn, đã làm sống dậy tình mẹ trong chúng ta vô cùng ý nhị : "Ta còn có mẹ, mẹ hát đưa ta, tiếng hát xa xưa buồn quá đỗi, nhà ai giã gạo trưa hè. Mẹ hát à ơi ! võng trời kẽo kẹt, da trời xanh ngắt cửa đông. Người đâu có biết : Mẹ bồng ta cả tuổi ban đầu. Câu hát ngày xưa chín vàng chín đỏ. Ba mươi tuổi đời lăng lắc đong đưa. Ba mươi tuổi đầu mẹ còn coi nhỏ, đưa từng trái bắp củ khoai. Ngày đó ta về, mẹ còn vuốt tóc. Người biết không, ta khóc trong lòng !".
Do đó, nếu chúng ta vì miếng mồi đỉnh chung ngắn ngủi, vì tương lai sự nghiệp mơ hồ mà quên bổn phận thần tỉnh mộ khang, quạt nồng đắp lạnh, thì thật là lỗi đạo làm con, nếu không nói là bất hiếu.
Mùa thu hiền dịu và thân thương lại trở về với muôn loài cỏ cây vạn vật, mùa thu hắt hiu gợi cho hồn thi nhân nguồn cảm hứng dạt dào bởi những chiếc lá úa vàng rơi, mặt nước hồ thu trong veo, yên bình dễ phản chiếu một bầu trời ảm đạm. Nhưng đối với người con Phật, thì mùa thu là mùa Vu Lan, là mùa báo hiếu.
Kính lạy mẹ,
Nhìn khói hương trầm quyện tỏa giữa ngôi bảo điện trang nghiêm, lòng chúng con thành kính hướng về mẹ, người yêu thương nhất không thể thiếu của đời con.
Mẹ ơi ! tiếng gọi mà từ khi bập bẹ cho đến lúc trưởng thành con vẫn chưa biết hết, hiểu hết ý nghĩa. Mẹ là sự sống, là tình yêu, là bùi, là ngọt, là thơm, là ngon, là vốn liếng yêu thương cho cuộc đời. Đúng như vậy, Mẹ là tất cả những gì thiêng liêng nhất và cao quý nhất của đời con:
Mẹ là cả một trời thương
Mẹ là cả một thiên đường trần gian
Tiếng ru mẹ ấm vô vàn
Nuôi con trong tiếng tơ đàn văn chương.
Khi con khát, giòng sữa mẹ ngọt ngào thấm vào lòng con như vị ngọt ngào của nước cam lồ. Khi con biết ăn, mẹ là người đầu tiên móm cho con từng miếng cháo, muỗng cơm, mẹ ấp yêu nâng niu, chìu chuộng. Tất cả những gì ngon nhất, vui nhất và tốt đẹp nhất mẹ đều dành cho con:
Mẹ cho con tất cả
Hết quảng đời tuổi xanh
Cả thương yêu dịu ngọt
Rộng hơn biển trời thanh
Mẹ là gió mát tinh anh
Là cây tiên dịu, là cành thùy dương
Mẹ là hoa, mẹ là hương
Mẹ là nguồn cội tình thương nhiệm mầu...
Mẹ đã ru cho con ngủ bằng tiếng hát dịu hiền êm ả:
Gió mùa thu mẹ ru con ngủ,
Năm canh chầy mẹ thức đủ vừa năm.
Tất cả mẹ đều dành cho con, bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn. Mẹ đã trằn trọn năm canh dài cũng vì sự ấm no, lớn khôn và hạnh phúc cho đời con. Bầu trời trong mắt con ngày một trong xanh hơn với những ước vọng đời, là khi tóc mẹ ngày thêm một sợi bạc:
Ôi ! Chiếc lưng của mẹ
Đã còm bởi thương đau
Ôi ! cuộc đời của mẹ
Trăm năm nối chuyện sầu.
Vì con, niềm lo âu của mẹ trở thành hiển nhiên như mặt đất truyền sức sống cho cỏ cây vạn vật. Mẹ chưa đủ sống trăm năm nhưng đã cho con đầy đủ tình thương và hạnh phúc, sung sướng biết bao:
Một đời vốn liếng mẹ trao
Mẹ cho tất cả mẹ nào giữ riêng
Mẹ hiền như một bà tiên
Mẹ theo con suốt hành trình con đi.
Mẹ ! Mẹ là nguồn thắp sáng cho đời con bằng máu và con tim của chính mẹ, mẹ là bóng mát trên cao, là ánh sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối. Nếu đời một bể khổ mênh mông, với muôn ngàn đợt sóng dồn dập, thì mẹ là chiếc bè đưa con đến bến bờ hạnh phúc. Còn mẹ là còn tất cả, mất mẹ là mất hết tất cả.
Mẹ ! Mẹ vất vả mà chẳng nề gian khổ, mẹ trăm tuổi còn thương con tám mươi. Hình ảnh người mẹ hiền tần tảo một nắng hai sương lam lũ. Mẹ đã đánh đổi một thời son sắc, tươi vui chỉ vì tương lai của con.
Vì con sức khỏe hao mòn,
Vì con mẹ chẳng phấn son bao giờ.
Mẹ mong mỏi cho con khôn lớn, lập nên sự nghiệp với đời, trở thành người hữu ích cho xã hội:
Đành cực nhọc vẫn nuôi con dại,
Gạt ưu tư dầu dải thu đông,
Nắng xe nám má xuân hồng,
Gót son tố nữ bùn phong kín rồi.
Ôi ! Bút mực ngôn từ nào có thể diễn tả được công ơn bao la trời biển của mẹ:
Ngôn ngữ trần gian khờ dại quá,
Đựng sao đầy hai tiếng Mẹ ơi !
Mẹ ! Làm sao có thể hình dung được tình mẹ thiêng liêng, làm sao tính kể hết được công ơn sanh thành dưỡng dục. Tình thương của mẹ mênh mông như trời biển, mát ngọt như nguồn suối vi diệu. Tình thương và công ơn của mẹ đã thấm vào lòng, từ khi mới cất tiếng khóc chào đời và con chỉ nhận biết khi ý thức được bổn phận làm người.
Ờ nhỉ ! Sao co những người không giữ tròn hiếu hạnh. Trong khế kinh Phật từng dạy rằng : Không có cha mẹ ta, thì sẽ không có hình hài của ta. Cha mẹ đã tạo cho ta cái thân thể này:
Có ông bà mới có ta
Ông bà là gốc, mẹ cha là cành
Thân ta như thể lá xanh
Nhờ gốc vun bón, nhờ cành chở che.
Trong đời cũng có lúc nào đó, con đã làm buồn lòng mẹ. Giờ đây, chúng con mới biết, trên đời vai gầy guộc của mẹ, trĩu nặng nỗi nhọc nhằn và lo toan trong cuộc sống, lòng mẹ lại buồn phiền vì con trái nghịch. Con có biết đâu thời gian, nỗi nhọc nhằn, và phiền muộn ấy đã, đang và sẽ cướp mất kho tàng quý báu của đời con. Người mẹ hiền yêu dấu của chúng con, buồn thay đến một ngày nào đó trong đời:
Nhìn vào đêm tối mông lung,
Khát khao tìm lại hình dung mẹ hiền,
Một trời thương nhớ xây thành,
Mây buồn tóc rối giữa vành tang thương
Cánh chim bàng bạc kêu sương,
Đóa hồng rủ cánh lòng vương vấn sầu.
Mẹ ! Giờ đây con muốn trở về bên mẹ, để nhìn sâu vào mắt mẹ, con sẽ nhìn thật lâu, thật kỹ, để trông thấy mẹ, để biết rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên con, con sẽ hôn lên gò má nhăn nheo của mẹ, áp mặt vào đôi bàn tay gầy guộc của mẹ đã hằng dệt yêu thương, để tỏ lòng tri ân và nhận sự trìu mến ân cần, chở che của mẹ. Mẹ và con sung sướng, sẽ được sống trong ý thức tình thương bất diệt.
Nếu nghĩa mẹ ví như giòng suối dịu mát, ngọt ngào, thì công cha cao lớn hơn, bền chắc vĩnh cữu hơn như trái núi Thái Sơn, lời ca dao ví von cũng là lời tự tình của người con đối với cha mẹ ngày xưa và mãi mãi cho đến ngàn sau:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ Mẹ kính Cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Ngày nay chúng ta có được duyên lành gần gũi với Phật Pháp, gương hiếu hạnh của Ngài Mục Kiền Liên đã soi tỏ lời vàng của Chư Phật, con sẽ nguyện giữ mãi trong lòng," sinh ra thời không có Phật, thờ kính Cha Mẹ là thờ kính Phật vậy".
Công ơn cha mẹ tựa biển trời
Làm sao báo hiếu hởi người ơi ?
Nếu chưa báo hiếu đừng bất hiếu
Bất hiếu làm ta khổ muôn đời.
Cha Mẹ ơi, Dòng cảm niệm sẽ trôi theo thời gian, nhưng ý thức hiếu hạnh sẽ còn mãi mãi với lòng người, mai này con có lớn khôn, rời khỏi vòng tay của người mẹ hiền, thì mãi mãi vẫn là bóng cây che mát cho đời con. Sung sướng biết bao khi chúng ta xếp lại mối lo âu toan tính, để lại thú vui của cuộc đời, quay về bên mẹ, sống với mẹ để nghe nói những lời yêu thương dịu ngọt, được bàn tay mẹ vỗ về, trìu mến, con sung sướng gục đầu vào lòng mẹ, để tìm lại hơi ấm của ngày xưa, để được thấy mình trở thành trẻ thơ bé bỏng bên mẹ.
Cha Mẹ ơi ! Đây là tấm lòng của chúng con, đóa hoa hồng tươi thắm và món quà hiếu hạnh, chúng con thành kính dâng lên Cha Mẹ, bằng tất cả những con tim và bằng tất cả những tấm lòng của chúng con nhân mùa Vu Lan Báo Hiếu.
Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát
VU LAN
THƠ VU LAN
Vu Lan Nhớ Mẹ
Hòa thượng Huyền Quang
Nhìn mùa Thu lại sang
Lòng con trẻ bàng hoàng
Chạnh lòng con nhớ mẹ
Trong dịp mùa Vu lan.
Ngày con còn thơ ấu
Cô giáo dạy đánh vần
Mờ a ma sắc má
Làm con nhớ song thân.
Con như chim vành khuyên
Sống bên cạnh mẹ hiền
Cho đến ngày khôn lớn
Ôi! Tình mẹ thiêng liêng.
Giờ mẹ ở nơi đâu
Có hay con âu sầu
Nhìn mùa Thu lá rụng
Lệ buồn trong mắt nâu.
Con là đứa con côi
Vì đã mất mẹ rồi
Ai cũng hoa hồng đỏ
Mình con hoa trắng thôi.
H.T Thích Huyền Quang
Mùa Vu lan Tân Dậu (1981), đêm 14 tháng 7 tại giảng đường Thiện Hoa, Tổ đình Ấn Quang
BỐ NẰM XUỐNG
Trần Hồng Châu
Bố nằm xuống đất rồi, càng thương bố
đời loạn lạc
hậu vận bố con mình chẳng ra gì!
Bố thèm chén rượu nhạt
( một đôi khi thôi, đâu có nghiện ngập gì!)
con cũng chẳng có tiền mua
túi sạch sành sanh
sau mấy chuyến đi chui chẳng thành công
Bố muốn bộ đồ xá xị tầm thường
để bận cho thoải mái
Con cũng chỉ mua được vải tám lai rai
Trông bố ăn
Rất ngon lành
Củ khoai lang buổi sáng
Con muốn khóc quá trời!
Đời loạn lạc
chó nhảy bàn độc
hậu vận bố con mình chẳng ra gì!
Bố đi bộ suốt Chợ lớn mới
về Đại thế giới
để dành tiền vé xe buýt
bố mua hai đồng ô mai
một gói đậu phụng
Bên cửa bếp
Hai bố con ngồi nhắm nháp
vị xá muội mặn chát
chua ơi là chua
ôi men đắng cuộc đời!
ngọn gió nào bỗng thổi tứ tung
vỏ lạc lá vàng bay
Hai bố con lặng lẽ
cắn từng miếng me khô
muối ớt cay cay
từng quả cóc ngâm đường
dôn dốt ngọt chua
bố bảo: bố con mình thế mà gân ra phết!
Bố nằm xuống đất rồi, lại càng thương bố
đời loạn lạc. . .
(Nhớ Đất Thương Trời)
MÙA VU LAN NHỚ MẸ
Thơ của Thích Nữ Giác Anh
Thơ của Thích Nữ Giác Anh
Mẹ thường lau nước mắt
Cầu Phật từ gia hộ
Con tu trì bình yên.
Mẹ nắn nót chép Kinh
Từng chữ từng chữ một Pháp Hoa Kinh huyền nghĩa
Hồi hướng con an bình.
Hôm nay mùa Vu Lan
Mừng tuổi hạ đầu tiên
Thương Mẹ hiền xa quá
Nguyện Mẹ vững niềm tin.
Ngày mai hoa sen nở
Chín phẩm nâng gót hài
Hương từ bi lan tỏa
Ly biệt này phôi phai.
Hương niệm Phật thơm ngát
Lan tỏa khắp mười phương
Mẹ ơi, con thương Mẹ
Cầu nguyện Mẹ diên trường.
Giác Anh
Mùa Vu Lan, 2009
vu lan nhớ mẹ
Tác giả: Dư Thị Diễm Buồn
Nhân mùa báo hiếu.
Kính tặng những ai có diễm phúc
còn mẹ, và làm mẹ.
DTDB
Con hỏi mẹ: "Sao cài hoa màu trắng?
Vào những ngày báo hiếu lễ Vu Lan?
Sao không cài hoa hồng thắm cao sang?"
Mẹ khẽ bảo: "Mẹ không còn có mẹ!"
Trong vũ trụ muôn loài đều có mẹ
Kẻ vô phần nên mẹ sớm ra đi
Thân cút côi sống lặng lẽ sầu bi
Đời đâu có tình nào hơn tình mẹ!
Thương thân mẹ, mất bà từ thuở bé
Thiếu tình thân yêu, âu yếm thiêng liêng
Thiếu vắng vòng tay trìu mến dịu hiền
Thiếu hơi ấm, ấp lòng khi giá lạnh
Thiếu hình bóng bên đèn chong đêm quạnh
Lời ngọt ngào khuyên dỗ lúc ốm đau
Chạy rong chơi vấp ngã té cầu ao
Về phụng phịu: "Mẹ ơi, con đau đớn..."
Thương yêu con, mẹ quên con đã lớn
Gió trở mùa, cây thay lá vàng thu
Đợi cổng trường khi đem nón, đem dù
Che mưa nắng, cho con phòng cảm mạo
Có những hôm trời lên cơn dông bão
Gió lạnh căm căm, thời tiết đổi thay
Đường về nhà trơn trợt tuyết mưa bay
Đội giá buốt, đem con giầy cao ống
Hết cấp ba, con vào trường Đại học
Sống xa nhà, mẹ lo sợ đắn đo...
Luôn nhắc con: "Trở gió dễ cảm ho
Nhớ mặc áo, choàng khăn cho đủ ấm"
Trước nhập học, tự tay mẹ mua sắm
Từ chiếc khăn, đôi vớ, thỏi xà phòng
Cây kim may, cuộn chỉ với mền bông
Chai dầu gió, phòng hờ khi cảm lạnh!
Nơi gác trọ những đêm dài hiu quạnh
Buồn bâng quơ hay chợt đến bất ngờ
Tình thơ ngây vụng dại tuổi học trò
Thương nhớ mẹ, vội vàng ra đi hết
Luôn cuối tuần, thứ bảy hay chủ nhật
Đến thăm con, mẹ chỉ dạy khuyên răn
Đem cho con, giỏ đầy ắp thức ăn
Và ánh mắt, ôi dịu dàng trìu mến
“Mẹ mới có tình thương vô bờ bến
Con hơn người, vì có mẹ bên con
Con hơn người vì có mẹ chu toàn
Con hạnh phúc, cài hoa hồng lên áo!”
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
Kính tặng những ai có diễm phúc
còn mẹ, và làm mẹ.
DTDB
Con hỏi mẹ: "Sao cài hoa màu trắng?
Vào những ngày báo hiếu lễ Vu Lan?
Sao không cài hoa hồng thắm cao sang?"
Mẹ khẽ bảo: "Mẹ không còn có mẹ!"
Trong vũ trụ muôn loài đều có mẹ
Kẻ vô phần nên mẹ sớm ra đi
Thân cút côi sống lặng lẽ sầu bi
Đời đâu có tình nào hơn tình mẹ!
Thương thân mẹ, mất bà từ thuở bé
Thiếu tình thân yêu, âu yếm thiêng liêng
Thiếu vắng vòng tay trìu mến dịu hiền
Thiếu hơi ấm, ấp lòng khi giá lạnh
Thiếu hình bóng bên đèn chong đêm quạnh
Lời ngọt ngào khuyên dỗ lúc ốm đau
Chạy rong chơi vấp ngã té cầu ao
Về phụng phịu: "Mẹ ơi, con đau đớn..."
Thương yêu con, mẹ quên con đã lớn
Gió trở mùa, cây thay lá vàng thu
Đợi cổng trường khi đem nón, đem dù
Che mưa nắng, cho con phòng cảm mạo
Có những hôm trời lên cơn dông bão
Gió lạnh căm căm, thời tiết đổi thay
Đường về nhà trơn trợt tuyết mưa bay
Đội giá buốt, đem con giầy cao ống
Hết cấp ba, con vào trường Đại học
Sống xa nhà, mẹ lo sợ đắn đo...
Luôn nhắc con: "Trở gió dễ cảm ho
Nhớ mặc áo, choàng khăn cho đủ ấm"
Trước nhập học, tự tay mẹ mua sắm
Từ chiếc khăn, đôi vớ, thỏi xà phòng
Cây kim may, cuộn chỉ với mền bông
Chai dầu gió, phòng hờ khi cảm lạnh!
Nơi gác trọ những đêm dài hiu quạnh
Buồn bâng quơ hay chợt đến bất ngờ
Tình thơ ngây vụng dại tuổi học trò
Thương nhớ mẹ, vội vàng ra đi hết
Luôn cuối tuần, thứ bảy hay chủ nhật
Đến thăm con, mẹ chỉ dạy khuyên răn
Đem cho con, giỏ đầy ắp thức ăn
Và ánh mắt, ôi dịu dàng trìu mến
“Mẹ mới có tình thương vô bờ bến
Con hơn người, vì có mẹ bên con
Con hơn người vì có mẹ chu toàn
Con hạnh phúc, cài hoa hồng lên áo!”
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
mẹ đưa con vào lớp vỡ lòng
Tác giả: Dư Thị Diễm Buồn
Con năm tuổi đi học trường mẫu giáo
Mẹ gọi thức dậy mỗi sáng tinh sương
Chiếc bàn chải sẵn kem cùng quần áo
Đây cháo khoai, đỡ dạ trước đến trường
Cả tháng đầu mẹ trông chờ mệt nhọc
Dù đứng xa cũng thấy được con luôn
Lòng quanh quẩn theo sân trường lớp học
Bởi mẹ sợ con mẹ khóc vì buồn!
Gió bấc lạnh lùng, mưa bay lướt thướt
Mẹ cõng con, tay ôm cặp che dù
Áo vải mũ, con mặc vào khỏi ướt
Còn Mẹ hiền nhòa đẫm nước mưa thu
Những chữ cái trong cuốn vần Quốc Ngữ
Học thuộc lòng, tập vẽ viết ở trường
Cha xa vắng, mẹ chắt chiu mọi thứ
Cầm tay con đồ đậm chữ Quê Hương
Trời tháng giêng, nắng như thiêu như đốt
Mẹ đến cổng trường chờ trống ra chơi
Miệng suýt soa, con giỡn mèo bắt chuột
Té lấm áo quần, lem luốc mặt môi
Nơi xứ người, mùa đông cay nghiệt lắm!
Vì thương con chẳng kể đến thân mình
Cha đã mất, mẹ dải dầu mưa nắng
Con hiểu dần lòng mẹ, đức hy sinh...
Nghĩa trang lạnh, mẹ ơi nằm chi đó?
Con về thăm, sao mẹ chẳng mừng vui?
Nhớ lần đầu, đi xa về đến ngõ
Mẹ ôm chầm âu yếm gọi "con tôi!"
Nắng chênh chếch giữa chiều vàng bóng xế
Mồ cỏ xanh, bia đá dựng chơ vơ
Kể từ khi mẹ hiền lìa cõi thế
Con chỉ còn gặp mẹ ở trong mơ...
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
Mẹ gọi thức dậy mỗi sáng tinh sương
Chiếc bàn chải sẵn kem cùng quần áo
Đây cháo khoai, đỡ dạ trước đến trường
Cả tháng đầu mẹ trông chờ mệt nhọc
Dù đứng xa cũng thấy được con luôn
Lòng quanh quẩn theo sân trường lớp học
Bởi mẹ sợ con mẹ khóc vì buồn!
Gió bấc lạnh lùng, mưa bay lướt thướt
Mẹ cõng con, tay ôm cặp che dù
Áo vải mũ, con mặc vào khỏi ướt
Còn Mẹ hiền nhòa đẫm nước mưa thu
Những chữ cái trong cuốn vần Quốc Ngữ
Học thuộc lòng, tập vẽ viết ở trường
Cha xa vắng, mẹ chắt chiu mọi thứ
Cầm tay con đồ đậm chữ Quê Hương
Trời tháng giêng, nắng như thiêu như đốt
Mẹ đến cổng trường chờ trống ra chơi
Miệng suýt soa, con giỡn mèo bắt chuột
Té lấm áo quần, lem luốc mặt môi
Nơi xứ người, mùa đông cay nghiệt lắm!
Vì thương con chẳng kể đến thân mình
Cha đã mất, mẹ dải dầu mưa nắng
Con hiểu dần lòng mẹ, đức hy sinh...
Nghĩa trang lạnh, mẹ ơi nằm chi đó?
Con về thăm, sao mẹ chẳng mừng vui?
Nhớ lần đầu, đi xa về đến ngõ
Mẹ ôm chầm âu yếm gọi "con tôi!"
Nắng chênh chếch giữa chiều vàng bóng xế
Mồ cỏ xanh, bia đá dựng chơ vơ
Kể từ khi mẹ hiền lìa cõi thế
Con chỉ còn gặp mẹ ở trong mơ...
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
THICH THIỆN SIÊU * NGÀYRẰM THÁNG BẢY
NGÀYRẰM THÁNG BẢY
HoàThượng Thích Thiện Siêu
I.Ý Nghĩa
Rằmtháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xátội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa:
Thứnhất, ngày Phật hoan hỷ. Ngày rằm tháng bảy gọi làngày đức Phật hoan hỷ, bởi lẽ trong thất chúng đệ tửcủa Phật, Chúng Tỷ-kheo là Chúng đệ tử gần gủi nhất,Chúng thừa đương Phật pháp để truyền bá giáo hóa cho chúngsinh, Chúng mang hình dáng của Phật làm gương mẫu ở thếgian, Chúng mà trong ba tháng an cư kiết hạ đã viên mãn vàkết thúc vào ngày rằm tháng bảy âm lịch. Thông thường,khi chư Tăng thọ giới pháp xong là tu niệm, nhưng vì Phậtsự đa đoan nên sự tu niệm ấy không được chuyên cần bằngba tháng an cư. Ba tháng an cư theo Luật Phật chế, Chúng Tỷ-kheophải cấm túc ở yên, hạn chế tối đa sự đi lại, mộtlà vì phong thổ Ấn Độ lúc bấy giời mùa hạ là mùa mưa,các loại côn trùng sinh sản ra nhiều, mà chúng Tăng đi khấtthực sẽ dẫm đạp lên nhiều loại côn trùng, làm tổn thươngđến lòng từ bi tế vật. Thứ hai là, chúng Tăng đi khấtthực thì y, áo, bình bát sẽ bị thấm ướt, mất trang nghiêm,nên thế gian có phần chê trách. Vì vậy, nên đức Phật dạyChúng Tỷ-kheo trong ba tháng mùa mưa phải cấm túc an cư, hạnchế việc đi ra ngoài để tập trung vào sự tu niệm, củngcố sự sống trong thanh tịnh hòa hợp, cảnh tỉnh thân tâmđể tinh tấn trong con đường đạo hạnh. Cho nên một khiđệ tử của Phật tu hành trong ba tháng viên mãn thanh tịnh,kết thúc ba tháng an cư, đức Phật vui mừng lắm. Mừng chođệ tử của mình đã hoàn thành ba tháng an cư thanh tịnh,cho nên gọi là ngày Phật vui mừng.
Thứhai, ngày Tăng Tự tứ. Ngày chúng Tăng sau ba tháng an cưtu tập nghĩ rằng: Tuy mình đã gắng tu như thế nhưng khôngchắc đã tránh hết lỗi lầm, nên ngày rằm tháng bảy cùngnhau tập trung lại, cầu mong những vị có giới đức thanhtịnh hơn mình chỉ lỗi lầm cho. Nếu mình tự thấy mắcphải lỗi lầm đó, phải phát lộ sám hối. Đó là một việchết sức đặc biệt trong ngày Tự tứ.
Thôngthường, mỗi khi có lỗi là tìm cách né tránh, tìm cách chedấu kẻo sợ người khác biết thì xấu hổ, hoặc sợ nếubiết lỗi của mình thì lần sau mình không làm lại đượcnữa, cho nên thường thường là che dấu, không bộc lộ, trừkhi có ai hỏi đến, kẹt lắm mới nói tới có phạm, có vấplỗi nọ lỗi kia. Hoặc giả, có phát lộ sám hối chăng thìcũng phát lộ âm thầm trước ngôi Tam Bảo, chớ ít khi côngkhai nhờ người chỉ lỗi cho mình ra giữa Đại chúng. Nhưngtheo đạo Phật, ba tháng hạ an cư xong rồi, đức Phật dạyhàng Tỷ-kheo phải cầu người khác chỉ lỗi cho mình, nghĩalà không phải để đợi người khác chỉ mà tự mình phảicầu người khác tự do chỉ cho, mình phải đối trước ngườiđó mà thưa: "Thưa Đại đức, ngày nay chúng Tăng Tự tứ,tôi cũng Tự tứ, tôi có điều gì sai phạm mà Đại đứcthấy, nghe hoặc nghi, xin Đại đức thương xót chỉ cho, nếutôi thấy có phạm thì xin như Pháp sám hối." Nói như vậyngầm ý rằng: Tôi không phàn nàn, không thắc mắc và tôikhông có oán trách chi Đại đức hết! Đó chính là ý nghĩamà mình phát tâm cầu mong được thanh tịnh, không có chútnào che dấu, thành tâm cầu người khác tự do nói không edè chi hết, nếu thấy có lỗi thì cứ chỉ cho. Đó là mộtthái độ rất cao thượng cởi mở để làm cho mình hết sạchtội lỗi. Vì vậy trong ngày đó gọi là ngày Tăng Tự tứ.Tự tứ nghĩa là cầu người khác không ngần ngại chỉ lỗimình ra, để cho mình biết mà sám hối, nên gọi là Tăng Tựtứ.
Thứba, ngày Tăng Thọ tuế. Thọ tuế là nhận tuổi. Theo thếgian, nếu cha mẹ sinh ra đủ năm 12 tháng thì mới gọi làtròn một tuổi. Nhưng trong Luật Phật chế, hàng xuất giathọ giới của đức Phật không tính tuổi theo năm tháng kiểuthế gian trên -- mà tính tuổi theo hạ lạp. Nghĩa là năm nàocó an cư kiết hạ được trọn vẹn thì được tính mộttuổi. Thí dụ: Vị nào an cư kiết hạ từ 15-4 âm lịch đến15-7 âm lịch là mãn hạ, như vậy được tính một năm hạ,tức một tuổi hạ. Ai đã thọ Cụ túc giới nhưng không ancư thì không tính tuổi hạ, còn ai kiết hạ an cư liên tụcthì được tính nhiều tuổi hạ.
Chonên chúng ta thường nghe ở các chùa khi đọc tiểu sử củamột vị Tăng nào viên tịch, thường nhắc đến tuổi đờivà hạ lạp. Thí dụ vị đó 80 tuổi đời và 60 hạ lạp,nghĩa là vị đó có tuổi cha mẹ sinh là 80 năm, còn tuổihạ là 60 hạ lạp. Hạ lạp được tính và ngày rằm Tựtứ, sau khi đã tu hành tròn ba tháng hạ. Tuy nhiên, cũng cótrường hợp, đúng theo Luật Phật chế, 20 tuổi thì đượcthọ giới Tỷ-kheo, nhưng vì thiếu duyên, có vị 25 tuổi mớithọ giới Tỷ-kheo và sau khi thọ giới mỗi năm đều có kiếthạ. Nếu vị ấy viên tịch vào tuổi 70, thì vị ấy được45 tuổi hạ và 70 tuổi đời. Nếu một vị Tỷ-kheo thọ giớirồi mà không an cư lần nào cả thì coi như vị ấy hoàn toànkhông có tuổi hạ, khác với cha mẹ sinh ta ra, dù ta có làmhay không làm gì đi nữa hoặc giả có ngủ cả năm đi nữathì tròn một năm cũng vẫn được tính tuổi từng năm một.Trái lại, vị Tỷ-kheo thì phải có kiết giới an cư thì mớinhận tuổi, còn không an cư, thì không tính hạ lạp cũng gọilà giới lạp, pháp lạp. Đó là ý nghĩa của ngày Phật hoanhỷ, Tăng Tự tứ và Tăng Thọ tuế.
Thứtư, ngày Vu Lan xá tội vong nhân. Vu Lan là ngày cầu siêuđộ cho tiền nhân quá cố của người con Phật. Tích Vu Lanbắt nguồn từ việc báo hiếu của Tôn giả Mục-kiền-liên.Tích này được chép trong kinh Vu-lan-bồn. Chữ Vu-lan-bồn phiênâm từ chữ Sanskrit (Phạn) là Ulambana. Người Trung Hoa dịchnghĩa là Giải đảo huyền (Giải cái tội bị treo ngược).Câu chuyện trên ý nói rằng, những người nào tạo tội ácthì phải thọ quả báo nơi địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh,chịu sự hành hạ thống khổ cùng cực giống như ngườibị treo ngược. Nghĩ đến công ơn cha mẹ, khi ngày Vu Lan đến,Phật tử thường đem tâm chí thành, chí hiếu sắm sửa vậtdụng cúng đường Tam Bảo để cầu nguyện cho thân nhân,tiền vong của mình thoát khỏi cảnh khổ đau cùng cực y nhưgiải tội bị treo ngược.
Nhưvậy, ngày Vu Lan là ngày của Phật tử đền ơn đáp nghĩabằng cách đến chùa cầu thỉnh chư Tăng sau ba tháng ăn cưthanh tịnh, chú nguyện cho vong nhân của mình thoát khỏi cảnhđọa đày tăm tối của địa ngục, ngạ quỉ và súc sinh,đồng thời cầu nguyện cho tất cả người khác cũng thoátkhỏi tội khổ đau cùng cực như Tôn giả Mục-kiền-liênđã làm khi cứu mẹ.
II.Tích Mục Kiền Liên Cứu Mẹ
Tôngiả Mục-kiền-liên là vị đệ tử xuất chúng của đứcPhật. Tôn giả đã chứng được Lục thông:
1. Thiênnhãn thông: Được con mắt như mắt trời, thấy khắp tấtcả. 2. Thiênnhĩ thông: Được lỗ tai như tai trời, nghe thấy khắp tấtcả. 3. Thatâm thông: Với tâm của mình biết được tâm của ngườikhác muốn gì, ưa gì. 4. Túcmạng thông: Là biết đời trước của mình ... 5. Thầntúc thông: Được thần thông đi dưới đất hay bay trên khôngđều tự tại vô ngại. Cũng gọi là Thần cảnh thông. 6. Lậutận thông: Dứt trừ mọi lậu hoặc, vượt thoát ra khỏivòng sanh tử. Ngoàira Tôn giả còn chứng được tuệ nhãn (trong ngũ nhãn là nhụcnhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhã và Phật nhãn) tức làcon mắt, thấy được sự vật và tự tính của nó. Chúngsinh chỉ có con mắt thịt, chỉ thấy những cái trước mắt,vừa tầm, còn những cái xa quá, nhỏ quá, lớn quá không thấyđược. Khi Tôn giả chứng được lục thông và tuệ nhãnliền nhớ đến cha mẹ mình, Tôn giả dùng tuệ nhãn nhìnkhắp bốn phương, xem vong mẫu của mình hiện đang ở đâu?Khi thấy vong mẫu của mình đang ở trong loài ngạ quỷ hếtsức đau khổ và đói khát, Tôn giả buồn bã vô cùng. Tôngiả liền bưng bát cơm đến dâng mẹ, nhưng mẹ Tôn giảvì tâm xan lẫn từ kiếp trước quá nặng nề khởi lên, sợngười khác trông thấy mà đến giành giựt hoặc xin bớt,cho nên bà một tay che bát cơm lại, một tay bốc ăn.
Nhưngcơm chưa tới miệng đã hóa thành than lửa không thể nàoăn được. Tôn giả thấy vậy, vô cùng đau xót, không biếtlàm sao cứu vớt mẹ được, bèn về bạch với đức Phật.Ngài dạy: Tội lỗi của mẹ ngươi, dù có thần thông phéplạ của hàng thiên thần địa kỳ cũng không cứu đượcđâu! Duy chỉ có dùng thần lực của chúng Tăng sau ba thángan cư, tinh tấn tu hành thanh tịnh tập trung chú nguyện cho,may ra mới chuyển hóa được nghiệp lực của mẹ ngươi,thì mẹ ngươi mới được thoát khổ cảnh mà thôi.
Nghevậy, Tôn giả Mục-kiền-liên thưa với đức Phật: BạchThế Tôn, con nay làm sao mà mời chư Tăng mười phương cúngdường một lúc như vậy được? Đức Phật dạy rằng: Trongngày Vu Lan là ngày Tự tứ của chư Tăng, ông nên sắm cácthứ cúng dường chư Tăng trong ngày Tự tứ, ngày đó dầucác vị trong thiền định, hay thọ hạ kinh hành, hay hóa độnhơn gian, cũng tập trung lại để Tự tứ và cầu nguyệncho mẹ ngươi, thì mẹ ngươi sẽ được thoát khổ, rồi Tôngiả thực hành theo lời dạy của đức Phật và chính trongngày đó, mẹ Tôn giả thoát được cảnh ngạ quỷ mà hưởngphước báu chư Thiên.
Dovậy, Tôn giả hết sức vui mừng và thưa với đức Thế Tôn,nếu sau này có chúng sanh nào muốn phát tâm hiếu để màcầu nguyện cho cha mẹ thoát khổ được vui thì có làm nhưcon được không? Đức Phật dạy là có thể làm được trongngày Tự tứ. Do đó, mà trong Phật giáo truyền lại một Phápcứu độ cho tiền nhân trong ngày Tăng Tự tứ.
Tôngiả Mục-kiền-liên làm như vậy đã nêu một tấm gươngchí hiếu lớn lao cho tất cả Phật tử noi theo muôn đời.Tôn giả không những có hiếu trong đời Phật hiện tại màTiền thân Ngài cũng đã là một người con chí hiếu. Trongmột Tiền kiếp, Tôn giả sinh trong một gia đình nông dân.Cha mẹ chỉ có Tôn giả là con trai độc nhất, nên vô cùngthương yêu chiều chuộng, và Tôn giả cũng thương yêu chamẹ không kém. Tôn giả biết cha mẹ chỉ sinh có một mìnhNgài là con duy nhất, Tôn giả nghĩ đến ngày cha mẹ tuổigià, không biết trông cậy vào ai, nên Tôn giả nguyện ởđộc thân suốt đời để phụng thờ cha mẹ, chứ không muốnlập gia đình. Nhưng trong khi đó cha mẹ lại vì thương conkhông muốn con ở như vậy, sợ con cô độc, sau này khôngcó ai giúp đỡ lúc trở về già, nên luôn luôn ép con lậpgia đình. Trước sự thúc ép ấy, Tôn giả đành chiều ýcha mẹ.
Khôngmay khi lập gia đình, Tôn giả gặp một người vợ không tâmđầu ý hiệp, nàng ta không phải là mẫu người phụ nữthuần lương. Lúc mới cưới nàng về, Tôn giả dạy vẽ chovợ thay mình hầu hạ cha mẹ hôm sớm, cơm nước dâng lêncha mẹ đầy đủ như khi Tôn giả vẫn thường làm. Lúc đầungười vợ ngoan ngoãn tuân theo, nhưng một thời gian sau nàngtỏ ra lạnh nhạt và thờ ơ với cha mẹ chồng. Vì lẽ, thóithường con trong ruột sinh ra đôi khi còn chưa thương cha mẹruột một cách hết lòng huống gì là con dâu, làm sao thươngông bà gia như thương cha mẹ ruột! Ngài vì sinh kế phảiđi làm ăn, nàng ở nhà càng tỏ ra chểnh mảng trong việchầu hạ cha mẹ chồng. Khi đã chểnh mảng, muốn từ bỏthì phải tìm kế, lập mưu. Một hôm, Tôn giả đi làm vềthấy nước đổ lênh láng giữa nhà và hỏi nước đâu vậy?Người vợ bèn chỉ vào ông già mà nói rằng: Ông chướngquá, tôi bưng nước lên dâng ông, ông vung văng, chê nướcnóng nước lạnh không chịu uống rồi vung tay đổ cả ragiữa nhà như vậy đó, tôi chịu hết nổi!
Rồimột bữa khác, Tôn giả đi làm về thấy cơm vãi ra giữanhà và hỏi: Cơm đâu vung vãi ra đầy nhà như vậy? Ngườivợ liền chỉ vào bà già trả lời, bà đó, bà chướng quá,tôi nấu cơm để cho nguội, xới dâng lên cho bà, nhưng bàchê cơm trưa cơm sớm rồi vung vãi ra cùng nhà như vậy đó,tôi chịu hết nổi! Cứ một điệp khúc ấy bà vợ tỉ têmãi, riết rồi chồng cũng phải xiêu lòng nghe theo. Tôn giảnghĩ rằng như thế thì cha mẹ mình quá chướng nên nói vớivợ: "Thôi được, ta sẽ có cách"!
Hômsau, Tôn giả thuê một chiếc xe ngựa, nói dối với cha mẹrằng, mấy lâu nay cha mẹ không về thăm Từ đường bên ngoại,nay mời cha mẹ về thăm một chuyến, để sau này già yếucó nhắm mắt cũng khỏi ân hận. Cha mẹ nghe có lý nên đồngý đi. Tôn giả cầm dây cương cho xe ngựa lên đường, khiđi đến một đoạn vắng, đường gồ ghề, Tôn giả nhảyxuống ngựa và nói dối với cha mẹ hãy cầm cương hờ đểcon đi sau bảo vệ kẻo chỗ này cướp bóc nhiều lắm. Nhưngthật ra, Tôn giả chẳng bảo vệ gì, mà cốt ý lấy roi quấtvào cha mẹ mà nói: "Đã chừa chưa? hết chướng chưa? hếtchướng chưa?" Dẫu bị đánh như vậy, nhưng cha mẹ khôngnghĩ là mình bị đánh mà lại chỉ nghĩ đến con, mà la lên:"Con ơi, lo chạy đi kẻo nó đánh chết, lo chạy đi con ơi!"Chính trong khi bị đánh mà cha mẹ không nghĩ đến mình đaulại cứ nghĩ con bị đánh chết mà la lên, nên hai chữ conơi, khi ấy nó đã đánh thức Tôn giả. Khiến Tôn giả nghehai tiếng đó nó thiêng liêng, mặn nồng, tha thiết trìu mếnvà thắm thiết một cách lạ kỳ. Tôn giả sực tỉnh ra làmình bất hiếu quá sức! Cha mẹ thương mình như vậy mà mìnhlại bất nhân, thiếu đức, nên Tôn giả liền hồi tâm vàvội vã cho xe quay về và sám hối cha mẹ. Khi về tới nhàTôn giả quyết định cho vợ về quê của nàng và nguyệnsống ở độc thân như vậy suốt đời với cha mẹ. Đó làmột tiền kiếp của Tôn giả.
Cònkiếp hiện tại, Tôn giả có tên là Mục-kiền-liên, mộtngười con chí hiếu, muốn thực hiện sự báo hiếu cho chamẹ mà lúc ở nhà chưa thực hiện được. Nên trong đờisống xuất gia, Tôn giả quyết tâm thực hiện để đưa chamẹ mình đến cảnh an vui.
Câuchuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứ và hiệntại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những ngườicon còn biết có mẹ có cha. Phần nhiều ai cũng có lòng hiếuvới cha mẹ, nhưng vì không được un đúc, nhắc nhở, khônggặp thầy hay bạn tốt nên có khi tâm bị lung lay trở thànhbất hiếu. Có trường hợp bất hiếu vì nghe theo bạn ác,có khi nghe theo danh lợi, quyền thế, nghe theo cờ bạc, rượuchè, hoặc có khi làm nên ông này bà nọ rồi lên mặt vớicha mẹ, anh em, coi thường bà con cô bác, láng giềng mà trởthành bất hiếu. Chẳng hạn có một anh nọ gặp may trở thànhmột quan chức lớn. Lúc đó chưa có xe đưa rước, về nhàcha mẹ nói đâu dạ đó. Nhưng khi làm một chức quan to rồithì không thèm dạ như xưa nữa sợ mất thể diện ông quan.Như vậy là vì nghe theo quyền thế mà trở nên bất hiếu.
Lạicó người mù quáng học đòi theo thói văn minh vật chất tựdo ích kỷ, mà không biết đến văn minh đạo đức hiếu đểcho nên trở thành bất hiếu.
Nhưvậy, sự tích của Tôn giả Mục-kiền-liên là một gươngquí nhắc nhở chúng ta vun bồi lòng hiếu thảo của mình,đừng để lòng hiếu thảo bị các thứ khác làm vẩn đục,làm cho mù quáng, mà đánh mất đi. Trong kiếp quá khứ, Tôngiả Mục-kiền-liên thiếu cảnh tỉnh nên trở thành bấthiếu chỉ vì nghe theo lời vợ. Trong xã hội xưa cũng nhưnay, có những người con rất có hiếu với cha mẹ, nhưng khichung đụng với xã hội, gặp hoàn cảnh không tốt, ít thâncận bạn hiền, bị tác động bởi sự xấu xa nên khi trởvề nhà, cha mẹ nói không nghe, anh chị khuyên bảo không chịu,lại còn cãi lại, cha không hiểu chi, mẹ không biết chi, cònmình đây mới hiểu, mới sáng suốt, mới có học. Đó làmột thái độ thiếu cảnh tỉnh nên bất hiếu.
Dođó, cho nên ai có gần gũi bạn lành, lo tinh tấn tu niệm thìmới trở thành nhũng người con có hiếu. Trong Kinh TrườngA-hàm, đức Phật có chỉ cho chúng ta cách báo hiếu tốt nhấtlà: Nếu gia đình nào có những người con mà biết Bố thí,biết Ái ngữ, biết Lợi hành và biết Đồng sự thì cha mẹmới nhận được sự hiếu kính của con. Nếu người con nàokhông biết Bố thí, không biết Ái ngữ, không biết Lợi hànhvà không biết Đồng sự thì cha mẹ không hưởng được sựhiếu kính của con.
Thứnhất là bố thí. Kinh A-hàm dạy người hiếu kính cha mẹlà người biết tu hạnh Bố thí. Người biết bố thí thìluôn luôn đem tâm hoan hỷ bố thí cho mọi người, dù chỉlà một nụ cười, một cử chỉ cung kính. Nụ cười ấy,cử chỉ cung kính ấy, sự dịu dàng ấy, cách ăn nói ôn hòaấy là của mình, nhưng nếu mình không làm, không thể hiệnlà không có bố thí. Khi mình làm và thể hiện thì sẽ đeman vui đến cho mọi người, chứ không nhất thiết phải hạncuộc ở bố thí tiền bạc. Đôi lúc một nụ cười khiếncho người ta tiêu tan đau khổ, trong khi mình đem một túi tiềncho họ chưa chắc họ đã hết đau khổ. Như vậy, ngườicon biết bố thí thì cha mẹ mới hưởng được sự hiếukính của con, còn nếu con chỉ biết quí tiền của, xan tham,chỉ muốn bòn rút của cha mẹ, thì chắc chắn cha mẹ khônghưởng được sự hiếu kính của con.
Đãcó trường hợp như sau. Một bà mẹ thiếu thốn, già yếu,người con không thèm hỏi tới. Khi mẹ đau ốm mặc kệ, ănngủ không được cũng chả hề quan tâm. Người mẹ buồnchán đi ở với bà con hàng xóm. Hàng ngày, bà đi bán nướcchè và đi mót lúa giành dụm mua được tấm vé số, khi dòmay sao bà trúng. Khi nghe mẹ trúng số thì người con lật đậttới nói với mẹ: "Thôi mẹ về ở với con cho vui, con ởxa nhớ mẹ, đêm hôm đau ốm không ai lo cho mẹ!" Như vậyngười con khi thấy mẹ thiếu thốn không có thì hất hủi,khi thấy mẹ có rồi thì hỷ hả, vì sao? Vì người con thiếutu, xem của cải, miếng ăn nặng hơn ơn sinh thành dưỡng dụccủa cha mẹ. Cho nên trong một gia đình, nếu vì tâm bỏn xẻn,anh em giành nhau, nghi nhau, không có tâm bố thí thì cha mẹsẽ không hưởng được sự ích lợi từ con cái. Và ngượclại, con cái có tâm bố thí thì sẽ đem lại an lạc cho chamẹ. Đó là lợi ích của bố thí.
Thứhai là ái ngữ.Ái ngữ là một điều hết sức cần thiết,nó cũng rất dễ làm mà cũng rất khó làm. Ái ngữ là nóidịu dàng, thân ái. Có người cho rằng: Lời nói dịu dàngcó chi đâu mà khó làm. Thế nhưng khó vô cùng, nếu khôngtu không thể nói ái ngữ được, như câu chuyện sau đây:
Ngàyxưa, một người chỉ nuôi sống gia đình với một con ngựađi chở thuê, nhờ nó mà hàng ngày gia đình có ăn có mặc.Ngày kia, người ta đem đồ đến thuê chở trễ quá, anh tanóng lòng chờ đợi đến chiều mới có đồ người ta thuêchở về. Sẵn bực tức trong lòng, nên vừa bỏ đồ lên xengựa, anh liền đánh con ngựa một cái và nói: Đồ nhãi ranh,đi, đi, đồ ăn hại, đồ chết bằm. "Nghe vậy, con ngựaì ra đó, không đi, đánh mấy cũng cứ ì ra đó. Anh đànhchịu và xuống xe. Một hồi sau, cơn nóng giận trôi qua, anhdịu dàng đến vuốt ve con ngựa, âu yếm nói với nó: "Thôigắng đi đi con, còn ít giờ nữa là về nhà, giúp ta chởvề nhà đi con". Con vật nghe vậy, nó nhẹ nhàng dùng sứckéo chiếc xe đi ngay. Con vật mà cũng biết được giá trịcủa ái ngữ huống chi là người ta. Do đó, đối với chamẹ, ta phải dùng ái ngữ, nếu không sẽ trở thành bất hiếu.
Thứba là lợi hành. Lợi hành là làm việc lợi ích. Khoan nóilợi ích cho xóm làng, cho xã hội mà nói lợi ích cho mình,cho gia đình mình. Có những người con coi việc gia đình mìnhnhư việc ai đâu, không liên quan đến mình, không thèm sờtay tới, thậm chí như bưng chén nước chén cơm cho cha giàmẹ yếu cũng không hề làm tới. Đó là những việc lợihành mà không làm, không làm như vậy thì cha mẹ làm sao hưởngđược sự hiếu kính của con!
Thứtư là đồng sự.Cùng làm chung với nhau, cùng làm lụngđồng sự với nhau, gây cảm tình thương yêu vui vẻ lẫnnhau, còn không thì không làm sao gây tình cảm hiếu kính vớicha mẹ được. Cho nên Phật dạy một cách thấm thía rằng:Người nào biết Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành và Đồng sựthì cha mẹ mới hưởng được sự hiếu kính của ngườicon.
Nhưvậy, báo hiếu cha mẹ bằng cách biết công ơn cha mẹ sâudày như non cao bể cả, mà tiền nhơn của chúng ta đã nhắctới:
"Côngcha như núi ngất trời,
Nghĩamẹ như nước ở ngoài biển đông,
Núicao biển rộng mênh mông,
Cùlao chín chữ ghi lòng con ơi".
Tiềnnhân chúng ta nói thiết tha lắm; cù lao chín chữ ghi lòng conơi, cốt ghi chín chữ cù lao là chúng ta có hiếu rồi. Nhưngbáo hiếu cha mẹ bằng hình thức chưa đủ mà còn phải báohiếu bằng tinh thần.
Trongkinh đức Phật dạy rằng: Cha mẹ chưa an trú trong Chánh Pháp,làm sao giúp đỡ, dắt dẫn cha mẹ an trú trong Chánh Pháp,cha mẹ chưa an trú trong điều Lành thì làm sao cho cha mẹ antrú trong điều Lành, cha mẹ chưa Quy y Tam Bảo thì nên đưacha mẹ an trú trong Quy y Tam Bảo. Như vậy, cha mẹ không nhữnghưởng được phúc lạc vật chất bên ngoài mà còn hưởngđược phúc lạc trong tâm hồn, giải thoát bớt phiền trược,xa lánh được thế gian chấp trước, vọng tưởng luân hồisanh tử, mà đức Phật đã nhắc nhở. Khi cha mẹ giải thoát,an vui thì sự báo hiếu của người con mới thành tựu. Nêncổ đức có câu: "Phụ mẫu đắc ly trần, hiếu đạo phươngthành tựu". (Cha mẹ được giải thoát, lìa khỏi trần aithì người con mới tròn hiếu đạo). Làngười Phật tử, hãy ghi nhớ lời Phật dạy như vậy đểhàng ngày tu niệm, hàng ngày hồi hướng công đức về chotiền nhân của mình, nhất là trong ngày lễ Vu Lan, thành tâmchí kính, niệm Phật, tụng Kinh, lạy Phật, cúng đường TamBảo, cúng dường chư Tăng Tự tứ, để cầu mong sự chúnguyện của Chư Tăng cho tiền vong của mình thoát khỏi u đồmà siêu sanh lạc quốc. Đó mới tạm gọi là con hiếu, làngười Phật tử thuần hành trong mùa báo hiếu.
HoàThượng Thích Thiện Siêu
I.Ý Nghĩa
Rằmtháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xátội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa:
Thứnhất, ngày Phật hoan hỷ. Ngày rằm tháng bảy gọi làngày đức Phật hoan hỷ, bởi lẽ trong thất chúng đệ tửcủa Phật, Chúng Tỷ-kheo là Chúng đệ tử gần gủi nhất,Chúng thừa đương Phật pháp để truyền bá giáo hóa cho chúngsinh, Chúng mang hình dáng của Phật làm gương mẫu ở thếgian, Chúng mà trong ba tháng an cư kiết hạ đã viên mãn vàkết thúc vào ngày rằm tháng bảy âm lịch. Thông thường,khi chư Tăng thọ giới pháp xong là tu niệm, nhưng vì Phậtsự đa đoan nên sự tu niệm ấy không được chuyên cần bằngba tháng an cư. Ba tháng an cư theo Luật Phật chế, Chúng Tỷ-kheophải cấm túc ở yên, hạn chế tối đa sự đi lại, mộtlà vì phong thổ Ấn Độ lúc bấy giời mùa hạ là mùa mưa,các loại côn trùng sinh sản ra nhiều, mà chúng Tăng đi khấtthực sẽ dẫm đạp lên nhiều loại côn trùng, làm tổn thươngđến lòng từ bi tế vật. Thứ hai là, chúng Tăng đi khấtthực thì y, áo, bình bát sẽ bị thấm ướt, mất trang nghiêm,nên thế gian có phần chê trách. Vì vậy, nên đức Phật dạyChúng Tỷ-kheo trong ba tháng mùa mưa phải cấm túc an cư, hạnchế việc đi ra ngoài để tập trung vào sự tu niệm, củngcố sự sống trong thanh tịnh hòa hợp, cảnh tỉnh thân tâmđể tinh tấn trong con đường đạo hạnh. Cho nên một khiđệ tử của Phật tu hành trong ba tháng viên mãn thanh tịnh,kết thúc ba tháng an cư, đức Phật vui mừng lắm. Mừng chođệ tử của mình đã hoàn thành ba tháng an cư thanh tịnh,cho nên gọi là ngày Phật vui mừng.
Thứhai, ngày Tăng Tự tứ. Ngày chúng Tăng sau ba tháng an cưtu tập nghĩ rằng: Tuy mình đã gắng tu như thế nhưng khôngchắc đã tránh hết lỗi lầm, nên ngày rằm tháng bảy cùngnhau tập trung lại, cầu mong những vị có giới đức thanhtịnh hơn mình chỉ lỗi lầm cho. Nếu mình tự thấy mắcphải lỗi lầm đó, phải phát lộ sám hối. Đó là một việchết sức đặc biệt trong ngày Tự tứ.
Thôngthường, mỗi khi có lỗi là tìm cách né tránh, tìm cách chedấu kẻo sợ người khác biết thì xấu hổ, hoặc sợ nếubiết lỗi của mình thì lần sau mình không làm lại đượcnữa, cho nên thường thường là che dấu, không bộc lộ, trừkhi có ai hỏi đến, kẹt lắm mới nói tới có phạm, có vấplỗi nọ lỗi kia. Hoặc giả, có phát lộ sám hối chăng thìcũng phát lộ âm thầm trước ngôi Tam Bảo, chớ ít khi côngkhai nhờ người chỉ lỗi cho mình ra giữa Đại chúng. Nhưngtheo đạo Phật, ba tháng hạ an cư xong rồi, đức Phật dạyhàng Tỷ-kheo phải cầu người khác chỉ lỗi cho mình, nghĩalà không phải để đợi người khác chỉ mà tự mình phảicầu người khác tự do chỉ cho, mình phải đối trước ngườiđó mà thưa: "Thưa Đại đức, ngày nay chúng Tăng Tự tứ,tôi cũng Tự tứ, tôi có điều gì sai phạm mà Đại đứcthấy, nghe hoặc nghi, xin Đại đức thương xót chỉ cho, nếutôi thấy có phạm thì xin như Pháp sám hối." Nói như vậyngầm ý rằng: Tôi không phàn nàn, không thắc mắc và tôikhông có oán trách chi Đại đức hết! Đó chính là ý nghĩamà mình phát tâm cầu mong được thanh tịnh, không có chútnào che dấu, thành tâm cầu người khác tự do nói không edè chi hết, nếu thấy có lỗi thì cứ chỉ cho. Đó là mộtthái độ rất cao thượng cởi mở để làm cho mình hết sạchtội lỗi. Vì vậy trong ngày đó gọi là ngày Tăng Tự tứ.Tự tứ nghĩa là cầu người khác không ngần ngại chỉ lỗimình ra, để cho mình biết mà sám hối, nên gọi là Tăng Tựtứ.
Thứba, ngày Tăng Thọ tuế. Thọ tuế là nhận tuổi. Theo thếgian, nếu cha mẹ sinh ra đủ năm 12 tháng thì mới gọi làtròn một tuổi. Nhưng trong Luật Phật chế, hàng xuất giathọ giới của đức Phật không tính tuổi theo năm tháng kiểuthế gian trên -- mà tính tuổi theo hạ lạp. Nghĩa là năm nàocó an cư kiết hạ được trọn vẹn thì được tính mộttuổi. Thí dụ: Vị nào an cư kiết hạ từ 15-4 âm lịch đến15-7 âm lịch là mãn hạ, như vậy được tính một năm hạ,tức một tuổi hạ. Ai đã thọ Cụ túc giới nhưng không ancư thì không tính tuổi hạ, còn ai kiết hạ an cư liên tụcthì được tính nhiều tuổi hạ.
Chonên chúng ta thường nghe ở các chùa khi đọc tiểu sử củamột vị Tăng nào viên tịch, thường nhắc đến tuổi đờivà hạ lạp. Thí dụ vị đó 80 tuổi đời và 60 hạ lạp,nghĩa là vị đó có tuổi cha mẹ sinh là 80 năm, còn tuổihạ là 60 hạ lạp. Hạ lạp được tính và ngày rằm Tựtứ, sau khi đã tu hành tròn ba tháng hạ. Tuy nhiên, cũng cótrường hợp, đúng theo Luật Phật chế, 20 tuổi thì đượcthọ giới Tỷ-kheo, nhưng vì thiếu duyên, có vị 25 tuổi mớithọ giới Tỷ-kheo và sau khi thọ giới mỗi năm đều có kiếthạ. Nếu vị ấy viên tịch vào tuổi 70, thì vị ấy được45 tuổi hạ và 70 tuổi đời. Nếu một vị Tỷ-kheo thọ giớirồi mà không an cư lần nào cả thì coi như vị ấy hoàn toànkhông có tuổi hạ, khác với cha mẹ sinh ta ra, dù ta có làmhay không làm gì đi nữa hoặc giả có ngủ cả năm đi nữathì tròn một năm cũng vẫn được tính tuổi từng năm một.Trái lại, vị Tỷ-kheo thì phải có kiết giới an cư thì mớinhận tuổi, còn không an cư, thì không tính hạ lạp cũng gọilà giới lạp, pháp lạp. Đó là ý nghĩa của ngày Phật hoanhỷ, Tăng Tự tứ và Tăng Thọ tuế.
Thứtư, ngày Vu Lan xá tội vong nhân. Vu Lan là ngày cầu siêuđộ cho tiền nhân quá cố của người con Phật. Tích Vu Lanbắt nguồn từ việc báo hiếu của Tôn giả Mục-kiền-liên.Tích này được chép trong kinh Vu-lan-bồn. Chữ Vu-lan-bồn phiênâm từ chữ Sanskrit (Phạn) là Ulambana. Người Trung Hoa dịchnghĩa là Giải đảo huyền (Giải cái tội bị treo ngược).Câu chuyện trên ý nói rằng, những người nào tạo tội ácthì phải thọ quả báo nơi địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh,chịu sự hành hạ thống khổ cùng cực giống như ngườibị treo ngược. Nghĩ đến công ơn cha mẹ, khi ngày Vu Lan đến,Phật tử thường đem tâm chí thành, chí hiếu sắm sửa vậtdụng cúng đường Tam Bảo để cầu nguyện cho thân nhân,tiền vong của mình thoát khỏi cảnh khổ đau cùng cực y nhưgiải tội bị treo ngược.
Nhưvậy, ngày Vu Lan là ngày của Phật tử đền ơn đáp nghĩabằng cách đến chùa cầu thỉnh chư Tăng sau ba tháng ăn cưthanh tịnh, chú nguyện cho vong nhân của mình thoát khỏi cảnhđọa đày tăm tối của địa ngục, ngạ quỉ và súc sinh,đồng thời cầu nguyện cho tất cả người khác cũng thoátkhỏi tội khổ đau cùng cực như Tôn giả Mục-kiền-liênđã làm khi cứu mẹ.
II.Tích Mục Kiền Liên Cứu Mẹ
Tôngiả Mục-kiền-liên là vị đệ tử xuất chúng của đứcPhật. Tôn giả đã chứng được Lục thông:
1. Thiênnhãn thông: Được con mắt như mắt trời, thấy khắp tấtcả. 2. Thiênnhĩ thông: Được lỗ tai như tai trời, nghe thấy khắp tấtcả. 3. Thatâm thông: Với tâm của mình biết được tâm của ngườikhác muốn gì, ưa gì. 4. Túcmạng thông: Là biết đời trước của mình ... 5. Thầntúc thông: Được thần thông đi dưới đất hay bay trên khôngđều tự tại vô ngại. Cũng gọi là Thần cảnh thông. 6. Lậutận thông: Dứt trừ mọi lậu hoặc, vượt thoát ra khỏivòng sanh tử. Ngoàira Tôn giả còn chứng được tuệ nhãn (trong ngũ nhãn là nhụcnhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhã và Phật nhãn) tức làcon mắt, thấy được sự vật và tự tính của nó. Chúngsinh chỉ có con mắt thịt, chỉ thấy những cái trước mắt,vừa tầm, còn những cái xa quá, nhỏ quá, lớn quá không thấyđược. Khi Tôn giả chứng được lục thông và tuệ nhãnliền nhớ đến cha mẹ mình, Tôn giả dùng tuệ nhãn nhìnkhắp bốn phương, xem vong mẫu của mình hiện đang ở đâu?Khi thấy vong mẫu của mình đang ở trong loài ngạ quỷ hếtsức đau khổ và đói khát, Tôn giả buồn bã vô cùng. Tôngiả liền bưng bát cơm đến dâng mẹ, nhưng mẹ Tôn giảvì tâm xan lẫn từ kiếp trước quá nặng nề khởi lên, sợngười khác trông thấy mà đến giành giựt hoặc xin bớt,cho nên bà một tay che bát cơm lại, một tay bốc ăn.
Nhưngcơm chưa tới miệng đã hóa thành than lửa không thể nàoăn được. Tôn giả thấy vậy, vô cùng đau xót, không biếtlàm sao cứu vớt mẹ được, bèn về bạch với đức Phật.Ngài dạy: Tội lỗi của mẹ ngươi, dù có thần thông phéplạ của hàng thiên thần địa kỳ cũng không cứu đượcđâu! Duy chỉ có dùng thần lực của chúng Tăng sau ba thángan cư, tinh tấn tu hành thanh tịnh tập trung chú nguyện cho,may ra mới chuyển hóa được nghiệp lực của mẹ ngươi,thì mẹ ngươi mới được thoát khổ cảnh mà thôi.
Nghevậy, Tôn giả Mục-kiền-liên thưa với đức Phật: BạchThế Tôn, con nay làm sao mà mời chư Tăng mười phương cúngdường một lúc như vậy được? Đức Phật dạy rằng: Trongngày Vu Lan là ngày Tự tứ của chư Tăng, ông nên sắm cácthứ cúng dường chư Tăng trong ngày Tự tứ, ngày đó dầucác vị trong thiền định, hay thọ hạ kinh hành, hay hóa độnhơn gian, cũng tập trung lại để Tự tứ và cầu nguyệncho mẹ ngươi, thì mẹ ngươi sẽ được thoát khổ, rồi Tôngiả thực hành theo lời dạy của đức Phật và chính trongngày đó, mẹ Tôn giả thoát được cảnh ngạ quỷ mà hưởngphước báu chư Thiên.
Dovậy, Tôn giả hết sức vui mừng và thưa với đức Thế Tôn,nếu sau này có chúng sanh nào muốn phát tâm hiếu để màcầu nguyện cho cha mẹ thoát khổ được vui thì có làm nhưcon được không? Đức Phật dạy là có thể làm được trongngày Tự tứ. Do đó, mà trong Phật giáo truyền lại một Phápcứu độ cho tiền nhân trong ngày Tăng Tự tứ.
Tôngiả Mục-kiền-liên làm như vậy đã nêu một tấm gươngchí hiếu lớn lao cho tất cả Phật tử noi theo muôn đời.Tôn giả không những có hiếu trong đời Phật hiện tại màTiền thân Ngài cũng đã là một người con chí hiếu. Trongmột Tiền kiếp, Tôn giả sinh trong một gia đình nông dân.Cha mẹ chỉ có Tôn giả là con trai độc nhất, nên vô cùngthương yêu chiều chuộng, và Tôn giả cũng thương yêu chamẹ không kém. Tôn giả biết cha mẹ chỉ sinh có một mìnhNgài là con duy nhất, Tôn giả nghĩ đến ngày cha mẹ tuổigià, không biết trông cậy vào ai, nên Tôn giả nguyện ởđộc thân suốt đời để phụng thờ cha mẹ, chứ không muốnlập gia đình. Nhưng trong khi đó cha mẹ lại vì thương conkhông muốn con ở như vậy, sợ con cô độc, sau này khôngcó ai giúp đỡ lúc trở về già, nên luôn luôn ép con lậpgia đình. Trước sự thúc ép ấy, Tôn giả đành chiều ýcha mẹ.
Khôngmay khi lập gia đình, Tôn giả gặp một người vợ không tâmđầu ý hiệp, nàng ta không phải là mẫu người phụ nữthuần lương. Lúc mới cưới nàng về, Tôn giả dạy vẽ chovợ thay mình hầu hạ cha mẹ hôm sớm, cơm nước dâng lêncha mẹ đầy đủ như khi Tôn giả vẫn thường làm. Lúc đầungười vợ ngoan ngoãn tuân theo, nhưng một thời gian sau nàngtỏ ra lạnh nhạt và thờ ơ với cha mẹ chồng. Vì lẽ, thóithường con trong ruột sinh ra đôi khi còn chưa thương cha mẹruột một cách hết lòng huống gì là con dâu, làm sao thươngông bà gia như thương cha mẹ ruột! Ngài vì sinh kế phảiđi làm ăn, nàng ở nhà càng tỏ ra chểnh mảng trong việchầu hạ cha mẹ chồng. Khi đã chểnh mảng, muốn từ bỏthì phải tìm kế, lập mưu. Một hôm, Tôn giả đi làm vềthấy nước đổ lênh láng giữa nhà và hỏi nước đâu vậy?Người vợ bèn chỉ vào ông già mà nói rằng: Ông chướngquá, tôi bưng nước lên dâng ông, ông vung văng, chê nướcnóng nước lạnh không chịu uống rồi vung tay đổ cả ragiữa nhà như vậy đó, tôi chịu hết nổi!
Rồimột bữa khác, Tôn giả đi làm về thấy cơm vãi ra giữanhà và hỏi: Cơm đâu vung vãi ra đầy nhà như vậy? Ngườivợ liền chỉ vào bà già trả lời, bà đó, bà chướng quá,tôi nấu cơm để cho nguội, xới dâng lên cho bà, nhưng bàchê cơm trưa cơm sớm rồi vung vãi ra cùng nhà như vậy đó,tôi chịu hết nổi! Cứ một điệp khúc ấy bà vợ tỉ têmãi, riết rồi chồng cũng phải xiêu lòng nghe theo. Tôn giảnghĩ rằng như thế thì cha mẹ mình quá chướng nên nói vớivợ: "Thôi được, ta sẽ có cách"!
Hômsau, Tôn giả thuê một chiếc xe ngựa, nói dối với cha mẹrằng, mấy lâu nay cha mẹ không về thăm Từ đường bên ngoại,nay mời cha mẹ về thăm một chuyến, để sau này già yếucó nhắm mắt cũng khỏi ân hận. Cha mẹ nghe có lý nên đồngý đi. Tôn giả cầm dây cương cho xe ngựa lên đường, khiđi đến một đoạn vắng, đường gồ ghề, Tôn giả nhảyxuống ngựa và nói dối với cha mẹ hãy cầm cương hờ đểcon đi sau bảo vệ kẻo chỗ này cướp bóc nhiều lắm. Nhưngthật ra, Tôn giả chẳng bảo vệ gì, mà cốt ý lấy roi quấtvào cha mẹ mà nói: "Đã chừa chưa? hết chướng chưa? hếtchướng chưa?" Dẫu bị đánh như vậy, nhưng cha mẹ khôngnghĩ là mình bị đánh mà lại chỉ nghĩ đến con, mà la lên:"Con ơi, lo chạy đi kẻo nó đánh chết, lo chạy đi con ơi!"Chính trong khi bị đánh mà cha mẹ không nghĩ đến mình đaulại cứ nghĩ con bị đánh chết mà la lên, nên hai chữ conơi, khi ấy nó đã đánh thức Tôn giả. Khiến Tôn giả nghehai tiếng đó nó thiêng liêng, mặn nồng, tha thiết trìu mếnvà thắm thiết một cách lạ kỳ. Tôn giả sực tỉnh ra làmình bất hiếu quá sức! Cha mẹ thương mình như vậy mà mìnhlại bất nhân, thiếu đức, nên Tôn giả liền hồi tâm vàvội vã cho xe quay về và sám hối cha mẹ. Khi về tới nhàTôn giả quyết định cho vợ về quê của nàng và nguyệnsống ở độc thân như vậy suốt đời với cha mẹ. Đó làmột tiền kiếp của Tôn giả.
Cònkiếp hiện tại, Tôn giả có tên là Mục-kiền-liên, mộtngười con chí hiếu, muốn thực hiện sự báo hiếu cho chamẹ mà lúc ở nhà chưa thực hiện được. Nên trong đờisống xuất gia, Tôn giả quyết tâm thực hiện để đưa chamẹ mình đến cảnh an vui.
Câuchuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứ và hiệntại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những ngườicon còn biết có mẹ có cha. Phần nhiều ai cũng có lòng hiếuvới cha mẹ, nhưng vì không được un đúc, nhắc nhở, khônggặp thầy hay bạn tốt nên có khi tâm bị lung lay trở thànhbất hiếu. Có trường hợp bất hiếu vì nghe theo bạn ác,có khi nghe theo danh lợi, quyền thế, nghe theo cờ bạc, rượuchè, hoặc có khi làm nên ông này bà nọ rồi lên mặt vớicha mẹ, anh em, coi thường bà con cô bác, láng giềng mà trởthành bất hiếu. Chẳng hạn có một anh nọ gặp may trở thànhmột quan chức lớn. Lúc đó chưa có xe đưa rước, về nhàcha mẹ nói đâu dạ đó. Nhưng khi làm một chức quan to rồithì không thèm dạ như xưa nữa sợ mất thể diện ông quan.Như vậy là vì nghe theo quyền thế mà trở nên bất hiếu.
Lạicó người mù quáng học đòi theo thói văn minh vật chất tựdo ích kỷ, mà không biết đến văn minh đạo đức hiếu đểcho nên trở thành bất hiếu.
Nhưvậy, sự tích của Tôn giả Mục-kiền-liên là một gươngquí nhắc nhở chúng ta vun bồi lòng hiếu thảo của mình,đừng để lòng hiếu thảo bị các thứ khác làm vẩn đục,làm cho mù quáng, mà đánh mất đi. Trong kiếp quá khứ, Tôngiả Mục-kiền-liên thiếu cảnh tỉnh nên trở thành bấthiếu chỉ vì nghe theo lời vợ. Trong xã hội xưa cũng nhưnay, có những người con rất có hiếu với cha mẹ, nhưng khichung đụng với xã hội, gặp hoàn cảnh không tốt, ít thâncận bạn hiền, bị tác động bởi sự xấu xa nên khi trởvề nhà, cha mẹ nói không nghe, anh chị khuyên bảo không chịu,lại còn cãi lại, cha không hiểu chi, mẹ không biết chi, cònmình đây mới hiểu, mới sáng suốt, mới có học. Đó làmột thái độ thiếu cảnh tỉnh nên bất hiếu.
Dođó, cho nên ai có gần gũi bạn lành, lo tinh tấn tu niệm thìmới trở thành nhũng người con có hiếu. Trong Kinh TrườngA-hàm, đức Phật có chỉ cho chúng ta cách báo hiếu tốt nhấtlà: Nếu gia đình nào có những người con mà biết Bố thí,biết Ái ngữ, biết Lợi hành và biết Đồng sự thì cha mẹmới nhận được sự hiếu kính của con. Nếu người con nàokhông biết Bố thí, không biết Ái ngữ, không biết Lợi hànhvà không biết Đồng sự thì cha mẹ không hưởng được sựhiếu kính của con.
Thứnhất là bố thí. Kinh A-hàm dạy người hiếu kính cha mẹlà người biết tu hạnh Bố thí. Người biết bố thí thìluôn luôn đem tâm hoan hỷ bố thí cho mọi người, dù chỉlà một nụ cười, một cử chỉ cung kính. Nụ cười ấy,cử chỉ cung kính ấy, sự dịu dàng ấy, cách ăn nói ôn hòaấy là của mình, nhưng nếu mình không làm, không thể hiệnlà không có bố thí. Khi mình làm và thể hiện thì sẽ đeman vui đến cho mọi người, chứ không nhất thiết phải hạncuộc ở bố thí tiền bạc. Đôi lúc một nụ cười khiếncho người ta tiêu tan đau khổ, trong khi mình đem một túi tiềncho họ chưa chắc họ đã hết đau khổ. Như vậy, ngườicon biết bố thí thì cha mẹ mới hưởng được sự hiếukính của con, còn nếu con chỉ biết quí tiền của, xan tham,chỉ muốn bòn rút của cha mẹ, thì chắc chắn cha mẹ khônghưởng được sự hiếu kính của con.
Đãcó trường hợp như sau. Một bà mẹ thiếu thốn, già yếu,người con không thèm hỏi tới. Khi mẹ đau ốm mặc kệ, ănngủ không được cũng chả hề quan tâm. Người mẹ buồnchán đi ở với bà con hàng xóm. Hàng ngày, bà đi bán nướcchè và đi mót lúa giành dụm mua được tấm vé số, khi dòmay sao bà trúng. Khi nghe mẹ trúng số thì người con lật đậttới nói với mẹ: "Thôi mẹ về ở với con cho vui, con ởxa nhớ mẹ, đêm hôm đau ốm không ai lo cho mẹ!" Như vậyngười con khi thấy mẹ thiếu thốn không có thì hất hủi,khi thấy mẹ có rồi thì hỷ hả, vì sao? Vì người con thiếutu, xem của cải, miếng ăn nặng hơn ơn sinh thành dưỡng dụccủa cha mẹ. Cho nên trong một gia đình, nếu vì tâm bỏn xẻn,anh em giành nhau, nghi nhau, không có tâm bố thí thì cha mẹsẽ không hưởng được sự ích lợi từ con cái. Và ngượclại, con cái có tâm bố thí thì sẽ đem lại an lạc cho chamẹ. Đó là lợi ích của bố thí.
Thứhai là ái ngữ.Ái ngữ là một điều hết sức cần thiết,nó cũng rất dễ làm mà cũng rất khó làm. Ái ngữ là nóidịu dàng, thân ái. Có người cho rằng: Lời nói dịu dàngcó chi đâu mà khó làm. Thế nhưng khó vô cùng, nếu khôngtu không thể nói ái ngữ được, như câu chuyện sau đây:
Ngàyxưa, một người chỉ nuôi sống gia đình với một con ngựađi chở thuê, nhờ nó mà hàng ngày gia đình có ăn có mặc.Ngày kia, người ta đem đồ đến thuê chở trễ quá, anh tanóng lòng chờ đợi đến chiều mới có đồ người ta thuêchở về. Sẵn bực tức trong lòng, nên vừa bỏ đồ lên xengựa, anh liền đánh con ngựa một cái và nói: Đồ nhãi ranh,đi, đi, đồ ăn hại, đồ chết bằm. "Nghe vậy, con ngựaì ra đó, không đi, đánh mấy cũng cứ ì ra đó. Anh đànhchịu và xuống xe. Một hồi sau, cơn nóng giận trôi qua, anhdịu dàng đến vuốt ve con ngựa, âu yếm nói với nó: "Thôigắng đi đi con, còn ít giờ nữa là về nhà, giúp ta chởvề nhà đi con". Con vật nghe vậy, nó nhẹ nhàng dùng sứckéo chiếc xe đi ngay. Con vật mà cũng biết được giá trịcủa ái ngữ huống chi là người ta. Do đó, đối với chamẹ, ta phải dùng ái ngữ, nếu không sẽ trở thành bất hiếu.
Thứba là lợi hành. Lợi hành là làm việc lợi ích. Khoan nóilợi ích cho xóm làng, cho xã hội mà nói lợi ích cho mình,cho gia đình mình. Có những người con coi việc gia đình mìnhnhư việc ai đâu, không liên quan đến mình, không thèm sờtay tới, thậm chí như bưng chén nước chén cơm cho cha giàmẹ yếu cũng không hề làm tới. Đó là những việc lợihành mà không làm, không làm như vậy thì cha mẹ làm sao hưởngđược sự hiếu kính của con!
Thứtư là đồng sự.Cùng làm chung với nhau, cùng làm lụngđồng sự với nhau, gây cảm tình thương yêu vui vẻ lẫnnhau, còn không thì không làm sao gây tình cảm hiếu kính vớicha mẹ được. Cho nên Phật dạy một cách thấm thía rằng:Người nào biết Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành và Đồng sựthì cha mẹ mới hưởng được sự hiếu kính của ngườicon.
Nhưvậy, báo hiếu cha mẹ bằng cách biết công ơn cha mẹ sâudày như non cao bể cả, mà tiền nhơn của chúng ta đã nhắctới:
"Côngcha như núi ngất trời,
Nghĩamẹ như nước ở ngoài biển đông,
Núicao biển rộng mênh mông,
Cùlao chín chữ ghi lòng con ơi".
Tiềnnhân chúng ta nói thiết tha lắm; cù lao chín chữ ghi lòng conơi, cốt ghi chín chữ cù lao là chúng ta có hiếu rồi. Nhưngbáo hiếu cha mẹ bằng hình thức chưa đủ mà còn phải báohiếu bằng tinh thần.
Trongkinh đức Phật dạy rằng: Cha mẹ chưa an trú trong Chánh Pháp,làm sao giúp đỡ, dắt dẫn cha mẹ an trú trong Chánh Pháp,cha mẹ chưa an trú trong điều Lành thì làm sao cho cha mẹ antrú trong điều Lành, cha mẹ chưa Quy y Tam Bảo thì nên đưacha mẹ an trú trong Quy y Tam Bảo. Như vậy, cha mẹ không nhữnghưởng được phúc lạc vật chất bên ngoài mà còn hưởngđược phúc lạc trong tâm hồn, giải thoát bớt phiền trược,xa lánh được thế gian chấp trước, vọng tưởng luân hồisanh tử, mà đức Phật đã nhắc nhở. Khi cha mẹ giải thoát,an vui thì sự báo hiếu của người con mới thành tựu. Nêncổ đức có câu: "Phụ mẫu đắc ly trần, hiếu đạo phươngthành tựu". (Cha mẹ được giải thoát, lìa khỏi trần aithì người con mới tròn hiếu đạo). Làngười Phật tử, hãy ghi nhớ lời Phật dạy như vậy đểhàng ngày tu niệm, hàng ngày hồi hướng công đức về chotiền nhân của mình, nhất là trong ngày lễ Vu Lan, thành tâmchí kính, niệm Phật, tụng Kinh, lạy Phật, cúng đường TamBảo, cúng dường chư Tăng Tự tứ, để cầu mong sự chúnguyện của Chư Tăng cho tiền vong của mình thoát khỏi u đồmà siêu sanh lạc quốc. Đó mới tạm gọi là con hiếu, làngười Phật tử thuần hành trong mùa báo hiếu.
THICH TÂM MÃN * LIÊN HOA ĐĂNG
"Phóng Liên Đăng" Trong Đại Lễ Vu Lan Phật Giáo Bắc Truyền
Đăng lúc: Thứ tư - 19/08/2015 22:13 -
Mỗi năm đến tháng bảy mưa ngâu lất phất, tiết trời u trầm, cảm như thấy như có chút gì đó buồn thương, bao nhiêu nhớ thương về những người thân đã khuất, gợi đến cho tất cả mọi người nổi niềm vương vấn xa xưa, rồi nhớ thương quay về theo cảm niệm tri ân và báo ân tha thiết, tạo nên không khí của một mùa đại lễ “Báo Hiếu Vu Lan” đầy triết lý hiếu đạo và tình người. Có câu ca dao mà hầu như đã là người Việt Nam thì ai cũng phải biết và ý thức được mình nên làm gì, đó là: “Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân”.
Một năm Phật Giáo có hai lễ hội thắp nến đó là Pháp Hội Dược Sư thắp đèn Diên mạng cầu an đầu năm, trong dân gian có Tiết Thượng Nguyên có hội đèn lồng tết Nguyên Tiêu. đến tháng bảy pháp hội Vu Lan Bồn, thả đèn hoa sen để cầu nguyện cho chư hương linh siêu sanh cực lạc, trong dân gian gọi là Tiết Trung Nguyên, Quỷ tiết Phóng Hà Đăng siêu độ âm hồn.
Đốt đèn thả xuống sông cầu nguyện là tập tục lâu đời có nguồn gốc từ Ấn Độ, những tín đồ của Đạo Bà La Môn, họ đốt đèn thả xuống sông Hằng và các ao hồ linh thiêng, để cầu nguyện Thần Linh phù hộ, Phật Giáo tiếp nhận tập tục này đưa vào trong nghi thức cầu siêu “Vu Lan Bồn” và nghi thức này được các vị truyền giáo đại sư đem truyền vào Đông Độ.
Tính chất đạo đức và nhân văn của nghi thức này phù hợp với quan niệm đạo đức của người Đông Độ, nên rất nhanh chóng được chấp nhận và dần dần trở thành một nghi tiết quan trọng luôn được thực hiện trong lễ hội “Tiết Trung Nguyên Phổ Độ” đại lễ Vu Lan Báo Hiếu Phật Giáo Bắc Truyền, trong sách Đế Kinh Tế Thời Kỷ Thắng, phần Trung Nguyên chép: “Mỗi năm đến tiết trung nguyên khởi kiến Đạo Tràng Vu Lan Bồn, từ ngày 13 cho đến ngày 15 đều làm lễ đốt đèn thả xuống sông…”.
Trong sách Đài Loan Đại Bách Khoa Toàn Thư chép: “Rằm tháng bảy âm lịch, tín đồ Phật Giáo cử hành nghi thức khánh chúc Pháp hội Vu Lan Bồn, đồng thời đây cũng là lễ tiết trung nguyên của người Đông Độ cúng tế tổ tiên. Pháp Hội Vu Lan Bồn là kỷ niệm ngày Mục Kiền Liên Tôn Giả cứu mẹ, đây cũng là ngày hội hoằng dương Đạo Hiếu, và khuyến tấn Phật tử học tập theo hạnh hiếu của Tôn Giả Mục Liên. Pháp hội này được dân gian cử hành rất trọng thể và nhiều tiết mục, như làm Thuyền Pháp, đốt Liên Hoa Đăng, phóng Hà Đăng, cúng bái Tổ tiên .v.v...”.
Trong Hô Lan Hà Truyện có chép về ý nghĩa của nghi thức thả đèn liên hoa cầu nguyện trong lễ Vu Lan như: “ngày rằm tháng bảy là ngày hội của các vong hồn, các oan hồn chết oan uổng, hay nghiệp báo nặng nề phải thọ khổ ở địa ngục, không thể siêu thoát được, trong cảnh giới địa ngục âm u đen tối, không tìm được đường ra, nếu muốn siêu thoát cần phải có ánh sáng trí tuệ để dẫn đường. Đến ngày rằm tháng bảy, lễ hội Vu Lan, các vong linh nhờ các ngọn đèn liên hoa dẫn đường, nương theo ánh sánh của Phật mà vãng sanh Tịnh độ.”.
Đèn Hoa Sen là vật cúng dường quan trọng trong đại lễ này, vì hoa đăng tượng trưng cho trí huệ, diệt trừ u ám, lấy đèn trí tuệ để chiếu sáng chính mình cũng như mọi người, và đem ánh sáng trí tuệ của Phật soi sáng cỏi u minh độ cho các âm linh siêu sanh về cỏi Tịnh độ. Trong Thiên Giám Luận Đàn chép: “Đốt sáng đèn liên hoa thả xuống nước, để chiếu sáng cỏi u minh, siêu độ các vong hồn ngạ quỷ.”
Đèn để phóng đăng thường làm theo hình dáng hoa sen nên có tên Liên Hoa Đăng, đây là một kiểu dáng đèn của Phật Giáo khác với kiểu đốt nến thả trôi sông của Bà La Môn Giáo, vì Phật Giáo quan niệm “Diệu Pháp Liên Hoa” hoa sen có 4 đức: 1. Hương thơm, 2. Thanh tịnh không ô nhiễm, 3. Nhu nhã hòa hợp, 4. Khả ái trang nghiêm; vì hoa sen mang đầy đủ tính chất tượng trưng của Đạo Phật nên dùng hình dáng này làm hoa đăng.
Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương Phật dạy: “Ta là Sa Môn, ở trong đời uế trược, nên phải như hoa sen, không bị ô nhiễm...”, thứ nữa hoa sen là loại hoa thể hiện đức tính đại từ đại bi của Quán Thế Âm Bồ Tát, Ngài thường được xưng tán là “Liên Hoa Vương”, cho nên dùng loại hoa này làm hình dáng của đèn, để thể hiện tinh thần cứu khổ độ sanh của Đạo Phật.
Trong kệ Hồi Hướng có câu: “Nguyện sanh về trong cỏi Tịnh Độ ở Tây Phương, chín phẩm sen vàng là cha mẹ, hoa nở thấy Phật ngộ được pháp vô sanh, kết bạn cùng với chư vị Bồ Tát bất thối chuyển.”, và đây cũng là tâm nguyện ý nghĩa chính của nghi thức phóng liên hoa đăng, cầu nguyện cho người đã khuất, nương theo hoa sen thanh tịnh thác sanh về cảnh giới của Đức Phật A Di Đà, nên lấy hình dáng hoa sen làm đèn là cụ túc ý nghĩa nhất.
Nghi thức Phóng Liên Đăng được truyền vào Đông Độ rất sớm và người khởi xướng hoằng dương nghi thức này là Vua Lương Võ Đế thời Nam Triều của Trung Quốc, trong sách Đế Vương Dữ Phật Giáo chép: “Đời Nhà Lương niên hiệu Đại Đồng thứ 4 (538), Vua Lương Võ Đế đến chùa Đồng Thái, thiết lễ Vu Lan Bồn Trai, cúng dường trai tăng, siêu độ vong linh, trong lễ Vu Lan này, lần đầu tiên có tổ chức lễ thả đèn hoa sen xuống phóng sanh trì, để cầu siêu độ cho các vong linh...”, ban đầu nghi thức này chỉ do chư Tăng trong pháp hội đem đèn thả xuống ao phóng sanh trong chùa, dần dần được truyền ra dân gian phát triển thành lễ hội phóng đăng xuống các sông hồ ở các địa phương, từ đó nghi thức này được lưu hành trong Phật Giáo cũng như dân gian.
Đến thời nhà Đường thì nghi thức Phóng Đăng trong Phật Giáo đạt đến cực thạnh, truyền đi khắp các nước có Phật Giáo Bắc Truyền. Trong sách Đế Kinh Cảnh Vật Lược chép: “Ngày 15 tháng 7, các chùa đều mở hội Vu Lan Bồn, buổi tối đều có đốt đèn thả xuống sông, nghi thức này được gọi là Phóng Hà Đăng…”. Đến đời Tống thì triều đình quy định trong tiết Trung Nguyên tất cả các nơi đều phải làm lễ đốt đèn liên hoa thả xuống sông, tế độ cô hồn, chân tế bạc độ chư âm linh, diễn kịch Mục Liên cứu mẹ.v.v…
Ở Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng, thả đèn hoa sen xuống sông hồ để cầu siêu cho người đã khuất, đây là một nghi thức truyền thống có nguồn cội từ Phật Giáo được truyền vào Việt Nam từ rất sớm theo truyền thuyết cho rằng do các vị Phạm Tăng truyền đến Việt Nam.
Phong tục đốt đèn quang minh, thả đèn bay lên trên trời, hay đem đèn thả xuống sông hồ để cầu bình an hay cầu nguyện cho người đã khuất trong những nghi thức Đại Lễ của Phật Giáo, nghi thức giàu tính nhân văn này khi được truyền vào Việt Nam nhanh chóng được Dân tộc Việt chấp nhận và dần trở thành nếp văn hóa truyền thống mang tính đạo đức dân tộc của người Việt Nam, được lưu truyền rất là rộng rãi và những phong tục ấy vẫn còn được truyền lại cho đến ngày nay.
Thời Lý Trần có hội đèn Quảng Chiếu cầu quốc thái dân an vào đầu năm luôn được triều đình đứng ra tổ chức. Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư cũng có ghi vào năm Canh Tý (1120): “Mùa Xuân, tháng Hai, mở hội đèn Quảng Chiếu” và vào năm Bính Ngọ (1126) “Mùa Xuân tháng Giêng, mở hội đèn Quảng Chiếu bảy ngày đêm. Tha người có tội ở phủ Đô Hộ, xuống chiếu cho sứ thần của Chiêm Thành xem”.
Trong sách Đại Việt Sử Lược ghi vào năm Canh Dần (1110): “Mùa Xuân tháng Giêng, tổ chức hội đèn Quảng Chiếu ở ngoài cửa Đại Hưng” và trong văn bia Sùng Thiện Diên Linh cũng có mô tả khá chi tiết về lễ kỳ an - hội đèn Quảng Chiếu.v.v... qua đó cho ta thấy phong tục đốt đèn trong các dịp đại lễ đã trở thành nếp văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Việt Nam còn có các điệu múa về hoa đăng như múa “Bài Bông” múa “Lục Cúng Hoa Đăng”.v.v...qua đó cho ta thấy tục đốt đèn cúng dường hay để cầu nguyện của Phật Giáo đã đi sâu vào truyền thống Văn hóa nghi thức Phật Giáo Việt Nam và văn hóa truyền thống Dân Tộc Việt Nam.
Những năm gần đây nghi thức phóng đăng được phục hồi và được tổ chức quy mô vô cùng hoành tráng trong các dịp Đại lễ như Đại Lễ Phật Đản, Đại Lễ Vu Lan và trong các Đại lễ kỳ siêu trong cả nước, “Uống nước nhớ nguồn” thắp nến tri ân, thả hoa đăng cầu nguyện cho chư anh linh siêu thoát là một trong những nếp văn hóa vô cùng đẹp của Dân Tộc Việt Nam, đồng thời thể hiện sự tiếp nối nếp đẹp đạo đức gia phong của Dân Tộc Việt Nam ngàn đời và mãi mãi.
Niêm Hương
\
Đăng Bảo Tọa
Monday, August 24, 2015
PHẠM VĂN KHẢM * ĐẠI LỄ TRUNG NGUƠN
Rằm tháng 7 Âm Lịch, ngày Đại Lễ Trung Nguơn, ngày xá tội vong nhân,ngày Vu Lan báo hiếu và là ngày đặc biệt mà Đức Chí Tôn dành riêng cho việc cầunguyện các đẳng linh hồn chưa được cứu rỗi, sớm được cứu rỗi. Đồng thời cũng làngày cầu nguyện cho cha mẹ hiện tiền an bình với trăm năm tuổi hạc. Nếu cha mẹqua đời thì cầu xin cha mẹ và Cửu Huyền Thất Tổ sớm siêu thăng trên cõi ThiêngLiêng Hằng Sống.Với ngày lễ trọng đại nầy, đã khơi dậy lòng hiếu thảo trong mỗi người. Đó làđạo Hiếu, đạo của tất cả mọi người, không phân biệt màu da, sắc tóc, không dànhriêng cho bất cứ tôn giáo nào. Nó trường tồn mãi với thời gian và không gian. Nóđã chiếm lĩnh một phần hết sức quan trọng trong đời sống của con người. Trên cõitrần nầy, không có một thứ tình nào cao cả bằng tình Mẹ Con; không có mối liênhệ thân thiết nào ràng buộc chặt chẽ giữa hai người ngoài Cha và Con.Cha sinh, Mẹ dưỡng và dạy dỗ cho con nên người.
Công ấy không thể lấychi sánh được. Tuy nhiên ca dao Việt Nam cũng tạm so sánh :Công Cha như núi Thái Sơn,Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Từ công lao trời biển ấy, ca dao Việt Nam ngỏ lời khuyên nhủ, phận làm connên hết sức giữ gìn đạo Hiếu:Một lòng thờ Mẹ kính Cha,Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con.Bình thường trong dân gian đạo Hiếu được đề cao như thế, còn so với tôngiáo thì Đạo Hiếu càng được tôn sùng một cách đặc biệt hơn. Thật vậy:Với Nho giáo, Đạo Hiếu được xếp hàng đầu trong cuộc sống:
Công ấy không thể lấychi sánh được. Tuy nhiên ca dao Việt Nam cũng tạm so sánh :Công Cha như núi Thái Sơn,Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Từ công lao trời biển ấy, ca dao Việt Nam ngỏ lời khuyên nhủ, phận làm connên hết sức giữ gìn đạo Hiếu:Một lòng thờ Mẹ kính Cha,Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con.Bình thường trong dân gian đạo Hiếu được đề cao như thế, còn so với tôngiáo thì Đạo Hiếu càng được tôn sùng một cách đặc biệt hơn. Thật vậy:Với Nho giáo, Đạo Hiếu được xếp hàng đầu trong cuộc sống:
Thiên Địa tứ thời, Xuân tại thủ,Nhơn sanh bách hạnh, Hiếu vi tiên.Nghĩa là: Trời đất có bốn mùa, mùa Xuân đứng đầu. Con người có trăm hạnh, Hiếuhạnh là trên hết. Tại sao Hiếu Hạnh phải đứng trên hết ? Vì Hiếu là nguồn gốc của sự thươngyêu, thương yêu Cha Mẹ, thương anh chị em, thương họ hàng nội ngoại, thươngxóm làng, thương đồng bào…thương cả nhơn loại. Có thể nói: Từ Hiếu Hạnh sinhlòng Nhân, từ lòng Nhân sẽ dẫn tới lòng Bác Ái…
Thế nên có hiếu là có tất cả vàbất hiếu là mất tất cả : Mất Nhân, mất Nghĩa, mất lòng Từ Bi, Bác ái…và mất luônnhân phẩm con người nữa.Bởi vậy, Nho giáo còn dạy: Gốc của đạo Nhân là Ái và Kính mà Ái và Kính và Kínhlà cái nền của Hiếu, nên Nhân và Hiếu luôn luôn được hổ tương cho nhau. Thậtvậy, nếu không có Hiếu làm gì có được lòng Nhân ? Ngược lại, không có lòngNhân thì làm sao nghĩ đến điều Hiếu ? Do đó , hễ nói tới Hiếu thì phải nói đến lòngNhân mà với lòng Nhân thì không thể thiếu Ái và Kinh.Từ chỗ Ái và Kính là nền tảng của đạo Hiếu nên đạo Nho khẳng định:Người có Hiếu trước phải nuôi cha mẹ, nuôi thì phải Kính, chứ không Kính thìkhông phải là Hiếu.Điều nầy được chứng minh rất rõ qua câu chuyện: Tử Du hỏi về đạo Hiếu vàđược Khổng Tử trả lời: “Kim chi hiếu dã, thị vị năng dưỡng. Chí ư khuyển mã, giainăng hữu dưỡng, bất kính, hà dĩ biệt hồ ?”
Nghĩa là: Ngày nay, báo hiếu là có thểnuôi được Cha Mẹ…Đến như giống chó, giống ngựa đều có người nuôi. Nuôi màkhông kính thì lấy gì phân biệt ?Trên đây chúng ta vừa nói qua thế nào là đạo Hiếu, tiếp đến chúng ta đặt vấnđề: Làm sao giữ tròn được Đạo Hiếu ? xin được tóm lược như sau:1/ Lúc cha mẹ còn sống, không làm điều gì để cha mẹ phải lo buồn, luônluôn kính thờ cha mẹ. Khi cha mẹ về già, dốc lòng phụng dưỡng.2/ Khi cha mẹ qua đời, việc cầu nguyện và thờ phượng đừng để sơ thất.3/ Về đời sống, thường xuyên quan tâm đến sức khỏe cha mẹ, để ý đếnmiếng ăn, giấc ngủ…Trong trường họp cha mẹ nghèo khổ, con cái phải dốc lònggiúp cha mẹ.Giúp cha mẹ lúc khó khăn, con cái còn , con cái còn phải tùy thuộc hoàn cảnh. Giàu thìmọi việc sẽ dễ dàng, ngược lại nghèo thì coi như bất lực…
Đó là việc nơi trầngian….Nhưng về phương diện tâm linh cũng không khác gì.Thật vậy, khi cha mẹđã qua đời, đối với con cái lập được nhiều công quả, tạo nhiều phúc đức…thì việccầu nguyện sớm được viên mãn, giống như con cái giàu, việc giúp cha mẹ vượtcảnh khổ không có chi khó...Ngược lại, nếu con cái kém đức thì chẳng khác gì connhà nghèo, không đủ sức trợ duyên cho cha mẹ được.Trong bài kinh, người tín đồ Cao Đài tụng khi cha hoặc mẹ qui liễu với haicâu cũng chứng minh được điều nầy:Thong dong cõi thọ nương hồn,
Chờ con lập đức giúp huờn ngôi xưa.Với những chữ CHỜ và GIÚP có nghĩa là con cái chưa đủ, chưa có sẵn nênchưa giúp gì được…..Để khỏi phải CHỜ, thiết tưởng phận làm con cần suy nghĩ vàsẵn sàng dấn thân lập công, bồi đức….trước lo cho chính mình có được một đờisống Đạo Đức, sau có đủ năng lực để cầu nguyện cho cha mẹ siêu thoát khi quađời.Thật vậy, trong đàn cơ ngày 1 tháng 10 năm 1926, Đức Chí Tôn tiết lộ choBà Hương Hiếu ( lúc chưa thọ phẩm Nữ Đầu Sư ) biết rõ rằng: “Bao nhiêu của thế gian, con đã đổ đặng cầu siêu rỗi cho Mẹ con, mà chẳngđặng. Duy nhờ từ ngày con biết thờ phượng Thầy, mà Mẹ con đã vào Bạch ThiênCung Án, con đâu thấy điều ấy cho đặng. Tự nơi con, bởi công quả của con màCửu Huyền Thất Tổ con đặng rỗi.”
Qua các dẫn chứng nêu trên, chúng ta không còn ngờ vực cái công tu tập vàphổ độ chúng sanh đủ là hành trang hữu ích trên con đường giải thoát cho chínhbản thân mình mà còn cả Cửu Huyền Thất Tổ nữa.Chính vì vậy, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc cũng đã từng khuyến nhủ: “ Bần Đạo nói thật, thời buổi nầy, chúng ta không tìm phương giải thoát cho CửuHuyền Thất Tổ thì không còn buổi nào khác độ rỗi Cửu Huyền Thất Tổ của mìnhđặng.”
Thế nên có hiếu là có tất cả vàbất hiếu là mất tất cả : Mất Nhân, mất Nghĩa, mất lòng Từ Bi, Bác ái…và mất luônnhân phẩm con người nữa.Bởi vậy, Nho giáo còn dạy: Gốc của đạo Nhân là Ái và Kính mà Ái và Kính và Kínhlà cái nền của Hiếu, nên Nhân và Hiếu luôn luôn được hổ tương cho nhau. Thậtvậy, nếu không có Hiếu làm gì có được lòng Nhân ? Ngược lại, không có lòngNhân thì làm sao nghĩ đến điều Hiếu ? Do đó , hễ nói tới Hiếu thì phải nói đến lòngNhân mà với lòng Nhân thì không thể thiếu Ái và Kinh.Từ chỗ Ái và Kính là nền tảng của đạo Hiếu nên đạo Nho khẳng định:Người có Hiếu trước phải nuôi cha mẹ, nuôi thì phải Kính, chứ không Kính thìkhông phải là Hiếu.Điều nầy được chứng minh rất rõ qua câu chuyện: Tử Du hỏi về đạo Hiếu vàđược Khổng Tử trả lời: “Kim chi hiếu dã, thị vị năng dưỡng. Chí ư khuyển mã, giainăng hữu dưỡng, bất kính, hà dĩ biệt hồ ?”
Nghĩa là: Ngày nay, báo hiếu là có thểnuôi được Cha Mẹ…Đến như giống chó, giống ngựa đều có người nuôi. Nuôi màkhông kính thì lấy gì phân biệt ?Trên đây chúng ta vừa nói qua thế nào là đạo Hiếu, tiếp đến chúng ta đặt vấnđề: Làm sao giữ tròn được Đạo Hiếu ? xin được tóm lược như sau:1/ Lúc cha mẹ còn sống, không làm điều gì để cha mẹ phải lo buồn, luônluôn kính thờ cha mẹ. Khi cha mẹ về già, dốc lòng phụng dưỡng.2/ Khi cha mẹ qua đời, việc cầu nguyện và thờ phượng đừng để sơ thất.3/ Về đời sống, thường xuyên quan tâm đến sức khỏe cha mẹ, để ý đếnmiếng ăn, giấc ngủ…Trong trường họp cha mẹ nghèo khổ, con cái phải dốc lònggiúp cha mẹ.Giúp cha mẹ lúc khó khăn, con cái còn , con cái còn phải tùy thuộc hoàn cảnh. Giàu thìmọi việc sẽ dễ dàng, ngược lại nghèo thì coi như bất lực…
Đó là việc nơi trầngian….Nhưng về phương diện tâm linh cũng không khác gì.Thật vậy, khi cha mẹđã qua đời, đối với con cái lập được nhiều công quả, tạo nhiều phúc đức…thì việccầu nguyện sớm được viên mãn, giống như con cái giàu, việc giúp cha mẹ vượtcảnh khổ không có chi khó...Ngược lại, nếu con cái kém đức thì chẳng khác gì connhà nghèo, không đủ sức trợ duyên cho cha mẹ được.Trong bài kinh, người tín đồ Cao Đài tụng khi cha hoặc mẹ qui liễu với haicâu cũng chứng minh được điều nầy:Thong dong cõi thọ nương hồn,
Chờ con lập đức giúp huờn ngôi xưa.Với những chữ CHỜ và GIÚP có nghĩa là con cái chưa đủ, chưa có sẵn nênchưa giúp gì được…..Để khỏi phải CHỜ, thiết tưởng phận làm con cần suy nghĩ vàsẵn sàng dấn thân lập công, bồi đức….trước lo cho chính mình có được một đờisống Đạo Đức, sau có đủ năng lực để cầu nguyện cho cha mẹ siêu thoát khi quađời.Thật vậy, trong đàn cơ ngày 1 tháng 10 năm 1926, Đức Chí Tôn tiết lộ choBà Hương Hiếu ( lúc chưa thọ phẩm Nữ Đầu Sư ) biết rõ rằng: “Bao nhiêu của thế gian, con đã đổ đặng cầu siêu rỗi cho Mẹ con, mà chẳngđặng. Duy nhờ từ ngày con biết thờ phượng Thầy, mà Mẹ con đã vào Bạch ThiênCung Án, con đâu thấy điều ấy cho đặng. Tự nơi con, bởi công quả của con màCửu Huyền Thất Tổ con đặng rỗi.”
Qua các dẫn chứng nêu trên, chúng ta không còn ngờ vực cái công tu tập vàphổ độ chúng sanh đủ là hành trang hữu ích trên con đường giải thoát cho chínhbản thân mình mà còn cả Cửu Huyền Thất Tổ nữa.Chính vì vậy, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc cũng đã từng khuyến nhủ: “ Bần Đạo nói thật, thời buổi nầy, chúng ta không tìm phương giải thoát cho CửuHuyền Thất Tổ thì không còn buổi nào khác độ rỗi Cửu Huyền Thất Tổ của mìnhđặng.”
Trên đây, chúng ta vừa nêu ra hai phương cách hành sử về Đạo Hiếu đối vớiCha Mẹ lúc còn sanh tiền cũng như lúc quá vãng. Đó là hai đấng Cha Mẹ phàmtrần, còn hai đấng Cha Mẹ Thiêng Liêng thì sao?Là tín đồ Cao Đài ai ai cũng biết, thực tế với bản thân một con người nhưngthực sự có 3 thân xác: Thân xác thứ nhứt là xác phàm do cha mẹ phàm trần sanh ra,thân xác thứ 2 là Chơn Thần do Phật Mẫu tạo nên và thân xác thứ 3 là Chơn Linhhay còn gọi là Linh hồn do Đức Chí Tôn ban cho. Chơn Thần và Chơn Linh là conngười thật vĩnh hằng của chính mình trên cõi Thiêng Liêng trước khi xuống trầnlập công, bồi đức hoặc trả nợ tiền khiên.
Càng tìm hiểu sâu về giáo lý Cao Đài, chúng ta càng thấy cái ân sâu nghĩanặng đối với hai Đấng Phụ Mẫu Thiêng Liêng không chi sánh bằng.!Vậy chúng ta phải làm gì cho trọn đạo Hiếu đối với Đức Chí Tôn và ĐứcPhật Mẫu? Ở lãnh vực nầy Đức Hộ Pháp đã từng nhắc nhở chúng ta : Phục vụ VạnLinh, phổ độ chúng sanh là hiếu hạnh với Đức Chí Tôn và thương yêu chúng sanh,giúp đỡ người tàn tật, cơ hàn ...là có Hiếu với Phật Mẫu.
Cầu xin Ơn Trên ban cho chúng ta có cuộc sống luôn luôn gắn liền vớiNhân Nghĩa và Hiếu Hạnh để xứng danh là một tín đồ Cao Đài ngoan đạoTrên đây, chúng ta vừa nêu ra hai phương cách hành sử về Đạo Hiếu đối vớiCha Mẹ lúc còn sanh tiền cũng như lúc quá vãng. Đó là hai đấng Cha Mẹ phàmtrần, còn hai đấng Cha Mẹ Thiêng Liêng thì sao?Là tín đồ Cao Đài ai ai cũng biết, thực tế với bản thân một con người nhưngthực sự có 3 thân xác: Thân xác thứ nhứt là xác phàm do cha mẹ phàm trần sanh ra,thân xác thứ 2 là Chơn Thần do Phật Mẫu tạo nên và thân xác thứ 3 là Chơn Linhhay còn gọi là Linh hồn do Đức Chí Tôn ban cho. Chơn Thần và Chơn Linh là conngười thật vĩnh hằng của chính mình trên cõi Thiêng Liêng trước khi xuống trầnlập công, bồi đức hoặc trả nợ tiền khiên.
Càng tìm hiểu sâu về giáo lý Cao Đài, chúng ta càng thấy cái ân sâu nghĩanặng đối với hai Đấng Phụ Mẫu Thiêng Liêng không chi sánh bằng.!Vậy chúng ta phải làm gì cho trọn đạo Hiếu đối với Đức Chí Tôn và ĐứcPhật Mẫu? Ở lãnh vực nầy Đức Hộ Pháp đã từng nhắc nhở chúng ta : Phục vụ VạnLinh, phổ độ chúng sanh là hiếu hạnh với Đức Chí Tôn và thương yêu chúng sanh,giúp đỡ người tàn tật, cơ hàn ...là có Hiếu với Phật Mẫu. Cầu xin Ơn Trên ban cho chúng ta có cuộc sống luôn luôn gắn liền vớiNhân Nghĩa và Hiếu Hạnh để xứng danh là một tín đồ Cao Đài ngoan đạo
Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.Phạm văn Khảm
Càng tìm hiểu sâu về giáo lý Cao Đài, chúng ta càng thấy cái ân sâu nghĩanặng đối với hai Đấng Phụ Mẫu Thiêng Liêng không chi sánh bằng.!Vậy chúng ta phải làm gì cho trọn đạo Hiếu đối với Đức Chí Tôn và ĐứcPhật Mẫu? Ở lãnh vực nầy Đức Hộ Pháp đã từng nhắc nhở chúng ta : Phục vụ VạnLinh, phổ độ chúng sanh là hiếu hạnh với Đức Chí Tôn và thương yêu chúng sanh,giúp đỡ người tàn tật, cơ hàn ...là có Hiếu với Phật Mẫu.
Cầu xin Ơn Trên ban cho chúng ta có cuộc sống luôn luôn gắn liền vớiNhân Nghĩa và Hiếu Hạnh để xứng danh là một tín đồ Cao Đài ngoan đạoTrên đây, chúng ta vừa nêu ra hai phương cách hành sử về Đạo Hiếu đối vớiCha Mẹ lúc còn sanh tiền cũng như lúc quá vãng. Đó là hai đấng Cha Mẹ phàmtrần, còn hai đấng Cha Mẹ Thiêng Liêng thì sao?Là tín đồ Cao Đài ai ai cũng biết, thực tế với bản thân một con người nhưngthực sự có 3 thân xác: Thân xác thứ nhứt là xác phàm do cha mẹ phàm trần sanh ra,thân xác thứ 2 là Chơn Thần do Phật Mẫu tạo nên và thân xác thứ 3 là Chơn Linhhay còn gọi là Linh hồn do Đức Chí Tôn ban cho. Chơn Thần và Chơn Linh là conngười thật vĩnh hằng của chính mình trên cõi Thiêng Liêng trước khi xuống trầnlập công, bồi đức hoặc trả nợ tiền khiên.
Càng tìm hiểu sâu về giáo lý Cao Đài, chúng ta càng thấy cái ân sâu nghĩanặng đối với hai Đấng Phụ Mẫu Thiêng Liêng không chi sánh bằng.!Vậy chúng ta phải làm gì cho trọn đạo Hiếu đối với Đức Chí Tôn và ĐứcPhật Mẫu? Ở lãnh vực nầy Đức Hộ Pháp đã từng nhắc nhở chúng ta : Phục vụ VạnLinh, phổ độ chúng sanh là hiếu hạnh với Đức Chí Tôn và thương yêu chúng sanh,giúp đỡ người tàn tật, cơ hàn ...là có Hiếu với Phật Mẫu. Cầu xin Ơn Trên ban cho chúng ta có cuộc sống luôn luôn gắn liền vớiNhân Nghĩa và Hiếu Hạnh để xứng danh là một tín đồ Cao Đài ngoan đạo
Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.Phạm văn Khảm
HÒA THƯỢNG THÍCH HỘ GIÁC * HIẾU ĐẠO
Tình Mẹ
Thích Hộ Giác
Mùa thu buồn. Trời thu lạnh. Gió thu hắt hiu thì thầm như trao gởi, nhắn nhủ những kỷ niệm ân tình giữa hai miền sống, chết. Phải chăng mùa thu về nhắc nhở ta những ân tình chưa thỏa, những mộng đời chưa tan trong cái xoay vần của nhân duyên sanh diệt.
Nếu nơi đây, mặt trời đã không ngừng chứng kiến những cảnh dâu bể tang thương, những cảnh tương tàn tương sát, thì nơi kia, bóng đêm cũng không ngừng vây phủ những oan hồn ủy m?ừa kêu gào bi thương vừa lang thang thất thểu. Trong hai cõi sống và chết, sinh linh cũng chỉ là những đứa con lạc lõng giữa bụi đời tham vọng huyễn hư, hoặc cũng chỉ là những bóng ma vật vờ trong trường dạ u linh, tìm nước tĩnh bình để giải oan thoát khổ.
Mùa thu cũng là mùa tiêu biểu cho nỗi nhớ niềm thương : ngoài trời nào cảnh sụt sùi mưa dầm tháng bảy, nào cảnh xương khô lạnh ngắt heo may, nào cảnh lá vàng lìa cành xa cội, nào cảnh mưa sa lác đác mộ phần, tất cả ngoại cảnh nầy đều khiến nội tâm nhói đau nỗi niềm hoài cảm, nhất là những u hồn bên kia thế giới. Và mùa thu về cũng báo hiệu mùa Vu Lan báo hiếu : mùa của mẹ, mùa của cha, mùa của Tổ tiên gia tộc, mùa mà những đóa hoa hồng đỏ thắm nở trên áo của những ai may mắn còn mẹ, và những đóa hoa hồng trắng nhạt sẽ nở trên áo của những ai bất hạnh sớm mất mẹ hiền.
Nói đến tình mẹ thì quả thật trên quả đất nầy không có thứ tình nào đậm đà lai láng, thiêng liêng và bất diệt như tình mẹ.
Tình mẹ không chỉ ngọt ngào như dòng suối mà là những dòng máu đỏ khởi nguồn từ tim và reo chảy về tim; không chỉ là bầu trời trong sáng chiếu ánh trăng sao, mà là những tế bào mạch huyệt đang lưu lộ căng đầy và vận hành trong toàn thân; không chỉ là một kho tàng vô tận để cung cấp cho sự sinh tồn vạn loại.
Trên thế gian nầy có nhiều kỳ quan nhưng trái tim của mẹ mới thật là đệ nhất kỳ quan. Vì trái tim của mẹ là một thứ kỳ quan sống động linh hoạt. Trong khi các kỳ quan khác đều chết đứng bất động. Đối với kỳ quan nầy chúng ta không cần phải phí công tốn của để tìm kiếm quan chiêm, vì chính kỳ quan tuyệt bích ấy đã ở trong ta từ lúc mới tượng hình, và theo năm tháng kỳ quan nầy lại càng trở nên kỳ ảo, vĩ đại, vô tiền khoáng hậu.
Các kỳ quan trên thế giới đều kiến tạo bằng vật liệu kiến trúc gần giống nhau, chỉ khác mô hình, hình thể. Còn kỳ quan là trái tim của mẹ thì cách cấu trúc hoàn toàn dị biệt về cả hai phương diện : vật thể và tâm thể. Vật thể là điều kiện tổng hợp của thịt, máu, động mạch, các ống dẫn máu ra vào. Sự vận hành của không khí tức không đại; sự lưu chuyển của máu tức thủy đại; sự điều hòa ấm áp tức hỏa đại; các cơ thịt tự động cấu hợp của tim tức địa đại; và sự hô hấp tự nhiên của toàn bộ trái tim tức thức đại.
Về mặt tâm thể thì chúng ta có thể tìm được bốn thể tánh vô lượng, quảng đại, biến mãn trong trái tim mẹ, đó là : Từ Bi Hỉ Xả.
TỪ là trạng thái tâm ai mẫn, hiền hòa, sẵn sàng ban rải cho một đối tượng hoặc nhiều đối tượng mới bắt đầu tượng hình hay sắp sửa thành hình. Ở đây, thai bào là đối tượng tuyệt đối phải được ban rải cẩn trì, dù trong không gian hạn hẹp, dù qua thời gian lâu mau, dù đứng về mặt khách thể, dù trực thuộc phương diện chủ thể.Về thể cách ban rải thì có nguyện và hạnh.
Nguyện, tức dùng lực cầu nguyện van vái Phật Trời phò hộ thai bào được bình an vô sự suốt thời gian 9 tháng cưu mang và hằng tâm nguyện sao đến ngày khai hoa nở nhụy, thai nhi được mở mắt chào đời với thân hình nguyên vẹn cụ túc lục căn.
Hạnh, tức hành động cẩn trì trong oai nghi : đi đứng ngồi nằm; trong chánh hạnh : nói năng, ăn uống, cách nhìn, cách nghe, thậm chí luôn luôn chánh niệm không dám buông lung tà tâm, nóng giận sợ ảnh hưởng thai bào. Có những hiền mẫu phát tâm bố thí, cúng dường, trì trai, niệm Phật khi biết mình thọ thai. Tâm từ nầy của mẹ khởi phát chính thức ngay khi biết mình đã thực sự mang thai và cứ như vậy tiếp diễn cho đến ngày nở nhụy khai hoa.
BI là tâm vô lượng thứ hai của mẹ phát xuất cùng lúc với tiếng khóc chào đời của thai nhi. Tâm bi nầy khó mà diễn tả chính xác hết ý. Vì tâm bi được chuyển tiếp từ tâm Từ sau 9 tháng trông ngóng đợi chờ, mừng mừng sợ sợ, mặc dù lòng đã dặn lòng : "Tất cả đều diễn tiến tốt đẹp, mẹ tròn con vuông, trên có Phật Trời phò hộ, dưới có mẹ cha hướng dẫn và chính mình cũng hết mực dưỡng thai". Nhưng tránh không khỏi những phút giây bồi hồi, phập phòng, lo sợ, mặc dù đã tự cố gắng trấn an. Thế mà giờ đây tiếng khóc hài nhi đã kéo mẹ về thực tại sau những giờ phút đớn đau, bàng hoàng vì sanh nở thì bảo sao mẹ hiền không vui mừng, sung sướng cho được. Nhìn kỹ mặt con, mẹ càng thương yêu ngập lòng. Chính hai tâm vô lượng Từ và Bi nầy đã dung hợp, trợ duyên nhau một cách tương tục kỳ diệu nên đã biến máu hồng thành sữa trắng để nuôi con.
HỈ là tâm vô lượng thứ ba của mẹ. Tâm nầy được phát hiện cụ thể nhất là lúc cha mẹ nhìn con mấp máy đôi môi bập bẹ kêu "Ba" kêu "Má", và chập chững tập đi một mình từng bước không vững, rồi lần lần trở nên chững chạc, biết ăn, biết nói, biết cười, biết làm xấu. Con càng khôn lớn, mẹ càng vui mừng. Vì con là núm ruột, là hòn máu, là một phần trong cơ thể mẹ, là kho tàng vô giá, là nguồn hạnh phúc vô bờ. Giờ đây con đà khôn lớn, trưởng thành, bảo sao mẹ hiền không vui mừng cho được. Bất cứ cử chỉ nào, lời nói nào, hành động nào của con trẻ, dù vô tư, không đòi hỏi phải khôn ngoan, cũng đủ làm cho mẹ sung sướng ngập lòng. Vả lại niềm vui của mẹ là con, và mẹ thì cũng chỉ biết vui với con mà thôi. Con là nguồn an ủi duy nhất của mẹ. Do đó, con đau là mẹ xót, con mạnh là mẹ mừng. Có con một bên, mẹ cảm thấy cuộc đời là màu hồng, là bầu trời mùa xuân và tất cả hiện hữu đều có ý nghĩa, đáng yêu. Vắng con, mẹ cảm thấy lẻ loi, hiu quạnh, bầu trời là cả một mùa thu, tất cả hiện hữu trở nên vô nghĩa và mẹ tự thấy mình bạc phước vô phần.
XẢ là tâm vô lượng thứ tư của mẹ. Tâm nầy của mẹ tự động hiển lộ trong hai trường hợp nghịch cảnh hoặc thuận duyên. Tâm xả hiện lộ trong nghịch cảnh đó là những khi con giận, con hờn, con nặng lời lớn tiếng, con phụ rẩy mẹ cha, con ngỗ nghịch phạm thượng, trong tất cả tình huống ấy, mẹ cha chẳng những cam tâm cúi đầu chấp nhận, không hề oán giận nguyền rủa con mà còn sẵn sàng rộng dung tha thứ.
Còn tâm xả của mẹ được thấy trong thuận cảnh là khi con cái thành nhơn chi mỹ, cha mẹ thận trọng lựa chọn những gia đình hiền lương, đạo đức, có học, có hạnh để dựng vợ gả chồng, và sau khi con cái đã yên bề gia thất thì lòng cha mẹ bớt lo lắng, ưu tư, có thể tạm an tâm để sống những chuỗi ngày còn lại. Do vậy, tâm xả phải hiểu tận tường rằng xả không chỉ có nghĩa là cảm thông, xả bỏ, tha thứ, không chấp thủ như trường hợp nghịch cảnh; mà xả còn là một trạng thái tự tin, an tâm, vô thưởng vô phạt như vừa kể trong phần thuận cảnh.
Một thứ kỳ quan sinh động, linh hoạt, khế lý, khế cơ, nhất là biết cung ứng đầy đủ mọi thứ nhu cầu của con cái trên hai phương diện vật lý và tâm lý, thử hỏi như vậy trái tim của mẹ có đáng được công nhận là "đệ nhất kỳ quan" hay không. Chính vì cha mẹ có đủ bốn tâm vô lượng, nên đức Phật xưng tụng cha mẹ là "trời phạm thiên", là "giáo sư đầu đời", là "vị tiên ban đầu" và là "bậc đáng cúng dường".
Thật ra trên thế gian nầy, mối tình nào, chung cuộc, cũng đều phai mờ trong tim ta, trong ký ức ta. Duy nhất chỉ có tình mẹ là thiên thu bất biến. Sở dĩ tình mẹ tồn tại vĩnh viễn vì tình mẹ thương con như biển hồ lai láng, như trái đất bao dung, như bầu trời hiến dâng sự sống, như gió xuân ban rải sự mát mẻ cho muôn loài, không có bất cứ sự lựa chọn nào trong tình mẹ thương con, tình mẹ vượt thời gian, không gian, chỉ cho mà không cần nhận, cho vô điều kiện, cho bình đẳng không phân biệt đẹp xấu, trí ngu, giàu nghèo, có hiếu hay bất hiếu.
Chính vì tình mẹ như vậy nên không bao giờ bị ngoại cảnh chi phối. Nghĩa là tình mẹ thương con không có biên giới. Vậy, bạn nào còn cha còn mẹ thì bạn là người diễm phúc nhất đời. Vì không có niềm vui nào thiêng liêng, đậm đà bằng niềm vui còn mẹ và cũng không có nỗi buồn nào ray rứt xót xa bằng nỗi buồn mất mẹ.
Một Phật tử ở Phan Thiết, đạo hữu Lê Minh Hớn, đã làm sống dậy tình mẹ trong chúng ta vô cùng ý nhị : "Ta còn có mẹ, mẹ hát đưa ta, tiếng hát xa xưa buồn quá đỗi, nhà ai giã gạo trưa hè. Mẹ hát à ơi ! võng trời kẽo kẹt, da trời xanh ngắt cửa đông. Người đâu có biết : Mẹ bồng ta cả tuổi ban đầu. Câu hát ngày xưa chín vàng chín đỏ. Ba mươi tuổi đời lăng lắc đong đưa. Ba mươi tuổi đầu mẹ còn coi nhỏ, đưa từng trái bắp củ khoai. Ngày đó ta về, mẹ còn vuốt tóc. Người biết không, ta khóc trong lòng !".
Do đó, nếu chúng ta vì miếng mồi đỉnh chung ngắn ngủi, vì tương lai sự nghiệp mơ hồ mà quên bổn phận thần tỉnh mộ khang, quạt nồng đắp lạnh, thì thật là lỗi đạo làm con, nếu không nói là bất hiếu.
Vu Lan Nhớ Mẹ
Thích Hộ Giác
Thích Hộ Giác
Mùa thu hiền dịu và thân thương lại trở về với muôn loài cỏ cây vạn vật, mùa thu hắt hiu gợi cho hồn thi nhân nguồn cảm hứng dạt dào bởi những chiếc lá úa vàng rơi, mặt nước hồ thu trong veo, yên bình dễ phản chiếu một bầu trời ảm đạm. Nhưng đối với người con Phật, thì mùa thu là mùa Vu Lan, là mùa báo hiếu.
Kính lạy mẹ,
Nhìn khói hương trầm quyện tỏa giữa ngôi bảo điện trang nghiêm, lòng chúng con thành kính hướng về mẹ, người yêu thương nhất không thể thiếu của đời con.
Mẹ ơi ! tiếng gọi mà từ khi bập bẹ cho đến lúc trưởng thành con vẫn chưa biết hết, hiểu hết ý nghĩa. Mẹ là sự sống, là tình yêu, là bùi, là ngọt, là thơm, là ngon, là vốn liếng yêu thương cho cuộc đời. Đúng như vậy, Mẹ là tất cả những gì thiêng liêng nhất và cao quý nhất của đời con:
Mẹ là cả một trời thương
Mẹ là cả một thiên đường trần gian
Tiếng ru mẹ ấm vô vàn
Nuôi con trong tiếng tơ đàn văn chương.
Khi con khát, giòng sữa mẹ ngọt ngào thấm vào lòng con như vị ngọt ngào của nước cam lồ. Khi con biết ăn, mẹ là người đầu tiên móm cho con từng miếng cháo, muỗng cơm, mẹ ấp yêu nâng niu, chìu chuộng. Tất cả những gì ngon nhất, vui nhất và tốt đẹp nhất mẹ đều dành cho con:
Mẹ cho con tất cả
Hết quảng đời tuổi xanh
Cả thương yêu dịu ngọt
Rộng hơn biển trời thanh
Mẹ là gió mát tinh anh
Là cây tiên dịu, là cành thùy dương
Mẹ là hoa, mẹ là hương
Mẹ là nguồn cội tình thương nhiệm mầu...
Mẹ đã ru cho con ngủ bằng tiếng hát dịu hiền êm ả:
Gió mùa thu mẹ ru con ngủ,
Năm canh chầy mẹ thức đủ vừa năm.
Tất cả mẹ đều dành cho con, bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn. Mẹ đã trằn trọn năm canh dài cũng vì sự ấm no, lớn khôn và hạnh phúc cho đời con. Bầu trời trong mắt con ngày một trong xanh hơn với những ước vọng đời, là khi tóc mẹ ngày thêm một sợi bạc:
Ôi ! Chiếc lưng của mẹ
Đã còm bởi thương đau
Ôi ! cuộc đời của mẹ
Trăm năm nối chuyện sầu.
Vì con, niềm lo âu của mẹ trở thành hiển nhiên như mặt đất truyền sức sống cho cỏ cây vạn vật. Mẹ chưa đủ sống trăm năm nhưng đã cho con đầy đủ tình thương và hạnh phúc, sung sướng biết bao:
Một đời vốn liếng mẹ trao
Mẹ cho tất cả mẹ nào giữ riêng
Mẹ hiền như một bà tiên
Mẹ theo con suốt hành trình con đi.
Mẹ ! Mẹ là nguồn thắp sáng cho đời con bằng máu và con tim của chính mẹ, mẹ là bóng mát trên cao, là ánh sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối. Nếu đời một bể khổ mênh mông, với muôn ngàn đợt sóng dồn dập, thì mẹ là chiếc bè đưa con đến bến bờ hạnh phúc. Còn mẹ là còn tất cả, mất mẹ là mất hết tất cả.
Mẹ ! Mẹ vất vả mà chẳng nề gian khổ, mẹ trăm tuổi còn thương con tám mươi. Hình ảnh người mẹ hiền tần tảo một nắng hai sương lam lũ. Mẹ đã đánh đổi một thời son sắc, tươi vui chỉ vì tương lai của con.
Vì con sức khỏe hao mòn,
Vì con mẹ chẳng phấn son bao giờ.
Mẹ mong mỏi cho con khôn lớn, lập nên sự nghiệp với đời, trở thành người hữu ích cho xã hội:
Đành cực nhọc vẫn nuôi con dại,
Gạt ưu tư dầu dải thu đông,
Nắng xe nám má xuân hồng,
Gót son tố nữ bùn phong kín rồi.
Ôi ! Bút mực ngôn từ nào có thể diễn tả được công ơn bao la trời biển của mẹ:
Ngôn ngữ trần gian khờ dại quá,
Đựng sao đầy hai tiếng Mẹ ơi !
Mẹ ! Làm sao có thể hình dung được tình mẹ thiêng liêng, làm sao tính kể hết được công ơn sanh thành dưỡng dục. Tình thương của mẹ mênh mông như trời biển, mát ngọt như nguồn suối vi diệu. Tình thương và công ơn của mẹ đã thấm vào lòng, từ khi mới cất tiếng khóc chào đời và con chỉ nhận biết khi ý thức được bổn phận làm người.
Ờ nhỉ ! Sao co những người không giữ tròn hiếu hạnh. Trong khế kinh Phật từng dạy rằng : Không có cha mẹ ta, thì sẽ không có hình hài của ta. Cha mẹ đã tạo cho ta cái thân thể này:
Có ông bà mới có ta
Ông bà là gốc, mẹ cha là cành
Thân ta như thể lá xanh
Nhờ gốc vun bón, nhờ cành chở che.
Trong đời cũng có lúc nào đó, con đã làm buồn lòng mẹ. Giờ đây, chúng con mới biết, trên đời vai gầy guộc của mẹ, trĩu nặng nỗi nhọc nhằn và lo toan trong cuộc sống, lòng mẹ lại buồn phiền vì con trái nghịch. Con có biết đâu thời gian, nỗi nhọc nhằn, và phiền muộn ấy đã, đang và sẽ cướp mất kho tàng quý báu của đời con. Người mẹ hiền yêu dấu của chúng con, buồn thay đến một ngày nào đó trong đời:
Nhìn vào đêm tối mông lung,
Khát khao tìm lại hình dung mẹ hiền,
Một trời thương nhớ xây thành,
Mây buồn tóc rối giữa vành tang thương
Cánh chim bàng bạc kêu sương,
Đóa hồng rủ cánh lòng vương vấn sầu.
Mẹ ! Giờ đây con muốn trở về bên mẹ, để nhìn sâu vào mắt mẹ, con sẽ nhìn thật lâu, thật kỹ, để trông thấy mẹ, để biết rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên con, con sẽ hôn lên gò má nhăn nheo của mẹ, áp mặt vào đôi bàn tay gầy guộc của mẹ đã hằng dệt yêu thương, để tỏ lòng tri ân và nhận sự trìu mến ân cần, chở che của mẹ. Mẹ và con sung sướng, sẽ được sống trong ý thức tình thương bất diệt.
Nếu nghĩa mẹ ví như giòng suối dịu mát, ngọt ngào, thì công cha cao lớn hơn, bền chắc vĩnh cữu hơn như trái núi Thái Sơn, lời ca dao ví von cũng là lời tự tình của người con đối với cha mẹ ngày xưa và mãi mãi cho đến ngàn sau:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ Mẹ kính Cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Ngày nay chúng ta có được duyên lành gần gũi với Phật Pháp, gương hiếu hạnh của Ngài Mục Kiền Liên đã soi tỏ lời vàng của Chư Phật, con sẽ nguyện giữ mãi trong lòng," sinh ra thời không có Phật, thờ kính Cha Mẹ là thờ kính Phật vậy".
Công ơn cha mẹ tựa biển trời
Làm sao báo hiếu hởi người ơi ?
Nếu chưa báo hiếu đừng bất hiếu
Bất hiếu làm ta khổ muôn đời.
Cha Mẹ ơi, Dòng cảm niệm sẽ trôi theo thời gian, nhưng ý thức hiếu hạnh sẽ còn mãi mãi với lòng người, mai này con có lớn khôn, rời khỏi vòng tay của người mẹ hiền, thì mãi mãi vẫn là bóng cây che mát cho đời con. Sung sướng biết bao khi chúng ta xếp lại mối lo âu toan tính, để lại thú vui của cuộc đời, quay về bên mẹ, sống với mẹ để nghe nói những lời yêu thương dịu ngọt, được bàn tay mẹ vỗ về, trìu mến, con sung sướng gục đầu vào lòng mẹ, để tìm lại hơi ấm của ngày xưa, để được thấy mình trở thành trẻ thơ bé bỏng bên mẹ.
Cha Mẹ ơi ! Đây là tấm lòng của chúng con, đóa hoa hồng tươi thắm và món quà hiếu hạnh, chúng con thành kính dâng lên Cha Mẹ, bằng tất cả những con tim và bằng tất cả những tấm lòng của chúng con nhân mùa Vu Lan Báo Hiếu.
Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát
NGUYÊN DU * VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH
Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô
Não ngườI thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng...
Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Dịp đường lê lác đác mưa sa
Lòng nào lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Có khôn thiêng phảng phất u minh...
Thương thay thập loại chúng sing
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người
Hương lửa đã không nơi nương tựa
Hồn mồ côi lần lữa bấy niên...
Còn chi ai khá ai hèn
Còn chi mà nói ai hèn ai ngu!
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tĩnh đàn sái hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi
Giải oan cứu khổ độ về tây phương.
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh
Chí những lăm cất gámh non sông
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởngn khi thế khuất vận cùng mà đau!
Bỗng phút đâu mưă sa ngói lở
Khôn đem mình làm đứa thất phu
Giàu sang càng nặng oán thù
Máu tươi lai láng xương khô rụng rời
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ không đầu đứng khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan.
Cũng có kẻ màn lan trướng huệ
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới dòng nườc chảy
Phận đã đành trâm gãy bìng rơi
Khi sao đông đúc vui cười
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Đau đớn nhẽ không hương không khói
Hồn ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
Thương thay chân yếu tay mềm
Càngnăm càng héo một đêm một dài.
Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay
Kinh luân găm một túi đầy
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh
Ngàn vàn khôn đổi được mình
Lầu ca viện hát tan tành còn đâu?
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
Cô hồn thất thểu dọc ngang
Nặng oan khôn nh9e tìm đường hóa sinh?
Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đổi mình vào cướp ấn nguyên nhung
Gió mưa sấm sét đùng đùng
Phơi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc
Bãi sa trường thịt nát máu rơi
Mênh mông góc bể chân trời
Nắm xương vô chủ biết rơi chốn nào?
Trời thăm thẳm mưa gào gió thét
Khí âm huyền mờ mịt trước sau
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?
Cũng có kẻ tính đường trí phú
Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn
Ruột rà khôngkẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ
Của phù vân dẫu có như không
Sống thời tiền chảy bạc ròng
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm
Nén hương giọt nước biết tìm vào đâu?
Cũng có kẻ rắp cầu chữ qúy
Dẫn mình vào thành thị lân la
Mấy thu lìa cửa lìa nhà
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân.
Dọc hàng qúan gặp tuần mưa nắng
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang
Cô hồn nhờ gửi tha phương
Gió trăng hiu hắt lửa huơng lạnh lùng.
Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
Gặp cơn giông tố giữa dòng
Đem thân chôn rấp vào lòng kình nghê.
Cũng có kẻ đi về buôn bán
Đòn gánh tre chín dạn hai vai
Gặp cơn mưa nắng giữa trời
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?
Cũng có kẻ mắc vào khóa lính
Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan
Nước khe cơm vắt gian nan
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời
Buổi chiến trận mạng người như rác
Phận đã đành đạn lạc tên rơi
Lập lòe ngọn lửa ma trơi
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!
Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa
Ngẩn ngơ khi trở về già
Ai chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đạ
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi
Thương thay cũng một kiếp người
Sống nhờ hàng xứ chết vùi đường quan.
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh
Nắm xương chôn rấp góc thành
Kiếp nào cỡi được oan tình ấy đi?
Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha
Lấy ai bồng bế xót xa
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối
Cũng có người sẩy cối sa cây
Có người leo giếng đứt dây
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thủy quái
Người thì sa nanh sói ngà voi
Có người hay đẻ không nuôi
Có người sa sẩy có người khốn thương.
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?
Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi
Hoặc là nương ngọn suối chân mây
Hoặc là điếm cỏ bóng cây
Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ
Hoặc là nương thần từ Phật tự
Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không
Hoặc nơi gò đống hoặc vùng lau tre
Sống đã chịu một bề thảm thiết
Ruột héo khô dạ rét căm căm
Dãi dầu trong mấy mươi năm
Thở than dưới đất ăn nằm trên sương
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn
Tắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra
Lôi thôi bồng trẻ dắt già
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ
Phóng hào quang cứu khổ độ u
Rắp hòa tứ hải quần chu
Não phiền trút sạch oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại
Chuyển pháp luân tam giới thập phương
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao
Mười loài là những loài nào?
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như hình như ảnh
Có chữ rằng:"Vạn cảnh giai không"
Ai ơi lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo
Của có khi bát cháo nén nhang
Gọi là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêụ
Phép thiên biến ít thành nhiều
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sanh.
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không.
Nam mô chư Phật, Pháp, Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài
Toát hơi may lạnh buốt xương khô
Não ngườI thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng...
Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Dịp đường lê lác đác mưa sa
Lòng nào lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Có khôn thiêng phảng phất u minh...
Thương thay thập loại chúng sing
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người
Hương lửa đã không nơi nương tựa
Hồn mồ côi lần lữa bấy niên...
Còn chi ai khá ai hèn
Còn chi mà nói ai hèn ai ngu!
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tĩnh đàn sái hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi
Giải oan cứu khổ độ về tây phương.
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh
Chí những lăm cất gámh non sông
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởngn khi thế khuất vận cùng mà đau!
Bỗng phút đâu mưă sa ngói lở
Khôn đem mình làm đứa thất phu
Giàu sang càng nặng oán thù
Máu tươi lai láng xương khô rụng rời
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ không đầu đứng khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan.
Cũng có kẻ màn lan trướng huệ
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới dòng nườc chảy
Phận đã đành trâm gãy bìng rơi
Khi sao đông đúc vui cười
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Đau đớn nhẽ không hương không khói
Hồn ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
Thương thay chân yếu tay mềm
Càngnăm càng héo một đêm một dài.
Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay
Kinh luân găm một túi đầy
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh
Ngàn vàn khôn đổi được mình
Lầu ca viện hát tan tành còn đâu?
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
Cô hồn thất thểu dọc ngang
Nặng oan khôn nh9e tìm đường hóa sinh?
Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đổi mình vào cướp ấn nguyên nhung
Gió mưa sấm sét đùng đùng
Phơi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc
Bãi sa trường thịt nát máu rơi
Mênh mông góc bể chân trời
Nắm xương vô chủ biết rơi chốn nào?
Trời thăm thẳm mưa gào gió thét
Khí âm huyền mờ mịt trước sau
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?
Cũng có kẻ tính đường trí phú
Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn
Ruột rà khôngkẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ
Của phù vân dẫu có như không
Sống thời tiền chảy bạc ròng
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm
Nén hương giọt nước biết tìm vào đâu?
Cũng có kẻ rắp cầu chữ qúy
Dẫn mình vào thành thị lân la
Mấy thu lìa cửa lìa nhà
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân.
Dọc hàng qúan gặp tuần mưa nắng
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang
Cô hồn nhờ gửi tha phương
Gió trăng hiu hắt lửa huơng lạnh lùng.
Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
Gặp cơn giông tố giữa dòng
Đem thân chôn rấp vào lòng kình nghê.
Cũng có kẻ đi về buôn bán
Đòn gánh tre chín dạn hai vai
Gặp cơn mưa nắng giữa trời
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?
Cũng có kẻ mắc vào khóa lính
Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan
Nước khe cơm vắt gian nan
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời
Buổi chiến trận mạng người như rác
Phận đã đành đạn lạc tên rơi
Lập lòe ngọn lửa ma trơi
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!
Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa
Ngẩn ngơ khi trở về già
Ai chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đạ
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi
Thương thay cũng một kiếp người
Sống nhờ hàng xứ chết vùi đường quan.
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh
Nắm xương chôn rấp góc thành
Kiếp nào cỡi được oan tình ấy đi?
Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha
Lấy ai bồng bế xót xa
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối
Cũng có người sẩy cối sa cây
Có người leo giếng đứt dây
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thủy quái
Người thì sa nanh sói ngà voi
Có người hay đẻ không nuôi
Có người sa sẩy có người khốn thương.
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?
Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi
Hoặc là nương ngọn suối chân mây
Hoặc là điếm cỏ bóng cây
Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ
Hoặc là nương thần từ Phật tự
Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không
Hoặc nơi gò đống hoặc vùng lau tre
Sống đã chịu một bề thảm thiết
Ruột héo khô dạ rét căm căm
Dãi dầu trong mấy mươi năm
Thở than dưới đất ăn nằm trên sương
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn
Tắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra
Lôi thôi bồng trẻ dắt già
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ
Phóng hào quang cứu khổ độ u
Rắp hòa tứ hải quần chu
Não phiền trút sạch oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại
Chuyển pháp luân tam giới thập phương
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao
Mười loài là những loài nào?
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như hình như ảnh
Có chữ rằng:"Vạn cảnh giai không"
Ai ơi lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo
Của có khi bát cháo nén nhang
Gọi là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêụ
Phép thiên biến ít thành nhiều
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sanh.
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không.
Nam mô chư Phật, Pháp, Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 378